VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HOÀI AN
SỰ ĐỔI MỚI CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986
NHÌN TỪ LÝ THUYẾT HỆ HÌNH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
HÀ NỘI - 2021
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HOÀI AN
SỰ ĐỔI MỚI CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986
NHÌN TỪ LÝ THUYẾT HỆ HÌNH
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9 22 01 21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS ĐỒ LAI THÚY
2. TS HOÀNG TỐ MAI
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận án là trung thực, đảm bảo độ chuẩn xác cao nhất có thể. Các tài
liệu tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về
công trình nghiên cứu của mình.
Vinh, ngày 15 tháng 04 năm 2021
Tác giả luận án
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .......................................5
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 ..................6
1.1.1. Sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 từ cái nhìn lịch sử ..........6
1.1.2. Sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 nhìn từ các lý thuyết
tiếp cận ...............................................................................................................9
1.2. Tổng quan về tình hình áp dụng lý thuyết hệ hình trong nghiên cứu tiểu
thuyết Việt Nam sau 1986 .......................................................................................21
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................24
Chương 2: LÍ THUYẾT HỆ HÌNH VỚI ĐỐI TƯỢNG TIỂU THUYẾT VIỆT
NAM SAU 1986 .......................................................................................................26
2.1. Lý thuyết hệ hình .............................................................................................26
2.1.1.Khái lược về lý thuyết hệ hình của Thomas Kuhn ..................................26
2.1.2. Ứng dụng lí thuyết hệ hình trong khoa học nhân văn thế giới ...............30
2.1.3. Ứng dụng lý thuyết hệ hình tại Việt Nam ..............................................36
2.2. Những nhận thức ban đầu cho việc triển khai đề tài luận án. .....................39
2.2.1. Ba quan niệm về thực tại - ba hệ hình triết học ......................................39
2.2.2. Ba phạm trù mĩ học trung tâm - ba hệ hình mỹ học ...............................43
2.2.3. Ba mô hình kiến tạo - ba hệ hình tiểu thuyết .........................................46
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................49
Chương 3: SỰ VẬN ĐỘNG CỦA QUAN NIỆM VỀ THỰC TẠI TRONG
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986 ................................................................50
3.1. Sự vận động của quan niệm về thực tại .........................................................50
3.1.1. Từ phản ánh hiện thực đến kiến tạo thực tại ..........................................50
3.1.2 Từ kiến tạo thực tại đến cảm quan thực tại phân mảnh ..........................80
3.2. Sự vận động trong quan niệm về con người ..................................................88
3.2.1. Từ cái tôi đơn ngã đến cái tôi đa ngã .....................................................88
3.2.2. Từ cái tôi đa ngã đến cái tôi liên chủ thể ............................................. 101
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................. 106
Chương 4: SỰ VẬN ĐỘNG CỦA QUAN NIỆM VỀ VIẾT TRONG TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986 ....................................................................... 108
4.1. Từ viết về phiêu lưu đến phiêu lưu của viết ................................................ 108
4.1.1 Tiểu thuyết trước 1986 với quan niệm viết về phiêu lưu ..................... 108
4.1.2. Tiểu thuyết sau 1986 - cuộc phiêu lưu của viết ................................... 113
4.2. Từ phiêu lưu của viết đến viết về cái viết .................................................... 125
4.2.1 Siêu hư cấu và cuộc chơi có ý thức của viết ....................................... 125
4.2.2. Viết và tự giễu nhại viết trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 ........... 138
Tiểu kết chương 4 ................................................................................................. 149
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ .............. 156
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 157
PHỤ LỤC .............................................................................................................. 171
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiểu thuyết sau 1986 là một giai đoạn cách tân nổi bật của tiểu thuyết Việt
Nam. Cách tân vừa là nhu cầu nội tại, vừa được thúc đẩy bởi tinh thần của phong trào
Đổi mới đã tạo nên những chuyển biến sâu sắc trong tiểu thuyết từ sau 1986. Tiểu
thuyết dần từ bỏ quan niệm phản ánh hiện thực để đạt được những đỉnh cao với quan
niệm kiến tạo thực tại và dịch chuyển tới ám ảnh về một thực tại phân mảnh. Tiểu thuyết
từ phản ánh con người đơn ngã sang con người đa ngã, chấp nhận phần bản năng, con
người tính dục, con người tâm linh… và cuối của hành trình tìm kiếm, tiểu thuyết nhận
ra nhiều con người trong một con người. Từ viết về phiêu lưu, các tiểu thuyết sau 1986
đặt trọng tâm ở phiêu lưu của cái viết và dịch dần về viết về cái viết, tạo nên những thay
đổi cơ bản trong nghệ thuật tiểu thuyết.
Ý thức đổi mới nghệ thuật của các nhà văn đương đại đi cùng sự phổ biến của
các lý thuyết tiếp cận văn học mới mẻ đã tạo ra một mảnh đất năng sản cho những
khám phá và phiêu lưu học thuật. Tiểu thuyết sau 1986 đã được tiếp cận từ cái nhìn lịch
sử hay từ nhiều lý thuyết tiếp cận như thi pháp học, tự sự học, phân tâm học, nữ quyền
luận, phê bình hậu hiện đại…Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy chưa có một công trình nào
thể nghiệm một lý thuyết tiếp cận thống nhất và chuyên sâu để nhận diện sự vận động
bên trong của toàn bộ giai đoạn tiểu thuyết này.
Lý thuyết hệ hình được Thomas Kuhn đề xuất trong công trình nổi tiếng Cấu
trúc các cuộc cách mạng khoa học. Đây là lý thuyết công cụ rất hữu ích, không chỉ
giúp người sử dụng nhận diện đặc điểm của một thời kì phát triển, mà quan trọng hơn
còn nhìn nhận chúng trong một diễn trình vận động, phát triển. Lý thuyết hệ hình đã
mang lại một cái nhìn mới cho lịch sử khoa học, lịch sử văn hóa, nghệ thuật, văn học và,
từ đó, có thể tạo ra một lối viết lịch sử mới, nhìn sự dịch chuyển của đối tượng từ những
vận động nội tại. Lý thuyết này đặc biệt tương thích với những giai đoạn văn học có
bước chuyển mình mạnh mẽ như văn học sau 1986. Bổ sung hướng tiếp cận từ lý thuyết
hệ hình với cái nhìn nội quan là cần thiết để có một hướng khám phá mới về sự vận động
từ trước đến sau mốc thời gian ấy, cũng có nghĩa là lý giải những cách tân của tiểu thuyết
sau 1986 trong sự vận động nội tại của văn học một cách khoa học.
Trước những vấn đề đặt ra trên, luận án của chúng tôi có nhiệm vụ nhận diện
những cách tân của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 trong sự dịch chuyển hệ hình từ
1
tiền hiện đại (chủ nghĩa) sang hiện đại (chủ nghĩa) rồi hậu hiện đại. Luận án sẽ trả lời
những câu hỏi chính: Tiểu thuyết sau 1986 có những cách tân nào trong quan niệm về
thực tại và con người? Tiểu thuyết sau 1986 có những thay đổi như thế nào về viết,
mang đến những đổi mới nào về phương diện nghệ thuật? Những cách tân đó tạo ra
cuộc cách mạng hệ hình trong tiểu thuyết Việt Nam như thế nào? Đồng thời, luận án
đưa ra những cắt nghĩa góp phần làm sáng tỏ những vấn đề còn tồn tại trong phân kì
văn học, phân định các khái niệm quan trọng như thời hiện đại, chủ nghĩa hiện đại,
chủ nghĩa hậu hiện đại, tạo ra tiền đề để đánh giá khách quan những giá trị cách tân
tiểu thuyết sau 1986 trong tiến trình tiểu thuyết Việt Nam… Đó là những vấn đề thiết
yếu trong nghiên cứu văn học hiện nay.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam
sau 1986 trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Lấy lý thuyết hệ hình làm
hệ qui chiếu, luận án nghiên cứu cuộc cách mạng hệ hình của tiểu thuyết Việt Nam
sau 1986, nghĩa là luận án nghiên cứu sự vận động của tiểu thuyết với những tác giả,
tác phẩm tạo nên sự chuyển đổi hệ hình và những tác giả, tác phẩm hoàn chỉnh hệ
hình. Luận án cũng nghiên cứu đặc trưng của các hệ hình tiểu thuyết giai đoạn sau
1986 trên các tiểu thuyết cụ thể của giai đoạn tiểu thuyết này.
Phạm vi khảo sát của luận án là các tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 trên phổ rộng,
trong đó luận án tập trung vào các tiểu thuyết nổi bật của giai đoạn sau 1986: Thời xa
vắng (Lê Lựu); Bến không chồng (Dương Hướng); Thiên sứ (Phạm Thị Hoài); Nỗi buồn
chiến tranh (Bảo Ninh); Lão Khổ, Thiên thần sám hối, Đi tìm nhân vật (Tạ Duy Anh);
Thoạt kì thủy, Người đi vắng, Ngồi, Mình và họ (Nguyễn Bình Phương); Cơ hội của
Chúa, Khải huyền muộn (Nguyễn Việt Hà); T mất tích, Pari 11-8, Chinatown (Thuận);
Và khi tro bụi, Mưa ở kiếp sau (Đoàn Minh Phượng), 3.3.3.9 [Những mảnh hồn trần]
(Đặng Thân) ; Tưởng tượng và dấu vết (Uông Triều); Sông, Biên sử nước (Nguyễn Ngọc
Tư); Tiếng nói, Vượt sóng, Sóng ngầm (Linda Lê)…
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi đặt ra mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
Mục đích nghiên cứu: Nhận diện, đánh giá sự đổi mới của tiểu thuyết Việt
Nam sau 1986 trên các phương diện: quan niệm về thực tại và con người, quan niệm
về viết cùng các kĩ thuật tự sự tương ứng… trong sự đối sánh hệ hình, qua đó, chỉ ra
2
những đóng góp của giai đoạn tiểu thuyết này trong tiến trình tiểu thuyết Việt Nam từ
đầu thế kỷ XX, nhất là từ sau 1975 cho đến nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Lấy lý thuyết hệ hình của Thomas Kuhn làm lý thuyết
tiếp cận, luận án làm rõ sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986 trong sự
dịch chuyển của các hệ hình tiền hiện đại, hiện đại, hậu hiện đại. Ở mỗi hệ hình tiểu
thuyết, luận án chỉ ra những đặc trưng cơ bản của hệ hình, đồng thời đặt các hệ hình
tiểu thuyết cạnh nhau để làm rõ sự vận động nội tại của tiểu thuyết Việt Nam sau
1986 với hai lần chuyển đổi hệ hình.
Mặt khác, với cái nhìn hệ hình, chúng tôi sẽ chỉ ra vị trí, đóng góp của các tác
giả, nhất là các nhân vật hệ hình và các tác phẩm của họ trong diễn trình tiểu thuyết
từ sau 1986.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án sử dụng những tư tưởng trong lý thuyết hệ hình của Thomas Kuhn
làm nền tảng lí thuyết để nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam sau 1986, đặc biệt là các
khái niệm hạt nhân như hệ hình, chuyển đổi hệ hình. Lý thuyết hệ hình của Thomas
Kuhn cùng các công trình nghiên cứu văn học ảnh hưởng, tiếp thu lí thuyết hệ hình
chính là điểm tựa lí thuyết của luận án. Ngoài ra, chúng tôi cũng áp dụng các lý
thuyết khác như tự sự học, thi pháp học… Những lý thuyết công cụ này hỗ trợ chúng
tôi trong quá trình giải mã văn bản và lý giải các hiện tượng văn học.
Luận án sử dụng những phương pháp nghiên cứu chính như sau:
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành văn hóa - văn học: dùng để khảo sát
quá trình hình thành, vận động của các hệ hình văn hóa, văn học trên cơ sở các điều
kiện triết học, kinh tế - xã hội, văn hóa - nghệ thuật… và vận dụng lý giải các hiện
tượng của tiểu thuyết Việt Nam trên các điều kiện lịch sử, văn hóa đặc thù.
- Phương pháp cấu trúc và phương pháp hệ thống: dùng để tìm hiểu, nghiên
cứu một cách hệ thống lý thuyết hệ hình của Thomas Kuhn, các hệ hình văn hóa - văn
học: tiền hiện đại, hiện đại, hậu hiện đại.
- Phương pháp so sánh: so sánh trên hai phương diện lịch đại và đồng đại chính
là phương pháp nghiên cứu hữu hiệu giúp chúng tôi nhận ra những dấu hiệu đặc trưng
của các hệ hình tiểu thuyết, đặt các tiểu thuyết, khuynh hướng tiểu thuyết cạnh nhau để
nhận diện dấu hiệu hệ hình đặc trưng, từ đó có thể nhận diện vị trí của các tác giả, tác
phẩm tiểu thuyết cụ thể trong toàn cảnh tiểu thuyết Việt Nam sau 1986.
Ngoài ra, luận án sử dụng các phương pháp phân tích tổng hợp, khảo sát, thống kê…
3
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Trên cơ sở tiếp thu, vận dụng lý thuyết hệ hình của Thomas Kuhn, luận án là
công trình đầu tiên ở Việt Nam đặt vấn đề nghiên cứu những đổi mới của tiểu thuyết
Việt Nam sau 1986 nhìn từ lý thuyết hệ hình. Trong tình hình nghiên cứu văn học
Việt Nam nói chung, luận án góp phần nhìn nhận những đổi mới của tiểu thuyết với
sự vận động mang tính chất hệ hình từ tiền hiện đại, sang hiện đại, hậu hiện đại. Luận
án đã nhìn nhận sự vận động của tiểu thuyết từ trước đến 1986 từ cái nhìn nội quan,
đem đến một cách phân kì mới không chỉ cho giai đoạn tiểu thuyết này mà còn có thể
áp dụng cho tiến trình văn học Việt Nam các giai đoạn khác.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án có thể được xem là một trong những công trình đầu tiên, tương đối có hệ
thống áp dụng lý thuyết hệ hình của Thomas Kuhn để nghiên cứu sự đổi mới của tiểu
thuyết Việt Nam sau 1986. Luận án góp phần khẳng định giá trị ứng dụng của lý thuyết
hệ hình của Thomas Kuhn đối với các vấn đề của khoa học xã hội nói chung và văn học
nói riêng.
Luận án hoàn thành sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc tìm hiểu, học
tập, nghiên cứu về tiểu thuyết Việt Nam sau 1986, rộng hơn là cho toàn bộ nền văn
học Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận
án gồm bốn chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Lí thuyết hệ hình với tiểu thuyết Việt Nam sau 1986
Chương 3: Sự vận động của quan niệm về thực tại trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986
Chương 4: Sự vận động của quan niệm về viết trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Giai đoạn 1945-1975, đất nước lâm vào hai cuộc chiến tranh liên tiếp. Sự
tồn vong của Tổ quốc luôn được đặt lên hàng đầu. Mỗi nhà văn được kêu gọi để trở
thành tuyên truyền viên cho cách mạng. Tiểu thuyết - cái máy cái của văn học đã
tự điều chỉnh để hòa nhịp với guồng máy chung của công cuộc kháng chiến và xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng với ảnh hưởng của các tiểu thuyết viết theo phương
pháp sáng tác hiện thực x hội chủ ngh a - chủ yếu là của các nhà văn Xô Viết và
Trung Quốc, tiểu thuyết 1945 - 1975 từ bỏ hành trình hiện đại hóa đang dở dang của
tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn và các nhà hiện thực phê phán, chuyển dần sang mô hình
tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa mang âm hưởng sử thi.
Tiểu thuyết sau 1986 là một giai đoạn phát triển khác, một giai đoạn cách tân
nổi bật của tiểu thuyết Việt Nam. Cách tân là nhu cầu nội tại của văn học, được thúc
đẩy bởi nhiều chuyển biến của đời sống xã hội, nhất là tinh thần của phong trào Đổi
mới với chủ trương cởi trói thay đổi tư duy kinh tế, xóa bỏ bao cấp, kể cả bao
cấp tư tưởng đã góp phần tạo bước ngoặt cho văn hóa và văn học Việt Nam, mở
đường cho sự phát triển mạnh mẽ của văn học, nhất là tiểu thuyết. Có thể khẳng
định, bầu không khí dân chủ cùng với quan điểm đổi mới tác động đến đời sống
tinh thần con người. Trong đời sống văn nghệ diễn ra những cuộc x rào , vượt
rào , nhiều cuộc tranh luận cởi mở thẳng thắn. Nhờ vậy, nhà văn được đón nhận
luồng gió mới với một tâm thế hào hứng để viết một cách tự do, thoải mái. Viết
mới, cụ thể là viết theo lối hiện đại chủ nghĩa không còn bị phê phán, thậm chí đã
được thừa nhận như một yêu cầu của thời đại. Với việc khẳng định tính đa chân lí,
xoá bỏ mọi khoảng cách sử thi, khẳng định cá nhân, tiểu thuyết giai đoạn này có
một diện mạo mới. Tiểu thuyết đề cao những cách tân mới mẻ về hình thức biểu
đạt: đồng hiện, kỹ thuật dòng ý thức, độc thoại nội tâm, môtíp giấc mơ, ký ức, vọng
niệm, phóng khoáng trong các kiểu diễn ngôn, co giãn, mềm dẻo trong kết cấu, ý
tưởng không liên tục, chối bỏ trau chuốt mang tính tu từ… Tiểu thuyết sau 1986
chứng kiến sự gối tiếp và đồng tồn bởi của nhiều làn sóng tiểu thuyết với mức độ
cách tân và những đóng góp khác nhau, có sự lệch tông khá rõ: từ làn sóng thứ nhất
5
với các sáng tác rất gần với tiểu thuyết 45-75, và xa hơn là các sáng tác của Nguyễn
Minh Châu, Chu Lai, Dạ Ngân, Lê Lựu… đến làn sóng thứ hai, Nguyễn Huy Thiệp,
Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, được nối tiếp với Hồ nh Thái, Nguyễn Bình Phương, Tạ
Duy Anh, Linda Lê, Nguyễn Ngọc Tư… đã mang đến những biến chuyển sâu sắc
trong quan niệm và đặc trưng thể loại. Thuận và Đặng Thân và một số tiểu thuyết của
các tác giả vừa kể trên có thể xem như là những đỉnh sóng trong dòng chảy tiểu thuyết
cách tân, đưa tiểu thuyết Việt Nam sang địa hạt của chủ nghĩa hậu hiện đại. Với những
cách tân đó, tiểu thuyết sau 1986 đã phá vỡ ranh giới của hàng loạt quan niệm mang
tính định giá đã tồn tại suốt một thời gian dài về chủ nghĩa hiện thực, về vai trò của chủ
đề tư tưởng trong tác phẩm, về tầm vóc và quy mô của các tự sự, về ranh giới giữa các
thể loại và loại hình... Ba mươi năm tiểu thuyết đã chứng kiến sự nối tiếp, song hành
của các khuynh hướng tiểu thuyết tiền hiện đại, hiện đại và hậu hiện đại.
Các tiểu thuyết sau 1986 đã có những thành tựu nghệ thuật đa dạng, phong
phú với những mã nghệ thuật mới, đòi hỏi phải có những lý thuyết và những
phương pháp mới để giải mã. Lý thuyết ấy phải cắt nghĩa, lý giải được những vận
động nội tại của tiểu thuyết ở cả bình diện lịch đại: trước và sau 1986, đồng thời tái
hiện các diễn trình vận động, phát triển theo thời gian, lý giải mối quan hệ tác động
qua lại giữa các khuynh hướng tiểu thuyết, cung cấp cái nhìn thấu suốt ở phương
diện đồng đại cho bản thân giai đoạn tiểu thuyết từ sau 1986. Đó là lý do có sự xuất
hiện của nhiều lý thuyết phê bình, nhiều phương pháp phê bình mới trong nghiên
cứu, phê bình tiểu thuyết sau 1986. Chúng tôi tổng quan tình hình nghiên cứu tiểu
thuyết Việt Nam sau 1986 trên 2 phương diện:
- Tổng quan về tình hình nghiên cứu sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam
sau 1986 với cách tiếp cận lịch sử và từ các lý thuyết nghiên cứu.
- Tổng quan về tình hình áp dụng lý thuyết hệ hình trong nghiên cứu tiểu
thuyết Việt Nam sau 1986.
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam sau 1986
1.1.1. Sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 từ cái nhìn lịch sử
Nghiên cứu tiểu thuyết sau 1986 thường nằm chung trong những tổng kết
lớn hơn: văn học thế kỷ XX hay văn học đầu thế kỉ XXI, hoặc văn học từ sau 1975,
hay văn học từ sau 1986.
6
Tiểu thuyết sau 1986 được nhìn nhận trong chỉnh thể văn học Việt Nam thế
kỷ XX (còn được định danh là văn học Việt Nam hiện đại) trong các công trình: Văn
học trên hành trình thế kỷ XX của Phong Lê năm 1997; Nhìn lại văn học Việt Nam thế
kỷ XX của nhiều tác giả do Hà Minh Đức chủ biên năm 2005; Văn học Việt Nam thế kỷ
XX - những vấn đề lịch sử và lý luận do Phan Cự Đệ chủ biên; Giáo trình Văn học Việt
Nam hiện đại do Nguyễn Văn Long chủ biên. Trong các công trình này, tiểu thuyết sau
1986 hiện diện khá khiêm nhường.
Ở cắt khúc ngắn hơn, tiểu thuyết sau 1986 thường được nhìn nhận trong
diễn tiến chung của văn học sau 1975, hẹp hơn là văn xuôi sau 1975. Trong chuyên
luận Văn xuôi 1975 - 1995, những đổi mới căn bản, tác giả Nguyễn Thị Bình đã
nghiên cứu những đổi mới của cả một giai đoạn văn xuôi từ các phương diện: quan
niệm về hiện thực, quan niệm về con người, các phương diện nghệ thuật. Tiểu
thuyết đương đại (Tiểu luận - phê bình văn học) của Bùi Việt Thắng chọn mốc thời
gian 1975 để đánh giá những đổi mới trong tiểu thuyết Việt Nam, có đề cập đến tiểu
thuyết sau 1986 ở các bài viết: Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975- Nhìn từ góc độ thể
loại; Những biến động trong cấu trúc thể loại trong tiểu thuyết sau 1975; Khuynh
hướng giản lược nhân vật trong tiểu thuyết hiện đại…. Trong công trình Văn học
Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy do Nguyễn Văn Long -
Lã Nhâm Thìn chủ biên, phần II: Những vấn đề văn xuôi có nhiều bài viết về tiểu
thuyết Việt Nam sau 1975: Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975- nhìn từ góc độ thể loại
của Bùi Việt Thắng; Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 của
Nguyễn Bích Thu. Trong cuốn Tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975
đến nay của Khoa Ngữ Văn, trường Đại học Vinh, tình hình cũng tương tự với các
bài viết: Về tinh thần nữ quyền trong tiểu thuyết, truyện ngắn Việt Nam sau 1986
của Nguyễn Mạnh Hà; Vấn đề thiện - ác trước yêu cầu đổi mới văn học trong văn
xuôi Việt Nam từ sau 1975 của Nguyễn Văn Kha… Mới đây, hội thảo Thế hệ nhà
văn sau 1975 được tổ chức tại Hà Nội đã góp thêm những tiếng nói nhận diện tiểu
thuyết sau 1975 như Tính đối thoại trong giọng điệu tiểu thuyết Việt Nam sau 1986
của Lê Thị Thúy Hằng, Văn xuôi các nhà văn nữ thế hệ sau 1975 nhìn từ diễn ngôn
giới của Thái Phan Vàng nh… Ở các bài viết này, tiểu thuyết sau 1986 không phải
là đối tượng nghiên cứu chính, chủ yếu xuất hiện với một số tác giả, tác phẩm nhằm
7
hướng đến những kết luận khái quát cho toàn bộ giai đoạn văn học tính từ thời điểm
1975. Trong giới hạn là các bài viết riêng lẻ, các tác giả chủ yếu đi vào sự đổi mới ở
một vài khía cạnh của tiểu thuyết giai đoạn này.
Tiểu thuyết sau 1986 được đặt trong chỉnh thể văn học/ văn xuôi sau 1986 ở
các công trình: Những dấu hiệu của chủ ngh a hậu hiện đại trong văn xuôi Việt
Nam đương đại (Giai đoạn 1986-2012) và Văn học Việt Nam sau 1986 phê bình đối
thoại (Tiểu luận- phê bình) của Phùng Gia Thế; Văn học Việt Nam giai đoạn 1986-
2000: một số vấn đề lý luận và thực tiễn, luận án tiến sĩ của Đoàn Ánh Dương... Ở
các công trình lấy đối tượng nghiên cứu là văn xuôi sau 1986, tiểu thuyết sau 1986
là một đối tượng quan trọng bên cạnh truyện ngắn. Nếu ở chuyên luận, Phùng Gia
Thế tập trung phân tích các dấu hiệu hậu hiện đại trong văn học Việt Nam giai đoạn
1986-2012, chỉ rõ một cách thuyết phục tính chất nội sinh của nó và phân tích
những hình thức biểu đạt của chủ nghĩa hậu hiện đại trên nhiều cứ liệu văn học là
tiểu thuyết sau 1986 thì ở tiểu luận - phê bình, nhà phê bình chọn nhiều hướng khai
phá như: tính chất các-na-van trong ngôn ngữ, tính bất khả tín, hàm hồ, tổ chức trần
thuật… Luận án của tác giả Đoàn Ánh Dương nghiên cứu những vấn đề của văn
học giai đoạn 1986-2000 từ ba góc nhìn tương hỗ: kinh nghiệm thẩm mĩ, những
nhận thức và trải nghiệm của nhà văn từ Đổi mới, những can thiệp xã hội của văn
học từ Đổi mới qua một số diễn ngôn nổi bật. Các công trình này đều đề cập đến
những phương diện đổi mới khác nhau của tiểu thuyết sau 1986. Tuy nhiên, do
hướng đến các vấn đề của cả một giai đoạn văn học gồm có thơ, văn xuôi, nghiên
cứu văn học, tiểu thuyết sau 1986 chỉ là một phần đối tượng của luận án, chủ yếu
được đề cập với những nhận định ở tầm khái quát.
Nhóm công trình lấy sự cách tân/ đổi mới của tiểu thuyết giai đoạn sau
1986 làm đối tượng nghiên cứu trung tâm là Những cách tân nghệ thuật trong tiểu
thuyết Việt Nam đương đại giai đoạn 1986-2006 của tác giả Mai Hải Oanh; Những
đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam trong 15 năm cuối thế kỷ XX của Trần Thị Mai
Nhân; Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XX cấu trúc và khuynh hướng của tác giả
Hoàng Cẩm Giang; Tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ góc độ diễn ngôn, luận
án tiến sĩ của Nguyễn Thị Hải Phương... Rất nhiều bài viết về tiểu thuyết sau 1986
được công bố trong sách, báo, diễn đàn mạng. Nhóm công trình này, chúng tôi sẽ đề
cập kĩ ở phần tiếp theo.
8
Qua nhìn nhận những nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam từ cái nhìn lịch sử,
chúng tôi thấy rằng:
- Tiểu thuyết sau 1986, là một đối tượng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu. Đó là một giai đoạn phát triển quan trọng, đột biến, là một giai đoạn
cách tân tiểu thuyết nổi bật trong lịch sử văn học Việt Nam, dù ngắn ngủi và vẫn
còn tiếp diễn.
- Tuy nhiên, cho đến nay, khi đặt tiểu thuyết sau 1986 vào lịch sử phát triển
của văn học, sự phân kì văn học vẫn chủ yếu dựa vào những tiêu chí lịch sử - xã
hội, nghĩa là từ những căn cứ ngoài văn học. Mặt khác, các khái niệm chưa thống
nhất, dẫn đến những cách nhìn nhận khác biệt về giai đoạn này. Ba khái niệm cần
khu biệt văn học hiện đại, hiện đại hóa văn học và chủ ngh a hiện đại đã mặc nhiên
bị đồng nhất. Cho nên, người ta dùng danh xưng nhà văn hiện đại như một thói
quen để chỉ tất cả các nhà văn Việt Nam thế kỉ XX, văn học hiện đại để chỉ tất cả
các tiểu thuyết xuất hiện trong thế kỉ XX, thậm chí cho đến nay. Đọc văn học qua
các lịch sử văn học, người ta cũng khó thấy sự vận động nội tại của chính văn học,
mà có khi chỉ thấy sự chuyển động do thúc đẩy của các sự kiện bên ngoài. Văn học
vì thế đứng trước nguy cơ chỉ được nhìn nhận chủ yếu như một hiện tượng xã hội
chứ chưa phải là hiện tượng thẩm mĩ. Trong khi đó, bản chất của văn học, như một
sự kiện phức hợp, vừa là một hiện tượng xã hội, vừa là một hiện tượng thẩm mĩ.
Điều này dẫn đến yêu cầu cần có một lý thuyết công cụ đem đến một cách tiếp cận
khác đối với sự vận động của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986.
1.1.2. Sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 nhìn từ các lý thuyết tiếp cận
Tiểu thuyết sau 1986 có mã nghệ thuật mới, nên phê bình cũng cần có
phương tiện mới cho hành trình thám mã và giải mã. Việc đánh giá tiểu thuyết sau
1986 có sự hậu thuẫn của không khí học thuật những năm đổi mới và phát triển.
Việc du nhập thi pháp học, sau đó là các lý thuyết đặt nền tảng trên sự phân tích
hình thức và cấu trúc văn bản, các lý thuyết hậu hiện đại… đã thực sự thúc đẩy việc
tìm kiếm những giá trị, nhất là đánh giá xác đáng những nỗ lực cách tân của tiểu
thuyết giai đoạn này.
Sự thay đổi nghiên cứu phê bình từ xã hội học sang thi pháp học thực chất
là sự thay đổi trung tâm nghiên cứu từ cái xã hội sang cái thẩm mỹ, hoặc nói cách
9
khác từ sự tiếp cận tác phẩm từ tác giả sang tiếp cận văn bản. Thi pháp học đã có
những đóng góp lớn trong nghiên cứu tiểu thuyết sau 1986. Có thể kể tên các công
trình tiêu biểu đi theo hướng nghiên cứu này: Thi pháp học ở Việt Nam, Tiểu thuyết
đương đại của Bùi Việt Thắng; Văn xuôi Việt Nam 1975- 1995 những đổi mới cơ
bản của Nguyễn Thị Bình; Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại giai đoạn 1986-2006 của Mai Hải Oanh; Những đổi mới của tiểu thuyết
Việt Nam trong 15 năm cuối thế kỷ XX của Trần Thị Mai Nhân; Tiểu thuyết Việt
Nam đầu thế kỉ XXI cấu trúc và khuynh hướng của Hoàng Cẩm Giang…
Tiểu thuyết đương đại của Bùi Việt Thắng đi vào các vấn đề thi pháp thể
loại. Cuốn chuyên luận đi sâu nhiều vấn đề của tiểu thuyết sau 1986 từ cái nhìn thi
pháp: Những biến đổi cấu trúc tiểu thuyết Việt Nam đương đại; Khuynh hướng giản
lược nhân vật trong tiểu thuyết ; Kiểu nhân vật kì dị trong một số tiểu thuyết gần
đây…Trên các bình diện nghiên cứu đó, Bùi Việt Thắng đã nhận diện sự cách tân
của tiểu thuyết Việt Nam đương đại : Nếu trước 1980 hình thức v mô của cấu
trúc tiểu thuyết là hướng tới lịch sử - sự kiện trong tầm rộng của nó thì từ thập kỉ
tám mươi, hình thức vi mô’ của tiểu thuyết là hướng tới lịch sử- tâm hồn [78,
86]; Từ sự dồn n n dung lượng nảy sinh hệ quả tất yếu của tiểu thuyết hiện đại sự
giản lược nhân vật và cốt truyện [78, 73]… Các công trình Văn xuôi Việt Nam
1975- 1995 những đổi mới cơ bản, Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt
Nam đương đại giai đoạn 1986-2006 và Những đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam
trong 15 năm cuối thế kỉ XX đều bắt đầu từ tư duy mới về thể loại tiểu thuyết, quan
niệm mới về hiện thực và con người để đi đến phân tích những tìm tòi về phương
thức biểu hiện và cấu trúc mới về nhân vật, cốt truyện và kết cấu, phương thức trần
thuật… Cái tên Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI cấu trúc và khuynh hướng đã
hàm chứa hai hệ vấn đề: hệ vấn đề thuộc về thi pháp học và hệ vấn đề lịch sử văn
học. Tác giả đã đặt vấn đề khuynh hướng tiểu thuyết trên cơ sở các phạm trù thi
pháp: bình diện hình tượng thẩm mĩ gồm nhân vật, không gian - thời gian; bình diện
phương thức trần thuật gồm người kể chuyện, điểm nhìn và phối cảnh, kết cấu,
ngôn ngữ và giọng điệu…
Hàng loạt các bài viết trong các tuyển tập nghiên cứu phê bình, các tạp chí
đã đi theo hướng tiếp cận thi pháp để đánh giá tiểu thuyết sau 1986, nhất là những
10
cách tân hình thức: Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 của
Nguyễn Bích Thu [139]; Những nỗ lực cách tân của văn xuôi Việt Nam đương đại -
Tham luận tại Hội nghị quốc tế quảng bá văn học Việt Nam do Hội Nhà văn Việt
Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 2 - 3/3/2015 của Mai Hương [30]; Tính đối thoại
trong giọng điệu tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 của Lê Thị Thúy Hằng [102]…
Tiếp cận thi pháp học, dù điểm xuất phát nhỏ nhưng là cách tiếp cận tổng thể, coi
tác phẩm như một cấu trúc nghệ thuật, một hệ thống các thủ pháp nghệ thuật, nên
càng đi sâu, nó càng chiếm lĩnh tác phẩm trọn vẹn. Do đó, thi pháp học được lựa
chọn là điểm khai phá cho nhiều tác phẩm, tác giả tiểu thuyết sau 1986: Thời gian
trong Thân phận tình yêu; Chất thơ trong Cánh đồng bất tận của Đào Duy Hiệp
[27, 267-290], Phiên chợ Giát; Đọc Phạm Thị Hoài; Thân phận tình yêu của Bảo
Ninh [27, 249-265]; Nguyễn Bình Phương và dấu hiệu cách tân lối kể trong tiểu
thuyết [21, 439]; Hồ Anh Thái và nỗ lực đổi mới văn xuôi Việt Nam sau 1986 [21,
484]…
Lí thuyết tự sự cũng là một chìa khóa quan trọng được nhiều nhà nghiên
cứu sử dụng để đánh giá, cắt nghĩa cách tân của nhiều tiểu thuyết sau 1986. Trong
kỉ yếu của hai hội thảo Tự sự học tổ chức tại Đại học Sư phạm Hà Nội, có nhiều bài
viết về tiểu thuyết giai đoạn này: Kỹ thuật dòng ý thức qua Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh [57, 399]; Tự sự trong Cơ hội của chúa - cách tân và giới hạn [57,
422]; Bi kịch hóa trần thuật - một phương thức tự sự (Trên cứ liệu Cánh đồng bất
tận của Nguyễn Ngọc Tư và Khi tro bụi của Đoàn Minh Phượng) [57, 476]; Mẫu
gốc như là thành phần tạo ngh a trong truyện kể (khảo sát qua mẫu gốc lửa và
nước trong Giàn Thiêu của Võ Thị Hảo) [58, 496]…
Kí hiệu học kết hợp với lí thuyết diễn ngôn hiện đang được ứng dụng tại
Việt Nam, có triển vọng trong công cuộc nghiên cứu những vấn đề tương tác ngôn
ngữ - văn học - văn hóa cũng là một hướng tiếp cận tiểu thuyết sau 1986 với nhiều
bài viết: Ngôn ngữ thân thể trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh [59, 370],
Biểu tượng nghịch dị trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại [59, 378], Kí hiệu học
với những biểu tượng có tính chất huyền thoại trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại
[59, 390], Tiếp cận các cặp đối lập biểu ngh a trong tiểu thuyết Việt Nam hiện nay
từ góc độ kí hiệu học [59, 397]… Lý thuyết diễn ngôn xem văn học là một diễn
11
ngôn do các quy tắc mang tính chất ý thức hệ của thời đại qui định. Khi đặt vấn đề
nghiên cứu diễn ngôn, đối tượng nghiên cứu không chỉ là ngôn từ mà chủ yếu là các
quy tắc tư tưởng chìm sâu - hữu thức hoặc vô thức chi phối quá trình sáng tác của
nhà văn. Tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ góc độ diễn ngôn, luận án tiến sĩ
của Nguyễn Thị Hải Phương, Những hình thái diễn ngôn mới trong tiểu thuyết lịch
sử Việt Nam sau Đổi mới của tác giả Nguyễn Văn Hùng [29, 169], Văn xuôi các
nhà văn nữ thế hệ sau 1975 nhìn từ diễn ngôn giới của tác giả Thái Phan Vàng Anh
[21, 189]… đi theo hướng nghiên cứu này.
Thi pháp học, tự sự học, kí hiệu học… xuất hiện như là phản ứng lại hướng
nghiên cứu xã hội học độc tôn một thời. Trước đây, nghiên cứu văn học chỉ chú ý đến
nội dung, mà chủ yếu là cái nội dung xã hội được phản ánh vào tác phẩm, thậm chí cái
xã hội bên ngoài mà tác phẩm phản ánh. Phê bình lấy những yếu tố bên ngoài như con
người xã hội và tính dục ấu thời của tác giả, trình độ văn hóa - văn minh của thời đại
tác giả, tình trạng kinh tế và mâu thuẫn giai cấp của xã hội trong đó tác giả sống, như là
các yếu tố đã biết, coi đó là nguyên nhân để nhìn vào tác phẩm, lý giải tác phẩm như là
kết quả. Đó chính phê bình tiền hiện đại. Lấy cái ngữ pháp của sự sáng tạo làm đối
tượng chiếm lĩnh trung tâm để thám mã văn bản, thi pháp học, cùng với tự sự học, kí
hiệu học, cấu trúc luận… chuyển hướng nghiên cứu từ những yếu tố ngoài văn bản: tác
giả, thời đại… sang chính bản thân tác phẩm, xóa bỏ sự đối lập nhị nguyên giữa nội
dung và hình thức, để tiến tới coi nội dung chính là hình thức, hình thức chính là nội
dung. Có thể nói, các phương pháp này đã gạt bỏ được nỗi sợ hãi bị chụp mũ hình thức
chủ nghĩa để dòng chảy nghiên cứu văn học được khơi thông. Đó là hướng đi tương
thích với đối tượng nghiên cứu là tiểu thuyết Việt Nam sau 1986, cần thiết để nhận diện
những cách tân của một giai đoạn tiểu thuyết có sự cách tân mạnh mẽ.
Phê bình hiện đại dựa trên lối tiếp cận từ văn bản, đã chiến thắng giòn
gi phê bình tiền hiện đại dựa trên lối tiếp cận từ tác giả. Tuy nhiên, bản thân văn
bản là một đối tượng tĩnh, nghiên cứu văn bản là nghiên cứu kết quả chứ không
nghiên cứu quá trình . Cho nên các công trình nghiên cứu tiểu thuyết sau 1986 từ
thi pháp học, tự sự học, kí hiệu học, cấu trúc luận… thích hợp với nghiên cứu tác
phẩm, tác giả, nhận diện và khái quát các đặc điểm của một giai đoạn tiểu thuyết
hơn là tái hiện, lý giải sự vận động của tiểu thuyết sau 1986.
12
Vào những năm cuối của thời kì tiền Đổi mới, các phương pháp phê bình
ngoại quan, đặc biệt là phương pháp phê bình tiểu sử học, đã mắc cạn ở một số luận
điểm nghệ thuật cơ bản trong đó có vấn đề tác giả. Đổi mới và mở cửa đã giúp các
nhà nghiên cứu tách được con người sáng tạo ra khỏi con người xã hội. Tác giả thật
sự của văn học được xác định là con người sáng tạo chứ không phải là con người xã
hội. Trước đây, văn học chỉ dừng lại xem xét tác giả - người sáng tạo này ở phương
diện hữu thức, văn học đổi mới còn hướng đến tảng băng trôi - con người vô
thức, phần chìm sâu thẳm của con người. Đó chính là mảnh đất cho hướng nghiên
cứu tiểu thuyết từ lý thuyết phân tâm học phát triển.
Tác giả Trần Thanh Hà với chuyên luận Học thuyết Freud và sự thể hiện
của nó trong văn học Việt Nam đã vận dụng hai vấn đề chính trong phân tâm học
Freud là tính dục và vô thức để cảm nhận các tiểu thuyết đương đại của Hồ Anh
Thái, Tạ Duy Anh. Bài viết Vài đặc điểm văn xuôi Việt Nam hiện đại của Đỗ Ngọc
Thạch đã dành số lượng trang viết khá nhiều để tập trung tìm hiểu các tiểu thuyết
đầu thế kỉ XXI và chỉ ra đặc điểm của rất nhiều tiểu thuyết: mạnh bạo coi tình dục
như lối dẫn vào tâm linh, từ đó thể hiện khát vọng tình yêu, tình dục, khát khao
hướng về bản thể [137]. Nhà văn Nguyễn Đình Tú cũng có bài viết Khuynh hướng
tính dục trong sáng tác văn học gần đây cho rằng, trong dòng chảy chung của văn
học hiện nay, đã và đang xuất hiện khuynh hướng tính dục trong sáng tác văn học.
Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng nghiên cứu sâu vấn đề này khi khảo sát trên 20
cuốn tiểu thuyết tiêu biểu trong dòng tiểu thuyết thân xác trong văn học Việt Nam
đầu thế kỉ XXI [79]. Ngoài ra có thể kể đến các bài nghiên cứu của Phan Tuấn Anh:
Hài hước phồn thực trong văn xuôi Việt Nam sau 1975, của Trần Thanh Hà: Một số
tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại qua cái nhìn phân tâm học…
Phân tâm học cũng là hướng khai phá ở cấp độ tác giả, tác phẩm. Khi
nghiên cứu Yếu tố vô thức trong tác phẩm Nguyễn Bình Phương, tác giả Hoàng Thị
Huế cùng quan điểm với tác giả Nguyễn Thành ở bài viết Khuynh hướng lạ hóa
trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại - một số bình diện tiêu biểu, cho rằng Tác
phẩm của Nguyễn Bình Phương không thể không nói là có sự ảnh hưởng thuyết
phân tâm học của S.Freud [138].
13
Trong các công trình nghiên cứu tiểu thuyết sau 1986 từ góc nhìn phân tâm
học, công trình công phu, đầy đặn nhất phải kể đến luận án tiến sĩ của tác giả Văn
Thị Phương Trang: Tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI từ góc nhìn phân
tâm học [104]. Tác giả đã nhận diện, cắt nghĩa ảnh hưởng của phân tâm học với tiểu
thuyết Việt Nam giai đoạn này từ phương diện đề tài: sự sa đọa nhân cách, sự trỗi
dậy của bản năng, vô thức…; từ cốt truyện không chú trọng đến các xung đột, tình
tiết mà đi vào tâm cảm, nhất là những mâu thuẫn, giằng xé với chính mình; từ nhân
vật được nói đến với ba kiểu loại: nhân vật với đời sống vô thức tâm linh, nhân vật
với các phức cảm, nhân vật với đời sống tính dục thường ngày; từ các phương thức
biểu hiện như biểu tượng, không gian, thời gian nghệ thuật…
Tuy nhiên phê bình phân tâm học ở Việt Nam tồn tại dưới hai dạng: 1) Nhà
phê bình định giá tác phẩm của nhà văn là sự phóng chiếu những ham muốn vô thức
và mặc cảm của họ. Nhà phê bình một mặt phải chứng minh sự phóng chiếu này
qua hệ thống biểu tượng, hình tượng, ngôn từ, màu sắc…Mặt khác, phải đi tìm
những cứ liệu liên quan đến tiểu sử, các chi tiết đời tư của tác giả để lý giải điều
được giả định. 2) Nhà phê bình phân tích một số bình diện nghệ thuật trong tác
phẩm (tính cách, tâm lý, ngôn ngữ, hành động của nhân vật…) để chỉ ra khả năng
phân tích tâm lý phân tâm của nhà văn. Trong hai dạng trên thì dạng thứ nhất là
“chính danh” của phê bình phân tâm học, còn dạng thứ hai chỉ là “thứ danh”. Các
công trình nghiên cứu tiểu thuyết sau 1986 nhìn từ phân tâm học chủ yếu vẫn đang
ở dạng thứ danh . Mặt khác, phê bình phân tâm học cho phép ứng dụng lên nhiều
loại thể văn học khác nhau, không có giới hạn về quy mô tác phẩm. Song đối tượng
thích hợp nhất và dễ nhận diện nhất của phân tâm học thường là các sáng tác mang
nặng yếu tố tâm lý, tự thuật, nơi cái tôi nói chung và vô thức nói riêng có khe
hở tốt nhất để biểu hiện. Điều này đã chỉ ra tiềm năng cũng như giới hạn của
hướng phê bình phân tâm nói chung, phê bình phân tâm tiểu thuyết sau 1986 nói
riêng. Không lý thuyết nào có thể thay thế được phân tâm học khi khám phá phần vô
thức trong sáng tạo của nhà văn nhưng phải thừa nhận rằng, nếu chỉ sử dụng phân tâm
học tiểu sử của Freud mà chưa với tới phân tâm học văn bản của Jung, nhất là phân tâm
học cấu trúc - ngôn ngữ của Lancan thì phê bình phân tâm học ở Việt Nam khó thích
hợp trên một phổ diện rộng lớn như một số phương pháp phê bình khác. Rất khó vận
14
dụng lí thuyết phân tâm để hình dung khái quát toàn bộ sự vận động của nền tiểu thuyết
sau 1986, một giai đoạn tiểu thuyết có sự bùng nổ của nhiều khuynh hướng.
Hướng nghiên cứu nữ quyền luận cũng đã được áp dụng để nghiên cứu tiểu
thuyết sau 1986. Nữ quyền luận ở Pháp và tiểu thuyết nữ đương đại Việt Nam của
Trần Huyền Sâm; Văn học và giới nữ (Một số vấn đề lý luận và lịch sử) do Phùng
Gia Thế và Trần Thiện Khanh chủ biên đều có dạng thức dẫn luận về phê bình nữ
quyền và lối viết nữ giới, trên cơ sở đó, nghiên cứu ý thức, âm hưởng nữ quyền
trong nhiều tác phẩm văn học Việt Nam, trong đó có tiểu thuyết sau 1986. Ngoài ra
có thể kể thêm các bài viết: Tính chất tự thuật trong tiểu thuyết nữ Việt Nam đương
đại của Trần Huyền Sâm [130]; Tự sự học nữ quyền luận - một nhánh của tự sự học
hậu kinh điển của Trần Ngọc Hiếu [112]; Văn học nữ quyền ở Việt Nam của Hiền
Nguyễn [124]… Nếu sự hiện diện của văn học nữ tính và âm hưởng nữ quyền là
một biểu hiện của dân chủ hóa văn học thì sự xuất hiện của hướng nghiên cứu nữ
quyền luận cho thấy sự đa dạng hóa của khoa nghiên cứu văn học gần đây.
Bên cạnh đó, rất nhiều hướng nghiên cứu khác được ứng dụng để nghiên
cứu tiểu thuyết sau 1986. Khuynh hướng hiện sinh trong tiểu thuyết sau 1986 của
Thái Phan Vàng Anh, Những biểu thuật hậu thực dân: Văn học đổi mới như là di
sản hậu thuộc của Đoàn Ánh Dương [21, 177]; Yếu tố liên văn bản trong tiểu thuyết
lịch sử Giàn thiêu của Võ Thị Hảo của Nguyễn Văn Hùng [21, 353]; Nguyên lí đối
thoại trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010 của Lê Thị Thúy Hằng [102]…
thể hiện nỗ lực khám phá tiểu thuyết sau 1986 từ sự đa dạng của lý thuyết tiếp nhận.
Mỗi hướng tiếp cận đem đến những phát hiện mới về tiểu thuyết Việt Nam sau
1986. Tuy nhiên, bản thân tên gọi của các lý thuyết tiếp cận này đã nói lên đối
tượng đặc thù và khu biệt của nó.
Đề cập đến tiếp cận tiểu thuyết sau 1986, không thể không đề cập đến
hướng tiếp cận theo các lý thuyết hậu hiện đại. Cùng với việc dịch thuật, giới thiệu
lý thuyết hậu hiện đại, việc đặt vấn đề nghiên cứu thực tiễn văn học hậu hiện đại ở
Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu văn học và là tiền đề
lý thuyết của rất nhiều công trình nghiên cứu về tiểu thuyết sau 1986. Ba bài nghiên
cứu: Những dấu hiệu của chủ ngh a hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng
tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài (Lã Nguyên); Những yếu tố hậu hiện
15
đại trong văn xuôi Việt Nam qua so sánh với văn xuôi Nga (Đào Tuấn Ảnh) và Lịch
sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và dấu vết của hệ hình thi pháp hậu hiện
đại (Cao Kim Lan) có thể coi là những công trình đầu tiên đặt vấn đề nghiên cứu
những yếu tố chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam. Cũng vào cuối năm
này, bộ Từ điển thuật ngữ văn học do Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi
chủ biên, Nxb Giáo dục phát hành, đã đưa vào mục Hậu hiện đại , xem đây là
thuật ngữ chính thức của văn học. Đây là một động thái rất có ý nghĩa, nó là sự thừa
nhận của giới nghiên cứu văn học Việt Nam đối với lý thuyết hậu hiện đại.
Hội thảo Văn học hậu hiện đại - diễn giải và tiếp nhận tháng 3/2011 tại
Huế đã chứng kiến sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu tới hướng đi mới
này với tư cách là một tiền đề lý thuyết để tiếp cận tiểu thuyết sau 1986 với hàng
loạt bài viết: Dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI [80,
263]; Từ Chùa Đàn (Nguyễn Tuân) đến Thoạt kì thủy (Nguyễn Bình Phương) - một
gạch nối hiện đại - hậu hiện đại [80, 280]; Trò chơi kết cấu - một cách tân nghệ
thuật trong Pari 11 tháng 8 của nhà văn Thuận [80, 293]; Dấu ấn hậu hiện đại
trong Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư [80, 307]; Dấu ấn hậu hiện đại
trong sáng tác Nguyễn Bình Phương qua Những đứa trẻ chết già và Thoạt kì thủy
[80, 400]… Các bài viết được tập hợp trong cuốn Văn học hậu hiện đại diễn giải và
tiếp nhận do Nguyễn Thành, Hồ Thế Hà, Nguyễn Hồng Dũng chủ biên.
Tại hội thảo khoa học quốc gia Văn học hậu hiện đại - lí thuyết và thực
tiễn” tổ chức tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào tháng 1 năm 2013, các
chuyên gia không còn tranh cãi có chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam
hay không mà tập trung vào việc xác định khuynh hướng văn học này có nguồn gốc
nội tại hay ngoại nhập và đi sâu phân tích các biểu hiện của nó trong thực tiễn văn
học Việt. Cuốn Văn học hậu hiện đại – lý thuyết và thực tiễn do Lê Huy Bắc, Lê
Nguyên Cẩn, Đỗ Hải Phong tuyển chọn từ hội thảo gồm 30 bài viết của các nhà
giáo, nhà khoa học. Nhìn chung, các tác giả chủ yếu tập trung vào nghiên cứu các
khái niệm triết mỹ của lý thuyết hậu hiện đại và những ứng dụng chúng trong các
sáng tác, góp phần giải quyết những vấn đề đang còn vướng mắc hay chỉ rõ hơn
những đặc thù mà những người đi trước đ đề ra .
16
Cũng trong năm này, Lê Huy Bắc tiếp tục chủ biên hai cuốn Văn học hậu
hiện đại lý thuyết và tiếp nhận và Phê bình văn học hậu hiện đại Việt Nam. Cuốn
Văn học hậu hiện đại lí thuyết và tiếp nhận được biên soạn chủ yếu theo tinh thần
tổng hợp các tri thức hậu hiện đại từ lý thuyết của Jean - Francois Lyotard, Jacques
Derida, Jean Baudrillard, Michel Foucalt, Roland Barthes… Ngoài ra, cuốn sách
cũng đi vào thực tiễn sáng tác văn chương hậu hiện đại thế giới với các đại diện như
Franz Kafka, Samuel Beckett, Umberto Eco, Orhan Pamuk… và các đại diện Việt
Nam như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Ngọc
Tư…Cuốn sách đã đúc kết một số thủ pháp hậu hiện đại như cực hạn , huyền
ảo , mảnh vỡ , mê lộ …và đề xuất một số khái niệm mới như mờ hóa , giải
tôi , đa văn bản … Cuốn Phê bình văn học hậu hiện đại Việt Nam tập hợp những
bài nghiên cứu lí thuyết và phê bình hậu hiện đại ở Việt Nam kẻ từ lúc khởi đầu đến
nay, trên dưới mười năm. Trong các bài được tuyển chọn, có các bài viết về tiểu
thuyết sau 1986: Văn xuôi hậu hiện đại Việt Nam: Quốc tế và bản địa, cách tân và
truyền thống [7, 203]; Đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại: Lối viết hậu hiện
đại [7, 229]; Ngoại biên hóa trong văn học hậu hiện đại Việt Nam - trường hợp
Đặng Thân [7, 259].
Trong bản báo cáo tổng kết đề tài khoa học công nghệ cấp Bộ Một số
khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ thời điểm đổi mới đến nay, nhà nghiên cứu
Nguyễn Thị Bình đã dành hẳn một chương nghiên cứu khuynh hướng hậu hiện đại
trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau đổi mới. Hai cuốn Văn học Việt Nam sau 1986
phê bình và đối thoại và Những dấu hiệu của chủ ngh a hậu hiện đại trong văn xuôi
Việt Nam đương đại (giai đoạn 1986-2012) của Phùng Gia Thế là những công trình
chuyên sâu về chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam sau 1986. Với cuốn
Văn học Việt Nam sau 1986 phê bình và đối thoại, tác giả đã làm rõ thế nào là cảm
quan hậu hiện đại, nêu lên các thủ pháp nghệ thuật đặc trưng của hậu hiện đại cùng
những hiểu nhầm về thuật ngữ này dẫn đến nguy cơ cả làng hậu hiện đại , tiến
hành công việc phân loại các thế hệ tác giả hậu hiện đại ở Việt Nam. Phùng Gia
Thế dành bốn bài nghiên cứu công phu về các tác giả quan trọng trong tiến trình hậu
hiện đại của tiểu thuyết Việt Nam là Nguyễn Huy Thiệp (thế hệ đầu), Nguyễn Bình
Phương, Nguyễn Việt Hà (thế hệ thứ hai), Đặng Thân (thế hệ thứ ba). Cuốn Những
17
dấu hiệu của chủ ngh a hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam đương đại (giai đoạn
1986-2012) quan tâm phân tích các dấu hiệu, yếu tố hậu hiện đại nổi bật nhằm
chứng minh cho sự tồn tại của khuynh hướng hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam
như một hệ quả có cội rễ từ những yếu tố nội sinh và từ giao lưu văn hóa trong bối
cảnh toàn cầu. Tác giả đã chứng minh những dấu hiệu hiện đại trong văn xuôi sau
1986 qua mô hình thế giới nghệ thuật đặc thù - mô hình thế giới giải thiêng và
phương thức vận hành đặc trưng của nó là xu hướng các-na-van hóa.
Văn học hậu hiện đại những năm gần đây đã được đưa vào chương trình
đào tạo các hệ đại học và cao học, trở thành đề tài nghiên cứu của rất nhiều luận
văn, luận án văn học. Trong đó có những luận án trực tiếp nghiên cứu về văn xuôi
hậu hiện đại Việt Nam, như luận án tiến sĩ Ảnh hưởng của chủ ngh a hậu hiện đại
Việt Nam từ 1986-2010 của Nguyễn Hồng Dũng.
Xung quanh vấn đề nghiên cứu tiểu thuyết sau 1986 từ lý thuyết hậu hiện
đại, có thể kể đến các công trình nghiên cứu của các nhà phê bình hải ngoại: Các lý
thuyết phê bình văn học: Chủ ngh a hậu hiện đại; Chủ ngh a hậu hiện đại và văn
học Việt Nam; Chủ ngh a hậu hiện đại và chủ ngh a tiền vệ, Chủ ngh a h(ậu h)iện
đại và văn học Việt Nam; Đổi mới như một số phận và một phiêu lưu; Một phiên
bản h(ậu h)iện đại cho văn học Việt Nam, Các lý thuyết phê bình văn học: chủ
ngh a hậu hiện đại, Chủ ngh a hậu hiện đại - những mảnh ngh rời, Chủ ngh a hậu
hiện đại và những cái cần chết trong văn học Việt Nam… của Nguyễn Hưng Quốc
(tienve.org); Thử thưởng thức một tác phẩm văn chương hậu hiện đại; Viết: Từ hiện
đại đến hậu hiện đại…của Hoàng Ngọc Tuấn (tienve.org); Chủ ngh a hậu hiện đại:
những khái niệm căn bản của Nguyễn Minh Quân (dactrung.net).
Các bài viết trên các diễn đàn báo chí mạng trong nước cũng đóng góp
thêm sức nóng cho vấn đề: Tiếp nhận những cách tân của chủ ngh a hiện đại & chủ
ngh a hậu hiện đại của Hoàng Ngọc Hiến (tapchisonghuong.com.vn); Chủ ngh a
hậu hiện đại và ảnh hưởng ở nước ta của Đông La (vietbao.vn); Một nhầm lẫn
hậu hiện đại của Ngân Xuyên (tiasang.com.vn); Chập chờn bóng ma hậu hiện
đại của Đỗ Minh Tuấn (dongtac.net); Nói chuyện hậu hiện đại và toàn cầu
hóa của Vũ Lâm (thethaovanhoa.vn); Dấu ấn hậu hiện đại trong văn học Việt Nam
sau 1986 của Phùng Gia Thế (evan.vnexpress.net); Tùy bút nhỏ về hậu hiện đại của
18
Văn Giá (chungta.com); Thiền và hậu hiện đại của Nhật Chiêu (giacngo.vn); Phải
chăng nỗi sợ h i hậu hiện đại là có thật của Bùi Công Thuấn (phongdiep.net);
Chuyên đề hậu hiện đại (mythuatvietnam.info); Tản mạn về hậu hiện đại của
Vương Văn Quang (nguoidaibieu.com.vn); Tư duy hậu hiện đại và những cách thu
nhận kiến thức của Nguyễn Hào Hải (chungta.com); Ma nét, quá trình chuyển giọng
từ hiện đại đến hậu hiện đại (inrasara.com), Tâm thức hậu hiện đại trong tiểu thuyết
Việt Nam 1986 – 2010 của Nguyễn Hồng Dũng (tapchisonghuong.com.vn)…
Như vậy, trong các hướng tiếp cận tiểu thuyết sau 1986, hướng tiếp cận lý
thuyết hậu hiện đại được nhiều nhà nghiên cứu áp dụng, đến mức dường như trở
thành một mốt thời thượng . Tuy nhiên, qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, bản
thân các khái niệm hiện đại - hậu hiện đại còn là khái niệm gây tranh cãi, bản thân
vấn đề nhận diện chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam nói riêng và tiểu
thuyết sau 1986 cũng còn chưa thống nhất. Bỏ qua vấn đề Chủ ngh a hậu hiện đại
- Tồn tại hay không tồn tại? , Có hay không chủ ngh a hậu hiện đại trong văn học
Việt Nam? (Xem thêm Nguyễn Văn Dân, Nguyễn Hồng Dũng, Phan Tuấn nh
[58, 103], thực tế là một tác giả, tác phẩm, có khi được xếp vào hiện đại, có khi vào
mâm hậu hiện đại. Thi pháp hiện đại của Đỗ Đức Hiểu có các bài viết dành cho
Nguyễn Minh Châu, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh: Phiên chợ
Giát; Đọc Phạm Thị Hoài; Thân phận tình yêu của Bảo Ninh, Đi tìm Nguyễn Huy
Thiệp… Tác giả Mai Nhi trong luận án Chủ ngh a hiện đại trong Văn học Việt Nam
hiện đại coi Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh… là những đại diện
tiêu biểu cho chủ nghĩa hiện đại trong văn học Việt Nam. Nhiều bài viết nói đến các
tác giả trên với danh từ hiện đại : Cuộc tìm kiếm hình thức đa thanh mới của văn
xuôi hiện đại qua cấu trúc truyện của Nguyễn Huy Thiệp [45, 277]; Nhà văn hiện
đại Việt Nam hiện đại: Những giới hạn và sứ mệnh (Suy ngh từ những sáng tác của
Nguyễn Huy Thiệp) [45, 131]… Trong khi đó, các bài viết của Nguyễn Thị Bình, Lã
Nguyên, Lê Huy Bắc, Phùng Gia Thế… lại coi đây là những đại diện sớm của chủ
nghĩa hậu hiện đại tại Việt Nam: Giới nghiên cứu văn học đ sớm nhận ra sự gặp
gỡ giữa văn chương nước ta với văn chương hậu hiện đại qua những sáng tác xuất
hiện từ thập niên tám mươi của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị
Hoài. Từ cuối thập kỷ 90 đến nay cả trong thơ lẫn trong văn xuôi, cảm quan hậu
19
hiện đại đang tạo ra những đổi mới rất cơ bản về bút pháp (Nguyễn Thị Bình)
[108], “Tôi có cơ sở để tin là sẽ tìm ra những dấu hiệu, hoặc có thể gọi là các yếu
tố hậu hiện đại trong sáng tác của một số cây bút tiêu biểu của văn học thời đổi
mới. Ý tôi muốn nói tới sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài (Lã
Nguyên) [51]…
Cũng vậy, có ý kiến cho rằng trong sáng tác của Nguyễn Tuân - vốn được
xem là nhà văn lãng mạn đã có dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại: Cả hai nhà
văn Nguyễn Tuân và Nguyễn Bình Phương đều chưa hề nhận mình là nhà văn hậu
hiện đại. Tuy nhiên, đối chiếu với những đặc điểm tự sự của văn học hậu hiện đại
được các nhà lý luận của trào lưu này nêu ra và diễn giải, thì Chùa Đàn và Thoạt kì
thủy đều có một số đặc điểm nghệ thuật tương đồng với k thuật tự sự hậu hiện
đại . Hay căn cứ vào tính đa trị, cho rằng chủ nghĩa hậu hiện đại đã hiện diện trong
Hồn Trương Ba da hàng thịt, căn cứ vào liên văn bản, coi Đàn ghi ta của Lorca
thuộc về văn học hậu hiện đại: Hồn và xác hay tính đa trị (multivalence) trong Hồn
Trương Ba, da hàng thịt [6, 262]; Liên văn bản (intertextuaity) trong Đàn ghi ta của
Lorca [6, 274].
Các cách nhìn nhận, lý giải khác nhau về một nhà văn, một tác phẩm từ hai
phạm trù hiện đại và hậu hiện đại dẫn đến nguy cơ đánh đồng hiện đại - hậu hiện
đại, thậm chí phủ nhận khái niệm hậu hiện đại. Xuất phát điểm của vấn đề này, theo
chúng tôi, là ở điểm đặt. Qua khảo sát các bài viết, chúng tôi nhận thấy các nhà
nghiên cứu chủ yếu giới hạn phạm vi nghiên cứu là “dấu hiệu”, “dấu ấn”: Những
dấu hiệu của chủ ngh a hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam đương đại (Phùng
Gia Thế); Dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI (Thái
Phan Vàng Anh); Dấu ấn hậu hiện đại trong Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc
Tư (Hoàng Đăng Khoa); Dấu ấn hậu hiện đại trong truyện ngắn Hồ Anh Thái (Bùi
Thanh Truyền); Dấu ấn hậu hiện đại trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương qua
Những đứa trẻ chết già và Thoạt kì thủy (Lê Minh Hiền); Tâm thức hậu hiện đại
trong tiểu thuyết Việt Nam 1986 - 2010 (Nguyễn Hồng Dũng)… Cùng với việc
dừng lại ở “cảm quan”, “cảm thức dấu ấn , dấu hiệu , tâm thức , các công
trình nghiên cứu chủ yếu vẫn chỉ dừng lại nghiên cứu ở cấp độ thủ pháp. Nhưng
thủ pháp không phải là căn cốt phân biệt hiện đại/ hậu hiện đại. Nhìn Phạm Thị
20
Hoài với tư cách là một nhà văn hiện đại, tác giả Mai Nhi viết: Phạm Thị Hoài nói
rõ văn học là một trò chơi vô tăm tích , lấy học thuyết của Nietzche, của nhiều
nhà triết học theo chủ ngh a duy lý làm văn học tư tưởng. Cũng như nhiều nhà văn
theo chủ ngh a hiện đại, Phạm Thị Hoài nhìn thế giới như một existence rồ dại,
phi lý, nhàm chán tầm thường đến phát ớn . Cũng thủ pháp này, tác giả Nguyễn
Thị Bình lại quan niệm là một biểu hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại: Ở những tác
phẩm theo phong cách hậu hiện đại thì ấn tượng nổi bật bao giờ cũng ấn tượng về
một trò chơi văn bản. Những khả thể ý ngh a của một văn bản tuỳ thuộc vào cách
thức tham gia của người chơi (bao gồm cả tác giả và bạn đọc). Vì trò chơi là hoạt
động của tự do và sáng tạo nên mỗi người có thể chơi một cách. Phạm Thị Hoài,
Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái, Châu Diên, Thuận,
Nguyễn Thế Hoàng Linh có lẽ là những người có ý thức chơi tiểu thuyết rõ nhất
trong văn học ta thời gian vừa qua [7, 229]. Cấp độ thủ pháp chưa minh định được
hai phạm trù. Thậm chí, đánh giá hậu hiện đại ở cấp độ thủ pháp có thể dẫn đến
hoặc là sự dễ dãi: xem tất cả những tác phẩm, tác giả sử dụng thủ pháp giễu nhại,
liên văn bản, trò chơi, phân mảnh… là hậu hiện đại, hoặc là thái độ hoài nghi:
những tác phẩm/ tác giả ấy có gì là hậu hiện đại?
1.2. Tổng quan về tình hình áp dụng lý thuyết hệ hình trong nghiên cứu
tiểu thuyết Việt Nam sau 1986
Các tác giả Trần Thiện Khanh, Phan Tuấn Anh là những người đi sâu vào
vấn đề chuyển đổi hệ hình trong văn xuôi Việt Nam ở hai bài viết: Văn học sau
1986 vẫn thuộc hệ hình phản ánh tác giả và Sứ mệnh của nhà văn trẻ với những
bước chuyển hệ hình trong văn học Việt Nam. Bài viết của Trần Thiện Khanh đưa
ra một quan niệm khá thú vị: “Đổi mới không phải lúc nào cũng là sự thay đổi, loại
bỏ hệ hình này bằng hệ hình khác, đó có thể là sự thay đổi ngay trong lòng hệ hình
thống trị, là sự điều chỉnh, bổ sung, tồn tại đồng thời các quan niệm nghệ thuật
khác nhau trong một bối cảnh mới, bối cảnh chấp nhận sự đa dạng, chấp nhận
những tiếng nói khác, công khai, chấp nhận sự phản tỉnh, phản biện. Đổi mới văn
học ở giai đoạn đầu của bối cảnh đổi mới đất nước, nếu nhìn từ góc độ hệ hình,
là không có đổi mới nền tảng, không thực sự tạo ra bước ngoặt mới, nếu có bước
ngoặt thì đó là một bước ngoặt trong hệ hình chính thống, làm giàu có hơn, phong
21
phú hơn khung tri thức của hệ hình đó, gia tăng sức mạnh kiến tạo và diễn giải tác
phẩm trong nó [117]. Tuy nhiên, sự đánh giá này chỉ đúng với giai đoạn đầu đổi
mới, khi vấn đề nhìn thẳng, nói thẳng sự thật được đề cao và cũng không phủ bóng
các tác giả, tác phẩm của văn học đổi mới giai đoạn sau, khi nỗ lực đổi mới trở
thành nhu cầu nội tại của người sáng tác và biến thành sự bứt phá trong sáng tạo
nghệ thuật.
Bài viết của Phan Tuấn nh cùng đưa ra quan điểm cho rằng, sau 1986, văn
học Việt Nam chứng kiến sự chuyển đổi hệ hình: Tư duy tiền hiện đại trong văn
học k o dài cho đến giữa thế kỷ XX, và vào những năm 1945 đến 1986, mà rõ nét
nhất là từ 60 trở đi, đ chứng kiến sự chuyển đổi hệ hình thứ 2, từ tiền hiện đại
bước sang hiện đại [107]. Tuy nhiên bài viết cho rằng, bước chuyển hệ hình thứ
nhất đánh dấu sự chuyển mình từ một nền văn học trung đại mang đặc trưng truyền
thống phương Đông, bước sang tư duy văn học phương Tây (tiền hiện đại). Quan
điểm này chưa thỏa đáng, cần xem xét lại.
Cuốn Những dấu hiệu của chủ ngh a hậu hiện đại trong văn văn xuôi Việt
Nam đương đại của Phùng Gia Thế được tác giả định hướng: “Cùng với việc ghi
nhận những chuyển dịch, đổi mới trong tư duy tự sự theo khuynh hướng hậu hiện
đại - khuynh hướng hội nhập với tiến trình văn học thế giới, trên một ý ngh a nào
đó, việc nghiên cứu vấn đề này còn giúp chúng ta nhận ra những chuyển hướng có
tính hệ hình trong các quan niệm văn học gần đây, chẳng hạn như về bản chất của
văn học, về nhà văn, cách sáng tác, bạn đọc, cách đọc, về văn bản, cấu trúc tác
phẩm, đặc trưng thể loại.. Trong quá trình nghiên cứu mô hình thế giới giải thiêng
và xu hướng Các-na-van của tiểu thuyết sau 1986, tác giả luôn có ý thức đi vào sự
chuyển dịch từ phạm trù hiện đại sang hậu hiện đại, sự chuyển hướng có tính hệ
hình. Tuy nhiên đây không phải là hướng đi chính của cuốn sách.
Trong bài viết Cuộc vượt biên hệ hình nghệ thuật hiện thực xã hội chủ
ngh a của Trần Dần trong tiểu thuyết Những ng tư và những cột đèn, tác giả Phạm
Thị Phương lấy lý thuyết hệ hình làm điểm tựa: Mỗi khu vực nghệ thuật có một hệ
hình (paradigm) đặc trưng, hệ hình ấy là cái khung điển chế đo ni đóng giày cho
các sản phẩm của mình . Theo tác giả, “Sau thời kì Đổi mới (1986), văn học Việt
Nam từng bước chứng kiến những sự kiện xé rào hệ hình nghệ thuật cũ, dướn mình
22
sang khu vực hệ hình nghệ thuật khác. Sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn
Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình
Phương, Thuận, Vũ Đình Giang… giống như những làn sóng lấn dần rồi vượt tràn
qua bờ chắn của hệ hình cũ [69, 960]. Tác giả đã nghiên cứu kĩ Những ng tư và
những cột đèn với tư cách là một tiểu thuyết vượt biên hệ hình xã hội chủ nghĩa trên
các phương diện: Đề tài và nội dung, thể loại và văn bản.
Trong hội thảo Thế hệ nhà văn sau 1975 tổ chức năm 2016, nhà phê bình
Đỗ Lai Thúy đã đưa ra một cái nhìn mới về thế hệ nhà văn sau 1975 trên cơ sở lý
thuyết hệ hình. Ông cho rằng: Cách tiếp cận thế hệ như vậy chỉ khu biệt được một
đội ngũ , không làm rõ được mỗi nhà văn ai là ai , mà với người sáng tạo thì tư
cách cá nhân mới là quan trọng. Bởi vậy, cần một cách tiếp cận khác, tiếp cận hệ
hình, vừa chỉ ra được thực chất của mỗi nhà văn, vừa cung cấp được một bức tranh
toàn cảnh [21, 27]. Từ tiếp cận nhà văn dưới cái nhìn hệ hình, tác giả đã mở rộng
ra toàn bộ văn học Việt Nam sau 1975 với ba thời kì: Từ 1975 đến 1985 có thể gọi
là thời kì chuyển tiếp, vẫn viết theo quán tính của thời chống Mĩ, xa hơn là chống
Pháp, tức vẫn thuộc hệ hình tiền - hiện đại. Giai đoạn này tiếp tục sự vận động nội
tại hướng về hiện đại. Cú hích Cải tổ ở Liên Xô và đổi mới ở Việt Nam đã dẫn đến
sự chuyển đổi hệ hình với một loạt các nhà văn mà sáng tác của họ có nhiều yếu tố
hiện đại chủ nghĩa hoặc đã là chủ nghĩa hiện đại. Từ năm 1992 trở đi, không khí đổi
mới xẹp xuống, đổi mới văn học mang tính chất tự giác và cá nhân. Với sự tham gia
của Internet nối Việt Nam với toàn cầu, trào lưu hậu hiện đại cũng từng bước xâm
nhập ngôi làng văn học Việt Nam. Bài viết cũng đề xuất cách nhìn thế hệ nhà văn từ
cái nhìn đồng đại, đặt nó, với tư cách một yếu tố vào cấu trúc của văn học Việt Nam
sau 1975 để thấy sự vận động, đan xen của các hệ hình dưới một nhát cắt đồng đại.
Trong bài viết Sống trải lý thuyết và lý thuyết hệ hình của tôi , nhà nghiên cứu đề
xuất “tiêu chí cuối cùng, tiêu chí của những tiêu chí, làm cơ sở cho sự phân định thế
nào là tiền hiện đại, hiện đại và hậu hiện đại, theo tôi, đó là quan niệm về thực tại
[21, 45]. Ông cũng bàn về sự vận động của các hệ hình trong tiểu thuyết: Tiền hiện
đại vẫn là kể nội dung , chưa phải là viết nội dung . Làm sao để thông điệp
(ngh a chủ ý) của tác giả gửi đến cho độc giả được hiểu đúng, thông tin không bị
thất thoát, sai lạc vẫn là điều nhà văn quan tâm trước hết , “Tiểu thuyết hiện đại là
23
phiêu lưu của cái viết. Cái viết (Ecriture) lúc này là nhân vật chính. Thế giới là một,
là như nhau, chỉ có cái nhìn thế giới là khác nhau. Cái nhìn thế giới này, ở nghệ s ,
thể hiện bằng viết . Sang đến hậu hiện đại, mô hình chuyển đổi thành viết về cái
viết : Viết về cái viết như một hành vi tự nhận thức của viết, xa hơn của người viết
về cái viết của mình”… Như vậy, sự vận động của tiểu thuyết được nhà nghiên cứu
mô hình hóa: viết về sự phiêu lưu (tiền hiện đại), phiêu lưu của cái viết (hiện đại),
viết về cái viết (hậu hiện đại).
Đặc biệt, trong công trình nghiên cứu Lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ XX
nhìn từ lý thuyết hệ hình, tác giả đã dành một chương để khảo sát ba hệ hình tiểu
thuyết Việt Nam thế kỷ XX. Tác giả đã phân tích đặc điểm hệ hình tiền hiện đại ở
tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ với các tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc
Phách, các tiểu thuyết của Nhất Linh, Hoàng Đạo, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng
Phụng… và cả các tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa. Riêng với giai đoạn tiểu
thuyết sau 1986, tác giả đã trình bày tiến trình của hai lần chuyển đổi hệ hình: từ
tiền hiện đại sang hiện đại và từ hiện đại sang hậu hiện đại. Các gương mặt hệ hình
được tái hiện cùng với những tiểu thuyết tiêu biểu: Nguyễn Minh Châu, Phạm Thị
Hoài, Bảo Ninh, Trần Dần, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Thuận, Đặng
Thân… Đây là những gợi ý quí báu cho luận án của chúng tôi.
Tiểu kết chương 1
Như vậy, lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết sau 1986 gần như đã gợi ra khá trọn
vẹn hành trình của khoa học nghiên cứu văn học trong khoảng 30 năm qua. Cả hai
hướng nghiên cứu từ bình diện lịch sử hay từ các lí thuyết tiếp cận đều đã nhận diện giá
trị của giai đoạn tiểu thuyết cách tân này ở nhiều phương diện: đổi mới đề tài, cách tân
thi pháp, ngữ pháp tự sự, tinh thần nữ quyền…
Tuy nhiên, ở cả hai hướng, chưa có công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu sự
vận động nội tại của tiểu thuyết sau 1986. Sự đổi mới của tiểu thuyết sau 1986 đều
được các công trình công nhận và phân tích, nhưng trên các phương diện cụ thể
hoặc trên chất liệu là tác phẩm cụ thể hay toàn bộ sáng tác của một tác giả cụ thể là
chủ yếu. Vẫn cần có một công trình cung cấp một cái nhìn toàn cảnh, thấu suốt hành
trình đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986, rộng hơn, có thể cung cấp hệ qui
24
chiếu soi tỏ hành trình của tiểu thuyết suốt thế kỷ XX, đầu thế kỉ XXI. Lý thuyết hệ
hình đã được một số nhà nghiên cứu lựa chọn để nghiên cứu, lý giải những đổi mới
của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986.
Mọi phương pháp tiếp cận đều có những ưu điểm và nhược điểm. Lý thuyết
hệ hình có tính chất như một tấm lưới lọc, có thể nhận biết các bản chất của văn học
trong điều kiện Việt Nam phức tạp, chồng chéo nhau, thậm chí một số trường hợp
bị nghi kị và đành cam phận “bên lề” như trường hợp tiểu thuyết Trần Dần mà cách
nhìn văn học từ tiêu chí nội dung, tư tưởng làm thước đo khó có thể khái quát hết
được. Đích nhắm đến của lý thuyết hệ hình chính là những đổi khác từ nội tại văn
học. Lý thuyết hệ hình giúp người nghiên cứu nhận diện những gương mặt đại diện
hệ hình, những gương mặt làm bước chuyển hệ hình sẽ có tính chất thiết yếu, phá
dỡ mọi không gian văn học ngăn cách, mọi ý thức hệ mà nhà văn theo đuổi, qui
chiếu về điểm quan trọng nhất, là nhà văn có thực sự làm văn học tiến triển được
hay không theo nghĩa cách mạng mĩ học văn học. Lý thuyết hệ hình trả lại tính tự trị
cho văn học khi khẳng định sự vận động của văn học, chủ yếu, tuân theo các qui
luật nội tại của nó. Và quan trọng hơn là đã mô tả được sự vận động đó bằng sự
chuyển đổi hệ hình.
Cái nhìn hệ hình có thể sẽ là hướng đi khắc phục được một số tồn tại trong
nhìn nhận, đánh giá, cung cấp thêm một hướng nghiên cứu để nhìn nhận, đánh giá
quá trình đổi mới phát triển của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986.
25
Chương 2
LÍ THUYẾT HỆ HÌNH VỚI ĐỐI TƯỢNG TIỂU THUYẾT
VIỆT NAM SAU 1986
Để đi sâu vào sự vận động nội tại của các hệ hình tiểu thuyết từ sau 1986,
việc khái quát lại lý thuyết hệ hình, những ứng dụng của lý thuyết hệ hình của
Thomas Kuhn vào thực tiễn nghiên cứu là vô cùng cần thiết. Nó giúp ta nhìn thấy
tính khoa học của vấn đề, đặt ra những tiền đề lý luận và thực tiễn cho việc áp dụng
lý thuyết vào đối tượng cụ thể là tiểu thuyết Việt Nam sau 1986. Trên cơ sở thực
trạng áp dụng lý thuyết hệ hình vào nghiên cứu các lĩnh vực khoa học xã hội và
nhân văn trong đó có văn chương, nhà nghiên cứu có thể dự báo những triển vọng
khi đi theo hướng nghiên cứu này.
2.1. Lý thuyết hệ hình
2.1.1. Khái lược về lý thuyết hệ hình của Thomas Kuhn
Ngày nay khái niệm mẫu hình (hay chuẩn thức, mẫu thức...) được sử dụng khá
rộng rãi trong hầu khắp các lĩnh vực, đặc biệt ở các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân
văn. Thuật ngữ này được dịch từ paradigm với nhiều cách dịch khác nhau kể cả trong
bản dịch công trình Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học của Kuhn, nhưng ở đây
chúng tôi chọn dịch là hệ hình, một phần vì nó gắn với gốc ngôn ngữ học cấu trúc,
phần khác vì khái niệm này nay nhiều người dùng hơn.
T. Kuhn đã có công hiện đại hoá khái niệm paradigm và sử dụng nó để
miêu tả các khung mẫu tư duy và hoạt động của các cộng đồng khoa học. Theo
Kuhn, hệ hình chỉ là và chỉ là cái mà các thành viên cộng đồng khoa học cùng có.
Nói ngược lại, cũng chính vì họ cùng có kiểu mẫu chung, nên mới hợp thành cái
thể cộng đồng khoa học đó, mặc dù về phương diện khác họ không có bất cứ điểm
nào chung cả [40, 766].
Thuật ngữ hệ hình được Kuhn sử dụng với nhiều sắc thái khác nhau, nhưng
tựu trung vẫn xoay quanh hai cách hiểu chính: một mặt nó biểu hiện toàn bộ tập hợp
những tín niệm, những giá trị được thừa nhận và những kỹ thuật mà mọi thành viên
của một nhóm hay một cộng đồng có chung; mặt khác nó biểu thị một yếu tố riêng
biệt của tập hợp ấy: đó là những giải pháp cho những "bài toán đố" cụ thể được
26
cộng đồng sử dụng như những mô hình làm mẫu, chúng có thể thay thế cho những
quy tắc thành văn với tư cách là cơ sở cho việc giải các "bài toán đố", tức là các vấn
đề còn khúc mắc trong cái mà Kuhn gọi là "khoa học chuẩn định".
Kuhn chia sự phát triển của khoa học làm ba thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất gọi
là tiền khoa học với hàm ý rằng đó là giai đoạn khoa học chưa có hệ hình trung tâm.
Tiếp đến là thời kỳ khoa học chuẩn định, tức đã có một hệ hình trung tâm thống ngự.
Khoa học chuẩn định được dùng để chỉ công việc nghiên cứu được tiến hành trên nền
tảng vững chắc của một hay nhiều thành tựu khoa học trước đây, những thành tựu mà
một cộng đồng khoa học nào đó thừa nhận là đủ để lấy làm xuất phát điểm cho thực
tiễn nghiên cứu tiếp theo. Công việc của các nhà khoa học chính là công việc trong
khuôn khổ hệ hình. Nó được thể hiện ở việc bổ khuyết, san định và đào sâu hơn các
nguyên tắc đã được đặt nền móng ở hệ hình. Khoa học chuẩn định không nhằm mục
đích khám phá những cái mới lạ và cũng không hướng vào thất bại của riêng nó, nên
nó ít có những khám phá do che khuất tầm nhìn , bị giam hãm bởi hệ hình chuẩn.
Nhưng sự phát triển của khoa học sẽ dẫn đến sự ra đời của các phát kiến và
phát minh. Phát kiến là những cái mới về dữ kiện, phát minh là những cái mới về lý
thuyết. Phát kiến bắt đầu bằng việc nhận diện một điều bất thường, phủ nhận những
kì vọng tạo ra bởi một mẫu hình đang chi phối. Khi một dị thường vượt qua ngưỡng
bài toán đố thông thường của một khoa học chuẩn định, thâm nhập đến cốt lõi của
mẫu hình, việc điều chỉnh và bổ sung lý luận không còn tác dụng gì nữa, khoa học
chuẩn định sa vào tình cảnh nguy khốn, bản thân hệ hình chuẩn không thể giải
quyết được ở mọi phương diện thì khoa học bước sang một thời kì bất ổn - thời kì
khủng hoảng. Bản chất của khủng hoảng là do sự thất bại dai dẳng trong việc cố tìm
ra những lời giải được mong đợi cho các bài toán đố của khoa học chuẩn định. Nói
cách khác, ý ngh a của khủng hoảng là ở chỗ nó chỉ ra rằng thời cơ thay đổi công
cụ đ đến [22, 770].
Khủng hoảng khoa học dẫn đến cách mạng khoa học - sự chuyển hóa và
thay đổi hệ hình. Giữa hệ hình cũ và mới có sự khác biệt về chất, tuy chúng giống
nhau về kết cấu, song thành cơ bản, tức lý luận khoa học, định luật và quan điểm cơ
bản đã biến đổi. Cách mạng khoa học thực chất là sự thay thế hệ hình cũ bằng một
hệ hình mới, đó là quá trình cộng đồng khoa học nắm bắt và giải mã những dị
27
thường, xây dựng lại khái niệm khoa học và thiết lập những công cụ nhận thức mới.
Đó là đả phá khuôn phép cũ, cung cấp tư liệu ngày càng tăng cho sự thay đổi cơ bản
quy tắc. Như vậy, cách mạng khoa học không phải là sự thủ tiêu hoàn toàn hệ hình
cũ để thay thế vào đó một hệ hình hoàn toàn mới, mà bao giờ cũng có kế thừa, cũng
là một sự vượt gộp (émergence). Từ nay, hệ hình cũ chỉ là một bộ phận, một trường
hợp trong hệ hình mới.
Như vậy, lịch sử phát triển của khoa học phải trải qua nhiều cuộc cách
mạng khoa học, tức nhiều lần thay đổi hệ hình, tạo ra sự thay đổi đột ngột về bản
chất của việc tìm tòi, phát minh, sáng tạo ở mỗi một lĩnh vực khoa học riêng biệt.
Lý thuyết hệ hình của Thomas Kuhn có những đóng góp quan trọng cho công việc
của các nhà nghiên cứu:
- Phản đối khái niệm phát triển bằng tích lũy , Kuhn đưa đến một cách
hình dung khác về tiến trình phát triển của khoa học. Cấu trúc các cuộc cách mạng
khoa học đưa ra một suy tư độc đáo về lịch sử khoa học. Trước Kuhn, người ta
quan niệm khoa học phát triển tuyến tính, có tính chất tích luỹ, bổ sung, ví như một
cái nhà được xây dựng với viên gạch này đặt lên viên gạch khác. Hệ quả là, người
ta có thể suy đoán: sự tăng trưởng của kiến thức đến một lúc nào đó có thể đạt tới
một điểm mà ở đó hầu như mọi sự đều là đã biết và việc xây dựng tòa lâu đài khoa
học đi đến chỗ hoàn tất. Với công trình của mình, Kuhn đã lập luận một cách thuyết
phục: những khám phá có ý nghĩa nhất ngày hôm nay luôn luôn là một sự lật đổ các
khám phá ngày hôm qua. Những phát hiện lớn của khoa học không thể tránh được
có một dạng mâu thuẫn với những phát hiện lớn trước đó và bao hàm không chỉ là
sự bổ sung mà còn là sự thay thế. Kuhn đã khẳng định rằng, một lý thuyết chỉ bị
tuyên bố là không đúng khi có một lý thuyết khác có thể thay thế nó: Quyết định
từ bỏ một khuôn mẫu luôn luôn đi liền với quyết định chấp nhận một khuôn mẫu
khác, vì nếu từ bỏ một khuôn mẫu mà không có khuôn mẫu khác thay thế thì điều đó
có ngh a là đ từ bỏ khoa học [40, 771].
- Việc nói đến những thay đổi hệ hình, hay những bước ngoặt có tính hệ
hình không nhất thiết bao hàm ý tưởng tiến bộ hay thụt lùi, mà chủ yếu diễn tả một
sự lĩnh hội có tính cách biện chứng về quá trình vận động với các bước thăng trầm,
tiến bộ. Kuhn cho rằng: các quan điểm (concepts) của các mô thức đối lập mang
28
những nội dung khác nhau. Điều này tựa như các nhà khoa học dùng những ngôn
ngữ khác nhau. Hay, như Kuhn nói: các mô thức đối lập không lượng sánh được
với nhau, tức là không so sánh bằng lượng được với nhau (incommensurable), hay
không thông ước với nhau, theo thuật ngữ toán học. Chính sự khác biệt về ngữ
nghĩa đã dẫn đến tình trạng bất lượng sánh nói trên. Chuyển đổi hệ hình không
những bao gồm thay đổi về lòng tin (belief change) mà cả thay đổi về các chuẩn
mực để đánh giá (standards of judgment). Nếu dùng các quan điểm khác nhau để
đánh giá và nếu không có một quan điểm trung lập nào khác để giải được sự bất
đồng thì sẽ không có một phương pháp khách quan nào để đánh giá sai đúng. Sự
chuyển đổi hệ hình không phải là kết quả của tranh luận phải trái hay sự thuyết phục
bằng tính hợp lý mà giống như một sự thay đổi về cách quan sát. Kuhn cho rằng:
khoa học không nhất thiết ngày càng tiến gần tới bản thể hay sự thật. Theo Kuhn,
các hệ hình về bản chất là không thể so sánh, vì mỗi mẫu hình đại diện cho các suy
nghĩ, cách nhìn và phương pháp hoàn toàn khác nhau. Các khoa học gia theo vật lý
Newton và các khoa học gia theo vật lý Einstein sống riêng rẽ trong thế giới của
nhóm họ. Vì thế, theo Kuhn, ta không thể không chấp nhận các hệ hình của các
cộng đồng những người nghiên cứu khoa học hoạt động theo tiêu chuẩn hệ thống
"văn hoá" riêng của mỗi cộng đồng… Nó dẫn đến những thay đổi trong nhìn nhận,
đánh giá đối tượng: không có hệ hình cấp thấp hay phát triển cao trên bậc thang
tiến hóa, các hệ hình chỉ được tiếp nhận với tiêu chí của cái khác, với những cấu
trúc và qui định hoạt động khác nhau. Điều này có ngh a là, sự xuất hiện hệ hình
mới không phải là phủ nhận, triệt tiêu hoặc hạ bệ hệ hình cũ, mà chỉ đánh đổ ngôi
độc tôn của nó để tạo ra một đa nguồn văn hóa - thẩm mỹ.
- Trước đây, mô tả các quá trình lịch sử, người ta chỉ chú ý đến việc mô tả
bản thân các giai đoạn và, do thế, lịch sử như là sự sắp xếp các giai đoạn đó theo
thời gian, mà bỏ qua thời kỳ khủng hoảng. Thực chất, đây là cái nhìn tĩnh, như khi
đặt các bức tranh cạnh nhau. Nó giới hạn cái nhìn của nhà nghiên cứu trong từng
thời kỳ, giai đoạn mà bỏ qua sự vận động giữa chúng, và dĩ nhiên không nhìn thấy
được các sự kiện mang tính chất quyết định cho sự chuyển đổi. Ngày nay, với cái
nhìn của lý thuyết hệ hình, người ta thấy chính giai đoạn khủng hoảng này mới là
quan trọng, bởi lẽ đây là điều kiện để nảy sinh cái mới, ra đời hệ hình mới, dẫn đến
29
sự thay đổi hệ hình. Người ta cũng nhìn nhận lại vai trò của các cá nhân: những
người tạo ra sự thay đổi hệ hình có vai trò quan trọng nhất, đáng được xếp trên
những người hoàn chỉnh hệ hình, bởi tư duy sáng tạo và thái độ dũng cảm, dám trả
giá của họ.
Lý thuyết hệ hình đã mang lại một cái nhìn mới cho lịch sử văn hóa, nghệ
thuật, văn học và, từ đó, có thể tạo ra một lối viết lịch sử mới, nhìn sự dịch chuyển
của đối tượng từ những vận động nội tại và với thái độ khách quan, phi định kiến
trong đánh giá. Lý thuyết hệ hình cũng giúp người nghiên cứu nhận diện vai trò của
các giai đoạn, các hiện tượng, các cá nhân trong hành trình dịch chuyển hệ hình: vai
trò tiên phong thuộc về các giai đoạn khủng hoảng và những người kiến tạo hệ hình,
hay còn gọi là người đi chệch hệ hình.
2.1.2. Ứng dụng lí thuyết hệ hình trong khoa học nhân văn thế giới
Thomas Kuhn được cho là nhà sử học khoa học có ảnh hưởng nhất trong
thế kỷ XX. Tác động của ông đã được kiểm nghiệm trong tất cả các lĩnh vực học
thuật. Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học được đánh giá là “cuốn sách được
trích dẫn nhiều nhất thế kỷ 20 trong chỉ số trích dẫn nghệ thuật và nhân văn trong
giai đoạn 1976 - 1983; thậm chí 40 năm sau khi xuất bản, khi thế kỷ 20 kh p lại, đ
có 400 tài liệu tham khảo về cuốn sách trong Chỉ số trích dẫn khoa học x hội năm
1999 [153].
Khái niệm hệ hình (pagadigm) của Kuhn, vốn được xây dựng trên các dữ
kiện của khoa học tự nhiên. Vì thế, với các nhà khoa học xã hội, khi phải sử dụng
một lý thuyết vốn xuất phát từ khoa học tự nhiên vào nghiên cứu các vấn đề xã hội,
thường không tránh khỏi mối băn khoăn, giống như tâm trạng của Sokolovski hay
P. Ansart. Nhà dân tộc học Sokolovski trong nghiên cứu Hệ hình của dân tộc học
đã đặt vấn đề: liệu có thể sử dụng khái niệm hệ hình vào nghiên cứu dân tộc học
không? Khái niệm hệ hình, theo cách hiểu của Kuhn là hoàn toàn thích hợp với các
khoa học tự nhiên, có đối tượng quan sát chính xác, được kiểm tra chắc chắn bằng
thực nghiệm. Nhưng khoa học xã hội thì không như thế, đối tượng của nó không
hiện lên một cách rắn chắc, mạch lạc, có thể định tính, định lượng như đối tượng
của các khoa học tự nhiên. Sau cùng, Sokolovski nhận thấy, vẫn luôn có một sự
tương tự như các hệ hình tồn tại trong khoa học xã hội. Vì thế, Sokolovski cho rằng,
30
hoàn toàn có thể sử dụng khái niệm hệ hình vào phân định cấu trúc các cuộc cách
mạng khoa học xã hội, mà trong trường hợp của ông, đối tượng hướng tới là dân tộc
học. Cũng hiểu như Sokolovski, nhà xã hội học P. Ansart thấy rằng, lịch sử khoa
học xã hội khi chuyển từ một lý thuyết này sang lý thuyết kia không bao giờ rõ nét
như khoa học tự nhiên. Nhưng, theo nsart, hoàn toàn có thể sử dụng tương thích
các tư tưởng của lý thuyết hệ hình, cũng như nhiều chỉ dẫn của Kuhn cho các
khoa học xã hội, mà trong trường hợp của ông là khoa xã hội học [4,18].
Quả đúng như vậy, chúng ta hiểu rằng, dù được xây dựng trên những dữ
kiện của khoa học tự nhiên, như vật lý, thiên văn, hóa học hay toán học…, Cấu trúc
các cuộc cách mạng khoa học là một tác phẩm kinh điển nghiên cứu về bản chất các
khoa học, đó chính là nền tảng của khoa học luận hiện đại, hay còn gọi là triết học
khoa học. Vì thế, những nguyên tắc mà Kuhn đề ra, luôn có tính chất nền cho mọi
khoa học. Hơn nữa, Kuhn không chỉ nói đến các quy luật vận động nội tại của khoa
học đó, mà còn chú trọng đến cả các dữ kiện văn hóa lịch sử ở thời điểm đó. Điều
này mang lại rất nhiều gợi ý cho sự quá giang từ khoa học tự nhiên sang khoa học
xã hội và nhân văn của lý thuyết này. Vì thế, không chỉ dân tộc học của Sokolovski,
xã hội học của Ansart, mà rất nhiều ngành khoa học xã hội cũng đã tiến hành sử
dụng lý thuyết hệ hình, như một bộ công cụ nền mang tính hiệu quả cho suy tưởng.
Đó là lý do mà trong lời giới thiệu tác phẩm Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học
ấn bản tiếng Việt, dịch giả Chu Lan Đình đã viết về sự ảnh hưởng rộng rãi, phổ biến
của lý thuyết hệ hình, trong đó, nhấn mạnh tới ảnh hưởng đặc biệt ở các l nh vực
khoa học xã hội và nhân văn [40, 11].
Lý thuyết hệ hình được áp dụng rộng rãi trong nhiều công trình nghiên cứu
văn hoá. L.G.Ionin trong cuốn Bách khoa toàn thư văn hóa học thế kỉ XX đã nhìn
nhận sự phát triển của văn hoá dưới cái nhìn hệ hình. Các khoa học về văn hóa được
ông hình dung đã đi qua hệ hình kinh nghiệm và hệ hình tiến hóa luận, hay còn gọi
là hệ hình khoa học. Sang thế kỉ XX, hệ hình khoa học mới, thay đổi tận gốc rễ
quan điểm về văn hóa, được gọi là hệ hình đa nguyên. Mỗi nền văn hóa bắt đầu
được xem xét như một giá trị tự thân, không phụ thuộc nó chiếm vị trí nào trên nấc
thang tiến hóa. Paradigmatologie được nhà bác học nổi tiếng người Pháp, Edgar
Morin bàn đến trong cuốn sách Phương pháp 4. Tư Tưởng. Nơi cư trú, cuộc sống,
31
tập tính, tổ chức của tư tưởng. Trong sách này, người ta dịch thuật ngữ
paradigmatologie (hay Paradigmologie) là chuẩn thức học (tức là hệ hình
học/luận). Ông định nghĩa khái niệm chuẩn thức (tức là hệ hình) như sau: "Chuẩn
thức chứa đựng, đối với mọi diễn ngôn thực hiện dưới sự chi phối của nó, những
khái niệm cơ bản hay những phạm trù chủ đạo của tính nhận thức, trí tuệ cùng với
loại hình những quan hệ logic về hút/đẩy (phép hội, phép tuyển, kéo theo hay các
phép tính khác) giữa những khái niệm hay phạm trù ấy" [48, 441]. Đóng góp rất
quan trọng của Edgar Morin là xây dựng lý thuyết hiện đại về tư duy phức hợp và
dự báo về cuộc cách mạng hệ hình mà thực chất của nó, theo ông, là sự chuyển đổi
hệ hình từ khung mẫu tách rời/quy giản sang khung mẫu phức hợp.
Trong cuốn sách nổi tiếng Các nhà tư tưởng lớn của Kitô giáo, Hans Kung
đã áp dụng lý thuyết hệ hình và thay đổi hệ hình để nhìn lại lịch sử thần học của Ki
tô giáo từ buổi đầu tiên cho tới hiện tại. Lý thuyết hệ hình đã giúp Hans Kung nhìn
nhận sự phát triển của tư tưởng Kitô giáo không chỉ như là cuộc tranh cãi, xung
khắc giữa các nhà thần học khác nhau hay các nền thần học khác nhau mà là sự thay
đổi của các hệ hình tư tưởng. Lý thuyết hệ hình soi rọi sự chồng chéo, nằm đè lên
nhau của chúng, nhận định đúng mức về mặt lịch sử của từng hệ hình của một thời
kì nhất định.
Rất nhiều công trình nghiên cứu khác trên thế giới đã đi sâu phân tích ảnh
hưởng của lý thuyết hệ hình tới khoa học giáo dục: Thomas Kuhn’s impact on
science education: What lessons can be learned? (Tác động của Thomas Kuhn đối
với Giáo dục Khoa học: Bài học nào ta có thể học được?) của Stephen Norris [153];
Understanding and Applying Research Paradigms in Educational Contexts (Hiểu
và áp dụng các mô hình nghiên cứu trong các bối cảnh giáo dục) của Charles
Kivunja và Bawa Kuyini [144]; What paradigm shift? An interrogation of Kuhn's
idea of normalcy in the research practice of educational administration (Sự thay
đổi hệ hình nào? Một cuộc thẩm vấn ý tưởng của Kuhn về sự bình thường trong
thực hành nghiên cứu về quản lý giáo dục) của Fenwick W. English phân tích các
phương diện ứng dụng của lý thuyết hệ hình với thực tiễn giáo dục [145]; The
importance of the paradigm shift in the development of design industry and design
education (Tầm quan trọng của sự chuyển dịch hệ hình trong sự phát triển của
32
ngành thiết kế công nghiệp và thiết kế giáo dục) của ndra Irbite khám phá các vấn
đề phức tạp trong lĩnh vực công nghệ thiết kế giáo dục để khẳng định sự cần thiết
của việc thay đổi mô hình để nâng cao chất lượng [143]. Năm 2000, Cathleen
Loving và William Cobern đã tiến hành phân tích trích dẫn của hai tạp chí giáo dục
khoa học lớn, Science Education và Journal of Research in Science Teaching, trong
khoảng thời gian 13 năm 1985 - 1998 và không ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng có
rất nhiều trích dẫn của Kuhn bao gồm các chủ đề Kuhnian như hệ hình (30 bài báo),
lý thuyết thay đổi khái niệm, nhận thức luận kiến tạo, tính không đơn giản, tính xác
thực của sách giáo khoa, các thành phần xã hội của khoa học, và cả so sánh triết học
của Kuhn và các nhà phương pháp học khác của khoa học [dẫn theo Fenwick W.
English, 145].
Ngoài ra, lý thuyết của Thomas Kuhn đã được ứng dụng ở nhiều lĩnh vực
nghiên cứu xã hội khác. Chuyên gia hệ thống học người Ấn độ, Jamshid
Gharajedaghi cho rằng nếu hình dung công cuộc kinh doanh như trò chơi hệ thống
thì sự thay đổi hệ hình trong bản chất của tổ chức có thể đi từ hệ không trí tuệ (như
mô hình máy móc - mô hình cơ giới) chuyển sang hệ đơn - trí tuệ (như mô hình
sinh học) và sang hệ đa - trí tuệ (như mô hình xã hội) [36]. Trong nghiên cứu về
Sự dịch chuyển của mẫu hình mã nguồn mở (Open source paradigm shift), Tim
O‟Reilly lập luận rằng phong trào mã nguồn mở và mã nguồn miễn phí là một sự
dịch chuyển mẫu hình của khoa học và công nghệ thế giới trong hơn 30 năm bùng
nổ công nghệ thông tin vừa qua. Climate Change, Sociological Theory and
Paradigm (Biến đổi khí hậu, lý thuyết xã hội học và chuyển đổi mô hình) của Lynn
McDonald phân tích sự thay đổi của các hệ hình lý thuyết xã hội học và cách tiếp
cận của các hệ hình này với vấn đề biến đổi khí hậu [147]. Paradigm of
historiography, based on historical methodology of information (Hệ hình lịch sử,
dựa trên phương pháp lịch sử thông tin) của nhà nghiên cứu Trung Quốc Wenping
Li đã chỉ ra sự dịch chuyển các hệ hình nghiên cứu lịch sử từ hệ hình tuân theo mâu
thuẫn giữa thế giới chủ quan và tồn tại khách quan, mang tính cố định đến hệ hình
nghiên cứu lịch sử dựa trên thông tin hóa với số hóa lịch sử, điện ảnh và truyền hình
và công nghệ dữ liệu lớn và cơ sở dữ liệu định lượng [146]. Hai tác giả Marilene
Loewen Wall và Telma Elisa Carraro đã có công trình nghiên cứu Kuhn's
33
revolutionary theory and its influence on the construction of nursing knowledge
(Lý thuyết mang tính cách mạng của Kuhn và ảnh hưởng của nó đối với việc xây
dựng kiến thức điều dưỡng) là dẫn chứng cho sự áp dụng lý thuyết của Kuhn ở lĩnh
vực y tế [148]…
Ở lĩnh vực nghiên cứu văn học, công trình Shifting paradigm of major
literature in perspective and orientation of science, history, culture and civilization
(Chuyển đổi hệ hình văn học chính theo quan điểm và định hướng của khoa học,
lịch sử, văn hóa và văn minh ) [150], tác giả đã vận dụng lý thuyết hệ hình để phân
tích sự dịch chuyển hệ hình trong văn học nh từ những thay đổi căn bản của khoa
học, văn hoá, văn minh và các quan điểm tôn giáo từ thời kì cổ điển, qua thời Phục
Hưng sang thời kì hiện đại. Bài viết đã đặt vấn đề phân tích nền tảng của sự thay đổi
hệ hình văn chương, đó là sự thay đổi của hệ hình thế giới quan, chẳng hạn, chiến
tranh thế giới cùng sự phát triển của khoa học trong đó có vật lý học với thuyết
tương đối, là nền tảng quan niệm về thực tại của chủ nghĩa hiện đại: Nhà triết học
hàng đầu của thế kỷ trước, Alfred North Whitehead, do đó đ định ngh a thực tại
là quá trình , chấp nhận sự thay đổi và chuyển động là diện mạo của thực tại, phá
vỡ hệ hình trước đó của thực tại tối thượng không thay đổi, bất di bất dịch và v nh cửu 1. Tác giả đã phân tích sự thay đổi hệ hình thế giới quan với các đại diện
Spengler, Armold. J Toynbee, Thomas Stearns…, từ đó lý giải sự thay đổi trong hệ
hình văn chương, với trường hợp điển hình như Eliot với trường ca The Waste Land (1922).
Trong cuốn sách The morden, post morden and the fact of transition: The
paradigm shift through peninsular literatures (Hiện đại, hậu hiện đại và bản chất
của quá trình chuyển đổi: Chuyển đổi hệ hình qua các nền văn học bán đảo), Robert
Simon phân tích sự thay đổi hệ hình thơ ca các nền văn học Bồ Đào Nha và Tây
1. “The leading philosopher of the last century, Alfred North Whitehead, therefore defined reality as process , accepting change and movement as aspects of ultimate reality, shattering the earlier paradigm of ultimate reality as changeless, unmoving and eternal .
Ban Nha theo ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhất, từ năm 1955 đến năm 1975; và hai
34
giai đoạn sau đó, từ 1975 đến 2000. Công trình chỉ ra sự dịch chuyển từ chủ nghĩa
hiện đại sang các biểu hiện của hậu hiện đại chủ nghĩa trong thơ, trùng hợp với
những chuyển đổi chính trị - xã hội diễn ra ở Iberia 1950 đến cuối thế kỷ XX [152].
Paradigm shifts of novels in Indian English writing (Sự thay đổi hệ hình tiểu
thuyết trong văn học tiếng Anh - Ấn) của tác giả Naathi Naresh Babu nghiên cứu sự
dịch chuyển các hệ hình tiểu thuyết trong văn học tiếng nh Ấn Độ từ hiện đại sang
hậu hiện đại chủ nghĩa trong bối cảnh kỷ nguyên kỹ thuật số và sự đa nguyên văn
hoá toàn cầu. Các nhà văn như Vikram Chandra và Salman Rushdie trên face book,
twitter và blog đã tái tạo không gian cho những thay đổi văn hóa trong sáng tạo văn
học. Thế giới đa hướng nội tại và ngoại tại của cá nhân được tương tác với những
trải nghiệm thực tế trong cuộc sống. Do đó, các quan niệm văn hóa đang đem đến
sự thay đổi mô hình của tiểu thuyết trong bối cảnh toàn cầu [150]. Trong công trình
The development and trends of literary studies in Thailand (Sự phát triển và xu
hướng nghiên cứu văn học ở Thái Lan), tác giả Trisilpa Boonkhachorn khảo sát sự
phát triển và xu hướng nghiên cứu văn học ở Thái Lan từ thuở sơ khai cho đến nay,
đặc biệt tập trung vào ba thập kỷ từ 1965 - 1995 với các hệ hình tương ứng các
phần: Phần 1: Nhà thơ hiện thực: Nhà thơ truyền thống của Thái Lan như một hệ
hình cho nghiên cứu văn học, Phần 2: Sự bá đạo: Văn học như lịch sử và bản sắc
dân tộc, Phần 3: Ngọn gió phương Tây: Hệ hình của chủ nghĩa phê bình mới, Phần
4: Sự chống đối bá chủ: Tiếng nói địa phương, Phần 5: Người ngoài cuộc: Nội tại
và xu hướng hệ hình liên ngành cho tương lai, mở đầu hệ hình liên ngành… [154]
Ở cấp độ tác giả, tác phẩm cụ thể, Paradigm shifts in literature: Chaucer
của nhà nghiên cứu Peter Sinclair từ nghiên cứu các hệ hình đã làm thay đổi cách
chúng ta nhìn và hiểu thế giới đến phân tích sự thay đổi mô hình trong lịch sử văn
học, từ đó nhìn nhận vị trí của Geoffrey Chaucer trên tiến trình chuyển đổi hệ hình
của văn học nh. [151]
Các công trình vừa liệt kê trên đã khẳng định sức lan toả của lý thuyết hệ
hình. Sự ảnh hưởng của lý thuyết hệ hình không đơn thuần thể hiện ở độ phủ sóng
của lý thuyết mà ở cách mà Thomas Kuhn đã thay đổi cách nhìn thế giới của chúng
ta, đem lại nhiều nhận thức mới mẻ cho các nhà nghiên cứu, trong đó có lĩnh vực
văn chương.
35
2.1.3. Ứng dụng lý thuyết hệ hình tại Việt Nam
Công trình Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học của Kuhn được dịch tại
Việt Nam khá muộn. Tuy nhiên, các công trình ứng dụng lý thuyết hệ hình vào Việt
Nam trước đó đã tạo ra ít nhiều ảnh hưởng đến các tác giả ở Việt Nam. Trong bài
viết của Thái Bá Vân Hai lần thay đổi mô hình thẩm mỹ có cách hiểu về mô hình
thẩm mỹ cũng gần với khái niệm hệ hình: Mô hình thẩm mỹ là mẫu số chung của
những ứng xử tạo hình, được gói ghém và bộc lộ ở dạng biểu trưng, là cái nhìn thế
giới của một thời đại, một dân tộc, một trường phái, thậm chí một tác giả nghệ
thuật được xây dựng trên toàn cục dữ kiện của đời sống vật chất và tinh thần
[97,19]. Tuy chưa dùng khái niệm hệ hình nhưng Thái Bá Vân lại vận dụng đúng
với tinh thần của lý thuyết hệ hình. Từ đó, ông rút ra kết luận, mỹ thuật Việt Nam
đã hai lần thay đổi mô hình thẩm mỹ: lần 1 từ Đông Sơn sang mô hình Lý, lần 2 từ
mô hình Lý sang mô hình hiện đại với sơ đồ chuyển đổi trật tự thẩm mĩ như sau:
trật tự hình học (mô hình Đông Sơn) trật tự tượng trưng (mô hình Lý) trật tự
khoa học (mô hình hiện đại).
Nhà triết học Bùi Văn Nam Sơn đưa ra cái nhìn về ba hệ hình trong lịch sử
triết học. Theo đó, lịch sử triết học nhân loại đã trải qua các hệ hình sau: (1) Hệ hình
tiền hiện đại: Lấy sự tồn tại làm đối tượng tư duy, tìm các cấu trúc khách quan của
thế giới (sự khách quan thuần túy); (2) Hệ hình hiện đại: lấy ý thức cá nhân / chủ
thể làm đối tượng tư duy (cogito). Đấy là nguy cơ rơi vào hố thẳm của thuyết duy
ngã (sự chủ quan thuần túy và độc thoại); (3) Hệ hình hậu hiện đại: Lấy ý thức liên
chủ thể (thông quan ngôn ngữ) làm đối tượng tư duy. Đấy là cơ sở của sự đối thoại,
tự do, đoàn kết và hòa hợp. Cái nhìn hệ hình này còn được tác giả vận dụng để soi
chiếu từng khía cạnh của tư tưởng - triết học, chẳng hạn Từ hậu - hiện đại đến hậu
hậu - hiện đại trong tư tưởng tôn giáo. Nhà triết học cho rằng: thế giới quan tiền
hiện đại có đặc điểm là sự chấp nhận không tra hỏi đối với quyền uy và có lòng tin
vững chắc vào những chân lý tuyệt đối, nhất là niềm tin rằng tôn giáo mang lại
những giải đáp đích thực cho những bí mật và huyền nhiệm của sự sống và đời sống.
Trong khi đó, hiện đại dựa trên việc theo đuổi tri thức khách quan và phương pháp
khoa học. Thế giới quan hiện đại đi liền với tiến trình thế tục hóa. Thế giới quan hậu -
hiện đại từ giữa thế kỷ XX là một cách phản ứng khác đối với “hiện đại”, trước hết với
36
tư cách những nhà hiện đại bị thất vọng. Cách đặt vấn đề của nhà triết học có ý nghĩa
gợi ý cho sự vận dụng lý thuyết hệ hình ở đối tượng nghiên cứu cụ thể.
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cũng nói đến hệ hình khi bàn về giải cấu
trúc: Giải cấu trúc như đ nói trên là một hệ hình mới trong phê bình nghiên cứu
văn học. Hàng loạt căn cứ khoa học cho thấy một quan niệm cấu trúc mới đ hoàn
toàn thay thế quan niệm cấu trúc cũ… [133]. Trong bài viết Bước ngoặt diễn ngôn
và sự thay đổi hệ hình nghiên cứu văn học, Trần Đình Sử đã nhìn lịch sử ngữ học
với ba hệ hình: Khoa ngữ học đ trải qua ba hệ hình: phát sinh học (lịch sử, tiến
hóa), phân loại học (điều tra, kiểm kê hoặc cấu trúc hệ thống), chức năng - giao
tiếp luận [134]. Hệ hình thứ ba tạo ra bước ngoặt ngữ học . Hệ hình ngữ học bao
trùm triết học, khoa học nhân văn, kéo theo sự phát triển của chủ nghĩa cấu trúc, kí
hiệu học, tự sự học, hậu cấu trúc, giải cấu trúc, làm thay đổi diện mạo các khoa học
nhân văn hiện đại. Tác giả cũng đã nhận diện bản chất của sự thay đổi hệ hình đến
cùng bước ngoặt của diễn ngôn.
Trong bài nghiên cứu Hans Robert Jauss và mỹ học tiếp nhận, nhà nghiên
cứu Trương Đăng Dung đã chỉ ra sự vận động từ tiền hiện đại đến hiện đại: Chủ
ngh a hình thức Nga và sau đó là cấu trúc luận Pháp ra đời đ làm một bước
chuyển hệ chuẩn (paradigme) nghiên cứu từ ngoại quan sang nội quan, tức từ tác
giả (và hoàn cảnh) sang tác phẩm… ; từ hiện đại đến hậu hiện đại: Lịch trình tư
tưởng phương Tây là như vậy: một khi đi đến cùng cực này sẽ đảo sang cực ngược
lại. Khoa học văn học lại chuyển sang một hệ chuẩn mới: từ tác phẩm sang độc giả.
Mỹ học tiếp nhận ra đời với sự đóng góp của hai nhà khoa học Đức là Hans Robert
Jauss và Wolfgang Iser [14].
Lý thuyết hệ hình đã được tác giả Đỗ Lai Thúy vận dụng một cách trực
giác (từ dùng của tác giả) trong Văn hóa Việt Nam, nhìn từ mẫu người văn
hóa và Phê bình văn học Việt Nam, con vật lưỡng thê ấy đến tự giác trong công
trình Thơ như là mỹ học của cái khác để đưa ra một lối nhìn khác về lịch sử thơ
Việt và, quan trọng hơn, một lối viết khác về lịch sử thơ Việt, phù hợp với con
người cá nhân toàn vẹn và mỹ học của cái khác. Trong công trình Phê bình văn học,
con vật lưỡng thê ấy, nhìn lịch sử phê bình từ sự dịch chuyển các hệ hình, tác giả
Đỗ Lai Thúy đã có một cái nhìn vừa lịch sử vừa phân tầng các phương pháp. Lý
37
thuyết về sự dịch chuyển hệ hình cho phép tác giả khám phá ra đâu mới là những
phương pháp và những nhà phê bình làm đại cách mạng (chuyển hệ hình) cho phê
bình văn học Việt Nam. Nghĩa là, họ đã dịch chuyển được được cả một hệ mỹ học,
làm biến đổi hoàn toàn các quan niệm, phương pháp tiếp cận, xử lý đối tượng trong
phê bình văn học. Và, đâu là vô số các nhà phê bình làm tiểu cách mạng, cho dù
hoạt động phê bình của họ rất nổi tiếng đương thời nhưng vẫn chỉ là những phát
kiến nhỏ, nhằm nới rộng tính hiệu quả cho phương pháp họ thuộc về. Đồng thời,
thấy luôn những lính tiên phong, những nhà tiền khu, công kích vào hệ hình cũ,
hoạt động của họ nhằm chuẩn bị điều kiện để các nhà phê bình thay đổi hệ hình sau
này xuất hiện. Theo đó thì, quả bom Hoàng Ngọc Hiến”, nhà phê bình l o thành
Nguyễn Đăng Mạnh”, Lê Ngọc Trà là những người đã giúp phê bình tiến được
những bước dài, khiến phê bình văn học thay vì chỉ có mối quan tâm đến chính trị
đã chú trọng hơn vấn đề thẩm mỹ. Nhưng cuối cùng, Đỗ Lai Thúy nhận định, đấy
cũng chỉ là sự thay đổi trong nội bộ một phương pháp phê bình. Một sự đổi mới
(chứ không phải đổi ngược) thực sự đòi hỏi phải thay đổi hệ hình [90,169]. Phải
đến Phan Ngọc với Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều (phê bình
phong cách học), Trần Đình Sử với Thi pháp thơ Tố Hữu, Đỗ Lai Thuý với Hồ
Xuân Hương, hoài niệm và phồn thực (phê bình thi pháp học), phê bình Việt Nam
mới làm thành công cuộc cách mạng hệ hình hiện đại (phê bình văn bản), chuyển
mối quan tâm từ các yếu tố bên ngoài vào trong văn bản.
Cái nhìn hệ hình ấy, như là cái nhìn nền của tư tưởng phê bình, được Đỗ
Lai Thúy tiếp tục triển diễn, nối dài với công trình Thơ như là mỹ học của cái khác.
Trong công trình này, tác giả tiếp tục vận dụng lý thuyết hệ hình vào nghiên cứu thơ
Việt từ 1945 đến nay. Và, ở ngay chính công trình trọng điểm về thơ này, cái nhìn
hệ hình của Đỗ Lai Thúy, một cách rất mạch lạc, đã giúp chúng ta hình dung ra
những đại diện lớn nhất của thơ Việt Nam sau Thơ Mới - những người đã dự góp
vào, kiến tạo, đưa thơ Việt vào hiện đại chủ nghĩa và dịch chuyển đến hậu hiện đại
chủ nghĩa. Theo đó thì, lịch sử thơ Việt được hình dung là một hành trình của cái
khác như sau:
- Bước chuyển hệ hình thơ Việt từ tiền hiện đại chủ nghĩa (thời Thơ Mới)
vào hiện đại chủ nghĩa: Tiêu biểu nhất là “thơ bí hiểm” của Nguyễn Xuân Sanh và
38
thơ không vần của Nguyễn Đình Thi (ngoài ra còn có: Quang Dũng, Hữu Loan,
Trần Mai Ninh, Hồng Nguyên…)
Thơ Việt hiện đại chủ nghĩa: Đại diện lớn là Thanh Tâm Tuyền, Trần Dần,
Đặng Đình Hưng, Lê Đạt (ngoài ra còn có: Phạm Công Thiện, Nhã Ca, Tô Thùy
Yên, Nguyễn Đức Sơn, Hoàng Cầm, Văn Cao, Phùng Cung, Dương Tường,
Nguyễn Quang Thiều…)
- Bước chuyển hệ hình thơ Việt từ hiện đại chủ nghĩa vào hậu hiện đại chủ
nghĩa, có: Nhã Ca với nữ quyền luận, Nguyễn Đức Sơn với tính trò chơi và tính
giễu nhại trong thơ… Thơ Việt hậu hiện đại chủ nghĩa: Đại diện lớn là Bùi Giáng
(Ngoài ra còn có: Trần Tiến Dũng, Phan Nhiên Hạo, Từ Huy, Nguyễn Thế Hoàng
Linh, Bùi Chát, Khế Iêm…)
Cái nhìn hệ hình đã giúp nhà nghiên cứu có một cách nhìn nhận mới mẻ và
khoa học về diễn trình vận động của thơ ca Việt Nam từ sau 1945.
2.2. Những nhận thức ban đầu cho việc triển khai đề tài luận án.
2.2.1. Ba quan niệm về thực tại - ba hệ hình triết học
Trước hết, tiền hiện đại/ hiện đại/ hậu hiện đại thường được quan niệm là
những giai đoạn lịch sử văn hoá nhân loại, trong đó thời hậu hiện đại là giai đoạn
tiếp theo của thời hiện đại, cũng như thời hiện đại là giai đoạn tiếp theo của thời tiền
hiện đại. Những đặc điểm chính của các giai đoạn tiền hiện đại, hiện đại và hậu hiện
đại không xuất hiện đồng thời và cũng không triệt tiêu nhau tuyệt đối.
Tuy nhiên, khi đặt vấn đề nghiên cứu tiền hiện đại/ hiện đại/ hậu hiện đại
với tư cách là các hệ hình văn hoá, sự phân định đòi hỏi những tiêu chí khác biệt để
khu biệt ba hệ hình văn học. Sự tranh cãi về tiền hiện đại/ hiện đại/ hậu hiện đại đã và
đang diễn ra cần một tiêu chí - tiêu chí của những tiêu chí để phân định. Theo chúng
tôi, sự phân định các hệ hình không thể dừng lại ở cấp độ thủ pháp mà cần nhìn nhận ở
cấp độ quan niệm, trong đó quan niệm về thực tại - một tiêu chí triết học chính là tiêu
chí cơ sở của sự phân định các hệ hình. Tuy vậy, cái quan niệm triết học về thực tại này
lại chủ yếu do thành tựu của vật lý học kiến tạo nên. Xem xét lịch sử của vật lý học,
người ta có thể thấy nó đã hai lần thay đổi quan niệm về thực tại, tức đã từng, cho đến
nay, tồn tại ba thực tại. Đến lượt nó, các cuộc cách mạng trong vật lý đã tạo nên những
thay đổi trong quan niệm triết học về thực tại các thời đại.
39
Trước hết, vật lý học cổ điển Newton coi thực tại là thế giới khách quan,
tồn tại độc lập với ý thức con người. Sân khấu của vũ trụ Newton, trong đó tất cả
hiện tượng cơ lý xảy ra, là không gian ba chiều của hình học cổ điển Euclid. Đó là
một không gian tuyệt đối, luôn luôn tĩnh tại và không thay đổi: Tự tính của không
gian tuyệt đối là luôn luôn như nhau, bất động, không hề phụ thuộc gì vào sự vật
nằm trong đó . Newton xem vật chất là những hạt nhỏ, cứng chắc và là vật thể
không huỷ, chúng là thành phần cấu tạo mọi vật chất. Vật chất luôn luôn được bảo
toàn. Thế giới quan cơ giới như vậy liên hệ chặt chẽ với tư tưởng quyết định luận.
Bộ máy vũ trụ khổng lồ được xem là có thứ tự trước sau và cái sau được xác định
bởi cái trước một cách chắc chắn. Tất cả điều gì xảy ra đều có một lý do, sẽ gây một
hiệu ứng rõ rệt, tương lai của mỗi một thành phần trong hệ thống đều được quyết
đoán một cách chắc chắn. Nền tảng của thuyết quyết định luận này là sự cách ly cơ
bản giữa cái tôi và thế giới còn lại, sự cách ly này do Descartes đem vào triết học.
Sự cách ly này làm người ta tin rằng, thế giới có thể được mô tả một cách khách
quan, nghĩa là không cần quan tâm gì đến người quan sát và tính khách quan trong
việc mô tả thế giới được xem là cứu cánh của mọi khoa học. Nói như W.Isaacson,
gần cả trăm năm, vũ trụ hoạt động theo bộ máy đồng hồ của Galile và Newton- dựa
trên các qui luật tuyệt đối - đ tạo thành nền tảng tâm lý cho Khai sáng, với niềm
tin vào quy luật nhân quả, trật tự, tính hữu lý và cả nhiệm vụ cần thiết [71, 7].
Sư hình thành của chủ nghĩa hiện đại gắn liền với cuộc cách mạng thực sự
trong khoa học vật lý mà kết quả kéo theo là thế giới quan của các nhà vật lý thay
đổi một cách triệt để và không thể đảo ngược được. Đó là sự hình thành hai lý
thuyết ấn tượng: thứ nhất, là lý thuyết về không gian, thời gian và chuyển động,
được gọi là thuyết tương đối. Thứ hai là thuyết về bản chất của vật chất và về các
lực trên nó - lý thuyết lượng tử.
Trước đây, không gian và thời gian được coi là hai đại lượng khách quan,
không phụ thuộc vào vật chất và vào nhau, nên trở thành sàn diễn cho các vật thể.
Nhưng, với thuyết tương đối, chúng chỉ còn là những thuộc tính của vật chất, phụ
thuộc lẫn nhau và phụ thuộc vào người quan sát. Thế giới như tôi thấy (tên một
cuốn sách của Einstein). Không có thời gian tuyệt đối chung cho mọi người như
lầm tưởng mà chỉ có thời gian của tôi, của bạn. Không có đồng hồ toàn cầu hay vũ
40
trụ đập tíc tắc một nhịp chung cho mọi người [71, 20]. Thời gian và không gian bị
uốn cong. Không gian cong mới là không gian chúng ta sống. Cong mới là ngôn
ngữ của lực hấp dẫn [71, 22]
Với thuyết lượng tử, người ta phải nhận thức lại rằng cả nguyên tử cũng
không còn là một hạt rắn đặc nữa, mà là một “vũ trụ” rỗng, có cấu trúc y như một
hệ mặt trời, trong đó những hạt hạ nguyên tử nhỏ xíu tương tác lẫn nhau và xuất
hiện, tồn tại, biến mất chỉ trong một phần triệu giây. Hơn nữa, “những hạt nhỏ bé
không còn có vị trí và vận tốc xác định nữa, mà thay vào đó là vị trí của chúng
được xác định càng chính xác bao nhiêu thì vận tốc của chúng được xác định càng
kém chính xác bấy nhiêu và ngược lại [26, 34]. Thậm chí, cũng không thể xác
quyết được ánh sáng là sóng hay là hạt bởi còn tùy thuộc vào quan trắc của con
người. Vũ trụ không còn rắn chắc nữa. Thực tại không còn là thế giới khách quan
và vật chất nữa mà là một thế giới vừa khách quan, vừa chủ quan, vừa vật chất vừa
tâm thức, một sự tổng hợp mới những mặt đối lập theo nguyên lý bổ sung của cơ
học lượng tử đề xuất. Những khám phá này bắt buộc con người phải xét lại cái nhìn
cũ về thế giới. Nhà văn bắt đầu cảm thấy rằng bên cạnh, bên dưới, hay phía sau cái
thế giới mình quan sát hàng ngày, còn một thế giới khác "có thực" hơn - một thế
giới chỉ có thể được nhìn thấy bằng con mắt của tri thức khoa học mới.
Cùng thời gian đó, Sigmund Freud thách đố những cái nhìn cũ về tâm lý
con người với một loạt những lý thuyết và phát hiện về thế giới vô thức gây nên
những ảnh hưởng to lớn đối với hoạt động tư tưởng và nghệ thuật của thế kỷ: tâm lý
của con người không phải là một hiện tượng đơn giản có thể được mô tả minh bạch
bằng ngôn ngữ. Điều này khiến con người hiện đại nhận ra cái hiện thực thế giới chỉ
là một hình ảnh , còn con người trước kia đ chỉ tưởng rằng cái hình ảnh về thế
giới là cái hiện thực [26, 214].
Từ những năm 70 của thế kỉ XX, sự phát triển của lý thuyết xác suất lượng
tử, nhất là của trường phái Copenhage, đã đặt lại vấn đề có hoặc không
(nguyên lý loại trừ tiền hiện đại), vừa có vừa không (nguyên lý bổ sung của hiện
đại) thành có thể có, có thể không”. Thuyết bất định của thuyết lượng tử chắc chắn
là một trong số những thay đổi làm sửng sốt trong cách thức chúng ta nhìn thực tế.
Nó tấn công trực giác, hủy diệt quan niệm sai lạc của chúng ta về sự liên thông của
41
các biến cố. Thế giới hoàn toàn ngẫu nhiên thay thế cho thế giới tất định. Vai trò
người tham gia theo quan niệm của vật lý lượng tử đã khẳng định nhận thức về
thế giới hoàn toàn bị qui định bởi tư duy người, các dụng cụ đo đạc và ngôn ngữ để
miêu tả, diễn giải. Như vậy, xét cho cùng, thực tại có được là nhờ vào phương tiện
để biểu đạt thực tại, đó là ngôn ngữ. Đó chính là quan niệm hậu hiện đại về thực tại.
Bên cạnh đó, các nhà tư tưởng bắt đầu nhìn thấy thêm một điều khác, đó là:
để kể historia (chuyện/sử), con người dùng ngôn ngữ; và do đó, chính ngôn ngữ là
cơ sở của huyền thoại. Cái thế giới mà con người nhìn thấy trước mắt không chỉ là
một huyền thoại, mà là một huyền thoại do ngôn ngữ dựng lên. Nói cho cùng, nó
chỉ là một hình ảnh được thêu dệt bởi một hệ thống ngữ nghĩa nhất định trong một
khung quy chiếu nhất định. Martin Heidegger viết: “Những thành ngữ hình ảnh
thế giới của thời hiện đại và hình ảnh hiện đại về thế giới … nói đến điều gì đó
chưa từng có trước đây [...] Hình ảnh thế giới không hề thay đổi từ hình ảnh thời
tiền trung cổ thành hình ảnh thời hiện đại, nhưng chính sự kiện rằng thế giới biến
thành hình ảnh mới là điều làm bật lên tính thể của thời hiện đại . Thực tại, không
hiện lên như nó là, mà qua và bằng ngôn ngữ. Nhưng không phải thứ ngôn ngữ là công
cụ của con người mà ngược lại, là thứ ngôn ngữ có con người làm công cụ. Bởi từ khi
sinh ra thì con người đã chỉ là kẻ tham dự vào một ngôn ngữ không do mình tạo ra và
bắt mình phải tuân phục. Vì thế, Heidegger đã làm một cuộc cách mạng triết học ngôn
ngữ, mở đường cho triết học hiện đại, nhất là hậu hiện đại, lấy ngôn ngữ làm chủ thể.
Do đó, điểm gặp nhau của các nhà triết học, vật lý học và phê bình văn học chính là ở
chỗ tất cả đều coi ngôn ngữ như một sự biểu đạt thực tại và lấy diễn ngôn làm đối
tượng nghiên cứu. Sự biểu đạt thực tại trở thành chính thực tại. Với giải trình ngôn
ngữ của Foucault hay trò chơi ngôn ngữ của Wittgenstein, chủ nghĩa hậu hiện đại
đã bước hẳn sang một ngã rẽ khác trong quá trình quan sát và tạo nghĩa, một quá trình
hoàn toàn loại trừ khái niệm cái biểu đạt và cái được biểu đạt của chủ nghĩa hiện đại để
tập trung xây dựng một cách diễn đạt ý nghĩa mới về thế giới và vũ trụ.
Cùng với hành trình cách mạng của khoa học vật lý, sự chuyển biến ở lĩnh
vực triết học, cũng phải nói đến những tác động khủng khiếp của bối cảnh lịch sử xã
hội. Những cú đòn của thời đại như hai cuộc chiến tranh thế giới, hai quả bom Mỹ
ném xuống Nhật Bản, sự sụp đổ của bức tường Berlin và sự sụp đổ của Đông Âu…
42
tác động rất lớn đến nhận thức của con người. Niềm tin về một thực tại toàn vẹn và
tốt đẹp nát vụn. Trong hình dung về sự đổ vỡ hoàn toàn niềm tin về nhận thức, trào
lưu hậu hiện đại trong văn học chủ trương chống lại những cố gắng khôi phục trật
tự mà các nhà hiện đại bằng cách này hay cách khác đã làm. Họ đã tạo lập một cảm
quan mới về thế giới: cảm quan hậu hiện đại (postmodern sensibility) như một kiểu
cảm nhận thế giới là một sự hỗn độn đặc trưng cho tư duy hậu hiện đại.
2.2.2. Ba phạm trù mĩ học trung tâm - ba hệ hình mỹ học
Mỹ học là bộ môn khoa học có tính lý thuyết về sự nhận thức và thưởng
thức cái đẹp trong thiên nhiên, nghệ thuật và xã hội. Mĩ học nghiên cứu mối quan
hệ thẩm mĩ của con người đối với hiện thực. Do đó, khi quan niệm về thực tại thay
đổi hệ hình, nó cũng song hành cùng sự thay đổi hệ hình trong mĩ học.
M học tiền hiện đại chú yếu dựa trên cái đẹp. Với tư cách là một phạm trù
mỹ học chủ đạo, cái đẹp ảnh hưởng đến các phạm trù khác như cái bi, cái hài, cái
anh hùng, cái cao cả, khiến chúng ít nhiều đều mang thuộc tính của cái đẹp.
Cái đẹp trước hết có nguồn gốc từ cosmos trong quan niệm vũ trụ học Hy
Lạp. Bấy giờ, cái đẹp là sự cân đối, trật tự, hài hòa của các bộ phận trong toàn thể.
Thời Phục Hưng, thi ca có sứ mệnh phải Đẹp nhưng cái đẹp đó gắn liền với Chân
và Thiện như tinh thần câu thơ của Boileau: Không gì đẹp bằng chân lý và chỉ
chân lý mới đáng yêu (Rien n’est beau que le vrai, le vrai seul est aimable). Đến
thời Khai sáng, bản chất cái đẹp lại được các nhà triết học bàn luận với ba quan
điểm: duy lý, duy cảm và duy nghiệm trong đó duy lý là chủ đạo. Nhưng điều đáng
nói là cả ba lập trường này đều quy cái đẹp vào những hiện tượng khác nó về bản
chất, tức đặt nó ở địa vị tùy thuộc vào triết học và đạo đức học. Đến Kant, với bộ
ba tác phẩm Phê phán lý tính thuần túy, Phê phán lý tính thực hành và Phê phán
năng lực phán đoán đã cho rằng Triết học, Đạo đức học và Mỹ học là ba khoa học
khác nhau, độc lập, có tính tự trị và, do đó, có giá trị tự thân. Công lao của Kant là
đã khẳng định thế đứng độc lập, có quy luật riêng của cái đẹp. Bước ngoặt cơ bản là
Kant đặt vai trò chủ động của chủ thể thẩm mỹ vào trung tâm phản tư. Không phải
khảo sát cái đẹp mà là khảo sát sự phán đoán cái đẹp là đối tượng của mỹ học. Khác
với quan điểm bản thể học từng thống trị (và cho đến bây giờ vẫn còn ám ảnh) tư
duy mỹ học, luận đề nổi tiếng của ông là: Không có khoa học về cái đẹp, chỉ có sự
43
phán đoán về cái đẹp mà thôi. Cái đẹp không thể tách rời khỏi sự phán đoán, không
nằm sẵn trong đối tượng, không phải là thuộc tính của đối tượng mà được cấu thành
trong và bởi sự hoạt động của chủ thể
Đến Hegel, do phát triển của khoa học, mỹ học duy lý được phát triển lên
đến cực điểm, cái đẹp được coi là kết quả của tính hoàn hảo của sự vật, nghĩa là sự
vật đã có sẵn trong bản thân nó tính hợp mục đích khách quan và nội tại. Như vậy,
với quan niệm này của Hegel, thì trong cái đẹp không hề có vai trò của chủ thể hoặc
nói chính xác hơn, chủ thể chỉ đóng vai trò người đứng ngoài nhận thức và phản ánh
một cách thụ động. Mỹ học, vì thế lại lui về địa vị dưới khoa học và triết học. Như
vậy, cái đẹp duy lý này ít nhiều đã thống trị mỹ học phương tây từ thời cổ đại đến
hiện đại. Nó chi phối nghệ thuật trung đại, chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn,
đặc biệt là chủ nghĩa hiện thực.
Khi chuyển từ hệ hình tiền hiện đại sang hệ hình hiện đại, người ta rời bỏ
mỹ học quy phạm để chuyển sang mỹ học thiên tài đề cao tài năng thiên bẩm, đề
cao tính độc sáng của tác phẩm. Cái đẹp mất đi tính chất chủ đạo của nó và lùi dần
về hậu trường, nhường chỗ cho một phạm trù m học mới lên ngôi là cái cao cả
hoặc là cái siêu tuyệt.
Cái cao cả ra đời cùng với cái đẹp nhưng tồn tại như một cấp độ cao hơn
của cái đẹp, như cái vĩ đại, cái cao thượng. Về sau, cái cao cả chuyển dần và trở
thành một phạm trù đối lập với cái đẹp. Nếu mỹ học của cái đẹp dựa trên cảm giác
hân hoan chung, mang tính cộng đồng, cộng cảm, thì mỹ học của cái cao cả/siêu
tuyệt xa lạ với thị hiếu đám đông, bị đám đông coi là kỳ quái, dị dạng. Bởi, cái cao
cả/siêu tuyệt là cái tuyệt đối, cái toàn bộ, cái chỉ có thể suy tưởng được bằng ý
niệm, nhưng lại không thể nắm bắt được bằng ý niệm. Nó tương ứng với quan niệm
về thực tại bề sâu của tư duy hiện đại. Theo Lyotard, khái niệm cái đẹp dựa trên cái
gì có thể nắm bắt được, diễn tả được bằng khái niệm và trải nghiệm được trong sự
nhất trí, hài hòa về sở thích và thẩm mỹ. Ngược lại, cái cao cả nhắm đến cái gì phi -
thẩm mỹ, cái gì không - thể - diễn - tả - được. Vì thế, nghệ thuật hiện đại là nền
nghệ thuật dựa vào tính vô - hình của đối tượng hay việc tránh dùng mọi hình tượng
hay mô phỏng để nỗ lực cho thấy có một cái gì không - thể - diễn - tả được .
Chính cái siêu tuyệt này là nguyên nhân/ hậu quả của nghệ thuật hiện đại.
44
Giữa thế kỉ XX, các nhà hậu hiện đại lập luận thực tại biểu đạt tồn tại trong
biểu đạt về thực tại, cho nên, dù có đi vào từng lĩnh vực khác nhau đều không tránh
được ngôn ngữ và trò chơi ngôn ngữ. Ở trò chơi, nhất là trò chơi ngôn ngữ, tất cả
đều là quy ước. Các quy tắc không có trước trò chơi và tự giải thể sau trò chơi.
Nghĩa là trò chơi không có những quy tắc chung, phổ biến và phổ quát. Chỉ có các
quy tắc với từng trường hợp/trò chơi cụ thể và, các quy tắc đó, cũng chỉ có giá trị
khi quy tắc chơi ở đây mang tính trường hợp. Trường hợp này sánh với trường hợp
khác. Chính tính nội trường hợp, hay “nội trò” này làm biến đổi nội hàm cái Khác
cho phù hợp với điều kiện hậu hiện đại [92, 79].
Vì tính chất của xã hội trong thời kỳ hiện đại luôn nhấn mạnh đến sự gia
tăng ngày một cao hơn trong mức độ ổn định và trật tự xã hội, nên điểm đặc thù
nhất trong xã hội hiện đại là thường xuyên canh giữ những gì gọi là mất trật tự -
những nguy cơ phá vỡ các trật tự đã được khoa học và lý tính xây dựng. Vô hình
trung, trong xã hội hiện đại, đặc biệt là xã hội hiện đại tây phương, tính chất ổn định
và trật tự phải được đặt ở vị trí trấn áp trong cặp đối lập nhị phân Trật Tự/Hỗn
Loạn. Muốn vậy, mặt đối lập của Sự Đúng/Sự Thật/Trật Tự/Ổn Định phải được tạo
ra một cách thường trực. Theo ngôn ngữ của Jacques Derrida, phần đối lập của trật
tự, của đúng đắn, của chân lý, v.v… được xếp chung trong một phạm trù Khác (the
Others). Cái Others dùng để chỉ mọi thứ không hợp lý, thiếu văn minh, không có
nguồn gốc Âu Châu, không phải da trắng, không phải đàn ông, đồng tính luyến ái,
văn hoá của các dân tộc thiểu số… đều là Khác, Lạ, cần phải loại trừ. Nhân danh
cho sự loại trừ những cái Khác này là sự khai phóng, là cách mạng, để tạo nên một
trật tự và ổn định mới, hợp lý hơn, tốt đẹp hơn. Và trên con đường thi hành sứ mệnh
duy trì trật tự và gieo rắc chủ nghĩa khai phóng, nền văn minh hiện đại cũng sáng
tạo nên một hệ thống xã hội pháp lý toàn trị nhằm che đậy cho sự đô hộ và trấn áp:
Tính chất Đế Quốc và Thực Dân.
Cái khác hậu hiện đại không phải là sự đối đầu theo kiểu đối lập với B
như trong tư duy tiền hiện đại. Nó cũng không phải là quan hệ trung tâm/ ngoại vi
như trong ở cái khác thực dân. Vẫn là cái khác theo quan hệ đối lập nhưng trong cái
khác thực dân, một trong hai sự vật ấy đã bành trướng thành một trung tâm quyền
lực khiến sự vật còn lại bị biến thành ngoại vi và tuân phục hệ qui chiếu của nó.
45
Nếu trung tâm là A thì B là ngoại vi vắng mặt, không hiện hữu, được số phận sinh
ra là để đồng nhất vào A, nhằm tạo nên sự thống nhất, duy nhất, đại tự sự. Hơn nữa,
ở chủ nghĩa hiện đại, mọi sự vật đều mang tính tự thân, tự đầy đủ, thuần nhất và
nhất phiến. Cái khác, bởi thế mới nảy sinh trong sự đối lập giữa hai sự vật với nhau.
Còn ở chủ nghĩa hậu hiện đại, sự vật nào cũng là đang trong quá trình trở thành vì
thế cũng là đa thể. Trong bản thân mỗi sự vật có sự đối lập giữa các bộ phận/ thể/
sức mạnh của nó. Cái Khác hậu hiện đại, vì thế, là cái Khác trong/ của cùng một sự
vật. Cái Khác của sự vật với chính bản thân nó: A khác với chính A.
Như vậy, bước sang hậu hiện đại, cái Khác đã thay đổi hệ hình. Dưới ảnh
hưởng của toàn cầu hóa, giải lãnh thổ hóa, thế giới hiện đại trở nên phẳng hơn, ranh
giới giữa trung tâm và ngoại vi mở hơn, nên cái Khác như là cái thù địch, cái thấp
kém, cái vắng mặt không còn đất tồn tại. Trong bối cảnh tất cả mọi thứ đều là tương
đối, là đang trở thành, là đa thể, là bề ngoài, là nhất thời, là phi bản chất như vậy thì
cái giúp con người nhận diện được thực tại, cái hút con người đến với thực tại, nhất
là một thực tại mang tính kiến tạo không phải là cái đúng sai, hơn kém, mà là cái
Khác. Nếu như trước đây, trong chủ ngh a hiện đại, cái khác được khái niệm hóa,
trở thành cái - Khác- phi- khái- niệm. Bởi thế, cái khác trước đây không có vai trò
gì trong hoạt động kiến tạo trật tự, mà chỉ là đối tượng loại trừ của sự thiết lập trật
tự đó, theo các quy tắc của tư duy thống/ đồng nhất, thì cái Khác ngày nay trở
thành nhân tố quan trọng của sự diễn giải đa dạng cho một thế giới hỗn độn, bất
định, là sự đảm bảo duy nhất cho sự tự do tinh thần, là vẻ đẹp và khoái lạc của đời
sống. Chính trò chơi của cái khác tạo nên m học hậu hiện đại [89, 52].
2.2.3. Ba mô hình kiến tạo - ba hệ hình tiểu thuyết
Khi đi vào văn học, ba hệ hình triết học và mỹ học trên đã được cụ thể hóa
ở mỗi thể loại văn học. Bởi lẽ, một mặt, văn học với tư cách là nghệ thuật ngôn từ
thì ngôn ngữ ở mỗi thể loại có đặc trưng khác nhau; mặt khác, thể loại là sự ngưng
kết các quan niệm thẩm mĩ, tồn tại bền vững trong thời gian. Cho nên dù hiện nay
có sự đan xen thể loại, hình thức của nó ít nhiều xộc xệch, ranh giới của nó ít nhiều
bị mờ nhòe, nhưng hạt nhân của nó thì vẫn được bảo toàn. Nếu cốt lõi của thơ là
ngôn ngữ, cốt lõi của phê bình văn học là tiếp cận tác phẩm thì ở tiểu thuyết là vấn
46
đề kể/ viết truyện. Ba hệ hình của tiểu thuyết là: viết về cuộc phiêu lưu, phiêu lưu
của cái viết và viết về cái viết.
Khi nói tiểu thuyết tiền hiện đại viết về cuộc phiêu lưu có ngh a là tiểu
thuyết tiền hiện đại nhất thiết phải dựa trên một cốt truyện. Với quan niệm nghệ
thuật là sự mô phỏng , Aristote và các nhà cổ điển cho rằng cốt truyện là tiến trình
sự kiện xảy ra theo quy tắc nhân quả dẫn đến một kết cục. Chính bởi vậy, mỗi cốt
truyện thường được xem xét chiều vận động từ hình thành đến phát triển và kết
thúc. Nhân vật và hệ thống các sự kiện gắn liền với nhân vật được sinh ra theo quan
niệm nhân quả nhằm đẩy biến cố tăng dần lên cao trào và cuối cùng đi đến kết thúc,
trả lại cho đời sống một trật tự mới.
Khi tiểu thuyết tâm lý ra đời, câu chuyện không còn được kể theo trình tự
thời gian mà theo quy luật tâm lý. Nhưng, về cơ bản, câu chuyện vẫn rành mạch,
nhân vật có tính cách rõ ràng, ngôn ngữ trong sáng. Bảo đảm chắc chắn nhất của
trật tự xã hội có lẽ chính là tính liên kết về mặt tâm lí, và nhà tiểu thuyết thế kỉ XIX,
trong khi lựa chọn những nhân vật cấu trúc theo tâm lí, không chỉ đơn giản đem tới
cho bạn đọc niềm thỏa mãn trí tuệ vì được chiêm ngưỡng những hình thức có tổ
chức, anh ta còn lựa chọn cái dễ đọc, ổn định với con người. [18, 29]. Tiểu thuyết
tiền hiện đại vẫn là “kể nội dung” chưa phải là “viết nội dung”. Nghĩa là điều nhà
văn quan tâm nhất chính là làm sao cho độc giả hiểu đúng. Thông tin không bị thất
thoát, sai lạc là điều nhà văn quan tâm trước hết. Trong cách tự sự kể lại nội
dung , nội dung hầu như là có sẵn, đúng hơn khuôn khổ của nội dung là có sẵn và
cái nội dung sẽ tạo ra theo khuôn khổ có sẵn đó cũng hầu như là có sẵn, khuôn khổ
có sẵn…, những mẫu người, cách ứng xử và kết cục có sẵn…, thậm chí cả từ ngữ
có sẵn [31, 143]. Như vậy, nội dung này tuy tương đối ổn định trước khi viết,
người viết đặt bút viết với tư cách kể lại nội dung ấy và công việc viết là tìm tử,
tìm câu để biểu đạt nội dung. Nó loại bỏ yếu tố ngẫu hứng, sự xuất thần khởi
phát trong quá trình hình thành văn bản.
Tiểu thuyết hiện đại là phiêu lưu của cái viết. Cái viết lúc này là nhân vật
chính. Cái nhìn thế giới này, ở nghệ sĩ, thể hiện bằng viết. Nếu như ở mô hình tiểu
thuyết tiền hiện đại, toàn bộ quỹ đạo của tác phẩm đều quay quanh trục là cốt truyện
khiến cho tất cả những gì là lạc lõng, là dư thừa đối với tự sự đều bị bật khỏi đường
47
bay, thì ở hệ hình tiểu thuyết này, cốt truyện theo nghĩa truyền thống - “xương
sống” cho tự sự lại bị mờ hóa, bị mất hết sức mạnh. Hệ quả là, cấu trúc tác phẩm
không còn là tổng thể ngoại diện của các phần câu chuyện được phát triển theo trình
tự, mà là một sơ đồ nội tại rối ren của những mảng chất liệu có quan hệ phức tạp. Khi
đó, trung tâm lớn nhất của tự sự truyền thống là tác giả đã phải từ bỏ vị trí trung tâm,
không còn điều phối mọi ngóc ngách truyện kể, cũng không còn chỉ đường dẫn lối cho
nhân vật và cho người đọc đi theo đúng những dữ liệu của mình.
Tiểu thuyết hiện đại với sự đổi mới cực đoan, cái viết đã trở thành khó hiểu,
mang tính đặc tuyển, tính khả tác, gây ra một bỡ ngỡ ban đầu nhưng nhanh chóng
được chấp nhận. Tiểu thuyết hậu hiện đại với mô hình viết về cái viết thì về mặt tư
tưởng hình như lại khó chấp nhận hơn. Viết về cái viết vừa như một hành vi tự nhận
thức của viết, xa hơn của người viết về cái viết của mình. Tiểu thuyết hậu hiện đại
có nhiều thủ pháp để viết về cái viết. Trước hết, tác giả hay một nhân vật nào đó
trong cách suy nghĩ nhận xét về cái viết một cách trực tiếp. Hoặc có những cách
gián tiếp như trích dẫn một viết/ văn bản khác, giễu nhại hay tự giễu nhại… Các tác
phẩm này khẳng định hậu hiện đại trong văn chương không chỉ thể hiện ở chỗ nhà
văn tái hiện sự hỗn loạn của đời sống, mà quan trọng hơn, chính là một nguyên tắc
nhìn đời sống của nhà văn: đời sống như là một sự hỗn độn, không còn tiêu chuẩn
giá trị và định hướng có ý nghĩa nào. Nhà văn xem bản chất thế giới là hỗn mang,
anh ta chấp nhận sự hỗn độn như là một sự kiện… Và theo đây, sự dịch chuyển về
tâm thức hậu hiện đại trong văn chương của ta còn thể hiện ở chỗ: trước cái hỗn
loạn, đổ vỡ, tai biến của hiện thực, thay vì khóc than , đề kháng , hay nỗ lực
chữa trị , nhà văn lại xâm nhập vào nó bằng một tình cảm mật thiết , thậm chí,
anh ta còn “chơi cùng cái hỗn loạn
Hậu hiện đại nếu xét ở cấp độ thủ pháp, có thể đã xuất hiện ở các tiểu thuyết
hiện đại. Nhưng đằng sau những thủ pháp dễ bắt chước, là cái nhìn thế giới và cái nhìn
nghệ thuật không thể bắt chước được, cái làm ra tiểu thuyết hậu hiện đại. Bởi thế, một
tiểu thuyết hậu hiện đại đích thực khác với tiểu thuyết có yếu tố hậu hiện đại ở chỗ nhà
văn phải có quan niệm thực tại thực sự hậu hiện đại.
48
Tiểu kết chương 2
Lý thuyết hệ hình mà Thomas Kuhn đề xuất là lý thuyết công cụ rất hữu ích,
không chỉ giúp người sử dụng nhận diện đặc điểm của một thời kì phát triển, mà
quan trọng hơn còn nhìn nhận chúng trong một diễn trình vận động, phát triển. Thay
đổi cách nhìn, quan niệm của chúng ta về sự phát triển, Cấu trúc của các cuộc cách
mạng khoa học là một trong những cuốn sách học thuật được trích dẫn nhiều nhất
mọi thời đại và xứng đáng được đánh giá là một trong những cuốn sách có ảnh
hưởng nhất của thế kỷ XX. Thực tiễn áp dụng lý thuyết hệ hình vào nghiên cứu các
lĩnh vực đời sống, nhất là trong văn học đã chứng tỏ tính khả thi của một lý thuyết
hữu dụng dành cho các nhà nghiên cứu.
Là lý thuyết về sự phát triển, vận động, lý thuyết hệ hình đặc biệt tương
thích với những giai đoạn văn học có bước chuyển mình mạnh mẽ như văn học thời
đổi mới sau 1986. Nhìn nhận các bước chuyển hệ hình tiểu thuyết sau 1986 từ sự
dịch chuyển ba hệ hình triết học, ba hệ hình mỹ học đến ba mô hình tiểu thuyết
chính là cách nhìn nhận tiểu thuyết giai đoạn này trong một diễn trình vận động,
phát triển với logic nội tại từ triết học đến mỹ học đến văn học. Cái nhìn hệ hình, vì
vậy, có thể là một hướng đi giúp người nghiên cứu có cái nhìn vừa sâu, vừa toàn
diện trước sự vận động của tiểu thuyết đến 1986, nhất là giai đoạn từ sau 1986. Có
thể thấy, nhìn nhận sự cách tân của văn học Việt Nam từ lý thuyết hệ hình là một
hướng đi khoa học và triển vọng, hứa hẹn khai phá nhiều giá trị.
Những thành tựu và triển vọng của hướng nghiên cứu này chính là những gợi
mở và là nền tảng để nhìn nhận tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 từ lý thuyết hệ hình.
49
Chương 3
SỰ VẬN ĐỘNG CỦA QUAN NIỆM VỀ THỰC TẠI TRONG TIỂU THUYẾT
VIỆT NAM SAU 1986
Tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đã thực hiện một hành trình dài đi
từ tiền hiện đại, qua hiện đại và với tới hậu hiện đại để hòa nhịp với sự vận động
của văn học thế giới. Các hệ hình này trước hết hiện diện như là sự định tính một
trạng thái tinh thần (metalite‟) nhất định, một phương thức tiếp nhận và cảm thụ thế
giới và đánh giá cả những khả năng nhận thức của con người lẫn vị trí và vai trò của
nó trong thế giới xung quanh. Sự phân định các hệ hình cần đến một tiêu chí gốc -
tiêu chí của mọi tiêu chí: quan niệm về thực tại và con người. Đổi mới của tiểu
thuyết sau 1986 từ lý thuyết hệ hình, trước hết phải nhìn nhận ở sự vận động này.
3.1. Sự vận động của quan niệm về thực tại
Sự phân biệt các hệ hình tiền hiện đại/hiện đại/hậu hiện đại trước hết là ở
quan niệm về thực tại. Tính hiện thực dù đậm hay nhạt, bao giờ cũng là một thuộc
tính cơ bản của văn chương, phản ánh mối liên hệ giữa tác phẩm và cuộc đời.
Nhưng quan niệm về thực tại văn chương thì luôn vận động. Nhìn vào ba hệ hình
văn học, ta thấy có sự dịch chuyển từ quan niệm phản ánh thực tại của hệ hình tiền
hiện đại đến kiến tạo thực tại của hệ hình hiện đại và xa hơn là quan niệm thực tại
phân mảnh đặc trưng cho văn chương hậu hiện đại.
3.1.1. Từ phản ánh hiện thực đến kiến tạo thực tại
3.1.1.1. Tiểu thuyết trước 1986 với quan niệm phản ánh hiện thực
Giai đoạn 1930-1945, với khả năng phân tích tâm lý nhân vật, cái nhìn thế
giới theo nguyên tắc cá nhân hóa và sự theo đuổi văn phong phát huy được các sở
trường tiếng Việt, các câu chuyện kể về phiêu lưu của Tự Lực Văn Đoàn mang tính
đại diện cho hệ hình tiểu thuyết Việt Nam tiền hiện đại. Ở một cực khác, những
sáng tác của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng đã đẩy kĩ thuật viết tiền hiện đại lên một
mức khác, cũng đưa các ông trở thành những đại diện hệ hình. Dĩ nhiên, nhìn từ sự
phân tích có tình hệ hình, hiện thực hay lãng mạn chỉ là sự đảo ngược của cùng một
nền tảng mĩ học khi vẫn lấy phản ảnh hiện thực làm mô hình sáng tác. Nhưng là
những kịch mút của hệ hình tiểu thuyết tiền hiện đại, với sự xen ghép của nhiều yếu
50
tố hiện đại, chẳng hạn, sự đi sâu phân tích tâm lý chuyển dần hiện thực bên ngoài
vào hiện thực bên trong, sáng tác của họ có ý nghĩa chuẩn bị những điều kiện cho
sự dịch chuyển sang hệ hình hiện đại.
Tuy nhiên, ở miền Bắc điều đó đã không xảy ra. Tiểu thuyết miền Bắc Việt
Nam 1945-1975 không dịch chuyển về hệ hình hiện đại mà vẫn giữ nguyên hệ hình
tiền hiện đại. Do điều kiện đất nước có chiến tranh, mọi ý đồ cách tân đưa văn học
vào quĩ đạo hiện đại chủ nghĩa đều bị ngáng trở. Có thể lấy các tiểu thuyết của Trần
Dần như Đêm núm sen (viết 1961, in 2017), Những ng tư và những cột đèn (viết
1966, in 2011) làm ví dụ. Đó những bản-thảo-nằm, những chiến lược cách tân quốc
ngữ không chịu nhiễm xạ mọi kiểu văn chương đương thời, vì thế đã đi đúng con
đường cần đi của tiểu thuyết nhưng cũng vì ngược đường, ngược gió nên mang
những thân phận rất riêng. Với các sự kiện như Cuộc tranh luận văn nghệ Việt Bắc
1949 hay chống Nhân Văn Giai Phẩm, những động hướng về với hiện đại chủ nghĩa
có hai lựa chọn: hoặc phải trở lại với tiền hiện đại như trường hợp Nguyễn Đình Thi
sửa thơ không vần mang tính hiện đại thành thơ có vần tiền hiện đại, hoặc phải trở
thành những thủ l nh bóng tối như Trần Dần. Chính điều đó đã khiến các dòng
bắt đầu qui về một hướng (Phong Lê). Văn chương nói chung, tiểu thuyết miền
Bắc nói riêng từ sau 1945 đã từ bỏ con đường đến với hiện đại để hiện diện trong
phạm trù hiện thực xã hội chủ nghĩa với những nguyên tắc sáng tác đặc thù.
Văn học giai đoạn này tuân thủ nguyên tắc về nội dung phản ánh: phản ánh
cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước với mục đích cổ vũ chiến đấu, ngợi ca cuộc kháng
chiến thần kỳ của dân tộc. Nghệ thuật tự sự hiện thực chủ nghĩa xã hội quan tâm
trước hết kể về cái gì, và cái gì ấy phải phản ánh trung thực hiện thực, một hiện thực
có thể quan sát bằng mắt thường, nghĩa là văn học phải “bắt chước” cuộc sống. Hòn
Đất, Gia đình má Bảy, Mẫn và tôi, Áo trắng, Rừng U Minh, Dấu chân người lính,
Miền cháy... đều lấy các sự kiện lịch sử, các chiến công cách mạng, các vấn đề lớn
trong đời sống dân tộc làm đối tượng phản ánh.
Về tính chất của sự phản ánh, tiểu thuyết giai đoạn 45-75 đề cao nguyên
tắc phán ánh gương . Nguyên tắc phản ánh hiện thực bị dung tục hóa thành phản
ánh như thật. Xem thực tại biểu kiến bên ngoài là trung tâm của mọi tác phẩm, xem
sự phản ánh chân thực khách quan như nhiệm vụ tất yếu của văn học chính là quan
51
niệm thống ngự giai đoạn này. Có thể thấy điều đó khi lật lại một số sách lý luận văn
học giai đoạn nửa sau thế kỷ XX: Trong Luyện thêm chất thép cho ngòi bút [65, 98]:
Chủ ngh a hiện thực xã hội chủ ngh a đề ra nguyên tắc văn học phản ánh hiện thực
trong sự phát triển lịch sử của nó. Tính lịch sử cụ thể của hình thức đời sống không thể
tách ra ngoài khuôn khổ môi trường dân tộc, ra ngoài lịch sử phát triển của dân tộc ;
trong Lý luận văn học do Nguyễn Lương Ngọc chủ biên [49, 286]: Mặc dù vậy, văn
học và sử học vẫn gần gũi nhau, gặp nhau trong việc phát hiện, trình bày chân lý của
lịch sử cũng như bộ mặt nói chung của lịch sử xã hội và con người … Phản ánh hiện
thực bị chi phối bởi lập trường ta - địch, một lập trường điển hình của tư duy loại
trừ tiền hiện đại. Bên cạnh đó, cái nhìn về cuộc sống - tươi sáng và tin tưởng đã
khiến công việc của nhà văn không phải là cho hiện thực có mặt một cách tự do trong
tác phẩm, mà lựa chọn các chi tiết và sắp xếp nó để chỉ ra tương lai đẹp đẽ đang tới.
Bản chất, đó là biểu hiện của tâm thế lãng mạn. Vì thế, văn xuôi hiện thực xã hội chủ
nghĩa, sau cùng, lại chính là một thứ siêu lãng mạn. Tiểu hệ hình văn chương này
không có tính chất đại diện cho hệ hình văn xuôi tiền hiện đại viết về sự phiêu lưu, mà
chỉ có tính chất nối dài hệ thống thẩm mĩ văn học lãng mạn đã được định dạng và đạt
đến những đỉnh cao trước đó.
Việc nhấn mạnh quá mức bản chất phản ánh và nhiệm vụ mô tả hiện thực
của văn học là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng "suy tư tưởng" của
khá nhiều tác phẩm văn học 45-75 trong đó có tiểu thuyết. "Suy tư tưởng" ở đây
không phải là sai lầm về quan điểm, lập trường mà về chất triết học, chiều sâu của
sự khái quát, khả năng vươn tới những tư tưởng có tầm nhân loại cũng như cách lý
giải hiện thực độc đáo, bộc lộ bản lĩnh và cách nhìn riêng của nhà văn về thế giới.
Điều đó đã làm nghèo nàn hóa văn học một thời. Hệ hình này không chỉ có tính độc
tôn, mà cả tính khép kín, không chấp nhận giá trị nào ngoài giá trị hiện thực được
coi là cao nhất, không chấp nhận phương thức nghệ thuật nào khác lạ, nhất là nghệ
thuật của các trào lưu chủ nghĩa tiền phong.
Để có cái nhìn toàn cảnh, cũng cần nhắc đến bộ phận tiểu thuyết Miền Nam
giai đoạn 1945-1975. Ở miền Nam, bên kia dòng sông bến Hải, kể từ sau hiệp định
Genève, hình thành một quốc gia riêng với một tiền đề tư tưởng vã xã hội khác hẳn.
Nếu trên lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở phía Bắc vĩ tuyến 17 đời sống tinh
52
thần chịu sự chi phối của ý thức hệ Marx-Lênin và văn hóa xã hội chủ nghĩa, trên
lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa ở phía Nam, các luồng tư tưởng đến từ phương Tây
tranh chấp nhau ảnh hưởng và gây ra những tác động đa chiều và đa dạng đến đời
sống người dân. Nếu Việt Nam dân chủ cộng hoà ở miền Bắc đặt dưới sự lãnh đạo
duy nhất của Đảng Cộng sản, hai nền Đệ nhất và Đệ nhị cộng hoà theo chế độ đa
đảng dẫn đến hệ quả tất yếu là xã hội được/ bị phân mảnh ra nhiều đối cực, một
nghĩa nào đó là tự do được biểu đạt. Xã hội tiêu dùng được biết đến với sự giàu có
không bền vững của đồng đô la viện trợ thời chiến nhưng dẫu sao trong 20 năm
bảo tồn những gì mà miền Bắc không thể giữ được trong thời kỳ toàn trị: ngoài
việc lưu trữ những tác giả Nhân Văn Giai Phẩm trong ký ức nửa phần dân tộc,
miền Nam bảo tồn và phát huy văn nghệ tiền chiến. Tất cả các tác giả và tác
phẩm tiền chiến, đều được phổ biến rộng rãi tại miền Nam. Từ nhạc Văn Cao,
Đoàn Chuẩn đến văn Nguyễn Tuân, Nam Cao, thơ Xuân Diệu, Huy Cận. Bộ Nhà
văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan và cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh
được giảng dạy trong chương trình trung học. Khi văn nghệ sĩ ở miền Bắc phải
chối bỏ các sáng tác tiền chiến lãng mạn của mình, thì ở trong Nam, những tác
phẩm ấy vẫn được phổ biến trong lòng người Việt. Chính nhờ sự bảo tồn nền
văn nghệ tiền chiến mà miền Nam đã có cơ sở để phát triển văn học trong thời
kỳ chia đôi đất nước.
Mặt khác, theo thống kê của Võ Phiến trong cuốn Văn học miền Nam,
riêng ở Sài Gòn thời kỳ này đã có cả ngàn nhà in, 150 nhà xuất bản. Đời sống
văn học phát triển phong phú, đa dạng, đáp ứng đủ mọi cung bậc cảm thụ,
thưởng thức văn chương của mọi tầng lớp độc giả. Đặc biệt, văn học Mỹ, Pháp,
nh, Nga… đều được chú trọng giới thiệu. Thị phần sách dịch theo Võ Phiến đã
có một thời vào năm 1970 chiếm đến 60% và đến năm 1972 đã lên đến 80% toàn
bộ đầu sách xuất bản ở miền Nam. Theo kết quả điều tra tiến hành vào tháng
7/1976, số sách dịch của miền Nam trong 20 năm bao gồm: Đức 57 đầu sách, Ý
58, Nhật 71, Anh 97, Mỹ 273, Pháp 499, Đài Loan và Hương Cảng 358, Nga
120, còn lại những nước khác 381 [118, 2504]. Đội ngũ dịch thuật cũng rất
này, bầu không khí dân chủ, nhất là trong ý hệ và ý chí sáng tạo đã giúp miền Nam
53
đông đảo. Những tác giả được dịch nhiều nhất là J.P. Sartre, A. Camus, F.
Sagan, P. Buck, St Exupery, E. Hemingway, Hermann Hesse, Kim Dung, Quỳnh
Giao… Các dịch giả quen thuộc với bạn đọc trên các báo và tạp chí là Cô Liêu,
Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Châu, Vũ Anh Tuấn, Vi Huyền Đắc, Quốc Dũng, Vũ
Ký, Đặng Trần Huân, Phong Nh , Hà Hữu Nguyên, Nguyễn Minh Hoàng, Trần
Phong, Lương Ngọc, Nguyễn Văn Trung, Trần Hương Tử (bút danh của Trần
Thái Đỉnh)… Với sách dịch, những dịch giả quen thuộc là: Bùi Giáng, Phùng
Thăng, Trần Phong Giao, Hoàng Thiện Nguyễn, Mai Vi Phúc, Phạm Bích Thủy,
Trần Thiện Đạo, Võ Văn Dung, Lê Thanh Hoàng, Thụ Nhân, Nguyễn Hữu Hiệu,
Bửu Nghi, Từ An Tùng, Từ Huệ, Trần Công Tiến, Phạm Công Thiện, Trần Thái
Đỉnh v.v…” [120]. Các văn nhóm xuất hiện nhiều làm sôi động thêm đời sống
văn học. Có thể kể đến nhóm “Người Việt” (sau đổi tên là nhóm “Sáng Tạo”),
nhóm “Quan Điểm”, nhóm “Văn Hóa Ngày Nay”, nhóm “Nhân Loại”, nhóm
“Khởi Hành”, nhóm “Thời Tập”, nhóm “Tuổi Ngọc”, nhóm “Văn” ... Mỗi nhóm
lại có riêng một tờ báo, tạp chí và thường xuyên tổ chức nhiều hoạt động văn học
nghệ thuật như hội thảo, diễn thuyết, triển lãm...
Sự cởi mở của tư tưởng cộng hưởng với sự phát triển mạnh mẽ của dịch
thuật, báo chí đã khiến triết học phát triển mạnh mẽ ở các đô thị Miền Nam. Võ
Phiến có nói về hiện tượng đặc biệt này: Thường thường trong giới văn nghệ
những kẻ được quần chúng biết rộng rãi nhất là các thi s , các tiểu thuyết gia.
Nhưng vào thời kì này những tác giả viết triết luận lại được đọc nhiều, được tiếp
đón ồn ào. Nguyễn Văn Trung, Phạm Công Thiện, Trần Thái Đỉnh, Kim Định…đều
nổi tiếng nhanh chóng, được giới trẻ hoan nghênh. Sách triết học thành ra sách
hốt bạc của các nhà xuất bản, tên tuổi các triết luận gia thành ra mốt ăn
khách trên thị trường [67,153] Có thể thấy dấu ấn của các học thuyết triết học,
nhất là triết học hiện sinh trên tất cả mọi mặt của đời sống, từ lối sống đến học
thuật, từ sáng tác đến lý luận phê bình. Sự du nhập của nhiều học thuyết hiện đại
góp phần kiến tạo nên đời sống văn hoá đa dạng, giúp nền văn nghệ ấy tiếp cận với
văn hoá/ văn học thế giới: Ngày nay, khủng hoảng là khủng hoảng chung: niềm
hoang mang của Châu Âu cũng là hoang mang của Mỹ châu, Á Châu, cơn buồn
54
nôn phi lý ở bên này cũng làm xây xẩm đến bên kia [67, 155]. Đó chính là một cơ
hội để văn học Nam Việt Nam 1954-1975 có mặt bằng tương đương với sự phát
triển của văn học thế giới.
Sơ thảo 15 năm văn xuôi miền Nam (1955-1969), tác giả Cao Huy Khanh
nhận xét: Tiểu thuyết miền Nam trong 15 năm qua đ thực sự vượt qua bên kia
ranh giới của một thời văn chương đ từng huy hoàng trong quá khứ, thời văn
chương gọi là văn chương Tiền Chiến... [34, 26]. Căn cứ vào mục đích sáng tác và
thực tiễn tiếp nhận tác phẩm của người đọc, có thể phân chia tiểu thuyết đô thị miền
Nam giai đoạn 1954-1975 ra làm ba thành phần: Thứ nhất - loại tác phẩm giải trí
đơn giản (thường dành cho độc giả bình dân); thứ hai - loại tác phẩm hướng đến các
giá trị tư tưởng hay đạo lý truyền thống; thứ ba là những tác phẩm hướng đến những
cách tân, đổi mới về nghệ thuật. Sự phân chia này dĩ nhiên không phải là những
nhát cắt rạch ròi, xác định bởi văn chương nghệ thuật vốn phức tạp và một tác phẩm
vẫn có thể đi theo nhiều mục tiêu khác nhau. Tiếp nối di sản văn chương cũ, nối tiếp
trực tiếp với lối viết tiền hiện đại, có các tác giả tiêu biểu như Dương Tử Giang, Lý
Văn Sâm, Thẩm Thệ Hà, Vũ nh Khanh, Phi Vân, Hồ Hữu Tường, Đông Hồ,
Vương Hồng Sển, Lê Văn Siêu, Toan Ánh, Quách Tấn, Thiếu Sơn, Bình Nguyên
Lộc, Sơn Nam, Nguyễn Văn Xuân, Lê Ngọc Trụ, Thanh Lãng… Quan tâm đến ý
thức nữ quyền cùng những khám phá về bản năng tính dục, về tiềm thức, về các ẩn
ức, mặc cảm, về dục tình thủa ấu thơ… đã khiến các tiểu thuyết của Túy Hồng, Nhã
Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trùng Dương, Bà Tùng Long, Minh
Đức Hoài Trinh, về sau có thêm Lệ Hằng, Trần Thị NgH… có tham vọng truy tầm,
phát hiện những bí ẩn bên trong con người, nhờ đó, đưa tiểu thuyết đi xa hơn.
Hướng đến thành phần công chúng chọn lọc, một số nhà văn nỗ lực tiếp nhận các
trào lưu văn học hiện đại như chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện sinh, dòng ý thức,
tiểu thuyết mới và coi cách tân như là ý hướng… như Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy
Yên, Nguyên Sa, Ngô Kha, Diễm Châu, Du Tử Lê, Nguyễn Quốc Thái, Võ Phiến,
Dương Nghiễm Mậu, Thế Nguyên, Phạm Công Thiện… Chính những tác phẩm của
họ đã đẩy tiểu thuyết miền Nam bước sang hệ hình hiện đại chủ nghĩa theo qui
chuẩn phương Tây.
55
Võ Phiến đã nhận xét: Cho đến năm 1945, các tiểu thuyết gia Việt Nam dù
viết loại truyện nào, dù theo khuynh hướng nào, vẫn diễn đạt trong khuôn khổ
truyền thống Tây phương. Không mấy ai tính chuyện vượt ra ngoài mẫu mực của
những Balzac, Tolstoi, Dostoievsk.v.v.., mẫu mực đ thành hình từ thế kỉ trước. Sau
thế chiến thứ hai, có những cố gắng táo bạo để phá vỡ cái truyền thống ấy, mở một
chân trời mới cho tiểu thuyết, đem đến cho bộ môn này những khả năng mới [67,
329]. Có thể thấy rõ nhu cầu, ý hướng dịch chuyển hệ hình tiểu thuyết giai đoạn này
qua phong trào Tiểu thuyết mới. Đầu những năm 60, những nhà nghiên cứu văn
chương và những nhà văn đã truyền bá phong trào đổi mới tiểu thuyết phương Tây
vào Việt Nam [Xem thêm thống kê của tác giả Võ Quốc Việt, 98]. Cuộc thảo luận
của nhóm Sáng tạo giữa các tác giả: Mai Thảo, Cung Trầm Tưởng, Doãn Quốc Sỹ,
Thanh Tâm Tuyền, Duy Thanh, Huỳnh Văn Phẩm, Lê Huy Oanh, Ngọc Dũng,
Nguyễn Sỹ Tế, Thái Tuấn, Tô Thùy Yên, Trần Thanh Hiệp về việc nhìn lại Văn
nghệ tiền chiến ở Việt Nam (1965) kì thực trong cùng một tâm thế với những
người viết văn xuôi ở Pháp khi nhìn lại tiểu thuyết truyền thống. Cả hai cùng là
cuộc đảo hoán khởi đi từ chính sự bức bách và đòi hỏi về nghĩa lí của sự viết, thế
giới, văn bản, người đọc. Những nhân tố này là chất xúc tác đầy đủ cho sự hiện diện
của một lối “Tiểu thuyết mới” trong văn chương miền Nam 1954-1975. Nổi bật
nhất trong phong trào này, Hoàng Ngọc Biên được định vị như một nhà phản tiểu
thuyết. Truyện của Hoàng Ngọc Biên chẳng có thắt - mở nút, không có cao trào,
không có mâu thuẫn, không có những tình tiết hay chi tiết éo le oan nghiệt, cũng
chẳng có nhân vật nào đáng kể. Trong Đêm ngủ ở tỉnh hay Buổi sáng của em, tác
giả chỉ phóng tầm nhìn, cho thế giới hiện lên, tác giả không cầu viện đến việc kể.
“Tính truyện” hay tính chất có vấn đề nhường chỗ cho sự xuất hiện “như nhiên” của
đồ vật. Tác giả đã lấy ngôn ngữ làm yếu tố thứ nhất của tiểu thuyết. Ảnh hưởng của
tiểu thuyết mới trong sự gia thoa với triết học hiện sinh có thể thấy trong lối viết đa
âm với những cái tôi biệt lập trong Gia tài người mẹ hay Con sâu của Dương
Nghiễm Mẫu. Quan niệm nội soi về mình, quan niệm người phi lý, người xa lạ, đến
sự bỏ rơi cốt truyện, từ chối nhân vật tiêu biểu, bỏ danh xưng... trong tác phẩm của
Dương Nghiễm Mẫu, trong một chừng mức nào đó, đã thật sự gặp gỡ những yếu tố
tư tưởng mới chi phối các sáng tác hiện đại, đánh dấu ngõ quặt của tiểu thuyết Việt
56
Nam, thời kỳ ly khai ảnh hưởng tiền chiến, bước hẳn sang hệ hình tiểu thuyết hiện
đại. Ta cũng bắt gặp ảnh hưởng của hiện tượng luận ở một đại diện tiêu biểu khác
của tiểu thuyết giai đoạn này: Thế Nguyên với Hồi chuông tắt lửa. Truyện dài này
được miêu tả theo lối giảm trừ hiện tượng học của lối bóc các lớp vỏ củ hành để
chạm vào vào cái hạt nhân bí ẩn bị che giấu, mà bản chất thế giới là mờ đục, theo
hiện tượng luận. Những kĩ thuật viết hiện đại dưới ảnh hưởng của hiện tượng luận
đã đem đến cho tác phẩm sự biểu đạt thực tại hoàn toàn khác vói lối biểu đạt của
văn xuôi cổ điển, tiền hiện đại.
Như vậy, qua phân tích một số hiện tượng tiểu thuyết tiêu biểu, có thể thấy
tiểu thuyết miền Nam đã có một con đường đi hoàn toàn khác với tiểu thuyết miền
Bắc trong cùng một giai đoạn lịch sử. Sau sự kiện 30/4/1975, lịch sử dân tộc sang trang và tiểu thuyết Việt Nam lại bắt đầu một hành trình mới.
Sau năm 1975, trên cái nền chung của văn học Việt Nam đang vận động
theo quán tính của của giai đoạn trước đó, đã có những đổi mới âm thầm, chậm
chạp nhưng về sau càng kiên quyết và triệt để, biểu hiện những rạn nứt của hệ hình
chuẩn định. Văn học bước vào giai đoạn khủng hoảng, xuất phát từ những “khủng
hoảng” trong đời sống xã hội. Trước hết, đó là sự phơi bày những âm mưu, thủ
đoạn, thói hư tật xấu, kể cả những hành động phi nhân tính vốn trong chiến tranh bị
khỏa lấp dẫn đến sự thay đổi trong thang bậc giá trị của xã hội thời hậu chiến. Vào
đầu những năm 1980, sự khủng hoảng càng trở nên trầm trọng. Chủ trương “đánh”
tư sản và cải tạo công thương nghiệp tư doanh chẳng những không thu được hiệu
quả mà còn triệt tiêu động lực sản xuất, khiến cho nền sản xuất đình trệ nghiêm
trọng. Thiên tai địch hoạ liên tiếp trong hai năm 1978-1979 khiến khan hiếm lương
thực ngày càng trở thành vấn nạn. Lạm phát phi mã thách thức nghiêm trọng năng
lực quản lý của nhà nước, chấn động tới gốc rễ của thể chế quan liêu bao cấp. Nền
văn học cũng chững lại và không ít người viết lâm vào tình trạng bối rối, ý thức
nghệ thuật của nhiều nhà văn và một bộ phận trong công chúng chưa chuyển biến
kịp với thực tiễn xã hội. Trong khi đó, phong trào dịch thuật các phẩm ưu tú của các
tác gia đương đại thuộc các trường phái nghệ thuật khác nhau như tượng trưng, siêu
thực, hiện sinh, hiện đại, hậu hiện đại nở rộ… làm thay đổi thị hiếu nghệ thuật của
đông đảo độc giả… Các nhà văn từng sáng tác trong thời kỳ chiến tranh đều nhận
57
ra, nếu tiếp tục viết như cũ, họ sẽ tự đánh mất độc giả. Đổi mới văn học trở nên bức
thiết. Văn học Việt Nam đứng trước một cuộc cách mạng hệ hình sắp sửa.
Trong bản đề dẫn Hội nghị nhà văn Đảng viên bàn về sáng tác văn học
(tháng 6/1979), nhà văn Nguyên Ngọc, trước gần 100 nhà văn tham dự, đã cắt nghĩa
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng văn học thiếu sức sống trong khi đời sống
đất nước lại chứng kiến những chuyển biến mạnh mẽ. Ông nêu rõ: Việc dung tục
hoá mối quan hệ giữa hiện thực và văn học đã “tuyệt đối hoá hiện thực, và kết quả
là buộc văn học phải khiếp nhược trước hiện thực, người nghệ s phải khiếp nhược
trước đời sống. Như vậy thực chất là nó phủ nhận khả năng cải tạo hiện thực của
con người, của văn học. Nó hạ thấp văn học xuống thành một sự sao chép hiện
thực, coi giá trị văn học cao nhất là làm sao cho ch p đúng nguyên hiện thực”. Đi
cùng với nó, việc dung tục hoá mối quan hệ giữa văn học và chính trị cũng đã
tuyệt đối hoá chính trị, tuyệt đối hoá sự chi phối tất yếu của chính trị đối với văn
học, mà quên rằng với tư cách là những hình thái ý thức xã hội, chính trị và văn
học, qua những sự khúc xạ gần xa khác nhau đều là phản ánh hiện thực đấu tranh
xã hội” [17, 35]. Những đánh giá cụ thể, khắt khe đối với những khuyết điểm, yếu
kém trong thực trạng văn học nghệ thuật cho thấy tâm thế phản tư, có thể coi là lần
đầu tiên xuất hiện, công khai, dưới tư cách một văn bản của tổ chức lãnh đạo văn
học nghệ thuật.
Người mở đường sớm nhất, vì thế, cũng đồng thời dũng cảm nhất, Nguyễn
Minh Châu là người đầu tiên đặt ra vấn đề ứng xử của nhà văn với hiện thực mà anh
ta lựa chọn trong sáng tác trong một bài viết công bố vào tháng 11/1978 trên tạp chí
Văn nghệ quân đội: “Viết về chiến tranh . Bài viết đặt câu hỏi: Vậy thì tiểu thuyết
sẽ làm cái gì đây? Tiểu thuyết viết về chiến tranh sẽ tìm trong l nh vực nào để cho
mình có một chỗ đứng không trùng lặp với chỗ đứng của hồi ký chiến tranh . Về
bản chất, nó đặt ra một câu hỏi quyết định: Con người hay sự kiện? [12, 52]. Gần
như cùng thời điểm với hội nghị Đảng đoàn, Hoàng Ngọc Hiến công bố một bài viết
quan trọng khác: Về một đặc điểm của văn học và nghệ thuật trong giai đoạn vừa
qua (Văn nghệ số 23, 6/1979). Phát triển từ ý được Nguyễn Minh Châu đề cập
trong bài Viết về chiến tranh , Hoàng Ngọc Hiến đẩy sự “phản tư” lên cao hơn,
nâng tầm khái quát từ những trăn trở với đề tài chiến tranh cách mạng thành sự tổng
58
kết về chủ ngh a hiện thực phải đạo trong bài viết gây bão dư luận. Theo đó,
Hoàng Ngọc Hiến cho rằng sự lấn át giữa cái phải đạo , cái phải tồn tại với
cái chân thật , cái đang tồn tại trong văn học cũng như sự tồn tại của kiểu
người phải đạo , là nguyên nhân tạo thành chủ ngh a hiện thực phải đạo”. Có
thể nói, sự hồi ứng tri thức giữa hai ngòi bút tiên phong ấy, trong không khí phân
hoá giữa các nhà văn, đã tác động mạnh mẽ đến xu hướng phản tư trong đời sống
văn học lúc bấy giờ, nói như Đoàn Ánh Dương: Nếu như tư tưởng phản tư của
Nguyễn Minh Châu có vai trò mở đường về mặt nhận thức cho việc cần thiết xây
dựng một nền văn học đa dạng hơn thì tư tưởng phản tư của Hoàng Ngọc Hiến
có vai trò mở đường về mặt đời sống sáng tác [17, 43].
Những thức nhận kể trên đã thể hiện thái độ dũng cảm, ý thức dấn thân của
những văn nghệ sĩ nhạy cảm và trách nhiệm trước/với thời đại, cho thấy sự nổi lên
của một quan niệm nghệ thuật mới, dù nó chưa dễ gì được chấp nhận. Bằng chứng
là sự phân hoá trong quan điểm của các nhà văn Đảng đoàn sau lời đề dẫn của
Nguyên Ngọc, Đại hội Nhà văn Việt Nam hoãn đến 1983, tổ chức Đảng đoàn giải
thể cùng năm khi hết nhiệm kì… [Xem thêm ghi chép của Vương Trí Nhàn, 126]
Tuy nhiên, những “lá cờ đầu” quyết liệt, dũng cảm này đã dự báo và mở đường cho
một cuộc cách tân sắp sửa. Trong những điều kiện cực kì khó khăn và nhạy cảm của
đất nước, sáng tác của Nguyễn Minh Châu, theo liền sau đó là của Ma Văn Kháng, Lê
Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn… đã đốt lên nhiệt tình tìm kiếm chân lí, báo trước khả năng
tự đổi mới của nền văn học Việt Nam trước khi làn sóng đổi mới dâng lên mạnh mẽ
trong đời sống tinh thần của dân tộc. Với sáng tác của họ, văn học Việt Nam có một
giai đoạn được gọi là tiền đổi mới : 1975 - 1985.
Khảo sát các tiêu biểu của giai đoạn này, chúng tôi nhận thấy tiểu thuyết có
những dịch chuyển trong quan niệm về thực tại. Đã có những tiểu thuyết mạnh dạn
chọn những thời điểm khốc liệt, gay cấn của chiến tranh làm bối cảnh để khám phá
tâm lí, tính cách con người: Miền cháy (Nguyễn Minh Châu), Trong cơn gió lốc
(Khuất Quang Thụy), Năm 75 họ đ sống như thế (Nguyễn Trí Huân), Đất trắng
(Nguyễn Trọng Oánh)… Đã có những tiểu thuyết giai đoạn chuyển dịch sự quan
tâm đến những vấn đề của đời sống hậu chiến: những vấn đề văn hóa, đạo đức mới
nảy sinh trong các quan hệ thường nhật, phổ biến, từ bỏ các thói quen thời chiến để
59
bước vào thời bình: Lửa từ những ngôi nhà (Nguyễn Minh Châu), Hai người trở lại
trung đoàn (Thái Bá Lợi), Cha và con và..., Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người
(Nguyễn Khải)... Xu hướng triết lí và tính luận đề có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
và là nét chung chi phối văn xuôi giai đoạn này, kể cả ở những tiểu thuyết viết về đề
tài sản xuất và thế sự đời tư như Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn
Kháng), Hạt mùa sau (Nguyễn Thị Ngọc Tú), Đứng trước biển, Cù lao Tràm
(Nguyễn Mạnh Tuấn)… Hiện thực được mở rộng tới những góc khuất mà văn học
trước 1975 còn né tránh như những mặt trái, mặt tiêu cực của hiện thực, cái xấu, cái
ác trong đời sống, được phân tích, mổ xẻ ở những chiều sâu mới. Đặc biệt, Thời xa
vắng (1986) của Lê Lựu là đột phá của tiểu thuyết giai đoạn này, có ý nghĩa là một
giọt nước làm tràn ly nước. Tiểu thuyết này thấm đượm nhiệt hứng nhận thức lại
thực tại về sau trở thành một khuynh hướng quan trọng của văn học đương đại,
được viết theo tinh thần của cái bi kịch . Thông qua bi kịch của nhân vật nửa đời
người phải yêu cái người khác yêu, nửa còn lại đi yêu cái mình không có , Thời xa
vắng không chỉ mô tả một thời đã xa với những ấu trĩ, sai lầm mà còn muốn nói đến
khát vọng cá nhân, bản lĩnh sống, cuộc đấu tranh, cuộc tìm kiếm không mệt mỏi của
mỗi con người để có hạnh phúc đích thực. Tiểu thuyết của Lê Lựu đánh dấu cột
mốc chuyển biến của văn học từ sự quan tâm triệt để đến tập thể chuyển sang
cá thể , chú ý đến con người này như cách nói của Hê-ghen.
Tuy nhiên, dù tiểu thuyết đã có những động thái và dấu hiệu tìm tòi, bứt
phá, mở lối tạo ra những rạn nứt trong hệ hình chuẩn định, giai đoạn này vẫn nằm
trong mô hình sử thi và lãng mạn kéo dài từ 1945-1985 [19, 86]. Có thể thấy rõ
điều này qua quan sát sự các sự kiện trong đời sống văn học. Trong bài Về một đặc
điểm của văn học nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua Hoàng Ngọc Hiến từng
có nhiều nhận xét, đánh giá táo bạo về giai đoạn văn học trước 1975 được xem là
nói lên khát vọng đổi mới văn học một thời. Nay nhìn lại, ta thấy cũng không phải
mới, nếu nhìn từ hệ hình phản ánh. Theo Hoàng Ngọc Hiến có hai phương thức
miêu tả trong nghệ thuật: miêu tả sự vật như nó vốn tồn tại, đang tồn tại và miêu tả
sự vật như nó phải tồn tại. Ông phê phán “trong sáng tác hiện nay, sự miêu tả cái
phải tồn tại lấn át sự miêu tả cái đang tồn tại. Và chúng tôi tán thành ý kiến của
Nguyễn Minh Châu cho rằng sự lấn át này đương là một trở ngại ‘trên con đường
60
đi đến chủ ngh a hiện thực’, đặc biệt trong thể loại tiểu thuyết. Đứng ở bình diện
cái phải tồn tại, người nghệ s dễ bị cuốn hút theo xu hướng miêu tả cuộc sống cho
phải đạo, còn đứng ở bình diện cái đang tồn tại thì mối quan tâm hàng đầu là miêu
tả sao cho chân thật. Đọc một số tác phẩm chúng tôi thấy tác giả dường như quan
tâm đến sự phải đạo nhiều hơn tính chân thật. Có thể gọi loại tác phẩm này là chủ
ngh a hiện thực phải đạo…” [32]. Như thế, thực chất trong bài viết nổi tiếng một
thời của Hoàng Ngọc Hiến, vẫn là chuyện văn học phản ánh hiện thực, rằng nhà
văn cần phải phản ánh hiện thực sao cho chân thật, phù hợp với bản thân cuộc sống,
rằng quy luật phát triển của nền văn nghệ hiện thời là phải đi từ cái cao cả đến cái
đẹp - tức là miêu tả cân bằng, hài hòa giữa cái đang tồn tại và cái phải tồn tại. Trải
qua một giai đoạn có nhiều chuyển biến, câu chuyện chính xem ra vẫn hoàn toàn
trong khuôn khổ của khẩu hiệu văn học nghệ thuật phản ánh hiện thực . Nhìn sâu
vào sự vận động của tiểu thuyết, suy cho cùng, sự chuyển dịch chủ yếu ở đối tượng
phản ánh chứ chưa phải là phương thức phản ánh. Tư duy văn học, suy cho cùng,
vẫn thuộc hệ hình văn học phản ánh hiện thực của văn học tiền hiện đại.
Dù vậy, không thể phủ nhận so với giai đoạn trước 1975, tiểu thuyết Việt
Nam có những đổi mới sâu sắc trong chiếm lĩnh, khám phá hiện thực. Cái mới ấy
bắt nguồn từ thái độ tích cực của nhà văn trong đời sống: không chấp nhận một nửa
sự thực. Đó là một thái độ dũng cảm, thể hiện trách nhiệm công dân của nhà văn
trong bối cảnh xã hội đang vận hành trong quĩ đạo trở lại bình thường. Nó rất khác
với trách nhiệm công dân mà nhà văn đã phải gánh vác suốt một giai đoạn lịch sử
kéo dài 40 năm (1945 - 1986). Đó là sự vận động nội tại để tạo ra sự vận động hệ
hình tiền hiện đại sang hiện đại.
3.1.1.2. Tiểu thuyết sau 1986 với sự dịch chuyển từ phản ánh hiện thực
sang kiến tạo thực tại
Tuy vậy, sự thay đổi hệ hình cũng không thể diễn ra nếu không có một đột
biến. Đó là Cải tổ ở Liên Xô và Đổi mới ở Việt Nam. Đổi mới tư duy kinh tế, xóa
bỏ bao cấp, kể cả bao cấp tư tưởng, trong đó có tư tưởng văn học nghệ thuật trở
thành một tiền đề quan trọng cho sự khai phóng để tiểu thuyết chuyển đổi vào hệ
hình hiện đại.
61
Văn học không chỉ hiện diện như một loại hình nghệ thuật đặc thù mà còn
là hoạt động xã hội, dữ kiện văn hoá, cần được đặt trong bối cảnh văn hoá xã hội.
Nghiên cứu sự dịch chuyển hệ hình của tiểu thuyết, phải nói đến đời sống xã hội hết
sức đặc biệt những năm đầu 1980. Từ trong những chuyển biến của đời sống đất
nước thời hậu chiến, việc thông qua Báo cáo chính trị (do tổng bí thư Trường Chinh
trình bày) và Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ 6 được ghi nhận như là sự kiện
phát động công cuộc Đổi mới đất nước, trong đó có công tác văn hoá, văn nghệ.
Ngay sau Đại hội, bí thư Ban chấp hành trung ương Nguyễn Văn Linh đã đọc diễn
văn nhấn mạnh sự cần thiết phải Đổi mới sâu sắc và toàn diện trên mọi l nh vực .
Cũng trong tháng 5 này, báo Nhân dân số ra ngày 25/5 đăng trên trang nhất một bài
viết ngắn với nhan đề Những việc cần làm ngay kí tên N.V.L, sau đó hình thành
hẳn mục bài và tiếp tục được duy trì suốt hơn hai tháng.
Cuộc gặp gỡ lịch sử của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh với hơn một trăm
nhà văn nghệ và hoạt động văn hóa diễn ra trong hai ngày 6-7/10/1987 được xem
như là sự kiện có tính chất bước ngoặt. Tính chất bước ngoặt ở đây cần hiểu theo
hai nghĩa. Trước hết, văn học được phép nhìn vào sự thật, nói rõ sự thật, công khai
quan điểm và nỗ lực sáng tạo. Đó là sự cởi trói sẽ làm rẽ ngoặt văn học trở lại với
con đường hiện đại hóa đang dang dở từ trước 1945. Nhưng cũng vì vậy, cần hiểu
thêm nghĩa, đổi mới là điều kiện để hợp thức hóa những xu thế đã được định hình
nhưng bị cấm đoán trước đây. Đổi mới là nhân tố quan trọng đưa văn học trở về với
quĩ đạo phát triển bình thường, đi về phía hiện đại chủ nghĩa.
Cuộc gặp gỡ đã tạo nên bầu không khí hân hoan của đổi mới văn nghệ lúc
bấy giờ. Các mệnh đề cởi trói , h y cứu lấy mình trước khi trời cứu được tái
cấu trúc trong nhiều diễn ngôn khác, để viện dẫn cho quyền tự do sáng tác, dân chủ
sáng tác làm nức lòng người viết. Sau cuộc gặp gỡ với Tổng Bí thư, việc thiết chế
hoá quan điểm của Đảng đã được thể hiện bằng việc thông qua Nghị quyết 05 của
Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam về Đổi mới và nâng cao trình độ l nh đạo,
quản lý văn học, nghệ thuật và văn hoá, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học
nghệ thuật và văn hoá phát triển lên một bước mới (28/11/1987). Cũng năm 1987,
ngay sau khi tiếng nói Đổi mới được cất lên, việc Nguyên Ngọc trở lại với cương vị
tổng biên tập báo Văn nghệ và việc Trần Độ trở lại làm trưởng ban Ban văn hoá văn
62
nghệ trung ương đã góp phần kết nối các ý hướng đổi mới. Thêm nữa, chính việc
tổng bí thư Nguyễn Văn Linh xuất hiện trong tư cách nhà báo, phụ trách mục
Những việc cần làm ngay trên tờ Nhân dân, tiếng nói chính thức của Đảng đã có tác
động lớn đến văn nghệ sĩ trí thức, mở ra cho họ cơ hội được nói thẳng , nói
thật . Đó là khởi nguồn của các cuộc thảo luận về đổi mới văn học được diễn ra
rộng khắp, nhất là trên báo Văn nghệ. Các ý kiến về “văn nghệ minh hoạ, văn nghệ
tuyên truyền của Nguyễn Đăng Mạnh, sự bao cấp về tư tưởng của Lưu Quang
Vũ, văn nghệ quan phương của Lại Nguyên Ân, phê phán chủ ngh a hiện thực
xã hội chủ ngh a như một ngọn cờ, cương lĩnh sáng tác của Hoàng Ngọc Hiến…
làm thành không khí đổi mới sôi sục trong đời sống văn học lúc bấy giờ [Xem thêm
95, 188]. Năm 1991, Liên Xô sụp đổ, Đảng Cộng sản Trung Quốc chính thức tuyên
bố Cách mạng Văn hóa là một "thất bại nặng nề nhất và tổn thất nặng nề nhất mà
Đảng, nhà nước và nhân dân phải gánh chịu kể từ khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân”2. Hình mẫu của nền văn học cách mạng xã hội chủ nghĩa như văn học
Liên Xô đã chấm dứt, văn học Trung Quốc theo tư tưởng Mao Trạch Đông đã chấm
dứt. Hệ thống lí luận văn học duy trì nền văn học cách mạng cũ như phương pháp
sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, phản ánh luận, tính đảng, chủ nghĩa hiện thực,
khẩu hiệu văn nghệ phục tùng chính trị, phục vụ chính trị vốn đã mất thiêng từ đầu
đổi mới, nay càng không còn sức thuyết phục.
Sự dịch chuyển hệ hình tiểu thuyết còn có một tác nhân quan trọng, đó là sự
hình thành, phát triển của thị trường sách “chợ đen”. Nếu như trước Đổi mới, việc
phát hành sách được thực hiện thông qua hệ thống phát hành sách của nhà nước, từ
Đổi mới, một bộ phận đáng kể xuất bản tác phẩm được chuyển tới những người “bỏ
mối”, hay còn được định danh là “đầu nậu” sách, tức hệ thống bán lẻ của tiểu
thương. Xuất bản nói chung và xuất bản văn học nói riêng chuồi khỏi bàn tay độc
quyền của nhà nước, từng bước tư nhân hoá dưới danh nghĩa hệ thống phân phối
2. Resolution on Certain Questions in the History of Our Party Since the Founding of the People's Republic of China, adopted by the Sixth Plenary Session of the Eleventh Central Committee of the Communist Party of China on ngày 27 tháng 6 năm 1981 Resolution on CPC History (1949–81), Beijing: Foreign Languages Press, 1981, p. 32.
trực thuộc hệ thống phát hành. Hệ quả là hệ thống “sách cấm” bao gồm văn học
63
lãng mạn trước 1945, văn học đô thị Sài Gòn thời chế độ cũ, bộ phận văn học dịch
trong đó có tiểu thuyết hiện đại chủ nghĩa được dịch từ văn học thế giới bởi các nhà
văn miền Nam 1954-1975… được tái bản. “Chợ đen” đã góp phần tái sinh cho một
bộ phận văn học “ngoài lề”, “dưới đáy” trước kia. Các nhà văn kháng chiến sau
1975, và độc giả miền Bắc, phần lớn là những người không biết ngoại ngữ hoặc có
biết Nga ngữ đã được hưởng lợi khi qua thị trường “chợ đen”, họ được tiếp cận với
các sáng tác bị liệt vào hàng “phản động”, “đồi truỵ” theo đánh giá một thời, phần
nhiều là những tác phẩm dịch từ tiếng Pháp, nh, Đức viết theo lối viết hiện đại chủ
nghĩa. Lối biểu đạt thực tại mới và lối cảm thụ mới, sự chuẩn bị cho một thế hệ đọc
và viết khác, vì thế được du nhập, dù qua con đường tiểu ngạch nhưng góp phần tạo
nên sự chuyển động của cuộc cách mạng hệ hình trong tiểu thuyết.
Bên cạnh đó, khi Đổi mới, mở cửa cho phép, hoạt động dịch, nhất là dịch
tác phẩm hiện đại đã trở nên sôi động. Hàng loạt tác phẩm văn học hiện đại của thế
giới được chuyển dịch. Sách dịch tràn ngập thị trường với tỉ lệ 90% [Xem thêm
Những cạnh khía của lịch sử văn học 89, 84]. Cơ hội được tiếp xúc rộng mở hơn
với văn hoá phương Tây đã khiến cho những tinh hoa văn học thế giới đến tay
những dịch giả chuyên nghiệp được dễ dàng hơn. Đặc biệt, nắm bắt được nhu cầu
của bạn đọc, tính toán đến sức tiêu thụ của thị trường, các đầu nậu đã nắm bắt được
nhu cầu một nền văn học mới, khác với văn học minh hoạ hiện thực như trước đây.
Điều đó lý giải tại sao các ấn phẩm thuộc dòng hiện thực huyền ảo như Trăm năm
cô đơn, Tình yêu thời thổ tả, hay hiện thực khác trong Nghệ nhân và Margarita của
Bulgakov được phát hành với số lượng lớn và được độc giả nồng nhiệt đón nhận.
Khi các tinh hoa văn học thế giới được công bố, giới thiệu rộng rãi, chính dịch thuật
văn học đã cung cấp những mô hình kinh nghiệm mới cho nỗ lực cách tân tiểu
thuyết, trong đó thay đổi quan niệm về thực tại và hướng tới giá trị giải trí là hai
thực tiễn văn học được khởi sinh từ thực tiễn xuất bản văn học và ý hướng đổi mới
văn học giai đoạn này.
Khi chưa xuất hiện những gương mặt hệ hình sáng tác mới, trong khi sự thức
nhận về tính bất ổn của nền văn cũ đã căng đầy, người ta bắt đầu hồ nghi, công kích
vào các qui chuẩn sáng tác cũ, làm biến dạng hệ chuẩn định của văn học hiện thực
xã hội chủ nghĩa. Đó là lí do của sự hạ bệ hàng loạt người hùng - người lính của văn
64
chương thời chiến trong Chim én bay (1987- Nguyễn Trí Huân), Vòng tròn bội bạc
(1987 - Chu Lai), Góc tăm tối cuối cùng (1989 - Khuất Quang Thuỵ), Ăn mày d
vãng (1991 - Chu Lai)... Đó cũng là lí do của nhu cầu nhận thức mới về những nhân
vật trung tâm khác của mô thức sáng tạo cũ như những thanh niên xung phong,
những bà mẹ Việt Nam như Người đàn bà trên đảo (1985 - Hồ Anh Thái,) Những
mảnh đời đen trắng (1988 - Nguyễn Quang Lập)… Hàng loạt vấn đề xã hội từng bị
xuyên thủng. Hàng loạt tấm huy chương đã được nhìn ở mặt bên kia của nó. Hàng
loạt mẫu nhân vật từng là điển hình, phẩm chất ngời ngời nay đã được nhận thức lại.
Khi trong nội tại sáng tác văn học đã có sự công phá không ngừng, thực hành một
thứ chính trị thường ngày trong sáng tạo, tất cả sẽ là tiền đề, là bước chuyển hệ hình
để sau đó, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Trần Dần, Nguyễn Bình
Phương, Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy nh… làm cách mạng hệ hình trong viết.
Đúng như qui luật của những cuộc cách mạng hệ hình, những đại diện hệ
hình văn xuôi hiện đại đã xuất hiện. Trước hết là Nguyễn Huy Thiệp. Thành công
của Nguyễn Huy Thiệp là ở thể loại truyện ngắn, nhưng đó là quả tạc đạn đầu tiên
n m vào làng văn, và đ nổ tạo ra bước ngoặt hệ hình cho toàn bộ nền văn học,
trong đó có tiểu thuyết. Mặt khác, truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp mang đậm tư
duy tiểu thuyết, bản chất là những tiểu thuyết rút gọn. Cho nên, đề cập đến sự dịch
chuyển hệ hình của tiểu thuyết, cũng cần nhắc tới nhân vật dịch chuyển hệ hình này.
Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã tạo ra một cú sốc trong tiếp nhận
văn chương với sự chia rẽ khá rõ rệt công chúng tiếp nhận. Ở phía phê phán, ta gặp
không ít những tên tuổi. Nhà văn Hồ Phương cho rằng Nguyễn Huy Thiệp có
…cái nhìn x hội thiên về đen tối , Đỗ Văn Khang nhấn mạnh: Đặc biệt cái tâm
mà không sáng thì không thể làm văn được [54, 242]. Mai Ngữ “kết tội” Nguyễn
Huy Thiệp: đ lăng nhục cha ông, tổ tiên mình . [54, 426] Tạ Ngọc Liễn phản
biện trên phương diện lịch sử - văn hóa: “Việt Nam nếu đích thực là một nước
nhược tiểu… thì con cháu làm gì có được một giang sơn như ngày nay , càng kỳ
quặc hơn khi cho rằng văn hóa Việt Nam (mà biểu tượng là Nguyễn Du) chỉ là đứa
con hoang của nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp đẻ ra. Tôi không ngh tác giả
luận điểm này là người mắc bệnh tâm thần nhưng đó không phải là sự suy tưởng
của một đầu óc lành mạnh [54, 173]. Ngược lại, phái bênh vực, ngợi ca cũng hết
65
lời. Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: …n t hấp dẫn của văn Nguyễn Huy Thiệp. Một
thứ ngôn ngữ táo tợn đôi khi như là đột nhiên lột truồng những ý ngh , những thèm
khát mà con người ta vẫn thường có nhưng cứ phải che che đậy đậy [54, 459].
Hoàng Ngọc Hiến nhận xét: truyện của Nguyễn Huy Thiệp có ý ngh a cảnh tỉnh
sâu xa , Phạm Xuân Nguyên cũng khẳng định: Hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp -
đó là thành quả của đổi mới . Nhìn lại để thấy, sở dĩ có sự bối rối của những người
tiếp nhận, kể cả những nhà phê bình, nhà văn - lớp người đọc đặc tuyển là bởi vì họ
đã nhìn nhận Nguyễn Huy Thiệp từ những chuẩn định của hệ hình cũ mà hoàn toàn
chưa sẵn sàng cho sự xuất hiện của một hệ hình mới được khẳng định từ những
trang viết của Nguyễn Huy Thiệp.
Gây ra một cú sốc với tiếp nhận, bởi Nguyễn Huy Thiệp là người đâu tiên
công khai từ chối, thậm chí là gây hấn quan niệm phản ánh hiện thực của mấy chục
năm văn học trước đó. Với Nguyễn Huy Thiệp, văn chương trở thành một diễn
ngôn mà thực tại, kể cả thứ thực tại tưởng như đã đóng khung như lịch sử, chỉ là
phương tiện, một mã nghệ thuật đặc thù để nhà văn đưa ra cái nhìn mới, có khi
không liên quan gì đến lịch sử. Nguyễn Huy Thiệp không phản ánh hiện thực, mà
nhặt nhạnh những vật liệu của hiện thực để kiến tạo nên một thực tại khác, chân
thực hơn nằm ở phía bên kia thực tại vật liệu. Thực tại bị trả về với tư cách vật liệu,
chuyển trung tâm từ phản ánh sang kiến tạo của nhà văn.
Công khai tư cách vật liệu của hiện thực, Nguyễn Huy Thiệp cũng đồng
thời từ chối quan niệm truyền thống về tính chân thật, đề xuất những nguyên tắc
kiến tạo thực tại mới. Dễ hiểu cho sự choáng váng của người đọc thời ấy khi đọc
văn Nguyễn Huy Thiệp. Sẽ là “phạm thượng , thiếu lành mạnh … nếu đọc
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trên hệ quy chiếu đã được đem ra tạo thành chuẩn
định của văn học một thời, hệ qui chiếu lịch sử như yêu nước, chống ngoại xâm,
đấu tranh giai cấp, mâu thuẫn tiến bộ/ lạc hậu, cấp trên/ cấp dưới, tổ chức và cá
nhân… Nguyễn Huy Thiệp dùng hệ qui chiếu hoàn toàn khác, là con người, triết lí
về con người, bản tính người, cách làm người, trạng thái ứng xử xã hội lịch sử của
con người, như nhận xét của tác giả Lã Nguyên: Truyện của Nguyễn Huy Thiệp
thống nhất trong những bài học làm người (Những bài học nông thôn, Những người
thợ xẻ, Con gái thủy thần...)” [121]. Sự hướng về loại sự thật lịch sử ngoài lịch
66
sử ấy đánh dấu sự trở về của văn học với quỹ đạo nhân học của nó. Những lời thô
tục của các nhân vật không phải là điều không thể xảy ra và không thể hiểu được
khi họ là những con người, dù là những người cầm quyền lực tối thượng. Còn khi
đã ở vào quan hệ tình yêu thì phải theo quy luật của tình yêu: dẫu có là vua, nhưng
một khi đã không yêu thì không thể hiến thân. Vinh Hoa đã chọn cái tư thế mà sự
tiếp xúc “thân” diễn ra với diện tích nhỏ nhất, tức là ngón tay út, nàng dùng ngón
tay ấy để vuốt mắt nhà vua lúc lâm chung. Mặc dù vậy nàng vẫn vi phạm nguyên
tắc phẩm tiết của mình, để lại vết chàm không rửa được nơi ngón tay ấy. Vết chàm
không phải là sự nhơ bẩn. Đọc Nguyễn Huy Thiệp, phải tuân thủ luật chơi của
Nguyễn Huy Thiệp. Quan niệm hiện đại chủ nghĩa về văn học đã được định hình.
Nguyễn Huy Thiệp là một trong những nhà văn tiên phong ngược dòng
nước chảy còn bởi Nguyễn Huy Thiệp là ngòi bút không kị huý . Trước đây, người
cầm bút hầu như chỉ được quyền hướng thượng, viết về cái hay, cái cao cả, cái tích
cực. Họ bắt buộc phải lờ đi phần xấu (trừ cái xấu của địch). Ung dung trong phạm
trù húy kị, cái xấu trở nên một thứ siêu quyền, mặc nhiên hoành hành, mà không ai
được phép nhắc đến. Nó thuộc địa hạt quốc cấm, bất khả xâm. Nguyễn Huy Thiệp
công nhận sự bình đẳng, với tư cách là những chất liệu, của những ý nghĩ, hành
động đen tối, vô đạo nhất của nhân vật, những xung động khao khát tình dục thầm
kín nhất (như trường hợp ông Bổng, ông Kiền, Đoài, bà Lâm, Hiếu, Hiên…), những
thứ bị xem là thô tục như tiếng cứt từ miệng chàng Trương Chi… mà người khác
thường né tránh hoặc nói chệch đi. Tính chất không kị huý như một luật chơi đã xé
bỏ một số quy ước văn hoá, cho phép nhà văn thọc bút xuống đáy sâu của cuộc đời,
phơi bày tất cả ra ánh sáng. Không húy kị, vậy, là thái độ dân chủ và sòng phẳng
với hiện thực góp phần khẳng định tư cách đại diện hệ hình hiện đại chủ nghĩa ở
Nguyễn Huy Thiệp.
Cùng với Nguyễn Huy Thiệp, các đại diện hệ hình tiểu thuyết hiện đại chủ
nghĩa đã xuất hiện. Trước hết, đó là Phạm Thị Hoài với tiểu thuyết Thiên sứ. Thiên
sứ cũng tiếp tục là một sự gây hấn khi từ bỏ nguyên tắc giống như thực . Do thể
hiện bằng giọng kể hài hước mỉa mai nên thực tại trong Thiên sứ không hiện
diện trong những tỉ lệ thông thường giống như thật . Câu chuyện của một nhân
vật từ chối trưởng thành bằng giấc ngủ bào thai tuyệt diệu trong đung đưa chòng
67
chành sóng mang màu máu kinh nguyệt ứa một lần cho mãi mãi là câu chuyện đi
lạc ở thế giới người lớn chỉ biết "uy tín và danh dự". Cái lạ thứ hai là, từ chối tiếp
cận hiện thực trong cái nhìn phân tuyến ta - địch, ở góc độ chính trị, sự tiếp cận
hiện thực trong Thiên sứ chủ yếu ở bình diện văn hóa, và quan điểm tiếp cận thật
gây hấn: Tôi từ chối không đứng vào bất kì thế hệ nào. Tôi từ chối bất kì bộ đồng
phục quá chật hoặc quá rộng nào [172]. Cho nên, tác phẩm là sự chất vấn những
vấn đề thời đại từ chuyện tri thức, sách vở, học vấn đến sự va đập của những mô
hình đánh dấu trạng thái văn hóa một thời: Có kiểu xu thời thành thực đến cuồng tín
như Quang lùn - mô hình I , hoặc xu thời vụ lợi gắn với thói viên chức quan liêu
như anh Hùng - mô hình II ; Có kiểu say mê quyền lực quản lý (Quang lùn) hoặc
quyền lực vật chất (thầy Hoàng - ông chủ nước đá , anh Hạc - ông chủ số đề ).
Khái niệm nhân vật điển hình của tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa bị từ chối. Tiểu
thuyết không thuật chuyện mà trình bày những ý thức con người trước một thực trạng.
Hiện thực bị đẩy lùi xuống hàng thứ hai nhường chỗ cho sự kiến tạo của tác giả.
Trong giải thưởng tiểu thuyết năm 1991, một nhân vật hệ hình mới được
công nhận cùng với cuốn tiểu thuyết đánh sẽ là dấu mốc mới trong hành trình tiểu
thuyết Việt: Bảo Ninh với Thân phận của tình yêu. Ở đây, chúng ta cũng không thể
không nhắc đến một đại diện hệ hình khác, đến sớm hơn, nhưng những hoàn cảnh
đã khiến ông trở thành một đại diện hệ hình trong bóng tối: Trần Dần với hai cuốn
tiểu thuyết lấy chiến tranh làm bối cảnh: Đêm núm sen (viết 1961, in 2017) và
Những ng tư và những cột đèn (viết 1965, in 2011). Nếu lấy mốc 1961 và 1965,
hai cuốn tiểu thuyết này viết trước Nỗi buồn chiến tranh những 25 - 30 năm nhưng
thời điểm chúng đi vào đời sống văn học lại thuộc về giai đoạn tiểu thuyết sau 1986.
Khi đặt những tác phẩm này cạnh nhau, đây đích thực là những cuốn tiểu thuyết
hiện đại điển hình.
Trước hết, ta thấy cả 3 cuốn tiểu thuyết đều thay đổi cách ứng xử với hiện
thực vốn là trung tâm của 30 năm văn học trước đó - chiến tranh. Ngay từ nhan đề,
người đọc đã nhận thấy những cảm nghiệm khác biệt. Vẫn là chiến tranh, nhưng là
chiến tranh của dằng dặc và mặn chát nỗi buồn , chiến tranh của thân phận tình
yêu - một cuộc chiến nhìn từ phận người. Cũng là chiến tranh, nhưng là chiến tranh
nhìn từ đêm - đêm núm sen, từ những điều vốn không có chỗ cho chiến trận. Cuốn
68
tiểu thuyết không trừu tượng hóa con người, không nhấc con người lên cao hơn con
người để tôn vinh, mà nó ghé xuống những phận người trên chiến hào: “Cố nhiên
bộ sử chính biên không chép về các số phận be bé. Không ai trao cho nó nhiệm vụ
ấy. Vả lại, có trao, nó cũng không thể! Ai có thể? Không ai! Chiến tranh kết thúc.
Có cần kể gì thêm không?... Nhưng vết thương be b trên các số phận… [161,
352]; Nhưng có cần viện đến những mất mát thiên tài không? Không. Không. Chỉ
cần nhân danh một số phận bình thường, đúng thế, người ta đ rất đủ có lý do để
mà đòi: tiêu diệt hẳn chiến tranh [161, 355]. Cái hiện thực mà chúng ta thấy trên
bề nổi, Những ng tư và những cột đèn dường như đáp ứng được đơn đặt hàng của
ngành Công an, nhưng ở phía khác, đó là câu chuyện của những ngã tư cuộc đời,
của sự lựa chọn, những giáp ranh của sự sống - cái chết, do đó, sẽ là câu chuyện của
vô số câu hỏi: cái gì là cái tất định, cái gì là cái bất định, chúng đóng vai trò gì?
Thời gian là đường thẳng tuyến tính, chạy miết về miền vô cực, làm sao dừng được
sự huỷ diệt của tháng ngày, làm sao lưu lại được một khoảnh khắc có dấu vết của
tôi?... Chiến tranh vậy là nhìn từ số phận cá nhân - điều mà lịch sử có thể, và, quả
thực, đã từng bỏ qua.
Sự lựa chọn này đã dẫn đến những hướng khai phá khác nhau nhưng đều
là những đối nghịch với văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa để đi về phía hiện
đại chủ nghĩa.
Ở Đêm núm sen, đó là sự cất tiếng của hoan lạc, của nỗi đau thân thể, của
sự sống rưng rưng. Đêm núm sen không thật xa với chủ lưu văn học cách mạng đề
cao công nông binh. Hành trình của kiến Gầy từ khi lọt lòng ở làng Mận đến một
chiến binh chỉ huy kháng chiến bảo vệ chính cộng đồng của mình, thực chất, vẫn
mang âm điệu sử thi, hùng ca. Ta vẫn gặp ở đây vô số những huyền thoại: huyền
thoại về cội gốc (cộng đồng kiến bắt đầu từ hạt trứng ; lớn lên trong một ngôi
làng cổ ; trải qua nhiều biến cố, thăng trầm trong cuộc đại di cư ), về liên minh
liên kết đánh giặc (“Hiệp ước liên minh quân sự ba mươi chín làng”), về những
người hùng (từ cụ Mây lập ra làng Mận, bác Kiến Rỗ - hổ tướng chiến trận)... Dù
chỉ lướt qua với không ít tiếng cười trào lộng, chúng vẫn nằm trọn trong khung cảm
hứng ngợi ca, xiển dương tinh thần vị nghĩa lớn. Ngọn cờ kháng chiến, kiến quốc
mà làng Mận tiên phong giương cao đã thổi bùng khí thế xả thân, lập công, sẵn sàng
69
lao đi trên những ki lô mét nhiệm vụ . Nhưng Đêm núm sen nói về chiến tranh như
chiến tranh chứ không xưng tụng nó như kiểu anh hùng ca hay sử thi. Đêm núm sen
nán rất lâu trước những thời khắc mà tiểu thuyết cùng thời bỏ qua, chính xác hơn là
nỗ lực rũ bỏ:
Ba giờ đêm, dưới phố, lại lào xào một cuộc hành binh dài dặc, về
làng…Tôi tỉnh giấc. Sứa nằm thiêm thiếp bên vai tôi. Tôi nghe tiếng Sứa thở. Tôi
vuốt nhẹ, dọc cái lưng trần. Vuốt nhẹ. Tôi nhớ cặp đùi. Khi n y, nó gi y. Nó gi y
cuống quýt. Tôi đưa tay vuốt. Sứa vẫn thiêm thiếp. Tôi vuốt. Căn buồng đỏ mênh
mông…Tôi vuốt. Dưới phố, những ki lô m t hành quân [161, 206]
Những đêm núm sen ấy! Tôi có những đêm núm sen…Những đêm núm sen
trong chiến tranh! Tôi không ngh gì…Chúng tôi nằm trong quyền lực của đêm núm sen.
Đâu đây, hiện lên nhòe nhòe cái bóng đanh ác và tiều tụy của chiến tranh… [161, 304]
- Em sẽ sửa lại căn buồng hạnh phúc cũ…Em sẽ rắc hoa. Em căng bạt…
[161, 351]
Lấy điểm đặt là những xúc cảm của thân thể, nỗi chếnh choáng ái ân để
khắc họa vẻ đẹp của tình yêu, Đêm núm sen dám đề cập đến phương diện cấm kị
- sex. Văn học sử thi là văn học của ý niệm, trong đó, thân thể người là thứ được ý
niệm hóa cao nhất. Ở đó, thân thể biến thành tượng đài, các biểu tượng, và sẽ mất đi
tính xác thịt. Với tượng đài, người đọc chỉ có thể ngưỡng mộ, chứ khó có thể đến
gần. Thân thể như vậy sẽ mất đi mọi chiều kích của con người. Trong tiểu thuyết
này, thân thể đem đến một cảm giác tươi mọng, run rẩy của tình yêu, vốn trong bản
nguyên muôn đời vẫn thế. Mặt khác, điểm đặt này đã khiến các nhân vật được khắc
họa với chất người sâu thẳm: có Kiến Ngựa tranh thủ trốn về làng với vợ, có những
cuộc tình và đêm ái ân nơi chiến địa, có nỗi buồn chiến trận ngày mưa: Thằng thì
nhớ phố! Thằng nhớ quán rượu…Oái oăm nhất là nhớ bu nó. Bu non, bu già, bu
choai choai…
Với Những ng tư và những cột đèn, cuốn tiểu thuyết này, được viết ra từ
giữa thập niên 1960, đem lại cái có thể xem như một mắt xích còn thiếu trên cây
phả hệ văn chương tiếng Việt quốc ngữ, tựa như một hoá thạch sống minh chứng sự
liên tục của văn xuôi tự sự từ những Vũ Trọng Phụng đến những người viết tiểu
thuyết hiện đại của vài mươi năm lại đây (Nguyễn Chí Hoan). Tính hiện đại chủ
70
nghĩa thể hiện rõ ở chỗ Trần Dần từ chối xây dựng nhân vật điển hình. Ông tạo ra
nhân vật biểu tượng - từ các nhân vật công an phản gián như anh Thái , ông
Trần B , ông Đầu bạc , cho đến cán bộ khu phố ông Trung trố , chị Hoà ,
cựu ngụy binh Tình Bốp …, và dĩ nhiên là Dưỡng - người ghi nhật ký. Thêm nữa,
trong Những ng tư và những cột đèn, sự va đập, đối thoại, tương tác giữa thế giới
quan đa trị, và thế giới quan đơn trị cũng diễn ra từng ngày, từng giờ. Guồng máy
chính quyền nhân dân của chế độ mới được điều hành theo thế giới quan đơn trị;
chiến tuyến ta - địch, tốt - xấu được thiết lập rất rõ ràng cả trong hành động thực tế
lẫn trong tư tưởng. Não trạng thế giới quan đơn trị đang hình thành trong tính lịch
sử cụ thể của nó. Trong khi đó, Dưỡng, nhân vật chính của tác phẩm, vẫn khăng
khăng ôm giữ một quan niệm riêng về thế giới đa trị của mình. Mỗi nhân vật trong
nhóm bạn của anh, cũng đều có một quan niệm riêng về thế giới, về hữu thể và tha
nhân; có những cách thế lựa chọn ứng xử riêng theo tâm thế hiện sinh hay phi hiện
sinh của mình… Qua góc nhìn nội cảm và những góc nhìn trinh thám, Dưỡng, một
mặt tự nhận thức con người bên trong phóng túng, phức tạp của mình, mặt khác,
anh lần lượt phát hiện ở từng thành viên trong nhóm bạn lấp ló con người hai, ba
mặt của họ - một cách thế ứng xử bất đắc dĩ, để thích nghi, khi thời cuộc đổi thay.
Cuộc điều tra tự phát của Dưỡng có tìm ra sự thật vụ án hay không, chưa quan trọng
bằng việc anh đã phát hiện ra bản chất vốn bị che dấu của người này, những đổi
thay, tự thích ứng quá lộ liễu với hoàn cảnh của người kia. Điều này chứng tỏ cái vỏ
trinh thám chỉ là cớ để cuốn tiểu thuyết thể hiện những trăn trở về sinh tồn cá nhân
trước những thiết chế quyền lực. Cuốn tiểu thuyết để lại những suy tư khôn nguôi
về phận người: “với thời gian, chiến tranh ngày càng khốc liệt và chiến tranh giấu
kín trong nó, nhiều số phận, nhiều câu chuyện riêng tư, không ít bất thường . Cuốn
tiểu thuyết đưa đến góc nhìn mới về chiến tranh trong tương quan với bản thể và
nhân tính.
Nỗi buồn chiến tranh, có thể, với sự trợ lực của thời gian, đi xa hơn. Những
tranh cãi phức tạp, gay gắt hầu hết liên quan đến câu hỏi có thể viết về chiến tranh
như thế nào? Cuốn tiểu thuyết đ đưa ra một thức nhận phũ phàng, gây hấn:
chiến tranh còn là sự hủy hoại, sự tước đoạt tàn ác khủng khiếp nhất với hình hài
và phẩm giá của con người. Dày đặc trong tiểu thuyết là những cái chết buồn thảm,
71
thê lương, thậm chí có phần quái dị, huyễn hoặc. Chưa bao giờ, bộ mặt chiến tranh
hiện lên với đầy đủ mọi góc cạnh khủng khiếp kinh hoàng đến thế: Một cõi không
nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt v đại, là cõi không đàn ông,
không đàn bà, là thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng
giống con người… , Các ông, các bà, các anh, các chị xin hãy nghe tôi kể câu
chuyện đau thương này, và sau đó tôi sẽ hát để mọi người nghe bài ca kinh hoàng
về thời đại chúng tôi [188, 54].
Chiến tranh hủy diệt với nhân tính, và đặc biệt, tình yêu. Chiến tranh đã xé
nát tình yêu từ cửa ngõ. Ta có thể cảm nhận được dụng ý của nhà văn ở cách chọn
lựa chi tiết. Trên chuyến tàu định mệnh đêm ấy, trước ngày Kiên vào chiến trường,
những kẻ cưỡng hiếp, hủy hoại cuộc đời Phương lại là những người cùng chiến
tuyến với Kiên. Về sau này, khi chiến tranh chấm dứt, Kiên trở về tìm Phương, tình
yêu trở thành vết thương sâu hoắm, kinh khủng trong lòng Kiên bởi những kẻ vừa
ăn nằm vừa nhục mạ, phỉ báng Phương cũng chính là đồng đội của Kiên. Nếu đó là
những kẻ thù bên kia chiến tuyến của anh, mối tình của Kiên và Phương sau chiến
tranh còn có khả năng được hàn gắn. Nhưng bi kịch ở chỗ: tình yêu của Kiên và
Phương đã bị hủy hoại bởi chính cuộc chiến tranh và cả những thứ thuộc về cuộc
chiến tranh mà Kiên dự phần vào, đã say mê theo đuổi. Giằng bật ra khỏi Phương,
đời Kiên bắt đầu thực sự đẫm trong máu, trong thương đau, trong thất bại không
chỉ bởi mất mát tình yêu, còn bởi thức nhận về sự dày xéo kinh hoàng của nó lên
những vẻ đẹp vĩnh cửu.
Như vậy, cuốn tiểu thuyết, dễ hiểu, trở thành sự kiện chấn động vì đã đụng
chạm vào vùng cấm kị thiêng liêng nhất của 30 năm lịch sử, bị coi là báng bổ hàng
triệu sinh mạng anh hùng đã ngã xuống cho cuộc chiến thần thánh. Cái nhìn chiến
tranh như vậy là trái ngược, vi phạm hoàn toàn nguyên tắc nhìn về chiến tranh
trong cảm hứng anh hùng sử thi, chính ngh a của văn học hiện thực xã hội chủ
ngh a. Được nhìn ngắm từ những mảnh vỡ của số phận, lịch sử không nhìn theo
một cái nhìn duy nhất và thống nhất. Cuốn tiểu thuyết hiện đại này đã tạo nên một
dạng lịch sử song hành độc đáo, vừa chiếu ứng với chính nó, vừa chiếu ứng với
nhiều hệ qui chiếu khác. Lịch sử không còn là một tiếng nói duy nhất mà trở
thành một tập hợp giọng không đồng qui .
72
Nỗi buồn chiến tranh không chỉ là cách khắc họa hiện thực chiến địa “đi
ngược của Bảo Ninh, nó đưa ra phát hiện lạ lùng khác: không phải vinh quang mà
chính nhờ nỗi buồn, người lính đã không bị chôn vùi trong cảnh chém giết triền
miên, trong cảnh khốn khổ của những tay súng, những đầu lê, những ám ảnh bạo
lực và bạo hành. Cùng nỗi buồn, họ bước trở lại con đường riêng của mỗi cuộc đời
mà nỗi buồn sẽ giày vò tâm hồn họ, nhưng cũng sẽ giữ họ trên bờ vực của gục ngã,
của tha nhân. Cho nên, cuốn tiểu thuyết có một đề xuất mới: vừa lấy nhân bản làm
góc nhìn của chiến trận, vừa lấy nhân bản làm làm điểm tựa đưa con người đi qua
mọi biến cố của số phận, trong đó có chiến tranh.
Bi kịch của Trần Dần là bi kịch của một nhà cách tân, có lẽ là một trong
những nhà cách tân lớn nhất và sâu sắc nhất trong văn học miền Bắc nửa thế kỷ qua.
Việc trở thành một thủ l nh bóng tối , là một biến cố đau xót cho một nhân cách,
số phận, đem đến cho cuộc đời ông vô số nhọc nhằn, cay đắng. Nhưng ở một khía
cạnh nào đó, đây lại chẳng là một cơ may cho ông: chính sự tồn tại “bên lề” ấy
khiến ông có thể yên tâm đi con đường riêng của mình, viết theo xác tín nghệ thuật
của mình. Đến Bảo Ninh, hệ hình tiểu thuyết hiện đại chủ nghĩa đã có đại diện xuất
sắc, tiếp tục can đảm viết của Trần Dần để đẩy hệ hình hiện đại của tiểu thuyết Việt
lên đỉnh cao. Cặp đôi nhân vật hệ hình Bảo Ninh - Trần Dần đã khái quát bằng các
tiểu thuyết của mình hướng vận động của tiểu thuyết Việt Nam. Nếu Bảo Ninh là kết
quả của bước phát triển rẽ ngoặt sau cú hích Đổi mới thì trường hợp Trần Dần là sự
hợp thức hóa xu thế đã định hình nhưng bị ngăn cấm, ngáng trở.
Tuy vậy, đến từ sau 1992, phong trào Đổi mới chuyển sang một giai đoạn
mới. Nếu đặt trong quỹ đạo đời sống văn nghệ thời kì này, một loạt những biểu hiện
cấp tiến trong đời sống văn nghệ mấy năm cao trào đổi mới sẽ có thể bị xem như
một trong số các “vụ” (vụ “nghị quyết 9”, vụ “đề dẫn” và “văn học phải đạo”, vụ
“Nguyên Ngọc” …), nghĩa là sẽ có những tổng kết, nêu ra những lỗi lầm, nhất là
những lỗi nặng nhất, kèm theo những xử phạt cụ thể. Tháng 12/1988, Nguyên Ngọc
rời vị trí tổng biên tập báo Văn nghệ, sau khi tờ báo phê bình một thời gian. Sau sự
kiện báo Văn nghệ, năm 1989, Trần Độ cũng thôi giữ chức Trưởng ban văn hoá
Nghệ thuật trung ương. Các chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về Đổi mới và
nâng cao chất lượng phê bình văn học nghệ thuật (tháng 4/1989), Nghị quyết Hội
73
nghị lần 7 Ban chấp hành Trung ương Khoá 6 về Một số vấn đề cấp bách về công tác
tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay (tháng 8/1989), Chỉ thị của
Ban Chấp hành Trung ương về Một số vấn đề trong công tác quản lý văn học nghệ
thuật hiện nay (tháng 6/1990) đã không tiếp nối được tinh thần của Nghị quyết 05
trước đó. Ở bối cảnh rộng hơn, khi Liên Xô và các nước Đông Âu khủng hoảng rồi lần
lượt sụp đổ, không khí chính trị và tư tưởng, văn hoá ở Việt Nam bị tác động mạnh.
Song, khác với những gì có thể xảy ra theo quỹ đạo cũ, thì với một vài xử lý
kể trên, phong trào Đổi mới trong văn nghệ chỉ bị “hạ nhiệt” chứ không bị dập tắt;
và ở quy mô xã hội - kinh tế, Đổi mới vẫn đang được tiếp tục. Tuy nhiên, đã diễn ra
một sự lựa chọn âm thầm của từng cây bút. Khi xã hội Việt Nam bước sang thời kì
hậu Đổi mới thì một số cây bút phong trào trở về với lối viết xưa, số khác đông hơn,
có ý thức hoặc theo quán tính, vẫn tiếp tục không đổi lối viết. Từ sau 1986, tiểu
thuyết Việt Nam có hẳn một khuynh hướng duy trì hình thức thể loại truyền thống
với rất nhiều tiểu thuyết như Dòng sông mía, Gia đình b mọn, Ba người khác, Con
ngựa Mãn Châu, Tìm trong nỗi nhớ, Thế giới xô lệch... Vẫn thấy ở các tiểu thuyết
này việc người viết tiểu thuyết chú trọng đến mục đích tạo cho người đọc ảo tưởng
vào tính hiện thực của câu chuyện, từ đó mời gọi người đọc bộc lộ thái độ và cảm
xúc của mình trước những vấn đề xã hội đ dược chuyển dịch vào tác phẩm. Nếu
diễn đạt cách khác, thì điều này có ngh a là, không khác tiểu thuyết giai đoạn trước,
tiểu thuyết thời kỳ đổi mới vẫn là sản phẩm của nguyên tắc phản ánh luận trong văn
học. Và đây là mô hình tiểu thuyết đ đạt tới trình độ điển phạm ở thời đại của
Balzac…” [121]. Thực ra, các câu chuyện vẫn là tham vọng dùng lăng kính của
cái cá nhân, cái đơn lẻ ấy để giải thích quỹ đạo bay của toàn bộ thế giới này.
[24, 256]. Các tiểu thuyết nhóm này vẫn nằm trong phạm trù tiền hiện đại trong cảm
nhận và tái hiện thế giới.
Số còn lại, nhất là những cây bút trẻ mới xuất hiện hoặc sẽ xuất hiện sau
này, nhưng đã kịp hít thở bầu không khí của Đổi mới, vẫn tiếp tục hành trình đổi
mới. Đó là đổi mới với những nỗ lực bứt phá tự giác, và vì thế, là đổi mới mang lại
nhiều giá trị. Họ là những Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn
Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Ngọc Tư, Linda Lê… với tư cách là những
nhà văn hoàn thiện hệ hình. Cách tân văn học ngày càng được tính bằng những tên
74
tuổi và tác phẩm cụ thể, không phải bằng thành tựu chung chung của một đội ngũ
thống nhất . Nhìn từ quan niệm về thực tại, có thể thấy rõ đặc điểm hệ hình tiểu
thuyết hiện đại ở hai phương diện tiêu biểu:
- Sự đào sâu vô thức
Trong suốt thế kỉ XX, khái niệm vô thức do Freud đề xuất đã được đánh giá
là một cuộc cách mạng lớn trong tâm lí học nói riêng và khoa học nói chung, bởi vì
giống như Copernic khám phá ra Trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ,
Darwin tìm ra con người không phải tạo vật của Chúa, thì Freud phát hiện ra con
người không phải sinh vật làm chủ được chính mình. Nói như nhiều nhà tâm lí học
khác sau này về Freud thì với vô thức và phân tâm học, lần đầu tiên người ta biết tới
ngoài con người chính trị, con người kinh tế, tức là con người bề mặt, còn có cả con
người vô thức, tiềm thức, con người bản năng…, tức là có một con người ở bề sâu.
Phân tâm học trở thành một siêu tâm lí học (metapsychology) không chỉ áp dụng
vô thức trong nghiên cứu tâm lí và chữa trị y học, cũng không đơn thuần là vấn đề
trong phạm vi quan niệm về con người mà rộng hơn, chi phối phương thức cảm
nhận thế giới thời hiện đại.
Các tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 dành một khoảng không gian rộng lớn
cho những yếu tố thuộc về tiềm thức, vô thức của nhân vật: nỗi ám ảnh, nỗi sợ hãi...
Niềm khao khát thám hiểm tiềm thức, vô thức - vùng tranh tối tranh sáng, nhiều khi
tăm tối và mù lòa nhưng đồng thời lại là một mãnh lực vô danh trú ẩn trong con
người chính là niềm khao khát ám ảnh dẫn tiểu thuyết đi vào hiện thực bề sâu - hiện
thực bên trong con người. Nhiều tiểu thuyết đã sử dụng motif giấc mơ, giấc chiêm
bao như một ngôn ngữ đặc biệt. Thủ pháp này thể hiện rõ trong các tiểu thuyết: Nỗi
buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Ăn mày d v ng (Chu Lai), Ngược dòng nước lũ (Ma
Văn Kháng), Người đi vắng, Vào cõi, Thoạt kì thủy, Những đứa trẻ chết già
(Nguyễn Bình Phương), Đêm thánh nhân (Nguyễn Đình Chính)... Các nhân vật hiện
lên với vô số giấc mơ: Ông đ mơ thấy Cụ về, Cụ dắt theo cả bà chúng mày nữa,
Cụ giận lắm, không muốn cho phá cái nhà này đâu [196, 50], Anh như thể là
một người lính không còn sống từ trong lòng đất và từ trong các giấc mơ lên tiếng
kể cho ta nghe về sự sống chết; kể về phút lìa đời và thậm chí kể về cuộc đời sau khi
đ bị giết” [192, 110]. Những điềm báo còn được thể hiện qua linh cảm và một số
75
biểu hiện bất thường khác như cảm giác bất an khi có con vật lạ xuất hiện bất
thường, thường là đom đóm, bươm bướm, hay đơn giản chỉ là một cái rùng mình.
Trong Những đứa trẻ chết già, Chí trước đêm chiến đấu có linh cảm không lành,
đột nhiên thay đổi thái độ, giả vờ ốm, không muốn ra trận: - Tao ốm...Đêm nay tao
không thích. Mai tao đi. - Tao chán, tao đang nhớ nhà...Tao linh cảm có điều không
lành sẽ đến với mình. Tao mơ thấy cây si… [196, 86].
- Sự xuất hiện của yếu tố kì ảo theo tinh thần hiện đại
Với những giấc mơ, chiêm bao, mộng mị…thực tại trong nhiều tiểu thuyết
sau 1986 mang đậm chất kì ảo. Bản thân cái kì ảo, đến các tiểu thuyết sau 1986
cũng đã có sự thay đổi hệ hình. Lê Huy Bắc khi tiến hành phân chia và nhận diện
các giai đoạn phát triển khác nhau của văn học huyễn ảo đã khẳng định, cái kỳ ảo
xuất hiện ở giai đoạn thứ hai, “bao gồm thời kỳ cận, hiện đại, với nguyên tắc người
kể luôn cố thuyết phục người đọc rằng câu chuyện của mình kể là có thật và cái kì
ảo luôn tồn tại với mục đích gây nỗi hoang mang, sợ h i cho người đọc [6, 18].
Trong hệ hình tiền hiện đại, tồn tại hai thế giới song hành, thế giới ảo và thế giới
thực. Hai thế giới ấy đối lập, tách rời nhau. Điều đó có nghĩa là cái kỳ ảo nằm ngoài
con người. Vì thế, người ta có thể quan sát và sử dụng nó như một thủ pháp nghệ
thuật. Ngô Tất Tố với Suối hoa đào, Phạm Duy Khiêm với những truyền kỳ viết lại
(bằng tiếng Pháp), mà ông dịch là Ghi chép tản mạn về những truyện kỳ lạ (Copies
éparses des Comtes étranges); Tản Đà khi dịch (hay phóng tác?) Liêu trai chí dị
đều lộ rõ ý định khuyên răn người đời phải sống có đạo đức... hoặc “đem kiến
thức khoa học để lí giải những hiện tượng thần bí" [55, 654]. Tính chất ngụ ngôn đã
lấn át chất kỳ ảo tạo nên một cái kì ảo duy lý.
Còn trong chủ nghĩa hiện đại, thế giới của thực tại có tính siêu thực, nơi cả
cái huyền ảo và cái bình thường tự do tồn tại hài hòa bên cạnh nhau. Không có đứt
gãy hiện thực, thế giới của thiên đàng, của địa phủ, cái kỳ ảo song hành tồn tại,
thậm chí tồn tại bên trong con người. Như vậy, cái kì ảo từ một thủ pháp nghệ thuật
đã trở thành một cái nhìn nghệ thuật, một quan niệm nghệ thuật. Có thể thấy vô số
yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Giàn thiêu như chi tiết xác Từ Vinh báo oán: “Từ khấn
ba lần. Đến lần thứ ba, trên mặt sông, thây Từ Vinh khẽ rung động. Và bất chợt cái
thây dựng lên một lần cuối cùng, mặt chạm mặt Diên Thành hầu trên lầu, rồi từ từ
76
đổ, nằm xuống mặt sông. Đôi con ngươi trở lại nằm trong hốc mắt. Mắt khép. Và
Từ Vinh trôi ngược trở lại, xuôi dòng nước. [171, 78] hay cuộc phán xét Ỷ Lan
chốn địa phủ: Những mảnh áo đai vóc của Ỷ Lan bắt đầu bục ra dưới bàn tay của
các thị nữ. Thái hậu kinh hoàng chạy trốn. Nhưng từ bốn phía của hầm mộ cũng
chìa ra tua tủa những bàn tay trong veo. Và đàn chuột đói hầm hè trở nên đông đúc
vô kể… [171, 239]. Xuất hiện mô típ nhập hồn, hoá thân: Hồn của Từ hăm hở ấp
lên người của phu nhân… Hồn đi đến cuối con đường thì đ chui tọt vào trong hình
hài một đứa trẻ trai nằm cuộn tròn sẵn trong bụng Sùng phu nhân, bất động như
một xác chết" [171, 456]. Các kiếp luân hồi Từ Lộ - Đạo Hạnh và Dương Hoán -
Thần Tông tạo ra màu sắc huyền thoại cho câu chuyện: Những giọt nước mắt của
bà tưới lên người đức vua. Vua run rẩy. Và kì lạ nước mắt chảy đến đâu, những
đám lông vằn vện tuột ra từng đám, rồi lột hết, lộ ra thân mình của đức Vua, với
nước da trắng xanh, thư sinh nho nh . Nước da và thân mình này không giống vua
Thần Tông là bao. Đó là nước da của kẻ chỉ biết chơi cờ, đọc sách, được sinh ra để
yêu đương, đêm trăng ngẩn ngơ nhớ bạn, tựa vọng lâu thổi khúc Phượng cầu
hoàng… [171, 463] …
Trong Mẫu Thượng Ngàn của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, tại làng Cổ
Đình, thế giới hiện thực của những kẻ thực dân, của những người cách mạng và các
nhà Nho hòa quyện trong thế giới tâm linh của đám con nhang theo đạo Mẫu, của
ông hộ Hiếu chuyên làm nghề phù thủy, của tín ngưỡng dân gian về ông Đùng bà
Đà khổng lồ, về ma trùng bắt người… Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh vô số
những yếu tố huyền ảo. Đó là hình ảnh truông Gọi Hồn, đồi Xáo Thịt ngập ngụa
trong máu và xác chết, loài chim khóc than như người, các loại măng nhuốm một
màu đỏ như những tảng thịt ròng ròng máu , những quầng sáng đom đóm lớn
tày cái mũ cối, có khi hơn , khói hồng ma - thứ ảo giác giúp người lính trong tuyệt
vọng quên đi mọi nông nỗi đời lính, quên đói khổ, chết chóc, quên béng ngày
mai . Rồi đến những tiếng hú ghê rợn, điên loạn của rừng núi, của những hồn ma
và muông thú. Ám ảnh và khủng khiếp nhất là những con người - vượn: khi ngả
ra, cạo sạch bộ lông thì hóa ra con vật hiện nguyên hình một mụ đàn bà b o xệ, da
sần lở, nửa xám, nửa trắng hếu, cặp mắt trợn ngược... Thực - ảo kết dính đến mức
77
chúng ta nhiều lúc không thể xác định được đâu là huyền ảo, đâu là hiện thực, cái
nào đã thực sự diễn ra, cái nào chỉ là tưởng tượng và ảo mộng.
Cảm xúc và tâm lý chung của con người trong tiền hiện đại chủ nghĩa khi
chuyển dịch từ thế giới thực sang thế giới ảo là sợ hãi, còn trong nhiều tiểu thuyết
sau 1986, con người bình thản và chấp nhận. Một loạt các tác phẩm Thoạt kì thủy,
Ngồi, Những đứa trẻ chết già của Nguyễn Bình Phương, Giàn thiêu của Võ Thị
Hảo, Dòng sông mía của Đào Thắng, Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh
Thái... coi kì ảo như một phần của thực tại. Trong Tiếng Kiều đồng vọng, Mai đắm
mình trong những giấc mơ: Tôi không thiết những câu chuyện ban ngày. Tôi nằm
nhớ lại giấc chiêm bao tôi thấy vào đêm qua và vào đêm trước, đêm qua và một
đêm trước đó và muôn nghìn đêm ấy nữa…Khi nhớ lại những giấc mộng tôi không
nhớ câu chuyện nào nằm trong giấc mộng nào, những đường ranh giữa giấc mộng
này và giấc mộng kia đ tan đi, những chiếc lá mục đ tan vào nhau những ngày
trở về đất…” [190, 111]. Hồn ma Chi, cô bé bị chính cha mình tìm cách giết 20
năm trước vẫn luôn hiện diện: Buổi tối giữa những cơn sốt, tôi nằm mơ thấy Chi.
Thân người của tôi, gương mặt của tôi, những mái tóc và chiếc áo là của nó, mong
manh và dài lướt thướt…Nó nhìn xuống tôi, bằng đôi môi tím ngắt, và trong cơn sốt
tôi chợt nghe những ngọn gió lạ lành lạnh trong một bầu trời gần tắt nắng, vừa se
sắt vừa êm ái…Chi gọi tôi đến gần. Nó đưa tôi đến nằm xuống một phiến đá hình
chữ nhật nửa giống chiếc quan tài nửa giống một bờ tường thấp. Hai tay tôi dang
ra, Chi cúi xuống tôi thật gần, bàn tay Chi chạm vào bàn tay tôi…. [190, 81];
Nhưng Chi không chịu nằm dưới lòng sông. Nó trồi lên, bơi về, đêm đêm…Chi về
nói chuyện, bằng tiếng của lá, bằng tiếng của mưa và những cơn gió đêm không
bao giờ ngủ. Tôi không hiểu lời Chi nói, nhưng tôi vẫn nghe, đêm đêm, tiếng của
những đốt xương không đội mồ chôn và của tình yêu không mồ chôn đang trăn trở,
đang chờ đợi tôi nơi nơi, ngoài sân, trong nhà, giữa trời đêm và trong lồng ngực
[190, 182-183]. Đoàn Minh Phượng kiến tạo nên một thế giới tổn thương: những
trái tim mồ côi sinh nở những trái tim mồ côi "không có cội nguồn nào để quay về,
không có chân lý nào để tìm kiếm"; những lừa gạt, bội phản luôn chực chờ; những nỗi
đau như những vết cắt hằn trên người khiến trinh tiết và mọi giá trị từng được đặt ra
đều trở nên vô nghĩa. Đằng sau những tang thương của phận người khi đã quay lưng
78
mà đi, với yếu tố kì ảo, Đoàn Minh Phượng đang mở ra từng phần u minh và bi sầu
nhất của con người và đời sống, soi ngắm nó bằng một cái nhìn thấu thị.
Bản chất của yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết sau 1986 là sự cố gắng nắm bắt
bằng kinh nghiệm cái ý ngh a sâu xa của hiện tượng và sự vật, là sự tìm kiếm cái
siêu thực dựa trên sự phủ nhận triệt để, tận gốc rễ, những nguyên tắc và luận cứ
thực chứng chỉ dựa trên nghiên cứu cái hiện thực , cái bề mặt nắm bắt, sờ mó
được. Điều này xác nhận niềm tin của nghệ thuật vào tính khả thể của việc chiếm
l nh tận cùng chân lý về thế giới và con người [2, 47]. Như vậy, điều mà nghệ sĩ
hiện đại theo đuổi là tìm kiếm cái thực tại bên trong, một thực tại có thể tin cậy. Đó
là một cách để các nhà tiểu thuyết sau 1986 nhìn thấu một hiện thực rất khác nhưng
không kém phần chân thật.
Tuy nhiên, cái kỳ ảo xuất hiện cùng với sự đổi mới tư duy hiện thực của tiểu
thuyết, nhưng từ chiều sâu, ở nhiều tiểu thuyết, sự thể nghiệm ấy chỉ góp phần nới
rộng mà không thể phá dỡ khung khổ thống nhất của thế giới với những đường
phân giới rõ ràng. Dòng ý thức mang trong bản chất của nó sự đứt gẫy, bất toàn
nhưng từ chiều sâu, đó vẫn là nỗ lực nhận thức một thế giới khác, đầy bí ẩn của nội
giới, là sự “tự bảo vệ mình trước sự đe dọa của hỗn độn vũ trụ trong điều kiện mọi
trung tâm đều không chắc chắn [59, 15]. Phi lý hiện đại, trong bản chất, là
cuộc chiến chống lại sự tha hóa và phi lý để con người tìm lại chính mình trong
một thế giới có ý ngh a [59, 22]. Nhiều tiểu thuyết giai đoạn này lấy tâm hồn làm ô
cửa để đưa ra những thể nghiệm về thế giới, nhưng đó là sự thể nghiệm gắn liền với
cam kết về một thế giới toàn vẹn, tạo ra ảo ảnh về thế giới có thực. “Có thể nói, sự
cam kết với độc giả như thế của các tiểu thuyết gia thời kỳ đổi mới dù trực diện hay
âm thầm thì vẫn là hướng tới xây dựng mô hình thế giới hoàn kết, có thủy có chung,
để bản thân câu chuyện đủ sức tự vận động và sản sinh ngh a. Sự cam kết ấy ôm
trùm, tạo lập dòng chảy chính trong sự vận động, đổi mới tiểu thuyết Việt Nam từ
sau năm 1986” [2, 49]. Ấn tượng cuối cùng, trong các tiểu thuyết này, người đọc
vẫn cảm nhận được sự cam kết về một bức tranh thế giới chỉnh thể. Ngh a là thế
giới dù hỗn độn vẫn hiện diện trong trạng thái hỗn loạn - hài hòa . Trong tiểu
thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Khắc Trường dù tạo dựng một thế
giới ma mị, kì quái vẫn thống nhất các motif chủ đề trong đó có một chủ đề đóng
79
vai trò trung tâm: sự thù hận giữa hai dòng họ. Chủ đề trung tâm này qui tụ các
nhân vật, các sự kiện và là tâm điểm tạo ra cảm giác về một hiện thực chân thực.
Cách tổ chức truyện kể như thế có thể bắt gặp ở Bến không chồng của Dương
Hướng với chủ đề trung tâm là mâu thuẫn dòng họ; ở Chim én bay là chủ đề hòa
giải hậu chiến; ở Dòng sông mía là chủ đề lòng thù hận và sự tăm tối, ở Giàn thiêu
là chủ đề dục vọng và giải thoát, ở các tiểu thuyết của Chu Lai là chủ đề chấn
thương hậu chiến…
Dĩ nhiên, trên mặt bằng ấy, có những tiểu thuyết vượt qua được những đặc
điểm này. Chúng đưa mình đi xa hơn để đến gần với cảm quan hiện thực phân
mảnh của hệ hình hậu hiện đại.
3.1.2 Từ kiến tạo thực tại đến cảm quan thực tại phân mảnh
Vào thời hậu hiện đại, sự khủng hoảng các giá trị - tư tưởng cơ bản của xã
hội, sự lạm phát leo thang của những thần tượng và những đức tin “ảo”, đã dẫn tới
sự biến mất của thực tại, thay thế nó bằng sự xuất hiện một siêu thực tại - một
bản sao không có bản gốc ”. Thay vì giáp mặt với hình ảnh thực, con người ngày
nay phải giáp mặt với sự phức hợp của nhiều hình ảnh nhân tạo, không có gì đảm
bảo những hình ảnh mà ta nhìn thấy một cách sinh động qua các phương tiện truyền
thông là bản sao chính xác của các sự kiện hiện thực đã xảy ra hay chưa xảy ra…
Các nhà hậu hiện đại chủ nghĩa dẫn ta đến ngã rẽ phi lý tính, cho rằng cái “thực tại”
mà lý tính muốn định danh và chi phối, thực ra không hề tồn tại, nghĩa là, không có
cái “có thực” sở chỉ của cái biểu đạt. Cái biểu đạt chỉ có thể quy chiếu đến những
cái biểu đạt khác: không bao giờ ta đến được cái “có thật”. Siêu thực tại ra đời. Nó
đập vỡ không thương tiếc mô hình nghệ thuật cao cả của chủ nghĩa hiện đại cùng
các mô hình văn hoá nghệ thuật trước đó, và từ những mảnh vỡ lắp ghép một thực
tại giống như tấm kính vạn hoa mang đầy tính trích dẫn, chắp vá.
Quan niệm về hiện thực như trên của chủ nghĩa hậu hiện đại trên thế giới đã
đi tắt vào Việt Nam vào giai đoạn hậu kì của Đổi mới qua cửa ngõ Internet và dịch
thuật. Việt Nam từ vùng trũng của thế giới, nhờ Internet được hòa vào thế giới
phẳng mang tính chất toàn cầu. Internet vừa với tư cách một phương tiện kết nối cá
nhân với tinh thần thế giới, vừa là một phương tiện xuất bản mới đã tạo thành một
điểm nhấn quan trọng trong đời sống văn hoá và văn học đương đại. Trên thực tế,
80
văn học mạng đã làm thay đổi các quan niệm truyền thống về sáng tác và tiếp nhận văn
học. Hàng trăm các trang mạng trong nước như vienvanhoc.org; vanghequandoi.com,
lyluanvanhoc.com; tapchisonghuong.com.vn; vanvn.net; tiasang.com.vn…; nước ngoài
như talawas.org; tienve.org; hopluu.net; damau.org… cùng các trang web cá nhân:
tran-nhuong.com; lethieunhon.com; nguyentrongtao.org; thuykhue.free.fr... làm sôi
động thêm đời sống văn học, cập nhật kịp thời, thường xuyên các thông tin văn hoá,
văn học. Một lượng khổng lồ các tư liệu dịch, các tiểu luận, tranh biện về hậu hiện đại
được đăng tải rộng rãi ở đây khiến cho mỗi nhà văn càng phải ý thức rõ hơn tư cách
nhà văn toàn cầu tất yếu của mình, đúng như nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc nhận
xét: Chủ ngh a hậu hiện đại vừa là khí quyển văn hoá của một thời đại vừa là một
trào lưu tư tưởng và nghệ thuật. Người ta có thể tránh né hay từ chối một trào lưu
nhưng lại không thể, không có cách nào tránh né hay từ chối được khí quyển văn hoá
của cái thời đại mà người ta đang sống [129].
Sự phát triển của dịch thuật, nghiên cứu, phê bình văn học càng đẩy nhanh
sự thâm nhập của chủ nghĩa hậu hiện đại vào thực tiễn văn học Việt Nam. Kể từ tài
liệu đầu tiên Vài suy ngh về cái gọi là hậu hiện đại của Antonio do Nguyễn
Trung Đức dịch, in trên tạp chí Văn học, số 5/1991, đến năm 2003 đã có hai công
trình bề thế Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở
Tây Âu và Hoa Kì thế kỉ XX do I.P. Ilin và E.A.Tzurganova chủ biên (Đào Tuấn
Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch) và Văn học hậu hiện đại thế giới do
Đào Tuấn Ảnh, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Thị Hoài Thanh sưu tầm, biên soạn) cung
cấp cho người đọc cơ hội tiếp cận với những tiểu luận quan trọng về hậu hiện đại
của thế giới. Năm 2006, công trình Nhập môn Chủ ngh a hậu hiện đại của
R.Appignanesi và Ch.Gattat do Trần Tiễn Cao Đăng dịch được ấn hành. Đến năm
2007, một công trình quan trọng khác là Hoàn cảnh hậu hiện đại của J.F.Lyotard do
Ngân Xuyên dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính và viết lời giới thiệu được phát
hành… Chưa kể hàng trăm bài viết hoặc dịch thuật, hoặc giới thiệu các sáng tác của
các tác giả được xếp vào trào lưu hậu hiện đại, hoặc bàn luận về các vấn đề của chủ
nghĩa hậu hiện đại trên tạp chí, trên các trang web văn chương hay các công trình
nghiên cứu khoa học đã tăng thêm sức nóng cho vấn đề tiếp nhận chủ nghĩa hậu
hiện đại tại Việt Nam.
81
Quả thực, hậu hiện đại đã trở thành tâm thức sáng tác của rất nhiều người
cầm bút. Nhà thơ Inrasara với loạt bài: Hậu hiện đại & thơ hậu hiện đại Việt, một
phác hoạ ( đăng ngày 21.12.2007 trên inrasara.com); Về thực tiễn sáng tác và phê
bình hậu hiện đại ở Việt Nam (đăng ngày 08.12.2011 trên inrasara.com); Hậu hiện
đại khởi động cách mạng văn học Việt Nam (đăng ngày 05.01.2013 trên
inrasara.com); Thơ Việt, thế hệ hậu hiện đại mới (đăng 18/08/2016 trên
tapchisonghuong.com.vn) đã đưa đến cho người đọc hình dung về một tư cách nhà
thơ mới: …Khi các nhà thơ cổ truyền còn say mê trò lựa chữ đẫm chất văn
chương, chọn hình ảnh đẹp đầy thi tính thì hậu hiện đại cố ý sử dụng tràn lan ngôn
từ thô tục của đời thường, đùn cơ man hình ảnh sinh hoạt chợ búa hay đường phố
vào thơ; khi các nhà thơ hiện đại Việt Nam chỉ xem ngôn từ là chất liệu duy nhất
làm nên bài thơ thì hậu hiện đại quyết làm ngược lại: không ít bài thơ ở đó ngôn từ
chỉ là chất phụ gia chú thích cho ảnh; khi cả người viết lẫn người đọc đều xem văn
chương như một cõi đầy nghiêm trang, ghế cao ngồi tót sang trọng và nghiêm trọng
cùng cơ man tính thì hậu hiện đại quyết biến văn chương thành trò cười để bởn
cợt, cười nhạo vào chính văn chương. Cuối cùng, trong khi hầu hết nhà văn, nhà
thơ đương thời xem hoạt động và tác phẩm dòng chính lưu mới là văn chương thì
tác giả hậu hiện đại chọn đứng ngoài lề. Như là cách thế hủy trung tâm và giải
trung tâm quyết liệt nhất [115]. Nhà văn Lê nh Hoài, trong bài Văn chương hậu
hiện đại, nhìn từ góc độ người sáng tác viết: “Khi viết tiểu thuyết Chuyện tình mùa
tạp kỹ (NXB Đà Nẵng 2006, sắp tái bản phục hồi lại tên ban đầu là Tìh êu) thì tôi
đ định hình về chủ ngh a hậu hiện đại, tôi thấy tinh thần nó rất hợp với tôi. Nhận
xét là quyền của nhà phê bình, nhưng cũng có thể xuất phát từ tâm thế của người
viết nên cuốn tiểu thuyết này được một số nhà phê bình, nổi bật và tập trung là
Inrasara nhận định rằng tác phẩm mang tâm thức và sử dụng thủ pháp hậu hiện
đại. Tôi thấy nhận định đó khả chấp. Những cái tôi viết sau đây, có thể cũng sẽ có
hàm lượng hậu hiện đại cao. Nhưng tôi xin nhắc lại, nó đi ra từ tâm thức của
chính tôi, chứ không phải tôi đang tuyên truyền cho một chủ ngh a [110]. Có thể
nói, những “hoàn cảnh hậu hiện đại” tiêu biểu kể trên là điều kiện, tiền đề cho hệ
hình hậu hiện đại trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986 đến nay.
82
Tuy nhiên, hậu hiện đại theo chân Internet và dịch thuật vào văn học Việt
Nam với những đặc thù riêng. Hậu hiện đại là một trào lưu văn hóa vẫn còn đang
phát triển nên chưa có một định hình rõ rệt. Trong khi, bối cảnh Việt Nam chưa
hoàn thành hiện đại hóa đã đành, lại còn tồn đọng nhiều yếu tố tiền hiện đại. Sự hỗn
dung này làm cho quá trình chuyển đổi hệ hình văn học/tiểu thuyết từ hiện đại sang
hậu hiện đại ở Việt Nam càng khó khăn và có những đặc điểm riêng. Mặt khác,
trong khoảng thời gian quá ngắn ngủi (từ 1986 đến những năm 90), tiểu thuyết Việt
Nam đồng thời phải gấp gáp đi qua hai hệ hình. Điều này lý giải vì sao, ở các đại
diện hệ hình hiện đại, đã có rất nhiều dấu hiệu của hậu hiện đại, và cũng thật khó để
phân định nhà văn nào là hiện đại và nhà văn nào thực sự là hậu hiện đại. Dù vậy,
không thể phủ định hành trình của các nhà văn với nhiệm vụ kép: vừa hoàn thiện hệ
hình hiện đại, vừa nỗ lực bứt phá đưa tiểu thuyết Việt Nam về gần với hậu hiện đại.
Đóng góp của các đỉnh cao lối viết hiện đại chủ nghĩa như Tạ Duy Anh với Đi tìm
nhân vật…, Nguyễn Bình Phương với Thoạt kì thủy, Những đứa trẻ chết già, Ngồi,
Mình và họ…, Nguyễn Việt Hà với Cơ hội của chúa, Khải huyền muộn, Ba ngôi
của người, Đoàn Minh Phượng với Và khi tro bụi, Mưa ở kiếp sau, Linda Lê với
Tiếng nói, Thư chết, Sóng ngầm, Vượt sóng, Lê Anh Hoài với Chuyện tình mùa tạp
k …, nhất là Thuận với Chinatow, T mất tích… và Đặng Thân với 3.3.3.9. [những
mảnh hồn trần] đã giãn biên lối viết hiện đại chủ nghĩa ra những chiều kích rất rộng
và nhiều tác phẩm đã lấn biên sang các tính chất viết hậu hiện đại.
Hậu hiện đại ở tiểu thuyết Việt Nam chưa thực sự xuất hiện một đại diện hệ
hình tiêu biểu, tuy nhiên, đã có thể thấy dấu ấn hậu hiện đại đậm đặc ở cảm quan
thực tại phân mảnh.
Trước hết là sự phân mảnh ở chủ thể trần thuật.
Phân mảnh không phải là đặc trưng riêng của chủ nghĩa hậu hiện đại. Dĩ
nhiên phân mảnh đã xuất hiện ở chủ nghĩa hiện đại, nhưng phân mảnh hậu hiện đại
khác biệt về nguyên tắc, bởi mỗi mảnh đều có giá trị tự thân khiến một thực tại bị
vỡ vụn thành nhiều thực tại tồn tại song song. Cũng vậy, sự trần thuật từ nhiều điểm
nhìn và sự dịch chuyển điểm nhìn là kĩ thuật tự sự ta bắt gặp trong nhiều tiểu thuyết
hiện đại. Tuy nhiên, nếu phân mảnh của chủ nghĩa hiện đại chỉ có thể tạo ra những góc
nhìn, tầm nhìn và cách đánh giá khác nhau thì phân mảnh hậu hiện đại với việc chủ ý
83
phi tâm hóa, đa tâm hoá gắn liền với sự thay đổi liên tục các nhãn quan giá trị và không
phục vụ cho việc biểu đạt một chủ đích trung tâm đã đưa các chủ thể trần thuật lên
cùng một mặt sàn giá trị bình đẳng để biểu đạt cảm quan về một thế giới đa trị.
Đặc điểm này có thể thấy rõ ở nhiều tiểu thuyết, chẳng hạn như Khải huyền
muộn. Trong tiểu thuyết này, người kể chuyện lúc là Cẩm My người mẫu ngoài đời
- xưng tôi, lúc là nhà văn - xưng tôi, lúc lại là người kể chuyện ngôi thứ 3 nhiều khi
nhập vào điểm nhìn của Vũ, của Bạch… Trong Đi tìm nhân vật, một hệ thống các
nhà văn và nhân vật lẫn lộn đã đưa lại nhiều điểm nhìn khác nhau cho tác phẩm.
Với hình thức truyện lồng truyện, cắt ghép nhật kí, thư từ…tác phẩm có nhiều
người kể chuyện khác nhau tạo thành một hệ thống các nhà văn “ảo”: Tôi - Chu Quí
là người kể chuyện xuyên suốt tác phẩm, tiến sĩ N kể chuyện xưng tôi trong nhật kí,
ông Bân kể chuyện trong ghi chép và nhật kí, Thảo Miên kể chuyện xưng em trong
thư, anh lính Quyết kể chuyện xưng mình trong nhật kí… Hành trình đi tìm thủ
phạm những cái chết xui khiến “tôi” - Chu Quí gặp ông Bân, gặp tiến sĩ N, gặp
Thảo Miên… Họ trở thành những nhân vật của tôi. Ông Bân làm hành trình ngược
lại, cũng đi tìm nhân vật - chính là tôi - Chu Quí và quả thực đã viết cuốn Nhật kí về
một người có tên là Chu Quí. Trong bản thảo của nhà văn Bân lại nhắc đến tiến sĩ
N, và viết về cô gái Thảo Miên. Vậy tất cả các nhân vật trong Đi tìm nhân vật đều
vừa là người đi tìm vừa là người bị tìm, vừa là người viết vừa là nhân vật, đến cả
nhân vật "chính" cũng không chắc gì đã là một, anh ta vừa là “tôi”- Chu Quí, vừa
rất có thể là ông Bân hay tiến sĩ N, bản thân anh ta cũng không chắc mình là ai,
mình đến từ đâu...
Ở các cây viết trẻ như Nguyễn Đình Tú, Đặng Thiều Quang, Phong Điệp,
Uông Triều… ta thấy rất rõ nỗ lực hướng về phía hậu hiện đại. Trong Kín, Nguyễn
Đình Tú tạo ra ba mạch kể chuyện khác nhau. Mạch truyện thứ nhất kể từ điểm nhìn
nhân vật Quỳnh, thì hiện tại, kể về cuộc đời cô Quỳnh. Mạch truyện thứ hai, kể về
mẫu Liễu Hạnh và những câu chuyện gia đình xoay xung quanh ông nội- mẹ- bố,
người kể chuyện ngôi thứ nhất xưng tôi là nhân vật từ khi còn nằm trong bụng mẹ
đến khi có tên là cô bé Lửa Cháy. Mạch thứ 3 vẫn được trần thuật ở ngôi thứ nhất,
người kể chuyện là Bình “cáy”. Nhân vật Quỳnh hai lần là người kể chuyện xưng
tôi với một sự trần thuật cắt khúc, giấu kín. Blogger của Phong Điệp được kể bởi
84
nhiều chủ thể kể chuyện, đa ngôi, đa điểm nhìn. Các nhân vật có nhiều nét lẫn nhòe
vào nhau. Có sự nhập nhằng giữa người viết tiểu thuyết - blogger và nhân vật của
mình. Toàn bộ cuốn tiểu thuyết là sự lắp ghép một cách cố ý những mẩu tin đan xen
những lời thoại ngắn giữa các nhân vật; chat, mail, comment, copy and paste…
Trong dạng thức liên văn bản này, người kể chuyện trở nên không đáng tin cậy.
Tưởng tượng và dấu vết của Uông Triều, nhà văn đem đến một trải nghiệm độc đáo
khác về sự phân mảnh trong chủ thể trần thuật. Trên bề mặt tác phẩm, chủ thể trần
thuật, nhân vật xưng tôi thống nhất từ đầu đến cuối là chàng trai. Cảm giác về sự
phân mảnh của chủ thể trần thuật đến từ cái “tôi” trần thuật phân thân đến vô hạn:
cái tôi nội cảm, cái tôi kí ức, cái tôi tự vấn, cái tôi vô thức, cái tôi ảo giác, cái tôi
bản năng… Anh ta vừa là nhà văn, vừa là người đọc, vừa lại là nhân vật trong tiểu
thuyết của chính mình. Hiện thực vì thế như ánh sáng được chiếu từ kính vạn hoa,
lóe lên với vô số mảnh sáng. Sự phân tán điểm nhìn như thế tạo ra thủ pháp lập
thể . Mỗi một chủ thể trần thuật mang một hệ giá trị đơn lẻ, không còn mang ý
nghĩa biểu đạt phục tùng cho cái trung tâm mà chỉ còn có vai trò trong những tiểu tự
sự của chính nó.
Trong rất nhiều các tiểu thuyết mang dấu ấn chủ nghĩa hậu hiện đại, phải
nói đến Đặng Thân với 3.3.3.9. [những mảnh hồn trần]. Như trong một cuộc chạy
tiếp sức của lịch sử, chính chỗ Thiệp dừng chân (thì) Thân bước tiếp [88, 82]. “Về
phương diện này, theo tôi, sáng tác của Đặng Thân, trước hết là tiểu thuyết 3.3.3.9
[Những mảnh hồn trần], là bước ngoặt quyết đoán của văn học hậu hiện đại Việt
Nam [121]. Với cuốn tiểu thuyết này, Đặng Thân được xem là nhân vật dịch chuyển
hệ hình tiêu biểu. 3.3.3.9. [những mảnh hồn trần] được tạo dựng theo lối phân mảnh và
lắp ghép theo cấp số nhân. Một hiện thực thống nhất thường thấy trong các tiểu thuyết
bị rách bươm thành vô số mảnh trong siêu thị chữ Đặng Thân.
Ở cấp độ đầu tiên, câu chuyện là sự lắp ghép của bốn giọng nói của bốn
nhân vật: Mộng Hường, Schditt von deBalle-Kant, Ông bà/A bồng và Đặng Thân.
Bốn giọng nói này đồng cấp về giá trị. Với các kênh phát sóng này, câu chuyện đã
hội tụ đủ các thể loại mảnh: đồng tính, canh thai nhi, nhà tiên tri của Vanga,
Nostradamus, thuốc lào Tiên Lãng, từ điển tình dục, Hitler, Công ty Siemens…
Xuyên suốt tác phẩm, nhân vật nhà văn Đặng Thân đảm nhiệm vai trò dẫn chuyện
85
nhưng các nhân vật liên tục chen ngang nên bốn giọng nói liên tục bị chia cắt, đan
chéo vào nhau tạo thành vô vàn mảnh ghép.
Ở cấp độ thứ hai, kể cả nhân vật nhà văn cũng bị phân tách đến rối tinh rối
mù. Bên cạnh Đặng Thân vision 1 (Đặng Thân 1) in tên, chụp ảnh, nắm bản quyền,
thậm chí còn xuất hiện trong tác phẩm để trả lời phỏng vấn của báo Văn nghệ trẻ về
hậu hiện đại…có Đặng Thân vision 2 là nhân vật nhà văn. Đây là nhân vật tham dự
câu chuyện với ngôi kể thứ nhất xưng tôi, phát ngôn ở font chữ Tahoma: Kính
thưa quí vị, Vậy là từ chương 1 đ có thêm nhân vật thứ 4 là Đặng Thân nhà văn ,
phát ngôn ở font chữ Tahoma [206, 29]. Đặng Thân 2 là một sự lai ghép giữa nhà
văn và nhân vật truyền thống. “Hắn ta” công khai cách tổ chức văn bản, dõng dạc
tuyên bố trò chơi: Thưa quí vị thân mến, tôi sẽ làm đạo diễn của cái gọi là thiên
tiểu thuyết này. Tôi sẽ đóng vai người kể chuyện và cả một số vai trò khác nữa khi
cần thiết- như một nghệ s chân chính… [206, 25] Tôi sẽ cố gắng kể mạch lạc
nhất có thể (theo kiểu tuyến tính) để bày tỏ tấm lòng tôn trọng tới các độc giả thân
yêu. Tuy nhiên tôi cũng phải xin có lời trước là chẳng may các nhân vật của tôi
trong khi sốt ruột hoặc phật ý là họ dễ nhảy vào kể chuyện cho quí vị và các bạn
nghe đấy. Khi ấy thì xin lỗi, tôi không thể kiểm soát được tình hình đâu… [206,
14]. Vị Đặng Thân này thậm chí có lúc thẳng thừng tuyên bố trong một lời thoại với
nhân vật Mộng Hường rằng ... Cô không được như thế chứ. Tôi là đạo diễn của
mọi câu chuyện trong tiểu thuyết này. Cô phải làm mọi việc theo ý tôi hiểu chưa.
Tôi chưa cho ph p thì cô không được làm bất cứ chuyện gì ... [206, 284].
Nhưng là một nhân vật trong tác phẩm, Đặng Thân nhà văn phải công nhận
sự yếu thế của mình khi chỉ đồng đẳng với các nhân vật khác:
- Cô làm hỏng hết kế hoạch của tôi rồi. Tôi đang định cho cô gặp một nhân vật
hết sức đặc biệt. Nhân vật này sẽ thay đổi đời cô và cả đời tôi cô biết không. Bây giờ có
cái thằng Tàu khựa này nó chen vào thì hỏng hết mọi sự sắp đặt còn gì… [206, 284].
- Vì sao anh lại chết Nguyên sân ơi? Lại đúng lúc Mộng Hường - nhân
vật chính của tôi - đang cần tới anh nhất. Anh mà còn sống thì may ra mới cứu
được Mộng em Hường tim môi em bói đỏ ra khỏi sự kìm kẹp của bọn ăn thịt
người không ghê răng… Hình như tôi đ phát điên … [206, 362]
86
Vậy là tác phẩm sử dụng cùng lúc quy tắc của trò chơi Người-kể-biết-tuốt
với quy tắc của trò chơi Người-kể-đồng-đẳng.
Lại còn xuất hiện Đặng Thân Blogger đọc và bình luận tác phẩm của nhà
văn Đặng Thân: Bent ơi, hãy nhớ cho đấy là tên Đặng Thân nhân vật nhà văn
trong truyện. Hắn chỉ viết văn và cũng cần thời gian để tiến hóa . Con người
đang nói chuyện với bent đây là blogger Đặng Thân nhé :) [206, 30]. Đặng Thân 3
này vừa phải vừa không phải Đặng Thân 1 bởi suy cho cùng, đây chỉ là một nick
name đại điện, mang bản chất mô phỏng và thay thế. Việc Đặng Thân vào hẳn trong
sách làm nhân vật “nhà văn blogger” càng làm rõ tính không gian mở của tác phẩm.
Tác phẩm có dạng một cuốn sách trên mạng mà mỗi nhân vật như một blogger tự
viết lời, diễn biến chuyện của mình, thậm chí tự bình phẩm câu chuyện của mình.
Sự phân mảnh trong chủ thể trần thuật như trên đã phân rã quyền uy tối
thượng của nhân vật trần thuật trong tiểu thuyết tiền hiện đại, phân rã sự thống nhất
quan điểm, mặt bằng giá trị của các điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết hiện đại,
đẩy các tiểu thuyết đi xa về phía hậu hiện đại.
Sự phân mảnh trong điểm nhìn đ góp phần đưa đến tính phân mảnh trong
thực tại.
Sự thể nghiệm ghép mảnh trong tổ chức truyện kể xác lập một cơ chế tổ
chức nghĩa khác biệt so với mô hình hiện thực mô phỏng trong tiểu thuyết Việt
Nam sau trước 1986. Ghép mảnh phá vỡ tính chất rõ ràng, lớp lang, trật tự của dòng
sự kiện vốn có khả năng tự vận động sinh nghĩa trong tự sự truyện thống. Giờ đây,
nghĩa được tạo sinh từ sự tái lắp ghép và diễn giải các mảnh vỡ truyện kể trong sự
đối âm phức hợp để tạo ấn tượng về một hiện thực vụn vỡ, lắp ghép.
Sự phân mảnh này làm cho cái Một, cái Duy Nhất trở thành cái Nhiều, chứ
không phải cái - không - có - gì. Một câu chuyện, mà thường là “chuyện lớn”, trở
thành nhiều câu chuyện, một trung tâm trở thành nhiều trung tâm, một tư tưởng trở
thành nhiều tư tưởng. Mà câu chuyện nào, trung tâm nào, tư tưởng nào cũng đều
quan trọng như nhau cả, nếu có hơn kém là tùy ở hệ quy chiếu của người đọc. Nếu
đặt Đặng Thân bên cạnh đại diện của chủ nghĩa hiện đại, Nguyễn Huy Thiệp, ta sẽ
thấy, cả ở Nguyễn Huy Thiệp lẫn Đặng Thân, thực tại từ gia đình đến xã hội đều vỡ
vụn, đều không có vua, không có cha, không có (thủy) thần. Nguyễn Huy Thiệp
87
hoang mang, một mặt tìm cách khôi phục lại vị thế cũ cho con đực (đầu đàn)/ người
cha/ ông tướng trong Muối của rừng , Tướng về hưu , Vàng lửa ; mặt khác đi
tìm những người cha mới ở chiều kích tâm linh trong Chảy đi sông ơi , Con gái
thủy thần , Tâm hồn mẹ . Còn ở 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] của Đặng Thân,
thực tại còn bị xé rách hơn, nhưng người ta không thấy bi lụy. Bởi, ở đây, mỗi phân
mảnh không còn đau khổ vì bị cắt rời khỏi toàn thể và mong muốn một ngày nào đó
hòa nhập lại với toàn thể nữa, bởi làm gì có cái toàn thể tuyệt đối ấy. Ngược lại, giờ
đây, các phân mảnh tự biến mình thành những toàn thể tương đối, như những khúc
giun tự tôn tạo mình thành những thực thể giun mới. Sự sinh thành thì mang lại
niềm vui, nhưng sự mỏng manh, thoáng chốc và giới hạn của những tồn tại ấy thì cần
phải có thái độ hài hước, chấp nhận. Đây là điểm phân biệt giữa hiện đại và hậu hiện
đại: Chủ ngh a hiện đại thiên về thể hiện cái nhìn phân mảnh về tính chủ quan của
con người và lịch sử (…) nhưng nó thể hiện cái phân mảnh đó như một cái gì đó bi
thảm, đáng than khóc và để tang vì đ bị mất đi. Nhiều tác phẩm hiện đại chủ ngh a cố
nêu lên tư tưởng rằng các tác phẩm nghệ thuật có thể đưa lại sự thống nhất, sự gắn
kết, và ý ngh a, đ bị mất đi phần lớn trong đời sống hiện đại, nghệ thuật sẽ làm được
cái mà các nhà thiết kế khác của con người không làm được. Chủ ngh a hậu hiện đại,
ngược lại, không than khóc cho tư tưởng về tình trạng phân mảnh, tạm bợ, hay r đám,
mà lại tán dương những cái đó. Thế giới vô ngh a ư? Vậy thì đừng giả vờ là nghệ thuật
có thể tạo ra ngh a ở đó, h y chơi với cái vô ngh a [61, 199].
3.2. Sự vận động trong quan niệm về con người
Sự vận động của quan niệm thực tại trong tiểu thuyết sau 1986 vừa bao hàm
vừa song hành với sự vận động trong quan niệm về con người, đi từ cái tôi đơn ngã
của hệ hình tiền hiện đại, sang cái tôi đa ngã của hệ hình hiện đại và chạm đến sự lai
ghép của nhiều cái tôi hay còn gọi là cái tôi liên chủ thể hậu hiện đại.
3.2.1. Từ cái tôi đơn ngã đến cái tôi đa ngã
3.2.1.1 Tiểu thuyết trước 1986 với cái tôi đơn ng
Vì những điều kiện đặc biệt trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh kéo dài,
một thời, trong đời sống và trong văn học, con người cá nhân, cá thể bị phủ nhận. Cá
tính con người bị triệt tiêu. Con người chỉ là con người giai cấp, con người xã hội, bởi
vậy con người trong tiểu thuyết 1945 - 1975 cơ bản là con người đơn ngã.
88
Đánh đồng cá tính với cá nhân chủ nghĩa, nên con người thời ấy chỉ được
tập trung khám phá với tư cách là con người chính trị, con người giai cấp. Việc đưa
lên hàng đầu con người chính trị, con người công dân đã khiến cho văn học thời kỳ
này tập trung thể hiện những chuẩn mực như lòng yêu nước, căm thù giặc, tình
nghĩa đồng bào, tình cảm tiền tuyến hậu phương, ý thức giai cấp, sự ham thích đời
sống tập thể, sinh hoạt chính trị… Những gì đi ngược các chuẩn mực ấy đều bị đào
thải. Hình thành những hình tượng mang tính chất khuôn mẫu cho cả cộng đồng, cả
thời đại: Núp trong Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc), Khắc trong Vỡ bờ (Nguyễn
Thi), Lượng trong Trước giờ nổ súng (Lê Khâm), Lũy trong Xung kích (Nguyễn
Đình Thi), Lữ trong Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu) …
Sự xóa mờ cá tính dẫn đến sự đơn giản hóa trong cấu trúc nhân cách con
người của văn học thời kì này: con người loại bỏ mọi vênh lệch, con người đơn ngã
trong lựa chọn riêng - chung. "Gác tình riêng" là một cách ứng xử duy nhất đúng
lúc ấy mà các nhân vật chính diện của văn học đều lựa chọn một cách dứt khoát,
nhẹ nhàng. Hạnh phúc cá nhân, cuộc sống riêng tư được xem như là cái gì xa lạ và
đối lập với cuộc sống chung, với sự nghiệp lớn của dân tộc. Với tư cách là con
người xã hội, những Kha, Sản, Độ (Xung kích), Tài, Bá (Vùng mỏ), Núp, Liêu (Đất
nước đứng lên), Tiệp, Vượng (Bão biển), Chị Sứ, Hai Thép (Hòn Đất), Lữ, Khuê
(Dấu chân người lính) … đã hòa mình vào tập thể, cộng đồng nhân dân. Họ có thể
là những nhân vật có tên, được ghi dấu ấn bởi những chiến công nhưng khi bước ra
cuộc đời họ trở thành cái tên chung: tập thể. Hiếm tìm thấy trong tiểu thuyết cái cá
nhân suy tư lựa chọn, thay vào đó là sự đồng tâm nhất trí của những nhân vật tích
cực. Trong không gian công cộng rộng lớn ấy, không có và không thể có cái gì là
thầm kín, hay bí mật riêng tư, không có gì hướng vào bản thân. Con người chỉ hiện
ra ở bề ngoài, trong con người không có gì là dành riêng cho một mình mình
(Trần Đình Sử). Con người nội tâm theo đúng nghĩa hầu như bị xóa bỏ.
Hệ quả tất yếu là con người được xây dựng thành những công thức: người
vệ quốc quân bao giờ cũng anh dũng, người tản cư bao giờ cũng hăng hái kiên
gan [Hoài Thanh, dẫn theo Hoàng Như Mai 64, 122]. Sự miêu tả như vậy khiến
con người trong tiểu thuyết gần với nhân vật chức năng trong cổ tích hoặc nhân vật
đơn phiến của văn học trung đại. Loại trừ cá nhân và nội tâm, phân tuyến ta - địch,
con người trong tiểu thuyết một thời mang đặc trưng tư duy tiền hiện đại.
89
3.2.1.2. Tiểu thuyết sau 1986 với cái tôi đa ngã
Người khởi đầu cho sự chuyển quan niệm về con người là nhà văn thay đổi
hệ hình - Nguyễn Minh Châu. Ba năm sau ngày thống nhất đất nước, Nguyễn Minh
Châu công bố tiểu luận Viết về chiến tranh đăng trên tờ tạp chí văn nghệ của Tổng
cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam tháng 11/1987. Bài tiểu luận đã là tiếng
nói chính thống khởi đầu cuộc dịch chuyển của cả một nền văn học, bắt đầu từ thay
đổi quan niệm về con người trong văn học.
Khi quan sát các tiểu thuyết viết về chiến tranh sau thời chiến, Nguyễn
Minh Châu đã đặt ra một câu hỏi mang tính đột phá: Tiểu thuyết chiến tranh sẽ chọn
gì giữa “con người và sự kiện”? Câu trả lời, theo ông là: dường như không còn
phải lựa chọn nữa: phải viết về con người với tất cả những mặt tính cách đa
dạng phơi bày trong đời sống thực , chứ không phải con người chỉ đóng vai trò
làm đường dây để xâu chuỗi các sự kiện với nhau như trong văn học những năm
đã qua [12, 50-54]. Sau bài viết này như một lời khẳng quyết phải thay đổi, Nguyễn
Minh Châu đã là người tiên phong, trước Đổi mới với Những người đi từ trong
rừng ra (tiểu thuyết, 1982), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (tập truyện
ngắn, 1983), Bến quê (tập truyện ngắn, 1985) và trong cao trào Đổi mới với Mảnh
đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987), Cỏ lau (tập truyện ngắn, 1988). Có hai phương diện
quan trọng tạo nên vị trí không thể thay thế của Nguyễn Minh Châu với tư cách một
nhân vật dịch chuyển hệ hình. Trước hết, ngòi bút của Nguyễn Minh Châu đã nhanh
chóng chuyển từ thế giới vĩ mô sang thế giới vi mô, từ thế giới của cộng đồng, dân
tộc và lịch sử đến với những câu chuyện về đời tư và số phận của mỗi cá nhân con
người, lấy đời tư con người làm mảnh đất khám phá những quy luật vĩnh hằng của
các giá trị nhân bản. Ở đây, cá nhân con người chẳng những là đối tượng, chất liệu
nhận thức nghệ thuật mà còn là điểm xuất phát, là chuẩn mực để nhà văn soi ngắm
và định giá thế giới. Thứ hai, từ chối miêu tả nhân vật theo lối điển hình hoá, loại
hình hoá để theo đuổi con người đa diện bất toàn không hoàn kết- Nguyễn Minh
Châu thực sự đ sớm đặt mình ra ngoài sự qui chiếu của nguyên lý hiện thực xã hội
chủ ngh a trong sáng tác văn học. Những tác phẩm ông viết trước hoặc sau mốc
thời gian 1986, nhưng đều thể hiện ý thức đoạn tuyệt với viết kiểu cũ, xây dựng một
nên văn nghệ khác, mới, được phát biểu một cách mạnh mẽ ở bài viết H y đọc lời
90
ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ Nguyễn Minh Châu dự kiến đọc
trong buổi tổng bí thư Nguyễn Văn Linh gặp gỡ các văn nghệ sĩ vào ngày 17/10/1987,
sau được đăng báo Văn nghệ số 49-50 ngày 5/12/1987. Có thể nói, những chuyển biến
trong quan niệm, tư tưởng và thực hành sáng tạo của Nguyễn Minh Châu đã trở thành
nguồn cảm hứng, khích lệ, thúc giục các nhà văn tiếp tục hành trình dịch chuyển hệ
hình của tiểu thuyết nói riêng, văn xuôi Việt Nam nói chung.
Với các đại diện hệ hình tiêu biểu như Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Trần
Dần, ta có thể thấy những chuyển biến đột phá trong nhận thức và khám phá con
người của hệ hình tiểu thuyết hiện đại từ sau 1986. Con người lưỡng diện, đa diện
với sự phát triển tính cách bí ẩn, có cả phần thú tính khốc liệt, phần bản năng dữ
dội… thực sự là một thách thức với con người ổn định, phát triển đi lên trong tư
cách là những nhân vật lí tưởng của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ta có thể
thấy những đặc điểm này ngay ở trường hợp Những ng tư và những cột đèn của
người đại diện hệ hình đến sớm - Trần Dần. Trong tác phẩm này ta gặp những đoạn
đối thoại hết sức độc đáo với hai “bộ tam”. Bộ thứ nhất là Tôi - Mày - Thằng, bộ thứ
hai là Tôi - Bóng - Sọ. Nếu bộ thứ nhất là sự nhất thể hoá của cá nhân (hợp nhất
nhiều cá thể vào một), thì bộ thứ hai là sự phân lập hoá của cá nhân (từ một cá thể
phân rã thành ba mảnh). Khảo sát trên văn bản, chúng tôi có bảng thống kê về sự
xuất hiện của các bộ tam này (xin xem phụ lục bảng 3.1 và 3.2) và có một số nhận
xét như sau:
Thằng là cách nhân vật Dưỡng nhìn mình từ cái nhìn của bên ngoài, của
cộng đồng xã hội. Thằng gắn với giọng điệu cay đắng, tủi phận, áp đặt trăm ngàn
danh phận xấu xa (thằng-vài-nghìn-thằng: thằng nhọ tàu bò, thằng dằn di, dâm ô
đồi trụy lạc, thằng phát súng …). Trong cuộc họp, ông Trung “làm một bài ám chỉ
một anh lái tàu bò, không chịu cải tạo và tu tỉnh, một anh tàu bò đầu óc dâm ô và
đồi truỵ, và một anh nữa cũng lái tàu bò, nhưng đạo đức kém, cho nên cứ vài ngày
lại đè vợ ra, mà chụp ảnh cởi truồng. Cả ba anh này, […] đều có những hành động
bất chính và khả nghi.” [162, 67- 68]. Dĩ nhiên, cả Dưỡng, cả khu phố hiểu “ba anh
tàu bò” chỉ là một, nhưng bị nhân lên gấp bội, thành “vài nghìn” phần tử phá hoại
cuộc sống hoà bình miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đáng bỏ tù. Trong đêm mất ngủ,
Dưỡng ngồi “đánh đập nhật kí”, kiểm thảo mình bằng con mắt của mọi người, bằng
91
thành kiến của ông Trung, nên đã bất giác nhân mình lên thành con số đa bội, lần
lượt được điểm danh: “Ừ thì Thằng, ừ thì Tôi, ừ thì Mày”, đó là “thằng nhọ tàu bò”,
“thằng dằn di”, “thằng-vài-nghìn-thằng”, “thằng-phát-súng”, “thằng địch”, “thằng
gián hôi”, “thằng sát nhân”. Trong khi đó Mày lại nghiêng về cảm thức về thân
phận. Mày chẳng có giá trị gì trong con mắt của cộng đồng bởi vì mày chỉ là “con
dòi”, “con sâu đo”, “hạt bụi lạc đường”. Giữa thằng và mày, tôi là phần “thằng
người”, nghĩa là phần tốt đẹp, phần nhân tính. Đó là phần không ngh xấu ,
mong an lành , vì con gà hơn nhau tiếng gáy, không vì hơn nhau một chút đau
thương . Cái tôi ấy có kí ức tuổi thơ trong sáng “một hôm be b đưa ma con kiến
ngã vào chậu nước”, và bây giờ vẫn muốn “có mặt giữa các ông, để khuyên bảo
phụ nữ nên nuôi trên mặt đất tia khói nọ mỏng manh.”
Cả ba ngôi hội thoại xuất hiện, nhưng không chia tách quá rành rọt, luôn
biến hoá vào nhau. Bên dưới sự xuất hiện của ba ngôi kể là sự chồng chéo của các
điểm nhìn vừa ở bên ngoài mình, vừa ở bên trong mình. Nhân mình lên con số đa
bội, cuộc đối thoại ấy vừa buộc tội, phỉ báng, vừa bào chữa và trần tình trong nỗi tủi
phận và oan ức. Về bản chất, đó là những cuộc đối thoại/ tự đối thoại để khước từ
những “cái biểu đạt” áp đặt - như: thằng địch , thằng phá hoại, tên gián điệp ,
kẻ phản quốc hại dân … để giữ được phần bản ngã nhỏ bé nhưng lương thiện
trong một cái tôi đau khổ về sự đa ngã, sự bắt buộc phải đóng nhiều vai.
Trước hết, về sự xuất hiện, bộ ba này bắt đầu với sự kiện phát súng nổ trong
vườn, nghĩa là khi tôi đột ngột bị biến thành “thằng-bị-ngờ”. Những ngày chưa có
“đám mây chính trị” ụp lên đầu Dưỡng, bộ ba này chưa xuất hiện, tất cả là một cái
Tôi thống nhất. Trong đêm giao thừa của một chế độ, “tôi” cảm thấy những khắc
giây thật thiêng liêng, trầm lắng: “Tôi hồi hộp. Tim đập êm đềm. Tôi cảm nhận tất
cả, những cái gì của giao thừa, bao la, bí mật, trong một đời người.” [162, 28].
Sáng hôm sau, Dưỡng gọi là Mồng một Tết, anh cùng người vợ trẻ xuống phố đón
chào bộ đội vào tiếp quản thủ đô, cái gì trong mắt anh cũng trẻ trung, rạng rỡ: cờ
hoa, áo mới, “súng nhoé”, “nắng nhoé”, “mắt Cốm long lanh, miệng cười xinh”.
Phát-súng-trong-vườn-đêm khiến Sọ xuất hiện. Cùng với những cuộc điều tra, đấu
trí, Sọ và Bóng lộ diện hẳn, bắt đầu tách ra khỏi Tôi, có tiếng nói riêng.
92
Bộ ba Tôi - Bóng - Sọ là sự phân lập, từ một cá thể phân thành ba mảnh.
Nếu cái tôi của Dưỡng thường xuyên lưỡng lự, phân vân, dằn vặt thì Sọ là tiếng nói
của trí tuệ, lí trí, là vô thể; Bóng là tiếng nói của tình cảm, là hữu thể, mang bản chất
yếu đuối. Mỗi cái mảnh Bóng và Sọ ít nhiều trùng với cái mảnh Tôi. Tôi và Bóng ít
bất đồng ý kiến hơn, so với Tôi và Sọ. Tất cả những bộ mặt ấy đem đến cho Dưỡng
một cái tôi đa diện, được phóng chiếu qua nhiều chiều kích khác nhau. Mỗi cái tôi
bên trong Dưỡng lại tồn tại như một cái tôi độc lập, không kể chuyện nhưng có
điểm nhìn riêng qua lời kể của Dưỡng. Cái tôi của Dưỡng thường xuyên có sự đối
thoại với những biến thể phân thân này. Lúc thì tranh luận, hỏi ý kiến Sọ. Lúc lại
tìm niềm an ủi nơi Bóng…
Bộ ba đó thể hiện sự cô đơn tột độ của nhân vật khi mọi người đều khác
mình, không hiểu mình và không tin mình, thậm chí mấy thằng bạn thân, ai cũng có
nguy cơ trở thành hai mặt: “Tình bạn của năm thằng tôi, vốn êm đềm trong chiến
tranh, đến lúc hoà bình lại chia nhau đi mất, về đủ năm hướng. […] Cả năm thằng
đều dang dở, đều không kết bạn được. Cho nên, chỉ còn tôi và sọ và cái mặt tôi
trong gương, còn chơi được với nhau” [162, 159]. Đó là sự cô đơn soi vào thẳm sâu
bản ngã. Bộ ba trong nhiều trường hợp còn thể hiện trạng thái bất lực trước sự phân
rẽ của thế giới bên trong khi Tôi, Sọ, Bóng bất hòa, không cùng tiếng nói. Khi tôi
đóng kịch với Tình Bốp, Sọ khen tôi, thế là tốt , Sọ khen, tôi giả vờ giỏi, làm sọ
lúc n y tưởng thật . Nhưng Bóng có phản ứng khác: Bóng tôi xa xa trong gương
đang nhìn tôi chăm chú . Khi tôi đào kỉ vật của Ly Ly, gói kỉ vật sặc mùi kỉ niệm,
sặc mùi quyển lịch hết hạn, mùi nhớ, mùi mùa hè năm ngoái, Sọ nói: L ng mạn
rồi sọ bỏ đi, chơi một mình. Chỉ còn tôi và bóng: Tôi ngồi lại với bóng, trong đống
kỉ niệm. Hai đứa chơi với nhau. Nom bóng lãng mạn quá… . Sọ là tiếng nói lý trí,
sọ muốn dung hòa, khuyến khích tôi tuân thủ cộng đồng. Trong khi đó, Bóng yếu
mềm, là tiếng nói của tình cảm nên bóng xót tình bè bạn, quyến luyến kí ức, bóng
thương thân. Sự đối thoại của Tôi - Sọ - Bóng thể hiện cấu trúc phức tạp bên trong
của con người đa ng hiện đại.
Đôi lúc chủ thể trần thuật xưng tôi trong nhật kí còn hóa thân một phần
thành người khác để nhìn chính mình, xem xét mình bằng con mắt của người khác.
Tiêu biểu là những lúc Dưỡng hóa thân thành ông Trung trố để nhìn, suy nghĩ và
93
đánh giá bằng cách nhìn của ông, bằng ngôn ngữ và thái độ của ông: “10 giờ tối tôi
đọc lại tờ thú: tôi tự đặt tôi, vào địa vị ông Trung trố. Ông Trung trố không bằng
lòng. Ông Trung trố không được thỏa mãn.
Ông Trung trố nói: à đây, chỗ này anh ngờ vực chính sách khoan hồng, chỗ
nọ anh đòi đi tu, đấy là cái trò k p đây. […] Tôi nghe lời ông Trung trố, cầm bút
gạch, tứ tung [162, 149].
Ở đây có sự đan xen điểm nhìn, không chỉ nhìn bằng điểm nhìn của chính
bản thân mình trong nhân vật tôi mà còn nhìn bằng cái nhìn của những nhân vật
khác do mình hóa thân, phân thân. Nhân vật còn phân thân làm thằng tôi trong
gương để chịu đựng cái nhìn của ông Trung trố do thằng tôi ngoài gương hóa thân:
“Tôi ra sọt rác, lấy lại tờ thú sáu trang, tôi lộn lại trước gương, mà xỉa tờ thú, vào
mặt nó. Tôi nói, tôi là ông Trung trố, anh còn phản ứng à? Còn oan ức gì nữa?
Làm tờ thú thế này à? […] Tờ thú thế này, mà coi được à? Anh vờ v nh. Thằng tôi
trong gương nghe vậy, thì cười khè.” [162, 150] … Ngay sau đó, tôi lại tách rời
khỏi cái nhìn của ông Trung trố để trở lại thành cái tôi Dưỡng trong nhật kí: Nó
cười ông Trung trố, chứ không cười tôi, tôi ngh như vậy. Cho nên tôi không đánh
đập nó” [162, 150].
Nó cho thấy một Trần Dần cách tân vượt bậc, vượt ra ngoài khung hệ hình
tiền hiện đại, vượt qua nhiều ngã tư để đến với cửa ngõ tiểu thuyết đa thanh, từ khi
khái niệm này của Bakhtin chưa từng được Việt Nam biết đến.
Cùng với Nguyễn Minh Châu, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Trần Dần, tiểu
thuyết Việt Nam, nhất là sau 1992, đã xuất hiện hàng loạt những nhà tiểu thuyết hiện
đại chủ nghĩa có vai trò hoàn thiện hệ hình. Hệ hình tiểu thuyết hiện đại, nhìn từ quan
niệm về con người, có thể soi tỏ từ hai đặc điểm nổi bật:
Trước hết, con người được chú ý khai thác ở bản năng tính dục
Bản thân quan niệm tính dục ở tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 đã có sự thay
đổi hệ hình. Trong quan niệm về tính dục trong hệ hình tiền hiện đại, tính dục chủ
yếu được nhìn nhận, đánh giá trong từ trường của đạo đức. Nền tảng gia đình gắn
với các mối quan hệ huyết thống đã quy định đặc tính tôn nghiêm của quan hệ tình
dục dưới chế độ phong kiến. Theo đạo lý truyền thống, loại tình dục chân chính
không đặt ra vấn đề hưởng lạc, còn ngược lại loại tình dục hưởng lạc là loại tình dục
94
"trên bộc dưới dâu", "nguyệt nọ hoa kia" không được sự thừa nhận của các rường
mối lễ nghi chính danh và thường gắn với loại vô luân bỏ đi, bị người đời phỉ báng
hoặc gắn với loại ca kỹ, bị người đời khinh rẻ. Dĩ nhiên, vẫn có những tiếng nói
bênh vực tính dục, chẳng hạn khỏe khoắn trong ca dao, táo bạo trong thơ Xuân
Hương, sử dụng hình thức kì ảo như Truyền kỳ mạn lục, và đậm dần trong các
truyện thơ Nôm, đỉnh cao như Truyện Kiều, từng bị xếp vào loại dâm thư.
Đến đầu thế kỉ XX, với những đỉnh cao của hệ hình, các tiểu thuyết Tự lực
văn đoàn như Đời mưa gió, Bướm trắng của Nhất Linh, Khái Hưng, các tiểu thuyết
hiện thực Giông Tố, Số Đỏ… của Vũ Trọng Phụng đã “khiến diễn ngôn đạo đức về
tính dục đ được thay thế bởi diễn ngôn khoa học về tính dục [142]. Dưới sự ảnh
hưởng sâu sắc của Freud, ở các tác phẩm này, hệ qui chiếu đạo đức được thay thế
bởi hệ qui chiếu sinh học - một phân ngành thuộc khoa học tự nhiên. Bài diễn văn
của đốc tờ Trực Ngôn, do thế, ở một chừng mực nhất định, liên quan đến quan niệm
của Vũ Trọng Phụng về tình dục: Cái dâm thuộc về quyền sinh lí học chứ luân lí
không kiềm chế nổi nó (Làm đ ). Điều này dẫn đến một hệ quả hết sức quan trọng:
những miêu tả về tính dục không còn bị lên án từ phía luân lí nữa, cái tôi trở thành
một thực thể mờ đục và không thể thuần túy bị phán xét từ những tiêu chí của luân
lí. Quan niệm hiện đại về tính dục đã bắt đầu manh nha.
Tuy nhiên, bối cảnh 1945-1975 đã đặt văn học vào nhiều đứt đoạn, trong đó
có sự đứt đoạn của khuynh hướng viết về tính dục. Mãi đến sau 1975, nhất là sau
1986, trong không khí cởi mở của Đổi mới, dòng tiểu thuyết viết về tính dục mới
với các đại diện: Y Ban với I am đàn bà, Xuân Từ Chiều; Đỗ Hoàng Diệu với Bóng
đè; Nguyễn Ngọc Tư với Cánh đồng bất tận; Nguyễn Bình Phương với Ngồi;
Dương Bình Nguyên với Giày đỏ; Đặng Thiều Quang với Đảo cát trắng, Chờ tuyết
rơi; Thủy Anna với Điếm trai; Keng với Dị bản; Thuận với Vân Vy, Nguyễn Đình
Tú với Xác phàm...
Nếu trước đây sex trong văn học thường chỉ đặt ra trong tương quan với
tình yêu đôi lứa, sự sa đọa về nhân cách, những ẩn ức do di chứng của chiến tranh,
những lệch lạc giới tính… thì sex trong giai đoạn này của tiểu thuyết đã được mở
rộng chiều kích như một phương tiện chuyển tải những ẩn ức khác nhau của đời
sống nhân sinh. Khi khai thác góc bản năng tính dục của con người, nhà văn có cơ
95
hội dẫn dắt độc giả đến với những điều dị thường vốn nằm sâu trong bản chất của
con người trong cuộc sống yên bình mỗi ngày (Oe Kenzaburo), đồng thời gửi đến
thông điệp: lẽ sống của con người là yêu và được yêu cả về thể xác lẫn tinh thần.
Khoái cảm, nhục cảm, sự giao hoan giữa đàn ông và đàn bà không có gì là xấu nếu
nó là sự thăng hoa của cảm xúc, của tình yêu. Đó chính là biểu hiện một khát vọng
chính đáng của hạnh phúc đích thực mang tính nhân bản và văn hóa trong cõi nhân
sinh của con người. Tư tưởng này thể hiện ở nhân vật Tiệp của Dạ Ngân “Tại sao
cứ phải chính danh, đến cùng, tại sao không phải là người tình của nhau để thỉnh
thoảng được va đập bốc cháy lộn nhào rồi sẽ thấy phút giây bình yên này là vô
cùng quý giá? (Gia đình b mọn) hay nhân vật Từ của Y Ban: Tại sao cái cảm
xúc này lại luôn bị che giấu. Mỗi người có thể nói to trước đám đông, tôi căm thù
tội ác d man, tôi yêu thương trẻ con, tôi đau xót đồng bào tôi bị thiên tai. Chẳng
có người nào dám nói trước đám đông rằng, tôi ngủ với chồng tôi rất khoái (...).
Tất nhiên đó là cảm xúc riêng tư không cần phải nói trước đám đông. Nhưng cũng
không thể nói rằng đó là cảm xúc xấu xa, tội lỗi được chứ (Xuân Từ Chiều). Suy cho
cùng, đó là nhu cầu tìm kiếm của mình đến những góc khuất, những vùng cấm địa
trước đây và nhìn thấy ngoài cái con người xã hội kinh điển còn có một loạt những con
người trong cùng xã hội và ngay trong cùng một con người [42, 43 – 48].
Đặc biệt tính dục trong tác phẩm của các nhà văn trẻ gần đây còn được mở
rộng biên độ với sự xuất hiện yếu tố tình dục đồng tính (cả đồng tính nam và đồng
tính nữ) như tiểu thuyết Một thế giới không có đàn bà của Bùi Anh Tấn, 1981 của
Nguyễn Quỳnh Trang, Song Song của Vũ Đình Giang … Đồng tính như một căn
cước giới tính bị xem là thiểu số - luôn phải đối diện với những định kiến, luôn có
khả năng bị gây tổn thương - thường phải tìm đến những hình thức ngụy trang để tự
biểu hiện. Như một kiến tạo của diễn ngôn, đồng tính là một thứ diễn ngôn bị trấn
áp, luôn bị ngoại biên hóa trong lịch sử văn hóa, nó thường là một tiếng nói bị khuất
lấp, bị phân mảnh. Sự quan tâm đến đề tài này thể hiện sự chấp nhận công khai của
tiểu thuyết với sự đa ngã, phức tạp trong con người.
Con người còn được nói đến ở phần tâm linh sâu thẳm
Trong quan niệm tiền hiện đại, tâm linh là những hiện tượng nằm bên ngoài
con người. Đó là những khách thể có khoảng cách và vì thế, con người có thể miêu
96
tả, quan sát nó. Và cũng vì quan niệm tâm linh thuộc về thế giới siêu nghiệm bề
ngoài, nên tâm linh làm con người ta sợ hãi. Bước vào thời hiện đại, ảnh hưởng của
quan niệm khoa học khai sáng phương Tây khiến cho truyền thống văn hóa tâm linh
bị coi là mê tín dị đoan, phản khoa học. Ý thức văn học hiện đại, do ảnh hưởng của
khoa học đã hướng về thực tại khách quan, thu hẹp phạm vi của thế giới quan tâm linh.
Nhưng con người hiện đại nhận ra tâm linh tồn tại bên trong chủ thể. Tâm linh là trở
thành phương diện được các nhà tiểu thuyết đổi mới khám phá, xâm nhập để lý giải
chiều bí ẩn bên trong của con người, nói đến những con người trong một con người.
Nhân vật chính trong tiểu thuyết không còn chỉ là những con người hành
động (hay “hành động” không còn là bình diện chủ yếu của nhân vật). Cụ thể hơn,
các tác giả không chú tâm mô tả và tường thuật lại đời sống xã hội của một con
người (tồn tại trong xã hội, quan hệ xã hội với những nhân vật khác, xung đột và
giải quyết xung đột…) mà tập trung tái hiện một thế giới tâm lý - tâm linh đầy
những hồi ức, dằn vặt, ám ảnh (trong đó có cả những ẩn ức tình dục, những khắc
khoải bản năng…), nhất là siêu thức vì những vấn đề tâm linh thuộc về siêu thức.
Trong mỗi con người đều tồn tại nhiều “con người” khác nhau, thậm chí đối lập
nhau, của ý thức (consciousness) với tiềm thức (subconsciousness) và vô thức
(unconsciousness). Nhân cách tiềm thức/vô thức được hình tượng hóa thành các
nhân vật phân thân. Khẩn (Ngồi), Tính (Thoạt kỳ thuỷ), “tôi” (Chinatown)… là
những kiểu hình tượng phân thân như thế. Trong những nhân vật loại này, ý thức
không phải lúc nào cũng ở vị trí chủ đạo; tiềm thức/vô thức có lúc chiếm thế ưu
thắng và điều khiển hành vi của con người cũng như mạch chảy của tự sự. Với mỗi
một quan hệ khác nhau với một đối tượng khác nhau, nhân vật lại bộc lộ một “con
người” khác, một bình diện khác trong nhân cách của mình. Chẳng hạn, Khẩn
trong Ngồi của Nguyễn Bình Phương là một “phân thân” của hai Khẩn hoàn toàn
khác nhau: một lay lắt, trì trệ và mờ tối với cuộc mưu sinh trần tục hiện thời; một
trong sáng, thanh thoát và thánh thiện với những giấc mơ về mối tình đầu trong tiềm
thức. Hai “con người” ấy, lúc xen kẽ, lúc đồng hành, lúc rượt đuổi lẫn nhau, làm nên
một diện mạo nhân vật thật khó định hình và cắt nghĩa: Khẩn nói dối đi ăn ốc luộc
vừa mới về. Thuý hỏi, có ai gọi điện không? Khẩn đáp, không… Gần sáng Khẩn rơi
vào trạng thái lơ mơ. Như mọi lần cành bạch đàn lại chìa ra tựa như một bàn tay nhỏ
97
non nớt thân thiện để Khẩn nắm. Khi chạm vào cành bạch đàn thì giấc ngủ biến mất
còn lại một không gian dịu dàng để Kim than phiền về cuộc đời [198, 37] hay: Mình
đ mơ thấy mình đội nước đi lên, cao to lực lưỡng với đôi mắt rực lửa, cái miệng
mở rộng, mái tóc xõa xuống vai, sau mỗi bước đi của mình, nước bắn cao hàng
chục mét. Lúc tỉnh dậy, nhớ lại giấc mơ đó mình láng máng rằng mình thực sự còn
là một cái gì nữa chứ không phải chỉ là thế này. Bỗng nhiên Khẩn lồng xuống tầng
dưới gõ cửa phòng giám đốc (198, 243) …
Trong cuốn tiểu thuyết Và khi tro bụi, nhà văn Đoàn Minh Phượng đã
mượn đôi cánh của cái kì ảo để nâng đỡ và phóng chiếu “cái tâm linh” bay lên. Một
câu chuyện được kể từ ngôi thứ nhất tôi của người phụ nữ mất chồng bởi một tai nạn
giao thông. Cô dầm mình trên những chuyến tàu hỏa và trong cõi tâm linh của chính
mình để đi tìm thời gian đ mất , đi tìm mình, tìm ngh a cho cái chết sắp tới của
mình. Đó cũng chính là cuộc chu du của nhân vật khi lang thang giữa vùng sáng và
vùng tối của trái tim con người. Cõi người rung chuông trần thế của Hồ Anh Thái là sự
lên tiếng của thế giới tâm linh cảnh báo với cõi người về sự tồn tại của cái ác do con
người tạo nên. Thế giới tâm linh mang cho Mai Trừng sức mạnh, rồi chính nó xuyên
qua những giấc mơ chỉ đường cho cô đến được mộ cha mẹ để cầu xin sự giải thoát:
con lạy cha, con lạy mẹ, cha mẹ hãy giải thoát cho con khỏi sứ mệnh đi trừng phạt
cái ác. Hai mươi sáu năm con phải đi trừng phạt như vậy là dài quá rồi [199,
227]; xin cha mẹ cho con trở về làm một đứa con gái bình thường. Con cũng muốn
yêu và được yêu [199, 228]. Dường như lời cầu xin của cô đã có linh ứng, gió rừng
thổi xao xác, những ngọn cỏ đung đưa qua lại, còn cô bỗng đổ vật xuống. Lại giãy
giụa trong cơn run quằn quại. Một cái gì đó đang bị x rách trong người cô, bị giật
ra từng mảnh, bị rút dần ra như một sợi dây mảnh và bất tận. Rồi vút một cái, tất
cảbay thoát lên khỏi người cô. Mai Trừng quẫy đạp mấy cái nữa rồi lật nghiêng
người. Cặp mắt lờ đờ hết hồn của cô dần dần trở lại tỉnh táo và tinh nhạy [199,
228]. Mai Trừng đã hoàn toàn giải thoát được sứ mệnh đi diệt trừ cái ác, dù biết
rằng trong “cõi người” này cái ác vẫn đang hiện diện ở khắp mọi nơi, nhưng diệt trừ
cái ác là việc của tất cả mọi người, của toàn xã hội chứ không riêng gì của ai, cũng
không riêng gì ở Mai Trừng. Hãy để cho người con gái ấy có được tình yêu, có
được hạnh phúc trong tình yêu như mọi người con gái khác, đó cũng chính là việc
98
thiện mà “cõi người” này nên làm đối với người con gái ấy. Trong Mẫu thượng
ngàn, từ bà ba Váy, cụ tổ Cô, Mùi, Hoa đến Nhụ, khi muốn tránh sự yếu đuối, phiền
muộn, đều cần một chỗ để chở che, nương tựa tinh thần và Mẫu đã trở thành một năng
lượng siêu nhiên cứu rỗi họ khỏi những bất hạnh…
Cuộc cách tân tiểu thuyết trong thế kỷ 20, do đó, có thể tóm lại một cách
ngắn gọn là biểu hiện của nỗ lực kể cái không thể kể - những cái không xảy ra theo
trình tự thời gian, không xảy ra trong không gian cụ thể, những cái nằm sâu trong
tiềm thức và vô thức, những cái nằm ngoài lý luận của hiện thực tỉnh táo, những cái
hỗn mang [142]. Nhìn sâu vào tâm linh, các tiểu thuyết sau 1986 soi cõi “tù mù”
của vô thức, siêu thức không phải để lạc bước, không tìm thấy lối ra mà có để soi
sáng chiều sâu thẳm bên trong con người, để thấu suốt nhiều con người trong một
con người bề mặt. Với tâm linh, một thế giới với một trật tự mới đ được các nhà
tiểu thuyết hiện đại xác lập: Thế giới siêu nghiệm trong vũ trụ nội cảm.
Như một hệ quả tất yếu, con người trong nhiều tiểu thuyết giai đoạn này là
con người trong con người ngay ở cả những loại thể đòi hỏi đối diện với sự thật,
cái đã xảy ra, với những cái nhìn mang tính chuẩn định của cộng đồng như tiểu
thuyết lịch sử. Từ trường nhìn lịch sử, Hồ Quý Ly mưu mô, lạnh lùng, bị coi là kẻ
phản nghịch, thoán ngôi nhưng từ trường nhìn “luận giải” quá khứ trên tinh thần đối
thoại, Hồ Quý Ly là một khối mâu thuẫn lớn. Nhân vật lịch sử Hồ Quý Ly được soi
chiếu từ nhiều chiều kích: là người theo đuổi những lý tưởng công chính (nhân danh
sự đổi mới, nhân danh sự bác ái) nhưng bị giằng xé giữa mục đích và phương tiện
để rồi cuối cùng rơi vào những thủ đoạn chính trị phi nhân. Dưới con mắt của
Nguyên Uyên và những quan lại chống đối, Hồ Quý Ly là kẻ đa sát, nhiễu sự, lên
ngôi hắn sẽ là một bạo chúa, một Tần Thủy Hoàng của nước Việt [183, 187].
Ngưu Tất kết tội Hồ Quý Ly là bất trung, bất hiếu, bất nghĩa, coi Quý Ly chẳng
khác loài chó lợn… Tàn tặc nào bằng! Trời đất cũng phải nghiến răng căm hận
[183, 582]. Thượng tướng Trần Khát Chân nhận xét: Thái Sư là người tài cao, học
rộng, mưu lược, quyết đoán, muốn đổi thay đất nước [183, 292]. Phạm Sinh, con
trai người anh hùng Phạm Sư Ôn cũng có đánh giá về Hồ Quý Ly: Quan Thái Sư,
đó là con người đại chí… ông ta thông minh, có thể nói sâu sắc đến tinh tế, nhưng
đầy tham vọng… tham vọng đến độ ngạo mạn . Ông ta vừa tàn bạo đến cùng
99
cực… nhưng lại v đại vô cùng [183, 726]. Từ điểm nhìn bên trong, Hồ Quý Ly là
kiểu nhân vật tự ý thức - một kiểu dạng nhân vật mới mẻ và phổ biến trong tiểu
thuyết đương đại. Đây là một vị quan đầu triều thâm hiểm, lạnh lùng nhưng ẩn chứa
bên trong những mâu thuẫn lớn: Hạnh phúc ư? Ta sung sướng hay ta không sung
sướng? ; Chao ôi! Sao ta mệt mỏi, ta cần một giấc ngủ… giá như… giá như… .
Hằng đêm, trước pho tượng bà công chúa Huy Ninh, người vợ hiền hậu của ông với
đôi tay trắng ngà đương đẩy ra, mà hình như hai bàn tay ấy đương đặt lên mớ tóc
bạc của thái sư để che chở, vuốt ve, an ủi , Quý Ly mới thấy hết nỗi cô đơn của
mình, mênh mông biết nhường nào [183, 751]. Từ điểm nhìn của nhân vật Hồ
Nguyên Trừng, con người ẩn giấu nhiều mâu thuẫn của Hồ Quý Ly hiện ra rõ nét
với nỗi cô đơn riêng lẻ. Hồ Nguyên Trừng xưng “tôi” nhìn ngắm bản thân mình,
nhìn ngắm và thấu hiểu cha mình: “Tôi nhận thấy ánh mắt cha đang nhìn tôi cầu
khẩn… và tôi chợt nhận ra nỗi cô đơn khủng khiếp của người… Bảo nỗi cô đơn của
kẻ thoán nghịch cũng được… và bảo là nỗi cô đơn của kẻ làm một việc lớn cũng
được . Hồ Quý Ly vừa là người tạo ra lịch sử, vừa là nhân vật bi kịch lịch sử.
Cùng với Hồ Quý Ly, danh tướng Trần Khát Chân phản đối công cuộc cải
cách của Hồ Quý Ly, bảo vệ những giá trị cũ vừa phản ánh sự bảo thủ, vừa thể hiện
khí tiết trung nghĩa của người anh hùng. Nhưng bên cạnh đức nhân ái, Trần Khát
Chân cũng bất chấp để làm điều ác (nhờ Sử Văn Hoa viết một cuốn sách sai sự thật
để phê phán Hồ Quý Ly). Ông vua Nghệ Tông được khắc hoạ như một khối mâu
thuẫn lớn, hiểu sự tất yếu của canh tân và chấp nhận đánh đổi để phục tùng nó
nhưng nhùng nhằng mâu thuẫn với mong muốn kéo dài cương vị cho dòng họ. Sự
nhu nhược và do dự trong điều hành chính sự lại cũng được lý giải từ bản tính nhân
từ… Có thể thấy đặc điểm này trong nhiều tiểu thuyết lịch sử khác như Con ngựa
Mãn Châu, Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), An lạc dưới
trời (Nguyễn Xuân Hưng), Minh sư (Thái Bá Lợi) …
Sự hiện diện của những con người phức tạp và bí ẩn, con người được nhìn ở
cự ly gần và khám phá ở sự đa diện mang ý nghĩa một sự đối thoại với quan niệm
về con người còn giản đơn, phiến diện, duy ý chí một thời. Điều đó đã đưa đến một
sự thấu thị về con người, đánh dấu những chuyển mình của tiểu thuyết sau 1986.
100
3.2.2. Từ cái tôi đa ngã đến cái tôi liên chủ thể
Điểm khác biệt giữa con người hiện đại và con người hậu hiện đại là ở chỗ:
con người hiện đại muốn đứng tại một vị trí khách quan, bên trên và bên ngoài khối
hỗn mang của thế giới với mong muốn làm chủ, điều khiển nó theo một trật tự lý
tưởng, trái lại, con người hậu hiện đại cho rằng nỗ lực làm chủ và điều khiển thế
giới chỉ là ảo tưởng và họ chấp nhận thích nghi với bản chất hỗn mang của thế giới.
Vì quan niệm thế giới không còn như một thực tại đơn giản, đồng nhất, trái lại, con
người có thể cùng lúc cảm nhận nhiều thực tại khác nhau vì chịu sự chi phối đồng
thời của nhiều hệ qui chiếu khác nhau, thậm chí, mỗi hệ qui chiếu còn tạo nên nhiều
thứ bản ngã khác nhau trong từng con người, con người hậu hiện đại không còn
ngây thơ tin rằng trong chính mình chỉ có một bản ngã, và bản ngã đó là một phần
của thế giới. Thế giới và bản ngã hiện ra trong nhãn quan mỗi người như một hiện
thực đa tầng, đa phương. Để tồn tại, con người phải lựa chọn một trong nhiều thế
giới, một trong nhiều bản ngã, hoặc con người sẽ phải tạo ra cho riêng mình một thế
giới và một bản ngã nào đó.
Như vậy, hệ quả của tính phân mảnh trong quan niệm về thực tại của các
tiểu thuyết theo khuynh hướng hậu hiện đại sau 1986 là bản thân con người cũng
phân mảnh. Không còn là một cái tôi với nhiều gương mặt, nhiều góc khuất mà sự
khám phá chúng là để đưa ra cái nhìn toàn vẹn về một cái tôi. Cái tôi toàn vẹn là
điều phi lý trong chủ nghĩa hậu hiện đại, khi tiểu thuyết hướng đến cái tôi lai ghép
từ những cái tôi riêng biệt, tách rời. Chủ ngh a hậu hiện đại lấy cái tôi làm tâm
điểm cho mọi luận giải triết học nhưng không phải cái tôi nguyên vẹn mà là một cái
tôi vỡ tan thành nhiều mảnh - một cái tôi giải giá trị [62, 16]. Chủ thể bao giờ
cũng trong xu hướng phân thân thành một cái tôi khác. Cái tôi thành cái phi tôi.
Vượt sóng là câu chuyện của một người kể chuyện xưng Tôi, một nhà báo
trẻ chuyên trị mảng văn hóa nghệ thuật, kể về quá trình anh truy tìm những dấu vết
để phục dựng diện mạo tinh thần đầy đủ và chân xác của nhà văn Antoine Sorel,
người đã nhảy lầu tự tử vào đúng ngày anh đặt chân đến thành phố cảng Le Havre.
Tôi đã dần tìm cách liên lạc và trò chuyện với tất cả những người thân trong gia
đình của Antoine Sorel, bạn học, vợ và những người đàn bà từng đến từng đi trong
cuộc tại thế bốn mươi lăm năm của anh. Và dĩ nhiên, như những người điều tra thận
101
trọng nhất vẫn làm, Tôi đọc bằng hết những cuốn sách mà Antoine Sorel đã in, cả
những bản thảo mà anh chưa bao giờ công bố lúc sinh thời. Từ các nguồn thông tin
phong nhiêu ấy - có thể nói, từ các diễn giải đa chiều về Antoine Sorel quá cố, Tôi
lạc trôi trong những giả thuyết về Sorel như thể anh là một văn bản mở cực kỳ phức
tạp, với đầy những mâu thuẫn trái ngược. Với nhóm Barbet- Damien Léger - dì
Ande - Frédérique, Antoine Sorel là con người dịu dàng đáng mến, đáng trân trọng,
thậm chí đáng được xem là một thần tượng: “Dù chỉ đôi lần tiếp xúc, ông ngưỡng
mộ anh đến mức khi gặp nhau, ông cảm thấy mình thật bé nhỏ [187, 166], “nhất là
dì cảm thấy hãnh diện khi đọc cuốn sách thứ năm của Sorel” [187, 168]; “Và nhờ
vào cuốn Tiệm cận của Sorel, ông nhận ra rằng ông sẽ không được cảm thấy thoả
mãn về sự tồn tại của mình nếu ông không có những vọng tưởng đối với chính bản
thân. Sau khi đọc xong, ông đã chui vào giường, và đầu vùi dưới gối, ông đã khóc,
khóc, như ông vừa biết được một sự thật phũ phàng nào đó…” [187, 35]; “Lần đầu
tiên bà ngồi đối diện một mình với anh, hôm đó anh tới đưa sách của anh, bà lập
tức cảm thấy quý mến anh, bà có cảm giác như đã quen biết anh từ lâu thông qua
những cuốn sách của anh, mà bà ngưỡng mộ” [187, 327] …
Với nhóm kia, Martin Trần (bố) - Isabelle (vợ cũ) - Maya (em dâu) - Annie
Lenoir – Marianne - người viết thư nặc danh cho Tôi…, Antoine Sorel chỉ là kẻ vô
tích sự, gã nghiện rượu vứt đi, tên văn sỹ ăn bám ích kỷ, con ký sinh trùng luôn sẵn
sàng hút máu bất kỳ ai đến gần và rủ lòng thương với nó. “Sau khi chia tay Sorel,
cô đã thở phào nhẹ nhõm, như thể cô được giải thoát khỏi một gánh nặng” [187,
110]; “Nhưng ở anh, đó không phải là tình yêu mà là một kiểu bám víu bệnh hoạn.
Vào buổi tối khi anh chưa tới căn hộ của cô, vì anh tin chắc cô đang nói dối, rằng
cô không bị bệnh, rằng cô đang lẩn trốn anh, cô bỗng tự nói với mình, cô nên chấm
dứt các cuộc hẹn với Sorel, không đi Le Havre nữa, từ bỏ việc viết luận văn về nhà
văn huyền bí này, có lẽ chỉ là một người quá cuồng điên…” [187, 318]; “Chỉ có bố
mẹ cô biết việc này, nhưng họ chỉ thấy Antoine là một loại biến thái, chỉ lợi dụng cô
khi còn quá trẻ, còn quá trong trắng… họ gọi anh là “một tên nhà văn thất bại””;
[187, 284]; “Sorel dáng nguyền rủa là một nỗi nhục của gia đình” [187, 261]; “Cô
không hề thích bố mẹ chồng, cô thấy họ quá thô lỗ, nhưng cô đồng ý với Martin
Trần về việc phải chuẩn bị mọi cách để không bị Sorel quỉ bám ăn bám. Những loại
102
người giống anh nên tránh - Maya lặp đi lặp lại - cô quyết tâm bảo vệ gia đình nhỏ
bé của mình khỏi Sorel ô nhục, vì anh có ý đồ chi phối những người thân của mình
bằng cách dùng tình cảm để uy hiếp” [187, 263] …
Antoine Sorel được miêu tả với những mảnh ghép mâu thuẫn. Antoine nhút
nhát, khép mình, nhưng lại luôn hòa đồng với những kẻ du thủ du thực vô gia cư, có
thể uống với họ cả đêm, trả tiền rượu cho họ, lặng im nghe họ nói và rồi chia tay mà
không nhớ nổi mình đã uống với ai. Antoine Sorel vừa được coi là kẻ chỉ biết sống
với niềm đam mê văn chương, kì thực là niềm đam mê du hành nội tâm, thờ ơ trước
tình yêu: “Trước khi trở thành vợ của Sorel, cô không biết rằng có một đối thủ sẽ
như thế nào, cô nói, cô nhanh chóng khám phá ra một đối thủ mang tên văn
chương, và đó là một đối thủ có sức mạnh đáng gờm” [187, 188]; “Khi cô nghĩ về
anh đang nghiêng mình trước cuốn vở, viết không ngừng nghỉ, cô hiểu ra rằng thật
ra không một ai quan trọng đối với anh, chỉ có anh cho chính anh”[187, 302]…
nhưng cũng được kể là người tình rất đỗi mê đắm và cuồng nhiệt, thậm chí trở
thành kẻ khủng bố tinh thần những người đàn bà anh yêu bằng chính sự mê đắm và
cuồng nhiệt ấy “như một tên độc tài và luôn đòi hỏi tôi những minh chứng tình
yêu” [187, 221]; “Cô thực sự không nghĩ rằng anh ấy lại phát điên vào ngày cô bị
sốt cao nên cô không thể đi Le Havre để gặp anh… Cô hối hận đã chơi một trò chơi
nguy hiểm, và thế là cô phải làm gì đó để giải thích cho anh, rằng anh nên để cô
yên từ đây… Nhưng cô đã không dự tính trước rằng anh sẽ phản ứng như một tên
điên nguy hiểm: anh nhảy vào người cô như muốn bóp cổ cô, anh chỉ buông cô khi
bừng tỉnh trở lại nhờ vào tiếng chuông điện thoại reo…” [187, 318]. Antoine Sorel
xa lạ và cô độc trong lòng xã hội đương đại như một kẻ bên lề tuyệt đối, nhưng anh
cũng vô cùng mong manh dễ vỡ, vô cùng cần đến những nâng đỡ tinh thần hào hiệp
và chân thành. Với tư cách nhà văn, anh thuộc số những nhà văn bí hiểm, “những
tác giả nếu muốn đọc ta phải có trong tay một danh mục những từ hiếm”, thế nhưng
văn chương của anh lại có phương diện mang tính cách dấn thân tranh đấu mãnh
liệt: “Cuốn Đắm chìm là một chuỗi độc thoại dữ dội chưa từng thấy của một người
tìm cách phá đi những nền tảng của cái thứ làm chúng ta theo đuổi những ảo vọng
và bóp vụn cái điều chúng ta tưởng chừng là cốt tử, cái điều buộc chúng ta nghĩ ra
những kịch bản về vị trí quan trọng phải có được trong thế giới của chúng ta, cái điều
103
khiến chúng ta thức dậy mỗi buổi sáng: niềm tin một ngày nào đó sẽ là người chiến
thắng trong cuộc đua xã hội”. Diễn giải nào về “văn bản Antoine Sorel” cũng có cơ sở
hợp lý: Anh là “thế này” cùng lúc với anh là “thế kia”, tất cả đều có trong một.
Trong thế giới của Đi tìm nhân vật, không có ai là độc bản. Chu Quý, Trần
Bân, tiến sĩ N vừa là những bản sao của nhau, vừa là những trường hợp nhiều con
người trong một con người, một cái tôi lai ghép từ nhiều cái tôi. Chu Quý khi đi tìm
kẻ giết thằng bé đánh giày đã lần lượt bị biến thành: cớm , kẻ lừa đảo , kẻ vô
công rồi nghề , tâm thần , nhà báo , kẻ tống tiền … và rất có thể là x, y, z…
vừa trốn tù, đội mồ sống dậy hoặc một tên sát nhân chuyên nghiệp … Thằng bé
đánh giày - kẻ bị giết, nạn nhân đáng thương qua lời đồn thổi thậm chí trở
thành…kẻ giết người: Vừa một hôm kia một thằng cầm dao lá lúa xỉa một ông
khách chết không kịp kêu . Cũng như vậy, một chị nhà quê bị mất tiền thoắt trở
thành kẻ gây mất trật tự an ninh giữa phố… Tôi cảm thấy mỗi cá nhân giống như
một mã số kí hiệu…luôn luôn có nguy cơ bị biến dạng, bị nhiễu, sai lạc về tín hiệu
hoặc mất hút mà không cần biết lý do [157, 162)]. Điều phi lý là, chính tôi - kẻ
nhận thức rõ về tình trạng bị mã hóa của đồng loại cũng không thoát khỏi biến
dạng, bị sai lạc. Tôi vừa mới đó đã không còn là tôi cho dù tôi sở hữu một nhân
danh cụ thể: cao khoảng 1m70, da trắng, mũi to và cao, trán vuông, mắt dài, mồm cười
khá tươi, có một nốt ruồi ở dái tai … Tôi trở nên không kiểm soát nổi ý ngh của
chính mình, trong đó mối nghi ngờ của tôi không phải là tôi ngày một tăng lên. Có lúc
nó làm tôi quay cuồng, muốn hét lên thật to câu hỏi: Tôi là ai? Là tôi? Là hắn? Hay
không phải là tôi? [157, 162)]. Hành trình đi tìm thủ phạm hóa thành hành trình đi tìm
cái tôi. Hành trình đi tìm hắn hóa ra lại quay về với hắn ở trong mình.
Chi tiết mang ý nghĩa biểu tượng thể hiện tính chất vong bản, kẻ khác là
bài kiểm tra kì lạ xem tôi có còn là tôi nữa hay không. Tôi tạm thời hóa đá chờ
cái chạm tay phù phép của nàng Thảo Miên. Nhưng Giống như mọi người, nàng lo
sợ nhìn tôi. Sau đó vài chục giây nàng sững người, vẻ mặt cực kì căng thẳng. Nàng
quay sang hỏi người bên cạnh:
- Anh ta làm sao thế nhỉ?
- Có trời mới biết được.
104
Vẻ mặt nàng trở nên y hệt như mọi người, ngh a là tò mò dửng dưng và rõ nhất
là chờ đợi một trò gì đó do tôi sắp gây ra, có thể rất bất ngờ và thú vị [157, 168].
Điều đó dẫn đến một sự phi lý khác: “Tôi càng tin chắc rôi đ không còn là
tôi khi hôm sau tôi đến Cảm giác thiên đường tìm nàng…nàng hồn nhiên kể rằng,
khi nàng đến trước hiệu Bướm xanh chỉ thấy một g đứng như Chúa chịu nạn, bị
bao vây bởi một đám đông gây ra vụ ùn tắc kinh khủng chưa từng thấy… [157,
171] Chỉ cần đứng giữa đám đông, trong phút chốc, ta sẽ bị biến thành kẻ khác, từ
một bản gốc sẽ bị nhân thành vô số bản sao. Thế mới biết, sự tồn tại của con người
chỉ là những bản sao khác nhau so với bản gốc và chịu sự định đoạt của ý đồ nào
đó, chẳng hạn thuộc về lịch sử, thuộc về niềm tin mù quáng, thậm chí cả sự bịa đặt
của người khác.
Bị đám đông biến thành bản sao không đáng sợ bằng con người bị buộc
phải sống với bản sao của mình: Vào thời điểm đó, tôi cảm thấy cả trăm lần sự cần
thiết phải nói thẳng cho nàng biết cái thằng tôi trông khá đạo mạo mỗi khi ra khỏi
nhà, thằng tôi mà nàng vẫn hôn hít, vuốt ve…chỉ là thằng tôi bản sao của một thằng
tôi bản gốc mà nàng chưa bao giờ sở hữu được [157, 122]; Tôi cảm thấy rất rõ
sự bi tráng sâu thẳm của câu hỏi: Tôi là ai? Tôi hiện tồn chỉ là bản sao, vậy bản
gốc của tôi có hình dạng ra sao? [157, 122]. Bi kịch phải sống cho hình ảnh mình
trong mắt người khác, tiến sĩ N có nhiều con người trong một con người: khi ở nhà,
ông phải sống theo lập trình của vợ. Khi ở cơ quan, ông luôn tỏ ra là người chịu
khó, biết lắng nghe, biết nhún nhường, học hỏi, biết dạ thưa, vâng lệnh cấp trên
không phân biệt điều sai đúng. Những con người của bổn phận và ràng buộc này
đối lập với con người ở phía khác: con người tự do và khao khát được là nguyên
bản. Những con người này không thể dung hòa được với nhau, nên bi kịch này cuối
cùng giải quyết bằng cái chết - hành động được xem là có ý nghĩa nhất đời ông.
Đặc điểm này cũng có thể thấy rõ trong lối tổ chức truyện của 3.3.3.9
[những mảnh hồn trần]. Theo bộ máy tâm thần mà Freud đề xuất, tâm lí của mỗi cá
nhân chia thành ba tầng bậc, bậc dưới cùng là vô thức (cái ấy- Ca), đây là phần
quan trọng nhất (theo Freud) luôn chi phối bản năng và những hành vi của con
người một cách ngầm ẩn (nhất là hành vi sai lạc, giấc mơ và hành vi sáng tạo). Trên
vô thức là tầng ý thức (cái tôi- Moi) của con người, chỉ đạo những hành vi hoạt
105
động thực tiễn. Trên nữa là tầng siêu thức (cái siêu tôi – Sur moi) có chức năng
kiểm duyệt, điều tiết và hướng dẫn “cái ấy” hoạt động theo khuôn khổ, qui tắc đạo
đức xã hội. Từ đó, có thể xem Mộng Hường và hình thức/ nội dung ngôn ngữ của
nàng biểu hiện cho tầng vô thức (cái ấy) nên đậm tính bản năng, đề cao sự hưởng
thụ khoái lạc. Schditt và hình thức/nội dung của nhân vật này biểu hiện cho tầng ý
thức (cái tôi) nên đậm tính lí tính, khoa học và logic. Tầng siêu thức (cái siêu tôi) lại
được biểu hiện thông qua hình thức/nội dung ngôn ngữ của A Bồng. Trong tác
phẩm, A Bồng thực chất không có tên thật, không có số phận, diện mạo, không có
tính cách mà đơn thuần chỉ tồn tại nặc danh dưới dạng một dòng chữ căn lề lớn
nhất, font chữ Palatino Linotype và in đậm (bold). Các nhân vật tương tác với nhau
bằng phát ngôn. Cả 4 nhân vật chính là Đặng Thân, A Bồng, Mộng Hường, Schditt
đều được bố trí dị biệt trong căn lề, font chữ (Time New Roman, Palatino Linotype,
Tahoma) dạng dậm/nghiêng (Bold/ Italic) và size font để tô đậm tương tác ngôn
ngữ giữa chúng. Bản chất tương tác của các nhân vật là sự tương tác của vô thức/
bản năng với ý thức/ lí tính và siêu thức/triết lý. Tương quan bình đẳng, thậm chí là
sai lệch bất tương hợp giữa các nhân vật vì thế thể hiện bản chất đa ng của con
người thời hậu hiện đại khi không có một ng nào đủ sức nói lên một tiếng nói cuối
cùng. Tất cả luôn luôn là một cuộc đối thoại không hồi kết.
Tiểu kết chương 3
Như vậy, qua khảo sát, nghiên cứu các tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 từ
quan niệm về thực tại và con người, chúng tôi nhận thấy các tiểu thuyết đã có sự
dịch chuyển hệ hình. Tiểu thuyết từ bỏ quan niệm phản ánh thực tại để đạt được
những đỉnh cao với quan niệm kiến tạo thực tại và dịch chuyển dần tới ám ảnh về
một thực tại phân mảnh. Ở quan niệm về con người, tiểu thuyết từ phản ánh con
người đơn ngã, con người của nhiệm vụ và trách nhiệm với cộng đồng, loại bỏ yếu
tố cá nhân chuyển sang con người đa ngã, chấp nhận con người bản năng, con
người tính dục, con người tâm linh…và cuối của hành trình tìm kiếm, tiểu thuyết
nhận ra nhiều thế giới song song trong một con người.
Tuy nhiên, cũng qua việc nghiên cứu quan niệm về thực tại và con người
trong tiểu thuyết sau 1986, có thể thấy, hiếm có một tác giả nào thuần túy hiện đại
106
hoặc hậu hiện đại bởi hậu hiện đại chủ yếu xuất hiện dưới dạng yếu tố. Sự phân
định chủ yếu dừng lại ở cấp độ tác phẩm. Đặc điểm này tạo nên diện mạo phức tạp,
bề bộn của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986, đồng thời cũng đòi hỏi người nghiên cứu có
những đánh giá khách quan, điềm tĩnh, tránh những lộng ngôn ngợi ca cũng như những
định kiến tiêu cực về bước phát triển mới của tiểu thuyết.
Thực tế của các tiểu thuyết đã chứng minh: các hệ hình ở Việt Nam không
hoàn toàn nối tiếp nhau theo thời gian, mà chủ yếu là gối tiếp. Nhiều khi thời gian
gối nhau này dài và không dứt điểm, tạo nên hiện tương đồng tồn cả ba hệ hình. Không
một hệ hình nào chiến thắng hoàn toàn. Nhìn vào thực tiễn tiểu thuyết sau 1986, quan
niệm về thực tại và con người đã qua hai lần dịch chuyển hệ hình. Dù vậy, cả ba hệ
hình tiền hiện đại, hiện đại, hậu hiện đại cùng song hành tồn tại tạo nên những nét đặc
trưng trong sự vận hành của tiểu thuyết sau 1986
107
Chương 4
SỰ VẬN ĐỘNG CỦA QUAN NIỆM VỀ VIẾT TRONG TIỂU THUYẾT
VIỆT NAM SAU 1986
Vấn đề cốt lõi của tiểu thuyết là kể chuyện. Nhìn vào sự phát triển của tiểu
thuyết Việt Nam, tiểu thuyết có sự dịch chuyển hệ hình mà ở đây được đặc trưng
bằng viết (ecriture): tiền hiện đại viết về sự phiêu lưu, tức câu chuyện có trước, nhà
văn dùng ngôn ngữ để kể/ tả lại câu chuyện đó; hiện đại là phiêu lưu của cái viết,
tức câu chuyện không còn quan trọng nữa, mà viết về nó như thế nào mới là sự
quan yếu; hậu hiện đại là viết về cái viết, tức là lúc này, câu chuyện, thậm chí cả
viết nữa không còn quan trọng nữa mà suy tư về chúng mới là điểu tiểu thuyết
hướng đến. Viết không chỉ là cốt lõi của ba hệ hình mà còn là tiêu chí để nhận diện
tác phẩm ấy thuộc hệ hình nào, tác giả ấy đang ở đâu trên tiến trình văn học vốn là
sự gối tiếp chứ không phải là sự nối tiếp nên rất khó phân biệt rạch ròi.
4.1. Từ viết về phiêu lưu đến phiêu lưu của viết
4.1.1 Tiểu thuyết trước 1986 với quan niệm viết về phiêu lưu
Viết về sự phiêu lưu là hạt nhân cấu trúc của tất cả mọi truyền thống tự sự
tiền hiện đại. Cho dù cái viết về sự phiêu lưu trong các tiểu thuyết thời hiện đại khác
về bản chất với cái viết về phiêu lưu thời trung/ cận đại, nhưng nhìn từ hệ hình mỹ
học, đều thuộc hệ hình tư duy nghệ thuật tiền hiện đại.
Cốt tủy bản chất tiểu thuyết tiền hiện đại viết về sự phiêu lưu là kể một câu
chuyện có đầu có đuôi . Truyền thống này được tuân thủ từ di sản tự sự trung đại,
được khởi đầu với những truyện truyền kỳ, ký sự hay tiểu thuyết chương hồi, chú
trọng truyện tình huống . Sang thế kỷ XX, nhờ sự phát triển của văn xuôi báo chí
quốc ngữ, các thể loại văn xuôi nghệ thuật du ký, ký sự, truyện ngắn và tiểu thuyết
theo lối Pháp lần lượt ra đời. Tiểu thuyết ban đầu được hình thành và phát triển theo
nguyên tắc mô phỏng tiểu thuyết Âu Tây, sau dần đạt nhiều thành tựu với Tự Lực
Văn Đoàn và tiểu thuyết hiện thực của các nhà văn Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,
Nam Cao, tiểu thuyết phiêu lưu trình thám của Thế Lữ, Phú Đức…Tuy nhiên, dù
càng về sau, tiểu thuyết càng có ít nhiều khác biệt ở hình thức biểu hiện đối với mô
hình chuẩn định những vẫn chưa đủ sức bứt phá ra khỏi quĩ đạo tiểu thuyết tiền hiện
108
đại. Trong phạm vi đề tài luận án, với giai đoạn tiểu thuyết trước 1986, chúng tôi
chỉ phân tích khái quát những đặc điểm hệ hình của hai giai đoạn tiểu thuyết Việt
Nam: 1945 - 1975 và từ 1975 - 1986 như là tiền đề để hiểu rõ hơn những đổi mới
của tiểu thuyết sau 1986.
Những năm 1930 - 1945, tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn mà hai đại diện tiêu
biểu là Nhất Linh - Khái Hưng cùng với các nhà văn hiện thực như Ngô Tất Tố, Vũ
Trọng Phụng, Nam Cao… đã trở thành những đại diện hệ hình của tiểu thuyết tiền
hiện đại. Theo qui luật, lẽ dĩ nhiên, sau đỉnh cao của văn chương tiền hiện đại, ga
đến của văn học phải là các hình thức hiện đại của nghệ thuật và học thuật. Tuy
nhiên, mọi động hướng cách tân của văn chương nói chung, tiểu thuyết nói riêng vì
nhiều lẽ khác nhau trong bối cảnh bất bình thường của thời chiến, đã bị chặn đứng.
Điều này khiến những nhà đổi mới như Nguyễn Đình Thi hay các tác giả Nhân văn
giai phẩm không còn cơ hội đổi mới đưa văn chương sang hệ hình hiện đại chủ
nghĩa. Tiểu thuyết trở lại với hệ hình chuẩn định là tiểu thuyết tiền hiện đại viết về
sự phiêu lưu.
Tiểu thuyết 1945 - 1975 với ý chí xây dựng một nền văn học hiện thực xã
hội chủ nghĩa phục vụ đông đảo quần chúng công nông binh đã ép các tìm tòi nghệ
thuật phải đồng nhất vào các nguyên tắc của nghệ thuật tiền hiện đại mang tính mô
thức, mà là những mô thức ở dạng đơn giản hóa, mô hình hóa. Các tiểu thuyết qui
về một mô hình thống nhất ở các đặc điểm sau:
- Trước hết, tính chất viết về cuộc phiêu lưu thể hiện rõ nhất ở kết cấu lịch
sử - sự kiện. Tiểu thuyết giai đoạn này lấy diễn biến sự kiện lịch sử làm đối tượng
trung tâm, cơ bản, quan tâm đến kể cái gì hơn là kể như thế nào . Hướng đến
mục đích kể một câu chuyện có đầu có cuối, lấy sự mạch lạc của truyện kể làm mục
đích hàng đầu, cốt truyện được triển khai tuần tự xuôi chiều theo quy luật nhân quả
và trình tự đầu - cuối, trước - sau chặt chẽ theo cốt truyện truyền thống với bốn
bước: trình bày- thắt nút - cao trào - mở nút bám sát sự vận động của lịch sử. Có thể
thấy rõ hơn đặc điểm này trong kết cấu cốt truyện khi tiến hành thống kê một số tiểu
thuyết tiêu biểu trước 1975 (Xin xem phụ lục bảng 4.1).
Nhìn vào các tác phẩm tiêu biểu, ta thấy tiểu thuyết được triển khai tuần tự
trước sau, tiến triển theo trật tự niên biểu theo một mẫu số chung. Diễn biến chính
109
của sự kiện trùng khít với tuần tự tự nhiên. Các tác phẩm đều có một hướng vận
động chung: từ đau thương đến quật khởi, từ khó khăn đến thắng lợi. Cách xây
dựng và giải quyết các xung đột bị chi phối bởi nhãn quan chính trị: Suy cho cùng
hiện thực nông thôn trong các tác phẩm của Nguyễn Khải, Chu Văn, Vũ Thị
Thường, Nguyễn Địch Dũng, Đào Vũ… đều được xử lý giống nhau, và hiện thực
chiến tranh trong các tác phẩm Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Anh Đức,
Nguyễn Văn Bổng, Nguyên Ngọc, Phan Tứ, Nguyễn Thi… cũng theo một kinh
nghiệm quen thuộc, kinh nghiệm này chịu sự chi phối từ lập trường ta - địch [9,
19]. Đó là một lập trường điển hình của tư duy loại trừ tiền hiện đại.
- Một đặc điểm khác dễ dàng nhận ra của hệ hình tiểu thuyết hiện thực xã
hội chủ nghĩa lấy viết về phiêu lưu làm hạt nhân là sự kiện lịch sử với các biến cố
của nó sản sinh ra các tính cách nhân vật, mà tính cách nhân vật thì thuần nhất và
đơn phiến. Trong hai mạch truyện: mạch sự kiện và mạch tâm lý thì sự chi phối
thuộc về mạch thứ nhất. Ngay cả bản thân sự vận động của tâm lý nhân vật cũng bị
quy phạm hóa bởi quy luật nhân quả, nghĩa là luôn có một hệ thống mô típ tâm
trạng nhân vật hô ứng với hệ thống sự kiện, với hệ thống mô típ tình huống cố định.
Nhiều khi, nó biến thành công thức kiểu: tính cách nào thì diễn biến tâm lý ấy, tâm
lý như thế nào thì hành động như thế ấy đã tạo ra một đường ray định sẵn cho sự tái
hiện tâm lý nhân vật. Tính cách nhân vật định sẵn và ổn định như một mạch nước
ngầm mà những sự kiện chỉ mang ý nghĩa như những nhát cuốc khơi dòng để mạch
nước ấy trào lên.
Một trong những yêu cầu của phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa là
nhân vật phải có tình điển hình. Mỗi một nhân vật đại diện cho một thành phần xã
hội nhất định, suy rộng ra là điển hình cho dân tộc và thời đại, nhà văn chú ý miêu
tả những nét chung, khái quát của “loại” hơn là nhấn mạnh những nét riêng. Trong
tiểu thuyết Bất Khuất, nhân vật Bình không có cá tính riêng mà chỉ có những tính
cách điển hình của giai cấp công nhân. Khắc (Vỡ bờ), Tô (Cửa biển) … điển hình
cho những chiến sĩ cách mạng thời tiền khởi nghĩa. Mẫn (Mẫn và tôi), Thắm (Đất
Quảng) … điển hình cho du kích miền Nam thời chống Mỹ. Nhân vật vì thế được
xây dựng theo mô hình, không chú trọng sự phát triển tính cách, cá tính. Tính cách
nhân vật không thay đổi mà mô típ tình huống - sự kiện lại cố định tất yếu dẫn đến
110
những mô típ tâm lý công thức và bất biến. Chính bởi những lý do này, kết cấu tâm
lý có phần đơn điệu và mờ nhạt trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam.
- Hệ quả tất yếu của các đặc điểm như trên là sự coi trọng đặc biệt các
xung đột khiến cho tiểu thuyết theo hệ hình tiền hiện đại kiểu này đậm đặc tính kịch.
Có vẻ như có một sự hồi quang quá khứ với các tác tiểu thuyết thời kỳ này. Đặc
điểm này hoàn toàn có thể lý giải khi nhìn từ hệ hình. Trong bản chất, đó là sự tiền
hiện đại hóa tiểu thuyết: tiểu thuyết hướng nhiều đến sự kiện và hành động, nhân
vật chủ yếu được khắc họa ở phương diện bên ngoài, thậm chí trong nhiều trường
hợp bị chức năng hóa. Có lẽ chính bởi đặc điểm này mà “Xuất phát từ những yêu
cầu nghiêm nhặt của thể loại ở cả hai phương diện: loại hình nội dung và cấu trúc
hình tượng, thì ở tất cả những cuốn tiểu thuyết trên, chất truyện vẫn lấn át chất tiểu
thuyết [101, 215]. Bởi vậy, thiết nghĩ cần khu biệt hai thể loại “truyện” và “tiểu
thuyết”. Thành phần chính yếu của tiểu thuyết không phải chỉ là cốt truyện và tính
cách nhân vật như trong truyện vừa và truyện ngắn trung cổ. Ngoài hệ thống sự kiện,
biến cố và những chi tiết tính cách, tiểu thuyết miêu tả suy tư của nhân vật về thế giới,
về đời người, phân tích cặn kẽ các diễn biến tình cảm, trình bày tường tận tiểu sử của
nhân vật, mọi chi tiết về quan hệ giữa người và người, về đồ vật, môi trường... [10,
330]. Nhiều tiểu thuyết trước 1975 ít suy tư nên nhạt chất tiểu thuyết mà đậm chất
truyện, chất kịch là vì vậy. Con người trong tiểu thuyết nhiều khi chỉ như một chức
năng nối liền các sự kiện.
Tiểu thuyết 1975 - 1986 đã có những chuyển mình rõ rệt. Tuy nhiên, với tư
cách thời hậu chiến, văn học giai đoạn này vẫn viết theo quán tính của thời chống
Mỹ, xa hơn chống Pháp, tức vẫn thuộc về hệ hình tiền - hiện đại.
Nhìn vào bề sâu chúng tôi nhận thấy các tiểu thuyết vẫn tiếp tục mô hình kể
về cuộc phiêu lưu với sự âm thầm bảo lưu tính truyện bên dưới những đổi mới sôi
nổi trên bề mặt. Hầu hết các tiểu thuyết vẫn có cốt truyện khá rõ ràng và có thể tóm
tắt lại được. Từ các tiểu thuyết viết về chiến tranh chọn những thời điểm khốc liệt,
gay cấn của chiến tranh làm bối cảnh để khám phá tâm lí, tính cách con người như
Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Miền cháy (Nguyễn Minh Châu), Trong cơn gió
lốc (Khuất Quang Thụy), Năm 75 họ đ sống như thế (Nguyễn Trí Huân)…đến
những tiểu thuyết dựa vào những vụ việc xã hội có thật và còn nóng hổi, còn đậm
111
chất báo chí, thành phần hư cấu không nhiều và thường công khai nặng tính chính
luận như Cù lao tràm, Đứng trước biển của Nguyễn Mạnh Tuấn, Gặp gỡ cuối năm,
Thời gian của người (Nguyễn Khải), Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn (Ma
Văn Kháng), Hạt mùa sau (Nguyễn Thị Ngọc Tú)…, các tiểu thuyết về cơ bản vẫn
có cái kể rất rõ: một sự kiện của chiến tranh, một vụ việc nóng hổi, một cuộc đời/ số
phận. Sức hấp dẫn của các tiểu thuyết chủ yếu vẫn thuộc về tính li kì, gay cấn, éo le
của những sự kiện gắn với những cuộc phiêu lưu của nhân vật. Tính chất nhất thiết
phải có chuyện đã trở thành rào cản cho những nỗ lực trong việc thay đổi lối viết.
Ghi nhận ở giai đoạn này là những cây bút đã có nhiều thành công ở lối viết
cũ, do nhận thức được sự nhất thiết phải đổi mới văn học, đã dũng cảm để lại sau
lưng thành tích vẻ vang của mình để bước vào cuộc phiêu lưu sáng tạo mới đầy bất
trắc mà Nguyễn Minh Châu với các truyện ngắn như Bến quê, Bức tranh, Phiên chợ
Giát…là tiêu biểu. Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, mô hình tự sự tổ chức
theo nguyên tắc của truyện kể đã được thay thế bằng mô hình tự sự tổ chức theo
những nguyên tắc tiểu thuyết. Nhờ thế, mạch suy tưởng, triết lí tràn vào mạch trần
thuật. Mạch kể nhiều khi phải đuổi theo mạch tả, dòng sự kiện hồi cố lấn át dòng sự
kiện tiến trình cố truyện làm cho khung cốt truyện ngày càng có khuynh hướng nới
lỏng. Khi phải mô tả tính cách, Nguyễn Minh Châu bao giờ cũng thể hiện con người
chỉ như một tính cách. Nghĩa là ngòi bút của ông luôn luôn hướng tới những biểu
hiện đầy biến động của các quá trình tư tưởng, tình cảm, tâm lí để nắm bắt cái con
người đích thực ở trong con người. Nhân vật của Nguyễn Minh Châu vì thế không
bao giờ đồng nhất với bản thân nó. Về phương diện này, Nguyễn Minh Châu là
người kế tục xuất sắc truyền thống văn xuôi tâm lí được hình thành trong sáng tác
của Nam Cao. Những cách tân nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu vừa góp phần mở
rộng khả năng phản ánh hiện thực của văn xuôi tự sự, vừa làm giảm bớt tính loại
biệt, ước lệ và sụ gián cách của nội dung nghệ thuật với hiện thực đời sống, góp
phần thúc đẩy những chuyển biến ở thể loại tiểu thuyết.
Tiểu thuyết Thời xa vắng (1984) có thể xem là tiểu thuyết chuyển giao xuất
hiện rõ những dự báo về một cuộc chuyển đổi hệ hình sắp sửa. Tuy nhiên, về
phương diện nghệ thuật, câu chuyện vẫn được kể theo trật tự tuyến tính, các xung
đột được đẩy lên cao và tính cách của Sài hiện lên đầy đặn qua sự phát triển của cốt
112
truyện. Ngh a là, nó vẫn làm nhiệm vụ phản ánh, dù là có nghệ thuật, có nghiền
ngẫm đi nữa, cái thực tại biểu kiến, bên ngoài, tồn tại một cách độc lập với ý thức
của nhà văn. Xét ở phương diện loại hình, cuốn tiểu thuyết thời danh này vẫn chưa
thuộc về loại văn chương hiện đại chủ nghĩa.
4.1.2. Tiểu thuyết sau 1986 - cuộc phiêu lưu của viết
Nhờ công cuộc Đổi mới, viết mới, cụ thể là viết theo hướng hiện đại chủ
nghĩa đã dần được thừa nhận hoặc ít nhất không bị phê phán. Nhờ thế đã tạo ra một
loạt các nhà văn mà sáng tác của họ có nhiều yếu tố hiện đại chủ nghĩa, xa hơn nữa
đ là nhà văn hiện đại chủ nghĩa, phiêu lưu của viết, mở ra chủ nghĩa hậu hiện đại
viết về cái viết trong tiểu thuyết Việt Nam.
Sau 1986, tiểu thuyết trở lại với hành trình còn dang dở để chuyển sang hệ
hình hiện đại, cũng là để theo kịp nhịp phát triển văn học thế giới mà mình bỏ lỡ.
Từ đây, tiểu thuyết Việt Nam chứng kiến nỗ lực bứt phá để thể nghiệm những lối
viết mới. Nguyễn Minh Châu đọc lời ai điếu cho nền văn học cũ - văn nghệ
minh họa”. Xuyên qua lớp ngôn từ gây sốc của bài tiểu luận có ý nghĩa như một lời
di chúc của nhà văn quân đội đã trải qua chiến tranh, có thể nhận thấy một tiếng gọi
khẩn thiết kêu gọi tinh thần trách nhiệm của từng cá nhân nghệ sĩ trong mối quan hệ
với đời sống xã hội, theo đó, người nghệ sĩ không chỉ phản chiếu cái nhìn về hiện
thực của cộng đồng, mà quan trọng hơn, một cái nhìn mới, khác, đồng thời làm
phong phú hơn cái nhìn đó bằng những sáng tạo cá nhân. Đó là một tuyên ngôn,
một ẩn dụ của sự ý thức đoạn tuyệt với viết kiểu cũ và khát vọng xây dựng một nền
văn nghệ mới, khác. Dĩ nhiên, Đổi mới và Mở cửa, không phải lập tức làm cho mọi
cây bút đổi kênh. Đa số chỉ đổi mới trên cái kênh cũ của mình. Các tiểu thuyết vẫn
tập trung vào sự đổi mới nội dung hiện thực của tác phẩm, nghĩa là câu hỏi “viết về
cái gì” luôn được ưu tiên hơn hẳn câu hỏi “viết như thế nào?”. Dù viết về người
lính hay người nông dân, trí thức hay doanh nhân, trẻ em hay người già, người gặp
thời hay kẻ lạc thời, về quá khứ lịch sử hay về hiện tại, hướng tới cảm hứng triết
luận hay cảm hứng trào lộng; ngợi ca, khẳng định hay phê phán, phủ nhận… thì
tinh thần chung vẫn là kể một câu chuyện có đầu có cuối theo logic nhân - quả, sao
cho người đọc có thể dễ dàng quy chiếu ý ngh a tác phẩm về hình tượng thế giới
khách quan [101]. Nói cách khác, giá trị thẩm mỹ mà tác phẩm đem lại chủ yếu
113
phụ thuộc vào nội dung hiện thực của câu chuyện. Những biến đổi ở nghệ thuật trần
thuật vẫn chưa đủ tạo ra một bước ngoặt.
Sự thể đã khác khi xuất hiện những gương mặt đại diện cho hệ hình mới
đầu tiên. Nguyễn Huy Thiệp đã khiến cái quán tính văn học viết theo những mô
hình định sẵn trước đây dừng lại một cách thật đột ngột. Nguyễn Khải có lần thốt
lên khi đọc Nguyễn Huy Thiệp: viết thế này hoặc là cỡ thiên tài hoặc là ma quỷ.
Ma thì chắc là không. Thiên tài thì khoan hẵng khẳng định. Lời nhận xét của bậc
đàn anh trong văn giới này một mặt khẳng định tài năng Nguyễn Huy Thiệp, mặt
khác, quan trọng hơn, là lời thú nhận trước một thực tế hiển nhiên: cần phải "giã từ
vũ khí", giã từ bút pháp quen thuộc của một "thời lãng mạn". Dĩ nhiên, điều đó
không đồng nghĩa với việc phải viết như Nguyễn Huy Thiệp mà điều cấp thiết hơn
nằm ở chỗ: phải viết khác đi so với những gì trước đây đã từng viết. Văn chương
Việt Nam đến Nguyễn Huy Thiệp đã là một thứ văn chương khác, và Nguyễn Huy
Thiệp thực sự là người thay đổi hệ hình văn xuôi Việt Nam.
Ở thể loại tiểu thuyết, Thiên sứ của Phạm Thị Hoài xứng đáng được coi là
tác phẩm quan trọng với ý nghĩa nó đề xuất một tinh thần thẩm mĩ mới, mô hình
tiểu thuyết mới và tác giả của nó xuất hiện tư cách là người dịch chuyển hệ hình.
Với Thiên sứ, câu hỏi có thể viết tiểu thuyết như thế nào? đã trở thành mối bận
tâm lớn nhất. Câu trả lời của Phạm Thị Hoài là: có thể viết tiểu thuyết như một trò
chơi. Phạm Thị Hoài công khai khiêu khích, gây hấn với kinh nghiệm văn
chương truyền thống khi trình làng một văn bản lạ lẫm không gây hứng thú ở
bản thân câu chuyện mà như đang bày trước độc giả cuộc chơi tạo lập văn bản: chơi
cấu trúc, chơi nhân vật, chơi cú pháp…
Trước khi Thiên sứ xuất hiện, người đọc từng quen với khái niệm tiểu
thuyết trong tính ổn định, rằng tiểu thuyết phải có dung lượng lớn, phải nhiều trang,
có nhiều nhân vật, nhiều tuyến nhân vật, các xung đột phải được giải quyết triệt
để...Với Thiên sứ có thể thấy nhà văn đã chơi thể loại bằng việc tạo nên một tác
phẩm lệch chuẩn bởi lối viết thoát khỏi khuôn khổ, quy chuẩn nghệ thuật của thể
loại tiểu thuyết truyền thống, làm đứt gãy những quy ước thể loại trước đây. Thiên
sứ chỉ vọn vẹn 123 trang (bản in năm 1989, Nxb Trẻ), được chia thành 20 chương
(kể cả phần kết), các chương lại không có sự liên kết chặt chẽ theo trục tuyến tính.
114
Hai mươi chương của cuốn tiểu thuyết với dung lượng từng chương có sự chênh
lệch lớn, chương ít nhất chưa đầy một trang, chương nhiều nhất là 12 trang.
Mỗi nhân vật trong Thiên sứ đều theo đuổi một cuộc chơi riêng: cuộc chơi
của Hoài là cuộc chơi khước từ đám đông, chấp nhận cô độc. Cuộc chơi của chị
Hằng: cuộc chơi đi tìm tình yêu, cuộc chơi với trò may rủi của Hạc và Hoàng…
Biến tiểu thuyết thành trò chơi, Phạm Thị Hoài chối bỏ tính minh họa thực dụng
của văn chương truyền thống lấy nội dung chế định hình thức nghệ thuật. Phạm Thị
Hoài đòi lại vị trí của viết. Hàm lượng thông tin thẩm mỹ rõ ràng đến từ cách viết
nhiều hơn là từ câu chuyện. Có người đã nhận xét rất tinh rằng nếu Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Khải và đa số tác giả tiểu thuyết cho đến cuối thập kỷ 80 vẫn chủ yếu
đổi mới cách kể chuyện, thì Phạm Thị Hoài không kể nội dung nữa, mà là viết nội
dung (từ dùng của Hoàng Ngọc Hiến). Trong cả tiểu thuyết lẫn truyện ngắn, Phạm
Thị Hoài đều có ý thức lái mối quan tâm của người đọc từ câu chuyện sang văn
bản/diễn ngôn. Cách ứng xử của tác giả với việc tạo lập văn bản tiểu thuyết rất gần
với cách ứng xử của các nhà thơ. Nó đòi hỏi người đọc tiếp nhận tiểu thuyết trước
hết như tiếp nhận một cấu trúc ngôn ngữ.
Cùng với Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh đã tiếp tục
đẩy viết của hệ hình tiểu thuyết hiện đại lên đến đỉnh cao. Chính việc tự giác trước
câu hỏi có thể viết tiểu thuyết như thế nào? , tức đẩy trọng tâm của tiểu thuyết
sang viết mới, đặt Nỗi buồn chiến tranh vào vị trí đột phá về hệ hình. Việc Bảo
Ninh lựa chọn cái hiện thực của tâm linh, hiện thực bên trong một con người - một
số phận cụ thể - với ý thức biểu đạt chiến tranh bằng kinh nghiệm cá nhân cũng bao
hàm thái độ khước từ cách viết theo kinh nghiệm cộng đồng và do đó, không tránh
khỏi gây shock cho khá nhiều bạn đọc. Nó đưa đến một lối viết hoàn toàn mới: Cá
nhân hoá hư cấu, quyết liệt từ bỏ hình thức tiểu thuyết hiện thực truyền thống (theo
kiểu tiểu thuyết - ký sự như Đất trắng) để kết cấu tiểu thuyết theo mô hình dòng ý
thức. Nỗi buồn chiến tranh trở thành một thách thức đối với việc đọc của công
chúng ở Việt Nam ít nhất cho đến thời điểm đó. Nó không có những xung đột người
- người (ta - địch, người xấu - người tốt, người lạc hậu - người tiến bộ …) xuyên
suốt toàn bộ thiên truyện. Tác phẩm không được phân chia thành những chương
phần với những đường dây cốt truyện mạch lạc. Người kể chuyện xưng “tôi” cứ
115
nhấn mạnh mãi với người đọc rằng khi viết tâm trạng Kiên như mấp mé bờ vực .
Bên cạnh niềm hi vọng và lòng tin vào thiên chức của mình, anh như luôn ngờ vực
sự sáng suốt của mình . Người kể chuyện khi cố gắng sắp xếp đống bản thảo mà
Kiên bỏ lại đã hoàn toàn bất lực, không biết cần sắp xếp trật tự các trang thế nào.
Người kể chuyện luôn luôn thú nhận sự bối rối: tôi không biết , tôi không hiểu gì
cả , chính tôi đ đi đến chỗ tự cho ph p mình … rồi cầu xin bạn đọc bạn hãy
tưởng tượng”… Tiểu thuyết không còn lớp lang của cốt truyện về cuộc phiêu lưu
mà trở nên hỗn độn, khiến tác phẩm trở thành một sáng tác dựa trên cảm hứng chủ
đạo của sự rối bời , trang nào cũng hầu như là trang bắt đầu, trang nào cũng hầu
như là trang cuối cùng .
Nỗi buồn chiến tranh đem lại cho người đọc cảm giác về thủ pháp cắt xén,
lắp ghép như trong điện ảnh. Cách tổ chức văn bản cố ý trượt khỏi quan niệm thông
thường về “mạch lạc”, logic ngữ nghĩa bị vi phạm, sự gắn kết hình ảnh, cảm xúc
trong dòng kí ức nhân vật triền miên bất định hiện ra không theo trật tự nào mà tuỳ
tiện, ngẫu nhiên, nhảy cóc. Các sự kiện lớn trong tác phẩm được chia cắt thành các
mảnh rải rác trong toàn bộ tác phẩm mà chỉ khi đọc đến những trang cuối cùng, ta
mới thấu suốt được. Chẳng hạn: chuyến tàu vào Vinh cắt chia rải rác ở các phần 4, 5
,6 , 7. Ký ức sân trường Bưởi tháng tư với Phương hiển hiện trong toàn bộ tác phẩm
như từng mảnh vụn lấp lánh trong ký ức rải rác suốt chiều dài tác phẩm... Tác
phẩm từ đầu đến cuối không hề có nổi một tuyến chung, một bề mặt đại khái nào
mà hoàn toàn là những khối thù hình. Tất cả đang diễn ra đột nhiên đứt g y và bị
qu t sạch khỏi giữa chừng trang giấy như thể rơi vào một kẽ nứt nào đó của thời
gian tác phẩm… [188, 292].
Có thể thấy rõ đặc trưng này trong phần hai tác phẩm:
Blog 1: ký ức từ biệt Thịnh con (1974) A
Blog 2: ký ức về Hòa (1968) B
Blog 3: ký ức gặp lại Lan, mùa hè cách đây dăm năm C
Blog 4: mấy năm sau, đi qua Đồi Mơ D
Blog 5: ký ức lần gặp lại dượng (năm 17 tuổi, 1965) E
Blog 6: cái chết của Cố Du cuối mùa hạ vừa rồi F
Blog 7: kí ức về Hạnh khi Kiên học lớp 10, 17 tuổi (1965) G
116
Blog 8: mùa đông năm ấy, Phương ra đi H
Blog 9: gặp em gái Vĩnh… hồi ức lần gặp mẹ Vĩnh I
Blog 10: đêm mùa xuân sang thăm Sinh... hồi ức lần đến thăm Sinh ở
bệnh viện K
Blog11: hồi ức chuyến tàu trở về, gặp Hiền, gặp lại Phương, cuộc sống với
Phương, Phương bỏ đi. L
Trật tự trần thuật sẽ là: A1 B2 C3 D4 E5 F6 G7 H8 I9 K10 L11
Trong khi đó trật tự thời gian sự kiện là: A4 B3 C6 D10 E2 F11 G1 H7 I8 K9 L5
Với Nỗi buồn chiến tranh, kĩ thuật dòng ý thức khiến trật tự tuyến tính giả
định của hiện thực bên ngoài bị triệt tiêu, để từ đó một “trật tự” khác của thế giới
bên trong được nhìn thấy đúng như chính nó - một thế giới phi thời gian, phi không
gian, bất định, năng động và vĩnh viễn bất khả đoán. Bảo Ninh thực sự đã là một
nhà văn hiện đại ở chỗ: tác phẩm hướng từ bỏ thực tại biểu kiến bên ngoài hướng
vào thế giới bên trong. Hơn nữa, lấy sự bất định, bất khả đoán của thế giới ấy làm
tâm điểm, Bảo Ninh cũng lấy chính ngôn ngữ làm điểm tựa để triển khai câu
chuyện. Với biểu hiện trên, tiểu thuyết đã có những biểu hiện chạm đến đặc trưng
của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học thế giới, khi mà Một trong những đặc
điểm quan trọng của tư duy ấy là quan điểm về tính không tất định của cuộc sống,
cách nhìn cuộc sống không tuyến tính như trước, thoát ra khỏi tư duy cơ giới vốn
coi cuộc sống tất đều hợp lý như một cỗ máy, mọi sự hễ cứ biết rõ được cái ban
đầu, cái nguyên nhân thì chắc chắn sẽ biết cái kết quả, không thể sai [125]. Vậy là
với Nỗi buồn chiến tranh, hình thức của tiểu thuyết đ thành một nội dung của
chính nó chúng lái hứng thú của người đọc tiểu thuyết chuyển dần từ câu
chuyện sang các nguyên tắc tạo lập văn bản, sang hành ngôn [109]. Nói như
thế có nghĩa là, Bảo Ninh đã là mẫu nhà văn hiện đại bởi anh ta không viết về sự
phiêu lưu mà phiêu lưu về sự viết.
Trở lại với cuốn tiểu thuyết đến sớm Những ng tư và những cột đèn, tiểu
thuyết này là một dẫn chứng cho sự dịch chuyển của viết: nhiều yếu tố vốn là
trung tâm của văn học hiện thực xã hội chủ ngh a bị chuyển thành cái ngoại
biên trong sáng tác Trần Dần và ngược lại.
117
Tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa yêu cầu một cốt truyện có truyện, kể
sao cho mạch lạc, lớp lang, sao cho giống cuộc sống, thế nhưng Những ng tư và
những cột đèn dường như không định đặt tiêu chí ấy lên hàng đầu, mà muốn trình
bày một quan niệm mới về hình thức thể loại, chia sẻ một kĩ thuật viết khác lạ.
Trong các tác phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa, vì có sự thống nhất, thậm chí đồng
nhất cá nhân với tiến trình lịch sử, nên mâu thuẫn nội tâm phức tạp thường nhanh
chóng được giải thể, việc triển khai chiều sâu tâm lí không còn cơ hội; còn
với Những ng tư và những cột đèn, cốt truyện bị đẩy lùi xuống hàng thứ hai, bình
diện tâm lí được đưa lên hàng đầu. Nghĩa là, một câu chuyện có sự kiện đã biến
thành một chuyện mà ở đó bản thân sự kiện không quan trọng bằng mục đích
viết, cái xảy ra biến thành chuỗi cảm xúc trữ tình, liên tưởng, suy tư, ví dụ, về mối
quan hệ của tác giả - tác phẩm - người đọc, về hành trình sáng tạo của nhà nghệ sĩ,
số phận và sứ mệnh của tác phẩm nghệ thuật, về thiên chức đưa hiện tại ra khỏi
thời gian của nhà nghệ sĩ. Những năm 60, sang cả hai thập niên sau, có lẽ chưa có
cuốn tiểu thuyết nào mang hình thức và ý nghĩa tương tự, chưa có tác phẩm nào lại
mang một chủ đề “phản chỉ định” đối với văn học hiện thực xã hội như thế như thế.
Thứ hai, về phương diện loại thể, trong khu vực văn học hiện thực xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, thể loại vốn không phải phạm trù bất biến, nhưng so với khu
vực văn học khác, tính chất “cứng rắn, hoàn kết” của nó có lẽ nhiều hơn, sự chuyển
hoá vào nhau giữa các hình thức thể loại xảy mờ nhạt hơn; chủng loại đơn điệu hơn
vì thiếu vắng một số thể loại từng đạt đến đỉnh cao ở giai đoạn 1930 - 1945, như bi
kịch, tự truyện, phóng sự; và đặc biệt, những hình thức mang tính ám dụ, giễu nhại
như tiểu thuyết giả trinh thám, giả lịch sử, giả thần thoại,… không được khuyến
khích. Những ng tư và những cột đèn mang hình thức tiểu thuyết giả trinh thám kết
hợp tiểu thuyết tâm lí - những thể loại ngoại biên so với khung “pháp lí” của hệ
hình nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa. Không phải vô cớ mà nhân vật Dưỡng
trong Những ng tư và những cột đèn lầm lẫn Tội ác và trừng phạt - tiểu thuyết
tâm lý nổi tiếng của Dostoievski - với truyện trinh thám. Trần Dần đã chọn thể loại
cho tác phẩm ở điểm nhòe mờ giữa hai thể loại. Nếu tiểu thuyết/truyện trinh thám
chú trọng sự kiện, mẹo thuật trinh thám, và quan hệ lôgic của các sự kiện, mẹo thuật
thì tiểu thuyết tâm lý tập trung hứng thú nghệ thuật vào khám phá thế giới tinh thần,
118
trạng thái tâm tưởng, mô tả những xung đột nội tâm của nhân vật. Sự khác biệt này
xác lập một đường biên thể loại, nhìn từ bề mặt. Nhưng tiểu thuyết trinh thám và
tiểu thuyết tâm lý có những đồng nhất quan trọng: sự quan tâm đến mối quan hệ
giữa động cơ tâm lý và hành vi, số phận con người, cũng như những tác động của
tình huống đối với tâm lý - các tác động tạo nên những ám ảnh đối với nhân vật.
Việc điều tra phát hiện tội phạm - kẻ ném đá dấu tay - là quá trình đấu trí căng
thẳng, gay cấn, nhưng hưng phấn, đã/đang/sẽ, một mặt tạo thêm tình huống cho tâm
lý nhân vật bộc lộ, vận động. Trần Dần đã thay đổi chức năng của các tình huống,
tình tiết điều tra của nhà thám tử trong cốt truyện trinh thám, biến các yếu tố này
thành công cụ, cơ hội để tập trung miêu tả, phân tích tâm lý trong tiểu thuyết tâm lý
của ông. Mục đích truy tìm tội phạm chỉ là bề nổi, chở tải một bè ngầm thể hiện
niềm khát khao “đi tìm thời gian đã mất”, đi tìm lại bản ngã của con người. Bản
thân thể loại tiểu thuyết trinh thám qua tay Trần Dần vậy là cũng thực hiện một
cuộc vượt biên.
Ngoài ra, ở tác phẩm này, ta còn bắt gặp kỹ thuật tự sự đa chủ thể (nhiều
nhân vật cùng kể chuyện) - “một kỹ thuật rất tiên tiến của văn chương thế giới cùng
thời, mà chúng tôi - lúc đó đang ngồi trên ghế giảng đường đại học - chưa hề được
nghe các giáo sư nhắc tới, m i đến năm 1980 mới được biết đến qua các bản dịch
tiếng Nga. [106]. Cấu tạo khác thường của tiểu thuyết này thể hiện ở chỗ có nhiều
người kể chuyện, chia làm hai bên - một bên, người viết, một bên là những người
can dự và kể lại; bên những người can dự (trong cuộc) lại cũng chia làm hai - một
bên là Dưỡng, cựu lính “tàu bò” ngụy binh, người ghi nhật ký, bên còn lại như một
hình ảnh thu nhỏ xã hội Hà Nội sau ngày giải phóng năm 1954 với những người tác
động và chi phối quãng đời biến chuyển kỳ lạ của Dưỡng (anh Thái, Chị Hòa, Cốm,
Nhọn - cằm). Trong nhật ký thì bản thân Dưỡng cũng phân thân đối mặt với lí trí,
với lương tâm mình và con người nội tâm trong các bộ ba Tôi - Mày - Thằng và
Tôi- Sọ - Bóng. Chưa kể, người viết, một mình một bên, lại cũng triển khai những
nghĩ ngợi có tính chất đối thoại với nhật ký, với Dưỡng - và hầu như toàn bộ motif
của lớp truyện này, như một cặp song tấu giữa người viết và Dưỡng, dựa trên kinh
nghiệm nghệ thuật của cả hai về tác phẩm Tội ác và hình phạt của Dostoievski: một
kinh nghiệm về lương tâm trước tội lỗi.
119
Các thế phân đôi này chồng chéo và giao cắt lẫn nhau tạo nên một mạng
không gian nhiều chiều hiển hiện. Câu chuyện vì thế được kể bởi đa bội điểm nhìn
và đa bội giọng điệu tạo ra tính đối thoại hiện đại cho tác phẩm.
Có thể nói, từ viết cái gì đến viết thế nào là một bước chuyển đáng
kể của văn xuôi đương đại Việt Nam [30]. Viết đã trở thành nhân vật chính. Sự
thành công về mặt nghệ thuật của những người tiên phong đã tạo ra sự cộng hưởng
sâu rộng ở người đọc và tạo ra cả một loạt những tiểu thuyết hiện đại chủ nghĩa. Từ
sau 1992, phong trào Đổi mới trong văn học chuyển hướng. Những người viết theo
trào lưu Đổi mới ở khía cạnh chính trị - xã hội của văn học lần lượt bỏ cuộc. Chỉ
những ai thực sự đổi mới được tư duy nghệ thuật, tức chuyển hẳn sang hệ hình hiện
đại, thì vẫn còn tiếp tục đổi mới. Có điều, Đổi mới không còn là một phong trào xã
hội - văn học, đổi mới mang tính tự giác và cá nhân, tức nhà văn tự giác ngộ phải
thay đổi tư duy nghệ thuật cho phù hợp với thời đại và tự mình làm văn học mới
cho/của chính mình. Nói cách khác, thay vì đổi mới còn mang tính chất phong trào,
đổi mới mang tính tự giác và được cá nhân hoá càng khiến viết hiện đại trở thành
một nhu cầu tự thân của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986, và vì thế, nó càng triệt để và đi
được xa hơn với hàng loạt tiểu thuyết: Người sông Mê của Châu Diên, Trí nhớ suy tàn,
Người đi vắng, Thoạt kỳ thuỷ, Ngồi của Nguyễn Bình Phương, Khải huyền muộn của
Nguyễn Việt Hà, Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh, Chuyện của thiên tài của Nguyễn
Thế Hoàng Linh…
Nhìn từ hệ hình, ta có thể thấy sự dịch chuyển trong nghệ thuật tự sự của
các tiểu thuyết hiện đại sau 1986, nhất là sau 1992, so với tiểu thuyết xã hội chủ
nghĩa nói riêng và tiểu thuyết tiền hiện đại nói chung. Trong văn học hiện thực xã
hội chủ nghĩa, thế giới được bổ đôi thành hai mặt loại trừ nhau (ta - địch, chính diện
- phản diện, tích cực - tiêu cực), theo đó cái nhìn của người kể chuyện mang tính
đơn tuyến. Điểm nhìn trần thuật chủ yếu sử dụng trường nhìn tác giả, trường nhìn
ấy luôn thống nhất với trường nhìn nhân vật, bất biến. Điều này dẫn đến mô hình
nghệ thuật hoàn kết, khép kín trong cấu trúc tác phẩm. Cũng vì thế, mối quan hệ của
nhà văn với nhân vật là quan hệ cấp bậc, nhà văn đứng cao hơn nhân vật, là người
độc quyền chân lí; mối quan hệ tác giả với độc giả là mối quan hệ khép kín, không
chấp nhận đối thoại. Cái nhìn đơn tuyến, cấu trúc hoàn kết và khẩu khí độc thoại, từ
120
chối đối thoại chính là đặc trưng nghệ thuật cơ bản của các tiểu thuyết hiện thực xã
hội chủ nghĩa.
Trong khi đó, các nhà văn hiện đại cắt nghĩa mọi tồn tại thế giới từ cái nhìn
chủ thể. Mỗi người với cái nhìn của mình tạo ra một thế giới khác nhau. Vì thế, thế
giới là đa diện chứ không còn là một thế giới khách quan duy nhất đúng của tiền
hiện đại. Điều này chuyển vào quan niệm về viết tiểu thuyết cho rằng câu chuyện
không quan trọng mà chính ngôn ngữ với sự đổi khác trong chuỗi diễn ngôn bất tận
sẽ tạo nên câu chuyện.
Với quan niệm đề cao cách viết, ở các tiểu thuyết hệ hình hiện đại có hai
hành động được thực hiện: trước tiên là hành động đập vỡ thành từng mảnh những
hình ảnh, ý niệm, hệ thống, và giá trị của trật tự cũ, và kế đến là hành động xếp
những mảnh vụn ấy theo một trật tự mới - một trật tự chủ quan đầy tính sáng tạo và
bất khả đoán, chứ không phải thứ trật tự dựa trên những ý niệm về văn thể và thi
pháp cũ. Chẳng hạn như tiểu thuyết Song song của Vũ Đình Giang, trên bề mặt văn
bản, dường như không có người kể chuyện chính thức trong tiểu thuyết nữa. Điểm
nhìn trần thuật phân tán khắp câu chuyện, luân chuyển từ nhân vật này sang nhân
vật khác. Người kể chuyện lúc ở ngôi ba, lúc là những cái tôi đồng đẳng – những
cái tôi tự thuật, tự bạch (G.g xưng tôi, H xưng tôi, đan xen trong lời kể của “tôi” còn
có lời của nhân vật khác (của Kan, của “đồng chí”, của đám đông); trần thuật ngôi
ba được sử dụng linh hoạt ở dạng “camera”, giọng vô cảm, trung tính, miêu tả theo
kiểu quay phim, chụp ảnh, những trang nhật kí, những bức ảnh về thế giới nội tâm
(những mảnh văn bản có kí hiệu là p.). Cách tổ chức điểm nhìn này khiến truyện chỉ
là những mảnh vỡ rời rạc được ghép nối bên nhau theo kiểu dòng ý thức hỗn độn,
vô thức; những mẩu suy nghĩ, hồi ức của các nhân vật được lắp ghép theo kiểu đánh
số thứ tự, nhưng không theo một trật tự bên trong nào.
Ở nhiều tác phẩm của Nguyễn Bình Phương, đặc điểm này thậm chí được
đẩy lên thành kiểu kết cấu lập thể với một cấu trúc thời gian đồng hiện, với những
mảng cắt dán phi logic, ghép nối bất chợt những dòng suy nghĩ, lời câm, những ám
ảnh vô thức, những khoảnh khắc điên loạn của nhân vật (Thoạt kì thủy, Ngồi, Mình
và họ...). Nhà văn đã phá tung mọi đường biên, rào cản để tạo ra sự tự do tối đa cho
tác phẩm. Những đứa trẻ chết già xen cài hai tuyến hiện thực âm - dương. Thoạt kì
121
thủy gồm ba phần: A. Tiểu sử, B. Chuyện, C. Phụ chú với hai câu chuyện: người -
cú. Trí nhớ suy tàn trôi nổi giữa hiện tại và kí ức. Người đi vắng diễn tả hai thế giới
song hành: lịch sử và đương đại, hiện tại và tâm thức. Mình và họ có sự phân mảnh,
lắp ghép nhiều câu chuyện; lồng ghép, đồng hiện nhiều mảng không gian, thời gian,
tâm lí khác nhau. Bốn mảng hiện thực xảy ra trong những thời điểm khác nhau
được cài cắm một cách tinh vi, phức tạp: (1) thế giới thổ phỉ kì bí, huyền hoặc trên
vùng biên ải; (2) cuộc chiến đấu khốc liệt, ngoan cường của chiến sĩ và đồng bào
nơi biên giới năm 1979 và 1984; (3) cảnh sắc thiên nhiên mịt mùng, hoang dã cùng
đời sống, tập tính của đồng bào miền núi; (4) xã hội hiện đại bề bộn, phức tạp với
chân dung chân thực, đa chiều về các băng đảng tội phạm. Ở Mình và họ, các câu
chuyện được kể tuy không xa rời chủ đề chính của văn bản, nhưng lại được gắn kết
với nhau một cách lỏng lẻo, thậm chí là lộn xộn, ngẫu nhiên. Sự phá vỡ nguyên tắc
thống nhất, xuyên suốt của hành động trung tâm là nỗ lực cách tân truyền thống từ
tâm thức, cái nhìn hiện đại thậm chí đã chuyển dần về hậu hiện đại, gắn với nguyên
tắc đối thoại của tiểu thuyết. Điều đó không những giúp tác phẩm mở rộng
khung, tạo ra một không gian truyện kể đa tầng, nhiều cấp độ, mà còn là cách để
nhà văn thể hiện được quan niệm của mình về cuộc sống, một cuộc sống không
khép kín, không bất biến mà luôn vận động, tiếp diễn từ quá khứ đến hiện tại và
tương lai.
Có thể quan sát kĩ đặc điểm này của tiểu thuyết sau 1986 ở hai tiểu thuyết
Sông, nhất là Biên sử nước của Nguyễn Ngọc Tư. Mã cốt trong tiểu thuyết của
Nguyễn Ngọc Tư là nước. Tiểu thuyết Sông là trục hoành, trục không gian, xâu các
nhân vật, các mảnh đời lại với nhau trên hành trình đi dọc con sông Di - con sông
hư cấu mà nhà văn dựng lên. Trên trục ấy là từng chặng như từng khúc sông, lớp
lang nối tiếp nhau cho đến ngọn nguồn. Ngay cả tên dòng sông cũng diễn tả một
trạng thái động, các nhân vật liên tục xê dịch, di chuyển như cuộc đời bất định.
Trong khi đó, Biên sử nước lại như trục tung. Ở đây, dẫu có sự mở rộng về
không gian, dẫu có tên địa danh nhưng cũng dễ dàng xóa nhòa còn thời gian đồng
hiện gần như không biến thiên. Tác phẩm đã sử dụng hình thức nhiều người kể
chuyện xưng “tôi”. Tác phẩm có 11 chương, trừ chương đầu và cuối: đ tới bên
sông và rời chỉ vẻn vẹn hai câu và khác nhau mấy chữ không sử dụng người kể
122
chuyện xưng tôi, còn lại, 9 chương, 9 người kể chuyện, 9 phận “tôi” với những trải
nghiệm cách rời:
- chương 2: Người kể chuyện xưng “ta” khi đối thoại với người đọc - với tư
cách kể chuyện: Lúc ấy ta ngủ lơ mơ trong ngai, hoặc trầm luân cùng những thịt
da ngậm sữa [207, 11]; Không nhớ gương mặt của người đem buồng phổi đi.
Nhưng ông già đ thỉnh đôi mắt ta thì khó quên [207, 12] và xưng mình khi đối
thoại với chính mình: Không biết hôm mình lên trời có bao nhiêu ban thờ đồng
loạt phát sáng? [207, 10]; Một ngàn năm, họ vẫn quì trước mình? … Đó là Đức
Ngài, nhân vật biểu tượng tâm linh của cù lao, là đích đến để mọi nhân vật tìm về.
- chương 3: Người kể chuyện xưng „tôi”, tên Phúc, được định danh bằng khá
nhiều chi tiết: kí tên Phúc Dương ở bài báo điều tra về người phụ nữ tên Phúc đã lấy
trái tim của Đức Ngài, có cảnh ngộ cụ thể má mất, ba đi bước nữa… Người kể
chuyện kể về ba người tên Phúc khác: Phúc “mắt bò” biệt xứ với đứa con không
cười và tin đồn “trái tim của một đức ông ở miệt cù lao trị bịnh chi cũng hết [207,
20]; Mỹ Phúc có thai với gió , nhảy xuống sông tự vẫn; Trường Phúc - đứa con
đồng tính bị chính mẹ ruột giày vò bằng hình thức tàn bạo nhất.
- chương 4: Người kể chuyện xưng “tôi”, 80 tuổi, là dân giang hồ với những
câu chuyện về bộ ba: Phủ - Báo - Cô Long, hé lộ về Đức Ngài - „màn lừa đảo kinh
thiên động địa, mà tất cả chỉ để làm vang thêm cho tiếng gọi Cô Long ơi, sao cho ở
phương trời nào con nhỏ kia cũng nghe thấy [207, 43].
- chương 5: Nhân vật “tôi” là một đứa bé mồ côi ngay ở cổng miếu
kể về cơn đại hồng thuỷ bắt nguồn từ một vòi nước quên khoá của người đàn bà tên
Tuỳ với đứa nhỏ đang rịn nước . Tôi kể câu chuyện đi tìm Tuỳ đề khoá vòi nước
nhưng thất bại vì chị nghe nói ai đó ở cù lao, tim ông chữa bá bịnh [207, 54].
- chương 6: Nhân vật tôi kể về việc đi tìm chị mình - Thu, đột ngột biến
mất khỏi căn nhà của mình không lý do. Chị sống một mình, cô độc, luôn mặc áo
dài xanh, đã bỏ đi đánh cắp trái tim của một người xa lạ.
- chương 7: Nhân vật tôi là người tù số 280, kể về chuyến trốn tù và cuộc
gặp bất ngờ với “đứa nhỏ khóc không ngơi một giây nào và mẹ nó - chị Khùng chỉ
biết cắn tóc và thì thầm: Phải kiếm thuốc thì con chị mới nín được ; Mưa trắng
hơn trăng trắng ; Nghe nói tim sống của Thánh sống trị bá bịnh … [207, 90]
123
- chương 8: Nhân vật “tôi” mắc kẹt ở xóm Xép với câu chuyện của anh thợ
xây và cô vợ bóng đeo dính ông chồng tuyệt chẳng rời nửa bước , nhìn kiểu gì
thì cũng thấy thằng chả chỉ một mình [207, 92]. Đôi vợ chồng gửi chìa khoá nhà,
nói sẽ đi không biết chừng về bởi nghe: “Bóng thì đẻ bóng. Có mà ăn tim người mới
thành người … [207, 101].
- chương 9: Nhân vật kể chuyện là “tôi” - kẻ ăn chữ đơn thuần như bạn ăn
cơm và Cẩm, cũng ăn chữ và đứa bé con - thằng Nấm với những mụt ghẻ bất trị.
Bữa đài báo loan tin có người đàn bà ôm con đi lấy tim người làm thuốc, tôi biết
là Cẩm. Giờ tôi không biết nên xin một chân bảo vệ để nán lại thư viện chờ Cẩm
hay khăn gói đi tìm cổ ở xử vạn cù lao [207, 116].
- chương 10: Nhân vật kể chuyện là “tôi” thức lại những mảnh kí ức về Mi,
Sói, Mưa, nne Frank, Lolita, lúc là anh ấy, lúc là cô ấy, thỉnh thoảng dừng xe đột
ngột, nhảy qua cửa biến mất trong một con ngõ tôi rồi quay lại với vẻ mặt thất vọng
và bối rối thường thấy, lẩm bẩm Không có ở đây . Người bạn không biết cô tìm gì
nhưng quen với việc cô bỗng dưng nói một mình Nó phải trong cái gì đó màu đỏ
[207, 123].
Đặc điểm này khiến cho Biên sử nước mang một cấu trúc mở. Giữa chương
đầu và chương cuối, các chương có thể thay đổi vị trí cho nhau mà không ảnh
hưởng đến tổng thể giống như tiểu thuyết được hợp thành từ những truyện ngắn.
Ngay cả hai chương mở đầu và kết thúc, với độ mở của nó, đã là những khoảng
không bỏ ngỏ, rời rạc tựa hồ như những vùng nước không có bắt đầu cũng chẳng
bao giờ có kết thúc.
Sự phân rã cấu trúc tương hợp với câu chuyện về những người vắng mặt,
mỗi phận người một cảnh ngộ khác biệt, nhưng tất cả đều xuất hiện và biến mất
trong vô định, dị mọ, tăm tối và không ngày mai. Những mảnh đời ấy bị xé ra, rã rời
chỉ có thể chắp dính với nhau bằng một không gian sinh tồn mang những cái tên như
Vạn Thủy, Yên Xuyên, cù lao Lẻ… những cái tên ám gợi về nước và nỗi cô đơn muôn
đời của con người vốn dĩ rất dễ dàng biến mất trong cõi đời mênh mông như nước này.
Cùng với sự vắng mặt là hành trình đi tìm. Nhưng tìm kiếm điều gì? Hạnh phúc? Một
hình bóng? Hay chính mình? Trái tim là biểu tượng của sự sống, tình yêu thương, là
niềm hi vọng duy nhất vế sự chữa lành. Nhưng, trái tim của Đức Ngài cũng chỉ là Trái
124
Tim Lừa Đảo. Tiểu thuyết ghép những mảnh hướng về một điểm, nhưng điểm đến chỉ
là sự lừa bịp. Hành trình tìm kiếm vì thế khắc khoải nỗi vô vọng.
Như vậy, với nhiều tiểu thuyết sau 1986, “chuyện” chỉ còn là những mẩu
chuyện được kết nối (theo một logic nhất định hay hoàn toàn ngẫu nhiên). Việc đọc
đôi khi trở thành một cuộc thám hiểm bất định bởi sự dẫn dắt của người kể chuyện
trong trò chơi ngôn ngữ, trò chơi cấu trúc do nhà văn bày biện. Sự thiếu vắng tính
lôgíc nhân quả của sự kiện cùng tính xác thực của đời sống dẫn đến hệ quả: sự chối
bỏ, phá huỷ kết cấu hoàn kết của tiểu thuyết truyền thống. Một quan niệm về viết
như thế tất nhiên là một thách đố to lớn đối với cảm thức của đại đa số quần chúng,
những người rất khó từ bỏ thói quen đọc và hiểu văn chương hiện thực chủ nghĩa.
4.2. Từ phiêu lưu của viết đến viết về cái viết
Nhìn từ viết, không thể không công nhận rằng bộ phận văn chương hậu hiện
đại Việt Nam, dù chưa phải là dòng chủ lưu, đang dần dần đồng hành với văn học
thế giới. Đã xuất hiện những tác phẩm đậm đặc sắc màu hậu hiện đại, đã có những
nhân vật chuyển đổi hệ hình được công nhận. Ở nhiều tiểu thuyết sau 1986, sự tự ý
thức về cuộc phiêu lưu của cái viết đã được đẩy đi xa, đến dạng thức viết về cái
viết. Sự tự ý thức về viết của tiểu thuyết sau 1986 thể hiện ở hai hình thức: tiểu
thuyết viết về hành trình sinh thành của tiểu thuyết dẫn đến hình thức siêu hư cấu và
tiểu thuyết tự giễu nhại về cái viết của mình.
4.2.1 Siêu hư cấu và cuộc chơi có ý thức của viết
4.2.1.1 Khái niệm siêu hư cấu
Siêu hư cấu (metafiction) là thuật ngữ dùng để chỉ lối viết hư cấu, nhắm đến
vị thế của chính nó một cách tự ý thức và có hệ thống xem như nó là một thể giả
lập, để đặt ra những vấn đề về mối quan hệ giữa hư cấu và thực tại. Thuật ngữ này
có khi còn được dịch là siêu tiểu thuyết nhấn mạnh đặc điểm lồng ghép truyện trong
truyện, tiểu thuyết về tiểu thuyết (fiction about fiction - hư cấu về hư cấu), một dạng
tiểu thuyết bình luận một cách công khai trường hợp hư cấu của riêng nó [7]. Nó
cống hiến cho chúng ta một hình thái khác lạ, chính nó phê bình cấu trúc riêng của
nó . Ở đó, nhà văn giải thích, chỉ dẫn cho độc giả cách thức tổ chức tác phẩm, công
khai sự bất tín nhận thức , chứng tỏ bản thân đang tự chơi một trò chơi cấu trúc, trên
125
một hiện thực được hư cấu, và mời gọi độc giả cùng tham gia vào trò chơi. Nói cách
khác, tiểu thuyết trở thành một trò chơi tự trình bày cách chơi của nó.
Phải công nhận rằng, bản chất của tiểu thuyết là hư cấu. Có nghĩa, vấn đề
hư cấu không phải là vấn đề riêng của tiểu thuyết hậu hiện đại. Tuy nhiên, nhìn từ
góc độ này, có thể khái quát hóa sự khác biệt của ba hệ hình văn học như sau:
- Tiểu thuyết tiền hiện đại coi ngôn ngữ có quyền năng trong việc nhận thức
toàn vẹn thế giới thực bên ngoài ý thức con người. Hệ hình tiểu thuyết này tham
vọng coi tiểu thuyết là một tấm gương , một bộ từ điển bách khoa phản ánh
khách quan và toàn diện hiện thực. Nó quan niệm thế giới hư cấu bên trong văn bản
là cái biểu đạt vững chắc và cố định cho thế giới sự vật được biểu đạt bên ngoài.
Trong khi đó, tiểu thuyết hiện đại dù phủ nhận thế giới nhìn thấy nhưng vẫn
tin văn chương, bằng sự hư cấu, có thể biểu đạt được bề sâu của thế giới này. Quan
niệm thế giới là thực tại được kiến tạo qua cái nhìn chủ thể. Mỗi người do đó, có cho
mình một thế giới khác. Thế giới là đa diện, đa thế giới chứ không còn là một thế giới
khách quan duy nhất đúng của tiền hiện đại. Đến hậu hiện đại, tiểu thuyết hoài nghi
quan niệm cho rằng ngôn ngữ là công cụ để phản ánh thế giới liền lạc và khách quan.
Nó đặt nghi vấn những gì ý thức thông thường vẫn định danh là thực tại.
- Tiểu thuyết tiền hiện đại tin vào một thế giới khách quan và vĩnh cửu,
đồng nhất hình ảnh về thế giới với hiện thực. Trong khi đó, tiểu thuyết hiện đại
nhận ra hiện thực thế giới chỉ là một hình ảnh. Cái thế giới mà con người nhìn thấy
trước mắt không chỉ là một huyền thoại mà là một huyền thoại do ngôn ngữ dựng
lên. Tiểu thuyết hậu hiện đại, đi xa hơn nữa, tuyên bố về tính hư cấu của bản thân
thực tại bởi chúng cũng chỉ là những kiến tạo, những giả tưởng, không có bản chất
cuối cùng để theo đuổi. Thái độ bất quyết này dẫn đến thái độ công khai về sự hư
cấu trên hai cấp độ: hư cấu về một thực tại và thực tại là một hư cấu. Siêu hư cấu
nghi ngờ chân lý của những thực tại có thật trong văn bản để đặt ra vấn đề tính
đa trị của thực tại và của nhận thức về những thực tại ấy. Nó hướng đến kết luận về
một thế giới không có bản chất cuối cùng - thế giới của những khả thể và vì thế,
cũng là thế giới của vô vàn hư cấu.
- Tiền hiện đại quan niệm đọc là hành trình theo đuổi cảm nghiệm chân thật
về một thế giới có thể dễ dàng nằm bắt được thông qua những truyện kể có một
126
khởi đầu và kết thúc. Tác phẩm vì thế bao giờ cũng đem đến cho người đọc hoặc
cảm giác thất vọng hoặc thỏa mãn. Tiểu thuyết hậu hiện đại không đơn thuần yêu
cầu độc giả tri nhận thế giới, mà thay vào đó, nó yêu cầu độc giả tham gia vào quá
trình sáng tạo thế giới ấy. Với tính siêu hư cấu, nhà văn hậu hiện đại mở ra trước
mắt độc giả một thế giới vô hạn của những khả thể cho sự diễn dịch. Tiểu thuyết bị
biến thành trò chơi để độc giả tham gia. Vì thế, những quan hệ cơ bản trong văn
chương: nhà văn - nhân vật - người đọc thay đổi.
4.2.1.2. Siêu hư cấu trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 - cuộc chơi trên
hai phương diện
Ở Việt Nam, ngay sau 1986, Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh) là một trong
những tiểu thuyết sớm sử dụng kiểu kết cấu tiểu thuyết trong tiểu thuyết . Nỗi
buồn chiến tranh trước hết lồng ghép hai câu chuyện, một của hồi ức và một của
sáng tạo. Tuyến hồi ức kể về những nỗi buồn tình yêu và chiến trận. Tuyến sáng tạo là
những suy tư của Kiên về cuốn tiểu thuyết anh đang sinh thành. Hai tuyến hồi ức và
sáng tạo đi về giữa hai mạch quá khứ và hiện tại. Hai câu chuyện này lại được lồng vào
câu chuyện của một nhà văn khác - nhân vật xưng tôi đã đọc và ghi lại câu chuyện.
Tuy nhiên, dễ nhận thấy ở cuốn tiểu thuyết này, cảm hứng về sự rối bời
không nằm ở ý thức phô bày tính hư cấu, tức là sự cách biệt giữa thực tại và tiểu
thuyết, giữa cái được kể và tiểu thuyết được Kiên viết ra. Trái lại, dày đặc trong tác
phẩm là nhu cầu được viết một cách chân thực nhất về chiến tranh:
Đấy cần phải viết về chiến tranh trong niềm thôi thúc ấy, viết sao cho xao
xuyến nổi lòng dạ, xúc động nổi trái tim con người như thể viết về tình yêu, về nỗi
buồn, sao cho có thể truyền được vào cuộc sống đương thời luồng điện của những
cảm xúc chỉ có thể diễn đạt bằng thì quá, quá khứ và quá khứ [188, 9].
Thế nhưng bản thân anh thì lại thế, một mực sống chết viết mãi không
chán những súng nổ bom rơi, những mùa khô, mùa mưa, rồi quân địch, quân ta.
Anh không thể viết khác, mai sau, ví dụ có viết khác đi thì cũng là bởi thâm tâm
luôn muốn viết về chiến tranh sao cho khác trước [188, 70].
Cần phải viết về những con người thân yêu cũng như về những con người xa
lạ hàng ngày nườm nượp qua đường vô tình trở thành những chứng nhân của cuộc đời
127
nhau. Viết về những khoảng trời khác nhau, tương phản khác nhau trong đời sống và
trong tâm hồn, về mái nhà, tổ ấm, về thành phố mẹ đẻ… [188, 188-189].
Có thể thấy, với hình thức trần thuật này, Nỗi buồn chiến tranh, trong bản
chất, nghiêng về siêu trần thuật hơn là siêu hư cấu. Siêu trần thuật (metanarration)
và siêu hư cấu (metafiction) là hai thuật ngữ đặc biệt chỉ những phát biểu tự phản tư
(self-reflexive utterances), tức là những bình luận nhắm đến diễn ngôn chứ không
phải câu chuyện. Mặc dù chúng có liên quan đến nhau và thường được sử dụng thay
thế lẫn nhau, nhưng hai thuật ngữ này lại khác nhau. Siêu trần thuật nhắm đến
những sự phản tư của người kể chuyện (narrator‟s reflections) lên hành động hay
quá trình kể chuyện còn siêu hư cấu thì lại nhắm đến những bình luận về tính hư
cấu (fictionality) và/ hoặc sự kiến tạo (constructedness) của câu chuyện. Do đó,
trong khi tính siêu hư cấu (metafictionality) dùng để chỉ đặc trưng cho việc khai mở
tính hư cấu của một câu chuyện thì siêu trần thuật lại nắm bắt những hình thức kể
chuyện tự phản tư, ở đó các khía cạnh của sự trần thuật được trình bày theo diễn
ngôn trần thuật (narratorial discourse), tức là các phát biểu trần thuật (narrative
utterances) về câu chuyện chứ không phải hư cấu về hư cấu (hay chuyện nói về
chuyện). Mặt khác, hai tuyến viết và đọc cuốn tiểu thuyết còn là hai tuyến tách biệt.
Đọc chưa được nói đến như một khả thể diễn dịch. Về cơ bản, cấu trúc truyện lồng
truyện của cuốn tiểu thuyết vẫn thuộc về hệ hình hiện đại.
Phải đến đầu thế kỉ XXI, tính chất trò chơi siêu hư cấu mới thật sự được
bộc lộ rõ. Tiêu biểu cho kiểu tự sự siêu hư cấu này, có thể kể đến Đi tìm nhân vật,
Chinatown, Và khi tro bụi, Tưởng tượng và dấu vết, Khải huyền muộn,
3.3.3.9 [những mảnh hồn trần]… Ở những tác phẩm này, những dấu hiệu của văn
chương hậu hiện đại đã thể hiện qua tính chất siêu hư cấu được cụ thể hóa qua cuộc
chơi đầy ý thức của viết trên cả hai phương diện: Hư cấu về một thực tại và thực tại
là hư cấu.
Hư cấu về một thực tại:
Các tiểu thuyết hậu hiện đại đã thẩm vấn cấu trúc của hư cấu trong tác
phẩm tự sự bằng thủ pháp giao hoán siêu hư cấu. Nó phô bày cố ý sự vênh lệch giữa
thực tại và thực tại được viết, giữa thực tại được viết và thực tại được đọc. Điều này
128
có thể thấy rõ ở nhiều tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 với thủ pháp giao hoán giữa
nhà văn - nhân vật - người đọc.
Tư duy văn học từ tiền hiện dại đến hiện đại qua hậu hiện đại chứng kiến sự
kiến tập quyền uy tối cao của lần lượt các chủ thể: tác giả - văn bản - người đọc. Xét
theo phương diện nhân tính chủ thể, đó là: tác giả - nhân vật - người đọc. Tùy theo
tiêu chí mĩ học của hệ hình văn học nào, mà những chủ thể trên trở thành trung tâm
thẩm mĩ. Với tư cách là trào lưu mới mẻ nhất, cấp tiến nhất, ngoại biên hóa triệt để
mọi trung tâm có tính đại tự sự, văn học hậu hiện đại đã tiến hành đồng đẳng hóa,
hay nói cách khác đã bất định hóa những trung tâm thành một cấu trúc tam quyền
phân lập có tính dân chủ sâu sắc.
Khải huyền muộn (Nguyễn Việt Hà) là tác phẩm tiêu biểu cho dạng thức
siêu hư cấu trong đó ngôi trần thuật chính được đặt ở cô người mẫu (ngoài đời):
Tôi và anh đi lang thang bên bờ hồ… Buổi sáng đầu tiên chúng tôi gặp nhau anh
đi cùng Nhật Mỹ… Chúng tôi thỏa thuận sẽ không tách lời nhau . Cô người mẫu
này vừa là tác giả của nhiều đoạn kể, vừa là nhân vật được kể, nhưng đồng thời
cũng là độc giả của câu chuyện viết về cô người mẫu (trong truyện kể). Người mẫu
kể chuyện công khai sự lệch pha với nhân vật người mẫu được kể: Tôi không hiểu
cô ta lắm, nếu những dòng độc thoại ấy đích thực là của cô ta… Ở trong cuốn tiểu
thuyết kia, đ có vài sự áp đặt nào đấy… [169, 225], Cái cô người mẫu kia sẽ
không bao giờ mơ giống tôi, cho dù nhà văn cứ thích viết thế [169, 227]. Tôi tầm
thường gật đầu, tôi không phải Cẩm My …
Điều này cũng có nghĩa, xuất phát, nhà văn là một nhân vật được kể, ở ngôi
thứ 2, được gọi là “anh”, “nhà văn”… Nhà văn còn là nhân vật được nghe và bình
luận về câu chuyện của cô người mẫu (F1): những cái em vừa kể dữ dội quá ,
Em có cay nghiệt quá không [169, 35], đồng thời nhà văn còn tự kể về mình với
tư cách là một nhà văn trong tiểu thuyết của anh ta. Có lúc nhà văn xưng “tôi” tự
bạch như một nhân vật. Có lúc anh ta là Bạch - kẻ đang khao khát văn chương và là
người đang có dự đồ viết một cuốn tiểu thuyết về công việc nhà văn. Vậy, nhà văn ở
trong thế giao hoán giữa người miêu tả mà và đối tượng của sự miêu tả. Nhà văn
vừa thể hiện nhân vật vừa thể hiện quá trình sáng tạo của mình.
129
Các tuyến nhân vật trong Khải huyền muộn được cấu trúc theo mô hình
“nhân vật trong nhân vật”, vừa độc lập, vừa hòa nhập. Các nhân vật chính lần lượt
trở thành nhân vật song trùng, họ đã kể về chính họ như là một đối tượng mô tả đặc
biệt trong một “cuốn tiểu thuyết”, nghĩa là tiểu - thuyết - hóa chính mình. Với
Khải huyền muộn , có lẽ lần đầu tiên trong văn chương nước nhà xuất hiện một
cuốn tiểu thuyết về chính nó, đúng hơn là trình bày nó như một văn bản nhiều tầng
nhiều lớp đang trở thành cái mà nó tự ý thức là một cuốn tiểu thuyết [169, 342].
Chinatown của Thuận cũng sử dụng kĩ thuật tương tự. Với tiểu thuyết lồng
tiểu thuyết, nhân vật “tôi” trong Chinatown biến thành chị ta trong I’m yellow. Nhân
vật chính trong Chinatown biến thành nhân vật phụ trong I’m yellow. Từ người kể
chuyện, nhân vật bị biến thành người được kể. Từ chủ thể sáng tạo, nhân vật bị
chính nhân vật của mình tra vấn: Mặt khó đăm đăm nhưng giọng nói cũng không
đến nỗi…Chị ta bảo mười bảy năm chè đỗ đen, óc lợn hấp nồi cơm Hà Nội; năm
năm bắp cải thịt cừu căng tin đại học tổng hợp Leningrad; mười lăm năm sáng mì
ăn liền, trưa bánh mì, tối bánh mì hoặc mì ăn liền, Paris và các vùng lân cận. tôi
thấy lí lịch ấy tôi cũng khó đạt nổi… . Với độc giả, từ thân quen, cô thành kẻ lạ:
chị ta đến ngồi ở hàng ghế cuối cùng [211, 127], Chị ta ngồi nhìn ra cửa sổ
[211, 128]. …Chưa hết, Thuận cho nhân vật của Chinatown, người đang viết I’m
Yellow, cũng là tác giả của Made in Vietnam, tiểu thuyết do chính Thuận in năm
2003 tại Nhà xuất bản Văn Mới (Hoa Kỳ). “Tôi” của Chinatown nói: Tôi lo
Phượng của Made in Vietnam lại quay về ăn vạ. Mấy tháng liền tôi thấy Phượng gõ
cửa. Phượng nói chị ơi, chị lại cho em làm nhân vật chính của chị nhé. Lằng nhà
lằng nhằng thế mà Phượng thắng. Phượng lẻn vào được hai truyện ngắn của tôi
… Nó đặt ra cho văn bản vô số những câu hỏi: Tại sao nhà văn lại có thể chui vào
miền đất ảo để sống với nhân vật do chính mình sáng tạo ra? Tại sao nhân vật do
Thuận tưởng tượng lại là tác giả của những tác phẩm có thật của chính Thuận? Giữa
nhân vật Phượng và kẻ sinh ra cô, ai thật hơn ai? Giữa nữ nhà văn Thuận thân xác
da thịt cụ thể và “tôi” bằng giấy của Chinatown, ai ảo hơn ai? I’m yellow do nhân
vật chính của Chinatown đang viết có còn là ảo nữa không khi nó đã được đăng như
một tác phẩm độc lập trên một tờ báo có thật là Hợp Lưu?
130
Tiểu thuyết Đặng Thân có nhiều nhân vật, nhưng không có nhân vật
chính. Đúng hơn, có đấy, nhưng không phải nhân-vật-người mà là nhân-vật-
chữ: cái viết (Đỗ Lai Thuý) [93]. Cái tên Đặng Thân xuất hiện trước hết với tư
cách là tác giả. Tư cách này thể hiện ở cái tên Đặng Thân ở bìa sách, đi kèm địa chỉ
mail, dùng cả link dẫn đến từ điển Wikipedia viết về Đặng Thân. Nhưng ngay cả
khi xuất hiện công khai và cỏ vẻ đầy quyền uy (In theo hợp đồng chuyển nhượng
bản quyền giữa nhà văn Đặng Thân và công ty Cổ phần văn hóa và truyền thông
Phương Đông), mỗi lúc mọi chuyện lại mù mờ hơn, thậm chí là rối tinh rối mù lên
vì trong tác phẩm có đến 3 phiên bản Đặng Thân. Ranh giới giữa hình tượng tác
giả và tác giả tiểu sử bị xoá bỏ. Thân vừa kể, vừa viết văn, vừa bàn về công việc
viết văn và nhân vật, nói rõ về cách tổ chức văn bản, cách chơi của mình, lại cũng là
người đọc, nhà phê bình tác phẩm. Hàng rào chia tách bộ ba liên chủ thể trong giao
tiếp nghệ thuật thế là bị xoá bỏ, tác giả - nhân vật - người đọc có thể đối đáp, tương
tác với nhau. Nhà văn vậy là người kể, nhưng theo nghĩa là “con đẻ” của nhân vật:
“Người ta vẫn nói chính các nhân vật đẻ ra truyện, còn truyện thì đẻ ra nhà văn .
Trò chơi siêu hư cấu trong tiểu thuyết 3.3.3.9 [Những mảnh hồn trần] còn
được đẩy lên đến mức dân chủ tối đa khi để “lời” người đọc hiện diện trong cấu trúc
tác phẩm. Thông thường, trong nhiều tiểu thuyết siêu hư cấu khác, sự hiện diện của
độc giả vẫn chỉ là ngầm ẩn. Vị thế ngang hàng giữa độc giả với nhà văn trong tiểu
thuyết chỉ hiển lộ rõ qua những trao đổi của người kể chuyện dưới hình thức mặt nạ
tác giả. Trong tiểu thuyết của Đặng Thân, bằng cách tạo vai người kể chuyện là Lời
bàn [phím…] của các netizen, là các phát ngôn từ mạng internet dưới hình thức
những phản hồi của độc giả, trò chơi siêu hư cấu có lẽ đã đạt đến “giới hạn độ”.
“Thực ảo lẫn lộn. Hư cấu, phản hư cấu, siêu hư cấu trộn vào nhau. Cấu trúc văn
bản tiểu thuyết truyền thống hoàn toàn bị phá vỡ. Mọi diễn ngôn đều trở nên bất tín
nhận thức dưới cái nhìn giễu nhại, giải thiêng” [Chris Baldick, The Concise Oxford
Dictionary of LiteraryTerms, Printed in Great Britain by Cox & Wyman Ltd.,
Reading, England, dẫn theo Thái Phan Vàng Anh, 107]
Nếu tiểu thuyết truyền thống yêu cầu người đọc tái tạo một thế giới ảo
tượng mà mình (tức người đọc) chỉ là kẻ quan sát , thì tiểu thuyết siêu hư cấu yêu
cầu người đọc tham gia trực tiếp vào thế giới ảo đó với tư cách là người đồng kiến
131
tạo, người trực tiếp phá bỏ cái thế giới mà tác giả vừa tạo nên. Nên tác phẩm trở
thành điểm giao cắt giữa hai diễn ngôn – tác giả và độc giả – cả hai không hề bị cạn
kiệt bởi chức năng tái tạo thế giới ảo tượng. Hai quá trình xây dựng ảo tượng và phá
vỡ ảo tượng được tiến hành song song và kết nối với nhau trong một độ căng hình
thức, phá vỡ sự khu biệt giữa sáng tạo tác phẩm và thưởng thức tác phẩm, hay nói
cách khác là san bằng nấc thang khu biệt giữa tác giả và độc giả, đặt họ trên cùng
một mặt phẳng đối thoại. Tham dự vào cuộc đối thoại đó, người đọc phải tự dẫn lại
những hiểu biết lý luận của mình, những tri thức về quy ước văn học truyền thống
của mình, nhằm mục đích cấu thành nên ý nghĩa cho văn bản. Như vậy, sự thay đổi
trong viết đã tạo nên sự thay đổi trong vai trò của độc giả, cũng như con đường đến
với văn chương của độc giả hậu hiện đại. Không còn cố tình làm độc giả chìm đắm
vào cái thế giới hư cấu của tác phẩm, nhà văn đặt người đọc vào một vị trí khách
quan và tỉnh táo để nhìn thấy tác phẩm như một văn bản đúng nghĩa, một tác phẩm
nghệ thuật hư cấu, như một trò chơi tự trình bày cách chơi của nó và mời gọi người
đọc tham dự vào trò chơi ấy.
Để thấy rõ hơn sự dịch chuyển của tiểu thuyết mang khuynh hướng hậu hiện
đại ở phương diện này, chúng tôi tiến hành phân tích kĩ trường hợp Dấu vết và tưởng
tượng của Uông Triều trong sự đối sánh với Thế giới xô lệch của Bích Ngân.
Cả hai tiểu thuyết đều hướng về nhân vật trung tâm với nhiều điểm tương
đồng: đều là những chàng trai trẻ, vì những biến cố, trở thành những kẻ đồng cảnh
ngộ: Tôi, một chàng trai cũng từng có một hình vóc nguyên vẹn, một sinh linh bình
thường của tạo hóa. Và rằng, đôi chân tôi từng thuộc về thân thể tôi, máu thịt tôi
đang mục rữa ở đâu đó, như bao nhiêu đôi chân, bao nhiêu thân thể đang mục rữa
trên mặt đất này [215, 25], hoàn cảnh của tôi bây giờ chỉ có thể ngồi nguyên một
chỗ, đọc sách cho hết thì giờ và ngắm nhìn những cô gái qua đường để giải tỏa
những ẩn ức tình dục [215, 26]. Chọn những nhân vật đều giới hạn trong hoạt
động và không gian làm nhân vật trung tâm, cả hai cuốn tiểu thuyết đều dự báo
khuynh hướng đào sâu nội tâm. Tuy nhiên, nếu ở Thế giới xô lệch, kết cấu truyền
thống cùng với lựa chọn cái kết “hiền lành” gắn với thông điệp về tình yêu, sự tha
thứ khiến câu chuyện nghiêng về hệ hình hiện đại, thậm chí gần với tiền hiện đại thì
ở Uông Triều, hướng khai thác hoàn toàn mới mẻ với tính siêu hư cấu của nó, được
132
biểu hiện rõ nhất thông qua sự đồng nhất và đánh tráo giữa người đọc, nhân vật,
người trần thuật và tác giả.
Tiểu thuyết chồng lớp hai câu chuyện. Xen vào câu chuyện về tôi (F1), còn
có 8 đoạn trích của 7 tác phẩm mà nhân vật “tôi” đọc (chưa kể những văn bản được
gián tiếp nhắc đến) (F2) và tác phẩm do nhân vật “tôi” sáng tác (F3). Tác giả cố ý
tách bạch rõ ràng F1 với F2 và F3 bằng những đoạn xuống dòng có lời dẫn rõ ràng.
F2 và F3 được in nghiêng lẫn căn lề hẹp hơn. Tuy nhiên, các câu chuyện đổ bóng
vào nhau, nhòe mờ. Ở cấp độ F1, câu chuyện về cô gái điếm nhòe mờ trong câu
chuyện về Miên, hình ảnh cô gái câm chồng lên hình ảnh em gái Miên và cả cô gái
điểm... Cô gái nhìn đẫm vào bức tranh, môi hơi hé ra một chút, hài lòng với vẻ bất
thần trên gương mặt tôi. Trước mắt tôi, một hình người mờ mờ hiện lên, rõ nét dần
dần. Một người con gái đứng chồng lấn vào vị trí của cô gái câm, tôi run rẩy không
thốt ra lời. Đó là đứa em gái đ chết dưới giếng của Miên…Cô gái câm và em b đang
chồng khít lên nhau… ; Cô gái dường như không chú ý đến những lời của tôi, ánh
mắt hướng sang chỗ khác, bớt thăm thẳm hơn nhưng hoang dại. Đó là ánh mắt của
Miên, hờn dỗi và cam chịu… [215, 187]. Hiện tại và quá khứ lồng bóng. Tưởng tượng
và thực tế nhòe mờ.
Ở cấp độ thứ hai, ta thấy, những chuyện tôi đọc, chuyện tôi viết ngày càng
chuyển dần vào câu chuyện về tôi. Sau khi thống kê những câu chuyện tôi đọc và
những chi tiết thể hiện rõ nét sự nhập nhằng giữa những câu chuyện “tôi” đọc với
câu chuyện của “tôi” (Xin xem phụ lục bảng 4.2).
Qua bảng thống kê, có thể thấy, F1, F2 dần dần lẫn lộn với F3. Ví dụ, ban
đầu việc người mẹ ngoại tình với… một cái cây , hay việc người hóa quái vật là
những hư cấu nằm trong câu chuyện F1 và F2. i cũng biết nó là hoàn toàn hư cấu,
trước tiên bởi nó quá huyền ảo, phi lí. Mặc dù vậy, đến giữa chuyện, hai câu chuyện
này được hòa vào nhau. Lúc này, cái rễ cây mọc ngay trong ngôi nhà thật của nhân
vật “tôi”, còn con quái thú lúc này chính là tôi và cuối truyện lời “tôi” tự thú rằng
anh chính là con quái vật ấy. Hóa ra, “câu chuyện do tôi kể” (F1) và câu chuyện do
“tôi” sáng tác/hư cấu nên (F3) đã bị hòa làm một. Ban đầu câu chuyện kể về con
quái thú do nhân vật “anh” biến thành [215, 201-204] được tách bạch ra khỏi câu
chuyện thứ nhất (F1), và ngôi trần thuật trong (F3) lúc này là điểm nhìn thứ ba, bên
133
ngoài. Nhưng từ trang 232 trở đi, lúc này người kể chuyện trong (F1) lại tiếp tục kể
câu chuyện (F3) nhưng không có phân biệt ra về mặt trình bày văn bản nữa. Về cuối
truyện thì ta biết được con quái vật ấy chính là “tôi”. Sự “nhập nhèm” trên đã đánh
tráo, xóa nhòa giữa người đọc và tác giả/người trần thuật.
Những nhân vật trong các cuốn sách “Tôi” đọc: “người đàn ông” (cuốn
sách thứ ba mươi hai), “chàng trai” (cuốn sách thứ ba mươi chín), “P” (cuốn sách
thứ 42), “anh” (cuốn sách thứ 47), “thằng bé” (cuốn sách thứ sáu mươi ba - Mùi quá
khứ)… có sự đồng dạng với nhân vật “Tôi” trong Tưởng tượng và dấu vết: ngồi một
chỗ, làm tình trong trí tưởng tượng (“người đàn ông” - “chàng trai” - “tôi”), kí ức
tuổi thơ ghẻ lạnh, khổ cực (“thằng bé - “tôi”), trực giác nhạy cảm, khát vọng trở
thành nhà văn (“P” - “tôi”), sở hữu những miếng pha lê (“anh” - “tôi”). Hay những
nhân vật trong những sáng tác của “Tôi” như “hắn”, “anh”, “con quái vật” cũng có
sự đồng dạng với “Tôi”: người đàn ông liệt nửa người, ngồi yên một chỗ, tưởng
tượng ra mọi thứ trên đời, đi tìm bí ẩn đằng sau dãy số 668.211 (“anh” - “tôi”),
“anh” - “con quái thú” - cái bóng của “Tôi”.
Tiểu thuyết đặt ra những câu hỏi cho người đọc: Tại sao nhân vật “Tôi” lại
có thể chui vào miền đất ảo để sống với những nhân vật do chính người khác tạo ra
(các cuốn sách “Tôi” đọc), và ngược lại tại sao các nhân vật lại có thể bước từ trang
sách sống cuộc sống của con người thực? Đó là chưa nhắc tới bóng dáng các nhân vật
khác như cô gái điếm, Miên, em gái Miên, người cha, người mẹ… cũng chạy dạt sang
các cuốn sách “tôi” đọc và viết. Thực tại và ảo giác, thế giới thực và thế giới ảo trộn
lẫn, không biết thật ở đâu, bịa ở ở đâu, đâu là hiện thực, đâu là tưởng tượng?
Trở lại đối sánh với Nỗi buồn chiến tranh, sự trầm tư của nó về bản thể tiểu
thuyết hướng đến sự kiến tạo thẩm mỹ của văn bản, chứ không phơi bày những thủ
pháp, thỏa ước, kỹ xảo xây dựng nên văn bản. Những suy tư, trăn trở của nhà văn
Kiên là làm thế nào để chuyển những kinh nghiệm riêng về cuộc chiến tranh để
những trang viết trả được món nợ xương máu với bao đồng đội đã nằm xuống.
Thực chất nó không xóa đi ranh giới giữa hư và thực. Sự tự qui chiếu của nó thậm
chí còn củng cố thêm niềm khát vọng về một hiện thực chiều sâu. Chinatown, Và
khi tro bụi, Tưởng tượng và dấu vết, Khải huyền muộn, 3.3.3.9 [những mảnh hồn
trần]… vậy là đã có một cách ứng xử hoàn toàn khác.
134
Thực tại của một hư cấu:
Sự giao hoán giữa nhà văn - nhân vật - độc giả trong các tiểu thuyết đ dẫn
đến sự giao hoán của hiện thực được viết và hiện thực được kể. Khi văn bản nhận ra
cái “thực tại” trong nó thực chất là được kiến tạo nên, thì văn bản ấy bắt đầu đặt
nghi vấn về những qui luật và qui ước của chính thực tại mà nó phản ánh. Độc giả
bị đặt vào một vị trí nghịch lý. Một mặt, chính bản thân việc anh tham dự vào quá
trình kiến tạo tác phẩm là một quá trình rất thực, đại diện cho chính quá trình nhận
thức lại kinh nghiệm sống của mình. Mặt khác, anh ta biết rõ rằng mình đang kiến
tạo nên một thế giới hư cấu cùng với tác giả, và từ đó, anh ta nhận thức rõ về tính
hư cấu của bất cứ thế giới nào mà con người kiến tạo nên. Nói cách khác, bằng siêu
hư cấu, tác giả đặt người đọc vào vị thế giao thoa của nhiều thế giới, một vị thế bất
an, bất ổn giữa hư cấu và hiện thực, tác phẩm và thế giới ngay với vai trò là người
tham gia sáng tạo thế giới ấy.
Ta có thể xem xét kĩ vấn đề này qua yếu tố tự thuật trong những sáng tác
của Thuận tiêu biểu là Chinatown và T mất tích. Thông thường tiểu sử nhà văn
trong một cuốn tiểu thuyết (hư cấu) sẽ dẫn đến khả năng nó trở thành tiểu thuyết –
tự truyện (tự thuật), trong đó người đọc tiểu thuyết có thể tin vào độ chân thật của
thông tin và điều đó là cần thiết (không tính đến những tác phẩm tự thuật thuần túy
(autobiography) như một thể loại phi hư cấu). Có thể so sánh cách Nguyễn Khải đã
“làm thịt mình” với Thượng đế thì cười , Gặp gỡ cuối năm”, cách Tô Hoài với
Ba người khác … đã sử dụng các chi tiết đời tư có thực để tự giễu nhại và bóc mẽ
mình. Ở China Town, yếu tố tự thuật hầu như vô nghĩa về mặt thông tin, như đã nói,
nó là một thủ pháp kích thích văn bản. Cái tôi mang màu sắc tự thuật trở thành một
“vật liệu”, một thủ pháp. Điều mà Thuận làm khác đi, đặt trong truyền thống tự sự
Việt Nam, là sử dụng cái tôi tự thuật như một yếu tố kĩ thuật, không bận tâm đến
hệ lụy đạo đức gắn với nó như ý thức về tiểu sử, danh dự cá nhân như những thứ
không được sao chép, cắt dán tùy tiện. Trước Thuận, Phạm Thị Hoài cũng đã dán
vào Thiên sứ những chi tiết tiểu sử, nhưng bút pháp huyền ảo của tác phẩm xóa đi
nghi ngờ. Ở China Town, tác giả cắt dán không thương tiếc cái tôi tiểu sử của mình,
không e ngại sự vi phạm đối với danh dự, lòng tự trọng, sự tự tôn nhân thân… Cuốn
tiểu thuyết thể hiện quan điểm hậu hiện đại: thực chất, nhà văn luôn “phản bội” lại
135
niềm tin của bạn đọc theo một cách nào đó, và đời sống cá nhân của họ trong trang
sách cũng chỉ là một dạng văn bản hư cấu mà thôi. Tác phẩm, trong bản chất là một
trò chơi nghệ thuật nhằm phá vỡ sự phân lập hiện thực và hư cấu.
Bản chất hư cấu của hiện thực còn được thể hiện ở việc sử dụng nguyên tắc
3D, 4D - một kiểu không gian đặc trưng của thời hậu hiện đại để tái hiện hiện thực.
Chúng ta đều biết, ngày nay, công nghệ đã tạo ra các không gian ảo, hay các ứng
dụng thực tại ảo đã được ứng dụng rộng rãi chẳng hạn tại các phòng chiếu phim 3D,
4D mọc lên khắp các thành phố, các cabin huấn luyện phi công và người lái xe…
Những tình huống ảo được lập trình thành những trải nghiệm thật sống động. Ở đây,
không gian ảo mang lại một tính chất rất quan trọng: nó đưa ra một đối tượng (của
sự chú ý, quan sát) từ một tình trạng tồn tại gián tiếp (qua mô tả/ hình ảnh) vào một
tình trạng tồn tại trực tiếp đối với chủ thể (quan sát/ chú ý). Trong trường hợp đối
tượng là đối tượng mô tả (bằng văn chương chẳng hạn, nghĩa là đối tượng chỉ có
mặt qua lời kể lại), thì không gian ảo đã đưa đối tượng từ chỗ vắng mặt vào chỗ
hiện diện, tức là biến cái mô tả thành tương đương với chủ thể mô tả về mặt có tính
thực tại. Cho nên, con người có thể tái tạo cảm quan về sự vật, hiện tượng, đem lại
một ấn tượng về tính hiện thực của một sự vật/ hiện tượng đang vắng mặt. Nhìn vào
sâu hơn, ở các tiểu thuyết Khải huyền muộn, Tưởng tượng và dấu vết, Chinatown,
3.3.3.9 [những mảnh hồn trần…, khi các nhân vật trong tác phẩm kể về họ như một
đối tượng mô tả, nghĩa là tiểu thuyết hóa chính mình như đã phân tích, tác phẩm đã
tạo ra sự song hành của hai thế giới và nguyên tắc 3D đã được vận dụng để tạo ra
tính lưỡng cực: vừa vô cùng sống động, vừa hoàn toàn không tồn tại của hiện thực
được nói đến. Chúng làm người đọc bị mê hoặc bởi sự sống động của nó để cũng
chính chúng giúp người đọc sâu sắc ngộ ra nó không hề tồn tại. Nói cách khác, nó
tạo ra hiệu quả độc đáo: tô đậm tính chất ảo ảnh của hiện thực.
Lời đề từ cuốn Tương lai văn học của Frédjeric Badré viết: Ngày nay, thế
giới của biểu hiện văn học là một thế giới giả tạo. Giống như những thế giới khác.
Một sự giả tạo tuyệt đối. Điều gì đ xảy ra? [5]. Nền văn minh hậu hiện đại mà
chúng ta đang sống là nền văn minh của kỹ thuật số, của những giá trị ảo đầy quyền
lực trên mạng toàn cầu. Có thể thấy tính ảo của thực tại ở nguyên tắc thẩm m
facebook và lối đọc entry [7, 259] rất rõ trong 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần]. Đặc
136
điểm nổi bật của nguyên tắc thẩm mĩ facebook là sự bất định, ngẫu nhiên. Thông tin
trên facebook được tổ chức theo nguyên tắc dòng chảy, tức là các thông tin nào
đăng tải trước sẽ xếp trên, cái nào sau sẽ xếp dưới, liên tục nối dài như một dòng
chảy bất định. Mối liên hệ ngữ nghĩa giữa những thông tin trong chuỗi/ luồng là hết
sức bấp bênh, thậm chí là hoàn toàn đẳng lập. Một entry hạnh phúc có thể đặt cạnh
một tin buồn, một thông báo nghiêm trang có thể đi bên cạnh hình ảnh sexy của một
người khác nữa post lên. Tính chủ đề thậm chí kiểu loại văn bản cũng hết sức tùy
hứng, ngẫu nhiên: ảnh, video, link, bản đồ, game, chữ to, nhỏ, đậm nhạt…tùy thuộc
chủ nhân facebook, không ai có thể qui ước và mệnh lệnh.
Dễ dàng nhận ra kiểu cấu trúc trúc tác phẩm này của Đặng Thân.
3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] nhìn một cách tổng thể là sự nối tiếp của các entry
gối vào nhau của Đặng Thân, A Bồng, Mộng Hường, Schditt. Các entry độc lập
được đánh dấu bằng những dị biệt trong căn lề, font chữ, định dạng đậm/nghiêng và
size font. Các entry trong vô số trường hợp trở nên ngẫu hứng, bất tương hợp với
nhau. Chẳng hạn, ở chương 29, từ câu chuyện của Mộng Hường - Dương Đại
Nghiệp, đột ngột chuyển kênh sang tin mới nhất từ báo Khoa học & đời sống:
Đường đi của màng trinh made in China, chuyển sang bài thơ thần của Lý Thường
Kiệt thế kỉ XI và câu chuyện của sứ giả Lê Văn Thịnh rồi lại lộn ngược với đêm
liên hoan tiệc sex 3 trong 1, dịch sang quyết tâm viết cuốn từ điển tình dục xuất phát
từ ý tưởng 26 chữ cái của nhân vật- nhà văn Đặng Thân….Tiểu thuyết mô phỏng
cấu trúc không gian ảo của mạng xã hội. Thậm chí sự xuất hiện của phần LỜI BÀN
[PHÍM…] CỦ CÁC NETIZEN được Đặng Thân blogger công khai thừa nhận là
thủ pháp tạo dựng không - gian - đa - chiều:
Về mặt nghệ thuật, cấu tứ và ngôn ngữ của tác phẩm này biểu hiện không-
gian-đa-chiều (>3) với mong muốn vượt thoát ra khỏi những logic máy móc mang
tính nhị nguyên của cái không gian ba chiều (nhiều bậc cao sỹ xưa nay cho rằng
chính cái đặc tính ngôn ngữ ba chiều của chúng ta đ cản trở tư duy và khả năng
diễn đạt của con người, khiến tồn lưu quá nhiều những điều bất khả tri và bất
khả giải ). Mong rằng độc giả sẽ cảm nhận được chiều thứ tư của ngôn ngữ
trong cuốn sách này thể hiện qua một số thủ pháp… [206, 129].
137
Tiểu thuyết mô phỏng thế giới mạng xã hội ảo, nơi mọi thành viên có thể
tham gia bằng một mặt nạ ảo được qui ước như một nickname (biệt danh). Đó chính
là một thế giới mới, mang tính thực tại ảo chứ không phải là ảo giác về thực
tại . Hơn nữa, nó chỉ ra sự thật đầy phi lí trong cuộc sống thời hiện tại: con người
tự ngụy tạo và rồi say đắm với sự ngụy tạo đến mức đánh đổi thế giới thực lấy thế
giới ảo. Với ngôn ngữ kí tự, nghệ thuật hiện đại chỉ mới tạo ra sự hóa thân từ chủ
thể tiếp nhận và tác phẩm, tức là người đọc vẫn phải có cảm giác mặc định mình
biến thành một ai đó khác với chính hiện thể và bản chất của mình trong thực tại.
Do đó, người ta có thể khóc cho nhân vật, nhưng ít khi nhầm lẫn nhân vật với chính
mình. Nhưng với ngôn ngữ máy tính, nghệ thuật hậu hiện đại tạo ra một cảm thức
nhập vai cho chủ thể tiếp nhận. Người tiếp nhận thường chìm đắm không thể dứt ra
được trước thế giới ảo, nhờ tính “thực tại thế vì” của nghệ thuật hậu hiện đại, từ đó
không hiếm các game thủ chết trên bàn phím, hoặc giết nhau chỉ để chiếm đoạt những
món hàng ảo. Đó chính là hiện thực “nguỵ tạo” hay cái mà Jean Baudrillard gọi
là simulacrum - copy không có bản gốc của chủ nghĩa hậu hiện đại. Khác với mô
phỏng, có nghĩa còn tồn tại một hiện thực - “vật được mô phỏng” có thật đằng sau vật
mô phỏng nó, chính vì vậy mà vật mô phỏng (hình ảnh, hình tượng) có thể giả trá,
không đúng với hiện thực đó. Còn đằng sau “nguỵ tạo” không có một hiện thực nào,
bởi bản thân nó thay thế cho cái thực tiễn không tồn tại đó - một bản sao không có bản
gốc. Như vậy, ở chủ nghĩa hiện đại thực tại bị lạ hoá và vô nghĩa hoá, cho tới thời hậu
hiện đại nó đã “biến mất”, chỉ còn lại cái “nguỵ tạo” - simulacrum. Nghệ thuật hậu hiện
đại, dựa trên tính “ngụy tạo” đã tích cực thực hiện quá trình “phì đại hiện thực”
(hyperrrealism), nhằm đưa tham vọng tạo ra một thế giới ảo, nơi mang nhiều tiện ích,
tri thức và khả năng giao tiếp nhiều hơn chính thế giới vật chất thực tại.
4.2.2. Viết và tự giễu nhại viết trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986
Bên cạnh thủ pháp suy nghĩ, nhận xét về cái viết một cách trực tiếp, viết về
cái viết còn có một cách thức khác - cách thức gián tiếp: trích dẫn một viết/văn bản
khác, giễu nhại hay tự giễu nhại việc viết.
Liên văn bản là một trong những cốt lõi của thi pháp hậu hiện đại. Vấn đề
đặt ra là trong chủ nghĩa hiện đại ở đầu thế kỷ 20, người ta đã bắt gặp không ít dấu
vết của thủ pháp liên văn bản. Vậy sự khác biệt là ở đâu? Sự khác biệt chủ yếu xuất
138
phát từ quan điểm: trong khi chủ nghĩa hiện đại chủ trương đoạn tuyệt quá khứ, chủ
nghĩa hậu hiện đại chỉ muốn hoà giải quá khứ và hiện tại. Các nhà hiện đại chủ
nghĩa sử dụng mối quan hệ với các tác phẩm cũ để làm mới chính mình và để mở
rộng khả năng biểu đạt của tác phẩm mình đang viết. Các nhà hậu hiện đại chủ
nghĩa thường liên kết tác phẩm của mình với những văn bản khác để tạo ra một cái
nhìn giàu tính phản tư và giễu nhại. Mối quan hệ liên văn bản thời hiện đại chủ
nghĩa thường được công khai trong khi ở thời hậu hiện đại, nó bị che giấu hoặc
được nguỵ trang dưới những hình thức trích dẫn giả. Ngoài ra, mức độ vận dụng
tính liên văn bản trong các tác phẩm thời hậu hiện đại chắc chắn cũng nhiều và tự
giác hơn hẳn ngày trước.
Tính chất liên văn bản biểu hiện rõ ở thủ pháp cắt dán (collage). Ta có thể
tìm ra vô số mảnh dán như vậy ở nhiều tiểu thuyết tiêu biểu cho sự xuất hiện hệ
hình hậu hiện đại trong văn học Việt Nam. Chẳng hạn, thống kê ngẫu hứng từ phần
đánh số 20 đến 40, chúng tôi thấy liên văn bản dày đặc trong 3.3.3.9 [những mảnh
hồn trần] (Xin xem phụ lục, bảng 4.3). Thậm chí Đặng Thân còn cắt nguyên xi
hình ảnh của trang báo mạng, email, bảng biểu, công thức, văn bản khoa học… dán
vào tác phẩm của mình. Sự xuất hiện dày đặc của những đoạn cắt dán với vô số
kiểu/ loại/ hình thức/ nguồn văn bản đã làm tê liệt kết cấu chương hồi, biến tác phẩm
thành một cấu trúc pha trộn liên văn bản hay còn gọi là tiểu thuyết đa văn bản .
Mặt khác, trong một môi trường ứng dụng siêu văn bản thực sự, người đọc
có thể trỏ vào chỗ tô sáng (highlight) bất kì từ nào của tài liệu và tức khắc nhảy đến
những tài liệu khác có văn bản liên quan đến nó. Đứng trước một siêu văn bản kiểu
này, người đọc tiếp xúc với vô vàn đường liên kết buộc họ phải nhớ lại các tri thức
đã có để tiến hành lựa chọn. 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] xuất hiện vô số đường
link như vậy (Xin xem phụ lục, bảng 4.4).
3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] qua khảo sát đã công khai cung cấp vô số
đường liên kết hay chính là vô số sự lựa chọn để đi đến những luồng thông tin khác
nhau. Có thể ví chúng là những “khúc cua” nhằm bẻ hướng chú ý của người đọc, lái
người đọc vào những nhánh rẽ tiểu ngạch. Nó giống như ma trận mà chúng ta phải
lựa chọn con đường tùy thuộc vào kinh nghiệm của bản thân để khám phá. Chúng ta
bị đưa vào tình thế bắt buộc phải lựa chọn bỏ qua liên kết để theo dõi mạch truyện
139
hay tạm dừng để di chuyển đến thông tin bên ngoài văn bản. Trong cấu trúc của các
nhánh liên kết và giao tuyến, siêu văn bản tái tạo liên tưởng của tâm trí và tạo cảm
giác về sự “bỏ lỡ” điều gì đó ở độc giả để kích thích họ tìm hiểu. Đây cũng chính là
một ưu thế vượt trội mà văn bản truyền thống không thể mang lại. Một văn bản trở
thành một mạng lưới tri giác không đơn nghĩa. Nó là vô hạn mà không có quyền lực
nào có thể áp đặt một giọng thống trị. Các dạng này tạo ra quyền lực cho người đọc
và giải phóng họ khỏi tuyến tính của văn bản truyền thống.
Sự xuất hiện dày đặc của liên văn bản trong các tiểu thuyết đã phơi bày
nghịch lý sáng tạo/ mô tả đậm tính siêu hư cấu trong văn chương hậu hiện đại. Nhìn
sâu vào bản chất, liên văn bản hậu hiện đại quan niệm mọi hiện tượng trong đời
sống đều là những văn bản nhỏ kết cấu nên toàn bộ thế giới như một văn bản rộng
lớn. Gọi là văn bản, bởi vì, không thể có một nhãn quan hay diễn giải chung cuộc,
cố định khi phóng chiếu lên chân diện thế giới. Sự nhận thức về vạn vật trong đời
sống là tùy thuộc vào diễn ngôn văn hóa, tư thế triết học và mục đích luận mà chủ
thể tựa vào. Như vậy, diện mạo thế giới luôn là một quá trình dang dở, đang tự hoàn
thiện mình nhưng vĩnh viễn không thể hoàn tác bằng hàng loạt sự bổ sung vô hạn từ
phía người tư duy, người trải nghiệm. Hơn nữa, bản thân nhân loại, theo quan niệm
của liên văn bản, là giống loài tồn tại trong trường ngôn ngữ, nhận thức bằng quy
ước khái niệm, do đó, thế giới, nói cho cùng, luôn là một tập hợp các kí hiệu đa
nghĩa. Văn học rút cuộc chẳng bao giờ bắt chước hoặc “trình hiện” thế giới mà chỉ
luôn bắt chước hoặc “trình hiện” những diễn ngôn trong khúc quanh kiến tạo nên
thế giới đó.
Bên cạnh sử dụng liên văn bản như một thủ pháp để viết về cái viết, cần
phải nói đến giễu nhại. Giễu nhại không phải là cái hoàn toàn mới. Tuy nhiên, nếu
trong văn chương tiền/hiện đại, giễu nhại chỉ là một yếu tố, một thủ pháp nghệ thuật
thì trong văn xuôi hậu hiện đại, nó trở thành nguyên tắc thế giới quan. “Ở Châu Âu,
tiểu thuyết giễu nhại xuất hiện từ thời cổ đại nhưng giễu nhại toàn trị như một
nguyên tắc tạo ngh a thì chỉ có thể là tiểu thuyết hậu hiện đại (Chris Baldick, The
Concise Oxford Dictionary of Literary, Dẫn theo Thái Phan Vàng Anh, [107, 216]).
Giễu nhại hiện đại nghiêng yếu tố giễu, nặng về châm biếm, thậm chí đả kích. Mục
đích của nó là phủ nhận, thậm chí thủ tiêu đối tượng. Còn giễu nhại hậu hiện đại
140
nghiêng về yếu tố nhại. Nó lặp lại một nét nào đó, hài hước hóa nó để thức tỉnh, làm
cho nó tốt hơn. Nhại có tính xây dựng, tính nội bộ. Nếu giễu nhại trong văn chương
tiền/ hiện đại đi liền với cảm hứng phê phán và khát vọng lập lại trật tự cho đời
sống thì ở tiểu thuyết hậu hiện đại, giễu nhại gắn với nhu cầu chống đối lại sự áp đặt
toàn trị của cái chính thống, gắn với sự giải thiêng [83, 222]. Giễu nhại hậu hiện đại
có nhiều cấp độ, tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu, chúng tôi chỉ tập trung phân
tích những giễu nhại về viết.
Ở nhiều tiểu thuyết Việt Nam sau 1986, giễu nhại về viết thể hiện rõ rệt ở
nhại thể loại, nhại nhân vật. Tạo ra một tình huống giả định đẫm màu sắc trinh thám
ở T mất tích, Thuận đã xây dựng câu chuyện trên nguyên tắc nhại tiểu thuyết trinh
thám. Trong 17 chương của T mất tích thì chương XVI không có một thông tin nào
liên quan đến sự kiện chính. 16/17 chương còn lại mặc dù có dữ kiện liên quan đến
sự kiện đó nhưng lại là những dữ kiện được cung cấp theo kiểu dè chừng, người đọc
phải lần tìm từng dấu vết một nằm rải rác như tìm những mảnh vụn của một miếng
gương vỡ tung toé, mỗi mảnh nằm ở một nơi. Có thể nhận thấy dữ kiện được cung
cấp liên quan đến cốt truyện trung tâm rất ít và dung lượng cũng chỉ chiếm một
phần rất nhỏ trên tổng số 257 trang truyện (ước lượng khoảng gần 8 trang). Rõ ràng
cốt truyện chính bị lảng tránh, đúng như ý đồ của Thuận.
Bên cạnh tuyến truyện cốt lõi nằm rải rác trong khắp 16/17 chương tác
phẩm, các tuyến truyện khác là những tuyến cốt truyện phụ nhưng lại chiếm dung
lượng lớn. Chúng được lắp ghép lại nhằm mục đích giải trung tâm vai trò của cốt
truyện chính. Việc lắp ghép này liên tục được trợ giúp bởi kí ức, tưởng tượng và
các mối quan hệ của nhân vật tôi. Đặc biệt hơn cả là những tuyến truyện sản sinh từ
trí tưởng tượng của tôi. Đó là tuyến truyện về gia đình sếp: Brunel - vợ - con trai
nuôi; Brunel vụng trộm với nhân tình là một phụ nữ Á châu tại một khách sạn
Trung Hoa rẻ tiền; chuyện tình yêu ngoài giá thú của người cha và Anna trong
tưởng tượng; câu chuyện đấu trí của người cha với bà mẹ kế để hoàn thiện nội dung
tờ di chúc. Tôi còn hình dung ra chuyện người đồng nghiệp Paul bị suy tim giai
đoạn cuối phải cấp cứu đúng hôm tôi vắng mặt ở công ty như thế nào, cô đồng
nghiệp chưa biết mặt ở cùng công ty đến năm chín mươi tuổi ra nghĩa địa mùi đàn
ông vẫn chưa được ngửi ra sao… Sự luân phiên liên tục của các tuyến truyện phụ
141
giúp Thuận đã thực hiện thành công “âm mưu” phá huỷ cốt truyện trinh thám khi
cuối cùng việc điều tra phá án chỉ là cái cớ để người kể chuyện giãi bày những trạng
thái hiện sinh tẻ ngắt. Tác phẩm vì thể thể hiện tinh thần văn chương hậu hiện đại ở
chỗ nó là một tập hợp của những mảnh vụn. Trong khi nhà văn hiện đại cố gắng đặt
những mảnh vụn vào một cấu trúc ẩn nào đó, để tổng thể đó ban cho những mảnh
vụn ấy một ý nghĩa, một tâm điểm (và tâm điểm này là chiếc chìa khoá mở vào ý
tưởng chủ đạo của tác phẩm), với nhà văn hậu hiện đại, mỗi mảnh vụn tự nó là một
tâm điểm. Văn chương hậu hiện đại có quyền tản mạn, rời rạc là vì vậy. Có thể nói
đa tâm điểm là một trong những đặc điểm nổi bật của nghệ thuật hậu hiện đại. Đặc
điểm này khiến văn chương hậu hiện đại chỉ nằm trên bề mặt của ngôn ngữ, hay
đúng hơn, ngoại hiện hóa những bề sâu của ngôn ngữ và tất cả những sự diễn dịch
đều chỉ xuất phát từ những khả thể do chính cái bề mặt ấy gợi đến.
Cũng tương tự như vậy, Đi tìm nhân vật mở đầu như một tiểu thuyết trinh
thám: Một kẻ tình cờ vớ được mẩu báo, vỏn vẹn ghi mấy hàng: "Nạn nhân là thằng
b đánh giầy, quãng 10-12 tuổi bị một g đàn ông đâm chết ngay tại chỗ. Hung thủ
được tạm mô tả như kẻ mắc chứng thần kinh, ăn mặc sang trọng. Việc truy bắt đang
được tiến hành ráo riết." Từ điểm khởi đầu này, chân dung vô hình của hắn, như
những mảnh puzzle trải dài trong tác phẩm, chỗ chìm, chỗ nổi, chúng mang những
mặt nạ khác nhau. Rồi những yếu tố quái lạ khác lõm bõm lộ ra: Mảnh báo chỉ vỏn
vẹn có mấy dòng, không ghi ngày và nơi xẩy ra án mạng, vậy làm sao Chu Quý lại
biết đúng "chỗ ấy", một chỗ mà hắn "đinh ninh" rằng ở "gần" ngã tư của một con
phố tên là phố G: chính "chỗ ấy" thằng bé đánh giầy đã ngã xuống. Nghề "sưu tập
các kiểu chết" của Chu Quý là nghề gì? Công an? Thám tử hay nhà báo? Mọi giả
thuyết đều khả thể. Vì sao Chu Quý muốn điều tra? "Vì một thôi thúc nhuốm màu
sắc bi kịch mà tôi không thể diễn tả được. Về sau này, rồi quý vị sẽ thấy, tôi hiểu
rằng hóa ra tôi chỉ tiếp tục cuộc truy tìm hắn." [157, 8]. Hiểu theo một cách nào đó
thì hắn (hung thủ hay nguyên nhân) có thể là tôi (Chu Quý), bởi vì nếu hắn không là
tôi, thì tại sao hắn lại biết được địa chỉ xẩy ra án mạng, mẩu báo có ghi rõ đâu?
Nhập đề rơi ngay vào trường hợp: nhị trùng, tam trùng, tứ trùng... nhân cách mà kẻ
đi tìm chính là kẻ bị tìm. Một sự tìm mình, tìm kiếm bản thân. Tôi lùng tôi: Tôi là
ai? Tôi là hắn? Hắn"giết" tôi? Tôi đi tìm hắn? Những nghi vấn đầu tiên này đã là
142
một bước ngoặt đặt ra cho tiểu thuyết: đi từ xác định đến hoài nghi, đẩy người đọc
vào tình trạng: không thể có một sự đọc mà có nhiều sự đọc. Và đó là cái bẫy của
tác giả: Tất cả những vấn đề mà "tôi" đặt ra ở đây, đều bất trắc, đều nhập nhằng
nhiều nghĩa, đều không có gì xác định cả, đến cả nhân vật "chính" cũng không chắc
gì đã là một. Đi tìm nhân vật vậy là tiểu thuyết trinh thám nhại trinh thám điển hình
Bên cạnh nhại trinh thám, T mất tích còn là tập hợp của vô số diễu nhại khác.
Nhiều câu văn của Chinatown “ký sinh” trên văn phong của Duras, khi Duras viết:
Rất nhanh chóng, trong đời tôi, mọi thứ đ trở nên quá muộn màng. Mười tám
tuổi mà mọi thứ đ là quá muộn [163, 9] thì Thuận cũng để cho “tôi” không ngừng
day dứt: Hai mươi bảy tuổi tôi mới đặt được tình yêu bố mẹ sang một bên. Như thế
có phải là quá muộn. Tôi có thể đặt nó sang một bên từ lâu lắm rồi. Một tháng, một
năm, hay ba năm, bốn năm. Hai mươi bảy tuổi tôi mới bắt đầu sống cho tôi. Như
thế có phải là quá muộn” [211, 77]. Hai mươi bảy tuổi, tôi ngh đến số phận. Thế
là sớm hay muộn [211, 107]. Cách Duras tính đầu mỗi sự kiện cũng được Thuận
nhại lại: Mười sáu tuổi, tôi vào tiếng Nga ở đại học Thanh Xuân. Mười bảy tuổi tôi
lên đường sang Leningrad , trong khi Duras viết: Mười lăm tuổi tôi đ có gương
mặt của lạc thú mà tôi thì vẫn chưa biết mùi lạc thú [163, 17]. Mười lăm tuổi
rưỡi. Cơ thể mảnh mai, gần như gầy còm… [163, 35]. Mối tình của Thụy và “tôi”
trong Chinatown gần như có cuộc đối thoại liên tiếp khi Thuận cho “nhại” với mối
tình của “tôi” và người đàn ông Hoa Kiều trong Người tình. Đầu tiên là cuộc gặp gỡ
để bắt đầu tình yêu định mệnh: Trên xe ô tô Thụy ngả đầu lên vai tôi. Thụy kể
chuyện. Thụy ngủ. Trên xe ô tô Thụy bảo Thụy sinh ở Yên Khê… [211, 50]; Duras:
Trên chuyến phà, bên cạnh xe khách, có một chiếc xe linmousine to màu đen…
Người đàn ông trang nh bước a khỏi xe… Anh nói rằng anh từ Paris về… Anh nói
rằng anh là người Hoa, rằng gia đình anh gốc ở miền bắc Trung Quốc . Nhại một
cách hài hước, “tôi” khai: “Duras viết người tình Hoa Bắc thơm mùi lụa, thơm mùi
ngọc bích, thơm mùi thuốc lá ăng - lê… Cả Thụy lẫn tôi không có mùi gì đủ thơm để
nhớ đến tận bây giờ , trong Duras là Người anh thơm mùi thuốc lá Anh, mùi nước
hoa đắt tiền, người anh thơm mùi mật ong, da anh thấm đẫm mùi lụa, mùi trái cây
của lụa tuassor, mùi của vàng [163, 66]. Có điều khác biệt cơ bản: Duras không
bao giờ quên được mùi lụa, mùi ngọc bích, mùi thuốc lá ăng – lê. Tôi nhớ tóc Thụy
143
cắt cao, mắt Thụy xếch. Năm năm sau tôi đi Nga về vẫn thấy tóc Thụy cắt cao, mắt
Thụy xếch” [211, 52]. Còn đây là không gian mà người tình của Duras từng sống:
“Đó là Chợ Lớn. Đó là ở ngược lại ới những đại lộ nối khu phố Tàu với trung tâm
Sài Gòn, những con đường lớn theo kiểu Mỹ với những chuyến tàu điện, xe kéo, xe
khách ngược xuôi” [163, 57], Tiếng guốc gỗ khua như nện vào đầu, những giọng
nói nghe chói tai… [163, 64]. Mùi caramen bay vào phòng, mùi lạc rang, xúp
tàu, thịt nướng, thảo mộc, hoa nhài, bụi bặm, xăng dầu, lửa than củi, … [163, 65].
Không gian nơi Thụy sống cũng nhại lại không gian ấy: Trong túi tôi có tấm ảnh
của Thụy. Ngôi nhà hai tầng, bảng hiệu chữ Hoa, hai cái đèn lồng. Sau này tôi nghe
Duras tả tiếng động chợ Lớn. Tôi hiểu tất cả. Nhưng tôi không hiểu gì. Chữ của
Duras, tôi vừa đọc vừa canh gác. Tôi chưa đặt chân đến Sài Gòn. Tôi chưa biết
Chợ Lớn. Tôi không xem phim Người tình. Tôi đọc cả Người tình lẫn Người tình
Hoa Bắc. Tôi nghe Duras tả mùi chợ Lớn. Trầm hương, dưa hấu, cao lâu. Chữ của
Duras, tôi vừa đọc vừa sợ bị đánh lừa. Tôi chỉ muốn biết Thụy ở đâu, gặp ai, làm
gì. Những ngày ấy, Ngôi nhà hai tầng, bảng hiệu tiếng Hoa, hai cái đèn lồng [211,
35]. Cách làm tình của “tôi” và Thụy cũng là sự nhại lại đầy chế giễu và hài hước.
Mười năm sau, tôi vẫn nhớ đêm ấy trên chiếc giường mới, chúng tôi không lăn vào
nhau, không nhai ngấu nghiến nhau, hút cạn sức lực nhau, dâng hiến cho nhau mọi
thán từ như các nhà văn vẫn miệt mài kể. Tôi sẽ không bao giờ viết được như họ
[211, 82]. Còn Duras: “Anh trở nên hung hãn, tình cảm của anh đầy tuyệt vọng, anh
lao người vào tôi, anh cắn bộ ngực trẻ thơ, anh gào th t, anh chửi rủa… Đôi bàn
tay điêu luyện, tuyệt vời, hoàn hảo… Anh gọi tôi là con điếm, là đồ kinh tởm, anh
bảo tôi là tình yêu duy nhất của anh… Anh ở trên người tôi, anh lại ngụp vào.
Chúng tôi để nguyên như vậy, dính chặt vào nhau, rên rỉ trong tiếng lao xao của
thành phố vẫn vang bên ngoài [163, 71]. Nếu như trong Người tình, “tôi” và người
đàn ông Hoa Kiều thường nhìn ra sông Mê Công dòng sông đẹp như vậy, lớn như
vậy, hoang d như vậy [163, 20] và nói về nỗi cô độc của mình thì Thuận để cho
nhân vật bất động như một sự giễu nhại: Tôi và Thụy ngồi bên bờ sông. Sông
không đủ rộng. Nước không đủ trong… Hai đứa ngồi bên bờ một con sông không
đủ rộng, nước không đủ trong, Thụy cũng không đủ dũng cảm để nói với tôi, tôi
cũng không đủ dũng cảm để sờ vào tay Thụy, những ngón tay tuyệt đẹp tôi chưa
144
từng nhìn thấy, từ lần ấy đi chơi vẫn chỉ chọn bờ sông Hồng không bao giờ đủ rộng,
nước không bao giờ đủ trong để lại ngồi bên nhau im lặng [211, 107].
Ngay cả hành động viết của “tôi” cũng luôn là sự gợi nhắc và đối chiếu với
Duras: “Tôi không viết về Thụy. Tôi không viết cho Thụy. Mười hai năm rồi tôi
muốn gặp Thụy để hỏi. Nhưng tôi không viết cho Thụy. Tôi không dám viết cho
Thụy. Tôi sợ tôi không có gì để viết cho Thụy. Tôi đọc lại Người tình Hoa Bắc.
Duras không có gì đẻ viết cho anh ta. Duras không gọi tên anh ta. Duras không nhớ
họ anh ta. Quê anh ta Duras viết là Mãn Châu. Mãn Châu rộng ngang nước Pháp.
Cuốn sách Duras đề tặng Thanh. I’m yellow không đề tặng ai. Tôi biết tên Thụy.
Tôi biết họ Thụy. Tôi đ đến Yên Khê, nơi Thụy sinh trước tôi ba tháng hai ngày”
[211, 50]. Tôi nhớ về Thụy, nơi Thụy sống cũng là trong “liên văn bản” với Duras:
“Tôi không quên được chợ Lớn. Tôi chưa đặt chân đến chợ Lớn. Nhưng tôi không
bao giờ quên được chợ Lớn. Phim Người tình tôi hiểu lơ mơ. Truyện Người tình
Hoa Bắc tôi lẫn lộn từ đầu tới cuối. Tôi chỉ nhớ ngôi nhà hai tầng, bảng hiệu chữ
Hoa, hai cái đèn lồng [211, 90]. Nếu như kết cục của người tình là một sự hội ngộ
và người tình chợ Lớn nói ra biết bao điều Nhiều năm sau chiến tranh, sau những
cuộc hôn nhân, những đứa con, những cuộc li dị, những cuốn sách, anh đ đến
Paris với vợ mình, Anh đ gọi điện cho cô… Và rồi anh đ nói với cô. Anh nói rừng
mọi sự vẫn như trước, rằng anh vẫn yêu cô, rằng anh không bao giờ có thể ngừng
yêu cô được, rằng anh sẽ yêu cô cho đến chết [163, 177] thì dù “tôi” có tưởng
tượng Thụy đến Paris, Thụy cũng không biết nhắn gì cho tôi. Thụy bảo hai đứa
phải gặp nhau năm phút mười phút trước khi Thụy đi. Nhưng Thụy không biết sẽ
nói gì với tôi… . Đọc Người tình, người ta có cảm giác Duras truy đuổi kỷ niệm về
một mối tình vừa lãng mạn vừa tuyệt vọng bằng một văn phong lắng đọng, giản dị,
và xúc động thì Chinatown không ngừng giễu cợt nó. Sự nhại lại Duras trong
Chinatown mang tinh thần hậu hiện đại: sự “trích dẫn”, liên tưởng trong đầu nhân
vật là một biểu hiện của tính “liên văn bản”. Khi viết Chinatown, Thuận xuất hiện
với tư cách một “nhà văn toàn cầu” có ý thức ứng xử với các tác giả và tác phẩm
văn học trước đó. Chinatown đã “thẩm thấu” Người tình bằng một giọng điệu vừa
hài hước vừa xót xa và cuốn sách mang một diện mạo riêng khi nó đặt Người tình
của Duras vào một quan hệ đối sánh mới, một “chu cảnh văn hóa mới” để người
145
đọc có cơ hội ngờ vực và đi vào nó bằng con đường của riêng mình. Nhại cách viết
của Duras để, ít nhiều, giễu cách viết của chính mình. Đó là viết về cái viết.
Bên cạnh việc nhại lại tự truyện của Duras, Thuận còn nhại cả phong cách
thơ Tố Hữu. Ngoài sân bay, bố tôi cất giọng ngâm Ôi nước Nga thiên đường của
các con tôi. Mẹ tôi khen Tố Hữu làm thơ vừa vần vừa vui. Bố mẹ tôi chỉ muốn làm
tôi vui [211, 22]. Ba lê thiên đường của các con tôi. Bố tôi lên giọng ngâm. Bố
tôi nói Tố Hữu làm thơ vẫn vui vẫn vần. Nhưng Tố Hữu đ nhầm, Cuối thế kỷ hai
mươi nước Nga thành địa ngục. Tư bản mới là thiên đường . Cả lối viết gia phả,
tiểu sử cũng bị Thuận mang ra nhại. Đây là trí tưởng tượng của nhân vật “tôi”: Ai
dám khẳng định các cụ tổ mười một đời của bố mẹ tôi là dân Dao Chỉ. Tôi tưởng
tượng một ngày nào đấy một thằng em họ hay cháu họ của tôi sẽ cất công làm lại
gia phả, sau nhiều lần tham khảo cả thư viện Quốc gia lẫn tổng cục Lưu trữ, lẫn
trường Viễn Đông Bác Cổ, lẫn Học viện Phương Đông ơ Paris, sẽ tìm được ông tổ
mới năm đời trước đây của họ nội, một ông Âu chán nghề bốc thuốc, đ khăn gói
quả mướp chèo thuyền về phía Nam, đ dừng chân ở đất Yên Nản không phải vì đất
lành chim đậu mà vì sông Hồng đến đấy là dừng, muốn đi tiếp cũng không thể biến
thành cỗ xe, biến hai mái chèo thành hai con ngựa. Thế là thành ở lại. Thế là năm
đời sau có bố tôi” [211, 53]. Gia phả ấy cũng có thể chỉ là một câu chuyện vu vơ,
nhảm nhí dựa trên cơ sở thiếu xác tín là bia mộ: Cụ tổ năm đời của họ ngoại tôi
nguyên là lính hậu cần của một viên quan Trung Hoa bị tố giác ăn hối lộ đ đóng
thuyền chạy trốn. Nhiều ngày lênh đênh, cả bão biển lẫn hải tặc, chiếc thuyền đ
dạt vào Yên Nản thay vì sang tận Nam Dương để từ đó bơi tiếp sang châu Úc rồi
châu Âu. Chú lính hậu cần sau mười năm phụng sự được ông chủ, giờ đây không ai
biết đ từng phục vụ triều đình Trung Hoa, cưới cho một cô gái hái dâu bản xứ. Hai
vợ chồng làm thêm nghề chăn tằm và đẻ được năm con trai, tất cả đều mang họ Âu,
tóc cắt cao, mắt xếch. Năm người này lại lấy năm cô gái hái dâu bản xứ, tiếp tục
làm thêm nghề chăn tằm và đẻ được mỗi người năm con trai nữa. Hai mươi lăm
người con trai này lại lấy hai mươi lăm cô gái hái dâu bản xứ, tiếp tục làm thêm
nghề chăn tằm và đẻ được mỗi người năm con trai nữa. Một người trong số này
năm mười tám tuổi đ đổi sang họ Việt, bia mộ không ghi lý do, nhưng vẫn lấy một
cô gái hái dâu bản xứ, hai vợ chồng tiếp tục làm thêm nghề chăn tằm và sinh được
146
năm con trai, con trai út chính là ông ngoại tôi, tuy không còn mang họ Âu, nhưng
tóc cũng cắt cao và mắt cũng xếch, giống hệt sáu trăm hai mươi bốn hậu duệ kia
của chú lính hậu cần” [211, 54-44]. Khi nhại lối viết gia phả, tiểu sử, Thuận mang
cảm quan hậu hiện đại rõ nét. Chủ nghĩa hậu hiện đại phản đối “đại tự sự”, cho rằng
lịch sử chỉ là huyền thoại thì tiểu sử của con người cũng chỉ là mảnh nhỏ trong
huyền thoại ấy mà thôi. Vì vậy, tính chất nổi bật của nó là mơ hồ, không xác tín. Nó
phản ánh sự bất lực của con người trong việc làm sáng tỏ chính cuộc đời mình.
Văn chương tiền hiện đại là viết về những cuộc phiêu lưu (nhiều khi nằm
trong chương trình). Văn chương hiện đại là cuộc phiêu lưu của cái viết. Còn văn
chương hậu hiện đại là viết về cái viết. 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] có cả viết về
phiêu lưu, cả phiêu lưu của viết, nhưng trên hết là viết về viết. Bằng cái viết của
chính mình, đem cái viết của chính mình ra giễu nhại, Đặng Thân đ chống lại cái
viết cũ của những bút tre, bút gỗ, bút thép [88, 87].
Trong 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần], gần như hình tượng nào cũng là hình
tượng giễu nhại, câu văn nào cũng được viết bằng lời hai giọng, vì thế nghĩa mở rộng
trở thành nét nghĩa chủ đạo cho tác phẩm. Giễu nhại ngay từ nhan đề:
Tôi bảo hay là đổi thành Những linh hồn khốn nịn nghe cho nó có vẻ dân
gian Việt . Từ khốn nạn hàm ngh a tiêu cực nhưng từ khốn nịn có khi là một
lời khen hay bày tỏ lòng cảm phục vô cùng, nghe lại có tính hài hước…
À, mà seo không đặt là Những mảnh hồn lưu vong? Nghe hay đấy chứ, hỡi
những người lưu vong kia.
Những mảnh hồn lưu vong hả? Nghe được đấy. nếu ngh mình lưu vong thì
ai mà chả đang lưu vong cơ chứ. Này anh bạn Schditt ơi, anh thấy thế nào với cái
tên này nhỉ? - Những mảnh hồn lưu vong.
Theo dõi câu chuyện từ đầu của một cô bé sinh viên mắt trong vắt như trời
thu tháng Tám hồn nhiên thốt lên: Hay h y đặt là Những mảnh hồn trần, Được
không các anh chị ơi? .
Tôi tin ở HỒN ma cà rồng vì thế tôi quyết định chọn cái nhan đề này. Ma
cà rồng ám anh em nhiều lắm nhiều đến chết luôn ahihi [206, 183].
Trong một tiểu đoạn, tiểu thuyết này đã cùng một lúc nhại Những linh hồn chết
của Gogol, Những kẻ khốn nạn của Huygo theo bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh…
147
Nhìn vào tổng thể, bản thân cấu trúc cuốn tiểu thuyết cũng là nhại thể loại.
3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] có cấu trúc của cuốn tiểu thuyết mạng/máy tính như
đã phân tích ở trên. Nhìn vào tiểu tiết, tinh thần giễu nhại thấm đẫm từng chi tiết,
hầu hết các loại lời chính thống, nghiêm trang, sách vở đều được Đặng Thân biến
thành trò diễn:
- Thật đúng là Anh ở đầu sông em cuối sông, uống chung dòng nước…chẩy về đông .1 Inch danke Ihnen vielmals, Herr Phan Huỳnh Điểu! 2 Sao
mà ông có tinh thần toàn cầu hóa đến vậy, những sáng tác của ông còn làm rung
động cả trái tim người Đức Bayern nữa đó… [206, 43]
- Nhìn cái cảnh mọi người nhốn nháo tâng bốc nhau, nịnh thơm nịnh thối
ngất trời Hường cảm thấy gai mắt lắm. Ngồi ngay hàng ghế đầu đất nước phải
nghe nhiều nên mặt em cứ thừ ra, rồi bất ngờ em phun ra mấy câu này:
Hôm nay gặp mặt rất ồn,
Thầy trò sư phạm nịnh…tài nhà thơ
Em nói xong cả một góc hội trường cười rộ lên… [206, 331]
- Ôi người con gái theo chồng chết nơi đất khách. Cỏ xót xa đưa. Những
giấc mộng xưa giờ đ thừa. Chỉ còn lời ru mãi ngàn năm. Chờ một ngày kia người
quen về chào tiếng lạ. Ôi đóa hoa vô thường… Hương hỏa ba sinh [206, 397];
Em đi tắm... Sau cái cảm giác bay lên trời bây giờ em lại có cảm giác xuống
biển… Ôi than Quảng Ninh. Mỗi khi tan ca… em cùng anh lại ghi thêm một chiến
công … Hương bưởi thơm hai nhà cuối phố. Cô bé ngập ngừng sang nhà hàng
xóm. Xóm đạo đìu hiu. Đồi thông hai mộ… Em nằm yên, em nằm yên. Mùa xuân
phía trước, miên trường phía sau … [206, 544]
Như vây, dù chưa thể nói đến thời hậu hiện đại đã hình thành trong tiểu
thuyết Việt Nam, vì cái sống động, cái đang diễn tiến, cái đang - là là cái khó nắm
bắt. Nhưng kiểu viết hậu hiện đại chắc chắn đã định hình, ngày càng khẳng định
trong văn học Việt Nam. Những nhà văn như Thuận, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt
Hà…nhất là Đặng Thân có thể coi là những người dịch chuyển hệ hình. Họ là
những nhà văn tiên phong đưa văn học Việt Nam bước sang hệ hình hậu hiện đại,
dự báo hướng đi tất yếu của cuộc cách mạng hệ hình của tiểu thuyết Việt Nam trong
những giai đoạn tiếp theo.
148
Tiểu kết chương 4
Như vậy, nhìn từ quan niệm về viết, tiểu thuyết Việt Nam đã hai lần
chuyển đổi hệ hình: từ tiền hiện đại sang hiện đại, từ hiện đại sang hậu hiện đại. Hai
cuộc cách mạng hệ hình này đều có ở giai đoạn tiểu thuyết sau 1986. Nếu các nhân
vật thay đổi hệ hình như Trần Dần, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh là những người đã dặt
nền móng cho tiểu thuyết hiện đại thì sau đó, Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy Anh, Hồ
Anh Thái Nguyễn Bình Phương… là những đại diện hoàn thiện hệ hình này cho
tiểu thuyết sau 1986. Viết trở thành một cuộc phiêu lưu trong sáng tạo, viết như một
trò chơi kể chuyện, viết không kể chuyện mà làm văn, lấy chính ngôn ngữ làm điểm
tựa để triển khai câu chuyện… Đó là cuộc dịch chuyển hệ hình lần thứ nhất để sau
đó, một số tác phẩm của Thuận, Đặng Thân, Nguyễn Bình Phương, Uông Triều…
tiếp tục bước sang một giai đoạn mới của tiểu thuyết, chạm đến hậu hiện đại với lối
viết siêu hư cấu từ công khai sự hư cấu đến khẳng định tính hư cấu của bản thân
thực tại, sử dụng phổ biến liên văn bản và giễu nhại hậu hiện đại… Nhìn từ hệ hình,
vì thế giúp ta nhận diện được sự quan trọng của một giai đoạn tiểu thuyết. Đó là giai
đoạn thực sự có những bước chuyển lớn, mà một phương diện thể hiện rõ sự chuyển
đổi đó là những cách tân nghệ thuật được thúc đẩy bởi những quan niệm khác biệt
về viết.
Cái nhìn hệ hình ở phương diện quan niệm về viết cũng giúp ta nhận ra sự
hỗn dung là đặc điểm nổi bật của giai đoạn tiểu thuyết sau 1986. Các hệ hình không
nối tiếp mà gối tiếp lên nhau. Bên cạnh những đỉnh cao hệ hình hiện đại, dòng tiểu
thuyết của hệ hình tiền hiện đại vẫn chiếm vị trí quan trọng. Ở các tác giả, tác phẩm
đỉnh cao của hệ hình hiện đại, lại đã có những dấu hiệu của hậu hiện đại. Tuy chúng
ta có một khuynh hướng văn chương hậu hiện đại, nhưng chúng ta vẫn chưa có một
nhà văn thuần hậu hiện đại. Những yếu tố hậu hiện đại chủ yếu mới dừng lại ở cấp
độ thủ pháp, dấu hiệu. Nhìn vào quan niệm về viết, ta vẫn dễ nhận sự song hành của
các hệ hình không chỉ trong tổng thể giai đoạn tiểu thuyết mà trong sáng tác của
một nhà văn, thậm chí trong cùng một tác phẩm. Điều này tạo nên diện mạo hết sức
phong phú, phức tạp của tiểu thuyết sau 1986.
149
KẾT LUẬN
1. Như vậy, với lý thuyết hệ hình, sự vận động đổi mới của tiểu thuyết Việt
Nam sau 1986 được nhìn nhận với cái nhìn nội quan. Trước đây, văn học được coi
như một bánh xe phụ của cỗ xe lớn là chính trị. Sự vận động của văn học, vì thế,
phụ thuộc vào các sự kiện chính trị. Lý thuyết hệ hình đã trả lại tính tự trị của văn
học khi khẳng định sự vận động của văn học, chủ yếu, tuân theo những qui luật nội
tại của nó. Tiểu thuyết Việt Nam, dưới cái nhìn hệ hình, đã hai lần chuyển đổi: từ
tiểu thuyết tiền hiện đại chủ nghĩa đến tiểu thuyết hiện đại chủ nghĩa, từ tiểu thuyết
hiện đại chủ nghĩa đến tiểu thuyết hậu hiện đại chủ nghĩa. Cuộc cách mạng này diễn
ra ở mọi phương diện của tiểu thuyết, từ quan niệm về hiện thực đến quan niệm về
con người, từ quan niệm về viết đến những đặc thù trong sáng tạo nghệ thuật tiểu
thuyết… Trên nền của những lần thay đổi hệ hình, các tiểu thuyết sau 1986 nhập
vào lịch sử văn học dân tộc không phải từ ý thức hệ, thế giới niềm tin hay đối tượng
phản ánh mà chính là mỹ học mà văn học nghệ thuật chuyên chở.
Cái nhìn hệ hình cũng giúp người nghiên cứu nhận diện vị trí đặc biệt của
những nhân vật chuyển đổi hệ hình. Họ là Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp,
Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh đã chuyển tiểu thuyết Việt Nam từ tiền hiện đại chủ
nghĩa đến hiện đại chủ nghĩa. Họ là Thuận, Đặng Thân cùng với Nguyễn Bình
Phương, Nguyễn Việt Hà, Uông Triều… đưa tiểu thuyết Việt Nam đi xa hơn, về với
phía hậu hiện đại. Họ có thể không phải là gương mặt đại diện hệ hình - tức là
những đỉnh cao của viết thuộc về hệ hình ấy. Tuy thế, lịch sử hệ hình ghi nhận họ
như là những người thực hiện bước chuyển hệ hình. Họ chính là những người báo
trước cuộc cách mạng nghệ thuật, một loại tiền khởi nghĩa mà nếu không có họ thì
không có cuộc cách mạng hệ hình.
2. Tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 nhìn từ lý thuyết hệ hình sẽ trình hiện như
một chỉnh thể. Lý thuyết hệ hình tiếp cận văn học theo các qui luật nội tại của bản
thân văn học, thừa nhận tính tự trị của văn học. Các tiểu thuyết được khảo sát trong
giai đoạn tiểu thuyết này không phân biệt khuynh hướng: tiểu thuyết kiếm hiệp, tiểu
thuyết lịch sử, tiểu thuyết chiến tranh, tiểu thuyết thị trường, tiểu thuyết mạng, tiểu
thuyết huyền ảo…; cũng không phân biệt khu vực: tiểu thuyết miền Bắc hay Nam,
trong nước hay hải ngoại...
150
Tuy nhiên, các tiểu loại tiểu thuyết trên không phải là một tập hợp lộn xộn mà
được phân định theo hệ hình. Cái nhìn hệ hình giúp người nghiên cứu nhận diện
những sự kiện, những thành tựu của tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn này trong tính
hệ thống. Những tiểu thuyết tái hiện hiện thực theo nguyên tắc phản ánh, khám phá
con người đơn ngã, tuân theo mô hình viết về sự phiêu lưu là tiểu thuyết tiền hiện
đại. Những tiểu thuyết kiến tạo thực tại, khám phá con người trong sự đa ngã, tuân
theo mô hình sự phiêu lưu của cái viết thuộc phạm trù tiểu thuyết hiện đại. Còn
những tiểu thuyết theo mô hình viết về viết, thể nghiệm thực tại phân mảnh và con
người liên chủ thể, đó là tiểu thuyết thuộc hệ hình hậu hiện đại. Phân định như vậy,
tiểu thuyết tiền hiện đại có thể gồm những tác phẩm rất xa nhau, từ tiểu thuyết của
Tự lực văn đoàn như Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt, Đời mưa gió…, tiểu thuyết Hiện
thực phê phán như Tắt đèn, Sống mòn, Số đỏ…, tiểu thuyết xã hội chủ nghĩa như
Vỡ bờ, Hòn Đất… cho đến những tiểu thuyết viết sau 1986 như Dòng sông mía,
Gia đình b mọn, Ba người khác, Con ngựa Mãn Châu, Tìm trong nỗi nhớ, Thế giới
xô lệch... Tiểu thuyết hiện đại có thể bao gồm cả những sáng tác xuất hiện trước
1986 như trường hợp của Trần Dần, vốn được coi là hiện tượng “nằm ngoài thời
gian” hay các tiểu thuyết cách xa về mặt không gian như tiểu thuyết hải ngoại của
Phạm Thị Hoài, Đoàn Minh Phượng, Linda Lê, Thuận… Có nghĩa là, xem xét sự
thay đổi quan niệm về viết với cái nhìn hệ hình cung cấp cho người nghiên cứu một
cơ sở để cắt nghĩa và đánh giá những cách tân nghệ thuật của các tác phẩm, tác giả
không lệ thuộc vào cách nhìn nhận lịch sử, cho nên cắt nghĩa được cả những hiện
tượng vốn là ngoại vi trong quan niệm trước đây.
Nếu áp dụng ở mức độ khái quát hơn, nó có thể giúp người nghiên cứu
nhìn nhận đánh giá sự vận động của nghệ thuật tiểu thuyết từ đầu thế kỉ XX từ
những đỉnh cao kịch mút của hệ hình tiền hiện đại như tiểu thuyết Tự lực văn đoàn,
tiểu thuyết hiện thực, tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa đến các tiểu thuyết giai
đoạn chuyển giao 1975 - 1986 và những bước chuyển của nó sau “biến cố” Đổi
mới. Rộng hơn nữa, vận dụng lý thuyết của Thomas Kuhn có thể mang đến một lối
viết sử nhìn nhận toàn cảnh văn học Việt Nam thế kỉ XX với như Đỗ Lai Thuý đề
xuất: Ở thơ, cốt lõi là ngôn ngữ, mà cốt lõi của ngôn ngữ lại là quan hệ giữa chữ
và ngh a, nên ba hệ hình tiền hiện đại, hiện đại, hậu hiện đại của thơ là: ngh a →
151
chữ (từ ngh a đến chữ), từ chữ → ngh a (từ chữ đến ngh a), từ chữ ←→ ngh a (từ
chữ đến ngh a và từ ngh a đến chữ). Ở phê bình văn học, cốt lõi là cách tiếp cận tác
phẩm, nên ba hệ hình của nó là: tiếp cận từ tác giả (tiếp cận ngoại quan), tiếp cận
từ tác phẩm (tiếp cận nội quan) và tiếp cận từ người đọc (tiếp cận nội←→ngoại
quan) [89, 297]. Mỗi một thể loại, dưới cái nhìn hệ hình, có thể được khảo sát
trong một hành trình thế kỉ không phân biệt sáng tác ở đâu, khi nào, thuộc bộ
phận/khuynh hướng nào…
3. Một trong những đóng góp của lý thuyết hệ hình với đối tượng tiểu
thuyết Việt Nam sau 1986 là nhận diện tiểu thuyết trong cái nhìn đồng đại. Ở Việt
Nam, các hệ hình văn học nói chung, hệ hình tiểu thuyết nói riêng như đã phân tích,
không hoàn toàn nối tiếp nhau theo thời gian mà chủ yếu là gối tiếp. Ở tiểu thuyết,
thời gian gối nhau dài, không dứt điểm, tạo nên hiện tượng đồng tồn ở ba hệ hình.
Chính sự tồn tại cùng lúc này đã làm cho sự chuyển đổi hệ hình từ tiền - hiện đại
sang hiện đại và từ hiện đại sang hậu hiện đại vừa khó diễn ra vừa khó nhận ra.
Nhìn vào thực tiễn tiểu thuyết sau 1986, quan niệm về thực tại và con người cũng
như quan niệm về viết đã qua ba lần dịch chuyển hệ hình. Dù vậy, cả ba cùng song
hành tồn tại tạo nên những nét đặc trưng trong sự vận hành của tiểu thuyết sau
1986. Điều này dẫn đến hệ quả là:
- Sự phân định tiền hiện đại/ hiện đại/ hậu hiện đại chủ yếu ở cấp độ tác phẩm
dẫn đến sự xuất hiện của những nhà văn đa hệ hình. Văn học Việt Nam đi sau thế
giới ít nhất là một thế kỷ. Bởi vậy, hành trình đuổi kịp thế giới, hoà nhập vào thế
giới phải rút ngắn, thậm chí bỏ qua, nhiều giai đoạn, như tàu hoả bỏ ga, rút ngắn
thời gian dừng tàu ở ga. Chỉ trong khoảng thời gian mấy chục năm, văn học Việt
Nam đã tiệm cận với văn học thế giới. Sự phát triển này đôi khi diễn ra trong đời
cầm bút một nhà văn, nên tác phẩm của nhà văn đó có nhiều hệ hình. Chẳng hạn,
như trường hợp nhà văn Nguyễn Khải, vốn là nhà văn thuộc hệ hình tiền hiện đại,
nhưng cuối đời, ở tác phẩm Thượng đế thì cười, lại chuyển sang hệ hình hiện đại. Ở
Thuận, T. mất tích (2005) là tiểu thuyết hậu hiện đại đích thực, nhưng Vân Vi
nở , mệt và sến : “Đọc Ma net, ở nửa đầu, thấy Đặng Thân "nức nở" khá nhiều.
(2008), lại trở lại với lối viết truyền thống. Nếu Ma net (2008) vẫn bị chê là nức
Cả triết lí, kể lể, và chen lấn bao nhiêu rêu giậu xưa cũ… [84] thì 3.3.3.9 [những
152
mảnh hồn trần] được đánh giá là tiểu thuyết hậu hiện đại “chính hiệu”: “Theo tôi,
sáng tác của Đặng Thân, trước hết là tiểu thuyết 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] là
bước ngoặt quyết đoán của văn hậu hiện đại Việt Nam” [6, 206], 3.3.3.9 [những
mảnh hồn trần] lại giống như một phản - tiểu thuyết, theo cái ngh a nó khác hẳn với
các hình thức tiểu thuyết trước đó, nhất là ở Việt Nam… sự phản/không - giống - ai
này chỉ là ở dáng vẻ bề ngoài, còn cốt cách bên trong thì rất Đặng Thân và rất Việt
Nam, d nhiên là một Việt Nam đang tiến bước cùng thế giới [93] Hay như trường
hợp Tạ Duy Anh, so với Đi tìm nhân vật (cấp phép in lần đầu 2002), Mối chúa (in
2017) trở lại với hệ hình tiểu thuyết hiện đại, thậm chí là tiền hiện đại… Nhìn rộng
sang thơ ca, hiện tượng đa hệ hình này cũng có thể thấy ở thơ Lê Đạt, Bùi Giáng…
Cắt nghĩa hiện tượng này, còn có thể kể đến những lý do khác: Do sự phụ thuộc của
nhà văn vào trình độ độc giả trong khi trình độ đại đa số độc giả Việt chưa đạt đến
yêu thích hiện đại/ hậu hiện đại chủ nghĩa; Do sự thiếu nhất quán trong chính sách
của xã hội đối với sáng tác và kiểm duyệt văn chương; Do khả năng của nhà văn,
chưa đủ bút lực sáng tạo để đi đường dài với những cách tân theo hướng hiện
đại/hậu hiên đại…
Ở hiện tượng tác phẩm đa hệ hình, cũng cần phân biệt hai dạng thức. Có
những tác phẩm, vì nhà văn chưa hoàn toàn theo một hệ hình nào, sáng tác của họ
còn nhiều dấu vết của các hệ hình cũ. Đây là những tác phẩm đa hệ hình không có
chủ ý. Còn ở các tác phẩm đa hệ hình có ý đồ nghệ thuật, chẳng hạn như, một tác
phẩm hậu hiện đại, dù vẫn có những yếu tố tiền hiện đại, hiện đại, hậu hiện đại đan
xen nhau nhưng tác phẩm đã được tổ chức theo nguyên lý mỹ học hậu hiện đại.
- Không một hệ hình nào chiến thắng hoàn toàn nên bộ mặt tiểu thuyết Việt
Nam sau 1986 bày ra một thế trận giằng co và chuyển đổi liên tục giữa trung tâm và
ngoại vi, giữa trung tâm cũ và trung tâm mới đang hình thành và cuối cùng xu thế
giải toàn bộ các trung tâm.
Có thể hình dung về tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 với lát cắt đồng đại.
Trung tâm trong bức tranh toàn cảnh tiểu thuyết vẫn là các tiểu thuyết tiền hiện đại
và hiện đại chủ nghĩa. Còn vị trí ngoại biên thuộc về tiểu thuyết hậu hiện đại. Ở các
nhà văn Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Khuất Quang Thụy, Nguyễn Trí Huân,
Nguyễn Trọng Oánh, Ma Văn Kháng… tiêu biểu như trường hợp Nguyễn Minh
153
Châu, chúng ta thấy sự vận động ly tâm. Họ phần nhiều vốn là những nhà văn quân
đội, chịu ảnh hưởng của lối viết tiền hiện đại thống trị suốt mấy chục năm, với sự
nhạy cảm và nỗ lực, họ tìm tòi, bứt phá làm rạn vỡ chuẩn định của hệ hình văn học
tiền hiện đại, đưa tiểu thuyết tiến gần đến hiện đại chủ nghĩa. Dĩ nhiên, trung tâm
vẫn có sức hút mạnh mẽ, với đội ngũ tác giả và độc giả đông đảo. Không ít các nhà
văn trẻ tuổi đi thẳng một mạch vào khu vực trung tâm. Tuy nhiên, ảnh hưởng của
toàn cầu hóa, không ít người trong họ đã giã từ lối viết cũ để chuyển sang viết mới,
hiện đại, thậm chí là hậu hiện đại.
Dù vậy, lý thuyết hệ hình giúp nhà nghiên cứu có cái nhìn khách quan khi
đánh giá các hiện tượng văn học nói chung, tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 nói riêng.
Các hệ hình chỉ được tiếp nhận với tiêu chí của cái khác, với những cấu trúc và qui
định hoạt động khác nhau. Xuất hiện một hệ hình mới, như đã khẳng định, không phải
là phủ nhận, triệt tiêu hoặc hạ bệ hệ hình cũ, mà chỉ đánh đổ ngôi độc tôn của nó để tạo
ra một đa nguồn văn hóa- thẩm mĩ. Vì thế, viết ngoại biên không phải là viết đối kháng
trung tâm, sáng tác li tâm không phải là đả kích trung tâm. Ngoại biên hóa cũng không
phải là hiểm họa đối với văn học. Ngoại biên hóa dẫn đến đa nguyên, tạp giao, đối
thoại và điều đó có thể làm nảy sinh những sáng tác mới có giá trị. Ngược lại, không
phải tiền hiện đại là không có giá trị. Các tiểu thuyết tiền hiện đại, nhất là hiện đại chủ
nghĩa không thể phủ nhận vẫn chiếm ưu thế trong tổng thể tiểu thuyết những năm gần
đây cả về số tác phẩm, lượng xuất bản và lượng độc giả.
4. Từ đối tượng nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam sau 1986, vấn đề của luận
án còn gợi mở những vấn đề văn học, nghệ thuật, rộng hơn là văn hóa. Việc một
nền văn học duy trì hệ hình thẩm mĩ nào đó như là hệ chuẩn định có ý nghĩa phản
ánh hiện trạng tồn tại thực của cái bản địa. Người Việt Nam cho đến ngày nay vẫn
duy trì phương thức phản ánh nghệ thuật tiền hiện đại như một hệ chuẩn trong ý
thức thẩm mĩ dân tộc. Điều ấy phù hợp với hiện trạng xã hội Việt Nam, cơ bản, còn
mang điều kiện tiền hiện đại. Sự dịch chuyển lên hiện đại và nhất là hậu hiện đại,
xây dựng trên đời sống đô thị, của thị dân, vì thế chỉ là dòng phụ trong văn học,
nghệ thuật. Điều này có thể xem xét trên cả phương diện đội ngũ và trước tác cũng
như ý thức quản lý văn nghệ nhà nước. Hiện đại hay hậu hiện đại chỉ thuộc về
những thiểu số cá nhân có điều kiện hiện/ hậu hiện đại hơn các cá nhân khác.
154
Như đã khẳng định, không có sự phân định cao/ thấp giữa các hệ hình. Vì
thế nhìn văn chương, nghệ thuật từ lý thuyết hệ hình tiếp tục khẳng định con đường
làm phong phú, giàu có di sản văn học nghệ thuật nói riêng, văn hóa nói chung là
tiếp tục thực hiện các cuộc cách mạng đổi khác hệ hình thẩm mĩ. Nó cho phép cách
ứng xử khác với quá khứ, không còn quá nhiều những ràng buộc. Nó cho phép lấy hệ
hình thẩm mỹ- bản chất nghệ thuật của văn học làm tiêu chí cơ bản để viết lại lịch sử
văn học. Nó dẫn đến thái độ biết tôn trọng ngoại biên trong đời sống văn học, văn hóa.
Một xã hội hài hòa nên phải đa nguyên cộng sinh. Đó cũng là cái sinh thái tự nhiên
không cố ý xung đột nhau, là biểu hiện của xã hội sáng suốt và lành mạnh.
5. Lý thuyết hệ hình là lý thuyết mang tính chất công cụ. Bản chất của nó là
liên ngành. Ở Việt Nam, các công trình áp dụng lý thuyết hệ hình vẫn chưa được
chọn dịch nhiều. Phạm vi áp dụng cho các trường hợp văn học, văn hóa còn nhiều
không gian để trống. Vì vậy, những vấn đề đặt ra trong luận án và từ luận án vẫn
cần tiếp tục được nghiên cứu, đòi hỏi sự chuyên tâm và tâm huyết của những người
làm khoa học.
155
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
1. Nguyễn Thị Hoài An (2020), Tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 và hành trình từ
viết về cuộc phiêu lưu đến cuộc phiêu lưu của viết , Tạp chí Khoa học Trường
Đại học Thủ đô Hà Nội, số 44, 9-2020, tr 15-21
2. Nguyễn Thị Hoài An (2020), Tiểu thuyết Việt Nam sau 1986: Từ hư cấu về
một thực tại đến thực tại là một hư cấu, Tạp chí Từ điển học và Bách khoa
thư, số 6 (68), 11-2020, tr 49-53.
3. Nguyễn Thị Hoài An (2020), Sự dịch chuyển hệ hình tiểu thuyết Việt Nam
nhìn từ Đêm núm sen và Những ng tư và những cột đèn của Trần Dần, Tạp
chí Khoa học, Trường Đại học Vinh, Tập 49-4B/2020, tr 5-10.
4. Nguyễn Thị Hoài An (2021), Cảm quan thực tại phân mảnh - dấu hiệu đặc
trưng của hệ hình hậu hiện đại trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986, Tạp chí
Nhân lực khoa học xã hội, số 4 (95), 2021, tr 98-105.
156
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. DANH MỤC TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
SÁCH - TẠP CHÍ
1. Phan Tuấn Anh (2020), Những khu vực văn học ngoại biên, Nxb Hội nhà văn,
Hà Nội.
2. Đào Tuấn Ảnh, Quan niệm thực tại và con người trong văn học hậu hiện đại,
Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 8, tr 43-59.
3. Đào Tuấn Ảnh (2007), Những yếu tố hậu hiện đại trong văn xuôi Việt qua so
sánh với văn xuôi Nga, Nghiên cứu văn học, số 12, tr. 39-57.
4. P. Ansart (2002), Huyền Giang dịch, Các trào lưu x hội học hiện nay, Hội
khoa học lịch sử và Nxb tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Frederic Badre (2006), Đa Huyên, Nguyễn Thanh Xuân dịch, Tương lai văn
học, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
6. Lê Huy Bắc (2013), Văn học hậu hiện đại lý thuyết và tiếp nhận, Nxb Đại học
Sư Phạm, Hà Nội.
7. Lê Huy Bắc (2013), Phê bình văn học hậu hiện đại Việt Nam, Nxb Tri Thức,
Hà Nội.
8. Lê Huy Bắc (2015), Lê Nguyên Cẩn, Đỗ Hải Phong, Văn học hậu hiện đại - lý
thuyết và thực tiễn, Nxb Đại học Sư Phạm, Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi 1975-1995, những đổi mới căn bản, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Bình (2010), Nguyễn Thị Tuyết Minh, Vài nét về ngôn ngữ thân
thể trong văn xuôi đương đại, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 718, năm 2010.
11. Lê Nguyên Cẩn (2003), Cái kỳ ảo trong tác phẩm Banzac, Nxb Đại học Sư Phạm
12. Nguyễn Minh Châu (2002), Trang giấy trước đèn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
13. Trường Chinh (1986), Về văn hóa và nghệ thuật, tập II, Nxb Văn học.
14. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là một quá trình, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
157
15. Trương Đăng Dung (1990), Các vấn đề của khoa học văn học, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
16. Trương Đăng Dung (2011), Khoa học văn học hiện đại, hậu hiện đại, Tạp chí
Nghiên cứu văn học số 8/ 2011, tr. 12-25.
17. Đoàn Ánh Dương (2020), Sáng tạo trong tình thế chuyển đổi Văn học và Xã
hội Việt Nam sau Đổi mới, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
18. Đặng nh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
19. Nguyễn Đăng Điệp, Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Hà Minh Đức (2002), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Văn học.
21. Đại học Văn hóa Hà Nội (nhiều tác giả) (2016), Thế hệ nhà văn sau 1975, diện
mạo và thành tựu, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
22. bert Einsein (2015), Đinh Bá nh, Nguyễn Vũ Hảo, Trần Tiễn Cao Đăng
dịch), Thế giới như tôi thấy, Nxb Tri Thức, Hà Nội.
23. Thomas Friedman (2015), Nguyễn Hồng Quang, Vũ Duy Thành, Lã Việt Hà,
Lê Hồng Vân, Nguyễn Quang dịch, Thế giới phẳng: lược sử thế kỷ 21, Nxb
Trẻ, Hà Nội.
24. Hoàng Cẩm Giang (2015), Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XX cấu trúc và
khuynh hướng, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
25. Trần Thanh Hà (2008) Học thuyết Freud và sự thể hiện của nó trong văn học
Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
26. Stephen Hawking (2015), Nguyễn Hồng Quang, Vũ Duy Thành, Lã Việt Hà, Lê
Hồng Vân, Nguyễn Quang dịch, Vũ trụ trong hạt dẻ, Nxb Trẻ, Hà Nội.
27. Đào Duy Hiệp (2000), Phê bình văn học từ lý thuyết hiện đại, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
28. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
29. Nguyễn Văn Hùng (2016), Những hình thái diễn ngôn mới trong tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam sau đổi mới, Tạp chí Sông Hương số 326 (T.04-16).
30. Mai Hương (2015), Những nỗ lực cách tân của văn xuôi Việt Nam đương đại -
Tham luận tại Hội nghị quốc tế quảng bá văn học Việt Nam Hội Nhà văn Việt
Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 2 – 3/3/2015.
158
31. Hoàng Ngọc Hiến (2016), Văn học gần và xa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
32. Hoàng Ngọc Hiến (1979), Về một đặc điểm của văn học nghệ thuật ở ta trong
giai đoạn vừa qua, Tạp chí Văn nghệ số 23, số 6.
33. L.G.Ionin (2008), Từ Thị Loan dịch, Hệ hình là gì, Tạp chí Văn hóa nghệ
thuật, số 285, tháng 3/2008.
34. Cao Huy Khanh (1970), Sơ thảo 15 năm văn xuôi miền Nam (1955-1969),
Tuần báo Khởi Hành, Sài Gòn, số 74.
35. Hans Kung (2010), Nguyễn Nghị dịch, Các nhà tư tưởng lớn của Kitô giáo, Nxb
Tri Thức, Hà Nội.
36. Jamshid Gharajedaghi (2005), Tư duy hệ thống. Quản lý hỗn độn và phức hợp.
Một cơ sở cho thiết kế kiến trúc kinh doanh (Systems Thinking. Managing
chaos and complexity. A platform for designing, business architechture,
1999), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
37. I.P Ilin và E.A Tzurganova chủ biên (2003), Đào Tuấn Ảnh Trần Hồng Vân- Lại
Nguyên Ân dịch, Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu
văn học Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ 20, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
38. Khoa Ngữ Văn trường Đại học Vinh (2012), Tiểu thuyết và truyện ngắn Việt
Nam từ sau 1975 đến nay, Nxb Đại học Vinh.
39. N.I. Kondakov (1975) Từ điển tra cứu logic học, Nxb Khoa học, Moskva.
40. Thomas Kuhn (2008), Chu Lan Đình dịch, Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa
học, Nxb Tri Thức, Hà Nội.
41. Milan Kundera, Nguyên Ngọc dịch (2001), Tiểu luận, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
42. Tôn Phương Lan (2001), Một vài suy ngh về con người trong văn xuôi thời kỳ
đổi mới, Tạp chí Văn học, Tr.43-48.
43. Phong Lê (1990), Văn học trên hành trình thế kỷ XX, Nxb Đại học quốc gia,
Hà Nội.
44. Nguyễn Văn Long chủ biên (2013), Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại,
Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
159
45. Nguyễn Văn Long - Lã Nhâm Thìn chủ biên (2006), Văn học Việt Nam sau
1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
46. Nguyễn Văn Long - Trịnh Thu Tuyết, Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổi
mới văn học Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
47. J.F.Lyotard (2008), Ngân Xuyên dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính và giới
thiệu, Hoàn cảnh hậu hiện đại, Nxb Tri thức, Hà Nội.
48. Edgar Morin (2007), Phương pháp. Tư tưởng. Nơi cư trú, cuộc sống, tập tính,
tổ chức của tư tưởng, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
49. Nguyễn Lương Ngọc (chủ biên) (1980), Cơ sở lý luận văn học, Tập 1, Nxb
Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
50. Phan Ngọc (1985), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
51. Lã Nguyên (2007), Những dấu hiệu của chủ ngh a hậu hiện đại trong văn học
Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, Nghiên cứu
văn học, số 12, tr. 12-38.
52. Trần Thị Mai Nhân (2014), Những đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam trong 15
năm cuối thế kỷ XX, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
53. Nhiều tác giả (1998), Căn tính tộc người, Viện thông tin Khoa học xã hội chủ
biên, Hà Nội.
54. Nhiều tác giả (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, NXb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
55. Nhiều tác giả (1999), Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học, Nxb Văn học,
Hà Nội.
56. Nhiều tác giả (2010), Thi pháp học ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
57. Nhiều tác giả (2006), Tự sự học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
58. Nhiều tác giả (2008), Tự sự học, phần 2, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
59. Nhiều tác giả (2012), Phi lí hậu hiện đại và trò chơi nghiên cứu văn học
(trường hợp Tạ Duy Anh), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
60. Nhiều tác giả (1986), Về văn hóa và nghệ thuật, tập II, Nxb Văn học.
61. Nhiều tác giả (2003), Văn học hậu hiện đại thế giới những vấn đề lý thuyết,
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
160
62. Nhiều tác giả (2013), Văn học hậu hiên đại diễn giả và tiếp nhận, Nxb Văn học.
63. Nguyễn Thị Ninh (2012), Một số mô hình kết cấu trò chơi trong tiểu thuyết
Việt Nam đương đại, tạp chí nhà văn, số 1.
64. Hoàng Như Mai (1961), Văn học Việt Nam hiện đại (1954-1960), Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
65. Nam Mộc (1978), Luyện thêm chất thép cho ngòi bút, Nxb Hà Nội.
66. Mai Hải Oanh (2010), Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
giai đoạn 1986-2006, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
67. Võ Phiến (2000), Văn học miền Nam tổng quan, Nxb Văn Nghệ,
Westminster, C.A 92683, USA.
68. Nguyễn Thị Hải Phương (2016), Tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ góc
độ diễn ngôn, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
69. Phạm Thị Phương (2011). Cuộc vượt biên hệ hình nghệ thuật hiện thực xã hội
chủ ngh a của Trần Dần trong tiểu thuyết Những ng tư và những cột đèn. Kỷ
yếu hội thảo quốc tế: Những lằn ranh văn học, Đại học Sư phạmTp. HCM, tr.
950-987
70. V.M. Rodin (2002), Nguyễn Hồng Minh dịch, Văn hóa học, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
71. Nguyễn Xuân Sanh (2016), Thuyết tương đối hẹp và rộng, NxbTổng hợp
thành phố Hồ Chí Minh.
72. Trần Huyền Sâm (2016), Nữ quyền luận ở Pháp và tiểu thuyết nữ đương đại
Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
73. Sokolovski (1998), Hệ hình của dân tộc học, in trong: Nhiều tác giả, Nghiêm
Văn Thái dịch, Căn tính tộc người, Viện Thông tin Khoa học xã hội.
74. Bùi Văn Nam Sơn (2008), Ngân Xuyên dịch, Lyotard với tâm thức và hoàn
cảnh hậu - hiện đại, in trong: Jean-François Lyotard, Hoàn cảnh hậu hiện đại,
Nxb Tri thức.
75. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
76. Trần Đình Sử (1999), Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi chủ biên, Từ điển thuật
ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
161
77. Trần Đình Sử (1993), Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch, Những vấn đề
thi pháp Đôxtôiepxki, M. Bahtin, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
78. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
79. Bùi Việt Thắng (2015), Tiểu thuyết đương đại, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
80. Nguyễn Thành, Hồ Thế Hà, Nguyễn Hồng Dũng chủ biên (2013), Văn học
hậu hiện đại diễn giải và tiếp nhận, Nxb Văn học, Hà Nội.
81. Nguyễn Thành (2015), Phê bình phân tâm học ở Việt Nam- nhìn từ phương
diện thực hành, TC Nghiên cứu khoa học, số 7, tháng 5/2015.
82. Trần Quang Thái (2006), Chủ ngh a hậu hiện đại, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
83. Phùng Gia Thế (2016), Những dấu hiệu của chủ ngh a hậu hiện đại trong văn xuôi
Việt Nam đương đại (Giai đoạn 1986-2012), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
84. Phùng Gia Thế (2016), Văn học Việt Nam sau 1986 phê bình đối thoại (Tiểu
luận - phê bình), Nxb Văn học.
85. Phùng Gia Thế - Trần Thiện Khanh (2016), Văn học và giới nữ (Một số vấn đề
lý luận và lịch sử), Nxb Thế giới.
86. Bích Thu (2006), Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới, Tạp
chí nghiên cứu văn học, số 11, tr. 15-30.
87. Lí Hoài Thu – Hoàng Cẩm Giang (2011), Một cách nhìn về tiểu thuyết hậu
hiện đại ở Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 6, tr. 74-88.
88. Đỗ Lai Thúy (2016), Bên kia của Viết, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
89. Đỗ Lai Thúy (chủ biên) (2016), Những cạnh khía của lịch sử văn học, Nxb
Hội nhà văn, Hà Nội.
90. Đỗ Lai Thúy (2011), Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy, NXb Hội nhà
văn, Hà Nội.
91. Đỗ Lai Thúy (2012), Thơ như là mỹ học của cái Khác, Nxb Hội nhà văn, Hà
Nội.
92. Đỗ Lai Thúy (2004), Sự đỏng đảnh của phương pháp. Nxb Văn hóa Thông
tin, Tạp chí Văn hóa – nghệ thuật.
93. Đỗ Lai Thúy (2012), Cuộc chạy tiếp sức lịch sử (Đặng Thân nhìn từ Nguyễn
Huy Thiệp), tạp chí Văn hóa Nghệ An, tháng 1/2012.
162
94. Đỗ Lai Thúy (2016) Lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ XX nhìn từ lý thuyết hệ
hình, Đề tài cấp Bộ, Bộ Khoa học và công nghệ.
95. Vân trang, Ngô Hoàng, Bảo Hưng (sưu tầm, biên soạn) (1997), Văn học 1975-
1985: tác phẩm và dư luận, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
96. Hải Triều (1939), Đi tới chủ ngh a tả thực trong văn chương - Những khuynh
hướng trong tiểu thuyết, Tao đàn, số 2, 16/3/1939.
97. Thái Bá Vân (1984), Hai lần thay đổi mô hình thẩm m , Tạp chí nghiên cứu
nghệ thuật, 2-1984.
98. Võ Quốc Việt (2021), Những dấu ấn của tiểu thuyết mới trong văn chương đô
thị miền Nam (1954-1975), Tạp chí Khoa học trường Đại học Sư phạm thành
phố Hồ Chí Minh, Tập 18, Số 1 (2021): 153-171.
99. Trần Ngọc Vương (chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam thế kỷ X – XIX những
vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
LUẬN ÁN
100. Đoàn Ánh Dương (2015), Văn học Việt Nam giai đoạn 1986-2000: một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, luận án tiến sĩ.
101. Nguyễn Hồng Dũng (2016), Ảnh hưởng của chủ ngh a hậu hiện đại Việt Nam
từ 1986 - 2010, luận án tiến sĩ, 2016.
102. Lê Thị Thúy Hằng (2016), Nguyên lý đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam sau
1986, Luận án tiến sĩ, Đại học Huế
103. Nguyễn Thị Hải Phương (2012), Tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ góc
độ diễn ngôn, Luận án tiễn sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
104. Văn Thị Phương Trang (2016), Tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XX
dưới góc nhìn phân tâm học, Luận án tiến sĩ, Đại học Huế.
105. Đinh Văn Thuần (2016), Mối quan hệ giữa văn học và hiện thực qua tiểu
thuyết Việt Nam sau năm 1986, Luận án tiến sĩ, Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn.
TÀI LIỆU MẠNG
106. Phan Tuấn Anh (2011), Sứ mệnh của nhà văn trẻ với những bước chuyển hệ
hình trong văn học Việt Nam, nguồn: http://www.tapchisonghuong.com.vn
163
107. Thái Phan Vàng Anh (2017), Trò chơi kết cấu trong tiểu thuyết Việt Nam đầu
thế kỷ XXI, http://www.khoanguvandhsphue.org
108. Nguyễn Thị Bình (2013), Một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ thời
điểm đổi mới đến nay, đề tài cấp Bộ đăng tải trên: www: http:
//www.nguvan.hnue.edu.vn.
109. Phạm Tấn Xuân Cao (2016), Tính hư cấu của văn chương trong chân trời siêu
hư cấu, http://tapchisonghuong.com.vn
110. Lê Anh Hoài (2009), Văn chương hậu hiện đại, nhìn từ góc độ người sáng tác,
Báo điện tử Tổ quốc, http://vanhocquenha.vn
111. Nguyễn Chí Hoan (2012), Khải huyền muộn, cuốn tiểu thuyết về chính nó,
nguồn: http://vietbao.vn
112. Trần Ngọc Hiếu (2016), Tự sự học nữ quyền luận – một nhánh của tự sự học
hậu kinh điển, nguồn: http://www.vietvan.vn
113. Trần Ngọc Hiếu (2012), Tiếp cận bản chất trò chơi của văn học (Những gợi
mở từ công trình Homo Ludens của Johan Huizinga), nguồn: khoavanhoc-
ngonngu.edu.vn
114. Nguyễn Văn Hiểu, Một vài khuynh hướng vận động của điểm nhìn trong văn
xuôi tự sự Việt Nam. Nguồn: http://.www.tonvinhvanhoadoc.vn
115. Inrasara (2016), Thơ Việt, thế hệ hậu hiện đại mới, nguồn:
http://tapchisonghuong.com.vn
116. Trần Thiện Khanh (2014), Văn học sau 1986 vẫn thuộc hệ hình phản ánh,
nguồn: http://phebinhvanhoc.com.vn
117. Cao Kim Lan (2017), Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và dấu vết
của hệ hình thi pháp hậu hiện đại, nguồn:
http://www.khoavanhue.husc.edu.vn.
118. Nguyễn Văn Lục, Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955 – 1975
http://lyluanvanhoc.com/?p=2504
119. Hoài Nam, Tiểu thuyết thời kỳ đổi mới: có mới không? Nguồn:
http://daibieunhandan.vn
164
120. Nguyễn Thị Việt Nga (2013), Sự hiện diện của triết học và văn học hiện sinh ở
đô thị miền Nam 1954 – 1975, nguồn: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn.
121. Lã Nguyên (2012), Văn xuôi hậu hiện đại Việt Nam: Quốc tế và bản địa, cách
tân và truyền thống, nguồn: http://www.vanhoanghean.com.vn/
122. Hà Thủy Nguyên (2019), Sự suy thoái của thế hệ trẻ hay sự chuyển dịch Hệ
hình tư duy? , nguồn: http://bookhunterclub.com.
123. Hoàng Nguyễn (2005), Đôi n t về thi pháp và kết cấu của Chinatown, Nguồn:
http://www.vnexpress.vn
124. Hiền Nguyễn (2014), Văn học nữ quyền ở Việt Nam, nguồn:
http://.www.vanhocquenha.vn
125. Nguyên Ngọc, Trung Trung Đỉnh, Nguyễn Việt Hà. Tiểu thuyết Việt Nam:
Đang ớ đâu? www.talawas.org
126. Vương Trí Nhàn (2019), Nguyên Ngọc Tố Hữu và hội nghị Đảng viên tháng
6/1979. https://vuongtrinhan.blogspot.com.
127. O‟Reilly (2003), Sự dịch chuyển của mẫu hình mã nguồn mở. (open source
paradigm shift), nguồn: https://www.cse.buffalo.edu
128. Lê Minh Phong (2013), Hướng tới những khả thể hư cấu, nguồn:
http://vanhoanghean.com.vn.
129. Nguyễn Hưng Quốc (2010), Chủ ngh a hậu hiện đại và những cái (cần) chết
trong văn học Việt Nam, nguồn: http://www.tienve.org
130. Trần Huyền Sâm (2015), Tính chất tự thuật trong tiểu thuyết nữ Việt Nam
đương đại, nguồn: http://www.vanghequandoi.vn.
131. Bùi Văn Nam Sơn (2014), Từ hậu - hiện đại đến hậu hậu - hiện đại trong tư
tưởng tôn giáo. Nguồn: http://triethoc.edu.vn
132. Bùi Văn Nam Sơn (2012), Triết học hậu hiện đại, nguồn:
www.phebinhvanhoc.com.
133. Trần Đình Sử (2013), Giải cấu trúc và phê bình văn học hôm nay, nguồn:
https://phebinhvanhoc.com.vn/giai-cau-truc-va-nghien-cuu-phe-binh-van-hoc-
hom-nay/
165
134. Trần Đình Sử (2014), Bước ngoặt diễn ngôn và sự đổi thay hệ hình nghiên cứu
văn học, nguồn: https://chumonglong.wordpress.com/2014/04/08/buoc-ngoat-
dien-ngon-va-su-doi-thay-he-hinh-nghien-cuu-van-hoc
135. Trần Đình Sử (2011), Thử tìm hiểu cái lí bên trong của nghệ thuật Nguyễn
Huy Thiệp, nguồn: https://lythuyetvanhoc.wordpress.com/
136. Đỗ Ngọc Thạch (2010-2011), Vài đặc điểm văn xuôi Việt Nam hiện đại,
nguồn: http://www.bichkhe.org
137. Nguyễn Thành (2012), Khuynh hướng lạ hóa trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại- một số bình diện tiêu biểu, nguồn:
http://www.phebinhvanhoc.com.vn
138. Bùi Việt Thắng (2012), Về dòng tiểu thuyết thân xác trong văn học Việt Nam
thập niên đầu thế kỉ XXI, nguồn: http://.www.tonvinhvanhoadoc.vn
139. Nguyễn Bích Thu, Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975,
nguồn: vannghequandoi.com.vn.
140. Hoàng Ngọc Tuấn (1998), Về cái mới trong tiểu thuyết thế kỷ XX, nguồn:
http://www.tienve.org
141. Trần Văn Toàn (2012), Về một diễn ngôn tính dục trong văn xuôi nghệ thuật
Việt Nam (từ đầu thế kỷ XX đến 1945), nguồn: http://nguvan.hnue.edu.vn.
142. Nguyễn Đình Tú (2013), Khuynh hướng tính dục trong sáng tác văn học gần
đây, nguồn: http://www.chungta.com
II. DANH MỤC TÀI LIỆU TIẾNG ANH
143. Andra Irbite (2014), The importance of the paradigm shift in the development
of design industry and design education, Proceeding of the International
Scientifical Conference May 23th – 24th, 2014 Volume II
144. Charles Kivunja và Bawa Kuyini (2017), Understanding and Applying
Research Paradigms in Educational Contexts, International Journal of Higher
Education, Vol. 6, No. 5; 2017
145. Fenwick W. English (2001), What paradigm shift? An interrogation of Kuhn's
idea of normalcy in the research practice of educational administration,
Journal, Theory and Practice, Volume 4, 2001 - Issue 1.
166
146. Jing Jing và Wenping Li (2020), Paradigm of Historiography, based on
Historical Methodology of Information, Journal of Physics: Conference Series,
Volume 1533.
147. Lynn McDonald (2007), Climate Change, Sociological Theory and Paradigm,
bài báo cho các cuộc họp của Hiệp hội Xã hội học Canada, 2007 nguồn:
https://www.justearth.net.
148. Marilene Loewen Wall, Telma Elisa Carraro (2009), Kuhn's revolutionary
theory and its influence on the construction of nursing knowledge, Rev Latino-
am Enfermagem 2009 maio-junho; 17(3):417-22, nguồn:
https://www.researchgate.net/.
149. Md Tabish Iqbal, International Journal of Research in Science & Engineering,
Volume: 1, Issue: 2, March-April 2015, page 121-126
150. Naathi Naresh Babu (2018), Paradigm shifts of novels in Indian English
writing, International jounal of English language, Literature in humanlitis,
Volume 6, Issue 6, June 2018.
151. Peter Sinclair (2015), Paradigm shifts in literature: Chaucer, Issue:
https://www.researchgate.net/publication/331731665.
152. Robert Simon, The morden, post morden and the fact of transition: The
paradigm shift through peninsular literatures, Journal of Physics: Conference
Series, Volume 1679.
153. Stephen Norris (2004), Thomas Kuhn’s Impact on Science Education: What
Lessons Can Be Learned? Sience Education Volume88, Issue1 January 2004,
Pages 90-118.
154. Trisilpa Boonkhachorn (2000), The development and trends of literary studies
in Thailand, Journal of Humaities 3.1.2000.
155. Wenping Li (2020), Paradigm of Historiography, Based on Historical
Methodology of Information, Journal of Physics: Conference Series 1533
(2020) 042079, nguồn: https://iopscience.iop.org.
167
DANH MỤC TIỂU THUYẾT ĐƯỢC KHẢO SÁT TRONG LUẬN ÁN
156. Tạ Duy Anh (2004), Lão Khổ, Thiên thần sám hối, Nxb Hội nhà văn.
157. Tạ Duy Anh (2016), Đi tìm nhân vật, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
158. Y Ban (2019), I’m đàn bà, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
159. Mạc Can (2004), Tấm ván phóng dao, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
160. Nguyễn Đình Chính (2008), Đêm thánh nhân, Nxb Văn học, Hà Nội.
161. Trần Dần (2018), Đêm núm sen, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
162. Trần Dần (2013), Những ng tư và những cột đèn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
163. Maguerite Duras, (2007), Người tình, NXB Hội nhà văn, Hà Nội
164. Châu Diên (2003), Người sông Mê, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
165. Vũ Đình Giang (2010), Bờ xám, Nxb Trẻ, tp Hồ Chí Minh.
166. Vũ Đình Giang (2010), Song song, Nxb Văn nghệ, tp Hồ Chí Minh.
167. Nguyễn Mộng Giác (2003), Sông Côn mùa lũ, Nxb Văn học, Hà Nội.
168. Nguyễn Việt Hà (2013), Cơ hội của Chúa, NxbTrẻ, tp Hồ Chí Minh.
169. Nguyễn Việt Hà (2013), Khải huyền muộn, NxbTrẻ, tp Hồ Chí Minh.
170. Nguyễn Việt Hà (2015), Ba ngôi của người, NxbTrẻ, tp Hồ Chí Minh.
171. Võ Thị Hảo (2005), Giàn thiêu, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
172. Phạm Thị Hoài (1989), Thiên sứ, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
173. Tô Hoài (2006), Ba người khác, Nxb Đà Nẵng.
174. Nguyễn Trí Huân (2003), Chim én bay, Nxb Quân đội nhân dân.
175. Dương Hướng (2004), Bến không chồng, Nxb Công an nhân dân.
176. Dương Thu Hương, Những thiên đường mù, nguồn: http://vnthuquan.net.
177. Keng (2008), Dị bản, Nxb Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh.
178. Nguyễn Khải (1989), Một cõi nhân gian bé tí, Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh.
179. Nguyễn Khải (1999), Tuyển tập tiểu thuyết Tập 2, Nxb Hội nhà văn.
180. Ma Văn Kháng (1999), Ngược dòng nước lũ, Nxb Hội nhà văn.
181. Ma Văn Kháng (2002), Đám cưới không có giấy giá thú, Nxb Văn học.
182. Nguyễn Xuân Khánh (2006), Mẫu thượng ngàn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
183. Nguyễn Xuân Khánh (2007), Hồ Quý Ly, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
184. Lý Lan (2008), Tiểu thuyết đàn bà, Nxb Văn nghệ.
168
185. Chu Lai (1992), Ăn mày d v ng, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
186. Linda Lê (2018), Sóng ngầm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
187. Linda Lê (2018), Vượt sóng, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
188. Bảo Ninh (2014), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Trẻ, Hà Nội.
189. Bích Ngân (2010), Thế giới xô lệch, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
190. Đoàn Minh Phượng (2007), Mưa ở kiếp sau, Nxb Văn học, Hà Nội.
191. Đoàn Minh Phượng (2007), Và khi tro bụi, Nxb Trẻ, tp Hồ Chí Minh.
192. Nguyễn Bình Phương (2004), Bả giời, Nxb Quân đội nhân dân.
193. Nguyễn Bình Phương (2014), Thoạt kỳ thủy, Nxb Trẻ, tp Hồ Chí Minh.
194. Nguyễn Bình Phương (2006), Người đi vắng, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
195. Nguyễn Bình Phương (2013), Ngồi, NxbTrẻ, Tp Hồ Chí Minh.
196. Nguyễn Bình Phương (2013), Những đứa trẻ chết già, NxbTrẻ, Tp Hồ Chí Minh.
197. Nguyễn Bình Phương (2015), Mình và họ, NxbTrẻ, Tp Hồ Chí Minh
198. Nguyễn Bình Phương (2006), Trí nhớ suy tàn, NXb Văn học, Hà Nội.
199. Hồ Anh Thái (2004), Cõi người rung chuông tận thế, Nxb Đà Nẵng.
200. Hồ Anh Thái (2004), Trong sương hồng hiện ra, Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ
đổi mới, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
201. Hồ Anh Thái (2005), Người và xe chạy dưới ánh trăng, Nxb Hội nhà văn.
202. Hồ Anh Thái (2005), Người đàn bà trên đảo, Nxb Phụ nữ.
203. Hồ Anh Thái (2007), Mười lẻ một đêm, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
204. Hồ Anh Thái (2007), Đức Phật, nàng Savitri và tôi, Nxb Đà Nẵng.
205. Đào Thắng (2004), Dòng sông mía, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
206. Đặng Thân (2011), 3.3.3.9 Những mảnh hồn trần, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
207. Nguyễn Ngọc Tư (2020), biên sử nước, Nxb Phụ nữ, Tp Hồ Chí Minh.
208. Nguyễn Ngọc Tư (2019), Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
209. Thuận (2005), Pari 11 - 08, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
210. Thuận (2017), T. mất tích, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
211. Thuận (2009), Chinatown, Nxb Văn học, Hà Nội.
212. Nguyễn Khắc Trường (2006), Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nxb Hội nhà văn.
213. Nguyễn Đình Tú (2014), Kín, Nxb Trẻ, tp Hồ Chí Minh.
169
214. Nguyễn Đình Tú (2014), Phiên bản, Nxb Trẻ, tp Hồ Chí Minh.
215. Uông Triều (2014), Tưởng tượng và dấu vết, Nxb Văn học, Hà Nội.
216. Khôi Vũ (2004), Lời nguyền hai trăm năm, Nxb Thanh niên, tp Hồ Chí Minh
170
PHỤ LỤC
BẢNG 3.1
Bộ ba Tôi - Thằng - Mày trong tiểu thuyết Những ngã tư và những cột
đèn của Trần Dần
VĂN BẢN TÔI THẰNG MÀY
- Thằng tàu bò, thằng - Mày còn là thằng-
dằn di, dâm ô đồi trụy vài - nghìn -thằng…
lạc, chỉ đớp rồi hít, giở Mày còn phải nếm
trò cao bồi ngụy quân thêm nhiều ngày
mất dạy nhiều tuần nhiều
- Thằng địch, thằng tay năm, Mày 23 năm
sai cho địch, rồi thằng đời dài, đời dài
gián hôi, thằng sát không phải để cho
Mãy thỏa mãn nhật Tr 69-70 nhân
kí, vả lại Mày còn
giá trị hơn chẳng
hạn con sâu đo - Tôi ạ, ai gọi mày
chẳng hạn con dòi, là ông và ai gọi mày
vả lại Mày còn là thằng, Tôi sẽ nói
thông minh hơn một adiđàbụt, Tôi sẽ
hạt bụi lạc đường. không nói xấu và
ngh xấu và cứ mong
an lành cho họ, ai
đánh Mày, Mày sẽ
tránh, Tôi sẽ nói
adiđàbụt, Tôi sẽ cứ
là người đứng cuối
cùng hạng ngôi thứ
xã hội không vì con
171
gà hơn nhau tiếng
gáy, không vì hơn
nhau một chút đau
thương…Tôi có mặt
giữa các ông để
khuyên bảo phụ nữ
nên nuôi trên mặt
đất tia khói mong
manh…
- Tôi thắng sắp chết.
Tôi thằng nhọ, thằng
dằn di. Tôi thằng bị
phạt, phải làm kiểm
điểm. Tôi thằng câu
Tr150 nhái. Tôi thằng iêu ảnh
truồng. Tôi thằng
nghiện trinh thám. Tôi
nhìn vào mặt thằng
trong gương. Trước
mặt tôi là thằng vợ bỏ.
Thằng một nghìn căn
cước. Thằng ăn bớt tờ
thú
172
BÀNG 3.2
Bộ ba Tôi - Thằng - Mày trong tiểu thuyết Những ngã tư và những cột
đèn của Trần Dần
VĂN BẢN TÔI SỌ BÓNG
Tr 61 5 giờ 00. Gà gáy te te
Tôi là thằng- bị- trong xóm. Tôi mệt. Sọ
ngờ. tôi làm việc, suốt một
đêm trắng đến chán
phèèè, mà không ra cái
gì, chỉ thấy một mớ lộn
xộn, những toan tính u
ám
-Tôi hỏi sọ tôi. Sọ nói,
cứ liệt kê tội, ra xem
sao…Nhưng xem chừng
bản đồ tội vẫn nhẹ quá.
Sọ bảo tôi, thì vạch thêm
bản đồ bụng, rồi ruột,
gan, mề bên trong ra. Sọ Tr 144
muốn dung hòa giữa tôi
và ông Trung trố.
Sọ bảo cứ bình t nh thú
thật hết, thú thật thì nhẹ
Tôi chỉ còn một tội, thú thật thì đỡ bị
cách, tuyệt người đời gh t…
vọng…Tôi phải ngồi -Tôi hỏi sọ tôi, ai đưa tôi
lý luận một mình…I đến cảnh này Sọ một lúc
như trong thánh sau nói, là thằng Tình
kinh: tôi băn khoăn Bốp…Tôi hỏi sọ, tại sao
m i. Và cũng i như Tình Bốp lại chơi tôi cú
trong thánh kinh: chết người này. Sọ
trong tôi vẫn còn sót không nói gì
173
145 lại, một hạt lương
tâm bé nhỏ.
-Tôi còn ngh , lương
tâm nếu không trừng
phạt được tôi, sẽ bỏ
đi. Mất lương tâm,
tôi sẽ thành con vật.
146 Còn tồi tệ hơn
-Tôi thấy tôi xấu xí
quá. Tôi chơi ảnh -Tôi đến trước
truồng, tôi ngốn gương, nhòm vào
trinh thám, tôi chụp cái bóng mặt tôi,
147 ảnh nghệ thuật em thấy cũng xấu xí,
Cốm, là nghệ thuật làm tôi chỉ muốn
dằn di. Tôi bất mãn, cho một quả đấm.
với khu phố, tôi đi Cuối cùng không
câu nhái, để chiều hiểu sao, tôi chìa
tính lêu lổng, sợ đi tay, để bắt tay, với
làm, sợ bó buộc. Tôi bóng…
thích xác thịt, tôi
thích rượu, và thích
uống, cho đến say,
cho đến buồn ngủ.
Tôi thấy tôi lộ toàn
bộ, là bản chất
thằng lính tàu bò
không thay đồi.
-Tôi làm việc với sọ. Tôi - Bóng tôi xa xa,
đọc lại tờ thú…Sọ khen trong gương, đang
tôi, thế là tốt. nhìn tôi, chăm chú.
- Sọ khen tôi giả vờ giỏi,
Tr 157 làm sọ lúc nãy tưởng
thật. Tôi nói, tôi học
174
được cách đóng kịch, từ
lũ bạn tôi.
Sọ tôi bảo, lại lưỡng lự Tôi cười vào mặt
- Cuộc đến thăm rồi, nhưng mà theo nó, sọ, tôi ra soi
Tr 158 sáng nay của Tình khéo thành Việt gian gương. Tôi thấy,
Bốp, đúng là có vấn cái bóng tôi hồi lâu
Tr159 đề…Không nghe thần thờ, quả là tôi
theo nó, không đến không có tướng
được vườn hoa phồn làm Việt gian thật.
vinh thì tôi ngu. -Trong sọ tôi có một góc -
toàn đồng nát, cứ đầy
mãi, những vấn đề gác
lại
Tr192 Tôi cũng thích bộ
quần áo xanh công
nhân, cái mu catket
xanh công nhân.
Trước khi ra khỏi
nhà buổi sáng lúc
rạng đông, tôi đều
ra trước gương, để
nhìn bóng tôi trong
gương. Bốn mắt
nhìn nhau dứt
không ra. Sáng nay
cũng vậy, tôi ngắm
cái mặt tôi ngổ
ngáo hồi lâu.
Tr 198 …tôi ghi nhật kí hộ
3 đêm sẽ đến sau,
cho cả bộ ba thường
xuyên chúng tôi
nữa. Tôi nói với họ:
175
bình tĩnh sọ tôi ạ,
bình tĩnh bóng tôi ạ.
Chúng mình cùng
thông cảm, vì không
thể không thông
cảm cho nhau. Tôi
đã cố gắng đi tu,
trong xó nhà, trong
công việc, trong
nghi ngờ. Nhưng
đúng là tôi gặp vấn
đề thật, nghi ngờ
thật. Chỉ cần nhìn
vào mắt người đời,
là tôi hiểu…Bình
tĩnh lại, sọ tôi ạ. Tôi
bình tĩnh rồi.
Tôi nhìn bóng
trong gương. Mắt
bóng buồn
tề…động đậy, đục
200 ngầu, đa nghi,
Tôi và sọ chỉ còn mỗi không mê được.
cách thông cảm. Sọ tôi
bình tĩnh, sọ bảo tôi dẫu
ỏ tù, vẫn tu được, tu cho
qua hết kiếp tù, chưa đi
tù được thì tu cho qua
nghi ngờ, hết nghi ngờ.
Thế là tôi an ủi cái
2002 bóng tôi buồn,
trong gương. Tôi
chỉ cho bóng tôi,
176
trên bản đồ miền
Bắc, nơi gieo, nơi
cấy, nơi gặt…Tôi
chỉ cho bóng tôi,
trên trang một các
tờ nhật báo…Bóng
tôi bảo, tôi chỉ là
một cái gì, còn nhỏ
hơn hạt bụi, dễ bỏ
quên…Tôi thấy
bóng nói đúng lắm
Năm nay tôi không Sọ tôi bào mấy ai đi
ra phố, vô tư như ngược được quyển lịch.
năm trước. Năm nay Tôi đồng í: mỗi ngày của
tôi là thằng đi đêm, nhật kí phải đóng khung,
trong thế giới đầy trong 24 giờ riêng biệt,
ánh sáng. Trời sáng để mỗi ngày trọn vẹn
bạch, tôi và sọ tôi và một tờ lịch…Sọ cũng
bóng tôi, cả ba vẫn bảo tôi: để bây giờ chỉ là
đi dêm bây giờ, không thể là
hôm qua.
Tôi rót thêm rượu, để 227
che kín, mấy í nghic
trong sọ.
243 Bây giờ là 1 giờ 30
chiều mùa đông,
tôi cởi ảo dạ trước
gương. Bóng tôi
Sọ tôi nói: “Đào kỉ vật mặt chỗ đỏ, chỗ
lên, đếch là cái gì thì tẽn trắng, là cái mặt
đang hả rượu tò”.
Gói kỉ vật sặc mùi
kỉ niệm, sặc mùi
177
quyển lịch hết hạn,
Tôi mặc kệ. mùi nhớ, mùi năm
ngoái, mùi hè năm
ngoái. Bóng tôi
trong gương chợt
Sọ rôi nói: “Lãng mạn”. buồn.
Rồi sọ bỏ đi, chơi một Tôi ngồi lại với
mình. bóng trong đống kỉ
niệm. Hai đứa chơi
với nhau. Nom
bóng lãng mạn
quá, mặt như con
bú dù.
263 …Ông Trung trố Nhưng sau đó rôi sống
nhổ toẹt vào tất cả, lại, vì sọ gọi tôi dậy.
mọi công sức lao
động của tôi. Không
đi làm ông bảo tôi
có sức khỏe, mà dối
trá. Đi làm, ông kết
án tôi đóng kịch. Tôi
ngồi chết lặng bên
món Bốc Mả của
Ngỡi, chả thiết bốc
thêm gì nữa.
Tr274 Tôi đưa tay lên sọ. Tôi giẫm cái bóng
Không phải vì đau đầu. của tôi. Bóng tôi
Tôi lại dừng chân bên đêm nay lúc nào
một ngã tư: tôi rụt rè cũng im. Không
không định rẽ ngã nào. qua ngã tư: bóng
Biết đâu rẽ ngã tư kia tôi im. Tôi qua ngã tư:
không găp gió độc…Tôi bóng im. Rẽ ngả
đư tay lên sọ. Tôi đứng nào bóng cũng im.
178
Tôi đi thấu sáng. Tôi im: hình như giữa một
Tr 275 đi mãi ngoài phố mà ngã tư. Tôi không có cả
chẳng gặp ai… một ai để bắt chước….
Nhưng tại sao tôi cứ
ám ảnh mãi ngã tư
ấy. Tôi không quên
được. Đi đi không
được. Tôi ngồi bệt lề
đường. Tôi là đàn
ông: tôi không đau
khổ. Nhưng tôi
muốn khóc. Tôi là
đàn ông: tôi không
khóc. Nhưng tôi đau
khổ lắm
Tr288 Tôi lí sự, nếu chúng
muốn giết tôi, chúng
thiếu gì cách. Sọ tôi nói,
phải bắt đầu lại, từ sự
kiện tối qua để phán
đoán hôm nay và ngày
mai…Tôi thấy sọ có lí.
303 Tôi vào phố Hàng Sọ tôi thấy vậy mới hỏi:
Quạt. Nhưng không “Làm sao thế?”. Tôi
nhìn phố. Mắt tôi không đáp. Sọ hỏi tiếp:
lúc này quay vào “Thương thân à?” Tôi
bên trong. Quay vào nói, có tội phạm đâu, mà
bên trong cũng thương thân….
không thấy gì
326 Tôi chui ra khỏi Sọ tôi thấy việc vừa làm
thòng lọng…Tôi lạ lắm, cứ hỏi thế là thế
xếp bàn và ghế, về nào. Tôi nói, đùa thế
chỗ cũ. thôi, để biết mùi cái chết
179
BẢNG 4.1
Cốt truyện trong một số tiểu thuyết viết về chiến tranh 1945-1975
TRÌNH TỰ KHÁI TÁC PHẨM CÔT TRUYỆN QUÁT
- Thắt nút: Trước khi đồng khởi, Thắm và
nhân dân Hòa Thanh đau thương, mất mát
trong biết bao hy sinh, căm hận
Đất Quảng - Phát triển: Thắm lãnh đạo nhân dân gây
dựng phong trào, đứng lên dồng khởi
- Cao trào: lực lượng lớn mạnh, Thắm trở
thành bí thư chi bộ Gây dựng phong
- Mở nút: Nhân dân quyết đánh và phong trào trào, chuẩn bị chiến
đấu tranh giành thắng lợi. dịch
- Thắt nút : chuẩn bị chống càn (chị Sứ nhận
được thư chồng, Ngạn, Tới, Trọng bắt vợ
chồng Ba phi)
- Phát triển: Chống càn, rút vô hang Hòn
Hòn Đất - Cao trào: Cuộc chiến đấu trong hang Hòn
(nhiều người hy sinh, Chị Sứ bị giết...)
Mở nút: Phá vòng vây của địch. -
- Thắt nút: Cuộc hành quân ra chiến trường
vùng miền Tây Quảng Trị, cứ điểm Khe
Sanh. Lực lượng lớn mạnh
Dấu chân - Phát triển: Tập kết lực lượng, quan sát
người lính cách phòng bị của địch, chuẩn bị chiến đấu.
- Cao trào: Chiến dịch bắt đầu, Phán bắt
được tù binh, chuyện tình Xiêm - Lượng,
cuộc chiến trên đài trinh sát, chuyện Lữ và
180
Hiền, Lượng bị thương, tình yêu của Nết với
Lượng, Lữ hy sinh Vượt qua mọi mất
- Mở nút: Cuộc hành quân “Ngựa bay” của mát để thực hiện
địch hoàn toàn thất bại, không khí chiến nhiệm vụ
thắng tràn ngập khắp thung lũng.
- Thắt nút: Phong trào cách mạng sau đồng
khởi, trước nhiều thử thách, bắt liên lạc gây
dựng phong trào
- Phát triển: Phong trào cách mạng được gây
Gia đình má dựng (khởi nghĩa ở Kỳ Lâm, Kỳ Bường...) Chiến thắng, hoàn
bảy - Cao trào: Nhân dân vùng lên làm chủ chính thành nhiệm vụ,
quyền chuẩn bị cho một
- Mở nút: Chống chiến tranh đặc biệt của cuộc đấu tranh mới
Mỹ, Ngụy, đẩy lùi cuộc đổ bộ của Mỹ, Ngụy.
- Thắt nút: Phong trào du kích làng Cá trước
nhiều khó khăn, thử thách
Mẫn và tôi - Phát triển: Quân dân phối hợp thủ thách
- Cao trào: Đấu tranh nội bộ để củng cố và
xây dựng lực lượng, chống chiến tranh cục
bộ của Mỹ, Ngụy.
- Mở nút: chiến thắng
181
BẢNG 4.2
Khảo sát “những câu chuyện tôi đọc”- “những câu chuyện về tôi” trong Tưởng
tượng và dấu vết của Uông Triều.
STT TẦN SUẤT XUẤT HIỆN SỰ Đ N XEN VỚI NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ “TÔI” NHỮNG CÂU CHUYỆN “TÔI” ĐỌC
1 Cuốn sách số 32: 1 - Bây giờ thì tôi không thể đứng
[tr.13-16]
Câu chuyện về cô gái điếm tên Thư chất vấn lên được nữa…Chân tôi đ khuỵu xuống, teo đi và mất hết sự sống.
những kẻ đàn ông sỉ Tôi chỉ ngồi yên một chỗ và ngước
nhục cô rằng ai dám nhìn mọi người…Tôi đ ngủ với cô
đứng lên thừa nhận đã ta mười tám lần cả thảy…
quan hệ với cô (F3) - …Chiếc túi mày vàng chanh quai
đỏ.
- Anh có biết trong túi có gì
không? - Ba miếng pha lê màu xanh
Người đàn ông lồng bóng với tôi, cô
gái điểm lồng bóng với cô gái có
chiếc túi vàng chanh quai đỏ vẫn
thường xuyên đến gặp „tôi” (F1)
Cuốn sách thứ 39 1 -Cha mẹ mi đ chán ngấy mi, họ
Cuộc tranh luận và [tr.20-23] đang phải nuôi đứa con gần như
vô dụng. Họ mua cho mi những đánh nhau giữa hai
quyển sách để ru ngủ ngươi…. -Gã không ngờ chàng trai ra đòn 2 người đàn ông. “Chàng” bị bóp dái
đến mức gần như bị hủy hoại. (F3)
nhanh đến thế. Một thằng chỉ biết ngồi một chỗ và tưởng tượng những cái lưng mềm mại, những bầu vú xóc nảy lên sau làn áo mỏng lại ra được một cú đòn
nhanh nhẹn…
Chàng trai trùng khít với “tôi” (F1)
182
Cuốn sách thứ 42 1 Hay bởi vì anh cứ ngồi một chỗ
Câu chuyện P nghi [tr.46-50] miên man mà tưởng tượng ra tất
hoặc có ai đó xâm cả?... Anh đang mơ mộng, không 3
nhập vào phòng mình với một mùi lạ, nhưng phải, anh chưa bao giờ trở thành nhà văn, dù đó là mơ ước của anh,
cuối cùng đó là mùi được cất ở một nơi rất sâu trong
của anh (F3) tiềm thức.
Anh lồng bóng tôi (F1)
Cuốn sách thứ 47 1 [tr.77-80] -Anh ngh đến miếng pha lê xanh thứ hai bạn gái đ tặng anh…bằng
sống của một
Câu chuyện về mối mạng con người…Cô em gái nhỏ của cô 4
tình của anh và cô, chưa thấy cô về đạ tự ý ra bờ
miếng pha lê xanh và giếng múc nước, lộn cổ xuống
kí ức về cái chết của giếng và chết ở dưới đấy.
em gái nhỏ (F2) -Mỗi khi chạm vào cô, anh lại thấy
cái bóng phập phồng của em vé
nằm trong lồng giếng. Anh không
thể nói những lời yêu thương được
nữa, cuốn tiểu thuyết mãi dang
dở…
Lồng bóng cô gái – Miên, cô em
gái nhỏ- em gái Miên và anh mang
những ám ảnh của “tôi”. (F2)
thứ 63:
Cuốn sách Mùi của quá khứ 1 [157-159] Ám ảnh đến thân phận, mối quan hệ thật sự trong gia đình của “tôi”
5
Câu chuyện về “mùi” của quá khứ và cuộc đời cô đơn, bị cha mẹ xa lánh trong gia đình của “đứa bé”
(F3)
183
Cuốn sách thứ 64 1 Ám ảnh đến thân phận cô đơn, nhỏ
6 Câu chuyện đối thoại [tr.180-181] bé, dễ tổn thương của “tôi” trước
mùa đông của hai con dế mèn
ốm và mập trước khi
mùa đông về (F3)
2 Cuốn sách thứ 65 - Người đàn ông ng sấp
[tr.192-195] mặt…một chiếc răng rụng ra, máu
Câu chuyện về người chảy ròng ròng… (F3)- Miệng và
phụ nữ ngoại tình với mũi bố tôi dính máu…bố bắt được
cái cây, bị người & [tr.217-220] mẹ con đang ngoại tình. Kẻ đó ra
chồng bắt quả tang và tay trước… (F1)
xung đột sau đó (F3) - Người đàn ông vội nhìn xuống
7 chân, một cái rễ cây bằng ngón tay
đang trùn lên khỏi nền xi măng
rắn chắc. Cái rễ trườn ra…ngo
ngoe như một cái đuôi rắn trên
sàn nhà. (F3)- Bố tôi đã rời khỏi
nhà và có thể sẽ không bao giờ
quay trở về, chồi lên giữa sàn nhà
một cái rễ cây to bằng cổ tay, cao
vút, mẹ mỗi lần đi qua đều vuốt
vào nó…(F1)
Trùng khớp đến mối quan hệ hôn
nhân căng thẳng của ba mẹ trong
gia đình của “tôi”
184
BẢNG 4.3
Khảo sát thủ pháp cắt dán từ phần 20 - 40 tiểu thuyết 3.3.3.9 [những mảnh hồn
trần] của Đặng Thân
STT NỘI DUNG TRANG PHẦN LĨNH VỰC
1 Người Do thái 214-216 20 Dân tộc học
KIỂU LOẠI VĂN BẢN, NGUỒN Kể chuyện/thuyết minh Thuyết minh 2 217-220 20 Tôn giáo
3 220-222 20 Tôn giáo Thống kê
4 5 6 228-230 231-233 233- 236 21 22 22 Tôn giáo
7 240-241 23 Tín ngưỡng Lá số tử vi Địa lý/ lịch sử Thuyết minh Kể chuyện/ thuyết minh Thơ Văn chương
8 Giáo hoàng Joseph Alois Ratzinger Những tiên tri về các giáo của hoàng Thánh Malachy Tử vi người tuổi Tí Nước Đức Cơ Đốc giáo và Vatican Thơ: Sáng xuân nay lông chim bay ngoài cửa sổ Hồi giáo 257-258 26 Tôn giáo
Thuyết minh. Nguồn: http://vi.wikipe dia.org Thơ
Văn chương Địa lý/ lịch sử Thuyết minh
9 10 11 263 264-265 274-275 26 27 27 Tiểu sử Tiểu sử
Thơ: Whose Eyes? Thâm Quyến John Locke tiểu sử và đấu tranh cho nữ quyền
12 Chế độ đa thê trong 277 27 Tôn giáo
pháp luật hồi giáo
Bài viết, nguồn: http:/ www.darulsafa .com/Islamic_ Law...
185
13 Nữ quyền 278-279 29 Xã hội học Nghiên cứu
khoa học
14 Đường đi của màng 286 29 Báo chí Báo Khoa học
& đời sống trinh Made in China
15 Thỉnh hoàn vật 287 29 Khảo cổ học/ Văn bản chữ
Giai thoại Hán dương vật ác nhị
lich sử Nguồn:http://w động biểu của vua
ww.hungsuviet Lý Nhân Tông
.us/lichsu/ngoa
igiaodoidatthoi
Ly.html
16 Sứ thần Lê Văn 288 29 Giai thoại Giai thoại
Thịnh đối đáp vua lịch sử
Tống
17 Thống kê về cường 297 30 Thống kê
Báo chí độ làm tình của các
thành phố của tạp
chí Forbes
18 Hong Kong 306-307 32
Vạn Lý Trường 307-
Thành Địa lý/ Lịch Thuyết minh 308
Thập Tam Lăng 308-309 sử
Thiên đàn 310
Thượng Hải 311
Trùng Khánh
19 311 32 Văn chương Thơ dịch
Thơ: Dương Châu giả: (Tác mạn Khương Quỳ) Lầu Hoàng Hạc (Thôi Hiệu)
186
20 Nhà tiên 317-323 32 Kể chuyện/ tri
thuyết minh và Nostradamus
những sấm truyền:
sấm truyền về
Hitler, về sự kiện vụ
khủng bố
11/9/2001,về cái
chết của côn nườn
Diana
21 Hồi giáo 323-324 Tôn giáo Bình luận 32
22 Chủ ngh a Đa Đa 326 Văn chương Kể chuyện/ 32
thuyết minh
23 Bài Giun ca (Văn 335 33 Văn chương Thơ
Hiệp)
24 Trạng Trình Nguyễn 345-348 35 Giai thoại Tiểu sử và giai
Bỉnh Khiêm thoại
25 Sấm Trạng Trình 348-349 35 Lịch sử/ giai Đặc san Quang
(TS Thái Văn Kiểm) thoại Trung Tây Sơn
xuân Bính Tý
1996
26 Đội bóng Arsenal và 354-355 36 Thể thao Kể chuyện/
thuyết minh Bergkamp
27 Bài thơ ngũ sở 363-365 37 Văn chương Thơ
trường
371-374 38 Tiểu sử Tiểu sử Siemens 28
382 38 Y tế 29 Bệnh ung thư
388-390 39 Nhân học Bản thống kê 30 Max người
40 31 Những cái chết lãng Tội phạm Trích dẫn bản
xẹt do FBI cung cấp tin tội phạm
187
BẢNG 4.4
Khảo sát các đường link trong 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] của Đặng Thân
STT LINK LIÊN KẾT TRANG CHỦ ĐỀ
■ http://www11.dantri.com.vn/chuyenla/2006/8/140
704.vip
■ http://www11.dantri.com.vn/chuyenla/Kinh-ngac-
chuyen-dau-thai/2008/4/228714.vip
■http://www.chungta.com.vn/Desktop.aspx/Chung Đầu thai
Ta-SuyNgam/Con- chuyển kiếp
Nguoi/Co_hay_khong_kiep_luan_hoi/
1 ■http://www.vietbao.vn/Khoa-hoc/Hien-tuong-dau- 17
thai-Bi-an-cua-khoc-hoc-hien-dai/45157374/188/
■http://www.tusach.vietnhim.com/showthread.php?
t=228
■http://www.vietbao.vn/Khoa-hoc/Hien-tuong-dau-
thai-Bi-an-cua-khoc-hoc-hien-dai/45157374/188/
■http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/sto
ry/2007/09/070901_lama_china_rules.shtml
■http://www.abc.net.au/ra/bayvut/baivo/s1988314.
htm
■http://www.caodaism.org/CaoDaiTuDien/dd/dd1-
158.htm
■http://www.jswami.info/past_lives_sukla
■http://www.ial.goldthread.com
■http://www.beyondrelihgion.com/su_personal/rein
carnation-index.htm
2 http://vietbao.vn/The-giơi/Them- mot-trương-hop- 19 Đầu thai
dau-thai-o-Anh/65078280 chuyển kiếp
188
3 http://www.tamlinh.net/kho-tin/khotin7.html 30 Đầu thai
chuyển kiếp
http://www.ial.goldthread.com Đầu thai
4 chuyển kiếp
Muốn gh thăm các thắng cảnh ở đây bạn hãy truy
cập vào trang này: 178 Phố
5 http://www.aanaustriaattraction.com/austria- Salzburger
attraction Vorstadt
185
Trong số 50 cuốn sá được trích dẫn nhiều nhất trong thế kỷ XX thì số đầu sách của người Do Thái
6 chiếm đến 42%! Không tin ư, thì kính mời các quý Người Do
bạn hãy vào xem trong danh sách này nhé: Thái
http:/www.jinfo.org/Most_cited_H_A.html
Còn bây giờ thì bạn có thể đọc tham khảo chút ít
257 như sau:
Hồi giáo 7 Nguồn:
https://www.wikipedia.org/wiki/H%El%BB%93i_gi
%C3%Alo
Nguồn: Ngoại giao
https://www.hungsuviet.us/lichsu/Ngoaigiaodoidatt 8 287 đối đáp thời
hoiLy.htm Lý Nhân
Tông
Theo nguồn từ từ điển mở Wikipedia (link:
https://en.wikipedia.org/wiki/Missionary_position), 9 292 Tình dục
thì tư thế này được người Châu Âu gọi là tư thế nhà truyền giáo
10 312 Game thủ tự
sự
Hai tác giả làm tôi nhớ đến nàng Mạnh Khương nổi tiếng có chồng chết thảm trong khi làm lai dịch xây Vạn Lý Trường Thành. Bài viết có tựa đề vô cùng xao xuyến: Xanh ngắt liễu Dương Châu . Ai quan tâm đến vẫn có thể đọc được bài này tại
https://www6.thanhnien.com.vn/CNTT/2006/1/20/1 36327.tno
189
…và đặc biệt sau khi đọc xong một bài báo có tựa
11 đề Trèo núi tiêu diệt các tế bào n o trên tạp chí 439
Scientific American. Bạn có thể tìm thấy bài này tại Leo núi
đây: https://www.sciam.com/article.cfm?id=brain-
cell-into-thi-air
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_Cao
12 https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0u_H%E1% 454 Âm nhạc
BB%AFu_Ph%C6%B0%E1%BB%9Bc
…Thế đ đọc bài Tỷ phú 4 lần vào tù trên
13 Vnexpress chưa? Tôi thấy ông ta dẫn tôi đến bên
máy vi tính, bật lên và chỉ cho tôi bài báo ấy tại Pháp luật
https://www.vnexpress.net/GL/Phap-
luat/2005/02/3B9DB78E/
Bài phỏng vấn còn lưu lại ở các đường link sau:
Phỏng vấn http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=
Đặng Thân về 14 13190&rb=0102
http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID 495 chủ nghìa hậu
hiện đại trong =4468
văn chương http://www.vietvan.vn/vi/bvct/id446/Dang-Than-
Hau-hien-dai---Can-no-thi-no-den
Vấn đề cực hot này trên văn đàn và các hoạt
15 dộng nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay thì có tài liệu 589
Đồng tính sau đây:
luyến ái Nguồn:
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%9
3ng_t%C3A...
190