Dự án nghiên cứu: Tăng cường kĩ năng và cải tiến công nghệ cho các xưởng xẻ quy mô nhỏ vùng nông thôn Việt Nam ' MS2
lượt xem 8
download
Hiện nay rừng trồng các loài cây mọc nhanh mà phần lớn là các loài Keo và Bạch đàn từ Úc đã có thể thay thế cho một lượng lớn gỗ khai thác từ rừng tự nhiên. Sự gia tăng các xưởng cưa quy mô nhỏ với nguyên liệu là các loại gỗ rừng trồng tại địa phương đã đáp ứng nhu cầu về gỗ xây dựng , đồ nội thất hoặc sản phẩm dăm phục vụ cho công nghiệp giấy và bột giấy. Tuy nhiên thiết bị của các xưởng cưa này không thích hợp với loại nguyên liệu gỗ từ cây rừng trồng...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Dự án nghiên cứu: Tăng cường kĩ năng và cải tiến công nghệ cho các xưởng xẻ quy mô nhỏ vùng nông thôn Việt Nam ' MS2
- Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Chương trình CARD 027/06VIE Tăng cường kĩ năng và cải tiến công nghệ cho các xưởng xẻ quy mô nhỏ vùng nông thôn Việt Nam MS2: BÁO CÁO 6 THÁNG THỨ NHẤT 10/2007 1
- Mục lục 1. Thông tin về tổ chức 2 2. Tóm tắt dự án 3 3. Tóm tắt xây dựng và thực dự án 3 4. Đặt vấn đề và tổng quan 4 5. Quá trình thực hiện tới thời điểm hiện tại 14 Các điểm nổi bật trong quá trình thực hiện _________________________________ 14 5.1 Lợi ích của các bên tham gia _____________________________________________ 14 5.2 Đào tạo nguồn nhân lực _________________________________________________ 14 5.3 Các ấn phẩm ___________________________________________________________ 14 5.4 Quản lý dự án __________________________________________________________ 14 5.5 6. Báo cáo về các tác động 14 Ảnh hưởng tới môi trường _______________________________________________ 14 6.1 Vấn đề xã hội và giới ____________________________________________________ 14 6.2 7. Thực hiện dự án và tính bền vững 15 Các vấn đề và rào cản ___________________________________________________ 15 7.1 Các lựa chọn ___________________________________________________________ 15 7.2 Tính bền vững __________________________________________________________ 15 7.3 8. Các bước tiếp theo 15 9. Kết luận 15 10. Báo cáo về nguồn nhân lực và thiết bị Error! Bookmark not defined. 1
- 1. Thông tin về tổ chức Tăng cường kĩ năng và cải tiến công Tên dự án nghệ cho các xưởng xẻ quy mô nhỏ vùng nông thôn Việt Nam Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam Tên tổ chức ở Việt nam Đoàn Văn Thu Giám đốc dự án phía Việt nam Đại học Melbourne, Trung tâm chế Tổ chức phía Australia biến gỗ công nghệ cao, Australia. Giám đốc dự án phía Australia Giáo sư Peter Vinden 23/5/2007 Thời gian thực hiện dự án 3/2009 Thời gian kết thúc dự án (ban đầu) 3/ 2009 Thời gian kết thúc dự án (điều chỉnh) Báo cáo Đầu mối liên hệ Phía Australia: Trưởng nhóm 03 8344 5238 Peter Vinden Họ tên: Telephone: 03 5321 4113 Mobile: 0407 554 11 Chủ tịch Công nghiệp gỗ, và +61 (3) 9349 4172 Chức vụ: Fax: Giám đốc Trung tâm Chế biến gỗ công nghệ cao Đại học Melbourne, Trung pvinden@unimelb.edu.au Tổ chức Email: tâm chế biến gỗ công nghệ cao, Australia. Phía Australia: đầu mối liên hệ 0353451011 Philip Blackwell Họ tên: Telephone: 0419551532 0353451594 Nghiên cứu viên Chức vụ: Fax: philipab@unimelb.edu.au Đại học Melbourne, Trung tâm Tổ chức Email: chế biến gỗ công nghệ cao, Australia. Phía Việt Nam 84-4-8 362 232 Đoàn Văn Thu Họ và tên: Telephone: 84-4-8 389 722 Phó Viện trưởng Chức vụ: Fax: p.d.chien@uu.nl; Viện Khoa học Lâm nghiệp Tổ chức Email: dchienvn@yahoo.com Việt Nam thudoanvan@fsiv.org.vn 2
- 2. Tóm tắt dự án Hiện nay rừng trồng các loài cây mọc nhanh mà phần lớn là các loài Keo và Bạch đàn từ Úc đã có thể thay thế cho một lượng lớn gỗ khai thác từ rừng tự nhiên. Sự gia tăng các xưởng cưa quy mô nhỏ với nguyên liệu là các loại gỗ rừng trồng tại địa phương đã đáp ứng nhu cầu về gỗ xây dựng , đồ nội thất hoặc sản phẩm dăm phục vụ cho công nghiệp giấy và bột giấy. Tuy nhiên thiết bị của các xưởng cưa này không thích hợp với loại nguyên liệu gỗ từ cây rừng trồng mọc nhanh, đường kính nhỏ hiện nay, vì thế mà tính hiệu quả trong sử dụng gỗ không cao, hơn nữa hầu hết “công nhân” trong các xưởng cưa này không được đào tạo, vì thế chất lượng sản phẩm thấp và an toàn lao động không đảm bảo. Hiện nay có một vài cơ sở đào tạo công nhân, các cán bộ quản lí xưởng cưa, giới thiệu các công nghệ mới. Mặc dù còn nhiều tồn tại, các xưởng cưa quy mô nhỏ đã và đang có đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế nông thôn. Mục đích của dự án này là nâng cao tính hiệu quả và khả năng sản xuất của các xưởng cưa quy mô nhỏ, nhằm góp phần phát triển nông thôn và xoá đói, giảm nghèo. Điều này sẽ đạt được thông qua các chương trình đào tạo và phát triển công nghệ cho các xưởng cưa quy mô nhỏ khu vực miền Trung Việt Nam. 3. Tóm tắt xây dựng và thực hiện dự án Mục tiêu của dự án là cải hiện năng suất và hiệu quả của các xưởng cưa vùng nông thôn Việt Nam góp phần phát triển nông thôn và giảm nghèo. Các bên liên quan được mời tới tham dự Hội thảo khởi động dự án để thảo luận, góp ý kiến cho việc xây dựng kế hoạch triển khai dự án. Trong bước đầu tiên này, một mạng lưới các bên liên quan sẽ được thiết lập để góp ý kiến cho việc hoàn thành các mục tiêu của dự án. Thách thức của dự án là việc chuyển tải một các thích hợp các kỹ năng, kiến thức và công nghệ của các nhà nghiên cứu Việt Nam và Australia tới các xưởng cưa vùng nông thôn. Nó đòi hỏi 3 dạng đào tạo, đào tạo ở Australia với các kỹ năng chuyên sâu (hàn lâm) về cưa xẻ vùng nông thôn cho một số học viên Việt Nam, đào tạo nâng cấp kỹ năng đào tạo nghề về cưa xẻ vùng nông thôn ở Việt Nam, và đào tạo thực hành cho các xưởng cưa thông qua hệ thống đào tạo và dạy nghề. Khoá đào tạo 6 tuần cho các học viên Việt Nam tổ chức tại Trung tâm chế biến gỗ công nghệ cao, đại học Melbourne đã được hoàn thành. Kế hoạch đào tạo ở Việt Nam đang được tiến hành trên cơ sở kết hợp với các cơ sở đào tạo để cải thiện hiệu quả kiến thức và kỹ năng vận hành của các xưởng cưa nhỏ vùng nông thôn. Các nhà nghiên cứu Australia đã thăm Việt Nam 2 lần kể từ khi bắt đầu dự án. Lần đầu vào tháng 5/2007, và cuối đợt là tổ chức thành công Hội thảo khởi động dự án và đã có báo cáo. Lần thăm Việt Nam thứ 2 tập trung vào việc hoàn thành khảo sát hiện trạng các xưởng cưa nhỏ vùng nông thôn Việt Nam. Sau 6 tháng vận hành, dự án đã đạt được các kết quả như đã đề ra ở Hợp đồng đã ký. Hội thảo khởi động dự án góp mặt của 23 đại diện của các bên liên quan, từ công nghiệp, đào tạo, nghiên cứu, chính phủ, các dự án và các tổ chức tài trợ đã động ý mục tiêu của chương trình và xác định các yêu cầu chính và tiêu chí của bản câu hỏi phỏng vấn các xưởng cưa nhỏ. Khảo sát hiện trường được hoàn thành vào 7/10/2007. Số liệu và thông tin được xử lý và được hoàn thành vào 15/11/2007. Đào tạo kiến thức chuyên sâu (hàn lâm) cho 7 cán bộ Việt Nam được tổ chức tại Australia từ 22/9/2007-5/11/2007. Tất cả các mục tiêu đặt ra cho chương trình đào tạo đã được hoàn thành với chất lượng tốt. Kế hoạch chi tiết sẽ được trình bày ở báo cáo 6 tháng tới. 3
- 4. Đặt vấn đề và tổng quan Chế biến lâm sản là một ngành công nghiệp quan trọng ở Việt Nam. Hàng năm, khoảng 4 triệu m3 gỗ nguyên liệu được chế biến, tạo ra 2,2 triệu m3 gỗ xẻ và 210 000 m3 ván nhân tạo. Nguồn thu từ xuất khẩu lâm sản tăng lên đáng kể trong vòng 5 năm qua (2001-2005) và giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 133 triệu AuD năm 2003 tăng lên 2,0 tỉ AuD năm 2005. Trong số 1200 cơ sở chế biến gỗ quy mô trung bình trở lên, có trên 300 cơ sở chuyên sản xuất hàng xuất khẩu. Ngoài ra còn có hàng trăm xưởng cưa nhỏ “di động” và các cơ sở nghề mộc đang hoạt động tại các vùng nông thôn, miền núi, thu hút khoảng 0,5 triệu lao động địa phương và hàng chục ngàn các lao động dịch vụ khác phục vụ cho các cơ sở chế biến này. Lợi nhuận hiện nay tuy còn thấp, nhưng các cơ sở này đang đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho thị trường nội địa, các nhu cầu về gỗ xẻ và chất đốt cho vùng nông thôn. Rừng tự nhiên ở Việt Nam đã bị suy giảm đáng kể trong giai đoạn sau chiến tranh từ 1976 đến 1990 (FAO 2001). Độ che phủ rừng toàn quốc bị suy giảm từ 43% (14,3 triệu ha) năm 1943 xuống còn 33,8% (11,2 triệu ha) vào năm 1976 và 28% (10,7 triệu ha) vào năm 1995. Chất lượng rừng cũng bị suy giảm nghiêm trọng. Nghị quyết Quốc hội số 08/1997/QH10 ngày 5 tháng 12 năm 1997 đã phê chuẩn chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng nhằm phục hồi độ che phủ rừng toàn quốc đạt 43% vào năm 2010, trong đó có 3 triệu ha rừng sản xuất. Một chỉ thị của thủ tướng Chính phủ (số 19/2004/CT-TTg về phát triển công nghiệp chế biến lâm sản và đồ gỗ xuất khẩu) cũng đã nêu rõ tình trạng lạc hậu về công nghệ, thiết bị và hạn chế về trình độ tay nghề trong lĩnh vực chế biến lâm sản hiện nay. Chỉ thị này cũng đã giao trách nhiệm cho Bộ Lao động và Thương binh- xã hội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Uỷ ban nhân dân các tỉnh cùng phối hợp thực hiện đào tạo công nhân kĩ thuật, thợ lành nghề, nâng cấp các cơ sở đào tạo và thành lập các cơ sở dạy nghề nhằm đáp ứng nhu cầu của ngành. Mục tiêu tăng cường năng lực của Chính phủ là nhằm nâng cao giá trị sản phẩm gỗ rừng trồng, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân địa phương và góp phần phát triển bền vững rừng trồng, giảm áp lực khai thác rừng tự nhiên. Dự án này hoàn toàn phù hợp với chương trình CARD bằng việc ứng dụng trực tiếp các kết quả nghiên cứu, kĩ năng công nghệ và thực tế quản lí. Dự án đặt mục tiêu vào chiến lược phát triển nông thôn (nâng cao năng suất và tính cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp, kể cả côngnghệ sau thu hoạch). Trong khi dự án nhằm vào nhóm đối tượng là các chủ xưởng cưa nhỏ vùng nông thôn và công nhân của họ thì những người trồng rừng cũng được chia sẻ lợi ích từ việc bán gỗ tròn với giá cao hơn cho sản sản xuất gỗ xẻ. Hiện nay giá gỗ tròn làm gỗ xẻ cao hơn từ 2-4 lần so với gỗ tròn làm nguyên liệu băm dăm. Nhu cầu phát triển công nghiệp chế biến gỗ đã được FAO nêu ra, trong đó các ưu tiên nghiên cứu về Lâm nghiệp ở Việt Nam bao gồm các nghiên cứu về sản phẩm rừng là : • Các biện pháp nâng cao năng suất và chất lượng lâm sản trong đó có gỗ củi cho nhu cầu tiêu dùng địa phương • Phát triển kĩ thuật chế biến • Nghiên cứu và đề ra các chính sách, biện pháp khuyến khích những người làm nghề rừng. 4
- • Nghiên cứu , phát triển thị trường • Chế biến và bảo quản lâm sản: Phát triển các công nghệ, quy trình chế biến lâm sản hiệu quả cao; thiết kế, chế tạo các máy chế biến lâm sản; đề xuất kĩ thuật chế biến gỗ rừng trồng thay thế gỗ rừng tự nhiên và xác định các quy trình, các hoá chất phù hợp nhất cho chế biến lâm sản. Lâm nghiệp Việt Nam trong thập kỉ qua đã đạt được tiến bộ vượt bậc trong phát triển rừng trồng các loài cây mọc nhanh mà phần lớn là các loài Keo và Bạch đàn có nguồn gốc từ Úc. Với việc hạn chế khai thác gỗ rừng tự nhiên và nhiều xưởng xẻ quy mô lớn của Nhà nước phải đóng cửa hoặc phải chuyển đổi hoạt động kinh doanh thì đã hình thành rất nhiều xưởng xẻ tư nhân quy mô nhỏ vùng nông thôn nhằm đáp ứng nhu cầu gia tăng về các sản phẩm cho xây dựng, nội thất và công nghiệp dăm và giấy. Những xưởng xẻ này sử dụng ngày càng nhiều các sản phẩm rừng trồng. Tuy nhiên công nghệ chế biến sản phẩm sau thu hoạch bị tụt hậu rất nhiều so với công nghệ tạo rừng. Không kể các công ty liện doanh tại các thành phố lớn, công nghiệp chế biến gỗ xẻ tại các cơ sở nhỏ vùng nông thôn đang sử dụng các thiết bị lỗi thời, không phù hợp với các loài gỗ rừng trồng kích thước nhỏ. Những người vận hành thiết bị phần lớn là nông dân không được đào tạo. Những xưởng cưa này không những làm việc không hiệu quả, tạo ra sản phẩm chất lượng thấp mà môi trường làm việc không an toàn cho người vận hành. Hiện nay đang có một số hình thức đào tạo cho các công nhân và những người quản lí, thử nghiệm và giới thiệu các công nghệ phù hợp, nhưng chưa thể đáp ứng nhu cầu cho tất cả các xưởng xẻ tư nhân trên cả nước. Mặc dù còn nhiều bất cập, nhưng các xưởng xẻ quy mô nhỏ vùng nông thôn đang đóng góp một phần quan trọng cho phát triển kinh tế nông thôn ở nhiều vùng, tạo cơ hội việc làm lúc nông nhàn. Chúng cũng tạo ra thị trường mới cho những người trồng rừng, thay vì đang phải chịu bán sản phẩm với giá thấp cho sản xuất giấy và dăm. Chúng đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất gỗ xây dựng, gỗ nội thất và đáp ứng nhu cầu lớn cho cải tạo nhà cửa trên phạm vi cả nước. Đồ gỗ đang là một trong các mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam hiện nay, giá trị đồ mộc xuất khẩu năm 2005 là 2 tỉ AuD nhưng hầu như ngành côngnghiệp này đang phụ thuộc vào nguồn gỗ nhập khẩu ước tính 0,8 tỉ AuD. 2.1.2 Các dự án liên quan Đã có một số dự án nghiên cứu về công nghiệp chế biến gỗ nhỏ ở nông thôn Việt Nam thông qua những chính sách kêu gọi sự cải thiện một cách có hiệu quả. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt nam đã thực hiện một số nghiên cứu cho những loài cây rừng trồng, bao gồm các loại gỗ nguyên liệu và công nghệ thích hợp để chế biến và bảo tồn. Đây là việc làm cần thiết được phát triển và mở rộng trong khuôn khổ phù hợp với công nghiệp chế biến gỗ ở nông thôn Việt nam. Hiện tại, Chương trình hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ) đã thực hiện một dự án về chế biến, thương mại và marketing cho các sản phẩm lâm sản bản địa ở một số vùng được lựa chọn tại Việt Nam. Và với dự án CARD này được thiết kế để hoạt động phụ trợ thêm cho các hoạt động của GTZ. ACIAR đang hỗ trợ một dự án nghiên cứu cải thiện công nghệ chế biến gỗ bạch đàn, trong khi một dự án CARD đang triển khai một số mô hình lâm sinh trồng rừng Keo gỗ lớn và một dự án khác của ACIAR đang nghiên cứu cải thiện gen và chiến lược lâm sinh cho trồng rừng Bạch đàn sản xuất gỗ lớn. Một dự án trước đó của CARD (2002) liên quan đến nhu cầu tương lai về các sản phẩm lâm sản ở Việt Nam, nhưng đã không đáp ứng được những vấn đề cụ thể của công nghiệp nhỏ chế biến gỗ. 5
- Chính Phủ Hà Lan đang hỗ trợ một dự án đào tạo nghề cho lĩnh vực Nông - Lâm nghiệp do đó sẽ có mối liên hệ chặt chẽ với một số dự án tiếp tục được thực thi. • Dự án Viện KHLN Việt Nam: Nghiên cứu về gỗ nguyên liệu của một số loài cây rừng trồng – 2001. • Dự án Viện KHLN Việt Nam: Sát nhập quy mô chế biến nhỏ của rừng trồng gỗ lớn – 2003. • Dự án CARD 02/11: Nhu cầu tương lai của công nghiệp chế biến các sản phẩm lâm sản ở Việt nam • Dự án CARD 032/05VIE: Biện pháp lâm sinh cho trồng rừng Keo sản xuất gỗ lớn. • Dự án ACIAR - FST 2001/021: Chế biến gỗ xẻ của các loài cây Bạch đàn. • Dự án ACIAR - FST 1999/095: Biện pháp lâm sinh và di truyền học về các loài cây gỗ lớn bạch đàn. • Dự án GTZ: Chương trình thúc đẩy sử dụng bền vững và quản lý rừng tự nhiên và thị trường các loại sản phẩm lâm sản quan trọng. • Dự án Hà Lan BNN-HH-04-047: Cải thiện chất lượng và tăng cường theo hướng đào tạo và giáo dục hệ thống công nhân và kỹ thuật viên Nông Lâm Kết Hợp (Chương trình VocTech). Dự án này nhằm đáp ứng 2 thiếu sót chủ yếu trong năng lực chế biến gỗ ở Việt Nam là thiếu các kỹ năng và kinh nghiệm của những người hoạt động gỗ xẻ trong phần lớn các khía cạnh về chế biến gỗ, quản lý cơ sở chế biến gỗ xẻ và sự hạn chế về công nghệ để đáp ứng những tiêu chuẩn và yêu cầu của thị trường. Các công tác viên người Úc có bề dày kinh nghiệm trong việc phát triển công nghiệp gỗ xẻ ở Úc đã được lựa chọn và họ có trách nhiệm chuyển giao những tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực này. Như một dự án nhỏ và ngắn hạn thì điều cần thiết là tập trung cho những vấn đề cụ thể và xác định rõ giới hạn phạm vi của dự án. Dự án này chỉ tập trung cho công nghiệp chế biến gỗ xẻ là những loài cây Keo và Bạch đàn, những loài mà người Úc là những chuyên gia hang đầu. Đây là vấn đề quan trọng để phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ xẻ mà không được đề cập đến trong dự án lớn của GTZ, một dự án quan tâm nhiều đến lĩnh vực chế biến gỗ rừng tự nhiên. 2.2 Phân tích đối tượng hưởng lợi/các bên tham gia Một nhóm nghiên cứu gồm: Ông Nguyễn Quang Trung, Bùi Chí Kiên và John Fryer của Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, và Ông Peter Vinden Đại học tổng hợp Melbourne đã tới thăm 15 cơ sở chế biến gỗ xẻ trong tháng 8 năm 2006 để đánh giá và tư liệu hóa hiện trạng phát triển của ngành công nghiệp này. Các địa bàn nghiên cứu là Huyện Từ Liêm - ngoại thành Hà nội và huyện Đan Phượng tỉnh Hà Tây. Kết quả điều tra khảo sát: • Ngành công nghiệp này là một nhóm kinh doanh đồng ngành nghề. Hiện tại, có khoảng 400 cơ sở chế biến gỗ xẻ trong huỵện Từ, đã tăng thêm 50 cơ sở so với năm trước. • Công nghệ được ứng dụng trong 15 cơ sở là tương đối giống nhau. Phần lớn các cơ sở chế biến gỗ xẻ (75%) đã sử dụng cắt khúc bằng tay. 6
- • Gỗ xẻ rất ngắn, phần lớn có đường kính nhỏ và cong queo, bị hư hại nhiều do nấm, mốc. • Phần lớn gỗ trong các xưởng xẻ là gỗ keo, một số loài bạch đàn, một số thông và không nhiều gỗ cây bản địa. Tất cả gỗ thông đều bị giảm chất lượng do bị chảy nhựa. • Bãi gỗ không được lưu, xuất theo hình thức gỗ tới trước sẽ được xẻ trước. Gỗ mới nhập về được chất lên đống gỗ cũ, do vậy làm giảm chất lượng gỗ lưu ở bãi thời gian dài. • Một số xưởng xẻ mở rộng chế biến gỗ ngoài xẻ. Khoảng 10% xưởng xẻ có lò sấy. Các lò sấy này do Việt Nam thiết kế sử dụng gỗ phế thải để đốt lò. Tuy nhiên, việc sấy gỗ keo chưa có kinh nghiệm. Tuy chưa có nhiều nghiên cứu về sấy các loài cây này ở Australia, nhưng có thể rút ra được là các loài keo rất khó sấy, lịch trình sấy phải cẩn thận và từ từ ở giai đoạn đầu để tránh nứt. Kiến thức sơ đẳng này rút ra khi tiếp xúc và thảo luận với những người vận hành lò sấy. Tuy nhiên, những vấn đề này đang được nghiên cứu và thử nghiệm. • Khoảng 10% cơ sở chế biến gỗ xẻ thường xuyên đầu tư dưới nhiều hình thức khác nhau để tăng thêm giá trị cho các sản phẩm. The same sawmills (10%) usually invested in various forms of timber thicknessing / planing / machining and were adding value in terms of selling products. The pine was being used for wooden cable drums and employed some child labour. Other products included boxes, doors, windows, trusses and beams, joinery and furniture. The bulk of production was wooden blanks. The short blanks were then on-sold elsewhere for further manufacture, some of it for finger-jointed blockboard. • Sấy bằng lò gặp nhiều khó khăn do kích thước không đồng đều của gỗ sau xẻ. Các lò thường sử dụng mộ tấm bê tông nặng đặt lên trên lò để chống biến dạng gỗ khi sấy. Tuy nhiên, độ dày của ván gỗ khác nhau ở các lớp đầu tiên có thể bị biến dạng làm gỗ sấy bị thải loại. • Một khối lượng lớn gỗ phế phẩm được tạo ra, bao gồm: Vỏ, mùn cưa và bìa bắp gỗ. Có một thực tế rõ ràng là nhu cầu sử dụng gỗ chế biến phế thải là gỗ củi và được bán và vận chuyển tới các hộ gia đình và doanh nghiệp chế biến gỗ khác chủ yếu bằng xe đạp của các nữ công nhân. • Lực lựơng lao động nữ chiếm khoảng 20% và thực hiện nhiệm vụ như những người giúp việc, nhưng một vài trong số họ có trách nhiệm làm những công việc về sổ sách, vận hành cưa và máy móc thiết bi. • Sức khoẻ công nhân và an toàn lao động không được chú trọng. Nơi làm việc không an toàn. Không được trang bị an toàn lao động khi làm việc với máy móc thiết bị (không hướng dẫn an toàn, không dao chống xé cho cho cưa vòng (đề phòng gỗ bị bật lại), không có bảo hộ an toàn lao động (cho mắt, tai, phổi và chân tay). Máy móc tạo ra tiếng ồn rấ lớn, rất bẩn và nguy hiểm. Điều kiện làm việccủa ngươi công nhân chưa được quan tâm đúng mức. Trong khi hiện tại có một hiện trạng nghèo nàn, ngành công nghiệp này có thể có những bước tiến vượt bậc. Một số xưởng cưa ở những khu tập trung công nghiệp đã được tăng cường về năng lực như các công nghệ mới đã được ứng dụng. Điều này đã được thể hiện rõ ở một số công ty, xý nghiệp. Đã có một cơ chế khoán ở 7
- các xí nghiệp nhưng nhìn chung kỹ thuật và công nghệ hiện đại vẫn chưa được áp dụng để tạo ra năng suất và hiệu quả cao hơn. Một chuyến khảo sát Tổng công ty Lâm nghiệp và một nhà máy trực thuộc ở Hà nội (Công ty chế biến gỗ Hà nội) đã xác định được các vấn đề tương tự về thay đổi nguồn nguyên liệu thô. Họ muốn thay đổi bằng việc sử dụng các xưởng cưa nhỏ và chế biến tại rừng thay cho việc vận chuyển hơn 200 km tới các cơ sở lớn. Vấn đề kỹ thuật cũng được xác định tương tự như trên. Vấn đề chính là thiếu vắng sự tư vấn về kỹ thuật. Ví dụ như nhũng tấm ván ngăn (có độ dài bằng nhau) được mang về nhà máy và được ghép lại với nhau. Mục tiêu của nó là tạo ra những tấm ván có độ dài thích hợp, lược bỏ bớt những nhược điểm và đảm bảo đủ độ dài thích hợp của sản phẩm cho gỗ ván sàn nhà. Trong trường hợp ở Việt nam, việc nối ghép này là để khắc phục những nhược điểm của chế biến gỗ xẻ. Tuy nhiên, việc khắc phục những nhược điểm này chưa được tốt như việc các mối nối vẫn còn quá sơ sài. Trên phương diện kỹ thuật thì việc nối ghép này rất phức tạp, phải sử dụng cơ khí chính xác và công nghệ cáo về keo. Việc chỉ ra những vấn đề cơ bản của công nghiệp gỗ xẻ sẽ song hành với việc cải thiện công nghệ sấy, thiết bị, kỹ thuật ghép nối và chế biến sản phẩm. Những sự phát triển như thế này sẽ giúp cho Việt nam giảm sự phụ thuộc vào việc nhập khẩu khẩu gỗ đắt đỏ để sản xuất đồ gia dụng. Phân tích nội nghiệp về thị trường gỗ ở Việt nam đã chỉ ra ở biểu 3 là tập trung lớn cho đồ gia dụng. Nguồn nguyên liệu gỗ tròn (x000 m3) Biểu 1. Nguồn khai thác 2003 2004 2005 Rừng tự nhiên 500 300 150 Rừng trồng - 1 500 2 000* Nhập khẩu 900 2 550 * Dự báo Các loài gỗ nhập khảu ( Đơn vị: x000 m3) Biểu 2. Loài 2003 2004 Các loài Bạch đàn 405 637.5 Keo lá Tràm 27 127 Cây Mỡ và Sao đen 90 331 Thông 72 204 Cây họ dầu 135 637 Gỗ Tếch 27 102 Khác 144 510 Tổng số 900 2550 Biểu 3. Sử dụng cuối cùng cho các sản phẩm gỗ Loại sản phẩm Tỷ lệ % Gỗ x ẻ 11 8
- Đồ gia dụng và ván 63 Sản phẩm mỹ nghệ 13 Dăm mảng 0.4 Sản phẩm mây, tre đan 4.2 Khác 8.4 Xuất khẩu sản phẩm lâm sản đã tăng theo cấp số nhân trong vòng 6 năm vừa qua, giá trị xuất khẩu ước tính khoảng 133 triệu đô la Úc năm 1998 thì năm 2004 khoảng 1,3 tỷ và năm 2005 là 3 tỷ đô la Úc. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là đồ nội thất ngoài trời và trong nhà, dăm mảnh, đồ thủ công mỹ nghệ và lâm sản ngoài gỗ. Có một sự phân biệt rõ ràng rằng gỗ rừng tự nhiên khai thác trong nước và nhập khẩu được sử dụng để sản xuất đồ nội thất chất lượng cao. Còn gỗ rừng trồng được sử dụng một phần nhỏ chế biến đồ nội thất ngoài trời, phần lớn cho nguyên liệu dăm mảnh, gỗ ván, cột chống lò và gỗ xây dựng. Những số liệu thống kê trở nên có ý nghĩa khi sự tương phản thị trường gỗ của Úc cho thấy: Gỗ nguyên liệu cho sản xuất đồ gia dụng chỉ chiếm 5 %, gỗ bao bì 5%, còn gỗ xây dựng là 70%. Điều này có nghĩa là nhu cầu tiềm năng cao cho gỗ xây dựng ở Việt nam. Thực sự, có một sự thiếu vắng dự báo nhu cầu gỗ xây dựng nhà ở đô thị như: Dàn giáo, cột chống và cốp pha đổ bê tông. Bởi vậy, gỗ rừng trồng có cơ hội để hình thành thị trường mới phục vụ ngành công nghiệp xây dựng. Thật khó mường tượng lợi ích thu được từ sự cải tiến công nghiệp gỗ xẻ ở địa phương. Tuy nhiên sẽ thấy một điều là lợi ích sẽ cao và tất cả mọi người đều được hưởng lợi và những rủi ro tiềm năng là nhỏ. Một phân tích các tác nhân có liên quan được tóm tắt ở bảng 4. Biểu 4. Phân tích tác nhân có liên quan Người trồng rừng nhận được lợi ích cao hơn từ 2 đến 4 lần nếu là Người trồng gỗ xẻ so sánh với gỗ dăm mảnh. Một sự lựa chọn thị trường gỗ lớn rừng cũng cung cấp sự ổn định tốt hơn sự thay đổi nhu cầu đối với dăm mảnh. Thị trường dăm mảnh xuất khẩu có mức độ cạnh tranh ngày càng cao. Người trồng rừng quy mô nhỏ nhận được lợi ích từ giá cao hơn Người trồng rừng quy mô và đang có đầu tư cho cây đứng mà sẽ tiếp tục để đảm bảo giá trị bởi gỗ lớn. Điều này đảm bảo cung cấp độ an toàn chống lại những nhỏ năm khó khăn và sản phẩm không đủ tiêu chuẩn. Nó cũng cung cấp tính đa dạng và công nghiệp nông thôn mới tới sự phát triển cao của cộng đồng địa phương. Chủ xưởng xẻ sẽ giành được năng suất cao hơn, tỷ lệ gỗ phế Chủ xưởng phẩm ít hơn, có khả năng canh tranh hơn với các sản phẩm khác, xẻ gỗ đặc biệt với sắt và bê tông từ đó mở ra một thị trường mới và tạo thêm nhu cầu đối với gỗ xẻ là gỗ rừng trồng. Công nhân xưởng xẻ sẽ nhận được lợi ích từ kỹ năng được nâng Công nhân cao và bảo hộ lao động được tốt hơn từ điều kiện làm việc tồi. Công xẻ gỗ nhân nên đòi hỏi mức lương tốt hơn khi quy mô sản xuất của xưởng 9
- xẻ được mở rộng. Nền kinh tế nhận được lợi ích từ cơ sở hạ tầng tốt hơn, kỹ năng Nền kinh tế làm việc, tạo thêm việc làm và tạo thu nhập bằng tiền mặt trong nền nông thôn kinh tế. Nền kinh tế nhận được lợi ích từ việc sử dụng tài nguyên tốt hơn, cơ sở hạ tầng, thêm nhiều việc làm và giảm bớt áp lực cho dịch vụ y tế. Mở rộng nhanh chóng loại hình công nghiệp này ở nông thôn, nhu cầu cấp bách về thông tin và những giải pháp cho các vấn đề kỹ thuật đã được trải nghiệm bởi những cơ sở chế biến gỗ xẻ. Những lợi ích tiềm năng của chương trình CARD nên mở rộng nhanh chóng. Những điều tra nghiên cứu ban đầu về cơ sở dữ liệu của các xưởng chế biến gỗ xẻ ở nông thôn đã rất hạn chế và không sẵn có bởi vì sự thay đổi đã xuất hiện từ 4 đến 5 năm trước. Có một cuộc điều tra khác đã và đang được thực hiện bởi GTZ nhưng sẽ chỉ tập trung cho công nghiệp chế biến gỗ rừng tự nhiên ở mức lớn hơn của Việt nam. Mục tiêu của nghiên cứu này là để cung cấp những thông tin thị trường chi tiết về những ngành công nghiệp sử dụng sản phẩm chủ yếu cuối cùng, như ngành công nghiệp xây dựng và đồ nội thất. Điều này nằm ngoài mục tiêu của dự án CARD nhưng thông tin sẽ rất có giá trị cho ngành chế biến gỗ xẻ quy mô nhỏ bởi vì nó cố gắng mở rộng thị trường của ngành công nghiệp này. Cố vấn trưởng dự án GTZ, ông Heiko Woerner đã được giới thiệu đầy đủ và ngắn gọn đề án của CARD nên đã rất ủng hộ cho sự triển khai thêm các hoạt động cho ngành công nghiệp này. Ông đã đồng ý chia xẻ thông tin giữa 2 dự án và là thành viên của Hội Đồng Tư vấn. 2.3. Cách tiếp cận và Phương pháp thực hiện Cách tiếp cận và chiến lược thực thi Mục tiêu của Dự án là nâng cao hiệu quả và lợi nhuận của các xưởng xẻ nhỏ ở nông thôn Việt Nam và sự đóng góp của nó cho phát triển của nông thôn và xoá đói, giảm nghèo. Với một phạm vi rộng, nhóm những người hưởng lợi và những người quan tâm sẽ được bàn bạc, tham khảo ý kiến trong hội thảo khởi động dự án. Trong hội thảo này, những người tham dự sẽ được cung cấp các thông tin về dự án và sẽ cùng tìm ra các thông tin đầu vào về các nhu cầu và những tồn tại của công nghiệp cưa xẻ gỗ, những thông tin này sẽ được sử dụng cho thiết kế chi tiết và thực hiện dự án. Cuộc họp này sẽ là bước đầu tiên trong việc phát triển mạng lưới điện tử cho những người hưởng lợi, nó có thể được cập nhật thường xuyên và được sử dụng để duy trì tiếp nhận các bình luận và khuyến cáo trong suốt tiến trình thực hiện dự án. Hội thảo này cũng sẽ đề cử một Ban tư vấn để giám sát toàn bộ tiến trình dự án và hoạt động như là một kênh tư vấn và góp ý trực tiếp cho dự án. Thách thức của dự án là việc chuyển giao các kỹ năng và kiến thức ở mức độ mang tính học thuật của Úc và Việt Nam thành các dạng phù hợp với các công nhân xẻ ở nông thôn Việt Nam. Điều này sẽ yêu cầu 3 cấp độ đào tạo, bao gồm đào tạo tại úc các kĩ năng đặc biệt về các kiến thức cơ bản cho các xưởng xẻ, đào tạo tại Việt Nam để nâng cao các kĩ năng dạy nghề cho các xưởng xẻ và tập huấn kĩ năng thực hành cho các thợ cưa thông qua hệ thống dạy nghề. Việc đào tạo ở Việt Nam sẽ được thực hiện thông qua Trung tâm đào tạo nghề ở miền Trung nhằm đảm bảo rằng dự án giữ nguyên mục tiêu của họ về đào tạo kĩ năng tay nghề và nâng cao kiến thức. 10
- Để hỗ trợ cho các hoạt động này, điều cần thiết là phải có thông tin đầy đủ về thực trạng và nhu cầu của các chủ xưởng cưa vùng nông thôn. Điều này sẽ đạt được thông qua việc khảo sát có hệ thống các xưởng cưa đại diện ở Việt Nam. Nó cũng sẽ cung cấp một dữ liệu cơ bản để đối chứng cho sự cải thiện nền công nghiệp chế biến gỗ có thể được đánh giá trong tương lai. Với các hoạt động này, nhóm dự án sẽ biết rõ hơn nhu cầu cho việc thay đổi công nghệ hơn với nhu cầu về sự thay đổi công nghệ cho công nghiệp cưa xẻ gỗ. Tiêu chí cho sự lựa chọn hoặc điều chỉnh cho phù hợp công nghệ mới sẽ được phát triển và việc thay thế công nghệ của nước ngoài hay của Việt Nam sẽ được xem xét định kỳ và chỉ được quyết định nếu nó phù hợp với loại hình thực tế ở Việt Nam. Đến giai đoạn cuối của dự án, các thành viện nhóm dự án sẽ nhận biết được khả năng tương lai của nền công nghiệp chế biến gỗ xẻ . Kinh nghiệm này sẽ được sử dụng để đưa ra những đề xuất cho Bộ NN & PTNT về phương hướng cho tương lai lâu dài của các xưởng xẻ vùng nông thôn và cho khuyến nghị cho các nhà lập chính sách đối với phát triển công nghiệp chế biến gỗ. Có một số thông tin về phát triển công nghiệp từ các hoạt động đã qua đã được hỗ trợ thêm cho Dự án CARD. Từ năm 2001. “Chương trình phát triển công nghiệp chế biến lâm sản ở Việt Nam đến năm 2010” đã được chính phủ đề ra nhưng hiện nay vẫn chưa được ban hành. Năm 2002, Dự án CARD 02/11 (Nhu cầu tương lai ngành công nghiệp chế biến lâm sản ở Việt Nam: Tăng cường năng lực chuyên môn và nâng cao nhận thức cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà khoa học) đã kết luận rằng: công nghiệp chế biến gỗ ở Việt Nam hiện đang trong tình trạng “Thiết bị cũ , công nghệ lạc hậu, năng suất thấp và giá thành sản xuất cao”’ nhưng không đề cập các khuyến cáo cụ thể về các xưởng xẻ. Tính rủi ro của dự án Những rủi ro có thể xảy ra với dự án sẽ được nêu ra cụ thể trong hội thảo khởi động dự án, và bất kỳ những rủi ro nghiêm trọng nào sẽ được làm sáng tỏ và làm rõ trong kế hoạch thực hiện dự án cùng với phương án dự phòng đối phó cho từng rủi ro. Ban tư vấn sẽ sẽ tìm giải pháp khắc phục khi cần thiết. Tính bền vững của dự án phụ thuộc rất nhiều vào sự cam kết của các đối tác dự án phía Việt Nam. Điều này có thể được củng cố thêm bởi sự thừa nhận của các tổ chức tham gia về nâng cao kĩ năng cho các nhân viên của họ thông qua việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, do vậy mà hiệu quả của dự án tiếp tục được duy trì. Những đánh giá tích cực về tác động của dự án đối với công nghiệp chế biến gỗ xẻ cũng sẽ có tác dụng thúc đẩy các thành viên tiếp tục áp dụng các kinh nghiệm, kĩ năng tích lỹ được trong quá trình thực hiện dự án. Một rủi ro nghiêm trọng có thể xảy ra với dự án này là việc mối liên kết giữa các Trường đại học của úc, Việt Nam với các cơ sở đào tạo nghề ở Việt Nam khó có thể duy trì lâu dài nhằm thực hiện việc chuyển giao có hiệu quả các kĩ năng và công nghệ. Mối liên kết này cần được quan tâm đặc biệt trong quá trình thực hiện dự án. Mọi nỗ lực sẽ được thực hiện nhằm lôi cuốn sự tham gia của các cán bộ dạy nghề trong từng bước thực hiện dự án, nhằm giúp họ nhận thức được họ chính là thành viên và là chủ dự án điều này sẽ tiếp tục duy trì khi dự án kết thúc. Phương pháp thực hiện Mục tiêu của dự án là cải thiện năng suất và hiệu quả của các xưởng xẻ quy mô nhỏ ở vùng nông thôn Việt nam, góp phần phát triển nông thôn miền núi và giảm nghèo. Dự 11
- án bắt đầu bằng hội thảo khởi động dự án với sự góp mặt của rất nhiều bên liên quan để thành lập ban tư vấn để xem xét, rà xoát, giám sát và đánh giá định kỳ quá trình vận hành dự án. Ban tư vấn gồm đại diện công nghiệp chế biến gỗ, người trồng rừng, các dự án liên quan, và cơ quan chính phủ liên quan. Hội thảo cũng đã thiết lập trách nhiệm của các bên liên quan tham gia dự án. Mục tiêu dự án Dự án có các mục tiêu: 1 Xác định các vấn đề/hạn chế của công nghiệp chế biến, xác định nhu cầu và cơ hội thông qua các khảo sát các xưởng cưa nhỏ vùng nông thôn Việt nam. 2 Thiết lập điều kiện cần thiết cho đào tạo và phát triển công nghệ. 3 Xây dựng chương trình đào tạo và cải thiện kỹ năng vận hành cho các tiểu giáo viên và cho người vận hành các xưởng xẻ. 4 Phát hiện, trình diễn và khuyến cáo các công nghệ thích hợp để cải thiện năng suất và hiệu quả vận hành các xưởng cưa. 5 Xây dựng chiến lược lâu dài cho phát triển công nghiệp chế biến. Để đạt được các mục tiêu đề ra: Một đợt khảo sát do nhóm chuyên gia Australia và Việt nam tiến hành tại một số tỉnh tiêu biểu, với sự hợp tác của các Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn của tỉnh. Khảo sát sử dụng phưong pháp đánh giá nhanh (PRA). Nhóm chuyên gia tới thăm các xưởng xẻ đơn lẻ và phỏng vấn các chủ xưởng về: lượng gỗ tròn mua về, lượng gỗ xẻ và cấp độ, giá cả, thị trường, máy móc thiết bị, lao động, các vấn đề hạn chế, thách thức, các nhu cầu và cơ hội phát triển của xưởng và của ngành. Đợt khảo sát cũng bao gồm người trồng rừng để đánh giá quan điểm của họ về thị trường, giá cả, và người sử dụng gỗ xẻ để xem xét đánh giá của họ về gỗ sau xẻ. Kết quả đang được phân tích và báo cáo với sự tham gia của các nhà kinh tế, và được sử dụng để định hướng cho đào tạo và điều chỉnh lại mục tiêu và phương pháp thực hiện dự án. Các điều kiện đặc biệt để phát triển chế biến gỗ được thiết lập tại Trường cao đẳng đào tạo nghề tại tỉnh Bình Định (hoặc có thể thay đổi theo tư vấn của ban tư vấn). Việc này rất hữ ích cho việc vận hành dự án vì đây tập trung rất nhiều các xưởng cưa nhỏ hộ gia đình. Cơ sở phát triển này sẽ là điểm để đào tạo, trình diễn các công nghệ mới. Nó lý tưởng để thiết lập mạng lưới để quảng bá thông tin giữa các đối tác của dự án và đào tạo công nghệ và kỹ năng. Tuy nhiên, việc trao đổi thông tin với các xưởng xẻ hiện nay vẫn chủ yếu dựa vào các văn bản, tài liệu. Dựa vào kết quả khảo sát, một chương trình đào tạo được xây dựng trong đó mô hình chương trình đào tạo của Đại học Melbourne được áp dụng với những điều chỉnh thích hợp với điều kiện Việt Nam. Một số chủ xưởng cưa sẽ được tham gia vào chương trình đào tạo. Chương trình cũng nên bao gồm các vấn đề cơ bản về quản lý, phương pháp xẻ, bảo dưỡng sửa chữa thiết bị, lắp đặt, căng và mài cưa, sấy và bảo quản, thị trường và an toàn lao động. Chương trình đào tạo sẽ thực hiện ở 2 mức độ, (a) chuẩn bị cho đào tạo tiểu giáo viên là cán bộ của Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam (FSIV), Trường đại học Lâm nghiệp, và các Trường dạy nghề của MARD, và các khuyến lâm viên huyện và tỉnh, những người sau đó sẽ chuyển tải kiến thức tới những người vận hành xưởng cưa, và (b) đào tạo cho các chủ xưởng cưa và công nhân vận hành. Chương trình cơ bản dựa vào chương trình đào tạo tại đại học Melbourne, 12
- Australia, sau đó được rà xoát và điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện Việt nam. Tất cả các khoá học sẽ được đánh giá bằng các phiếu đánh giá của các học viên, và cac chủ xưởng cưa và công nhân sẽ có khoảng thời gian dài hơn (sau 6 tháng) để đánh giá hiệu quả và lợi ích. Công nghệ xẻ do dự án nghiên cứu và đánh giá nếu có tiềm năng sẽ được thử nghiệm ở các xưởng xẻ. Các nhà sản xuất thiết bị sản xuất tại Việt Nam và nước ngoài sẽ được mời trình diễn sản phẩm (và giá cả) và các chủ xưởng cưa cũng tham gia việc đánh giá các sản phẩm này. Các chỉ số sẽ được xây dựng để đánh giá một cách hệ thống các sản phẩm này. Thiết bị sẽ được đánh giá về mặt phù hợp với điều kiện địa phương, dễ sử dụng, bảo dưỡng, chất lượng sản phẩm đảm bảo, hiệu quả, an toàn, và giá cả. Các nhà sản xuất Australia cũng được kỳ vọng sẽ tham gia. Tiềm năng về sự cải tiến các thiết bị cũ cũng được kiểm tra, xem xét cùng với các sự lựa chọn việc sử dụng gỗ như gỗ dán, lạng cũng được đề cập. Chiến lược lâu dài cho phát triển công nghiệp chế biến được nghiên cứu, xây dựng trong thời gian thực hiện dự án, và sẽ được đệ trình các khuyến nghị lên chính phủ thông qua Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Kết quả đầu ra của dự án sẽ gồm: • Kết quả khảo sát các xưởng cưa xẻ vùng nông thôn cung cấp những thông tin quan trọng về những hạn chế/rào cản của ngành cũng như các nhu cầu về đào tạo, cải tiến công nghệ và là cơ sở để giám sát sự thay đổi và mức độ cải thiện của các xưởng xẻ vùng nông thôn theo thời gian. Việc rà soát này cũng rất có giá trị cho các nhà hoạch định chính sách phát triển nông thôn. • Chương trình và tài liệu hướng dẫn đào tạo tiểu giáo viên, cho chủ xưởng và người vận hành cưa xẻ. Sau khi dự án kết thúc sẽ có một nhóm cán bộ đào tạo (tiểu giáo viên) kinh nghiệm và các nội dung đào tạo vận hành cưa xẻ sẽ được tổ chức và đánh gia. • Mạng lưới các nhóm liên quan sẽ tư vấn thiết lập dự án, xây dựng các chưong trình và tài liệu đào tạo và quảng bá các kết quả. • Một cuộc họp với các cơ quan của chính phủ được tổ chức để xem xét, khuyến nghị các chính sách cần thay đổi để xây dựng chiến lược phát triển ngành. Dự án được kỳ vọng làm tăng năng suất và hiệu quả của các xưởng cưa nhỏ vùng nông thôn và góp phần phát triển cộng đồng. Lợi ích của dự án sẽ ổn định bởi sự tham gia của các trung tâm đào tạo nghề và khuyến lâm, Đại học Lâm nghiệp và Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam tiếp tục chuyển giao kỹ năng và công nghệ mới tới các chủ xưởng cưa và công nhân các xưởng cưa nhỏ vùng nông thôn Việt Nam. Dự án hợp tác chặt chẽ với Trường cao đẳng nghề thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ở Quy Nhon, Binh Đinh. Bình Định có các trung tâm cưa xẻ rất phát triển, và sẽ là một trong những nơi hưởng lợi từ các hoạt động của dự án. Các điều kiện và chương trình đào tạo sẽ theo mô hình của Australia “Trung tâm chế biến gỗ công nghệ cao” và thực hiện đào tạo kết hợp chặt chẽ với các trung tâm đào tạo. 13
- 5. Quá trinh thực hiện dự án 5.1 Các điểm nổi bật đã thực hiện được 5.2 Lợi ích của các chủ xưởng 5.3 Đào tạo nguồn nhân lực 5.4 Các ấn phẩm 5.5 Quản lý dự án 6. Báo cáo về các tác động 6.1 Ảnh hưởng tới môi trường Các xưởng nhỏ ở Việt Nam có ảnh hưởng nhỏ tới môi trường do các phế thải được bán làm củi đun không ô nhiễm bằng than. Một số phế thải như mùn cưa có thể được giảm thiểu ảnh hưởng tới môi trường bằng cách làm thành các ván ép. Tiếng ồn có thể là vấn đề ảnh hưởng khi nó được đặt ở trong các khu làng nhỏ. Lắp đặt và bảo dưỡng tốt máy móc có thể giảm được tiếng ồn, và điều này sẽ được chi tiết hoá ở báo cáo rà soát công nghệ. Dự án sẽ hỗ trợ việc sử dụng rộng rãi gỗ xẻ, nguồn tài nguyên có thể tái tạo không gây ô nhiễm như vật dụng bằng kim loại và nilon. Dự án sẽ xem xét các ảnh hưởng độc hại của các xưởng xẻ tới môi trường, sau đó các khuyến nghị sẽ được chuyển tải tới các cơ quan hữu quan để xử lý. 6.2 Vấn đề xã hội và giới Quảng bá kết quả sẽ được thực hiện nhanh tróng thông qua các khoá đào tạo và mạng lưới điện tử. Mức độ quảng bá rộng hơn sẽ thông qua các cơ sở đào tạo của Bộ Nông nghiệp & PTNT và hệ thống khuyến lâm tại các tỉnh và huyện để cung cấp đầy đủ thông tin và chương trình đào tạo và sự trợ giúp về việc xây dựng chương trình đào tạo cho vùng. Các kết quả được quảng bá bao gồm kết quả của đợt khảo sát các xưởng cưa ở các vùng dự án, báo cáo đánh giá trình độ công nghệ, đánh giá của ban tư vấn, khuyến nghị về chính sách phát triển ngành trong tương lai và báo cáo kết thúc dự án, bằng tiếng Anh và tiếng Việt. Đối tượng hưởng lợi sẽ là người trồng rừng, các chủ xưởng xẻ và người vận hành, và gián tiếp là những người liên quan tới xưởng cưa như người làm nhiệm vụ vận chuyển, thợ cơ khí và các nhà kinh doanh. Cộng đồng sẽ được hưởng lợi là công nghiệp địa phương phát triển với kỹ năng tốt hơn, công cho người lao động cao hơn, và các ngành công nghiệp nối tiếp như nghề mộc và sản xuất đồ mộc sẽ được hưởng lợi rất lớn từ sự cung cấp ổn định gỗ xẻ chất lượng cao. Về lĩnh vực thể chế dự án sẽ đóng góp tích cực cho các trung tâm đào tạo nghề, trường đại học, hệ thống khuyến lâm, các trường kỹ thuật bằng cách giới thiệu các kỹ năng mới về chế biến gỗ và các phương pháp đào tạo. Phần đào tạo tiểu giáo viên có thể được tổ chức tại Trường cao đẳng nghề Quy Nhơn thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Phần đào tạo sau đó sẽ chủ yếu cho 14
- các chủ xưởng xẻ và công nhân vận hành của vùng. Chương trình đào tạo sẽ được kết hợp với thực hành, trình diễn công nghệ mới, và thảo luận nhóm. Nên xây dựng các ‘cụm’ chế biến như đã được thiết lập ở Bang Victoria, Australia, ở Châu Âu hoặc hội các xưởng cưa xẻ nông thôn, do có thể cung cấp các sản phẩm cùng chủng loại cho các mục tiêu thông dụng. Lợi ích của cụm chế biến là việc liên kết các chủ xưởng với những người xử dụng gỗ sau xẻ. Mối liên kết giữa các ngành này còn lỏng lẻo, chưa được phát triển. Khuyến nghị cho chính phủ về chiến lược phát triển công nghiệp chế biến sẽ được đệ trình Bộ bằng báo cáo về kết quả thực hiện dự án cùng với hiện trạng và tiềm năng ngành công nghiệp. Phụ nữ giữ vai trò quan quan trọng trong công nghiệp chế biến nhưng họ thường thiếu kỹ năng và kiến thức. Trong dự án này phụ nữ sẽ có cơ hội ngang với nam giới khi được lựa chọn đào tạo. 7. Thực hiện dự án và tính bền vững 7.1 Các vấn đề và rào cản 7.2 Các lựa chọn 7.3 Tính bền vững 8. Bước tiếp theo Các bước tiếp theo bao gồm: (1) Phân tích số liệu khảo sát (Hoàn thành 15/11/ 2007) (2) Ba chương trình đào tạo sẽ được thực hiện tháng 4 năm 2008, bao gồm: “Sản xuất gỗ cho đồ mộc và xuất khẩu” - (được xác định từ Hội thảo khởi động và kết quả của đợt khảo sát). Nơi tổ chức đào tạo có thể là Miền Bắc và một ở Miền Nam. Các thành viên tham gia sẽ bao gồm các cán bộ đã dự đào tạo tại Australia. Khoá đào tào thứ 3 là đào tạo tiểu giáo viên, xây dựng tài liệu giảng dạy kết hợp với trình diễn. Tất cả các tài liệu sẽ được dịch sang tiếng Việt. (3) Chương trình đào tạo các chủ xưởng cưa vùng nông thôn 9. Kết luận Hội thảo khởi động dự án có sự góp mặt của các bên liên quan quan tâm tới sự phát triển của chế biến gỗ vùng nông thôn. Hội thảo rất có giá trị với tất cả các thành viên tham gia, và đã thảo luận kế hoạch và các thông tin cần thiết để thực hiện đợt khảo sát thành công. Hội thảo cũng góp phần xây dựng bản câu hỏi rất tỷ mỷ và chi tiết, sẽ là cơ sở để xây dựng chiến lược phát triển ngành và cũng là cơ sở để các bên hưởng lợi có thể được đánh giá mức lợi ích thu được. Khoá đào tạo 6 tuần ở Australia rất thành công. Trong các ngày trong tuần, học viên tham gia các bài giảng, bài thực hành và thăm thực địa. Các hội thảo nhỏ được tổ chức để hiểu biết thêm về chương trình CARD, xác định các vấn đề, nhu cầu đào tạo 15
- cho công nghiệp cưa xẻ ở vùng nông thôn trong tương lai. Các ngày nghỉ học viên được tổ chức đi tham quan những di tích văn hoá và thắng cảnh đẹp của Australia, và cũng là cơ hội để các thành viên phía Australia và Việt Nam tăng cường và phát triển hợp tác và thảo luận các mục tiêu và dự án CARD đề ra. Các công việc tiếp theo là phân tích số liệu của đợt khảo sát. Công việc này sẽ được hoàn thành vào 15/11/2007, sau đó kế hoạch đào tạo sẽ được xây dựng ở Việt Nam. 16
- Tài liệu đính kèm Biên bản Hội thảo khởi động dự án HỘI THẢO KHỞI ĐẦU DỰ ÁN (Card project 027/06/VIE) TĂNG CƯỜNG KỸ NĂNG VÀ CẢI TIẾN CÔNG NGHỆ CHO CÁC XƯỞNG XẺ QUY MÔ NHỎ VÙNG NÔNG THÔNG VIỆT NAM --------------------------------------------- Địa điểm: Phòng Hội thảo, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội, Vietnam. Thời gian: Ngày 17/05/2007. Thời gian khai mạc Hội thảo: 8.30 sáng. Chủ toạ: Ông Đoàn Văn Thu (Phó Viện trưởng Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, Giám đốc dự án phía Việt Nam). Thư ký: TS. Phạm Đức Chiến, (Phó trưởng Phòng Kế hoạch Khoa học, Phụ trách Hợp tác Quốc tế, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam; Điều phối viên Dự án) Khai mạc Hội thảo Ông Đoàn Văn Thu (Phó Viện Trưởng, Giám đốc dự án phía Việt Nam) khai mạc Hội thảo khởi đầu dự án. Ông Thu tóm tắt trình bày lý do, mục tiêu của dự án và của Hội thảo, chương trình làm việc của Hội thảo và chào mừng tất cả các đại biểu đã tới tham dự. Ông Philip Blackwell (Đại học Melbourne) và cộng sự trình bày báo cáo: • Một số hoạt động của các xưởng xẻ và chế biến gỗ ở Australia; • Mục tiêu của dự án và phương pháp thực hiện; • Dự thảo cách thức thực hiện dự án: tiến hành khảo điều tra, khảo sát, đào tạo, thảo luận chiến lược phát triển dài hạn các xưởng xẻ, viết các báo cáo thường kỳ và báo cáo tổng kết. Ông Nguyễn Quang Trung (Phụ trách Trung tâm nghiên cứu Công nghiệp rừng, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam) và cộng sự trình bày báo cáo: “Tổng quan công nghiệp chế biến gỗ ở Việt Nam” (power point). - Sau bài trình bày, ôngTrung nói chi tiết hơn về sự cần thiết tiến hành dự án. VN hiện tại có rất nhiều các xưởng xẻ quy mô nhỏ, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, nhưng phần lớn các xưởng này sử dụng máy móc, công nghệ lạc hậu, sản xuất không hiệu quả, và không an toàn… Phần lớn công nhân đứng máy không được đào tạo hoặc không được đào tạo tốt. Mặc dù vậy, các xưởng xẻ này rất quan trọng trọng công 17
- nghiệp chế biến gỗ ở các địa phương và góp phần không nhỏ vào cải thiện điều kiện sống cho người dân địa phương. Ông Trung cũng nói thêm về mục tiêu và nội dung của dự án. Ông Trung cũng đề nghị các đại biểu góp ý kiến bổ sung, xây dựng kế hoạch, phương pháp để thực hiện dự án, tiến hành điều tra, khảo sát và đào tạo. Kế hoạch điều tra, khảo sát và thảo luận TS. John Fryer (Tình nguyện viên của Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam) và cộng sự trình bày một số phương án thực hiện điều tra, khảo sát (by power point), và đề nghị các đại biểu đóng góp ý kiến. - Theo ông, công tác điều tra, khảo sát có thể tiến hành ở 4 tỉnh: Bình Định, Phú Thọ, Đồng Nai và nếu có thể thì thêm Quảng Trị. Đây đều là những nơi tập trung công nghiệp chế biến của đất nước, đặc biệt là các xưởng chế biến nhỏ. Cán bộ dự án nên liên hệ với các ban ngành, cơ quan của địa phương để thực hiện đợt khảo. Ví dụ, Sở Công nghiệp Bình Đình, Trường Cao đẳng nghề Cơ điện, Xây dựng, Nông, Lâm nghiệp Trung Bộ có thể hợp tác trong công tác điều tra, khảo sát. Cũng rất quan trọng nếu có một thông tin về hệ thống xưởng cưa nhỏ và hiện trạng ở các tỉnh khác. - Ông John cũng nêu rat câu hỏi là cần khảo sat bao nhiêu xưởng xẻ là thích hợp. Theo ông thì cuộc khảo sát nên tiến hành từ 3-4 xưởng xẻ ở một khu vực, và khoảng 90-120 xưởng cưa cho toàn bộ cuộc khảo sát. Cũng nên chọn một số khu vực điển hình để điều tra. Về lĩnh vực này nên tham khảo các sở Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, Sở Công nghiệp, các trường… để có những thông tin phù hợp. John và nhóm đưa ra bảng câu hỏi cho đợt điều tra và đề nghị mọi người đóng góp ý kiến (Power point). Philip Blackwell gợi ý là cần có thêm các thông tin về thiết bị máy móc, nguồn gỗ, hiện trạng công nhân, hiện trạng và xu thế phát triển của xưởng cũng nên đưa vào bảng câu hỏi. TS. Nguyễn Phan Thiết (Giáo viên Đại học Lâm nghiệp Việt Nam) Nên nhấn mạnh hơn về mục tiêu của cuộc khảo sát. Tiêu chí lựa chọn các xưởng xẻ, tiêu chí cho bảng câu hỏi và khu vực nên tiến hành điều tra. TS. John Fryer (trả lời): - Đợt khảo sát rất quan trọng vì dựa vào kết quả khảo sát chúng ta có thể xây dựng kế hoạch đào tạo phù hợp, điều chỉnh và cải thiện các phương pháp thực hiện dự án. - Chúng ta cần phải hiểu được hiện trạng các xưởng xẻ như thế nào thì mới biết được họ đang thiếu nhất những gì, và tìm ra cách đào tạo để mang lại hiệu quả nhất. - Mặt khác, VN cũng cần có các thông tin về chế biến gỗ, đặc biệt là các xưởng xẻ quy mô nhỏ vùng nông thôn. Mặc dù rất nhiều người biết nhưng câu trả lời chính xác về tầm quan trọng của các xưởng xẻ đối với đời sống người dân và sự đóng góp của nó đối với nền kinh tế quốc dân vẫn con chưa rõ ràng. - Một số thông tin thu thập được từ dự án GTZ là rất quan trọng và có thể được gửi tới các nhà làm luật ở cả trung ương và địa phương. TS. Lê Thanh Chiến (Trưởng Phòng nghiên cứu chế biến gỗ, FSIV). - Thiếu các thông tin về đánh giá tính hiệu quả của công nghệ, đặc tính của nguyên liệu (nên chú ý rằng gỗ ở VN khác rất nhiều so với ở Australia và Châu Âu). - Cần thêm các thông tin như đặc tính của nguyên liệu, tỷ lệ sử dụng của gỗ thành phẩm, chất lượng gỗ xẻ, công nghệ và thiết bị đang sử dụng. Cũng rất quan trọng nếu 18
- chúng ta có thể tìm hiểu thêm một số thông tin về trước và sau xẻ như nguồn gỗ, thời gian lưu bãi, các xử lý sau xẻ như sấy, bảo quản... - Các tỉnh chọn để khảo sát nên là những khu vực có nhiều rừng trồng các loài keo và bạch đàn và cũng tập trung nhiều các xưởng xẻ quy mô nhỏ như mục tiêu đề ra trong dự án. Đơt khảo sát cũng nên tìm hiểu thông tin ở một số xưởng xẻ quy mô lớn hơn (nhỏ hơn 30%) để có bức tranh tổng thể về các xưởng cưa xẻ Việt Nam. - Không cần thiết phải có rất nhiều các mẫu nhưng các mẫu nên điển hình cho các vùng. Thông tin ban đầu có thể thu thập ở các sở của tỉnh như Sở NN & PTNT, Sở Công nghiệp, Sở Khoa học công nghệ… Ông Nguyễn Quang Trung: - Khảo sát nên bao gồm các thông tin về các loại thiết bị, máy móc mà xưởng xẻ sử dụng, nhưng không cần chú trọng tới các hoạt động trước và sau sẻ, nếu có thì chỉ cần những thông tin chung. - Như tiêu đề và mục tiêu rất rõ ràng, dự án chỉ tập trung vào các xưởng xẻ quy mô nhỏ vùng nông thôn nên đề nghị các đại biểu cho ý kiến phát biểu trọng tâm vào vấn đề. Ông Nguyễn Hồng Việt (Dự án GTZ): - GTZ đã thực hiện dự án ở 4 tỉnh ở VN. Do mỗi tỉnh có các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khác nhau nên các xưởng xẻ ở các tỉnh cung có thể khác nhau. Do vậy, nếu có thể thì điều chỉnh bảng câu hỏi cho thích hợp với mỗi vùng. Trong trường hợp một bảng câu hỏi chung mà có thể áp dụng được cho các vùng thì là tốt nhất, vì sẽ tiện so sánh hơn. - Dự thảo bảng câu hỏi (do nhóm dự án thực hiện) nên chú ý hơn tới nguồn nhân lực, đầu vào, đầu ra của các xưởng xẻ… Cũng rất quan trọng nếu có thêm thông tin về tiêu chuẩn của các loại gỗ (Hiện tại các loại gỗ được phân loại không còn phù hợp nhiều với bảng phân loại đang dùng). - GTZ cũng đã có một số hoạt động để phân loại lại một số loài gỗ, tuy nhiên mới chỉ hạn chế ở một số loài. TS. Nguyễn Phan Thiết - Mục tiêu của dự án rất rõ ràng và dự án được thực hiện là rất có ý nghĩa đối với các xưởng xẻ và người dân địa phương vùng nông thôn. - Ông Thiết đề nghị nên khảo sát các xưởng xẻ ở Phú Thọ và Hà Tây (Miền Bắc) vì cả hai tỉnh đều có rất nhiều rừng trồng và các xưởng chế biến. Ở Miền Trung thì nên khảo sát Bình Định và ở Miền Nam thì nên khảo sát ở Đồng Nai, và nếu có thể thì cả Bình Phước. Tuy nhiên, ban thực hiện dự án cần xem xét, quyết định cho phù hợp với tình hình và kinh phí thực hiện. - Thông tin có thể được thu thập tại các chi cục thuế hoặc các Phòng thống kê của các tỉnh. - Đợt khảo sát nên tập trung vào các xưởng xẻ, nhưng cũng nên có thông tin ở một số xưởng lớn để có thể so sánh. - Khảo sát nên tập trung và thu thập các thông tin theo nhóm như: Tên, đầu vào, đầu ra, công nghệ, thiết bị, máy móc, mức độ an toàn, nguồn lao động, tính hiệu quả của sản xuất, thị trường… - Trong đề xuất bản câu hỏi vẫn còn thiếu khả năng sử dụng và sửa chữa thiết bị, máy móc, nên bổ sung vào bản câu hỏi. Cuối cùng, ông Thiết đề nghị là do dự án nhỏ, nên không thể giải quyết được tất cả các vấn đề mà nên tập trung vào một số vấn đề chính, như mục tiêu đã đề ra. 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Dự án nghiên cứu: Ứng dụng nông nghiệp tốt (GAP) để nâng cao chất lượng hạt giống và cây giống rau cho ngành sản xuất rau lai của Việt Nam - MS10 '
18 p | 141 | 24
-
Dự án nghiên cứu nông nghiệp: Xây dựng chiến lược nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn trong chuỗi giá trị nông nghiệp: trường hợp ngành thức ăn chăn nuôi - MS10 '
14 p | 111 | 21
-
Dự án nghiên cứu nông nghiệp: Xây dựng chiến lược nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn trong chuỗi giá trị nông nghiệp: trường hợp ngành thức ăn chăn nuôi '
94 p | 110 | 20
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Tăng cường năng lực giám sát và khống chế bệnh Lở mồm long móng trên gia súc và heo góp phần tăng cường an toàn sinh học cho quốc gia "
42 p | 83 | 15
-
Dự án nghiên cứu nông nghiệp: TĂNG CƯỜNG KỸ NĂNG VÀ CẢI TIẾN CÔNG NGHỆ CHO CÁC XƯỞNG XẺ QUY MÔ NHỎ Ở VÙNG NÔNG THÔN VIỆT NAM ' MS6
9 p | 121 | 15
-
Dự án nghiên cứu nông nghiệp: TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG GIÁM SÁT VÀ KHỐNG CHẾ BỆNH LỞ MỒM LONG MÓNG (LMLM) Ở TRÂU , BÒ VÀ HEO GÓP PHẦN NÂNG CAO AN TOÀN SINH HỌC CHO QUỐC GIA - Milestones 6&9'
38 p | 88 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Dược học: Nghiên cứu bào chế và đánh giá tác dụng tăng cường miễn dịch của cao khô lá đu đủ rừng (Trevesia palmata (Roxb. ex Lindl.) Vis., họ Nhân sâm Araliaceae)
262 p | 80 | 14
-
Dự án nghiên cứu nông nghiệp: Ứng dụng nông nghiệp tốt (GAP) để nâng cao chất lượng hạt giống và cây giống rau cho ngành sản xuất rau lai của Việt Nam ' MS6
16 p | 110 | 13
-
Dự án nghiên cứu: TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG GIÁM SÁT VÀ KHỐNG CHẾ BỆNH LỞ MỒM LONG MÓNG (LMLM) Ở TRÂU , BÒ VÀ HEO GÓP PHẦN NÂNG CAO AN TOÀN SINH HỌC CHO QUỐC GIA - Milestones 3&7 '
33 p | 73 | 13
-
Báo cáo nghiên cứu: Tăng cường năng lực về công nghệ hạt giống cây rừng phục vụ các hoạt động nghiên cứu, phát triển và bảo tồn ngoại vi - MS10'
22 p | 69 | 10
-
Dự án nghiên cứu: Tăng cường năng lực về công nghệ hạt giống cây rừng phục vụ các hoạt động nghiên cứu - phát triển và bảo tồn ngoại vi - MS4 '
12 p | 82 | 9
-
Dự án nghiên cứu: Ứng dụng nông nghiệp tốt (GAP) để nâng cao chất lượng hạt giống và cây giống rau cho ngành sản xuất rau lai của Việt Nam ' MS5
11 p | 112 | 9
-
Báo cáo nghiên cứu: Tăng cường năng lực giám sát và khống chế bệnh lở mồm long móng (LMLM) trên trâu bò và heo để góp phần tăng cường an toàn sinh học cho quốc gia - Milestone 10 '
13 p | 115 | 9
-
Báo cáo nghiên cứu dự án: Sustainable community-based forest development and management in some high-poverty areas in Bắc Kạn Province ( ATTACHMENT 10 )
26 p | 75 | 8
-
Dự án nghiên cứu: Tăng cường năng lực của cán bộ khuyến nông trong việc đánh giá những mặt hạn chế của đất để sản xuất bền vững qua việc sử dụng hệ thống các quyết định hỗ trợ SCAMP - MS4 '
7 p | 82 | 7
-
Dự án nghiên cứu nông nghiệp: Tăng cường năng lực của cán bộ khuyến nông trong việc đánh giá những mặt hạn chế của đất để sản xuất bền vững qua việc sử dụng hệ thống các quyết định hỗ trợ SCAMP '
8 p | 60 | 4
-
Dự án nghiên cứu:Tăng cường năng lực về công nghệ hạt giống cây rừng phục vụ các hoạt động nghiên cứu và phát triển và bảo tồn ex-situ '
16 p | 72 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn