BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI ----------

NGUYỄN THỊ THANH HƢƠNG

NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG VĂN XUÔI

THIẾU NHI VIỆT NAM

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam

Mã số : 62.22.01.21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. Lã Thị Bắc Lý

2. PGS. Nguyễn Văn Long

HÀ NỘI - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân tôi.

Các số liệu trong luận án và kết quả nghiên cứu đều trung thực, chưa từng được

công bố trong bất kì công trình khoa học nào khác.

Tác giả

Nguyễn Thị Thanh Hƣơng

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................... 1

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 2

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 2

4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 3

5. Những đóng góp mới của luận án ............................................................................... 4

6. Bố cục của luận án ....................................................................................................... 4

Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .................................................. 5

1.1. Những vấn đề chung về Văn học thiếu nhi và nhân vật trẻ em ................................ 5

1.1.1. Về cách hiểu Văn học thiếu nhi ............................................................................ 5

1.1.2. Đặc trưng cơ bản của Văn học thiếu nhi ............................................................ 10

1.1.3. Sự hình thành và vận động của truyện thiếu nhi Việt Nam ................................. 11

1.1.4. Về khái niệm “Trẻ em” ........................................................................................ 14

1.1.5. Nhân vật trẻ em ................................................................................................... 16

1.2. Lịch sử nghiên cứu ................................................................................................. 24

1.2.1. Vài nét về nghiên cứu nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi nước ngoài ......... 24

1.2.2. Tình hình nghiên cứu nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam ............. 26

Chƣơng 2. NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG TRUYỆN THIẾU NHI VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN TỪ 1945 ĐẾN 1975 ............................................................................... 33

2.1. Những nhân tố tác động đến việc xây dựng nhân vật trẻ em ................................. 33

2.1.1. Bối cảnh xã hội, văn hóa ..................................................................................... 33

2.1.2. Bối cảnh Văn học thiếu nhi ................................................................................. 36

2.1.3. Nhân vật trẻ em trong truyện trước Cách mạng tháng Tám – tiền đề tạo dựng

hình tượng nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi 1945-1975 ..................................... 37

2.1.4. Quan niệm của nhà văn về trẻ em ....................................................................... 42

2.2. Các kiểu loại nhân vật trẻ em giai đoạn 1945-1975 ............................................... 44

2.2.1. Nhân vật chiến sĩ nhỏ tuổi trong chiến đấu ......................................................... 44

2.2.2. Nhân vật công dân nhỏ tuổi trong sinh hoạt đời thường .................................... 52

2.2.3. Nhân vật như tấm gương (nhân vật nêu gương) ................................................. 59

2.2.4. Nhân vật trẻ em bị ruồng bỏ ................................................................................ 63

2.2.5. Nhân vật trẻ em hồn nhiên, mơ mộng .................................................................. 70

2.3. Một số đặc điểm nghệ thuật xây dựng nhân vật trẻ em trong truyện

thiếu nhi Việt Nam giai đoạn 1945-1975 ...................................................................... 78

2.3.1. Xây dựng nhân vật trẻ em theo hình mẫu người lớn thu nhỏ .............................. 78

2.3.2. Ngôn ngữ nhân vật trẻ em đậm dấu ấn diễn ngôn thời đại ................................. 83

2.3.3. Cá thể hóa trong xây dựng nhân vật trẻ em ở Văn học thiếu nhi

miền Nam 1954-1975 .................................................................................................... 88

Tiểu kết .......................................................................................................................... 91

Chƣơng 3. NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG TRUYỆN THIẾU NHI VIỆT NAM

TỪ SAU 1975 ĐẾN NAY ........................................................................................... 92

3.1. Những yếu tố tác động đến sự thể hiện nhân vật trẻ em ........................................ 92

3.1.1. Những thay đổi về văn hóa, xã hội ...................................................................... 92

3.1.2. Sự gia tăng lực lượng sáng tác cho thiếu nhi và ảnh hưởng của văn học dịch

thời hiện đại ................................................................................................................... 93

3.1.3. Những thành tựu của ngành tâm lý học trẻ em ................................................... 95

3.1.4. Cái nhìn mới của nhà văn về trẻ thơ ................................................................... 96

3.2. Các kiểu loại nhân vật trẻ em sau 1975 .................................................................. 97

3.2.1. Nhân vật nạn nhân ............................................................................................... 97

3.2.2. Nhân vật trẻ em trải nghiệm .............................................................................. 109

3.2.3. Nhân vật trẻ em hồn nhiên nhi nhiên ................................................................ 113

3.2.4. Nhân vật trẻ em với những xúc cảm đầu đời ..................................................... 122

3.2.5. Nhân vật trẻ em anh hùng lãng mạn ................................................................. 126

3.3. Những đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi

sau 1975 ....................................................................................................................... 130

3.3.1. Miêu tả nhân vật trẻ em trên nhiều bình diện, gắn bó, gần gũi với tuổi thơ ..... 130

3.3.2. Những nỗ lực trong tạo dựng hệ ngôn ngữ trẻ thơ ........................................... 136

Tiểu kết ........................................................................................................................ 147

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 148

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ............................................... 151

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 152

DANH MỤC TÁC PHẨM KHẢO SÁT .................................................................. 168

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Nền văn học của một dân tộc được cấu thành từ nhiều bộ phận, trong đó

Văn học thiếu nhi là mảnh ghép tuy nhỏ bé nhưng không kém phần quan trọng, góp

phần làm nên diện mạo bức tranh văn học. Bắt rễ từ cội nguồn văn hóa dân gian,

sáng tác Văn học thiếu nhi là bầu sữa tinh thần nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ. Nó giữ

vai trò trọng yếu trong việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ trước và ngay sau

tuổi đến trường.

Từ sự ra đời của loạt sách “Livre du petit” ở miền Bắc Việt Nam vào những

năm đầu thập kỉ 40 của thế kỷ XX, đến nay, Văn học thiếu nhi Việt Nam đã có những

bước phát triển mạnh mẽ với đội ngũ tác giả đông đảo và nhiều tác phẩm giá trị. Sự

vận động, phát triển của Văn học thiếu nhi khúc xạ, phản chiếu sự vận động, biến đổi

quan niệm về con người và văn chương qua mỗi giai đoạn lịch sử văn học. Tuy nhiên,

nghiên cứu về bộ phận văn học này vẫn còn nhiều khoảng trống. Thực hiện đề tài

Nhân vật trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt Nam, chúng tôi muốn góp phần khẳng

định vai trò của Văn học thiếu nhi cả trên phương diện lí luận và thực tiễn.

1.2. Nói đến văn xuôi, không thể không nhắc đến nhân vật. Dù là thiên nhiên

hay con người, dù vô tri hay hữu tri, nhân vật trong văn xuôi cũng là “vai chính” trên

sân khấu văn học, là nơi kết tinh tư tưởng và tài năng sáng tạo của nhà văn.

Với văn xuôi thiếu nhi, nhân vật trẻ em là “trung tâm điểm” của bộ phận văn

học này. Qua nhân vật trẻ em, có thể nhận diện được diện mạo cũng như đặc trưng tư

duy thẩm mĩ của của từng thời kì văn học đồng thời khai phá được sự vi diệu trong thế

giới trẻ thơ. Vừa tồn tại với những bản tính tự nhiên, đặc thù, sống động của trẻ thơ, lại

vừa ẩn chứa cái nhìn nghệ thuật riêng của tác giả cũng như quan niệm của một giai

đoạn văn học, thế giới nhân vật trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt Nam mang trong

mình đặc tính kép. Phục dựng, kiến giải chân dung nhân vật trẻ em trong văn xuôi

thiếu nhi, qua đó phân tích và cắt nghĩa sự vận động, biến đổi của cái nhìn nghệ thuật

cũng như cách tiếp cận trẻ thơ của mỗi giai đoạn văn học bị chế định bởi điều kiện lịch

sử- văn hóa- xã hội đặc thù là một trong những hứng thú và động lực đưa chúng tôi

đến với đề tài Nhân vật trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt Nam.

2

1.3. Cuộc sống hiện đại với vô vàn rào cản ngăn cách mối tương giao giữa con

người với con người, đặc biệt là giữa thế hệ trước với thế hệ sau. Trẻ em thời hiện đại

đã không còn giống với cha anh. Cuộc sống của chúng ngày một khác trước, tâm sinh

lí cũng có nhiều thay đổi. Hơn thế, bản thân mỗi đứa trẻ đã là một thế giới luôn luôn

biến động, khó nắm bắt. Trẻ em không phải là một người lớn thu nhỏ. Đề tài Nhân vật

trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt Nam, vì thế, còn mang tính thời sự nóng hổi,

hướng tới nhu cầu giải quyết những vấn đề thực tiễn của đời sống đương đại, với hy

vọng là một nhịp cầu dẫn vào thế giới trẻ thơ để hiểu và có ứng xử thích hợp với

những công dân tương lai của đất nước.

2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là nhân vật trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt

Nam qua hai giai đoạn lớn của văn học từ năm 1945 đến năm 1975 và sau năm 1975.

2.2. Phạm vi nghiên cứu: Văn xuôi thiếu nhi gồm Truyện thiếu nhi và kí thiếu nhi.

Tuy nhiên, tiểu loại kí thiếu nhi chưa có nhiều thành tựu cho nên, luận án tập trung

khảo sát nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam.

Do khối lượng tác phẩm nhiều, cho nên chúng tôi lựa chọn tư liệu phục vụ mục

đích nghiên cứu của đề tài là các tiểu thuyết, truyện ngắn và tự truyện viết cho thiếu

nhi từ năm 1945 đến nay, đặc biệt, tập trung vào một số sáng tác tiêu biểu, có giá trị và

chứa đựng nhiều yếu tố mang tính cách tân.

Từ sau năm 1990, Văn học thiếu nhi Việt Nam bắt đầu xuất hiện truyện do

thiếu nhi viết, điển hình như trường hợp Nguyễn Bình hay những cây bút tuổi teen.

Đây cũng là những sáng tác nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài và đó là lí do vì

sao chúng tôi lựa chọn tên luận án là: “Nhân vật trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt

Nam”. Cụm từ “Văn xuôi thiếu nhi” được hiểu theo hai nghĩa: văn xuôi viết cho thiếu

nhi và văn xuôi do thiếu nhi viết.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Thực hiện đề tài Nhân vật trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt Nam, chúng tôi

hướng tới mục tiêu nhận diện, lý giải hình tượng nhân vật trẻ em và các phương thức nghệ

3

thuật thể hiện nhân vật qua các giai đoạn phát triển của Văn học thiếu nhi từ đó dựng lên

bức tranh toàn cảnh Văn học thiếu nhi với những góc nhìn khác nhau về trẻ em, góp phần

khẳng định giá trị thẩm mĩ đặc thù của bộ phận văn học này.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

3.2.1. Xây dựng cơ sở lí luận của đề tài, cụ thể là xác định khái niệm: Văn học

thiếu nhi, trẻ em, nhân vật trẻ em, sự phân loại nhân vật trẻ em trong văn học.

3.2.2. Tìm hiểu về sự hình thành nền Văn học thiếu nhi Việt Nam và chặng

đường phát triển của nhân vật trẻ em trong tiến trình Văn học thiếu nhi.

3.2.3. Phân tích một số kiểu nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi giai đoạn

1945-1975.

3.2.4. Phân tích một số kiểu nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam

giai đoạn sau 1975.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp sau đây:

- Phương pháp loại hình: Nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam là

một thực thể nghệ thuật đa dạng, phức tạp, chịu sự chi phối trực tiếp và gián tiếp của

những tiền đề xã hội – lịch sử - văn hóa. Để nhận diện và tìm hiểu đối tượng này,

phương pháp loại hình giúp người nghiên cứu khảo sát, phân loại các dạng thức nhân

vật trong tiến trình Văn học thiếu nhi.

- Phương pháp so sánh: Chúng tôi sử dụng phương pháp này để liên hệ, tìm ra sự

tương đồng và khác biệt giữa các loại hình nhân vật, chỉ ra sự giống và khác nhau trong

cách thể hiện nhân vật ở các nhà văn cũng như ở một nhà văn trong từng thời kì khác

nhau. Nó cũng giúp xem xét sự thể hiện nhân vật trẻ em trong các giai đoạn văn học.

- Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại: Phạm vi khảo sát của

luận án là tiểu thuyết, truyện ngắn, tự truyện. Do đó, chúng tôi sử dụng phương pháp

này nhằm giúp cho sự phân tích bám sát vào những đặc trưng của thể loại tự sự đồng

thời quan tâm đến đặc điểm riêng của từng thể loại trong việc thể hiện nhân vật trẻ em.

- Phương pháp văn học sử: Bên cạnh việc nhìn nhận nhân vật trẻ em trên bình

diện chung của văn học, chúng tôi cũng nghiên cứu dựa trên những giai đoạn văn học

sử để thấy rõ những nét khác biệt trong cách xây dựng nhân vật trẻ em ở trong tiến

trình văn học.

4

- Phương pháp liên ngành: Các phương pháp tâm lí học trẻ em, tâm lí học sáng

tạo, nhân học văn hóa,… được dùng như những thao tác bổ trợ khi cần thiết.

5. Những đóng góp mới của luận án

Về mặt lí luận, hướng tiếp cận của đề tài góp phần cung cấp một bức tranh khái

quát và toàn diện về nhân vật trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt Nam, từ đó làm rõ

thêm những vấn đề lý luận chi phối mỗi giai đoạn văn học.

Ý nghĩa văn học sử của luận án là góp phần nghiên cứu, tổng kết diện mạo nhân vật

trẻ em trong tiến trình Văn học thiếu nhi nước nhà. Qua đó, đưa đến một cách tham chiếu về

sự vận động, những quy luật cơ bản trong nền văn học Việt Nam.

Về mặt thực tiễn, từ việc xác lập hệ thống kiểu loại nhân vật trẻ em trong suốt

quá trình hình thành và phát triển của Văn học thiếu nhi Việt Nam đưa ra những mẫu

hình nhân vật thiếu nhi tiêu biểu tạo thành những hình tượng nhân vật gắn với thực tế

đời sống qua đó góp phần định hướng sự phát triển nhân cách của trẻ em trong thời kì

đổi mới.

Luận án cung cấp một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu và giảng

dạy văn học thiếu nhi Việt Nam trong các trường Cao đẳng, Đại học.

6. Bố cục của luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận án được triển khai

trong 3 chương:

Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu Văn học thiếu nhi và nhân vật trẻ em

Chương 2. Nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam từ 1945 đến 1975

Chương 3. Nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam từ sau 1975 đến nay

5

Chƣơng 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Những vấn đề chung về Văn học thiếu nhi và nhân vật trẻ em

1.1.1. Về cách hiểu Văn học thiếu nhi

Các nhà nghiên cứu nước ngoài đã đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về

“Văn học thiếu nhi” (cách gọi khác là: “Văn học trẻ em” - Children’s literature, ở đây,

xin thống nhất gọi là Văn học thiếu nhi). Trong khuôn khổ những tư liệu có được,

chúng tôi nhận thấy, khi nhận diện Văn học thiếu nhi, các học giả quan tâm tới vấn đề:

đối tượng tiếp nhận, nội dung phản ánh, điểm nhìn trần thuật.

Từ góc độ tiếp nhận, nhiều nhà nghiên cứu đã định nghĩa Văn học thiếu nhi

thông qua độ tuổi của người đọc. Margaret R. Marshall viết: “Một số người cho rằng

Văn học thiếu nhi là nhịp cầu nối từ độ tuổi sơ sinh tới 18 tuổi. Tuy nhiên, như tôi biết,

không học sinh trung học hay phổ thông nào cho rằng mình là trẻ em. Vì vậy, tôi định

nghĩa văn học cho lứa tuổi 13 đến 18 tuổi là Văn học thanh niên (Young adult

literature) và văn học cho tuổi từ sơ sinh đến 13 tuổi là Văn học thiếu nhi. Các trường

tiểu học truyền thống nhận trẻ từ 6 tuổi và những đứa trẻ này tới 12 hoặc 13 tuổi sẽ

hoàn thành cấp tiểu học” [240;2-3]. Bà cũng cho rằng: “Rất dễ phân biệt một đứa trẻ

tiểu học và một học sinh trung học hay phổ thông, cũng dễ dàng phân biệt giữa độ tuổi

13 và 14 tuổi, bằng cách đơn giản là hỏi chúng. Nhưng rất khó để phân biệt giữa Văn

học cho thiếu nhi và Văn học cho thanh niên” [240;3]. Cuối cùng, người viết đi đến

kết luận: “Các định nghĩa và sự phân chia rất cực đoan và đôi khi trẻ em sẽ làm bạn

ngạc nhiên khi chúng vượt qua những ranh giới phân loại trong lựa chọn đọc sách”

[240;3]. Margaret đã định nghĩa về Văn học thiếu nhi bằng cách phân định độ tuổi của

độc giả. Tuy nhiên, bà cũng nhận thấy rằng, thực tế việc xác định một tác phẩm văn

học trẻ em viết cho đối tượng nào không đơn giản. Ví dụ tác phẩm Giết con chim nhại

của Harper Lee ban đầu không phải dành cho trẻ em, nhưng truyện lại được kể dưới

góc nhìn của một cô bé tám tuổi, trong sáng, hồn nhiên và đầy cảm xúc. Mặc dù vậy,

cuốn sách cũng đề cập đến những vấn đề gai góc của cuộc sống như: nạn phân biệt

chủng tộc, những định kiến khắt khe, trọng nam khinh nữ,… Loạt tác phẩm Harry

6

Portter của J.K. Rowling, ban đầu hướng đến trẻ em nhưng nó đã gây ra tranh cãi về

việc ai sẽ yêu thích những cuốn sách này, đặc biệt khi cuốn sách nói về những vấn đề

có tính phổ quát với tất cả các loại độc giả.

Jan Susina, giáo sư về Văn học thiếu nhi và văn hóa của đại học Illinois State

(Mỹ) trên trang web: http://www.encyclopedia.com (Bách khoa thư) cho rằng: “Giống

như các khái niệm về thời thơ ấu, văn học thiếu nhi là một cấu trúc văn hóa và đang

trong quá trình phát triển. Văn học thiếu nhi bao gồm những văn bản được viết riêng

cho trẻ em và những văn bản được trẻ em lựa chọn, ranh giới giữa văn học trẻ em và

văn học người lớn rất mong manh” [244]. Ông cũng chỉ ra các nhà xuất bản đã khiến

cho sự phân biệt sách dành cho trẻ em và người lớn trở nên khó khăn hơn bởi chính

việc ấn hành của họ. Ví như bộ truyện Harry Potter của J. K. Rowling luôn có phiên

bản cho trẻ em và người lớn mà sự khác nhau chỉ là ở bìa sách. Hay như những truyện

kể dân gian, ban đầu không phải là để dành cho trẻ em nhưng chúng đã trở thành một

bộ phận của Văn học thiếu nhi. Bên cạnh đó, có những cuốn sách viết cho trẻ em ở thế

kỉ XVII, XVIII lại được đọc bởi phần lớn độc giả người lớn. Thực tế là, Văn học thiếu

nhi được viết, minh họa, xuất bản, tiếp thị và mua bởi chính người lớn để dành cho con

cháu nhằm giáo dục hay giải trí.

Cùng chung ý kiến với M.R. Marshall, trong cuốn Sách của trẻ em trong bàn

tay trẻ: Dẫn nhập về văn học của trẻ, Temple, Martinez, Yokota và Naylor nhận định:

“Văn học thiếu nhi là tập hợp những cuốn sách đọc cho trẻ em và được đọc bởi trẻ

em… từ sơ sinh tới 15 tuổi” [245;6], các tác giả cũng cho rằng: “rất khó để định nghĩa

một cuốn sách trẻ em” [245;5].

Chú trọng tới nội dung phản ánh trong sáng tác Văn học thiếu nhi, Norton, Norton

và McClure viết: “Khi mà thời thơ ấu trở thành một phần đặc biệt trong cuộc đời của một

con người thì văn học viết riêng cho trẻ trở thành rất quan trọng” [239;42].

Charlotte Huck, một trong những chuyên gia đầu tiên về Văn học thiếu nhi lại

coi trọng điểm nhìn trẻ thơ trong sáng tác, ông cho rằng: “Sách trẻ em là sách mà cái

nhìn trẻ thơ là cái nhìn chủ đạo” [238;5].

Maria Nikolajeva – giáo sư chuyên nghiên cứu về Văn học thiếu nhi của khoa

Văn – Đại học Stockholm, Thụy Điển và là giáo sư danh dự của khoa văn, Đại học

7

Abo Akademi của Phần Lan, một trong số những tác giả cuốn Bách khoa thư Oxford

về văn học thiếu nhi, đã chỉ ra tính đặc thù của Văn học thiếu nhi và cho thấy cần phải

nghiên cứu tính thẩm mĩ riêng của bộ phận văn học này để có thể hiểu được chức năng

và sức ảnh hưởng của nó đối với độc giả trong cuốn sách “Phương pháp tiếp cận mĩ

học cho văn học thiếu nhi: Dẫn nhập”. Bà nhận thấy, các nhà phê bình vẫn thảo luận

về những vấn đề như “Văn học thiếu nhi là gì?, “Trẻ em là gì?”,… mà hiếm khi đưa ra

được bất kì kết quả nào đáng chú ý. Và điều này là không cần thiết. Quan trọng là “ta

nên xem Văn học thiếu nhi như một trong nhiều thể loại của văn học nhưng vẫn nỗ lực

chỉ ra các tính chất đặc trưng của văn học thiếu nhi” [241;xii].

Ở Việt Nam, thuật ngữ “Văn học thiếu nhi” được nhắc tới trong Từ điển thuật

ngữ văn học, theo nghĩa hẹp, gồm: “Những tác phẩm văn học hoặc phổ cập khoa học

dành riêng cho thiếu nhi, cũng thường bao gồm một phạm vi rộng rãi những tác phẩm

văn học thông thường (cho người lớn) đã đi vào phạm vi đọc của thiếu nhi…” [53;353].

Định nghĩa này khá gần với cách hiểu của Jan Susina, đã nhắc đến ở trên.

Theo Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam: Văn học thiếu nhi là “những

tác phẩm văn học được mọi nhà sáng tạo ra với mục đích giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn,

tính cách cho thiếu nhi. Nhân vật trung tâm của nó là thiếu nhi và nhiều khi, cũng là

người lớn, hoặc là một cơn gió, một loài vật, hay một đồ vật, một cái cây,… Tác giả

của văn học thiếu nhi không chỉ là chính các em, mà cũng là các nhà văn thuộc mọi

lứa tuổi” [202;6].

“những tác phẩm được thiếu nhi thích thú tìm đọc. Bởi vì các em đã tìm thấy ở

trong đó cách nghĩ, cách cảm cùng những hành động gần gũi với cách nghĩ các cảm và

cách hành động của chính các em, hơn thế, các em còn tìm được ở trong đó một lời nhắc

nhở, một sự răn dạy, với những nguồn động viên, khích lệ, những sự dẫn dắt ý nhị, bổ

ích… trong quá trình hoàn thiện tính cách của mình” [202;6].

Quan niệm trên nhấn mạnh đến hai vấn đề: tính giáo dục của Văn học thiếu nhi

và sáng tác nào được cho là Văn học thiếu nhi. Theo đó, Văn học thiếu nhi phải hướng

tới mục đích giáo dục hay bồi dưỡng tâm hồn cho trẻ. Và sách dành cho trẻ em có thể là

những tác phẩm viết riêng cho trẻ hoặc là những tác phẩm mà trẻ em thích đọc. Ý này

cũng trùng với lí giải về Văn học thiếu nhi của một số nhà nghiên cứu trên thế giới.

8

Bùi Thanh Truyền trong cuốn chuyên luận “Thi pháp văn học thiếu nhi”, Bộ

giáo dục và đào tạo, dự án phát triển giáo viên tiểu học, Huế, 2007, cho rằng: “Văn

học thiếu nhi là những tác phẩm văn học mà nhân vật trung tâm là thiếu nhi hoặc được

nhìn bằng “đôi mắt trẻ thơ”, với tất cả những xúc cảm, tình cảm mãnh liệt, tinh tế,

ngây thơ, hồn nhiên, được các em thích thú, say mê và có nội dung hướng đến việc

giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, đặt nền móng cho sự hoàn thiện tính cách của các em

thuộc những lứa tuổi khác nhau từ thuở ấu thơ đến suốt cuộc đời” [220;12]. Ở đây, tác

giả đã thống nhất hai khía cạnh của Văn học thiếu nhi: thẩm mĩ và giáo dục. Một sáng

tác Văn học thiếu nhi, theo ông, phải là sáng tác bằng cái nhìn trẻ thơ và phải hướng

tới việc giáo dục nhân cách trẻ.

Nhà văn Lê Phương Liên quan niệm: Văn học thiếu nhi là một "thể loại văn học

đặc thù” nhằm phục vụ một đối tượng văn học rộng lớn bao gồm: lứa tuổi mầm non

(dưới 6 tuổi), lứa tuổi nhi đồng (từ 6 đến 10 tuổi), lứa tuổi thiếu niên (từ 11 đến 13

tuổi), tuổi mới lớn (từ 13,14 tuổi đến 18, 19 tuổi).

Có thể nói, những nhà nghiên cứu (rất ít ỏi) về Văn học thiếu nhi Việt Nam cũng

bày tỏ băn khoăn trong việc xác định thế nào là tác phẩm dành cho trẻ em, hay tác phẩm

viết cho người lớn mà được trẻ em yêu thích có được coi là Văn học thiếu nhi không?

Tác phẩm có nhân vật trẻ em nhưng không phải là sáng tác dành cho trẻ có nằm trong

danh mục tác phẩm Văn học thiếu nhi không? Điều này xuất phát từ thực tế phức tạp

của người sáng tác, người đọc, nhà xuất bản, người mua,… Ví như Ma Văn Kháng viết

Côi cút giữa cảnh đời không hẳn dành cho trẻ em nhưng tác phẩm lại được ra mắt độc

giả thông qua nhà xuất bản Kim Đồng và người tiếp nhận nó vừa là người lớn vừa là trẻ

em. Ở đây cũng xin lưu ý, trẻ em trong cách nhìn của luật pháp, của người lớn và của

chính trẻ em là khác nhau và trẻ em mỗi thời đại cũng không giống nhau. Nguyễn Ngọc

Thuần khi viết Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ có dụng ý hướng đến độc giả trẻ em

nhưng có vẻ như nó lại chiếm được cảm tình của những người lớn muốn làm trẻ em hơn

là của trẻ em. Vậy có thể coi Côi cút giữa cảnh đời, Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ,… là

sáng tác thuộc Văn học thiếu nhi?

Sáng tác viết về thiếu nhi là tác phẩm mà nhà văn viết về tuổi thơ của chính

mình, tuổi thơ của mọi người và nhiều người, tuổi thơ đã phổ quát. Đó cũng có thể

là tác phẩm viết về trẻ em nhưng lại chiếm được cảm tình của người lớn. Ở đây

9

cũng cần phân biệt sáng tác viết về trẻ em với tác phẩm có nhân vật trẻ em trong

đó. Có thể có những tác phẩm có nhân vật trẻ em (Bài học quét nhà của Nam Cao)

nhưng lại không phải thuộc về Văn học thiếu nhi vì dẫu có sự xuất hiện của nhân

vật trẻ em nhưng sáng tác này không phải dành cho trẻ, không nhằm hướng đến đối

tượng độc giả trẻ em. Tuy nhiên, có những sáng tác có thể không có nhân vật trẻ em

như Robinson Crusoe của Daniel Defoe, Hai vạn dặm dưới đáy biển của Jules

Verne,… nhưng lại vẫn được trẻ em đón đọc. Những tác phẩm đó vẫn được coi là

Văn học trẻ em.

Tất nhiên, như các nhà nghiên cứu đã khái quát, ranh giới phân định giữa một

cuốn sách cho trẻ em và người lớn không hoàn toàn tách biệt.

Vậy liệu có cần quá rạch ròi trong việc tạo đường biên giữa Văn học thiếu nhi

và văn học người lớn không, khi mà biên giới đọc là vô tận? Chúng tôi đồng ý với

quan niệm M.Nikolajeva khi cho rằng việc thảo luận về vấn đề định nghĩa Văn học

thiếu nhi mà không cho thấy một đáp án nào xác đáng là không cần thiết. Tuy nhiên,

để xác định một phạm vi nhất định cho những khảo sát của luận án, chúng tôi vẫn nỗ

lực tìm câu trả lời cho câu hỏi thế nào là Văn học thiếu nhi, dù biết rằng, ở một chừng

mực nào đó nó chưa bao quát hết được mọi vấn đề và rất có thể cách hiểu này sẽ có

những điều chỉnh trong tương lai.

Văn học thiếu nhi là những tác phẩm viết về thiếu nhi và viết cho thiếu nhi

do người lớn hoặc trẻ em sáng tác, chủ yếu được nhìn qua lăng kính trẻ thơ, có nội

dung hướng đến giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách trẻ em ở mọi lứa tuổi

khác nhau.

Những sáng tác viết cho thiếu nhi bao gồm: 1. Những tác phẩm viết cho trẻ em

tuổi mầm non; 2. Những tác phẩm viết cho thiếu niên; 3. Những tác phẩm viết cho tuổi

mới lớn.

Trong luận án, chúng tôi hướng tới khảo sát nhân vật trẻ em trong những truyện

cho thiếu nhi và viết về thiếu nhi, được thể hiện bằng “cái nhìn trẻ thơ” và có tính giáo

dục trẻ em. Chúng tôi nhận thấy, những truyện viết cho tuổi mầm non, phần lớn là

truyện loài vật, cốt truyện đơn giản, nhân vật chủ yếu là con vật, vì vậy chúng tôi

không đưa vào diện khảo sát của luận án.

10

1.1.2. Đặc trưng cơ bản của Văn học thiếu nhi

Từ cách hiểu Văn học thiếu nhi như trên, chúng tôi đưa ra một số đặc trưng của

bộ phận văn học này trong thế đối sánh với văn học người lớn như sau:

Thứ nhất, mục đích cơ bản của Văn học thiếu nhi là giáo dục. Tất nhiên trong

văn học nói chung, giáo dục là một trong những thuộc tính quan trọng. Song nếu như

văn học người lớn, đặc tính này thuộc về bản chất của hình tượng văn học, là thuộc

tính tự nhiên vốn có của sáng tạo nghệ thuật thì ở Văn học thiếu nhi, giáo dục được coi

là nhiệm vụ then chốt của người viết, là một trong những mục đích chính của tác

phẩm. Sáng tác Văn học thiếu nhi phải chứa đựng ý nghĩa giáo dục nào đó nhằm

hướng tới sự phát triển nhân cách trẻ em. Tất nhiên, bài học giáo dục không thể khô

cứng, giáo điều, sống sượng như một lời dăn dạy. Bài học ấy phải được chuyển tải một

cách nghệ thuật khiến trẻ em thích thú, say mê và hưởng ứng tự nguyện.

Thứ hai, đối tượng phản ánh và tiếp nhận chủ yếu của Văn học thiếu nhi là trẻ

em, với tính cách, tâm lí, xúc cảm tình cảm, nhãn quan khác biệt so với người lớn. Điều

này, chi phối đến nội dung cũng như các phương thức nghệ thuật trong sáng tác. Vì viết

về trẻ em, viết cho trẻ em nên nội dung tác phẩm thiếu nhi thường trong trẻo, tươi sáng,

phù hợp với đặc điểm tư duy, thẩm mĩ của trẻ. Nó giải thích tại sao trong thời hiện đại,

khi văn học người lớn chuyển hướng khai thác những vấn đề về sự phi lí, hiện sinh,…

thì Văn học thiếu nhi vẫn gợi mở về một thế giới rộn ràng, tươi nguyên, thuần khiết.

Mặc dù, trong đó không phải không có những xung đột, phức tạp bởi trẻ em cũng là một

phần của đời sống hiện đại song nó luôn được khai thác, xử lí phù hợp với trẻ thơ. Phản

ánh đời sống bằng cái nhìn trẻ thơ nên Văn học thiếu nhi cũng lựa chọn những phương

thức nghệ thuật tương thích với đối tượng độc giả đặc thù của nó. Trong lúc văn học

người lớn đã tìm đến những thủ pháp như siêu hư cấu, phân mảnh, lắp ghép, giễu

nhại,…Văn học thiếu nhi vẫn “thủy chung” với lối viết truyền thống, với phương thức

đặc thù: bút pháp kì ảo, cốt truyện phiêu lưu, nhân vật hành động,…

Thứ ba, mối quan hệ giữa tác giả và độc giả trong Văn học thiếu nhi là quan hệ

“không cân xứng”. Tác giả, chủ yếu là người lớn đã hầu như không thể nhìn cuộc sống

như trẻ thơ; độc giả, phần lớn là trẻ em với những đặc điểm tâm sinh lí riêng biệt mà

người lớn, dù đã từng là trẻ nhỏ, không thể có (lại) được. Bởi vậy, người viết muốn tác

11

phẩm đến gần với trẻ thơ, được trẻ em đón nhận, buộc phải hóa thân vào thế giới của trẻ

em, mang con mắt và quan năng của trẻ em. Nhưng trên thực tế, không ít người rơi vào

cảnh “cưa sừng làm nghé”. Quan năng trẻ thơ là một ân sủng của tạo hóa, một đi không

trở lại. Trường hợp thành công thường ở những nhà văn đã vượt qua được ranh giới của

người trưởng thành để bước sang địa hạt trẻ thơ nhưng dù vậy, những sáng tác đó cũng

chỉ là các bán thành phẩm. Viết cho trẻ thơ thực ra là xuất phát từ trải nghiệm của một

người lớn sâu sắc, từng trải và từ chính trong những suy nghiệm ấy, nhà văn mới thấy

được cái trong trẻo, đẹp đẽ của tuổi thơ. Đó là một tuổi thơ đã được trục vớt, được phát

hiện lại qua lăng kính của một người trưởng thành. Cho nên, dẫu soi rọi được thế giới trẻ

thơ, tác phẩm thiếu nhi vẫn tồn tại một tiếng nói người lớn. Sự hiện diện này cũng là lẽ

tất yếu khi Văn học thiếu nhi vẫn phải thực hiện chức phận chính của nó: giáo dục.

Thứ tư, Văn học thiếu nhi vẫn là một bộ phận không tách rời của văn học, dù nó

là một hiện tượng xuất hiện sau trong lịch sử văn chương nhân loại. Vì vậy, bên cạnh

những đặc điểm riêng, nó vẫn chịu sự chi phối của tư tưởng, tư duy nghệ thuật ở từng

thời đại văn học. Bên cạnh đó, Văn học thiếu nhi cũng khúc xạ những ảnh hưởng của

nó tới bộ phận văn học người lớn.

Trong luận án, chúng tôi sẽ nhìn nhận Văn học thiếu nhi Việt Nam mà cụ thể

hơn là Truyện thiếu nhi dựa trên những đặc trưng trên. Tất nhiên, ở mỗi chặng đường

phát triển, do nhu cầu lịch sử, có những đặc điểm trở nên nổi trội hoặc những nội dung

không được coi trọng.

1.1.3. Sự hình thành và vận động của truyện thiếu nhi Việt Nam

Trong xã hội phong kiến, trẻ em không phải là đối tượng được văn học lưu tâm.

Giai cấp phong kiến chỉ truyền bá cho các em một số sách giáo khoa như Tam tự kinh,

Minh tâm bảo giám,... để giáo dục các em trở thành những trẻ ngoan ngoãn, tuân theo

đạo đức phong kiến. Họ tổ chức gia đình theo trật tự, tôn ti, luôn đảm bảo cho cha có

quyền hơn con, chồng có quyền hơn vợ, anh có quyền hơn em, con trai có quyền hơn

con gái. Vai trò gia đình được đề cao nhưng theo hướng nghiệt ngã với phụ nữ và khắt

khe với tuổi trẻ. Vì thế, dưới chế độ phong kiến, ngoài văn học dân gian, chỉ có một số

cuốn sách viết cho thiếu nhi dạng giáo khoa dạy trẻ như: Tam tự kinh, Minh tâm bảo

giám, Minh đạo gia huấn,…

12

Khi một số luồng tư tưởng mới từ phương Tây lan tới Việt Nam, văn học đã có

chuyển dịch trong cách tiếp cận cuộc sống. Nếu trước đây, trẻ em là đối tượng hầu như

không được nhắc tới trong văn học, thì nay, các nhà văn dần hướng ngòi bút tới trẻ

thơ. Ngoài việc phỏng dịch, người viết cũng có ý thức sáng tác cho các em. Nhóm Tự

lực văn đoàn cho xuất bản loại Sách hồng, tập hợp một số sáng tác về đề tài trinh

thám, phiêu lưu, cổ tích, thần thoại và sinh hoạt đời thường của trẻ em. Bên cạnh đó,

những nhà văn hiện thực như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên

Hồng, Tô Hoài,… cũng đề cập đến số phận của những đứa bé bất hạnh. Tuy nhiên,

những sáng tác này chưa đủ hình thành một trào lưu viết cho các em.

Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, bộ phận Văn học thiếu nhi trong Hội văn

nghệ được thành lập. Tờ báo của trẻ em ra đời với lời căn dặn của Bác: “Báo trẻ em ra

đời – Báo đó là báo của trẻ em, vậy các trẻ em nên giúp cho báo, gửi tin tức tranh vẽ

và viết bài cho báo. Nên đọc cho các em chưa biết chữ nghe, nên làm cho báo phát

triển” [200;19]. Các sáng tác dành cho các em như Hoa Sơn (Tô Hoài), Chú Giao làng

Seo (Nguyễn Tuân), Chiến sĩ ca nô (Nguyễn Huy Tưởng), Dưới chân cầu mây

(Nguyên Hồng),… đã chính thức đánh dấu sự ra đời dòng văn học dành riêng cho trẻ

em – Văn học thiếu nhi.

Hòa bình lập lại ở miền Bắc, đội ngũ viết cho thiếu nhi càng phát triển mạnh.

Bên cạnh những tác giả quen thuộc: Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Phạm Hổ, Hà Ân,

Đoàn Giỏi, Võ Quảng, Phong Thu,… đã có một lớp người mới đến với sự nghiệp sáng

tác cho các em như Xuân Quỳnh, Trần Thanh Địch, Hoàng Anh Đường, Văn Trọng,

Bắc Thôn, Lê Phương Liên, Trần Hoài Dương,…

Điều đáng chú ý là đội ngũ viết cho thiếu nhi đã bước đầu có hiện tượng chuyên

môn hóa. Ở mỗi lứa tuổi hoặc mỗi đề tài đều có những cây bút tiêu biểu.

Tham luận của Tiểu ban văn nghệ thiếu nhi trong Đại hội văn nghệ lần thứ 3 đã

nêu rõ quyết tâm của văn nghệ sĩ trong việc sáng tác và biểu diễn, và nhường cả một phần

hưởng thụ của người lớn cho trẻ em. Từ ý thức quan tâm đó, sau 30 năm Cách mạng,

chúng ta đã có một nền Văn học thiếu nhi, trong đó, truyện chiếm số lượng nhiều nhất và

có vai trò quan trọng nhất.

13

Sau năm 1975, Văn học thiếu nhi bắt đầu có những tìm tòi, đổi mới trong cách

tiếp cận trẻ em, đặc biệt là sự mở rộng các bình diện trong cách lý giải, thể hiện con

người ở thể loại truyện. Bên cạnh đề tài cũ như lịch sử, chiến tranh, truyện thiếu nhi đi

sâu thể hiện trẻ em trong các mối quan hệ với gia đình, với bạn bè, trong những xúc cảm

tinh tế, vi diệu của tuổi nhỏ. Có thể kể đến các sáng tác như: Cơn giông tuổi thơ – Thu

Bồn, Hồi đó ở Sa Kỳ - Bùi Minh Quốc, Hành trình ngày thơ ấu – Dương Thu Hương,

Chú bé có tài mở khóa – Nguyễn Quang Thân,…Tuy nhiên, những sáng tác ở thời kì

đầu mới chỉ dừng lại ở mức độ thăm dò, chưa có nhiều đột phá.

Từ đại hội Đảng VI (1986), văn học được “cởi trói” và có nhiều sáng tạo mang

tính đột phá. Không nằm ngoài quy luật vận động đó, Văn học thiếu nhi cũng chuyển

mình theo nhịp cách tân của thời đại. Năm 1986,1987 có thể coi là năm được mùa của

truyện viết cho thiếu nhi với hàng loạt các tác phẩm như Tuổi thơ dữ dội – Phùng

Quán, Sùng rượu thề - Nghiêm Đa Văn, Người đi săn và con sói lửa – Nguyễn Quỳnh,

Người đi vào hang sói - Trần Thiên Hương,… Tuy nhiên, có thời điểm như năm 1988,

sách viết cho thiếu nhi rơi vào tình trạng khủng hoảng. Trong năm 1988, nhà xuất bản

Kim Đồng chỉ xuất bản chưa quá 50 đầu sách.

Từ đầu những năm 90 của thế kỉ XX, đội ngũ sáng tác cho các em được bổ sung

thêm nhiều cây bút như Lê Cảnh Nhạc, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Trí Công, Hoàng

Dạ Thi, Nguyễn Thị Châu Giang,… Những sáng tác cho thiếu nhi thời kì này cũng bắt

đầu tiếp cận đời sống của trẻ thơ ở khía cạnh gần gũi hơn, thân thuộc hơn. Ngoài ra,

còn xuất hiện một số tác giả - trẻ em viết truyện, nổi bật nhất là trường hợp Nguyễn

Bình, mười tuổi, sáng tác truyện giả tưởng Cuộc chiến với hành tinh Fantom. Đầu thế

kỉ XXI, chúng ta còn chứng kiến sự xuất hiện của dòng Văn học teen, dành cho độc

giả tuổi mới lớn. Tuy nhiên, các tác phẩm thuộc loại này vẫn chưa thực sự gặt hái

được nhiều thành công.

Hiện nay, trong truyện thiếu nhi Việt Nam, ngoài Nguyễn Nhật Ánh vẫn ghi dấu

đều đặn, dường như, không còn cây bút nào đủ sức hấp dẫn trẻ em. Sự chững lại này có

thể là minh chứng cho những nỗ lực bất thành của nhà văn trong việc chiếm lĩnh thế giới

tuổi thơ, cũng có thể là khoảng lặng ngầm chuẩn bị cho một sự chuyển mình của bộ

phận văn học này. Câu trả lời, vẫn đang ở phía trước. Dù vậy, có thể nói, từ ngày đầu

14

hình thành cho đến nay, truyện thiếu nhi Việt Nam đã ghi dấu được những thành tựu

đáng kể, khẳng định vị thế của mình trong nền văn học dân tộc. Quá trình phát triển của

nó, có thể có những lúc thăng trầm nhưng có một điều chắc rằng khi nào còn có trẻ em

trên đời, khi đó vẫn cần có những sáng tạo nghệ thuật ngôn từ dành cho trẻ.

1.1.4. Về khái niệm “Trẻ em”

Nhìn từ góc độ pháp lí, trong luật pháp quốc tế, độ tuổi trẻ em, được sử dụng

tương đối thống nhất là dưới 18. Tuy nhiên, trong các Công ước quốc tế như Tuyên

bố của Hội quốc liên về quyền trẻ em (năm 1924), Tuyên bố của Liên hợp quốc về

quyền trẻ em (năm 1959), Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (năm 1968), Công

ước 138 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) về tuổi tối thiểu làm việc (năm 1976),

Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (năm 1989),… đã khẳng định việc áp

dụng độ tuổi trẻ em của mỗi quốc gia có thể khác nhau, tuỳ thuộc vào nội luật của

mỗi nước quy định độ tuổi thành niên sớm hơn. Song, các tổ chức của Liên hợp quốc

và quốc tế như UNICEF, UNFPA, ILO, UNESSCO,… đều xác định trẻ em là người

dưới 18 tuổi.

Ở Việt Nam, pháp luật quy định về độ tuổi của trẻ em chính thức được đề cập

trong một văn bản pháp quy sau khi Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về

Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ngày 14 tháng 11 năm 1979, trong đó quy định

“Trẻ em nói trong Pháp lệnh này gồm các em từ mới sinh đến 15 tuổi” (Điều 1). Đến

năm 1991, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được ban hành đã nâng độ tuổi trẻ

em lên đến dưới 16 tuổi (Điều 1) “Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam

dưới mười sáu tuổi”. Độ tuổi này tiếp tục được khẳng định tại Điều 1 của Luật Bảo vệ,

chăm sóc và giáo dục trẻ em ban hành năm 2004. Như vậy trong pháp luật chuyên

ngành, Việt Nam thừa nhận độ tuổi trẻ em được pháp luật bảo vệ và chăm sóc là những

công dân dưới 16 tuổi. Trẻ từ 10 đến 18 tuổi được coi là “vị thành niên”. Mặc dù quy

định độ tuổi thấp hơn so với Công ước quốc tế, nhưng quy định của Việt Nam vẫn được

coi là phù hợp bởi quy định mở của Công ước.

Từ góc độ sinh lí, trẻ em là giai đoạn đầu tiên trong quá trình phát triển của cơ

thể con người. Ở giai đoạn này, sự phát triển của trẻ được phân ra thành các giai đoạn

nhỏ hơn và ở mỗi giai đoạn, cơ thể trẻ có những đặc điểm sinh lí khác nhau.

15

Trẻ em có những đặc điểm tâm lí đặc thù. Song hành cùng sự phát triển cơ thể,

tâm lí của trẻ cũng có sự thay đổi qua từng giai đoạn.

Từ 0 đến 10 tuổi, tư duy của trẻ còn bị tình cảm chi phối rất mạnh, thể hiện ở

chỗ trẻ chỉ suy nghĩ về những điều chúng thích và dòng suy nghĩ thường bị cuốn hút

vào ý thích bất chấp tính thực tế khách quan. Vì thế, đối với trẻ thơ, mọi vật đều có

hồn, có tính tình, có ý thích của nó. Cho nên, các em rất dễ tin vào phép màu, những

điều kì diệu và coi sự tồn tại của chúng là hiển nhiên trong đời sống. Nói cách khác,

trẻ em nhận thức thế giới bằng con mắt độc đáo, con mắt của tuổi thơ: “Thông thường

người lớn không am hiểu trẻ em, bởi vì thế giới hiện ra với chúng dưới một dạng vẻ

khác. Điều mà người lớn tìm thấy ở mọi vật xung quanh là tính thực tiễn, hữu ích của

nó. Trẻ em chỉ hiểu rằng mọi vật tồn tại, vậy thì chúng sống và chúng được coi như

những vật thể sống động” [150;138].

Tưởng tượng là hoạt động thường xuyên trong tư duy trẻ thơ. Sự làm việc

không mệt mỏi của trí tưởng tượng là một trong những con đường đưa trẻ khám phá

thế giới xung quanh khi mà kinh nghiệm cá nhân còn ít ỏi. Những gì trẻ chưa biết sẽ

được chúng bổ sung bằng trí tưởng tượng. Chẳng hạn, trẻ giải thích nguyên nhân

không thấy mặt trời là vì ông mặt trời ngủ quên. Trời mưa là do ông trời khóc,…Với

trí tưởng tượng, trong lúc chơi, trẻ không những làm được mọi việc mà còn có thể có

bất cứ thứ gì mình muốn. Ví dụ muốn có ngựa chúng có thể dùng gậy kẹp giữa hai

chân, muốn thành hoàng tử chỉ cần choàng lên người cái chăn nhỏ, muốn làm cô dâu

chỉ cần hái nhiều hoa, kết vòng đội lên đầu,… Trí tưởng tượng vừa ngây thơ vừa phi lí

này không chỉ đem lại cho tuổi thơ niềm tin mà còn rất cần cho người lớn đặc biệt là

các nhà khoa học và nghệ sĩ.

Do chưa phát triển đầy đủ về thể chất và trí tuệ nên trẻ em ở giai đoạn thiếu nhi

dễ bị tổn thương, dễ thay đổi, dễ thích nghi, dễ uốn nắn, dễ tự ái, tự ti, hiếu thắng,

thiếu kiên nhẫn; có xu hướng muốn tự khẳng định, muốn được tôn trọng.

Trẻ em ở lứa tuổi thiếu niên khác với tuổi nhi đồng khá rõ. Ở lứa tuổi thiếu

niên, tầm nhìn rộng hơn, tiếp xúc với môi trường xã hội lớn hơn, bắt đầu hình thành tư

duy lý tính. Cho nên những đứa trẻ 13, 14 tuổi, mặc dù chưa dứt bỏ hẳn cái nhìn, xúc

16

cảm tuổi ấu thơ nhưng đã có những biến chuyển trong đời sống tâm hồn. Chính những

biến đổi đó dễ nảy sinh những đứt gãy về tâm lý.

Từ 16 đến 18 tuổi là giai đoạn tâm lí phức tạp nhất. Đây là thời kì dễ có những

khủng khoảng về tâm lí đi kèm với những thay đổi mạnh mẽ về sinh lí. Lứa tuổi này

đã bắt đầu xuất hiện tình cảm khác giới, có nguyện vọng được bạn khác giới quan tâm

yêu thích. Tình cảm của các em đã có độ sâu sắc, phong phú, phức tạp hơn trước

nhưng vẫn mang tính bồng bột, dễ bị kích động.

Ở khía cạnh văn hóa, mỗi đứa trẻ là con đẻ của một nền văn hóa nhất định. Trẻ

em lớn lên, bị xã hội hóa trong những môi trường văn hóa xã hội cụ thể. Vì thế mỗi

môi trường văn hóa, có trẻ em mang tính cách riêng.

Tóm lại, trẻ em không phải là một người lớn thu nhỏ. Trẻ em có những đặc

điểm tâm sinh lí riêng và cũng là một phạm trù xã hội lịch sử cụ thể, một phạm trù văn

hóa phức hợp.

1.1.5. Nhân vật trẻ em

1.1.5.1. Về định nghĩa nhân vật trẻ em

Nhân vật là phương tiện để phản ánh đời sống, khái quát những quy luật của

cuộc sống và của con người, thể hiện những hiểu biết, ước mơ, kì vọng về đời sống.

Được miêu tả qua biến cố, xung đột, mâu thuẫn, nhân vật gắn liền với cốt truyện và

kết cấu tác phẩm. Vì thế, khác với hình tượng hội họa và điêu khắc, nhân vật văn học

là một chỉnh thể vận động, có tính cách được bộc lộ dần trong không gian, thời gian,

mang tính chất quá trình. Chức năng cơ bản của nhân vật văn học là khái quát tính

cách của con người. Do tính cách là một hiện tượng xã hội, lịch sử, nên chức năng

khái quát tính cách của nhân vật văn học cũng mang tính lịch sử. Vì tính cách là kết

tinh của môi trường, nên nhân vật văn học là người dẫn dắt độc giả vào các môi trường

khác nhau của đời sống.

Trong truyện thiếu nhi, có các kiểu nhân vật như nhân vật trẻ em, nhân vật

người lớn (bố mẹ, bố dượng, mẹ kế, ông bà, anh chị em, thầy cô giáo,…), nhân vật

tưởng tượng (phù thủy, ma, rồng, sinh vật siêu nhiên,…), nhân vật loài vật. Trong số

đó, nhân vật chính phần lớn là trẻ em hoặc loài vật (hiếm khi là đồ vật vô tri, vô giác)

đại diện cho trẻ em.

17

Nhà văn Thùy Linh cho rằng: “Công thức” văn học thiếu nhi như sau: “Tác giả

(nhà văn) + nhân vật + độc giả (trẻ nhỏ) => một nhóm bạn thân”. Chỉ khi nhà văn làm

bạn với trẻ, nhà văn mới hiểu tâm lý, tình cảm của trẻ mới có thể tạo ra nhân vật trẻ

em. Hơn nữa, nhân vật trong Văn học thiếu nhi (cũng như văn học nói chung) phải có

dấu ấn cá nhân thực sự, dù cá nhân ấy tốt hay xấu. Một nhân vật mang dấu ấn cá nhân

là một nhân vật có những tính cách, “khác” tất cả những bạn bè ngoài đời thực của trẻ.”

[204;561]. Tô Hoài nhấn mạnh: cần đưa “nhân vật vào thực tế đầy đủ góc cạnh và đặc

điểm của nó và chắt lọc rút ra từ đấy cái thần của sự sáng tạo. Làm được như thế, dẫu

cho ta đưa một đứa trẻ hư đến ngoan, bạn đọc cũng không thấy chối vì công thức, ước lệ

mà lại còn thấy thích thú, thấm thía, bởi vì những vấn đề điển hình nhất đã qua thực tế

sâu sắc mới trở thành sáng tạo, bởi vì chính cuộc đời là như thế” [204;161]. Vậy thế

nào là nhân vật trẻ em? Đó trước hết là những đứa trẻ được nhà văn khắc họa trong

sáng tác Văn học thiếu nhi. Nó thể hiện cái nhìn của nhà văn về trẻ em, khái quát tính

cách, số phận trẻ em trong đời sống văn hóa, xã hội, lịch sử. Đồng thời, nó cũng phản

ánh những quy luật của đời sống và của trẻ thơ trong cuộc sống.

1.1.5.2. Phân loại nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi

Các nhà nghiên cứu văn học đã đưa ra rất nhiều cách phân loại nhân vật. Căn

cứ vào cấu trúc, có thể chia nhân vật thành nhân vật chức năng, nhân vật loại hình,

nhân vật tính cách; căn cứ vào vai trò của nhân vật trong triển khai cốt truyện, có

nhân vật chính, nhân vật trung tâm, nhân vật phụ,… Tuy nhiên, sẽ không hoàn toàn

chính xác khi áp dụng những cách phân loại (mang tính phổ quát) này cho Văn học

thiếu nhi. Bởi lẽ, như trên đã nói, Văn học thiếu nhi là dòng văn học có những đặc

trưng riêng, nó có đối tượng tiếp nhận và hình tượng nghệ thuật đặc thù. Vì vậy, cần

có một cách phân loại riêng cho nhân vật trẻ em ở bộ phận văn học này, phù hợp với

những đặc trưng khác biệt của nó. Tất nhiên, dù khác biệt, nhân vật trẻ em, trước hết,

vẫn là nhân vật văn học. Nghĩa là, nó vẫn chịu sự chi phối bởi những quy luật sáng

tạo cơ bản của nghệ thuật.

Ở luận án này, chúng tôi không có tham vọng đưa ra một sự phân loại nhân vật

trẻ em trong Văn học thiếu nhi với các mô hình khả dụng. Điều này đòi hỏi phải có

những khảo sát trên diện rộng với nhiều tác phẩm và qua nhiều ngôn ngữ khác nhau.

18

Văn học thiếu nhi, ở Việt Nam chưa thực sự được nhiều nhà nghiên cứu quan

tâm, vì vậy, gần như chưa có công trình nào mang tính lí thuyết về nhân vật trẻ em

trong Văn học thiếu nhi. Trên thế giới, trong các tài liệu Anh ngữ chúng tôi thu thập

được, đã có những nghiên cứu khá cụ thể về Văn học thiếu nhi cũng như nhân vật

trong truyện thiếu nhi. Trong số đó, phải kể đến công trình: Lý thuyết về nhân vật

trong văn học thiếu nhi của M.Nikolajeva, xuất bản tại Mỹ, năm 2003. Tác giả cuốn

sách là một nhà nghiên cứu Văn học thiếu nhi lâu năm và có rất nhiều công trình như:

Phương pháp tiếp cận mĩ học văn học thiếu nhi, Quyền lực, giọng điệu và chủ thế tính

trong văn học cho độc giả trẻ, Các khía cạnh và vấn đề trong lịch sử văn học thiếu

nhi, Lý thuyết về nhân vật trong văn học thiếu nhi

M.Nikolajeva đã đưa ra năm loại nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi, dựa

vào các giai đoạn phát triển văn học, trên cơ sở năm loại hình nhân vật của Northrop

Frye. Tất nhiên, bà cũng cho rằng: “Trong Văn học thiếu nhi, năm mô thức Frye cùng

tồn tại phổ biến hơn so với văn học dòng chính của bất cứ thời kì nào. Trong tiểu

thuyết thiếu nhi phương tây đương đại, chúng ta bắt gặp các nhân vật từ mọi mô thức

của Frye, có lẽ ngoại trừ huyền thoại thuần túy”. Điều quan trọng hơn, Nikolajeva

cũng khẳng định: “Giống như mọi công cụ lý thuyết khác, các cách phân loại đều là

trừu tượng và không phải lúc nào cũng có thể áp dụng một cách trực tiếp vào bất kì

nhân vật đang tồn tại nào” [242;27].

Năm kiểu loại nhân vật được M.Nikolajeva nhắc tới gồm:

1. Nhân vật anh hùng huyền thoại (The mythic hero)

2. Nhân vật anh hùng lãng mạn (The Romantic Hero)

3. Nhân vật mô phỏng cao (High mimetic characters), gồm:

3.1. Nhân vật ngụ ngôn và tượng trưng (Allegorical and emblematic characters)

3.2. Nhân vật là những phương tiện truyền tải tư tưởng (Character as

ideological vehicles)

4. Nhân vật mô phỏng thấp (Low mimetic characters)

5. Nhân vật mỉa mai, châm biếm (Ironic characters), gồm:

5.1. Nhân vật tách rời và xa lánh (Detachment and alienation)

5.2. Nhân vật siêu hư cấu (Metafictive character)

19

Nhân vật anh hùng huyền thoại là kiểu nhân vật của huyền thoại. Nhưng khi

dịch chuyển vào văn học trẻ em, nó có những thay đổi cho phù hợp với đặc trưng của

dòng văn học này. Đặc điểm dễ nhận thấy ở kiểu nhân vật này là anh ta phải tham gia

vào một cuộc hành trình, theo một mô thức chung: Ly biệt – Khởi hành – Trở lại. Ở

truyện thiếu nhi, nó được nhận dạng là: Ở nhà – Đi xa – Trở về. Các nhân vật nhỏ tuổi

sẽ thực hiện một nhiệm vụ và trong quá trình thực hiện, chúng sẽ nhận được sự trợ

giúp. Trong văn học thiếu nhi, hiếm khi người anh hùng bị tiêu diệt hay thương tật.

Điều này có ý nghĩa tránh cho độc giả nhỏ tuổi cảm giác đồng cảm đáng sợ với những

gì người anh hùng phải chịu đựng. Giống như anh hùng huyền thoại và không giống

với hầu hết các nhân vật của tiểu thuyết dành cho người lớn, nhân vật thiếu nhi trở về

điểm xuất phát, đôi khi nhờ một chuyến bay hoặc được giải cứu. Các nhân vật này lại

trở về với cuộc sống bình thường. Cuộc phiêu lưu tiếp theo cũng được hứa hẹn; chừng

nào còn là trẻ con thì các nhân vật đều có thể bước qua ranh giới giữa cuộc sống

thường và thế giới thần kì.

Nhân vật anh hùng lãng mạn: Theo M.Nikolajeva, nhân vật anh hùng lãng mạn

trong truyện thiếu nhi giống như anh hùng trong truyện cổ tích và truyện trung cổ ở các

phẩm chất đã được quy ước: có sức mạnh, dũng cảm, cống hiến,… Có điều, nhân vật anh

hùng thiếu nhi có nét khác biệt so với kiểu nhân vật này trong truyện cổ tích ở chỗ, đôi

lúc, nó bị hạ bệ, châm biếm. Từ cuộc du hành kì diệu, nhân vật thiếu nhi được đưa trở lại

cuộc sống đời thường, có khi, bị tước bỏ những biểu tượng sức mạnh, hoặc mất đi phép

thuật, những đứa trẻ lại trở lại là trẻ em, không được trợ giúp, không còn là anh hùng.

Harry Potter là một ví dụ điển hình cho nhân vật người anh hùng lãng mạn của truyện

thiếu nhi. Cậu là một anh hùng với những phẩm chất siêu phàm, hơn cả các lực lượng

người lớn xấu xa. Nhưng Harry Potter cũng lại là một cậu nhóc đeo kính vụng về. Một

cậu bé không biết nghe lời và khá tò mò, cậu cũng không thông minh trong học hành mà

lại là một học trò hết sức bình thường. Harry có cả bạn bè và kẻ thù và cậu cũng cần ăn,

cần ngủ. Hơn nữa, Harry Potter còn có những cảm xúc của giống như bao đứa trẻ khác:

nhớ mẹ, nhớ bố, cảm giác bất an, tò mò về xuất thân và nhân cách của mình.

Nhân vật mô phỏng cao là những nhân vật có một số đặc điểm nổi bật hơn so

với người khác như: dũng cảm, sáng suốt, yêu nước,… Đây là kiểu nhân vật xuất hiện

20

trong truyện kể về tiểu sử các vị thánh và tiểu sử các nhân vật chính trị, lịch sử,... Chức

năng chính của loại tác phẩm này là giáo dục. Nhân vật mô phỏng cao được kì vọng

trở thành mẫu hình cho trẻ em học tập và noi theo.

Nhân vật ngụ ngôn và tượng trưng là nhân vật mang những tư tưởng, thể hiện

một triết lí sống nào đó, nhằm giáo dục con người về một vấn đề nhất định trong cuộc

sống. Vì mục đích chính của nhân vật ngụ ngôn là truyền tải một thông điệp giáo dục,

cho nên, nó khá phù hợp với Văn học thiếu nhi. Đã có rất nhiều nhà văn xây dựng kiểu

nhân vật này trong những sáng tác thiếu nhi của mình nhằm mang đến cho trẻ em một

bài học nào đó. Tuy nhiên, hầu hết độc giả nhỏ tuổi lại phớt lờ những diễn giải ngụ

ngôn của những cuốn sách này.

Nhân vật là những phương tiện truyền tải tư tưởng: Đây là những nhân vật trẻ

em tốt bụng, tử tế, hiếu thảo, biết nghe lời, khiêm tốn,… Mục đích của kiểu nhân vật

này là đưa ra tấm gương tốt cho độc giả, do đó, tính cách tích cực của các nhân vật

thường vượt quá mức tự nhiên. Có thể kể đến những nhân vật trẻ em trong các truyện

thiếu nhi Liên Xô như: các anh hùng chiến tranh trẻ tuổi, các cậu bé cứu bạn hay

người lớn khỏi tai họa hay các em nhỏ góp phần xây dựng đất nwocs bằng cách thu

gom những vật liệu có thể tái chế,…

Nhân vật mô phỏng thấp là những nhân vật trẻ em bình thường trong những

hoàn cảnh bình thường, ở trường hay ở nhà,… Theo mô tả của M.Nikolajeva, những

nhân vật mô phỏng thấp trong các sáng tác hiện đại xuất hiện khá nhiều trong văn học

thiếu nhi phương Tây sau thế chiến thứ 2. Nó là kết quả của những thay đổi xã hội,

quá trình đô thị hóa, sự thay đổi trong cấu trúc gia đình cũng như những thành tựu của

ngành tâm lí học trẻ em.

Nhân vật mỉa mai, châm biếm Đây là kiểu nhân vật chẳng có chút sức mạnh nào,

chúng chưa có một sự phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần và yếu thế hơn so với

bố mẹ hay những người lớn khác. Cùng với kiểu nhân vật mô phỏng thấp, nhân vật trẻ em

mỉa mai, châm biếm là những nhân vật đầu tiên, về mặt lịch sử, cho phép khắc họa đời

sống nội tâm. Thực tế, như chính M.Nikolajva đã từng nói, các nhân vật trẻ em đều có

tính mỉa mai, châm biếm, các nhân vật này luôn nhỏ bé hơn so với môi trường xung

quanh và với chính độc giả người lớn.

21

Nhân vật tách rời và xa lánh là những nhân vật được nhà văn dựng lên với mục

đích khiến độc giả xa lánh bởi những vấn đề như: không hấp dẫn về ngoại hình, hư

hỏng về đạo đức, có những tính xấu,… Ở truyện truyền thống, kiểu nhân vật này được

tạo lập từ kì vọng khiến độc giả nhỏ tuổi có thể chấp nhận và đồng cảm với những cá

thể chưa hoàn thiện. Ở truyện hiện đại, xây dựng kiểu nhân vật tách rời và xa lánh là

một trong những cách làm nhằm phá vỡ tính chủ quan – một trong những tiền đề chính

của mỹ học thời hậu hiện đại.

Nhân vật siêu hư cấu: Đây là kiểu nhân vật được sinh ra trong những thử

nghiệm của các nhà văn hiện đại nhằm cách tân hình tượng nhân vật trẻ em trong Văn

học thiếu nhi. Tính chất siêu hư cấu của nhân vật nằm ở chỗ, nó vượt ra ngoài giới

hạn, theo một cách nào đó của trần thuật, bằng cách xuất hiện ở những cấp độ trần

thuật khác nhau.

Trong phân loại này, chính M.Nikolajeva cũng nhận thấy rằng ranh giới giữa các

loại nhân vật rất khó xác định chính xác. Chẳng hạn, khi nói đến nhân vật mỉa mai,

châm biếm, ở trang 38 của cuốn sách, bà viết: “Không phải lúc nào cũng có khả năng và

vẫn ít khả năng thành công trong việc tạo ra ranh giới rõ ràng giữa các nhân vật mỉa mai

và mô phỏng thấp trong truyện thiếu nhi” [242;38]. Hay giữa nhân vật anh hùng huyền

thoại và nhân vật anh hùng lãng mạn, trong cách mô tả của bà, cũng chưa thực sự giúp

cho người đọc mường tượng về ranh giới giữa hai kiểu nhân vật này. Có vẻ như chúng

giống nhau nhiều hơn là khác biệt. Thực tế, mọi sự phân loại đều chỉ mang tính tương

đối và không thể toàn vẹn.

Những nhân vật mà M.Nikolajeva nói đến ở đây là đều là những nhân vật trẻ

em của các sáng tác văn học phương Tây. Mặc dù có những điểm tương đồng nhưng

hiển nhiên là không thể giống hoàn toàn với nhân vật trẻ em trong Văn học thiếu nhi

Việt Nam. Chẳng hạn, với loại nhân vật anh hùng huyền thoại, ở Việt Nam, hầu như

vắng bóng, ngoại trừ một số sáng tác dân gian như Thánh Gióng. Nhưng đây lại là một

truyền thuyết, một huyền thoại dân gian. Ban đầu, nó được sáng tác không phải là

dành cho trẻ em. Tất nhiên, do nhân vật người anh hùng của truyện là nhân vật nhỏ

tuổi và do phương thức sáng tác một số tác phẩm văn học dân gian như thần thoại,

truyền thuyết, cổ tích phù hợp với đặc điểm tâm lí trẻ thơ nên được trẻ em tiếp nhận

22

một cách tự nhiên. Và sau đó, người ta cũng coi nó là văn học dành cho trẻ em. Mặc

dù vậy, theo sưu tầm của chúng tôi, những nhân vật này không có nhiều trong Văn học

thiếu nhi Việt Nam.

Cho dù có những ranh giới khó tách biệt giữa các loại nhân vật và có một vài

kiểu nhân vật chưa hoàn toàn tương ứng giữa phân loại của M.Nikolajeva với văn học

thiếu nhi Việt Nam, chúng tôi nhận thấy, đây là một cách phân loại nhân vật khả dụng.

Bởi lẽ, bên cạnh một vài vấn đề mà chúng tôi đã chỉ ra ở trên, những kiểu nhân vật mà

Nikolajeva đưa ra cũng có thể nhận diện trong Văn học thiếu nhi Việt Nam. Tất nhiên,

ở mỗi giai đoạn, do bối cảnh văn hóa, xã hội cụ thể, mỗi kiểu nhân vật sẽ có những tồn

tại khác nhau. Chẳng hạn, nhân vật anh hùng lãng mạn (trong phân loại của

M.Nikolajeva) cũng có mặt trong một vài truyện thiếu nhi hiện đại ở Việt Nam, như

nhân vật Nguyên và Kăply trong “Chuyện xứ Langbiang” – Nguyễn Nhật Ánh, Frank

William Wells và các bạn trong nhóm Earth ở thành phố trong truyện “Cuộc chiến với

hành tinh Fantom” – Nguyễn Bình,… Nhân vật mô phỏng cao, xuất hiện nhiều ở giai

đoạn 1945-1975 với các sáng tác về đề tài lịch sử và người tốt việc tốt như Lá cờ thêu

sáu chữ vàng – Nguyễn Huy Tưởng, Nghĩa quân sông Đà, Hoa Xuân Tứ - Quang Huy,

Tôi đi học – Nguyễn Ngọc Ký,… Nhân vật là những phương tiện truyền tải tư tưởng

xuất hiện khá nhiều trong truyện thiếu nhi Việt Nam giai đoạn 1945-1975. Giai đoạn

sau 1975, Văn học thiếu nhi Việt Nam nở rộ sáng tác viết về cuộc sống thường nhật

của trẻ em, quan tâm hơn tới những khía cạnh tâm lí tuổi mới lớn và những góc khuất

trong tâm hồn trẻ thơ, vì vậy, có thể nhận thấy kiểu nhân vật phỏng thấp, nhân vật mỉa

mai, châm biếm, nhân vật tách rời, xa lánh hiện diện nhiều trong văn học. Có thể kể ra

một số tác phẩm như Côi cút giữa cảnh đời - Ma Văn Kháng, Hành trình ngày thơ ấu -

Dương Thu Hương, Bỏ trốn – Phan Thị Thanh Nhàn, Thằng quỷ nhỏ - Nguyễn Nhật

Ánh, Miền thơ ấu - Vũ Thư Hiên, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ - Nguyễn Nhật Ánh,

Khúc đồng dao lấm láp - Kao Sơn,…

M.Nikolajeva cũng cho rằng: “Mặc dù các nhân vật hiện thực dường như đã

xuất hiện trong tiểu thuyết thiếu nhi ngay từ đầu, tôi vẫn cho rằng các nhân vật xuất

23

hiện ở cấp độ mô phỏng thấp - không siêu việt hơn cũng không kém hơn các nhân vật

khác - tương đối phát triển gần đây” [242;37].

Có thể thấy, các mô hình nhân vật trẻ em của M.Nikolajeva tương đối hợp lý khi

soi chiếu vào truyện thiếu nhi Việt Nam. Tuy nhiên, như chúng tôi đã nói, cho dù trẻ em

ở đâu cũng có nét giống nhau nhưng mỗi một dân tộc lại có những điều kiện lịch sử, xã

hội, văn hóa, môi trường khác nhau, nhân vật trẻ em trong sáng tác văn học, vì thế cũng

có những khác biệt. Cho nên, chúng tôi sẽ không sử dụng mô hình phân loại nhân vật

của M.Nikolajeva theo cách máy móc, khiên cưỡng mà coi nó như điểm tựa lý thuyết

giúp chúng tôi có được sự khu biệt nhất định các loại nhân vật trong mỗi giai đoạn Văn

học thiếu nhi Việt Nam.

Phân loại là một việc làm cần thiết để nghiên cứu đối tượng nhưng không có

sự phân loại nào có thể bao quát được toàn bộ đối tượng cũng như giữa các loại đôi

khi ranh giới không hoàn toàn có rạch ròi. Vì vậy, mọi sự phân loại cũng chỉ là tương

đối. Cố nhiên, vẫn phải có những tiêu chí trong phân loại để nhận diện nhân vật. Như

đã nói, có nhiều cách phân loại, ở đây, chúng tôi phân loại nhân vật trẻ em trong

truyện thiếu nhi Việt Nam dựa trên sự kết hợp giữa các yếu tố: bản chất xã hội của

hình tượng nghệ thuật, ý đồ sáng tạo của nhà văn và chức năng nghệ thuật của nhân

vật. Khi xem xét nhân vật trong mỗi giai đoạn văn học dựa trên những yếu tố này, ta sẽ

thấy được rõ bức tranh văn học của từng thời kì qua các kiểu loại nhân vật. Chẳng hạn,

trong giai đoạn 1945-1975, ở miền Bắc, các nhân vật chủ yếu được nhận ra qua các vai

xã hội như chiến sĩ, công dân, tấm gương. Điều này cũng xuất phát từ mục đích sáng

tác thời kì đó là xây dựng những hình tượng trẻ em theo mẫu hình lí tưởng của thời đại

và vì thế, nhân vật cũng được thể hiện qua phương thức nghệ thuật của và thủ pháp

đặc trưng của giai đoạn văn học này. Ở giai đoạn sau 1975, khi người viết muốn khám

phá, trình bày thực trạng của trẻ em trong đời sống hiện đại, xuất hiện kiểu nhân vật

nạn nhân; khi cần gìn giữ, bảo lưu những giá trị nhân bản, vẻ đẹp của thế giới trẻ thơ

có nhân vật trải nghiệm, nhân vật hồn nhiên mơ mộng, nhân vật với những xúc cảm

đầu đời. Trong nỗ lực nhập thân, hóa thân vào thế giới trẻ thơ theo đặc điểm tư duy,

thẩm mĩ của trẻ, có loại nhân vật trẻ em anh hùng lãng mạn,…

24

1.2. Lịch sử nghiên cứu

1.2.1. Vài nét về nghiên cứu nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi nước ngoài

Trên thế giới, Văn học thiếu nhi cũng là bộ phận văn học xuất hiện muộn mặc

dù những cuốn sách giáo khoa và đạo lí cho trẻ em đã có ở châu Âu từ khoảng thế kỉ

XIV - XVI. Cho đến giữa thế kỉ XIX, các tác phẩm viết cho thiếu nhi vẫn nằm ngoài

phạm vi của văn học. Lịch sử nghiên cứu về Văn học thiếu nhi, vì vậy cũng chưa có

nhiều công trình, chưa kể có khá ít nghiên cứu về nhân vật trong truyện thiếu nhi.

Khi thực hiện một lệnh tìm kiếm với chủ đề: “nhân vật trong văn học thiếu nhi”

trên trang thư viện trực tuyến: http://catalog.loc.gov chúng tôi thu được 303 kết quả.

Trong số đó, có đến 50% kết quả là về Văn học thiếu nhi nói chung, 30% số còn lại nói

đến nhân vật trong một vài trường hợp cụ thể như nghiên cứu về Harry Poter, Robison

Crusoe, chú thỏ Peter Rabit,… Nhiều tiêu đề sách cũng dễ gây nhầm lần như cuốn Các

nhân vật trong văn học trẻ em của Raymond Jones, thực ra là một cuốn phụ lục chú giải.

Trong đó, tác giả giới thiệu 1700 nhân vật từ 230 truyện thiếu nhi, chủ yếu có nguồn gốc

từ các nước Mỹ, Anh, Úc, Canada,… Cuốn sách như một tài liệu hỗ trợ cho các nhà

nghiên cứu, giáo viên về danh sách các nhân vật có mặt trong một số tác phẩm thiếu nhi

tiêu biểu. Hoặc công trình với tên gọi: Phá vỡ cấu trúc người hùng: thể loại văn học và

văn học thiếu nhi của Margery Hourihan, cung cấp một cách nhìn về cấu trúc của những

tác phẩm phiêu lưu, qua đó, xây dựng những giá trị trong việc giáo dục trẻ em.

Trong tính chất “đánh đố” của các tư liệu liên quan tới nhân vật thiếu nhi và sự

ít ỏi của các công trình nghiên cứu về vấn đề này, chúng tôi được tiếp cận với một

cuốn sách, có thể nói đã giải quyết được một số khía cạnh về lí thuyết nhân vật trong

văn học thiếu nhi, như đúng tên gọi của nó: Lý thuyết về nhân vật trong văn học thiếu

nhi của Maria Nikolajeva. Cuốn sách của M. Nikolajeva nghiên cứu các khía cạnh bản

thể học và nhận thức luận của nhân vật trong truyện thiếu nhi và chỉ ra những sự khác

nhau cơ bản giữa xây dựng nhân vật trong truyện thiếu nhi và truyện nói chung, bằng

cấu trúc 13 chương, 2 phần.

Phần 1: Bản thể và phân loại nhân nhân vật

Gồm 7 chương:

Chương 1. Phương pháp tiếp cận nhân vật văn học.

25

Chương 2. Từ anh hùng tới nhân vật

Chương 3. Đi tìm nhân vật trung tâm

Chương 4. Nhân vật tập thể

Chương 5. Từ nhân vật tập thể đến nhân vật cá nhân

Chương 6. Nhân vật thứ cấp và chùm nhân vật

Chương 7. Tính phức tạp và phát triển

Phần 2. Nhận thức luận về nhân vật

Gồm 6 chương (từ chương 8 đến chương 13)

Chương 8. Nhân vật và cốt truyện

Chương 9. Diễn ngôn của người kể chuyện: Miêu tả và tự sự

Chương 10. Diễn ngôn của người kể chuyện: Hành động và sự kiện

Chương 11. Diễn ngôn nhân vật: Hành vi lời nói

Chương 12. Diễn ngôn nhân vật: Ngôn ngữ bên trong

Chương 13. Nhân vật tiềm ẩn

Sau khi phân tích các vấn đề về phân loại nhân vật, các vấn đề về cấu trúc nhân

vật trẻ em cũng như kĩ thuật thể hiện nhân vật trẻ em trong tác phẩm, M.Nikolajeva đã

đưa ra ba kết luận:

Một là, việc hiểu một nhân vật trong Văn học thiếu nhi phụ thuộc vào cách nhìn

nhận tác phẩm như một công cụ giáo dục hay một đối tượng thẩm mĩ. Nikolajeva cho

rằng: “Đối với cá nhân tôi, phương pháp tiếp cận kí hiệu học đối với các nhân vật văn

học có tính chất tự nhiên hơn là phương pháp mô phỏng. Tuy nhiên, tôi không phủ

nhận giá trị tư tưởng, giáo dục của văn học thiếu nhi và tôi ý thức cao về sự áp dụng

thực tế của sách thiếu nhi, vì mục đích của văn học cũng như xã hội hóa” [238;282].

Hai là, mặc dù yêu cầu về nhân vật đối với các nhà nghiên cứu đều là phải:

phức tạp, năng động, toàn vẹn, đầy đủ,… nhưng khi đánh giá nhân vật cần phải gắn

nó với từng thể loại truyện thiếu nhi, với mỗi sáng tác cụ thể.

Cuối cùng, Nikolajeva cho rằng, phải luôn luôn đưa nhân vật trở lại văn bản,

nơi mà chúng thuộc về: “Khi chúng tôi đọc và và thưởng thức một cuốn tiểu thuyết,

chúng tôi gặp gỡ các nhân vật theo tuyến tính, bên trong văn bản không phải bên ngoài

văn bản. Chúng tôi không gặp họ như một tổng thế, hoàn thiện, tính cách cá nhân nhất

quán như cách họ xuất hiện trong các bài luận về phê bình văn học. Họ là một phần

26

của văn bản, của không gian và thời gian trong văn bản; họ bị biến dạng bởi phối cảnh

trần thuật, bị che khuất bởi ý đồ của người viết. Bên ngoài truyện, họ là nhân vật chết

nhưng đặt trở lại truyện, họ lại bắt đầu sống và tác động đến chúng ta” [242;284].

Có thể nói, cuốn sách của M.Nikolajeva đã cung cấp một sự phân tích khá toàn

diện ở phương diện lí thuyết về nhân vật trong Văn học thiếu nhi. Nghiên cứu này

cũng đã góp phần khẳng định: “Nhân vật trong Văn học thiếu nhi, ở nhiều khía cạnh,

được xây dựng khác biệt so với nhân vật trong văn học nói chung” [242;x].

1.2.2. Tình hình nghiên cứu nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam

Nghiên cứu Văn học thiếu nhi Việt Nam nói chung và truyện viết cho thiếu nhi

nói riêng là vấn đề chưa được nhiều người quan tâm sâu sắc. Một mặt, vì chính bản

thân nền Văn học thiếu nhi còn non trẻ, chỉ mới thực sự hình thành từ sau cách mạng

tháng Tám 1945. Mặt khác, các sáng viết cho thiếu nhi ở Việt Nam chưa có nhiều

thành tựu nổi bật. Phần lớn các bài viết về Văn học thiếu nhi cũng như truyện thiếu nhi

đều được tập hợp trong hai tập của cuốn sách: Văn học thiếu nhi Việt Nam do Vân

Thanh sưu tầm – biên soạn, nxb Kim Đồng, năm 2003. Trong đó, chủ yếu mô tả, tóm

tắt về những sáng tác Văn học thiếu nhi hoặc đặt ra một số vấn đề về sáng tác cho

thiếu nhi. Không có nhiều nghiên cứu theo hướng thi pháp học.

Người có công đầu trong việc đưa Văn học thiếu nhi trở thành đối tượng nghiên

cứu một cách quy mô là Vân Thanh với luận án Truyện viết cho thiếu nhi từ sau cách

mạng tháng Tám (sau được in thành sách: Truyện viết cho thiếu nhi dưới chế độ mới)

của tác giả Vân Thanh. Nghiên cứu của Vân Thanh đã chỉ ra những loại đề tài chính

của truyện viết cho thiếu nhi như:

Truyện lịch sử

Truyện về đề tài kháng chiến chống đế quốc xâm lược

Truyện về đề tài lao động, học tập và sinh hoạt

Truyện tranh cho lứa tuổi nhỏ

Truyện khoa học

Truyện đồng thoại

Công trình trên cùng những bài viết của tác giả Vân Thanh đã cho chúng tôi

một cái nhìn tổng quan về diện mạo nền Văn học thiếu nhi Việt Nam cũng như sự vận

động của thể loại truyện viết cho thiếu nhi từ sau cách mạng tháng Tám tới năm 1975.

27

Lã Thị Bắc Lý với luận án Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975 (sau này

được in thành sách cùng tên) đã làm rõ thêm bức tranh Văn học thiếu nhi (ở thể loại

truyện) sau ngày nước nhà thống nhất. Công trình đã chỉ ra được những tìm tòi và đổi

mới của truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975, đặc biệt trên phương diện nhân vật,

thể loại và giọng điệu.

Hai công trình trên, một nghiên cứu về truyện viết cho thiếu nhi từ sau cách

mạng tháng Tám, một kế tiếp nghiên cứu về truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975,

đã cho thấy những thành tựu và đổi mới trên phương diện nội dung cũng như hình

thức thể loại của truyên viết cho thiếu nhi từ khi ra đời cho đến nay.

Giáo trình: Văn học thiếu nhi Việt Nam của Trần Đức Ngôn - Dương Thu Hương,

nxb Giáo dục, in năm 1998 và Văn học trẻ em của Lã Thị Bắc Lý, nxb ĐHSPHN, 2007

đã chính thức hóa sự hiện diện của nội dung Văn học thiếu nhi trong các trường đại

học và Cao đẳng. Đây là tư liệu bao quát đời sống Văn học thiếu nhi Việt Nam qua

những tác giả tiêu biểu như: Võ Quảng, Tô Hoài, Phạm Hổ, Trần Đăng Khoa,…

Cuốn chuyên đề Thi pháp văn học thiếu nhi do Bùi Thanh Truyền chủ biên,

trong dự án phát triển giáo viên tiểu học, 2007 với sáu vấn đề: Quan niệm nghệ thuật

về con người; Thời gian nghệ thuật; Không gian nghệ thuật; Cốt truyện; Kết cấu và

ngôn từ nghệ thuật trong Văn học thiếu nhi đã trình bày khá rõ những nội dung then

chốt của thi pháp Văn học thiếu nhi. Tuy nhiên, do là công trình được viết dưới dạng

mô đun nhằm trạng bị cho sinh viên những hiểu biết nhất định về thi pháp Văn học nói

chung và thi pháp Văn học thiếu nhi nên nội dung không theo hướng khảo cứu chuyên

sâu mà thiên về hướng dẫn dạy học. Phần “Quan niệm nghệ thuật về con người trong

Văn học thiếu nhi” cũng có đưa ra một số nhận định về đặc điểm nhân vật trong sáng

tác của Phạm Hổ như “mỗi nhân vật là một thiên thần nhỏ góp phần truyền tải thông

điệp của trẻ thơ của người viết” [41;220]. Hoặc “nhân vật phải giàu tính giáo dục để

góp phần hình thành đạo đức, nhân cách trẻ em” [43;220] trong truyện Võ Quảng.

Mặc dù vậy, chuyên luận cũng không dành nhiều quan tâm tới vấn đề nhân vật - một

yếu tố quan trọng để nhận diện thi pháp Văn học thiếu nhi. Về sau, trong bài viết

“Nhân vật trẻ em trong truyện ngắn cho thiếu nhi thời đổi mới” in trên Tạp chí Nghiên

cứu văn học số 2 năm 2010, Bùi Thanh Truyền và Nguyễn Thanh Tâm đã phân tích và

28

chỉ ra bốn kiểu dạng nhân vật trẻ em: nhân vật với những mảnh vỡ tính cách; nhân vật

với những xúc cảm mới mẻ; Nhân vật trải nghiệm; Nhân vật bi kịch. Song bài viết

chưa tạo được cảm giác thuyết phục trong cách luận giải về cấu trúc các loại nhân vật.

Năm 2011, luận án “Thể loại truyện đồng thoại trong văn học Việt Nam hiện đại”

của Lê Nhật Ký đã góp phần làm đầy đặn hơn những nghiên cứu về Văn học thiếu nhi ở

Việt Nam. Công trình này tập trung tìm hiểu về truyện đồng thoại từ phương diện thể

loại. Qua việc xem xét những đặc trưng tiêu biểu của loại truyện này, tác giả luận án

cũng đề cập đến hệ thống nhân vật của truyện đồng thoại mà trọng tâm là nhân vật loài

vật. Ngoài công trình trên (sau này đã được in thành sách), Lê Nhật Ký cũng có những

đóng góp không nhỏ trong việc tạo dựng bức tranh nghiên cứu Văn học thiếu nhi với

nhiều bài viết, chuyên luận được xuất bản và in trên các tạp chí và blog cá nhân.

Trong khuôn khổ đề tài khoa học được tài trợ bởi Quỹ phát triển khoa học và

công nghệ Quốc gia (Nafosted), năm 2016, Lã Thị Bắc Lý tiếp tục xuất bản cuốn sách:

Văn học thiếu nhi Việt Nam thời kì hội nhập trong đó, bức tranh toàn cảnh về Văn học

thiếu nhi thời đổi mới được phác họa, nhận diện trên cả bình diện khái quát và cụ thể ở

từng trường hợp tiêu biểu.

Mặc dù chưa thực sự tạo được bề dày trong lĩnh vực nghiên cứu, song các công

trình chuyên sâu về Văn học thiếu nhi cũng như nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi

Việt Nam đã cho thấy được chỗ đứng của bộ phận văn học này trong nền văn học dân

tộc cũng như nỗ lực gây dựng nền Văn học thiếu nhi của các nhà nghiên cứu.

Bên cạnh những công trình trên, đây đó trên các báo, tạp chí, có những bài viết

về bộ phận văn học này, trong số đó, có những bài đề cập đến vấn đề nhân vật trẻ em.

Tập hợp các ý kiến đánh giá về nhân vật trẻ em, chúng tôi sắp xếp thành hai nội

dung: 1. Những nhận định chung về nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam;

2. Những nhận định về nhân vật trẻ em qua một số mảng đề tài trong truyện thiếu nhi

Việt Nam.

1.2.2.1 Những nhận định chung về nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam

Nhận định về nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi giai đoạn 1945-1975

Vân Thanh, Truyện viết cho thiếu nhi trong chặng đầu phát triển,(Phác thảo

văn học thiếu nhi Việt Nam, nxb Khoa học xã hội, 1999): “Nhìn chung hình ảnh của

29

các em trong truyện tuy chưa được miêu tả toàn diện nhưng đã có vài nét điển hình,

phản ánh đúng hoàn cảnh thực tế là có rất nhiều thiếu nhi anh dũng trong kháng

chiến”[200;182].

Góp phần khẳng định những đóng góp của các nhà văn trong việc xây dựng

hình tượng nhân vật trẻ em giai đoạn 1945-1975, Vũ Ngọc Bình cho rằng: “Trong văn

học Việt Nam, đã xuất hiện những nhân vật thiếu nhi tuy chưa thật đậm đà sắc sảo

nhưng đã có vóc dáng và vận mệnh riêng gắn bó máu thịt với đời sống của toàn dân

trong sản xuất và chiến đấu” [203;72-73].

Nguyên Ngọc trong bài “35 năm văn học cho thiếu nhi”, trích báo cáo hội nghị

văn thiếu nhi năm 1980, đã viết: Giữa các nhân vật trong truyện viết cho các em, các

quan hệ thường nghèo nàn, đơn giản. Thực ra, trong đời sống, mỗi con người, nhất là ở

lứa tuổi bé mà đồng chí Tố Hữu từng nói là có sức sống gấp đôi hoặc gấp mấy chúng

ta, những quan hệ thật là giàu có: quan hệ giữa người với người, giữa người với sự vật,

nghĩa là giữa kỷ niệm và ước mơ, giữa cái có thực và cái không bao giờ có, giữa cái

xấu và cái tốt,… những quan hệ ấy chằng chịt lấy nhau. Và theo như một nhà văn nào

đó đã nói: một chức năng quan trọng của nhà văn là giúp cho bạn đọc thấy được tất cả

những mối quan hệ ấy” [203;104]. Ông kết luận: “Nhân vật là thiếu nhi nhưng đọc thì

thấy không có gì khác mấy so với người lớn” [198;104]. Đây là một nhận định khá

toàn diện, bao quát được khía cạnh nổi bật của nhân vật trẻ em giai đoạn 1945-1975

trong truyện thiếu nhi Việt Nam.

Trong bài Xin chú ý, có trẻ em, Văn Hồng đã nhận xét về chứng bệnh phổ biến

trong các cuốn sách viết cho trẻ em trước thời kì đổi mới: “Tác phẩm thường được

thể hiện bằng những cấu trúc bằng phẳng, giản đơn, với những nhân vật hờ hững tẻ

nhạt, với những triết lý rối rắm và những tình cảm bi đát; thiếu cái đằm thắm, ngộ

nghĩnh, buồn cười, lạc quan… vốn gắn liền với tâm lý tuổi thơ” [203;30]. Ở bài viết

Phác họa một chặng đường văn học thiếu nhi , ông đánh giá: “Nhân vật mới chỉ có

nét dáng, chưa có những tính cách đầy đủ. Chưa có những con người mới xã hội chủ

nghĩa, mới cả thế giới quan, nhân sinh quan, mới cả tư tưởng, tầm nhìn, đạo đức, nếp

sống [203;95].

Nhận định về nhân vật trẻ em trong giai đoạn 1945-1975, Lã Thị Bắc Lý cho

rằng: “Nhân vật mang dáng dấp của những người anh hùng, thể hiện rất rõ phẩm chất

30

anh hùng, hành động anh hùng, tư tưởng anh hùng. Hầu hết các nhân vật đều được xây

dựng theo bút pháp lí tưởng hóa và lãng mạn hóa. Tác giả ít chú ý đến quá trình phát

triển, biến đổi của tính cách nhân vật mà chỉ tập trung khắc họa vẻ đẹp của nhân vật

trong hoàn cảnh thử thách quyết liệt của cuộc chiến đấu” [112;86].

Có thể nói, các nhận định khá thống nhất trong đánh giá nhân vật trẻ em trong

truyện thiếu nhi Việt Nam về việc cho rằng: Hình ảnh của trẻ em đã được thể hiện khá

thống nhất trong giai đoạn kháng chiến. Bên cạnh đó, nhân vật trẻ em cũng chưa tạo

được màu sắc riêng, phần lớn “đều được xây dựng theo bút pháp lí tưởng hóa và lãng

mạn hóa”. Nhân vật trẻ em trong giai đoạn 1945-1975 giống một người lớn thu nhỏ

hơn là một đứa trẻ.

Nhận định về nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi giai đoạn sau 1975

Khi bàn về Văn học thiếu nhi sau 1975, Vân Thanh vẫn nhất quán với quan

niệm cho rằng nhân vật trẻ em phải được tái hiện trên tinh thần cao đẹp, bà khẳng

định: “Trên tất cả sự phong phú của những đề tài và sự mở rộng các phương thức tiếp

cận với hiện thực, thì chủ nghĩa anh hùng, những mặt sống tích cực, những nhân cách

cao thượng vẫn là trung tâm mô tả của văn học thiếu nhi. Nhưng bên cạnh đó, không

bỏ qua các mặt xấu, tiêu cực, với thái độ phê phán rõ ràng, không gợi lên sự mơ hồ,

lẫn lộn, và với mục đích chính là làm nổi lên cái mới, cái đẹp” [200;251].

Trong công trình Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975, Nxb Đại học Quốc

Gia, 2000, Lã Bắc Lý đã nêu nét mới trong hình tượng nhân vật trẻ em: “Từ nhân vật

chỉ mang một đặc điểm tính cách, phẩm chất định hình đại diện cho một mẫu người

đến nhân vật giàu cá tính, phức hợp, được miêu tả như một nhân cách, một số phận;

nhà văn luôn có ý thức hướng tới những biểu hiện đầy biến động của các quá trình tâm

lí, tính cách để “nắm bắt con người đích thực ở trong con người” [112;63].

Cùng quan điểm với Lã Bắc Lý, Bùi Thanh Truyền, cũng khẳng định về sự mới

mẻ trong hình tượng nhân vật trẻ em sau 1975: “So với giai đoạn trước, con người

trong truyện ngắn cho trẻ em bây giờ được nhìn nhận một cách toàn diện, mới mẻ hơn.

Ngoài những phẩm chất riêng có của thiếu nhi mọi thời đại, người viết còn tô đậm chất

đời thường, phần nhân tính phổ quát ở họ… Khoảng cách giữa nhân vật , đặc biệt là

nhân vật thiếu nhi với độc giả nhỏ tuổi ngày càng thu hẹp lại” [221;113].

31

Nhìn chung, nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi sau 1975, đều được các nhà

nghiên cứu cho rằng, đã có những bước đột phá, thay đổi trên phương diện cấu trúc

nhân vật. Theo đó, nhân vật trẻ em sau 1975, được đánh giá là “trẻ” hơn, gần gũi hơn

với đới sống của các em vì đã tái hiện được chân thực hình ảnh của trẻ em. Cũng bởi thế

mà khoảng cách giữa nhân vật và độc giả, giữa người viết và bạn đọc được rút ngắn.

1.2.2.2 Những nhận định về nhân vật trẻ em qua một số mảng đề tài trong truyện thiếu

nhi Việt Nam

Theo nguồn tư liệu chúng tôi thu thập được, có khá nhiều bài viết về các mảng

đề tài của văn học thiếu nhi, trong đó, các tác giả cũng đưa ra những nhận xét về nhân

vật xuất hiện trong từng mảng đề tài này. Chúng tôi xin dẫn ra đây những ý kiến đó.

Đề tài kháng chiến

Vân Thanh cho biết: “Qua việc tìm hiểu ý kiến của các em, ta có phần chắc là

những truyện viết về đề tài kháng chiến phần lớn đều được các em ưa thích. Đặc biệt

đối với lứa tuổi từ 9 đến 13, những truyện viết về chiến đẫu vẫn hấp dẫn hơn cả. Các

em thiết tha muốn được nghe kể lại đời sống, sinh hoạt của những những người anh

hùng, kể cả những anh hùng thiếu nhi vốn có lòng yêu nước nồng nàn và tình yêu ghét

rõ rệt. Thêm vào đó hoạt động của những nhân vật anh hùng thường phong phú, sôi

nổi, phù hợp với tính ưa hoạt động của các em” [200;187].

Bà cũng đánh giá: “Nói chung, các tác giả không sa vào trình bày tiểu sử một

cách nhạt nhẽo hoặc kê khai thành tích một cách khô khan, mà đã chú ý xây dựng

những hình tượng vừa chân thực vừa sinh động, phản ánh đúng được cuộc đời của

những nhân vật thiếu nhi hồn nhiên, thơ ngây, ngần gũi với các em, nhưng rất gan góc,

ngoan cường” [204; 191].

Đề tài sinh hoạt

Viết về sinh hoạt của các em, tác giả Bùi Thanh Ninh đã cho rằng: “Ở một số

tác phẩm, các tác giả đã chú ý đến việc xây dựng nhân vật của mình một cách khá sinh

động và trên mức độ nhất định có thể gọi nhân vật đó là những nhân vật có nhiều nét

điển hình trong văn học thiếu nhi. Qua những nhân vật ấy, ta thấy nổi bật lên lòng ham

tiến bộ, tinh thần phấn đấu vươn lên để trở thành một em thiếu nhi tốt, tinh thần cố

gắng lao động và học tập” [204;57].

Vũ Ngọc Bình đã đưa ra những ý kiến sau khi điểm bốn tác phẩm thuộc đề tài

sinh hoạt: Hợp tác xã của chúng em – Tô Hoài, Tổ tâm giao – Trần Thanh Địch, Bí mật

32

miếu Ba Cô – Văn Trọng, Danh dự của chúng em - Đào Vũ như sau: “Sáng tác cho

thiếu nhi về đề tài sinh hoạt mới, có thể chỉ hạn chế trong sinh hoạt hàng ngày của bản

thân các em hoặc có thể gắn chặt “thế giới riêng biệt” của trẻ em với cuộc sống xã hội,

để qua đó khơi gợi cho các em hiểu rõ hơn, sâu hơn cuộc sống và cho người lớn – và

người viết – hiểu đúng hơn và kỹ hơn con em mình và nhân vật của mình” [204;22].

Đề tài lịch sử

“Với đề tài lịch sử, các tác giả đã có cố gắng vượt lên khỏi tình trạng miêu tả sự

kiện lịch sử đơn thuần để đem lại cho mỗi nhân vật một đường nét riêng. Có tác phẩm

đã dựng lên được hình ảnh của những nhân vật thiếu nhi sinh động như Nguyễn Chích

lúc thiếu thời (Tướng quân Nguyễn Chích), Bàn A Tốn (Nghĩa quân sông Đà), Rái

Minh (Nhụy Kiều tướng quân)” [200;190]. Bùi Thanh Ninh cho rằng: “Trong việc xây

dựng nhân vật, một vấn đề cần đặt ra là, trong một cuốn truyện lịch sử viết cho các em

có nhất thiết phải mô tả nhân vật thiếu nhi không? Không ai có thể phủ nhận được một

hiện thực hiển nhiên là thiếu nhi Việt Nam ở bất kì thời đại lịch sử nào cũng cùng cha

ông hăng hái đánh đuổi bọn xâm lược. Cho nên vấn đề đặt ra không phải là nên hay

không nên, cần hay không cần” [204;101].

Đề tài nông thôn

Nhân vật trẻ em được Văn Trọng nhìn nhận: “Nông thôn nước ta đang chuyển

biến theo yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng mới. Thiếu niên ở nông thôn nước ta đang

trưởng thành nhanh chóng trong nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ Tổ

quốc, và lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội.” [203;321].

Đề tài phiêu lưu

Về đề tài phiêu lưu, Văn Hồng có nhận xét: “Đặc điểm chung của truyện phiêu

lưu là các nhân vật luôn thay đổi môi trường sống, thường xuyên phải đối phó với

những cảnh ngộ bất ngờ, những tình huống hiểm nghèo, đòi hỏi phải bình tĩnh, thông

minh, dũng cảm” [70;40].

Tóm lại, phần lớn các ý kiến về nhân vật trẻ em trong các mảng đề tài đều dừng

lại ở việc nhận xét một vài đặc điểm nổi bật của nhân vật qua một số sáng tác cùng đề

tài. Những nhận định này, tuy mới ở mức độ khái quát, nhưng đã phần nào chỉ ra được

nét nổi bật của nhân vật trẻ em trên bình diện rộng. Đó cũng là cơ sở giúp chúng tôi có

thêm tư liệu cho những đánh giá và phân tích trong luận án về các kiểu loại nhân vật

trẻ em ở truyện thiếu nhi Việt Nam.

33

Chƣơng 2

NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG TRUYỆN THIẾU NHI VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN TỪ 1945 ĐẾN 1975

2.1. Những nhân tố tác động đến việc xây dựng nhân vật trẻ em

2.1.1. Bối cảnh xã hội, văn hóa

Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, mở ra một kỷ nguyên mới cho đất

nước - kỷ nguyên độc lập, tự chủ. Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Ðình, Hồ Chủ

Tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ách

nô lệ bị đập tan, con người Việt Nam được giải phóng; bừng lên một niềm hạnh phúc

lớn lao đến thiêng liêng, như kết quả tất yếu từ khát vọng tự do và quyết tâm cứu nước

của cả dân tộc. Nếu như dưới chế độ phong kiến, người lao động và con em họ bị rẻ

rúng, vùi dập, thì sau thắng lợi của Cách mạng vai trò và vị thế của họ được coi trọng

hơn. Trong lá thư gửi học sinh tháng 9 năm 1945, Bác Hồ đã viết: “Non sông Việt

Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để

sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở

công học tập của các cháu” [91;19-20]. Xác định được trách nhiệm trọng đại của thế

hệ trẻ với vận mệnh của dân tộc, Đảng và Bác đã thể hiện rất rõ sự quan tâm tới thiếu

nhi trong công cuộc dựng nước và giữ nước.

Chính quyền cách mạng non trẻ, ngay lúc đó, đã phải đương đầu với muôn vàn

khó khăn trên tất cả các phương diện của đời sống. Nền kinh tế hầu như kiệt quệ với

hệ thống kho tàng trống rỗng, nông nghiệp lạc hậu, mất mùa vì lũ lụt ; các ngành công

thương nghiệp, thủ công nghiệp bị đình đốn hoặc phá sản. (Hậu quả thảm khốc là nạn

đói xảy ra, làm chết hơn hai triệu người, ngót 1/10 dân số nước ta bấy giờ). Trình độ

dân trí, văn hóa giáo dục thấp kém với hơn 80% dân số mù chữ. Đại đa số con em của

những người nông dân không được đến trường. Trước tình hình đó, Đảng và chủ tịch

Hồ Chí Minh đã đưa ra những chính sách nhằm nâng cao trình độ tri thức cho nhân

dân, đặc biệt là trẻ em. Trong phong trào Bình dân học vụ, trẻ em vừa đóng vai trò là

đối tượng đi học vừa tham gia cổ vũ, động viên người dân đi xóa mù.

Sự lãnh đạo của Đảng với đường lối văn nghệ xuyên suốt (Bản đề cương văn hóa

năm 1943) là yếu tố trọng yếu chấm dứt sự phân hóa phức tạp của văn hóa văn học nước

ta dưới ách thực dân, tạo nên một nền văn nghệ thống nhất sau 1945.

34

Nước Việt Nam dân chủ vừa mới ra đời đã phải đối mặt với những thử thách

cam go. Chỉ ba tuần sau cách mạng tháng Tám, chính quyền non trẻ của chúng ta đã

phải lâm vào cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược với tương quan lực lượng

còn quá chênh lệch so với kẻ địch.. Để đối phó với tình hình đó, Đảng và chủ tịch Hồ

Chí Minh đã kêu gọi toàn dân kháng chiến. Các tầng lớp, giai cấp, các thế hệ đều được

tập hợp trong mặt trận Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Trong tình

thế đó, trẻ em, bên cạnh việc học hành, cũng được huy động như một lực lượng phục

vụ kháng chiến. Trong những bức thư của Bác Hồ gửi nhi đồng toàn quốc nhân dịp kỷ

niệm Quốc khánh năm 1947, đã thể hiện chủ trương này: “Bác khuyên các cháu gắng

sức thêm. Việc gì có ích cho kháng chiến, có ích cho Tổ Quốc thì các cháu nên gắng

sức làm. Làm được bao nhiêu tốt bấy nhiêu” [91;29].

Trong kháng chiến chống Pháp, có bao người đã ngã xuống, bao đứa trẻ phải mồ

côi cha mẹ từ khi còn rất nhỏ. Chính hoàn cảnh đó đã hun đúc ý chí chiến đấu của các

em, khiến các em sớm phải già trước tuổi và đảm đương những công việc của người lớn.

Những đứa trẻ lớn lên trong bom đạn, trong những tổn thương không gì bù đắp nổi của

chiến tranh hiểu hơn ai hết giá trị của cuộc sống. Vì thế, chúng đã sớm trở thành những

chiến sĩ nhỏ tuổi, tham gia kháng chiến và sẵn sàng xả thân vì cuộc chiến chống ngoại

xâm. Chúng trở thành những em bé liên lạc, những chiến sĩ đưa đường, những cô giao

liên,… đầy hăng hái và trách nhiệm. Hoàn cảnh lịch sử đặc biệt ấy đã tạo nên những anh

hùng nhỏ tuổi, mà người lớn, dù không muốn cũng phải buộc lòng chấp nhận.

Sau hiệp định Genève 1954, đất nước bị phân thành hai nửa. Miền Bắc bắt đầu

xây dựng xã hội chủ nghĩa, với hai nhiệm vụ: một mặt vừa xây dựng nền kinh tế, văn

hóa xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa mặt khác phải chi viện cho miền Nam

đấu tranh dành độc lập cho dân tộc. Một lần nữa, toàn thể dân tộc, không ngoại trừ trẻ

em, lại dốc sức tham gia xây dựng xã hội chủ nghĩa và giải phóng miền Nam. Trẻ em

vừa học tập vừa tham gia những công việc của xã hội như làm kế hoạch nhỏ, vào hợp

tác xã măng non. Khi còn nhỏ, các em thi đua học tốt, lao động tốt, lúc lớn lên, 17, 18

tuổi, các em xung phong ra trận, tham dự đoàn quân giải phóng miền Nam. Những đứa

trẻ của một dân tộc mà lịch sử phải đối mặt với hàng loạt cuộc xâm lược đã gắn tuổi

thơ mình với vận mệnh Tổ Quốc.

Cùng lúc đó, trên một nửa đất nước tính từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau, với sự

trợ giúp tích cực của Hoa Kì, chính quyền Ngô Đình Diệm đã nhanh chóng ổn định

35

được tình hình. Nhưng từ năm 1960, tình hình xã hội miền Nam ngày càng bất ổn.

Trong những năm 1959 - 1960, dưới ách đô hộ, kìm kẹp của chính quyền Ngô Đình

Diệm, phong trào Đồng Khởi của nhân dân miền Nam phát triển mạnh mẽ dẫn đến sự

ra đời của mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam năm 1960. Cuộc đấu tranh giải

phóng của lực lượng cách mạng ở miền Nam được sự chi viện lớn lao của miền Bắc

ngày càng phát triển mạnh mẽ khiến chính quyền Sài Gòn có nguy cơ sụp đổ. Đảo

chính ngày 11-11-1960, rồi hai phi công Phạm Phú Quốc, Nguyễn Văn Cử thả bom

dinh Độc lập 2-1962, nếp thanh bình tương đối của thời ngưng chiến sau 1954 dần

mất. Bạo loạn xảy ra liên miên, người dân không còn tin tưởng vào chính quyền. Để

cứu vãn tình hình, Mỹ đã ồ ạt đổ quân vào miền Nam và bao vây, bắn phá miền Bắc.

Về mặt văn hóa, sau cách mạng tháng Tám, Đảng vẫn tiếp tục chủ trương xây dựng

nền văn hóa mới Việt Nam với ba tiêu chí: dân tộc, khoa học, đại chúng. Các giá trị văn

hóa quần chúng được khơi dậy, trở thành nguồn lực tinh thần trong đời sống nhân dân.

Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và nhân dân cùng hai cuộc chiến tranh yêu

nước vĩ đại đã khơi dậy và phát huy cao độ tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng

trong truyền thống dân tộc. Ý thức giai cấp cũng được đề cao, chi phối mọi mặt của

đời sống và quan hệ con người. Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần cộng đồng, lí tưởng xã

hội chủ nghĩa không chỉ là nền tảng tinh thần của dân tộc trong chiến tranh mà còn là

nền tảng tư tưởng của văn học giai đoạn này. Nó khúc xạ vào mỗi sáng tác hình ảnh

người anh hùng cách mạng tràn đầy lí tưởng với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp, sẵn

sàng xả thân vì cộng đồng. Hình mẫu này cũng được dịch chuyển sang Văn học thiếu

nhi, tạo thành các kiểu nhân vật trẻ em giống như mô hình nhân vật người lớn thu nhỏ.

Ở miền Nam, những biến động trong đời sống xã hội sau năm 1960 đã tạo nên

trạng thái âu lo về chiến tranh, hoang mang trước thực tại. Thuyết hiện sinh, vì thế được

giới trí thức đón nhận như một cứu cánh cho đời sống. Theo đó, con người tự do, cô đơn

cuộc đời phi lí, vô thường,… được xem là biểu hiện của trạng thái hiện sinh. Bên cạnh

đó, sự du nhập các luồng tư tưởng mới từ Mỹ, châu Âu cũng tạo những tiếng nói khác.

Có thể nói, hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ trường kì

suốt 30 năm đã tác động sâu sắc, toàn diện tới đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc,

trong đó có Văn học thiếu nhi, tạo nên những đặc điểm riêng biệt của một nền văn học

hình thành và phát triển trong hoàn cảnh chiến tranh gian khổ, ác liệt. Biến động của

tình hình xã hội, văn hóa đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự hình thành và phát triển của

những kiểu loại nhân vật trẻ em trong Văn học thiếu nhi giai đoạn 1945-1975.

36

2.1.2. Bối cảnh văn học thiếu nhi

Cách mạng tháng Tám thành công, xây dựng và phát triển nền văn học thiếu nhi là

một trong những hình thức mà Đảng và Bác luôn chú ý. Bộ phận văn học thiếu nhi của Hội

văn nghệ được thành lập trong kháng chiến do Tô Hoài phụ trách với sự tham gia của nhà

văn: Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Tuân,

Lưu Hữu Phước, … Năm 1946, tờ Thiếu sinh ra đời với lời căn dặn của chủ tịch Hồ Chí

Minh: “Báo trẻ em ra đời – Báo đó là báo của trẻ em, vậy các trẻ em nên giúp cho báo, gửi

tin tức tranh vẽ và viết bài cho báo. Nên đọc cho các em chưa biết chữ nghe, nên làm cho

báo phát triển” [203;43]. Ngoài tờ Thiếu sinh còn có thêm các báo Xung phong, Măng

non, Tuổi trẻ,… Nhiệm vụ của những tờ báo này là giáo dục các em trở thành những

người thật thà, dũng cảm, tích cực xây dựng đất nước. So với báo của Tự lực văn đoàn

giai đoạn trước, những sách Kim Đồng, Hoa kháng chiến đã có những thay đổi trong việc

tạo dựng nhân vật thiếu nhi. Hình ảnh của các em tuy chưa được miêu tả toàn diện, nhưng

đã có nét điển hình và phản ánh phần nào tình hình thực tế là có rất nhiều thiếu nhi anh

dũng trong kháng chiến. Những sáng tác này đã mở ra cho Văn học thiếu nhi Việt Nam

con đường đi đầy triển vọng và có tác dụng bồi dưỡng tư tưởng tình cảm cho các em.

Trong kháng chiến chống Pháp, Trung ương Đoàn thanh niên đã xuất bản nhiều

tác phẩm gương chiến đấu như: Lê Văn Tám, Đội thiếu nhi sông Lô, Đội thiếu niên

thành Huế, Những ngày đi lưu động… nhằm thay thế những loại sách kiếm hiệp, trinh

thám (lúc bấy giờ, được coi là phản động, lạc hậu) của nền văn học vùng Pháp tạm

chiếm thời Kháng chiến. Tháng 7 năm 1957, nhà xuất bản Kim Đồng ra đời dưới sự

lãnh đạo của Trung ương Đoàn. Việc thành lập một nhà xuất bản sách cho thiếu nhi đã

tạo điều kiện đẩy mạnh phong trào sáng tác cho trẻ em. Cuộc vận động sáng tác cho

thiếu nhi do Bộ giáo dục và Trung ương Đoàn thanh niên phối hợp tổ chức năm 1960

được các nhà văn, nhà giáo hưởng ứng mãnh mẽ. Các tác phẩm thời kì này nhằm

hướng đến việc tái hiện hình tượng nhân vật anh hùng thiếu nhi trong kháng chiến

như: Hai làng Tà Pình và Động Hía (Bắc Thôn); Em bé bên bờ sông Lai Vu (Vũ

Cao),.... Bên cạnh đó còn có các nhân vật thiếu nhi yêu lao động như Bé Ly và chú

công nhân chữa điện (Bùi Minh Quốc), tích cực tham gia công việc xây dựng nông

thôn mới trong Tổ tâm giao (Trần Thanh Địch), Bí mật ở miếu Ba cô của Văn Trọng,

Cái Thăng của Võ Quảng,… mơ ước hòa bình, thống nhất đất nước ở Viết thư cho cha

của Phạm Hổ, Một chuyến đưa thư của Hải Hồ,…

37

Sau năm 1954, ở miền Nam, có một bộ phận văn học mang nhiều đặc điểm khác

biệt so với trước và với văn học miền Bắc cùng thời. Xét về khía cạnh lịch sử nó là một

phần không thể tách rời của văn học dân tộc. Văn học miền Nam cũng có những sáng

tác viết cho thiếu nhi của các nhà văn như Duyên Anh, Nhã Ca, Nhật Tiến,… “Sách cho

thiếu nhi từ đầu thập niên 60 phát triển rất nhanh về số lượng lẫn đề tài và hình thức thể

hiện. Ngoài những tác phẩm đề cao lòng nhân ái, giá trị đạo đức con người của Nhật

Tiến, Lê Tất Điều, Minh Quân,… còn có hàng loạt tác phẩm của tủ sách Tuổi Hoa gồm

các loại Hoa xanh, Hoa đỏ, Hoa tím,… in giấy khổ nhỏ, phổ biến cho đủ mọi lứa tuổi và

các loại truyện tranh. Duyên Anh thành lập nhà xuất bản Tuổi Ngọc chuyên xuất bản

sách cho thiếu nhi và ông cũng là tác giả của nhiều truyện dành cho độc giả tuổi từ 13,

14 trở lên, lứa tuổi bắt đầu thích khẳng định cá tính, sự tự do, hứng thú phiêu lưu và cả

những kiểu yêng hùng mới lạ,…” [217;99].

2.1.3. Nhân vật trẻ em trong truyện trước Cách mạng tháng Tám – tiền đề tạo dựng

hình tượng nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi 1945-1975

Như chương một đã điểm qua về sự hình thành Văn học thiếu nhi Việt Nam,

giai đoạn trước 1945, tuy số lượng sáng tác chưa nhiều nhưng người viết đã bước đầu

có ý thức hướng tới trẻ em. Nhân vật trẻ em trong truyện giai đoạn này phần nào rọi

sáng được những khía cạnh của hiện thực và một số vấn đề của trẻ em trong xã hội

đương thời. Có thể khái quát một số loại nhân vật như sau:

2.1.3.1. Nhân vật trẻ em – những thân phận thấp hèn

Những nhà văn như Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,…

khi viết về các em đặt nhân vật trẻ em vào bối cảnh xã hội đương thời nhiều rối ren và bất

trắc. Số phận trẻ em trong các sáng tác của họ thường gắn với số phận những người nghèo

khổ, bất hạnh. Chúng có vị thế thấp hèn trong xã hội. Người ta coi thường chúng, vì

chúng là trẻ em, người ta không tính đến chúng, cũng vì chúng là trẻ con, hơn nữa vì

chúng thuộc tầng lớp nghèo khổ: “Trước ánh lửa bếp lom nhom và ánh đèn lù mù, sắc

mặt Thạo càng xạm thêm, ngây dại và cô độc hơn. Con bé ấy gắp rau, húp nước dưa và

nhất là xới cơm đều rón rén như sợ rằng nó không được phép ăn những thứ quý báu lắm

ấy. Vì nó thấy rằng nó không thể theo mẹ đi chợ như con chị nó người đen như củ súng,

nhanh nhẹn, khôn ngoan hơn cả nhiều đứa con gái lớn hơn nó ở ngoài xóm. Và nó lại

không bé hẳn như cái Tý con, bụng ỏng đít vòn, đặt đâu là ngồi ỉa đái đấy, để được hưởng

38

sự đặc biệt ăn uống no nê và không phải làm gì” [334;86]. Những đứa trẻ ít tuổi đã sớm

phải ý thức về thân phận của mình, về trách nhiệm đối với miếng ăn của gia đình. Chúng

có thể không được ăn (Trẻ con không được ăn thịt chó) nhưng chúng không thể không

làm. Chúng bị đánh tráo tuổi thơ bằng những công việc nhọc nhằn của người lớn. Cái

Thạo bé (Giọt máu – Nguyên Hồng) phải làm vườn, trồng ngô để góp vào nồi cơm vốn

chẳng bao giờ được đầy của gia đình. Hai đứa trẻ trong “Hai nhà nghề” (Nguyên Hồng),

thậm chí phải đánh cược cả mạng sống của mình ở mấy trò xiếc để kiếm cơm. Khi cha mẹ

chết, không có tiền thuê nhà, tiền ăn, cậu bé Đức (Tấm lòng vàng – Nguyễn Công Hoan)

vừa phải làm việc như một thằng ở vừa chịu những lời nhiếc móc của bà chủ. Mười hai

tuổi cái đĩ (Một bữa no – Nam Cao) phải đi ở đợ, bảy tuổi, cái Tí (Tắt đèn – Ngô Tất Tố)

bị mẹ bán cho nhà Nghị Quế cùng ổ chó con mới đẻ. Tất cả các em đã không còn tuổi thơ,

không có niềm vui non trẻ với những trò chơi thơ bé, không có được cái nhìn yêu thương

trìu mến của xã hội. Các em bị rẻ rúng, bị coi thường, bị lạm dụng sức lao động.

Không chỉ bị ngược đãi, hành hạ về thể xác, những đứa trẻ còn phải chịu đựng

sự đọa đày về tinh thần. Tâm hồn non nớt, dễ tổn thương của Hồng (Những ngày thơ

ấu – Nguyên Hồng) đã từng run lên vì giận dữ trước những xúc phạm của người cô

cay nghiệt với mẹ cậu. Cha mất, mẹ bỏ nhà đi làm xa, bé Hồng một mình trơ trọi

trước giông bão của cuộc đời, trước những định kiến của xã hội. Em phải nuốt lặng

những hờn tủi, cay đắng vào lòng mà chống chọi với bao ngang trái của cảnh mồ côi.

Thế giới tinh thần vốn rộng mở, vô tư của các em đáng lẽ phải được yêu thương, vỗ

về, âu yếm, vậy mà, dưới chế độ cũ, các em sớm thành những nạn nhân đau khổ, dằn

vặt. Thay vì hồn nhiên vui đùa các em đã phải trăn trở, suy tư trước sự nghiệt ngã của

cuộc đời: “Không thể nói nhanh tới chừng nào, những cảm giác chua cay và đau đơn ran

lên khắp người Nhân. Nhân không thể cầm lòng nhìn thằng bé dạn dầy ở đất khách quê

người và lang thang bơ vơ kia quỳ lâu thêm một phút nữa để chìa giỏ xin tiền những

người xem kia chỉ có thể xem không và ngượng nghịu rút lui. Chỉ thêm một phút nữa,

con tim trơ trọi của Nhân sẽ vỡ tan… Nước mắt đã tràn ra, Nhân chạy vội lại, đỡ thằng

bé múa dao kia dậy: Nhân muốn nói với nó một câu gì nhưng cổ họng đã nghẹn ứ mất

rồi” [333;136]. Có thể thấy, trong gia đình, các em bị người thân hắt hủi, ghẻ lạnh, ngoài

xã hội các em bị xúc phạm về phẩm cách, bị đối xử vô nhân đạo. Trước những nghịch

cảnh ấy, trẻ em không thể tự bảo vệ được mình, cách chống đỡ duy nhất (mà cũng đau

39

đớn nhất) của các em chỉ có thể là khóc. Càng ý thức được thân phận thấp hèn của mình,

các em lại càng đau đớn,càng đau đớn thì lại càng muốn khóc. Thế giới nội tâm non nớt

không đủ sức ngăn những giọt nước mắt mặn chat, nỗi đau bị dồn nén khiến những giọt

lệ trong veo ấy như bị nghẹn lại, chặt cứng nơi cuống họng. Những trang viết của

Nguyên Hồng đã gợi lên sự cảm thương, lòng trắc ẩn sâu xa trong người đọc từ chính

đồng cảm của nhà văn với những thân phận bé nhỏ trong xã hội.

Nếu Nguyên Hồng xây dựng nhân vật trẻ em như những người cùng khổ trong xã

hội thì Nam Cao đặt trẻ em trong hoàn cảnh phải đối mặt với sự tha hóa của người lớn

trước cái đói và miếng ăn. Sự vật lộn dai dẳng và khốc liệt đó đã chi phối những hành

vi ứng xử và tình cảm của con người đối với con người nói chung và của người lớn đối

với trẻ em nói riêng. Những đứa trẻ trong sáng tác của Nam Cao thường là nạn nhân

của người lớn, nạn nhân của lối sống vô trách nhiệm của cha mẹ mà nguyên nhân sâu

xa cũng chỉ vì cái đói, miếng ăn. Ở truyện Từ ngày mẹ chết, nhân vật người cha đã tự

làm tiêu mòn nhân cách của mình vào rượu chè, bài bạc, bỏ mặc đứa con bơ vơ, đói

rách: “Tìm thầy, thì biết đâu mà tìm được. Ninh chẳng tìm. Không có ăn thì nhịn!

Ninh nhịn từ bữa chiều hôm qua. Đật Khóc, Ninh đi tìm moi được một củ dong về

nướng. Đật một nửa, Ninh một nửa” [299;152]. Trong truyện “Bài học quét nhà”, đứa

con nhỏ vô tội bỗng dưng lại phải gánh chịu những lời mắng nhiếc, thậm chí bị đòn

oan chỉ vì bố mẹ chúng không biết giải tỏa sự căng thẳng, lo lắng cho cuộc sống hàng

ngày như thế nào, ngoài cách trút tức giận vào những đứa con mà họ đã dứt ruột đẻ ra và

từng thương chúng đến thắt lòng: “Hồng bị mẹ kéo đi xềnh xệch. Những nhát chổi tay

mẹ đưa rộng qua, tay con bị giật theo lạng cả người đi. Con bé gần chúi đầu xuống đất.

Nước mắt nó tuôn ra mờ cả mắt. Nhưng nó vẫn mím chặt môi. Không dám khóc…”

[299,206]. Dễ nhận thấy trong truyện ngắn của Nam Cao vì sự lầm than, nhọc nhằn,

vật vã, thậm chí vô tâm, tàn nhẫn của người lớn - mà những đứa trẻ ít tiếng cười và

niềm vui, chúng chỉ biết im lặng và rơi nước mắt. Cùng với bố mẹ, chúng sớm phải

nếm trải những đắng cay, tủi nhục, tai ương của số phận đang trùm lên cuộc sống của

gia đình. Số phận bất hạnh của những đứa trẻ thường gắn với thân phận nhỏ bé của

người phụ nữ trong xã hội cũ. Bởi thế, trẻ con, vốn đã bị coi thường nay lại càng yếu

thế hơn: “Người mẹ rất còm cõi và bốn đứa con gầy ốm, quây quần với nhau trong xó

bếp. Trong gia đình này, năm mẹ con thường giống như một bọn dân hèn yếu, cùng

chung phận con sâu, cái kiến dưới cái ách một ông bạo chúa” [334;137].

40

Nhân vật trẻ em trong văn xuôi trước năm 1945 thường bị làm mờ diện mạo. Các

em đều giống nhau ở dáng vẻ nhỏ bé, địa vị thấp hèn. Có em không được gọi bằng một

cái tên (cái đĩ trong truyện “Một bữa no” – Nam Cao); có em mang tên của chị (cái

Thạo em truyện “Giọt máu” – Nguyên Hồng). Ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật trẻ

em trong những sáng tác này cũng bị “tinh giảm” đáng kể. Điều này góp phần tăng ấn

tượng về sự nhỏ bé, đơn độc của các em trong xã hội: “Trước vẻ sợ sệt, ngơ ngác của

Thạo bé, lắm khi cả nhà đi vắng, tôi muốn đến với nó mà không được. Hoặc Thạo bé

lảng bế em đi, hoặc vì tôi thấy nao nao trong lòng, đành yên lặng mà nhìn Thạo bé, vừa

nghe cái bâng khuâng của im vắng đi vào tâm hồn tôi như một mạch ngầm” [3;86]. Hạn

chế các đối thoại, những nhà văn hiện thực trước năm 1945, thường xây dựng hình

tượng nhân vật trẻ em bằng điểm nhìn của người kể chuyện. Qua điểm nhìn ấy, đứa trẻ

hiện lên như những thân phận bị đọa đày nơi địa ngục trần gian. Có thể nói, nhân vật trẻ

em trong sáng tác trước năm 1945 đều nghèo khổ, bất hạnh, không có tuổi thơ. Chúng

không chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh xã hội mà còn là nạn nhân của người lớn trước

cuộc sống khắc nghiệt.

2.1.3.2. Nhân vật trẻ em – những tâm hồn trong sáng và đầy ước mơ

Cho dù cũng bị guồng xoáy của xã hội cuốn vào cái nghiệt ngã, khốc liệt của

việc mưu sinh như người lớn, những đứa trẻ trong các sáng tác văn xuôi trước 1945

vẫn ánh lên vẻ đẹp trong sáng, hồn nhiên của tuổi nhỏ. Bởi trước khi là một thằng ăn

xin, một đứa ở, một tên trộm, một người làm thuê,… thì chúng là những đứa trẻ.

Những đứa trẻ như biết bao nhiêu trẻ con trên thế gian, đều vô tư, thánh thiện, ngây

thơ và luôn tin vào những điều kì diệu trong cuộc sống.

Khi viết về trẻ em, Thạch Lam quan tâm tới những kiếp người nhỏ nhoi, đáng

thương (Hai đứa trẻ, Nhà mẹ Lê), những tâm hồn thơ dại, thánh thiện (Gió lạnh đầu

mùa, Tiếng chim kêu). Nhân vật trẻ em trong sáng tác của ông thường được đặt trong

một khoảnh khắc thời gian ngắn ngủi như một đêm mưa rét, thời gian đợi tàu hay lúc

chuyển mùa, qua đó thế giới tâm hồn của các em được khắc họa sâu sắc qua cảm quan

tinh tế của tác giả. Có thể nói, Thạch Lam quan tâm nhiều tới việc thể hiện vẻ đẹp tâm

hồn của trẻ. Trong sáng tác của ông, trẻ em, dù ở trong hoàn cảnh nào, cũng sáng lên

nét đẹp của sự thuần khiết, vô tư. Trong truyện Gió lạnh đầu mùa, nhà văn đã đặt nhân

vật trẻ thơ vào tình huống chuyển mùa để làm nổi lên sự đối lập giữa những đứa trẻ

khá giả và những em nhỏ nghèo khó, đói rách. Nhưng trong hoàn cảnh éo le đó, chị em

41

Sơn – những đứa trẻ nhà giàu, lại có cách ứng xử rất nhân văn. Sơn mang áo bông của

mình cho bạn khi trời trở rét một cách rất bột phát, ngây thơ, không toan tính. Bởi thế

mà việc làm của hai chị em đã tạo nên một sự cộng hưởng trong cách cư xử của người

lớn. Mẹ Hiên tuy nghèo nhưng là người biết tự trọng, không lợi dụng lòng tốt của hai

đứa trẻ, nên đã đem trả áo. Mẹ Sơn rất thương yêu các con, biết các con tự tiện cho áo,

bà trách yêu: “ Hai con tôi quý quá, dám tự do lấy áo đem cho người ta không sợ mẹ

mắng ư?” [351;116]. Trong sâu thẳm lòng mình, bà cũng đồng tình với hành động

thương người như thể thương thân của các con. Chiếc áo là kỉ vật không thể đem cho,

nhưng bà đã cho mẹ Hiên vay năm đồng để mua áo ấm cho con. Cái đẹp trong sáng

trong tâm hồn các em còn được Thạch Lam phát hiện qua lòng trắc ẩn của hai em nhỏ

với những người lang thang và lũ chim trong một đêm mưa rét ở truyện Tiếng chim

kêu: “Hai anh em chúng tôi vừa cuộn kín trong chăn cho ấm vừa nói chuyện. Chúng

tôi nghĩ đến, rồi thương hai những người lữ khách vào giờ này hãy còn trên đường

vắng, ướt như chuột lột và run như cầy sấy, đi vội vàng để tìm một chỗ trú thân.

Chúng tôi lại ái ngại cho những nhà nghèo bên hàng xóm, giờ này vợ chồng con cái

đều phải dậy để chống cái nhà lá mà mỗi cơn gió mạnh làm lung lay và để đem cái

chậu thau hứng những chỗ dột nước” [351;73]. Sự dùng dằng vừa muốn ra giúp con

chim trú mưa vừa ngại trời rét là tâm lí rất bình thường ở trẻ con. Thạch Lam nói về vẻ

đẹp tâm hồn của trẻ nhỏ nhưng không khiên cưỡng, cứng nhắc mà rất thành thực, sinh

động. Vì thế, nhân vật trẻ thơ, trong sáng tác của ông vừa mang cái dung dị của đời

sống hằng ngày vừa toát lên sự thánh thiện, trong sáng, thơ ngây.

Tự lực văn đoàn đã nỗ lực gây dựng phong trào sáng tác và phổ biến tác phẩm

văn học thiếu nhi. Loại Sách Hồng của nhóm bút này cùng những sáng tác in trên báo

Phong Hóa đã cho thấy sự quan tâm của các nhà văn lãng mạn tới trẻ thơ. Với tôn chỉ:

đả phá lễ giáo phong kiến, hăng hái theo con đường mới, lấy lương tri mà xét đoán

theo lẽ phải... Tự lực văn đoàn đã có nhiều đóng góp cho sự cách tân văn học theo

hướng hiện đại. Nhóm đã hướng ngòi bút tới những đối tượng ít xuất hiện trong văn

học trung đại như phụ nữ và trẻ em. Khái Hưng, một cây bút viết nhiều và viết hay về

trẻ thơ trong Tự lực văn đoàn đã dành khá nhiều tâm sức cho trẻ em qua các sáng tác:

Vợ Cóc, Cây tre trăm đốt, Cái ấm đất,... Tác giả đã thể hiện một lối kể chuyện cổ tích

mới mẻ, kế thừa và phát triển thi pháp thể loại truyện cổ tích dân gian. Nhân vật trẻ em

42

trong các này đều có chung một đặc điểm là những em nhỏ ngây thơ, trong sáng, luôn

tin vào cái thiện, vào những điều kì diệu trong cuộc sống: “Đã hơn một tuần lễ, nó

sống trên hòn núi giả, đặt trong cái bể cạn mà bây giờ ngoái cổ nhìn lại nó thấy chỉ

rộng bằng cái bàn giấy của cha nó. Trên núi bên những đình, chùa, cầu quán, những

công trình tạo tác bé xíu của nó còn để y nguyên dấu vết. Cả cái thang làm bằng cuống

huệ và gai cam cũng vẫn bắc ở thành bể cạn. Nó mỉm cười nghĩ thầm: “Nếu thầy mẹ

không tin câu chuyện ly kỳ của ta, ta sẽ đưa đến xem cái thế giới tí hon này, ta sẽ chỉ

cho thầy mẹ thấy nơi ta ăn, nơi ta ngủ, chỗ ta ngồi nghỉ mát ngắm cảnh thiên nhiên”.

Và Tô rảo bước về nhà” [365;165]. Chính niềm tin vào những điều kì diệu của cuộc

sống đã giúp các em cảm nhận thế giới đẹp hơn, trong sáng hơn, cũng vì thế, biết cách

sống nhân văn hơn: “Tức thì Tô thấy mình cao vút lên. Nó mỉm cười cảm ơn ông lão

râu tóc bạc phơ và hứa với ông rằng từ nay không dám đánh giết những loài bé nhỏ

yếu đuối nữa, loài chim con hay các loài khác cũng vậy” [365;165]. Khái Hưng đã

dùng chính cái kì ảo của truyện cổ tích để mang đến cho trẻ thơ những bài học nhẹ

nhàng mà sâu sắc. Nhân vật trẻ em trong truyện của ông là những tâm hồn đẹp, nhân

hậu, biết yêu thương con người và yêu thương loài vật.

Tóm lại, trong các sáng tác văn học hiện thực trước năm 1945, nhân vật trẻ em

đã được ít nhiều tham dự vào tiến trình câu chuyện. Đó là những đứa trẻ nhỏ bé, đáng

thương, là nạn nhân của đời sống hiện thực nghiệt ngã trong sáng tác của Nam Cao,

Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng,…Đó là những tâm hồn thánh thiện, trong sáng

đầy tình yêu thương trong trang văn của Thạch Lam. Có ý thức hơn trong việc viết cho

thiếu nhi, nhóm Tự lực văn đoàn đã cho ra đời những sáng tác, trong đó, hình tượng

nhân vật trẻ thơ gắn liền với thế giới kì ảo của truyện cổ tích.

Nhìn chung, các nhà văn trước năm 1945, đã bước đầu chú ý tới trẻ em trong sáng

tác. Song, nhân vật trẻ em vẫn chưa thực sự đóng vai trò là nhân vật chính bởi phần lớn

tác phẩm tuy có bóng dáng trẻ em trong đó nhưng lại không nhằm đến độc giả trẻ em.

2.1.4. Quan niệm của nhà văn về trẻ em

Ở giai đoạn trước 1945, do chưa có đội ngũ chuyên nghiệp viết cho thiếu nhi,

nên quan niệm nghệ thuật về trẻ em chỉ được thể hiện trong một số sáng tác ít ỏi, trong

đó, trẻ em được tham dự hoặc như đối tượng của giáo huấn hoặc là nhân vật phụ của

tác phẩm. Từ sau năm 1945, trẻ em được nhìn nhận nhiều chiều, được quan tâm hơn

tới những đặc điểm tâm lí lứa tuổi, tâm lí. Võ Quảng đã khẳng định: “Thiếu nhi có

43

nhiều lứa tuổi. Ở mỗi lứa tuổi, sự hiểu biết rất khác nhau. Hai em bé chỉ cách nhau

năm sau tuổi, thời gian tuy rất gần, nhưng nhận thức lại rất khác nhau, không thể cùng

đọc chung một quyển sách” [203;25]. Ông cũng cho rằng trẻ em thiên về “tình cảm,

bản năng, rất dễ thờ ơ với mọi biểu hiện công thức khô khan, với mọi hiện tượng nhạt

nhẽo giá lạnh” [203;26]. Văn Hồng – nguyên là Tổng biên tập nhà xuất bản Kim Đồng

cũng đồng thời là nhà văn sáng tác cho thiếu nhi đã viết: “Người lớn ai cũng đã qua

một lần là thiếu nhi nhưng những ấn tượng ta thu được thời thơ ấu có khi lại xa lạ với

các em bây giờ. Tâm hồn thiếu nhi cũng biến đổi theo thời đại. Vả chăng không phải ai

đã trải là có thể tái hiện được thành văn, thành thơ… ta thường chú ý đến cách miêu ta

trực tiếp. miêu tả sự vật như hình thức nó vốn có mà thiếu nhi thì lại thích một cách

nói khác, một cách nói cường điệu, ví von, làm “lạ hóa” những chuyện bình thường,

đưa tưởng tượng của các em vào những chuyến phiêu lưu kỳ thú” [203;5-96].

Mặc dù có lưu ý tới những đặc trưng tâm lí của trẻ em nhưng đối với đội ngũ

sáng tác cho thiếu nhi thời kì 1945-1975, trẻ em vẫn được coi là đối tượng giáo dục.

Giáo dục thế hệ trẻ là nhiệm vụ trọng tâm của văn nghệ và là ý thức của mỗi người

viết cho trẻ em. Võ Quảng trong bài Đảng và văn học cho thiếu nhi đã khẳng định:

“Văn học thiếu nhi có nhiệm vụ đánh thức trong các em những tình cảm cao đẹp,

những ý nghĩ cao thượng, giáo dục các em biết yêu thương, căm giận, biết phân biệt

phải trái, hiểu rõ nghĩa vụ công dân và hạnh phúc làm người” [203;25]. Huy Cận cũng

cho rằng: “Bồi dưỡng nhiệt tình cách mạng, hun đúc sự say sưa hứng thú lành mạnh,

sự rung động sôi nổi, sự tưởng tượng dào dạt trong tâm hồn của tuổi trẻ, đó chính là

nhiệm vụ của văn nghệ phục vụ thiếu nhi” [203;274]. Rõ ràng, trong hoàn cảnh đất

nước vừa xây dựng vừa đấu tranh chống ngoại xâm, giáo dục ý thức cách mạng và bản

lĩnh công dân là mục tiêu hàng đầu của Văn học thiếu nhi. Và trẻ em, trong quan niệm

nghệ thuật của nhà văn, trở thành đối tượng cho vấn đề giáo dục đó. Võ Quảng, một

trong những cây bút viết nhiều cho thiếu nhi cũng khẳng định: “Những sáng tác văn

nghệ là công cụ để rèn luyện cá tính tâm hồn. Nói chức năng giáo dục của sáng tác văn

nghệ cũng là nói việc rèn luyện những cá tính tâm hồn, đào tạo những con người có

tâm hồn cao thượng, yêu lao động, làm chủ tập thể, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có

tinh thần quốc tế vô sản, con người có tình thương yêu sâu sắc. Đối với thiếu nhi đó là

thực hiện Năm điều Bác Hồ dạy” [203;303].

44

Trong một hoàn cảnh khác, trên một dòng chảy đời sống lịch sử khác, các nhà

văn miền Nam Việt Nam, trong trạng thái thất vọng với hiện thực, chịu tác động bởi

tâm lí chán chường trước cuộc sống bất ổn, phi lí, nhìn nhận trẻ em là nạn nhận của gia

đình, xã hội. Duyên Anh từng tâm sự: “Tôi thương nhất là những đứa trẻ con lai da

trắng, da đen. Những đứa trẻ không có quê hương, Tổ quốc ấy cũng là những đứa trẻ

không có tuổi thơ” [1]. Từ những xót thương cho thân phận trẻ em trước hiện thực rối

ren của đời sống, người viết cho thiếu nhi tìm về với nét đẹp tuổi thơ, coi tuổi thơ như

một cứu cánh, một liều thuốc hữu dụng chữa trị vết thương thực tại: “Sống buồn thảm

như thế, tôi đâm ra nhớ nhà kinh khủng. Nhớ nhà và thương tiếc tuổi thơ của mình”

[82]. Không có tuổi thơ, thèm tuổi thơ nên viết để giải tỏa những ẩn ức, những thèm

khát, viết như một phương cách trục vớt quá khứ, cứu vãn hiện thực.

Nhìn tổng quát, trẻ em trong Văn học thiếu nhi giai đoạn 1945-1975 được soi

chiếu dưới cái nhìn sử thi, được đánh giá từ cái nhìn bên ngoài. Riêng bộ phận văn học

thiếu nhi miền Nam 1954-1975, do chịu tác động bởi từ trường lịch sử - văn hóa – xã

hội khác nên trẻ em được thể hiện như một thân phận hay một nơi trú ngụ tinh thần

trước đời sống hiện thực.

2.2. Các kiểu loại nhân vật trẻ em giai đoạn 1945-1975

Khảo sát nhân vật trẻ em trong Văn học thiếu nhi giai đoạn 1945 -1975, chúng

tôi chia thành năm kiểu nhân vật, trong đó Nhân vật chiến sĩ nhỏ tuổi trong chiến đấu,

Nhân vật công dân nhỏ tuổi trong sinh hoạt đời thường, Nhân vật như tấm gương

thuộc về truyện thiếu nhi miền Bắc, Nhân vật trẻ em bị ruồng bỏ, Nhân vật trẻ em hồn

nhiên mơ mộng có mặt ở truyện thiếu nhi miền Nam từ sau 1954 đến 1975.

Như đã nói, sự phân loại nào, tất nhiên, cũng khó có thể bao quát toàn bộ đối

tượng. Ở đây, khi xem xét các loại nhân vật, chúng tôi ưu tiên các yếu tố nổi trội, được

khai thác như đặc điểm nổi bật trong việc xây dựng hình tượng để phân loại nhân vật.

Điều này, cũng phần nào cho thấy sự khác nhau trong xu hướng xây dựng nhân vật

cũng như quan niệm của nhà văn về trẻ em trong mỗi hoàn cảnh sáng tác.

2.2.1. Nhân vật chiến sĩ nhỏ tuổi trong chiến đấu

Đây là kiểu nhân vật đặc thù, chỉ có trong văn học của những dân tộc mà lịch sử

gắn liền với các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm như Việt Nam.

Sự xuất hiện của kiểu nhân vật chiến sĩ nhỏ tuổi trong những trang văn cho thiếu

nhi xuất phát từ yêu cầu tất yếu của lịch sử khi đất nước có chiến tranh. Một trong

45

những nhiệm vụ của người viết trong thời kì cách mạng và kháng chiến được Đảng và

Bác Hồ nêu rõ: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và

rất cần thiết”, “Phải xây dựng con người mới ngay từ lúc mới lọt lòng và ở mọi lứa tuổi”

[203;107-108]. Sau này, trong một cuộc nói chuyện về tình hình và nhiệm vụ của văn

học, Tố Hữu có nói: “nên nhớ lại kẻ địch luôn luôn tìm cách giành giật từng em bé một

với chúng ta” [203;75]. Bởi vậy, các nhà văn luôn ý thức trong việc xây dựng ý chí

chiến đấu, tình cảm cách mạng cho các em. Phạm Hổ đã khẳng định: “Còn gì thích hợp

hơn với các em nếu chúng ta bồi dưỡng thêm cho các em ý chí chiến đấu, chủ nghĩa anh

hùng cách mạng trong hoàn cảnh hiện nay, khi kẻ thù hằng ngày hằng giờ gây nợ máu

với nhân dân ta” [204;77]. Ở giai đoạn này, do phải thực hiện nhiệm vụ cổ vũ kháng

chiến như toàn bộ nền văn học cách mạng, Văn học thiếu nhi có hàng loạt sáng tác thể

hiện không khí đấu tranh của toàn dân trong kháng chiến chống Pháp. Nhân vật trẻ em

trong truyện ở thời kì này, vì thế, cũng phải là những chiến sĩ nhỏ tuổi tham gia vào

công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, như Hoa Sơn và Quốc Toản trong Hoa

Sơn của Tô Hoài; Giao trong Chú Giao làng Seo của Nguyễn Tuân, Giang trong Dưới

chân cầu mây – Nguyên Hồng, Tí trong Chiến sĩ ca nô – Nguyễn Huy Tưởng.

Việc nêu gương anh hùng nhỏ tuổi trong kháng chiến cũng đáp ứng nhu cầu của

chính các em thiếu niên thời kì này: “Các em tha thiết muốn được nghe kể lại đời sống,

sinh hoạt của những người anh hùng, kể cả những anh hùng thiếu nhi vốn có lòng yêu

nước nồng nàn và tình yêu ghét rõ rệt. Thêm vào đó hoạt động của những nhân vật anh

hùng thường phong phú, sôi nổi, phù hợp với tính ưa hoạt động của các em” [200;187].

Lớn lên trong một dân tộc mà lịch sử gắn liền với những cuộc kháng chiến chống

ngoại xâm, giữa giai đoạn đất nước đang dốc hết sức cho nhiệm vụ giữ nước và dựng

nước, mỗi đứa trẻ Việt Nam đều mơ ước trở thành anh hùng, được tham dự và là một

phần của lịch sử. Bởi vậy, trong hoàn cảnh đặc biệt ấy, nhu cầu được biết về những

chiến sĩ gan dạ, về cuộc chiến mà cả dân tộc đang dõi theo, thậm chí, lớn hơn cả nhu cầu

được khám phá về thế giới loài vật. Trần Đăng Khoa, khi còn là một cậu bé chín tuổi, đã

hình dung về cảnh vật trong cơn mưa như hình ảnh của đoàn quân ra trận: “Ông trời/

Mặc áo giáp đen/ Ra trận/ Muôn nghìn cây mía/ Múa gươm/ Kiến/ Hành quân/ Đầy

đường” (Mưa). Rõ ràng thiên nhiên trong liên tưởng của trẻ thơ cũng bị chi phối bởi cái

nhìn của thời đại, của môi trường tinh thần cả nước trong thời kì kháng chiến. Ước mơ

được ra trận, được thành chiến sĩ “Muốn xin chiếc mũ tai bèo/ Làm anh giải phóng vượt

46

đèo Trường Sơn” (Cẩm Thơ) cũng đã trở thành rất đỗi quen thuộc với trẻ em. Có thể

nói, việc tạo dựng mẫu hình chiến sĩ nhỏ tuổi vừa là định hướng tư tưởng của văn học

thiếu nhi bấy giờ đồng thời cũng phản ánh một thực tế, một hiện thực tinh thần: hướng

tới hình tượng anh hùng, tấm gương sáng đã trở thành khao khát của trẻ em thời đó.

Trong các tác phẩm giai đoạn đầu kháng chiến, việc tạo dựng hình tượng nhân

vật trẻ em chưa có nhiều thành công. Do chịu sự chi phối của nhiệm vụ chính trị và

nhu cầu nhận thức của trẻ em trong thời chiến nên các nhân vật chiến sĩ nhỏ tuổi được

mô tả không hoàn toàn giống với những em nhỏ của thời bình. Chúng là chiến sĩ –

người lớn thu nhỏ. Giao (trong Chú Giao làng Seo – Nguyễn Tuân) làm liên lạc, dẫn

đường cho bộ đội: “Giao kể tường tận cho các anh nghe chỗ ruộng này thế nào, chỗ

bụi cây kia ra sao, mé chân đồn nào ít dốc. Giao vẽ lại những nhà, những góc súng

trong sân đồn. Giao bò toài, bụng dán xuống mặt cỏ, linh lợi hơn cả mọi ngày. Cán bộ

và chiến sĩ hỏi thêm Giao điều gì, Giao trả lời rắn rỏi, mắt sáng, nhìn thẳng” [421;20].

Trong hoàn cảnh phải đối đầu với địch, Giao gan dạ, quyết liệt như một chiến sĩ đích

thực: “Giao vực những anh lê liệt ra. Giao thấy thằng Le ngồi tập trung giữa sân.

Thằng Le không chết, Giao cho là thôi cũng may cho nó. Nó đang khóc thút thít chắp

tay lạy van bộ đội. Giao tống nó một quả, mắng nó là chỉ có đế quốc và bù nhìn thì

mới còn lạy vái thôi” [421;21]. Giang trong Dưới chân cầu Mây – Nguyên Hồng, bị

giặc bắt và tra tấn mà vẫn không khai bất cứ thông tin gì. Hoa Sơn (Hoa Sơn – Tô

Hoài) vừa học vừa tham gia công việc ở tổ tuyên truyền “đi khắp làng xóm để luôn

luôn nhắc cho bà con biết nước nhà đương đánh nhau với giặc Pháp. Say mê làm

những việc to lớn đó, nhưng bao giờ em cũng chỉ nói đó là một nhiệm vụ và bổn phận

tất nhiên của người học sinh trong lúc kháng chiến” [323;4]. Tí (Chiến sĩ ca nô –

Nguyễn Huy Tưởng) 15 tuổi nhưng đã mưu trí, dũng cảm đưa cả làng trốn thoát khỏi

vòng vây của giặc, khiến quân giặc được một phen ngơ ngác “Quái lạ, không biết Việt

Minh nó biến đi đâu mất” [364;99]. Điều gì đã khiến các em có được sự quả cảm, gan

dạ, tinh thần anh dũng sẵn sàng xả thân vì cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đến vậy?

Phải chăng, ý chí cách mạng, tinh thần thời đại, trái tim nóng bỏng cùng chung một nhịp

đập cho Tổ Quốc đã tạo nên những em bé – chiến sĩ – anh hùng như thế? Phải chăng

ngọn lửa đấu tranh truyền thống đã được truyền từ thế hệ trước tới thế hệ sau, như một

mạch nguồn vô tận làm nên nhiệt huyết cách mạng cho lớp măng non trong thời đại

47

mới. Nhưng cũng vì sớm phải khoác lên mình nhiệm vụ của người lớn nên hình ảnh

của các em có phần già dặn, thiếu vẻ ngây thơ, ngộ nghĩnh trẻ con. Không nhiều “đất

diễn” cho nhân vật, cấu trúc truyện còn thiếu sức hút lại tập trung ở nét can trường,

dũng cảm của nhân vật mà quên phác họa vẻ thơ ngây của trẻ em nên hình tượng nhân

vật trẻ em trong những sáng tác này còn sơ lược, chưa có nhiều điểm đặc sắc.

Miêu tả sự hi sinh của người anh hùng được coi là một trong những cách làm

tôn thêm sự cao đẹp của hình tượng. Trong văn học người lớn thời cách mạng, bên

cạnh việc tập trung mô tả những chiến công của người chiến sĩ, cũng có những trang

văn nói về sự hi sinh của họ. Nhưng cái chết ấy là cái chết làm nên lịch sử, tạo dựng

những tượng đài kì vĩ, lớn lao:

“Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường

Chỉ để lại dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ:

Anh là chiến sỹ Giải phóng quân.”

(Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)

Văn học thiếu nhi, thường ít mô tả về cái chết, nếu có nó sẽ được tác giả giảm

bớt thương đau: “Hai phát súng nổ. Hoa Sơn ngã xuống đống đá. Cái túi chàm xinh

xắn đựng bộ quần áo để thay đổi vẫn đeo trên lưng Hoa Sơn” [323;25]. Hoa Sơn chết,

nhưng cái chết của em được Tô Hoài miêu tả nhẹ nhàng, thanh thản, tựa như người

chiến sĩ làm xong nhiệm vụ. Mặc dù cùng chung khuynh hướng sử thi và cảm hứng

lãng mạn như văn học người lớn, Văn học thiếu nhi giai đoạn này tuy nói về đau

thương như không bi lụy, dẫu viết về mất mát nhưng không tang thương. Các em có

thể gục ngã nhưng như một làn gió, một cánh hoa, một thanh âm trong trẻo của cuộc

đời tìm về với cái vĩnh hằng, miên viễn của vũ trụ.

Sau năm 1954, cách thể hiện nhân vật chiến sĩ nhỏ tuổi đã ít nhiều sinh động và

gần gũi với hiện thực hơn trước. Ở giai đoạn đầu kháng chiến, nhân vật trẻ em dẫu được

rọi chiếu ở sự dũng cảm, kiên cường, quên mình vì cách mạng nhưng còn đơn giản, sơ

lược, thiếu sự hấp dẫn, gẫn gũi. Từ sau năm 1954, khoảng cách giữa nhân vật và đời

sống được thu hẹp hơn. Người viết đã đưa nhân vật xích lại với thế giới trẻ thơ, tiệm cận

với tâm lí của độc giả nhỏ tuổi. Điển hình nhất phải kể đến bé An trong Đất rừng

phương Nam của Đoàn Giỏi. Đây là nhân vật khá đặc biệt của Văn học thiếu nhi giai

đoạn 1945-1975. Trượt ra ngoài quỹ đạo vận động của kiểu nhân vật chiến sĩ nhỏ tuổi,

48

chú bé An được tham dự vào một trành trình phiêu lưu với không gian rộng mở, kì thú

của rừng nước phương Nam. Đó là cuộc khám phá những kênh lạch, sông ngòi, muông

thú, là sự trải nghiệm đời sống với bao điều mới lạ “từ chuyện cá bống hai hang, cá trê

hai ngạnh, tôm càng hai râu rất ngây ngô, trẻ con sang chuyện săn nai săn khỉ qua rừng,

qua chuyện cuộc đời chú Võ Tòng – con người kì dị mà tôi đã được gặp một đêm tối ở

bờ sông, đến chuyện ma cá sấu, ma cọp, ma nam,…” [310;145-146]. Đưa nhân vật vào

một hành trình lưu lạc tới miền đất trù phú phương Nam, Đoàn Giỏi đã nhắm trúng vào

đặc tính ưa khám phá của trẻ em và lấy lòng được hầu hết độc giả nhỏ tuổi ở mọi thời

đại. Câu chuyện của một câu bé bị bứng ra khỏi môi trường gia đình hòa vào môi trường

xã hội, kháng chiến, từng bước trưởng thành về nhận thức, ý thức công dân, cuối cùng

trở thành một chiến sĩ được lồng ghép trong câu chuyện về một cuộc hành trình khám

phá những miền đất mới phía Nam Tổ Quốc đã tạo nên những trang viết đầy phóng

khoáng, thơ mộng mà cũng oai hùng, hào sảng. Nhân vật bé An không bị sơ cứng,

khuôn theo mẫu hình một chiến sĩ người lớn mà được tái hiện qua sự lớn lên trong đời

sống tự nhiên của trẻ em ở thời kháng chiến gắn với môi trường xã hội sống động. Dẫu

rằng, đâu đó trong tác phẩm, người đọc vẫn bắt gặp những nét già dặn, chưa thật gần gũi

với trẻ thơ ở nhân vật nhưng lược qua hạn chế ít ỏi đó, bé An trong Đất rừng phương

Nam vẫn là một điểm sáng trong số các nhân vật chiến sĩ nhỏ tuổi của Văn học thiếu nhi

giai đoạn 1945-1975.

Trong các tác phẩm như Giữ súng mướn (Vân An), Em bé bên bờ sông Lai Vu

(Vũ Cao), Bên đồn địch (Bùi Hiển),… hình tượng nhân vật chiến sĩ nhỏ tuổi cũng có ít

nhiều chuyển biến trong cách thể hiện. Bên cạnh việc tiếp tục khắc họa những việc làm

dũng cảm, các nhà văn đưa nhân vật trẻ em đến gần với trẻ em hơn. Lâm (Giữ súng

mướn – Vân An) rải truyền đơn, đưa tài liệu, tấn công nhà hàng Bassac khi mới 14

tuổi. Lúc bị bắt Lâm rất thông minh, mưu trí và đặc biệt thể hiện sự tin tưởng vào đồng

đội của mình. Đó là niềm tin của những người cùng chung chiến tuyến, nhưng lớn hơn

cả, có lẽ là niềm tin vào điều tốt đẹp của một thiếu niên. Nhờ có niềm tin ấy, Lâm đã

cứu đồng đội và cứu chính mình. Đây là ưu điểm nổi trội ở một chiến sĩ - thiếu nhi.

Khi người ta càng trưởng thành thì niềm tin vào những điều tốt đẹp càng vơi bớt. Chỉ

trẻ thơ là còn nhiều đức tin về cái Thiện, cái Đẹp. Làm nhiệm vụ của một anh bộ đội

nhưng Lâm vẫn là một cậu thiếu niên, mang nét thơ ngây của trẻ con. Bởi thế, em mới

49

có được niềm tin (đầy bản năng) vào đồng đội ngay cả khi niềm tin của người đồng

đội lớn tuổi đã bị quỵ ngã trước sự tàn bạo của quân thù.

Bé Toàn (Em bé bên bờ sông Lai Vu – Vũ Cao) gan dạ, nhanh trí đưa đoàn chiến

sĩ làm nhiệm vụ qua sông an toàn, vẫn có những nét hồn nhiên của tuổi nhỏ: “- Đố các

anh biết cái món tép vừa ăn là loại tép gì, tép riu hay tép trắng? Thảo đáp: - Tép riu.

Toàn bật cười lên, cái cười hồn nhiên và trong sáng ấy như mấy vì sao trên trời”

[364;199]. Các em dù làm việc như những chiến sĩ nhỏ tuổi nhưng vẫn là những đứa trẻ,

vẫn có những mơ ước rất đỗi trẻ thơ: “Tôi lấy làm lạ về chỗ anh Hiếu đã bị thương cả

hai mắt như thế mà sao anh vẫn tỉnh, vẫn hỏi chuyện tôi. Tôi càng thêm thương anh quá.

Bấy giờ tôi nghĩ nếu anh ngỏ ý muốn cái gì tôi có, tôi sẽ cho anh hết, nếu sức tôi làm

được tôi sẽ cố làm cho vừa lòng anh. ước gì ngay bây giờ tôi có thể bay tới vườn cam

nhà để chọn hái cho anh Hiếu và hai anh đây những quả cam chín to nhất. Tôi nghĩ thế.

Và im đi với mối xúc động trong lòng” [364;107]. Đến vườn cam, hái những quả chín,

hẳn không phải ước muốn trong lúc bị bệnh của anh bộ đội Hiếu nhưng chắc chắn, là

ước muốn rất da diết và nghiêm túc của cậu bé - chiến sĩ Bảy. Bởi lẽ, với cậu bé, để

chăm sóc người bị thương, không gì bằng… cam . Cũng có thể nhận thấy cách thể hiện

khá dí dỏm hình ảnh cậu bé Cường trong Bên đồn địch của nhà văn Bùi Hiển: “Cường

rướn mạnh người lấy đà, buông tay lao chéo qua bức rào dâm bụt thấp lè tè. Roạc! Ôi

thôi rồi! Quần đùi chú chàng bị cây móc, rách toạc một đường dài dưới mông. Cường

oặn người quay nhìn phía sau đùi. Không hề gì! Chỉ sướt da tí thôi” [364;55-56]. Nhìn

chung, các truyện Hai làng Tà Pình và động Hía – Bắc Thôn, Hai bàn tay chiến sĩ –

Nguyễn Huy Tưởng, Em bé bên bờ sông Lai Vu – Vũ Cao, Thuyền sắp đắm – Bùi Đức

Ái, Giữ súng mướn – Vân An,… đã bước đầu cho thấy những suy tư của nhà văn khi để

nhân vật trẻ em phải xa lìa tuổi thơ, gắn thời thơ ấu với cái khốc liệt của chiến tranh:

“Thế là chuyến ấy hầu như tôi để lại sau lưng cái tuổi mười ba đầy những thú vui nơi

đồng ruộng, những tiếng cá quẫy khi đìa tát cạn, những con bò mình vàng hực kéo cộ

chay bằng băng và cả những mùa gặt, từng đàn chim bay tới hót kêu lảnh lót trên trời”

[364;138]. Mặc dù vậy, đặc điểm nổi bật được các nhà văn tập trung khắc họa ở hình

ảnh những chiến sĩ nhỏ tuổi vẫn là sự gan dạ, dũng cảm, sẵn sàng xả thân vì Tổ Quốc.

Ngoài cá nhân dũng cảm, trong truyện thiếu nhi Việt Nam, có hiện tượng tác phẩm

mô tả hình ảnh cả một tập thể anh hùng như Đội thiếu niên du kích Đình Bảng (Xuân

50

Sách), Đội thiếu niên du kích thành Huế (Văn Tùng). Giai đoạn từ sau 1975, có thêm Đội

thiếu niên tình báo Bát Sắt (Phạm Thắng) sáng tác năm 1976, đội thiếu niên trung đoàn

Trần Cao Vân trong Tuổi thơ dữ dội (Phùng Quán) - xuất bản năm 1988. Nếu xét trên

chiều dọc thời gian, nhân vật tập thể anh hùng trong các sáng tác trước và sau 1975 có thể

khu lại thành một loại. Nhưng nếu nhìn dưới góc độ lịch đại, ta sẽ thấy nó như một hiện

tượng có tính tiếp nối, một mặt phản chiếu ý thức cộng đồng đã được thể hiện trong

việc tạo dựng nhân vật đám đông trẻ em, mặt khác, cho thấy cách nhận diện, tiếp cận thế

giới trẻ thơ qua việc tái hiện trẻ em trong các tổ, nhóm. Do bị ngắt quãng bởi mốc thời

gian 1975, hơn nữa, nhân vật đám đông trẻ em kiểu này, ít xuất hiện trong các sáng tác

giai đoạn sau, nên khi soi chiếu nó qua tiến trình lịch sử văn học, chúng tôi không tách

thành một loại nhân vật riêng thuộc giai đoạn văn học 1945-1975. Tuy nhiên, sự xuất

hiện của hình tượng đám đông trẻ em trong Văn học thiếu nhi giai đoạn này là một chủ

đích, phản chiếu quan niệm của nhà văn về trẻ thơ. Bởi vậy, không thể không tính đếm

đến nó, cho dù trước 1975 chỉ có hai tác phẩm. Đội thiếu niên tình báo Bát Sắt của

Phạm Thắng dẫu ra đời năm 1976 nhưng về cơ bản, cảm hứng nổi bật cũng như phương

thức thể hiện vẫn giống hai sáng tác trước 1975, vì vậy, chúng tôi vẫn coi nhân vật trong

tác phẩm này thuộc mẫu hình nhân vật tập thể như trong Đội thiếu niên du kích thành

Huế và Đội thiếu niên du kích Đình Bảng. Do có độ lùi về thời gian, Tuổi thơ dữ dội tuy

có đề cập đến hình tượng đội thiếu nhi trung đoàn Trần Cao Vân nhưng cách thể hiện đã

khác và quan niệm của người viết về trẻ em cũng đã thay đổi so với trước. Vì vậy, chúng

tôi đặt nhân vật trẻ em trong tác phẩm này trong hệ thống nhân vật của những tác phẩm

viết sau năm 1975 và sẽ nói rõ hơn ở chương sau.

Sự xuất hiện của kiểu nhân vật tập thể anh hùng trong Văn học thiếu nhi là kết

quả của việc dịch chuyển mẫu hình nhân vât tập thể từ văn học người lớn. Chủ nghĩa

cộng sản rất coi trọng tính cộng đồng, tinh thần tập thể, bởi vậy, trong văn học cũng hình

thành hình tượng “nhân vật tập thể”, “nhân vật quần chúng”, “nhân vật đám đông”. Các

nhân vật này đều được khắc họa như nhau và không có nhiều nét riêng biệt, đối lập với

cộng đồng. Chúng ta cũng thấy rất rõ đặc điểm này trong các sáng tác thiếu nhi kể trên.

Ở đây, trẻ em được đặt trong mối quan hệ với môi trường xã hội, với người lớn chứ

không phải trong quan hệ bạn bè, người thân ở môi trường trường lớp, gia đình. Các em

được tập hợp thành các đội thiếu niên, hoạt động có tổ chức, không phải đám đông vô

51

thức. Đội thiếu niên du kích Đình Bảng được thành lập trong hoàn cảnh sống chết bám

trụ với địa bàn để củng cố tấm bình phong che chở cho Hà Nội và bác Nhã chính là

người dìu dắt, giao nhiệm vụ cho cả đội. Đó là tập thể mang phẩm chất chung của

thiếu nhi Việt Nam thời bấy giờ: thông minh, khôn ngoan, dũng cảm, có lòng yêu nước

và căm thù giặc sâu sắc. Các em đều là con em của nhân dân lao động, phải chịu đựng

cảnh đói khổ vì áp bức từ nhỏ. Đa số các em đều có mối thù riêng với thực dân và

phong kiến tay sai. Những em nhỏ trong đội thiếu niên Đình Bảng cũng đều là các

chiến sĩ sớm giác ngộ chính trị, có lí tưởng rõ ràng. Lượt, Hoan, Húc, Thiết đều cảm

thấy mình “gắn bó với vận mệnh chung của đất nước với một lý tưởng chiến đấu ngời

sáng” [386;46]. Tuy mỗi em đều có những nét riêng cách nghĩ, tùy theo tâm lý, tính

cách nhưng tất cả lại đều thống nhất trong nguyện vọng bảo vệ cuộc sống yên vui, tự

do của quê hương. Ở các em toát lên cái tinh thần say mê hoạt động và nhiệt tình với

cuộc sống: “Tất cả ngời lên một niềm vui sướng. Những cặp mắt chỉ muốn trông thấy

những hình ảnh của tương lai, những chân trời, nhìn thấy cái gì cũng tươi đẹp, mặc dù

xóm làng còn ngổn ngang xơ xác, đầy những vết tích tàn phá” [386;299]. Cuộc sống

của các em gắn bó với đời sống của cách mạng, với kháng chiến. Lý tưởng tưởng của

các em là lí tưởng của toàn dân tộc, hướng về tự do, hòa bình: “Châu đã bước vào cuộc

chiến đấu thực sự. Những gì xảy đến, Châu chưa biết trước được. Thành phố đối với

Châu giờ là mặt trận, mặt trận không có đường ranh giới” [423;36].

Có thể nói, mẫu hình người anh hùng trong chiến đấu, kết tinh mọi phẩm chất

cao đẹp của cộng đồng trong văn học người lớn giai đoạn này đã dịch chuyển, khúc xạ

vào hình mẫu nhân vật trẻ em ở Văn học thiếu nhi. Vì thế, mặc dù có ý thức sáng tác

cho trẻ em nhưng do bị chi phối bởi nhiệm vụ chính trị, không khí thời đại,… nên các

nhà văn không tránh khỏi việc phản ánh hình ảnh trẻ em có phần già dặn, “cụ non”.

“Quê nội” và “Tảng sáng” của Võ Quảng đánh dấu bước chuyển trong cách thể

hiện hình tượng nhân vật chiến sĩ nhỏ tuổi từ xuôi chiều, đơn điệu sang phức tạp, sinh

động. Hai nhân vật Cục và Cù Lao hiện lên với những nét vẻ rất gần gũi với trẻ thơ:

ngộ nghĩnh, tinh nghịch, ham chơi, vụng dại,… Người ta thấy chúng cũng cãi cọ, chạy

nhảy, vật lộn, phiêu lưu, trốn tìm,… như bao đứa trẻ trên đời này. Người ta yêu thích

hai em cũng bởi đã nhìn thấy ở chúng phần nào đó hình ảnh tuổi thơ của mình. Tuy

nhiên, nhân vật Cục và Cù Lao cũng vẫn bị không gian rộng lớn của lịch sử những

52

năm tháng chiến tranh bao trùm, đặc biệt trong “Quê nội” – sáng tác trước 1975. Võ

Quảng cũng như các nhà văn thời đó thường đặt nhân vật trẻ em vào trong môi trường

tập thể, rộng hơn là môi trường kháng chiến. Quan hệ gia đình thu nhỏ trong quan hệ

xã hội. Môi trường đời sống xã hội đã hút trẻ em về phía những mối quan hệ rộng lớn

với thời đại, lịch sử. Không phải ngẫu nhiên mà chú bé Lượm trong bài thơ cùng tên

của Tố Hữu bày tỏ: “Ở đồn Mang Cá thích hơn ở nhà”. Đời sống cách mạng và không

khí thời đại với những biến cố, thử thách lớn lao đã tạo nên một lực hút với trẻ thơ,

đưa các em vào những mối quan hệ mang tầm vóc lịch sử.

Có thể nói khi xây dựng nhân vật chiến sĩ nhỏ tuổi, nhà văn hướng tới mục đích

dựng những tượng đài anh hùng cho trẻ em. Điều này hoàn toàn hợp lí trước đòi hỏi thực

tế và đặc thù tâm lí trẻ em thời đó. Xưa nay, người ta vẫn cho rằng, khi tạo lập những hình

ảnh nhân vật trẻ em - chiến sĩ nhỏ tuổi mà chỉ thiên về hành động cách mạng, ít đặc điểm

tâm lí lứa tuổi là đánh cắp tuổi thơ, là không cho trẻ em được làm trẻ em,… Có lẽ, cần

phải khách quan hơn trong đánh giá. Maria Nikolajeva, trong một nghiên cứu về nhân

vật trong Văn học thiếu nhi đã cho rằng: “Chúng ta phải nhận biết rằng, việc hiểu nhân

vật phụ thuộc phần lớn vào cách tiếp cận tác phẩm. Trong tiểu thuyết thiếu nhi, sự hiểu

biết của chúng ta sẽ phụ thuộc vào việc chúng ta có nhận thức văn bản như một công cụ

giáo dục hay một đối tượng thẩm mĩ” [242;282]. Trong giai đoạn 1945 -1975, việc coi

trọng tính giáo dục của Văn học thiếu nhi và tạo dựng hình tượng thiếu nhi theo phương

thức mô phỏng là điều dễ hiểu. Chúng tôi cho rằng, nhân vật chiến sĩ nhỏ tuổi là kiểu

nhân vật đặc thù, chỉ có trong thời kì lịch sử đặc biệt của dân tộc, khi mà cả nước phải

dồn sức cho một cuộc chiến dành độc lập. Và đối với độc giả nhỏ tuổi thời đó, kiểu nhân

vật này đã đáp ứng được nhu cầu thẩm mĩ và khát vọng của thế hệ trẻ.

2.2.2. Nhân vật công dân nhỏ tuổi trong sinh hoạt đời thường

Trong hoàn cảnh đất nước phân ly, mỗi người dân vùng nông thôn bắc bộ hăng

say sản xuất, tích cực với công việc của hợp tác xã. Và trẻ em không nằm ngoài nhiệm

vụ đó. Chúng được lôi kéo vào công việc của người lớn, tất nhiên, với phương châm:

“tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình”. Các em làm kế hoạch nhỏ, lao động

trong hợp tác xã, học tập dưới mái trường xã hội chủ nghĩa.

Định hướng cho sáng tác thiếu nhi giai đoạn này, nhấn mạnh: “Trong tình hình

hiện nay, trọng tâm giáo dục tư tưởng và tình cảm cho thiếu nhi là yêu lao động, siêng

học tập, làm thế nào cho các em học tập tốt, lao động tốt, vì chủ nghĩa xã hội, vì thống

53

nhất Tổ Quốc” [204]. Bùi Thanh Ninh, trong bài Mấy suy nghĩ về truyện viết về sinh

hoạt của thiếu nhi gần đây nhận định: “Theo chúng tôi mục đích duy nhất của truyện

sinh hoạt nói riêng và của văn học thiếu nhi nói chung hiện nay là giáo dục cho các em

thiếu nhi tư tưởng cộng sản chủ nghĩa để đào tạo các em trở thành những người xây

dựng chủ nghĩa xã hội và góp phần vào cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà” [204;58].

Với mục đích giáo dục tư tưởng, tình cảm cho thiếu nhi yêu lao động, siêng học tập, các

nhà văn đã cho ra đời những mẫu hình nhân vật thiếu nhi với đầy đủ những phẩm chất

của một công dân gương mẫu.

Sự ra đời kiểu nhân vật công dân nhỏ tuổi trong những sáng tác cho trẻ em thời kì

này như một sản phẩm tất yếu của lịch sử. Khi đất nước vẫn còn bị chia cắt, miền Bắc

mới được giải phóng, đang trong thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa, một trong những

nhiệm vụ trọng tâm của văn nghệ thiếu nhi là giáo dục các em biết học tập và lao động

tích cực. Vì lẽ đó, hình tượng nhân vật công dân nhỏ tuổi có nét hao hao giống những

công dân – người lớn thực thụ, biết tham gia lao động trong hợp tác xã, biết khai hoang

mở rộng sản xuất, biết ứng dụng khoa học kĩ thuật vào canh tác, biết vì lợi ích của tập

thể, không ham chơi, không nghịch ngợm,… Tóm lại, các em là những mẫu hình lí

tưởng cho kiểu con người mới xã hội chủ nghĩa.

Trong giai đoạn 1945 – 1975, hình tượng người công dân ưu tú được quy chuẩn

thành mẫu hình “Con người mới”. Đó là những con người có ý thức, tinh thần tập thể,

đặt lợi ích của tập thể, của nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân, gần gũi với quần

chúng, là anh hùng nhưng không phải là anh hùng cá nhân, sống trong tập thể, là một

cá nhân trong tập thể, được tập thể nuôi nấng, giáo dục. Đó cũng là những người có lý

tưởng cao đẹp, ý thức cách mạng, sống có mục đích và biết vươn lên trong cuộc sống.

Trong ý thức nghệ thuật giai đoạn này, con người được đề cao, ca ngợi cũng là con

người hành động. Vì thế, “con người mới” được đánh giá trước hết trong những hành

động thực hiện nhiệm vụ, thực hiện lý tưởng. Vẻ đẹp sức mạnh của con người phải

biểu hiện ở những hành động biến lý tưởng thành hiện thực. So với văn học công khai

trước cách mạng, vẻ đẹp của con người quần chúng cách mạng là một biểu hiện mới

của ý thức nghệ thuật 1945-1975. Nét mới đó không chỉ được thể hiện trong sáng tác

văn học người lớn mà ngay trong tác phẩm viết cho thiếu nhi, hình tượng con người

mới cũng được lồng ghép trong mẫu hình nhân vật trẻ em.

54

Như tia sáng ban mai của một ngày nắng mới, cu Tý (Ngày công đầu tiên của cu

Tý - Bùi Hiển) hiện lên với một tinh thần khỏe khoắn, tươi vui, trong sáng và đầy kiêu

hãnh của một em bé buổi đầu góp sức mình vào xã hội. Sự phấn chấn, sự rụt rè, “nhúng

nhỉnh” trước công việc mới cũng như niềm vui nho nhỏ trong lần công đầu tiên của cu

Tý được Bùi Hiển khắc họa khá sinh động: “Cu Tý xấu hổ quay đi, hơi hếch mặt lên

trời, chúm miệng cười lỏn lẻn. Phút chốc họ đã đi xa, khuất sau miếu, chỉ còn tiếng cười

đùa vẳng lại. Thôi, chẳng thèm chờ thằng kia nữa. Phải đi cho kịp người ta chứ! Cu Tý

dắt nghé men theo bờ ruộng. Cái bóng dáng lũn cũn thấp tròn, úp cái nón tuy bé nhưng

cũng còn quá to đối với người, trông như cây nấm. Con nghé ngoan ngoãn theo sau,

bước đi lon chon trên bờ ruộng mấp mô” [317]. Sự tỉ mỉ trong quan sát và mô tả tâm lí

cậu bé trong lần đầu tiên được làm công việc như một người lớn của nhà văn đã góp

phần làm cho nhân vật trở nên sống động, chân thực, gần gũi. Có thể nói, đây là một

trong số ít những nhân vật trẻ em của Văn học thiếu nhi giai đoạn 1945-1975 để lại

cho người đọc nhiều ấn tượng. Chỉ bằng một câu chuyện ngắn, một tình huống bình dị

trong đời sống nông thôn, Bùi Hiển đã đặc tả thành công hình mẫu em bé tích cực

tham gia lao động như một công dân nhỏ tuổi nhưng vẫn có được dáng nét hồn nhiên,

ngây thơ, trong sáng của trẻ em và vẫn lấp lánh ánh sáng lí tưởng thời đại.

Góp phần xây dựng nông thôn đổi mới, các em tích cực thực hiện “kế hoạch nhỏ”,

xung phong vào các “hợp tác xã măng non”. Thiều, Tự và Lía trong Tổ tâm giao (Trần

Thanh Địch), cùng hợp thành tổ lao động, làm công việc phụ giúp sản xuất nông nghiệp

như mót lúa, bẫy chuột, bắt chim. Mấu, Hợi, Mận, Sung,… (Xã viên mới – Văn Giang)

học xong lớp 7 thi trượt vào cấp III, ở lại xã làm những công dân tích cực, lao động, sản

xuất cho hợp tác. Chấn, Thơm, Cam (Hợp tác xã của chúng em – Tô Hoài) khi nghỉ mùa,

đã cùng nhau bẫy chim, làm bù nhìn, bắt chuột giúp sức cho mùa gặt. Các em đều là

những đứa trẻ của nông thôn, đồng ruộng, là con em nông dân. Vì vậy, ngay từ nhỏ các

em đã làm quen với việc của nhà nông. Còn bé thì ở nhà bế em, thái rau lợn, nấu cơm,…

lớn thêm chút thì phụ cha mẹ làm cỏ, làm ruộng,… những công việc đồng áng, những

việc phụ trong nhà, các em cứ tự nhiên mà biết làm. Bởi vậy, khi người lớn tham gia

hợp tác xã, làm ruộng hợp tác thì chính các em cũng hăng hái muốn dự phần vào công

việc tập thể ấy. Người lớn khai hoang, vỡ đất trồng cây, các em cũng “triệu tập” đội khai

hoang: “Người lớn vào núi khai hoang thì bọn trẻ con ở nhà cũng vỡ hoang. Các em

55

cũng tập hợp thành từng đội như người lớn” [304;8]. Để cho giống với người lớn, những

công dân nhỏ tuổi cũng bắt chước cách làm, cách nói y trang người lớn: “Đội trưởng

Mão thỉnh thoảng lại chạy lên bờ, đi đi lại lại, lom khom ngắm nghĩa rồi tấm tắc khen:

“Đều lắm! Thẳng lắm! Đúng là cấy kỹ thuật” và nhắc đi nhắc lại câu ấy khá nhiều lần

[304;12]. Làm công việc của người lớn và mong muốn trở thành người lớn là đặc điểm

tâm lý chung của lứa tuổi nhi đồng. Đây là độ tuổi các em có xu hướng muốn tự khẳng

định mình bằng những việc làm giống người lớn, bởi các em cho rằng mình có thể trở

thành người lớn khi làm việc của người lớn. Nắm bắt được đặc điểm tâm lý này, khi

xây dựng kiểu nhân vật công dân nhỏ tuổi, các nhà văn đã tạo nên những mẫu hình khá

sinh động, chân thực. Tuy nhiên, nét tính cách, tâm lý của các em vẫn chưa được khai

thác triệt để. Vì thế, nhân vật trẻ em vẫn còn thiếu cái hồn nhiên, tinh nghịch mà thừa

sự từng trải.

Tuy là trẻ em, nhưng các công dân nhỏ tuổi trong truyện thiếu nhi giai đoạn

1945-1975 đã được đặt vào những tình huống phải lựa chọn giữa nghĩa vụ và quyền

lợi, giữa lợi ích chung và riêng: “Cam rủ Chấn: Vào chơi một tí. Chấn khẽ lắc đầu.

Cam đã nhảy thoắt vào trong bãi. Chấn lừ đừ đứng lại, nhìn đám người và đám trâu

chơi tung tăng trên những mô cỏ. Không phải Chấn không thèm chơi đâu. Chấn cũng

thích chơi lắm chứ. Vậy thì ở lại chơi một tí ư? Chấn trù trừ rồi Chấn đi từ từ nữa, từ

từ nữa, rồi Chấn muốn đứng lại, mặc dầu Chấn đã lắc đầu. Nhưng lúc này, ở nhà, cơm

đã chín, về chậm thì mẹ phải để phần, mất công mất việc. Mà hôm nay mẹ bận chẻ lạt

bện quang với tổ phụ nữ suốt từ sáng. Chấn lại còn họp tổ, phân công tác… Ừ, mà có

phải ai cũng chơi trong bãi đâu. Cả tổ học sinh của ta, chẳng thấy ai, họ đã đi thẳng về

tất. Không được… Về nhà lo việc cũng cần. Vào bãi chơi cũng thích. Chấn muốn theo

cách nào? Tuy chưa cắt nghĩa được, nhưng tự nhiên Chân thấy muốn đi về” [322;5].

Hai nhân vật, cùng là những cậu bé con 10 tuổi nhưng xem ra, Cam, với sự hồn nhiên,

mải vui, ham chơi gần gũi với trẻ em hơn, còn Chấn, chững chạc, nghiêm nghị, nhiều

băn khoăn, đã phải khoác lên mình nhiệm vụ của một nhân vật nêu gương, lại giống

như một người anh lớn hơn là một đứa trẻ. Trong cuộc đấu tranh với những tư tưởng

lạc hậu còn rơi rớt lại ở bậc cha chú như óc tư hữu, tính bảo thủ, các em cũng tỏ ra rất

chững chạc. Sơn trong Cơn bão số 4 – Nguyễn Quỳnh khi phải lựa chọn giữa việc cứu

lúa hợp tác hay cứu lúa gia đình, với tinh thần tập thể và ý thức vì của chung, đã sẵn

56

sàng vượt gió bão để cứu kho lúa của hợp tác xã. Hình ảnh Sơn cứu lúa hợp tác bỏ

ruộng nhà có nét tương đồng với Mẫn (Mẫn và tôi – Phan Tứ), lo cứu đồng bào, không

lo cứu mẹ mình trước nên mẹ cô bị chết, hay Lương (Trước giờ nổ súng – Phan Tứ) đi

chiến đấu biền biệt ở Lào, vợ ở nhà đành đi lấy chồng khác, bỏ mặc con thơ bơ vơ đói

khổ. Chỉ có điều, ở truyện thiếu nhi, nhân vật trẻ em thường không bị trả giá cho

những hi sinh vì việc chung. Sự mất mát, đau đớn mà nhân vật phải trải qua khi thực

hiện lí tưởng không thích hợp với nhân vật trẻ em và với độc giả thiếu nhi. Vì thế, Sơn

không những cứu được lúa hợp tác mà con khiến bố mình nhận ra trách nhiệm với

công việc của hợp tác xã. Mẫn (Xã viên mới – Văn Giang) không thi đỗ cấp III để

được làm cán bộ như ước mơ của ông nội đã ở lại quê hương góp sức vào công việc

của hợp tác xã. Sao (Bí mật miếu Ba cô – Văn Trọng) cùng bạn bắt gọn bọn gian ăn

cắp tài sản của hợp tác. Hình ảnh của các em hiện lên như những công dân gương mẫu

trong xã hội chủ nghĩa: yêu lao động và sẵn sàng quên mình vì tập thể.

Các nhà văn không chỉ thể hiện nhân vật công dân nhỏ tuổi theo cách ca ngợi

đơn thuần, họ đã đặt nhân vật của mình trong quá trình đấu tranh với các quan niệm

lạc hậu, sai trái của bản thân hoặc của người thân. Qua những thử thách đó, tính cách

của các em dần được hình thành và phát triển. Quỳnh (Quỳnh xóm cháy – Bùi Hiển)

ham chơi, không muốn bị ràng buộc bởi sinh hoạt Đội, mặc dù cậu không ghét Đội.

Vì thế, Quỳnh dần xa cách với các bạn. Nhưng Đội thiếu niên, với những biện pháp

khôn khéo đã lôi kéo Quỳnh trở về với sinh hoạt Đội, với tập thể. Tự trong Tổ tâm giao

– Trần Thanh Địch đã bị bố mắng và cấm đi bắt sâu cho lúa, cậu bé không hề cãi lại bố

song vẫn kiên trì theo đuổi công việc với tổ tâm giao cùng các bạn của mình. Mẫn (Xã

viên mới – Văn Giang) bị ông nội quở trách vì không thực hiện được giấc mơ làm “cán

bộ” của ông, chán nản cậu chỉ ở quanh quẩn ở nhà, không tham gia lao động. Nhưng

dần dần Mẫn cũng đã tìm ra được con đường của mình khi biết ứng dụng những kiến

thức đã học vào công việc sản xuất. Cam (Hợp tác xã của chúng em) là một kẻ phá

phách, lười nhác, không thích công việc tập thể nhờ sự giúp đỡ của anh phụ trách Đội và

sự khoan dung của các bạn, đã nhận thức được những việc làm xấu của mình: “Cam

đương nghĩ ngợi nhiều lắm. Cam không thể chịu được sự soi mói ấy nữa. Lương tâm

Cam đương xói móc, cắn rứt Cam. Những tội lỗi bấy lâu nung nấu giấu giếm trong

người trở nên đau đớn không chịu nổi, không giữ nổi” [322;34]. Mặc dù đã ý thức nhiều

57

hơn trong việc thể hiện sự đa dạng, phức tạp khi xây dựng kiểu nhân vật công dân nhỏ

tuổi, song do coi trọng mục đích giáo dục, hơn nữa lại là những vấn đề giáo dục rất

người lớn, nên các nhà văn, vô hình chung, đã khoác cho các nhân vật trẻ em của mình

nhiều trọng trách nặng nề. Nói về nhân vật Sao trong bộ ba tác phẩm: Bí mật ở miếu Ba

Cô, Câu chuyện trên Đầm Đông, Em Sao, Văn Trọng đã nói: “Em Sao không vận động

đơn thuần trong “thế giới trẻ con”. Tôi miêu tả em và các bạn em vận động trong thế

giới nhiều vẻ của “người lớn”, bởi vì chính cuộc xung đột giữa những tư tưởng tiên tiến

và tư tưởng bảo thủ nảy sinh trong quá trình tiến hành cuộc cách mạng mà Đảng ta lãnh

đạo, đang diễn ra ở xã hội người lớn là chủ yếu” [203;320].

Đây đó trong những trang viết, người đọc vẫn nhận thấy nét hồn nhiên, trong

sáng ở nhân vật: “Cô bé Khôi vốn thích chuyện cổ tích, chuyện tiên. Nó hay mơ ước

được gặp tiên để mà ước mơ đủ thứ: bà tiên cho nó cái bút viết thật tốt, cái bút chì thật

đẹp, không cần thước mà kẻ cũng thẳng, muốn màu gì có màu ấy… Bọn bạn nó thì

không tự mình ước gặp bà tiên bao giờ, nhưng khi nghe nó ước như thế thì cũng rất

thú vị và phụ họa theo. Cứ thế, có lúc đến cãi nhau, không phải để bênh vực ý kiến “có

tiên” hay “không có tiên” mà lại cứ tranh nhau nói là bà tiên của mình giỏi hơn bà tiên

của đứa khác” [304;36]. Hoàng Anh Đường đã tỏ ra là một nhà văn khá am hiểu tâm

lý của trẻ thơ. Ông khắc họa những cô bé tham gia khai hoang, làm ruộng vừa hợp với

không khí xây dựng nông thôn mới vừa chân thực, sinh động, gần gũi với trẻ em.

Nhưng đáng tiếc, những khám phá góc ngách tâm hồn của trẻ thơ còn chưa nhiều. Lý

do chính, có lẽ là bởi hoàn cảnh lịch sử buộc người viết phải đặt tiêu chí giáo dục lên

trên tiêu chí thẩm mĩ.

Là công dân nhỏ tuổi , bên cạnh việc lao động, trẻ em vẫn phải gắn cuộc sống

của mình với học tập. Các tác phẩm như Mái trường thân yêu (Lê Khắc Hoan), Chú bé

sợ toán (Hải Hồ); Năm thứ nhất (Minh Giang), Những tia nắng đầu tiên (Lê Phương

Liên),… đã tái hiện đời sống học tập của những công dân xã hội chủ nghĩa tương lai.

Đức tính mới của người học sinh dưới chế độ xã hội chủ nghĩa được đề cao như: thái

độ học tập đúng đắn, tinh thần đồng đội, tinh thần phê bình và tự phê bình.

Có thể thấy, ở những tác phẩm viết về đề tài sinh hoạt của thiếu nhi, bên cạnh

việc tái hiện kiểu nhân vật thuận chiều, các tác giả đã chú ý hơn tới nhân vật chưa tốt,

có nhiều khuyết điểm. Trong tác phẩm: Mái trường thân yêu, Năm thứ nhất, Những tia

nắng đầu tiên,… đều có nhân vật trẻ em nghịch ngợm, trẻ em chưa chăm ngoan. Tuy

58

nhiên, những nhân vật này, dù có phá phách đến mấy, cuối cùng vẫn theo chỉ dẫn của

người lớn, nghĩa là vẫn lại trở thành trẻ em ngoan, theo đúng quy định. Điều này lí giải

vì sao trong truyện thường xuất hiện loại nhân vật chị phụ trách, cô giáo chủ nhiệm, anh

hoặc chị bí thư Đoàn, bác bí thư Đảng… những nhân vật này theo sát các em từ đầu tới

cuối tác phẩm, giữ vai trò uốn nắn, chỉ bảo, giúp đỡ các em sống tốt và phấn đấu tốt.

Song nó cũng khiến cho nhân vật trở nên khô cứng, thiếu sức sống và già hơn so với

tuổi. Đôi khi, do mải nhấn mạnh tới sự tác động của các nhân vật định hướng nên nhà

văn đã khiến cho câu chuyện thiếu đi cái lôgic thông thường. Sinh (Chú bé sợ toán) học

kém toán là thế, vậy mà chỉ nói chuyện với anh công nhân một hôm, bỗng nhiên có thể

giải hết 5 bài toán khó trong một buổi chiều. Cô bé Hà (Những tia nắng đầu tiên) nhút

nhát là thế mà khi được các bạn bầu là đội trưởng lại có những trăn trở rất người lớn:

“Mình phải làm gì để xứng đáng với lòng tin của các bạn? Chúng ta còn mất trật tự,

chúng ta còn lười học, chúng ta còn vô khối cái dở. Nhưng chúng ta đều yêu Đội”

[351;14]. Nhìn chung, hoạt động của nhân vật thường hướng tới những lí tưởng cao đẹp

như vào đội, vào đoàn, xây dựng quê hương hoặc góp phần bảo vệ Tổ Quốc.

Những bài học về của chung – của riêng, về tình bạn được lồng ghép vào câu

chuyện của các công dân nhỏ tuổi trên ghế nhà trường. Nói chuyện trường lớp, cũng là để

khuyên răn các em về ý thức tập thể, về tinh thần trách nhiệm. Chi tiết Việt (Mái trường

thân yêu) nộp quyển sách mỏng Màn ảnh Phú Thọ (tuy trong tủ sách cá nhân của em có

biết bao sách quý khác có thể đóng góp xây dựng tủ sách của liên đoàn) là một chi tiết có

ý nghĩa. Tác giả không bình luận, ngay bạn bè hoặc cô giáo cũng chẳng có ý định phê

bình, chỉ trích. Tác giả để Việt tự nhận rõ về mình và sau đó hổ thẹn vì tính ích kỷ của

mình. Nhưng Việt cũng là nhân vật trẻ em già trước tuổi, sớm có những trăn trở của một

người lớn trưởng thành: “Ờ, lẽ ra… Nhưng tại sao sau đó, mình lại khăng khăng khước từ

bàn tay dìu dắt của tập thể? Những ý nghĩ ấy làm đầu óc tôi căng thẳng như một dây đàn.

Trời vẫn đầy mây. Một vì sao lẻ loi ở tận chân trời đen kịt đang run rẩy như hổ thẹn về

thứ ánh sáng nhợt nhạt yếu ớt của mình. Chốc chốc, một làn gió thoảng qua, nhè nhẹ như

một hơi thở dài” [329;73]. A Toát (Năm thứ nhất), Hà (Những tia nắng đầu tiên) dù còn ít

tuổi nhưng đã có ý thức trách nhiệm, tinh thần tập thể trong từng suy nghĩ, hành động

cũng như lời nói. Ở phương diện xã hội, những nhân vật này đã đạt chuẩn công dân

gương mẫu nhỏ tuổi. Nhưng trên khía cạnh tâm lí, dường như, nhân vật đã thiếu đi ít

nhiều nét hấp dẫn từ sự hồn nhiên, ngây thơ – vốn là đặc tính của trẻ em.

59

Nhìn chung, miêu tả nhân vật công dân nhỏ tuổi, các nhà văn đã có ý thức hướng

đến việc giáo dục trẻ thơ thông qua các hình mẫu lí tưởng về phẩm chất đạo đức, trách

nhiệm của một người công dân trong xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cũng chính vì mục đích

giáo dục được đặt lên hàng đầu, vô hình chung nhân vật trẻ em giống như mẫu hình của

một người lớn thu nhỏ mà thiếu đi cái vụng dại, tinh nghịch, hồn nhiên trẻ thơ.

Tóm lại, nhân vật công dân nhỏ tuổi trong văn học giai đoạn này được thể hiện

theo phương thức mô phỏng hiện thực, nêu gương tốt. Đây là giai đoạn khó khăn ở

miền Bắc, người người tham gia vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy,

văn chương cũng cần có nhiệm vụ gắn với tinh thần xã hội chủ nghĩa của dân tộc.

Nhân vật văn học, ngay cả Văn học thiếu nhi cũng phải là những đứa trẻ xã hội chủ

nghĩa. Điều này phản chiếu một thực tế: cái cần có lấn át cái đang có. Hiện thực được

phản ánh, nhân vật được nói tới trong tác phẩm là hiện thực đã được chọn lọc, là nhân

vật đã được định hướng. Bởi thế, kiểu nhân vật công dân nhỏ tuổi chưa thực sự sinh

động, chưa có chiều sâu, chỉ đơn giản là đại diện cho một tiếng nói, một kiểu con

người mới trong hoàn cảnh xã hội mà chúng ở đó.

2.2.3. Nhân vật như tấm gương (nhân vật nêu gương)

Trong giai đoạn kháng chiến và xây dựng đất nước, nhiệm vụ hàng đầu của văn

học thiếu nhi là giáo dục trẻ em tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, sẵn sàng trước

yêu cầu đánh giặc cứu nước, vươn lên trong lao động và học tập. Bên cạnh việc xây dựng

nhân vật trẻ em như những anh hùng cứu nước, những công dân gương mẫu, các nhà văn

còn lấy chất liệu từ hiện thực, từ khuôn mẫu có sẵn trong lịch sử cũng như trong đời sống.

Có hai dạng biểu hiện của kiểu nhân vật nêu gương trong giai đoạn này, một là trẻ em như

tấm gương lịch sử như Trần Quốc Toản trong Lá cờ thêu sáu chữ vàng – Nguyễn Huy

Tưởng, Bàn A Tốn trong Nghĩa quân sông Đà – Mai Hanh, Kim Đồng trong Kim Đồng –

Tô Hoài hai là nhân vật trẻ em là gương sáng trong đời sống: Nguyễn Ngọc Ký trong Tôi

đi học – Nguyễn Ngọc Ký, Hoa Xuân Tứ trong Hoa Xuân Tứ - Quang Huy,…

Trong giai đoạn 1954 -1975, loại truyện lịch sử viết cho thiếu nhi nở rộ và cũng

gặt hái được nhiều thành tựu. Có thể kể đến các tác giả, tác phẩm như: Hoàng Đạo Thúy

với Kể chuyện Lam Sơn (1959), Nguyễn Huy Tưởng với An Dương Vương xây thành

Ốc (1957), Kể chuyện Quang Trung (1960), Lá cờ thêu sáu chữ vàng (1960), An Cương

với Cưỡi sóng Bạch Đằng (1961), Bố cái Đại vương (1962)… Và các truyện lịch sử viết

cho thiếu nhi của các tác giả khác như Hà Ân, Thái Hồng, Nguyễn Hiền, Lê Vân, Hoài

60

Anh, Nguyễn Anh… Sau 1975, truyện lịch sử hầu như chững lại, các tác giả chuyển

hướng khai thác đề tài mới. Lý giải về sự phong phú của loại truyện lịch sử trong giai

đoạn 1954-1975, có thể xét đến những đòi hỏi của hoàn cảnh đương thời: đất nước vừa

phải đối mặt với cuộc chiến chống xâm lược vừa phải xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Những tấm gương anh hùng lịch sử như Bà Triệu, Phùng Hưng, Đinh Bộ Lĩnh, Lê

Hoàn, Trần Quốc Toản, Hoa Xuân Tùng, Hoàng Đỗ,… có ý nghĩa góp phần nêu cao

tinh thần yêu nước, yêu độc lập tự do, tự hào với những giá trị truyền thống của dân tộc

và hun đúc ý chí đấu tranh giữ nước của trẻ em. Nhà văn Hà Ân từng cho rằng: “Theo ý

riêng của tôi, chúng ta không nên chọn để thể hiện chẳng hạn những biện pháp của Hồ

Quý Ly, và càng không nên thể hiện biện pháp củng cố chính quyền của Trần Thủ Độ,

bởi vì đối với các em, ta cần nêu gƣơng sáng để các em học tập là chính [203;83].

Khi viết truyện lịch sử cho thiếu nhi, các nhà văn có ý thức xây dựng những

gương sáng trẻ em. Hà Ân – nhà văn đầy tâm huyết với truyện lịch sử cho thiếu nhi

khẳng định: “Viết truyện lịch sử cho các em nên có mặt nhân vật đại biểu của các em.

Tôi muốn nói đến các nhân vật nhỏ tuổi trong các sáng tác. Có thể trong một cuốn

truyện, ta xây dựng cả thời niên thiếu của nhân vật lịch sử.” Đồng quan điểm với Hà Ân,

Vân Thanh nhận xét: “Ngoài yêu cầu chọn những nhân vật tiêu biểu được đánh giá rõ

ràng, cũng cần chú ý xây dựng các nhân vật thiếu nhi, để gợi cho các em sự cảm thông

và những bài học giáo dục đối với các em sẽ trở nên gần gũi, quen thuộc. Có điều thú vị,

may mắn là lịch sử dân tộc ta không hiếm những tấm gương thiếu nhi anh hùng đã được

ghi vào sử sách” [204;170]. Như vậy, trong sáng tác và phê bình, rõ ràng những người

làm văn học thiếu nhi đã có ý thức tạo dựng kiểu nhân vật thiếu nhi như gương sáng

lịch sử. Đó là những nhân vật có nguyên mẫu từ lịch sử và thêm yếu tố hư cấu nhằm tô

đậm những phẩm chất đẹp đẽ của nhân vật. Ngoài ra, những người viết truyện lịch sử

cũng tạo ra nhân vật thiếu nhi bằng hư cấu, tất nhiên, những hư cấu này phải ăn khớp

với các sự kiện đã được ghi lại trong sử sách. Có thể kể đến Trần Quốc Toản (Lá cờ

thêu sáu chữ vàng – Nguyễn Huy Tưởng), Bàn A Tốn (Nghĩa quân sông Đà – Mai

Hanh), Rái Minh trong Nhụy Kiều tướng quân (Yến Hồng, Hoài Ban), Hoàng Đỗ và

Hoa Xuân Tùng trong Trăng nước Chương Dương (Hà Ân).

Đặc điểm nổi bật của kiểu nhân vật tấm gương lịch sử là ở chỗ, nhân vật không

được mô tả theo cách nhìn hiện thực thông thường mà được nhìn nhận từ một khoảng

cách sử thi. Bởi thế, dù là thiếu niên, nhưng chúng hiện lên như những anh hùng với

61

chiều kích và tầm vóc không giống với một đứa trẻ. Đặc điểm này cũng có ở kiểu nhân

vật anh hùng nhỏ tuổi, tuy nhiên, những anh hùng nhỏ tuổi trong truyện thiếu nhi Việt

Nam phần lớn đều là những nhân vật hư cấu, còn nhân vật kiểu tấm gương lịch sử là

những con người có thật, đã từng được ghi lại trong sử sách. Cách mô tả nhân vật tấm

gương lịch sử theo kiểu truyền thuyết hóa là điểm nổi bật của truyện lịch sử giai đoạn

trước 1975 nói riêng và truyện viết cho thiếu nhi nói chung. Cũng giống như văn học

“người lớn”, Văn học thiếu nhi giai đoạn này chịu sự chi phối của cảm hứng sử thi và

bút pháp lãng mạn, vậy nên nhân vật trẻ em cũng đậm chất sử thi, trước hết ở tầm vóc

anh hùng. Điều này cũng lí giải vì sao giai đoạn 1945-1975, truyện lịch sử viết cho thiếu

nhi lại nở rộ đến thế và kiểu nhân vật tấm gương lịch sử lại trở thành một trong những

kiểu nhân vật đặc trưng của văn học thiếu nhi giai đoạn này. Nhân vật tuy tuổi còn là

thiếu niên nhưng khí phách, thần thái, hành động được miêu tả đầy oai phong, lẫm liệt:

“Hoài Văn Hầu mặc áo bào đỏ, vai mang cung tên, lưng đeo thanh gươm gia truyền,

ngồi trên một con ngựa trắng phau. Chàng giữ vẻ uy nghiêm của một vị chỉ huy”

[425;45]. Trần Quốc Toản là một thiếu niên sớm có ý thức trách nhiệm với non sông,

đất nước. Ngay cả trong giấc mơ, cậu thiếu niên chưa tròn mười sáu tuổi ấy cũng bừng

bừng ý chí chống giặc, cứu nước. Không được chú cho vào đoàn quân của triều đình,

Trần Quốc Toản tự rèn luyện võ nghệ, binh thư, thu phục hơn sáu trăm trai tráng, dựng

cờ khởi nghĩa với sáu chữ vàng:“Phá cường địch, báo hoàng ân”.Trần Quốc Toản là

một trong số ít nhân vật thiếu niên có thực xuất hiện trong truyện lịch sử và cũng là nhân

vật tạo được dấu ấn riêng. Không chỉ được phóng chiếu ở góc độ anh hùng, khí phách,

tinh thần quả cảm, Trần Quốc Toản còn được rọi sáng ở vẻ đẹp bình dị, gần gũi trong

mối quan hệ với người thân, thuộc cấp. Cử chỉ ân cần, yêu thương dành cho mẹ, thái độ

lễ phép với chú và sự chân thành, tín nghĩa với người an hem Thế Lộc khiến hình tượng

Hoài Văn Hầu càng sáng đẹp trong mắt độc giả. Tập trung miêu tả chí khí người anh

hùng Trần Quốc Toản, nhưng Nguyễn Huy Tưởng vẫn không quên phác họa những nét

tâm lí tuổi niên thiếu: “Hoài Văn đi được mấy bước, quay lại nhìn, thấy anh em Thế Lộc

lủi thủi lên núi. Một dải mây trắng chăng ngang. Lòng Hoài Văn thổn thức, nhịp theo vó

ngựa ruổi trên đường núi gập ghềnh, khúc khuỷu...” [425;76]. Cái ngoảnh đầu nghĩa tình

và lưu luyến của Hoài Văn Hầu khi chia tay người bạn chiến đấu là một dấu lặng đầy

xúc cảm trong bản tráng ca oai hùng về người anh hùng thiếu niên dũng cảm cũng là nét

tâm lí rất trong sáng, thành thực trong tình cảm của người anh hùng thiếu niên nhỏ tuổi.

62

Ngoài Lá cờ thêu sáu chữ vàng, ở những tác phẩm như Nghĩa quân sông Đà, Nhụy

Kiều tướng quân, Trăng nước Chương Dương nhân vật trẻ em đều không phải là nguyên

mẫu từ lịch sử và cũng không được coi là “vai chính” trong câu chuyện. Có thể do nhiệm

vụ viết truyện lịch sử cho thiếu nhi nên các nhà văn hư cấu thêm nhân vật trẻ em nhằm

đưa tác phẩm đến gần với độc giả nhỏ tuổi. Nhưng cũng vì thế mà nhân vật thiếu khả

năng đại diện, tạo lực hút, khó trở thành điểm sáng trong tác phẩm. Mặc dù vậy, sự xuất

hiện của các thiếu niên yêu nước, lanh lợi ở các sáng tác này cũng góp phần tô đậm hình

tượng người anh hùng trong lịch sử và có ý nghĩa thức dậy tinh thần yêu nước cho trẻ thơ.

Có thể nói, truyền thống đánh giặc cứu nước đã ăn sâu vào máu thịt của mỗi người

dân Việt Nam. Từ cậu bé Gióng ở làng Phù Đổng giết giặc Ân cứu nước thời Vua Hùng,

tinh thần bất khuất, chống giặc ngoại xâm vẫn bền bỉ chảy trong khí huyết của những

người con đất Việt. Những lớp thiếu niên thế hệ sau Trần Quốc Toản, lớn lên trong thời

kỳ cả dân tộc kháng chiến chống Pháp đã nối tiếp truyền thống yêu nước của cha ông ta,

lập nên những trang sử chói lọi. Kim Đồng,… Hình ảnh của các em đã đi vào những trang

văn như biểu tượng của lòng yêu nước hồn nhiên mà cao đẹp của tuổi thơ Việt Nam.

Xuất hiện phổ biến trong văn học giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1975, kiểu

nhân vật thiếu nhi như tấm gương đời sống đóng vai trò quan trọng trong việc khích lệ

tinh thần của thiếu nhi Việt Nam trong phong trào chống Mỹ và xây dựng xã hội chủ

nghĩa. Đó là những nhân vật – có thật trong đời sống và nhà văn chỉ thực hiện nhiệm

vụ ghi lại nghị lực phi thường, vượt lên hoàn cảnh khó khăn của các em, như Hoa

Xuân Tứ, Nguyễn Ngọc Ký, Bùi Thị Tứ, Nguyễn Thị Hồng, Hoàng Văn Hải,…

Mỗi em nhỏ, tuy khác nhau về mất mát, thiệt thòi nhưng tất cả các em đều có ý

chí, nghị lực, vượt lên số phận. Hoa Xuân Tứ bị cụt hai tay, Nguyễn Ngọc Ký bị liệt

hai tay, Bùi Thị Tứ, Nguyễn Thị Hồng, ... Các em chính là tấm gương sáng về tinh

thần bền bỉ, vươn lên chiến thắng số phận. Nghị lực của các em đã trở thành động lực

cho các bạn cùng trang lứa: “Tối hôm ấy, mình làm một bài toán tập rất khó, nghĩ mãi

cũng chẳng ra. Mình chán nản, đã định đi ngủ, đợi mai dậy sớm hẵng hay. Nhưng

bỗng thấy hiện lên hình ảnh của Tứ cặp bút vào cổ, cặm cụi ngồi viết, mình liền trở

dậy, không ngủ vội. Khi nào buồn ngủ mình lấy chậu nước lạnh bỏ cả hai chân vào.

Mười hai giờ đêm, mình đã làm xong bài toán. Sáng hôm sau, thầy cho điểm năm. Vậy

xin tặng bạn điểm năm này có kèm theo cả bài toán tập của mình. Đó là công của bạn

đấy” [341;113]. Đoạn thư trên, có thể được nhà văn ghi lại trong dịp tiếp xúc với Hoa

63

Xuân Tứ ở Xã Hưng Nhân, huyện Hưng Nguyên năm nào, cũng có thể là hư cấu của

nhà văn nhằm khắc sâu hình tượng nhân vật. Song, những chi tiết như thế này, dù có

thực hay không cũng không làm giảm niềm tin của người đọc về một tấm gương vượt

khó: Hoa Xuân Tứ. Sự cố gắng, tinh thần ham học của em chắc hẳn đã khiến nhiều

bạn nhỏ nể phục và ít nhiều có ý thức vươn lên trong đời sống.

Trong số các nhân vật tấm gương đời sống, Nguyễn Ngọc Ký là nhân vật tự họa

duy nhất. Nguyễn Ngọc Ký đã ghi lại Những năm tháng không quên của cuộc đời mình

bằng cách kể khiêm tốn và giản dị. Cuộc sống của cậu bé bị liệt hai tay không ảm đạm,

đen tối mà đầy những trải nghiệm và mới mẻ. Ký chấp nhận và mạnh dạn đến trường với

biết bao khó khăn đang chờ. Những ngày đầu tập viết bằng chân vất vả, khó nhọc. Có khi

đôi chân phồng rộp nhức nhối. Có lúc chuột rút co quắp cả ngón chân đau điếng. Có lần

ngã què chân,… không nản. Mỗi lần thất bại, Ký lại mày mò tìm cách khắc phục. Cứ thế,

em vững vàng lên từng ngày. Em còn tự làm được nhiều việc có ích như đan rổ rá, khâu

vá, dùng kéo cắt khẩu hiệu, dùng compa dựng hình,… Có thể nói, bên cạnh Nguyễn Thị

Hồng, Bùi Thị Tứ, Hoa Xuân Tứ,… Nguyễn Ngọc Ký là một tấm gương sáng về tinh

thần ham học, quyết tâm chiến thắng mọi trở ngại để thực hiện lí tưởng của đời mình là

trở thành người có ích cho xã hội. Chính những khó khăn trong cuộc sống đã giúp các

em trưởng thành, đã khiến các em có thêm nghị lực sống để vượt lên bản thân mình.

Những việc làm của Ký và những em nhỏ như: Hoa Xuân Tứ, Bùi Thị Hồng đã khẳng

định và củng cố niềm tin vào cuộc sống cho các thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam.

Do đều là người thực bước vào văn chương nên những tấm gương này đã tạo

được xúc động mạnh và có tác dụng giáo dục sâu sắc. Tuy nhiên, trong khi xây dựng nhân

vật, do nhà văn chú tâm kể lại, thuật lại hơn là sáng tạo nên nhân vật không tránh khỏi hạn

chế của lối văn ghi chép. Với những năm tháng quý giá của Nguyễn Ngọc Ký, những nỗ

lực không mệt mỏi của Hoa Xuân Tứ, bạn đọc mong muốn tác giả dựng được một bức

tranh xã hội rộng hơn, sâu hơn trong đó Ký hay Hoa Xuân Tứ là một nhân vật văn học

trọn vẹn như Pavel Korchagin trong Thép đã tôi thế đấy của Nikolai Ostrovsky chẳng hạn.

2.2.4. Nhân vật trẻ em bị ruồng bỏ

Xã hội miền Nam, sau hiệp định Genever, đầy biến động. Trước sự phân cắt đất

nước, những âu lo về chiến tranh, người cầm bút dường như mất niềm tin, mất phương

hướng. Họ hoang mang trước thực tại, mù mịt về tương lai. Họ tìm cách bấu víu vào cảm

thức hiện sinh trong một sự mông lung vô hạn. Khi viết cho trẻ em, họ thường chọn hai

64

cách thể hiện đời sống: hoặc là phản ánh hiện thực xã hội hoặc tìm về với quá khứ êm

đềm thuở xưa. Lựa chọn này phần nào cũng giống với nhà văn Việt Nam trước năm 1945,

khi nước nhà đương trong cơn khủng hoảng. Chính sự lựa chọn cách thức thể hiện đời

sống của văn nghệ cũng cho thấy diện mạo bất an của xã hội miền Nam.

Văn học miền Nam Việt Nam, ngay sau năm 1954, hầu như thưa vắng sáng tác

dành cho trẻ em. Phải chăng, người quan tâm đến số phận trẻ em chưa nhiều. Hơn nữa,

chuyện ly tán, chuyện chiến tranh vẫn đang ám ảnh xã hội, văn học chưa thể quan tâm

đến mọi vấn đề. Nhưng từ đầu thập kỉ 60 trở đi, văn chương miền Nam nổi lên nhiều

cây bút chú tâm sáng tác cho trẻ em như Duyên Anh, Nhật Tiến, Đinh Tiến Luyện, Từ

Kế Tường,… Sáng tác của họ phần lớn đi theo hai hướng như trên đã nói. Khi tái hiện

đời sống trẻ thơ, họ xoáy sâu vào thân phận những đứa trẻ bị ruồng bỏ. Khi trở về với

thời thơ ấu của mình, họ khám phá lại thế giới diệu kì, hồn nhiên, tinh nghịch của trẻ

em, thế giới mà mỗi người lớn đều đã từng sở hữu và hầu như đều đã bị lãng quên. Từ

đó, hình thành nên hai kiểu nhân vật trẻ em đặc trưng nhân vật trẻ em bị ruồng bỏ và

nhân vật trẻ em mơ mộng, hồn nhiên.

Trong bối cảnh đất nước chia cắt, ở bên này chiến tuyến, trẻ em có được những

định hướng đúng đắn, sớm giác ngộ lí tưởng Cách mạng nên phần lớn các em sớm lựa

chọn được cuộc sống có ý nghĩa. Phía bên kia chiến tuyến, khi xã hội khủng hoảng

trầm trọng về văn hóa, về đời sống, tuổi trẻ rơi vào tình trạng hoài nghi, bơ vơ, không

định hướng. Sự khốc liệt của chiến tranh khiến bao gia đình tan tác, biến những đứa trẻ

có cha mẹ thành bụi đời, mồ côi. Bị gia đình từ chối, bị xã hội quay lưng, nhiều đứa trẻ

lạc lõng, sống không mục đích, không lí tưởng, tuổi thơ của chúng bị bội bạc, ăn mòn.

Tâm lý đó dẫn đến hai cách phản ứng của trẻ em hoặc bất mãn trở thành du đãng, phá

phách xã hội hoặc cam chịu, trở thành những nạn nhân của đời sống. Song, dù là cách

nào thì chúng cũng đều đã bị xã hội hoặc chính gia đình mình từ chối. Điều này tạo

nên hai dạng biểu hiện của kiểu nhân vật trẻ em bị ruồng bỏ trong văn học miền Nam

bấy giờ: nhân vật trẻ em bụi đời, du đãng và nhân vật trẻ em bất hạnh.

2.2.4.1. Nhân vật trẻ em bụi đời, du đãng

Những đứa trẻ bị bứt ra khỏi gia đình, bị ném ra ngoài xã hội, như một tất yếu,

không còn lựa chọn nào khác, chúng phải vạ vật với đường phố và luật giang hồ sẽ

giúp chúng lớn: “Bọn đánh giày tứ cố vô thân. Chúng nó sinh sống tại hè phố, chịu

đựng mọi kỷ cương của hè phố và hè phố có bổn phận sắp đặt cho chúng nó…”

65

[255;54]. Quý đen (Giấc mơ một loài cỏ) không biết mình là con ai. “Lớn lên, nghe

người ta miệt thị những thằng con hoang, thường thường, mẹ làm nghề đĩ điếm thì nó

phỏng chừng mẹ nó là một mụ điếm. Một đêm tối nào đó, mụ điếm gặp một thứ khách

khứa tri kỷ. Và nó ra đời. Nó cũng không biết nó ra đời ở chỗ nào. Bẩy tuổi đầu nó

mới biết nó ở viện mồ côi. Mười hai tuổi, nó trốn khỏi viện, lang thang như con chó

mất chủ tại các hè phố” [255;19]. Danh (Giấc mơ một loài cỏ) má chết sớm, ba chạy

xích lô bị dập phổi, chết, nó ở với chú thím, nhưng không chịu được người thím cay

nghiệt, nó bỏ đi đánh giầy. Dậu (Ánh mắt trông theo) không biết cha mẹ nó ra sao, ở

đâu. Khi nhận thức được thì nó đã thấy nó ở một xóm điếm. Hường có ba má ở miền

Trung nhưng đã chết vì bom đạn, mười bốn tuổi đã quen với nghề ăn xin, sống đói

rách ngoài đường. Tất cả những đứa trẻ không được thừa nhận, thiếu gia đình, không

chốn dung thân ấy đã kết hợp thành xã hội hèn mọn, sống bên lề cuộc đời. Còn nhỏ,

chúng sống bằng cơm thừa, canh cặn của các quán ăn, “những thức ăn ấy đã nuôi

những đứa trẻ con cầu bơ cầu bất lớn dần. Và nỗi nhục ở vỉa hè đã dạy chúng khôn ra,

để tranh sống” [257;37]. Lớn lên một chút, đến tuổi biết xấu hổ vì chầu chực thức ăn,

mỗi đứa bước xuống cuộc đời vào những nhóm nghề mưu sinh khác nhau nơi đường

phố. Đứa nhập vào xã hội đánh giầy, đứa vào hội ăn xin, đứa vào hội cướp giật,…

“Chúng tôn trọng luật hè phố kỹ lưỡng gấp vạn lần chúng ta tôn trọng luật pháp. Vì xã

hội của chúng không có luật sư và tòa án” [255;38].

Ngoài những đứa trẻ bị bứng ra lề đường, trở thành bụi đời, tứ cố vô thân, còn có

những đứa tự nó, chọn hè phố làm chốn dung thân, những đứa ấy tự phong cho mình là

“du đãng”, những tên “du đãng chính hiệu”. Duyên Anh, trong những sáng tác của

mình, còn đưa ra sự phân định rất rõ về những đứa trẻ bụi đời và du đãng, như một cách

biện minh cho sự nổi loạn của tuổi trẻ: “Tuổi trẻ bơ vơ, thèm xả thân cứu giúp đời, mà

rốt cuộc tinh thần hào hiệp đó biến thành tinh thần du đãng” [251;107]. Đã hơn một lần,

cũng trong Điệu Ru Nước Mắt, Duyên Anh nói về những người trẻ tuổi này là "những

thằng trong sạch nhất trong xã hội" [251;274], "du đãng nhiều thằng lương thiện gấp bội

những thằng to tiếng đòi giáo dục du đãng" [251;107] hay "xã hội du đãng cũng ăn đứt

xã hội đạo đức giả". Chúng nổi loạn vì cô đơn, "nổi loạn tâm hồn" vì "bất mãn gia đình,

học đường, tổ quốc", hoặc thù đời, "khinh miệt cuộc đời, vì cuộc đời cứ coi nó là du

đãng" [251;81]. Trần Đại (Điệu ru nước mắt), con một gia đình giàu có, thế lực. Nhưng

bố thường xuyên vắng nhà và bồ bịch; người mẹ phẫn uất vì bị chồng ruồng bỏ, sau khi

66

dùng bà như một món hàng để tiến thân, đã bỏ tiền cặp kè với một thằng trẻ tuổi để rồi

phải tự tử vì đau đớn khi bị con trai phát hiện. Nhìn thấy cảnh bố mẹ coi thường nhau,

chứng kiến cái chết đầy tủi nhục, cay đắng của mẹ, sự thờ ơ, lạnh lùng của cha, Trần Đại

đã tìm đến con đường du đãng như một cách trả thù đời, như một sự giải thoát khỏi vũng

lầy tăm tối của giả dối, xấu xa trong gia đình và xã hội. James Dean Hùng (Điệu ru nước

mắt), sinh ra trong một gia đình gia giáo, cha làm bác sĩ, mẹ là giáo viên nhưng nó lại

chẳng thể thi nổi kỳ thi trung học đệ nhất cấp. Nó chán nản vì không thể học bằng cha

mẹ, không được như kỳ vọng của cha mẹ. Hùng bỏ nhà ra đi: “Lần này, nó đi không về.

gia đình nó gọi nó về, hứa tha thứ lỗi lầm của nó nhưng Jeams Dean Hùng chỉ gửi về

một bức thư duy nhất. Nó nói rõ cái lý do nó bỏ nhà. Nó thù hằn gia đình, nghi ngờ sự

tha thứ của cha mẹ nó” [251;128]. Trần Thị Diễm Châu (Châu Kool), cha mất sớm, mẹ

đau ốm, chị gái tự tử vì bị đòn ghen tàn phá khuôn mặt. Trước những sóng gió cuộc đời,

trước cái nghiệt ngã của số phận, Châu đã không chống cự được những cay đắng của đời

mình và sự thù hận đã biến cô thành nữ chúa du đãng. Thất vọng trước những bất công

xã hội hoặc bất mãn gia đình, học đường, hay khinh miệt cuộc đời vì cứ coi nó là du

đãng, những đứa trẻ bụi đời nổi loạn đánh chém, hiếp dâm, tống tiền như một cách để

trả thù xã hội, như chẳng thể còn lựa chọn nào khác.

Trong cái thế giới ngổn ngang bạo lực, thù hận của những đứa trẻ bụi đời, du

đãng ấy vẫn có chỗ cho những yêu thương, đùm bọc. Tình yêu thương không vì bất cứ

một vụ lợi nào, không có bất cứ một điều kiện nào, nó tự nhiên, như thể chúng cần

được như vậy và cần phải làm như vậy: “Điểm đẹp sáng ngời của xã hội du đãng ăn

đứt xã hội đạo đức giả là, ở xã hội du đãng, chúng nó biết thương nhau, biết đùm bọc

nhau” [251;107]. Danh và Lựa (Giấc mơ một loài cỏ), hai đứa bạn đánh giầy hè phố

yêu thương nhau một cách thành thật và ngây thơ. Danh bị vào trại tế bần, Lựa xách

đồ nghề tới gần bót cảnh sát để cảnh sát bắt vào trại, mong gặp lại Danh. “Gặp bạn, nó

nhảy bổ tới ôm chặt lấy bạn. Nước mắt nó đầm đìa trên má.” [255;80]. Chúng lo lắng

cho nhau, đứa này giúp đứa kia thực hiện những giấc mơ còn dang dở. Danh kiếm tiền

giúp Lựa đi học, Dậu (Ánh mắt trông theo) kiếm tiền giúp Hường về quê. Tình yêu

thương của chúng vừa trong sáng vừa thơ ngây, tưởng như không gì thuần khiết hơn.

Và vì chỉ biết yêu bạn, thương bạn riết róng mà không thể làm gì giúp bạn, chúng đã

hành động khờ dại, bột phát như biết bao đứa trẻ trên thế gian này đã để yêu thương,

xúc cảm dẫn dắt hành động. Dậu bị cảnh sát bắt vì tội ăn cắp, Bốn lơ xe bị bắn vì

67

muốn cứu Trần Đại,… Điều an ủi duy nhất trong cái thế giới đầy bất an và bất công

của những đứa trẻ đường phố ấy chính là sự yêu thương và đùm bọc lẫn nhau. Nhưng

cay đắng thay, chút tình người chân thành, đáng quý ấy lại bị trả giá quá đắt.

Duyên Anh cho biết khi viết cuốn tiểu thuyết du đãng đầu tiên là cuốn Điệu Ru

Nước Mắt là lúc các tướng lãnh miền Nam đảo chánh nhau, “ông tướng này bắt ông

tướng kia, nay là tướng anh hùng mai là tướng gian, lung tung hết. Dưới mắt một nhà

văn thì tình trạng đó nản quá, tôi thấy chẳng còn gì đáng ca ngợi nữa. Với phản ứng

đó, tôi mới đem du đãng ra ca ngợi, thế thôi". Và so với cái xã hội miền Nam Việt

Nam bấy giờ, xã hội du đãng của những Trần Đại, Jeams Dean Hùng, Bốn lơ xe, Châu

Kool còn trong sạch hơn vạn lần. Vì chúng nó, “chưa hề bán nước hại dân, chưa hề

đục khoét công quỹ quốc gia, chưa hề lừa thầy phản bạn” [251;107]. Sự đập lộn, phá

phách của chúng, cũng chỉ là vì bầu nhiệt huyết nóng hổi muốn giúp đời nhưng lại bị

chính cuộc đời xô ngã, đẩy chúng ra ngoài vòng pháp luật.

Duyên Anh đã dành nhiều ưu ái, thiện cảm cho những nhân vật bụi đời, du

đãng của mình. Ông đã từng phẫn nộ trong Ảo vọng tuổi trẻ: "Hình phạt nào mới

xứng đáng cho một tên lừa gạt tuổi trẻ, cho những tên làm ung thối một thế hệ mới

vươn lên để tìm chỗ đứng cho dân tộc dưới ánh mặt trời" [252;228]. Hình ảnh những

đứa trẻ hè phố trong những trang viết của ông có gốc rễ từ những con người mà

chính ông đã gặp ngoài đời trong những năm tháng sống dưới chân cầu Tân Thuận

với người đồng hương đạp xích lô. Sống lẫn lộn trong một xã hội bần cùng nhất với

những cảnh bất công ngang trái hàng ngày diễn ra, “oan nghiệt gấp ngàn lần những

cảnh đời trong tiểu thuyết Nguyên - Hồng”. Chung đụng với đủ hạng người: phu bến

tàu, phu xích lô, buôn gánh bán rong, đánh giày, bán báo, ăn cắp, du thủ du thực...

ông đã "sống với họ, sống như họ”. Cuộc sống của chúng phản chiếu về một xã hội

hỗn loạn, ngổn ngang bạo động. Một xã hội mà những giá trị đích thực của cuộc sống

phải chịu nhường chỗ cho cái xấu, cái ác. Trong xã hội ấy, những đứa trẻ đã vô vọng,

lạc lối, mất phương hướng. Trong xã hội ấy, những nhà văn như Duyên Anh phải thực

hiện một thiên chức: cứu giúp và nâng đỡ những tâm hồn khốn khổ. Ông đã an ủi

chúng bằng niềm tin vào tình yêu và sự cảm thông. Nhưng những điều đó lại quá

mong manh trong cơn bão của bạo lực. Cái kết cho số phận của nhân vật trẻ tuổi du

đãng đều buồn. Những đứa trẻ đã phải trả giá cho những hành động bột phát, nông nổi,

ngông cuồng, cho những khát vọng tuổi trẻ bằng chính cuộc đời mình. Trần Đại bị

68

phơi xác trên hàng rào thép gai, Châu Kool bị cùm chân trong tù, Bốn lơ xe bị bắt chết,

Danh bị cảnh sát bắt, Lựa bị chết giữa đường,… Cái chết của chúng đã để lại những

câu hỏi lớn cho xã hội miền Nam Việt Nam thời ấy, để lại những day dứt cho chính

người lớn về trách nhiệm với con em mình.

2.2.4.2. Nhân vật trẻ em bất hạnh

Sự bất ổn xã hội khiến cho nền tảng gia đình lung lay, bấp bênh trước những

biến cố đời sống. Bạo lực, bất công, giả dối, bất tín,… đã tạo ra vô vàn những mảnh

đời trẻ thơ bất hạnh.

Hình ảnh những đứa trẻ chịu thiệt thòi trong cuộc sống cũng được Duyên Anh

phác họa qua truyện Con sáo của em tôi, Đại dương trong lòng con ốc nhỏ, Cái diều,

Dấu chân sỏi đá, Điệu ru nước mắt, Giặc ô kê,… Tâm (Dấu chân sỏi đá) bố chết, hai

mẹ con bơ vơ. “Chính phủ hứa tặng gia đình nó mười hai tháng lương của bố nó. Nhưng

mẹ con Tâm trông ngóng mỏi mòn cả con mắt mà tiền nong chẳng chịu tới” [269;9].

Tâm trở thành đứa trẻ bụi đời, phải bám trụ hè phố, lề đường để kiếm kế sinh nhai. Bốn

lơ xe lớn lên ở viện mồ côi. Rồi một hôm nó leo tường trốn ra ngoài cô nhi viện. “Nó

tưởng cuộc đời bên ngoài đang rộng tay đón nó. Nó chẳng nghĩ chuyện ngoài đời không

có những bàn tay đeo găng vớ vẫn xoa đầu nó như ở viện mồ côi mà chỉ có những bàn

chân hung bạo sẵn sàng đạp ngã những đứa trẻ lạc loài nghèo khổ, bơ vơ” [251;18]. Hai

anh em Mai trong truyện Con sáo của em tôi, bố chết sớm, mẹ tần tảo nuôi hai anh em,

không đủ ăn. Vì thương em, người anh đã giết thịt con sáo - con vật mà em rất yêu quý,

để cho em được ăn ngon nhưng lại khiến em nghẹn lòng, chua xót: “Tôi buông chưa dứt

lời, em quay lại nhìn tôi, đôi mắt chớp mau. Bốn con mắt anh em tôi lúc ấy mờ đi dưới

cái màng sám hối, đau thương. Bộ mặt đau khổ của tôi nói với em nhiều rằng tôi quý

con sáo nhưng tôi yêu em. Em tôi chừng hiểu chuyện, em buông đôi tay. Cái lồng và bộ

lông con sáo rơi xuống đất. Em chạy xô tới ôm lấy tôi, khóc nức nở” [249].

Nhân vật trẻ em bất hạnh cũng được Nhật Tiến tái hiện qua Những vì sao lạc,

Tay Ngọc, Chuyện bé Phượng, Chim hót trong lồng,… Đó là Khánh (Những vì sao lạc),

mẹ chết vì bom đạn, bố tự tử vì thất vọng, người vợ tục huyền. Hai anh em Khánh phải

sống nhờ cơm chùa và khi muốn tự lập thì em bệnh nặng. Không đủ tiền đi bác sĩ,

đường cùng, Khánh phải trộm tiền người quen, để đến nỗi phải chịu án tù. Đó là Vũ

(Những vì sao lạc) mồ côi bố, mẹ bỏ đi lấy chồng. Vũ sống với bà nội, khi bà chết nó

thành kẻ lang thang. Đó là Hạnh (Chim hót trong lồng) bị mẹ gửi nội trú trường các

69

Soeur, ngây thơ viết thư hỏi mẹ: “Má làm nghề điếm phải không má?... Sở điếm của má

có to không? Má làm chức gì trong ấy? Mà sở điếm thì buôn gì hở má?” [411]. Đó là

Phượng, Quỳnh, Liễu,… (Những người áo trắng) những đứa trẻ thiệt thòi, không còn

cha mẹ, bị cưỡng đoạt, ức hiếp phải vào sống ở cô nhi viện. Đó là những em gái, em trai

bị câm. “Có đứa bị câm từ khi người ta mới cho vào viện. Bởi vì khi còn ở nhà nó ốm

đau, quấy khóc đã bị bố nó đánh đập quá nhiều đến câm hẳn. Cũng có đứa vào đây

chẳng ai dạy nói, để cho đến tận bây giờ nó vẫn ngồi ngơ ngáo nhìn người qua lại với

cặp mắt buồn thiu, không có một chút nào sinh khí hoạt động” [408;13]. Linh hồn chúng

là “những linh hồn lạc lõng thiếu tình thương của cha mẹ, tình yêu của những con người

đến tuổi dậy thì và thiếu cái ước vọng vô bờ của tuổi hoa niên” [409;8].

Kiểu nhân vật vật trẻ em bất hạnh đã từng xuất hiện trong sáng của các nhà văn

Nguyên Hồng, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan,… trước năm 1945. Một lần nữa, những

đứa trẻ cô đơn, thiệt thòi, những phận đời cay đắng, bị đánh cắp tuổi thơ ấy lại có mặt

trong sáng tác của Duyên Anh, Nhật Tiến sau này. Trong các tác phẩm ấy, những đứa

trẻ héo mòn vì thiếu tình yêu thương và sự đùm bọc kia không còn là những phận đời

đi bên lề câu chuyện của người lớn. Câu chuyện của chúng là nội dung chính mà nhà

văn muốn trao đến độc giả. Duyên Anh, Nhật Tiến không chỉ kể về thân phận của trẻ

em bất hạnh mà còn gửi gắm vào mỗi trang đời u tối ấy những ước mơ, khát vọng của

tuổi hoa niên. Họ đã làm bừng sáng cái quãng sống đầy máu và nước mắt của những

đứa trẻ bằng niềm tin tưởng chân thành, đầy yêu thương của tình người. Họ đã cho

chúng cái quyền được tin vào những điều tốt đẹp, họ chắp cánh cho ước mơ của chúng

được bay xa. Mong ước được đi học của Lựa, được về quê của Hường, được gặp mẹ

của Hạnh, được trở thành người lương thiện của Bốn lơ xe,… dù còn dang dở nhưng

sẽ mãi được khắc ghi. Những ước mong ấy, chắc hẳn sẽ giúp cho trẻ em biết sống tốt

hơn, đẹp hơn và khiến người lớn không khỏi trăn trở vì trách nhiệm của mình.

Những nhà văn như Duyên Anh, Nhật Tiến, khi viết về cảnh đời đen tối của trẻ

em thời đó, đã lấy chất liệu từ cuộc sống bôn ba của mình, lấy cảm hứng từ chính

những con người họ từng gặp ngoài đời thực: "Chúng tôi sống ở ngoại ô Hòa Hưng

trong một xóm điếm tồi tệ. Xóm điếm thấp hơn mặt đường cả thước. Lên xuống y hệt

leo thang. Căn nhà mướn của một me Tây lụp xụp. Mái lá. Tối ngày chuột khiêu vũ.

Cạnh nhà có con lạch chảy ra cống thành phố. Thuở ấy lính viễn chinh Pháp chưa chịu

về nước. Xóm điếm tấp nập. Đêm nào cũng xảy ra vụ kiếm tục, bố ráp và lính viễn

70

chinh "chơi lường". Điếm chạy lính huỳnh huỵch. Điếm chửi lính viễn chinh ồn ào. Đầy

rẫy thảm cảnh và nghịch cảnh của một xã hội về chiều... Tôi thương nhất là những đứa

trẻ con lai da trắng, da đen. Những đứa trẻ không có quê hương, tổ quốc ấy cũng là

những đứa trẻ không có tuổi thơ. Mười tuổi chúng đã biết ghếch cớm "gác cảnh sát, hễ

thấy cảnh sát vào xóm là báo động) cho bọn Tú bà” [1]. Chính tình yêu thương và niềm

tin của nhà văn về con người đã giúp Duyên Anh, Nhật Tiến viết về những thân phận trẻ

em lang thang, bất hạnh với một nỗi niềm trĩu nặng và chan chứa yêu thương. Họ đã

biến những đứa trẻ của hè phố đầy bụi bặm, những đứa trẻ bị đẩy vào cô nhi viện,

những đứa trẻ sinh ra phải chịu những rạn vỡ của gia đình,… thành những nhân vật sống

động, vừa bụi bặm vừa lấp lánh khát vọng sống vươn lên. Và từ trang viết, những đứa

trẻ của họ bước ra ngoài cuộc đời, với những vết sứt sẹo chằng chịt nhưng vẫn ánh lên

niềm tin yêu tha thiết vào cuộc sống và con người.

2.2.5. Nhân vật trẻ em hồn nhiên, mơ mộng

2.2.5.1. Nhân vật hồn nhiên

Từ sau năm 1963, nhất là sau khi Mỹ đổ quân vào miền Nam Việt Nam, đời

sống của chính trị cũng như văn học đã có nhiều biến chuyển. Nhà nghiên cứu Cao

Huy Khanh nhận xét: "Sau 1963, văn chương miền Nam biến thái cùng với một mối

ám ảnh thường xuyên, khốc liệt: ám ảnh chiến tranh và tất cả những gì xung quanh

chiến tranh" [217]. Các nhà văn tìm cách hoặc thể hiện các nhân vật với thái độ thách

thức, đi ngược lại với những quy chuẩn đạo đức hoặc lảng tránh hiện thực, quay về với

quá khứ, với những hoài niệm của tuổi thơ. Không phải ngẫu nhiên, những trang văn

về tuổi thơ ở miền Nam, giai đoạn này, mới thực sự phong phú với các tác giả: Duyên

Anh, Từ Kế Tường, Đinh Tiến Luyện, Nhật Tiến,… Như một cách phản kháng với

thực tại, các nhà văn tìm về với trẻ thơ, với những mơ mộng, tinh tế của tuổi thích ô

mai. Tuổi thơ đã trở thành nơi trú ngụ cho những tâm hồn đầy đau thương, mang nặng

một mối u sầu hiện thực. Những sân trường đầy nắng, những hàng phượng vĩ rợp

bóng, những áo tiểu thư đã phủ kín tâm hồn đưa họ trở về với rung động đầu đời vừa

trong sáng vừa thiết tha. Trò nghịch ngợm trẻ con, ngây ngô của thời thơ bé đã giúp họ

ngược dòng thời gian trở về trên chuyến tàu tuổi thơ đầy sống động và mơ ước.

Trong cố gắng thu ngắn khoảng cách giữa tâm hồn tác giả với cái thế giới kì

diệu của tuổi hồn nhiên và kỉ niệm, Duyên Anh, Nhật Tiến, Từ Kế Tường,… đã tạo

nên những nhân vật trẻ em vừa hồn nhiên, sinh động vừa chân thực, giàu cảm xúc.

71

Chương Còm, Huệ tai voi, Ngân quăn, Dũng Đakao, thằng Khoa, thằng Vũ, thằng

Côn, con Thúy,… trong sáng tác của Duyên Anh, mỗi đứa một tính cách, mỗi đứa một

diện mạo khác nhau nhưng đều có chung một điểm: hồn nhiên, trong sáng, vô tư.

Yết Kiêu – Côn, Dã Tượng – Luyến, Quốc Toản – Vọng, Lê Lai – Lộc, Lý

Thường Kiệt – Long,… lũ trẻ, đứa nào cũng muốn mình có một phần nào đó giống

những anh hùng dân tộc đã xả thân cứu nước. Cái ước mong “mơ thành người Quang

Trung” của hầu hết trẻ em ấy đã được Duyên Anh thể hiện đầy sinh động trong các tập

truyện của mình. Chỉ có điều, những đứa trẻ trong truyện của Duyên Anh không trở

thành những chiến sĩ nhỏ tuổi, những anh hùng thực sự như các nhân vật trong truyện

của các tác giả miền Bắc. Ở miền Nam, lúc bấy giờ, lý tưởng đâu để trẻ em thành chiến

sĩ? Bởi thế, trẻ em chỉ chơi trò chơi chiến tranh. Trong giấc mơ ấy, chúng vẫn là những

đứa trẻ, những đứa trẻ hồn nhiên nhất, thơ ngây nhất, trong sáng nhất. “Súng đạn chẳng

hiểu gì chuyện của bọn con nít” [259;77]. Điều mà Duyên Anh đã phát hiện ra là sự hồn

nhiên và tình yêu thương chân thành, không toan tính của trẻ thơ: “Mỗi tuổi thơ nghĩ về

tuổi thơ một cách. Song cách nào thì cũng đến yêu thương. Mỗi đứa trẻ là một dòng suối

yêu thương. Mỗi đứa trẻ con là một ông mặt trời. Dòng suối ngâm mát cuộc đời cháy

bỏng. Mặt trời sưởi ấm cuộc đời đơn lạnh. Dòng suối hay mặt trời không bao giờ biết

mình đã ngâm mát, đã sưởi ấm cuộc đời. Nó cứ theo dòng hồn nhiên mà róc rách, cứ

chiếu những tia nắng thủy tinh” [261;79]. Niềm tin yêu nồng nhiệt ấy đã thổi bùng lên

trong các em ngọn lửa của niềm tự hào dân tộc và lòng yêu Tổ Quốc: “Ngày xưa, nước

tao có vị anh hùng vô địch thế giới là vua Quang Trung…” [259;147]. Và cũng chính

niềm tin yêu hồn nhiên ấy đã gắn kết những trái tim non nớt, những tâm hồn thơ ngây

lại với nhau, trong mọi hoàn cảnh.

Bọn trẻ con, nhất là các cậu trai choai choai, khoái nhất được tham dự những

trận đấu. Cách xử lí các trận tỉ thí của chúng cũng rất đơn giản:

“Chương còm nhẩy vào giữa. Võ đài có năm mạng. Chường còm nói:

- Đứa nào ghét Huệ tai voi

Một thằng giơ tay:

- Tao

- Tại sao mày ghét nó?

- Vì nó không chịu bảo bố nó đóng tuồng cải lương. Tao ưa coi cải lương trên tivi

72

Chương còm lại hỏi:

- Đứa nào ghét Ngân quăn?

Một thằng giơ tay

- Tao

- Tại sao mày ghét nó

- Nó ở cạnh nhà tao, đêm nọ tao bị đái dầm thì kệ tao, việc gì đến nó, nó lại

“học” với con Lan làm tao bị con Lan chế nhạo, mắc cỡ thí mồ” [265;52].

Và thế là cuộc đấu sức nổ ra. Nhưng chúng đấu đá nhau, không phải vì tiền bạc,

không phải vì quyền lợi, không phải vì những ham muốn vị kỉ… như người lớn. Lí do

của chúng đơn giản hơn nhiều, chúng phải đấu với nhau, vì đó là cách của trẻ con, nếu

không, làm sao mà vui được. Trò đánh trận, thực ra là sự bắt chước người lớn của trẻ

con. Nhưng với trẻ em, đó đơn giản chỉ là một trò chơi, không phải cuộc chiến. Bởi lẽ

“cuộc chiến tranh của nhóc con nào trên thế giới cũng chỉ là cuộc chiến tranh vui nhộn.

Bởi vì không có súng đạn và chẳng gây chết chóc, đau khổ” [265;102]. Sau mỗi “cuộc

chiến” ấy, dù thắng hay thua, thành hay bại, với trẻ con, đều vui cả: “Cả bọn cười vang.

Chúng nó quên luôn chuyện thua trận, nhẩy xuống sông tắm gội, kỳ cọ” [258;44]. Thậm

chí, một trận cướp cờ gay cấn, bỗng chốc trở thành vô nghĩa, nếu nó không chiếm được

sự “quan tâm” của “khán giả”: “Bảo hất đầu: - Mày nói đểu hở? Huy bĩu môi: ừ đấy,

mày làm gì nổi ông. Khán giả, bây giờ, không thích xem cướp cờ nữa. Chúng nó muốn

xem hai thằng đánh nhau” [263;43]. Chỉ vì một chiếc vỏ hộp bánh bích quy mà bọn

chúng phải phân xử bằng trò cướp cờ. Nhưng cũng chỉ vì một câu nói mà hai đứa trẻ

quên bẵng cả cái hộp bánh để lao vào đánh nhau. Và đám đánh nhau cũng nhanh chóng

tan dã vì có một thằng, nhân lúc bọn trẻ hăng máu đã “dông” luôn hộp bánh,… Cuối

cùng, chẳng đuổi kịp thằng cướp hộp bánh, đến ao làng, bọn trẻ bèn cởi phăng quần áo,

nhảy xuống ao đùa nghịch. Duyên Anh đã nắm trúng đặc trưng tâm lí của trẻ em: ham

chơi, dễ xao nhãng và thể hiện vô cùng sinh động qua nhân vật của mình. Những đứa trẻ

hiện lên qua các trang viết của ông đầy chân thực và sắc nét. Chúng là những đứa trẻ

nghịch ngợm nhất, hồn nhiên nhất mà cũng đôn hậu nhất.

Điểm đặc biệt trong tư duy của trẻ em là bị tình cảm chi phối rất mạnh, thể hiện

ở chỗ “trẻ chỉ suy nghĩ về những điều chúng thích và dòng suy nghĩ thường bị cuốn

vào ý thích riêng của mình, bất chấp tác động khách quan” [227;286]. Trong truyện

của Duyên Anh người đọc cũng dễ dàng nhận ra được đặc trưng tâm lí này ở những

73

nhân vật trẻ em ngây thơ, hồn nhiên. Với thằng Khoa (Thằng Vũ) – em Vũ thì “thằng

Vũ làm bất cứ việc gì nó đều khen rối rít. Đá bóng, chỉ anh Vũ nó đá hay. Đánh đáo,

chỉ anh Vũ nó đánh cừ. Bắn chim, chỉ anh Vũ nó bắn tài. Đấm nhau, chỉ anh Vũ nó

đấm chiến. Đi xe đạp, chỉ anh Vũ nó biết “xăng đơ’. Thổi ác mô ni ca, chỉ anh Vũ nó

biết đánh “tông” [254;32]. Tình cảm của trẻ thơ là thế, mộc mạc, thơ ngây, bồng bột

và đầy chủ quan. Nếu chúng thấy một ai đó đẹp, đơn giản là vì chúng yêu quý người

đó. Nếu chúng thấy ai đó tốt, đơn giản cũng vì chúng yêu quý họ. Nhưng yêu, ghét

cũng chỉ là nhất thời. Đôi khi, sự yêu – ghét ấy đến từ những lí do rất đơn giản. Ví như

thằng Nghiêm (Tuổi mười ba) sẵn sàng “chấm” cho đình thằng Hải nhất trong cuộc thi

đình giữa thằng Dực và thằng Hải chỉ vì thằng Dực đã cho nó “có một tí cùi dừa”. Còn

bọn “thầy chấm thi” đình thì nhao lên khi thấy thằng Hải khoe: Tao còn có hộp bánh

bích quy cúng thần. Thằng Huy tuyên bố: “Đình thằng Hải có hộp bánh bích quy, vậy

là nó nhất, nó mười điểm” [254;20]. Và kết quả là: “Nhờ cái hộp bánh bích quy, đình

của Hải lên tới một nghìn điểm… Cái hộp bánh bích quy, phút chốc, khiến bọn trẻ

con, các ông “thầy chấm thi” đình, quên mất thằng Dực, quên cái đình của nó và quên

luôn cả chầu bánh đa cùi dừa nữa” [254;28].

Bằng nhãn quan trẻ thơ, Duyên Anh đã tạo dựng thế giới nhân vật sống động,

đáng yêu, nghịch ngợm, hồn nhiên. Đó là hình ảnh tươi vui về một tuổi thơ đã thoảng

trôi trong khung trời kí ức. Đó cũng là vùng tâm thức kì diệu, ủi an để quay về khi con

người phải đương đầu với thực tế khó khăn. Một cõi sa mù có giá trị trị liệu, làm mới

lại cuộc đời, vực dậy cõi nhân sinh.

2.2.5.2. Nhân vật mơ mộng

Ở miền Nam Việt Nam, trước năm 1975, người ta luôn sợ hãi, lo âu, băn khoăn

khi thấy tuổi thanh xuân đang bị úa tàn trước những bế tắc của xã hội. “Tuổi trẻ bị bỏ bơ

vơ ngoài đời. Còn ở học đường thì bị đóng khung lấy sự hiểu biết” [262;72]. Những

người viết văn tìm về với thiên đường mất dấu tuổi ô mai để gắn tên những cô cậu học

trò với những xúc cảm đầu đời vào trang viết. Tạp chí Tuổi Ngọc do Duyên Anh làm

chủ bút là nơi lưu giữ những sáng tác của các nhà văn viết truyện tuổi mới lớn. Duyên

Anh có: Tuổi mười ba, Thằng Vũ, Con Thúy, Phượng vĩ, Lứa tuổi thích ô mai, Áo tiểu

thư, Về yêu hoa cúc,… Từ Kế Tường với: Đường phượng bay, Huyền xưa,… Đinh Tiến

Luyện có: Anh Chi yêu dấu, Bầy chim trắng trong sân trường,… Nhã Ca: Trăng mười

sáu,Hoàng Ngọc Tuấn: Thư về đường Sơn Cúc, Hình như là yêu,…

74

Nếu những truyện viết về tuổi thiếu niên, nhi đồng, người ta ít để ý tới sự phân

biệt giới tính của nhân vật thì đến truyện về lứa tuổi ô mai, khi những xao xuyến đầu

đời được khám phá, người đọc cũng bắt đầu thấy rõ nét khác biệt trong những nhân vật

thiếu nữ và những chàng trai tuổi mới lớn. Nhìn từ góc độ tâm sinh lí, đây cũng là điều

dễ hiểu. Vì khi trẻ còn ở độ tuổi niên thiếu, sự phân biệt về giới chưa thực khiến chúng

chú ý nhiều. Mặc dù, trong các hoạt động chơi của trẻ, cũng đã dần có những định

hướng giới tính, như: trẻ trai thì thích chơi những trò mạnh mẽ, dùng nhiều sức lực:

như bắn bi, vật tay, đánh trận,… trẻ gái thì thường những trò chơi thiên về chăm sóc,

khéo léo như: búp bê, đồ hàng, nhảy dây,… Tuy nhiên, ở lứa tuổi nhỏ, khi cơ thể chưa

có những biểu hiện dậy thì, thì dường như các em cũng chưa có nhiều băn khoăn về

giới tính, cũng đồng thời chưa nảy sinh những xúc cảm, tình cảm khác giới.

Đến tuổi dậy thì, ý thức về giới tính trở nên rõ rệt hơn, nó len lỏi vào trong các

quan hệ bạn bè, khiến những cô bé, cậu bé thuở nào bỗng trở thành những người khác.

Một cậu chàng ngông nghênh, hùng dũng hoặc tồ tệch, bỗng dưng, đứng trước bạn

khác giới thì mặt mũi đỏ gay, cử chỉ lúng túng, nói năng ấp úng, ngờ nghệch,… Một

cô bé, trước kia vốn luộm thuộm, hay quát nạt bạn bè, nay lại biết tế nhị, kín đáo, e lệ,

không suồng sã với bạn khác giới nữa. Mức độ thay đổi này phụ thuộc vào chiều sâu

mối quan hệ của những cô cậu tuổi ô mai. Đặc biệt, những chàng trai, cô gái mới lớn

đã bắt đầu có những rung cảm nhẹ nhàng, đôi khi, chỉ thoảng qua một cách tự nhiên

như khi nó đến. Trong những thời điểm như vậy, chúng thường rơi vào tình trạng

“say” đối tượng và tuyệt đối hóa tình yêu, xem người yêu là thần tượng duy nhất của

mình. Bởi vậy, chúng mới có những hành động bồng bột, thơ ngây mà chắc hẳn, sẽ

chẳng bao giờ có thể làm được khi đã trưởng thành.

Những chàng trai mới lớn đều có chung một dáng vẻ: khờ khạo, lãng mạn và rất

si tình. Khi còn nhỏ thì ăn cắp sấu dầm của mẹ, bỏ vào miệng rồi ra cổng nhả cho bạn

gái ăn như thằng Khoa (Tuổi mười ba – Duyên Anh). Lớn lên một chút, thì bắt trộm

chim, cho vào túi quần mang sang nhà bạn gái mà ấp úng mãi chẳng dám nói, để đến

nỗi con chim sáo suýt chết (thằng Vũ). Đến tuổi biết mộng mơ thì chàng nào cũng

thành những cây si kiên nhẫn nhất, ngây ngô nhất, mơ mộng nhất,… Nhân (Áo tiểu thư

– Duyên Anh) “mơ mộng rướn chân cao, ngước mắt, ngơ ngẩn trông với một tà áo,

một mầu áo. Và chỉ cần một nụ cười tặng nó, dù là nụ cười làm duyên qua đường,

Nhân đã có thể ăn thêm được ba bát cơm, học thuộc lòng bài vạn vật dài lê thê và thức

75

khuya hơn một chút” [264;205]. Thủy (Áo tiểu thư) “chỉ mơ mộng, buổi chiều nào đó,

em Hòa không quay lại, nhìn no, bĩu môi và nhổ bọt xua đuổi” [264;206]. Còn Long,

may mắn hơn, được người yêu mỉm cười, gặp mặt thì ngày đêm gọt chữ, làm thơ tình

yêu. Những chàng trai mới lớn, ngày ngày tới trước cửa trường nữ sinh, trồng cây si,

chờ cô bạn gái trong mộng tưởng. Có người bị từ chối phũ phàng, người may mắn hơn

được nàng hẹn gặp. Nhưng gặp nàng thì phải quần áo bảnh bao, miệng không còn mùi

hôi thuốc lá. Vậy là họ phải cầm cố đồ vật, để có tiền sắm sanh quần áo đẹp, cho ra

dáng với cô bạn. Oái oăm thay, chuẩn bị công phu là thế, trịnh trọng là thế, vậy mà

nàng đến lại về ngay, đâu biết rằng “để đón nàng cây đàn của tôi đã nằm trong tủ hiệu

cầm đồ bình dân” [264;199]. Khi đã si mê một “người trong mộng” nào đó, những cậu

chàng ấy thường dâng trọn trái tim, khối óc, tâm hồn mình cho cuộc tình thơ ngây đó.

Không ai có thể yêu nồng nhiệt như họ, chân thành giống họ. Long (Áo tiểu thư –

Duyên Anh) cắm cây đàn quý giá để mong gặp bạn gái, Đông (Đường phượng bay –

Từ Kế Tường) đạp xe dưới trời mưa đuổi theo Thục vì sợ nàng giận dỗi, Huy (Anh Chi

yêu dấu – Đinh Tiến Luyện) bỏ Sài Gòn đô thị, lên thành phố sương mù lạnh, chỉ để

được gần hơn cô gái bé nhỏ Anh Chi, Chương (Phượng vĩ- Duyên Anh) chẳng ngại

chép mấy tập vở cho Phượng, rồi ngày ngày trước nhà Phượng mong nhớ nàng mà

không dám vào,… Các chàng trai khờ khạo ấy, nếu có thể, sẵn sàng bán cả linh hồn

mình cho tình yêu để đổi lấy một nụ cười của cô bạn mình thương nhớ. Họ mơ mộng

có một tình yêu, một người yêu để “chơi trò ú tim tình ái, để viết và đọc thư tình trên

giấy nháp, để hẹn hò, để… ăn thịt thỏ tình yêu và để kiểm soát xem gia tài mình còn

món gì mà tiệm cầm đồ bình dân không từ chối cấp phát biên lai,… Họ ngớ ngẩn, khù

khờ, lố bịch chẳng ra cái thể thống gì cả. Bởi vì, họ vừa lớn. Họ đem sự ngớ ngẩn, lố

bịch vào tình yêu, tình yêu rất thơ và rất buồn cười” [264;207].

Trong những truyện viết về tuổi ô mai của các tác giả tuần báo Tuổi Ngọc,

thường ít thấy nhân vật chính là nữ. Đặc điểm dễ nhận thấy ở các cô gái tuổi mới

lớn trong truyện của Duyên Anh, Từ Kế Tường, Đinh Tiến Luyện, Hoàng Ngọc

Tuấn,… là sự e ấp, kín đáo. Phần lớn họ được nhìn qua con mắt của những chàng

trai si tình nên cô nào cũng đẹp nhất, đáng yêu nhất, dễ thương nhất. Chỉ mái tóc

Phượng (Phượng vĩ – Duyên Anh), mùi thơm của mái tóc dài mê hoặc ấy đã khiến

“những anh học trò luộm thuộm nhất cũng đã chịu khó sửa lại cổ áo, mái tóc. Ngôn

ngữ bạt mạng thì để dành lúc vắng nàng mới phóng ra. Nàng đã làm những anh học

76

trò ngổ ngáo hóa thành nai vàng ngơ ngác. Nàng không hiểu nàng là quyền uy của

lớp học… Nàng là chiếc lá bàng cuối thu. Nàng là con chim khuyên lạc đàn. Nàng

là tiên nữ bị đẩy xuống trần gian,..” [267;24]. Với Huy (Anh Chi yêu dấu – Đinh

Tiến Luyện), nụ cười của cô bé Anh Chi cũng đủ nâng đỡ tình yêu rồi “Chi cười

như một thiên thần dễ thương” [355] . “dì” Hạnh (Đường phượng bay – Từ Kế

Tường) được hình dung qua đôi mắt mơ mộng của Đông: “Tóc dì cột thành hai

bím, đường ngôi rẽ ở giữa. Tôi ngồi lọt thỏm trong ghế ngắm dì. Tôi khen: Chà! Dì

Hạnh chiều nay xinh như một con búp bê,… Dì Hạnh ngây thơ như em bé. Hình

như trong đầu óc của dì chả có tí mưu mẹo nào. Ai nói gì dì cũng tin, chuyện mà dì

bảo cố giấu nhưng thật ra hỏi dò vài ba câu dì khai hết, một cách hồn nhiên đến tội

tình. Dì Hạnh như một bức tranh quý treo đầu tường, dì giống như một viên ngọc

trong suốt, xanh biếc không gợn một tí bụi” [425]. Còn Thục, bạn gái Đông thì

“hiền, xinh xắn như một con cánh cam” [425]. Mặc dù đều nhút nhát, bồng bột như

nhau nhưng trong tình yêu, các cô thiếu nữ thường e dè hơn, kín đáo hơn. Hạnh

(Đường phượng bay) sẵn sàng chôn giấu tình cảm với Đông qua những trang nhật kí

mà chẳng bao giờ thổ lộ. Họ yêu nhưng không quá vồ vập, mê say nhưng không

đánh mất lí trí. Họ coi tình yêu tựa như những phút thăng hoa trong cuộc sống, chỉ

nên để thưởng ngoạn chứ không nên cầm nắm, nếm thử. Chi, Quỳnh, Kim, mơ mộng

và yêu đương những nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn, Mai Thảo, Trần Vũ,… nhưng họ

chỉ coi tình yêu đó như việc “đứng nhìn những trái ô mai chua qua lớp thủy tinh

trong suốt. Để thích. Đề thèm. Cảm giác thích hay them ô mai chua, sẽ không còn

nữa nếu ta muốn biết ô mai làm ê răng ta đến mức nào. Như tơ trời đứt ở tay ta, ta sẽ

thấy tơ trời không khác gì tơ nhện!” [262;83]. Không yêu si mê đến mức chẳng thiết

tha gì học tập như con trai, những cô gái, tưởng là nông nổi, nhẹ dạ lại luôn dặn

mình: “Tôi phải xếp nỗi buồn vào ngăn kéo, khóa kỹ lại. Vì năm nay là năm thi”

[262;39]. Nhìn chung, các nhân vật nữ trong truyện mới lớn của những nhà văn Tuổi

ngọc vừa có cái vụng dại, thơ ngây, trong trẻo vừa có cái chững chạc, chín chắn của

cô gái đang tập làm người lớn.

Có thể nói, nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam giai đoạn 1945-

1975 ở hai miền Nam – Bắc có những khác biệt đáng kể. Truyện thiếu nhi miền Bắc

nổi bật lên ba kiểu nhân vật: nhân vật anh hùng nhỏ tuổi, nhân vật công dân nhỏ tuổi

và nhân vật trẻ em nêu gương. Từ sau năm 1954, đặc biệt là sau năm 1963, trên những

77

trang viết của các nhà văn miền Nam Việt Nam xuất hiện hình ảnh những đứa trẻ bị

ruồng bỏ và trẻ em hồn nhiên, mơ mộng. Sự khác biệt này có liên quan tới những yếu

tố văn hóa - xã hội - lịch sử.

Khác biệt trong việc khai thác hình tượng nhân vật trẻ em ở hai miền Nam –

Bắc, phản chiếu nét khác nhau về văn hóa của hai vùng đất. Người miền Bắc, chịu ảnh

hưởng sâu sắc tư tưởng Nho giáo, nếp sống, nếp nghĩ đã thành chuẩn mực, khuôn

thước cho nên, thế giới của trẻ em được nhìn qua lăng kính của người lớn cũng mang

phần nào nhãn quan người lớn. Hơn thế, tính cách con người cơ bản là sản phẩm của

hoàn cảnh sống. Trẻ em miền Bắc sống trong môi trường giáo dục đầy khuôn phép sẽ

sớm tiếp thu cái tinh thần mực thước của Nho gia. Miền Nam là vùng đất mới, dân cư

còn thưa thớt, đất đai rộng lớn, phì nhiêu, sản vật phong phú, con người cởi mở, phóng

khoáng, không bị gò bó nhiều trong lễ nghi. Điều này chi phối không nhỏ tới hình

tượng nhân vật trẻ em trong các sáng tác ở Nam Bộ.

Do chiến tranh chia cắt, xã hội hai miền Nam – Bắc giai đoạn trước 1975 cũng

có những khác biệt. Miền Bắc, văn học Cách mạng đề cao nhiệm vụ cổ vũ kháng

chiến, hướng tới những mẫu hình nhân vật trẻ em như: chiến sĩ nhỏ tuổi, công dân

gương mẫu,… Miền Nam, không chịu nhiều chi phối bởi mục tiêu chính trị, vì thế

nhân vật trẻ em, một mặt phản ánh cái nhìn hiện thực của nhà văn trước xã hội mặt

khác hướng tới những giá trị nhân bản, bền vững. Vì thế, trẻ em được thể hiện nhiều

hơn mặt hồn nhiên, tinh nghịch, ngây thơ. Đây cũng là xu hướng chung của văn học

miền Nam giai đoạn này khi một số tác giả như: Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc tìm về

với văn hóa, phong tục, con người, thiên nhiên để khai thác những vẻ đẹp nguyên sơ,

bản thể của tự nhiên, con người.

Thời kì sau năm 1954 đến 1975, ở miền Nam Việt Nam là một giai đoạn lịch sử

đặc biệt. Những tác động từ lịch sử với các biến động trên chính trường đã khiến cho

văn nghệ sĩ miền Nam thời kì này rơi vào một trạng thái tâm lí bất ổn, với đầy âu lo,

hoài nghi và hoang mang. Trong khi đó, từ sau năm 1954 đến năm 1975, ở miền Bắc,

không khí kháng chiến, ý chí Cách mạng luôn sôi sục trong đời sống, đến mức: “Mỗi

chú bé đều nằm mơ ngựa sắt/ Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng” (Chế Lan

Viên). Sự khác biệt này, đã dẫn đến những nét riêng trong hình tượng nhân vật trẻ em

trong truyện thiếu nhi giữa hai miền Nam Bắc.

78

2.3. Một số đặc điểm nghệ thuật xây dựng nhân vật trẻ em trong truyện

thiếu nhi Việt Nam giai đoạn 1945-1975

2.3.1. Xây dựng nhân vật trẻ em theo hình mẫu người lớn thu nhỏ

2.3.1.1. Phác họa ngoại hình giản đơn, sơ lược

Xây dựng nhân vật thông qua miêu tả ngoại hình là một trong những thủ pháp quan

trọng của văn học. Từ thời trung đại, thủ pháp này đã được các nhà văn sử dụng nhằm tô

đậm tính cách, dự báo số phận nhân vật. Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975,

nhân vật được mô tả “như những cá nhân, mang đặc điểm và tính cách của con người cộng

đồng, con người sử thi,… Ngoài hình tượng nhân vật tập thể với số lượng đông đảo, có nét

chung về diện mạo, y phục, hành động,… Khi quan sát miêu tả hình ảnh con người sử thi,

các tác giả như đều rất nhạy cảm với những dấu hiệu mang tính dân tộc, giai cấp, những

dấu hiệu đại diện cho tập thể ở mỗi hình dáng, việc làm của nhân vật” [85;190]. Dấu

hiệu chung, dễ nhận thấy trong cách miêu tả chân dung nhân vật của văn học Việt Nam

giai đoạn 1945-1975 là ở chỗ, các nhân vật đều được mô tả theo khuôn mẫu. Ví như:

khuôn mặt cán bộ, chiến sĩ thì thường nghiêm nghị, rắn rỏi, kiên quyết; người lao động

thì khỏe mạnh, đầy sức sống, kẻ địch thì gian xảo, độc ác,... Điều này, đã ảnh hưởng

không nhỏ tới cách thể hiện chân dung nhân vật trẻ em trong các truyện thiếu nhi.

Truyện Hai làng Tà Pình và Động Hía – Bắc Thôn có 27 trang nhưng chỉ có hai

câu giới thiệu một cách vắn tắt về cậu bé Vừa A Sình và Triệu Đại Mã – hai nhân vật

chính của tác phẩm. Câu thứ nhất: “Sình khoanh tay trước ngực, đứng phưỡn cái bụng phệ

trắng hếu ra nhìn” [400;32], và câu thứ hai: “Chú bé cũng nhỏ như Sình. Đầu cuốn cái

khăn tầy vố to hơn người. Chú đuổi bắt con chim” [400;34]. Trong 40 trang truyện Con

gái người bán chim – Nguyễn Kiên, cũng chỉ có hai câu miêu tả ngoại hình nhân vật Mạ:

“Mạ nhìn anh bằng đôi mắt rụt rè, nghi ngại, thoáng có chút hoảng hốt, nhưng cũng chính

đôi mắt đó đã ánh lên những tia sáng hết sức trong trẻo, mạnh mẽ và chân thânh”

[364;225] và “Mạ lại gần Dương, Dương nắm chặt lấy bàn tay gầy guộc, nóng hổi và dày

chai của em, lúng túng lồng vào ngón tay em một cái nhẫn to bản” [364;237]. Người đọc

cũng rất khó hình dung về diện mạo A Toát trong truyện Năm thứ nhất – Minh Giang.

Bởi tác giả chỉ miêu tả đơn giản: “A Toát sạch sẽ, gọn gàng, đầu chải cẩn thận. Tóc em

gợn lên như những đợt núi đồi” [306;14]. Có thể thấy, các nhà văn đã tỉnh lược đến mức

tối đa những nét phác họa chân dung nhân vật. Có khi, đến cuối tác phẩm, người đọc mới

79

lờ mờ nhận ra một nét trên khuôn mặt của nhân vật chính: “Và kìa, trước mặt người bố,

đứa con lại đang ngồi ngoan ngoãn nhìn bố với đôi mắt long lanh chờ đợi một lời khen về

kết quả của những bài toán ấy” [318;29]. Ngoài “đôi mắt long lanh” của Sinh được nhắc

tới ở cuối truyện, Hải Hồ đã không dành một câu nào nói về ngoại hình của em. Ở truyện

Quỳnh xóm cháy – Bùi Hiển, cũng chỉ có cụm từ: Quỳnh cười hì hì, gãi gãi mang tai được

nhắc lại đôi lần trong tác phẩm, cho thấy hình ảnh của nhân vật. Hoàng Anh Đường, tác

giả của Những cô tiên áo nâu, cũng rất hạn chế trong việc tái hiện chân dung năm cô bé:

Chắt, Mão, Lê, Khôi, Tiu. Nhân vật xuất hiện đầu tiên – Chắt được tác giả mô tả ở trạng

thái: “nó đương ngồi tập viết ở nhà. Nó nắn nót từng nét, từng chữ. Trên mặt giấy trắng

tinh, hai chữ “đại phong” cứ hiện lên, lắp đi lắp lại và đều tăm tắp” [304;1]. Chân dung

Mão cũng rất đơn giản: “đầu hất hất cái bím tóc ngắn cũn cỡn, ống quần xắn cao đến tận

đầu gối [304;4]. Lê và Tiu được nói đến trong cùng một câu: “Xa xa Lê cũng đương vừa

bím tóc vừa chạy tới, theo sau một quãng là Tiu, thong thả hơn” [304;21]. Khôi được

miêu tả kĩ hơn cả: “Khôi cười, đẹp và tươi như một em bé cười trong giấc ngủ ngon lành”

[304;39]. Khắc họa chân dung nhân vật trẻ em, các nhà văn thường chú ý tới một số nét

như: ánh mắt, mái tóc, nụ cười, vóc dáng. Và hầu như chúng đều giống nhau: mắt sáng,

tóc bạn trai thì gọn gàng, tóc bạn gái thì tết bím, nụ cười tươi, vóc dáng nhỏ nhắn. Đây

được coi là những đặc điểm diện mạo cơ bản mà người lớn vẫn thường gán cho trẻ con.

Điều này, khiến cho các nhân vật đều hao hao giống nhau, và đều giống một khuôn mẫu

mà người lớn đã định sẵn ra cho chúng. Nó xuất phát từ quan niệm đã tồn tại lâu trong

suy nghĩ của người lớn về trẻ con ở xã hội ta: trẻ em “là bản sao của người lớn và bị

người lớn sở hữu như một phần tài sản. Không có nô lệ nào bị chủ sở hữu nhiều như trẻ

em dưới quyền cha mẹ, không có đầy tớ nào vâng lời không giới hạn như trẻ em khi bị

yêu cầu… Chưa bao giờ quyền lợi con người bị coi thường như ở trường hợp của trẻ

em.” [125;16-17]. Chắc hẳn không cố ý, nhưng những người viết về trẻ em, giai đoạn

này, đôi khi đã quên mất rằng mỗi đứa trẻ là một cá thể duy nhất và dù chúng đều hồn

nhiên, vui tươi,… nhưng chúng khác nhau, ngay từ diện mạo.

Từ việc coi trẻ em như một người lớn thu nhỏ, những nhà văn viết cho thiếu

nhi, giai đoạn 1945-1975, đã cho ra đời những bức chân dung trẻ thơ bị lồng ghép

trong hình hài của người lớn. Ở kiểu nhân vật chiến sĩ nhỏ tuổi, đó là hình ảnh người

lính kiên trung, không sợ hãi kẻ thù. Lâm (Giữ súng mướn – Vân An) bị bọn mật thám

80

đánh, vẫn gan lì chịu đòn: “mặt Lâm tái đi, môi run run và một tay cấu chặt vào gấu

chiếc quần cụt, trân người ra để chịu đòn. Có người nhận xét rằng lúc ấy mắt Lâm

hừng hực, căm tức, chứ không còn có vẻ sợ hãi nữa” [364;143]. Giao (Chú Giao làng

Seo – Nguyễn Tuân) nghiêm nghị, rắn rỏi y một anh bộ đội chính hiệu: “Cán bộ và

chiến sĩ hỏi thêm Giao điều gì, Giao trả lời dắn dỏi, mắt sáng, nhìn thẳng” [421;20]. Ở

kiểu nhân vật công dân nhỏ tuổi, đó là chân dung những người lao động khỏe mạnh,

đầy sức sống. Sơn (Cơn bão số 4 – Nguyễn Quỳnh) qua cái nhìn của bố, chững chạc,

đúng dáng một nông dân thực thụ: “Bác quay sáng nhìn con. Sơn nằm ngủ thoải mái,

hai chân duỗi thẳng,…Nó mặc cái áo của Bác không còn dài rộng là mấy nữa”

[379;65] Mạnh (Mái trường thân yêu – Lê Khắc Hoan) đi khai giảng năm học mới

trong trang phục rất đặc trưng của học sinh xã hội chủ nghĩa những năm 60: “Cu cậu

súng sính trong một cái áo màu trắng sáo rộng lùng thùng và cái túi quần xanh công

nhân mới nguyên, gấu quần phải xắn lên không biết mấy nếp” [329;7]. Cách miêu tả

chân dung trẻ em kiểu này cho thấy phần nào vai trò của trẻ em trong hai cuộc kháng

chiến của dân tộc đồng thời cũng thể hiện được cách nhìn của những nhà văn Cách

mạng về trẻ em ở thời kì này. Trong chiến tranh, trẻ em đã sớm phải khoác lên mình

dáng vẻ của những người lính nhỏ tuổi, trong buổi đầu tái thiết đất nước, trẻ em cũng

phải mặc những bộ cánh cho hợp với vai trò “con người mới xã hội chủ nghĩa”.

Một trong những cách miêu tả chân dung nhân vật trẻ em giai đoạn này là miêu

tả theo nhóm, miêu tả tổng thể: “Cả lớp tung tăng về các xóm ríu rít như chim vành

khuyên buổi sáng trên cành nắng – mang về những trái tim rộn rực, phấn khởi” [322;3];

“Từng đám thiếu niên, quần xắn gọn, giỏ đeo bên sườn”, “Họ không còn cái vẻ học sinh

nữa. Họ đã rõ ra những người nông dân chắc chắn, cần cù” [307;80], “Nhìn đám trẻ con

chơi trên sân phơi thóc,… ” [304;39]. Trong văn học người lớn giai đoạn 1945-1975,

hình ảnh người anh hùng lí tưởng với đặc điểm: gắn mình với tập thể, gắn số phận mình

với vận mệnh dân tộc đã được khắc họa đậm nét. Theo đó, người anh hùng lý tưởng phải

là người thuộc về quần chúng, đoàn kết gắn bó với quần chúng thành một khối, cùng làm,

cùng san sẻ buồn vui. Cá nhân sẽ chẳng có ý nghĩa gì, chẳng thể đẹp nếu tách mình ra

khỏi tập thể. Ý thức sáng tạo này đã lan truyền sang Văn học thiếu nhi, khiến nhân vật trẻ

em cũng được miêu tả theo lối tập thể hóa. Chân dung cá nhân mỗi đứa trẻ bị nhòe mờ

trong chân dung người lớn và bị chìm khuất trong chân dung của đám đông. Hình ảnh trẻ

81

thơ chỉ còn là một khuôn đúc với những đặc điểm định sẵn, theo cái mà người lớn muốn

thấy. Ta có thể nhận ra được những chiến sĩ nhỏ tuổi, những công dân nhỏ tuổi, nhưng

thật khó để có thể tìm thấy những Hoa Sơn, Quốc Toản, Vừa A Sình, Toàn, Lâm, Chiến,

Việt, Loan,… cụ thể thế nào, ngoại trừ việc, mỗi nhân vật có một tên riêng.

2.3.1.2. Hướng vào thể hiện ý thức và hành động cách mạng

Khảo sát những dòng miêu tả ngoại hình nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi

giai đoạn 1945-1975, chúng tôi nhận thấy một điều: ngay cả khi miêu tả diện mạo

nhân vật, các nhà văn thường đặt nó ở dạng động. Nghĩa là, khuôn mặt, vóc dáng, nụ

cười, mái tóc,… luôn đi kèm với một hoạt động nào đó. Ví dụ: khi đặc tả bím tóc của

của các em gái, thì đó phải là một bím tóc đang động đậy, hay là một bím tóc đang

được túm lên. Hoặc nụ cười, cũng thường sẽ đi kèm với một hành động nào đó như:

Quỳnh cười hì hì, gãi gãi mang tai (Quỳnh xóm cháy – Bùi Hiển), Lía cười, rúc đầu

vào vai như chim sắp ngủ (Tổ tâm giao – Trần Thanh Địch),... Với một đối tượng đầy

sinh động như trẻ em, có lẽ miêu tả chân dung ở dạng “động” sẽ là hợp lí hơn cả.

Như đã nói ở chương một, điểm nổi bật của nhân vật trẻ em là thường được

miêu tả thiên về hành động, ít chú trọng tới tâm lý. Đặc điểm này, dễ dẫn đến nhầm

tưởng về sự tương đồng trong cách xây dựng nhân vật trẻ em nói chung và cách xây

dựng nhân vật trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam giai đoạn 1945-1975. Văn học Cách

mạng xây dựng hình tượng con người có nhiều nét giống với con người trong sử thi

cổ điển. Đó là con người hành động, nghĩ sao nói vậy, mọi suy tư nội tâm đều được

biểu hiện qua hành động. Việc miêu tả nhân vật kiểu sử thi hóa như vậy là đòi hỏi

của văn học Cách mạng giai đoạn đó. Nhân vật trong tiểu thuyết sử thi không phải

không có những dằn vặt đời tư, những góc khuất tâm lí nhưng hầu hết các khía cạnh

tình cảm cá nhân được gạt sang một bên vì trách nhiệm với tập thể, vì hành động

cách mạng. Nhân vật trẻ em được miêu tả thiên về hành động nhiều hơn không phải

vì chúng đã bị lãng quên tâm lí mà đơn giản là vì với trẻ em, dằn vặt nội tâm không

phải là vấn đề chính trong cuộc sống. Ở lứa tuổi trẻ em, những ưu tư về cuộc đời, về

thế sự,… mới chỉ bắt đầu hình thành. Và đặc biệt, trẻ em rất dễ bị xao nhãng, nhanh

quên, dễ bị cuốn theo những niềm vui trong cuộc sống mà với chúng, mới chỉ đang

bắt đầu. Chúng sống đơn giản, hồn nhiên, chân thật. Bởi thế, không có nhiều những

khúc quanh tâm lí cần bày tỏ. Vì vậy, khi miêu tả nhân vật, các nhà văn thường thể

82

hiện trẻ em trong trạng thái “động” hơn là trạng thái “tĩnh”. Đó là cái “động” hiển

nhiên, đương nhiên, bản thể của trẻ thơ.

Các nhà văn đã dựng chân dung những đứa trẻ hành động nhưng đó chưa thực sự

là hành động trẻ thơ. Ở kiểu nhân vật chiến sĩ nhỏ tuổi, hoạt động chính được nói đến là

công việc cách mạng. Em thì làm liên lạc dẫn đường cho bộ đội, em thì làm giao liên,

em thì cứu dân làng khỏi đợt càn của giặc,… Còn công dân nhỏ tuổi, hoặc chăm chỉ học

tập, tích cực tham gia công tác đoàn, đội hoặc cùng cha mẹ, anh chị, tăng gia sản xuất,

mót lúa, chăn trâu, làm hợp tác xã,…Hầu như, các nhân vật trẻ em ở đây chẳng có ai

ham chơi. Nếu giả có ham chơi, cũng được uốn nắn ngay như Quỳnh (Quỳnh xóm

cháy), Cam (Hợp tác xã của chúng em),… ban đầu mải chơi, hay bắt chim, đá bóng,…

nhưng sau đó, đã được đưa vào những hoạt động mang tính tập thể. Trong kháng chiến,

các em hiện lên như những chiến sĩ thực thụ: “Giao bước dài như người nhớn, bám sát

bộ đội tiến vào. Lửa đồn bừng bừng chiếu vào cờ đỏ sao vàng ta vừa cắm lên…”

[421;21]. Trong thời bình, các em hăng hái lao động, thi đua lập thành tích: “những

người nông dân nhỏ này đã biết đề ra kế hoạch hàng tuần, hàng tháng về việc chăm sóc

cây từ lúc trồng đến lúc thu hoạch, rồi lập thành lịch, dựa theo sách khoa học. Họ làm ăn

còn vụng lắm. Lúc vun cà chua, Mấu để lưỡi cuốc băm đứt đến mấy chục cây. Sùng còn

vụng hơn thế nữa. Nhưng họ chịu khó học hỏi các vị lão nông cho biết việc; gặp chỗ nào

thắc mắc về mặt lý thuyết thì học lại về trường huyện hỏi các thầy cũ. Đặc biệt, lúc nào

họ cũng gọn gàng từ đầu tóc đến quần áo” [307;80]. Những công việc này thực ra là

công việc gắn với người lớn nhưng đã được mô hình hóa, thu nhỏ để trẻ em thực hiện.

Bởi vậy, trong hình hài nhỏ bé trên đồng ruộng, trong hợp tác xã kia, người đọc chỉ nhìn

ra được những người lớn thu nhỏ chứ không phải trẻ em trong đời sống thực của nó.

Gắn nhân vật với hành động cũng là một trong những đặc điểm của truyện cổ

tích. Theo phân tích của Propp (trong cuốn Hình thái học truyện cổ tích), yếu tố then

chốt của truyện cổ tích là chức năng và những chức năng này lại gắn bó chặt chẽ với

hành động nhân vật. Nói cách khác, nhân vật trong truyện cổ tích là nhân vật chức năng,

nhân vật hành động; tâm lí, nếu có, chỉ là yếu tố “gây nhiễu” cho việc đọc hiểu truyện cổ

tích. Sức hấp dẫn của truyện cổ tích là ở chỗ những hành động của nhân vật được cấu

trúc theo một hành trình và mỗi nhân vật đều có một vai trò nhất định trong hành trình

đó. Nhân vật trong truyện thiếu nhi giai đoạn 1945-1975 cũng giống với nhân vật cổ tích

83

ở chỗ được tập trung thể hiện bằng hành động và ít nhiều tham dự một “hành trình”

phiêu lưu. Nhưng nếu như hành động của nhân vật cổ tích là hành động mang tính xã

hội, gắn với những vấn đề trong đời sống như mâu thuẫn giàu – nghèo, thiện – ác,… thì

hành động của nhân vật trong truyện thiếu nhi là hành động cách mạng, gắn với môi

trường kháng chiến, lao động sản xuất. Ở truyện thiếu nhi, nhân vật trẻ em hành động

thường theo sự hướng dẫn, chỉ đạo của người lớn. Nói cách khác, người lớn đã tham gia

kiểm soát rất chặt chẽ mọi việc làm của trẻ em. Hoạt động của nhân vật cũng thường

hướng vào tập thể, gắn với tập thể, với lợi ích chung của cộng đồng, với những lí tưởng

cao đẹp. Thay vì nhận sự trợ giúp từ các nhân vật thần kì như trong cổ tích, các nhân vật

trẻ em ở truyện thiếu nhi thời kì này thường có sự trợ giúp của tập thể, thầy cô giáo, anh

chị phụ trách – những mẫu hình con người đã được định sẵn giá trị của thời đại. Điều

này đã vô tình che khuất đi sự hiếu động, tinh nghịch – đặc tính nổi trội trong hành động

của trẻ thơ.

Có thể nói, trong Văn học thiếu nhi miền Bắc giai đoạn 1945-1975, quan hệ

giữa tác giả - người lớn và độc giả - trẻ em là quan hệ một chiều. Nhiệm vụ chính

của văn học là tuyên truyền, giáo dục trẻ em tham gia kháng chiến. Vì vậy, trẻ em

được miêu tả không như những gì chúng vốn có mà như cái chúng nên có. Cho nên,

từ diện mạo đến cử chỉ, hành động đều không nhiều dáng nét của trẻ thơ.

2.3.2. Ngôn ngữ nhân vật trẻ em đậm dấu ấn diễn ngôn thời đại

Khi một nhân vật nói (đối thoại hoặc độc thoại) người đọc có thể nhận ra được

tính cách, đặc trưng riêng qua lời nói. Ngôn ngữ là một những phương thức biểu đạt

tính cá thể của nhân vật. Trong văn học, có nhiều trường hợp, chỉ thông qua lời nói của

nhân vật ta có thể nhận ra được họ là ai. Chẳng hạn, lời nói: “Biết rồi, khổ lắm, nói

mãi” (Số đỏ - Vũ Trọng Phụng), góp phần bất tử hóa nhân vật cụ cố Hồng. Hay lời

nói: “Tao muốn làm người lương thiện” (Chí Phèo- Nam Cao) đã lột tả được bi kịch

cuộc đời Chí Phèo,… Tuy nhiên, không phải tác giả nào cũng làm được việc cá tính

hóa nhân vật và cũng không phải thời đại nào, việc cá tính hóa nhân vật cũng được đặt

lên hàng đầu. Nhân vật trong truyện thiếu nhi Việt Nam, giai đoạn 1945-1975, nằm

trong xu hướng thể hiện nhân vật chung của văn học Việt Nam thời kì này đó là đại

chúng hóa nhân vật. Vì thế, ngôn ngữ nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi cũng có

những đặc điểm thuộc về thời đại bên cạnh những đặc trưng vốn có của nó.

84

Khi xét đến ngôn ngữ nhân vật, trong tiểu thuyết người lớn, các nhà nghiên cứu

thường quan tâm tới hai khía cạnh: ngôn ngữ đối thoại của nhân vật với các nhân vật

khác và ngôn ngữ độc thoại. Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn khả thi khi áp dụng

cho nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam, đặc biệt ở giai đoạn 1945-1975.

Các nhân vật nhỏ tuổi đã được mặc định là phải năng động, đang phát triển và vẫn

chưa trưởng thành về mặt tâm lý. Vì thế, khi xây dựng nhân vật trẻ em, nhà văn

thường chú ý tới ngôn ngữ đối thoại, độc thoại đã được lược bớt hoặc tồn tại ở một

dạng thức khác. Việc nói với chính mình, tự vấn về những vấn đề phức tạp của cuộc

sống, không phù hợp với đặc tính trẻ thơ. Điều này lại càng trở nên hợp lí trong thời kì

văn học 1945-1975 ở Việt Nam, khi mà mô hình chung cho nhân vật là hành động, ít

những diễn biến nội tâm phức tạp, không nhiều xung đột cá nhân.

Đối với trẻ em, nhu cầu trở thành người lớn luôn thường trực. Vì vậy, học theo lối

nói của người lớn là một trong những cách thực hiện điều đó. Tuy nhiên, ngôn ngữ của

đứa trẻ muốn trở thành người lớn với ngôn ngữ của trẻ em bị người lớn hóa không hoàn

toàn giống nhau. Đứa trẻ chơi trò chơi đóng vai, dù cố bắt chước theo cách nói của người

lớn thì vẫn không giấu được sự ngây thơ, hồn nhiên của giọng trẻ con. Hơn nữa, trò chơi

buộc trẻ phải tưởng tượng, chính sự tưởng tượng này, đã tạo nên sự khác nhau những đứa

trẻ thực sự và đứa trẻ - người lớn. Những nhà văn viết truyện thiếu nhi giai đoạn 1945-

1975, ở Việt Nam đã để cho nhân vật trẻ em tham gia trò chơi đóng vai, nhưng không

phải theo cách của trẻ em mà theo sự dẫn dắt của tác giả - người lớn. Nhân vật nói bằng

ngôn ngữ của người lớn một cách có ý thức và nhập vai, đến độ, đôi khi, chúng hoàn toàn

quên mất, chúng vẫn là trẻ con. Ta có thể thấy rõ điều này ở ví dụ sau:

“Cường cười, nói tiếp:

- Tôi cũng nghe bọ thằng Khoáng nói: nếu ngài mà thiêng thật thì ngài đã bẻ

què chân què tay lão Tây đồn với tụi cai lính rồi. Tây về đóng trong miễu, ăn uống ỉa

đái chi cũng trong ấy mà có việc gì đâu.

Chú Tám gật gù tỏ vẻ đồng tình

Cường lại tiếp:

- Tây thì chỉ có Việt minh mới trị nổi.

...

Thấy chú Tám lại cười, Cường vội tiếp, như chính mình thấy tận mắt:

85

- Họ đang tập luyện trên núi xanh. Trong núi cũng có nhiều bãi rộng lắm chứ

không phải toàn mấp mô lên xuống như mình tưởng. Khi nào tập giỏi rồi, họ kéo về đánh

ào một cái là Tây chết hết mà ông Cả cũng rồi đời” [364;78].

Nếu không được biết trước, người đọc sẽ khó có thể nhận ra được lời nói của

Cường là lời của một em bé hơn mười tuổi. Đây cũng là nhân vật khá hiếm hoi trong

các sáng tác cho trẻ em trong giai đoạn 1945-1975, xưng “tôi” khi đối thoại với người

lớn. Cách xưng hô này cũng cho thấy, nhân vật có ý thức rất rõ về vị thế của mình

trong hội thoại, điều mà các em nhỏ Việt Nam không được khuyến khích. Nhân vật tự

tin và tự do đối thoại, đến độ, quên rằng cần có những từ ngữ biểu đạt sự lễ phép trong

ngôn ngữ thay vì kiểu nói chuyện bằng vai.

Không chỉ sắm vai cán bộ tuyên truyền, các nhân vật nhỏ tuổi còn có thể trở

thành những chính trị viên biết thâu tóm tình hình bà con:

“Anh Rở chợt hỏi tôi:

- Em Bảy, khi nãy em nói em có một ông cậu ở cồn cát phải không?

Tôi đáp:

- Có, ông Sáu

- Có thể ghé lại đó nghỉ tạm được không? Bà con ở đó có tốt không?

Tôi bảo:

- Cồn cát không phải là vùng địch, nhưng phần đông theo đạo. Bà con

đều tốt, chỉ có một số ít không tốt” [364;29].

Lời nói: “Cồn cát không phải vùng địch….” của cậu bé Bảy hoàn toàn có thể

hiểu như lời của người kể chuyện nếu không có những dấu hiệu trích dẫn lời thoại

nhân vật. Dường như, người kể chuyện đã can thiệp quá mức vào lời nhân vật. Trong

tình huống trên, nó khiến ngôn ngữ của nhân vật bị định hướng theo một chủ thể khác,

ngoài anh ta. Ở đây, không phải một cậu bé lên mười đang nói mà là một cán bộ chính

trị đang đánh giá tình hình quần chúng.

Chúng ta cũng thấy trường hợp những nhân vật trẻ em sắm vai hoặc bị đặt vào

trong những vai ngôn ngữ người lớn ở kiểu nhân vật công dân nhỏ tuổi trong lao động

và học tập:

“- Thì để cho người khác làm, mày đã là xã viên đâu. Đi với tao cho vui

86

- Chưa là xã viên nhưng tao cũng là chủ nhân hợp tác xã. Đi với mày vui thật

nhưng bảo vệ được cá còn vui hơn.”

... Hợi ngạc nhiên:

- Chết chửa! Người ta tiến lên chủ nghĩa xã hội ầm ầm mà mày nghỉ cả nửa

tháng trời. Đồ ăn hại!

- Thế thì phải làm gì?

- Đăng kí lao động, ra đồng mà làm” [307;18].

Những câu nói trên, như thể, không phải được phát ra từ miệng hai cậu bé vừa

mới học xong lớp bảy. Nếu nhấc nó ra khỏi văn bản, hoặc thay chủ thể phát ngôn, người

ta có thể hiểu đó là lời của hai anh nông dân trong thời kì xã hội chủ nghĩa. Lời nói:

“chưa là xã viên nhưng tao cũng la chủ nhân hợp tác xã” hay “người ta tiến lên chủ

nghĩa xã hội ầm ầm… ” đã biến những cậu bé mười bốn, mười lăm tuổi trở thành những

xã viên hợp tác xã. Qua những đoạn hội thoại này, chúng đã không còn là trẻ em, chúng

đích thị là một “xã viên mới”, một công dân điển hình trong lao động sản xuất.

Trong sinh hoạt đời thường, trẻ em nói giống như “xã viên” hợp tác còn trong

học tập, các em nói như cô giáo chủ nhiệm:

“Việt ạ, - Loan nói tiếp – tớ cũng như Việt, tớ không chịu được điểm kém và

điểm trung bình… Tớ chỉ mong ước số điểm lớp mình tinh những điểm 4, điểm 5.

Nhưng phải là điểm chính xác, điểm trung thực, chứ không cần điểm may rủi, điểm

gian dối… Việt là bạn tớ, tớ muốn Việt tốt, tớ lại muốn cả bốn mươi tám học sinh lớp

mình cũng tốt như Việt” [329;172].

Nếu thay tất cả những từ “tớ” trong câu thoại của Loan trong đoạn trích trên

bằng từ “cô” và đưa vào lời của cô giáo chủ nhiệm các em học sinh lớp 7A trong

truyện, về cơ bản, ý nghĩa và phong cách ngôn ngữ không có gì thay đổi.

Ngay ở những tác phẩm được coi là thành công trong việc tái hiện hình tượng

trẻ em giai đoạn này như: Mẹ vắng nhà, Chuyện xóm tôi của Nguyễn Thi hay Đất rừng

phương Nam của Đoàn Giỏi, cũng không tránh khỏi có những lúc, ngôn ngữ thời đại

thâm nhập vào ngôn từ của nhân vật trẻ em. Chẳng hạn, cũng trong trò chơi sắm vai,

cô giáo – học trò của chị em con Bé (Mẹ vắng nhà) ta cũng thấy rõ điều này: “Con Bé

đánh vần từng tiếng: - I mờ im, tờ im tim huyền tìm, mờ y my ngã Mỹ, mờ a mà huyền

mà, đờ anh đanh sắc đánh… Tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt! Bắt đầu heng!”

[398;260]. Ví dụ của buổi học đánh vần không phải bắt đầu từ những câu đồng dao, ca

87

dao thân thuộc với trẻ mà in hằn trong đó dấu ấn khẩu hiệu thời chiến. Ngôn ngữ thời

đại đã cho thấy sức lan tỏa của nó trong việc chi phối vào ngôn ngữ trẻ em, suy nghĩ

của trẻ em. Không phải ngẫu nhiên mà trong những vần thơ của cậu bé tám tuổi Trần

Đăng Khoa văng vẳng tiếng nói của thời đại: “Bắn tầu Mỹ cháy/ Là khẩu súng trường/

Người em yêu thương/ Là chú bộ đội/ Chăm ngoan học giỏi/ Là bạn thiếu nhi/ Ngu

xuẩn nhất nhì/ Là tổng thống Mỹ” (Kể cho bé nghe, bản in năm 1969).

Những khuôn mẫu tập thể của cộng đồng người lớn đã dịch chuyển vào suy

nghĩ, hành vi, cách nói năng của trẻ em. Qua phát thanh, báo chí, tuyên truyền, qua các

hoạt động ở nhà trường, ở đội thiếu niên, ở các lễ hội dân gian ý thức cộng đồng, tình

cảm công dân đã thấm vào đời sống trẻ thơ thành niềm tin dễ chấp nhận, thành nền

tảng vững chắc để mỗi cá nhân có thể soi mình vào trong đó. Quê hương ta giàu đẹp,

anh công nhân, chị nông dân cần cù lao động; anh bộ đội dũng cảm; Bác Hồ kính yêu;

giặc Mỹ hung tàn, ngu ngốc, xấu xa… - những định ngữ này đã trở nên quen thuộc

trong hệ ngôn ngữ trẻ thơ thời chiến. Nó rọi chiếu vào từng dòng suy tư, hiện hữu

trong trường tự vựng của nhân vật. Người đọc sẽ không mấy ngạc nhiên khi cậu bé An

(Đất rừng phương Nam) lại có thể ghi nhớ rất nhanh những khẩu hiệu: “Độc lập hay là

chết. Nước Việt Nam của người Việt Nam”, “Không đi lính cho giặc/ Không bán

lương thực cho giặc/ Không đưa đường chỉ lối cho giặc” [310;36],… và gọi vợ chồng

việt gian là “Thằng Tư Mắm”, “con gián điệp”. Trẻ em thời nào có ngôn ngữ riêng của

thời đó. Trong những năm tháng chiến tranh, diễn ngôn thời đại đã phủ bóng lên ngữ

hệ trẻ thơ, tạo cho trẻ em trường từ vựng, trường liên tưởng đậm màu kháng chiến.

Những tần số từ vựng trong cùng một sóng ngôn ngữ đó đã quét lên toàn bộ đời sống

trẻ em khiến các lớp từ của trẻ sớm bị chế định bởi ngôn từ thời đại mà thiếu đi những

tín hiệu ngây ngô, hồn nhiên vốn thuộc về trẻ nhỏ.

Việc bị bỏ qua lớp ngôn ngữ của trẻ em đã cho thấy tính quyền lực trong diễn

ngôn nhân vật ở truyện thiếu nhi. Ở đây, một trong những đặc trưng của Văn học thiếu

nhi đã trở thành điểm nổi bật trong truyện thiếu nhi Việt Nam giai đoạn 1945-1975.

Thực tế, người trưởng thành luôn có quyền lực mạnh hơn so với trẻ em – đối tượng

phải tuân theo tiêu chuẩn trong cuộc sống cũng như trong văn học. Vì thế, cũng như

trong đời sống, ngôn ngữ nhân vật trẻ em trong văn học thường bị áp chế bởi ngôn từ

người lớn, nói cách khác, chúng thường bị tiếng nói của nhà văn – người lớn điểu

chỉnh, thay đổi. Nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam 1945-1975 - “chủ thể

không mở lời” (Sara Pankenier) không thể bộc lộ bản thân qua ngôn từ, bằng ngôn từ

88

hoặc chúng đã bị “phù phép” khiến cho không thể nói tiếng nói tự thân, không muốn

nói giọng trẻ con khi chưa là người lớn.

Nhìn chung, nói bằng giọng người lớn, qua ngôn từ người lớn là điểm nổi bật ở

nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi miền Bắc 1945-1975. Nói thế không hàm nghĩa

chê bai cách dụng ngôn này. Nó chỉ cho thấy xu hướng chính của Văn học thiếu nhi

giai đoạn này thiên về giáo dục. Tính giáo dục đã buộc nhân vật phải trở thành các nhà

tư tưởng, chính trị,… thành người lớn dù nó vẫn hiện diện như một đứa trẻ.

2.3.3. Cá thể hóa trong xây dựng nhân vật trẻ em ở Văn học thiếu nhi miền Nam

1954-1975

Như chúng tôi đã nói, xuất phát từ một cách nhìn khác về trẻ em, Văn học thiếu

nhi miền Nam giai đoạn sau 1954 đến 1975 đã cho ra đời hai kiểu nhân vật: trẻ em bị

ruồng bỏ và trẻ em hồn nhiên, mơ mộng cùng với đó là thủ pháp nghệ thuật riêng cho

hệ thống nhân vật này.

Các nhà văn Duyên Anh, Nhật Tiến, Từ Kế Tường, Đinh Tiến Luyện,… đã tạo

nên những bức chân dung khá sắc nét. Đó là Quý đen (Giấc mơ một loài cỏ) nghênh

ngang, hống hách, hay nạt nộ kẻ yếu, đó là Lựa (Giấc mơ một loài cỏ) nhút nhát, yếm

thế, dễ tủi thân, Danh hào sảng, nghĩa hiệp. Người đọc cũng không quên hình dung về

cậu lãng tử đẹp trai, hào hoa, lịch lãm Trần Đại (Điệu ru nước mắt), vẻ đẹp sắc lạnh,

gai góc của Châu Kool (Châu Kool). Bao nhiêu nhân vật là bấy nhiêu nét vẻ khác

nhau. Hạnh (Chim hót trong lồng – Nhật Tiến) ngây ngô, đáng thương, Mai (Con sáo

của em tôi – Duyên Anh) hiền lành, ngơ ngác, giàu lòng nhân ái. Bao nhiêu vẻ hồn

nhiên, tinh nghịch là bấy nhiêu nét phác họa, bao nhiêu trạng thái xúc cảm của tuổi

mới lớn là bấy nhiêu diện mạo, dáng vẻ khác nhau.

Các nhân vật trong những truyện thiếu nhi miền Nam trước 1975 hiện lên sinh

động, nhiều màu sắc và đặc biệt khá gần gũi với trẻ em. Xin dẫn ra một ví dụ, trong

truyện “Thằng Vũ” của Duyên Anh:

“Chúng nó ngấu nghiến đè thằng Vọng xuống sân cỏ, lôi tay thằng Vọng ra

ngoài ánh sáng để thấy cái bí mật của đôi tay nó chỉ là bệnh ghẻ kinh niên.

Một thằng đứng giữa sân diễn thuyết. Ba bốn lớp vây quanh để cười. Bài văn

của Tô Hoài được thay nhân vật Hoa bằng nhân vật Vọng, đại khái: “- Thưa các bạn,

nhân loại có hàng triệu chứng bệnh… nhưng chỉ có một thứ bệnh đáng sợ nhất. Đó là

bệnh ghẻ, tiếng Pháp gọi là La gale. Ghẻ có nhiều loại,… Muốn biết đúng hơn, xin quý

89

bạn hỏi thằng Vọng vì nó làm tổng đại lý cái ghẻ nhãn hiệu Mãi Viện, tức là ghẻ tàu”.

Bài diễn văn của anh học trò lớp nhất tung ra như trái bom ngạt. Cả trường biết thằng

Vọng ghẻ tầu” [254;21].

Duyên Anh rất có biệt tài trong việc nắm bắt tâm lí trẻ em và đưa chúng lên

trang viết. Sự nghịch ngợm, dí dỏm của những cậu học trò đã được ông tái hiện chân

thật, hài hước. Cái tài của Duyên Anh còn thể hiện ở chỗ, qua chân dung mỗi nhân vật

làm sáng lên cả cái không khí tươi vui, rộn ràng tuổi nhỏ.

Sự khác biệt trong cách miêu tả chân dung nhân vật trẻ em trong truyện thiếu

nhi ở hai vùng Nam – Bắc, xuất phát từ khác biệt về nhiệm vụ của người cầm bút ở

mỗi hoàn cảnh lịch sử. Như đã nói ở phần trước, những người viết văn học thiếu nhi

miền Bắc, do những chi phối về không khí thời đại cũng như những định hướng về mô

hình con người trong những năm kháng chiến, đã tạo nên những bức chân dung nhân vật

trẻ em đậm chất lí tưởng hóa và có nhiều nét hao hao giống người lớn. Trong khi đó, ở

miền Nam, có sự phân hóa phức tạp một bộ phận người viết thất vọng, chán nản lựa

chọn viết về trẻ em như một phản ứng với thực tại, họ đã hoặc tái hiện trẻ em theo xu

hướng hiện thực hóa hoặc tìm về với những giá trị nhân bản để ngợi ca. Chính trong sự

suy tôn những giá trị nhân bản của con người, những nhà văn đô thị miền Nam đã dựng

nên những chân dung trẻ em hồn nhiên, tinh nghịch, những đứa trẻ được là trẻ con thực

sự. Tất nhiên, đây chỉ là những khác khác biệt trong cách phác họa chân dung nhân vật

trẻ em giữa miền Nam và miền Bắc. Nó xuất phát từ những vấn đề mang tính thời đại,

khách quan. Và điều đó không hàm nghĩa phủ định hay khẳng định bên nào. Sự tồn tại

của mỗi phương thức nghệ thuật đều có những ý nghĩa riêng của nó.

Những đứa trẻ trong truyện thiếu nhi vùng đô thị miền Nam sau năm 1954,

được tái hiện bằng ngôn ngữ khá sinh động và giàu cá tính. Chẳng hạn, cũng cùng

hoàn cảnh bom đạn, khốc liệt, nhưng những đối thoại của nhân vật trẻ em trong truyện

“Dấu chân sỏi đá” của Duyên Anh vẫn đậm tính ngây thơ, hồn nhiên của trẻ em:

“Ngọc cắn đùi Tâm:

- Mày ơi!

- Gì?

- Tao mắc đái quá

- Thì đái đi

- Đái chúng nó có nghe thấy không?

- Mày đái từng giọt một

90

- Đái từng giọt một đâu có đã

- Thì mày đái đã đi rồi chúng nó “phơ” mày vỡ óc

Ngọc nín thinh. Nhưng nó vẫn chưa đái. Một lát sau nó lại bấm tay Tâm:

- Tao đếch thích bó bạc nữa

Tâm khẽ mắng bạn:

- Mày khùng rồi à?

- Tao không khùng

- Không khùng mà chê tiền?

- Giá tao được đái một trận thả cửa còn sướng hơn lượm được bó bạc. Nhịn đái

cực quá mày ơi

- Ai bảo mày nhịn…..” [269;40].

Cái “hoàn cảnh” vừa thực tế vừa bi hài vừa rất con nít của hai đứa trẻ giữa

chiến trường đầy lửa đạn đã tạo nên tiếng cười dí dỏm cho tác phẩm. Chính sự hài

hước này là một trong những chất keo kết dính độc giả nhỏ tuổi với sáng tác của

Duyên Anh. Nhà văn đã “chộp” trúng một tình huống điển hình nhất của trẻ con và xử

lí nó y chang như cách của trẻ nhỏ bằng thứ ngôn ngữ đậm sắc điệu thơ ngây. Đoạn

thoại đã gợi dẫn chân xác tâm lí trẻ em và phẩy một nét bút tinh sắc cho bức chân

dung hai cậu bé của đường phố Sài Gòn những năm lửa đạn. Trong số những nhà văn

viết cho thiếu nhi của miền Nam Duyên Anh là người sáng tác nhiều nhất mà cũng “ăn

khách” nhất. Những trang viết của ông mộc mạc, giản dị nhưng lại có sức hút mãnh

liệt với cả người lớn cũng như trẻ thơ có lẽ chính là nhờ ở tài năng nhập thân, hóa thân

vào thế giới trẻ em để nói tiếng nói của trẻ em và dẫn truyền lại bằng một một thứ

ngôn ngữ vừa trong sáng, thuần khiết vừa chân thực, sinh động, như thể chúng được

đúc ra từ miệng trẻ con vậy.

Có thể nói ở cả hai miền Nam – Bắc, nhân vật trẻ em đều không tách ra khỏi

hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Ở miền Bắc, nhân vật trẻ em được đặt vào môi trường lí

tưởng, trong bầu khí quyển tinh thần của xã hội tập thể nên ngôn ngữ cũng phải được

thanh lọc, theo xu hướng thời đại, mang dáng vẻ thời đại. Miền Nam, nhân vật được

đưa vào những hoàn cảnh phức tạp, khủng khoảng, bởi vậy, tiếng nói của trẻ em là

tiếng nói của xã hội mất niềm tin, hoang mang trước thực tại. Với kiểu nhân vật hồn

nhiên, mơ mộng, ngôn ngữ của nhân vật đã cho thấy được sự gắn bó, gần gũi với trẻ

em. Đây có thể sẽ là gợi ý cho truyện thiếu nhi giai đoạn sau.

91

Tiểu kết

Nhân vật trẻ em giai đoạn 1945-1975 được tạo nên từ sự kế thừa hình tượng trẻ

em trong các sáng tác trước 1945. Những thân phận thấp hèn và những tâm hồn thánh

thiện trong truyện giai đoạn trước là nhân tố gián tiếp cho việc tạo dựng hình tượng

nhân vật trẻ em ở thời kì 1945-1975. Ba kiểu nhân vật: Chiến sĩ nhỏ tuổi trong chiến

đấu, Công dân gương mẫu trong đời sống và Nhân vật như tấm gương trong truyện thiếu

nhi giai đoạn này là hình ảnh tiêu biểu của trẻ em trước những thăng trầm của lịch sử,

trước sự tàn khốc của chiến tranh. Chúng hiện lên vừa đẹp đẽ, phi thường vừa gân guốc

rắn rỏi. Chúng là đại diện cho thế hệ trẻ với khát vọng và lí tưởng sống cao đẹp, với lòng

dũng cảm và tinh thần tự lập tự cường của dân tộc. Chúng chính là sự tiếp nối vẻ vang

những truyền thống quý báu của dân tộc từ những hình tượng trẻ em anh dũng, kiên

trung thuở đầu dựng nước. Chỉ có điều, ở những nhân vật này, người đọc chưa thực sự

nhận ra được nhiều những nét tính cách thuộc về trẻ con, của trẻ con. Diện mạo nhân vật

trẻ em, ở đây, là diện mạo đã được lồng ghép trong bức tranh chung của nhân vật văn

học Cách mạng Việt Nam. Sự thể hiện ấy, cho thấy, trong giai đoạn đặc biệt của lịch sử

dân tộc những năm tháng chiến tranh, nhà văn đã đặt nhiệm vụ giáo dục lên trên nhu cầu

thẩm mĩ trong việc xây dựng hình tượng nhân vật trẻ em. Đối với văn học thiếu nhi, đó

chính là một trong những đặc điểm quan trọng, khu biệt nó so với các bộ phận văn học

khác. Chỉ khác là, ở giai đoạn 1945-1975, nó đã trở thành đặc trưng nổi bật nhất.

Tạo lập chân dung nhân vật đơn giản, nhòe lẫn trong hình ảnh người lớn và việc

chú trong miêu tả hành động chính là điểm khu biệt giữa nghệ thuật thể hiện nhân vật

trẻ em trong truyện thiếu nhi ở giai đoạn 1945-1975 với giai đoạn sau 1975. Những

đứa trẻ nói giọng người lớn, sắm vai người lớn trong truyện thiếu nhi giai đoạn này

cũng tạo nên nét đặc sắc trong cách cấu trúc nhân vật.

Hai kiểu nhân vật: trẻ em bị ruồng bỏ và trẻ em hồn nhiên, mơ mộng của truyện

thiếu nhi miền Nam Việt Nam đã cho thấy những nét kế thừa và khác biệt trong miêu

tả và thể hiện nhân vật. Đồng thời, nó cũng sẽ là tiền đề cho sự xuất hiện của kiểu

nhân vật hồn nhiên nhi nhiên trong văn học giai đoạn sau.

92

Chƣơng 3

NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG TRUYỆN THIẾU NHI VIỆT NAM

TỪ SAU 1975 ĐẾN NAY

3.1. Những yếu tố tác động đến sự thể hiện nhân vật trẻ em

3.1.1. Những thay đổi về văn hóa, xã hội

Sau 30/04/1975, miền Nam được giải phóng, cả dân tộc bắt đầu công cuộc tái thiết

đất nước. Tuy nhiên, hậu quả nặng nề từ hai cuộc chiến tranh khốc liệt không thể đo đếm

được. Tài nguyên thiên nhiên, môi trường bị tàn phá, nhà cửa đổ nát, nặng nề hơn là

những chấn thương tinh thần sau chiến tranh để lại trong mỗi người. Đối mặt với những

khó khăn của thời hậu chiến, đặc biệt là chính sách cấm vận kinh tế, nước ta rơi vào cuộc

khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng ở nửa đầu những năm 80. Tuy nhiên, sức sống

bền bỉ, dẻo dai của một dân tộc đã từng liên tiếp trải qua các cuộc chiến tranh chống xâm

lược một lần nữa được thể hiện. Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) đã đề ra cương lĩnh

đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng. Tinh thần đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào

sự thật mà Đại hội VI đề ra đã khơi dậy tiếng nói dân chủ, những bàn luận thẳng thắn,

đánh giá lại nhiều vấn đề của quá khứ. Người ta vừa soi chiếu lại quá khứ và kiến thiết

tương lai theo xu hướng tích cực, phù hợp. Có thể nói, công cuộc đổi mới đã thúc đẩy

mạnh mẽ những thay đổi về đời sống, kinh tế, văn hóa, xã hội trên khắp cả nước.

Kỷ nguyên truyền thông bùng nổ, trong đó nền văn hóa đọc như bị thu hẹp, còn

internet và các loại thông tin kỹ thuật số đang mở ra tương lai. Sự ra đời của công nghệ

kỹ thuật số đã biến thế giới hiện nay thành một thế giới điện tử, với các loại email (thư

điện tử), e-book (sách điện tử), e-learning (học qua mạng), e-business (thương mại

điện tử), e-marketing (tiếp thị điện tử)… dẫn đến nhiều thay đổi trong các tương giao

và hoạt động xã hội. Một lối sống mới hình thành, trong đó những người sử dụng

không gian số ảo trở nên mạnh dạn và tự tin hơn trong các giao tiếp trên internet

nhưng lười biếng trong giao tiếp ngoài đời thực. Trong guồng quay của thế giới số,

giới trẻ chính là đối tượng thích hợp nhất với các phương tiện truyền thông hiện đại.

Sự bùng nổ không giới hạn của công nghệ số đã nhào nặn lại cung cách sống và tâm lí

của trẻ em. Trẻ em thời hiện đại dù chưa biết chữ nhưng lại nhoay nhoáy chơi máy tính

sẽ không còn ưa kiểu hát quan họ í a í ới hay hát chèo. Những tác động của truyền thông

đã đem tới những tiện ích đồng thời mang theo một “cú sốc thế hệ” trong đời sống xã

93

hội của người Việt. Với người lớn, đó là một thế giới chứa đầy rắc rối, phiền phức dẫu ít

nhiều có lợi, với trẻ em, nó thực sự là thiên đường của sự kết nối, giao lưu, là cánh cửa

đa chiều mở ra mọi góc cạnh của thế giới. Trẻ em, với bản tính tò mò, ưa khám phá, say

sưa trước sự đa chiều phong phú mà truyền thông đem lại.

Gia đình là tế bào của xã hội, nên trong vòng xoay của thời mở cửa, mỗi gia đình

cũng dự phần vào sự biến thiên đó. Có hai đối tượng chịu tác động mạnh nhất của việc thu

hẹp quy mô và cấu trúc gia đình là trẻ em và người già. Mô hình gia đình ít con đã nâng

cao mức sống và điều kiện nuôi dạy trẻ. Tuy nhiên, bên cạnh những đứa trẻ được cha mẹ

quan tâm vẫn có những đứa trẻ tuy đầy đủ vật chất nhưng lại hụt hẫng về tinh thần. Cha

mẹ bận rộn suốt ngày, trẻ em bị giảm thiểu các mối quan hệ giao tiếp và cũng là giảm

thiểu những bài học đầu tiên và cơ bản của giao tiếp xã hội. Có em tự nhận mình mồ côi

ngay khi vẫn còn bố mẹ. Trong khi môi trường phức tạp và cám dỗ, gia đình thì thiếu

không khí ấm áp tin cậy, nhiều em bỏ nhà, hợp thành băng nhóm như một cách đối nghịch

với xã hội, gia đình. Sự thờ ơ của người lớn đưa đến hai kiểu phản ứng ở trẻ. Hoặc chống

đối, trở thành kẻ bụi đời; hoặc cam chịu, thành nạn nhân của sự vô tâm thời hiện đại.

Trẻ em được nuôi dưỡng tốt hơn vì thế, chúng có sự phát triển sớm về thể chất.

Với xã hội hiện đại đầy rẫy những bất an, điều đó giúp trẻ em sớm phát triển về nhận

thức nhưng đồng thời cũng chứa đựng nhiều nguy cơ.

Trước xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa

học công nghệ, Tiếng Việt trong vai trò ngôn ngữ văn hóa dân tộc đã có những thay đổi

nhanh chóng xét trên nhiều phương diện. Một trong những thay đổi dễ nhận thấy nhất và

luôn dành được sự quan tâm của xã hội, đó là ngôn ngữ của giới trẻ. Cùng với sự phát triển

của thời hiện đại, lớp trẻ đã tạo cho mình những thay đổi. Những thay đổi lớn đến mức

người ta dễ dàng nhận ra và đặt cho một cái tên riêng: thế hệ “8X”, “9X”, “công dân @”

hay “tuổi teen”. Ngôn ngữ của thế hệ mới này có xu hướng đơn giản hóa, giản lược hóa.

Đây cũng không phải xu hướng phát triển mới lạ bây giờ mới xuất hiện mà đó là một thực

tế, một quy luật có tính phổ biến trong sự phát triển của ngôn ngữ - quy luật tiết kiệm.

3.1.2. Sự gia tăng lực lượng sáng tác cho thiếu nhi và ảnh hưởng của văn học dịch

thời hiện đại

Đội ngũ sáng tác cho thiếu nhi, sau năm 1986 phát triển hùng hậu. Những cây

bút lão thành như Tô Hoài, Phạm Hổ, Nguyễn Quỳnh vẫn tiếp tục làm mới mình qua

sáng tác và ghi dấu được những thành công như bộ ba tác phẩm truyện lịch sử: Nhà

94

Chử, Đảo Hoang, Chuyện nỏ thần của Tô Hoài, Chuyện hoa chuyện quả - Phạm Hổ,

Người đi săn và con sói lửa, Đồi sói hú,… của Nguyễn Quỳnh. Phùng Quán, Duy

Khán, Xuân Quỳnh,… cũng đem đến cho thiếu nhi những sáng tác có giá trị. Đầu

những năm 90 của thế kỉ XX, đội ngũ viết cho trẻ em được bổ sung thêm nhiều cây bút

như Trần Thiên Hương, Lê Cảnh Nhạc, Hoàng Dạ Thi, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn

Thị Châu Giang, Nguyễn Ngọc Thuần,… Họ đã thổi vào dòng văn học trẻ luồng sinh

khí mới, tươi tắn, táo bạo, tràn đầy nhiệt tình tuổi trẻ. Tuy còn “trẻ” nhưng sáng tác

của họ đã lôi kéo được một bộ phận độc giả và để lại nhiều dấu ấn trong lòng bạn đọc.

Sự gia tăng về lực lượng sáng tác kéo theo việc mở rộng đề tài và hướng tiếp cận đời

sống đã tạo cơ hội cho sự phát triển các kiểu nhân vật trong truyện thiếu nhi. Tuy

nhiên, nếu theo dõi tiếp quá trình vận động của văn học thiếu nhi, sẽ thấy có sự chững

lại trong những năm gần đây. Hai cây đại thụ văn học thiếu nhi là Phạm Hổ, Tô Hoài

đều đã về với xứ thần tiên, văn đàn thưa dần những tên tuổi gắn với trẻ thơ. Hiện tại,

chỉ duy nhất Nguyễn Nhật Ánh gần như có thể hết mình với sáng tác cho trẻ em. Có

được sức sáng tạo dồi dào, đa dạng, thu hút được đông đảo bạn đọc, Nguyễn Nhật Ánh

là trường hợp hiếm hoi của Văn học thiếu nhi có thể sống được với nghề. Đội ngũ trẻ,

dường như, chưa đủ mạnh cả về số lượng và chất lượng để đảm đương “ngọn đuốc”

của các bậc đàn anh trong cuộc chạy tiếp sức với trẻ em. Dẫu có nhiều tâm huyết,

mạnh dạn trong tìm tòi và đã mang lại cho Văn học thiếu nhi những nét trẻ trung, tươi

tắn nhất định nhưng trước guồng quay của đời sống hiện đại, trước sức ảnh hưởng

không thể cản được của công nghệ số, trước áp lực của nhu cầu bạn đọc hiện đại và sự

lấn át của văn học thiếu nhi thế giới được dịch và phổ biến nhanh chóng, yêu cầu họ

sống chết với văn học tuổi thơ không phải là điều dễ dàng.

Ảnh hưởng của văn học dịch đã nhào nặn lại tư duy của trẻ em. Sự xuất hiện của

bộ truyện tranh Đôrêmon của Fujiko, Tứ quái TKKG của Stefan Wolf, Công viên khủng

long kỷ Jura của Michael Crichton, Harry Potter của J.K. Rowling, Tôttôchan cô bé bên

cửa sổ của Tetsuko Kuroyanagi,… đã tác động không nhỏ tới đời sống tâm lí của trẻ em

thời hiện đại. Hơn thế nữa, nó khiến chính những người cầm bút có những điều chỉnh

trong việc tạo dựng nhân vật và cốt truyện thiếu nhi phù hợp hơn với độc giả nhỏ tuổi.

Điều này, phần nào lí giải sự xuất hiện của bộ truyện: Chuyện xứ Langbiang của

Nguyễn Nhật Ánh, sáng tác được coi như Harry Porter của Việt Nam. Đặc biệt, gần

đây, có sự ra đời của tác phẩm Cuộc chiến với hành tinh Fantom, được viết bởi cậu bé

95

10 tuổi - Nguyễn Bình. Đây là cuốn tiểu thuyết giả tưởng, lấy bối cảnh ở nước Mỹ trong

tương lai, kể về chuyến phiêu lưu của nhóm bạn Earth ở thành phố Philađenphia chống

lại bọn xâm lược tới từ hành tinh Fantom. Sự yêu thích của các em đối với truyện giả

tưởng, nhân vật siêu nhiên và thể nghiệm về thế giới nhiệm màu đó đã chứng minh sự

tồn tại tất yếu của loại truyện phiêu lưu – giả tưởng trong tiếp nhận của độc giả nhỏ tuổi.

3.1.3. Những thành tựu của ngành tâm lý học trẻ em

Đầu thế kỷ XX, ở Nga ra đời một ngành khoa học chuyện biệt được gọi là Nhi

đồng học với những đại biểu như V.M. Becterev, A.P.Nachaev, G.I.Rossolimo,

L.S.Vưgôxki, D.B.Enconin, A.N.Leonchiev,... Giới nghiên cứu phương Tây cũng đặt

ra vấn đề tâm lí trẻ em với các học thuyết về tâm lí trẻ em của: J.Piaget, Walton,

S.Freud,… Sự ra đời của ngành tâm lí học trẻ em đã cho thấy những thay đổi trong

cách nhìn nhận và đánh giá trẻ em. Ellenkey trong cuốn Thế kỉ của trẻ em, đã cho

rằng: “Thế kỉ XX, phải đặt trẻ em vào vị trí trung tâm, trẻ em phải có vai trò tích cực,

phải được nhìn nhận một cách độ lượng” [112;57].

Khi tìm hiểu về tâm lý trẻ, các nhà nghiên cứu theo hướng duy vật biện chứng

đều thống nhất một quan niệm coi trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại. Giữa trẻ

em và người lớn có sự khác nhau về chất. Sự vận động và phát triển của trẻ diễn ra

theo quy luật riêng. Từ khi cất tiếng khóc chào đời trẻ đã là một con người, một thành

viên của xã hội và có nhu cầu giao tiếp với người. Leonchiev cho rằng: “trẻ em không

thụ động thích nghi với thế giới đồ vật của loài người, mà chủ động tiếp thu những

thành tựu của loài người, nắm lấy nó” [229;37].

Tiếp thu những tri thức lí luận của nền tâm lí học thế giới, sau năm 1975, các

nhà nghiên cứu tâm lí trẻ em như: Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khắc Viện, Hồ Ngọc Đại,

Đỗ Thị Xuân, Nguyễn Ánh Tuyết,… đã cho ra đời nhiều công trình nghiên cứu tâm

huyết và giá trị về tâm lí trẻ. Theo đó, họ cũng đều nhất quán trong cách nhìn về trẻ

em, coi trẻ em như một chủ thể độc lập, tự ý thức.

Nhà văn, cho dù không phải những nhà tâm lí hay giáo dục học nhưng có một điều

không thể chối cãi là những thành tựu về khoa học tâm lí và giáo dục ít nhiều ảnh hưởng

trực tiếp hoặc gián tiếp tới họ. Những thay đổi trong quan niệm và hiểu biết về trẻ em đã

khiến những đầu óc cởi mở phải nhìn nhận trẻ em theo một cách khác, đương nhiên,

không còn đơn giản, xuôi chiều. Nhà văn Cửu Thọ đã từng viết: Trẻ em là một thế giới

riêng với một đời sống tâm hồn riêng, với tình cảm và tâm lí lứa tuổi khác với người

96

lớn. Muốn ngòi bút của mình hòa nhập được vào tuổi thơ, tôi phải học ở các em từ cách

suy nghĩ, đến tình cảm, niềm vui, nỗi buồn, từ cách chơi, vui đùa đến lời ăn tiếng nói.

Cách nói của các em khác với người lớn lắm. Nếu không học thì không viết được theo

ngôn ngữ của trẻ em” [205;737].

3.1.4. Cái nhìn mới của nhà văn về trẻ thơ

Trong chiến tranh giữ nước và giải phóng dân tộc, con người được nhìn nhận

trước hết ở tư cách con người của nhân dân, của cách mạng. Hòa bình lập lại, con

người trở về với đời thường phức tạp, muôn hình muôn vẻ. Các giá trị vốn là chuẩn

mực, khuôn vàng thước ngọc trước đây nay bị lung lay. Từ thay đổi về quan niệm con

người, dẫn đến thay đổi trong thế giới nhân vật. Truyện thiếu nhi cũng không nằm

ngoài quy luật vận động này. Nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi trước 1975

thường được khuôn vào những khung hình gắn với chiến tranh, cách mạng. Sau 1975,

nhân vật trẻ em được thể hiện trên nhiều bình diện, với nhiều góc cạnh, chân thật hơn,

sinh động hơn và giống trẻ em hơn.

Trong kháng chiến, trẻ em được nhìn nhận như những anh hùng nhỏ tuổi, yêu

quê hương, căm thù giặc, sẵn sàng xả thân vì đất nước. Khi cuộc chiến đã qua đi,

những nhà văn từng kinh qua chiến tranh vẫn viết với ấn tượng nóng hổi nhưng cái

nhìn của họ đã bình tĩnh hơn và có ý thức khám phá vào chiều sâu số phận con người.

Lần đầu tiên, truyện viết cho thiếu nhi đã đề cập đến sự khốc liệt của chiến tranh và

tổn thất to lớn do chiến tranh đem lại. Hình tượng trẻ em không chỉ được thể hiện một

cách hào hùng mà còn đầy bi tráng. Những đứa trẻ trong các sáng tác: Cơn giông tuổi

thơ – Thu Bồn, Hồi đó ở Sa Kỳ - Bùi Minh Quốc, Cát cháy – Thanh Quế,... hiện lên

thông minh, dũng cảm, gan dạ, mưu trí nhưng cũng chứa đầy mất mát, đau thương,

chết chóc và tổn thất nặng nề.

Nếu những năm trước đây, trẻ em thường được nhìn nhận trong mối quan hệ

với kháng chiến, với tập thể, với nhà trường, thì ở giai đoạn này, trẻ em được đưa trở

về với gia đình, trường lớp với những vấn đề thường nhật nhưng cũng đầy phức tạp,

tinh vi. Các tác phẩm: Hành trình ngày thơ ấu – Dương Thu Hương, Côi cút giữa cảnh

đời – Ma Văn Kháng, Bỏ trốn – Phan Thị Thanh Nhàn, Miền thơ ấu – Vũ Thư Hiên,…

đã đặt trẻ em trong mối quan hệ với gia đình trước biến thiên của thời hiện đại.

Truyện: Nước mắt ngày tựu trường – Đào Hữu Phương, Tiếng nói người mẹ câm, Lời

ru không bán, Giã biệt bụi đời – Lê Cảnh Nhạc, Bong bóng lên trời - Nguyễn Nhật

97

Ánh, Ngày khai trường trong mơ – Kim Hài,… gợi hình ảnh những em bé nhà nghèo,

thiệt thòi, bị bỏ bơ vơ ngoài xã hội.

Thời kì trước, người ta thường hay “ngại” nói đến những rung động của tuổi

mới lớn. Trừ một vài tác giả của văn học đô thị miền Nam, tìm đến sự mơ mộng trong

tình cảm tuổi thơ như một cách trốn chạy thực tại, hầu như, hiếm gặp trường hợp các

nhà văn chủ động viết về khía cạnh đầy vi diệu này của tuổi hoa niên. Xuân Sách, Lê

Phương Liên tuy có nhắc tới tình cảm đặc biệt của Hoan và Thư (Đội du kích thiếu

niên Đình Bảng), Bùi và Phương (Khi mùa xuân đến) nhưng cũng chỉ ở mức độ thoảng

qua rồi lại bị kìm nén với mục đích học tập và sinh hoạt tập thể. Sau 1975, đặc biệt là

từ sau năm 1990, những sáng tác về tình yêu tuổi học trò nở rộ đồng thời với sự xuất

hiện của các cây bút trẻ như Trần Thiên Hương với Bây giờ bạn ở đâu và Cỏ may

ngày xưa, Hoàng Dạ Thi với Peele trắng, Nguyễn Thị Châu Giang với Tóc ngắn,

Nguyễn Nhật Ánh với Hạ đỏ, Đi qua hoa cúc, Lá nằm trong lá,… Thậm chí, sang thế

kỉ XXI, đã xuất hiện một mảng văn học cho lứa tuổi ô mai (văn học tuổi teen) với

hàng loạt những tác phẩm viết về những đứa trẻ mới lớn. Sự quan tâm của các nhà văn

tới lứa tuổi này cho thấy sự thay đổi trong cách nhìn trẻ em. Trẻ em, thời hiện đại,

được soi chiếu sâu hơn trên bình diện tâm lí và được người lớn tôn trọng hơn trước

những xúc cảm tâm lí vốn có ở ngưỡng tuổi trưởng thành.

Có thể nói, ở thời hiện đại, trẻ em được đặt vào bối cảnh đời thường, giản dị,

với những rắc rối, phức tạp vốn có và được nhìn nhận như một nhân cách trước những

mối quan hệ với môi trường xung quanh.

3.2. Các kiểu loại nhân vật trẻ em sau 1975

3.2.1. Nhân vật nạn nhân

Khi nhìn nhận trẻ em với tư cách cá nhân trong mối quan hệ với gia đình, xã hội,

các nhà văn đã không còn mô tả chúng như anh hùng chiến trận hay công dân tốt mà coi

như một thân phận, một nhân cách. Bởi vậy, bên cạnh hình ảnh xả thân, quên mình, bên

cạnh hình mẫu lí tưởng, sáng ngời phẩm chất tốt đẹp, trẻ em được nhận ra như nạn nhân

của chiến tranh và cũng là nạn nhân của cuộc sống hiện đại đầy phức tạp.

3.2.1.1. Trẻ em - nạn nhân của chiến tranh

Trước năm 1975, viết về trẻ em trong chiến tranh, các nhà văn đã tạo dựng hình

ảnh người chiến sĩ nhỏ tuổi, đại diện cho thế hệ trẻ với khát vọng, ý chí giành độc lập

của dân tộc. Đó là nhân vật mang dáng dấp của người anh hùng với tư tưởng, phẩm

98

chất, hành động anh hùng. Các tác giả ít chú ý đến quá trình phát triển tính cách mà

chỉ tập trung khắc họa vẻ đẹp nhân vật trong hoàn cảnh thử thách thời chiến. Sau 1975,

khi có một độ lùi cần thiết, sự thể hiện hình tượng trẻ em trong mối quan hệ với chiến

tranh thay đổi đáng kể. Vẫn là những đứa trẻ gắn tuổi thơ của mình với những năm

tháng gian khó của dân tộc, nhưng bên cạnh vẻ hào hùng, chói sáng là sự nghiệt ngã,

đau thương mà chiến tranh mang tới.

Nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam sau 1975, được đặt trong bối

cảnh khốc liệt với ngổn ngang tàn tích của chiến tranh. Hình ảnh một Sa Kỳ “mỗi gốc

rạ, một thằng Mỹ” với những bãi mìn, “bãi xương bò” quanh bước chân mỗi đứa trẻ:

“Lũ trẻ chăn bò đứng sựng trước đàn bò năm lịm trong bãi máu đông đặc. Mãi không

thấy một con bò nào đứng dậy. Và rồi, sực hiểu rằng đàn bò đã chết thật, không cách

gì sống lại được nữa, lũ trẻ mới ngơ ngẩn kéo nhau trở về, tay vẫn xách theo những

chiếc lồng bịt từ nay chẳng biết dùng để làm gì, và trái tim thơ bé mang theo những

vết bỏng không thể nào nguôi dịu” [378;19]. Những đứa trẻ ở vùng đất Sa Kỳ đỏ lửa

năm Mậu Thân (1968) đã sớm phải gánh trên mình các vết cắt của bom đạn. Không

chỉ phải chịu nỗi đau thể xác, bên trong những tâm hồn non nớt ấy là cảnh tượng giết

chóc, đau thương mà chúng phải chứng kiến hằng ngày. Những trận càn, những đợt

bom, những lần truy đuổi Việt cộng đã làm nên tuổi thơ của trẻ em ở vùng đất khói lửa

này, đến nỗi, mỗi đôi tai đều có thể phân biệt được từng loại máy bay Mỹ, từng loạt đề

- pa của pháo: “Trực thăng từng bầy kéo đi hốt quân ở đâu đó, rồi lại đổ qua ở đâu đó.

Bọn trẻ chẳng thèm để ý… bởi chúng đã quen lắm rồi. Giác quan của chúng đã được

cuộc chiến tranh dai dẳng và quyết liệt này rèn luyện cho đến mức thuần thục và tinh

nhạy để chỉ cần thoáng nghe cái giọng đề - pa của pháo cũng biết ngay nó sẽ nổ xa hay

nổ gần” [378;16]. Đó còn là hình ảnh một ngôi làng bị san phẳng bởi bom đạn trong

Cơn giông tuổi thơ (Thu Bồn): “Làng tôi đã bị giặt Mỹ san bằng chôn sâu. Chúng bắt

mang đi tất cả những người trong làng để xóa dấu vết làng tôi. Chúng giết tất cả những

con trâu Trích, trâu Mỡ, trâu Ve để xóa nhòa đồng ruộng tuổi thơ và dĩ vãng của

những đứa trẻ con làng quê, trong đó có tôi” [297;38]. Hình ảnh thành Huế trong lửa

đạn ngút trời ở Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán: “Mười giờ tối. Cả Mặt trận thành

Huế phút chốc rung lên trong tiếng gầm nổ dữ dội của các loại súng đạn cầu vồng.Nửa

giờ sau, như không thể chịu nổi sức nổ dồn dập, quyết liệt của quân ta, một cột lửa đỏ

khé vụt dựng lên chính giữa trung tâm khu vực bọn Pháp chiếm đóng. Cột lửa mỗi lúc

99

dựng cao hơn, tỏa rộng, chiếu đỏ cả bầu trời thành phố” [372]. Trên cái nền đời sống

chiến tranh khốc liệt ấy, những đứa trẻ hiện lên, không còn nhiều nét hùng tráng của

người anh hùng sử thi như trước mà hiện thực hơn và cũng xót xa hơn.

Không còn là đứa trẻ hồn nhiên với niềm vui ngây thơ: “ở đồn Mang Cá thích

hơn ở nhà”, nhân vật của những sáng tác thiếu nhi sau 1975, đã hằn lên những vết cắt

cứa đau xót ẩn sau mỗi tâm hồn thơ bé. Tuân và Lượng (Hồi đó ở Sa Kỳ) còn cả cha mẹ

nhưng chúng lớn lên mà chưa từng biết mặt cha, được bà ngoài nuôi từ nhỏ và như bao

đứa trẻ thời chiến, chúng “chưa hề được biết thế nào là một mái nhà trong đó chứa chan

cái không khí êm ái tuyệt diệu của tổ ấm, của sự sum vầy cha mẹ và con cái” [378;70].

Lượng, ra Hà Nội học, vẫn mang theo khát khao được gặp cha và day dứt về sự vắng

mặt của cha trong nhà: “Cháu cũng muốn có ba như những đứa trẻ khác lắm chớ bác ơi!

Nhưng sao ba cháu lại thế, bác? Ở trong kia, mẹ cháu khổ biết chừng nào. Bà ngoại cháu

kể rằng mẹ cháu đã sinh cháu ở trong tù. Mẹ cháu ở tù nhiều lắm. Chúng nó tra tấn mẹ

cháu nhiều lắm. Nhưng dù chúng nó có tra tấn bao nhiêu đi nữa, cứ nghĩ đến ba cháu là

mẹ cháu vượt qua được hết. Tại sao ba cháu không nghĩ tới mẹ cháu hử bác? Tại sao lại

vậy?” [378;187]. Tư, cha mẹ đều chết trong một trận bom, sống với ông nội từ nhỏ. Về

sau, cuộc đời cô bé mười tuổi mồ côi ấy cũng đã kết thúc bằng cái chết đầy kiên cường

và quả cảm. Mỗi đứa nhỏ một hoàn cảnh nhưng chúng đều giống nhau ở nỗi nhớ thương

cha mẹ không nguôi: “Chúng tôi đứa nào cũng thương ba nhớ má, thương cả cảnh bạn

mình đương cực khổ” [297;5]. Nỗi nhớ thương rất đỗi trẻ thơ và tự nhiên ấy chính là vết

thương chiến tranh nghiệt ngã, khốc liệt, hơn cả bom đạn. Bởi nó lại nhằm vào trẻ thơ,

bởi chính những tiếng súng, tiếng bom kia mà tuổi thơ đã không thuộc về lũ trẻ.

Cùng đề cập đến sự hi sinh của nhân vật, nhưng truyện thiếu nhi trước 1975

nhìn nhận hi sinh trên phương diện chiến công và thử thách. Hoa Sơn (Hoa Sơn) chết,

bên mình vẫn đeo chiếc túi đựng quần áo để đi liên lạc, Triệu Đại Mã (Hai làng Tà

Pình và Động Hía) chết khi lao đi báo tin có Tây đến cho người Mèo, Vừa A Dính bị

treo trên cành đào, Út chết trên cành đa (Chỗ cây đa làng),… Đó là những cái chết đã

“hóa thành bất tử”, là đỉnh cao chói sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Sau

1975, cái chết của nhân vật trẻ em được khai thác như một mất mát, một tổn thất cá

nhân. Quỳnh sơn ca (Tuổi thơ dữ dội) chết khi mơ ước viết một bản nhạc bất tận ca

ngợi đất nước và hòa bình vẫn còn dang dở, Mừng ngây thơ, trong sáng, đã chẳng thể

tự minh oan cho mình trước khi vĩnh viễn nằm xuống ở cái tuổi mười ba, Tư (Hồi đó ở

100

Sa Kỳ) để bảo vệ những người lính cụ Hồ đã tình nguyện đi vào bãi mìn, hóa thân vào

đồng đất quê hương, Thấn, Một (Cát cháy), đi giao liên, gặp địch đã ném lựu đạn, cứu

thoát một chú tỉnh ủy viên nhưng lại chẳng thể cứu nổi bản thân mình,… Hi sinh của

các em không chỉ được nhìn như một thành tích trong chiến đấu, mà trước hết, nó

chính là một tổn thất của bản thân, là sự thiệt thòi của những đứa trẻ ở một dân tộc mà

lịch sử luôn phải đối mặt với những cuộc chiến chống xâm lược.

Hình ảnh trẻ em trong chiến tranh cũng đã được ghi lại chân thực qua những

thước phim, những bức hình của người Việt Nam và nước ngoài. Năm 1998, đạo diễn

Trần Văn Thủy đã gợi lại hình ảnh đau thương của Mỹ Lai (Quảng Ngãi) năm 1968

khi quân đội Mỹ thảm sát 504 dân thường, chủ yếu là phụ nữ và trẻ em trong vòng 4

giờ đồng, qua phim tài liệu Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai. Trước đó, công chúng thế giới

cũng được biết đến Việt Nam qua những bức hình về trẻ em trong chiến tranh của các

phóng viên ảnh quốc tế thuộc hãng tin AP. Một nữ nhà văn người Bulgari, khi sang

Việt Nam, nhìn những đứa trẻ cầm xà beng tự tay đào hầm trú ẩn cho mình, bà nói:

“Tội lỗi lớn nhất của loài người là khiến các em nhỏ này không còn tuổi thơ nữa”

[132]. Trần Đăng Khoa, cậu bé – nhà thơ đã lớn lên trong giai đoạn khói lửa của đất

nước, thổ lộ: “Ở lứa tuổi lên mười, khi tôi công bố bài thơ đầu tiên cũng là lúc tôi giã

từ tuổi ấu thơ của mình. Khi đó, tôi đã phải làm công việc của một người phát ngôn

cho thế hệ mình trong kháng chiến chống Mỹ về sức mạnh phi thường của người Việt

Nam với thế giới” [132].

Có nhiều hình thức thể hiện khác nhau về thân phận nhỏ bé của trẻ em trong

chiến tranh, nhưng đối với sáng tác văn học dành cho trẻ thơ, viết về trẻ thơ sự thảm

khốc đã được giảm thiểu khá nhiều. Không phải vì Văn học thiếu nhi thiếu độ trung

thực, khách quan, mà vì những nội dung quá tàn bạo, những câu chuyện quá đau

thương không thích hợp với độc giả nhỏ tuổi. Có thể thấy, khi khai thác vấn đề nạn

nhân chiến tranh, nhân vật trẻ em trong truyện viết cho người lớn có nét khác biệt so

với nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi. Ở truyện của người lớn, thân phận trẻ em

trong chiến tranh chủ yếu được tái hiện như những hình hài đáng thương, tội nghiệp,

với số kiếp, chịu nhiều tổn thất, không có lối thoát, chẳng có tương lai. Những đứa trẻ

trong Tuỳ bút phải lòng (Nguyễn Ngọc Tư) phải oằn mình trước nỗi đau thân thể tật

nguyền do di chứng chất độc màu da cam. Chúng không có khả năng đi lại, không thể

tự lo cho sinh hoạt bản thân, chúng phải sống dựa vào chút sức tàn của cha mẹ mình.

101

Nguyễn Ngọc Thuần, ở một sáng tác không dành cho trẻ thơ – Cơ bản là buồn cũng

nhắc tới hình ảnh một cậu bé bị liệt và bại não do ảnh hưởng bởi chất độc màu da cam.

Những nhân vật trong các truyện không hướng tới độc giả nhỏ tuổi này, hầu như

không được “sống”. Đó là những nạn nhân đã bị ghim chặt cuộc đời mình vào cái ước

lệ mà người lớn đã ngầm định cho trẻ con. Chúng là kẻ yếu đuối, không quyền lực,

không hành động, không ngôn từ. Chúng là một thân phận thấp hèn, ngay cả khi, nhà

văn đã cố gắng đẩy chúng thành tâm điểm của câu chuyện. Không phải là vì họ không

coi trọng, yêu thương trẻ em mà nguyên nhân là vì… chúng là trẻ con. Điều này dẫn

đến cách thể hiện nhân vật trẻ em thường theo lối “hạ bệ”, “châm biếm” (chữ dùng của

M.Nikolajeva) trong một số sáng tác cho người lớn có bóng dáng trẻ em.

Trong truyện thiếu nhi hiện đại, hình ảnh trẻ em trong chiến tranh tuy đã bớt vẻ

hào hùng nhưng chưa bị đẩy xuống mức thấp bé và cũng không phải là nhân vật “chết

cứng”. Cho dù, nhân vật hoặc bị sinh ra trong hoàn cảnh thiệt thòi hoặc bị đẩy vào tình

huống éo le nhưng luôn tích cực vượt lên hoàn cảnh, số phận của mình. Nhân vật

không tồn tại như một quan niệm mà có sức sống, có vận động, có thay đổi. Ở các em,

người đọc vẫn thấy sáng lên những ước mơ, khao khát: “Giữa cảnh dầu sôi lửa bỏng

của cuộc chiến đấu khốc liệt, trong tâm hồn thuần phác và nhạy cảm của chú bé vùng

cửa Sa Kỳ đất đai nghèo kiệt, có cái gì đó đang nẩy nở, tươi tắn và cứng cỏi vô cùng,

không ngừng hướng về một tương lai tốt đẹp” [378;87]. Từ nhãn quan trẻ thơ tươi

sáng, trong trẻo, nơi khô cằn, chết chóc cũng vẫn ánh lên hi vọng: “Dù cay cực bao

nhiêu, nhưng mảnh đất này là của tôi, không ai có thể thay được… mặt đất màu mỡ

thuần phục con người. Đất phù sa, của cây lá bao đời, của mồ hôi nước mắt bị những

trận bom xúc ném thành tro bụi…”[297]. Sự khốc liệt của chiến tranh được san phẳng

bởi sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ. Sự tàn nhẫn của số phận, được khỏa lấp bằng tin

yêu, hi vọng của trẻ thơ. Nói đến chết chóc mà không quá tàn nhẫn, nói về sự thiệt thòi

mà không quá bi thương, nhân vật trẻ em, dù là nạn nhân, chịu thiệt thòi bởi chiến

tranh nhưng luôn đem tới cho độc giả niềm tin sống mãnh liệt.

P.W. Singer, nhà nghiên cứu chính trị người Mỹ, tác giả cuốn “Trẻ em thời

chiến” đã viết: “Lúc cân nhắc để lao vào những cuộc chiến, hiếm khi người ta để ý đến

trẻ em” [142]. Từ hình ảnh đứa trẻ thời chiến, những sáng tác cho thiếu nhi sau 1975, đã

cho thấy bên cạnh sự gan dạ, quả cảm, trẻ em còn được nhận ra như những nạn nhân

của chiến tranh, như những sinh linh nhỏ bé, yếu ớt trước cái khốc liệt của bom đạn.

102

3.2.1.2. Trẻ em - nạn nhân của đời sống

Cuộc sống hiện đại của thời cơ chế thị trường đã khiến nền tảng gia đình lung

lay. Thoát ra khỏi chiến tranh, người ta phải đối mặt với những bận rộn của cuộc sống

mưu sinh. Cha mẹ không có nhiều thời gian cho con cái và cũng không có nhiều thời

gian cho gia đình. Đôi khi, người lớn cũng bị xô ngã bởi sự nghiệt ngã của thời mở

cửa, đến mức bỏ mặc hoặc đối xử bất công với con trẻ. Trước vòng xoáy của kinh thế

thị trường, trẻ em, một lần nữa lại trở thành những nạn nhân, khốn khổ, trong chính gia

đình, trường học của mình. Hiện thực đó đã tác động sâu sắc tới sự thể hiện hình tượng

nhân vật trẻ em trong sáng tác của các nhà văn sau 1975. Nó tạo nên hai dạng biểu

hiện của kiểu nhân vật nạn nhân đời sống: nhân vật lưu lạc và nhân vật cam chịu.

Lưu lạc là một trong những dạng biểu hiện tiêu biểu của nhân vật trẻ em trong

Văn học thiếu nhi. Viết về những đứa trẻ chịu thiệt thòi và bị đẩy ra ngoài xã hội, phải

tham gia một cuộc hành trình không có người thân bên cạnh cùng trải nghiệm với những

con người, hoàn cảnh khác nhau là một cách thiết lập hình tượng nhân vật quen thuộc

của khá nhiều sáng tác cho trẻ em. Đây là kiểu nhân vật đã từng xuất hiện trong những

trang văn nước ngoài như Rémi trong Không gia đình (Hecto Malot), Perine trong

Trong gia đình (Hecto Malot), Pi trong Cuộc đời của Pi của Yann Martel, Ralph và

những đứa trẻ trong Chúa ruồi của William Golding,… Ở Không gia đình, là chuyện

một em bé không cha mẹ, không họ hàng thân thích, đi theo một đoàn xiếc chó, khỉ, rồi

cầm đầu đoàn ấy đi lưu lạc khắp nước Pháp, sau đó bị tù ở Anh, cuối cùng tìm thấy mẹ

và em. Nhưng dù ở đâu, trong cảnh ngộ nào, em vẫn noi theo nếp rèn dạy của ông già

Vitali giữ phẩm chất làm người, nghĩa là ngay thẳng, gan dạ, tự trọng, thương người,

ham lao động, không ngửa tay xin xỏ, không dối trá, gian giảo, nhớ ơn nghĩa, luôn luôn

muốn làm người có ích... Cuộc đời của Pi là hành trình 227 ngày vượt biển, gian nan,

nguy hiểm mà cậu bé Piscine Molitor Patel (Pi) buộc phải trải qua để sinh tồn khi gia

không còn nữa. Thử thách ấy đã giúp cậu bé nhận ra được những giá trị và ý nghĩa đích

thực của cuộc sống. Chúa ruồi tái hiện hành trình ngược về cõi u mê của những đứa trẻ

bị bỏ rơi trên đảo hoang. Sự chống chọi với đời sống hoang dã là cơ hội để mỗi đứa trẻ

lớn lên và vượt qua cuộc chiến khốc liệt giữa cái Thiện và cái Ác trong mỗi người.

Như khảo sát của chúng tôi trong chương 2 của luận án, giai đoạn 1954-1975,

ở miền Nam Việt Nam, cũng đã xuất hiện kiểu nhân vật bị ruồng bỏ trong truyện của

Duyên Anh,Nhật Tiến,.. với hai dạng biểu hiện: nhân vật bụi đời và nhân vật nạn

103

nhân. Nó cho thấy hai cách trẻ em phản ứng lại với hiện thực đời sống: những đứa trẻ

có cá tính, có chủ kiến, không muốn chấp nhận cái giả dối, thấp hèn, xấu xa của xã

hội đương thời, phản kháng bằng cách bỏ nhà đi bụi và thực hành lí thuyết đầy mơ

mộng của tuổi trẻ: bụi đời – lương thiện. Các em nhỏ yếu đuối hơn, học cách cam

chịu thân phận bị ruồng bỏ của mình và cố gắng tìm kiếm những cơ hội thay đổi.

Năm 1957, ở miền Bắc, độc giả cũng được biết đến một bé An, với những tháng

ngày lưu lạc tìm cha trong Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi. Điều trùng hợp là

tác giả duy nhất viết về hành trình của một cậu bé mồ côi xuất hiện trong giai đoạn

1945-1975 ở phía Bắc lại là một người gốc Nam Bộ. Dường như, vùng đất trù phú và

rộng lớn phía Nam đất nước đã cho phép các nhà văn, có nhiều hơn cơ hội mở rộng

trí tưởng tượng và thực hiện những cuộc phiêu lưu cùng nhân vật. Tuy nhiên, cuộc

hành trình của bé An trong tác phẩm Đất rừng phương Nam (Đoàn Giỏi) có mục

đích và kết quả không giống với cuộc sống bỏ nhà đi bụi đời của những nhân vật

trong truyện Duyên Anh. Bé An bị đẩy vào bước đường lưu lạc do hoàn cảnh chiến

tranh. Những va chạm với kẻ thù, với bọn Việt gian và những tiếp xúc với các chiến

sĩ du kích cho An những nhận thức, sự trưởng thành để xác định con đường tương lai

là con đường chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc. Còn những nhân vật như Trần Đại, Hùng

(Điệu ru nước mắt), Diễm Châu (Châu Kool), Tâm, Ngọc (Dấu chân sỏi đá),… lựa

chọn cuộc đời giang hồ như một cách phản ứng lại với xã hội và gia đình đương rối

ren. Đời sống lang thang với những vụ ẩu đả, xô xát, trả thù trong giới xã hội đen đã

làm trầy xước những tâm hồn thơ ngây và dập tắt những hi vọng làm người tử tế của

bọn trẻ. Các nhân vật bụi đời của Duyên Anh không có được cái kết lí tưởng, vì

không thể tìm được con đường chân lí nào, ngoại trừ cái chết.

Sau năm 1975, nhân vật đứa trẻ lưu lạc xuất hiện trở lại trong các sáng tác cho

thiếu nhi với số lượng tuy không nhiều nhưng khá nổi bật và hấp dẫn. Bê trong Hành

trình ngày thơ ấu (Dương Thu Hương), Thi trong Bỏ trốn (Phan Thị Thanh Nhàn),

Hùng lé trong Chú bé có tài mở khóa (Nguyễn Quang Thân),… Bên cạnh sự kế thừa cấu

trúc hành trình khi tạo dựng hình tượng, nhân vật đứa trẻ lưu lạc trong truyện viết cho

thiếu nhi sau 1975, có những nét khác biệt so với kiểu nhân vật này trong văn học Việt

Nam trước đó cũng như so với các nhân vật lưu lạc trong truyện thiếu nhi thế giới. Cùng

bị tách ra khỏi ra gia đình, bị ném ra ngoài đời, lưu lạc, kiếm sống và cùng nhận được sự

bao bọc, cưu mang của những người tốt nhưng xét kĩ sẽ thấy quá trình hình thành nhân

104

cách từ bé An trong Đất rừng phương Nam tới Bê trong Hành trình ngày thơ ấu, Thi

trong Bỏ trốn, Hùng lé trong Chú bé có tài mở khóa đã có những nét khác biệt. Nếu như

sự trưởng thành của An được ghi dấu bởi cả một tập thể thì sự lớn lên của Bê, Thi, Hùng

hầu như chỉ có tác động bởi một cá nhân. Vai trò của cộng đồng tới sự hình thành nhân

cách ở Đất rừng phương Nam được thể hiện rõ nét hơn trong các sáng tác giai đoạn sau.

Trong những tác phẩm: Hành trình ngày thơ ấu, Bỏ trốn, Chú bé có tài mở khóa, nhân

vật thường chỉ chịu ảnh hưởng từ một vài người, thậm chí, có những lúc, trong hành

trình lưu lạc tuổi thơ, những đứa trẻ phải tự mình lựa chọn lẽ sống mà không có bất cứ

sự dìu dắt nào của người lớn. Trong bước đường lưu lạc, làm ghề trộm cắp, Hùng “Lé”

gặp được chú Quảng, được chú kể về tấm gương hi sinh dũng cảm của bố em và nhận

được tấm lòng bao dung của người đồng đội bố, em đã quyết tâm từ bỏ con đường ăn

cắp, ném chùm chìa khóa vạn năng và tìm lại cuộc đời mình. Ở cái khoảnh khắc buồn

thảm nhất của thời niên thiếu, Bê đã gặp được ông già chăn vịt – vị giáo sư nổi tiếng,

thầy của ông thứ trưởng Bộ giáo dục đã minh oan cho cô bé, và chính ông đã khiến cô

bé mười ba tuổi hiểu được giá trị và mục đích sống: “Tôi đi lại con đường bờ mương

dẫn tới gò cây gạo, nơi tôi đã gặp ông già chăn vịt. Nơi cuộc đời khơi mở trước mắt tôi

làn ánh sáng rực rỡ và mãnh liệt. Nơi lần đầu tiên, tôi nhìn được chân trời và những con

đường khác nhau trên mặt đất. Nơi tôi hiểu rằng, tôi sống nghĩa là tôi phải vượt lên mọi

điều rủi ro, mọi đau khổ và bất hạnh để đi tới đích của cuộc đời” [338;334]. Bằng chính

sức sống nội tại đầy mãnh liệt mà Hùng, Thi, Bê có thể vượt lên trở ngại và sống mạnh

mẽ hơn, nhân hậu hơn. Hành trình lưu lạc của các nhân vật này cũng chính là hành trình

tự nhận thức, tự khám phá những giá trị của đời sống.

Sự lưu lạc của An trong Đất rừng phương Nam (Đoàn Giỏi) là do hoàn cảnh

chiến tranh xô đẩy, còn hành trình lưu lạc của Bê, Thi, Hùng là sự lựa chọn của chính

nhân vật khi chúng nhận thấy không thể sống trong gia đình, quê hương. Đó là cách

những đứa trẻ phản ứng lại với đời sống. Nó cũng giống như cách mà Trần Đại, Hùng,

Châu Kool,… trong truyện Duyên Anh bỏ nhà đi bụi. Tuy nhiên, những nhân vật tuổi

trẻ của Duyên Anh không tìm được cho mình đích đến của cuộc hành trình. Chúng đã

bị hiện thực cuộc đời quật ngã hoặc phải chết, hoặc phải chịu đựng những chấn thương

tâm lí do chính mình gây ra. Bê, Thi, Hùng tuy lựa chọn lưu lạc như một cách đối

kháng với người lớn nhưng chúng vẫn được những người tốt giúp sức và định hướng

để trưởng thành hơn. Bê được giải oan và trở về trường học, Hùng giúp các chú công

an phá án và quay về với mẹ, Thi cũng được minh oan và được bác đón về nhà.

105

Như vậy, ngoài việc phản chiếu đời sống hiện đại với những rạn nứt trong gia

đình, xã hội, kiểu nhân vật trẻ lưu lạc còn cho thấy một phương thức cấu trúc nhân vật

khá phổ biến và được cho là hấp dẫn của truyện thiếu nhi khi đưa trẻ em vào những

hành trình phiêu lưu.

Đối với trẻ thơ, gia đình là nhân tố vô cùng quan trọng trong sự trưởng thành.

Sống trong gia đình êm ấm, hoà thuận, đứa trẻ sẽ có nhiều điều kiện để phát triển một

cách hài hòa về nhân cách. Ngược lại, trẻ sinh ra và lớn lên trong gia đình có sự rạn

nứt, đổ vỡ về tình cảm, cha mẹ không gương mẫu, sẽ chịu nhiều tổn thương tâm lí, dễ

hoài nghi, dễ ấp ủ sự phản kháng, sự nổi loạn manh động. “Văn hóa gia đình là môi

trường đặc biệt giúp cho sự phát triển của trẻ thơ được thuận lơi” [227;56].

Giai đoạn trước 1975, nhân vật trẻ em được đặt trong những bối cảnh rộng lớn,

trong những không gian tập thể, cộng đồng như: các đơn vị bộ đội, hợp tác xã, trường

học xã hội chủ nghĩa,… Cũng có những tác phẩm viết về trẻ em trong gia đình như Mẹ

vắng nhà, Chuyện xóm tôi của Nguyễn Thi. Song đó là đời sống cá nhân trong đời sống

chính trị, đời sống cộng đồng. Những suy nghĩ, hành động của các nhân vật trẻ em ở đây

đều gắn với suy nghĩ và hành động của ba mẹ, bà con cô bác, xóm giềng, của dân tộc và

đều hướng về Cách mạng. Và vì vậy, trẻ em trở thành những hình mẫu lớn, có sức

mạnh, có khả năng làm những việc như người lớn. Sau 1975, trẻ em được nhìn nhận

trong không gian và những mối quan hệ nhỏ hẹp hơn, gần gũi với đời sống và phù hợp

với kích thước của chúng hơn như: gia đình, lớp học, bạn bè. Trong bối cảnh ấy, những

đứa trẻ không còn là những công dân gương mẫu của đời sống làm việc và nói năng như

một người lớn thu nhỏ. Chúng được đưa trở về với vị thế yếu đuối, nhỏ bé trong xã hội,

không có tiếng nói, không được coi trọng. Chúng là nạn nhân của thực tế đời sống với

đủ những nhiễu nhương, cay đắng. Nói cách khác, nhân vật buộc phải chấp nhận sự hạ

bệ của tác giả. Nhân vật không có sức mạnh và sự trợ giúp để thực hiện mơ ước làm

người lớn, để “sống” cách xa độc giả nhỏ tuổi trong sự suy tôn và kính ngưỡng.

Trước Cách mạng tháng Tám 1945, văn học Việt Nam đã từng xuất hiện hình

tượng những đứa trẻ yếu đuối, những thân phận thấp hèn như: Thạo (Giọt máu-

Nguyên Hồng), bé Hồng (Những ngày thơ ấu), Hồng (Bài học quét nhà – Nam Cao),

cái Tí (Tắt đèn – Ngô Tất Tố),... Tuy nhiên, các tác giả thường khai thác khía cạnh đời

sống khổ cực tác động tới cuộc đời nhân vật. Như đã nói ở chương đầu của luận án, số

phận nhân vật trẻ em trong giai đoạn này thường gắn với cuộc đời những người nghèo,

người bất hạnh trong xã hội. Nhà văn lí giải sự thấp hèn của nhân vật qua phương diện

106

xã hội. Trẻ em nghèo hèn là vì chúng phải sống trong một xã hội đang tăm tối, trong

cái nghèo của những người cùng khổ. Đó là số phận chung của người dân trước Cách

mạng. Văn học thiếu nhi sau 1975, cũng khai thác sự yếu đuối, số phận bất hạnh của

trẻ thơ nhưng nhìn nhận nó trên phương diện đời sống, gắn với những vấn đề của trẻ

em như gia đình, nhà trường, thầy cô giáo. Thi (Bỏ trốn) phải lang thang ngoài đường

là vì mẹ chết, ở với người bác nghiệt ngã, đã nghi oan cho em, buộc em ra khỏi nhà.

Duy, Thảm (Côi cút giữa cảnh đời – Ma Văn Kháng) phải sống trong cảnh khốn cùng

bởi mẹ chúng đã bỏ rơi chúng mà đi. Kiểm (Kiểm – Chú bé – Con người – Ma Văn

Kháng) phải từ giã gia đình vì dì ghẻ độc ác, nhẫn tâm, hắt hủi cậu bé. Côi (Kiềng ba

chân – Đoàn Lư) bị mẹ vứt bỏ trần trụi, tím ngắt trên đường phố,…

Yếu đuối, nhỏ bé, không sức mạnh, những đứa trẻ trở thành nạn nhân trong chính

gia đình chúng, từ chính những đổ vỡ của cha mẹ hay sự tàn nhẫn của người thân. Kiểm

(Kiểm – Chú bé – Con người) bố mẹ bỏ nhau, phải ở với dì ghẻ, phải chịu sự hành hạ

của người mẹ kế ác nghiệt. Ngày nào không lấy đủ rau cho thỏ, cậu bé bị cắt cơm. Thèm

ăn mà không được ăn vì không được dì cho phép. Cậu bé bị bóc lột sức lao động và đối

xử không hơn người ta đối với một con vật. Ngủ không được ngủ trong nhà, mặc không

được mặc lành lặn, ăn không được ăn đủ bữa: “Chú bé Kiểm là một nạn nhân, phản ánh

tính phức tạp của đời sống con người. Nó là hậu quả của những va động dưới áp lực của

những quan niệm đạo đức và dục vọng khác nhau. Thói mưu cầu lợi ích vị kỉ, sự thôi

thúc của dạ dày và con tim, những lầm lỡ và cả những nỗ lực tái tạo, hồi sinh cần khích

lệ, đã đảo lộn cơ tầng đời sống – các gia đình – làm nảy sinh những đứa trẻ bơ vơ, mất

nơi nương tựa và bẽ bàng” [345;127]. Cái Thía (Quê nội – Ma Văn Kháng), bố bỏ mẹ đi

lấy vợ ở thành phố, không quan tâm tới nó, cũng chẳng trách nhiệm với con bé. Nó sống

với bà nội vì mẹ nó cũng đi lấy chồng. Hà (Buổi bình minh huyền thoại), bố nhập ngũ,

đi biền biệt, không tin tức, mẹ đau ốm, không đủ sức nuôi con, từ nhỏ nó đã phải bươn

chải kiếm sống. Sáu tuổi phải chăn trâu thuê, lên tám, chẻ nan bán cho hợp tác xã sản

xuất mành mành ở huyện. Mười hai tuổi đã biết cấy gặt, gồng gánh thuê. Duy (Côi cút

giữa cảnh đời) vẫn luôn day dứt, băn khoăn: “cho đến bây giờ tôi vẫn không hiểu nối lý

do gì mà mẹ lại bỏ tôi lại cho bà, ra đi theo cái ông lái xe tải nọ. Bà nội tôi đã già và tôi

thì còn bé bỏng. Cả hai đều đang cần người nương tựa đỡ nâng” [344;7]. Có thể nói,

trong số những nhà văn viết về trẻ em sau 1975, Ma Văn Kháng là người đã dành nhiều

tâm huyết cho số phận những đứa trẻ thiệt thòi, đáng thương, bất hạnh. Những trang văn

107

của ông thấm đẫm một tinh thần nhân văn, tình yêu và sự sẻ chia với những cuộc đời

nhỏ bé. Thế giới nhân vật trẻ thơ trong truyện Ma Văn Kháng có cay đắng, tủi nhục

nhưng vẫn lấp lánh vẻ đẹp trong sáng, đôn hậu. Bởi vì Ma Văn Kháng “muốn qua

những nhân vật của mình tạo điều kiện cho các em được tiếp xúc, trải nghiệm với hiện

thực trước mắt khá bề bộn, ngổn ngang, thậm chí là khắc nghiệt để từ đó các em có

được những bài học về cuộc sống và bước vào cuộc đời một cách vững vàng”

[255;225].

Bên cạnh những tác phẩm của Ma Văn Kháng, kiểu nhân vật trẻ em nạn nhân

của đời sống cũng xuất hiện trong một số tác phẩm như Kiềng ba chân của Đoàn Lư,

Cuộc chia tay của những con búp bê – Khánh Hoài, Đợi mặt trời – Phạm Ngọc Tiến,

Đồi cát bay – Phạm Thị Bích Thủy,…Ở mỗi truyện, nhân vật lại được đặt trong những

tình huống, hoàn cảnh khác nhau. Nhưng tất cả đều có chung một thân phận là kẻ yếu,

là nạn nhân. Côi (Kiềng ba chân) bị mẹ bỏ rơi ngoài đường. Hai anh em Thành và

Thủy (Cuộc chia tay của những con búp bê) yêu thương, gắn bó với nhau nhưng phải

lìa xa vì bố mẹ chúng li hôn. Nghĩa “choắt”, Ngọc “phệ”, Hiền “sầu,… (Đợi mặt trời-

Phạm Ngọc Tiến) côi cút, đói nghèo, bị kẻ xấu lợi dụng. Út lớn, Út nhỏ, thằng Cọp,…

(Đồi cát bay) sống trong nghèo khổ, tăm tối, dốt nát, trong sự thờ ơ của người mẹ.

Chúng phải sớm bươn chải với cuộc sống mưu sinh nhọc nhằn trên đồi cát. Cuộc đời

của chúng vô định, trống trải, không phương hướng như những hạt cát vô danh.

Cuộc sống nhọc nhằn, sớm phải chịu mất mát, tổn thương trong tâm hồn nhưng

trong sâu thẳm trái tim những phận đời bất hạnh ấy vẫn sáng lên những ước mơ, hi

vọng và niềm tin vào cuộc sống và tương lai. Hà (Buổi bình minh huyền thoại) dù

được một gia đình cưu mang nhưng nó vẫn muốn tự lập với cuộc sống bán bánh mì và

theo đuổi mơ ước tìm lại bố. Kiểm (Kiểm – Chú bé – Con người) dù bị dì ghẻ chà đạp

cả thể xác lẫn tinh thần vẫn mạnh mẽ, nhân hậu trước cơn tai biến của người đã hành

hạ mình. Sự tàn bạo đã không giết chết được trái tim non tơ và thánh thiện ấy. Càng

qua nhiều đau khổ, vẻ đẹp thuần khiết của đứa trẻ thơ ngây đó càng trở nên lấp lánh,

sáng trong hơn: “Nó không chai lì, không tàn nhẫn. Bị vùi dập và dồn vào hoàn cảnh

sống thiếu thốn cả vật chất lẫn tình cảm, nó vẫn còn giữ được một khoảnh cách, chưa

đồng hóa với cái xấu, chưa mặc nhiên công nhận cái xấu như là một chuyện tất nhiên.

Ngược lại, nó tràn đầy lòng thương yêu” [345;120]. Khi cuộc đời được rọi chiếu qua

ánh sáng của những tâm hồn vô tư, trong sáng ấy thì cái xấu xa, độc ác bị đẩy lùi.

108

Niềm tin vào cuộc sống, vào cái thiện từ các em tỏa chiếu xuống vạn vật xung quanh:

“Cuộc sống vừa trần trụi, vừa huyền ảo là vậy. Bởi vì, đã có ngày gia đình tôi gặp toàn

chuyện buồn thảm. Nhưng cũng lại có những ngày chúng tôi như là được đền bù, đền

một cách rất hào phóng vậy. Có những ngày niềm vui ồ ạt đến, nhiều tới mức có cảm

giác là ông trời chơi khăm, ông găm giữ chúng ở một chỗ, rồi ông mở tung cánh cửa

cho chúng ồ ạt ào tới nhà tôi” [344;283].

Giữ được niềm tin vào điều tốt đẹp trong cuộc sống là nét đẹp nhất ở trẻ thơ.

Đó là một trong những lí do khiến trẻ em trở thành độc giả trung thành của truyện cổ

tích. Bởi lẽ, ở cổ tích, niềm tin ấy, sẽ trở thành hiện thực, những giấc mơ về luật đời

nhân – quả, “ở hiền gặp lành” sẽ được đáp ứng, ông bụt, bà tiên chẳng bao giờ lừa bịp

lũ trẻ. Đó cũng chính là sự gặp gỡ diệu kì giữa cái thuần khiết ở trẻ thơ với niềm tin

sáng trong của nhân loại khi sáng tạo cổ tích. Ta cũng bắt gặp niềm tin ấy ở những

nhân vật trẻ em trong các sáng tác nước ngoài. Pippi (Pippi tất dài – Atrisd Lingren)

có một niềm tin mãnh liệt vào những gì mà nó tưởng tượng. Chẳng ai có thể nghĩ rằng

một người bị bão cuốn xuống biển lại có thể vẫn còn sống nhưng “Pippi hoàn toàn tin

chắc có ngày bố sẽ trở về. Cô bé không tin bố mà lại có thể chết đuối. Nó nghĩ bố bị

dạt vào một hòn đảo có rất nhiều người da đen, ngày ngày bố đi dạo quanh đảo, đầu

đội vương miện bằng vàng” [291;10]. Và đúng là vào một ngày đẹp trời bố nó đã trở

về, khẳng định niềm tin của cô bé: “ Bố là vua của bộ tộc da đen Taka – Tuka trên hòn

đảo Taka – Tuka. Bố bị sóng đánh dạt vào đấy sau khi bị bão cuốn ra biển” [291;231].

Perin (Trong gia đình – Hecto Malo) dẫu cực nhọc, đói khổ vẫn luôn vui vẻ lạc quan

với niềm tin: người ta sẽ thành công khi có nghị lực, lòng quyết tâm và sự sáng tạo.

Nhờ trí thông minh và lòng dũng cảm, vượt qua bao gian nan thử thách, cuối cùng

Perin đã tìm được ông nội của mình. Cô bé Sara Crewe (Cô công chúa nhỏ - Frances

Hodgson Burnett) từ chỗ được yêu chiều hết mực ở trường nội trú của cô Minchin,

bỗng trở thành đứa trẻ mồ côi phải sống trên gác mái, bị đối xử tàn tệ, ăn chẳng đủ no.

Nhưng sự tàn nhẫn của cô Minchin không hề làm Sara thay đổi, cô bé luôn là nàng

công chúa nhỏ thông minh và nhân hậu, kiên nghị trong khó khăn. Chính niềm tin vào

cuộc sống và con người đã giúp cô bé vươn lên cảnh nghèo hèn và sự khinh miệt của

những người xung quanh,...

Vượt qua biên giới mọi lãnh thổ, bắt rễ sâu xa từ mạch nguồn dân gian, xúc cảm

tin yêu, thánh thiện của trẻ nhỏ đã rọi chiếu vào từng trang văn, làm biến đổi cuộc đời

109

nhân vật, tưới tắm cho tâm hồn độc giả nhỏ tuổi tình yêu sống và niềm tin thiết tha vào cái

Thiện. Sức mạnh ấy cũng chính là nền tảng sự sống của mỗi sáng tác Văn học thiếu nhi.

Nhìn chung, xây dựng hình tượng nhân vật trẻ em nạn nhân của chiến tranh

và đời sống, các nhà văn đã cho thấy sự thay đổi trong cách nhìn về trẻ thơ kể từ sau

năm 1975. Trẻ em không chỉ anh dũng trong chiến đấu, chăm chỉ, siêng năng trong

học tập và lao động mà cùng với những mất mát, đau thương của dân tộc ở thời

chiến, cùng với những biến động của đời sống mới, cũng là một nạn nhân, một thân

phận nhỏ bé trong bom đạn và cuộc đời. Khai thác hình tượng nhân vật trẻ em theo

hướng này là cách mà nhà văn nhìn nhận lại chiến tranh và đời sống. Đó cũng là

tiếng chuông cảnh tỉnh nhân loại về trách nhiệm đối với trẻ thơ.

3.2.2. Nhân vật trẻ em trải nghiệm

Khi chiến tranh đi qua, ý thức về “cái tôi” thức dậy, con người có cảm hứng đi

tìm lại mình. Từ chỗ lấy điểm nhìn xã hội làm hệ quy chiếu, văn học chuyển sang cái

nhìn đời tư – thế sự, lấy số phận con người để đánh giá hiện thực và nhìn nhận lại quá

khứ. Trên cơ sở đó, tự thuật đã trở thành hướng đi có triển vọng và thu hút được nhiều

sự quan tâm của các tác giả hiện đại. Những tác phẩm tự thuật thời kì này không phải

chỉ là cái nhìn tự trình bày với câu trả lời : Tôi là..., Tôi đã... như trước. Giờ đây, nổi

lên trong những sáng tác tự thuật hiện đại là cái nhìn tự phân tích, chất vấn triệt để với

nhiều câu hỏi riết róng, dằn vặt hướng về chính mình, đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Tôi

là ai? Với một cách nhìn như thế, các nhà văn hiện đại đã thiết lập cho riêng mình

những hình thức kể chuyện độc đáo ghi dấu một con dường sáng tạo mới nhiều khó

khăn nhưng cũng không ít thành công.

Đặt trong mối tương quan với văn học người lớn, việc tìm đến thể loại tự truyện

của Văn học thiếu nhi vừa như một cách nhằm đổi mới cách viết (theo xu hướng

chung của văn học người lớn) vừa như một lẽ tất yếu nhằm trở về kí ức tuổi thơ để

phác họa cho chính trẻ em một thế giới mới – thế giới khác với thực tại của nhà văn.

Theo định nghĩa của Philipe Lejeune, tự truyện là "một câu chuyện mà một người

có thật ngược dòng thời gian, kể lại đời mình, nhấn mạnh tới cuộc sống cá nhân, đặc biệt

tới sự hình thành tính cách" [243;14]. Như vậy, một trong những đặc tính của tự truyện

đó chính là hồi ức. Soi mình trong những ấn tượng của hồi ức cũ, con người có thể tìm

thấy được những đối chiếu xác đáng cho hiện tại và tương lai. Dẫu là sáng tác cổ điển

hay những tác phẩm của thời hiện đại thì đều có chung một điểm: đó chính là miền nhớ

110

của những cái đã qua. Tất nhiên, mỗi tác giả đều có cách khai thác riêng để kỉ niệm luôn

được trở lại với một hình hài mới. Và vì thế, nó không chỉ đơn thuần là hồi ức mà còn là

sáng tạo của chính nhà văn. Bởi vậy mà hồi ức không bao giờ dàn trải đều đặn trên hai

chiều không gian và thời gian. Nó chỉ được rọi sáng ở một số vùng. Cho nên, có những

nhà văn có xu hướng chỉ viết về quãng thời gian từ khi bắt đầu trưởng thành (Thượng đế

thì cười – Nguyễn Khải, Cát bụi chân ai – Tô Hoài,… ), có tác giả lại chọn chỉ viết về

thời thơ ấu như: Vũ Thư Hiên viết: Miền thơ ấu, Dương Thu Hương: Hành trình ngày

thơ ấu, Duy Khán: Tuổi thơ im lặng, Nguyễn Quang Sáng: Dòng sông thơ ấu, Kao Sơn:

Khúc đồng dao lấm láp… Sự phân định này, ngẫu nhiên, tạo nên hai kiểu tự truyện: một

viết về người lớn, hướng tới độc giả người lớn, một viết về trẻ con dành cho cả độc giả

người lớn và trẻ em. Nó cũng tạo nên hai kiểu nhân vật: một là nhân vật cái tôi – người

lớn – nhà văn suy tư về đời sống, hai là nhân vật cái tôi – trẻ thơ – nhà văn chiêm

nghiệm về tuổi thơ và cuộc đời.

Theo quy ước của Philippe Lejeune, người kể chuyện trong tự truyện đồng nhất

với nhân vật chính và đồng nhất với tác giả. Tuy nhiên, từ đời thực đến cái tác giả kể

lại, được viết ra đã là một khoảng cách, bởi vậy sự đồng nhất tác giả - người kể

chuyện – nhân vật chính trong tự truyện ngày nay chỉ là tương đối. Đối với những tự

truyện viết về trẻ em thì việc đồng nhất này là mối nghi ngờ lớn. Tất nhiên, nói như

vậy không có nghĩa phủ định đặc trưng tự truyện của những sáng tác kiểu này. Việc

tạo nên một độ lệch giữa người kể chuyện và nhà văn, theo chúng tôi, được coi là một

cách tân của tự sự hiện đại. Ở tự truyện viết cho trẻ em, tất cả các nhân vật người kể

chuyện đều xưng “tôi” và kể về “tôi” trong tuổi thơ. Dẫu rằng, câu chuyện về thời thơ

ấu đó chưa hẳn đã bằng chằn chặn với câu chuyện thật thuở bé của người viết. Nhưng

chính nó lại tạo nên nét độc đáo cho những trang văn về tuổi nhỏ.

Nhân vật trẻ em trải nghiệm chính là kiểu nhân vật cái tôi – trẻ thơ – nhà văn

xuất hiện trong các sáng tác tự thuật về tuổi thơ. Nhà văn tạo dựng hình tượng đứa trẻ -

người kể chuyện để kể cho độc giả nghe về những cuộc đời, những con người ngay

trong hình ảnh đứa trẻ. Đó là những con người, những cuộc đời có sức ám ảnh, mang

tầm phổ quát, nó làm cho người đọc như thấy được tuổi thơ mình trong nhân vật.

Trong suy nghiệm của cái tôi – trẻ thơ ấy, thế giới trẻ nhỏ hiện lên qua cảm nhận của

những cô bé, cậu bé về chính mình: “Tôi là một đứa trẻ. Tôi chả có quyền gì ngoài việc phải

luôn nghe lời người lớn” [393;191]. Trẻ con chẳng có quyền gì, đó là điều mà hầu hết mọi

đứa trẻ đều thừa nhận. Trong vùng không gian bé nhỏ của tuổi thơ, những đứa trẻ luôn cảm

111

thấy người lớn không bao giờ có thể hiểu được chúng và cảm giác bơ vơ, bị lãng quên là

điều mà chúng luôn nhận thấy khi bị người lớn khước từ, không thấu hiểu. Bê (Hành trình

ngày thơ ấu) cảm thấy “chẳng ai cần biết đến tôi” khi một mình chống lại ông thầy thể dục.

Mùi thì cho rằng: “so với người lớn, trẻ con sống trong một bầu khí quyển khác và dưới

một thứ ánh sáng khác” và “nếu xảy ra một sai lầm nào đó thì phần lỗi đương nhiên thuộc

về trẻ con… và tôi tin rằng cả khối trẻ con trên đời này đang nghĩ rằng không có ai hiểu

mình, kể cả những người thân thiết nhất”. Cao (Khúc đồng dao lấm láp) lại nói về những

điều mà chỉ trẻ con mới thấu hiểu: “Ầm ĩ nhất vẫn là lúc bà bế tôi. Tôi vẫn không thể nào

quen được cặp môi của bà tôi. Tôi muốn bà gọi tôi thế nào cũng được: là chó, là mèo, là

cái đĩ, là thằng cún con, tùy. Nhưng đừng có thơm tôi và nhất là đừng lột tã lót của tôi ra.

Tôi giãy lên khóc nhưng bà tôi vẫn cứ thế” [393;13-14]. Trong khi hóa thân vào thế giới

trẻ thơ của chính mình, nhà văn, qua nhân vật đứa trẻ xưng “tôi” như cố gắng muốn nói

với độc giả rằng trẻ em là một sinh thể độc đáo, cá biệt và chúng có một thế giới riêng,

một cái nhìn riêng, hoàn toàn khác với người lớn, rằng “để sống tốt hơn đôi khi chúng ta

phải học làm trẻ con trước khi học làm người lớn” [284;211].

Bên cạnh suy tư về trẻ con, về thế giới của trẻ con, qua trải nghiệm ở tuổi thơ, nhân

vật còn đặt ra những vấn đề về thế sự, cuộc đời. Bê (Hành trình ngày thơ ấu) sau khi đã trải

qua cuộc “hành trình” tuổi thơ với bao biến cố đã nhận ra lẽ sống: “sống có nghĩa là tôi phải

vượt lên mọi điều rủi ro, mọi đau khổ và bất hạnh để đi tới đích của cuộc đời” [338;333].

Minh (Dòng sông thơ ấu) tâm sự: “Cuộc đời Vệ quốc đoàn của tôi thật ngắn ngủi nhưng

biết bao kỉ niệm, đủ cho tôi hiểu biết tình người và cũng đủ cho tôi hiểu biết lòng nham

hiểm và ác độc của kẻ thù. Từ đó, từng bước, với cuộc đời, tôi lớn lên với thời gian”

[389;107] Khán (Tuổi thơ im lặng) chiêm nghiệm về cuộc đời từ cái cổng chùa: “Ôi, cái

cổng chùa. Chùa chuyển đã từ nào mà xóm tôi vẫn gọi mãi mãi chỗ ấy là cổng chùa… Từ

cái cổng chùa, từ nơi bắt đầu vào ngõ, tôi đi khắp nơi ở cái nước Nam này” [343;26]. Cảm

nhận về cuộc sống của Khán, Minh, Bê,… không còn là cảm nhận của đứa trẻ mới chập

chững những bước đi đầu tiên trong hành trình khám phá đời sống mà là suy tư, chiêm

nghiệm của một người trưởng thành về cuộc đời khi nhìn nhận lại thời thơ ấu của mình.

Nhận thức được cuộc sống từ những trải nghiệm trong chính tuổi thơ của mình

cũng là lúc đứa bé đã trưởng thành. Nhưng khi lớn lên rồi, ai cũng nuối tiếc về tuổi thơ, về

một “thiên đường đã mất”: “Tuổi thơ ấu đã xa rồi, không bao giờ tôi còn được hưởng lại

những ngày thần thiên ấy nữa. Những ngày ấy cứ xa vời, thanh thẳm hun hút bay về

112

phương trời phía sau, tôi cố ngoái lại, cố nắm bắt mà không sao níu giữ lại được” [303;5].

Khi nhắc nhớ về niềm vui của những đứa con ngóng mẹ đi chợ về, Khán (Tuổi thơ im

lặng) thầm ước: “Ước gì mình cứ bé mãi để được reo lên: “U về, u về!” [343;66]. Ở Miền

thơ ấu, ta cũng thấy được niềm kính ngưỡng về tuổi thơ qua những dòng tâm sự của cậu

bé Thư: “Đối với tôi, ngôi nhà của ông bà là viện bảo tàng gia tộc. Những cuộc đời đã

chỉm nghỉm trong dĩ vãng để lại dấu vết và bóng dáng của chúng trong mọi vật. Có những

lúc tôi tưởng như tất cả những cái đã mất đi ấy, sống dậy, thực sự sống dậy, nhưng đó là

sự sống không tiếng động, nó mờ ảo, thấp thoáng, hệt như những câu chuyện của cô tôi.

Những câu chuyện ấy thấm vào tôi từ từ từng mẩu một, dần dà, để rồi làm lẫn lộn trong

tôi cái thật trước mắt với cái hư ảnh quá khứ” [315;60]. Bằng xúc cảm mãnh liệt khi viết

về tuổi thơ các nhà văn đã nói hộ độc giả - người lớn những nuối tiếc, niềm say mê về thời

thơ ấu – quãng thời gian tươi đẹp nhất trong đời người. Có lẽ, chính vì lí do này mà những

tự truyện tuổi thơ luôn tạo được sức hấp dẫn với cả độc giả nhỏ tuổi và lớn tuổi. Bởi trẻ

con thì thấy giống quá còn người lớn lại thấy nhớ quá.

Nhân vật đứa trẻ trải nghiệm cũng đã từng xuất hiện Trước cách mạng tháng

Tám ở một số trang viết dạng hồi kí như Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Cỏ dại

của Tô Hoài,…Nhưng hầu như vắng bóng trong giai đoạn 1945-1975. Lý giải cho sự

thiếu vắng này có thể đưa ra nguyên nhân: đời sống cách mạng với hàng loạt các sự kiện

liên tục xảy ra, nhà văn, trong thời kì kháng chiến cần phải là người truyền tải được

những biến thiên mang tính lịch sử, thể hiện được cuộc kháng chiến hào hùng của dân

tộc. Vì thế, người ta khó có thời gian để chiêm nghiệm, suy ngẫm về quá khứ. Sau 1975,

khi có một độ lùi cần thiết về thời gian, nhu cầu tự nhìn lại, đánh giá lại quá khứ, hối

thúc các nhà văn trở lại đề tài này, trên cơ sở kế thừa truyền thống tự truyện đã có trước

1945. Tuy nhiên, giờ đây, trong các sáng tác, nhà văn không đơn thuần chỉ là kể về thời

thơ ấu với những buồn vui, đau khổ của tuổi hoa niên, mà còn là sự nhìn nhận lại vấn đề

về chiến tranh, về đời sống, về trẻ em, về người lớn, về tuổi thơ,… Trong cái nhìn hồi

tưởng ấy, ta thấy được một sự đổi mới ở cách cảm nhận hiện thực và con người đặc biệt

là cách nhìn nhận của chính nhà văn về trẻ thơ.

Có thể thấy, nhân vật trẻ em trải nghiệm, có đôi khi, bị “già” trước tuổi vì được

nhà văn giao cho những nhiệm vụ diễn giải về vấn đề cần nhiều trải nghiệm sống. Khi

viết truyện ở ngôi thứ nhất và khi là một người lớn viết về trẻ thơ (cho dù đứa trẻ đó

chính là mình trong quá khứ) sẽ không tránh khỏi có những lúc, con người nhà văn, con

113

người trưởng thành chen vào tiếng nói của đứa trẻ để thể hiện những trăn trở trước cuộc

sống. Đúng như M.Nikolajeva nói: “Văn học thiếu nhi phản ánh cái nhìn hoài cổ của tác

giả người lớn về thời thơ ấy hơn là miêu tả nó một cách chân thực. Nói cách khác là các

tác giả viết cho thiếu nhi có xu hướng kể với độc giả những gì họ cho rằng thời thơ ấu

nên như thế hơn là miêu tả thời thơ ấu thực sự” [241;xvi].

Sự tồn tại của kiểu nhân vật trải nghiệm cho chúng ta một minh chứng về sự mở

rộng đối tượng tiếp nhận của Văn học thiếu nhi. Nó không chỉ dành cho trẻ em mà còn

hướng tới độc giả người lớn. Nó không chỉ nói chuyện tuổi thơ mà còn đối thoại với

những vấn đề của quá khứ cũng như hiện tại. Điều này lí giải vì sao có những sáng tác

được xuất bản tại nhà xuất bản Kim Đồng, dành giải thưởng sáng tác cho thiếu nhi

nhưng trẻ con lại không mấy hứng thú, ngược lại, được người lớn say mê, thích thú. Tất

nhiên, như đã nói ở chương đầu, khái niệm trẻ em (trong tiếp nhận văn học) cũng chỉ

mang tính tương đối vì nhiều đứa trẻ mười hai, mười ba tuổi đã không còn nhận mình là

trẻ con, theo đó, “người lớn” cũng chỉ được hiểu như một cụm từ chỉ những ai đã qua

tuổi 16 (theo luật pháp Việt Nam) hoặc 18 (theo công ước quốc tế). Chính sự nhập

nhằng trong ranh giới giữa “người lớn” và “trẻ em”, ở phương diện tiếp nhận tác phẩm

văn học thiếu nhi đã tạo nên nhiều nghi ngờ trong việc phân loại một số sáng tác thuộc

văn học thiếu nhi hay thuộc về người lớn trong văn học người lớn. Chính nhà văn

Nguyễn Nhật Ánh, trên trang bìa của cuốn sách “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ” đã ghi:

“Tôi viết cuốn sách này không dành cho trẻ em. Tôi viết cho những ai đã từng là trẻ em”. Đó cũng chính là cái hay, cái hấp dẫn ở những tác phẩm giá trị.

Nhìn chung, nhân vật trẻ em trải nghiệm được tạo nên từ một tuổi thơ được

phát hiện lại, được trục vớt từ trong những hoài niệm, qua lăng kính của một người

lớn đã đi qua bao bể dâu cuộc đời. Dù đôi khi, các nhà văn chưa thực sự nhập vai,

song họ, cùng với nhân vật của mình đã đưa người đọc đến những “miền xanh thẳm”

để tham gia vào một cuộc hành trình về lại tuổi thơ kì thú. Ở trong “miền thơ ấu” đó,

độc giả và nhà văn đã cùng được nhìn cuộc sống bằng đôi mắt của trẻ nhỏ, được nói

bằng tiếng nói của tuổi thơ.

3.2.3. Nhân vật trẻ em hồn nhiên nhi nhiên

Đặc điểm cơ bản để khu biệt trẻ em với người lớn chính là tính chất hồn nhiên tự

nhiên. Sự trong sáng, thuần chất, thơ ngây của trẻ thơ là nét đẹp bản thể chỉ thuộc về trẻ

em, trong thế giới trẻ em.

114

Khu biệt nhân vật trẻ em hồn nhiên nhi nhiên thành một kiểu loại riêng không

phải là phủ định trước đây, nhân vật thiếu nhi anh hùng, trẻ em bụi đời, nhân vật trẻ em

trải nghiệm… không có cái hồn nhiên, trong sáng. Trong các kiểu nhân vật trẻ em trước,

sự trong trẻo, vô tư vẫn được các nhà văn phác họa khi vẽ diện mạo của nhân vật. Tuy

nhiên, cái trội của những nhân vật này là những va đập, trầy xước, với cuộc sống nên cái

hồn nhiên, trong sáng trở thành thứ yếu và đã bị mất đi rất nhanh, hoặc sống thiên về

suy tư nên cái hồn nhiên thiên nhiên, hồn nhiên bản thể không còn. Ở trong một số tác

phẩm sau này, chúng ta thấy rõ hơn đặc tính hồn nhiên nhi nhiên ở trẻ em được đặt lên

hàng đầu, được khai thác như điểm nổi bật trong việc xây dựng hình tượng trẻ em.

Trong hệ thống nhân vật trẻ em mà M.Nikolajeva đã đưa ra, không có kiểu nhân

vật hồn nhiên nhi nhiên. Bởi lẽ, trong quan niệm của bà, sự hồn nhiên là đặc tính thuộc

về văn học thiếu nhi, thuộc về nhân vật trong các tác phẩm viết cho thiếu nhi như một

tất yếu, không cần bàn cãi. Bà cho rằng, “văn học thiếu nhi có sự khác biệt, nó có tính

thẩm mĩ riêng và nếu vậy, chúng ta phải nghiên cứu tính thẩm mĩ đặc trưng này để hiểu

được chức năng của văn học thiếu nhi và sức ảnh hưởng của văn học thiếu nhi đối với

độc giả” [241;xvii]. Vì thế, yếu tố hồn nhiên, trong sáng cũng chính là một trong những

đặc điểm để khu biệt nhân vật trẻ em và nhân vật người lớn.

Trong văn học thiếu nhi Việt Nam, mọi chuyện lại không đơn giản. Từ khi chính

thức được hình thành, năm 1945 cho đến năm 1975, văn học thiếu nhi Việt Nam đã song

hành cùng hành trình giải phóng dân tộc. Vì thế, cũng giống như văn học người lớn,

sáng tác thiếu nhi cũng phải gánh trên mình những nhiệm vụ chính trị, truyền tải những

thông điệp cách mạng, cổ vũ chiến đấu. Giai đoạn đặc biệt ấy của dân tộc đã tạo nên

diện mạo riêng cho nhân vật trẻ em trong các truyện thiếu nhi. Dù là trẻ con nhưng lại

hao hao giống người lớn. Và do tập trung khai thác những chiến công, phẩm chất cao

đẹp của nhân vật, nên các nhà văn đã xao nhãng cái phần ngây thơ, trong trẻo ở trẻ em.

Tất nhiên, không phải không có những dòng thể hiện sự hồn nhiên ở nhân vật, nhưng nó

chưa thực sự là phần chủ đạo, phần cốt lõi trong cách phác họa nhân vật của tác phẩm.

Nói như thế cũng không có nghĩa phủ nhận giá trị của những sáng tác trước 1975. Mỗi

tác phẩm đều tồn tại trước hết, trong bối cảnh lịch sử, hệ tư tưởng nhất định. Ở giai đoạn

kháng chiến, hình tượng những thiếu nhi anh hùng, những gương sáng trong đời sống,…

có ý nghĩa to lớn đối với độc giả nhỏ tuổi đương thời.

115

Trong những kiểu nhân vật sau 1975 như nhân vật nạn nhân, nhân vật trải

nghiệm, đặc tính hồn nhiên cũng vẫn chưa phải là thuộc tính chủ đạo. Ở nhân vật nạn

nhân, do mục đích thể hiện nhân vật dưới góc nhìn thân phận nên các tác giả chú ý

nhiều tới khía cạnh thiệt thòi, những tổn thương mà chiến tranh hay đời sống đã tạo ra

cho trẻ thơ. Ở nhân vật trải nghiệm, nhà văn đã hóa thân để trở thành một đứa trẻ, nhìn

cuộc sống qua lăng kính trẻ thơ, vì vậy, họ cũng thể hiện nét hồn nhiên, ngây thơ nhiều

hơn trong nhân vật đứa trẻ trải nghiệm đó. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, cái nhìn chủ

đạo ở nhân vật này là cái nhìn chiêm nghiệm về tuổi thơ, về thế sự, cuộc đời, nên

nhiều khi, độc giả vẫn cảm thấy nhân vật “khôn” hơn, “già” hơn so với tuổi.

Một trong những đặc điểm của văn học thiếu nhi, như đã đề cập ở chương 1 của

luận án, đó chính là sự xuất hiện muộn hơn so với văn học người lớn, trong lịch sử.

Mặc dù, từ thuở bình minh của loài người, truyện kể đã được sử dụng với mục đích

giáo dục cũng như giải trí cho người trẻ. Song, chỉ tới khi thời thơ ấu được công nhận

là một giai đoạn đặc biệt trong đời người, văn học thiếu nhi mới tồn tại như một phạm

trù riêng biệt. Ở phương Tây, đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỉ XIX, mới có những tác

phẩm thiếu nhi đầu tiên ra đời. Và phải đến khi, có những thành tựu và ghi nhận của giới

nghiên cứu tâm lí học, nhân học khẳng định sự khác biệt của thời thơ ấu và khi xã hội có

những thay đổi trong cách nhìn nhận trẻ em, văn học thiếu nhi mới thực sự có những

sáng tác đúng nghĩa. Ở Việt Nam, sự xuất hiện này muộn hơn, do những tác động của

lịch sử. Sau năm 1945, mới bắt đầu có sáng tác dành riêng cho thiếu nhi, nhưng các nhà

văn giai đoạn đầu, tập trung đến khía cạnh giáo dục của văn học với trẻ thơ, bởi những

yêu cầu thực tiễn. Sau 1975, bên cạnh tính giáo dục, văn học thiếu nhi đã chú ý nhiều

hơn tới tính thẩm mĩ. Nhưng phải tới những năm 90, trước những yêu cầu của thời mở

cửa, khi xã hội có những ghi nhận mạnh mẽ hơn trong cách nhìn trẻ em, khi nhà văn có

những thay đổi trong cách thể hiện hình tượng nhân vật, Văn học thiếu nhi mới chú ý

nhiều hơn tới yêu cầu thẩm mĩ riêng. Điều này đã tạo cơ hội cho sự ra đời những nhân

vật trẻ em, mà sự hồn nhiên, trong trẻo là đặc điểm chủ đạo của bức chân dung. Có thể

kể đến: Kao trong Khúc đồng dao lấm láp của Kao Sơn, Mùi trong Cho tôi xin một vé đi

tuổi thơ của Nguyễn Nhật Ánh, Tin trong Đảo mộng mơ – Nguyễn Nhật Ánh, Dũng

trong Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ của Nguyễn Ngọc Thuần,… Điểm nổi bật của

những nhân vật hồn nhiên, trong sáng là tính thơ ngây bản thể của trẻ con, khi trẻ con

được là chính mình.

116

Bất cứ đứa trẻ nào cũng không dưới một lần mơ ước sẽ được sở hữu một không

gian không bóng dáng người lớn, một tủ đồ chơi độc đáo hay những chuyến du ngoạn

mà chúng được thỏa sức làm những gì mình muốn.Tất cả những điều đó, độc giả có

thể tìm thấy ở những nhân vật hồn nhiên nhi nhiên trong truyện thiếu nhi Việt Nam.

Tin (Đảo mộng mơ) có hẳn một hòn đảo với danh xưng “chúa đảo” rất oách. Trên hòn

đảo (đống cát) đó, Tin, Thắm, Bảy tha hồ tự do làm chúa đảo, phó chúa đảo, phu nhân

chúa đảo. Chúng cũng tự do được mặc sức vui chơi cùng “sư tử” Pig, “beo” Mi Mi,

cây dừa (tưởng tượng). Thằng cu Mùi, Hải cò, Tí sún (Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ)

đi tìm kho báu trong vườn nhà với một lí do hết sức đơn giản: “Nếu không hì hục xới

tung khu vườn lên để tìm kho báu thì cuộc sống của chúng tôi không biết sẽ buồn tẻ

đến chừng nào” [284;144]. Cao (Khúc đồng dao lấm láp) thì mê tít cái “tàu của chúng

mình” ở bờ sông của ông lão Tác.

Trong vòng kiềm tỏa của những quy định mà người lớn đặt ra, trẻ em luôn

muốn có cho mình những không gian riêng để được là mình, dù chỉ trong khoảnh

khắc. Đó là ước mơ của hầu hết trẻ em trên thế giới này. Bởi thế, để thỏa mãn cái nhu

cầu được “ở riêng” của lũ trẻ, nhà văn Astrid Lingren đã tạo dựng một tòa biệt thự

“Bát nháo” để cô bé Pippi cùng các bạn có thể làm bất cứ thứ gì chúng muốn. Ở điểm

này, Nguyễn Nhật Ánh và nhà văn Thụy Điển Astrid Lingren đã cùng gặp gỡ nhau.

Tuy nhiên, nếu như Pippi, ngay từ đầu đã được sở hữu biệt thự “Bát nháo” như một tất

yếu thì Tin phải trải qua một cuộc hành trình thuyết phục người lớn tin rằng có một

hòn đảo thực sự là đống cát mà bố cậu bé mới đổ trong vườn để chuẩn bị xây nhà bởi

trí tưởng tượng và niềm tin của mình về cái vương quốc tí hon ấy. Ra khỏi biệt thự,

Pippi vẫn là chủ nhân của tòa nhà, vẫn là cô bé tự do, không đến trường và có vô khối

tiền vàng để mua những thứ mình thích. Nhưng ra khỏi đảo Rôbinson, Tin – chúa đảo

lại phải trả lại tấm áo choàng của vị vua đảo để làm một thằng Tin bình thường của đời

thực, một thằng Tin – học trò như biết bao cô cậu học trò khác: “Khi rời khỏi đảo để đi

đến một nơi có tên là trường học cách đó một cây số lại là một câu chuyện khác. Ở

chốn đó, những bậc vĩ nhân đáng kính của chúng ta tạm thời thôi làm vĩ nhân để làm

những cô bé cậu bé học trò” [289;119]. Không gian tự do ấy vẫn chỉ là không gian

“mộng mơ” của trẻ nhỏ. Bước ra khỏi không gian ấy cũng chính là bước ra khỏi thế

giới tuổi thơ kì diệu.

117

Làm hàng đống bài tập và ngày nào cũng phải đến trường là điều vô cùng nặng

nhọc, vì vậy trẻ con thường mơ ước giá mà không phải đi học hay không phải làm bài

tập thì tốt biết bao. Cao, Mùi, Tin đã nói giúp lũ học sinh cái điều mà đứa nào cũng

mong ước nhưng chẳng mấy đứa dám nói ra. “Tôi chỉ thích trốn học, thích lông nhông

thích Đả nhau, và… chán môn học tính, cái môn dành cho những người giỏi giang và

hẳn là RẤT RA GÌ” [393;93]; “Trong những năm tháng mà người ta gọi một cách văn

hoa là mài đũng quần trên ghế nhà trường (tôi thì nói thẳng là bị giam cầm trong lớp

học), tôi chẳng thích được giờ nào cả, từ giờ toán, giờ tập viết đến giờ tập đọc, giờ

chính tả. Tôi chỉ thích mỗi giờ ra chơi” [284;18]. Nếu nhìn theo quan điểm giáo dục,

thì cái sở thích của thằng Cao, thằng Mùi là không chính đáng, đó hẳn là vì chúng là

những học sinh hư. Nhưng nếu nhìn từ cách suy nghĩ đơn giản của trẻ con thì sở thích

đó hoàn toàn có thể chấp nhận đc và nó cũng không có nghĩa là trường học không có ý

nghĩa đối với con người. Chúng chỉ cảm thấy sợ đến trường khi phải đối diện với nỗi

thất vọng của cha mẹ, thầy cô, bạn bè mỗi lần chúng bị điểm kém. Nỗi sợ hãi ấy hầu

như có mặt ở tất cả các cô cậu học trò khi cắp sách tới trường. Và để giải quyết “bi

kịch” này, nhiều nhà văn nước ngoài, khi viết truyện cho trẻ đã cho nhân vật học trò

của mình những trợ thủ đắc lực như chú mèo Doremon dành cho cậu bé yếu đuối

Nobita. Hay phác họa ra một trường học tuyệt vời với những thầy cô giáo tuyệt vời

như trường tiểu học Tomoe Gakuen và thầy hiệu trưởng Sosaku Kobayashi của cô bé

Tottochan; trường học trong mơ của cô bé Pippi nơi mà “ bài tập là không có rồi”,

cũng không có môn toán và “hễ đứa trẻ nào tỏ ra biết 7 cộng 5 bằng mấy và lại ngu

ngốc đi khoe điều ấy với cô giáo thì nó sẽ bị phạt đứng trong góc lớp cả ngày. Tập đọc

thì lũ trẻ chỉ có vào chiều thứ Sáu, nhưng với điều kiện phải có sách, mà sách thì

chúng chả bao giờ có” [291;51]. Lũ trẻ sẽ chỉ phải làm một việc là ăn kẹo ở trường vì

Đối với trẻ con, không gì thích bằng được vui chơi. Khác với học tập, vui chơi là

gần đó có nhà máy kẹo suốt ngày tuôn kẹo ra còn cô giáo thì “bóc kẹo cho lũ trẻ”. hoạt động không mang tính bắt buộc. Bởi thế, hơn bất cứ điều gì, chơi là lúc trẻ em

được là mình rõ nhất. Sự hồn nhiên, trong sáng của trẻ được cũng được thể hiện rõ nhất

trong lúc chơi. Cao (Khúc đồng dao lấm láp), Mùi (Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ), Tin

(Đảo mộng mơ), Dũng (Một thiên nằm mộng) đã được tham dự vào những trò chơi mà

mọi đứa trẻ đều mê tít. Những trò chơi khám phá, đánh trận giả,.. thực sự của trẻ em

chứ không phải bị rơi vào một cuộc phiêu lưu hay phải chơi với súng đạn thật:

118

“- Chơi đánh trận giả đi – Một đứa nào đó bỗng rủ. Chúng tôi tán thành liền và lập tức

đứng thành hai phe…Rất nhiều lệnh được ban ra. Có khi tôi chả biết nghe theo ai nên

cứ tự ý mình mà làm. Rơm sẵn tha hồ nấp, tha hồ chui lủi. Chúng tôi tìm cách bò đến

bên địch sao cho không bị phát hiện.

- Bùm, thằng Cao chết rồi

- Ê, thằng Cao đứng lên đi, tao trông thấy mày rồi! Không được ăn gian

Tôi đành đứng lên. Thằng Quyết từ phía sau chạy lên:

- Đếch phải nó chết, nó chỉ bị thương thôi.

- A. Anh Cao bị thương rồi! – Con Tâm reo.

Tôi được khiêng về “tuyến sau” cho cái Tâm băng bó. Nó lấy rơm làm băng buộc lên

“vết thương” của tôi. Nó có vẻ rất thích chức y tá” [393;48].

Chỉ có trẻ con mới có thể chơi một cách vô tư và chân thật đến thế. Chúng không

coi đó là sắm vai, chúng tin đó là sự thật. Cho nên, đứa “bị thương” thì phải rời trận chiến

để đứa làm y tá có việc để làm. Đứa nào cũng giữ đúng vai của mình, nghiêm chỉnh chấp

hành luật chơi. Trong thế giới giả tưởng ấy, mọi vật có thể không còn được nhìn hay quy

ước theo kiểu người lớn nữa. Tất cả đều được soi chiếu dưới cái nhìn tinh khôi, mới mẻ

của trẻ thơ. Bởi thế mà thằng Tin (Đảo mộng mơ) nằng nặc cho rằng cái đống cát trong

vườn là một hòn đảo và nó chính là vị chúa đảo của hòn đảo ấy. Thằng Mùi, Hải cò, Tí

sún thì muốn biến đổi thế giới theo cách của chúng: con chó là cái bàn ủi, cái miệng là

cánh tay, đi ngủ là đi chợ, chiếc cặp là cái giếng, thằng cu Mùi (trong tâm trí Hải cò) là

thầy hiệu trưởng,… khi khát nước, tôi không thèm rót nước vô ly nước. Tôi rót nước vô

chai xá xị” [284;98] hay thay vì ăn cơm trong chén cu Mùi bèn đổ hết cơm và thức ăn vào

thau dẫu rằng “trông tôi ăn cơm trong thau rất giống con heo nhà tôi ăn cơm trong máng,

Có thể thấy, số lượng những nhân vật hồn nhiên nhi nhiên trong truyện thiếu nhưng Hải cò vẫn tấm tắc : - Hay quá! Kiểu mới à? - ừ, kiểu mới! Thích lắm!” [284;100].

nhi Việt Nam không nhiều. Điều này nói lên một thực tế, các nhà văn dường như quá

tập trung vào khía cạnh giáo dục mà quên mất cần phải để nhân vật trẻ em là trẻ em

hơn nữa. Khi một tác phẩm được tạo ra từ quan niệm thẩm mĩ riêng về trẻ thơ, khi một

nhân vật sống được cuộc sống của trẻ thơ, tác phẩm đó, nhân vật đó sẽ được trẻ em

đón nhận. Hiện nay, Văn học thiếu nhi Việt Nam, chỉ duy nhất Nguyễn Nhật Ánh

chiếm được cảm tình của trẻ nhỏ. Về vai trò của Nguyễn Nhật Ánh trong Văn học

thiếu nhi, nhà văn Nguyễn Quang Lập đã từng viết: “Trẻ con bây giờ đứa nào không

119

biết Nguyễn Nhật Ánh chắc chắn đó là đứa cực dốt văn. Xưa có Tô Hoài, Xuân Sách,

Trần Đăng Khoa giờ có Nguyễn Nhật Ánh, chỉ mỗi Nguyễn Nhật Ánh không còn ai.

Bảo Ninh có lần vỗ vai mình, buột miệng nói này, nói ra dại mồm chứ thằng Ánh mà

chết thì nước Nam này chẳng con ai viết sách cho bọn trẻ con nhỉ” [174;70]. Sức hút

của Nguyễn Nhật Ánh mạnh mẽ đến mức độc giả sẵn sàng xếp hàng gần cả cây số

dưới cái nóng oi ả của mùa hè để được gặp nhà văn mình yêu mến. Sự kiện Nguyễn

Nhật Ánh có mặt tại Hà Nội năm 2012, nhân dịp ra mắt tác phẩm mới Có hai con mèo

ngồi bên cửa sổ, chẳng khác gì sự xuất hiện của ngôi sao ca nhạc quốc tế. Ngoài dư

luận trong nước, báo chí, các nhà nghiên cứu, nhà giáo dục và bạn đọc quốc tế cũng

dành cho Nguyễn Nhật Ánh những lời ngợi ca có cánh. Vậy điều gì ở tác phẩm của

ông lại có thể có sức ảnh hưởng đến vậy? Tất cả những gì nhà văn kể chỉ là những câu

chuyện bình dị của các cô bé, cậu bé, xung quanh cuộc sống của chúng. Nhưng điều

hấp dẫn nằm ở chỗ, mỗi đứa trẻ khi đọc những trang văn, cảm nhận về những nhân vật

trong truyện, đều thấy có bóng dáng của mình ở đó. Ngay cả người lớn, đọc truyện

Nguyễn Nhật Ánh, cũng có thể tìm thấy mình trong đó. Nhà văn đã nói được tiếng nói

của trẻ thơ, đã hóa thân, nhập thân vào cuộc sống của trẻ thơ để khắc tạc nên những

nhân vật của mình. Vì thế, độc giả không cảm thấy bị giáo huấn mà như bị cuốn vào

cái thế giới hồn nhiên, trong trẻo của tuổi thơ, cho dù, có thể, ở mỗi tác phẩm, mỗi

hình tượng nhân vật, Nguyễn Nhật Ánh muốn kí gửi một thông điệp giáo dục nào đó.

Nét hồn nhiên, tinh nghịch ở những nhân vật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh có

sự tiếp nối từ văn mạch truyền thống qua các sáng tác của Duyên Anh. Như đã nhắc

đến ở chương 2 của luận án, vào những năm 60, tại miền Nam Việt Nam, Duyên Anh

đã mang đến cho văn học miền Nam bấy giờ một dáng vẻ mới với hình ảnh những cô

bé cậu bé hồn nhiên, trong sáng qua các nhân vật Chương Còm, Huệ tai voi, Ngân

quăn, Dũng Đakao, thằng Khoa, thằng Vũ, thằng Côn, con Thúy,…

Ở giai đoạn trước, khi viết về nét hồn nhiên, vô tư của trẻ thơ, để tăng phần thi

vị, Duyên Anh thường bổ sung vào mối quan hệ của nhân vật những mối tình “bọ xít”

rất đáng yêu. Thằng Vũ có con Thúy, thằng Khoa có nhỏ Liên, thằng Hải thì có con

Hà,… Nguyễn Nhật Ánh cũng hay cột các nhân vật của mình vào mối quan hệ với một

cô bạn, cậu bạn nào đó. Mùi – Tí sún (Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ), Tin – Thắm

(Đảo mộng mơ), Kha – Hồng Hoa (Thiên thần nhỏ của tôi), “Tôi” – Tí Hoa (Bướm

120

vàng bướm đỏ),…Có thể kiểm chứng điều này, qua môtip cãi cọ của những cặp đôi

trong tác phẩm của Duyên Anh và Nhật Ánh:

Ở Tuổi mười ba của Duyên Anh:

“Hải dùng dằng mãi mới gọi:

- Hà ơi!

- ….

- Thằng Huy nó cướp mất cái hộp bánh bích quy của Hải rồi

Có tiếng cười khúc khích. Đúng là tiếng cười của Hà. Hải bỗng nao nao:

- Hà cười gì đấy?

- ….

- Tại Hà mà Hải bị nó cướp

Hà đã mon men ra giậu râm bụt. Hai đứa không nhìn rõ mặt nhau.

- Đáng đời nhé!

- Hà thích, hở?

- Ừa. Ai bảo nói “người ta” cười với chó!

- Nói bao giờ?

- Hôm qua thôi

- Đâu?

- Bảo “lên mười cười với chó” còn chối à?

- “Người ta” nói “lên mười cười với… tớ” đấy chứ

- Với tớ là với chó

- Tớ là chó à?

- Ừa

- Tớ là Hải mà

- Hải là là…tớ là…là chó!

Hải bị gọi là chó ức lắm. Nó rứt một lúc năm cái hoa râm bụt, ném qua hàng giậu:

- Đừng chơi với chó nữa nhé!

Hà nhấm nhẳng:

- Ai chơi với chó

Hải mím môi:

- Nhớ nhé!

Rồi nó thọc tay vào túi quân, chạy về nhà” [263;47-48].

121

Ở Bướm vàng bướm đỏ - Nguyễn Nhật Ánh:

- Sáng nay mày hẹn đi chơi với tao sao giờ này mày còn ngồi đây? Tôi hỏi

giọng giận dữ.

Rồi chợt nhận thấy Tí Hoa vẫn mặc chiếc áo thường ngày, tôi tròn xoe mắt:

- Chiếc áo mới của mày đâu rồi?

Con Tí Hoa chưa kịp trả lời tôi thì thằng Tí Sún đã trả lời thay. Nó từ ngoài sân

đi vào, tay cầm dây pháo chuột, trên người khoác chiếc áo vàng hoa cải, chiếc áo lẽ ra

được may cho chị nó.

Tôi chớp mắt, hơi sững người một chút, rồi không nói không rằng, tôi quay

lưng chạy thẳng về nhà, sau lưng còn nghe tiếng con Tí Hoa thảng thốt vọng theo

“Anh đừng giận em! Anh đừng giận…”

Không, tôi đâu có giận gì Tí Hoa. Tôi chỉ chạy về nhà để “đi tiểu” thôi. Lát sau

tôi lại chạy qua, lần này chiếc áo đỏ chấm trắng trên người đã biến mất.

Tí Hoa phát hiện ra điều đó ngay. Tôi vừa ló đầu vào, nó đã sửng sốt kêu lên:

- Chiếc áo mới của anh đâu rồi?

Nó hỏi tôi giống hệt cái câu tôi mới vừa hỏi nó, ngộ nghê! Tôi cười hì hì:

- Mày không làm bướm thì tao cũng cóc thèm làm bướm nữa!” [280;84].

Nguyễn Nhật Ánh đã kế thừa được lối hành văn hóm hỉnh, tươi vui, hồn nhiên

của Duyên Anh trong khi phác họa chân dung nhân vật. Cả hai nhà văn đều chứng tỏ

khả năng nắm bắt tâm lí trẻ em và tài năng tái hiện nó trong tác phẩm. Có thể thấy, từ

Duyên Anh đến Nhật Ánh, nhân vật trẻ em hồn nhiên nhi nhiên vừa có sự kế thừa, tiếp

nhận vừa có những thay đổi để gần gũi hơn với cuộc sống trẻ thơ thời hiện đại.

Trở về với cái hồn nhiên trẻ thơ trở thành một khát vọng trong sâu thẳm của

con người. Những nhân vật trẻ thơ trong các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị

Hoài (mặc dù họ không sáng tác cho trẻ em) được khắc họa như một sự cứu rỗi thế giới.

Ở truyện Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài trẻ em là nơi lưu giữ cuối cùng cái Thiện,

cái Đẹp. Thu (Tâm hồn mẹ), Hon (Thiên sứ), là những nhân vật như thế. Sự trong sáng,

thánh thiện trong tâm hồn những đứa trẻ như Thu, Hon là thứ ánh sáng diệu kì chiếu

rọi lên thế giới tăm tối và ngổn ngang dối trá, tàn ác, bất công của người lớn. Khi con

người rơi vào tận cùng nỗi đau, sự tuyệt vọng, thì sự hồn nhiên, thánh thiện nguyên sơ

của trẻ nhỏ chính là sự cứu rỗi cuối cùng. Nếu văn học thiếu nhi, xây dựng những hình

tượng trẻ em hồn nhiên nhi nhiên như một cách khẳng định những thuộc tính bản thể

122

thuộc về trẻ em, thuộc về Văn học thiếu nhi thì văn học người lớn, tạo ra những mẫu

hình trẻ em với nét đẹp thánh thiện, mộc mạc nguyên bản như một nơi nương náu cho

mọi lỗi lầm của nhân loại, như nơi lưu giữ cuối cùng của cái Đẹp, cái Thiện.

Tóm lại, đi sâu khai thác nét hồn nhiên nhi nhiên ở nhân vật trẻ em, truyện thiếu

nhi sau 1975 đã cho thấy những nét mới trong quan niệm của nhà văn về trẻ thơ và về

văn học thiếu nhi. Hình tượng nhân vật trẻ em ngây thơ, trong sáng cũng đã góp phần

đưa những sáng tác thiếu nhi đến gần hơn với độc giả nhỏ tuổi. Nó cũng cho thấy xu

hướng tất yếu trong Văn học thiếu nhi, đó là bên cạnh giá trị giáo dục cần tiệm cận giá

trị nhân bản dành riêng cho kiểu sáng tác đặc thù này.

3.2.4. Nhân vật trẻ em với những xúc cảm đầu đời

Sự phát triển tâm sinh lí của trẻ em trong giai đoạn dậy thì (từ 9,10 tuổi đến

khoảng 15,16 tuổi) khá tinh vi và phức tạp. Đây là khoảng thời gian đặc biệt trong cuộc

đời của mỗi người, là quãng đời hàm chứa nhiều biến chuyển. Ở giai đoạn này, đứa trẻ bắt

đầu có những quan tâm tới bạn khác giới. Những rung động đầu đời sẽ khiến các em bối

rối và ranh giới giữa tình bạn và tình yêu ở tuổi học trò cũng thật mong manh. Tuy nhiên,

trong giai đoạn 1945-1975, hầu như vắng bóng những nhân vật trẻ em với những xúc cảm

của tuổi mới lớn, ngoại trừ một số nhân vật trong các sáng tác ở miền Nam Việt Nam. Ở

chặng cuối của giai đoạn văn học này, cũng có một số tín hiệu vui qua hình ảnh của Hoan

và Thư trong Đội thiếu niên du kích Đình Bảng – Xuân Sách, Bùi và Phương trong Khi

mùa xuân đến – Lê Phương Liên. Tuy nhiên, phương diện tình cảm mới lớn cũng chỉ

được phác họa thoáng qua hoặc được chuyển thành kiểu tình cảm đồng chí hướng.

Sau 1975, Văn học thiếu nhi chứng kiến sự nở rộ của những sáng tác cho lứa

tuổi “hoa học trò”. Ở chặng đầu là những tác phẩm như tập truyện ngắn Bây giờ bạn ở

đâu, Cỏ may ngày xưa của Trần Thiên Hương, Quà của tuổi của Lê Thị Thu Thủy,

Pêlê trắng của Hoàng Dạ Thi, Tóc ngắn của Nguyễn Thị Châu Giang, Còn chút gì để

nhớ, Mắt biếc, Phòng trọ ba người, Cô gái đến từ hôm qua, Hạ đỏ, Bàn có năm chỗ

ngồi, Nữ sinh, Hoa hồng xứ khác,…của Nguyễn Nhật Ánh. Khoảng 10 năm trở lại đây,

xuất hiện những cây bút thế hệ 8x, 9x mới như Phong Linh, Du Quỳnh Thy, Lê Vũ Tú

Uyên, Nguyễn Ngọc Như Ý, Đỗ Tú Cường, Lâm Moon,…Thậm chí có gương mặt còn

rất trẻ như Minh Nhật học sinh lớp 12 chuyên lý Trường Hà Nội – Amsterdam, bắt đầu

viết truyện ngắn từ năm học lớp 10, với hai tác phẩm đã xuất bản Bỗng một ngày đẹp

trời và Sự lựa chọn của bầu trời.

123

Ở giai đoạn đầu, nhân vật trẻ em với những xúc cảm mới lớn được thể hiện một

cách nhẹ nhàng qua những tâm tư thầm kín, những bâng khuâng rất đỗi mơ hồ về tình

bạn, tình yêu. Đó là một cô bé thầm yêu một chàng trai khi đêm đêm một mình thức

bên cửa sổ, bỗng phát hiện căn phòng đối diện cũng có một anh con trai đang thức như

mình. Cô gọi anh là “người cùng thức” và cô đã dệt nên biết bao mơ mộng từ xúc cảm

về người con trai đó: “Ngay từ giây phút đầu tiên nhìn mái đầu ngay ngắn cùng gương

mặt trông nghiêng gãy gọn của anh hiện lên bên ô cửa sáng đèn, tôi đã thấy anh gần

gũi với mình… Tôi thích một dịp làm quen tình cờ, một tình yêu sét đánh khi anh

bỗng phát hiện ra tôi chính là cô bé đêm đêm vẫn thức cùng anh” [112;43]. Cô bé cứ

âm thầm yêu mến chàng trai như thế trong khi anh không mảy may hay biết. Cho đến

khi, cô sững sờ nhận ra thế giới không ở trong tay mình, khi biết anh cưới vợ. Cô lặng

lẽ trong nỗi buồn bị đứt lìa, bị chia cắt với giấc mơ tuổi mới lớn nhưng không quá

tuyệt vọng… cô bé đã trưởng thành hơn. Hình ảnh cô gái mười bảy tuổi, tóc ngắn,

nghịch ngợm nhưng lại dễ buồn, hay tủi thân trong Tóc ngắn của Nguyễn Thị Châu

Giang cũng mang đến cho độc giả những bâng khuâng, xao xuyến về những tình cảm

đầu đời đầy vi diệu. Trần Thiên Hương, Nguyễn Thị Châu Giang, Hoàng Dạ Thi đều

lựa chọn sự mong manh, mơ hồ trong ranh giới giữa tình bạn và tình yêu để tái hiện

những xúc cảm trong tâm hồn nhân vật. Có thể, họ đều là các nhà văn nữ nên nhân vật

chính đều là các cô gái và đều có nét kín đáo, ý nhị, pha lẫn chút “kiêu kì” nhưng cũng

không kém phần si mê.

Nếu các tác giả nữ thể hiện sự ngơ ngác, tâm tư thầm kín của những cô nữ sinh

tuổi trăng tròn, thì tác giả nam Nguyễn Nhật Ánh lại cho thấy cái khờ khạo, ngốc

nghếch mà đầy si mê ở các chàng trai mới lớn trong hàng loạt những truyện như: Mắt

biếc, Còn chút gì để nhớ, Phòng trọ ba người, Hoa hồng xứ khác, cô gái đến từ hôm

qua, Hạ đỏ, Nữ sinh,… Nhân vật nam chính trong các truyện tuổi ô mai của Nguyễn

Nhật Ánh cũng có cái lãng mạn, mơ màng của những cậu học sinh trong truyện của

Duyên Anh trước 1975. Những cậu trai mới lớn trong truyện Duyên Anh đã từng đứng

ngẩn ngơ trước cổng trường nữ sinh chờ đợi hình bóng một tà “áo tiểu thư” để dệt bao

mộng tưởng: “Nhân đứng núp dưới gốc kia. Nó đang mơ mộng. Mơ mộng rướn chân

cao, ngước mắt, ngơ ngẩn trông với một tà áo, một mẩu áo. Và, chỉ cần một nụ cười

tặng nó, dù là nụ cười làm duyên qua đường, Nhân cũng có thể ăn thêm được ba bát

cơm, học thuộc lòng bài vạn vật dài lê thê và thức khuya hơn một chút, tập làm thơ ký

124

tên Vạn Lịch. Quỳnh đứng núp dưới gốc cây kia. Nó đang mơ mộng. Mơ mộng tìm

thấy một tà áo vừa ý nó để thẩy bức thư tình… “tiền chế”! Nó mơ mộng cô nữ sinh

Trưng Vương sẽ đón nhận thư tình một cách hồn nhiên, giản dị như cô con gái bà hàng

quýt. Còn Thủy, Thủy chỉ mơ mộng, buổi chiều nào đó trong suốt những buổi chiều

của đời nó, em Hòa không quay lại, nhìn nó, bĩu môi và nhổ bọt xua đuổi. Quỳnh,

Nhân, Thủy đều mơ mộng có một người yêu như tôi… Những cậu trai bằng tuổi tôi

đứng đông đầy dưới những gốc cây. Họ đang mơ mộng. Đang chờ đón những giọt kỷ

niệm nhỏ xuống quãng đời tươi sáng” [264;206-207]. Đến thế hệ sau, những cậu

chàng trong truyện Nguyễn Nhật Ánh cũng vẫn ngờ nghệch, dại khờ và mơ mộng như

thế, trước cổng trường Nữ giờ tan học: “Hồi đó, không chỉ mình tôi đứng nghệt mặt

trước cổng trường con gái vào mỗi buổi chiều. Có cả khối đứa lởn vởn như tôi, mặt

đứa nào đứa nấy lấm lét như kẻ trộm. Trường Nữ giờ tan học là một kỳ quan đối với

bọn con trai chúng tôi. Mãi về sau này, tôi vẫn không thể nào quên hình ảnh thơ mộng

của những tà áo trắng lững lờ trôi ra khỏi cổng trường như một dòng sông nghi ngút

sương mù. Dòng sông ảo ảnh đó đã có một thời cuốn theo nó bao nhiêu mắt nhìn ngây

ngất, những mối tình vẫn vơ và thầm lặng, đã sản sinh ra bao nhiêu thi sĩ và những kẻ

viết tình ca nổi tiếng và vô danh của cuộc đời” [112;44].

Tiếp nối vẻ ưu tư, mơ mộng trong các nhân vật trong truyện của Duyên Anh, Từ

Kế Tường, Đinh Tiến Luyện, những cậu học trò mới lớn trong truyện của Nguyễn Nhật

Ánh cũng thường xuất hiện với nét suy tư, sầu mộng về chính tuổi hoa niên, về quãng

đời mà ai cũng tiếc nhớ. Ở Chương trong Hạ đỏ - Nguyễn Nhật Ánh là cảm giác: “Khi

lần đầu đón nhận nỗi buồn, tôi hiểu rằng tuổi thơ của mình đã hết. Nó đã bay xa. Đóa

phượng cuối cùng của mùa hè năm nay chưa kịp rã cánh, tôi đã vội chia tay với ngày

tháng vô tư. Tôi sẽ trở về thành phố với nỗi lòng sầu mộng” [278;204]. Trước đó, trong

Phượng vĩ – Duyên Anh, cũng cậu học trò tên Chương, đã từng vương mộng với mùa

hè quê ngoại: “Tôi thấy quanh tôi vướng mắc một mỗi buồn man mác. Phải chăng khi

cậu trai biết buồn là cái nụ hoa đầu trong tim cậu muốn nở? Hay cánh bướm thoát khỏi

hồn cậu đòi đậu trên một cánh hoa?” [267;19]. Và Đông (Đường phượng bay – Từ Kế

Tường) cũng từng nhận ra: “Chúng tôi đã thấy đời sống mở một cánh cửa lớn, không

còn nhỏ hẹp và mơ hồ như ngày xưa nữa. Chúng tôi đã lớn và không vui như hồi còn

nhỏ. Những đứa học trò năm đệ nhị là những đứa học trò nhìn xuống cuộc đời với đôi

mắt buồn rồi sao” [425]. Nét sầu mộng ở các chàng trai mới lớn ấy, dường như, được

125

gửi đến từ trước đó, ở cái thời mà Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Đinh Hùng,… đã nói hộ

nỗi lòng của những cô cậu học trò “khi mới lớn”:

“Khi mới lớn, tuổi mười lăm, mười bảy

Làm học trò, mắt sáng với môi tươi

Ta bước lên, chân vẫn dạo bên người

Ngoài cặp sách, trần ai xem cũng nhẹ

Đồi thấp thoáng qua học đường nhỏ bé

Phố phường vui, cuộc sống mới lên hoa.

Ta ngồi nghe những tiếng thị thành xa,

Hồn lơ đãng mộng ra ngoài cửa lớp.”

(Khi mới lớn – Đinh Hùng)

Gần chục năm trở lại đây, số lượng những sáng tác cho tuổi học trò ngày một

nhiều hơn, đặc biệt, sau sự xuất hiện của “Tủ sách tuổi mới lớn” (2002) do nhà xuất bản

Kim Đồng ấn hành, ban đầu là 2 tuần 1 tập, sau đó là 1 tuần 1 tập và từ sau năm 2004 là

1 tuần 2 tập, sáng tác viết về tuổi mới ngày càng phong phú. Tuy nhiên, nhân vật mới

lớn trong các tác phẩm này, về cơ bản, không có nhiều nét khác biệt trong dáng vẻ, cảm

xúc,.. so với các nhân vật đã từng tồn tại trước đó. Có chăng, ở thời điểm mà sự phát

triển tâm sinh lí ở trẻ em nhanh hơn, những tiện ích của thời đại số ngày càng nhiều,...

nhân vật tuổi mới lớn, vì thế, cũng mạnh dạn hơn trong tình cảm. Ở các tác phẩm văn

học teen, người đọc ít thấy các nhân vật nam “được” ở trong tình trạng “trồng cây si”

trước cổng trường nữ sinh, thay vào đó họ được đưa vào các cuộc hẹn ở nhiều không

gian khác nhau: như bến xe bus, vườn chung cư, biệt thự ngoại ô, … thậm chí, những

khoảng cách không gian sẽ được rút ngắn chỉ bằng một giờ bay. Người đọc cũng nhận

ra sự bình đẳng trong tình yêu giữa bạn trai – bạn gái ở thời hiện đại. Như đã nhận xét, ở

giai đoạn trước, Duyên Anh, Từ Kế Tường, Đinh Luyện chủ yếu đặt các nam sinh là

nhân vật chính, hình ảnh các cô nữ sinh trong tác phẩm của họ đều có chung một dáng

vẻ e ấp, rụt rè, kín đáo. Trong văn học teen, các cô gái đã trở nên mạnh mẽ hơn, dám

bày tỏ tình cảm của mình trực tiếp hơn: “Anh ấy có một nét gì đó thật đặc biệt khiến

mình không thể cưỡng lại việc muốn đi theo. Nhưng mình không thể ngờ sức hút đó lớn

đến nỗi mình dám giả vờ nhầm để nắm tay anh ấy đi lên tận cầu Sông Hàn” [368;62].

Việc xuất hiện của nhân vật trẻ em với những xúc cảm mới lớn đã cho thấy sự

quan tâm trở lại cũng như sự tôn trọng của nhà văn đến các mối quan hệ và những

126

rung cảm thời hoa mộng. Các tác giả đã mở ra cánh cửa tâm hồn với bao bâng khuâng,

rụt rè, rạo rực,… của tuổi trẻ. Ở đó, người cầm bút có thể soi chiếu lại chính quãng

thời gian đã mất trong cuộc đời và độc giả có thể nhìn ngắm mình trong hình ảnh

những cô cậu học trò hồn nhiên, mơ mộng.

3.2.5. Nhân vật trẻ em anh hùng lãng mạn

Theo M.Nikolajeva, anh hùng lãng mạn (the Romantic Hero) là một trong

những kiểu nhân vật phổ biến nhất trong văn học thiếu nhi. Kiểu nhân vật này được

mô tả là con người siêu việt hơn những người bình thường nhưng vẫn yếu kém hơn so

với thần thánh. Nó xuất hiện đầu tiên trong các truyện cổ tích, trong đó những đứa trẻ

được trao cho sức mạnh bằng cách vượt qua không gian và thời gian nhờ sự giúp sức

của những lực lượng có phép thuật. Điều này cũng cho thấy, trong cổ tích, lực lượng

trợ giúp thường có sức mạnh hơn các anh hùng, không có họ, nhân vật anh hùng

không thể đạt được mục tiêu.

Anh hùng lãng mạn trong văn học thiếu nhi cũng giống như anh hùng trong

truyện cổ tích, đều có một bộ tính cách tiêu chuẩn như: có sức mạnh, lòng dũng cảm,

sự cống hiến,… Tiền đề cho sự ra đời của nhân vật anh hùng thiếu nhi lãng mạn là sự

lý tưởng hóa thời thơ ấu trong suốt kỉ nguyên lãng mạn. Người ta tin rằng, sự ngây thơ

của trẻ em có khả năng chinh phục quỷ dữ. Vì thế, chỉ có trẻ em mới có đủ sức mạnh

và được giao nhiệm vụ chống lại những thế lực hắc ám. Ở một góc độ nào đó, nhân vật

anh hùng thiếu nhi lãng mạn khá giống với nhân vật người anh hùng huyền thoại của

sử thi trên một số điểm như: cùng có những phẩm chất anh hùng, có sức mạnh siêu

phàm, có hành trình chinh phục thử thách. Tuy nhiên, điểm khác nhau quan trong nhất

giữa hai kiểu nhân vật này là ở chỗ: nhân vật anh hùng thiếu nhi lãng mạn có sự quay

trở lại không gian ban đầu và bị tước bỏ quyền lực của người anh hùng. Thậm chí, có

những trường hợp nhân vật dịch chuyển ra khỏi yếu tố huyền thoại, trở về với những

khía cạnh đời thường. Điều này phản ánh một thực tế về mối tương quan giữa sức

mạnh của trẻ em và người lớn trong xã hội. Khi nhân vật trở về với thế giới thực,

không được phù trợ, cũng là khi quyền lực của người lớn được tái thiết.

Trên thế giới có hàng loạt những nhân vật kiểu anh hùng thiếu nhi lãng mạn. Có

thể kể đến như Harry Potter, Percy Jackson (Percy Jackson và các vị thần Olympia –

Rick Ridordan), Jason (Các anh hùng của đỉnh Olympus - Rick Ridordan), anh em nhà

Pevensie (Biên niên sử Narnia - C.S.Lewis), Josh (Hồ sơ Joshua – M.G.Harris),…

127

Trong số đó, ảnh hưởng lớn nhất tới độc giả Việt Nam, là nhân vật Harry Potter. Cậu

nhóc Harry Potter được chào đón ở nước ta là vì nhân vật đã đưa những cô bé, cậu bé

vốn giàu tưởng tượng, ham thích phiêu lưu với thế giới chứa đầy phép thuật và bí ẩn.

Ở đó, Harry Potter trở thành nhân vật chính, là anh hùng với những phẩm chất siêu

phàm. Bên cạnh đó, Harry Potter vẫn là cậu học trò bình thường đeo kính và vụng về.

Một cậu nhóc bỗng nhiên nhận được phép thuật. Một cậu bé khá bướng bỉnh, tò mò và

cũng không thông minh trong học hành là mấy. Một cậu bé có đầy đủ những xúc cảm

thường thấy ở một trẻ nhỏ. Sức ảnh hưởng của Harry Potter là ở chỗ cậu vừa là anh

hùng vừa là một người thường.

Ở Việt Nam, kiểu nhân vật anh hùng lãng mạn cũng đã từng xuất hiện trong các

truyện kể dân gian như Thánh Gióng, Thạch Sanh,… Mặc dù ban đầu, những truyện

kể dân gian được tạo ra không dành cho trẻ nhưng chính sự tương hợp giữa tư duy dân

gian và tư duy trẻ thơ trong cách nhìn thế giới đã khiến trẻ em dễ dàng tiếp nhận

những tác phẩm văn học dân gian. Trước Cách mạng tháng Tám, xuất hiện những tác

phẩm giả cổ tích được sáng tác với mục đích dành cho trẻ em như Tham thì thâm –

Nguyễn Văn Nghiêm, Giấc mơ phò mã – Vị Hồ, Cái ấm đất – Khái Hưng, Thế giới tí

hon – Khái Hưng,… Tuy nhiên, cũng giống cổ tích, các nhân vật trẻ em trong những

truyện này vẫn yếu thế hơn lực lượng trợ thủ và phần lớn là người chứng kiến phép

thuật chứ chưa thực sự có phép thuật. Sau năm 1945, văn học Cách mạng có xuất hiện

kiểu nhân vật thiếu nhi anh hùng nhưng ở đây, trẻ em không được vượt thoát ra khỏi

không gian hiện thực, không được ban tặng phép thuật. Chúng trở thành anh hùng vì là

sản phẩm của thời đại anh hùng. Nhân vật thiếu nhi anh hùng trong giai đoạn này là

những phương tiện truyền tải tư tưởng, có ý nghĩa khích lệ, cổ vũ chiến đấu, nêu

Sau 1975, có hai xu hướng thể hiện nhân vật anh hùng lãng mạn: một là đưa nhân

gương sáng nhằm giáo dục trẻ em.

vật vào thế giới giả cổ tích trong các tác phẩm: Nhà Chử, Đảo hoang, Nỏ thần – Tô

Hoài, Chuyện hoa chuyện quả - Phạm Hổ. Tuy nhiên, những nhân vật trong các tác

phẩm này hoặc không phải trẻ em (truyện của Tô Hoài) hoặc là trẻ em nhưng đều không

có phép thuật. Đúng như Lã Bắc Lý nhận xét: “Nhân vật của cổ tích hiện đại hầu như

không có phép biến hóa siêu phàm, họ bền bỉ đấu tranh chống cái ác, cái xấu. Đó là cuộc

đấu tranh vô cùng gian nan của con người trong suốt quá trình sinh tồn và phát triển…

Cổ tích mới đến với trẻ thơ không chỉ khơi gợi sự cảm thông với số phận các nhân vật

128

mà còn gợi ở các em lối sống mạnh mẽ, giàu nghị lực, biết vươn lên trong cuộc sống”

[112;126]. Xu hướng thứ hai cho việc thể hiện nhân vật anh hùng thiếu nhi lãng mạn là

xây dựng những nhân vật trẻ em trong thế giới giả tưởng. Xu hướng này xuất hiện vào

những năm 2000 qua các tác phẩm: Chuyện xứ Langbiang (Nguyễn Nhật Ánh), Cuộc

chiến với hành tinh Fantom (Nguyễn Bình), San hô màu hạt lựu, Bầu trời vẩy tê tê, Trái

đất thần tiên (Lê Toán), Những chú chim phóng sinh (Nguyễn Văn Lân), Hành tinh kì

lạ, Giấc mơ bay (Viết Linh),… Trong đó, điển hình nhất phải kể đến nhân vật Nguyên

và Kăply trong Chuyện xứ Langbiang của Nguyễn Nhật Ánh và Frank William Wells

trong Cuộc chiến với hành tinh Fantom của Nguyễn Bình.

Nguyên “mười sáu tuổi, là đứa gan dạ nhất làng Ke”, Kăply “ít hơn một tuổi và

ít gan dạ hơn một chút” (Chuyện xứ Langbiang). Cả hai đều là những nhân vật gần

gũi, quen thuộc và mang những đặc tính của trẻ nhỏ. Chỉ có điều những đứa trẻ này đã

được đưa đến những vùng không – thời gian siêu nhiên, gắn với những câu chuyện

hoang đường, kì ảo: xứ Langbiang – thế giới phù thủy. Ở đó, chúng trở thành những

chiến binh giữ đền, có nhiệm vụ tiêu diệt phe Hắc Ám. Frank William Wells (Cuộc

chiến với hành tinh Fantom) khác với Nguyên và Kăply ngay ở cái tên rất “nhập

ngoại”, và bối cảnh “ngoại quốc”: Nước Mỹ tương lai. Frank William Wells và nhóm

trẻ Earth ở thành phố Philadelphia - Mỹ (tất cả đều sinh năm 2005), trong chuyến du

lịch đến Hy Lạp đã bất ngờ phát hiện ra bọn người thuộc hành tinh Bóng Ma (Fantom)

trên những phi thuyền bay UFO đang chuẩn bị tấn công Trái Đất. Cả bọn nhanh chóng

trở lại Mỹ và bắt đầu cuộc chiến đấu với những kẻ xa lạ từ hành tinh Bóng Ma để bảo

vệ cuộc sống loài người.

Nhân vật giả tưởng của Chuyện xứ Lang biang được gắn kết chủ yếu với những

địa điểm trên mặt đất còn nhân vật ở Cuộc chiến với hành tinh Fantom lại vươn tới

không gian vũ trụ, không gian kết nối với người ngoài hành tinh, chống lại bọn dị nhân

đến từ hành tinh Bóng Ma. Tuy nhiên, khi dõi theo những nhân vật này, ta đều thấy

các nhân vật dù sống trong thế giới phù thủy nhiều phép thuật hay môi trường vũ trụ,

chuyển động theo tốc độ vũ trụ, thì chúng vẫn có cuộc sống, suy nghĩ, hành động và

hiện hữu y như con người trong cuộc đời thực. Tất cả những địa điểm, bối cảnh, không

thời gian siêu nhiên chỉ còn là điểm tựa để Nguyễn Nhật Ánh hay Nguyễn Bình giăng

mắc vào đó thế giới nhân vật với tất cả những hoạt động đời thường của mình. Trí

tưởng tượng đã giúp tác giả phóng chiếu nhân vật vào thế giới của những miền không

129

– thời gian vừa thực vừa ảo, vừa xuất hiện những địa điểm thực vừa có thêm những

câu chuyện, sự kiện lịch sử xa vời.

Nguyễn Nhật Ánh và Nguyễn Bình không chỉ gặp nhau trong cách phác họa

nhân vật anh hùng thiếu nhi lãng mạn qua những câu chuyện giả tưởng kì thú, ở hai

người viết văn này còn là sự gặp gỡ của hai thế hệ: người lớn và trẻ thơ. Nguyễn Nhật

Ánh là một người lớn viết truyện viễn tưởng về trẻ em, Nguyễn Bình là một trẻ em

viết chuyện giả tưởng cho thế hệ mình. Sự gặp gỡ này đã cho thấy, trẻ em rất hứng thú

với thế giới giả tưởng và các nhân vật anh hùng thiếu nhi lãng mạn, vừa có sức mạnh

siêu việt vừa gần gũi, thân thiết, nó cũng cho thấy Nguyễn Nhật Ánh, một lần nữa lại

khẳng định được tài năng trong việc tiệm cận đến thế giới trẻ thơ mặc dù anh đã là một

người lớn lâu năm. Nhà văn đã nhận thấy sự vận dụng và khai thác trí tưởng tượng

trong sáng tác cũng là một phương pháp thích hợp để viết truyện cho trẻ em.

Trẻ em nhận thức thế giới bằng con mắt độc đáo, con mắt của tuổi thơ. Thông

thường người lớn không am hiểu trẻ em, bởi vì thế giới hiện ra với chúng dưới một

dạng vẻ khác. Điều mà người lớn tìm thấy ở mọi vật xung quanh là tính thực tiễn, hữu

ích của nó. Trẻ em chỉ hiểu rằng mọi vật tồn tại, vậy thì chúng sống và chúng được coi

như những vật thể sống động. Tính chất đặc biệt trong tư duy của trẻ em, cho phép

chúng nhìn hiện thực rất lạ, rất mới. Thế giới nhân vật trong Cuộc chiến với hành tinh

Fantom chính là sự phản chiếu cách nhìn hiện thực và lối tư duy trẻ thơ của cậu bé

mười tuổi Nguyễn Bình. Nó cho thấy đối với trẻ em, huyền thoại không phải chỉ là

cách thức sáng tạo hiện thực mà chính là hiện thực. Bởi các em luôn có một niềm tin

về những điều kì diệu trong cuộc sống. Nhãn quan đó, bất cứ ai đã từng là trẻ con đều

có, chỉ có điều, khi trở thành người lớn, họ không còn có thể có lại được nữa. Viết

Cuộc chiến với hành tinh Fantom cũng là cách mà cậu bé Nguyễn Bình khẳng định vị

thế của trẻ em trong xã hội. Trẻ em cũng có những sức mạnh lớn lao và chúng cũng có

thể thực thi những nhiệm vụ quan trọng mang tầm vũ trụ.

Nhân vật người anh hùng lãng mạn, mặc dù đã tồn tại trong những sáng tác dân

gian và đã chứng minh sức ảnh hưởng sâu rộng ở những trang văn nước ngoài, nhưng tại

Việt Nam, kiểu nhân vật này vẫn chưa được tập trung khai thác, ngoại trừ ở hai tác phẩm

điển hình: Chuyện xứ Langbiang và Cuộc chiến với hành tinh Fantom. Trong một số các

sáng tác gần đây như: San hô màu hạt lựu, Bầu trời vẩy tê tê (Lê Toán), Những chú chim

phóng sinh (Nguyễn Văn Lân), Hành tinh kì lạ, Giấc mơ bay (Viết Linh),… nhân vật

130

trẻ em cũng chưa thể hiện rõ màu sắc anh hùng lãng mạn, mặc dù nhật vật đều được

nhắc đến trong những câu chuyện giả tưởng. Ở Bầu trời vẩy tê tê và San hô màu hạt

lựu, hai nhân vật Tí và Tuấn mới chỉ được đặt trong một không gian giả tưởng (hệ mặt

trời và lòng đại dương) và khám phá những vẻ đẹp của nó chứ chưa thể hiện được sức

mạnh hay phẩm chất “anh hùng” của mình. Những sáng tác của Viết Linh hay Nguyễn

Văn Lân, cũng mới chỉ dừng lại ở việc đặt nhân vật trẻ em vào những khung cảnh

huyền ảo, kì vĩ khác nhau chứ chưa cho chúng sức mạnh hay những nhiệm vụ lớn lao.

Nhìn chung, Văn học thiếu nhi Việt Nam vẫn còn thiếu những tác phẩm giả tưởng

với hình ảnh người anh hùng thiếu nhi lãng mạn. Nói về vấn đề này, nhà văn Trần Nhuận

Minh bày tỏ, trong cuộc trao đổi giữa các tác giả của hội văn học nghệ thuật Quảng Ninh

với đoàn Dự án Hỗ trợ Văn học Thiếu nhi do Hội nhà văn Đan Mạch và Nhà xuất bản

Kim Đồng phối hợp triển khai rằng: những tác phẩm viết cho thiếu nhi theo phong cách

giả tưởng vẫn là một mảnh đất mới lạ với các nhà văn Việt Nam, do con người mấy

ngàn năm đánh vật với thiên nhiên, đói quá, đánh giặc dữ quá, thế nên tính hiện thực

cao, trong khi viết theo phong cách giả tưởng cần mơ mộng, tưởng tượng thì sẽ rất khó,

dù rất hay. Ông cũng thành thực chia sẻ: “Chúng tôi đều là các tác giả xuất thân từ giai

cấp công nhân, quen với phong cách hiện thực. Viết cho trẻ em không dễ, trong nhà văn

phải có một giọt phẩm hạnh đặc biệt nào đó để có thể viết cho con trẻ.”

Có thể nói, việc xây dựng hình tượng nhân vật anh hùng thiếu nhi lãng mạn đã

thể hiện nỗ lực của các nhà văn trong việc đưa văn học thiếu nhi đến gần với độc giả

nhỏ tuổi. Nó không chỉ cho thấy những thay đổi trong cách tiếp cận hiện thực của người

sáng tác mà còn khẳng định sự sự cố gắng của các nhà văn trong việc nắm bắt và thấu

hiểu những giá trị thẩm mĩ đặc thù của văn học thiếu nhi.

3.3. Những đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật trẻ em trong truyện thiếu

nhi sau 1975

3.3.1. Miêu tả nhân vật trẻ em trên nhiều bình diện, gắn bó, gần gũi với tuổi thơ

3.3.1.1. Sự đa dạng trong các bức chân dung nhân vật trẻ em

Như đã nói, khi miêu tả nhân vật trẻ em, truyện thiếu nhi Việt Nam giai đoạn

1945-1975 thường không coi việc phác họa chân dung là một thủ pháp tái hiện nhân vật.

Các nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi giai đoạn này đều có chung một mẫu hình

giống nhau. Một phần do quan niệm coi trẻ em là người lớn thu nhỏ, không có nhiều đặc

điểm riêng ngoại trừ những gì mà người ta đã gán cho nó. Phần nữa là do nhiệm vụ sáng

131

tác của văn học giai đoạn này chi phối đến cách thể hiện nhân vật. Trẻ em, cũng như

người lớn được đặt trong những mối quan hệ lớn lao với cách mạng, với tập thể, cho

nên, trẻ em thường được lồng ghép trong hình ảnh người lớn. Quá trình đổi mới đất

nước, đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 với việc đề cao ý thức cá tính đã tác động

mạnh mẽ tới hình tượng nhân vật thiếu nhi. Nhà văn viết cho các em đã có ý thức hơn

trong việc tái hiện những nét riêng của trẻ em, thuộc về trẻ em khi miêu tả nhân vật.

Chân dung nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi sau 1975, không còn bị nhòe

mờ trong bức tranh chung của tập thể. Mỗi nhân vật đều mang đến những diện mạo, cử

chỉ, y phục, tác phong,… riêng, không ai giống ai, mỗi người một vẻ. Đứa bướng bỉnh,

ngay thẳng, đứa rụt rè, nhút nhát, đứa hồn nhiên, tươi vui, đứa lại mơ mộng, lãng

mạn,… Bê (Hành trình ngày thơ ấu) ham học, thông minh, nông nổi, thẳng thắn. Hùng

“lé” (Chú bé có tài mở khóa) có dáng vẻ nghênh ngang của cậu trai lông bông: “đầu tóc

cắt vừa phải, mặc chiếc áo sơ mi có túi, có cầu vai, ngắn tay, đang cho hai ngón tay cái

chọc vào dưới thắt lưng, nghiêng đầu nhìn Nam miệng huýt sao khe khẽ” [394;7]. Bé Su

(Năm đêm với bé Su) “lém lỉnh, thông minh cũng là một thằng nhóc quậy phá nhất”.

Cao (Khúc đồng dao lấm láp) “ham chơi, mải nghịch, hay nói chuyện riêng và chọc các

bạn trong lớp” [393;91]. Hà Lan (Mắt biếc) có đôi mắt gợi liên tưởng đến “bầu trời và

dòng sông, đến những những giấc mơ dịu dàng của tình yêu”. Ngay cả trong cùng một

kiểu nhân vật, ta vẫn tìm thấy nét riêng ở mỗi đứa trẻ. Chẳng hạn như ở kiểu nhân vật

với những cảm xúc mới lớn, hình ảnh những cô bé, cậu bé tuổi trăng tròn cũng được tạo

dựng mỗi người một vẻ, mặc dù đều có chung những xao xuyến, bâng khuâng về tình

bạn, tình yêu. Cùng là con trai nhưng mỗi cậu lại mỗi vẻ: Bình (Bây giờ bạn ở đâu)

“mảnh khảnh, trắng trẻo, như con gái… học khá, ít mồm ít miệng, thỉnh thoảng nó còn

là mục tiêu chế giễu của bọn con trai lớp tôi bởi hai từ “xin lỗi” và “cảm ơn” vô cùng lạ

lẫm đối với lối nói xô bồ của bọn chúng” [401;144]. Nhiệm (Phòng trọ ba người) lại có

vẻ láu cá của một cậu trai ưa tán róc với mái tóc dựng đứng đặc trưng: “anh đánh vật với

mái tóc khốn khổn của mình một hồi mới bắt được những sợi tóc chỉ thiên bướng bỉnh

kia tạm thời nằm ép xuống với một vẻ khép nép giả tạo. Bao giờ cũng vậy, cái rừng tóc

rễ tre kia chỉ giả vờ vâng lời Nhiệm, chúng nằm đợi chừng nào thứ dầu gội H2O của

Nhiệm bốc hơi hết lại nhất loạt xù lên như rừng chông biên giới” [279;6]. Khoa (Hoa

hồng xứ khác) “lạnh lùng”, “mặt sắt” chẳng bao giờ “thèm” trò chuyện với con gái,…

Các nhân vật nữ cũng không chỉ còn giữ một dáng vẻ kín đáo, e lệ, thùy mị, nhút nhát,

132

mà cá tính hơn, thậm chí, mạnh mẽ hơn. Ly (Tóc ngắn) “loắt choắt như con chim chích”

lại lúc nào cũng chỉ thích mặc quần jean và chẳng biết làm duyên làm dáng. Cô bé Văn

Châu trong Người bạn lạ lùng được Nguyễn Nhật Ánh miêu tả: “Văn Châu đá bóng hay

không thể tưởng. Những cú lên bóng của nó bao giờ cũng làm chao đảo khung thành của

đối phương… Tiểu Long thủ phía sau, nhìn cảnh Văn Châu làm mưa làm gió trước

khung thành của đối phương mà nở từng khúc ruột, miệng cứ cười toe toét. Bây giờ thì

có các vàng, nó cũng không dám đánh cuộc Văn Châu là… con gái” [272;6]. Pê Lê

trắng (Pê lê trắng) thì thi thoảng lại “ngữa chân sút bóng vào mọi xó xỉnh nào đó… Tệ

hại hơn, có lần nó sút một quả “sấm sét” vào thằng Long sưng vù cả mặt” [396;4],…

Nếu xét theo quan niệm giới: bé trai – bé gái, Văn học thiếu nhi thường đưa ra

những đặc điểm khuôn mẫu của nam và nữ có tính đối lập nhau theo một sơ đồ “tính

nam”, “tính nữ” như:

Nam giới/ Cậu bé Nữ giới/ Cô bé

Mạnh mẽ Xinh đẹp

Bạo lực Không bạo lực

Cứng rắn, thiếu nhạy cảm Dịu dàng, nhạy cảm

Hiếu chiến Dễ bảo

Có tính cạnh tranh Chia sẻ

Bảo vệ Dễ bị tổn thương

Độc lập Phụ thuộc

Chủ động Bị động

… …

Nhân vật trẻ em nam và nữ trong Văn học thiếu nhi Việt Nam trước 1975,

thường được mô tả theo khuôn mẫu như trên. Sau 1975, trong truyện thiếu nhi, xuất

hiện nhiều hơn những hình mẫu nhân vật nữ/ cô bé, có dáng vẻ, cử chỉ, điệu bộ, hành

động như nhân vật nam/ cậu bé. Ví dụ: Út Ly (Tóc ngắn), Pê Lê trắng (Pê Lê trắng),

Văn Châu (Người bạn lạ lùng),… như đã nhắc đến ở trên. Sự xuất hiện của những nhân

vật nữ trong hình mẫu một cậu con trai trong truyện thiếu nhi sau 1975, cho thấy, trong

mô tả chân dung nhân vật đã có những thay đổi. Nếu trước đây, những nhân vật trẻ em

nữ luôn được đóng khung vào khuôn hình với: bím tóc tết, mắt đen sáng, dáng người

nhỏ nhắn, nói năng nhẹ nhàng, kín đáo; thì nay, bên cạnh những nhân vật với hình mẫu

133

quen thuộc ấy, nhân vật đã mang diện mạo, tính cách mạnh mẽ hơn, cá tính hơn. Việc

làm mới bức chân dung quen thuộc cũng là một cách nhà văn tạo nên nhưng hình ảnh

mới cho nhân vật của mình. Tất nhiên, trong truyện thiếu nhi Việt Nam, lạ hóa hình ảnh

của nhân vật nữ vẫn chưa thực sự thành công và có nhiều cách tân. Ẩn sau những hình

hài mang dáng vẻ con trai ấy, vẫn là những cô bé đầy nữ tính, nhút nhát, bị động. Chân

dung na ná con trai của các cô gái cũng chỉ xuất hiện nhiều trong kiểu nhân vật với

những cảm xúc mới lớn và nhằm gia tăng sự thú vị, hấp dẫn cho cốt truyện. Về cơ bản,

cốt truyện của truyện thiếu nhi vẫn luôn theo mẫu của trần thuật nam quyền (hay trung

tính) trong đó, cấu trúc truyện thường chỉ phù hợp cho các nam nhân vật.

Trong việc khắc họa chân dung nhân vật trẻ em ở truyện thiếu nhi sau 1975, các

nhà văn đã thiết lập được mối quan hệ gần gũi hơn giữa người viết – nhân vật – bạn đọc.

Nhân vật trẻ em được miêu tả chân thực hơn, sinh động hơn và cũng giống trẻ em hơn.

Rõ nét nhất là kiểu nhân vật trẻ em hồn nhiên nhi nhiên. Xin dẫn ví dụ về đoạn mô tả

thằng Tin trong Đảo mộng mơ – Nguyễn Nhật Ánh: “Nó đang đọc truyện tranh, tay trái

cầm cuốn truyện, tay phải cầm chai xi – rô chanh. Chai ni looing, cắm ống hút ni long.

Lướt mắt qua vài khung tranh, Tin lại nâng chai xi – rô lên, ngậm lấy ống hút, hút một cái

“rột”, khoan khoái cả miệng lẫn tai” [289;6]. Bất kì đứa trẻ nào khi đọc những miêu tả này

đều thấy mình trong cái dáng nằm ung dung, trong cái cách thưởng thức xi-rô “cực chất”

của thằng Tin. Bằng những quan sát tỉ mỉ, với con mắt của một nhà văn thân thuộc với

trẻ em, Nguyễn Nhật Ánh đã tạo nên những bức chân dung sống động, chân thực, đích

thị của trẻ con. Ở Khúc đồng dao lấm láp, Kao Sơn cũng dựng lên hình ảnh cậu bé Cao

nghịch ngợm, hồn nhiên, láu lỉnh, ham ăn qua những miêu tả: “Tôi bị thêm điểm hai

nữa. Mẹ tôi cho thức ăn vào chạn và KHÓA LẠI! Cả một buổi chiều tôi loanh quanh

bên cái chạn bị khóa. Tôi chọc thử ngón tay qua nan gỗ. Ngón tay tôi ngắn quá. Tôi lấy

cái đũa. Tôi chọc được, nhưng không gắp được. Tôi mút đầu đũa. NGON VÔ CÙNG.

Nhưng mà chả ăn thua. Bụng tôi kêu ong óc. Mắt tôi hoa lên. Tôi nhìn quanh. A. Chết

với tôi rồi. Nồi cơm vẫn đang ủ trong gio nóng. Tôi lôi nó ra và chẳng cần bát đũa, tôi

xọc tay vào bốc” [393;110]. Có thể thấy, khi thể hiện nhân vật trẻ em hồn nhiên, các tác

giả thường tập trung miêu tả cử chỉ, điệu bộ, động tác của nhân vật nhằm thể hiện những

nét tinh nghịch của trẻ thơ đồng thời tạo nên nét tươi vui trong bức chân dung.

Qua việc khắc họa hình dáng, cử chỉ, điệu bộ, các nhân vật trẻ em trong truyện

thiếu nhi Việt Nam sau 1975 hiện lên sinh động, cá tính, không phải là những “hình

134

nộm” để dẫn truyện. Chúng đã tạo nên một thế giới đa sắc màu nhộn nhịp, sống động

và đầy mới mẻ.

3.3.1.2. Cá thể hóa tính cách từng nhân vật

“Trên thế gian này có bao nhiêu con người thì có bấy nhiêu cá tính. Điều này

không chỉ đúng với người lớn mà còn đúng với cả trẻ em ngay cả khi chúng còn rất bé.

Mỗi em bé là một con người riêng biệt” [228;144]. Không chỉ riêng về cái tên, về vóc

dáng bên ngoài, mỗi nhân vật trong truyện thiếu nhi sau 1975 đều là những cá thể riêng

biệt, những tính cách không ai giống ai.

Cùng là những đứa trẻ phải chịu thiệt thòi từ chiến tranh, lớn lên từ bom đạn

nhưng mỗi em lại có những tính cách, hành động riêng tạo nên nét điển hình cho từng

cá thể. Trong Tuổi thơ dữ dội, có bao nhiêu nhân vật trẻ em thì có bấy nhiêu cá tính.

Vịnh – sưa thì “chu đáo, tận tụy, kỷ luật”. Trong mọi công việc, học tập, công tác, việc

gì Vịnh sưa cũng đều làm đến nơi đến chốn. Tinh thần chiến đấu và sự hi sinh cao đẹp

của Vịnh đã trở thành tấm gương cho những đồng đội nhỏ tuổi. Tư thế hi sinh hiên

ngang của Vịnh đã khắc tạc một hình tượng bất hủ giữa bầu trời rực rỡ quê hương. Tư

– dát thì hóm hỉnh, hay chọc phá. Trong hoàn cảnh nào, ở đâu, cậu bé cũng có thể

khiến cho các bạn ôm bụng cười lăn lóc. Sự hiếu thảo và lòng thương mẹ của Mừng

cũng chính là dấu ấn mà nhân vật lưu lại trong lòng độc giả. Mừng chính là hiện thân

của tình mẫu tử thiêng liêng, tình bạn cao cả, thủy chung, tấm lòng son sắt với kháng

chiến, với cách mạng. Phùng Quán đã gửi gắm ở Mừng tất cả sự ngây thơ, trong sáng

của trẻ thơ. Vẻ đẹp thánh thiện và tâm hồn thuần khiết của em chính là sự cứu rỗi cho

cái khốc liệt, đau đớn của chiến tranh.

Ở nhân vật trong Kính vạn hoa (Nguyễn Nhật Ánh) độc giả cũng dễ dàng nhận

thấy những nét tính cách riêng biệt. Quý ròm học giỏi, thông minh đã từng giải hết các

câu đố trên các loại tạp chí; say mê các phản ứng hoá học để làm nên những trò ảo

thuật lạ mắt. Quý còn “là đứa mồm mép lanh lẹ và phản ứng nhanh nhất bọn” nhưng

lười biếng việc nhà, mọi việc đều đùn cho bà và cho nhỏ Diệp; có tật ngủ lười và nhát

ma, nhát chết và nhát đánh nhau. Đặc biệt là tật xấu hay quát tháo, mắng mỏ bạn và

em mặc dù nó đã ý thức về nhược điểm của mình. Chưa hết, “Quý ròm là chúa phịa

chuyện. Nó nói dóc mà mặt mày cứ tỉnh khô, giọng điệu thật như đếm” [270]. Bên

cạnh Quý ròm, “Nhỏ Hạnh tay chân thì vụng về nhưng đầu óc cực kỳ thông minh”. Nó

“ăn nói nhỏ nhẹ, ôn tồn… là đứa có tính kiên trì bẩm sinh. Say mê hiểu biết, nó đã giở

135

từ điển cặm cụi tra từng từ một để đọc cho được các bộ “Bách khoa toàn thư” bằng

tiếng Anh và tiếng Pháp ba nó cất trong tủ. Ngày này qua ngày nọ, nhỏ Hạnh kiên

nhẫn học hết từ này đến từ khác, bền bỉ như kiến tha mồi” [270]. Nó thật xứng danh là

“cây từ điển sống”, là “nhà thông thái” vì sự thông tuệ kiến thức nhiều, rộng và sâu sắc

của nó: nào là kiến thức lịch sử khi giảng cho các bạn về các triều vua; kiến thức sinh

vật khi giải thích về con cáy, về nấm độc, về các loại cá, về rắn; kiến thức văn hoá khi

nói về người dân tộc K’Ho sống ở vùng núi Lâm Đồng; kiến thức vật lý khi giải thích

về sức truyền âm thanh trong không gian và khoảng cách, bước sóng ánh sáng, hiện

tượng Elninô… Là một cây văn số một của lớp, có nét chữ tròn trịa như chữ của cô

giáo tương lai, dẫu Hạnh đã từng ước mơ trở thành chủ tiệm hủ tiếu bò viên vì đó là

món khoái khẩu của nó. Dưới con mắt của Tiểu Long, với nhỏ Hạnh “mọi cái đều

đáng điểm mười” chỉ có một điểm yếu là tật vụng về hay làm vỡ ly, chén… hay bất kể

thứ gì dễ vỡ khác. Tiểu Long xuất hiện bên cạnh hai người bạn thân là Quý ròm và

nhỏ Hạnh với khá nhiều nét khác biệt. Là một đứa trẻ sinh ra trong gia đình hoàn cảnh

kinh tế không lấy gì làm khá giả, Tiểu Long lại là “học sinh trung bình kém của lớp

8A4 trường Tự Do. Nó chỉ giỏi mỗi môn thể dục. Còn ngoài ra nó yếu đều các môn,

nhất là toán. Từ chỗ học kém, nó đâm mắc cái tật... sợ thầy cô. Ngồi trong lớp, bao giờ

nó cũng cố thu mình rụt cổ nấp sau lưng mấy đứa bàn trên, lòng chỉ mong sao cho các

thầy cô - tất nhiên là trừ thầy Đoàn dạy thể dục – quên phắt sự hiện diện của nó đi.

Gặp các thầy cô trong sân trường hay ngoài đường phố, nó thường tìm cách lảng đi

chỗ khác, mặt mày lấm la lấm lét như kẻ trộm” [270]. Trái với Quý ròm, Tiểu Long rất

ít nói, nhiều khi nó cứ cà lăm mãi mà không diễn đạt được gãy gọn. Vốn tính khù khờ

lại hay bị Quý ròm “lật tẩy”, Tiểu Long có thói quen quẹt quẹt nơi mũi cho đỡ

ngượng; khi lúng túng hay xúc động, nó lại liên tục khụt khịt mũi và nhất là khi cần

can ngăn, góp ý cho ai nó lại xổ câu cửa miệng quen thuộc của mình: “có gì ngồi

xuống, uống miếng nước, ăn miếng bánh”.

Nhìn chung, việc thể hiện những cá tính của nhân vật đã cho thấy sự am hiểu

tâm lí trẻ em của các nhà văn hiện đại. Nó cũng cho thấy sự đổi mới về cách thể hiện

nhân vật trong truyện thiếu nhi sau 1975. Từ nhân vật được mô tả xuôi chiều, đơn nhất

với một tính cách, phẩm chất, đại diện cho một mẫu người đến nhân vật được thể hiện

giàu cá tính, phức hợp. Từ đứa trẻ trong hình hài của người lớn đến nhân vật trẻ em

sống động, gần gũi, thân thiết với trẻ thơ, thuộc về trẻ thơ.

136

3.3.2. Những nỗ lực trong tạo dựng hệ ngôn ngữ trẻ thơ

3.3.2.1. Hệ thống ngôn ngữ – khẩu ngữ

Từ bỏ khuynh hướng sử thi và cũng không bắt buộc phải mang tiếng nói điển

hình cho một giai tầng cụ thể nào, truyện thiếu nhi sau 1975, vì vậy, khá linh hoạt

trong ngôn ngữ. Cũng giống như văn học người lớn, ngôn ngữ truyện thiếu nhi có xu

hướng “áp sát đời sống”, “khước từ quan niệm thanh hóa văn chương” (Nguyễn Thị

Bình), cá tính hóa, đời hóa. Nếu như trước đây, trẻ em buộc phải sắm vai những cán

bộ chính trị, tuyên giáo,… trong lời nói, thì nay, chúng được nói tiếng nói của trẻ thơ,

ngôn từ của trẻ thơ.

Các nhà văn đưa ra những hệ thống ngôn ngữ - khẩu ngữ nhằm tăng cường khả

năng cá tính hóa nhân vật. Thay bằng cách xưng hô “bạn – tôi”, “tớ - cậu”,… rất chuẩn

mực là cách gọi nhau: “tao – mày”, “tớ - ấy”,… đời thường, thân thiết. Rõ nét nhất phải

kể đến hai kiểu nhân vật hồn nhiên nhi nhiên và nhân vật với những xúc cảm đầu đời.

Nhân vật hồn nhiên nhi nhiên:

“Nó nói với con Thắm:

- Tao phong cho mày làm chúa đảo phu nhân nghe, Thắm?

- Chúa đảo phu nhân là sao?

- Phu nhân tức là vợ đó. Mày là vợ tao

Con Thắm lắc đầu quầy quậy:

- Eo ôi! Mình không chịu đâu!

Tin đá chân vào tàu lá dừa, gầm gừ:

- Mày ngu quá! Đã có chúa đảo thì phải có chúa đảo phu nhân.

- Ai nói với bạn vậy?

- Tao đọc trong sách.

Con Thắm lộ vẻ ngẩn ngơ:

- Trong sách có nói vậy hả?

- Ờ

Con Thắm bặm môi suy nghĩ một hồi rồi gật đầu, giọng cam chịu:

- Vậy thì mình làm” [289;89].

Nhân vật với những xúc cảm mới lớn:

“Chúng tôi đều đã lớn, tôi không thể tiếp tục “mày mày tao tao” với nó. Tôi gọi

nó bằng tên và xưng tôi. Hà Lan nhận ngay ra sự thay đổi đó. Nó cười. Tôi hỏi:

- Hà Lan cười gì vậy?

137

- Cười Ngạn

- Tôi sao?

- Cách xưng hô ấy!

Tôi cũng cười:

- Nghe kỳ lắm hả?

- Không kỳ nhưng nghe chưa quen, thấy ngồ ngộ

Tôi tặc lưỡi:

- Rồi Hà Lan sẽ quen. Chẳng lẽ gọi như cũ. Chúng mình đều đã lớn hết rồi”

Khước từ kiểu ngôn ngữ sắm vai, bắt chước người lớn, nhân vật trở về với cách phát

ngôn vừa thông tục, vừa thơ ngây, của trẻ thơ. Xin dẫn ra ví dụ về cách phát ngôn này:

“- Mày đã đánh đổ lọ mực à?

- Không phải đánh đổ mà là tao đã NÉM VỠ nó!

- Chà… chà

- Đúng, nó đã Ném vỡ đấy! Thằng Dề gật đầu xác định.

- Về nhà mày có bị làm sao không?

- Tao sẽ bị TẨN! Nhưng ĐẾCH SỢ!” [393;73-74].

Cũng giống như trong văn học người lớn, khi trở về với kiểu ngôn ngữ đời

thường, nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi cũng phát ngôn những từ ngữ thông tục,

bụi bặm (TẨN), thậm chí chúng còn có thể văng tục (ĐẾCH SỢ). Điều này cho thấy,

khuynh hướng dân chủ hóa trong ngôn ngữ của văn học người lớn sau 1975 cũng đã

lan sang Văn học thiếu nhi. Nhân vật trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, thực hiện một

kiểu đối thoại tước bỏ mọi húy kị, lề lối, mĩ miều. Câu chữ của đời thường “xộc”

thẳng vào văn chương. Chẳng hạn: “Ông Bổng bảo: “Chị Thủy luộc cho tôi con gà,

nấu hộ nồi xôi”. Vợ tôi hỏi: “Mấy cân gạo hả chú?” Ông Bổng bảo: “Mẹ mày, sao

hôm nay cứ ngọt xớt thế? Ba cân!” Vợ tôi bảo tôi: “Họ hàng nhà anh kinh bỏ mẹ”

[399;29]. Những đoạn thoại như thế này xuất hiện hàng loạt trong sáng tác của

Nguyễn Huy Thiệp cũng như trong các tác phẩm của Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Ma

Văn Kháng, Nguyễn Quang Lập,… Tuy nhiên, trong văn học thiếu nhi, những dạng

thức ngôn ngữ thông tục thế này, tuy có nhưng không quá trần trụi, tục tĩu. Do yếu tố

giáo dục – một đặc tính tất yếu ở văn học thiếu nhi chi phối, cho nên, nhân vật trẻ em

trong sáng tác thiếu nhi sau 1975, dẫu có nói năng gần gũi, đời thường hơn so với giai

đoạn trước cũng vẫn thận trọng, phép tắc chứ không bị đẩy đi quá xa như trong một số

sáng tác văn học người lớn.

138

Như đã nói về sự ảnh hưởng của kỷ nguyên số tới đời sống của thế hệ trẻ, ngôn

ngữ của giới trẻ cũng có những biến đổi theo xu hướng tỉnh lược hay Anh hóa tiếng

Việt. Ở những nhân vật của Nguyễn Nhật Ánh cũng đã có sự xuất hiện của kiểu dụng

ngôn này. Ví dụ:

“Vừa đẩy cửa phòng vi tính, Cúc Hương nhảy xổ lại chỗ bàn làm việc của

Xuyến, thò tay kéo ngăn bàn một cái “rột”:

- Đĩa nào nhớ không Thục?

- Nó cất trong đĩa B

Cúc Hương nhăn mặt:

- Trong này có bốn, năm cái đĩa B, biết đĩa nào?

- Cái đĩa xanh xanh ấy

Cúc Hương tìm thấy ngay chiếc đĩa B màu xanh nằm lẫn trong xấp đĩa toàn

đen. Nó lật đật nhét đĩa “bí mật” vào máy. Trong đĩa B của Xuyến chỉ có một file duy

nhất, tên là “Letters”.

Vừa nhìn thấy tên file, Thục đã reo lên:

- Đúng file này rồi!

- Sao mày biết?

- Letters là thư tín. Đây chính là “hộp thư mật” của con Xuyến” [275;175-176].

Ở kiểu nhân vật với những xúc cảm đầu đời, ngôn ngữ của thời đại công nghệ

số nở rộ ồ ạt:

“- Bọn em được ngồi tự do chứ ạ? – Một giọng nói ồm ồm từ bàn sau cất lên -

- Vầng. Tự do muôn năm! – Thầy chủ nhiệm hóm hỉnh

- Hú- zeeeeeeeeee!!! – Hơn một nửa lớp gào lên trong sung sướng

- Thầy “đỉnh” quá! – giọng cái Hương léo nhéo” [424;21].

- “ – Đi bão không? Đi cho biết với thiên hạ” [424;98].

- “ Cậu ấy rủ nó vào hội “Anti Valentine” trên facebook. Nó cười ha hả:

- Tớ vừa like cách đây ít phút.

- Thế à? Nhanh gớm!

- Chứ sao” [424;50].

Lật giở bất kỳ tác phẩm văn học teen nào, ta cũng đều thấy sự lan tràn của kiểu

ngôn ngữ @ thế này. Đây là sản phẩm tất yếu của thời đại điện tử. nó cho thấy nhu cầu

bứt phá ra khỏi đường biên của ngôn ngữ quy chuẩn, rườm rà, để tiệm cận với ngôn từ

đời sống, nhật dụng. Nó cũng cho thấy ý thức khác biệt hóa trong ngôn từ không chỉ

một nhân vật mà cả một thế hệ - thế hệ @.

139

Ở trường hợp truyện Chú bé có tài mở khóa – Nguyễn Quang Thân,đã xuất hiện

lối “nhại” trong lời nhân vật, như một cách chống lại ngôn ngữ sáo rỗng, khuôn thước.

“Chú nhãi vừa ăn vừa ngắm Nam. Cứ cắn một miếng bánh, chú lại hát:

Bé bé bằng gang

Cắn một miếng nữa rồi lại hát:

Đôi má vàng vàng

Một miếng nữa:

Bé đi câu cá

Một miếng nữa:

Cá câu cua càng…

Hùng Lé nghiêng đầu bên này, rồi bên kia, hai ngón tay bật vào nhau tanh tách.

Nó huýt một tiếng sao miệng rồi hát:

Bố đi đâu mất

Bố đi lối nào

Ngồi khóc, ngồi khóc

Nhóc ơi là nhóc

Giờ biết tính sao” [394;8-9].

Nhại lời, chế lời bài hát là cách dụng ngôn rất đặc trưng của trẻ con. Trẻ con luôn

muốn làm mới thế giới, thay đổi cái sáo mòn, cũ kĩ, cho nên, tất cả những gì mực thước,

khuôn sáo đều được chúng dỡ bỏ. Việc nhại lời bài hát là cách mà Hùng Lé thể hiện sự

bông lơn của mình cũng là cách mà “chú nhãi” vượt lên những khuôn thước để khẳng

định mình trong đời sống. Trong trường hợp này, ngôn ngữ, ở một dạng thức ngược với

cái thông thường, có tác dụng không nhỏ tới việc tạo dựng tính cách nhân vật. Lời bài hát

mà Hùng “chế” ra là lời rỗng nghĩa, vô nghĩa. Nó giống với cách trẻ con sáng tác đồng

dao: nói theo nhịp, nói cho vui, nhằm phá vỡ phép tắc, luật lệ, đặc biệt, nhằm thực hiện trò

chơi. Nhân vật như đang được chơi “trò chơi” ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ để giễu nhại, vui

đùa. Bằng lời nhại mới, bài hát “bé bé bồng bông” vốn cũ kỹ, quen thuộc trở nên hài

hước, đáng yêu hơn bởi những sự vật chẳng có gì ăn nhập với nhau: đôi má vàng vàng, cá

câu cua càng,…Với lời nhại mới, Hùng lé cũng khiến hoàn cảnh rất bi lụy, đáng thương

của Nam khi chưa gặp được bố, không có chỗ ở, trở nên tươi vui, dễ chịu hơn.

Nếu như trước 1975, nhân vật trẻ em cố gắng nói cho giống với người lớn thì

sau 1975, nhân vật vẫn tham dự trò chơi sắm vai, nhưng lần này là để “nhại” giọng

140

người lớn. Mùi và các bạn (Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ) đã thực hiện một trò chơi

đầy thú vị: giả làm bố mẹ

- “Hải cò đâu? – Tôi kêu lớn

- Dạ, ba gọi con. – Hải cò lon ton chạy tới

Tôi ra oai:

- Rót cho ba miếng nước!

Thấy con Tủn cho miệng cười khúc khích, Hải cò đâm bướng:

- Con đang học bài

- Giờ này mà học bài hả? – Tôi quát ầm lên – Đồ lêu lổng!

Hải cò đưa tay ngoáy lỗ tai để nghe cho rõ:

- Học bài là lêu lổng?

- Chứ gì nữa! Không học bài làm bài gì hết! Con ngoan là phải chạy nhảy, trèo

cây, tắm sông, đánh lộn!”

- “- 2 lần 4 là mấy?

- Dạ, là 8

Con Tí sún không quát tháo om sòm như tôi và Hải cò, nhưng mặt nó trông thật

thiểu não:

- Sao lại là 8 hả con? Thật uổng công mẹ cho con ăn học!

Hải cò chớp mắt:

- Chứ là mấy?

- Là mấy cũng được nhưng không phải là 8

- Mẹ ơi, theo bảng cửu chương thì 2 lần 4 là 8

- Mày là con vẹt hả con? Bản cửu chương bảo gì mày nghe nấy là sao? Thế mày

không có cái đầu à?

Hải cò sờ tay lên đầu hối hận:

- Con đúng là một đứa không có đầu óc. Lần sau con sẽ không nghe theo bất cứ

ai nữa, dù đó là bản cửu chương hay thầy cô giáo. Con hứa với mẹ con sẽ tự suy nghĩ

bằng cái đầu của con” [284;41-43].

Thằng cu Mùi, con Tí sún đã giả ngôn từ người lớn bằng tinh thần của trẻ con.

Giọng điệu nạt nộ, gia uy là thứ mà trẻ học từ cha mẹ, nhưng lí lẽ: “Không học bài làm

bài gì hết! Con ngoan là phải chạy nhảy, trèo cây, tắm sông, đánh lộn!” hay “Bản cửu

chương bảo gì mày nghe nấy là sao? Thế mày không có cái đầu à?” chính là điều mà trẻ

em muốn nhắn gửi cho người lớn, thông qua những lời văn “nhại” giọng người lớn.

141

“Nhại” ở đây được hiểu “không có nghĩa chỉ là bắt chước, mà còn có nghĩa diễu cợt,

không nghiêm túc, bởi thế nó mang một bản chất dân dã và dân chủ” [27;158].

Truyện thiếu nhi Việt Nam sau 1975 tôn trọng mọi diễn ngôn vừa ngây ngô vừa

lủng củng mà cũng rất giàu hình ảnh của trẻ em. Ví như: “Chúng tôi thích nhất ngồi trên

đảo Roobinson ngắm hoàng hôn trên biển. Mặt trời như hòn lửa lớn ai ở trên trời vô ý

đánh rơi xuống đại dương” hay “Mặt biển lúc đó trông phẳng lì, êm đềm như một miếng

xu xoa khổng lồ và màu sắc của miếng xu xoa thay đổi không ngừng” [289;102-103].

Dùng ngôn ngữ tự nhiên, ngô nghê của trẻ để tái hiện nhân vật cũng là cách mà các nhà

văn viết truyện thiếu nhi thế giới đã sử dụng. Atrisd Lingren cũng đã ghi lại cách hành

văn của một cô bé chưa biết viết thành thạo như Pippi (Pippi tất dài) như sau: “ Pippi tân

mếu, kậu có khẻo hông? Kậu hông ốm đấi chứ? Kậu khẻo tớ mấy 2` lòng. Tớ khẻo,

dưng bị đau giăng, pải ăn thúc ăn đun 9 dừ! Hôm qa Thomas vết tư cho 3` và oánh chếd

1 con chộut. Gủi kậu nững lòi trào tân ái của Pippi” [291;165] hay như: “ Kác bák đừn

ngĩ kác kin kuở kác bák đã trết hay mấd tik, vỳ kông pải tế. Chỷ đắn thyền 1 tí thôy và

sắph vè nkà, tráu sin thề.” Pippi sin trào” [291;228]. Có thể nói ngôn ngữ của nhân vật

được nhà văn ghi lại chứ không phải bằng sự dụng công “biên tập”. Vì thế, nó đến với

trẻ con một cách hết sức tự nhiên như đời sống thường ngày của chúng.

Trở về với ngôn từ trẻ thơ, làm mới ngôn ngữ bằng việc lựa chọn thứ ngôn ngữ

bị coi là rỗng nghĩa, vô nghĩa của trẻ đã được coi là một khuynh hướng sáng tạo của văn

học ở một số tác giả nghệ thuật tiền phong Nga. Trong công trình nghiên cứu “Mĩ học

ấu nhi của nghệ thuật tiền phong Nga”, tác giả Sara Pankenier đã cho thấy mối liên hệ

giữa đặc trưng ngôn ngữ trẻ ấu nhi với chiến lược vận dụng ngôn ngữ, giọng điệu, nhãn

quan trẻ thơ vào việc cách tân ngôn ngữ của một số nghệ sĩ Nga thời kì 1930-1939: “Ở

cấp độ ẩn dụ, ý niệm về chủ thể không mở lời, hay đứa ấu nhi, gián tiếp gợi ra những ẩn

ý bị chính trị hóa về vị thế của “đứa trẻ mới lọt lòng” – chủ thể không mở lời thiếu tiếng

nói. Không có ngôn ngữ, trẻ ấu nhi chỉ có thể giao tiếp bằng tiếng khóc; trong sự thiếu

vắng những phương tiện được xã hội thừa nhận, đứa trẻ không có quyền biểu hiện

những ham muốn của mình… Thiếu quyền được biểu hiện, chủ thể không mở lời tượng

trưng kia không thể bộc lộ chính nó, lại càng không thể bộc lộ được quan điểm riêng

hay chủ thể. Song, như ta sẽ thấy, chủ nghĩa nguyên sơ ấu nhi lại dẫn các nghệ sĩ tiền

phong đến với niềm hứng thú đối với góc nhìn và giọng điệu độc đáo của trẻ thơ, điều sẽ

được thể hiện rõ nét trong thực hành nghệ thuật của khuynh hướng mĩ học ấu nhi. Khi

142

bản thân phải đối diện những giới hạn đối với sự tự do biểu đạt ở những giai đoạn sau

của quá trình phát triển, nghệ thuật tiền phong đã tìm thấy những biên độ và hình thức

biểu hiện mới bằng việc tiếp cận trẻ thơ như là chủ thể và chủ thể tính” [62;155].

Việc đưa hệ thống ngôn ngữ khẩu ngữ vào lời nhân vật không chỉ thể hiện xu

hướng dân chủ hóa trong ngôn ngữ của văn học sau 1975, đối với Văn học thiếu nhi, sự

xuất hiện kiểu dụng ngôn đời thường, dụng ngôn dưới hình thức đồng dao, còn cho thấy

xu hướng “thiếu nhi” hóa ngôn ngữ nhân vật trẻ em. Điều này vừa có ý nghĩa trong việc

làm mới, làm đúng hình tượng nhân vật trẻ em vừa là một sự gợi mở cho những người

làm nghệ thuật nói chung tiếp cận thế giới từ một chủ thế mới, đầy tiềm năng: trẻ thơ.

3.3.2.2. Những đối thoại hóm hỉnh, gây cười

Một trong những điều làm nên sức hấp dẫn ở một nhân vật trẻ em chính là

những đoạn đối thoại ngộ nghĩnh, tạo tiếng cười sảng khoái. Những đối thoại này,

phần lớn tập trung ở kiểu nhân vật hồn nhiên nhi nhiên. Cái hài được phát ra từ chính

tính chất ngây thơ, hồn nhiên của nhân vật.

Để tạo nên tiếng cười trong trẻo, nhà văn thường đặt nhân vật vào các tình

huống của trò chơi sắm vai. Chẳng hạn, sắm vai chơi đánh trận:

“- Đồng chí Cao! Theo lệnh tôi, xông lên!

- Đồng chí Cao đâu, bắn đi!

…..

- Bùm, thằng Cao chết rồi

- Ê, thằng Cao đứng lên đi, tao trông thấy mày rồi! Không được ăn gian

Tôi đành đứng lên. Thằng Quyết từ phía sau chạy lên:

- Đếch phải nó chết, nó chỉ bị thương thôi

- A. Anh Cao bị thương rồi! – Cái Tâm reo.

Tôi được khiêng về “tuyến sau” cho cái Tâm bang bó. Nó lấy rơm làm băng buộc

lên “vết thương” của tôi. Nó có vẻ rất thích chức y tá” [392;49].

Trẻ em thường thích được đóng vai người lớn, bắt chước ngôn từ của người lớn

nhưng điều đáng nói là, chúng chưa phân định được trò diễn với đời thực, cho nên,

chúng có thể, cùng một lúc nói cả lời của nhân vật sắm vai và lời của chính mình trong

trò chơi. Như ở trên, câu thoại: “Đồng chí Cao! Theo lệnh tôi, xông lên!” là lời nhân

vật sắm vai, “bùm” – lời mô phỏng tiếng súng, “thằng Cao chết rồi” – lời người chơi,

“A. Anh Cao bị thương rồi” – lời của nhân vật sắm vai (y tá) nhưng giọng là của người

143

chơi (cái Tâm). Chính sự hòa trộn ngôn ngữ giữa vai chơi và người chơi đã tạo nên nét

ngộ nghĩnh, đáng yêu cho nhân vật. Tiếng cười được bật ra ở sự khập khiễng giữa trò

chơi tưởng tượng và thực tế.

Mart Twain cũng đã từng dựng những đoạn thoại theo hình thức sắm vai như

thế nhằm phác họa vẻ hồn nhiên của nhân vật. Tom và Joe Harper (Những cuộc phiêu

lưu của Tom Swayer) cùng tham gia trò chơi đánh nhau tưởng tượng. Chúng nói với

nhau thế này:

“- Đứng lại! Tom quát lớn- Ai dám xâm nhập rừng Sherwood mà không xin

phép ta?

- Guy de Guisbonne không chờ ai cho phép cả! Còn ngươi là ai mà có giọng

lưỡi đó?

- Ta là Robin des Bois, liệu hồn sẽ biết tay ta!

- Tên ngoài vòng pháp luật đấy hả? Tránh đường cho ta, đồ đê tiện!

- Không đời nào!

Thế là bắt đầu một trận chiến đúng theo quy phép. Chẳng mấy chốc, mồ hôi chảy ròng

ròng trên trán hai đối thủ.

- Này, bây giờ cậu phải quay lưng lại chứ. -Tom nói, thở hổn hển. - Trong sách đã ghi:

"Bấy giờ, chàng tạt một nhát kiếm, giết chết tên ngạo mạn Guy de Guisborne".

- Được, được, đồng ý.

Joe miễn cưỡng đưa lưng ra chịu một nhát kiếm và ngã xuống. Rồi nó đứng phắt dậy:

- Bây giờ, đến tớ giết chết cậu. Lần lượt mỗi người chứ anh bạn!

- Đâu được! Sách đâu có nói vậy! Nghe này, tớ có ý kiến: tớ sẽ đóng vai quận trưởng

Not-tingham, còn cậu sẽ là Robin và cậu sẽ giết tớ.

Sau phần phụ diễn ấy làm Joe hài lòng, Tom trở lại thành Robin des Bois. Tuy bị

thương gần chết, nó vẫn thều thào mấy tiếng:

- Mũi tên này rơi ở đâu, các ngươi sẽ chôn gã Robin đáng thương ở đó...

Gom hết sức tàn, kẻ hấp hối bắn ra một mũi tên và ngã quỵ... trên một bãi tầm ma rồi

nó lật đật đứng dậy. Tới đây, hai thằng bé mặc áo lại và mỗi đứa đi cất khí giới của

mình ở một chỗ riêng” [356].

Sự hài hước nằm ở chỗ, nhân vật ra sức sắm vai cho thật giống, thật đạt nhưng

để làm được việc đó, chúng lại để lộ những dàn xếp ở “hậu trường” và nực cười hơn là

chúng không hay biết (hoặc chẳng để tâm) đến phần “sơ hở” này, lũ trẻ hoàn toàn

“nghiêm túc” tham gia trò chơi tưởng tượng của mình.

144

Ngôn ngữ trào tiếu, gây cười trong các đoạn thoại của nhân vật được khai thác từ

tâm lí ngây thơ, hồn nhiên của trẻ em. Truyện sau 1975 đã chú ý hơn tới đặc điểm này ở

trẻ, vì vậy, ngôn ngữ nhân vật cũng hóm hỉnh, dí dỏm hơn trong các tình huống thoại:

“ – Tất cả quay bên phải! Bên phải là bên cầm đũa, nghe chưa?

Chị Ba tôi đứng trong hàng ngũ hỏi to:

- Tôi cầm đũa bên trái, thì tôi quay bên nào?”

“Cả lớp học đang nghiêm trang. Thầy Lê Hảo bày tiếp:

Hú hồn các chú thiếu niên…

Chợt thầy vùng dậy kêu thất thanh:

- Úy thôi rồi! Các trò ơi! Con heo nhà tôi nó nhảy chuồng rồi” [112;159].

Sự quy chuẩn của buổi tập đội ngũ, không khí trang nghiêm của lớp học đã bị

giải thiêng, xô lệch bởi sự ngây ngô của trẻ thơ, cái phàm tục của đời thường. Nét vô

tư, tinh nghịch của trẻ con đã tạo ra những tràng cười sảng khoái. Ở đây, ta thấy có sự

gặp gỡ của ngôn ngữ gây cười của trẻ thơ với tiếng cười dân gian. Trong văn hóa dân

gian, luôn tồn tại một tiếng nói trào tiếu bên cạnh tiếng nói chính thống. Nó tạo nên

một thứ đối trọng, một quyền lực dân gian. Ở đó, dân chúng đã tái thiết một thế giới

khác, “thế giới thứ nhì”, ngoại vi, trực diện với thế giới hiện hữu mà người dân phải

sống trong đó. Đặc điểm chính của tiếng cười dân gian cũng để khu biệt nó với tiếng

cười châm biếm hiện đại là ở chỗ nó có “tính hai chiều” (Bakhtin): “nó vừa vui nhộn

hoan hỉ, vừa nhạo báng, chế giễu, nó vừa phủ định vừa khẳng định, vừa khai tử vừa tái

sinh” [8;37]. Ở điểm này, tiếng cười dân gian có nét tương đồng với tiếng cười của trẻ

thơ. Trong tiếng cười của trẻ em, người ta cũng nhận thấy sự vô tư, nghịch ngợm, vừa

tấn phong vừa hạ bệ đối tượng của trẻ. Đó là cái cười thuần khiết, thơ ngây, trong

sáng, tạo những khoái cảm thẩm mĩ tốt lành.

3.3.2.3. Tính giáo dục và mối quan hệ giữa ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ

nhân vật

Đã có nhiều nỗ lực trong việc tạo dựng hệ thống ngôn ngữ trẻ thơ trong việc

biểu đạt ngôn ngữ nhân vật trẻ em ở truyện thiếu nhi sau 1975. Tuy nhiên, có một đặc

điểm không thể phủ nhận ở những tác phẩm văn học này đó là, người kể chuyện (chủ

yếu) là một người người lớn. Chính điều này, đã quy định những nét đặc thù cho kiểu

ngôn ngữ nhân vật trong các sáng tác thiếu nhi đồng thời tạo nên những “tranh chấp”

trong diễn ngôn của nhân vật và diễn ngôn tác giả.

145

Nguyễn Nhật Ánh vốn được coi là nhà văn thu hút được nhiều sự đồng cảm của

độc giả nhỏ tuổi bởi chính ngôn ngữ hài hước, dí dỏm và đậm chất “trẻ con” nhưng

trong tác phẩm của anh, ngay cả khi nhân vật trẻ em đưa ra một tiếng nói, cũng luôn

luôn có một giọng nói của người lớn đi kèm, điều chỉnh nó hay hướng dẫn người đọc

tới hiểu biết đúng. Ở trường hợp truyện được kể bởi ngôi thứ ba:

“- Tin ơi, Tin!

….

- Cướp biển!

- Cướp biển cái gì! Vô ăn cơm!

Tin ngoảnh nhìn, thấy chị Hai đang đứng ngay chỗ ngách của bếp, lừ mắt trông ra. Tin

lồm cồm đứng lên, quét mắt quanh hòn đảo nhún vai một cách tuyệt vọng:

- Chẳng có tàu thuyền gì cả. Em không vào bờ được

Hòn đảo mà Tin đang đứng là đống cát ba Tin mới thuê xe chở về cách đây một tuần

để chuẩn bị xây căn nhà kho ở phía sau nhà.

Trong khi công trình xây cất chưa bắt đầu, vào một đêm tối trời nọ, Tin nai nịt gọn

gàng, một mình lẻn ra khỏi nhà đánh chiếm đống cát. Sau khi chiến đấu mệt nhoài với

bọn hải tặc vô hình, cuối cùng Tin cũng đặt chân được lên đảo. À quên, đêm đó hòn

đảo vẫn còn là đống cát. Chỉ đến khi Tin đào một cái mương nhỏ quanh đống cát, hì

hục đổ nước vào đó thì biển mới xuất hiện, và sáng hôm sau thì hòn đảo ra đời”

[289;12-13].

Rõ ràng, bên cạnh những lời chứa đầy tính ảo tưởng thơ ngây của Tin là lời

người kể chuyện nhằm xác minh lại tính chất của “hòn đảo” mà thằng Tin cư ngụ. Ở

đây, lời người kể chuyện là lời của người lớn nói về câu chuyện của trẻ con, sự kiểm

soát của tác giả trong ngôn từ được bộc lộ khá rõ.

Ở những sáng tác khác của Nguyễn Nhật Ánh, khi câu chuyện được kể từ ngôi thứ

nhất, mô tả thời thơ ấu của nhân vật, mọi thứ trở nên phức tạp hơn. Xin dẫn ra một ví dụ

về ngôn ngữ của nhân vật “tôi” trong truyện Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ:

“Dưới mắt các ông bố bà mẹ, việc một đứa con bỗng nhiên thích ăn uống theo

kiểu trái khoáy là cái gì đó hết sức nghiêm trọng , có thể không liên quan đến chiến

tranh nhưng rất có khả năng dính dáng đến sự điên rồ.

- Con có điên không hả con? – Mẹ tôi hỏi, cái bà nhìn tôi như thể tôi vừa khoác

vào bộ đồ trắng toát của bệnh viện.

146

Tôi hiểu mẹ tôi, khi nhìn vẻ lo âu ánh lên trong đáy mắt bà. Nhưng tôi cũng rất

buồn là bà không hiểu tôi như tôi đang hiểu bà.

- Không đâu, mẹ ạ - Tôi ủ rũ đáp

- Tại sao con lại làm thế? Tất cả mọi người đều uống nước trong ly, sao con lại

thích uống nước trong chai?

Chính vì tất cả mọi người đều uống nước trong ly nên tôi mới thích uống nước

trong chai. Lý do hết sức đơn giản nhưng tôi chỉ dám nghĩ trong đầu. Tôi không thể

nói điều đó ra miêng, e rằng sẽ làm cho mẹ tôi thêm hoảng.

….

Thật là sáng tạo, những đứa trẻ đó. Chúng làm vậy chẳng qua chỉ để cho đời bớt

nhạt. Lý do mới lành mạnh làm sao!” [284;103-106].

Người kể chuyện xưng “tôi” lúc nói bằng giọng người lớn lúc lại thể hiện bằng

giọng trẻ con. Trong trường hợp này, rất khó xác định rõ ràng chủ thể tính trong ngôn

ngữ nhân vật. Sự pha trộn giữa diễn ngôn nhân vật và lời nói của người kể chuyện đã

tạo nên tính bất cân xứng trong ngôn ngữ của truyện thiếu nhi. Trong mỗi lời của nhân

vật trẻ em đều luôn có một người kể chuyện quyền uy chi phối và đưa ra những chỉ

dẫn cần thiết. Nhận xét về điều này, M.Nikolajeva đã viết: “Mặc dù câu nói trực tiếp

có thể là một cách cơ bản trình bày các nhân vật theo lối trực tiếp nhất, chúng ta không

nên quên rằng thường có một lời kể gần đó để sửa đổi bất cứ điều gì ấn tượng mà

chúng ta như những người đọc có thể đạt được” [242;240].

Như vậy, dù các tác giả Văn học thiếu nhi sau 1975 đã có những thành công

trong việc biểu đạt hình tượng nhân vật trẻ em thông qua ngôn từ trẻ con, chúng ta vẫn

phải thừa nhận rằng rất khó có thể dỡ bỏ hoàn toàn giọng của tác giả - người lớn trong

lời nhân vật trẻ em. Vì phần lớn những sáng tác Văn học thiếu nhi đều là của người lớn.

Cho nên dẫu cố gắng “cưa sừng làm nghé” người viết vẫn khó có thể giấu đi sự dạy bảo

(đã được mặc định của người lớn dành cho trẻ con) hay những chỉ dẫn của mình trong

ngôn ngữ kể cũng như trong lời nhân vật. Ở một số truyện thiếu nhi hiện đại nước ngoài,

đã có những thể nghiệm trong việc cố gắng gạt bỏ sự hiện diện của tác giả như: sự kết

hợp của lối tự sự nhân xưng và vô nhân xưng, của lối tự kể và lối kể của người chứng

kiến, của lối độc thoại và lối tự kể,… Mặc dù những nỗ lực trong việc biểu đạt ngôn từ

trẻ thơ vẫn còn cần được tiếp tục thì chúng ta đều nhận thấy rằng rõ ràng có một thế giới

với những nét đặc trưng riêng thuộc về trẻ thơ mà nhân loại cần tôn trọng.

147

Tiểu kết

Cùng với sự đổi mới của nền văn học dân tộc, Văn học thiếu nhi sau 1975 cũng

có những chuyển biến trong xây dựng hình tượng nhân vật trẻ em. Sự phát triển phong

phú các kiểu nhân vật trong giai đoạn này đã cho thấy những thay đổi trong cách tiếp

cận hiện thực và quan niệm về trẻ em. Nhân vật trẻ em nạn nhân vừa có sự kế thừa của

hình tượng nhân vật trẻ em – như những thân phận thấp hèn trước 1945, vừa có sự kế

tiếp của kiểu nhân vật trẻ em bị ruồng bỏ trong văn học miền Nam Việt Nam, bên cạnh

đó, nó cũng cho thấy một sự “đối thoại” với kiểu nhân vật chiến sĩ nhỏ tuổi ở giai đoạn

1945-1975. Nhân vật trẻ em trải nghiệm là một cách làm mới hình tượng nhân vật trẻ

em, dựa trên những nhân vật đã từng xuất hiện trong lịch sử văn học thời kì trước. Nhân

vật trẻ em hồn nhiên nhi nhiên là bước tiến trong việc nhìn nhận vị thế của trẻ em trong

đời sống. Nhắc đến trẻ em với những đặc tính bản thể, vốn có của nó chính là cách thể

hiện sự tôn quý của nhà văn với trẻ thơ. Nhân vật trẻ em với những xúc cảm mới lớn lại

một lần nữa nhấn mạnh thêm việc đi sâu khai thác các trạng thái tâm lí, tình cảm của

một giai đoạn đặc thù trong sự trưởng thành của một đứa trẻ. Nhân vật anh hùng thiếu

nhi lãng mạn là thể nghiệm mới của truyện thiếu nhi. Tất nhiên, thể nghiệm này cũng có

nguồn gốc từ hình tượng người anh hùng trẻ thơ trong thần thoại và truyền thuyết. Đặc

biệt, nó xuất phát từ những tác động của những sáng tác thiếu nhi nước ngoài và nhu cầu

của độc giả hiện đại. Sự xuất hiện kiểu nhân vật này trong truyện thiếu nhi Việt Nam sau

1975 đã cho thấy những cố gắng của các nhà văn trong việc tiếp cận thế giới trẻ thơ và

khẳng định những đặc trưng riêng của nó.

Các nhà văn cũng đã thể hiện những nỗ lực của mình trong việc xây dựng hình

tượng nhân vật trẻ em bằng việc tạo nên những chân dung sống động, gần gũi, gắn bó

với đời sống của trẻ em. Bên cạnh đó, nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi sau 1975

đã được nói tiếng nói của chúng. Dù ngọng nghịu, ngây ngô nhưng lại vô cùng trong

sáng, vô tư và chân thật. Sức hấp dẫn của những sáng tác văn học học sau 1975 chính

là đã tạo lập hệ ngôn ngữ riêng dành cho trẻ em, thuộc về trẻ em.

148

KẾT LUẬN

1. Trong hành trình gần một thế kỉ, Văn học thiếu nhi Việt Nam đã gặt hái được

nhiều thành tựu, dẫu đôi lúc, có những thăng trầm. Ở suốt cuộc hành trình ấy, nhân vật

trẻ em vẫn là hình tượng trung tâm trong sáng tác và có ý nghĩa không nhỏ trong việc

biểu đạt quan điểm nghệ thuật của người viết về trẻ em. Truyện thiếu nhi Việt Nam đã

tái hiện khá phong phú và toàn diện đời sống trẻ em qua các thời kì lịch sử. Ở mỗi giai

đoạn, diện mạo nhân vật trẻ em lại có những nét vẻ khác nhau, một mặt tùy thuộc vào

hoàn cảnh lịch sử, sự tác động của văn hóa – xã hội cũng như bối cảnh văn học mặt

khác nó cũng chịu sự chi phối bởi mục đích sáng tác, quan niệm của người viết. Nhận

diện Văn học thiếu nhi trên tiến trình phát triển cũng chính là quá trình “phục dựng”

hình tượng trẻ em qua các chặng đường lịch sử. Qua mỗi sáng tác Văn học thiếu nhi,

nhân vật trẻ em đã in hằn lên trên nó hình ảnh của cả một dân tộc, một nền văn hóa và

những quan niệm xã hội về trẻ thơ. Vì vậy, nhân vật trẻ em không chỉ đơn thuần là

một hình tượng trong tác phẩm mà còn là hạt nhân ẩn chứa những mã nghệ thuật cần

được khai mở.

2. Điểm chung dễ nhận thấy ở các nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi miền Bắc

giai đoạn 1945-1975 là thiên về nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, đạo đức. Từ Nhân vật chiến sĩ

nhỏ tuổi trong chiến đấu, Nhân vật công dân gương mẫu trong đời sống đến Nhân vật như

tấm gương, đều phải gánh trên mình nhiệm vụ giáo dục hơn là biểu đạt thế giới tâm hồn thơ

bé. Đặc điểm này xuất phát từ quan niệm về nhiệm vụ của nhà văn khi viết truyện thiếu nhi

là cần “bồi dưỡng nhiệt tình cách mạng, hun đúc sự say sưa hứng thú lành mạnh,…” cho

thiếu nhi. Điều này đã làm nên diện mạo chính cho nhân vật trẻ em giai đoạn 1945-1975:

những đứa trẻ trong hình hài người lớn. Nói như Tô Hoài, Văn học thiếu nhi thời kháng

chiến “đã làm nổi lên hình ảnh các em ta hồn nhiên và cần cù, tươi vui và nhẫn nại chiến

đấu, học tập và lao động”.

Từ một cách tiếp cận khác, truyện thiếu nhi miền Nam giai đoạn 1954-1975 lại cho

ra đời hai dạng thái nhân vật có phần khác biệt so với nhân vật trẻ em trong truyện thiếu

nhi miền Bắc cùng thời: Nhân vật trẻ em bị ruồng bỏ và Nhân vật trẻ em hồn nhiên, mơ

mộng. Sự khác biệt này xuất phát từ những nét riêng về văn hóa, xã hội, chính trị của hai

149

miền Nam – Bắc ở một giai đoạn lịch sử đặc biệt của dân tộc. Bên cạnh đó, những khác

biệt về nhiệm vụ của người cầm bút đã chi phối cách thể hiện nhân vật. Sự sinh động, giàu

sắc điệu và gần gũi ở các nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi miền Nam giai đoạn này

rất có thể đã trở thành tiền đề, gợi ý cho truyện thiếu nhi giai đoạn sau. Có thể nói chính

sự khác biệt về các kiểu dạng nhân vật ở hai miền Nam – Bắc trong cùng một thời kì đã

giúp cho các nhà nghiên cứu có những đánh giá khách quan hơn.

3. Sự đa dạng về các kiểu loại nhân vật cùng với những quan niệm mới về cách

thể hiện hình tượng trẻ em đã mang đến cho truyện thiếu nhi từ sau 1975 đến nay nét

trẻ trung, tươi tắn. Ở chặng đầu, nhân vật trẻ em vẫn chưa thực sự có nhiều đổi mới

mặc dù trong sáng tác các nhà văn đã bắt đầu có ý thức cách tân hình tượng nhân vật.

Ta có thể nhận ra điều này ở kiểu Nhân vật nạn nhân và Nhân vật trải nghiệm. Càng về

sau, sự thể hiện nhân vật trẻ em càng có nhiều chuyển biến. Việc xuất hiện các kiểu

nhân vật mới như: Nhân vật trẻ em hồn nhiên nhi và Nhân vật trẻ em anh hùng lãng

mạn nhiên đã góp phần đưa Văn học thiếu nhi Việt Nam bám sát đời sống trẻ thơ và

thu hẹp khoảng cách giữa nhà văn và độc giả. Những nỗ lực trong việc xây dựng hình

tượng nhân vật gần gũi, phù hợp với trẻ thơ cũng như cố gắng về mặt nghệ thuật biểu

đạt ngôn ngữ, tạo dựng chân dung nhân vật đã cho thấy thay đổi của người viết trong

cách nhìn về trẻ em. Nhân vật trẻ em trong các sáng tác giai đoạn này được tập trung

chiếu rọi từ góc nhìn đời thường, góc nhìn trẻ thơ vì vậy chúng được phác họa sâu hơn

ở nét hồn nhiên nhi nhiên hay những xúc cảm đầu đời hoặc giấc mơ siêu nhiên. Qua

các kiểu hình tượng nhân vật, có thể thấy, truyện thiếu nhi giai đoạn này đang từng

bước chinh phục độc giả bằng việc tiệm cận với thế giới tuổi thơ. Nó cũng chứng tỏ vị

thế của Văn học thiếu nhi trong dòng chảy văn học nước nhà, là một bộ phận của văn

học Việt Nam nhưng Văn học thiếu nhi vẫn có những đặc thù riêng, cần phải được soi

sáng bằng nhãn quan thẩm mĩ riêng.

4. Sự thể hiện nhân vật trẻ em từ năm 1945 tới nay đã cho thấy một thực tế,

truyện thiếu nhi Việt Nam ngày càng có xu hướng tạo lập nhân vật gần với đời sống và

đặc điểm tâm sinh lí của trẻ. Điều đó cũng nói lên rằng: nhân vật trẻ em có những đặc

thù riêng. Bởi Văn học thiếu nhi, tuy là một bộ phận của văn học nói chung nhưng

luôn có những điểm khu biệt. Nếu chấp nhận sự khác biệt này, chúng ta phải chấp

nhận Văn học thiếu nhi có tính thẩm mĩ riêng. Như vậy, nghiên cứu Văn học thiếu nhi

150

nói chung và nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi nói riêng cần phải đưa nó về

những đặc trưng thẩm mĩ riêng đó để có thể hiểu được chức năng của bộ phận văn học

này cũng như sức ảnh hưởng của nó tới độc giả.

5. Việc nghiên cứu nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam đã mở ra cho

chúng tôi những suy tư về giá trị và những ảnh hưởng của mĩ cảm trẻ thơ đối với sáng

tác văn học nói chung. Vào giai đoạn 1930-1939, khi phải đối diện với những giới hạn

trong tự do biểu đạt, nghệ thuật tiền phong Nga cũng đã tìm thấy những biên độ và hình

thức biểu hiện mới bằng việc tiếp cận trẻ thơ từ góc nhìn và giọng điệu độc đáo của trẻ

em. Về sau, chính kiểu tư duy này cũng có ý nghĩa như một gợi mở cần thiết trên hành

trình đổi mới thi pháp của các nhà thơ, nhà văn hiện đại. Có thể nói, nhìn cuộc sống

theo cách nhìn của trẻ thơ hay sáng tạo nghệ thuật theo cách của trẻ thơ, chắc hẳn sẽ

khám phá ra nhiều điều mới mẻ từ những cái tường chừng đã quá quen thuộc. Lối nhìn

ấy sẽ giúp cuộc đời trở nên tươi mới, ngọt ngào và kì diệu hơn rất nhiều.

151

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

1. Nguyễn Thị Thanh Hương (2012), “Personnality education for children through

the character Pippi in Astrid Lindgren’s Pippi Longstocking”, Proceedings 17,

2. Nguyễn Thị Thanh Hương (2012-2013), Kiểu nhân vật trong truyện đồng thoại viết

Ochanomizu University, tr.125-128

3. Nguyễn Thị Thanh Hương(2013), “Câu đố dân gian với giáo dục trẻ lứa tuổi mầm

cho trẻ mầm non , Đề tài cấp trường, Mã số: SPHN-12-193

4. Nguyễn Thị Thanh Hương (2013), “Nhân vật người kể chuyện trong “Cho tôi xin

non”, Tạp chí Khoa học - Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, số 58, tr.82-88

một vé đi tuổi thơ” của Nguyễn Nhật Ánh”, Tạp chí Lý luận phê bình văn học,

5. Nguyễn Thị Thanh Hương (2015), “Nhân vật trẻ em trong truyện Việt Nam trước

nghệ thuật (10), tr.64-68

6. Nguyễn Thị Thanh Hương (2015), “Sức hấp dẫn từ nhân vật Pippi trong truyện

1945”, Tạp chí Khoa học (60), Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tr.63-67

7. Nguyễn Thị Thanh Hương (2015), “Một số đặc trưng của tự truyện viết cho thiếu nhi

“Pippi tất dài” của Astrid Lindgren”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật (370), tr.104-107

8. Nguyễn Thị Thanh Hương (2015), “Nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam

ở Việt Nam thế kỷ XX”, Tạp chí Lý luận phê bình văn học nghệ thuật (33), tr. 64-69

9. Nguyễn Thị Thanh Hương (2016), “Về định nghĩa Văn học thiếu nhi”, Tạp chí Văn

giai đoạn 1945-1975”, Tạp chí Lý luận phê bình văn học nghệ thuật (40), tr.38-48

hóa nghệ thuật (385), tr.91-93

152

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Huỳnh Phan Anh (19/12/2006), “Duyên Anh, anh là ai?”,

Nguồn: https://duyenanhvumonglong.wordpress.com/2016/05/30/huynh-phan-anh-

duyen-anh-anh-la-ai/.

2. Trần Hoài Anh (2008), “Quan niệm về tiểu thuyết trong lý luận phê bình văn học

đô thị miền Nam 1954-1975”, Nghiên cứu văn học (4), tr50-61.

3. Trần Hoài Anh (2009), “Ảnh hưởng phương Tây đến lí luận – phê bình văn học đô

thị miền Nam 1954-1975”, Nghiên cứu văn học (4), 22-32.

4. M. Arnauđốp (1978), Tâm lí học sáng tạo văn học (Hoài Lam và Hoài Ly dịch),

Nxb Văn học, Hà Nội.

5. Lê Huy Bắc (2004), Truyện ngắn: lí luận tác gia và tác phẩm (tập 1), Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

6. Lê Huy Bắc (2005), Truyện ngắn: lí luận tác gia và tác phẩm (tập 2), Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

7. Lê Huy Bắc (2006), “Cái kì ảo và văn học huyền ảo”, Nghiên cứu văn học (8),

tr.33-44.

8. M. Bakhtin (2006), Sáng tác của Francois Rabelais và nền văn hóa dân gian

Trung cổ và Phục hung, (Từ Thị Loan dịch), Nxb KHXH, Hà Nội.

9. Mai Huy Bích (1988), “Đề tài gia đình trong văn xuôi những năm gần đây”, Báo

Văn nghệ (23).

10. Thạch Biền (15/11/2011), “Văn học thiếu nhi Việt Nam thiếu hấp dẫn”, Nguồn:

http://nld.com.vn/van-hoa-van-nghe/van-hoc-thieu-nhi-viet-nam-thieu-hap-dan-

54861.htm.

11. Nguyễn Thị Bình (2003), “Một vài nhận xét về quan niệm hiện thực trong văn

xuôi nước ta từ sau 1975”, Tạp chí Văn học (4), tr.21-25.

12. Nguyễn Thị Bình (2005), “Về một hướng thử nghiệm của tiểu thuyết Việt Nam

gần đây”, Nghiên cứu văn học (11), tr.61-66.

153

13. Nguyễn Thị Bình (2007), “Đổi mới ngôn ngữ và giọng điệu - một thành công

đáng chú ý của văn xuôi sau 1975”, Tự sự học, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội,

tr.351-367.

14. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975-1995, những đổi mới cơ bản,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

15. Nguyễn Thị Bình (2010), “Nhân vật trung tâm tìm kiếm thiên đường trong thời

hiện đại”, Nghiên cứu văn học (3), tr.86-103.

16. Nguyễn Thị Bình (2012). Văn xuôi Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học Sư phạm Hà

Nội, Hà Nội.

17. Hòa Bình (8/4/2016), “Văn học trẻ - "Văn học thời trang"”,

Nguồn:http://nld.com.vn/van-hoa-van-nghe/van-hoc-tre-van-hoc-thoi-trang-

20160408220822788.htm.

18. Vũ Ngọc Bình (1985), Đôi điều tâm đắc, NXb Kim Đồng, Hà Nội.

19. Vũ Ngọc Bình (19/11/1989), “Đọc Những ngôi sao trong mưa của Trần Hoài

Dương”, Báo Văn nghệ (2).

20. Hoàng Văn Cẩn (2005), “Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ qua tác phẩm văn học thiếu

nhi”, Tạp chí khoa học, Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, tr.39-43.

21. Lê Nguyên Cẩn (2003), Cái kì ảo trong tác phẩm Balzac (tái bản lần 1), Nxb Đại

học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

22. Nguyễn Minh Châu (1987), “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ”

Báo Văn nghệ (49-50).

23. Đặng Chung (21/05/2014), “Văn hóa đọc của giới trẻ có đáng lo?”, Nguồn:

htt://laodong.com.vn/van-hoa/van-hoa-doc-cua-gioi-tre-co-dang-lo-196493.bld.

24. Hà Đan (18/06/2010), “Văn học thiếu nhi: đôi điều suy ngẫm”, Nguồn:

http://vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song27/cuoc-song-quanh-

ta46/truyen-doc-thieu-nhi-doi-dieu-suy-ngam.

25. Nguyễn Văn Dân (2008), Khảo luận và tuyển chọn, Văn học phi lí, Nxb VHTT -

Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.

26. Đặng Anh Đào (1990), “Từ nguyên tắc đa âm tới một số hiện tượng của văn học

Việt Nam”, Tạp chí văn học (6), tr.22-27.

154

27. Đặng Anh Đào (1994), Tài năng và người thưởng thức, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

28. Đặng Anh Đào (1994), “Tính chất hiện đại của tiểu thuyết”, Tạp chí văn học (2),

tr.17-20.

29. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại. Nxb

Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

30. Đặng Anh Đào (2006), “Vai trò của cái kì ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt

Nam”, Nghiên cứu văn học (8), tr.18-23.

31. Phan Cự Đệ (1986), “Mấy vấn đề lí luận của văn xuôi hiện nay”, Tạp chí văn học

(5), tr.8-16.

32. Phan Cự Đệ (1995), “Năm mươi năm văn xuôi cách mạng (1945-1975)”, Nghiên

cứu văn học (11), tr.14-17.

33. Phan Cự Đệ (Chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

34. Lê Thị Diệp (2014), Sáng tác cho thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần dưới góc

nhìn văn hóa, Luận văn thạc sĩ , Đại học khoa học xã hội nhân văn, Hà Nội.

35. Ngô Thị Ngọc Diệp (2013), Hồi kí trong văn học Việt Nam từ sau cách mạng

tháng Tám năm 1945 đến nay, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà

Nội, Hà Nội.

36. Phong Điệp (26/04/2016), “Lấp lỗ hổng cho văn học thiếu nhi”, Nguồn:

http://nhandan.com.vn/cuoituan/van-nghe/doc-sach/item/29424302-lap-lo-hong-

van-hoc-thieu-nhi.html.

37. Trần Phỏng Diều (2004), “Ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn của Sơn Nam”,

Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống , số 10, tr24-26.

38. Hoàng Dĩ Đình (2012), Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau

1975, Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học, Đại Học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà

Nội.

39. Trần Thái Đỉnh (2005), Triết học hiện sinh, Nxb Văn học, Hà Nội.

40. Đinh Trí Dũng (2005), Nhân vật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng: Chuyên khảo, Nxb

Khoa học xã hội - Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

155

41. Lê Tiến Dũng (2004), “Đặc điểm nhân vật truyện cổ và việc "hiện đại hóa" truyện

cổ dân gian”, Nghiên cứu văn học (3), tr.91-95.

42. Nguyễn Thị Dung (2012), Thế giới nhân vật kì ảo trong truyện cổ tích thần kì các

dân tộc Việt Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

43. Nguyễn Thị Bích Dung (chủ biên) (2013), Văn học thiếu nhi, Nxb Công an nhân

dân, Hà Nội.

44. Nguyễn Thị Bích Dung (2008), Thế giới nhân vật trong Liêu trai chí dị của Bồ

Tùng Linh, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

45. Hoàng Cầm Giang (2010), “Vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ

XXI”, Tạp chí Văn học (4), tr.90-103.

46. Hà Nguyễn Kim Giang (8/2000), “Người nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ”, Tạp chí

Văn nghệ quân đội.

47. Hà Nguyễn Kim Giang (2007), “Những đặc điểm tâm lí tiếp nhận đến tiếp nhận

văn học của trẻ”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

48. Hà Nguyễn Kim Giang (2010), “Tác phẩm văn học với vấn đề phát triển thẩm mĩ

cho trẻ mẫu giáo, vấn đề lí luận và thực tiễn”, Đào tạo giáo viên mầm non trong

thời kì hội nhập quốc tế, Kỉ yếu hội thảo, Khoa Giáo dục Mầm non, Trường ĐHSP

Hà Nội, tr.11-17.

49. Phùng Hà (26/02/2016), “Nhà văn Jean-Pierre Orban: triết học trong tác phẩm cho

trẻ em rất quan trọng”, Nguồn: www.nxbkimdong.com.vn.

50. Phạm Minh Hạc (1997), Tâm lí học đại cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

51. Phạm Minh Hạc (1997), Tâm lí học Vư-Gốt – xki, NXb Giáo dục, Hà Nội.

52. Đoàn Thạch Hãn (06/05/2012), “Nhà văn Duyên Anh: Đời lưu vong bi kịch”,

Nguồn: http://vanchuongplusvn.blogspot.com/2012/05/nha-van-duyen-anh-oi-luu-

vong-bi-kich.html.

53. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ văn học,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

54. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2013), Con người cá nhân trong tiểu thuyết và truyện

ngắn Việt Nam sau 1975, Luận án tiến sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà

Nội.

156

55. Đặng Thị Hạnh (1990), “Đứa trẻ và thành phố trong "Thiên sứ" của Phạm Thị

Hoài”, Tạp chí Văn học (4), tr.34-37.

56. Đặng Thị Hạnh (1998), “Tự thuật và tiểu thuyết Pháp thế kỉ XX”, Tạp chí Văn học

(5), tr35-46.

57. Nguyễn Văn Hạnh (1993), “Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cách

nhìn về con người”, Tạp chí Văn học (3), tr.20-23.

58. Đỗ Thị Hiên (2004), “Điểm nhìn với kiến tạo lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn

Bức tranh của Nguyễn Minh Châu”, Tạp chí Giáo dục (101), tr.36-38.

59. Hoàng Ngọc Hiến (2006), Triết lí văn hóa và triết luận văn chương, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

60. Phạm Ngọc Hiền (2012), Tiểu thuyết Việt Nam 1945-1975, Nxb Văn học, Hà Nội.

61. Nguyễn Hiền (08/06/2011), “Văn học thiếu nhi: câu chuyện mở ra từ chính con

mình”, Nguồn: www.nxbkimdong.com.vn.

62. Trần Ngọc Hiếu (2012), Lý thuyết trò chơi và một số hiện tượng thơ ca Việt Nam,

Luận án tiến sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

63. Hải Hồ (1981), “Nghĩ về tính hấp dẫn trong truyện thiếu nhi”, Văn nghệ (333).

64. Lê Hoa (05/05/2015), “Văn học thiếu nhi góp phần định hướng nhân cách và phát

triển tâm hồn, trí tuệ cho trẻ”, Nguồn: http://vannghetre.com.vn.

65. Phạm Thị Hoài (1989), “Viết như một phép ứng xử”,

Nguồn: http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p0/c7/n21919/Viet-nhu-mot-phep-ung-

xu.html.

66. Phạm Thị Hoài (1990), “Một trò chơi vô tăm tích”, Văn nghệ (7), tr.2-7.

67. Nguyễn Thị Kim Hồng (5/4/2015), “Phát huy sức mạnh giáo dục nhân cách cho trẻ

bằng văn học thiếu nhi”, Nguồn: http://tapchivan.com.

68. Văn Hồng (1986), Hoa trái đầu mùa, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

69. Văn Hồng (1997), Mười năm ghi nhận, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

70. Văn Hồng (2012), Văn học thiếu nhi, nửa thế kỉ một con đường, Nxb Kim Đồng,

Hà Nội.

71. Đỗ Huệ (21/04/2015), “Văn hóa đọc của giới trẻ hiện nay - nghĩ và ngẫm”, Nguồn:

http://www.ngaynay.vn.

157

72. Nguyễn Thị Huế (1996), Nhân vật xấu xí và tài ba trong truyện cổ tích các dân tộc

Việt Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ Văn, Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.

73. Châu Minh Hùng (2/6/2006). “Trẻ em và văn học”, Nguồn: http://vnexpress.net.

74. Châu Minh Hùng (2009), Hệ thống thể loại văn học thiếu nhi, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

75. Dương Thị Hương (2001), Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong tiểu thuyết Tự lực

văn đoàn, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

76. Đỗ Thu Hương (2001), Phương thức huyền thoại hóa và sự biểu hiện của đời sống

tâm linh trong văn xuôi Việt Nam từ sau 1975, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Đại học

Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

77. Lê Thị Hường (1994), “Quan niệm con người cô đơn trong truyện ngắn hôm nay”,

Tạp chí văn học (2), tr.29-34.

78. Đoàn Trọng Huy (2006), “Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Khải”,

Nghiên cứu văn học (5), tr.87-96.

79. M. Ilin (1993), “Tôi đã trở thành nhà văn viết cho thiếu nhi như thế nào?” Tạp chí

văn học (5), tr.43.

80. Nguyễn Khải (1998), “Cặp mắt trong veo của trẻ thơ”, Thế giới mới (6), tr.70-80.

81. Duy Khán (9/1986), “Tôi viết Tuổi thơ im lặng”, Báo Giáo viên nhân dân (44).

82. Nguyễn Vy Khanh (30/09/2012), “Nhà văn Duyên Anh”,

Nguồn: http://www.vanchuongviet.org.

83. Thụy Khuê (2005), “Phê bình văn học thế kỷ XX,Chương 8,Bakhtine (1895-1975),

François Rabelais và nền văn hoá dân gian thời Trung Cổ và Phục Hưng”, Nguồn:

http://thuykhue.free.fr.

84. Thụy Khuê (04/07/2014), “Văn học miền Nam”, Nguồn: http://thuykhue.free.fr.

85. Phùng Ngọc Kiếm (1998), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945-1975,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

86. Nguyễn Kiên (05/04/1986), “Về sức tưởng tượng của đồng thoại”, Văn nghệ (14).

87. Milan Kundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Đà

Nẵng, Đà Nẵng.

158

88. Lê Nhật Ký (2011), Thể loại truyện đồng thoại trong văn học thiếu nhi hiện đại,

Luận án TS Ngữ văn, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn tp Hồ Chí Minh, Tp

Hồ Chí Minh.

89. Lê Nhật Ký (30/05/2013), “Cái kì ảo trong văn học thiếu nhi Việt Nam”, Yếu tố kỳ

ảo và huyền thoại trong văn học, Kỉ yếu hội thảo, Trường ĐH Khoa học Huế, Huế.

90. Lê Nhật Ký (21/09/2014), “Các nhân vật của Andersen: Khước từ sự đền đáp”,

Nguồn: http://lenhatky.vnweblogs.com.

91. Làm theo lời Bác dạy (1970), Nxb Kim đồng, Hà Nội.

92. Lưu Thị Lan (1996), Những bước phát triển ngôn ngữ trẻ em từ 1 đến 6 tuổi trên

tư liệu ngôn ngữ trẻ em ở nội thành Hà Nội, LATS Ngữ văn, Đại học Khoa học xã

hội và nhân văn, Hà Nội.

93. Tôn Phương Lan (1994), “Chiến tranh qua các tác phẩm văn xuôi được giải”, Tạp

chí văn học (12), tr.14-16.

94. Tôn Phương Lan (1997), “Một vài loại hình nhân vật trong sáng tác của Nguyễn

Minh Châu”, Tạp chí văn học (6), tr.37-47.

95. Tôn Phương Lan (2001), “Một vài suy nghĩ về con người trong văn xuoi thời kỳ

đổi mới”, Tạp chí văn học (9), tr.43-48.

96. Tôn Phương Lan (2004), “Truyện ngắn chiến tranh nhìn từ sự vận động của thể

loại”, Nghiên cứu văn học (11), tr.62-74.

97. Phong Lê (1995), “Đi tìm đặc trưng cho văn học thiếu nhi”, Tạp chí văn học (5),

tr27-28.

98. Phong Lê (17/05/2010), “Văn học với yêu cầu giáo dục nhân cách cho trẻ em”,

Nguồn: http://unescovietnam.vn.

99. Huỳnh Mai Liên (1/6/2007), “Mở toang trí tưởng tượng cho trẻ em”, Nguồn:

http://giaitri.vnexpress.net.

100. Lê Phương Liên (12/2/2003), “Mong ước đổi mới cho văn học thiếu nhi hiện

nay”, Thông tin khoa học Sư phạm (3), tr.35.

101. Lê Phương Liên (09/06/2012), “Thăng trầm văn học thiếu nhi”, Nguồn:

http://vanchuongplusvn.blogspot.com.

159

102. Lê Phương Liên (25/08/2015), “Văn học thiếu nhi Việt Nam, đổi mới, hội nhập

để trở về bản sắc”, Nguồn: http://thieunhivietnam.vn.

103. Vân Long (6/1999). Cuộc giành giật thời gian từ một em nhỏ hôm nay. Tạp chí

Vì trẻ thơ (101), tr.17.

104. Nguyễn Văn Long (2005), “Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu văn học sử

Việt Nam từ sau 1975, Nguồn: talawas.org.

105. Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

106. Nguyễn Văn Long (2006), “Tiến trình văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng

Tám năm 1945 nhìn từ sự vận động của quan niệm nghệ thuật về con người”,

Tạp chí Cộng sản (43), tr.24-28.

107. Nguyễn Văn Long (Chủ biên) (2008) , Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng

tháng 8 năm 1945 (Giáo trình), Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội

108. Nguyễn Văn Long, Lê Thị Thu Hằng (2012). “Những cách tân nghệ thuật của

tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI”, Nguồn: http://vannghequandoi.com.vn.

109. Nguyên Văn Long (Chủ biên) (2012), Phê bình văn học Việt Nam 1975-2005,

Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

110. Nguyễn Văn Long (2013), Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại (tập 2), Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

111. Phương Lựu (2001), Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX, Nxb Văn

học - Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

112. Lã Thị Bắc Lý (2000), Truyện viết cho thiếu nhi sau 1975, Đại học Quốc gia Hà

Nội, Hà Nội.

113. Lã Thị Bắc Lý (2007), Giáo trình Văn học trẻ em, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội,

Hà Nội.

114. Lã Thị Bắc Lý (2010), “Văn hóa đọc của trẻ em hiện nay - một vấn đề đáng báo

động”, Tạp chí giáo dục (232), tr.57-58.

115. Lã Thị Bắc Lý (2011), “Ảnh hưởng của sách - báo tới sự phát triển ngôn ngữ trẻ

em thời kì hội nhập quốc tế”, Tạp chí Giáo dục (255), tr.39-40.

160

116. Lã Thị Bắc Lý (2012), Giáo trình văn học thiếu nhi và đọc, kể diễn cảm : Dành

cho hệ Cao đẳng Sư phạm Mầm non, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

117. Lã Thị Bắc Lý (2016), Văn học thiếu nhi Việt Nam thời kì hội nhập, Nxb Đại học

Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

118. Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em (1998), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

119. Nguyễn Đăng Mạnh (1995), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

120. Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Văn Long (2004), Lịch sử Văn học Việt Nam (tập

3), Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

121. E. Meletinsky (2004), Thi pháp của huyền thoại (Trần Nho Thìn, Song Mộc

dịch),Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

122. X. Mikhancop (1982), Văn học và trẻ em (Xuân Tửu dịch), Nxb Kim Đồng, Hà

Nội.

123. Nguyễn Thị Tuyết Minh (2009), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1945 đến nay,

Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện văn học.

124. Sương Nguyệt Minh (2014), “Ở đất kẻ thù- góc nhìn khác về chiến tranh”, Nhà

văn và tác phẩm (5), tr.158-162.

125. M. Montessori (1936), Trẻ thơ trong gia đình , Nxb Tri thức, Hà Nội.

126. Lê Thị Hoài Nam (2010), Bài giảng văn học thiếu nhi Việt Nam (in lần thứ 2),

Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

127. Vũ Tú Nam (03/01/1981), “Từ quan sát cụ thể đến hình tượng văn học”, Văn

nghệ (1).

128. Mai Quỳnh Nga (13/08/2015), “Vực dậy văn học thiếu nhi: chuyện không chỉ

của các nhà văn”, Nguồn: http://vannghetre.com.vn.

129. Nguyễn Thị Việt Nga (2012), Vấn đề thân phận con người trong tiểu thuyết đô

thị miền Nam 1954-1975, Luận án tiến sĩ văn học, Học viên khoa học xã hội, Hà

Nội.

130. Nguyễn Thị Việt Nga (01/07/2015), Văn học đô thị miền Nam: một bộ phận văn

học dân tộc cần được tiếp tục nghiên cứu, Nguồn: http://nhavantphcm.com.vn.

161

131. Hương Ngàn (2011), Trẻ em hôm nay - Thế giới ngày mai, Nxb Đại học Sư phạm

thành phố Hồ Chí Minh, tp Hồ Chí Minh.

132. Diệu Ngân (21/09/2013), “Trẻ em Việt thời chiến đôi mắt sáng dưới vành mũ

rơm”, Nguồn: http://vtv.vn.

133. Nguyên Ngọc (1987), “Cần phát huy đầy đủ chức năng xã hội của văn học thiếu

nhi”, Báo văn nghệ (44).

134. Nguyên Ngọc (1993), “Viết cho các em hôm nay càng khó khăn hơn”, Tạp chí

văn học (5), tr.4-5.

135. Trần Đức Ngôn, Dương Thu Hương (2004), Giáo trình Văn học thiếu nhi Việt

Nam, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

136. Đào Thủy Nguyên (2000), “Thế giới nhân vật Nguyễn Khải theo dòng thời gian”,

Tạp chí văn học (12), tr.74-79.

137. Đào Thủy Nguyên (2001), “Thế giới nhân vật Nguyễn Khải trong cảm hứng

nghiên cứu phân tích”, Tạp chí văn học (11), tr.53-63.

138. Lã Nguyên (1999). "Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn", Nghiên

cứu văn học (9), tr.63.72.

139. Lã Nguyên (2009), “Chủ nghĩa hậu hiện đại như một hệ hình thế giới quan”,

Nguồn: http://vanhoanghean.com.vn.

140. Lã Nguyên (2014), “Văn xuôi hậu hiện đại Việt Nam: quốc tế và bản địa, cách

tân và truyền thống”, Nguồn: http://phebinhvanhoc.com.vn.

141. Phạm Xuân Nguyên (2012), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn hóa thông tin,

Hà Nội.

142. Nguyễn Vĩnh Nguyên (02/05/2013), “Sách Những mảnh đời được ban tặng”,

Nguồn: http://www.trithucthoidai.vn.

143. Trần Thị Mai Nhân (2011), “Đổi mới nghệ thuật kết cấu tác phẩm trong tiểu

thuyết Việt Nam cuối thế kỷ XX”, Tuyển tập Việt Nam học, tr.295-314.

144. Nguyễn Thị Nhất , Nguyễn Khắc Viện (1997), Tâm lí trẻ em, Nxb Trẻ, Tp Hồ

Chí Minh.

145. Nhiều tác giả (2003), Văn học hậu hiện đại thế giới, những vấn đề lý thuyết, Nxb

Hội Nhà văn - Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

162

146. Nhiều tác giả (2009), Kỉ yếu hội thảo Những ảnh hưởng của văn học thiếu nhi

đến sự phát triển nhân cách trẻ em trong thời kì đổi mới và hội nhập, Nxb Đại

học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

147. Nhiều tác giả (1940), Tết của trẻ em, Nxb Rạng Đông, Hà Nội.

148. Nhiều tác giả (1960), Kinh nghiệm viết cho các em (Vũ Ngọc Quỳnh, Xuân Tửu

dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.

149. Nhiều tác giả (1982), Văn học và trẻ em (Xuân Tửu, Phương Thảo, Vũ Ngọc

Bình dịch), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

150. Nhiều tác giả (1982), Vì tuổi thơ, Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn, Hà Nội.

151. Nhiều tác giả (1983), Bàn về văn học thiếu nhi, Nxb Kim đồng, Hà Nội.

152. Nhiều tác giả (2008), Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945,

Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

153. Nhiều tác giả (2009), “Những ảnh hưởng của văn học thiếu nhi đến sự phát triển

nhân cách trẻ em trong thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế”, Nxb Đại học Sư

phạm Hà Nội, Hà Nội.

154. Nhiều tác giả (2013), Trẻ em thời chiến (sách ảnh), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

155. Nhiều tác giả (2015), Nguyễn Nhật Ánh hiệp sĩ của tuổi thơ, Nxb Đại học sư

phạm Hà Nội, Trung tâm ngôn ngữ và văn học nghệ thuật trẻ em, Hà Nội.

156. Vũ Nho (25/05/2015), “Tô Hoài - cây đại thụ của văn học thiếu nhi”, Nguồn:

http://tohoai.vn.

157. Lê Thiếu Nhơn (13/08/2015), “Văn học bỏ thiếu nhi, hay thiếu nhi bỏ văn học?”,

Nguồn: http://lethieunhoncom.blogspot.com.

158. Mai Thị Nhung (2005), “Đặc điểm thế giới nhân vật Tô Hoài”, Nghiên cứu văn

học (4), tr121-125.

159. Nguyễn Thị Tuyết Nhung (2015), Văn xuôi tiếng Việt ở nước ngoài từ 1975 đến

nay, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

160. Đỗ Hải Ninh (2012), Tiểu thuyết có khuynh hướng tự truyện trong văn học Việt

Nam đương đại, Luận án tiến sĩ Văn học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.

161. Noxop. (1982). Những em bé giàu trí tưởng tượng (Hoàng Anh dịch), Nxb Măng

Non, tp Hồ Chí Minh.

163

162. Mai Hải Oanh (2009), Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam

đương đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

163. L. Odelte (2001), Trẻ em, văn hóa, giáo dục, Kỉ yếu hội thảo Việt - Pháp về tâm

lí học (Nguyễn Minh Đức, Văn Thị Kim Cúc dịch), Nxb Thế giới, Hà Nội.

164. Lê Phát (01/04/1989), “Đọc Miền thơ ấu của Vũ Thư Hiên”, Văn nghệ (3).

165. Nguyễn Phúc (1995), Khảo sát sự du nhập của phân tâm học và chủ nghĩa hiện

sinh vào văn học đô thị miền Nam trước năm 1975, LA PTS KH Ngữ văn, Đại

học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.

166. Huỳnh Như Phương (1991). "Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ hóa nền

văn học", Tạp chí văn học (4), tr.14-17.

167. Huỳnh Như Phương (2009). "Một số biểu hiện của sự đổi mới nhân vật người kể

chuyện trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1985 đến nay", Tạp chí khoa học (2), tr.64-71.

168. Nguyễn Thị Hải Phương (2009), “Một số biểu hiện của sự đổi mới nhân vật

người kể chuyện trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1985 đến nay”, Tạp chí khoa học

(2), Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tr.64-71.

169. Jean Piaget (2013), Sự ra đời trí khôn ở trẻ em (Hoàng Hưng dịch), Nxb Tri thức,

Hà Nội.

170. Jean Piaget (2016), Sự hình thành biểu tượng ở trẻ em (Nguyễn Xuân Khánh,

Hoàng Hưng dịch), Nxb Tri thức, Hà Nội.

171. G.N.Pospelov ( 1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học (Trần Đình Sử, Lại Nguyên

Ân, Lê Ngọc Trà, Nguyễn Nghĩa Trọng dịch). Nxb Giáo dục, Hà Nội.

172. V.Ia. Propp (2003). Tuyển tập V.IA.Propp (Nhiều người dịch), Nxb Văn hóa dân

tộc, Tạp chí văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.

173. Phan Quế (7/1999), “Đừng bắt trẻ con làm đồng niên với mình quá sớm”, Tạp

chí Vì trẻ thơ (1022), tr.17.

174. Lê Minh Quốc (2014), Nguyễn Nhật Ánh, hoàng thử bé trong thế giới tuổi thơ,

Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

175. Nguyễn Quỳnh (1993), “Viết và vẽ cho thiếu nhi”, Tạp chí văn học (5) tr32-33.

176. Nguyễn Quang Sáng (1985), “Viết về một dòng sông”, Báo Văn nghệ (1).

177. Chu Văn Sơn (1993), “Trở lại tuổi thơ của chính mình”, Tạp chí Sông Hương

(3), tr62-63.

164

178. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam, quan niệm con người và

tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

179. Nguyễn Hữu Sơn (2011), “Du ký của người Việt Nam viết về các nước và và

những đóng góp vào quá trình hiện đại hóa văn xuôi tiếng Việt giai đoạn thế kỷ

XIX – đầu thế kỷ XX”, Văn học cận đại Đông Á từ góc nhìn so sánh (Đoàn Lê

Giang chủ biên), NXB TP Hồ Chí Minh. tr.632-645.

180. Trần Đình Sử (1986), "Mấy ghi nhận về sự đổi mới tư duy nghệ thuật và hình

tượng con người trong văn học ta thập kỉ qua", Tạp chí văn học (6), tr.12-17.

181. Trần Đình Sử (1995), "Con người trong văn học Việt Nam sau 1945", Một thời

đại trong văn học, Nxb Văn học, tr.43-95.

182. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

183. Trần Đình Sử (2001), "Mấy vấn đề trong quan niệm con người của Văn học Việt

Nam thế kỉ XX", Tạp chí văn học (8), tr.6-13.

184. Trần Đình Sử (2007), Tự sự học, phần 1, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

185. Trần Đình Sử (2008), Tự sự học, phần 2, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

186. Trần Đăng Suyền (2002), Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

187. Trần Đăng Suyền (2003), Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo, Nxb

Văn học, Hà Nội.

188. Trần Đăng Suyền (2013), Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam nửa đầu

thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

189. Trần Đăng Suyền (2014), Phương pháp nghiên cứu và phân tích tác phẩm văn

học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

190. Trần Đăng Suyền, Nguyễn Văn Long (2014), Giáo trình văn học Việt Nam hiện

đại (Tập 1), Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

191. Phạm Bá Tân (2004), “Đóng góp của Phạm Hổ cho một thể loại văn học thiếu

nhi”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (9), tr.123-130.

192. Nguyễn Quang Thân (1993), “Văn học – Hành trang đường đời của trẻ thơ”, Tạp

chí Văn học (5), tr.6-7.

193. Bùi Việt Thắng (1991), "Văn xuôi gần đây và quan niệm con người", Tạp chí

Văn học (6), tr.16-20.

165

194. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hóa- thông tin, Hà Nội.

195. Nguyễn Thành ( 2012), “Khuynh hướng lạ hóa trong tiểu thuyết Việt Nam đương

đại- một số bình diện tiêu biểu”, Nghiên cứu Văn học (4), tr.5.

196. Nguyễn Thị Thanh (2011), Tiểu thuyết về chiến tranh trong văn học Việt Nam

sau 1975- những khuynh hướng và sự đổi mới nghệ thuật, Luận án Tiến sĩ Ngữ

văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

197. Phạm Trung Thanh (Chủ biên) (1984), Vấn đề giáo dục trẻ em hiện nay, Trường

Đại học Sư phạm Vinh, Vinh.

198. Phạm Thị Thành (1996), Nghệ thuật sân khấu dành cho trẻ em Việt Nam, Luận

án PTSKH Nghệ thuật, Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam, Hà Nội.

199. Vân Thanh (1975), "Bước đi lên của văn học thiếu nhi Việt Nam". Tạp chí Văn

học (5), tr.35-48.

200. Vân Thanh (1999), Phác thảo văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

201. Vân Thanh (2000), Văn học thiếu nhi như tôi từng biết , Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

202. Vân Thanh, Nguyên An (2002), Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam, Từ

điển bách khoa, Hà Nội.

203. Vân Thanh (2003), Văn học thiếu nhi Việt Nam tập 1, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

204. Vân Thanh (2003), Văn học thiếu nhi Việt Nam tập 2, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

205. Vân Thanh (2006), Tác giả văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa,

Hà Nội.

206. Bích Thu (1995), "Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau 1975 qua hệ

thống mô típ chủ đề", Tạp chí văn học (4), tr.24-28.

207. Nguyễn Thị Bích Thu (2006), "Nhận dạng nhân vật trong truyện ngắn 1945-

1975", Nghiên cứu văn học (6), tr.109-118.

208. Nguyễn Thị Bích Thu (2006), "Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau

1975", Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy , Nxb

Giáo dục, tr.225-235.

209. Nguyễn Thị Bích Thu (2007), Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945-1975 (nhìn

từ góc độ thi pháp thể loại), Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện văn học, Hà Nội.

166

210. Đỗ Lai Thúy (Biên soạn) (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp (Lý thuyết chủ

nghĩa hình thức Nga), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

211. Đỗ Lai Thúy (2005), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, Nxb Văn

hóa thông tin, Tạp chí văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.

212. Nguyễn Thị Thúy (2004), Nhân vật anh hùng trong sáng tác của Nguyễn Huy

Tưởng, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

213. Nguyễn Thị Bích Thủy (2006), "Nhận dạng nhân vật trong truyện ngắn 1945-

1975", Nghiên cứu văn học (7), tr.109-118.

214. Nguyễn Thị Kim Tiến (2012), Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi

mới, Luận án tiến sĩ văn học, Trường Đại học KHXH và Nhân văn, Hà Nội.

215. T. Todorov (2004), Thi pháp văn xuôi, (Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch), Nxb

Đại học Sư phạm, Hà Nội.

216. T. Todorov (2008), Dẫn luận về văn chương kì ảo, (Đặng Anh Đào, Lê Hồng

Sâm dịch), Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

217. Nguyễn Thị Thu Trang (2007), “Vài nét về văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn

1954-1975”, Nghiên cứu văn học (5), tr.94-107.

218. Nguyễn Thị Thu Trang (2015), Văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1975

nhìn từ các giá trị văn hoá truyền thống, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ

Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.

219. Đỗ Bình Trị (2006), Truyện cổ tích thần kì Việt đọc theo hình thái học của truyện

cổ tích của V.Ja.Propp, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Tp Hồ

Chí Minh.

220. Bùi Thanh Truyền (2007), Thi pháp văn học thiếu nhi, Bộ giáo dục đào tạo, dự

án phát triển giáo viên, Huế.

221. Bùi Thanh Truyền (2015), Nẻo vào văn học thiếu nhi, Nxb Văn học, Hà Nội.

222. Bùi Thanh Truyền (2015), “Văn học thiếu nhi sau 1986 từ cái nhìn toàn cảnh”,

Tạp chí Sông Hương , tr.6 -15.

223. Mai Anh Tuấn (27/01/2013),“Tìm lại những tiếng nói”,

Nguồn: https://maianhtuan.wordpress.com.

224. Nguyễn Văn Tùng (09/06/2011), “Văn học thiếu nhi với việc hình thành văn hóa

đọc”, Nguồn: http://vannghequandoi.com.vn.

167

225. Nguyễn Văn Tùng (2012), Một lần và mãi mãi, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

226. Dương Thị Ánh Tuyết (2008), Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết

của Mart Twain, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện văn học, Hà Nội.

227. Nguyễn Ánh Tuyết (1998), Tâm lí học trẻ em, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

228. Nguyễn Ánh Tuyết (2000), Đôi điều cần biết về sự phát triển của trẻ thơ, Nxb

Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

229. Nguyễn Ánh Tuyết (2014), Tâm lí học trẻ em lứa tuổi mầm non, Nxb ĐH Sư

phạm Hà Nội, Hà Nội.

230. Nguyễn Khắc Viện (1986), Tìm hiểu trẻ em, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

231. Nguyễn Khắc Viện (1991), Từ điển tâm lí, Nxb Ngoại văn, Hà Nội.

232. Phan Thị Việt, Lê Ánh Tuyết, Cao Đức Phát (2002), Văn học và phương pháp

cho trẻ em tiếp xúc với văn học, Giáo trình đào tạo giáo viên THSP mầm non hệ

12+2 (Tái bản lần 3), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

233. Vũ Tú Nam, Phạm Hổ (1996), Văn miêu tả và văn kể chuyện, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

234. Vưgốtxki (2002), Trí tưởng tượng sáng tạo ở tuổi thiếu nhi, (Duy Lập dịch, Nxb

Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

235. Nguyễn Thị Vượng (2006), Thi pháp nhân vật trong "Sông đông êm đềm của

Sôlôkhốp, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

236. H. Wallon (2014), Quá trình phát triển tâm lí của trẻ em, (Tạ Thị Phương Thúy

dịch), Nxb Thế giới, Hà Nội.

237. Xli-kha-chốp (1989), “Thời gian nghệ thuật của tác phẩm văn học”, (La Khắc

Hòa dịch), Tạp chí Văn học (3), tr.60-65.

Tiếng Anh, tiếng Pháp

238. Charlotte S.Huck, Susan Hepler, Janet Hickman, Barbara Z. Kiefer (2004),

Children's Literature in the Elementary School, McGraw – Hill, New York.

239. Donna E. Norton, Saundra E. Norton and Amy McClure (2003), Through the

eyes of a child : an introduction to children's literature, Upper Saddle River,

N.J.: Merrill/Prentice Hall.

168

240. Margaret. R.Marshall (1988), An introduction to the world of children’s books,

Gower, Hardcover.

241. Maria Nikolajeva (2005), Aesthetic appoaches to children’s literature: An

introduction, Scarecrow Press, Maryland.

242. Maria Nikolajeva (2003), The rhetoric of character in children’s literature,

Scarecrow Press, Lanham, Maryland and Oxford.

243. Philippe Lejeune (1975), Le pacte autobiographique, Seuil, Paris.

244. Jan Susina (2004), “Children’s literature”, http://www.encyclopedia.com.

245. Temple, Martinez, Yokota and Naylor, Children’s books in children’s hands: An

introduction to their literature, Allyn and Bacon, Boston.

DANH MỤC TÁC PHẨM KHẢO SÁT

246. Edmondo de Amicis (2014), Những tấm lòng cao cả, (In lần thứ 7), Nxb Kim

Đồng, Hà Nội.

247. Hà Ân (2006), Trăng nước Chương Dương, (In lần thứ 6), Nxb Kim Đồng, Hà

Nội.

248. Tạ Duy Anh (2013), Đối thủ còi cọc, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

249. Duyên Anh (1960), Con sáo của em tôi, Nguồn: vietnamthuquan.net.

250. Duyên Anh (1960), Dũng Đakao, Nxb Đời mới, Sài Gòn.

251. Duyên Anh (1963), Điệu ru nước mắt, Nxb Đời mới, Sài Gòn.

252. Duyên Anh (1964), Ảo vọng tuổi trẻ, Thứ tư tạp chí số đặc biệt tháng mười.

253. Duyên Anh (1967), Châu Kool, Nxb Đời mới, Sài Gòn.

254. Duyên Anh (1967), Thằng Vũ (In lần thứ 3), Búp bê, Gia Định.

255. Duyên Anh (1968), Giấc mơ một loài cỏ, Nxb Đời mới, Sài Gòn.

256. Duyên Anh (1968), Mây mùa thu, Búp bê, Phú Nhuận.

257. Duyên Anh (1969), Ánh mắt trông theo, Tuổi Ngọc, Sài Gòn.

258. Duyên Anh (1969), Thằng Côn, Tuổi Ngọc, Gia Định.

259. Duyên Anh (1969), Mơ thành người Quang Trung, Vàng Son, Sài Gòn.

260. Duyên Anh (1970), Chương Còm, Tuổi Ngọc, Sài Gòn.

169

261. Duyên Anh (1970), Mặt trời nhỏ, Tuổi Ngọc, Sài Gòn.

262. Duyên Anh (1971), Lứa tuổi thích ô mai, Nxb Đồng Nai.

263. Duyên Anh (1971), Tuổi mười ba, Đồng Nai.

264. Duyên Anh (1971), Áo tiểu thư, Nguyễn Đình Vượng, Biên Hòa.

265. Duyên Anh (1971), Giặc Ô kê, Tuổi Ngọc, Đồng Nai.

266. Duyên Anh (1972), Thằng Khoa, Tuổi Ngọc, Biên Hòa.

267. Duyên Anh (1972), Phượng vĩ, Tuổi Ngọc, Biên Hòa.

268. Duyên Anh (1972), Ngựa chứng sân trường, Vàng Son.

269. Duyên Anh (1975), Dấu chân sỏi đá, Thứ tư tuần san xuất bản, MCMLXVII.

270. Nguyễn Nhật Ánh (2002), Kính vạn hoa, Nguồn: http://www.gacsach.com.

271. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Chuyện xứ Langbiang, (Trọn bộ), Nxb Kim Đồng, Hà

Nội.

272. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Người bạn lạ lùng, Nguồn: http://gacsach.com.

273. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Hoa hồng xứ khác, (In lần thứ 19), Nxb Trẻ, Tp Hồ

Chí Minh.

274. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Chuyện cổ tích dành cho người lớn, (In lần thứ 22),

Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

275. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Buổi chiều windows, (In lần thứ 16), Nxb Trẻ, Tp Hồ

Chí Minh.

276. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Thiên thần nhỏ của tuổi, (In lần thứ 20), Nxb Trẻ, Tp

Hồ Chí Minh.

277. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Chú bé rắc rối, (In lần thứ 21), Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí

Minh.

278. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Hạ đỏ, (In lần thứ 22), Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

279. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Phòng trọ ba người, (In lần thứ 21), Nxb Trẻ, Tp Hồ

Chí Minh.

280. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Út Quyên và tôi, (In lần thứ 19), Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí

Minh.

281. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí

Minh.

170

282. Nguyễn Nhật Ánh (2011), Lá nằm trong lá, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

283. Nguyễn Nhật Ánh (2011), Đi qua hoa cúc, (In lần thứ 17), Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí

Minh.

284. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, (Tái bản lần thứ 12)

Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

285. Nguyễn Nhật Ánh (2012), Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí

Minh.

286. Nguyễn Nhật Ánh (2013), Ngồi khóc trên cây, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

287. Nguyễn Nhật Ánh (2014), Những cô em gái, (In lần thứ 24), Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí

Minh.

288. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Bảy bước tới mùa hè, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

289. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Đảo mộng mơ, (Tái bản lần thứ 13), Nxb Trẻ, Tp Hồ

Chí Minh.

290. Astrid Lindgren (2008), Lại thằng nhóc Emil, Nhã Nam, Nxb Hội nhà văn, Hà

Nội.

291. Astrid Lindgren (2007), Pippi tất dài, Nhã Nam, Nxb Văn học.

292. Astrid Lingren (2014), Mio, con trai ta, Nhã Nam, Nxb Hội nhà văn.

293. Lê Bầu (2014), Tuổi thơ Hà Nội ngày xưa, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

294. Nguyễn Bình (2011), Cuộc chiến với hành tinh Fantom, tập 1, Nxb Trẻ, Tp Hồ

Chí Minh.

295. Nguyễn Bình (2012), Cuộc chiến với hành tinh Fantom, tập 2, Nxb Trẻ, Tp Hồ

Chí Minh.

296. Nguyễn Bình (2012), Cuộc chiến với hành tinh Fantom, tập 3, Nxb Trẻ, Tp Hồ

Chí Minh.

297. Thu Bồn (1978), Cơn giông tuổi thơ, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

298. Hoàng Văn Bổn (1984), Tuổi thơ trong làng, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.

299. Nam Cao (2004), Truyện ngắn Nam Cao, Tủ sách vàng, (In lần thứ 4 theo bản in

năm 1998), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

300. Nguyễn Minh Châu (2002), Giã từ tuổi thơ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

301. Trần Thanh Địch (1993), Một cần câu, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

171

302. Trần Thanh Địch (2002), Tổ tâm giao (tập truyện và ký), Nxb Kim Đồng, Hà

Nội.

303. Trần Hoài Dương (2010), Miền xanh thẳm, Nxb Văn học, Trung tâm ngôn ngữ

Đông Tây, Hà Nội.

304. Hoàng Anh Đường (1962), Những cô tiên áo nâu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

305. Hodgson Burnett Frances (2015), Công chúa nhỏ (Nguyên Tâm dịch), Nhã Nam,

Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

306. Minh Giang (1969), Năm thứ nhất,(In lần thứ 2 có sửa chữa), Nxb Kim Đồng,

Hà Nội.

307. Minh Giang (1971), Xã viên mới, (In lần thứ hai, có sửa chữa), Nxb Kim Đồng,

Hà Nội Minh.

308. Nguyễn Thị Châu Giang (1999), Tóc ngắn, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

309. Trần Thanh Giao (1985), Một vùng sông nước, Sở Văn hóa thông tin Hậu Giang.

310. Đoàn Giỏi (2007), Đất rừng phương Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

311. Kim Hài (2007), Ngày khai trường trong mơ, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

312. Mai Hanh (1963), Nghĩa quân sông Đà, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

313. Đặng Thị Hạnh (1994), Bà và cháu, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

314. Harriet Beecher Stowe (2014), Túp lều bác Tom (Đỗ Đức Hiểu dịch), (In lần thứ 5),

Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

315. Vũ Thư Hiên (1988), Miền thơ ấu, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, tp Hồ

Chí Minh.

316. Bùi Hiển (1965), Quỳnh xóm cháy, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

317. Bùi Hiển (1958), Ngày công đầu tiên của cu Tý, Nguồn: vntim.blogspot.com.

318. Hải Hồ (1971), Chú bé sợ toán, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

319. Trần Ninh Hồ (1985), Đường đến trường, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

320. Phạm Hổ (2013), Chuyện hoa chuyện quả, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

321. Khánh Hoài (1975), Trận chung kết, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

322. Tô Hoài (1959), Hợp tác xã của chúng em, Trung ương đoàn thanh niên lao động

Việt Nam, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

323. Tô Hoài (1959), Hoa Sơn, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

172

324. Tô Hoài (2001), Kim Đồng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

325. Tô Hoài (2007), Dế Mèn, Chim Gáy, Bồ Nông, truyện loài vật, (In lần thứ 22),

Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

326. Tô Hoài (2010), Chuyện nỏ thần, Đảo Hoang, Nhà Chử, (In lần thứ 8) Nxb Kim

Đồng, Hà Nội.

327. Tô Hoài (2014), Nói về cái đầu tôi (Những truyện ngắn sáng tác trước năm

1945), (in lần thứ 2), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

328. Phạm Thị Hoài (1989), Thiên sứ, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

329. Lê Khắc Hoan (1981), Mái trường thân yêu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

330. Nguyễn Công Hoan (1994), Tấm lòng vàng, tái bản, Nxb Văn học, Hà Nội.

331. Nguyên Hồng (1951), Dưới chân cầu mây, Nxb Văn nghệ, Hà Nội.

332. Nguyên Hồng (1973), Một tuổi thơ văn, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

333. Nguyên Hồng (2010), Những ngày thơ ấu, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

334. Nguyên Hồng (2014), Những truyện hay viết cho thiếu nhi, Nguyên Hồng (In lần

thứ 2), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

335. Trần Minh Hợp (2014), Đường chạy mùa xuân, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

336. Khái Hưng (1998), Truyện viết cho thiếu nhi, (Vương Trí Nhàn sưu tầm và biên

soạn) Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.

337. Nguyên Hương (2014), Những truyện hay viết cho thiếu nhi, Nxb Kim Đồng, Hà

Nội.

338. Dương Thu Hương (1985), Hành trình ngày thơ ấu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

339. Trần Thiên Hương (1989), Những quả duối vàng, tập truyện ngắn, Nxb Kim

Đồng, Hà Nội.

340. Trần Thiên Hương (2006), Cỏ may ngày xưa, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

341. Quang Huy (2001), Hoa Xuân Tứ, (In lần thứ 4), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

342. Ken Kesey (2015), Bay trên tổ chim cúc cu (Nguyễn Anh Tuấn – Lê Đình Trung

dịch), Nhã Nam, Nxb Văn học.

343. Duy Khán (2010), Tuổi thơ im lặng, (In lần thứ 3), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

344. Ma Văn Kháng (2012), Côi cút giữa cảnh đời, Nxb Hội nhà văn.

173

345. Ma Văn Kháng (2013), Những truyện hay viết cho thiếu nhi, (In lần thứ 2), Nxb

Kim Đồng, Hà Nội.

346. Minh Khoa (1967), Chú bé Cả Xên, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

347. Nguyễn Kiên (1966), Kể chuyện nông thôn, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

348. Nguyễn Kiên (1987), Năm tôi mười ba tuổi, (In lần thứ 2), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

349. Tét-Su-Ko KuroYanagi (2006), Tottochan cô bé bên cửa sổ (Phí Văn Gừng,

Phạm Huy Trọng dịch), (Tái bản lần thứ nhất), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

350. Nguyễn Ngọc Ký (2001), Tôi đi học,(In lần thứ 4 theo bản in năm 1997) Nxb

Kim Đồng, Hà Nội.

351. Thạch Lam (2000) (Xuân Tùng sưu tầm, biên soạn), Thạch Lam và văn chương,

Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.

352. Lê Phương Liên (1979), (In lần thứ 2), Những tia nắng đầu tiên – Khi mùa xuân

đến, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

353. Quách Liêu (1991), Chú bé thổi khèn, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

354. Phong Linh (2014), Thành phố ngày ta yêu nhau, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

355. Đinh Tiến Luyện (1974), Anh Chi yêu dấu, Nguồn: http://gacsach.com.

356. Mark Twain (2012), Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer, (Tái bản) Đông A,

Nxb Văn học.

357. Lê Minh (2013), Khúc hát vườn trầu, (In lần thứ 4), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

358. Dạ Ngân (2013), Miệt vườn xa lắm, (In lần thứ 4), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

359. Nguyễn Thị Minh Ngọc (1996), Năm đêm với bé Su, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

360. Thy Ngọc (2012), Lớp học của anh Bồ Câu Trắng, (In lần thứ 6), Nxb Kim

Đồng, Hà Nội.

361. Nguyễn Vĩnh Nguyên (2010), Đi tìm hoang dã, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

362. Lê Cảnh Nhạc (1997), Tuyển tập truyện ngắn hay dành cho thiếu nhi, tập 3, Nxb

Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

363. Phan Thị Thanh Nhàn (2012), Tuyển tập, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

364. Nhiều tác giả (1970), Hai bàn tay chiến sĩ,(Tập truyện và ký lọn lọc về đề tài

kháng chiến chống Pháp 1945-1954), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

174

365. Nhiều tác giả (1997), Cái ấm đất,Tuyển những truyện hay viết cho thiếu nhi

(1940-1950), Băng Thanh – Hải Yến sưu tầm, tuyển chọn, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí

Minh.

366. Nhiều tác giả (2013), Cái tết của mèo con, Tập truyện thiếu nhi, Nxb Văn học,

Hà Nội.

367. Nhiều tác giả (1989), Văn xuôi Lãng mạn Việt Nam 1930-1945, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

368. Nhiều tác giả (2011), Chuyến xe buýt thứ 5, tuyển tập truyện ngắn, Nxb Kim

Đồng, Hà Nội.

369. Nhiều tác giả (2011), Tên trộm mơ màng, Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Kim

Đồng, Hà Nội.

370. Paven Vezhinov (1985), Những dấu vết còn lại (Dương Linh dịch), (In lần thứ

4), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

371. Trịnh Thanh Phong (2014), Ngày thơ dại, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

372. Phùng Quán (2006), Tuổi thơ dữ dội, Nxb Văn học, Hà Nội.

373. Võ Quảng (2001), Cái Thăng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

374. Võ Quảng (2013), Những truyện hay viết cho thiếu nhi, Nxb Kim Đồng, Hà Nội

Thanh.

375. Võ Quảng (2014), Quê nội, (In lần thứ 14), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

376. Quế (2003), Cát cháy, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

377. Bùi Minh Quốc (1959), Bé Ly và chú công nhân chữa điện, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

378. Bùi Minh Quốc (2006), Hồi đó ở Sa Kỳ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

379. Nguyễn Quỳnh (1973), Cơn bão số 4, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

380. Nguyễn Quỳnh (1987), Chuyện làng tôi, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

381. Nguyễn Quỳnh (1988), Người đi săn và con sói lửa, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

382. Nguyễn Quỳnh (2011), Cậu bé người rừng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

383. Nguyễn Quỳnh (2003), Rừng đêm, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

384. Nguyễn Quỳnh (2013), Chú sếu vương miện, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

385. Xuân Quỳnh (2014), Những truyện hay viết cho thiếu nhi, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

175

386. Xuân Sách (2011), (In lần thứ 11), Đội thiếu niên du kích Đình Bảng, Nxb Kim

Đồng, Hà Nội.

387. Saint - Exupéry (2014), Hoàng tử bé (Nguyễn Thành Long dịch), (In lần thứ 6),

Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

388. J.D Salinger (2015), Bắt trẻ đồng xanh (Phùng Khánh dịch), Nhã Nam, Nxb Văn học.

389. Nguyễn Quang Sáng (2002), Dòng sông thơ ấu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

390. Sempé, Goscinny (2009), Những kì nghỉ của nhóc Nicolas (Tố Châu dịch), Nhã

Nam, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

391. Sempé, Goscinny (2009), Nhóc Nicolas (Trác Phong dịch), Nhã Nam, Nxb Hội

nhà văn, Hà Nội.

392. Sempé, Goscinny (2010), Nhóc Nicolas: Những chuyện chưa kể (Trác Phong,

Hương Lan dịch), (Tái bản có sửa chữa), Nhã Nam, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

393. Kao Sơn (2002), Khúc đồng dao lấm láp, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

394. Nguyễn Quang Thân (2010), Chú bé có tài mở khóa, Nxb Văn học, Trung tâm

văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

395. Phạm Thắng (2011), (In lần thứ 6), Đội thiếu niên tình báo Bát Sắt, Nxb Kim

Đồng, Hà Nội.

396. Hoàng Dạ Thi (1994), Pê lê trắng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

397. Nguyễn Thi (2014), Người mẹ cầm súng, (In lần thứ 9), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

398. Nguyễn Thi (1996), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

399. Nguyễn Huy Thiệp (2003), Truyện ngắn, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

400. Bắc Thôn (1958), Hai làng Tà Pình và Động Hía, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

401. Phong Thu (2014), Cây bàng không rụng lá, (In lần thứ 3), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

402. Phong Thu (2003), (Tuyển chọn và viết lời bình), Tuyển tập truyện viết cho thiếu

nhi từ sau cách mạng tháng Tám, (Tái bản lần thứ 4), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

403. Nguyễn Ngọc Thuần (2008), Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ, Một thiên nằm

mộng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

404. Nguyễn Ngọc Thuần (2014), Cơ bản là buồn, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

405. Phạm Thị Bích Thủy (2014), Đồi cát bay, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

406. Phạm Ngọc Tiến (2012), Đợi mặt trời, (In lần thứ 8), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

176

407. Nhật Tiến (1960), Những vì sao lạc, Phượng Giang xuất bản.

408. Nhật Tiến (1968), Tay ngọc, (In lần thứ 2), Đông Phương.

409. Nhật Tiến (1969), Những người áo trắng (In lần thứ 3), Huyền Trân.

410. Nhật Tiến (1972), Đường lên núi thiên mã, Huyền Trân.

411. Nhật Tiến (1984), Chim hót trong lồng, Ngàn Lau, San Jose.

412. Trần Đức Tiến (2015), Trên đôi cánh chuồn chuồn, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

413. Thanh Tịnh (2006), Quê mẹ, (In lần thứ 3), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

414. Lê Toán (2007), San hô màu hạt lựu, Nxb Thế giới, Hà Nội.

415. Lê Toán (2008), Bầu trời vẩy tê tê, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

416. Lê Toán (2009), Trái đất thần tiên, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

417. Lê Toán (2012), Trái đất tò he, Nxb Văn học, Hà Nội.

418. Lê Toán (2013), Quẩy những trái đất về nhà, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

419. Phương Trinh (2013) (tuyển chọn), Người đứng bên kia đường, Truyện ngắn 9x,

Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

420. Văn Trọng (1986), Bí mật ở miếu Ba Cô, (In lần thứ 2), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

421. Nguyễn Tuân (1953), Chú Giao làng Seo, S.I: Ngành văn nghệ trung ương.

422. Sơn Tùng (1984), Búp sen xanh, (In lần 2), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

423. Văn Tùng (2012), (In lần thứ 8), Đội thiếu niên du kích thành Huế, Nxb Kim

Đồng, Hà Nội.

424. Cát Tường (2014), Quý cô Horoscope, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

425. Từ Kế Tường (1974), Đường phượng bay, Nguồn: http://gacsach.com.

426. Nguyễn Huy Tưởng (2014), Lá cờ thêu sáu chữ vàng, (In lần thứ 23), Nxb Kim

Đồng, Hà Nội.

427. Nguyễn Huy Tưởng (2014), Những truyện hay viết cho thiếu nhi, (In lần thứ 2),

Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

428. Nghiêm Đa Văn (2012), Sùng rượu thề, (In lần thứ 6), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

429. Wiliam Golding (2010), Chúa ruồi (Lê Chu Cầu dịch) Nhã Nam, Nxb Hội nhà

văn, Hà Nội.

430. R.L. Xtivenxon (2014), Đảo giấu vàng (Hoàng Lan Châu lược dịch và phóng

431. Martel Yanna (2012), Cuộc đời của Pi, (Tái bản), Nxb Văn học, Hà Nội.

tác), (In lần thứ 5), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.