Gia tri nhan dao moi me qua de tai tri thuc tieu tu san trong Doi thua
lượt xem 18
download
Cùng với bài giảng về nội dung hiện thực và nhân đạo trong các tác phẩm văn học của PGS.TS Lã Nhâm Thìn, Hoc360 cung cấp cho người học một minh chứng cụ thể về sự biểu hiện - đặc biệt là tìm ra những khía cạnh độc đáo mới mẻ trong giá trị nhân đạo của tác phẩm "Đời thừa"
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Gia tri nhan dao moi me qua de tai tri thuc tieu tu san trong Doi thua
- Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ GIÁ TR Ị NHÂN Đ ẠO MỚI MẺ TRONG TÁC PHẨM “ĐỜI THỪA” CỦA NAM CAO Đời thừa là truyện về một nh à văn nghèo b ất đắc dĩ. Đề t ài ấy không thật mới: đương th ời, đã có Mực mài nước mắt (Lan Khai), Nợ văn (Lãng Tử), nhiều trang tuỳ bút của Nguyễn Tuân, nhiều vần th ơ của Tản Đà, Nguyễn Vỹ, Trần Huyền Trân…, hai câu th ơ rất quen thu ộc của Xuân Diệu: “Nỗi đời cơ cực đang gi ơ vuốt – Cơm áo không đùa v ới khách thơ”… Tất cả đều đ ã nói th ấm thía về cảnh ngh èo túng đáng thương c ủa người cầm bút. Đời thừa cũng như một số sáng tác của Nam Cao gần gũi với nó về đề t ài, giọng điệu, tư tưởng: Trăng sáng , Nước mắt , Sống mòn… – đã ghi lại chân thật h ình ảnh buồn thảm của ng ười tri thức tiểu t ư sản ngh èo. Tuy không đ ến nỗi quá đen tối, “tối nh ư mực” lắm khi “đen quánh lại” – chữ dùng của Nguyễn Tuân -, như cu ộc sống của quần chúng lao động thường xuy ên đói rét thê th ảm, nh ưng cu ộc sống của những ng ười “lao động áo trắng”, những “vô sản đeo cổ cồn” đó cũng to àn một màu xám nh ức nhối: “không tối đen mà xam xám nh ờ nhờ” (Xuân Diệu). V ì nghèo túng tri ền miên, vì “ch ết mòn” về tinh thần. Trong b ức tranh chung về cuộc sống ng ười tiểu t ư sản nghèo, Nam Cao đ ã góp vào nh ững nét bút r ất mực chân thật v à sắc sảo, làm cho hình ảnh vừa bi vừa h ài của lớp ng ười này trở nên đầy ám ảnh. Trong m ảng sáng tác về đề t ài tiểu tư sản của Nam Cao, Đời thừa có m ột vị trí đặc biệt. Cũng nh ư tiểu thuyết Sống mòn, Đời thừa là sự tổng hợp của ng òi bút Nam Cao trong đề tài tiểu tư sản, là tác ph ẩm đã thể hiện khá ho àn ch ỉnh tư tưởng nghệ thuật cơ bản của nhà văn. Có đi ều, trong khuôn khổ truyện ngắn, sự tổng hợp ấy không xảy ra tr ên bề rộng mà chủ yếu tập trung đi v ào bề sâu. Giá trị của Đời thừa không ph ải chỉ ở chỗ đ ã miêu t ả chân thật cuộc sống ngh èo kh ổ, bế tắc của ng ười trí thức tiểu t ư sản nghèo, đ ã viết về ng ười tiểu t ư sản không phải với ng òi bút vu ốt ve, thi vị hoá, m à còn vạch ra cả những thói xấu của họ v.v… Cách nói đó dư ờng nh ư xác đáng, song ch ỉ thấy một lớp ý nghĩa, lớp thứ nhất, lớp bên trên của tác phẩm. M à với Nam Cao, cách nh ìn như v ậy thật tai hại, v ì nó “bất cập”, vô tình thu h ẹp và hạ thấp rất nhiều tầm t ư tưởng của truyện. Khác với các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, truyện của Nam Cao thuộc loại có nhiều lớp nghĩa, t ư tưởng truyện không phải luôn trùng khít v ới nội dung cuộc sống đự ơc phản ánh trong truy ện. Trong khi dựng lại chân thật t ình cảnh nhếch nhác của ng ười trí thức nghèo, ngòi bút Nam Cao đã tập trung xoáy sâu v ào tấn bi kịch tinh thần của họ, qua đó, đặt ra một loạt vấn đề có ý nghĩa kh ái quát xã h ội và triết học sâu sắc. Biên tập viên: Trần Hải Tú www.hoc360.vn
- Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ Chuyện Hộ “m ê văn”, có “hoài b ão lớn” về văn ch ương và khao khát tên tu ổi chói sáng, là m ột hiện tượng phổ biến, có ý nghĩa điển h ình. […] Với Đời thừa (sau đó là Sống mòn), Nam Cao đ ã đề cập gần nh ư trực diện tới vấn đ ề cá nhân, nói lên yêu c ầu được khẳng định v à phát triển của cá nhân – vấn đề m à lâu nay, người ta tưởng đâu chỉ đặt ra trong văn học l ãng mạn đương th ời. Quả là chủ đề cá nhân không có trong sáng tác của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, nhưng lại là chu đ ề tâm huyết của Nam Cao. V à niềm khao khát đ ược làm đầy trái tim, khao khát được sống mạnh mẽ, sâu sắc, chói sáng, v ượt lên trên cái b ằng phẳng tầm th ường, sự ghê sợ điệu sống m òn m ỏi, đơn điệu, vô vị…, l à những điều da diết ở tác giả Phấn thông vàng, Kinh cầu nguyện của những kẻ đi l àm, tác gi ả Thiếu qu ê hương , Tuỳ bút (I, II), Chiếc lư đồng mắt cua …, nhưng c ũng chính l à những điều nung nấu ở tác giả Đời thừa, Sống mòn. Chủ đề ấy chính l à một biểu hiện mới mẻ của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam thế kỷ XX này. Có đi ều là, nếu như phần nhiều cái “tôi” trong văn học l ãng mạn trong khi giãy gi ụa “nổi loạn” “chống lại x ã hội thù địch với nó, nó c àng ngày càng khép kín, ch ỉ còn tự thực hiện v à tự “phát triển” trong sự đối lập với x ã hội; th ì ở Nam Cao, y êu cầu khẳng định v à phát tri ển cá nhân luôn gắn liền với trách nhiệm x ã hội, hướng theo lí t ưởng nhân t ạo tiến bộ. Ho ài bão cá nhân mà H ộ say m ê đạt tới để tự khẳng định tr ước cuộc đời là một sự nghiệp văn ch ương, nhưng là th ứ văn ch ương chân chính, mang ti nh thần nhân đạo cao đẹp, “nó ca ngợi t ình th ương, l òng bác ái, s ự công b ình”… Có lẽ trong văn học đ ương th ời, không ai ngo ài Nam Cao đ ã đặt ra vấn đề cá nhân một cách đúng đắn v à tiến bộ nh ư vậy. Nhưng cái x ã hội ấy nếu kích thích sự thức tỉnh ý thức cá nhân thì đồng thời, đ ã đẩy cá nhân vào tình tr ạng bị đ è bẹp. Đó là tất cả tấn bi kịch đang diễn ra ngấm ngầm trong đời sống tinh thần thế hệ 1930 khi đó. “Hoài bão l ớn” mà Hộ quyết đạt tới bằng một ý chí phi thường đã không th ể thực hiện đ ược. Hộ gặp Từ gi ữa lúc ng ười con gái bất hạnh đó đang “đau đ ớn không bờ bến”: bị một g ã Sở Khanh bỏ r ơi với đứa bé mới đẻ… Hộ đ ã “cu ối xuống nỗi đau khổ của Từ (…) mở rộng đôi cánh tay đón lấy Từ”. Tr ước số phận đau khổ của con gnười, anh không c òn có th ể coi “nghệ thuật là tất cả” m à đã hành động nh ư một con ng ười chân chính. Nhưng đi ều đó đ ã gây nên nguy c ơ phá h ỏng sự nghiệp của anh. Từ khi “ghép cuộc đời của Từ v ào cu ộc đời của hắn, hắn có cả một gia đ ình phải chăm lo”. Hộ không thể “khinh nh ững lo lắng tủn mủn về vật chất” nh ư trước đây, m à trái lại, phải ra sức kiếm tiền. Và “những bận rộn tẹp nhẹp, vô nghĩa lí nh ưng không th ể không nghĩ tới, ngốn một phần lớn th ì giờ của hắn”. Nh ưng không ph ải chỉ th ì giờ. Vì phải kiếm tiền – trong điều kiện, khả năng của Hộ, cách ki ếm tiền duy nhất l à sáng tác – Hộ không thể viết thận trọng, nghi êm túc theo yêu c ầu của nghệ thuật chân chính. Anh “ph ải cho in nhiều cuốn văn viết vội v àng (…) ph ải viết những b ài báo đ ể người Biên tập viên: Trần Hải Tú www.hoc360.vn
- Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ ta đọc rồi qu ên ngay sau lúc đ ọc”. Đây l à điều vô cùng đau đ ớn với một ng ười như Hộ. Không ph ải anh không đ ược viết, m à là phải viết thứ văn ch ương mà m ột người có lí t ưởng nghệ thuật cao đẹp, có l ương tâm ngh ề nghiệp, có khát vọng v ươn tới đỉnh cao nghệ thụât như anh, không th ể nào ch ấp nhận đ ược. Thế là, Hộ đã phản bội lại chính m ình. Nhà v ăn chân chính nơi anh c ảm thấy hết sức đau đớn, nhục nh ã chứng kiến g ã “bất lương”, “đê tiện” cũng chính l à anh đang làm th ứ hàng giả: “Chao ôi! Hắn đ ã viết những g ì? Toàn nh ững cái vô v ị, nhạt nhẽo, gợi những t ình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một v ài ý rất thông th ường quấy loãng trong m ột thứ văn bằng phẳng v à quá ư d ễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến cho văn ch ương”. Là ngư ời hiểu rất r õ viết văn là một hoạt động sáng tạo không ngừng, phải “kh ơi những nguồn ch ưa ai khơ i và sáng t ạo những cái g ì chưa có”, H ộ cay đắng nhận ra rằng mình “là m ột kẻ vô ích, một ng ười thừa”, bởi v ì, “hắn chẳng đem một chút mới lạ g ì đên cho văn chương”. Ngư ời nghệ sĩ sáng tạo tr ước đây trong Hộ đ ã chết. Hộ đau buồn vô hạn v ì cảm thấy đời m ình đã bỏ đi, không g ì cứu vãn được: “Thôi thế l à hết! Ta đã hỏng! Ta đ ã hỏng đứt rồi!”. Tấn bi kịch tinh thần đau đớn của Hộ l à ở đó. Đây không ph ải chỉ là bi kịch của một nh à văn không thành đ ạt, cũng không phải l à bi kịch “vỡ mộng” của những ch àng trai ngh èo tỉnh lẻ cay cú muốn nhập v ào xã hội thượng lưu Pari nhưng b ị ném trả t àn nhẫn trong tác phẩm của Banzắc. Đây l à bi kịch của con người có ý thức sâu sắc về sự sống, muốn v ươn lên m ột cuộc sống chân chính, trong đó cá nhân đư ợc phát triển bằng sự nghiệp t inh thần có ích cho x ã hội, nhưng đã bị nhấn ch ìm trong lối sống m à anh ta r ất khinh ghét v ì không x ứng đáng với con ng ười. “Còn gì đau đớn cho m ột kẻ vẫn khát khao l àm m ột cái g ì để nâng cao giá trị đời sống của m ình, mà k ết cục chẳng làm được cái g ì, chỉ những lo c ơm áo mà đ ủ mệt? ”. Trong Sống mòn, cuốn tiểu thuyết dày dặn đã triển khai một cách hệ thống chủ đề n ày, tiếng kêu đó lại cất lên m ột cách th ống thiết: “ Đau đớn thay những kiếp sống khao khát muốn l ên cao nhưng l ại bị áo cơm gh ì sát đất!” Cũng nh ư nhà văn H ộ, anh giáo Thứ đau đớn v ì cuộc đời khốn nạn cứ bắt anh phải sống “cái lối sống quá ư loài v ật, chẳng biết một việc g ì ngoài cái vi ệc đổ thức ăn vào dạ dày”! Đó là n ỗi đau tinh thần to lớn, không nguôi v à không gì có th ể xoa dịu đ ược đối với ng ười trí thức khát khao sáng tạo, khát khao khẳng định tr ước cuộc đời “ khao khát muốn lên cao”… Xoáy sâu vào bi k ịch tinh thần n ày, Nam Cao đ ã lên án sâu s ắc cái hiện thực t àn nhẫn đã vùi dập mọi ước m ơ, hoài b ão của con ng ười, tước đi ý nghĩa sự sống chân c hính thật sự xứng đáng với con ng ười. * * * Nhưng tấn bi kịch tinh thần của nh à văn H ộ không chỉ có thế. Từ cái bi kịch đau đớn dai dẳng vì phải sống cuộc “đời thừa”, Hộ cũng đ ã lâm vào m ột bi kịch thứ hai cũng rất đau Biên tập viên: Trần Hải Tú www.hoc360.vn
- Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ đớn, thậm chí, đau đớn h ơn nữa. Đó l à bi kịch của con ng ười coi t ình thương là ng uyên tắc, là đạo lí cao nhất, nh ưng lại vi phạm v ào chính nguyên t ắc, đạo lí thi êng liêng đó c ủa m ình. Trước mắt Hộ, có một con đ ường giải thoát: thoát li vợ con. Có thế anh mới có thể rảnh rang theo đuổi sự nghiệp văn ch ương là lẽ sống của đời anh. Tức l à để đạt được “hoài bão lớn”, thực hiện đ ược lí tưởng mà anh h ằng say m ê, anh ph ải tự gỡ bỏ sợi dây r àng bu ộc của tình thương. Đ ã có cả một triết lí cao si êu, đầy hấp dẫn b ênh vực, khuyến khích anh làm điều đó. Một triết gia nổi tiếng ph ương Tây đ ã ném ra câu nói hùng h ồn: “Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ”. Câu nói có giọng điệu của chủ nghĩa si êu nhân c ủa Nitsơ, tư tư ởng gia tiền bối của chủ nghĩa phát xít đó, không phải không có sức hấp dẫn đối với những kẻ đang khát khao “sống cho mạnh mẽ” , khao khát kh ẳng định cá nhân nh ư Hộ. Nhưng m ặc dù nỗi đau đớn v ì “đời thừa” to lớn đến đâu, nỗi mong mỏi đ ược giải thoát mãnh li ệt đến đâu . Hộ vẫn không thể lựa chọn cách giải quyết ấy . Bởi vì, thoát li v ợ con để rảnh thân – dù là vì gì ch ăng n ữa – vẫn cứ là tàn nh ẫn, vứt bỏ l òng thương. “Hắn có thể hi sinh t ình yêu, th ứ tình yêu v ị kỉ đi; nhưng h ắn không thể bỏ l òng thương; có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, t ầm th ường, nh ưng hắn vẫn c òn được là người”. Như vậy là, với Hộ, tình thương là tiêu chu ẩn xác định tư cách làm ngư ời; không có t ình thương, con ngư ời chỉ là “m ột thứ quái vật bị sai khiến bởi l òng tự ái”. Khi cuộc đời t àn nhẫn buộc anh phải lựa chọn một trong hai thứ : nghệ thuật và tình thương, anh đã hi sinh ngh ệ thuật để giữ lấy tình thương, hi sinh l ẽ sống thứ nhất cho lẽ sống thứ hai, d ù đây là s ự hi sinh quá lớn đối với anh . Như vậy là, một lần nữa, ng ười nghệ sĩ say m ê lí tưởng nghệ thuật, có thể hi sinh tất cả cho nghệ thuật ấy, đ ã hi sinh ngh ệ thuật cho t ình th ương, cái mà anh c òn thấy cao hơn cả nghệ thuật. Việc dứt khoát đặt t ình thương, trách nhi ệm đối với con ng ười lên trên nghệ thuật nh ư vậy, cũng nh ư lời phát biểu của Hộ về thế n ào là m ột tác phẩm văn ch ương “thật giá trị” cho thấy cái gốc nhân đạo sâu vững của nh à văn lớn Nam Cao. Sự lựa ch ọn của Hộ ở đây khó khăn, phức tạp v à cao hơn s ự lựa chọn của Điền trong Trăng sáng . Ở Điền là sự lựa chọn giữa hai con đ ường nghệ thuật: l ãng mạn thoát li và hiện thực nhân đạo; lựa chọn giữa hai lối sống: h ưởng lạc, ph ù phiếm, chạy theo sự quyến rũ của n hững “người đàn bà nhàn nhã ng ả mình trên nh ững cái ghế xích đu, nhún nhẩy”, phản bội lại vợ con v à tất cả những ng ười nghèo khổ lam lũ lầm than, hay trở về chỗ đứng giữa họ, chung thuỷ với họ. Từ bỏ nghệ thuật l ãng mạn thoát li để đến với nghệ thuật hiện thực, với Điền, l à cưỡng lại sự quyến rũ tội lỗi, l à sự thức tỉnh của l ương tâm, s ự giác ngộ của tâm hồn. Sự lựa chọn ấy đem đến cho Điền niềm y ên tâm và s ức mạnh mới. Ở Hộ có khác. Anh từ bỏ nghệ thuật không phải nh ư từ bỏ một đam m ê tội lỗi, cũng không phải như từ bỏ một sở thích, sở nguyện. Nghệ thuật với anh có ý nghĩa lớn lao, thiêng liêng hơn nhi ều. Đó là lẽ sống đời anh, l à lí tưởng anh hằng theo đuổi, l à cái ch ứng tỏ sự có mặt của anh tr ên cõi đời này. Chính vì v ậy m à, tuy H ộ không băn khoăn nhiều k hi phải lựa chọn t ình th ương, trách nhi ệm thay cho nghệ thuật, khi từ chối lời k êu gọi thoát li vợ con để đ ược “sống cho mạnh mẽ” v à thực hiện “ho ài bão l ớn” của đời m ình, nhưng sau Biên tập viên: Trần Hải Tú www.hoc360.vn
- Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ sự lựa chọn ấy anh không thể y ên tâm thanh th ản mà vẫn đau khổ dai dẳng, l úc ngấm ngầm âm ỉ, lúc nhói l ên dữ dội. Và anh cứ bị giày vò bởi mặc cảm cay đắng l à đang sống một cách vô ích, vô nghĩa, l à “một người thừa”. Con ng ười “khao khát bay l ên cao” và không thiếu tài năng và ý chí đ ể thực hiện khao khát của m ình ấy làm sao khô ng đau kh ổ u uất trong tình c ảnh đó? Hộ đ ã cố hi vọng sau v ài năm b ỏ phí để kiếm tiền, cho ng ười vợ có được cái vốn con để l àm ăn, anh l ại có thể trở lại với con đ ường sự nghiệp của m ình. Nh ưng cuộc sống c ơm áo ngày càng ch ẳng dễ d àng khiến cho hi vọng của Hộ trở thành hão huy ền và tình cảnh của Hộ trở n ên hoàn toàn b ế tắc. Gánh nặng c ơm áo ch ẳng hề nhẹ đi m à cứ ngày càng n ặng thêm mãi: “ Đứa con n ày chưa k ịp lớn lên, đứa con khác đ ã vội ra, m à đứa con nào cũng nhiều đẹn, nhiều s ài, quấy rức, khóc mếu suốt n gày đêm và quanh năm u ống thuốc. (…) Hộ đi ên ngư ời lên vì ph ải xoay tiền”. V à những “bận rôn tẹp nhẹp vô nghĩa lí” đó chẳng những l àm tiêu tan hi v ọng về sự nghiệp của Hộ m à còn th ường xuyên phá ho ại sự yên tĩnh, thư thái của tâm hồn l à điều rất quan trọng đối với ng ười trí thức sáng tạo: “ Hắn còn điên lên v ì con khóc, nhà không lúc nào yên t ĩnh để cho hắn viết hay đọc sách. Hắn thấy m ình khổ quá, bực bội quá. Hắn trở n ên cau có và g ắt gỏng. Hắn gắt gỏng với con, với vợ, với bất cứ ai, với chính m ình. Và n hiều khi, không c òn ch ịu nổi cái không khí bực tức ở trong nhà, h ắn đang ngồi bỗng đứng phắt l ên, mắt chan chứa n ước, mặt hầm hầm, v ùng vằng đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn”. Đi ra phố để thoát khỏi “không khí bực tức ở trong nhà” hay tìm ng ười bạn n ào để nói chuyện văn ch ương cho vơi n ỗi lòng, nh ưng chẳng đi đâu trốn được bản thân m ình, H ộ chỉ càng nung n ấu thêm tâm sự u sầu: “Hắn lặng lẽ nghĩ đến cái tác phẩm dự định từ mấy năm nay để m à chán ngán. H ắn thừ mặt ra nh ư một kẻ phải đi đày, một buổi chiều âm thầm kia, ngồi trong một l àn khói n ặng u buồn m à nhớ quê hương (…) L òng h ắn rũ buồn”… Như m ột thông lệ, ng ười nghệ sĩ bất đắc chí ấy t ìm đến sự giải sầu giải uất trong men rư ợu. Nh ưng cả rượu cũng chẳng l àm vơi đi mà ch ỉ như càng làm cho anh th ấm thía thêm nỗi khổ sở đắng cay của m ình. Và anh trút nó vào v ợ con m à anh th ấy là ngu ồn gốc trực tiếp của t ình cảnh bế tắc của đời anh. Con ng ười giàu tình th ương, đã từng hi sinh những gì quý giá, thiêng liêng c ủa m ình cho tình th ương và trách nhi ệm đối với vợ con đó, đã hơn một lần đối xử phũ ph àng thô b ạo với vợ con m ình, nh ư một gã vô lại. Anh đ ã gây khổ cho ng ười vợ rất đáng th ương, “rất ngoan, rất phục t ùng, rất tận tâm” đối với anh v à cũng khổ sở không kém g ì anh. Tức là anh đã vi phạm vào nguyên t ắc, đạo lí làm người cao nhất của chính m ình. Thành ra mu ốn “nâng cao giá trị sự sống” bằng cao vọng về sự nghiệp th ì cứ phải sống như một kẻ “vô ích”, một “ng ười thừa”; chỉ c òn cò th ể cố giữ lấy t ình thương như là l ẽ sống cuối cùng thì lại cứ tàn nhẫn, luôn gây khổ cho những ng ười cần đ ược yêu thương, đáng đư ợc yêu thương. Cái bi k ịch thứ nhất – không th ực hiện đ ược hoài bão l ớn – tuy rất đau đớn nh ưng còn lí do để an ủi: hi sinh sự nghiệp v ì tình th ương,c òn bi k ịch thứ hai n ày – lẽ sống tình Biên tập viên: Trần Hải Tú www.hoc360.vn
- Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ thương b ị vi phạm – thì không có gì an ủi, biện hộ đ ược. Và nếu Hộ phải từ bỏ con đ ường sự nghiệp l à do áp l ực của ho àn cảnh, th ì sự vi phạm v ào nguyên t ắc tình th ương lại trực tiếp do bản thân anh. V ì thế mà nó chua xót vô cùng,. T ỉnh rượu, nhớ lại h ành vi của m ình, Hộ hối hận tới đau đớn. Khi rón rén b ước lại gần ng ười vợ đang nằm bế con ngủ mệt tr ên võng, nh ận ra từ cái “dáng nằm thật l à khó nh ọc và khổ não”, “cái t ướng vất vả lộ ra cả đến trong giấc ngủ”, từ khuôn mặt xanh xao, có cạnh, có đôi mắt thâm quầng, đến b àn tay “xanh trong xanh l ọc”, “lủng củng rặt những x ương”…, t ất cả đều “lộ một cái g ì mềm yếu, một cái g ì ẻo lả”, “một vẻ bạc mệnh, một cái g ì đau kh ổ và chật vật”, Hộ đ ã “khóc núc n ở”, nước mắt “bật ra nh ư nước một quả chanh m à người ta bóp mạnh”… Anh đau đớn v ì nghĩ đến lối cư xử tồi tệ của m ình đối với ng ười vợ đáng phải đ ược anh an ủi, che chở đó… Tiếng khóc của Hộ, cũng giống nh ư tiếng khóc của nhân vật Thứ trong Sống mòn – nghe tin Đích ốm nặng, Thứ thầm mong Đích chết, v à ngay lúc ấy, Thứ đ ã khóc -, là những tiếng khóc “khóc cho cái ch ết của tâm hồn”. Hộ nghẹn ng ào nói với Từ, giọng nói đẫm n ước mắt: “Anh… anh… ch ỉ là… m ột thằng… khốn nạn”. Anh không thể n ào tha th ứ cho mình. Trong sáng tác, Nam Cao đ ã nhiều lần đề ập v à ca ng ợi nuớc mắt. Nhân vật tiểu t ư sản của ông có không ít tật xấu v à lỗi lầm, nhung th ường là những người hay bị hối hận giày vò và th ường khóc v ì hối hận. Đó không phải l à thứ “hối hận” ồn ào hời hợt củ a những kẻ lấy việc xỉ vả m ình để khoe khoang; cũng không phải thứ hối hận có chu k ì củ nhiều kẻ tiểu tư sản dùng để xoa dịu cái l ương tâm rách nát c ủa m ình trong khi v ẫn buông m ình theo cái xấu. Mà đó là s ự giằng xé chảy máu của những tâm hồn trung thực, khát khao hư ớng thiện. Với Nam Cao, n ước mắt là biểu tượng của t ình th ương và ông g ọi nước mắt là “giọt châu của loa ì người”, là “miếng kính biến h ình vũ trụ”. Giọt n ước mắt của Hộ lúc n ày đã thanh l ọc tâm hồn, nâng đỡ nhân cách của anh, giữ anh lai tr ước vực thẩm sa ng ã. Điều đáng chú ý l à trong khi miêu t ả rất chân thực t ình trạng con ng ười bị đẩy v ào chỗ phải tàn nhẫn, Nam Cao vẫn dứt khoát l ên án cái ác, b ảo vệ t ình th ương. N ếu đương thời, không ít cây bút gọi l à “tả chân”, l à “xã hội”, đã đồng tình, biện hộ và đề cao những nhân v ật vứt bỏ l ương tâm, v ứt tình thương yêu đ ồng loại, tự cho phép l àm điều ác nhân danh sự trả th ù xã h ội bất công t àn bạo, th ì Nam Cao tr ước sau không bao giờ chấp nhận cái ác. Nhân v ật của ông d ù lâm vào tình th ế bi kịch bế tắc, vẫn vật vã quằn quại cố v ươn lên lẽ sống nhân đạo. Song, nư ớc mắt chỉ l à… nước mắt; nó đâu phải l à sức mạnh vạn năng để có thể xoay lại cuộc đời, cứu đ ược loài ngư ời! Nhân vật của Nam Cao vẫn bế tắc v à bi kịch của họ không cách gì g ỡ ra được. Tác phẩm của Nam Cao không m ở ra triển vọng cho sự giải thoát. Và th ực ra, làm cho con ngư ời “thoát khỏi những xiềng xích của cái đói v à cái rét” (Sống m òn), để không chỉ hoạt động kiếm sống trong “v ương qu ốc tất yếu” m à còn có th ể bước ra hoạt động trong “v ương qu ốc tự do” – the cách nói c ủa Mác – để con ng ười có thể phát triển tự do v à toàn di ện, là việc mà lịch sử không dễ d àng th ực hiện. Nh ưng, từ những câu chuyện sinh hoạt th ường nhật bề ngo ài tầm thường Nam Cao đ ã gióng lên ti ếng chuông Biên tập viên: Trần Hải Tú www.hoc360.vn
- Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ báo động về sự huỷ diệt gi á trị sự sống v à nhân cách. Đó c ũng là lời kêu cứu thống thiết: hãy bảo vệ t ình thương đ ể cứu lấy con ng ười, và con ngư ời hãy tự cứu lấy m ình! […] Xây d ựng nhân vật Hộ, Nam Cao không quan tâm đến việc khắc hoạ tính cách bằng những nét cá tính độc đáo gây ấ n tượng đậm – khác với đám nhân vật trong Giông t ố, Số đỏ, Tắt đèn và cả Chí Phèo . Ông tập trung đi sâu v ào đời sống nội tâm nhân vật v à làm nổi bật bi kịch tinh thần của ng ười trí thức đó. V à ở đây, nổi bật sở tr ường miêu tả, phân tích tâm lí con ngư ời của nhà văn, nh ất là khi miêu t ả sự diễn biến tâm lí v à cho th ấy quy luật tâm lí con ng ười. Có thể nói, trong đội ngũ tác giả văn xuôi đông đảo nhiều t ài năng đương th ời, ch ưa có ai có đư ợc ngòi bút tinh t ế, sâu sắc trong việc khám phá, thể hiện tâm lí như N am Cao. S ức hấp dẫn nghệ thuật của Đời thừa – và của mảng sáng tác về ng ười tiểu tư sản của Nam Cao – một phần quan trọng cũng l à ở đó. Nguyễn Hoành Khung Biên tập viên: Trần Hải Tú www.hoc360.vn
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Ôn thi đại học môn Văn: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo
4 p | 579 | 114
-
GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO MỚI MẺ TRONG TÁC PHẨM “ĐỜI THỪA” CỦA NAM CAO
7 p | 715 | 78
-
Chí Phèo -Nam Cao
8 p | 411 | 54
-
So sánh giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt (Kim Lân) và Vợ chông A Phủ (Tô Hoài)
6 p | 960 | 31
-
Bài 3: Ca dao, dân ca: Những câu hát về tình cảm gia đình - Giáo án Ngữ văn 7 - GV: Lê Thị Hạnh
7 p | 1056 | 25
-
Bài 1: Liên kết trong văn bản - Giáo án Ngữ văn 7 - GV: Lê Thị Hạnh
8 p | 271 | 9
-
Bài 2: Bố cục trong văn bản - Giáo án Ngữ văn 7 - GV: Lê Thị Hạnh
7 p | 243 | 9
-
Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
6 p | 1471 | 7
-
Phân tích sức mạnh của tình yêu thương con người thể hiện qua “Vợ nhặt” của Kim Lân và “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài
5 p | 133 | 6
-
Giáo án bài 1: Mẹ tôi - Ngữ văn 7 - GV.Trần Thành
7 p | 281 | 5
-
Công cha - Nghĩa mẹ - Ơn thầy
6 p | 266 | 5
-
Nghị luận “Vợ nhặt” của Kim Lân để thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc
5 p | 52 | 4
-
Tổng hợp các bài phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ nhặt - Kim Lân
22 p | 129 | 4
-
Phân tích truyện ngắn Chí Phèo - Nam Cao
32 p | 849 | 4
-
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân
3 p | 192 | 3
-
Phân tích những đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình
6 p | 143 | 3
-
Cảm nghĩ của anh chị về Chí Phèo khi ăn bát cháo hành
3 p | 92 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn