intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kinh Tế Học Cổ Điển và Chủ Nghĩa Tư Bản

Chia sẻ: Hoang Chau | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

142
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Do sự tích luỹ tư bản cùng với sự phát triển ồ ạt của dân số đã khiến cho ngành trồng trọt liên tục chuyển từ những mảnh đất tốt hơn sang những mảnh đất nghèo nàn hơn, hay do chi phí đầu tư vào số lượng đất giới hạn ngày càng tăng, thì hậu quả tất yếu là làm giảm lợi nhuận và làm tô thuế liên tục gia tăng, và do đo một phần sản lượng của quốc gia sẽ vào tay của tầng lớp địa chủ. ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kinh Tế Học Cổ Điển và Chủ Nghĩa Tư Bản

  1. Kinh Tế Học Cổ Điển và Chủ Nghĩa Tư Bản Do sự tích luỹ tư bản cùng với sự phát triển ồ ạt của dân số đã khiến cho ngành trồng trọt liên tục chuyển từ những mảnh đất tốt hơn sang những mảnh đất nghèo nàn hơn, hay do chi phí đầu tư vào số lượng đất giới hạn ngày càng tăng, thì hậu quả tất yếu là làm giảm lợi nhuận và làm tô thuế liên tục gia tăng, và do đo một phần sản lượng của quốc gia sẽ vào tay của tầng lớp địa chủ. Nhưng Ricardo đồng tình với quan điểm của Malthus là tiền lương ở mức vừa đủ sống cố định hay không (hoặc giả tăng chậm do yêu cầu tái sản xuất của tầng lớp lao động gia tăng) là do sự phát triển của dân số. Nói cách khác, nếu tiền lương tăng so với "mức giá tự nhiên" của sức lao động (tức là so với mức
  2. vừa đủ sống) thì cuộc sống người công nhân sẽ khá hơn, số lượng công nhân sẽ tăng và tiền lượng lại sẽ giảm. Tương tự thế, nếu lương giảm dưới mức bình thường, thì số lượng công nhân sẽ giảm và lương lại sẽ tăng. Đây cũng là vấn đề mà Ricardo quan tâm (trong chương 2 quyển Những Quy Luật của ông): Đó là khi giá lao động thị trường vượt qua mức giá bình thường của nó, điều kiện làm việc tốt và vui vẻ, người lao động có quyền đòi hỏi nhiều hơn về những nhu cầu thiết yếu cho họ và tận hưởng cuộc sống, và do đó họ có thể nuôi cả một gia đình đông đúc khoẻ mạnh. Tuy nhiên với những điều kiện động viên như thế - lương tăng cao cho số người tăng lên - thì số lượng công nhân tăng lên, lương lại giảm xuống mức cơ bản, và thật vậy từ sự phản tác dụng đôi khi làm nó giảm đi. Khi giá lao động thị trường giảm xuống so với mức cơ bản, điều kiện làm việc thì kém: do đó cái nghèo đã tước đi những thứ tiện nghi thiết yếu đã trở thành quá quen của họ. Và nảy sinh ra tình trạng sau đó, sự thiếu thốn của họ làm giảm đi số nhân công, hay
  3. nói cách khác nhu cầu về lao động tăng lên, giá lao động thị trường lại tăng so với mức giá cơ bản, và người lao động sẽ có được những tiện nghi vừa phải mà mức lương cơ bản mang đến." Lưu ý: do đó Ricardo đồng tình quan điểm với Malthus khi công kích Luật Tế Bần của Anh và kêu gọi huỷ bỏ nó hoàn toàn và tạo một thị trường lao động tự do. Do đó nếu tô thuế tăng và lương giữ nguyên không đổi, thì lợi nhuận sẽ bị mức tô thuế tăng và mức lương giữ nguyên đó (hoặc tăng) chèn ép và sẽ giảm đi. Bởi vì lợi nhuận là phương tiện dùng cho đầu tư nên với khuynh hướng giảm lợi nhuận như thế sẽ thật sự làm cho tình trạng sản xuất càng trở nên trì trệ. Như Ricardo kết luận trong chương 6 về vấn đề lợi nhuận: "Khuynh hướng tự nhiên của lợi nhuận là giảm xuống do quá trình phát triển của dân số và tài sản, phần lượng thực phẩm tăng thêm chỉ có thể đạt được do sự hy sinh ngày càng nhiều của tầng
  4. lớp lao động. […] tỉ lệ lợi nhuận thấp như thế sẽ kìm hãm sự tích luỹ và hầu như là kìm hãm sản lượng chung của cả nước, sau khi trả lương, thì sẽ là tài sản của chủ đất và của những người thu thuế thập phân và những loại thuế khác." Do vậy, những lý thuyết về lương, lợi nhuận, và tô thuế của Ricardo làm cho viễn cảnh tương lai của tư bản chủ nghĩa thậm chí còn ảm đạm hơn những gì mà Malthus nói. Không chỉ người nghèo không thể giàu có mà cả những nhà tư bản cũng thế. Chỉ có địa chủ là hưởng lợi và với sự phát triển của lợi nhuận như vậy thì chỉ làm cho họ trắng tay do lợi nhuận giảm cũng làm cho đầu tư giảm theo và sản xuất đình trệ. Vấn đề "khủng hoảng thừa" Ricardo đã đồng tình với Quy Luật Say, và dùng nó như một lập luận chống lại ý kiến cho rằng khủng hoảng được tạo ra trong quá trình tích luỹ thông, mà Keynes gọi là "tổng mức cầu không thoả", tức là tổng mức cầu cho các loại hàng hoá không được thoả mãn đầy đủ dẫn đến sự cung ứng những loại hàng này cho thị trường. Ông ta cũng không
  5. sai khi nhận ra một vài thị trường có thể bị khủng hoảng thừa - trong thời của ông ta nó là vấn đề thường bị tái diễn - nhưng khủng hoảng đó không trở thành cuộc khủng hoảng phổ biến rộng khắp. Trong quyển Những Quy Luật, chương 21 về "Những Hậu Quả Của Tích Luỹ Lợi Nhuận Và Lợi Tức", ông có đề cập đến vấn đề này: Chúng ta dùng chính sản xuất hay dịch vụ để mua sản xuất; tiền chỉ là một phương tiện trao đổi trung gian hữu hiệu mà thôi. Khi một sản phẩm nào đó được làm ra quá nhiều thì thị trường của sản phẩm đó sẽ bị khủng hoảng thừa, để không phải hoàn lại số vốn đã bỏ ra cho sản phẩm đó; nhưng đây không phải là trường hợp chung cho tất cả các loại hàng hoá; mức cầu của bắp ngô giới hạn với số người ăn, mức cầu của giày dép và áo khoát giới hạn với số người mặc; thế nhưng cả
  6. cộng đồng hoặc một phần có thể muốn tiêu thụ ngô cũng như nón và giày dép nhiều hơn. Một số người có thể tiêu thụ nhiều rượu hơn nếu họ có khả năng mua nó. Còn những người đã tiêu thụ đủ rượu rồi thì lại muốn mua hoặc nâng cấp chất lượng đồ đạc trong nhà. Những người khác thì muốn trang trí lại khu vườn hay xây nhà của họ to thêm. Ước muốn làm được những điều như thế đã khắc sâu vào mỗi con người chúng ta; để thực hiện chẳng cần gì ngoài phương tiện, để có được phương tiện chẳng cần gì ngoài gia tăng sản xuất. Nếu tôi có thức ăn và những thứ cần thiết tuỳ nghi sử dụng, thì tôi không phải chờ đợi để có được chúng như những người công nhân - những người mà đã đem đến cho tôi quyền được sở hữu những gì hữu dụng đối với tôi và những gì tôi muốn" (đây là vấn đề tôi quan tâm) Việc bác bỏ khả năng khủng hoảng thừa là phổ biến lại bị Malthus bác bỏ bằng những lập luận riêng của mình, khi nhìn lại, đã biến ông trở thành những người khởi đầu cho dòng lập luận thiên về lý thuyết, những lập luận liên quan đến tầm quan trọng
  7. của vấn đề tích luỹ tổng mức cầu thoả đáng, những lập luận này hoạt động xuyên suốt từ thời của ông với những bài phê bình chủ nghĩa tư bản của Marx và John Hobson cho đến thời đại với những bài viết của những vị cứu tinh như John Maynard Keynes. Trong phần III chuơng I tập I quyển Những Quy Luật Kinh Tế Chính Trị, ông nói lên sự phản bác của mình như sau: "Một số tác giả tài năng nghĩ rằng mặc dù một loại hàng hoá nào đó dễ dàng bị khủng hoảng thừa, nhưng không phải tất cả các mặt hàng đều như vậy; bởi vì theo như quan điểm của họ về vấn đề này thì hàng hoá luôn được trao đổi bằng hàng hoá, một nửa này sẽ cung cấp cho thị trường dành cho nửa còn lại, và do đó sản xuất chỉ thoả mản cho một nguồn nhu cầu duy nhất, một sản phẩm có mức cung quá thừa chứng tỏ rằng mức cung cho một số sản phẩm khác lai thiếu hụt, và đối với trường hợp mức cung chung thì không xãy ra như vậy.[…] Tuy nhiên, học thuyết này trong khi nó được áp dụng nhiều nhưng đối với tôi nó hoàn toàn
  8. vô căn cứ, và hoàn toàn trái với những nguyên tắc về luật cung và cầu." Trong phần đó ông đặt ra một vấn đề liệu có khả năng gia tăng nguồn tiền tiết kiệm và đầu tư (tích luỹ) đối với sự phát triển có bị giới hạn gì hay không. Và câu trả lời của ông là vẫn có một số giới hạn nào đó, những giới hạn này có là do khi nguồn tiền tiết kiệm gia tăng cùng với chi phí giảm vì nhu cầu giảm. Ông chỉ ra rằng trong quyển Những Quy Luật của mình Ricardo đã thừa nhận nếu lương tăng ,số lợi nhuận giảm dần, và những nhà tư bản thì tìm kiếm cho mình những khoản khác bù vào đó về cơ bản là giảm bớt chi tiêu nhằm có được thặng dư để đầu tư, thì việc giảm nhu cầu tiêu thụ của họ gắn liền với sự tích luỹ và gia tăng mức cung , cả ba vấn đề này có thể là nguyên nhân dẫn đến "những cơn tổng khủng hoảng thừa". Tuy nhiên, Ricardo lại xác nhận rằng "những gì được nói trên không phải là một nguyên tắc chung", tức là cơn khủng hoảng chung là không thể xãy ra. Ngược lại Malthus nói là do "một nước có thể gia tăng lượng tiền
  9. nhằm duy trì nguồn lao động nhanh hơn là gia tăng dân số" cho nên trường hợp đặc biệt của Ricardo chẳng phải là đặc biệt gì và có thể tái diễn đều đặn. Đối với vấn đề này, Malthus cũng đưa thêm vào một số lập luận khác: giả sử năng xuất tăng và hàng hoá giảm giá chẳng phải làm cho nhu cầu hàng hoá tăng lên mà là tăng nhu cầu để có thời gian rảnh rổi ("sự biếng nhác"). Ông nói khuynh hướng thích có thời gian nhàn rổi như thế (và chúng ta biết rằng ông nghĩ là người công nhân ghét phải làm việc) nghĩa là cung sẽ vượt cầu và "một cơn khủng hoảng chung" sẽ xãy ra. Sau cùng Malthus lập luận: thật sai lầm khi cho rằng -như Ricardo cho là như thế -- việc chi tiêu số tiền tiết kiệm dành cho tích luỹ sẽ tạo ra nhu cầu gia tăng sản luợng khi được đầu tư. Lấy nông dân và nhà sản xuất làm ví dụ, ông nói là số tiền tiết kiệm của họ gia tăng thì nhu cầu của mỗi người về hàng hoá của người còn lại sẽ giảm và sẽ tạo nên cơn khủng hoảng chung. Dĩ nhiên trong lập luận này Malthus lại không phân biệt được "mặt
  10. hàng sản xuất" và "mặt hàng tiêu dùng" và do đó không thể đánh giá đúng mức cầu cho "mặt hàng sản xuất" -- một sai lầm thông thường trong lịch sử những thuyết "tiêu thụ dưới mức" của trong cơn khủng hoảng. Bàn về vấn đề Luật Hạn Chế Nhập Khẩu Ngô vào Anh Quốc Một luận điểm không thống nhất giữa Malthus và Ricardo về một vấn đề khác - một vấn đề gây nhiều tranh cải trong xã hội - chính là Luật hạn chế nhập khẩu ngô - mà theo luật này cũng hạn chế nhập khẩu cả lúa mì - có nên bị giảm bớt hay loại bỏ hay không. Hiện tại, những việc có liên quan đến tranh cải này nên được làm sáng tỏ dựa vào những vấn đề xung đột trong Tổ Chức Thuơng Mại Thế Giới (WTO) cũng như những nổ lực của tổ chức này nhằm tiến đến giảm bớt hàng rào mậu dịch. Ngay sau những cuộc chiến tranh của Napoleon, những người bạn thuộc nghị viện của tầng lớp địa chủ đã giới thiệu luật này vào năm 1815 nhằm giử cho mức giá ngũ cốc ở mức cao, những
  11. loại ngũ cốc này chiếm nhiều ưu thế trong thời gian xãy ra chiến tranh do mậu dịch bị chiến tranh làm cho đình trệ. Giá ngũ cốc duy trì ở mức cao liên tục như thế gây hại cho cả người công nhân - những người phải trả tiền mua bánh mì, và cả nhà sản xuất - những người phải trả đủ lương cho công nhân mua bánh mì, và gây tôn hại đến những ai có khả năng xuất khẩu nhưng lại bị giới hạn bởi những nước không thể bán lúa mì sang nước Anh. Sau khi thông qua sửa đổi năm 1832 với sự tán đồng của tầng lớp tiểu tư sản và thương buôn và buộc nghị viên phải quan tâm chú ý đến họ, họ bắt đầu lập ra tổ chức nhằm kêu gọi bãi bỏ đạo luật đó. Một tổ chức chống đạo luật đó được thành lập vào năm 1836 và vào năm 1839 trở thành Hội Liên Hiệp Chống Luật Hạn Chế Nhập Ngô. Chiến dịch này hoạt động cho đến năm 1846 vì khi đó xãy ra nạn đói lớn ở Ái Nhĩ Lan, và chính phủ đã huỷ bỏ đạo luật này. Nạn đói này xãy ra thường không phải do thiếu lương thực mà do người công nhân không có đủ tiền để mua.
  12. Không đủ tiền mua lương thực do hai nguyên nhân: đầu tiên nguyên nhân trực tiếp của cái nghèo là mùa màng thu lợi chính của Ái Nhĩ Lan thất bát do sâu bệnh, thứ hai - mang tính lịch sử, là do đế quốc Anh xâm chiếm Ái Nhĩ Lan, chiếm hết đất của họ chỉ chừa lại một phần đất nhỏ để họ trồng trọt mà thôi. Xin lưu ý rằng, trang "Web Victoria" không nói sâu về nạn đói mà chỉ tập trung vào Anh, đầu tiên họ phớt lờ đến nạn đói này, sau đó lại cung cấp một phần cứu trợ ít ỏi và sau đó gửi quân sang kiểm soát vùng thuộc địa này. Kết quả từ những chính sách của đế quốc Anh là cái chết hàng loạt của những người dân thuộc địa: dân số Ái Nhĩ Lan từ 8,2 triệu người giảm xuống còn 6,5 triệu trong vòng mười năm. Dù sao đi nửa, như trang web này có nói đến, việc huỷ bỏ bộ luật này cũng chẳng giúp gì cho người Ái Nhĩ Lan trong cơn khủng khiếp này bởi vì thậm chí khi giá thực phẩm hạ xuống thấp nhưng họ cũng vẫn không đủ tiền mua. Chính những sự kích động chống đối lại bộ luật gây nên cuộc tranh cãi giữa Malthus và Ricardo. Cả hai người họ sớm đi vào
  13. cuộc tranh luận, đầu tiên là Malthus với bài luận Luật Hạn Chế Nhập Ngô năm 1814 và một bài khác Một Số Lý Do Cho Quan Điểm Về Chính Sách Hạn Chế Nhập Khẩu Ngô Từ Nước Ngoài năm 1815 và cùng năm đó Ricardo đưa ra bài phản luận: Luận Về Những ảnh Hưởng Mức Giá Thấp Của Ngô Đến Lợi Nhuận Vốn. Trong khi bài luận đầu vào 1814 của Malthus cố gắng thể hiện và đánh giá cả những lý lẽ trái ngược nhau, thì bài thứ hai rõ ràng nghiêng về ủng hộ cho bộ luật này. Mặc dù ông nhận ra những ưu thế thông thường mà mậu dịch tự do mang đến bao gồm cả cách mà khi nhập khẩu lúa mì tăng thì làm cho giá ngũ cốc cũng như bánh mì giảm, nhưng Malthus cũng cho rằng những trường hợp đặc biệt như vậy đã làm cho thuế xuất nhập khẩu tăng cao. Những trường hợp đặc biệt mà ông đưa ra đều là những rủi ro đối với những quốc gia khác đặc biệt là Pháp với sản lượng ngũ cốc khổng lồ, những quốc gia này cố gắng xuất khẩu ngũ cốc ra nước ngoài nhưng xuất khẩu sang Anh thì có thể bị cắt giảm. Hay
  14. nói cách khác, ông cho rằng, người Anh phải lãnh chịu hậu quả khi theo đường lối tự do mậu dịch trong khi những nước khác thì không. Khi đưa ra trường hợp thế này, ông cũng nêu trường hợp cắt giảm nhập khẩu ngũ cốc vào Anh trước đó, tức là trong suốt thời gian nổ ra chiến tranh thời Napoleon, và cho thấy những hậu quả từ việc tăng giảm giá cũng như trữ lượng ngũ cốc một cách đột ngột và mạnh mẽ. Để phản luận lại Malthus, Ricardo bàn về vấn đề tô thuế -- nhưng nhìn chung cũng đồng ý với Malthus về vấn đề này - và tiếp tục tranh luận rằng mức giá thực phẩm và tô thuế phải nộp cho địa chủ quá cao khi đó chỉ làm lợi cho họ và gây tổn hại cho những người khác: "lợi ích của tầng lớp địa chủ luôn đối lập với lợi ích của những tầng lớp khác trong xã hội. Ông ta chẳng bao giờ có được một cái nhìn bao quát, bởi vì khi đó thực phẩm khan hiếm và đắt đỏ trong khi mọi người khác lại có thể mua được thực phẩm với giá rẻ."
  15. Những gì Ricardo lưu tâm trong vấn đề mức giá cao của thực phẩm là chính nó ban đầu được hỗ trợ bởi sự thiếu vắng số ngũ cốc nhập khẩu suốt những năm chiến tranh, và sau đó lại được Luật Hạn Chế Nhập Khẩu Ngô hậu thuẫn và gây tác động tiêu cực đến lợi nhuận vốn: "chúng ta có thể dễ dành chứng minh được rằng trong mỗi xã hội mà khi tài sản cũng như dân số của nó tăng trưởng độc lập với những tác động do mức lương nhiều hay ít gây ra, thì lợi nhuận chung phải giảm trừ khi nông nghiệp được cải tiến, và có thể nhập khẩu ngô với giá rẻ hơn." Do vậy, tốt hơn hết là giữ nguyên mọi thứ nhưng giá ngũ cốc phải rẽ hơn thông qua tự do nhập khẩu bởi vì nó sẽ giúp làm giảm mức lương và tăng lọi nhuận. Nhưng Malthus cho rằng không phải mọi thứ đều được giữ nguyên không đổi, mà ngược lại còn gây ra mối nguy hại cho việc nhập khẩu ngũ cốc vào Anh và do đó nền kinh tế Anh có nguy cơ bị tác động tiêu cực mạnh mẽ. Về mặt này, Ricardo đáp lại rằng: thứ nhất, một khi lượng ngũ cốc xuất khẩu sang Anh đạt được trữ
  16. lượng lớn trở thành một việc bình thường rồi thì không có nước nào có thể cắt giảm được trữ lượng xuất đó nữa trừ khi mùa màng thất bái hay có bạo loạn xãy ra (ông có trích dẫn ví dụ về hậu quả của việc Bonaparte cắt giảm lượng xuất ngũ cốc của Nga);thứ hai, cũng giống như thời đó nước Anh vẫn có thể có được số ngũ cốc từ những quốc gia khác (như Mỹ đã nhận ra điều này khi nó phong toả không cho bán ngũ cốc sang Afghanistan trong suốt thời kỳ mà Afghanishtan còn chịu sự ảnh hưởng của Xô-Viết) đặc biệt là khi Anh thi hành chính sách tự do mở rộng thị trường thì những nhà sản xuất từ các nuớc kéo nhau phát triển sản xuất với một mục đích duy nhất là xuất khẩu qua Anh; thứ ba, sự giảm sút trong sản xuất nông nghiệp của Anh do giá ngũ cốc rẽ có thể được làm lắng dịu lại bằng chính sách mậu dịch ngày càng tự do hơn và dù cho có rút vốn ra khỏi ngành nông nghiệp và đầu tư vào sản xuất các mặt hàng có giá trị và dù cho chi tiêu của địa chủ có giảm đi do tô thuế giảm thì cũng có thể lấy mức chi tiêu gia tăng từ lợi nhuận và lương để bù vào.
  17. Như đã được đề cập ở trên, mặc dù Ricardo và những người chống đối lại luật hạn chế nhập ngô nhìn chung được sự ủng hộ của những học giả trong những cuộc tranh luận, nhưng quyền hạn của tầng lớp địa chủ chính là để duy trì bộ luật hạn chế nhập ngô, thay thế cho những bộ luật khác trong vòng 30 năm.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2