Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực luật giáo dục phổ thông
lượt xem 11
download
Khóa luận được nghiên cứu với mục tiêu nhằm nghiên cứu làm sáng tỏ vị trí, vai trò, giá trị của pháp luật, đạo đức và mối quan hệ pháp luật và đạo đức trong Giáo dục phổ thông; Nghiên cứu để thấy được thực trạng của việc ứng dụng các khía cạnh trong Giáo dục phổ thông tại Việt Nam;
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực luật giáo dục phổ thông
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP BỘ MÔN: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Tên đề tài: PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Người hướng dẫn khoa học : GS.TS HOÀNG THỊ KIM QUẾ Họ và tên : Nguyễn Thị Cẩm Linh Lớp : K60B Mã số sinh viên : 15062431 Chuyên ngành : Luật học Hà Nội - 2019
- MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1 2. Đối tượng, mục đích nghiên cứu ................................................................... 3 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG LĨNH VỰC LUẬT GIÁO DỤC PHỔ THÔNG ............................................... 4 1.1. Nhận thức chung về lĩnh vực Giáo dục phổ thông. ................................... 4 1.2. Nhận thức chung về pháp luật và đạo đức ................................................. 7 1.2.1. Khái niệm pháp luật. ............................................................................... 7 1.2.2. Khái niệm đạo đức. ................................................................................. 9 1.3. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông. 10 1.3.1. Khái quát chung về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật ............... 10 1.3.2.Sự thống nhất và khác biệt giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực giáo dục phổ thông .......................................................................................... 11 1.3.3. Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực giáo dục phổ thông ......................................................................................................... 12 1.3.4. Các mối quan hệ xã hội trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông chịu sự điều chỉnh của pháp luật và đạo đức ...................................................................... 15 1.3.4.1. Quan hệ giữa thầy trò ........................................................................ 15 1.3.4.2. Quan hệ giữa bạn học ........................................................................ 19 1.4. Vai trò của pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực Luật Giáo dục phổ thông ... 19 1.4.1. Vai trò của pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông .................... 19 1.4.2. Vai trò của đạo đức trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông ...................... 20 1.4.3. Vai trò của mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật đối với lĩnh vực Giáo dục phổ thông. ........................................................................................ 22 1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông ........................................................................... 24
- CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC LĨNH VỰC GIÁO DỤC PHỔ THỐNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN .................................................................... 27 2.1. Thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong hệ thống pháp luật Việt Nam về Giáo dục phổ thông............................................................. 27 2.1.1. Những điểm tiến bộ của hệ thống pháp luật nói chung khi điều chỉnh các vấn đề thuộc lĩnh vực Giáo dục phổ thông. .............................................. 27 2.1.2. Chương trình giáo dục phổ thông mới kế thừa những gì từ chương trình hiện hành ......................................................................................................... 29 2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật và tuân thủ các giá trị đạo đức trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông ở nước ta hiện nay ................................................... 30 2.2.1. Thực trạng thực hiện pháp luật và tuân thủ các giá trị đạo đức của đội ngũ giáo viên, cán bộ, công chức. ............................................................ 30 2.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật và tuân thủ các giá trị đạo đức của các học sinh. .......................................................................................................... 32 2.3. Những kết quả đạt được và những tồn tại cần khắc phục của pháp luật và đạo đức khi điều chỉnh các vấn đề thuộc lĩnh vực Giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay .................................................................................................. 33 2.3.1. Những kết quả đạt được của pháp luật khi điều chỉnh các vấn đề thuộc lĩnh vực Giáo dục phổ thông. .......................................................................... 33 2.3.2 Những hạn chế của pháp luật khi điều chỉnh các vấn đề thuộc lĩnh vực Giáo dục phổ thông. ........................................................................................ 35 2.3.2.1. Những hạn chế trong các văn bản pháp luật về Giáo dục phổ thông ..... 35 2.3.2.2. Những hạn chế trong chất lượng và các khía cạnh khác của Giáo dục phổ thông. ........................................................................................................ 36 2.3.3. Những vấn đề cần đổi mới trong nền Giáo dục phổ thông nước ta ..... 39 2.4. Một số quan điểm Giáo dục phổ thông trên thế giới ............................... 41 2.5. Một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông hiện nay ............................................ 43
- 2.5.1. Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc tạo mối quan hệ hài hòa, chặt chẽ giữa đạo đức và pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông ............... 43 2.5.2. Hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực Giáo dục phổ thông ......................... 43 2.5.3. Bảo vệ và phát huy các giá trị chuẩn mực đạo đức truyền thống ........ 44 2.5.4. Kết hợp Giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông. ................................................................................................. 44 2.5.5. Kiểm tra, xử lý kịp thời, công bằng mọi hành vi vi phạm pháp luật về Giáo dục phổ thông. ........................................................................................ 45 2.5.6. Tạo lập dư luận xã hội trong phòng chống vi phạm đạo đức trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông .................................................................................. 45 2.6. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông .................................................................................................. 46 KẾT LUẬN .................................................................................................... 49 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 50
- LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển xã hội, muốn phát triển xã hội phải chăm lo nhân tố con người về thể chất và tinh thần, nhất là về học vấn, nhận thức về thế giới xung quanh để họ có thể góp phần xây dựng và cải tạo xã hội. Bác Hồ đã từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” bởi không có tri thức, hiểu biết về xã hội, tự nhiên và chính bản thân mình, con người sẽ luôn lệ thuộc, bất lực trước những sức mạnh cản trở sự phát triển của dân tộc, đất nước mình. Cũng như các mối quan hệ xã hội khác, Giáo dục được điều chỉnh bởi nhiều công cụ khác nhau. Trong đó, pháp luật và đạo đức là hai công cụ điều chỉnh quan trọng nhất. Cả hai công cụ này đều có những ưu điểm cũng như hạn chế nhất định, song giữa chúng có mối quan hệ mật thiết qua lại, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Do đó, trong quá trình điều chỉnh các Giáo dục cần phải có sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa pháp luật và đạo đức để phát huy tối đa những ưu điểm, hạn chế nhược điểm của chúng nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất trong hoạt động quản lý xã hội. Xã hội càng phát triển, pháp luật càng có vai trò to lớn trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, đặc biệt là các mối quan hệ có tính chất phức tạp. Đó là vì pháp luật được nhà nước ban hành và đảm bảo bằng quyền lực, sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Thậm chí ngay cả các mối quan hệ quốc tế hiện nay cũng đề cao vai trò, sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật. Có thể nói, pháp luật là một công cụ điều chỉnh, quản lý xã hội quan trọng, không thể thiếu của bất kỳ một quốc gia nào muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền văn minh, tiến bộ nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội. Tuy nhiên, pháp luật không phải là công cụ vạn năng có thể xác lập hay xóa bỏ một mối quan hệ xã hội nào đó một cách duy ý chí. Cũng không phải tất cả các vấn đề của xã hội đều có thể giải quyết bằng các quy định của pháp luật. 1
- Pháp luật của mỗi quốc gia hay quốc tế cũng đều phải dựa trên các quy luật mang tính khách quan, theo sự vận động và phát triển của các mối quan hệ xã hội nhằm điều chỉnh một cách phù hợp nhất. Đồng thời, cũng cần đến những công cụ, chuẩn mực điều chỉnh xã hội khác như: đạo đức; phong tục, tập quán; tôn giáo… bổ sung. Việc quá đề cao hay xem nhẹ pháp luật đều có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc quản lý, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, đồng thời không phát huy được tối đa vai trò, giá trị của pháp luật. Cùng với pháp luật, đạo đức cũng có vị trí, vai trò và giá trị xã hội hết sức quan trọng. Đặc biệt là ở các quốc gia phương Đông như Việt Nam, Hàn Quốc, Trung Quốc… Những quốc gia chịu ảnh hưởng nhiều của những giá trị đạo đức truyền thống. Tuy nhiên, trên thực tế có một thời gian dài do nhận thức xã hội, vị trí, vai trò và giá trị xã hội của đạo đức chưa được nhận thức một cách đầy đủ và đúng đắn. Ở Việt Nam, những giá trị to lớn của đạo đức truyền thống, thuần phong mỹ tục tốt đẹp của quốc gia chưa được khai thác và sử dụng triệt để. Những ưu điểm của pháp luật và đạo đức không được phát huy hết, đồng thời cũng không có sự bổ trợ qua lại giữa pháp luật và đạo đức trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nói chung, các quan hệ pháp luật Giáo dục phổ thông nói riêng và tất nhiên, hiệu quả đạt được trong việc quản lý xã hội là chưa thực sự cao. Hiện nay, nước ta đã nhận thức được vị trí, vai trò và giá trị xã hội của đạo đức, truyền thống và đã có sự vận dụng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức vào việc xây dựng các quy định của pháp luật. Ở mỗi lĩnh vực, mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức cũng có sự biểu hiện khác nhau và cần phải có sự áp dụng một cách linh hoạt, hài hòa để đạt được hiệu quả. Với việc nhận thức tầm quan trọng của mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong việc xây dựng pháp luật, tầm quan trọng của việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong Giáo dục đặc biệt là Giáo dục phổ thông, em đã chọn đề tài: “PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG LĨNH VỰC LUẬT GIÁO DỤC PHỔ THÔNG” để làm khóa luận tốt nghiệp của mình. 2
- 2. Đối tượng, mục đích nghiên cứu Thông qua đề tài luận án này, em sẽ đi sâu nghiên cứu pháp luật, đạo đức, mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông để nhằm đạt được những mục đích sau: Thứ nhất, nghiên cứu làm sáng tỏ vị trí, vai trò, giá trị của pháp luật, đạo đức và mối quan hệ pháp luật và đạo đức trong Giáo dục phổ thông; Thứ hai, nghiên cứu để thấy được thực trạng của việc ứng dụng các khía cạnh trong Giáo dục phổ thông tại Việt Nam; Thứ ba, kết hợp pháp luật và đạo đức để nâng cao hơn nữa hiệu quả của Giáo dục phổ thông nước ta và kế thừa từ những nước có nền Giáo dục hàng đầu thế giới: Mỹ, Nhật, Đức, ... 3
- CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG LĨNH VỰC LUẬT GIÁO DỤC PHỔ THÔNG 1.1. Nhận thức chung về lĩnh vực Giáo dục phổ thông. - Khái niệm Giáo dục: Là một quá trình bao gồm tất cả các hoạt động hướng vào sự phát triển và rèn luyện năng lực (tri thức, kỹ năng, kỹ xảo) và phẩm chất ( niềm tin, đạo đức , thái độ,...) ở con người để có thể phát triển nhân cách đầy đủ và trở nên có giá trị tích cực đối với xã hội. Theo nghĩa hẹp hơn, giáo dục là một quá trình được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch nhằm truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội của loài người. - Khái niệm Giáo dục phổ thông: Thực hiện Luật Giáo dục và Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28 tháng 11 năm 2014 của Quốc hội, có thể hiểu: chương trình Giáo dục phổ thông là toàn bộ phương hướng và kế hoạch Giáo dục phổ thông, trong đó nêu rõ mục tiêu Giáo dục phổ thông, quy định yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực đối với học sinh, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học, chuyên đề học tập và hoạt động trải nghiệm sáng tạo (gọi chung là môn học) ở mỗi lớp và mỗi cấp học của Giáo dục phổ thông. Chương trình tổng thể là phương hướng và kế hoạch khái quát của toàn bộ chương trình Giáo dục phổ thông, trong đó quy định những vấn đề chung của Giáo dục phổ thông, bao gồm: Quan điểm xây dựng chương trình, mục tiêu chương trình Giáo dục phổ thông và mục tiêu chương trình giáo dục của từng cấp học, yêu cầu cần đạt về phẩm chất chủ yếu và năng lực chung của học sinh cuối mỗi cấp học, các lĩnh vực giáo dục và hệ thống các môn học, thời lượng của từng môn học, định hướng nội dung giáo dục bắt buộc ở từng lĩnh vực giáo dục và phân chia vào các môn học ở từng cấp học đối với tất cả học sinh trên phạm vi toàn quốc, định hướng về phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục và cách 4
- thức đánh giá chất lượng giáo dục của từng môn học, điều kiện tối thiểu của nhà trường để thực hiện được chương trình. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Quy định tiêu chuẩn, quy trình xây dựng, chỉnh sửa chương trình Giáo dục phổ thông; tổ chức và hoạt động của hội đồng quốc gia thẩm định chương trình Giáo dục phổ thông được ban hành kèm theo Thông tư 14/2017/TT-BGD&ĐT (có hiệu lực từ 22/07/2017): Giáo dục phổ thông gồm giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở (giai đoạn giáo dục cơ bản) và giáo dục trung học phổ thông (giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp). Tiểu học (TH) Cấp tiểu học hay còn được gọi là cấp I, bắt đầu năm 6 tuổi đến hết năm 10 tuổi. Cấp I là một cấp học phổ cập, gồm có 5 trình độ, từ lớp 1 đến lớp 5. Đây là cấp học bắt buộc đối với mọi công dân. Trung học cơ sở (THCS) Cấp II gồm có 4 trình độ, từ lớp 6 đến lớp 9, bắt đầu từ năm 11 đến năm 14 tuổi. Đây cũng là một cấp học phổ cập, một cấp học bắt buộc để công dân có thể có một nghề nghiệp nhất định (tốt nghiệp cấp II có thể học nghề hay trung cấp chuyên nghiệp mà không cần học tiếp bậc Trung học phổ thông). Trung học phổ thông (THPT) Cấp III gồm 3 trình độ, từ lớp 10 đến lớp 12, bắt đầu từ năm 15 tuổi đến hết năm 17 tuổi. Để tốt nghiệp cấp III, học sinh phải tham gia Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông tại Việt Nam của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam. - Nhà trường và tất cả những gì diễn ra trong nhà trường là quá trình vận động phát triển dựa trên các đối tượng động là người dạy (giáo viên) - người học (học sinh) - và người quản lý (nhà trường). Vì thế, để giáo dục phổ thông phát triển theo đúng yêu cầu và nhiệm vụ của nó, chúng ta cần quan tâm đến những đặc trưng xã hội - nhân văn của con người, bao gồm: + Tâm sinh lý con người trong giáo dục phổ thông. + Tương quan kinh tế trong giáo dục phổ thông. + Ðạo đức và các giá trị trong giáo dục phổ thông. 5
- + Lịch sử và văn hoá xã hội của giáo dục phổ thông. + Những yếu tố liên quan khác. Giáo dục là điều kiện tiên quyết giúp quyết định nền kinh tế của đất nước đó có phát triển hay không, xã hội đó có ổn định hay không, đất nước đó có nhiều nhân tài để phục vụ cho đất nước hay không. Chính vì vậy giáo dục đào tạo đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển của đất nước. - Vai trò của Giáo dục phổ thông: Trong đời sống xã hội, giáo dục là lĩnh vực có vai trò quan trọng đối với mọi quốc gia, dân tộc ở mọi thời đại. Trong xu thế phát triển tri thức ngày nay, giáo dục - đào tạo được xem là chính sách, biện pháp quan trọng hàng đầu để phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển xã hội, muốn phát triển xã hội phải chăm lo nhân tố con người về thể chất và tinh thần, nhất là về học vấn, nhận thức về thế giới xung quanh để họ có thể góp phần xây dựng và cải tạo xã hội. Bác Hồ đã từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” bởi không có tri thức, hiểu biết về xã hội, tự nhiên và chính bản thân mình, con người sẽ luôn lệ thuộc, bất lực trước những thế lực và sức mạnh cản trở sự phát triển của dân tộc, đất nước mình. Giáo dục phổ thôn góp phần nâng cao dân trí ở mọi quốc gia, dân tộc. Ngày nay, giáo dục và đào tạo còn góp phần tạo ra hệ thống giá trị xã hội mới. Trong nền kinh tế tri thức hiện nay, tri thức là sản phẩm của giáo dục và đào tạo, đồng thời là tài sản quý giá nhất của con người và xã hội. Sở hữu tri thức trở thành sở hữu quan trọng nhất được các nước thừa nhận và bảo hộ. Nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc từ tài nguyên, sức lao động cơ bắp là chính chuyển sang nguồn lực con người có tri thức là cơ bản nhất. Giáo dục góp phần bảo vệ chế độ chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc bởi giáo dục phổ thồn góp phần tạo ra nền tảng để xây dựng đội ngũ lao động có trình độ cao làm giàu của cải vật chất cho xã hội đồng thời có bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ sức chống lại các cuộc “xâm lăng văn hóa” trong quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu. 6
- Giáo dục phổ thông góp phần cung cấp nguồn nhân lực có trình độ góp phần phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Việt Nam đang tiến hành phổ cập giáo dục trung học cơ sở, trình độ lao động phổ thông còn thấp, ít được đào tạo nghề, vẫn còn khoảng gần 60% lao động nông nghiệp, nên hiện mới bước đầu xây dựng kinh tế tri thức. Giáo dục nhằm phát huy năng lực nội sinh “đi tắt, đón đầu” rút ngắn thời gian công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam khẳng định giáo dục - đào tạo cùng với khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, là điều kiện phấn đấu để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp. Giáo dục phổ thông bồi dưỡng nhân tài, xây dựng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao. Đào tạo nhân lực có trình độ cao góp phần quan trọng phát triển khoa học công nghệ là yếu tố quyết định của kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức được hiểu là kinh tế trong đó có sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất, nâng cao chất lượng cuộc sống. Tất cả các quốc gia phát triển đều có chiến lược phát triển giáo dục. Trong “Báo cáo giám sát toàn cầu giáo dục cho mọi người”, tổ chức UNESCO cũng đã khuyến khích các nước phải chi tiêu ít nhất 6% GDP cho giáo dục. Nhận thức rõ vai trò của giáo dục phổ thông đối với sự phát triển, Nhà nước ta khẳng đinh: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Việc đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay đang là mối quan tâm của các cấp, ngành, các nhà khoa học và toàn xã hội. Chọn khoa học và giáo dục làm khâu đột phá cho phát triển. Chọn giáo dục làm tiền đề, làm xương sống của phát triển bền vững là xác định đúng đắn và khoa học. 1.2. Nhận thức chung về pháp luật và đạo đức 1.2.1. Khái niệm pháp luật và các đặc trưng cơ bản. - Khái niệm về pháp luật được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và được thể hiện trong các giáo trình, các sách tham khảo của các trường đại học, cá nhân người viết sau khi tìm hiểu và nghiên cứu có đồng quan điểm với khái niệm pháp luật được thể hiện ở phần trên của Đại học Quốc gia Hà Nội, có thể định nghĩa: 7
- Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của Nhà nước, của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, đảm bảo thực hiện bằng Nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội [26, tr.288]. - Nhìn một cách tổng quát, pháp luật có những đặc trưng cơ bản sau: Tính quyền lực của pháp luật (tính nhà nước, tính cưỡng chế): Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Nói một cách khác, pháp luật được hình thành và phát triển bằng con đường nhà nước chứ không thể bằng bất kỳ một con đường nào khác. Với tư cách của mình, nhà nước là một tổ chức hợp pháp, công khai và có quyền lực bao trùm loàn xã hội. Vì vậy, khi pháp luật được nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, nó sẽ có sức mạnh của quyền lực nhà nước và có thể tác động đến tất cả mọi người Tính quy phạm của pháp luật: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự đó là những khuôn mẫu, những mực thước được xác định cụ thể, không trừu tượng, chung chung. Tính quy phạm của pháp luật nói lên giới hạn cần thiết mà nhà nước quy định để mọi người (chủ thể) có thể xử sự một cách tự do trong khuôn khổ cho phép. Vượt quá giới hạn đó là trái luật. Vì vậy, nói đến pháp luật suy cho cùng là phải xét đến các quy phạm cụ thể. Nếu không có quy phạm pháp luật được đặt ra thì cũng không thể quy kết một hành vi nào là vi phạm, là trái pháp luật. Tính ý chí của pháp luật: Pháp luật bao giờ cũng là hiện tượng ý chí, không phải là kết quả của sự tự phát hay cảm tính. Xét về bản chất, ý chí trong pháp luật là ý chí của giai cấp, lực lượng cầm quyền. Ý chí đó thể hiện rõ ở mục đích xây dựng pháp luật, nội dung pháp luật và dự kiến hiệu ứng của pháp luật khi triển khai vào thực tế đời sống xã hội. Tính xã hội của pháp luật: muốn pháp luật phát huy được hiệu lực thì nó phải phù hợp với những điều kiện cụ thể của xã hội. Ở thời điểm tồn tại của nó, nghĩa là pháp luật phải phản ánh đúng những nhu cầu khách quan của xã hội. Như vậy ở đặc trưng này nét khác biệt của pháp luật so với các quy phạm xã hội 8
- khác thể hiện ở tính toàn diện và tính điển hình (phổ biến) của các mối quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Tuy nhiên, những đặc trưng đã nêu chỉ là những đặc trưng cơ bản, bên cạnh chúng còn có những đặc trưng khác. Tùy thuộc vào yêu cầu xem xét kỹ về một kiểu pháp luật, một hệ thống pháp luật điển hình của một khu vực hoặc một quốc gia nhất định, chúng ta sẽ đề cập một cách cụ thể hơn. Ví dụ: tính khái quát và cụ thể, thành văn và không thành văn, tính nghiêm khắc và nhân đạo. 1.2.2. Khái niệm đạo đức và các đặc trưng cơ bản. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội [11, tr.8]. Trước hết, đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã hội bao gồm những chuẩn mực nguyên tắc xã hội, nhờ đó, con người điều chỉnh hành vi của mình, cũng như đánh giá hành vi của người khác theo quan điểm thiện ác, về cái được làm và cái không nên làm, sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người, của mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với xã hội. Đạo đức ra đời do nhu cầu của xã hội phải điều tiết mối quan hệ giữa các cá nhân và hoạt động chung của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống. Đạo đức là những quy định, chuẩn mực ứng xử của con người với con người, con người với công việc và thiên nhiên cũng như môi trường sống được nhiều người ủng hộ và tự giác thực hiện Các đặc trưng cơ bản của đạo đức bao gồm: + Nghĩa vụ của cá nhân với đất nước, xã hội và các lợi ích chung + Lương tâm của bản thân trong các mối quan hệ xã hội + Nhân phẩm và danh dự của mỗi con người + Hạnh phúc của con người Tính đạo đức thể hiện bản chất xã hội của con người là nét cơ bản trong tính người, sự tiến bộ của ý thức đạo đức là cái không thể thiếu trong sự tiến bộ 9
- chung của xã hội. Như đã nói ở trên, đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã hội, nó ra đời khi con người bắt đầu có ý thức về bản thân cũng như về mối quan hệ của chính mình với cộng đồng. Trong hình thức xã hội đầu tiên – xã hội cộng sản nguyên thủy, những chuẩn mực đạo đức và tín điều tôn giáo đã trở thành những quy phạm xã hội, mọi người trong xã hội đều tuân theo một cách tự nguyện do đó do đó là những quy tắc do họ cùng nhau đặt ra. Nhưng khi chế độ cộng sản nguyên thủy sụp đổ, cùng với sự ra đời của một xã hội có giai cấp, xuất hiện tư hữu, nhà nước ra đời kéo theo sự ra đời của pháp luật. Pháp luật là hệ thống các quy phạm có tính bắt buộc, do nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, là công cụ sắc bén để thực hiện quyền lực nhà nước. Ngoài việc bảo đảm trật tự xã hội, vì lợi ích xã hội, luật pháp còn duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Như vậy, có thể khẳng định đạo đức luôn được gắn với những thời kỳ lịch sử nhất định và có những giá trị đạo đức chỉ phù hợp với những hoàn cảnh xã hội nhất định, các giá trị đạo đức không đóng khung mà có sự thay đổi phù hợp với sự thay đổi của xã hội. 1.3. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông. 1.3.1. Khái quát chung về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật Theo quan điểm triết học, mối quan hệ là sự ràng buộc, sự tác động và làm biến đổi lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng [10, tr.55]. Đạo đức và pháp luật có mối liên hệ khăng khít với nhau. Pháp luật sẽ bị vi phạm nếu xã hội có môi trường đạo đức tha hóa. Ngược lại, pháp luật không nghiêm chỉnh cũng ảnh hưởng xấu đến đời sống môi trường đạo đức. - Trong xã hội có giai cấp: thì pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, do vậy giai cấp cầm quyền tiến bộ thì luật pháp cũng tiến bộ, vì tính nhân văn, nhân đạo thống nhất với đạo đức. Trong xã hội càng phát triển thì những chuẩn mức càng được luật pháp hóa. Vì vậy mà giữa đạo đức càng chặt chẽ hơn. - Trong xã hội có giai cấp đối kháng: khi giai cấp cầm quyền tiến bộ thì luật pháp đề ra cũng phù hợp với xã hội. Hoặc ngược lại, khi giai cấp cầm quyền mà bảo thủ lạc hậu thì luật pháp nó chỉ bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị. 10
- 1.3.2. Sự thống nhất và khác biệt giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực giáo dục phổ thông Đạo đức và pháp luật có sự thống nhất thể hiện ở ba điểm sau đây: Thứ nhất, pháp luật và đạo đức đều có chung mục tiêu. Chúng là những phương tiện điều chỉnh quan trọng bậc nhất đối với các quan hệ xã hội và hành vi của con người. Pháp luật và đạo đức trong Giáo dục phổ thông cũng vậy, ngoài ra còn là công cụ hướng hành vi của con người vào những khuôn khổ trật tự nhằm đảm bảo hoạt động bình thường của xã hội. Thứ hai: pháp luật Giáo dục phổ thông và đạo đức mang tính phổ biến và xu hướng phù hợp với xã hội. Đạo đức và pháp luật mang tính quy phạm phổ biến, chúng đều là những khuôn mẫu chuẩn mực trong hành vi của con người. Thứ ba: pháp luật và đạo đức trong Giáo dục phổ thông nước ta đều phản ánh sự tồn tại của xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Pháp luật và đạo đức đều chịu sự chi phối, đồng thời tác động lại đời sống kinh tế xã hội. Bên cạnh những điểm giống nhau, pháp luật và đạo đức có những điểm khác nhau cơ bản: Thứ nhất: về con đường hình thành, pháp luật Giáo dục hình thành thông qua hoạt động xây dựng pháp lý của nhà nước. Trong khi đó đạo đức được hình thành một cách tự phát do nhận thức của cá nhân và cộng đồng. Thứ hai: hình thức thể hiện của pháp luật và đạo đức. Hình thức thể hiện của đạo đức đa dạng hơn, nó được biểu hiện thông qua dạng không thành văn (văn hóa truyền miệng, phong tục, tập quán…) và dạng thành văn (kinh, sách chính trị, tôn giáo, nghệ thuật,…) còn pháp luật Giáo dục phổ thông lại biểu hiện rõ ràng dưới dạng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. Thứ ba: tính xác định của hình thức văn bản trong Giáo dục phổ thông thì đạo đức mang tính chung, định hướng còn pháp luật thì cụ thể, rõ ràng. Đạo đức chỉ nhằm định hướng cho con người nên con người cần tự tìm tòi khám phá và qua dư luận mà điều chỉnh hành vi của mình một cách cụ thể. 11
- Thứ tư: đạo đức có nguồn gốc giá trị lâu dài, khi con người ý thức hành vi tự họ sẽ điều chỉnh hành vi đó. Do sự điều chỉnh đó xuất phát từ tự thân chủ thể nên hành vi đạo đức có tính bền vững. Ngược lại, pháp luật là sự cưỡng bức, tác động bên ngoài, dù muốn hay không người đó cũng phải thay đổi hành vi của mình. Sự thay đổi này có thể là không bền vững vì nó có thể lập lại ở nơi này hay nơi khác nếu vắng bóng pháp luật 1.3.3. Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực giáo dục phổ thông Sự tác động qua lại giữa đạo đức và pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông, pháp luật và đạo đức có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau. “pháp luật không tồn tại biệt lập mà luôn nằm trong mối quan hệ phụ thuộc, tác động biện chứng với các hiện tượng xã hội khác. Pháp luật luôn vận động trong mối liên hệ phổ biến với kinh tế, chính trị, đạo đức” [26, tr.289] vì vậy phải có sự kết hợp hài hòa giữa hai lĩnh vực này nhằm tạo ra phương án tối ưu nhất trong công tác quản lý xã hội, “trong hệ thống các quy phạm điều chỉnh xã hội, pháp luật và đạo đức giữ vị trí trung tâm, có vai trò quan trọng nhất” [26, tr.296]. Đều là các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng. Chính những mối quan hệ này đã góp phần thể hiện bản chất của pháp luật. Một trong những mối quan hệ mà chúng ta luôn luôn phải nói đến là mối quan hệ của pháp luật và đạo đức. - Đầu tiên là tác động của đạo đức đến pháp luật: Thứ nhất, đạo đức tác động đến việc hình thành các quy định trong hệ thống pháp luật Giáo dục phổ thông. Pháp luật Giáo dục phổ thông bao giờ cũng ra đời, tồn tại và phát triển trên nền tảng đạo đức nhất định. Đạo đức là môi trường cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của pháp luật, là một trong những chất liệu làm nên các quy định trong pháp luật Giáo dục phổ thông. Những quan điểm, quan niệm, chuẩn mực đạo đức đóng vai trò là tiền đề tư tưởng, chỉ đạo việc xây dựng pháp luật. 12
- Sự tác động của đạo đức tới việc hình thành các quy định trong pháp luật Giáo dục phổ thông diễn ra ở nhiều cấp độ. Ở cấp thấp nhất thì các quy phạm pháp luật được xây dựng không trái với đạo đức xã hội. Ở cấp độ cao hơn thì các quy định được ban hành có sự thống nhất, phù hợp với những quan niệm đạo đức. Ở cấp độ này thì đạo đức đã ảnh hưởng tới việc hình thành quy định trong hệ thống pháp luật Giáo dục phổ thông như xây dựng những tiêu chuẩn về phẩm chất, nhân cách của giáo viên hay giải quyết một vấn đề, một vụ việc cụ thể dựa trên quan niệm đạo đức trở thành tiền lệ pháp. Thứ hai, đạo đức tác động đến việc thực hiện pháp luật của các chủ thể. Sự tác động này phụ thuộc vào hai yếu tố: sự phù hợp của đạo đức với pháp luật và ý thức đạo đức của mỗi chủ thể cá nhân trong xã hội. Sự phù hợp của đạo đức và pháp luật ảnh hưởng mạnh mẽ tới việc thực hiện pháp luật Giáo dục phổ thông. Nếu như pháp luật được xây dựng phù hợp với đạo đức thì nó sẽ được công dân chấp hành nghiêm chỉnh. Nhưng nếu như có những điều lệ mà pháp luật đưa ra trái với đạo đức thì nó sẽ khó đi vào cuộc sống của mọi người và từ đó sẽ gây khó khăn trong việc thực hiện. Thứ ba: ý thức đạo đức của mỗi cá nhân cũng ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật. Đạo đức là môi trường thuận lợi để tiếp thu, cảm nhận và thực hiện pháp luật. Đạo đức là môi trường thuận lợi để tiếp thu, cảm nhận và thực hiện pháp luật. Những người có ý thức đạo đức cao thì trong moi trường hợp đều nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật. Trái lại những người có ý thức đạo đức thấp, sống trong môi trường đạo đức thấp thì dễ vi phạm pháp luật. - Tác động của pháp luật tới đạo đức: Thứ nhất, pháp luật dựa trên một cơ sở đạo đức nhất định và ghi nhận, củng cố, bảo vệ những quan điểm, quan niệm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức của giai cấp thống trị, những giá trị đạo đức truyền thống. Bằng cách này, pháp luật góp phần củng cố, giữ gìn, và phát huy các giá trị đạo đức xã hội, bảo đảm cho đạo đức trở thành phổ biến hơn trên toàn xã hội, đồng thời nó góp phần hỗ trợ, bổ sung cho đạo đức, đảm bảo chúng được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế thông qua những biện pháp tác động của nhà nước. 13
- Thứ hai, pháp luật giữ vai trò loại bỏ những quan niệm, tư tưởng đạo đức lạc hậu, phản tiến bộ trong đời sống xã hội, đồng thời ngăn chặn sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức, ngăn chặn việc hình thành những quan niệm đạo đức trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc và tiến bộ xã hội Thông qua những quy định cụ thể, pháp luật không cho phép hoặc cấm những hành vi thực hiện theo những quan niệm, tư tưởng đạo đức xưa cũ, lạc hậu, không phù hợp với cuộc sống hiện đại. Thêm vào đó, xã hội ngày nay, khi những cánh cửa hội nhập đang mở rộng mang theo những ảnh hưởng của Giáo dục các nước tiên tiến: Nhật, Mỹ, Do Thái,… hoặc khi những giá trị đạo đức truyền thống không còn được nhận thức đúng đắn, việc giáo dục đạo đức trong gia đình và nhà trường bị coi nhẹ. Trong những trường hợp ấy, pháp luật là phương tiện, là công cụ hữu hiệu nhất để diệt trừ cái ác, ngăn chặn sự băng hoại đạo đức trong xã hội. Ở nước ta hiện nay, vị trí, vai trò cũng như mối quan hệ của pháp luật và đạo đức ngày càng được nhìn nhận đúng đắn, tích cực. Pháp luật được xây dựng để trở thành công cụ quan trọng nhất của nhà nước để quản lý các quan hệ xã hội. Tuy vậy đối với đời sống xã hội rộng lớn, phức tạp thì còn cần có những công cụ phương tiện khác nữa, trong số đó đầu tiên phải nhắc đến đạo đức. Chính vì vậy, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã khẳng định quan điểm: “Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”. Đồng thời, pháp luật phản ánh rõ nét tinh thần nhân đạo - tư tưởng đạo đức cơ bản của nhân dân ta. Tính nhân đạo trong hệ thống pháp luật Giáo dục phổ thông được thể hiện rất rõ trong các quy định về các chính sách xã hội của nhà nước, dành sự quan tâm đặc biệt tới con các thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng, trẻ em không nơi nương tựa, và người tàn tật. Đạo đức trong xã hội đã thực sự hỗ trợ, bổ sung, hoàn thiện cho pháp luật, tạo điều kiện cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh trong đời sống. Nhà nước ta thừa nhận tập quán có thể thay thế cho pháp luật trong những trường hợp pháp luật chưa quy định và nội dung tập quán không trái với các quy định pháp 14
- luật. Ở chiều ngược lại, pháp luật đã góp phần quan trọng trong việc, gìn giữ và phát huy các quan niệm đạo đức tốt đẹp, hình thành những tư tưởng đạo đức tiến bộ, ngăn chặn sự thoái hóa xuống cấp của đạo đức, loại trừ những tư tưởng đạo đức cũ lạc hậu, phản tiến bộ. Trong chừng mực nhất định, nhà nước pháp luật hóa các quy phạm, nguyên tắc đạo đức thành các quy phạm pháp luật - những quy tắc xử sự tương đối cụ thể cho các chủ thể trong xã hội, xác định rõ hành vi được phép thực hiện, các hành vi buộc phải thực hiện, các hành vi bị ngăn cấm. Bên cạnh đó, trong một số trường hợp thì ranh giới điều chỉnh giữa đạo đức và pháp luật chưa rõ ràng hay sự pháp luật hóa các quy tắc các quan niệm, quan điểm đạo đức không cụ thể dẫn đến khó ứng dụng vào thực tế. Trên thực tế, đánh giá một hành vi nào đó là trái hay không trái với đạo đức xã hội không phải là vấn đề đơn giản, cùng một hành vi những có thể có các đánh giá khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Trong xã hội nhiều quan niệm, tư tưởng, đạo đức cổ hủ, lạc hậu vẫn còn tồn tại mà chưa bị ngăn chặn đúng mức cần thiết. Thí dụ như tư tưởng Giáo dục: tư tưởng địa vị, đẳng cấp, trọng nam khinh nữ… vẫn có ảnh hưởng không nhỏ trong đại bộ phận dân cư. Và hệ thống pháp luật hiện hành còn thiếu nhiều quy định cần thiết, đáng có. Nói tóm lại, giữa pháp luật và đạo đức luôn có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau, cả hai đều có vai trò lớn trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông, trong sự điều chỉnh hành vi con người, hướng tới chân-thiện-mỹ cho người học. Đồng thời góp phần vào sự ổn định và đảm bảo cho sự phát triển của xã hội và của cộng đồng. 1.3.4. Các mối quan hệ xã hội trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông chịu sự điều chỉnh của pháp luật và đạo đức 1.3.4.1. Quan hệ giữa thầy trò Ở bất cứ thời đại nào thì người thầy giáo luôn giữ vai trò trung tâm, là “cỗ máy cái” và mang tính chất quyết định trong sự nghiệp giáo dục. Khi đất nước ta đang trên đà phát triển và hội nhập, đây là cơ hội, đồng thời là thách thức đối với những người làm nghề giáo. Thầy giáo, không chỉ nuôi dưỡng tâm hồn, nảy nở ý 15
- chí mà còn gieo mầm tài năng cho mọi thế hệ. Sinh thời, Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Không có thầy giáo thì không có giáo dục… không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế - văn hóa”. Điều 4. Đạo đức nghề nghiệp 1. Tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm nhà giáo; có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công tác; có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hoà nhã với người học, đồng nghiệp; sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người học, đồng nghiệp và cộng đồng. 2. Tận tụy với công việc; thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội quy của đơn vị, nhà trường, của ngành. 3. Công bằng trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng lực của người học; thực hành tiết kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham nhũng, lãng phí. 3. Thực hiện phê bình và tự phê bình thường xuyên, nghiêm túc; thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục. Điều 5. Lối sống, tác phong 1. Sống có lý tưởng, có mục đích, có ý chí vượt khó vươn lên, có tinh thần phấn đấu liên tục với động cơ trong sáng và tư duy sáng tạo; thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. 2. Có lối sống hoà nhập với cộng đồng, phù hợp với bản sắc dân tộc và thích ứng với sự tiến bộ của xã hội; biết ủng hộ, khuyến khích những biểu hiện của lối sống văn minh, tiến bộ và phê phán những biểu hiện của lối sống lạc hậu, ích kỷ. 3. Tác phong làm việc nhanh nhẹn, khẩn trương, khoa học; có thái độ văn minh, lịch sự trong quan hệ xã hội, trong giao tiếp với đồng nghiệp, với người học; giải quyết công việc khách quan, tận tình, chu đáo. 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khóa luận tốt nghiệp: Luật thuế thu nhập doanh nghiệp của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
117 p | 439 | 110
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Pháp luật Việt Nam về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động – những vấn đề lý luận và thực tiễn
98 p | 127 | 40
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học chất lượng cao: Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil Law
50 p | 72 | 29
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Sự tác động của dư luận xã hội đối với việc thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay
73 p | 157 | 27
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Hoàn thiện pháp luật về an ninh mạng
92 p | 124 | 19
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Pháp luật về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
87 p | 73 | 18
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Lịch sử và xu hướng phát triển của hiến pháp các nước Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á
130 p | 46 | 17
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật việt nam và sự tương thích với chuẩn mực pháp luật quốc tế
84 p | 55 | 16
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Những chuyển biến về quyền hôn nhân và tài sản của phụ nữ Việt Nam thời cận đại từ góc độ pháp luật qua hoàng việt luật lệ và dân luật Bắc Kì 1931
40 p | 53 | 15
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay (Hồ Thị Phương Mai)
80 p | 79 | 15
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng con đường trọng tài ở Việt Nam
60 p | 75 | 15
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Biện pháp bảo đảm tín dụng bằng quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động của Ngân hàng thương mại trong pháp luật Việt Nam
77 p | 48 | 14
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay
76 p | 67 | 14
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Tìm hiểu địa danh tỉnh Cà Mau
130 p | 18 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Yếu tố kỳ ảo trong Chiếc áo khoác của Gogol và Miếng da lừa của Balzac
84 p | 18 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa ở Việt Nam
68 p | 67 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Pháp luật về bảo vệ quyền của cổ đông trong Ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam
86 p | 59 | 8
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Cơ chế kiểm soát trong nội bộ Công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2014
82 p | 49 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn