Đề bài: Giải thích cảnh kết thúc kì lạ trong chữ người tử tù của Nguyễn Tuân<br />
Bài làm<br />
Trong giai đoạn suy tàn của chế độ phong kiến Việt Nam đầu thế kỉ XX, xã hội lâm vào <br />
cảnh rối ren chưa từng thấy. Nhiều giá trị tinh thần bị đảo lộn, thay thế vào đó là những <br />
cái nhố nhăng của buổi giao thời dở Tây dở ta. Cảnh nước mất nhà tan, xã hội nhiễu <br />
nhương ngang trái đã làm cho nhiều cây bút trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 phải <br />
suy nghĩ, trăn trở. Bất mãn trước thực trạng ấy, nhà văn Nguyễn Tuân đã đi tìm nguồn an <br />
ủi trong vẻ đẹp truyền thống của văn hóa dân tộc.<br />
Phần lớn truyện ngắn in trong tập Vang bóng một thời đều chịu sự chi phối của cảm <br />
hứng ca ngợi Cái Đẹp đa dạng nơi đời sống tinh thần và vật chất của giới trí thức bình <br />
dân Nho học. Nhân vật trong truyện là những trang tài tử, bậc hào kiệt, nghĩa sĩ hay nhà <br />
Nho thất thế. Mỗi truyện là một hoài niệm về nhân cách văn hóa cao thượng, trong sạch, <br />
cứng cỏi, say mê Cái Đẹp, tương phản với xã hội thực dân phong kiến hiện tại đầy rẫy <br />
sự suy đồi, thấp kém và bỉ ổi. Truyện Chữ người tử tù ca ngợi vẻ đẹp cao quý của Cái <br />
Đẹp nhân cách kết hợp với vẻ đẹp tài hoa tài tử của nhân vật Huấn Cao – một con người <br />
có khí phách hiên ngang bất khuất và thiên lương trong sáng.<br />
Truyện kể về một viên quản ngục mến mộ tài đức, nhất là tài viết chữ đẹp của một tử tù <br />
nên đã tìm mọi cách để xin chữ quý, nhằm thoả ước nguyện bình sinh là có được chữ ông <br />
Huấn mà treo là có một báu vật trên đời. Thông qua câu chuyện, nhà văn Nguyễn Tuân <br />
khẳng định giá trị cao quý của Cái Đẹp, đồng thời ca ngợi người biết thưởng thức, bảo <br />
vệ và giữ gìn Cái Đẹp cho hậu thế.<br />
Kết thúc truyện là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Nó gắn chặt với tư tưởng chủ <br />
đề của tác phẩm và bộc lộ trực tiếp thái độ của nhà văn trước con người và cuộc sống. <br />
Có thể nói, từ xưa tới nay, trong văn chương chưa có trang viết nào đề cập tới một cảnh <br />
tượng lạ thường và đầy ý nghĩa như vậy.<br />
Cốt truyện là một xâu chuỗi tình tiết kết hợp với nhau theo một trình tự logic rất tự nhiên <br />
và hợp lý để dẫn tới cảnh cuối đậm chất trữ tình, lãng mạn, đạt tới tầm cao tư tưởng <br />
nhân văn trong ngòi bút Nguyễn Tuân. Truyện mở đầu bằng khung cảnh trong phòng làm <br />
việc của viên quản ngục ở nhà lao tỉnh Sơn. Những lời trao đổi giữa viên quản ngục và <br />
thầy thơ lại đã phác họa vài nét về chân dung Huấn Cao – người đứng đầu bọn phản <br />
nghịch bị triều đình khép vào án chém. Trong câu nói của viên quản ngục đã chứa đựng <br />
thái độ khâm phục, kính nể Huấn Cao, dù mới chỉ qua lời đồn: … Tôi nghe ngờ ngợ. <br />
Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và <br />
rất đẹp đó không? Thì ra, điều đầu tiên khiến viên quản ngục quan tâm đến chính là cái <br />
tài viết chữ nổi tiếng của người tử tù nổi tiếng là Huấn Cao. Điều quan tâm ấy liên quan <br />
chặt chẽ tới cái thú chơi chữ đẹp – một thú chơi thanh cao của lớp người có học. Chính <br />
sự đam mê chơi chữ và khát vọng có được trong tay những nét chữ quý của Huấn Cao đã <br />
chi phối mọi suy nghĩ, hành động và lời nói của viên quản ngục trước kẻ tử tù, đồng thời <br />
cũng là thần tượng của mình. Nay có Huấn Cao trong tay, quả là dịp may có một không <br />
hai để viên quản ngục kia có thể biến sở nguyện của mình thành hiện thực.<br />
Chi tiết lạ trước hết là lời sai bảo của viên quản ngục với thầy thơ lại:… Thầy bảo ngục <br />
tốt nó quét dọn lại cái buồng trong cùng. Có việc dùng đến. Thầy liệu cái buồng giam đó <br />
có cầm giữ nổi một tên tù có tiếng là nguy hiểm không? Thầy có nghe thấy người ta đồn <br />
Huấn Cao, ngoài cái tài viết chữ tốt, lại còn có tài bẻ khoá và vượt ngục nữa không? <br />
Trong lời sai bảo ấy đã ngầm bộc lộ thái độ kính trọng và kiêng nể đối với Huấn Cao.<br />
Ngục quan một mình trong đêm, băn khoăn ngồi bóp thái dương, suy tư, nghĩ ngợi. Có lẽ <br />
đã tìm ra phương cách đối xử mà ông ta cho là tốt nhất nên vẻ mặt ông giờ chỉ còn là mặt <br />
nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ. Đáng quý thay là suy nghĩ của viên quản <br />
ngục: Ta muốn biệt đãi ông Huấn Cao, ta muốn cho ông ta đỡ cực trong những ngày cuối <br />
cùng còn lại…<br />
Sáng hôm sau, lúc sáu tử tù bị áp giải tới nhà ngục, trước thái độ ngạo nghễ của Huấn <br />
Cao, viên quản ngục trong lòng thấy kiêng nể, tuy cố giữ kín đáo mà cũng đã rõ quá rồi và <br />
lúc kiểm điểm phạm nhân, ngục quan lại càng có biệt nhỡn riêng đối với Huấn Cao. Thái <br />
độ hiền lành khác hẳn mọi ngày của viên quản ngục khiến cho bọn lính lấy làm lạ, phải <br />
lên tiếng nhắc nhở.<br />
Suốt nửa tháng bị biệt giam, ông Huấn Cao luôn được chu cấp rượu thịt đầy đủ. Huấn <br />
Cao vẫn thản nhiên nhận… coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc <br />
chưa bị giam cầm. Đắn đo mãi, quản ngục mới dám mở khóa cửa buồng kín, khép nép hỏi <br />
ông Huấn có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất. Hỏi kẻ tử tù một câu <br />
đầy hàm ý kính trọng, để rồi phải nhận, câu trả lời ngạo mạn và khinh bạc: Ngươi hỏi ta <br />
muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Chính thái độ <br />
đầy thách thức của Huấn Cao đã làm cho viên quản ngục vốn thầm mến phục ông nay lại <br />
càng thêm kính nể. Là người có học, dù chút ít, viên quản ngục kia cũng biết được vị trí <br />
của mình trong bậc thang giá trị con người. Người tài sơ đức thấp phải nể trọng người tài <br />
cao đức lớn. Như thế mới đúng đạo lý ở đời. Cho nên viên quản ngục không trả thù theo <br />
kiểu tiểu nhân thị oai, trái lại vẫn tiếp tục dâng cơm rượu cho Huấn Cao đầy đủ.<br />
Trước thái độ khác thường của viên quản ngục, lúc đầu Huấn Cao có ý nghi ngờ và khó <br />
chịu. Sau vỡ lẽ ra, ông nhận thấy viên quản ngục này chính là người biết thưởng thức Cái <br />
Đẹp và trân trọng người làm ra Cái Đẹp. Lời trình bày tha thiết, chân tình của thầy thơ lại <br />
khiến Huấn Cao cảm động, cho nên ông đã bằng lòng cho chữ.<br />
Đoạn văn miêu tả cảnh cho chữ là một đoạn văn đặc sắc đầy chất tạo hình. Nó vừa lạ <br />
lùng, vừa đẹp, vừa ảm đạm, vừa hào hùng, có vẻ như một ảo ảnh của cõi nào trong thần <br />
thoại: một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Giữa đêm khuya, trong căn buồng giam chật <br />
hẹp, tối tăm, bẩn thỉu,, một bó đuốc tẩm dầu cháy ngùn ngụt, ánh sáng đỏ rực soi tỏ ba <br />
bóng người đang hoạt động. Một người ngồi chồm hổm dưới đất, hai tay căng tấm lụa <br />
trắng tinh trên mảnh ván. Một người khác tay run run bưng chậu mực. Người thứ ba cổ <br />
đeo gông, chân vướng xiềng, đang cầm bút thoăn thoắt viết trên mặt lụa. Ba người đó là <br />
viên quản ngục, thầy thư lại và ông Huấn Cao.<br />
Không phải bóng tối và sự bạo tàn chốn ngục tù có thể khuất phục được con người, mà <br />
chính con người có sức cảm hoá kì diệu. Bằng sức mạnh của một nhân cách cao cả và tài <br />
năng tuyệt vời, người tử tù đã làm chủ nhà ngục, còn viên quản ngục thì lại khúm núm <br />
chắp tay vái người tử tù như vái một thần tượng thiêng liêng.<br />
Viết xong, ông Huấn Cao đỡ viên quản ngục đứng dậy, rồi nhìn lại chữ mình mới viết <br />
đẹp tươi, nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Sau đó, ông <br />
đĩnh đạc có lời khuyên cuối cùng cho viên quản ngục: Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên <br />
tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi <br />
chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời <br />
lương thiện đi. Nghe lời khuyên chí tình, chí lý, viên quản ngục lùi ra và nói gần như <br />
muốn khóc: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh! Câu nói của ông ấp úng trong nghẹn ngào, cảm <br />
động. Có được chữ quý của Huấn Cao trong tay, ước muốn bao năm giờ đã thành sự thật <br />
mà viên quản ngục vẫn ngỡ là mơ.<br />
Hành động cho chữ của Huấn Cao – những dòng chữ cuối cùng của cuộc đời một lần nữa <br />
khẳng định khí phách, bản lĩnh của ông. Ông muốn truyền lại cái trong sáng, tài hoa của <br />
mình cho hậu thế, thông qua kẻ biệt nhỡn liên tài, tri âm tri kỉ là viên quản ngục. Trước <br />
mắt, ông muốn cứu một con người ra khỏi chốn bùn nhơ, trả lại thiên lương cho người <br />
ấy. Đây cũng chính là hành động vì nghĩa mang tính nhân đạo cao cả của Huấn Cao.<br />
Giữa khung cảnh đen tối của lao ngục, hình ảnh người tử tù bỗng trở nên to lớn lạ <br />
thường, vượt lên trên những cái thấp hèn, dung tục xung quanh. Màu trắng tinh khiết của <br />
vuông lụa, những dòng chữ thơm mùi mực mới dường như cũng ánh lên rạng rỡ dưới ánh <br />
sáng ngọn đuốc và vầng hào quang tỏa ra từ nhân cách, khí tiết cao vời vợi của kẻ sáng <br />
tạo ra Cái Đẹp. Tất cả đều như muốn hóa thành bất tử, như lời nhắn nhủ con người hãy <br />
cố giữ lấy Cái Đẹp của cuộc đời.<br />
Đoạn kết của truyện chứa đầy mơ ước thiết tha của tác giả. Ba nhân vật, ba vị thế khác <br />
nhau nhưng bổ sung tính cách cho nhau để tạo thành một nhân cách hoàn chỉnh, xứng đáng <br />
với Cái Đẹp trên đời. Có thể nói rằng ba nhân vật này chính là những mảnh hồn của <br />
Nguyễn Tuân hóa thành.<br />
Chữ người tử tù là một truyện ngắn, song nhà văn đã sử dụng triệt để bút pháp lãng mạn <br />
đặc sắc để biến nó thành một đoạn thiên tiểu thuyết với ba nhân vật: thầy thơ lại – viên <br />
quản ngục – kẻ tử tù Huấn Cao tượng trưng cho thiên lương, cho vẻ đẹp nhân cách vẫn <br />
ngời sáng giữa hiện thực xã hội đen tối. Viết truyện ngắn này, Nguyễn Tuân không chỉ <br />
dừng lại ở việc kể lại một câu chuyện về một con người dù là đặc biệt trong cảnh ngục <br />
tù, mà xa hơn, cao hơn, tác giả muốn mượn bối cảnh tù ngục để ám chỉ cái “nhà ngục <br />
khổng lồ” là xã hội thực dân phong kiến đương thời. Nhà văn cũng kín đáo gửi gắm vào <br />
tác phẩm tinh thần dân tộc, thể hiện qua thái độ luyến tiếc nhã thú văn hóa cổ truyền <br />
phương Đông là thú chơi chữ đẹp (thư pháp) – những nét chữ phát tiết khí phách và nhân <br />
phẩm cao quý của người cầm bút.<br />
<br />