HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ MINH HUỆ
GIA ĐÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
HÀ NỘI - 2019
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ MINH HUỆ
GIA ĐÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62 22 03 08
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS,TS Bùi Thị Ngọc Lan
2. TS Nguyễn Thị Hà
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Minh Huệ
MỤC LỤC
Trang
1
7
MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Các công trình nghiên cứu về gia đình, vai trò của gia đình, gia đình vùng
đồng bằng sông Hồng
7
1.2. Các công trình nghiên cứu về nông thôn, xây dựng nông thôn mới và xây
dựng nông thôn mới vùng đồng bằng sông Hồng
14
1.3. Những giá trị tham khảo từ các công trình có liên quan và những nội dung
luận án cần tập trung nghiên cứu
23
27
CHƯƠNG 2: GIA ĐÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG 2.1. Một số vấn đề lý luận về xây dựng nông thôn mới và về vai trò của gia đình
trong xây dựng nông thôn mới
27
2.2. Những yếu tố tác động đến vai trò của gia đình vùng đồng bằng sông Hồng
trong xây dựng nông thôn mới
48
64
CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 3.1. Thực trạng thực hiện vai trò của gia đình vùng đồng bằng sông Hồng
trong xây dựng nông thôn mới hiện nay và nguyên nhân
64
3.2. Những vấn đề đặt ra trong thực hiện vai trò của gia đình vùng đồng bằng
sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới hiện nay
104
113
CHƯƠNG 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY 4.1. Quan điểm cơ bản nhằm phát huy vai trò của gia đình vùng đồng bằng
sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới hiện nay
113
4.2. Giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của gia đình vùng đồng bằng
sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới hiện nay
118 146 149
KẾT LUẬN MỘT SỐ KIẾN NGHỊ DANH MỤC BÀI VIẾT ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
151 152 165
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH
: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ĐBSH
: Đồng bằng sông Hồng
NTM
: Nông thôn mới
NXB
: Nhà xuất bản
UBND
: Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1. Cơ cấu hộ gia đình phân theo nguồn thu nhập chính vùng đồng
bằng sông Hồng 73
Bảng 3.2. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh
tế đã qua đào tạo phân theo địa phương 77
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu nghề nghiệp chính của hộ gia đình vùng đồng bằng
sông Hồng 53
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ gia đình vùng đồng bằng sông Hồng đóng góp xây dựng
hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện 65
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ gia đình vùng đồng bằng sông Hồng đóng góp xây dựng
hạ tầng văn hóa, giáo dục đào tạo, chợ, thông tin truyền
thông, y tế, trụ sở, nhà ở cư dân 67
Biểu đồ 3.3. Cơ cấu hộ vùng đồng bằng sông Hồng qua 3 kỳ Tổng điều tra 71
Biểu đồ 3.4. Thu nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình từ 2005 -
2010 và từ 2010 đến nay 73
Biểu đồ 3.5. Thể hiện tổng hợp ý kiến của gia đình vùng đồng bằng sông
Hồng đánh giá về vai trò của gia đình trong giáo dục con cái
theo các nội dung 81
Biểu đồ 3.6. Tổng hợp ý kiến của gia đình vùng đồng bằng sông Hồng đánh
giá chủ thể tham gia vào xây dựng nông thôn mới 87
Biều đồ 3.7. Tỷ lệ đánh giá mức độ gia đình tham gia góp ý, xây dựng kế
hoạch, chương trình, quy định,... của địa phương 89
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Gia đình là hạt nhân của xã hội, là nơi sản sinh nuôi dưỡng con người, vì
vậy, gia đình có vị trí, vai trò quan trọng không chỉ đối với sự phát triển của mỗi
cá nhân mà cả đối với xã hội được thể hiện trong việc thực hiện các chức năng
kinh tế, xã hội, giữ gìn và chuyển giao các giá trị văn hóa truyền thống của dân
tộc. Ở giai đoạn nào, gia đình cũng là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Gia
đình là gốc của nước, vì vậy sự phát triển của gia đình sẽ tác động trực tiếp tới sự
phát triển bền vững của đất nước.
Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của gia đình, Đảng và Nhà nước ta
đã ban hành nhiều văn bản khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng của gia đình
đối với sự phát triển của đất nước. Văn kiện Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã chỉ rõ: “Gia đình là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và
hình thành nhân cách” [31, tr.76-77]; đến Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh
“Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy giá trị truyền thống
tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh” [33, tr.128].
Quán triệt quan điểm trên, thực hiện vai trò của gia đình được trong bối
cảnh đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông
nghiệp, nông thôn càng trở nên cấp thiết, biểu hiện nổi bật là trong triển khai
“Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới”. Xây dựng nông
thôn mới (NTM) là chương trình lớn của quốc gia góp phần hiện thực hóa mục
tiêu phấn đấu tới năm 2030 Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu trước mắt và lâu dài nêu trên, cùng
với các nhân tố đóng góp vào thành công của Chương trình thì gia đình có vai trò
rất quan trọng, trực tiếp góp phần vào tiến độ, chất lượng chương trình xây dựng
NTM hiện nay.
Gia đình vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) có thể nói là mô hình kiểu
mẫu của gia đình nông thôn Việt Nam. Do vậy, nghiên cứu vai trò của gia đình
2
nông thôn trong xây dựng nông thôn mới Việt Nam, không thể không nghiên cứu
vai trò của gia đình vùng ĐBSH. Là một trong những vùng trọng điểm, đi đầu
trong phong trào xây dựng NTM ở miền Bắc nước ta, ngay sau khi phong trào
xây dựng NTM được phát động, vùng ĐBSH được triển khai một cách mạnh mẽ,
quyết liệt và đạt được nhiều kết quả, đã khơi dậy tiềm năng to lớn trong gia đình
nông thôn vùng ĐBSH, gia đình đã và đang góp sức người, sức của để nỗ lực
thực hiện thắng lợi chương trình xây dựng NTM của địa phương.
Tuy nhiên, việc thực hiện vai trò của gia đình trong xây dựng NTM
vùng ĐBSH hiện còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng, bất cập từ nhiều góc độ.
Bản thân gia đình cũng chịu nhiều tác động như quá trình CNH, HĐH; đô thị
hóa; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khiến cho nó cũng biến
đổi theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực. Đặc biệt, trong việc thực hiện
các chức năng của gia đình khi tham gia vào các hoạt động chung của xã hội,
trong đó có Chương trình xây dựng NTM. Mặt khác, cũng cần thấy rằng việc
thực hiện xây dựng NTM còn mang tính phong trào, hình thức, chạy theo
thành tích nên cũng có tình trạng huy động quá sức sự đóng góp của gia đình
vùng ĐBSH; NTM được xây dựng chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của
gia đình vùng ĐBSH, chưa lấy mục tiêu nâng cao đời sống cho gia đình nông
thôn làm cốt lõi để thực hiện. Những hạn chế này thực sự trở thành rào cản
làm cho chủ thể gia đình vùng ĐBSH chưa được phát huy tối đa và hiệu quả
trong xây dựng NTM.
Từ thực tiễn cấp thiết đó đặt ra yêu cầu nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn nhằm đưa ra giải pháp khắc phục những mâu thuẫn cản trở quá trình gia
đình vùng ĐBSH thực hiện vai trò trong xây dựng NTM, tạo sự cân bằng và
phát triển bền vững của nông nghiệp, nông thôn của vùng nói riêng và của Việt
Nam nói chung. Đề tài “Gia đình vùng đồng bằng sông Hồng trong xây dựng
nông thôn mới hiện nay” mà nghiên cứu sinh lựa chọn góp phần đáp ứng yêu
cầu đặt ra về phát huy vai trò gia đình trong phát triển nông nghiệp, nông dân,
nông thôn.
3
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về gia đình và vai trò gia
đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM, từ đó luận án đề xuất những quan điểm, giải
pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ
chủ yếu sau:
- Đánh giá tổng quan các công trình nghiên cứu về gia đình, xây dựng
NTM và vai trò của gia đình trong xây dựng NTM.
- Luận giải những vấn đề lý luận chung về nông thôn, xây dựng nông
thôn mới; gia đình và vai trò của gia đình trong xây dựng NTM; làm rõ những
yếu tố tác động đến gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM hiện nay.
- Làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện vai trò
của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của gia
đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là gia đình vùng ĐBSH cụ thể là
gia đình sinh sống ở nông thôn vùng ĐBSH và vai trò của họ trong xây dựng
NTM hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung nghiên cứu:
Luận án tập trung làm rõ vai trò của gia đình thể hiện trong một số nội
dung cơ bản sau: Vai trò của gia đình: 1) trong phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội;
2) trong phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất; 3) trong giữ gìn, bảo lưu, phát
triển các giá trị văn hóa, phát triển giáo dục, đào tạo; 4) bảo vệ môi trường; 5)
4
trong thực hiện quá trình dân chủ hóa nông thôn góp phần xây dựng hệ thống
chính trị; 6) thực hiện bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình và trong
đảm bảo an ninh nông thôn.
- Về địa bàn nghiên cứu:
Vùng đồng bằng sông Hồng gồm 11 tỉnh, thành phố nhưng để đáp ứng
yêu cầu đối tượng nghiên cứu, luận án đi sâu khảo sát tại một số tỉnh/ thành
phố như:
(1) Thành phố Hà Nội (gồm huyện Đan Phượng, huyện Chương Mỹ)
(2) Tỉnh Vĩnh Phúc
(3) Tỉnh Quảng Ninh
(4) Tỉnh Hải Dương
(5) Tỉnh Nam Định
(6) Tỉnh Thái Bình
Luận án lựa chọn các địa bàn trên để khảo sát phục vụ cho các nội dung
của đề tài vì: Thành phố Hà Nội là trung tâm vùng ĐBSH, trong đó hai huyện
Đan Phượng và huyện Chương Mỹ là hai huyện điển hình trong quá trình xây
dựng NTM; Tỉnh Vĩnh Phúc nằm phía Tây Bắc ĐBSH; Tỉnh Quảng Ninh ở
phía Đông vùng ĐBSH với địa bàn đa dạng về đồng bằng, miền núi, ven đô và
hải đảo; Tỉnh Hải Dương, tỉnh Nam Định và Thái Bình nằm phía nam vùng
ĐBSH, với địa bàn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, trong đó tỉnh Thái Bình
được Trung ương giao nhiệm vụ đảm bảo an ninh lương thực cho toàn vùng.
- Về thời gian khảo sát: Từ 2010 đến nay (khi có Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ về triển khai thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và những quan điểm của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước Việt Nam về gia đình và xây dựng NTM.
5
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với các phương pháp cụ thể để giải
quyết mục tiêu và nhiệm vụ đề ra như:
- Phương pháp lôgic - lịch sử; tổng kết thực tiễn chính trị - xã hội;
phương pháp thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp (thu thập tư liệu, tài liệu,
các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, báo cáo, thống kê của các cơ quan
chức năng có thẩm quyền,...) các vấn đề liên quan đến vai trò gia đình, xây
dựng NTM.
- Phương pháp điều tra khảo sát xã hội học bao gồm: Định lượng thông
qua 300 phiếu hỏi các chủ hộ đại diện cho gia đình của 6 tỉnh (Vĩnh Phúc,
Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Hà Nội, Hải Dương), mỗi tỉnh phát 50
phiếu điều tra; và định tính thông qua phỏng vấn sâu (một số cán bộ và người
dân) tại một số địa bàn nghiên cứu.
5. Đóng góp mới của Luận án
- Làm rõ lý luận về mối quan hệ giữa vai trò của gia đình với một số tiêu
chí xây dựng NTM gắn trực tiếp đến gia đình.
- Phân tích, luận giải, tổng kết, đánh giá thực trạng thực hiện vai trò của
gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM.
- Từ đó đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm tiếp tục phát huy
vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM giai đoạn tiếp theo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của Luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiễn về vai trò của gia đình và vai trò của gia đình vùng ĐBSH
trong xây dựng NTM.
- Luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học để các cơ quan chức năng
có thể tham khảo khi hoạch định chính sách giải quyết những vấn đề cụ thể về
xây dựng gia đình và xây dựng NTM ở ĐBSH, tạo chính sách để phát huy vai
trò của gia đình trong xây dựng NTM.
6
- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu giảng dạy các môn lý luận chính trị, nhất là môn Chủ nghĩa xã hội khoa
học tại các trường trung cấp, cao đẳng, đại học; giảng dạy những chuyên đề
liên quan đến vấn đề gia đình và phát huy vai trò của gia đình, vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn và xây dựng NTM
- Các giải pháp mà luận án đề xuất vận dụng vào thực tiễn góp phần phát
huy vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM trong giai đoạn tới.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu của tác
giả liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
gồm 4 chương, 9 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ GIA ĐÌNH, VAI TRÒ CỦA GIA
ĐÌNH, GIA ĐÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về gia đình, vai trò của gia đình
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu về gia đình, vai trò của gia đình ở
trong nước
Gia đình được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, phân tích và tiếp cận ở
nhiều góc độ khoa học khác nhau: như góc độ kinh tế, văn hóa, xã hội học, lịch
sử, triết học,...; gia đình, xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa cũng là một
đề tài dành được sự quan tâm nghiên cứu của Chủ nghĩa xã hội khoa học. Các
công trình nghiên cứu đưa ra khái niệm gia đình, vai trò, chức năng của gia đình
và sự biến đổi của cơ cấu gia đình trong xã hội hiện đại.
Các công trình cùng hướng nghiên cứu về khái niệm gia đình, vai trò,
chức năng của gia đình như:
- Tác giả Thanh Lê, Xã hội học gia đình [56] đã nghiên cứu quá trình hình
thành và phát triển của gia đình và hoạt động của gia đình trong xã hội cụ thể,
như mối quan hệ giữa gia đình và xã hội, các mối quan hệ trong gia đình, chức
năng gia đình, quy mô gia đình,... Tác giả đưa ra khái niệm “gia đình là một
nhóm gồm những người gắn bó với nhau bằng quan hệ vợ chồng và cha mẹ
(huyết thống)” [56, tr.26].
- Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý với cuốn “Gia đình học” [48], cuốn sách
sắp xếp dưới dạng một giáo trình, đây là công trình nghiên cứu công phu, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn. Các tác giả đã làm rõ khái niệm gia đình, vị trí, vai trò
và chức năng của gia đình, những thay đổi của gia đình Việt Nam trước những
thách thức của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; vấn đề về giới, gia đình và phát
triển cũng như chỉ ra những sai lệch giá trị gia đình hiện nay. Từ đó đưa ra giải
pháp để nâng cao vai trò của gia đình trong công cuộc CNH, HĐH đất nước.
8
Cuốn sách được các tác giả phân tích, đánh giá nhiều khía cạnh của gia
đình, trong đó nêu khái niệm gia đình như sau:
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù liên kết con người lại với nhau
nhằm thực hiện việc duy trì nòi giống, chăm sóc và giáo dục con cái.
Các mối quan hệ gia đình còn được gọi là mối quan hệ họ hàng. Đó là
những sự liên kết ít nhất cũng là của hai người dựa trên cơ sở huyết
thống, hôn nhân và việc nhận con nuôi. Những người này có thể sống
cùng hoặc khác mái nhà với nhau [48, tr.54].
Ngoài ra, tác giả còn phân tích gia đình với tư cách là một nhóm xã hội
đặc thù, gia đình là một thực thể pháp nhân,...Tác giả đã làm rõ vị trí, vai trò và
chức năng của gia đình. Đây là tài liệu lý luận mà luận án có thể tham khảo để
làm rõ vai trò của gia đình trong xây dựng NTM.
- Tác giả Mai Huy Bích tiếp cận gia đình dưới góc độ xã hội học, Xã hội
học gia đình khi bàn về định nghĩa gia đình, ông có nhận định, không có định
nghĩa phổ biến về gia đình do gia đình hết sức đa dạng theo thời gian và không
gian [23].
Tác giả tiếp cận và viết về gia đình theo một cách riêng của xã hội học,
phản ánh sự đa dạng các hình thái gia đình, hôn nhân và gia đình theo quan điểm
giới, biến đổi gia đình và các cách tiếp cận lý thuyết về gia đình.
Ngoài ra một số công trình nghiên cứu khác cũng làm rõ vai trò của gia
đình trong giáo dục phẩm chất của các thành viên, như: Tác giả Lê Thi với bài
“Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam” [96].
Luận án “Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện
nay”của Nghiêm Sỹ Liêm [60], v.v..
Bên cạnh đó, còn có các công trình nghiên cứu về biến đổi của gia đình
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hiện nay, gia đình chịu tác động
của quá trình CNH, HĐH, đô thị hóa, nền kinh tế thị trường nên cũng có những
biến đổi trong bối cảnh mới- đây cũng là một khía cạnh được các tác giả nghiên
cứu. Tác giả Lê Thi, “Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới” [97].
9
Cuốn sách cung cấp cho người đọc những tài liệu tham khảo về tình hình gia
đình Việt Nam, mối quan hệ giữa các thành viên trong bối cảnh đổi mới của đất
nước. Đây là công trình nghiên cứu có giá trị và tiếp cận chủ yếu dưới góc độ về
giới và gia đình văn hóa. Tác giả Trịnh Duy Luân, Helle Rydstrom và Wil
Burghoorn với bài “Gia đình nông thôn Việt Nam trong chuyển đổi” [58], đã chỉ
ra ở Việt Nam hiện nay 70 - 80% dân số sống ở nông thôn trong các gia đình mở
rộng và gia đình hạt nhân. Trong công trình này, phân tích những biến đổi của
gia đình nông thôn Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH, biểu hiện sự di cư của
thanh niên nông thôn đi tìm việc làm ở thành thị, vai trò giáo dục của cha mẹ với
con cái, điều kiện kinh tế của hộ gia đình cũng ảnh hưởng đến chức năng giáo
dục của gia đình; tác động đến tuổi kết hôn, cách chọn “bạn đời”, tình dục trong
hôn nhân và quan hệ quyền lực giữa vợ và chồng trong gia đình nông thôn. Như
vậy, các nghiên cứu này cho thấy quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
cũng tác động đến cấu trúc gia đình nông thôn ở Việt Nam hiện nay.
Cùng hướng tiếp cận biến đổi gia đình trong quá trình CNH, HĐH dưới
góc độ xã hội học, có các cuốn sách của các tác giả: Lê Ngọc Văn với công
trình“Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam” [129], Nguyễn Hữu Minh với
cuốn sách“Gia đình Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập từ cách tiếp cận so sánh” [69] và bài viết“Gia đình Việt Nam sau 30
năm đổi mới” [70]. Các công trình này nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò của
gia đình trong quá trình CNH, HĐH đất nước, sự biến đổi nhanh chóng cơ cấu,
chức năng của gia đình Việt Nam từ việc giảm quy mô gia đình, tăng tỷ lệ gia
đình hạt nhân, giảm tỷ số phụ thuộc trong gia đình, cho đến những thay đổi về
chức năng của gia đình. Cùng với đó là sự biến đổi về nghề nghiệp, chức năng
xã hội hóa của gia đình, cha mẹ ít quan tâm đến giáo dục con cái. Các tác giả đã
cung cấp những thông tin phong phú về biến đổi của giá trị, quy mô, kinh tế hộ
gia đình.
Ngoài ra, cũng có nhiều công trình nghiên cứu về quan điểm, giải pháp
xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay. Từ sự biến đổi của gia đình trong quá
10
trình CNH, HĐH cần đưa ra những quan điểm và giải pháp để xây dựng gia
đình Việt Nam, thực hiện Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam giai đoạn
2010-2020. Đề cập đến các giải pháp có các bài viết, công trình nghiên cứu của
các tác giả: Tác giả Nguyễn Thị Hà, "Lồng ghép giới trong xây dựng gia đình
văn hóa ở Việt Nam hiện nay" [38], tác giả bài viết khẳng định: Xây dựng gia
đình văn hóa, đặc biệt là xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn là một trong
những chỉ tiêu cơ bản, quan trọng của Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam
giai đoạn 2010 - 2020 và tầm nhìn 2030. Trong bối cảnh hiện nay của Việt
Nam, áp dụng phương pháp lồng ghép giới trong xây dựng gia đình văn hóa
làm thay đổi các định kiến giới, các khuôn mẫu giới đã định hình trong hầu hết
các quan hệ liên quan đến hôn nhân, gia đình. Với việc phân tích thành tựu và
hạn chế của việc áp dụng lồng ghép giới trong xây dựng gia đình văn hóa, bài
viết cho thấy lồng ghép giới là một quá trình diễn ra liên tục, xuyên suốt và tính
thống nhất từ quy trình xây dựng luật pháp và chính sách đến việc thực hiện,
xây dựng cơ chế và biện pháp cụ thể để đảm bảo việc thực hiện bình đẳng giới
một cách thực chất và bền vững.
Cùng hướng nghiên cứu, tác giả Bùi Thị Ngọc Lan có các bài viết về gia
đình và giải pháp xây dựng gia đình văn hóa trong thời kỳ mới như bài viết “Gia
đình Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ giới” [53] và bài “Mấy vấn đề đặt ra
trong xây dựng gia đình văn hóa thời kỳ đổi mới” [54].
Tác giả Đỗ Thị Thạch có bài viết “Về xây dựng gia đình văn hóa Việt
Nam dưới ánh sáng Đại hội XI của Đảng” [89], tác giả đã trình bày quan điểm
của Đảng về vai trò của gia đình Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc
tế hiện nay. Tác giả đã chỉ ra, Đảng ta cần tập trung vào những giải pháp xây
dựng gia đình văn hóa Việt Nam trong giai đoạn tới, trong đó nhấn mạnh đến hai
giải pháp là sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp
phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người
Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ; hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp
luật xây dựng gia đình văn hóa.
11
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu về gia đình, vai trò của gia đình ở
nước ngoài
Gia đình cũng là một đề tài được các nhà nghiên cứu ở nước ngoài quan
tâm và có các công trình tiêu biểu sau:
- Robert Cliquet có công trình nghiên cứu với tựa đề “Những xu hướng
chính ảnh hưởng đến gia đình trong thiên niên kỷ mới ở Tây Âu và Bắc Mỹ”
[84]. Nghiên cứu nêu lên thực trạng biến đổi về cấu trúc và chức năng gia đình ở
các nước thuộc Tây Âu và Bắc Mỹ trong thế kỷ 20 và những xu hướng chính ảnh
hưởng đến gia đình trong giai đoạn hiện nay, như: quy mô hộ gia đình trở nên
nhỏ hơn nhưng đa dạng và phức tạp về cấu trúc và chức năng; Sự không nối kết
về tình dục, hôn nhân và sinh sản sẽ tiến xa hơn, tạo nên sự tách biệt hành vi
quan hệ và hành vi sinh sản; Nhiều người sẽ trải qua cuộc sống gia đình phức
tạp, ít chung sống bền lâu. Nghiên cứu được Liên hiệp quốc xem là một trong
những tư liệu quan trọng khi nghiên cứu về sự phát triển của gia đình trong bối
cảnh hiện nay.
- Bert N. Adams, Jan Trost, "Cẩm nang về Nghiên cứu gia đình trên thế
giới (Handbook of World Families)" [16], bao gồm 25 chương, là tập hợp các bài
viết của 34 tác giả về cuộc sống gia đình ở 25 quốc gia thuộc 6 khu vực địa lý
trên thế giới. Nghiên cứu phân tích và thảo luận các chủ đề về gia đình như sự
hình thành gia đình, mức sinh và quá trình xã hội hoá, vấn đề giới, hôn nhân,
mâu thuẫn và bạo lực trong gia đình, ly hôn và tái hôn, dòng họ, quá trình già
hoá dân số và cái chết, gia đình và các thiết chế khác,... Ngoài ra, do những đặc
thù riêng của từng nền văn hoá, các bài viết dành một phần thảo luận những chủ
đề mang tính đặc thù của vùng và quốc gia [16].
- Martine Segalen (dịch giả Phan Ngọc Hà), "Xã hội học gia đình" [64],
ngoài mở đầu, cuốn sách bao gồm 4 phần và 12 chương, tác giả đã phân tích
những biến đổi của quan hệ thân tộc, biến đổi của gia đình và các chức năng
của gia đình,... Cuốn sách cho thấy những cách nhìn phong phú về gia đình ở
Pháp và ở Châu Âu với cách tiếp cận của các nhà xã hội học; các tác giả chỉ ra
12
những biến đổi sâu sắc của xã hội liên quan đến kinh tế, văn hóa, không gian
đô thị... có tác động đến các thành viên trong gia đình có quan hệ huyết thống
hoặc hôn nhân.
Như vậy, gia đình là một đề tài được các nhà nghiên cứu tiếp cận dưới
nhiều góc độ từ khái niệm gia đình, vai trò, chức năng của gia đình, những thay
đổi của gia đình trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước, phát triển kinh tế hộ gia
đình vùng ĐBSH. Đây là những tài liệu tham khảo có giá trị lớn đối với luận án.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về gia đình vùng đồng bằng sông Hồng
Hiện nay gia đình vùng đồng bằng sông Hồng cũng đã được tiếp cận,
phân tích dưới các góc độ như: đặc điểm gia đình vùng ĐBSH, mối quan hệ giữa
gia đình vùng ĐBSH và xã hội, bình đẳng giới,... Điều này được thể hiện rõ
trong các công trình như: Mai Huy Bích, “Đặc điểm gia đình đồng bằng sông
Hồng” [22], tác giả nghiên cứu đặc điểm, cấu trúc, chức năng của các gia đình
vùng ĐBSH từ góc độ dân tộc học và xã hội học, từ đó làm rõ mối quan hệ giữa
tính cộng đồng và chức năng tái sinh sản, chức năng xã hội hóa, mục đích của
hôn nhân trong gia đình Việt Nam truyền thống và hiện đại.
- Luận án của Sim Sang Joon, “Gia đình người Việt ở Châu thổ sông
Hồng và mối liên hệ của nó với cộng đồng xã hội” [86] đã trình bày gia đình
người Việt trong quan hệ nội tại và ngoại hàm cộng đồng xã hội, khái quát bản
sắc gia đình người Việt nói riêng và một phần về bản sắc văn hóa dân tộc Việt
nói chung. Một số dự báo và hướng giải quyết các vấn đề sẽ phát sinh trong gia
đình người Việt dưới tác động của nền kinh tế thị trường.
- Luận án của Chu Thị Thoa, “Bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn
đồng bằng sông Hồng hiện nay” [92] đã phân tích thực trạng bình đẳng giới
trong gia đình ở nông thôn ĐBSH trong công cuộc đổi mới. Những phương
hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm giảm dần tiến tới xóa bỏ sự bất bình
đẳng giới trong gia đình nông thôn ĐBSH.
- Tác giả Nguyễn Linh Khiếu,“Gia đình và phụ nữ trong biến đổi văn
hóa- xã hội nông thôn” [49], cuốn sách đã phân tích những biến đổi văn hóa - xã
13
hội nông thôn tác động đến gia đình và phụ nữ và thực hiện khảo sát gia đình và
phụ nữ trong biến đổi văn hóa - xã hội nông thôn tại 10 điểm nghiên cứu cụ thể
của 3 miền Bắc - Trung - Nam, cả đồng bằng và miền núi, cả người kinh và
người dân tộc... Các bài viết đã khắc họa một cách rõ nét những biến đổi văn
hóa, xã hội nông thôn ảnh hưởng đến đời sống của gia đình và người phụ nữ và
cái nhìn phức hợp, đa dạng và sinh động về đời sống văn hóa, xã hội và gia đình
nông thông trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
- Nguyễn Đức Truyền,“Kinh tế hộ gia đình và các quan hệ xã hội ở nông
thôn đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đổi mới” [101]. Cuốn sách bao gồm 6
phần: Phần I: Nhập đề. Phần II: Cấu trúc và chức năng của kinh tế hộ gia đình.
Phần III: Kinh tế hộ và sự tái cấu trúc các quan hệ gia đình. Phần IV: Kinh tế hộ
và sự tái cấu trúc các quan hệ họ hàng. Phần V: Kinh tế hộ và sự tái cấu trúc các
quan hệ làng xã. Phần VI: Thư mục sách và tài liệu tham khảo. Tác giả đã nhấn
mạnh trong quá trình đổi mới ở nông thôn ĐBSH, nền kinh tế đã bắt đầu chuyển
đổi theo cơ chế thị trường, điều này đã kéo theo sự thay đổi các giá trị chuẩn
mực và các quy tắc ứng xử trong gia đình, đặc biệt là trong mối quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình.
- Luận án của tác giả Khúc Thị Thanh Vân, “Vai trò của vốn xã hội
trong phát triển kinh tế hộ gia đình ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay
- Nghiên cứu trường hợp tại Nam Định và Bắc Ninh” [130] lại tiếp cận một
hướng cụ thể để phát triển kinh tế hộ gia đình đó là vai trò của vốn xã hội. Tác
giả đã phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về vốn xã hội và vai trò của
vốn xã hội trong phát triển kinh tế hộ gia đình. Nghiên cứu vốn xã hội ở ĐBSH
hiện nay và đầu tư, duy trì, khai thác vốn xã hội trong phát triển kinh tế hộ gia
đình vùng ĐBSH.
- Tác giả Đỗ Văn Quân có cách tiếp cận mới khi nghiên cứu về phát triển
kinh tế hộ gia đình ở đồng bằng sông Hồng với bài viết “Phát triển kinh tế hộ
gia đình trong tiến trình xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng sông Hồng hiện
nay” [81]. Tác giả đã đánh giá tương quan giữa học vấn, nghề nghiệp, độ tuổi
14
với cơ cấu ngành nghề của chủ hộ, của gia đình, đất đai - tư liệu sản xuất của
hộ gia đình; thu nhập của hộ gia đình; tiếp cận nguồn vốn tín dụng phục vụ sản
xuất, kinh doanh và đời sống. Từ những số liệu khảo sát tác giả đã đưa ra kết
luận có giá trị tham khảo với luận án như: Để kinh tế hộ gia đình phát triển
trong điều kiện mới một cách bền vững, rất cần có sự tham gia phối hợp đồng
bộ giữa các yếu tố: hiệp hội, tổ chức, hợp tác xã, áp dụng khoa học - công
nghệ, thị trường, vốn, đất đai, ngành nghề truyền thống, sức lao động, giao
thông, quy hoạch và thực hiện các khu tiểu thủ công nghiệp, trang trại, dịch
vụ... tập trung ở các địa phương, nhằm hướng đến sự phát triển kinh tế hộ gia
Các công trình này đều khẳng định vai trò quan trọng của gia đình vùng
đồng bằng sông Hồng trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc
phòng… ở vùng.
đình một cách đồng bộ.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NÔNG THÔN, XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI VÀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÙNG ĐỒNG BẰNG
SÔNG HỒNG
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về nông thôn và xây dựng nông
thôn mới
1.2.1.1. Các công trình nghiên cứu về nông thôn và xây dựng nông
thôn mới ở trong nước
Hiện nay có nhiều tác giả nghiên cứu về nông thôn và xây dựng nông thôn
mới, một số công trình nổi bật như:
- Trần Ngọc Ngoạn, “Phát triển nông thôn bền vững: Những vấn đề lý
luận và kinh nghiệm thế giới” [74]. Tác giả đã đưa ra và phân tích rõ các nội
dung cơ bản của phát triển bền vững nông thôn đó là phát triển bền vững kinh tế
nông thôn, phát triển bền vững xã hội nông thôn; an toàn môi trường và bảo vệ
tài nguyên thiên nhiên và phát triển thể chế bền vững. Đây là công trình ra đời
khi chương trình xây dựng NTM chưa được triển khai nhưng các nội dung về
phát triển bền vững nông thôn mà tác giả đưa ra khá gần với các tiêu chí xây
dựng NTM, vì vậy công trình có giá trị tham khảo tốt khi triển khai luận án.
15
- Tác giả Đỗ Đức Quân, "Một số giải pháp nhằm phát triển bền vững
nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ trong quá trình xây dựng, phát triển các khu
công nghiệp (Qua khảo sát các tỉnh Vĩnh Phúc, Hải Dương, Ninh Bình)" [80].
Điểm nổi bật của công trình là đưa ra các quan điểm có tính khả thi nhằm phát
triển bền vững nông thôn đồng bằng Bắc Bộ như quan điểm đặt việc xây dựng
và phát triển các khu công nghiệp ở vùng đồng bằng Bắc Bộ trong chiến lược
chung, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng nhằm tạo điều kiện
kinh tế để giải quyết tốt các vấn đề xã hội; việc thu hồi đất nông nghiệp để xây
dựng và phát triển các khu công nghiệp phải thận trọng và khoa học; tăng cường
liên minh công - nông - trí thức và giữ vững ổn định chính trị - xã hội; phải thực
hiện gắn với quy hoạch xây dựng và phát triển các khu công nghiệp với quy
hoạch về phát triển nguồn nhân lực tại chỗ và quy hoạch phát triển NTM hiện
đại [80, tr.114-118].
- Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương, Viện Chính sách và chiến
lược phát triển nông nghiệp nông thôn, Viện Khoa học Lao động và xã hội,
Nhóm nghiên cứu Kinh tế Phát triển, Đặc điểm kinh tế nông thôn Việt Nam, kết
quả điều tra hộ gia đình nông thôn năm 2008 tại 12 tỉnh [135]. Cuốn sách là kết
quả số liệu thống kê kinh tế nông thôn Việt Nam qua điều tra bằng phương pháp
chọn mẫu (VARHS) thực hiện trên địa bàn 12 tỉnh (Hà Tây, Lào Cai, Phú Thọ,
Điện Biên, Lai Châu, Nghệ An, Quảng Nam,...). Đây là công trình có giá trị thực
tiễn cao để phản ánh thực trạng kinh tế nông thôn ở Việt Nam.
- Nguyễn Kim Tôn, "Nông dân đồng bằng sông Cửu Long trong phát
triển nông nghiệp bền vững hiện nay" [99], luận án xác định nội dung của phát
triển nông thôn bền vững là bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội, bền vững
về môi trường.
Bên cạnh đó, nhiều quốc gia trên thế giới đã xây dựng NTM, đây là những
kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam, vì vậy đã có nhiều công trình, bài viết
nghiên cứu về xây dựng NTM của các nước trên thế giới, tiêu biểu một số công
trình sau:
16
- Chu Tiến Quang, Lê Xuân Đình, "Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong
phát triển nông thôn mới bền vững" [79]. Bài viết đã chỉ ra nhu cầu bảo tồn các
nguồn lực nông nghiệp, nguồn gốc của ô nhiễm môi trường do phát triển nông
nghiệp và chỉ ra những kinh nghiệm phát triển NTM bền vững như thiết lập mô
hình quản lý nông nghiệp bền vững Hàn Quốc, giảm thiểu ô nhiễm môi trường,
duy trì và cải thiện các nguồn lực, thúc đẩy sự tiến bộ của các dự án khuyến
khích nông nghiệp bền vững,...
- Trần Quang Minh, "Nông nghiệp Hàn Quốc trên đường phát triển" [68].
Trong cuốn sách tác giả đã giới thiệu những nhân tố tác động đến sự phát triển
của nông nghiệp Hàn Quốc, các chính sách và biện pháp chủ yếu giải quyết
những vấn đề cơ bản trên con đường phát triển hiện đại của nông nghiệp Hàn
Quốc, từ đó tác giả cũng đưa ra nhận xét đánh giá về hiệu quả của các chính sách
cải cách nông nghiệp của Hàn Quốc, những vấn đề đặt ra cần được tiếp tục giải
quyết và các chủ trương chính sách của Chính phủ Hàn Quốc, một số giải pháp
cho nông nghiệp Việt Nam từ kinh nghiệm của Hàn Quốc.
- Hoàng Bá Thịnh, "Xây dựng nông thôn mới ở Hàn Quốc và Việt Nam"
[94]. Bài viết chỉ ra ở Hàn Quốc bắt đầu từ những năm 1970 đã tiến hành phong
trào Saemaul Undong (Làng mới). Qua đó, Hàn Quốc đã đạt được những thành
tựu vô cùng ấn tượng, có sức lan tỏa và ảnh hưởng quốc tế. Bài viết phân tích, so
sánh những điểm tương đồng và khác biệt giữa phong trào Làng mới của Hàn
Quốc và chương trình xây dựng NTM của Việt Nam, từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm có thể vận dụng vào thực hiện Chương trình NTM trong những năm tiếp
theo ở Việt Nam.
- Khoa Quốc tế học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại
học quốc gia Hà Nội, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế “Hợp tác quốc tế vì
phát triển nông thôn ở Việt Nam: sự kết nối chính sách và thực tế” [47]. Trong
kỷ yếu có đăng các tham luận về NTM trên thế giới như: Dr Edward Lahiff,
“Rural development: International experience and recent trends (Phát triển
nông thôn: Kinh nghiệm quốc tế và xu hướng hiện nay)”; H.E. Meirav Eilon
17
Shahar, “Rural development in Israel (Phát triển nông thôn ở Israel)”,... đây là
các bài viết nghiên cứu về nông thôn ở các nước trên thế giới, chỉ ra những kinh
nghiệm quý báu cho chương trình xây dựng NTM ở Việt Nam hiện nay.
- Viện Chính sách và phát triển nông nghiệp, nông thôn, Trung tâm phát
triển nông thôn, Dự án MISPA, "Lý luận và thực tiễn xây dựng nông thôn mới xã
hội chủ nghĩa" [134]. Đây là một cuốn sách tổng kết lý luận và thực tiễn xây
dựng NTM ở Trung Quốc được dịch giả Cù Ngọc Hưởng dịch sang tiếng Việt.
Cuốn sách đã chỉ ra những lý luận cơ bản của xây dựng NTM xã hội chủ nghĩa -
đó là quá trình giải quyết vấn đề “tam nông” trong một bối cảnh xã hội, kinh tế,
chính trị, văn hóa đặc thù, là xây dựng các hình thái làng xã trong những thời
điểm lịch sử khác nhau tại các khu vực khác nhau, mang đặc tính thời đại và ý
nghĩa thực tế riêng; Do sự nghiệp xây dựng nông thôn mới mang tính phức tạp
và lâu dài, cho nên cần thiết phải xây dựng những cơ chế chính sách khoa học
khả thi và hiệu quả, đảm bảo công cuộc xây dựng nông thôn mới được tiến hành
có trật tự... Từ đó chỉ ra những vấn đề còn tranh cãi và những vấn đề cần nghiên
cứu thêm như hệ thống lý luận xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa; mục
tiêu, tiêu chuẩn đánh giá và hệ thống chỉ tiêu đánh giá quá trình xây dựng NTM
xã hội chủ nghĩa; phạm vi, trọng điểm và phương án xây dựng nông thôn mới; lý
thuyết, nguyên tắc, phương pháp và sự đảm bảo thực hiện các kế hoạch xây
dựng nông thôn mới,...
- Phạm Thị Thanh Bình, “Phát triển nông nghiệp bền vững ở Thái Lan”
[25], bài viết chỉ rõ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng bền vững và
hiện đại là xu hướng tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều nước
trên thế giới, trong đó có Thái Lan. Chỉ ra quan điểm, định hướng chiến lược
phát triển nông nghiệp và những thành tựu, hạn chế trong phát triển nông nghiệp
bền vững ở Thái Lan, từ đó chỉ ra những kinh nghiệm với Việt Nam.
Như vậy, nghiên cứu xây dựng NTM ở các nước trên thế giới nhằm rút ra
bài học kinh nghiệm để hoạch định chính sách xây dựng NTM ở Việt Nam.
18
Xây dựng NTM được xác định là một nhiệm vụ chiến lược của nước ta
trong giai đoạn hiện nay. Chính vì thế, nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu về vấn
đề xây dựng NTM và đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về nông
nghiệp, nông thôn và xây dựng NTM, nhưng liên quan trực tiếp và có ý nghĩa
đối với luận án có một số công trình sau:
- Tác giả Trương Giang Long, Nguyễn Thành Long, “Liên kết “4 nhà” -
giải pháp cơ bản góp phần xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng sông Cửu
Long” [57]. Cuốn sách là tổng hợp các bài viết chỉ ra thực trạng và những vấn đề
đặt ra trong quá trình thực hiện liên kết “4 nhà” (Nhà nước, nhà khoa học, nhà
doanh nghiệp, nhà nông) ở đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian qua và chỉ
ra vai trò định hướng của nhà nước và các cấp chính quyền, vai trò của nhà khoa
học, vai trò của nhà doanh nghiệp và vai trò của nông dân trong liên kết “4 nhà”
ở đồng bằng sông Cửu Long. Trong công trình này, các tác giả đã phân tích và
làm rõ vai trò của 4 chủ thể quan trọng trong xây dựng NTM ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long.
- Tác giả Vũ Văn Phúc đã tập hợp các bài viết của các nhà khoa học, lãnh
đạo các cơ quan trung ương, các địa phương, các ngành, các cấp về kinh nghiệm
xây dựng NTM trên thế giới và một số tỉnh ở Việt Nam hiện nay trong cuốn
“Xây dựng nông thôn mới - những vấn đề lý luận và thực tiễn” [76].
Trong đó, có những bài viết khá sâu về xây dựng NTM như “Xây dựng
nông thôn mới - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Vũ Văn Phúc [76, tr.11-
32], tác giả đưa ra những đánh giá kết quả bước đầu trong triển khai thực hiện
Chương trình xây dựng NTM và kết luận thực hiện Chương trình này sẽ góp
phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn, gắn phát
triển văn hóa nông thôn với phát triển nông nghiệp và xây dựng NTM, gắn vấn
đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước,
củng cố và tạo thêm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng.
Về thực tiễn xây dựng NTM ở Việt Nam có rất nhiều bài viết như: “Công
tác triển khai, kết quả bước đầu và những kiến nghị, đề xuất trong xây dựng
19
nông thôn mới tỉnh Lào Cai” [76, tr.341-352] của Nguyễn Hữu Vạn; “Xây dựng
nông thôn mới ở Nghệ An - Một số vấn đề từ thực tiễn của địa phương” của Ban
Chỉ đạo xây dựng NTM tỉnh Nghệ An [76, tr.352- 358]; “Kết quả bước đầu triển
khai Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn
tỉnh Phú thọ” của Ban Chỉ đạo xây dựng NTM tỉnh Phú Thọ [76, tr.358 -367];
“Những thuận lợi và khó khăn trong triển khai chương trình xây dựng nông thôn
mới ở Thái Nguyên” của Ban Chỉ đạo xây dựng NTM tỉnh Thái Nguyên [76,
tr.380- 388]; “Thực trạng nông nghiệp, nông thôn Nam Định, các giải pháp và
một số kinh nghiệm bước đầu trong thực hiện chương trình nông thôn mới” của
Nguyễn Viết Hưng [76, tr.412-427],... Các địa phương đều rút ra kinh nghiệm:
Xây dựng NTM dựa vào nội lực của cộng đồng nhân dân là chính, phải làm
chuyển biến cơ bản nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về xây dựng
NTM, đây chính là sự nghiệp của dân, do người dân làm chủ thể xây dựng,...
Cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt để nhân dân hiểu và
đóng góp sức người, sức của trong quá trình thực hiện.... phải quản lý và sử dụng
các nguồn vốn chặt chẽ, công khai, dân chủ, không để xảy ra tham nhũng, lãng
phí [76, tr.407].
Bước đầu xây dựng NTM ở các tỉnh, thành đã cho thấy kinh nghiệm cần
huy động sức mạnh nội lực của quần chúng nhân dân, đồng lòng, đồng sức cùng
Đảng và Nhà nước thực hiện thắng lợi mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM. Đây
cũng là căn cứ để luận án lựa chọn làm rõ vai trò của một “thiết chế xã hội đặc
thù” trong xây dựng NTM - đó là gia đình.
- Phạm Huỳnh Minh Hùng, “Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong
xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay” [44]. Tác giả đã
trình bày cơ sở lý luận, những nhân tố cơ bản ảnh hưởng và thực trạng phát huy
vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng NTM vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Qua đó, tác giả đã chỉ ra một số quan điểm, giải pháp có tính khả thi để
nông dân phát huy hơn nữa vai trò chủ thể của mình trong xây dựng NTM vùng
đồng bằng sông Cửu Long.
20
Tất cả các công trình nêu trên đều khẳng định tầm quan trọng của vấn
đề xây dựng nông thôn mới, và từ các góc độ nghiên cứu, các tác giả đều đề
xuất những giải pháp khá đồng bộ và khả thi nhằm thực hiện tốt mục tiêu xây
dựng nông thôn mới ở nước ta.
1.2.1.2. Các công trình nghiên cứu về nông thôn và xây dựng nông
thôn mới ở nước ngoài
Trên thế giới đã có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề nông thôn và xây
dựng NTM, đáng chú ý như các tài liệu tham khảo sau:
- Robert Chambers với cuốn “Phát triển nông thôn - hãy bắt đầu từ
những người cùng khổ” [83]. Tác giả phân tích những thay đổi nhận thức của
người nghèo ở nông thôn, đánh giá nông thôn với sự tham gia của người dân,
trong đó cán bộ của các tổ chức bên ngoài chỉ hoạt động như những người trợ
giúp, trong khi người dân và cộng đồng địa phương mới là những người thực
hiện và quản lý quá trình phát triển của chính họ, thông qua một loạt các công cụ
được liên tục cải biến và hoàn thiện.
- Frans Elltis “Chính sách nông nghiệp trong các nước phát triển” [37].
Thông qua việc nghiên cứu lý thuyết, khảo cứu thực tiễn ở nhiều quốc gia châu
Á, châu Phi, Châu Mỹ La Tinh tác giả đã nêu lên những vấn đề cơ bản của chính
sách nông nghiệp ở các nước đang phát triển. Cuốn sách đã đề cập đến những
vấn đề về chính sách phát triển vùng, chính sách hỗ trợ đầu vào, đầu ra cho sản
phẩm nông nghiệp, chính sách thương mại nông sản, những vấn đề phát sinh
trong quá trình đô thị hóa ở nông thôn. Điều đáng chú ý là công trình đã phân
tích nền nông nghiệp của các nước đang phát triển trong quá trình chuyển sang
sản xuất hàng hóa gắn liền với phát triển thương mại nông sản trên thế giới, đồng
thời tác giả cũng nêu lên những thành công, thất bại trong việc phát triển nông
nghiệp, nông thôn và giải quyết vấn đề nông dân.
- Servaas Storm, “Những việc không bao giờ kết thúc: Nông nghiệp Ấn Độ
theo cải cách cấu trúc” [85]. Tác giả đã phân tích những tác động của chính sách
tự do hóa thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp ở Ấn Độ giai đoạn 1985 -
1990, đặc biệt là tác động của đầu tư tư nhân vào nông nghiệp đến việc làm của
21
nông dân, đồng thời ủng hộ những chính sách của nhà nước trong việc chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp tạo điều kiện cho tư nhân đầu tư vào nông nghiệp.
- Tác giả DuYing đã điểm lại những thành tựu của nông nghiệp Trung
Quốc sau 20 năm tiến hành chuyển dịch cơ cấu và cải cách nông nghiệp từ năm
1978 - 1999 qua bài viết “Cải cách hệ thống và cấu trúc nông nghiệp của
Trung Quốc tiến tới gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO” [29]. Tác giả
phân tích, đánh giá những cơ hội và thách thức đối với nông nghiệp Trung
Quốc một khi nước này gia nhập WTO, từ đó đặt ra Nhà nước cần đưa ra các
chính sách nông nghiệp hợp lý như tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu sang
những loại nông sản có lợi thế, phát triển công nghiệp chế biến, giải quyết lao
động ở nông thôn.
- Benedict J. tria Kerrkvliet, Jamesscott với cuốn “Một số vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn ở các nước và Việt Nam” do Nguyễn Ngọc và Đỗ
Đức Định sưu tầm và giới thiệu [15], tác giả cũng đã nghiên cứu về vai trò và
đặc điểm của nông dân, thiết chế nông thôn ở một số nước trên thế giới và những
bước đầu trong nghiên cứu làng truyền thống ở Việt Nam. Những điểm đáng chú
ý của công trình này là đã nghiên cứu tư tưởng của nông dân và nông dân với
khoa học.
- Trung tâm phát triển nông thôn, Dự án MISPA với vấn đề “Lý luận và
thực tiễn xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa” [102] do dịch giả Cù Ngọc
Hưởng đã nghiên cứu vấn đề xây dựng NTM ở Trung Quốc trên nhiều khía
cạnh, trong đó có đề cập đến thể chế quản lý, cơ chế giám sát và cơ chế đảm bảo
Những công trình này có giá trị là những gợi ý tham chiếu cho Việt
Nam trong triển khai thực hiện xây dựng nông thôn mới, tài liệu của các tác
của sự nghiệp xây dựng NTM.
giả nước ngoài có những giá trị gợi mở cho luận án những vấn đề lý luận và thực
tiễn khi thực hiện luận án.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu xây dựng nông thôn mới vùng đồng
bằng sông Hồng
Nông thôn vùng ĐBSH và xây dựng NTM vùng ĐBSH cũng là một đề tài
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Đáng chú ý có công trình nghiên cứu sau đây:
22
- Bùi Thị Ngọc Lan với cuốn sách “Việc làm của nông dân đồng bằng
sông Hồng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [51]. Tác giả đã làm
rõ quan niệm về việc làm và phân tích các nhân tố tác động đến giải quyết việc
làm cho nông dân vùng ĐBSH; qua nghiên cứu đánh giá thực trạng và triển vọng
giải quyết việc làm cho nông dân, từ đó đề xuất phương hướng cơ bản và giải
pháp chủ yếu để giải quyết việc làm cho nông dân vùng ĐBSH. Việc làm và giải
quyết việc làm cho nông dân cũng chính là một trong những điều kiện để phát
huy vai trò của các thành viên trong gia đình xây dựng NTM bền vững hiện nay.
- Luận án của Vũ Quang Ánh “Thực hiện đường lối của Đảng về phát
triển kinh tế nông nghiệp ở một số tỉnh, thành đồng bằng sông Hồng từ năm
1997 đến năm 2010” [2]. Tác giả làm rõ quá trình Đảng bộ và nhân dân ở một số
địa phương thuộc ĐBSH (các tỉnh, thành: Bắc Ninh, Hải Dương, Thái Bình, Hải
Phòng) thực hiện đường lối của Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm
1997 đến năm 2010, từ đó đánh giá những kết quả đạt được cũng như những hạn
chế, thiếu sót cần khắc phục trong phát triển kinh tế nông nghiệp ở các địa
phương trên.
- Nguyễn Thị Tố Uyên với luận án “Các tỉnh ủy vùng đồng bằng sông
Hồng lãnh đạo đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
giai đoạn hiện nay” [127]. Tác giả luận giải khái niệm các tỉnh ủy vùng ĐBSH
lãnh đạo đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và các khái niệm có liên
quan. Phân tích, đánh giá thực trạng CNH, HĐH nông nghiệp, nông nghiệp vùng
ĐBSH và thực trạng các tỉnh ủy vùng ĐBSH lãnh đạo đẩy nhanh CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn; chỉ ra ưu, khuyết điểm, khó khăn, thuận lợi, nguyên
nhân, rút ra bài học kinh nghiệm. Xác định phương hướng và đề xuất những giải
pháp chủ yếu, có tính khả thi nhằm tăng cường sự lãnh đạo đẩy nhanh CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn của các tỉnh ủy vùng ĐBSH đến năm 2020.
- Tô Văn Sông, “Nông dân vùng đồng bằng sông Hồng trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn hiện nay” [87]. Luận án
nghiên cứu cơ sở lý luận chung về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và mối
quan hệ biện chứng giữa nông dân với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông
23
thôn. Làm rõ vai trò của nông dân vùng ĐBSH và những vấn đề đặt ra đối với
việc phát huy vai trò của họ trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Đề xuất một số phương hướng cơ bản và giải pháp nhằm phát huy hiệu quả vai
trò của nông dân vùng ĐBSH hiện nay.
- Phạm Mạnh Hà “Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn tỉnh Ninh
Bình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [40], tác giả đã trình bày cơ
sở lý luận và thực tiễn của giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá
trình CNH, HĐH ở nước ta. Phân tích những thực trạng, phương hướng chủ yếu
và giải pháp cơ bản giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình
Các công trình trên do cách tiếp cận khác nhau nên chưa phản ánh được
tất cả các nội dung nghiên cứu có liên quan, nhưng đã khái quát được những
kết quả cơ bản nhất trong nghiên cứu về gia đình, vai trò của gia đình, gia
đình vùng ĐBSH, xây dựng NTM và xây dựng NTM vùng ĐBSH, vì vậy các
công trình này có giá trị tham khảo khi tác giả triển khai thực hiện những nội
dung của luận án.
CNH, HĐH ở nước ta trong thời gian qua và đến năm 2020.
1.3. NHỮNG GIÁ TRỊ THAM KHẢO TỪ CÁC CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN
QUAN VÀ NHỮNG NỘI DUNG LUẬN ÁN CẦN TẬP TRUNG NGHIÊN CỨU
1.3.1. Những giá trị cần tham khảo từ các công trình có liên quan đến
đề tài luận án
Qua nghiên cứu và phân tích các công trình nghiên cứu về gia đình, nông
thôn và xây dựng NTM có liên quan, được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác
nhau, tác giả luận án nhận thấy có nhiều giá trị có thể tham khảo từ các công
trình này trong quá trình triển khai các nội dung của luận án.Giá trị tham khảo
tập trung ở những nội dung sau:
* Những giá trị tham khảo từ các công trình nghiên cứu về gia đình và gia
đình vùng ĐBSH.
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về gia đình đã đưa ra khái niệm gia
đình, vị trí, vai trò của gia đình, đặc biệt là nhấn mạnh đến các chức năng của gia
24
đình và sự biến đổi các chức năng này trong giai đoạn hiện nay. Đây là cơ sở để
luận án đưa ra khái niệm gia đình và vai trò của gia đình trong xây dựng NTM.
Thứ hai, một số công trình đã đề cập đến quan niệm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về hôn nhân, gia đình và chính sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam về xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Các công trình này có giá trị tham khảo về mặt lý luận để luận án đưa ra những
quan điểm phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng NTM.
Thứ ba, các tác giả đã phân tích, đánh giá biến đổi các chức năng của gia
đình trong quá trình CNH, HĐH đất nước, từ đó đưa ra các giải pháp để xây
dựng gia đình văn hóa Việt Nam hiện nay.
Thứ tư, một số công trình nghiên cứu về gia đình trong xây dựng NTM, các
tác giả chủ yếu phân tích làm rõ phát triển kinh tế hộ gia đình trong xây dựng NTM.
Thứ năm, ngoài ra các công trình nghiên cứu nước ngoài về gia đình, xã
hội học gia đình cũng có giá trị tham khảo về lý luận và thực tiễn cho luận án
thêm căn cứ nghiên cứu về gia đình vùng ĐBSH hiện nay.
* Những giá trị tham khảo từ các công trình nghiên cứu về xây dựng NTM
và xây dựng NTM vùng ĐBSH
Thứ nhất, các nhà khoa học đã nghiên cứu về nông thôn, xây dựng NTM,
các tác giả đã đưa ra khái niệm nông thôn, phát triển nông thôn bền vững, quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tầm quan trọng của
xây dựng NTM ở Việt Nam hiện nay. Đây là cơ sở lý luận quan trọng cho luận
án nghiên cứu về xây dựng NTM hiện nay.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu của nhà khoa học và nhà quản lý đã
làm rõ sự cần thiết phải thực hiện NTM và đánh giá những thành tựu, hạn chế
trong xây dựng NTM nói chung và xây dựng NTM vùng ĐBSH nói riêng. Gần
đây nhất là kết quả xây dựng NTM 2014, kế hoạch 2015 và định hướng Chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2016-2020. Trên tinh thần
phân tích, đánh giá vai trò của hệ thống chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội
25
như hội nông dân, hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, đoàn thanh niên… với chương
trình xây dựng NTM, từ đó rút ra những giải pháp nhằm xây dựng NTM trong
giai đoạn tới từ năm 2015- 2020.
Thứ ba, bên cạnh đó cũng có một số công trình nước ngoài nghiên cứu về
NTM, xây dựng NTM ở các nước trên thế giới và một số nhà nghiên cứu nước
ngoài đã nghiên cứu xây dựng NTM ở Việt Nam. Đây là tài liệu có giá trị tham
khảo hữu ích để tác giả đánh giá thực trạng vai trò của gia đình vùng ĐBSH
trong xây dựng NTM và đưa ra quan điểm, giải pháp của luận án.
1.3.2. Những nội dung luận án cần tập trung nghiên cứu
Trên cơ sở tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, với những
kết quả nghiên cứu đã đạt được và những góc độ chưa được tiếp cận trong
nghiên cứu về gia đình và xây dựng NTM nói chung và vùng ĐBSH nói riêng.
Luận án cần tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
- Về mặt lý luận, Luận án sẽ hệ thống hóa lý luận: Khái quát cơ sở lý luận
về nông thôn, xây dựng NTM; khái niệm gia đình, vai trò của gia đình. Trên cơ
sở đó luận án làm rõ mối quan hệ giữa gia đình vùng ĐBSH với xây dựng NTM,
vị trí, vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM hiện nay.
- Về mặt thực tiễn: Luận án tập trung nghiên cứu, phân tích đánh giá thực
trạng vai trò của gia đình vùng ĐSBH với chương trình xây dựng NTM dựa trên
nâng cao chất lượng các nhóm tiêu chí về xây dựng NTM. Chỉ ra những thành
tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai trò
của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM.
Từ thực trạng đó, luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm
tiếp tục thực hiện vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM nói
riêng và trên cả nước nói chung đến năm 2025 tầm nhìn 2030.
26
Tiểu kết chương 1
Gia đình, vai trò của gia đình và xây dựng NTM thu hút được sự quan tâm
của đông đảo các nhà khoa học nghiên cứu. Các công trình được tiếp cận với
nhiều góc độ khác nhau về vấn đề gia đình và xây dựng NTM. Kết quả nghiên cứu
đã cung cấp nguồn tri thức có giá trị về mặt lý luận khi đưa ra quan niệm về gia
đình, vai trò của gia đình, quan niệm về nông thôn, xây dựng NTM, cũng như có
giá trị về mặt thực tiễn khi đánh giá thực trạng biến đổi của gia đình, đánh giá thực
trạng xây dựng NTM trên thế giới và ở Việt Nam giai đoạn 2010 - 2015. Đây là
những tài liệu tham khảo quan trọng cho các nhà nghiên cứu và là cơ sở để tiếp
tục mở rộng thêm với nhiều góc độ nghiên cứu mới về các nội dung trên.
Ngoài ra, các công trình còn được thể hiện đa dạng dưới nhiều hình thức, từ
các công trình đăng trên các tạp chí, website, các hội thảo khoa học, báo cáo kết
quả nghiên cứu, đến các cuốn sách được xuất bản,... Việc tổng quan tình hình
nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án giúp cho tác giả một mặt kế thừa những
giá trị đã đạt được, mặt khác xác định rõ những khoảng trống mà luận án cần tập
trung tiếp tục nghiên cứu làm rõ.
Mối quan hệ giữa gia đình vùng ĐBSH với chương trình xây dựng NTM là
một hướng nghiên cứu mới, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ
thống, toàn diện và đầy đủ về lý luận và thực tiễn về thực hiện vai trò của gia đình
trong xây dựng NTM. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu nêu trên đã giúp cho tác
giả có cách nhìn tổng quan về gia đình, vai trò của gia đình và xây dựng NTM ở
Việt Nam hiện nay cũng như cung cấp cho tác giả nhiều tài liệu và các luận điểm
khoa học quan trọng, để tác giả phân tích và đánh giá thực trạng, từ đó đề xuất các
quan điểm và giải pháp phát huy vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng
NTM hiện nay.
27
Chương 2
GIA ĐÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI - CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÀ VỀ
VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
2.1.1. Một số vấn đề lý luận về xây dựng nông thôn mới
2.1.1.1. Quan niệm về nông thôn
Nông thôn được quan niệm khác nhau ở mỗi nước vì điều kiện tự nhiên,
đặc điểm kinh tế - xã hội ở mỗi nước là khác nhau. Để có được định nghĩa nông
thôn, các nhà nghiên cứu thường so sánh nông thôn với thành thị. C.Mác -
Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (viết năm 1845 -1846), hai ông đã
trình bày một cách cơ bản quan niệm duy vật lịch sử về nông thôn - đặt trong mối
quan hệ với thành thị. Theo C.Mác, “sự phân công lao động trong nội bộ của một
dân tộc gây ra trước hết là sự tách rời giữa lao động công nghiệp với lao động
nông nghiệp và do đó gây ra sự tách rời giữa thành thị và nông thôn” [62, tr.270].
Sự hình thành đô thị cũng là quá trình làm cho xã hội nông thôn được nhìn nhận
rõ hơn. Giữa thành thị và nông thôn có những điểm khác biệt, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chỉ ra “sự đối lập giữa thành thị và nông thôn xuất hiện cùng với
bước quá độ từ thời đại dã man lên thời đại văn minh, từ tổ chức bộ lạc nhà nước,
từ tính địa phương lên dân tộc, và cứ tồn tại mãi suốt toàn bộ lịch sử văn minh cho
đến ngày nay” [61, tr.323].
Theo V. Staroverov - nhà xã hội học người Nga đã đưa ra một định nghĩa
khá bao quát về nông thôn, khi ông cho rằng:
Nông thôn có những đặc trưng riêng biệt của nó, nông thôn phân biệt
với đô thị bởi trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp kém hơn, thua
kém hơn về mức độ phúc lợi xã hội, sinh hoạt... Nông thôn là hệ thống
độc lập tương đối ổn định, là một tiểu hệ thống không gian - xã hội.
Nông thôn và đô thị hợp lại thành chỉnh thể xã hội và lãnh thổ (không
gian) của cơ cấu xã hội [26, tr.58].
28
Nông thôn khác với thành thị, ở đó một cộng đồng chủ yếu là nông dân, có
mật độ dân cư thấp, kết cấu hạ tầng kém phát triển, có trình độ dân trí, trình độ
tiếp cận thị trường và sản xuất hàng hóa kém hơn đô thị.
Từ những ý hiểu này cho thấy nông thôn cũng có những đặc trưng như: về
nghề nghiệp chủ yếu là lao động xã hội truyền thống, hoạt động sản xuất nông nghiệp; mật độ dân cư trên km2 thấp; lối sống, có tính cố kết cộng đồng cao thể
hiện trong mối quan hệ ứng xử giữa con người với con người. Các hành vi của cá
nhân nông thôn Việt Nam thường đặt trong các thiết chế xã hội (gia đình, dòng họ,
làng, xóm,...), sức mạnh cộng đồng và thiết chế xã hội ảnh hưởng đến cá nhân.
Chính lối sống này làm cho cách ứng xử xã hội nông thôn nặng về luật tục hơn là
tính pháp lý theo kiểu “phép vua thua lệ làng”; văn hóa nông thôn là một loại hình
văn hóa đặc thù mang đậm nét dân gian, dân tộc [26, tr.58-60]. Đặc thù riêng biệt
của nông thôn Việt Nam là sự phân công lao động chưa cao, trình độ chuyên môn
thấp, chủ yếu vẫn là sản xuất nông nghiệp. Để hiểu nông thôn cần tiếp cận từ
những đặc trưng cơ bản về phương thức sản xuất, kinh tế, văn hóa, lối sống...
Trong “Tài liệu hỏi - đáp xây dựng NTM”, Ban Tuyên giáo thành ủy Hà
Nội có đưa ra khái niệm:
“Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành
phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân
xã” [14, tr.11].
Như vậy, có thể hiểu: Nông thôn dựa vào sự phân chia theo địa giới hành
chính, chính trị để phân biệt với thành thị, nhưng có những nét đặc thù về phương
thức lao động sản xuất, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, văn hóa, lối sống, có
tính cố kết cộng đồng cao.
2.1.1.2. Quan niệm về nông thôn mới
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã tiếp cận vấn đề “NTM”. Ở Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định nông nghiệp, nông dân, nông thôn
đóng vai trò rất to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy một đặc điểm có tính chất đặc thù của nước ta: là
một nước nông nghiệp - không những thế mà còn là một nước nông nghiệp lạc
29
hậu, tàn dư của chế độ thuộc địa nửa phong kiến nặng nề. Tháng 11 năm 1940,
trong thư gửi Hội nghị cán bộ nông dân cứu quốc toàn quốc, Người viết: “Nước ta
là một nước nông nghiệp. Hơn 9 phần 10 dân ta là nông dân trung, bần và cố
nông” [65, tr.248].
Người cũng đã chỉ rõ: quá trình, bước đi để xây dựng “nông thôn mới”
thiết thực, có hiệu quả, là phải xây dựng cơ sở vật chất cho người nông dân để họ
ổn định và có điều kiện tăng gia sản xuất, trước hết là “nhà ở”. Người nói: “chúng
ta đang chuẩn bị xây dựng nông thôn mới. Việc đầu tiên của nông thôn mới là xây
dựng nhà ở cho đàng hoàng” [67, tr.446].
Thuật ngữ “Nông thôn mới” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng ở đây để phân
biệt với nông thôn cũ trong chế độ hàng nghìn năm phong kiến, thực dân xâm
lược, Người nhấn mạnh đến mục đích của NTM là làm cho đời sống nhân dân
nông thôn được cải thiện, tuy nhiên chưa đạt đến các tiêu chí như NTM hiện nay,
nhưng dù vậy cũng đã cho thấy phát triển nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ
quan trọng đối với một nước mới giành độc lập như Việt Nam.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp, nông thôn, Đảng ta đã
đưa ra đường lối, chính sách để phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong
thời kỳ đổi mới. Thuật ngữ “NTM” đã xuất hiện từ kỳ đại hội lần thứ IV của
Đảng, tư tưởng NTM như là nông thôn xã hội chủ nghĩa chỉ mới dừng lại ở loại
hình lý tưởng và chưa được định hình một cách rõ rệt. Ở Nghị quyết số 41-
NQ/TW (1981) có nêu “NTM là cải tạo quan hệ sản xuất cũ, đem quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa mới vào nông thôn kết hợp với nâng cao đời sống vật chất
và văn hóa cho nhân dân” [28, tr.22]. Trong nghị quyết này NTM tuy được nhắc
đến nhưng còn chung chung, chưa làm rõ được nội hàm khái niệm.
Đến Đại hội Đảng lần thứ X, Nghị quyết 26-NQ/TW của Đảng (2006) là
một bước ngoặt quan trọng trong nhận thức về NTM và xây dựng NTM. Nghị
quyết này đã đưa ra quan điểm khá toàn diện về mối quan hệ giữa nông nghiệp,
nông dân và nông thôn. “Nghị quyết cũng làm rõ các khía cạnh của NTM gồm kết
cấu kinh tế - xã hội, cơ cấu kinh tế, quy hoạch xã hội, sự ổn định, văn hóa, dân trí,
môi trường sinh thái và hệ thống chính trị...” [28, tr.23].
30
Từ các nghị quyết, đã có thể xác định khái niệm về NTM: NTM trước hết
phải là nông thôn, bao hàm các đặc trưng, chức năng cơ bản của nông thôn là
vùng nông dân quần tụ trong đơn vị làng xã và chủ yếu làm nông nghiệp, nhưng
có những thuộc tính khác với nông thôn truyền thống, NTM phải được gắn chặt
với “quy hoạch mới”, phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội, “cơ sở hạ tầng mới”, “văn
hóa mới” và có những bước phát triển “mới” văn minh hiện đại hơn so với nông
thôn truyền thống, song vẫn bảo lưu và giữ gìn, phát huy được những giá trị tốt
đẹp của xã hội nông thôn truyền thống.
Theo đó, NTM là một kiểu tổ chức nông thôn theo các tiêu chí mới, đáp
ứng yêu cầu của phát triển trên các phương diện sau: Thứ nhất: Kinh tế phát triển,
đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn được nâng cao; Thứ hai:
Nông thôn phát triển theo quy hoạch, cơ cấu hạ tầng, kinh tế, xã hội hiện đại, môi
trường sinh thái được bảo vệ; Thứ ba: Dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa dân
tộc được giữ gìn và phát huy; Thứ tư: Chất lượng hệ thống chính trị được nâng
cao; Thứ năm: An ninh tốt, dân chủ được phát huy.
2.1.1.3. Quan niệm về xây dựng nông thôn mới
Thực tiễn phát triển của các nước trên thế giới đã chứng minh sẽ không thể
có một nước công nghiệp nếu nông nghiệp và khu vực nông thôn còn nghèo nàn,
lạc hậu, cư dân nông thôn có đời sống vật chất và đời sống văn hóa tinh thần thấp
kém, lạc hậu. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng ta đã khẳng định
tính cấp thiết phải “xây dựng NTM”. Xây dựng NTM là một thuật ngữ gắn thêm
với phát triển nông nghiệp và đến nay được Đảng và Nhà nước ta xác định là một
nhiệm vụ trọng tâm phát triển đất nước. “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (1991) của Đảng chỉ rõ “phát triển nông -
lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội”. Đây được
xem là một trong những định hướng lớn về chính sách phát triển kinh tế, xã hội
nông thôn trong thời kỳ đổi mới.
Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn như Nghị quyết số 05-NQ/HNTW Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành
31
trung ương Đảng (khoá VII) về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội
nông thôn, ngày 10/6/1993, Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5/8/2008 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) “Về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn”... Đảng ta xác định:
Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ
cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp
với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội
nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao,
môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới
sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường [30, tr.126].
Theo đó, Thủ tướng chính phủ đã ban hành các quyết định về xây dựng
NTM: Quyết định số 800/QĐ-TTG ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ,
Quyết định phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn
mới giai đoạn 2010 - 2020; Quyết định số 1600/ QĐ-TTG ngày 8/6/2016 của
Thủ tướng Chính phủ, Quyết định phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định số 691/QĐ-TTG ngày
05/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ ban hành tiêu chí xã nông thôn mới kiểu
mới giai đoạn 2018 - 2020. Qua các văn bản, quyết định, Đảng và Nhà nước ta
đã xác định rõ mục tiêu, nội dung và chủ thể xây dựng NTM.
Về mục tiêu xây dựng NTM, theo Quyết định số 800/QĐ-TTG năm 2010
xác định mục tiêu xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020 là:
Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước
hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn
nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển
nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn
định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ;
an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người
dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa [103].
Mục tiêu tổng quát xây dựng NTM giai đoạn 2016 - 2020, được xác định
trong Quyết định số 1600/QĐ-TTG là:
32
Xây dựng nông thôn mới để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho người dân; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phù hợp; cơ cấu
kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn phát triển nông
nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị;
xã hội nông thôn dân chủ, bình đẳng, ổn định, giàu bản sắc văn hóa
dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; quốc phòng và an ninh, trật
tự được giữ vững [106].
Đến giai đoạn 2016 - 2020, Nhà nước ta xác định nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho người dân là mục tiêu hàng đầu của xây dựng NTM, trong
đó mục tiêu cụ thể cũng xác định “Nâng cao chất lượng cuộc sống của cư dân
nông thôn; tạo nhiều mô hình sản xuất gắn với việc làm ổn định cho nhân dân,
thu nhập tăng ít nhất 1,8 lần so với năm 2015” [106].
Xây dựng NTM gồm những nội dung cơ bản sau: Theo Quyết định số
800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ, xây dựng NTM gồm 11
nội dung về: (1) Quy hoạch xây dựng NTM; (2) Phát triển hạ tầng kinh tế - xã
hội, (3) Chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, (4) Giảm
nghèo và an sinh xã hội; (5) Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất
có hiệu quả ở nông thôn; (6) Phát triển giáo dục - đào tạo ở nông thôn; (7) Phát
triển y tế, chăm sóc sức khỏe cư dân nông thôn; (8) Xây dựng đời sống văn hóa,
thông tin và truyền thông nông thôn, (9) Cấp nước sạch và vệ sinh môi trường
nông thôn; (10) Nâng cao chất lượng tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính
trị - xã hội trên địa bàn; (11) Giữ vững an ninh, trật tự xã hội nông thôn.
Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1980/QĐ-TTg
ngày 17/10/2016 về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM giai đoạn
2016 - 2020 gồm 19 tiêu chí tập trung vào 5 nhóm tiêu chí sau: (1) Quy hoạch,
(2) Hạ tầng kinh tế - xã hội, (3) Kinh tế và tổ chức sản xuất, (4) Văn hóa - Xã hội
- Môi trường, (5) Hệ thống chính trị [107].
Đối tượng thụ hưởng và thực hiện Chương trình được xác định trước hết
“là người dân và cộng đồng dân cư trên địa bàn nông thôn” [106]. Đây chính là
chủ thể tích cực tham gia vào quá trình xây dựng và thực hiện quy hoạch xây
33
dựng NTM; chủ động, sáng tạo trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở
nông thôn, trực tiếp phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn; tích cực, sáng tạo trong xây dựng và giữ gìn đời
sống văn hóa - xã hội, môi trường ở nông thôn và cũng là nhân tố góp phần quan
trọng vào xây dựng hệ thống chính trị - xã hội vững mạnh, bảo đảm an ninh trật
tự. Như vậy, xây dựng NTM ngoài hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở,
doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế, xã hội thì xác định người dân và cộng đồng
dân cư trên địa bàn nông thôn hay nói cách khác chính là gia đình ở nông thôn là
chủ thể quan trọng thực hiện xây dựng NTM.
Từ những phân tích trên, rút ra quan niệm: Xây dựng NTM là cuộc cách
mạng nông nghiệp, nông thôn và cuộc vận động lớn để người dân, cộng đồng dân
cư trên địa bàn nông thôn đồng sức, đồng lòng xây dựng nhà cửa, đường xá, thôn,
xã khang trang, sạch đẹp, phát triển sản xuất toàn diện (nông nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ), có nếp sống văn hoá, giữ gìn môi trường và đảm bảo an ninh
nông thôn; nâng cao thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của người dân.
2.1.2. Một số vấn đề lý luận về xây dựng nông thôn mới và về vai trò
của gia đình trong xây dựng nông thôn mới
2.1.2.1. Quan niệm về gia đình
Gia đình là vấn đề được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu. Tùy
vào cách tiếp cận, các nhà khoa học đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về gia đình.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cập đến khái niệm gia đình trong tác phẩm
“Hệ tư tưởng Đức” (1845). Khi luận chứng về những tiền đề, điều kiện cho sự tồn
tại của con người, các ông đã cho rằng “Hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản
thân mình, con người còn tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ
giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [62, tr.41]. Với quan điểm
này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra gia đình được ra đời và tồn tại cùng với sự ra
đời và tồn tại của xã hội loài người; chức năng chính của gia đình là tái tạo, sinh
sôi, nảy nở con người và dựa trên hai mối quan hệ chính là quan hệ hôn nhân (vợ -
chồng) và quan hệ huyết thống (cha mẹ - con cái).
34
Sau này, trong Chương 2 có tựa là “Gia đình” của tác phẩm “Nguồn gốc
của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước” (1884), Ph.Ăngghen đã đưa ra
nhận định ngày càng rõ hơn về gia đình “Gia đình (tiếng Anh: Family) có nguồn
gốc từ tiếng La tinh là Familia. Theo Ph.Ăngghen:
Danh từ familia... lúc đầu thậm chí cũng không dùng để chỉ vợ chồng
và con cái của họ, mà chỉ dùng để chỉ những người nô lệ. Famulus có
nghĩa là nô lệ trong gia đình và familia là chỉ toàn thể những người nô
lệ thuộc quyền sở hữu của người nào đó... Danh từ đó là do người La
Mã đặt ra để chỉ một cơ cấu xã hội mới, mà người cầm đầu giữ vợ, con
và một số nô lệ dưới quyền lực gia trưởng La Mã và có quyền sinh sát
đối với tất cả những người này [dẫn theo Hoàng Bá Thịnh, 93, tr.18].
Theo Tổ chức UNESCO (Tổ chức giáo dục khoa học và văn hóa Liên Hợp
Quốc): Gia đình là yếu tố tự nhiên và cơ bản, một đơn vị kinh tế - xã hội và là một
giá trị vô cùng quý báu của nhân loại cần được giữ gìn và phát huy. Theo đó: gia
đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng sống chung và có ngân sách
chung; các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi
về mọi mặt, được pháp luật thừa nhận.
Ở Việt Nam, theo Luật Hôn nhân và Gia đình định nghĩa tại điều 3: Giải
thích từ ngữ: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân,
quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và
quyền giữa họ với nhau” [59, tr.7]
Có thể thấy, các định nghĩa về gia đình đều có điểm chung là xác định gia
đình dựa trên ba mối quan hệ là hôn nhân, huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, các
thành viên trong gia đình chung sống cùng nhau và có quan hệ bình đẳng.
Có thể còn nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu thêm về khái niệm gia đình,
nhưng căn cứ vào tình hình chung của hôn nhân, gia đình ở nước ta, kế thừa
những cách tiếp cận hợp lý khác nhau với cách tiếp cận của chủ nghĩa xã hội khoa
học, có thể đưa ra một khái niệm về gia đình như sau: Gia đình là phạm trù dùng
để chỉ một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành và phát triển trên
cơ sở các mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng.
Các thành viên trong gia đình có sự gắn kết nhất định với nhau về trách nhiệm,
35
nghĩa vụ, quyền lợi về kinh tế, văn hóa, tình cảm; được pháp luật thừa nhận và
bảo vệ.
2.1.2.2. Quan niệm về vai trò của gia đình trong xây dựng nông thôn mới
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Vai trò là chức năng, tác dụng của cái gì hoặc
của ai trong sự vận động, phát triển của nhóm, tập thể nói chung” [136, tr.1788].
Như vậy, vai trò cũng chính là chức năng, tác dụng cơ bản. Khi xem xét vai trò
của gia đình chúng ta cũng sẽ xuất phát từ các chức năng cơ bản của gia đình, theo
đó vai trò của gia đình là sinh sản (tái sản xuất sức lao động), nuôi dưỡng và giáo
dục, kinh tế và tổ chức sản xuất và vai trò cân bằng tâm - sinh lý, tình cảm.
Vai trò sinh sản, tái sản xuất con người thể hiện chức năng đặc thù nhất của
gia đình và có ý nghĩa to lớn là cung cấp nguồn nhân lực mới, đảm bảo sự phát
triển liên tục và trường tồn của xã hội loài người. Khẳng định vai trò này,
Ph.Ăngghen cũng đã chỉ rõ: “Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong
lịch sử, quy đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản
thân sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt...; mặt
khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống” [63, tr.44]. Vai
trò này hiện nay tác động đến nguồn nhân lực, nguồn lao động của mỗi quốc gia,
ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nuôi dưỡng và giáo dục
để hình thành nhân cách của con người. Gia đình là “cái nôi”, môi trường giáo dục,
nuôi dưỡng đầu tiên và lâu dài trong cuộc đời mỗi người. Vai trò giáo dục của gia
đình không chỉ là giáo dục nhân cách mà còn là thực hiện vai trò văn hóa của gia
đình góp phần giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của gia đình,
dòng hộ, cộng đồng và dân tộc, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quốc gia; định
hướng nghề nghiệp và cũng là “pháo đài” để giữ gìn an ninh, trật tự xã hội.
Một vai trò tự nhiên, vốn có của gia đình đó là vai trò kinh tế, tổ chức đời
sống gia đình góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy kinh tế quốc gia phát triển.
Hoạt động kinh tế của gia đình bao gồm cả hoạt động sản xuất, kinh doanh và
hoạt động tổ chức tiêu dùng của gia đình. C.Mác và Ph.Ăngghen cũng quan tâm
đến vai trò kinh tế của gia đình, trong quan niệm của các ông, gia đình tham gia
vào mọi quá trình sản xuất, từ sản xuất hàng hóa đến tiêu thụ sản phẩm; từ việc
36
tái tạo ra con người đến việc đào tạo, bồi dưỡng con người; từ chỗ tạo sự khác
biệt về sở hữu đến chỗ giải quyết vấn đề sở hữu. Nhấn mạnh vai trò của gia đình
đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng, thực ra gia đình là “quan hệ xã hội duy nhất” trong buổi
đầu của lịch sử xã hội.
Tuy nhiên, giai đoạn hiện nay các quá trình sản xuất, tiêu dùng, phát triển
công nghiệp hóa, phát triển kinh tế,... đều tác động trở lại gia đình, củng cố hoặc
làm biến đổi hình thức và kết cấu gia đình. Do đó, mỗi gia đình cần chủ động tổ
chức một cách khoa học hoạt động lao động sản xuất cũng như tiêu dùng của gia
đình để vừa phát triển kinh tế gia đình, vừa đảm bảo gia đình phát triển lành mạnh,
hạnh phúc.
Gia đình còn là nơi chia sẻ, cảm thông và thỏa mãn các nhu cầu tâm lý, sinh
lý, tình cảm giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái,... quan tâm, gắn bó, duy trì tình
cảm giữa các thành viên trong gia đình. Đây là vai trò tình cảm của gia đình, củng
cố các mối quan hệ của gia đình, bảo vệ gia đình hạnh phúc, bền vững. C.Mác và
Ph.Ăngghen khi nhắc đến gia đình dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, các ông khẳng
định đó là gia đình một vợ, một chồng dựa trên cơ sở hôn nhân mới tự do và tiến
bộ, các thành viên trong gia đình đều bình đẳng, tôn trọng và yêu thương nhau,
đảm bảo cho mỗi người tự do và phát triển toàn diện. Hiện nay, thực hiện tốt vai
trò này không chỉ góp phần quan trọng đảm bảo xây dựng gia đình phát triển bền
vững, hạnh phúc, mà còn góp phần thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh.
Gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ đối với mỗi cá nhân con
người mà còn có vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của xã hội.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến vai trò của gia đình đối với
sự phát triển của xã hội. Người khẳng định: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng và
nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt
thì gia đình càng tốt hơn, hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy, muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội là phải chú ý hạt nhân cho tốt” [66, tr.300]. Tiếp tục phát
triển tư tưởng của Người trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta khẳng định “Gia đình
là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”
[31, tr.76-77].
37
Các gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc sẽ có tác động tích cực, góp phần
quan trọng tạo nên sự phát triển bền vững của kinh tế - xã hội. Gia đình không chỉ
có vai trò quan trọng trong sự phát triển xã hội mà còn là chủ thể, động lực, thiết
chế xã hội đặc thù góp phần thúc đẩy thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn, trong đó thể hiện rõ nét nhất là chương trình xây dựng
NTM hiện nay.
Từ quan niệm về xây dựng nông thôn mới, gia đình và vai trò gia đình, có
thể đưa ra quan niệm: Vai trò của gia đình trong xây dựng NTM là gia đình thực
hiện các chức năng kinh tế, giáo dục, tình cảm trong các nội dung xây dựng NTM,
được thể hiện rõ nét ở các nội dung: phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn;
phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất; giữ gìn, bảo lưu, phát triển các giá trị văn
hóa, phát triển giáo dục, đào tạo; bảo vệ môi trường; thực hiện quá trình dân chủ
hóa ở nông thôn góp phần xây dựng hệ thống chính trị, bình đẳng giới, phòng,
chống bạo lực gia đình và đảm bảo an ninh nông thôn.
2.1.2.3. Nội dung vai trò của gia đình trong xây dựng nông thôn mới
- Vai trò của gia đình trong phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội
Trong Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2015 đến 2020,
tiêu chí phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội được xác định ở nội dung thứ 2 với 8
tiêu chí (từ tiêu chí số 2 đến tiêu chí số 9), cụ thể đạt các yêu cầu sau: Hoàn thiện
hệ thống giao thông trên địa bàn thôn, xã; Hoàn thiện hệ thống thủy lợi nội đồng;
Cải tạo, nâng cấp, mở rộng hệ thống lưới điện nông thôn; Xây dựng hoàn chỉnh
các công trình đảm bảo đạt chuẩn về cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục mầm
non, phổ thông; Hoàn thiện hệ thống Trung tâm văn hóa - thể thao, Nhà văn hóa -
Khu thể thao; Hoàn thiện hệ thống chợ nông thôn, cơ sở hạ tầng thương mại nông
thôn theo quy hoạch phù hợp với nhu cầu của người dân; Xây dựng, cải tạo, nâng
cấp về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cho các trạm y tế xã; Tăng cường cơ sở vật chất
cho hệ thống thông tin và truyền thông cơ sở; Hoàn chỉnh các công trình cung cấp
nước sinh hoạt cho người dân [106].
Đảng và Nhà nước ta xác định xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn là một
trong những nhóm tiêu chí quan trọng hàng đầu trong xây dựng NTM hiện nay. Vì
thế là tiêu chí được đầu tư quan tâm mạnh nhất và đạt được hiệu quả cao, huy
38
động sự đồng thuận, tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân. Trong đó gia
đình thể hiện vai trò trong phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn ở những
nội dung sau:
Thứ nhất, gia đình tuyên truyền, động viên các thành viên tham gia đóng
góp cho phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội của NTM.
Vai trò này xuất phát từ đặc điểm của gia đình nông thôn Việt Nam đề cao
tính cộng đồng, tức là tính chi phối của tập thể gia đình đối với các thành viên, với
tinh thần vì lợi ích chung. Dễ nhận thấy rằng tính cộng đồng, tính tập thể trong gia
đìnhViệt Nam thường cao hơn, lấn át tính cá nhân - điều này khác với gia đình
phương Tây thường đề cao cái tôi cá nhân. Ngoài ra, gia đình Việt Nam còn nổi lên
tính gia tộc, dòng họ (quan hệ huyết thống), có gia phong, gia lễ,...có sự gắn bó chặt
chẽ quan hệ nhà - tộc họ - làng, nước,... Đảng và Nhà nước, chính quyền địa phương
cũng nên quan tâm đến đặc điểm này của gia đình để có sự tác động phù hợp khi vận
động các gia đình đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng cho xây dựng NTM.
Thứ hai, gia đình trực tiếp đóng góp phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội
NTM thông qua các hành động như hiến tặng đất đai, ủng hộ tiền mặt, ủng hộ
hiện vật, đóng góp ngày công,...
Các tiêu chí của phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội sẽ đạt được nhanh chóng
khi từng gia đình nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống giao thông, thủy
lợi, điện, nhà văn hóa, khu thể thao, chợ, trạm y tế, nước sạch,... trong phát triển
kinh tế - xã hội cho từng cá nhân, gia đình và xã hội. Từ đó, chính quyền vận động
gia đình thực hiện vai trò trong đóng góp xây dựng cùng với sự giúp đỡ của địa
phương, Nhà nước.
Gia đình trực tiếp đóng góp phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội NTM thông
qua các hành động thực tiễn, gia đình tự nguyện hiến tặng đất đai để mở rộng giao
thông thôn xã, tự nguyện đóng góp tiền mặt, ủng hộ hiện vật, ngày công để xây
dựng nhà văn hóa, khu thể thao, chợ thương mại,...
Thứ ba, gia đình có vai trò rất lớn trong việc bảo vệ, giữ gìn, sửa chữa, gia
tăng chất lượng hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn.
Gia đình nông thôn chính là đối tượng hưởng thụ các thành quả của xây
dựng NTM và cũng chính là đối tượng góp phần tu bổ, nâng cấp kết cấu hạ tầng
39
kinh tế - xã hội của NTM - đây vừa là nghĩa vụ, vừa là quyền lợi của các gia đình
trong xây dựng NTM. Gia đình thực hiện vai trò giáo dục, tình cảm để vận động
từng thành viên trong gia đình nhận thức được vai trò, trách nhiệm, nghĩa vụ từ đó
có những hành động cụ thể, tự giác để giữ gìn, phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội
nông thôn.
- Vai trò của gia đình trong phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất
Trong Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2015 đến 2020, nội
dung phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất phải đạt yêu cầu tiêu chí 10 về thu
nhập, tiêu chí số 11 về thực hiện xóa đói giảm nghèo, tiêu chí số 12 về tỷ lệ lao
động có việc làm thường xuyên, tiêu chí số 13 về tổ chức sản xuất trong Bộ tiêu
chí quốc gia về NTM, nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã thông qua tăng
cường năng lực tổ chức, điều hành, hoạt động, kinh doanh cho các hợp tác xã, tổ
hợp tác. Thực hiện những nội dung này có ý nghĩa tác động trực tiếp đến sự ổn
định, phát triển kinh tế của gia đình. Vai trò kinh tế, tổ chức sản xuất của gia đình
được thể hiện rõ nét nhất trong thực hiện các tiêu chí này của xây dựng NTM.
Thứ nhất, gia đình là nơi tạo ra nguồn nhân lực quan trọng phát triển kinh
tế nông thôn và xây dựng NTM.
Vai trò sinh sản - tái sản xuất con người là vai trò đầu tiên của gia đình. Ở
nông thôn, gia đình là nơi cung cấp lực lượng lao động chủ yếu cho sản xuất nông
nghiệp, cung cấp nguồn nhân lực dồi dào, quan trọng, quyết định sự thành công
trong xây dựng NTM. Sức lao động của các thành viên trong gia đình chính là lực
lượng sản xuất chính.
Tại Đại hội XII, Đảng ta đã khẳng định vai trò của gia đình đối với phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Với mục tiêu của xây dựng
NTM là không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông
thôn, xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền
vững. Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang hướng đến mô hình “Nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao” cần một nguồn nhân lực lớn, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao, gia đình chính là nơi đóng góp ban đầu, nền tảng, cung cấp,
phát triển, định hướng, giáo dục nguồn nhân lực cho xây dựng NTM hiện nay ở
nước ta.
40
Thứ hai, trong xây dựng NTM, gia đình có vai trò phát triển kinh tế, tổ
chức sản xuất, thực hiện xóa đói giảm nghèo.
Gia đình có chức năng kinh tế (tổ chức hoạt động kinh tế), “đó là đơn vị cơ
bản trong sản xuất và tích trữ của cải vật chất, là nơi định hướng các hoạt động lao
động, phân công trách nhiệm trong lao động và phân chia các sản phẩm lao động.
Hoạt động kinh tế của gia đình quyết định đời sống vật chất và tinh thần của gia
đình đó. Chức năng kinh tế là một trong những chức năng cơ bản của gia đình, nó
tạo cơ sở vật chất để gia đình tồn tại và phát triển” [48, tr.126].
Gia đình có vai trò nâng cao thu nhập cho người dân, giải quyết việc làm
thường xuyên. Nâng cao thu nhập cho người dân là một trong những tiêu chí quan
trọng, chi phối đến các tiêu chí khác trong xây dựng NTM. Chỉ khi hộ gia đình có
kinh tế ổn định, có thu nhập tốt thì người dân mới có điều kiện tham gia đóng góp
xây dựng NTM.
Gia đình còn thực hiện vai trò xóa đói giảm nghèo góp phần xây dựng
NTM. Nghị quyết số 30A/2008/NQ-CP năm 2008 của Chính phủ về Chương trình
hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo xác định: xóa đói
giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước và là sự nghiệp của
toàn dân... Cùng với sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng xã hội, sự nỗ
lực phấn đấu vươn lên thoát nghèo của người nghèo, hộ nghèo là nhân tố quyết
định thành công của công cuộc xóa đói giảm nghèo... Công cuộc giảm nghèo
nhanh, bền vững phải phát huy vai trò làm chủ của người dân từ khâu xây dựng kế
hoạch, đến tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá hiệu quả của Chương trình. Xóa
đói giảm nghèo không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước mà vai trò rất lớn
thuộc về mỗi gia đình, mỗi thành viên của gia đình nỗ lực vươn lên thoát nghèo,
nâng cao đời sống của hộ gia đình.
Thứ ba, trong xây dựng NTM, gia đình có vai trò giải quyết việc làm, đa
dạng các hình thức tổ chức sản xuất.
Sản xuất gia đình là bước sản xuất đầu tiên giải quyết việc làm cho người
lao động. Sản xuất gia đình như một đơn vị hợp tác, những nhiệm vụ được phân
công tùy theo tuổi và giới tính của các thành viên trong gia đình. Trong điều kiện
41
sản xuất nông nghiệp truyền thống, thô sơ, thủ công thì gia đình đông con, nhiều
con trai, nhiều lao động sẽ là một lợi thế để phát triển kinh tế hộ gia đình. Phương
thức tạo thu nhập, giải quyết việc làm của gia đình cũng rất đa dạng, từ nhiều
nguồn khác nhau: công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ,...
Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của CNH, HĐH thì “gia đình cũng
đang chuyển từ đơn vị sản xuất sang đơn vị tiêu dùng... Những biến đổi trong xã
hội công nghiệp tạo ra nơi làm việc tách ra khỏi nơi ở, vì vậy chức năng tái sản
xuất tách khỏi chức năng sản xuất và mang tính chuyên biệt hóa hơn” [93, tr.128].
Tuy nhiên, gia đình ở nông thôn vẫn là nơi giải quyết việc làm chính cho thành
viên gia đình cũng như cho người dân ở nông thôn, vì phương thức sản xuất hiện
nay vẫn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp hoặc các nghề thủ công truyền thống,
buôn bán, dịch vụ,...
- Vai trò của gia đình trong giữ gìn, bảo lưu, phát triển các giá trị văn hóa,
phát triển giáo dục, đào tạo và bảo vệ môi trường
Giữ gìn, bảo lưu, phát triển các giá trị văn hóa, phát triển giáo dục, đào tạo
và bảo vệ môi trường là một trong các nội dung trong nhóm tiêu chí thứ tư của xây
dựng NTM. Tiêu chí số 14, 16, 17 trong nhóm tiêu chí IV của bộ tiêu chí về xây
dựng xã NTM có đưa ra nội dung về giáo dục, đào tạo (phổ cập giáo dục mầm non
cho trẻ 5 tuổi, xóa mù chữ, phổ cập giá dục trung học cơ sở; lao động có việc làm
qua đào tạo); Văn hóa (thôn, bản, ấp đạt tiêu chuẩn văn hóa theo quy định); Môi
trường và an toàn thực phẩm (Sử dụng nước hợp vệ sinh, nước sạch theo quy
định, cơ sở sản xuất, kinh doanh, nuôi trồng thủy sản, làng nghề đảm bảo quy định
về bảo vệ môi trường, xây dựng cảnh quan, môi trường xanh - sạch - đẹp, an toàn;
mai táng theo quy định,...).
Đây cũng là nội dung gia đình thể hiện rõ nét nhất vai trò giáo dục, tình
cảm trong việc giữ gìn, bảo lưu, phát triển các giá trị văn hóa, phát triển giáo dục,
đào tạo và bảo vệ môi trường.
Thứ nhất, gia đình có vai trò giáo dục, tạo điều kiện tốt để nâng cao trình
độ dân trí cho các thành viên.
Gia đình là trường học đầu đời của mỗi con người, là môi trường xã hội hóa
đầu tiên của con người. Chính những người thân thiết như ông bà, cha mẹ, anh
42
chị,... là những người “thầy, cô giáo” đầu tiên giáo dục con người những bài học
về đạo đức, lối sống, nền nếp, gia phong, giáo dục hình thành nhân cách, giáo dục
về đạo đức, phẩm chất cho mỗi cá nhân, mỗi công dân của xã hội.
Giáo dục trong gia đình phần lớn là giáo dục dựa trên những giá trị từ kinh
nghiệm của những người lớn, giáo dục dựa trên nền tảng là tình cảm ruột thịt, tình
yêu thương gắn bó và có sự tác động thường xuyên, từ từ nên dễ tiếp nhận và sâu
sắc. “Vấn đề giáo dục con cái trong gia đình là nền tảng quan trọng cho thành
công của hệ thống giáo dục chính quy” [23, tr.122].
Vai trò giáo dục của gia đình xuất phát ngay từ chính bản chất của gia
đình, giáo dục những tri thức căn bản nhất, là nền tảng hình thành tri thức của
mỗi cá nhân từ đó có vai trò đầu tư cho con cái học tập, nâng cao trình độ, định
hướng nghề nghiệp. Trước kia ở gia đình nông thôn Việt Nam thường chỉ cần
con mình biết chữ, làm nông nghiệp tại gia, gia đình giáo dục con cái phương
thức sản xuất đơn giản, thô sơ. Cùng với quá trình CNH, HĐH, gắn với xây
dựng NTM, gia đình nông thôn Việt Nam đã nhận thức cao hơn về việc nâng cao
dân trí cho các thành viên trong gia đình, về việc đầu tư học tập và định hướng
nghề nghiệp cho con. Như vậy, việc nâng cao trình độ dân trí ở nông thôn cũng
xuất phát trước hết từ mỗi gia đình, cá nhân của các thành viên trong gia đình,
sau đó là đến nhà trường và xã hội. Đảng ta đã chỉ rõ “Gia đình là môi trường
quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách” [31, tr.76-77],
vì vậy cần “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành
mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình
thành nhân cách” [31, tr.76-77].
Thứ hai, gia đình có vai trò bảo lưu, giữ gìn, phát triển các giá trị văn hóa
dân tộc.
Những giá trị văn hóa truyền thống gia đình Việt Nam đã thấm sâu, quện
chặt vào trong mỗi thành viên của gia đình, trở thành sức mạnh tinh thần to lớn để
cho dân tộc ta vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh làm nên những
chiến thắng lừng lẫy, ghi tên Việt Nam lên bản đồ thế giới. Đó là một trong những
thành quả thể hiện những giá trị văn hóa tinh hoa của dân tộc. Gia đình chính là
43
nơi giữ gìn, bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống và xây dựng, tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại đưa đất nước đi lên, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước trong tình hình mới. Phát huy giá trị văn hóa truyền thống
dân tộc chính là nhiệm vụ của mỗi gia đình, văn hóa truyền thống gia đình không
tách rời, biệt lập với văn hóa truyền thống chung của dân tộc, mà đó là sự kế thừa,
tiếp nối, dòng chảy của văn hóa dân tộc.
Trong Bộ tiêu chí quốc gia về NTM, tiêu chí văn hóa chia làm hai loại: thứ
nhất là cơ sở vật chất văn hóa (tiêu chí 6); hai là đời sống văn hóa (tiêu chí 16).
Gia đình có vai trò trên cả hai phương diện này: Thứ nhất, về tiêu chí xây dựng cơ
sở vật chất văn hóa, gia đình đồng tình với chủ trương, chính sách, gia đình hiến
tặng đất đai, ủng hộ tiền mặt, hiện vật, tham gia đóng góp ngày công, trực tiếp xây
dựng, sửa chữa, giữ gìn, tu bổ nhà văn hóa, sân vận động, sân thể thao. Thứ hai,
gia đình còn có vai trò xây dựng đời sống văn hóa gia đình. Kế thừa, giữ gìn và
phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam gắn liền với
xây dựng những giá trị mới, tiến bộ, văn minh của gia đình trong xã hội phát triển.
Gia đình nông thôn có vai trò giữ gìn, xây dựng bản sắc văn hóa dân tộc phong
phú, đa dạng thông qua việc tích cực xây dựng gia đình văn hóa, tham gia các
buổi văn nghệ quần chúng, lễ hội truyền thống, thực hiện nếp sống văn minh trong
lễ cưới, lễ tang, lễ hội; tham gia phong trào thi đua, hội họp, sinh hoạt cộng đồng,
tham gia bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa, di tích lịch sử. Gia đình thực hiện
tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới,
phòng, chống bạo lực gia đình, ngăn chặn sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội vào
gia đình. Những hoạt động này của gia đình góp phần thực hiện nhóm tiêu chí về
văn hóa trong xây dựng NTM.
Thứ ba, gia đình đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường, môi sinh.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư số
55/2014/TT-BNNPTNT về Hướng dẫn triển khai một số hoạt động bảo vệ môi
trường trong Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010
đến 2020, gồm các nội dung sau: Xây dựng, cải tạo nâng cấp hệ thống tiêu thoát
nước, xử lý nước thải; Xây dựng các điểm thu gom, xử lý chất thải rắn; Chỉnh
trang, cải tạo nghĩa trang; Cải tạo, xây dựng các ao, hồ sinh thái, phát triển cây
44
xanh. Trong thông tư cũng chỉ rõ áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân, hộ gia
đình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn
2010 - 2020.
Môi trường sống ở nông thôn gắn chặt với từng cá nhân - đây cũng chính là
nơi tiềm ẩn nhiều bệnh tật nếu không được xử lý đúng cách, đúng quy định, sạch
sẽ, tiêu chí này cũng phục vụ cho chính đời sống của các gia đình nông thôn. Để
phát huy được vai trò của gia đình trong thực hiện tiêu chí này cần có sự định
hướng của nhà nước, hướng dẫn của các tổ chức, công ty môi trường, các chính
sách và hỗ trợ một phần nguồn vốn.
Gia đình có vai trò trong tham gia đóng góp tích cực và nhiều mặt trong
đầu tư vốn, thi công xây lắp, sản xuất thiết bị. Các gia đình thực hiện thu gom, xử
lý rác bằng các hình thức hầm biogas, hố ga lắng cặn, ao sinh hoạt, thu gom, xử lý
bằng các hình thức bể tự hoại; gia đình thu gom bằng các dụng cụ phù hợp, phân
loại rác ngay tại hộ gia đình, tự chôn lấp hợp vệ sinh các loại rác hữu cơ có thể
phân hủy tại khuôn viên các hộ gia đình. Mỗi gia đình khi có người mất, chôn cất
tại nghĩa trang có ý thức đảm bảo thực hiện theo quy hoạch của Ban quản lý và
quy chế quản lý nghĩa trang, có thể đóng góp trồng cây xanh, tiền mặt để tu bổ, cải
tạo nghĩa trang của địa phương.
Các gia đình chủ động cải tạo, xây dựng hệ thống ao, hồ trong khuôn viên,
vùng, vườn, thường xuyên nạo vét, tu bổ, tạo không gian, cảnh quan sinh thái,
điều hòa môi trường, cải tạo, xây dựng hệ thống cây xanh. Việc trồng, khai thác
các sản phẩm cây xanh hàng năm thực hiện theo đúng quy chế được xã, chính
quyền ban hành.
- Vai trò của gia đình trong thực hiện dân chủ ở nông thôn góp phần xây
dựng hệ thống chính trị cơ sở; đảm bảo bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực
gia đình
Tiêu chí số 18 của bộ tiêu chí quốc gia xây dựng NTM về xây dựng hệ
thống chính trị và tiếp cận pháp luật có các nội dung cơ bản sau: Cán bộ, công
chức xã đạt chuẩn; có đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở theo quy
định; Đảng bộ, chính quyền xã đạt tiêu chuẩn “trong sạch, vững mạnh” Tổ
45
chức chính trị - xã hội của xã đạt loại khá trở lên; xã đạt chuẩn tiếp cận pháp
luật theo quy định; đảm bảo bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình;
bảo vệ và hỗ trợ những người dễ bị tổn thương trong các lĩnh vực của gia đình
và đời sống xã hội.
Trong nội dung này, gia đình thực hiện quá trình dân chủ hóa ở nông thôn
góp phần xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; đảm bảo bình đẳng giới, phòng
chống bạo lực gia đình và bảo vệ, hỗ trợ những người dễ bị tổn thương trong các
lĩnh vực của gia đình và đời sống xã hội.
Thứ nhất, gia đình thực hiện dân chủ ở nông thôn góp phần xây dựng hệ
thống chính trị cơ sở vững mạnh.
Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh vừa là tất yếu,
vừa là mục tiêu vừa là nhân tố quyết định đến sự thắng lợi của công cuộc xây
dựng NTM. Gia đình góp phần xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh thông
qua việc thực hiện quá trình dân chủ hóa nông thôn, được thể hiện qua các nội
dung sau:
Gia đình tham gia xây dựng kế hoạch, chương trình và tổ chức thực hiện
xây dựng NTM ở địa phương. Thông qua các buổi họp cử tri hoặc cử tri đại
diện gia đình theo địa bàn từng thôn, xóm cùng bàn bạc và trực tiếp quyết định
chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi
công cộng và các công việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cư phù hợp với
quy định pháp luật; góp ý vào các chương trình, chủ trương, chính sách của
Đảng, chính quyền.
Gia đình có vai trò tham gia vào việc bàn bạc, biểu quyết để các cấp có
thẩm quyền ra quyết định như hương ước, quy ước của thôn; Bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm trưởng thôn; Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban
giám sát đầu tư của cộng đồng; Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban phát triển thôn.
Ngoài ra, các gia đình còn có vai trò quan trọng trong tham gia ý kiến trước
khi cơ quan có thẩm quyền đưa ra quyết định về “Dự thảo quy hoạch xây dựng
NTM cấp xã”, “Dự thảo đề án xây dựng NTM cấp xã”, “Dự thảo kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội cấp xã, phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản
xuất”, “Dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình, dự án trên địa bàn cấp xã,
46
chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ
tầng, quy hoạch khu dân cư...”.
Gia đình động viên, tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình phấn
đấu đứng vào hàng ngũ của Đảng Cộng sản; tích cực tham gia các buổi họp chi
bộ; tham gia và đóng góp ý kiến vào các buổi họp thôn, xóm; thực hiện tốt quy
chế dân chủ ở cơ sở; các thành viên trong gia đình tích cực tham gia các tổ chức
xã hội như Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, hội Nông dân, hội Phụ nữ,
hội Cựu chiến binh. Để xây dựng hệ thống tổ chức chính trị - xã hội trong sạch,
vững mạnh, bên cạnh việc xây dựng, chỉnh đốn tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền
ở địa phương thì cần huy động sự giúp đỡ, tham gia của quần chúng nhân dân, các
hộ gia đình.
Thứ hai, gia đình đảm bảo bình đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình.
Đây là tiêu chí mới được bổ sung vào Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng xã
NTM giai đoạn 2016 - 2020, tiêu chí này liên quan trực tiếp đến gia đình. Xã hội
càng phát triển thì việc thực hiện bình đẳng giới càng cần được quan tâm, bình
đẳng không có nghĩa là nam giới và phụ nữ hoàn toàn như nhau mà là các điểm
tương đồng và khác biệt giữa họ được thừa nhận và tôn trọng. Bình đẳng giới
trong gia đình đã được quy định trong điều 18 Luật Bình đẳng giới, theo đó bình
đẳng giới thực hiện trong gia đình là bình đẳng quyền, nghĩa vụ trong quan hệ dân
sự, quan hệ khác, trong sở hữu tài sản, chăm sóc con cái giữa vợ và chồng; bình
đẳng giữa cha mẹ và con cái; bình đẳng giữa các con cái, con trai, con gái được
gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui
chơi, giải trí và phát triển. Thực hiện bình đẳng giới là “chìa khóa” để đẩy lùi bạo
lực gia đình, các hành vi bạo lực gia đình được quy định tại khoản 2, luật phòng,
chống bạo lực gia đình ban hành năm 2007 bao gồm các hành vi bạo lực về thể
xác, tinh thần, kinh tế và tình dục.
Gia đình thực hiện vai trò giáo dục nhận thức, lối sống và văn hóa ứng xử
tốt đẹp giữa các thành viên trong gia đình, xuất phát ngay từ vợ và chồng tôn
trọng, bình đẳng với nhau, tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình được
47
phát huy mọi khả năng, bình đẳng về kinh tế, quyền dân sự, hưởng thụ các giá trị
văn hóa. Trong gia đình không có sự phân biệt đối xử giữa các con trai và con gái
tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển.
Gia đình thực hiện vai trò kinh tế, giáo dục, tình cảm để khắc phục những
nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình ở nông thôn như tư tưởng “trọng nam khinh
nữ”, tư tưởng lạc hậu, khó khăn kinh tế, tệ nạn xã hội (rượu bia, cờ bạc, nghiện
hút, mại dâm,..), thiếu hiểu biết về pháp luật…
Vai trò gia đình, sự đóng góp của mỗi thành viên trong việc thực hiện bình
đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình góp phần xây dựng xã hội an toàn lành
mạnh và phát triển là rất quan trọng. Thực hiện tiêu chí này không chỉ do các cấp,
chính quyền, các tổ chức xã hội mà cần có sự chung tay và hành động quyết liệt
của chính bản thân gia đình, nhằm hướng tới mục tiêu “xây dựng gia đình no ấm,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”.
- Vai trò của gia đình tham gia đảm bảo quốc phòng, an ninh trật tự xã hội
nông thôn
Đây là tiêu chí quan trọng trong chương trình xây dựng NTM, tạo điều
kiện thuận lợi cho người dân yên tâm lao động, sản xuất, phát triển kinh tế, tuy
nhiên, đây là tiêu chí khó giữ vững, rất dễ có sự biến động nếu chủ quan, mất
cảnh giác. Đây cũng là tiêu chí cuối cùng Chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng NTM, nhưng lại là tiêu chí rất quan trọng ảnh hưởng đến từng sự bình yên
của gia đình.
Gia đình có vai trò giáo dục các thành viên tránh xa tệ nạn xã hội, gây mất
an ninh trật tự. Nghiên cứu về tội phạm cho thấy phần lớn những người phạm tội
đều xuất thân từ những gia đình không hoàn chỉnh, thiếu sự quan tâm, giáo dục
của cha mẹ. Tình hình an ninh trật tự ở địa phương có được bảo đảm hay không
cũng là do từng “tế bào của xã hội” lành mạnh, vững vàng, tích cực bảo vệ. Tại
Đại hội XI, Đảng ta nhấn mạnh “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc thật
sự là tế bào lành mạnh của xã hội” [30, tr.77].
Xuất phát từ chức năng giáo dục, chức năng tình cảm của gia đình thì gia
đình chính là “cái nôi” đầu tiên giáo dục hình thành nhân cách cho từng công dân
48
của xã hội, động viên thành viên gia đình mình thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật của nhà nước. Gia đình còn là nguồn động viên để những người đã
phạm sai lầm nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng, trở thành người có ích cho xã
hội, hay với chức năng tình cảm mà những người phạm sai lầm ra đầu thú để nhận
sự khoan hồng của pháp luật,...
Gia đình có vai trò tích cực thực hiện “Phong trào toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc”, đấu tranh, tố giác tội phạm, phòng, chống các tệ nạn xã hội (cờ
bạc, nghiện hút, trộm cắp, mại dâm), phòng chống bạo lực gia đình, tìm hiểu hệ
thống pháp luật và không để xảy ra khiếu kiện tụ tập đông người, truyền đạo
trái phép,...
Như vậy, với 19 tiêu chí nêu ra trong Chương trình mục tiêu quốc gia về
xây dựng NTM chia thành năm nhóm nội dung đã bao quát tất cả các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở nông thôn. Việc thực hiện cuộc vận động này
không chỉ do Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương, tổ chức xã hội thực hiện
mà cần có sự chung tay của đông đảo quần chúng nhân dân, của gia đình nông
thôn - chủ thể chính xây dựng NTM.
2.2. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VÙNG
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
2.2.1. Tác động của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng đồng
bằng sông Hồng đến vai trò của gia đình trong xây dựng nông thôn mới
2.2.1.1. Những tác động thuận lợi của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã
hội vùng đồng bằng sông Hồng đến vai trò của gia đình vùng đồng bằng
sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới
Thứ nhất, vùng ĐBSH có diện tích 14.962,5 km2 (chiếm 4,5% diện tích cả
nước), dân số tính đến năm 2015 là 20.925,5 nghìn người (21,7% dân số cả nước),
mật độ 991 người/km2 (2015) [110, tr.24]. Theo quyết định số 795/QĐ-TTg về
Phê duyệt tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Hồng đến năm
2020, vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) bao gồm 11 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hưng Yên,
Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình và Quảng Ninh.
49
Vùng ĐBSH có dân cư đông đúc, có lịch sử phát triển lâu đời gắn với công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Bên cạnh đó, vùng có Thủ đô Hà Nội và các
tỉnh, thành phố quan trọng như thành phố Hải Phòng, tỉnh Quảng Ninh... đã tạo
cho vùng có vị trí, vai trò quan trọng, là vùng trung tâm đầu não về chính trị, kinh
tế, văn hóa và khoa học công nghệ của cả nước [105] tạo điều kiện thuận lợi cho
gia đình vùng ĐBSH phát huy vai trò trong xây dựng NTM.
Thứ hai, về địa hình và điều kiện tự nhiên của vùng ĐBSH.
Đồng bằng sông Hồng là một trong 7 vùng kinh tế - xã hội và là một
trong hai vựa lúa lớn nhất ở nước ta (đồng bằng sông Hồng ở phía Bắc và đồng
bằng sông Cửu Long ở phía Nam). Địa hình tương đối bằng phẳng, hướng thấp
dần từ Tây Bắc - Đông Nam; trong vùng có nhiều ô trũng (Hà Nam - Nam Định
- Ninh Bình).
Đặc trưng khí hậu của vùng là có một mùa đông lạnh (tháng 10 đến tháng
4), mùa đông cũng là mùa khô nhưng có mưa phùn. Đất đai chủ yếu là đất phù sa
màu mỡ. Vì vậy, phần lớn diện tích đất đồng bằng, đất bãi ven sông được sử dụng
trồng các loại rau vụ đông, đây cũng là thế mạnh độc đáo của vùng.
Điều kiện tự nhiên, đất đai, khí hậu tạo điều kiện thuận lợi cho gia đình
vùng ĐBSH phát triển về nông nghiệp, phát triển nông sản hàng hóa như lúa gạo,
rau tươi, quả tươi, thịt lợn, gia cầm và thủy sản, phục vụ nhu cầu cung cấp nguyên
liệu phát triển ngành công nghiệp chế biến, xuất khẩu các sản phẩm nông sản cho
xây dựng NTM.
Ngoài ra, ĐBSH nằm ở hạ lưu của Sông Hồng - Thái Bình với nhiều chi
lưu, nên mạng lưới sông ngòi rất dày đặc; ĐBSH có vùng biển khá rộng, đường
bờ biển khá dài (400 km) từ Thủy Nguyên, Hải Phòng đến Kim Sơn, Ninh Bình,
thềm lục địa mở rộng ra phía biển 500 km, có nhiều bãi triều rộng, phù sa dày là
cơ sở để phát triển ngành thủy - hải sản (tôm, rong câu)…
Về giao thông vận tải, vùng có nhiều đầu mối quan trọng nối với các tỉnh
phía Bắc và phía Nam, là cửa khẩu quốc tế hàng đầu của cả nước (sân bay Nội
Bài, cảng biển Hải Phòng). Cơ cấu ngành nghề của gia đình khiến cho cơ cấu kinh
tế của vùng đang có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng của khu vực công
nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng của khu vực nông - lâm - ngư nghiệp, trong nội
50
bộ của từng ngành cũng có sự chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH đất nước. Tạo
điều kiện thuận lợi để thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và xây dựng
NTM vùng ĐBSH.
Thứ ba, một thế mạnh của ĐBSH là dân số và nguồn lao động.
Theo Tổng cục thống kê số liệu sơ bộ năm 2015, dân số ĐBSH là 20.925,5
nghìn người, trong đó dân số nông thôn có 13.745,5 nghìn người chủ yếu là nông
dân [109]. ĐBSH là vùng có trình độ dân trí cao, trình độ tay nghề của người lao
động khá hơn so với các vùng khác, đặc biệt Hà Nội là thủ đô, trung tâm chính trị,
kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật của cả nước, có hệ thống các trường đại học,
viện nghiên cứu, cao đẳng, trung cấp,... Đây là điều kiện thuận lợi để gia đình
vùng ĐBSH nâng cao trình độ dân trí và đào tạo nghề và tạo nguồn lao động chất
lượng cao cho xây dựng NTM.
2.2.1.2. Những yếu tố cản trở việc thực hiện vai trò của gia đình vùng
đồng bằng sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới
Thứ nhất, mật độ dân số vùng ĐBSH quá cao: 994 người/km2 (trong đó cả
nước là 227 người/km2, đồng bằng sông Cửu Long là 434 người/km2) [110,
tr.85]. “Đặc điểm đất chật người đông dẫn đến lao động dư thừa, việc làm thiếu ở
cả hai khu vực nông thôn và thành thị”[51, tr.30]. Tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn là
1,94%, tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn là 1,99%. “Lao động thiếu việc làm ở khu
vực nông thôn vừa nhiều vừa tăng nhanh dẫn đến thu nhập và tích lũy của dân cư
nông thôn, nhất là nông dân vùng này thấp, nguồn vốn trong dân đầu tư cho tạo
việc làm mới ngoài nông nghiệp hạn chế so với vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng
sông Cửu Long” [51, tr.31]. Điều này gây khó khăn cho việc gia đình vùng ĐBSH
thực hiện tiêu chí giải quyết việc làm trong xây dựng NTM.
Thứ hai, đại bộ phận dân cư ở nông thôn vùng ĐBSH chủ yếu thạo nghề
làm nông nghiệp. Nhiều địa phương trong vùng dân số, lao động ở khu vực nông
thôn và làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao, trên 82% (ở Hải
Dương chiếm 86,8%; Hưng Yên chiếm 84%, Vĩnh Phúc chiếm 87,7%) [110,
tr.96-97] lại có xu hướng tăng dần làm cho tình trạng dư thừa lao động nông
nghiệp, thiếu việc làm trong các hộ nông dân trở thành phổ biến và nghiêm trọng.
51
chủ yếu lao động làm nghề thuần nông (làm ruộng, trồng màu, cây ăn quả,...) hoặc
nghề truyền thống, buôn bán nhỏ. Đây là khó khăn cho gia đình vùng ĐBSH khi
phát triển các ngành nghề công nghiệp, dịch vụ hoặc ứng dụng công nghệ cao
trong sản xuất nông nghiệp để thực hiện xây dựng NTM tại vùng.
Thứ ba, đất nông nghiệp một số tỉnh vùng ĐBSH bị thu hồi trở nên manh
mún và phân tán trong nhiều hộ gia đình dẫn đến khó khăn trong quá trình cơ giới
hóa, điện khí hóa nông nghiệp, thực hiện chủ trương “Cánh đồng lớn” trong xây
dựng NTM.
“Hiện trạng đất đai, độ an toàn của quỹ đất nông nghiệp liên quan tới chiến
lược an toàn lương thực của vùng ĐBSH trở thành một tình huống trong phát triển
bởi như nhiều người đã nhận định: đất đai vùng ĐBSH đang thu hẹp lại “miếng da
lừa”” [51, tr.33]. Điều này dẫn đến tình trạng khiếu kiện, tranh chấp đất đai, thậm
chí trở thành “điểm nóng” ở nhiều tỉnh vùng ĐBSH như Mỹ Đức (Hà Nội), Nam
Định, Vĩnh Phúc,...Hạn chế này cùng với khó khăn về thiếu vốn, thiếu năng lực
trong tổ chức, quản lý và điều hành các hoạt động công nghiệp và dịch vụ nên làm
chậm quá trình chuyển dịch cơ cấu trong xây dựng NTM.
Thứ tư, điểm xuất phát về kinh tế vùng ĐBSH tuy có cao hơn các vùng
khác nhưng nhìn chung còn thấp, tốc độ tăng trưởng GDP và tốc độ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa còn chậm. Tốc độ tăng trưởng của các
địa phương trong vùng không đồng đều, vẫn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp hoặc
các làng nghề thủ công, nói chung kinh tế còn kém phát triển. Tác động mặt trái
của CNH, HĐH và phát triển của ngành nghề,.. đang diễn ra ở nhiều nơi rất
nghiêm trọng, gây khó khăn cho hoàn thiện các tiêu chí của xây dựng NTM.
Quá trình CNH, HĐH còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến việc xây dựng
NTM đã được thực hiện nhưng đến nay vẫn chưa tạo được những bước phát triển
bền vững cho ngành công nghiệp, dịch vụ và kinh tế hộ gia đình vùng ĐBSH.
Tóm lại, ĐBSH là một trong những vùng được thiên nhiên ưu đãi, có điều
kiện vị trí địa lý thuận lợi. Nông thôn vùng ĐBSH hiện nay còn nhiều khó khăn
nhưng cũng là vùng có nhiều tiềm năng phát triển, đời sống văn hóa, lịch sử lâu
đời, nguồn lực tự nhiên, nguồn nhân lực được ưu đãi hơn các vùng khác. Những
52
điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội này cũng ảnh hưởng đến phương thức sinh hoạt,
sản xuất, kinh tế, đời sống, tập quán của gia đình vùng ĐBSH. Điều này cũng tác
động đến việc gia đình vùng ĐBSH phát huy vai trò trong xây dựng NTM.
2.2.2. Tác động từ đặc điểm gia đình vùng đồng bằng sông Hồng tới
xây dựng nông thôn mới hiện nay
2.2.2.1. Đặc điểm về quy mô, tình trạng hôn nhân
Về quy mô và tình trạng hôn nhân, gia đình vùng ĐBSH có quy mô nhỏ
nhất so với các vùng khác; tỷ lệ không kết hôn đang có xu hướng tăng.
Quy mô trung bình một gia đình Việt Nam 3,7 người/ hộ, trong đó Trung
du miền núi phía Bắc là 3,9 người/ hộ, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung,
vùng đồng bằng sông Cửu Long là 3,7 người/ hộ, Tây Nguyên là 4,0 người/ hộ,
Đông Nam Bộ là 3,6 người/hộ, vùng ĐBSH là 3,5 người/ hộ (khu vực nông thôn
ĐBSH là 3,4 người/hộ) [111, tr.22]. Như vậy, so với cả nước và các vùng khác,
gia đình vùng ĐBSH có quy mô nhỏ nhất. Điều này cho thấy gia đình nông thôn
vùng ĐBSH đã chuyển dần mô hình gia đình truyền thống (ở đông người, nhiều
thế hệ trong một nhà) sang mô hình gia đình hiện đại ít người, có thể do hiện nay
người dân ở nông thôn có xu hướng thoát ly sớm, làm việc ở thành thị, từ đó chất
lượng cuộc sống của hộ gia đình nông thôn được nâng cao.
Tình trạng hôn nhân trong gia đình của vùng ĐBSH cũng có những điểm
riêng biệt, tỷ trọng gia đình kết hôn có vợ/chồng cao chiếm 71,4% trong khi đó ở
Đông Nam Bộ là 61,7% và Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là 66,4%
[110,tr.34]. Tình trạng không kết hôn (góa) ở vùng ĐBSH cũng cao hơn các vùng
khác chiếm 7,4% đứng thứ hai trong cả nước, Tây Nguyên chiếm 5,5%, Đông
Nam Bộ chiếm 5,9%, đồng bằng sông Cửu Long chiếm 6,8% [109, tr.34]. Gia
đình vùng ĐBSH vẫn chủ yếu là “gia đình đủ” (có vợ/ chồng), tỷ lệ ly hôn (chiếm
1,2%), ly thân (chiếm 0,4%) tương đối thấp. Điều này cho thấy người dân ở
ĐBSH đề cao vai trò của gia đình và gia đình có ảnh hưởng lớn đến mỗi người.
2.2.2.2. Đặc điểm về cơ cấu ngành nghề
Cơ cấu ngành nghề gia đình nông thôn vùng ĐBSH chủ yếu là sản xuất
nông nghiệp, thu nhập hộ gia đình vẫn đang còn thấp.
53
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu nghề nghiệp chính của hộ gia đình
vùng đồng bằng sông Hồng
Nguồn: Số liệu khảo sát 6 tỉnh vùng ĐBSH năm 2017
Qua khảo sát tại các hộ gia đình vùng ĐBSH năm 2017 cho thấy cơ cấu
ngành nghề những hộ gia đình sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ lệ tương đối cao, ví
dụ như Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, trong khi đó những vùng như Hà Nội
(qua khảo sát ở huyện Chương Mỹ, huyện Đan Phượng), Quảng Ninh, Hải Phòng
thì ngành nghề chính của chủ hộ gia đình là tiểu thủ công nghiệp hoặc buôn bán,
dịch vụ nhỏ.
Qua khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2014 của Tổng cục thống kê,
tỷ lệ hộ nghèo của vùng ĐBSH có xu hướng giảm (năm 2010 là 8,3%, năm 2012
là 6,0%, năm 2014 giảm còn 4,0%) [109, tr.19], so với các vùng trong cả nước là
đứng thứ hai (xem phụ lục 1). Đây là một chuyển biến tốt cho thấy mức sống của
dân cư ĐBSH đã có thay đổi, mặc dù là vùng có dân số lớn nhưng tốc độ phát
triển của các hộ gia đình vùng ĐBSH so với cả nước là cao hơn.
Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu của xây dựng NTM thì kinh tế hộ gia đình
vùng ĐBSH còn gặp rất nhiều khó khăn và thách thức như chênh lệch lớn về năng
suất lao động giữa công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp. Mức thu nhập bình quân
của các hộ nông nghiệp vẫn thấp nhất so với các vùng trong cả nước (khoảng
1,073 triệu đồng). Từ đó nhiều hộ gia đình đã phải dịch chuyển sang các nghề phi
54
nông nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm của lực lượng lao động trong độ
tuổi năm 2015 phân theo vùng của ĐBSH còn khá cao (tỷ lệ thất nghiệp là 2,42%,
tỷ lệ thiếu việc làm là 1,60%) cao hơn với tỷ lệ chung của cả nước (2,33%, 1,89%)
[110, tr.155],...
2.2.2.3. Đặc điểm về đời sống văn hóa gia đình
Thứ nhất, gia đình vùng ĐBSH có đời sống văn hóa tinh thần phong phú đa
dạng, nền nếp, gia phong, có tính giáo dục cao.
ĐBSH là vùng đất lịch sử lâu đời của người Việt, nơi khai sinh của các
vương triều Đại Việt, đồng thời cũng là quê hương của các nền văn hóa Đông
Sơn, Thăng Long - Hà Nội. Đây là cái nôi hình thành văn hóa, văn minh Việt từ
buổi ban đầu và đến hiện nay, cũng là vùng bảo lưu những giá trị văn hóa truyền
thống. Trên đường đi tới xây dựng một nền văn hóa hiện đại, đậm đà bản sắc văn
hóa dân tộc, văn hóa vùng ĐBSH chứa đựng nhiều tiềm năng cần phải khai thác
và phát huy. Nơi lưu trữ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa chính là các
gia đình, dòng họ... Những nét văn hóa đó vẫn được lưu truyền ở các gia đình
trong làng quê người Việt và được thể hiện đậm nét trong đời sống văn hóa tinh
thần của người nông dân vùng ĐBSH.
Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam nói chung và gia đình vùng
ĐBSH nói riêng được hình thành và phát triển với những chuẩn mực giá trị tốt
đẹp góp phần xây dựng bản sắc văn hóa dân tộc. Hiện nay, phong trào xây dựng
gia đình văn hóa được sự ủng hộ mạnh mẽ từ nhân dân. Trong quá trình xây
dựng gia đình văn hóa, các gia đình vùng ĐBSH luôn biết giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, lấy gia đình làm “pháo đài” chống lại sự xâm nhập của
các tệ nạn xã hội và mặt trái của cơ chế thị trường. Muốn lấy văn hóa là một
trong những mũi nhọn để xây dựng NTM vùng ĐBSH, thì phải xuất phát từ
chính gia đình. Gia đình là cái nôi kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống tốt đẹp vừa kết hợp với những giá trị tiên tiến hiện đại, hướng tới
mục tiêu làm cho gia đình là tế bào lành mạnh của xã hội và cũng là nơi xây
dựng nền văn hóa nông thôn bền vững.
55
Không chỉ là nơi lưu giữ, giáo dục văn hóa, gia đình vùng ĐBSH còn là nơi
giáo dục, hình thành nhân cách, lối sống cho mỗi người. Trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển
năm 2011), Đảng ta khẳng định: Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng cả đời người, là
môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Trong một đời
người, con người sống lâu nhất trong gia đình và chịu ảnh hưởng từ gia đình sâu
sắc nhất trong việc hình thành nhân cách. Cách giáo dục của gia đình bằng nền
nếp, truyền thống, bằng tình yêu thương, nêu gương... [31].
Hiện nay, trước sự tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường và sự phát triển
CNH, HĐH thì gia đình càng đóng vai trò lớn lao trong việc giữ gìn những giá trị
truyền thống, giáo dục đạo đức con người. Gia đình cùng“chung sức xây dựng
NTM” thông qua các phong trào thi đua như sản xuất, kinh doanh giỏi, xóa đói
giảm nghèo; “ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền”, “nuôi con khỏe, dạy
con ngoan”,....
Thứ hai, gia đình nông thôn vùng ĐBSH trọng tình nghĩa, tính cố kết cộng
đồng, dòng họ chặt chẽ, coi trọng các quan hệ huyết thống.
Gia đình vùng ĐBSH chịu ảnh hưởng lớn bởi tính chất gia tộc, dòng họ
(quan hệ huyết thống), gia đình còn là một cộng đồng lớn hơn, có nhà thờ họ, có
gia phong, gia lễ, gia quy,... Ngoài ý nghĩa “hộ gia đình” thì gia đình nông thôn ở
vùng ĐBSH có nghĩa hiểu khác nữa là gia tộc, tức là một cộng đồng người có
quan hệ huyết thống dòng họ gắn bó chặt chẽ với nhau, thể hiện tinh thần đùm
bọc, yêu thương nhau, hỗ trợ nhau về vật chất và tinh thần và cũng có sự ảnh
hưởng, tác động lẫn nhau về thái độ cũng như hành động đối với các cộng đồng.
Đây là cơ sở để củng cố khối đoàn kết toàn dân, là động lực của các phong trào
như: phong trào nông dân sản xuất kinh doanh giỏi, phong trào xóa đói giảm
nghèo, nhất là phong trào xây dựng NTM cần có sự ủng hộ, đóng góp lớn của gia
đình, cộng đồng.
Tuy vậy, tính cộng đồng của gia đình nói riêng và vùng ĐBSH nói chung
được hình thành trên cơ sở nền kinh tế tiểu nông, khép kín, không khoa học nên
cũng có những hạn chế nhất định, nhất là sự thủ tiêu ý thức cá nhân, con người
56
hòa tan vào cộng đồng, lệ thuộc vào cộng đồng. Tạo ra tâm lý ỷ lại “dĩ hòa vi
quý”, “cha chung không ai khóc”của các gia đình vùng ĐBSH, không phát huy
được khả năng của từng gia đình; hoặc sinh tâm lý sống an toàn “nước nổi bèo
nổi”, cào bằng, trung bình chủ nghĩa, đố kỵ,... Điều này cũng gây khó khăn, hạn
chế việc phát huy vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong quá trình thực hiện xây
dựng NTM.
Thứ ba, gia đình vùng ĐBSH có truyền thống đấu tranh xây dựng và bảo vệ
làng, xã.
Ngay từ buổi sơ khai, gia đình vùng ĐBSH đã phải linh hoạt trong ứng xử
với tự nhiên, sống hài hòa với tự nhiên; trong ứng xử xã hội, thường phải đối phó
với các cuộc chiến tranh xâm lược nên có truyền thống đấu tranh xây dựng và
bảo vệ làng, xã.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ĐBSH là
chiến trường nóng bỏng, nơi đọ sức quyết liệt giữa ta và địch vì vậy mỗi thôn
xóm thành một pháp đài, mỗi người dân là một chiến sĩ anh dũng, chiến đấu
ngay trong lòng địch, mỗi gia đình đều dốc sức, dốc của tham gia chiến đấu giữ
làng, giữ xóm. Hàng trăm thôn, xã vang dội những chiến công như: Nguyên Xá
(Thái Bình), Tam Nông (Hưng Yên), Liên Minh (Nam Định),... cùng với đó là
các địa danh nổi tiếng như Đường 10 quật khởi, “Cát Bi rực lửa”,... Các gia đình
vùng ĐBSH cũng phát huy truyền thống trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Đến nay, trong công cuộc đổi mới của đất nước, gia đình vùng ĐBSH vẫn
phát huy được truyền thống cách mạng, hun đúc nên truyền thống văn hóa tốt
đẹp của các gia đình: Cần cù, hiếu học, thông minh, dũng cảm, yêu nước và cách
mạng. Từ đó, tinh thần cách mạng cũng được gia đình vùng ĐBSH phát huy
trong đấu tranh phòng, chống tiêu cực, tham ô, tham nhũng ở địa phương hiện
nay, góp phần đảm bảo an ninh trật tự, xã hội.
Đây là những đặc điểm cơ bản của gia đình vùng ĐBSH. Đảng, Nhà nước
và chính quyền địa phương cần tìm hiểu những đặc điểm này để phát huy những
thế mạnh, đồng thời khắc phục, điều chỉnh những hạn chế để gia đình vùng ĐBSH
phát huy hơn nữa vai trò trong xây dựng NTM thời gian tới.
57
2.2.3. Tác động nhận thức của người dân, chính quyền về vai trò của
gia đình vùng đồng bằng sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM là chương trình lớn,
có tầm quan trọng tác động trực tiếp đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, và cũng tác động lớn đến đời sống vật chất và tinh thần của mỗi cá nhân
người dân, gia đình nông thôn. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta xác định nguyên
tắc tiên quyết đó là: xây dựng NTM là sự nghiệp của toàn dân, là trách nhiệm
và quyền lợi thiết thực của mỗi người dân nông thôn. Đây là chương trình phục
vụ chính người dân hay nói cách khác là phục vụ chính các thành viên trong gia
đình nên người dân phải là chủ thể xây dựng, vai trò của từng gia đình phải
được phát huy.
Để người dân và chính quyền nhận thấy được việc xây dựng NTM không
phải chỉ là việc của chính quyền, tổ chức chính trị hay mỗi cá nhân mà còn có sự
ủng hộ của một thiết chế xã hội đặc thù có ảnh hưởng rất lớn đến từng cá nhân -
đó là gia đình. Chương trình xây dựng NTM phục vụ cuộc sống của gia đình nên
các gia đình phải là chủ thể trực tiếp thực hiện, trực tiếp hưởng thụ và cũng trực
tiếp xây dựng, tu sửa và giữ gìn nhưng phải có sự ủng hộ, động viên, đồng lòng
của gia đình thì mới có thể phát huy hết được sức mạnh.
Việc nâng cao nhận thức từ chính quyền, đoàn thể và người dân sẽ tạo sự
chuyển biến trong hành động không chỉ của cá nhân mà với toàn xã hội trong xây
dựng NTM. Bên cạnh đó, từ việc nâng cao nhận thức sẽ tránh được tình trạng gia
đình nông thôn trông chờ, ỉ lại vào sự đầu tư của Nhà nước khi triển khai những
công trình của chính mình.
Muốn thực hiện thành công bất kỳ đường lối, chính sách nào trước hết phải
xuất phát từ chính nhận thức, nhận thức có đúng, hoàn chỉnh thì khi thực hiện mới
đạt hiệu quả cao. Vì vậy, muốn phát huy được vai trò của gia đình cần phải nâng
cao nhận thức của nhân dân, chính quyền và xã hội phải thấy được vai trò, vị trí,
trách nhiệm to lớn của gia đình trong xây dựng NTM.
58
2.2.4. Tác động của cơ chế, chính sách đến việc thực hiện vai trò của
gia đình vùng đồng bằng sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới
Chính sách là do một chủ thể quyền lực hoặc chủ thể quản lý đưa ra, được
ban hành căn cứ vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế, được sắp xếp,
tổ chức thực hiện và bao giờ cũng hướng đến một mục đích nhất định; nhằm thực
hiện một mục tiêu nào đó. Cơ chế, chính sách được ban hành đều có sự tính toán
và chủ đích rõ ràng. Từ thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta đưa ra cơ chế, chính sách
để vận động gia đình vùng ĐBSH phát huy vai trò trong xây dựng NTM.
Ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã khẳng định:
Gia đình là tế bào của xã hội, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp
xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, con người mới. Đảng, Nhà nước
và các đoàn thể quần chúng cần đề ra phương hướng, chính sách và có
biện pháp tổ chức thực hiện về xây dựng gia đình văn hóa mới, bảo
đảm hạnh phúc gia đình [34, tr.429-tr.430].
Muốn xây dựng NTM thành công cần có những cơ chế, chính sách phù hợp
thu hút sự quan tâm, đóng góp của tất cả các tầng lớp nhân dân, tổ chức chính trị,
xã hội. Với một thiết chế xã hội đặc thù như gia đình thì cơ chế, chính sách của
Đảng và Nhà nước là cần thiết để huy động được sự tham gia nhiệt tình, tự giác
vào phong trào xây dựng NTM.
Cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước, chính quyền địa phương đúng
đắn, phù hợp sẽ có tác động rất lớn đến gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng
NTM. Đảng và Nhà nước hoạch định, xây dựng được những chủ trương, biện
pháp, đường lối, chính sách phù hợp sẽ lôi cuốn, động viên, thu hút được đông
đảo các hộ gia đình tham gia đóng góp xây dựng NTM.
Những cơ chế chính sách về xây dựng NTM cần thiết để phát huy vai trò
của gia đình trong xây dựng NTM như: Cơ chế về huy động vốn từ hộ gia đình
để xây dựng NTM; rà soát sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách thu hút đầu tư
phát triển nông nghiệp, nông thôn tập trung vào các lĩnh vực sản xuất theo các
mô hình: kinh tế hợp tác, kinh tế trang trại, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ,
59
các hình thức liên kết, ưu tiên các dự án phát triển nông nghiệp, công nghệ cao,
chế biến hàng nông sản và các dự án sử dụng nhiều lao động để tạo việc làm và
nâng cao thu nhập cho gia đình nông thôn; cơ chế thực hành dân chủ: dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng; Chính sách hỗ trợ thiệt hại để
khôi phục sản xuất do thiên tai, dịch bệnh. Xây dựng chính sách thu hút cán bộ
kỹ thuật, cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học về công tác tại xã để hỗ trợ cho bà
con nông dân; cơ chế, chính sách xây dựng gia đình văn hóa. Ngoài ra, cần có cơ
chế động viên, khen thưởng kịp thời đối với các gia đình tích cực tham gia xây
dựng NTM, từ đó gây dựng thành các điển hình tiên tiến, tuyên dương để có sức
lan tỏa trong cộng đồng.
Như vậy, cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước có tác động hai mặt
đến gia đình vùng ĐBSH vùng xây dựng NTM, cơ chế, chính sách đúng, phù hợp
thì sẽ phát huy được vai trò của gia đình và ngược lại nếu cơ chế, chính sách
không phù hợp hoặc chưa có cơ chế, chính sách để vận động gia đình tham gia thì
xây dựng NTM sẽ không thể thành công.
2.2.5. Tác động bởi đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cách
mạng khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế đến việc thực hiện vai trò của
gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng nông thôn mới
Đảng và Nhà nước ta hiện nay đang đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 23/NQ-TƯ ngày 22/3/2018 về định
hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm
nhìn đến năm 2045, trong đó xác định mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam hoàn
thành mục tiêu CNH, HĐH, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại... Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển
hiện đại.
Trước hết, tác động tích cực quá trình đô thị hóa, CNH, HĐH đất nước,
cuộc cách mạng khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế đến gia đình vùng
ĐBSH. Quá trình này giúp gia đình vùng ĐBSH tiếp cận với khoa học, công nghệ
tiên tiến, hiện đại, tiếp nhận và ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ trong
60
quá trình sản xuất như giống cây trồng, vật nuôi, kỹ thuật sản xuất, bảo quản, vận
chuyển, mô hình trang trại,... tạo điều kiện thuận lợi để gia đình thực hiện ứng
dụng công nghệ cao trong xây dựng NTM.
Quá trình đô thị hóa, CNH, HĐH đất nước, việc ứng dụng thành tựu của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ vào sản xuất giúp cải thiện thu nhập cho gia
đình vùng ĐBSH, đời sống gia đình được nâng cao hơn thúc đẩy thực hiện công
tác xóa đói giảm nghèo, chính sách an sinh xã hội cho xây dựng NTM; bên cạnh
đó còn mở ra cho gia đình vùng ĐBSH nguồn lực về vốn với nhiều loại hình như
ngân hàng, tín dụng, các quỹ hoặc các doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm,... Nguồn
vốn này đã hỗ trợ cho kinh tế gia đình vùng ĐBSH phát triển tạo điều kiện thực
hiện nhóm tiêu chí thứ ba của xây dựng NTM.
Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đã làm cơ cấu ngành nghề
đa dạng hơn, các sản phẩm thủ công nghiệp, ngành nghề truyền thống được phục
hồi, từ đó giải quyết lao động tại chỗ cho các hộ gia đình, giải quyết việc làm
cho thành viên trong gia đình. Cùng với đó, quá trình hội nhập quốc tế mở ra
nhiều cơ hội việc làm cho người dân, thành viên gia đình vùng ĐBSH có điều
kiện tiếp cận đến gia đình tốt hơn; có cơ hội tìm kiếm việc làm và xuất khẩu lao
động ra các nước trên thế giới, từ đó nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
gia đình vùng ĐBSH.
Ngoài ra, thành tựu của quá trình CNH, HĐH, khoa học công nghệ làm
thay đổi về kết cấu hạ tầng nông thôn, nâng cao đời sống cho gia đình vùng
ĐBSH phát triển toàn diện. Kết cấu hạ tầng nông thôn gồm đường giao thông,
mạng lưới điện, thủy lợi, nước sạch, bưu chính viễn thông, mạng internet và các
dịch vụ khác. Thành tựu quan trọng này của quá trình CNH, HĐH làm cho đời
sống gia đình vùng ĐBSH được cải thiện hơn, thuận lợi hơn trong quá trình sản
xuất, tiêu thụ sản phẩm, hội nhập quốc tế, gia đình tích cực tham gia hoàn thiện
tiêu chí xây dựng NTM.
Quá trình CNH, HĐH, hội nhập quốc tế làm thay đổi khá căn bản đời sống
gia đình nông thôn vùng ĐBSH theo hướng văn minh, hiện đại, mở cửa hội nhập,
61
không còn khép kín sau lũy tre làng. Thay đổi trước hết về nghề nghiệp, thu nhập
của gia đình, cùng với đó là tạo điều kiện cho có cơ hội giao lưu, hội nhập, tiếp
cận với lối sống văn minh hiện đại, có cơ hội giao lưu bên ngoài. Do đó, thay đổi
nếp sống, tư duy, tác phong công nghiệp được nâng cao hơn, lối sống văn minh,
hiện đại, mở rộng hơn trong xây dựng NTM vùng ĐBSH.
Tuy nhiên, mặt trái của quá trình đô thị hóa, CNH, HĐH, hội nhập quốc tế
cũng tác động tiêu cực đến việc gia đình vùng ĐBSH thực hiện vai trò trong quá
trình xây dựng NTM.
Tình trạng đất nông nghiệp bị thu hẹp làm cho một bộ phận gia đình nông
thôn vùng ĐBSH không có đất canh tác, không có việc làm tại chỗ dẫn đến tình
trạng ly nông, ly hương. Quá trình đô thị hóa, CNH, HĐH cho thấy các khu công
nghiệp, khu đô thị, khu chế xuất,... được xây dựng, đất nông nghiệp bị thu hẹp,
hoặc người dân bỏ làm nông để làm tại các khu công nghiệp. Tình trạng này dẫn
đến nhiều hệ lụy như mâu thuẫn trong quá trình thu hồi đất, đền bù mặt bằng,
người dân không có trình độ bị thất nghiệp, thiếu việc làm. Các thành viên đi làm
xa gia đình dễ bị cám dỗ, dẫn đến nguy cơ sa vào tệ nạn xã hội, gây khó khăn cho
xây dựng NTM.
Bên cạnh việc phát triển của hệ thống ngân hàng, tín dụng,... cũng nảy sinh
hình thành các tín dụng đen, cho vay nặng lãi, lừa đảo sự cả tin, hám lợi trước mắt
của một bộ phận người dân nông thôn dẫn đến tình trạng gia đình bị rơi vào cảnh
nợ nần, trắng tay, gây mất an ninh trật tự xã hội ở địa phương.
Cùng với đó, quá trình CNH, HĐH cũng đang tác động tiêu cực đến lợi ích
kinh tế của gia đình. Kinh tế gia đình nông thôn vùng ĐBSH cơ bản vẫn là kinh tế
tự phát, không có quy hoạch đồng bộ thiếu nhất quán, khiến cho kinh tế trong xây
dựng NTM còn tồn tại manh mún, chưa hiệu quả, chưa đi vào chiều sâu và thiếu
tính bền vững.
Mặt trái của đô thị hóa, CNH, HĐH dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường
tăng cao, phá vỡ môi trường sống của nông thôn vùng ĐBSH, dẫn đến tình trạng
sức khỏe của thành viên gia đình vùng ĐBSH bị ảnh hưởng, tỷ lệ ung thư tăng lên,
vô sinh,...
62
Quá trình hội nhập quốc tế diễn ra cũng làm cho việc thực hiện các chức
năng của gia đình vùng ĐBSH bị phá vỡ. Tỷ lệ bố mẹ trong độ tuổi lao động đi
xuất khẩu lao động ở nước ngoài tương đối nhiều, dẫn đến việc giáo dục con cái
không được đảm bảo; tội phạm tuổi vị thành niên có xu hướng tăng. Mặt trái của
quá trình hội nhập cũng ảnh hưởng không tốt đến văn hóa gia đình vùng ĐBSH,
kết cấu gia đình lỏng lẻo, đạo đức gia đình suy thoái; tình trạng ly hôn, không kết
hôn tăng lên. Đây là hậu quả chung của quá trình CNH, HĐH, hội nhập quốc tế, vì
vậy, gia đình phải là thành trì vững chắc để giữ gìn văn hóa gia đình, giáo dục
phẩm chất đạo đức của các thành viên trong gia đình.
Như vậy, trong khi đất nước đã có những chuyển biến về mọi mặt, đời sống
của nhân dân được cải thiện thì quá trình đô thị hóa, CNH, HĐH, hội nhập quốc tế
có tác động hai chiều đến gia đình vùng ĐSBH, vừa làm cho gia đình phát huy
được vai trò, vừa nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc cần sớm được khắc phục trong
quá trình xây dựng NTM. Vì vậy, cần phải có những chính sách cụ thể, phù hợp
để đảm bảo lợi ích cho gia đình trong xây dựng NTM.
Tiểu kết chương 2
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, được hình thành và phát triển trên
cơ sở các mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, có
vai trò quan trọng đối với sự phát triển, thành bại của một quốc gia. Gia đình ở
nông thôn có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn ở Việt Nam mà thể hiện rõ nét nhất hiện nay là chương trình xây dựng NTM,
được triển khai sâu rộng trên khắp cả nước từ năm 2010 đến nay.
Căn cứ Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM và các vai trò của gia đình,
luận án xây dựng khung lý thuyết về vai trò của gia đình trong xây dựng NTM tập
trung ở năm nội dung cơ bản sau: phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn;
phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất; giữ gìn, bảo lưu, phát triển các giá trị văn
hóa, phát triển giáo dục, đào tạo; bảo vệ môi trường; thực hiện quá trình dân chủ
63
hóa ở nông thôn góp phần xây dựng hệ thống chính trị, bình đẳng giới, phòng,
chống bạo lực gia đình và đảm bảo an ninh nông thôn.
Đồng bằng sông Hồng là một trong những vùng đi đầu trong xây dựng
NTM, gia đình nông thôn vùng ĐBSH đã và đang tích cực tham gia góp phần cho
vùng nhanh chóng đạt được các tiêu chí NTM. Tuy nhiên, hiện nay nhiều yếu tố
tác động đến việc thực hiện vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng
NTM. Trong đó có điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng ĐBSH; đặc điểm gia
đình vùng ĐBSH; nhận thức của người dân, của chính quyền về vai trò của gia
đình; tác động của cơ chế, chính sách để vận động gia đình vùng ĐBSH phát huy
vai trò trong xây dựng NTM và tác động từ quá trình đô thị hóa, CNH, HĐH, cách
mạng khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế.
Đây chính là cơ sở để luận án đưa ra những quan điểm, giải pháp phát huy
hơn nữa vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM ở giai đoạn tiếp
theo,với mục tiêu đưa các tỉnh vùng ĐBSH nhanh chóng “cán đích” NTM, và xây
dựng NTM một cách bền vững, đi vào chiều sâu, đáp ứng nhu cầu, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho gia đình vùng ĐBSH.
64
Chương 3
VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY -
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VÙNG ĐỒNG
BẰNG SÔNG HỒNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY VÀ
NGUYÊN NHÂN
3.1.1. Thực trạng thực hiện vai trò của gia đình vùng đồng bằng sông
Hồng trong xây dựng nông thôn mới hiện nay
3.1.1.1. Thực trạng thực hiện vai trò của gia đình vùng đồng bằng sông
Hồng trong phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội
Xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội là tiêu chí được đầu tư quan tâm nhiều
nhất của ĐBSH khi thực hiện xây dựng NTM và cũng là tiêu chí dễ đánh giá, dễ
nhận thấy, nhất là xây dựng hệ thống giao thông, thủy lợi, điện, nhà văn hóa, khu
thể dục thể thao, nhà ở,... Đối với tiêu chí này, gia đình nông thôn vùng ĐBSH đã
và đang tích cực tham gia xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn khang trang
hơn, sạch đẹp hơn.
Thời gian qua, gia đình vùng ĐBSH đã tích cực tham gia xây dựng hệ
thống giao thông, thủy lợi, công trình cung cấp điện thông qua các hoạt động thiết
thực như hiến đất làm đường, ủng hộ hiện vật, ủng hộ ngày công lao động,...
Chính quyền địa phương vùng ĐBSH đã tích cực vận động gia đình tham
gia xây dựng đường làng, ngõ xóm, từ đó có nơi đã trở thành những phong trào,
thu hút được đông đảo gia đình ủng hộ như “Phong trào làm đường giao thông
nông thôn”, phong trào “Toàn dân chung sức xây dựng NTM”,...
Gia đình vùng ĐBSH đã đồng tình và tự nguyện đóng góp cho xây dựng hạ
tầng giao thông, hạ tầng thủy lợi, hạ tầng điện của địa phương với nhiều hình thức
từ hiến tặng đất đai, ủng hộ hiện vật, ủng hộ tiền mặt, đóng góp công lao động đến
tham gia giữ gìn, sửa chữa tu bổ, nhất là đối với hạ tầng giao thông và hạ tầng
thủy lợi, các hộ còn tích cực tham gia giữ gìn, sửa chữa, tu bổ các hạ tầng sau khi
đã xây dựng. Trong đó, hạ tầng giao thông (xây dựng đường làng, ngõ xóm,
65
đường giao thông thôn, xóm, giao thông nội đồng,..) được gia đình vùng ĐBSH
quan tâm và đóng góp xây dựng nhiều nhất, làm thay đổi bộ mặt nông thôn của
vùng, thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ gia đình vùng đồng bằng sông Hồng
đóng góp xây dựng hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện
Nguồn: Bảng 6, phụ lục 1.2
Ở Hải Dương, “sau 5 năm thực hiện NTM xây dựng, cải tạo, nâng cấp
2.350 km đường giao thông, đến nay 92,5% đường xã, 91,7% đường thôn,
88,6% đường xóm được chuẩn NTM” [115]; Tổng số tiền thực hiện xây dựng
giao thông là 2,460 tỷ đồng trong đó các hộ gia đình đóng góp là 1,910 tỷ đồng
chiếm 77% [115].
Tại Quảng Ninh, với phong trào thi đua “Quảng Ninh chung sức xây
dựng NTM” được các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội và địa
phương triển khai sáng tạo, cụ thể bằng các phong trào gia đình tham gia hiến
đất, hiến công, quyên góp tiền mặt, vật tư, vật liệu xây dựng các công trình hạ
tầng giao thông, kênh mương nội đồng [112].
Điển hình như huyện Đan Phượng (Hà Nội), đây là huyện đầu tiên của
Thành phố Hà Nội được công nhận đạt chuẩn NTM (tháng 10 /2015) và hiện đang
66
tiếp tục triển khai để trở thành huyện NTM kiểu mẫu. Trong quá trình xây dựng
NTM, các gia đình đã đóng góp gần 202 tỷ đồng (bằng gần 9% tổng nguồn vốn
đầu tư XDNTM của huyện), cộng với hàng trăm nghìn ngày công lao động, hơn
2.500 m2 đất thổ cư để làm đường giao thông. Điển hình là các gia đình ông Đặng
Văn Trung, bà Tạ Thị Thái (xã Thượng Mỗ), anh Phạm Văn Tiến (xã Phương
Đình)... [35].
Hiệu quả của Chương trình xây dựng NTM nhìn thấy rõ ràng nhất đó là sự
thay đổi đường làng, ngõ xóm ở nông thôn vùng ĐBSH. Đến nông thôn vùng
ĐBSH, đâu cũng thấy những con đường bê tông sạch đẹp, hai bên là cây xanh,
hoa tươi được tỉa gọn gàng, những ngôi nhà cao tầng mới đang được xây dựng,
được đánh số và có tên đường cụ thể...
Chỉ tiêu về hạ tầng điện cũng rất quan trọng. Gia đình vùng ĐBSH cũng
đóng góp vào việc nâng cấp hệ thống đường dây, cột điện; lắp đặt đèn chiếu sáng
đường làng, cải tạo điện gia đình. Tại Hải Dương, giai đoạn I các gia đình đóng
góp khoảng 400 triệu đồng, trong đó 300 triệu trong nâng cấp đường dây, lắp đèn
chiếu sáng đường làng và 100 triệu cho việc cải tạo điện gia đình [116]. Bên cạnh
đó, gia đình vùng ĐBSH trong quá trình hưởng thụ, sử dụng các công trình, hạng
mục này cũng luôn giữ gìn, tu bổ và nâng cấp; sử dụng điện tiết kiệm, không gây
lãng phí, đảm bảo an ninh năng lượng cho toàn vùng.
Gia đình vùng ĐBSH tích cực tham gia xây dựng hệ thống cơ sở văn hóa,
thể dục, thể thao,... để phục vụ cho chính đời sống tinh thần của các thành viên
trong gia đình. Các gia đình đã đóng góp xây dựng và nâng cấp các thiết chế văn
hóa thể thao xã, thôn và trung tâm văn hóa, thể thao xã đạt chuẩn có đầy đủ các
hạng mục như hội trường, nhà luyện tập thể thao, sân vận động, sân khấu ngoài
trời, một số xã đã huy động được nhân dân xây dựng cả nhà chức năng,...; xây
dựng kết cấu hạ tầng thương mại trên địa bàn các tỉnh được đầu tư, xây mới, cải
tạo nâng cấp chợ nông thôn, bưu điện, hạ tầng mạng lưới bưu chính, viễn thông,
đáp ứng dịch vụ internet,...
Đối với các mục hạ tầng này, gia đình vùng ĐBSH chủ yếu thực hiện ủng
hộ tiền mặt, đóng góp ngày công lao động và tham gia sửa chữa, tu bổ và chủ yếu
tập trung vào hạ tầng văn hóa và giáo dục đào tạo, vì đây là những hạ tầng phục
67
vụ cho đời sống văn hóa, tinh thần của các thành viên trong gia đình, được sử
dụng thường xuyên mang tính cộng đồng cao.
Biểu đồ 3.2: Tỷ lệ gia đình vùng đồng bằng sông Hồng
đóng góp xây dựng hạ tầng văn hóa, giáo dục đào tạo, chợ,
thông tin truyền thông, y tế, trụ sở, nhà ở cư dân
Nguồn: Bảng 6, phụ lục 1.2
Tiêu biểu như tại Vĩnh Phúc, các hộ gia đình đóng góp tiền mặt và hiến
tặng đất đai giải phóng mặt bằng để xây dựng nhà văn hóa thôn [121]. Tại Hải
Dương, các hộ gia đình đóng góp 150 triệu đồng xây dựng cơ sở vật chất văn hóa
cấp thôn, chiếm 11,7% tổng số vốn đầu tư, đóng góp khoảng 60 triệu đồng để cải
tạo, nâng cấp chợ, xây mới chợ, chiếm 17,6% tổng số vốn đầu tư [115]. Tại huyện
Đan Phượng, huyện Chương Mỹ (Hà Nội), Nam Định, Thái Bình, Quảng Ninh,...
cùng với chính quyền thôn, xã, các hộ gia đình đã tích cực tham gia xây dựng,
nâng cấp, giữ gìn nhà văn hóa.
Hạ tầng phục vụ giáo dục, đào tạo cũng được các gia đình quan tâm chủ
yếu đóng góp để xây dựng trường, trang thiết bị đầu tư cho giáo dục. Các tỉnh
vùng ĐBSH những năm gần đây tăng số trường học đạt chuẩn quốc gia, con em
68
gia đình vùng ĐBSH được học tập với cơ sở vật chất và trang thiết bị giáo dục
hiện đại hơn, khang trang, sạch đẹp hơn. Gia đình đang phối hợp cùng với nhà
trường tạo điều kiện học tập tốt nhất cho thế hệ tương lai.
Tỉnh Vĩnh Phúc, trong thời gian qua các hộ gia đình cũng tích cực đóng
góp để xây dựng, nâng cấp, cải tạo trường mầm non, mẫu giáo, trường tiểu học,
trường trung học cơ sở với số tiền là 5,1 tỷ đồng,... [121].
Trong những năm qua các gia đình vùng ĐBSH đã tự giác xây mới, nâng
cấp, cải tạo nhà ở theo quy hoạch của địa phương; các hộ nghèo được hỗ trợ xây
dựng, sửa chữa nhà ở. Ví dụ Hà Nội hỗ trợ xây dựng 11.260 hộ nghèo xây dựng,
sửa chữa nhà ở xuống cấp, hư hỏng nặng, xây dựng, sửa chữa 3.296 nhà ở hộ
chính sách cho người có công [43]. Tại Vĩnh Phúc, nhà ở dân cư được cải thiện
đáng kể, khang trang hơn. Để được như vậy, các gia đình đã chi hơn 5,1 tỷ đồng
(chiếm gần 80% vốn đầu tư) nhất là việc xây mới, chỉnh trang nhà ở dân cư [121].
Tại một số địa phương, cộng đồng dân cư còn đóng góp xây dựng trụ sở thôn, xã
như Thái Bình, Quảng Ninh,...
Khi bắt đầu xây dựng đề án NTM, qua đánh giá hiện trạng xây dựng cơ sở
hạ tầng là tiêu chí đạt được ở mức độ thấp nhất nhưng đến nay cơ sở hạ tầng kinh tế
- xã hội ở hầu hết các xã của các tỉnh đặc biệt là các xã điểm xây dựng NTM đều đã
được cải tạo, nâng cấp khá đồng bộ, làm thay đổi rõ nét diện mạo nông thôn.
Tuy nhiên, khi gia đình thực hiện xây dựng kinh tế - xã hội nông thôn còn
tồn tại một số hạn chế cần khắc phục sau:
Một là, chính quyền địa phương và gia đình vùng ĐBSH chưa đánh giá
đúng tiềm năng về vai trò của gia đình trong xây dựng, giữ gìn nâng cao chất
lượng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội.
Nhận thức của một số cán bộ, Đảng viên và nhân dân, một số gia đình vùng
ĐBSH về xây dựng NTM còn chưa đầy đủ; hầu như vẫn còn tâm lý trông chờ, ỷ
lại vào sự đầu tư của Nhà nước, việc huy động đóng góp của nhân dân, gia đình và
của gia đình vùng ĐBSH về những tổ chức tham gia vào xây dựng NTM" cho
doanh nghiệp còn khó khăn. Qua "Bảng 4, phụ lục 1.2: Tổng hợp ý kiến đánh giá
thấy gia đình vẫn đề cao vai trò của Đảng, nhà nước, chính quyền địa phương và
69
nhân dân mà coi nhẹ vai trò của các doanh nghiệp và tổ chức chính trị - xã hội.
Trong khi đó xây dựng NTM, cần huy động tất cả các nguồn lực, nhất là các chủ
thể có nguồn lực về “sức người, sức của”, nên cần quan tâm đến việc huy động
doanh nghiệp, tổ chức đoàn thể tham gia để hỗ trợ gia đình trong xây dựng NTM.
Hai là, gia đình vùng ĐBSH đóng góp cho việc xây dựng các hạ tầng cơ sở
kinh tế - xã hội ở địa phương chưa đồng đều giữa các hạng mục hạ tầng, chưa
chú trọng xây dựng các hạng mục hạ tầng một cách bền vững.
Nguồn lực đầu tư cho các công tác xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội
NTM ở ĐBSH còn rất hạn hẹp, chủ yếu vẫn là nguồn đầu tư từ ngân sách nhà
nước; Công tác đấu giá đất còn gặp nhiều khó khăn do thị trường bất động sản
đóng băng; Việc thu hút nguồn lực xã hội, nhất là nguồn lực đóng góp, ủng hộ
từ các gia đình chưa nhiều. Có địa phương nguồn huy động vốn ủng hộ từ nhân
dân chỉ chiếm khoảng từ 10% - 20%, còn chủ yếu là từ vốn tín dụng, vốn
doanh nghiệp.
Gia đình đóng góp vào xây dựng các hạng mục hạ tầng kinh tế - kỹ thuật
nông thôn còn chưa đồng đều giữa các tiêu chí và thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng
yêu cầu sản xuất và phục vụ đời sống sinh hoạt của nhân dân. Chính quyền địa
phương kêu gọi gia đình đóng góp xây dựng hạ tầng về giao thông, thủy lợi, điện,
giáo dục, đào tạo, cơ sở vật chất văn hóa, nhà ở dân cư dễ hơn, nhận được sự ủng
hộ, thực hiện của đông đảo các gia đình trong khi đó, các tiêu chí như chợ nông
thôn, về thông tin, truyền thông, y tế thì chưa thu hút được sự tham gia đầu tư,
thực hiện của các gia đình. Qua biểu đồ 3.2. Tỷ lệ gia đình vùng ĐBSH đóng góp
xây dựng hạ tầng văn hóa, giáo dục, đào tạo, chợ, thông tin truyền thông, y tế, trụ
sở, nhà ở, cư dân” cho thấy tỷ lệ gia đình “chưa đóng góp” xây dựng hạ tầng
thông tin, y tế, trụ sở, nhà ở là tương đối cao (trên 50%).
Bên cạnh đó, với hạ tầng giao thông nông thôn, thủy lợi, điện phục vụ
sản xuất ở những vùng nông thôn xa trung tâm nhiều nơi còn khó khăn, các gia
đình chưa có sự ủng hộ tiền mặt, hiện vật mà chủ yếu là tham gia đóng góp
công lao động.
70
Ba là, gia đình vùng ĐBSH chưa quan tâm nhiều đến việc tham gia giữ gìn,
sửa chữa, tu bổ, nâng cấp các hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội.
Mặc dù tỷ lệ gia đình trả lời có tham gia giữ gìn, sửa chữa, tu bổ hạ tầng
cơ sở kinh tế - xã hội khá cao: hạ tầng giao thông (67%), hạ tầng thủy lợi (44%),
hạ tầng cơ sở vật chất văn hóa (32,3%) (xem biểu đồ 3.1, 3.2), nhưng trên thực tế
của nhiều địa phương cho thấy qua giai đoạn I xây dựng NTM, các công trình
giao thông, thủy lợi nội đồng bắt đầu xuống cấp, chưa được đầu tư kịp thời; cơ
sở vật chất về văn hóa, giáo dục, y tế của một số xã còn thiếu, chưa được nâng
cấp; tỷ lệ hộ nông dân được dùng nước hợp vệ sinh và công trình vệ sinh đạt tiêu
chuẩn còn thấp.
Công tác giữ gìn, nâng cấp, sửa chữa, tu bổ cơ sở hạ tầng chưa được chính
quyền địa phương quan tâm, chưa huy động sức dân, chưa phát huy được sự tham
gia tích cực của gia đình trong nâng cao ý thức trách nhiệm giữ gìn các hạng mục
hạ tầng này mà mới chỉ dừng lại ở việc ủng hộ để cải tạo hạ tầng cũ và xây dựng
hạ tầng mới.
Bốn là, một số gia đình ở một số địa phương phải đi vay để đóng góp cho
xây dựng NTM.
Chính quyền tại một số địa phương đã huy động từ các gia đình để đóng góp
xây dựng hạ tầng cơ sở, tuy nhiên ở một số địa phương một số gia đình còn khó
khăn thậm chí có gia đình thuộc hộ nghèo chưa đủ khả năng phải đi vay để đóng
góp cho xây dựng NTM. Điều nay cũng làm hạn chế sự tham gia của đông đảo gia
đình trong xây dựng NTM, thậm chí tạo sức ép, gánh nặng lên các gia đình.
3.1.1.2. Thực trạng thực hiện vai trò của gia đình trong phát triển kinh tế
và tổ chức sản xuất
- Vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong phát triển kinh tế hộ gia đình,
nâng cao thu nhập và xóa đói giảm nghèo
Phát triển kinh tế hộ gia đình, nâng cao thu nhập và xóa đói giảm nghèo là
một trong các tiêu chí quan trọng của xây dựng NTM, gồm các tiêu chí 10, 11, 12,
13 về kinh tế và tổ chức sản xuất.
71
Trong những năm qua, gia đình vùng ĐBSH đã có những đóng góp tích
cực trong thực hiện nhóm tiêu chí thứ 3 của xây dựng NTM, được thể hiện qua
các nội dung sau:
Một là, những năm vừa qua, gia đình vùng ĐBSH đã thực hiện chuyển dịch
cơ cấu hộ theo hướng hiện đại, chuyển từ sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản
sang công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Vùng ĐBSH có sự dịch chuyển nhanh, sau 10 năm cơ cấu hộ có sự
chuyển dịch rõ nét từ hộ nông, lâm thủy sản sang hộ phi nông, lâm, thủy sản.
Cơ cấu gia đình vùng ĐBSH có sự chuyển dịch nhanh với tỷ trọng hộ nông,
lâm nghiệp, thủy sản giảm đến 21,5%; nhóm hộ công nghiệp - xây dựng và
dịch vụ tăng 14,95%, nhóm hộ dịch vụ tăng 5,06%. Điều này diễn ra ở tất cả
các tỉnh vùng ĐBSH, trong đó một số tỉnh có sự chuyển dịch mạnh mẽ như Hải
Dương, Bắc Ninh.
Hộ Dịch vụ Hộ khác
Hộ Nông lâm Thủy sản Hộ Công nghiệp Xây dựng
Biểu đồ 3.3: Cơ cấu hộ vùng đồng bằng sông Hồng qua 3 kỳ Tổng điều tra
Nguồn: Báo cáo sơ bộ kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản
năm 2016, Ban chỉ đạo tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản
trung ương, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội, 2016, tr.70
Sự chuyển dịch này theo hướng tích cực, nâng cao nguồn thu nhập của gia
đình, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển CNH, HĐH ở địa phương, cũng đồng
nghĩa với việc gia đình vùng ĐBSH đang thực hiện rất tốt nhóm tiêu chí thứ 3 của
chương trình xây dựng NTM.
72
Hai là, thực hiện tiêu chí nâng cao thu nhập, phát triển kinh tế địa phương,
gia đình vùng ĐBSH đã mở rộng quy mô sản xuất, phát triển kinh tế trang trại,
gia trại; ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao và thực hiện chương trình “Cánh
đồng lớn”.
Thực hiện tiêu chí nâng cao thu nhập trong xây dựng NTM, gia đình vùng
ĐBSH đã mở rộng quy mô sản xuất, phát triển kinh tế trang trại, gia trại, qua đó
đã giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho thành viên trong gia đình. Từ
năm 2011 đến năm 2016, “vùng ĐBSH có số lượng trang trại tăng mạnh nhất
(tăng 6.435 trang trại) chiếm gần một nửa số trang trại tăng thêm trong vòng 5
năm qua của cả nước” [7, tr.26], số trang trại tăng chủ yếu ở loại hình trang trại
chăn nuôi, “vùng ĐBSH có số lượng trang trại chăn nuôi tăng nhanh nhất, tăng
6.272 trang trại chiếm 46,6% số lượng trang trại tăng thêm của cả nước” [7, tr.26].
Gia đình vùng ĐBSH được hưởng những điều kiện thuận lợi phát triển
trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản quy mô lớn như đất đai, mặt nước,
khí hậu, vì vậy những năm vừa qua đã xuất hiện nhiều mô hình trang trại, gia trại
ở ĐBSH như vườn cam canh ở huyện Đông Anh, Chương Mỹ, Đan Phượng,
Hoài Đức (Hà Nội), nuôi ếch làm giàu ở Sóc Sơn,... mô hình gia trại nuôi lợn
của ông Nguyễn Văn Sơn (chủ tịch mặt trận xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh
Phụ, Thái Bình),...
Trong những năm gần đây, để khắc phục tình trạng sản xuất nông nghiệp
manh mún, nhỏ lẻ, thiếu tính bền vững, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
đã xây dựng chương trình “Cánh đồng lớn” trên phạm vi cả nước. Các gia đình
vùng ĐBSH đã tích cực tham gia sản xuất theo mô hình này, “Năm 2016, cả nước
có khoảng 619 nghìn hộ tham gia sản xuất theo mô hình cánh đồng lớn. Bình quân
số hộ tham gia một cánh đồng lớn là 274 hộ, trong đó cao nhất là khu vực ĐBSH
(375 hộ/ cánh đồng),...” [7, tr.31].
Ba là, thu nhập gia đình vùng ĐBSH được nâng cao góp phần xây
dựng NTM.
Từ năm 2010 đến nay thu nhập của gia đình vùng ĐBSH có những chuyển
biến tiến bộ. Về nguồn thu nhập, số hộ có nguồn thu nhập lớn nhất từ nông, lâm,
73
thủy sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhưng có xu hướng giảm, thu nhập từ phi nông,
lâm, thủy sản tăng lên.
Bảng 3.1: Cơ cấu hộ gia đình phân theo nguồn thu nhập chính vùng đồng bằng sông Hồng
Đơn vị tính: %
Năm
Năm
Năm
Năm
2001
2006
2011
2016
Thu nhập chính từ nông, lâm, thủy sản
73,7
52,8
38,3
27,92
Thu nhập chính từ công nghiệp, xây dựng
8,8
19,5
27,7
35,42
Thu nhập chính từ dịch vụ
11,5
17,9
23,5
23,95
Thu nhập chính từ nguồn khác
6,0
9,8
10,5
12,71
Nguồn: Tổng hợp số liệu Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp, thủy sản các năm 2001, 2006, 2011, 2016
Các gia đình ở Quảng Ninh, Hưng Yên, Ninh Bình có thu nhập lớn nhất từ ngành nông, lâm, thủy sản; Bắc Ninh, Hải Dương, Hải Phòng các hộ gia đình có nguồn thu nhập lớn nhất từ ngành công nghiệp, xây dựng (xem phụ lục 3). Kết quả trên phản ánh xu hướng phát triển sản xuất của các gia đình có ngành nghề phi nông, lâm, thủy sản phát triển, nguồn thu nhập của gia đình không còn phụ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp.
Tác giả tiến hành khảo sát mức thu nhập của hộ gia đình từ 2005 - 2010 và từ 2010 đến nay để có sự so sánh, kết quả khảo sát 6 tỉnh vùng ĐBSH năm 2017 được thể hiện qua biểu đồ sau:
2005 -2010 2010- nay
45 40 35 30 25 20 15 10 5 0
>50 triệu
30 - 50 triệu
20 - 30 triệu
10 - 20 triệu
1 - 10 triệu
Biểu đồ 3.4: Thu nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình
từ 2005 - 2010 và từ 2010 đến nay
Nguồn: Bảng 16, phụ lục 1.2
74
Sự thay đổi về thu nhập của hộ gia đình từ năm 2005 (trước khi thực hiện
xây dựng NTM) đến nay (sau khi thực hiện giai đoạn I của xây dựng NTM). Số
hộ thu nhập từ 1 triệu - 10 triệu/1 tháng đã giảm mạnh 36,7%, số hộ thu nhập từ
10 triệu đến 20 triệu, từ 20 triệu đến 30 triệu, từ 30 triệu - 50 triệu và trên 50 triệu
có chiều hướng tăng, lần lượt là tăng 4.7%; 5,3%; 20% và 7,6%. Qua đó cho thấy,
thu nhập gia đình vùng ĐBSH có sự chuyển biến cùng với quá trình thực hiện xây
dựng NTM.
Đơn cử như ở Quảng Ninh, “năm 2016, thu nhập của người dân khu vực
nông thôn đạt 33,07 triệu đồng/ người tăng 11,98% so với năm 2015. Toàn tỉnh có
72% số xã đạt tiêu chí thu nhập”[112].
Tại Đan Phượng (Hà Nội), thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt
28,8 triệu đồng/người/năm (tăng 10,5 triệu đồng so với năm 2011) [35].
Phát triển kinh tế hộ gia đình, nâng cao thu nhập, giải quyết việc làm cho
các thành viên gia đình vùng ĐBSH trong những năm qua góp phần thực hiện
thắng lợi tiêu chí chương trình xây dựng NTM.
Bốn là, gia đình vùng ĐBSH phát huy vai trò trong xóa đói giảm nghèo bền
vững tại địa phương.
Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM giai đoạn II (2016 - 2020) đưa ra mục tiêu
tỷ lệ hộ nghèo đa chiều vùng ĐBSH là dưới 2%. Đây là mục tiêu khá cao cho
vùng ĐBSH trong giai đoạn tới. Thực tế cho thấy trong thời gian qua tỷ lệ hộ
nghèo của gia đình vùng ĐBSH đã có xu hướng giảm góp phần đảm bảo đạt tiêu
chí của xây dựng NTM. Ví dụ như:
Tại Nam Định, thời gian qua chính sách an sinh xã hội được đảm bảo; đời
sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn từ 9,95% năm
2010 giảm xuống còn 2,5% năm 2015. Các chế độ đối với các đối tượng chính
sách và hộ nghèo được giải quyết đúng, đủ, kịp thời [119]; Tỉnh Quảng Ninh, tỷ lệ
hộ nghèo toàn tỉnh từ 7,68% năm 2010 xuống còn 1,55% năm 2015 [112].
Tuy nhiên, để vai trò của gia đình được phát huy cao hơn trong phát triển
kinh tế hộ gia đình và xóa đói giảm nghèo, cần khắc phục một số hạn chế như:
75
Một là, quy mô sản xuất của gia đình vùng ĐBSH nhìn chung còn manh
mún, nhỏ lẻ.
Sản xuất của gia đình vùng ĐBSH nhiều nơi vẫn mang tính truyền thống
là chính, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, chưa có hướng trồng các loại cây lâu
năm, có giá trị cao, do đó, thu nhập còn thấp, không ổn định. Sản xuất nông
nghiệp của các gia đình vùng ĐBSH vẫn phát triển theo chiều rộng, chậm
chuyển sang sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả thấp, thiếu bền vững. Năng suất,
sản lượng cây trồng, vật nuôi tuy tăng khá, nhưng chất lượng sản phẩm còn kém,
chưa có nhiều hộ gia đình chuyên canh quy mô lớn, việc nhân rộng các mô hình
còn hạn chế.
Hai là, đời sống và thu nhập của một bộ phận gia đình vùng ĐBSH còn
thấp, không ổn định.
Đời sống của dân cư nông thôn tuy đã được cải thiện, nhưng vẫn còn nhiều
khó khăn, khoảng cách chênh lệch thu nhập giữ nông thôn và thành thị còn cao,
nhất là bộ phận nông dân có đất bị thu hồi để phát triển công nghiệp, đô thị, giải
quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi còn gặp nhiều khó khăn. Đời sống và
thu nhập của một bộ phận các gia đình vùng xa trung tâm, thuần nông còn thấp,
không ổn định, vẫn còn nhiều lao động thiếu việc làm, kinh tế hộ gia đình gặp
nhiều khó khăn.
Ba là, công tác nghiên cứu, ứng dụng chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới cho
các gia đình vùng ĐBSH còn hạn chế, nhất là ứng dụng công nghệ cao vào sản
xuất nông nghiệp.
Qua khảo sát cho thấy, chỉ 15% số gia đình biết và đang ứng dụng nông
nghiệp công nghệ cao, 55,7% biết nhưng không ứng dụng và 29,3% không biết
(Bảng 8, phụ lục 1.2). Như vậy, tỉ lệ các gia đình vùng ĐBSH áp dụng công nghệ
cao trong sản xuất nông nghiệp còn rất hạn chế. Khi được hỏi về nông nghiệp
công nghệ cao gia đình vùng ĐBSH chủ yếu nhận thức đó chỉ là sử dụng các loại
giống cây trồng, vật nuôi, phân bón hữu cơ, máy cày, máy gặt,... Người dân chưa
biết cách ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới trong sản xuất nông nghiệp, hoặc biết
nhưng chưa có điều kiện ứng dụng.
76
Khó khăn của gia đình vùng ĐBSH khi áp dụng mô hình “sản xuất nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao” chủ yếu về thị trường tiêu thụ, cách thức sản
xuất và vốn đầu tư (xem bảng 10, phụ lục 1.2).
Bốn là, các gia đình còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại về công tác xóa đói giảm nghèo.
Một bộ phận gia đình vùng ĐBSH thuộc hộ nghèo vẫn còn tư tưởng ỷ lại,
trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, chưa chủ động vươn lên thoát nghèo. Mặt
khác, bệnh thành tích đã khiến cho một số địa phương khống chế tỷ lệ nghèo thấp
hơn so với thực tế, dẫn đến một số gia đình nghèo chưa tiếp cận được các chính
sách, gây ra những hiểu biết sai lệch về chính sách của Nhà nước.
Thậm chí có gia đình đã được hỗ trợ từ chính sách nhưng lại rơi vào tái
nghèo, chưa tìm ra được phương thức sản xuất phù hợp để vươn lên. Đây cũng là
khó khăn lớn để vùng ĐBSH đạt được tiêu chí xây dựng NTM.
- Vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong giải quyết việc làm và đa dạng
hình thức tổ chức sản xuất
Giải quyết việc làm cho người dân và đa dạng các hình thức tổ chức sản
xuất gắn với tiêu thụ nông sản chủ lực đảm bảo bền vững thuộc tiêu chí 13 trong
tổ chức sản xuất của mục tiêu quốc gia xây dựng NTM và đây cũng là một hình
thức để giải quyết việc làm nâng cao thu nhập cho gia đình vùng ĐBSH.
Trong những năm qua, gia đình vùng ĐBSH đã góp phần thực hiện hai tiêu
chí này và đạt được những thành tựu cơ bản sau:
Một là, tỷ lệ người có việc làm trong độ tuổi lao động ở gia đình vùng
ĐBSH ngày càng cao, phấn đấu đến năm 2020 đạt chuẩn NTM là hơn 90%.
Để gia đình vùng ĐBSH phát huy vai trò trong giải quyết việc làm, chính
quyền địa phương đã khuyến khích các gia đình thay đổi cơ cấu nghề nghiệp, áp
dụng nông nghiệp công nghệ cao tăng năng suất lao động; động viên các thành
viên trong gia đình tham gia các lớp đào tạo nghề, công tác đào tạo nghề cho lao
động nông thôn được quan tâm, bảo đảm các nghề nông nghiệp phù hợp với quy
hoạch xây dựng NTM... Từ đó, vấn đề giải quyết việc làm cho thành viên trong
gia đình được thực hiện tốt hơn, tỷ lệ lao động qua đào tạo được tăng lên.
77
Trong giai đoạn I, Huyện Chương Mỹ (Hà Nội) tỷ lệ lao động nông thôn
được đào tạo nghề đạt trên 55%[36], huyện Đan Phượng (Hà Nội) đạt 63%, hàng
năm giải quyết việc làm mới cho 2000 lao động[35].
Ở Vĩnh Phúc, trong 5 năm qua Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh chỉ đạo
ngành Lao động, thương binh & xã hội phối hợp với các cấp, các ngành trong tỉnh
đã giải quyết và tạo việc làm cho 111.257 lao động [121].
Tỷ lệ lao động đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ
cao hơn qua các năm. Điều này phản ánh việc giải quyết việc làm ở nông thôn
đang hướng dần đến phát triển bền vững, quan tâm đến việc nâng cao chất lượng
lao động. Cụ thể:
Bảng 3.2: Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế
đã qua đào tạo phân theo địa phương
Đơn vị tính: %
Tỉnh
2010
2012
2013
2014
Sơ bộ 2015
ĐBSH
20,7
24,0
24,9
25,9
27,5
Hà Nội
30,2
35,3
36,2
38,4
38,4
Vĩnh Phúc
14,5
19,1
20,5
20,7
22,5
Quảng Ninh
27,8
32,1
32,5
36,1
35,6
Hải Dương
14,1
14,7
13,4
15,0
18,8
Thái Bình
15,0
14,1
13,1
15,0
12,7
Nam Định
16,4
10,8
15,7
11,0
13,3 Nguồn: Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê năm 2015, NXB Thống kê, Hà Nội, 2016, [110, tr.149].
Gia đình vùng ĐBSH thời gian qua đã thực hiện tốt các chính sách của
Trung ương, địa phương để giải quyết việc làm cho thành viên trong gia đình,
hướng đến tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo, tạo được nguồn lao động chất lượng cao.
Hai là, gia đình vùng ĐBSH đa dạng hình thức tổ chức sản xuất gắn với
tiêu thụ nông sản chủ lực.
Các tỉnh vùng ĐBSH đã chú trọng phát triển hàng hóa tập trung, nâng cao
chất lượng, khả năng cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu thị trường, đảm bảo vững chắc
cho an ninh lương thực, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng phát
triển mạnh chăn nuôi, thủy sản tập trung gắn với an toàn dịch bệnh và vệ sinh môi
78
trường; đổi mới hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp, trong đó tập trung nâng
cao chất lượng hoạt động của các hợp tác xã (HTX) dịch vụ nông nghiệp; phát
triển mạnh liên kết 4 nhà (Nhà nước, Nhà nông, Nhà doanh nghiệp, Nhà khoa
học), trong đó xác định liên kết 2 nhà “Nhà nông - Nhà doanh nghiệp” là trụ cột.
Theo đó gia đình vùng ĐBSH có điều kiện phát huy vai trò trong đa dạng
hóa hình thức tổ chức sản xuất và nguồn tiêu thụ nông sản cũng được đảm bảo bền
vững hơn. Gia đình vùng ĐBSH đã tham gia vào hợp tác xã, hàng năm các hợp
tác xã ở các địa phương đã có kế hoạch mở rộng sản xuất kinh doanh và tìm kiếm
thị trường tiêu thụ sản phẩm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi.
Ở một số địa phương phát huy được thế mạnh của phát triển kinh tế gia
đình, qua việc phát triển các làng nghề truyền thống. Một số gia đình đã phát triển
các nghề thủ công như mây tre đan, thêu tranh, mộc mỹ nghệ, móc sợi, đúc dát
đồng,... Hầu hết các gia đình làm nghề đều có thu nhập khá. Một số sản phẩm đã
trở thành thương hiệu xuất khẩu ra nước ngoài.
Gia đình vùng ĐBSH đã gắn đa dạng hóa hình thức sản xuất với tiêu thụ
sản phẩm. Điển hình ở gia đình của một số địa phương như:
Tại Thái Bình các hợp tác xã có hợp đồng bao tiêu sản phẩm. Hiện nay có
23 doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp tham gia liên kết với hợp tác xã, trang trại
và nông dân trên địa bàn tỉnh; trong đó có 164 hợp tác xã ký hợp đồng liên kết với
công ty Cổ phần Giống cây trồng Thái Bình, công ty Vạn Đạt, công ty trách
nhiệm hữu hạn chế biến nông sản xuất khẩu Thái Dương,...[118].
Tỉnh Quảng Ninh chính quyền địa phương đã đa dạng hóa hình thức sản
xuất, với chương trình “Mỗi xã, phường một sản phẩm” làm trọng tâm phát triển
sản xuất, thực hiện hỗ trợ trực tiếp đầu tư hạ tầng, ứng dụng khoa học công nghệ, hỗ
trợ lãi suất, thiết kế nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp bao bì, xúc tiến thương mại.
Sau hơn 8 năm thực hiện xây dựng NTM, gia đình vùng ĐBSH đã góp
phần tích cực để nhiều xã ở các địa phương đạt tiêu chí này, tuy nhiên để đạt hiệu
quả cao hơn nữa, cần khắc phục một số hạn chế sau:
Một là, sản xuất nông nghiệp tại các gia đình vùng ĐBSH vẫn còn nhỏ lẻ,
sản phẩm ít và không ổn định, khâu bảo quản, chế biến chưa đảm bảo; thiếu sự
79
liên kết giữa các khâu từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ trên thị trường chưa đáp
ứng được tiêu chí trong xây dựng NTM.
Hai là, hiệu quả hoạt động trong hợp tác xã nông nghiệp của các gia đình
vùng ĐBSH còn thấp, chưa được quan tâm, củng cố về tổ chức, năng lực quản trị.
Chưa có cơ chế hấp dẫn để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho gia đình vùng
ĐBSH trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và tạo điều kiện thực hiện các hình
thức sản xuất, tham gia các hợp tác xã và bao tiêu sản phẩm.
Ba là, ở nhiều xã, sản xuất nông nghiệp hàng hóa và ngành nghề chưa phát
triển; không có mô hình liên kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm, điều này gây khó
khăn cho gia đình vùng ĐBSH.
Bốn là, thị trường tiêu thụ sản phẩm hạn hẹp và bị động. Các gia đình nông
dân vùng ĐBSH phải đối mặt với thực tế là sản phẩm làm ra khó tiêu thụ, đặc biệt
vào thời điểm mùa vụ.
Kết quả khảo sát tại 06 tỉnh vùng ĐBSH năm 2017 với câu hỏi: “Gia đình
ông/ bà thường bán sản phẩm lao động của mình cho ai?”. Kết quả như sau:
61,7% bán cho tư thương, 23% tự tiêu thụ sản phẩm và chỉ có 5,0% thông qua hợp
tác xã (xem bảng 7, phụ lục 1.2).
Từ kết quả này cho thấy, cách tiêu thụ sản phẩm chủ yếu vẫn là tự bán ở
chợ, hoặc bán cho tư thương thu mua chưa có đầu ra ổn định, chưa được định
hướng trong việc tiêu thụ sản phẩm. Đây là một rào cản lớn đối với sự phát triển
kinh tế gia đình vùng ĐBSH.
3.1.1.3. Thực trạng thực hiện vai trò của gia đình trong giữ gìn, bảo lưu
và phát triển các giá trị văn hóa, phát triển giáo dục, đào tạo; bảo vệ môi trường
Thứ nhất, thực hiện vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong giữ gìn, bảo lưu
và phát triển các giá trị văn hóa
Về nhận thức, cán bộ, đảng viên, nhân dân và gia đình vùng ĐBSH đã nhận
thức được sự cần thiết phải xây dựng đời sống văn hóa mới ở nông thôn phù hợp
với yêu cầu, chuẩn mực xây dựng NTM.
Ý thức tự giác đã thấm vào mọi gia đình, từng cá nhân, được thể hiện qua
những hành vi cụ thể như: bảo tồn truyền thống tốt đẹp của quê hương, xây dựng
gia đình văn hóa, đoàn kết xây dựng đời sống vật chất và tinh thần,... Đời sống
80
văn hóa, tinh thần gia đình ở nông thôn có những chuyển biến tích cực. Phong
trào xây dựng gia đình văn hóa thu hút hơn 90% số hộ nông thôn tham gia. Đến
nay, cả vùng ĐBSH có gần 19 triệu gia đình trong tổng số hơn 22 triệu gia đình
đạt chuẩn danh hiệu gia đình văn hoá đạt tỉ lệ 85,03% [91].
Gia đình vùng ĐBSH cũng đang làm tốt công tác bảo tồn, tôn tạo và phát
huy giá trị di sản văn hóa vật thể, phi vật thể. Nâng cao chất lượng phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, trong đó trọng tâm là xây dựng
gia đình văn hóa, làng văn hóa, khu dân cư văn hóa, xây dựng ý thức tự giác chấp
hành pháp luật. Đồng thời, gia đình vùng ĐBSH hiện nay đang thực hiện tốt các
quy định về nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội, bài trừ các hủ
tục lạc hậu và tệ nạn xã hội.
Tuy vậy còn tồn tại một số hạn chế sau:
Một là, một số gia đình ở vùng ĐBSH và chính quyền địa phương chỉ quan
tâm đến phát triển kinh tế, xây dựng đường xá, trụ sở, nhà văn hóa mà chưa quan
tâm đúng mức đến nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, chưa có thời gian,
vật chất để quan tâm đến việc hưởng thụ các giá trị văn hóa.
Hai là, một số gia đình vùng ĐBSH tổ chức đám cưới, đám tang, hội làng
linh đình, phô trương, lãng phí diễn ra khá phổ biến; một bộ phận cư dân nông
thôn có tâm lý phục cổ - khôi phục nguyên xi các lễ hội truyền thống, trong đó có
những lễ hội không còn phù hợp với xã hội hiện tại.
Ba là, đời sống văn hóa cho gia đình vùng ĐBSH chưa phong phú, ở một
số địa phương, cơ sở vật chất văn hóa như nhà văn hóa, khu vui chơi, khu thể
thao... được đầu tư tốn kém nhưng sử dụng chưa thực sự hiệu quả, tình trạng có
nhà văn hóa nhưng chủ yếu chỉ được sử dụng làm nơi họp thôn, chưa phát huy
được hết các công năng của nhà văn hóa.
Bốn là, vai trò giáo dục và tình cảm của gia đình chưa phát huy tốt ở một
số địa phương. Gần đây gia đình ở một số vùng nông thôn, xuất hiện các hiện
tượng như mê tín dị đoan, coi thường pháp luật, bạo lực gia tăng; ảnh hưởng của
đời sống đô thị, công nghiệp, nền kinh tế thị trường tệ nạn cờ bạc, rượu chè, mại
dâm, bạo lực gia đình,.... dẫn đến văn hóa, cấu trúc gia đình nông thôn bị phá vỡ;
cha mẹ lo kiếm tiền, rạn nứt tình cảm, không còn nhiều thời gian chăm lo, giáo
dục con cái, ảnh hưởng xấu đến việc hình thành nhân cách của con cái.
81
Năm là, cá biệt một số địa phương nảy sinh bệnh thành tích trong thực hiện
tiêu chí NTM, xây dựng huyện, làng, xã, gia đình văn hóa. Có nơi gắn biển gia
đình văn hóa đến từng hộ gia đình tạo ra sự phô trương, lãng phí không cần thiết.
Không nhận thức đúng văn hóa là phục vụ con người chứ không chạy theo thành
tích để lấy danh.
Thứ hai, thực hiện vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong phát triển giáo
dục, đào tạo ở nông thôn
Xây dựng NTM là quá trình phát triển toàn diện, đồng bộ trên tất cả các
mặt từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, do đó phải quan tâm phát triển giáo dục,
nâng cao trình độ dân trí. Đảng, Nhà nước ta cũng phải quan tâm đến nâng cao
trình độ dân trí, phát triển giáo dục, đào tạo ở nông thôn - thực hiện tiêu chí 14 của
Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM giai đoạn 2016 - 2020.
Một là, gia đình vùng ĐBSH thực hiện tốt vai trò giáo dục phẩm chất đạo
đức, nhân cách, lối sống, nâng cao trình độ cho các thành viên trong gia đình, góp
phần thực hiện tiêu chí 14 của xây dựng NTM.
Đơn vị tính: %
Biểu đồ 3.5: Thể hiện tổng hợp ý kiến của gia đình vùng đồng bằng sông Hồng
đánh giá về vai trò của gia đình trong giáo dục con cái theo các nội dung
Nguồn: Bảng 18, phụ lục 1.2
Qua bảng này cho thấy các gia đình vùng ĐBSH đánh giá cao vai trò của
gia đình trong việc hình thành, giáo dục và phát triển phẩm chất đạo đức, nhân
82
cách lối sống cho con cái, giáo dục truyền thống, văn hóa dân tộc, nền nếp sinh
hoạt và truyền thống gia đình. Đây là vai trò quan trọng của gia đình trong xây
dựng gia đình văn hóa, từ đó xây dựng nhân cách, lối sống lành mạnh của các
thành viên trong gia đình, góp phần giáo dục công dân tốt cho xã hội.
Các gia đình vùng ĐBSH cũng đã đóng góp cho xây dựng hạ tầng giáo dục
và đào tạo (trường, lớp học, trang thiết bị dạy và học,...), 64,7% ủng hộ tiền mặt,
12,7% đóng góp công lao động (xem bảng 6, phụ lục 1.2). Ngoài ra các gia đình
cũng hiến tặng đất đai, ủng hộ hiện vật. Theo đó, cơ sở vật chất giáo dục đào tạo
cho các thành viên trong gia đình đã được hoàn thiện một bước.
Hai là, gia đình vùng ĐBSH quan tâm, tạo mọi điều kiện cho con em có
môi trường học tập tốt nhất. Ngay ở một số xã, huyện kinh tế còn khó khăn, thuần
nông nhưng phụ huynh cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của việc cho con
em mình đến trường. Ở nhiều nơi đã hình thành quỹ khuyến học, khuyến tài để
động viên, khuyến khích các cháu có thành tích học tập tốt, giúp đỡ các cháu có
hoàn cảnh khó khăn, nhiều gia đình đã được chính quyền địa phương quan tâm,
động viên, giúp đỡ, khắc phục khó khăn cho con học tập.
Các gia đình nông thôn vùng ĐBSH đã quan tâm đầu tư cho con học tập,
gia đình vùng ĐBSH hiện nay không chỉ chu cấp cho con cái tiền học phí, sách vở
- những khoản tối thiểu mà còn quan tâm đầu tư cho con cái học thêm các lớp bồi
dưỡng như tin học, ngoại ngữ,... và đầu tư phương tiện hiện đại phục vụ cho việc
học tập (Bảng 20, phụ lục 1.2).
Để thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục trong xây dựng NTM, các hộ gia
đình cũng luôn ủng hộ con cái học tập nâng cao trình độ. Qua khảo sát cho thấy
mức độ đầu tư cho con cái học tập ở cả con trai và con gái có sự tương đồng như
nhau, không có sự chênh lệch đáng kể, từ đó cho thấy nhận thức về bình đẳng giới
ở nông thôn vùng ĐBSH được nâng cao hơn (xem bảng 21, 22 phụ lục 1.2)
Tuy vậy, phát huy vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong nâng cao trình độ
dân trí cũng còn một số hạn chế đặt ra như:
Một số gia đình còn tâm lý ỷ lại vào nhà trường, cho rằng việc giáo dục,
nâng cao trình độ cho con em họ là công việc của giáo viên, của nhà trường, chưa
giành nhiều thời gian cho việc dạy học cho con hoặc cha mẹ cũng chưa đủ trình
83
độ để dạy con (một số cha mẹ mới tốt nghiệp cấp 1). Thời gian để dạy con học tập
ở nhà của gia đình nông thôn vùng ĐBSH không nhiều, thậm chí đến 50% số hộ
gia đình được hỏi đưa ra câu trả lời là “Không dạy con ở nhà” (xem bảng 19, phụ
lục 1.2). Đây là tỷ lệ tương đối cao.
Ngoài ra, các bậc phụ huynh thường ỷ lại cho nhà trường, giáo viên nên gia
đình chưa đề cao vai trò trong việc giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của nhà nước, quy định địa phương, kiến thức giáo dục phổ thông và định
hướng học tập, nghề nghiệp cho con cái (xem bảng 18, phụ lục 1.2).
Thứ ba, gia đình vùng ĐBSH thực hiện vai trò trong giữ gìn, bảo vệ môi trường.
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn I và giai đoạn
II đã đưa ra tiêu chí số 17 về đảm bảo môi trường, môi sinh - đây là tiêu chí để xây
dựng môi trường sống trong lành cho nông thôn Việt Nam.
Sau khi giai đoạn I được triển khai thực hiện, công tác bảo vệ môi trường
vùng ĐBSH đã được quan tâm và có những chuyển biến tích cực: Hệ thống cấp
nước sạch được đầu tư và vận hành, cảnh quan khu vực nông thôn được cải tạo,
nâng cấp có mô hình tốt trong xây dựng môi trường nông thôn,... Quy hoạch các
khu tập kết, xử lý rác thải, lò đốt rác, hỗ trợ xe thu gom chuyên dụng, hỗ trợ kinh
phí, tổ chức các buổi tuyên truyền, các hoạt động vì môi trường.
Qua khảo sát cho thấy, thời gian qua gia đình vùng ĐBSH đã tích cực thực
hiện công tác bảo vệ môi trường trong xây dựng NTM, các tiêu chí được gia đình
vùng ĐBSH thực hiện nghiêm túc như không chặt phá, khai thác sử dụng cây
xanh trái quy định (chiếm 92,3%); thực hiện chôn cất người mất tại khu nghĩa
trang địa phương hợp vệ sinh (chiếm 88,3%); thực hiện thu gom, xử lý nước thải
sinh hoạt bằng bể tự hoại, hố ga lắng cặn (chiếm 80%); thực hiện thu gom, xử lý
nước thải chăn nuôi bằng hầm biogas, hố ga lắng cặn, ao sinh hoạt (chiếm 57%)
(xem bảng 24, phụ lục 1.2). Ô nhiễm môi trường cũng được các gia đình vùng
ĐBSH quan tâm xử lý, các gia đình được hỗ trợ kinh phí từ ngân sách xây dựng
bãi chôn lấp rác, xây dựng bể chứa rác thải bao bì thuốc bảo vệ thực vật.
Như vậy, ý thức của gia đình vùng ĐBSH trong bảo vệ môi trường, môi
sinh đã được nâng lên rất nhiều, vừa phục vụ cho chính gia đình mình, vừa đảm
bảo cho môi trường chung của xây dựng NTM.
84
Một số mô hình bảo vệ môi trường huy động được sự tham gia tích cực của
gia đình, điển hình như ở Hưng Yên, trước đây ô nhiễm môi trường khu vực nông
thôn là đáng báo động. Với chỉ đạo quyết liệt của UBND tỉnh, Tỉnh ủy, Sở Tài
nguyên môi trường, năm 2012, thí điểm mô hình tại 100 hộ gia đình thôn Tiên
Cầu, xã Hiệp Cường; năm 2013 nhân rộng mô hình tại 820 hộ gia đình trên toàn
tỉnh. Hộ tham gia mô hình được hỗ trợ 01 thùng xử lý rác thải hoặc nắp hố rác di
động và chế phẩm vi sinh của Viện Công nghệ Môi trường. Việc triển khai mô
hình phân loại xử lý rác thải tại gia đình không những góp phần làm giảm ô nhiễm
môi trường nông thôn mà còn đem lại lợi ích về mặt kinh tế, tiết kiệm được tiền
công thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải, việc phân loại rác thải hữu cơ tại hộ
gia đình sẽ giảm được khoảng 60% lượng rác thải sinh hoạt ra môi trường.
Mô hình xã hội hóa xử lý chất thải rắn sinh hoạt nông thôn tại thị trấn Đồi
Ngô, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Chất thải rắn sẽ được phân loại ngay từ hộ
gia đình, 01 lần/ ngày; chất thải rắn vô cơ và chất thải rắn tái chế tại hộ gia đình sẽ
được công ty thu 02 lần/ ngày. Tạo cho các gia đình có ý thức giữ gìn môi trường,
môi sinh, tự giác thực hiện thu gom, phân loại, xử lý chất thải ngay từ đầu vừa
đảm bảo môi trường vừa làm giảm chi phí, nhà máy vừa có thể chiết xuất ra mùn
vi sinh hữu cơ, cung cấp cho các cơ sở sản xuất, phân bón tổng hợp.
Về chỉ tiêu đường làng, ngõ, xóm, cảnh quan từng hộ xanh - sạch - đẹp,
nhiều địa phương đã huy động được các gia đình thường xuyên tổ chức các ngày
chủ nhật xanh, trồng cây, vệ sinh, gắn kết cộng đồng, thực hiện chôn cất người
mất tại khu nghĩa trang địa phương hợp vệ sinh, đúng quy hoạch.
Tuy nhiên, kết quả và hiệu quả thực hiện tiêu chí môi trường còn nhiều hạn
chế so với yêu cầu đặt ra. Đây là một trong những tiêu chí có tỷ lệ đạt thấp nhất.
Hầu hết các gia đình nông thôn, nhất là ở các xã khó khăn chưa có ý thức trong
việc sắp xếp nơi ở đảm bảo hợp vệ sinh; các công trình chăn nuôi, bếp, công trình
phụ chậm được tu bổ xây dựng. Nhà ở, khuôn viên, tường rào còn chưa sạch đẹp,
chưa có biện pháp cải tạo vườn tạp để tạo ra hàng hóa tăng thu nhập, cải thiện đời
sống cho gia đình.
85
Một số hoạt động của gia đình vùng ĐBSH trong việc thực hiện bảo vệ môi
trường nông thôn cũng còn rất hạn chế, ví như qua khảo sát năm 2017 tại 06 tỉnh
vùng ĐBSH, có 27,3% gia đình vùng ĐBSH thực hiện thu gom, phân loại rác thải
ngay tại hộ gia đình, 29,7% gia đình thực hiện chôn lấp hợp vệ sinh các loại rác hữu
cơ có thể phân hủy tại khuôn viên hộ gia đình, 37,7% gia đình vùng ĐBSH thực
hiện cải tạo, xây dựng hệ thống ao, hồ theo quy định (xem bảng 24, phụ lục 1.2).
Đây là chỉ tiêu nhận thấy bằng cảm quan không được định tính nên khi triển
khai và công tác đánh giá tại các địa phương không đồng đều. Với tiêu chí chất thải,
nước thải khi triển khai tại các gia đình, thực tế còn hạn chế. Vẫn còn gia đình chưa
có ý thức bảo vệ môi trường trong sinh hoạt, sản xuất như việc lạm dụng thuốc bảo
vệ thực vật trong sản xuất, việc xả nước, rác thải; sử dụng nước không đảm bảo vệ
sinh, việc đầu tư các công trình phục vụ đời sống và sức khỏe (bể nước, cống rãnh
thoát nước, hố xí,...), việc tham gia công tác vệ sinh môi trường cộng đồng,... còn
hạn chế. Một bộ phận gia đình nông thôn vùng ĐBSH chưa có thói quen dùng nước
sạch, chưa tự giác trong việc giữ gìn nguồn nước sạch, môi trường.
Về chỉ tiêu xử lý, phân loại rác thải, vẫn đang còn tình trạng các gia đình
nhất là hộ gia đình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ chưa có thói quen phân loại chất
thải rắn sinh hoạt tại nguồn; vẫn còn một bộ phận gia đình khu vực nông thôn
chưa tham gia hợp đồng vệ sinh môi trường với nhiều lý do khác nhau. Việc đóng
phí vệ sinh môi trường chưa kịp thời gây khó khăn trong việc vận hành các khâu
thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải. Đối với chỉ tiêu nghĩa trang, do tập quán sinh
hoạt và quan niệm tâm linh, nên còn có gia đình chưa quy tập các ngôi mộ về khu
vực đã quy hoạch.
3.1.1.4. Thực trạng thực hiện vai trò của gia đình trong quá trình dân
chủ a ở nông thôn góp phần xây dựng hệ thống chính trị cơ sở; bình đẳng giới,
phòng, chống bạo lực gia đình
- Thực hiện vai trò của gia đình trong quá trình dân chủ hóa ở nông thôn
góp phần xây dựng hệ thống chính trị
Với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân đóng góp, dân làm, dân quản lý
và dân hưởng lợi”, ngay từ khi bắt đầu triển khai chương trình xây dựng NTM,
86
các địa phương vùng ĐBSH đã xác định công tác tuyên truyền là nhiệm vụ hàng
đầu được ưu tiên để phát huy sức mạnh trong dân, trong từng gia đình ở nông thôn
vùng ĐBSH.
Thấm nhuần chủ trương trên, các cấp, các ngành, tổ chức đoàn thể, người
dân và gia đình ở các địa phương đều nhận thức được nghĩa vụ và trách nhiệm
trong tham gia xây dựng NTM, coi xây dựng NTM là việc của chính mình, của
gia đình mình; bản thân và gia đình chính là đối tượng thực hiện và cũng là đối
tượng trực tiếp hưởng thụ những thành quả của NTM nên chủ động tham gia đóng
góp ý kiến và xây dựng.
Qua giai đoạn đầu chương trình xây dựng NTM đã đạt được nhiều thành
tựu, gia đình đã tích cực phát huy tinh thần dân chủ, tham gia đóng góp ý kiến, cụ
thể qua các hoạt động sau:
Một là, gia đình vùng ĐBSH tích cực tham gia xây dựng NTM ngay từ khâu
lập quy hoạch, đề án thông qua việc đóng góp ý kiến, thảo luận sôi nổi những vấn
đề liên quan đến trách nhiệm, quyền lợi của mỗi người, mỗi gia đình trong xây
dựng NTM.
Đảng bộ, chính quyền các địa phương vùng ĐBSH thực hiện quá trình dân
chủ hóa, vận động gia đình tham gia xây dựng NTM ngay từ khâu lập quy hoạch,
đề án thông qua việc tổ chức các buổi lấy ý kiến đóng góp của các gia đình. Gia
đình được biết đến các dự thảo quy hoạch, đề án xây dựng NTM của xã, huyện,
tỉnh; kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế, dự
toán, quyết toán ngân sách hàng năm của xã; dự án công trình đầu tư; quản lý, sử
dụng các loại quỹ, nhất là các khoản từ phía nhân dân đóng góp,... từ đó chính
quyền địa phương tổ chức họp bàn, lấy ý kiến, ra nghị quyết để triển khai thực hiện
xây dựng NTM.
Qua khảo sát cho thấy, hầu hết gia đình vùng ĐBSH đã biết đến Chương
trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM, chiếm tỷ lệ đến 95,3% (xem bảng 2,
phụ lục 1), điều này cho thấy Chương trình xây dựng NTM thực sự đã đi vào cuộc
sống của từng gia đình nông thôn. Có được điều này do các tỉnh ĐBSH đang thực
hiện tốt công tác tuyên truyền cho gia đình về chương trình xây dựng NTM. Đơn
87
cử như Quảng Ninh, Nam Định, Thái Bình - đây là các tỉnh dẫn đầu cả nước về
xây dựng NTM- trong đó Quảng Ninh là tỉnh thứ ba trong cả nước có huyện được
Thủ tướng Chính phủ công nhận là huyện đạt chuẩn NTM (thị xã Đông Triều,
Quảng Ninh); Đảng bộ, chính quyền địa phương đã thường xuyên tổ chức các
hoạt động lấy ý kiến đóng góp từ quần chúng nhân dân, niêm yết công khai những
nội dung của xây dựng NTM tại trụ sở xã, thông báo công khai trên các phương
tiện truyền thanh xã, công khai đến các trưởng thôn, trưởng xóm để thông báo đến
từng gia đình, thu hút sự tham gia tích cực của gia đình tham gia xây dựng NTM.
Hai là, gia đình vùng ĐBSH đã có nhận thức đúng đắn về các chủ thể góp
phần tham gia xây dựng NTM.
Đảng, Nhà nước
78
72,7
61,7
60,3
Chính quyền địa phương
Tổ chức xã hội
28
Doanh nghiệp
22,7
Người dân
90 80 70 60 50 40 30 20 10 0
Gia đình
Biểu đồ 3.6: Tổng hợp ý kiến của gia đình vùng đồng bằng sông Hồng
đánh giá chủ thể tham gia vào xây dựng nông thôn mới
Nguồn: Số liệu khảo sát 6 tỉnh vùng ĐBSH năm 2017
Qua bảng khảo sát cho thấy, người dân nhận thức ngày càng đúng đắn hơn
vai trò của gia đình trong xây dựng NTM, có đến 60,3% số gia đình được hỏi cho
rằng gia đình là chủ thể cần tham gia vào công cuộc xây dựng NTM.
Bên cạnh đó, khi được hỏi về mức độ vai trò của gia đình trong xây dựng
NTM, tỷ lệ người dân đã đánh giá gia đình có vai trò rất quan trọng và quan trọng
trong xây dựng NTM khá cao, chiếm đến 97% (xem bảng 5, phụ lục 1.2).
88
Như vậy, người dân đã nhận thức được gia đình chính là chủ thể quan trọng
góp phần xây dựng NTM và gia đình cũng chính là đối tượng hưởng thụ những
thành quả của Chương trình này. Từ nhận thức đúng đắn vai trò của gia đình,
chính quyền địa phương, người dân và gia đình sẽ có những hoạt động thiết thực
để thúc đẩy gia đình đóng góp vai trò trong xây dựng NTM ngay từ khâu quy
hoạch đến triển khai thực hiện.
Ba là, gia đình vùng ĐBSH đã tham gia góp ý vào kế hoạch, chương trình
xây dựng NTM của địa phương như “Dự thảo quy hoạch xây dựng NTM cấp xã”,
“Dự thảo đề án xây dựng NTM cấp xã”, “Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội cấp xã, phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất”, “Dự thảo kế
hoạch triển khai các chương trình, dự án trên địa bàn cấp xã, chủ trương, phương
án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, quy hoạch khu dân
cư...”. Chính quyền địa phương đã và đang thực hiện tốt công tác này, một mặt để
các kế hoạch, dự án có tính khả thi hơn, phù hợp với thực tiễn, mặt khác quan
trọng hơn là lấy được ý kiến đóng góp của nhân dân, của gia đình, phát huy được
tính chất dân chủ, ngay từ khâu lên quy hoạch xây dựng NTM.
Thông qua các buổi họp cử tri hoặc cử tri đại diện các gia đình theo địa bàn
từng thôn, xóm đã cùng bàn bạc và trực tiếp quyết định chủ trương và mức đóng
góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng và các công việc
khác trong nội bộ cộng đồng dân cư phù hợp với quy định pháp luật. Đây là hoạt
động gắn trực tiếp đến lợi ích của từng gia đình, nên trong những năm qua được
các địa phương duy trì thường xuyên và nhận được nhiều đóng góp hữu ích từ các
gia đình để xây dựng NTM đạt hiệu quả cao hơn, phục vụ cho chính đời sống của
gia đình.
Qua khảo sát cho thấy từ các buổi họp thôn, xóm đã thu hút được sự tham
gia tích cực của các gia đình, gia đình thường xuyên tham gia là 20% và thỉnh
thoảng tham gia (chiếm 50,3%), tỷ lệ gia đình không tham gia chỉ chiếm 7%. Điều
này cho thấy các gia đình đã nâng cao trách nhiệm bản thân trong việc tham gia
họp để tiếp nhận thông tin và đóng góp ý kiến trong xây dựng NTM, thể hiện qua
biểu đồ sau:
89
Biều đồ 3.7: Tỷ lệ đánh giá mức độ gia đình tham gia góp ý, xây dựng
kế hoạch, chương trình, quy định,... của địa phương
Nguồn: Bảng 25, phụ lục 1.2
Bốn là, các mô hình tự quản cũng được các gia đình nhiệt tình tham gia,
qua các mô hình đó gia đình nâng cao ý thức trong chấp hành chủ trương, đường
lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Ở Thái Bình đại diện các gia đình đã bàn bạc, biểu quyết để cấp có thẩm
quyền ra quyết định một số việc như: Hương ước, quy ước của thôn, bầu, miễn
nhiệm, bãi miễn trưởng thôn; Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân
dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng; Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban phát
triển thôn.
Ngoài ra, hiện nay gia đình vùng ĐBSH đang thực hiện có hiệu quả nhiệm
vụ nhân dân giám sát việc tổ chức hoạt động của Đảng, chính quyền, các tổ chức
xã hội. Bên cạnh đó, gia đình cũng ủng hộ, vận động, giúp đỡ, tạo điều kiện cho
các thành viên trong gia đình phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam, tích cực tham gia đóng góp ý kiến xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh.
Thành viên trong gia đình vùng ĐBSH đã tham gia vào các tổ chức chính trị - xã
hội, tỷ lệ tham gia cao nhất là Hội Nông dân và Hội Phụ nữ. Qua các tổ chức đoàn
thể đó, gia đình đóng góp ý kiến cho hoạt động của chính quyền, tổ chức Đảng,...
90
cũng như phản ánh những hoạt động bất thường gây ảnh hưởng đến ANTT xã hội
nông thôn.
Tuy nhiên, gia đình vùng ĐBSH vẫn còn hạn chế trong việc phát huy vai
trò trong thực hiện dân chủ hóa ở nông thôn.
Việc tham gia vào các buổi họp thôn, xã nhiều khi còn mang tính hình
thức, chưa đạt hiệu quả cao. Đại diện gia đình cũng chưa có nhiều ý kiến đóng góp
trong các buổi họp, chưa quan tâm đến việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở,
phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện công tác kiểm tra, giám sát Đảng.
Đảng bộ, chính quyền địa phương vẫn chưa quan tâm đúng mức đến việc
thực hiện lấy ý kiến của các gia đình trong lập kế hoạch, quy hoạch xây dựng
NTM ở từng thôn, xóm. Quy hoạch mang tính chất chung chung, chưa đi vào đặc
thù của từng địa phương, vậy nên chưa thu hút được đóng góp ý kiến của đông
đảo gia đình.
Các gia đình vẫn còn tâm lý ỷ lại, cho rằng việc xây dựng hệ thống chính
trị, thực hiện dân chủ hóa mang tầm vĩ mô của Đảng, Nhà nước, chính quyền địa
phương nên chưa thực sự chủ động phát huy được vai trò trong việc đóng góp ý
kiến trong các buổi họp thôn, xóm về xây dựng NTM.
Một số gia đình vùng ĐBSH vẫn coi đây là hoạt động mang tính chất
phong trào nên chưa thực sự mang tính bền vững, đóng góp ý kiến mang tính
chiếu lệ, hời hợt. Tỷ lệ gia đình thường xuyên tham gia góp ý, xây dựng kế hoạch,
chương trình, quy định,... của địa phương chỉ chiếm 20% (xem biểu đồ 3.7), còn
lại các gia đình chỉ “thỉnh thoảng” đóng góp ý kiến. Điều này cho thấy các gia
đình vùng ĐBSH chưa thực sự tích cực trong việc phát huy tinh thần dân chủ xây
dựng hệ thống chính trị trong xây dựng NTM.
Kết quả tác giả khảo sát, cho thấy tỷ lệ thành viên trong gia đình là đảng
viên chiếm khoảng 20,3%, điều này cũng làm hạn chế việc tham gia sinh hoạt
Đảng; góp ý, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở địa phương và động viên các thành
viên trong gia đình phát triển công tác Đảng, kết nạp Đảng. Mức độ tham gia vào
các tổ chức chính trị - xã hội còn thấp nên chưa phát huy được vai trò của gia đình
vùng ĐBSH trong việc giáo dục, vận động các thành viên trong gia đình phấn đấu
91
đứng vào hàng ngũ của Đảng, tích cực tham gia sinh hoạt tập thể, đóng góp ý kiến
để xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và hoạt động của chính quyền.
- Thực hiện vai trò của gia đình trong bình đẳng giới và phòng, chống bạo
lực gia đình
Một nội dung mới được bổ sung vào tiêu chí 18 xây dựng NTM giai đoạn
2016 - 2020 là “Bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình” - đây là chỉ tiêu
mà gia đình là chủ thể thực hiện, thời gian qua đã được các gia đình ủng hộ, thực
hiện nhiệt tình và đã đạt hiệu quả cao.
Qua công tác tuyên truyền giúp cho các thành viên trong gia đình vùng
ĐBSH nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi, đẩy lùi tư tưởng, định kiến giới,
giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh do việc lựa chọn giới tính
thai nhi và phòng, chống bạo lực gia đình, kỹ năng bảo vệ con cháu mình trước
các hành vi quấy rối, xâm hại tình dục,... Từ đó, các gia đình tích cực tham gia
thực hiện bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình; chăm sóc, hỗ trợ nạn
nhân bị bạo lực gia đình góp phần xây dựng thôn xóm văn hóa.
Hiện nay, về cơ bản thành viên trong gia đình nông thôn vùng ĐBSH nhất
là quan hệ giữa vợ - chồng được cải thiện, bình đẳng, tạo điều kiện cho người phụ
nữ tham gia các công việc xã hội. Qua khảo sát cho thấy, bố mẹ tạo điều kiện cho
con trai và con gái học tập, nâng cao trình độ học vấn như nhau, bố mẹ quan tâm
đến việc đầu tư cho con cái học tập, kể cả con trai và con gái đều hướng đến cho
con học ở trình độ cao đẳng, đại học (Bảng 21, Phụ lục 1), đối với nghề nghiệp mà
cha mẹ mong muốn cho con cái làm cũng có sự tương đồng giữa hai giới trai và
gái (Bảng 22, Phụ lục 1). Hiện nay, sự bình đẳng giữa cha mẹ và con cái, giữa con
cái với nhau cũng được thực hiện tốt hơn trong gia đình vùng ĐBSH, thể hiện khi
được hỏi về nghề nghiệp mà bố mẹ mong muốn cho con cái mình làm, chủ yếu
các gia đình cho rằng “Mong muốn cho các cháu làm trong cơ quan nhà nước
hoặc tùy sự lựa chọn của các cháu” (Nữ, 40 tuổi).
Để gia đình vùng ĐBSH thực hiện vai trò trong phòng, chống bạo lực gia
đình, Hội nông dân đã phối hợp với Ban Xã hội - Dân số và Gia đình tổ chức các
lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao nhận thức, kiến thức cho cán bộ, hội viên nông
dân và các thành viên trong gia đình về thực trạng, hậu quả của bạo lực gia đình
92
đối với xã hội, ý nghĩa của việc phòng, chống bạo lực gia đình, vai trò của nam
giới đối với phòng, chống bạo lực gia đình, phòng, chống xâm hại tình dục đối với
trẻ em,... góp phần xây dựng gia đình văn hóa và xây dựng NTM.
Tại Nam Định, “Hội nông dân tỉnh đã phối hợp với các địa phương tổ chức
các buổi tọa đàm với chủ đề “Đừng vung tay, Hãy cầm tay” tại huyện Hải Hậu;
giao lưu sân khấu hóa “Chung tay xóa bỏ bạo lực với phụ nữ và trẻ em gái” tại
huyện Ý Yên; tập huấn “Nâng cao vai trò, trách nhiệm của nam giới về phòng,
chống bạo lực gia đình tại huyện Nghĩa Hưng, diễn đàn “Đàn ông đích thực nói
không bạo lực với phụ nữ” tại huyện Giao Thủy”[100].
Các gia đình nông thôn vùng ĐBSH đã tích cực tham gia các mô hình
phòng, chống bạo lực gia đình. Mô hình đã giúp gia đình nâng cao nhận thức,
phát huy vai trò hạt nhân của gia đình thực hiện tốt các chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiều mô hình còn giúp các gia đình thực
hiện tốt Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới, từng bước
giảm thiểu các vụ bạo lực gia đình. Điển hình như tại huyện Mê Linh (Hà Nội),
các xã như: Đại Thành, Tam Đồng, Thạch Đà, Kim Hoa đều có các mô hình
triển khai theo hình thức “Câu lạc bộ gia đình hạnh phúc”, “Câu lạc bộ phòng,
chống bạo lực gia đình”,…
Qua khảo sát cho thấy, gia đình vùng ĐBSH tích cực tham gia thực hiện
phòng, chống bạo lực gia đình (Bảng 26, phụ lục 1.2), có hơn 50% gia đình được
hỏi “thường xuyên” thực hiện hoạt động này, 44,7% gia đình “thỉnh thoảng” tham
gia. Nhận thức và hành động của gia đình vùng ĐBSH cho hoạt động này được
nâng cao hơn, có ý thức tự giác hơn. Khi hỏi về sự ủng hộ của phòng, chống bạo
lực gia đình, hầu hết nhận được sự đồng tình của thành viên trong gia đình.
Tuy nhiên, hiện nay thực hiện bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia
đình ở gia đình vùng ĐBSH còn một số hạn chế như:
Công tác tuyên truyền, giáo dục về giới và bình đẳng giới chưa thực sự đạt
hiệu quả cao. Nội dung tuyên truyền chưa được chuyển tải thường xuyên, sâu
rộng, chưa sát với đối tượng. Nhận thức của thành viên trong gia đình, nhất là phụ
nữ trong gia đình nông thôn vùng ĐBSH về quyền lợi của mình còn nhiều hạn
chế, định kiến giới và tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, “thập nữ viết vô, nhất nam
93
viết hữu”, tư tưởng gia trưởng của nam giới trong gia đình vẫn khá phổ biến.Từ
nhận thức đó nên bình đẳng giới trong gia đình vẫn chưa thực sự được thực hiện.
Sự bất bình đẳng giới ở gia đình nông thôn vùng ĐBSH vẫn tồn tại trong
nhiều lĩnh vực, phụ nữ vẫn phải làm những công việc nội trợ là chủ yếu, tư tưởng
trọng nam khinh nữ trong quá trình sinh con, nuôi con, chăm sóc con cái, kế hoạch
hóa gia đình, chính vì thế phụ nữ còn gặp phải những vấn đề khác như bạo lực gia
đình, nạn nhân của buôn bán người, bóc lột lao động, xâm hại tình dục.
Vẫn còn diễn ra tình trạng bạo lực gia đình ở một số địa phương, nhất là
vùng nông thôn ở ĐBSH. Bạo lực gia đình đang trở thành vấn đề xã hội nhức
nhối, gây hậu quả không chỉ cho thể xác, tâm lý của người bị bạo hành mà còn
gây hậu quả cho xã hội. Đối tượng bị bạo lực gia đình hiện nay chủ yếu vẫn là phụ
nữ, trẻ em gái, dưới hình thức bạo lực thể xác, bạo lực tinh thần và bạo lực tình
dục. Gần đây, diễn ra tình trạng xâm phạm tình dục đối với trẻ em gái, cũng gây
hậu quả nghiêm trọng đến tâm lý, cuộc sống của nạn nhân, lên án sự suy đồi về
đạo đức ngày càng nghiêm trọng. Tuy nhiên đây là vấn đề nhạy cảm nên vẫn bị
giấu giếm nhiều, do tâm lý xấu hổ hay quan niệm “xấu chàng hổ ai” nên nhiều
phụ nữ bị bạo hành hay con cái họ bị bạo hành, bị xâm phạm nhưng vẫn cam chịu,
nhẫn nhịn chịu đựng để giữ sự êm ấm cho gia đình.
3.1.1.5. Thực trạng thực hiện vai trò của gia đình tham gia đảm bảo an
ninh nông thôn
Hiện nay, đã có khá nhiều địa phương trên địa bàn vùng ĐBSH đạt chuẩn
tiêu chí An ninh trật tự trong Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM.
Điều này không chỉ đưa địa phương “cán đích” NTM theo lộ trình đề ra, mà còn
góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn an ninh, trật tự xã hội thôn xóm, đem lại sự
bình yên cho nhân dân. Gia đình vùng ĐBSH đã có các hoạt động tham gia đảm
bảo an ninh trật tự xã hội, thực hiện tiêu chí 19 của xây dựng NTM, được thể hiện
qua các nội dung sau:
Thứ nhất, gia đình vùng ĐBSH đã phát huy vai trò trong đảm bảo an ninh,
trật tự ở nông thôn.
Để phát huy vai trò của gia đình trong đảm bảo an ninh trật tự xã hội, chính
quyền một số địa phương đã kết hợp chặt chẽ lồng gắn tiêu chí “Đảm bảo ANTT
94
xã hội nông thôn” và tiêu chí xây dựng “Gia đình văn hóa”, “Khu dân cư văn hóa”
trong cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, duy trì
hoạt động của trên 2000 tổ chức quần chúng tự quản ở cơ sở như : “Địa bàn không
có tội phạm và tệ nạn xã hội”, “Khu dân cư an toàn, đoàn kết, văn hóa”; “Tổ tự
quản An ninh trật tự, an toàn giao thông,...” thông qua đó phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, thu hút gia đình tham gia, góp phần ổn định vững chắc tình hình an
ninh nông thôn vùng ĐBSH.
Mặt khác qua các phong trào, công tác tuyên tuyền cũng đã nâng cao ý thức
cảnh giác, trách nhiệm và năng lực tự bảo vệ của gia đình trong việc phòng ngừa,
phát hiện, đấu tranh làm thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình”, hoạt động phá hoại
của các thế lực thù địch và các loại tội phạm, tệ nạn xã hội, góp phần giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước.
Phát huy vai trò giáo dục, tình cảm của gia đình - đây là vai trò quan trọng
của gia đình, thời gian qua đã vận động các gia đình tích cực tham gia đấu tranh tố
giác các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ các đối tượng
hoàn lương sớm tái hòa nhập cộng đồng. Gia đình phát huy vai trò giáo dục, tình
cảm trong việc vận động các thành viên không tham gia các tệ nạn xã hội như lô
đề, cờ bạc, rượu chè,.. gây mất trật tự xã hội an ninh nông thôn.
Thứ hai, gia đình vùng ĐBSH tích cực tham gia các mô hình bảo vệ an
ninh, trật tự xã hội thực hiện thắng lợi tiêu chí 19 của xây dựng NTM.
Một số địa phương đã hình thành các mô hình bảo vệ an ninh, trật tự xã
hội, trong đó có một số mô hình huy động vai trò của gia đình trong đảm bảo an
ninh, xã hội, như mô hình “Tổ liên gia tự quản” (Hình thức thực hiện mỗi “Tổ
liên gia tự quản” có từ 10 đến 20 hộ gia đình liên kết, các Tổ liên gia được tổ
chức hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện, tự giác, tự đảm bảo kinh phí của các hộ gia
đình, các tổ được sự lãnh đạo trực tiếp của chi Bộ), chức năng chính của Tổ liên
gia là tham gia hòa giải cơ sở, cùng nhau giữ gìn an ninh trật tự, giúp nhau phát
triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa gia đình, văn hóa
khu dân cư.
Tại Thái Bình đã kết hợp chặt chẽ lồng ghép tiêu chí “Đảm bảo an ninh trật
tự xã hội nông thôn” và tiêu chí xây dựng “Khu dân cư văn hóa” trong cuộc vận
95
động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, duy trì hoạt động của
trên 2000 tổ chức quần chúng tự quản ở cơ sở như: “Địa bàn không có tội phạm
và tệ nạn xã hội”; “Khu dân cư an toàn, đoàn kết, văn hóa”; “Tổ tự quản an ninh
trật tự, an toàn giao thông”,... Thông qua các tổ chức này đã phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, phát huy vai trò tự quản của các gia đình, từ đó góp phần ổn
định vững chắc tình hình an ninh trật tự, xã hội nông thôn.
Thứ ba, nhờ có sự tham gia của gia đình nên vùng ĐBSH thời gian vừa qua
tình hình khiếu kiện giảm, không có “điểm nóng”, không để hình thành các tổ
chức chính trị đối lập ở địa phương, kiềm chế, làm giảm tội phạm, tai nạn giao
thông; an ninh chính trị, trật tự xã hội ở nông thôn được đảm bảo, giữ vững. Gia
đình vùng ĐBSH tích cực tham gia các hoạt động giữ vững an ninh, trật tự xã hội
ở nông thôn như: phong trào “Toàn dân bảo vệ An ninh tổ quốc”; phòng, chống tệ
nạn xã hội; tìm hiểu hệ thống pháp luật; tham gia phòng ngừa tội phạm; phát hiện,
đấu tranh, tố giác tội phạm; đảm bảo an toàn giao thông; không khiếu kiện, tụ tập
đông người; không tham gia truyền đạo trái phép (bảng 26, phụ lục 1.2), từ đó,
góp phần đảm bảo an ninh nông thôn và thực hiện có hiệu quả tiêu chí cuối cùng
trong xây dựng NTM.
Tuy nhiên, gia đình vùng ĐBSH góp phần thực hiện tiêu chí 19 còn một số
hạn chế như:
Với tiêu chí 19 của xây dựng NTM là tiêu chí cuối cùng nhưng lại là tiêu
chí khó đạt nhất, khó đánh giá nhất. Trên báo cáo của các địa phương, số xã đạt
chuẩn của tiêu chí này khá cao, ví dụ như Thái Bình có 255 xã đạt,chiếm 96,9%
[118]; Quảng Ninh 100% xã đạt [114]; Chương Mỹ (Hà Nội) có 22/30 xã cơ bản
đạt, chiếm 73,3% [45]; Nam Định có 204/209 xã đạt, chiếm 98% [120],... Tuy
nhiên, thực tế khi khảo sát (bảng 26, phụ lục 1.2) thì mức độ thực hiện chủ yếu là
“thỉnh thoảng”, chưa được duy trì một cách “thường xuyên”, nhất là với hoạt động
“Tìm hiểu hệ thống pháp luật” và “Phát hiện, đấu tranh, tố giác tội phạm” mức độ
thực hiện “thường xuyên” rất thấp, do tâm lý e ngại, né tránh của nhân dân vẫn
còn, cho rằng việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm là nhiệm vụ của lực lượng
chức năng.
96
Trong thời gian qua, tình hình an ninh trật tự, xã hội ở nông thôn vùng
ĐBSH đang còn một số diễn biến phức tạp như một số nơi vẫn diễn ra khiếu kiện
kéo dài về đền bù giải phóng mặt bằng, ô nhiễm môi trường do lực lượng chức
năng chưa thực hiện tốt công tác tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước đến từng gia đình và có nơi chính quyền địa phương chưa thực hiện
đúng chủ trương, chưa giải thích kịp thời cho nhân dân hiểu (điển hình như vụ
việc ở Đồng Tâm, Mỹ Đức (Hà Nội)),... Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ
quốc cũng chưa đồng đều, một số gia đình không dám đấu tranh, tố giác tội phạm;
mô hình quần chúng tự quản về an ninh trật tự chưa được tập trung xây dựng vào
những xã xây dựng NTM, xã trọng điểm, xã phức tạp nên chưa thu hút gia đình
thực hiện vai trò.
Trong thời gian gần đây, tình trạng thanh thiếu niên vi phạm pháp luật vẫn
diễn ra, tệ nạn ma túy, cờ bạc còn xảy ra,... điều này cho thấy một nguyên nhân là
do vai trò giáo dục của gia đình chưa được phát huy có hiệu quả, có nơi, có lúc
còn bị buông nhẹ, chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường.
3.1.2. Nguyên nhân thực trạng thực hiện vai trò của gia đình vùng
đồng bằng sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới hiện nay
3.1.2.1. Nguyên nhân của thành tựu
Gia đình vùng ĐBSH tích cực tham gia, đóng góp cho xây dựng NTM
không chỉ dừng lại ở những hành động mang tính phong trào mà là hành động
thiết thực góp phần thực hiện thắng lợi xây dựng NTM. Có được những thành tựu
này do nguyên nhân khách quan và chủ quan sau:
* Nguyên nhân khách quan:
Trước hết, các tỉnh vùng ĐBSH nói riêng và trên phạm vi cả nước nói
chung đã tiếp thu kinh nghiệm xây dựng NTM của các nước trong khu vực và trên
thế giới, thu hút gia đình tham gia thực hiện xây dựng NTM.
Các nước phát triển trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc,... đã thực hiện
xây dựng làng mới từ những năm 1970 đến nay đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn, không có sự chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn, áp dụng sản xuất
nông nghiệp công nghệ cao, huy động sức mạnh, tính tự giác từ chính các gia đình
ở nông thôn. Tiếp thu kinh nghiệm của các nước trong quá trình xây dựng NTM,
97
Đảng và Nhà nước ta đã xác định chủ thể xây dựng NTM chính là người dân, huy
động được sự ủng hộ và tham gia của nhân dân, Đảng và nhân dân cùng làm, từ
đó chính quyền địa phương ở Việt Nam nói chung và vùng ĐBSH nói riêng đã
triển khai để huy động nhân dân cụ thể là gia đình nông thôn tích cực đóng góp
sức người, sức của cho Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM.
Thứ hai, hệ thống chính trị các tỉnh vùng ĐBSH coi xây dựng NTM là
nhiệm vụ trọng tâm, trong đó phát huy vai trò chủ thể của gia đình vùng ĐBSH là
yếu tố quyết định sự thành công của chương trình.
Ngay từ khi triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng NTM, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng chính quyền vùng ĐBSH vẫn luôn
ưu tiên, quan tâm, chỉ đạo, tập trung nguồn lực cho xây dựng NTM, xem đây là
một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Đây được xem như nhiệm vụ của cả hệ
thống chính trị cùng vào cuộc và được sự chỉ đạo quyết liệt. Chính quyền địa
phương không chỉ huy động sức mạnh của các tổ chức chính trị xã hội trong thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng NTM, phát
triển nông nghiệp, nông thôn mà còn tạo mọi điều kiện về cơ chế, chính sách để
các gia đình vùng ĐBSH trực tiếp tham gia xây dựng NTM, gia đình vùng ĐBSH
vừa là chủ thể, vừa là người thụ hưởng những thành quả của xây dựng NTM.
Gia đình vùng ĐBSH trong thời gian qua đã thực hiện tích cực vai trò trong
xây dựng NTM do chính quyền làm tốt công tác tuyên truyền, vận động phát huy
tính chủ động và sáng tạo của gia đình, nghiêm túc thực hiện các nguyên tắc dân
chủ, công khai, minh bạch, thực sự quan tâm đến lợi ích của từng gia đình trong
việc lựa chọn nội dung, quản lý và đánh giá kết quả thực hiện chương trình xây
dựng NTM ở địa phương. Việc huy động, đóng góp của gia đình được thực hiện
trên cơ sở tự nguyên, bàn bạc dân chủ, đẩy mạnh phong trào thi đua “Toàn dân
chung sức xây dựng NTM”, động viên khen thưởng kịp thời các hộ gia đình, cá
nhân tích cực tham gia đóng góp trong xây dựng NTM.
Ngoài ra, chính quyền địa phương còn phát huy được tính dân chủ, biết tôn
trọng, cầu thị, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng chính đáng của các hộ gia đình, gia
đình góp ý dự thảo văn bản xây dựng NTM, làm mọi việc để chăm lo lợi ích của
người dân, nếu mắc khuyết điểm không ngại sửa sai, nhận lỗi trước dân. Trong
98
quá trình thu hút gia đình đóng góp sức người, sức của, hiến đất cho xây dựng
NTM, chính quyền địa phương cũng tích cực phòng, chống tham nhũng- nhất là
nạn tham nhũng vặt, tệ quan liêu, hách dịch, cửa quyền,... để đem lại niềm tin cho
gia đình tích cực thực hiện vai trò trong các tiêu chí xây dựng NTM.
Thứ ba, thu hút các nguồn lực xã hội hóa để giúp đỡ gia đình thực hiện vai
trò trong xây dựng NTM.
Một trong những điều kiện quan trọng để gia đình thực hiện tốt vai trò
trong xây dựng NTM, đó là sự chung tay của các nguồn lực xã hội, nguồn vốn, bố
trí đầu tư, đa dạng các nguồn lực xã hội hóa, hỗ trợ hình thức sản xuất, bao tiêu
đầu vào và đầu ra sản phẩm, hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ cao vào sản
xuất nông nghiệp. Huy động sự đóng góp, hỗ trợ của các doanh nghiệp, thực hiện
liên kết 4 nhà “Nhà nông, nhà nước, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp”, từ đó
các gia đình yên tâm sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Ngoài ra, Ngân hàng
Nhà nước, Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn,... cũng đã tạo điều kiện cho gia đình vùng ĐBSH vay vốn để phát triển
sản xuất, kinh doanh đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh, trang trại, từng bước
nâng cao đời sống cho gia đình. Việc huy động kinh phí đa dạng bảo đảm cho việc
triển khai các dự án và chương trình trong kế hoạch xây dựng NTM và cũng góp
phần động viên, hỗ trợ gia đình nông thôn phát triển kinh tế gia đình, giải quyết
việc làm tại chỗ, thực hiện xóa đói giảm nghèo bền vững, hoàn thành thắng lợi
mục tiêu xây dựng NTM.
* Nguyên nhân chủ quan:
Bản thân gia đình vùng ĐBSH nâng cao nhận thức về vai trò trong xây
dựng NTM, nâng cao trình độ học vấn, phát triển kinh tế gia đình và ý thức phát
huy dân chủ ở nông thôn.
Gia đình vùng ĐBSH đã nâng cao nhận thức về vai trò của mình trong xây
dựng NTM, với mục tiêu “Đảng và nhân dân cùng làm”, gia đình vùng ĐBSH
nhận thức ngày càng rõ hơn nội dung các tiêu chí xây dựng NTM và vai trò của
mình đối với từng tiêu chí, nhất là đối với tiêu chí xây dựng, giữ gìn đường làng,
ngõ xóm, nhà ở; giữ gìn và phát triển giáo dục, văn hóa; phòng, chống bạo lực gia
đình và giữ gìn an ninh trật tự xã hội nông thôn.
99
Gia đình vùng ĐBSH có truyền thống hiếu học, chú trọng đến công tác giáo
dục, đào tạo nâng cao trình độ học vấn, có ý thức tự giác trong việc nâng cao trình
độ học vấn cho các thành viên trong gia đình. Xét về trình độ học vấn, người dân
vùng ĐBSH được xác định có trình độ học vấn tương đối cao hơn các vùng khác,
đây là điều kiện thuận lợi để thực hiện có hiệu quả xây dựng NTM.
Ngoài ra, gia đình nông thôn vùng ĐBSH còn có cả những gia đình là trí
thức, công chức nên hiểu rất rõ tầm quan trọng của xây dựng NTM, đi đầu trong
đóng góp, làm gương cho các gia đình trong làng, thôn. Hơn nữa, sự năng động,
sáng tạo, nhạy bén vốn có của nông dân thông qua các sáng kiến, cải tiến kỹ thuật
cũng là yếu tố giúp cho gia đình nông thôn vùng ĐBSH tranh thủ thuận lợi về tự
nhiên và khai thác tiềm năng của vùng để phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng
cao đời sống gia đình, xóa đói giảm nghèo bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu
xây dựng NTM ngay từ những năm đầu tiến hành.
Bên cạnh đó, năng lực thực hành dân chủ của gia đình vùng ĐBSH từng
bước được phát huy cũng là một nguyên nhân dẫn đến thành tựu thực hiện vai trò
của gia đình trong xây dựng NTM. Các gia đình vùng ĐBSH có trách nhiệm hơn
với những công việc chính trị, xã hội, sự hiểu biết về dân chủ, về quyền lợi và
nghĩa vụ của gia đình được nâng cao. Mặt khác, gia đình vùng ĐBSH còn tạo điều
kiện, động viên các thành viên trong gia đình tham gia vào các tổ chức đoàn thể
như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân,... từ đó
phấn đấu đứng vào hàng ngũ của Đảng. Chính các hoạt động dân chủ gia đình
vùng ĐBSH đang góp phần xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, giữ vững an
ninh trật tự, xã hội nông thôn.
3.1.2.2. Nguyên nhân của hạn chế
* Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, do công tác tuyên truyền và vận động gia đình vùng ĐBSH thực
hiện vai trò trong các nội dung xây dựng NTM còn hạn chế, chưa được sâu rộng,
còn thiếu những hình thức sáng tạo, phong phú, chưa thu hút được đông đảo sự
quan tâm của gia đình, chưa làm thường xuyên; nhận thức của một số cán bộ và
100
nhân dân chưa đầy đủ, chưa phát huy được sức mạnh của cả hệ thống chính trị.
Sự phối hợp giữa chính quyền và nhân dân, gia đình nhiều nơi chưa chặt chẽ.
Công tác thông tin, tuyên truyền để thu hút các gia đình vùng ĐBSH tham
gia sản xuất, tiêu thụ sản phẩm ở hợp tác xã còn nhiều hạn chế nên gia đình vùng
ĐBSH chưa phân biệt được sự khác nhau giữa mô hình hợp tác xã kiểu mới với
mô hình hợp tác xã kiểu cũ dẫn đến hoài nghi, thiếu tin tưởng vào sự phát triển
của hợp tác xã.
Ngoài ra, công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia hoạt động
của tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị cũng chưa được mạnh
mẽ. Thực hiện quy chế dân chủ tới đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa
thường xuyên, phương pháp tuyên truyền chậm đổi mới, thiếu đa dạng. Một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đúng nội dung, ý nghĩa vai trò
của gia đình trong xây dựng hệ thống chính trị nên tinh thần thái độ phục vụ nhân
dân chưa thực sự nhiệt tình.
Thứ hai, một số nội dung trong Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM
chưa phù hợp với thực tiễn và sự phát triển của địa phương nên chưa phát huy
được hiệu quả vai trò của gia đình nông thôn vùng ĐBSH trong xây dựng NTM
Qua những năm đầu (từ năm 2010 - 2015) triển khai chương trình xây
dựng NTM, đã được chỉnh sửa và bổ sung trong Bộ tiêu chí xây dựng NTM từ
năm 2016 - 2020, nhưng qua thực tế một số tiêu chí xây dựng NTM chưa thực sự
hợp lý, chưa phù hợp với thực hiện vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây
dựng NTM.
Ví dụ như chính sách xây dựng các trung tâm thương mại nông thôn trong
khi người dân nông thôn ĐBSH vẫn chủ yếu là họp chợ cóc, chợ quê vào sáng
sớm, mua bán trực tiếp hoặc trao đổi nông sản; hay hạ tầng thông tin truyền
thông, lắp đặt đường internet, truyền hình cáp,... với số tiền phí hàng tháng còn
tương đối cao.
Sự phát triển của các tỉnh, kể cả trong một tỉnh thì các huyện, xã cũng
không đồng đều, trình độ dân trí, thu nhập, đời sống vật chất và tinh thần của gia
đình nông thôn ĐBSH còn chênh lệch so với khu vực nội thành. Các cơ chế, chính
101
sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn chưa đủ
mạnh. Thủ tục hành chính tiếp nhận đầu tư của doanh nghiệp vào nông nghiệp,
nông thôn còn rườm rà, phức tạp. Cơ chế, chính sách trên một số lĩnh vực cũng
còn lạc hậu, chưa phù hợp với thực tiễn và sự phát triển của gia đình khu vực nông
thôn ĐBSH, vì vậy, chưa khuyến khích được các gia đình thay đổi phương thức
sản xuất, cơ giới hóa mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp. Diện tích đất nông
nghiệp của gia đình vùng ĐBSH thu hẹp nhanh, phân bố nhỏ lẻ, manh mún nên
khó khăn cho việc cơ giới hóa, hiện đại hóa và xây dựng nền sản xuất nông nghiệp
quy mô lớn.
Sản xuất của gia đình vùng ĐBSH dễ bị tác động của giá cả, các yếu tố thị
trường, thiên tai dịch bệnh ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, huy động nguồn
lực cho đầu tư và phát triển kinh tế gia đình. Những năm qua thời tiết diễn biến
phức tạp, kinh tế thế giới bị suy thoái, thị trường nông sản, thực phẩm biến động
nên sản xuất và đời sống người dân gặp nhiều khó khăn, việc đóng góp cho xây
dựng NTM của gia đình vùng ĐBSH bị hạn chế.
* Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, do nhận thức của chính quyền địa phương và các gia đình vùng
ĐBSH về vai trò của họ trong xây dựng NTM chưa cao.
Ở một số nơi chính quyền địa phương và gia đình chưa nhận thức đúng vai
trò của gia đình trong xây dựng NTM. Khi được hỏi về chủ thể tham gia xây dựng
NTM, vẫn có ý kiến cho rằng Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương là chủ thể
chính thực hiện xây dựng NTM, vì vậy, vẫn có tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự đầu
tư của Nhà nước, một bộ phận gia đình chưa tích cực, tự giác đóng góp xây dựng
NTM. Bên cạnh đó, một số cán bộ chưa xác định đúng mục tiêu của xây dựng
NTM là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, lấy nhân dân là
mục tiêu, động lực xây dựng NTM nên chưa có hành động cụ thể động viên gia
đình vùng ĐBSH thực hiện vai trò xây dựng NTM.
Nhận thức của các gia đình và cấp chính quyền, cơ quan quản lý, tổ chức
về vai trò của gia đình với vấn đề bảo vệ môi trường chưa cao. Việc tuyên truyền
phổ biến các quy định về bảo vệ môi trường nói riêng, các định hướng của Nhà
102
nước trong quản lý và phát triển nông thôn nói chung còn chưa được thực hiện
thường xuyên, dẫn đến các gia đình chưa nắm rõ được quy định trong xử lý chất
thải. Ý thức thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường của gia đình và cơ sở gia
đình thực hiện sản xuất chưa cao. Đa số gia đình chỉ tập trung phát riển kinh tế,
mở rộng sản xuất theo nhu cầu thị trường mà coi việc thu gom, xử lý chất thải là
việc của nhà nước.
Thứ hai, do bản thân đời sống kinh tế gia đình vùng ĐBSH còn gặp nhiều
khó khăn, vẫn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, buôn bán nhỏ.
Gia đình vùng ĐBSH ở một số địa phương chưa sẵn sàng đóng góp tiền
mặt, hiện vật cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn và đóng góp chưa mang tính
tự nguyện hay còn tình trạng huy động đóng góp quá sức về kinh tế của gia đình
(huy động các hộ đóng góp khoảng từ 300.000 đồng đến 1 triệu đồng).
Do số đơn vị hành chính cấp xã ở khu vực nông thôn lớn, cơ sở hạ tầng còn
thiếu thốn và chưa đồng bộ nên đòi hỏi nguồn lực đầu tư rất lớn. Sự phát triển của
các địa phương không đồng đều, trình độ dân trí, thu nhập, đời sống vật chất và
tinh thần của gia đình khu vực nông thôn vùng ĐBSH còn chênh lệch lớn so với
khu vực nội thành.
Ngoài ra, diện tích đất ở nông thôn của gia đình vùng ĐBSH cũng đang bị
thu hẹp, chủ yếu là đất nông nghiệp, đất ở hiện còn rất ít nên gia đình chưa có điều
kiện hiến tặng đất cho làm đường làng, ngõ xóm, giao thông nội đồng cho xây
dựng NTM.
Gia đình nông thôn vùng ĐBSH vẫn chủ yếu là các hộ nông dân, làm thủ
công, buôn bán nhỏ,... thu nhập chưa cao nên việc ứng dụng khoa học công nghệ
vào đa dạng hóa hình thức sản xuất còn hạn chế, khi tham gia vào hợp tác xã cũng
chưa nhiệt tình, chưa có điều kiện đóng góp vốn nhiều. Các gia đình khi thực hiện
đa dạng hóa tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm vẫn còn tâm lý ỷ lại vào sự
giúp đỡ của nhà nước.
Khi áp dụng mô hình “sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao”, gia
đình vùng ĐBSH còn gặp khó khăn về vốn đầu tư, nguồn lao động, cơ sở hạ tầng
và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên khi được hỏi “Nếu nhận được sự trợ
103
giúp về vốn, ông/ bà có sẵn sàng chuyển đổi hình thức sản xuất không?” thì hầu
như các gia đình không sẵn sàng chuyển đổi hình thức sản xuất do tâm lý cố hữu,
ngại thay đổi. Vì vậy, kinh tế hộ gia đình vùng ĐBSH vẫn chưa phát triển một
cách bền vững, có chiều sâu.
Ngoài ra, tình hình vay vốn cũng tương đối khó khăn, khi được hỏi về tình
hình vay vốn của địa phương, có 35% gia đình cho rằng gặp “khó khăn” trong quá
trình vay vốn (xem bảng 13, phụ lục 1.2), hay hiện nay ở nông thôn vùng ĐBSH
có tình trạng cho vay tính dụng đen, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đất đai của gia
đình ảnh hưởng đến đời sống kinh tế của gia đình nói riêng và tình hình an ninh
trật tự xã hội nói chung.
Thứ ba, có nơi gia đình có tâm lý e ngại, không muốn đóng góp, chưa tích
cực thực hiện xây dựng NTM do sau giai đoạn 2010-2015, có tình trạng thiếu
minh bạch trong xây dựng NTM diễn ra, tình trạng nợ tiêu chí, nợ đọng, chạy theo
thành tích xuất hiện ở các địa phương
Theo báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện chương trình xây dựng NTM ở
vùng ĐBSH, những kết quả đạt được rất đáng ghi nhận, đến năm 2015, số xã đạt
NTM là 17,1%. Tuy nhiên, chỉ sau 9 tháng đến tháng 10/2016, tăng lên bất thường
là 23%. Nhiều địa phương do bệnh thành tích nên xin nợ tiêu chí nhưng không
biết đến bao giờ có thể trả được. Do việc chạy theo thành tích trước sức ép hoàn
thành các tiêu chí, nhiều địa phương đã tự xoay sở tìm mọi cách huy động nguồn
lực phục vụ chương trình, dẫn đến nhiều nơi thậm chí không có khả năng thanh
toán các khoản nợ. Nhiều tỉnh “sa lầy” trong nợ đọng xây dựng cơ bản NTM, có
tỉnh nợ gần 1000 tỷ chủ yếu tập trung tại các công trình như trụ sở làm việc, nhà
văn hóa, một số trạm y tế đầu tư thiết bị trị giá gần 500 triệu đồng nhưng thiếu
đồng bộ nên vẫn nằm bất động, có nơi xây hồ chứa rác trong các thôn gần 1 tỷ
đồng... Một số cán bộ xã, huyện có tình trạng tham ô, tham nhũng đối với đóng
góp hay nguồn vốn đầu tư xây dựng NTM. Điều đó làm cho nhân dân mất niềm
tin, một số gia đình không muốn đóng góp cho chương trình, hoặc có đóng góp thì
104
rất ít, không tự giác, nhiệt tình tham gia vào công việc giữ gìn, tu bổ, sửa chữa
công trình, hạng mục để xây dựng NTM bền vững.
Gia đình vùng ĐBSH chưa tích cực trong việc tham gia tu bổ, sửa chữa các
công trình, hạng mục văn hóa, thậm chí có gia đình ít tham gia các hoạt động văn
hóa. Một trong những nguyên nhân là do có địa phương còn lãng phí trong xây
dựng các công trình này. Việc xây dựng các nhà văn hóa, thể thao nhằm cải thiện
và nâng cao đời sống tinh thần của người dân, song trên thực tế sau khi đầu tư xây
dựng với số tiền hàng chục tỷ đồng, nhiều nhà văn hóa vẫn không đưa vào sử
dụng do bất tiện vì xây dựng xa trung tâm, cho nên mỗi khi hội họp hay tổ chức
hoạt động lại tổ chức ở UBND xã, có nơi xây dựng nhà văn hóa, khu thể thao chỉ
cốt để đạt chỉ tiêu NTM, các hoạt động văn hóa chưa đa dạng, chưa đáp ứng được
nhu cầu của các thành viên trong gia đình.
3.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA GIA
ĐÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
HIỆN NAY
Quá trình xây dựng NTM giai đoạn I (2010 - 2015), gia đình vùng ĐBSH
đã tích cực tham gia thực hiện có hiệu quả, làm thay đổi “bộ mặt” nông thôn
ĐBSH, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời
sống gia đình nông thôn vùng ĐBSH, tuy nhiên qua thực hiện đã nảy sinh một số
vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục nghiên cứu. Cụ thể:
3.2.1. Phát huy vai trò gia đình trong xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế -
xã hội của xây dựng nông thôn mới chưa đảm bảo tính bền vững
Trong thời gian qua, gia đình tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã
hội nông thôn tuy nhiên chưa đảm bảo tính bền vững, cụ thể là:
Thứ nhất, gia đình vùng ĐBSH cũng như chính quyền địa phương chưa
quan tâm đến đầu tư, xây dựng, sửa chữa tất cả các hạng mục cơ sở hạ tầng kinh tế
- xã hội của NTM.
Trong giai đoạn từ 2010 - 2015, mới chỉ tập trung vào xây dựng hạ tầng
giao thông còn các hạ tầng thương mại nông thôn (Chợ nông thôn hoặc nơi
mua bán, trao đổi hàng hóa), hạ tầng thông tin hoặc truyền thông (Bưu chính,
105
viễn thông, internet, đài truyền thanh, hệ thống loa, ứng dụng công nghệ thông
tin), hạ tầng y tế (Trạm xá, bệnh viện, trang thiết bị y tế,...),... vẫn chưa được
đầu tư quan tâm đúng mức, có nơi còn chưa có chợ kiên cố, vẫn là chợ tạm, chỉ
họp buổi sáng, hoặc mua bán nhỏ lẻ; hạ tầng thông tin, truyền thông ở vùng
nông thôn cũng còn rất hạn chế. Các hộ gia đình “chưa đóng góp” xây dựng hạ
tầng y tế chiếm tỷ lệ khá cao. Bên cạnh đó sự đầu tư của chính quyền, doanh
nghiệp đến hạ tầng này cũng chưa được quan tâm, vì vậy ở một số địa phương
tuyến huyện, xã hạ tầng y tế còn rất kém, không đảm bảo các trang thiết bị,
trình độ của y bác sĩ cũng thấp, dẫn đến tình trạng quá tải ở tuyến trên hoặc
không cứu chữa kịp thời.
Thứ hai, gia đình e ngại trong việc đóng góp xây dựng NTM giai đoạn tới
Do chạy theo thành tích để đạt tiêu chuẩn NTM nên có nhiều công trình
hạng mục phục vụ cho đời sống của gia đình nông thôn đã xây dựng nhưng đến
nay lại bị bỏ hoang, không sử dụng hoặc đã bắt đầu xuống cấp.
Gia đình đóng góp xây dựng các khu thể thao, nhà văn hóa và khu học tập
cộng đồng, chợ,... to lớn, hoành tráng, mất hơn nửa tỉ đồng cũng chỉ để “trang trí”,
đóng cửa cả ngày, bị xuống cấp, trong khi đó khoản nợ vài trăm triệu đồng chưa
có tiền để hoàn trả; Các hộ gia đình góp công, góp của làm nên những con đường
mới nhưng đường lại nhỏ hẹp đan xen, đi lại gặp nhiều khó khăn,... gây những
mâu thuẫn nhất định trong quá trình đóng góp của gia đình với việc sử dụng các
nguồn vốn đó của chính quyền địa phương.
Đơn cử như ở xã Thụy Hương (huyện Chương Mỹ, Hà Nội), mặc dù đã
được công nhận xã điểm NTM toàn quốc từ nhiều năm qua, nhưng ở đây có tới
hai nhà máy cấp nước đang chờ sử dụng trong khi các hộ phải tự bỏ tiền đào
giếng, lấy nước tưới hoa màu. Những vấn đề này cho thấy, do chạy theo thành
tích, nên chính quyền địa phương đã huy động quá sức của nhân dân; bên cạnh
đó xuất hiện tình trạng tham ô, tham nhũng của một số cán bộ. Từ đó dẫn đến
mất niềm tin của nhân dân, gia đình vào sự đóng góp xây dựng NTM.
Cần xác định đây là chương trình lâu dài phục vụ thiết thực cho đời sống
người dân nông thôn chứ không phải mang tính phong trào nên phải thực hiện
đảm bảo tính bền vững. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào vai trò của người đứng
106
đầu ở các địa phương, nhất là Bí thư Đảng ủy và Chủ tịch UBND xã, huyện. Và
khi tổ chức thực hiện thì nhất định phải lấy ý kiến thảo luận từ nhân dân, đại diện
của các gia đình, phát huy tinh thần dân chủ, đặt nhân dân vừa là chủ thể thực
hiện, vừa là đối tượng hưởng thụ của quá trình xây dựng NTM.
3.2.2. Thu hồi đất phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng dẫn đến tình trạng thành viên trong
gia đình mất việc làm, thất nghiệp, ly nông, ly hương, không đảm bảo tính
bền vững trong xây dựng nông thôn mới
Thứ nhất, thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện công nghiệp hóa trong
những năm gần đây đã mang đến những thay đổi lớn ở các vùng nông thôn. Các
khu công nghiệp được hình thành đã tạo ra sự tăng trưởng kinh tế cao, đa dạng
hóa nguồn thu nhập, nâng cấp cơ sở hạ tầng, góp phần rất lớn vào việc thực hiện
xóa đói giảm nghèo ở vùng nông thôn. Tuy nhiên, việc thu hồi đất đã tác động
trực tiếp đến việc làm và đời sống của gia đình nông thôn trước mắt cũng như lâu
dài. Việc mất đất đai, thiếu việc làm, không tự chủ về lương thực, ly nông, ly
hương là tình trạng phổ biến của các gia đình, nhất là ở các tỉnh như Hưng Yên,
Hải Dương,...từ đó dẫn đến những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, xảy ra tình
trạng khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện vượt cấp,...
Thứ hai, giải quyết việc làm cho các gia đình sau khi chuyển giao đất cho
các xí nghiệp, khu công nghiệp. Do đất nông nghiệp bị thu hồi để xây dựng các
nhà máy, lao động trong lĩnh vực nông nghiệp của các gia đình có giảm đi. Mỗi hộ
chỉ còn từ 1 đến 2 lao động làm nghề nông, trồng cấy trên diện tích đất còn lại
hoặc chăn nuôi, thủy sản theo qui mô nhỏ. Một số gia đình thuê đất của các hộ
trong thôn hoặc xã lân cận để làm nông nghiệp, một phần lớn lao động ở các hộ
phải tìm kiếm việc làm trong các lĩnh vực khác như làm thuê trong nông nghiệp,
làm việc gia đình, phụ hồ, làm thuê trong các xưởng nhựa, thủ công mỹ nghệ, bán
hàng thuê,...
Các loại hình dịch vụ khác như buôn bán nhỏ, làm nghề phụ như chế biến
nông sản, làm công nhân trong khu công nghiệp may, điện tử,...cũng là nghề đang
phát triển ở những địa phương được điều tra. Tuy nhiên, do yêu cầu cao về trình
độ, đặc biệt là học vấn, điều kiện và kỷ luật lao động chặt chẽ là nguyên nhân chủ
107
yếu của việc rất ít lao động trong các gia đình nông dân tìm được việc làm trong
các nhà máy, hoặc do sức khỏe kém, không chấp hành tốt kỷ luật lao động hoặc
do công ty bị phá sản, bị chấm dứt hợp đồng nên phải quay trở lại nghề nông hoặc
tìm việc làm thuê.
Thứ ba, đảm bảo an ninh lương thực cũng là một vấn đề đặt ra cho gia đình
ở nhiều vùng nông thôn trên cả nước. Trước khi thu hồi đất để phát triển công
nghiệp, chính sách phát triển kinh tế hộ gia đình nông thôn đã mang lại sự đảm
bảo về lương thực. Việc thu hồi đất đã dẫn đến không tự chủ được về lương thực,
ảnh hưởng đến việc các gia đình phát huy vai trò trong phát triển kinh tế hộ, đầu
tư giáo dục và chăm sóc sức khỏe vì hàng tháng vẫn phải lo cho việc chi tiêu ăn
uống hàng ngày.
Mặc dù việc phát triển CNH, HĐH trong nông nghiệp, xây dựng các khu
công nghiệp ở nông thôn là cần thiết, tuy nhiên, để giai đoạn tiếp theo của xây
dựng NTM hướng đến bền vững thì cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa nông
nghiệp và công nghiệp, giải quyết việc làm cho thành viên gia đình để họ có cơ
hội ly nông mà không ly hương, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo đời sống vật chất
và tinh thần cho gia đình.
3.2.3. Những biến đổi của gia đình vùng đồng bằng sông Hồng làm ảnh
hưởng đến việc phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng nông thôn mới
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế thị trường làm biến đổi các chức
năng của gia đình, nên một số chức năng của gia đình chưa được phát huy trong
quá trình xây dựng NTM, cụ thể:
Thứ nhất, về vai trò sinh sản của gia đình, tạo nguồn lao động cho nông
thôn - đây là chức năng quan trọng của gia đình. Tuy nhiên, hiện nay với tác động
của công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế nên nhận thức của nhiều gia đình có
nhiều thay đổi. Nếu trước kia gia đình nhận thức “đông con nhiều phúc”, thì hiện
nay tỉ lệ gia đình cho rằng phải có nhiều con chiếm tỉ lệ thấp hơn. Điều này cũng
có tính hai mặt, một mặt đảm bảo được kế hoạch hóa gia đình, mặt khác lại xuất
hiện tư tưởng sai lệch như không muốn kết hôn hoặc kết hôn nhưng không sinh
con,... Điều này ảnh hưởng đến nguồn lao động của sản xuất nói chung và cho quá
trình xây dựng NTM nói riêng.
108
Thứ hai, vai trò giáo dục của gia đình - đây là trách nhiệm quan trọng
của gia đình. Gia đình hiện nay không chỉ là nơi giáo dục phẩm chất cho các
thành viên mà còn là nơi giáo dục về đường lối, chính sách, về chuyên môn, tay
nghề, tạo công ăn việc làm cho các thành viên. Tuy nhiên, trong thực hiện tiêu
chí văn hóa, giáo dục của gia đình cho thấy hiện nay nhiều gia đình chưa phát
huy tốt được vai trò này. Cha mẹ phải đi làm ca ở các khu công nghiệp nên
không có nhiều thời gian dạy con học tập, thiếu sự quan tâm của cha mẹ. Mặt
khác, tác động mặt trái của CNH, HĐH, kinh tế thị trường dẫn đến một bộ phận
gia đình bị phá vỡ nền nếp gia phong, đạo đức truyền thống của gia đình dẫn
đến tệ nạn xã hội thâm nhập vào như cờ bạc, rượu chè, nghiện ma túy,..., lối
sống thực dụng, hưởng thụ, cá nhân xuất hiện. Theo đó, xung đột gia đình xuất
hiện, tỷ lệ ly hôn tăng lên,... điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hình thành nhân
cách của trẻ.
Thứ ba, biến đổi về vai trò kinh tế của gia đình. Hiện nay do quá trình công
nghiệp hóa mà các thành viên gia đình nông thôn vùng ĐBSH đi làm tại đô thị, các
nhà máy, khu công nghiệp hoặc xuất khẩu lao động nên vai trò tổ chức sản xuất của
gia đình cũng suy giảm hoặc mất đi và chức năng tiêu dùng được tăng lên.
Cơ cấu nghề nghiệp của gia đình hiện nay có nhiều biến đổi, ngành phi
nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ tăng lên thì việc sản xuất tự cung, tự cấp của
gia đình cũng suy giảm.
Thứ tư, vai trò tâm lý, tình cảm của một số gia đình hiện nay cũng bị phá
vỡ, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình trở nên lỏng lẻo, đời sống tâm lý,
tình cảm không còn được duy trì. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự rạn
nứt trong gia đình và là nguồn gốc xuất hiện những tiêu cực len lỏi vào như ma
túy, mại dâm, cờ bạc, rượu chè,...Mâu thuẫn giữa các thế hệ, các thành viên trong
gia đình đang đặt ra thách thức mới, tình trạng bạo hành vẫn còn tồn tại trong một
số gia đình do thực hiện chưa tốt chức năng cân bằng tâm sinh lý, tình cảm.
Như vậy, quá trình CNH, HĐH, kinh tế thị trường là một tất yếu để phát
triển vùng ĐBSH, tuy nhiên cũng đặt ra rất nhiều vấn đề tác động đến vai trò của
gia đình. Vì vậy, Đảng, Nhà nước, tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội và chính
109
quyền địa phương cần đưa ra các chính sách để gia đình thực hiện tốt các tiêu chí
xây dựng NTM trong giai đoạn tiếp theo.
3.2.4. Quá trình sản xuất của một số gia đình vùng đồng bằng sông
Hồng chưa đảm bảo tiêu chí phát triển bền vững về môi trường trong xây
dựng nông thôn mới
Một trong những mục tiêu của quá trình xây dựng NTM là phát triển nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Tuy nhiên song hành cùng sự phát triển là những
nguy cơ về ô nhiễm môi trường từ chất thải của các hoạt động sinh hoạt, sản xuất
của các gia đình và sự tác động từ các khu công nghiệp.
Vệ sinh môi trường nông thôn đang là vấn đề bức xúc của xã hội, tiêu chí
môi trường là tiêu chí đạt thấp nhất. Các gia đình quan tâm đến phát triển kinh tế
hộ, phát triển sản xuất, tuy nhiên có nơi sản xuất tại gia đình vẫn chưa gắn với vấn
đề bảo vệ môi trường, môi sinh. Chất thải từ hoạt động sản xuất của các gia đình
đang làm cho môi trường không khí, nước, đất bị ô nhiễm và có xu hướng gia
tăng, đặc biệt vấn đề chất thải rắn nông thôn đã và đang là vấn đề cấp bách đặt ra
ở nhiều vùng và địa phương.
Do nguồn nước mặt bị ô nhiễm và nhiễm mặn nên gia đình chuyển sang
khai thác nước dưới đất để phục vụ cho sinh hoạt, sản xuất công nghiệp, nông
nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó, nhiều giếng nước gia đình không còn
sử dụng hoặc khai thác không hiệu quả nhưng không có biện pháp xử lý hoặc
được xử lý không đúng quy định đã làm gia tăng nguy cơ đưa nguồn ô nhiễm vào
nước ngầm, gây ra hiện tượng ô nhiễm thông tầng mạch nước ngầm.
Với đặc thù làng nghề ở Việt Nam chủ yếu ở quy mô hộ gia đình, nằm xen
kẽ trong khu dân cư nên ô nhiễm không khí mang tính cục bộ và gây ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống người dân. Các gia đình đang còn tập trung một số nghề
truyền thống như gốm sứ, chế tác đá, đồ gỗ mỹ nghệ hay các nghề chế biến lương
thực, thực phẩm, giết mổ dẫn đến ô nhiễm mùi, ô nhiễm khí độc hại.
Đối với môi trường đất, trong trồng trọt, việc các gia đình sử dụng ngày càng
tăng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học đang làm ảnh hưởng không nhỏ tới
môi trường đất. Thực tế cho thấy, các loại chất thải này thường bị vứt bừa bãi trên
110
đồng ruộng hoặc nguy hiểm hơn, có trường hợp vứt ngay đầu nguồn nước sinh
hoạt. Các gia đình với hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm ngày càng cao, tuy
nhiên dựa vào nguồn thức ăn công nghiệp, dược phẩm mà các gia đình lại chưa có
biện pháp xử lý chất thải gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường đáng báo động.
Xử lý chất thải rắn ở nông thôn cũng là một vấn nạn đặt ra, chất thải rắn từ
sinh hoạt của các gia đình được thu gom tập trung về các bãi chôn lấp lộ thiên, hầu
hết không có hệ thống xử lý nước rỉ rác hoặc có nhưng hoạt động không hiệu quả
đã và đang gây ô nhiễm môi trường xung quanh.
Có thể thấy rằng, gia đình đang phát huy được vai trò trong phát triển kinh
tế hộ gia đình và sản xuất hàng hóa, góp phần xây dựng NTM và thực hiện thắng
lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất, các gia
đình vùng ĐBSH cũng làm ảnh hưởng đến môi trường, môi sinh gây ô nhiễm
khu vực nông thôn.
3.2.5. Một số chính quyền, địa phương vùng đồng bằng sông Hồng huy
động, sử dụng các nguồn lực đóng góp của gia đình trong xây dựng nông
thôn mới thiếu minh bạch và không hiệu quả làm ảnh hưởng đến niềm tin
của nhân dân
Trong giai đoạn 2010 - 2015 xây dựng NTM được sự hưởng ứng nhiệt tình
của quần chúng nhân dân, các gia đình đóng góp tiền, ngày công lao động, hiến
tặng đất, tài sản cho việc xây dựng các hạng mục của NTM. Tuy nhiên, lại diễn ra
tình trạng mâu thuẫn giữa việc đóng góp của gia đình với cách sử dụng nguồn vốn
đầu tư của chính quyền xã, huyện.
Hơn 8 năm xây dựng NTM, nhiều địa phương có những thay đổi đáng kể,
nhưng khi triển khai chương trình này, thậm chí có những xã, huyện cán bộ suy
thoái đạo đức nên đã lợi dụng việc xây dựng NTM để tham ô, tham nhũng. Công
trình chưa làm xong đã xuống cấp, người dân đã phát hiện ra nhiều sai phạm
nghiêm trọng, có đơn thư và gây mất niềm tin cho gia đình vùng ĐBSH trong xây
dựng NTM, như: cấp xi măng thừa, chồng chéo trên một tuyến đường, tự ý cắt
tiền hỗ trợ dồn đổi ruộng đất, thất thoát làm công trình, cán bộ xã tư lợi..
111
Ví dụ như năm 2012, lãnh đạo các xã ở huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh đã
nhận tiền giải ngân để phát cho dân và ký hợp đồng với một số doanh nghiệp cung
cấp con giống, vật nuôi cho các hộ dân. Tuy nhiên, nhiều hộ dân để được phát tiền
phải nộp lại một khoản cho chủ tịch xã, cấu kết để nhận tiền nhà nước, nhưng con
giống vật nuôi không tới tay người dân.
Vùng ĐBSH là nơi đã xảy ra một số vụ mâu thuẫn giữa chính quyền và
nhân dân như vụ Đoàn Văn Vươn (Tiên Lãng, Hải Phòng), vụ việc ở xã Đồng
Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội... Điều này làm suy giảm niềm tin của quần chúng
nhân dân, gia đình vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, dẫn đến nguy cơ hình
thành điểm nóng chính trị xã hội có thể bùng phát bất cứ lúc nào, tiềm ẩn nguy
cơ ảnh hưởng không tốt đến khối liên minh giai cấp, gây mất khối đại đoàn kết
dân tộc.
Các địa phương muốn thay đổi nhanh kết cấu hạ tầng nông thôn nên
nhiều nơi dồn lực xây dựng cơ sở hạ tầng quá sức so với nguồn lực của địa
phương, từ đó nảy sinh dấu hiệu nợ đọng. Gần đây, Văn phòng Điều phối NTM
Trung ương cho biết, theo số liệu từ các địa phương, tổng số nợ đọng xây dựng
cơ bản về NTM đến cuối tháng 5/ 2018 là trên 1.630 tỷ đồng. Trong đó có 2 địa
phương thuộc đồng bằng sông Hồng tự cân đối ngân sách còn nợ đọng là Hải
Phòng và Vĩnh Phúc. Cả nước có 4 địa phương hiện có số nợ đọng nhiều nhất
thì có đến 3 địa phương thuộc ĐBSH là Hải Phòng trên 230 tỷ đồng, Hải
Dương trên 210 tỷ đồng và Hà Nam trên 150 tỷ đồng [1]. Chính những mâu
thuẫn này gây dư luận không tốt trong quần chúng nhân dân, từ đó gia đình
cũng dè dặt và e ngại hơn khi đóng góp xây dựng NTM. Vì vậy, thời gian tới
chính quyền các địa phương cần có giải pháp hợp lý để giải quyết nợ đọng, sử
dụng nguồn đóng góp của dân, nguồn vốn nhà nước một cách công khai, minh
bạch, có hiệu quả cao, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho gia đình
vùng ĐBSH nói riêng và cả nước nói chung.
112
Tiểu kết chương 3
Thời gian qua, gia đình vùng ĐBSH đã thể hiện vai trò tích cực để vùng
ĐBSH trở thành vùng trọng điểm, dẫn đầu trong việc hoàn thành các tiêu chí xây
dựng NTM, các gia đình tự giác, tích cực đóng góp tiền, hiện vật, ngày công lao
động, hiến tặng đất đai trong phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội; kinh tế hộ gia đình
vùng ĐBSH phát triển và hình thức tổ chức sản xuất đa dạng, cơ cấu lao động
chuyển dịch từ nông, lâm ngư nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ; gia đình phát
huy vai trò trong xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, nâng cao trình độ dân
trí, thực hành dân chủ ở nông thôn; thực hiện bình đẳng giới, phòng, chống bạo
lực gia đình và đảm bảo trật tự an ninh, xã hội.
Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa vai trò của gia đình trong đảm bảo an ninh
nông thôn cần khắc phục những hạn chế như: Nhận thức của các cấp chính quyền
về vai trò của gia đình chưa đầy đủ, gia đình xây dựng NTM chưa mang tính bền
vững, phát triển kinh tế hộ gia đình còn manh mún, chưa xứng với tiềm năng, mâu
thuẫn của quá trình CNH, HĐH, kinh tế thị trường với thực tiễn thu hồi đất đai
dẫn đến ly nông, ly hương, ứng dụng khoa học công nghệ cao mới ô nhiềm môi
trường, môi sinh, mâu thuẫn giữa đóng góp của gia đình với việc sử dụng của
chính quyền địa phương,…
Từ những thành tựu và hạn chế này, luận án rút ra những nguyên nhân và
những vấn đề cấp thiết đặt ra trong quá trình gia đình thực hiện vai trò trong xây
dựng NTM hiện nay. Đây chính là những căn cứ thực tiễn để luận án đưa ra quan
điểm và giải pháp cần thiết để gia đình tiếp tục thực hiện có hiệu quả vai trò của
mình trong xây dựng NTM thời gian tới.
113
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY
VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY
4.1. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
HIỆN NAY
4.1.1. Xác định gia đình vừa là chủ thể, vừa là đối tượng hưởng thụ
trong xây dựng nông thôn mới vùng đồng bằng sông Hồng
Xây dựng NTM là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; cấp
ủy Đảng, chính quyền đóng vai trò chủ đạo, điều hành; Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội vận động mọi tầng lớp nhân dân phát huy vai trò
chủ thể trong xây dựng NTM. Để xây dựng NTM vùng ĐBSH đạt hiệu quả cao
hơn, hướng đến xây dựng NTM bền vững cần xác định quan điểm: Gia đình
vùng ĐBSH vừa là chủ thể, vừa là đối tượng hưởng thụ, vừa là mục tiêu xây
dựng NTM.
Chủ thể xây dựng NTM là mọi tầng lớp nhân dân, các thành viên trong gia
đình. Vì vậy, thời gian tới cần phát huy vai trò chủ thể của gia đình vùng ĐBSH,
gia đình vùng ĐBSH là chủ thể tích cực tham gia vào quá trình xây dựng và thực
hiện quy hoạch xây dựng NTM; chủ động, sáng tạo trong xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn; trực tiếp trong phát triển kinh tế và tổ chức sản
xuất CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; tích cực, sáng tạo trong xây dựng và gìn
giữ đời sống văn hóa - xã hội, môi trường ở nông thôn; là nhân tố góp phần quan
trọng vào xây dựng hệ thống chính trị - xã hội vững mạnh, bảo đảm an ninh trật tự
xã hội.
Ngoài ra, gia đình vùng ĐBSH còn là đối tượng trực tiếp hưởng thụ các
thành quả của xây dựng NTM. Từ cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội như đường làng,
ngõ xóm khang trang, sạch đẹp, giao thông thuận lợi, nhà sinh hoạt văn hóa cộng
114
đồng, môi trường, môi sinh đảm bảo, các gia đình được sử dụng nước sạch đến
sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nâng cao thu nhập, giải quyết việc
làm tại chỗ cho nhân dân; an ninh trật tự xã hội được đảm bảo,... đều phục vụ trực
tiếp cho nâng cao đời sống của gia đình nông thôn vùng ĐBSH nói riêng và gia
đình nông thôn cả nước nói chung.
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước, chính quyền địa phương cần xác định rõ
mục tiêu của chương trình “Xây dựng NTM” là nhằm nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của gia đình nông thôn; phát triển kinh tế gia đình; xây dựng NTM có
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ và hiện đại để phục vụ cho đời sống của
gia đình nông thôn nhất là đường giao thông, thủy lợi, trường học, trạm y tế, khu
dân cư,...; tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình tham gia các tổ chức
chính trị - xã hội, xây dựng xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, văn minh, giàu
đẹp; gia đình tích cực bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn nền nếp gia đình, bản
sắc văn hóa dân tộc; an ninh trật tự xã hội được giữ vững theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, phòng, chống bạo lực gia đình.
4.1.2. Phát huy vai trò của gia đình vùng đồng bằng sông Hồng hướng
đến xây dựng nông thôn mới bền vững
“Phát triển nông thôn bền vững phải bao gồm 4 quá trình: CNH, HĐH; đô
thị hóa; kiểm soát dân số; bảo vệ môi trường sinh thái. Quá trình đô thị hóa, hiện
đại hóa nông thôn phải theo các tiêu chí xây dựng NTM, giảm thiểu sự cách biệt
giữa thành thị và nông thôn về mức sống vật chất và tinh thần” [80, tr.22]. Phát
triển nông thôn bền vững có các đặc điểm là “Thứ nhất, phát triển nông thôn bền
vững có tác động theo nhiều chiều cạnh khác nhau; Thứ hai, phát triển nông thôn
bền vững mang tính toàn diện và đa phương,...Có thể hiểu, phát triển nông thôn
bền vững là sự phát triển nông thôn bảo đảm bền vững về kinh tế, xã hội, văn hóa
và môi trường nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn”
[80, tr.22]. Như vậy, mục tiêu cuối cùng mà phát triển nông thôn bền vững muốn
hướng đến chính là nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn, nâng
cao chất lượng cuộc sống gia đình nông thôn phát triển bền vững.
115
Xuất phát từ quan điểm phát triển nông thôn bền vững, muốn xây dựng
NTM bền vững cần thực hiện đồng thời bốn nhóm tiêu chí sau: một là: Giữ vững
chất lượng hạ tầng kinh tế - xã hội, nông thôn có làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ
tầng hiện đại; hai là: Phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất có hiệu quả, sản xuất
bền vững, theo hướng hàng hóa; ba là: Phát triển hài hòa các mặt của xã hội, bản
sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát triển, trình độ dân trí cao; cải thiện môi
trường, môi sinh, bốn là: Nâng cao chất lượng lãnh đạo hệ thống chính trị và đảm
bảo an ninh trật tự xã hội. Như vậy “Xây dựng NTM bền vững là xây dựng và
củng cố vững chắc nông thôn theo các tiêu chí NTM, phù hợp với đặc điểm từng
vùng của nông thôn Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người
dân nông thôn”.
Thời gian tới cần nhận thức và huy động gia đình vùng ĐBSH xây dựng
NTM phát triển toàn diện, theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn,
tăng năng suất, có chất lượng, đạt hiệu quả cao và tăng khả năng cạnh tranh, giữ
gìn môi trường, xây dựng hệ thống chính trị - xã hội, đảm bảo vững chắc an ninh
trật tự, xã hội toàn vùng nói riêng và của cả nước nói chung.
4.1.3. Phát huy vai trò của gia đình vùng đồng bằng sông Hồng trong
thực hiện dân chủ ở nông thôn là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,
trước hết là hệ thống chính trị cấp cơ sở vùng đồng bằng sông Hồng
Xây dựng NTM là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của cả hệ thống chính
trị và toàn xã hội, trong đó cấp ủy đảng và chính quyền cơ sở đóng vai trò lãnh
đạo, điều hành. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội đóng vai trò nòng
cốt trong vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện. Trong những năm tiếp theo để
phong trào xây dựng NTM ở ĐBSH đạt hiệu quả cao hơn cần xác định quan điểm:
Phát huy vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong thực hiện dân chủ ở nông thôn là
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trước hết là hệ thống chính trị cấp cơ sở
vùng ĐBSH.
Phát huy vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong thực hiện dân chủ ở nông
thôn xây dựng NTM phải coi là việc làm thường xuyên, mang tính lâu dài của cả
116
hệ thống chính trị, nhất là hệ thống chính trị cơ sở, chứ không phải công tác mang
tính phong trào, hay mang tính giai đoạn nhất định. Có thể nói hệ thống chính trị
cấp cơ sở và ý thức tự giác của mỗi gia đình là nhân tố quan trọng, quyết định đến
việc các xã, huyện nhanh chóng đạt được danh hiệu “Huyện NTM”, “Xã NTM”
và giữ gìn danh hiệu đó trên thực tiễn để hướng đến xây dựng NTM bền vững.
Hệ thống chính trị cơ sở có vai trò, nhiệm vụ tổ chức và vận động nhân dân
thực hiện các tiêu chí xây dựng NTM thông qua việc làm, hành động cụ thể diễn
ra hàng ngày ở cơ sở, xã, thôn, xóm và trong từng gia đình. Quan điểm chính sách
của Đảng và Nhà nước là yếu tố khách quan, bên ngoài; hệ thống chính trị cơ sở,
sự tham gia của từng người dân, gia đình là yếu tố bên trong, yếu tố chủ quan, là
tiềm năng, nội lực để thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng NTM.
Hệ thống chính trị cơ sở thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong phát huy vai
trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM, công khai, minh bạch trong
quá trình quản lý, sử dụng các nguồn vốn đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả, kịp
thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc để tạo sự đồng thuận trong nhân dân,
niềm tin của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM.
Để phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng NTM cần huy động sự
tham gia của cả hệ thống chính trị cơ sở, trong đó cấp ủy Đảng, chính quyền xây
dựng kế hoạch, hướng dẫn cụ thể; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội
nhất là Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên,...tổ chức các hoạt động để
vận động gia đình tham gia xây dựng NTM; từng cán bộ, đảng viên nâng cao trách
nhiệm trong vận động gia đình mình làm gương, đi đầu trong đóng góp, thực hiện
các tiêu chí xây dựng NTM.
4.1.4. Phát huy vai trò của gia đình vùng đồng bằng sông Hồng trong
xây dựng nông thôn mới gắn với “Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng
đồng bằng sông Hồng” và “Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn 2030”
Xây dựng NTM vùng ĐBSH cần gắn với những chủ trương, chính sách,
chiến lược phát triển của Đảng và Nhà nước, như “Quy hoạch phát triển kinh tế -
117
xã hội vùng đồng bằng sông Hồng” và “Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam
đến năm 2020, tầm nhìn 2030”.
Vùng ĐBSH được Đảng và Nhà nước ta xác định là vùng có vị trí, vai trò
quan trọng, là vùng trung tâm đầu não về chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học
công nghệ của cả nước, theo đó ngày 23 tháng 5 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ
đã ra Quyết định số 795/QĐ-TTg Quyết định Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2020, trong đó xác định
quan điểm phát triển vùng là:
Phát triển kinh tế - xã hội vùng phù hợp với chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội cả nước, phù hợp với quy hoạch phát triển các ngành và lĩnh
vực của cả nước theo hướng mở, có khả năng hội nhập quốc tế sâu,
rộng, gắn kết chặt chẽ với các vùng trong cả nước; Tận dụng tốt các lợi
thế của Vùng để nâng cao tăng trưởng và khả năng cạnh tranh, gắn với phát triển bền vững [105].
Gắn xây dựng NTM với các quan điểm “Quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội vùng đồng bằng sông Hồng” để nhanh chóng phát triển kinh tế - xã hội nông
thôn vùng ĐBSH. Xây dựng vùng ĐBSH thực sự là địa bàn tiên phong hoàn thành
sớm mục tiêu xây dựng NTM, nâng cao số lượng và chất lượng thực hiện của các
địa phương, từ đó góp phần thực hiện các “đột phá chiến lược” của vùng, tái cấu
trúc kinh tế, đổi mới thành công mô hình tăng trưởng, trở thành đầu tàu của cả
nước về phát triển kinh tế, đảm đương vai trò to lớn đối với sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước và góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Để phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng NTM cũng cần gắn với
Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Ngày 29
tháng 5 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 629/QĐ-TTg
phê duyệt Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030
với mục tiêu xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ
ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội. Kết hợp giữa tiêu chí xây dựng
NTM và mục tiêu, giải pháp, giai đoạn thực hiện và tầm nhìn 2030 của Chiến lược
118
cho thấy thực hiện Chiến lược góp phần rất lớn trong việc phát huy vai trò của gia
đình trong xây dựng NTM. Qua đó hướng đến nâng cao nhận thức về vai trò, trách
nhiệm của gia đình vùng ĐBSH và cộng đồng trong việc thực hiện tốt chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, phát triển nông nghiệp,
nông thôn; bình đẳng giới, ngăn chặn tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình; kế
thừa, phát huy giá trị tốt đẹp của gia đình vùng ĐBSH trong thực hiện nhóm tiêu
chí thứ tư của xây dựng NTM về giáo dục, đào tạo, văn hóa; nâng cao năng lực
của gia đình trong phát triển kinh tế, ứng phó với thiên tai và khủng hoảng kinh tế;
tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, thực hiện nhóm tiêu chí thứ ba
trong xây dựng NTM về kinh tế và tổ chức sản xuất.
4.2. GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
HIỆN NAY
Theo từ điển Tiếng Việt, “phát huy là làm cho cái hay, cái tốt nhân rộng
thêm tác dụng, thúc đẩy tiếp tục nảy nở nhiều hơn” [136, tr.1321]. Như vậy, phát
huy vai trò của gia đình là làm cho những chức năng, điểm tốt của gia đình được
tiếp tục lan rộng và phát triển. Phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng NTM
là làm cho chức năng, điểm tốt của gia đình được tiếp tục lan rộng và phát triển
trong thực hiện các tiêu chí xây dựng NTM thời gian tới.
Xây dựng NTM giai đoạn tiếp theo cần đi vào thực chất, hiệu quả, nâng cao
về chất lượng. Nếu như giai đoạn đầu từ năm 2010 đến 2015 là xây dựng thì giai
đoạn tiếp theo từ 2016 đến 2020, tầm nhìn 2030 và sau này là giai đoạn hoàn thiện,
về đích, củng cố; nếu giai đoạn đầu là xây dựng xã đạt chuẩn NTM thì giai đoạn tiếp
theo là xây dựng xã NTM kiểu mẫu,... Vì vậy, cần huy động mọi nguồn lực để nâng
cao chất lượng các tiêu chí, nhanh chóng đưa vùng ĐBSH trở thành vùng điểm,
trọng tâm, đi đầu trong xây dựng thành công NTM phát triển bền vững.
Đồng bằng sông Hồng là vùng đi đầu trong xây dựng NTM, để phát huy
vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM đòi hỏi các giải pháp phải
đảm bảo tính tổng thể; tính toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
119
và tác động không chỉ vào chủ thể gia đình mà còn vào các chủ thể khác; tính khả
thi và hướng đến xây dựng NTM bền vững trong thời gian tới cần tập trung thực
hiện các giải pháp cơ bản sau:
4.2.1. Nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận xã hội về phát huy vai trò
của gia đình vùng đồng bằng sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới
Để nâng cao nhận thức của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị,
nhận thức của người dân và gia đình vùng ĐBSH về vị trí, vai trò của gia đình
trong xây dựng NTM trước hết cần thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền.
Công tác tuyên truyền góp phần thay đổi nhận thức của gia đình, qua đó
phát huy được tính tích cực, chủ động, tự giác, sáng tạo của gia đình trong xây
dựng NTM. Thông qua công tác tuyên truyền, những mô hình, hiệu quả, những
cách làm hay có điều kiện lan tỏa để các địa phương có thể áp dụng.
Để làm tốt công tác tuyên truyền, cần tập trung vào một số biện pháp cụ
thể sau:
4.2.1.1. Đa dạng hóa phương thức truyền thông về Chương trình xây
dựng nông thôn mới và vai trò của gia đình trong xây dựng nông thôn mới
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng.
Truyền thông đại chúng là quá trình truyền tải và phổ biến thông tin xã hội
đến số lượng công chúng lớn, phân tán về không gian, thời gian. Tin tức từ hệ
thống này đến công chúng một cách nhanh chóng, đều đặn và gián tiếp; được thực
hiện thông qua cơ chế trung gian như đài phát thanh, truyền hình, sách, báo, các
tạp chí, báo mạng điện tử,... Hiện nay, phương tiện truyền thông đại chúng rất phát
triển, đến được với từng người dân, từng gia đình, vì vậy cần thông qua các trang
thông tin truyền thông này để tuyên truyền chủ trương, chính sách và phương
pháp tiến hành xây dựng NTM một cách sâu rộng, nhanh chóng và phổ biến.
Cùng với đó là tuyên truyền, giới thiệu các mô hình, điển hình tiên tiến về các gia
đình tích cực đóng góp xây dựng NTM, các mô hình làm kinh tế gia đình giỏi,
cách làm hay về xây dựng NTM.
120
Chính quyền từ trung ương đến địa phương (tỉnh, thành phố, huyện, xã) cần
quan tâm hơn nữa đến việc phối hợp với Đài phát thanh, truyền hình địa phương,
tòa báo, website để nâng cao hiệu quả hoạt động của các chuyên mục về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn như: “Dạy nghề”, “Bạn của nhà nông”, “Cùng nông
dân bàn cách làm giàu”, “Nhà nông cần biết”, “Sinh ra từ làng” (Đài Truyền hình
Việt Nam); “Hướng tới nông thôn Việt Nam no ấm, giàu đẹp, văn minh” (Hệ
VOV1), “Nhân vật và sự kiện” (Hệ VOV2), “Xây dựng NTM, chuyên mục hôm
nay” (Kênh truyền hình Đài Tiếng nói Việt Nam); http://nongthonmoi.gov.vn
(Văn phòng điều phối chương trình Mục tiêu xây dựng Quốc gia xây dựng NTM),
http://nongthonmoihanoi.gov.vn (Văn phòng điều phối chương trình Mục tiêu xây
dựng Quốc gia xây dựng NTM Hà Nội),...
Bên cạnh đó, hiện nay một kênh thông tin rất phát triển, tỷ lệ người dùng
tăng lên đó là tuyên truyền qua mạng internet, sử dụng các trang mạng xã hội, như
sử dụng các mạng xã hội quốc tế (lập fanpge facebook, youtube, twitter, blog,...),
mạng trong nước đã bắt đầu hợp tác với chính quyền một số tỉnh để cung cấp
thông tin như zalo,...
Thứ hai, tuyên truyền qua nhiều hình thức sử dụng tài liệu, pa nô, áp phích,
tờ gấp, tờ rơi, trang thông tin truyền thông trên mạng internet,...
Các ngành liên quan cần nhanh chóng biên soạn và phát hành tài liệu tuyên
truyền, tài liệu tham khảo, tài liệu hỏi - đáp, tờ gấp, tờ rơi, các bộ ảnh,...có chất
lượng tốt tuyên truyền về vai trò của gia đình trong xây dựng NTM, tài liệu phải
phù hợp với từng đối tượng, địa bàn tuyên truyền, các tài liệu này cần ngắn gọn,
dễ hiểu, dễ làm theo và được phát đến từng người dân, từng gia đình.
Ngoài ra, địa phương cần treo các tờ panô, áp phích,... trên đường, nhà văn
hóa để người dân dễ dàng tiếp nhận, mang tính quần chúng. Đây là hình thức tác
động nhanh nhất, tuy không đầy đủ nhưng mang tính khẩu hiệu, dễ tác động vào
suy nghĩ và hành động.
Thứ ba, tuyên truyền thông qua hình thức tổ chức các phong trào, cuộc vận
động, thi đua,...
Hưởng ứng phong trào thi đua “Cả nước chung tay xây dựng NTM” của
Chính phủ, các ban ngành, địa phương cần tổ chức thường xuyên và nâng cao chất
121
lượng của phong trào thi đua, để tạo khí thế mới, khích lệ nông dân, các gia đình
tham gia thi đua xây dựng đường làng, ngõ xóm, nâng cao lao động sản xuất, góp
phần nhanh chóng đạt chuẩn NTM.
Các ban ngành, địa phương, tổ chức xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi
đua thu hút được sự tham gia của các gia đình; tạo sự đồng thuận của toàn xã hội
và phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị trong quyết tâm triển khai tổ chức
thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua, kịp thời khen thưởng những tập thể, cá
nhân, gia đình tiêu biểu tích cực đóng góp cho xây dựng NTM.
Thứ tư, tuyên truyền thông qua các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao,
hình thức sân khấu hóa,...
Trong công cuộc xây dựng NTM, văn hóa giữ vai trò quan trọng trong
nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
của dân tộc. Bên cạnh đó, hiện nay đời sống vật chất của người dân, gia đình
được nâng cao hơn nên họ quan tâm hơn đến đời sống tinh thần. Vì vậy, thời
gian tới, các địa phương cần tăng cường thực hiện công tác tuyên truyền dưới
hình thức cổ động trực quan, các cuộc thi tìm hiểu về đề tài NTM, huy động gia
đình tham gia xây dựng NTM thông qua: Sân khấu hóa, sáng tác, tập huấn, liên
hoan văn hóa văn nghệ, hội thi văn nghệ, thi đấu thể thao, giao lưu, tọa đàm, liên
hoan tuyên truyền lưu động,... Thông qua các chương trình này các gia đình có
điều kiện giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, vừa góp phần cổ vũ tinh thần phấn đấu,
hăng say xây dựng NTM.
Thứ năm, các tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng báo cáo viên, tuyên
truyền viên tích cực thực hiện đổi mới phương pháp tuyên truyền, nâng cao hiệu
quả hoạt động tuyên truyền về xây dựng NTM.
Lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên phối hợp cùng các cộng tác viên
tuyên truyền miệng và những người có uy tín để vận động người dân, gia đình tự
nguyện tham gia thực hiện các tiêu chí tại địa phương, “đả thông tư tưởng” để các
gia đình đóng góp cho xây dựng NTM, nhất là hiến tặng đất đai, đóng góp tiền
của, ngày công cho các tiêu chí phục vụ trực tiếp đời sống của gia đình như đường
làng, ngõ xóm, nhà văn hóa, vệ sinh môi trường, y tế,...
122
Trong công tác tuyên truyền về xây dựng NTM, vai trò đặc biệt quan trọng
là sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ,
Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên.. Đồng thời, phối hợp với các ban, ngành tổ
chức tập huấn, xây dựng mô hình điểm, tuyên truyền trên các kênh thông tin đại
chúng để nâng cao nhận thức cho cán bộ, hội viên, nông dân, phụ nữ, đoàn viên và
đưa nội dung tuyên truyền, phát động phong trào thi đua xây dựng NTM vào ký
kết giao ước thi đua hàng năm.
Thứ sáu, tuyên truyền xây dựng NTM thông qua các buổi sinh hoạt chính
trị của cấp ủy, chính quyền các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội.
Cấp ủy các cấp quán triệt Nghị quyết của Đảng và chỉ đạo, điều hành của
Chính phủ, đưa nội dung xây dựng NTM trở thành nhiệm vụ chính trị, thường
xuyên được đưa ra trong các buổi sinh hoạt thường kỳ. Tổ chức cơ sở đảng căn cứ
chức năng, nhiệm vụ mà xác định vai trò trong việc phối hợp, hỗ trợ hay trực tiếp
lãnh đạo quần chúng, gia đình thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTM.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội lồng ghép nhiệm vụ xây
dựng NTM trong hoạt động thường xuyên, quán triệt đến các cán bộ, đảng viên,
đoàn viên, hội viên nâng cao tinh thần, ý thức trách nhiệm tham gia xây dựng
NTM; trong đó, những người đứng đầu chính quyền địa phương, hội trưởng các tổ
chức cần làm gương đi đầu trong việc vận động gia đình tham gia xây dựng NTM,
từ đó mới có sức mạnh lan tỏa đến các gia đình khác trong xã, huyện.
4.2.1.2. Nội dung tuyên truyền về vai trò của gia đình trong xây dựng
nông thôn mới cần rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện, phù hợp với mọi gia đình
vùng đồng bằng sông Hồng
Các ngành, đơn vị, địa phương cần bám sát nội dung của xây dựng NTM và
vai trò của gia đình để chủ động xây dựng kế hoạch, định hướng nội dung tuyên
truyền xây dựng NTM trong giai đoạn tiếp theo; trong đó, lồng ghép vai trò của
gia đình không chỉ tham gia xây dựng mà còn giữ gìn, tu bổ, bảo vệ, hướng đến
xây dựng NTM một cách bền vững.
Cần lồng ghép nội dung về vai trò của gia đình trong xây dựng NTM như:
vai trò của gia đình trong xây dựng các hạ tầng cơ sở như đường, làng, ngõ xóm,
123
nhà văn hóa; vai trò gia đình trong phát triển kinh tế địa phương; vai trò gia đình
trong giữ gìn văn hóa truyền thống, tiếp thu văn hóa mới; vai trò của gia đình
trong đảm bảo xây dựng hệ thống chính trị và đảm bảo an ninh trật tự xã hội
nông thôn.
Các ban, ngành, tổ chức chính trị xã hội cần lồng ghép nội dung tuyên
truyền về vai trò của gia đình trong xây dựng NTM. Tuyên truyền trong các tổ
chức chính trị xã hội, trong cán bộ, đoàn viên và hội viên, đến từng gia đình để
hiểu rõ và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các đề án,
chương trình, kế hoạch của địa phương về nông nghiệp, nông dân và nông thôn”;
về vai trò chủ thể của gia đình trong sự nghiệp xây dựng NTM. Trên cơ sở đó, các
gia đình tự nguyện đóng góp tiền, công sức, hiến tặng đất để xây dựng cơ sở hạ
tầng, làm đường giao thông nông thôn, thủy lợi, nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng
đồng ở khu dân cư. Vận động để mỗi gia đình tự xây dựng, nâng cấp, chỉnh trang
nhà ở, cải tạo lại vườn ao, đầu tư cho sản xuất để có tăng thu nhập cho gia đình,
tạo cảnh quan đường làng ngõ xóm, cũng như cảnh quan gia đình được sạch đẹp
hơn, khang trang hơn.
Xây dựng các phong trào với các nội dung thiết thực như: Gia đình tích cực
tham gia bảo hiểm y tế”, “Cựu chiến binh nêu gương sáng, hiến kế, hiến công xây
dựng quê hương đất nước”, phong trào “Phụ nữ chung sức xây dựng NTM” gắn
với cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”, “Gia đình tham gia bảo
đảm quốc phòng an ninh”, “Gia đình nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi,
đoàn kết giúp nhau giảm nghèo và làm giàu chính đáng”,.... Qua đó, tạo khí thế thi
đua sôi nổi trong cộng đồng xã hội, các gia đình đồng tình hưởng ứng.
Chính quyền và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội tham gia vận động
gia đình giáo dục con em không tham gia các tệ nạn xã hội, không vi phạm pháp
luật. Đồng thời, mỗi thành viên trong gia đình cũng tích cực trong phòng ngừa,
đấu tranh, ngăn chặn và đẩy lùi các loại tội phạm, tệ nạn xã hội; bảo đảm an ninh
trật tự trong gia đình mình cũng như trong làng, xóm, khu vực nông thôn, nâng
cao trách nhiệm, hành động của thành viên gia đình thực hiện bảo vệ trẻ em tránh
124
các hành vi bạo lực, xâm hại ở gia đình và cộng đồng nhằm góp phần xây dựng
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
4.2.2. Nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị các cấp
ở vùng đồng bằng sông Hồng, tạo điều kiện thuận lợi để gia đình phát huy
vai trò trong xây dựng nông thôn mới
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức
mạnh của đoàn thể chính trị - xã hội vùng ĐBSH là một điều kiện chính trị quan
trọng để phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng NTM.
Thứ nhất, đổi mới mạnh mẽ hơn nữa phương thức hoạt động, nâng cao
năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng cấp cơ sở vùng ĐBSH trong việc phát huy vai
trò của gia đình trong xây dựng NTM.
Thành công trong xây dựng NTM và thu hút được sự tham gia của đông
đảo quần chúng, gia đình cần phải có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường
xuyên sâu sát, quyết liệt của cấp ủy, chính quyền, sự tham gia tích cực và phối
hợp chặt chẽ của các ban, ngành, đoàn thể. Thực tiễn cho thấy nơi nào cấp ủy,
chính quyền, đoàn thể thực sự quan tâm vào cuộc thường xuyên, quyết liệt thì dù
có khó khăn đến mấy vẫn tạo nên những chuyển biến rõ nét, làm cho nông thôn
được “thay da đổi thịt”. Để làm được điều đó trước hết cần tiếp tục tăng cường
sự lãnh đạo của tổ chức đảng cấp cơ sở vùng ĐBSH trong việc thực hiện chương
trình xây dựng NTM.
Cùng với đó, cần đổi mới mạnh mẽ về nội dung và phương thức lãnh đạo
của tổ chức đảng các cấp, xây dựng kế hoạch, lộ trình và có giải pháp cụ thể
trong triển khai công tác phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng NTM, có
thể lựa chọn các tiêu chí có thế mạnh của vùng ĐBSH, có tính đột phá hoặc
tiêu chí có thể thu hút được sự tham gia tích cực của gia đình để ưu tiên thực
hiện trước. Đối với các xã đã đạt chuẩn NTM, tiếp tục huy động sức mạnh của
gia đình trong việc nâng cao chất lượng các tiêu chí để phấn đấu xây dựng
NTM kiểu mẫu.
Tổ chức cơ sở Đảng vùng ĐBSH cần nâng cao vai trò lãnh đạo, thường
xuyên chỉ đạo các thôn, các tổ chức đoàn thể và từng gia đình chủ động thực hiện
125
chương trình bằng những công việc cụ thể như: Chỉnh trang tường rào, cổng ngõ,
nhà ở, chuồng trại chăn nuôi, cải tạo vườn tạp, đầu tư nâng cao hiệu quả sản xuất
và xây dựng các công trình vệ sinh, thu gom rác thải… xây dựng nếp sống mới ở
nông thôn; nâng cao nhận thức, tư duy mới trong sản xuất và đời sống của dân cư
nông thôn.
Bên cạnh đó, một yếu tố rất cấp thiết trong việc đảm bảo sự lãnh đạo của tổ
chức đảng cơ sở trong phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng NTM chính là
mỗi đảng viên cần tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, nâng cao
nhận thức của đảng viên về vai trò của gia đình trong xây dựng NTM. Theo đó,
mỗi đảng viên nêu cao ý thức gương mẫu, vận động gia đình trong thực hiện các
chủ trương, kế hoạch của địa phương nhằm chuyển biến trong nhận thức và hành
động của gia đình, xác định xây dựng NTM là trách nhiệm, nghĩa vụ và cũng
mang lại lợi ích cao nhất của mỗi gia đình vùng ĐBSH.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý của Nhà
nước trong phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng NTM.
Theo báo cáo của Chánh văn phòng Điều phối NTM Trung ương: “Rút
kinh nghiệm trong quá trình triển khai của giai đoạn trước và tiếp tục nâng cao
chất lượng các kết quả đạt chuẩn đảm bảo thực chất và bền vững,... kịp thời phát
hiện và chấn chỉnh những địa phương để xảy ra tình trạng chạy theo thành tích,
huy động quá sức dân, có tư tưởng “chùng lại” trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng
NTM sau khi đã được công nhận đạt chuẩn...”[73]. Theo đó, những năm tiếp theo
để gia đình vùng ĐBSH phát huy vai trò trong xây dựng NTM đi vào chiều sâu,
đạt chất lượng cần nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý của
chính quyền Nhà nước.
Để nâng cao niềm tin của nhân dân, các gia đình vùng ĐBSH với sự
quản lý của chính quyền về xây dựng NTM, hoạt động của bộ máy nhà nước
các cấp phải thực hiện công tác sắp xếp tổ chức, bảo đảm tinh gọn, hoạt động
có hiệu lực, hiệu quả, tinh giản biên chế gắn với cơ cấu, cải cách thủ tục hành
chính. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước phải thống nhất từ trung ương đến địa
126
phương, đặc biệt là bộ máy cấp xã, huyện hoạt động phải thực sự đạt hiệu quả,
mang lại lợi ích cho nhân dân, có hướng dẫn, kế hoạch cụ thể để xây dựng
NTM tại địa phương.
Ủy ban nhân dân huyện kịp thời chỉ đạo việc kiện toàn Ban Chỉ đạo cấp
huyện, Ban quản lý cấp xã, Ban phát triển thôn về xây dựng NTM nhanh chóng
kịp thời nắm bắt tình hình, đôn đốc, hướng dẫn các địa phương, các gia đình thực
hiện xây dựng NTM. Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện
chương trình, phát hiện những gia đình điển hình tiên tiến, những sáng kiến và
kinh nghiệm hay về xây dựng NTM để khích lệ, động viên và nhân ra diện rộng;
thường xuyên hướng dẫn và kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc phát
sinh trong quá trình tổ chức thực hiện.
Thứ ba, nâng cao hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội trong phát
huy vai trò của gia đình trong xây dựng NTM.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội khác cần tiếp tục thực
hiện tốt, có hiệu quả đối với công tác phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng
NTM. Tích cực tuyên truyền, phổ biến đến các thành viên, nhân dân về vai trò của
gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM của Đảng và Nhà nước giai đoạn mới,
qua đó các thành viên, tầng lớp nhân dân hiểu rõ, nâng cao ý thức trách nhiệm của
các tổ chức trong việc vận động gia đình tham gia xây dựng NTM.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có các hoạt động thường
xuyên để vận động các gia đình giúp nhau làm kinh tế, thoát nghèo bền vững,
vươn lên làm giàu hợp pháp, hỗ trợ các gia đình đăng ký sản xuất, kinh doanh, vận
động gia đình thực hiện quy hoạch và chỉnh trang đường làng, ngõ xóm, khu dân
cư, góp công xây dựng, giữ gìn kết cấu hạ tầng nông thôn. Vận động gia đình
vùng ĐBSH tham gia tổ chức hợp tác xã nông nghiệp, hỗ trợ liên kết giữa các hợp
tác xã và hộ nông dân với doanh nghiệp, phát triển kinh tế trang trại, gia trại, phát
huy nghề truyền thống của địa phương, của gia đình. Các hoạt động trên góp phần
tích cực thực hiện các tiêu chí 1,2,6,9,11,12,13 trong Bộ tiêu chí quốc gia về xây
dựng NTM.
127
Tổ chức các cuộc vận động sát thực với gia đình, thu hút sự tham gia của
đông đảo gia đình như “Gia đình 5 không, 3 sạch” (Các tiêu chí của gia đình 5
không, 3 sạch: 5 không là không đói nghèo, không vi phạm pháp luật và tệ nạn xã
hội, không có bạo lực gia đình, không sinh con thứ ba trở lên, không có trẻ em suy
dinh dưỡng và trẻ em bỏ học; 3 sạch là sạch nhà, sạch bếp, sạch ngõ). Các tiêu chí
“Gia đình 5 không, 3 sạch” phù hợp với mục tiêu của Chương trình xây dựng
NTM vì đều hướng tới xây dựng gia đình và cộng đồng ấm no, hạnh phúc, văn
minh, góp phần thực hiện tiêu chí 9 (nhà ở dân cư), tiêu chí 10 (thu nhập), tiêu chí
11 (hộ nghèo), tiêu chí 14 (giáo dục), tiêu chí 15 (y tế), tiêu chí 16 (văn hóa), tiêu
chí 17 (môi trường) và tiêu chí 19 (an ninh trật tự),...
Theo quy định tại Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Ban
chấp hành trung ương về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội [5], các tổ chức
chính trị - xã hội tiếp tục phát huy vai trò trong thực hiện chức năng giám sát và
phản biện xã hội đối với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM. Tiếp thu
ý kiến của thành viên, lấy ý kiến của nhân dân, các gia đình, các chuyên gia và tổ
chức khảo sát thực tế để có cơ sở kiến nghị với cấp ủy, chính quyền cùng cấp;
giám sát thông qua thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, văn bản, báo cáo, đơn thư
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của tổ chức.
4.2.3. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát huy vai trò của gia đình
vùng đồng bằng sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo một trong những giải pháp
tập trung cần làm trong trong thời gian tới là:
Tiếp tục rà soát, hoàn thiện tất cả các cơ chế, chính sách để thực hiện
Chương trình; hoàn thiện Đề án “Phát triển hệ thống trung tâm cung
ứng hàng nông sản Việt Nam hiện đại giai đoạn 2018 - 2020, định
hướng 2030”...; Chỉ đạo các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ
động ban hành các cơ chế, chính sách, các văn bản hướng dẫn thực hiện
Chương trình đồng bộ và phù hợp với điều kiện triển khai thực tế của
địa phương [18].
128
Theo đó, Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương cần hoàn thiện cơ chế,
chính sách để phát huy vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM.
Thứ nhất, Chính phủ, các Bộ, ngành địa phương tập trung rà soát lại tất cả
các cơ chế, chính sách để huy động gia đình tham gia xây dựng NTM:
Tiếp tục rà soát, hoàn thiện tất cả các cơ chế, chính sách để thực hiện
Chương trình; hướng dẫn và đôn đốc các địa phương triển khai hiệu quả các Đề án
xây dựng NTM đặc thù, các Đề án thí điểm xây dựng NTM kiểu mẫu giai đoạn
2018-2020... Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách đặc biệt là các cơ
chế, chính sách nhằm huy động nguồn lực xã hội, thu hút doanh nghiệp hỗ trợ đầu
tư phát triển kinh tế gia đình. Rà soát, xây dựng cơ chế, chính sách và huy động
các tổ chức chính trị xã hội trong việc vận động gia đình đóng góp nguồn lực cho
xây dựng NTM. Nhà nước cần có cơ chế, chính sách cụ thể để các tổ chức chính
trị xã hội tham gia trực tiếp vào vận động gia đình đóng góp nguồn lực cho quá
trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Xây dựng, đưa ra các chính sách,
chương trình, kế hoạch phát huy vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng
hệ thống chính trị ở nông thôn vững mạnh, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và điều
hành, quản lý của chính quyền.
Rà soát lại tất cả các cơ chế, chính sách để thực hiện Chương trình hiệu
quả, có cơ chế, chính sách thích hợp và đủ mạnh để thực sự khuyến khích việc gia
đình vùng ĐBSH ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, thu
hút doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn nông thôn phát triển sản xuất, kinh doanh
trong nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
Thứ hai, hướng dẫn và đôn đốc các địa phương triển khai hiệu quả các Đề
án xây dựng NTM đặc thù đã được Thủ tướng Chính phủ và cấp có thẩm quyền
ban hành để gia đình tham gia xây dựng NTM.
Trong những năm 2016, 2017, Thủ tướng Chính phủ và các cấp có thẩm
quyền đã ban hành rất nhiều các đề án xây dựng NTM đặc thù, các Đề án thí
điểm xây dựng NTM kiểu mẫu giai đoạn 2018 - 2020, đề án hỗ trợ cho các
thôn, bản, ấp thuộc các xã khó khăn nhất xây dựng NTM gắn với giảm nghèo
129
bền vững; đề án Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) giai đoạn 2018 -
2020 và định hướng đến năm 2030,... Qua các đề án này cho thấy Đảng và Nhà
nước, các bộ ban ngành quan tâm đến thực hiện chương trình xây dựng NTM đi
vào chất lượng, thực chất, xây dựng NTM phát triển bền vững. Từ đó, chính
quyền địa phương phải chủ động hướng dẫn đến từng thôn, xã, gia đình tích
cực triển khai thực hiện các Đề án, phát huy vai trò của gia đình trong một số
Đề án có tác động trực tiếp đến phát triển của gia đình như bảo vệ môi trường,
ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, phát triển sản phẩm truyền thống
của gia đình,...
Thứ ba, các tỉnh, thành phố chủ động ban hành các cơ chế, chính sách, các
văn bản hướng dẫn thực hiện Chương trình đồng bộ và phù hợp với điều kiện
triển khai thực tế của gia đình vùng ĐBSH.
Văn phòng Điều phối NTM Trung ương cần đôn đốc các địa phương vùng
ĐBSH triển khai lập dự án, xây dựng mô hình thí điểm trong đó phát huy được vai
trò của gia đình như mô hình gia đình ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ xây
dựng NTM, mô hình gia đình bảo vệ môi trường trong xây dựng NTM,...
Hướng dẫn, phối hợp với UBND các tỉnh vùng ĐBSH để xây dựng “Đề án
xây dựng NTM đặc thù”, tiến hành rà soát hiện trạng của vùng, tỉnh, huyện, thôn,
xã và gia đình để làm cơ sở triển khai xây dựng Đề án mang tính đặc thù của vùng
ĐBSH và các tỉnh, lồng ghép trong đó là các nội dung để phát huy vai trò của gia
đình trong xây dựng NTM.
4.2.4. Tăng cường huy động các nguồn lực để phát huy vai trò của gia
đình vùng đồng bằng sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới có hạ tầng
kinh tế - xã hội từng bước hiện đại
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2016 - 2020 đưa
ra mục tiêu “đến năm 2020 số xã đạt tiêu chuẩn NTM đạt 50%, trong đó đồng
bằng sông Hồng là 80%,... Cơ bản hoàn thành các công trình thiết yếu đáp ứng
yêu cầu phát triển sản xuất và đời sống của cư dân nông thôn: giao thông, điện,
nước sinh hoạt, trường học, trạm y tế xã,...” [106].
130
Thứ nhất, chính quyền địa phương vận động gia đình vùng ĐBSH tham gia
đóng góp hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn phải theo nguyên tắc tự
nguyện, công khai, minh bạch.
Theo Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng chính
phủ về Phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2016
- 2020 có quy định về vận động đóng góp xây dựng NTM, “Chính quyền địa
phương (tỉnh, huyện, xã) không quy định bắt buộc nhân dân đóng góp, chỉ vận
động bằng hình thức thích hợp để nhân dân tự nguyện đóng góp xây dựng cơ sở
hạ tầng kinh tế - xã hội của địa phương” [106], cùng với đó thực hiện nguyên tắc
tự nguyện, công khai, minh bạch, “cộng đồng và người dân trong xã bàn bạc mức
tự nguyện đóng góp cụ thể cho từng dự án, đề nghị Hội đồng nhân dân xã thông
qua” [106]. Tạo điều kiện cho hộ nghèo tham gia xây dựng NTM bằng cách vận
động “Hộ nghèo tham gia trực tiếp lao động để xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế -
xã hội của địa phương được chính quyền địa phương xem xét, trả thù lao theo mức
phù hợp với mức tiền lương chung của thị trường lao động tại địa phương và khả
năng cân đối ngân sách địa phương” [106].
Thứ hai, thúc đẩy gia đình vùng ĐBSH hưởng ứng mạnh mẽ công cuộc
hoàn thiện kết cấu hạ tầng hiện đại bằng tăng cường sự hỗ trợ từ ngân sách Nhà
nước cho các xã.
Theo đó, gia đình vùng ĐBSH tiếp tục hoàn thiện, bảo trì, tu dưỡng các
hạng mục phục vụ trực tiếp cho đời sống hàng ngày như giao thông, thủy lợi, điện,
y tế,... Vùng ĐBSH có các tỉnh Hà Nội, Quảng Ninh, Nam Định, Hải Dương,
Vĩnh Phúc,... là các tỉnh có lợi thế trong huy động, lồng ghép các nguồn lực phục
vụ xây dựng NTM, vì vậy
Ban chỉ đạo các xã tích cực chủ động trong việc huy động ngân sách
địa phương và các nguồn lực xã hội hóa cho xây dựng NTM, thực hiện
lồng ghép Chương trình xây dựng NTM với các chương trình phát triển
kinh tế xã hội khác, cùng với nguồn vốn hỗ trợ trực tiếp của cấp trên để
đẩy nhanh tiến độ thực hiện các tiêu chí NTM [9].
131
Thứ ba, nhanh chóng giải quyết các vấn đề bức xúc của gia đình vùng
ĐBSH trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội để xây dựng NTM.
Để gia đình vùng ĐBSH tiếp tục có sự tin tưởng, phát huy vai trò tích cực
trong xây dựng NTM, Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp cần quan tâm giải
quyết các vấn đề bức xúc đang diễn ra hiện nay như vấn đề môi trường nông thôn,
cấp nước sạch, thu gom xử lý rác thải sinh hoạt, xây dựng cảnh quan môi trường
xanh - sạch - đẹp và nhất là vấn đề xử lý nợ đọng cơ bản trong xây dựng NTM,
tránh để lại gánh nặng lên vai của người dân, các xã, huyện xây dựng NTM. Vì
vậy, Đảng và Nhà nước ta cần xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của
Chương trình là xử lý dứt điểm nợ đọng xây dựng cơ bản trong xây dựng NTM,
nhất là đối với các địa phương tự túc ngân sách.
Bên cạnh đó, phải tăng cường kiểm soát trong việc phê duyệt các dự án đầu
tư để đảm bảo chỉ khi xác định được nguồn vốn thì các địa phương mới quyết định
đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng thực hiện cho các tiêu chí NTM.
Tình hình phát triển kinh tế của đất nước đang tốt hơn, nguồn thu ngân sách của
các địa phương có nhiều khả quan, nên các địa phương cần quan tâm để đẩy mạnh
việc huy động các nguồn lực trong xây dựng NTM phát triển bền vững. Riêng
năm 2017 cả nước có thêm 11 địa phương báo cáo đã xử lý hết nợ trong đó vùng
ĐBSH có Hà Nội, Quảng Ninh, Nam Định, trước đó năm 2016 có Bắc Ninh, Hải
Dương cũng đã hoàn toàn xử lý xong nợ đọng; đây là tín hiệu để vùng ĐBSH
nhanh chóng phát huy thế mạnh để đạt mục tiêu xây dựng NTM trong thời gian
tới và phát huy được tính tự giác, chủ động của gia đình trong đóng góp đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng của NTM.
4.2.5. Phát triển kinh tế gia đình vùng đồng bằng sông Hồng, thực hiện
thành công nhóm tiêu chí thứ ba về kinh tế và tổ chức sản xuất trong xây
dựng nông thôn mới
Một trong những mục tiêu Chương trình xây dựng NTM hướng đến giai
đoạn tiếp theo là “Nâng cao chất lượng cuộc sống của cư dân nông thôn; tạo nhiều
mô hình sản xuất gắn với việc làm ổn định cho nhân dân, thu nhập tăng” [106], để
132
đạt được mục tiêu này Đảng, Nhà nước ta và chính quyền các địa phương vùng
ĐBSH cần thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển kinh tế gia đình trên cả 4
mũi nhọn là sản xuất nông nghiệp, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông
nghiệp, đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất và nâng cao chất lượng đào tạo
nghề tạo việc làm thường xuyên cho các thành viên trong gia đình.
Thứ nhất, gia đình vùng ĐBSH tập trung đẩy mạnh phát triển nông nghiệp
sản xuất hàng hóa có giá trị và hiệu quả kinh tế cao.
Các địa phương vùng ĐBSH cần đẩy mạnh thu hút đầu tư, phát triển sản
xuất, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho gia đình nông thôn. Trong đó lĩnh
vực nông nghiệp tập trung các giải pháp đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hàng
hóa có giá trị, hiệu quả kinh tế cao, phát huy hàng nông sản lợi thế của các tỉnh
vùng ĐBSH, trọng tâm là sản xuất lúa chất lượng cao, rau an toàn, hoa, cây cảnh,
cây ăn quả đặc sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm, sản xuất giống, chăn nuôi bò thịt,
bò sữa, nuôi thâm canh thủy sản. ĐBSH là vùng có thuận lợi về điều kiện tự
nhiên, nhiều tỉnh có mặt hàng nông sản lợi thế không chỉ bán hàng trong nước mà
xuất khẩu sang các thị trường trên thế giới, như Thanh Hà (Hải Dương); nhãn
lồng, cam, ổi Văn Giang (Hưng Yên); chuối ngự Đại Hoàng, cá kho Nhân Hậu, gà
móng Tiên Phong, bánh đa làng Chều, rượu Vọc Vũ Bản (Hà Nam),...
Chính quyền địa phương vận động, hướng dẫn gia đình vùng ĐBSH thúc
đẩy phát triển nhanh các hình thức tích tụ ruộng đất để tổ chức sản xuất cánh đồng
lớn; các mô hình liên kết sản xuất hàng hóa “cánh đồng lớn liên kết chuỗi giá trị”
và các mô hình kinh tế trang trai, gia trại; các mô hình liên kết trong từng lĩnh vực:
Trồng trọt, chăn nuôi, nuôi thủy sản và ngành nghề nông thôn.
Gia đình vùng ĐBSH sản xuất nông nghiệp chủ động, tích cực chuyển đổi
cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng cường áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới về giống,
kỹ thuật thâm canh và cơ giới hóa vào sản xuất và chế biến nông sản. Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tăng cường quản lý chất lượng nông, thủy sản, đảm
bảo nông, thủy sản của địa phương đạt tiêu chí an toàn.
Triển khai và nhân rộng Đề án “Chương trình mỗi xã, phường một sản
phẩm (OCOP), giai đoạn 2017 - 2020” trên phạm vi toàn vùng, nhằm tạo ra nhiều
133
sản phẩm hàng hóa chất lượng cao, mang tính đặc trưng, lợi thế của vùng, miền,
tập trung theo chuỗi giá trị gia tăng cao, gắn với xây dựng thương hiệu. Vùng
ĐHBH có Quảng Ninh là tỉnh đi đầu cho thực hiện Đề án, thời gian tới chính
quyền tỉnh Quảng Ninh tiếp tục “tập trung chỉ đạo phát triển các sản phẩm OCOP
chủ lực các cấp và thực hiện Kế hoạch phát triển 31 sản phẩm chủ lực cấp huyện,
trong đó chọn ra 12 sản phẩm cấp tỉnh và 6 sản phẩm cấp quốc gia gắn với phát
triển đồng bộ sản phẩm theo chuỗi từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ, đảm bảo cơ
bản đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng cung cấp cho các thị trường trong
nước và quốc tế,...”[115]. Việc thực hiện Đề án OCOP sẽ phát huy được thế mạnh
của xã, chính quyền xã cần nhanh chóng xây dựng kế hoạch để các gia đình tham
gia, xây dựng được thương hiệu sản phẩm, tăng chất lượng sản phẩm, từ đó vừa
nâng cao thu nhập, vừa giải quyết việc làm tại chỗ thường xuyên cho các thành
viên trong gia đình, khắc phục tình trạng “ly nông, ly hương”.
Thứ hai, gia đình vùng ĐBSH đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao vào sản
xuất nông nghiệp.
Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh là chìa
khoá giúp ĐBSH tiếp tục thực hiện thành công chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, khẳng định vai trò là “động lực” cho sự phát triển chung của cả nước. Vì
vậy thời gian tới, chính quyền các tỉnh vùng ĐBSH cần tiếp tục triển khai có hiệu
quả Chương trình khoa học và công nghệ phục vụ xây dựng NTM giai đoạn 2016
- 2020, trong đó, khẩn trương hoàn thiện thủ tục giao nhiệm vụ và kinh phí cho
các tổ chức, cá nhân thực hiện các Đề tài, Dự án khoa học công nghệ đã được cấp
có thẩm quyền phê duyệt đảm bảo đúng tiến độ và quy định.
Tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật mới vào sản xuất và đời sống
trong nông thôn. Có cơ chế khuyến khích hỗ trợ các tổ chức, cá nhân nghiên cứu
ứng dụng thực hiện các đề tài, dự án thuộc lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.
Trong đó, ưu tiên ứng dụng tiến bộ kỹ thuật cho gia đình trong trồng trọt, chăn
nuôi, thuỷ sản, vệ sinh môi trường, xử lý chất thải làng nghề, chế biến nông, lâm,
thuỷ sản, sản xuất thử nghiệm các sản phẩm, chế phẩm mới...
134
Xây dựng thị trường tiêu thụ nông sản và sản phẩm cho gia đình trong làng
nghề thủ công thông qua hệ thống các cơ sở dịch vụ thương mại đều khắp ở các
vùng. Khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân hợp tác trực
tiếp với nông dân, các hợp tác xã để sản xuất, chế biến các sản phẩm chất lượng
cao, an toàn thực phẩm để tiêu thụ tại các siêu thị, thay thế sản phẩm nhập khẩu và
phục vụ xuất khẩu.
Đồng thời, các địa phương tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc về
môi trường cho gia đình ở nông thôn trong quá trình phát triển sản xuất và công
nghiệp hóa. Thực hiện quy hoạch và đầu tư xây dựng các điểm tập kết, khu xử lý
rác thải, từng bước hoàn thiện mạng lưới thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải ở
khu vực nông thôn. Nghiên cứu xây dựng và triển khai một số mô hình về bảo vệ
môi trường cấp xã, nhất là xử lý rác thải phù hợp với từng vùng để rút kinh
nghỉệm, nhân rộng.
Huy động các tập đoàn lớn như công ty VinEco, công ty Vinaseed,... đầu
tư, mở rộng mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở vùng ĐBSH
vừa phát triển kinh tế của vùng, vừa giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho gia
đình vùng ĐBSH. Đơn cử như tập đoàn Hòa Phát chính thức đầu tư vào lĩnh vực
nông nghiệp từ năm 2015 và định hướng phát triển theo chuỗi 3F (Farm-Feed-
Food), tập đoàn đã thực hiện một số mô hình ứng dụng nông nghiệp công nghệ
cao trong sản xuất thức ăn chăn nuôi, chăn nuôi lợn, bò và gia cầm tại một số tỉnh,
thành phố vùng ĐBSH như Hưng Yên, Thái Bình... Vì vậy, cần có chính sách thu
hút gia đình vùng ĐBSH tham gia liên kết, cung ứng sản phẩm cho doanh nghiệp
lớn, nhưng muốn vậy đặt ra vấn đề quan trọng là gia đình vùng ĐBSH phải nâng
cao chất lượng sản phẩm nông sản, từ đó tăng thu nhập cho gia đình, giải quyết
việc làm thường xuyên, nhanh chóng hoàn thành nhóm tiêu chí thứ ba của xây
dựng NTM.
Thứ ba, gia đình vùng ĐBSH tích cực thực hiện đổi mới các hình thức tổ
chức sản xuất.
Tăng cường điều kiện kinh tế, xã hội để phát triển hơn nữa kinh tế hộ gia
đình. Phát triển kinh tế hộ, thực hiện đa dạng hóa ngành nghề, nâng cao thu nhập,
135
mức sống là trọng tâm phát triển kinh tế của NTM. Để làm được việc này, trước
hết Nhà nước cần quan tâm giải quyết vấn đề tín dụng cho phát triển kinh tế hộ gia
đình, định hướng chuyển dịch cơ cấu nghề nghiệp như chuyển dịch nghề nghiệp
của các hộ gia đình nông thôn từ nông nghiệp sang tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ
và các ngành nghề phi nông nghiệp khác.
Dịch chuyển phát triển kinh tế hộ gia đình theo hướng làm tiểu thủ công
nghiệp, buôn bán, dịch vụ. “Thu hút” lao động trẻ với học vấn phổ thông rời khỏi
các hộ gia đình nông thôn để tới làm việc ở các xí nghiệp, công ty. Nhà nước, các
tổ chức đoàn thể cũng như gia đình cần đầu tư mạnh cho giáo dục và đào tạo. Đây
là một chiến lược của đa số các hộ gia đình nhằm tạo điều kiện cho lực lượng lao
động trẻ có thể thoát ly tìm việc làm mới và cũng là vấn đề nền tảng, then chốt
nhất để phát triển kinh tế hộ gia đình bền vững. Chuyển đổi mô hình sản xuất từ
kinh tế hộ lên một hình thức cao hơn.
Tăng cường huy động các nguồn lực từ các ngân sách nhà nước các cấp
cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Huy động xã hội hóa từ các nhà
doanh nghiệp để giúp đỡ, phát triển kinh tế hộ gia đình. Huy động tham gia của
doanh nghiệp cần phải có chính sách rất cụ thể và bảo đảm hiệu quả cho doanh
nghiệp. Việc huy động nguồn lực từ các hộ gia đình phải phù hợp với điều kiện
kinh tế của nhân dân.
Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp, phát
triển các hợp tác xã ngành nghề, dịch vụ, các hội nghề nghiệp trong nông thôn.
Cần rà soát, đánh giá hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp, dịch vụ. Có các
giải pháp cụ thể đối với các hợp tác xã sản xuất kinh doanh kém hiệu quả. Có
chính sách hỗ trợ để khuyến khích gia đình tham gia các hợp tác xã nông nghiệp.
4.2.6. Nâng cao chất lượng đời sống văn hóa, chăm lo giáo dục đào tạo,
y tế và bảo vệ môi trường để gia đình vùng đồng bằng sông Hồng phát huy
vai trò trong xây dựng nông thôn mới bền vững
Đời sống văn hóa, chăm lo giáo dục đào tạo, y tế và bảo vệ môi trường có
vai trò rất quan trọng, tạo động lực cho xây dựng NTM phát triển bền vững hiện
136
nay. Hiện nay, Đảng, Nhà nước và chính quyền vùng ĐBSH cần có các giải pháp
cụ thể để gia đình vùng ĐBSH phát huy vai trò trong nâng cao chất lượng đời
sống văn hóa, chăm lo giáo dục, y tế và bảo vệ môi trường góp phần xây dựng
NTM phát triển bền vững.
Thứ nhất, phát triển văn hóa cho gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM
Trước hết, tiếp tục tuyên truyền sâu rộng về yêu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ
xây dựng đời sống văn hóa trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM
đến toàn thể cán bộ, người dân, gia đình vùng ĐBSH. Nhấn mạnh trách nhiệm của
mỗi cá nhân và gia đình là chủ thể trong kiến tạo đời sống văn hóa mới. Công tác
tuyên truyền cần thực hiện kiên trì, bền bỉ làm cho mỗi cán bộ, gia đình thấm
nhuần được yêu cầu xây dựng đời sống văn hóa.
Bên cạnh đó, chính quyền cần quan tâm đến việc đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất về văn hóa, huy động sự đóng góp của các gia đình vùng ĐBSH vào xây
dựng, tu bổ, giữ gìn nhà văn hóa sinh hoạt cộng đồng, sân thể thao,... Tạo được
“sân chơi” khang trang, sạch sẽ, là nơi sinh hoạt chung cho cộng đồng dân cư.
Song song với việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất về văn hóa, các địa
phương vùng ĐBSH cũng cần tập trung phát động các phong trào thi đua, các
cuộc vận động như xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa, khu dân cư văn
hóa,… trọng tâm là chỉ đạo nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa” gắn với xây dựng NTM” bao gồm các nội dung cụ
thể, thiết thực như: thi đua sản xuất hộ gia đình, kinh doanh giỏi, xóa đói, giảm
nghèo, “ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền”, “nuôi con khỏe, dạy con
ngoan”, “gia đình, dòng họ hiếu học”,...góp phần thay đổi bộ mặt văn hóa nông
thôn, nâng cao nhận thức của nhân dân và giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống tốt đẹp của địa phương; đẩy mạnh hơn nữa thực hiện đề án “Phát
triển văn hóa nông thôn” nhằm tạo nền tảng vững chắc để xây dựng văn hóa, nâng
cao chất lượng gia đình văn hóa, phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng trong bảo
tồn, phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Qua các phong trào, các
cuộc vận động, các gia đình đoàn kết thi đua phát triển kinh tế, xây dựng gia đình
137
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Các khu dân cư đã nâng cao ý thức và vai trò tự
quản, từng bước xây dựng mô hình làng văn hóa chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát
triển đa dạng ngành nghề; huy động được nội lực của gia đình nông thôn trong
xây dựng đời sống văn hóa NTM.
Ngoài ra, chính quyền địa phương cần có văn bản hướng dẫn cụ thể các
gia đình thực hiện nghiêm túc các quy ước, hương ước, nếp sống văn minh trong
việc cưới, việc tang và lễ hội; tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục,
thể thao để vừa phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, làm cho quan hệ gia
đình, hàng xóm ngày càng được gắn bó vừa đảm bảo tính hiện đại, không rườm
rà, tốn kém.
Phát huy vai trò của gia đình gắn với chiến lược xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gia đình cần quan tâm đến giáo dục đạo đức, nhân
cách, văn hóa truyền thống, đầu tư mạnh cho giáo dục đào tạo nâng cao dân trí
cho các thành viên trong gia đình; tăng cường đầu tư các nguồn lực cho phong
trào xây dựng gia đình văn hóa kết hợp với phương châm xã hội hóa, tạo nền tảng
cho sự phát triển chung của toàn xã hội.
Khuyến khích và thường xuyên tổ chức các hoạt động xã hội, văn hóa, văn
nghệ, thể dục, thể thao, phòng chống tệ nạn xã hội thu hút số lượng lớn gia đình
tham gia; tổ chức các hoạt động phát triển cộng đồng ở các thôn, xã nhằm phát
huy và bảo tồn những giá trị truyền thống tốt đẹp.
Xây dựng gia đình văn hóa trong NTM là sự vun bồi những giá trị tốt đẹp
đã và đang tồn tại, làm cho phong trào ngày càng đi vào chiều sâu, khơi dậy được
tinh thần ý thức tự giác tham gia của người dân. Đây là một quá trình lâu dài, xuất
phát từ nhận thức cá nhân đồng thời với việc quan tâm của các ngành, đoàn thể,
hướng đến lợi ích của từng gia đình gắn với lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội. Sự
quyết tâm đồng thuận ấy sẽ giúp cho phong trào xây dựng gia đình văn hóa ngày
càng thiết thực và hiệu quả hơn, góp phần thực hiện tiêu chí văn hóa trong xây
dựng NTM hiện nay tại ĐBSH.
138
Thứ hai, gia đình vùng ĐBSH tích cực phát triển giáo dục, đào tạo, nâng
cao trình độ dân trí cho các thành viên trong gia đình.
Gia đình là cái nôi đầu tiên giáo dục phẩm chất đạo đức, nhận thức cho con
người, vì vậy để nâng cao trình độ dân trí gia đình vùng ĐBSH cần tích cực chăm
lo giáo dục, đào tạo cho các thành viên trong gia đình, tạo động lực để phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng và cho đất nước.
Phát triển giáo dục và đào tạo trong xây dựng NTM hiện nay cần huy động
các nguồn lực (nhà nước, cộng đồng và gia đình) bảo đảm cơ sở vật chất cần thiết
cho phát triển giáo dục, nhất là giáo dục phổ thông ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh
tế khó khăn. Động viên các gia đình cho con em đi học đầy đủ các cấp học từ
mầm non đến trung học cơ sở, thậm chí đến bậc Đại học, sau Đại học, bảo đảm
không có một trẻ em nào không được đến trường.
Gia đình cần phối hợp cùng nhà trường để giáo dục con cái, không chỉ giáo
dục con cái về kiến thức phổ thông mà còn giáo dục cả về phẩm chất đạo đức,
nhân cách lối sống; truyền thống, văn hóa dân tộc; nền nếp sinh hoạt, truyền thống
gia đình; đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, quy định địa
phương và định hướng học tập, nghề nghiệp cho con.
Gia đình vùng ĐBSH cần phát huy truyền thống hiếu học, thông minh, cần
cù, nhiều địa phương sự ảnh hưởng của dòng họ tương đối lớn như Hải Dương,
Thái Bình, Nam Định,... Trải qua bao thế hệ, những nét đẹp văn hoá ở các làng,
dòng họ khoa bảng ở vùng ĐBSH vẫn được gìn giữ, phát huy, góp phần tạo nên
truyền thống văn hóa làng xã, truyền thống hiếu học trong gia đình, dòng họ. Cần
khuyến khích các làng, dòng họ duy trì hoạt động của ban khuyến học, xây dựng
tủ sách dòng họ, tạo điều kiện cho con cháu được học hành, mở mang tri thức,
động viên tất cả các gia đình cho con đến trường, không có thành viên bỏ học,
không mắc tệ nạn xã hội, không vi phạm pháp luật, các thành viên trong dòng họ
đều tự giác học tập thường xuyên dưới nhiều hình thức, đồng thời tham gia tích
cực vào phong trào khuyến học, khuyến tài.
139
Để làm tốt công tác khuyến học, khuyến tài, thực hiện đề án xã hội học tập,
cần tập trung xây dựng gia đình học tập và quan tâm xây dựng cộng đồng học tập.
Đâu là nền tảng vững chắc để xây dựng xã hội học tập, hình thành các xã, huyện
điểm, góp phần nâng cao trình độ dân trí cho gia đình vùng ĐBSH.
Chính quyền địa phương cần khuyến khích các gia đình vùng ĐBSH tạo
mọi điều kiện cho con cái học tập, bên cạnh việc đầu tư học phí, cho con học các
lớp kỹ năng, máy tính,... bố mẹ cần dành thời gian để dạy con ở nhà, củng cố kiến
thức cho con, phát huy vai trò giáo dục của gia đình.
Thứ ba, giải pháp phát huy vai trò của gia đình trong bảo vệ môi trường
góp phần xây dựng NTM bền vững.
Chính quyền địa phương tuyên truyền đến các gia đình vùng ĐBSH thực
hiện tốt tiêu chí môi trường trong xây dựng huyện NTM theo Quyết định số
558/QĐ-TTg ngày 05/4/2016 và tiêu chí môi trường và an toàn thực phẩm trong
xây dựng xã NTM theo Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ
tướng Chính phủ; triển khai thực hiện Đề án thí điểm hoàn thiện và nhân rộng mô
hình bảo vệ môi trường trong xây dựng NTM tại các xã khó khăn, biên giới, hải
đảo theo hướng xã hội hóa, giai đoạn 2017 - 2020 theo Quyết định số 712/QĐ-
TTg ngày 26/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ.
Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì phối hợp các ngành liên quan và các
địa phương tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc về môi trường nông thôn,
tạo môi trường, môi sinh thuận lợi cho gia đình sinh hoạt như cấp nước sạch, thu
gom xử lý rác thải sinh hoạt, xử lý môi trường trong sản xuất (thuốc bảo vệ thực
vật, nước thải chăn nuôi, nước thải làng nghề, nhà máy, khu công nghiệp,...) đặc
biệt ĐBSH là vùng tập trung đông dân cư ở vùng đồng bằng và vùng ven đô thị.
Chính quyền địa phương cần xây dựng các mô hình ứng dụng công nghệ tiên tiến
xử lý chất thải rắn, nước sinh hoạt ở các khu dân cư tập trung, cần đưa vào hoạt
động có hiệu quả cao, phục vụ trực tiếp cho đời sống của gia đình vùng ĐBSH.
Vận động gia đình vùng ĐBSH chú trọng bảo vệ môi trường và tạo cảnh
quan nông thôn sáng - xanh - sạch - đẹp, hiện đại, hợp lý và giữ gìn được những
140
đặc trưng và bản sắc nông thôn, trong đó: thu hút các gia đình tham gia phát
quang, trồng, giữ gìn, nhân rộng mô hình đường hoa, cây xanh, trồng hoa từ nhà
ra ruộng, từ việc nhân rộng mô hình vườn mẫu, xã kiểu mẫu, tạo môi trường nông
thôn trong lành, không có các hoạt động gây ô nhiễm, suy thoái môi trường,
Ủy ban nhân dân huyện, tỉnh, thành phố tập trung chỉ đạo các xã phối hợp
các ngành, đoàn thể xã tăng cường vận động, tuyên truyền các gia đình nâng cao ý
thức vệ sinh môi trường, tạo thói quen phân loại rác thải, không vứt rác bừa bãi,
đào hố chôn rác, dọn dẹp vệ sinh quanh nhà, tạo cảnh quan xanh, sạch, đẹp và xử
lý dứt điểm nhà vệ sinh trên sông, kênh, mương.
Bên cạnh đó, cần thực hiện ngay các biện pháp khắc phục ô nhiễm và cải
thiện môi trường tại các làng nghề bị ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng trên địa bàn
vùng ĐBSH (làng nghề sản xuất giấy tái chí Phú Lâm và Phong Khê (Bắc Ninh),
làng nghề như sắt thép Dục Tú (Đông Anh), Xuân Đỉnh (Từ Liêm), làng nghề tái
chế, sản xuất đồ nhựa Minh Khai (Hưng Yên), làng nghề ở Nam Định,...) và bố
trí kinh phí để xử lý ô nhiễm môi trường tại các làng nghề ô nhiễm đặc biệt
nghiêm trọng.
Vì vậy, để nhanh chóng khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường tại các
khu làng nghề vùng ĐBSH, UBND các tỉnh cần vận động các gia đình ở làng
nghề nâng cao ý thức xử lý nước thải, rác thải khi sản xuất; sớm thực hiện đề tài
“Xây dựng mô hình hợp tác xã kiểu mới quản lý và xử lý ô nhiễm môi trường tại
một số làng nghề chế biến nông, lâm sản tại một số tỉnh vùng đồng bằng sông
Hồng trong tiến trình xây dựng NTM” của Viện Phát triển kinh tế hợp tác thuộc
Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và Đề án tổng thể bảo vệ môi trường làng nghề
đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030; xây dựng các dự án thí điểm huy
động vai trò của gia đình trong xử lý, khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường
cho các làng nghề vùng ĐBSH ở các tỉnh, thành phố, như: Bắc Ninh, Hà Nội,
Hưng Yên, Hà Nam, Thái Bình, Hải Dương,...
Một trong những yếu tố để xây dựng NTM phát triển bền vững là phát triển
kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ môi trường, môi sinh, vì vậy, việc thực hiện các
141
giải pháp để huy động sức mạnh của gia đình vùng ĐBSH bảo vệ môi trường
trong xây dựng NTM mang tính cấp thiết, là nhiệm vụ trọng tâm.
4.2.7. Nâng cao trách nhiệm, vai trò của gia đình vùng đồng bằng sông
Hồng trong xây dựng hệ thống chính trị, tiếp cận pháp luật, thực hiện bình
đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình và đảm bảo quốc phòng, an ninh và
trật tự xã hội nông thôn
- Trước hết, nhóm giải pháp để nâng cao trách nhiệm, vai trò của gia đình
vùng ĐBSH trong xây dựng hệ thống chính trị, tiếp cận pháp luật, thực hiện bình
đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình
Theo tinh thần Đại hội XII của Đảng chỉ ra “Trước những khó khăn, thách
thức trên con đường đổi mới, phải hết sức chú trọng công tác xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh” [33, tr.63]. Hệ thống chính trị vững mạnh
có vai trò nòng cốt, chủ công trong công cuộc đổi mới ở nước ta nói chung và xây
dựng NTM nói riêng. Vì vậy, trong các giải pháp để gia đình phát huy vai trò
trong xây dựng NTM, không thể thiếu các giải pháp để nâng cao chất lượng, phát
huy vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hộ; bảo đảm và
tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật cho gia đình vùng ĐBSH.
Thứ nhất, để gia đình tin tưởng, ủng hộ đường lối, chính sách xây dựng
NTM của Đảng và Nhà nước cần củng cố tổ chức cơ sở đảng, phát huy vai trò tiên
phong, gương mẫu của đảng viên; chống quan liêu, xa dân; nâng cao nhận thức
chính trị, đạo đức lối sống, ý thức trách nhiệm của từng đảng viên. Phát huy vai
trò của gia đình vùng ĐBSH trong động viên, ủng hộ các thành viên để kết nạp
vào hàng ngũ của Đảng; đồng thời phát hiện những đảng viên thoái hóa, yếu kém
về phẩm chất chính trị, lối sống để giáo dục, thậm chí loại khỏi hàng ngũ đảng, có
như vậy hàng ngũ của Đảng cơ sở mới ngày càng vững mạnh cả về số lượng cũng
như chất lượng, từ đó gia đình mới tin tưởng, động viên con cái kết nạp Đảng,
cống hiến cho việc xây dựng Đảng vững mạnh.
142
Thứ hai, gia đình vùng ĐBSH đề cao trách nhiệm trong hoạt động kiểm
tra, giám sát, góp ý cán bộ, lãnh đạo về thái độ cũng như quy chế công chức
phục vụ nhân dân; phát huy tinh thần dân chủ ở cơ sở để gia đình góp phần nâng
cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp, xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh.
Thứ ba, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội. Trong thời gian tới các tổ chức trong hệ thống chính trị
từ trung ương đến cấp huyện phải hướng về cơ sở, đề cao trách nhiệm và đổi mới
sự chỉ đạo, tăng cường làm việc trực tiếp với cơ sở với nhiều hình thức tổ chức
hiệu quả hơn như lồng ghép nội dung vận động, tuyền truyền xây dựng NTM với
các trò chơi, diễn kịch, hát chèo... do chính các gia đình tham gia, dàn dựng. Khi
người dân được trực tiếp tham gia vào các hoạt động này, bản thân họ và các
thành viên trong gia đình sẽ nhận thức tốt hơn nữa các nội dung mà chính quyền
muốn truyền tải tới người dân.
Thứ tư, gia đình nâng cao trách nhiệm trong tham gia các buổi tuyên truyền
pháp luật, hoặc chủ động tìm hiểu các bộ luật mới liên quan trực tiếp đến gia đình
nông thôn như luật đất đai, luật đầu tư,... Gia đình phát huy vai trò trong giáo dục,
tuyên truyền pháp luật, chính sách,... đến các thành viên trong gia đình, dòng họ,
hàng xóm, láng giềng,...
Thứ năm, với công tác phòng, chống bạo lực gia đình, thực hiện bình đẳng
giới, cần có sự quan tâm, vào cuộc của các tổ chức xã hội một cách quyết liệt, kết
hợp đồng bộ nhiều giải pháp, lấy phòng ngừa là chính, tập trung tuyên truyền giúp
thay đổi nhận thức, hành vi ứng xử về gia đình, trang bị các kỹ năng sống, kỹ năng
tự bảo vệ mình cho các thành viên trong gia đình nhất là phụ nữ và trẻ em, từ đó
xóa bỏ dần bạo lực gia đình, vận động mọi người chung tay ngăn chặn bạo lực gia
đình làm tốt công tác hòa giải đi đôi với phòng, chòng các tệ nạn xã hội. Phát huy
vai trò của gia đình, sự đóng góp của mỗi thành viên trong mỗi gia đình trong việc
xây dựng xã hội an toàn lành mạnh và phát triển là rất quan trọng; hình thành lối
sống ý thức của các thành viên trong gia đình; vận động các gia đình vùng ĐBSH
143
tham gia các mô hình “xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”,
“gia đình thực hiện bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình”,...
- Nhóm giải pháp phát huy vai trò của gia đình trong giữ vững quốc phòng,
an ninh và trật tự xã hội nông thôn.
Thứ nhất, chính quyền địa phương, lực lượng công an cần đa dạng hóa hình
thức tuyên truyền về nội dung quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội đến với gia
đình vùng ĐBSH; nội dung tuyên truyền dễ nhớ, dễ hiểu, dễ tiếp cận đến các gia
đình nông thôn, phát huy vai trò giáo dục của gia đình, thực hiện công tác tuyên
truyền thông qua chính các thành viên của gia đình - tranh thủ thông qua các thành
viên là Đảng viên, thường xuyên sinh hoạt trong các tổ chức chính trị.
Thứ hai, cần đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng
viên, đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân trong việc phát huy vai trò của gia
đình trong chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
bảo đảm trật tự an toàn xã hội; nêu cao tinh thần cảnh giác của các gia đình trước
âm mưu “diễn biến hòa bình”, kích động biểu tình, gây rối an ninh trật tự của các
thế lực thù địch, phản động, phần tử xấu, nhất là trên không gian mạng. Xác định
rõ công tác bảo vệ an ninh, trật tự là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, thường
xuyên của các cấp, các ngành và của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng
Công an là nòng cốt và huy động sức mạnh của các thiết chế xã hội trong đó có
gia đình.
Thứ ba, để phát huy được vai trò của gia đình trong đảm bảo quốc phòng,
an ninh, trật tự xã hội trong xây dựng NTM, các tỉnh vùng ĐBSH có thể hình
thành các “Tổ liên gia tự quản”, thông qua hoạt động của các tổ liên gia tự quản
đạt hiệu quả, lực lượng Công an huyện, Công an xã thường xuyên cử cán bộ dự
họp với các tổ liên gia ở các thôn dân cư, thông báo cho quần chúng nhân dân nắm
được tình hình an ninh trật tự trên địa bàn cũng như hiểu rõ về các phương thức,
thủ đoạn hoạt động của các loại tội phạm, qua đó, các gia đình nâng cao ý thức
cảnh giác, có biện pháp phòng ngừa, phát hiện, tố giác, đấu tranh với các loại tội
phạm, tệ nạn xã hội.
144
Thứ tư, củng cố, nhân rộng các mô hình quần chúng tự quản, tự phòng, tự
bảo vệ, tự hoà giải gắn kết với các mô hình phát triển NTM như cụm công nghiệp,
khu kinh tế trang trại tập trung, hợp tác xã, nhóm hộ gia đình trong cùng ngành
nghề, cùng tuyến đường, cùng khu vực. Trong đó chú trọng xây dựng các mô hình
liên kết, giáp ranh về an ninh trật tự. Thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết liên
tịch giữa Công an, Quân đội, các ngành, đoàn thể... trong công tác bảo vệ an ninh
trật tự.
Thứ năm, phát huy vai trò tình cảm, giáo dục của gia đình trong việc chủ
động phát hiện, ngăn chặn các đối tượng trong và ngoài nước móc nối, lôi kéo các
thành viên trong gia đình tham gia khiếu kiện, chống đối chính quyền nhà nước.
Cần tranh thủ những người có ảnh hưởng lớn trong gia đình, dòng họ để kịp thời
nắm bắt tâm tư, tình cảm của các đối tượng có biểu hiện bị lôi kéo, kích động.
Không gây những hiểu nhầm, mâu thuẫn với gia đình có người bị phạm tội nhất là
các đối tượng có học thức, có công với cách mạng.
Các lực lượng cần thông qua các gia đình, nhân dân ngay trong thôn, xóm
để chủ động đấu tranh ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực
thù địch, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh nông thôn, an ninh nội bộ,
văn hoá, tư tưởng, kinh tế, thông tin và an ninh tuyến biển; nhanh chóng xử lý tốt
những vấn đề phức tạp nảy sinh từ các hộ gia đình nông thôn, không để bị động,
bất ngờ.
Gia đình là thiết chế xã hội đặc thù, quan hệ giữa các thành viên trong gia
đình và quan hệ giữa gia đình với xã hội như một xã hội thu nhỏ, vì vậy, các giải
pháp để phát huy vai trò gia đình trong đảm bảo an ninh trật tự xã hội xây dựng
NTM cần tiến hành thường xuyên, để nâng cao tính tự giác của gia đình vùng
ĐBSH trong giữ gìn an ninh trật tự xã hội nông thôn.
145
Tiểu kết chương 4
Những năm qua, gia đình vùng ĐBSH đang có những đóng góp quan trọng
trong tham gia xây dựng NTM, làm thay đổi bộ mặt của nông thôn, đảm bảo phát
triển kinh tế gia đình, nâng cao chất lượng cuộc sống của gia đình và nông thôn
vùng ĐBSH, tuy nhiên vẫn còn tồn tại những hạn chế cần khắc phục để phát huy
hơn nữa vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM, vì vậy cần đề ra
những quan điểm, giải pháp đồng bộ, phù hợp để gia đình phát huy hơn nữa vai
trò trong xây dựng NTM bền vững.
Để có được những giải pháp phù hợp, cần quán triệt đầy đủ những quan
điểm có tính định hướng trong quá trình thực hiện. Phải xác định gia đình vùng
ĐBSH vừa là chủ thể, vừa là đối tượng hưởng thụ của Chương trình mục tiêu
quốc gia về xây dựng NTM vùng ĐBSH; từ đó xác định phát huy vai trò gia đình
vùng ĐBSH hướng đến xây dựng NTM bền vững; Việc phát huy vai trò của gia
đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,
trước hết là hệ thống chính trị cấp cơ sở vùng ĐBSH; Phát huy vai trò của gia đình
vùng ĐBSH trong xây dựng NTM cần gắn với “Quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội vùng đồng bằng sông Hồng” và “Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến
năm 2020, tầm nhìn 2030”.
Trên cơ sở những quan điểm đó, những nhóm giải pháp, kiến nghị được đề
xuất là nguồn tham khảo để cơ quan ban ngành xây dựng, hoạch định các chính
sách phù hợp để gia đình vùng ĐBSH phát huy hơn nữa vai trò trong xây dựng
NTM giai đoạn tiếp theo. Các nhóm giải pháp phải mang tính đồng bộ, toàn diện
để gia đình tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa vai trò trong xây dựng NTM. Trong đó
cần quan tâm đến giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách để vận động, thu hút gia
đình đóng góp nguồn lực cho xây dựng NTM và có chính sách khen thưởng, động
viên kịp thời những gia đình điển hình, đi đầu, tích cực đóng góp sức người, sức
của cho “cuộc cách mạng” này, từ đó có sức lan tỏa đến đông đảo các gia đình
trong thôn, xóm, huyện, trở thành phong trào thi đua, ý thức tự giác của mỗi gia
đình vùng ĐBSH đóng góp xây dựng NTM.
146
KẾT LUẬN
Mục tiêu tổng quát của “Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng
NTM” là để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, để đạt được
mục tiêu đó, Đảng và Nhà nước ta xác định đối tượng hưởng thụ chính là người
dân và cộng đồng dân cư trên địa bàn nông thôn và đối tượng thực hiện
Chương trình này là người dân, cộng đồng dân cư nông thôn, hệ thống chính trị
từ Trung ương đến cơ sở, doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế, xã hội. Như
vậy, người dân và cộng đồng dân cư nông thôn vừa là đối tượng thực hiện vừa
là đối tượng hưởng thụ các thành quả của Chương trình xây dựng NTM. Gia
đình chính là nơi người dân và cộng đồng dân cư được sinh ra, nuôi dưỡng,
trưởng thành và cư trú, vì vậy việc thu hút, động viên các gia đình thực hiện vai
trò trong xây dựng NTM là cần thiết.
Gia đình vùng ĐBSH phát huy tích cực vai trò trong thực hiện thành
công các nhóm tiêu chí của Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM,
từ xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt
là hệ thống giao thông nông thôn đến đời sống vật chất, tinh thần gia đình vùng
ĐBSH được cải thiện rõ rệt, góp phần xóa đói, giảm nghèo bền vững, thu nhập
vùng nông thôn tăng dần qua các năm; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh và bền vững;
an ninh trật tự địa bàn nông thôn được đảm bảo, hệ thống chính trị cơ sở được
tăng cường. Việc huy động nội lực gia đình vùng ĐBSH theo nhiều hình thức;
việc đóng góp phải được bàn bạc dân chủ và thống nhất, có sự giám sát cộng
đồng, đảm bảo công khai, minh bạch thì người dân sẽ tin tưởng và tích cực
tham gia. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục, đặt ra một
số vấn đề mâu thuẫn như phát huy vai trò của gia đình tham gia xây dựng cơ sở
hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn chưa đảm bảo tính bền vững; thu hồi đất đai
để thực hiện quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSH dẫn
đến tình trạng thành viên trong gia đình mất việc làm, thất nghiệp, ly nông, ly
hương, không đảm bảo tính bền vững trong xây dựng NTM; gia đình vùng
147
ĐBSH ứng dụng khoa học công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp gắn với
vấn đề bảo bệ môi trường, môi sinh trong xây dựng NTM; mâu thuẫn giữa việc
đóng góp, hiến tặng tài sản của gia đình với việc sử dụng của chính quyền địa
phương dẫn đến gia đình e ngại, không tích cực đóng góp xây dựng NTM.
Để giải quyết các mâu thuẫn này cần thực hiện đồng bộ và triệt để nhiều
giải pháp khác nhau, từ giải pháp nâng cao nhận thức đến hoàn thiện hệ thống
chính trị các cấp vùng ĐBSH, hoàn thiện cơ chế, chính sách để gia đình vùng
ĐBSH tiếp tục phát huy trong xây dựng NTM, phát triển kinh tế gia đình vùng
ĐBSH, nâng cao chất lượng đời sống văn hóa, chăm lo giáo dục đào tạo, bảo
vệ môi trường, nâng cao trách nhiệm, vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong
xây dựng hệ thống chính trị, phòng, chống bạo lực gia đình và đảm bảo quốc
phòng, an ninh và trật tự xã hội nông thôn.
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM chỉ có thể thực hiện
thắng lợi khi có sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, các lực lượng và sự ủng
hộ nhiệt tình, tự giác, chủ động, sáng tạo của nhân dân, mở rộng ra là của cả
các gia đình. Những thành quả của xây dựng NTM vùng ĐBSH nói riêng và cả
nước nói chung không những làm thay đổi bộ mặt nông thôn Việt Nam mà còn
nâng cao chính đời sống vật chất và tinh thần cho gia đình nông thôn Việt Nam
nói chung và nông thôn vùng ĐBSH nói riêng.
Vùng ĐBSH là một vùng đi đầu trong mọi hoạt động, có số xã đạt chuẩn
NTM lớn nhất cả nước, vì vậy, trong thời gian tới một mặt cần có chính sách
thiết thực, phù hợp giữa “ý Đảng, lòng dân” để phát huy hơn nữa vai trò gia
đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM phát triển bền vững. “Đây vừa là mục
tiêu, vừa là động lực, thôi thúc toàn Đảng, toàn dân quyết tâm thực hiện, song
đồng thời cũng là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài đòi hỏi phải thực hiện
đồng bộ các giải pháp nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn bền
vững”[8,tr.30], gắn Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựngNTM giai
đoạn 2016 - 2020 với các chiến lược, chính sách, đề án lớn như “Chiến lược
xây dựng gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030”, chính sách phát
148
triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo quan
điểm Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị; phát huy vai trò của gia đình vùng
ĐBSH trong xây dựng NTM phát triển bền vững gắn với giải quyết mối quan
hệ về phát triển kinh tế, xã hội, phát triển văn hóa, ổn định chính trị của vùng
và trên cả nước. Từ đó, xây dựng NTM ở nước ta phải đảm bảo về chất lượng,
thực chất và đi vào chiều sâu. Gia đình vùng ĐBSH và trên cả nước đặt niềm
tin vào chính sách, chủ trương phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng và
Nhà nước tích cực, tự giác phát huy vai trò trong xây dựng NTM.
149
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
* Với các Bộ ngành
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan chủ trì Chương
trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM, Bộ chủ trì, phối hợp với các Bộ,
ngành liên quan, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức
triển khai thực hiện Chương trình, huy động sự tham gia của gia đình trong xây
dựng NTM.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư bổ sung nguồn kinh phí thực hiện Chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng NTM vùng ĐBSH nhằm giúp vùng thực hiện hiệu
quả các nội dung mục tiêu của chương trình đã đề ra, góp phần vào phát triển kinh
tế và đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống gia đình vùng ĐBSH.
- Bộ Tài chính ngoài việc bố trí vốn lồng ghép từ các chương trình, dự án
khác, cần quan tâm bố trí tăng thêm vốn trực tiếp và sớm phân bổ cho Chương
trình xây dựng NTM giúp các địa phương vùng ĐBSH thực hiện cơ bản hoàn
thành các công trình, dự án trọng điểm theo kế hoạch, động viên chính quyền địa
phương, người dân cũng như gia đình vùng ĐBSH tích cực tham gia xây dựng
NTM phát triển bền vững trong thời gian tới.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường cần có hướng dẫn cụ thể về cơ chế xử lý
nước thải, rác thải tại các làng nghề truyền thống, rác thải tại khu dân cư, gia đình
để đảm bảo ổn định tiêu chí về môi trường trong xây dựng NTM.
- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần có kế hoạch tổ chức các buổi sinh
hoạt văn hóa, văn nghệ, thể thao, các hội thi, giao lưu các gia đình quy mô lớn
theo vùng ĐBSH hoặc cả nước để lồng ghép nội dung gia đình tìm hiểu về
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM. Bổ sung các tiêu chí tham gia
xây dựng NTM vào tiêu chí “Xây dựng gia đình văn hóa”.
- Ban Chỉ đạo Trung ương rà soát, sửa đổi đồng bộ các chính sách đã được
Trung ương ban hành đảm bảo tính khả thi, sát với thực tiễn, và yêu cầu của gia
đình vùng ĐBSH như: Chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư và quản lý, khai
thác công trình cấp nước sạch nông thôn; chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp
150
công nghệ cao, chính sách hỗ trợ trong liên kết tổ chức sản xuất, chế biến và tiêu
thụ sản phẩm nông nghiệp,...
* Với Ủy ban nhân dân địa phương các cấp
- Đề nghị Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh tiếp tục quan tâm, ban
hành các cơ chế, chính sách để huy động các gia đình nông thôn, có cơ chế khen
thưởng với các gia đình gương mẫu, đi đầu trong xây dựng NTM; đồng thời quan
tâm hỗ trợ gia đình khó khăn, những xã khó khăn, có số tiêu chí NTM đạt thấp để
đẩy nhanh tiến độ thực hiện Chương trình.
Ban hành cơ chế, chính sách, hướng dẫn tổ chức triển khai các chương trình
vận động gia đình vùng ĐBSH tham gia xây dựng NTM trên địa bàn các tỉnh
vùng ĐBSH;
Quy hoạch và thúc đẩy các gia đình vùng ĐBSH phát triển các vùng sản
xuất nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn tỉnh theo hướng liên kết chuỗi giá trị
phù hợp với định hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
- Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã hướng dẫn tổ chức triển khai Chương
trình trên địa bàn huyện, xã. Rà soát và bổ sung hoàn chỉnh quy hoạch NTM cấp
xã phù hợp với quy hoạch NTM cấp huyện, lấy ý kiến của các gia đình góp ý vào
dự thảo quy hoạch của địa phương;
Huy động sự tham gia của các tổ chức đoàn thể, đề nghị Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Phụ nữ huyện, xã và các tổ chức thành viên
tích cực tham gia vận động các gia đình hội viên chung tay thực hiện Chương
trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM; tiếp tục thực hiện cuộc vận động
“Toàn dân đoàn kết xây dựng NTM, đô thị văn minh”, xây dựng cuộc vận động
“Gia đình xây dựng NTM”.
151
DANH MỤC BÀI VIẾT ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Minh Huệ (2016), “Một số giải pháp phát triển nông nghiệp, nông
thôn gắn với xây dựng nông thôn mới”, Tạp chí Nông thôn mới, (ISSN 1859 -
0195), (434), tr.22-23.
2. Nguyễn Thị Minh Huệ (2017), “Quán triệt quan điểm đại hội XII của Đảng về
phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới bền
vững”, tại trang http://www.lyluanchinhtri.vn, ngày 06/01.
3. Nguyễn Thị Minh Huệ (2017), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách đối với
nông dân và sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình phát triển nông nghiệp, xây
dựng nông thôn mới”, tại trang http://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 25/7.
4. Nguyễn Thị Minh Huệ (2018), “Lực lượng Công an nhân dân với công tác xây
dựng nông thôn mới”, Tạp chí Lý luận chính trị Công an nhân dân, (ISSN 2354
- 1393), (34).
5. Nguyễn Thị Minh Huệ (2018), “Vai trò của lực lượng an ninh ở nông thôn”,
Tạp chí Nông thôn mới, (ISSN 1859 - 0195), Kỳ 3 (505).
bảo an ninh nông thôn ở tỉnh Thái Bình”, Tạp chí Khoa học và giáo dục an
ninh, (ISSN 1859 - 4778), (16).
6. Nguyễn Thị Minh Huệ (2018), “Phát huy vai trò của gia đình trong đảm
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Anh (2018), "22 tỉnh thành nợ đọng 1630 tỷ đồng xây dựng nông thôn
mới", tại trang https://www.tienphong.vn/kinh-te/22-tinh-thanh-no-dong-1630-
ty-dong-xay-nong-thon-moi-1293349.tpo, [truy cập ngày 29/6/2018].
2. Vũ Quang Ánh (2012), Thực hiện đường lối của Đảng về phát triển kinh tế
nông nghiệp ở một số tỉnh, thành đồng bằng sông Hồng từ năm 1997 đến năm
2010, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
3. Ban Bí thư (2005), Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 21/2/2005 Xây dựng gia đình
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Hà Nội.
4. Ban Biên tập Tạp chí Cộng sản (4/2015), Kỷ yếu hội thảo khoa học công
nghiệp hóa, hiện đại hóa - Đột phá phát triển nông nghiệp bền vững và xây
dựng nông thôn mới, gắn với nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống
chính trị - từ thực tiễn Hà Nam, Phủ Lý, Hà Nam.
5. Ban Chấp hành Trung ương (2013), Quyết định số 217-QĐ/TW ngày
12/12/2013 về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, Hà Nội.
6. Ban Chấp hành Trung ương (2008), Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008
Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn, Hà Nội.
7. Ban Chỉ đạo Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản Trung ương
(2016), Báo cáo sơ bộ Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy
sản năm 2016, NXB Thống kê, Hà Nội.
8. Ban Chỉ đạo chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới - Văn
phòng điều phối nông thôn mới Trung ương (2015), Báo cáo tóm tắt Kết quả
xây dựng nông thôn mới 2014, Kế hoạch 2015 và định hướng Chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020, Hà Nội.
9. Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới tỉnh Hải Dương, Văn phòng điều phối
(2017), Báo cáo số 05/BC-VPĐP ngày 23 tháng 2 năm 2017, Báo cáo kết quả
thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới năm
2016, kế hoạch năm 2017, Hải Dương.
153
10. Ban Chỉ đạo thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia tỉnh Quảng Ninh,
Ban xây dựng nông thôn mới (2016), Báo cáo số 04-BC/BXDNTM ngày
28/12/2016, Báo cáo kết quả triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới năm 2016; nhiệm vụ, giải pháp thực hiện năm
2017, Quảng Ninh.
11. Ban Chỉ đạo thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia tỉnh Quảng Ninh,
Ban xây dựng nông thôn mới (2017), Báo cáo số 777-BC/BXDNTM ngày
18/12/2017, Báo cáo kết quả triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới năm 2017; nhiệm vụ, giải pháp thực hiện năm
2018, Quảng Ninh.
12. Ban Dân vận Trung ương (2000), Một số vấn đề công tác vận động nông dân
ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội
13. Ban Nông nghiệp Trung ương (1991), Kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam ngày
nay, tập 2, NXB Thể thao văn hóa, Hà Nội.
14. Ban Tuyên giáo thành ủy Hà Nội (2012), Tài liệu hỏi - đáp xây dựng nông
thôn mới, Hà Nội.
15. Benedict J.tria Kerrkvliet, Jamesscott (2000), Một số vấn đề nông nghiệp,
nông dân, nông thôn ở các nước và Việt Nam, Nguyễn Ngọc và Đỗ Đức Định
sưu tầm và giới thiệu, NXB Hà Nội, Hà Nội
16. Bert N. Adams (Trường đại học Wisconsin, Madison, Mỹ) và Jan Trost
(Trường đại học Upsalla, Thụy Điển) (2005), Cẩm nang về Nghiên cứu gia đình
trên thế giới (Handbook of World Families), NXB Sage, Thụy Điển.
17. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2009), Thông tư số 54/2009/TT-
BNNPTNT ngày 21/8/ 2009 hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí Quốc gia về nông
thôn mới Hà Nội.
18. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2017), Báo cáo đánh giá kết quả thực
hiện năm 2017 và dự kiến một số nhiệm vụ trọng tâm thực hiện Chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm 2018, Hà Nội.
19. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2014), Chương trình hành động của
Đảng, Nhà nước và tiêu chuẩn - quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về xây dựng
nông thôn mới, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
154
20. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2017), Chương trình khung tập
huấn, bồi dưỡng cán bộ xây dựng nông thôn mới các cấp, giai đoạn 2016 -
2020, Chuyên đề 9: Quy trình triển khai thực hiện dự án phát triển cơ sở hạ
tầng kinh tế - xã hội trong nông thôn mới, Hà Nội.
21. Bộ Văn hóa Thông tin (1997), Xây dựng gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi
mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Mai Huy Bích (1993), Đặc điểm gia đình đồng bằng sông Hồng, NXB Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
23. Mai Huy Bích (2011), Xã hội học gia đình, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
24. Phạm Thị Bình (2012), Tác động của kinh tế thị trường đến chức năng gia
đình ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
25. Phạm Thị Thanh Bình (2017), "Phát triển nông nghiệp bền vững ở Thái Lan",
Tạp chí Cộng sản, (123), tr.91-96.
26. Tống Văn Chung (2011), Giáo trình cơ sở xã hội học nông thôn Việt Nam,
NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
27. Tô Xuân Dân, Lê Văn Viện và Đỗ Trọng Hùng (2014), Xây dựng nông thôn
mới ở Việt Nam, Tầm nhìn mới, Tổ chức quản lý mới, Bước đi mới, NXB
Nông nghiệp, Hà Nội.
28. Bùi Quang Dũng, Nguyễn Trung Kiên, Bùi Hải Yến và Phùng Thị Hải Hậu
(2015), "Chương trình xây dựng nông thôn mới: một cái nhìn từ lịch sử chính
sách", Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (91).
29. Du Ying, China’s Agricultural Restructuring and System Reform under Its
Accession to the WTO, (Department of Policy and Law, Ministry of
Agriculture, China), ACIAR China Grain Market Policy Project Paper No. 12,
November 2000.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu toaàn quốc lần
thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
155
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011), NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toaàn quốc lần
thứ XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 47, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng bộ thành phố Hà Nội, Huyện ủy Đan Phượng (2016), Chương trình số
07-CTr/HU, Chương trình Phát triển sản xuất, xây dựng nông thôn mới, nâng
cao đời sống nông dân giai đoạn 2016 -2020, Hà Nội.
36. Đảng bộ thành phố Hà Nội, Huyện ủy Chương Mỹ (2016), Chương trình số 0-
CTr/HU, Chương trình Phát triển sản xuất, xây dựng nông thôn mới, nâng cao
đời sống nông dân giai đoạn 2016 -2020, Hà Nội.
37. Frans Elltis (1994), Chính sách nông nghiệp trong các nước phát triển,
NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
38. Nguyễn Thị Hà (2011), “Lồng ghép giới trong xây dựng gia đình văn hóa ở
Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và giới, (4), tr.66-73.
39. Trịnh Hà (2016), "Phát triển sản xuất để xây dựng nông thôn mới", tại trang
http://baophutho.vn/kinh-te/nong-thon-moi/201606/phat-trien-san-xuat-de-
xay-dung-nong-thon-moi-44502, [truy cập ngày 27/6/2016].
40. Phạm Mạnh Hà (2013), Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn tỉnh Ninh
Bình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ Kinh tế,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
41. Nguyễn Thị Hằng (1997), Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Trần Ngọc Hiên (1993), Tư tưởng của Lênin, Hồ Chí Minh về nông dân, nông
thôn và nông nghiệp, Trung tâm Thông tin tư liệu Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
43. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (2010), Nghị quyết số 03/2010/NQ-
HĐND về xây dựng nông thôn mới Thành phố Hà Nội giai đoạn 2010 - 2020,
định hướng 2030, Hà Nội.
156
44. Phạm Huỳnh Minh Hùng (2017), Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong
xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng Sông Cửu Long hiện nay”, Luận án Tiến
sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
45. Huyện ủy Chương Mỹ, Ban Chỉ đạo Chương trình phát triển nông nghiệp, xây
dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống nhân dân (2015), số 02-
BC/BCĐ, Báo cáo kết quả thực hiện công tác dồn điền đổi thửa gắn với
chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn
huyện Chương Mỹ, Hà Nội.
46. Huyện ủy Chương Mỹ, Ban Chỉ đạo Chương trình phát triển nông nghiệp, xây
dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống nhân dân (2015), số 01-
BC/BCĐ, Báo cáo Tổng kết 05 năm thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia
xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2015 trên địa bàn huyện Chương
Mỹ, Hà Nội.
47. Khoa Quốc tế học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học
quốc gia Hà Nội (2016), “Hợp tác quốc tế vì phát triển nông thôn ở Việt Nam:
sự kết nối chính sách và thực tế”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế, NXB Thế
giới, Hà Nội.
48. Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý (2009), Gia đình học, NXB Chính trị - Hành
chính, Hà Nội.
49. Nguyễn Linh Khiếu (2001), Gia đình và phụ nữ trong biến đổi văn hóa xã hội
nông thôn,NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
50. Đặng Phương Kiệt (2007), Gia đình Việt Nam những giá trị truyền thống và
các vấn đề tâm - bệnh lý xã hội, NXB Lao động, Hà Nội.
51. Bùi Thị Ngọc Lan (Chủ biên) (2007), Việc làm của nông dân vùng Đồng bằng
sông Hồng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Lý luận chính
trị, Hà Nội.
52. Bùi Thị Ngọc Lan (2017), “Xây dựng nông thôn mới bền vững - động lực cho
phát triển nông nghiệp Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị &
Truyền thông, (7).
53. Bùi Thị Ngọc Lan (2009), “Gia đình Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ giới”,
Tạp chí Lý luận chính trị (11), tr.52-55.
157
54. Bùi Thị Ngọc Lan (2011), “Mấy vấn đề đặt ra trong xây dựng gia đình Việt
Nam thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, (12).
55. Bùi Thị Ngọc Lan (2015), “Tư tưởng của V.I.Lênin về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn và ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận
chính trị (11).
56. Thanh Lê (2001), Xã hội học gia đình, NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ
Chí Minh, Hồ Chí Minh.
57. Trương Giang Long, Nguyễn Thành Long (2011), Liên kết “4 nhà” - giải
pháp cơ bản góp phần xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng sông Cửu Long,
NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
58. Trịnh Duy Luân, Helle Rydstrom, Wil Burghoorn (2008), Gia đình Nông thôn
Việt Nam trong chuyển đổi, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
59. Luật Hôn nhân và gia đình (Có hiệu lực từ ngày 01/01/2015), NXB Lao động.
60. Nghiêm Sỹ Liêm (2001), Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở
nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết hoc, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
61. C.Mác, Ph.Ăngghen (1981), Tuyển tập, tập 1, NXB Sự thật, Hà Nội.
62. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, NXB Sự thật, Hà Nội.
63. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Martine Segalen (dịch giả Phan Ngọc Hà) (2014), Xã hội học gia đình, NXB
Thế giới, Hà Nội.
65. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
66. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
67. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
68. Trần Quang Minh (2010), Nông nghiệp Hàn Quốc trên đường phát triển,
NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
69. Nguyễn Hữu Minh (2014), Gia đình Việt Nam trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập từ cách tiếp cận so sánh, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội.
70. Nguyễn Hữu Minh (2015), "Gia đình Việt Nam sau 30 năm đổi mới", Tạp chí
Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 (96), tr.51 - 59.
158
71. Nguyễn Thị Ngân (2013), Sự biến đổi của chức năng gia đình ở vùng Đồng
bằng sông Hồng trong bối cảnh hiện nay, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
72. Văn Ngọ (2018), "Nông thôn mới ngày càng thực chất hơn", tại trang
http://nongnghiep.vn/nong-thon-moi-ngay-cang-thuc-chat-hon-
post214057.html, [truy cập ngày 07/03/2018].
73. Trần Minh Ngọc (Chủ biên) (2010), Việc làm của nông dân trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2020, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Trần Ngọc Ngoạn (Chủ biên), 2008, Phát triển nông thôn bền vững: Những
vấn đề lý luận và kinh nghiệm thế giới, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
75. Vũ Oanh (1998), Nông nghiệp và nông thôn trên con đường công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hợp tác hóa, dân chủ hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Vũ Văn Phúc (2013), Xây dựng nông thôn mới những vấn đề lý luận và thực
tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77. Đỗ Thanh Phương (2015), "Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin và Hồ Chí Minh
về nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong xây dựng nông thôn mới", Tạp
chí Lý luận chính trị (3).
78. Nguyễn Thị Minh Phương (2014), Định hướng giáo dục cho con trong các gia
đình nông thôn ngày nay, Luận án tiến sĩ Xã hội học, Học viện Khoa học xã
hội, Hà Nội.
79. Chu Tiến Quang, Lê Xuân Đình (2007), “Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong
phát triển nông thôn mới bền vững”, Tạp chí Cộng sản, (125).
80. Đỗ Đức Quân (2010), Một số giải pháp nhằm phát triển bền vững nông thôn
vùng ĐB Bắc Bộ trong quá trình xây dựng, phát triển các khu công nghiệp
(Qua khảo sát các tỉnh Vĩnh Phúc, Hải Dương, Ninh Bình), NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
81. Đỗ Văn Quân (2014), “Phát triển kinh tế hộ gia đình trong tiến trình xây
dựng nông thôn mới ở đồng bằng sông Hồng hiện nay”, tại trang
http://www.lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/644-phat-trien-
kinh-te-ho-gia-dinh-trong-tien-trinh-xay-dung-nong-thon-moi-o-dong-
bang-song-hong-hien-nay.html, [truy cập ngày 25/4/2014]
159
82. Chu Hữu Quý (1996), Phát triển toàn diện kinh tế- xã hội nông thôn, nông
nghiệp Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83. Robert Chamber (1991), Phát triển nông thôn - Hãy bắt đầu từ những người
cùng khổ, NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
84. Robert Cliquet (2003), Những xu hướng chính ảnh hưởng đến gia đình trong
thiên niên kỷ mới ở Tây Âu và Bắc Mỹ, Trường Đại học Ghent, Bỉ.
85. Servaas Storm (1997), The unfinished agenda: Indian Agriculture under
thestructural reforms, Servaas Storm, Department of Applied Economics,
Eramus University, Rotterdam, The Netherlands, The Journal of International
Trade and Economic Development 6:2 249-286, 1997.
86. Sim Sang Joon (2001), Gia đình người Việt ở Châu thổ sông Hồng và mối liên
hệ của nó với cộng đồng xã hội, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Đại học Khoa học xã
hội và nhân văn, Hà Nội.
87. Tô Văn Sông (2013), Nông dân vùng đồng bằng sông Hồng trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nôn thôn, Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
88. Tài liệu tập huấn khuyến nông (2016), Những vấn đề cơ bản về xây dựng nông
thôn mới.
89. Đỗ Thị Thạch (2011), “Về xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam dưới ánh sáng
Đại hội XI của Đảng”, tại trang http://www.tapchicongsan.org.vn/
Home/Viet-nam-tren-duong-doi-moi/2011/13615/Ve-xay-dung-gia-dinh-
van-hoa-Viet-Nam-duoi-anh-sang.aspx, [truy cập ngày 14/11/2011].
90. V.V. Thành (2015), "Gần 19 triệu gia đình văn hóa nhưng văn hóa vẫn xuống
cấp", tại trang https://tuoitre.vn/gan-19-trieu-gia-dinh-van-hoa-nhung-van-
hoa-van-xuong-cap-1014142.htm, [truy cập ngày 22/11/2018].
91. Thành ủy Hà Nội, Ban chỉ đạo Chương trình số 02/CTr/TU của Thành ủy
(2017), Báo cáo số 30/ BC-BCĐ ngày 09/02/2017 Báo cáo sơ kết 01 năm thực
hiện Chương trình số 02-CTr/TU ngày 26/4/2016 của Thành ủy Hà Nội “Phát
triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân giai
đoạn 2016 - 2020, nhiệm vụ, giải pháp năm 2017”, Hà Nội.
160
92. Chu Thị Thoa (2002), Bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn đồng bằng
sông Hồng hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
93. Hoàng Bá Thịnh (Chủ biên) (2015), Giáo trình gia đình học, NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
94. Hoàng Bá Thịnh (2016), "Xây dựng nông thôn mới ở Hàn Quốc và Việt
Nam", Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (104), tr.3-11.
95. Lê Thi (1997), Gia đình Việt Nam và xây dựng văn hóa gia đình trong công
cuộc đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
96. Lê Thi (1997), Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người
Việt Nam, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
97. Lê Thi (2002), Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
98. Trần Hữu Tòng, Trương Thìn (1997), Xây dựng gia đình văn hóa trong sự
nghiệp đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. Nguyễn Kim Tôn (2017), Nông dân đồng bằng sông Cửu Long trong phát
triển nông nghiệp bền vững hiện nay, Luận án tiến sĩ Chủ nghĩa xã hội khoa
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
100. Hoàng Tuấn (2018), "Nâng cao nhận thức về bình đẳng giới và phòng, chống
bạo lực gia đình cho cán bộ, hội viên nông dân", tại trang http://baonamdinh.
com.vn/channel/5086/201808/nang-cao-nhanthuc-ve-binh-dang-gioi-va-
phong-chong-bao-luc-gia-dinh-cho-canbo-hoi-vien-nong-dan-2525858/,
[truy cập ngày 18/12/2018].
101. Nguyễn Đức Truyền (2003), Kinh tế hộ gia đình và các quan hệ xã hội ở nông
thôn ĐBSH trong thời kỳ đổi mới, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
102. Trung tâm phát triển nông thôn, Dự án MISPA (2006), Lý luận và thực tiễn
xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa, Dịch giả Cù Ngọc Hưởng, Viện
Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hà Nội.
103. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 phê
duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2010 - 2020, Hà Nội.
161
104. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 về
Phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011- 2020,
Hà Nội.
105. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 795/QĐ-TTg về Phê duyệt tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2020,
Hà Nội.
106. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 1600/Đ-TTg ngày 16 tháng 8 năm
2016, Quyết định Phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mỡi giai đoạn 2016 -2020, Hà Nội.
107. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 1908/QĐ-TTg ngày 17 tháng 10
năm 2016 về việc Ban hành bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng xã nông thôn mới
giai đoạn 2016 - 2020, Hà Nội.
108. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 490/QĐ-TTg ngày 7/5/2018 về
việc Phê duyệt Chương trình Mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2018 - 2020,
Hà Nội.
109. Tổng cục thống kê (2016), Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm
2014, NXB Thống kê, Hà Nội.
110. Tổng cục thống kê (2016), Niên giám thống kê năm 2015, NXB Thống kê,
Hà Nội.
111. Tổng cục thống kê (2016), Kết quả chủ yếu điều tra biến động dân số và kế
hoạch hóa gia đình thời điểm 1/4/ 2015, NXB Thống kê, Hà Nội.
112. Tỉnh ủy Quảng Ninh, Ban chỉ đạo xây dựng Nông thôn mới (2016), Báo cáo
số 01-BC/BCĐ-TU về sơ kết 05 thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới tỉnh Quảng Ninh (2010 -2015), Quảng Ninh.
113. Tỉnh ủy Quảng Ninh, Ban chỉ đạo xây dựng Nông thôn mới (2016), Báo cáo số
04 -BC/BCĐ-TU về Kết quả Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới năm 2016; phương hướng nhiệm vụ năm 2017, Quảng Ninh.
114. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Ban Xây dựng nông thôn mới (2017), Báo
cáo số 418/BC-BXDNTM về Kết quả triển khai thực hiện Chương trình mục
tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ 6 tháng
cuối năm 2017, Quảng Ninh.
162
115. Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Ban Chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (2016),
Báo cáo số 1969/BC-BCĐ về Tổng kết thực hiện chương trình mục tiêu quốc
gia về xây dựng nông thôn mới tỉnh Hải Dương giai đoạn 2011-2015,
Hải Dương.
116. Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương (2016), Mẫu biểu số 05/TK, Kết quả huy
động và thực hiện nguồn lực đầu tư thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới tỉnh Hải Dương, giai đoạn 2011 - 2015 (Kèm theo
công văn số 12/BCĐTW-VPĐP ngày 11 tháng 8 năm 2015 của Bam Chỉ đạo
Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới),
Hải Dương.
117. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2016), Báo cáo số 44/BC-SNNPTNT về Kết
quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm
2015, nhiệm vụ và giải pháp năm 2016, Thái Bình.
118. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2017), Báo cáo số 48/BC-UBND về Kết quả
thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm 2016,
nhiệm vụ và giải pháp năm 2017, Thái Bình.
119. Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định (2016), Báo cáo số 23/BC-UBND về Tổng
kết 5 năm thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 -
2015; phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2016 -2020, Nam Định.
120. Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định, Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, Báo
cáo số 42/BC-SNN về sơ kết thực hiện Nghị quyết 04-NQ/TU của Tỉnh ủy và
Kế hoạch số 52/KH-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh về xây dựng nông thôn
mới giai đoạn 2016 -2020, Nam Định.
121. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, Ban Chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới (2015), Báo cáo số 68/BC-UBND về Tổng kết thực
hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tỉnh Vĩnh Phúc
giai đoạn 2011 -2015, Vĩnh Phúc.
122. Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình, Ban chỉ đạo thực hiện các chương trình mục
tiêu quốc gia (2018), Báo cáo số 04/BC-BCĐ ngày 11 tháng 01 năm 2018 về
Báo cáo tổng kết công tác thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng nông thôn mới năm 2017, Phương hướng, nhiệm vụ năm 2018,
Ninh Bình.
163
123. Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên, Ban chỉ đạo thực hiện các chương trình mục
tiêu quốc gia (2017), Báo cáo số 01/BC-BCĐ ngày 03 tháng 02 năm 2017 về
Báo cáo tổng kết công tác thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng nông thôn mới năm 2016, Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm
năm 2017, Hưng Yên.
124. Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên, Ban chỉ đạo thực hiện các chương trình mục
tiêu quốc gia (2018), Báo cáo số 04/BC-BCĐ ngày 16 tháng 01 năm 2018 về
Báo cáo tổng kết công tác thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng nông thôn mới năm 2017, Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm
năm 2018, Hưng Yên.
125. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2017), Báo cáo số 109/ BC- UBND, ngày 29
tháng 11 năm 2017, Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới đến năm 2017, phương hướng, mục tiêu, nhiệm
vụ và giải pháp trọng tâm xây dựng nông thôn mới giái đoạn 2018 -2020,
Thái Bình.
126. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc (2017), Báo cáo số 231/BC- UBND, ngày 23
tháng 8 năm 2017, Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia
về xây dựng nông thôn mới 6 tháng đầu năm 2017, Vĩnh Phúc.
127. Nguyễn Thị Tố Uyên (2012), Các tỉnh ủy vùng đồng bằng sông Hồng đẩy
nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn giai đoạn hiện
nay, Luận án tiến sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
128. Lê Ngọc Văn (2004), Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với gia đình Việt
Nam hiện nay, Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em, Hà Nội.
129. Lê Ngọc Văn (2012), Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
130. Khúc Thị Thanh Vân (2012), Vai trò của vốn xã hội trong phát triển kinh tế hộ
gia đình ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay - Nghiên cứu trường hợp
tại Nam Định và Bắc Ninh, Luận án tiến sĩ xã hội học, Học viện Khoa học xã
hội, Hà Nội.
164
131. Khúc Thị Thanh Vân (2013), Tác động của vốn xã hội đến nông dân trong
quá trình phát triển bền vững nông thôn vùng đồng bằng bắc bộ (2010-2020),
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
132. Đỗ Đức Viêm (2014), Quy hoạch xây dựng nông thôn mới, NXB Chính trị
quốc gia, NXB Xây dựng, Hà Nội.
133. Viện Xã hội học, Viện Hàn Lâm khoa học xã hội Việt Nam (2017), Hội thảo
Giới thiệu một số kết quả nghiên cứu về xã hội học nông thôn ở Nhật Bản và
dự kiến nghiên cứu xã hội học nông thôn ở Việt Nam, Hà Nội.
134. Viện Chính sách và phát triển nông nghiệp, nông thôn, Trung tâm phát triển
nông thôn, Dự án MISPA, Dịch giả Cù Ngọc Hưởng (2016), Lý luận và thực
tiễn xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa, Hà Nội.
135. Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương, Viện Chính sách và chiến lược
phát triển nông nghiệp nông thôn, Viện Khoa học Lao động và xã hội, Nhóm
nghiên cứu Kinh tế Phát triển, Đặc điểm kinh tế nông thôn Việt Nam, kết quả
điều tra hộ gia đình nông thôn năm 2008 tại 12 tỉnh (2014), NXB Hồng Đức,
Hà Nội.
136. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa - thông
tin, Hà Nội.
165
PHỤ LỤC
Phụ lục 1.1
Mã số phiếu:
PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
Thưa Quý Ông, Bà !
Để có cơ sở thực tiễn phục vụ nghiên cứu đề tài: “Phát huy vai trò của gia
đình vùng đồng bằng sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới bền vững hiện
nay”, Chúng tôi tiến hành khảo sát lấy ý kiến về nhận thức và tình hình thực tế đóng
góp của gia đình trong xây dựng nông thôn mới ở một số tỉnh trên địa bàn đồng
bằng sông Hồng.
Chúng tôi rất mong ông, bà dành thời gian để trả lời phiếu điều tra bằng cách
khoanh tròn hoặc đánh dấu X vào đáp án lựa chọn. Những thông tin của ông/bà sẽ
góp phần hữu ích cho việc hoàn thiện, bổ sung chính sách của Nhà nước trong phát
triển nông nghiệp, nông thôn, những thông tin này chỉ sử dụng cho mục đích nghiên
cứu khoa học và không nhằm mục đích gì khác.
Rất mong nhận được sự hợp tác của ông, bà.
Xin trân trọng cảm ơn!
Giám sát viên (Ký và ghi rõ họ tên) Ngày…...tháng….. năm 20… Điều tra viên (Ký và ghi rõ họ tên)
…………………………….. ……………………….
166
PHẦN 1: THÔNG TIN CÁ NHÂN
1. Tỉnh: ...............................Huyện:…………………… Xã:…………. ………..
2. Nghề nghiệp:…………………………………………………...................
3. Năm sinh:……………………………. Nam/ Nữ:…………………………
4. Dân tộc:………………………………Tôn giáo:…………………………..
5. Học vấn: …………………………………………………………………...
6. Ông/ bà là Đảng viên không? a. Đảng viên b. Không
PHẦN 2: NỘI DUNG CHÍNH
Câu 1: Ông/ bà có biết về “Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng
nông thôn mới” không?
1. Biết (chuyển câu 2) 2. Không biết (chuyển câu 3)
Câu 2. Ông/ bà biết từ nguồn thông tin nào sau đây?
(lựa chọn 2 phương án)
1. Báo, đài, tivi,…
2. Cán bộ địa phương giới thiệu
3. Những buổi họp của các tổ chức xã hội, chính quyền
4. Các khẩu hiệu, bảng tin
5. Người thân, hàng xóm
6. Khác:……………………………………………………………………
Câu 3. Theo Ông/ bà những tổ chức nào tham gia vào xây dựng NTM?
(có thể chọn nhiều phương án)
1. Đảng, Nhà nước 4. Doanh nghiệp
2. Chính quyền địa phương 5. Người dân
3. Tổ chức xã hội 6. Gia đình
Câu 4. Theo Ông/bà gia đình có vai trò như thế nào trong xây dựng NTM ?
1. Rất quan trọng
2. Quan trọng
3. Bình thường
4. Không có vai trò
167
Câu 5. Ông/ bà cho biết những đóng góp của gia đình mình cho việc xây
dựng các hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội ở địa phương mình như sau:
(có thể chọn nhiều phương án)
Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội
Hiến tặng đất đai
Chưa đóng góp
Ủng hộ tiền mặt
Ủng hộ hiện vật
Đóng góp công lao động
Tham gia giữ gìn, sửa chữa, tu bổ
Hạ tầng giao thông (Đường làng, ngõ xóm, đường giao thông thôn, xóm; giao thông nội đồng,...) Hạ tầng thủy lợi (Hồ tưới, trạm bơm, kênh mương, tiêu thoát nước, giữ môi trường nước,...) Hạ tầng điện (Đường dây điện,trạm biến áp,...) Hạ tầng giáo dục và đào tạo (Trường, lớp học, trang thiết bị dạy và học,...) Hạ tầng cơ sở vật chất văn hóa, thể thao, du lịch (Nhà văn hóa, sân vận động, khu tham quan, di tích,nghỉ dưỡng,…) Hạ tầng thương mại nông thôn (Chợ nông thôn hoặc nơi mua bán, trao đổi hàng hóa) Hạ tầng thông tin hoặc truyền thông (Bưu chính, viễn thông, internet, đài truyền thanh, hệ thống loa, ứng dụng công nghệ thông tin) Hạ tầng y tế (Trạm xá, bệnh viện, trang thiết bị y tế,...) Hạ tầng trụ sở, nhà ở dân cư (trụ sở công vụ, nhà ở gia đình...)
168
Câu 6. Gia đình ông/ bà thường bán sản phẩm lao động của mình cho:
1. Nhà nước
2. Tư thương
3. Hợp tác xã mua bán
4. Tự tổ chức tiêu thụ sản phẩm
Câu 7. Ông/ bà có biết đến mô hình “Sản xuất nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao” không?
1. Biết và đang ứng dụng (chuyển câu 8)
2. Biết nhưng chưa ứng dụng (chuyển câu 9)
3. Không biết (chuyển câu 9)
4. Chưa từng nghe tới (chuyển câu 9)
Câu 8. Gia đình ông/ bà áp dụng những hình thức “Sản xuất nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao” dưới đây như thế nào?
Thường
Thỉnh
Không
Hình thức
Ít khi
xuyên
thoảng
thực hiện
Cơ giới hóa các khâu trong quá
trình sản xuất (làm đất, gieo trồng,
thu hoạch, phun thuốc, bón phân,
tưới nước,...)
Tự động hóa
Sử dụng công nghệ vật liệu mới
Công nghệ sinh học và các giống
cây trồng
Giống vật nuôi, cây trồng có năng
suất và chất lượng cao
Canh tác hữu cơ
(Thường xuyên: vụ/năm nào cũng áp dụng
Thỉnh thoảng: Đã sử dụng nhưng có vụ/ năm không áp dụng
Ít khi: Mới áp dụng 1 - 2 lần)
169
Câu 9. Ông/ bà hãy đánh giá như thế nào về các vấn đề sau khi áp dụng
mô hình “Sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao” ở gia đình mình?
Vấn đề
Rất
Khá
Thuận
Khó
Rất
thuận lợi
thuận lợi
lợi
khăn
khó khăn
Vốn đầu tư
Diện tích đất đai
Nguồn lao động
Cơ sở hạ tầng
Cách thức sản xuất
Thị trường tiêu thụ sản phẩm
Câu 10. Gia đình ông/ bà co vay vốn để sản xuất không?
1. Có (chuyển câu 11) 2. Không (chuyển câu 12)
Câu 11. Nếu có thì vay từ nguồn nào?
1. Ngân hàng
2. Qũy tín dụng
3. Bạn bè, người thân
4. Vốn nước ngoàii
5. Nguồn khác.................................................................................
Câu 12. Ông/ bà thấy tình hình vay vốn:
1. Rất thuận lợi
2. Khá thuận lợi
3. Thuận lợi
4. Khó khăn
5. Rất khó khăn
Câu 13. Nếu nhận được sự trợ giúp về vốn, ông / bà có sẵn sàng chuyển
đổi hình thức sản xuất không?
1. Có 2. Không
170
Câu 14. Ông/ bà cho biết con cái mình trong độ tuổi lao động đang làm
việc ở đâu ?
(Độ tuổi lao động là 15 - 60 tuổi đối với nam và 15 - 55 tuổi đối với nữ)
Nơi làm việc
Nam
Nữ
1. Cơ quan nhà nước
2. Khu công nghiệp
3. Doanh nghiệp tư nhân
4. Sản xuất tại nhà
5. Lao động ở nước ngoài
6. Chưa có việc làm
Câu 15. Nghề nghiệp chính của hộ gia đình ông/ bà là gì?
1. Sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi)
2. Tiểu thủ công nghiệp
3. Buôn bán, dịch vụ
4. Nghề truyền thống
5. Nghề khác:......................................................................................
Câu 16. Thu nhập bình quân đầu người của gia đình ông/ bà trong thời
gian qua như thế nào?
Đơn vị: VN đồng
Thu nhập bình quân/người/năm
Từ năm 2005 đến 2010
Từ năm 2010 đến nay
a. Trên 50 triệu
b. Từ 30 triệu đến dưới 50 triệu
c. Từ 20 triệu đến dưới 30 triệu
d. Từ 10 triệu đến dưới 20 triệu
e. Từ 1 triệu đến dưới 10 triệu
171
Câu 17. Gia đình ông/ bà đã tham gia vào các hoạt động văn hóa dưới đây
như thế nào?
Thường
Thỉnh
Không
Hoạt động văn hóa
Ít khi
xuyên
thoảng
tham gia
Xây dựng gia đình văn hóa
Lễ hội truyền thống
Giữ gìn phong tục, tập quán, hương ước
Văn nghệ quần chúng
Thực hiện nếp sống văn minh trong lễ
cưới, lễ tang, lễ hội
Phong trào thi đua, hội họp, sinh hoạt
cộng đồng
Bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa, di
tích lịch sử
(Thường xuyên: Tham gia tất cả các hoạt động do chính quyền tổ chức trong năm
Thỉnh thoảng: Có 1- 2 hoạt động không tham gia
Ít khi: Chỉ tham gia 1 lần trong năm)
Câu 18. Ông/ bà cho biết, vai trò của gia đình trong giáo dục con cái như
thế nào theo những nội dung dưới đây?
Rất
Không
Nội dung
Quan trọng
quan trọng
quan trọng
Phẩm chất đạo đức, nhân cách lối sống
Truyền thống, văn hóa dân tộc
Nền nếp sinh hoạt, truyền thống gia đình
Đường lối, chính sách của Đảng
Pháp luật của Nhà nước, quy định địa phương
Kiến thức giáo dục phổ thông
Định hướng học tập, nghề nghiệp
172
Câu 19. Ông/ bà dành thời gian mấy giờ 1 ngày để dạy con cái học tập?
4. 1 giờ/ ngày 1. 4 giờ/ ngày
5. Không dạy ở nhà 2. 3 giờ/ ngày
3. 2 giờ/ ngày
Câu 20. Ông/ bà đã đầu tư những gì cho con cái học tập?
1. Học phí hàng tháng
2. Sách, vở
3. Cho học thêm các lớp bồi dưỡng (tin học, tiếng anh,...)
4. Trang thiết bị (như máy tính, laptop,...)
5. Không đầu tư gì
Câu 21. Ông/ bà sẽ cho con cái mình học đến trình độ học vấn nào?
Trình độ học vấn
Con trai
Con gái
Cấp II trở xuống
Cấp III
Cao đẳng, đại học
Sau đại học
Câu 22. Ông/ bà muốn cho con cái mình làm nghề gì?
Nghề nghiệp
Con trai
Con gái
Nông nghiệp
Tiểu thủ công nghiệp
Buôn bán - Dịch vụ
Cán bộ nhà nước
Cán bộ quản lý
Miễn là có thu nhập cao
Tùy các cháu
Nghề khác (ghi rõ)
173
Câu 23. Gia đình ông/ bà tham gia các dịch vụ y tế dưới đây như
thế nào?
Thường
Thỉnh
Không
Dịch vụ y tế
Hiếm khi
xuyên
thoảng
tham gia
Khám, chữa bệnh theo bảo hiểm
Khám, chữa bệnh theo yêu cầu
Tiêm chủng
Phòng, chống bệnh tật
Chăm sóc, phục hồi sức khỏe
(Thường xuyên: 1 tháng 1 lần
Thỉnh thoảng: 3 tháng/ 1 lần
Ít khi: 1 - 2 năm / lần)
Câu 24. Gia đình ông/bà thực hiện các công tác bảo vệ môi trường trong
nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới nào dưới đây?
Có
Không
Thu gom, xử lý nước thải chăn nuôi bằng hầm biogas, hố ga lắng
cặn, ao sinh hoạt....
Thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt bằng bể tự hoại, hố ga lắng cặn
Thu gom, phân loại rác thải ngay tại hộ gia đình
Chôn lấp hợp vệ sinh các loại rác hữu cơ có thể phân hủy tại
khuôn viên hộ gia đình
Thực hiện chôn cất người mất tại khu nghĩa trang địa phương hợp
vệ sinh
Cải tạo, xây dựng hệ thống ao, hồ theo quy định
Nạo vét, tu bổ ao, hồ thường xuyên, tạo không gian, cảnh quan
sinh thái và điều hòa môi trường
Cải tạo, xây dựng hệ thống cây xanh theo quy hoạch
Trồng và khai thác các sản phầm cây xanh hàng năm
Không chặt phá, khai thác, sử dụng cây xanh trái quy định
174
Câu 25. Các thành viên trong gia đình ông/ bà tham gia các hoạt động sau
như thế nào?
Ít khi
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Không tham gia
Hoạt động xây dựng hệ thống chính trị - xã hội Góp ý, xây dựng kế hoạch, chương trình, quy định,... của địa phương Động viên các thành viên trong gia đình phát triển công tác Đảng, kết nạp Đảng Sinh hoạt Đảng Góp ý, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở địa phương Các buổi họp thôn, xóm,... Đóng góp ý kiến vào các buổi họp thôn, xóm,.. Các mô hình tự quản Tham gia hoạt động của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Tham gia hoạt động của hội Nông dân Tham gia hoạt động của hội Phụ nữ Tham gia hoạt động của hội Cựu chiến binh
Câu 26. Gia đình ông/ bà thực hiện các công tác góp phần giữ vững an ninh,
trật tự - xã hội ở địa phương như thế nào?
Hoạt động giữ vững an ninh, trật tự - xã hội ở nông thôn
Ít khi
Thỉnh thoảng
Thường xuyên
Không thực hiện
Phong trào “Toàn dân bảo vệ An ninh Tổ quốc” Phòng, chống tệ nạn xã hội (Ma túy, nghiện hút, trộm cắp, cờ bạc, mại dâm) Tìm hiểu hệ thống pháp luật Tham gia phòng ngừa tội phạm Phát hiện, đấu tranh, tố giác tội phạm Phòng, chống bạo lực gia đình Đảm bảo an toàn giao thông Khiếu kiện, tụ tập đông người Ttruyền đạo trái phép
Xin cảm ơn Ông/ Bà !
175
Phụ lục 1.2
KẾT QUẢ ĐIỀU TRA DƯ LUẬN XÃ HỘI
ĐỐI VỚI CHỦ THỂ GIÁO DỤC
- Số phiếu phát ra là 300 phiếu, trong đó mỗi tỉnh có số phiếu điều tra
như sau:
+ Vĩnh Phúc: 50 phiếu
+ Quảng Ninh: 50 phiếu
+ Thái Bình: 50 phiếu
+ Nam Định: 50 phiếu
+ Huyện Đan Phượng, huyện Chương Mỹ (Hà Nội): 50 phiếu
+ Hải Dương: 50 phiếu
- Số phiếu thu về 300, các phiếu hợp lệ: 300 phiếu
Bảng 1: Tổng hợp thông tin cá nhân của chủ thể giáo dục được trưng
cầu ý kiến
STT
Thông tin cá nhân
Số lượng
Tỷ lệ
Thái Bình
50
16,7%
Nam Định
50
16,7%
Hải Dương
50
16,7%
Tỉnh
1
Hà Nội
50
16,7%
Vĩnh Phúc
50
16,7%
Nam
184
61,3%
Giới tính
2
Nữ
116
38,7%
31-39
67
22,3%
40 - 49
193
64, 3%
Tuổi
3
50 trở lên
40
13,3%
Kinh
234
78%
Dân tộc
3
Dân tộc khác
66
22%
61
20,3%
4
Đảng viên
176
Bảng 2: Tổng hợp ý kiến người dân biết về “Chương trình Mục tiêu quốc
gia về xây dựng nông thôn mới”
Ý kiến
Số lượng
Tỷ lệ
286
Biết
95.3 %
14
Không biết
4.7 %
Bảng 3: Tổng hợp ý kiến nguồn thông tin để người dân biết đến “Chương
trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM”
Nguồn thông tin
Số lượng
Tỷ lệ
Báo, đài, tivi,…
202
70,6 %
Cán bộ địa phương giới thiệu
163
57 %
Những buổi họp của các tổ
164
57,3 %
chức xã hội, chính quyền
Các khẩu hiệu, bảng tin
127
44,4 %
Người thân, hàng xóm
69
24,1 %
Bảng 4: Tổng hợp ý kiến đánh giá của gia đình vùng ĐBSH về những tổ
chức tham gia vào xây dựng NTM?
Tỷ lệ
Các tổ chức
Số lượng (phiếu)
Đảng, Nhà nước
185
61,7 %
Chính quyền địa phương
234
78 %
Tổ chức xã hội
84
28 %
Doanh nghiệp
68
22,7 %
Người dân
218
72,7 %
Gia đình
181
60,3 %
Bảng 5: Tổng hợp ý kiến đánh giá của người dân về vai trò của gia đình
trong xây dựng NTM ?
Vai trò
Số lượng (phiếu)
Tỷ lệ
Quan trọng
130
43.3 %
Rất quan trọng
149
49.7 %
Không trả lời
21
7 %
177
Bảng 6: Tổng hợp ý kiến cho biết những đóng góp của gia đình vùng
ĐBSH cho việc xây dựng các hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội ở địa phương.
(có thể chọn nhiều phương án)
Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội
Hiến tặng đất đai
Ủng hộ tiền mặt
Chưa đóng góp
Ủng hộ hiện vật
Đóng góp công lao động
Tham gia giữ gìn, sửa chữa, tu bổ
30,7 %
38 %
0%
55 %
67 %
2,7 %
12,7 %
36 %
0%
52,3 %
44 %
5 %
2,7 % 37,7 %
5 %
5 %
17,7 % 39,3 %
2,7 %
64,7%
10 % 12,7 %
5 %
19,7 %
5 %
40,7%
5 %
57,3 % 32,3 %
9,7 %
5,3 % 14,7 % 2,7 % 17,7 % 14,7 % 27,7 %
0 %
17,7 % 7,7 %
7,7 %
27,7 % 54,3 %
0 %
25 %
5 %
8 %
17,3 % 67,3 %
0 %
35 %
5 %
17 %
30,7 % 44,7 %
Hạ tầng giao thông (Đường làng, ngõ xóm, đường giao thông thôn, xóm; giao thông nội đồng,...) Hạ tầng thủy lợi (Hồ tưới, trạm bơm, kênh mương, tiêu thoát nước, giữ môi trường nước,...) Hạ tầng điện (Đường dây điện,trạm biến áp,...) Hạ tầng giáo dục và đào tạo (Trường, lớp học, trang thiết bị dạy và học,...) Hạ tầng cơ sở vật chất văn hóa, thể thao, du lịch (Nhà văn hóa, sân vận động, khu tham quan, di tích,nghỉ dưỡng,…) Hạ tầng thương mại nông thôn (Chợ nông thôn hoặc nơi mua bán, trao đổi hàng hóa) Hạ tầng thông tin hoặc truyền thông (Bưu chính, viễn thông, internet, đài truyền thanh, hệ thống loa, ứng dụng công nghệ thông tin) Hạ tầng y tế (Trạm xá, bệnh viện, trang thiết bị y tế,...) Hạ tầng trụ sở, nhà ở dân cư (trụ sở công vụ, nhà ở gia đình...)
178
Bảng 7: Tổng hợp ý kiến tỷ lệ gia đình vùng ĐBSH thường bán sản phẩm
lao động của mình cho:
Nơi tiêu thụ sản phẩm
Tỷ lệ
Nhà nước
20 %
Tư thương
61,7 %
Hợp tác xã mua bán
5 %
Tự tổ chức tiêu thụ sản phẩm
23 %
Bảng 8. Tổng hợp ý kiến gia đình biết đến mô hình“Sản xuất nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao”
Nơi tiêu thụ sản phẩm
Số lượng
Tỷ lệ
Biết và đang ứng dụng
45
15 %
Biết nhưng chưa ứng dụng
167
55,7%
Không biết
88
29,3%
Chưa từng nghe tới
0
0 %
Bảng 9. Tổng hợp ý kiến gia đình đã áp dụng những hình thức “Sản xuất
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao”
Hình thức
Ít khi
Không trả lời
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Không thực hiện
11,3 %
3,7 %
0 %
0 %
0 %
7 % 11,7 %
65,3 % 1,3 %
2,7 % 0 %
0 % 2 %
0 % 0 %
13 %
2 %
0 %
0 %
0 %
14 %
1 %
0 %
0 %
0 %
Cơ giới hóa các khâu trong quá trình sản xuất (làm đất, gieo trồng, thu hoạch, phun thuốc, bón phân, tưới nước,...) Tự động hóa Sử dụng công nghệ vật liệu mới Công nghệ sinh học và các giống cây trồng Giống vật nuôi, cây trồng có năng suất và chất lượng cao Canh tác hữu cơ
2 %
9 %
0 %
4 %
0 %
(Thường xuyên: vụ/năm nào cũng áp dụng
Thỉnh thoảng: Đã sử dụng nhưng có vụ/ năm không áp dụng
Ít khi: Mới áp dụng 1 - 2 lần)
179
Bảng 10. Tỷ lệ tổng hợp ý kiến gia đình đánh giá điều kiện áp dụng mô hình
“Sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao” ở gia đình
Vấn đề
Rất
Khá
Thuận
Khó
Rất
thuận lợi
thuận lợi
lợi
khăn
khó khăn
40 %
11,7 %
5 %
19,7 %
19 %
Vốn đầu tư
5 %
0 %
17 %
30,7 %
42,3 %
Diện tích đất đai
5 %
5 %
15 %
43,3 %
26,7 %
Nguồn lao động
7,7 %
0 %
12,7 %
15,7 %
59
Cơ sở hạ tầng
7,3 %
0 %
21,3 %
51,3 %
15 %
Cách thức sản xuất
0 %
10 %
Thị trường tiêu thụ sản phẩm
19,7 %
53,3 %
7 %
Bảng 11. Tổng hợp ý kiến gia đình có vay vốn để sản xuất
Vay vốn
Số lượng
Tỷ lệ
Có
97
32,3 %
Không
203
67,7 %
Bảng 12. Tổng hợp ý kiến nguồn mà các gia đình vay vốn
Nguồn vay vốn
Số lượng
Tỷ lệ
Ngân hàng
63
21 %
Qũy tín dụng
50
16,7 %
Bạn bè, người thân
50
16,7 %
Vốn nước ngoài
97
32,3 %
Nguồn khác
97
32,3 %
Bảng 13. Tổng hợp ý kiến đánh giá của gia đình về tình hình vay vốn:
Tỷ lệ
Tình hình vay vốn
Số lượng
Rất thuận lợi
30
10 %
Khá thuận lợi
120
40 %
Thuận lợi
45
15 %
Khó khăn
105
35 %
Rất khó khăn
0
0 %
180
Bảng 14. Tổng hợp ý kiến của gia đình về sẵn sàng chuyển đổi hình thức sản
xuất
Số lượng
Tỷ lệ
Có
98
32,3 %
Không
202
67,3 %
Bảng 15. Tổng hợp ý kiến của gia đình cho biết nơi làm việc của con cái
(Độ tuổi lao động là 15 - 60 tuổi đối với nam và 15 - 55 tuổi đối với nữ)
Nơi làm việc
Nam
Nữ
7. Cơ quan nhà nước
24 %
10 %
8. Khu công nghiệp
27,3 %
17,7 %
9. Doanh nghiệp tư nhân
22,3 %
5,0 %
10. Sản xuất tại nhà
3,0 %
7,7 %
11. Lao động ở nước ngoài
0 %
0 %
12. Chưa có việc làm
21 %
20 %
Bảng 16. Tổng hợp ý kiến của gia đình cho biết thu nhập bình quân đầu
người của gia đình trong thời gian qua
Từ năm 2005 đến
Từ năm 2010 đến
Thu nhập bình quân/người/năm
2010
nay
f. Trên 50 triệu
4,7 %
12,3 %
g. Từ 30 triệu đến dưới 50 triệu
7,7 %
27,7 %
h. Từ 20 triệu đến dưới 30 triệu
1,7 %
23 %
i. Từ 10 triệu đến dưới 20 triệu
28,3 %
32 %
j. Từ 1 triệu đến dưới 10 triệu
41,7 %
5,0 %
181
Bảng 17. Tổng hợp ý kiến đánh giá của gia đình về mức độ tham gia vào
các hoạt động văn hóa
Thường
Thỉnh
Không
Hoạt động văn hóa
Ít khi
xuyên
thoảng
tham gia
Xây dựng gia đình văn hóa
71 %
23,7 %
5,3 %
0 %
Lễ hội truyền thống
17,7 %
74,3 %
8,0 %
0 %
7,0 %
2,7 %
Giữ gìn phong tục, tập quán, hương ước
43,7 %
46,7 %
8,0 %
Văn nghệ quần chúng
21,7 %
44,7 %
25,7 %
Thực hiện nếp sống văn minh trong lễ
62,7 %
34,7 %
2,7 %
0 %
cưới, lễ tang, lễ hội
Phong trào thi đua, hội họp, sinh hoạt
20 %
60 %
20 %
0 %
cộng đồng
Bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa, di
34,7 %
50,7 %
9,7 %
5,0 %
tích lịch sử
(Thường xuyên: Tham gia tất cả các hoạt động do chính quyền tổ chức trong năm
Thỉnh thoảng: Có 1- 2 hoạt động không tham gia
Ít khi: Chỉ tham gia 1 lần trong năm)
Bảng 18. Tổng hợp ý kiến gia đình đánh giá về vai trò của gia đình trong
giáo dục con cái
Rất
Không
Nội dung
Quan trọng
quan trọng
quan trọng
Phẩm chất đạo đức, nhân cách lối sống
74,3%
25,7 %
0 %
Truyền thống, văn hóa dân tộc
80,3 %
19,7 %
0 %
Nền nếp sinh hoạt, truyền thống gia đình
75,3 %
24,7 %
0 %
Đường lối, chính sách của Đảng
37,3 %
43,7 %
19 %
Pháp luật của Nhà nước, quy định địa
32 %
48,7 %
19,3 %
phương
Kiến thức giáo dục phổ thông
25 %
63 %
12 %
Định hướng học tập, nghề nghiệp
25 %
65 %
10 %
182
Bảng 19. Tổng hợp ý kiến của gia đình về thời gian dành để dạy con học
tập trong một ngày
Tỷ lệ
Thời gian
Số lượng
4 giờ/ ngày
0
0 %
3 giờ/ ngày
37
12,3 %
2 giờ/ ngày
74
24,7 %
1 giờ/ ngày
39
13 %
Không dạy ở nhà
150
50 %
Bảng 20. Tổng hợp ý kiến các gia đình về những khoản đã đầu tư cho con
cái học tập
Thời gian
Số lượng
Tỷ lệ
Học phí hàng tháng
284
94,7 %
Sách, vở
277
92,3 %
Cho học thêm các lớp bồi dưỡng
65 %
195
(tin học, tiếng anh,...)
Trang thiết bị (như máy tính,
64,7 %
194
laptop,...)
Không đầu tư gì
8
2,7 %
Bảng 21. Tổng hợp ý kiến các gia đình về trình độ học vấn sẽ cho con cái
theo học
Con gái
Trình độ học vấn
Con trai
Cấp II trở xuống
4,7 %
0 %
Cấp III
10 %
12 %
Cao đẳng, đại học
58 %
55,7 %
Sau đại học
17 %
19,7 %
183
Bảng 22. Tổng hợp ý kiến các gia đình về nghề nghiệp mong muốn của con cái
Nghề nghiệp
Con trai
Con gái
4,7 %
Nông nghiệp
0 %
2,7 %
Tiểu thủ công nghiệp
10 %
0 %
Buôn bán - Dịch vụ
0 %
47 %
Cán bộ nhà nước
40,7 %
8 %
Cán bộ quản lý
12,3 %
5,3 %
Miễn là có thu nhập cao
0 %
22,3 %
Tùy các cháu
23,3 %
10 %
Nghề khác (ghi rõ)
0 %
Bảng 23. Tổng hợp ý kiến các gia đình về mức độ tham gia các dịch vụ y tế
Thường
Thỉnh
Không
Dịch vụ y tế
Hiếm khi
xuyên
thoảng
tham gia
Khám, chữa bệnh theo bảo hiểm
32 %
57 %
5,3 %
5,7 %
Khám, chữa bệnh theo yêu cầu
7,7 %
58 %
31,7 %
2,7 %
Tiêm chủng
25 %
62,7 %
9,7 %
2,7 %
Phòng, chống bệnh tật
27 %
60,7 %
2,7 %
9,7 %
Chăm sóc, phục hồi sức khỏe
10 %
50,7 %
22 %
17,3 %
(Thường xuyên: 1 tháng 1 lần
Thỉnh thoảng: 3 tháng/ 1 lần
Ít khi: 1 - 2 năm / lần)
184
Bảng 24. Tổng hợp ý kiến các gia đình về việc thực hiện các công tác bảo
vệ môi trường trong nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới
Có thực hiện
57 %
80 % 27,3 %
29,7 %
88,3 %
37,7 %
56,7 %
48,3 % 67,3 % 92,3 %
Ít khi
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Không tham gia
22,7 %
50,3 %
7,0 %
20 %
45,7 %
19,7 %
7,7 %
27 %
19,7 %
12,7 %
2,7 %
65 %
40,7 %
27,3 %
20 %
12 %
32,7 %
67,3 %
0 %
0 %
32,3 %
19,7 %
48 %
0 %
64,3 %
7,7 %
8,0 %
20 %
19,7 %
25,3 %
25,7 %
29,3 %
15,7 % 17 %
14,7 % 5,7 %
18 % 27,7 %
51,7 % 49,7 %
72,3 %
12,3 %
5,3 %
10 %
Thu gom, xử lý nước thải chăn nuôi bằng hầm biogas, hố ga lắng cặn, ao sinh hoạt.... Thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt bằng bể tự hoại, hố ga lắng cặn; Thu gom, phân loại rác thải ngay tại hộ gia đình; Chôn lấp hợp vệ sinh các loại rác hữu cơ có thể phân hủy tại khuôn viên hộ gia đình Thực hiện chôn cất người mất tại khu nghĩa trang địa phương hợp vệ sinh; Cải tạo, xây dựng hệ thống ao, hồ theo quy định; Nạo vét, tu bổ ao, hồ thường xuyên, tạo không gian, cảnh quan sinh thái và điều hòa môi trường Cải tạo, xây dựng hệ thống cây xanh theo quy hoạch Trồng và khai thác các sản phầm cây xanh hàng năm Không chặt phá, khai thác, sử dụng cây xanh trái quy định Bảng 25. Tổng hợp ý kiến mức độ tham gia của các gia đình vào các hoạt động xây dựng hệ thống chính trị - xã hội Hoạt động xây dựng hệ thống chính trị - xã hội Góp ý, xây dựng kế hoạch, chương trình, quy định,... của địa phương Động viên các thành viên trong gia đình phát triển công tác Đảng, kết nạp Đảng Sinh hoạt Đảng Góp ý, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở địa phương Các buổi họp thôn, xóm,... Đóng góp ý kiến vào các buổi họp thôn, xóm,.. Các mô hình tự quản Tham gia hoạt động của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Tham gia hoạt động của hội Nông dân Tham gia hoạt động của hội Phụ nữ Tham gia hoạt động của hội Cựu chiến binh
185
Bảng 26. Tổng hợp ý kiến gia đình về mức độ thực hiện các công tác góp
phần giữ vững an ninh, trật tự - xã hội ở địa phương
Không
Hoạt động giữ vững an ninh, trật tự -
Thường
Thỉnh
Ít khi
thực
xã hội ở nông thôn
xuyên
thoảng
hiện
Phong trào “Toàn dân bảo vệ An ninh Tổ
30 %
50 %
20 %
0 %
quốc”
Phòng, chống tệ nạn xã hội
34,3 %
43 %
22,7 %
0 %
(Ma túy, nghiện hút, trộm cắp, cờ bạc, mại
dâm)
Tìm hiểu hệ thống pháp luật
17,7 %
33 %
30 %
12,7 %
Tham gia phòng ngừa tội phạm
36,7 %
34,7 %
28,6 %
0%
Phát hiện, đấu tranh, tố giác tội phạm
19,7 %
39,7 %
36
4,7 %
Phòng, chống bạo lực gia đình
52,7 %
44,7 %
0 %
2,7 %
Đảm bảo an toàn giao thông
66,7 %
30,3 %
0 %
3,0 %
Khiếu kiện, tụ tập đông người
12,7 %
6,7 %
75,7 %
0 %
Ttruyền đạo trái phép
0%
0 %
100 %
0 %
186
Phụ lục 2
BẢNG 2.1. TRÍCH “BIỂU SỐ 1.15. SỐ LỰỢNG VÀ CƠ CẤU HỘ
Ở KHU VỰC NÔNG THÔN QUA 3 KỲ TỔNG ĐIỀU TRA NĂM 2006, NĂM 2011
VÀ NĂM 2016 PHÂN THEO VÙNG”
Số lượng (Hộ)
Cơ cấu (%)
2006
2011
2016
2006
2011
2016
3 842
I. Đồng bằng sông Hồng
3 511
4 003 293 100,00 100,00 100,00
075
157
1. Hộ nông, lâm nghiệp
2 114
1 882
1 431 142
60,50
47,44
35,75
275
682
và thủy sản
2 053
1 749
1.1. Hộ nông nghiệp
1 356 560
58,48
45,54
33,89
400
654
2 763
3 080
1.2. Hộ lâm nghiệp
3 923
0,08
0,08
0,10
1,94
1,82
1,77
1.3. Hộ thủy sản
68 112
69 948
70 659
2. Hộ công nghiệp và
564 910
902 186
1 242 589
16,09
23,48
31,04
xây dựng
2.1. Hộ công nghiệp
403 625
59 2582
915 412
11,50
15,42
22,87
2.2. Hộ xây dựng
161 285
309 605
327 177
4,59
8,06
8,17
3. Hộ dịch vụ
594 750
820 919
900 245
16,94
21,37
22,49
3.1. Hộ thương nghiệp
333 058
376 388
390 463
9,49
9,80
9,76
3.2. Hộ vận tải
60 903
93 880
142 140
1,73
2,44
3,55
3.3. Hộ dịch vụ khác còn
200 789
350 651
367 642
5,72
9,13
9,18
lại
4. Hộ khác
227 140
296,370
429 317
6,47
7,71
10,72
Nguồn: Báo cáo sơ bộ kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm
2016, Ban chỉ đạo tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản trung ương,
NXB Thống kê, Hà Nội, 2016 [7, tr.70].
187
Phụ lục 3
BẢNG 4: CƠ CẤU HỘ NÔNG THÔN TẠI THỜI ĐIỂM 1/7/2016
PHÂN THEO NGUỒN THU NHẬP LỚN NHẤT VÀ ĐỊA PHƯƠNG
Đơn vị tính: %
Phân theo nguồn thu nhập lớn nhất
Hộ có thu
Hộ có thu
Hộ có thu
nhập lớn
nhất từ
Hộ có thu
nhập lớn
nhập lớn
Tỉnh
Tổng số
nhất từ
nhất từ
ngành
nhập lớn
nhất từ
ngành nông,
ngành công
thương
nghiệp, vận
nguồn khác
lâm, thủy
nghiệp, xây
sản
dựng
tải, DV khác
còn lại
Đồng bằng
27,92
35,42
23,95
12,71
100
sông Hồng
Hà Nội
100
22,25
34,68
33,93
9,14
Vĩnh Phúc
100
32,94
35
23,78
8,28
Bắc Ninh
100
16,28
18,45
8,37
56,90
Quảng Ninh
100
17,39
23,14
7,89
51,58
Hải Dương
100
29,81
17,55
16,00
36,64
Hưng Yên
100
30,48
21,78
14,46
33,28
Hải Phòng
100
21,66
25,94
13,21
39,19
Thái Bình
100
30,93
33,52
18,97
16,58
Hà Nam
100
26,27
35,52
20,93
17,28
Nam Định
100
30,88
33,71
21,20
14,21
Ninh Bình
100
30,41
19,95
14,48
35,16
Nguồn: Báo cáo sơ bộ kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm
2016, Ban chỉ đạo tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản trung ương,
NXB Thống kê, Hà Nội, 2016 [7, tr.90].
188
Phụ lục 4
SỐ XÃ ĐẠT VÀ CHƯA ĐẠT CHUẨN NTM TẠI THỜI ĐIỂM 01/2017
Xã đạt chuẩn NTM
Xã chưa đạt chuẩn NTM
Số lượng
Tỷ lệ so với
Số lượng
Tỷ lệ so với
tổng số xã
tổng số xã
(%)
(%)
CẢ NƯỚC
2 060
23,1
6 851
76,9
ĐBSH
754
39,9
1 135
60,1
TDMNPB
217
9,5
2 059
90,5
BTBDHMT
528
21,9
1 885
78,1
Tây Nguyên
91
15,2
509
84,8
ĐNB
213
47,0
240
53,0
ĐBSCL
257
20,1
1 023
79,9
Nguồn: Báo cáo sơ bộ kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm
2016, Ban chỉ đạo tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản trung ương,
NXB Thống kê, Hà Nội, 2016 [7, tr.21].