intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kiến thức - thái độ - thực hành của người chăm sóc chính người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà và một số yếu tố liên quan ở huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc, năm 2010

Chia sẻ: Nữ Nữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

119
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết nghiên cứu cắt ngang có phân tích, kết hợp định lượng (phỏng vấn toàn bộ 100 người chăm sóc chính NBTTPL đang được quản lý) với định tính (phỏng vấn sâu 3 cán bộ Y tế phụ trách chương trình Chăm sóc sức khỏe tâm thần cộng đồng và 3 cuộc thảo luận nhóm với 18 người chăm sóc chính NBTTPL). Sử dụng phân tích hồi quy logistic để dự đoán một số yếu tố liên quan đến thực hành CSNB TTPL tại nhà. Kết quả cho thấy người chăm sóc chính (NCSC) có kiến thức, thái độ và thực hành đạt về chăm sóc NBTTPL tại nhà chỉ lần lượt là 44%, 53% và 45%. Sau khi kiểm soát nhiễu có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức chăm sóc với thực hành chăm sóc. Nghiên cứu cũng đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường nâng cao công tác chăm sóc NBTTPL tại nhà ở 3 xã, thị trấn huyện Bình Xuyên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kiến thức - thái độ - thực hành của người chăm sóc chính người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà và một số yếu tố liên quan ở huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc, năm 2010

Kiến thức - thái độ - thực hành của người chăm sóc chính người bệnh tâm<br /> thần phân liệt tại nhà và một số yếu tố liên quan ở huyện Bình Xuyên,<br /> Vĩnh Phúc, năm 2010<br /> Đinh Quốc Khánh*, Trần Hữu Bình**, Nguyễn Thanh Hương***<br /> Theo Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG), bệnh tâm thần phân liệt (TTPL) chiếm khoảng 0,3 – 1%<br /> dân số, thường gặp ở tuổi trẻ từ 15-35. Hiện nay, điều trị người bệnh (NB) TTPL tại cộng đồng<br /> phối hợp liệu pháp hoá dược với liệu pháp lao động phục hồi chức năng tâm lý xã hội<br /> (PHCNTLXH) là những liệu pháp chủ đạo để thực hiện mục tiêu tái hoà nhập NB với gia đình<br /> và cộng đồng. Tuy nhiên, liệu pháp này đòi hỏi gia đình NB phải có kiến thức và kỹ năng trong<br /> việc chăm sóc người bệnh (CSNB) tại nhà. Tuy nhiên, ở Việt Nam vấn đề này lại chưa thực sự<br /> được quan tâm nghiên cứu. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm tìm hiểu thực trạng.<br /> Đây là nghiên cứu cắt ngang có phân tích, kết hợp định lượng (phỏng vấn toàn bộ 100 người<br /> chăm sóc chính NBTTPL đang được quản lý) với định tính (phỏng vấn sâu 3 cán bộ Y tế phụ<br /> trách chương trình Chăm sóc sức khỏe tâm thần cộng đồng và 3 cuộc thảo luận nhóm với 18<br /> người chăm sóc chính NBTTPL). Sử dụng phân tích hồi quy logistic để dự đoán một số yếu tố liên<br /> quan đến thực hành CSNB TTPL tại nhà. Kết quả cho thấy người chăm sóc chính (NCSC) có<br /> kiến thức, thái độ và thực hành đạt về chăm sóc NBTTPL tại nhà chỉ lần lượt là 44%, 53% và<br /> 45%. Sau khi kiểm soát nhiễu có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức chăm sóc với<br /> thực hành chăm sóc. Nghiên cứu cũng đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường nâng cao công<br /> tác chăm sóc NBTTPL tại nhà ở 3 xã, thị trấn huyện Bình Xuyên.<br /> Từ khóa: Kiến thức; thái độ; thực hành; người chăm sóc chính; tâm thần phân liệt; tại nhà; tỉnh<br /> Vĩnh Phúc; 2010<br /> <br /> Knowledge- attitude- practice of caregivers of patients with schizophrenia at<br /> their familes and factors related to practice at 3 communes of Binh Xuyen<br /> district, Vinh Phuc province, 2010<br /> According to the World Health Organization (WHO) reports recently, schizophrenia is about 0,3<br /> – 1 percent of population. It is common at young age from 15 – 30. Currently, treatment of<br /> schizophrenia in community with the method of chemical- pharmacology in conjunction with<br /> the rehabilitation method of working and socio-mentality which is a major methodology for<br /> helping the patient to re-enter family and community. In supporting to this method, their family<br /> is required to have knowledge and capacity of looking after patients at their home. However, this<br /> method was not reviewed and researched correct way. The purpose of this study is to survey the<br /> reality of knowledge- attitude- practice of caregivers of patients with schizophrenia at their<br /> families and factors related to practice at 3 communes of Binh Xuyen district, Vinh Phuc<br /> province. This is a retrospective study, qualitative analysis (100 caregivers were interviewed<br /> who looked after managed schizophrenia patients, qualitative analysis (3 healthcare staffs were<br /> interviewed who are managing the program of community mentality health. Three group<br /> discussions with the participant of 18 caregivers to schizophrenia patients). Be used retrospective<br /> analysis for forecasting the factors on practical action to the patient at home.<br /> The result of three above surveillances was showed that the percentage of caregivers who have<br /> knowledge, attitude and practice are 44%, 51% and 45%. It was noted on the statistic value<br /> <br /> 1<br /> <br /> between the knowledge and practice of caregivers. The study suggested the solutions of<br /> increasing the capacity of caregivers to the patients at home in 3 communes of Binh Xuyen<br /> district.<br /> Keywords: knowledge; attitude; practice; caregivers; patients with schizophrenia; Vinh Phuc<br /> province; 2010<br /> <br /> Tác giả<br /> *<br /> <br /> ThS. Đinh Quốc Khánh, Trưởng phòng Quản lý Học sinh-sinh viên, Phó trưởng bộ môn Điều<br /> dưỡng Truyền nhiễm, Trường Cao đẳng Y tế Hà Nội. Địa chỉ: Số 35 Đoàn Thị Điểm- Quận<br /> Đống Đa- Hà Nội. Email: quockhanh_cdythn@yahoo.com<br /> **<br /> <br /> PGS.TS. Trần Hữu Bình, Viện trưởng Viện Sức khỏe Tâm thần Trung ương, Phó trưởng bộ<br /> môn Tâm thần- Trường Đại học Y Hà Nội.<br /> ***<br /> <br /> TS. Nguyễn Thanh Hương, Phó trưởng khoa các Khoa học xã hội, hành vi và Giáo dục sức<br /> khỏe, Đại học Y tế Công cộng<br /> 1.<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> <br /> Tâm thần phân liệt là bệnh loạn thần nặng chưa rõ nguyên nhân, có khuynh hướng tiến triển mãn<br /> tính, dần dần gây sa sút các mặt hoạt động tâm thần làm cho NB không thể hoà nhập với cuộc<br /> sống gia đình, cũng như xã hội. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG), bệnh TTPL chiếm<br /> khoảng 0,3 – 1% dân số, thường gặp ở người trẻ tuổi từ 15-35. Ở Việt Nam, bệnh TTPL chiếm<br /> 0,6% dân số [3];[4]. Chủ trương đưa NBTTPL về chăm sóc tại cộng đồng theo Chương trình<br /> Quốc gia Chăm sóc sức khỏe tâm thần cộng đồng (CSSKTTCĐ) là phù hợp với đường lối và<br /> nguồn lực của nước ta. Đây là cơ hội tốt để NBTTPL được tái hoà nhập cộng đồng, nhưng cũng<br /> đòi hỏi gia đình NB một trình độ nhận thức nhất định và kỹ năng trong việc chăm sóc người<br /> bệnh (CSNB) tại nhà.<br /> Vai trò của gia đình đối với NBTTPL rất quan trọng. Chính các thành viên trong gia đình phải là<br /> những người có kiến thức cơ bản về bệnh TTPL. Thuốc được quản lý tại gia đình và NCSC cho<br /> NB uống thuốc hàng ngày. Trong gia đình, NCSC phải xác định việc CSNBTTPL không chỉ có<br /> thuốc mà cần được CS toàn diện, đặc biệt là về tâm lý để PHCNTLXH, phát hiện sớm những<br /> dấu hiệu bất thường để thông báo cho cán bộ y tế (CBYT), nhờ đó kịp thời ngăn ngừa tái phát<br /> hoặc diễn biến những cơn bùng phát cấp tính. Đến nay, những nghiên cứu về kiến thức, thái độ<br /> và thực hành của người chăm sóc NBTTPL tại nhà còn rất ít.<br /> Bình Xuyên là một huyện của tỉnh Vĩnh Phúc. Từ năm 2001 đến nay, chương trình CSSKTTCĐ<br /> đã được triển khai hoạt động tại huyện, công tác truyền thông và chăm sóc sức khỏe cho NBTT<br /> đã được triển khai đồng đều ở cả 13 xã/ thị trấn nhưng tình trạng bệnh của NBTTPL điều trị tại<br /> nhà cải thiện không đáng kể, còn NB bỏ thuốc và không đến khám trong các tháng. Ba xã/thị<br /> trấn có số NBTTPL nhiều nhất là xã Tân Phong, thị trấn Hương Canh (huyện lỵ), thị trấn Thanh<br /> Lãng huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc [1]. Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu thực trạng kiến<br /> thức - thái độ - thực hành của người chăm sóc chính người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà<br /> và một số yếu tố liên quan đến thực hành chăm sóc ở 3 xã, thị trấn huyện Bình Xuyên,Vĩnh<br /> Phúc, trên cơ sở đó nhằm đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường nâng cao công tác chăm sóc<br /> NBTTPL tại nhà ở 3 xã, thị trấn huyện Bình Xuyên trong thời gian tới.<br /> <br /> 2<br /> <br /> 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> Thiết kế: Đây là một nghiên cứu cắt ngang có phân tích, kết hợp định lượng với định tính được tiến<br /> hành từ tháng 04 đến tháng 10 năm 2010.<br /> Đối tượng: Người chăm sóc chính NBTTPL tại nhà và cán bộ hiện đang phụ trách chương trình<br /> CSSKTTCĐ của 3 xã/thị trấn.<br /> Địa điểm: tại xã Tân Phong, thị trấn Hương Canh và thị trấn Thanh Lãng huyện Bình Xuyên,<br /> tỉnh Vĩnh Phúc.<br /> Cỡ mẫu nghiên cứu: Toàn bộ người chăm sóc chính NBTTPL tại nhà và cán bộ hiện đang phụ<br /> trách chương trình CSSKTTCĐ của 3 xã/thị trấn, tổng số có 100 NCSC và 3 cán bộ phụ trách<br /> chương trình CSSKTTCĐ tham gia.<br /> Công cụ thu thập số liệu: Bộ câu hỏi thu thập số liệu định lượng (phỏng vấn) bao gồm 4 phần<br /> chính đó là các thông tin chung, kiến thức, thái độ, thực hành của người chăm sóc chính và mối<br /> liên quan đến thực hành chăm sóc NBTTPL tại nhà; Hướng dẫn phỏng vấn cán bộ y tế (3 cuộc);<br /> và hướng dẫn thảo luận nhóm NCSC (3 cuộc với tổng cộng 18 người tham gia)<br /> Cơ sở để đánh giá kiến thức, thái độ thực hành là dựa trên tài liệu hướng dẫn của tác giả Nguyễn<br /> Viết Thiêm [2]. Tiêu chuẩn đánh giá đạt yêu cầu: Bằng cách tính điểm lấy giá trị trên trung bình<br /> của quần thể.<br /> Một số khái niệm dùng trong nghiên cứu:<br /> - Người chăm sóc chính: là người thường xuyên trực tiếp đưa NB đi khám bệnh định kỳ, trực<br /> tiếp đi lĩnh thuốc, cho NB uống thuốc hàng ngày; có thời gian giúp NB làm vệ sinh cá nhân hàng<br /> ngày, trên 18 tuổi, sống cùng với NB.<br /> - NBTTPL được điều trị tại nhà là những người bệnh đã ổn định nhưng vẫn cần phải điều<br /> trị duy trì (được bệnh viện cho về điều trị tại nhà).<br /> Phân tích số liệu: Số liệu định lượng được nhập bằng phần mềm EpiData 3.1 và xử lý bằng phần<br /> mềm SPSS16.0. Sử dụng các Tets thống kê χ2 để phân tích các yếu tố liên quan. Mô hình hồi quy<br /> Logistic được sử dụng để kiểm soát các yếu tố nhiễu.<br /> Số liệu định tính được gỡ băng và xử lý bằng cách mã hóa và trích dẫn theo các chủ đề.<br /> 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br /> 3.1 Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu:<br /> Nghiên cứu thực hiên trên 100 người chăm sóc chính NBTTPL tại nhà, gồm 73 nữ và 27 nam;<br /> tuổi < 65 tuổi chiếm 71% và ≥ 65 tuổi 29%. Đa số NCSC là nông dân chiếm 67%. Trình độ học<br /> vấn từ tiểu học trở xuống là 32%, có 4% mù chữ. Tại thời điểm điều tra có 29% là hộ nghèo. Tất<br /> cả những NCSC đều có quan hệ gần gũi với NBTTPL như bố, mẹ, anh chị em; Có 8 NCSC phải<br /> chăm sóc 2 NBTTPL trong một gia đình.<br /> 3.2. Kiến thức của người chăm sóc chính NBTTPL tại nhà<br /> Tỷ lệ NCSC biết các dấu hiệu bệnh TTPL như: hay nghi kỵ; Nghe thấy tiếng nói bất thường;<br /> Giảm hiệu suất học tập, làm việc; Ngại giao tiếp; Luôn căng thẳng, lo sợ; Có ý nghĩ bất thường;<br /> Không tập trung chú ý; Có những hành vi lạ là rất thấp. Phần lớn NCSC chỉ nêu ra được một số<br /> <br /> 3<br /> <br /> dấu hiệu như: dễ cáu gắt/giận dữ (78%), ngôn ngữ rời rạc, khó hiểu (57%), rối loạn giấc ngủ<br /> (50%).<br /> Tỷ lệ NCSC nêu được những hoạt động giúp NBTTPL hòa nhập cộng đồng không cao, như giúp<br /> NB làm vệ sinh cá nhân hàng ngày (50%); lao động và sinh hoạt xã hội, tương ứng là 63% và<br /> 46%. NCSC chỉ nêu ra được một số công việc như: Cho người bệnh uống thuốc đều và đúng<br /> theo chỉ dẫn; Giúp cho người bệnh ăn uống hàng ngày. Qua thảo luận nhóm NCSC cũng cho kết<br /> quả tương tự, NCSC chỉ đề cập đến việc cho NB uống thuốc đều, theo chỉ dẫn và cho NB ăn<br /> uống hàng ngày.<br /> Do vậy, tỷ lệ NCSC có kiến thức về bệnh và nội dung cần chăm sóc NBTTPL tại nhà đạt chỉ<br /> chiếm 44%.<br /> 3.3. Thái độ của người chăm sóc chính về bệnh và CSNBTTPL tại nhà<br /> Được chăm sóc và điều<br /> trị sẽ tiến triển tốt<br /> Cần được hiểu rõ<br /> bệnh của mình<br /> <br /> 24<br /> <br /> 3<br /> <br /> 43<br /> <br /> Cần được cộng đồng<br /> quân tâm??và giúp đỡ<br /> Không được chăm sóc tốt<br /> dần dần tách khỏi CS bên<br /> ngoài,thu vào thế giới bên<br /> trong<br /> Bệnh tiến triển từ từ,<br /> khuynh hướng mạn tính<br /> <br /> 73<br /> <br /> 16<br /> <br /> 59<br /> <br /> 21<br /> <br /> 36<br /> <br /> 2<br /> <br /> 40<br /> <br /> 14<br /> <br /> 16<br /> <br /> 1<br /> <br /> 84<br /> <br /> 11<br /> <br /> 80<br /> <br /> 4<br /> <br /> Tỷ lệ %<br /> <br /> Rất đồng ý<br /> <br /> Không ý kiến<br /> <br /> Đồng ý<br /> <br /> Không đồng ý<br /> <br /> Rất không đồng ý<br /> <br /> Hình 1. Thái độ của NCSC về bệnh TTPL<br /> Hình 1 cho thấy quan điểm “NBTTPL cần được hiểu rõ bệnh của mình” lại thấp hơn nhiều, tỷ lệ<br /> đồng ý và rất đồng ý chỉ chiếm 46%.<br /> <br /> 4<br /> <br /> Cần được tham gia sinh<br /> hoạt xã hội hòa nhập CĐ 3<br /> <br /> 61<br /> <br /> 8<br /> <br /> 27<br /> <br /> Cần được LĐ hòa nhập<br /> 4<br /> CĐ<br /> <br /> 64<br /> <br /> 6<br /> <br /> 26<br /> <br /> Cần được giúp đỡ làm<br /> VS cá nhân hàng ngày 4<br /> <br /> 62<br /> <br /> 11<br /> <br /> 20<br /> <br /> 1<br /> <br /> 3<br /> <br /> Cần được uống thuốc<br /> đều, đúng theo chỉ dẫn<br /> <br /> 23<br /> <br /> 73<br /> <br /> 31<br /> <br /> Cần được khám<br /> Và lĩnh thuốc định kỳ<br /> <br /> 21<br /> <br /> 76<br /> <br /> 21<br /> <br /> Tỷ lệ %<br /> Rất đồng ý<br /> <br /> Đồng ý<br /> <br /> Không ý kiến<br /> <br /> Không đồng ý<br /> <br /> Rất không đồng ý<br /> <br /> Hình 2. Thái độ của NCSC về chăm sóc<br /> Tỷ lệ đồng ý và rất đồng ý với quan điểm NBTTPL cần được khám và lĩnh thuốc định kỳ, cần<br /> được uống thuốc theo chỉ dẫn rất cao, lần lượt là 97% và 96%. Trong khi đó, quan điểm về giúp<br /> đỡ NBTTPL làm vệ sinh cá nhân hàng ngày, hòa nhập xã hội qua lao động và sinh hoạt lại có tỷ<br /> lệ đồng ý thấp hơn đáng kể, chỉ trên 60%.<br /> Phỏng vấn sâu CBYT phụ trách chương trình CSSKTT tại xã cho thấy NCSC chưa chú trọng<br /> đến việc cho NBTTPL hòa nhập cộng đồng. Họ cho rằng NBTTPL không đảm bảo hiệu quả của<br /> công việc, thậm chí còn gây phiền toái.<br /> Tỷ lệ NCSC có thái độ về bệnh và quan điểm chăm sóc NBTTPL tại nhà đúng chỉ chiếm 51%.<br /> 3.4. Thực hành chăm sóc NBTTPL tại nhà<br /> Thực hành chăm sóc của NCSC theo nội dung chương trình CSSKTTCĐ như đưa NB đi khám<br /> và lĩnh thuốc đúng ngày tại trạm Y tế chiếm 91%; cho NB uống thuốc theo chỉ dẫn (90%); cho<br /> NB uống đúng thuốc (88%), đúng liều (85%), đúng thời gian (67%); giúp người bệnh vệ sinh cá<br /> nhân hàng ngày (67%). Nhưng nội dung giúp NB tham gia lao động hòa nhập cộng đồng, giúp<br /> NB sinh hoạt xã hội hòa nhập cộng đồng chiếm tỷ lệ thấp hơn, lần lượt là 60% và 39%.<br /> <br /> 45%<br /> Đạt<br /> Chưa đạt<br /> <br /> 55%<br /> <br /> 5<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2