Điện ảnh Trung Quốc - Quá trình hình thành và phát triển
lượt xem 52
download
Điện ảnh Trung Quốc tính cho đến trước năm 1949 là nền văn hóa và công nghiệp điện ảnh nói tiếng Hoa của Trung Quốc đại lục, Hồng Kông và Đài Loan. Kể từ năm 1949, điện ảnh Trung Quốc được hiểu là nền điện ảnh của Đại lục do Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm quyền, nó tồn tại song song cùng hai nền điện ảnh nói tiếng Hoa khác là điện ảnh Hồng Kông và điện ảnh Đài Loan. Sau một thời gian dài phát triển chậm chạp vì những biến cố chính trị, hiện nay cũng giống...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Điện ảnh Trung Quốc - Quá trình hình thành và phát triển
- Điện ảnh Trung Quốc Quá trình hình thành và phát triển Điện ảnh Trung Quốc tính cho đến trước năm 1949 là nền văn hóa và công nghiệp điện ảnh nói tiếng Hoa của Trung Quốc đại lục, Hồng Kông và Đài Loan. Kể từ năm 1949, điện ảnh Trung Quốc được hiểu là nền điện ảnh của Đại lục do Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm quyền, nó tồn tại song song cùng hai nền điện ảnh nói tiếng Hoa khác là điện ảnh Hồng Kông và điện ảnh Đài Loan. Sau một thời gian dài phát triển chậm chạp vì những biến cố chính trị, hiện nay cũng giống như nền kinh tế Trung Quốc, điện ảnh Trung Quốc cũng đang bùng nổ mạnh mẽ và trở thành một cường quốc điện ảnh thực sự ở khu vực châu Á. Khác với điện ảnh Hồng Kông vốn sử dụng tiếng Quảng Đông là bản ngữ chính, các bộ phim của Trung Quốc và Đài Loan đều là những bộ phim sử dụng tiếng Quan Thoại. 1896-1945: Giai đoạn khởi đầu
- Định Quân Sơn, bộ "phim" đầu tiên của điện ảnh tiếng Hoa Kỹ thuật điện ảnh đến với Trung Quốc khá sớm, những thước phim đầu tiên được quay ở Trung Quốc là tại Thượng Hải ngày 11 tháng 8 năm 1896. Bộ "phim" đầu tiên, Định Quân Sơn (定军山), một vở kinh kịch quay lại bằng kỹ thuật điện ảnh, được thực hiện tháng 11 năm 1905. Trong giai đoạn đầu này, phần lớn các công ty làm phim nằm trong tay những người phương Tây, mãi đến năm 1916 nền điện ảnh nội địa của Trung Quốc mới thực sự hình thành với các hãng phim tập trung ở Thượng Hải, trung tâm công nghiệp và là thành phố lớn nhất của vùng Viễn Đông châu Á. Trong số các hãng phim mới ra đời này đáng chú ý có Công ty điện ảnh Minh Tinh (明星) và Tianyi Film Company, tiền thân của hãng phim Thiệu Thị (邵氏) nổi tiếng sau này. Minh Tinh chính là hãng phim đã sản xuất Lao công chi ái tình (劳工之爱情, 1922), bộ phim điện ảnh cổ nhất của điện ảnh tiếng Hoa còn lưu giữ đến ngày nay. Phải chờ đến thập niên 1930 nền điện ảnh nói tiếng Hoa mới thực sự khởi sắc với trào lưu nghệ thuật cấp tiến của những người cánh tả, tiêu biểu là các bộ phim Xuân tằm (春蠶, 1933, dựa theo tiểu thuyết của Mao Thuẫn), Đại lộ (大路, 1935, một tác phẩm
- của đạo diễn Tôn Du) hay Thần nữ (神女, 1934, do Ngô Vĩnh Cương đạo diễn). Các bộ phim theo trào lưu cấp tiến này đã mang lại màu sắc mới cho điện ảnh Trung Quốc khi khắc họa rõ nét sự xung đột tầng lớp trong giai đoạn chuyển đổi chính trị từ phong kiến sang cộng hòa, đồng thời đề cập trực tiếp đến cuộc sống đời thường, như một gia đình nuôi tằm trong Xuân tằm hay nghề mại dâm trong Thần nữ. Với những thành công của các bộ phim mang đề tài xã hội này, thập niên 1930 có thể coi là giai đoạn hoàng kim đầu tiên của điện ảnh tiếng Hoa. Đây cũng là giai đoạn chứng kiến sự ra đời lớp diễn viên điện ảnh nói tiếng Hoa nổi tiếng đầu tiên với các ngôi sao điện ảnh như Nguyễn Linh Ngọc, Chu Tuyền hay Triệu Đan. Năm 1937, Chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ, trung tâm điện ảnh Thượng Hải rơi vào tay quân đội Nhật và giai đoạn hoàng kim đầu tiên của điện ảnh tiếng Hoa chấm dứt. Hầu như tất cả các hãng phim lớn (trừ hãng Tân Hoa) đóng cửa cơ sở tại Thượng Hải và rất nhiều nhà làm phim phải chạy khỏi thành phố này để đến lánh nạn ở Hồng Kông hoặc Trùng Khánh. Tuy vậy một số nhà điện ảnh vẫn ở lại các khu tô giới của người nước ngoài ở Thượng Hải để tiếp tục thực hiện các tác phẩm mới. Đáng chú ý đạo diễn Bốc Vạn Thương đã cho ra đời bộ phim Mộc Lan tòng quân (木兰从军, 1939) lấy từ điển tích Mộc Lan tòng quân chống ngoại xâm để kêu gọi lòng yêu nước ngay giữa Thượng Hải bị chiếm đóng. Ngày 7 tháng 12 năm 1941, sau khi Thế chiến thứ hai chính thức bùng nổ giữa phe Trục và phe Đồng minh, các khu tô giới bị quân Nhật tịch thu nốt và việc làm phim của các nhà điện ảnh cấp tiến ở Thượng Hải phải ngừng lại. Điện ảnh ở Đại lục thời gian này gần như chỉ có hãng Mãn Châu Quốc (株式會社滿洲映畫協會) là hoạt động với những bộ phim gây nhiều tranh cãi vì chịu ảnh hưởng của chính quyền Nhật hoàng. Cuối thập niên 1940: Giai đoan hoàng kim thứ hai Sau khi quân Nhật đầu hàng năm 1945, ngành công nghiệp điện ảnh Trung Quốc, đặc biệt là ở Thượng Hải nhanh chóng phục hồi. Nhiều hãng phim mới được thành lập, còn Tân Hoa, hãng phim đã ở lại Thượng Hải trong giai đoạn chiếm đóng, trở thành công ty có quyền lực bậc nhất của cả nền điện ảnh tiếng Hoa. Năm 1946, đạo diễn nổi tiếng Thái Sở Sinh trở về từ Hồng Kông đã tái lập hãng phim Liên Hoa, sau đổi tên thành Côn Luân, một trong các hãng phim quan trọng nhất của điện ảnh Trung Quốc với nhiều bộ phim đáng nhớ như Nhất giang xuân thủy hướng đông lưu (一江春水向東流, 1947) hay Ô nha dữ ma tước (烏鴉与麻雀, 1949). Những bộ phim này đều tiếp tục với xu hướng thiên tả và thể hiện sự không đồng tình với chính sách đàn áp của Quốc Dân Đảng Trung Quốc do Tưởng Giới Thạch đứng đầu.
- Cùng lúc này, một số hãng phim khác như hãng Văn Hóa lại tách khỏi trào lưu cấp tiến để phát triển các bộ phim chính kịch riêng. Tác phẩm đáng nhớ nhất theo hướng đi này có lẽ là Tiểu thành chi xuân (小城之春, 1948), bộ phim sau này đứng đầu trong danh sách Phim tiếng Hoa hay nhất nhân kỉ niệm 100 năm ngày ra đời điện ảnh Trung Quốc. Thập niên 1950 và 1960: Sự hình thành của điện ảnh Xã hội chủ nghĩa Sau chiến thắng của quân đội Cộng sản trước quân Quốc Dân Đảng năm 1949, điện ảnh tiếng Hoa chứng kiến bước ngoặt quan trọng khi nó bị tách thành 3 nền điện ảnh gần như riêng biệt, điện ảnh xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc đại lục, điện ảnh Đài Loan và điện ảnh Hồng Kông. Từ năm 1951, toàn bộ các bộ phim sản xuất trước 1949, các phim Hồng Kông và phim Hollywood bị cấm tại đại lục, thay vào đó là các bộ phim tuyên truyền hoặc có đề tài tập trung vào 3 giai cấp nông dân, công nhân và quân đội. Công ty phim đầu tiên của nhà nước Trung Quốc mới, hãng Trường Xuân (长春) được thành lập năm 1950. Điểm đáng chú ý trong giai đoạn này là sự gia tăng đáng kể của số lượng người dân đến với điện ảnh, lượng khán giả từ 47 triệu người năm 1949 tăng đến 415 triệu người năm 1959. Trong vòng 17 năm kể từ ngày thành lập nhà nước mới đến khi Cách mạng văn hóa bùng nổ, đã có tổng cộng 603 bộ phim và 8342 cuộn phim tài liệu và thời sự được thực hiện, trong đó đa phần là các phim tuyên truyền. Nếu như trước năm 1949, phần lớn các nhà điện ảnh Trung Quốc học hỏi kinh nghiệm và kĩ thuật từ điện ảnh Mỹ thì sau khi thành lập nhà nước Xã hội chủ nghĩa, các nhà điện ảnh Trung Quốc mới được gửi sang Moskva để đào tạo với sự giúp đỡ của điện ảnh Liên Xô. Năm 1956, Học viện Điện ảnh Bắc Kinh được thành lập. Điện ảnh Trung Quốc cũng bắt đầu tìm được bản sắc riêng với các bộ phim về đề tài lịch sử hoặc dựa theo các tiểu thuyết, điển tích cũ, tiêu biểu là bộ phim hoạt hình nổi tiếng Đại náo thiên cung (大鬧天宮, 1961). Bộ phim cực ăn khách này được thực hiện bởi Vạn Lại Minh, cha đẻ của nền phim hoạt hình Trung Quốc. Một nhân vật tiêu biểu khác của điện ảnh Trung Quốc thời gian này là Tạ Tấn, đạo diễn của bộ phim Hồng sắc nương tử quân (红色娘子军, 1961). Thập niên 1960 đến 1980: Cách mạng văn hóa và giai đoạn kế tiếp Năm 1966, Cách mạng văn hóa bùng nổ đã đưa cả nền văn hóa Trung Quốc, trong đó có điện ảnh, rơi vào chỗ khủng hoảng nặng nề. Gần như toàn bộ các tác phẩm điện ảnh bị cấm lưu hành, chỉ có rất ít các bộ phim mới được sản xuất (trong đó có phiên bản vũ kịch của Hồng sắc nương tử quân năm 1971). Nền điện ảnh của Trung Quốc đại lục gần như chững lại trong giai đoạn 1967-1972, việc làm phim chỉ bắt đầu được khởi động trở lại sau khi Bè lũ bốn tên bị xét xử và chỉ thực sự hoạt động bình thường từ năm 1976.
- Trong thập niên 1980, công nghiệp điện ảnh Trung Quốc gặp khó khăn trước sự cạnh tranh từ các loại hình giải trí khác trong khi những bộ phim có tính giải trí cao (như phim kinh dị hoặc phim võ thuật) lại rất khó vượt qua được sự kiểm duyệt của chính quyền. Vì vậy để thu hút công chúng, các nhà điện ảnh Trung Quốc tập trung khai thác đề tài xã hội mà tiêu biểu là các bi kịch trong giai đoạn Cách mạng văn hóa trước đó cũng như di chứng của cuộc biến động này. Bộ phim đáng chú ý nhất theo thể loại này là bộ phim của đạo diễn Tạ Tấn, Phù Dung trấn (芙蓉镇, 1986), bộ phim đã đưa Khương Văn và Lưu Hiểu Khánh trở thành các ngôi sao điện ảnh mới của Trung Quốc. Thập niên 1980 và 1990: Sự nổi lên của các đạo diễn Thế hệ thứ 5 Từ nửa cuối thập niên 1980, điện ảnh Trung Quốc bắt đầu thực sự khởi sắc với các đạo diễn Thế hệ thứ 5, những người mới tốt nghiệp Học viện Điện ảnh Bắc Kinh thời gian trước đó (phần lớn là năm 1982). Có thể kể tới các đạo diễn Trần Khải Ca, Trương Nghệ Mưu, Trương Quân Chiêu và Điền Tráng Tráng. Họ là thế hệ nhà làm phim đầu tiên tốt nghiệp sau Cách mạng văn hóa và đã sớm khẳng định được mình bằng phong cách làm phim và đề tài mang tính đột phá. Hai bộ phim mở đầu cho thành công của thế hệ đạo diễn này là Nhất cá hòa bát cá (一个和八个, 1983, do Trần Đạo Minh thủ vai chính) của Trương Quân Chiêu và Hoàng thổ (黄土地, 1984, bộ phim xếp thứ 4 trong danh sác phim tiếng Hoa hay nhất 100 năm qua[7]) của Trần Khải Ca. Nhà quay phim cho cả hai bộ phim này là Trương Nghệ Mưu, người sau đó cũng có những thành công của riêng mình với Cao lương đỏ (红高粱, 1987), Cúc Đậu (菊豆, 1989) và Đèn lồng đỏ treo cao (大红灯笼高高挂, 1991). Không chỉ thành công trong nước, các đạo diễn này còn giành rất nhiều giải thưởng lớn tại các liên hoan phim uy tín, Cao lương đỏ của Trương Nghệ Mưu giành giải Gấu bạc tại Liên hoan phim Berlin, Thu Cúc đi kiện (秋菊打官司, 1992) cũng của Trương Nghệ Mưu giành giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venezia và đặc biệt Bá Vương biệt cơ (霸王別姬, 1993) của Trần Khải Ca đã giành giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes. Cùng với các đạo diễn thế hệ thứ 5, một thế hệ ngôi sao điện ảnh mới của Trung Quốc cũng thực sự khẳng định được vị trí của mình. Tiêu biểu trong số này là Củng Lợi, nữ diễn viên đóng vai chính trong hầu hết các bộ phim của Trương Nghệ Mưu hay Khương Văn, người sau này cũng trở thành một đạo diễn xuất sắc của điện ảnh Trung Quốc. Thập niên 1990 đến nay: Thế hệ thứ 6 và nền công nghiệp điện ảnh Giữa thập niên 1990, thế hệ đạo diễn tiếp theo của Trung Quốc, Thế hệ thứ 6, bắt đầu
- thể hiện khả năng với các bộ phim mang đề tài hiện thực và cách nhìn mới mẻ về một xã hội Trung Quốc đang phát triển nhanh chóng. Tác phẩm tiêu biểu của thế hệ thứ 6 có thể kể tới Xe đạp Bắc Kinh (十七岁的单车, 2001) của Vương Tiểu Suất, Đông cung Tây cung (東宮西宮, 1996) của Trương Nguyên, Tô Châu hà (苏州河, 2000) của Lâu Diệp. Cùng với việc Hồng Kông trở về với Trung Quốc năm 1997 và sự phát triển kinh tế của Trung Quốc đại lục, ba nền điện ảnh tiếng Hoa bắt đầu có những tác phẩm hợp tác, đặc biệt là về đề tài phim lịch sử và phim kiếm hiệp vốn là sở trường của điện ảnh Trung Quốc ngay từ thời kì đầu. Năm 1999, tác phẩm hợp tác Ngọa hổ tàng long (臥虎藏龍) với đạo diễn Lý An người Đài Loan, được quay ở Trung Quốc, có dàn diễn viên nổi tiếng đến từ cả ba khu vực như Châu Nhuận Phát (Hồng Kông), Chương Tử Di (Trung Quốc) và Trương Chấn (Đài Loan), đã thành công vang dội trên thị trường quốc tế và giúp điện ảnh ba khu vực này tìm được hướng đi mới, đó là các bộ phim kiếm hiệp pha trộn lịch sử có tính thương mại cao và tận dụng thế mạnh của mỗi nền điện ảnh. Năm 2002 bộ phim Anh hùng (英雄) của Trương Nghệ Mưu theo hướng đi mới này đã thành công và đánh dấu sự hình thành của ngành công nghiệp điện ảnh mới ở Trung Quốc. Lấy bối cảnh lịch sử đời Tần Thủy Hoàng với rất nhiều cảnh quay đẹp ở Trung Quốc và dàn diễn viên toàn sao như Lý Liên Kiệt, Chương Tử Di, Trương Mạn Ngọc, Lương Triều Vỹ, Anh hùng đã phá kỉ lục doanh thu ở Trung Quốc, đồng thời đạt được doanh thu rất cao ở châu Á và thậm chí là thị trường phim Mỹ. Điện ảnh Đài Loan Điện ảnh Đài Loan là nền nghệ thuật và công nghiệp điện ảnh của Đài Loan, đây là một trong 3 nền điện ảnh nói tiếng Hoa (cùng với điện ảnh Trung Quốc và điện ảnh Hồng Kông). 1, Giai đoạn đầu: 1901-1970 Từ năm 1901 đến năm 1937, do là thuộc địa của Nhật Bản vì vậy nền điện ảnh của hòn đảo Đài Loan chịu ảnh hưởng lớn từ chính quốc. Một ví dụ là sự xuất hiện của những người dẫn chuyện, hay các benzi (tiếng Nhật: 弁士 - benshi), để đọc thoại và lời dẫn trong khi các bộ phim câm được trình chiếu. Các benzi này có ảnh hưởng lớn tới các bộ phim vì họ có thể thêm thắt những ý không có trong kịch bản vào phim, làm biến đổi ý tưởng cơ bản của tác phẩm. Chính vì vậy bản thân các benzi cũng có thể trở thành những ngôi sao điện ảnh, ở Đài Loan giai đoạn phim câm có thể kể tới các benzi nổi tiếng như Wang Yung-feng, Lu Su-Shang hay Zhan Tian-Ma. Sau khi Chiến tranh Trung-Nhật nổ ra năm 1937, việc sản xuất phim ở Đài Loan bị chính quyền chiếm đóng siết chặt, tiếng Quan Thoại bị cấm hoàn toàn trong điện ảnh,
- chỉ có tiếng Nhật được phép sử dụng trong phim, kể cả tên địa danh, tên người hoặc các đặc điểm văn hóa có dính tới Trung Quốc. Sau khi Thế chiến thứ hai bùng nổ thì ngành công nghiệp điện ảnh gần như ngưng trệ vì chỉ bắt đầu được khôi phục trở lại khi chính quyền Quốc Dân Đảng Trung Quốc tiếp quản Đài Loan từ tay quân đội Nhật đầu hàng. Năm 1949, điện ảnh Đài Loan mới thực sự bắt đầu phát triển sau khi quân Cách Mạng chiến thắng tại Trung Quốc đại lục dẫn đến việc Tưởng Giới Thạch và quân đội Quốc Dân Đảng phải chạy sang Đài Loan, kéo theo rất nhiều nhà điện ảnh ủng hộ chế độ này. Thập niên 1960 chứng kiến sự bùng nổ của kinh tế Đài Loan, kéo theo đó là quá trình đi lên của công nghiệp điện ảnh nước này, nhưng các bộ phim thường chỉ tập trung vào các bộ phim kiếm hiệp hoặc phim có đề tài lãng mạn như các tác phẩm chuyển thể từ tiểu thuyết của Quỳnh Dao, nữ văn sĩ được yêu thích ở hòn đảo này. 2, Làn sóng mới thứ nhất: 1982 đến 1990 Đạo diễn Hầu Hiếu Hiền Vào đầu thập niên 1980, sự phổ biến của truyền hình và cạnh tranh quyết liệt của các bộ phim Hồng Kông đã buộc điện ảnh Đài Loan phải tìm cho mình hướng đi mới. năm 1982, bộ phim In Our Time do bốn đạo diễn Dương Đức Xương, Tao De-chen, Ke I-jheng và Jhang Yi ra đời đã đánh dấu sự hình thành của thế hệ Làn sóng mới trong điện ảnh nước này. Thế hệ đạo diễn mới này bắt đầu tập trung khai thác những đề tài mang tính xã hội cao hơn chứ không chỉ còn dừng lại ở các bộ phim kiếm hiệp hoặc tình cảm như các thế hệ đàn anh. Các bộ phim này có phong cách thường được so sánh với các bộ phim thuộc trào lưu Tân hiện thực Ý. Tiêu biểu cho các bộ phim thuộc thế hệ mới này là Bi tình thành thị (悲情城市, 1989) của Hầu Hiếu Hiền, bộ phim này đã giành giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venezia, đây là bộ phim nói tiếng Hoa đầu tiên đạt được thành tích này. Đây cũng là bộ phim Đài Loan xếp hạng cao nhất trong danh sách 100 phim hay nhất của điện ảnh Hoa ngữ được lập ra nhân kỉ niệm 100 năm ngày ra đời điện ảnh tiếng Hoa.
- 3, Làn sóng mới thứ hai: Từ 1990 đến nay Phim "Ngọa Hổ Tàng Long" Thành công của thế hệ đạo diễn Làn sóng mới thứ nhất đã mở đường cho các đạo diễn thuộc thế hệ Làn sóng mới thứ hai tiếp cận những đề tài nhẹ nhàng và gần gũi hơn nữa với khán giả nhưng vẫn thể hiện được các mặt của cuộc sống trong xã hội Đài Loan. Bộ phim Vive L'Amour (1994) của Thái Minh Lượng đã lần thứ hai mang về cho Đài Loan giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venezia. Đạo diễn nổi bật nhất của thế hệ Làn sóng mới thứ hai này có lẽ là Lý An, không chỉ dừng lại với các thành công trong nước, phim của Lý An còn được biết tới ở tầm quốc tế, tiêu biểu là sản phẩm hợp tác Trung Quốc - Hồng Kông - Đài Loan Ngọa Hổ Tàng Long (臥虎藏龍, 2000), bộ phim nói tiếng Hoa đầu tiên đoạtGiải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất. Lý An sau đó cũng là người Hoa đầu tiên giành giải Đạo diễn xuất sắc nhất tại Giải Oscar với bộ phim HollywoodBrokeback Mountain. Ông cho đến nay cũng là đạo diễn người Hoa duy nhất có 2 phim giành giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venezia, đó là các phimBrokeback Mountain (2005) và Sắc, giới (2007). Điện ảnh Hồng Kông Điện ảnh Hồng Kông là nền văn hóa và công nghiệp điện ảnh của Hồng Kông, một trong 3 nền điện ảnh nói tiếng Hoa bên cạnh điện ảnh Trung Quốc và điện ảnh Đài Loan. Là thuộc địa của Anh trong một thời gian dài, điện ảnh Hồng Kông vừa được thừa hưởng truyền thống văn hóa lâu đời của Trung Quốc, vừa được tiếp cận với nền điện ảnh phát triển của châu Âu. Vì lý do này, điện ảnh Hồng Kông cũng phát triển từ khá sớm và trong vài chục năm trở lại đây đã là một trong các nền điện ảnh lớn nhất châu Á. Có thời gian lượng phim sản xuất mỗi năm của điện ảnh Hồng Kông chỉ thua kém điện ảnh Hollywood của Mỹ và Bollywood của Ấn Độ. Tuy chịu ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế giữa thập niên 1990 và sự thay đổi thể chế chính trị khi Hồng Kông được trao trả cho
- Trung Quốc năm 1997, điện ảnh Hồng Kông hiện nay vẫn có một vai trò quan trọng trong nền điện ảnh thế giới nói chung. Đặc điểm chính Khác với nhiều nền điện ảnh khác, công nghiệp điện ảnh Hồng Kông không được chính phủ hỗ trợ trực tiếp về tài chính hoặc chính sách (hạn chế phim nước ngoài). Vì lý do này nền điện ảnh Hồng Kông mang tính thương mại hóa rất cao, các bộ phim được làm ra thường với tiêu chí đầu tiên là phải thu hút được công chúng, việc này giải thích cho các thể loại phim thế mạnh của điện ảnh nước này là phim võ thuật (trong đó có phim cổ trang), phim hành động hoặc phim hài. Các bộ phim làm tiếp (sequel), làm lại (remake) cũng thường xuất hiện khi các tác phẩm gốc ăn khách. Tuy nhiên dòng phim nghệ thuật kén khán giả của Hồng Kông vẫn có một số đại diện xuất sắc, tiêu biểu phải kể tới các bộ phim của đạo diễn Vương Gia Vệ, vốn rất khó thu hồi vốn (vì không hợp gu của đại bộ phận khán giả), nhưng lại thường xuyên đoạt giải thưởng tại các liên hoan phim. Có sự du nhập của nhiều yếu tố văn hóa phương Tây, điện ảnh Hồng Kông có nhiều điểm tương tự với điện ảnh Hollywoood về mặt tổ chức sản xuất và cấu tạo kịch bản, cảnh quay. Tuy vậy các thế mạnh của văn hóa Trung Quốc cũng thường được áp dụng vào phim ảnh như nghệ thuật Hí khúc, võ thuật hoặc các triết lý Nho giáo. Các ngôi sao điện ảnh Thành Long trong "Drunken Master"
- Tính thương mại hóa cao của nền điện ảnh Hồng Kông được thể hiện qua việc cách tạo dựng các ngôi sao điện ảnh là trung tâm của các bộ phim và cả nền công nghiệp điện ảnh. Ở thời kì đầu, các bộ phim thường tìm cách thu hút khán giả bằng việc mời các diễn viên Hí khúc (戏曲) được công chúng yêu thích tham gia diễn xuất. Sau đó, trong khoảng 30 năm trở lại đây, các ngôi sao điện ảnh thường tạo dựng vị trí của mình từ các bộ phim truyền hình, một lĩnh vực giải trí cũng rất phát triển ở Hồng Kông. Phần lớn các ngôi sao điện ảnh nổi tiếng nhất của Hồng Kông hiện nay đều đã từng là các ngôi sao truyền hình trong các bộ phim truyền hình dài tập của hai hãng truyền hình lớn là TVB và ATV. Một điểm khác biệt của ngành giải trí Hồng Kông nói chung là rất nhiều ngôi sao điện ảnh lại cũng là những ngôi sao ca nhạc Cantopop, điển hình là 4 nam diễn viên nổi tiếng Lưu Đức Hoa, Lê Minh, Trương Học Hữu và Quách Phú Thành cũng là "Tứ đại thiên vương" của Cantopop. Các ngôi sao điện ảnh này là thành tố quan trọng nhất tạo nên thành công của một bộ phim, hầu như các tác phẩm ăn khách và nổi tiếng của Hồng Kông đều phải có cặp nam nữ diễn viên chính là các ngôi sao điện ảnh nổi tiếng, có nhiều cặp diễn viên thường được "đóng đinh" diễn cặp với nhau như Lưu Đức Hoa-Trịnh Tú Văn, Lương Triều Vỹ-Trương Mạn Ngọc, các cặp diễn viên này thường đảm bảo doanh thu cho các bộ phim và giúp các diễn viên mới có cơ hội để trở thành các ngôi sao mới. Trong thời gian bùng nổ của điện ảnh Hồng Kông những năm 1980, chỉ trong một năm số phim các diễn viên nổi tiếng và các đạo diễn tên tuổi tham gia thực hiện có thể lên tới hai con số. Ngân sách làm phim Nếu so với các bộ phim của Hollywood thì ngân sách làm phim của điện ảnh Hồng Kông nhỏ hơn rất nhiều, trong đó phần lớn số tiền được dùng để trả cho các ngôi sao, những người quyết định sự thành bại của bộ phim, các ngôi sao lớn có thể được trả tới khoảng 5 triệu USD cho một phim họ tham gia. Đôi khi Hồng Kông cũng có những bộ phim bom tấn, nhưng có rất ít tác phẩm được đầu tư lớn như vậy trừ khi nó có sự tham gia của các ngôi sao nổi tiếng ở tầm quốc tế như Thành Long hoặc Châu Tinh Trì. Tuy ngân sách thường không lớn nhưng do chi phí sản xuất thấp, các bộ phim Hồng Kông vẫn thường có những đại cảnh đặc sắc, đặc biệt là trong các bộ phim hành động hoặc phim lịch sử vốn là sở trường của nền điện ảnh này. Ngôn ngữ và âm thanh
- Cho đến thập niên 1980, phần lớn các bộ phim Hồng Kông sử dụng tiếng Quảng Đông, ngôn ngữ chính ở hòn đảo này. Trong nhiều thập niên, các bộ phim thường được quay mà không thu tiếng động trực tiếp (quay "câm" - shot silent), phần thoại và tiếng động sẽ được thêm vào ở phần hậu kỳ. Thậm chí khi các ngôi sao chính của phim vì quá bận bịu mà không thể tự lồng tiếng cho mình được, phần thoại của họ sẽ được các diễn viên ít tên tuổi hơn đảm nhiệm. Từ cuối thập niên 1990, việc thu âm đồng bộ đã được chú trọng hơn, một phần vì số lượng phim thực hiện mỗi năm đã giảm đi nhiều và phần khác là vì thị hiếu của khán giả đã nâng cao, họ đòi hỏi những bộ phim có chất lượng tốt hơn và nếu không làm được điều này, các bộ phim Hồng Kông sẽ gặp phải đối thủ cạnh tranh rất mạnh đến từ Đại lục vốn hầu hết được thu âm trực tiếp.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Lịch sử phát triển điện ảnh Hàn Quốc
14 p | 307 | 67
-
Điện ảnh Hồng Kông
5 p | 233 | 49
-
Kinh kịch
5 p | 219 | 47
-
Kịch bản: Những người bạn
6 p | 137 | 44
-
30 năm điện ảnh Trung Hoa
7 p | 169 | 36
-
Thế hệ thứ sáu của điện ảnh Trung Quốc: “Ngọa hổ tàng long”
7 p | 162 | 31
-
Điện ảnh Đài Loan
9 p | 198 | 30
-
Đôi nét về lịch sử phim gợi cảm của điện ảnh Hoa ngữ
8 p | 149 | 26
-
Lịch sử điện ảnh Hồng Kông
10 p | 235 | 22
-
Tuồng, vọng cổ
9 p | 112 | 19
-
Lịch sử về điện ảnh Hồng Kông
7 p | 151 | 16
-
Khám phá và sáng tạo – Nhìn từ triển lãm ảnh nghệ thuật toàn quốc lần thứ 24
12 p | 126 | 13
-
Công án bằng hình ảnh
12 p | 90 | 10
-
Ảnh hưởng của tuồng Kinh đối với tuồng miền Bắc
9 p | 89 | 10
-
Văn hóa Thần truyền
8 p | 104 | 7
-
LONG MÔN PHI GIÁP – sẽ rất hay nếu bỏ được cái bệnh lằng nhằng
11 p | 68 | 6
-
Bí quyết làm đẹp của các sao Trung Quốc
4 p | 174 | 6
-
Vấn đề tiếp nhận tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc trên sân khấu cải lương Việt Nam
11 p | 79 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn