intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013

Chia sẻ: Caphesuadathemhanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:64

26
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của khóa luận là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013, từ đó trả lời câu hỏi tại sao quyền tự do lập hội chưa được đảm bảo đầy đủ ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về quyền tự do lập hội ở nước ta trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THÌN BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI THEO HIẾN PHÁP 2013 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: LUẬT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-L HÀ NỘI – 2019
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THÌN BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI THEO HIẾN PHÁP 2013 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: LUẬT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-L NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. NGÔ MINH HƯƠNG HÀ NỘI – 2019
  3. MỤC LỤC Trang MỤC LỤC ........................................................................................................ 1 LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................ 3 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................ 4 MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5 CHƯƠNG I: QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ...................................................................................................................... 9 1.1. Khái niệm “hội” và “quyền tự do lập hội” ........................................... 9 1.2. Vai trò của quyền tự do lập hội .......................................................... 10 1.3. Các quy định của pháp luật quốc tế về quyền tự do lập hội ............... 11 1.4. Giới hạn của quyền tự do lập hội ....................................................... 17 CHƯƠNG II: QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI TRONG PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA .............................................................................................. 23 CHƯƠNG III: QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI TRONG HIẾN PHÁP 2013 VÀ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH .............. 28 3.1. Quan điểm về quyền tự do lập hội ở Việt Nam .................................. 28 3.2. Quyền tự do lập hội là quyền hiến định ............................................. 29 3.3. Chủ thể của quyền tự do lập hội ......................................................... 32 3.4. Tư cách pháp nhân của hội ................................................................. 32 3.5. Hình thức của hội ............................................................................... 33 3.6. Giới hạn của quyền tự do lập hội ....................................................... 33 3.7. Nghĩa vụ của Nhà nước trong bảo đảm quyền tự do lập hội .............. 36 1
  4. 3.7.1. Nghĩa vụ tôn trọng........................................................................ 36 3.7.2. Nghĩa vụ bảo vệ ............................................................................ 37 3.7.3. Nghĩa vụ thực thi .......................................................................... 38 3.8. Thực tiễn thực thi quyền tự do lập hội ở Việt Nam ........................... 40 3.8.1. Trong lao động ............................................................................. 40 3.8.2. Trong hình sự, tố tụng hình sự ..................................................... 44 3.8.3. Trong văn hóa .............................................................................. 45 3.9. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc bảo đảm quyền tự do lập hội ở Việt Nam ............................................................................................. 46 CHƯƠNG V: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐỂ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI THEO HIẾN PHÁP 2013 ... 49 5.1. Ban hành Luật về Hội ......................................................................... 49 5.1.1. Sự cần thiết của Luật về Hội ở Việt Nam .................................... 49 5.1.2. Luật về Hội nên được quy định như thế nào? .............................. 51 5.2. Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự và Luật xử lý vi phạm hành chính cần sửa đổi, bổ sung các chế tài với những hành vi từ chối, ngăn cản và các hành vi khác vi phạm quyền tự do lập hội của người dân ................ 55 5.3. Bảo đảm sự kế thừa và tính thống nhất của các văn bản quy phạm pháp luật và quản lý hội phù hợp với thông lệ quốc tế ................................ 56 KẾT LUẬN .................................................................................................... 57 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 58 2
  5. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả ghi trong Khóa luận hoàn toàn trung thực và chưa từng được công bố. Các quan điểm, ý kiến của các tác giả khác được nêu trong Khóa luận đã được trích dẫn và ghi nguồn rõ ràng. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về đề tài của mình. Người cam đoan Nguyễn Thị Thìn 3
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT UDHR Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị LHQ Liên Hợp Quốc NGO Tổ chức phi chính phủ ICESCR Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á CO87 Công ước về quyền tự do hiệp hội và về việc bảo vệ quyền được tổ chức 4
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền tự do lập hội là quyền con người quan trọng của một xã hội dân chủ, đồng thời cũng là một chuẩn mực bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân bởi nó góp phần bảo đảm thực hiện các quyền con người khác. Quyền tự do lập hội được ghi nhận lần đầu tiên tại Điều 20 Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền – UDHR năm 1948. Ngoài việc quy định “mọi người có quyền tự do hội họp và lập hội một cách hòa bình”, Khoản 2 Điều 20 còn nêu rõ “không ai bị ép buộc phải tham gia vào bất cứ hiệp hội nào”. Sau đó, trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị - ICCPR được LHQ thông qua năm 1966 đã tái khẳng định và cụ thể hóa tại Điều 22, trong đó nêu rõ “Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình”. Kể từ khi hoàn toàn độc lập đến nay, Việt Nam cũng đã tham gia nhiều hơn vào các diễn đàn quốc tế, trong đó có diễn đàn về quyền con người. Tăng cường đối thoại, chủ động tham gia ký kết và thực hiện các cam kết và điều ước quốc tế về quyền con người đang là một chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Đến nay, Việt Nam đã ký kết và gia nhập nhiều Công ước quốc tế về nhân quyền trong đó có Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (Việt Nam gia nhập năm 1982). Hiện nay trong xu thế hội nhập quốc tế, số lượng các hội được thành lập gia tăng nhanh chóng1. Với môi trường dân chủ, cởi mở hội nhập, các hoạt động kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, xã hội hóa ngày càng cao, việc 1 Trong báo cáo của Bộ Nội vụ trình Quốc hội ngày 4/11/2015 đã nêu “tính đến tháng 12/2014, cả nước có 52.565 hội, trong đó 483 hội hoạt động trong phạm vi cả nước và 52.082 hội hoạt động ở phạm vi địa phương; số liệu này không bao gồm Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và các hội nghề nghiệp khác”. 5
  8. thành lập và phát triển hội thực sự là yêu cầu của thực tiễn đời sống và là xu thế tất yếu nhằm thỏa mãn nhu cầu tự do, dân chủ, sáng tạo của người dân và xã hội. Các hội phát triển đa dạng với quy mô, phạm vi, tính chất hoạt động khác nhau đã góp phần quan trọng trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Tự do lập hội là một quyền con người cơ bản được ghi nhận trong luật nhân quyền quốc tế và Hiến pháp của hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Như vậy, với hiệu lực pháp lý tối cao của nó, Hiến pháp đang đóng vai trò là công cụ pháp lý cơ bản để thực hiện hóa các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người nói chung hay quyền tự do lập hội nói riêng ở các quốc gia. Tuy nhiên, cũng như một số quốc gia khác, khuôn khổ pháp luật về quyền tự do lập hội ở Việt Nam hiện vẫn còn các rào cản, hạn chế sự hoạt động của các hội, nên mặc dù có nhiều hội nhưng hoạt động của hội chưa hiệu quả, chưa bảo đảm thực hiện quyền này một cách đầy đủ và thực sự. Với những lý do nêu trên, tôi quyết định chọn đề tài “Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013” để làm đề tài Khóa luận cử nhân với mong muốn nghiên cứu, tìm hiểu rõ và sâu sắc hơn quyền tự do lập hội, tìm ra nguyên nhân vì sao quyền tự do lập hội chưa được bảo đảm đầy đủ ở Việt Nam, từ đó đề xuất quan điểm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về bảo đảm quyền tự do lập hội trong bối cảnh hiện nay của nước ta. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, tài liệu khoa học đề cập các vấn đề liên quan tới nội dung này một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như: Về sách và giáo trình: Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng đồng chủ biên (2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội; PGS.TS Vũ Công Giao 6
  9. (2016), Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013 - Lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Hồng Đức. Về các đề tài, công trình nghiên cứu khoa học: Phạm Thị Hồng (2013), Hoàn thiện pháp luật về hội ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Viện khoa học xã hội Việt Nam; Hoàng Lan Anh (2014), Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; Đặng Ngân Hà (2017), Hoàn thiện pháp luật về tự do lập hội ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; Nhóm làm việc vì sự tham gia của người dân (2016), Đời sống hiệp hội từ góc nhìn người dân. Những nghiên cứu trên đã cung cấp một lượng thông tin lớn về cả lý luận và thực tiễn về việc thực hành và bảo đảm quyền tự do lập hội trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Tuy nhiên, các tác giả chưa đi sâu nghiên cứu nguyên nhân vì sao quyền tự do lập hội chưa được bảo đảm đầy đủ ở Việt Nam để từ đó đưa ra các giải pháp về hoàn thiện khuôn khổ pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tự do lập hội. 3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài Mục tiêu của Khóa luận là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013, từ đó trả lời câu hỏi tại sao quyền tự do lập hội chưa được đảm bảo đầy đủ ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về quyền tự do lập hội ở nước ta trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Khóa luận: Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền tự do lập hội, cơ chế bảo vệ quyền tự do lập hội trong các công ước quốc tế, điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam. 7
  10. Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản về bảo đảm quyền tự do lập hội, phân tích thực trạng, đánh giá tình hình bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013, những ưu điểm và bất cập còn tồn tại. 5. Những đóng góp về lý luận và thực tiễn của đề tài Khóa luận là công trình khoa học ở cấp độ Cử nhân đề cập đến vấn đề bảo đảm quyền tự do lập hội, cung cấp những kiến thức, thông tin, luận điểm và đề xuất mới có giá trị tham khảo với các cơ quan nhà nước trong việc hoàn thiện pháp luật mà chủ yếu là khuyến nghị có Luật về Hội để góp phần bảo đảm quyền tự do lập hội ở nước ta trong thời gian tới. 6. Phương pháp nghiên cứu Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu trên, Khóa luận sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau, như phương pháp tổng hợp và phân tích, phương pháp so sánh và đối chiếu, kết hợp nghiên cứu lý luận và thực tiễn… 7. Bố cục Khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Khóa luận gồm 4 chương như sau: Chương 1: Quyền tự do lập hội trong pháp luật quốc tế Chương 2: Quyền tự do lập hội trong pháp luật một số quốc gia Chương 3: Quyền tự do lập hội trong Hiến pháp 2013 và các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành Chương 4: Một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật để bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013 8
  11. CHƯƠNG I: QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ 1.1. Khái niệm “hội” và “quyền tự do lập hội” Hội đã xuất hiện trên thế giới từ thuở xa xưa, dưới nhiều hình thức đa dạng. “Ngay từ thời cổ đại, ở phương Tây, Plato đã mô tả “câu lạc bộ” là những nơi thị dân Hy Lạp lui tới để thưởng thức nghệ thuật, nghe giảng về thiên văn học và khoa học” [1]. Cùng với thời gian, các hình thức hiệp hội trên thế giới ngày càng phát triển, bao gồm các hội không có hoặc có tư cách pháp nhân, với các tên gọi như câu lạc bộ, hội nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ, các quỹ, công đoàn, tổ chức tôn giáo, chính đảng hoặc công ty...Vậy “hội” là gì? Hiện nay, có nhiều định nghĩa về “hội”. “Trong tiếng Anh, “hội” thường được thể hiện qua hai thuật ngữ đó là: (i) “Association” – chỉ hình thức liên kết của các cá nhân có cùng mối quan tâm, và (ii) “Society” – chỉ một cộng đồng có tổ chức” [2]. “Cả hai khái niệm này đều có từ gốc Latinh là socius/socielis, hàm ý là sự liên hệ, giao lưu, đồng hành giữa con người với nhau trong đời sống” [3]. Công ước ICCPR và các văn kiện quốc tế quy định về quyền tự do lập hội nhưng không định nghĩa khái niệm hội. Tuy nhiên, khái niệm này được định nghĩa trong một số báo cáo của LHQ. Như theo Đại diện đặc biệt của Tổng thư ký LHQ về bảo vệ quyền con người, khái niệm “hội” nhắc đến bất kỳ nhóm cá nhân hoặc bất kỳ thực thể pháp lý nào liên kết với nhau để cùng nhau hành động, bày tỏ, thúc đẩy, theo đuổi hoặc bảo vệ một lĩnh vực quan tâm chung [4]. Theo GS.TS. Nguyễn Đăng Dung thì “hội” là sự thỏa thuận, liên kết, tập hợp, quy tụ của nhiều người với nhau thành nhóm để hướng đến các mục đích, lợi ích hay sự quan tâm chung [5]. 9
  12. Rõ ràng, các quan điểm trên đều có định nghĩa tương đồng về “hội”, thừa nhận “hội” là một khái niệm có ngoại diên rộng nên quyền tự do lập hội là một vấn đề phức tạp. Hơn nữa từ góc độ luật nhân quyền, quyền tự do lập hội cũng là quyền có bản chất, nội dung đa dạng. Lập hội vừa là quyền dân sự, chính trị và cũng vừa là quyền kinh tế xã hội, phụ thuộc rất lớn vào loại hình hội mà cá nhân, tổ chức lựa chọn thành lập, gia nhập. Sự phức tạp và đa dạng nêu trên dẫn đến hệ quả là đối với những hội khác nhau thì việc giải thích, áp dụng và thực thi quyền tự do lập hội cũng có những yêu cầu khác nhau. Theo quan điểm của LHQ: Quyền tự do lập hội (freedom of association) bao gồm quyền thành lập và tham gia hội, quyền hoạt động tự do và được bảo vệ khỏi sự can thiệp vô lý, quyền tiếp cận nguồn quỹ và các nguồn lực, và quyền tham gia vào việc tiến hành các hoạt động chung của xã hội [6]. Hay nói cách khác, quyền lập hội xuất phát từ những nhu cầu tự nhiên của con người, đó là được quy tụ, được tập trung trong một tổ chức với những mối liên hệ gần gũi, chặt chẽ với những thành viên khác trong cộng đồng. Đây là quan điểm chung, tiến bộ được các quốc gia và vùng lãnh thổ thừa nhận. 1.2. Vai trò của quyền tự do lập hội Tự do lập hội là cần thiết trong một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quyền tự do lập hội có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy một loạt các quyền con người khác. Thông qua quyền tự do lập hội, các cá nhân liên kết lại cùng nhau bảo vệ quyền sống, quyền an toàn thân thể, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí…Trong lĩnh vực lao động, việc thành lập công đoàn góp giúp bảo vệ các quyền cơ bản của công nhân về tiền lương, thời gian làm việc, nghỉ ngơi, an toàn lao động…Trong lĩnh vực chính trị, quyền tự do lập hội cũng có vai trò rất thiết yếu đối với việc thực hiện hóa quyền bầu cử, ứng cử và quyền tham gia quản lý đất nước. Đối với các nhóm dễ bị tổn thương, 10
  13. quyền tự do lập hội càng có vai trò quan trọng để chống lại sự phân biệt, kỳ thị cũng như để bảo vệ các quyền khác khi mà tiếng nói của các cá nhân thuộc nhóm này rất dễ bị xã hội và nhà nước bỏ qua. Ngoài ra, thực hiện quyền tự do lập hội, các cá nhân liên kết với nhau, hỗ trợ nhau trong hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, trong sản xuất kinh doanh và các hoạt động thương mại, dịch vụ. Trong báo cáo năm 2013, Báo cáo viên đặc biệt Maina Kiai đã khẳng định rằng, quyền tự do lập hội trao quyền cho tất cả mọi người được thể hiện quan điểm chính trị, tham gia vào các hoạt động văn hóa, kinh tế và xã hội, tham gia vào các nghi lễ tôn giáo hoặc các niềm tin khác, và bầu lãnh đạo để đại diện cho lợi ích của họ và tăng trách nhiệm giải trình. Sự phụ thuộc và liên quan lẫn nhau giữa các quyền làm cho quyền tự do lập hội trở thành một trong những khía cạnh quan trọng để đánh giá sự tôn trọng của nhà nước với những quyền con người khác [7]. Rõ ràng, quyền tự do lập hội không chỉ là một quyền con người cơ bản mà còn là một công cụ hỗ trợ để bảo vệ các quyền khác 1.3. Các quy định của pháp luật quốc tế về quyền tự do lập hội Điều ước quốc tế về nhân quyền là hình thức cơ bản chứa đựng các quy phạm pháp luật quốc tế về quyền con người, điều chỉnh nghĩa vụ các quốc gia thành viên và sự hợp tác giữa chúng nhằm hướng tới sự đảm bảo cao nhất các chuẩn mực quyền con người được thừa nhận chung. Tự do lập hội được xác định là một quyền tự do cơ bản và được nêu trong tất cả các văn kiện nhân quyền quốc tế và khu vực, trong đó đặc biệt quan trọng là Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền (UDHR) năm 1948 và Công ước về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966. Đây là những cơ sở pháp lý rõ ràng nhất ràng buộc các quốc gia thành viên phải có trách nhiệm thực thi bảo đảm các quyền được đề cập trong công ước nói chung và đối với quyền tự do lập hội nói riêng. 11
  14. Điều 20 UDHR ghi nhận: “1. Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội một cách hòa bình; 2. Không ai bị ép buộc phải tham gia vào bất cứ hiệp hội nào” ICCPR đã cụ thể hóa quy định về quyền tự do lập hội tại Khoản 1 Điều 22: “Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình” Cả UDHR và ICCPR đều dùng từ “mọi người”, điều này có nghĩa là chủ thể của quyền tự do lập hội không bị giới hạn ở công dân, mà còn bao gồm cả người nước ngoài và người không có quốc tịch đang sinh sống hợp pháp ở một quốc gia. Cách hiểu này tương thích với quy định của Điều 2 ICCPR về không phân biệt đối xử và được khẳng định trong các Nghị quyết 15/21, 21/16, 24/5, 20/27, 26/29 của Hội đồng Nhân quyền LHQ. Đồng thời, để bảo đảm quyền tự do lập hội, tại Điều 30 UDHR quy định: “Không được diễn giải bất kỳ điều khoản nào trong bản Tuyên ngôn này theo hướng ngầm ý cho phép bất kỳ quốc gia, nhóm người hoặc cá nhân nào được quyền tham gia vào bất cứ hoạt động hoặc thực hiện bất cứ hành vi nào nhằm mục đích phá hoại bất kỳ quyền hoặc tự do nào nêu trong bản Tuyên ngôn này” Điều 5 ICCPR cũng tái khẳng định: “Không được phép giải thích bất kỳ một quy định nào của Công ước này để qua đó có hàm ý tạo cho một quốc gia, một nhóm người hoặc một cá nhân có được một quyền nào đó để tiến hành những công việc hoặc hành động nhằm mục đích hủy bỏ bất kỳ quyền và tự do nào được công nhận trong Công ước hoặc nhằm giới hạn những quyền và tự do đó quá mức độ quy định trong Công ước” Văn phòng Cao ủy Nhân quyền LHQ hiện chưa có bình luận chung nào về nội dung Điều 22 ICCPR, tuy nhiên, từ nội dung của nó, có thể thấy quyền tự do lập hội bao gồm ba khía cạnh: i) thành lập ra hội mới; ii) gia nhập các 12
  15. hội có sẵn; iii) hoạt động, điều hành các hội, bao gồm cả việc tìm kiếm, huy động các nguồn kinh phí cho hoạt động [8]. - Về quyền thành lập và gia nhập hội: Trong các nội dung của quyền tự do lập hội, quyền thành lập và gia nhập các hội là nội dung chủ yếu của quyền tự do lập hội. Mọi người đều có quyền này. Trên cơ sở quy định của công ước ICCPR, quyền tự do lập hội của mọi người được bảo đảm ở các quốc gia theo hai thủ tục: thông báo hoặc cấp phép. Cùng với quyền thành lập hội, các cá nhân có quyền gia nhập và rút lui các hội; các hội có quyền ngưng hoạt động và tự giải tán. Tuy nhiên, việc các cơ quan nhà nước ngưng hoạt động và giải tán hội phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của luật. - Về quyền tự do hoạt động, điều hành các hội và được bảo vệ khỏi sự can thiệp vô lý: Quyền tự do lập hội được giải thích là quyền hoạt động tự do của các hội, và điều này xác định các nghĩa vụ của nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và thực thi quyền này. Theo cách tiếp cận chung của luật nhân quyền quốc tế, các quốc gia có ba nghĩa vụ gắn với việc bảo đảm quyền con người. Đối với việc bảo đảm quyền tự do lập hội cũng không ngoại lệ, nhà nước cũng có các nghĩa vụ sau: - Nghĩa vụ tôn trọng: Tôn trọng đời sống nội bộ của hội, hay nói cách khác không được can thiệp tùy tiện vào công việc nội bộ và phải tôn trọng quyền riêng tư của hội như đã quy định tại Điều 17 ICCPR. Cụ thể, các nhà nước không được tùy tiện đặt điều kiện cho những quyết định và hoạt động của hội; đảo ngược kết quả bầu cử thành viên ban lãnh đạo; bắt buộc trong ban lãnh đạo của các hội phải có sự hiện diện của đại diện Chính phủ; yêu cầu các hội nộp báo cáo trước khi xuất bản ấn phẩm hoặc nộp kế 13
  16. hoạch hoạt động để thông qua trước. Các cơ quan độc lập do nhà nước thành lập ra có quyền xem xét báo cáo của các hội như là một cơ chế đảm bảo sự minh bạch và trách nhiệm giải trình, nhưng một thủ tục như vậy không được mang tính chất tùy tiện và phải tôn trọng nguyên tắc không phân biệt đối xử và quyền riêng tư của các hội [9]. Thành viên các hội cần phải được tự do xác định điều lệ, cấu trúc tổ chức, hoạt động của hội và đưa ra các quyết định mà không có sự can thiệp của nhà nước [10] - Nghĩa vụ bảo vệ: đòi hỏi các quốc gia phải tiến hành các biện pháp ngăn ngừa và xử lý những hành vi vi phạm quyền tự do lập hội của người dân do bất kỳ chủ thể nào gây ra, kể cả từ phía công quyền. Thành viên các hội cần phải được thực hành quyền tự do lập hội của họ mà không lo sợ rằng họ có thể là đối tượng của bất kỳ sự đe dọa hay hành động bạo lực nào, bao gồm việc quấy rối, cấm đi lại, bắt, giam giữ, tra tấn, hành quyết tùy tiện, trái pháp luật hay các chiến dịch truyền thông bôi nhọ [11]. - Nghĩa vụ thực thi: Luật nhân quyền quốc tế cũng ấn định nghĩa vụ của các nhà nước phải thúc đẩy quyền tự do lập hội thông qua việc tiến hành các biện pháp tích cực để thiết lập và duy trì môi trường thuận lợi cho các hoạt động của các hội. Vì vậy, đòi hỏi các quốc gia phải chủ động có các biện pháp hỗ trợ việc thành lập các hội như cung cấp địa điểm mở văn phòng, tài trợ tài chính trong giai đoạn đầu hoạt động. Tiến hành các hoạt động để giúp đỡ người dân, đặc biệt là các nhóm xã hội yếu thế, được tiếp cận quyền tự do lập hội. Các hội cần được hưởng, không kể những quyền khác, quyền thể hiện chính kiến, truyền bá thông tin, lôi kéo sự tham gia của công chúng, vận động của các chính phủ và các cơ quan quốc tế về nhân quyền. Nghĩa vụ nêu trên 14
  17. cũng đòi hỏi các nhà nước phải tạo điều kiện cho các hội tiếp cận với các nguồn nhân lực cho hoạt động. Khả năng các hội có thể tìm kiếm, tiếp cận và sử dụng các nguồn lực trong nước, ngoài nước và quốc tế được xem là một phần quan trọng và không thể tách rời của quyền tự do lập hội [12]. Trong đó, thuật ngữ “các nguồn lực” dùng để chỉ các nguồn tài chính được chuyển giao, các đóng góp phi tài chính, các nguồn lực vật chất, nguồn nhân lực... [13]. Việc tiếp nhận nguồn tài chính trong và ngoài nước của các hội không nên bị yêu cầu phải được nhà chức trách cấp phép [14]. Mặt khác, bình đẳng là nguyên tắc cơ bản của mọi quyền con người nên bên cạnh các nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ, thực thi quyền tự do lập hội, các Nhà nước còn có nghĩa vụ đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể trong việc tự do thành lập và hoạt động của hội. Luật nhân quyền quốc tế nghiêm cấm phân biệt đối xử. Nguyên tắc quyền con người cần được áp dụng mà không có bất kỳ sự kì thị nào là cốt lõi cho việc diễn giải các chuẩn mực quyền con người. Điều này hàm ý rằng những quyết định về quyền tự do lập hội được các nhà chức trách đưa ra không được tạo ra các hiệu ứng kỳ thị, phân biệt đối xử - nói cách khác, phân biệt đối xử trực tiếp và gián tiếp trong việc thực hiện quyền này phải bị nghiêm cấm. Mọi người cần được bình đẳng trong việc hưởng thụ, thực hiện quyền tự do lập hội (thành lập, gia nhập, hoạt động…) Đồng thời, các hội cũng cần phải đảm bảo sự bình đẳng với nhau. Bên cạnh UDHR và ICCPR, một số hội đặc thù còn được bảo vệ bởi các Điều ước quốc tế đa phương khác của LHQ. Chẳng hạn như quyền thành lập và gia nhập các công đoàn, ngoài quy định tại Khoản 1 Điều 22 ICCPR còn quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 8 ICESCR, theo đó, các quốc gia thành viên Công ước cam kết bảo đảm: “Quyền của mọi người được thành lập và gia nhập công đoàn do mình lựa chọn, theo quy chế của tổ chức đó, để 15
  18. thúc đẩy và bảo vệ các lợi ích kinh tế và xã hội của mình. Việc thực hiện quyền này chỉ bị những hạn chế quy định trong pháp pháp luật và là cần thiết đối với một xã hội dân chủ, vì lợi ích của an ninh quốc gia và trật tự công cộng, hoặc vì mục đích bảo vệ các quyền và tự do của những người khác” Ngoài ra, vào năm 1990, LHQ cũng cho ra đời thêm một Công ước trong lĩnh vực lao động, nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động di trú. Trong Công ước này, quyền công đoàn của người lao động di trú lao động trên lãnh thổ của quốc gia thành viên cũng được đảm bảo giống như quyền của người lao động trong nước. Với quy định tại Điều 7 về “bảo vệ không phân biệt đối xử” giữa những người lao động có quốc tịch khác nhau, Công ước năm 1990 của LHQ về bảo vệ người lao động di trú và thành viên gia đình của họ đã buộc các quốc gia thành viên phải đảm bảo quyền tự do công đoàn của người lao động nước ngoài như quyền của người lao động trong nước. Nói cách khác, Công ước này cũng đã gián tiếp thừa nhận quyền tự do công đoàn của tất cả mọi người lao động trên lãnh thổ của quốc gia thành viên. Điều 26, Công ước nêu trên quy định: “Các quốc gia thành viên thừa nhận quyền của người lao động di trú tham gia vào những cuộc họp và các hoạt động của các công đoàn và các đoàn thể hợp pháp khác, nhằm để bảo vệ quyền và lợi ích kinh tế, văn hoá, xã hội và các quyền khác, theo quy định của các tổ chức nói trên”. Quyền này được cụ thể rõ ràng tại Điều 40 của cùng Công ước: “Người lao động di trú có quyền, cùng với những người khác, thành lập các hội và các công đoàn tại đất nước họ đang lao động nhằm thực hiện và bảo vệ các lợi ích kinh tế, văn hoá, xã hội và các lợi ích khác của họ”. Như vậy, theo quy định của các văn kiện quốc tế của LHQ, vì mục đích đảm bảo cho lợi ích kinh tế, văn hoá, xã hội của mình, tất cả người lao động, kể cả người lao động nước ngoài, đều có quyền thành lập và tham gia các công đoàn theo sự lựa chọn của họ. 16
  19. 1.4. Giới hạn của quyền tự do lập hội Theo cách hiểu phổ biến, sự hạn chế đối với một quyền con người nào đó được hiểu là trong một số trường hợp các chủ thể hưởng thụ quyền không được hưởng thụ quyền đó một cách tuyệt đối. Giới hạn quyền được ghi nhận trong một số điều ước quốc tế về quyền con người, cho phép quốc gia thành viên áp đặt một số điều kiện với việc thụ hưởng đa số quyền con người [15]. Về mặt ngữ nghĩa, có thể hiểu: “giới hạn” (danh từ) là “phạm vi, mức độ nhất định, không thể hoặc không được phép vượt qua” hoặc (động từ) là “quy định một giới hạn” [16]. Việc giới hạn quyền chính là hành vi can thiệp của nhà nước vào khả năng thụ hưởng quyền trong trường hợp đáng lẽ nhà nước có nghĩa vụ bị động. Những điều kiện đặt ra có hiệu lực trong mọi hoàn cảnh, không nhất thiết chỉ trong bối cảnh khẩn cấp của quốc gia. Quyền tự do lập hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thúc đẩy các quyền con người khác cũng như đối với sự phát triển của các quốc gia. Mặc dù vậy, quyền tự do lập hội không phải là một quyền tuyệt đối. Khoản 2 Điều 22 ICCPR xác định: “Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy định và những hạn chế này là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, để bảo vệ sức khoẻ của công chúng hoặc nhân cách, hoặc các quyền và tự do của những người khác. Điều này không ngăn cản việc hạn chế hợp pháp đối với những người trong các lực lượng vũ trang và cảnh sát”. Rõ ràng, theo ICCPR các nhà nước có thể hạn chế hợp pháp quyền này với những người thuộc lực lượng vũ trang và cảnh sát. Điều này là bởi lực lượng vũ trang có nhiệm vụ bảo vệ đất nước trước ngoại xâm còn lực lượng cảnh sát thì có nhiệm vụ bảo vệ an ninh cộng đồng – cả hai nhiệm vụ quan trọng này cần phải được bảo đảm trong mọi hoàn cảnh, vì thế những người làm việc trong các lực lượng này không nên bị chi phối bởi các quan điểm về chính trị do tham gia vào các hội. 17
  20. Theo đó, cũng giống như nguyên tắc giới hạn các quyền con người việc giới hạn quyền tự do lập hội phải dựa trên các cơ sở: - Được quy định bởi luật: Chỉ có luật mới có thể giới hạn quyền tự do lập hội. Các văn bản dưới luật không thể giới hạn quyền tự do lập hội, mà chỉ có thể được ban hành để tổ chức, thực hiện các quyền do Hiến pháp và luật quy định. Tuy nhiên, luật cũng không thể giới hạn quyền một cách tùy tiện, mà phải đảm bảo yêu cầu cần thiết. Như Tổ chức An ninh và hợp tác châu Âu (OSCE) đã nêu, từ ‘cần thiết” không có nghĩa “tuyệt đối cần thiết” hay “không thể thiếu được”, nhưng cũng không được linh hoạt đến mức “hữu ích” hay “tiện”; thay vào đó, từ này có nghĩa là phải có một sức ép xã hội đối với can thiệp. Khi một sức ép xã hội cần thiết nảy sinh, quốc gia phải đảm bảo rằng bất kỳ biện pháp giới hạn nào cũng phải nằm trong khuôn khổ chấp nhận được của một “xã hội dân chủ”. Mặt khác, tự do lập hội là một quyền cá nhân luôn được thể hiện theo phương thức tập thể. Những biểu hiện tập thể như vậy của các quan điểm cá nhân có thể bị nhìn nhận là đặc biệt đe dọa đến các chính quyền trong một số bối cảnh. Vì vậy, khi có hạn chế về quyền tự do lập hội, những hạn chế đó cần được quy định rõ, bởi các hạn chế này có thể ảnh hưởng đến một số lượng lớn người trong cùng một lúc. - Chỉ bị giới hạn khi điều đó là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia hoặc an toàn, trật tự công cộng; bảo vệ sức khỏe và đạo đức xã hội; bảo vệ các quyền và tự do của người khác. Việc áp dụng các biện pháp giới hạn đòi hỏi chỉ được thực hiện trong những bối cảnh cụ thể phù hợp với mục đích của giới hạn. Thậm chí, cả khi việc áp dụng các giới hạn đúng theo quy định của luật nhưng không cần thiết, không tương xứng với các mục đích đã đề ra thì việc áp dụng giới hạn đó cũng trái với các nguyên tắc luật 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0