intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khoá luận tốt nghiệp Quản lý văn hoá: Biến đổi nghề dệt ở làng Hồi Quan, xã Tương Giang, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:64

15
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu về biến đổi nghề dệt tại làng Hồi Quan, từ đó đưa ra những giải pháp thiết thực để bảo tồn và phát triển nghề dệt làng Hồi Quan trong bối cảnh CNH - HĐH.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khoá luận tốt nghiệp Quản lý văn hoá: Biến đổi nghề dệt ở làng Hồi Quan, xã Tương Giang, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh

  1. BỘ NỘI VỤ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP BIẾN ĐỔI NGHỀ DỆT Ở LÀNG HỒI QUAN, XÃ TƯƠNG GIANG, THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nghiêm Xuân Mừng Sinh viên thực hiện : Ma Văn Huân Khoá : 2018 - 2022 Lớp : 1805QLVB Hệ : Đại học chính quy Hà Nội, 5/2022
  2. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận “ Biến đổi nghề dệt ở làng Hồi Quan, xã Tương Giang, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh” bên cạnh những nỗ lực của bản thân, em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến quý thầy cô giáo trong Khoa Quản lý xã hội, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến ThS. Nghiêm Xuân Mừng đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em rất nhiều trong suốt quá trình làm khóa luận tốt nghiệp. Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn đến chính quyền xã Tương Giang và các cụ, các ông, các bà, các bác tại Làng hồi Quan đã nhiệt tình giúp đỡ cũng như cung cấp số liệu cần thiết để tác giả có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình một cách tốt nhất. Trong quá trình làm khóa luận tốt nghiệp, em cảm thấy rằng mình đã học tập và trải nghiệm được nhiều điều vô cùng hữu ích. Từ đó để em học hỏi và rút kinh nghiệm cho quá trình làm việc sau này của mình. Khóa luận của em tất nhiên sẽ không thể tránh được những hạn chế, thiếu sót. Em rất mong nhận được những nhận xét và góp ý từ quý thầy cô giúp khóa luận hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày tháng năm 2022 Sinh viên thực hiện Ma Văn Huân
  3. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Viết đầy đủ 1 CNH - HĐH Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa 2 DN Doanh nghiệp 3 Nxb Nhà xuất bản 4 HTX Hợp tác xã 5 QĐ Quyết định 6 TT Thông tư 7 UBND Ủy ban nhân dân
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài....................................................................................... 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................. 2 3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................ 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 4 5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 5 6. Đóng góp của đề tài .................................................................................. 5 7. Bố cục của đề tài ....................................................................................... 6 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA LÀNG NGHỀ VÀ TỔNG QUAN VỀ LÀNG DỆT HỒI QUAN, XÃ TƯƠNG GIANG, THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH ................................................. 7 1.1. Cơ sở lý luận về biến đổi văn hóa làng nghề ...................................... 7 1.1.1 Các khái niệm ....................................................................................... 7 1.1.2. Cơ sở lý thuyết về biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống ........... 11 1.2. Khái quát về làng Hồi Quan .............................................................. 14 1.2.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................................. 14 1.2.2. Đặc điểm dân cư ................................................................................ 16 1.2.3. Đặc điểm văn hóa xã hội ................................................................... 17 Tiểu kết ........................................................................................................ 19 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI NGHỀ DỆT TẠI LÀNG HỒI QUAN, XÃ TƯƠNG GIANG, THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH ......... 20 2.1. Nghề dệt lụa tại làng Hồi Quan truyền thống................................... 20 2.1.1. Các công đoạn của nghề ................................................................... 20 2.1.2. Các sản phẩm được tạo ra từ nghề dệt ............................................. 22 2.1.3. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm ............................................................ 26 2.2. Biến đổi nghề dệt tại làng Hồi Quan hiện nay .................................. 27 2.2.1. Biến đổi về các công đoạn của nghề ................................................ 27 2.2.2. Các sản phẩm được tạo ra từ nghề dệt ............................................. 29
  5. 2.2.3. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm ........................................................... 31 2.3. Tác động của nghề dệt đối với đời sống của làng Hồi Quan hiện nay32 2.3.1 Tác động đối với kinh tế .................................................................... 32 2.3.2 Tác động đối với văn hóa .................................................................. 33 2.3.3 Tác động đối với môi trường ............................................................. 34 Tiểu kết ........................................................................................................ 35 CHƯƠNG 3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG SỰ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA LÀNG NGHỀ Ở HỒI QUAN ............................................................................ 35 3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến biến đổi nghề dệt làng Hồi Quan .......... 35 3.1.1. Thị trường và thị hiếu khách hàng .................................................. 36 3.1.2. Cơ chế chính sách phát triển làng nghề .......................................... 37 3 2. Những vấn đề đặt ra trong sự biến đổi nghề dệt tại làng Hồi Quan37 3.2.1. Vấn đề giải pháp về cơ chế chính sách ............................................ 37 3.2.2. Tăng cường thu hút lực lượng lao động tại chỗ và lao động trong vùng, đào tạo đội ngũ thợ có tay nghề cao ................................................. 39 3.2.3. Phát triển kinh tế gắn với xây dựng văn hóa làng nghề trong bối cảnh hiện nay ....................................................................................................... 42 3.2.4. Phát triển làng nghề đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái .......... 43 3.2.5. Quảng bá làng nghề gắn với phát triển du lịch ............................... 44 Tiểu kết ........................................................................................................ 46 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 47
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong các loại hình làng ở Việt Nam, làng nghề truyền thống chiếm một vị trí quan trọng. Những sản phẩm của làng nghề làm ra không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân trong làng mà còn đáp ứng nhu cầu của người dân trong vùng, thậm chí trong cả nước. Đặc biệt là những nghề thủ công sản xuất ra những sản phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu như ăn, mặc, ở,…của người dân. Từ nhu cầu về tiêu dùng, phát triển kinh tế, sản phẩm của làng nghề truyền thống còn tạo ra những giá trị tinh thần, tạo nên hình ảnh văn hóa cho các làng nghề Việt Nam. Vài chục năm sau Đổi mới, trước bối cảnh toàn cầu hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế thị trường, các nghề truyền thống của Việt Nam phải từng bước chuyển mình, biến đổi để phù hợp với xu thế của thời đại. Sự biến đổi của nghề truyền thống không chỉ ở các khâu kỹ thuật, mẫu mã, hình dáng, chất liệu mà còn thể hiện ở các khía cạnh khác như quan hệ giữa chủ với thợ, giữa người làm nghề với khách hàng, ở các khâu tiếp thị, quảng bá, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Từ việc biến đổi về nghề dẫn đến biến đổi văn hóa làng nghề như biến đổi về lối sống, nhịp sống của người dân, biến đổi về cảnh quan môi trường sinh thái,...đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm, nghiên cứu, tìm hiểu để từ đó có những giải pháp, chính sách phát triển làng nghề bền vững. Làng Hồi Quan, nay là thôn Hồi Quan, xã Tương Giang, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh là một làng có nghề dệt nổi tiếng của trấn kinh Bắc Xưa và Bắc Ninh ngày nay. Từ một làng quê có nghề dệt lụa truyền thống nức tiếng một vùng, bước vào thời kỳ CNH-HĐH, nghề dệt ở Hồi Quan đã có nhiều biến đổi rõ rệt về mô hình tổ chức sản xuất; về kỹ thuật; về sự đa dạng của sản phẩm làng nghề, biến đổi về lối sống của cư dân trong làng và môi trường sinh thái làng quê. Chính những biến đổi đó đã làm cho làng nghề dệt Hồi Quan vẫn tiếp tục phát triển, đồng thời đặt ra nhiều vấn đề cần đi sâu tìm hiểu nghiên cứu nhằm rút ra những bài học cho việc xây dựng làng nghề truyền thống gắn với phát triển kinh tế trong bối cảnh hiện nay. 1
  7. Là sinh viên đang theo học chuyên ngành Quản lý văn hóa tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, xác định việc nghiên cứu, tìm hiểu về làng nghề truyền thống nói chung và làng nghề dệt nói riêng không chỉ giúp tác giả bổ sung, nâng cao kiến thức mà còn góp phần nhỏ bé vào việc bảo tồn, xây dựng, phát triển nghề truyền thống ở Việt Nam. Chính vì vậy tác giả đã chọn đề tài: “Biến đổi nghề dệt ở làng Hồi Quan, xã Tương Giang, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh” làm nội dung nghiên cứu cho khoá luận tốt nghiệp. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 2.1. Các công trình nghiên cứu về làng nghề và biến đổi văn hóa làng nghề Từ lâu, làng nghề và biến đổi văn hóa làng nghề là một đề tài thu hút khá nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Điểm nổi bật của việc nghiên cứu nghề thủ công và làng nghề từ trước đến nay là được đặt trong khung cảnh nghiên cứu về làng Việt nói chung, dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới đây là một số công trình tiêu biểu. Cuốn Người nông dân châu thổ Bắc kỳ của Nhà Địa lý học Pháp Pièrre Gourou, từ cách tiếp cận địa lý nhân văn chỉ ra những nét chung về các mặt đời sống của người nông dân Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong Chương 2, P. Gourou đưa ra con số 108 nghề thủ công được gọi là “công nghiệp làng xã”, gồm các nghề dệt, đan lát, gỗ và các nghề khác. Công nghiệp dệt gồm dệt bông, tơ tằm, những ngành lụa thô, tơ đũi, the, đan lưới, võng… tổng cộng có có 242 làng nghề [6]. Một số công trình khảo sát những nét tiêu biểu nhất về nghề thủ công truyền thống, như: Văn hóa truyền thống làng Đồng Kỵ do Lê Hồng Lý chủ biên, nghiên cứu làng Đồng Kỵ (thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) [16]; Ninh Hiệp truyền thống và phát triển của nhóm tác giả do Tô Duy Hợp chủ biên nghiên cứu về làng - xã Ninh Hiệp (huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội) [8]. Bên cạnh đó còn có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử các ngành nghề, chủ yếu đề cập đến nguồn gốc nghề thông qua các vị tổ nghề, tiêu biểu là các cuốn sách Nghề thủ công truyền thống Việt Nam và các vị tổ nghề của Trần Quốc 2
  8. Vượng, Đỗ Thị Hảo [28], Nghề cổ đất Việt (khảo cứu) của Vũ Từ Trang [24] v.v... Ngoài ra còn có các công trình khảo tả về nghề gắn với làng nghề và vùng nghề khác nhau, tiêu biểu là Nghề cổ truyền của Tăng Bá Hoành [10], Quê gốm Bát Tràng của Đỗ Thị Hảo [7], Làng tranh Đông Hồ của Nguyễn Thái Lai [12]. Các cuốn sách này đưa ra các tư liệu về nguồn gốc nghề (tổ nghề), nguồn nguyên liệu, công cụ, quy trình làm nghề, thu nhập của người làm nghề và tâm lý làng nghề. Viện Nghiên cứu Văn hóa đã tập hợp các công trình viết về nghề và làng nghề thành trong bộ Tổng tập nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam. Cùng với các công trình viết về làng nghề, những năm gần đây, vấn đề biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống cũng được đề cập đến trong nhiều luận án tiến sĩ, tiêu biểu như: Sự biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống ở Hà Nội hiện nay (Qua trường hợp làng Triều Khúc và Thiết Úng), luận án tiến sĩ Văn hóa học của Nguyễn Thị Bích Thủy (2015) [23], Biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, luận án tiến sĩ Văn hóa học của Đinh Công Tuấn (2015)[21], Biến đổi văn hóa làng dệt Phương La (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình), luận án tiến sĩ Văn hóa học của Bùi Thị Dung (2016) [3],.. Ngoài ra cũng có thể kể đến các bài viết liên quan đến biến đổi văn hóa làng nghề. Tạp chí Xưa và Nay số 245 tháng 10/2005 có bài của Anh Thế “Cụm làng nghề điển hình của Bắc Ninh” tr.28 - 30[22] và bài của TS Đào Thế Anh, “Phát triển cụm công nghiệp nông thôn từ làng nghề truyền thống” tr. 23 - 27 [1]. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, luận án và các bài viết nói trên đã phản ánh nhiều khía cạnh về nghề, làng nghề như sản vật của các nghề thủ công, lịch sử ngành nghề, khảo tả nghề, những đặc điểm của làng nghề về cấu trúc làng xóm, di tích thờ cúng. Đồng thời các công trình, bài viết này cũng đều chỉ ra sự vận động biến đổi của làng nghề với những đặc điểm riêng ở từng địa bàn trong bối cảnh toàn cầu hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế thị trường. 2.2. Các công trình nghiên cứu về nghề dệt ở tỉnh Bắc Ninh và làng Hồi Quan Cuốn sách Địa chí Hà Bắc phần viết về kinh tế - kinh tế nông nghiệp có đề 3
  9. cập đến nghề dệt [17]. Trong cuốn Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ học giả người Pháp P.Gourou còn cho biết: “Bắc Giang có 300 thợ dệt, Bắc Ninh có 1.650 thợ dệt” [6, tr.419]. Trường hợp làng dệt truyền thống Hồi Quan xã Tương Giang cũng được tài liệu đề cập đến. Đó là thực trạng hoạt động của nghề trong bối cảnh đổi mới, hội nhập trên các mặt: tổ chức sản xuất, hình thức sản xuất, công nghệ, sản phẩm…Ngoài ra làng dệt Hồi Quan cũng được đề cập trên các báo, đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương, trên các tạp chí, trang website, báo điện tử…Điểm chung là các bài viết tập trung đề cập đến hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm của làng dệt Hồi Quan trong bối cảnh thời kỳ CNH - HĐH. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu về hệ thống về biến đổi nghề dệt của làng Hồi Quan. Vì vậy đề tài của nhóm tác giả được thực hiện là công trình đầu tiên nghiên cứu về thực trạng biến đổi nghề dệt làng Hồi Quan, xã Tương Giang, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh trong bối cảnh toàn cầu hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế thị trường hiện nay. 3. Mục đích nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về biến đổi nghề dệt tại làng Hồi Quan, từ đó đưa ra những giải pháp thiết thực để bảo tồn và phát triển nghề dệt làng Hồi Quan trong bối cảnh CNH - HĐH. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu thực trạng biến đổi của nghề dệt tại làng Hồi Quan, xã Tương Giang, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh trong trong bối cảnh CNH-HĐH hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian nghiên cứu: Địa bàn khảo sát nghiên cứu nghề dệt tại 4
  10. Làng Hồi Quan, xã Tương Giang, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. - Phạm vi thời gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu sự biến đổi nghề dệt làng Hồi Quan từ sau Đổi mới (1986) cho đến hiện nay. - Phạm vi nội dung nghiên cứu: Trong phạm vi đề tài, tác giả xác định nội dung nghiên cứu là thực trạng biến đổi nghề dệt ở làng Hồi Quan dưới sự tác động cua nhiều mặt cũng như sự phát triển hiện đại của xã hội. Từ đó thấy được sự phát triển của nghề, đồng thời nhìn nhận một số yếu tố tác động tới nghề làm cơ sở cho việc đề ra giải pháp phát triển nghề dệt làng Hồi Quan trong bối cạnh hiện nay. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa các vấn đề lý luận, lý thuyết liên quan đến biến đổi văn hóa làng nghề làm cơ sở cho toàn bộ đề tài. - Làm rõ thực trạng biến đổi nghề dệt tại làng Hồi Quan. - Chỉ ra sự tác động của sự biến đổi nghề dệt đến văn hóa làng nghề, những vấn đề đặt ra trong sự biến đổi văn hóa làng nghề Hồi Quan. - Đưa ra một số giải pháp, khuyến nghị nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề Hồi Quan trong bối cảnh CNH - HĐH và nền kinh tế thị trường. 6. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: thu thập các tài liệu liên quan đến làng nghề truyền thống, nghề dệt và các tài liệu địa chí của tỉnh Bắc Ninh, các tài liệu viết về làng Hồi Quan để có được những thông tin, dữ liệu phục vụ cho đề tài nghiên cứu. - Phương pháp điền dã: Tác giả đã tiến hành trực tiếp điền dã về làng Hồi Quan, liên hệ phỏng vấn các cụ cao tuổi, cán bộ, người dân và chủ, thợ tại các xưởng dệt làng Hồi Quan để ghi chép các thông tin dữ liệu từ thực địa, phục vụ cho việc viết đề tài. - Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh: Trên cơ sở các thông tin thu thập được từ sách, báo, tạp chí và thông tin thu thập được qua các chuyến điền dã, tác giả tiến hành phân tích, tổng hợp, so sánh để làm nổi bật sự phát triển của nghề dệt tại làng Hồi Quan. Từ đó đưa ra những giải pháp cho việc phát triển nghề dệt 5
  11. làng Hồi Quan trong bối cảnh hiện nay. 7. Đóng góp của đề tài Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho địa phương về xây dựng phát triển nghề dệt của làng Hồi Quan. Đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên ngành Quản lý văn hóa các trường Đại học khoa học xã hội về quản lý, xây dựng, phát triển nghề dệt làng Hồi Quan nói riêng và các làng có nghề dệt nói chung. 6
  12. 8. Bố cục của đề tài Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, đề tài có kết cấu bao gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về biến đổi văn hóa làng nghề và khái quát về làng dệt Hồi Quan, xã Tương Giang, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh Chương 2: Thực trạng biến đổi nghề dệt tại làng Hồi Quan, xã Tương Giang, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh Chương 3: Những vấn đề đặt ra trong sự biến đổi văn hóa làng nghề ở Hồi Quan 7
  13. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA LÀNG NGHỀ VÀ TỔNG QUAN VỀ LÀNG DỆT HỒI QUAN, XÃ TƯƠNG GIANG, THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH 1.1. Cơ sở lý luận về biến đổi văn hóa làng nghề 1.1.1 Các khái niệm 1.1.1.1 Khái niệm nghề thủ công truyền thống Theo từ điển tiếng Việt: “Nghề là việc làm chuyên môn đề sống” [15, tr.641]. Từ khái niệm trên có thể hiểu, nghề chính là sự chuyên môn hoá về một lĩnh vực nhất định, có thể sản xuất các sản phẩm theo chất liệu khác nhau và kinh doanh các mặt hàng đó trên thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng ở mọi thời đại. Nghề thủ công truyền thống là nghề sản xuất hoàn toàn hay một phần bằng chân tay những vật dụng trang trí, tiêu dùng, đòi hỏi các kỹ năng tay chân và kỹ năng nghệ thuật, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thường áp dụng trong sản xuất hàng hóa quy mô nhỏ. Nghề thủ công thường được chia thành các lĩnh vực: văn hóa tinh thần; sản xuất, chế biến hàng tiêu dùng; chế biến lương thực thực phẩm… Ở Việt Nam nghề thủ công và làng nghề truyền thống có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Từ nghề thủ công đã góp phần hình thành nên những làng nghề truyền thống với những nghề nổi tiếng đã đi vào lịch sử, góp phần hình thành bản sắc văn hóa Việt. 1.1.1.2 Khái niệm làng nghề Bàn về khái niệm làng nghề, có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra các quan niệm khác nhau: Theo Giáo sư Trần Quốc Vượng thì “làng nghề là một làng tuy vẫn còn trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhưng cũng có một số nghề phụ khác như đan lát, gốm sứ, làm tương... song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường 8
  14. (cơ cấu tổ chức), có ông trùm, ông cả... cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra những mặt hàng thủ công, những mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng và có quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng rộng xung quanh và với thị trường đô thị và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra cả nước ngoài” [28, tr.38-39]. Theo tác giả Lưu Tuyết Vân: “Làng nghề là một làng có nghề tiểu thủ công đã từng tồn tại trong lịch sử hoặc một thời gian nhất định, có sản phẩm hàng hoá nổi tiếng hoặc có khối lượng hàng hoá lớn có vai trò nhất định đối với thị trường trong nước và quốc tế, có số đông người trong làng cùng làm một hoặc nhiều nghề, dân làng sống chủ yếu bằng các nghề đó. Còn các làng nghề truyền thống trước hết phải là một làng nghề, nhưng phải có lịch sử tồn tại lâu dài, đến nay vẫn sản xuất một hoặc nhiều mặt hàng có giá trị trên thị trường trong nước và quốc tế” [27,tr.64]. Tác giả Phạm Côn Sơn trong cuốn Làng nghề truyền thống Việt Nam cho rằng: “Làng nghề là một đơn vị hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, kỉ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng. Làng nghề không những là làng sống chuyên nghề mà cũng hàm ý là những người cùng nghề sống hợp quần để phát triển công ăn việc làm. Cơ sở vững chắc của các làng nghề là sự vừa làm ăn tập thể, vừa phát triển kinh tế, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc và các cá biệt của địa phương [20,tr11]. Tác giả Trương Thị Minh Hằng đưa ra quan niệm về làng nghề như sau: “Làng nghề gắn liền với các vùng nông nghiệp và người nông dân làm nghề thủ công để giải quyết hợp lý sức lao động dư thừa được cơ cấu theo đặc trưng nông nghiệp là mùa vụ… một làng có nghề, đời sống của người dân ổn định và được nâng cao so với các làng thuần nông. Nghề thủ công từ vị trí chỉ là nghề phụ được tổ chức và thực thi vào những khi nông nhàn, rồi về sau nhiều nghề tư thành nguồn thu nhập chính của làng… Ở một góc độ nào đó, làng nghề còn mang tính chất 9
  15. của một làng buôn” [9,tr.20-21]. Chính vì vậy văn hóa nghề cũng mang đậm sắc thái nông nghiệp của các cư dân bản địa. Giá trị văn hóa làng nghề thể hiện rõ nhất trong diện mạo kinh tế làng xã. Thông qua các mối giao lưu, trao đổi và buôn bán sản phẩm, tầm nhìn và tri thức của người dân được mở rộng. Người thợ thủ công có tay nghề cao được cả xã hội trọng vọng. Trong xã hội phong kiến xưa, trừ các làng có người đỗ đạt cao, các làng được coi là thành danh và nổi tiếng trong thiên hạ phần lớn là làng nghề. Như vậy đã có nhiều nghiên cứu đưa ra khái niệm về làng nghề và làng nghề truyền thống, mặc dù ở góc độ nào đó, nội hàm của các khái niệm có thể khác nhau nhưng về cơ bản đều có tính tương đồng trên một số nhận định cơ bản như sau: 1/Làng nghề và làng nghề cổ truyền; 2/Nghề thủ công phải nuôi sống dân cư hoặc một bộ phận dân cư của cộng đồng làng; 3/Sản xuất ra các sản phẩm thủ công (nổi tiếng ở trong và ngoài nước); 4/Có đội ngũ thợ thủ công chuyên nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp làm nghề; 5/Có bí quyết và quy trình làm nghề nhất định; 6/Sản phẩm của làng nghề là sản phẩm tiêu biểu của vùng miền. Theo thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18 tháng 2 năm 2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, trang 108 quy định rõ tiêu chí, thủ tục về việc công nhận làng nghề truyền thống, làng nghề, nghề truyền thống: 1/Có tối thiểu 30% số hộ hoặc 50% số lao động làm nghề; 2/Có tỷ trọng sản xuất từ ngành nghề công nghiệp, xây dựng, tiểu thủ công nghiệp tối thiệu 50% tổng giá trị sản xuất của làng trong năm; 3/Hoạt động kinh doanh ổn định, tối thiểu 02 năm liền tính đến thời điểm công nhận; 4/Chấp hành tốt các đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, các quy định của chính quyền địa phương; 5/Tiêu chí công nhận làng nghề truyền thống: làng nghề truyền thống phải đạt các tiêu chí công nhận làng nghề theo quy định và có tối thiểu 30% số hộ hoặc 50% số lao động làm nghề truyền thống. 10
  16. 1.1.1.3. Khái niệm biến đổi văn hoá Ở nước ta trong thời gian gần đây đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về biến đổi văn hóa và các quan niệm về biến đổi văn hóa của các nhà nghiên cứu. Theo Nguyễn Quang Lê, “biến đổi tức là sự thay đổi so với cái gốc trước của nó” [14,tr.14]. Tác giả Bùi Xuân Đính thì cho rằng “Biến đổi là những thay đổi của một hiện tượng, sự vật so với thời điểm ban đầu, do những nguyên nhân khác nhau, được hiểu theo hai nghĩa: Biến đổi vĩ mô là những thay đổi diễn ra trên phạm vi không gian rộng lớn và trong khoảng thời gian dài. Biến đổi vi mô là những biến đổi nhỏ, diễn ra trong thời gian ngắn, được tạo ra từ một lĩnh vực nào đó của đời sống và sức biến đổi của nó nhìn chung không lớn, phạm vi không gian hẹp” [5, tr.22]. Mặc dù có những quan niệm về biến đổi văn hóa khác nhau, song điểm chung các tác giả đều cho rằng biến đổi văn hóa là quy luật vận động của tất cả các xã hội.Biến đổi văn hóa là một quy luật trong phát triển của văn hóa. Bất kỳ một xã hội nào hay bất cứ một nền văn hóa nào, cho dù có bảo thủ và truyền thống đến đâu đi chăng nữa, cũng luôn luôn biến đổi. Và sự biến đổi của văn hóa trong trong xã hội hiện đại ngày nay càng rõ hơn, nhanh hơn. 1.1.1.4. Khái niệm biến đổi văn hoá làng nghề Biến đổi văn hóa làng nghề là quá trình biến đổi các thành tố văn hóa làng và văn hóa nghề trên cả hai phương diện văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể dưới tác động của quá trình CNH, HĐH, đô thị hóa nông thôn. Sự biến đổi này có thể dẫn đến một hệ quả tất yếu: có những làng nghề tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, cũng có những làng nghề do không thích ứng được với những điều kiện mới, nghề của làng sẽ bị mai một, thậm chí không tồn tại hoặc chuyển sang một nghề khác thích hợp hơn. Nhìn chung, trong xu thế phát triển hiện nay các làng nghề truyền thống đều có những biến đổi rõ rệt, thậm chí có những làng nghề còn có bước phát triển vượt trội hơn so với những giai đoạn trước đó. Biến đổi văn hóa làng nghề ở một góc độ nào đó là một biểu hiện của yếu tố tích cực đến đời sống cộng đồng làng 11
  17. nghề (đời sống kinh tế người dân được nâng cao, di tích lịch sử văn hóa trong làng được tu bổ khang trang hơn, nhà cửa được xây dựng mới, chuyên môn hóa trong sản xuất…). Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực cũng có những mặt hạn chế ảnh hưởng đến nét văn hóa truyền thống như: mối quan hệ ứng xử giữa cộng đồng cư dân làng và xuất phát từ yếu tố thương mại trong buôn bán các sản phẩm hàng hóa của làng nghề… 1.1.2. Cơ sở lý thuyết về biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống 1.1.2.1. Biến đổi văn hóa Biến đổi văn hóa là vấn đề được các nhà nghiên cứu văn hóa trên thế giới quan tâm và đề cập đến khá sớm như thuyết Tiến hóa văn hóa của E.Taylor (1891) và của L.Morgan (1877); thuyết truyền bá văn hóa (đại diện là G.Elliot, Smith 1911, W.Rivers 1914...); thuyết vùng văn hóa đại diện là C.L.Wissler 1923, A.L.Kroeber 1925…thuyết Tiếp biến văn hóa (đại diện là Redfield 1934 và Broom 1954…); thuyết chức năng đại diện là Brown 1952, Malinowski 1944… Dưới đây luận án điểm lại một vài luận điểm chính của các nhà nghiên cứu về biến đổi văn hóa. Thuyết tiến hóa ra đời vào cuối thế kỷ XIX với dại diện là L.H. Morgan (Mỹ, 1877) và E.B. Taylor (Anh, 1891). Luận điểm của thuyết này cho rằng sự phát triển của các nền văn hóa là xu hướng chính của lịch sử loài người, điều này là tất yếu, các dữ kiện của nó có thể sắp xếp vào một trật tự xác định, mà không thể làm khác được; mọi sự khác biệt về văn hóa chỉ là sự chênh lệch trên bậc thang tiến hóa; các xã hội phương Tây ở các bậc thang trên cùng, được coi là văn minh, còn các xã hội ngoài phương Tây bị coi là man rợ. Thuyết này đương thời bị phản bác mạnh mẽ [30]. Thuyết chức năng với đại diện là Malinowski và Radcliffe Brown đại diện, có ảnh hưởng lớn ở Anh trong suốt ba thập niên (1920 - 1950). Thuyết chức năng coi trọng sự khác biệt về văn hóa. Theo các học giả, chính nhờ sự khác biệt mà các bộ phận của xã hội cũng như các xã hội có thể nương tựa và bổ sung cho nhau để vận hành trong thế cân bằng và ổn định, trong đó mỗi bộ phận chỉnh thể đều 12
  18. thực hiện chức năng của nó. Văn hóa thay đổi là do tác động từ bên ngoài. Radcliffe Brown nhấn mạnh: “Cần phải nghiên cứu văn hóa từ bên trong, cần tôn trọng giá trị của các nền văn hóa khác nhau và không nhất thiết mọi nền văn hóa đều phải trải qua các giai đoạn giống như nền năn minh châu Âu” [30, tr. 76]. Thuyết truyền bá văn hóa do F. Graebner (Đức), W. Schmidt (Áo) và G.E.Smith (Anh) đại diện cho rằng, biến đổi văn hóa của các xã hội, hay sự tiến bộ, phát triển của nền văn hóa ở một số cộng đồng, tộc người chỉ là kết quả của sự vay mượn từ xã hội khác. Thuyết vùng văn hóa do Franz Boas, C.L.Wissler, A.L.Kroeber đại diện cho rằng biến đổi văn hóa chính là sự lan truyền văn hóa từ trung tâm ra ngoại vi và ngược lại. Trong quá trình biến đổi, các cộng đồng đều tham gia vào quá trình sáng tạo những đặc trưng chung của vùng, song ở vùng trung tâm, văn hóa biến đổi sống động hơn và sâu hơn vùng ngoại vi [30]. Thuyết trung tâm và ngoại vi của các nhà nhân học Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam ra đời vào cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, chỉ ra sự tác động giữa trung tâm và ngoại vi, khẳng định vai trò của trung tâm văn hóa vì nó vừa chứa những đặc trưng, bản sắc văn hóa của vùng, vừa tạo nên động năng trong phát triển, có sức thu hút, lan tỏa văn hóa và quy định xu hướng phát triển của toàn bộ vùng văn hóa [30]. Ngoài các trường phái kể trên còn có hàng loạt những luận điểm về thích nghi văn hóa, hội nhập văn hóa, sinh thái học văn hóa, xung đột văn hóa…có liên quan đến biến đổi văn hóa và lý giải các góc độ khác nhau của sự biến đổi văn hóa. Vận dụng những luận điểm này, khóa luận xem xét sự biến đổi của nghề dệt, từ đó kéo theo sự biến đổi văn hóa làng nghề dệt Hồi Quan trên các bình diện, từ đó xem xét, lý giải các nguyên nhân, động thái chi phối sự biến đổi làng nghề, vai trò của chủ thể văn hóa làng nghề trong sự biến đổi và xu hướng biến đổi của văn hóa làng nghề Hồi Quan hiện nay. 13
  19. 1.1.2.2. Biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống Từ việc vận dụng các lý thuyết cơ bản về biến đổi văn hóa đã nêu ra ở mục 1.2.2.1 vào nghiên cứu biến đổi văn hóa làng nghề có thể xây dựng khung lý thuyết về biến đổi văn hóa làng nghề như sau: 1/Quan niệm về biến đổi văn hóa làng nghề. Đó là quá trình biến đổi các thành tố văn hóa làng và văn hóa nghề trên cả hai phương diện văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể dưới tác động của quá trình CNH, HĐH, đô thị hóa nông thôn. Sự biến đổi này có thể dẫn đến một hệ quả tất yếu: có những làng nghề tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, cũng có những làng nghề do không thích ứng được với những điều kiện mới, nghề của làng sẽ bị mai một, thậm chí không tồn tại hoặc chuyển sang một nghề khác thích hợp hơn. Nhìn chung, trong xu thế phát triển hiện nay các làng nghề truyền thống đều có những biến đổi rõ rệt, thậm chí có những làng nghề còn có bước phát triển vượt trội hơn so với những giai đoạn trước đó. Biến đổi văn hóa làng nghề ở một góc độ nào đó là một biểu hiện của yếu tố tích cực đến đời sống cộng đồng làng nghề (đời sống kinh tế người dân được nâng cao, di tích lịch sử văn hóa trong làng được tu bổ khang trang hơn, nhà cửa được xây dựng mới, chuyên môn hóa trong sản xuất…). Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực cũng có những mặt hạn chế ảnh hưởng đến nét văn hóa truyền thống như: mối quan hệ ứng xử giữa cộng đồng cư dân làng và xuất phát từ yếu tố thương mại trong buôn bán các sản phẩm hàng hóa của làng nghề… 2/Khung lý thuyết về biến đổi văn hóa làng nghề. Theo tác giả Vũ Trung cho rằng biến đổi văn hóa làng nghề bao gồm cấu trúc sau đây: “Biến đổi cơ cấu kinh tế làng nghề, biến đổi đời sống xã hội làng nghề; biến đổi văn hóa làng nghề, trong đó bao gồm biến đổi tâm lý cộng đồng làng nghề, biến đổi cơ cấu tổ chức làng nghề, biến đổi văn hóa truyền thống bao gồm phong tục, tập quán, lễ hội, tín ngưỡng” [26, tr.206-207]. Qua những nghiên cứu trên đây có thể thấy rằng, làng nghề là một nhóm xã hội chịu tác động mạnh mẽ bởi yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội và những yếu tố này đã tác động sâu sắc tới từng bộ phận cấu thành nên văn hóa làng nghề. Mặt khác, tuy 14
  20. phân tích khái niệm văn hóa làng nghề bao gồm văn hóa làng, văn hóa nghề nhưng trên thực tế hai thành tố này luôn tồn tại đan xen lẫn nhau, chịu sự tác động tương hỗ trong cùng một thực thể, trong đó văn hóa làng là nền tảng còn văn hóa nghề được coi là sự quyết định hình thành nên văn hóa nghề. 1.2. Khái quát về làng Hồi Quan 1.2.1. Điều kiện tự nhiên Từ nội thành Hà Nội,qua cầu Chương Dương theo quốc lộ 1A đến km 150 cách Hà Nội 22km, rẽ tay trái theo con đường bê tông, qua làng Tiêu Long chừng hơn 1km, ta sẽ đến đất làng Hồi Quan thuộc xã Tương Giang huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Làng dệt Hồi Quan nằm liền kề với làng Tam Đảo (xã Phúc Lâm) về phía Bắc, làng Tiêu Long, Hương Phúc (xã Tương Giang) về phía Nam, làng Phúc Tinh (xã Tam Sơn) về phía Đông và làng Đình Cả (xã Nội Duệ) về phía Tây. Tất cả là một cụm làng có lịch sử văn hóa lâu đời của đất Kinh Bắc xưa. Hồi Quan là một làng quê yên bình với cánh đồng xanh, con đường làng lát gạch đỏ, cây đa mái đình cổ kính đậm chất miền quê của miền Kinh Bắc. Nằm cách tỉnh lộ 295B khoảng 1km, làng Hồi Quan hiện ra vẻ đẹp cổ kính với cây đa, bến nước, sân đình cùng những hàng tre xanh ngát và cánh đồng lúa trải dài…Nơi đây từng được vua Tự Đức ban biển “mỹ tục khả phong” (tức làng có tục đẹp đáng biểu dương), có hệ thống đường liên thôn, liên xã được xây dựng khá hoàn chỉnh rất thuận tiện cho giao thông đi lại, phục vụ đời sống sinh hoạt, sản xuất và phát triển kinh tế. Xa xưa làng Hồi Quan có tên là làng Hồi Quân. Sở dĩ có tên đó vì khi xưa tam quan của Hai Bà Trưng sau khi đánh giặc Đông Hán ra khỏi đất Giao Chỉ đã thu quân về làng. Sau ngày hòa bình lập lại trên Miền Bắc (1954) làng được đổi tên thành Hồi Quan. Trong quá khứ nền kinh tế chủ yếu của làng là kinh tế nông nghiệp, trồng lúa nước, chăn nuôi, đánh bắt thủy sản. Ngoài ra còn trồng dâu nuôi tằm, dệt vải. Dân cư xa xưa rất đông đúc nhộn nhịp, là một vùng quê giàu có của xứ Kinh Bắc. Làng Hồi Quan nằm ở vị trí khá thuận lợi trong xã Tương Giang, nơi có dòng sông Tiêu Tương thơ mộng chảy qua, gắn liền với câu chuyện tình 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2