HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ MINH HUỆ

GIA ĐÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

HÀ NỘI - 2019

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ MINH HUỆ

GIA ĐÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Mã số: 62 22 03 08

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS,TS Bùi Thị Ngọc Lan

2. TS Nguyễn Thị Hà

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung

thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo

quy định.

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Minh Huệ

MỤC LỤC

Trang

1

7

MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Các công trình nghiên cứu về gia đình, vai trò của gia đình, gia đình vùng

đồng bằng sông Hồng

7

1.2. Các công trình nghiên cứu về nông thôn, xây dựng nông thôn mới và xây

dựng nông thôn mới vùng đồng bằng sông Hồng

14

1.3. Những giá trị tham khảo từ các công trình có liên quan và những nội dung

luận án cần tập trung nghiên cứu

23

27

CHƯƠNG 2: GIA ĐÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG 2.1. Một số vấn đề lý luận về xây dựng nông thôn mới và về vai trò của gia đình

trong xây dựng nông thôn mới

27

2.2. Những yếu tố tác động đến vai trò của gia đình vùng đồng bằng sông Hồng

trong xây dựng nông thôn mới

48

64

CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 3.1. Thực trạng thực hiện vai trò của gia đình vùng đồng bằng sông Hồng

trong xây dựng nông thôn mới hiện nay và nguyên nhân

64

3.2. Những vấn đề đặt ra trong thực hiện vai trò của gia đình vùng đồng bằng

sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới hiện nay

104

113

CHƯƠNG 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY 4.1. Quan điểm cơ bản nhằm phát huy vai trò của gia đình vùng đồng bằng

sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới hiện nay

113

4.2. Giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của gia đình vùng đồng bằng

sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới hiện nay

118 146 149

KẾT LUẬN MỘT SỐ KIẾN NGHỊ DANH MỤC BÀI VIẾT ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

151 152 165

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

ĐBSH

: Đồng bằng sông Hồng

NTM

: Nông thôn mới

NXB

: Nhà xuất bản

UBND

: Ủy ban nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 3.1. Cơ cấu hộ gia đình phân theo nguồn thu nhập chính vùng đồng

bằng sông Hồng 73

Bảng 3.2. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh

tế đã qua đào tạo phân theo địa phương 77

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Trang

Biểu đồ 2.1. Cơ cấu nghề nghiệp chính của hộ gia đình vùng đồng bằng

sông Hồng 53

Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ gia đình vùng đồng bằng sông Hồng đóng góp xây dựng

hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện 65

Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ gia đình vùng đồng bằng sông Hồng đóng góp xây dựng

hạ tầng văn hóa, giáo dục đào tạo, chợ, thông tin truyền

thông, y tế, trụ sở, nhà ở cư dân 67

Biểu đồ 3.3. Cơ cấu hộ vùng đồng bằng sông Hồng qua 3 kỳ Tổng điều tra 71

Biểu đồ 3.4. Thu nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình từ 2005 -

2010 và từ 2010 đến nay 73

Biểu đồ 3.5. Thể hiện tổng hợp ý kiến của gia đình vùng đồng bằng sông

Hồng đánh giá về vai trò của gia đình trong giáo dục con cái

theo các nội dung 81

Biểu đồ 3.6. Tổng hợp ý kiến của gia đình vùng đồng bằng sông Hồng đánh

giá chủ thể tham gia vào xây dựng nông thôn mới 87

Biều đồ 3.7. Tỷ lệ đánh giá mức độ gia đình tham gia góp ý, xây dựng kế

hoạch, chương trình, quy định,... của địa phương 89

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Gia đình là hạt nhân của xã hội, là nơi sản sinh nuôi dưỡng con người, vì

vậy, gia đình có vị trí, vai trò quan trọng không chỉ đối với sự phát triển của mỗi

cá nhân mà cả đối với xã hội được thể hiện trong việc thực hiện các chức năng

kinh tế, xã hội, giữ gìn và chuyển giao các giá trị văn hóa truyền thống của dân

tộc. Ở giai đoạn nào, gia đình cũng là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Gia

đình là gốc của nước, vì vậy sự phát triển của gia đình sẽ tác động trực tiếp tới sự

phát triển bền vững của đất nước.

Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của gia đình, Đảng và Nhà nước ta

đã ban hành nhiều văn bản khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng của gia đình

đối với sự phát triển của đất nước. Văn kiện Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt

Nam đã chỉ rõ: “Gia đình là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và

hình thành nhân cách” [31, tr.76-77]; đến Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh

“Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy giá trị truyền thống

tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh” [33, tr.128].

Quán triệt quan điểm trên, thực hiện vai trò của gia đình được trong bối

cảnh đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông

nghiệp, nông thôn càng trở nên cấp thiết, biểu hiện nổi bật là trong triển khai

“Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới”. Xây dựng nông

thôn mới (NTM) là chương trình lớn của quốc gia góp phần hiện thực hóa mục

tiêu phấn đấu tới năm 2030 Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng

hiện đại. Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu trước mắt và lâu dài nêu trên, cùng

với các nhân tố đóng góp vào thành công của Chương trình thì gia đình có vai trò

rất quan trọng, trực tiếp góp phần vào tiến độ, chất lượng chương trình xây dựng

NTM hiện nay.

Gia đình vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) có thể nói là mô hình kiểu

mẫu của gia đình nông thôn Việt Nam. Do vậy, nghiên cứu vai trò của gia đình

2

nông thôn trong xây dựng nông thôn mới Việt Nam, không thể không nghiên cứu

vai trò của gia đình vùng ĐBSH. Là một trong những vùng trọng điểm, đi đầu

trong phong trào xây dựng NTM ở miền Bắc nước ta, ngay sau khi phong trào

xây dựng NTM được phát động, vùng ĐBSH được triển khai một cách mạnh mẽ,

quyết liệt và đạt được nhiều kết quả, đã khơi dậy tiềm năng to lớn trong gia đình

nông thôn vùng ĐBSH, gia đình đã và đang góp sức người, sức của để nỗ lực

thực hiện thắng lợi chương trình xây dựng NTM của địa phương.

Tuy nhiên, việc thực hiện vai trò của gia đình trong xây dựng NTM

vùng ĐBSH hiện còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng, bất cập từ nhiều góc độ.

Bản thân gia đình cũng chịu nhiều tác động như quá trình CNH, HĐH; đô thị

hóa; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khiến cho nó cũng biến

đổi theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực. Đặc biệt, trong việc thực hiện

các chức năng của gia đình khi tham gia vào các hoạt động chung của xã hội,

trong đó có Chương trình xây dựng NTM. Mặt khác, cũng cần thấy rằng việc

thực hiện xây dựng NTM còn mang tính phong trào, hình thức, chạy theo

thành tích nên cũng có tình trạng huy động quá sức sự đóng góp của gia đình

vùng ĐBSH; NTM được xây dựng chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của

gia đình vùng ĐBSH, chưa lấy mục tiêu nâng cao đời sống cho gia đình nông

thôn làm cốt lõi để thực hiện. Những hạn chế này thực sự trở thành rào cản

làm cho chủ thể gia đình vùng ĐBSH chưa được phát huy tối đa và hiệu quả

trong xây dựng NTM.

Từ thực tiễn cấp thiết đó đặt ra yêu cầu nghiên cứu lý luận, tổng kết thực

tiễn nhằm đưa ra giải pháp khắc phục những mâu thuẫn cản trở quá trình gia

đình vùng ĐBSH thực hiện vai trò trong xây dựng NTM, tạo sự cân bằng và

phát triển bền vững của nông nghiệp, nông thôn của vùng nói riêng và của Việt

Nam nói chung. Đề tài “Gia đình vùng đồng bằng sông Hồng trong xây dựng

nông thôn mới hiện nay” mà nghiên cứu sinh lựa chọn góp phần đáp ứng yêu

cầu đặt ra về phát huy vai trò gia đình trong phát triển nông nghiệp, nông dân,

nông thôn.

3

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về gia đình và vai trò gia

đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM, từ đó luận án đề xuất những quan điểm, giải

pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ

chủ yếu sau:

- Đánh giá tổng quan các công trình nghiên cứu về gia đình, xây dựng

NTM và vai trò của gia đình trong xây dựng NTM.

- Luận giải những vấn đề lý luận chung về nông thôn, xây dựng nông

thôn mới; gia đình và vai trò của gia đình trong xây dựng NTM; làm rõ những

yếu tố tác động đến gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM hiện nay.

- Làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện vai trò

của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM.

- Đề xuất quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của gia

đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là gia đình vùng ĐBSH cụ thể là

gia đình sinh sống ở nông thôn vùng ĐBSH và vai trò của họ trong xây dựng

NTM hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung nghiên cứu:

Luận án tập trung làm rõ vai trò của gia đình thể hiện trong một số nội

dung cơ bản sau: Vai trò của gia đình: 1) trong phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội;

2) trong phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất; 3) trong giữ gìn, bảo lưu, phát

triển các giá trị văn hóa, phát triển giáo dục, đào tạo; 4) bảo vệ môi trường; 5)

4

trong thực hiện quá trình dân chủ hóa nông thôn góp phần xây dựng hệ thống

chính trị; 6) thực hiện bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình và trong

đảm bảo an ninh nông thôn.

- Về địa bàn nghiên cứu:

Vùng đồng bằng sông Hồng gồm 11 tỉnh, thành phố nhưng để đáp ứng

yêu cầu đối tượng nghiên cứu, luận án đi sâu khảo sát tại một số tỉnh/ thành

phố như:

(1) Thành phố Hà Nội (gồm huyện Đan Phượng, huyện Chương Mỹ)

(2) Tỉnh Vĩnh Phúc

(3) Tỉnh Quảng Ninh

(4) Tỉnh Hải Dương

(5) Tỉnh Nam Định

(6) Tỉnh Thái Bình

Luận án lựa chọn các địa bàn trên để khảo sát phục vụ cho các nội dung

của đề tài vì: Thành phố Hà Nội là trung tâm vùng ĐBSH, trong đó hai huyện

Đan Phượng và huyện Chương Mỹ là hai huyện điển hình trong quá trình xây

dựng NTM; Tỉnh Vĩnh Phúc nằm phía Tây Bắc ĐBSH; Tỉnh Quảng Ninh ở

phía Đông vùng ĐBSH với địa bàn đa dạng về đồng bằng, miền núi, ven đô và

hải đảo; Tỉnh Hải Dương, tỉnh Nam Định và Thái Bình nằm phía nam vùng

ĐBSH, với địa bàn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, trong đó tỉnh Thái Bình

được Trung ương giao nhiệm vụ đảm bảo an ninh lương thực cho toàn vùng.

- Về thời gian khảo sát: Từ 2010 đến nay (khi có Quyết định của Thủ

tướng Chính phủ về triển khai thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây

dựng nông thôn mới).

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và những quan điểm của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước Việt Nam về gia đình và xây dựng NTM.

5

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch

sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với các phương pháp cụ thể để giải

quyết mục tiêu và nhiệm vụ đề ra như:

- Phương pháp lôgic - lịch sử; tổng kết thực tiễn chính trị - xã hội;

phương pháp thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp (thu thập tư liệu, tài liệu,

các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, báo cáo, thống kê của các cơ quan

chức năng có thẩm quyền,...) các vấn đề liên quan đến vai trò gia đình, xây

dựng NTM.

- Phương pháp điều tra khảo sát xã hội học bao gồm: Định lượng thông

qua 300 phiếu hỏi các chủ hộ đại diện cho gia đình của 6 tỉnh (Vĩnh Phúc,

Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Hà Nội, Hải Dương), mỗi tỉnh phát 50

phiếu điều tra; và định tính thông qua phỏng vấn sâu (một số cán bộ và người

dân) tại một số địa bàn nghiên cứu.

5. Đóng góp mới của Luận án

- Làm rõ lý luận về mối quan hệ giữa vai trò của gia đình với một số tiêu

chí xây dựng NTM gắn trực tiếp đến gia đình.

- Phân tích, luận giải, tổng kết, đánh giá thực trạng thực hiện vai trò của

gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM.

- Từ đó đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm tiếp tục phát huy

vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM giai đoạn tiếp theo.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Kết quả nghiên cứu của Luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý

luận và thực tiễn về vai trò của gia đình và vai trò của gia đình vùng ĐBSH

trong xây dựng NTM.

- Luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học để các cơ quan chức năng

có thể tham khảo khi hoạch định chính sách giải quyết những vấn đề cụ thể về

xây dựng gia đình và xây dựng NTM ở ĐBSH, tạo chính sách để phát huy vai

trò của gia đình trong xây dựng NTM.

6

- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên

cứu giảng dạy các môn lý luận chính trị, nhất là môn Chủ nghĩa xã hội khoa

học tại các trường trung cấp, cao đẳng, đại học; giảng dạy những chuyên đề

liên quan đến vấn đề gia đình và phát huy vai trò của gia đình, vấn đề nông

nghiệp, nông dân, nông thôn và xây dựng NTM

- Các giải pháp mà luận án đề xuất vận dụng vào thực tiễn góp phần phát

huy vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM trong giai đoạn tới.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu của tác

giả liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án

gồm 4 chương, 9 tiết.

7

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ GIA ĐÌNH, VAI TRÒ CỦA GIA

ĐÌNH, GIA ĐÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về gia đình, vai trò của gia đình

1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu về gia đình, vai trò của gia đình ở

trong nước

Gia đình được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, phân tích và tiếp cận ở

nhiều góc độ khoa học khác nhau: như góc độ kinh tế, văn hóa, xã hội học, lịch

sử, triết học,...; gia đình, xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa cũng là một

đề tài dành được sự quan tâm nghiên cứu của Chủ nghĩa xã hội khoa học. Các

công trình nghiên cứu đưa ra khái niệm gia đình, vai trò, chức năng của gia đình

và sự biến đổi của cơ cấu gia đình trong xã hội hiện đại.

Các công trình cùng hướng nghiên cứu về khái niệm gia đình, vai trò,

chức năng của gia đình như:

- Tác giả Thanh Lê, Xã hội học gia đình [56] đã nghiên cứu quá trình hình

thành và phát triển của gia đình và hoạt động của gia đình trong xã hội cụ thể,

như mối quan hệ giữa gia đình và xã hội, các mối quan hệ trong gia đình, chức

năng gia đình, quy mô gia đình,... Tác giả đưa ra khái niệm “gia đình là một

nhóm gồm những người gắn bó với nhau bằng quan hệ vợ chồng và cha mẹ

(huyết thống)” [56, tr.26].

- Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý với cuốn “Gia đình học” [48], cuốn sách

sắp xếp dưới dạng một giáo trình, đây là công trình nghiên cứu công phu, có ý

nghĩa lý luận và thực tiễn. Các tác giả đã làm rõ khái niệm gia đình, vị trí, vai trò

và chức năng của gia đình, những thay đổi của gia đình Việt Nam trước những

thách thức của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; vấn đề về giới, gia đình và phát

triển cũng như chỉ ra những sai lệch giá trị gia đình hiện nay. Từ đó đưa ra giải

pháp để nâng cao vai trò của gia đình trong công cuộc CNH, HĐH đất nước.

8

Cuốn sách được các tác giả phân tích, đánh giá nhiều khía cạnh của gia

đình, trong đó nêu khái niệm gia đình như sau:

Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù liên kết con người lại với nhau

nhằm thực hiện việc duy trì nòi giống, chăm sóc và giáo dục con cái.

Các mối quan hệ gia đình còn được gọi là mối quan hệ họ hàng. Đó là

những sự liên kết ít nhất cũng là của hai người dựa trên cơ sở huyết

thống, hôn nhân và việc nhận con nuôi. Những người này có thể sống

cùng hoặc khác mái nhà với nhau [48, tr.54].

Ngoài ra, tác giả còn phân tích gia đình với tư cách là một nhóm xã hội

đặc thù, gia đình là một thực thể pháp nhân,...Tác giả đã làm rõ vị trí, vai trò và

chức năng của gia đình. Đây là tài liệu lý luận mà luận án có thể tham khảo để

làm rõ vai trò của gia đình trong xây dựng NTM.

- Tác giả Mai Huy Bích tiếp cận gia đình dưới góc độ xã hội học, Xã hội

học gia đình khi bàn về định nghĩa gia đình, ông có nhận định, không có định

nghĩa phổ biến về gia đình do gia đình hết sức đa dạng theo thời gian và không

gian [23].

Tác giả tiếp cận và viết về gia đình theo một cách riêng của xã hội học,

phản ánh sự đa dạng các hình thái gia đình, hôn nhân và gia đình theo quan điểm

giới, biến đổi gia đình và các cách tiếp cận lý thuyết về gia đình.

Ngoài ra một số công trình nghiên cứu khác cũng làm rõ vai trò của gia

đình trong giáo dục phẩm chất của các thành viên, như: Tác giả Lê Thi với bài

“Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam” [96].

Luận án “Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện

nay”của Nghiêm Sỹ Liêm [60], v.v..

Bên cạnh đó, còn có các công trình nghiên cứu về biến đổi của gia đình

trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hiện nay, gia đình chịu tác động

của quá trình CNH, HĐH, đô thị hóa, nền kinh tế thị trường nên cũng có những

biến đổi trong bối cảnh mới- đây cũng là một khía cạnh được các tác giả nghiên

cứu. Tác giả Lê Thi, “Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới” [97].

9

Cuốn sách cung cấp cho người đọc những tài liệu tham khảo về tình hình gia

đình Việt Nam, mối quan hệ giữa các thành viên trong bối cảnh đổi mới của đất

nước. Đây là công trình nghiên cứu có giá trị và tiếp cận chủ yếu dưới góc độ về

giới và gia đình văn hóa. Tác giả Trịnh Duy Luân, Helle Rydstrom và Wil

Burghoorn với bài “Gia đình nông thôn Việt Nam trong chuyển đổi” [58], đã chỉ

ra ở Việt Nam hiện nay 70 - 80% dân số sống ở nông thôn trong các gia đình mở

rộng và gia đình hạt nhân. Trong công trình này, phân tích những biến đổi của

gia đình nông thôn Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH, biểu hiện sự di cư của

thanh niên nông thôn đi tìm việc làm ở thành thị, vai trò giáo dục của cha mẹ với

con cái, điều kiện kinh tế của hộ gia đình cũng ảnh hưởng đến chức năng giáo

dục của gia đình; tác động đến tuổi kết hôn, cách chọn “bạn đời”, tình dục trong

hôn nhân và quan hệ quyền lực giữa vợ và chồng trong gia đình nông thôn. Như

vậy, các nghiên cứu này cho thấy quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn

cũng tác động đến cấu trúc gia đình nông thôn ở Việt Nam hiện nay.

Cùng hướng tiếp cận biến đổi gia đình trong quá trình CNH, HĐH dưới

góc độ xã hội học, có các cuốn sách của các tác giả: Lê Ngọc Văn với công

trình“Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam” [129], Nguyễn Hữu Minh với

cuốn sách“Gia đình Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và

hội nhập từ cách tiếp cận so sánh” [69] và bài viết“Gia đình Việt Nam sau 30

năm đổi mới” [70]. Các công trình này nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò của

gia đình trong quá trình CNH, HĐH đất nước, sự biến đổi nhanh chóng cơ cấu,

chức năng của gia đình Việt Nam từ việc giảm quy mô gia đình, tăng tỷ lệ gia

đình hạt nhân, giảm tỷ số phụ thuộc trong gia đình, cho đến những thay đổi về

chức năng của gia đình. Cùng với đó là sự biến đổi về nghề nghiệp, chức năng

xã hội hóa của gia đình, cha mẹ ít quan tâm đến giáo dục con cái. Các tác giả đã

cung cấp những thông tin phong phú về biến đổi của giá trị, quy mô, kinh tế hộ

gia đình.

Ngoài ra, cũng có nhiều công trình nghiên cứu về quan điểm, giải pháp

xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay. Từ sự biến đổi của gia đình trong quá

10

trình CNH, HĐH cần đưa ra những quan điểm và giải pháp để xây dựng gia

đình Việt Nam, thực hiện Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam giai đoạn

2010-2020. Đề cập đến các giải pháp có các bài viết, công trình nghiên cứu của

các tác giả: Tác giả Nguyễn Thị Hà, "Lồng ghép giới trong xây dựng gia đình

văn hóa ở Việt Nam hiện nay" [38], tác giả bài viết khẳng định: Xây dựng gia

đình văn hóa, đặc biệt là xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn là một trong

những chỉ tiêu cơ bản, quan trọng của Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam

giai đoạn 2010 - 2020 và tầm nhìn 2030. Trong bối cảnh hiện nay của Việt

Nam, áp dụng phương pháp lồng ghép giới trong xây dựng gia đình văn hóa

làm thay đổi các định kiến giới, các khuôn mẫu giới đã định hình trong hầu hết

các quan hệ liên quan đến hôn nhân, gia đình. Với việc phân tích thành tựu và

hạn chế của việc áp dụng lồng ghép giới trong xây dựng gia đình văn hóa, bài

viết cho thấy lồng ghép giới là một quá trình diễn ra liên tục, xuyên suốt và tính

thống nhất từ quy trình xây dựng luật pháp và chính sách đến việc thực hiện,

xây dựng cơ chế và biện pháp cụ thể để đảm bảo việc thực hiện bình đẳng giới

một cách thực chất và bền vững.

Cùng hướng nghiên cứu, tác giả Bùi Thị Ngọc Lan có các bài viết về gia

đình và giải pháp xây dựng gia đình văn hóa trong thời kỳ mới như bài viết “Gia

đình Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ giới” [53] và bài “Mấy vấn đề đặt ra

trong xây dựng gia đình văn hóa thời kỳ đổi mới” [54].

Tác giả Đỗ Thị Thạch có bài viết “Về xây dựng gia đình văn hóa Việt

Nam dưới ánh sáng Đại hội XI của Đảng” [89], tác giả đã trình bày quan điểm

của Đảng về vai trò của gia đình Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc

tế hiện nay. Tác giả đã chỉ ra, Đảng ta cần tập trung vào những giải pháp xây

dựng gia đình văn hóa Việt Nam trong giai đoạn tới, trong đó nhấn mạnh đến hai

giải pháp là sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp

phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người

Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ; hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp

luật xây dựng gia đình văn hóa.

11

1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu về gia đình, vai trò của gia đình ở

nước ngoài

Gia đình cũng là một đề tài được các nhà nghiên cứu ở nước ngoài quan

tâm và có các công trình tiêu biểu sau:

- Robert Cliquet có công trình nghiên cứu với tựa đề “Những xu hướng

chính ảnh hưởng đến gia đình trong thiên niên kỷ mới ở Tây Âu và Bắc Mỹ”

[84]. Nghiên cứu nêu lên thực trạng biến đổi về cấu trúc và chức năng gia đình ở

các nước thuộc Tây Âu và Bắc Mỹ trong thế kỷ 20 và những xu hướng chính ảnh

hưởng đến gia đình trong giai đoạn hiện nay, như: quy mô hộ gia đình trở nên

nhỏ hơn nhưng đa dạng và phức tạp về cấu trúc và chức năng; Sự không nối kết

về tình dục, hôn nhân và sinh sản sẽ tiến xa hơn, tạo nên sự tách biệt hành vi

quan hệ và hành vi sinh sản; Nhiều người sẽ trải qua cuộc sống gia đình phức

tạp, ít chung sống bền lâu. Nghiên cứu được Liên hiệp quốc xem là một trong

những tư liệu quan trọng khi nghiên cứu về sự phát triển của gia đình trong bối

cảnh hiện nay.

- Bert N. Adams, Jan Trost, "Cẩm nang về Nghiên cứu gia đình trên thế

giới (Handbook of World Families)" [16], bao gồm 25 chương, là tập hợp các bài

viết của 34 tác giả về cuộc sống gia đình ở 25 quốc gia thuộc 6 khu vực địa lý

trên thế giới. Nghiên cứu phân tích và thảo luận các chủ đề về gia đình như sự

hình thành gia đình, mức sinh và quá trình xã hội hoá, vấn đề giới, hôn nhân,

mâu thuẫn và bạo lực trong gia đình, ly hôn và tái hôn, dòng họ, quá trình già

hoá dân số và cái chết, gia đình và các thiết chế khác,... Ngoài ra, do những đặc

thù riêng của từng nền văn hoá, các bài viết dành một phần thảo luận những chủ

đề mang tính đặc thù của vùng và quốc gia [16].

- Martine Segalen (dịch giả Phan Ngọc Hà), "Xã hội học gia đình" [64],

ngoài mở đầu, cuốn sách bao gồm 4 phần và 12 chương, tác giả đã phân tích

những biến đổi của quan hệ thân tộc, biến đổi của gia đình và các chức năng

của gia đình,... Cuốn sách cho thấy những cách nhìn phong phú về gia đình ở

Pháp và ở Châu Âu với cách tiếp cận của các nhà xã hội học; các tác giả chỉ ra

12

những biến đổi sâu sắc của xã hội liên quan đến kinh tế, văn hóa, không gian

đô thị... có tác động đến các thành viên trong gia đình có quan hệ huyết thống

hoặc hôn nhân.

Như vậy, gia đình là một đề tài được các nhà nghiên cứu tiếp cận dưới

nhiều góc độ từ khái niệm gia đình, vai trò, chức năng của gia đình, những thay

đổi của gia đình trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước, phát triển kinh tế hộ gia

đình vùng ĐBSH. Đây là những tài liệu tham khảo có giá trị lớn đối với luận án.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về gia đình vùng đồng bằng sông Hồng

Hiện nay gia đình vùng đồng bằng sông Hồng cũng đã được tiếp cận,

phân tích dưới các góc độ như: đặc điểm gia đình vùng ĐBSH, mối quan hệ giữa

gia đình vùng ĐBSH và xã hội, bình đẳng giới,... Điều này được thể hiện rõ

trong các công trình như: Mai Huy Bích, “Đặc điểm gia đình đồng bằng sông

Hồng” [22], tác giả nghiên cứu đặc điểm, cấu trúc, chức năng của các gia đình

vùng ĐBSH từ góc độ dân tộc học và xã hội học, từ đó làm rõ mối quan hệ giữa

tính cộng đồng và chức năng tái sinh sản, chức năng xã hội hóa, mục đích của

hôn nhân trong gia đình Việt Nam truyền thống và hiện đại.

- Luận án của Sim Sang Joon, “Gia đình người Việt ở Châu thổ sông

Hồng và mối liên hệ của nó với cộng đồng xã hội” [86] đã trình bày gia đình

người Việt trong quan hệ nội tại và ngoại hàm cộng đồng xã hội, khái quát bản

sắc gia đình người Việt nói riêng và một phần về bản sắc văn hóa dân tộc Việt

nói chung. Một số dự báo và hướng giải quyết các vấn đề sẽ phát sinh trong gia

đình người Việt dưới tác động của nền kinh tế thị trường.

- Luận án của Chu Thị Thoa, “Bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn

đồng bằng sông Hồng hiện nay” [92] đã phân tích thực trạng bình đẳng giới

trong gia đình ở nông thôn ĐBSH trong công cuộc đổi mới. Những phương

hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm giảm dần tiến tới xóa bỏ sự bất bình

đẳng giới trong gia đình nông thôn ĐBSH.

- Tác giả Nguyễn Linh Khiếu,“Gia đình và phụ nữ trong biến đổi văn

hóa- xã hội nông thôn” [49], cuốn sách đã phân tích những biến đổi văn hóa - xã

13

hội nông thôn tác động đến gia đình và phụ nữ và thực hiện khảo sát gia đình và

phụ nữ trong biến đổi văn hóa - xã hội nông thôn tại 10 điểm nghiên cứu cụ thể

của 3 miền Bắc - Trung - Nam, cả đồng bằng và miền núi, cả người kinh và

người dân tộc... Các bài viết đã khắc họa một cách rõ nét những biến đổi văn

hóa, xã hội nông thôn ảnh hưởng đến đời sống của gia đình và người phụ nữ và

cái nhìn phức hợp, đa dạng và sinh động về đời sống văn hóa, xã hội và gia đình

nông thông trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.

- Nguyễn Đức Truyền,“Kinh tế hộ gia đình và các quan hệ xã hội ở nông

thôn đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đổi mới” [101]. Cuốn sách bao gồm 6

phần: Phần I: Nhập đề. Phần II: Cấu trúc và chức năng của kinh tế hộ gia đình.

Phần III: Kinh tế hộ và sự tái cấu trúc các quan hệ gia đình. Phần IV: Kinh tế hộ

và sự tái cấu trúc các quan hệ họ hàng. Phần V: Kinh tế hộ và sự tái cấu trúc các

quan hệ làng xã. Phần VI: Thư mục sách và tài liệu tham khảo. Tác giả đã nhấn

mạnh trong quá trình đổi mới ở nông thôn ĐBSH, nền kinh tế đã bắt đầu chuyển

đổi theo cơ chế thị trường, điều này đã kéo theo sự thay đổi các giá trị chuẩn

mực và các quy tắc ứng xử trong gia đình, đặc biệt là trong mối quan hệ giữa các

thành viên trong gia đình.

- Luận án của tác giả Khúc Thị Thanh Vân, “Vai trò của vốn xã hội

trong phát triển kinh tế hộ gia đình ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay

- Nghiên cứu trường hợp tại Nam Định và Bắc Ninh” [130] lại tiếp cận một

hướng cụ thể để phát triển kinh tế hộ gia đình đó là vai trò của vốn xã hội. Tác

giả đã phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về vốn xã hội và vai trò của

vốn xã hội trong phát triển kinh tế hộ gia đình. Nghiên cứu vốn xã hội ở ĐBSH

hiện nay và đầu tư, duy trì, khai thác vốn xã hội trong phát triển kinh tế hộ gia

đình vùng ĐBSH.

- Tác giả Đỗ Văn Quân có cách tiếp cận mới khi nghiên cứu về phát triển

kinh tế hộ gia đình ở đồng bằng sông Hồng với bài viết “Phát triển kinh tế hộ

gia đình trong tiến trình xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng sông Hồng hiện

nay” [81]. Tác giả đã đánh giá tương quan giữa học vấn, nghề nghiệp, độ tuổi

14

với cơ cấu ngành nghề của chủ hộ, của gia đình, đất đai - tư liệu sản xuất của

hộ gia đình; thu nhập của hộ gia đình; tiếp cận nguồn vốn tín dụng phục vụ sản

xuất, kinh doanh và đời sống. Từ những số liệu khảo sát tác giả đã đưa ra kết

luận có giá trị tham khảo với luận án như: Để kinh tế hộ gia đình phát triển

trong điều kiện mới một cách bền vững, rất cần có sự tham gia phối hợp đồng

bộ giữa các yếu tố: hiệp hội, tổ chức, hợp tác xã, áp dụng khoa học - công

nghệ, thị trường, vốn, đất đai, ngành nghề truyền thống, sức lao động, giao

thông, quy hoạch và thực hiện các khu tiểu thủ công nghiệp, trang trại, dịch

vụ... tập trung ở các địa phương, nhằm hướng đến sự phát triển kinh tế hộ gia

Các công trình này đều khẳng định vai trò quan trọng của gia đình vùng

đồng bằng sông Hồng trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc

phòng… ở vùng.

đình một cách đồng bộ.

1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NÔNG THÔN, XÂY DỰNG

NÔNG THÔN MỚI VÀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÙNG ĐỒNG BẰNG

SÔNG HỒNG

1.2.1. Các công trình nghiên cứu về nông thôn và xây dựng nông

thôn mới

1.2.1.1. Các công trình nghiên cứu về nông thôn và xây dựng nông

thôn mới ở trong nước

Hiện nay có nhiều tác giả nghiên cứu về nông thôn và xây dựng nông thôn

mới, một số công trình nổi bật như:

- Trần Ngọc Ngoạn, “Phát triển nông thôn bền vững: Những vấn đề lý

luận và kinh nghiệm thế giới” [74]. Tác giả đã đưa ra và phân tích rõ các nội

dung cơ bản của phát triển bền vững nông thôn đó là phát triển bền vững kinh tế

nông thôn, phát triển bền vững xã hội nông thôn; an toàn môi trường và bảo vệ

tài nguyên thiên nhiên và phát triển thể chế bền vững. Đây là công trình ra đời

khi chương trình xây dựng NTM chưa được triển khai nhưng các nội dung về

phát triển bền vững nông thôn mà tác giả đưa ra khá gần với các tiêu chí xây

dựng NTM, vì vậy công trình có giá trị tham khảo tốt khi triển khai luận án.

15

- Tác giả Đỗ Đức Quân, "Một số giải pháp nhằm phát triển bền vững

nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ trong quá trình xây dựng, phát triển các khu

công nghiệp (Qua khảo sát các tỉnh Vĩnh Phúc, Hải Dương, Ninh Bình)" [80].

Điểm nổi bật của công trình là đưa ra các quan điểm có tính khả thi nhằm phát

triển bền vững nông thôn đồng bằng Bắc Bộ như quan điểm đặt việc xây dựng

và phát triển các khu công nghiệp ở vùng đồng bằng Bắc Bộ trong chiến lược

chung, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng nhằm tạo điều kiện

kinh tế để giải quyết tốt các vấn đề xã hội; việc thu hồi đất nông nghiệp để xây

dựng và phát triển các khu công nghiệp phải thận trọng và khoa học; tăng cường

liên minh công - nông - trí thức và giữ vững ổn định chính trị - xã hội; phải thực

hiện gắn với quy hoạch xây dựng và phát triển các khu công nghiệp với quy

hoạch về phát triển nguồn nhân lực tại chỗ và quy hoạch phát triển NTM hiện

đại [80, tr.114-118].

- Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương, Viện Chính sách và chiến

lược phát triển nông nghiệp nông thôn, Viện Khoa học Lao động và xã hội,

Nhóm nghiên cứu Kinh tế Phát triển, Đặc điểm kinh tế nông thôn Việt Nam, kết

quả điều tra hộ gia đình nông thôn năm 2008 tại 12 tỉnh [135]. Cuốn sách là kết

quả số liệu thống kê kinh tế nông thôn Việt Nam qua điều tra bằng phương pháp

chọn mẫu (VARHS) thực hiện trên địa bàn 12 tỉnh (Hà Tây, Lào Cai, Phú Thọ,

Điện Biên, Lai Châu, Nghệ An, Quảng Nam,...). Đây là công trình có giá trị thực

tiễn cao để phản ánh thực trạng kinh tế nông thôn ở Việt Nam.

- Nguyễn Kim Tôn, "Nông dân đồng bằng sông Cửu Long trong phát

triển nông nghiệp bền vững hiện nay" [99], luận án xác định nội dung của phát

triển nông thôn bền vững là bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội, bền vững

về môi trường.

Bên cạnh đó, nhiều quốc gia trên thế giới đã xây dựng NTM, đây là những

kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam, vì vậy đã có nhiều công trình, bài viết

nghiên cứu về xây dựng NTM của các nước trên thế giới, tiêu biểu một số công

trình sau:

16

- Chu Tiến Quang, Lê Xuân Đình, "Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong

phát triển nông thôn mới bền vững" [79]. Bài viết đã chỉ ra nhu cầu bảo tồn các

nguồn lực nông nghiệp, nguồn gốc của ô nhiễm môi trường do phát triển nông

nghiệp và chỉ ra những kinh nghiệm phát triển NTM bền vững như thiết lập mô

hình quản lý nông nghiệp bền vững Hàn Quốc, giảm thiểu ô nhiễm môi trường,

duy trì và cải thiện các nguồn lực, thúc đẩy sự tiến bộ của các dự án khuyến

khích nông nghiệp bền vững,...

- Trần Quang Minh, "Nông nghiệp Hàn Quốc trên đường phát triển" [68].

Trong cuốn sách tác giả đã giới thiệu những nhân tố tác động đến sự phát triển

của nông nghiệp Hàn Quốc, các chính sách và biện pháp chủ yếu giải quyết

những vấn đề cơ bản trên con đường phát triển hiện đại của nông nghiệp Hàn

Quốc, từ đó tác giả cũng đưa ra nhận xét đánh giá về hiệu quả của các chính sách

cải cách nông nghiệp của Hàn Quốc, những vấn đề đặt ra cần được tiếp tục giải

quyết và các chủ trương chính sách của Chính phủ Hàn Quốc, một số giải pháp

cho nông nghiệp Việt Nam từ kinh nghiệm của Hàn Quốc.

- Hoàng Bá Thịnh, "Xây dựng nông thôn mới ở Hàn Quốc và Việt Nam"

[94]. Bài viết chỉ ra ở Hàn Quốc bắt đầu từ những năm 1970 đã tiến hành phong

trào Saemaul Undong (Làng mới). Qua đó, Hàn Quốc đã đạt được những thành

tựu vô cùng ấn tượng, có sức lan tỏa và ảnh hưởng quốc tế. Bài viết phân tích, so

sánh những điểm tương đồng và khác biệt giữa phong trào Làng mới của Hàn

Quốc và chương trình xây dựng NTM của Việt Nam, từ đó rút ra bài học kinh

nghiệm có thể vận dụng vào thực hiện Chương trình NTM trong những năm tiếp

theo ở Việt Nam.

- Khoa Quốc tế học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại

học quốc gia Hà Nội, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế “Hợp tác quốc tế vì

phát triển nông thôn ở Việt Nam: sự kết nối chính sách và thực tế” [47]. Trong

kỷ yếu có đăng các tham luận về NTM trên thế giới như: Dr Edward Lahiff,

“Rural development: International experience and recent trends (Phát triển

nông thôn: Kinh nghiệm quốc tế và xu hướng hiện nay)”; H.E. Meirav Eilon

17

Shahar, “Rural development in Israel (Phát triển nông thôn ở Israel)”,... đây là

các bài viết nghiên cứu về nông thôn ở các nước trên thế giới, chỉ ra những kinh

nghiệm quý báu cho chương trình xây dựng NTM ở Việt Nam hiện nay.

- Viện Chính sách và phát triển nông nghiệp, nông thôn, Trung tâm phát

triển nông thôn, Dự án MISPA, "Lý luận và thực tiễn xây dựng nông thôn mới xã

hội chủ nghĩa" [134]. Đây là một cuốn sách tổng kết lý luận và thực tiễn xây

dựng NTM ở Trung Quốc được dịch giả Cù Ngọc Hưởng dịch sang tiếng Việt.

Cuốn sách đã chỉ ra những lý luận cơ bản của xây dựng NTM xã hội chủ nghĩa -

đó là quá trình giải quyết vấn đề “tam nông” trong một bối cảnh xã hội, kinh tế,

chính trị, văn hóa đặc thù, là xây dựng các hình thái làng xã trong những thời

điểm lịch sử khác nhau tại các khu vực khác nhau, mang đặc tính thời đại và ý

nghĩa thực tế riêng; Do sự nghiệp xây dựng nông thôn mới mang tính phức tạp

và lâu dài, cho nên cần thiết phải xây dựng những cơ chế chính sách khoa học

khả thi và hiệu quả, đảm bảo công cuộc xây dựng nông thôn mới được tiến hành

có trật tự... Từ đó chỉ ra những vấn đề còn tranh cãi và những vấn đề cần nghiên

cứu thêm như hệ thống lý luận xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa; mục

tiêu, tiêu chuẩn đánh giá và hệ thống chỉ tiêu đánh giá quá trình xây dựng NTM

xã hội chủ nghĩa; phạm vi, trọng điểm và phương án xây dựng nông thôn mới; lý

thuyết, nguyên tắc, phương pháp và sự đảm bảo thực hiện các kế hoạch xây

dựng nông thôn mới,...

- Phạm Thị Thanh Bình, “Phát triển nông nghiệp bền vững ở Thái Lan”

[25], bài viết chỉ rõ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng bền vững và

hiện đại là xu hướng tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều nước

trên thế giới, trong đó có Thái Lan. Chỉ ra quan điểm, định hướng chiến lược

phát triển nông nghiệp và những thành tựu, hạn chế trong phát triển nông nghiệp

bền vững ở Thái Lan, từ đó chỉ ra những kinh nghiệm với Việt Nam.

Như vậy, nghiên cứu xây dựng NTM ở các nước trên thế giới nhằm rút ra

bài học kinh nghiệm để hoạch định chính sách xây dựng NTM ở Việt Nam.

18

Xây dựng NTM được xác định là một nhiệm vụ chiến lược của nước ta

trong giai đoạn hiện nay. Chính vì thế, nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu về vấn

đề xây dựng NTM và đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về nông

nghiệp, nông thôn và xây dựng NTM, nhưng liên quan trực tiếp và có ý nghĩa

đối với luận án có một số công trình sau:

- Tác giả Trương Giang Long, Nguyễn Thành Long, “Liên kết “4 nhà” -

giải pháp cơ bản góp phần xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng sông Cửu

Long” [57]. Cuốn sách là tổng hợp các bài viết chỉ ra thực trạng và những vấn đề

đặt ra trong quá trình thực hiện liên kết “4 nhà” (Nhà nước, nhà khoa học, nhà

doanh nghiệp, nhà nông) ở đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian qua và chỉ

ra vai trò định hướng của nhà nước và các cấp chính quyền, vai trò của nhà khoa

học, vai trò của nhà doanh nghiệp và vai trò của nông dân trong liên kết “4 nhà”

ở đồng bằng sông Cửu Long. Trong công trình này, các tác giả đã phân tích và

làm rõ vai trò của 4 chủ thể quan trọng trong xây dựng NTM ở vùng đồng bằng

sông Cửu Long.

- Tác giả Vũ Văn Phúc đã tập hợp các bài viết của các nhà khoa học, lãnh

đạo các cơ quan trung ương, các địa phương, các ngành, các cấp về kinh nghiệm

xây dựng NTM trên thế giới và một số tỉnh ở Việt Nam hiện nay trong cuốn

“Xây dựng nông thôn mới - những vấn đề lý luận và thực tiễn” [76].

Trong đó, có những bài viết khá sâu về xây dựng NTM như “Xây dựng

nông thôn mới - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Vũ Văn Phúc [76, tr.11-

32], tác giả đưa ra những đánh giá kết quả bước đầu trong triển khai thực hiện

Chương trình xây dựng NTM và kết luận thực hiện Chương trình này sẽ góp

phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn, gắn phát

triển văn hóa nông thôn với phát triển nông nghiệp và xây dựng NTM, gắn vấn

đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước,

củng cố và tạo thêm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng.

Về thực tiễn xây dựng NTM ở Việt Nam có rất nhiều bài viết như: “Công

tác triển khai, kết quả bước đầu và những kiến nghị, đề xuất trong xây dựng

19

nông thôn mới tỉnh Lào Cai” [76, tr.341-352] của Nguyễn Hữu Vạn; “Xây dựng

nông thôn mới ở Nghệ An - Một số vấn đề từ thực tiễn của địa phương” của Ban

Chỉ đạo xây dựng NTM tỉnh Nghệ An [76, tr.352- 358]; “Kết quả bước đầu triển

khai Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn

tỉnh Phú thọ” của Ban Chỉ đạo xây dựng NTM tỉnh Phú Thọ [76, tr.358 -367];

“Những thuận lợi và khó khăn trong triển khai chương trình xây dựng nông thôn

mới ở Thái Nguyên” của Ban Chỉ đạo xây dựng NTM tỉnh Thái Nguyên [76,

tr.380- 388]; “Thực trạng nông nghiệp, nông thôn Nam Định, các giải pháp và

một số kinh nghiệm bước đầu trong thực hiện chương trình nông thôn mới” của

Nguyễn Viết Hưng [76, tr.412-427],... Các địa phương đều rút ra kinh nghiệm:

Xây dựng NTM dựa vào nội lực của cộng đồng nhân dân là chính, phải làm

chuyển biến cơ bản nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về xây dựng

NTM, đây chính là sự nghiệp của dân, do người dân làm chủ thể xây dựng,...

Cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt để nhân dân hiểu và

đóng góp sức người, sức của trong quá trình thực hiện.... phải quản lý và sử dụng

các nguồn vốn chặt chẽ, công khai, dân chủ, không để xảy ra tham nhũng, lãng

phí [76, tr.407].

Bước đầu xây dựng NTM ở các tỉnh, thành đã cho thấy kinh nghiệm cần

huy động sức mạnh nội lực của quần chúng nhân dân, đồng lòng, đồng sức cùng

Đảng và Nhà nước thực hiện thắng lợi mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM. Đây

cũng là căn cứ để luận án lựa chọn làm rõ vai trò của một “thiết chế xã hội đặc

thù” trong xây dựng NTM - đó là gia đình.

- Phạm Huỳnh Minh Hùng, “Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong

xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay” [44]. Tác giả đã

trình bày cơ sở lý luận, những nhân tố cơ bản ảnh hưởng và thực trạng phát huy

vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng NTM vùng đồng bằng sông Cửu

Long. Qua đó, tác giả đã chỉ ra một số quan điểm, giải pháp có tính khả thi để

nông dân phát huy hơn nữa vai trò chủ thể của mình trong xây dựng NTM vùng

đồng bằng sông Cửu Long.

20

Tất cả các công trình nêu trên đều khẳng định tầm quan trọng của vấn

đề xây dựng nông thôn mới, và từ các góc độ nghiên cứu, các tác giả đều đề

xuất những giải pháp khá đồng bộ và khả thi nhằm thực hiện tốt mục tiêu xây

dựng nông thôn mới ở nước ta.

1.2.1.2. Các công trình nghiên cứu về nông thôn và xây dựng nông

thôn mới ở nước ngoài

Trên thế giới đã có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề nông thôn và xây

dựng NTM, đáng chú ý như các tài liệu tham khảo sau:

- Robert Chambers với cuốn “Phát triển nông thôn - hãy bắt đầu từ

những người cùng khổ” [83]. Tác giả phân tích những thay đổi nhận thức của

người nghèo ở nông thôn, đánh giá nông thôn với sự tham gia của người dân,

trong đó cán bộ của các tổ chức bên ngoài chỉ hoạt động như những người trợ

giúp, trong khi người dân và cộng đồng địa phương mới là những người thực

hiện và quản lý quá trình phát triển của chính họ, thông qua một loạt các công cụ

được liên tục cải biến và hoàn thiện.

- Frans Elltis “Chính sách nông nghiệp trong các nước phát triển” [37].

Thông qua việc nghiên cứu lý thuyết, khảo cứu thực tiễn ở nhiều quốc gia châu

Á, châu Phi, Châu Mỹ La Tinh tác giả đã nêu lên những vấn đề cơ bản của chính

sách nông nghiệp ở các nước đang phát triển. Cuốn sách đã đề cập đến những

vấn đề về chính sách phát triển vùng, chính sách hỗ trợ đầu vào, đầu ra cho sản

phẩm nông nghiệp, chính sách thương mại nông sản, những vấn đề phát sinh

trong quá trình đô thị hóa ở nông thôn. Điều đáng chú ý là công trình đã phân

tích nền nông nghiệp của các nước đang phát triển trong quá trình chuyển sang

sản xuất hàng hóa gắn liền với phát triển thương mại nông sản trên thế giới, đồng

thời tác giả cũng nêu lên những thành công, thất bại trong việc phát triển nông

nghiệp, nông thôn và giải quyết vấn đề nông dân.

- Servaas Storm, “Những việc không bao giờ kết thúc: Nông nghiệp Ấn Độ

theo cải cách cấu trúc” [85]. Tác giả đã phân tích những tác động của chính sách

tự do hóa thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp ở Ấn Độ giai đoạn 1985 -

1990, đặc biệt là tác động của đầu tư tư nhân vào nông nghiệp đến việc làm của

21

nông dân, đồng thời ủng hộ những chính sách của nhà nước trong việc chuyển

dịch cơ cấu nông nghiệp tạo điều kiện cho tư nhân đầu tư vào nông nghiệp.

- Tác giả DuYing đã điểm lại những thành tựu của nông nghiệp Trung

Quốc sau 20 năm tiến hành chuyển dịch cơ cấu và cải cách nông nghiệp từ năm

1978 - 1999 qua bài viết “Cải cách hệ thống và cấu trúc nông nghiệp của

Trung Quốc tiến tới gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO” [29]. Tác giả

phân tích, đánh giá những cơ hội và thách thức đối với nông nghiệp Trung

Quốc một khi nước này gia nhập WTO, từ đó đặt ra Nhà nước cần đưa ra các

chính sách nông nghiệp hợp lý như tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu sang

những loại nông sản có lợi thế, phát triển công nghiệp chế biến, giải quyết lao

động ở nông thôn.

- Benedict J. tria Kerrkvliet, Jamesscott với cuốn “Một số vấn đề nông

nghiệp, nông dân, nông thôn ở các nước và Việt Nam” do Nguyễn Ngọc và Đỗ

Đức Định sưu tầm và giới thiệu [15], tác giả cũng đã nghiên cứu về vai trò và

đặc điểm của nông dân, thiết chế nông thôn ở một số nước trên thế giới và những

bước đầu trong nghiên cứu làng truyền thống ở Việt Nam. Những điểm đáng chú

ý của công trình này là đã nghiên cứu tư tưởng của nông dân và nông dân với

khoa học.

- Trung tâm phát triển nông thôn, Dự án MISPA với vấn đề “Lý luận và

thực tiễn xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa” [102] do dịch giả Cù Ngọc

Hưởng đã nghiên cứu vấn đề xây dựng NTM ở Trung Quốc trên nhiều khía

cạnh, trong đó có đề cập đến thể chế quản lý, cơ chế giám sát và cơ chế đảm bảo

Những công trình này có giá trị là những gợi ý tham chiếu cho Việt

Nam trong triển khai thực hiện xây dựng nông thôn mới, tài liệu của các tác

của sự nghiệp xây dựng NTM.

giả nước ngoài có những giá trị gợi mở cho luận án những vấn đề lý luận và thực

tiễn khi thực hiện luận án.

1.2.2. Các công trình nghiên cứu xây dựng nông thôn mới vùng đồng

bằng sông Hồng

Nông thôn vùng ĐBSH và xây dựng NTM vùng ĐBSH cũng là một đề tài

được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Đáng chú ý có công trình nghiên cứu sau đây:

22

- Bùi Thị Ngọc Lan với cuốn sách “Việc làm của nông dân đồng bằng

sông Hồng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [51]. Tác giả đã làm

rõ quan niệm về việc làm và phân tích các nhân tố tác động đến giải quyết việc

làm cho nông dân vùng ĐBSH; qua nghiên cứu đánh giá thực trạng và triển vọng

giải quyết việc làm cho nông dân, từ đó đề xuất phương hướng cơ bản và giải

pháp chủ yếu để giải quyết việc làm cho nông dân vùng ĐBSH. Việc làm và giải

quyết việc làm cho nông dân cũng chính là một trong những điều kiện để phát

huy vai trò của các thành viên trong gia đình xây dựng NTM bền vững hiện nay.

- Luận án của Vũ Quang Ánh “Thực hiện đường lối của Đảng về phát

triển kinh tế nông nghiệp ở một số tỉnh, thành đồng bằng sông Hồng từ năm

1997 đến năm 2010” [2]. Tác giả làm rõ quá trình Đảng bộ và nhân dân ở một số

địa phương thuộc ĐBSH (các tỉnh, thành: Bắc Ninh, Hải Dương, Thái Bình, Hải

Phòng) thực hiện đường lối của Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm

1997 đến năm 2010, từ đó đánh giá những kết quả đạt được cũng như những hạn

chế, thiếu sót cần khắc phục trong phát triển kinh tế nông nghiệp ở các địa

phương trên.

- Nguyễn Thị Tố Uyên với luận án “Các tỉnh ủy vùng đồng bằng sông

Hồng lãnh đạo đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

giai đoạn hiện nay” [127]. Tác giả luận giải khái niệm các tỉnh ủy vùng ĐBSH

lãnh đạo đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và các khái niệm có liên

quan. Phân tích, đánh giá thực trạng CNH, HĐH nông nghiệp, nông nghiệp vùng

ĐBSH và thực trạng các tỉnh ủy vùng ĐBSH lãnh đạo đẩy nhanh CNH, HĐH

nông nghiệp, nông thôn; chỉ ra ưu, khuyết điểm, khó khăn, thuận lợi, nguyên

nhân, rút ra bài học kinh nghiệm. Xác định phương hướng và đề xuất những giải

pháp chủ yếu, có tính khả thi nhằm tăng cường sự lãnh đạo đẩy nhanh CNH, HĐH

nông nghiệp, nông thôn của các tỉnh ủy vùng ĐBSH đến năm 2020.

- Tô Văn Sông, “Nông dân vùng đồng bằng sông Hồng trong quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn hiện nay” [87]. Luận án

nghiên cứu cơ sở lý luận chung về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và mối

quan hệ biện chứng giữa nông dân với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông

23

thôn. Làm rõ vai trò của nông dân vùng ĐBSH và những vấn đề đặt ra đối với

việc phát huy vai trò của họ trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.

Đề xuất một số phương hướng cơ bản và giải pháp nhằm phát huy hiệu quả vai

trò của nông dân vùng ĐBSH hiện nay.

- Phạm Mạnh Hà “Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn tỉnh Ninh

Bình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [40], tác giả đã trình bày cơ

sở lý luận và thực tiễn của giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá

trình CNH, HĐH ở nước ta. Phân tích những thực trạng, phương hướng chủ yếu

và giải pháp cơ bản giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình

Các công trình trên do cách tiếp cận khác nhau nên chưa phản ánh được

tất cả các nội dung nghiên cứu có liên quan, nhưng đã khái quát được những

kết quả cơ bản nhất trong nghiên cứu về gia đình, vai trò của gia đình, gia

đình vùng ĐBSH, xây dựng NTM và xây dựng NTM vùng ĐBSH, vì vậy các

công trình này có giá trị tham khảo khi tác giả triển khai thực hiện những nội

dung của luận án.

CNH, HĐH ở nước ta trong thời gian qua và đến năm 2020.

1.3. NHỮNG GIÁ TRỊ THAM KHẢO TỪ CÁC CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN

QUAN VÀ NHỮNG NỘI DUNG LUẬN ÁN CẦN TẬP TRUNG NGHIÊN CỨU

1.3.1. Những giá trị cần tham khảo từ các công trình có liên quan đến

đề tài luận án

Qua nghiên cứu và phân tích các công trình nghiên cứu về gia đình, nông

thôn và xây dựng NTM có liên quan, được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác

nhau, tác giả luận án nhận thấy có nhiều giá trị có thể tham khảo từ các công

trình này trong quá trình triển khai các nội dung của luận án.Giá trị tham khảo

tập trung ở những nội dung sau:

* Những giá trị tham khảo từ các công trình nghiên cứu về gia đình và gia

đình vùng ĐBSH.

Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về gia đình đã đưa ra khái niệm gia

đình, vị trí, vai trò của gia đình, đặc biệt là nhấn mạnh đến các chức năng của gia

24

đình và sự biến đổi các chức năng này trong giai đoạn hiện nay. Đây là cơ sở để

luận án đưa ra khái niệm gia đình và vai trò của gia đình trong xây dựng NTM.

Thứ hai, một số công trình đã đề cập đến quan niệm của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về hôn nhân, gia đình và chính sách của Đảng

Cộng sản Việt Nam về xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam giai đoạn hiện nay.

Các công trình này có giá trị tham khảo về mặt lý luận để luận án đưa ra những

quan điểm phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng NTM.

Thứ ba, các tác giả đã phân tích, đánh giá biến đổi các chức năng của gia

đình trong quá trình CNH, HĐH đất nước, từ đó đưa ra các giải pháp để xây

dựng gia đình văn hóa Việt Nam hiện nay.

Thứ tư, một số công trình nghiên cứu về gia đình trong xây dựng NTM, các

tác giả chủ yếu phân tích làm rõ phát triển kinh tế hộ gia đình trong xây dựng NTM.

Thứ năm, ngoài ra các công trình nghiên cứu nước ngoài về gia đình, xã

hội học gia đình cũng có giá trị tham khảo về lý luận và thực tiễn cho luận án

thêm căn cứ nghiên cứu về gia đình vùng ĐBSH hiện nay.

* Những giá trị tham khảo từ các công trình nghiên cứu về xây dựng NTM

và xây dựng NTM vùng ĐBSH

Thứ nhất, các nhà khoa học đã nghiên cứu về nông thôn, xây dựng NTM,

các tác giả đã đưa ra khái niệm nông thôn, phát triển nông thôn bền vững, quan

điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tầm quan trọng của

xây dựng NTM ở Việt Nam hiện nay. Đây là cơ sở lý luận quan trọng cho luận

án nghiên cứu về xây dựng NTM hiện nay.

Thứ hai, các công trình nghiên cứu của nhà khoa học và nhà quản lý đã

làm rõ sự cần thiết phải thực hiện NTM và đánh giá những thành tựu, hạn chế

trong xây dựng NTM nói chung và xây dựng NTM vùng ĐBSH nói riêng. Gần

đây nhất là kết quả xây dựng NTM 2014, kế hoạch 2015 và định hướng Chương

trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2016-2020. Trên tinh thần

phân tích, đánh giá vai trò của hệ thống chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội

25

như hội nông dân, hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, đoàn thanh niên… với chương

trình xây dựng NTM, từ đó rút ra những giải pháp nhằm xây dựng NTM trong

giai đoạn tới từ năm 2015- 2020.

Thứ ba, bên cạnh đó cũng có một số công trình nước ngoài nghiên cứu về

NTM, xây dựng NTM ở các nước trên thế giới và một số nhà nghiên cứu nước

ngoài đã nghiên cứu xây dựng NTM ở Việt Nam. Đây là tài liệu có giá trị tham

khảo hữu ích để tác giả đánh giá thực trạng vai trò của gia đình vùng ĐBSH

trong xây dựng NTM và đưa ra quan điểm, giải pháp của luận án.

1.3.2. Những nội dung luận án cần tập trung nghiên cứu

Trên cơ sở tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, với những

kết quả nghiên cứu đã đạt được và những góc độ chưa được tiếp cận trong

nghiên cứu về gia đình và xây dựng NTM nói chung và vùng ĐBSH nói riêng.

Luận án cần tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:

- Về mặt lý luận, Luận án sẽ hệ thống hóa lý luận: Khái quát cơ sở lý luận

về nông thôn, xây dựng NTM; khái niệm gia đình, vai trò của gia đình. Trên cơ

sở đó luận án làm rõ mối quan hệ giữa gia đình vùng ĐBSH với xây dựng NTM,

vị trí, vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM hiện nay.

- Về mặt thực tiễn: Luận án tập trung nghiên cứu, phân tích đánh giá thực

trạng vai trò của gia đình vùng ĐSBH với chương trình xây dựng NTM dựa trên

nâng cao chất lượng các nhóm tiêu chí về xây dựng NTM. Chỉ ra những thành

tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai trò

của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM.

Từ thực trạng đó, luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm

tiếp tục thực hiện vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM nói

riêng và trên cả nước nói chung đến năm 2025 tầm nhìn 2030.

26

Tiểu kết chương 1

Gia đình, vai trò của gia đình và xây dựng NTM thu hút được sự quan tâm

của đông đảo các nhà khoa học nghiên cứu. Các công trình được tiếp cận với

nhiều góc độ khác nhau về vấn đề gia đình và xây dựng NTM. Kết quả nghiên cứu

đã cung cấp nguồn tri thức có giá trị về mặt lý luận khi đưa ra quan niệm về gia

đình, vai trò của gia đình, quan niệm về nông thôn, xây dựng NTM, cũng như có

giá trị về mặt thực tiễn khi đánh giá thực trạng biến đổi của gia đình, đánh giá thực

trạng xây dựng NTM trên thế giới và ở Việt Nam giai đoạn 2010 - 2015. Đây là

những tài liệu tham khảo quan trọng cho các nhà nghiên cứu và là cơ sở để tiếp

tục mở rộng thêm với nhiều góc độ nghiên cứu mới về các nội dung trên.

Ngoài ra, các công trình còn được thể hiện đa dạng dưới nhiều hình thức, từ

các công trình đăng trên các tạp chí, website, các hội thảo khoa học, báo cáo kết

quả nghiên cứu, đến các cuốn sách được xuất bản,... Việc tổng quan tình hình

nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án giúp cho tác giả một mặt kế thừa những

giá trị đã đạt được, mặt khác xác định rõ những khoảng trống mà luận án cần tập

trung tiếp tục nghiên cứu làm rõ.

Mối quan hệ giữa gia đình vùng ĐBSH với chương trình xây dựng NTM là

một hướng nghiên cứu mới, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ

thống, toàn diện và đầy đủ về lý luận và thực tiễn về thực hiện vai trò của gia đình

trong xây dựng NTM. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu nêu trên đã giúp cho tác

giả có cách nhìn tổng quan về gia đình, vai trò của gia đình và xây dựng NTM ở

Việt Nam hiện nay cũng như cung cấp cho tác giả nhiều tài liệu và các luận điểm

khoa học quan trọng, để tác giả phân tích và đánh giá thực trạng, từ đó đề xuất các

quan điểm và giải pháp phát huy vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng

NTM hiện nay.

27

Chương 2

GIA ĐÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI - CƠ SỞ LÝ LUẬN

VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG

2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÀ VỀ

VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

2.1.1. Một số vấn đề lý luận về xây dựng nông thôn mới

2.1.1.1. Quan niệm về nông thôn

Nông thôn được quan niệm khác nhau ở mỗi nước vì điều kiện tự nhiên,

đặc điểm kinh tế - xã hội ở mỗi nước là khác nhau. Để có được định nghĩa nông

thôn, các nhà nghiên cứu thường so sánh nông thôn với thành thị. C.Mác -

Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (viết năm 1845 -1846), hai ông đã

trình bày một cách cơ bản quan niệm duy vật lịch sử về nông thôn - đặt trong mối

quan hệ với thành thị. Theo C.Mác, “sự phân công lao động trong nội bộ của một

dân tộc gây ra trước hết là sự tách rời giữa lao động công nghiệp với lao động

nông nghiệp và do đó gây ra sự tách rời giữa thành thị và nông thôn” [62, tr.270].

Sự hình thành đô thị cũng là quá trình làm cho xã hội nông thôn được nhìn nhận

rõ hơn. Giữa thành thị và nông thôn có những điểm khác biệt, C.Mác và

Ph.Ăngghen đã chỉ ra “sự đối lập giữa thành thị và nông thôn xuất hiện cùng với

bước quá độ từ thời đại dã man lên thời đại văn minh, từ tổ chức bộ lạc nhà nước,

từ tính địa phương lên dân tộc, và cứ tồn tại mãi suốt toàn bộ lịch sử văn minh cho

đến ngày nay” [61, tr.323].

Theo V. Staroverov - nhà xã hội học người Nga đã đưa ra một định nghĩa

khá bao quát về nông thôn, khi ông cho rằng:

Nông thôn có những đặc trưng riêng biệt của nó, nông thôn phân biệt

với đô thị bởi trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp kém hơn, thua

kém hơn về mức độ phúc lợi xã hội, sinh hoạt... Nông thôn là hệ thống

độc lập tương đối ổn định, là một tiểu hệ thống không gian - xã hội.

Nông thôn và đô thị hợp lại thành chỉnh thể xã hội và lãnh thổ (không

gian) của cơ cấu xã hội [26, tr.58].

28

Nông thôn khác với thành thị, ở đó một cộng đồng chủ yếu là nông dân, có

mật độ dân cư thấp, kết cấu hạ tầng kém phát triển, có trình độ dân trí, trình độ

tiếp cận thị trường và sản xuất hàng hóa kém hơn đô thị.

Từ những ý hiểu này cho thấy nông thôn cũng có những đặc trưng như: về

nghề nghiệp chủ yếu là lao động xã hội truyền thống, hoạt động sản xuất nông nghiệp; mật độ dân cư trên km2 thấp; lối sống, có tính cố kết cộng đồng cao thể

hiện trong mối quan hệ ứng xử giữa con người với con người. Các hành vi của cá

nhân nông thôn Việt Nam thường đặt trong các thiết chế xã hội (gia đình, dòng họ,

làng, xóm,...), sức mạnh cộng đồng và thiết chế xã hội ảnh hưởng đến cá nhân.

Chính lối sống này làm cho cách ứng xử xã hội nông thôn nặng về luật tục hơn là

tính pháp lý theo kiểu “phép vua thua lệ làng”; văn hóa nông thôn là một loại hình

văn hóa đặc thù mang đậm nét dân gian, dân tộc [26, tr.58-60]. Đặc thù riêng biệt

của nông thôn Việt Nam là sự phân công lao động chưa cao, trình độ chuyên môn

thấp, chủ yếu vẫn là sản xuất nông nghiệp. Để hiểu nông thôn cần tiếp cận từ

những đặc trưng cơ bản về phương thức sản xuất, kinh tế, văn hóa, lối sống...

Trong “Tài liệu hỏi - đáp xây dựng NTM”, Ban Tuyên giáo thành ủy Hà

Nội có đưa ra khái niệm:

“Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành

phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân

xã” [14, tr.11].

Như vậy, có thể hiểu: Nông thôn dựa vào sự phân chia theo địa giới hành

chính, chính trị để phân biệt với thành thị, nhưng có những nét đặc thù về phương

thức lao động sản xuất, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, văn hóa, lối sống, có

tính cố kết cộng đồng cao.

2.1.1.2. Quan niệm về nông thôn mới

Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã tiếp cận vấn đề “NTM”. Ở Việt

Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định nông nghiệp, nông dân, nông thôn

đóng vai trò rất to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc. Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy một đặc điểm có tính chất đặc thù của nước ta: là

một nước nông nghiệp - không những thế mà còn là một nước nông nghiệp lạc

29

hậu, tàn dư của chế độ thuộc địa nửa phong kiến nặng nề. Tháng 11 năm 1940,

trong thư gửi Hội nghị cán bộ nông dân cứu quốc toàn quốc, Người viết: “Nước ta

là một nước nông nghiệp. Hơn 9 phần 10 dân ta là nông dân trung, bần và cố

nông” [65, tr.248].

Người cũng đã chỉ rõ: quá trình, bước đi để xây dựng “nông thôn mới”

thiết thực, có hiệu quả, là phải xây dựng cơ sở vật chất cho người nông dân để họ

ổn định và có điều kiện tăng gia sản xuất, trước hết là “nhà ở”. Người nói: “chúng

ta đang chuẩn bị xây dựng nông thôn mới. Việc đầu tiên của nông thôn mới là xây

dựng nhà ở cho đàng hoàng” [67, tr.446].

Thuật ngữ “Nông thôn mới” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng ở đây để phân

biệt với nông thôn cũ trong chế độ hàng nghìn năm phong kiến, thực dân xâm

lược, Người nhấn mạnh đến mục đích của NTM là làm cho đời sống nhân dân

nông thôn được cải thiện, tuy nhiên chưa đạt đến các tiêu chí như NTM hiện nay,

nhưng dù vậy cũng đã cho thấy phát triển nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ

quan trọng đối với một nước mới giành độc lập như Việt Nam.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp, nông thôn, Đảng ta đã

đưa ra đường lối, chính sách để phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong

thời kỳ đổi mới. Thuật ngữ “NTM” đã xuất hiện từ kỳ đại hội lần thứ IV của

Đảng, tư tưởng NTM như là nông thôn xã hội chủ nghĩa chỉ mới dừng lại ở loại

hình lý tưởng và chưa được định hình một cách rõ rệt. Ở Nghị quyết số 41-

NQ/TW (1981) có nêu “NTM là cải tạo quan hệ sản xuất cũ, đem quan hệ sản

xuất xã hội chủ nghĩa mới vào nông thôn kết hợp với nâng cao đời sống vật chất

và văn hóa cho nhân dân” [28, tr.22]. Trong nghị quyết này NTM tuy được nhắc

đến nhưng còn chung chung, chưa làm rõ được nội hàm khái niệm.

Đến Đại hội Đảng lần thứ X, Nghị quyết 26-NQ/TW của Đảng (2006) là

một bước ngoặt quan trọng trong nhận thức về NTM và xây dựng NTM. Nghị

quyết này đã đưa ra quan điểm khá toàn diện về mối quan hệ giữa nông nghiệp,

nông dân và nông thôn. “Nghị quyết cũng làm rõ các khía cạnh của NTM gồm kết

cấu kinh tế - xã hội, cơ cấu kinh tế, quy hoạch xã hội, sự ổn định, văn hóa, dân trí,

môi trường sinh thái và hệ thống chính trị...” [28, tr.23].

30

Từ các nghị quyết, đã có thể xác định khái niệm về NTM: NTM trước hết

phải là nông thôn, bao hàm các đặc trưng, chức năng cơ bản của nông thôn là

vùng nông dân quần tụ trong đơn vị làng xã và chủ yếu làm nông nghiệp, nhưng

có những thuộc tính khác với nông thôn truyền thống, NTM phải được gắn chặt

với “quy hoạch mới”, phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội, “cơ sở hạ tầng mới”, “văn

hóa mới” và có những bước phát triển “mới” văn minh hiện đại hơn so với nông

thôn truyền thống, song vẫn bảo lưu và giữ gìn, phát huy được những giá trị tốt

đẹp của xã hội nông thôn truyền thống.

Theo đó, NTM là một kiểu tổ chức nông thôn theo các tiêu chí mới, đáp

ứng yêu cầu của phát triển trên các phương diện sau: Thứ nhất: Kinh tế phát triển,

đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn được nâng cao; Thứ hai:

Nông thôn phát triển theo quy hoạch, cơ cấu hạ tầng, kinh tế, xã hội hiện đại, môi

trường sinh thái được bảo vệ; Thứ ba: Dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa dân

tộc được giữ gìn và phát huy; Thứ tư: Chất lượng hệ thống chính trị được nâng

cao; Thứ năm: An ninh tốt, dân chủ được phát huy.

2.1.1.3. Quan niệm về xây dựng nông thôn mới

Thực tiễn phát triển của các nước trên thế giới đã chứng minh sẽ không thể

có một nước công nghiệp nếu nông nghiệp và khu vực nông thôn còn nghèo nàn,

lạc hậu, cư dân nông thôn có đời sống vật chất và đời sống văn hóa tinh thần thấp

kém, lạc hậu. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng ta đã khẳng định

tính cấp thiết phải “xây dựng NTM”. Xây dựng NTM là một thuật ngữ gắn thêm

với phát triển nông nghiệp và đến nay được Đảng và Nhà nước ta xác định là một

nhiệm vụ trọng tâm phát triển đất nước. “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (1991) của Đảng chỉ rõ “phát triển nông -

lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới là

nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội”. Đây được

xem là một trong những định hướng lớn về chính sách phát triển kinh tế, xã hội

nông thôn trong thời kỳ đổi mới.

Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông

thôn như Nghị quyết số 05-NQ/HNTW Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành

31

trung ương Đảng (khoá VII) về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội

nông thôn, ngày 10/6/1993, Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5/8/2008 của Ban

Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) “Về nông nghiệp, nông dân, nông

thôn”... Đảng ta xác định:

Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ

cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp

với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội

nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao,

môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới

sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường [30, tr.126].

Theo đó, Thủ tướng chính phủ đã ban hành các quyết định về xây dựng

NTM: Quyết định số 800/QĐ-TTG ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ,

Quyết định phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn

mới giai đoạn 2010 - 2020; Quyết định số 1600/ QĐ-TTG ngày 8/6/2016 của

Thủ tướng Chính phủ, Quyết định phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây

dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định số 691/QĐ-TTG ngày

05/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ ban hành tiêu chí xã nông thôn mới kiểu

mới giai đoạn 2018 - 2020. Qua các văn bản, quyết định, Đảng và Nhà nước ta

đã xác định rõ mục tiêu, nội dung và chủ thể xây dựng NTM.

Về mục tiêu xây dựng NTM, theo Quyết định số 800/QĐ-TTG năm 2010

xác định mục tiêu xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020 là:

Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước

hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn

nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển

nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn

định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ;

an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người

dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa [103].

Mục tiêu tổng quát xây dựng NTM giai đoạn 2016 - 2020, được xác định

trong Quyết định số 1600/QĐ-TTG là:

32

Xây dựng nông thôn mới để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần

cho người dân; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phù hợp; cơ cấu

kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn phát triển nông

nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị;

xã hội nông thôn dân chủ, bình đẳng, ổn định, giàu bản sắc văn hóa

dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; quốc phòng và an ninh, trật

tự được giữ vững [106].

Đến giai đoạn 2016 - 2020, Nhà nước ta xác định nâng cao đời sống vật

chất và tinh thần cho người dân là mục tiêu hàng đầu của xây dựng NTM, trong

đó mục tiêu cụ thể cũng xác định “Nâng cao chất lượng cuộc sống của cư dân

nông thôn; tạo nhiều mô hình sản xuất gắn với việc làm ổn định cho nhân dân,

thu nhập tăng ít nhất 1,8 lần so với năm 2015” [106].

Xây dựng NTM gồm những nội dung cơ bản sau: Theo Quyết định số

800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ, xây dựng NTM gồm 11

nội dung về: (1) Quy hoạch xây dựng NTM; (2) Phát triển hạ tầng kinh tế - xã

hội, (3) Chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, (4) Giảm

nghèo và an sinh xã hội; (5) Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất

có hiệu quả ở nông thôn; (6) Phát triển giáo dục - đào tạo ở nông thôn; (7) Phát

triển y tế, chăm sóc sức khỏe cư dân nông thôn; (8) Xây dựng đời sống văn hóa,

thông tin và truyền thông nông thôn, (9) Cấp nước sạch và vệ sinh môi trường

nông thôn; (10) Nâng cao chất lượng tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính

trị - xã hội trên địa bàn; (11) Giữ vững an ninh, trật tự xã hội nông thôn.

Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1980/QĐ-TTg

ngày 17/10/2016 về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM giai đoạn

2016 - 2020 gồm 19 tiêu chí tập trung vào 5 nhóm tiêu chí sau: (1) Quy hoạch,

(2) Hạ tầng kinh tế - xã hội, (3) Kinh tế và tổ chức sản xuất, (4) Văn hóa - Xã hội

- Môi trường, (5) Hệ thống chính trị [107].

Đối tượng thụ hưởng và thực hiện Chương trình được xác định trước hết

“là người dân và cộng đồng dân cư trên địa bàn nông thôn” [106]. Đây chính là

chủ thể tích cực tham gia vào quá trình xây dựng và thực hiện quy hoạch xây

33

dựng NTM; chủ động, sáng tạo trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở

nông thôn, trực tiếp phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông nghiệp, nông thôn; tích cực, sáng tạo trong xây dựng và giữ gìn đời

sống văn hóa - xã hội, môi trường ở nông thôn và cũng là nhân tố góp phần quan

trọng vào xây dựng hệ thống chính trị - xã hội vững mạnh, bảo đảm an ninh trật

tự. Như vậy, xây dựng NTM ngoài hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở,

doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế, xã hội thì xác định người dân và cộng đồng

dân cư trên địa bàn nông thôn hay nói cách khác chính là gia đình ở nông thôn là

chủ thể quan trọng thực hiện xây dựng NTM.

Từ những phân tích trên, rút ra quan niệm: Xây dựng NTM là cuộc cách

mạng nông nghiệp, nông thôn và cuộc vận động lớn để người dân, cộng đồng dân

cư trên địa bàn nông thôn đồng sức, đồng lòng xây dựng nhà cửa, đường xá, thôn,

xã khang trang, sạch đẹp, phát triển sản xuất toàn diện (nông nghiệp, công

nghiệp, dịch vụ), có nếp sống văn hoá, giữ gìn môi trường và đảm bảo an ninh

nông thôn; nâng cao thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của người dân.

2.1.2. Một số vấn đề lý luận về xây dựng nông thôn mới và về vai trò

của gia đình trong xây dựng nông thôn mới

2.1.2.1. Quan niệm về gia đình

Gia đình là vấn đề được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu. Tùy

vào cách tiếp cận, các nhà khoa học đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về gia đình.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cập đến khái niệm gia đình trong tác phẩm

“Hệ tư tưởng Đức” (1845). Khi luận chứng về những tiền đề, điều kiện cho sự tồn

tại của con người, các ông đã cho rằng “Hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản

thân mình, con người còn tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ

giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [62, tr.41]. Với quan điểm

này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra gia đình được ra đời và tồn tại cùng với sự ra

đời và tồn tại của xã hội loài người; chức năng chính của gia đình là tái tạo, sinh

sôi, nảy nở con người và dựa trên hai mối quan hệ chính là quan hệ hôn nhân (vợ -

chồng) và quan hệ huyết thống (cha mẹ - con cái).

34

Sau này, trong Chương 2 có tựa là “Gia đình” của tác phẩm “Nguồn gốc

của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước” (1884), Ph.Ăngghen đã đưa ra

nhận định ngày càng rõ hơn về gia đình “Gia đình (tiếng Anh: Family) có nguồn

gốc từ tiếng La tinh là Familia. Theo Ph.Ăngghen:

Danh từ familia... lúc đầu thậm chí cũng không dùng để chỉ vợ chồng

và con cái của họ, mà chỉ dùng để chỉ những người nô lệ. Famulus có

nghĩa là nô lệ trong gia đình và familia là chỉ toàn thể những người nô

lệ thuộc quyền sở hữu của người nào đó... Danh từ đó là do người La

Mã đặt ra để chỉ một cơ cấu xã hội mới, mà người cầm đầu giữ vợ, con

và một số nô lệ dưới quyền lực gia trưởng La Mã và có quyền sinh sát

đối với tất cả những người này [dẫn theo Hoàng Bá Thịnh, 93, tr.18].

Theo Tổ chức UNESCO (Tổ chức giáo dục khoa học và văn hóa Liên Hợp

Quốc): Gia đình là yếu tố tự nhiên và cơ bản, một đơn vị kinh tế - xã hội và là một

giá trị vô cùng quý báu của nhân loại cần được giữ gìn và phát huy. Theo đó: gia

đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng sống chung và có ngân sách

chung; các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi

về mọi mặt, được pháp luật thừa nhận.

Ở Việt Nam, theo Luật Hôn nhân và Gia đình định nghĩa tại điều 3: Giải

thích từ ngữ: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân,

quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và

quyền giữa họ với nhau” [59, tr.7]

Có thể thấy, các định nghĩa về gia đình đều có điểm chung là xác định gia

đình dựa trên ba mối quan hệ là hôn nhân, huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, các

thành viên trong gia đình chung sống cùng nhau và có quan hệ bình đẳng.

Có thể còn nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu thêm về khái niệm gia đình,

nhưng căn cứ vào tình hình chung của hôn nhân, gia đình ở nước ta, kế thừa

những cách tiếp cận hợp lý khác nhau với cách tiếp cận của chủ nghĩa xã hội khoa

học, có thể đưa ra một khái niệm về gia đình như sau: Gia đình là phạm trù dùng

để chỉ một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành và phát triển trên

cơ sở các mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng.

Các thành viên trong gia đình có sự gắn kết nhất định với nhau về trách nhiệm,

35

nghĩa vụ, quyền lợi về kinh tế, văn hóa, tình cảm; được pháp luật thừa nhận và

bảo vệ.

2.1.2.2. Quan niệm về vai trò của gia đình trong xây dựng nông thôn mới

Theo Từ điển Tiếng Việt: “Vai trò là chức năng, tác dụng của cái gì hoặc

của ai trong sự vận động, phát triển của nhóm, tập thể nói chung” [136, tr.1788].

Như vậy, vai trò cũng chính là chức năng, tác dụng cơ bản. Khi xem xét vai trò

của gia đình chúng ta cũng sẽ xuất phát từ các chức năng cơ bản của gia đình, theo

đó vai trò của gia đình là sinh sản (tái sản xuất sức lao động), nuôi dưỡng và giáo

dục, kinh tế và tổ chức sản xuất và vai trò cân bằng tâm - sinh lý, tình cảm.

Vai trò sinh sản, tái sản xuất con người thể hiện chức năng đặc thù nhất của

gia đình và có ý nghĩa to lớn là cung cấp nguồn nhân lực mới, đảm bảo sự phát

triển liên tục và trường tồn của xã hội loài người. Khẳng định vai trò này,

Ph.Ăngghen cũng đã chỉ rõ: “Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong

lịch sử, quy đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản

thân sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt...; mặt

khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống” [63, tr.44]. Vai

trò này hiện nay tác động đến nguồn nhân lực, nguồn lao động của mỗi quốc gia,

ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nuôi dưỡng và giáo dục

để hình thành nhân cách của con người. Gia đình là “cái nôi”, môi trường giáo dục,

nuôi dưỡng đầu tiên và lâu dài trong cuộc đời mỗi người. Vai trò giáo dục của gia

đình không chỉ là giáo dục nhân cách mà còn là thực hiện vai trò văn hóa của gia

đình góp phần giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của gia đình,

dòng hộ, cộng đồng và dân tộc, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quốc gia; định

hướng nghề nghiệp và cũng là “pháo đài” để giữ gìn an ninh, trật tự xã hội.

Một vai trò tự nhiên, vốn có của gia đình đó là vai trò kinh tế, tổ chức đời

sống gia đình góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy kinh tế quốc gia phát triển.

Hoạt động kinh tế của gia đình bao gồm cả hoạt động sản xuất, kinh doanh và

hoạt động tổ chức tiêu dùng của gia đình. C.Mác và Ph.Ăngghen cũng quan tâm

đến vai trò kinh tế của gia đình, trong quan niệm của các ông, gia đình tham gia

vào mọi quá trình sản xuất, từ sản xuất hàng hóa đến tiêu thụ sản phẩm; từ việc

36

tái tạo ra con người đến việc đào tạo, bồi dưỡng con người; từ chỗ tạo sự khác

biệt về sở hữu đến chỗ giải quyết vấn đề sở hữu. Nhấn mạnh vai trò của gia đình

đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, C.Mác và

Ph.Ăngghen cho rằng, thực ra gia đình là “quan hệ xã hội duy nhất” trong buổi

đầu của lịch sử xã hội.

Tuy nhiên, giai đoạn hiện nay các quá trình sản xuất, tiêu dùng, phát triển

công nghiệp hóa, phát triển kinh tế,... đều tác động trở lại gia đình, củng cố hoặc

làm biến đổi hình thức và kết cấu gia đình. Do đó, mỗi gia đình cần chủ động tổ

chức một cách khoa học hoạt động lao động sản xuất cũng như tiêu dùng của gia

đình để vừa phát triển kinh tế gia đình, vừa đảm bảo gia đình phát triển lành mạnh,

hạnh phúc.

Gia đình còn là nơi chia sẻ, cảm thông và thỏa mãn các nhu cầu tâm lý, sinh

lý, tình cảm giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái,... quan tâm, gắn bó, duy trì tình

cảm giữa các thành viên trong gia đình. Đây là vai trò tình cảm của gia đình, củng

cố các mối quan hệ của gia đình, bảo vệ gia đình hạnh phúc, bền vững. C.Mác và

Ph.Ăngghen khi nhắc đến gia đình dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, các ông khẳng

định đó là gia đình một vợ, một chồng dựa trên cơ sở hôn nhân mới tự do và tiến

bộ, các thành viên trong gia đình đều bình đẳng, tôn trọng và yêu thương nhau,

đảm bảo cho mỗi người tự do và phát triển toàn diện. Hiện nay, thực hiện tốt vai

trò này không chỉ góp phần quan trọng đảm bảo xây dựng gia đình phát triển bền

vững, hạnh phúc, mà còn góp phần thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh.

Gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ đối với mỗi cá nhân con

người mà còn có vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của xã hội.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến vai trò của gia đình đối với

sự phát triển của xã hội. Người khẳng định: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng và

nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt

thì gia đình càng tốt hơn, hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy, muốn xây

dựng chủ nghĩa xã hội là phải chú ý hạt nhân cho tốt” [66, tr.300]. Tiếp tục phát

triển tư tưởng của Người trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta khẳng định “Gia đình

là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”

[31, tr.76-77].

37

Các gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc sẽ có tác động tích cực, góp phần

quan trọng tạo nên sự phát triển bền vững của kinh tế - xã hội. Gia đình không chỉ

có vai trò quan trọng trong sự phát triển xã hội mà còn là chủ thể, động lực, thiết

chế xã hội đặc thù góp phần thúc đẩy thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH

nông nghiệp, nông thôn, trong đó thể hiện rõ nét nhất là chương trình xây dựng

NTM hiện nay.

Từ quan niệm về xây dựng nông thôn mới, gia đình và vai trò gia đình, có

thể đưa ra quan niệm: Vai trò của gia đình trong xây dựng NTM là gia đình thực

hiện các chức năng kinh tế, giáo dục, tình cảm trong các nội dung xây dựng NTM,

được thể hiện rõ nét ở các nội dung: phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn;

phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất; giữ gìn, bảo lưu, phát triển các giá trị văn

hóa, phát triển giáo dục, đào tạo; bảo vệ môi trường; thực hiện quá trình dân chủ

hóa ở nông thôn góp phần xây dựng hệ thống chính trị, bình đẳng giới, phòng,

chống bạo lực gia đình và đảm bảo an ninh nông thôn.

2.1.2.3. Nội dung vai trò của gia đình trong xây dựng nông thôn mới

- Vai trò của gia đình trong phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội

Trong Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2015 đến 2020,

tiêu chí phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội được xác định ở nội dung thứ 2 với 8

tiêu chí (từ tiêu chí số 2 đến tiêu chí số 9), cụ thể đạt các yêu cầu sau: Hoàn thiện

hệ thống giao thông trên địa bàn thôn, xã; Hoàn thiện hệ thống thủy lợi nội đồng;

Cải tạo, nâng cấp, mở rộng hệ thống lưới điện nông thôn; Xây dựng hoàn chỉnh

các công trình đảm bảo đạt chuẩn về cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục mầm

non, phổ thông; Hoàn thiện hệ thống Trung tâm văn hóa - thể thao, Nhà văn hóa -

Khu thể thao; Hoàn thiện hệ thống chợ nông thôn, cơ sở hạ tầng thương mại nông

thôn theo quy hoạch phù hợp với nhu cầu của người dân; Xây dựng, cải tạo, nâng

cấp về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cho các trạm y tế xã; Tăng cường cơ sở vật chất

cho hệ thống thông tin và truyền thông cơ sở; Hoàn chỉnh các công trình cung cấp

nước sinh hoạt cho người dân [106].

Đảng và Nhà nước ta xác định xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn là một

trong những nhóm tiêu chí quan trọng hàng đầu trong xây dựng NTM hiện nay. Vì

thế là tiêu chí được đầu tư quan tâm mạnh nhất và đạt được hiệu quả cao, huy

38

động sự đồng thuận, tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân. Trong đó gia

đình thể hiện vai trò trong phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn ở những

nội dung sau:

Thứ nhất, gia đình tuyên truyền, động viên các thành viên tham gia đóng

góp cho phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội của NTM.

Vai trò này xuất phát từ đặc điểm của gia đình nông thôn Việt Nam đề cao

tính cộng đồng, tức là tính chi phối của tập thể gia đình đối với các thành viên, với

tinh thần vì lợi ích chung. Dễ nhận thấy rằng tính cộng đồng, tính tập thể trong gia

đìnhViệt Nam thường cao hơn, lấn át tính cá nhân - điều này khác với gia đình

phương Tây thường đề cao cái tôi cá nhân. Ngoài ra, gia đình Việt Nam còn nổi lên

tính gia tộc, dòng họ (quan hệ huyết thống), có gia phong, gia lễ,...có sự gắn bó chặt

chẽ quan hệ nhà - tộc họ - làng, nước,... Đảng và Nhà nước, chính quyền địa phương

cũng nên quan tâm đến đặc điểm này của gia đình để có sự tác động phù hợp khi vận

động các gia đình đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng cho xây dựng NTM.

Thứ hai, gia đình trực tiếp đóng góp phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội

NTM thông qua các hành động như hiến tặng đất đai, ủng hộ tiền mặt, ủng hộ

hiện vật, đóng góp ngày công,...

Các tiêu chí của phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội sẽ đạt được nhanh chóng

khi từng gia đình nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống giao thông, thủy

lợi, điện, nhà văn hóa, khu thể thao, chợ, trạm y tế, nước sạch,... trong phát triển

kinh tế - xã hội cho từng cá nhân, gia đình và xã hội. Từ đó, chính quyền vận động

gia đình thực hiện vai trò trong đóng góp xây dựng cùng với sự giúp đỡ của địa

phương, Nhà nước.

Gia đình trực tiếp đóng góp phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội NTM thông

qua các hành động thực tiễn, gia đình tự nguyện hiến tặng đất đai để mở rộng giao

thông thôn xã, tự nguyện đóng góp tiền mặt, ủng hộ hiện vật, ngày công để xây

dựng nhà văn hóa, khu thể thao, chợ thương mại,...

Thứ ba, gia đình có vai trò rất lớn trong việc bảo vệ, giữ gìn, sửa chữa, gia

tăng chất lượng hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn.

Gia đình nông thôn chính là đối tượng hưởng thụ các thành quả của xây

dựng NTM và cũng chính là đối tượng góp phần tu bổ, nâng cấp kết cấu hạ tầng

39

kinh tế - xã hội của NTM - đây vừa là nghĩa vụ, vừa là quyền lợi của các gia đình

trong xây dựng NTM. Gia đình thực hiện vai trò giáo dục, tình cảm để vận động

từng thành viên trong gia đình nhận thức được vai trò, trách nhiệm, nghĩa vụ từ đó

có những hành động cụ thể, tự giác để giữ gìn, phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội

nông thôn.

- Vai trò của gia đình trong phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất

Trong Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2015 đến 2020, nội

dung phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất phải đạt yêu cầu tiêu chí 10 về thu

nhập, tiêu chí số 11 về thực hiện xóa đói giảm nghèo, tiêu chí số 12 về tỷ lệ lao

động có việc làm thường xuyên, tiêu chí số 13 về tổ chức sản xuất trong Bộ tiêu

chí quốc gia về NTM, nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã thông qua tăng

cường năng lực tổ chức, điều hành, hoạt động, kinh doanh cho các hợp tác xã, tổ

hợp tác. Thực hiện những nội dung này có ý nghĩa tác động trực tiếp đến sự ổn

định, phát triển kinh tế của gia đình. Vai trò kinh tế, tổ chức sản xuất của gia đình

được thể hiện rõ nét nhất trong thực hiện các tiêu chí này của xây dựng NTM.

Thứ nhất, gia đình là nơi tạo ra nguồn nhân lực quan trọng phát triển kinh

tế nông thôn và xây dựng NTM.

Vai trò sinh sản - tái sản xuất con người là vai trò đầu tiên của gia đình. Ở

nông thôn, gia đình là nơi cung cấp lực lượng lao động chủ yếu cho sản xuất nông

nghiệp, cung cấp nguồn nhân lực dồi dào, quan trọng, quyết định sự thành công

trong xây dựng NTM. Sức lao động của các thành viên trong gia đình chính là lực

lượng sản xuất chính.

Tại Đại hội XII, Đảng ta đã khẳng định vai trò của gia đình đối với phát

triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Với mục tiêu của xây dựng

NTM là không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông

thôn, xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền

vững. Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang hướng đến mô hình “Nông nghiệp

ứng dụng công nghệ cao” cần một nguồn nhân lực lớn, nhất là nguồn nhân lực

chất lượng cao, gia đình chính là nơi đóng góp ban đầu, nền tảng, cung cấp,

phát triển, định hướng, giáo dục nguồn nhân lực cho xây dựng NTM hiện nay ở

nước ta.

40

Thứ hai, trong xây dựng NTM, gia đình có vai trò phát triển kinh tế, tổ

chức sản xuất, thực hiện xóa đói giảm nghèo.

Gia đình có chức năng kinh tế (tổ chức hoạt động kinh tế), “đó là đơn vị cơ

bản trong sản xuất và tích trữ của cải vật chất, là nơi định hướng các hoạt động lao

động, phân công trách nhiệm trong lao động và phân chia các sản phẩm lao động.

Hoạt động kinh tế của gia đình quyết định đời sống vật chất và tinh thần của gia

đình đó. Chức năng kinh tế là một trong những chức năng cơ bản của gia đình, nó

tạo cơ sở vật chất để gia đình tồn tại và phát triển” [48, tr.126].

Gia đình có vai trò nâng cao thu nhập cho người dân, giải quyết việc làm

thường xuyên. Nâng cao thu nhập cho người dân là một trong những tiêu chí quan

trọng, chi phối đến các tiêu chí khác trong xây dựng NTM. Chỉ khi hộ gia đình có

kinh tế ổn định, có thu nhập tốt thì người dân mới có điều kiện tham gia đóng góp

xây dựng NTM.

Gia đình còn thực hiện vai trò xóa đói giảm nghèo góp phần xây dựng

NTM. Nghị quyết số 30A/2008/NQ-CP năm 2008 của Chính phủ về Chương trình

hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo xác định: xóa đói

giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước và là sự nghiệp của

toàn dân... Cùng với sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng xã hội, sự nỗ

lực phấn đấu vươn lên thoát nghèo của người nghèo, hộ nghèo là nhân tố quyết

định thành công của công cuộc xóa đói giảm nghèo... Công cuộc giảm nghèo

nhanh, bền vững phải phát huy vai trò làm chủ của người dân từ khâu xây dựng kế

hoạch, đến tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá hiệu quả của Chương trình. Xóa

đói giảm nghèo không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước mà vai trò rất lớn

thuộc về mỗi gia đình, mỗi thành viên của gia đình nỗ lực vươn lên thoát nghèo,

nâng cao đời sống của hộ gia đình.

Thứ ba, trong xây dựng NTM, gia đình có vai trò giải quyết việc làm, đa

dạng các hình thức tổ chức sản xuất.

Sản xuất gia đình là bước sản xuất đầu tiên giải quyết việc làm cho người

lao động. Sản xuất gia đình như một đơn vị hợp tác, những nhiệm vụ được phân

công tùy theo tuổi và giới tính của các thành viên trong gia đình. Trong điều kiện

41

sản xuất nông nghiệp truyền thống, thô sơ, thủ công thì gia đình đông con, nhiều

con trai, nhiều lao động sẽ là một lợi thế để phát triển kinh tế hộ gia đình. Phương

thức tạo thu nhập, giải quyết việc làm của gia đình cũng rất đa dạng, từ nhiều

nguồn khác nhau: công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ,...

Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của CNH, HĐH thì “gia đình cũng

đang chuyển từ đơn vị sản xuất sang đơn vị tiêu dùng... Những biến đổi trong xã

hội công nghiệp tạo ra nơi làm việc tách ra khỏi nơi ở, vì vậy chức năng tái sản

xuất tách khỏi chức năng sản xuất và mang tính chuyên biệt hóa hơn” [93, tr.128].

Tuy nhiên, gia đình ở nông thôn vẫn là nơi giải quyết việc làm chính cho thành

viên gia đình cũng như cho người dân ở nông thôn, vì phương thức sản xuất hiện

nay vẫn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp hoặc các nghề thủ công truyền thống,

buôn bán, dịch vụ,...

- Vai trò của gia đình trong giữ gìn, bảo lưu, phát triển các giá trị văn hóa,

phát triển giáo dục, đào tạo và bảo vệ môi trường

Giữ gìn, bảo lưu, phát triển các giá trị văn hóa, phát triển giáo dục, đào tạo

và bảo vệ môi trường là một trong các nội dung trong nhóm tiêu chí thứ tư của xây

dựng NTM. Tiêu chí số 14, 16, 17 trong nhóm tiêu chí IV của bộ tiêu chí về xây

dựng xã NTM có đưa ra nội dung về giáo dục, đào tạo (phổ cập giáo dục mầm non

cho trẻ 5 tuổi, xóa mù chữ, phổ cập giá dục trung học cơ sở; lao động có việc làm

qua đào tạo); Văn hóa (thôn, bản, ấp đạt tiêu chuẩn văn hóa theo quy định); Môi

trường và an toàn thực phẩm (Sử dụng nước hợp vệ sinh, nước sạch theo quy

định, cơ sở sản xuất, kinh doanh, nuôi trồng thủy sản, làng nghề đảm bảo quy định

về bảo vệ môi trường, xây dựng cảnh quan, môi trường xanh - sạch - đẹp, an toàn;

mai táng theo quy định,...).

Đây cũng là nội dung gia đình thể hiện rõ nét nhất vai trò giáo dục, tình

cảm trong việc giữ gìn, bảo lưu, phát triển các giá trị văn hóa, phát triển giáo dục,

đào tạo và bảo vệ môi trường.

Thứ nhất, gia đình có vai trò giáo dục, tạo điều kiện tốt để nâng cao trình

độ dân trí cho các thành viên.

Gia đình là trường học đầu đời của mỗi con người, là môi trường xã hội hóa

đầu tiên của con người. Chính những người thân thiết như ông bà, cha mẹ, anh

42

chị,... là những người “thầy, cô giáo” đầu tiên giáo dục con người những bài học

về đạo đức, lối sống, nền nếp, gia phong, giáo dục hình thành nhân cách, giáo dục

về đạo đức, phẩm chất cho mỗi cá nhân, mỗi công dân của xã hội.

Giáo dục trong gia đình phần lớn là giáo dục dựa trên những giá trị từ kinh

nghiệm của những người lớn, giáo dục dựa trên nền tảng là tình cảm ruột thịt, tình

yêu thương gắn bó và có sự tác động thường xuyên, từ từ nên dễ tiếp nhận và sâu

sắc. “Vấn đề giáo dục con cái trong gia đình là nền tảng quan trọng cho thành

công của hệ thống giáo dục chính quy” [23, tr.122].

Vai trò giáo dục của gia đình xuất phát ngay từ chính bản chất của gia

đình, giáo dục những tri thức căn bản nhất, là nền tảng hình thành tri thức của

mỗi cá nhân từ đó có vai trò đầu tư cho con cái học tập, nâng cao trình độ, định

hướng nghề nghiệp. Trước kia ở gia đình nông thôn Việt Nam thường chỉ cần

con mình biết chữ, làm nông nghiệp tại gia, gia đình giáo dục con cái phương

thức sản xuất đơn giản, thô sơ. Cùng với quá trình CNH, HĐH, gắn với xây

dựng NTM, gia đình nông thôn Việt Nam đã nhận thức cao hơn về việc nâng cao

dân trí cho các thành viên trong gia đình, về việc đầu tư học tập và định hướng

nghề nghiệp cho con. Như vậy, việc nâng cao trình độ dân trí ở nông thôn cũng

xuất phát trước hết từ mỗi gia đình, cá nhân của các thành viên trong gia đình,

sau đó là đến nhà trường và xã hội. Đảng ta đã chỉ rõ “Gia đình là môi trường

quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách” [31, tr.76-77],

vì vậy cần “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành

mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình

thành nhân cách” [31, tr.76-77].

Thứ hai, gia đình có vai trò bảo lưu, giữ gìn, phát triển các giá trị văn hóa

dân tộc.

Những giá trị văn hóa truyền thống gia đình Việt Nam đã thấm sâu, quện

chặt vào trong mỗi thành viên của gia đình, trở thành sức mạnh tinh thần to lớn để

cho dân tộc ta vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh làm nên những

chiến thắng lừng lẫy, ghi tên Việt Nam lên bản đồ thế giới. Đó là một trong những

thành quả thể hiện những giá trị văn hóa tinh hoa của dân tộc. Gia đình chính là

43

nơi giữ gìn, bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống và xây dựng, tiếp thu

những tinh hoa văn hóa nhân loại đưa đất nước đi lên, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp

CNH, HĐH đất nước trong tình hình mới. Phát huy giá trị văn hóa truyền thống

dân tộc chính là nhiệm vụ của mỗi gia đình, văn hóa truyền thống gia đình không

tách rời, biệt lập với văn hóa truyền thống chung của dân tộc, mà đó là sự kế thừa,

tiếp nối, dòng chảy của văn hóa dân tộc.

Trong Bộ tiêu chí quốc gia về NTM, tiêu chí văn hóa chia làm hai loại: thứ

nhất là cơ sở vật chất văn hóa (tiêu chí 6); hai là đời sống văn hóa (tiêu chí 16).

Gia đình có vai trò trên cả hai phương diện này: Thứ nhất, về tiêu chí xây dựng cơ

sở vật chất văn hóa, gia đình đồng tình với chủ trương, chính sách, gia đình hiến

tặng đất đai, ủng hộ tiền mặt, hiện vật, tham gia đóng góp ngày công, trực tiếp xây

dựng, sửa chữa, giữ gìn, tu bổ nhà văn hóa, sân vận động, sân thể thao. Thứ hai,

gia đình còn có vai trò xây dựng đời sống văn hóa gia đình. Kế thừa, giữ gìn và

phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam gắn liền với

xây dựng những giá trị mới, tiến bộ, văn minh của gia đình trong xã hội phát triển.

Gia đình nông thôn có vai trò giữ gìn, xây dựng bản sắc văn hóa dân tộc phong

phú, đa dạng thông qua việc tích cực xây dựng gia đình văn hóa, tham gia các

buổi văn nghệ quần chúng, lễ hội truyền thống, thực hiện nếp sống văn minh trong

lễ cưới, lễ tang, lễ hội; tham gia phong trào thi đua, hội họp, sinh hoạt cộng đồng,

tham gia bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa, di tích lịch sử. Gia đình thực hiện

tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới,

phòng, chống bạo lực gia đình, ngăn chặn sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội vào

gia đình. Những hoạt động này của gia đình góp phần thực hiện nhóm tiêu chí về

văn hóa trong xây dựng NTM.

Thứ ba, gia đình đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường, môi sinh.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư số

55/2014/TT-BNNPTNT về Hướng dẫn triển khai một số hoạt động bảo vệ môi

trường trong Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010

đến 2020, gồm các nội dung sau: Xây dựng, cải tạo nâng cấp hệ thống tiêu thoát

nước, xử lý nước thải; Xây dựng các điểm thu gom, xử lý chất thải rắn; Chỉnh

trang, cải tạo nghĩa trang; Cải tạo, xây dựng các ao, hồ sinh thái, phát triển cây

44

xanh. Trong thông tư cũng chỉ rõ áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân, hộ gia

đình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn

2010 - 2020.

Môi trường sống ở nông thôn gắn chặt với từng cá nhân - đây cũng chính là

nơi tiềm ẩn nhiều bệnh tật nếu không được xử lý đúng cách, đúng quy định, sạch

sẽ, tiêu chí này cũng phục vụ cho chính đời sống của các gia đình nông thôn. Để

phát huy được vai trò của gia đình trong thực hiện tiêu chí này cần có sự định

hướng của nhà nước, hướng dẫn của các tổ chức, công ty môi trường, các chính

sách và hỗ trợ một phần nguồn vốn.

Gia đình có vai trò trong tham gia đóng góp tích cực và nhiều mặt trong

đầu tư vốn, thi công xây lắp, sản xuất thiết bị. Các gia đình thực hiện thu gom, xử

lý rác bằng các hình thức hầm biogas, hố ga lắng cặn, ao sinh hoạt, thu gom, xử lý

bằng các hình thức bể tự hoại; gia đình thu gom bằng các dụng cụ phù hợp, phân

loại rác ngay tại hộ gia đình, tự chôn lấp hợp vệ sinh các loại rác hữu cơ có thể

phân hủy tại khuôn viên các hộ gia đình. Mỗi gia đình khi có người mất, chôn cất

tại nghĩa trang có ý thức đảm bảo thực hiện theo quy hoạch của Ban quản lý và

quy chế quản lý nghĩa trang, có thể đóng góp trồng cây xanh, tiền mặt để tu bổ, cải

tạo nghĩa trang của địa phương.

Các gia đình chủ động cải tạo, xây dựng hệ thống ao, hồ trong khuôn viên,

vùng, vườn, thường xuyên nạo vét, tu bổ, tạo không gian, cảnh quan sinh thái,

điều hòa môi trường, cải tạo, xây dựng hệ thống cây xanh. Việc trồng, khai thác

các sản phẩm cây xanh hàng năm thực hiện theo đúng quy chế được xã, chính

quyền ban hành.

- Vai trò của gia đình trong thực hiện dân chủ ở nông thôn góp phần xây

dựng hệ thống chính trị cơ sở; đảm bảo bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực

gia đình

Tiêu chí số 18 của bộ tiêu chí quốc gia xây dựng NTM về xây dựng hệ

thống chính trị và tiếp cận pháp luật có các nội dung cơ bản sau: Cán bộ, công

chức xã đạt chuẩn; có đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở theo quy

định; Đảng bộ, chính quyền xã đạt tiêu chuẩn “trong sạch, vững mạnh” Tổ

45

chức chính trị - xã hội của xã đạt loại khá trở lên; xã đạt chuẩn tiếp cận pháp

luật theo quy định; đảm bảo bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình;

bảo vệ và hỗ trợ những người dễ bị tổn thương trong các lĩnh vực của gia đình

và đời sống xã hội.

Trong nội dung này, gia đình thực hiện quá trình dân chủ hóa ở nông thôn

góp phần xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; đảm bảo bình đẳng giới, phòng

chống bạo lực gia đình và bảo vệ, hỗ trợ những người dễ bị tổn thương trong các

lĩnh vực của gia đình và đời sống xã hội.

Thứ nhất, gia đình thực hiện dân chủ ở nông thôn góp phần xây dựng hệ

thống chính trị cơ sở vững mạnh.

Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh vừa là tất yếu,

vừa là mục tiêu vừa là nhân tố quyết định đến sự thắng lợi của công cuộc xây

dựng NTM. Gia đình góp phần xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh thông

qua việc thực hiện quá trình dân chủ hóa nông thôn, được thể hiện qua các nội

dung sau:

Gia đình tham gia xây dựng kế hoạch, chương trình và tổ chức thực hiện

xây dựng NTM ở địa phương. Thông qua các buổi họp cử tri hoặc cử tri đại

diện gia đình theo địa bàn từng thôn, xóm cùng bàn bạc và trực tiếp quyết định

chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi

công cộng và các công việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cư phù hợp với

quy định pháp luật; góp ý vào các chương trình, chủ trương, chính sách của

Đảng, chính quyền.

Gia đình có vai trò tham gia vào việc bàn bạc, biểu quyết để các cấp có

thẩm quyền ra quyết định như hương ước, quy ước của thôn; Bầu, miễn nhiệm,

bãi nhiệm trưởng thôn; Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban

giám sát đầu tư của cộng đồng; Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban phát triển thôn.

Ngoài ra, các gia đình còn có vai trò quan trọng trong tham gia ý kiến trước

khi cơ quan có thẩm quyền đưa ra quyết định về “Dự thảo quy hoạch xây dựng

NTM cấp xã”, “Dự thảo đề án xây dựng NTM cấp xã”, “Dự thảo kế hoạch phát

triển kinh tế - xã hội cấp xã, phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản

xuất”, “Dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình, dự án trên địa bàn cấp xã,

46

chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ

tầng, quy hoạch khu dân cư...”.

Gia đình động viên, tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình phấn

đấu đứng vào hàng ngũ của Đảng Cộng sản; tích cực tham gia các buổi họp chi

bộ; tham gia và đóng góp ý kiến vào các buổi họp thôn, xóm; thực hiện tốt quy

chế dân chủ ở cơ sở; các thành viên trong gia đình tích cực tham gia các tổ chức

xã hội như Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, hội Nông dân, hội Phụ nữ,

hội Cựu chiến binh. Để xây dựng hệ thống tổ chức chính trị - xã hội trong sạch,

vững mạnh, bên cạnh việc xây dựng, chỉnh đốn tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền

ở địa phương thì cần huy động sự giúp đỡ, tham gia của quần chúng nhân dân, các

hộ gia đình.

Thứ hai, gia đình đảm bảo bình đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình.

Đây là tiêu chí mới được bổ sung vào Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng xã

NTM giai đoạn 2016 - 2020, tiêu chí này liên quan trực tiếp đến gia đình. Xã hội

càng phát triển thì việc thực hiện bình đẳng giới càng cần được quan tâm, bình

đẳng không có nghĩa là nam giới và phụ nữ hoàn toàn như nhau mà là các điểm

tương đồng và khác biệt giữa họ được thừa nhận và tôn trọng. Bình đẳng giới

trong gia đình đã được quy định trong điều 18 Luật Bình đẳng giới, theo đó bình

đẳng giới thực hiện trong gia đình là bình đẳng quyền, nghĩa vụ trong quan hệ dân

sự, quan hệ khác, trong sở hữu tài sản, chăm sóc con cái giữa vợ và chồng; bình

đẳng giữa cha mẹ và con cái; bình đẳng giữa các con cái, con trai, con gái được

gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui

chơi, giải trí và phát triển. Thực hiện bình đẳng giới là “chìa khóa” để đẩy lùi bạo

lực gia đình, các hành vi bạo lực gia đình được quy định tại khoản 2, luật phòng,

chống bạo lực gia đình ban hành năm 2007 bao gồm các hành vi bạo lực về thể

xác, tinh thần, kinh tế và tình dục.

Gia đình thực hiện vai trò giáo dục nhận thức, lối sống và văn hóa ứng xử

tốt đẹp giữa các thành viên trong gia đình, xuất phát ngay từ vợ và chồng tôn

trọng, bình đẳng với nhau, tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình được

47

phát huy mọi khả năng, bình đẳng về kinh tế, quyền dân sự, hưởng thụ các giá trị

văn hóa. Trong gia đình không có sự phân biệt đối xử giữa các con trai và con gái

tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển.

Gia đình thực hiện vai trò kinh tế, giáo dục, tình cảm để khắc phục những

nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình ở nông thôn như tư tưởng “trọng nam khinh

nữ”, tư tưởng lạc hậu, khó khăn kinh tế, tệ nạn xã hội (rượu bia, cờ bạc, nghiện

hút, mại dâm,..), thiếu hiểu biết về pháp luật…

Vai trò gia đình, sự đóng góp của mỗi thành viên trong việc thực hiện bình

đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình góp phần xây dựng xã hội an toàn lành

mạnh và phát triển là rất quan trọng. Thực hiện tiêu chí này không chỉ do các cấp,

chính quyền, các tổ chức xã hội mà cần có sự chung tay và hành động quyết liệt

của chính bản thân gia đình, nhằm hướng tới mục tiêu “xây dựng gia đình no ấm,

bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”.

- Vai trò của gia đình tham gia đảm bảo quốc phòng, an ninh trật tự xã hội

nông thôn

Đây là tiêu chí quan trọng trong chương trình xây dựng NTM, tạo điều

kiện thuận lợi cho người dân yên tâm lao động, sản xuất, phát triển kinh tế, tuy

nhiên, đây là tiêu chí khó giữ vững, rất dễ có sự biến động nếu chủ quan, mất

cảnh giác. Đây cũng là tiêu chí cuối cùng Chương trình mục tiêu quốc gia về xây

dựng NTM, nhưng lại là tiêu chí rất quan trọng ảnh hưởng đến từng sự bình yên

của gia đình.

Gia đình có vai trò giáo dục các thành viên tránh xa tệ nạn xã hội, gây mất

an ninh trật tự. Nghiên cứu về tội phạm cho thấy phần lớn những người phạm tội

đều xuất thân từ những gia đình không hoàn chỉnh, thiếu sự quan tâm, giáo dục

của cha mẹ. Tình hình an ninh trật tự ở địa phương có được bảo đảm hay không

cũng là do từng “tế bào của xã hội” lành mạnh, vững vàng, tích cực bảo vệ. Tại

Đại hội XI, Đảng ta nhấn mạnh “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc thật

sự là tế bào lành mạnh của xã hội” [30, tr.77].

Xuất phát từ chức năng giáo dục, chức năng tình cảm của gia đình thì gia

đình chính là “cái nôi” đầu tiên giáo dục hình thành nhân cách cho từng công dân

48

của xã hội, động viên thành viên gia đình mình thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh

pháp luật của nhà nước. Gia đình còn là nguồn động viên để những người đã

phạm sai lầm nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng, trở thành người có ích cho xã

hội, hay với chức năng tình cảm mà những người phạm sai lầm ra đầu thú để nhận

sự khoan hồng của pháp luật,...

Gia đình có vai trò tích cực thực hiện “Phong trào toàn dân bảo vệ an

ninh Tổ quốc”, đấu tranh, tố giác tội phạm, phòng, chống các tệ nạn xã hội (cờ

bạc, nghiện hút, trộm cắp, mại dâm), phòng chống bạo lực gia đình, tìm hiểu hệ

thống pháp luật và không để xảy ra khiếu kiện tụ tập đông người, truyền đạo

trái phép,...

Như vậy, với 19 tiêu chí nêu ra trong Chương trình mục tiêu quốc gia về

xây dựng NTM chia thành năm nhóm nội dung đã bao quát tất cả các lĩnh vực

kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở nông thôn. Việc thực hiện cuộc vận động này

không chỉ do Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương, tổ chức xã hội thực hiện

mà cần có sự chung tay của đông đảo quần chúng nhân dân, của gia đình nông

thôn - chủ thể chính xây dựng NTM.

2.2. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VÙNG

ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

2.2.1. Tác động của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng đồng

bằng sông Hồng đến vai trò của gia đình trong xây dựng nông thôn mới

2.2.1.1. Những tác động thuận lợi của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã

hội vùng đồng bằng sông Hồng đến vai trò của gia đình vùng đồng bằng

sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới

Thứ nhất, vùng ĐBSH có diện tích 14.962,5 km2 (chiếm 4,5% diện tích cả

nước), dân số tính đến năm 2015 là 20.925,5 nghìn người (21,7% dân số cả nước),

mật độ 991 người/km2 (2015) [110, tr.24]. Theo quyết định số 795/QĐ-TTg về

Phê duyệt tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Hồng đến năm

2020, vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) bao gồm 11 tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hưng Yên,

Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình và Quảng Ninh.

49

Vùng ĐBSH có dân cư đông đúc, có lịch sử phát triển lâu đời gắn với công

cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Bên cạnh đó, vùng có Thủ đô Hà Nội và các

tỉnh, thành phố quan trọng như thành phố Hải Phòng, tỉnh Quảng Ninh... đã tạo

cho vùng có vị trí, vai trò quan trọng, là vùng trung tâm đầu não về chính trị, kinh

tế, văn hóa và khoa học công nghệ của cả nước [105] tạo điều kiện thuận lợi cho

gia đình vùng ĐBSH phát huy vai trò trong xây dựng NTM.

Thứ hai, về địa hình và điều kiện tự nhiên của vùng ĐBSH.

Đồng bằng sông Hồng là một trong 7 vùng kinh tế - xã hội và là một

trong hai vựa lúa lớn nhất ở nước ta (đồng bằng sông Hồng ở phía Bắc và đồng

bằng sông Cửu Long ở phía Nam). Địa hình tương đối bằng phẳng, hướng thấp

dần từ Tây Bắc - Đông Nam; trong vùng có nhiều ô trũng (Hà Nam - Nam Định

- Ninh Bình).

Đặc trưng khí hậu của vùng là có một mùa đông lạnh (tháng 10 đến tháng

4), mùa đông cũng là mùa khô nhưng có mưa phùn. Đất đai chủ yếu là đất phù sa

màu mỡ. Vì vậy, phần lớn diện tích đất đồng bằng, đất bãi ven sông được sử dụng

trồng các loại rau vụ đông, đây cũng là thế mạnh độc đáo của vùng.

Điều kiện tự nhiên, đất đai, khí hậu tạo điều kiện thuận lợi cho gia đình

vùng ĐBSH phát triển về nông nghiệp, phát triển nông sản hàng hóa như lúa gạo,

rau tươi, quả tươi, thịt lợn, gia cầm và thủy sản, phục vụ nhu cầu cung cấp nguyên

liệu phát triển ngành công nghiệp chế biến, xuất khẩu các sản phẩm nông sản cho

xây dựng NTM.

Ngoài ra, ĐBSH nằm ở hạ lưu của Sông Hồng - Thái Bình với nhiều chi

lưu, nên mạng lưới sông ngòi rất dày đặc; ĐBSH có vùng biển khá rộng, đường

bờ biển khá dài (400 km) từ Thủy Nguyên, Hải Phòng đến Kim Sơn, Ninh Bình,

thềm lục địa mở rộng ra phía biển 500 km, có nhiều bãi triều rộng, phù sa dày là

cơ sở để phát triển ngành thủy - hải sản (tôm, rong câu)…

Về giao thông vận tải, vùng có nhiều đầu mối quan trọng nối với các tỉnh

phía Bắc và phía Nam, là cửa khẩu quốc tế hàng đầu của cả nước (sân bay Nội

Bài, cảng biển Hải Phòng). Cơ cấu ngành nghề của gia đình khiến cho cơ cấu kinh

tế của vùng đang có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng của khu vực công

nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng của khu vực nông - lâm - ngư nghiệp, trong nội

50

bộ của từng ngành cũng có sự chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH đất nước. Tạo

điều kiện thuận lợi để thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và xây dựng

NTM vùng ĐBSH.

Thứ ba, một thế mạnh của ĐBSH là dân số và nguồn lao động.

Theo Tổng cục thống kê số liệu sơ bộ năm 2015, dân số ĐBSH là 20.925,5

nghìn người, trong đó dân số nông thôn có 13.745,5 nghìn người chủ yếu là nông

dân [109]. ĐBSH là vùng có trình độ dân trí cao, trình độ tay nghề của người lao

động khá hơn so với các vùng khác, đặc biệt Hà Nội là thủ đô, trung tâm chính trị,

kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật của cả nước, có hệ thống các trường đại học,

viện nghiên cứu, cao đẳng, trung cấp,... Đây là điều kiện thuận lợi để gia đình

vùng ĐBSH nâng cao trình độ dân trí và đào tạo nghề và tạo nguồn lao động chất

lượng cao cho xây dựng NTM.

2.2.1.2. Những yếu tố cản trở việc thực hiện vai trò của gia đình vùng

đồng bằng sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới

Thứ nhất, mật độ dân số vùng ĐBSH quá cao: 994 người/km2 (trong đó cả

nước là 227 người/km2, đồng bằng sông Cửu Long là 434 người/km2) [110,

tr.85]. “Đặc điểm đất chật người đông dẫn đến lao động dư thừa, việc làm thiếu ở

cả hai khu vực nông thôn và thành thị”[51, tr.30]. Tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn là

1,94%, tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn là 1,99%. “Lao động thiếu việc làm ở khu

vực nông thôn vừa nhiều vừa tăng nhanh dẫn đến thu nhập và tích lũy của dân cư

nông thôn, nhất là nông dân vùng này thấp, nguồn vốn trong dân đầu tư cho tạo

việc làm mới ngoài nông nghiệp hạn chế so với vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng

sông Cửu Long” [51, tr.31]. Điều này gây khó khăn cho việc gia đình vùng ĐBSH

thực hiện tiêu chí giải quyết việc làm trong xây dựng NTM.

Thứ hai, đại bộ phận dân cư ở nông thôn vùng ĐBSH chủ yếu thạo nghề

làm nông nghiệp. Nhiều địa phương trong vùng dân số, lao động ở khu vực nông

thôn và làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao, trên 82% (ở Hải

Dương chiếm 86,8%; Hưng Yên chiếm 84%, Vĩnh Phúc chiếm 87,7%) [110,

tr.96-97] lại có xu hướng tăng dần làm cho tình trạng dư thừa lao động nông

nghiệp, thiếu việc làm trong các hộ nông dân trở thành phổ biến và nghiêm trọng.

51

chủ yếu lao động làm nghề thuần nông (làm ruộng, trồng màu, cây ăn quả,...) hoặc

nghề truyền thống, buôn bán nhỏ. Đây là khó khăn cho gia đình vùng ĐBSH khi

phát triển các ngành nghề công nghiệp, dịch vụ hoặc ứng dụng công nghệ cao

trong sản xuất nông nghiệp để thực hiện xây dựng NTM tại vùng.

Thứ ba, đất nông nghiệp một số tỉnh vùng ĐBSH bị thu hồi trở nên manh

mún và phân tán trong nhiều hộ gia đình dẫn đến khó khăn trong quá trình cơ giới

hóa, điện khí hóa nông nghiệp, thực hiện chủ trương “Cánh đồng lớn” trong xây

dựng NTM.

“Hiện trạng đất đai, độ an toàn của quỹ đất nông nghiệp liên quan tới chiến

lược an toàn lương thực của vùng ĐBSH trở thành một tình huống trong phát triển

bởi như nhiều người đã nhận định: đất đai vùng ĐBSH đang thu hẹp lại “miếng da

lừa”” [51, tr.33]. Điều này dẫn đến tình trạng khiếu kiện, tranh chấp đất đai, thậm

chí trở thành “điểm nóng” ở nhiều tỉnh vùng ĐBSH như Mỹ Đức (Hà Nội), Nam

Định, Vĩnh Phúc,...Hạn chế này cùng với khó khăn về thiếu vốn, thiếu năng lực

trong tổ chức, quản lý và điều hành các hoạt động công nghiệp và dịch vụ nên làm

chậm quá trình chuyển dịch cơ cấu trong xây dựng NTM.

Thứ tư, điểm xuất phát về kinh tế vùng ĐBSH tuy có cao hơn các vùng

khác nhưng nhìn chung còn thấp, tốc độ tăng trưởng GDP và tốc độ chuyển dịch

cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa còn chậm. Tốc độ tăng trưởng của các

địa phương trong vùng không đồng đều, vẫn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp hoặc

các làng nghề thủ công, nói chung kinh tế còn kém phát triển. Tác động mặt trái

của CNH, HĐH và phát triển của ngành nghề,.. đang diễn ra ở nhiều nơi rất

nghiêm trọng, gây khó khăn cho hoàn thiện các tiêu chí của xây dựng NTM.

Quá trình CNH, HĐH còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến việc xây dựng

NTM đã được thực hiện nhưng đến nay vẫn chưa tạo được những bước phát triển

bền vững cho ngành công nghiệp, dịch vụ và kinh tế hộ gia đình vùng ĐBSH.

Tóm lại, ĐBSH là một trong những vùng được thiên nhiên ưu đãi, có điều

kiện vị trí địa lý thuận lợi. Nông thôn vùng ĐBSH hiện nay còn nhiều khó khăn

nhưng cũng là vùng có nhiều tiềm năng phát triển, đời sống văn hóa, lịch sử lâu

đời, nguồn lực tự nhiên, nguồn nhân lực được ưu đãi hơn các vùng khác. Những

52

điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội này cũng ảnh hưởng đến phương thức sinh hoạt,

sản xuất, kinh tế, đời sống, tập quán của gia đình vùng ĐBSH. Điều này cũng tác

động đến việc gia đình vùng ĐBSH phát huy vai trò trong xây dựng NTM.

2.2.2. Tác động từ đặc điểm gia đình vùng đồng bằng sông Hồng tới

xây dựng nông thôn mới hiện nay

2.2.2.1. Đặc điểm về quy mô, tình trạng hôn nhân

Về quy mô và tình trạng hôn nhân, gia đình vùng ĐBSH có quy mô nhỏ

nhất so với các vùng khác; tỷ lệ không kết hôn đang có xu hướng tăng.

Quy mô trung bình một gia đình Việt Nam 3,7 người/ hộ, trong đó Trung

du miền núi phía Bắc là 3,9 người/ hộ, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung,

vùng đồng bằng sông Cửu Long là 3,7 người/ hộ, Tây Nguyên là 4,0 người/ hộ,

Đông Nam Bộ là 3,6 người/hộ, vùng ĐBSH là 3,5 người/ hộ (khu vực nông thôn

ĐBSH là 3,4 người/hộ) [111, tr.22]. Như vậy, so với cả nước và các vùng khác,

gia đình vùng ĐBSH có quy mô nhỏ nhất. Điều này cho thấy gia đình nông thôn

vùng ĐBSH đã chuyển dần mô hình gia đình truyền thống (ở đông người, nhiều

thế hệ trong một nhà) sang mô hình gia đình hiện đại ít người, có thể do hiện nay

người dân ở nông thôn có xu hướng thoát ly sớm, làm việc ở thành thị, từ đó chất

lượng cuộc sống của hộ gia đình nông thôn được nâng cao.

Tình trạng hôn nhân trong gia đình của vùng ĐBSH cũng có những điểm

riêng biệt, tỷ trọng gia đình kết hôn có vợ/chồng cao chiếm 71,4% trong khi đó ở

Đông Nam Bộ là 61,7% và Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là 66,4%

[110,tr.34]. Tình trạng không kết hôn (góa) ở vùng ĐBSH cũng cao hơn các vùng

khác chiếm 7,4% đứng thứ hai trong cả nước, Tây Nguyên chiếm 5,5%, Đông

Nam Bộ chiếm 5,9%, đồng bằng sông Cửu Long chiếm 6,8% [109, tr.34]. Gia

đình vùng ĐBSH vẫn chủ yếu là “gia đình đủ” (có vợ/ chồng), tỷ lệ ly hôn (chiếm

1,2%), ly thân (chiếm 0,4%) tương đối thấp. Điều này cho thấy người dân ở

ĐBSH đề cao vai trò của gia đình và gia đình có ảnh hưởng lớn đến mỗi người.

2.2.2.2. Đặc điểm về cơ cấu ngành nghề

Cơ cấu ngành nghề gia đình nông thôn vùng ĐBSH chủ yếu là sản xuất

nông nghiệp, thu nhập hộ gia đình vẫn đang còn thấp.

53

Biểu đồ 2.1: Cơ cấu nghề nghiệp chính của hộ gia đình

vùng đồng bằng sông Hồng

Nguồn: Số liệu khảo sát 6 tỉnh vùng ĐBSH năm 2017

Qua khảo sát tại các hộ gia đình vùng ĐBSH năm 2017 cho thấy cơ cấu

ngành nghề những hộ gia đình sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ lệ tương đối cao, ví

dụ như Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, trong khi đó những vùng như Hà Nội

(qua khảo sát ở huyện Chương Mỹ, huyện Đan Phượng), Quảng Ninh, Hải Phòng

thì ngành nghề chính của chủ hộ gia đình là tiểu thủ công nghiệp hoặc buôn bán,

dịch vụ nhỏ.

Qua khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2014 của Tổng cục thống kê,

tỷ lệ hộ nghèo của vùng ĐBSH có xu hướng giảm (năm 2010 là 8,3%, năm 2012

là 6,0%, năm 2014 giảm còn 4,0%) [109, tr.19], so với các vùng trong cả nước là

đứng thứ hai (xem phụ lục 1). Đây là một chuyển biến tốt cho thấy mức sống của

dân cư ĐBSH đã có thay đổi, mặc dù là vùng có dân số lớn nhưng tốc độ phát

triển của các hộ gia đình vùng ĐBSH so với cả nước là cao hơn.

Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu của xây dựng NTM thì kinh tế hộ gia đình

vùng ĐBSH còn gặp rất nhiều khó khăn và thách thức như chênh lệch lớn về năng

suất lao động giữa công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp. Mức thu nhập bình quân

của các hộ nông nghiệp vẫn thấp nhất so với các vùng trong cả nước (khoảng

1,073 triệu đồng). Từ đó nhiều hộ gia đình đã phải dịch chuyển sang các nghề phi

54

nông nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm của lực lượng lao động trong độ

tuổi năm 2015 phân theo vùng của ĐBSH còn khá cao (tỷ lệ thất nghiệp là 2,42%,

tỷ lệ thiếu việc làm là 1,60%) cao hơn với tỷ lệ chung của cả nước (2,33%, 1,89%)

[110, tr.155],...

2.2.2.3. Đặc điểm về đời sống văn hóa gia đình

Thứ nhất, gia đình vùng ĐBSH có đời sống văn hóa tinh thần phong phú đa

dạng, nền nếp, gia phong, có tính giáo dục cao.

ĐBSH là vùng đất lịch sử lâu đời của người Việt, nơi khai sinh của các

vương triều Đại Việt, đồng thời cũng là quê hương của các nền văn hóa Đông

Sơn, Thăng Long - Hà Nội. Đây là cái nôi hình thành văn hóa, văn minh Việt từ

buổi ban đầu và đến hiện nay, cũng là vùng bảo lưu những giá trị văn hóa truyền

thống. Trên đường đi tới xây dựng một nền văn hóa hiện đại, đậm đà bản sắc văn

hóa dân tộc, văn hóa vùng ĐBSH chứa đựng nhiều tiềm năng cần phải khai thác

và phát huy. Nơi lưu trữ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa chính là các

gia đình, dòng họ... Những nét văn hóa đó vẫn được lưu truyền ở các gia đình

trong làng quê người Việt và được thể hiện đậm nét trong đời sống văn hóa tinh

thần của người nông dân vùng ĐBSH.

Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam nói chung và gia đình vùng

ĐBSH nói riêng được hình thành và phát triển với những chuẩn mực giá trị tốt

đẹp góp phần xây dựng bản sắc văn hóa dân tộc. Hiện nay, phong trào xây dựng

gia đình văn hóa được sự ủng hộ mạnh mẽ từ nhân dân. Trong quá trình xây

dựng gia đình văn hóa, các gia đình vùng ĐBSH luôn biết giữ gìn và phát huy

bản sắc văn hóa dân tộc, lấy gia đình làm “pháo đài” chống lại sự xâm nhập của

các tệ nạn xã hội và mặt trái của cơ chế thị trường. Muốn lấy văn hóa là một

trong những mũi nhọn để xây dựng NTM vùng ĐBSH, thì phải xuất phát từ

chính gia đình. Gia đình là cái nôi kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa

truyền thống tốt đẹp vừa kết hợp với những giá trị tiên tiến hiện đại, hướng tới

mục tiêu làm cho gia đình là tế bào lành mạnh của xã hội và cũng là nơi xây

dựng nền văn hóa nông thôn bền vững.

55

Không chỉ là nơi lưu giữ, giáo dục văn hóa, gia đình vùng ĐBSH còn là nơi

giáo dục, hình thành nhân cách, lối sống cho mỗi người. Trong Cương lĩnh xây

dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển

năm 2011), Đảng ta khẳng định: Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng cả đời người, là

môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Trong một đời

người, con người sống lâu nhất trong gia đình và chịu ảnh hưởng từ gia đình sâu

sắc nhất trong việc hình thành nhân cách. Cách giáo dục của gia đình bằng nền

nếp, truyền thống, bằng tình yêu thương, nêu gương... [31].

Hiện nay, trước sự tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường và sự phát triển

CNH, HĐH thì gia đình càng đóng vai trò lớn lao trong việc giữ gìn những giá trị

truyền thống, giáo dục đạo đức con người. Gia đình cùng“chung sức xây dựng

NTM” thông qua các phong trào thi đua như sản xuất, kinh doanh giỏi, xóa đói

giảm nghèo; “ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền”, “nuôi con khỏe, dạy

con ngoan”,....

Thứ hai, gia đình nông thôn vùng ĐBSH trọng tình nghĩa, tính cố kết cộng

đồng, dòng họ chặt chẽ, coi trọng các quan hệ huyết thống.

Gia đình vùng ĐBSH chịu ảnh hưởng lớn bởi tính chất gia tộc, dòng họ

(quan hệ huyết thống), gia đình còn là một cộng đồng lớn hơn, có nhà thờ họ, có

gia phong, gia lễ, gia quy,... Ngoài ý nghĩa “hộ gia đình” thì gia đình nông thôn ở

vùng ĐBSH có nghĩa hiểu khác nữa là gia tộc, tức là một cộng đồng người có

quan hệ huyết thống dòng họ gắn bó chặt chẽ với nhau, thể hiện tinh thần đùm

bọc, yêu thương nhau, hỗ trợ nhau về vật chất và tinh thần và cũng có sự ảnh

hưởng, tác động lẫn nhau về thái độ cũng như hành động đối với các cộng đồng.

Đây là cơ sở để củng cố khối đoàn kết toàn dân, là động lực của các phong trào

như: phong trào nông dân sản xuất kinh doanh giỏi, phong trào xóa đói giảm

nghèo, nhất là phong trào xây dựng NTM cần có sự ủng hộ, đóng góp lớn của gia

đình, cộng đồng.

Tuy vậy, tính cộng đồng của gia đình nói riêng và vùng ĐBSH nói chung

được hình thành trên cơ sở nền kinh tế tiểu nông, khép kín, không khoa học nên

cũng có những hạn chế nhất định, nhất là sự thủ tiêu ý thức cá nhân, con người

56

hòa tan vào cộng đồng, lệ thuộc vào cộng đồng. Tạo ra tâm lý ỷ lại “dĩ hòa vi

quý”, “cha chung không ai khóc”của các gia đình vùng ĐBSH, không phát huy

được khả năng của từng gia đình; hoặc sinh tâm lý sống an toàn “nước nổi bèo

nổi”, cào bằng, trung bình chủ nghĩa, đố kỵ,... Điều này cũng gây khó khăn, hạn

chế việc phát huy vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong quá trình thực hiện xây

dựng NTM.

Thứ ba, gia đình vùng ĐBSH có truyền thống đấu tranh xây dựng và bảo vệ

làng, xã.

Ngay từ buổi sơ khai, gia đình vùng ĐBSH đã phải linh hoạt trong ứng xử

với tự nhiên, sống hài hòa với tự nhiên; trong ứng xử xã hội, thường phải đối phó

với các cuộc chiến tranh xâm lược nên có truyền thống đấu tranh xây dựng và

bảo vệ làng, xã.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ĐBSH là

chiến trường nóng bỏng, nơi đọ sức quyết liệt giữa ta và địch vì vậy mỗi thôn

xóm thành một pháp đài, mỗi người dân là một chiến sĩ anh dũng, chiến đấu

ngay trong lòng địch, mỗi gia đình đều dốc sức, dốc của tham gia chiến đấu giữ

làng, giữ xóm. Hàng trăm thôn, xã vang dội những chiến công như: Nguyên Xá

(Thái Bình), Tam Nông (Hưng Yên), Liên Minh (Nam Định),... cùng với đó là

các địa danh nổi tiếng như Đường 10 quật khởi, “Cát Bi rực lửa”,... Các gia đình

vùng ĐBSH cũng phát huy truyền thống trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

Đến nay, trong công cuộc đổi mới của đất nước, gia đình vùng ĐBSH vẫn

phát huy được truyền thống cách mạng, hun đúc nên truyền thống văn hóa tốt

đẹp của các gia đình: Cần cù, hiếu học, thông minh, dũng cảm, yêu nước và cách

mạng. Từ đó, tinh thần cách mạng cũng được gia đình vùng ĐBSH phát huy

trong đấu tranh phòng, chống tiêu cực, tham ô, tham nhũng ở địa phương hiện

nay, góp phần đảm bảo an ninh trật tự, xã hội.

Đây là những đặc điểm cơ bản của gia đình vùng ĐBSH. Đảng, Nhà nước

và chính quyền địa phương cần tìm hiểu những đặc điểm này để phát huy những

thế mạnh, đồng thời khắc phục, điều chỉnh những hạn chế để gia đình vùng ĐBSH

phát huy hơn nữa vai trò trong xây dựng NTM thời gian tới.

57

2.2.3. Tác động nhận thức của người dân, chính quyền về vai trò của

gia đình vùng đồng bằng sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới

Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM là chương trình lớn,

có tầm quan trọng tác động trực tiếp đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã

hội, và cũng tác động lớn đến đời sống vật chất và tinh thần của mỗi cá nhân

người dân, gia đình nông thôn. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta xác định nguyên

tắc tiên quyết đó là: xây dựng NTM là sự nghiệp của toàn dân, là trách nhiệm

và quyền lợi thiết thực của mỗi người dân nông thôn. Đây là chương trình phục

vụ chính người dân hay nói cách khác là phục vụ chính các thành viên trong gia

đình nên người dân phải là chủ thể xây dựng, vai trò của từng gia đình phải

được phát huy.

Để người dân và chính quyền nhận thấy được việc xây dựng NTM không

phải chỉ là việc của chính quyền, tổ chức chính trị hay mỗi cá nhân mà còn có sự

ủng hộ của một thiết chế xã hội đặc thù có ảnh hưởng rất lớn đến từng cá nhân -

đó là gia đình. Chương trình xây dựng NTM phục vụ cuộc sống của gia đình nên

các gia đình phải là chủ thể trực tiếp thực hiện, trực tiếp hưởng thụ và cũng trực

tiếp xây dựng, tu sửa và giữ gìn nhưng phải có sự ủng hộ, động viên, đồng lòng

của gia đình thì mới có thể phát huy hết được sức mạnh.

Việc nâng cao nhận thức từ chính quyền, đoàn thể và người dân sẽ tạo sự

chuyển biến trong hành động không chỉ của cá nhân mà với toàn xã hội trong xây

dựng NTM. Bên cạnh đó, từ việc nâng cao nhận thức sẽ tránh được tình trạng gia

đình nông thôn trông chờ, ỉ lại vào sự đầu tư của Nhà nước khi triển khai những

công trình của chính mình.

Muốn thực hiện thành công bất kỳ đường lối, chính sách nào trước hết phải

xuất phát từ chính nhận thức, nhận thức có đúng, hoàn chỉnh thì khi thực hiện mới

đạt hiệu quả cao. Vì vậy, muốn phát huy được vai trò của gia đình cần phải nâng

cao nhận thức của nhân dân, chính quyền và xã hội phải thấy được vai trò, vị trí,

trách nhiệm to lớn của gia đình trong xây dựng NTM.

58

2.2.4. Tác động của cơ chế, chính sách đến việc thực hiện vai trò của

gia đình vùng đồng bằng sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới

Chính sách là do một chủ thể quyền lực hoặc chủ thể quản lý đưa ra, được

ban hành căn cứ vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế, được sắp xếp,

tổ chức thực hiện và bao giờ cũng hướng đến một mục đích nhất định; nhằm thực

hiện một mục tiêu nào đó. Cơ chế, chính sách được ban hành đều có sự tính toán

và chủ đích rõ ràng. Từ thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta đưa ra cơ chế, chính sách

để vận động gia đình vùng ĐBSH phát huy vai trò trong xây dựng NTM.

Ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã khẳng định:

Gia đình là tế bào của xã hội, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp

xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, con người mới. Đảng, Nhà nước

và các đoàn thể quần chúng cần đề ra phương hướng, chính sách và có

biện pháp tổ chức thực hiện về xây dựng gia đình văn hóa mới, bảo

đảm hạnh phúc gia đình [34, tr.429-tr.430].

Muốn xây dựng NTM thành công cần có những cơ chế, chính sách phù hợp

thu hút sự quan tâm, đóng góp của tất cả các tầng lớp nhân dân, tổ chức chính trị,

xã hội. Với một thiết chế xã hội đặc thù như gia đình thì cơ chế, chính sách của

Đảng và Nhà nước là cần thiết để huy động được sự tham gia nhiệt tình, tự giác

vào phong trào xây dựng NTM.

Cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước, chính quyền địa phương đúng

đắn, phù hợp sẽ có tác động rất lớn đến gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng

NTM. Đảng và Nhà nước hoạch định, xây dựng được những chủ trương, biện

pháp, đường lối, chính sách phù hợp sẽ lôi cuốn, động viên, thu hút được đông

đảo các hộ gia đình tham gia đóng góp xây dựng NTM.

Những cơ chế chính sách về xây dựng NTM cần thiết để phát huy vai trò

của gia đình trong xây dựng NTM như: Cơ chế về huy động vốn từ hộ gia đình

để xây dựng NTM; rà soát sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách thu hút đầu tư

phát triển nông nghiệp, nông thôn tập trung vào các lĩnh vực sản xuất theo các

mô hình: kinh tế hợp tác, kinh tế trang trại, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ,

59

các hình thức liên kết, ưu tiên các dự án phát triển nông nghiệp, công nghệ cao,

chế biến hàng nông sản và các dự án sử dụng nhiều lao động để tạo việc làm và

nâng cao thu nhập cho gia đình nông thôn; cơ chế thực hành dân chủ: dân biết,

dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng; Chính sách hỗ trợ thiệt hại để

khôi phục sản xuất do thiên tai, dịch bệnh. Xây dựng chính sách thu hút cán bộ

kỹ thuật, cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học về công tác tại xã để hỗ trợ cho bà

con nông dân; cơ chế, chính sách xây dựng gia đình văn hóa. Ngoài ra, cần có cơ

chế động viên, khen thưởng kịp thời đối với các gia đình tích cực tham gia xây

dựng NTM, từ đó gây dựng thành các điển hình tiên tiến, tuyên dương để có sức

lan tỏa trong cộng đồng.

Như vậy, cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước có tác động hai mặt

đến gia đình vùng ĐBSH vùng xây dựng NTM, cơ chế, chính sách đúng, phù hợp

thì sẽ phát huy được vai trò của gia đình và ngược lại nếu cơ chế, chính sách

không phù hợp hoặc chưa có cơ chế, chính sách để vận động gia đình tham gia thì

xây dựng NTM sẽ không thể thành công.

2.2.5. Tác động bởi đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cách

mạng khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế đến việc thực hiện vai trò của

gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng nông thôn mới

Đảng và Nhà nước ta hiện nay đang đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất

nước, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 23/NQ-TƯ ngày 22/3/2018 về định

hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm

nhìn đến năm 2045, trong đó xác định mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam hoàn

thành mục tiêu CNH, HĐH, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện

đại... Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển

hiện đại.

Trước hết, tác động tích cực quá trình đô thị hóa, CNH, HĐH đất nước,

cuộc cách mạng khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế đến gia đình vùng

ĐBSH. Quá trình này giúp gia đình vùng ĐBSH tiếp cận với khoa học, công nghệ

tiên tiến, hiện đại, tiếp nhận và ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ trong

60

quá trình sản xuất như giống cây trồng, vật nuôi, kỹ thuật sản xuất, bảo quản, vận

chuyển, mô hình trang trại,... tạo điều kiện thuận lợi để gia đình thực hiện ứng

dụng công nghệ cao trong xây dựng NTM.

Quá trình đô thị hóa, CNH, HĐH đất nước, việc ứng dụng thành tựu của

cuộc cách mạng khoa học công nghệ vào sản xuất giúp cải thiện thu nhập cho gia

đình vùng ĐBSH, đời sống gia đình được nâng cao hơn thúc đẩy thực hiện công

tác xóa đói giảm nghèo, chính sách an sinh xã hội cho xây dựng NTM; bên cạnh

đó còn mở ra cho gia đình vùng ĐBSH nguồn lực về vốn với nhiều loại hình như

ngân hàng, tín dụng, các quỹ hoặc các doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm,... Nguồn

vốn này đã hỗ trợ cho kinh tế gia đình vùng ĐBSH phát triển tạo điều kiện thực

hiện nhóm tiêu chí thứ ba của xây dựng NTM.

Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đã làm cơ cấu ngành nghề

đa dạng hơn, các sản phẩm thủ công nghiệp, ngành nghề truyền thống được phục

hồi, từ đó giải quyết lao động tại chỗ cho các hộ gia đình, giải quyết việc làm

cho thành viên trong gia đình. Cùng với đó, quá trình hội nhập quốc tế mở ra

nhiều cơ hội việc làm cho người dân, thành viên gia đình vùng ĐBSH có điều

kiện tiếp cận đến gia đình tốt hơn; có cơ hội tìm kiếm việc làm và xuất khẩu lao

động ra các nước trên thế giới, từ đó nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho

gia đình vùng ĐBSH.

Ngoài ra, thành tựu của quá trình CNH, HĐH, khoa học công nghệ làm

thay đổi về kết cấu hạ tầng nông thôn, nâng cao đời sống cho gia đình vùng

ĐBSH phát triển toàn diện. Kết cấu hạ tầng nông thôn gồm đường giao thông,

mạng lưới điện, thủy lợi, nước sạch, bưu chính viễn thông, mạng internet và các

dịch vụ khác. Thành tựu quan trọng này của quá trình CNH, HĐH làm cho đời

sống gia đình vùng ĐBSH được cải thiện hơn, thuận lợi hơn trong quá trình sản

xuất, tiêu thụ sản phẩm, hội nhập quốc tế, gia đình tích cực tham gia hoàn thiện

tiêu chí xây dựng NTM.

Quá trình CNH, HĐH, hội nhập quốc tế làm thay đổi khá căn bản đời sống

gia đình nông thôn vùng ĐBSH theo hướng văn minh, hiện đại, mở cửa hội nhập,

61

không còn khép kín sau lũy tre làng. Thay đổi trước hết về nghề nghiệp, thu nhập

của gia đình, cùng với đó là tạo điều kiện cho có cơ hội giao lưu, hội nhập, tiếp

cận với lối sống văn minh hiện đại, có cơ hội giao lưu bên ngoài. Do đó, thay đổi

nếp sống, tư duy, tác phong công nghiệp được nâng cao hơn, lối sống văn minh,

hiện đại, mở rộng hơn trong xây dựng NTM vùng ĐBSH.

Tuy nhiên, mặt trái của quá trình đô thị hóa, CNH, HĐH, hội nhập quốc tế

cũng tác động tiêu cực đến việc gia đình vùng ĐBSH thực hiện vai trò trong quá

trình xây dựng NTM.

Tình trạng đất nông nghiệp bị thu hẹp làm cho một bộ phận gia đình nông

thôn vùng ĐBSH không có đất canh tác, không có việc làm tại chỗ dẫn đến tình

trạng ly nông, ly hương. Quá trình đô thị hóa, CNH, HĐH cho thấy các khu công

nghiệp, khu đô thị, khu chế xuất,... được xây dựng, đất nông nghiệp bị thu hẹp,

hoặc người dân bỏ làm nông để làm tại các khu công nghiệp. Tình trạng này dẫn

đến nhiều hệ lụy như mâu thuẫn trong quá trình thu hồi đất, đền bù mặt bằng,

người dân không có trình độ bị thất nghiệp, thiếu việc làm. Các thành viên đi làm

xa gia đình dễ bị cám dỗ, dẫn đến nguy cơ sa vào tệ nạn xã hội, gây khó khăn cho

xây dựng NTM.

Bên cạnh việc phát triển của hệ thống ngân hàng, tín dụng,... cũng nảy sinh

hình thành các tín dụng đen, cho vay nặng lãi, lừa đảo sự cả tin, hám lợi trước mắt

của một bộ phận người dân nông thôn dẫn đến tình trạng gia đình bị rơi vào cảnh

nợ nần, trắng tay, gây mất an ninh trật tự xã hội ở địa phương.

Cùng với đó, quá trình CNH, HĐH cũng đang tác động tiêu cực đến lợi ích

kinh tế của gia đình. Kinh tế gia đình nông thôn vùng ĐBSH cơ bản vẫn là kinh tế

tự phát, không có quy hoạch đồng bộ thiếu nhất quán, khiến cho kinh tế trong xây

dựng NTM còn tồn tại manh mún, chưa hiệu quả, chưa đi vào chiều sâu và thiếu

tính bền vững.

Mặt trái của đô thị hóa, CNH, HĐH dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường

tăng cao, phá vỡ môi trường sống của nông thôn vùng ĐBSH, dẫn đến tình trạng

sức khỏe của thành viên gia đình vùng ĐBSH bị ảnh hưởng, tỷ lệ ung thư tăng lên,

vô sinh,...

62

Quá trình hội nhập quốc tế diễn ra cũng làm cho việc thực hiện các chức

năng của gia đình vùng ĐBSH bị phá vỡ. Tỷ lệ bố mẹ trong độ tuổi lao động đi

xuất khẩu lao động ở nước ngoài tương đối nhiều, dẫn đến việc giáo dục con cái

không được đảm bảo; tội phạm tuổi vị thành niên có xu hướng tăng. Mặt trái của

quá trình hội nhập cũng ảnh hưởng không tốt đến văn hóa gia đình vùng ĐBSH,

kết cấu gia đình lỏng lẻo, đạo đức gia đình suy thoái; tình trạng ly hôn, không kết

hôn tăng lên. Đây là hậu quả chung của quá trình CNH, HĐH, hội nhập quốc tế, vì

vậy, gia đình phải là thành trì vững chắc để giữ gìn văn hóa gia đình, giáo dục

phẩm chất đạo đức của các thành viên trong gia đình.

Như vậy, trong khi đất nước đã có những chuyển biến về mọi mặt, đời sống

của nhân dân được cải thiện thì quá trình đô thị hóa, CNH, HĐH, hội nhập quốc tế

có tác động hai chiều đến gia đình vùng ĐSBH, vừa làm cho gia đình phát huy

được vai trò, vừa nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc cần sớm được khắc phục trong

quá trình xây dựng NTM. Vì vậy, cần phải có những chính sách cụ thể, phù hợp

để đảm bảo lợi ích cho gia đình trong xây dựng NTM.

Tiểu kết chương 2

Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, được hình thành và phát triển trên

cơ sở các mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, có

vai trò quan trọng đối với sự phát triển, thành bại của một quốc gia. Gia đình ở

nông thôn có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông

thôn ở Việt Nam mà thể hiện rõ nét nhất hiện nay là chương trình xây dựng NTM,

được triển khai sâu rộng trên khắp cả nước từ năm 2010 đến nay.

Căn cứ Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM và các vai trò của gia đình,

luận án xây dựng khung lý thuyết về vai trò của gia đình trong xây dựng NTM tập

trung ở năm nội dung cơ bản sau: phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn;

phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất; giữ gìn, bảo lưu, phát triển các giá trị văn

hóa, phát triển giáo dục, đào tạo; bảo vệ môi trường; thực hiện quá trình dân chủ

63

hóa ở nông thôn góp phần xây dựng hệ thống chính trị, bình đẳng giới, phòng,

chống bạo lực gia đình và đảm bảo an ninh nông thôn.

Đồng bằng sông Hồng là một trong những vùng đi đầu trong xây dựng

NTM, gia đình nông thôn vùng ĐBSH đã và đang tích cực tham gia góp phần cho

vùng nhanh chóng đạt được các tiêu chí NTM. Tuy nhiên, hiện nay nhiều yếu tố

tác động đến việc thực hiện vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng

NTM. Trong đó có điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng ĐBSH; đặc điểm gia

đình vùng ĐBSH; nhận thức của người dân, của chính quyền về vai trò của gia

đình; tác động của cơ chế, chính sách để vận động gia đình vùng ĐBSH phát huy

vai trò trong xây dựng NTM và tác động từ quá trình đô thị hóa, CNH, HĐH, cách

mạng khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế.

Đây chính là cơ sở để luận án đưa ra những quan điểm, giải pháp phát huy

hơn nữa vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM ở giai đoạn tiếp

theo,với mục tiêu đưa các tỉnh vùng ĐBSH nhanh chóng “cán đích” NTM, và xây

dựng NTM một cách bền vững, đi vào chiều sâu, đáp ứng nhu cầu, nâng cao đời

sống vật chất và tinh thần cho gia đình vùng ĐBSH.

64

Chương 3

VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY -

THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VÙNG ĐỒNG

BẰNG SÔNG HỒNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY VÀ

NGUYÊN NHÂN

3.1.1. Thực trạng thực hiện vai trò của gia đình vùng đồng bằng sông

Hồng trong xây dựng nông thôn mới hiện nay

3.1.1.1. Thực trạng thực hiện vai trò của gia đình vùng đồng bằng sông

Hồng trong phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội

Xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội là tiêu chí được đầu tư quan tâm nhiều

nhất của ĐBSH khi thực hiện xây dựng NTM và cũng là tiêu chí dễ đánh giá, dễ

nhận thấy, nhất là xây dựng hệ thống giao thông, thủy lợi, điện, nhà văn hóa, khu

thể dục thể thao, nhà ở,... Đối với tiêu chí này, gia đình nông thôn vùng ĐBSH đã

và đang tích cực tham gia xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn khang trang

hơn, sạch đẹp hơn.

Thời gian qua, gia đình vùng ĐBSH đã tích cực tham gia xây dựng hệ

thống giao thông, thủy lợi, công trình cung cấp điện thông qua các hoạt động thiết

thực như hiến đất làm đường, ủng hộ hiện vật, ủng hộ ngày công lao động,...

Chính quyền địa phương vùng ĐBSH đã tích cực vận động gia đình tham

gia xây dựng đường làng, ngõ xóm, từ đó có nơi đã trở thành những phong trào,

thu hút được đông đảo gia đình ủng hộ như “Phong trào làm đường giao thông

nông thôn”, phong trào “Toàn dân chung sức xây dựng NTM”,...

Gia đình vùng ĐBSH đã đồng tình và tự nguyện đóng góp cho xây dựng hạ

tầng giao thông, hạ tầng thủy lợi, hạ tầng điện của địa phương với nhiều hình thức

từ hiến tặng đất đai, ủng hộ hiện vật, ủng hộ tiền mặt, đóng góp công lao động đến

tham gia giữ gìn, sửa chữa tu bổ, nhất là đối với hạ tầng giao thông và hạ tầng

thủy lợi, các hộ còn tích cực tham gia giữ gìn, sửa chữa, tu bổ các hạ tầng sau khi

đã xây dựng. Trong đó, hạ tầng giao thông (xây dựng đường làng, ngõ xóm,

65

đường giao thông thôn, xóm, giao thông nội đồng,..) được gia đình vùng ĐBSH

quan tâm và đóng góp xây dựng nhiều nhất, làm thay đổi bộ mặt nông thôn của

vùng, thể hiện qua biểu đồ sau:

Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ gia đình vùng đồng bằng sông Hồng

đóng góp xây dựng hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện

Nguồn: Bảng 6, phụ lục 1.2

Ở Hải Dương, “sau 5 năm thực hiện NTM xây dựng, cải tạo, nâng cấp

2.350 km đường giao thông, đến nay 92,5% đường xã, 91,7% đường thôn,

88,6% đường xóm được chuẩn NTM” [115]; Tổng số tiền thực hiện xây dựng

giao thông là 2,460 tỷ đồng trong đó các hộ gia đình đóng góp là 1,910 tỷ đồng

chiếm 77% [115].

Tại Quảng Ninh, với phong trào thi đua “Quảng Ninh chung sức xây

dựng NTM” được các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội và địa

phương triển khai sáng tạo, cụ thể bằng các phong trào gia đình tham gia hiến

đất, hiến công, quyên góp tiền mặt, vật tư, vật liệu xây dựng các công trình hạ

tầng giao thông, kênh mương nội đồng [112].

Điển hình như huyện Đan Phượng (Hà Nội), đây là huyện đầu tiên của

Thành phố Hà Nội được công nhận đạt chuẩn NTM (tháng 10 /2015) và hiện đang

66

tiếp tục triển khai để trở thành huyện NTM kiểu mẫu. Trong quá trình xây dựng

NTM, các gia đình đã đóng góp gần 202 tỷ đồng (bằng gần 9% tổng nguồn vốn

đầu tư XDNTM của huyện), cộng với hàng trăm nghìn ngày công lao động, hơn

2.500 m2 đất thổ cư để làm đường giao thông. Điển hình là các gia đình ông Đặng

Văn Trung, bà Tạ Thị Thái (xã Thượng Mỗ), anh Phạm Văn Tiến (xã Phương

Đình)... [35].

Hiệu quả của Chương trình xây dựng NTM nhìn thấy rõ ràng nhất đó là sự

thay đổi đường làng, ngõ xóm ở nông thôn vùng ĐBSH. Đến nông thôn vùng

ĐBSH, đâu cũng thấy những con đường bê tông sạch đẹp, hai bên là cây xanh,

hoa tươi được tỉa gọn gàng, những ngôi nhà cao tầng mới đang được xây dựng,

được đánh số và có tên đường cụ thể...

Chỉ tiêu về hạ tầng điện cũng rất quan trọng. Gia đình vùng ĐBSH cũng

đóng góp vào việc nâng cấp hệ thống đường dây, cột điện; lắp đặt đèn chiếu sáng

đường làng, cải tạo điện gia đình. Tại Hải Dương, giai đoạn I các gia đình đóng

góp khoảng 400 triệu đồng, trong đó 300 triệu trong nâng cấp đường dây, lắp đèn

chiếu sáng đường làng và 100 triệu cho việc cải tạo điện gia đình [116]. Bên cạnh

đó, gia đình vùng ĐBSH trong quá trình hưởng thụ, sử dụng các công trình, hạng

mục này cũng luôn giữ gìn, tu bổ và nâng cấp; sử dụng điện tiết kiệm, không gây

lãng phí, đảm bảo an ninh năng lượng cho toàn vùng.

Gia đình vùng ĐBSH tích cực tham gia xây dựng hệ thống cơ sở văn hóa,

thể dục, thể thao,... để phục vụ cho chính đời sống tinh thần của các thành viên

trong gia đình. Các gia đình đã đóng góp xây dựng và nâng cấp các thiết chế văn

hóa thể thao xã, thôn và trung tâm văn hóa, thể thao xã đạt chuẩn có đầy đủ các

hạng mục như hội trường, nhà luyện tập thể thao, sân vận động, sân khấu ngoài

trời, một số xã đã huy động được nhân dân xây dựng cả nhà chức năng,...; xây

dựng kết cấu hạ tầng thương mại trên địa bàn các tỉnh được đầu tư, xây mới, cải

tạo nâng cấp chợ nông thôn, bưu điện, hạ tầng mạng lưới bưu chính, viễn thông,

đáp ứng dịch vụ internet,...

Đối với các mục hạ tầng này, gia đình vùng ĐBSH chủ yếu thực hiện ủng

hộ tiền mặt, đóng góp ngày công lao động và tham gia sửa chữa, tu bổ và chủ yếu

tập trung vào hạ tầng văn hóa và giáo dục đào tạo, vì đây là những hạ tầng phục

67

vụ cho đời sống văn hóa, tinh thần của các thành viên trong gia đình, được sử

dụng thường xuyên mang tính cộng đồng cao.

Biểu đồ 3.2: Tỷ lệ gia đình vùng đồng bằng sông Hồng

đóng góp xây dựng hạ tầng văn hóa, giáo dục đào tạo, chợ,

thông tin truyền thông, y tế, trụ sở, nhà ở cư dân

Nguồn: Bảng 6, phụ lục 1.2

Tiêu biểu như tại Vĩnh Phúc, các hộ gia đình đóng góp tiền mặt và hiến

tặng đất đai giải phóng mặt bằng để xây dựng nhà văn hóa thôn [121]. Tại Hải

Dương, các hộ gia đình đóng góp 150 triệu đồng xây dựng cơ sở vật chất văn hóa

cấp thôn, chiếm 11,7% tổng số vốn đầu tư, đóng góp khoảng 60 triệu đồng để cải

tạo, nâng cấp chợ, xây mới chợ, chiếm 17,6% tổng số vốn đầu tư [115]. Tại huyện

Đan Phượng, huyện Chương Mỹ (Hà Nội), Nam Định, Thái Bình, Quảng Ninh,...

cùng với chính quyền thôn, xã, các hộ gia đình đã tích cực tham gia xây dựng,

nâng cấp, giữ gìn nhà văn hóa.

Hạ tầng phục vụ giáo dục, đào tạo cũng được các gia đình quan tâm chủ

yếu đóng góp để xây dựng trường, trang thiết bị đầu tư cho giáo dục. Các tỉnh

vùng ĐBSH những năm gần đây tăng số trường học đạt chuẩn quốc gia, con em

68

gia đình vùng ĐBSH được học tập với cơ sở vật chất và trang thiết bị giáo dục

hiện đại hơn, khang trang, sạch đẹp hơn. Gia đình đang phối hợp cùng với nhà

trường tạo điều kiện học tập tốt nhất cho thế hệ tương lai.

Tỉnh Vĩnh Phúc, trong thời gian qua các hộ gia đình cũng tích cực đóng

góp để xây dựng, nâng cấp, cải tạo trường mầm non, mẫu giáo, trường tiểu học,

trường trung học cơ sở với số tiền là 5,1 tỷ đồng,... [121].

Trong những năm qua các gia đình vùng ĐBSH đã tự giác xây mới, nâng

cấp, cải tạo nhà ở theo quy hoạch của địa phương; các hộ nghèo được hỗ trợ xây

dựng, sửa chữa nhà ở. Ví dụ Hà Nội hỗ trợ xây dựng 11.260 hộ nghèo xây dựng,

sửa chữa nhà ở xuống cấp, hư hỏng nặng, xây dựng, sửa chữa 3.296 nhà ở hộ

chính sách cho người có công [43]. Tại Vĩnh Phúc, nhà ở dân cư được cải thiện

đáng kể, khang trang hơn. Để được như vậy, các gia đình đã chi hơn 5,1 tỷ đồng

(chiếm gần 80% vốn đầu tư) nhất là việc xây mới, chỉnh trang nhà ở dân cư [121].

Tại một số địa phương, cộng đồng dân cư còn đóng góp xây dựng trụ sở thôn, xã

như Thái Bình, Quảng Ninh,...

Khi bắt đầu xây dựng đề án NTM, qua đánh giá hiện trạng xây dựng cơ sở

hạ tầng là tiêu chí đạt được ở mức độ thấp nhất nhưng đến nay cơ sở hạ tầng kinh tế

- xã hội ở hầu hết các xã của các tỉnh đặc biệt là các xã điểm xây dựng NTM đều đã

được cải tạo, nâng cấp khá đồng bộ, làm thay đổi rõ nét diện mạo nông thôn.

Tuy nhiên, khi gia đình thực hiện xây dựng kinh tế - xã hội nông thôn còn

tồn tại một số hạn chế cần khắc phục sau:

Một là, chính quyền địa phương và gia đình vùng ĐBSH chưa đánh giá

đúng tiềm năng về vai trò của gia đình trong xây dựng, giữ gìn nâng cao chất

lượng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội.

Nhận thức của một số cán bộ, Đảng viên và nhân dân, một số gia đình vùng

ĐBSH về xây dựng NTM còn chưa đầy đủ; hầu như vẫn còn tâm lý trông chờ, ỷ

lại vào sự đầu tư của Nhà nước, việc huy động đóng góp của nhân dân, gia đình và

của gia đình vùng ĐBSH về những tổ chức tham gia vào xây dựng NTM" cho

doanh nghiệp còn khó khăn. Qua "Bảng 4, phụ lục 1.2: Tổng hợp ý kiến đánh giá

thấy gia đình vẫn đề cao vai trò của Đảng, nhà nước, chính quyền địa phương và

69

nhân dân mà coi nhẹ vai trò của các doanh nghiệp và tổ chức chính trị - xã hội.

Trong khi đó xây dựng NTM, cần huy động tất cả các nguồn lực, nhất là các chủ

thể có nguồn lực về “sức người, sức của”, nên cần quan tâm đến việc huy động

doanh nghiệp, tổ chức đoàn thể tham gia để hỗ trợ gia đình trong xây dựng NTM.

Hai là, gia đình vùng ĐBSH đóng góp cho việc xây dựng các hạ tầng cơ sở

kinh tế - xã hội ở địa phương chưa đồng đều giữa các hạng mục hạ tầng, chưa

chú trọng xây dựng các hạng mục hạ tầng một cách bền vững.

Nguồn lực đầu tư cho các công tác xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội

NTM ở ĐBSH còn rất hạn hẹp, chủ yếu vẫn là nguồn đầu tư từ ngân sách nhà

nước; Công tác đấu giá đất còn gặp nhiều khó khăn do thị trường bất động sản

đóng băng; Việc thu hút nguồn lực xã hội, nhất là nguồn lực đóng góp, ủng hộ

từ các gia đình chưa nhiều. Có địa phương nguồn huy động vốn ủng hộ từ nhân

dân chỉ chiếm khoảng từ 10% - 20%, còn chủ yếu là từ vốn tín dụng, vốn

doanh nghiệp.

Gia đình đóng góp vào xây dựng các hạng mục hạ tầng kinh tế - kỹ thuật

nông thôn còn chưa đồng đều giữa các tiêu chí và thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng

yêu cầu sản xuất và phục vụ đời sống sinh hoạt của nhân dân. Chính quyền địa

phương kêu gọi gia đình đóng góp xây dựng hạ tầng về giao thông, thủy lợi, điện,

giáo dục, đào tạo, cơ sở vật chất văn hóa, nhà ở dân cư dễ hơn, nhận được sự ủng

hộ, thực hiện của đông đảo các gia đình trong khi đó, các tiêu chí như chợ nông

thôn, về thông tin, truyền thông, y tế thì chưa thu hút được sự tham gia đầu tư,

thực hiện của các gia đình. Qua biểu đồ 3.2. Tỷ lệ gia đình vùng ĐBSH đóng góp

xây dựng hạ tầng văn hóa, giáo dục, đào tạo, chợ, thông tin truyền thông, y tế, trụ

sở, nhà ở, cư dân” cho thấy tỷ lệ gia đình “chưa đóng góp” xây dựng hạ tầng

thông tin, y tế, trụ sở, nhà ở là tương đối cao (trên 50%).

Bên cạnh đó, với hạ tầng giao thông nông thôn, thủy lợi, điện phục vụ

sản xuất ở những vùng nông thôn xa trung tâm nhiều nơi còn khó khăn, các gia

đình chưa có sự ủng hộ tiền mặt, hiện vật mà chủ yếu là tham gia đóng góp

công lao động.

70

Ba là, gia đình vùng ĐBSH chưa quan tâm nhiều đến việc tham gia giữ gìn,

sửa chữa, tu bổ, nâng cấp các hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội.

Mặc dù tỷ lệ gia đình trả lời có tham gia giữ gìn, sửa chữa, tu bổ hạ tầng

cơ sở kinh tế - xã hội khá cao: hạ tầng giao thông (67%), hạ tầng thủy lợi (44%),

hạ tầng cơ sở vật chất văn hóa (32,3%) (xem biểu đồ 3.1, 3.2), nhưng trên thực tế

của nhiều địa phương cho thấy qua giai đoạn I xây dựng NTM, các công trình

giao thông, thủy lợi nội đồng bắt đầu xuống cấp, chưa được đầu tư kịp thời; cơ

sở vật chất về văn hóa, giáo dục, y tế của một số xã còn thiếu, chưa được nâng

cấp; tỷ lệ hộ nông dân được dùng nước hợp vệ sinh và công trình vệ sinh đạt tiêu

chuẩn còn thấp.

Công tác giữ gìn, nâng cấp, sửa chữa, tu bổ cơ sở hạ tầng chưa được chính

quyền địa phương quan tâm, chưa huy động sức dân, chưa phát huy được sự tham

gia tích cực của gia đình trong nâng cao ý thức trách nhiệm giữ gìn các hạng mục

hạ tầng này mà mới chỉ dừng lại ở việc ủng hộ để cải tạo hạ tầng cũ và xây dựng

hạ tầng mới.

Bốn là, một số gia đình ở một số địa phương phải đi vay để đóng góp cho

xây dựng NTM.

Chính quyền tại một số địa phương đã huy động từ các gia đình để đóng góp

xây dựng hạ tầng cơ sở, tuy nhiên ở một số địa phương một số gia đình còn khó

khăn thậm chí có gia đình thuộc hộ nghèo chưa đủ khả năng phải đi vay để đóng

góp cho xây dựng NTM. Điều nay cũng làm hạn chế sự tham gia của đông đảo gia

đình trong xây dựng NTM, thậm chí tạo sức ép, gánh nặng lên các gia đình.

3.1.1.2. Thực trạng thực hiện vai trò của gia đình trong phát triển kinh tế

và tổ chức sản xuất

- Vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong phát triển kinh tế hộ gia đình,

nâng cao thu nhập và xóa đói giảm nghèo

Phát triển kinh tế hộ gia đình, nâng cao thu nhập và xóa đói giảm nghèo là

một trong các tiêu chí quan trọng của xây dựng NTM, gồm các tiêu chí 10, 11, 12,

13 về kinh tế và tổ chức sản xuất.

71

Trong những năm qua, gia đình vùng ĐBSH đã có những đóng góp tích

cực trong thực hiện nhóm tiêu chí thứ 3 của xây dựng NTM, được thể hiện qua

các nội dung sau:

Một là, những năm vừa qua, gia đình vùng ĐBSH đã thực hiện chuyển dịch

cơ cấu hộ theo hướng hiện đại, chuyển từ sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản

sang công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.

Vùng ĐBSH có sự dịch chuyển nhanh, sau 10 năm cơ cấu hộ có sự

chuyển dịch rõ nét từ hộ nông, lâm thủy sản sang hộ phi nông, lâm, thủy sản.

Cơ cấu gia đình vùng ĐBSH có sự chuyển dịch nhanh với tỷ trọng hộ nông,

lâm nghiệp, thủy sản giảm đến 21,5%; nhóm hộ công nghiệp - xây dựng và

dịch vụ tăng 14,95%, nhóm hộ dịch vụ tăng 5,06%. Điều này diễn ra ở tất cả

các tỉnh vùng ĐBSH, trong đó một số tỉnh có sự chuyển dịch mạnh mẽ như Hải

Dương, Bắc Ninh.

Hộ Dịch vụ Hộ khác

Hộ Nông lâm Thủy sản Hộ Công nghiệp Xây dựng

Biểu đồ 3.3: Cơ cấu hộ vùng đồng bằng sông Hồng qua 3 kỳ Tổng điều tra

Nguồn: Báo cáo sơ bộ kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản

năm 2016, Ban chỉ đạo tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản

trung ương, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội, 2016, tr.70

Sự chuyển dịch này theo hướng tích cực, nâng cao nguồn thu nhập của gia

đình, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển CNH, HĐH ở địa phương, cũng đồng

nghĩa với việc gia đình vùng ĐBSH đang thực hiện rất tốt nhóm tiêu chí thứ 3 của

chương trình xây dựng NTM.

72

Hai là, thực hiện tiêu chí nâng cao thu nhập, phát triển kinh tế địa phương,

gia đình vùng ĐBSH đã mở rộng quy mô sản xuất, phát triển kinh tế trang trại,

gia trại; ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao và thực hiện chương trình “Cánh

đồng lớn”.

Thực hiện tiêu chí nâng cao thu nhập trong xây dựng NTM, gia đình vùng

ĐBSH đã mở rộng quy mô sản xuất, phát triển kinh tế trang trại, gia trại, qua đó

đã giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho thành viên trong gia đình. Từ

năm 2011 đến năm 2016, “vùng ĐBSH có số lượng trang trại tăng mạnh nhất

(tăng 6.435 trang trại) chiếm gần một nửa số trang trại tăng thêm trong vòng 5

năm qua của cả nước” [7, tr.26], số trang trại tăng chủ yếu ở loại hình trang trại

chăn nuôi, “vùng ĐBSH có số lượng trang trại chăn nuôi tăng nhanh nhất, tăng

6.272 trang trại chiếm 46,6% số lượng trang trại tăng thêm của cả nước” [7, tr.26].

Gia đình vùng ĐBSH được hưởng những điều kiện thuận lợi phát triển

trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản quy mô lớn như đất đai, mặt nước,

khí hậu, vì vậy những năm vừa qua đã xuất hiện nhiều mô hình trang trại, gia trại

ở ĐBSH như vườn cam canh ở huyện Đông Anh, Chương Mỹ, Đan Phượng,

Hoài Đức (Hà Nội), nuôi ếch làm giàu ở Sóc Sơn,... mô hình gia trại nuôi lợn

của ông Nguyễn Văn Sơn (chủ tịch mặt trận xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh

Phụ, Thái Bình),...

Trong những năm gần đây, để khắc phục tình trạng sản xuất nông nghiệp

manh mún, nhỏ lẻ, thiếu tính bền vững, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

đã xây dựng chương trình “Cánh đồng lớn” trên phạm vi cả nước. Các gia đình

vùng ĐBSH đã tích cực tham gia sản xuất theo mô hình này, “Năm 2016, cả nước

có khoảng 619 nghìn hộ tham gia sản xuất theo mô hình cánh đồng lớn. Bình quân

số hộ tham gia một cánh đồng lớn là 274 hộ, trong đó cao nhất là khu vực ĐBSH

(375 hộ/ cánh đồng),...” [7, tr.31].

Ba là, thu nhập gia đình vùng ĐBSH được nâng cao góp phần xây

dựng NTM.

Từ năm 2010 đến nay thu nhập của gia đình vùng ĐBSH có những chuyển

biến tiến bộ. Về nguồn thu nhập, số hộ có nguồn thu nhập lớn nhất từ nông, lâm,

73

thủy sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhưng có xu hướng giảm, thu nhập từ phi nông,

lâm, thủy sản tăng lên.

Bảng 3.1: Cơ cấu hộ gia đình phân theo nguồn thu nhập chính vùng đồng bằng sông Hồng

Đơn vị tính: %

Năm

Năm

Năm

Năm

2001

2006

2011

2016

Thu nhập chính từ nông, lâm, thủy sản

73,7

52,8

38,3

27,92

Thu nhập chính từ công nghiệp, xây dựng

8,8

19,5

27,7

35,42

Thu nhập chính từ dịch vụ

11,5

17,9

23,5

23,95

Thu nhập chính từ nguồn khác

6,0

9,8

10,5

12,71

Nguồn: Tổng hợp số liệu Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp, thủy sản các năm 2001, 2006, 2011, 2016

Các gia đình ở Quảng Ninh, Hưng Yên, Ninh Bình có thu nhập lớn nhất từ ngành nông, lâm, thủy sản; Bắc Ninh, Hải Dương, Hải Phòng các hộ gia đình có nguồn thu nhập lớn nhất từ ngành công nghiệp, xây dựng (xem phụ lục 3). Kết quả trên phản ánh xu hướng phát triển sản xuất của các gia đình có ngành nghề phi nông, lâm, thủy sản phát triển, nguồn thu nhập của gia đình không còn phụ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp.

Tác giả tiến hành khảo sát mức thu nhập của hộ gia đình từ 2005 - 2010 và từ 2010 đến nay để có sự so sánh, kết quả khảo sát 6 tỉnh vùng ĐBSH năm 2017 được thể hiện qua biểu đồ sau:

2005 -2010 2010- nay

45 40 35 30 25 20 15 10 5 0

>50 triệu

30 - 50 triệu

20 - 30 triệu

10 - 20 triệu

1 - 10 triệu

Biểu đồ 3.4: Thu nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình

từ 2005 - 2010 và từ 2010 đến nay

Nguồn: Bảng 16, phụ lục 1.2

74

Sự thay đổi về thu nhập của hộ gia đình từ năm 2005 (trước khi thực hiện

xây dựng NTM) đến nay (sau khi thực hiện giai đoạn I của xây dựng NTM). Số

hộ thu nhập từ 1 triệu - 10 triệu/1 tháng đã giảm mạnh 36,7%, số hộ thu nhập từ

10 triệu đến 20 triệu, từ 20 triệu đến 30 triệu, từ 30 triệu - 50 triệu và trên 50 triệu

có chiều hướng tăng, lần lượt là tăng 4.7%; 5,3%; 20% và 7,6%. Qua đó cho thấy,

thu nhập gia đình vùng ĐBSH có sự chuyển biến cùng với quá trình thực hiện xây

dựng NTM.

Đơn cử như ở Quảng Ninh, “năm 2016, thu nhập của người dân khu vực

nông thôn đạt 33,07 triệu đồng/ người tăng 11,98% so với năm 2015. Toàn tỉnh có

72% số xã đạt tiêu chí thu nhập”[112].

Tại Đan Phượng (Hà Nội), thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt

28,8 triệu đồng/người/năm (tăng 10,5 triệu đồng so với năm 2011) [35].

Phát triển kinh tế hộ gia đình, nâng cao thu nhập, giải quyết việc làm cho

các thành viên gia đình vùng ĐBSH trong những năm qua góp phần thực hiện

thắng lợi tiêu chí chương trình xây dựng NTM.

Bốn là, gia đình vùng ĐBSH phát huy vai trò trong xóa đói giảm nghèo bền

vững tại địa phương.

Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM giai đoạn II (2016 - 2020) đưa ra mục tiêu

tỷ lệ hộ nghèo đa chiều vùng ĐBSH là dưới 2%. Đây là mục tiêu khá cao cho

vùng ĐBSH trong giai đoạn tới. Thực tế cho thấy trong thời gian qua tỷ lệ hộ

nghèo của gia đình vùng ĐBSH đã có xu hướng giảm góp phần đảm bảo đạt tiêu

chí của xây dựng NTM. Ví dụ như:

Tại Nam Định, thời gian qua chính sách an sinh xã hội được đảm bảo; đời

sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn từ 9,95% năm

2010 giảm xuống còn 2,5% năm 2015. Các chế độ đối với các đối tượng chính

sách và hộ nghèo được giải quyết đúng, đủ, kịp thời [119]; Tỉnh Quảng Ninh, tỷ lệ

hộ nghèo toàn tỉnh từ 7,68% năm 2010 xuống còn 1,55% năm 2015 [112].

Tuy nhiên, để vai trò của gia đình được phát huy cao hơn trong phát triển

kinh tế hộ gia đình và xóa đói giảm nghèo, cần khắc phục một số hạn chế như:

75

Một là, quy mô sản xuất của gia đình vùng ĐBSH nhìn chung còn manh

mún, nhỏ lẻ.

Sản xuất của gia đình vùng ĐBSH nhiều nơi vẫn mang tính truyền thống

là chính, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, chưa có hướng trồng các loại cây lâu

năm, có giá trị cao, do đó, thu nhập còn thấp, không ổn định. Sản xuất nông

nghiệp của các gia đình vùng ĐBSH vẫn phát triển theo chiều rộng, chậm

chuyển sang sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả thấp, thiếu bền vững. Năng suất,

sản lượng cây trồng, vật nuôi tuy tăng khá, nhưng chất lượng sản phẩm còn kém,

chưa có nhiều hộ gia đình chuyên canh quy mô lớn, việc nhân rộng các mô hình

còn hạn chế.

Hai là, đời sống và thu nhập của một bộ phận gia đình vùng ĐBSH còn

thấp, không ổn định.

Đời sống của dân cư nông thôn tuy đã được cải thiện, nhưng vẫn còn nhiều

khó khăn, khoảng cách chênh lệch thu nhập giữ nông thôn và thành thị còn cao,

nhất là bộ phận nông dân có đất bị thu hồi để phát triển công nghiệp, đô thị, giải

quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi còn gặp nhiều khó khăn. Đời sống và

thu nhập của một bộ phận các gia đình vùng xa trung tâm, thuần nông còn thấp,

không ổn định, vẫn còn nhiều lao động thiếu việc làm, kinh tế hộ gia đình gặp

nhiều khó khăn.

Ba là, công tác nghiên cứu, ứng dụng chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới cho

các gia đình vùng ĐBSH còn hạn chế, nhất là ứng dụng công nghệ cao vào sản

xuất nông nghiệp.

Qua khảo sát cho thấy, chỉ 15% số gia đình biết và đang ứng dụng nông

nghiệp công nghệ cao, 55,7% biết nhưng không ứng dụng và 29,3% không biết

(Bảng 8, phụ lục 1.2). Như vậy, tỉ lệ các gia đình vùng ĐBSH áp dụng công nghệ

cao trong sản xuất nông nghiệp còn rất hạn chế. Khi được hỏi về nông nghiệp

công nghệ cao gia đình vùng ĐBSH chủ yếu nhận thức đó chỉ là sử dụng các loại

giống cây trồng, vật nuôi, phân bón hữu cơ, máy cày, máy gặt,... Người dân chưa

biết cách ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới trong sản xuất nông nghiệp, hoặc biết

nhưng chưa có điều kiện ứng dụng.

76

Khó khăn của gia đình vùng ĐBSH khi áp dụng mô hình “sản xuất nông

nghiệp ứng dụng công nghệ cao” chủ yếu về thị trường tiêu thụ, cách thức sản

xuất và vốn đầu tư (xem bảng 10, phụ lục 1.2).

Bốn là, các gia đình còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại về công tác xóa đói giảm nghèo.

Một bộ phận gia đình vùng ĐBSH thuộc hộ nghèo vẫn còn tư tưởng ỷ lại,

trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, chưa chủ động vươn lên thoát nghèo. Mặt

khác, bệnh thành tích đã khiến cho một số địa phương khống chế tỷ lệ nghèo thấp

hơn so với thực tế, dẫn đến một số gia đình nghèo chưa tiếp cận được các chính

sách, gây ra những hiểu biết sai lệch về chính sách của Nhà nước.

Thậm chí có gia đình đã được hỗ trợ từ chính sách nhưng lại rơi vào tái

nghèo, chưa tìm ra được phương thức sản xuất phù hợp để vươn lên. Đây cũng là

khó khăn lớn để vùng ĐBSH đạt được tiêu chí xây dựng NTM.

- Vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong giải quyết việc làm và đa dạng

hình thức tổ chức sản xuất

Giải quyết việc làm cho người dân và đa dạng các hình thức tổ chức sản

xuất gắn với tiêu thụ nông sản chủ lực đảm bảo bền vững thuộc tiêu chí 13 trong

tổ chức sản xuất của mục tiêu quốc gia xây dựng NTM và đây cũng là một hình

thức để giải quyết việc làm nâng cao thu nhập cho gia đình vùng ĐBSH.

Trong những năm qua, gia đình vùng ĐBSH đã góp phần thực hiện hai tiêu

chí này và đạt được những thành tựu cơ bản sau:

Một là, tỷ lệ người có việc làm trong độ tuổi lao động ở gia đình vùng

ĐBSH ngày càng cao, phấn đấu đến năm 2020 đạt chuẩn NTM là hơn 90%.

Để gia đình vùng ĐBSH phát huy vai trò trong giải quyết việc làm, chính

quyền địa phương đã khuyến khích các gia đình thay đổi cơ cấu nghề nghiệp, áp

dụng nông nghiệp công nghệ cao tăng năng suất lao động; động viên các thành

viên trong gia đình tham gia các lớp đào tạo nghề, công tác đào tạo nghề cho lao

động nông thôn được quan tâm, bảo đảm các nghề nông nghiệp phù hợp với quy

hoạch xây dựng NTM... Từ đó, vấn đề giải quyết việc làm cho thành viên trong

gia đình được thực hiện tốt hơn, tỷ lệ lao động qua đào tạo được tăng lên.

77

Trong giai đoạn I, Huyện Chương Mỹ (Hà Nội) tỷ lệ lao động nông thôn

được đào tạo nghề đạt trên 55%[36], huyện Đan Phượng (Hà Nội) đạt 63%, hàng

năm giải quyết việc làm mới cho 2000 lao động[35].

Ở Vĩnh Phúc, trong 5 năm qua Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh chỉ đạo

ngành Lao động, thương binh & xã hội phối hợp với các cấp, các ngành trong tỉnh

đã giải quyết và tạo việc làm cho 111.257 lao động [121].

Tỷ lệ lao động đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ

cao hơn qua các năm. Điều này phản ánh việc giải quyết việc làm ở nông thôn

đang hướng dần đến phát triển bền vững, quan tâm đến việc nâng cao chất lượng

lao động. Cụ thể:

Bảng 3.2: Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế

đã qua đào tạo phân theo địa phương

Đơn vị tính: %

Tỉnh

2010

2012

2013

2014

Sơ bộ 2015

ĐBSH

20,7

24,0

24,9

25,9

27,5

Hà Nội

30,2

35,3

36,2

38,4

38,4

Vĩnh Phúc

14,5

19,1

20,5

20,7

22,5

Quảng Ninh

27,8

32,1

32,5

36,1

35,6

Hải Dương

14,1

14,7

13,4

15,0

18,8

Thái Bình

15,0

14,1

13,1

15,0

12,7

Nam Định

16,4

10,8

15,7

11,0

13,3 Nguồn: Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê năm 2015, NXB Thống kê, Hà Nội, 2016, [110, tr.149].

Gia đình vùng ĐBSH thời gian qua đã thực hiện tốt các chính sách của

Trung ương, địa phương để giải quyết việc làm cho thành viên trong gia đình,

hướng đến tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo, tạo được nguồn lao động chất lượng cao.

Hai là, gia đình vùng ĐBSH đa dạng hình thức tổ chức sản xuất gắn với

tiêu thụ nông sản chủ lực.

Các tỉnh vùng ĐBSH đã chú trọng phát triển hàng hóa tập trung, nâng cao

chất lượng, khả năng cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu thị trường, đảm bảo vững chắc

cho an ninh lương thực, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng phát

triển mạnh chăn nuôi, thủy sản tập trung gắn với an toàn dịch bệnh và vệ sinh môi

78

trường; đổi mới hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp, trong đó tập trung nâng

cao chất lượng hoạt động của các hợp tác xã (HTX) dịch vụ nông nghiệp; phát

triển mạnh liên kết 4 nhà (Nhà nước, Nhà nông, Nhà doanh nghiệp, Nhà khoa

học), trong đó xác định liên kết 2 nhà “Nhà nông - Nhà doanh nghiệp” là trụ cột.

Theo đó gia đình vùng ĐBSH có điều kiện phát huy vai trò trong đa dạng

hóa hình thức tổ chức sản xuất và nguồn tiêu thụ nông sản cũng được đảm bảo bền

vững hơn. Gia đình vùng ĐBSH đã tham gia vào hợp tác xã, hàng năm các hợp

tác xã ở các địa phương đã có kế hoạch mở rộng sản xuất kinh doanh và tìm kiếm

thị trường tiêu thụ sản phẩm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất,

chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi.

Ở một số địa phương phát huy được thế mạnh của phát triển kinh tế gia

đình, qua việc phát triển các làng nghề truyền thống. Một số gia đình đã phát triển

các nghề thủ công như mây tre đan, thêu tranh, mộc mỹ nghệ, móc sợi, đúc dát

đồng,... Hầu hết các gia đình làm nghề đều có thu nhập khá. Một số sản phẩm đã

trở thành thương hiệu xuất khẩu ra nước ngoài.

Gia đình vùng ĐBSH đã gắn đa dạng hóa hình thức sản xuất với tiêu thụ

sản phẩm. Điển hình ở gia đình của một số địa phương như:

Tại Thái Bình các hợp tác xã có hợp đồng bao tiêu sản phẩm. Hiện nay có

23 doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp tham gia liên kết với hợp tác xã, trang trại

và nông dân trên địa bàn tỉnh; trong đó có 164 hợp tác xã ký hợp đồng liên kết với

công ty Cổ phần Giống cây trồng Thái Bình, công ty Vạn Đạt, công ty trách

nhiệm hữu hạn chế biến nông sản xuất khẩu Thái Dương,...[118].

Tỉnh Quảng Ninh chính quyền địa phương đã đa dạng hóa hình thức sản

xuất, với chương trình “Mỗi xã, phường một sản phẩm” làm trọng tâm phát triển

sản xuất, thực hiện hỗ trợ trực tiếp đầu tư hạ tầng, ứng dụng khoa học công nghệ, hỗ

trợ lãi suất, thiết kế nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp bao bì, xúc tiến thương mại.

Sau hơn 8 năm thực hiện xây dựng NTM, gia đình vùng ĐBSH đã góp

phần tích cực để nhiều xã ở các địa phương đạt tiêu chí này, tuy nhiên để đạt hiệu

quả cao hơn nữa, cần khắc phục một số hạn chế sau:

Một là, sản xuất nông nghiệp tại các gia đình vùng ĐBSH vẫn còn nhỏ lẻ,

sản phẩm ít và không ổn định, khâu bảo quản, chế biến chưa đảm bảo; thiếu sự

79

liên kết giữa các khâu từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ trên thị trường chưa đáp

ứng được tiêu chí trong xây dựng NTM.

Hai là, hiệu quả hoạt động trong hợp tác xã nông nghiệp của các gia đình

vùng ĐBSH còn thấp, chưa được quan tâm, củng cố về tổ chức, năng lực quản trị.

Chưa có cơ chế hấp dẫn để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho gia đình vùng

ĐBSH trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và tạo điều kiện thực hiện các hình

thức sản xuất, tham gia các hợp tác xã và bao tiêu sản phẩm.

Ba là, ở nhiều xã, sản xuất nông nghiệp hàng hóa và ngành nghề chưa phát

triển; không có mô hình liên kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm, điều này gây khó

khăn cho gia đình vùng ĐBSH.

Bốn là, thị trường tiêu thụ sản phẩm hạn hẹp và bị động. Các gia đình nông

dân vùng ĐBSH phải đối mặt với thực tế là sản phẩm làm ra khó tiêu thụ, đặc biệt

vào thời điểm mùa vụ.

Kết quả khảo sát tại 06 tỉnh vùng ĐBSH năm 2017 với câu hỏi: “Gia đình

ông/ bà thường bán sản phẩm lao động của mình cho ai?”. Kết quả như sau:

61,7% bán cho tư thương, 23% tự tiêu thụ sản phẩm và chỉ có 5,0% thông qua hợp

tác xã (xem bảng 7, phụ lục 1.2).

Từ kết quả này cho thấy, cách tiêu thụ sản phẩm chủ yếu vẫn là tự bán ở

chợ, hoặc bán cho tư thương thu mua chưa có đầu ra ổn định, chưa được định

hướng trong việc tiêu thụ sản phẩm. Đây là một rào cản lớn đối với sự phát triển

kinh tế gia đình vùng ĐBSH.

3.1.1.3. Thực trạng thực hiện vai trò của gia đình trong giữ gìn, bảo lưu

và phát triển các giá trị văn hóa, phát triển giáo dục, đào tạo; bảo vệ môi trường

Thứ nhất, thực hiện vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong giữ gìn, bảo lưu

và phát triển các giá trị văn hóa

Về nhận thức, cán bộ, đảng viên, nhân dân và gia đình vùng ĐBSH đã nhận

thức được sự cần thiết phải xây dựng đời sống văn hóa mới ở nông thôn phù hợp

với yêu cầu, chuẩn mực xây dựng NTM.

Ý thức tự giác đã thấm vào mọi gia đình, từng cá nhân, được thể hiện qua

những hành vi cụ thể như: bảo tồn truyền thống tốt đẹp của quê hương, xây dựng

gia đình văn hóa, đoàn kết xây dựng đời sống vật chất và tinh thần,... Đời sống

80

văn hóa, tinh thần gia đình ở nông thôn có những chuyển biến tích cực. Phong

trào xây dựng gia đình văn hóa thu hút hơn 90% số hộ nông thôn tham gia. Đến

nay, cả vùng ĐBSH có gần 19 triệu gia đình trong tổng số hơn 22 triệu gia đình

đạt chuẩn danh hiệu gia đình văn hoá đạt tỉ lệ 85,03% [91].

Gia đình vùng ĐBSH cũng đang làm tốt công tác bảo tồn, tôn tạo và phát

huy giá trị di sản văn hóa vật thể, phi vật thể. Nâng cao chất lượng phong trào

“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, trong đó trọng tâm là xây dựng

gia đình văn hóa, làng văn hóa, khu dân cư văn hóa, xây dựng ý thức tự giác chấp

hành pháp luật. Đồng thời, gia đình vùng ĐBSH hiện nay đang thực hiện tốt các

quy định về nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội, bài trừ các hủ

tục lạc hậu và tệ nạn xã hội.

Tuy vậy còn tồn tại một số hạn chế sau:

Một là, một số gia đình ở vùng ĐBSH và chính quyền địa phương chỉ quan

tâm đến phát triển kinh tế, xây dựng đường xá, trụ sở, nhà văn hóa mà chưa quan

tâm đúng mức đến nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, chưa có thời gian,

vật chất để quan tâm đến việc hưởng thụ các giá trị văn hóa.

Hai là, một số gia đình vùng ĐBSH tổ chức đám cưới, đám tang, hội làng

linh đình, phô trương, lãng phí diễn ra khá phổ biến; một bộ phận cư dân nông

thôn có tâm lý phục cổ - khôi phục nguyên xi các lễ hội truyền thống, trong đó có

những lễ hội không còn phù hợp với xã hội hiện tại.

Ba là, đời sống văn hóa cho gia đình vùng ĐBSH chưa phong phú, ở một

số địa phương, cơ sở vật chất văn hóa như nhà văn hóa, khu vui chơi, khu thể

thao... được đầu tư tốn kém nhưng sử dụng chưa thực sự hiệu quả, tình trạng có

nhà văn hóa nhưng chủ yếu chỉ được sử dụng làm nơi họp thôn, chưa phát huy

được hết các công năng của nhà văn hóa.

Bốn là, vai trò giáo dục và tình cảm của gia đình chưa phát huy tốt ở một

số địa phương. Gần đây gia đình ở một số vùng nông thôn, xuất hiện các hiện

tượng như mê tín dị đoan, coi thường pháp luật, bạo lực gia tăng; ảnh hưởng của

đời sống đô thị, công nghiệp, nền kinh tế thị trường tệ nạn cờ bạc, rượu chè, mại

dâm, bạo lực gia đình,.... dẫn đến văn hóa, cấu trúc gia đình nông thôn bị phá vỡ;

cha mẹ lo kiếm tiền, rạn nứt tình cảm, không còn nhiều thời gian chăm lo, giáo

dục con cái, ảnh hưởng xấu đến việc hình thành nhân cách của con cái.

81

Năm là, cá biệt một số địa phương nảy sinh bệnh thành tích trong thực hiện

tiêu chí NTM, xây dựng huyện, làng, xã, gia đình văn hóa. Có nơi gắn biển gia

đình văn hóa đến từng hộ gia đình tạo ra sự phô trương, lãng phí không cần thiết.

Không nhận thức đúng văn hóa là phục vụ con người chứ không chạy theo thành

tích để lấy danh.

Thứ hai, thực hiện vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong phát triển giáo

dục, đào tạo ở nông thôn

Xây dựng NTM là quá trình phát triển toàn diện, đồng bộ trên tất cả các

mặt từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, do đó phải quan tâm phát triển giáo dục,

nâng cao trình độ dân trí. Đảng, Nhà nước ta cũng phải quan tâm đến nâng cao

trình độ dân trí, phát triển giáo dục, đào tạo ở nông thôn - thực hiện tiêu chí 14 của

Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM giai đoạn 2016 - 2020.

Một là, gia đình vùng ĐBSH thực hiện tốt vai trò giáo dục phẩm chất đạo

đức, nhân cách, lối sống, nâng cao trình độ cho các thành viên trong gia đình, góp

phần thực hiện tiêu chí 14 của xây dựng NTM.

Đơn vị tính: %

Biểu đồ 3.5: Thể hiện tổng hợp ý kiến của gia đình vùng đồng bằng sông Hồng

đánh giá về vai trò của gia đình trong giáo dục con cái theo các nội dung

Nguồn: Bảng 18, phụ lục 1.2

Qua bảng này cho thấy các gia đình vùng ĐBSH đánh giá cao vai trò của

gia đình trong việc hình thành, giáo dục và phát triển phẩm chất đạo đức, nhân

82

cách lối sống cho con cái, giáo dục truyền thống, văn hóa dân tộc, nền nếp sinh

hoạt và truyền thống gia đình. Đây là vai trò quan trọng của gia đình trong xây

dựng gia đình văn hóa, từ đó xây dựng nhân cách, lối sống lành mạnh của các

thành viên trong gia đình, góp phần giáo dục công dân tốt cho xã hội.

Các gia đình vùng ĐBSH cũng đã đóng góp cho xây dựng hạ tầng giáo dục

và đào tạo (trường, lớp học, trang thiết bị dạy và học,...), 64,7% ủng hộ tiền mặt,

12,7% đóng góp công lao động (xem bảng 6, phụ lục 1.2). Ngoài ra các gia đình

cũng hiến tặng đất đai, ủng hộ hiện vật. Theo đó, cơ sở vật chất giáo dục đào tạo

cho các thành viên trong gia đình đã được hoàn thiện một bước.

Hai là, gia đình vùng ĐBSH quan tâm, tạo mọi điều kiện cho con em có

môi trường học tập tốt nhất. Ngay ở một số xã, huyện kinh tế còn khó khăn, thuần

nông nhưng phụ huynh cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của việc cho con

em mình đến trường. Ở nhiều nơi đã hình thành quỹ khuyến học, khuyến tài để

động viên, khuyến khích các cháu có thành tích học tập tốt, giúp đỡ các cháu có

hoàn cảnh khó khăn, nhiều gia đình đã được chính quyền địa phương quan tâm,

động viên, giúp đỡ, khắc phục khó khăn cho con học tập.

Các gia đình nông thôn vùng ĐBSH đã quan tâm đầu tư cho con học tập,

gia đình vùng ĐBSH hiện nay không chỉ chu cấp cho con cái tiền học phí, sách vở

- những khoản tối thiểu mà còn quan tâm đầu tư cho con cái học thêm các lớp bồi

dưỡng như tin học, ngoại ngữ,... và đầu tư phương tiện hiện đại phục vụ cho việc

học tập (Bảng 20, phụ lục 1.2).

Để thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục trong xây dựng NTM, các hộ gia

đình cũng luôn ủng hộ con cái học tập nâng cao trình độ. Qua khảo sát cho thấy

mức độ đầu tư cho con cái học tập ở cả con trai và con gái có sự tương đồng như

nhau, không có sự chênh lệch đáng kể, từ đó cho thấy nhận thức về bình đẳng giới

ở nông thôn vùng ĐBSH được nâng cao hơn (xem bảng 21, 22 phụ lục 1.2)

Tuy vậy, phát huy vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong nâng cao trình độ

dân trí cũng còn một số hạn chế đặt ra như:

Một số gia đình còn tâm lý ỷ lại vào nhà trường, cho rằng việc giáo dục,

nâng cao trình độ cho con em họ là công việc của giáo viên, của nhà trường, chưa

giành nhiều thời gian cho việc dạy học cho con hoặc cha mẹ cũng chưa đủ trình

83

độ để dạy con (một số cha mẹ mới tốt nghiệp cấp 1). Thời gian để dạy con học tập

ở nhà của gia đình nông thôn vùng ĐBSH không nhiều, thậm chí đến 50% số hộ

gia đình được hỏi đưa ra câu trả lời là “Không dạy con ở nhà” (xem bảng 19, phụ

lục 1.2). Đây là tỷ lệ tương đối cao.

Ngoài ra, các bậc phụ huynh thường ỷ lại cho nhà trường, giáo viên nên gia

đình chưa đề cao vai trò trong việc giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, pháp

luật của nhà nước, quy định địa phương, kiến thức giáo dục phổ thông và định

hướng học tập, nghề nghiệp cho con cái (xem bảng 18, phụ lục 1.2).

Thứ ba, gia đình vùng ĐBSH thực hiện vai trò trong giữ gìn, bảo vệ môi trường.

Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn I và giai đoạn

II đã đưa ra tiêu chí số 17 về đảm bảo môi trường, môi sinh - đây là tiêu chí để xây

dựng môi trường sống trong lành cho nông thôn Việt Nam.

Sau khi giai đoạn I được triển khai thực hiện, công tác bảo vệ môi trường

vùng ĐBSH đã được quan tâm và có những chuyển biến tích cực: Hệ thống cấp

nước sạch được đầu tư và vận hành, cảnh quan khu vực nông thôn được cải tạo,

nâng cấp có mô hình tốt trong xây dựng môi trường nông thôn,... Quy hoạch các

khu tập kết, xử lý rác thải, lò đốt rác, hỗ trợ xe thu gom chuyên dụng, hỗ trợ kinh

phí, tổ chức các buổi tuyên truyền, các hoạt động vì môi trường.

Qua khảo sát cho thấy, thời gian qua gia đình vùng ĐBSH đã tích cực thực

hiện công tác bảo vệ môi trường trong xây dựng NTM, các tiêu chí được gia đình

vùng ĐBSH thực hiện nghiêm túc như không chặt phá, khai thác sử dụng cây

xanh trái quy định (chiếm 92,3%); thực hiện chôn cất người mất tại khu nghĩa

trang địa phương hợp vệ sinh (chiếm 88,3%); thực hiện thu gom, xử lý nước thải

sinh hoạt bằng bể tự hoại, hố ga lắng cặn (chiếm 80%); thực hiện thu gom, xử lý

nước thải chăn nuôi bằng hầm biogas, hố ga lắng cặn, ao sinh hoạt (chiếm 57%)

(xem bảng 24, phụ lục 1.2). Ô nhiễm môi trường cũng được các gia đình vùng

ĐBSH quan tâm xử lý, các gia đình được hỗ trợ kinh phí từ ngân sách xây dựng

bãi chôn lấp rác, xây dựng bể chứa rác thải bao bì thuốc bảo vệ thực vật.

Như vậy, ý thức của gia đình vùng ĐBSH trong bảo vệ môi trường, môi

sinh đã được nâng lên rất nhiều, vừa phục vụ cho chính gia đình mình, vừa đảm

bảo cho môi trường chung của xây dựng NTM.

84

Một số mô hình bảo vệ môi trường huy động được sự tham gia tích cực của

gia đình, điển hình như ở Hưng Yên, trước đây ô nhiễm môi trường khu vực nông

thôn là đáng báo động. Với chỉ đạo quyết liệt của UBND tỉnh, Tỉnh ủy, Sở Tài

nguyên môi trường, năm 2012, thí điểm mô hình tại 100 hộ gia đình thôn Tiên

Cầu, xã Hiệp Cường; năm 2013 nhân rộng mô hình tại 820 hộ gia đình trên toàn

tỉnh. Hộ tham gia mô hình được hỗ trợ 01 thùng xử lý rác thải hoặc nắp hố rác di

động và chế phẩm vi sinh của Viện Công nghệ Môi trường. Việc triển khai mô

hình phân loại xử lý rác thải tại gia đình không những góp phần làm giảm ô nhiễm

môi trường nông thôn mà còn đem lại lợi ích về mặt kinh tế, tiết kiệm được tiền

công thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải, việc phân loại rác thải hữu cơ tại hộ

gia đình sẽ giảm được khoảng 60% lượng rác thải sinh hoạt ra môi trường.

Mô hình xã hội hóa xử lý chất thải rắn sinh hoạt nông thôn tại thị trấn Đồi

Ngô, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Chất thải rắn sẽ được phân loại ngay từ hộ

gia đình, 01 lần/ ngày; chất thải rắn vô cơ và chất thải rắn tái chế tại hộ gia đình sẽ

được công ty thu 02 lần/ ngày. Tạo cho các gia đình có ý thức giữ gìn môi trường,

môi sinh, tự giác thực hiện thu gom, phân loại, xử lý chất thải ngay từ đầu vừa

đảm bảo môi trường vừa làm giảm chi phí, nhà máy vừa có thể chiết xuất ra mùn

vi sinh hữu cơ, cung cấp cho các cơ sở sản xuất, phân bón tổng hợp.

Về chỉ tiêu đường làng, ngõ, xóm, cảnh quan từng hộ xanh - sạch - đẹp,

nhiều địa phương đã huy động được các gia đình thường xuyên tổ chức các ngày

chủ nhật xanh, trồng cây, vệ sinh, gắn kết cộng đồng, thực hiện chôn cất người

mất tại khu nghĩa trang địa phương hợp vệ sinh, đúng quy hoạch.

Tuy nhiên, kết quả và hiệu quả thực hiện tiêu chí môi trường còn nhiều hạn

chế so với yêu cầu đặt ra. Đây là một trong những tiêu chí có tỷ lệ đạt thấp nhất.

Hầu hết các gia đình nông thôn, nhất là ở các xã khó khăn chưa có ý thức trong

việc sắp xếp nơi ở đảm bảo hợp vệ sinh; các công trình chăn nuôi, bếp, công trình

phụ chậm được tu bổ xây dựng. Nhà ở, khuôn viên, tường rào còn chưa sạch đẹp,

chưa có biện pháp cải tạo vườn tạp để tạo ra hàng hóa tăng thu nhập, cải thiện đời

sống cho gia đình.

85

Một số hoạt động của gia đình vùng ĐBSH trong việc thực hiện bảo vệ môi

trường nông thôn cũng còn rất hạn chế, ví như qua khảo sát năm 2017 tại 06 tỉnh

vùng ĐBSH, có 27,3% gia đình vùng ĐBSH thực hiện thu gom, phân loại rác thải

ngay tại hộ gia đình, 29,7% gia đình thực hiện chôn lấp hợp vệ sinh các loại rác hữu

cơ có thể phân hủy tại khuôn viên hộ gia đình, 37,7% gia đình vùng ĐBSH thực

hiện cải tạo, xây dựng hệ thống ao, hồ theo quy định (xem bảng 24, phụ lục 1.2).

Đây là chỉ tiêu nhận thấy bằng cảm quan không được định tính nên khi triển

khai và công tác đánh giá tại các địa phương không đồng đều. Với tiêu chí chất thải,

nước thải khi triển khai tại các gia đình, thực tế còn hạn chế. Vẫn còn gia đình chưa

có ý thức bảo vệ môi trường trong sinh hoạt, sản xuất như việc lạm dụng thuốc bảo

vệ thực vật trong sản xuất, việc xả nước, rác thải; sử dụng nước không đảm bảo vệ

sinh, việc đầu tư các công trình phục vụ đời sống và sức khỏe (bể nước, cống rãnh

thoát nước, hố xí,...), việc tham gia công tác vệ sinh môi trường cộng đồng,... còn

hạn chế. Một bộ phận gia đình nông thôn vùng ĐBSH chưa có thói quen dùng nước

sạch, chưa tự giác trong việc giữ gìn nguồn nước sạch, môi trường.

Về chỉ tiêu xử lý, phân loại rác thải, vẫn đang còn tình trạng các gia đình

nhất là hộ gia đình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ chưa có thói quen phân loại chất

thải rắn sinh hoạt tại nguồn; vẫn còn một bộ phận gia đình khu vực nông thôn

chưa tham gia hợp đồng vệ sinh môi trường với nhiều lý do khác nhau. Việc đóng

phí vệ sinh môi trường chưa kịp thời gây khó khăn trong việc vận hành các khâu

thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải. Đối với chỉ tiêu nghĩa trang, do tập quán sinh

hoạt và quan niệm tâm linh, nên còn có gia đình chưa quy tập các ngôi mộ về khu

vực đã quy hoạch.

3.1.1.4. Thực trạng thực hiện vai trò của gia đình trong quá trình dân

chủ a ở nông thôn góp phần xây dựng hệ thống chính trị cơ sở; bình đẳng giới,

phòng, chống bạo lực gia đình

- Thực hiện vai trò của gia đình trong quá trình dân chủ hóa ở nông thôn

góp phần xây dựng hệ thống chính trị

Với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân đóng góp, dân làm, dân quản lý

và dân hưởng lợi”, ngay từ khi bắt đầu triển khai chương trình xây dựng NTM,

86

các địa phương vùng ĐBSH đã xác định công tác tuyên truyền là nhiệm vụ hàng

đầu được ưu tiên để phát huy sức mạnh trong dân, trong từng gia đình ở nông thôn

vùng ĐBSH.

Thấm nhuần chủ trương trên, các cấp, các ngành, tổ chức đoàn thể, người

dân và gia đình ở các địa phương đều nhận thức được nghĩa vụ và trách nhiệm

trong tham gia xây dựng NTM, coi xây dựng NTM là việc của chính mình, của

gia đình mình; bản thân và gia đình chính là đối tượng thực hiện và cũng là đối

tượng trực tiếp hưởng thụ những thành quả của NTM nên chủ động tham gia đóng

góp ý kiến và xây dựng.

Qua giai đoạn đầu chương trình xây dựng NTM đã đạt được nhiều thành

tựu, gia đình đã tích cực phát huy tinh thần dân chủ, tham gia đóng góp ý kiến, cụ

thể qua các hoạt động sau:

Một là, gia đình vùng ĐBSH tích cực tham gia xây dựng NTM ngay từ khâu

lập quy hoạch, đề án thông qua việc đóng góp ý kiến, thảo luận sôi nổi những vấn

đề liên quan đến trách nhiệm, quyền lợi của mỗi người, mỗi gia đình trong xây

dựng NTM.

Đảng bộ, chính quyền các địa phương vùng ĐBSH thực hiện quá trình dân

chủ hóa, vận động gia đình tham gia xây dựng NTM ngay từ khâu lập quy hoạch,

đề án thông qua việc tổ chức các buổi lấy ý kiến đóng góp của các gia đình. Gia

đình được biết đến các dự thảo quy hoạch, đề án xây dựng NTM của xã, huyện,

tỉnh; kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế, dự

toán, quyết toán ngân sách hàng năm của xã; dự án công trình đầu tư; quản lý, sử

dụng các loại quỹ, nhất là các khoản từ phía nhân dân đóng góp,... từ đó chính

quyền địa phương tổ chức họp bàn, lấy ý kiến, ra nghị quyết để triển khai thực hiện

xây dựng NTM.

Qua khảo sát cho thấy, hầu hết gia đình vùng ĐBSH đã biết đến Chương

trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM, chiếm tỷ lệ đến 95,3% (xem bảng 2,

phụ lục 1), điều này cho thấy Chương trình xây dựng NTM thực sự đã đi vào cuộc

sống của từng gia đình nông thôn. Có được điều này do các tỉnh ĐBSH đang thực

hiện tốt công tác tuyên truyền cho gia đình về chương trình xây dựng NTM. Đơn

87

cử như Quảng Ninh, Nam Định, Thái Bình - đây là các tỉnh dẫn đầu cả nước về

xây dựng NTM- trong đó Quảng Ninh là tỉnh thứ ba trong cả nước có huyện được

Thủ tướng Chính phủ công nhận là huyện đạt chuẩn NTM (thị xã Đông Triều,

Quảng Ninh); Đảng bộ, chính quyền địa phương đã thường xuyên tổ chức các

hoạt động lấy ý kiến đóng góp từ quần chúng nhân dân, niêm yết công khai những

nội dung của xây dựng NTM tại trụ sở xã, thông báo công khai trên các phương

tiện truyền thanh xã, công khai đến các trưởng thôn, trưởng xóm để thông báo đến

từng gia đình, thu hút sự tham gia tích cực của gia đình tham gia xây dựng NTM.

Hai là, gia đình vùng ĐBSH đã có nhận thức đúng đắn về các chủ thể góp

phần tham gia xây dựng NTM.

Đảng, Nhà nước

78

72,7

61,7

60,3

Chính quyền địa phương

Tổ chức xã hội

28

Doanh nghiệp

22,7

Người dân

90 80 70 60 50 40 30 20 10 0

Gia đình

Biểu đồ 3.6: Tổng hợp ý kiến của gia đình vùng đồng bằng sông Hồng

đánh giá chủ thể tham gia vào xây dựng nông thôn mới

Nguồn: Số liệu khảo sát 6 tỉnh vùng ĐBSH năm 2017

Qua bảng khảo sát cho thấy, người dân nhận thức ngày càng đúng đắn hơn

vai trò của gia đình trong xây dựng NTM, có đến 60,3% số gia đình được hỏi cho

rằng gia đình là chủ thể cần tham gia vào công cuộc xây dựng NTM.

Bên cạnh đó, khi được hỏi về mức độ vai trò của gia đình trong xây dựng

NTM, tỷ lệ người dân đã đánh giá gia đình có vai trò rất quan trọng và quan trọng

trong xây dựng NTM khá cao, chiếm đến 97% (xem bảng 5, phụ lục 1.2).

88

Như vậy, người dân đã nhận thức được gia đình chính là chủ thể quan trọng

góp phần xây dựng NTM và gia đình cũng chính là đối tượng hưởng thụ những

thành quả của Chương trình này. Từ nhận thức đúng đắn vai trò của gia đình,

chính quyền địa phương, người dân và gia đình sẽ có những hoạt động thiết thực

để thúc đẩy gia đình đóng góp vai trò trong xây dựng NTM ngay từ khâu quy

hoạch đến triển khai thực hiện.

Ba là, gia đình vùng ĐBSH đã tham gia góp ý vào kế hoạch, chương trình

xây dựng NTM của địa phương như “Dự thảo quy hoạch xây dựng NTM cấp xã”,

“Dự thảo đề án xây dựng NTM cấp xã”, “Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội cấp xã, phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất”, “Dự thảo kế

hoạch triển khai các chương trình, dự án trên địa bàn cấp xã, chủ trương, phương

án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, quy hoạch khu dân

cư...”. Chính quyền địa phương đã và đang thực hiện tốt công tác này, một mặt để

các kế hoạch, dự án có tính khả thi hơn, phù hợp với thực tiễn, mặt khác quan

trọng hơn là lấy được ý kiến đóng góp của nhân dân, của gia đình, phát huy được

tính chất dân chủ, ngay từ khâu lên quy hoạch xây dựng NTM.

Thông qua các buổi họp cử tri hoặc cử tri đại diện các gia đình theo địa bàn

từng thôn, xóm đã cùng bàn bạc và trực tiếp quyết định chủ trương và mức đóng

góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng và các công việc

khác trong nội bộ cộng đồng dân cư phù hợp với quy định pháp luật. Đây là hoạt

động gắn trực tiếp đến lợi ích của từng gia đình, nên trong những năm qua được

các địa phương duy trì thường xuyên và nhận được nhiều đóng góp hữu ích từ các

gia đình để xây dựng NTM đạt hiệu quả cao hơn, phục vụ cho chính đời sống của

gia đình.

Qua khảo sát cho thấy từ các buổi họp thôn, xóm đã thu hút được sự tham

gia tích cực của các gia đình, gia đình thường xuyên tham gia là 20% và thỉnh

thoảng tham gia (chiếm 50,3%), tỷ lệ gia đình không tham gia chỉ chiếm 7%. Điều

này cho thấy các gia đình đã nâng cao trách nhiệm bản thân trong việc tham gia

họp để tiếp nhận thông tin và đóng góp ý kiến trong xây dựng NTM, thể hiện qua

biểu đồ sau:

89

Biều đồ 3.7: Tỷ lệ đánh giá mức độ gia đình tham gia góp ý, xây dựng

kế hoạch, chương trình, quy định,... của địa phương

Nguồn: Bảng 25, phụ lục 1.2

Bốn là, các mô hình tự quản cũng được các gia đình nhiệt tình tham gia,

qua các mô hình đó gia đình nâng cao ý thức trong chấp hành chủ trương, đường

lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.

Ở Thái Bình đại diện các gia đình đã bàn bạc, biểu quyết để cấp có thẩm

quyền ra quyết định một số việc như: Hương ước, quy ước của thôn, bầu, miễn

nhiệm, bãi miễn trưởng thôn; Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân

dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng; Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban phát

triển thôn.

Ngoài ra, hiện nay gia đình vùng ĐBSH đang thực hiện có hiệu quả nhiệm

vụ nhân dân giám sát việc tổ chức hoạt động của Đảng, chính quyền, các tổ chức

xã hội. Bên cạnh đó, gia đình cũng ủng hộ, vận động, giúp đỡ, tạo điều kiện cho

các thành viên trong gia đình phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt

Nam, tích cực tham gia đóng góp ý kiến xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh.

Thành viên trong gia đình vùng ĐBSH đã tham gia vào các tổ chức chính trị - xã

hội, tỷ lệ tham gia cao nhất là Hội Nông dân và Hội Phụ nữ. Qua các tổ chức đoàn

thể đó, gia đình đóng góp ý kiến cho hoạt động của chính quyền, tổ chức Đảng,...

90

cũng như phản ánh những hoạt động bất thường gây ảnh hưởng đến ANTT xã hội

nông thôn.

Tuy nhiên, gia đình vùng ĐBSH vẫn còn hạn chế trong việc phát huy vai

trò trong thực hiện dân chủ hóa ở nông thôn.

Việc tham gia vào các buổi họp thôn, xã nhiều khi còn mang tính hình

thức, chưa đạt hiệu quả cao. Đại diện gia đình cũng chưa có nhiều ý kiến đóng góp

trong các buổi họp, chưa quan tâm đến việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở,

phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện công tác kiểm tra, giám sát Đảng.

Đảng bộ, chính quyền địa phương vẫn chưa quan tâm đúng mức đến việc

thực hiện lấy ý kiến của các gia đình trong lập kế hoạch, quy hoạch xây dựng

NTM ở từng thôn, xóm. Quy hoạch mang tính chất chung chung, chưa đi vào đặc

thù của từng địa phương, vậy nên chưa thu hút được đóng góp ý kiến của đông

đảo gia đình.

Các gia đình vẫn còn tâm lý ỷ lại, cho rằng việc xây dựng hệ thống chính

trị, thực hiện dân chủ hóa mang tầm vĩ mô của Đảng, Nhà nước, chính quyền địa

phương nên chưa thực sự chủ động phát huy được vai trò trong việc đóng góp ý

kiến trong các buổi họp thôn, xóm về xây dựng NTM.

Một số gia đình vùng ĐBSH vẫn coi đây là hoạt động mang tính chất

phong trào nên chưa thực sự mang tính bền vững, đóng góp ý kiến mang tính

chiếu lệ, hời hợt. Tỷ lệ gia đình thường xuyên tham gia góp ý, xây dựng kế hoạch,

chương trình, quy định,... của địa phương chỉ chiếm 20% (xem biểu đồ 3.7), còn

lại các gia đình chỉ “thỉnh thoảng” đóng góp ý kiến. Điều này cho thấy các gia

đình vùng ĐBSH chưa thực sự tích cực trong việc phát huy tinh thần dân chủ xây

dựng hệ thống chính trị trong xây dựng NTM.

Kết quả tác giả khảo sát, cho thấy tỷ lệ thành viên trong gia đình là đảng

viên chiếm khoảng 20,3%, điều này cũng làm hạn chế việc tham gia sinh hoạt

Đảng; góp ý, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở địa phương và động viên các thành

viên trong gia đình phát triển công tác Đảng, kết nạp Đảng. Mức độ tham gia vào

các tổ chức chính trị - xã hội còn thấp nên chưa phát huy được vai trò của gia đình

vùng ĐBSH trong việc giáo dục, vận động các thành viên trong gia đình phấn đấu

91

đứng vào hàng ngũ của Đảng, tích cực tham gia sinh hoạt tập thể, đóng góp ý kiến

để xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và hoạt động của chính quyền.

- Thực hiện vai trò của gia đình trong bình đẳng giới và phòng, chống bạo

lực gia đình

Một nội dung mới được bổ sung vào tiêu chí 18 xây dựng NTM giai đoạn

2016 - 2020 là “Bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình” - đây là chỉ tiêu

mà gia đình là chủ thể thực hiện, thời gian qua đã được các gia đình ủng hộ, thực

hiện nhiệt tình và đã đạt hiệu quả cao.

Qua công tác tuyên truyền giúp cho các thành viên trong gia đình vùng

ĐBSH nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi, đẩy lùi tư tưởng, định kiến giới,

giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh do việc lựa chọn giới tính

thai nhi và phòng, chống bạo lực gia đình, kỹ năng bảo vệ con cháu mình trước

các hành vi quấy rối, xâm hại tình dục,... Từ đó, các gia đình tích cực tham gia

thực hiện bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình; chăm sóc, hỗ trợ nạn

nhân bị bạo lực gia đình góp phần xây dựng thôn xóm văn hóa.

Hiện nay, về cơ bản thành viên trong gia đình nông thôn vùng ĐBSH nhất

là quan hệ giữa vợ - chồng được cải thiện, bình đẳng, tạo điều kiện cho người phụ

nữ tham gia các công việc xã hội. Qua khảo sát cho thấy, bố mẹ tạo điều kiện cho

con trai và con gái học tập, nâng cao trình độ học vấn như nhau, bố mẹ quan tâm

đến việc đầu tư cho con cái học tập, kể cả con trai và con gái đều hướng đến cho

con học ở trình độ cao đẳng, đại học (Bảng 21, Phụ lục 1), đối với nghề nghiệp mà

cha mẹ mong muốn cho con cái làm cũng có sự tương đồng giữa hai giới trai và

gái (Bảng 22, Phụ lục 1). Hiện nay, sự bình đẳng giữa cha mẹ và con cái, giữa con

cái với nhau cũng được thực hiện tốt hơn trong gia đình vùng ĐBSH, thể hiện khi

được hỏi về nghề nghiệp mà bố mẹ mong muốn cho con cái mình làm, chủ yếu

các gia đình cho rằng “Mong muốn cho các cháu làm trong cơ quan nhà nước

hoặc tùy sự lựa chọn của các cháu” (Nữ, 40 tuổi).

Để gia đình vùng ĐBSH thực hiện vai trò trong phòng, chống bạo lực gia

đình, Hội nông dân đã phối hợp với Ban Xã hội - Dân số và Gia đình tổ chức các

lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao nhận thức, kiến thức cho cán bộ, hội viên nông

dân và các thành viên trong gia đình về thực trạng, hậu quả của bạo lực gia đình

92

đối với xã hội, ý nghĩa của việc phòng, chống bạo lực gia đình, vai trò của nam

giới đối với phòng, chống bạo lực gia đình, phòng, chống xâm hại tình dục đối với

trẻ em,... góp phần xây dựng gia đình văn hóa và xây dựng NTM.

Tại Nam Định, “Hội nông dân tỉnh đã phối hợp với các địa phương tổ chức

các buổi tọa đàm với chủ đề “Đừng vung tay, Hãy cầm tay” tại huyện Hải Hậu;

giao lưu sân khấu hóa “Chung tay xóa bỏ bạo lực với phụ nữ và trẻ em gái” tại

huyện Ý Yên; tập huấn “Nâng cao vai trò, trách nhiệm của nam giới về phòng,

chống bạo lực gia đình tại huyện Nghĩa Hưng, diễn đàn “Đàn ông đích thực nói

không bạo lực với phụ nữ” tại huyện Giao Thủy”[100].

Các gia đình nông thôn vùng ĐBSH đã tích cực tham gia các mô hình

phòng, chống bạo lực gia đình. Mô hình đã giúp gia đình nâng cao nhận thức,

phát huy vai trò hạt nhân của gia đình thực hiện tốt các chủ trương của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiều mô hình còn giúp các gia đình thực

hiện tốt Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới, từng bước

giảm thiểu các vụ bạo lực gia đình. Điển hình như tại huyện Mê Linh (Hà Nội),

các xã như: Đại Thành, Tam Đồng, Thạch Đà, Kim Hoa đều có các mô hình

triển khai theo hình thức “Câu lạc bộ gia đình hạnh phúc”, “Câu lạc bộ phòng,

chống bạo lực gia đình”,…

Qua khảo sát cho thấy, gia đình vùng ĐBSH tích cực tham gia thực hiện

phòng, chống bạo lực gia đình (Bảng 26, phụ lục 1.2), có hơn 50% gia đình được

hỏi “thường xuyên” thực hiện hoạt động này, 44,7% gia đình “thỉnh thoảng” tham

gia. Nhận thức và hành động của gia đình vùng ĐBSH cho hoạt động này được

nâng cao hơn, có ý thức tự giác hơn. Khi hỏi về sự ủng hộ của phòng, chống bạo

lực gia đình, hầu hết nhận được sự đồng tình của thành viên trong gia đình.

Tuy nhiên, hiện nay thực hiện bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia

đình ở gia đình vùng ĐBSH còn một số hạn chế như:

Công tác tuyên truyền, giáo dục về giới và bình đẳng giới chưa thực sự đạt

hiệu quả cao. Nội dung tuyên truyền chưa được chuyển tải thường xuyên, sâu

rộng, chưa sát với đối tượng. Nhận thức của thành viên trong gia đình, nhất là phụ

nữ trong gia đình nông thôn vùng ĐBSH về quyền lợi của mình còn nhiều hạn

chế, định kiến giới và tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, “thập nữ viết vô, nhất nam

93

viết hữu”, tư tưởng gia trưởng của nam giới trong gia đình vẫn khá phổ biến.Từ

nhận thức đó nên bình đẳng giới trong gia đình vẫn chưa thực sự được thực hiện.

Sự bất bình đẳng giới ở gia đình nông thôn vùng ĐBSH vẫn tồn tại trong

nhiều lĩnh vực, phụ nữ vẫn phải làm những công việc nội trợ là chủ yếu, tư tưởng

trọng nam khinh nữ trong quá trình sinh con, nuôi con, chăm sóc con cái, kế hoạch

hóa gia đình, chính vì thế phụ nữ còn gặp phải những vấn đề khác như bạo lực gia

đình, nạn nhân của buôn bán người, bóc lột lao động, xâm hại tình dục.

Vẫn còn diễn ra tình trạng bạo lực gia đình ở một số địa phương, nhất là

vùng nông thôn ở ĐBSH. Bạo lực gia đình đang trở thành vấn đề xã hội nhức

nhối, gây hậu quả không chỉ cho thể xác, tâm lý của người bị bạo hành mà còn

gây hậu quả cho xã hội. Đối tượng bị bạo lực gia đình hiện nay chủ yếu vẫn là phụ

nữ, trẻ em gái, dưới hình thức bạo lực thể xác, bạo lực tinh thần và bạo lực tình

dục. Gần đây, diễn ra tình trạng xâm phạm tình dục đối với trẻ em gái, cũng gây

hậu quả nghiêm trọng đến tâm lý, cuộc sống của nạn nhân, lên án sự suy đồi về

đạo đức ngày càng nghiêm trọng. Tuy nhiên đây là vấn đề nhạy cảm nên vẫn bị

giấu giếm nhiều, do tâm lý xấu hổ hay quan niệm “xấu chàng hổ ai” nên nhiều

phụ nữ bị bạo hành hay con cái họ bị bạo hành, bị xâm phạm nhưng vẫn cam chịu,

nhẫn nhịn chịu đựng để giữ sự êm ấm cho gia đình.

3.1.1.5. Thực trạng thực hiện vai trò của gia đình tham gia đảm bảo an

ninh nông thôn

Hiện nay, đã có khá nhiều địa phương trên địa bàn vùng ĐBSH đạt chuẩn

tiêu chí An ninh trật tự trong Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM.

Điều này không chỉ đưa địa phương “cán đích” NTM theo lộ trình đề ra, mà còn

góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn an ninh, trật tự xã hội thôn xóm, đem lại sự

bình yên cho nhân dân. Gia đình vùng ĐBSH đã có các hoạt động tham gia đảm

bảo an ninh trật tự xã hội, thực hiện tiêu chí 19 của xây dựng NTM, được thể hiện

qua các nội dung sau:

Thứ nhất, gia đình vùng ĐBSH đã phát huy vai trò trong đảm bảo an ninh,

trật tự ở nông thôn.

Để phát huy vai trò của gia đình trong đảm bảo an ninh trật tự xã hội, chính

quyền một số địa phương đã kết hợp chặt chẽ lồng gắn tiêu chí “Đảm bảo ANTT

94

xã hội nông thôn” và tiêu chí xây dựng “Gia đình văn hóa”, “Khu dân cư văn hóa”

trong cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, duy trì

hoạt động của trên 2000 tổ chức quần chúng tự quản ở cơ sở như : “Địa bàn không

có tội phạm và tệ nạn xã hội”, “Khu dân cư an toàn, đoàn kết, văn hóa”; “Tổ tự

quản An ninh trật tự, an toàn giao thông,...” thông qua đó phát huy quyền làm chủ

của nhân dân, thu hút gia đình tham gia, góp phần ổn định vững chắc tình hình an

ninh nông thôn vùng ĐBSH.

Mặt khác qua các phong trào, công tác tuyên tuyền cũng đã nâng cao ý thức

cảnh giác, trách nhiệm và năng lực tự bảo vệ của gia đình trong việc phòng ngừa,

phát hiện, đấu tranh làm thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình”, hoạt động phá hoại

của các thế lực thù địch và các loại tội phạm, tệ nạn xã hội, góp phần giữ vững an

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước.

Phát huy vai trò giáo dục, tình cảm của gia đình - đây là vai trò quan trọng

của gia đình, thời gian qua đã vận động các gia đình tích cực tham gia đấu tranh tố

giác các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ các đối tượng

hoàn lương sớm tái hòa nhập cộng đồng. Gia đình phát huy vai trò giáo dục, tình

cảm trong việc vận động các thành viên không tham gia các tệ nạn xã hội như lô

đề, cờ bạc, rượu chè,.. gây mất trật tự xã hội an ninh nông thôn.

Thứ hai, gia đình vùng ĐBSH tích cực tham gia các mô hình bảo vệ an

ninh, trật tự xã hội thực hiện thắng lợi tiêu chí 19 của xây dựng NTM.

Một số địa phương đã hình thành các mô hình bảo vệ an ninh, trật tự xã

hội, trong đó có một số mô hình huy động vai trò của gia đình trong đảm bảo an

ninh, xã hội, như mô hình “Tổ liên gia tự quản” (Hình thức thực hiện mỗi “Tổ

liên gia tự quản” có từ 10 đến 20 hộ gia đình liên kết, các Tổ liên gia được tổ

chức hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện, tự giác, tự đảm bảo kinh phí của các hộ gia

đình, các tổ được sự lãnh đạo trực tiếp của chi Bộ), chức năng chính của Tổ liên

gia là tham gia hòa giải cơ sở, cùng nhau giữ gìn an ninh trật tự, giúp nhau phát

triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa gia đình, văn hóa

khu dân cư.

Tại Thái Bình đã kết hợp chặt chẽ lồng ghép tiêu chí “Đảm bảo an ninh trật

tự xã hội nông thôn” và tiêu chí xây dựng “Khu dân cư văn hóa” trong cuộc vận

95

động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, duy trì hoạt động của

trên 2000 tổ chức quần chúng tự quản ở cơ sở như: “Địa bàn không có tội phạm

và tệ nạn xã hội”; “Khu dân cư an toàn, đoàn kết, văn hóa”; “Tổ tự quản an ninh

trật tự, an toàn giao thông”,... Thông qua các tổ chức này đã phát huy quyền làm

chủ của nhân dân, phát huy vai trò tự quản của các gia đình, từ đó góp phần ổn

định vững chắc tình hình an ninh trật tự, xã hội nông thôn.

Thứ ba, nhờ có sự tham gia của gia đình nên vùng ĐBSH thời gian vừa qua

tình hình khiếu kiện giảm, không có “điểm nóng”, không để hình thành các tổ

chức chính trị đối lập ở địa phương, kiềm chế, làm giảm tội phạm, tai nạn giao

thông; an ninh chính trị, trật tự xã hội ở nông thôn được đảm bảo, giữ vững. Gia

đình vùng ĐBSH tích cực tham gia các hoạt động giữ vững an ninh, trật tự xã hội

ở nông thôn như: phong trào “Toàn dân bảo vệ An ninh tổ quốc”; phòng, chống tệ

nạn xã hội; tìm hiểu hệ thống pháp luật; tham gia phòng ngừa tội phạm; phát hiện,

đấu tranh, tố giác tội phạm; đảm bảo an toàn giao thông; không khiếu kiện, tụ tập

đông người; không tham gia truyền đạo trái phép (bảng 26, phụ lục 1.2), từ đó,

góp phần đảm bảo an ninh nông thôn và thực hiện có hiệu quả tiêu chí cuối cùng

trong xây dựng NTM.

Tuy nhiên, gia đình vùng ĐBSH góp phần thực hiện tiêu chí 19 còn một số

hạn chế như:

Với tiêu chí 19 của xây dựng NTM là tiêu chí cuối cùng nhưng lại là tiêu

chí khó đạt nhất, khó đánh giá nhất. Trên báo cáo của các địa phương, số xã đạt

chuẩn của tiêu chí này khá cao, ví dụ như Thái Bình có 255 xã đạt,chiếm 96,9%

[118]; Quảng Ninh 100% xã đạt [114]; Chương Mỹ (Hà Nội) có 22/30 xã cơ bản

đạt, chiếm 73,3% [45]; Nam Định có 204/209 xã đạt, chiếm 98% [120],... Tuy

nhiên, thực tế khi khảo sát (bảng 26, phụ lục 1.2) thì mức độ thực hiện chủ yếu là

“thỉnh thoảng”, chưa được duy trì một cách “thường xuyên”, nhất là với hoạt động

“Tìm hiểu hệ thống pháp luật” và “Phát hiện, đấu tranh, tố giác tội phạm” mức độ

thực hiện “thường xuyên” rất thấp, do tâm lý e ngại, né tránh của nhân dân vẫn

còn, cho rằng việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm là nhiệm vụ của lực lượng

chức năng.

96

Trong thời gian qua, tình hình an ninh trật tự, xã hội ở nông thôn vùng

ĐBSH đang còn một số diễn biến phức tạp như một số nơi vẫn diễn ra khiếu kiện

kéo dài về đền bù giải phóng mặt bằng, ô nhiễm môi trường do lực lượng chức

năng chưa thực hiện tốt công tác tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng,

Nhà nước đến từng gia đình và có nơi chính quyền địa phương chưa thực hiện

đúng chủ trương, chưa giải thích kịp thời cho nhân dân hiểu (điển hình như vụ

việc ở Đồng Tâm, Mỹ Đức (Hà Nội)),... Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ

quốc cũng chưa đồng đều, một số gia đình không dám đấu tranh, tố giác tội phạm;

mô hình quần chúng tự quản về an ninh trật tự chưa được tập trung xây dựng vào

những xã xây dựng NTM, xã trọng điểm, xã phức tạp nên chưa thu hút gia đình

thực hiện vai trò.

Trong thời gian gần đây, tình trạng thanh thiếu niên vi phạm pháp luật vẫn

diễn ra, tệ nạn ma túy, cờ bạc còn xảy ra,... điều này cho thấy một nguyên nhân là

do vai trò giáo dục của gia đình chưa được phát huy có hiệu quả, có nơi, có lúc

còn bị buông nhẹ, chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường.

3.1.2. Nguyên nhân thực trạng thực hiện vai trò của gia đình vùng

đồng bằng sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới hiện nay

3.1.2.1. Nguyên nhân của thành tựu

Gia đình vùng ĐBSH tích cực tham gia, đóng góp cho xây dựng NTM

không chỉ dừng lại ở những hành động mang tính phong trào mà là hành động

thiết thực góp phần thực hiện thắng lợi xây dựng NTM. Có được những thành tựu

này do nguyên nhân khách quan và chủ quan sau:

* Nguyên nhân khách quan:

Trước hết, các tỉnh vùng ĐBSH nói riêng và trên phạm vi cả nước nói

chung đã tiếp thu kinh nghiệm xây dựng NTM của các nước trong khu vực và trên

thế giới, thu hút gia đình tham gia thực hiện xây dựng NTM.

Các nước phát triển trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc,... đã thực hiện

xây dựng làng mới từ những năm 1970 đến nay đã đạt được nhiều thành tựu to

lớn, không có sự chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn, áp dụng sản xuất

nông nghiệp công nghệ cao, huy động sức mạnh, tính tự giác từ chính các gia đình

ở nông thôn. Tiếp thu kinh nghiệm của các nước trong quá trình xây dựng NTM,

97

Đảng và Nhà nước ta đã xác định chủ thể xây dựng NTM chính là người dân, huy

động được sự ủng hộ và tham gia của nhân dân, Đảng và nhân dân cùng làm, từ

đó chính quyền địa phương ở Việt Nam nói chung và vùng ĐBSH nói riêng đã

triển khai để huy động nhân dân cụ thể là gia đình nông thôn tích cực đóng góp

sức người, sức của cho Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM.

Thứ hai, hệ thống chính trị các tỉnh vùng ĐBSH coi xây dựng NTM là

nhiệm vụ trọng tâm, trong đó phát huy vai trò chủ thể của gia đình vùng ĐBSH là

yếu tố quyết định sự thành công của chương trình.

Ngay từ khi triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây

dựng NTM, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng chính quyền vùng ĐBSH vẫn luôn

ưu tiên, quan tâm, chỉ đạo, tập trung nguồn lực cho xây dựng NTM, xem đây là

một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Đây được xem như nhiệm vụ của cả hệ

thống chính trị cùng vào cuộc và được sự chỉ đạo quyết liệt. Chính quyền địa

phương không chỉ huy động sức mạnh của các tổ chức chính trị xã hội trong thực

hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng NTM, phát

triển nông nghiệp, nông thôn mà còn tạo mọi điều kiện về cơ chế, chính sách để

các gia đình vùng ĐBSH trực tiếp tham gia xây dựng NTM, gia đình vùng ĐBSH

vừa là chủ thể, vừa là người thụ hưởng những thành quả của xây dựng NTM.

Gia đình vùng ĐBSH trong thời gian qua đã thực hiện tích cực vai trò trong

xây dựng NTM do chính quyền làm tốt công tác tuyên truyền, vận động phát huy

tính chủ động và sáng tạo của gia đình, nghiêm túc thực hiện các nguyên tắc dân

chủ, công khai, minh bạch, thực sự quan tâm đến lợi ích của từng gia đình trong

việc lựa chọn nội dung, quản lý và đánh giá kết quả thực hiện chương trình xây

dựng NTM ở địa phương. Việc huy động, đóng góp của gia đình được thực hiện

trên cơ sở tự nguyên, bàn bạc dân chủ, đẩy mạnh phong trào thi đua “Toàn dân

chung sức xây dựng NTM”, động viên khen thưởng kịp thời các hộ gia đình, cá

nhân tích cực tham gia đóng góp trong xây dựng NTM.

Ngoài ra, chính quyền địa phương còn phát huy được tính dân chủ, biết tôn

trọng, cầu thị, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng chính đáng của các hộ gia đình, gia

đình góp ý dự thảo văn bản xây dựng NTM, làm mọi việc để chăm lo lợi ích của

người dân, nếu mắc khuyết điểm không ngại sửa sai, nhận lỗi trước dân. Trong

98

quá trình thu hút gia đình đóng góp sức người, sức của, hiến đất cho xây dựng

NTM, chính quyền địa phương cũng tích cực phòng, chống tham nhũng- nhất là

nạn tham nhũng vặt, tệ quan liêu, hách dịch, cửa quyền,... để đem lại niềm tin cho

gia đình tích cực thực hiện vai trò trong các tiêu chí xây dựng NTM.

Thứ ba, thu hút các nguồn lực xã hội hóa để giúp đỡ gia đình thực hiện vai

trò trong xây dựng NTM.

Một trong những điều kiện quan trọng để gia đình thực hiện tốt vai trò

trong xây dựng NTM, đó là sự chung tay của các nguồn lực xã hội, nguồn vốn, bố

trí đầu tư, đa dạng các nguồn lực xã hội hóa, hỗ trợ hình thức sản xuất, bao tiêu

đầu vào và đầu ra sản phẩm, hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ cao vào sản

xuất nông nghiệp. Huy động sự đóng góp, hỗ trợ của các doanh nghiệp, thực hiện

liên kết 4 nhà “Nhà nông, nhà nước, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp”, từ đó

các gia đình yên tâm sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Ngoài ra, Ngân hàng

Nhà nước, Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển

nông thôn,... cũng đã tạo điều kiện cho gia đình vùng ĐBSH vay vốn để phát triển

sản xuất, kinh doanh đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh, trang trại, từng bước

nâng cao đời sống cho gia đình. Việc huy động kinh phí đa dạng bảo đảm cho việc

triển khai các dự án và chương trình trong kế hoạch xây dựng NTM và cũng góp

phần động viên, hỗ trợ gia đình nông thôn phát triển kinh tế gia đình, giải quyết

việc làm tại chỗ, thực hiện xóa đói giảm nghèo bền vững, hoàn thành thắng lợi

mục tiêu xây dựng NTM.

* Nguyên nhân chủ quan:

Bản thân gia đình vùng ĐBSH nâng cao nhận thức về vai trò trong xây

dựng NTM, nâng cao trình độ học vấn, phát triển kinh tế gia đình và ý thức phát

huy dân chủ ở nông thôn.

Gia đình vùng ĐBSH đã nâng cao nhận thức về vai trò của mình trong xây

dựng NTM, với mục tiêu “Đảng và nhân dân cùng làm”, gia đình vùng ĐBSH

nhận thức ngày càng rõ hơn nội dung các tiêu chí xây dựng NTM và vai trò của

mình đối với từng tiêu chí, nhất là đối với tiêu chí xây dựng, giữ gìn đường làng,

ngõ xóm, nhà ở; giữ gìn và phát triển giáo dục, văn hóa; phòng, chống bạo lực gia

đình và giữ gìn an ninh trật tự xã hội nông thôn.

99

Gia đình vùng ĐBSH có truyền thống hiếu học, chú trọng đến công tác giáo

dục, đào tạo nâng cao trình độ học vấn, có ý thức tự giác trong việc nâng cao trình

độ học vấn cho các thành viên trong gia đình. Xét về trình độ học vấn, người dân

vùng ĐBSH được xác định có trình độ học vấn tương đối cao hơn các vùng khác,

đây là điều kiện thuận lợi để thực hiện có hiệu quả xây dựng NTM.

Ngoài ra, gia đình nông thôn vùng ĐBSH còn có cả những gia đình là trí

thức, công chức nên hiểu rất rõ tầm quan trọng của xây dựng NTM, đi đầu trong

đóng góp, làm gương cho các gia đình trong làng, thôn. Hơn nữa, sự năng động,

sáng tạo, nhạy bén vốn có của nông dân thông qua các sáng kiến, cải tiến kỹ thuật

cũng là yếu tố giúp cho gia đình nông thôn vùng ĐBSH tranh thủ thuận lợi về tự

nhiên và khai thác tiềm năng của vùng để phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng

cao đời sống gia đình, xóa đói giảm nghèo bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu

xây dựng NTM ngay từ những năm đầu tiến hành.

Bên cạnh đó, năng lực thực hành dân chủ của gia đình vùng ĐBSH từng

bước được phát huy cũng là một nguyên nhân dẫn đến thành tựu thực hiện vai trò

của gia đình trong xây dựng NTM. Các gia đình vùng ĐBSH có trách nhiệm hơn

với những công việc chính trị, xã hội, sự hiểu biết về dân chủ, về quyền lợi và

nghĩa vụ của gia đình được nâng cao. Mặt khác, gia đình vùng ĐBSH còn tạo điều

kiện, động viên các thành viên trong gia đình tham gia vào các tổ chức đoàn thể

như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân,... từ đó

phấn đấu đứng vào hàng ngũ của Đảng. Chính các hoạt động dân chủ gia đình

vùng ĐBSH đang góp phần xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, giữ vững an

ninh trật tự, xã hội nông thôn.

3.1.2.2. Nguyên nhân của hạn chế

* Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, do công tác tuyên truyền và vận động gia đình vùng ĐBSH thực

hiện vai trò trong các nội dung xây dựng NTM còn hạn chế, chưa được sâu rộng,

còn thiếu những hình thức sáng tạo, phong phú, chưa thu hút được đông đảo sự

quan tâm của gia đình, chưa làm thường xuyên; nhận thức của một số cán bộ và

100

nhân dân chưa đầy đủ, chưa phát huy được sức mạnh của cả hệ thống chính trị.

Sự phối hợp giữa chính quyền và nhân dân, gia đình nhiều nơi chưa chặt chẽ.

Công tác thông tin, tuyên truyền để thu hút các gia đình vùng ĐBSH tham

gia sản xuất, tiêu thụ sản phẩm ở hợp tác xã còn nhiều hạn chế nên gia đình vùng

ĐBSH chưa phân biệt được sự khác nhau giữa mô hình hợp tác xã kiểu mới với

mô hình hợp tác xã kiểu cũ dẫn đến hoài nghi, thiếu tin tưởng vào sự phát triển

của hợp tác xã.

Ngoài ra, công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia hoạt động

của tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị cũng chưa được mạnh

mẽ. Thực hiện quy chế dân chủ tới đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa

thường xuyên, phương pháp tuyên truyền chậm đổi mới, thiếu đa dạng. Một bộ

phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đúng nội dung, ý nghĩa vai trò

của gia đình trong xây dựng hệ thống chính trị nên tinh thần thái độ phục vụ nhân

dân chưa thực sự nhiệt tình.

Thứ hai, một số nội dung trong Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM

chưa phù hợp với thực tiễn và sự phát triển của địa phương nên chưa phát huy

được hiệu quả vai trò của gia đình nông thôn vùng ĐBSH trong xây dựng NTM

Qua những năm đầu (từ năm 2010 - 2015) triển khai chương trình xây

dựng NTM, đã được chỉnh sửa và bổ sung trong Bộ tiêu chí xây dựng NTM từ

năm 2016 - 2020, nhưng qua thực tế một số tiêu chí xây dựng NTM chưa thực sự

hợp lý, chưa phù hợp với thực hiện vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây

dựng NTM.

Ví dụ như chính sách xây dựng các trung tâm thương mại nông thôn trong

khi người dân nông thôn ĐBSH vẫn chủ yếu là họp chợ cóc, chợ quê vào sáng

sớm, mua bán trực tiếp hoặc trao đổi nông sản; hay hạ tầng thông tin truyền

thông, lắp đặt đường internet, truyền hình cáp,... với số tiền phí hàng tháng còn

tương đối cao.

Sự phát triển của các tỉnh, kể cả trong một tỉnh thì các huyện, xã cũng

không đồng đều, trình độ dân trí, thu nhập, đời sống vật chất và tinh thần của gia

đình nông thôn ĐBSH còn chênh lệch so với khu vực nội thành. Các cơ chế, chính

101

sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn chưa đủ

mạnh. Thủ tục hành chính tiếp nhận đầu tư của doanh nghiệp vào nông nghiệp,

nông thôn còn rườm rà, phức tạp. Cơ chế, chính sách trên một số lĩnh vực cũng

còn lạc hậu, chưa phù hợp với thực tiễn và sự phát triển của gia đình khu vực nông

thôn ĐBSH, vì vậy, chưa khuyến khích được các gia đình thay đổi phương thức

sản xuất, cơ giới hóa mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp. Diện tích đất nông

nghiệp của gia đình vùng ĐBSH thu hẹp nhanh, phân bố nhỏ lẻ, manh mún nên

khó khăn cho việc cơ giới hóa, hiện đại hóa và xây dựng nền sản xuất nông nghiệp

quy mô lớn.

Sản xuất của gia đình vùng ĐBSH dễ bị tác động của giá cả, các yếu tố thị

trường, thiên tai dịch bệnh ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, huy động nguồn

lực cho đầu tư và phát triển kinh tế gia đình. Những năm qua thời tiết diễn biến

phức tạp, kinh tế thế giới bị suy thoái, thị trường nông sản, thực phẩm biến động

nên sản xuất và đời sống người dân gặp nhiều khó khăn, việc đóng góp cho xây

dựng NTM của gia đình vùng ĐBSH bị hạn chế.

* Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, do nhận thức của chính quyền địa phương và các gia đình vùng

ĐBSH về vai trò của họ trong xây dựng NTM chưa cao.

Ở một số nơi chính quyền địa phương và gia đình chưa nhận thức đúng vai

trò của gia đình trong xây dựng NTM. Khi được hỏi về chủ thể tham gia xây dựng

NTM, vẫn có ý kiến cho rằng Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương là chủ thể

chính thực hiện xây dựng NTM, vì vậy, vẫn có tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự đầu

tư của Nhà nước, một bộ phận gia đình chưa tích cực, tự giác đóng góp xây dựng

NTM. Bên cạnh đó, một số cán bộ chưa xác định đúng mục tiêu của xây dựng

NTM là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, lấy nhân dân là

mục tiêu, động lực xây dựng NTM nên chưa có hành động cụ thể động viên gia

đình vùng ĐBSH thực hiện vai trò xây dựng NTM.

Nhận thức của các gia đình và cấp chính quyền, cơ quan quản lý, tổ chức

về vai trò của gia đình với vấn đề bảo vệ môi trường chưa cao. Việc tuyên truyền

phổ biến các quy định về bảo vệ môi trường nói riêng, các định hướng của Nhà

102

nước trong quản lý và phát triển nông thôn nói chung còn chưa được thực hiện

thường xuyên, dẫn đến các gia đình chưa nắm rõ được quy định trong xử lý chất

thải. Ý thức thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường của gia đình và cơ sở gia

đình thực hiện sản xuất chưa cao. Đa số gia đình chỉ tập trung phát riển kinh tế,

mở rộng sản xuất theo nhu cầu thị trường mà coi việc thu gom, xử lý chất thải là

việc của nhà nước.

Thứ hai, do bản thân đời sống kinh tế gia đình vùng ĐBSH còn gặp nhiều

khó khăn, vẫn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, buôn bán nhỏ.

Gia đình vùng ĐBSH ở một số địa phương chưa sẵn sàng đóng góp tiền

mặt, hiện vật cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn và đóng góp chưa mang tính

tự nguyện hay còn tình trạng huy động đóng góp quá sức về kinh tế của gia đình

(huy động các hộ đóng góp khoảng từ 300.000 đồng đến 1 triệu đồng).

Do số đơn vị hành chính cấp xã ở khu vực nông thôn lớn, cơ sở hạ tầng còn

thiếu thốn và chưa đồng bộ nên đòi hỏi nguồn lực đầu tư rất lớn. Sự phát triển của

các địa phương không đồng đều, trình độ dân trí, thu nhập, đời sống vật chất và

tinh thần của gia đình khu vực nông thôn vùng ĐBSH còn chênh lệch lớn so với

khu vực nội thành.

Ngoài ra, diện tích đất ở nông thôn của gia đình vùng ĐBSH cũng đang bị

thu hẹp, chủ yếu là đất nông nghiệp, đất ở hiện còn rất ít nên gia đình chưa có điều

kiện hiến tặng đất cho làm đường làng, ngõ xóm, giao thông nội đồng cho xây

dựng NTM.

Gia đình nông thôn vùng ĐBSH vẫn chủ yếu là các hộ nông dân, làm thủ

công, buôn bán nhỏ,... thu nhập chưa cao nên việc ứng dụng khoa học công nghệ

vào đa dạng hóa hình thức sản xuất còn hạn chế, khi tham gia vào hợp tác xã cũng

chưa nhiệt tình, chưa có điều kiện đóng góp vốn nhiều. Các gia đình khi thực hiện

đa dạng hóa tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm vẫn còn tâm lý ỷ lại vào sự

giúp đỡ của nhà nước.

Khi áp dụng mô hình “sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao”, gia

đình vùng ĐBSH còn gặp khó khăn về vốn đầu tư, nguồn lao động, cơ sở hạ tầng

và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên khi được hỏi “Nếu nhận được sự trợ

103

giúp về vốn, ông/ bà có sẵn sàng chuyển đổi hình thức sản xuất không?” thì hầu

như các gia đình không sẵn sàng chuyển đổi hình thức sản xuất do tâm lý cố hữu,

ngại thay đổi. Vì vậy, kinh tế hộ gia đình vùng ĐBSH vẫn chưa phát triển một

cách bền vững, có chiều sâu.

Ngoài ra, tình hình vay vốn cũng tương đối khó khăn, khi được hỏi về tình

hình vay vốn của địa phương, có 35% gia đình cho rằng gặp “khó khăn” trong quá

trình vay vốn (xem bảng 13, phụ lục 1.2), hay hiện nay ở nông thôn vùng ĐBSH

có tình trạng cho vay tính dụng đen, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đất đai của gia

đình ảnh hưởng đến đời sống kinh tế của gia đình nói riêng và tình hình an ninh

trật tự xã hội nói chung.

Thứ ba, có nơi gia đình có tâm lý e ngại, không muốn đóng góp, chưa tích

cực thực hiện xây dựng NTM do sau giai đoạn 2010-2015, có tình trạng thiếu

minh bạch trong xây dựng NTM diễn ra, tình trạng nợ tiêu chí, nợ đọng, chạy theo

thành tích xuất hiện ở các địa phương

Theo báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện chương trình xây dựng NTM ở

vùng ĐBSH, những kết quả đạt được rất đáng ghi nhận, đến năm 2015, số xã đạt

NTM là 17,1%. Tuy nhiên, chỉ sau 9 tháng đến tháng 10/2016, tăng lên bất thường

là 23%. Nhiều địa phương do bệnh thành tích nên xin nợ tiêu chí nhưng không

biết đến bao giờ có thể trả được. Do việc chạy theo thành tích trước sức ép hoàn

thành các tiêu chí, nhiều địa phương đã tự xoay sở tìm mọi cách huy động nguồn

lực phục vụ chương trình, dẫn đến nhiều nơi thậm chí không có khả năng thanh

toán các khoản nợ. Nhiều tỉnh “sa lầy” trong nợ đọng xây dựng cơ bản NTM, có

tỉnh nợ gần 1000 tỷ chủ yếu tập trung tại các công trình như trụ sở làm việc, nhà

văn hóa, một số trạm y tế đầu tư thiết bị trị giá gần 500 triệu đồng nhưng thiếu

đồng bộ nên vẫn nằm bất động, có nơi xây hồ chứa rác trong các thôn gần 1 tỷ

đồng... Một số cán bộ xã, huyện có tình trạng tham ô, tham nhũng đối với đóng

góp hay nguồn vốn đầu tư xây dựng NTM. Điều đó làm cho nhân dân mất niềm

tin, một số gia đình không muốn đóng góp cho chương trình, hoặc có đóng góp thì

104

rất ít, không tự giác, nhiệt tình tham gia vào công việc giữ gìn, tu bổ, sửa chữa

công trình, hạng mục để xây dựng NTM bền vững.

Gia đình vùng ĐBSH chưa tích cực trong việc tham gia tu bổ, sửa chữa các

công trình, hạng mục văn hóa, thậm chí có gia đình ít tham gia các hoạt động văn

hóa. Một trong những nguyên nhân là do có địa phương còn lãng phí trong xây

dựng các công trình này. Việc xây dựng các nhà văn hóa, thể thao nhằm cải thiện

và nâng cao đời sống tinh thần của người dân, song trên thực tế sau khi đầu tư xây

dựng với số tiền hàng chục tỷ đồng, nhiều nhà văn hóa vẫn không đưa vào sử

dụng do bất tiện vì xây dựng xa trung tâm, cho nên mỗi khi hội họp hay tổ chức

hoạt động lại tổ chức ở UBND xã, có nơi xây dựng nhà văn hóa, khu thể thao chỉ

cốt để đạt chỉ tiêu NTM, các hoạt động văn hóa chưa đa dạng, chưa đáp ứng được

nhu cầu của các thành viên trong gia đình.

3.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA GIA

ĐÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

HIỆN NAY

Quá trình xây dựng NTM giai đoạn I (2010 - 2015), gia đình vùng ĐBSH

đã tích cực tham gia thực hiện có hiệu quả, làm thay đổi “bộ mặt” nông thôn

ĐBSH, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời

sống gia đình nông thôn vùng ĐBSH, tuy nhiên qua thực hiện đã nảy sinh một số

vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục nghiên cứu. Cụ thể:

3.2.1. Phát huy vai trò gia đình trong xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế -

xã hội của xây dựng nông thôn mới chưa đảm bảo tính bền vững

Trong thời gian qua, gia đình tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã

hội nông thôn tuy nhiên chưa đảm bảo tính bền vững, cụ thể là:

Thứ nhất, gia đình vùng ĐBSH cũng như chính quyền địa phương chưa

quan tâm đến đầu tư, xây dựng, sửa chữa tất cả các hạng mục cơ sở hạ tầng kinh tế

- xã hội của NTM.

Trong giai đoạn từ 2010 - 2015, mới chỉ tập trung vào xây dựng hạ tầng

giao thông còn các hạ tầng thương mại nông thôn (Chợ nông thôn hoặc nơi

mua bán, trao đổi hàng hóa), hạ tầng thông tin hoặc truyền thông (Bưu chính,

105

viễn thông, internet, đài truyền thanh, hệ thống loa, ứng dụng công nghệ thông

tin), hạ tầng y tế (Trạm xá, bệnh viện, trang thiết bị y tế,...),... vẫn chưa được

đầu tư quan tâm đúng mức, có nơi còn chưa có chợ kiên cố, vẫn là chợ tạm, chỉ

họp buổi sáng, hoặc mua bán nhỏ lẻ; hạ tầng thông tin, truyền thông ở vùng

nông thôn cũng còn rất hạn chế. Các hộ gia đình “chưa đóng góp” xây dựng hạ

tầng y tế chiếm tỷ lệ khá cao. Bên cạnh đó sự đầu tư của chính quyền, doanh

nghiệp đến hạ tầng này cũng chưa được quan tâm, vì vậy ở một số địa phương

tuyến huyện, xã hạ tầng y tế còn rất kém, không đảm bảo các trang thiết bị,

trình độ của y bác sĩ cũng thấp, dẫn đến tình trạng quá tải ở tuyến trên hoặc

không cứu chữa kịp thời.

Thứ hai, gia đình e ngại trong việc đóng góp xây dựng NTM giai đoạn tới

Do chạy theo thành tích để đạt tiêu chuẩn NTM nên có nhiều công trình

hạng mục phục vụ cho đời sống của gia đình nông thôn đã xây dựng nhưng đến

nay lại bị bỏ hoang, không sử dụng hoặc đã bắt đầu xuống cấp.

Gia đình đóng góp xây dựng các khu thể thao, nhà văn hóa và khu học tập

cộng đồng, chợ,... to lớn, hoành tráng, mất hơn nửa tỉ đồng cũng chỉ để “trang trí”,

đóng cửa cả ngày, bị xuống cấp, trong khi đó khoản nợ vài trăm triệu đồng chưa

có tiền để hoàn trả; Các hộ gia đình góp công, góp của làm nên những con đường

mới nhưng đường lại nhỏ hẹp đan xen, đi lại gặp nhiều khó khăn,... gây những

mâu thuẫn nhất định trong quá trình đóng góp của gia đình với việc sử dụng các

nguồn vốn đó của chính quyền địa phương.

Đơn cử như ở xã Thụy Hương (huyện Chương Mỹ, Hà Nội), mặc dù đã

được công nhận xã điểm NTM toàn quốc từ nhiều năm qua, nhưng ở đây có tới

hai nhà máy cấp nước đang chờ sử dụng trong khi các hộ phải tự bỏ tiền đào

giếng, lấy nước tưới hoa màu. Những vấn đề này cho thấy, do chạy theo thành

tích, nên chính quyền địa phương đã huy động quá sức của nhân dân; bên cạnh

đó xuất hiện tình trạng tham ô, tham nhũng của một số cán bộ. Từ đó dẫn đến

mất niềm tin của nhân dân, gia đình vào sự đóng góp xây dựng NTM.

Cần xác định đây là chương trình lâu dài phục vụ thiết thực cho đời sống

người dân nông thôn chứ không phải mang tính phong trào nên phải thực hiện

đảm bảo tính bền vững. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào vai trò của người đứng

106

đầu ở các địa phương, nhất là Bí thư Đảng ủy và Chủ tịch UBND xã, huyện. Và

khi tổ chức thực hiện thì nhất định phải lấy ý kiến thảo luận từ nhân dân, đại diện

của các gia đình, phát huy tinh thần dân chủ, đặt nhân dân vừa là chủ thể thực

hiện, vừa là đối tượng hưởng thụ của quá trình xây dựng NTM.

3.2.2. Thu hồi đất phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,

nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng dẫn đến tình trạng thành viên trong

gia đình mất việc làm, thất nghiệp, ly nông, ly hương, không đảm bảo tính

bền vững trong xây dựng nông thôn mới

Thứ nhất, thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện công nghiệp hóa trong

những năm gần đây đã mang đến những thay đổi lớn ở các vùng nông thôn. Các

khu công nghiệp được hình thành đã tạo ra sự tăng trưởng kinh tế cao, đa dạng

hóa nguồn thu nhập, nâng cấp cơ sở hạ tầng, góp phần rất lớn vào việc thực hiện

xóa đói giảm nghèo ở vùng nông thôn. Tuy nhiên, việc thu hồi đất đã tác động

trực tiếp đến việc làm và đời sống của gia đình nông thôn trước mắt cũng như lâu

dài. Việc mất đất đai, thiếu việc làm, không tự chủ về lương thực, ly nông, ly

hương là tình trạng phổ biến của các gia đình, nhất là ở các tỉnh như Hưng Yên,

Hải Dương,...từ đó dẫn đến những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, xảy ra tình

trạng khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện vượt cấp,...

Thứ hai, giải quyết việc làm cho các gia đình sau khi chuyển giao đất cho

các xí nghiệp, khu công nghiệp. Do đất nông nghiệp bị thu hồi để xây dựng các

nhà máy, lao động trong lĩnh vực nông nghiệp của các gia đình có giảm đi. Mỗi hộ

chỉ còn từ 1 đến 2 lao động làm nghề nông, trồng cấy trên diện tích đất còn lại

hoặc chăn nuôi, thủy sản theo qui mô nhỏ. Một số gia đình thuê đất của các hộ

trong thôn hoặc xã lân cận để làm nông nghiệp, một phần lớn lao động ở các hộ

phải tìm kiếm việc làm trong các lĩnh vực khác như làm thuê trong nông nghiệp,

làm việc gia đình, phụ hồ, làm thuê trong các xưởng nhựa, thủ công mỹ nghệ, bán

hàng thuê,...

Các loại hình dịch vụ khác như buôn bán nhỏ, làm nghề phụ như chế biến

nông sản, làm công nhân trong khu công nghiệp may, điện tử,...cũng là nghề đang

phát triển ở những địa phương được điều tra. Tuy nhiên, do yêu cầu cao về trình

độ, đặc biệt là học vấn, điều kiện và kỷ luật lao động chặt chẽ là nguyên nhân chủ

107

yếu của việc rất ít lao động trong các gia đình nông dân tìm được việc làm trong

các nhà máy, hoặc do sức khỏe kém, không chấp hành tốt kỷ luật lao động hoặc

do công ty bị phá sản, bị chấm dứt hợp đồng nên phải quay trở lại nghề nông hoặc

tìm việc làm thuê.

Thứ ba, đảm bảo an ninh lương thực cũng là một vấn đề đặt ra cho gia đình

ở nhiều vùng nông thôn trên cả nước. Trước khi thu hồi đất để phát triển công

nghiệp, chính sách phát triển kinh tế hộ gia đình nông thôn đã mang lại sự đảm

bảo về lương thực. Việc thu hồi đất đã dẫn đến không tự chủ được về lương thực,

ảnh hưởng đến việc các gia đình phát huy vai trò trong phát triển kinh tế hộ, đầu

tư giáo dục và chăm sóc sức khỏe vì hàng tháng vẫn phải lo cho việc chi tiêu ăn

uống hàng ngày.

Mặc dù việc phát triển CNH, HĐH trong nông nghiệp, xây dựng các khu

công nghiệp ở nông thôn là cần thiết, tuy nhiên, để giai đoạn tiếp theo của xây

dựng NTM hướng đến bền vững thì cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa nông

nghiệp và công nghiệp, giải quyết việc làm cho thành viên gia đình để họ có cơ

hội ly nông mà không ly hương, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo đời sống vật chất

và tinh thần cho gia đình.

3.2.3. Những biến đổi của gia đình vùng đồng bằng sông Hồng làm ảnh

hưởng đến việc phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng nông thôn mới

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế thị trường làm biến đổi các chức

năng của gia đình, nên một số chức năng của gia đình chưa được phát huy trong

quá trình xây dựng NTM, cụ thể:

Thứ nhất, về vai trò sinh sản của gia đình, tạo nguồn lao động cho nông

thôn - đây là chức năng quan trọng của gia đình. Tuy nhiên, hiện nay với tác động

của công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế nên nhận thức của nhiều gia đình có

nhiều thay đổi. Nếu trước kia gia đình nhận thức “đông con nhiều phúc”, thì hiện

nay tỉ lệ gia đình cho rằng phải có nhiều con chiếm tỉ lệ thấp hơn. Điều này cũng

có tính hai mặt, một mặt đảm bảo được kế hoạch hóa gia đình, mặt khác lại xuất

hiện tư tưởng sai lệch như không muốn kết hôn hoặc kết hôn nhưng không sinh

con,... Điều này ảnh hưởng đến nguồn lao động của sản xuất nói chung và cho quá

trình xây dựng NTM nói riêng.

108

Thứ hai, vai trò giáo dục của gia đình - đây là trách nhiệm quan trọng

của gia đình. Gia đình hiện nay không chỉ là nơi giáo dục phẩm chất cho các

thành viên mà còn là nơi giáo dục về đường lối, chính sách, về chuyên môn, tay

nghề, tạo công ăn việc làm cho các thành viên. Tuy nhiên, trong thực hiện tiêu

chí văn hóa, giáo dục của gia đình cho thấy hiện nay nhiều gia đình chưa phát

huy tốt được vai trò này. Cha mẹ phải đi làm ca ở các khu công nghiệp nên

không có nhiều thời gian dạy con học tập, thiếu sự quan tâm của cha mẹ. Mặt

khác, tác động mặt trái của CNH, HĐH, kinh tế thị trường dẫn đến một bộ phận

gia đình bị phá vỡ nền nếp gia phong, đạo đức truyền thống của gia đình dẫn

đến tệ nạn xã hội thâm nhập vào như cờ bạc, rượu chè, nghiện ma túy,..., lối

sống thực dụng, hưởng thụ, cá nhân xuất hiện. Theo đó, xung đột gia đình xuất

hiện, tỷ lệ ly hôn tăng lên,... điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hình thành nhân

cách của trẻ.

Thứ ba, biến đổi về vai trò kinh tế của gia đình. Hiện nay do quá trình công

nghiệp hóa mà các thành viên gia đình nông thôn vùng ĐBSH đi làm tại đô thị, các

nhà máy, khu công nghiệp hoặc xuất khẩu lao động nên vai trò tổ chức sản xuất của

gia đình cũng suy giảm hoặc mất đi và chức năng tiêu dùng được tăng lên.

Cơ cấu nghề nghiệp của gia đình hiện nay có nhiều biến đổi, ngành phi

nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ tăng lên thì việc sản xuất tự cung, tự cấp của

gia đình cũng suy giảm.

Thứ tư, vai trò tâm lý, tình cảm của một số gia đình hiện nay cũng bị phá

vỡ, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình trở nên lỏng lẻo, đời sống tâm lý,

tình cảm không còn được duy trì. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự rạn

nứt trong gia đình và là nguồn gốc xuất hiện những tiêu cực len lỏi vào như ma

túy, mại dâm, cờ bạc, rượu chè,...Mâu thuẫn giữa các thế hệ, các thành viên trong

gia đình đang đặt ra thách thức mới, tình trạng bạo hành vẫn còn tồn tại trong một

số gia đình do thực hiện chưa tốt chức năng cân bằng tâm sinh lý, tình cảm.

Như vậy, quá trình CNH, HĐH, kinh tế thị trường là một tất yếu để phát

triển vùng ĐBSH, tuy nhiên cũng đặt ra rất nhiều vấn đề tác động đến vai trò của

gia đình. Vì vậy, Đảng, Nhà nước, tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội và chính

109

quyền địa phương cần đưa ra các chính sách để gia đình thực hiện tốt các tiêu chí

xây dựng NTM trong giai đoạn tiếp theo.

3.2.4. Quá trình sản xuất của một số gia đình vùng đồng bằng sông

Hồng chưa đảm bảo tiêu chí phát triển bền vững về môi trường trong xây

dựng nông thôn mới

Một trong những mục tiêu của quá trình xây dựng NTM là phát triển nông

nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Tuy nhiên song hành cùng sự phát triển là những

nguy cơ về ô nhiễm môi trường từ chất thải của các hoạt động sinh hoạt, sản xuất

của các gia đình và sự tác động từ các khu công nghiệp.

Vệ sinh môi trường nông thôn đang là vấn đề bức xúc của xã hội, tiêu chí

môi trường là tiêu chí đạt thấp nhất. Các gia đình quan tâm đến phát triển kinh tế

hộ, phát triển sản xuất, tuy nhiên có nơi sản xuất tại gia đình vẫn chưa gắn với vấn

đề bảo vệ môi trường, môi sinh. Chất thải từ hoạt động sản xuất của các gia đình

đang làm cho môi trường không khí, nước, đất bị ô nhiễm và có xu hướng gia

tăng, đặc biệt vấn đề chất thải rắn nông thôn đã và đang là vấn đề cấp bách đặt ra

ở nhiều vùng và địa phương.

Do nguồn nước mặt bị ô nhiễm và nhiễm mặn nên gia đình chuyển sang

khai thác nước dưới đất để phục vụ cho sinh hoạt, sản xuất công nghiệp, nông

nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó, nhiều giếng nước gia đình không còn

sử dụng hoặc khai thác không hiệu quả nhưng không có biện pháp xử lý hoặc

được xử lý không đúng quy định đã làm gia tăng nguy cơ đưa nguồn ô nhiễm vào

nước ngầm, gây ra hiện tượng ô nhiễm thông tầng mạch nước ngầm.

Với đặc thù làng nghề ở Việt Nam chủ yếu ở quy mô hộ gia đình, nằm xen

kẽ trong khu dân cư nên ô nhiễm không khí mang tính cục bộ và gây ảnh hưởng

trực tiếp đến đời sống người dân. Các gia đình đang còn tập trung một số nghề

truyền thống như gốm sứ, chế tác đá, đồ gỗ mỹ nghệ hay các nghề chế biến lương

thực, thực phẩm, giết mổ dẫn đến ô nhiễm mùi, ô nhiễm khí độc hại.

Đối với môi trường đất, trong trồng trọt, việc các gia đình sử dụng ngày càng

tăng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học đang làm ảnh hưởng không nhỏ tới

môi trường đất. Thực tế cho thấy, các loại chất thải này thường bị vứt bừa bãi trên

110

đồng ruộng hoặc nguy hiểm hơn, có trường hợp vứt ngay đầu nguồn nước sinh

hoạt. Các gia đình với hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm ngày càng cao, tuy

nhiên dựa vào nguồn thức ăn công nghiệp, dược phẩm mà các gia đình lại chưa có

biện pháp xử lý chất thải gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường đáng báo động.

Xử lý chất thải rắn ở nông thôn cũng là một vấn nạn đặt ra, chất thải rắn từ

sinh hoạt của các gia đình được thu gom tập trung về các bãi chôn lấp lộ thiên, hầu

hết không có hệ thống xử lý nước rỉ rác hoặc có nhưng hoạt động không hiệu quả

đã và đang gây ô nhiễm môi trường xung quanh.

Có thể thấy rằng, gia đình đang phát huy được vai trò trong phát triển kinh

tế hộ gia đình và sản xuất hàng hóa, góp phần xây dựng NTM và thực hiện thắng

lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất, các gia

đình vùng ĐBSH cũng làm ảnh hưởng đến môi trường, môi sinh gây ô nhiễm

khu vực nông thôn.

3.2.5. Một số chính quyền, địa phương vùng đồng bằng sông Hồng huy

động, sử dụng các nguồn lực đóng góp của gia đình trong xây dựng nông

thôn mới thiếu minh bạch và không hiệu quả làm ảnh hưởng đến niềm tin

của nhân dân

Trong giai đoạn 2010 - 2015 xây dựng NTM được sự hưởng ứng nhiệt tình

của quần chúng nhân dân, các gia đình đóng góp tiền, ngày công lao động, hiến

tặng đất, tài sản cho việc xây dựng các hạng mục của NTM. Tuy nhiên, lại diễn ra

tình trạng mâu thuẫn giữa việc đóng góp của gia đình với cách sử dụng nguồn vốn

đầu tư của chính quyền xã, huyện.

Hơn 8 năm xây dựng NTM, nhiều địa phương có những thay đổi đáng kể,

nhưng khi triển khai chương trình này, thậm chí có những xã, huyện cán bộ suy

thoái đạo đức nên đã lợi dụng việc xây dựng NTM để tham ô, tham nhũng. Công

trình chưa làm xong đã xuống cấp, người dân đã phát hiện ra nhiều sai phạm

nghiêm trọng, có đơn thư và gây mất niềm tin cho gia đình vùng ĐBSH trong xây

dựng NTM, như: cấp xi măng thừa, chồng chéo trên một tuyến đường, tự ý cắt

tiền hỗ trợ dồn đổi ruộng đất, thất thoát làm công trình, cán bộ xã tư lợi..

111

Ví dụ như năm 2012, lãnh đạo các xã ở huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh đã

nhận tiền giải ngân để phát cho dân và ký hợp đồng với một số doanh nghiệp cung

cấp con giống, vật nuôi cho các hộ dân. Tuy nhiên, nhiều hộ dân để được phát tiền

phải nộp lại một khoản cho chủ tịch xã, cấu kết để nhận tiền nhà nước, nhưng con

giống vật nuôi không tới tay người dân.

Vùng ĐBSH là nơi đã xảy ra một số vụ mâu thuẫn giữa chính quyền và

nhân dân như vụ Đoàn Văn Vươn (Tiên Lãng, Hải Phòng), vụ việc ở xã Đồng

Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội... Điều này làm suy giảm niềm tin của quần chúng

nhân dân, gia đình vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, dẫn đến nguy cơ hình

thành điểm nóng chính trị xã hội có thể bùng phát bất cứ lúc nào, tiềm ẩn nguy

cơ ảnh hưởng không tốt đến khối liên minh giai cấp, gây mất khối đại đoàn kết

dân tộc.

Các địa phương muốn thay đổi nhanh kết cấu hạ tầng nông thôn nên

nhiều nơi dồn lực xây dựng cơ sở hạ tầng quá sức so với nguồn lực của địa

phương, từ đó nảy sinh dấu hiệu nợ đọng. Gần đây, Văn phòng Điều phối NTM

Trung ương cho biết, theo số liệu từ các địa phương, tổng số nợ đọng xây dựng

cơ bản về NTM đến cuối tháng 5/ 2018 là trên 1.630 tỷ đồng. Trong đó có 2 địa

phương thuộc đồng bằng sông Hồng tự cân đối ngân sách còn nợ đọng là Hải

Phòng và Vĩnh Phúc. Cả nước có 4 địa phương hiện có số nợ đọng nhiều nhất

thì có đến 3 địa phương thuộc ĐBSH là Hải Phòng trên 230 tỷ đồng, Hải

Dương trên 210 tỷ đồng và Hà Nam trên 150 tỷ đồng [1]. Chính những mâu

thuẫn này gây dư luận không tốt trong quần chúng nhân dân, từ đó gia đình

cũng dè dặt và e ngại hơn khi đóng góp xây dựng NTM. Vì vậy, thời gian tới

chính quyền các địa phương cần có giải pháp hợp lý để giải quyết nợ đọng, sử

dụng nguồn đóng góp của dân, nguồn vốn nhà nước một cách công khai, minh

bạch, có hiệu quả cao, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho gia đình

vùng ĐBSH nói riêng và cả nước nói chung.

112

Tiểu kết chương 3

Thời gian qua, gia đình vùng ĐBSH đã thể hiện vai trò tích cực để vùng

ĐBSH trở thành vùng trọng điểm, dẫn đầu trong việc hoàn thành các tiêu chí xây

dựng NTM, các gia đình tự giác, tích cực đóng góp tiền, hiện vật, ngày công lao

động, hiến tặng đất đai trong phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội; kinh tế hộ gia đình

vùng ĐBSH phát triển và hình thức tổ chức sản xuất đa dạng, cơ cấu lao động

chuyển dịch từ nông, lâm ngư nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ; gia đình phát

huy vai trò trong xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, nâng cao trình độ dân

trí, thực hành dân chủ ở nông thôn; thực hiện bình đẳng giới, phòng, chống bạo

lực gia đình và đảm bảo trật tự an ninh, xã hội.

Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa vai trò của gia đình trong đảm bảo an ninh

nông thôn cần khắc phục những hạn chế như: Nhận thức của các cấp chính quyền

về vai trò của gia đình chưa đầy đủ, gia đình xây dựng NTM chưa mang tính bền

vững, phát triển kinh tế hộ gia đình còn manh mún, chưa xứng với tiềm năng, mâu

thuẫn của quá trình CNH, HĐH, kinh tế thị trường với thực tiễn thu hồi đất đai

dẫn đến ly nông, ly hương, ứng dụng khoa học công nghệ cao mới ô nhiềm môi

trường, môi sinh, mâu thuẫn giữa đóng góp của gia đình với việc sử dụng của

chính quyền địa phương,…

Từ những thành tựu và hạn chế này, luận án rút ra những nguyên nhân và

những vấn đề cấp thiết đặt ra trong quá trình gia đình thực hiện vai trò trong xây

dựng NTM hiện nay. Đây chính là những căn cứ thực tiễn để luận án đưa ra quan

điểm và giải pháp cần thiết để gia đình tiếp tục thực hiện có hiệu quả vai trò của

mình trong xây dựng NTM thời gian tới.

113

Chương 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY

VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY

4.1. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH

VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

HIỆN NAY

4.1.1. Xác định gia đình vừa là chủ thể, vừa là đối tượng hưởng thụ

trong xây dựng nông thôn mới vùng đồng bằng sông Hồng

Xây dựng NTM là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; cấp

ủy Đảng, chính quyền đóng vai trò chủ đạo, điều hành; Mặt trận Tổ quốc và

các tổ chức chính trị - xã hội vận động mọi tầng lớp nhân dân phát huy vai trò

chủ thể trong xây dựng NTM. Để xây dựng NTM vùng ĐBSH đạt hiệu quả cao

hơn, hướng đến xây dựng NTM bền vững cần xác định quan điểm: Gia đình

vùng ĐBSH vừa là chủ thể, vừa là đối tượng hưởng thụ, vừa là mục tiêu xây

dựng NTM.

Chủ thể xây dựng NTM là mọi tầng lớp nhân dân, các thành viên trong gia

đình. Vì vậy, thời gian tới cần phát huy vai trò chủ thể của gia đình vùng ĐBSH,

gia đình vùng ĐBSH là chủ thể tích cực tham gia vào quá trình xây dựng và thực

hiện quy hoạch xây dựng NTM; chủ động, sáng tạo trong xây dựng kết cấu hạ

tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn; trực tiếp trong phát triển kinh tế và tổ chức sản

xuất CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; tích cực, sáng tạo trong xây dựng và gìn

giữ đời sống văn hóa - xã hội, môi trường ở nông thôn; là nhân tố góp phần quan

trọng vào xây dựng hệ thống chính trị - xã hội vững mạnh, bảo đảm an ninh trật tự

xã hội.

Ngoài ra, gia đình vùng ĐBSH còn là đối tượng trực tiếp hưởng thụ các

thành quả của xây dựng NTM. Từ cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội như đường làng,

ngõ xóm khang trang, sạch đẹp, giao thông thuận lợi, nhà sinh hoạt văn hóa cộng

114

đồng, môi trường, môi sinh đảm bảo, các gia đình được sử dụng nước sạch đến

sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nâng cao thu nhập, giải quyết việc

làm tại chỗ cho nhân dân; an ninh trật tự xã hội được đảm bảo,... đều phục vụ trực

tiếp cho nâng cao đời sống của gia đình nông thôn vùng ĐBSH nói riêng và gia

đình nông thôn cả nước nói chung.

Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước, chính quyền địa phương cần xác định rõ

mục tiêu của chương trình “Xây dựng NTM” là nhằm nâng cao đời sống vật chất,

tinh thần của gia đình nông thôn; phát triển kinh tế gia đình; xây dựng NTM có

kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ và hiện đại để phục vụ cho đời sống của

gia đình nông thôn nhất là đường giao thông, thủy lợi, trường học, trạm y tế, khu

dân cư,...; tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình tham gia các tổ chức

chính trị - xã hội, xây dựng xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, văn minh, giàu

đẹp; gia đình tích cực bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn nền nếp gia đình, bản

sắc văn hóa dân tộc; an ninh trật tự xã hội được giữ vững theo định hướng xã hội

chủ nghĩa, phòng, chống bạo lực gia đình.

4.1.2. Phát huy vai trò của gia đình vùng đồng bằng sông Hồng hướng

đến xây dựng nông thôn mới bền vững

“Phát triển nông thôn bền vững phải bao gồm 4 quá trình: CNH, HĐH; đô

thị hóa; kiểm soát dân số; bảo vệ môi trường sinh thái. Quá trình đô thị hóa, hiện

đại hóa nông thôn phải theo các tiêu chí xây dựng NTM, giảm thiểu sự cách biệt

giữa thành thị và nông thôn về mức sống vật chất và tinh thần” [80, tr.22]. Phát

triển nông thôn bền vững có các đặc điểm là “Thứ nhất, phát triển nông thôn bền

vững có tác động theo nhiều chiều cạnh khác nhau; Thứ hai, phát triển nông thôn

bền vững mang tính toàn diện và đa phương,...Có thể hiểu, phát triển nông thôn

bền vững là sự phát triển nông thôn bảo đảm bền vững về kinh tế, xã hội, văn hóa

và môi trường nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn”

[80, tr.22]. Như vậy, mục tiêu cuối cùng mà phát triển nông thôn bền vững muốn

hướng đến chính là nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn, nâng

cao chất lượng cuộc sống gia đình nông thôn phát triển bền vững.

115

Xuất phát từ quan điểm phát triển nông thôn bền vững, muốn xây dựng

NTM bền vững cần thực hiện đồng thời bốn nhóm tiêu chí sau: một là: Giữ vững

chất lượng hạ tầng kinh tế - xã hội, nông thôn có làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ

tầng hiện đại; hai là: Phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất có hiệu quả, sản xuất

bền vững, theo hướng hàng hóa; ba là: Phát triển hài hòa các mặt của xã hội, bản

sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát triển, trình độ dân trí cao; cải thiện môi

trường, môi sinh, bốn là: Nâng cao chất lượng lãnh đạo hệ thống chính trị và đảm

bảo an ninh trật tự xã hội. Như vậy “Xây dựng NTM bền vững là xây dựng và

củng cố vững chắc nông thôn theo các tiêu chí NTM, phù hợp với đặc điểm từng

vùng của nông thôn Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người

dân nông thôn”.

Thời gian tới cần nhận thức và huy động gia đình vùng ĐBSH xây dựng

NTM phát triển toàn diện, theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn,

tăng năng suất, có chất lượng, đạt hiệu quả cao và tăng khả năng cạnh tranh, giữ

gìn môi trường, xây dựng hệ thống chính trị - xã hội, đảm bảo vững chắc an ninh

trật tự, xã hội toàn vùng nói riêng và của cả nước nói chung.

4.1.3. Phát huy vai trò của gia đình vùng đồng bằng sông Hồng trong

thực hiện dân chủ ở nông thôn là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,

trước hết là hệ thống chính trị cấp cơ sở vùng đồng bằng sông Hồng

Xây dựng NTM là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của cả hệ thống chính

trị và toàn xã hội, trong đó cấp ủy đảng và chính quyền cơ sở đóng vai trò lãnh

đạo, điều hành. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội đóng vai trò nòng

cốt trong vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện. Trong những năm tiếp theo để

phong trào xây dựng NTM ở ĐBSH đạt hiệu quả cao hơn cần xác định quan điểm:

Phát huy vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong thực hiện dân chủ ở nông thôn là

trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trước hết là hệ thống chính trị cấp cơ sở

vùng ĐBSH.

Phát huy vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong thực hiện dân chủ ở nông

thôn xây dựng NTM phải coi là việc làm thường xuyên, mang tính lâu dài của cả

116

hệ thống chính trị, nhất là hệ thống chính trị cơ sở, chứ không phải công tác mang

tính phong trào, hay mang tính giai đoạn nhất định. Có thể nói hệ thống chính trị

cấp cơ sở và ý thức tự giác của mỗi gia đình là nhân tố quan trọng, quyết định đến

việc các xã, huyện nhanh chóng đạt được danh hiệu “Huyện NTM”, “Xã NTM”

và giữ gìn danh hiệu đó trên thực tiễn để hướng đến xây dựng NTM bền vững.

Hệ thống chính trị cơ sở có vai trò, nhiệm vụ tổ chức và vận động nhân dân

thực hiện các tiêu chí xây dựng NTM thông qua việc làm, hành động cụ thể diễn

ra hàng ngày ở cơ sở, xã, thôn, xóm và trong từng gia đình. Quan điểm chính sách

của Đảng và Nhà nước là yếu tố khách quan, bên ngoài; hệ thống chính trị cơ sở,

sự tham gia của từng người dân, gia đình là yếu tố bên trong, yếu tố chủ quan, là

tiềm năng, nội lực để thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng NTM.

Hệ thống chính trị cơ sở thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong phát huy vai

trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM, công khai, minh bạch trong

quá trình quản lý, sử dụng các nguồn vốn đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả, kịp

thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc để tạo sự đồng thuận trong nhân dân,

niềm tin của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM.

Để phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng NTM cần huy động sự

tham gia của cả hệ thống chính trị cơ sở, trong đó cấp ủy Đảng, chính quyền xây

dựng kế hoạch, hướng dẫn cụ thể; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội

nhất là Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên,...tổ chức các hoạt động để

vận động gia đình tham gia xây dựng NTM; từng cán bộ, đảng viên nâng cao trách

nhiệm trong vận động gia đình mình làm gương, đi đầu trong đóng góp, thực hiện

các tiêu chí xây dựng NTM.

4.1.4. Phát huy vai trò của gia đình vùng đồng bằng sông Hồng trong

xây dựng nông thôn mới gắn với “Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng

đồng bằng sông Hồng” và “Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm

2020, tầm nhìn 2030”

Xây dựng NTM vùng ĐBSH cần gắn với những chủ trương, chính sách,

chiến lược phát triển của Đảng và Nhà nước, như “Quy hoạch phát triển kinh tế -

117

xã hội vùng đồng bằng sông Hồng” và “Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam

đến năm 2020, tầm nhìn 2030”.

Vùng ĐBSH được Đảng và Nhà nước ta xác định là vùng có vị trí, vai trò

quan trọng, là vùng trung tâm đầu não về chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học

công nghệ của cả nước, theo đó ngày 23 tháng 5 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ

đã ra Quyết định số 795/QĐ-TTg Quyết định Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát

triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2020, trong đó xác định

quan điểm phát triển vùng là:

Phát triển kinh tế - xã hội vùng phù hợp với chiến lược phát triển kinh

tế - xã hội cả nước, phù hợp với quy hoạch phát triển các ngành và lĩnh

vực của cả nước theo hướng mở, có khả năng hội nhập quốc tế sâu,

rộng, gắn kết chặt chẽ với các vùng trong cả nước; Tận dụng tốt các lợi

thế của Vùng để nâng cao tăng trưởng và khả năng cạnh tranh, gắn với phát triển bền vững [105].

Gắn xây dựng NTM với các quan điểm “Quy hoạch phát triển kinh tế - xã

hội vùng đồng bằng sông Hồng” để nhanh chóng phát triển kinh tế - xã hội nông

thôn vùng ĐBSH. Xây dựng vùng ĐBSH thực sự là địa bàn tiên phong hoàn thành

sớm mục tiêu xây dựng NTM, nâng cao số lượng và chất lượng thực hiện của các

địa phương, từ đó góp phần thực hiện các “đột phá chiến lược” của vùng, tái cấu

trúc kinh tế, đổi mới thành công mô hình tăng trưởng, trở thành đầu tàu của cả

nước về phát triển kinh tế, đảm đương vai trò to lớn đối với sự nghiệp CNH, HĐH

đất nước và góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Để phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng NTM cũng cần gắn với

Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Ngày 29

tháng 5 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 629/QĐ-TTg

phê duyệt Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030

với mục tiêu xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ

ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội. Kết hợp giữa tiêu chí xây dựng

NTM và mục tiêu, giải pháp, giai đoạn thực hiện và tầm nhìn 2030 của Chiến lược

118

cho thấy thực hiện Chiến lược góp phần rất lớn trong việc phát huy vai trò của gia

đình trong xây dựng NTM. Qua đó hướng đến nâng cao nhận thức về vai trò, trách

nhiệm của gia đình vùng ĐBSH và cộng đồng trong việc thực hiện tốt chủ trương,

đường lối, chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, phát triển nông nghiệp,

nông thôn; bình đẳng giới, ngăn chặn tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình; kế

thừa, phát huy giá trị tốt đẹp của gia đình vùng ĐBSH trong thực hiện nhóm tiêu

chí thứ tư của xây dựng NTM về giáo dục, đào tạo, văn hóa; nâng cao năng lực

của gia đình trong phát triển kinh tế, ứng phó với thiên tai và khủng hoảng kinh tế;

tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, thực hiện nhóm tiêu chí thứ ba

trong xây dựng NTM về kinh tế và tổ chức sản xuất.

4.2. GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH

VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

HIỆN NAY

Theo từ điển Tiếng Việt, “phát huy là làm cho cái hay, cái tốt nhân rộng

thêm tác dụng, thúc đẩy tiếp tục nảy nở nhiều hơn” [136, tr.1321]. Như vậy, phát

huy vai trò của gia đình là làm cho những chức năng, điểm tốt của gia đình được

tiếp tục lan rộng và phát triển. Phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng NTM

là làm cho chức năng, điểm tốt của gia đình được tiếp tục lan rộng và phát triển

trong thực hiện các tiêu chí xây dựng NTM thời gian tới.

Xây dựng NTM giai đoạn tiếp theo cần đi vào thực chất, hiệu quả, nâng cao

về chất lượng. Nếu như giai đoạn đầu từ năm 2010 đến 2015 là xây dựng thì giai

đoạn tiếp theo từ 2016 đến 2020, tầm nhìn 2030 và sau này là giai đoạn hoàn thiện,

về đích, củng cố; nếu giai đoạn đầu là xây dựng xã đạt chuẩn NTM thì giai đoạn tiếp

theo là xây dựng xã NTM kiểu mẫu,... Vì vậy, cần huy động mọi nguồn lực để nâng

cao chất lượng các tiêu chí, nhanh chóng đưa vùng ĐBSH trở thành vùng điểm,

trọng tâm, đi đầu trong xây dựng thành công NTM phát triển bền vững.

Đồng bằng sông Hồng là vùng đi đầu trong xây dựng NTM, để phát huy

vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM đòi hỏi các giải pháp phải

đảm bảo tính tổng thể; tính toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,

119

và tác động không chỉ vào chủ thể gia đình mà còn vào các chủ thể khác; tính khả

thi và hướng đến xây dựng NTM bền vững trong thời gian tới cần tập trung thực

hiện các giải pháp cơ bản sau:

4.2.1. Nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận xã hội về phát huy vai trò

của gia đình vùng đồng bằng sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới

Để nâng cao nhận thức của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị,

nhận thức của người dân và gia đình vùng ĐBSH về vị trí, vai trò của gia đình

trong xây dựng NTM trước hết cần thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền.

Công tác tuyên truyền góp phần thay đổi nhận thức của gia đình, qua đó

phát huy được tính tích cực, chủ động, tự giác, sáng tạo của gia đình trong xây

dựng NTM. Thông qua công tác tuyên truyền, những mô hình, hiệu quả, những

cách làm hay có điều kiện lan tỏa để các địa phương có thể áp dụng.

Để làm tốt công tác tuyên truyền, cần tập trung vào một số biện pháp cụ

thể sau:

4.2.1.1. Đa dạng hóa phương thức truyền thông về Chương trình xây

dựng nông thôn mới và vai trò của gia đình trong xây dựng nông thôn mới

Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền thông qua các phương tiện

thông tin đại chúng.

Truyền thông đại chúng là quá trình truyền tải và phổ biến thông tin xã hội

đến số lượng công chúng lớn, phân tán về không gian, thời gian. Tin tức từ hệ

thống này đến công chúng một cách nhanh chóng, đều đặn và gián tiếp; được thực

hiện thông qua cơ chế trung gian như đài phát thanh, truyền hình, sách, báo, các

tạp chí, báo mạng điện tử,... Hiện nay, phương tiện truyền thông đại chúng rất phát

triển, đến được với từng người dân, từng gia đình, vì vậy cần thông qua các trang

thông tin truyền thông này để tuyên truyền chủ trương, chính sách và phương

pháp tiến hành xây dựng NTM một cách sâu rộng, nhanh chóng và phổ biến.

Cùng với đó là tuyên truyền, giới thiệu các mô hình, điển hình tiên tiến về các gia

đình tích cực đóng góp xây dựng NTM, các mô hình làm kinh tế gia đình giỏi,

cách làm hay về xây dựng NTM.

120

Chính quyền từ trung ương đến địa phương (tỉnh, thành phố, huyện, xã) cần

quan tâm hơn nữa đến việc phối hợp với Đài phát thanh, truyền hình địa phương,

tòa báo, website để nâng cao hiệu quả hoạt động của các chuyên mục về nông

nghiệp, nông dân, nông thôn như: “Dạy nghề”, “Bạn của nhà nông”, “Cùng nông

dân bàn cách làm giàu”, “Nhà nông cần biết”, “Sinh ra từ làng” (Đài Truyền hình

Việt Nam); “Hướng tới nông thôn Việt Nam no ấm, giàu đẹp, văn minh” (Hệ

VOV1), “Nhân vật và sự kiện” (Hệ VOV2), “Xây dựng NTM, chuyên mục hôm

nay” (Kênh truyền hình Đài Tiếng nói Việt Nam); http://nongthonmoi.gov.vn

(Văn phòng điều phối chương trình Mục tiêu xây dựng Quốc gia xây dựng NTM),

http://nongthonmoihanoi.gov.vn (Văn phòng điều phối chương trình Mục tiêu xây

dựng Quốc gia xây dựng NTM Hà Nội),...

Bên cạnh đó, hiện nay một kênh thông tin rất phát triển, tỷ lệ người dùng

tăng lên đó là tuyên truyền qua mạng internet, sử dụng các trang mạng xã hội, như

sử dụng các mạng xã hội quốc tế (lập fanpge facebook, youtube, twitter, blog,...),

mạng trong nước đã bắt đầu hợp tác với chính quyền một số tỉnh để cung cấp

thông tin như zalo,...

Thứ hai, tuyên truyền qua nhiều hình thức sử dụng tài liệu, pa nô, áp phích,

tờ gấp, tờ rơi, trang thông tin truyền thông trên mạng internet,...

Các ngành liên quan cần nhanh chóng biên soạn và phát hành tài liệu tuyên

truyền, tài liệu tham khảo, tài liệu hỏi - đáp, tờ gấp, tờ rơi, các bộ ảnh,...có chất

lượng tốt tuyên truyền về vai trò của gia đình trong xây dựng NTM, tài liệu phải

phù hợp với từng đối tượng, địa bàn tuyên truyền, các tài liệu này cần ngắn gọn,

dễ hiểu, dễ làm theo và được phát đến từng người dân, từng gia đình.

Ngoài ra, địa phương cần treo các tờ panô, áp phích,... trên đường, nhà văn

hóa để người dân dễ dàng tiếp nhận, mang tính quần chúng. Đây là hình thức tác

động nhanh nhất, tuy không đầy đủ nhưng mang tính khẩu hiệu, dễ tác động vào

suy nghĩ và hành động.

Thứ ba, tuyên truyền thông qua hình thức tổ chức các phong trào, cuộc vận

động, thi đua,...

Hưởng ứng phong trào thi đua “Cả nước chung tay xây dựng NTM” của

Chính phủ, các ban ngành, địa phương cần tổ chức thường xuyên và nâng cao chất

121

lượng của phong trào thi đua, để tạo khí thế mới, khích lệ nông dân, các gia đình

tham gia thi đua xây dựng đường làng, ngõ xóm, nâng cao lao động sản xuất, góp

phần nhanh chóng đạt chuẩn NTM.

Các ban ngành, địa phương, tổ chức xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi

đua thu hút được sự tham gia của các gia đình; tạo sự đồng thuận của toàn xã hội

và phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị trong quyết tâm triển khai tổ chức

thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua, kịp thời khen thưởng những tập thể, cá

nhân, gia đình tiêu biểu tích cực đóng góp cho xây dựng NTM.

Thứ tư, tuyên truyền thông qua các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao,

hình thức sân khấu hóa,...

Trong công cuộc xây dựng NTM, văn hóa giữ vai trò quan trọng trong

nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa

của dân tộc. Bên cạnh đó, hiện nay đời sống vật chất của người dân, gia đình

được nâng cao hơn nên họ quan tâm hơn đến đời sống tinh thần. Vì vậy, thời

gian tới, các địa phương cần tăng cường thực hiện công tác tuyên truyền dưới

hình thức cổ động trực quan, các cuộc thi tìm hiểu về đề tài NTM, huy động gia

đình tham gia xây dựng NTM thông qua: Sân khấu hóa, sáng tác, tập huấn, liên

hoan văn hóa văn nghệ, hội thi văn nghệ, thi đấu thể thao, giao lưu, tọa đàm, liên

hoan tuyên truyền lưu động,... Thông qua các chương trình này các gia đình có

điều kiện giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, vừa góp phần cổ vũ tinh thần phấn đấu,

hăng say xây dựng NTM.

Thứ năm, các tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng báo cáo viên, tuyên

truyền viên tích cực thực hiện đổi mới phương pháp tuyên truyền, nâng cao hiệu

quả hoạt động tuyên truyền về xây dựng NTM.

Lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên phối hợp cùng các cộng tác viên

tuyên truyền miệng và những người có uy tín để vận động người dân, gia đình tự

nguyện tham gia thực hiện các tiêu chí tại địa phương, “đả thông tư tưởng” để các

gia đình đóng góp cho xây dựng NTM, nhất là hiến tặng đất đai, đóng góp tiền

của, ngày công cho các tiêu chí phục vụ trực tiếp đời sống của gia đình như đường

làng, ngõ xóm, nhà văn hóa, vệ sinh môi trường, y tế,...

122

Trong công tác tuyên truyền về xây dựng NTM, vai trò đặc biệt quan trọng

là sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ,

Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên.. Đồng thời, phối hợp với các ban, ngành tổ

chức tập huấn, xây dựng mô hình điểm, tuyên truyền trên các kênh thông tin đại

chúng để nâng cao nhận thức cho cán bộ, hội viên, nông dân, phụ nữ, đoàn viên và

đưa nội dung tuyên truyền, phát động phong trào thi đua xây dựng NTM vào ký

kết giao ước thi đua hàng năm.

Thứ sáu, tuyên truyền xây dựng NTM thông qua các buổi sinh hoạt chính

trị của cấp ủy, chính quyền các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội.

Cấp ủy các cấp quán triệt Nghị quyết của Đảng và chỉ đạo, điều hành của

Chính phủ, đưa nội dung xây dựng NTM trở thành nhiệm vụ chính trị, thường

xuyên được đưa ra trong các buổi sinh hoạt thường kỳ. Tổ chức cơ sở đảng căn cứ

chức năng, nhiệm vụ mà xác định vai trò trong việc phối hợp, hỗ trợ hay trực tiếp

lãnh đạo quần chúng, gia đình thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTM.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội lồng ghép nhiệm vụ xây

dựng NTM trong hoạt động thường xuyên, quán triệt đến các cán bộ, đảng viên,

đoàn viên, hội viên nâng cao tinh thần, ý thức trách nhiệm tham gia xây dựng

NTM; trong đó, những người đứng đầu chính quyền địa phương, hội trưởng các tổ

chức cần làm gương đi đầu trong việc vận động gia đình tham gia xây dựng NTM,

từ đó mới có sức mạnh lan tỏa đến các gia đình khác trong xã, huyện.

4.2.1.2. Nội dung tuyên truyền về vai trò của gia đình trong xây dựng

nông thôn mới cần rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện, phù hợp với mọi gia đình

vùng đồng bằng sông Hồng

Các ngành, đơn vị, địa phương cần bám sát nội dung của xây dựng NTM và

vai trò của gia đình để chủ động xây dựng kế hoạch, định hướng nội dung tuyên

truyền xây dựng NTM trong giai đoạn tiếp theo; trong đó, lồng ghép vai trò của

gia đình không chỉ tham gia xây dựng mà còn giữ gìn, tu bổ, bảo vệ, hướng đến

xây dựng NTM một cách bền vững.

Cần lồng ghép nội dung về vai trò của gia đình trong xây dựng NTM như:

vai trò của gia đình trong xây dựng các hạ tầng cơ sở như đường, làng, ngõ xóm,

123

nhà văn hóa; vai trò gia đình trong phát triển kinh tế địa phương; vai trò gia đình

trong giữ gìn văn hóa truyền thống, tiếp thu văn hóa mới; vai trò của gia đình

trong đảm bảo xây dựng hệ thống chính trị và đảm bảo an ninh trật tự xã hội

nông thôn.

Các ban, ngành, tổ chức chính trị xã hội cần lồng ghép nội dung tuyên

truyền về vai trò của gia đình trong xây dựng NTM. Tuyên truyền trong các tổ

chức chính trị xã hội, trong cán bộ, đoàn viên và hội viên, đến từng gia đình để

hiểu rõ và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các đề án,

chương trình, kế hoạch của địa phương về nông nghiệp, nông dân và nông thôn”;

về vai trò chủ thể của gia đình trong sự nghiệp xây dựng NTM. Trên cơ sở đó, các

gia đình tự nguyện đóng góp tiền, công sức, hiến tặng đất để xây dựng cơ sở hạ

tầng, làm đường giao thông nông thôn, thủy lợi, nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng

đồng ở khu dân cư. Vận động để mỗi gia đình tự xây dựng, nâng cấp, chỉnh trang

nhà ở, cải tạo lại vườn ao, đầu tư cho sản xuất để có tăng thu nhập cho gia đình,

tạo cảnh quan đường làng ngõ xóm, cũng như cảnh quan gia đình được sạch đẹp

hơn, khang trang hơn.

Xây dựng các phong trào với các nội dung thiết thực như: Gia đình tích cực

tham gia bảo hiểm y tế”, “Cựu chiến binh nêu gương sáng, hiến kế, hiến công xây

dựng quê hương đất nước”, phong trào “Phụ nữ chung sức xây dựng NTM” gắn

với cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”, “Gia đình tham gia bảo

đảm quốc phòng an ninh”, “Gia đình nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi,

đoàn kết giúp nhau giảm nghèo và làm giàu chính đáng”,.... Qua đó, tạo khí thế thi

đua sôi nổi trong cộng đồng xã hội, các gia đình đồng tình hưởng ứng.

Chính quyền và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội tham gia vận động

gia đình giáo dục con em không tham gia các tệ nạn xã hội, không vi phạm pháp

luật. Đồng thời, mỗi thành viên trong gia đình cũng tích cực trong phòng ngừa,

đấu tranh, ngăn chặn và đẩy lùi các loại tội phạm, tệ nạn xã hội; bảo đảm an ninh

trật tự trong gia đình mình cũng như trong làng, xóm, khu vực nông thôn, nâng

cao trách nhiệm, hành động của thành viên gia đình thực hiện bảo vệ trẻ em tránh

124

các hành vi bạo lực, xâm hại ở gia đình và cộng đồng nhằm góp phần xây dựng

phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

4.2.2. Nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị các cấp

ở vùng đồng bằng sông Hồng, tạo điều kiện thuận lợi để gia đình phát huy

vai trò trong xây dựng nông thôn mới

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức

mạnh của đoàn thể chính trị - xã hội vùng ĐBSH là một điều kiện chính trị quan

trọng để phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng NTM.

Thứ nhất, đổi mới mạnh mẽ hơn nữa phương thức hoạt động, nâng cao

năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng cấp cơ sở vùng ĐBSH trong việc phát huy vai

trò của gia đình trong xây dựng NTM.

Thành công trong xây dựng NTM và thu hút được sự tham gia của đông

đảo quần chúng, gia đình cần phải có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường

xuyên sâu sát, quyết liệt của cấp ủy, chính quyền, sự tham gia tích cực và phối

hợp chặt chẽ của các ban, ngành, đoàn thể. Thực tiễn cho thấy nơi nào cấp ủy,

chính quyền, đoàn thể thực sự quan tâm vào cuộc thường xuyên, quyết liệt thì dù

có khó khăn đến mấy vẫn tạo nên những chuyển biến rõ nét, làm cho nông thôn

được “thay da đổi thịt”. Để làm được điều đó trước hết cần tiếp tục tăng cường

sự lãnh đạo của tổ chức đảng cấp cơ sở vùng ĐBSH trong việc thực hiện chương

trình xây dựng NTM.

Cùng với đó, cần đổi mới mạnh mẽ về nội dung và phương thức lãnh đạo

của tổ chức đảng các cấp, xây dựng kế hoạch, lộ trình và có giải pháp cụ thể

trong triển khai công tác phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng NTM, có

thể lựa chọn các tiêu chí có thế mạnh của vùng ĐBSH, có tính đột phá hoặc

tiêu chí có thể thu hút được sự tham gia tích cực của gia đình để ưu tiên thực

hiện trước. Đối với các xã đã đạt chuẩn NTM, tiếp tục huy động sức mạnh của

gia đình trong việc nâng cao chất lượng các tiêu chí để phấn đấu xây dựng

NTM kiểu mẫu.

Tổ chức cơ sở Đảng vùng ĐBSH cần nâng cao vai trò lãnh đạo, thường

xuyên chỉ đạo các thôn, các tổ chức đoàn thể và từng gia đình chủ động thực hiện

125

chương trình bằng những công việc cụ thể như: Chỉnh trang tường rào, cổng ngõ,

nhà ở, chuồng trại chăn nuôi, cải tạo vườn tạp, đầu tư nâng cao hiệu quả sản xuất

và xây dựng các công trình vệ sinh, thu gom rác thải… xây dựng nếp sống mới ở

nông thôn; nâng cao nhận thức, tư duy mới trong sản xuất và đời sống của dân cư

nông thôn.

Bên cạnh đó, một yếu tố rất cấp thiết trong việc đảm bảo sự lãnh đạo của tổ

chức đảng cơ sở trong phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng NTM chính là

mỗi đảng viên cần tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, nâng cao

nhận thức của đảng viên về vai trò của gia đình trong xây dựng NTM. Theo đó,

mỗi đảng viên nêu cao ý thức gương mẫu, vận động gia đình trong thực hiện các

chủ trương, kế hoạch của địa phương nhằm chuyển biến trong nhận thức và hành

động của gia đình, xác định xây dựng NTM là trách nhiệm, nghĩa vụ và cũng

mang lại lợi ích cao nhất của mỗi gia đình vùng ĐBSH.

Thứ hai, nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý của Nhà

nước trong phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng NTM.

Theo báo cáo của Chánh văn phòng Điều phối NTM Trung ương: “Rút

kinh nghiệm trong quá trình triển khai của giai đoạn trước và tiếp tục nâng cao

chất lượng các kết quả đạt chuẩn đảm bảo thực chất và bền vững,... kịp thời phát

hiện và chấn chỉnh những địa phương để xảy ra tình trạng chạy theo thành tích,

huy động quá sức dân, có tư tưởng “chùng lại” trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng

NTM sau khi đã được công nhận đạt chuẩn...”[73]. Theo đó, những năm tiếp theo

để gia đình vùng ĐBSH phát huy vai trò trong xây dựng NTM đi vào chiều sâu,

đạt chất lượng cần nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý của

chính quyền Nhà nước.

Để nâng cao niềm tin của nhân dân, các gia đình vùng ĐBSH với sự

quản lý của chính quyền về xây dựng NTM, hoạt động của bộ máy nhà nước

các cấp phải thực hiện công tác sắp xếp tổ chức, bảo đảm tinh gọn, hoạt động

có hiệu lực, hiệu quả, tinh giản biên chế gắn với cơ cấu, cải cách thủ tục hành

chính. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước phải thống nhất từ trung ương đến địa

126

phương, đặc biệt là bộ máy cấp xã, huyện hoạt động phải thực sự đạt hiệu quả,

mang lại lợi ích cho nhân dân, có hướng dẫn, kế hoạch cụ thể để xây dựng

NTM tại địa phương.

Ủy ban nhân dân huyện kịp thời chỉ đạo việc kiện toàn Ban Chỉ đạo cấp

huyện, Ban quản lý cấp xã, Ban phát triển thôn về xây dựng NTM nhanh chóng

kịp thời nắm bắt tình hình, đôn đốc, hướng dẫn các địa phương, các gia đình thực

hiện xây dựng NTM. Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện

chương trình, phát hiện những gia đình điển hình tiên tiến, những sáng kiến và

kinh nghiệm hay về xây dựng NTM để khích lệ, động viên và nhân ra diện rộng;

thường xuyên hướng dẫn và kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc phát

sinh trong quá trình tổ chức thực hiện.

Thứ ba, nâng cao hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội trong phát

huy vai trò của gia đình trong xây dựng NTM.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội khác cần tiếp tục thực

hiện tốt, có hiệu quả đối với công tác phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng

NTM. Tích cực tuyên truyền, phổ biến đến các thành viên, nhân dân về vai trò của

gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM của Đảng và Nhà nước giai đoạn mới,

qua đó các thành viên, tầng lớp nhân dân hiểu rõ, nâng cao ý thức trách nhiệm của

các tổ chức trong việc vận động gia đình tham gia xây dựng NTM.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có các hoạt động thường

xuyên để vận động các gia đình giúp nhau làm kinh tế, thoát nghèo bền vững,

vươn lên làm giàu hợp pháp, hỗ trợ các gia đình đăng ký sản xuất, kinh doanh, vận

động gia đình thực hiện quy hoạch và chỉnh trang đường làng, ngõ xóm, khu dân

cư, góp công xây dựng, giữ gìn kết cấu hạ tầng nông thôn. Vận động gia đình

vùng ĐBSH tham gia tổ chức hợp tác xã nông nghiệp, hỗ trợ liên kết giữa các hợp

tác xã và hộ nông dân với doanh nghiệp, phát triển kinh tế trang trại, gia trại, phát

huy nghề truyền thống của địa phương, của gia đình. Các hoạt động trên góp phần

tích cực thực hiện các tiêu chí 1,2,6,9,11,12,13 trong Bộ tiêu chí quốc gia về xây

dựng NTM.

127

Tổ chức các cuộc vận động sát thực với gia đình, thu hút sự tham gia của

đông đảo gia đình như “Gia đình 5 không, 3 sạch” (Các tiêu chí của gia đình 5

không, 3 sạch: 5 không là không đói nghèo, không vi phạm pháp luật và tệ nạn xã

hội, không có bạo lực gia đình, không sinh con thứ ba trở lên, không có trẻ em suy

dinh dưỡng và trẻ em bỏ học; 3 sạch là sạch nhà, sạch bếp, sạch ngõ). Các tiêu chí

“Gia đình 5 không, 3 sạch” phù hợp với mục tiêu của Chương trình xây dựng

NTM vì đều hướng tới xây dựng gia đình và cộng đồng ấm no, hạnh phúc, văn

minh, góp phần thực hiện tiêu chí 9 (nhà ở dân cư), tiêu chí 10 (thu nhập), tiêu chí

11 (hộ nghèo), tiêu chí 14 (giáo dục), tiêu chí 15 (y tế), tiêu chí 16 (văn hóa), tiêu

chí 17 (môi trường) và tiêu chí 19 (an ninh trật tự),...

Theo quy định tại Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Ban

chấp hành trung ương về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội [5], các tổ chức

chính trị - xã hội tiếp tục phát huy vai trò trong thực hiện chức năng giám sát và

phản biện xã hội đối với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM. Tiếp thu

ý kiến của thành viên, lấy ý kiến của nhân dân, các gia đình, các chuyên gia và tổ

chức khảo sát thực tế để có cơ sở kiến nghị với cấp ủy, chính quyền cùng cấp;

giám sát thông qua thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, văn bản, báo cáo, đơn thư

khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của tổ chức.

4.2.3. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát huy vai trò của gia đình

vùng đồng bằng sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo một trong những giải pháp

tập trung cần làm trong trong thời gian tới là:

Tiếp tục rà soát, hoàn thiện tất cả các cơ chế, chính sách để thực hiện

Chương trình; hoàn thiện Đề án “Phát triển hệ thống trung tâm cung

ứng hàng nông sản Việt Nam hiện đại giai đoạn 2018 - 2020, định

hướng 2030”...; Chỉ đạo các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ

động ban hành các cơ chế, chính sách, các văn bản hướng dẫn thực hiện

Chương trình đồng bộ và phù hợp với điều kiện triển khai thực tế của

địa phương [18].

128

Theo đó, Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương cần hoàn thiện cơ chế,

chính sách để phát huy vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM.

Thứ nhất, Chính phủ, các Bộ, ngành địa phương tập trung rà soát lại tất cả

các cơ chế, chính sách để huy động gia đình tham gia xây dựng NTM:

Tiếp tục rà soát, hoàn thiện tất cả các cơ chế, chính sách để thực hiện

Chương trình; hướng dẫn và đôn đốc các địa phương triển khai hiệu quả các Đề án

xây dựng NTM đặc thù, các Đề án thí điểm xây dựng NTM kiểu mẫu giai đoạn

2018-2020... Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách đặc biệt là các cơ

chế, chính sách nhằm huy động nguồn lực xã hội, thu hút doanh nghiệp hỗ trợ đầu

tư phát triển kinh tế gia đình. Rà soát, xây dựng cơ chế, chính sách và huy động

các tổ chức chính trị xã hội trong việc vận động gia đình đóng góp nguồn lực cho

xây dựng NTM. Nhà nước cần có cơ chế, chính sách cụ thể để các tổ chức chính

trị xã hội tham gia trực tiếp vào vận động gia đình đóng góp nguồn lực cho quá

trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Xây dựng, đưa ra các chính sách,

chương trình, kế hoạch phát huy vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng

hệ thống chính trị ở nông thôn vững mạnh, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và điều

hành, quản lý của chính quyền.

Rà soát lại tất cả các cơ chế, chính sách để thực hiện Chương trình hiệu

quả, có cơ chế, chính sách thích hợp và đủ mạnh để thực sự khuyến khích việc gia

đình vùng ĐBSH ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, thu

hút doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn nông thôn phát triển sản xuất, kinh doanh

trong nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.

Thứ hai, hướng dẫn và đôn đốc các địa phương triển khai hiệu quả các Đề

án xây dựng NTM đặc thù đã được Thủ tướng Chính phủ và cấp có thẩm quyền

ban hành để gia đình tham gia xây dựng NTM.

Trong những năm 2016, 2017, Thủ tướng Chính phủ và các cấp có thẩm

quyền đã ban hành rất nhiều các đề án xây dựng NTM đặc thù, các Đề án thí

điểm xây dựng NTM kiểu mẫu giai đoạn 2018 - 2020, đề án hỗ trợ cho các

thôn, bản, ấp thuộc các xã khó khăn nhất xây dựng NTM gắn với giảm nghèo

129

bền vững; đề án Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) giai đoạn 2018 -

2020 và định hướng đến năm 2030,... Qua các đề án này cho thấy Đảng và Nhà

nước, các bộ ban ngành quan tâm đến thực hiện chương trình xây dựng NTM đi

vào chất lượng, thực chất, xây dựng NTM phát triển bền vững. Từ đó, chính

quyền địa phương phải chủ động hướng dẫn đến từng thôn, xã, gia đình tích

cực triển khai thực hiện các Đề án, phát huy vai trò của gia đình trong một số

Đề án có tác động trực tiếp đến phát triển của gia đình như bảo vệ môi trường,

ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, phát triển sản phẩm truyền thống

của gia đình,...

Thứ ba, các tỉnh, thành phố chủ động ban hành các cơ chế, chính sách, các

văn bản hướng dẫn thực hiện Chương trình đồng bộ và phù hợp với điều kiện

triển khai thực tế của gia đình vùng ĐBSH.

Văn phòng Điều phối NTM Trung ương cần đôn đốc các địa phương vùng

ĐBSH triển khai lập dự án, xây dựng mô hình thí điểm trong đó phát huy được vai

trò của gia đình như mô hình gia đình ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ xây

dựng NTM, mô hình gia đình bảo vệ môi trường trong xây dựng NTM,...

Hướng dẫn, phối hợp với UBND các tỉnh vùng ĐBSH để xây dựng “Đề án

xây dựng NTM đặc thù”, tiến hành rà soát hiện trạng của vùng, tỉnh, huyện, thôn,

xã và gia đình để làm cơ sở triển khai xây dựng Đề án mang tính đặc thù của vùng

ĐBSH và các tỉnh, lồng ghép trong đó là các nội dung để phát huy vai trò của gia

đình trong xây dựng NTM.

4.2.4. Tăng cường huy động các nguồn lực để phát huy vai trò của gia

đình vùng đồng bằng sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới có hạ tầng

kinh tế - xã hội từng bước hiện đại

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2016 - 2020 đưa

ra mục tiêu “đến năm 2020 số xã đạt tiêu chuẩn NTM đạt 50%, trong đó đồng

bằng sông Hồng là 80%,... Cơ bản hoàn thành các công trình thiết yếu đáp ứng

yêu cầu phát triển sản xuất và đời sống của cư dân nông thôn: giao thông, điện,

nước sinh hoạt, trường học, trạm y tế xã,...” [106].

130

Thứ nhất, chính quyền địa phương vận động gia đình vùng ĐBSH tham gia

đóng góp hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn phải theo nguyên tắc tự

nguyện, công khai, minh bạch.

Theo Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng chính

phủ về Phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2016

- 2020 có quy định về vận động đóng góp xây dựng NTM, “Chính quyền địa

phương (tỉnh, huyện, xã) không quy định bắt buộc nhân dân đóng góp, chỉ vận

động bằng hình thức thích hợp để nhân dân tự nguyện đóng góp xây dựng cơ sở

hạ tầng kinh tế - xã hội của địa phương” [106], cùng với đó thực hiện nguyên tắc

tự nguyện, công khai, minh bạch, “cộng đồng và người dân trong xã bàn bạc mức

tự nguyện đóng góp cụ thể cho từng dự án, đề nghị Hội đồng nhân dân xã thông

qua” [106]. Tạo điều kiện cho hộ nghèo tham gia xây dựng NTM bằng cách vận

động “Hộ nghèo tham gia trực tiếp lao động để xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế -

xã hội của địa phương được chính quyền địa phương xem xét, trả thù lao theo mức

phù hợp với mức tiền lương chung của thị trường lao động tại địa phương và khả

năng cân đối ngân sách địa phương” [106].

Thứ hai, thúc đẩy gia đình vùng ĐBSH hưởng ứng mạnh mẽ công cuộc

hoàn thiện kết cấu hạ tầng hiện đại bằng tăng cường sự hỗ trợ từ ngân sách Nhà

nước cho các xã.

Theo đó, gia đình vùng ĐBSH tiếp tục hoàn thiện, bảo trì, tu dưỡng các

hạng mục phục vụ trực tiếp cho đời sống hàng ngày như giao thông, thủy lợi, điện,

y tế,... Vùng ĐBSH có các tỉnh Hà Nội, Quảng Ninh, Nam Định, Hải Dương,

Vĩnh Phúc,... là các tỉnh có lợi thế trong huy động, lồng ghép các nguồn lực phục

vụ xây dựng NTM, vì vậy

Ban chỉ đạo các xã tích cực chủ động trong việc huy động ngân sách

địa phương và các nguồn lực xã hội hóa cho xây dựng NTM, thực hiện

lồng ghép Chương trình xây dựng NTM với các chương trình phát triển

kinh tế xã hội khác, cùng với nguồn vốn hỗ trợ trực tiếp của cấp trên để

đẩy nhanh tiến độ thực hiện các tiêu chí NTM [9].

131

Thứ ba, nhanh chóng giải quyết các vấn đề bức xúc của gia đình vùng

ĐBSH trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội để xây dựng NTM.

Để gia đình vùng ĐBSH tiếp tục có sự tin tưởng, phát huy vai trò tích cực

trong xây dựng NTM, Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp cần quan tâm giải

quyết các vấn đề bức xúc đang diễn ra hiện nay như vấn đề môi trường nông thôn,

cấp nước sạch, thu gom xử lý rác thải sinh hoạt, xây dựng cảnh quan môi trường

xanh - sạch - đẹp và nhất là vấn đề xử lý nợ đọng cơ bản trong xây dựng NTM,

tránh để lại gánh nặng lên vai của người dân, các xã, huyện xây dựng NTM. Vì

vậy, Đảng và Nhà nước ta cần xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của

Chương trình là xử lý dứt điểm nợ đọng xây dựng cơ bản trong xây dựng NTM,

nhất là đối với các địa phương tự túc ngân sách.

Bên cạnh đó, phải tăng cường kiểm soát trong việc phê duyệt các dự án đầu

tư để đảm bảo chỉ khi xác định được nguồn vốn thì các địa phương mới quyết định

đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng thực hiện cho các tiêu chí NTM.

Tình hình phát triển kinh tế của đất nước đang tốt hơn, nguồn thu ngân sách của

các địa phương có nhiều khả quan, nên các địa phương cần quan tâm để đẩy mạnh

việc huy động các nguồn lực trong xây dựng NTM phát triển bền vững. Riêng

năm 2017 cả nước có thêm 11 địa phương báo cáo đã xử lý hết nợ trong đó vùng

ĐBSH có Hà Nội, Quảng Ninh, Nam Định, trước đó năm 2016 có Bắc Ninh, Hải

Dương cũng đã hoàn toàn xử lý xong nợ đọng; đây là tín hiệu để vùng ĐBSH

nhanh chóng phát huy thế mạnh để đạt mục tiêu xây dựng NTM trong thời gian

tới và phát huy được tính tự giác, chủ động của gia đình trong đóng góp đầu tư

xây dựng cơ sở hạ tầng của NTM.

4.2.5. Phát triển kinh tế gia đình vùng đồng bằng sông Hồng, thực hiện

thành công nhóm tiêu chí thứ ba về kinh tế và tổ chức sản xuất trong xây

dựng nông thôn mới

Một trong những mục tiêu Chương trình xây dựng NTM hướng đến giai

đoạn tiếp theo là “Nâng cao chất lượng cuộc sống của cư dân nông thôn; tạo nhiều

mô hình sản xuất gắn với việc làm ổn định cho nhân dân, thu nhập tăng” [106], để

132

đạt được mục tiêu này Đảng, Nhà nước ta và chính quyền các địa phương vùng

ĐBSH cần thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển kinh tế gia đình trên cả 4

mũi nhọn là sản xuất nông nghiệp, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông

nghiệp, đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất và nâng cao chất lượng đào tạo

nghề tạo việc làm thường xuyên cho các thành viên trong gia đình.

Thứ nhất, gia đình vùng ĐBSH tập trung đẩy mạnh phát triển nông nghiệp

sản xuất hàng hóa có giá trị và hiệu quả kinh tế cao.

Các địa phương vùng ĐBSH cần đẩy mạnh thu hút đầu tư, phát triển sản

xuất, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho gia đình nông thôn. Trong đó lĩnh

vực nông nghiệp tập trung các giải pháp đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hàng

hóa có giá trị, hiệu quả kinh tế cao, phát huy hàng nông sản lợi thế của các tỉnh

vùng ĐBSH, trọng tâm là sản xuất lúa chất lượng cao, rau an toàn, hoa, cây cảnh,

cây ăn quả đặc sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm, sản xuất giống, chăn nuôi bò thịt,

bò sữa, nuôi thâm canh thủy sản. ĐBSH là vùng có thuận lợi về điều kiện tự

nhiên, nhiều tỉnh có mặt hàng nông sản lợi thế không chỉ bán hàng trong nước mà

xuất khẩu sang các thị trường trên thế giới, như Thanh Hà (Hải Dương); nhãn

lồng, cam, ổi Văn Giang (Hưng Yên); chuối ngự Đại Hoàng, cá kho Nhân Hậu, gà

móng Tiên Phong, bánh đa làng Chều, rượu Vọc Vũ Bản (Hà Nam),...

Chính quyền địa phương vận động, hướng dẫn gia đình vùng ĐBSH thúc

đẩy phát triển nhanh các hình thức tích tụ ruộng đất để tổ chức sản xuất cánh đồng

lớn; các mô hình liên kết sản xuất hàng hóa “cánh đồng lớn liên kết chuỗi giá trị”

và các mô hình kinh tế trang trai, gia trại; các mô hình liên kết trong từng lĩnh vực:

Trồng trọt, chăn nuôi, nuôi thủy sản và ngành nghề nông thôn.

Gia đình vùng ĐBSH sản xuất nông nghiệp chủ động, tích cực chuyển đổi

cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng cường áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới về giống,

kỹ thuật thâm canh và cơ giới hóa vào sản xuất và chế biến nông sản. Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn tăng cường quản lý chất lượng nông, thủy sản, đảm

bảo nông, thủy sản của địa phương đạt tiêu chí an toàn.

Triển khai và nhân rộng Đề án “Chương trình mỗi xã, phường một sản

phẩm (OCOP), giai đoạn 2017 - 2020” trên phạm vi toàn vùng, nhằm tạo ra nhiều

133

sản phẩm hàng hóa chất lượng cao, mang tính đặc trưng, lợi thế của vùng, miền,

tập trung theo chuỗi giá trị gia tăng cao, gắn với xây dựng thương hiệu. Vùng

ĐHBH có Quảng Ninh là tỉnh đi đầu cho thực hiện Đề án, thời gian tới chính

quyền tỉnh Quảng Ninh tiếp tục “tập trung chỉ đạo phát triển các sản phẩm OCOP

chủ lực các cấp và thực hiện Kế hoạch phát triển 31 sản phẩm chủ lực cấp huyện,

trong đó chọn ra 12 sản phẩm cấp tỉnh và 6 sản phẩm cấp quốc gia gắn với phát

triển đồng bộ sản phẩm theo chuỗi từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ, đảm bảo cơ

bản đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng cung cấp cho các thị trường trong

nước và quốc tế,...”[115]. Việc thực hiện Đề án OCOP sẽ phát huy được thế mạnh

của xã, chính quyền xã cần nhanh chóng xây dựng kế hoạch để các gia đình tham

gia, xây dựng được thương hiệu sản phẩm, tăng chất lượng sản phẩm, từ đó vừa

nâng cao thu nhập, vừa giải quyết việc làm tại chỗ thường xuyên cho các thành

viên trong gia đình, khắc phục tình trạng “ly nông, ly hương”.

Thứ hai, gia đình vùng ĐBSH đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao vào sản

xuất nông nghiệp.

Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh là chìa

khoá giúp ĐBSH tiếp tục thực hiện thành công chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp, khẳng định vai trò là “động lực” cho sự phát triển chung của cả nước. Vì

vậy thời gian tới, chính quyền các tỉnh vùng ĐBSH cần tiếp tục triển khai có hiệu

quả Chương trình khoa học và công nghệ phục vụ xây dựng NTM giai đoạn 2016

- 2020, trong đó, khẩn trương hoàn thiện thủ tục giao nhiệm vụ và kinh phí cho

các tổ chức, cá nhân thực hiện các Đề tài, Dự án khoa học công nghệ đã được cấp

có thẩm quyền phê duyệt đảm bảo đúng tiến độ và quy định.

Tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật mới vào sản xuất và đời sống

trong nông thôn. Có cơ chế khuyến khích hỗ trợ các tổ chức, cá nhân nghiên cứu

ứng dụng thực hiện các đề tài, dự án thuộc lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.

Trong đó, ưu tiên ứng dụng tiến bộ kỹ thuật cho gia đình trong trồng trọt, chăn

nuôi, thuỷ sản, vệ sinh môi trường, xử lý chất thải làng nghề, chế biến nông, lâm,

thuỷ sản, sản xuất thử nghiệm các sản phẩm, chế phẩm mới...

134

Xây dựng thị trường tiêu thụ nông sản và sản phẩm cho gia đình trong làng

nghề thủ công thông qua hệ thống các cơ sở dịch vụ thương mại đều khắp ở các

vùng. Khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân hợp tác trực

tiếp với nông dân, các hợp tác xã để sản xuất, chế biến các sản phẩm chất lượng

cao, an toàn thực phẩm để tiêu thụ tại các siêu thị, thay thế sản phẩm nhập khẩu và

phục vụ xuất khẩu.

Đồng thời, các địa phương tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc về

môi trường cho gia đình ở nông thôn trong quá trình phát triển sản xuất và công

nghiệp hóa. Thực hiện quy hoạch và đầu tư xây dựng các điểm tập kết, khu xử lý

rác thải, từng bước hoàn thiện mạng lưới thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải ở

khu vực nông thôn. Nghiên cứu xây dựng và triển khai một số mô hình về bảo vệ

môi trường cấp xã, nhất là xử lý rác thải phù hợp với từng vùng để rút kinh

nghỉệm, nhân rộng.

Huy động các tập đoàn lớn như công ty VinEco, công ty Vinaseed,... đầu

tư, mở rộng mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở vùng ĐBSH

vừa phát triển kinh tế của vùng, vừa giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho gia

đình vùng ĐBSH. Đơn cử như tập đoàn Hòa Phát chính thức đầu tư vào lĩnh vực

nông nghiệp từ năm 2015 và định hướng phát triển theo chuỗi 3F (Farm-Feed-

Food), tập đoàn đã thực hiện một số mô hình ứng dụng nông nghiệp công nghệ

cao trong sản xuất thức ăn chăn nuôi, chăn nuôi lợn, bò và gia cầm tại một số tỉnh,

thành phố vùng ĐBSH như Hưng Yên, Thái Bình... Vì vậy, cần có chính sách thu

hút gia đình vùng ĐBSH tham gia liên kết, cung ứng sản phẩm cho doanh nghiệp

lớn, nhưng muốn vậy đặt ra vấn đề quan trọng là gia đình vùng ĐBSH phải nâng

cao chất lượng sản phẩm nông sản, từ đó tăng thu nhập cho gia đình, giải quyết

việc làm thường xuyên, nhanh chóng hoàn thành nhóm tiêu chí thứ ba của xây

dựng NTM.

Thứ ba, gia đình vùng ĐBSH tích cực thực hiện đổi mới các hình thức tổ

chức sản xuất.

Tăng cường điều kiện kinh tế, xã hội để phát triển hơn nữa kinh tế hộ gia

đình. Phát triển kinh tế hộ, thực hiện đa dạng hóa ngành nghề, nâng cao thu nhập,

135

mức sống là trọng tâm phát triển kinh tế của NTM. Để làm được việc này, trước

hết Nhà nước cần quan tâm giải quyết vấn đề tín dụng cho phát triển kinh tế hộ gia

đình, định hướng chuyển dịch cơ cấu nghề nghiệp như chuyển dịch nghề nghiệp

của các hộ gia đình nông thôn từ nông nghiệp sang tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ

và các ngành nghề phi nông nghiệp khác.

Dịch chuyển phát triển kinh tế hộ gia đình theo hướng làm tiểu thủ công

nghiệp, buôn bán, dịch vụ. “Thu hút” lao động trẻ với học vấn phổ thông rời khỏi

các hộ gia đình nông thôn để tới làm việc ở các xí nghiệp, công ty. Nhà nước, các

tổ chức đoàn thể cũng như gia đình cần đầu tư mạnh cho giáo dục và đào tạo. Đây

là một chiến lược của đa số các hộ gia đình nhằm tạo điều kiện cho lực lượng lao

động trẻ có thể thoát ly tìm việc làm mới và cũng là vấn đề nền tảng, then chốt

nhất để phát triển kinh tế hộ gia đình bền vững. Chuyển đổi mô hình sản xuất từ

kinh tế hộ lên một hình thức cao hơn.

Tăng cường huy động các nguồn lực từ các ngân sách nhà nước các cấp

cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Huy động xã hội hóa từ các nhà

doanh nghiệp để giúp đỡ, phát triển kinh tế hộ gia đình. Huy động tham gia của

doanh nghiệp cần phải có chính sách rất cụ thể và bảo đảm hiệu quả cho doanh

nghiệp. Việc huy động nguồn lực từ các hộ gia đình phải phù hợp với điều kiện

kinh tế của nhân dân.

Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp, phát

triển các hợp tác xã ngành nghề, dịch vụ, các hội nghề nghiệp trong nông thôn.

Cần rà soát, đánh giá hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp, dịch vụ. Có các

giải pháp cụ thể đối với các hợp tác xã sản xuất kinh doanh kém hiệu quả. Có

chính sách hỗ trợ để khuyến khích gia đình tham gia các hợp tác xã nông nghiệp.

4.2.6. Nâng cao chất lượng đời sống văn hóa, chăm lo giáo dục đào tạo,

y tế và bảo vệ môi trường để gia đình vùng đồng bằng sông Hồng phát huy

vai trò trong xây dựng nông thôn mới bền vững

Đời sống văn hóa, chăm lo giáo dục đào tạo, y tế và bảo vệ môi trường có

vai trò rất quan trọng, tạo động lực cho xây dựng NTM phát triển bền vững hiện

136

nay. Hiện nay, Đảng, Nhà nước và chính quyền vùng ĐBSH cần có các giải pháp

cụ thể để gia đình vùng ĐBSH phát huy vai trò trong nâng cao chất lượng đời

sống văn hóa, chăm lo giáo dục, y tế và bảo vệ môi trường góp phần xây dựng

NTM phát triển bền vững.

Thứ nhất, phát triển văn hóa cho gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM

Trước hết, tiếp tục tuyên truyền sâu rộng về yêu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ

xây dựng đời sống văn hóa trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM

đến toàn thể cán bộ, người dân, gia đình vùng ĐBSH. Nhấn mạnh trách nhiệm của

mỗi cá nhân và gia đình là chủ thể trong kiến tạo đời sống văn hóa mới. Công tác

tuyên truyền cần thực hiện kiên trì, bền bỉ làm cho mỗi cán bộ, gia đình thấm

nhuần được yêu cầu xây dựng đời sống văn hóa.

Bên cạnh đó, chính quyền cần quan tâm đến việc đầu tư xây dựng cơ sở vật

chất về văn hóa, huy động sự đóng góp của các gia đình vùng ĐBSH vào xây

dựng, tu bổ, giữ gìn nhà văn hóa sinh hoạt cộng đồng, sân thể thao,... Tạo được

“sân chơi” khang trang, sạch sẽ, là nơi sinh hoạt chung cho cộng đồng dân cư.

Song song với việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất về văn hóa, các địa

phương vùng ĐBSH cũng cần tập trung phát động các phong trào thi đua, các

cuộc vận động như xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa, khu dân cư văn

hóa,… trọng tâm là chỉ đạo nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết

xây dựng đời sống văn hóa” gắn với xây dựng NTM” bao gồm các nội dung cụ

thể, thiết thực như: thi đua sản xuất hộ gia đình, kinh doanh giỏi, xóa đói, giảm

nghèo, “ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền”, “nuôi con khỏe, dạy con

ngoan”, “gia đình, dòng họ hiếu học”,...góp phần thay đổi bộ mặt văn hóa nông

thôn, nâng cao nhận thức của nhân dân và giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa

truyền thống tốt đẹp của địa phương; đẩy mạnh hơn nữa thực hiện đề án “Phát

triển văn hóa nông thôn” nhằm tạo nền tảng vững chắc để xây dựng văn hóa, nâng

cao chất lượng gia đình văn hóa, phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng trong bảo

tồn, phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Qua các phong trào, các

cuộc vận động, các gia đình đoàn kết thi đua phát triển kinh tế, xây dựng gia đình

137

bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Các khu dân cư đã nâng cao ý thức và vai trò tự

quản, từng bước xây dựng mô hình làng văn hóa chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát

triển đa dạng ngành nghề; huy động được nội lực của gia đình nông thôn trong

xây dựng đời sống văn hóa NTM.

Ngoài ra, chính quyền địa phương cần có văn bản hướng dẫn cụ thể các

gia đình thực hiện nghiêm túc các quy ước, hương ước, nếp sống văn minh trong

việc cưới, việc tang và lễ hội; tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục,

thể thao để vừa phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, làm cho quan hệ gia

đình, hàng xóm ngày càng được gắn bó vừa đảm bảo tính hiện đại, không rườm

rà, tốn kém.

Phát huy vai trò của gia đình gắn với chiến lược xây dựng nền văn hóa tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gia đình cần quan tâm đến giáo dục đạo đức, nhân

cách, văn hóa truyền thống, đầu tư mạnh cho giáo dục đào tạo nâng cao dân trí

cho các thành viên trong gia đình; tăng cường đầu tư các nguồn lực cho phong

trào xây dựng gia đình văn hóa kết hợp với phương châm xã hội hóa, tạo nền tảng

cho sự phát triển chung của toàn xã hội.

Khuyến khích và thường xuyên tổ chức các hoạt động xã hội, văn hóa, văn

nghệ, thể dục, thể thao, phòng chống tệ nạn xã hội thu hút số lượng lớn gia đình

tham gia; tổ chức các hoạt động phát triển cộng đồng ở các thôn, xã nhằm phát

huy và bảo tồn những giá trị truyền thống tốt đẹp.

Xây dựng gia đình văn hóa trong NTM là sự vun bồi những giá trị tốt đẹp

đã và đang tồn tại, làm cho phong trào ngày càng đi vào chiều sâu, khơi dậy được

tinh thần ý thức tự giác tham gia của người dân. Đây là một quá trình lâu dài, xuất

phát từ nhận thức cá nhân đồng thời với việc quan tâm của các ngành, đoàn thể,

hướng đến lợi ích của từng gia đình gắn với lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội. Sự

quyết tâm đồng thuận ấy sẽ giúp cho phong trào xây dựng gia đình văn hóa ngày

càng thiết thực và hiệu quả hơn, góp phần thực hiện tiêu chí văn hóa trong xây

dựng NTM hiện nay tại ĐBSH.

138

Thứ hai, gia đình vùng ĐBSH tích cực phát triển giáo dục, đào tạo, nâng

cao trình độ dân trí cho các thành viên trong gia đình.

Gia đình là cái nôi đầu tiên giáo dục phẩm chất đạo đức, nhận thức cho con

người, vì vậy để nâng cao trình độ dân trí gia đình vùng ĐBSH cần tích cực chăm

lo giáo dục, đào tạo cho các thành viên trong gia đình, tạo động lực để phát triển

nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng và cho đất nước.

Phát triển giáo dục và đào tạo trong xây dựng NTM hiện nay cần huy động

các nguồn lực (nhà nước, cộng đồng và gia đình) bảo đảm cơ sở vật chất cần thiết

cho phát triển giáo dục, nhất là giáo dục phổ thông ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh

tế khó khăn. Động viên các gia đình cho con em đi học đầy đủ các cấp học từ

mầm non đến trung học cơ sở, thậm chí đến bậc Đại học, sau Đại học, bảo đảm

không có một trẻ em nào không được đến trường.

Gia đình cần phối hợp cùng nhà trường để giáo dục con cái, không chỉ giáo

dục con cái về kiến thức phổ thông mà còn giáo dục cả về phẩm chất đạo đức,

nhân cách lối sống; truyền thống, văn hóa dân tộc; nền nếp sinh hoạt, truyền thống

gia đình; đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, quy định địa

phương và định hướng học tập, nghề nghiệp cho con.

Gia đình vùng ĐBSH cần phát huy truyền thống hiếu học, thông minh, cần

cù, nhiều địa phương sự ảnh hưởng của dòng họ tương đối lớn như Hải Dương,

Thái Bình, Nam Định,... Trải qua bao thế hệ, những nét đẹp văn hoá ở các làng,

dòng họ khoa bảng ở vùng ĐBSH vẫn được gìn giữ, phát huy, góp phần tạo nên

truyền thống văn hóa làng xã, truyền thống hiếu học trong gia đình, dòng họ. Cần

khuyến khích các làng, dòng họ duy trì hoạt động của ban khuyến học, xây dựng

tủ sách dòng họ, tạo điều kiện cho con cháu được học hành, mở mang tri thức,

động viên tất cả các gia đình cho con đến trường, không có thành viên bỏ học,

không mắc tệ nạn xã hội, không vi phạm pháp luật, các thành viên trong dòng họ

đều tự giác học tập thường xuyên dưới nhiều hình thức, đồng thời tham gia tích

cực vào phong trào khuyến học, khuyến tài.

139

Để làm tốt công tác khuyến học, khuyến tài, thực hiện đề án xã hội học tập,

cần tập trung xây dựng gia đình học tập và quan tâm xây dựng cộng đồng học tập.

Đâu là nền tảng vững chắc để xây dựng xã hội học tập, hình thành các xã, huyện

điểm, góp phần nâng cao trình độ dân trí cho gia đình vùng ĐBSH.

Chính quyền địa phương cần khuyến khích các gia đình vùng ĐBSH tạo

mọi điều kiện cho con cái học tập, bên cạnh việc đầu tư học phí, cho con học các

lớp kỹ năng, máy tính,... bố mẹ cần dành thời gian để dạy con ở nhà, củng cố kiến

thức cho con, phát huy vai trò giáo dục của gia đình.

Thứ ba, giải pháp phát huy vai trò của gia đình trong bảo vệ môi trường

góp phần xây dựng NTM bền vững.

Chính quyền địa phương tuyên truyền đến các gia đình vùng ĐBSH thực

hiện tốt tiêu chí môi trường trong xây dựng huyện NTM theo Quyết định số

558/QĐ-TTg ngày 05/4/2016 và tiêu chí môi trường và an toàn thực phẩm trong

xây dựng xã NTM theo Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ

tướng Chính phủ; triển khai thực hiện Đề án thí điểm hoàn thiện và nhân rộng mô

hình bảo vệ môi trường trong xây dựng NTM tại các xã khó khăn, biên giới, hải

đảo theo hướng xã hội hóa, giai đoạn 2017 - 2020 theo Quyết định số 712/QĐ-

TTg ngày 26/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ.

Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì phối hợp các ngành liên quan và các

địa phương tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc về môi trường nông thôn,

tạo môi trường, môi sinh thuận lợi cho gia đình sinh hoạt như cấp nước sạch, thu

gom xử lý rác thải sinh hoạt, xử lý môi trường trong sản xuất (thuốc bảo vệ thực

vật, nước thải chăn nuôi, nước thải làng nghề, nhà máy, khu công nghiệp,...) đặc

biệt ĐBSH là vùng tập trung đông dân cư ở vùng đồng bằng và vùng ven đô thị.

Chính quyền địa phương cần xây dựng các mô hình ứng dụng công nghệ tiên tiến

xử lý chất thải rắn, nước sinh hoạt ở các khu dân cư tập trung, cần đưa vào hoạt

động có hiệu quả cao, phục vụ trực tiếp cho đời sống của gia đình vùng ĐBSH.

Vận động gia đình vùng ĐBSH chú trọng bảo vệ môi trường và tạo cảnh

quan nông thôn sáng - xanh - sạch - đẹp, hiện đại, hợp lý và giữ gìn được những

140

đặc trưng và bản sắc nông thôn, trong đó: thu hút các gia đình tham gia phát

quang, trồng, giữ gìn, nhân rộng mô hình đường hoa, cây xanh, trồng hoa từ nhà

ra ruộng, từ việc nhân rộng mô hình vườn mẫu, xã kiểu mẫu, tạo môi trường nông

thôn trong lành, không có các hoạt động gây ô nhiễm, suy thoái môi trường,

Ủy ban nhân dân huyện, tỉnh, thành phố tập trung chỉ đạo các xã phối hợp

các ngành, đoàn thể xã tăng cường vận động, tuyên truyền các gia đình nâng cao ý

thức vệ sinh môi trường, tạo thói quen phân loại rác thải, không vứt rác bừa bãi,

đào hố chôn rác, dọn dẹp vệ sinh quanh nhà, tạo cảnh quan xanh, sạch, đẹp và xử

lý dứt điểm nhà vệ sinh trên sông, kênh, mương.

Bên cạnh đó, cần thực hiện ngay các biện pháp khắc phục ô nhiễm và cải

thiện môi trường tại các làng nghề bị ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng trên địa bàn

vùng ĐBSH (làng nghề sản xuất giấy tái chí Phú Lâm và Phong Khê (Bắc Ninh),

làng nghề như sắt thép Dục Tú (Đông Anh), Xuân Đỉnh (Từ Liêm), làng nghề tái

chế, sản xuất đồ nhựa Minh Khai (Hưng Yên), làng nghề ở Nam Định,...) và bố

trí kinh phí để xử lý ô nhiễm môi trường tại các làng nghề ô nhiễm đặc biệt

nghiêm trọng.

Vì vậy, để nhanh chóng khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường tại các

khu làng nghề vùng ĐBSH, UBND các tỉnh cần vận động các gia đình ở làng

nghề nâng cao ý thức xử lý nước thải, rác thải khi sản xuất; sớm thực hiện đề tài

“Xây dựng mô hình hợp tác xã kiểu mới quản lý và xử lý ô nhiễm môi trường tại

một số làng nghề chế biến nông, lâm sản tại một số tỉnh vùng đồng bằng sông

Hồng trong tiến trình xây dựng NTM” của Viện Phát triển kinh tế hợp tác thuộc

Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và Đề án tổng thể bảo vệ môi trường làng nghề

đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030; xây dựng các dự án thí điểm huy

động vai trò của gia đình trong xử lý, khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường

cho các làng nghề vùng ĐBSH ở các tỉnh, thành phố, như: Bắc Ninh, Hà Nội,

Hưng Yên, Hà Nam, Thái Bình, Hải Dương,...

Một trong những yếu tố để xây dựng NTM phát triển bền vững là phát triển

kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ môi trường, môi sinh, vì vậy, việc thực hiện các

141

giải pháp để huy động sức mạnh của gia đình vùng ĐBSH bảo vệ môi trường

trong xây dựng NTM mang tính cấp thiết, là nhiệm vụ trọng tâm.

4.2.7. Nâng cao trách nhiệm, vai trò của gia đình vùng đồng bằng sông

Hồng trong xây dựng hệ thống chính trị, tiếp cận pháp luật, thực hiện bình

đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình và đảm bảo quốc phòng, an ninh và

trật tự xã hội nông thôn

- Trước hết, nhóm giải pháp để nâng cao trách nhiệm, vai trò của gia đình

vùng ĐBSH trong xây dựng hệ thống chính trị, tiếp cận pháp luật, thực hiện bình

đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình

Theo tinh thần Đại hội XII của Đảng chỉ ra “Trước những khó khăn, thách

thức trên con đường đổi mới, phải hết sức chú trọng công tác xây dựng Đảng

trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,

xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh” [33, tr.63]. Hệ thống chính trị vững mạnh

có vai trò nòng cốt, chủ công trong công cuộc đổi mới ở nước ta nói chung và xây

dựng NTM nói riêng. Vì vậy, trong các giải pháp để gia đình phát huy vai trò

trong xây dựng NTM, không thể thiếu các giải pháp để nâng cao chất lượng, phát

huy vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hộ; bảo đảm và

tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật cho gia đình vùng ĐBSH.

Thứ nhất, để gia đình tin tưởng, ủng hộ đường lối, chính sách xây dựng

NTM của Đảng và Nhà nước cần củng cố tổ chức cơ sở đảng, phát huy vai trò tiên

phong, gương mẫu của đảng viên; chống quan liêu, xa dân; nâng cao nhận thức

chính trị, đạo đức lối sống, ý thức trách nhiệm của từng đảng viên. Phát huy vai

trò của gia đình vùng ĐBSH trong động viên, ủng hộ các thành viên để kết nạp

vào hàng ngũ của Đảng; đồng thời phát hiện những đảng viên thoái hóa, yếu kém

về phẩm chất chính trị, lối sống để giáo dục, thậm chí loại khỏi hàng ngũ đảng, có

như vậy hàng ngũ của Đảng cơ sở mới ngày càng vững mạnh cả về số lượng cũng

như chất lượng, từ đó gia đình mới tin tưởng, động viên con cái kết nạp Đảng,

cống hiến cho việc xây dựng Đảng vững mạnh.

142

Thứ hai, gia đình vùng ĐBSH đề cao trách nhiệm trong hoạt động kiểm

tra, giám sát, góp ý cán bộ, lãnh đạo về thái độ cũng như quy chế công chức

phục vụ nhân dân; phát huy tinh thần dân chủ ở cơ sở để gia đình góp phần nâng

cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp, xây dựng Đảng trong

sạch, vững mạnh.

Thứ ba, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận và các

đoàn thể chính trị - xã hội. Trong thời gian tới các tổ chức trong hệ thống chính trị

từ trung ương đến cấp huyện phải hướng về cơ sở, đề cao trách nhiệm và đổi mới

sự chỉ đạo, tăng cường làm việc trực tiếp với cơ sở với nhiều hình thức tổ chức

hiệu quả hơn như lồng ghép nội dung vận động, tuyền truyền xây dựng NTM với

các trò chơi, diễn kịch, hát chèo... do chính các gia đình tham gia, dàn dựng. Khi

người dân được trực tiếp tham gia vào các hoạt động này, bản thân họ và các

thành viên trong gia đình sẽ nhận thức tốt hơn nữa các nội dung mà chính quyền

muốn truyền tải tới người dân.

Thứ tư, gia đình nâng cao trách nhiệm trong tham gia các buổi tuyên truyền

pháp luật, hoặc chủ động tìm hiểu các bộ luật mới liên quan trực tiếp đến gia đình

nông thôn như luật đất đai, luật đầu tư,... Gia đình phát huy vai trò trong giáo dục,

tuyên truyền pháp luật, chính sách,... đến các thành viên trong gia đình, dòng họ,

hàng xóm, láng giềng,...

Thứ năm, với công tác phòng, chống bạo lực gia đình, thực hiện bình đẳng

giới, cần có sự quan tâm, vào cuộc của các tổ chức xã hội một cách quyết liệt, kết

hợp đồng bộ nhiều giải pháp, lấy phòng ngừa là chính, tập trung tuyên truyền giúp

thay đổi nhận thức, hành vi ứng xử về gia đình, trang bị các kỹ năng sống, kỹ năng

tự bảo vệ mình cho các thành viên trong gia đình nhất là phụ nữ và trẻ em, từ đó

xóa bỏ dần bạo lực gia đình, vận động mọi người chung tay ngăn chặn bạo lực gia

đình làm tốt công tác hòa giải đi đôi với phòng, chòng các tệ nạn xã hội. Phát huy

vai trò của gia đình, sự đóng góp của mỗi thành viên trong mỗi gia đình trong việc

xây dựng xã hội an toàn lành mạnh và phát triển là rất quan trọng; hình thành lối

sống ý thức của các thành viên trong gia đình; vận động các gia đình vùng ĐBSH

143

tham gia các mô hình “xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”,

“gia đình thực hiện bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình”,...

- Nhóm giải pháp phát huy vai trò của gia đình trong giữ vững quốc phòng,

an ninh và trật tự xã hội nông thôn.

Thứ nhất, chính quyền địa phương, lực lượng công an cần đa dạng hóa hình

thức tuyên truyền về nội dung quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội đến với gia

đình vùng ĐBSH; nội dung tuyên truyền dễ nhớ, dễ hiểu, dễ tiếp cận đến các gia

đình nông thôn, phát huy vai trò giáo dục của gia đình, thực hiện công tác tuyên

truyền thông qua chính các thành viên của gia đình - tranh thủ thông qua các thành

viên là Đảng viên, thường xuyên sinh hoạt trong các tổ chức chính trị.

Thứ hai, cần đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tuyên truyền,

phổ biến, giáo dục pháp luật nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng

viên, đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân trong việc phát huy vai trò của gia

đình trong chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

bảo đảm trật tự an toàn xã hội; nêu cao tinh thần cảnh giác của các gia đình trước

âm mưu “diễn biến hòa bình”, kích động biểu tình, gây rối an ninh trật tự của các

thế lực thù địch, phản động, phần tử xấu, nhất là trên không gian mạng. Xác định

rõ công tác bảo vệ an ninh, trật tự là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, thường

xuyên của các cấp, các ngành và của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng

Công an là nòng cốt và huy động sức mạnh của các thiết chế xã hội trong đó có

gia đình.

Thứ ba, để phát huy được vai trò của gia đình trong đảm bảo quốc phòng,

an ninh, trật tự xã hội trong xây dựng NTM, các tỉnh vùng ĐBSH có thể hình

thành các “Tổ liên gia tự quản”, thông qua hoạt động của các tổ liên gia tự quản

đạt hiệu quả, lực lượng Công an huyện, Công an xã thường xuyên cử cán bộ dự

họp với các tổ liên gia ở các thôn dân cư, thông báo cho quần chúng nhân dân nắm

được tình hình an ninh trật tự trên địa bàn cũng như hiểu rõ về các phương thức,

thủ đoạn hoạt động của các loại tội phạm, qua đó, các gia đình nâng cao ý thức

cảnh giác, có biện pháp phòng ngừa, phát hiện, tố giác, đấu tranh với các loại tội

phạm, tệ nạn xã hội.

144

Thứ tư, củng cố, nhân rộng các mô hình quần chúng tự quản, tự phòng, tự

bảo vệ, tự hoà giải gắn kết với các mô hình phát triển NTM như cụm công nghiệp,

khu kinh tế trang trại tập trung, hợp tác xã, nhóm hộ gia đình trong cùng ngành

nghề, cùng tuyến đường, cùng khu vực. Trong đó chú trọng xây dựng các mô hình

liên kết, giáp ranh về an ninh trật tự. Thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết liên

tịch giữa Công an, Quân đội, các ngành, đoàn thể... trong công tác bảo vệ an ninh

trật tự.

Thứ năm, phát huy vai trò tình cảm, giáo dục của gia đình trong việc chủ

động phát hiện, ngăn chặn các đối tượng trong và ngoài nước móc nối, lôi kéo các

thành viên trong gia đình tham gia khiếu kiện, chống đối chính quyền nhà nước.

Cần tranh thủ những người có ảnh hưởng lớn trong gia đình, dòng họ để kịp thời

nắm bắt tâm tư, tình cảm của các đối tượng có biểu hiện bị lôi kéo, kích động.

Không gây những hiểu nhầm, mâu thuẫn với gia đình có người bị phạm tội nhất là

các đối tượng có học thức, có công với cách mạng.

Các lực lượng cần thông qua các gia đình, nhân dân ngay trong thôn, xóm

để chủ động đấu tranh ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực

thù địch, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh nông thôn, an ninh nội bộ,

văn hoá, tư tưởng, kinh tế, thông tin và an ninh tuyến biển; nhanh chóng xử lý tốt

những vấn đề phức tạp nảy sinh từ các hộ gia đình nông thôn, không để bị động,

bất ngờ.

Gia đình là thiết chế xã hội đặc thù, quan hệ giữa các thành viên trong gia

đình và quan hệ giữa gia đình với xã hội như một xã hội thu nhỏ, vì vậy, các giải

pháp để phát huy vai trò gia đình trong đảm bảo an ninh trật tự xã hội xây dựng

NTM cần tiến hành thường xuyên, để nâng cao tính tự giác của gia đình vùng

ĐBSH trong giữ gìn an ninh trật tự xã hội nông thôn.

145

Tiểu kết chương 4

Những năm qua, gia đình vùng ĐBSH đang có những đóng góp quan trọng

trong tham gia xây dựng NTM, làm thay đổi bộ mặt của nông thôn, đảm bảo phát

triển kinh tế gia đình, nâng cao chất lượng cuộc sống của gia đình và nông thôn

vùng ĐBSH, tuy nhiên vẫn còn tồn tại những hạn chế cần khắc phục để phát huy

hơn nữa vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM, vì vậy cần đề ra

những quan điểm, giải pháp đồng bộ, phù hợp để gia đình phát huy hơn nữa vai

trò trong xây dựng NTM bền vững.

Để có được những giải pháp phù hợp, cần quán triệt đầy đủ những quan

điểm có tính định hướng trong quá trình thực hiện. Phải xác định gia đình vùng

ĐBSH vừa là chủ thể, vừa là đối tượng hưởng thụ của Chương trình mục tiêu

quốc gia về xây dựng NTM vùng ĐBSH; từ đó xác định phát huy vai trò gia đình

vùng ĐBSH hướng đến xây dựng NTM bền vững; Việc phát huy vai trò của gia

đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,

trước hết là hệ thống chính trị cấp cơ sở vùng ĐBSH; Phát huy vai trò của gia đình

vùng ĐBSH trong xây dựng NTM cần gắn với “Quy hoạch phát triển kinh tế - xã

hội vùng đồng bằng sông Hồng” và “Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến

năm 2020, tầm nhìn 2030”.

Trên cơ sở những quan điểm đó, những nhóm giải pháp, kiến nghị được đề

xuất là nguồn tham khảo để cơ quan ban ngành xây dựng, hoạch định các chính

sách phù hợp để gia đình vùng ĐBSH phát huy hơn nữa vai trò trong xây dựng

NTM giai đoạn tiếp theo. Các nhóm giải pháp phải mang tính đồng bộ, toàn diện

để gia đình tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa vai trò trong xây dựng NTM. Trong đó

cần quan tâm đến giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách để vận động, thu hút gia

đình đóng góp nguồn lực cho xây dựng NTM và có chính sách khen thưởng, động

viên kịp thời những gia đình điển hình, đi đầu, tích cực đóng góp sức người, sức

của cho “cuộc cách mạng” này, từ đó có sức lan tỏa đến đông đảo các gia đình

trong thôn, xóm, huyện, trở thành phong trào thi đua, ý thức tự giác của mỗi gia

đình vùng ĐBSH đóng góp xây dựng NTM.

146

KẾT LUẬN

Mục tiêu tổng quát của “Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng

NTM” là để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, để đạt được

mục tiêu đó, Đảng và Nhà nước ta xác định đối tượng hưởng thụ chính là người

dân và cộng đồng dân cư trên địa bàn nông thôn và đối tượng thực hiện

Chương trình này là người dân, cộng đồng dân cư nông thôn, hệ thống chính trị

từ Trung ương đến cơ sở, doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế, xã hội. Như

vậy, người dân và cộng đồng dân cư nông thôn vừa là đối tượng thực hiện vừa

là đối tượng hưởng thụ các thành quả của Chương trình xây dựng NTM. Gia

đình chính là nơi người dân và cộng đồng dân cư được sinh ra, nuôi dưỡng,

trưởng thành và cư trú, vì vậy việc thu hút, động viên các gia đình thực hiện vai

trò trong xây dựng NTM là cần thiết.

Gia đình vùng ĐBSH phát huy tích cực vai trò trong thực hiện thành

công các nhóm tiêu chí của Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM,

từ xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt

là hệ thống giao thông nông thôn đến đời sống vật chất, tinh thần gia đình vùng

ĐBSH được cải thiện rõ rệt, góp phần xóa đói, giảm nghèo bền vững, thu nhập

vùng nông thôn tăng dần qua các năm; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh và bền vững;

an ninh trật tự địa bàn nông thôn được đảm bảo, hệ thống chính trị cơ sở được

tăng cường. Việc huy động nội lực gia đình vùng ĐBSH theo nhiều hình thức;

việc đóng góp phải được bàn bạc dân chủ và thống nhất, có sự giám sát cộng

đồng, đảm bảo công khai, minh bạch thì người dân sẽ tin tưởng và tích cực

tham gia. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục, đặt ra một

số vấn đề mâu thuẫn như phát huy vai trò của gia đình tham gia xây dựng cơ sở

hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn chưa đảm bảo tính bền vững; thu hồi đất đai

để thực hiện quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSH dẫn

đến tình trạng thành viên trong gia đình mất việc làm, thất nghiệp, ly nông, ly

hương, không đảm bảo tính bền vững trong xây dựng NTM; gia đình vùng

147

ĐBSH ứng dụng khoa học công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp gắn với

vấn đề bảo bệ môi trường, môi sinh trong xây dựng NTM; mâu thuẫn giữa việc

đóng góp, hiến tặng tài sản của gia đình với việc sử dụng của chính quyền địa

phương dẫn đến gia đình e ngại, không tích cực đóng góp xây dựng NTM.

Để giải quyết các mâu thuẫn này cần thực hiện đồng bộ và triệt để nhiều

giải pháp khác nhau, từ giải pháp nâng cao nhận thức đến hoàn thiện hệ thống

chính trị các cấp vùng ĐBSH, hoàn thiện cơ chế, chính sách để gia đình vùng

ĐBSH tiếp tục phát huy trong xây dựng NTM, phát triển kinh tế gia đình vùng

ĐBSH, nâng cao chất lượng đời sống văn hóa, chăm lo giáo dục đào tạo, bảo

vệ môi trường, nâng cao trách nhiệm, vai trò của gia đình vùng ĐBSH trong

xây dựng hệ thống chính trị, phòng, chống bạo lực gia đình và đảm bảo quốc

phòng, an ninh và trật tự xã hội nông thôn.

Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM chỉ có thể thực hiện

thắng lợi khi có sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, các lực lượng và sự ủng

hộ nhiệt tình, tự giác, chủ động, sáng tạo của nhân dân, mở rộng ra là của cả

các gia đình. Những thành quả của xây dựng NTM vùng ĐBSH nói riêng và cả

nước nói chung không những làm thay đổi bộ mặt nông thôn Việt Nam mà còn

nâng cao chính đời sống vật chất và tinh thần cho gia đình nông thôn Việt Nam

nói chung và nông thôn vùng ĐBSH nói riêng.

Vùng ĐBSH là một vùng đi đầu trong mọi hoạt động, có số xã đạt chuẩn

NTM lớn nhất cả nước, vì vậy, trong thời gian tới một mặt cần có chính sách

thiết thực, phù hợp giữa “ý Đảng, lòng dân” để phát huy hơn nữa vai trò gia

đình vùng ĐBSH trong xây dựng NTM phát triển bền vững. “Đây vừa là mục

tiêu, vừa là động lực, thôi thúc toàn Đảng, toàn dân quyết tâm thực hiện, song

đồng thời cũng là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài đòi hỏi phải thực hiện

đồng bộ các giải pháp nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn bền

vững”[8,tr.30], gắn Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựngNTM giai

đoạn 2016 - 2020 với các chiến lược, chính sách, đề án lớn như “Chiến lược

xây dựng gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030”, chính sách phát

148

triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo quan

điểm Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị; phát huy vai trò của gia đình vùng

ĐBSH trong xây dựng NTM phát triển bền vững gắn với giải quyết mối quan

hệ về phát triển kinh tế, xã hội, phát triển văn hóa, ổn định chính trị của vùng

và trên cả nước. Từ đó, xây dựng NTM ở nước ta phải đảm bảo về chất lượng,

thực chất và đi vào chiều sâu. Gia đình vùng ĐBSH và trên cả nước đặt niềm

tin vào chính sách, chủ trương phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng và

Nhà nước tích cực, tự giác phát huy vai trò trong xây dựng NTM.

149

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

* Với các Bộ ngành

- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan chủ trì Chương

trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM, Bộ chủ trì, phối hợp với các Bộ,

ngành liên quan, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức

triển khai thực hiện Chương trình, huy động sự tham gia của gia đình trong xây

dựng NTM.

- Bộ Kế hoạch và Đầu tư bổ sung nguồn kinh phí thực hiện Chương trình

mục tiêu quốc gia xây dựng NTM vùng ĐBSH nhằm giúp vùng thực hiện hiệu

quả các nội dung mục tiêu của chương trình đã đề ra, góp phần vào phát triển kinh

tế và đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống gia đình vùng ĐBSH.

- Bộ Tài chính ngoài việc bố trí vốn lồng ghép từ các chương trình, dự án

khác, cần quan tâm bố trí tăng thêm vốn trực tiếp và sớm phân bổ cho Chương

trình xây dựng NTM giúp các địa phương vùng ĐBSH thực hiện cơ bản hoàn

thành các công trình, dự án trọng điểm theo kế hoạch, động viên chính quyền địa

phương, người dân cũng như gia đình vùng ĐBSH tích cực tham gia xây dựng

NTM phát triển bền vững trong thời gian tới.

- Bộ Tài nguyên và Môi trường cần có hướng dẫn cụ thể về cơ chế xử lý

nước thải, rác thải tại các làng nghề truyền thống, rác thải tại khu dân cư, gia đình

để đảm bảo ổn định tiêu chí về môi trường trong xây dựng NTM.

- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần có kế hoạch tổ chức các buổi sinh

hoạt văn hóa, văn nghệ, thể thao, các hội thi, giao lưu các gia đình quy mô lớn

theo vùng ĐBSH hoặc cả nước để lồng ghép nội dung gia đình tìm hiểu về

Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM. Bổ sung các tiêu chí tham gia

xây dựng NTM vào tiêu chí “Xây dựng gia đình văn hóa”.

- Ban Chỉ đạo Trung ương rà soát, sửa đổi đồng bộ các chính sách đã được

Trung ương ban hành đảm bảo tính khả thi, sát với thực tiễn, và yêu cầu của gia

đình vùng ĐBSH như: Chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư và quản lý, khai

thác công trình cấp nước sạch nông thôn; chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp

150

công nghệ cao, chính sách hỗ trợ trong liên kết tổ chức sản xuất, chế biến và tiêu

thụ sản phẩm nông nghiệp,...

* Với Ủy ban nhân dân địa phương các cấp

- Đề nghị Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh tiếp tục quan tâm, ban

hành các cơ chế, chính sách để huy động các gia đình nông thôn, có cơ chế khen

thưởng với các gia đình gương mẫu, đi đầu trong xây dựng NTM; đồng thời quan

tâm hỗ trợ gia đình khó khăn, những xã khó khăn, có số tiêu chí NTM đạt thấp để

đẩy nhanh tiến độ thực hiện Chương trình.

Ban hành cơ chế, chính sách, hướng dẫn tổ chức triển khai các chương trình

vận động gia đình vùng ĐBSH tham gia xây dựng NTM trên địa bàn các tỉnh

vùng ĐBSH;

Quy hoạch và thúc đẩy các gia đình vùng ĐBSH phát triển các vùng sản

xuất nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn tỉnh theo hướng liên kết chuỗi giá trị

phù hợp với định hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp.

- Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã hướng dẫn tổ chức triển khai Chương

trình trên địa bàn huyện, xã. Rà soát và bổ sung hoàn chỉnh quy hoạch NTM cấp

xã phù hợp với quy hoạch NTM cấp huyện, lấy ý kiến của các gia đình góp ý vào

dự thảo quy hoạch của địa phương;

Huy động sự tham gia của các tổ chức đoàn thể, đề nghị Ủy ban Trung

ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Phụ nữ huyện, xã và các tổ chức thành viên

tích cực tham gia vận động các gia đình hội viên chung tay thực hiện Chương

trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM; tiếp tục thực hiện cuộc vận động

“Toàn dân đoàn kết xây dựng NTM, đô thị văn minh”, xây dựng cuộc vận động

“Gia đình xây dựng NTM”.

151

DANH MỤC BÀI VIẾT ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thị Minh Huệ (2016), “Một số giải pháp phát triển nông nghiệp, nông

thôn gắn với xây dựng nông thôn mới”, Tạp chí Nông thôn mới, (ISSN 1859 -

0195), (434), tr.22-23.

2. Nguyễn Thị Minh Huệ (2017), “Quán triệt quan điểm đại hội XII của Đảng về

phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới bền

vững”, tại trang http://www.lyluanchinhtri.vn, ngày 06/01.

3. Nguyễn Thị Minh Huệ (2017), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách đối với

nông dân và sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình phát triển nông nghiệp, xây

dựng nông thôn mới”, tại trang http://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 25/7.

4. Nguyễn Thị Minh Huệ (2018), “Lực lượng Công an nhân dân với công tác xây

dựng nông thôn mới”, Tạp chí Lý luận chính trị Công an nhân dân, (ISSN 2354

- 1393), (34).

5. Nguyễn Thị Minh Huệ (2018), “Vai trò của lực lượng an ninh ở nông thôn”,

Tạp chí Nông thôn mới, (ISSN 1859 - 0195), Kỳ 3 (505).

bảo an ninh nông thôn ở tỉnh Thái Bình”, Tạp chí Khoa học và giáo dục an

ninh, (ISSN 1859 - 4778), (16).

6. Nguyễn Thị Minh Huệ (2018), “Phát huy vai trò của gia đình trong đảm

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Anh (2018), "22 tỉnh thành nợ đọng 1630 tỷ đồng xây dựng nông thôn

mới", tại trang https://www.tienphong.vn/kinh-te/22-tinh-thanh-no-dong-1630-

ty-dong-xay-nong-thon-moi-1293349.tpo, [truy cập ngày 29/6/2018].

2. Vũ Quang Ánh (2012), Thực hiện đường lối của Đảng về phát triển kinh tế

nông nghiệp ở một số tỉnh, thành đồng bằng sông Hồng từ năm 1997 đến năm

2010, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội.

3. Ban Bí thư (2005), Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 21/2/2005 Xây dựng gia đình

trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Hà Nội.

4. Ban Biên tập Tạp chí Cộng sản (4/2015), Kỷ yếu hội thảo khoa học công

nghiệp hóa, hiện đại hóa - Đột phá phát triển nông nghiệp bền vững và xây

dựng nông thôn mới, gắn với nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống

chính trị - từ thực tiễn Hà Nam, Phủ Lý, Hà Nam.

5. Ban Chấp hành Trung ương (2013), Quyết định số 217-QĐ/TW ngày

12/12/2013 về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, Hà Nội.

6. Ban Chấp hành Trung ương (2008), Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008

Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông

dân, nông thôn, Hà Nội.

7. Ban Chỉ đạo Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản Trung ương

(2016), Báo cáo sơ bộ Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy

sản năm 2016, NXB Thống kê, Hà Nội.

8. Ban Chỉ đạo chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới - Văn

phòng điều phối nông thôn mới Trung ương (2015), Báo cáo tóm tắt Kết quả

xây dựng nông thôn mới 2014, Kế hoạch 2015 và định hướng Chương trình

mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020, Hà Nội.

9. Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới tỉnh Hải Dương, Văn phòng điều phối

(2017), Báo cáo số 05/BC-VPĐP ngày 23 tháng 2 năm 2017, Báo cáo kết quả

thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới năm

2016, kế hoạch năm 2017, Hải Dương.

153

10. Ban Chỉ đạo thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia tỉnh Quảng Ninh,

Ban xây dựng nông thôn mới (2016), Báo cáo số 04-BC/BXDNTM ngày

28/12/2016, Báo cáo kết quả triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc

gia xây dựng nông thôn mới năm 2016; nhiệm vụ, giải pháp thực hiện năm

2017, Quảng Ninh.

11. Ban Chỉ đạo thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia tỉnh Quảng Ninh,

Ban xây dựng nông thôn mới (2017), Báo cáo số 777-BC/BXDNTM ngày

18/12/2017, Báo cáo kết quả triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc

gia xây dựng nông thôn mới năm 2017; nhiệm vụ, giải pháp thực hiện năm

2018, Quảng Ninh.

12. Ban Dân vận Trung ương (2000), Một số vấn đề công tác vận động nông dân

ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội

13. Ban Nông nghiệp Trung ương (1991), Kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam ngày

nay, tập 2, NXB Thể thao văn hóa, Hà Nội.

14. Ban Tuyên giáo thành ủy Hà Nội (2012), Tài liệu hỏi - đáp xây dựng nông

thôn mới, Hà Nội.

15. Benedict J.tria Kerrkvliet, Jamesscott (2000), Một số vấn đề nông nghiệp,

nông dân, nông thôn ở các nước và Việt Nam, Nguyễn Ngọc và Đỗ Đức Định

sưu tầm và giới thiệu, NXB Hà Nội, Hà Nội

16. Bert N. Adams (Trường đại học Wisconsin, Madison, Mỹ) và Jan Trost

(Trường đại học Upsalla, Thụy Điển) (2005), Cẩm nang về Nghiên cứu gia đình

trên thế giới (Handbook of World Families), NXB Sage, Thụy Điển.

17. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2009), Thông tư số 54/2009/TT-

BNNPTNT ngày 21/8/ 2009 hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí Quốc gia về nông

thôn mới Hà Nội.

18. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2017), Báo cáo đánh giá kết quả thực

hiện năm 2017 và dự kiến một số nhiệm vụ trọng tâm thực hiện Chương trình

mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm 2018, Hà Nội.

19. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2014), Chương trình hành động của

Đảng, Nhà nước và tiêu chuẩn - quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về xây dựng

nông thôn mới, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

154

20. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2017), Chương trình khung tập

huấn, bồi dưỡng cán bộ xây dựng nông thôn mới các cấp, giai đoạn 2016 -

2020, Chuyên đề 9: Quy trình triển khai thực hiện dự án phát triển cơ sở hạ

tầng kinh tế - xã hội trong nông thôn mới, Hà Nội.

21. Bộ Văn hóa Thông tin (1997), Xây dựng gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi

mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Mai Huy Bích (1993), Đặc điểm gia đình đồng bằng sông Hồng, NXB Văn

hóa thông tin, Hà Nội.

23. Mai Huy Bích (2011), Xã hội học gia đình, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

24. Phạm Thị Bình (2012), Tác động của kinh tế thị trường đến chức năng gia

đình ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành

chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

25. Phạm Thị Thanh Bình (2017), "Phát triển nông nghiệp bền vững ở Thái Lan",

Tạp chí Cộng sản, (123), tr.91-96.

26. Tống Văn Chung (2011), Giáo trình cơ sở xã hội học nông thôn Việt Nam,

NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

27. Tô Xuân Dân, Lê Văn Viện và Đỗ Trọng Hùng (2014), Xây dựng nông thôn

mới ở Việt Nam, Tầm nhìn mới, Tổ chức quản lý mới, Bước đi mới, NXB

Nông nghiệp, Hà Nội.

28. Bùi Quang Dũng, Nguyễn Trung Kiên, Bùi Hải Yến và Phùng Thị Hải Hậu

(2015), "Chương trình xây dựng nông thôn mới: một cái nhìn từ lịch sử chính

sách", Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (91).

29. Du Ying, China’s Agricultural Restructuring and System Reform under Its

Accession to the WTO, (Department of Policy and Law, Ministry of

Agriculture, China), ACIAR China Grain Market Policy Project Paper No. 12,

November 2000.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp

hành Trung ương khóa X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu toaàn quốc lần

thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

155

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011), NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toaàn quốc lần

thứ XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 47, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Đảng bộ thành phố Hà Nội, Huyện ủy Đan Phượng (2016), Chương trình số

07-CTr/HU, Chương trình Phát triển sản xuất, xây dựng nông thôn mới, nâng

cao đời sống nông dân giai đoạn 2016 -2020, Hà Nội.

36. Đảng bộ thành phố Hà Nội, Huyện ủy Chương Mỹ (2016), Chương trình số 0-

CTr/HU, Chương trình Phát triển sản xuất, xây dựng nông thôn mới, nâng cao

đời sống nông dân giai đoạn 2016 -2020, Hà Nội.

37. Frans Elltis (1994), Chính sách nông nghiệp trong các nước phát triển,

NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

38. Nguyễn Thị Hà (2011), “Lồng ghép giới trong xây dựng gia đình văn hóa ở

Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và giới, (4), tr.66-73.

39. Trịnh Hà (2016), "Phát triển sản xuất để xây dựng nông thôn mới", tại trang

http://baophutho.vn/kinh-te/nong-thon-moi/201606/phat-trien-san-xuat-de-

xay-dung-nong-thon-moi-44502, [truy cập ngày 27/6/2016].

40. Phạm Mạnh Hà (2013), Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn tỉnh Ninh

Bình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ Kinh tế,

Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

41. Nguyễn Thị Hằng (1997), Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Trần Ngọc Hiên (1993), Tư tưởng của Lênin, Hồ Chí Minh về nông dân, nông

thôn và nông nghiệp, Trung tâm Thông tin tư liệu Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

43. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (2010), Nghị quyết số 03/2010/NQ-

HĐND về xây dựng nông thôn mới Thành phố Hà Nội giai đoạn 2010 - 2020,

định hướng 2030, Hà Nội.

156

44. Phạm Huỳnh Minh Hùng (2017), Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong

xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng Sông Cửu Long hiện nay”, Luận án Tiến

sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

45. Huyện ủy Chương Mỹ, Ban Chỉ đạo Chương trình phát triển nông nghiệp, xây

dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống nhân dân (2015), số 02-

BC/BCĐ, Báo cáo kết quả thực hiện công tác dồn điền đổi thửa gắn với

chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn

huyện Chương Mỹ, Hà Nội.

46. Huyện ủy Chương Mỹ, Ban Chỉ đạo Chương trình phát triển nông nghiệp, xây

dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống nhân dân (2015), số 01-

BC/BCĐ, Báo cáo Tổng kết 05 năm thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia

xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2015 trên địa bàn huyện Chương

Mỹ, Hà Nội.

47. Khoa Quốc tế học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học

quốc gia Hà Nội (2016), “Hợp tác quốc tế vì phát triển nông thôn ở Việt Nam:

sự kết nối chính sách và thực tế”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế, NXB Thế

giới, Hà Nội.

48. Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý (2009), Gia đình học, NXB Chính trị - Hành

chính, Hà Nội.

49. Nguyễn Linh Khiếu (2001), Gia đình và phụ nữ trong biến đổi văn hóa xã hội

nông thôn,NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

50. Đặng Phương Kiệt (2007), Gia đình Việt Nam những giá trị truyền thống và

các vấn đề tâm - bệnh lý xã hội, NXB Lao động, Hà Nội.

51. Bùi Thị Ngọc Lan (Chủ biên) (2007), Việc làm của nông dân vùng Đồng bằng

sông Hồng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Lý luận chính

trị, Hà Nội.

52. Bùi Thị Ngọc Lan (2017), “Xây dựng nông thôn mới bền vững - động lực cho

phát triển nông nghiệp Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị &

Truyền thông, (7).

53. Bùi Thị Ngọc Lan (2009), “Gia đình Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ giới”,

Tạp chí Lý luận chính trị (11), tr.52-55.

157

54. Bùi Thị Ngọc Lan (2011), “Mấy vấn đề đặt ra trong xây dựng gia đình Việt

Nam thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, (12).

55. Bùi Thị Ngọc Lan (2015), “Tư tưởng của V.I.Lênin về nông nghiệp, nông

dân, nông thôn và ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận

chính trị (11).

56. Thanh Lê (2001), Xã hội học gia đình, NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ

Chí Minh, Hồ Chí Minh.

57. Trương Giang Long, Nguyễn Thành Long (2011), Liên kết “4 nhà” - giải

pháp cơ bản góp phần xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng sông Cửu Long,

NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

58. Trịnh Duy Luân, Helle Rydstrom, Wil Burghoorn (2008), Gia đình Nông thôn

Việt Nam trong chuyển đổi, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

59. Luật Hôn nhân và gia đình (Có hiệu lực từ ngày 01/01/2015), NXB Lao động.

60. Nghiêm Sỹ Liêm (2001), Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở

nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết hoc, Học viện Chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội.

61. C.Mác, Ph.Ăngghen (1981), Tuyển tập, tập 1, NXB Sự thật, Hà Nội.

62. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, NXB Sự thật, Hà Nội.

63. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Martine Segalen (dịch giả Phan Ngọc Hà) (2014), Xã hội học gia đình, NXB

Thế giới, Hà Nội.

65. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

66. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

67. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

68. Trần Quang Minh (2010), Nông nghiệp Hàn Quốc trên đường phát triển,

NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

69. Nguyễn Hữu Minh (2014), Gia đình Việt Nam trong quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa và hội nhập từ cách tiếp cận so sánh, NXB Khoa học xã hội,

Hà Nội.

70. Nguyễn Hữu Minh (2015), "Gia đình Việt Nam sau 30 năm đổi mới", Tạp chí

Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 (96), tr.51 - 59.

158

71. Nguyễn Thị Ngân (2013), Sự biến đổi của chức năng gia đình ở vùng Đồng

bằng sông Hồng trong bối cảnh hiện nay, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Học viện

Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

72. Văn Ngọ (2018), "Nông thôn mới ngày càng thực chất hơn", tại trang

http://nongnghiep.vn/nong-thon-moi-ngay-cang-thuc-chat-hon-

post214057.html, [truy cập ngày 07/03/2018].

73. Trần Minh Ngọc (Chủ biên) (2010), Việc làm của nông dân trong thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2020, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

74. Trần Ngọc Ngoạn (Chủ biên), 2008, Phát triển nông thôn bền vững: Những

vấn đề lý luận và kinh nghiệm thế giới, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

75. Vũ Oanh (1998), Nông nghiệp và nông thôn trên con đường công nghiệp hóa,

hiện đại hóa và hợp tác hóa, dân chủ hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

76. Vũ Văn Phúc (2013), Xây dựng nông thôn mới những vấn đề lý luận và thực

tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

77. Đỗ Thanh Phương (2015), "Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin và Hồ Chí Minh

về nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong xây dựng nông thôn mới", Tạp

chí Lý luận chính trị (3).

78. Nguyễn Thị Minh Phương (2014), Định hướng giáo dục cho con trong các gia

đình nông thôn ngày nay, Luận án tiến sĩ Xã hội học, Học viện Khoa học xã

hội, Hà Nội.

79. Chu Tiến Quang, Lê Xuân Đình (2007), “Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong

phát triển nông thôn mới bền vững”, Tạp chí Cộng sản, (125).

80. Đỗ Đức Quân (2010), Một số giải pháp nhằm phát triển bền vững nông thôn

vùng ĐB Bắc Bộ trong quá trình xây dựng, phát triển các khu công nghiệp

(Qua khảo sát các tỉnh Vĩnh Phúc, Hải Dương, Ninh Bình), NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

81. Đỗ Văn Quân (2014), “Phát triển kinh tế hộ gia đình trong tiến trình xây

dựng nông thôn mới ở đồng bằng sông Hồng hiện nay”, tại trang

http://www.lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/644-phat-trien-

kinh-te-ho-gia-dinh-trong-tien-trinh-xay-dung-nong-thon-moi-o-dong-

bang-song-hong-hien-nay.html, [truy cập ngày 25/4/2014]

159

82. Chu Hữu Quý (1996), Phát triển toàn diện kinh tế- xã hội nông thôn, nông

nghiệp Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

83. Robert Chamber (1991), Phát triển nông thôn - Hãy bắt đầu từ những người

cùng khổ, NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.

84. Robert Cliquet (2003), Những xu hướng chính ảnh hưởng đến gia đình trong

thiên niên kỷ mới ở Tây Âu và Bắc Mỹ, Trường Đại học Ghent, Bỉ.

85. Servaas Storm (1997), The unfinished agenda: Indian Agriculture under

thestructural reforms, Servaas Storm, Department of Applied Economics,

Eramus University, Rotterdam, The Netherlands, The Journal of International

Trade and Economic Development 6:2 249-286, 1997.

86. Sim Sang Joon (2001), Gia đình người Việt ở Châu thổ sông Hồng và mối liên

hệ của nó với cộng đồng xã hội, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Đại học Khoa học xã

hội và nhân văn, Hà Nội.

87. Tô Văn Sông (2013), Nông dân vùng đồng bằng sông Hồng trong quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nôn thôn, Luận án tiến sĩ Triết

học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

88. Tài liệu tập huấn khuyến nông (2016), Những vấn đề cơ bản về xây dựng nông

thôn mới.

89. Đỗ Thị Thạch (2011), “Về xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam dưới ánh sáng

Đại hội XI của Đảng”, tại trang http://www.tapchicongsan.org.vn/

Home/Viet-nam-tren-duong-doi-moi/2011/13615/Ve-xay-dung-gia-dinh-

van-hoa-Viet-Nam-duoi-anh-sang.aspx, [truy cập ngày 14/11/2011].

90. V.V. Thành (2015), "Gần 19 triệu gia đình văn hóa nhưng văn hóa vẫn xuống

cấp", tại trang https://tuoitre.vn/gan-19-trieu-gia-dinh-van-hoa-nhung-van-

hoa-van-xuong-cap-1014142.htm, [truy cập ngày 22/11/2018].

91. Thành ủy Hà Nội, Ban chỉ đạo Chương trình số 02/CTr/TU của Thành ủy

(2017), Báo cáo số 30/ BC-BCĐ ngày 09/02/2017 Báo cáo sơ kết 01 năm thực

hiện Chương trình số 02-CTr/TU ngày 26/4/2016 của Thành ủy Hà Nội “Phát

triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân giai

đoạn 2016 - 2020, nhiệm vụ, giải pháp năm 2017”, Hà Nội.

160

92. Chu Thị Thoa (2002), Bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn đồng bằng

sông Hồng hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội.

93. Hoàng Bá Thịnh (Chủ biên) (2015), Giáo trình gia đình học, NXB Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

94. Hoàng Bá Thịnh (2016), "Xây dựng nông thôn mới ở Hàn Quốc và Việt

Nam", Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (104), tr.3-11.

95. Lê Thi (1997), Gia đình Việt Nam và xây dựng văn hóa gia đình trong công

cuộc đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

96. Lê Thi (1997), Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người

Việt Nam, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

97. Lê Thi (2002), Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

98. Trần Hữu Tòng, Trương Thìn (1997), Xây dựng gia đình văn hóa trong sự

nghiệp đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

99. Nguyễn Kim Tôn (2017), Nông dân đồng bằng sông Cửu Long trong phát

triển nông nghiệp bền vững hiện nay, Luận án tiến sĩ Chủ nghĩa xã hội khoa

học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

100. Hoàng Tuấn (2018), "Nâng cao nhận thức về bình đẳng giới và phòng, chống

bạo lực gia đình cho cán bộ, hội viên nông dân", tại trang http://baonamdinh.

com.vn/channel/5086/201808/nang-cao-nhanthuc-ve-binh-dang-gioi-va-

phong-chong-bao-luc-gia-dinh-cho-canbo-hoi-vien-nong-dan-2525858/,

[truy cập ngày 18/12/2018].

101. Nguyễn Đức Truyền (2003), Kinh tế hộ gia đình và các quan hệ xã hội ở nông

thôn ĐBSH trong thời kỳ đổi mới, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

102. Trung tâm phát triển nông thôn, Dự án MISPA (2006), Lý luận và thực tiễn

xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa, Dịch giả Cù Ngọc Hưởng, Viện

Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hà Nội.

103. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 phê

duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn

2010 - 2020, Hà Nội.

161

104. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 về

Phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011- 2020,

Hà Nội.

105. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 795/QĐ-TTg về Phê duyệt tổng

thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2020,

Hà Nội.

106. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 1600/Đ-TTg ngày 16 tháng 8 năm

2016, Quyết định Phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông

thôn mỡi giai đoạn 2016 -2020, Hà Nội.

107. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 1908/QĐ-TTg ngày 17 tháng 10

năm 2016 về việc Ban hành bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng xã nông thôn mới

giai đoạn 2016 - 2020, Hà Nội.

108. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 490/QĐ-TTg ngày 7/5/2018 về

việc Phê duyệt Chương trình Mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2018 - 2020,

Hà Nội.

109. Tổng cục thống kê (2016), Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm

2014, NXB Thống kê, Hà Nội.

110. Tổng cục thống kê (2016), Niên giám thống kê năm 2015, NXB Thống kê,

Hà Nội.

111. Tổng cục thống kê (2016), Kết quả chủ yếu điều tra biến động dân số và kế

hoạch hóa gia đình thời điểm 1/4/ 2015, NXB Thống kê, Hà Nội.

112. Tỉnh ủy Quảng Ninh, Ban chỉ đạo xây dựng Nông thôn mới (2016), Báo cáo

số 01-BC/BCĐ-TU về sơ kết 05 thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây

dựng nông thôn mới tỉnh Quảng Ninh (2010 -2015), Quảng Ninh.

113. Tỉnh ủy Quảng Ninh, Ban chỉ đạo xây dựng Nông thôn mới (2016), Báo cáo số

04 -BC/BCĐ-TU về Kết quả Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn

mới năm 2016; phương hướng nhiệm vụ năm 2017, Quảng Ninh.

114. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Ban Xây dựng nông thôn mới (2017), Báo

cáo số 418/BC-BXDNTM về Kết quả triển khai thực hiện Chương trình mục

tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ 6 tháng

cuối năm 2017, Quảng Ninh.

162

115. Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Ban Chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (2016),

Báo cáo số 1969/BC-BCĐ về Tổng kết thực hiện chương trình mục tiêu quốc

gia về xây dựng nông thôn mới tỉnh Hải Dương giai đoạn 2011-2015,

Hải Dương.

116. Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương (2016), Mẫu biểu số 05/TK, Kết quả huy

động và thực hiện nguồn lực đầu tư thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia

xây dựng nông thôn mới tỉnh Hải Dương, giai đoạn 2011 - 2015 (Kèm theo

công văn số 12/BCĐTW-VPĐP ngày 11 tháng 8 năm 2015 của Bam Chỉ đạo

Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới),

Hải Dương.

117. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2016), Báo cáo số 44/BC-SNNPTNT về Kết

quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm

2015, nhiệm vụ và giải pháp năm 2016, Thái Bình.

118. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2017), Báo cáo số 48/BC-UBND về Kết quả

thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm 2016,

nhiệm vụ và giải pháp năm 2017, Thái Bình.

119. Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định (2016), Báo cáo số 23/BC-UBND về Tổng

kết 5 năm thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 -

2015; phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2016 -2020, Nam Định.

120. Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định, Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, Báo

cáo số 42/BC-SNN về sơ kết thực hiện Nghị quyết 04-NQ/TU của Tỉnh ủy và

Kế hoạch số 52/KH-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh về xây dựng nông thôn

mới giai đoạn 2016 -2020, Nam Định.

121. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, Ban Chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia

xây dựng nông thôn mới (2015), Báo cáo số 68/BC-UBND về Tổng kết thực

hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tỉnh Vĩnh Phúc

giai đoạn 2011 -2015, Vĩnh Phúc.

122. Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình, Ban chỉ đạo thực hiện các chương trình mục

tiêu quốc gia (2018), Báo cáo số 04/BC-BCĐ ngày 11 tháng 01 năm 2018 về

Báo cáo tổng kết công tác thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây

dựng nông thôn mới năm 2017, Phương hướng, nhiệm vụ năm 2018,

Ninh Bình.

163

123. Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên, Ban chỉ đạo thực hiện các chương trình mục

tiêu quốc gia (2017), Báo cáo số 01/BC-BCĐ ngày 03 tháng 02 năm 2017 về

Báo cáo tổng kết công tác thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây

dựng nông thôn mới năm 2016, Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm

năm 2017, Hưng Yên.

124. Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên, Ban chỉ đạo thực hiện các chương trình mục

tiêu quốc gia (2018), Báo cáo số 04/BC-BCĐ ngày 16 tháng 01 năm 2018 về

Báo cáo tổng kết công tác thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây

dựng nông thôn mới năm 2017, Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm

năm 2018, Hưng Yên.

125. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2017), Báo cáo số 109/ BC- UBND, ngày 29

tháng 11 năm 2017, Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc

gia xây dựng nông thôn mới đến năm 2017, phương hướng, mục tiêu, nhiệm

vụ và giải pháp trọng tâm xây dựng nông thôn mới giái đoạn 2018 -2020,

Thái Bình.

126. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc (2017), Báo cáo số 231/BC- UBND, ngày 23

tháng 8 năm 2017, Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia

về xây dựng nông thôn mới 6 tháng đầu năm 2017, Vĩnh Phúc.

127. Nguyễn Thị Tố Uyên (2012), Các tỉnh ủy vùng đồng bằng sông Hồng đẩy

nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn giai đoạn hiện

nay, Luận án tiến sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

128. Lê Ngọc Văn (2004), Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với gia đình Việt

Nam hiện nay, Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em, Hà Nội.

129. Lê Ngọc Văn (2012), Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, NXB Khoa

học xã hội, Hà Nội.

130. Khúc Thị Thanh Vân (2012), Vai trò của vốn xã hội trong phát triển kinh tế hộ

gia đình ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay - Nghiên cứu trường hợp

tại Nam Định và Bắc Ninh, Luận án tiến sĩ xã hội học, Học viện Khoa học xã

hội, Hà Nội.

164

131. Khúc Thị Thanh Vân (2013), Tác động của vốn xã hội đến nông dân trong

quá trình phát triển bền vững nông thôn vùng đồng bằng bắc bộ (2010-2020),

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

132. Đỗ Đức Viêm (2014), Quy hoạch xây dựng nông thôn mới, NXB Chính trị

quốc gia, NXB Xây dựng, Hà Nội.

133. Viện Xã hội học, Viện Hàn Lâm khoa học xã hội Việt Nam (2017), Hội thảo

Giới thiệu một số kết quả nghiên cứu về xã hội học nông thôn ở Nhật Bản và

dự kiến nghiên cứu xã hội học nông thôn ở Việt Nam, Hà Nội.

134. Viện Chính sách và phát triển nông nghiệp, nông thôn, Trung tâm phát triển

nông thôn, Dự án MISPA, Dịch giả Cù Ngọc Hưởng (2016), Lý luận và thực

tiễn xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa, Hà Nội.

135. Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương, Viện Chính sách và chiến lược

phát triển nông nghiệp nông thôn, Viện Khoa học Lao động và xã hội, Nhóm

nghiên cứu Kinh tế Phát triển, Đặc điểm kinh tế nông thôn Việt Nam, kết quả

điều tra hộ gia đình nông thôn năm 2008 tại 12 tỉnh (2014), NXB Hồng Đức,

Hà Nội.

136. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Bộ Giáo dục và

Đào tạo, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa - thông

tin, Hà Nội.

165

PHỤ LỤC

Phụ lục 1.1

Mã số phiếu:

PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC

Thưa Quý Ông, Bà !

Để có cơ sở thực tiễn phục vụ nghiên cứu đề tài: “Phát huy vai trò của gia

đình vùng đồng bằng sông Hồng trong xây dựng nông thôn mới bền vững hiện

nay”, Chúng tôi tiến hành khảo sát lấy ý kiến về nhận thức và tình hình thực tế đóng

góp của gia đình trong xây dựng nông thôn mới ở một số tỉnh trên địa bàn đồng

bằng sông Hồng.

Chúng tôi rất mong ông, bà dành thời gian để trả lời phiếu điều tra bằng cách

khoanh tròn hoặc đánh dấu X vào đáp án lựa chọn. Những thông tin của ông/bà sẽ

góp phần hữu ích cho việc hoàn thiện, bổ sung chính sách của Nhà nước trong phát

triển nông nghiệp, nông thôn, những thông tin này chỉ sử dụng cho mục đích nghiên

cứu khoa học và không nhằm mục đích gì khác.

Rất mong nhận được sự hợp tác của ông, bà.

Xin trân trọng cảm ơn!

Giám sát viên (Ký và ghi rõ họ tên) Ngày…...tháng….. năm 20… Điều tra viên (Ký và ghi rõ họ tên)

…………………………….. ……………………….

166

PHẦN 1: THÔNG TIN CÁ NHÂN

1. Tỉnh: ...............................Huyện:…………………… Xã:…………. ………..

2. Nghề nghiệp:…………………………………………………...................

3. Năm sinh:……………………………. Nam/ Nữ:…………………………

4. Dân tộc:………………………………Tôn giáo:…………………………..

5. Học vấn: …………………………………………………………………...

6. Ông/ bà là Đảng viên không? a. Đảng viên b. Không

PHẦN 2: NỘI DUNG CHÍNH

Câu 1: Ông/ bà có biết về “Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng

nông thôn mới” không?

1. Biết (chuyển câu 2) 2. Không biết (chuyển câu 3)

Câu 2. Ông/ bà biết từ nguồn thông tin nào sau đây?

(lựa chọn 2 phương án)

1. Báo, đài, tivi,…

2. Cán bộ địa phương giới thiệu

3. Những buổi họp của các tổ chức xã hội, chính quyền

4. Các khẩu hiệu, bảng tin

5. Người thân, hàng xóm

6. Khác:……………………………………………………………………

Câu 3. Theo Ông/ bà những tổ chức nào tham gia vào xây dựng NTM?

(có thể chọn nhiều phương án)

1. Đảng, Nhà nước 4. Doanh nghiệp

2. Chính quyền địa phương 5. Người dân

3. Tổ chức xã hội 6. Gia đình

Câu 4. Theo Ông/bà gia đình có vai trò như thế nào trong xây dựng NTM ?

1. Rất quan trọng

2. Quan trọng

3. Bình thường

4. Không có vai trò

167

Câu 5. Ông/ bà cho biết những đóng góp của gia đình mình cho việc xây

dựng các hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội ở địa phương mình như sau:

(có thể chọn nhiều phương án)

Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội

Hiến tặng đất đai

Chưa đóng góp

Ủng hộ tiền mặt

Ủng hộ hiện vật

Đóng góp công lao động

Tham gia giữ gìn, sửa chữa, tu bổ

Hạ tầng giao thông (Đường làng, ngõ xóm, đường giao thông thôn, xóm; giao thông nội đồng,...) Hạ tầng thủy lợi (Hồ tưới, trạm bơm, kênh mương, tiêu thoát nước, giữ môi trường nước,...) Hạ tầng điện (Đường dây điện,trạm biến áp,...) Hạ tầng giáo dục và đào tạo (Trường, lớp học, trang thiết bị dạy và học,...) Hạ tầng cơ sở vật chất văn hóa, thể thao, du lịch (Nhà văn hóa, sân vận động, khu tham quan, di tích,nghỉ dưỡng,…) Hạ tầng thương mại nông thôn (Chợ nông thôn hoặc nơi mua bán, trao đổi hàng hóa) Hạ tầng thông tin hoặc truyền thông (Bưu chính, viễn thông, internet, đài truyền thanh, hệ thống loa, ứng dụng công nghệ thông tin) Hạ tầng y tế (Trạm xá, bệnh viện, trang thiết bị y tế,...) Hạ tầng trụ sở, nhà ở dân cư (trụ sở công vụ, nhà ở gia đình...)

168

Câu 6. Gia đình ông/ bà thường bán sản phẩm lao động của mình cho:

1. Nhà nước

2. Tư thương

3. Hợp tác xã mua bán

4. Tự tổ chức tiêu thụ sản phẩm

Câu 7. Ông/ bà có biết đến mô hình “Sản xuất nông nghiệp ứng dụng

công nghệ cao” không?

1. Biết và đang ứng dụng (chuyển câu 8)

2. Biết nhưng chưa ứng dụng (chuyển câu 9)

3. Không biết (chuyển câu 9)

4. Chưa từng nghe tới (chuyển câu 9)

Câu 8. Gia đình ông/ bà áp dụng những hình thức “Sản xuất nông nghiệp

ứng dụng công nghệ cao” dưới đây như thế nào?

Thường

Thỉnh

Không

Hình thức

Ít khi

xuyên

thoảng

thực hiện

Cơ giới hóa các khâu trong quá

trình sản xuất (làm đất, gieo trồng,

thu hoạch, phun thuốc, bón phân,

tưới nước,...)

Tự động hóa

Sử dụng công nghệ vật liệu mới

Công nghệ sinh học và các giống

cây trồng

Giống vật nuôi, cây trồng có năng

suất và chất lượng cao

Canh tác hữu cơ

(Thường xuyên: vụ/năm nào cũng áp dụng

Thỉnh thoảng: Đã sử dụng nhưng có vụ/ năm không áp dụng

Ít khi: Mới áp dụng 1 - 2 lần)

169

Câu 9. Ông/ bà hãy đánh giá như thế nào về các vấn đề sau khi áp dụng

mô hình “Sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao” ở gia đình mình?

Vấn đề

Rất

Khá

Thuận

Khó

Rất

thuận lợi

thuận lợi

lợi

khăn

khó khăn

Vốn đầu tư

Diện tích đất đai

Nguồn lao động

Cơ sở hạ tầng

Cách thức sản xuất

Thị trường tiêu thụ sản phẩm

Câu 10. Gia đình ông/ bà co vay vốn để sản xuất không?

1. Có (chuyển câu 11) 2. Không (chuyển câu 12)

Câu 11. Nếu có thì vay từ nguồn nào?

1. Ngân hàng

2. Qũy tín dụng

3. Bạn bè, người thân

4. Vốn nước ngoàii

5. Nguồn khác.................................................................................

Câu 12. Ông/ bà thấy tình hình vay vốn:

1. Rất thuận lợi

2. Khá thuận lợi

3. Thuận lợi

4. Khó khăn

5. Rất khó khăn

Câu 13. Nếu nhận được sự trợ giúp về vốn, ông / bà có sẵn sàng chuyển

đổi hình thức sản xuất không?

1. Có 2. Không

170

Câu 14. Ông/ bà cho biết con cái mình trong độ tuổi lao động đang làm

việc ở đâu ?

(Độ tuổi lao động là 15 - 60 tuổi đối với nam và 15 - 55 tuổi đối với nữ)

Nơi làm việc

Nam

Nữ

1. Cơ quan nhà nước

2. Khu công nghiệp

3. Doanh nghiệp tư nhân

4. Sản xuất tại nhà

5. Lao động ở nước ngoài

6. Chưa có việc làm

Câu 15. Nghề nghiệp chính của hộ gia đình ông/ bà là gì?

1. Sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi)

2. Tiểu thủ công nghiệp

3. Buôn bán, dịch vụ

4. Nghề truyền thống

5. Nghề khác:......................................................................................

Câu 16. Thu nhập bình quân đầu người của gia đình ông/ bà trong thời

gian qua như thế nào?

Đơn vị: VN đồng

Thu nhập bình quân/người/năm

Từ năm 2005 đến 2010

Từ năm 2010 đến nay

a. Trên 50 triệu

b. Từ 30 triệu đến dưới 50 triệu

c. Từ 20 triệu đến dưới 30 triệu

d. Từ 10 triệu đến dưới 20 triệu

e. Từ 1 triệu đến dưới 10 triệu

171

Câu 17. Gia đình ông/ bà đã tham gia vào các hoạt động văn hóa dưới đây

như thế nào?

Thường

Thỉnh

Không

Hoạt động văn hóa

Ít khi

xuyên

thoảng

tham gia

Xây dựng gia đình văn hóa

Lễ hội truyền thống

Giữ gìn phong tục, tập quán, hương ước

Văn nghệ quần chúng

Thực hiện nếp sống văn minh trong lễ

cưới, lễ tang, lễ hội

Phong trào thi đua, hội họp, sinh hoạt

cộng đồng

Bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa, di

tích lịch sử

(Thường xuyên: Tham gia tất cả các hoạt động do chính quyền tổ chức trong năm

Thỉnh thoảng: Có 1- 2 hoạt động không tham gia

Ít khi: Chỉ tham gia 1 lần trong năm)

Câu 18. Ông/ bà cho biết, vai trò của gia đình trong giáo dục con cái như

thế nào theo những nội dung dưới đây?

Rất

Không

Nội dung

Quan trọng

quan trọng

quan trọng

Phẩm chất đạo đức, nhân cách lối sống

Truyền thống, văn hóa dân tộc

Nền nếp sinh hoạt, truyền thống gia đình

Đường lối, chính sách của Đảng

Pháp luật của Nhà nước, quy định địa phương

Kiến thức giáo dục phổ thông

Định hướng học tập, nghề nghiệp

172

Câu 19. Ông/ bà dành thời gian mấy giờ 1 ngày để dạy con cái học tập?

4. 1 giờ/ ngày 1. 4 giờ/ ngày

5. Không dạy ở nhà 2. 3 giờ/ ngày

3. 2 giờ/ ngày

Câu 20. Ông/ bà đã đầu tư những gì cho con cái học tập?

1. Học phí hàng tháng

2. Sách, vở

3. Cho học thêm các lớp bồi dưỡng (tin học, tiếng anh,...)

4. Trang thiết bị (như máy tính, laptop,...)

5. Không đầu tư gì

Câu 21. Ông/ bà sẽ cho con cái mình học đến trình độ học vấn nào?

Trình độ học vấn

Con trai

Con gái

Cấp II trở xuống

Cấp III

Cao đẳng, đại học

Sau đại học

Câu 22. Ông/ bà muốn cho con cái mình làm nghề gì?

Nghề nghiệp

Con trai

Con gái

Nông nghiệp

Tiểu thủ công nghiệp

Buôn bán - Dịch vụ

Cán bộ nhà nước

Cán bộ quản lý

Miễn là có thu nhập cao

Tùy các cháu

Nghề khác (ghi rõ)

173

Câu 23. Gia đình ông/ bà tham gia các dịch vụ y tế dưới đây như

thế nào?

Thường

Thỉnh

Không

Dịch vụ y tế

Hiếm khi

xuyên

thoảng

tham gia

Khám, chữa bệnh theo bảo hiểm

Khám, chữa bệnh theo yêu cầu

Tiêm chủng

Phòng, chống bệnh tật

Chăm sóc, phục hồi sức khỏe

(Thường xuyên: 1 tháng 1 lần

Thỉnh thoảng: 3 tháng/ 1 lần

Ít khi: 1 - 2 năm / lần)

Câu 24. Gia đình ông/bà thực hiện các công tác bảo vệ môi trường trong

nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới nào dưới đây?

Không

Thu gom, xử lý nước thải chăn nuôi bằng hầm biogas, hố ga lắng

cặn, ao sinh hoạt....

Thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt bằng bể tự hoại, hố ga lắng cặn

Thu gom, phân loại rác thải ngay tại hộ gia đình

Chôn lấp hợp vệ sinh các loại rác hữu cơ có thể phân hủy tại

khuôn viên hộ gia đình

Thực hiện chôn cất người mất tại khu nghĩa trang địa phương hợp

vệ sinh

Cải tạo, xây dựng hệ thống ao, hồ theo quy định

Nạo vét, tu bổ ao, hồ thường xuyên, tạo không gian, cảnh quan

sinh thái và điều hòa môi trường

Cải tạo, xây dựng hệ thống cây xanh theo quy hoạch

Trồng và khai thác các sản phầm cây xanh hàng năm

Không chặt phá, khai thác, sử dụng cây xanh trái quy định

174

Câu 25. Các thành viên trong gia đình ông/ bà tham gia các hoạt động sau

như thế nào?

Ít khi

Thường xuyên

Thỉnh thoảng

Không tham gia

Hoạt động xây dựng hệ thống chính trị - xã hội Góp ý, xây dựng kế hoạch, chương trình, quy định,... của địa phương Động viên các thành viên trong gia đình phát triển công tác Đảng, kết nạp Đảng Sinh hoạt Đảng Góp ý, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở địa phương Các buổi họp thôn, xóm,... Đóng góp ý kiến vào các buổi họp thôn, xóm,.. Các mô hình tự quản Tham gia hoạt động của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Tham gia hoạt động của hội Nông dân Tham gia hoạt động của hội Phụ nữ Tham gia hoạt động của hội Cựu chiến binh

Câu 26. Gia đình ông/ bà thực hiện các công tác góp phần giữ vững an ninh,

trật tự - xã hội ở địa phương như thế nào?

Hoạt động giữ vững an ninh, trật tự - xã hội ở nông thôn

Ít khi

Thỉnh thoảng

Thường xuyên

Không thực hiện

Phong trào “Toàn dân bảo vệ An ninh Tổ quốc” Phòng, chống tệ nạn xã hội (Ma túy, nghiện hút, trộm cắp, cờ bạc, mại dâm) Tìm hiểu hệ thống pháp luật Tham gia phòng ngừa tội phạm Phát hiện, đấu tranh, tố giác tội phạm Phòng, chống bạo lực gia đình Đảm bảo an toàn giao thông Khiếu kiện, tụ tập đông người Ttruyền đạo trái phép

Xin cảm ơn Ông/ Bà !

175

Phụ lục 1.2

KẾT QUẢ ĐIỀU TRA DƯ LUẬN XÃ HỘI

ĐỐI VỚI CHỦ THỂ GIÁO DỤC

- Số phiếu phát ra là 300 phiếu, trong đó mỗi tỉnh có số phiếu điều tra

như sau:

+ Vĩnh Phúc: 50 phiếu

+ Quảng Ninh: 50 phiếu

+ Thái Bình: 50 phiếu

+ Nam Định: 50 phiếu

+ Huyện Đan Phượng, huyện Chương Mỹ (Hà Nội): 50 phiếu

+ Hải Dương: 50 phiếu

- Số phiếu thu về 300, các phiếu hợp lệ: 300 phiếu

Bảng 1: Tổng hợp thông tin cá nhân của chủ thể giáo dục được trưng

cầu ý kiến

STT

Thông tin cá nhân

Số lượng

Tỷ lệ

Thái Bình

50

16,7%

Nam Định

50

16,7%

Hải Dương

50

16,7%

Tỉnh

1

Hà Nội

50

16,7%

Vĩnh Phúc

50

16,7%

Nam

184

61,3%

Giới tính

2

Nữ

116

38,7%

31-39

67

22,3%

40 - 49

193

64, 3%

Tuổi

3

50 trở lên

40

13,3%

Kinh

234

78%

Dân tộc

3

Dân tộc khác

66

22%

61

20,3%

4

Đảng viên

176

Bảng 2: Tổng hợp ý kiến người dân biết về “Chương trình Mục tiêu quốc

gia về xây dựng nông thôn mới”

Ý kiến

Số lượng

Tỷ lệ

286

Biết

95.3 %

14

Không biết

4.7 %

Bảng 3: Tổng hợp ý kiến nguồn thông tin để người dân biết đến “Chương

trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM”

Nguồn thông tin

Số lượng

Tỷ lệ

Báo, đài, tivi,…

202

70,6 %

Cán bộ địa phương giới thiệu

163

57 %

Những buổi họp của các tổ

164

57,3 %

chức xã hội, chính quyền

Các khẩu hiệu, bảng tin

127

44,4 %

Người thân, hàng xóm

69

24,1 %

Bảng 4: Tổng hợp ý kiến đánh giá của gia đình vùng ĐBSH về những tổ

chức tham gia vào xây dựng NTM?

Tỷ lệ

Các tổ chức

Số lượng (phiếu)

Đảng, Nhà nước

185

61,7 %

Chính quyền địa phương

234

78 %

Tổ chức xã hội

84

28 %

Doanh nghiệp

68

22,7 %

Người dân

218

72,7 %

Gia đình

181

60,3 %

Bảng 5: Tổng hợp ý kiến đánh giá của người dân về vai trò của gia đình

trong xây dựng NTM ?

Vai trò

Số lượng (phiếu)

Tỷ lệ

Quan trọng

130

43.3 %

Rất quan trọng

149

49.7 %

Không trả lời

21

7 %

177

Bảng 6: Tổng hợp ý kiến cho biết những đóng góp của gia đình vùng

ĐBSH cho việc xây dựng các hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội ở địa phương.

(có thể chọn nhiều phương án)

Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội

Hiến tặng đất đai

Ủng hộ tiền mặt

Chưa đóng góp

Ủng hộ hiện vật

Đóng góp công lao động

Tham gia giữ gìn, sửa chữa, tu bổ

30,7 %

38 %

0%

55 %

67 %

2,7 %

12,7 %

36 %

0%

52,3 %

44 %

5 %

2,7 % 37,7 %

5 %

5 %

17,7 % 39,3 %

2,7 %

64,7%

10 % 12,7 %

5 %

19,7 %

5 %

40,7%

5 %

57,3 % 32,3 %

9,7 %

5,3 % 14,7 % 2,7 % 17,7 % 14,7 % 27,7 %

0 %

17,7 % 7,7 %

7,7 %

27,7 % 54,3 %

0 %

25 %

5 %

8 %

17,3 % 67,3 %

0 %

35 %

5 %

17 %

30,7 % 44,7 %

Hạ tầng giao thông (Đường làng, ngõ xóm, đường giao thông thôn, xóm; giao thông nội đồng,...) Hạ tầng thủy lợi (Hồ tưới, trạm bơm, kênh mương, tiêu thoát nước, giữ môi trường nước,...) Hạ tầng điện (Đường dây điện,trạm biến áp,...) Hạ tầng giáo dục và đào tạo (Trường, lớp học, trang thiết bị dạy và học,...) Hạ tầng cơ sở vật chất văn hóa, thể thao, du lịch (Nhà văn hóa, sân vận động, khu tham quan, di tích,nghỉ dưỡng,…) Hạ tầng thương mại nông thôn (Chợ nông thôn hoặc nơi mua bán, trao đổi hàng hóa) Hạ tầng thông tin hoặc truyền thông (Bưu chính, viễn thông, internet, đài truyền thanh, hệ thống loa, ứng dụng công nghệ thông tin) Hạ tầng y tế (Trạm xá, bệnh viện, trang thiết bị y tế,...) Hạ tầng trụ sở, nhà ở dân cư (trụ sở công vụ, nhà ở gia đình...)

178

Bảng 7: Tổng hợp ý kiến tỷ lệ gia đình vùng ĐBSH thường bán sản phẩm

lao động của mình cho:

Nơi tiêu thụ sản phẩm

Tỷ lệ

Nhà nước

20 %

Tư thương

61,7 %

Hợp tác xã mua bán

5 %

Tự tổ chức tiêu thụ sản phẩm

23 %

Bảng 8. Tổng hợp ý kiến gia đình biết đến mô hình“Sản xuất nông

nghiệp ứng dụng công nghệ cao”

Nơi tiêu thụ sản phẩm

Số lượng

Tỷ lệ

Biết và đang ứng dụng

45

15 %

Biết nhưng chưa ứng dụng

167

55,7%

Không biết

88

29,3%

Chưa từng nghe tới

0

0 %

Bảng 9. Tổng hợp ý kiến gia đình đã áp dụng những hình thức “Sản xuất

nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao”

Hình thức

Ít khi

Không trả lời

Thường xuyên

Thỉnh thoảng

Không thực hiện

11,3 %

3,7 %

0 %

0 %

0 %

7 % 11,7 %

65,3 % 1,3 %

2,7 % 0 %

0 % 2 %

0 % 0 %

13 %

2 %

0 %

0 %

0 %

14 %

1 %

0 %

0 %

0 %

Cơ giới hóa các khâu trong quá trình sản xuất (làm đất, gieo trồng, thu hoạch, phun thuốc, bón phân, tưới nước,...) Tự động hóa Sử dụng công nghệ vật liệu mới Công nghệ sinh học và các giống cây trồng Giống vật nuôi, cây trồng có năng suất và chất lượng cao Canh tác hữu cơ

2 %

9 %

0 %

4 %

0 %

(Thường xuyên: vụ/năm nào cũng áp dụng

Thỉnh thoảng: Đã sử dụng nhưng có vụ/ năm không áp dụng

Ít khi: Mới áp dụng 1 - 2 lần)

179

Bảng 10. Tỷ lệ tổng hợp ý kiến gia đình đánh giá điều kiện áp dụng mô hình

“Sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao” ở gia đình

Vấn đề

Rất

Khá

Thuận

Khó

Rất

thuận lợi

thuận lợi

lợi

khăn

khó khăn

40 %

11,7 %

5 %

19,7 %

19 %

Vốn đầu tư

5 %

0 %

17 %

30,7 %

42,3 %

Diện tích đất đai

5 %

5 %

15 %

43,3 %

26,7 %

Nguồn lao động

7,7 %

0 %

12,7 %

15,7 %

59

Cơ sở hạ tầng

7,3 %

0 %

21,3 %

51,3 %

15 %

Cách thức sản xuất

0 %

10 %

Thị trường tiêu thụ sản phẩm

19,7 %

53,3 %

7 %

Bảng 11. Tổng hợp ý kiến gia đình có vay vốn để sản xuất

Vay vốn

Số lượng

Tỷ lệ

97

32,3 %

Không

203

67,7 %

Bảng 12. Tổng hợp ý kiến nguồn mà các gia đình vay vốn

Nguồn vay vốn

Số lượng

Tỷ lệ

Ngân hàng

63

21 %

Qũy tín dụng

50

16,7 %

Bạn bè, người thân

50

16,7 %

Vốn nước ngoài

97

32,3 %

Nguồn khác

97

32,3 %

Bảng 13. Tổng hợp ý kiến đánh giá của gia đình về tình hình vay vốn:

Tỷ lệ

Tình hình vay vốn

Số lượng

Rất thuận lợi

30

10 %

Khá thuận lợi

120

40 %

Thuận lợi

45

15 %

Khó khăn

105

35 %

Rất khó khăn

0

0 %

180

Bảng 14. Tổng hợp ý kiến của gia đình về sẵn sàng chuyển đổi hình thức sản

xuất

Số lượng

Tỷ lệ

98

32,3 %

Không

202

67,3 %

Bảng 15. Tổng hợp ý kiến của gia đình cho biết nơi làm việc của con cái

(Độ tuổi lao động là 15 - 60 tuổi đối với nam và 15 - 55 tuổi đối với nữ)

Nơi làm việc

Nam

Nữ

7. Cơ quan nhà nước

24 %

10 %

8. Khu công nghiệp

27,3 %

17,7 %

9. Doanh nghiệp tư nhân

22,3 %

5,0 %

10. Sản xuất tại nhà

3,0 %

7,7 %

11. Lao động ở nước ngoài

0 %

0 %

12. Chưa có việc làm

21 %

20 %

Bảng 16. Tổng hợp ý kiến của gia đình cho biết thu nhập bình quân đầu

người của gia đình trong thời gian qua

Từ năm 2005 đến

Từ năm 2010 đến

Thu nhập bình quân/người/năm

2010

nay

f. Trên 50 triệu

4,7 %

12,3 %

g. Từ 30 triệu đến dưới 50 triệu

7,7 %

27,7 %

h. Từ 20 triệu đến dưới 30 triệu

1,7 %

23 %

i. Từ 10 triệu đến dưới 20 triệu

28,3 %

32 %

j. Từ 1 triệu đến dưới 10 triệu

41,7 %

5,0 %

181

Bảng 17. Tổng hợp ý kiến đánh giá của gia đình về mức độ tham gia vào

các hoạt động văn hóa

Thường

Thỉnh

Không

Hoạt động văn hóa

Ít khi

xuyên

thoảng

tham gia

Xây dựng gia đình văn hóa

71 %

23,7 %

5,3 %

0 %

Lễ hội truyền thống

17,7 %

74,3 %

8,0 %

0 %

7,0 %

2,7 %

Giữ gìn phong tục, tập quán, hương ước

43,7 %

46,7 %

8,0 %

Văn nghệ quần chúng

21,7 %

44,7 %

25,7 %

Thực hiện nếp sống văn minh trong lễ

62,7 %

34,7 %

2,7 %

0 %

cưới, lễ tang, lễ hội

Phong trào thi đua, hội họp, sinh hoạt

20 %

60 %

20 %

0 %

cộng đồng

Bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa, di

34,7 %

50,7 %

9,7 %

5,0 %

tích lịch sử

(Thường xuyên: Tham gia tất cả các hoạt động do chính quyền tổ chức trong năm

Thỉnh thoảng: Có 1- 2 hoạt động không tham gia

Ít khi: Chỉ tham gia 1 lần trong năm)

Bảng 18. Tổng hợp ý kiến gia đình đánh giá về vai trò của gia đình trong

giáo dục con cái

Rất

Không

Nội dung

Quan trọng

quan trọng

quan trọng

Phẩm chất đạo đức, nhân cách lối sống

74,3%

25,7 %

0 %

Truyền thống, văn hóa dân tộc

80,3 %

19,7 %

0 %

Nền nếp sinh hoạt, truyền thống gia đình

75,3 %

24,7 %

0 %

Đường lối, chính sách của Đảng

37,3 %

43,7 %

19 %

Pháp luật của Nhà nước, quy định địa

32 %

48,7 %

19,3 %

phương

Kiến thức giáo dục phổ thông

25 %

63 %

12 %

Định hướng học tập, nghề nghiệp

25 %

65 %

10 %

182

Bảng 19. Tổng hợp ý kiến của gia đình về thời gian dành để dạy con học

tập trong một ngày

Tỷ lệ

Thời gian

Số lượng

4 giờ/ ngày

0

0 %

3 giờ/ ngày

37

12,3 %

2 giờ/ ngày

74

24,7 %

1 giờ/ ngày

39

13 %

Không dạy ở nhà

150

50 %

Bảng 20. Tổng hợp ý kiến các gia đình về những khoản đã đầu tư cho con

cái học tập

Thời gian

Số lượng

Tỷ lệ

Học phí hàng tháng

284

94,7 %

Sách, vở

277

92,3 %

Cho học thêm các lớp bồi dưỡng

65 %

195

(tin học, tiếng anh,...)

Trang thiết bị (như máy tính,

64,7 %

194

laptop,...)

Không đầu tư gì

8

2,7 %

Bảng 21. Tổng hợp ý kiến các gia đình về trình độ học vấn sẽ cho con cái

theo học

Con gái

Trình độ học vấn

Con trai

Cấp II trở xuống

4,7 %

0 %

Cấp III

10 %

12 %

Cao đẳng, đại học

58 %

55,7 %

Sau đại học

17 %

19,7 %

183

Bảng 22. Tổng hợp ý kiến các gia đình về nghề nghiệp mong muốn của con cái

Nghề nghiệp

Con trai

Con gái

4,7 %

Nông nghiệp

0 %

2,7 %

Tiểu thủ công nghiệp

10 %

0 %

Buôn bán - Dịch vụ

0 %

47 %

Cán bộ nhà nước

40,7 %

8 %

Cán bộ quản lý

12,3 %

5,3 %

Miễn là có thu nhập cao

0 %

22,3 %

Tùy các cháu

23,3 %

10 %

Nghề khác (ghi rõ)

0 %

Bảng 23. Tổng hợp ý kiến các gia đình về mức độ tham gia các dịch vụ y tế

Thường

Thỉnh

Không

Dịch vụ y tế

Hiếm khi

xuyên

thoảng

tham gia

Khám, chữa bệnh theo bảo hiểm

32 %

57 %

5,3 %

5,7 %

Khám, chữa bệnh theo yêu cầu

7,7 %

58 %

31,7 %

2,7 %

Tiêm chủng

25 %

62,7 %

9,7 %

2,7 %

Phòng, chống bệnh tật

27 %

60,7 %

2,7 %

9,7 %

Chăm sóc, phục hồi sức khỏe

10 %

50,7 %

22 %

17,3 %

(Thường xuyên: 1 tháng 1 lần

Thỉnh thoảng: 3 tháng/ 1 lần

Ít khi: 1 - 2 năm / lần)

184

Bảng 24. Tổng hợp ý kiến các gia đình về việc thực hiện các công tác bảo

vệ môi trường trong nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới

Có thực hiện

57 %

80 % 27,3 %

29,7 %

88,3 %

37,7 %

56,7 %

48,3 % 67,3 % 92,3 %

Ít khi

Thường xuyên

Thỉnh thoảng

Không tham gia

22,7 %

50,3 %

7,0 %

20 %

45,7 %

19,7 %

7,7 %

27 %

19,7 %

12,7 %

2,7 %

65 %

40,7 %

27,3 %

20 %

12 %

32,7 %

67,3 %

0 %

0 %

32,3 %

19,7 %

48 %

0 %

64,3 %

7,7 %

8,0 %

20 %

19,7 %

25,3 %

25,7 %

29,3 %

15,7 % 17 %

14,7 % 5,7 %

18 % 27,7 %

51,7 % 49,7 %

72,3 %

12,3 %

5,3 %

10 %

Thu gom, xử lý nước thải chăn nuôi bằng hầm biogas, hố ga lắng cặn, ao sinh hoạt.... Thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt bằng bể tự hoại, hố ga lắng cặn; Thu gom, phân loại rác thải ngay tại hộ gia đình; Chôn lấp hợp vệ sinh các loại rác hữu cơ có thể phân hủy tại khuôn viên hộ gia đình Thực hiện chôn cất người mất tại khu nghĩa trang địa phương hợp vệ sinh; Cải tạo, xây dựng hệ thống ao, hồ theo quy định; Nạo vét, tu bổ ao, hồ thường xuyên, tạo không gian, cảnh quan sinh thái và điều hòa môi trường Cải tạo, xây dựng hệ thống cây xanh theo quy hoạch Trồng và khai thác các sản phầm cây xanh hàng năm Không chặt phá, khai thác, sử dụng cây xanh trái quy định Bảng 25. Tổng hợp ý kiến mức độ tham gia của các gia đình vào các hoạt động xây dựng hệ thống chính trị - xã hội Hoạt động xây dựng hệ thống chính trị - xã hội Góp ý, xây dựng kế hoạch, chương trình, quy định,... của địa phương Động viên các thành viên trong gia đình phát triển công tác Đảng, kết nạp Đảng Sinh hoạt Đảng Góp ý, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở địa phương Các buổi họp thôn, xóm,... Đóng góp ý kiến vào các buổi họp thôn, xóm,.. Các mô hình tự quản Tham gia hoạt động của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Tham gia hoạt động của hội Nông dân Tham gia hoạt động của hội Phụ nữ Tham gia hoạt động của hội Cựu chiến binh

185

Bảng 26. Tổng hợp ý kiến gia đình về mức độ thực hiện các công tác góp

phần giữ vững an ninh, trật tự - xã hội ở địa phương

Không

Hoạt động giữ vững an ninh, trật tự -

Thường

Thỉnh

Ít khi

thực

xã hội ở nông thôn

xuyên

thoảng

hiện

Phong trào “Toàn dân bảo vệ An ninh Tổ

30 %

50 %

20 %

0 %

quốc”

Phòng, chống tệ nạn xã hội

34,3 %

43 %

22,7 %

0 %

(Ma túy, nghiện hút, trộm cắp, cờ bạc, mại

dâm)

Tìm hiểu hệ thống pháp luật

17,7 %

33 %

30 %

12,7 %

Tham gia phòng ngừa tội phạm

36,7 %

34,7 %

28,6 %

0%

Phát hiện, đấu tranh, tố giác tội phạm

19,7 %

39,7 %

36

4,7 %

Phòng, chống bạo lực gia đình

52,7 %

44,7 %

0 %

2,7 %

Đảm bảo an toàn giao thông

66,7 %

30,3 %

0 %

3,0 %

Khiếu kiện, tụ tập đông người

12,7 %

6,7 %

75,7 %

0 %

Ttruyền đạo trái phép

0%

0 %

100 %

0 %

186

Phụ lục 2

BẢNG 2.1. TRÍCH “BIỂU SỐ 1.15. SỐ LỰỢNG VÀ CƠ CẤU HỘ

Ở KHU VỰC NÔNG THÔN QUA 3 KỲ TỔNG ĐIỀU TRA NĂM 2006, NĂM 2011

VÀ NĂM 2016 PHÂN THEO VÙNG”

Số lượng (Hộ)

Cơ cấu (%)

2006

2011

2016

2006

2011

2016

3 842

I. Đồng bằng sông Hồng

3 511

4 003 293 100,00 100,00 100,00

075

157

1. Hộ nông, lâm nghiệp

2 114

1 882

1 431 142

60,50

47,44

35,75

275

682

và thủy sản

2 053

1 749

1.1. Hộ nông nghiệp

1 356 560

58,48

45,54

33,89

400

654

2 763

3 080

1.2. Hộ lâm nghiệp

3 923

0,08

0,08

0,10

1,94

1,82

1,77

1.3. Hộ thủy sản

68 112

69 948

70 659

2. Hộ công nghiệp và

564 910

902 186

1 242 589

16,09

23,48

31,04

xây dựng

2.1. Hộ công nghiệp

403 625

59 2582

915 412

11,50

15,42

22,87

2.2. Hộ xây dựng

161 285

309 605

327 177

4,59

8,06

8,17

3. Hộ dịch vụ

594 750

820 919

900 245

16,94

21,37

22,49

3.1. Hộ thương nghiệp

333 058

376 388

390 463

9,49

9,80

9,76

3.2. Hộ vận tải

60 903

93 880

142 140

1,73

2,44

3,55

3.3. Hộ dịch vụ khác còn

200 789

350 651

367 642

5,72

9,13

9,18

lại

4. Hộ khác

227 140

296,370

429 317

6,47

7,71

10,72

Nguồn: Báo cáo sơ bộ kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm

2016, Ban chỉ đạo tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản trung ương,

NXB Thống kê, Hà Nội, 2016 [7, tr.70].

187

Phụ lục 3

BẢNG 4: CƠ CẤU HỘ NÔNG THÔN TẠI THỜI ĐIỂM 1/7/2016

PHÂN THEO NGUỒN THU NHẬP LỚN NHẤT VÀ ĐỊA PHƯƠNG

Đơn vị tính: %

Phân theo nguồn thu nhập lớn nhất

Hộ có thu

Hộ có thu

Hộ có thu

nhập lớn

nhất từ

Hộ có thu

nhập lớn

nhập lớn

Tỉnh

Tổng số

nhất từ

nhất từ

ngành

nhập lớn

nhất từ

ngành nông,

ngành công

thương

nghiệp, vận

nguồn khác

lâm, thủy

nghiệp, xây

sản

dựng

tải, DV khác

còn lại

Đồng bằng

27,92

35,42

23,95

12,71

100

sông Hồng

Hà Nội

100

22,25

34,68

33,93

9,14

Vĩnh Phúc

100

32,94

35

23,78

8,28

Bắc Ninh

100

16,28

18,45

8,37

56,90

Quảng Ninh

100

17,39

23,14

7,89

51,58

Hải Dương

100

29,81

17,55

16,00

36,64

Hưng Yên

100

30,48

21,78

14,46

33,28

Hải Phòng

100

21,66

25,94

13,21

39,19

Thái Bình

100

30,93

33,52

18,97

16,58

Hà Nam

100

26,27

35,52

20,93

17,28

Nam Định

100

30,88

33,71

21,20

14,21

Ninh Bình

100

30,41

19,95

14,48

35,16

Nguồn: Báo cáo sơ bộ kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm

2016, Ban chỉ đạo tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản trung ương,

NXB Thống kê, Hà Nội, 2016 [7, tr.90].

188

Phụ lục 4

SỐ XÃ ĐẠT VÀ CHƯA ĐẠT CHUẨN NTM TẠI THỜI ĐIỂM 01/2017

Xã đạt chuẩn NTM

Xã chưa đạt chuẩn NTM

Số lượng

Tỷ lệ so với

Số lượng

Tỷ lệ so với

tổng số xã

tổng số xã

(%)

(%)

CẢ NƯỚC

2 060

23,1

6 851

76,9

ĐBSH

754

39,9

1 135

60,1

TDMNPB

217

9,5

2 059

90,5

BTBDHMT

528

21,9

1 885

78,1

Tây Nguyên

91

15,2

509

84,8

ĐNB

213

47,0

240

53,0

ĐBSCL

257

20,1

1 023

79,9

Nguồn: Báo cáo sơ bộ kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm

2016, Ban chỉ đạo tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản trung ương,

NXB Thống kê, Hà Nội, 2016 [7, tr.21].