Kiến thức - thái độ - thực hành của người chăm sóc chính người bệnh tâm<br />
thần phân liệt tại nhà và một số yếu tố liên quan ở huyện Bình Xuyên,<br />
Vĩnh Phúc, năm 2010<br />
Đinh Quốc Khánh*, Trần Hữu Bình**, Nguyễn Thanh Hương***<br />
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG), bệnh tâm thần phân liệt (TTPL) chiếm khoảng 0,3 – 1%<br />
dân số, thường gặp ở tuổi trẻ từ 15-35. Hiện nay, điều trị người bệnh (NB) TTPL tại cộng đồng<br />
phối hợp liệu pháp hoá dược với liệu pháp lao động phục hồi chức năng tâm lý xã hội<br />
(PHCNTLXH) là những liệu pháp chủ đạo để thực hiện mục tiêu tái hoà nhập NB với gia đình<br />
và cộng đồng. Tuy nhiên, liệu pháp này đòi hỏi gia đình NB phải có kiến thức và kỹ năng trong<br />
việc chăm sóc người bệnh (CSNB) tại nhà. Tuy nhiên, ở Việt Nam vấn đề này lại chưa thực sự<br />
được quan tâm nghiên cứu. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm tìm hiểu thực trạng.<br />
Đây là nghiên cứu cắt ngang có phân tích, kết hợp định lượng (phỏng vấn toàn bộ 100 người<br />
chăm sóc chính NBTTPL đang được quản lý) với định tính (phỏng vấn sâu 3 cán bộ Y tế phụ<br />
trách chương trình Chăm sóc sức khỏe tâm thần cộng đồng và 3 cuộc thảo luận nhóm với 18<br />
người chăm sóc chính NBTTPL). Sử dụng phân tích hồi quy logistic để dự đoán một số yếu tố liên<br />
quan đến thực hành CSNB TTPL tại nhà. Kết quả cho thấy người chăm sóc chính (NCSC) có<br />
kiến thức, thái độ và thực hành đạt về chăm sóc NBTTPL tại nhà chỉ lần lượt là 44%, 53% và<br />
45%. Sau khi kiểm soát nhiễu có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức chăm sóc với<br />
thực hành chăm sóc. Nghiên cứu cũng đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường nâng cao công<br />
tác chăm sóc NBTTPL tại nhà ở 3 xã, thị trấn huyện Bình Xuyên.<br />
Từ khóa: Kiến thức; thái độ; thực hành; người chăm sóc chính; tâm thần phân liệt; tại nhà; tỉnh<br />
Vĩnh Phúc; 2010<br />
<br />
Knowledge- attitude- practice of caregivers of patients with schizophrenia at<br />
their familes and factors related to practice at 3 communes of Binh Xuyen<br />
district, Vinh Phuc province, 2010<br />
According to the World Health Organization (WHO) reports recently, schizophrenia is about 0,3<br />
– 1 percent of population. It is common at young age from 15 – 30. Currently, treatment of<br />
schizophrenia in community with the method of chemical- pharmacology in conjunction with<br />
the rehabilitation method of working and socio-mentality which is a major methodology for<br />
helping the patient to re-enter family and community. In supporting to this method, their family<br />
is required to have knowledge and capacity of looking after patients at their home. However, this<br />
method was not reviewed and researched correct way. The purpose of this study is to survey the<br />
reality of knowledge- attitude- practice of caregivers of patients with schizophrenia at their<br />
families and factors related to practice at 3 communes of Binh Xuyen district, Vinh Phuc<br />
province. This is a retrospective study, qualitative analysis (100 caregivers were interviewed<br />
who looked after managed schizophrenia patients, qualitative analysis (3 healthcare staffs were<br />
interviewed who are managing the program of community mentality health. Three group<br />
discussions with the participant of 18 caregivers to schizophrenia patients). Be used retrospective<br />
analysis for forecasting the factors on practical action to the patient at home.<br />
The result of three above surveillances was showed that the percentage of caregivers who have<br />
knowledge, attitude and practice are 44%, 51% and 45%. It was noted on the statistic value<br />
<br />
1<br />
<br />
between the knowledge and practice of caregivers. The study suggested the solutions of<br />
increasing the capacity of caregivers to the patients at home in 3 communes of Binh Xuyen<br />
district.<br />
Keywords: knowledge; attitude; practice; caregivers; patients with schizophrenia; Vinh Phuc<br />
province; 2010<br />
<br />
Tác giả<br />
*<br />
<br />
ThS. Đinh Quốc Khánh, Trưởng phòng Quản lý Học sinh-sinh viên, Phó trưởng bộ môn Điều<br />
dưỡng Truyền nhiễm, Trường Cao đẳng Y tế Hà Nội. Địa chỉ: Số 35 Đoàn Thị Điểm- Quận<br />
Đống Đa- Hà Nội. Email: quockhanh_cdythn@yahoo.com<br />
**<br />
<br />
PGS.TS. Trần Hữu Bình, Viện trưởng Viện Sức khỏe Tâm thần Trung ương, Phó trưởng bộ<br />
môn Tâm thần- Trường Đại học Y Hà Nội.<br />
***<br />
<br />
TS. Nguyễn Thanh Hương, Phó trưởng khoa các Khoa học xã hội, hành vi và Giáo dục sức<br />
khỏe, Đại học Y tế Công cộng<br />
1.<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
<br />
Tâm thần phân liệt là bệnh loạn thần nặng chưa rõ nguyên nhân, có khuynh hướng tiến triển mãn<br />
tính, dần dần gây sa sút các mặt hoạt động tâm thần làm cho NB không thể hoà nhập với cuộc<br />
sống gia đình, cũng như xã hội. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG), bệnh TTPL chiếm<br />
khoảng 0,3 – 1% dân số, thường gặp ở người trẻ tuổi từ 15-35. Ở Việt Nam, bệnh TTPL chiếm<br />
0,6% dân số [3];[4]. Chủ trương đưa NBTTPL về chăm sóc tại cộng đồng theo Chương trình<br />
Quốc gia Chăm sóc sức khỏe tâm thần cộng đồng (CSSKTTCĐ) là phù hợp với đường lối và<br />
nguồn lực của nước ta. Đây là cơ hội tốt để NBTTPL được tái hoà nhập cộng đồng, nhưng cũng<br />
đòi hỏi gia đình NB một trình độ nhận thức nhất định và kỹ năng trong việc chăm sóc người<br />
bệnh (CSNB) tại nhà.<br />
Vai trò của gia đình đối với NBTTPL rất quan trọng. Chính các thành viên trong gia đình phải là<br />
những người có kiến thức cơ bản về bệnh TTPL. Thuốc được quản lý tại gia đình và NCSC cho<br />
NB uống thuốc hàng ngày. Trong gia đình, NCSC phải xác định việc CSNBTTPL không chỉ có<br />
thuốc mà cần được CS toàn diện, đặc biệt là về tâm lý để PHCNTLXH, phát hiện sớm những<br />
dấu hiệu bất thường để thông báo cho cán bộ y tế (CBYT), nhờ đó kịp thời ngăn ngừa tái phát<br />
hoặc diễn biến những cơn bùng phát cấp tính. Đến nay, những nghiên cứu về kiến thức, thái độ<br />
và thực hành của người chăm sóc NBTTPL tại nhà còn rất ít.<br />
Bình Xuyên là một huyện của tỉnh Vĩnh Phúc. Từ năm 2001 đến nay, chương trình CSSKTTCĐ<br />
đã được triển khai hoạt động tại huyện, công tác truyền thông và chăm sóc sức khỏe cho NBTT<br />
đã được triển khai đồng đều ở cả 13 xã/ thị trấn nhưng tình trạng bệnh của NBTTPL điều trị tại<br />
nhà cải thiện không đáng kể, còn NB bỏ thuốc và không đến khám trong các tháng. Ba xã/thị<br />
trấn có số NBTTPL nhiều nhất là xã Tân Phong, thị trấn Hương Canh (huyện lỵ), thị trấn Thanh<br />
Lãng huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc [1]. Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu thực trạng kiến<br />
thức - thái độ - thực hành của người chăm sóc chính người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà<br />
và một số yếu tố liên quan đến thực hành chăm sóc ở 3 xã, thị trấn huyện Bình Xuyên,Vĩnh<br />
Phúc, trên cơ sở đó nhằm đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường nâng cao công tác chăm sóc<br />
NBTTPL tại nhà ở 3 xã, thị trấn huyện Bình Xuyên trong thời gian tới.<br />
<br />
2<br />
<br />
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Thiết kế: Đây là một nghiên cứu cắt ngang có phân tích, kết hợp định lượng với định tính được tiến<br />
hành từ tháng 04 đến tháng 10 năm 2010.<br />
Đối tượng: Người chăm sóc chính NBTTPL tại nhà và cán bộ hiện đang phụ trách chương trình<br />
CSSKTTCĐ của 3 xã/thị trấn.<br />
Địa điểm: tại xã Tân Phong, thị trấn Hương Canh và thị trấn Thanh Lãng huyện Bình Xuyên,<br />
tỉnh Vĩnh Phúc.<br />
Cỡ mẫu nghiên cứu: Toàn bộ người chăm sóc chính NBTTPL tại nhà và cán bộ hiện đang phụ<br />
trách chương trình CSSKTTCĐ của 3 xã/thị trấn, tổng số có 100 NCSC và 3 cán bộ phụ trách<br />
chương trình CSSKTTCĐ tham gia.<br />
Công cụ thu thập số liệu: Bộ câu hỏi thu thập số liệu định lượng (phỏng vấn) bao gồm 4 phần<br />
chính đó là các thông tin chung, kiến thức, thái độ, thực hành của người chăm sóc chính và mối<br />
liên quan đến thực hành chăm sóc NBTTPL tại nhà; Hướng dẫn phỏng vấn cán bộ y tế (3 cuộc);<br />
và hướng dẫn thảo luận nhóm NCSC (3 cuộc với tổng cộng 18 người tham gia)<br />
Cơ sở để đánh giá kiến thức, thái độ thực hành là dựa trên tài liệu hướng dẫn của tác giả Nguyễn<br />
Viết Thiêm [2]. Tiêu chuẩn đánh giá đạt yêu cầu: Bằng cách tính điểm lấy giá trị trên trung bình<br />
của quần thể.<br />
Một số khái niệm dùng trong nghiên cứu:<br />
- Người chăm sóc chính: là người thường xuyên trực tiếp đưa NB đi khám bệnh định kỳ, trực<br />
tiếp đi lĩnh thuốc, cho NB uống thuốc hàng ngày; có thời gian giúp NB làm vệ sinh cá nhân hàng<br />
ngày, trên 18 tuổi, sống cùng với NB.<br />
- NBTTPL được điều trị tại nhà là những người bệnh đã ổn định nhưng vẫn cần phải điều<br />
trị duy trì (được bệnh viện cho về điều trị tại nhà).<br />
Phân tích số liệu: Số liệu định lượng được nhập bằng phần mềm EpiData 3.1 và xử lý bằng phần<br />
mềm SPSS16.0. Sử dụng các Tets thống kê χ2 để phân tích các yếu tố liên quan. Mô hình hồi quy<br />
Logistic được sử dụng để kiểm soát các yếu tố nhiễu.<br />
Số liệu định tính được gỡ băng và xử lý bằng cách mã hóa và trích dẫn theo các chủ đề.<br />
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
3.1 Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu:<br />
Nghiên cứu thực hiên trên 100 người chăm sóc chính NBTTPL tại nhà, gồm 73 nữ và 27 nam;<br />
tuổi < 65 tuổi chiếm 71% và ≥ 65 tuổi 29%. Đa số NCSC là nông dân chiếm 67%. Trình độ học<br />
vấn từ tiểu học trở xuống là 32%, có 4% mù chữ. Tại thời điểm điều tra có 29% là hộ nghèo. Tất<br />
cả những NCSC đều có quan hệ gần gũi với NBTTPL như bố, mẹ, anh chị em; Có 8 NCSC phải<br />
chăm sóc 2 NBTTPL trong một gia đình.<br />
3.2. Kiến thức của người chăm sóc chính NBTTPL tại nhà<br />
Tỷ lệ NCSC biết các dấu hiệu bệnh TTPL như: hay nghi kỵ; Nghe thấy tiếng nói bất thường;<br />
Giảm hiệu suất học tập, làm việc; Ngại giao tiếp; Luôn căng thẳng, lo sợ; Có ý nghĩ bất thường;<br />
Không tập trung chú ý; Có những hành vi lạ là rất thấp. Phần lớn NCSC chỉ nêu ra được một số<br />
<br />
3<br />
<br />
dấu hiệu như: dễ cáu gắt/giận dữ (78%), ngôn ngữ rời rạc, khó hiểu (57%), rối loạn giấc ngủ<br />
(50%).<br />
Tỷ lệ NCSC nêu được những hoạt động giúp NBTTPL hòa nhập cộng đồng không cao, như giúp<br />
NB làm vệ sinh cá nhân hàng ngày (50%); lao động và sinh hoạt xã hội, tương ứng là 63% và<br />
46%. NCSC chỉ nêu ra được một số công việc như: Cho người bệnh uống thuốc đều và đúng<br />
theo chỉ dẫn; Giúp cho người bệnh ăn uống hàng ngày. Qua thảo luận nhóm NCSC cũng cho kết<br />
quả tương tự, NCSC chỉ đề cập đến việc cho NB uống thuốc đều, theo chỉ dẫn và cho NB ăn<br />
uống hàng ngày.<br />
Do vậy, tỷ lệ NCSC có kiến thức về bệnh và nội dung cần chăm sóc NBTTPL tại nhà đạt chỉ<br />
chiếm 44%.<br />
3.3. Thái độ của người chăm sóc chính về bệnh và CSNBTTPL tại nhà<br />
Được chăm sóc và điều<br />
trị sẽ tiến triển tốt<br />
Cần được hiểu rõ<br />
bệnh của mình<br />
<br />
24<br />
<br />
3<br />
<br />
43<br />
<br />
Cần được cộng đồng<br />
quân tâm??và giúp đỡ<br />
Không được chăm sóc tốt<br />
dần dần tách khỏi CS bên<br />
ngoài,thu vào thế giới bên<br />
trong<br />
Bệnh tiến triển từ từ,<br />
khuynh hướng mạn tính<br />
<br />
73<br />
<br />
16<br />
<br />
59<br />
<br />
21<br />
<br />
36<br />
<br />
2<br />
<br />
40<br />
<br />
14<br />
<br />
16<br />
<br />
1<br />
<br />
84<br />
<br />
11<br />
<br />
80<br />
<br />
4<br />
<br />
Tỷ lệ %<br />
<br />
Rất đồng ý<br />
<br />
Không ý kiến<br />
<br />
Đồng ý<br />
<br />
Không đồng ý<br />
<br />
Rất không đồng ý<br />
<br />
Hình 1. Thái độ của NCSC về bệnh TTPL<br />
Hình 1 cho thấy quan điểm “NBTTPL cần được hiểu rõ bệnh của mình” lại thấp hơn nhiều, tỷ lệ<br />
đồng ý và rất đồng ý chỉ chiếm 46%.<br />
<br />
4<br />
<br />
Cần được tham gia sinh<br />
hoạt xã hội hòa nhập CĐ 3<br />
<br />
61<br />
<br />
8<br />
<br />
27<br />
<br />
Cần được LĐ hòa nhập<br />
4<br />
CĐ<br />
<br />
64<br />
<br />
6<br />
<br />
26<br />
<br />
Cần được giúp đỡ làm<br />
VS cá nhân hàng ngày 4<br />
<br />
62<br />
<br />
11<br />
<br />
20<br />
<br />
1<br />
<br />
3<br />
<br />
Cần được uống thuốc<br />
đều, đúng theo chỉ dẫn<br />
<br />
23<br />
<br />
73<br />
<br />
31<br />
<br />
Cần được khám<br />
Và lĩnh thuốc định kỳ<br />
<br />
21<br />
<br />
76<br />
<br />
21<br />
<br />
Tỷ lệ %<br />
Rất đồng ý<br />
<br />
Đồng ý<br />
<br />
Không ý kiến<br />
<br />
Không đồng ý<br />
<br />
Rất không đồng ý<br />
<br />
Hình 2. Thái độ của NCSC về chăm sóc<br />
Tỷ lệ đồng ý và rất đồng ý với quan điểm NBTTPL cần được khám và lĩnh thuốc định kỳ, cần<br />
được uống thuốc theo chỉ dẫn rất cao, lần lượt là 97% và 96%. Trong khi đó, quan điểm về giúp<br />
đỡ NBTTPL làm vệ sinh cá nhân hàng ngày, hòa nhập xã hội qua lao động và sinh hoạt lại có tỷ<br />
lệ đồng ý thấp hơn đáng kể, chỉ trên 60%.<br />
Phỏng vấn sâu CBYT phụ trách chương trình CSSKTT tại xã cho thấy NCSC chưa chú trọng<br />
đến việc cho NBTTPL hòa nhập cộng đồng. Họ cho rằng NBTTPL không đảm bảo hiệu quả của<br />
công việc, thậm chí còn gây phiền toái.<br />
Tỷ lệ NCSC có thái độ về bệnh và quan điểm chăm sóc NBTTPL tại nhà đúng chỉ chiếm 51%.<br />
3.4. Thực hành chăm sóc NBTTPL tại nhà<br />
Thực hành chăm sóc của NCSC theo nội dung chương trình CSSKTTCĐ như đưa NB đi khám<br />
và lĩnh thuốc đúng ngày tại trạm Y tế chiếm 91%; cho NB uống thuốc theo chỉ dẫn (90%); cho<br />
NB uống đúng thuốc (88%), đúng liều (85%), đúng thời gian (67%); giúp người bệnh vệ sinh cá<br />
nhân hàng ngày (67%). Nhưng nội dung giúp NB tham gia lao động hòa nhập cộng đồng, giúp<br />
NB sinh hoạt xã hội hòa nhập cộng đồng chiếm tỷ lệ thấp hơn, lần lượt là 60% và 39%.<br />
<br />
45%<br />
Đạt<br />
Chưa đạt<br />
<br />
55%<br />
<br />
5<br />
<br />