BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

*********

HUỲNH CÔNG MINH KINH TẾ NGẦM TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI FDI, CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP: BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM TỪ CÁC NƯỚC CHÂU Á

Chuyên ngành: Kinh tế phát triển Mã số: 9310105

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018

Công trình này được hoàn thành tại: Trường Đại học Kinh tế Thành Phố Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Nguyễn Hoàng Bảo 2. TS. Nguyễn Vũ Hồng Thái Phản biện 1 : ............................................................................... ............................................................................... Phản biện 2 : ............................................................................... ............................................................................... Phản biện 3 : ............................................................................... ...............................................................................

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp

trường họp tại:: ...................................................... ............................................................................... Vào hồi …………giờ …………ngày............tháng …………năm …………

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Thư viện Đại học Kinh

tế Thành Phố Hồ Chí Minh.

1

CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU

1.1 Bối cảnh nghiên cứu

1.1.1 Bối cảnh thực tiễn

Trong những thập niên gần đây, kinh tế ngầm, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chất lượng thể

chế và bất bình đẳng thu nhập đã thu hút rất nhiều sự quan tâm nghiên cứu của giới học thuật, vì những

biến số này đều liên quan đến tăng trưởng kinh tế (Borensztein et al, 1998; Kandil, 2009; Schneider &

Bajada, 2003); Barro, 2000). Đặc biệt, những biến số này và mối quan hệ của chúng càng trở nên đáng

được nghiên cứu trong bối cảnh châu Á bởi những vấn đề đang nổi lên của nó, đó là: dòng vốn FDI cao

nhưng chất lượng thể chế thấp, quy mô kinh tế ngầm lớn và bất bình đẳng thu nhập tăng. Châu Á hiện

thu hút 1/3 tổng tổng số dòng vốn FDI trên thế giới (UNCTAD, 2017), nhưng chất lượng thể chế vẫn

còn thấp (WB, 2017b)- một trong những nguyên nhân có thể gây bẫy thu nhập trung bình trong khu

vực (Dollar, 2015). Trong khi đó, sự gia tăng quy mô của nền kinh tế ngầm bóp méo việc phân bổ

nguồn lực, làm thay đổi phân phối thu nhập và giảm nguồn thu từ thuế của chính phủ (Alm & Embaye,

2013). Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế nhanh chóng ở châu Á đã góp phần giảm nghèo nhưng lại mở

rộng khoảng cách thu nhập ở nhiều nước (Zhuang và cộng sự, 2014)- điều này làm cản trở tốc độ giảm

nghèo nhờ tăng trưởng (Ravallion, 2004) hoặc có thể tác động tiêu cực đến chất lượng thể chế (Chong

& Gradstein, 2007b; và Zhuang et al., 2010).

1.1.2 Bối cảnh lý thuyết

FDI, chất lượng thể chế và kinh tế ngầm

Sự thất bại trong việc giải thích các hiện tượng kinh tế bằng một lý thuyết đã dẫn đến xu hướng sử

dụng cách tiếp cận tích hợp để giải quyết vấn đề trong những thập kỷ gần đây (Torgler & Schneider,

2009). Mối quan hệ giữa FDI, chất lượng thể chế và kinh tế ngầm có thể được chia thành ba hướng

nghiên cứu. Hướng đầu tiên tập trung vào mối quan hệ giữa FDI và chất lượng thể chế, dựa vào các lý

thuyết về thương mại quốc tế (Dunning, 1980; Westney, 1993) và thể chế (North, 1990). Hầu hết các

nghiên cứu đều cho thấy vai trò của chất lượng thể chế trong việc thu hút dòng vốn FDI, nhưng tác

động phản hồi của FDI lên chất lượng thể chế lại ít được quan tâm nghiên cứu. Hướng thứ hai tập

trung vào chất lượng thể chế thấp như một nhân tố chính của nền kinh tế ngầm, dựa trên trường phái

Chủ nghĩa Pháp lý (Legalism) về nền kinh tế phi chính thức (Johnson và cộng sự, 1998; Hassan &

Schneider, 2016). Tuy nhiên, không có nghiên cứu nào về tác động phản hồi của nền kinh tế ngầm lên

chất lượng thể chế. Hướng thứ ba nghiên cứu mối quan hệ giữa FDI và kinh tế ngầm, đây vẫn còn là

2

một khoảng trống. Bằng cách xem xét chất lượng thể chế trong mối quan hệ hai chiều giữa FDI và kinh

tế ngầm là sự đóng góp của luận án vào học thuật bằng cách kết hợp ba lý thuyết bao gồm thương mại

quốc tế, thể chế hóa và chủ nghĩa pháp lý. Theo đó, FDI có thể làm giảm quy mô kinh tế ngầm thông

qua kênh cải thiện chất lượng thể chế do FDI mang lại; và quy mô kinh tế ngầm cao sẽ làm giảm chất

lượng thể chế và chất lượng thể chế thấp có thể ngăn cản dòng vốn FDI. Bên cạnh đó, dòng vốn FDI có

thể làm giảm quy mô kinh tế ngầm thông qua các kênh khác như tạo việc làm và thúc đẩy tăng trưởng

khu vực kinh tế chính thức.

Kinh tế ngầm và bất bình đẳng thu nhập

Rosser et al. (2000, 2003) cho thấy rằng mức độ bất bình đẳng thu nhập và quy mô của nền kinh tế

phi chính thức có mối quan hệ cùng chiều. Bất bình đẳng tăng sẽ gây ra nhiều hoạt động không chính

thức hơn do sự đoàn kết và tin tưởng xã hội giảm; trong khi đó việc mở rộng các hoạt động phi chính

thức dẫn đến bất bình đẳng tăng do nguồn thu thuế giảm sẽ làm yếu các chính sách phân phối lại thu

nhập. Tuy nhiên trong luận án này, bằng cách kết hợp ba trường tư tưởng về kinh tế ngầm - bao gồm

Dualism, Legalism và Voluntarism, tác giả đề xuất một lập luận mới: kinh tế ngầm làm giảm bất bình

đẳng thu nhập.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu

Luận án có hai mục tiêu nghiên cứu chính: (1) kiểm tra mối quan hệ nhân quả ba chiều giữa

FDI, chất lượng thể chế và nền kinh tế ngầm ở các nước châu Á; (2) nghiên cứu tác động của nền kinh

tế ngầm lên bất bình đẳng thu nhập và kênh tác động ở châu Á.

1.3 Câu hỏi nghiên cứu

1. Mối quan hệ hai chiều giữa dòng vốn FDI và chất lượng thể chế là gì?

2. Mối liên kết hai chiều giữa chất lượng thể chế và kinh tế ngầm có tồn tại không?

3. Mối quan hệ hai chiều giữa nền kinh tế ngầm và FDI là gì?

4. Sự tương tác giữa chất lượng thể chế và FDI tác động lên nền kinh tế ngầm như thế nào?

5. Kinh tế ngầm ảnh hưởng đến bất bình đẳng thu nhập ra sao và thông qua các kênh nào?

1.4 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Trong luận án này, đối tượng nghiên cứu là: các mối quan hệ ba chiều giữa FDI, chất lượng thể

chế và kinh tế ngầm; và tác động của kinh tế ngầm lên bất bình đẳng thu nhập. Những khái niệm này

được định nghĩa rõ ràng trong chương 2. Phạm vi nghiên cứu giới hạn ở 19 quốc gia châu Á được phân

3

thành 4 khu vực: i) Đông Á: Trung Quốc, Mông Cổ; ii) Nam Á: Ấn Độ, Bangladesh, Bhutan,

Maldives, Nepal, Pakistan và Sri Lanka; iii) Đông Nam Á: Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia,

Myanmar, Philippines, Thái Lan và Việt Nam; iv) Trung Á: Kazakhstan, Kyrgyzstan. Dữ liệu cho các

biến trong luận án được thu thập hàng năm trong giai đoạn 1999-2015.

1.5 Phƣơng pháp nghiên cứu và dữ liệu

Phương pháp định lượng được sử dụng cho cả hai mục tiêu nghiên cứu. Để kiểm tra mối quan

hệ ba chiều giữa FDI, chất lượng thể chế và kinh tế ngầm ở các nước châu Á, tác giả sử dụng mô hình

hệ phương trình đồng thời (SEM) với hai phương pháp ước lượng bao gồm Bình phương tối thiểu ba

giai đoạn (3SLS) và Moment tổng quát hóa hệ thống hai bước (Two Steps SGMM). Trong khi đó, mô

hình phương trình tuyến tính được áp dụng để nghiên cứu tác động của kinh tế ngầm lên bình đẳng thu

nhập, sử dụng 3 phương ước lượng: Tác động cố định (FE), tác động ngẫu nhiên (RE) và SGMM hai

bước.

Tất cả các biến trong luận án được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm Medina &

Schneider (2018); World Development Indicators (WDI), World Bank (WB); Worldwide Governance

Indicators (WGIs), WB; The International Country Risk Guide (ICRG), Political Risk Services (PRS)

Group; UNESCO Institute for Statistics; Global Wage Report 2017, International Labor Organization

(ILO); Freedom in the World, Freedom House; Index of Economic Freedom, The Heritage Foundation;

Economic Freedom Report 2016, the Fraser Institute; Global Competitiveness Index (GCI), World

Economic Forum; KOF Globalization Index, KOF Swiss Economic Institute; International Monetary

Fund (IMF); Human Development Report, United Nations Conference on Trade and Development

(UNCTAD).

1.6 Đóng góp của luận án

Thứ nhất, luận án kết hợp ba học thuyết về thương mại quốc tế, thể chể hóa và kinh tế ngầm thông

qua cách tiếp cận tích hợp để nghiên cứu mối quan hệ ba chiều giữa FDI, chất lượng thể chế và kinh tế

ngầm lần đầu tiên ở các quốc gia châu Á, hình thành cơ chế các biến này tương tác để thúc đẩy tăng

trưởng.

Thứ hai, lần đầu tiên phương pháp tiếp cận bằng mô hình hệ phương trình đồng thời được sử dụng

để nghiên cứu mối quan hệ ba chiều giữa FDI, chất lượng thể chế và nền kinh tế ngầm. Cụ thể, cả hai

phương pháp 3SLS và SGMM hai bước được áp dụng để ước lượng các hiệu ứng nhân quả ba chiều,

4

bao gồm: i) tác động của chất lượng thể chế và kinh tế ngầm lên FDI; ii) tác động của FDI và kinh tế

ngầm lên chất lượng thể chế; và iii) tác động của FDI và chất lượng thể chế lên kinh tế ngầm.

Thứ ba, nghiên cứu phát hiện ra rằng nền kinh tế ngầm góp phần làm giảm bất bình đẳng thu nhập

thông qua 2 kênh chính, đó là: tăng tỷ lệ thu nhập của nhóm 20% dân số có thu nhập thấp nhất, và

giảm tỷ lệ thu nhập của nhóm 20% dân số có thu nhập cao nhất. Kết quả này trái ngược với các nghiên

cứu trước đây (Rosser và cộng sự, 2000, 2003), mở ra thêm tranh luận cho giới nghiên cứu, nhất là

củng cố quan điểm về tác động có lợi của nền kinh tế ngầm đặc biệt đối với người nghèo. Phát hiện

này có thể được giải thích bằng cách kết hợp ba trường phái tư tưởng về kinh tế ngầm bao gồm

Dualism, Legalism và Voluntarism.

Thứ tư, kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp các bằng chứng thực nghiệm cho các nhà hoạch định chính

sách ở châu Á cho việc ra quyết định chính sách theo hai khía cạnh: i) các chính sách thúc đẩy đồng

thời FDI và chất lượng thể chế cũng là giải pháp giảm quy mô nền kinh tế ngầm và ngược lại; ii) các

chính sách nhằm giảm quy mô kinh tế ngầm nên xem xét thêm các giải pháp đồng thời khác để xóa đói

giảm nghèo và giảm bất bình đẳng thu nhập, vì dù sao kinh tế ngầm cũng là một kênh giúp người

nghèo cải thiện thu nhập của họ.

1.7 Bố cục luận án

Luận án bao gồm 6 chương. Chương 1 giới thiêu nghiên cứu. Chương 2 tổng quan lý thuyết,

các nghiên cứu trước và phát triển các giả thuyết. Chương 3 trình bày phương pháp nghiên cứu, mô

hình, dữ liệu và thông tin chung về các nước trong nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu của mục tiêu thứ

nhất và mục tiêu thứ hai được trình bày lần lượt trong hai chương 4 và 5. Chương 6 kết luận và gợi ý

chính sách.

5

CHƢƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC

2.1. Kinh tế ngầm

2.1.1. Lý thuyết về kinh tế ngầm

2.1.1.1. Định nghĩa

Schneider (2007, 2010, 2016) định nghĩa nền kinh tế ngầm bao gồm “tất cả hàng hóa và dịch vụ

sản xuất và cung ứng trên thị trường nhưng cố ý che dấu các cơ quan công quyền để tránh trả thuế thu

nhập, thuế giá trị gia tăng hoặc các loại thuế khác; tránh các khoản đóng góp an sinh xã hội; để tránh

phải đáp ứng các tiêu chuẩn pháp lý trên thị trường lao động như tiền lương tối thiểu, giờ làm việc tối

đa, tiêu chuẩn an toàn…; và tránh tuân thủ các thủ tục hành chính nhất định”. Bằng cách sử dụng định

nghĩa này, Medina và Schneider (2018), đã ước lượng quy mô kinh tế ngầm của 158 quốc gia trên toàn

thế giới trong một nghiên cứu của mình vừa được Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) công bố. Định nghĩa kinh

tế ngầm trên cũng sẽ được sử dụng trong nghiên cứu này do ý nghĩa toàn diện và cụ thể của nó.

2.1.1.2. Các trường phái lý thuyết

2.1.1.2.1. Trường phái Nhị nguyên (Dualism) với Lý thuyết phần dư (Residue Theory): Mô hình hai

khu vực, Mô hình Harris-Todaro, và Lý thuyết thị trường lao động 2 khu vực.

2.1.1.2.2. Trường phái Cấu trúc (Structuralism) với Lý thuyết sản phẩm phụ (By-product theory).

2.1.1.2.3. Trường phái Pháp lý (Legalism) với Lý thuyết thay thế (Alternative theory).

2.1.1.2.4. Trường phái Tự nguyện (Volntarism) với Lý thuyết lựa chọn hợp lý của cá nhân (Theory of

individuals’ rational choice).

2.1.1.2.5. Trường phái Lý thuyết bổ sung và kinh tế ngầm (Complementary theory and shadow

economy).

2.1.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về kinh tế ngầm

2.1.2.1. Phương pháp ước lượng quy mô kinh tế ngầm

Có 3 phương pháp đo lường chính. Thứ nhất, phương pháp trực tiếp bao gồm điều tra khảo sát và

kiểm toán thuế (Isachsen et al., 1985; Mogensen et al., 1995; Haigner et al., 2013). Thứ hai, phương

pháp gián tiếp bao gồm phương pháp cầu tiền (Tanzi, 1983, 1999; Alm & Embaye, 2013); chênh lệch

giữa thu nhập và chi tiêu quốc gia (Thomas, 1999); chênh lệch giữa lực lượng lao động chính thức và

thực tế (Contini, 1981)…Thứ ba, phương pháp mô hình xem xét toàn diện nhiều nguyên nhân và tác

động của nền kinh tế ngầm. Một trong những mô hình phổ biến nhất được sử dụng để ước tính nền

kinh tế ngầm là cách tiếp cận MIMIC ((Multiple Indicators Multiple Causes). Cách tiếp cận MIMIC

6

được nhiều học giả sử dụng để ước lượng quy mô kinh tế ngầm như Giles and Tedds (2002); Schneider

& Bajada (2003); Bajada & Schneider (2005), Buehn & Schneider (2012); Võ & Phạm (2014), Hassan

& Schneider (2016), Schneider & Buehn (2017), Medina & Schneider (2018)…

2.1.2.2. Nguyên nhân của nền kinh tế ngầm

 Gánh nặng thuế và đóng góp an sinh xã hội: Mối quan hệ cùng chiều được kết luận bởi các nhà

nghiên cứu theo trường phái Voluntarism như Feige (1989), De Soto (1989), Tanzi (1982,

1999), Gile (1999), Schneider & Bajada (2003), Schneider ( 2007, 2010), Hassan & Schneider

(2016).

 Cường độ các quy định: Mối quan hệ dương được xác định bởi các nhà nghiên cứu theo trường

phái Legalism như Loayza (1996), Friedman et al. (2000) và Schneider et al. (2010).

 Tham nhũng: Mối quan hệ giữa tham nhũng và nền kinh tế ngầm có thể là bổ sung (Johnson và

cộng sự, 1997; Hindriks và cộng sự, 1999; Hibbs & Piculescu, 2005; và Dreher & Schneider,

2010) hoặc thay thế (Choi & Thum, 2005; Dreher và cộng sự, 2008).

 Thất nghiệp, tự kinh doanh và nghỉ hưu: Đây cũng là những nguyên nhân của nền kinh tế

ngầm (Boeri & Garibaldi, 2002; Dell'Anno & Solomon, 2008; Dell'Anno, Gomez-Antonio, &

Pardo, 2007; Williams, Horodnic & Windebank, 2016).

 Chất lượng thể chế và dịch vụ khu vực công: Nhóm nhân tố này tác động âm đến nền kinh tế

ngầm, được xác nhận bởi các nhà kinh tế theo trường phái Legalism như Johnson và cộng sự.

(1998); Friedman, Johnson, Kaufmann và Zoido-Labton (2000); Fugazza & Jacques (2003),

Torgler & Schneider (2009), Dreher, Kotsogiannis & McCorriston (2009), Dreher & Schneider

(2010), Singh và cộng sự. (2012), Razmi và cộng sự. (2013), và Hassan & Schneider (2016).

 Sự phát triển của nền kinh tế chính thức: Tác động của nền kinh tế chính thức lên kinh tế ngầm

có thể là âm theo các trường phái Nhị nguyên, Pháp lý và Tự nguyện (Williams, 2008; La

Porta và Shleifer, 2008, 2014), hoặc dương theo trường phái Lý thuyết bổ sung (Adam &

Ginsburgh, 1985; Jensen và cộng sự, 1995; Williams & Round, 2008; Elgin & Oztunali, 2014).

 Độ mở thương mại và toàn cầu hóa: tác động dương đến kinh tế ngầm theo trường phái Pháp

lý (Johnson et al., 1998; Fugazza & Fiess, 2010).

 Đô thị hóa: có thể tác động dương lên kinh tế ngầm (Safa, 1986); hoặc tác động theo hình chữ

U ngược (Elgin & Oyvat, 2013).

2.1.2.3. Tác động của nền kinh tế ngầm

7

 Làm biến dạng tài khoản quốc gia, bóp méo phân bổ nguồn lực và giảm doanh thu thuế (Alm

& Embaye, 2013; trường phái Pháp lý và Tự nguyện với quan điểm kinh tế ngầm là sự thay thế

cho nền kinh tế chính thức).

 Tạo ra cạnh tranh không lành mạnh (Farrell, 2004).

 Tác động đến thị trường lao động (Portes & Benton, 1984; Castells & Portes, 1989; Voinea &

Liviu Albu, 2011; Boeri et al., 2011).

 Ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất lao động, theo quan điểm của các nhà nghiên cứu theo

trường phái Pháp lý và Tự nguyện (Friedman và cộng sự, 2000; Ihrig & Moe, 2004; La Porta

& Shleifer, 2014).

 Tác động đến tăng trưởng kinh tế: Đối với các nhà kinh tế theo trường phái Pháp lý và Tự

nguyện, nền kinh tế ngầm làm cản trở tăng trưởng của nền kinh tế chính thức (De Soto, 1989;

Loayza, 1997; Johnson và cộng sự, 1997). Tuy nhiên, theo trường phái của Lý thuyết bổ sung,

đây là một mối quan hệ tích cực (Adam & Ginsburgh, 1985; Nabi & Drine, 2009; Schneider &

Dominik, 2000).

 Tác động âm lên nghèo đói (Kim, 2005; Nikopour & Habibullah, 2010; De Martiis, 2014).

2.2. Kinh tế ngầm, FDI và chất lƣợng thể chế

2.2.1. FDI và chất lượng thể chế

2.2.1.1 Lý thuyết về FDI

Theo IMF (1993) và OECD (1996), FDI được định nghĩa là “hoạt động đầu tư được thực hiện

nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một

nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự

doanh nghiệp”. Nhiều lý thuyết đã được hình thành để khám phá sự hiện diện và động cơ của dòng vốn

FDI như Lý thuyết vòng đời sản phẩm (Vernon, 1966); Lý thuyết FDI theo chiều ngang và chiều dọc

(Caves, 1971); Lý thuyết nội bộ hóa (Buckley và Casson, 1976); Lý thuyết chiết trung (Dunning,

1980). Theo hầu hết các lý thuyết trên, động cơ của FDI là tìm kiếm nguồn lực, quy mô thị trường, lực

lượng lao động, chi phí thấp hơn, ổn định chính trị và chất lượng thể chế.

Phần lớn các nghiên cứu về FDI tập trung vào các yếu tố quyết định FDI như quy mô thị

trường (Kravis và Lipsey, 1982; Liu, 2012; Hoàng, 2012); đầu tư trong nước (Anwar và Nguyễn, 2010;

Lautier và Moreaub, 2012); nguồn nhân lực (Schneider & Frey, 1985; Moore, 1993; Wang và Swain,

1995; Brainard, 1997; Wei, 2010); lao động có kỹ năng (Broadman, 1997; Coughlin, 2000); chi phí

8

nhân công (Schneider & Frey, 1985; Wheeler & Mody, 1992; Loree & Guisinger, 1995); cơ sở hạ tầng

(Wheeler và Mody, 1992; Loree và Guisinger, 1995; Asidu, 2002; Lumbila, 2005); độ mở thương mại

(Aizenman và Noy, 2006; Liargovas và Skandalis, 2012); sự ổn định kinh tế vĩ mô (Kamin và Rogers,

2000; Husain và cộng sự, 2005; Anwar và Nguyễn, 2010; Recep Kok, 2009); lãi suất thực (Grosse &

Trevino, 1996; Cavallari & d'Addona, 2013); tỷ giá hối đoái (Grosse và Trevino, 1996; Froot & Stein,

1991; Cavallari & d'Addona, 2013); tài nguyên thiên nhiên (Asiedu, 2006; Aleksynska & Havrylchyk,

2013); và chất lượng thể chế (Campos và Kinoshita, 2003; Kang, 2004).

2.2.1.2 Lý thuyết về chất lượng thể chế

North (1990, 1991 và 1994) là một trong những học giả đầu tiên nhấn mạnh tầm quan trọng

của thể chế. Ông định nghĩa các thể chế là thực thể bao gồm các quy tắc chính thức (ví dụ: hiến pháp,

luật và các quy định) và các ràng buộc không chính thức (các quy tắc về hành vi, quy ước và các quy

tắc ứng xử tự áp đặt). Một số nghiên cứu đã tìm ra các nhân tố quyết định chất lượng thể chế bao gồm:

độ mở thương mại (Ades & Tella, 1999; Treisman, 2000; Kandil, 2009; Fukumi & Nishijima, 2010);

dân chủ hóa, bất ổn chính trị (Lederman, Loayza, & Soares, 2005; Adsera, Boix, & Bayne, 2003); thu

nhập (La Porta, Lopea-de-Silanes, Shleifer, & Vishny, 1999); trình độ phát triển (Chong & Zanforlin,

2000; Alonso & Garcimartin, 2013); giáo dục (Glaeser, La Porta, Lopez-de-Silanes, & Shleifer, 2004;

Alonso & Garcimartin, 2013); bất bình đẳng phân phối thu nhập (Alesina & Perotti, 1996; Engerman

& Sokoloff, 1997; You & Sanjeev, 2005); tăng trưởng (Lipset, 1959; Barro, 1997); và tài nguyên thiên

nhiên (Sachs & Warner, 1997; Easterly & Levine, 2003; Alonso & Garcimartin, 2013).

2.2.1.3 Mối quan hệ giữa FDI và chất lượng thể chế

Dựa vào Lý thuyết chiết trung (Dunning, 1980), Lý thuyết thể chế hóa (North, 1990), Lý

thuyết MNCs (Westney, 1993), và các nghiên cứu trước, tác giả hình thành giả thuyết nghiên cứu như

sau:

Giả thuyết 1: Chất lượng thể chế là nhân tố giúp các nước chủ nhà thu hút dòng vốn FDI

và ngược lại dòng vốn FDI nâng cao chất lượng thể chế ở các nước chủ nhà.

2.2.2. Chất lượng thể chế và kinh tế ngầm

Theo trường phái Legalism, động cơ để tham gia vào các hoạt động kinh tế ngầm là nhằm

tránh chi phí, thời gian và nỗ lực cho việc đăng ký và hoạt động chính thức (Demsetz, 1974; De Soto,

1989, 2000; Schneider và Dominik, 2000). Do đó, chất lượng thể chế thấp là một trong những nguyên

nhân chính của việc hoạt động trong nền kinh tế ngầm. Tác động âm của chất lượng thể chế đối với

9

nền kinh tế ngầm, theo lập luận của trường phái Legalism, đã được khẳng định trong một số nghiên

cứu thực nghiệm như Johnson và cộng sự (1998), Friedman và cộng sự (2000), Fugazza & Jacques

(2003), Torgler & Schneider (2009), và Dreher et al (2009).

Ở chiều ngược lại, tác động của kinh tế ngầm lên chất lượng thể chế vẫn còn là một khoảng

trong nghiên cứu. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho thấy những gợi ý thú vị về tác động tiềm năng

này. Loayza (1997) tìm thấy bằng chứng rằng khi kinh tế ngầm tăng, các dịch vụ công cho tất cả mọi

người trong nền kinh tế giảm và các hoạt động sử dụng các dịch vụ công kém hiệu quả tăng lên. Hơn

nữa, sự gia tăng của nền kinh tế ngầm làm giảm doanh thu thuế (Kodila-Tedika & Mutascu, 2013) và

doanh thu thuế giảm làm giảm thu nhập của chính phủ, dẫn đến khả năng cung cấp hàng hóa công với

chất lượng cao của chính phủ giảm (Broms, 2011). Vì thế tác giả hình thành giả thuyết nghiên cứu sau:

Giả thuyết 2: Chất lượng thể chế làm giảm quy mô kinh tế ngầm, và quy mô kinh tế ngầm

giảm sẽ cải thiện chất lượng thể chế.

2.2.3. Kinh tế ngầm và FDI

Mối quan hệ giữa FDI và kinh tế ngầm vẫn còn là một khoảng trống trong nghiên cứu. Tuy

nhiên, FDI có thể làm giảm quy mô kinh tế ngầm thông qua ba kênh. Thứ nhất, FDI giúp cải thiện chất

lượng thể chế (Larrain và Tavares, 2004; Kwok và Tadesse, 2006; Dang, 2013; Long và cộng sự,

2015), và chất lượng thể chế tốt làm giảm quy mô kinh tế ngầm (Johnson et al, 1998; Friedman et al .,

2000; Fugazza & Jacques, 2003; Torgler và Schneider, 2009; Dreher và cộng sự, 2009; Dreher &

Schneider, 2010; Singh và cộng sự, 2012; Razmi và cộng sự, 2013, và Hassan & Schneider, 2016).

Thứ hai, FDI đóng góp vào tăng trưởng của nền kinh tế chính thức (Romer, 1994; Choe, 2003; Li &

Liu, 2005) và tăng trưởng kinh tế chính thức làm giảm quy mô của nền kinh tế ngầm (Williams, 2008;

La Porta và Shleifer, 2008, 2014). Thứ ba, FDI tạo ra việc làm (Lall, 1995; Blomström et al, 1997) và

tăng lương (Heyman và cộng sự, 2007), mà thất nghiệp giảm và thu nhập tăng sẽ làm giảm quy mô

kinh tế ngầm (Boeri & Garibaldi, 2002; và Dell'Anno & Solomon, 2008).

Tác động của kinh tế ngầm lên FDI chỉ mới được đề cập trong hai nghiên cứu. Nikopour et al.

(2009) cho rằng quy mô kinh tế ngầm cao sẽ thu hút FDI nhiều hơn vì quy mô kinh tế ngầm cao đi

kèm với doanh thu thuế thấp và thâm hụt ngân sách cao hơn, và để bù đắp cho khoản thâm hụt này,

chính phủ sẽ có những chính sách ưu đãi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài nhằm thu hút FDI. Tương

tự, Ali & Bohara (2017) xác nhận rằng quy mô kinh tế ngầm cao sẽ thu hút FDI nhiều hơn do các

MNCs lợi dụng việc trốn thuế ở các nước chủ nhà có quy mô nền kinh tế ngầm cao. Tuy nhiên, trong

10

luận án này, tác giả lập luận rằng quy mô hinh tế ngầm cao sẽ làm giảm FDI, bởi vì chất lượng thể chế

thấp do quy mô kinh tế ngầm cao gây ra sẽ cản trở việc thu hút FDI.

Nghiên cứu vai trò của chất lượng thể chế trong mối quan hệ hai chiều giữa FDI và kinh tế ngầm là

một đóng góp của luận án này trong học thuật bằng cách kết hợp ba lý thuyết bao gồm thương mại

quốc tế, thể chế hóa và trường phái Legalism về kinh tế ngầm. Theo đó, FDI làm giảm quy mô kinh tế

ngầm thông qua kênh cải thiện chất lượng thể chế do FDI mang lại; và khi quy mô kinh tế ngầm giảm,

chất lượng thể chế sẽ được cải thiện và điều này lại giúp tăng thu hút FDI. Ngoài ra, sự tương tác của

FDI và chất lượng thể chế cũng giúp làm giảm quy mô kinh tế ngầm. Bên cạnh đó, dòng vốn FDI có

thể có tác động tiềm tàng đến nền kinh tế ngầm thông qua một số kênh khác như tạo việc làm và tăng

trưởng trong nền kinh tế chính thức. Vì thế, tác giả hình thành các giả thuyết sau:

Giả thuyết 3: Mối quan hệ hai chiều giữa FDI và quy mô kinh tế ngầm là nghịch biến.

Giả thuyết 4: Sự tương tác giữa FDI và thể chế có tác động âm lên quy mô kinh tế ngầm.

2.3. Kinh tế ngầm và bất bình đẳng thu nhập

2.3.1. Bất bình đẳng thu nhập

2.3.1.1. Định nghĩa

Theo Ngân hàng Thế giới (2017a), bất bình đẳng thu nhập là “mức độ phân phối thu nhập hoặc

chi tiêu tiêu dùng giữa các cá nhân hoặc hộ gia đình trong một nền kinh tế lệch ra khỏi phân phối hoàn

toàn bình đẳng” và được đo bằng hệ số Gini. Nghiên cứu này sử dụng định nghĩa trên và hệ số Gini để

đo bất bình đẳng thu nhập từ Ngân hàng Thế giới.

2.3.1.2. Lý thuyết

 Lý thuyết phân phối cổ điển (Adam Smith, 1776; David Ricardo , 1817).

 Lý thuyết phân phối thu nhập của Karl Marx (Marx, 1867).

 Lý thuyết phân bố tân cổ điển (Alfred Marshall, 1890; John Bates Clark, 1889, 1891).

 Lý thuyết phân phối thu nhập Hậu-Keynes (Robinson, Kaldor, Pasinetti, 1960; Kregel,

1978).

2.3.1.3. Đo lường

Theo OECD (2017), bất bình đẳng thu nhập có thể được đo bằng năm chỉ số, bao gồm tỷ lệ

Palma (10% thu nhập cao nhất/ 40% thu nhập thấp nhất), S90/ S10 (10% giàu nhất/ 10% nghèo nhất),

11

P90/ P50 (10 % thu nhập cao nhất/ thu nhập trung bình), P50/ P10 (thu nhập trung bình/ 10% thu nhập

thấp nhất) và hệ số Gini. Hệ số Gini đo lường phần trăm diện tích của vùng nằm giữa đường cong

Lorenz và đường bình đẳng tuyệt đối, với diện tích của vùng nằm giữa đường bình đẳng tuyệt đối và

đường bất bình đẳng tuyệt đối (Ngân hàng Thế giới, 2017a).

2.3.1.4. Nhân tố ảnh hưởng

Các biến kinh tế vĩ mô: Tăng trưởng GDP (Kuznets, 1955), lạm phát (Mocan, 1999) và thất

nghiệp (Rice và Lozada, 1980; Blejer và Guerrero, 1990). Chính sách tài chính: quy mô của chính phủ,

chi tiêu chính phủ và trợ cấp… (Tanninen, 1999; Dupont & Martin, 2006). Chất lượng thể chế và các

yếu tố chính trị: tham nhũng, quản trị, dân chủ và tự do chính trị (Reuveny and Li, 2003; Chong và

Gradstein, 2007; và Carmignani, 2009). Các yếu tố kinh tế: toàn cầu hoá, cởi mở, và tự do kinh tế

(Wood, 1997; Spilimbergo và cộng sự, 1999; Barro, 2000; Alderson và Nielsen, 2002; Rosas, 2007; và

Chintrakarn và cộng sự, 2012). Giáo dục: số năm đi học, giáo dục trung học và đại học, và bất bình

đẳng về giáo dục (Winegarden, 1979; Knight and Sabot, 1983; Onene, 1995; Gregorio and Lee, 2002).

Các yếu tố về tài nguyên thiên nhiên: phân bổ đất đai và phân phối tài sản ban đầu (Deininger và

Squire, 1998; Fum và Hodler, 2010; và Bergner, 2016).

2.3.2. Tác động của quy mô kinh tế ngầm lên bất bình đẳng thu nhập

Nghiên cứu về tác động của kinh tế ngầm lên bất bình đẳng thu nhập vẫn còn khan hiếm. Rosser

et al. (2000, 2003) cho rằng các hoạt động phi chính thức gia tăng dẫn đến sự bất bình đẳng nhiều hơn

do doanh thu thuế giảm và các chính sách phân phối lại suy yếu. Tuy nhiên, tác giả luận án đề xuất giả

thuyết về tác động âm của kinh tế ngầm lên bất bình đẳng thu nhập dựa trên hai cơ sở lý thuyết. Thứ

nhất, các nhà nghiên cứu theo chủ nghĩa Nhị nguyên mô tả nền kinh tế ngầm như một tập hợp các hoạt

động được thực hiện trong xã hội bên lề và tạo thu nhập cho người nghèo (Hart, 1973; Sethuraman,

1976; and Tokman, 1978). Thứ hai, các nhà kinh tế theo trường phái Legalism và Voluntarism cho

rằng sự gia tăng quy mô kinh tế ngầm tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh cho các doanh nghiệp và

nhân viên giữa hai khu vực chính thức và phi chính thức. Hơn nữa, theo chủ nghĩa Nhị nguyên, kinh tế

ngầm thu hút hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và người nghèo, chứ không phải là các doanh nghiệp lớn

và người giàu. Do đó, quy mô kinh tế ngầm tăng lên có thể làm giảm thu nhập của người giàu do sự

cạnh tranh không lành mạnh. Kết quả là, kinh tế ngầm có thể làm giảm bất bình đẳng thu nhập. Tác giả

đề xuất giả thuyết nghiên cứu sau: Giả thuyết 5: Kinh tế ngầm tác động âm lên bất bình đẳng thu

nhập thông qua hai kênh: tăng tỷ lệ thu nhập của nhóm 20% dân số có thu nhập thấp nhất, và giảm

tỷ lệ thu nhập của nhóm 20% dân số có thu nhập cao nhất.

12

CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU, MÔ HÌNH VÀ DỮ LIỆU

3.1. Khung phân tích

Dựa vào lý thuyết thương mại quốc tế, thể chế, kinh tế ngầm và bất bình đẳng thu nhập, tác giả

luận án đề xuất khung phân tích được trình bày ở hình 3.1 như sau.

(2)

CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ

(5)

(1) (4) KINH TẾ NGẦM

BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP

(3) ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

Hình 3.1. Khung phân tích mối quan hệ giữa FDI, chất lƣợng thể chế, kinh tế ngầm và bất bình

đẳng thu nhập. *(1), (2), (3), (4) và (5): các giả thuyết nghiên cứu tương ứng.

3.2. Mô hình và dữ liệu

3.2.1. FDI, chất lượng thể chế và kinh tế ngầm

Để nghiên cứu mối liên kết ba chiều giữa FDI, chất lượng thể chế và kinh tế ngầm ở các nước

châu Á, tác giả sử dụng mô hình hệ phương trình đồng thời dành cho dữ liệu bảng (Mô hình 1) như

sau:

FDIit = α0+ α1 INSTQUALITYit + α2 SHADOWit + αj Xi,t + εit (1)

INSTQUALITYit = β0 + β1FDIit + β2SHADOWit + βjYit + uit (2)

SHADOWit = γ0 + γ1FDIit + γ2INSTQUALITYit + γ3FDIit *INSTQUALITYit + γjZit +vit (3)

 Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Dòng vốn FDI được tính bằng tỷ lệ phần trăm của GDP,

được thu thập từ World Development Indicators, World Bank (2017a).

 Chất lượng thể chế (INSTQUALITY): được tính bằng chỉ số thể chế tổng hợp, được thu thập từ Worldwide Governance Indicators, World Bank (2017b).

 Nền kinh tế ngầm (SHADOW): Quy mô nền kinh tế ngầm được đo bằng tỷ lệ phần trăm của

GDP chính thức, được thu thập từ nghiên cứu của Medina & Schneider (2018).

13

 X là tập hợp vector các nhân tố thu hút FDI, bao gồm: Đầu tư trong nước (DI), Tăng trưởng

GDP (GDPG); Nguồn nhân lực (LABOR); Chất lượng lao động (LABORQUALITY); Chi phí

lao động (WAGE); Cơ sở hạ tầng (TEL); Độ mở thương mại (OPEN); và Nguồn tài nguyên

(FUEL).

 Y là tập hợp các biến số khác của chất lượng thể chế, bao gồm: Dân chủ hóa (DEMOC); Tự do

kinh tế (ECO_FREE); Giáo dục (EDU); Độ mở thương mại (OPEN); và Mức độ phát triển và

thu nhập đầu người (GNIPERC).

 FDI* INSTQUALITY là biến tương tác giữa FDI và chất lượng thể chế.

 Z là một vector của các yếu tố quyết định khác của nền kinh tế ngầm, bao gồm: gánh nặng các

quy định của chính phủ (GOVT_BURDEN); Gánh nặng thuế (TAX); Toàn cầu hóa

(GLOBAL); Nền kinh tế chính thức (GDPG); Tự do kinh tế (ECO_FREE); Tham nhũng

(CORRUPT); Thất nghiệp (U_RATE); Nghỉ hưu (RETIRE); và Đô thị hóa (URBAN).

3.2.2. Kinh tế ngầm và bất bình đẳng thu nhập

Để lượng hóa tác động của nền kinh tế ngầm đến bất bình đẳng thu nhập và nhận diện các yếu tố

quyết định bất bình đẳng thu nhập ở 19 quốc gia châu Á, tác giả sử dụng mô hình tuyến tính sau (Mô

hình 2):

INEQUALITYit = λ1 SHADOWit + δjVi,t + µi + εit (4)

 Bất bình đẳng thu nhập (INEQUALITY) là biến phụ thuộc, được đo bằng ba chỉ số thay thế:

hệ số Gini (Gini), tỷ lệ thu nhập của nhóm 20% dân số có thu nhập thấp nhất (Lowest20), và tỷ

lệ thu nhập của nhóm 20% dân số có thu nhập cao nhất (Highest20).

 Nền kinh tế ngầm (SHADOW) là biến độc lập, được tính bằng tỷ lệ phần trăm của nền kinh tế

chính thức.

 V là một vectơ của các biến kiểm soát như việc làm, lạm phát, độ mở thương mại, chất lượng

thể chế, tự do kinh tế, giáo dục, tham nhũng và tài nguyên thiên nhiên.

3.2.3. Dữ liệu

Tất cả các biến trong luận án được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm Medina &

Schneider (2018); World Development Indicators (WDI), World Bank (WB); Worldwide Governance

Indicators (WGIs), WB; The International Country Risk Guide (ICRG), Political Risk Services (PRS)

Group; UNESCO Institute for Statistics; Global Wage Report 2017, International Labor Organization

(ILO); Freedom in the World, Freedom House; Index of Economic Freedom, The Heritage Foundation;

14

Economic Freedom Report 2016, the Fraser Institute; Global Competitiveness Index (GCI), World

Economic Forum; KOF Globalization Index, KOF Swiss Economic Institute; International Monetary

Fund (IMF); Human Development Report, United Nations Conference on Trade and Development

(UNCTAD).

3.3. Phƣơng pháp ƣớc lƣợng

3.3.1. FDI, chất lượng thể chế và kinh tế ngầm

Mô hình 1 được đề xuất ở trên (gồm ba phương trình 1, 2, và 3) là một mô hình hệ phương

trình đồng thời (SEM) điển hình trong kinh tế vĩ mô. Về kinh tế lượng, phương pháp bình phương nhỏ

nhất thông thường (OLS) không thể được sử dụng để ước lượng các phương trình riêng lẻ trong SEM

bởi vì nó sẽ bị chệch, không vững và không phù hợp (Zellner & Theil, 1962). Zellner & Theil (1962)

đã đề xuất Phương pháp bình phương nhỏ nhất ba giai đoạn (3SLS) như là một phương pháp ước

lượng thích hợp cho mô hình phương trình đồng thời. Ngoài ra, phương pháp Moment tổng quát hóa hệ

thống hai bước (2-step SGMM) cũng được sử dụng để ước lượng dạng động của SEM, nhằm giải

quyết các vấn đề về nội sinh, phương sai thay đổi và tự tương quan (Blundell và Bond, 1998). Theo

Arellano & Bond (1991), hai loại kiểm định sẽ được sử dụng cho mô hình thực nghiệm bao gồm: i)

kiểm định Sargan dùng để kiểm tra tính hiệu lực của các biến công cụ và thông số kỹ thuật trong mô

hình; ii) kiểm định Arellano-Bond sẽ dùng để kiểm tra giả thuyết rằng phần dư có tự tương quan bậc

nhất (AR1) nhưng không có tự tương quan bậc hai (AR2).

3.3.2. Kinh tế ngầm và bất bình đẳng thu nhập

Trong luận án này, phương trình (4) sẽ được ước lượng bằng ba phương pháp: Bình phương nhỏ

nhất dữ liệu bảng (POLS), Tác động cố định (FE) và Tác động ngẫu nhiên (RE) để xem xét tác động

của kinh tế ngầm lên bất bình đẳng thu nhập. Để loại bỏ ảnh hưởng của các đặc điểm không được quan

sát của các quốc gia (µi), tác giả dùng các phương pháp FE và RE. Bên cạnh đó, phần dư (εit) có thể có

phương sai thay đổi và tương quan chuỗi; do đó, tác giả sử dụng likelihood ratio test và kiểm định

Wooldridge để kiểm tra phương sai thay đổi và tự tương quan (Wooldridge, 2002). Sau đó, tác giả thực

hiện kiểm định F và Hausman để chọn mô hình ước lượng thích hợp nhất cho từng biến đại diện cho

bất bình đẳng thu nhập. Cuối cùng, phương pháp 2-step SGMM được sử dụng để kiểm tra tính vững

của ước lượng và kiểm soát hiện tượng nội sinh, vốn có thể được gây ra bởi tác động phản hồi của bất

bình đẳng thu nhập lên kinh tế ngầm.

15

CHƢƠNG 4: FDI, CHẤT LƢỢNG THỂ CHẾ VÀ KINH TẾ NGẦM:

BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM TỪ CÁC NƢỚC CHÂU Á

4.1. Giới thiệu

Chương này nhằm mục đích cung cấp bằng chứng thực nghiệm từ các nước châu Á về mối liên

kết ba chiều giữa FDI, chất lượng thể chế và kinh tế ngầm thông qua một mô hình hệ phương trình

đồng thời (được thảo luận trong chương 3).

4.2. Phân tích dữ liệu

4.2.1. Kiểm tra nghiệm đơn vị

Kiểm tra nghiệm đơn vị do Phillips & Perron (1988) đề xuất được sử dụng để kiểm định tính dừng

của dữ liệu với giả thuyết H0 là biến không dừng (có nghiệm đơn vị). Kết quả cho thấy giả thuyết H0

được bác bỏ cho các biến FDI, SHADOW, INSTQUALITY, DI, GDPG, LABOR, LABORQUALIT,

FUEL, DEMOC, ECO_FREE, GOVT_BURDEN, TAX, GLOBAL, CORRUPT, U_RATE, RETIRE

và URBAN. Điều này ngụ ý rằng các biến trên đều dừng ở cấp độ I(0) – chưa lấy sai phân – và không

cần chuyển đổi để phân tích thống kê xa hơn. Trong khi đó, kiểm định Phillips-Perron (1988) không

thể bác bỏ giả thuyết H0 cho các biến còn lại (bao gồm WAGE, OPEN, TEL, EDU và GNIPERC),

nghĩa là các biến này không dừng cấp độ I(0). Vì thế, những biến này đã được lấy sai phân bậc nhất và

đảm bảo tính dừng ở cấp độ I(1).

4.2.2. Phân tích tương quan

Kết quả kiểm tra hệ số tương quan Pearson cho thấy hầu hết mối quan hệ giữa các cặp dữ liệu

có ý nghĩa thống kê (P-value ≤ 5%). Theo Evans (1996), các hệ số tương quan giữa các cặp biến độc

lập được chấp nhận nếu chúng nhỏ hơn 0,8. Tất cả các cặp biến độc lập trong mô hình thực nghiệm

thỏa điều kiện về không có đa động tuyến.

4.3. Kết quả thực nghiệm và thảo luận

Kết quả ước tính theo phương pháp 3SLS (đối với mô hình không động) và SGMM hai bước

(đối với mô hình động) được trình bày trong bảng 4.3.

Trong mô hình (1.1), mối quan hệ giữa FDI, chất lượng thể chế và nền kinh tế ngầm được ước

lượng không bao gồm biến kiểm soát. Đây là ước lượng cơ bản cho mối quan hệ ba chiều giữa ba biến

số này. Tính vững được kiểm tra khi lần lượt các biến kiểm soát được đưa vào mô hình (1.2) và (1.3).

16

Phương pháp SGMM hai bước được dùng để ước lượng mô hình (1.1), (1.2) và (1.3). Trong khi đó,

phương pháp 3SLS được sử dụng để ước lượng cho mô hình (1.2) và (1.3), vì mô hình (1.1) không

thỏa mãn điều kiện thứ bậc cho ước lượng bằng 3SLS. Trong ước lượng 3SLS, các biến giả của các

quốc gia và năm được sử dụng cho các tác động cố định.

Bảng 4.3. Kết quả ƣớc lƣợng mô hình SEM bằng hai phƣơng pháp 3SLS và SGMM hai bƣớc.

Variables Specification 1.1 Specification 1.2 Specification 1.3

SGMM 3SLS SGMM 3SLS SGMM

Dependent variable: FDI

FDI (-1) 0.360*** 0.131** 0.045

(32.89) (2.10) (0.49)

INSTQUALITY 0.991*** 1.592*** 4.826*** 1.190*** 2.445***

(13.41) (6.00) (7.71) (11.89) (2.62)

-0.024* -0.035** -0.064** -0.036* -0.072* SHADOW

(-1.74) (-2.40) (-2.12) (-1.75) (-1.89)

0.092*** 0.110*** 0.023* 0.110*** DI

(4.15) (10.74) (1.85) (10.5)

0.068* 0.047*** 0.022 0.041*** GDPG

(1.75) (4.28) (0.78) (3.85)

0.107*** 0.201*** 0.125*** 0.177*** LABOR

(6.79) (3.39) (4.33) (2.80)

LABORQUALITY 0.077*** 0.063*** 0.056*** 0.034

(7.36) (3.84) (2.87 (1.63)

-0.001*** -0.001 -0.0003 -0.0001 WAGE

(-4.15) (-1.43) (0.61) (-0.22)

0.004* 0.037*** 0.014* 0.039*** FUEL

(1.65) (2.96) (1.97) (2.85)

0.006 0.006 OPEN

(1.05) (1.21)

0.003 0.007 TEL

(1.05) (1.25)

Intercept 4.47*** -6.140*** -12.164*** -1.11** -10.675***

17

(6.25) (-4.68) (-3.50) (-2.16) (-2.64)

Obs 304 323 304 323 304

Number of groups 19 19 19

Parms 28 44

R-square 0.575 0.831

Arellano-Bond test 0.020 0.018 0.049

for AR(1)-Pvalue

Arellano-Bond test 0.647 0.377 0.913

for AR(2)-Pvalue

Sargan test of 0.756 0.673 0.692

overid.

(3394.81)*** (433.10)*** (698.4)*** (2245.97)*** (789.17)*** Wald test

Dependent variable: INSTQUALITY

INSTQUALITY(-1) 0.106** 0.133** 0.149*

(2.55) (2.05) (1.66)

0.087*** FDI 0.038*** 0.095*** 0.040*** 0.096***

(4.37) (3.69) (4.96) (3.98) (4.64)

SHADOW -0.031*** -0.016*** -0.028*** -0.20*** -0.029***

(-9.67) (-6.48) (-5.79) (-7.83) (-6.81)

EDU 0.107* 0.012 0.079* 0.01*

(1.65) (0.68) (1.56) (1.57)

OPEN 0.009*** 0.007*** 0.008*** 0.006**

(12.44) (4.19) (11.64) (2.41)

GNIPERC 0.0001*** 0.0002*** 0.0001*** 0.0001**

(2.27) (8.95) (3.49) (7.93)

DEMOC -0.166*** -0.030

(-7.77) (-0.86)

ECO_FREE 0.016*** 0.0003

(3.10) (0.11)

Intercept 0.170** -0.606*** -2.030*** -1.327*** -2.123***

(-2.80) (-2.89) (-4.04) (-2.61)

18

Obs 304 323 304 323 304

Number of groups 19 19 19

Parms 36 37

R-square 0.762 0.771

Arellano-Bond test 0.131 0.174 0.179

for AR(1)-Pvalue

Arellano-Bond test 0.250 0.418 0.394

for AR(2)-Pvalue

Sargan test of 0.475 0.632 0.738

overid.

(728.78)*** (1016.4)*** (1310.96)*** (1081.17)*** (2057.11)*** Wald test

Dependent variable: SHADOW

SHADOW(-1) 0.275*** 0.197* 0.097*

(8.02) (2.0) (1.52)

FDI -0.748*** -1.248** -0.56* -0.432* -1.163*

(-8.28) (-2.12) (-1.75) (-1.74) (-1.75)

-4.09*** -1.249* INSTQUALITY -3.717*** -9.432*** -8.881***

(-4.69) (-1.63) (-2.07) (-2.78) (-2.97)

FDI*INSTQUALITY -0.896*** -0.065* -0.687* -0.633** -3.537*

(-3.66) (-1.62) (-1.47) (-2.13) (-1.78)

GOVT_BURDEN -3.174*** -2.457 - 2.642*** -2.007

(-4.74) (-0.82) (-0.78)

TAX 0.239** 0.332* 0.157* 0.669**

(2.28) (1.64) (1.81) (1.99)

GLOBAL 0.017 0.045 0.006 0.471

(0.26) (0.29) (0.11) (1.05)

GDPG -0.087 -0.352*** -0.119* -0.595***

(-1.13) (-3.51) (-1.83) (-3.02)

U_RATE 0.770*** 0.808** 0.523*** 0.021

(5.91) (2.37) (3.97) (0.03)

RETIRE 0.940*** 2.361* 0.345* 6.015***

(3.44) (1.57) (1.56) (2.95)

19

-0.214** -0.218* -0.247*** -0.748** URBAN

(-2.43) (-1.68) (-3.33) (-2.22)

0.519*** 0.855*** CORRUPT

(3.07) (2.73)

0.168*** 0.317** ECO_FREE

(3.48) (1.96)

Intercept 22.694*** 44.177*** 22.735*** -23.626** 7.943*

(4.80) (1.70) (3.97) (1.83) (12.2)

304 323 304 304 Obs

19 19 19 Number of groups

46 46 Parms

0.902 0.931 R-square

0.0128 0.0004 Arellano-Bond test 0.028

for AR(1)-Pvalue

0.653 0.451 Arellano-Bond test 0.729

for AR(2)-Pvalue

0.528 0.733 Sargan test of 0.635

overid.

Wald test (1342)*** (3324.4)*** (827.37)*** (4565.25)*** (711.7)***

T-statistics appear in parentheses; ***, ** and * indicate the significant levels at 1%, 5% and 10% respectively.

Sau khi ước lượng bằng phương pháp 3SLS, các kiểm định Breusch-Pagan và Hausman được

thực hiện để kiểm tra phương sai thay đổi và nội sinh. Các kết quả cho thấy phương sai không đổi

trong tất cả các mô hình; và tính nhất quán và hiệu quả đạt được từ phương pháp 3SLS. Kiểm định

Wald (chi-square) cũng bác bỏ giả thuyết H0 cho rằng tất cả các hệ số của các biến hồi quy đều bằng

zero.

Sau khi ước lượng bằng phương pháp SGMM hai bước, ba loại kiểm định sẽ được sử dụng cho

mô hình thực nghiệm (Arellano và Bond, 1991). Đầu tiên, các kiểm định Sargan với giá trị P-value cao

cho tất cả các mô hình không loại bỏ giả thuyết H0 rằng không có ràng buộc xác định quá mức, cho

thấy rằng các biến công cụ phù hợp và mô hình được định rõ. Thứ hai, kiểm định Arellano-Bond được

thực hiện để kiểm tra giả thuyết rằng các phần dư từ ước lượng có tự tương quan bậc nhất (AR1)

20

nhưng không có tự tương quan bậc hai (AR2). Kết quả từ các kiểm định Arellano-Bond cho thấy giả

thuyết H0 rằng không có tự tương quan bậc nhất (AR1) ở các phần dư bị bác bỏ, và giả thuyết H0 rằng

không có tự tương quan bậc 2 (AR2) giữa các phần dư không bị bác bỏ ở mức ý nghĩa 1% trong tất cả

các mô hình. Thứ ba, kiểm định Wald cũng bác bỏ giả thuyết H0 rằng tất cả các hệ số của các biến hồi

quy đều bằng zero. Tất cả kết quả các kiểm định sau ước lượng bằng hai phương pháp 3SLS và

SGMM hai bước được trình bày trong bảng 4.3.

Kết quả thực nghiệm từ bảng 4.3 cho thấy những phát hiện chính như sau:

Thứ nhất, tồn tại mối quan hệ hai chiều đồng biến giữa FDI và chất lượng thể chế trong tất cả

các mô hình với cả hai phương pháp ước lượng 3SLS và SGMM hai bước ở mức ý nghĩa 1%, khẳng

định giả thuyết đầu tiên rằng chất lượng thể chế tốt hơn ở nước sở tại giúp thu hút dòng vốn FDI tốt

hơn, và dòng vốn FDI vào nhiều sẽ cải thiện chất lượng thể chế ở các nước chủ nhà. Kết quả này phù

hợp với một số nghiên cứu trước đây như những nghiên cứu của Hyun (2006), Fukumi & Nishijima

(2010) và Shah, Ahmad, & Ahmed (2015). Phát hiện này bổ sung thêm cho học thuật bằng chứng thực

nghiệm về mối quan hệ hai chiều tích cực giữa FDI và chất lượng thể chế trong bối cảnh các nước châu

Á.

Thứ hai, luận án đã tìm ra mối quan hệ hai chiều nghịch biến giữa chất lượng thể chế và nền

kinh tế ngầm trong tất cả các mô hình theo cả hai phương pháp ước lượng 3SLS và SGMM hai bước ở

mức ý nghĩa 1%, khẳng định giả thuyết thứ hai của nghiên cứu. Kết quả về tác động âm của chất lượng

thể chế đối với nền kinh tế ngầm được hỗ trợ bởi trường phái Legalism (Johnson và cộng sự, 1998;

Friedman, Johnson, Kaufmann, & Zoido-Labton, 2000; Fugazza & Jacques, 2003; Dreher,

Kotsogiannis & McCorriston, 2009; Dreher & Schneider, 2010; Singh và cộng sự, 2012; Razmi và

cộng sự, 2013; và Hassan & Schneider, 2016). Tuy nhiên, tác động phản hồi của nền kinh tế ngầm lên

chất lượng thể chế vẫn là một khe hở nghiên cứu trong lý luận và học thuật. Và kết quả về tác động

ngược chiều của kinh tế ngầm lên thể chế được phát hiện trong luận án đã góp phần lấp đầy khe hở

nghiên cứu này. Theo đó, phát hiện mới này có thể được giải thích bằng cách kết hợp các nghiên cứu

riêng lẻ trước đây theo hai điểm chính: i) sự gia tăng của nền kinh tế ngầm làm giảm sự hiện diện của

các dịch vụ công vì không có nhiều người sử dụng dịch vụ công khi họ tham gia các hoạt động kinh tế

ngầm (Loayza, 1997); ii) quy mô kinh tế ngầm tăng sẽ làm giảm doanh thu thuế (Kodila-Tedika &

Mutascu, 2013) và doanh thu thuế giảm sẽ làm giảm thu nhập của chính phủ, dẫn đến năng lực cung

cấp hàng hóa công chất lượng cao giảm (Broms, 2011). Kết quả này đóng góp vào lý luận và học thuật

theo hai cách: i) Bổ sung cơ sở lý thuyết cho trường phái Legalism theo quan điểm rằng chất lượng thể

chế không những chỉ là nguyên nhân mà còn là hậu quả của nền kinh tế ngầm; và ii) các nghiên cứu về

21

mối quan hệ này nên xem xét vấn đề nội sinh – một vấn đề mà các nghiên cứu trước theo trường phái

Legalism chưa đề cập đến khi chỉ nghiên cứu tác động một chiều của chất lượng thể chế lên kinh tế

ngầm.

Thứ ba, giả thuyết thứ ba và thứ tư được khẳng định khi luận án tìm ra mối quan hệ hai chiều

nghịch biến giữa FDI và kinh tế ngầm, và sự tương tác giữa FDI và chất lượng thể chế tác động âm lên

nền kinh tế ngầm trong tất cả các mô hình với cả hai phương pháp ước lượng 3SLS và SGMM hai

bước ở mức ý nghĩa 1% - 10%. Các tác động ngược chiều của FDI và tương tác giữa FDI và chất

lượng thể chế lên nền kinh tế ngầm là những đóng góp chính của luận án này- vốn chưa được nghiên

cứu trong học thuật. Theo đó, FDI giúp làm giảm quy mô của nền kinh tế ngầm thông qua kênh cải

thiện chất lượng thể chế do FDI mang lại. Ngoài ra, tác động phản hồi nghịch biến của nền kinh tế

ngầm lên việc thu hút FDI được tìm thấy trong luận án đã cung cấp một quan điểm mới trong học thuật

khi nó đối lập với các kết quả nghiên cứu của Nikopour et al. (2009) và Ali & Bohara (2017). Theo các

tác giả này, những quốc gia có quy mô kinh tế ngầm cao sẽ thu hút FDI nhiều hơn vì các MNCs tận

dụng lợi thế trốn thuế ở các nước chủ nhà có quy mô kinh tế ngầm cao. Ngược lại, kết quả nghiên cứu

trong luận án này khẳng định rằng quy mô kinh tế ngầm cao sẽ làm giảm FDI. Điều này có thể được

giải thích bằng lập luận sau: Quy mô kinh tế ngầm cao sẽ dẫn đến chất lượng thể chế thấp (đã được

khẳng định trong giả thuyết 2), và chất lượng thể chế thấp sẽ ngăn cản FDI (đã được kiểm định trong

giả thuyết 1).

Thứ tư, tác động âm của tăng trưởng kinh tế và tác động dương của tỷ lệ thất nghiệp lên nền

kinh tế ngầm được khẳng định trong luận án cũng đã mở ra thêm các kênh mà thông qua đó FDI có thể

giúp làm giảm quy mô kinh tế ngầm. Theo trường phái Legalism và Voluntarism, mối quan hệ giữa

nền kinh tế chính thức và kinh tế ngầm mang tính chất thay thế (Johnson et al., 1997; Friedman et al.,

2000). Do đó, đóng góp tích cực của FDI vào tăng trưởng của nền kinh tế chính thức sẽ gián tiếp làm

giảm quy mô kinh tế ngầm. Bên cạnh đó, cơ hội việc làm được tạo ra từ FDI làm giảm tỷ lệ thất

nghiệp, và tỷ lệ thất nghiệp giảm sẽ làm giảm quy mô kinh tế ngầm.

Thứ năm, chuyển sang kết quả nghiên cứu cho từng phương trình trong mô hình SEM, các yếu

tố quyết định FDI, chất lượng thể chế và kinh tế ngầm đã được nhận diện trong bối cảnh các nước châu

Á.

i) Các nhân tố như đầu tư trong nước, tăng trưởng GDP, lực lượng lao động, chất lượng lao

động và tài nguyên thiên nhiên có tác động tích cực đến việc thu hút dòng vốn FDI như

mong đợi ở mức ý nghĩa thống kê 1% -10%. Tiền lương có tác động tiêu cực đến dòng vốn

FDI. Dòng vốn FDI có liên quan tích cực với độ mở thương mại và cơ sở hạ tầng.

22

ii) Chất lượng thể chế có mối quan hệ cùng chiều với giáo dục, độ mở thương mại, thu nhập

bình quân đầu người và tự do kinh tế ở mức ý nghĩa 1% -10%, như đã được khẳng định

trong các nghiên cứu trước. Tác động âm của dân chủ đối với chất lượng thể chế trong

luận án này cho thấy mức độ dân chủ cao hơn dẫn đến chất lượng thể chế tốt hơn vì chỉ số

dân chủ càng thấp trong thang đo thể hiện mức độ dân chủ càng cao.

iii) Các yếu tố có tác động dương đến nền kinh tế ngầm bao gồm gánh nặng các quy định của

chính phủ, gánh nặng thuế, tự do kinh tế, tham nhũng, thất nghiệp và nghỉ hưu với mức ý

nghĩa 1% -10% như đã được đề cập trong các nghiên cứu trước.

CHƢƠNG 5: TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ NGẦM LÊN BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP:

NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TỪ CÁC NƢỚC CHÂU Á

5.1. Giới thiệu

Chương này xem xét ảnh hưởng của nền kinh tế ngầm đến bất bình đẳng thu nhập ở 19 nước châu

Á, thông qua mô hình 2 (phương trình 4) như được đề xuất trong chương 3.

5.2. Thống kê mô tả dữ liệu

Định nghĩa, phương pháp đo lường và thống kê mô tả của tất cả các biến trong phương trình (4) được

trình bày trong bảng 5.1.

Bảng 5.1: Định nghĩa, thang đo và thống kê mô tả các biến

Variables Definitions and measurements Mean St.variation Min Max Obs

Gini Gini (estimated number) 36.401 6.224 26.330 62.680 214

Lowest20 Income share held by lowest quintile (%) 7.437 1.498 2.510 10.020 196

Highest20 Income share held by lowest quintile (%) 44.443 4.728 36.350 57.030 196

Shadow Size of shadow economy (% GDP ) 34.185 12.867 13.008 68.703 363

Employ Employment in services to total (%) 38.577 10.555 8.620 68.080 379

23

Inflation Inflation, CPI (%) 13.603 87.998 -18.109 1877.372 470

Open Trade openness (% GDP) 76.586 48.077 0 220.407 494

Inst Institutional quality (estimated number) 3.688 0.544 2.743 5.183 259

Ecofree Economic freedom index (estimated 6.292 0.839 2.69 7.51 238

number)

Edu Education index (estimated number) 0.525 0.134 0.198 0.805 256

Corrupt Control of corruption (estimated number) -0.582 0.527 -1.698 1.275 342

Land Land per person (hectare) 0.242 0.403 0.009 2.195 471

5.3. Kết quả thực nghiệm và thảo luận

Sau khi ước lượng mô hình 2.1 (biến phụ thuộc là Gini), mô hình 2.2 (biến phụ thuộc là

Lowest20) và mô hình 2.3 (biến phụ thuộc là Highest20), và thực hiện các kiểm định (Breusch-Pagan,

Cook-Weisberg, Modified Wald, Wooldridge), tác giả thu được kết quả theo ba phương pháp ước

lượng (POLS, FE, RE). Theo đó, quy mô kinh tế ngầm tác động âm lên hệ số Gini và tỷ lệ thu nhập

của nhóm dân số 20% giàu nhất, và tác động dương lên tỷ lệ thu nhập của nhóm dân số 20% nghèo

nhất theo cả ba phương pháp ước lượng. Tuy nhiên, các kiểm định F và Hausman được thực hiện để

lựa chọn phương pháp ước lượng tốt nhất cho từng mô hình. Đầu tiên, kiểm định F được dùng để lựa

chọn giữa POLS và FE với giả thuyết H0 là không có tác động các đặc điểm riêng phần của các quốc

gia ở hệ số chặn (tung độ gốc). Sau đó, kiểm định Hausman được thực hiện để lựa chọn giữa FE và RE

với giả thuyết H0 là sự khác biệt giữa các hệ số hồi quy không mang tính hệ thống – hay tác động các

đặc điểm riêng phần của từng quốc gia không tương quan với các biến độc lập (Wooldridge, 2010).

Kết quả ước lượng thích hợp cuối cùng được trình bày trong bảng 5.2.

Bảng 5.2: Kết quả ƣớc lƣợng tác động của kinh tế ngầm lên bất bình đẳng thu nhập

Mô hình 2.1 Mô hình 2.2 Mô hình 2.3

Gini FE lowest20 FE highest20 RE

Biến phụ thuộc Phương pháp ước lượng Biến độc lập Shadow -0.116*** 0.020* -0.079***

24

Employ

Inflation

Open

Inst

Ecofree

Edu

Corrupt

Land

Constant

(2.65) - 0.109 (1.45) -0.082 (1.49) -0.006* (0.96) -1.110 (0.82) 6.591*** (3.21) 0.517 (0.08) 7.767*** (3.39) -3.033*** (2.71) 19.420* (1.70) 19 4.79 0.17 0.89 0.85 96.09*** (2.86) -0.545** (2.77) 0.034 (0.57) -0.091*** (3.37) -3.841*** (3.08) 7.396*** (3.79) -22.442 (1.03) 0.636 (0.22) -3.383* (6.24) 54.02** (2.39) 19 137.68*** 0.79 0.10 0.04 18.45*** 51.72*** (1.9) 0.127** (2.57) -0.017 (1.15) 0.024*** 3.59 0.823** (2.50) -2.184*** (4.04) 3.246 (0.56) 0.215 (0.27) -1.785 (0.50) 9.370 (1.41) 19 78.81*** 0.81 0.51 0.40 18.57*** 51.46***

Group Hausman test R2 Within Between Overall F test Wald test Auto- correlation test Absolute t-statistics appear in parentheses with white heteroscedasticity correlated standard. ***, ** and * indicate the significant levels at 1%, 5% and 10% respectively.

Sau đó, phương pháp ước lượng SGMM hai bước cũng được sử dụng để kiểm tra tính vững của

các ước lượng, đồng thời giải quyết vấn đề nội sinh do khả năng tác động phản hồi của bất bình đẳng

thu nhập lên

Kết quả ước lượng cho thấy kinh tế ngầm tác động âm lên bất bình đẳng thu nhập và tỷ trọng thu

nhập của nhóm dân số 20% giàu nhất với mức ý nghĩa thống kê 1%, và tác động dương lên tỷ trọng thu

nhập của nhóm dân số 20% nghèo nhất ở mức ý nghĩa 10%. Cụ thể, khi quy mô kinh tế ngầm tăng 1%,

trung bình chỉ số Gini giảm 0,116 đơn vị, tỷ trọng thu nhập của nhóm dân số 20% nghèo nhất tăng

0,02% và tỷ trọng thu nhập của nhóm dân số 20% giàu nhất giảm 0,079%. Nói cách khác, kinh tế

ngầm làm giảm bất bình đẳng thu nhập vì nó làm tăng thu nhập người nghèo và làm giảm thu nhập

người giàu.

Phát hiện này trái với kết quả nghiên cứu của Rosser và cộng sự (2000) khi các tác giả này kết

luận một cách thận trọng rằng bất bình đẳng thu nhập và kinh tế ngầm có mối quan hệ cùng chiều. Tuy

25

nhiên, kết quả này có thể được giải thích bằng cách kết hợp ba trường phái tư tưởng về kinh tế ngầm

bao gồm Nhị nguyên (Dualism), Duy luật (Legalism) và Tự nguyện (Volutarism). Theo trường phái

Nhị nguyên, kinh tế ngầm thu hút chủ yếu là người nghèo, những người kinh doanh nhỏ lẻ và tạo ra thu

nhập cho họ (Hart, 1973). Do đó, kinh tế ngầm sẽ làm tăng tỷ lệ thu nhập của người nghèo. Trong khi

đó, hai trường phái Duy luật và Tự nguyện cho rằng kinh tế ngầm tạo ra sự cạnh tranh không công

bằng giữa hai khu vực chính thức và không chính thức (Chen, 2012). Vì thế, khu vực chính thức sẽ bị

tác động tiêu cực bởi sự phát triển của khu vực không chính thức. Hơn nữa, theo cách tiếp cận nhị

nguyên, kinh tế ngầm thu hút hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và nghèo, nhưng không phải là các doanh

nghiệp giàu có và lớn. Vì vậy, sự cạnh tranh không công bằng này có thể làm giảm thu nhập của người

giàu.

Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng xác định các nhân tố có tác động âm đến bất bình đẳng thu

nhập ở các nước châu Á có ý nghĩa thống kê như kỳ vọng và phù hợp với các nghiên cứu trước bao

gồm việc làm trong khu vực dịch vụ, độ mở thương mại, thể chế và phân bổ đất đai đầu người. Giáo

dục cũng có tác động làm giảm bất bình đẳng thu nhập, nhưng không có ý nghĩa thống kê trong nghiên

cứu. Tuy nhiên, tự do kinh tế lại làm tăng bất bình đẳng thu nhập, hàm ý có sự đánh đổi giữa tự do

kinh tế và bình đẳng thu nhập mà Carter (2007) đã từng lập luận: tự do kinh tế cao sẽ dẫn đến bình

đẳng thu nhập thấp vì nó làm giảm phân phối thu nhập cho người nghèo. Các nhân tố khác như lạm

phát, tham nhũng và FDI tác động dương lên bất bình đẳng thu nhập, nhưng không có ý nghĩa thống kê

trong nghiên cứu.

So sánh tác động của các nhân tố lên tỷ trọng thu nhập nhóm dân số 20% nghèo nhất (Q1) và tỷ

trọng thu nhập nhóm dân số 20% giàu nhất (Q2) cũng cung cấp những kết quả hữu ích. Các nhân tố

làm tăng Q1 là việc làm trong ngành dịch vụ, độ mở thương mại và chất lượng thể chế. Tuy nhiên, tự

do kinh tế làm giảm Q1 và làm tăng Q2. Các nhân tố khác làm giảm Q2 bao gồm độ mở thương mại và

phân bổ đất đai đầu người.

Tóm lại, bằng chứng thực nghiệm từ 19 quốc gia châu Á cho thấy kinh tế ngầm giúp làm giảm

bất bình đẳng thu nhập thông qua 2 kênh chính: quy mô kinh tế ngầm tăng thu nhập của nhóm 20%

nghèo nhất và giảm thu nhập của nhóm 20% giàu nhất.

26

CHƢƠNG 6: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH

6.1. Kết luận

Luận án giải quyết hai mục tiêu nghiên cứu chính: (1) nghiên cứu mối quan hệ nhân quả ba

chiều giữa FDI, chất lượng thể chế và kinh tế ngầm ở các nước châu Á; (2) lượng hóa tác động của nền

kinh tế ngầm lên bất bình đẳng thu nhập và các kênh tác động trong bối cảnh châu Á. Các kết quả thực

nghiệm trong chương 4 và chương 5 đã khẳng định một số kết luận như sau.

Thứ nhất, luận án kết hợp ba lý thuyết về thương mại quốc tế, chất lượng thể chế và kinh tế

ngầm thông qua phương pháp tiếp cận tích hợp để nghiên cứu mối liên hệ ba chiều giữa FDI, chất

lượng thể chế và kinh tế ngầm trong bối cảnh các nước châu Á, xây dựng cơ chế các biến này tương

tác với nhau để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đây là nghiên cứu đầu tiên khám phá mối liên hệ ba

chiều giữa các biến này. Cụ thể, luận án lấp đầy khoảng trống thực nghiệm về mối quan hệ đồng biến

hai chiều giữa dòng vốn FDI và chất lượng thể chế trong bối cảnh các nước châu Á bằng cách kết hợp

Mô hình Chiết trung (Dunning, 1980) và Lý thuyết Thể chế hóa (North, 1990), bác bỏ Giả thuyết nơi

ẩn giấu ô nhiễm về mối quan hệ ngược chiều giữa FDI và thể chế được đề xuất bởi He (2006). Ngoài

ra, mối quan hệ hai chiều nghịch biến giữa chất lượng thể chế và kinh tế ngầm được tìm thấy từ luận án

này đã bổ sung cho Lý thuyết Legalism về kinh tế ngầm: Chất lượng thể chế thấp không chỉ là nguyên

nhân (lập luận của trường phái Legalism) mà còn là hậu quả của kinh tế ngầm (phát hiện từ luận án);

và do đó các nghiên cứu về mối quan hệ này nên xem xét vấn đề nội sinh. Hơn nữa, mối quan hệ hai

chiều tiêu cực giữa FDI và nền kinh tế ngầm lấp đầy khe hở lý thuyết và thực nghiệm ở châu Á bằng

cách xem xét đến chất lượng thể chế: Dòng vốn FDI làm giảm quy mô kinh tế ngầm thông qua kênh

cải thiện chất lượng thể chế do FDI mang lại; quy mô kinh tế ngầm cao sẽ đồng hành cùng chất lượng

thể chế thấp và điều này lại làm giảm FDI; tác động âm của sự tương tác giữa FDI và chất lượng thể

chế lên nền kinh tế ngầm cho thấy dòng vốn FDI tác động âm lên quy mô kinh tế ngầm và sự cải thiện

chất lượng thể chế làm tăng cường hiệu ứng này.

Thứ hai, luận án phát hiện ra rằng nền kinh tế ngầm góp phần làm giảm bất bình đẳng thu nhập

thông qua 2 kênh chính, đó là: tăng tỷ lệ thu nhập của nhóm 20% dân số có thu nhập thấp nhất, và

giảm tỷ lệ thu nhập của nhóm 20% dân số có thu nhập cao nhất. Kết quả này trái ngược với các nghiên

cứu trước đây (Rosser và cộng sự, 2000, 2003), mở ra thêm tranh luận cho giới nghiên cứu, nhất là hỗ

trợ quan điểm về tác động có lợi của nền kinh tế ngầm đặc biệt đối với người nghèo. Phát hiện này có

thể được giải thích bằng cách kết hợp ba trường phái tư tưởng về kinh tế ngầm bao gồm Dualism,

Legalism và Voluntarism, với hai lập luận chính như sau. Thứ nhất, trường phái Dualism với lý thuyết

27

Dư lượng mô tả kinh tế ngầm như một tập hợp các hoạt động được thực hiện trong xã hội bên lề nhằm

tăng thu nhập cho người nghèo (Hart, 1973; Sethuraman, 1976; và Tokman, 1978). Thứ hai, hai trường

phái Legalism và Voluntarism với các lý thuyết thay thế cho rằng sự gia tăng của kinh tế ngầm tạo ra

sự cạnh tranh không lành mạnh cho các doanh nghiệp và người lao động giữa hai khu vực chính thức

và phi chính thức (Chen, 2012). Tuy nhiên, sự cạnh tranh không lành mạnh giữa hai lĩnh vực này cuối

cùng đã trở thành một kênh giúp giảm bất bình đẳng thu nhập bởi vì theo trường phái Dualism, kinh tế

ngầm chủ yếu thu hút người nghèo và các doanh nghiệp nhỏ, chứ không phải người giàu và các doanh

nghiệp lớn. Do đó, sự cạnh tranh không lành mạnh từ kinh tế ngầm có thể làm giảm thu nhập của

người giàu vì người nghèo có được nhiều lợi ích hơn từ việc tham gia vào các hoạt động phi chính

thức. Kết quả là, kinh tế ngầm làm giảm bất bình đẳng thu nhập.

Thứ ba, các yếu tố quyết định khác của FDI, chất lượng thể chế, kinh tế ngầm và bất bình

đẳng thu nhập cũng được xác định trong bối cảnh các nước châu Á. Các nhân tố tác động đến việc thu

hút FDI bao gồm đầu tư trong nước, tăng trưởng GDP, lực lượng lao động, chất lượng lao động, tiền

lương, độ mở thương mại, cơ sở hạ tầng và tài nguyên thiên nhiên. Các yếu tố quyết định chất lượng

thể chế bao gồm giáo dục, độ mở thương mại, thu nhập bình quân đầu người, tự do kinh tế và dân chủ.

Các yếu tố ảnh hưởng đến quy mô của nền kinh tế là gánh nặng các quy định của chính phủ, gánh nặng

thuế, tự do kinh tế, tham nhũng, thất nghiệp, nghỉ hưu, nền kinh tế chính thức và đô thị hóa. Việc làm

trong ngành dịch vụ, độ mở thương mại, chất lượng thể chế, đất đai đầu người, giáo dục và tự do kinh

tế là các yếu tố quyết định bất bình đẳng thu nhập.

6.2. Gợi ý chính sách

Dựa vào kết quả nghiên cứu trên thông qua mô hình 1 và mô hình 2, luận án rút ra những gợi ý

chính sách như sau.

Thứ nhất, mối quan hệ hai chiều tích cực giữa FDI và chất lượng thể chế cho thấy chất lượng

thể chế đóng một vai trò quan trọng trong việc thu hút FDI, và ngược lại FDI cũng là một kênh quan

trọng để cải thiện chất lượng thể chế. Mối quan hệ hhân quả hai chiều tích cực ngụ ý rằng FDI và chất

lượng thể chế đóng vai trò bổ sung cho nhau để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các nước

châu Á. Do đó, các chính phủ nên thực hiện các chính sách đồng thời để thu hút FDI và cải thiện chất

lượng thể chế để tận dụng mối quan hệ nhân quả hai chiều tích cực này.

Thứ hai, mối quan hệ hai chiều nghịch biến giữa chất lượng thể chế và kinh tế ngầm cho thấy

rằng công cuộc đổi mới thể chế ở châu Á nếu đạt được hiệu quả sẽ là một giải pháp không chỉ đóng

28

góp cho tăng trưởng kinh tế, mà còn giúp làm giảm quy mô kinh tế ngầm. Khi quy mô kinh tế ngầm

giảm, chất lượng thể chế lại tiếp tục được cải thiện. Các chính sách cải cách thể chế và giảm các hoạt

động phi chính thức cần được thực hiện đồng thời để tăng cường hiệu quả từ mối liên kết hai chiều

này.

Thứ ba, mối quan hệ nhân quả hai chiều nghịch biến giữa FDI và kinh tế ngầm, cũng như sự

tương tác giữa FDI và chất lượng thể chế có ảnh hưởng âm lên quy mô kinh tế ngầm cho thấy FDI có

thể giúp giảm quy mô kinh tế ngầm thông qua kênh cải thiện thể chế; và khi quy mô kinh tế ngầm

giảm, chất lượng thể chế tăng và điều này sẽ khuyến khích thu hút dòng vốn FDI. Vì thế, các chính

sách thu hút FDI, cải thiện chất lượng thể chế và giảm quy mô kinh tế ngầm nên thực hiện đồng thời để

pháp huy mối liên kết ba chiều này.

Thứ tư, các chính sách đồng thời để thu hút FDI, cải thiện chất lượng thể chế và giảm quy mô

kinh tế ngầm nên tập trung vào thúc đẩy tự do hóa thương mại và dân chủ hóa, giảm bớt gánh nặng của

các quy định của chính phủ, nâng cao chất lượng giáo dục, nguồn nhân lực và sử dụng hiệu quả tài

nguyên thiên nhiên cũng các giải pháp như thúc đẩy tăng trưởng và tăng thu nhập bình quân đầu người.

Thứ năm, tác động nghịch biến của kinh tế ngầm lên bất bình đẳng thu nhập ngụ ý rằng kinh tế

ngầm không phải luôn luôn xấu do những tác động tiêu cực của nó, nhất là đối với người nghèo. Do

đó, khi thực hiện chính sách cắt giảm nền kinh tế ngầm, các chính phủ nên có những giải pháp đồng

thời kèm theo nhằm làm giảm nghèo đói và bất bình đẳng thu nhập tại các nước đang phát triển. Ngoài

ra, các chính sách nhằm giảm bất bình đẳng thu nhập nên tập trung chủ yếu vào thúc đẩy tự do kinh tế,

tăng cường trao đổi thương mại, cải thiện chất lượng thể chế, tạo việc làm trong ngành dịch vụ và phân

bổ nguồn tài nguyên hiệu quả.

6.3. Hạn chế của luận án và hƣớng nghiên cứu trong tƣơng lai

Việc đo lường quy mô kinh tế ngầm khá nhạy cảm với phương pháp ước lượng. Mặc dù luận

án sử dụng bộ dữ liệu từ Medina & Schneider (2018), được IMF công bố, trong đó cách tiếp cận

MIMIC phổ biến và mới nhất được sử dụng để đo lường quy mô kinh tế ngầm; nhưng sẽ thuyết phục

hơn nếu nghiên cứu sử dụng số liệu về quy mô kinh tế ngầm của các nước được đo từ những phương

pháp khác nhau. Bên cạnh đó, các nghiên cứu tương tự trong tương lai về mối quan hệ giữa FDI, chất

lượng thể chế, kinh tế ngầm và bất bình đẳng thu nhập cần được thực hiện cho cả hai nhóm nước phát

triển và đang phát triển trên toàn thế giới để có những kết luận toàn diện và thuyết phục hơn.

29

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

Bài báo khoa học

1. Huỳnh Công Minh & Nguyễn Vũ Hồng Thái. (2018). Kinh tế ngầm và bất bình đẳng thu nhập:

Nghiên cứu thực nghiệm từ các nước châu Á. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 13 (689), 15-20.

2. Huỳnh Công Minh & Nguyễn Tấn Lợi. (2017). Đầu tư trực tiếp nước ngoài và chất lượng thể chế:

Bằng chứng thực nghiệm từ các nước châu Á. Tạp chí Phát triển Kinh tế, 28(11), 54–72.

3. Nguyễn Phú Tụ & Huỳnh Công Minh. (2010). Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài với

tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam. Tạp chí Phát triển Kinh tế, 239 (9), 43-49.

Đề tài nghiên cứu khoa học

Hoàng Hồng Hiệp, Huỳnh Công Minh và cộng sự. (2018). Nghiên cứu những nhân tố tác động đến đầu

tư trực tiếp nước ngoài tại các tỉnh vùng Nam Trung Bộ. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ năm 2017-

2018, Viện Khoa học Xã hội vùng Trung Bộ chủ trì.

Hôi thảo quốc tế

Huynh, C.M. (2018). Shadow economy and income inequality: New empirical evidence from Asian

developing countries. BAASANA International Conference. Hanoi.