Đề tài: Thực trạng phát triển du lịch cộng đồng trên đảo Cát Bà thành phố Hải Phòng
lượt xem 174
download
Ngày nay, trên thế giới, du lịch đã và đang trở thành một ngành kinh tế dịch vụ phát triển, nó được ví như “con gà đẻ trứng vàng” của nhiều quốc gia. Ở Việt Nam, du lịch còn là một ngành công nghiệp non trẻ và đầy tiềm năng, hứa hẹn nhiều cơ hội phát triển hơn nữa trong tương lai. Tuy nhiên, nó có thể tiềm ẩn những hậu quả tiêu cực trên nhiều phương diện mà chúng ta cần phải có những biện pháp khắc phục kịp thời. Đây là bài khóa luận tốt nghiệp của mình-...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài: Thực trạng phát triển du lịch cộng đồng trên đảo Cát Bà thành phố Hải Phòng
- Thực trạng phát triển du lịch cộng đồng trên đảo Cát Bà, thành phố Hải Phòng 1
- MỤC LỤC Chương I: Tổng quan về du lịch dựa vào cộng đồng 8 Chương II: Thực trạng hoạt động du lịch cộng đồng trên đảo Cát Bà 23 Chương III: Giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả hoạt động du lịch cộng đồng trên đảo Cát Bà 76 2
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngày nay, trên thế giới, du lịch đã và đang trở thành một ngành kinh tế dịch vụ phát triển, nó được ví như “con gà đẻ trứng vàng” của nhiều quốc gia. Ở Việt Nam, du lịch còn là một ngành công nghiệp non trẻ và đầy tiềm năng, hứa hẹn nhiều cơ hội phát triển hơn nữa trong tương lai. Tuy nhiên, nó có thể tiềm ẩn những hậu quả tiêu cực trên nhiều phương diện mà chúng ta cần phải có những biện pháp khắc phục kịp thời. Và nếu như hiện nay, các vấn đề về tài nguyên thiên nhiên và những tác động của hoạt động du lịch đối với môi trường tự nhiên đã được quan tâm thì các giá trị văn hóa xã hội cùng với những tác động mà du lịch đem lại cho tài nguyên văn hóa và cư dân bản địa, đặc biệt là các di sản văn hóa truyền thống của dân tộc cũng đã bắt đầu nhận được sự chú ý quan tâm của các cấp, ngành ở Việt Nam. Như chúng ta đã biết, du lịch là một trong những ngành kinh tế “hết sức phụ thuộc vào môi trường thiên nhiên cũng như các đặc trưng văn hóa xã hội của cư dân bản địa” (Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên quốc tế tại Việt Nam. “Xây dựng năng lực phục vụ các sáng kiến về du lịch bền vững”. Đề cương dự án, 1997). Từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, các nhà khoa học trên thế giới đã đề cập nhiều đến phát triển du lịch với mục đích đơn thuần là kinh tế đang đe dọa môi trường sinh thái và nền văn hóa bản địa. Hậu quả của các tác động này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của ngành du lịch. Chính vì vậy đã xuất hiện yêu cầu nghiên cứu “phát triển du lịch bền vững” nhằm hạn chế tác động tiêu cực của hoạt động du lịch, đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Một số loại hình du lịch đã được ra đời bước đầu quan tâm đến khía cạnh môi trường và văn hóa bản địa như: du lịch sinh thái, du lịch gắn với thiên nhiên, du lịch mạo hiểm, du lịch khám phá, du lịch cộng đồng đã góp phần nâng cao hiệu quả của mô hình du lịch có trách nhiệm, đảm bảo cho sự phát triển bền vững. 3
- Du lịch bền vững cũng như du lịch cộng đồng ở nước ta vẫn còn là một khái niệm mới. Tuy rằng trong thời gian gần đây cụm từ này đã được nhắc đến khá nhiều. Thông qua các bài học kinh nghiệm thực tế về phát triể n du lịch tại các quốc gia trên thế giới, nhận thức về một phương thức du lịch có trách nhiệm với môi trường, có tác dụng nâng cao hiểu biết và chất lượng cuộc sống cho cộng đồng đã xuất hiện tại Việt Nam dưới các hình thức du lịch tham quan, tìm hiểu với những tên gọi như: du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch thiên nhiên... Nhằm bảo tồn tài nguyên du lịch tại các điểm du lịch vì sự phát triển bền vững dài hạn, đồng thời khuyến khích và tạo các cơ hội tham gia của người dân địa phương, trong những năm qua, loại hình du lịch này đã và đang được triển khai tại nhiều địa phương trong cả nước: Bản Lác – Mai Châu (Hòa Bình), Suối Voi – Lộc Tiên – Phú Lộc (Thừa Thiên Huế), vườn quốc gia Ba Bể, thôn Sín Chải – Sa Pa, đảo Cát Bà (thành phố Hải Phòng)... Tuy nhiên việc phát triển một số mô hình tại các địa phương còn mang tính thí nghiệm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm cho từng khu vực. Do đó, công tác triển khai vẫn còn chậm và chưa đi vào nề nếp, chưa hoạt động hiệu quả theo đúng quy tắc của du lịch cộng đồng, du lịch bền vững. Thành phố Hải Phòng là một trong những điểm có tiềm năng to lớn về du lịch cộng đồng, đặc biệt là đảo Cát Bà, một địa danh vốn thường được gắn với loại hình du lịch sinh thái. Bên cạnh việc phát triển những loại hình du lịch sinh thái, trong những năm gần đây, thành phố triển khai mô hình du lịch cộng đồng tại bốn xã trên đảo, đó là Hiền Hào, Xuân Đám, Trân Châu và Việt Hải. Mô hình du lịch cộng đồng đã được hình thành và xây dựng điểm tại ba xã gần thị trấn (Hiền Hào, Xuân Đám và Trân Châu) do tổ chức FFI hỗ trợ trong thời gian 2005 – 2007 chưa hoàn thành và chưa đạt hiệu quả nên thành phố tiếp tục xây dựng đề án “Xây dựng mô hình du lịch cộng đồng tại 03 xã trên đảo Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng” đã được đưa vào triển khai tại các xã từ năm 2008, đồng thời huyện Cát Hải cũng xây dựng đề án “Xây 4
- dựng mô hình du lịch cộng đồng tại xã Việt Hải, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng” nhằm đưa du lịch cộng đồng thành hướng đi cho vấn đề thoát nghèo và phát triển bền vững. Đây là hình thức xã hội hóa hoạt động du lịch môt cách triệt để nhất mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất, không chỉ tạo công ăn việc làm đem lại thu nhập cho người dân địa phương mà qua đó cò n giáo dục ý thức giữ gìn những nét văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Tuy nhiên, đến nay mô hình này đang bộc lộ nhiều hạn chế cần giải quyết kịp thời để phát triển hơn nữa loại hình du lịch này trên đảo. Xuất phát từ tình hình thực tiễn phát triển du lịch cộng đồng tại đảo Cát Bà như vậy, tôi đã chọn đề tài “Thực trạng phát triển du lịch cộng đồng trên đảo Cát Bà, thành phố Hải Phòng” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. Tôi hy vọng với vốn hiểu biết có hạn và nguồn tài liệu ít ỏi, đề tài của tôi sẽ góp một phần nhỏ cho sự phát triển của mô hình du lịch cộng đồng tại đảo Cát Bà, hướng đến sự phát triển bền vững cho đảo Ngọc của thành phố hoa phượng đỏ. 2. Mục đích nghiên cứu Qua việc nghiên cứu đề tài, chúng ta sẽ đi sâu vào tìm hiểu về các nguồn tài nguyên để phát triển du lịch cộng đồng tại Cát Bà, đồng thời cũng chỉ ra những thực trạng trong công tác xây dựng và triển khai mô hình du lịch này tại bốn xã trên đảo Cát Bà, qua đó đưa ra những giải pháp cho việc phát triển và nhân rộng mô hình du lịch cộng đồng cho toàn huyện Cát Hải. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đảo Cát Bà thuộc huyện Cát Hải, nơi có vườn quốc gia Cát Bà cũng là một trong số ít khu Dự trữ sinh quyển thế giới tại Việt Nam, một trong những danh thắng nổi tiếng của cả nước. Về nội dung: với thời gian và khả năng có hạn, đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề chính sau: 5
- - Lý thuyết về du lịch dựa vào cộng đồng - Những đặc trưng về tài nguyên của đảo Cát Bà trong việc phát triển loại hình du lịch cộng đồng của đảo - Thực trạng phát triển du lịch cộng đồng tại bốn xã trên đảo thuộc huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng. - Đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển hơn nữa mô hình du lịch cộng đồng tại các xã tham gia dự án. Về không gian: đề tài được giới hạn trong phạm vi huyện Cát Hải nói chung và đảo Cát Bà nói riêng, đặc biệt là bốn xã có trong mô hình du lịch cộng đồng của đảo Cát Bà, đó là các xã Hiền Hào, Trân Châu, Xuân Đám và Việt Hải. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện để hoàn thành bài khóa luận, tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp sưu tầm và nghiên cứu tài liệu - Phương pháp phân tích tư liệu và tổng hợp kết quả - Phương pháp khảo sát thực tế - Phương pháp điều tra, thăm dò ý kiến 5. Đóng góp của khóa luận - Khóa luận được trình bày trên cơ sở lý luận về du lịch dựa vào cộng đồng và thực tiễn xây dựng mô hình du lịch cộng đồng tại bốn xã : Hiền Hào, Xuân Đám, Trân Châu và Việt Hải trên đảo Cát Bà thuộc huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng nhằm đưa ra những giải pháp cho việc phát triển mô hình này. 6
- - Khóa luận hy vọng sẽ là tài liệu tham khảo giúp các bạn hiểu thêm về loại hình du lịch dựa vào cộng đồng, có thể sử dụng là nguồn tham khảo cho các đề tài sau. - Khóa luận còn có thể là tài liệu tham khảo cho các công ty, đơn vị kinh doanh lữ hành áp dụng bổ sung các chương trình du lịch dựa vào cộng đồng trên đảo Cát Bà làm phong phú thêm cho hoạt động du lịch của đảo. - Bên cạnh đó, những thông tin khóa luận cung cấp có thể sử dụng làm tài liệu cho các cơ quan, Ban quản lý các cấp của mô hình để có thể có những giải pháp khắc phục những hạn chế đồng thời phát triển hơn nữa hiệu quả của mô hình du lịch cộng đồng tại đảo Cát Bà. 6. Kết cấu khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, khóa luận gồm ba chương như sau: Chương I: Tổng quan về du lịch dựa vào cộng đồng Chương II: Thực trạng hoạt động du lịch cộng đồng trên đảo Cát Bà Chương III: Giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả hoạt động du lịch cộng đồng trên đảo Cát Bà Chương 1 TỔNG QUAN VỀ DU LỊCH DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG 1.1. Du lịch cộng đồng trong sự phát triển bền vững 1.1.1. Lý thuyết về cộng đồng 7
- Cộng đồng – một khái niệm lý thuyết cũng như thực hành xuất hiện vào những năm 1940 tại các nước thuộc địa của Anh. Năm 1950, Liên hiệp quốc công nhận khái niệm phát triển cộng đồng và khuyến khích các quốc gia sử dụng khái niệm này như một công cụ để thực hiện các chương trình viện trợ quy mô lớn về kĩ thuật, phương pháp và tài chính vào tập kỷ 50 – 60.. Trước hết, quan điểm về cộng đồng đề cập đến các yếu tố con người với phạm vi địa lý, mối quan hệ và mục đích chung trong phát triển và bảo tồn cộng đồng đó. Theo Keith và Ary, 1998 thì “Cộng đồng là một nhóm người, thường sinh sống trên cùng khu vực địa lý, tự xác định mình thuộc về cùng một nhóm. Những người trong cùng một cộng đồng thường có quan hệ huyết thống hoặc hôn nhân và có thể thuộc cùng một nhóm tôn giáo, một tầng lớp chính trị” (A community is a group of people, offen living in the same geographic area, who identify themselfves as belonging to the same group. The people in a community are offen related by blood or marriage, and may all belong to the same religious or political group, class or caste. (Keith and Ary, 1998) ) Như vậy, mặc dù các cộng đồng có thể có nhiều cái chung, nhưng sẽ trở nên phức tạp nếu cho rằng họ là một nhóm đồng nhất. Các cộng đồng có thể bao gồm nhiều nhóm riêng như nông dân và thị dân, người giàu và người nghèo, người định cư lâu và người mới định cư... Các nhóm quyền lợi khác nhau trong một cộng đồng dường như bị các thay đổi liên quan đến du lịch tác động đến một cách khác nhau. Các nhóm ấy phản ứng trước những thay đổi đó như thế nào phụ thuộc vào mối quan hệ họ hàng, tôn giáo, chính trị và các mối ràng buộc mạnh mẽ đã được phát triển giữa các thành viên qua nhiều thế hệ. Tùy thuộc vào một vấn đề, một cộng đồng có thể đoàn kết hay chia rẽ về tư tưởng hay hành động (United Nation Food and Agriculture Organisation, 1990). 8
- Khái niệm Cộng đồng (community) là một trong những khái niệm xã hội học. Trong đời sống xã hội, khái niệm cộng đồng được sử dụng một cách tương đối rộng rãi, để chỉ nhiều đối tượng có những đặc điểm tương đối khác nhau về quy mô, đặc tính xã hội. Từ những khối tập hợp người, các liên minh rộng lớn như cộng đồng châu Âu, cộng đồng các nước Ả Rập,... đến một hạng/kiểu xã hội, căn cứ vào đặc tính tương đồng về sắc tộc, chủng tộc hay tôn giáo,... như cộng đồng người Do Thái, cộng đồng người da đen tại Chicago. Nhỏ hơn nữa, danh từ cộng đồng được sử dụng cho các đơn vị xã hội cơ bản là gia đình, làng hay một nhóm xã hội nào đó có những đặc tính xã hội chung về lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, thân phận xã hội như nhóm những người lái xa taxi, nhóm người khiếm thị,.. Khái niệm cộng đồng bao gồm các thực thể xã hội có cơ cấu tổ chức chặt chẽ cho đến các tổ chức ít có cấu trúc chặt chẽ, là một nhóm xã hội có lúc khá phân tán, được liên kết bằng lợi ích chung trong một không gian tạm thời, dài hay ngắn như phong trào quần chúng, công chúng, khán giả, đám đông,... Bên cạnh đó, còn có một cách nhìn nhận khác, coi cộng đồng như một đặc thù chỉ có ở nền văn minh con người, ở đó con người hợp tác với nhau nhờ những lợi ích chung Tại Việt Nam, lần đầu tiên khái niệm phát triển cộng đồng được giới thiệu vào giữa những năm 1950 thông qua một số hoạt động phát triển cộng đồng tại các tỉnh phía nam, trong lĩnh vực giáo dục. Từ ngành giáo dục, phát triển cộng đồng chuyển sang lĩnh vực công tác xã hội. Đến những năm 1960, 1970, hoạt động phát triển cộng đồng được đẩy mạnh thông qua các chương trình phát triển nông thôn của sinh viên hay của phong trào Phật giáo. Từ thập kỷ 80 của thế kỷ trước cho đến nay, phát triển cộng đồng được biết đến một cách rộng rãi hơn thông qua các chương trình viện trợ phát triển của nước ngoài tại Việt Nam, có sự tham gia của người dân tại cộng đồng như một nhân tố quyết định 9
- để chương trình đạt được hiệu quả bền vững. Các đường lối và phương pháp cơ bản về phát triển cộng đồng đã được triển khai trên thực tiễn ở Việt Nam, bằng các nhân sự trong nước với cả những thành công và thất bại. Bộ môn “phát triển cộng đồng và tổ chức cộng đồng” được giảng dạy trong một số trường đại học ở phía Nam với giáo trình được biên soạn như một môn cơ bản. Gần đây, bộ môn này đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức cấp mã ngành. 1.1.2. Lý thuyết phát triển du lịch dựa vào cộng đồng 1.1.2.1. Các quan điểm về du lịch cộng đồng Thuật ngữ Du lịch dựa vào cộng đồng xuất phát từ hình thức du lịch làng bản từ những năm 1970 và khách du lịch tham quan các làng bản, tìm hiểu về phong tục tập quán, cuộc sống hoang dã , lễ hội, cũng có thể là một vài khách muốn khám phá hệ sinh thái đa dạng, địa hình hiểm trở, nhiều núi cao vực sâu nhưng lại thưa thớt dân cư, các điều kiện sinh hoạt đi lại và hỗ trợ rất khó khăn, nhất là đối với khách tham quan. Những lúc như vậy, những khách này rất cần có sự trợ giúp như dẫn đường để tránh lạc, nơi ở qua đêm, ăn uống đã được người dân bản xứ tạo điều kiện giúp đỡ, cung cấp các dịch vụ; lúc đó, khách du lịch thường gọi là chuyến du lịch có sự hỗ trợ của người bản xứ – đây là tiền đề cho phát triển loại hình du lịch dựa vào cộng đồng. Ngày nay, du lịch cộng đồng được chính phủ, tổ chức kinh tế, xã hội của các nước quan tâm nên đã trở thành lĩnh vực mới trong ngành công nghiệp du lịch. Bên cạnh đó, các tổ chức phi chính phủ tạo điều kiện giúp đỡ và tham gia vào lĩnh vực này nên từ đó các vấn đề xã hội, văn hóa, chính trị, kinh tế và sinh thái trong khuôn viên làng bản trở thành những tác nhân tham gia cung cấp dịch vụ cho du khách và thu hút được nhiều khách du lịch đến tham quan, người dân bản xứ cũng có thu nhập từ việc cung cấp dịch vụ và phục vụ khách tham quan nên loại hình du lịch dựa vào cộng đồng ngày càng được phổ biến và có ý nghĩa không chỉ đối với khách du lịch, chính quyền sở tại mà với cả cộng đồng. 10
- Trên thực tế, du lịch dựa vào cộng đồng đã được hình thành , lan rộng và tạo ra sự phong phú, đa dạng cho các loại sản phẩm dịch vụ cho các loại khách du lịch vào thập kỷ 89 và 90 của thế kỷ trước tại các nước trong khu vực châu Phi, châu Úc, châu Mỹ La Tinh, du lịch cộng đồng được phát triển thông qua các tổ chức phi chính phủ, Hội thiên nhiên Thế giới. Du lịch dựa vào cộng đồng bắt đầu phát triển mạnh ở các nước châu Á, trong đó có các nước trong khu vực ASEAN: Indonesia, Philipin, Thái Lan; các nước khu vực khác: Ấn Độ, Nepal, Đài Loan. Về mặt lý luận về du lịch cộng đồng: Các nước ASEAN như Indonesia, Philipin, Thái Lan đã tổ chức rất nhiều cuộc hội thảo về xây dựng mô hình và tập huấn, đào tạo kỹ năng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng. Một số tên gọi thường dùng khi nói đến du lịch dựa vào cộng đồng: - Du lịch dựa vào cộng đồng (Community – based Tourism) - Phát triển cộng đồng dựa vào du lịch (Community – development in tourism) - (Phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng (Community – Based Ecotourism) - Phát triển du lịch có sự tham gia của cộng đồng (Community – Participation in Tourism) Du lịch dựa vào cộng đồng là một phương thức hoạt động du lịch và có những điều kiện, tính chất hoạt động giống như loại hình du lịch sinh thái, du lịch bền vững như sau: - Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa , gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích cực cộng đồng của cộng đồng địa phương (Thế Đạt, Du lịch và du lịch sinh thái, 2003). Du lịch sinh thái nhấn mạnh và đề cao yếu tố giáo dục, nâng 11
- cao ý thức con người trong vấn đề bảo vệ, bảo tồn thiên nhiên và bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa do con người tạo ra. - Du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng những nhu cầu hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc phát triển các hoạt động du lịch trong tương lai...(Nguyễn Đình Hòe và Vũ Văn Hiếu, Du lịch bền vững, 2001). Du lịch bền vững hướng đến việc quản lý các nguồn tài nguyên sao cho các nhu cầu kinh tế xã hội đều được thỏa mãn trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hóa, các đặc điểm sinh thái, sự đa dạng sinh học và hệ thống hỗ trợ đời sống. Như vậy, du lịch cộng đồng chính là nét tinh túy của du lịch sinh thái và du lịch bền vững. Du lịch cộng đồng nhấn mạnh vào cả hai yếu tố là tự nhiên, môi trường và con người. 1.1.2.2. Một số khái niệm cơ bản về du lịch dựa vào cộng đồng Do vị trí về du lịch dựa vào cộng đồng, tùy theo góc nhìn, quan điểm nghiên cứu mà du lịch cộng đồng có những khái niệm khác nhau. Nhà nghiên cứu Nicole Hausle và Wollfgang Strasdas đưa ra khái niệm: “Du lịch cộng đồng là một hình thái du lịch trong đó chủ yếu là người dân địa phương đứng ra phát triển và quản lý. Lợi ích kinh tế có được từ du lịch sẽ đọng lại nền kinh tế địa phương” (Nicole Hausler and Wolfang Strasdas, Community Based Sustainable Tourism A Reader, 2000). Quan niệm trên nhấn mạnh đến vai trò chính của người dân địa phương trong vấn đề phát triển du lịch ngay trên địa bàn họ quản lý. Du lịch cộng đồng là “phương thức tổ chức du lịch đề cao về môi trường, văn hóa xã hội. Du lịch cộng đồng do cộng đồng sở hữu và quản lý , vì cộng đồng và cho phép khách du lịch nâng cao nhận thức và học hỏi về cộng đồng , về cuộc sống đời thường của họ” (Rest: Respondsible Ecological Social Tours, Thailand, 1997) 12
- Từ việc nghiên cứu các khái niệm về du lịch dựa vào cộng đồng, tiến sỹ Võ Quế đã rút ra khái niệm Phát triển du lịch dựa vào cộng đồng trong cuốn sách của mình: “Du lịch dựa vào cộng đồng là phương thức phát triển du lịch trong đó cộng đồng dân cư tổ chức cung cấp các dịch vụ để phát triển du lịch, đồng thời tham gia bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường, đồng thời cộng đồng được hưởng quyền lợi về vật chất và tinh thần từ phát triển du lịch và bảo tồn tự nhiên” Tiến sĩ – Kiến trúc sư Dương Đình Hiển – Viện Nghiên cứu phát triển du lịch phân tích về du lịch cộng đồng: "Chúng ta phải hiểu ý nghĩa của du lịch cộng đồng ở cả hai khía cạnh: Thứ nhất là khai thác đư ợc các giá trị văn hoá bản địa. Thứ hai là tạo được công ăn việc làm, cải thiện thu nhập, nâng cao được đời sống của cộng đồng và có ý nghĩa lớn trong xoá đói giảm nghèo. Để thành công được điều này, chúng ta phải quan tâm đến lợi ích cộng đồng đầu tiên, từ đó phát huy giá trị của văn hoá bản địa để phục vụ du khách". 1.1.2.3. Mục tiêu phát triển du lịch cộng đồng Từ những khái niệm cũng như những hiểu biết chung nhất về du lịch cộng đồng, Theo Viện nghiên cứu Phát triển Miền núi, để phát triển du lịch cộng đồng thì mục tiêu phát triển du lịch cộng đồng phải bao gồm những điểm như sau: - Là công cụ cho hoạt động bảo tồn; - Là công cụ cho phát triển chất lượng cuộc sống; - Là công cụ để nâng cao nhận thức, kiến thức và sự hiểu biết của mọi người bên ngoài cộng đồng về những vấn đề như rừng trong cộng đồng, con người sống trong khu vực rừng, nông nghiệp hữu cơ, quyền công dân cho người trong bộ lạc ; - Là công cụ cho cộng đồng cùng tham gia, thảo luận các vấn đề, cùng làm việc và giải quyết các vấn đề cộng đồng; 13
- - Mở rộng các cơ hội trao đổi kiến thức và văn hóa giữa khách du lịch và cộng đồng. - Cung cấp khoản thu nhập thêm cho cá nhân thành viên trong cộng đồng. - Mang lại thu nhập cho quỹ phát triển cộng đồng; Một số mục tiêu chính của du lịch cộng đồng đã được coi là kim chỉ nam cho loại hình phát triển này gồm: - Du lịch cộng đồng phải góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và văn hóa, bao gồm cả sự đa dạng về sinh học, tài nguyên nước, rừng, bản sắc văn hóa,... - Du lịch cộng đồng phải đóng góp vào phát triển kinh tế địa phương thông qua việc tăng doanh thu về du lịch và những lợi ích khác cho cộng đồng địa phương. - Du lịch cộng đồng phải có sự tham gia ngày càng tăng của cộng đồng địa phương. - Du lịch cộng đồng phải mang đến cho khách một sản phẩm có trách nhiệm đối với môi trường và xã hội. 1.1.2.4. Các nguyên tắc tham gia phát triển du lịch dựa vào cộng đồng Các nguyên tắc tham dự của cộng đồng đối với phát triển du lịch: - Cộng đồng được quyền tham gia thảo luận các kế hoạch, quy hoạch, thực hiện và quản lý đầu tư để phát triển du lịch, trong một số trường hợp có thể trao quyền làm chủ cho cộng đồng. - Phù hợp với khả năng của cộng đồng: Khả năng bao gồm: + Khả năng nhận thức về vai trò và vị trí của cộng đồng trong việc sử dụng tài nguyên. 14
- + Nhận thức được tiềm năng to lớn của du lịch cho sự phát triể n của cộng đồng cũng như biết được các bất lợi từ hoạt động du lịch và khách du lịch đối với tài nguyên, cộng đồng. - Chia sẻ lợi ích từ du lịch cho cộng đồng. Theo nguyên tắc này, cộng đồng phải cùng được hưởng lợi như các thành phần khác tham gia vào hoạt động kinh doanh cung cấp các sản phẩm cho khách du lịch. Nguồn thu từ hoạt động du lịch được phân chia công bằng cho mọi thành viên tham gia, đồng thời được trích lại để phát triển lợi ích chung của xã hội như: tái đầu tư cho cộng đồng, xây dựng cơ sở hạ tầng... - Xác lập quyền sở hữu và tham dự của cộng đồng đối với tài nguyên thiên nhiên và văn hóa hướng tới sự phát triển bền vững. 1.1.2.5. Các điều kiện hình thành và phát triển du lịch dựa vào cộng đồng - Điều kiện tiềm năng về tài nguyên môi trường tự nhiên và nhân văn có ý nghĩa quyết định đến phát triển du lịch dựa vào cộng đồng. Tài nguyên thiên nhiên và nhân văn được xem xét phong phú về số lượng, chủng loại, giá trị về chất lượng của từng loại, được đánh giá về độ quý hiếm. - Điều kiện yếu tố cộng đồng dân cư được xem xét đánh giá trên các yếu tố số lượng thành viên, bản sắc dân tộc, phong tục tập quán, trình độ học vấn và văn hóa, nhận thức trách nhiệm về tài nguyên và phát triển du lịch. - Điều kiện có thị trường khách trong nước và quốc tế đến tham quan du lịch, nghiên cứu, tương lai sẽ thu hút được nhiều khách. - Điều kiện về cơ chế chính sách hợp lý tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển du lịch và sự tham gia của cộng đồng. - Sự hỗ trợ, giúp đỡ của chính phủ, tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước về nhân lực, tài chính và kinh nghiệm phát triển du lịch dựa vào cộng đồng và các 15
- công ty lữ hành trong vấn đề tuyên truyền quảng cáo thu hút khách du lịch đến tham quan. 1.1.2.6. Xu hướng phát triển du lịch cộng đồng hiện nay Một cuộc điều tra nghiên cứu thị trường khách du lịch sinh thái cộng đồng quy mô lớn của Hiệp hội du lịch sinh thái thế giới trong 3 năm từ 2002 đến 2004 đã cho thấy những xu hướng du lịch mới của nền công nghiệp du lịch toàn cầu. Khách có nhu cầu ngày càng cao trong việc tìm kiếm thông tin và học hỏi, tìm hiểu khi đi du lịch. Khách muốn tìm hiểu các vấn đề về văn hóa xã hội như: văn hóa bản địa, sự kiện nghệ thuật, tiếp xúc với người dân địa phương, ẩm thực địa phương hay nghỉ tại các cơ sở lưu trú quy mô nhỏ của người dân bản địa. Các tác động môi trường và trách nhiệm của khách sạn tại điểm đến được khách quan tâm hàng đầu bởi có như vậy khách du lịch mới có cơ hội được đi du lịch ở những khu vực không bị ô nhiễm, không khí trong lành, tiếp cận các khu vực còn nguyên sơ, độc đáo. 1.1.3. Du lịch cộng đồng trong sự phát triển bền vững Theo Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế thì “Du lịch bền vững là việc đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch mà vẫn đảm bảo những khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du lịch tương lai”. Với ý nghĩa đó, du lịch bền vững đòi hỏi phải quản lý tất cả các dạng tài nguyên để đáp ứng nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hóa, các quá trình sinh thái cơ bản, đa dạng sinh học và các hệ đảm bảo sự sống. (Hens L., 1998) Mục tiêu của du lịch bền vững là: - Phát triển, gia tăng sự đóng góp của du lịch vào kinh tế, môi trường - Cải thiện tính công bằng xã hội trong phát triển 16
- - Cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng bản địa - Đáp ứng cao độ nhu cầu của khách - Duy trì chất lượng môi trường (Inskeep, 1991) Theo Hiến chương du lịch bền vững được đưa ra tại Hội nghị Thế giới về Du lịch bền vững tổ chức tại Lanzarote, Canary Islands, Tây Ban Nha năm 1995, phát triển du lịch trên cơ sở bền vững, có nghĩa là về mặt sinh thái phải được đảm bảo lâu dài, đồng thời phải có hiệu quả về khía cạnh kinh tế và phải công bằng về mặt xã hội và dân tộc đối với các cộng đồng địa phương. Du lịch phải góp phần vào sự bền vững và sự hòa nhập của phát triển bền vững với môi trường tự nhiên, văn hóa và con người; du lịch phải tôn trọng trạng thái cân bằng dễ bị phá vỡ là đặc trưng của điểm du lịch, đặc biệt là đảo nhỏ và các môi trường nhạy cảm... Du lịch phải quan tâm đến các ảnh hưởng của nó đối với các di sản văn hóa và các yếu tố truyền thống, các hoạt động và động lực của từng cộng đồng địa phương. Việc công nhận các yếu tố địa phương này và hỗ trợ các nét đặc thù văn hóa và lợi ích cộng đồng của địa phương phải luôn là vấn đề trung tâm trong việc soạn thảo các chiến lược du lịch, nhất là ở các nước đang phát triển... Du lịch bền vững xác định vai trò trung tâm của cộng đồng trong việc lập ra kế hoạch và ra quyết định phát triển du lịch. Du lịch bền vững là hoạt động phát triển du lịch dựa vào cộng đồng tạo nên đa dạng các dịch vụ du lịch vừa đảm bảo phát triển bền vững các yếu tố khác. Du lịch bền vững là phục vụ cho mục đích phát triển con người, cho nên, du lịch bền vững không chỉ tập trung vào mục đích thu lợi nhuận mà còn nhằm phát triển xã hội gồm giáo dục, sức khỏe, môi trường và các vấn đề tôn giáo. Từ những phân tích trên, có thể nói, du lịch cộng đồng chính là nét tinh túy nhất của du lịch sinh thái và du lịch bền vững. Du lịch cộng đồng nhấn mạnh cả hai yếu tố tự nhiên, môi trường và con người. Du lịch cộng đồng hướng đến con người nhưng cũng không phủ nhận tầm quan trọng của yếu tố tự nhiên và môi trường. Như vậy, du 17
- lịch cộng đồng đang là loại hình du lịch đáp ứng được các yêu cầu của du lịch bền vững, không chỉ là góp phần vào kinh tế địa phương, tăng thu nhập cho người dân mà còn bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa của cộng đồng địa phương nơi tổ chức loại hình du lịch này. Khi du lịch cộng đồng được đưa vào khai thác tại các địa phương sẽ tạo ra doanh thu lớn, thu nhập du lịch cũng tăng cao, tăng cường ngân sách đầu tư trở lại cho cuộc sống của chính người dân, cải thiện chất lượng cuộc sống cho cộng đồng địa phương. Và khi kinh tế phát triển sẽ dẫn đường cho các lĩnh vực khác phát triển như văn hóa, giáo dục. Điều kiện kinh tế ổn định, người dân sẽ không phải lo lắng nhiều về vấn đề kinh tế gia đình và có một nguồn thu nhập ổn định, họ sẽ tích cực hơn trong việc tham gia vào những hoạt động cộng đồng và việc đấu tranh để duy trì, bảo tồn các giá trị truyền thống cũng như bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Họ sẽ không phải khai thác quá mức các nguồn tài nguyên của mình. Bên cạnh đó, họ sẽ chú trọng đến việc giáo dục thế hệ trẻ hơn nữa trong việc bảo tồn và phát triển bền vững. Du lịch cộng đồng phát triển sẽ tạo ra những cơ hội lớn cho người dân địa phương bởi bên cạnh việc giao lưu và tiếp thu những tinh hoa văn hóa mới của khách du lịch, họ sẽ có ý thức bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của chính dân tộc mình. Điều này đòi hỏi phải có sự nhận thức sâu sắc của cộng đồng địa phương, du khách và đội ngũ nhân viên phục vụ du lịch. Đây cũng chính là điều kiện và là mục tiêu phát triển của loại hình du lịch này để tạo ra môi trường du lịch có văn hóa. Những mục tiêu mà du lịch cộng đồng muốn đạt được chính là những mục tiêu mà du lịch bền vững hướng tới. Chính vì lẽ đó, du lịch cộng đồng đang là hướng phát triển mới của du lịch thế giới trong những năm tới để du lịch đạt được mục tiêu phát triển bền vững. 1.2. Nguồn nhân lực địa phương 1.2.1. Nguồn nhân lực địa phương 18
- Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công hay không thành công của trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của một địa phương, một quốc gia. Do vậy, tất cả các nước trên thế giới đều quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực có thể được hiểu là nguồn lực con người có khả năng và tiềm năng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội của tổ chức, quốc gia và của thế giới. Nói về số lượng nguồn nhâ n lực của bất kỳ một địa phương nào thì vấn đề đầu tiên vẫn là có bao nhiêu người và sẽ có thêm bao nhiêu người nữa trong tương lai? Sự phát triển của số lượng nguồn nhân lực phụ thuộc vào hai yếu tố: yếu tố bên trong (nhu cầu thực tế của công việc đòi hỏi phải tăng bao nhiêu nhân lực) và yếu tố bên ngoài (sự gia tăng về dân số hay lực lượng lao động do di dân). Chất lượng nhân lực: là yếu tố tổng hòa của nhiều bộ phận khác : trí tuệ, trình độ, sự hiểu biết, kỹ năng đạo đức, trình độ thẩm mỹ của người lao động tại địa phương. Trong các yếu tố trên thì trí lực và thể lực là hai yếu tố quan trọng trong việc xem xét đánh giá chất lượng nguồn nhân lực. Về cơ cấu nguồn nhân lực địa phương: đây là yếu tố không thể thiếu khi xem xét đánh giá nguồn nhân lực. Cơ cấu thể hiện trong các phương diện khác nhau: cơ cấu giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp,... Tóm lại, nguồn nhân lực là khái niệm tổng hợp bao gồm các yếu tố số lượng, chất lượng và cơ cấu phát triển người lao động nói chung ở cả hiện tại cũng như tiềm năng tương lai của mỗi địa phương. Trong du lịch, đặc biệt là du lịch cộng đồng, nguồn nhân lực địa phương luôn là yếu tố quyết định đến việc hình thành và phát triển của loại hình du lịch này bởi họ không chỉ là đối tượng để khách đến tham quan và thẩm nhận những giá trị từ chính đời sống sinh hoạt thường ngày của mình mà họ còn là những người tham gia vào quá trình cung ứng các dịch vụ phục vụ khách du lịch. Theo Tiến sĩ – Kiến trúc sư Dương Đình Hiển – Viện Nghiên cứu phát triển du lịch đã phân tích về du lịch cộng đồng thì 19
- dân cư địa phương chính là những người tạo ra và nuôi dưỡng các giá trị văn hóa bản địa, sản phẩm của du lịch cộng đồng cũng là nhân tố thu hút sự quan tâm của khách vào loại hình du lịch này. Do đó, đối với du lịch cộng đồng, nguồn nhân lực địa phương luôn là yếu tố đóng vai trò hàng đầu trong chiến lược phát triển du lịch của một địa phương. Tuy nhiên, để nguồn nhân lực địa phương trở thành nguồn nhân lực đủ trình độ phục vụ du lịch thì cũng cần có thời gian đào tạo kiên trì để tạo ra nguồn lao động du lịch thực sự chuyên nghiệp và lưu lại ấn tượng tốt cho du khách 1.2.2. Nguồn nhân lực du lịch Cũng như mọi ngành kinh tế – xã hội, hoạt động du lịch luôn gắn với yếu tố dân cư – lao động. Nó là nguồn lực chi phối trực tiếp đến hoạt động du lịch. Tại mỗi địa phương nơi hoạt động du lịch được diễn ra, nhân lực địa phương góp phần vào việc cung ứng nguồn nhân lực cho hoạt động du lịch. Như chúng ta đã biết, hoạt động du lịch đòi hỏi một lực lượng lao động khá lớn. Theo tỷ lệ thông thường cứ mỗi khách du lịch thì cần 3 – 5 lao động phục vụ. Nguồn lao động này trực tiếp hoạt động trong ngành du lịch và hoạt động ngoài ngành du lịch tại các tuyến điểm du lịch để đáp ứng nhu cầu của du khách. Vì vậy, nơi nào có dân số đông, nguồn lao động dồi dào và có tay nghề cao, nơi đó sẽ rất thuận lợi để phát triển du lịch. Không chỉ vậy, dân cư địa phương chính là những người tạo ra môi trường du lịch tại điểm du lịch. Đó chính là thái độ ứng xử của cư dân tại tuyến điểm du lịch đối với du khách. Nơi nào có môi trường ứng xử tốt như tôn trọng du khách, niềm nở, ân cần đối với khách, không quấy rầy và làm phiền khách thì nơi đó sẽ tạo được ấn tượng tốt với khách, tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch phát triển. Có thể nói, lực lượng lao động trong du lịch của nước ta dồi dào để cung ứng cho hoạt động dịch vụ du lịch do dân số trẻ và đông. Tại các điểm du lịch, lực lượng lao động này, ngoài một bộ phận nhỏ làm việc trong ngành du lịch, đa số còn lại trực tiếp làm các dịch vụ vận chuyển, ăn uống, bán hàng lưu niệm, thẩm mỹ. Chính họ là 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài: Quỹ đầu tư và thực trạng phát triển quỹ đầu tư Việt Nam
25 p | 619 | 226
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Các giải pháp đồng bộ phát triển nhà ở người thu nhập thấp tại các đô thị Việt Nam
36 p | 311 | 76
-
Luận văn thạc sĩ: Phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bến Tre-Thực trạng và giải pháp
110 p | 258 | 63
-
Luận văn Thạc sỹ Quản trị kinh doanh: Phát triển nguồn nhân lực tại Công ty lưới điện cao thế miền Trung
26 p | 195 | 58
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng phát triển du lịch tại di tích lịch sử - văn hóa Tháp Bà Pô Nagar, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa
9 p | 523 | 40
-
Đề tài: Giải pháp phát triển du lịch Tiền Giang
10 p | 322 | 40
-
Báo cáo tổng hợp đề tài: Phát triển kinh tế vùng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
317 p | 188 | 31
-
Luận văn Thạc sĩ Địa lí học: Thực trạng phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm ở TP.HCM
122 p | 164 | 26
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ: Phát triển kinh tế trang trại trong lĩnh vực nông lâm tại tỉnh Quảng Nam
26 p | 133 | 20
-
Bài thuyết trình: Vấn đề phát triển lâm nghiệp
54 p | 272 | 19
-
Luận án tiến sĩ Địa lí: Phát triển nông nghiệp tỉnh Sóc Trăng theo hướng bền vững
193 p | 127 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học kinh tế: Phát triển dịch vụ thanh toán thẻ tại ngân hàngNông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thừa Thiên Huế
138 p | 92 | 17
-
Luận văn tốt nghiệp: Đầu tư phát triển các KCN-KCX vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, thực trạng và giải pháp
60 p | 116 | 16
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển công nghiệp huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam
26 p | 255 | 13
-
Đề tài: Thực trạng và chiến lược phát triển công nghiệp dầu khí Việt Nam
21 p | 39 | 13
-
Đề tài: Thực trạng phát triển các công cụ của TTTC ở Việt Nam
35 p | 93 | 10
-
Luận án Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Nghiên cứu thực trạng phát triển rừng trồng Sa mộc (Cunninghamia lanceota hook) tại huyện Hoàng Su Phì tỉnh Hà Giang
98 p | 86 | 10
-
Tóm tắt Luận án tiến sĩ Địa lý: Phát triển nông nghiệp tỉnh Sóc Trăng theo hướng bền vững
27 p | 51 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn