BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

PHẠM QUANG TRUNG

TÌM HIỂU QUAN NIỆM THƠ CỔ VIỆT NAM

LUẬN ÁN PHÓ TIẾN SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 50423

Người hướng dẫn khoa học: PGS. PTS: MAI QUỐC LIÊN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 1996

MỤC LỤC

PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ......................................................................... 3

1. MỤC ĐÍCH VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU.................................................... 3

2. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ............................................................. 9

3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN

.............................................................................................................................................. 14

4- CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .............................................................. 27

5. BỐ CỤC LUẬN ÁN ............................................................................................ 28

PHẦN II: NỘI DUNG CƠ BẢN ................................................................................ 29

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ QUAN NIỆM THƠ CỔ VIỆT NAM ................................... 29

CHƢƠNG 2: NHỮNG QUAN NIỆM CƠ BẢN CỦA NGƢỜI XƢA VỀ THƠ .... 46

1 - Về nhà thơ....................................................................................................... 46

2 – Về thơ với thực tại ......................................................................................... 67

3 - Về nghệ thuật thơ............................................................................................ 93

4 – Về phê bình thơ ............................................................................................ 117

CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA QUAN NIỆM THƠ CỔ VIỆT

NAM .................................................................................................................................. 137

PHẦN III: KẾT LUẬN ............................................................................................. 151

PHỤ LỤC................................................................................................................... 156

SƠ LƢỢC VỀ CÁC TÁC GIẢ .............................................................................. 156

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 170

3

PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1. MỤC ĐÍCH VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU

Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhất là từ sau khi hòa bình đƣợc lập lại ở

miền Bắc năm 1954, di sản văn chƣơng trong quá khứ của dân tộc bao gồm văn chƣơng dân

gian và văn chƣơng bác học, cả sáng tác và lý luận đã đƣợc giới nghiên cứu quan tâm tìm

hiểu và đã thu đƣợc nhiều thành tựu đáng kể. Riêng văn chƣơng trung đại, chúng ta đã có thể

nói tới việc phát hiện ra Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm, phát hiện lại thời đại Lý - Trần,

Nguyễn Du, Cao Bá Quát.

Tuy nhiên, chƣa thể nói tới sự phát hiện với quy mô và tính chất nhƣ vậy đối với di

sản lý luận văn chƣơng cổ của dân tộc. Năm 1981, trong "Từ trong di sản... - Mấy điều thu

hoạch" nhân Nhà xuất bản Tác phẩm mới ấn hành cuốn "Từ trong di sản...", Nguyễn Minh

Tân đã xác nhận: "Đối với di sản văn học, nếu nhƣ phần sáng tác đã đƣợc phát hiện, thì phần

di sản tƣ tƣởng lý luận văn nghệ (chữ in nghiêng do N.M.T. nhấn mạnh) có thể nói vẫn còn

chƣa làm đƣợc bao nhiêu, tình hình đó gây nên một cảm tƣởng ở không ít ngƣời về sự nghèo

nàn của tƣ duy lý luận, thậm chí có lúc có ý kiến cho rằng trong ngót mƣời thế kỵ vừa qua, di

sản văn học của ta không để lại "một giọt lý luận nào" (76,209). Cho đến thời gian gần đây,

mặc dầu đã có một vài bƣớc tiến quan trọng, song tình hình nghiên cứu quan niệm văn

chƣơng cổ của dân tộc về cơ bản vẫn chƣa có sự thay đổi thật sự đáng kể.

4

Một nội dung cần đƣợc chú tâm nghiên cứu là quan niệm về thơ. Đó là vì thơ trong

quá khứ là sản phẩm sáng tạo phức hợp nhất, tinh tế nhất của những thành tựu văn hóa cổ

xƣa. Đó còn là vì thơ đƣợc các văn nhân, học giả xƣa luôn xem là thể tài văn chƣơng quan

trọng bậc nhất, đồng thời bộc lộ rõ nhất đặc thù của ―văn‖ theo nghĩa hẹp nhất của từ

này.

Với tiêu đề "Tìm hiểu quan niệm thơ cổ Việt Nam", từ chỗ đứng và tƣ duy hiện đại,

luận án nhằm góp phần phân tích, đánh giá và lý giải một số vấn đề cơ bản, bao quát của

quan niệm thơ thời trung đại Việt Nam (từ thế kỵ X đến thế kỵ XIX). Đây chủ yếu là quan

niệm thơ của các nhà nho, bao gồm đại nho và hàn sỷ, bộc lộ trong các trƣớc tác đƣợc viết

bằng chữ Hán là chính.

Thực tế, có thể nghiên cứu quan niệm thơ cổ qua hình tƣợng văn chƣơng trong sáng

tác của các nhà thơ tiêu biểu thời trung đại. Luận án không đi theo hƣớng này, mà đi theo

hƣớng khác có phần trực tiếp hơn: tìm hiểu quan niệm thơ cổ qua các ý kiến luận bàn về thơ

(như các bài Đề từ, Tựa, Bạt, Bình các tập thơ) và qua ý tứ ít nhiều có liên quan tới quan

niệm thơ ẩn trong ngôn từ, hình ảnh của các bài thơ.

Trong thời trung đại ở ta, theo các tài liệu đã đƣợc công bố, thì không có những công

trình lý luận đồ sộ chuyên bàn về văn chƣơng kiểu "Thi pháp học" của Arixtôt (384-322

TCN), "Quan hệ thẩm mỹ của nghệ thuật với thực tại" của N.G. Tsecnƣsepxki (1829 -

1889)... ở phƣơng Tây và "Văn tâm điêu long" của Lƣu Hiệp (khoảng 465 - 520), "Tùy viên

thi thoại" của Viên Mai (1815-1797)... ở Trung Quốc. Tuy nhiên, trong nhiều công trình khảo

cứu có tính chất bách khoa, chẳng hạn của Lê Quý Đôn (1726-1784), có những chuyên mục

bàn về thơ văn (nhƣ mục "Văn nghệ" gồm 48 điều trong bộ "Vân đài loại ngữ"). Các ý kiến

bàn về thơ nhiều hơn cả nằm

5

trong các bài Đề từ, Tựa, Bạt, Bình... các hợp tuyển thơ (nhƣ Việt âm thi tập, Trích diễm thi

tập, Toàn Việt thi lục), nhất là các tập thơ của các nhà nho. Các bài tản văn loại này nhiều khi

do chính tác giả viết, nhƣ lời Tựa Bạch Vân am thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585),

Ngôn chí thi tập của Phùng Khắc Khoan (1528-1613)... nhƣng cũng không ít trƣờng hợp do

những ngƣời "tri âm" viết, nhƣ Lê Hữu Kiều (1690-1760) viết Tựa cho tập thơ Tàng thuyết

của Mai Doãn Thƣờng, Phan Huy Chú (1782-1840) viết Bạt cho Dương mộng tập của Hà

Tông Quyền... Các bài loại này có khi đƣợc viết dƣới hình thức thơ nhƣ trƣờng hợp Cao Bá

Quát (7-1854) viết Đề sát viên Bùi Công Yên đài anh ngữ khúc hậu (Viết sau tập Yên Đài

anh ngữ của ông đô sát họ Bùi), nhƣng phần nhiều đƣợc viết bằng văn xuôi chữ Hán.

Trong tình hình tƣ liệu chƣa thật giàu có và tập trung nhƣ hiện nay, để tìm hiểu quan

niệm thơ Việt Nam thời trung đại, ngƣời nghiên cứu không thể không lƣu tâm đến bản thân

sáng tác của các nhà thơ. Đó là những ý thơ rải rác trong các bài thơ ẩn tàng nhiều quan niệm

sâu xa của các tác giả. Phải nói càng đi sâu nghiên cứu nguồn dữ liệu loại này ta càng thấy

chúng thật sự phong phú và quý giá. Xin đƣợc nêu hai trƣờng họp tiêu biểu: Nguyễn Trãi

(1380-1442) và Nguyễn Du (1765-1820).

Quan niệm thơ của Nguyễn Trãi đƣợc bộc lộ rõ rệt trong nhiều bài thơ cả chữ Hán

(Ức Trai thi tập) lẫn chữ Nôm (Quốc âm thi tập) của ông. Nguyễn Thị Dƣ Khánh đã dùng

câu thơ "Túi thơ chứa hết mọi giang san" (Tự thán - Bài 2) của Nguyễn Trãi để biện giải cho

"khả năng bao quát không gian của thơ" (80,18)(1). Còn Lê Ngọc Trà thì đã dẫn hai câu: "Liêu

Khoa học xã hội, H., 1976, trang 420).

(1) Tác giả trích "Túi thơ chiếm hết mọi giang san" là không đúng (xem Nguyễn Trãi toàn tập - Nxb

6

bả tân thi tả ngã sầu" (Tạm đem thơ mới giải tỏ nỗi sầu của ta) và "Hảo bả tân thi hƣớng chí

luân" (Hãy cảm bài thơ mới mà nói cái chí của mình) để chứng minh cho "sức mạnh và đặc

điểm của nghệ thuật là ở chỗ nó dùng tiếng nói tình cảm để thể hiện cả những quan niệm

sống, quan niệm triết học về xã hội và tự nhiên" (59 ,11)(1). Trong thực tế, rất nhiều câu thơ

của Nguyễn Trãi đụng chạm tới những vấn đề khác nhau của lý luận thi ca. Chẳng hạn, hai

câu kết bài "Hý đề" (Đề chơi) thể hiện rõ ý nghĩa của thơ với con ngƣời và với cuộc đời:

Nhãn để nhất thì thi liệu phú

Ngâm ông thùy dữ thế nhân đa?

(Trƣớc mắt một buổi thi liệu dồi dào

Thi nhân với ngƣời đời thì ai thú hơn?) (15,360-361)

Còn về mối quan hệ giữa thơ với cảnh trí thiên nhiên và rộng ra giữa thơ với thực tại

thì không gì điển hình và thấm thía bằng câu thơ sau trong bài "Tức hứng" (Hứng làm ngay)

của Nguyễn Trãi:

Vũ dư sơn sắc thanh thi nhãn

(Sau mƣa sắc núi làm trong trẻo mắt thơ) (15, 362)

Trong Lời giới thiệu Nguyễn Du toàn tập, Mai Quốc Liên đã nhiều lần nhấn mạnh

đến ý nghĩa lý luận thâm trầm và ý vị của nhiều câu thơ chữ Hán của thi hào Nguyễn Du. Ví

nhƣ, để bàn về lẽ "mầu nhiệm" "hƣớng tới chính bản ngã của mình và bản thể vũ trụ" của thứ

thơ ca "không lời" (vô ngôn), ông đã dẫn ra câu thơ sau của Nguyễn Du:

Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa

(1) Tác giả có sự nhầm lẫn lớn trong trích dẫn: "Hảo bả tân thi ngã sầu" (Hãy dùng bài thơ mới để tả nỗi sầu của ta) và "Liêu bả tân thi chí hƣớng luân" (Muốn làm bài thơ mới để nói cái chí của mình). Xin xem Nguyễn Trãi toàn tập, trang 303 và trang 349.

7

(Văn thiêng không phải ở ngôn ngữ)

Đó là câu rút ra từ bài "Lƣơng Chiêu Minh thái tử phân kinh đài" (Đài đá chia kinh

của thái tử Chiêu Minh nhà Lƣơng - 11, 538).

Tuy nhiên, theo chúng tôi, có lẽ phải cần tới nhiều tiểu luận mới mong khai thác đƣợc

tƣơng đối đầy đủ quan niệm thi ca Nguyễn Du bộc lộ qua thơ chữ Hán của ông. Chẳng hạn,

nói về mối quan hệ giữa thi nhân và thi ca, Nguyễn Du viết:

Thi nhân bất đắc kiến

Kiến thi như kiến nhân

(Ngƣời thơ không đƣợc thấy

Thấy thơ nhƣ thấy ngƣời)

(Đề Vi Lƣ tạp hậu - 11,336)

Còn đây là vai trò của thi ca đối với cuộc đời trong quan niệm của Nguyễn Du:

Thi thành thảo thụ giai thiên cổ

(Thơ làm xong, cỏ cây cùng thơ đƣợc truyền đến ngàn năm)

(Hán Dƣơng văn điểu — 11,405)

Trên cơ sở hai nguồn tƣ liệu chủ yêu bao gồm các ý kiến trực tiếp bàn về thơ và các ý

kiến ẩn tàng trong các bài thơ, chúng tôi tự đặt cho mình nhiệm vụ khái quát thành quan niệm

thơ chứ chƣa đến mức quan điểm thơ thời trung đại Việt Nam.

Cho dù mới dừng sự nghiên cứu ở mức độ quan niệm thơ, chúng tôi vẫn luôn ý thức

đƣợc sự khác biệt giữa quan niệm thơ và nội dung thơ. Trên thực tế, hai khái niệm này "hòa

nhi bất đồng". Không đồng nhất với nội dung, quan niệm thơ là một bộ phận quan trọng của

quan niệm văn chƣơng, quan niệm nghệ thuật, rộng hơn là quan niệm mỷ học có ý nghĩa

8

bao trùm và chỉ đạo sáng tác. Nó có thể tồn tại một cách "lý thuyết", tự giác và có ý thức.

Cũng có khi nó chƣa đạt tới tính chất và trình độ đó. Tuy nhiên, theo lẽ thƣờng, sáng tác ắt

sinh ra quan niệm, dẫu là tập trung hay phân tán, trực tiếp hay gián tiếp, tự giác hay không tự

giác. Nội dung thơ chính là nội dung cụ thể của các bài thơ trong đó có nội dung hiện thực

song chủ yếu bao gồm nội dung tƣ tƣởng, tình cảm đƣợc bộc lộ qua các phƣơng tiện nghệ

thuật nhƣ ngôn từ, hình ảnh, âm điệu, vần luật... Dễ lẫn với quan niệm thơ hơn cả là các nội

dung có tính khái quát, đặc thù cho một giai đoạn hoặc một nền văn chƣơng nhƣ: nội dung

hiện thực, nội dung yêu nƣớc, nội dung nhân văn...

Cố nhiên, ngƣời nghiên cứu cũng không nên quá tách bạch hai khái niệm này vì

chúng vốn có quan hệ rất hữu cơ với nhau. Cần thấy tác động qua lại giữa chúng. Quan niệm

chỉ đạo sáng tác và đƣợc bộc lộ qua sáng tác, nên có thể ở một mức độ nhất định dùng thực

tiễn sáng tác soi sáng thêm quan niệm. Điều cần hết sức tránh là áp đặt nội dung lên quan

niệm, thay thế quan niệm bằng nội dung.

Cũng do hạn chế có thể nói là khá ngặt nghèo của tƣ liệu về mặt lịch sử, luận án

nghiêng về việc tìm hiểu quan niệm thơ cổ trên bình diện cấu trúc. Ngay ở mật cấu

trúc, luận án cũng chỉ đi vào những vấn đề chung có tính bao quát nhƣ: các quan niệm về chủ

thể sáng tạo, về quan hệ giữa thơ với thực tại, về nghệ thuật thơ, và về phê bình thơ. Một vài

vấn đề cụ thể có ý nghĩa nhƣ: thơ với cảnh trí thiên nhiên, động và tĩnh trong thơ... có đƣợc

phân tích, lý giải trong các chƣơng mục khác nhau của luận án nhƣng không đƣợc tập trung

nghiên cứu thành những chuyên mục riêng.

9

Ngoài việc tìm hiểu những vấn đề cơ bản trong quan niệm thơ là chính, luận án còn

gắng phát hiện ra bản sắc riêng trong lối bàn luận về thơ của các thi nhân học giả xƣa. Điều

này không phải không đáng quan tâm, nhất là khi cần đối chiếu để thấy sự tƣơng đồng trong

lối tƣ duy lý luận của các dân tộc phƣơng Đông cũng nhƣ sự khác biệt với lối tƣ duy lý luận

của ngƣời phƣơng Tây. Suy rộng ra, đó cũng chính là những nét đặc thù trong văn hóa và tƣ

tƣởng Á Đông, có cội nguồn sâu xa từ những điều kiện tự nhiên, lịch sử và xã hội riêng biệt.

2. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

Khái niệm "trung đại" đƣợc các nhà nhân văn chủ nghĩa ở châu Âu thế kỉ XV dùng để

chỉ thời kỳ lịch sử từ khi đế chế Tây La Mã sụp đổ (thế kỉ V) cho tới thời đại Phục Hƣng (thế

kỉ XV). Thời trung đại Việt Nam là một trong những thời kì phát triển của dân tộc trên nhiều

phƣơng diện. Nền văn hóa, và nói riêng là nền văn chƣơng kể cả sáng tác lẫn quan niệm, đã

phát triển và thu đƣợc nhiều thành tựu, góp phần khẳng định bản sắc dân tộc cùng bản lĩnh

của con ngƣời Việt Nam. Do vậy, không thể hiểu thấu đáo đƣợc văn hóa, văn chƣơng và con

ngƣời Việt Nam hiện đại nếu không nghiên cứu đầy đủ, kỷ lƣỡng văn chƣơng thời trung đại,

trong đó có quan niệm thi ca.

Nếu nhƣ vấn đề quan niệm thơ cổ đƣợc giải quyết đúng hƣớng và xác đáng, nó sẽ có

ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Trƣớc hết, là ý nghĩa khoa học và đào tạo của vấn đề

nghiên cứu. Trong nhiều năm trở lại đây, một câu hỏi luôn đặt ra cho các nhà lý luận là làm

thế nào để xây dựng nền lý luận văn chƣơng và nói riêng là nền lý luận thi ca dân tộc - hiện

đại. Theo chúng tôi, không thể giải quyết đƣợc vấn đề này nếu

10

không xuất phát từ tinh hoa di sản lý luận trong quá khứ. Bởi "ôn cố tri tân" và còn bởi "tân

tòng cố xuất".

Cho đến giờ, có lẽ không còn ai cho rằng các bậc tiền bối đã không để lại "một giọt lý

luận" nào cho con cháu. Tuy nhiên, tâm lý xem thƣờng, nhất là khi có dịp đối chiếu di sản lý

luận cổ Việt Nam với di sản lý luận đổ sộ của các dân tộc khác nhƣ Trung Quốc, Pháp, Nga...

vẫn còn là tâm lý khá phổ biến. Đúng là ngày trƣớc "không mấy ngƣời bàn về lý luận văn

học" (84,16). Mà nếu có bàn về văn về thơ thì thƣờng rất ngắn, lại có vẻ nhƣ sơ sài, rập

khuôn. Trong khi tƣ liệu đƣợc sƣu tầm, biên dịch từ kho tàng Hán - Nôm cho đến giờ vẫn

chƣa thể coi là thật sự phong phú. Có điều, theo chúng tôi, nếu đi sâu tìm hiểu nguồn tài liệu

quý giá đó, với ý thức trách nhiệm cao đối với khoa học và đối với dân tộc, thì sẽ nhận ra

những gì đáng nâng niu trân trọng từ di sản ông cha ta để lại.

Đáng tiếc, trên thực tế việc khai thác di sản lý luận thơ cổ của dân tộc chƣa làm đƣợc

bao nhiêu. Xin đƣợc nêu một trƣờng hợp: Tập sách "Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam

hiện đại" (41.1). Đây là một công trình dầy dặn, công phu, chuyên khảo cứu về thơ của một

nhà khoa học có uy tín. Cuốn sách ngót 500 trang quả là một đóng góp lớn và mới của tác giả

vào việc tìm hiểu lý luận thơ và thơ Việt Nam hiện đại. Có lẽ không ai nghi ngờ điều đó.

Song phải thừa nhận là từ nội dung đến cách viết, tác giả chịu ảnh hƣởng khá nặng nề của thi

luận phƣơng Tây. Cuốn sách có nêu ý kiến bàn về thơ của một vài học giả phƣơng Đông

nhƣng không nhiều. Đặc biệt, nếu đối chiếu với dung lƣợng khá đồ sộ của chuyên luận thì

những lời trích dẫn Trung Quốc và Việt Nam xƣa có thể xem là quá ít ỏi. Trong danh mục

tham khảo, tác giả có nhắc tới hai tập sách "Vân đài loại ngữ" và "Kiến văn tiểu lục" của Lê

Quý Đôn. Không rõ vì lẽ gì

11

trong nội dung cuốn sách không thấy trích một câu nào, hoặc đƣa ra một ý nào rút từ "Kiến

văn tiểu lục". Tập "Vân đài loại ngữ" thì đƣợc dẫn ra đúng một ý trong hai lần. Đáng tiếc là

hai lần cùng một dẫn chứng lại không khớp nhau. Một lần ở trang 43 là câu: "Ý kỳ thẳng,

mạch kỳ lộ". Còn lần hai ở trang 208 lại là câu: "Nói kỳ thẳng, ý kỳ rộng, mạch kỳ lộ". Có lẽ

ngƣời viết sử dụng trí nhớ hoặc chuyển dẫn từ những nguồn khác nhau.

Từ thực tế trên, chúng tôi không tán thành với Nguyễn Thị Dƣ Khánh khi tác giả nhận

xét: "Cho đến nay, các nhà lý luận thơ đã kế thừa một cách triệt để" nền "thi thoại" cổ của

dân tộc (80,18). Phải nói là các nhà lý luận văn chƣơng hiện đại chƣa làm đƣợc bao nhiêu

trong việc khai thác, phát huy di sản lí luận thi ca trong quá khứ. Tình hình này đã phần nào

ảnh hƣởng tới nội dung và phƣơng hƣớng đào tạo ở phổ thông cũng nhƣ ở đại học. Trên

phƣơng diện tìm hiểu những quan niệm chung về văn chƣơng thời trung đại, nhìn đại thể, đã

có những bƣớc tiến. Ngoài một vài bài viết lẻ tẻ đây đó đã xuất hiện những chuyên luận dày

dặn nhƣ tập "Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam" của Phƣơng Lựu (Nxb Giáo dục, Hà

Nội, 1985). Riêng những tập chuyên luận hoặc giáo trình về quan niệm thơ cổ thì chƣa thấy

xuất hiện. Tình hình đó, cố nhiên, đã trực tiếp ảnh hƣởng tới việc giảng dạy và học tập văn

chƣơng thời trung đại ở bậc phổ thông. Trong cuốn "Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ

thi pháp" đƣợc giới thiệu là "Sách dùng cho sinh viên ngữ văn và giáo viên ngữ văn phổ

thông", tác giả có lƣu ý tới một vài ý kiến về thơ của Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Cao Bá

Quát, Nguyễn Trãi, Trần Nhân Tông, Nguyễn Cƣ Trinh, Ngô Thì Sỷ (80,18). Đó là điều đáng

ghi nhận. Nhƣng ngoài những sơ sót không nên có (nhƣ câu của Cao Bá Quát là trong lời Bạt

tập thơ

12

chứ không phải trong tập thơ "Thƣơng Sơn công thi tập"), theo chúng tôi, trích dẫn nhƣ thế

chƣa thể coi là "hơi nhiều", nhất là lại nhằm khẳng định "dân tộc ta quả đã có một nền "thi

thoại", đúc rút đƣợc nhiều ý kiến và kinh nghiệm quý về nghệ thuật sáng tác loại hình đặc

biệt này" (80,18). Đấy là chƣa nói trong nội dung của cuốn sách tác giả không hề phân tích

những quan niệm thơ cổ đã tác động ra sao tới việc phân tích, thẩm bình thơ về mặt thi pháp.

Trở lên trên là ý nghĩa khoa học và đào tạo của vấn đề nghiên cứu. Đề tài còn có ý

nghĩa thực tiễn. Dễ thấy văn chƣơng hiện đại nƣớc ta đang trong giai đoạn chuyển mình. Một

trong những dấu hiệu đồng thời là biểu hiện của tính giao thời là ở chỗ các thể nghiệm văn

chƣơng, đặc biệt là thể nghiệm thi ca đang có xu hƣớng mở rộng. Đó là lẽ bình thƣờng. Tìm

tòi, tự đổi mới trong nghệ thuật là đúng và cần nhằm làm cho văn chƣơng và nói riêng là thi

ca ngày càng đáp ứng đƣợc nhu cầu thẩm mỷ của thế hệ công chúng mới. Tuy hiện trạng còn

ngổn ngang nhiều điều bất ổn, nhƣ đã xuất hiện xu hƣớng quá chú trọng tới tu sức hình thức,

ngôn từ trong thơ. Nhiều cây bút, theo Vũ Quần Phƣơng, thiên về việc "thể nghiệm ngôn từ"

trong khi "nội dung bí hiểm, tự đánh mất độc giả". Họ muốn học Xuân thu nhã tập. Nhƣng,

cũng theo lời của Vũ Quần Phƣơng, thật ra kinh nghiệm của trƣờng phái này là "một kinh

nghiệm phủ nhận chính nó" (Báo Văn nghệ - Số 47/1995).

Trƣớc tình trạng này, nếu có điều kiện trở về với các ý kiến của các văn nhân học giả

xƣa thì vấn đề sẽ đƣợc phần nào tháo gỡ. Chất và văn, ý và lời luôn là những cặp phạm trù

song hành trong những lời bàn của ngƣời xƣa về thơ. Trong Bài thuyết "Liên hạ thi minh",

Ngô Thì Nhậm coi việc "chỉ chăm chắm vào việc ăn cắp văn tự" là việc làm của "hạng ngƣời

13

nhỏ mọn" (23,225). Theo ông, thi ca đích thực "đâu phải việc tranh hơn từng chữ từng vần"

(23,226). Tình ý trong thơ đã đƣợc Ngô Thì Nhậm đặc biệt coi trọng. Tuy ông không rơi vào

thái cực khác: Xem thƣờng vai trò của các yếu tố hình thức trong thơ. Cũng trong bài viết

trên, Ngô Thì Nhậm hết lời ca ngợi Ly tao "Lời bén bút sắc, tranh đẹp đua tƣơi" có "cái lạ

của một chữ, cái khéo của một vần" (23,225). Ông còn chân tình giãi bày rằng ông cùng "thi

xã" đã sáng tác các bài thơ "Liên hạ thi minh" từ lâu, "nhƣng bởi bận việc thôi xao, nên chƣa

kịp đóng thành tập" (23,226).

Có ngƣơi lập luận đó là thứ thơ răn ngƣời, sửa đời của các bậc danh nho, thứ "văn học

có hình thức đẹp chính là để phục vụ cho nội dung hay" (Đinh Gia Khánh) nên không thể

không nhấn mạnh tới nội dung. Tuy nhiên, ngay cả những ngƣời ít nổi tiếng hơn cũng không

chủ trƣơng thứ thi ca dung mỷ. Đỗ Hạ Xuyên viết: "Thơ là tiếng nói của trái tim, trái tim

chƣa đủ thì biểu hiện ra lời, lời chƣa đủ thì biểu hiện ra thơ... còn nhƣ sự sửa lời nắn điệu,

tranh lạ đấu kỳ, bị coi là cái học thấp kém" (35.1,245). Không ai muốn là những ngƣời bảo

thủ hay phục cổ. Có điều, những thử nghiệm đi ra ngoài giới hạn của thi ca chân chính chắc

chỉ đƣa đến ngõ cụt. Nhà thơ Nga đƣơng đại Iuri Lêvitanxki nói rất đúng rằng: "Phải, thơ cần

tự do. Nhƣng có hai điều nó không thể tự do: nó không thể tự do khỏi chính bản thân nó, và

khỏi thế giới" (Báo Văn nghệ - Số 44/1995). Muốn không ra "khỏi thế giới", thơ không thể sa

vào vũng bùn của chủ nghĩa hình thức.

Đó là về sáng tác. Trên lĩnh vực phê bình thơ sôi động nhƣ hiện nay chƣa phải đã hết

những điều đáng băn khoăn. Câu nói của Nguyễn Hàm Ninh ở thế kỉ trƣớc hoàn toàn sát hợp

với tình hình phê bình thơ hiện giờ. "Câu chuyện thơ càng ngày càng lắm ngả" (35.1,73). Lối

phê bình "quy

14

chụp" đã lùi xa vào dĩ vãng. Nhƣng đã xuất hiện những thiên lệch mới đáng đƣợc báo động vì

chúng bất lợi cho sáng tác của nhà thơ và cho định hƣớng thẩm mỷ của bạn đọc. Có nhiều bài

phê bình quá "kinh viện", quá "học đƣờng" của những cây bút đạo mạo ít chất sống của đời

sống văn chƣơng. Lại có không ít bài phê bình, thƣờng của các nhà thơ, lại quá phóng túng,

quá bay bƣớm. Nếu đọc lại ý kiến về phê bình của ngƣời xƣa chắc giới phê bình hiện nãy sẽ

nhận đƣợc nhiều bài học bổ ích. Ngô Thì Hoàng viết: "Đạo bàn luận, nếu quá buông tuồng thì

hóa ra phóng túng, nếu quá câu nệ thì hóa ra gò gẫm. Ở trong khuôn khổ thỉnh thoảng cũng

phải ra khỏi lối mòn" (76,80).

Từ nhiều góc độ khác nhau, có thể dễ dàng khẳng định giá trị những ý kiến đƣợc đúc

rút từ vốn đời, từ sức học, sức đọc đáng kinh ngạc của ông cha ta ngày trƣớc.

3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA

LUẬN ÁN

a) Lịch sử nghiên cứu đề tài

Việc khảo cứu di sản văn chƣơng thời trung đại Việt Nam liên quan chặt chẽ với khoa

văn bản học Hán Nôm. Đúng nhƣ quan niệm của nhà nghiên cứu ngƣời Nga Nhitraêva: "Văn

bản học trong ý nghĩa đầu tiên của nó là cơ sở cho tất cả các bộ môn nghiên cứu văn học.

Nhƣng công trình nghiên cứu văn bản chuẩn bị cho việc nghiên cứu về mặt lịch sử văn học,

dọn đƣờng cho nó" (63.1,62). Quy luật này có tính phổ quát trong nghiên cứu văn chƣơng

trung đại Việt Nam ở những vấn đề chung cũng nhƣ ở những vấn đề cụ thể. Mai Quốc Liên

coi việc "phát hiện" ra Ngô Thì Nhậm với tƣ cách là một tác giả văn chƣơng bắt đầu "từ việc

tìm tòi"

15

trong kho Hán Nôm "những văn bản "tuyệt diệu" đồng thời cũng là những văn bản dễ làm

nản lòng vì sự phức tạp của nó" (63.1,10).

Có thể xem công việc sƣu tầm, hiệu đính, chú giải các tƣ liệu liên quan tới các ý kiến

của các văn nhân học giả thời xƣa trực tiếp bàn luận về văn thơ chính thức đƣợc khởi đầu vào

năm 1962 khi Nhà xuất bản Văn hóa lần đầu tiên cho công bố bản dịch bộ sách "Vân đài loại

ngữ" của Lê Quý Đôn. Ngay sau đó, Tạp chí Văn học - Số 12/1963 cho đăng tải một loạt ý

kiến về văn thơ của một số tác giả ở hai thế kỵ XVIII và XIX nhƣ: Nguyễn Cƣ Trinh, Lý Văn

Phức, Phan Thanh Giản, Nhữ Bá Sỷ, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Ngô Thế Vinh, Miên

Thẩm... do nhà Hán học Nguyễn Đức Vân sƣu tập và trực tiếp dịch. Năm năm sau, vẫn trên

Tạp chí Văn học (Số 9/1968) cụ lại cho công bố thêm ý kiến của một số tác giả khác ở các

thế kỵ trƣớc đó nhƣ: Lý Tử Tấn, Hoàng Đức Lƣơng, Lê Hữu Kiều, Lê Quý Đôn, Bùi Huy

Bích, Ngô Thì Nhậm...

Từ năm 1973 trở đi, theo hƣớng của cụ Nguyễn Đức Vân, các tạp chí Văn học,

Nghiên cứu nghệ thuật, Tác phẩm mới cho in một loạt những ý kiến hoặc những bài viết bàn

về văn thơ của các tác giả thời trƣớc. Đặc biệt vào năm 1981, Nhà xuất bản Tác phẩm mới

cho in cuốn "Từ trong di sản..." tập hợp khá phong phú ý kiến bàn về văn chƣơng chủ yếu

của các bậc học rộng đỗ cao từ thế kỵ X đến đầu thế kỵ XX ở nƣớc ta. Có trong tập sách là

các ý kiến của hầu hết các tên tuổi lớn thuộc các thế kỵ nhƣ: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh

Khiêm, Ngô Thì Sỷ, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Chú, Bùi Huy Bích, Nguyễn

Du, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát...

Cũng cần phải kể đến công lao to lớn của soạn giả các bộ Nguyễn Trãi toàn tập (Nxb

Khoa học xã hội -1976), Nguyễn Du toàn tập (Nxb Văn

16

học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học -1995), các bộ tuyển tập thơ văn của Nguyễn Đình

Chiểu (Nxb Văn học -1963), Phan Bội Châu (Nxb Văn học -1967), Nguyễn Quang Bích

(Nxb Văn học -1973), Ngô Thì Nhậm (Hai tập, Nxb Khoa học xã hội -1978), Nguyễn

Khuyến (Nxb Văn học -1979), Nguyễn Công Trứ (Nxb Văn học -1983), Cao Bá Quát (Nxb

Văn học -1984)... Trong những công trình này, các soạn giả không những đã lƣu tâm thu thập

các tƣ liệu có liên quan tới việc tìm hiểu quan niệm thơ văn của các tác giả thời trƣớc mà còn

có công hiệu đính, chú giải văn bản một cách tỉ mỉ và khoa học.

Công trình sƣu tập, biên dịch đáng kể nhất vào thời gian gần đây liên quan đến việc

tìm hiểu quan niệm thơ cổ là tập sách "Ngƣời xƣa bàn về văn chƣơng" (Tập I) của giáo sƣ Đỗ

Văn Hỵ (Nxb Khoa học xã hội -1993). Cuốn sách của Đỗ Văn Hỵ có ý nghĩa trên nhiều

phƣơng diện. Trƣớc hết nó làm sáng rõ, phong phú thêm nguồn tƣ liệu giúp việc nghiên cứu

quan niệm thơ cổ vốn còn chƣa thật tập trung và giàu có. Nguồn tƣ liệu này càng quý giá hơn

bởi tính khoa học đƣợc nâng cao của công trình với ý thức: "Để ngƣời đọc hiểu rõ những

quan điểm cụ thể đƣợc viết ra trong những hoàn cảnh cụ thể, các bài văn sẽ đƣợc dịch trọn

vẹn... Riêng những bài bàn về quan điểm thơ lại viết bằng thơ, để tránh hiện tƣợng "bào mòn"

hay "xuyên tạc" trong lúc dịch, và nó lại ràng buộc bởi vần luật và số chữ trong câu thơ, nên

các bài thơ đƣợc dịch theo thể văn xuôi" (35.3,2). Sau nữa, và điều này rất đáng đƣợc ghi

nhận, cuốn sách giúp chúng ta tiếp xúc với những ý kiến của nhiều nhà nho danh vị thấp,

tiếng tăm ít nhƣ: Vũ Trọng Đại, Đỗ Tuấn Đại, Ngô Cƣơng Mạnh Đoan, Trần Cao Đệ, Trần

Bá Kiên, Ngô Quý Đồng... Thậm chí có một số văn bản trong tập sách còn chƣa xác định

đƣợc tên tác giả. Lời bàn của nhũng ngƣời này

17

thƣờng "phi chính thống", hồn nhiên và chân thực, nên giúp chúng ta ngày nay có thêm cơ sở

dựng lại một cách xác thực và khoa học hơn quan niệm văn chƣơng và nói riêng là quan niệm

thi ca thời trung đại ở nƣớc ta.

Cùng với quá trình phát hiện các tƣ liệu nói trên là việc bƣớc đầu nghiên cứu, phân

tích, đánh giá, lý giải quan niệm thơ cổ Việt Nam. Ở đây, cần phải chú ý đúng mức tới các

công trình nghiên cứu lịch sử văn chƣơng và lý luận văn chƣơng thời trung đại. Trong khi

bàn về những vấn đề chung hay những vấn đề của từng giai đoạn, từng tác giả, các nhà

nghiên cứu đểu ít nhiều đề cập tới quan niệm thơ của các thi nhân học giả xƣa, bởi vì thơ là

một thể tài luôn giữ một vị trí đặc biệt trong sáng tác của các nhà nho thời trƣớc. Ví nhƣ,

trong công trình "Ngô Thì Nhậm trong văn học Tây Sơn", giáo sƣ Mai Quốc Liên đã

trình bày quan niệm thơ của Ngô Thì Sỷ và nhất là của Ngô Thì Nhậm. Chƣơng "Một vài vấn

đề thi pháp tác phẩm Ngô Thì Nhậm" của chuyên luận đã góp phần khẳng định mặt tích cực

trong quan niệm thi ca của tác giả quan trọng vào bậc nhất của Ngô gia văn phái này. Mai

Quốc Liên viết: "... Ngô Thì Nhậm đã có những quan điểm và sáng tác nghệ thuật tiến bộ.

Ông chống lại sự "quá cầu kỳ... sa vào giả dối, quá trau chuốt sa vào xảo trá" "chỗ thần diệu

của thơ là cốt ở tấm lòng để hiểu lòng mà thôi". Ông tán thành quan niệm thơ của Phan Huy

Ích: "Hãy xúc động hồn thơ để ngọn bút có thần". (63.1,180). Giáo sƣ đồng thời không quên

những hạn chế lịch sử và giai cấp tất yếu trong quan niệm thơ của Ngô Thì Nhậm: "Quan

niệm "văn dĩ tải đạo"... đã đƣợc Ngô Thì Nhậm nhấn mạnh: "Thơ là để vịnh lời, lời là để chở

đạo, đạo là trung hiếu vậy" (Cẩm đƣờng thi tập tự)" (63.1,169). Đặc biệt, tác giả "Ngô Thì

Nhậm trong văn học Tây Sơn" đã kết hợp đƣợc

18

cái nhìn lịch đại và đồng đại khi phân tích quan niệm thơ của thời trung đại. Giáo sƣ viết:

"Nếu nhƣ trƣớc đó hai thế kỵ, Phùng Khắc Khoan (1528-1613) khuyên học trò mình "phải đi

theo cổ nhân từng bƣớc, từng bƣớc một, lấy họ làm mẫu mực" thì ở thế kỵ này, Lê Quý Đôn

lại viết: "Ngƣời xƣa nói: làm thơ, làm văn, chép việc dù nhiều chỉ sợ không hóa; ý bảo đem

lời và ý của cổ nhân mà đúc luyện lại cho mới; chứ đừng bƣớc theo lối cũ" (63.1,179).

Trong cuốn "Tìm hiểu văn học", khi trở về cội nguồn di sản lý luận văn chƣơng dân

tộc, ở những vấn đề cụ thể, tác giả Lê Đình Ky thƣờng trở về với quan điểm thơ. Đi vào một

hiện tƣợng tiêu biểu là Lê Quý Đôn, nhà nghiên cứu không quên nhắc tới câu nói nổi tiếng:

"Làm thơ có ba điều chính: một là tình, hai là cảnh, ba là sự", rồi bình luận: "cảnh chủ yếu là

thiên nhiên, ngoại vật; sự chủ yếu là chuyện con ngƣời, chuyện xã hội; tình là do "cảnh" và

"sự" tác động vào con ngƣời mà sinh ra vậy. Có lẽ vì là thơ nên Lê Quý Đôn không nói đến

ý, nhƣng chúng ta có thể hiểu là trong tình đã hàm ý rồi... Cái cấu trúc tình, ý, cảnh, sự là cơ

sở cho hình thành văn nghệ..." (57.2,327). Giáo sƣ Lê Đình Ky đồng thời bàn đến quan niệm

thơ khi đi vào vấn đề có tính nguyên lý chung: "Nổi bật lên trong tƣ tƣởng văn nghệ của cha

ông là quan điểm "văn dĩ tải đạo", "thi ngôn chí". Đạo ở đây không chỉ là đạo đức theo quan

điểm Nho giáo, mà còn là điều thiện, là thế đạo nhân tâm, là đạo làm ngƣời nói chung; chí là

chí hƣớng, là tấm lòng, là điều mình ôm ấp, mong ƣớc, nhƣng chí phải từ "tâm" mà ra"

(57.2,336).

Tiểu luận "Từ trong di sản... mấy điều thu hoạch" của Nguyễn Minh Tân cũng đã

dành nhiều đoạn bàn về nguyên lý "Thi ngôn chí". Nguyễn Minh Tấn cho rằng: "Quan niệm

"thi ngôn chí" có thể đƣợc các nhà văn,

19

nhà nho nƣớc ta vận dụng muộn hơn là "Văn dĩ tải đạo". Nhƣng, nhƣ chúng tôi nghĩ, Thi

ngôn chí đã góp phần tạo nên khuôn mặt độc đáo của văn học Việt Nam xƣa, đƣợc các cụ ta

vận dụng uyển chuyển, tâm đắc hơn là "văn dĩ tải đạo" (76,237). Vì sao có thể nói nhƣ vậy?

Tác giả lý giải: "Thi ngôn chí là tiếng nói chân tình, là tâm hồn, tình cảm của ngƣời viết"

(76,237). Nguyễn Minh Tân còn góp phần giải thích: Thế nào là chí trong Thi dĩ ngôn chí?

"Chí có nhiều nội dung rất khác nhau. Chí của nhà thơ hƣớng về đâu thì Chí mang nội dung

đó" (76,238). Đi xa hơn, tác giả viết: "Gắn với chí là tâm và tình. Tâm và tình vừa là điểm

xuất phát vừa là mục tiêu của chí, "Tâm và tình là động lực trong lòng nhà thơ do tác động từ

bên ngoài khơi dậy cảm hứng của nhà thơ. Cuộc sống đã gọi ý cho nhà thơ, hƣớng cái chí

nhà thơ về nơi đó" (239).

Trong chuyên luận "Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam", Nguyễn Bá

Thành cũng đã lƣu ý phân tích quan niệm "thi ngôn chí" của các nhà nho xƣa. Tác giả cho

rằng với Thi ngôn chí thì "mục đích của thơ không phải là "nhận thức và phản ánh hiện

thực", mà là để bộc lộ cái ý chí, tình cảm của con ngƣời. Cái chí đó cũng tức là cái tâm, cái

hồn, cái phong cốt của mỗi con ngƣời. Theo quan niệm "thi dĩ ngôn chí" thì tƣ duy thơ thiên

về hƣớng nội" (65,37-38). Tác giả đồng thời lƣu ý: "Thơ là để nói chí hƣớng, nhƣng không

phải là cái chí hƣớng chung của mọi lớp ngƣời, mà chỉ là ý chí, tình cảm của một lớp nho sỷ

trí thức... những ngƣời quân tử, những vị quý tộc, các bậc vua chúa, những ngƣời học hành

đỗ đạt cao" (65,38). Vậy là nội dung "chí" trong "thi ngôn chí", theo tác giả, bị quy định bởi

tính giai cấp sâu sắc. Đánh giá chung về nguyên lý "thi ngôn chí", Nguyễn Bá Thành viết:

"Quan niệm thi dĩ ngôn chí đã mang một ý nghĩa tiến bộ ở chỗ coi thơ là sản phẩm tinh thần

gắn liền

20

với chủ thể sáng tạo... Nhƣng do những nguyên tắc có tính đạo lý chi phối mạnh... nên tƣ duy

thơ cổ không vận động đƣợc tự do hoàn toàn" (65,40-41).

Trên thực tế chỉ có hai bài chuyên tìm hiểu về quan niệm thơ là:

- Thử tìm hiểu quan niệm "thi ngôn chí" của nhà Nho (Trần Lê Sáng - Tạp chí Văn

học, Số 1/1973).

- Thơ với nhà thơ Lê Quý Đôn (Đỗ Văn Hỵ - Tạp chí Văn học, số 6/1984)

Trong bài "Thử tìm hiểu quan niệm "thi ngôn chí" của nhà Nho", Trần Lê Sáng cho

rằng, đây là một nguyên tắc ''chi phối hết sức sâu sắc hoạt động làm thơ và phê bình thơ của

dòng thơ chịu ảnh hƣởng Nho giáo". Tuy nhiên, nội dung của nguyên lý chung này lại

"không cụ thể" nên "hầu nhƣ nhà Nho ở mỗi nƣớc, mỗi thời kỳ hoặc mỗi trƣờng phái khác

nhau đều có thể có những quan niệm khác nhau". Muốn làm sáng tỏ quan niệm "thi ngôn chí"

của các nhà Nho nƣớc ta, theo tác giả, cần phải ngƣợc trở về nguồn gốc quan niệm "thi ngôn

chí" cũng nhƣ nội dung quan niệm "thi ngôn chí" từ bên Trung Quốc.

Về nguồn gốc của quan niệm, tác giả đã chứng minh nguyên lý "thi ngôn chí" mặc

dầu đƣợc nhiều ngƣời dẫn ra từ phần ―Thuấn điển‖ (Kinh thƣ) và phần "Nhạc ký" (Lễ ký) -

những tác phẩm đƣợc các nhà nghiên cứu xác minh đƣợc viết từ thời Tây Hán về sau, nhƣng

quan niệm này "chắc chắn có trƣớc đời Tây Hán". Trần Lê Sáng có nêu ra câu "thi dĩ ngôn

chí" trong Tả truyện, câu "thi dĩ đạo chí" trong Trang Tử, câu "thi ngôn thi kỳ chí dã" trong

Tuân Tử, nghĩa là những tác phẩm có trƣớc đời Tây Hán đến mấy thế kỵ.

21

Về quan niệm của các nhà Nho Trung Quốc, tác giả nhận thấy ngày nay ta từng hiểu

"thơ nói chí" "từ phƣơng diện nhiệm vụ của thơ", trong khi quan niệm cổ nhất về ba chữ "thi

ngôn chí" lại "từ phƣơng diện định nghĩa thơ". Thơ là gì? - Thơ là chí". Vấn đề cần đặt ra:

Vậy chí là gì? Về vấn đề này, theo tác giả, ý kiến của các nhà Nho "rất phong phú, rất tỉ mỉ,

khó ai có thể tƣờng thuật lại hết", nhƣng trên đại thể có thể chia làm ba loại ý kiến lớn: Loại

thứ nhất chủ trƣơng "chí" là "đạo" (ở đây là "đạo Nho"); Loại thứ hai chủ trƣơng "chí" là

"tình". "Thơ nói chí" tức "thơ ghi tình" và loại thứ ba chủ trƣơng "chí" bao gồm cả "tình" lẫn

"đạo".

Sau đó, Trần Lê Sáng dành phần lớn tiểu luận tìm hiểu "thơ nói chí" của các nhà Nho

nƣớc ta. "Thi ngôn chí" đã là chữ của kinh điển Nho gia nên các nhà Nho Việt Nam "phải

biết đến, phải suy nghĩ và vận dụng" nó trong sáng tác và bàn luận văn chƣơng nói chung, thi

ca nói riêng. Nhƣng có một điểm dễ nhận thấy là thơ (và đi liền với nó là quan niệm thơ) của

nƣớc nào cũng vậy, "đều bị chi phối bởi hoàn cảnh cụ thể của nƣớc đó". Từ đây tác giả khẳng

định "chí" trong quan niệm "thi ngôn chí" ở các nhà Nho Việt Nam có ba nghĩa chính: Thứ

nhất: "chí" là "chí khí giết giặc"; thứ hai: "chí" là "chí hƣớng thánh hiền"; thứ ba: "chí" đƣợc

hiểu là tình cảm của nhà thơ". Phần kết luận, tác giả đồng thời lƣu ý: "Tất nhiên giữa ba mặt

này vẫn có mối quan hệ gắn bó, nhƣng trong từng thời kỳ, hoặc trong từng nhóm nhà thơ vẫn

có mặt này hoặc mặt khác nổi lên rõ hơn. Đồng thời, từ nội dung cơ bản của mỗi mặt trong

quan niệm "thơ nói chí", nó còn đƣợc phát triển thành từng quan niệm nhỏ hơn, từ quan niệm

nhỏ hơn đó, nhà Nho nƣớc ta đã đem ứng dụng cụ thể vào sáng tác hoặc lý luận về thơ".

22

Nếu Trần Lê Sáng đi vào vấn đề trọng điểm thì Đỗ Văn Hỵ đi vào tác giả tiêu biểu.

Giáo sƣ Đỗ Văn Hỵ đã tìm hiểu "Thơ với nhà thơ Lê Quý Đôn" nhằm phát hiện ra "cái nhìn

rất tinh tế về thơ" của nhà lý luận thi ca lớn vào bậc nhất trong quá khứ. Giáo sƣ tập trung

nghiên cứu thiên Văn nghệ trong "Vân đài loại ngữ" của nhà bác học Lê Quý Đôn.

Trƣớc khi đi vào những luận điểm qua trải nghiệm của Lê Quý Đôn, Đỗ Văn Hỵ đã

nêu lên những quan niệm khác nhau về thơ của các học giả và thi nhân Trung Hoa xƣa mà Lê

Quý Đôn có điều kiện tiếp xúc. Đó là quan niệm về "năm cái tục" và "ba cái đến" của Giải

Tấn đời Minh, về "bốn cái không", "bốn cái sâu", "hai điều bỏ", "hai điều xa lìa", "sáu điều

rất mực" và "bẩy đức" của Hạo Nhiên đời Đƣờng, "hai mƣơi bốn phẩm chất thơ" của Tƣ

Không Đồ; "năm điều", "chín phẩm chất thơ", "ba công dụng", "hai điều đại cƣơng" và

"mƣời bốn điều" trong phép làm thơ của Hứa Ngạn Chu. Sau đó, tác giả tập trung phân tích

luận điểm của Lê Quý Đôn về ba điều cốt yếu trong sáng tác thơ: một là tình, hai là cảnh, ba

là sự. Đỗ Văn Hỵ muốn chứng minh sự tƣơng quan giữa ba điều trên, đặc biệt muốn biện giải

"quá trình thai nghén tác phẩm và cái gì là tiền đề cho quá trình thai nghén đó". Từ sự gặp gỡ

giữa yếu tố bên ngoài (cảnh) và yếu tố bên trong (tình), tác giả đi tới khái niệm "ý tƣởng" văn

học theo cách gọi của các nhà nghiên cứu văn chƣơng ngày nay mà thời xƣa Lê Quý Đôn gọi

nó là sự: "Nói chung tình là ngƣời, cảnh là trời, sự là phối hợp trời và ngƣời mà xâu chuỗi

lại". Tác giả đã dừng lại phân tích "ý tƣởng" thơ nảy sinh trong bài thơ "Bài ca ngƣời con gái

chơi đàn ở Long Thành". Từ tất cả những gì đã nêu ở trên, Đỗ Văn Hỵ đi tới kết luận: "Để

phê phán một quan niệm sai lầm: cái hay của thơ là ở mặt hình thức của một số nhà thơ

Trung Hoa thời trƣớc, Lê Quý Đôn đã đƣa ra một quan

23

niệm mà chính ông đã thể nghiệm... Đây là một cống hiến tƣơng đối lớn lao của Lê Quý Đôn

đối với nền lý luận thơ ca của nƣớc ta thời quá khứ".

Có thể thấy các nhà nghiên cứu đã gắng phát hiện ra những quan niệm chung về thơ

của ngƣời xƣa qua các trọng điểm vấn đề và tác giả khá tiêu biểu. Tuy nhiên trong thực tế, đó

chƣa phải là tất cả mọi vấn đề trong lý luận thơ cổ.

Từ hai trƣờng hợp vừa nêu, nhìn vào hiện trạng nghiên cứu nội dung quan niệm thơ

cổ Việt Nam (rộng ra là quan niệm văn chƣơng cổ Việt Nam nói chung) ta thấy nổi cộm lên

hai vấn đề sau:

1. Mối quan hệ giữa quan niệm thơ cổ Việt Nam với di sản tư tưởng Trung Hoa thời

cổ đại.

2. Việc sử dụng tư duy hiện đại ra sao khi nghiên cứu quan niệm cổ xưa.

Về vấn đề thứ nhất, đã tồn tại hai khuynh hƣớng đối lập nhau:

- Một số nhà nghiên cứu, tiêu biểu là giáo sƣ Phƣơng Lựu, cho rằng quan niệm văn

chƣơng cổ (trong đó có quan niệm thi ca cổ) chủ yếu phản ánh điều kiện tự nhiên, lịch sử và

xã hội của nƣớc ta. Giáo sƣ viết: "Hệ thống quan niệm văn chƣơng cổ Việt Nam phải đƣợc

xét trƣớc hết nhƣ một bộ phận trong sự chi phối của bản chất lịch sử của xã hội Việt Nam,

lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam, và trong sự tác động, qua lại với thực tiễn sáng tác văn chƣơng

Việt Nam" (85.1,35).

- Một số nhà nghiên cứu khác, đại diện là giáo sƣ Trần Đình Hƣợu, lại chủ trƣơng lý

luận văn chƣơng cổ (trong đó có lý luận thơ cổ) của dân tộc không thoát khỏi vòng ảnh

hƣởng sâu đậm của các học thuyết tƣ tƣởng Trung Hoa, rõ nhất là Nho giáo. Giáo sƣ Trần

Đình Hƣợu cho rằng: "Văn học là sản phẩm của cuộc sống, chịu sự quy định

24

của thể chế kinh tế, chính trị, xã hội, nhƣng trực tiếp với nó hơn nữa là đời sống văn học, là

quan niệm văn học, là lý tƣởng thẩm mỷ, tất cả đều gắn bó với ý thức hệ. Ở các nƣớc Đông

Á, trong thời gian dài, Nho giáo, Phật giáo và các tƣ tƣởng Lão - Trang thống trị đời sống

tinh thần cùng nhau tác động vào văn học... Có ảnh hƣởng nhất là Nho giáo" (84, 80-81).

Giáo sƣ không phủ nhận sự quy định của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam tới

quan niệm văn chƣơng, nhƣng tác động chính vẫn là ý thức hệ có nguồn gốc từ Trung Quốc.

Thật ra, nếu tránh thiên lệch, nếu kết hợp cả hai cách nhìn, ta sẽ có điều kiện tiếp cận

gần hơn với chân lý.

Cũng nảy sinh hai thiên hƣớng trái ngƣợc khi giải quyết vấn đ ề thứ hai:

- Khuynh hƣớng tạm gọi là "hiện đại" quan niệm thơ cổ, dễ thấy trong các công trình

của giáo sƣ Phƣơng Lựu. Giáo sƣ đã đề cập tới "Quan niệm văn chƣơng yêu nƣớc và tự hào

dân tộc", "Quan niệm văn chƣơng hiện thực và nhân dân"... bởi giáo sƣ cho rằng: "Nếu phát

hiện đƣợc nội dung đích thực về một quan niệm nào đó, cho dù chƣa có sẵn công thức nào để

mệnh danh, thì hoàn toàn có thể đặt thêm tên cho nó" (85.1,36).

- Khuynh hƣớng khác, tạm gọi là "phục chế" quan niệm thơ xƣa, đƣợc giáo sƣ Trần

Đình Hƣợu và một số đồng sự của ông kiên trì bảo vệ và tuân thủ. Để tránh gƣợng ép, giáo sƣ

"nắm bắt đúng cái mà trƣớc đây tác giả cảm nghĩ, phát hiện đúng cái đẹp mà tác giả theo

đuổi" (84,82-83), gắng tiếp cận với "cách hình dung của họ" (84,17). Bởi vì giáo sƣ quan

niệm: "Có sự khác biệt khá lớn giữa cách nghĩ thời đó với cách nghĩ của chúng ta ngày nay"

(84,17).

25

Rõ ràng, tính khách quan khoa học đòi hỏi rất cao về sự "nguyên dạng", tính sát thực

khi tìm hiểu quan niệm thơ thời trung cổ. Ngƣời nghiên cứu gắng nhìn bằng con mắt của

ngƣời xƣa, nghĩ bằng cái đầu của ngƣời xƣa nếu muốn xây dựng lý luận thi ca đích thực của

ngƣời xƣa. Không thế, dễ mắc phải căn bệnh "trùng ngôn" (nghĩa là lời ấy, việc ấy, không

phải của ngƣời xƣa nhƣng đặt ra rồi gán cho họ). A. Gurevich từ phƣơng châm "phƣơng pháp

nghiên cứu đối tƣợng phải xuất phát từ đặc trƣng của đối tƣợng" (40.14) đã xác định rất rõ

khuynh hƣớng nghiên cứu này. Giáo sƣ vừa thừa nhận: "Sự nhận thức lịch sử bao giờ cũng là

một sự tự nhận thức (ngƣời ta thƣờng lấy nhu cầu của thời đại mình mà hiểu lịch sử - điều

này khó tránh khỏi)", vừa xác định: "Phục chế lại thế giới trung cổ trong ý thức ngƣời trung

cổ đúng nhƣ là nó có thật trong quá khứ thời trung cổ" (40.1). Nói thế không có nghĩa ta

khƣớc từ phƣơng pháp và tƣ duy hiện đại. Theo chúng tôi, vừa ôn cũ để hiểu mới, lại vừa từ

mới để hiểu cũ. Nếu không, ta sẽ tự trói buộc mình, khiến công trình nghiên cứu khó vƣơn tới

tầm cao thời đại cho phép.

Một điểm cần lƣu ý khác là khi đi sâu khai thác vốn lý luận cổ, các nhà nghiên cứu ít

chú trọng phát hiện cách trình bày ý kiến của ngƣời xƣa. Nhà nghiên cứu có nhắc tới bản sắc

những lời bàn của cổ nhân là giáo sƣ Lê Đình Kỳ. Trong cuốn "Tìm hiểu văn học", giáo sƣ

viết: "Trên những vấn đề cơ bản nhất, có những ý kiến khiến chúng ta càng sung sƣớng, cảm

động không những gần gũi với chúng ta mà còn đƣợc diễn đạt một cách thật độc đáo, với một

dáng vẻ riêng, một hƣơng vị chỉ ngƣời xƣa mới có đƣợc, do đó mà gợi cảm gợi nghĩ" (Nhà

xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1984 - tr. 325). Đáng tiếc,

26

vì không coi là mục đích chính nên giáo sƣ chỉ mới xới vấn đề lên mà không đi sâu bàn luận

cụ thể.

b- Những đóng góp của luận án

Luận án có những đóng góp nhất định cả trên phƣơng diện nội dung lẫn phƣơng pháp

tiếp cận. Có thể trình bày ngắn ngọn nhƣ sau:

* Về mặt khoa học:

- Luận án giải quyết vấn đề từ nhiều phƣơng diện: Cơ sở và nội dung, mặt tích cực và

mặt hạn chế của thi luận xƣa nhìn từ quan điểm hiện đại.

- Mặt cấu trúc của thi luận trung cổ Việt Nam đƣợc phân tích, biện giải khá toàn diện

và tƣơng đối hệ thống, cả phía chủ thể lẫn khách thể, cả nghệ thuật thơ lẫn việc bình duyệt

thơ. Những nội dung đó đƣợc đặt trong mối liên hệ giữa các học giả nhiều thế kỵ và trong sự

ảnh hƣởng nhất định của quan niệm thơ Trung Quốc thời trung đại.

- Một số vấn đề cụ thể trong quan niệm thơ trung cổ Việt Nam đƣợc đặt ra và bƣớc

đầu đƣợc giải quyết nhƣ: Thơ với chính sự, thi hứng, thực và hƣ trong thơ, đạo bàn luận thơ...

- Tác giả luận án cố gắng thâm nhập vào cách nhìn, cách nghĩ của ngƣời xƣa đặng

"phục chế" quan niệm thơ của cha ông dƣới ánh sáng của tƣ duy hiện đại và tiên tiến. Ngoài

việc tìm hiểu nội dung quan niệm thơ là chính, ngƣời viết còn gắng nhận ra bản sắc về cách

nói và lối bàn luận của ngƣời xƣa.

* Về mặt đào tạo:

27

Luận án tạo cơ sở bƣớc đầu cho việc giảng dạy thi luận cổ Việt Nam ở khoa Văn các

trƣờng Đại học.

4. CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Luận án sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu khoa học quen thuộc nhƣ sau:

- Thống kê, phân loại: Đọc kỷ các tƣ liệu có liên quan đƣợc công bố rải rác trên báo

chí (chủ yếu là Tạp chí Văn học, Tuần báo Văn nghệ) và trong hai cuốn sách: "Từ trong di

sản...", "Ngƣời xƣa bàn về văn chƣơng" trong các Toàn tập và Tuyển tập văn chƣơng trung

đại Việt Nam, từ đó ghi chép, phân loại và trình bày một cách có hệ thống (có luận điểm,

luận cứ, luận chứng trong tƣơng quan chặt chẽ giữa bộ phận và toàn thể, giữa các bộ phận với

nhau).

- Đối chiếu, so sánh: Các ý kiến về thơ của ngƣời xƣa đƣợc liên hệ với các ý kiến về

thơ của Trung Quốc (thƣờng là nơi xuất phát các quan điểm thơ Việt Nam) để thấy đƣợc sự

học tập và sáng tạo, liên hệ với các quan niệm thơ hiện đại để thấy đƣợc sự khác biệt, sự kế

thừa và cách tân.

Luận án đồng thời sử dụng hai phƣơng pháp cơ bản có tính phổ biến trong nghiên cứu

văn chƣơng: Phƣơng pháp loại hình và phƣơng pháp lịch sử. Về đại thể, các vấn đề trong

luận án đƣợc khái quát dƣới góc độ cấu trúc bao trùm lên mọi hiện tƣợng ở những giai đoạn

và thời kỳ lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, trong từng phần và từng trƣờng hợp riêng biệt, tùy

vào tính xác thực của tƣ liệu, luận án còn chú ý đúng mức đến cái nhìn lịch sử, gắng kết hợp

cách tiếp cận đồng đại với cách tiếp cận lịch đại.

28

5. BỐ CỤC LUẬN ÁN

Ngoài Phần I trình bày những vấn đề chung và Phần III có tính kết luận, nội dung cơ

bản của luận án đƣợc trình bày trong Phần II, bao gồm:

Chương 1: Cơ sở quan niệm thơ cổ Việt Nam

Chương 2 : Những quan niệm cơ bản của ngƣời xƣa về thơ

1 - Về nhà thơ

2- Về thơ với thực tại

3- Về nghệ thuật thơ

4- Về phê bình thơ

Chương 3 : Đặc điểm và hạn chế của quan niệm thơ cổ Việt Nam.

29

PHẦN II: NỘI DUNG CƠ BẢN

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ QUAN NIỆM THƠ CỔ VIỆT NAM

Quan niệm thi ca thƣờng đƣợc xây dựng trên hai phƣơng diện tạm gọi là: bên trong và

bên ngoài thi ca. Ảnh hƣởng của quan niệm thi ca nƣớc ngoài và nền tảng sáng tạo thi ca dân

tộc là những yếu tố bên trong thi ca.

Suốt thời trung đại Việt Nam, do hoàn cảnh lịch sử, do vai trò của văn hóa Hán, và

đặc biệt do chế độ đào tạo và tuyển lựa nhân tài, nền học thuật (trong đó có hệ thống tri thức

văn học) ở ta chịu ảnh hƣởng sâu đậm và to lớn nền học thuật Trung Hoa. Thi luận cổ dân tộc

không nằm ngoài thực tế này. Thêm vào đó, đúng nhƣ quan niệm của giáo sƣ I. S. Lisevich,

trong thời cổ trung đại, các nền văn chƣơng phƣơng Đông không phát triển đồng đều mà

thƣờng theo quy luật: có một nền văn chƣơng kiến tạo vùng, còn các nền văn chƣơng khác

tham gia tạo thành vùng văn chƣơng lớn nhƣ văn chƣơng Viễn Đông mà hạt nhân là văn

chƣơng Trung Hoa, bên cạnh vùng văn chƣơng Ấn Độ, vùng văn chƣơng Cận Đông (62.2).

Trung Quốc xƣa kia không chỉ là "đại thi quốc", mà còn là "đại thi luận quốc". Suốt

hai mƣơi thế kỵ, có thể nói không có triều đại nào ở đây

30

lại không xuất hiện những nhà lý luận thi ca cùng những tác phẩm lý luận thi ca danh tiếng.

Các nhà nho Việt Nam hầu nhƣ không một ai không từng nghe biết và học hỏi quan niệm thi.

ca của Lục Cơ (261-303) với Văn phú, Lƣu Hiệp (khoảng 465-520) với Văn tâm điêu long,

Chung Vinh (khoảng 468-518) với Thi phẩm, Bạch Cƣ Dị (772-846) với Thư gửi Nguyên

Chẩn, Viên Mai (1715-1797) với Tùy Viên thi thoại... Ấy là mới chỉ kể tới những tác giả

và tác phẩm đặc biệt nổi trội. Còn dƣờng nhƣ thời nào ở Trung Quốc cũng có thi luận của

thời mình.

Tiếp xúc với bề dày lý luận thi ca đặc sắc và phong phú nhƣ vậy nếu có chịu tác động

mạnh mẽ và sâu sắc cũng là điều hiển nhiên. Tƣ tƣởng nệ cổ vốn là nếp nghĩ quen thuộc của

ngƣời xƣa cũng góp phần làm tăng thêm sức ảnh hƣởng từ phƣơng Bắc. Phùng Khắc Khoan

là một ví dụ. Ông là ngƣời có tài năng lớn và nhân cách lớn. Lần đi sứ Trung Quốc năm

1597, ông đƣợc vua Minh rất vì nể không gọi thẳng tên mà gọi là "Phùng kỳ lão". Sứ giả

Triều Tiên Lý Toái Quang kính phục tôn ông là "dị nhân". Vậy mà chính ông lại phải thừa

nhận: " Ta... tự xét tài không cao bằng ngƣời xƣa, lời không tính bằng ngƣời xƣa" (76,41).

Trƣớc cổ nhân chỉ biết cúi đầu "kính nhi viễn chi". Tƣ tƣởng sùng cổ hoài cổ luôn lấy thƣớc

do thời xƣa để đánh giá tài năng ngƣời nay, cho dầu đặt trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà

xem xét vẫn không thể coi là lành mạnh và tích cực.

Không lạ nếu thấy nhiều điều trong quan niệm thơ của cha ông, từ cái lớn đến cái nhỏ,

ít nhiều đều mang dấu ấn sâu đậm từ phƣơng Bắc. Có khi là sự lặp lại y nguyên ngƣời ngoài

từ ý tứ đến cả câu chữ nhƣ trƣờng hợp Phạm Phú Thứ. Ông viết: "Thi thị thiên địa chi tâm,

tại tâm vi chí, phát ngôn vi thi" (thơ là tâm của trời đất, ở trong lòng là chí,

31

phát ra lời là thơ - 35.3,61). Hoặc khi nghe Miên Trinh viết: "Văn chƣơng đƣợc mất ở tại tấc

lòng" (35.1,97), không thể không liên tƣởng đến câu thơ của Đỗ Phủ:

Văn chương thiên cổ sự

Đắc thất thốn tâm tri

Ngô Thế Vinh cũng từ kinh nghiệm đúc rút trong sách vở Trung Quốc mà bàn về "khí

tƣợng" và "tâm thuật" của ngƣời làm thơ. Sử cũ chép rằng Đƣờng Huyền Tông lúc đầu ẩn

tích làm thầy tu, khi xem thác nƣớc ứng khẩu đọc:

Khe suối há đâu lưu giữ được

Cuối cùng về bể dấy ba đào

"Khí tƣợng" thiên tử đã lộ rõ. Đó cũng là trƣờng hợp Trần Nghệ Tông nƣớc ta. Khi

còn làm tể tƣớng, trong thơ tiễn sứ giả nhà Nguyên Ngƣu Lƣợng, ông có đọc:

Viên Tản non xanh, Lô nước biếc

Thẳng bay nhờ gió tới mây kia.

Vị sứ giả nọ tiên đoán: "Cuối cùng ông sẽ làm vua". Sau này quả nhiên đúng nhƣ vậy

(35.1, 143-144). Từ chuyện ngƣời ngẫm ra chuyện mình, Ngô Thế Vinh cũng nhƣ nhiều bậc

danh nho thời xƣa coi thế là lẽ thƣờng trong thi ca.

Nhƣng rõ nhất là những quan niệm trở thành định thức nhƣ "phẫn nộ xuất thi nhân"

(sự phẫn chí căm giận tạo ra nhà thơ), "thi cùng nhi hậu công" (thơ của ngƣời cùng mà sau lại

hay). Ngƣời phát biểu tập trung nhất về vấn đề "ngƣời cùng thơ mới hay" là Âu Dƣơng Tu.

Trong "Mai Thánh Du thi tập tự", ông viết: "Ta nghe đời thƣờng nói nhà thơ hiển đạt thì ít

mà cùng khổ thì nhiều. Lẽ nào lại nhƣ vậy sao? Phải chăng

32

những vần thơ hay mà đời lƣu truyền phần lớn là vần thơ của những ngƣời cùng khổ?... Do

vậy càng khốn cùng thì thơ càng hay. Nhƣ thế thì không phải thơ làm cho ngƣời ta khốn

cùng, mà có khốn cùng thì sau đó mới có thơ hay vậy" (49,90). Thật ra vấn đề đã đƣợc nhiều

ngƣời trƣớc Âu Dƣơng Tu đề cập tới. Đỗ Phủ đã từ cảnh ngộ của mình và bạn thơ mình là Lý

Bạch để cảm khái viết: "Văn chƣơng tăng mệnh đạt" (Văn chƣơng vốn ghét số phận hiển đạt

- 49,92). Hàn Dũ thì nói: "Thơ từ của ngƣời sung sƣớng khó mà hay đƣợc. Ngôn từ của kẻ

bần hàn thƣờng dễ hay hơn" (49,94). Mức độ và cách nói có thể khác nhau nhƣng tinh thần

chung thì gần gũi nhau. Rồi ta sẽ thấy, nguyên lý phổ quát này sẽ ảnh hƣởng lớn đến quan

niệm của các nhà nho ra sao.

Từ cơ sở trên, giáo sƣ Dƣơng Quảng Hàm đã cho rằng: "Trong nền học thuật của ta,

phần "hấp thụ" của ngƣời thì nhiều mà phần "sáng tạo" của mình thì rất ít" (31,24). Có lẽ

đánh giá này cần đƣợc bàn bạc thêm.

Khuynh hƣớng tự chủ trong học hỏi ngƣời ngoài quán xuyến trong suy nghĩ, hành

động của không ít bậc thức giả xƣa. Họ thƣờng chú trọng tới cái gọi là "xuất nhập pháp" khi

đọc sách. Cần biết đi vào sách, cũng cần biết đi ra khỏi sách. Cần biết tiếp thu tinh túy của

sách, cũng cần biết chuyển hóa thành cái của mình. Có thể không hẳn ai cũng nghĩ và làm

đƣợc nhƣ vậy. Với Nguyễn Tƣ Giản thì "văn của Thánh nhân là để chở đạo", còn "văn của

văn nhân là để luận đạo". Đạo trong cách hiểu của nhà nho họ Nguyễn là Ngũ luân, Ngũ

thƣờng chứa trong Kinh Truyện. Tuy nhiên, Lê Quí Đôn thì khác. Ông xác định: "Nên đem

lời và ý của cổ nhân mà đúc lại cho mới, chứ đừng bƣớc theo lối cũ" (Điều 10 - Văn nghệ).

"Sƣ kỳ ý, bất sƣ kỳ từ" (Hàn Vũ - 49, 316) là phƣơng châm đọc sách thuận lý nhất nên thuyết

phục ngƣời đời nhất. Nhƣ vậy mới có thể

33

đƣa ra đƣợc cái mới, bổ sung và phát triển cái đã có. Lê Hữu Trác không mấy hài lòng với

câu nói của cổ nhân : "Đọc sách nắm đƣợc nghĩa là khó". Theo ông, "đƣa ra đƣợc những phát

kiến mới ngoài cái lý thuyết đó, mới lại càng khó" (76,102). Lê Hữu Trác trở thành ông tổ

của nền y học dân tộc chính bằng con đƣờng này. Sau khi "tổng hợp thành quy tắc" từ những

"câu cách ngôn của hiền triết đời xƣa, qua những "chứng bệnh lạ", Lê Hữu Trác đã phát hiện

ra "lý thuyết" nằm ngoài những "lời lẽ" đã đƣợc đọc (76,102 - 103).

Đấy là chƣa nói sách xƣa cũng nhƣ ngƣời xƣa không thể "thập toàn" cả. Có "chuyên

công" đồng thời có "bất túc". Tào Thực viết: "Thế nhân trứ thuật, bất năng vô bệnh". Lƣu

Hiệp cũng thú nhận: "Tự phi thƣợng triết, nan dĩ cầu bị". Do vậy, các bậc danh nho ở ta

thƣờng có óc độc lập khi tiếp xúc với di sản tri thức đồ sộ của dân tộc Trung Hoa. Nguyễn

Văn Siêu từng hoài nghi câu nói của Hàn Dũ :"Đào Tiềm và Nguyễn Tịch chƣa tránh khỏi

nhƣợc điểm, nhƣng cũng là sự bất hạnh của hai ông; nếu họ đƣợc gặp Khổng Tử cùng ngao

du với ngƣời nhƣ Nhan Uyên và Tử Lộ, thì đâu đến nỗi phải gửi gắm nơi chua cay, ẩn lánh

nơi tăm tối" (76,120). Ông còn nghi ngờ điều giáo huấn về "lời đạt" của Tô Đông Pha, và nói:

"Tôi lại cho đạt là cái gọi là có gốc. Ví nhƣ nƣớc vậy. Nƣớc của biển khơi, tuy gò đảo chắn ở

phía trƣớc, nhƣng dòng không rối loạn. Ao vịnh rất xa, nhƣng nguồn mạch thƣờng thông.

Đƣợc thế, là vì biển chứa chấp sâu dầy vậy" (76,125)

Học ngoài mà không lệ thuộc vào ngoài, học xƣa mà không bị trói buộc bởi xƣa, đó là

lối nghĩ và cách làm của không ít các nhà nho tiến bộ xƣa. Nguyễn Hành tuyên bố :"Mơ

tƣởng về ngƣời xƣa, sao bằng mắt thấy tai nghe về đời nay; cầu ở nƣớc ngoài, sao bằng tìm ở

nƣớc nhà"

34

(76,145). Đƣợc vậy, nói nhƣ Viên Mai, thì "cổ vi ngã dụng" (cổ phải phục vụ cho ta - 49,134)

và cũng có thể nói thêm "ngoại vi ngã dụng" (ngoài phải phục vụ cho ta).

Cũng cần nói rõ là nhiều ngƣời lầm tƣởng phƣơng châm "thuật nhi bất tác" thời xƣa

đòi hỏi chỉ có học mà không đƣợc phép sáng tạo gì. Thật ra "bất tác" ở đây chủ yếu hàm

nghĩa là không đƣợc phép xây dựng học thuyết mới trái với Nho giáo.

Nhận rõ tinh thần độc lập tƣơng đối trong việc tiếp thu lý luận thơ ca Trung Quốc,

Hoàng Trung Thông đã viết: "Tất cả các cái đó trong các "thi thoại" có nhà nho nào không

biết, nào Lƣu Hiệp với "Văn tâm điêu long", nào Viên Mai với "Tùy viên thi thoại"... mà họ

không nhai đi nhai lại, họ viết cảm nghĩ của riêng mình" (35.1,11). Nói nhƣ giáo sƣ Trần

Thanh Đạm: "Thẩm mỷ ngoại lai muốn sống đƣợc ở Việt Nam cũng phải dung hòa hội nhập,

"tiếp biến" vào bản sắc đó của Việt Nam" (93.2).

Với những gì vừa phân tích, có thể thấy, ý kiến xem nhẹ tính sáng tạo, ý thức độc lập

trong việc tiếp thu nền học thuật và nói riêng là nền thi luận Trung Hoa của các học giả thi

nhân ta xƣa là ít sức thuyết phục. Tuy nhiên, cần thấy lý luận thi ca cổ Trung Hoa cũng là

một trong nền tảng đáng kể cho việc xây dựng lý luận thi ca cổ Việt Nam.

Vai trò của thực tiễn sáng tạo cũng không nhỏ trong việc hình thành quan niệm thi ca.

Lý luận không phải là kết quả của đầu óc tƣ biện. Nó đƣợc rút ra, đƣợc nâng cao từ thực tiễn

sáng tác cụ thể, đa dạng của các nhà thơ. Quan niệm thơ thời Trần chẳng hạn. Phải nói các

học giả, thi nhân đời này đã ý thức đƣợc khá rõ rệt đặc thù của thi ca. Trần Thái Tông viết:

"Vạn tượng sinh hào đoan" (Muôn vạn hình ảnh sinh ở đầu ngọn bút - Hạnh An bang phủ).

Nguyễn Tử Thành

35

thì viết: "Thập thúy, thu hồng, quy bút để" (Nhặt màu biếc, thu màu hồng, quy về dƣới ngòi

bút - Chu trung vãn thiếu). Thi ca không giống các hình thái tƣ tƣởng khác trƣớc hết là ở tính

hình tƣợng đƣợc xây dựng bởi sức khái quát, không rơi vào đơn lẻ ngẫu nhiên. Tiếp xúc với

hình tƣợng thi ca, vạn vật nhƣ mở ra trƣớc mắt ngƣời cảm thụ:

Thập nhị lâu đài khai hoa trúc

Tam thiên thế giới nhập thi mâu

(Mƣời hai cảnh lâu đài mở ra nhƣ tranh vẽ

Ba nghìn thế giới đều thu vào con mắt thơ)

Trần Nhân Tông trong "Đại giác thần quang tự" đã viết nhƣ vậy. Có đƣợc cái nhìn sát

hợp này là bởi thi ca đời Trần khá phồn thịnh. Đọc thơ, làm thơ trở thành nếp của những

ngƣời biết chữ không giới hạn chỉ ở các bậc văn thần. Trần Nguyên Đán cảm kích viết:

Đấu tướng tùng thần giai thức tự

Lại viên tượng thị diệc năng thi

(Tƣớng võ, quan hầu đều biết chữ

Thƣ lại, thợ thuyền cũng làm thơ - 20,196)

Vai trò của sáng tác đối với quan niệm thơ vậy là không thể thiếu. Tuy nhiên, đáng

lƣu ý hơn cả là những yếu tố bên ngoài thi ca mà trƣớc hết là tƣ tƣởng, ý thức hệ.

Đành rằng văn chƣơng là sản phẩm của đời sống, chịu sự chi phối của những điều

kiện kinh tế- xã hội lịch sử - cụ thể. Nhƣng những nhân tố đó quyết định tới văn chƣơng là

"suy cho đến cùng" nghĩa là thƣờng gián tiếp. Trực tiếp hơn cả là hệ tƣ tƣởng.

Trƣớc thế kỵ XX, ở ta chƣa từng có cách mạng tƣ tƣởng. Ý thức hệ phong kiến tồn tại

ở dạng phức tạp trong đó Nho giáo giữ vai trò thống

36

soái. Tuy nhiên, quan niệm nhập thế tích cực của Nho gia không phải lúc nào, ở đâu, và với

ai cũng đều thích hợp. Để khắc phục những khiếm khuyết của mình, học thuyết Nho giáo đã

tìm đến những điểm khả dĩ của học thuyết Lão-Trang và sau này là học thuyết Phật giáo. Vị

thế của tƣ tƣởng Lão gia rất lớn trong lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam. Nhà nghiên cứu Huyền

Giang thậm chí còn cả quyết: "Cả Khổng giáo lẫn Lão giáo có tác động sâu sắc ngang nhau

đối với văn hóa Việt Nam ngày xƣa" (46,17).

Tình trạng đó vốn đã diễn ra ở mảnh đất sinh ra chúng tại Bắc quốc. Theo giáo sƣ Phan

Ngọc, đạo Nho của Khổng Tử chỉ nói đến quan hệ giữa ngƣời với ngƣời trong xã hội. Nó

thiếu hụt thứ nhất là sự nghiên cứu về quan hệ giữa ngƣời với vũ trụ (siêu hình học) và thứ

hai là sự nghiên cứu về bản chất con ngƣời (tâm lý học). Do vậy sau này Nho giáo phải "đổi

mới triệt để" (từ dùng của Phan Ngọc) bằng cách tiếp nhận thêm Lão giáo và Phật giáo. Tống

Nho (còn gọi là Tân Khổng giáo) là kết quả của quá trình ấy (83.2, 46-47). Còn theo M.E.

Kharvcôva trong bài "Tính đa dạng văn hóa tộc ngƣời của Trung Quốc thời cổ" thì văn hóa

Hán (từ thế kỵ II trƣớc Công nguyên đến thế kỵ II sau Công nguyên) chính là sự tổng hợp

của hai "chất nền" vừa độc lập vừa giao nhau: văn hóa "trung tâm" (nƣớc Chu) đại để đƣợc

kết tinh ở Khổng giáo và văn hóa "phía Nam" (nƣớc Sở) đại để đƣợc chung đúc ở Lão giáo.

Tác giả bài báo đồng thời khẳng định: Văn hóa Chu đặt quyền lợi xã hội lên trên, và cái cá

nhân chủ yếu đƣợc xem xét về mặt sinh hoạt xã hội của nó - từ đó mà đề cao đạo đức, còn

những vấn đề của bản thể con ngƣời thì nằm ngoài sự chú ý của Khổng giáo; trái lại, "chất

nền" phƣơng Nam lấy việc hƣớng vào bên trong con ngƣời là chính. Nó tập trung vào việc

thỏa

37

mãn những nhu cầu tinh thần cá nhân và giải quyết những vấn đề cá nhân (46,17).

Sau này, Phật giáo du nhập từ Ấn Độ vào Trung Quốc, trở thành học thuyết ngoại

quốc có ảnh hƣởng quan trọng duy nhất ở nƣớc này trong suốt thời trung đại. Phật giáo, nói

theo nhà nghiên cứu Lâm Ngữ Đƣờng, "đã chinh phục giới trí thức bằng tính cách triết học và

chinh phục đại chúng bằng tính cách tôn giáo của nó" (54,64). Do cùng chung tính "siêu tự

nhiên" huyền hoặc, Phật giáo và Lão giáo đã tiếp cận nhau trên cả phƣơng diện triết học lẫn

phƣơng diện nhân sinh.

Từ đó, ảnh hƣởng của chúng tới văn chƣơng đƣợc phát biểu thành lời. Miên Thẩm

thừa nhận: "Thơ là việc Phật đƣợc ngƣời chứng thực" (35.1,78). Quân Bác thì khái quát:

"Dòng Đạo gia lại là ngƣời giỏi của thi gia (35.1,104). Đặc biệt, Trần Huy Tích đã viết trong

"Đẽo bánh xe":

Đẽo bánh xe dưới thềm

Cũng hiểu việc đọc sách

Bàn tay hợp với tâm

Thì sẽ trúng giấy mực

(Tập "Quán sơn thi thảo"- 35.3,38).

Cái tích "Đẽo bánh xe" vốn rút từ câu chuyện ngụ ngôn "Thiên đạo" của Trang Tử.

Luân Biển cho rằng Hoàn Công đọc sách chẳng qua là đang tiếp xúc với cặn bã của ngƣời

xƣa mà thôi. Vua dọa giết, nhƣng Luân Biển đã biện bạch: "Ông làm nghề đẽo bánh xe già

đời, nay 70 tuổi, rất thành thạo nhƣng không thể đƣa cái kỷ xảo điêu luyện truyền cho ai

đƣợc, thậm chí với con cháu cũng đành chịu. Cho nên, cái tinh hoa của ngƣời xƣa là không

nói ra đƣợc và đã cùng với họ chết cả rồi, cái còn lại không phải là cặn bã thì là cái gì nữa?".

Vua thấy có lý đành tha tội

38

chết cho Luân Biển. Kể câu chuyện này, Trang Tử muốn biểu lộ quan điểm nhận thức có

phần "bất khả tri" của mình, nhƣ ông viết: "Khả dĩ ngôn luận giả, vật chi thô dã, khả dĩ ý trí

dã, vật chi tinh dã" (cái có thể giải thích đƣợc là cái thô của sự vật, còn cái tinh của sự vật thì

chỉ dùng ý lĩnh hội đƣợc thôi).

Ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Lão giáo và Phật giáo ở Trung Quốc và Việt Nam tới sáng

tác cùng quan niệm thi ca rất sâu xa và đa tạp. Chỉ xin nêu một ví dụ: tính mơ hồ của ngôn từ

và hình ảnh thi ca. Có lẽ nên phân biệt tính mơ hồ với tính hàm súc khi bàn về thơ. Lý luận

thơ Đông Tây xƣa nay hay nói nhiều đến tính hàm súc, dƣ ba của lời thơ. Dung lƣợng thơ

nhỏ không cho phép phân tán, dài dòng. Trong thơ hay một lời cần tỏ trăm ý. Béctôn Brếch

yêu cầu hình thức nghệ thuật "chủ yếu là ngắn gọn, súc tích"(99.5). Chung Vinh viết: "Văn dĩ

tận, nhi ý hữu dƣ" (49,194).

Tính mơ hồ trong thơ cổ phƣơng Đông có phần khác thế. Có thể dễ nhận ra sự khác

biệt đó qua các khái niệm "thần vận" của Tƣ Không Đồ đời Đƣờng và "diệu ngộ" của

Nghiêm Vũ đời Tống. Tƣ Không Đồ giải thích về "thần vận" thế này: "Vƣợt qua cái vỏ bên

ngoài, đi sâu vào khẩu chính bên trong" (85.3). Với Nghiêm Vũ, "diệu ngộ" là "không nắm

bắt đƣợc, nhƣ âm thanh giữa trời, sắc đẹp trong dung nhan, ánh trăng dƣới đáy nƣớc" (85.3).

Hình ảnh thi ca nhƣ rồng uốn lƣợn, lúc ẩn lúc hiện, biến thái khôn lƣờng. Thiên hƣớng này

tìm đƣợc sự đồng điệu ở ta qua quan niệm của Hoàng Đức Lƣơng. Trong lời Tựa "Trích diễm

thi tập" có đoạn: "Đến nhƣ thơ văn thì lại là sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị

ngon, không thể đem mắt tầm thƣờng mà xem, miệng tầm thƣờng mà nếm đƣợc" (76,28).

39

Với ngƣời phƣơng Đông xƣa, cái đẹp thƣờng gắn với sự mơ hồ, vô định. "Dĩ nhƣợc

hữu nhƣợc vô vi mĩ" (ví bằng có ví bằng không là đẹp). Cái đích là thấm nhuần lẽ huyền vi

của Đạo. Trong khi năng lực ngũ quan rất hữu hạn. Vậy nên Nguyễn Hành chủ trƣơng:

"Nghe ở chỗ nghe đƣợc cả ở chỗ không nghe đƣợc, thấy ở chỗ thấy đƣợc cả ở chỗ không thấy

đƣợc" (Tựa Kiến văn lục - 35.3,36). Điều cốt yếu là cảm nhận đƣợc cái dƣ âm dƣ vị của

muôn vật. Có mà nhƣ không, không mà nhƣ có. Cái tính siêu phàm đi xa một chút sẽ rơi vào

bí hiểm. Quân Bác viết:

Lòng hư linh như hoa trong gương như trăng đáy nước

Luyện cốt cách thơ bằng cốt cách tiên (35.1,104)

Cổ thi có nhiều điểm tƣơng đồng với cổ họa. Thời xƣa hội họa có khái niệm "trƣơng"

(thế tỏa ra), thì trong thi ca có quan niệm "thi ngoại hữu thi" (ngoài thơ có thơ); hội họa có

khái niệm "liễm" (thế thu vào) thì thi ca có quan niệm "thi trung hữu thi" (trong thơ có thơ).

Và tất cả đều có gốc gác từ mô thức vũ trụ quan phƣơng Đông mà một phần không nhỏ là do

đóng góp của học thuyết Lão-Trang. Nếu ngƣời phƣơng Tây nhìn vũ trụ thƣờng thiên về sự

đối chiếu nhiều khi đến mức rạch ròi giữa thực thể và hƣ không, thì ở phƣơng Đông lại

thƣờng thấy sự gắn kết, hòa hợp giữa chúng. "Vô hữu tƣơng sinh" . Ngƣời ta nói vũ trụ quan

phƣơng Tây nghiêng về thuyết "chủ biệt" còn phƣơng Đông nghiêng về thuyết "chủ toàn" là

vì thế. Theo Lão Tử - "vừa là một nhà biện chứng vĩ đại, vừa là một nhà thần bí vĩ đại" (I. S.

Lisevich - 62.2) và sau này Trang Tử tiếp tục phát triển, thì vạn vật trong trời đất sinh ra từ

cái có, nhƣng cái có lại đƣợc sinh ra từ cái không. Sách "Hoài Nam Tử" đời Hán viết: "Cái vô

hình mới là ông tổ của sự vật. Cái vô âm mới là ông tổ của thanh âm... cho nên cái có nảy

sinh từ cái không, cái thực nảy sinh từ cái hƣ" (Báo

40

Văn nghệ, Số 39/1995). Đây là cơ sở của lối tƣ duy "trƣờng" của phƣơng Đông nhiều

phần khác biệt với lối tƣ duy "tuyến" của phƣơng Tây. Do vậy, hƣ thực, động tĩnh nhƣ âm

dƣơng, luôn giao dung, tƣơng hòa. Vật nào cũng: "Chiêm chi tại tiền, hốt yên tại ngoại" (thấy

ở đằng trƣớc đột nhiên lại xuất hiện ở đằng sau). Trạng thái nào cũng: "Động trung hữu tĩnh,

tĩnh trung hữu động" (trong động có tĩnh, trong tĩnh có động). Chính điều này đã góp phần

tạo ra cái độc đáo cùng cái diệu kỳ của Đông phƣơng. Cavabata Iasunari, nhà văn Nhật dầu

tiên đoạt giải Nobel về văn chƣơng, trong bài Diễn từ đã nói: Mình "sinh ra từ vẻ đẹp Nhật

Bản". Nhà văn Nhật Kenzaburô Uê năm 1994 cũng vinh dự nhận giải thƣởng cao quý này,

trong Diễn từ của mình đã nói rõ hơn: "Sinh ra từ sự mơ hồ Nhật Bản" (48).

Không phải trong lý luận thi ca phƣơng Tây không có khái niệm mơ hồ. Nhƣng do

điều kiện xã hội và lịch sử, sự mơ hồ đƣợc xem nhƣ là kiểu cảm nhận đặc thù của Á Đông.

Nhà phê bình Hoài Thanh sau này tiếp nối một cách có ý thức đặc tính đó của ngƣời phƣơng

Đông. Ông đã viết nhƣ sau về mục đích của thƣởng thơ: "Chọn lấy cái hồn để thâm nhập là

chọn chỗ vi diệu nhất, kỳ bí nhất, cũng là chỗ mơ hồ nhất, nhƣng mà thơ nhất" (81).

Trên cơ sở những gì vừa phân tích có thể nói tác động của tƣ tƣởng Lão giáo cùng

Phật giáo tới quan niệm thơ cổ thật không nhỏ. Tác động này đặc biệt rõ rệt đối với những

nhà nho ẩn dật và nhà nho tài tử (theo cách phân chia của giáo sƣ Trần Đình Hƣợu). Nhƣng

dẫu sao, ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo tới thi luận cổ thật lớn lao, sâu xa, và trực tiếp,

nhất là đối với các nhà nho hiển đạt, nhà nho hành đạo trong những sáng tác có tính quan

phƣơng.

41

Ngày nay, bên cạnh mặt hạn chế, các học giả hiện đại ngày càng nhận ra mặt tích cực

của tƣ tƣởng Nho gia thể hiện trong Ngũ kinh. Theo Nguyễn Tiến Đoàn, một học giả phƣơng

Tây đã xem vai trò của Chu Dịch đối với văn hóa Trung Quốc nhƣ vai trò của "Vệ đà" với

văn hóa Ấn Độ và "Kinh Thánh" với văn hóa phƣơng Tây. Còn đối với văn minh thế giới?

Chính C. G. Jung, ngƣời đƣợc giải thƣởng Nobel năm 1957, đã thú nhận là nhờ học Chu Dịch

mà ông có đƣợc những sáng tạo mới lạ trong ngành tâm lý học chiều sâu, một đóng góp lớn

của tâm lý học hiện đại vào tƣ tƣởng nhân loại (79,14).

Tất cả những mặt tích cực và mặt tiêu cực của tƣ tƣởng Nho giáo đều có ảnh hƣởng

khác nhau tới quan niệm thơ cổ. Nhƣng vai trò trực tiếp thuộc về tƣ tƣởng mỷ học Nho gia.

Quan điểm mỷ học ở các đại biểu lớn nhất của học phái Nho gia nhƣ Khổng Tử, Mạnh Tử

gần nhƣ thành những chuẩn mực có phần khuôn cứng cho nhiều thi nhân học giả xƣa trong

sáng tác và trong phẩm bình thi ca. Ta dễ dàng bắt gặp những từ Ôn, Nhu, Đôn, Hậu, Hứng,

Quan, Quần, Oán, "Tƣ vô tà"... vốn đƣợc Khổng Tử dùng trong khi luận bàn về nghệ thuật

nói chung, về Kinh Thi nói riêng. Khổng Tử viết: "Thi khả dĩ hứng, khả dĩ quan, khả dĩ quần,

khả dĩ oán" (Kinh Thi có thể làm phấn khởi ý chí, có thể giúp quan sát phong tục, hòa hợp

với mọi ngƣời, bày tỏ nỗi sầu oán - Thiên Dƣơng hóa - Luận ngữ). Đề cao việc tuyên truyền

và giữ gìn đạo lý phong kiến, ông yêu cầu thơ phải "ôn, nhu, đôn, hậu" (Lễ Ký - Kinh giải),

ông đánh giá Kinh Thi bằng một lời khen tụng bao quát: "Tƣ vô tà" (Luận ngữ - Vi chính ).

Ông đề cao Kinh Thi gần nhƣ tuyệt đối: "Bất học Thi, vô dĩ ngôn" (Luận ngữ - Quí thị). Ở ta

nhiều học giả nhắc lại hầu nhƣ nguyên văn lời ngƣời sáng lập Nho gia: "Thơ, sau khi Ba trăm

thiên ra đời (chỉ

42

Kinh Thi) thì... cái ý chí của "hứng khởi", "quan sát", "hợp quần", và "oán phẫn" rõ ràng soi

sáng cho đời" (Phạm Đình Hổ - 35.1,34); "Trong cái vẻ ôn, nhu, khoan, hầu vẫn không sai

nghĩa quần, oán, hứng, quan" (Cao Xuân Dục - 1). Riêng Hồng Nhậm thì diễn đạt ý nghĩ

bằng hình thức thơ:

Phu tử khuyên "không học"...

Và không chê trách đam mê thơ hay

Miễn là "suy tư không thiên lệch" (35.1,93-94)

Yêu cầu cao tính giáo huấn của "văn", Khổng Tử luôn đặt "thiện" (nội dung đẹp) lên

trên "mỷ" (hình thức đẹp), ông từng nói: "Từ đạt nhi di hĩ" (Nếu từ đã diễn đạt đƣợc đầy đủ

thì không đòi hỏi gì thêm nữa). Quan niệm có tính nguyên tắc này chi phối tới nếp nghĩ về

văn chƣơng của các thi nhân học giả ta xƣa. Ngô Thì Ức viết một cách quả quyết: "Văn bất

cầu công, từ thƣợng đạt" (Làm văn không cầu khéo, lời cốt đạt ý thì thôi - 63.1,31). Với họ,

lời Thánh Hiền là nguồn ánh sáng chói lọi làm bừng tỏ những gì còn mù mờ ẩn khuất trong

tƣ duy.

Sau Khổng Tử, phải kể tới sự ảnh hƣởng của Mạnh Tử. Lý luận thơ xƣa rất coi trọng

chữ "tình". Muốn tạo nên những áng thơ hay, tình phải chân thật, phải sung mãn. Không phải

vô cớ mà ngƣời xƣa hay nói: "Mãn phúc văn chƣơng" (đầy bụng văn chƣơng). Khác với óc,

bụng là nơi chứa tình cảm. Ngƣời làm thơ không thể "nặn óc" mà phải "rút ruột". Và hãy soi

nhìn vào cổ nhân, Mạnh Tử đã dạy rồi': "Ai đi đến tận cùng của tim mình, kẻ ấy nhận thức

đƣợc bản tính của mình, và ai nhận thức đƣợc bản tính của mình thì ngƣời ấy nhận thức đƣợc

trời" (87).

Trong "Mạnh Tử" không ít lời bàn về thơ thấu đáo nhƣ thế. Một trong những điểm

khả thủ là ý kiến về cách đọc văn. Đối với cảm thụ

43

nghệ thuật, ông chú trọng nguyên tắc: "Dĩ ý nghịnh chí" (lấy ý mà đón chí - 49). Ngƣời sáng

tạo đã thể hiện chí mình, gửi gắm lòng mình nơi ý tứ của bài thơ. Ngƣời thƣởng thức, ngƣợc

lại, phải từ ý tứ mà lần tìm ra chí, tình của ngƣời sáng tạo. Nhƣng tác phẩm nghệ thuật không

chỉ là tiếng nói con ngƣời: "Thi phẩm xuất vu nhân phẩm" (thi phẩm nảy sinh từ nhân phẩm).

Tác phẩm nghệ thuật còn phản chiếu nhân tâm thế đạo: "Văn biến nhiễm hồ thế tình" (văn bị

ảnh hƣởng bởi tình đời). Do vậy, Mạnh Tử còn lƣu ý nguyên tắc: "Tri nhân, luận thế" (biết

ngƣời, xét đời - 49). Thật đủ đầy, trong lời bàn nhƣ thế của Mạnh Tử. Ngƣời xƣa đến soi

mình trong tấm gƣơng sáng của ông không phải là vô cớ, cũng không phải là vô ích.

Điều đáng nhấn mạnh ở đây là thái độ trƣớc lời nói của các bậc Thánh Hiền ra sao?

Quả không ít ngƣời chỉ biết cúi đầu bái phục. Thánh Hiền cùng các bậc Chƣ Tử khác đã phán

điều gì là gần nhƣ thành chân lý, không đƣợc phép cũng không có quyền hoài nghi. Phải tin

theo nếu không muốn mình mang tội với tiền nhân. Không ngoại trừ ngay cả những bộ óc

tiến bộ của thời đại. Ngô Thì Sỷ khẳng định: "Dù là ngâm vịnh mây ráng, thƣởng thức gió

trăng nhƣng kỳ thực thì không rời khỏi đạo thƣờng của cha con vua tôi" (16,168). Ngô Thì

Nhậm cũng một mực nhận thức: "Thơ để vịnh lời, lời để chở đạo, đạo là trung hiếu vậy"

(Cẩm đƣờng thi tập tự). Bùi Dƣơng Lịch cũng viết không một chút phân vân: "Buồn bã lắm

thì đến đau thƣơng, cuối cùng dừng lại ở lễ nghĩa" (76,144). Tam cƣờng Ngũ thƣờng trói

buộc tƣ tƣởng con ngƣời. Vùng trời suy tƣởng của các bậc tài danh có khoáng đạt đến mấy

cùng khó ra khỏi giới hạn của thời đại và giai cấp. Đáng mừng là nhiều học giả nghĩ khác và

làm khác. Với họ, đọc Kinh Truyện phải nghiền ngẫm những ý cao thâm rồi

44

chọn lấy những điều đúng đắn mà theo. Đƣợc vậy, tâm thế mới đạt đến chỗ quang minh, ứng

xử với sự việc mới không sai phạm. Đúng nhƣ Miên Trinh xác định: "Học hết cả Sáu Kinh

cốt ở thực hành" (17.1). Câu hỏi của đời sống rất cụ thể, ít khi trùng hợp. Lời giải đáp vì thế

mỗi lúc mỗi khác, mỗi nơi mỗi khác, và mỗi ngƣời mỗi khác. Kinh nghiệm đúng đắn của cổ

nhân chỉ gợi ý, nhiều lắm là định hƣớng. Cố nhiên, gợi ý nhất là định hƣớng là rất cần nhƣng

chƣa đủ. Học để có thể "thực hành" một cách thiết thực mới khó hơn nhiều. Ngô Thì Vị đặt

câu hỏi nghi vấn: "Chim nhạn qua đầm nhƣng hình bóng không lƣu, lƣỡi gƣơm ngút khí

nhƣng ánh thép không lộ, đó có thể gọi là ôn nhu đôn hậu đƣợc chăng?" (35.1,107). Một tác

giả vô danh còn khẳng khái hơn: "Vận trời xoay chuyển. Khổng Phu Tử muốn không nói

cũng không đƣợc, thi giáo cũng không phải chỉ dừng lại ở những điều mà ông chỉ ra"

(35.1,54). Trong thời trung đại nghĩ đƣợc vậy quả là táo bạo. Ở Trung Quốc, Vƣơng Sung là

ngƣời thẳng thừng chống lại quan niệm "thuật nhi bất tác". Vậy mà theo I. S. Lisevich, "trong

khi từng bƣớc bác bỏ Khổng Tử, tác giả lại thừa nhận ông ta là đồng minh của mình, để tỏ ra

là mình không phải là ngƣời vứt bỏ truyền thống" (62,235).

Từ những cơ sở tƣ tƣởng nói trên mà thơ và lý luận thơ cổ phƣơng Đông có phần

khác biệt với thơ và lý luận thơ phƣơng Tây. Cần chỉ ra những dị biệt giữa hai hệ thống của

hai kiểu tƣ duy xuất phát từ những điều kiện lịch sử - xã hội không giống nhau. Song không

nên từ đó mà đi đến chỗ đối lập Đông -Tây. Phƣơng Tây có cái hay và cái dở của mình.

Phƣơng Đông cũng vậy. "Dị âm tƣơng tòng". Đông và Tây cần bổ trợ cho nhau cùng phát

triển. Theo Phan Ngọc, một trong hai khiếm khuyết của nhà văn hóa học Trần Đình Hƣợu là

"chƣa dựa hẳn vào phƣơng Tây"

45

(Báo Văn nghệ, Số 21/1995). Tƣ duy phân tích khoa học vốn là điểm mạnh của phƣơng Tây,

phải cần nghiêm túc học hỏi. Cũng không nên từ đó mà rơi vào thái cực khác: tôn sùng

phƣơng Tây. Ví nhƣ, theo Lê Hoàng Anh, khi bình luận câu thơ: "Ngoài thềm rơi cái lá đa -

Tiếng rơi rất mỏng nhƣ là rơi nghiêng" có ngƣời đã cho nhà thơ Trần Đăng Khoa học theo

cách cảm tinh tế của phƣơng Tây "mới thoảng tiếng lá rơi mà thấy đƣợc rơi nhƣ thế nào"

(Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Số 1/1995). Trên thực tế cảm quan phƣơng Đông đâu có kém

tinh tế so với phƣơng Tây.

46

CHƢƠNG 2: NHỮNG QUAN NIỆM CƠ BẢN CỦA NGƢỜI XƢA VỀ

THƠ

1 - Về nhà thơ

Ngày nay, ta thƣờng nói tới vai trò quyết định của chủ thể trong sáng tạo. Nguyên lý

này có tính phổ quát, bởi thơ là sản phẩm tinh thần của chính nhà thơ. Ngƣời xƣa đã thể hiện

nguyên lý chung đó bằng một định thức quen thuộc : "Thơ là ngƣời".

Mệnh đề ấy hoàn toàn nhất quán trong nhận thức của ngƣời xƣa. Ngô Thì Vị viết về

Trịnh Hoài Đức: "Thơ ông nhƣ ngƣời ông, điều mà ông gánh vác nhƣ điều mà ông tu dƣỡng"

(35.1,110). Nhận xét vừa bao quát vừa xác đáng. Thơ là ngƣời, mà ngƣời thì có nhiều loại,

nên thơ cao thấp cũng không giống nhau. Nguyễn Cƣ Trinh viết: "Ngƣời có sâu cạn, cho nên

thơ có mờ tỏ, rộng hẹp khác nhau" (76,47). Ngƣời có nhiều thiên hƣớng và vì thế thơ cũng có

nhiều "sở trƣờng riêng" (lời Lê Quý Đôn). Nguyễn Địch Cát xác định: "Ngƣời nào trội về

nhân cách thì làm thơ hay trang nhã, ngƣời nào trội về khí phách thì làm thơ hay hùng hồn,

ngƣời nào giỏi về dùng từ đặt câu thì làm thơ hay hoa mỷ, ngƣời nào giỏi về điển cố thì làm

thơ hay vững vàng... Xem thơ thì có thể mƣờng tƣợng mà thấy đƣợc ngƣời" (17.1,115). Ngày

nay, có lúc có nơi vai trò chủ quan của ngƣời làm thơ bị xem thƣờng hoặc phủ nhận. Đọc

những dòng trên, ta thêm vững tin vào cái đạo lớn của thi ca và rộng ra 'là của nghệ thuật.

47

Nhấn mạnh tới yếu tố bên trong, ngƣời xƣa không coi nhẹ yếu tố bên ngoài. Chƣa có

sự ăn nhập giữa hai yếu tố chƣa thể bật thành tiếng thơ. Kính trai Ngô Hy Phan viết: "Bên

trong không có gì trái với tâm, bên ngoài không có gì chạm với vật, nên biết bao nỗi lòng cao

vợi thẳng ngay chƣa hoàn toàn bộc lộ" (35.1,117). Tuy nhiên điểm xuất phát theo lời Ninh

Tốn là "mệnh lệnh nơi tâm". Trƣớc hết trong lòng phải có điều da diết muốn đƣợc giãi bày.

Cảnh chỉ là chỗ "ngụ ý", sự chỉ là nơi "tự thuật". Nguyễn Thứ Phủ cho thơ của Lê Hy Thƣờng

nảy sinh là do "đắc ý nơi núi sông, hay nhân việc nên lời" (35.1,126). Chỉ khi lòng hóa thành

"nỗi riêng tƣ" day dứt mới mong gửi gắm nơi cảnh vật.

Lòng ngƣời có lúc vui lúc buồn. Đó là lẽ âm dƣơng của tạo hóa thể hiện nơi con

ngƣời. Cho nên thơ cũng có thơ vui, thơ buồn. Đề tựa "Tập thơ nỗi nhớ buồn đằng đẵng" của

Nguyễn Kỳ Trai, Phạm Nguyễn Du viết: "Ở trời đất là thu đông, ở con ngƣời là buồn nhớ.

Thu đông là buồn nhớ của đất trời, buồn nhớ là thu đông của nhân loại. Nói chung... có âm ắt

có dƣơng, có còn ắt có mất, có xuân hạ ắt có thu đông, có vui mừng ắt có buồn nhớ" (Tạp chí

Văn học, Số 1/1981). Thơ có thể và cần thiết diễn tả nỗi buồn. Thơ lƣu biệt là một ví dụ:

Chén mời qua lại như bay, vần thơ giục viết

Trong khi say nét mực điên rối loạn lâm ly

(Miên Thẩm - 35.1,81)

Chính Nguyễn Trãi cũng từng viết: "Liêu bả tân thi tả ngã sầu" (Tạm đem bài thơ mới

giải tỏ nỗi sầu của ta - 11,111). Tuy nhiên, quan trọng là buồn nhớ ra sao? Buồn đến tiều tụy,

nhớ đến bi lụy không phải là dụng tâm của những ngƣời cầm bút chân chính. Ngô Thì Vị cho

rằng: "Đời ngƣời có kẻ thích dùng thơ làm cho mình nổi tiếng, thƣờng thƣờng

48

sinh cấu tứ nhƣ mùa thu, buông tiếng nhƣ âm thƣơng, hoang lạnh hắt hiu". Riêng thơ của

Trịnh Hoài Đức, theo ông, có buồn đau nhƣng không thế. Đó là bởi, Trịnh Hoài Đức "không

nỡ đem cái mà đời ham thích để làm hại cái mà mình tu dƣỡng" (35.1,108-109). Có thể nhận

thấy ngƣời xƣa phân biệt sắc thái và giới hạn tình cảm sâu sắc đến nhƣờng nào.

Rất rõ là cổ nhân luôn đề cao yếu tố chủ quan của nhà thơ. Nhữ Bá Sỷ biện luận:

"Đến cái cùng tột nhƣ sắc tƣớng trong hƣ không, nhƣ ánh trăng dƣới nƣớc, bóng hoa trong

gƣơng, trừ khi con ngƣời gột tình ngƣng chí, tầm mắt mênh mông, phong tƣ trầm tĩnh, đƣa

tinh thần ngoài tám cõi, thả tâm trí trên muôn tầm, mới có thể với kịp" (35.1,232). Từ đây nảy

sinh ra quan niệm của Miên Trinh về khái niệm "động" và "tĩnh" trong thơ (14).

Là ngƣời bảo vệ cái "tĩnh" của thơ, ông đã lấy tên "Tĩnh phố" đặt cho tập thơ của

mình. Ông viết: "Quả có cái động trong thơ, song tôi không theo đƣợc mà cũng không muốn

học theo". Chính là bởi "cái tạng" của ông phù hợp với cái "tĩnh". Thế nào là "tĩnh" trong

thơ? Không giải thích trực tiếp, Miên Trinh dẫn ra "cái thần tình của Đào Uyên Minh, cái xa

vời của Mạnh Hạo Nhiên, cái thanh đạm của Vi Ứng Vật, cái đôn hậu của Trừ Quang Hy".

Đó là những nhà thơ đời Đƣờng ƣa tĩnh tâm trong ẩn dật, xa lánh với cõi hồng trần. Với ông,

"động" và "tĩnh" trong thơ chính là biểu hiện của nhập hay xuất trong hành sự. Tất cả đều gắn

liền với quan niệm sống của ngƣời làm thơ. Vậy trong thơ không nên hạ thấp cái "tĩnh", cũng

nhƣ không nên coi thƣờng cái "động", ông đi đến kết luận: "Nƣớc đối với sóng gợn, chim đối

với tiếng hót, vốn là cái động. Còn nhƣ núi với khí lam, hoa với hƣơng thơm, phải đâu cũng

do động mà sinh ra? Điều đó đủ thấy động không phải đều là hay, mà tĩnh không

49

phải là không có cái khéo của nó". Tiếng thơ đa dạng vậy là do cả hai phía: Cuộc đời muôn

hình vạn trạng, và cái tâm ngƣời làm thơ thì không ai giống ai.

Tiếp xúc với những lời luận bàn về thơ của cổ nhân ta thƣờng bắt gặp chữ "tâm". Thơ

kỳ ngộ nhờ thấm nhuần và bắt nguồn từ "tâm". Ngô Thì Nhậm viết: "Ý đẹp lời hay nhƣng sự

diệu kỳ vẫn hội ở nơi tâm" (35.1,237). Ta nhớ tới câu nói của Nhạc Phi đời Tống bên Trung

Quốc: "Cái kỳ diệu của sự vận dụng là ở nơi tâm" (35.1,129). Có sự học hỏi đồng thời có sự

gặp gỡ đáng kể trong tƣ tƣởng của ngƣời phƣơng Đông cổ xƣa.

Thế nào là "tâm"? Phải chăng "tâm" chỉ là "lòng ngƣời" nhƣ trong lời của Đinh Linh

Uy: "Mƣợn nói (thơ) để giải tỏa nỗi lòng" (35.1,62)? Nghĩa của chữ "tâm" thực ra rộng hơn

thế. Nguyễn Hành cho rằng: "Cây tùng, cây bách đều có "tâm", đến lúc rét buốt, "tâm" ấy

càng rõ" (76,144). "Tâm" thế là đi liền với "đạo" và ngụ ở muôn nơi, muôn vật. "Sông núi

thẩy là đạo tâm" (Nguyễn Thứ Phủ - 35.1,127). Tƣơng tự nhƣ "đạo", "tâm" chịu sự chi phối

của "khí": "Tâm mất điều sở dƣỡng thì khí tà, tâm đƣợc điều sở dƣỡng thì khí đầy" (Vô danh

- 35.1,170). Đấy là xét từng hiện tƣợng và từng cá thể. Rộng ra, hƣng phế của triều đại và đất

nƣớc cũng nhận đƣợc ra từ "tâm". Nguyễn Hành viết: "Cái khí to lớn của nƣớc ta, thấm

nhuần qua sự hàm dƣỡng của các triều, đều có thể thấy đƣợc là từ tâm" (76,144). Đã rõ là

"tâm" có mặt tồn tại khách quan của nó, không thể tùy hứng, tùy tiện. Theo Ngô Thì Nhậm

thì: "Nó (tâm) đều có thể nói cái có thể nói, không thể nói cái không thể nói" (35.1,237).

"Tâm" hƣớng theo lẽ thƣờng là vậy. Ông lý giải rõ hơn: "Nó (tâm) gửi gắm nơi việc, biểu lộ

nơi lời. Còn nhƣ đối với việc mà nó gửi gắm, lời mà nó bộc lộ thì

50

cũng nhƣ cá tất nhiên phải nhảy, chim tất nhiên phải bay" (35.1,237). "Tâm" nhờ thế mà có

sức sống.

Có điều, khái niệm "tâm" trong ý niệm của ngƣời xƣa về cơ bản cũng không xa với

cách hiểu của chúng ta ngày nay là mấy. Ninh Tốn viết: "Trổ sự khéo léo nơi trang giấy, mà

sự vật không có ở nơi tâm, nếu gọi là "đƣợc" cũng chẳng nhầm sao?" Trong câu nói, "vật"

vẫn gắn với "tâm", tựa nhƣ ý kiến của Ngô Thì Nhậm: "Cho nên tâm đã cùng nhau, ắt có điều

gửi gắm, khói mây hoa cỏ, khéo đẹp lạ lùng, đều là sự biểu hiện của tâm" (35.1,237). Song ở

đây "tâm" đã nghiêng về phía ngƣời cảm thụ. Chẳng phải tình cờ mà ngƣời xƣa thƣờng gắn

liền "tâm" với "chí". Học theo cổ nhân, Ngô Thì Nhậm cho rằng: "Ở nơi tâm là chí, nói ra lời

là thơ" (35.1,165). "Chí" nghiêng hẳn về phía chủ quan hơn "tâm". Tuy cũng nhƣ "chí",

"tâm" còn là sự biết bản nhiên sinh ra đã có. Theo giáo sƣ Đỗ Văn Hỵ, "cái biết" chia làm hai

loại: "Đạo tâm" (cái biết của tự nhiên) và "nhân tâm" (cái biết của con ngƣời). Cần phải "định

tâm" (ổn định cái biết) mới mong sáng tỏ mọi điều (35.1,56).

Cho dù, chữ "tâm" hàm nghĩa rộng đến đâu thì nó cũng luôn giữ vai trò quyết định

trong thơ. Ngô Thì Nhậm chỉ rõ phép tắc của thơ chính là "mô tả sự vận động của tâm". Còn

khi lời nói phát ra thiếu phép tắc hoặc không phép tắc thì theo ông "đó là nơi tâm không phép

tắc" (35.1,29). Thi ca chỉ phát ra khi có điều sở đắc ở nơi tâm. Còn khi đã phát ra nó phải

tuân thủ theo mệnh lệnh của tâm. Đó là đạo của sự sáng tạo thi ca, nghiêm ngặt và phổ quát.

Đạo này sẽ chi phối cái đạo của sự cảm thụ thi ca.

Nếu thơ đi từ tâm đến lời thì thƣởng thơ phải đi từ lời vào tâm. Đỗ Tuấn Đại khẳng

định không chút nghi ngờ: "Tìm thơ văn ông (Lý Văn

51

Phức) sao không đi tìm cái tâm của ông?" Từ bản chất, thơ là tiếng lòng. Một trong những

cách chiết tự chữ "thi" là tấc lòng của kẻ sĩ gửi gắm nơi lời. Chính vì thế cái đích của thƣởng

thơ là giải tỏ "tấc lòng" của thi nhân, để cảm thông và chia sẻ. Nói nhƣ Ngô Thì Nhậm:

"Thiên thơ chồng chất, chẳng qua tâm để hiểu tâm mà thôi" (35.1,237). Mà chữ "tâm" dẫu là

cõi lòng thì không đơn giản chỉ bao gồm phần hữu thức. ―Tâm‖ còn gồm trực giác, tiềm thức,

siêu thức - những cái thƣờng vô hình vô ảnh nằm sâu trong cõi tâm linh. Cảm nhận thế giới

ấy đâu có dễ. "Nó huyền diệu nơi vô hình không thể nhìn thấy, vô thanh không thể nghe

thấy", nhƣng "là kho tàng cao quý nhất" (Vô danh - 35.1,170). "Cao quý" không chỉ bởi nó

làm giàu có thêm đời sống tinh thần của con ngƣời mà còn bởi nhờ nó mà phần ý thức đƣợc

soi tỏ thêm. Vũ Duy Thanh có lý khi viết: "Chỉ khi nghe tới cái vô thanh sẽ ngộ đƣợc cái hữu

thanh" (35.1,76). Khi bàn về văn chƣơng, nói riêng là thi ca, ngƣời xƣa chú trọng tới cái

nguyên cớ "vô thanh" thì quả là thấu đáo. Vì có ở lãnh vực nào cái vô thức lại giữ vai trò to

lớn nhƣ trong văn chƣơng nghệ thuật.

Cái "tâm", kể cả hữu thức lẫn vô thức, muốn giàu có muốn sáng trong phải đƣợc hàm

dƣỡng. Vì vậy, mà ngƣời xƣa đặt ra vấn đề "dƣỡng tâm" nhƣ là gốc rễ của mọi sáng tạo. Phải

rửa sạch nội tâm (đãng hung) phải coi nhẹ mọi vấn vƣơng mọi vật (đạm duyên), phải làm cho

tình cảm sống động (di tình) . Có thế, mọi chân tƣớng của sự vật mới đƣợc ngời tỏ. Thơ đích

thực từ đó nảy sinh.

Làm thơ, viết văn do đó đâu phải là vấn đề "tiểu kỷ". Phạm Nguyễn Du khẳng định:

"Đạo và đức có chất chứa ở bên trong thì mới tràn đầy ra bên ngoài, biểu hiện ra ngôn ngữ

ngâm nga, tự nhiên hợp với thanh luật" (17.1,158). Về lƣợng là vậy, về chất cũng thế.

Nguyễn Văn Siêu

52

viết: "Có rõ ràng, dứt khoát ở trong lòng thì sau mới rõ ràng, dứt khoát ở tay và miệng"

(17.1,147). Sự giàu có, đúng sai của văn là do sự giàu có sai đúng của lòng ngƣời. Gốc có

bền, có sâu, lá cành hoa trái mới sum xuê, tƣơi tốt. Ngô Thì Vị xác định: "Ngƣời quân tử hài

hòa nơi mình tu dƣỡng để làm lớn điều mình đƣợc trao nhận, đâu phải bo bo nơi nhỏ mọn của

vần câu" (35.1,108). "Vần câu", ngôn từ là "nhỏ mọn" vì thi ca "để làm lớn điều mình đƣợc

trao nhận". Và khi đã đạt đƣợc cái đích cao cả ấy một cách hữu hiệu thì "vần câu" ngôn từ

cũng thật sự vƣơn tới những chuẩn mực thẩm mỷ nhất định. Hiểu nhƣ thế sẽ không thấy Ngô

Thì Vị có xu hƣớng xem nhẹ các yếu tố hình thức.

Vấn đề còn lại là cần "dày công gắng sức" "nuôi dƣỡng cái khí hạo nhiên của mình"

"từng ngày từng giờ" để "giữ cái đáng giữ, bỏ cái đáng bỏ" (Lƣơng Khê - 35.1,46). Đƣợc vậy

thì cái lý thịnh suy, cái cớ đƣợc mất ở đời sẽ làu làu nơi tâm trí. Mọi sự rối ren, mờ tối đều trở

nên trong sáng nơi cõi lòng. Việc thể nghiệm đạo chân của cuộc đời cũng nhƣ việc thăm dò

lý kín của lòng ngƣời sẽ dần dần tiến tới cái độ cao sâu cần thiết. Và nhƣ thế, nỗi băn khoăn

của Phùng Khắc Khoan có điều kiện đƣợc giải tỏa: "Tự nghĩ: Tài chƣa kịp cái cao của ngƣời

xƣa, lời chƣa kịp cái khó của ngƣời xƣa, sáng chƣa đủ bình luận nhân vật cổ kim, tối chƣa đủ

làm kinh động quỵ thần trời đất... thì sao đủ đi sâu vào cách luật diệu kỳ của thơ?" (35.1,16).

Thi ca là "diệu kỳ", song sáng tạo nên một sản phẩm tinh thần nhƣ thi ca không phải nằm

ngoài tầm với của những ai biết "dày công gắng sức" hƣớng tới cái tận chân, tận thiện và tận

mỷ.

Để tạo ra những vần thơ "bất hƣ truyền" thì sự dƣỡng tâm càng phải nhiều, phải cao

và phải thƣờng xuyên. Cần đạt tới "sự suốt trong

53

không bụi của ngọc trai" (Vô danh - 35.1,169). Khi ấy thì không có vật gì, không có ngƣời

nào dẫu khó hiểu và rắc rối đến đâu lại không đƣợc phanh phui, tỏ bày trƣớc con mắt của nhà

thơ. Đúng nhƣ lời của Miên Trinh: "Trong sáng ở nơi ta thì chí khí nhƣ thần, tâm thuần nhất

thì trong, gƣơng thuần nhất thì sáng, thế thì sự tốt xấu của muôn vàn hiện tƣợng biết trốn vào

đâu" (35.1,219).

Đi liền với "tâm" là "chí". Ngƣời xƣa quan niệm "tâm" là điểm đến của "chí": "Nói

tâm là nói về cái chỗ mà chí đạt tới vậy" (Nguyễn Bỉnh Khiêm - 76,36). Trên cơ sở "tâm",

thơ nhằm bộc lộ "chí". Dầu xƣa kia ở Trung Quốc cũng nhƣ ở Việt Nam nảy sinh nhiều

khuynh hƣớng triết học khác nhau, tranh chấp ảnh hƣởng lẫn nhau, nhƣng riêng nguyên tắc

"thi ngôn chí" thì "nhìn chung không phụ thuộc vào sự khác nhau của trƣờng phái triết học"

(I. S. Lisevich - 62,213). Nói cách khác, "thi ngôn chí" có tính phổ quát rộng rãi. Bởi vì "chí"

(nếu chiết tự) là "tâm" của kẻ sĩ nghĩa là "tâm" của nhà thơ. Phạm Nguyễn Du viết: "Ngƣời

xƣa không riêng để ý ở từ chƣơng, thơ của họ là để nói lên cái chí, phải đâu vì hơn thua" (Tạp

chí Văn học, Số 4/1980).

Có phần khác với "tâm", nói đến "chí" là nói đến thế giới bên trong của thi nhân. Phan

Phù Tiên cho rằng: "Trong lòng có điều gì, tất hình thành ở lời; cho nên thơ để nói chí vậy"

(76,21). Điều này hoàn toàn gần gũi với ý kiến của tiền nhân mà Nguyễn Cƣ Trinh tâm đắc:

"Để trong lòng là chí, ngụ ra ý là thơ" (17.1,115). Cố nhiên "chí" hàm nhiều nghĩa. "Chí" để

chỉ giáo lý của đạo Nho nhƣ Nguyễn Thứ Phủ thừa nhận: "Thơ nói chí, nguyên ủy và thể tài

đã ghi rõ trong sách vỡ" (35.1,126). "Sách vở" đây là sách vở Thánh hiền là "Tứ thƣ", "Ngũ

kinh". Cái khung tƣ tƣởng vô cùng chặt chẽ và bó buộc. Đáng chú

54

ý là quan niệm của Phùng Khắc Khoan. Ông vừa tuyên bố: "Tôi đối với thơ, có lẽ vẫn hằng

có chí", lại vừa giải thích: "Có lẽ cũng là cái chí riêng mình" (76,16 - 17).

Đặt vào hoàn cảnh xƣa ở Á Đông mới thấy hết đƣợc tƣ tƣởng khoáng đạt của Phùng

Khắc Khoan, ở phƣơng Tây, yếu tố cá thể, cá nhân "quan trọng hơn tất cả thế giới, hơn cả sức

khỏe của Hoàng đế Trung Hoa" (Biêlinxki - 62.1,221). Xã hội Á Đông thì có phần trái ngƣợc.

Cộng đồng, dòng tộc mới là nhân tố hàng đầu. Vậy mà học giả họ Phùng lại nói tới "chí

riêng" thì quả táo bạo. Tuy nhiên, phải thấy "chí riêng" không tách rời "chí chung" và trong

hầu hết trƣờng hợp chịu sự chi phối của "chí chung". Thơ là để nói "chí", "chí" là cái đƣợc

sinh ra trong lòng nhà thơ song nguồn gốc của nó lại là "cả đại dƣơng tồn tại" (I. S. Lisevich -

62.1,218).

"Chí" có căn nguyên sâu xa từ đạo lý Nho gia khi đƣợc biểu hiện thành lời, thành thơ

lại rất đa dạng. Tập trung và nổi bật hơn cả là nội dung chí hƣớng và chí khí. Bùi Văn Dị,

một nhà thơ sống ở thế kỵ XIX khẳng định: "Thơ cốt để nói chí hƣớng của mình" (17.1,120).

Lê Hữu Kiều sống trƣớc ông một thế kỵ cũng thừa nhận: "Thơ để nói chí hƣớng của mình"

(76,55). Nhƣng những ngƣời phát ngôn rõ nhất cho quan niệm thơ là bày tỏ chí hƣớng của

ngƣời viết là thầy trò Nguyễn Bỉnh Khiêm. Mỗi ngƣời sống trên đời đều theo đuổi mục đích

riêng. Mục đích quyết định thiên hƣớng và ý nghĩa cuộc đời con ngƣời. Nguyễn Bỉnh Khiêm

viết: "Thơ lại là để nói chí; có kẻ chí để ở đạo đức, có kẻ chí để ở công danh, có kẻ chí để ở

sự nhàn dật" (76,36). Ông thừa nhận khi về già "chí thích nhàn dật, lấy cảnh núi non sông

nƣớc làm vui". Nên phần nhiều thơ ông hoặc "ca tụng cảnh đẹp đẽ của sơn thủy hoặc là tô vẽ

nét thanh

55

tú của hoa trúc, hoặc là tức cảnh mà ngụ ý, hoặc là tức sự mà tự thuật" (76,37).

Phùng Khắc Khoan có ý thức mở rộng ý kiến của thầy học và đặt dấu nối đậm giữa

"chí lớn" nuôi dƣỡng hàng ngày với "chí phát ra lời", "thể hiện nơi thơ". Ồng viết: "Chí ở đạo

đức thì phát ra lời hồn hậu, chí ở sự nghiệp thì lộ ra khí hùng hồn, chí ở suối rừng khe lạnh

thì ham chuộng tịch liêu, chí ở mây tuyết gió trăng thì ƣa thích thanh tao, chí uất ức thì lo

buồn, chí cảm thƣơng thì ai oán" (35.1,15). Nhận xét có sức bao quát lớn. Thử hỏi thi ca xƣa

nay muôn màu muôn sắc là thế liệu có hiện tƣợng nào ra khỏi đƣợc tầm nhìn của ông.

"Chí" trong thơ xƣa còn là "ý chí" (chữ của Hồng Nhậm). Bởi, theo Cao Bá Quát, làm

thơ tuy có phải chú trọng về quy cách nhƣng "phải gốc ở tính tình" (76,152). Với ngƣời xƣa,

thơ có nhiều chức năng, trong đó có chức năng "dẫn dắt tính tình" (Đỗ Hạ Xuyên). Muốn nên

ngƣời, quân tử phải nƣơng theo "lễ" và "nhân", ngƣời quân tử bởi vậy không thể không học

"thi". Tự trong bản chất văn thơ ẩn chứa khí phách của văn nhân, thi sỷ. Ngô Thì Vị viết:

"Thi ca biểu hiện nơi ký ức vịnh ngâm, chẳng qua là để mô tả cái khí phách lỗi lạc hơn

ngƣời" (35.1,109). Ngƣời xƣa thích vịnh "tùng", "trúc", "cúc", "mai" là vì thế. Chúng có

nhiều nét tƣơng đồng với chí trƣợng phu. Nguyễn Thƣợng Hiền bộc lộ: "Ngồi đối mặt với

cây thông giá lạnh để gửi gắm niềm tiết tháo trung trinh" (35.1,101). Cổ nhân rất ƣa biểu

tƣợng, biểu trƣng. Ngƣời làm thơ và cả ngƣời đọc thơ đều vậy. Nó thành nếp hằn sâu trong

thơ và cả trong văn của Việt Nam, Trung Quốc. Ở thế kỵ trƣớc Cao Xuân Dục có nhắc lại câu

nói của Bùi Tấn Công với thái độ tâm đắc, tán đồng: "Văn khác nhau là do khí phách cao hay

thấp, cách nghĩ nông hay sâu, chứ

56

không phải ở chỗ đẽo câu gọt chữ, thay tiếng đổi vần" (1,151). Ở ta, Tôn Hành Thị đã so sánh

làm thơ với đánh cờ và thấy: "Thực chẳng những đem nó để hiểu thời thế, còn có thể đem nó

để biểu thị phẩm chất con ngƣời" (35.1,131).

Điều cần nhớ là tính tình, "phẩm chất con ngƣời" không giống nhau. Phạm Nguyễn

Du nói có hai dạng thiên lệch và đúng đắn. Ông nói thêm: "Riêng cảm thụ mà đúng đắn thì

cái phát ra cũng đúng đắn" (Tạp chí Văn học, Số 5/1981). Phẩm chất thi ca gắn chặt với

phẩm chất con ngƣời. Có thể lời nghe "êm tai đẹp mắt", "nhƣng sa đọa thực đáng buồn"

(Miên Thẩm - 35.1,84). Lời nhắn nhủ của ngƣời xƣa đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Chữ "nhã" ngày trƣớc luôn đƣợc xem trọng. Các nhà nho hay sử dụng những từ "cao

nhã", "tao nhã", "trang nhã", "thanh nhã"... để ngợi khen thơ phú. Tƣ Không Đồ đời Đƣờng

đã biểu đạt dùm ý nghĩ của nhiều ngƣời trƣớc ông cũng nhƣ sau ông: "Đệ nhất công danh chỉ

thƣởng thơ". Ngƣời giỏi thơ phú xƣa đƣợc gọi là tao nhân mặc khách. Nếp nghĩ ấy đƣợc duy

trì cho đến tận bây giờ. Trong buổi tiếp Kim Dung tại Đại học Bắc kinh tháng 1 năm 1995, có

ngƣời đã hỏi nhà văn "best seller" vào bậc nhất thế giới về thứ tiểu thuyết võ hiệp. Ông đáp:

"Ở nơi phủ đƣờng cao đẳng này mà nói võ hiệp thì kém vẻ trang nghiêm đi". Theo nhà văn

Kim Dung, văn chƣơng võ hiệp không thể xếp ngang hàng với văn chƣơng "tao nhã" đƣợc

(59).

Với ý định "góp phần đổi mới tƣ duy lý luận văn học", Hồ Sỷ Vịnh đã nhắc đến ý

kiến về thơ của Lê Quí Đôn, Phan Huy Chú, Hoàng Đức Lƣơng, Ngô Thì Nhậm... Và nhà

nghiên cứu đã rút ra bài học: "Ngƣời làm văn quí ở mực thƣớc, thanh nhã, hồn nhiên..." (45).

Để góp thêm

57

tiếng nói về việc định hƣớng thơ hôm nay, giáo sƣ Vũ Đức Phúc đã đƣa ra nhận xét: "Thơ là

một lẽ sống, một cách sống thanh cao và thú vị" (100). Ở đời, không ai thích làm thơ, ƣa

thƣởng thơ mà lại thực sự gian ác. Thơ góp phần cứu rỗi tâm hồn con ngƣời, gây tác dụng

khuyến thiện trừng ác là vì thế. Bảo vệ, hơn thế tôn sùng sự trang nhã thanh tao trong thơ

dƣờng nhƣ đã ăn sâu thành nết trong tƣ duy của cả ngƣời sáng tác lẫn ngƣời thƣởng thức.

Công cuộc cách tân thi ca nên tính đến truyền thống này.

Tuy nhiên, thơ không chỉ cần đúng đắn mà còn cần truyền cảm. "Tâm "chí" vậy là

phải gắn với "tình", đúng hơn là phải chuyển hóa thành "tình" - tình cao sâu, tình đằm thắm.

Các thi nhân học giả xƣa thƣờng đƣa ra nhiều quan niệm có sức bao quát về văn chƣơng. Một

trong những quan niệm thể hiện rõ đặc thù của văn chƣơng hơn cả là gắn văn chƣơng với tình

cảm.

Bùi Huy Bích viết: "Văn chƣơng là tiếng nói của con tim" (35.1,139). Thực ra không

chỉ có lời trong văn chƣơng mới thấm đậm cảm xúc. Bên cạnh chức năng biểu ý, ngôn từ còn

có chức năng biểu cảm. Song không ở đâu cảm xúc đƣợc yêu cầu cao nhƣ trong văn chƣơng,

nghệ thuật, cao đến mức cái tình thành dấu hiệu rõ rệt của mọi thành đạt trong sáng tạo. Ngô

Thế Vinh cho rằng: "Lời là tiếng nói của con tim, văn chƣơng là cái làm cho lời dài thêm

vậy" (35.1,143). Nên, theo Bùi Ngọc Quỷ, "tình ấy gốc văn, tình chật hẹp thì văn kia cứng

xác" (35.1,40). Vun đắp cái tình trong văn trở thành đòi hỏi bên trong của việc làm văn.

Văn có nhiều loại. Ngay cả "văn" theo nghĩa hẹp để chỉ văn chƣơng nghệ thuật thì

không ở đâu cảm xúc lại đƣợc bộc lộ sâu đậm, tập trung nhƣ trong thơ. Không phải vô cớ khi

một tác giả vô danh hạ bút viết:

58

"căn cứ vào sự rung cảm của tình ngƣời, mà thơ có thể quán triệt" (35.1,164). Còn Hồng

Nhậm thì phát hiện ra quy luật phổ biến này của thơ: "Nó đi theo tình, theo cảm xúc". Dƣờng

nhƣ các học giả thi nhân xƣa đều chung một ý nghĩ tƣơng tự. Thậm chí còn chung cả cách

diễn đạt. Lê Quý Đôn viết: "Thơ khởi phát tự lòng ngƣời ta" (Điều 48, Văn nghệ). Vũ Duy

Thanh thì viết: "Thơ khởi phát từ tình" (35.1,75). Có thể có ảnh hƣởng qua lại. Cũng có thể

do cùng một nguồn học hỏi từ Trung Quốc. Chữ "thi" ở Bắc quốc ban đầu hàm nhiều nghĩa.

Một trong những nghĩa của nó theo nhà ngữ văn học nổi tiếng Dƣơng Thụ Đạt "là cái gốc và

là cái mầm mọc từ trái tim" (62.1,212). Đọc thơ cổ Trung Hoa, Phan Phi Tiên nhận ra: "Tuy

dấu vết thịnh, loạn khác nhau, song cảm xúc phát ra từ lòng chỉ là một" (76,21).

Tình cảm nồng nàn là dấu hiệu loại biệt phân tách thơ với các thể tài khác, chẳng hạn

với phú. Theo Nguyễn Đức Đạt: "Thơ là tình cảm, phú là sự việc". Nói vậy, không phải trong

thơ không có sự việc. Có điều "thơ dùng sự việc để phụ trợ cho tình cảm". Trên cơ sở ấy, tác

giả "Nam sơn tùng thoại" chê thơ đƣơng thời chƣa hay vì đi ngƣợc lại: "dùng tình cảm để phụ

trợ cho sự việc". Thế rồi ông đi tới một kết luận có lẽ thành quy luật muôn đời của thi ca:

"Chú trọng vào tình cảm thì gọn, chú trọng ở sự việc thì rƣờm" (76,172). Ngô Thì Nhậm

không chỉ dừng lại ở sự đối chiếu giữa thơ và phú. Ông thấy sự tƣơng đồng giữa thơ, phú, ca,

vịnh, biện luận, ký... ở chỗ "chất chứa trong lòng phát ra lời đẹp, nhƣ gấm vóc làm đẹp mắt,

nhƣ vải lụa làm thích thân". Song bên cạnh "đại đồng" có "tiểu dị". Và mặt "tiểu dị" với thơ

không gì khác hơn là cảm xúc dồi dào. Ông viết: "Trong các thể loại đó, cái có thể làm phấn

chấn lòng ngƣời, cảm phát tình ngƣời, thì không gì lớn hơn thơ" (23,231).

59

Thơ càng hay thì càng gây chấn động lòng ngƣời. Đó là những vần thơ vừa "làm kinh

động con ngƣời" (Quân Bác), vừa "làm khóc đƣợc quỵ thần" (Hồng Nhậm). Nói nhƣ Bùi

Dƣơng Lịch thơ là "sự biểu hiện của tình", nhƣng do "không ai không có tình", nên đây là cái

tình "cùng tột" (35.1,32). Thơ không chấp nhận trạng thái dửng dƣng đã đành, thơ cũng

không chấp nhận thứ tình cảm có chừng có mực. Cảm xúc da diết, nồng cháy, bởi vậy dƣợc

nhiều ngƣời xem là đặc trƣng nổi bật của thơ. Nhà bác học Lê Quí Đôn viết:"Thơ khởi phát

tự lòng ngƣời ta" (Điều 48 - Văn nghệ), trong khi Hồng Nhậm thì nói rõ hơn: "Nó (thơ) đi

theo tình và theo cảm xúc" (35.1,92). Nhà thơ bao giờ cũng muốn đƣợc kích thích và ƣa kích

khởi ngƣời khác. Từ đầu thế kỵ trƣớc, Hegel cũng coi thơ trữ tình là một thứ "tốc ký nội

tâm", là một kiểu "tƣ duy tự nhận thức bản thân" (99). Sau đó chừng một thế kỵ, M.Gorki gọi

thơ là "bài ca tự đáy lòng" (49,368) và Quách Mạt Nhƣợc thì viết trong "Nữ thần": "Thi yếu

tự phát kỳ tâm hoa" (thơ phải là bông hoa nảy nở ra từ trong lòng mình).

Nói cho cùng, thơ không hẳn là sự tìm kiếm. Dƣờng nhƣ nhà thơ không có ý định tìm

kiếm gì cả. Thơ là hƣớng nội. Quá trình làm thơ là quá trình tự biểu hiện. Cảnh, sự, vật có đi

vào trong thơ cũng chủ yếu nhằm giúp nhà thơ tự biểu hiện cho đạt, cho hay. Cũng may tình

cảm nhìn chung phong phú hơn tƣ tƣởng. Đất của thơ do vậy là vô cùng tận. Điều thiết yếu là

ngƣời làm thơ phải rất nhạy cảm và thật giàu tâm huyết. Ngôn từ thi ca cũng chịu sự chi phối

bởi quy luật này. J.Côhăng cho rằng :"Ngôn ngữ thơ buộc tâm hồn phải cảm trong khi thông

thƣờng ra nó chỉ nghĩ" (99). Nguyễn Hành ở ta trong "Minh quyên thi tập" tâm sự: "Ta kêu

bằng văn chƣơng, chữ nghĩa, đến quyển sách này là tột cùng của sự đau khổ rồi" (76,146).

Điều này giải thích vì sao thơ tống biệt

60

phần nhiều là diệu bút. Đọc câu thơ của Tôn Sở, ngƣời đời Tấn bên Trung Quốc: "Gốc sớm

tràn đƣờng rẽ, mƣa đêm đầm cỏ thu", Ngô Thế Vinh bình: "Ôi, hợp tan đi ở đã đủ động lòng

ngƣời, phƣơng chi lại vào cái lúc gió sớm mƣa đêm" (35.1,148). Khi bình duyệt thơ, cảm xúc

tự nhiên trở thành một trong những tiêu chí quan trọng nêu không muốn nói là quyết định.

Trần Bá Kiên trong khi thừa nhận "thơ có thể dùng để oán hận", đã khen tập thơ Khuê oán

của Phạm Liêu Nhiên là "da diết hơn cả" (35.1,60).

Thơ là tình cảm nồng cháy bởi ngƣời làm thơ đã từng sống trong trạng thái tâm lý

khác thƣờng. Đinh Linh Uy thừa nhận tiếng thơ muốn cất lên, ngƣời viết phải "thƣơng xƣa,

xót nay" (35.1,62). Với ngƣời, với vật, với cảnh đều thế. Để viết "Độc Tiểu thanh ký",

Nguyễn Du đã "tự coi mình nhƣ ngƣời cùng chịu nỗi oan lạ lùng của ngƣời phong nhã"

(Phong vận kỳ oan ngã tự cƣ) (11,185). Thƣơng ngƣời đã khó, đặt mình vào cảnh ngộ của

ngƣời càng nhiều lần khó hơn. Nhƣng đó lại là nền tảng của thứ thơ giàu sức sống, bất chấp

sự sàng lọc khắc nghiệt của thời gian. Đó cũng là một đòi hỏi không thể thiếu khi viết về

cảnh, về vật. Nguyễn Trãi trong bài "Tích cảnh" (Bài 8) đã viết:

Thấy cảnh lòng thơ càng vấn vít

Một phen tiếc cảnh, một phen thương

Ngƣời làm thơ khác ngƣời thƣờng ở chỗ lòng hay "vấn vít", tiếc thƣơng cảnh. Đỗ Phủ

từng viết: "Thi thành châu ngọc tại huy hào" (Thành thơ vung bút ngọc châu rơi - 49,206).

Trái tim nhà thơ thƣờng bao dung, trắc ẩn hơn ngƣời trƣớc việc lớn cũng nhƣ việc nhỏ, từ

chuyện hệ trọng tới chuyện sinh hoạt có thể xem là tầm thƣờng hàng ngày. Sự học có thể đạt

tới độ thông kim bác cổ, nhƣng không thể "dĩ văn tự vi

61

thi, dĩ tài học vi thi, dĩ nghị luận vi thi" (Nghiêm Vũ). Chẳng hạn "Bài thơ siêu". Trong bài

thơ này tác giả thuật lại chiếc siêu bị gia đồng đánh vỡ. Nhắc tới bài thơ quốc âm tình cờ đọc

đƣợc này, Trần Cao Đệ nhận xét: "Siêu vỡ là điều đáng tiếc, nhƣng cái lý của nó bị vỡ lại

càng đáng thƣơng. Thơ dùng để ghi lại việc này. Có lẽ cái điều gửi gắm tiếc nó chính là để

thƣơng nó" (35.1,233). Không thƣơng, không tiếc, không có thơ về chiếc siêu bị vỡ. Và càng

thƣơng, càng tiếc thì càng dễ lay động lòng ngƣời. Bài học sáng tạo ấy đƣợc Ngô Thì Sỷ thể

nghiệm qua chính những nếm trải của bản thân. Lại là sự nếm trải chua chát của thất bại.

Trƣớc mắt thi nhân cảnh vật "hệt nhƣ bức vẽ". Ngô Thì Sỷ không thể không động bút. Ông

viết một bài, không hài lòng, rồi một bài khác, cũng không mấy hài lòng. Vì sao? Vì thiếu cái

tình. So sánh với thơ cổ nhân ông mới có dịp bừng tỉnh. Tiền nhân viết đâu có cầu kỳ gì:

Riêng thương đám cỏ thơm thoi thóp bên khe

Có điều, trái tim ngƣời xƣa trùm phủ lên muôn vật. "Tình cảnh giao dung" (tình cảnh

lồng vào nhau) và "tình cảnh tƣơng sinh" (tình cảnh giúp nhau cùng nảy nở). Đây là cái Ngô

Thì Sỷ thiếu. Thẹn thùng, ông đặt câu hỏi: "Các tác giả với tinh thần gì đây, với lòng dạ gì

đây mà có thể làm những câu nhƣ vậy?" (35.1,225). Ngô Thì Sỷ đã chạm tới gốc rễ của thơ

hay. Có thể lúc khác ông sẽ thành đạt. Ngay cả khi ông không thành đạt thì ngƣời khác sẽ

ngẫm từ bài học của ông để tạo nên sự thành đạt của riêng họ. Đƣợc thế cũng thật hữu ích.

Tình, tình chân thật, vậy là góp phần quyết định làm nên những áng thơ hay. Không

mấy ngƣời không biết đến câu nói sau của Lê Quí Đôn: "Ba trăm bài thơ trong Kinh Thi,

phần nhiều là của nông dân, phụ nữ làm ra, mà cũng có những bài mà văn sỷ đời sau không

theo

62

kịp đƣợc, nhƣ thế là vì nó chân thật" (Điều 48 - Văn nghệ). Có bao điều cần nói về Kinh Thi,

học giả họ Lê nói riêng điều đó. Ấy là bởi tính chân thật của tình cảm hợp với cách nghĩ của

ông về thơ. Quả thật, với ngƣời xƣa, "tu từ lập kỳ thành" (trau chuốt từ ngữ để đạt sự chân

thành), bởi họ trƣớc sau khắc cốt ghi xƣơng nguyên lý "bất thành, bất năng động nhân"

(không chân thành không thể xúc động lòng ngƣời).

Thơ là tình, nhƣng là tình không tách rời ý. Nếu chỉ là tình, dẫu là tình tột bậc, cũng

không thể làm nên những vần thơ tuyệt bút. Lê Hữu Trác xác định: "Thơ cốt ở ý, ý có sâu xa

thơ mới hay" (76,104). Nói khác đi, ý thấm vào tình, tƣ tƣởng chan hòa với cảm xúc. Bùi

Dƣơng Lịch vừa khẳng định: "Thơ là sự biểu hiện của tình" vừa nhắc nhở: "Không đƣợc vây

bọc nơi tình" (35.1,32), nghĩa là phải có lý trí, có trí tuệ hỗ trợ. Cũng theo đƣờng hƣớng suy

nghĩ ấy, Nam Sơn Thúc sau khi nhắc lại lời của ngƣời xƣa "văn chƣơng làm quỵ thần rơi lệ",

đã bổ sung: Phải là văn chƣơng "do ngƣời thánh học cao minh" tạo nên (35.1,168). Ngƣời

xƣa ít khi thiên lệch. Họ nhìn thơ trong một tổng thể hài hòa giữa nhiều yếu tố và trong mối

tƣơng giao giữa các yếu tố với nhau. Đó là mối quan hệ giữa ý vào tình, rộng hơn đó còn là

mối quan hệ giữa chí và tình. Nhữ Bá Sỷ cho rằng: "Thơ là để nói chí, nhƣng biểu hiện ở nơi

tình" (35.1,231). Nói "chí" là đích lớn, đích chung của thơ, biểu hiện "tình" là đích cụ thể của

từng bài, từng câu.

Ở đây nảy sinh ra một vấn đề khá lý thú. Rất nhiều học giả khi bàn về nội dung của

thơ đã yêu cầu thơ phải "ôn nhu đôn hậu". Vũ Phạm Khải viết: "Thể tài, cách điệu của thơ tuy

có khác nhau mà ôn nhu đôn hậu, nói chung chỉ là một" (17.1,118). Phạm Phú Thứ cũng viết:

"Tôn chỉ

63

của thơ phải đạt đến ôn nhu đôn hậu" (17.1,119). Trƣớc đó, chính Lê Quý Đôn đã từng viết:

"Trong ba điều cốt yếu ấy (tình, cảnh, sự), lại nên lấy ôn nhu, đôn hậu làm gốc" (Điều 48 -

Văn nghệ). Nên hiểu "ôn nhu đôn hậu" mà các học giả xƣa coi là gốc của thơ ra sao? Ta biết

trong "Lễ ký" thiên "Kinh giải" Khổng Tử có yêu cầu thơ phải "ôn nhu đôn hậu" với ý nghĩa

là thơ không đƣợc phê bình gay gắt nền chính trị xã hội, không đƣợc lay chuyển quan niệm

và thể chế của giai cấp thống trị. Khổng Tử rõ ràng đã đứng trên lập trƣờng bảo vệ quyền lợi

của giai cấp phong kiến để đòi hỏi thi ca. Còn trong những trƣờng hợp vừa nói ở ta nên hiểu,

là các học giả chỉ muốn coi trọng ý tình trong thơ.

Tình, tình "cùng tột", là đặc thù của thơ. Ở đây có sự gặp gỡ với thuyết "di tình" trong

lý luận văn nghệ Đông Tây kim cổ. Cảnh và tình, vật và hứng tác động chuyển hóa qua lại

tinh tế trong thơ. "Vị tình" mà tạo văn, tạo thơ. Nhƣng tình do "quan vật", "nhập cảnh" mà có,

nên trong thơ cảnh vật thƣờng thấm đậm tình ngƣời, ở Trung Quốc, Trịnh Khang Thành viết:

"Hứng giả thác sự vu vật" (85.6). Còn Vƣơng Xƣơng Linh bảo: "Tâm nhập vu cảnh" (85.6).

Cảnh phải hợp với tình, và tình phải đƣợc khơi nguồn từ cảnh. Ở phƣơng Tây quan niệm này

cũng khá phổ biến. Vico viết: "Cái sức mạnh cao cả nhất của lòng ngƣời là đem phú cảm giác

ham muốn cho những vật vô tri vô giác" (85.6). Hegel viết khái quát hơn: "Mục đích của

nghệ thuật đối với con ngƣời là ở chỗ làm cho họ tìm đƣợc bản thân từ trong đối tƣợng"

(85.6).

Thơ hay nhƣ vậy phải đƣợm tình. Mà "tình" thì không ngẫu nhiên bột phát. Lôgic ấy

đƣa ngƣời xƣa tới việc lý giải thơ hay từ cái thế cùng quẫn dẫn đến đau khổ cả về vật chất lẫn

tinh thần của ngƣời làm thơ. Ngô Thì Vị viết: "Thơ đến cảnh cùng mới hay" (Lời bạt "Cấn

64

trai thi tập"). Đỗ Hạ Xuyên viết cụ thể hơn: "Nhƣng ngƣời thơ hay sau này phần nhiều xuất

phát từ cô thần nghịch tử, thú chinh phu, tao nhân mặc khách, tài nữ tình lang, vì họ là ngƣời

đã trải qua sự khốn cùng mà đƣợc nó" (35.1,235).

Có lẽ đây là quy luật sáng tạo chung của nghệ thuật, không cứ riêng thơ và riêng ở

thời trƣớc. Các nhà tâm lý học sáng tạo văn chƣơng hiện đại từng đặt ra câu hỏi: Trạng thái

nào đối với ngƣời nghệ sĩ năng sản hơn, bất hạnh hay hạnh phúc? Câu trả lời đƣợc nhiều

ngƣời thừa nhận nghiêng về yếu tố đầu hơn là yếu tố sau. Vậy nên, đƣờng đời bằng phẳng

thênh thang khó dẫn nhà thơ tới những đỉnh cao nghệ thuật.

Trong lịch sử thi ca dân tộc có sự gặp gỡ về ý tƣởng thú vị giữa Nguyễn Du và Bùi

Ngọc Quỷ khi hai ngƣời cùng viết về Khuất Nguyên. Ai cũng biết cuộc đời của tác giả "Ly

tao" buồn nhiều hơn vui, cuối cùng ông phải trẫm mình xuống sông Mịch La tìm một lối

thoát bi thảm. Khi đi qua dòng sông oan nghiệt kia, Nguyễn Du viết bài "Qua Tƣơng Đàm

điếu Tam lƣ Đại phu" trong đó có câu:

Ví bằng hiến lệnh ban thiên hạ

Sao có Ly tao nối Quốc phong?

Nếu để cho hiến lệnh đƣợc ban hành trong thiên hạ thì sao có đƣợc Ly tao nối tiếp

đƣợc Kinh thi? Cũng lấy cảm hứng từ dòng sông lịch sử ấy, Bùi Ngọc Quỷ đã gắn "Sở từ

muôn thuở nức văn chƣơng" với "tƣơng thủy nghìn năm vang oán hận" (Qua Tƣơng âm điếu

Khuất Nguyên). Sự tƣơng đồng về quan niệm đã đƣa tới sự gặp gỡ giàu ý nghĩa trong ý thơ.

"Ngƣời cùng thì thơ hay" hầu nhƣ thành hƣớng suy nghĩ chung của phần đông thi

nhân và học giả thời trƣớc ở Việt Nam và Trung Quốc. Âu Dƣơng Tu đời Tống từng nói:

"Thơ cùng thì sau mới hay"(76,153). Nếu

65

cần phải dẫn chứng thêm từ lịch sử văn chƣơng Trung Quốc thì có lẽ sau Khuất Nguyên phải

nhắc tới Lý Lăng. Chung Vinh viết về ông: "Là hậu duệ của một dòng dõi danh gia, ông có

một tài năng hiếm hoi, nhƣng số phận thì lại bất hạnh... Nhƣng nếu nhƣ Lăng không gặp nỗi

đau khổ và thiếu thốn thì lẽ nào sáng tác của ông có thể đạt đƣợc sự hoàn thiện nhƣ vậy?"

(62.1, 239).

Cách nhìn nhận của các nhà Nho Trung Quốc và Việt Nam có xuất phát từ thực tế và

cùng có cơ sở từ lời dạy của Thánh hiền. Mạnh Tử chẳng đã nói: "Ngƣời ta có thuật nghiệp

trí tuệ, thƣờng thƣờng là ở nơi hoạn nạn". Nhắc lại câu nói của một trong những nhà tƣ tƣởng

lớn nhất của học phái Nho gia, Lƣơng Khê giải thích: "Bởi vì riêng cái cảnh hoạn nạn thuận

nghịch dễ bề tu tỉnh. Ngƣời thời xƣa động tâm nhẫn tính, sở dĩ tăng thêm tài năng, mà hoàn

thành toàn đức, không việc gì không nắm đƣợc tự hoạn nạn" (35.1,45). Lối lý giải của Lƣơng

Khê tỏ ra có sức thuyết phục. Hoàn cảnh ngang trái thách thức con ngƣời. Hầu hết sức lực,

tâm lực, trí lực đƣợc huy động. Vƣợt qua thử thách, ý chí và nghị lực của con ngƣời lại đạt

tới một tầm cao mới. Nói nhƣ Phan Huy Chú từ "bất đắc dĩ" đã tạo nên "đại đắc lực"

(35.1,103). Nội lực của ngƣời làm thơ truyền vào tác phẩm làm nên sức sống, sức lay động

của những vần thơ. Nguyễn Án trong lời Tựa "Đông dã học ngôn chí" có cùng một cách suy

nghĩ nhƣ Lƣơng Khê: "Ngƣời thì vùi dập, uất ức, hoài tài phụ khí, sự vật uẩn súc ở trong

lòng, những hình trạng ly kỳ, quỵ quái, phẫn uất, lo buồn dễ lộ ra trong thơ ca nên thƣờng là

những giọng tích chứa oán hận, chỉ trích sâu xa, rất u uẩn" (38.2)

Do vậy, nhận xét sau của Đinh Thị Minh Hằng tỏ ra không mấy thuyết phục: "Đi sâu

vào bản chất quan niệm "ngƣời cùng thì thơ mới

66

hay", cho thấy quan niệm này đã phần nào nêu lên đƣợc nguyên lý thơ phải gắn liền với cuộc

sống" (38,2). Đúng hơn quan niệm "ngƣời cùng thì thơ mới hay" gắn chặt với vai trò của chủ

thể sáng tạo hơn là khách thể thẩm mỷ.

Đây đó cùng có một số học giả thời trƣớc không hoàn toàn tán đồng với quan niệm

gắn "thơ hay" với "ngƣời cùng". Tiêu biểu nhất là Lê Hy Thƣờng. Ông đã phản đối rất quyết

liệt: "Ngƣời xƣa nói: Cùng thì thơ hay. Tôi nhắc đi nhắc lại câu này bất giác cƣời ngất và nói:

Ôi kẻ sỷ đúng là kẻ sỷ, vì muốn thơ hay mà chịu khốn cùng chăng? Thơ tôi không hay phải

chăng tôi không cùng khốn? " (35.1,124). Lê Hy Thƣờng không tán đồng là bởi ông quan tâm

tới kết quả cuối cùng. Làm đƣợc thơ hay đâu có dễ. Từ động cơ đến hiệu quả, từ ý đồ đến

thành phẩm lệ thuộc vào bao điều kiện. Nhiều ngƣời rơi vào cảnh cùng mà nào có thơ hay.

Đó cũng là nguyên cớ chính khiến Cao Bá Quát không hoàn toàn phản đối cũng

không hoàn toàn đồng tình quan niệm "ngƣời cùng thì thơ hay". Ông viết: "Những ngƣời

cùng khổ làm thơ chƣa chắc bài nào cũng hay cả, mà những ngƣời hiện đạt làm thơ cũng

không phải là không hay". Thế rồi Cao Bá Quát đi tới kết luận: "Hay hay không là tại ngƣời

mà thôi". Không nên phán đoán chung chung. Có ngƣời gặp cảnh cùng thì đạt chí cất lên

những vần thơ hào sảng, lại có ngƣời rơi vào cảnh cùng thì nản chí nên chỉ viết ra những câu

thơ buồn thảm "hoang lạnh hiu hắt thê lƣơng" (Ngô Thì Vị - 35.1,108), "có thể có ý vị triết -

lý nhƣng không có cái thực" (Ngô Thì Chí - Tạp chí Văn học, Số 6/1981). Không thể không

phân định rạch ròi điều này. Hai trạng thái, hai phẩm chất khác nhau rất xa. Theo Tôn Hành

Thị, trong lúc hoạn nạn, có những tác phẩm "phần nhiều ấm ức nghẹn ngào" lại có

67

những tác phẩm nhƣ thơ của Lý Văn Phức "vần chất ngất, có cái phong thái thân nhàn khí

định" (35.1,132). Mới hay ngƣời xƣa thật tinh tƣờng. Điều gì đi ngƣợc lại bản chất của thi ca

chân chính đều khó đƣợc chấp nhận.

2 - Về thơ với thực tại

"Thi ngôn chí" gắn với "văn tải đạo" vốn có cội nguồn từ Trung Quốc thành quan

niệm phổ biến của hầu hết các nhà nho xƣa. Miên Trinh cho rằng: "Văn để chở đạo"

(35.1,20). Còn Nguyễn Văn Siêu thì viết: "Văn với đạo tuy tên gọi khác nhau nhƣng kỳ thật

văn là nơi đạo thể hiện ra" (Tạp chí Văn học, Số 4/1976). Các học giả văn nhân xƣa ít chấp

nhận một quan niệm nào khác thế khi bàn về mối quan hệ giữa "văn" và "đạo". Theo Ngô

Dƣỡng Hạo ai "tách văn và đạo ra làm hai" là chứng tỏ "đạo học không sáng" (17.1,120). Đã

"không sáng" trong đầu óc thì dễ lầm lẫn trong hành xử. Văn chƣơng vì vậy khó tránh khỏi

èo ọt, thiếu sức sống.

Tuy nhiên, trong ý niệm của mỗi ngƣời mỗi thời, nội dung "văn" và "đạo", tính chất

mối quan hệ giữa "văn" và "đạo" lại không hoàn toàn giống nhau. Về đại thể, trong thời trung

đại Việt Nam, khái niệm "đạo" đƣợc hiểu theo hai nghĩa chính: giáo lý Nho gia và quy luật

của tự nhiên và xã hội. Xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, đạo Thánh Hiền thấm sâu vào suy

nghĩ và hành động của các nhà nho ngay từ nhỏ. Khi đã trƣởng thành, lúc cần phải dụng bút,

họ không thể không nghĩ tới Ngũ luân, Ngũ thƣờng. Một đầu óc thông thái nhƣ Nguyễn Văn

Siêu khi nói đƣợc "đạo là cái vốn có trong lòng ta" thì sự thể hiện của nó cũng không nằm

ngoài chí hƣớng của ngƣời quân tử. Điều này đƣợc Phạm Đình Hổ nói rõ hơn trong thiên

"Học thuật" (Vũ trung tùy

68

bút): "Đời nay, những kẻ chỉ học lỏm đƣợc vài câu sáo mép, nào có quan thiết gì đến tu, tề,

trị, bình, thế mà đã ngang nhiên tự đắc".

Đạo Nho phần nhiều chứa trong Lục Kinh. Một số ngƣời lầm tƣởng kinh điển Nho gia

đƣợc phần đông các văn nhân thi sĩ xƣa tôn thờ chỉ hàm chứa những nhân tố tiêu cực. Điều

này không hoàn toàn đúng. Giáo sƣ Trần Văn Giàu ngay từ đầu những năm 70 đã đƣa ra nhận

xét xác dáng về kinh Dịch: "Quả thật Dịch chứa dựng khá nhiều yếu tố tƣ tƣởng biện chứng

và duy vật thô sơ thời cổ đại, tƣ tƣởng biện chứng và duy vật thô sơ ấy trộn lẫn với không

biết bao nhiêu tƣ tƣởng thần bí, hoang đƣờng" (96.1,145).

Đáng chú trọng hơn là cách hiểu "đạo" gắn liền với quy luật của đất, trời và ngƣời.

Đây là một quan niệm tích cực góp phần trả lại "màu xanh" cho văn chƣơng, cho thi ca. Ý

nghĩa to lớn và lành mạnh của văn thơ chủ yếu có đƣợc là do xuất phát từ đây. Miên Trinh,

ngƣời từng phát biểu "văn để chở đạo", đã lƣu ý: "Đạo ngay trƣớc mắt" (35.1,219). Các bậc

thức giả mọi thời đều cùng một hƣớng suy nghĩ nhƣ ông. Nguyễn Bỉnh Khiêm tâm niệm:

"Khi tĩnh, suy lẽ tạo hóa; lúc nhàn, ngẫm việc xƣa nay" (76,40). Hồng Nhậm cho rằng thơ

hay ngoài "làm khóc đƣợc quỵ thần" còn phải "suốt thông trời đất" (35.1,88). Cao Xuân Dục

thì nói: "Ngƣời lấy đạo để tiến", muốn thế "cần thích ứng với thời cuộc" (1,148 - 149). Cách

nói và sắc thái ít nhiều khác nhau, song nhận thức lại rất gần nhau. Văn, thơ cần biểu hiện cái

"đạo" của tự nhiên và xã hội. Nhà thơ "nên đi tìm vần thơ của cái đạo cùng tột" (Bùi Huy

Bích - 35.1,66). Đây chính là cơ sở của quan niệm thơ là "tinh anh của đất trời" (Nhữ Bá Sỷ -

35.1, 231).

69

Tiếp xúc với thi luận cổ, ta thƣờng bắt gặp những cách định nghĩa nhƣ thế về thơ.

"Thi thị thiên địa tâm" (thơ là tâm của đất trời); "Thi thị thiên địa chi nguyên âm" (thơ là âm

đầu tiên của đất trời); "Thi thị thiên địa chi nguyên thanh" (thơ là thanh đầu tiên của đất trời);

"Thi thị thái cực chi tinh túy" (thơ là tinh túy của lý thái cực)...

Theo tác giả "Thi lễ phú đề" thì "muốn đi tìm tâm của vũ trụ, không gì gần gũi bằng

thơ" (35.3,56). Vì sao vậy? Xƣa kia, văn và thơ là những khái niệm có tính nguyên hợp. Nội

dung của chúng khá rộng. A. Gurevich có nhận xét: "Ngôn ngữ của ngƣời trung cổ đặc biệt

có tính đa ngữ nghĩa. Tất cả những thuật ngữ quan trọng của văn hóa trung cổ đều có nhiều

nghĩa và trong những văn cảnh khác nhau có những nghĩa khác nhau" (40,6). Theo N. I.

Kônrát, nhà Đông Phƣơng học nổi tiếng của Liên Xô (cũ), thì trong lịch sử mỷ học Trung

Quốc, khái niệm "văn" ban đầu hàm nghĩa rất rộng để chỉ học vấn văn hóa nói chung.

Khổng Tử coi Thi, Thƣ, Lễ (sau thành Kinh Thi, Kinh Thƣ, Kinh Lễ) đều là "văn" hiểu theo

nghĩa là "tƣ liệu, phƣơng tiện làm phong phú thế giới nội tâm của con ngƣời". "Văn" lần đầu

tiên kết hợp với "nghệ" là từ Thôi Nhân (171 - ?). Ông đƣa ra mẫu ngƣời lý tƣởng đòi hỏi ở

cả hai phẩm chất: "Văn" (nghĩa là văn tự, học vấn, giáo dục, văn hóa) và "nghệ" (nghĩa là sự

khéo léo, nghệ thuật). Thực chất văn nghệ xác định không chỉ về mặt "cái gì" mà cả về mặt

"nhƣ thế nào". Từ đó, đi thẳng tới quan niệm của Tào Phi (187-226), ngƣời đã nói "văn

chƣơng" thay cho "văn".

Tuy nhiên, nghĩa nguyên thủy của từ "văn" là vằn gấm vẽ hoa, đồng thời là trang sức

tô điểm. Lê Quý Đôn viết: "Mặt trăng, mặt trời, các vị tinh tú là văn của bầu trời" (Tựa "Vân

đài loại ngữ" ). Ông còn viết: "Đặt đƣờng kinh đƣờng vĩ cho trời đất đó là đại văn chƣơng"

(Mục lục dẫn

70

"Vân đài loại ngữ"). Bản thể của thơ cũng không khác: Xuất phát và gắn liền với tạo hóa. Nó

vốn sẵn trong tự nhiên, hợp với lẽ thƣờng của đất trời. Vũ Duy Thanh quan niệm: "Tạo vật từ

buổi đầu vốn thuần nhất và chân thực; trên bày dƣới đặt cái lý ấy tự trình bày". Theo ông thơ

cũng nhƣ nhạc nằm trong cái "lý" vốn "tự trình bày" nên:

Chưa khúc chưa ca, thơ đã tự tại

Không chuông không trống, nhạc đã có rồi

(35.1,76)

Ở đây có sự tƣơng đồng hiển nhiên với quan niệm thơ cổ Trung Hoa. I. S. Lisevich

khi tìm hiểu "tƣ tƣởng văn học Trung Quốc cổ xƣa" đã xác nhận: "Sự tùy thuộc của thi ca vào

các bí mật sâu xa của tồn tại, vào các nguyên tắc hay lực lƣợng vĩnh hằng vốn là cơ sở của

thế giới" (62.1,210 - 220). Một quan niệm nhƣ vậy không phải tự nhiên nảy sinh ở Trung

Quốc và ở Việt Nam. Nó bị chi phối bởi quan niệm "Tam tài hợp nhất" của tƣ tƣởng triết học

Á Đông.

Đã đành thơ là tình, khởi phát từ lòng ngƣời. "Tình có điều cảm xúc, thơ có thể nói ra,

thơ nảy sinh từ đấy" (Vô danh - 35.1,164). Nhƣng nhân, địa, thiên vốn không tách rời. Đã tồn

tại một giai thoại về Kê Khang mang ẩn ý triết học sâu xa. Viên huyện lệnh nhà Tấn vào tìm

Kê Khang - một trong những Trúc lâm thất hiền, thì thấy ông đang ở truồng thụt lò rèn. Viên

huyện lên tiếng trách cứ, Kê trả lời: "Trời đất là nhà của ta, nhà này là quần áo của ta, có chi

ngƣời lại chui vào quần áo của ta làm gì?" Ngƣời xƣa nhìn thấy ở cái "kỵ", "ngã" một bản sao

thu nhỏ của thế giới bao la. "Vũ trụ thị ngô tâm" (vũ trụ là tâm của ta), "Vật ngã giao dung"

(ta và vật chan hòa vào nhau).

71

Ở nƣớc ta có câu chuyện Vũ Duy Thanh gặp Đào Tiềm trong mộng. Ông hỏi nhà thơ

họ Đào: "May sao tiên sinh lại di tới đất nƣóc của tôi?" Đào Tiềm liền đáp: "Tám phƣơng đều

là nhà, trời đất đều là chỗ ở" (35.1,153). Hòa vào vũ trụ, con ngƣời đồng thời là một tiểu vũ

trụ có cái phong phú của sự đa dạng, có sự huyền diệu của lẽ biến thông.

Có điều, cũng nhƣ trời đất, con ngƣời theo quan niệm triết học có nhiều yếu tố duy

vật thô sơ của phƣơng Đông là kết tinh của khí. Muôn loài khác nhau bởi chất khí không

giống nhau. Sản sinh ra thi ca linh diệu "sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị ngon"

(Hoàng Đức Lƣơng) là bởi thi nhân, theo Bùi Dƣơng Lịch, vốn "kết tinh của nguyên khí"

(35.1,32), tức cái khí ban đầu của vũ trụ. Mỗi ngƣời mang trong mình chất khí riêng nên có

số mệnh và chức phận riêng khi đứng trong trời đất. Sứ mệnh của nhà thơ, theo tác giả bài

"Tựa của Liên đàn kê thi loại biên", là ở chỗ: "Miêu tả sự linh hòa của âm dƣơng và tai mắt

của trăm họ đều là sự âm vang tiết tấu của tự nhiên mà cái gọi là "mệnh trời" không bao giờ

cạn. Lên xuống nơi này trời ngƣời hòa hợp... chứ đâu phải chỉ bo bo ở cái hay về âm luật, cái

lạ ở thể cách" (35.1,53). Xem thế thì biết sự khƣớc từ chủ nghĩa văn thể của các học giả thi

nhân xƣa có gốc gác rất sâu trong thế giới quan của họ.

Ngƣời sáng tạo ra thi ca vậy là học theo tạo hóa và cũng là một thứ hóa công. Nếu thi

ca có sắc màu và âm vang của đất trời sông núi thì không có gì khó hiểu cả. Nguyễn Tông

Khuê, một nhà nho ở thế kỵ 18, khi đi qua bến Thái Thạch chạnh lòng nhớ Lý Bạch. Tức

cảnh thành thơ - những vần thơ có vóc dáng của vũ trụ không cùng tận:

Ẩm tàn giang quốc thiên ba nguyệt

Ngầm động tinh hà ngũ dạ thiên

72

(Uống cạn ánh trăng trên ngàn sông nƣớc

Tiếng ngâm thơ làm lay động dải ngân hà suốt đêm thâu)

Cho nên bàn về bản thể của thơ, một tác giả khuyết danh mới cho rằng: "Thơ là cửa

ngõ của muôn vật, trái tim của đất trời", "thơ là sự huyền diệu của biến thông" (35.1,53). Bởi

chƣng, cũng theo tác giả này, "thơ là cái Một (nguyên lý đầu tiên của sự hình thành vũ trụ)

của Đạo", "thơ là Thái cực đồ về cái huyền vi của Đạo" (35.1,53). Có gì thần bí ở đây không?

Nếu tƣ duy cùng một mạch với ngƣời xƣa thì ta có thể dễ cảm thông với một quan niệm nhƣ

vậy về thơ.

Thơ là tâm của vũ trụ, nghĩa là cũng nhƣ vũ trụ thơ vƣơn tới tính phi thời gian và phi

không gian. Cái "nhất", cái "hữu hạn" đƣợc nhìn từ cái "đa", cái "vô hạn", ngƣợc lại cái "đa",

cái "vô hạn" đƣợc qui về cái "nhất", cái "hữu hạn". Nƣơng theo cách nghĩ đó của ngƣời xƣa,

Xuân Diệu viết về bài "Thu ẩm" (Nguyễn Khuyến) nhƣ sau :"Bài thơ này, theo tôi, không

phải chỉ nói trong một thời điểm là trong một đêm trăng hạn định, mà là tổng hợp nhiều thời

điểm... Nếu chỉ nói cảnh một đêm thu có trăng thì bài thơ tù túng và thiếu lôgic" (35.3,90).

Trong thơ cổ, mọi cái, dầu là đang diễn ra hay đã và chƣa xảy ra đều đƣợc diễn tả bằng thì

hiện tại. Do vậy, mới có "truy thuật" (đem sự vật đã qua thuật lại nhƣ đang diễn ra); "Dự

ngôn" (đem sự vật chƣa diễn ra nói nhƣ đang xảy ra); "Huyền tƣởng" (đem sự vật tƣởng

tƣợng nói ra nhƣ có thật trong hiện tại); "Hoài cổ" (từ sự việc hiện tại khơi dậy sự việc đã

qua).

Đúng ra, quan niệm về thời gian của con ngƣời trung đại khác với quan niệm của

chúng ta ngày nay. Với họ, dƣờng nhƣ thời gian không mất đi mà quay trở lại, nghĩa là vĩnh

viễn tuần hoàn. Nói nhƣ giáo

73

sƣ Phan Ngọc, ở Việt Nam và rộng ra là ở phƣơng Đông thời trung đại "chỉ có khái niệm

xoay vòng đắp đổi theo sự vần xoay của bốn mùa trong vũ trụ" (83.2,80).

Nhƣ vậy, thơ trong quan niệm của ngƣời xƣa hòa cùng Đạo của tự nhiên và xã hội. Từ

đó, chữ "chân" trong thơ còn là sự phù hợp với con ngƣời và xã hội, vũ trụ và thời đại, cái mà

Lorca gọi là "luende" (năng lƣợng thầm kín - 87). Đúng nhƣ nhà thơ lớn ngƣời Thổ Nhĩ Kỳ

viết: "Phải xây dựng bài thơ nhƣ thế nào để đạt đƣợc cái cốt yếu của sự vật" (99).

Thơ hòa cùng với Đạo. Nhƣng Đạo lại không trừu tƣợng. Đạo biểu hiện trong Đức và

sống trong muôn vật muôn loài. Trần Cao Đệ đã nhận chân ra điều đó khi biện giải: "Nhỏ là

nhỏ của một vật, lớn là lớn của muôn loài" (35.1,233). Giọt nƣớc của đại dƣơng là nhỏ,

nhƣng đại dƣơng chứa giọt nƣớc lại vô cùng - cái nhìn biện chứng chính là ở đấy. Thơ vì thế

tồn tại ở khắp nơi, từ cái lớn nhất đến cái nhỏ nhất. Không đâu là rừng cấm của thi ca, nghệ

thuật. "Văn chƣơng ở cái nhỏ nhặt nhất" (Vũ Duy Thanh - 35.1,152). Trần Cao Đệ bằng tất

cả những gì từng trải qua trong cuộc đời cầm bút đã xác nhận: "Gặp việc liền đề thơ, việc nào

cũng có ý nghĩa" (35.1,233). Vậy nên, theo Miên Trinh, "dấu chân đi tìm thơ chẳng dừng ở

một chỗ" (35.1,86).

Là những ngƣời quen hƣớng thƣợng và sùng cổ, đọc sách Thánh Hiền hoặc ngẫm

nghĩ việc xƣa, các nhà nho ta đều ngộ ra những điều tƣơng tự. Ngô Thì Nhậm viết: "Trong

sách Ký nói: Gió mây, sƣơng móc không cái nào không phải thi giáo vậy. Do đó "mỉm cƣời"

và "liếc mắt" há không đủ gợi ta chăng?" (35.1,137). Thì ra, những gì từng trăn trở hàng ngày

lại gần gũi với những điều chứa trong kinh sách. Niềm tin có

74

đƣợc nhờ vậy. Cũng nhờ vậy mà hành động mới cƣơng quyết, mạnh bạo hơn. Đó cũng là

trƣờng hợp của Trần Bá Kiên. Ông từng nghĩ: "Sự cƣời đùa của trẻ con, ngƣời xƣa cũng cho

là có tình thơ, và trong Ba trăm thiên phần lớn là sáng tác ở nơi thôn xóm" (35.1,61).

Đó là những bài học rút ra trong sử sách. Gần gũi và thấm thía hơn chính là sự nghiệp

thi ca của các bậc thi hào, thi bá. Ở Việt Nam, trong suốt thời trung cổ, Đỗ Phủ là một trong

những nhà thơ nƣớc ngoài hầu nhƣ luôn đƣợc đề cao. Đọc thơ ông, Ngô Thế Vinh nhạy bén

nhận thấy hóa ra thơ Đỗ Phủ "không cái gì không đƣợc tiếp nhận" (35.1,147). Tuy nhiên, đây

mới chỉ là một phía. Ngô Thế Vinh viết thêm: "Chỉ cần luyện chữ cho thích hợp, thỏa đáng,

liền thấy nó sinh động tƣơi đẹp, mà không có cảm giác thô cứng". Cái nào cũng có thể đi vào

thơ, song trên thực tế muốn đi vào đƣợc cần có những điều kiện nhất định. Quả đúng nhƣ Lê

Hữu Trác nói: "Không phải bất cứ điều gì cũng phải nói ra bằng thơ" (76,101). Cơ sở này

xuất phát đồng thời từ cá hai phía: chủ quan và khách quan, đúng hơn là chủ thể và khách thể.

Nguyễn Trãi tâm sự: "Khi nhàn thì không việc gì là không ngân nga" (Hý đề). Ngô

Cƣơng Mạnh Đoan nói rõ hơn vai trò của yếu tố chủ thể trong sáng tạo: "Hết thảy sự vật

trong vũ trụ này đều là thi liệu cho ta, tùy điều mình chú ý mà xuất quỵ nhập thần"

(35.1,123). Sẽ không có hứng thơ, và do vậy không có ý thơ khi ngƣời làm thơ vô can. "Vật"

(thiên nhiên) và "sự" (xã hội) đi vào thơ bằng con đƣờng riêng: "Cảm vật ngâm chí", "cảm sự

ngâm chí". Ở Trung Quốc và Việt Nam xƣa, ngƣời ta không nói "hình tƣợng" mà nói "ý

tƣợng" nghĩa là vẫn có hình ảnh nhƣng chan chứa một ý tình nào đó.

75

Nói "hƣớng nội" hay "hƣớng ngoại" trong thơ cũng chỉ là tƣơng đối. Kinh Phật "Thủ

lăng nghiêm" viết ."Nếu mắt ngƣơi có nhƣ cánh sen đặt trên mặt Phật thì khi ngƣơi mở ra là

ngƣơi nhìn vào thiên hạ, còn khi nhắm lại là ngƣơi nhìn vào chính bản thân ngƣơi vậy". Nói

theo cách nói ấy, đôi mắt của các nhà thơ nhắm hay mở, hƣớng nội hay hƣớng ngoại cũng là

lẽ tự nhiên.

Đáng quý là ngƣời xƣa thƣờng nhấn mạnh tới yếu tố khách thể trong mối tƣơng quan

chặt chẽ với chủ thể sáng tạo nhƣ vậy. Trần Cao Đệ trƣớc sau xác định rất rành rọt: "Đáng

trọng hay đáng khinh đều tùy thuộc vào sự vật mà nó tự chuốc lấy" (35.1,233). Vì muốn

khẳng định mạnh mẽ và dứt khoát yếu tố khách quan, Trần Cao Đệ hình nhƣ đã đi quá xa.

Ngô Thì Trí lập luận có phần uyển chuyển hơn: "Núi không phải tại cao, nổi tiếng là bởi có

Tiên; nƣớc không phải tại sâu, linh thiêng là bởi có Rồng" (76,79). Trong suy nghĩ của Ngô

Thì Trí có chỗ đứng thỏa đáng cho cái nhìn của con ngƣời trƣớc thức tại. Dễ gì mà nhận ra

đƣợc "Tiên", đƣợc "Rồng" để có những áng thơ "nổi tiếng", "linh thiêng" nhƣ núi và nƣớc ấy.

Cũng nhƣ vậy "lấy tên đất vào thơ ắt phải lấy cái đặc thù của nó" (Ngô Thế Vinh - 35.1,147).

Mà "cái đặc thù", cái chính yếu lại thƣờng lẫn vào cái tầm thƣờng, cái thứ yếu. Không thể

không chú trọng tới yếu tố chủ quan là vì vậy!

Sự gặp gỡ giữa hai mặt chủ thể và khách thể có cơ sở làm nên những áng thơ còn mãi

với thời gian. Không hoàn toàn giống với những hoạt động khác của con ngƣời, hiệu quả

sáng tạo thi ca tùy thuộc vào hứng. Tài nghệ là những cái tiềm ẩn bên trong. Hứng là tâm thế

đặc biệt chuyển khả năng thành hiện thực. Ngƣời xƣa vì vậy luôn khẳng định vai trò của cảm

hứng thi ca. Ninh Tốn đặt ra ba điều nên trong

76

sáng tác thơ trong đó có "hứng cao" (35.1,138). Nguyễn Quýnh bàn về hứng bằng một đoạn

văn súc tích, giàu hình ảnh: "Ngƣời nhƣ sông biển, chữ nhƣ nƣớc, hứng thì nhƣ gió. Gió thổi

tới sông biển cho nên nƣớc lay động làm thành gợn, thành sóng, thành ba đào... Ngƣời làm

thơ không thể không có gió vậy" (76,103). Lời nói cả quyết vì lòng tin chắc chắn. Lòng tin ấy

đƣợc thực tiễn sáng tạo củng cố. Quả là lúc ngòi bút có thần thì "tay tiên một vẫy đủ mƣời

khúc ngâm". Nguyễn Trãi viết:

Trong khi hứng động vừa đêm tuyết

Ngâm được câu thần dặng dặng ca

(Ngôn chí - 3)

Miên Trinh nói ra cái điều mà bất kỳ nhà thơ nào cũng từng trải qua: "Một khi hứng

tới, tình cờ nâng bút, chả vất vả gì" (35.1,221). Viết nhanh, dƣờng nhƣ từ ngữ không theo kịp

dòng cảm nghĩ, vậy mà lại hay, thành "thần cú", "thần tự'. Kỳ lạ mà không khó hiểu. Nên

Nhữ Bá Sỷ mới mong mỏi: "Hạ bút vẫn chờ mong có thần" (76,131). Có thể xem nỗi mong

mỏi này là thƣờng xuyên và da diết đối với ngƣời làm thơ.

Vậy hứng thơ là gì? Ngƣời xƣa từ nhiều góc độ khác nhau đã cảm nhận khá đầy đủ và

sâu sắc đặc tính của cảm hứng sáng tạo. Dấu hiệu trƣớc tiên của cảm hứng là cảm xúc mãnh

liệt, dào dạt hơn bình thƣờng. Ngƣời cầm bút không thể dửng dƣng trƣớc những gì đang diễn

ra xung quanh. Tác giả vô danh nọ đã phát hiện ra mối liên hệ giữa "tình cao gọi dậy" với

"hứng động dƣới nét bút", và giữa "hứng động dƣới nét bút" với "nét lạ vút bay" (35.1,215).

Nói khác đi, tình nảy ra hứng. Vũ Trọng Đại viết: "Sự xúc cảm nảy sinh ra thi hứng"

(35.1,175). Đỗ Hạ Xuyên cũng viết: "Tùy theo xúc cảm mà nảy sinh ra thi hứng" (35.1,57).

Có lẽ sự nghiệp thi ca của Nguyễn Du là một minh chứng hùng hồn, thuyết phục

77

nhất. Mở đầu "Truyện Kiều", thi hào đã tuyên bố: "Những điều trông thấy mà đau đớn lòng".

"Những điều trông thấy" chỉ qua cảm xúc mới có điều kiện đi vào thi ca, làm nên những trang

rung động lòng ngƣời. Qua mộ Đỗ Thiếu Lăng ở Liễu Dƣơng, Nguyễn Du không cầm nổi

lòng mình. Ông nhìn thấy cảnh ngộ của mình trong cảnh ngộ của nhà thơ danh tiếng kia:

Mồi độc "nho quan đa ngộ thân"

Thiên niên, nhất khốc Đỗ Lăng nhân

Không có tiếng khóc thổn thức ấy sẽ không có bài thơ kia. Rồi trƣờng hợp sáng tác

"Long Thành cầm giả ca" (Bài ca ngƣời gảy đàn ở thành Thăng Long) cũng vậy. Trƣớc cảnh

thời thế đổi thay, nhan sắc phai tàn, Nguyễn Du thốt lên: "Than ôi! Ngƣời ấy sao đến nỗi này!

Tôi bồi hồi ngẩng lên cúi xuống, khôn xiết cảm thƣơng cho sự đổi thay xƣa và nay" (l1, 272).

Thi sỷ đã cầm bút ghi lại cái điều mà mình muốn gửi gắm: "Đời ngƣời trăm năm, vinh nhục

buồn vui khó có thể nào lƣờng đƣợc" (11,272). Phân tích động cơ thúc đẩy Nguyễn Du viết

bài thơ này, nhà nghiên cứu Đỗ Văn Hỵ nhằm chứng minh cho khái niệm "ý tƣợng" trong

sáng tác thơ. Quả thế, "ý tƣợng" đi liền với ấn tƣợng, với cảm xúc thƣờng đến một cách đột

ngột, bất ngờ nhƣ Nguyễn Du viết trong bài thơ nói trên:

"Tôi lắng nghe, lòng đau xót

Chợt nhớ lại việc hai mươi năm trước

Từng gặp nàng trong tiệc bên hồ Giám"

Lƣơng Khê thì gọi đó là "cái ý tứ bột phát" của "sự xúc cảm trong khoảng khắc"

(35.1,46). Đƣờng đột đến, đƣờng đột đi "vừa bắt đƣợc lại liền tuột mất" (Nguyễn Hàm Ninh -

35.1,73), nên ngƣời cầm bút phải

78

biết kìm giữ cảm hứng. Từ đó cảm nghĩ đƣợc cất cánh, đƣợc ủy thác vào vần điệu, hình ảnh

và cấu tứ. Ngô Thì Sỷ viết: "Những cái ngổn ngang dằn vặt nơi lòng, bỗng nhiên bừng sáng"

(35.1,226). Đó là tấm lòng. Hồng Nhậm thì nhận ra "con đƣờng suy tƣ vọt ra nhƣ thác đổ"

(35.1,92). Lúc đó ngòi bút có sức cuốn hút không cƣỡng lại đƣợc mà cả Miên Thẩm lẫn Hồng

Nhậm đều gọi là "ma thơ" "mờ mịt cả sớm chiều" khiến con ngƣời làm thơ "mất cả ăn ngủ":

Thân ta không tự chủ được

Như bị cái gì dắt díu

(35.1,83)

Và: Phảng phất nơi tai mắt

Thức ngủ không tách rời

(35.1,92)

Viết nên những dòng này, họ có cả bề dày sáng tác ở phía sau. Sức bút mạnh, hiệu

quả cao, nhờ hứng. Ngô Thì Sỷ viết: "Bút thần thi liệu, tình cảm gồm hai, không cái nào vụt

cái thành thơ, thốt nhiên nhập vịnh" (35.1,19) Hứng thơ mới kỳ diệu làm sao, kỳ diệu mà

không khó hiểu, hiểu rồi mà vẫn thấy mới lạ, mông lung.

Thật ra hứng thơ cũng có những nguyên cớ nảy sinh. Ngƣời xƣa đã đi sâu tìm hiểu

chúng. Đã tồn tại một cách nói thành quen thuộc "gặp cảnh sinh tình", "tức cảnh thành thơ".

Vai trò của yếu tố khách quan chƣa bao giờ bị xem nhẹ. Hứng chỉ tới làm "sảng khoái mắt

thơ" khi "đi khắp núi sông... xem lƣới chài, trông ngƣời hái củi" (Ngô Thì Sỷ -35.1,64). Nên,

Miên Thẩm mới thú nhận:

Ta từ khi nằm bệnh không làm thơ nữa

Trùng kêu vượn hót hết hứng xa xôi

(35.1,78)

79

Chỉ cọ xát với cảnh vật và con ngƣời, hứng thơ mới có cơ bùng lên, lan tỏa, xâm

chiếm tâm hồn ngƣời cầm bút. Lƣơng Khê đã diễn tả khá rõ quá trình này: "Những điều trông

thấy trên đoạn đƣờng bể... hết thảy đều là cái cảnh đáng buồn đáng vui, liền ghi lấy khi thức

cũng nhƣ trƣớc khi đi ngủ... Sợ khi đã tỉnh thì không thể phục hồi đƣợc nữa" (35.1,45). Từ

cảnh đến tình, tình chan hòa trong hứng, hứng lúc ẩn lúc hiện khó hình dung, khó nắm bắt...

Phải chăng Lƣơng Khê từng sống thật sự trong tâm thế sáng tạo đặc biệt để diễn tả thành lời

cái điều thật khó diễn tả kia.

Nói tới "cảnh" là nói yếu tố bên ngoài. Thật ra cái quyết định chính là sự dồn nén tự

bên trong. Bao ấn tƣợng dần dà hoặc dồn dập đến, để tới lúc tâm hồn ngập tràn bùng lên

mãnh liệt. Nhƣng đó là kết quả sau cùng. Để có ấn tƣợng, con ngƣời phải chủ động tiếp nhận.

Chỉ có những ngƣời thƣ thái, khoáng đạt hồn thơ mới giàu có. Ngƣời xƣa đặc biệt nhấn mạnh

đến điểm này. Ninh Tốn khẳng định không chút nghi ngại: "Chỉ có ngƣời nào tâm hồn phóng

khoáng ít vƣớng mắc thì làm thơ mới hay" (Tạp chí Văn học, Số 4/1976). Ông đồng thời giải

thích điều mình vững tin: "Thƣ thả ngắm bầu trời mênh mông mà suy nghĩ đến cái vô cùng

(của vũ trụ). (Lúc đó) phơi phới tƣởng nhƣ đang mọc cánh" (17.1,145). Cuộc sống từ ngàn

đời đi theo lẽ thƣờng và bộc lộ bản chất thầm kín. Không phải ai cũng có thể nhận ra để thể

hiện thành những vần thơ diệu ngộ. Chỉ có những tâm hồn khoáng đạt mới dễ đồng cảm với

cái đẹp vốn xa lạ với mọi thứ dung tục, tầm thƣờng ở đời. Nói nhƣ Miên Thẩm:

Mới biết tiền thân từ thanh tịnh

Chứ đâu phải cố ý xây dựng ngôn từ khác lạ và xa hoa

(35.1,86)

80

Có đƣợc lòng thanh tịnh, đấy là tiên giữa cõi trần, ai làm thơ mà không mong mỏi.

Nên ông chân tình giãi bày khát vọng của mình:

Khát uống sương ngọt, đói ăn ráng xanh

Không bị đời sai sử

Xênh xang theo với tự nhiên

Vẫy gọi tám vị tiên cưỡi gió cùng đi

Say rồi dỡn ánh trăng nhảy múa điên cuồng

(35.1,86)

Bản tính của hồn thơ không chịu mọi sự trói buộc. Cả lợi lẫn danh. Đọc thơ bởi vậy,

nói theo Cao Bá Quát: "tinh thần lắng xuống, ý nghĩ sạch lâng lặng lẽ cho tâm hồn giong

ruổi" (76.1,157). Ninh Tốn cho rằng một trong những điều "không nên" đối với ngƣời cầm

bút là "không nên có việc quan lại". Cái lý nhận xét của ông là ở chỗ: "Nơi nào văn thƣ ít thì

hồn thơ sảng khoái" (Tạp chí Văn học, Số 4/1976). Có gì gần gũi với ý nghĩ của Nguyễn

Trãi, ngƣời sống cách Ninh Tốn hơn ba thế kỵ:

"Hỷ đắc thân nhàn quan hựu lãnh

Bế môn tận nhật thiểu tương qua"

(Mừng đƣợc thân nhàn mà việc quan lại rỗi

Đóng cửa trọn ngày ít qua lại với ai)

(Ngẫu thành - 15, 305)

Và thơ ngẫu nhiên mà đến, ngẫu nhiên mà thành, bởi:

"Nhàn lai vô sự bất thanh nga"

(Khi nhàn thì không gặp việc gì lại không ngân nga)

(Hý đề - 15,360)

Lẽ nào không đúng thế. Ngô Thì Vị nói rất chí lý: "Hứng bộc lộ nơi tâm nhƣng quan

hệ tới thân" (35.1,108). Mà con ngƣời thi nhân thì lại

81

giống nhƣ bao ngƣời khác đều có những nhu cầu sinh tồn đa tạp. Vấn đề là phải tự điều

chỉnh, tự điều tiết.

Vậy mà tiếc thay, ngay cả những ngƣời thanh cao nhất có lúc cũng buộc lòng bán linh

hồn cho quỵ. Nỗi e ngại đến mức kinh sợ của Nguyễn Cƣ Trinh là có thật: "Rất sợ lấy văn

chƣơng để cầu danh vọng" (76,47). Đấy là danh, cái lợi cũng không ít cám dỗ. Nguyễn Văn

Siêu đã chỉ ra một trong ba căn bệnh của kẻ làm văn thời ông là: "Đem ý nghĩ đi tìm lợi lộc

để ngang ở trong lòng" (Tạp chí Văn học, Số 4/1976, 146). Biết rằng quá đam mê danh lợi là

không hay, thế nhƣng biết bao kẻ sỷ vẫn bị cuốn vào vòng quay của nó. Các bậc thức giả mọi

thời luôn cảnh tỉnh nguy cơ của bả lợi danh là vì thế. Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: "Khi ở triều

đình thì tranh nhau về danh, khi ở chợ búa thì tranh nhau về lợi; khoe là sang thì lầu son gác

tía, khoe là giàu thì vũ tạ ca lâu". Kết cục tất yếu là: "Thấy ngƣời ngoài đƣờng có ngƣời chết

đói, không dám bỏ một đồng tiền ra cứu giúp; thấy cảnh đồng có ngƣời nằm sƣơng, không

chịu bỏ một nắm rạ ra che đậy" (76,37). Nghệ sĩ là ngƣời có trái tim nhạy cảm hơn bình

thƣờng. Phải biết lo trƣớc thiên hạ, vui sau thiên hạ. Khi chỉ chăm chắm nghĩ đến mình,

không biết đau nỗi đau của đồng loại, không biết vui niềm vui của con ngƣời, cảm hứng thi

ca chân chính làm sao có cơ bột phát.

Cái nhìn về mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể ở ngƣời xƣa rõ ràng gần gũi với

cái nhìn của chúng ta ngày nay. Yếu tố khách thể chƣa bao giờ bị xem nhẹ. Ngô Thì Sỷ cho

rằng "thắng cảnh của núi sông, thanh u nơi chùa Phật, tân kỳ của cây cỏ, khác lạ của chim

muông..." chính là đối tƣợng của thi ca, nghệ thuật. Thơ xƣa thƣờng rất nhạy cảm với vẻ đẹp

của thiên nhiên, non, nƣớc là vì thế. "Gió trăng" là "của kho

82

vô hạn", ngƣời làm thơ hãy sống với nó, tự làm giàu có lên bởi nó. Ngƣời thi sỷ trong

Nguyễn Trãi có lần đã sảng khoái tự hỏi:

"Nhãn để nhất thì thi liệu phú

Ngâm ông thùy dữ thế nhân đa? "

(Trƣớc mắt một buổi thi liệu dồi dào

Thi nhân với ngƣời đời thì ai thú hơn?)

(15, 360-361)

Nguyễn Thƣợng Hiền cũng thừa nhận là khi "bệnh nghiện thơ" tràn ngập trong tâm

hồn ông thì "bao vẻ đẹp kéo về trƣớc mắt" (35.1,99). Thi ca với ƣu thế này đã góp phần nâng

con ngƣời dậy, chắp thêm đôi cánh diệu kỳ cho họ, giúp con ngƣời thoát khỏi bao phiền lụy

của đời trần. Bởi "khi nào quang cảnh đẹp thì tục lụy lắng trong" (Ninh Tốn - 17.1,145).

Do khát vọng không cùng về cái đẹp, mà nhà thơ đâu có mấy khi hài lòng. Miên

Thẩm thƣờng băn khoăn bởi vì: "Những hận kỳ quan mà thiên thơ còn vắng" (35.1,79).

Không một nhà thơ nào, xƣa cũng nhƣ nay, lại không có những phút giây day dứt đáng yêu

nhƣ thế. Đó là hạnh phúc biểu hiện sự giàu có của tâm hồn. Và khi "thi thành", thì nói theo

câu thơ của Tố Nhƣ "thảo thụ giai thiên cổ" (Hán Dƣơng vãn diểu - 11,405).

Một trong những điều gần gũi khác giữa quan niệm thơ xƣa và nay là việc nhấn mạnh

mối quan hệ của thi ca với chính sự. Cổ nhân cho rằng có ba sự nghiệp lớn có thể lƣu danh

hậu thế. Đó là lập công, lập đức và lập ngôn. Trong thực tế ba sự nghiệp ấy gắn bó với nhau,

hòa quyện vào nhau. Ý nghĩa lớn lao của văn chƣơng đối với con ngƣời và cuộc đời xuất phát

từ đây. Lê Quý Đôn viết thật bao quát và đúng đắn: "Văn chƣơng là gốc lớn về lập thân, là

việc lớn để sửa đời" (Điều 2 – Văn

83

nghệ). Cao Xuân Dục đặt văn chƣơng trong quan hệ trực tiếp với nghiệp nƣớc: "Văn là sự

nghiệp lớn để trị nƣớc, là công việc bất hủ, làm một lúc nhƣng truyền lại muôn đời" (1,151).

Thi ca không nằm quỷ đạo chung này. Bàn về mục đích của thơ, Ninh Tốn xác định:

"Việc là ở Ô châu thực lục, nhƣng nghĩa là khuyên bảo răn đe, nhờ văn để hành đạo, nhƣng

không rơi vào phù hoa, tới việc để làm sáng lý, nhƣng không đọng ở chỗ thô thiển, đặt nó nơi

bình phong, có thể là sự toan tính sâu xa giúp thánh triều coi dân chế trị, khắc nó nơi ván gỗ,

có thể là nuôi dƣỡng to lớn thành sự khuyên răn mẫu mực cho ngàn vạn đời sau" (35.1,28).

Đọc những dòng này ngày nay có ngƣời không khỏi e ngại. Liệu chức năng của thơ

"vốn là tiếng nói tâm tình của con ngƣời với con ngƣời" có quá cao siêu? Nếu đúng vậy thì

mục đích này may ra chỉ phù hợp với thứ thi ca của bậc thánh trí luôn mong giúp đời sửa

ngƣời. Liệu đó có phải là quy luật chung của thơ mọi thời mọi ngƣời? Ngẫm nghĩ kỷ thì đó

chỉ là nỗi băn khoăn của ngƣời hôm nay. Trong đầu óc của ngƣời xƣa hầu nhƣ không tồn tại

nỗi e ngại tƣơng tự. Với nhà Nho, "văn" là một trong những phƣơng cách để "hành đạo",

"thơ" là một trong những con đƣờng để "dƣỡng tâm". Chẳng thế một tác giả vô danh đã

không viết những dòng sau về mục đích của thơ tiên nghĩa là thứ thơ ít nhiều mang màu sắc

siêu thoát: "Sự việc thần tiên thuộc về mờ mịt, nhƣng riêng muốn ƣu ái nhƣ thế nào? Đƣa vua

đến sự hiền minh nhƣ thế nào? Làm cho dân no ấm nhƣ thế nào? Làm cho sinh linh và triều

đình hạnh phúc nhƣ thế nào? Đó là một thần linh ở trên đời vậy" (35.1,54). Không thể nói là

mục đích của thi ca trong quan niệm của ngƣời viết không cụ thể. Thậm chí, đó là những hiệu

quả xã hội có thể tính đếm đƣợc. Lại là thơ

84

tiên. Nói gì đến thơ thế sự. Sức mạnh của thơ văn loại này càng lớn hơn. Nguyễn Thƣợng

Hiền biểu đạt rất đúng:"Thét một tiếng đã nâng dậy chứng ỳ của một nền phong hóa suy đồi"

(35.1,101).

Đƣợc vậy thì thơ phải gắn liền với chính sự, với thời cuộc. Ngô Thế Vinh viết: "Cái

biến của văn chƣơng cũng suốt thông với chính sự" (35.1,142). Hồng Nhậm gắn "đạo đời"

với "đạo thơ". Ông vua - thi sỷ này cho rằng:

Bản triều có nền chính sự văn minh

Bốn bể tràn đầy lời ca vịnh

(35.1,89)

Ý thơ rõ ràng mang đậm vẻ quan phƣơng, không mấy phù hợp với tính chân thật lịch

sử của triều Nguyễn, ở đây, ta chỉ lƣu tâm đến ý thức đối chiếu những "lời ca vịnh" với chính

sự của "bản triều" trong ý thức một ngƣời làm thơ, tựa nhƣ Bùi Dƣơng Lịch nhận ra "vận hội

nƣớc nhà đƣơng thịnh" với việc đất nƣớc "sinh ra ngƣời hiền giúp sức" (35.1,33). Bằng cái

nhìn bao quát hơn, Nguyễn Cƣ Trinh viết: ―Thời có lên xuống, nên thơ có sơ, thịnh, trung,

vãn không nhất trí" (17.1,115).

Nhƣng sáng tạo thi ca không giống với các hoạt động sản xuất vật chất khác. Lòng

ngƣời làm thơ phải chứa chan cảm xúc "ƣu thời mẫn thế'' (lời Ngô Thì Hoàng). Nói gì thì nói,

cảm hứng thi ca chân chính cần đƣợc khơi nguồn từ những điều tai nghe mắt thấy can hệ tới

sự tồn vong của một triều đại, một đất nƣớc, tới sự vui buồn, sƣớng khổ của "dân đen con

đỏ". Đinh Linh Uy trong "Tang thƣơng lệ sử" đã viết rằng chiều hƣớng sáng tạo thi ca "là

quan hệ của hƣng suy một thuở, cảm khái nghìn thu" (35.1,63). Trƣớc đó ông đã lý giải lẽ

"hƣng vong" của cuộc dâu bể thế này: "Đất Thăng Long thời xƣa là đất đế vƣơng xây dựng

đô kỳ,

85

mũ đai non vật, thịnh ở non nam, văn thái phong lƣu, nhất nơi hải nội... Sau khi thay đổi,

hoang phế sạch trơn, hoàng đô phần nửa thê lƣơng, vƣơng phủ cũng giao cho ngọn lửa"

(35.1,62). Đây là lý do bên trong thôi thúc ông cầm bút viết những vần thơ "tang thƣơng" vừa

để giải tỏ nỗi lòng, vừa để chia sẻ nỗi ƣu tƣ trƣớc nhân tình thế thái.

Mới hay, ý thức công dân của ngƣời cầm bút đã đƣợc đặt ra và thấm nhuần từ lâu.

Ngƣời làm thơ đâu đƣợc phép chỉ sống cho riêng mình. Bài thơ là sản phẩm của riêng ngƣời

viết nhƣng khi đã đến tay ngƣời đọc thì hóa thành "của công thiên hạ" (lời Lê Quý Đôn) đâu

có thể đƣợc phép buông tuồng. Sống trong cộng đồng, nhà thơ cũng nhƣ bao ngƣời khác cần

sống có trách nhiệm với mình, với đời. Muốn thế phải hiểu mình là ai, mình cần làm gì dể

xứng đáng đứng giữa trời đất này. Nguyễn Văn Siêu tự nhủ mình sống theo đạo thƣờng ấy:

"Phƣơng chi ăn thì ngƣời làm ruộng cày thay ta, ở thì ngƣời thợ làm thay ta, dùng thì ngƣời

buôn bán trao đổi thay ta. Vậy thì cái trách nhiệm mà ngƣời đời đòi hỏi ở bọn ta cũng không

phải nhẹ. Mà bọn ta coi việc này là một điều tắc trách thì hóa ra ta đã phụ vua ta và ngƣời đời

chẳng lớn lắm sao?" (76,126). Dƣờng nhƣ trong lòng kẻ sĩ có sự ăn năn. Tự mình trách mình

sức thuyết phục càng lớn hơn.

Bùi Ngọc Quỷ dẫu không nói ra chắc cũng cùng một tâm sự, một chí hƣớng với

Nguyễn Văn Siêu, do vậy mới làm bài thơ có tựa đề rất ý nghĩa "Thấy nông dân guồng nƣớc

tƣới ruộng, úy lạo họ một bài thơ". Đặc biệt câu kết của bài thơ đã nói nhiều về ý nguyện

đáng khâm phục của bậc trí giả: "Phen này từ chức nguyện làm rạng rỡ nghề nông". Có ngƣời

nào sống ở đất nƣớc nông nghiệp nhƣ Việt Nam ta xƣa kia lại không liên hệ cách này cách

khác với nghề nông. Nếu không trực tiếp

86

cầm cuốc, cầm cày thì làm thơ viết văn để "minh nông". Nhƣ vậy họa may mới mong trả một

phần món nợ tinh thần và vật chất mỗi khi nâng bát cơm "dẻo thơm một hạt đắng cay muôn

phần" lên miệng ăn hàng ngày.

Sản phẩm chính yếu của nhà thơ là thi ca. Lời nói nghệ thuật của nhà thơ chính là

hành động xã hội của anh ta. Do vậy, trƣớc hết hãy lo viết những vần thơ cho xứng đáng.

Đồng thời sao cho thật hữu ích. Đọc sách sử bên Trung Quốc, Đỗ Kiêm Thiện rút ra một bài

học phản diện qua sự lầm lỡ của triều đại Tống Thái Tông. Chƣa thể coi đây là thời thịnh trị,

thái hòa. Vậy mà "buồn thay: vua rằng xem hoa, tôi rằng xem hoa; Vua rằng vịnh thơ, tôi

rằng vịnh thơ" (76,170). Trong thơ vua tôi viết gì? "Đất trời hết thảy một mùa xuân", rồi

"Điềm lành, tin tốt tới luôn luôn". Nhắc lại sự thật đau lòng ấy, Đỗ Kiêm Thiện nhận xét:

"Viết nhƣ vậy, họ không biết rằng họ chỉ đẩy vua của họ tới chỗ kiêu dật, mà không biết đòi

hỏi vua họ ở chỗ ƣu cần" (76,171). Thứ thơ ca đó vô thƣởng vô phạt ƣ? Không, nó có hại và

có tội; cái hại và cái tội đâu có nhỏ.

Mối quan hệ giữa thi ca và thực tại còn đƣợc bộc lộ qua cặp phạm trù thực và hƣ

trong thơ. Vấn đề kỳ - chân, ảo - thực đƣợc ngƣời xƣa biện giải khá thú vị và thỏa đáng trong

các lời Tựa, Bạt, Bình "Dƣơng mộng tập" của Hà Tông Quyền, Ông đỗ tiến sĩ 1822, sau làm

tri phủ rồi làm việc trong Nội các nhà Nguyễn. Đầu tiên ông rất đƣợc triều đình tin dùng. Về

sau vì một lý do rất vu vơ, Minh Mệnh cách chức bắt ông phải đi hiệu lực Nam Dƣơng cùng

với Phan Thanh Giản. Ông sáng tác khá nhiều thơ văn, trong đó nổi bật là tác phẩm "Dƣơng

mộng tập". Tập thơ có nhiều bài nói lên nỗi lòng bi phẫn của tác giả một cách kín đáo.

87

Nhiều bài có tình và đẹp về nghệ thuật thơ. Khi tập thơ in ra Lƣơng Khê đã viết lời đề tựa,

Phan Huy Chú, Doãn Uẩn, Kính trai Ngô Hy Phan và Phan Thanh Giản viết lời Bạt, Vũ

Trọng Đại viết lời Bình. Có thể nói đây là những tƣ liệu quý giá giúp soi tỏ nhiều vấn đề quan

trọng và lý thú trong quan niệm thi ca của ông cha. Nổi bật hơn cả là vấn đề thực và hƣ trong

thơ.

Nghệ thuật, xƣa cũng nhƣ nay, rất cần chất hƣ ảo. "Phi kỳ bất truyền". Vƣơng Duy

viết trong "Sơn thủy luận": "Vẽ núi sông cốt giữ lấy cái bóng sáng của nó" (35.3,69). Không

ở đầu ƣớc vọng, khát khao của con ngƣời lại đƣợc gửi gắm và lƣu giữ nhiều nhƣ trong nghệ

thuật, nhất là thi ca. Nàng thơ vốn ƣa bay bổng nên đƣợc chắp đôi cánh diệu kỳ. Đó là đôi

cánh của tƣởng tƣợng, của ƣớc mơ "mới lạ" và lắm khi "kỳ quái" (lời của Doãn Uẩn).

Vậy mơ là gì? Lƣơng Khê viết: "Mơ là cảnh ảo... nhớ nó nhƣ thế chứ không biết nó

tại sao nhƣ thế" (35.1,45). Ông đã chỉ ra một đặc điểm của mơ, ảo, hƣ là kỳ lạ, linh diệu.

Trong bài Bạt ông có điều kiện nói rõ hơn: "Sinh vào thời Thái hoang, chẳng biết đâu là bắt

đầu; chơi ở nẻo vô cùng, chẳng hiểu đâu là kết thúc" (35.1,121). Đã gọi là mơ là ảo thì làm

sao có giới hạn. Hình dạng của nó cũng không thật rõ: "Ẩn khuất nơi không thanh, thông nơi

không tƣợng, vào nơi không làng, không vời mà tới, không cuốn mà thu, lớn không đầy vốc,

nhỏ khắp mọi nơi" (35.1,121).

Thật là huyền diệu. "Đi mà chƣa từng qua, đƣợc mà chƣa từng có" (Vũ Trọng Đại -

35.1,174). Đó là những gì "sách vở chƣa từng ghi, chân ngƣời chƣa từng tới" (Phan Huy Chú

- 35.1,112). Tuy chúng không nằm ngoài cuộc đời này. Chẳng thế Kính trai Ngô Hy Phan đã

không viết: "Thế giới nhƣ giấc mơ" (35.1,119). Có thể nói nhƣ vậy là bởi hƣ hay thực,

88

tàng hay lộ, hữu hạn hay vô hạn cũng chỉ là tƣơng đối. Trong quan hệ này nó là hƣ, rất có thể

trong quan hệ khác nó lại là thực. Hơn nữa nói nhƣ Hà Tông Quyền: "Hƣ thực hình thành lẫn

nhau" (35.1,229). Nghĩa là hƣ, thực có thể chuyển hóa cho nhau. Lẽ biến thông ấy đƣợc giải

thích trong kinh Dịch. Đọc Dịch ta thấy thế giới đầy rẫy điều huyền ảo, nhƣng là những điều

huyền ảo có thể lý giải đƣợc. Bởi vậy Vũ Duy Thanh mới cho rằng: "Dịch không phải ảo"

(35.1,75). Sự tỉnh thức của trí tuệ con ngƣời đƣợc đặc biệt coi trọng. Hầu nhƣ các học giả đều

cùng thừa nhận vai trò của sự tỉnh thức. Vũ Trọng Đại viết: "Mơ ƣ! Đó là tỉnh vậy"

(35.1,174). Còn Hà Tông Quyền thì khẳng định: "Mơ đó liền tỉnh đó" (35.1,229). Cái đích đi

tới chính là sự tỉnh thức, nếu không huyền ảo sẽ hóa thành huyền bí. "Cực tả cảnh mơ nhƣng

quạy về cái tỉnh" (35.1,229). Nhƣ thế là lại trở về với cái thực đấy rồi! Thi ca không thể tách

rời đời thực. Nhà thơ hãy đi vào đời sống, tìm cảm hứng sáng tạo trong cái không cùng tận

của cuộc đời. Đúng nhƣ sự giả định của Doãn Uẩn: "Nếu chỉ đóng cửa ngồi một mình gƣợng

làm một vài câu sáo mục... Nhƣ vậy đối với thơ liệu ra sao nhỉ?" (35.1,115).

Vậy là dù điểm xuất phát từ đâu thì ngƣời xƣa cũng gắng đi vào quỷ đạo chung của

thi ca chân chính mọi thời. Song cũng chính nhờ điểm xuất phát không giống nhau mà ta mới

có điều kiện tránh xa khuynh hƣớng đơn giản hóa cái thực trong thơ. Đã từng có ngƣời nghĩ

về cái thực một cách quá dung tục. Xin hãy dừng lại quan niệm của ngƣời xƣa, chẳng hạn của

Lê Quý Đôn. Với ông, "sự thật" có thể là những gì tai nghe mắt thấy. "Sự thật" còn có thể là

những cái mà giác quan bình thƣờng không thể nhận biết đƣợc. Ông viết không chút do dự:

"Cái gì ngƣời ta thƣờng thấy thì tin, cái gì chƣa thấy bao giờ thì ngờ... Nếu cái gì mà tai

không

89

nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!"

(Điều 43 - Lý khí). Lê Quý Đôn còn giải thích thêm: "Thuyết âm ty địa giới tựa nhƣ hoang

dƣờng nhƣng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa... mà thôi" (Điều 47 - Lý khí). Sự sáng

suốt đến lạ lùng! Càng lạ lùng hơn khi ta biết Lê Quý Đôn sống trong thời đại luôn bị thần

quyền huyễn hoặc.

Tóm lại, hƣ trong suy nghĩ của ngƣời xƣa không tách rời thực. Thơ và nhà thơ bởi vậy

phải biết ơn đời sống. Đây là kết luận rút ra của nhiều ngƣời. Phan Huy Chú viết về "Dƣơng

mộng tập": "Không bài nào không có sự nâng đỡ của núi sông" (35.1,113). Còn Doãn Uẩn thì

viết: "Tập thơ này đúng phải có sự nâng đỡ của núi sông" (35.1,116). Lẽ nào đó không phải

là bài học thấm thía đối với các nhà thơ mọi thời. Đã rõ là trong thƣởng thơ, cùng với tâm,

chí và tình, ngƣời xƣa không quên cảnh, sự và việc. Bình các bài thơ "Trai", "Sò" và "Thôn

Đông Thƣợng" của Bùi Huy Bích, Phạm Nguyễn Du nhận thấy: "sự suy cứu cái lý, quan sát

sự vật của nó rất sâu" (35.1,106). Có lẽ Phạm Nguyễn Du chịu ảnh hƣởng quan niệm "thi khả

dĩ quan" của Khổng Tử. Nếu học đƣợc và hơn thế thấm đƣợc, vận dụng đƣợc cái hay cái

đúng của ngƣời (đây là bậc Thánh) thì rất tốt. Nhƣng trong trƣờng hợp này khi hạ bút viết về

"sự suy cứu cái lý" của đời thì Phạm Nguyễn Du không chỉ thuần nhắc lại ý của tiền nhân.

Thứ thơ ấy ắt có tác dụng đối với nhận thức của ngƣời đọc. "Truyện Kiều" là một dẫn dụ.

Cao Bá Quát vừa cảm thông với "tiếng nói răn đời" vừa nhận ra "tiếng nói hiểu đời" của kiệt

tác đứng vào hàng đầu trong lịch sử văn chƣơng dân tộc (76,151).

Tác phẩm thơ lớn nào xƣa nay đều vậy: Giúp soi sáng bao điều trong cuộc đời vốn sôi

động và đa dạng. Tựa nhƣ Phan Phu Tiên nhận

90

xét về thơ Hán, Đƣờng, Tống bên Trung Quốc: "Có thể xem thịnh suy của thơ mà bình sự

đƣợc mất của đời" (76,21). Cố nhiên, mối quan hệ giữa đời và thơ không phải lúc nào cũng

cùng chiều. Nhƣng hình bóng của cuộc đời trong thơ thì cách này cách khác đều có thể nhận

ra.

Đƣợc vậy không phải tình cờ. Ngƣời xƣa khi dụng bút thƣờng không quên đời, quên

ngƣời. Nguyễn Hành ví tiếng thơ nhƣ tiếng chim cuốc kêu: "Tiếng kêu của chim nhƣ thế nào,

âu cũng có nguyên do của nó" (76,145). Mà nguyên do của tiếng kêu thảm thiết, khắc khoải

của chim cuốc thì ai cũng rõ. Đó là tƣ duy luận lý. Bằng hình thức thơ, Miên Thẩm viết:

Rót nước bên núi xanh gọi Lý Bạch dậy

Ông hãy vì tôi lại rung cây bút khỏe viết bài trường ca

(35.1,87)

Ngƣời làm thơ, khi hứng tới, phải gọi Lý Bạch - bậc thi Tiên. Tuy muốn có "cây bút

khỏe" để "viết bài trƣờng ca" nhà thơ đã không quên "rót nƣớc bên núi xanh". Cái nhìn hiện

thực thấm từ bên trong hồn thơ đến độ có thể xem là nhuần nhuyễn.

Từ đó, không lấy làm lạ, khi Ngô Thì Nhậm cùng các bạn hữu của ông khuyên nhau

"gắng sức bám vào cái thực" (35.1,135). Mà muốn thế phải chú trọng "công phu tại thi

ngoại", phải học ở nơi "hữu tự thƣ" (sách có chữ), đồng thời cả ở nơi "vô tự thƣ" (sách không

có chữ). Bằng sự so sánh xác đáng, Nguyễn Dƣỡng Hạo ví mối quan hệ giữa nhà thơ với

cuộc "đời nhƣ mối quan hệ giữa Trúc và Gió: "Trúc không có ý với Gió, nhƣng Gió đến thì

Trúc động và sinh ra tiếng; lòng không dung vật, nhƣng vật tiếp thì lòng cảm mà thành thơ"

(76, 51). Tiếng trúc sở dĩ phát ra là bởi vừa có Trúc vừa có Gió. Trúc và Gió lại muôn hình

91

vạn trạng nên tiếng trúc, tiếng thơ nhờ thế không đơn điệu thuần nhất.

Đáng nói là có lời thơ "trung thực" lại có lời thơ "bẻ quẹo sự thực" (Miên Trinh -

35.1,219), có lời thơ "lột tả cảnh sắc của cảnh... bóc trần thần thái của ngƣời" ( Vô danh -

35.1,242), lại có lời thơ hời hợt mon men bên ngoài hiện tƣợng. Chính ở đây vai trò của chủ

quan nhà thơ đƣợc khẳng định. Không nên quên muôn vật, muôn cảnh, muôn ngƣời danh

"chung" mà thực "khác". "Vật" và "lý", nói theo Trần Cao Đệ, "tự nó có điều khinh trọng"

khác nhau (35.1,233). Qua "vật" thấu lý", chọn "vật" . bộc lộ rõ "lý", cần con mắt sáng thấu

suốt đƣợc "cái thực" nhằm đạt tới "cái thần". Ý nghĩa của thi ca cao thấp phần nào tùy thuộc

ở đó. Nguyễn Văn Siêu viết: "Sự ghi chép của ngƣời xƣa, cũng nhƣ một bức vẽ, chỉ mô tả

hình dáng bề ngoài, mà không nắm đƣợc cái thần... thì nó ít khi giữ đƣợc điều chân thực"

(76,128). Có ai cầm bút lại không nhằm đạt tới một chữ "chân". "Chân" là chân thành, chân

tình. "Chân" còn là chân thực, chân thật. Cả hai ý nghĩa của từ "chân" gắn bó với nhau. Tuy

nghĩa đầu nghiêng về chủ thể còn nghĩa sau thì nghiêng về khách thể.

Bàn về mối quan hệ giữa thi ca và đời thực không phải không tồn tại những quan

niệm thô thiển, máy móc. Ví nhƣ trƣờng hợp Lê Thúc Hoạch. Trong lời Tựa tập "Nông sự

toàn đồ", ông cho rằng đây là tập thơ "có ích rộng lắm". Vì sao? Ông viết: "Muốn tìm hiểu

đƣợc rõ ràng và dễ hiểu, xem đƣợc đầu cuối các việc nhà nông... không đâu bằng tập họa và

thơ này" (9,150). Thơ không có chức năng tìm hiểu đầy đủ, cụ thể "đầu cuối" hiện thực. Ngay

cái "rõ ràng", "dễ hiểu" của sự, việc và ngƣời trong thơ cũng không giống với đời thực. Nên

việc đối chiếu hiện thực thi ca với hiện thực đời sống không phải bao giờ cũng đem lại kết

quả mong

92

muốn, vì không phải bao giờ cũng phù hợp với quy luật sáng tạo nghệ thuật.

Cùng viết về tập "Nông sự toàn đồ", nhƣng cái nhìn của Cao Xuân Dục sáng suốt hơn

và vì vậy thuyết phục hơn nhiều. Trong lời Tựa tập thơ, Cao Xuân Dục có thuật lại cuộc đối

thoại giữa ông với ngƣời môn sinh. Vị môn sinh băn khoăn vì tập sách hoặc "chỉ thuật sự

vinh hạnh đƣợc ngƣời biết đến, sự vui theo lẽ trời; hoặc chỉ ca ngợi sự vẹn toàn của danh

tiếng và phúc phận; sự khuyên răn về xử thế, còn về việc nông thì nhiều chỗ không nói đến,

vậy đặt tên sách là "Thoại nông lục", đúng chăng?" (1,149). Cao Xuân Dục đã lấy nghĩa

"minh nông" để trả lời: "Những bài thơ trong tập sách này, từ việc xƣớng họa, ăn uống, đều

từ trong phạm vi bàn về việc nông mà viết ra; ý thái, tinh thần của những bài thơ ấy thu đƣợc

nét bút, lời nói của những bậc văn chƣơng tao nhã lộ ra, bởi vậy gọi là tập thơ bàn về nghề

nông cũng đƣợc; gọi là tập thơ dạy về nghề nông hay tập thơ ra sức làm nghề nông cũng

không có gì không đƣợc" (1, 149). Cái quan trọng trong thơ là ở "ý thái, tinh thần" của hiện

thực "lộ ra" dƣới "nét bút", đâu cứ phải y nhƣ thực, sát đời thực. Đƣợc nhƣ vậy, riêng về giá

trị nhận thức, thơ đã rất có ích cho đời, cho ngƣời, Ở phƣơng diện này, thơ đi gần với họa.

Miên Thẩm viết:

Một ngày kia già tới, không gì thưởng ngoạn

Trong nhà nhìn bức vẽ này hay đâu gặp được cái thần.

(35.1,80)

Có đƣợc cái "thần" trong thơ trong văn, thì ngƣời đọc "tuy không đƣợc dự cuộc chơi...

mà tình tiết của núi sông, thanh u của cảnh sắc, có thể nắm bắt đƣợc ở nơi mặt giấy"

(35.1,242). Có thể dễ nhận thấy sự gần gũi trong quan niệm của ngƣời xƣa với chúng ta ngày

nay.

93

3 - Về nghệ thuật thơ

Với thơ, ngƣời xƣa bao giờ cũng ngƣỡng mộ đến mức "kính nhi viễn chi". Thơ luôn

giữ vị trí danh dự, hàng đầu trong thứ hạng loại thể văn chƣơng thời trung đại. Xem không

khí tôn nghiêm trong bình thơ xƣa thì rõ. Ai cũng thấy mình đang tham dự và chứng kiến thời

khắc thật linh thiêng. Nhất cử nhất động đều cẩn trọng, khẽ khàng nhƣ thƣờng thấy trong các

buổi lễ tôn giáo. Chỉ khác tôn giáo ở đây là thi ca.

Tiếp xúc với tập "Liên đoàn kê thi loại biên", một tác giả vô danh "nghiêm mặt sửa

áo, đốt trầm mở đọc" (35.1,52). Cầm tập thơ "Nam trình liên vịnh ngâm" của thân phụ trên

tay, Ngô Thì Sỷ "đốt hƣơng kính đọc" (35.1,19). Đó cũng là thái độ của Nguyễn Thƣợng

Hiền dành cho thơ hay:

Thắp hương đọc đi đọc lại hai ba lần

(Nam hƣơng thi tập)

Thi nhân đƣợc xem là bậc tao nhân mặc khách có tài "ngọc nhả châu phun, gấm bày

vóc giãi" (Phùng Khắc Khoan, 35.1,16). Đó là loại ngƣời nhƣ ý của Lê Thánh Tông: "Cẩm

tâm tú khẩu điển văn nhân" (Lòng nhƣ gấm, miệng nhƣ vóc, thực đúng là ngƣời coi giữa văn

chƣơng - 20, 333) Lối so sánh thơ với châu ngọc, lụa là đã thành quen thuộc. Đề thơ là "thăm

dò ngọc quý" (Bùi Ngọc Quỷ) là "thêu hổ chạm rồng" (Nguyễn Thứ Phủ). Đó là bởi thơ là

"vật báu" (Ngô Thì Sỷ), cùng với nhạc thơ là "hai điều kỳ tuyệt" ở đời (Miên Trinh).

Ngô Thì Nhậm cũng từng khẳng định: "Ở dƣới trời này, những cái gọi là hoa, là chè,

là khúc, là thơ, có cái gì cao diệu hơn những cái ấy" (76,74). Có lẽ nên coi đây là cách nói

nhằm đƣa thi ca tránh xa mọi thứ "phàm tục" ở đời, "không thể đem mắt tầm thƣờng mà xem,

miệng tầm

94

thƣờng mà nếm đƣợc" (Hoàng Đức Lƣơng). Với ngƣời ƣa thích và am hiểu thì thi ca là một

sản phẩm tinh thần cao quý và kỳ diệu. Lê Thánh Tông cảm kích viết:

"Hùng từ lạn lạn lăng tiêu hán,

Diệu cú dương dương khấp quỷ thần"

(Những lời hùng hồn đến át cả sông Ngân

Những câu kỳ diệu khiến quỵ thần phải khóc)

(20,333)

Thơ không hoàn toàn giống với những trƣớc tác học thuật mà ngƣời xƣa đều gộp

chung vào khái niệm "văn". Nét riêng biệt ấy đƣợc Phan Huy Chú nhận diện khá rành mạch

khi đối chiếu lao động của "học giả" với "thi nhân" , của "nhà trƣớc thuật" với "nhà ca vịnh"

trong lời đề Tựa "Quế đƣờng thi tập" của Lê Quý Đôn. Các "nhà trƣớc thuật", theo ông, "vốn

bắt nguồn từ thể văn kinh Thƣ, Xuân Thu" nên "cô đọng, bao quát, xa rộng, cốt ở tính chất

mực thƣớc và hệ thống". Còn các "nhà ca vịnh" thì lại đƣợc khơi nguồn "từ thể tỵ và hứng ở

Kinh thi, ở nỗi xúc cảm tiếng thở than của Ly tao", nên lấy việc "diễn tả tình cảm đến tột bậc"

và việc "thu lƣợm đƣợc mọi cảnh hay vật lạ" làm chính (76,108).

Xem xét kỷ, đặc thù của thi ca đã manh nha trong đầu óc của nhà bác học Lê Quý

Đôn. Điều 5 (Văn nghệ) có đoạn: "Các sách Trang Tử, Hoài Nam Tử là tổ của văn chƣơng,

Sở từ là tổ của từ phú". Các tác phẩm của Bách gia Chƣ tử là các sách triết học có giá trị văn

chƣơng. Cái hay của chúng là ở tài "nghị luận" (chữ dùng kế theo của Lê Quý Đôn) nghĩa là

khúc chiết, chặt chẽ, sắc sảo, chủ yếu hƣớng tới thuyết phục lý trí của ngƣời đọc. Trong khi

đó, "Sở từ" lại khác hẳn. "Sở từ" là gì? Sở là quê của nhà thơ danh tiếng Khuất Nguyên.

Nƣớc này nằm ở phía Nam Trung

95

Quốc có nền thi ca rất phát triển. Đã từng có hẳn một thuật ngữ "Sở điệu" để chỉ sắc thái

riêng của thơ nƣớc Sở. Còn "từ" không phải là lời nói (nhƣ ngôn từ) cũng không phải là thể

tài thi ca (có loại thơ gọi là từ bắt đầu từ Hán Võ Đế), mà là "lời thơ". Với ý nghĩa loại biệt,

nổi rõ đặc thù của thơ nhƣ vậy mà ngƣời ta lấy "Sở từ" để đặt tên cho tập thơ bao gồm thơ

của Khuất Nguyên và một số nhà thơ đồng thời hay kế tục ông. Cái hay của "Sở từ", theo lời

Lê Quý Đôn, gắn liền với "mỗi câu thơ đều bay bƣớm", giàu hình ảnh, sinh động tới mức

sống động. Vậy là Lê Quý Đôn rất có ý thức khi dùng khái niệm "văn" theo nghĩa hẹp để chỉ

văn chƣơng nhất là để chỉ thi ca.

Trong thi ca nghệ thuật, yếu tố hình thức đƣợc đòi hỏi rất cao. Lê Hữu Kiều cho rằng

thơ phải "linh hoạt" trong "lập ý", "trang nhã" trong "cách điệu", "sắc sảo" trong "đặt câu" và

"có âm hƣởng" khi "dùng từ" (76,55). Đó là đòi hỏi nhiều mặt, khiếm khuyết mặt này không

thể không ảnh hƣởng tới mặt kia.

Vào thời "văn sử bất phân", việc phân biệt giữa thơ và sử là cần thiết và khó khăn hơn

hết. Ở điểm này dễ thấy nét đặc trƣng của thi ca trong quan niệm của ngƣời xƣa. Thơ và sử

cố nhiên có nhiều điểm gần gũi. Chúng đều nhằm mục đích giáo dƣỡng con ngƣời. Cao Xuân

Dục viết: "Thơ và sử đều có ngụ ý khuyên răn" 17.3,152). Chúng cũng đều đem lại nhận thức

về quá khứ cho ngƣời đọc. Nguyễn Mại viết: "Phong dao lại gọi là sử vì muốn nhân phong

dao của dân mà biết sử sách của nƣớc vậy" (76,177). Song thơ rất khác sử. "Tôi thƣờng nghĩ

trong sử không có thơ nhƣng trong thơ có sử. Gọi là Quốc phong, phong là thi, nhƣng Quốc

phong chẳng phải là sử của 15 nƣớc sao?" (Cao Xuân Dục). Đấy dẫu sao cũng là mới nhìn ở

nội dung bề mặt dễ thấy. Đi sâu hơn vào các tập thơ

96

vịnh sử nổi tiếng, Cao Xuân Dục càng có điều kiện phát hiện ra sự khác biệt giữa thơ và sử.

Đánh giá tập thơ "Việt sử tam bách vịnh" của Nhữ Bá Sỷ, ông viết: "Tài liệu chọn lọc, lời văn

cô đúc, ý nghĩa sâu sắc". Ông đã nhìn tập thơ vịnh sử này ở góc độ văn chƣơng hơn là ở góc

độ lịch sử. Đặc biệt đáng chú ý là những đánh giá của ông về tập thơ vịnh sử của Đặng Minh

Khiêm. Ông viết: "Bởi vì ông gửi tinh thần ở trăm ngàn năm trƣớc... khí tƣợng thanh thoát,

cốt cách vững vàng, học vấn thâm thúy, trong bụng chứa đầy văn chƣơng". Rất rõ là ở đây

chỉ còn lại tiêu chí văn chƣơng để xem xét giá trị của tập thơ. Dễ hiểu tại sao trong lời kết

luận Cao Xuân Dục lại viết: "Nếu không đủ tài trí và sở trƣờng thì làm sao đƣợc nhƣ thế? "

(17.3,152).

Do nét riêng biệt của thơ mà ngƣời làm thơ cần phải có tài nghệ. Trong quan niệm của

ngƣời xƣa, tài gắn liền với nghệ. Lê Quý Đôn viết: "Giáo khoa dạy cả Lục nghệ (lễ, nhạc, xạ,

ngự, thƣ, số) trong đó có cả văn sự và vũ bị" (Điều 3 - Văn nghệ). Đó là nếp tƣ duy quen

thuộc của thời trƣớc ở cả phƣơng Đông cũng nhƣ phƣơng Tây. Thi ca có nhiều nét gần gũi

với các nghề thủ công đến mức làm thơ đƣợc coi là "chế tạo" thơ, "sản xuất" thơ. Từ đó nảy

sinh nguồn gốc của các từ Poésis (thi ca) và Poetès (thi nhân) từ Poiéo (tôi làm). Và tên gọi

Ấn Độ cổ nhất của từ "thi pháp" (Kriyakalpa) nghĩa là "sự hiểu biết công việc thi ca". Đặc

biệt ở Pháp thời trung cổ nhà thơ thƣờng tự gọi mình đơn giản là Rimeurs (ngƣời làm những

vần thơ).

Thi ca cũng nhƣ các nghề thủ công khác "nhất nghệ tinh nhất thân vinh". Cao Xuân

Dục viết: Để làm nên "tập thơ điêu luyện... kẻ làm thơ phải có biệt tài, không phải ai cũng

làm nổi" (17.3,152). "Biệt tài" nhằm đáp ứng những đòi hỏi có phần riêng biệt của thi ca.

Nhƣng để bền lâu,

97

ngƣời xƣa còn chú ý đến "thực tài". Phan Huy Ích cho rằng: "Cây có gốc sâu thì càng tốt,

ngƣời có tài thực thì tiếng tốt truyền xa" (76,83). Đƣợc thế, quả không mấy dễ dàng. Đúng

nhƣ nhận thức của Ngô Thì Sỷ: "Tài thơ vốn không phải dễ" (35.1,64). Đó là bởi thơ, thơ hay

vốn không dễ.

Thơ hay không thể thiếu lời hay, vì vậy ngƣời xƣa rất trọng lời trong thơ. Lời cổ

nhiên cần cho cả sử, cả triết. Tác phẩm khoa học cũng lấy ngôn từ làm công cụ diễn đạt tƣ

duy nên sức mạnh của ngôn từ cũng có một ý nghĩa nhất định. Trong mục Thƣ tịch (Điều 24),

Lê Quý Đôn từng so sánh lời của Tuân Tử với lời của Khổng Tử: "Lời nói của Thánh nhân

(chỉ Khổng Tử) thì bằng phẳng. Còn Tuân Tử nói: "Hữu trị nhân, vô trị pháp"... thì thấy hào

khích quá (nghĩa là hăng hái, gay gắt, có giọng kẻ cả quá)".

Tuy nhiên, lời với văn chƣơng nhất là với thi ca lại quan trọng hơn nhiều. Lời cần

"đắc địa", không chỉ đúng mà còn hay. Bùi Ngọc Quỷ bộc bạch: "Khó nhất trong ngôn ngữ

vẫn là lời thơ" (35.1,43). Vậy nên, theo ông, thi nhân phải dụng công rất nhiều, trau chuốt rất

nhiều để luyện nên "thần cú", "thần tự": "Hàng râu nhổ hết, để tìm một chữ đúng nơi"

(35.1,41). Ngƣời đọc thơ vừa đi tìm "ý đẹp" vừa đi tìm "lời hay". Thƣởng thơ, Nguyễn Thứ

Phủ khen: "Lời thơ lại rực rỡ nhƣ hoa xuân" (35.1,127). Lê Quý Đôn thì nhận xét bài thơ của

Lê Đại Hành làm lúc tiễn sứ nhà Tống Lý Giác có "lời rất đẹp" (76,85). Còn với Miên Thẩm,

"tiếng thơ hay" không thể không bao hàm "lời lời sắc nhọn lóe ánh sáng" (35.1,81).

Đề cao vai trò của ngôn từ trong văn chƣơng và nói riêng trong thi ca có ý nghĩa phổ

biến trong lý luận thời trƣớc ở phƣơng Đông cũng nhƣ ở phƣơng Tây. Đọc bất kỳ một công

trình lý luận văn chƣơng nào ta cũng có thể bắt gặp tính thiêng liêng, tính mạnh mẽ của từ khi

đƣợc dùng

98

khéo léo. Có một câu nói nổi tiếng trong kinh Phúc Âm: "Ngôn ngữ đã có trong sự khởi đầu".

Ở Trung Hoa, theo P.Grin Tser, "hoa văn của lời" tái tạo "hoa văn của trời" (105). Vì vậy,

khái niệm văn chƣơng (nhất là thi ca) đƣợc hiểu nhƣ một thứ lời nói đặc biệt có ngôn luật, có

nhịp điệu, nói khác đi, nhƣ một thứ nghệ thuật của ngôn từ. Nhà nghiên cứu Anđrômênhid

viết: "Sự hoàn thiện ngôn từ một cách chu đáo thích hợp với các nhà thơ hơn cả" (110,191).

Từ đây, trong quan niệm của thời cổ, tài năng sáng tạo thi ca đi liền với tài nghệ sử dụng

ngôn từ. Trong tay nhà thơ, ngôn từ nhƣ đƣợc tái sinh, linh hoạt và uyển chuyển: "Ở trong

phép tắc, nhƣng nó lại phải siêu thoát ra ngoài sự vật, mẫu mực mà không gò ép, giản phác

mà không buông tuồng" (Phạm Đình Hổ, 35.1,35). Đó là thứ ngôn từ vừa gần gũi vừa khác lạ

với ngôn ngữ thƣờng ngày. Nói một cách khác, nó đƣợc nâng cao hơn, đƣợc kết tinh thành

"lời thơ tuyệt diệu" (Bùi Ngọc Quỷ). Đúng nhƣ ý kiến sau của Cao Bá Quát: "Lời nói thì bi

tráng, văn viết thì trầm hùng, những cái đó khác nào nhƣ bụi bặm, cám bã mà đã đem hun

đúc thành gạch ngói"(76,150). Từ đất cát thành gạch ngói, quá trình và công sức "hun đúc"

đâu có dễ và ít. Và giá trị cao thấp của thành phẩm tùy thuộc vào công sức nhiều ít đã bỏ ra.

Một vấn đề hệ trọng khi tìm hiểu quan niệm của ngƣời xƣa là yêu cầu về tính bình dị

của ngôn từ thi ca. "Dĩ tự nhiên chi vi mỷ" (Coi tự nhiên là đẹp). Thơ không nên cầu kỳ, khó

hiểu. Ngô Thế Vinh đòi hỏi: "Nghĩa tựa hình chính, hà tất phải kín, văn cần ôn nhã, hà tất

phải sâu" (35.1,217). Đúng là: "Giản vi văn chƣơng tận cảnh" (Lƣu Đại Khôi-49,178). Lê

Quý Đôn thì giải thích câu "từ đạt nhi dĩ hĩ" của Khổng Tử là: "Văn từ cần đạt mà thôi. Đạt

nghĩa là bình dị (dễ hiểu)". Theo Lê Quý

99

Đôn, văn chƣơng trở thành mẫu mực, cổ điển bao giờ cũng giản dị. Trích sách "Giải nan":

"Món ăn quý bao giờ cũng đạm; thanh âm lớn bao giờ cũng thƣa", ông kèm theo lời bình:

"Lời nói ấy rất phải" (8,36).

Nhƣng thế nào là "giản dị'? Với ngƣời xƣa giản dị không cùng nghĩa với sơ sài, giản

lƣợc. Cuộc đời vốn muôn màu muôn vẻ. Phải thể hiện đến "độ" nào đó mới đƣợc coi là đủ là

đầy. Nhữ Bá Sỷ viết: "Điều nên giản lƣợc, dù một lời mà bao quát trăm nghìn dặm cũng

không ngại là thừa, điều nên rõ ràng, dù một việc mà chục câu cũng không hiềm là rộng"

(35.1,151). Nói nhƣ Nguyễn Đức Đạt: "Gọn nhƣng không hổng, rƣờm nhƣng không tắc"

(76,172). Giản dị vậy là còn bao hàm chữ "tinh" của sự điêu luyện bậc thầy. Trong Điều 8

(Văn nghệ), Lê Quý Đôn có dẫn lời của Tô Đông Pha: "Ý hết mà lời văn hết (nghĩa là lời cô

đúc và súc tích)" và lời mở rộng thật chí lý của bản thân: "Nhƣng nếu lời văn hết mà ý vẫn

chƣa hết (nghĩa là hàm súc, dƣ ba) thì lại càng là một bậc cao siêu hơn nữa" (theo cách dịch

của Trần Thanh Mại). Giản dị không hề đồng nhất với đơn giản. Có gì giản dị hơn ánh sáng,

nhƣng trong quang phổ nó lại ánh lên bảy sắc màu huyền diệu. Vậy nên, "sự thuần phác là

điều hiếm thấy" (Lâm Ngữ Đƣờng). Hay nói nhƣ Mai Nghiêu Thần đời Tống :"Duy tạo bình

đạm nan" (49,91).

Đề cao tính phác thực của ngôn từ, ngƣời xƣa xa lạ với thói cầu kỳ, bí hiểm, vì đó chỉ

là nơi trú ngụ của những kẻ bất lực do trống rỗng, do hời hợt. Nguyễn Văn Siêu có lẽ là

ngƣời đã tỏ thái độ gay gắt nhất đối với hạng" ngƣời này. Ông viết: "Lại có kẻ tự biết mình

không đủ làm cho ngƣời phục, bèn tạo ra lối văn kỳ lạ, bí hiểm, quái dị, khác thƣờng, che đậy

vốn học hỏi qua loa, thiển cận của mình" (Tạp chí Văn học, số 4/1976,147). Trần Bá Kiên

cũng từng chê "thơ khuê oán" đã "cố tình làm

100

ra sự trúc trắc khó hiểu" (35.1,60). Thi ca khó là vậy. Ngƣời viết không thể không gia công,

trau chuốt ngôn từ cho thật đẹp, thật sáng, thật sắc. Nhƣng ngôn từ nghệ thuật lại phải thật tự

nhiên nhƣ đƣợc "nói ra" không hề có dấu vết của bàn tay đẽo gọt. Ngƣời tài năng không rơi

vào thô thiển lại cũng không vƣớng vào cầu kỳ. Đúng là "cái khổ nhất của nhà thơ đâu phải

chỉ là cách luật mà thôi" (Ngô Thì Sỷ, 23.1,18). Do vậy, ý của Mạnh Tử mà Miên Trinh nhắc

lại có lẽ luôn là bài học bổ ích cho ngƣời làm thơ ở bất cứ thời nào: "Chớ đem văn hại lời,

chớ đem lời hại ý" (35.1,219) Ấy là bởi, thơ hƣớng tới nhiều mục đích cao quý. Theo Ngô

Thì Nhậm, ngoài việc "giữ tâm có phép tắc", thơ còn giúp con ngƣời "nói lời có văn chƣơng"

(35.1,31). Để đạt mục đích ấy, lời thơ phải hay, phải cuốn hút.

Ngƣời xƣa thƣờng nói "thi trung hữu nhạc". "Thi" gắn liền với "ca" tự trong căn

nguyên khởi phát. Trong sách "Thƣợng thƣ" mục "Nghiêu điển" (theo Quách Mạt Nhƣợc thì

ra đời vào thời Chiến quốc) có ghi rõ: "Thi ngôn chí, ca vĩnh ngôn, thanh y vĩnh, luật hòa

thanh" (thơ để bày tỏ chí hƣớng, đƣợc hát lên là để ngâm vịnh tấm lòng, thanh điệu nhờ vào

ngâm vịnh mà bổng trầm đứt nối, vần luật khiến cho thanh điệu thống nhất hài hòa - 49,364).

ở ta, Phạm Đình Hổ viết: "Nguồn gốc của thơ xuất phát từ ca từ, nguồn gốc ca từ xuất phát từ

thơ, đó là nguyên ủy, hỗ tƣơng của chúng" (35.1,34). Trong "Cẩm nang văn tập", một tác giả

vô danh cũng viết: "Dù thơ ca vốn không phải là thể của nhạc, nhƣng tìm sự hình thành của

nhạc, không gì gần hơn thơ ca" (35.1,165).

Do vậy lời nhạc hay thƣờng giàu chất thơ, còn lời thơ hay lại giàu tính nhạc. Nói nhƣ

Miên Trinh: "Lời nhạc là dòng dõi của thơ, lời thơ là họ hàng của nhạc" (35.1,239). Tính

"hợp điệu" của thơ sao cho dễ ngâm

101

nga, dễ thuận tai luôn là đòi hỏi của ngƣời thƣởng ngoạn, phê bình. Phạm Nguyễn Du đọc thơ

của Bùi Huy Bích đã cảm nhận đƣợc toàn bộ sự "ngân vang, khiến ngƣời đánh nhịp"

(35.1,107). Yêu cầu nhạc điệu không giảm ngay đối với bản dịch thơ. Phạm Đình Hổ nhận

xét về bản dịch "Tỳ bà hành" của Cao Tử Văn Nhi: "Thanh thoát, sống động, uyển chuyển,

có thể lọt tai ngƣời" (35.1,35). Một tài thơ đƣợc ngƣỡng mộ, một tập thơ đƣợc truyền tụng

không thể thiếu "vần điệu réo rắt" làm say cuốn lòng ngƣời.

Một đặc điểm nổi trội khác của lời thơ là tính hình tƣợng. ―Thi trung hữu họa" đi cùng

với "thi trung hữu nhạc" trong quan niệm của cổ nhân. Bức họa giá trị bao giờ cũng sống

động. Miên Thẩm nhìn hình vẽ con hổ trên lầu chùa Linh Sơn sinh động đến mức:

Nơi ngồi thoảng thấy con hổ toan chồm tới

Hai mắt trừng trừng như hai chiếc gương

(35.1,77)

Bài thơ hay cũng phải thật giàu hình ảnh. "Vạn tƣợng sinh hào đoan" (Trần Thái

Tông). Nhữ Bá Sỷ yêu cầu nhà thơ phải "đóng mở biến hóa" thê nào để "tinh thần ý thái của

phong vật núi sông nơi muôn dặm, nhảy múa trên tờ giấy" (35.1,151). Cái chí lý là ở chỗ, ông

chú trọng tới sự "nhảy múa" của "tinh thần ý thái" cảnh vật. Hiện thực đi vào thi ca có tính

khái quát "thấu suốt tim trời", "thâu gọn trục đất" (lời Hồng Nhậm). Muốn vậy, cũng theo

Hồng Nhậm "một câu nói đủ trăm ý tứ" (35.1,95). Nguyễn Tử Thành viết hình ảnh hơn:

"Thập thúy, thu hồng, quy bút để". Đây là đạo chung của nghệ thuật trong đó có thơ và họa.

Một bức vẽ đƣợc gọi là kiệt tác, theo Miên Thẩm, cũng phải làm sao: "Chỉ một thƣớc lụa mà

thu hết nghìn dặm núi khe" (35.1,79). Nói khác

102

di, phải nắm bắt đƣợc cái "thần" của hiện thực. Cái "thần" này chỉ phát lộ ra trong con mắt

những ngƣời thấy nhiều, biết nhiều đến mức "chỉ nếm một miếng thịt, cũng đủ biết mùi của

nó" (Miên Trinh, 23.1,238). Đọc thơ của các bậc thi Tiên, thi Thánh thì rõ. Nhận xét về thơ

cận thể đời Đƣờng, Lê Hữu Kiều viết: "Tự sự, mô tả đƣờng nét bên ngoài mà nổi lên cái thần,

nói một câu có thể tỏ đƣợc trăm ý, xem kỷ lƣỡng có thể biết đƣợc muôn cảnh" (76,55).

Một trong những lý do tồn tại của thi ca là ở chỗ nó nâng cao nhận thức của con ngƣời

nhờ sự chung đúc, kết tinh hiện thực. Ngƣời làm thơ, làm văn cần "ăn hoa hút nhụy" để viết

thành tác phẩm. Lao động của ngƣời nghệ sĩ không giống con kiến, cứ bệ nguyên xi đất cát

của hiện thực về làm tổ. Cần phát hiện ra "cái đặc thù" để tô đậm, để nhấn mạnh. Cái lớn hay

cái nhỏ trong thơ đều không nằm ngoài quy luật sáng tạo chung ấy. Ngô Thế Vinh viết: "Ví

nhƣ lấy tên đất vào thơ ắt phải lấy cái đặc thù của nó" (35.1,147).

Mọi chi tiết đƣa vào tác phẩm đều đƣợc chọn lựa kỷ càng để long lanh sắc màu, lung

linh ánh sáng, sao có thể tùy hứng, tùy tiện cho đƣợc. Muốn thế thi nhân phải giàu tƣởng

tƣởng nghệ thuật: "Còn phải nâng sự tƣởng tƣợng tới chỗ cao xa" (Ninh Tốn - 35.1,28). Theo

nghĩa Latin, thi sĩ là "Vates", tức là một ngƣời có khả năng tiên tri và thấu thị đặc biệt.

Thế nào là tƣởng tƣợng trong thơ? Trần Cao Đệ viết: "Nhân cái này để hình dung cái

kia, không ngại đụng chạm với tƣơng tự mà từ cái này suy ra cái kia" (35.1,233). Hình thái cơ

bản của tƣởng tƣợng là liên tƣởng. Mọi vật đều có cái lý chung. Trong cái nhỏ của một vật có

cái lớn của một loài. Vậy mối liên hệ của muôn vật, muôn loài là hiển nhiên. Ngƣời làm thơ

giỏi là ngƣời phong dật "ngồi một nơi mà sai khiến đƣợc

103

muôn cảnh" (Hồng Nhậm), có thể "vƣợt lên trên nghìn xƣa" và "gửi gắm ngoài mây khói"

(Ngô Thì Nhậm). Trí óc của ngƣời làm thơ tung hoành trong không gian và thời gian, ít chịu

sự gò bó trong một khuôn khổ nhất định. Xích gần những việc, những hiện tƣợng ở những địa

điểm và vào những thời điểm khác nhau bằng những cái tƣơng tự đã thật sự tạo ra hứng thú

thẩm mỷ không nhỏ. Nguyễn Trãi viết :

Có thuở biếng thăm bạn cũ,

Lòng thơ nghìn dặm nguyệt ba canh

(Bảo kính cảnh giới, 32)

Chỉ có những tài năng thi ca hơn ngƣời mới làm nổi. Cao Bá Quát từng khen tác giả

"Yên đài anh ngữ": "Ở quanh cái võng ba thƣớc... lại thấy cảnh sông núi trùng trùng điệp

điệp" (76,156).

Tƣởng tƣợng trong quan niệm của ngƣời xƣa còn là khả năng "thêm thắt" vào những

gì còn thiếu trong đời thực. Không phải mọi điều diễn ra trong thi ca đều "xác thực" theo

nghĩa nhìn thấy nghe thấy đƣợc. Ở đây, cuộc đối thoại trong mơ giữa Vũ Duy Thanh với Đào

Tiềm rất có ý nghĩa mỷ học (35.1,154). Học giả họ Vũ gạn hỏi thi sỷ họ Đào: "Bọn hậu sinh

thƣờng ngày luôn lƣu ý tới văn tự của tiên sinh... nhƣng (một số bài) vẫn bàn bạc xôn xao,

chƣa từng đƣợc giải đáp, mong tiên sinh, hãy khai thông bế tắc cho mọi ngƣời". Nghe vậy,

Đào Tiềm "cả cƣời" nói: "Tôi thƣờng ngày đọc sách không bao giờ đi tới chỗ hiểu nó tới

cùng, làm văn cũng vậy, đó là cái sáo của văn chƣơng, ông chả cần hỏi". Tuy nhiên, Vũ Duy

Thanh vẫn cứ nằng nặc yêu cầu đƣợc giải đáp. Đào Tiềm "xịu mặt" nói, và đây hàm ý của

ông đƣợc bộc lộ: "Tôi đã giải đáp rồi mà ông không hiểu chăng? "Điểu thất" trong kinh Thi,

"Xa quỵ" trong kinh Dịch, "Bỉ

104

phi" của Khuất Nguyên, "Cô dịch" của Trang Tử, ông cho là sự thực chăng?".

"Điểu thất", "Xa quỵ", "Bỉ phi", "Cô dịch" đều là quái vật và thần tiên không có thật

trên đời. Chúng hoàn toàn có quyền đứng trong văn chƣơng, nghệ thuật. Với nhà thơ Italia

thế kỵ XVI T.Taxxô thì vị thần nghệ thuật Apolon "dạy cho tôi những điều chƣa hề xuất hiện

trong suy nghĩ của tôi ngay cả khi tôi chìm ngập trong trầm tƣ mặc tƣởng" (35.3,35). Nhƣng

đây không thể là thứ tƣởng tƣợng viễn vông hoàn toàn vô căn cứ. Lƣu Hiệp khen "Ly tao"

(Khuất Nguyên) rằng : "Tƣởng tƣợng kỳ lạ mà không làm mất tính chân thực, dùng từ hoa lệ

mà không xa rời hiện thực cuộc sống" (49,81). Lê Quý Đôn trong "Vân đài loại ngữ" đã dẫn

ra câu nói của Hàn Tử để phần nào thể hiện quan niệm của mình: "Ngƣời ta ít khi đƣợc xem

voi sống, mà đƣợc xem xƣơng voi chết, trông tranh vẽ có thể tƣởng tƣợng đƣợc voi sống.

Cho nên ngƣời ta khi lấy ý mà tƣởng thƣờng dùng với chữ tƣợng" (8,25). Tự cội nguồn,

nghĩa của từ "tƣởng tƣợng" đã gắn với thực tế. Nói theo cách nói của chúng ta ngày nay, hƣ

cấu phải gắn liền với hiện thực mới là hƣ cấu nghệ thuật, bạn đƣờng của những kiểu mẫu

sáng tạo lớn xƣa nay. Ngƣời xƣa không ƣa thứ văn chƣơng "nói ngoa", "cƣờng giải" (lời của

Hoài Nam Tử). Thi ca cho phép phóng đại, ngoa dụ. Có điều, mọi phóng đại không đúng với

bản chất của đời thực đều xa lạ với các thi nhân học giả xƣa.

Đó là một trong những biểu hiện của tài năng thi ca đích thực. Tài nghệ thi ca còn đi

liền với việc tạo lập nên nét riêng, không lặp lại ngƣời của nhà thơ. Ngô Thế Vinh viết rất

đúng rằng: "Con ngƣời ta quý ở sự tự tin, ví bằng có điều đáng tự tin thì hãy tự tin"

(35.1,218). Đức tự tin rõ ràng bộc lộ thực lực, thực tài của mỗi ngƣời.

105

Ngƣời xƣa không phủ nhận gốc gác của cái riêng từ thực tế khách quan. Đối tƣợng thi

ca muôn màu muôn vẻ, viết về cái da dạng bằng một cách thức, một kiểu dạng là không thể.

Ngô Thì Vị nói: "Qua đây (thơ) mà mai xuân sen hạ, cúc thu tùng đông ngọt ngào riêng vẻ,

cái nào cũng đƣợc xuất hiện đúng lúc, đâu có thể nắm đƣợc mà hạn định nó" (35.1,110). Tốt

nhất là cảm thông với muôn vật muôn loài để cho chúng một dáng vẻ không lặp lại nhau.

Ngƣời xƣa còn nhận ra nét riêng biệt của văn chƣơng gắn với vẻ độc đáo của một vùng, một

địa phƣơng. Hào kiệt không tách rời hùng khí núi sông. Địa linh có vai trò đặc biệt trong việc

sản sinh ra thiên tài. Bùi Huy Bích có lý khi phát hiện ra "văn chƣơng của Nghệ An nhiều

cứng cáp nhƣng ít hoa lệ". Tại sao vậy? Ông giải thích: "Khí chất nhƣ vậy, cho nên phát lộ ra

văn chƣơng cũng nhƣ vậy" (35.1,139). Con ngƣời ở đây ít chú ý đến hoa sức, văn chƣơng ƣa

chất thực là phải.

Nhƣng nét riêng biệt của ngƣời cầm bút có cơ sở chính từ bản thân họ. Ở đây, đụng

chạm phải vấn đề con ngƣời cá nhân trong nền văn chƣơng thời trung đại. Hiện tồn tại hai

khuynh hƣớng có nhiều điểm trái ngƣợc nhau. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng văn chƣơng

trung đại (chủ yếu là thi ca) gạt bỏ cái "tôi", chủ trƣơng "phi ngã". Theo Trần Đình Sử, thì

giáo sƣ Trần Đình Hƣợu quan niệm: "Nho giáo không coi trọng cá nhân, không chú ý nhiều

đến hạnh phúc và tự do cá nhân" (89.3). Giáo sƣ Bùi Duy Tân viết "Để đạt tham vọng giáo

hối tác giả thƣờng nêu bật đạo lý thánh hiền, thu nhỏ cá nhân mình lại...Văn học không cho

phép cá nhân xuất hiện. Ngay cả trong các loại thơ nhƣ "Ngôn chí", 'Tự thuật"... quan niệm

"phi ngã" vẫn thể hiện rõ" (26). Giáo sƣ Lê Chí Dũng cũng cùng quan điểm khi khẳng định

văn chƣơng trung đại "chủ trƣơng

106

phi ngã, ngƣời ta gạt bỏ hài kịch, bi kịch, cái tôi cá nhân ra khỏi thơ văn" (56.2,68). Giáo sƣ

Nguyễn Đăng Mạnh trƣớc sau cũng luôn chủ trƣơng nhƣ vậy. Với quan niệm "ý thức cá nhân

là biểu hiện trình độ tự giác của con ngƣời cá thể về sự tồn tại có ý nghĩa của mình trong đời

sống và thái độ muốn khẳng định ý nghĩa ấy", giáo sƣ đi đến khẳng định: "Thời trung đại, ý

thức cá nhân chƣa phát triển, cá nhân hầu nhƣ muốn hòa tan trong cộng đồng gia trƣởng" (67,

43). Nhìn chung, khuynh hƣớng này thống trị việc đánh giá văn chƣơng trung đại trong thời

gian khá dài.

Vài năm trở lại đây xuất hiện một loạt ý kiến đăng tải trên Tạp chí Văn học, sắc thái,

mức độ có thể khác nhau, nhƣng đều tập trung phân tích cái "tôi" trong nền văn chƣơng thời

trung đại. Đó là các bài nghiên cứu "Vấn đề con ngƣời cá nhân trong văn học cổ - nhìn từ góc

độ lý thuyết" (Số 3/1993) của Nguyễn Hữu Sơn, "Quan niệm về con ngƣời trong thơ thiền Lý

- Trần" ( Số 3/1993) của Đoàn Thị Thu Vân, "Bản ngã và cộng đồng trong và qua nền văn

hóa, văn học việt Nam" (Số 6-1993) của Trần Quốc Vƣợng, "Sáng tác thơ ca thời cổ và sự

thể hiện cái tôi tác giả" (Số 6/1993), "Mối quan hệ giữa cái tôi nhà nho và thực tại trong văn

chƣơng cổ" ( Số 2/1994) của Trần Nho Thìn, "Có những quan niệm về con ngƣời cá nhân của

phƣơng Đông không?" (Số 6/1995) của Huyền Giang, "Thời trung đại - cái tôi trong các học

thuyết, trong đời sống và trong văn học" (Số 7/1995) của Trần Đình Sử...

Giáo sƣ Trần Đình Sử cho rằng nếu thừa nhận ảnh hƣởng sâu rộng của tƣ tƣởng Đạo,

Nho, Phật trong nền văn chƣơng trung đại thì "tam giáo đều chủ trƣơng lý tƣởng phá ngã, vô

ngã, vô kỵ nhƣng không hề là một sự "diệt ngã" tuyệt đối" (89.2). Nhà nghiên cứu Huyền

Giang khẳng

107

định mạnh mẽ hơn: "Ý thức về con ngƣời cá nhân... là một điều hiển nhiên ở phƣơng Đông

hay ở phƣơng Tây, hay ở một chân trời nào khác", đồng thời ông lƣu ý: "Điều quan trọng hơn

nằm ở chỗ khác: không có một quan niệm về con ngƣời cá nhân đồng nhất và thống nhất, mà

có nhiều quan niệm khác nhau, thậm chí trái ngƣợc nhau" (46).

Thật ra, những nhà nghiên cứu gần đây đặt ra vấn đề cá nhân trong văn chƣơng trung

đại cũng không hoàn toàn mới lạ gì. Tƣ tƣởng ―Vị ngã" của Dƣơng Chu đến mức cực đoan.

Nhà triết học cổ đại Trung Quốc thời Chiến quốc này rất đề cao tự do cá nhân, yêu cầu tất cả

phải vì con ngƣời, "bảo toàn bản tính và thiện chân" của con ngƣời. Mạnh Tử đã tóm tắt nhân

sinh quan của ông bằng một câu ngắn ngọn: "Dƣơng Chu chủ vị ngã. Nhổ một sợi lông mà

lợi cho thiên hạ cũng không làm" (46). Nho giáo cũng hết sức coi trọng chữ "kỵ". "Cổ chi học

vị kỵ" (Luận ngữ-Hiến vấn), "Cầu nhân do kỵ" ( Luận ngữ - Nhan Uyên). "Kỵ" là cái riêng,

có nhu cầu đƣợc hiểu biết và cảm thông. Trong các loại ơn, ngƣời quân tử trọng nhất là ơn

"tri ngộ". "Sỷ vị tri kỵ giả tử" (kẻ sỷ sẵn sàng chết cho ngƣời biết mình). Các nhà nho thƣơng

nói đến: tự kỵ, tự tỉnh, tự tại, tự ái, tự túc, tự lạc... Chu Hi bảo "tự khoái túc ƣ kỵ" là vì thế.

Đề cao cái "tôi" cũng không hoàn toàn xa lạ với truyền thống lý luận thi ca Trung

Hoa. Viên Mai khái quát: "Tác thi, bất khả dĩ vô ngã" (làm thơ không thể không có cái tôi).

Nhà lý luận thi ca danh tiếng này tán thành với Khổng Tử là làm ngƣời thì cần "vô cố"

(không cố chấp) và "vô ngã" (không có cái tôi). Riêng làm thơ, theo Viên Mai, trái lại phải

"hữu ngã", thậm chí "trứ ngã" (làm rõ ràng cái tôi) (49,135).

Nhƣng liệu chủ thể sáng tạo thi ca trong văn chương trung đại đã đạt đến mức cá thể

hóa chưa? Thật khó tán đồng với Nguyễn Hữu Sơn

108

khi ông viết: "Với toàn bộ loại hình văn học viết, mặc dù phƣơng thức thể hiện ở từng thời

đại có khác nhau, song đều chịu một sự chi phối chung: vai trò chủ thể sáng tạo đƣợc cá thể

hóa, tác phẩm do chính cá thể viết" (74). Cái tôi trong văn chƣơng cổ có tồn tại nhƣng chƣa

thể vƣơn tới cái tôi đƣợc cá thể hóa với những nét riêng sâu đậm nhƣ sau này. Cái tôi ấy chủ

yếu là cái tôi chức phận, gần với cái ta. Văn thơ phải "đạt ngô tâm" và "thích ngô ý" (đạt lòng

ta, thỏa ý ta). Chữ "nhân" luôn yêu cầu "khắc kỵ" để "phục lễ" (Luận Ngữ). Giáo sƣ Phan

Ngọc có lý khi cho rằng: "Ngƣời Việt không có thói quen tự xem mình là một cá nhân rồi căn

cứ vào quyền lợi cá nhân, trƣớc hết là quyền lợi kinh tế, để xây dựng các quan hệ" (83.2,63).

Cố nhiên "lễ" ở đây không chỉ là những quy tắc ứng xử trong xã hội có tôn ty trật tự mà còn

có ý nghĩa là "thiên lý", đạo trời, lẽ trời. Nhƣng "kỵ" rõ ràng luôn bị ƣớc thúc bởi đạo lý,

không dễ phóng khoáng, càng không dễ buông thả.

Chính thể thời trung đại không mấy thích hợp với đầu óc độc lập, táo bạo. Ở phƣơng

Tây đã thế, ở phƣơng Đông nơi chế độ phong kiến kéo quá dài lại càng nhƣ thế. Chỉ có

những bậc thiên tài mới mong thoát khỏi giới hạn của thời đại trong một mức độ nhất định.

Điều này đƣợc thể hiện khá rõ rệt trong lịch sử văn chƣơng Trung Quốc. I. S. Lisevich nhận

xét: "Đối với tƣ tƣởng văn học truyền thống từ Trung Quốc, cá tính sáng tạo không phải là

một giá trị độc lập" (62.1,240). Chịu ảnh hƣởng lâu dài và sâu sắc nền văn minh Trung Hoa,

Việt Nam thời trung đại khó có điều kiện đi ra ngoài quỷ đạo chung đó.

Song, tạo hóa sinh ra con ngƣời không ai hoàn toàn giống ai, từ hình hài đến nội tâm,

từ thói quen đến sở thích, từ tƣ tƣởng đến tình cảm. Một tác giả vô danh viết: "Nếu nói một

cách sâu hơn, mỗi trái

109

tim của một ngƣời là ngọc trai chói sáng. Nó lặng thinh trong vũ trụ mà bốn phƣơng tám

hƣớng đều xoay quanh nó" (35.1,169). Kể cũng thật sáng suốt và táo bạo khi một quan niệm

nhƣ thế đƣợc nảy sinh trong xã hội phong kiến vốn tìm mọi cách để gọt dũa con ngƣời thành

một kiểu dạng chung để tiện bề cai trị. Vì vậy những bậc thức giả thời trƣớc đã tìm đến văn

chƣơng nhƣ là một lãnh địa hiếm hoi cho phép cái cá nhân nảy nở, cố nhiên vẫn nằm trong

khuôn khổ có giới hạn. Do đặc thù, "kiến thi nhƣ kiến nhân", văn chƣơng yêu cầu cao về tính

độc đáo của sản phẩm sáng tạo. Lê Thánh Tông yêu cầu "văn nhân":

"Cách điệu thanh cao ý tứ tân"

(Cách điệu thanh cao ý tứ mới lạ)

(20,333)

Ngô Thế Vinh ở thế kỵ XIX viết: "Đƣơng khi cầm thẻ (sách vở), văn tự sau trƣớc

không giống nhau" (35.1,218). Văn thơ, với ông, nhƣ "trăm hoa", mỗi loại mỗi vẻ. Không thế

văn chƣơng không có lý do tồn tại trong lòng ngƣời đọc. Một tác giả vô danh cũng đòi hỏi ở

ngƣời cầm bút "nét lạ vút bay", "tạo ý tân kỳ" (35.1,215). Vẻ "tân kỳ" luôn là mong mỏi

chính đáng của ngƣời thƣởng thức đối với thi ca. Chẳng thế mà Trần Bá Kiên đã chê các tác

phẩm viết về nỗi "oán hận" có lúc xuất hiện tới tấp, có lúc thƣa thớt nhƣng chƣa có "sự tân

kỳ" (35.1,61). Trong khi Miên Trinh lại khen thơ của một ngƣời cùng thời là "diệu tứ của tiên

sinh ít ngƣời giống đƣợc" (35.1,97).

Vậy nên, thói "mô phỏng", "bắt chƣớc" là điều tuyệt đối cấm kỳ trong sáng tạo thơ

văn. Ngay thƣ pháp (viết chữ) ngày trƣớc cũng đòi hỏi phải sáng tạo mới đƣợc coi là nghệ

thuật: "Phàm thƣ tƣợng kỳ vi nhân" (phàm chữ cũng giống ngƣời).

110

Đáng tiếc là ở ta do ảnh hƣởng của thứ văn chƣơng cử tử nên nơi này nơi khác, lúc

này lúc kia bệnh rập khuôn chắp nhặt thực tế đã thành căn bệnh khá trầm trọng. Theo Nguyễn

Văn Siêu thì việc "lấy thơ văn của Lý, Đỗ, Hàn, Liễu ra, cố gƣợng ép bắt chƣớc lấy vài ba

chữ" là một trong ba căn bệnh của ngƣời làm văn đƣơng thời (Tạp chí Văn học, Số 4/1976,

146). Cao Bá Quát tán thành ý của Khƣơng Tây Minh khi chế nhạo "thói quen của những

ngƣời say đắm vào thi thoại của các nhà, ăn món ăn của cổ nhân mà không tiêu hóa đƣợc"

(76,152). Ông cƣơng quyết chống lại thứ thơ "mô phỏng quá nhiều mà gân cốt chƣa cao, tô

điểm có khéo nhƣng tinh thần còn thấp" (76,152). Khi việc nào cũng bắt chƣớc chuyện cũ,

câu nào cũng học theo ngƣời xƣa thì loại thi ca ấy phỏng có ích gì?

Trƣớc tác của cổ nhân - những mẫu mực của thời sau, đâu có thế. Họ luôn đi tìm điều

sở đắc riêng trên cái căn bản của mình. Bùi Văn Dị viết: "Các thi gia xƣa nay, ai cũng có sở

trƣờng riêng... Nếu dựa theo nếp cũ, cóp nhặt phép thƣờng, thì chữ và câu dù có hay ho, tinh

thần và ý tứ đã là kém cỏi" (17.1,120). Đấy là các nhà thơ. Theo Ninh Tốn thì ngay cả các

bậc "Thánh hiền thời xƣa, không ai không tìm thấy đƣợc ở nơi mình, cho nên cái gọi là đƣợc

thực là to lớn. Ngƣời sau mất cái mà mình đƣợc, bèn vội vàng tìm nó ở nơi ngƣời, tâm một

ngày một vụng về, mà cái muốn đƣợc, cuối cùng không đƣợc" (35.1,28). Hiểu Khổng Mạnh

nhƣ thế có thể xem là sáng suốt.

Trong nhiều điều hạn chế của Nho gia có không ít cái hay cần suy ngẫm học hỏi. Tuy

cái hay thƣờng chen lẫn với cái dở, sự phân biệt không phải lúc nào cũng dễ. Vì vậy óc độc

lập trong học hỏi ngƣời, ngay cả các bậc Thánh nhân, luôn cần đƣợc đề cao. Ngƣời xƣa từng

111

khuyên nhủ "quân tử hòa nhi bất đồng" thì yêu cầu bản sắc của ngƣời hiền tài đâu có nhỏ. Nó

có cỗi rễ sâu xa từ quan niệm Lý khí của thời xƣa. Nguyễn Văn Siêu viết: "Có lẽ cái khí của

con ngƣời không thể khiến nó quá căng, cũng không thể khiến nó quá lƣớt. Chỉ nên khéo

nuôi dƣỡng nó... khiến nó không mất sự chính trung, lâu ngày sẽ dần dà biến đổi, nên khi

phát ra lời thì phẳng lặng, chân thực mà có sắc thái huy hoàng, vì cũng chỉ tìm nó ở nơi mình

mà thôi" (76,122). Khí mỗi ngƣời mỗi khác. Hãy nƣơng tựa vào bản khí của mình để viết văn

làm thơ. Ngô Thế Vinh thƣờng dặn học trò: "Làm văn làm thơ, ai nấy nên theo cái gì mà

mình nhờ cậy gần nhất, chứ đừng rập khuôn" (35.1, 218).

Từ trong bản thể, thơ là nhƣ vậy. Mỗi bài mỗi vẻ, mỗi ngƣời mỗi vẻ. Nhữ Bá Sỷ quan

niệm thơ là "cái tình điệu riêng của mọi ngƣời" (35.1,231). Còn Đỗ Hạ Xuyên thì cho rằng

làm thơ "để ghi lại sự kiểm nghiệm riêng mình"(35.1,57). Vì lẽ đó, Ngô Thì Sỷ khẳng định:

"Thơ không thể bắt chƣớc đƣợc" (76,62). Đã có lần chính ông không hài lòng với thơ mình

chỉ vì những gì viết ra không mang dấu ấn riêng của bản thân. Trong khi ông đọc thơ hay của

ngƣời khác thì nhận ra bản sắc cá biệt khá rõ:

Riêng thấy bầy chim âu ngày ngày bay tới

Rồi:

Riêng thương đám cỏ thơm thoi thóp bên khe

Hiển nhiên để tạo nên giọng điệu riêng trong nếp cảm nếp nghĩ quả không mấy dễ

dàng. Sức bút phải thật sự dồi dào. Nguyễn Thƣợng Hiền thừa nhận khi viết "bút khô mực dít

thành lối mòn", vì vậy, "nếu không phải tay tài hùng và trí mạnh thì ẩn hiện đâu thể hết thảy

đều

112

nhƣ ý" (35.1,101). Thử thách thật lớn, nhiều mặt và triệt để. Muốn làm nên những áng danh

văn, không có con đƣờng nào khác. Nhữ Bá Sỷ tự nhủ mình: "Sức bút phải nên mới mẻ luôn

luôn" (76,131). Có thể nói đó cũng là tâm niệm chung của những ngƣời cầm bút thực lòng

mong muốn ngòi bút của mình có năng lực "nhập thần". Lê Hữu Trác từng yêu cầu nhà thơ,

nhà văn nên "bắt chƣớc ngay chính tạo hóa" (76,102). Muôn loài, muôn vật đều do tạo hóa

sinh ra nhƣng không loài vật nào hoàn toàn giống nhau. "Con chim thay lông, không thay

giọng hót" (Ngạn ngữ). Văn chƣơng kỳ diệu có, chung đặc tính ấy. Đó là để hƣớng tới cảm

xúc thẩm mỷ của ngƣời đọc. Lê Hữu Kiều xác nhận: "Mỗi khi thấy thơ văn của bạn bè đƣơng

thời, phàm những câu mới lạ, những lời bóng bẩy, không bao giờ là không gõ nhịp ngâm nga

thƣởng thức" (76,56).

Phong cách gắn chặt với tài nghệ. Vậy tài nghệ thi ca là gì? Vai trò của thiên tƣ và sự

rèn luyện ra sao trong việc hình thành tài nghệ thi ca? Những vấn đề hệ trọng này từ lâu đã

đƣợc ngƣời xƣa đặt ra và giải quyết. Phạm Nguyễn Du trong khi khẳng định "thơ là tài nghệ",

đã băn khoăn tự hỏi: "Các bậc hiền triết thời xƣa đầy đủ đạo đức và nhân, nhƣng vẫn có

ngƣời chƣa đầy đủ tài nghệ". Vì sao? Câu hỏi đã đƣa ông tới câu trả lời thỏa đáng: "Vì tài

nghệ phần nhiều nảy sinh từ thiên bẩm chứ không hoàn toàn do học vấn" (35.1,106).

Minh chứng của thiên tƣ mà ngƣời xƣa hay đề cập là do "nếp nhà sẵn có" (Ngô Thì

Sỷ). Đó là cơ sở cho lời giải thích của Phan Huy Ích về sự hình thành của "Ngô gia văn phái"

trong lịch sử văn chƣơng dân tộc: "Nhờ phúc ấm tổ tiên mà dòng văn đời đời nối tiếp, tinh

hoa đầy rẫy

113

trong văn từ... rõ là phong cách của Đại gia, vẻ đẹp mùi thơm mãi mãi ngọt ngào rực rỡ"

(76,83).

Con dòng cháu giống là có thật. Song cái quyết định theo Lê Hy Thƣờng là ở cá nhân

mỗi ngƣời: "Nói chung, Hữu Thƣờng với tƣ chất tự nhiên, lại nhờ đƣợc sự phong quang của

gia tộc, nhƣng ông thờ ơ không có ham muốn gì ngoài ham muốn thơ văn" (35.1,124). Do

vậy để bàn về sự nảy nở của tài thơ, Bùi Huy Bích đã đƣa ra hai yếu tố: Một là "lời di giáo

thực không phải mỏng", và hai là "vốn sẵn là thông minh lanh lợi" (35.1,68).

Nhận thức của ngƣời xƣa vậy là nhất quán. Cũng không có gì mâu thuẫn khi Nguyễn

Đức Đạt trả lời câu hỏi "thế nào là tài?" lại cho rằng: "Tài cũng là của vậy. Kho đụn chứa

không nhiều thì hẹp hòi về ân huệ, bụng dạ chữ không nhiều thì nghèo nàn về lời lẽ"

(76,173). Ngƣời xƣa cho rằng "tài" có nhiều dạng: có thiên tài, có địa tài và có nhân tài. Thơ

bắt nguồn từ tài nhƣng quí nhất ở "toàn tài". Thực tài chỉ có đƣợc nhờ trau dồi, học hỏi. Lê

Hy Thƣờng khái quát: "Nói chung, kẻ sĩ muốn tiến xa hơn trƣớc tiên phải có khí phách và

kiến thức rồi sau mới nói tới tài nghệ" (35.1,125). Thật đủ đầy trong nhận thức của ông. Do

vậy, sở học đƣợc đặt ra là dễ hiểu.

Ngƣời xƣa không thể hình dung nổi tài thơ nếu thiếu sức học. Thậm chí thơ (theo Ngô

Thì Nhậm) là "nơi suy nghiệm, nơi suy cầu cho kẻ sĩ muốn thi hành cái học của họ"

(35.1,31). Chẳng thế mà đọc thơ nghĩa là học thơ có thể giúp cho sự học của ngƣời đời từ

những điều sơ giản nhất tới nhân nghĩa ở cửa Thánh Hiền. Thế rồi làm thơ thành tiêu chuẩn

quan trọng của ngƣời có học, thi ca thành nhu cầu không thể thiếu để bồi bổ trí tuệ. Phùng

Khắc Khoan cứ "mƣời năm

114

làm một quyển (thơ) để xem cái trình tự học hỏi tiến tới của mình" (35.1,17). Và Ngô Thì

Hoàng thì qua tập thơ mới của Hy Lƣợng "so với tám bài "Thiền lâu nhập cách" năm ngoái,

lại tiến thêm một bƣớc, đủ thấy sự học của gia đình" (35.1,37).

Đã vậy thì ngƣời làm thơ phải không ngừng học hỏi ngƣời xƣa cũng nhƣ ngƣời nay.

Nhu cầu học không biết đâu là giới hạn. "Độc thƣ phá vạn quyển - Hạ bút nhƣ hữu thần" (Đỗ

Phủ). Phùng Khắc Khoan viết: "Với cái học thấp kém, cái lời vụng về thì sao đủ đi sâu vào

cách luật kỳ diệu của thơ, và tham dự tao đàn nguyên suy?" (35.1,16). Bản thân cách đặt vấn

đề một cách khẩn thiết đã hé mở phƣơng cách học hỏi cho có hiệu quả. Ngô Cƣơng Mạnh

Đoan nói rõ hơn ý này. Với ông, muốn làm thơ trƣớc tiên phải "biết" đọc sách. Thế nào là

biết đọc? Một là phải ghi nhớ: "đọc sách ghi nhớ thì tinh hoa tự nhiên siêu việt, văn thơ liền

trở thành ngay". Và hai là "phải để tâm vào sách" (35.1,123). Yêu cầu sau của Ngô Cƣơng

Mạnh Đoan đƣợc Phạm Nguyễn Du phát triển sâu hơn. Phạm Nguyễn Du lƣu ý: Sự học của

ngƣời quân tử "ắt phải lấy sự truy cứu tới cùng cái lý và cái tính làm căn bản" (Tạp chí Văn

học, Số 5/1981).

Đạt tới cái tầm đọc sách ấy ngƣời ta sẽ ngộ ra bao điều lý thú và bổ ích. Căn bản là

cái đích của sự học, sự đọc không bị lầm lạc ngay cả khi sự học ngoài đời còn ngổn ngang

bao điều ƣu tƣ. Một tác giả vô danh từng trăn trở: "Cái học làm sáng tỏ cái đức, đổi mới lại

ngƣời dân, lâu rồi không giảng dạy ở đời. Còn nhƣ cái điều giảng dạy ở thời gần đây là điều

chuyên trị văn chƣơng, ứng phó cử nghiệp, để nhòm ngó danh lợi" (35.1,159). Có cái học

nâng đỡ lại có cái học làm tắc rối ngƣời học. Cho nên bản thân ngƣời học phải tự định hƣớng

cho mình.

115

Với ngƣời làm thơ, việc học cũng có những yêu cầu riêng. "Thi hữu biệt tài" (thơ có

thể tài riêng), "thi hữu biệt thú" (thơ có hứng thú riêng - Nghiêm Vũ - 49,215). Công việc của

ngƣời làm thơ làm văn là đọc thơ, văn của ngƣời khác, nhất là những kiệt tác của các bậc đại

gia. Miên Thẩm xác nhận:

Bể Lục (Lục Cơ) sông Phan (Phan Nhạc) vào trong bụng

Nên lời thơ cuồng loạn trào ra không bờ bến

(35.1,86)

Cả Nguyễn Du và Nguyễn Thƣợng Hiền cũng chung một ý nghĩ với Miên Thẩm khi

hƣớng tới thơ thi hào Đỗ Phủ. Nguyễn Du viết:

"Mộng hồn dạ nhập Thiếu Lăng thi"

(Hồn mộng tôi đêm đêm nhập vào thơ Đỗ Thiếu Lăng - 11,255)

Còn Nguyễn Thƣợng Hiền thì viết:

Cả cuộc đời ăn ngủ với ông già họ Đỗ

Nên tung tích cũng áng chừng phù hợp với ông

(35.1,102)

Không có thời xƣa thì không có thời nay. Điều này đặc biệt đúng với thi ca, nghệ

thuật. Bởi, thơ là một nghề. Nhƣ bao nghề khác, làm thơ phải học hỏi và trau dồi kỷ xảo.

Theo Cao Bá Quát phải "mài dũa hàng trăm ngàn lần mới gọi là học, nếu chỉ biết một phần,

hiểu dở chừng, chƣa phải là văn chƣơng" (17.1,117). Làm thơ giống nhƣ ngƣời thợ rèn xƣa

dùng rìu đẽo vết bùn ở mũi mình đến khi vết bùn sạch hết mà không hề sây sát đến mũi. Đó

là lề luật hầu nhƣ không chấp nhận ngoại lệ. Ta hiểu nguyên cớ câu thơ của Quân Bác:

Khách thơ già đời vất vả với câu thơ xuân

(35.1,105)

116

Trƣớc cảnh đẹp mùa xuân, "khách thơ" không thể dửng dƣng. Nhƣng làm những vần

thơ hay tƣơng xứng với vẻ đẹp của mùa xuân đâu có dễ. Không dễ ngay cả với "khách thơ già

đời". Vì thơ là một nghề đặc biệt. Thi luận thơ không nhất thành bất biến. Trên cơ sở thấm

nhuần lề luật chính yếu, ngƣời làm thơ phải biết tung hoành trong cảm hứng sáng tạo tràn

ngập. Nhật nhật tân, hƣu nhật tân. Bất thành luật là loại "thi ma", nhƣng câu lệ vào vần luật

lại là loại "thi nô". Ngƣời làm thơ giỏi phải là "hóa công" tài ba chứ không thể là "họa công"

thấp kém. Phạm Nguyễn Du từng ví việc đua thơ nhƣ đua cờ ở chỗ "biến hóa vô cùng, đã linh

hoạt lại càng linh hoạt" (Tạp chí Văn học, Số 1/1980,153). Mỗi ngƣời làm thơ tùy sở trƣờng

sở đoạn của riêng mình mà thích ứng với sự biến thông không cùng của thi ca. Không hề có

mẫu mực để ngƣời làm thơ bắt chƣớc. Ngô Thì Nhậm viết: "Phép tắc trong thơ là sự bí mật

mà Thánh nhân không truyền thụ, chỉ có thể khế hợp bằng tinh thần, không thể tìm kiếm

bằng trí tuệ" (35.1,29). Đấy là chƣa nói khi cái đích đã đƣợc xác định, và ý tình đã đƣợc tạo

lập thì việc tìm một cách thể hiện sao cho phù hợp và hấp dẫn cũng còn thật khó khăn.

Nguyễn Thƣợng Hiền viết rất đúng rằng:

Trong bụng nảy sinh ra hình dáng cầu vồng vút cao muôn trượng

Khi nói ra lời đã cảm thấy thấp mất ba phần

(35.1,101)

Có thể nói, cuộc vật lộn giữa ý và lời diễn ra trong suốt quá trình sáng tạo. Phải bỏ

nhiều công sức và thời gian mới mong đạt tới cái đích mong muốn. Từ cái khó trăm bề của

công việc làm thơ mà ngƣời xƣa rất cẩn trọng khi dụng bút. Phải "thôi xao", vì "thi bất cải bất

công". Đọc "thi thảo chân tích" của các bậc thi hào xƣa đủ rõ. Ai cũng rất công phu

117

khi trau dồi nghề thơ. Nhữ Bá Sỷ cho rằng học thơ cũng nhƣ học viết "không thể vƣợt bậc".

Trong cách học viết xƣa kia trƣớc tiên phải viết phóng chữ thiếp bằng son, sau viết phóng

chữ thiếp bằng mực, sau nữa để chữ thiếp bên cạnh mà viết theo. Nếu "muốn bỏ viết phóng

bằng son, mà viết phóng bằng mực, chƣa thể viết phóng bằng mực mà viết buông, chƣa biết

viết buông mà tự viết, đó là điều dứt khoát không thể có" (35.1,231). Ai nóng ruột muốn "đốt

cháy giai đoạn" chỉ chuốc lấy thất bại. Mọi thành đạt trong thơ chỉ đến với những ngƣời kiên

trì học hỏi rèn luyện suốt đời.

4 - Về phê bình thơ

Có sáng tác tất có thƣởng thức, hơn thế có những ý kiến bàn bạc, trao đổi về sáng tác.

Cho nên, dầu phê bình văn chƣơng nhƣ một bộ môn tƣơng đối độc lập trong khoa nghiên cứu

văn chƣơng mãi sau này mới ra đời, nhƣng cảm thụ và thẩm định tác phẩm nhƣ một bộ phận

hợp thành của đời sống văn chƣơng thì có thể nói đƣợc nảy sinh cùng với bản thân văn

chƣơng.

Trƣớc hết, phê bình tức là tuyển chọn. Tuyển chọn các bài thơ hay đƣa vào tuyển tập

là một động tác phê bình. Lê Quý Đôn nói rõ 5 "lệ" mà ông tuân thủ khi biên soạn "Toàn Việt

thi lục" (1768). Chỉ qua một tuyển thơ "Trích diễm thi tập", Lê Quý Đôn đã coi tác giả của nó

Hoàng Đức Lƣơng, một ngƣời sự nghiệp không còn truyền lại đầy đủ là một "danh sĩ*'

(5,207). Vậy nên, có thể xem những nhà làm tuyển lớn nhƣ Phan Phu Tiên, Dƣơng Đức

Nhan, Hoàng Đức Lƣơng, Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích,... là những nhà phê bình lớn. Trong

lời Tựa "Hoàng Việt thi tuyển", Bùi Huy Bích viết: "Tố thi nan, tuyển thi vƣu nan" (Làm thơ

khó,

118

tuyển thơ càng khó). "Khó" chính là ở chỗ xem xét, đánh giá. Lƣu Hiệp viết trong "Văn tâm

điêu long": "Thƣ tịch văn học là tinh hoa của đất nƣớc, phải hiểu một cách sâu sắc, cẩn thận

mới thấy hết sự huyền diệu của nó" (Báo Văn nghệ, Số 46/1989). Không phải ai cũng có thể

hiểu "sâu sắc, cẩn thận". Lỗ Tấn sau này từng chế diễu các nhà làm tuyển có "con mắt chỉ to

bằng hạt đỗ xanh", bỏ sót biết bao nhiêu tác phẩm hay. Trong quá khứ, hàng loạt những tuyển

tập nhƣ "Việt âm thi tập", "Tinh tuyển chƣ gia luật thi", ―Trích diễm thi tập", "Toàn Việt thi

lục", "Hoàng Việt thi tuyển"... đã ra đời, truyền đến chúng ta ngày nay những gia tài văn

chƣơng quý giá của ông cha.

Sau đó là công việc phẩm bình. Ngƣời xƣa ý thức rất rõ về vai trò của công việc "bình

duyệt" thơ. Nhiều ý kiến khẳng định một cách trực tiếp. Lời Ngô Thế Vinh trong "Trúc

Đƣờng thi văn tập" là một dẫn chứng điển hình. Nghĩ về mối quan hệ giữa sáng tác và phê

bình, Ngô Thế Vinh liên tƣởng tới mối liên hệ giữa Bào và Chúc. Đó là hai chức quan thời

xƣa "cùng ở nơi lang miếu, cùng cảm cách quỵ thần" nhƣng mỗi ngƣời đảm trách một việc.

"Bào trông coi việc bếp núc, Chúc trông coi việc tế tự". Mỗi ngƣời mỗi phận sự, không ai

thay thế ai đƣợc, tất cả vì công việc chung. Khi một ngƣời trong số họ không làm, hoặc làm

không đến nơi đến chốn thì sẽ ảnh hƣởng trực tiếp tới công việc của ngƣời kia. "Chúc không

làm việc của mình, Bào yên tâm đƣợc chăng? Bào không làm việc của mình, Chúc yên tâm

đƣợc chăng?" (35.1,217). Lối so sánh sát hợp, có cơ sở vững vàng từ thực tế.

Việc phẩm bình một tác phẩm có ý nghĩa định hƣớng đối với thƣởng thức rộng rãi của

ngƣời đọc. Cao Bá Quát từng chỉ trích cái lối "không xét kỷ" của một số kẻ cầm bút khi vội

cho "Hoa tiên" là "lối văn dâm

119

đãng, khúc hát lẳng lơ" là cái thứ phê bình "đáng buồn cƣời biết mấy" (76,150). Vậy mà

không ít ngƣời đã tin và nghe theo. Nếu ai cũng theo lối thƣởng thức "khinh bạc" ấy thì giá trị

của "Hoa tiên" sẽ ra sao? Không thể tùy tiện phóng bút trong bàn luận văn chƣơng. Khi ấy,

tác hại sẽ khôn lƣờng.

Do vậy, sự cẩn trọng, đức khiêm tốn không bao giờ thừa đối với ngƣời thƣởng thơ,

bình thơ. Đọc "Quy điền thi tập", Nguyễn Thứ Phủ đã hơn một lần bày tỏ sự "kính cẩn" của

mình khi đặt bút viết bài "Bạt". Với ông, đây chỉ là một dịp may để "trộm" thể hiện lòng

"ngƣỡng mộ" của mình. Ngƣời làm thơ cũng với một thái độ tƣơng tự. Một tài thơ nhƣ Ngô

Thì Nhậm mà khi gửi những sáng tác mới của mình tới kẻ tri âm bao giờ cũng kèm theo

những lời thật mềm mỏng, nhún nhƣờng: "Mong anh phủ chính" và "bình điểm giúp"

(35.1,237 - 241). Tự thâm tâm ông nghĩ thế, đâu phải lời nói đãi bôi.

Vậy ngƣời xƣa xác định mục đích của việc bình thơ ra sao? Các danh nho thời trƣớc

thƣờng là những bậc đại khoa, đọc nhiều hiểu rộng. Nhƣng với thơ, họ đều chung một tâm

sự: Thật khó đi đến tận cùng nghĩa lý của thơ. Cao Bá Quát thú nhận: "Thơ thật là khó nói"

(76,151). Ngay cả những ngƣời tài trí đƣợc ngƣời cùng thời đề cao nhƣ Phạm Nguyễn Du

cũng không mấy cả quyết khi phẩm bình thơ. Ông nói: "Hay và dở (của thơ) là điều tôi chƣa

thể tự tin" (Tạp chí Văn học, Số 5/1981,158). Thật ra, không riêng gì thơ, văn chƣơng nhìn

chung đều vậy. Những ngƣời có trách nhiệm luận bàn sức nặng càng đè nặng lên vai. Trần

Cao Đệ viết: "Ngƣời viết đã khó, ngƣời đọc lại càng khó... Phƣơng chi vừa đọc lại vừa bình"

(35.1,222). Đúng nhƣ nhận thức của Lƣu Hiệp trong "Văn tâm điêu long": Tri âm thực là khó

thay"! Cái âm

120

thực là khó biết, ngƣời biết thực là khó gặp. Gặp đƣợc ngƣời tri âm nghìn năm mới có một

lần" (85.4).

Điều này cũng phù hợp với lý luận hiện đại về thơ và phê bình thơ. Nguyễn Phan

Cảnh nói đến tính "nhòe về nghĩa" của ngôn từ thi ca (78). Còn với R. Jakobson, thì coi "tính

nhập nhằng" là "một đặc tính nội tại", là "một hệ quả bắt buộc" của thông diệp thi ca (47,28).

Do vậy ông tán thành với W.Empson: "Những phép bộc lộ về tính nƣớc đôi là nằm từ bản

căn của thi ca" (47,28). Với W.Empson, ngôn ngữ thi ca mang tính đa nghĩa. Đó là ƣu thế nội

tại của nó. Do đó, không thể phát hiện thông điệp thi ca đƣợc ngay mà cần phải tái phát hiện

liên tục (61,37). Richards - một nhà phê bình mới của Mỷ thì cho rằng: thơ hay nhất phải

chứa những, xung đột trái ngƣợc và dung hòa chung ở một "độ căng" nào đó (61,39). Trong

tính cực đoan của những ý kiến này không phải không hàm chứa những điều đúng đắn.

Cái khó của cuộc bình thơ vậy là có nguyên do đồng thời từ hai phía, từ tính đa dạng

của thơ và cả từ tính khác biệt của ngƣời thƣởng thơ. Cùng hƣớng tới thơ Huyền Quang

nhƣng hai học giả Ngô Thì Sỷ và Lê Quý Đôn ở thế kỵ XVIII lại có những đánh giá có phần

ngƣợc nhau. Ngô Thì Sỷ lấy thơ để minh chứng cho tƣ cách thiền giả của Huyền Quang,

trong khi Lê Quý Đôn lại cho thơ Huyền Quang "không có khẩu khí của ngƣời tu hành".

Nhƣng khó không có nghĩa là "bất khả tri". Với thơ cùng thời và thơ thời trƣớc đều

vậy. Cái quyết định là đem lòng để cảm hiểu lòng. Nói nhƣ Vũ Duy Thanh: "Nếu đem một

điểm tâm linh soi rọi, thì tinh thần ngàn xƣa xuất hiện ngay đây" (35.1,75). Ông còn nói:

"Nghìn xƣa nguyện đem lòng chiếu rọi" (35.1,75). Ở phƣơng Tây thƣờng coi việc thƣởng

thức văn chƣơng là một loại hoạt động nhận thức. Ở Trung Quốc và Việt

121

Nam, trái lại, xem việc đọc tác phẩm trƣớc tiên là sự trải nghiệm tình cảm của ngƣời sáng

tạo.

Trƣớc hết, phải hiểu "tinh thần" của tác giả bộc lộ qua trang thơ. Hiểu đúng và hiểu

rõ. Từ đó mới có cơ sở xem xét, đánh giá. Một tác giả vô danh viết rất đúng rằng: "Nỗi lòng

ủy khúc của ngƣời xƣa vào mọi lúc thích đáng đều ẩn ở bên trong thơ sách, chỉ nhờ ta tụng

đọc mà thôi" (76,161). Nên đọc thơ đọc văn là cuộc tìm kiếm, phát hiện lâu dài. Mà đích

chính là cái "tâm" của ngƣời viết. Đỗ Tuấn Đại tự hỏi: "Tìm thơ văn ông (Lý Văn Phức) sao

không đi tìm cái tâm của ông?" (35.1,129). Do đó đọc thơ, Nguyễn Thứ Phủ gắng "thấy

lòng", gắng phát hiện ra "cái tinh thần" của ngƣời viết ở dƣới ngôn từ, ở trong vần điệu.

Không phải ngƣời xƣa không chú tâm tới cái hay, cái đẹp về mặt hình thức. Thi ca

khác lời nói thông thƣờng ở hiệu quả cao, ở sức chấn động sâu của lời thơ đƣợc gia công

chọn lọc. Tuy nhiên, nhƣ lời Nguyễn Tƣ Giản xác định: "Không nắm đƣợc tinh thần của tác

giả, thì khó mà phân biệt đƣợc thể cách của tác giả" (76,169).

Cái quyết định trong thơ là dụng tâm của ngƣời viết. Hãy bắt đầu từ đây, rồi mọi giá

trị nghệ thuật sẽ dần dần đƣợc soi tỏ. Còn nếu bắt đầu từ giá trị hình thức thì con đƣờng đi tới

tác phẩm của ngƣời bình thơ, thƣởng thơ sẽ gặp thuận ít mà nghịch nhiều. Thậm chí ngay cả

việc luận bàn thơ cũng có thể trở thành vô nghĩa. Lê Hy Thƣờng cầm tập thơ "đoạn mở ra

xem, thấy nhƣ khua ngọc gõ vàng, lời lời đáng yêu, phong lƣu uyển chuyển, có thừa cái chí

hƣớng của thi nhân. Há chẳng phải ông đã tiến bộ về mặt kỷ xảo? Nếu chỉ vậy e chẳng cần

tôi nói nữa" (35.1,124). Cái hay của lời thơ đâu phải dễ nói. Ngay khi nói đƣợc cái hay của

lời, nói đúng nói đủ, cũng chƣa phải đã đạt tới cái đích chính

122

của việc bình duyệt. Đỗ Hạ Xuyên phân tích rõ hơn điều Lê Hy Thƣờng mới gợi ra bằng sự

phê phán nhẹ nhàng mà sâu sắc: "Tựu trung bỏ ngắn tìm dài, khen nhiều chê ít, mƣợn bút viết

lời, cốt đƣợc lâm ly diễm lệ chứ chƣa rõ đƣợc bản ý của tác giả" (35.1,57). Phải tập trung tâm

trí làm "rõ bản ý của tác giả" nếu không, "chỉ là sự lội qua văn mà thôi" (35.1, 57). Đó cũng

là yêu cầu đầu tiên đối với ngƣời dịch thơ. Phan Huy Ích khi dịch "Chinh phụ ngâm" đã

không khỏi băn khoăn: "Vận luật của văn dịch không sao lột hết tinh túy của nguồn văn". Các

dịch giả có thể chia sẻ nỗi băn khoăn này của ông. Nhƣng Phan Huy Ích đồng thời "tự tin

mình đã suy diễn đƣợc rõ ràng ý của tác giả" (76, 84 - 85).

Nhƣ vậy cơ sở ban đầu để có thể "lột hết tinh túy của nguồn văn" đã có. Song nhận

đúng ra bản ý của thi nhân quả còn nan giải. Nguyễn Cƣ Trinh giãi bày: "Lòng ngƣời là vật

khó lƣờng, phát ra làm thơ, thành ra lời nói, đến nỗi có một chữ mà nghĩ ba năm mới đƣợc,

giảng ngàn năm chƣa xong, vì thế, tôi cho là khó" (17.1,115). Ẩn trong ngôn từ thi ca là tiếng

lòng uẩn súc. Nhà thơ muốn tâm sự cùng ngƣời tri âm tri kỵ đƣơng thời và hậu thế. Hạnh

phúc của ngƣời làm thơ tùy thuộc vào việc cảm thông nỗi lòng của họ nơi ngƣời đọc nhiều

hay ít. Trƣớc kia, có nhà thơ sống suốt đời vẫn không đƣợc hƣởng dẫu chỉ là chút ít nguồn

hạnh phúc quý giá ấy. Họ đành hƣớng tới bạn đọc mai hậu. Nguyễn Du chẳng hạn. Đã có

mấy ngƣời cùng thời cảm hiểu đƣợc lòng ông? Ba trăm năm sau liệu có ai nhỏ những giọt

nƣớc mắt cảm thông lên tác phẩm của ông?

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Vậy thì lời nói trên của Nguyễn Cƣ Trinh không có gì là quá đáng. Đó là nỗi buồn của

những tấn bi kịch giàu ý nghĩa xã hội. Ngay cả niềm

123

vui cũng không hoàn toàn dễ dàng cảm thông đƣợc hết. Đọc thơ, Hà Tông Quyền thành tâm

bộc bạch: "Tôi không đủ phát hiện cái vui của hai ông" (35.1,229). Dẫu là thơ vui hay thơ

buồn, sự xét đoán bao giờ cũng cần tinh tƣờng, thích đáng. Hết sức tránh những lời bàn bạc

mơ hồ, dông dài. Một tác giả vô danh xác định dứt khoát: "Đối với sách, thơ mà không tìm

chứng cớ của nó, thì khó thông với ánh sáng huyền diệu của tắc lòng" (76,62). Đó là bởi,

cũng theo lời tác giả, "lập ngôn" có khi "bất hủ" lại có khi "vô căn cứ", cũng nhƣ "trƣớc

thuật" có khi "mở mang cho kẻ sau" lại có khi "lừa dối ngƣời đọc". Đấy là chƣa nói lắm khi

lời bình chƣa" tới là do sức học chƣa đủ. Vì vậy câu thơ sau của Nguyễn Thƣợng Hiền vẫn

luôn nhắc nhủ ngƣời đọc chúng ta:

Xin đem tập thơ cũ đốt trước làn gió

Dâng lên hỏi trời xanh ai người làm chủ thơ văn?

Và đọc tác phẩm của anh ra sao thế nhỉ?

(35.1,103)

Đủ và đúng trong bình duyệt thơ còn bao hàm sự phát hiện ra những nét riêng biệt của

tác phẩm và của nhà thơ. Vì "văn tự sau trƣớc không giống nhau" (Ngô Thế Vinh, 35.1,218).

ở những đầu óc thông thái của thời trƣớc, bản sắc riêng của thi ca còn đƣợc xem là dấu hiệu

của sự thành dạt, dấu hiệu của văn phong Đại gia. Đọc "Toàn Việt thi lục" của Lê Quý Đôn,

Ngô Thì Nhậm sảng khoái đƣa ra nhận xét:"Tiếng vàng tiếng ngọc, thực có thể gọi là nƣớc

thơ". Rồi ông lƣu ý: "Tựu trung, tìm ra khuôn mẫu văn chƣơng to lớn, đáng gọi là thi gia, thì

chỉ có các ông Thái Lã Đƣờng (tức Thái Thuận, 1440 - ?), Bạch Vân Am (tức Nguyễn Bỉnh

Khiêm, 1491 - 1585). Ngoài ra thật xa vời vắng lặng" (23, 232). Tài năng phải chín đến độ

nào đó mới tạo lập nên phong

124

cách. "Luận thi giả" không thể không chấp nhận mọi phong cách trong lúc dụng bút.

Có ngƣời nghĩ, cuộc đời vốn muôn vẻ, hãy gắng ghi nhận cho thật sát thực, ngòi bút

ắt sẽ độc đáo. Ngô Thì Sỷ không tán đồng với cách nghĩ giản đơn ấy: "Giống nhƣ ngƣời thợ

vẽ truyền thần, thần vốn có thể truyền, nhƣng ngƣời vẽ nó thì lại càng nắm bắt hết đƣợc cái

hình dung của nó" (35.1,110). Bản sắc riêng có đƣợc là do từ cả hai phía, bên trong và bên

ngoài; trong đó cái bên trong mới quyết định.

Thấy đƣợc vai trò của bút pháp, ngƣời xƣa rất có ý thức phát hiện ra những nét riêng

khi thƣởng thơ, bình thơ. Thế gian có phƣơng châm "Tựu sự luận sự" ( đến sự xét sự), thì với

ngƣời phê bình cần phải "Tựu thi luận thi" ( lấy thơ xét thơ). Thơ hay là ở vẻ độc đáo, mới lạ.

Đọc thơ của các bậc nổi danh bên Trung Quốc, Phạm Nguyễn Du viết: "Đào tạm gần với sự

đúng đắn, Khuất hơi quá về bi phẫn, Đỗ hơi thừa về cùng sầu, Lý phóng đãng mà buông thả,

Bạch thất chí mà cao ngạo, Nguyên thì thấp hơn thế" (Tạp chí Văn học, Số 5/1981,158). Cái

"thần" của thơ Đào Tiềm, Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cƣ Dị, Nguyên Chẩn trong

quan niệm của Phạm Nguyễn Du toát lên từ toàn bộ những phẩm chất của nội dung đƣợc biểu

lộ qua hình thức. Phạm Nguyễn Du đã tránh đƣợc cái nhìn duy mỷ, phiến diện khi bàn về

phong cách. Nguyễn Dƣ, bậc tiền bối của ông, cũng đã phôi thai một cách xem xét tƣơng tự:

"Thơ ông Chuyết Am (Lý Tử Tấn) kỳ lạ mà tiêu dao; thơ ông Vu Liêu (Nguyễn Trực) mạnh

mẽ mà kích động; thơ ông Tùng Xuyên (có lẽ là Nguyễn Tử Thành) nhƣ chàng trai xung trận,

có vẻ sấn sổ; thơ ông Cúc Pha (Nguyễn Mộng Tuân) nhƣ cô gái chơi xuân, có vẻ mềm yếu"

(76,42).

125

Việc chú trọng tới cá tính của thi nhân trong bình thơ ở các nhà nho nƣớc ta thật sự

đáng đƣợc đề cao nếu có dịp đối chiếu với lịch sử phê bình Trung Hoa thời phong kiến. Theo

I. S. Lisêvich thì nhìn chung những lời phẩm bình văn chƣơng ở Trung Hoa xƣa kia "mang

tính đƣa đẩy... nhằm phục vụ mục đích chung là bàn qua về văn". Tới nhà phê bình Chung

Vinh "cá tính sáng tạo mới đƣợc ở vào trung tâm chú ý của tác giả và sự miêu tả cá tính đó

mới đƣợc mở rộng và gồm nhiều bình diện" (62.1,236). Rồi nhà nghiên cứu cho rằng, có thể

xem "Thi phẩm" là một trƣờng hợp hiếm hoi "không điển hình cho tƣ tƣởng văn học Trung

Quốc" (62.1,239).

Tìm hiểu về đạo bàn luận thơ thời trƣớc, ta thấy có nhiều điểm gần gũi đồng thời có

nhiều điểm khác biệt thậm chí xa lạ với lối bình thơ ngày nay. Cái chính là do quan niệm về

chức phận của phê bình cơ bản không giống nhau.

Ngƣời xƣa không coi phê bình nhƣ một lãnh vực độc lập với sáng tác, giữ vai trò đặc

biệt trong đời sống văn chƣơng. Bình thơ rất gần với thƣởng thơ, nhằm phát hiện ra cái hay

cái đẹp của tác phẩm là chính. Chủ yếu để cảm hiểu thơ. Trƣớc hết là cảm thông với nỗi lòng

của ngƣời viết ủy thác qua lời thơ. Trần Cao Đệ viết: "Đem những bài thơ đó ra đọc, có nhiều

chỗ chƣa hiểu hết, đọc kỷ mới dám hạ bút, nhƣng vẫn chƣa hiểu hết đƣợc nỗi lòng của tác

giả, đúng nhƣ vậy hay là không đúng?" (35.1,222). Lý Văn Phức cũng viết: "Trong khi đọc

sách, trƣớc hết tự mình phải để mình lĩnh hội ý tứ của ngƣời viết thì khi đọc đến từng câu thơ,

câu văn mới có thể hiểu đƣợc tâm tƣ của tác giả" (17.1,116). Những yếu tố hình thức có đƣợc

"đƣa đẩy" trong các lời bình nhƣ: "chữ chữ tinh vi, khiến ngƣời già đời trong bút mực không

ai không phải khoanh tay"

126

(Nam Sơn Thúc, 35.1,167). Nhƣng hình thức chƣa bao giờ đƣợc xem là nhiệm vụ chính yếu.

Ý kiến của Đỗ Tuấn Đại có thể xem là tiêu biểu: "Còn nhƣ sự tôi luyện của chữ câu, sự tinh

hoa của thanh sắc, tôi vốn quê mùa sao mà biết đƣợc" (35.1,129). Nói là không biết thực ra

chỉ là cách chối từ.

Ngày nay, không thể hiểu nổi chức năng của phê bình nếu thiếu yếu tố "phê". Thời

xƣa có phần khác thế. "Phê" không nhiều vì hầu nhƣ không đƣợc đặt ra. Một tác giả vô danh

tuyên bố: "Ai cấm ngƣời sau không chỉ trích chỗ thiếu chân thực của thơ xƣa, chỗ thiếu căn

cứ của sách xƣa" (76,163). Nói là nói vậy, song thực thi lại khác. Phải thấy tâm lý sùng cổ,

sùng thƣợng, sùng ngoại thống trị suy nghĩ của ngƣời xƣa.

Trên lãnh vực phê bình hiện đại, ngƣời chịu ảnh hƣởng cả mặt "ƣu" lẫn mặt "liệt" của

đạo bàn luận thơ xƣa có lẽ là Hoài Thanh. Bình thơ với ông là cái "nghiệp" rất vui, là "những

chuyến đi say ngƣời và bổ ích". Theo ông, mục đích chính của công việc bình thơ là "cảm

hiểu cái hay cái đẹp của thơ rồi truyền nó cho ngƣời đọc ngƣời nghe". Hoài Thanh rất ít khi

nói đến cái dở. Kể cũng lạ, mấy ai dụng bút lại không có chỗ khiếm khuyết. "Lƣơng công tất

hữu bất xảo" (thợ giỏi tất có chỗ không khéo). Đó là chỗ "bất túc" của Hoài Thanh cũng nhƣ

lối phê bình truyền thống nói chung. Cùng bất đắc dĩ không thể không nói đến cái dở thì với

Hoài Thanh "cũng cốt làm nổi bật cái hay" (81). Có lúc ông đã từng tuyên bố: ngƣời làm thơ

và ngƣời bình thơ đều có chung một mục đích là săn lùng cái đẹp. Sự khác biệt là ở chỗ, nhà

thơ săn lùng cái đẹp ngoài đời, còn nhà phê bình thì săn lùng cái đẹp trong trang sách.

Thời xƣa, thảng hoặc cũng xuất hiện những ngƣời "táo tợn" vƣợt ra ngoài nếp nghĩ

thông thƣờng. Số đó không nhiều. Và thƣờng giới hạn

127

trong thái độ đối với những sáng tác đƣơng thời. Nhữ Bá Sỷ với "Thục khách giải trào" là

một ví dụ. Ông mạnh dạn chỉ ra "ba điều đáng lấy" "bảy điều đáng bàn". Còn nếu có điểm gì

cần "phủ chính" thì thƣờng cả ngƣời viết lẫn ngƣời đọc cùng nhau luận bàn nhằm "bồi bổ cho

nhau để đi tới chỗ cực vui" (Ngô Thì Hoàng - 76,80).

"Phê" theo đúng nghĩa họa chăng chỉ có khi giữa ngƣời viết và ngƣời đọc tồn tại sự

đối lập về tƣ tƣởng. Lời lẽ hiển nhiên thƣờng gay gắt. Chẳng hạn trƣờng hợp Phạm Đình Toái

với "Phan Trần", ông thẳng thừng viết: "Chuyện Phan Trần" phần nào trang nhã nhƣng đều là

lời trăng gió không thể dạy đời, phƣờng quân tử áo mũ thẹn khi đọc đến" (76,181). Đứng trên

lập trƣờng đạo lý phong kiến bảo thủ để lên án ―Phan Trần", Phạm Đình Toái khó tránh khỏi

thiên lệch. Sự phê phán của ông quả không mấy thuyết phục. Khăng khăng bảo vệ quan điểm

của mình, ngƣời ta dễ quên điểm khả thủ của ngƣời, và khó tránh khỏi bị lầm lạc.

Điều này không loại trừ ngay cả những bậc Đại nho trí lự hơn ngƣời. Ngô Thì Nhậm

từng dựa vào tƣ tƣởng Khổng Mạnh để phê phán tƣ tƣởng Lão Trang bộc lộ qua thơ của Trần

Tử (có thể là Trần Danh Án): "Thánh hiền đi không về", nhƣng có bao giờ đi đâu? Sự nghiệp

của Thánh hiền ta phải nghĩ sao để nối tiếp" (23,193). Theo Ngô Thì Nhậm, ngay cả thầy dạy

của Trần Tử là Phạm Nguyễn Du, văn chƣơng cũng còn nhiều điểm quá khích: "Nhƣ thuyền

không lái, ngựa bất kham, khí khách sắc sảo, lời lẽ hùng hồn, nhƣng không có cốt cách vững

chắc. Cho nên khí chất và tâm tính cũng thế. Gọi là kẻ sĩ giỏi văn thì đƣợc, chứ gọi là kẻ sĩ

"bác văn ƣớc lễ" thì không đƣợc" (23,192). Câu "bác văn ƣớc lễ" rút ra từ Luận ngữ (Thiên

Ung' Dã), đƣợc Ngô Thì Nhậm xem là chuẩn mực

128

tƣ tƣởng trong đánh giá văn chƣơng. Cũng nhƣ sau đó, ông dùng lời Khổng Tử để chê Trần

Tử là kẻ "cuồng giản". Ta không trách cứ ý thức hệ ở một con ngƣời. Tuy nhiên ta đề cao ý

thức hệ tiến bộ vì nó là công cụ tƣ duy sắc bén giúp ta tiếp cận với chân lý khoa học và nghệ

thuật.

Một trong những đặc điểm nổi bật của lối phê bình xƣa là cách viết rất văn hoa nghĩa

là rất chải chuốt và giàu hình ảnh. Dƣờng nhƣ ngƣời viết ý thức rằng mình cũng đang làm

"văn", làm nghệ thuật. Phải suy đi tính lại trƣớc khi hạ bút không chỉ để ý sâu mà còn để lời

đẹp. "Bình" phải hay mới tƣơng xứng với đối tƣợng vốn là một trong những thứ "kỳ tuyệt" ở

đời. Hãy nghe lời bình thơ Bùi Huy Bích của Phạm Nguyễn Du: "Còn nhƣ sự đạm bạc bộc lộ

làm anh hoa, sự chân thực biểu hiện làm tinh túy, sắc vẻ nhƣ chim phƣợng, ngát thoảng nhƣ

hoa lan" (35.1,107). Nhƣ văn sáng tác, phép so sánh nghệ thuật đƣợc sử dụng khá phổ biến,

chân xác và gợi cảm. Còn đây là lời bình không kém hấp dẫn của Ngô Thì Nhậm: "Có văn

chƣơng nhƣ gấm thêu, có văn chƣơng nhƣ vải tơ. Nhƣng những ngƣời văn chƣơng nhƣ gấm

thêu thì bóng bẩy, những ngƣời văn chƣơng nhƣ vải tơ thì quê quệch... Đạt đến chỗ gấm thêu

mà không lả lƣớt, vải tơ mà không thô cứng thì chỉ có tập Tinh sà kỵ hành" (76,75-76). Thêm

một minh chứng cho nhận xét bình thơ rất gần với thƣởng thơ. Phát hiện cái đẹp của đối

tƣợng đi cùng với lối diễn đạt đẹp, hấp dẫn. Chúng ta nhớ đến nhà phê bình Hoài Thanh.

Những bài phê bình hay của ông là bằng chứng về vẻ đẹp của chính lời bình. Nói cách khác,

tác giả "Thi nhân Việt Nam" đã nâng phê bình lên thành nghệ thuật, thứ nghệ thuật phê bình.

Rõ ràng, nhà phê bình Hoài Thanh là ngƣời quán triệt tinh thần của lối bình thơ xƣa hơn cả.

ông còn chịu ảnh hƣởng của nghệ thuật phê bình phƣơng Tây chủ yếu là Pháp.

129

Cũng dễ nhận thấy lối bình xƣa đƣợc viết rất ngắn gọn. Đây là lời bình của Miên

Trinh: "Lấy đề tài vừa tinh vừa khéo và rộng rãi bao la; suy nghĩ thấu đáo dạt dào; âm vận hài

hòa". Ông đồng thời giải thích phong cách bình của mình: "Tôi không tán bằng những lời phù

phiếm, chỉ nói thật sự việc đến một chừng mực nhất định. Tôi chỉ mong đánh giá cho đúng

đắn không thiên tƣ, không quá khen ngợi, có thể đặt niềm tin với đời nay mà cũng còn để cho

đời sau có thể thay thế đƣợc lời nói ấy của mình" (76,167). Viết không "phù phiếm" mà có

"chừng mực", vậy dài dòng mà làm gì?

Không dài dòng còn vì ngày trƣớc thiên về lối bình tổng thể. Đây có thể xem là đặc

thù của lối bình phẩm thơ phƣơng Đông thời trung đại. Sau này, vào những năm 60, 70 của

thế kỉ XX, ở Pháp nổi lên trào lƣu Phê bình Mới. Một trong những đặc điểm chung của các

khuynh hƣớng Phê bình Mới, theo PTS Lộc Phƣơng Thủy, là "kiểu phê bình tổng thể" nhằm

"cùng một lúc hiểu thấu tác phẩm trong sự phụ thuộc lẫn nhau và quan hệ tƣơng hỗ giữa bộ

phận và toàn thể, giữa từng đoạn, từng câu, thậm chí từng từ của tác phẩm và ý nghĩa chung

của tác phẩm" (61,30). Rõ ràng, khuynh hƣớng Phê bình Mới nghiêng về các yếu tố hình

thức. Không phải ngẫu nhiên mà phần lớn các nhà phê bình theo trào lƣu này lại tìm đến

phƣơng pháp của cấu trúc luận.

Lối phê bình tổng thể ở Việt Nam và Á đông trƣớc đây lại khác: nghiêng về nội dung

hơn thế nghiêng về chủ thể. I. S. Lisevich đƣa ra nhận định sau về lối phê bình của Chung

Vinh: "Thể hiện một sự cảm thụ chỉnh thể về một nhân cách nhà thơ nhất định" (62.1,238).

Và các lời bình thƣờng ngắn. Ngƣời bình đôi khi chỉ hạ một câu, thậm chí một từ thật bao

quát. Nguyễn Tƣ Giản đã nâng lên thành bốn phạm trù cốt

130

yếu là "thần", "khí", "thể", "cách" để luận bàn về thơ. Nam Sơn Thúc thì dùng một chữ "khí"

để bình thơ Lê Thánh Tông: ―Trọng sự gọt lời chuốt câu lại mang cái khí tiên phong đạo cốt"

(35.1,166). Thƣởng thơ theo họ không nên quá cụ thể, rạch ròi. Nói theo Xuân Diệu sau này:

"Ai đem phân tích một mùi hƣơng". Vả chăng, đi tới tận cùng của thơ là không thể. Trong

mơ, một lần Đào Tiềm nói với Vũ Duy Thanh: "Tôi thƣờng đọc sách không bao giờ đi tới

chỗ hiểu nó tới cùng, làm văn cũng vậy đó là cái sáo của văn chƣơng" (35.1,154). Thơ với

ngƣời xƣa chủ yếu là gợi. Ngƣời đọc hãy bằng những gì sẵn có trọng lòng mình để đến. Vậy

bình thơ tốt nhất là nói lên những ấn tƣợng chung bao trùm.

Tuy nhiên, nguyên do chính yếu của lối bình thiên về tổng thể là bởi thơ là một chỉnh

thể bao gồm nhiều yếu tố hòa hợp, không tách rời. Cũng nhƣ muôn vật muôn loài, học thuyết

âm dƣơng ngũ hành chi phối tới thơ. Thƣởng thơ, bình thơ cũng phải tuân theo luật âm

dƣơng. Ngô Thì Hoàng xác định dứt khoát: "Nói chung sự sáng tạo của trời đất chỉ âm và

dƣơng, sau trƣớc tuần hoàn, cái trƣớc qua đi thì cái sau nối tiếp, chƣa từng một giây gián

đoạn, cho nên có cái huyền diệu của sự nảy nở không cùng" (35.1,37). Có dƣơng ắt có âm,

hơn thế trong dƣơng có âm, trong âm có dƣơng. Muôn vật đều vậy. Thi ca, văn chƣơng cũng

vậy. Chữ "hòa" đƣợc lƣu ý trong bình văn bình thơ xuất phát từ đó.

Lớn nhất là sự hài hòa giữa ý và lời, giữa nội dung và hình thức. Nguyễn Đức Đạt

viết: "Tình lý chứa chan mà văn chƣơng dạt dào, đó là ngọc quý của buồng văn". Theo ông,

đấy là bởi: "văn chƣơng là cơ bắp của tình lý, tình lý là xƣơng cốt của văn chƣơng" (76,173).

Ở đây, lối diễn giải quan hệ giữa nội dung và hình thức theo tƣơng quan chỉnh thể. Còn một

lối diễn giải khác theo tƣơng quan nhân quả. Đỗ Hạ Xuyên viết:

131

"Không có cảnh thì đâu có tình, không có tình thì đâu có lời không có lời thì đâu có thơ"

(35.1,235). Ta thấy vừa có ý vừa có lời vừa có nội dung hiện thực vừa có nội dung tình cảm

đƣợc đặt theo trình tự trƣớc sau phù hợp với quá trình sáng tạo.

Sau đó là sự hài hòa của từng yếu tố. Bình về sự hài hòa của nội dung "Hoa tiên", Cao

Bá Quát đánh giá: "Nói lý thì rành mạch không bế tắc; nói thế thì tất lắt léo nhƣng vẫn ở

trong đạo thƣờng" (76,149). Còn đây là lời bình nghiêng về hình thức của Lý Tử Tấn: "Lời

trung hậu và thoát tục, khí cao khoát mà ôn hòa" (76,24).

Lối tƣ duy, biện giải kiểu này có thể nhận thấy trong nhiều thi thoại Trung Quốc thời

trung cổ. Chẳng hạn Thích Hiệu Nhiên đời Đƣờng đặt ra "Lục chí" với những nội dung sau:

1. Chí hiểm nhi bất tích (rất hiểm mà không xa xôi quạnh vắng).

2. Chí kỳ nhi bất sai (rất lạ mà không sai lầm).

3. Chí giản nhi tự nhiên (rất giản dị mà tự nhiên).

4. Chí khổ nhi vô tích (rất khắc khổ mà không hình tích).

5. Chí cận nhi ý viễn (rất gần mà ý xa).

6. Chí phóng nhi bất vu (rất phóng khoáng mà không vu khoát).

(7,249)

Làm thơ khó vì nhiều lẽ. Sự bảo đảm cái "độ" để không mất cân đối, hài hòa có lẽ là

một trong những thử thách lớn nhất. Đúng nhƣ ý kiến của Lý Tử Tấn: "Muốn thơ cổ kính,

thanh đạm sẽ gần dung tục, muốn thơ giàu đẹp sẽ gần hoa hòe. Hào phóng sẽ đi đến quá trớn,

mộc mạc sẽ tới chỗ quê mùa" (76,23). Bàn luận mà phát hiện ra sự hài hòa, có chừng mực

của nhiều yếu tố, nhiều yêu cầu làm nên giá trị của tác phẩm là đã đạt đến chỗ tinh tƣờng

không dễ gì có đƣợc.

132

Vậy điều kiện để có những lời bình thơ hay ra sao? Sáng tạo nên những vần thơ hay

đƣợc nhiều ngƣời thừa nhận thật không mấy dễ dàng. Ngay những bậc danh nho đầu óc thông

thái hơn ngƣời cũng không dám xem thƣờng ngƣời làm thơ. Phẩm bình cố nhiên phải có khen

có chê. Khen, chê cũng đặt ra cả với thƣởng ngoạn. Có sản phẩm nào hoàn thiện tới mức

không còn những sơ sót, khuyết tật? Song khen chê thì dễ, làm mới khó. Lê Hữu Trác và Bùi

Huy Bích cùng xác nhận sự thật này. Lê Hữu Trác viết: "Nói thì dễ nhƣng làm lại khó"

(76,101). Còn Bùi Huy Bích thì nói: "Hay làm đâu dễ hơn hay nói" (35.1,66). Ở phƣơng diện

khác, ý kiến sau của Trần Cao Đệ không phải không có cơ sở: "Ngƣời viết đã khó ngƣời đọc

lại càng khó... Phƣơng chi kẻ vừa đọc lại vừa bình, liệu có đúng nhƣ vậy chăng?" (35.1,222).

Trần Cao Đệ luôn nói tới sự đọc đúng, sự bình hay. Đòi hỏi đâu ít và thấp. Cái khó của bình

duyệt thơ là thế.

Để có những lời bình thuyết phục, ngƣời xƣa cho rằng cần lấy lòng để cảm hiểu lòng.

Đọc thơ là chuyện "ý hợp tâm đầu" (Lƣơng Khê), là duyên "bèo nƣớc gặp nhau" (Đỗ Tuấn

Đại). Cần có "con mắt xanh" giao cảm giữa ngƣời viết và ngƣời bình. Cả Bùi Dƣơng Lịch lẫn

Trúc đào Chủ nhân Tôn Hành Thị đều dùng hình ảnh sát thực này khi bàn về điều kiện của

việc thƣởng thơ, bình thơ. Hết thảy đều chỉ một mong mỏi "hiểu lòng nhau", "thƣơng tài

nhau", bởi lẽ "kẻ sĩ quý ở chỗ hiểu lòng nhau mà thôi" (35.1,132). Không cảm thông đƣợc

với nhau sẽ không cảm hiểu đƣợc thi ca. Đó là lẽ cơ bản, bất di bất dịch. "Tôi - Trần Cao Đệ

viết - ý niệm thiết tha nên hiểu đƣợc Hàn, tâm tƣ nồng cháy nên trông chờ ở Lý" (35.1,234).

Ông còn nói phê bình là "bình duyệt" nhƣng quan trọng là "tâm cùng nhau gặp gỡ... chứ nói

gì tới duyệt và không duyệt" (35. 1, 223).

133

Cái lẽ cơ bản này của đạo bàn luận gắn liền với điển cổ quen thuộc về Bá Nha và Tử

Kỳ. "Tri âm" có từ đấy và luôn đƣợc nhắc đến khi bàn về mối quan hệ giữa sáng tác và cảm

thụ, phê bình. Thời trƣớc và thời nay cũng vậy, ngƣời sáng tác rất khó tìm đƣợc kẻ "tri âm".

Đƣờng Tăng đời Đƣờng có câu:

An năng đắc hoàng kim

Chú tác Chung Tử Kỳ

(Sao có đƣợc vàng

Mà đúc làm Chung Tử Kỳ) .

Dựa vào ý thơ này, trong bài thơ "Đề Bá Nha cổ cầm đồ" (Đề bức họa Bá Nha đánh

đàn cầm), Nguyễn Trãi viết: "Chung Kỳ bất tác chú kim nan" (Không làm đƣợc Chung Tử

Kỳ vì đúc vàng khó - 15,300). Vì vậy, nói đến "tri âm", Ngô Thì Sỷ cho là điều "may mắn",

"còn nhƣ nhắc chi ly đối với cái nhỏ nhoi của chữ nghĩa, cùng là tìm quẩn dẫn quanh... đó

không phải là điều mong muốn của tôi" (35.1,20). Cũng có thể nói, đấy không chỉ là mong

muốn của riêng Ngô Thì Sỷ đối với việc bình thơ. Ngô Thì Nhậm viết rất tâm đắc rằng: "Chỗ

thần diệu (của thơ) là cốt ở tấm lòng để hiểu lòng mà thôi. Bởi vậy nếu tâm hồn và tâm hồn

gần nhau, thì tất có cơ sở để nƣơng tựa" (76,74). Có nơi "nƣơng tựa", lời bình sẽ dễ thấu lý

đạt tình.

Sự cảm thông giúp ngƣời đọc "tƣởng nhƣ chính mình bƣớc chân đến tận nơi ấy" để

rồi "các bậc Thánh hiền hào kiệt cùng đi lại với ta và thành bạn tri kỵ cả" (Cao Bá Quát -

76,157). Đấy là đối với cảnh và ngƣời trong thơ. Còn với cái tình của thi nhân? Một tác giả

vô danh viết: "Đặt mình vào hoàn cảnh của họ... thì nhƣ đích thân nghe thấy tiếng dặng ho

của họ" (76,161). Đấy là cái mà ngày nay ta gọi là "nhập thân".

134

Để tạo nên những trang sống động, ngƣời viết phải "hóa thân" còn để tạo nên những trang

bình sát thực, ngƣời đọc phải "nhập thân". Tƣơng tự, không chỉ nhà thơ mái cần "hứng" để

sáng tạo. Hứng cần cả cho ngƣời bàn luận thơ. Miên Thẩm viết:

Khi hứng tới một mình dạo bước ngoài cửa Nam thành

Cùng tôi bàn thơ như duyên xưa hò hẹn

(35.1,81)

Đó là chỗ khác biệt chính yếu của phê bình thi ca - một sản phẩm tinh thần đặc thù,

với việc đánh giá các sản vật khác. Đã có những bài học phản diện. Phạm Nguyễn Du từng

giận Hoàng Phác "lƣợng hẹp hòi" mà "tình đơn độc". Kết cục thật đáng trách: "Tình đơn độc

cho nên không thể dung nổi ngƣời xƣa; lƣợng hẹp hòi nên gặp ai là "mục hạ vô nhân"" (Tạp

chí Văn học, Số 1/1980,152). Đây là căn bệnh trầm kha của không ít kẻ làm thơ làm văn.

"Văn nhân coi rẻ lẫn nhau, từ xƣa vẫn thế" (Trần Cao Đệ, 35.1,222). Bên cạnh tâm lý "trọng

mình rẻ ngƣời" là tâm lý "quý xƣa rẻ nay". Miên Trinh thẳng thắn phê phán: "Thơ của ngƣời

đời nay không bằng xƣa, việc làm ngƣời đời nay lại càng chẳng bằng xƣa, phải chăng đấy là

trọng xa khinh gần... Tại sao lại cho rằng thơ nay không bằng thơ xƣa" (76,164 - 165).

Cần thoát ra khỏi lối mòn chật hẹp từng ngáng trở ngƣời đọc đến với những vần thơ

bay bổng, để rồi có thể sống tràn ngập trong cảm xúc buồn vui do tác phẩm văn chƣơng đem

lại. Một tác giả vô danh yêu cầu: "Đọc thơ nên có một phép tắc nhất định" (35.1, 53). Phép

tắc của đọc thơ phải phù hợp với phép tắc của làm thơ. Mà sáng tạo là "khạc máu làm câu, xé

lòng làm chữ" (Phạm Nguyễn Du), "hoặc kêu hoặc gào, hoặc ca hoặc khóc" (Ngô Thì Sỷ).

Do vậy, tác giả vô danh nọ kết luận: "Thơ làm

135

rung động con ngƣời là nhƣ vậy đó. Ngƣời xƣa sành đọc thơ cũng nhƣ vậy đó" (35.1,54).

"Sành đọc thơ" cần nhƣ Quân Bác:

Vỗ án khen tài bởi những câu làm kinh động lòng người

(35.1,105)

Cũng nhƣ Nguyễn Văn Lý đọc xong "Cao Chu Thần thi tập" thì "ngồi ngây nhƣ dại

(35.1,71) và nhƣ Phạm Nguyễn Du đọc "Tập thơ nỗi nhớ buồn đằng đẵng" "nhƣ thấy ông (chỉ

tác giả) đang khóc gào nức nở, vỗ ngực dậm chân, nhƣ thấy ông đang cƣời nói miên man, ôn

tồn âu yếm, nhƣ thấy ông đang trải qua cái ngày gƣơng vỡ" (Tạp chí Văn học, Số 1/1981,

151).

Quy luật cảm thụ văn chƣơng là thế: Từ cảm thông đến rung động, càng rung động

càng tăng cảm thông. Tuy nhiên, bình thơ không đơn thuần là hoạt động cảm tính. Nguyễn

Văn Siêu viết: "Học vấn còn nông cạn nên những lời thu nhập không đƣợc xác đáng. Thu

nhập không đƣợc xác đáng thì sự nắm vững không đƣợc chuyên nhất. Sự nắm vững không

đƣợc chuyên nhất thì lời ngƣời luận không tinh" (Tạp chí Văn học, Số 1/1976,146). Với

Nguyễn Văn Siêu , "nghị luận" thi ca cũng là một nghề đòi hỏi sự "chuyên nhất". Đã là một

nghề thì phải trau dồi, học hỏi. Mà thi pháp lại là một lãnh vực nan giải. Một đầu óc uyên

thâm nhƣ Bùi Huy Bích, với thơ, vẫn luôn cảm thấy "mờ mịt" do "chƣa từng đi vào nghiền

ngẫm dùi mài" (35.1,67). Rèn luyện có khi không đến đích, nhƣng muốn tới đích lại không

thể không rèn luyện.

Một khi đã có sở trƣờng nhờ sở học thì cái quyết định lại là ý thức và thái độ của

ngƣời nghị luận. Trƣớc hết cần đọc cho kỷ, nghĩ cho sâu. Không thể "gãi ngứa qua giày",

"cƣỡi ngựa xem đèn", vì theo Trần Cao Đệ: "nhƣ vậy là chuốc lấy cái cƣời của ngƣời đọc

rộng" (35.1,223). Ông

136

còn nhắc lại câu nói của cổ nhân để củng cố lại quan niệm của bản thân: "Kẻ đọc sách của

ngƣời xƣa, xem một lƣợt là xong, tức là phủ nhận áng văn hay" (35.1,222). Với thơ ngƣời

xƣa thì kẻ bình duyệt dễ sơ sài còn với thơ đƣơng thời thì lại dễ tán tụng vô căn cứ. Nguyễn

Văn Siêu đã cảnh tỉnh: "Đƣợc nửa vế, một câu nghe đƣợc, đã đề cao nhau, lại tâng bốc rằng:

"Tiếc cho đời nay không có thấy". Dù thầy Khổng thầy Mạnh bây giờ có sống lại đi nữa,

phỏng có ích gì cho bọn ấy?" (Tạp chí Văn học, Số 4/1976,146). Nên nhớ, những ngƣời cầm

bút có lƣơng tri cũng sẽ cảm thấy hổ thẹn khi đọc những lời tán tụng quá đáng thơ mình. Ví

nhƣ Miên Trinh. Ông đã "bất giác thẹn thùng" khi đọc lời bình "hết ý khen ngợi" từ khúc của

mình do Tử Dụ viết. ông "đoán là Tử Dụ quá yêu... nên tạm thêm lời bình luận" (35.1,220 -

221). Những lời bàn luận kiểu ấy không có lợi chỉ có hại. May là ngƣời làm thơ đã không đến

mức tự mãn. Gặp những nhà thơ ƣa nghe những lời phỉnh nịnh thì cái hại của những lời bình

kiểu đó thật không lƣờng. Nhƣng muốn cho lời nghị luận có chừng có mực thì lòng ngƣời

phải sáng. Bùi Huy Bích rất có lý khi viết rằng:

Chưa bàn tới sự chê khen đúng đắn sau tấm thân này

Hãy hỏi xem sự phải trái rõ ràng ngay nơi trong dạ

(35.1,66)

Cuối cùng rồi lại trở về với cái "tâm" của ngƣời viết phê bình. Lòng phải sáng, tâm

phải thuần nhất - đó là bí quyết của những lời phẩm bình thấm thía xƣa nay.

137

CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA QUAN NIỆM THƠ CỔ

VIỆT NAM

Chúng tôi đã nhìn lại một cách tƣơng đối toàn diện và có hệ thống quan niệm thi ca

của. Cha ông thời trƣớc. Từ chỗ đứng và tầm nhìn hôm nay, có thể nhận ra những điểm đặc

sắc trong lối bàn luận về thơ của ngƣời xƣa và nhất là mặt hạn chế của thi luận cổ Việt Nam.

Ở một mặt nào đó, lối nói, cách diễn đạt đặc sắc của cổ nhân cũng góp phần tạo nên

sức mạnh riêng cho những lời bàn luận về thơ. Nhà thơ quá cố Hoàng Trung Thông nhận xét:

"Những ý những lời, những câu văn tƣởng chúng ta có thể viết ra dễ dàng mà chính cả một

cuộc đời tích lũy lại mới viết ra đƣợc" (35.1,13). Quả suy ngẫm sâu, dùng lời ít là đặc điểm

nổi bật của các ý kiến bàn về thơ xƣa kia. Do vậy lời nói của họ có xu hƣớng khái quát, súc

tích mà thấm thía. Chẳng hạn, bàn về quan hệ giữa thi ca và đạo đức, Đỗ Hạ Xuyên viết:

"Thơ đúng là sự chối bỏ sự bất thiện lúc nhàn cƣ" (35.1,236). Chỉ một câu, ông đã nêu bật lên

bản chất của thi ca chân chính, xác đáng và sâu xa. Còn đây là ý kiến của một tác giả vô danh

về thơ và họa: "Thơ mà vẽ ảnh vẽ thanh, thật đúng nhƣ hƣ nhƣ thực; thơ hoặc theo vang theo

bóng, cũng là nên đạm nên nồng. Nét lạ vút bay, hứng đọng dƣới nơi nét bút; tình cao gọi

dậy, thần truyền ở tại nơi này" (35. 1, 215). Để tránh phiến diện, viết lời này, tác giả nghĩ đến

ý kia, suy nghĩ hài hòa trong lời văn uyển chuyển. Đó cũng là thói quen dụng bút của ngƣời

138

Á Đông thƣờng làm nhiều hơn nói, lúc không thể im lặng thì nói ít và nói ngắn. Họ không ƣa

tƣ biện hoặc lý luận dài dòng. Tào Phi tác giả của "Điển luận" nổi tiếng đƣợc coi là cha đẻ

của phê bình Trung Quốc, đôi khi đƣa ra lời bình chỉ gói gọn trong bốn chữ. Lƣu Hiệp thì hầu

nhƣ dành cả đời mình để viết một tác phẩm có thể coi là duy nhất - "Văn tâm điêu long", ở ta,

tác giả bài Tựa "Liên đàn kê thi loại biên" có lý khi cho rằng: "Thi giáo ở Hạnh Đàn (nơi dạy

học của Khổng Tử) chỉ một lời là bao trùm tất cả" (35.1,53).

Điều này có gốc gác từ kinh điển Nho gia. Kinh Dịch có câu: "Thƣ, không thể nói hết

lời, lời không thể nói hết ý". Nếu vậy tốt nhất là gợi, đâu cứ nhiều lời mới hay. Do đó, sự cô

đúc của lời bàn về thơ đi liền với một đặc điểm khác nổi bật không kém: cách viết ý vị, giàu

hình ảnh. Trả lời câu hỏi về văn và chất, Nguyễn Đức Đạt nói: "Chất nhƣ cây, văn nhƣ hoa.

Nghìn trƣợng xù xì, khó bề làm cho tốt đẹp; muôn hoa sặc sỡ khó bề làm cho cứng cáp"

(76,174). Ngƣời đọc dễ dàng đón đƣợc ý ngƣời viết, lại khó quên, ấy là do cách viết. Còn đây

là ý kiến của một tác giả vô danh về sự hoàn thiện của bài thơ: "Tạo ý tân kỳ, viết lời thuần

hậu. Nhã đạm nhƣ nƣớc kia trong mát; hùng hồn nhƣ sóng nọ tuôn trào. Chữ chữ hào quang

rực tỏa, đua cùng năm sắc ráng mây; lời lời gấm vóc chói lòa, đoạt hẳn ba xuân hoa liễu"

(35.1,215). Rõ ràng, không chỉ bình thơ ngƣời xƣa mới có ý "làm văn", bàn luận về thơ cũng

là một cách Llàm văn". Ý đúng đi kèm với lời hay dƣờng nhƣ là cái đích vƣơn tới của các

trƣớc tác thời trƣớc.

Từ chỗ đứng hiện đại, ta đồng thời có điều kiện nhận ra những hạn chế tất yếu của di

sản lý luận thơ cổ. Những điểm hạn chế ấy là gì? và do đâu?

139

Văn chƣơng thời trung đại đƣợc đặt trên nền tảng ý thức hệ phong kiến chủ yếu là tƣ

tƣởng Nho gia. Các thi nhân và học giả xƣa học chữ Nho đồng thời hanh xử theo đạo Nho.

Học chữ Nho, chữ của Thánh Hiền, trƣớc hết là học Tam cƣơng Ngũ thƣờng. "Tiên học lễ,

hậu học văn", dạy một chữ, một câu tức là dạy một điều đạo nghĩa. Đó là thứ "văn kiến đạo

lý" chứa trong Tứ thƣ Ngũ kinh - những sách kinh điển của nhà nho. Sự học nhƣ vậy khó

tránh khỏi từ chƣơng, vu khoát.

Cần thấy khuynh hƣớng tự chủ trong học hỏi cổ nhân quán xuyến trong suy nghĩ,

hành động của không ít đầu óc tiến bộ thời trƣớc. Muốn biết đạo, thiên đạo và nhân đạo, phải

dốc sức mà học. Cao Bá Quát tâm niệm: phải "mài dũa hàng trăm hàng ngàn lần mới gọi là

học". Ông chối bỏ việc học sơ sài chỉ "biết một phần, hiểu dở chừng" (17.1). Nhƣng hình nhƣ

trong việc học, cố công trau dồi vẫn chƣa đủ. Lê Quí Đôn viết : "Đọc sách nên xem đƣợc chỗ

thần tình" (Điều 7 - Văn nghệ). Phạm Nguyễn Du thì nói: "Sự học của ngƣời quân tử ắt phải

lấy sự truy cứu tới cùng cái lý và cái tính làm căn bản" (Tạp chí Văn học, số 5/1981). Tuy

"truy cứu tới cùng" lý và tính cũng chỉ mới tránh đƣợc cái tệ của bọn mạt học. Theo Phạm

Văn Nghị, từ "vỡ lý" phải "đƣa tới cái dụng" mới không rơi vào căn bệnh trầm kha của thứ

hủ nho (76,168). Loại bỏ cái thô, tìm ra cái tinh, đến đƣợc cái dụng, tức là đã "thần hóa".

Tuy thói chuộng hƣ văn, nhất là thói bảo thủ cố chấp có thể xem là đặc điểm nổi bật

của học phong thời trƣớc. Giáo sƣ Đỗ Văn Hỵ nhận xét rất đúng rằng: "Chỉ có những gì

thuộc về quá khứ xa xăm mới là cái đẹp lý tƣởng, mọi cá tính và hành vi canh tân đều bị coi

nhƣ là những cái trái với đạo thƣờng" (35.3,85). Trục xƣa - nay thành trục đối chiếu đúng -

sai, hay - dở, đẹp - xấu. Nguyễn Dƣ viết: "Thơ ngƣời xƣa, lấy hùng hồn

140

làm gốc, bình đạm làm khéo, câu tuy ngắn nhƣng ý thì dài lời tuy gần nhƣng nghĩa lại xa.

Thơ đời nay lại khác: hễ không có giọng đong đƣa tất có giọng mỉa mai... bày chuyện đặt

điều, không còn cách nào mà không tệ hơn nữa" (76,42). Thơ hƣớng tới xƣa, những gì vốn

đƣợc định hình trong lời nói mẫu mực, hoàn hảo của những ngƣời đƣợc tôn danh thành các

bậc hiền nhân thánh trí, hoặc thi thánh thi tiên. Nếu có gì khác lạ cũng chỉ là chuyện thêm

thắt, tô đậm vào những cái đã có. "Tiến bộ, phát triển không phải là những khái niệm của

phƣơng Đông" thời trung đại (Phan Ngọc, 83.2,80). Ngô Thì Sỷ xem thơ của tác giả "Mỷ

Đình thi thập" là "hồn hậu", đã "trấn áp đƣợc lối phù phiếm", có thể làm lành mạnh thêm khí

thơ của Đỗ Phủ, khơi sâu thêm nguồn thơ của Đào Tiềm" (76,64). Với Ngô Thì Sỷ cũng nhƣ

với nhiều nhà nho xƣa, tên tuổi của những Đào Tiềm, Lý Bạch, Đỗ Phủ... là "xuất quần chi

tài" (tài năng xuất chúng) đã tạo ra những tác phẩm "thiên hạ chi chí văn" (văn chƣơng hay

nhất thiên hạ). Càng học họ càng thấy tƣ tƣởng họ cao sâu, văn phong của họ siêu việt, và do

vậy mà càng thấm thía. Đúng là: "Ngƣỡng chi di cao, toàn chi di kiên" (càng trông lên càng

thấy cao, càng soi dục càng thấy rắn). Những cái lớn dễ tạo lập phong cách đại gia phải học

các bậc tiền bối đã đành, ngay nhƣ cái nhỏ nhặt thuộc về kỷ xảo nghề thơ cũng không rời

ngƣời xƣa một bƣớc. Doãn Uẩn xác định: "Đối với sự tinh tế của cách luật, sự âm vang của

vần luật... phải tìm nó nơi ngƣời xƣa" (35.1,116).

Cần học hỏi các thế hệ đi trƣớc. Ngƣời đời sau lớn bởi "biết đứng trên vai" của các

bậc tiền nhân. Có thể tán đồng với Phạm Nguyễn Du: "Ta chƣa từng nghe kỳ lân thời nay

đánh kỳ lân thời xƣa. Ta chƣa từng nghe chim phƣợng ngày nay đánh chim phƣợng ngày

xƣa". Và theo ông,

141

"kẻ tốt trong đời giống nhƣ kỳ lân và chim phƣợng" vậy (Tạp chí Văn học, Số 1/1980). Tƣ

tƣởng của Phạm Nguyễn Du rất gần với tƣ tƣởng của Lê Quí Đôn: "Dù cho tài tử tốt đẹp hơn

cả mọi ngƣời trong cùng một thời đại, cũng không ra ngoài ranh giới, phên dậu của tiền bối"

(Điều 33 -Văn nghệ). Ngƣời ta không đánh mất mình trong hiện tại là bởi luôn nhận thấy

mình trong dĩ vãng. Nói theo nhà thơ Mêhicô nổi tiếng Octavio Paz thì "cái hiện đại phá vỡ

quá khứ tức thời chỉ là để giữ lại cái quá khứ ngàn năm" (82,47).

Tuy nhiên óc sùng cổ gắn với óc sùng thƣợng thì ta không thể chấp nhận. Tiền nhân

không phải bao giờ cũng đúng và việc gì cũng đúng. Sách xƣa không chứa đựng chỉ những

chân lý vĩnh hằng. Chính Mạnh Tử cũng từng tuyên bố: "Tin tất cả Kinh Thƣ, thì không bằng

không có Kinh Thƣ, đối với thiên Vũ thành, ta chỉ lấy có hai, ba mảnh mà thôi (Tận tâm, Hạ -

42.1,34). Tiếc là ngay cả những bộ óc sáng suốt thời trƣớc cũng chƣa hẳn lúc nào cũng thoát

khỏi vòng cƣơng tỏa của tƣ tƣởng nệ cổ. Điều này có thể thấy trong lịch sử Trung Quốc nơi

ngƣời Việt xƣa thƣờng ngƣỡng vọng. Lục Cơ, tác giả của luận điểm "lời thơ phải đẹp đẽ trau

chuốt" cụ thể hóa luận điểm ít nhiều còn chung chung của Tào Phi trƣớc đó "thi phú cần phải

đẹp", nghĩa là một ngƣời tỏ ra khá am tƣờng đặc thù thi ca, vậy mà khi bàn về tiền đề sáng

tạo văn chƣơng lại hạ bút viết: "Di tình chí vu điển phần" (di dƣỡng tình cảm và chí hƣớng

biểu hiện trong điển phần). "Điển phần" nói đây chính là sách kinh điển của học phái Nho

gia.

Từ đó tất nảy ra tính qui phạm nghiêm ngặt trong sáng tạo thi ca. Thậm chí có thể gọi

các nguyên lý mỷ học thời trung đại là "thiết môn hạn" (hạn chế trong cửa sắt). Theo "Pháp

thƣ yếu lục", thiền sƣ Trí Vĩnh

142

nhà Trần đời Nam triều, để không cho ngƣời đến chùa cầu kinh điển đi từ phía trƣớc lại, bƣớc

qua bậu cửa nơi mình trụ trì là chùa Vĩnh Hân sƣ bèn dùng thanh sắt khóa lại (49,34-35).

Vùng thoát ra khỏi "thiết môn hạn" là khó nếu không muốn nói là không thể. Và hiển nhiên

những quy phạm xuất phát trƣớc tiên từ lời của Đức Khổng Tử.

Phải nói, quan niệm hứng, quan, quần, oán của ông có nhiều mặt tiến bộ. Ông cũng đã

phần nào chú ý đến đặc thù thẩm mỷ của nghệ thuật khi yêu cầu: "Lời văn phải khéo" (Lễ

Ký), cũng nhƣ khi tuyên bố: "Lời không văn vẻ, không truyền xa đƣợc". Tuy nhiên phải thấy

tƣ tƣởng của ông (trong đó có tƣ tƣởng mỷ học ) thấm nhuần ý thức củng cố và bảo vệ nền

tảng của tầng lớp thống trị. Ông đòi hỏi văn chƣơng, nghệ thuật cần phải giúp "thờ cha" "thờ

vua", đề cao trung hiếu vốn là hạt nhân của Ngũ luân. Ngay khi Khổng Tử chê "Trịnh thanh

dâm" (dân ca nƣớc Trịnh dâm) hoặc khen "Thi tam bách" bằng một câu bao trùm "tƣ vô tà"

(tƣ tƣởng không tà dâm), thì dâm hay tà đều lấy chuẩn mực từ đạo lý phong kiến. Từ đó đƣa

tới việc đề cao hết mực chức năng giáo dục, đúng hơn là giáo huấn, giáo hóa của văn chƣơng,

nghệ thuật. Thi ca phải "vi hữu dụng", phải thật sự hữu ích cho con ngƣời, cho xã hội nhƣng

trƣớc tiên là cho thể chế phong kiến. Thi ca trở thành một trong những phƣơng tiện đắc lợi

cho việc truyền bá đạo lý, giáo dƣỡng phẩm hạnh, chỉnh đốn nhân tâm mà mục đích tối

thƣợng đồng thời là mục đích cuối cùng là "trị dân" để thiên hạ thái bình, trăm dân no đủ, làm

cho "ôn hòa tràn ngập, bốn mùa đều xuân" (Lê Thánh Tông - Văn Nhân).

Cái gọi là thơ "ngôn chí", suy cho cùng là thơ "tải đạo", khác xa với thứ thơ "duyên

tình" ( bày tỏ tình cảm). Ngôn từ thuộc về "lễ", và dùng ngôn từ là một hình thức thực hành

"nghi lễ". Bị quyết định chặt chẽ bởi

143

tầm nhìn thời đại, một ngƣời có đầu óc xuất chúng nhƣ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không

ngần ngại tuyên ngôn: "Lấy điều chí thiện làm tiêu chuẩn tuyệt đối" (87,52). Một chủ trƣơng

thái quá nhƣ vậy tất sẽ đƣa đến việc xem nhẹ đặc thù thẩm mỷ của thi ca.

Di hại của việc tuyệt đối hóa chức năng giáo hóa của nghệ thuật còn kéo dài mãi về

sau, ở Trung Quốc cũng nhƣ ở Việt Nam. Giáo sƣ Lê Huy Tiêu có nhận xét sau về tình trạng

lý luận, phê bình Trung Quốc: "Xƣa nay trong các sách lý luận văn học Trung Quốc, ngƣời ta

coi trọng chức năng giáo dục mà coi nhẹ giá trị thẩm mỷ" (58). Còn về hiện trạng lý luận, phê

bình Việt Nam thì giáo sƣ Bùi Duy Tân viết: "Văn chƣơng đƣợc nhận thức dƣới giác độ luân

lý đạo đức hơn là dƣới giác độ thẩm mỷ học" (26). Trong khi, nói gì thì nói, thi ca trƣớc hết

cũng phải là thi ca. Thơ không thoát ly, không tách rời chính trị và đạo đức. Nhƣng thơ thể

hiện chính - trị và đạo đức theo cách riêng của mình. Có nhƣ vậy, đời mới cần đến nghệ

thuật. Lẽ tồn tại của thi ca là ở đó. I.Rixtốs cho rằng: "Thơ mở rộng và nâng cao tâm hồn con

ngƣời. Thơ giáo dục con ngƣời cảm giác về cái đẹp. Bởi vậy, suy cho cùng, thơ chính là hành

động xã hội với ý nghĩa xã hội rộng rãi nhất của chữ này" (99).

Do quan niệm chật hẹp, phiến diện và nghiêm khắc mà nói là lệch lạc ấy mà một số

học giả xƣa đã đồng nhất đức với tài, tƣ tƣởng với hành động, thế giới quan với sáng tác. Ngô

Thế Vinh quả quyết: "Những ngƣời có tài, có đức, hành động của họ là sự nghiệp, lời lẽ của

họ là văn chƣơng" (17.1). Hiển nhiên "thi phẩm xuất vu nhân phẩm" (phẩm chất thơ bắt

nguồn từ phẩm chất ngƣời) nên "độc kỳ thi nhƣ kiến kỳ nhân" (đọc thơ ngƣời nhƣ thấy chính

ngƣời ấy), nhƣng cái gọi là "nhân" trong những trƣờng hợp này nên hiểu theo nghĩa rộng. Và

ngay khi "nhân"

144

hàm nghĩa rộng đi nữa thì "nhân phẩm" cũng không hoàn toàn chi phối có tính quyết định tái

"văn phẩm", "thi phẩm".

Thơ, văn có "thú riêng", có "thể riêng" (Hàn Dù). Đức lớn có cơ làm nên tài lớn.

Nhƣng tài lớn còn đƣợc xây dựng trên những nhân tố khác nữa, kể cả những nhân tố thần

diệu trời phú. Đó là lý do Pablo Neruda viết: "Cả trời đất lẫn quỵ dữ đều không thể đƣa ra

một công thức nên viết thơ nhƣ thế nào" (99). Thơ có định luật riêng mà sự ngẫu nhiên có vai

trò không nhỏ trong việc hình thành tài năng nghệ thuật. Do vậy, lời của Lê Hữu Kiều sau

đây không hoàn toàn thỏa mãn chúng ta: "Duy cổ nhân tính tình chân thật, khoáng đạt, cho

nên... tình và cảnh đều thấu đáo, thơ nhƣ thế thật là trác việt, không thể theo kịp đƣợc"

(76,55).

Rõ ràng, con ngƣời làm thơ trong thời trung đại luôn coi chức phận xã hội là thiêng

liêng, luôn lấy việc phụng sự đạo lý làm mục đích tối thƣợng. Thi ca không phải đều đƣợc

viết theo sự thôi thúc tự nhiên của tình cảm mà chủ yếu theo sự cần thiết của quan hệ, của

cƣơng vị, không thể thoái thác. Thi ca đƣợc dùng làm công cụ có sức mạnh riêng thực hiện

xác tín của tâm, chí, đạo hơn là một thứ nghệ thuật linh diệu. Loại văn nhân thi sỷ hiển đạt

luôn "vụ đạo", "hành đạo" nảy sinh từ đây. Trên đại thể, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,

Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu... đều gần gũi nhau ở điểm này. Văn thơ

là một bộ phận cấu thành sự nghiệp và tài năng của họ.

Loại nghệ sỷ ấy đặc biệt hữu dụng khi vấn đề tồn tại hay không tồn tại của quốc gia

đƣợc khẩn thiết đặt ra. Lúc đó, "thi ngôn chí" thành "thơ bày tỏ lý tƣởng" cứu nƣớc cứu dân.

Ngòi bút là "đao bút phải dùng tài đã vẹn" (Nguyễn Trãi). Vì vậy, "văn chƣơng mƣu lƣợc gắn

liền với sự nghiệp kinh bang tế thế" (lời của sử thần Phan Huy Chú đánh giá Nguyễn Trãi).

145

Sự lựa chọn nhƣ vậy là đúng đắn. Nhà thơ Chế Lan Viên có lý khi đặt giả thiết: "Giá

nhƣ cha ông ta đời Lý, đời Trần đã sáng tác nên cả một nền văn chƣơng "lời lời châu ngọc,

hàng hàng gấm thêu" nhƣng lại để thua trận và mất nƣớc, thì con cháu ngày nay sẽ chọn lựa

di sản nào hơn?" (93.2). Ta hiểu vì sao chính Chế Lan Viên - Thi sĩ đã yêu cầu :"Hãy đặt

ngƣời trồng hoa sau ngƣời trồng lúa - Đặt những bài thơ thiên tài về Điên Biên sau những

Điên Biên", và Chế Lan Viên - Nhà phê bình đã khẳng định: "Ngƣời ta thích một số thi sĩ nào

đầu tiên là vì cái lý tƣởng, cái khuynh hƣớng của anh ta" (46). Khi vận nƣớc ngàn cân treo

trên sợi tóc (ở nƣớc ta bốn ngàn năm lịch sử đã có tới một ngàn hai trăm năm phải đánh giặc),

trƣớc mọi chuyện phải đặt lẽ tồn vong của dân tộc lên hàng đầu. "Quốc gia hƣng vong, thất

phu hữu trách". Phải đánh và thắng giặc ngoại bang bằng mọi vũ khí có thể kể cả văn

chƣơng, nghệ thuật. Chất văn có thể thuyên giảm, xếp ở sau chót, cũng không sao. Gìn giữ

đƣợc độc lập dân tộc, thống nhất non sông, lúc ấy nghĩ đến việc trau dồi nghệ thuật cũng

không muộn. Phải thấy, đây là ƣu thế nổi trội của quan niệm thi ca chính thông.

Tiếc rằng quan niệm ấy ngự trị ngay cả lúc vấn đề độc lập dân tộc, thống nhất đất

nƣớc đã cơ bản đƣợc giải quyết xong, tạo nên sự đơn điệu nghèo nàn trong đời sống thi ca,

trạng thái mà giáo sƣ Lê Chí Dũng gọi là nền văn chƣơng "đơn thanh điệu" (56.2). Một nền

thi ca thịnh đạt phải phong phú về nội dung, đa dạng về phong cách. "Văn" là đẹp, và cái đẹp

từ ngàn xƣa đã dung chứa sự dồi dào, cả sự phồn tạp nữa. Trong "Dịch truyện", mục "Hệ từ

hạ" có viết: "Văn tƣơng tạp, cố viết văn" (sự vật giao thoa đan dệt rất phức tạp với nhau, nên

gọi là văn). Sử Bá, nhà tƣ tƣởng cuối đời Tây Chu nói: "Thanh nhất vô thính, vật nhất vô văn,

146

vị nhất vô quả" (thanh âm đơn nhất không nghe đƣợc, vật đơn nhất không văn vẻ, vị đơn nhất

không hiệu quả). Cái gì hay đẹp ngon thì ngƣời Trung Quốc và Việt Nam đều hình dung

trƣớc bằng số từ: ngũ thanh, ngũ sắc, ngũ vị...

Nguyên tắc chung đã trói buộc mọi nhà thơ, nhà văn bất kể là sáng tác văn chƣơng cử

nghiệp hay tự do, quan phƣơng hay tƣ tác. Hệ quả tất yếu là kìm hãm sức sáng tạo, hạn chế

sự phát triển của phong cách cá nhân. Sáng tác phải tuân thủ những kiểu mẫu thành khuôn

cứng sẵn có. Từ thể tài, đề tài đến thi liệu, ngôn từ. Đề tài trở đi trở lại thành sáo mòn, nào:

mai, lan, cúc, trúc; ngƣ, tiều, canh, mục; nào: tự thuật, ngôn chí, cảm hoài, tức sự, ngẫu

hứng... Thể tài thì dùng những cái đã định hình về cấu trúc, vần điệu, niêm luật. Ngôn từ, thi

liệu hết sức ƣớc lệ, tƣợng trƣng. Nói về ngƣời đẹp bao giờ cũng "tóc mây", "da tuyết", "làn

thu thủy", "nét xuân sơn"...Nói về ngƣời anh hùng thì "hồ thỉ tang bồng", "công danh nam

tử", "chí làm trai dặm ngàn da ngựa - gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao"... Giáo sƣ Phan Ngọc

từng phải buồn bã thốt lên: "Cái bệnh thơ văn của cha ông ta đã làm ta mất hẳn mọi hình ảnh

cụ thể xác thực" (83.2,126).

Tóm lại, chỉ cần đúng ý đúng lúc, còn nói thế nào cho thật mới lạ, độc đáo và sinh

động không đƣợc xem trọng. Thật khác xa với quan niệm sáng tạo thi ca hiện đại. Xuân Diệu

cho rằng :"Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sỷ làm, một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể.

Anh phải có cá tính, anh phải trau dồi cái độc đáo mà công chúng rất đòi hỏi" (Báo Văn nghệ

TP. Hồ Chí Minh, Số 228).

Phải đến đầu thế kỵ XX, đặc biệt là vào lúc Thơ mới xuất hiện, cái tôi cá thể mới

đƣợc giải phóng và hiển hiện thành thơ. Hoài Thanh viết

147

về phong trào Thơ mới: "Ngày thứ nhất... chữ Tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thật bỡ

ngỡ. Nó nhƣ lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang một quan niệm chƣa từng có ở xứ này: quan

niệm cá nhân. Xã hội Việt Nam từ xƣa không có cá nhân, chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia

nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình hòa tan trong

quốc gia nhƣ giọt nƣớc trong biển cả" (44).

Về cơ bản, chân lý thuộc về Hoài Thanh. Có thể ngày trƣớc "các sw thành tâm, kỳ dị

nhƣ diện" (mỗi ngƣời đều viết theo tâm tính của mình, khác nhau nhƣ từng khuôn mặt) song

chƣa thể vƣơn tới cá tính sáng tạo mạnh mẽ nhƣ thi ca hiện đại khi mà đầu óc các nhà thơ

đƣợc giải phóng ra khỏi sự kìm kẹp của tƣ tƣởng phong kiến bằng sự nghiệp khai sáng của

cách mạng tƣ sản.

Mặc dầu vẫn không khi nào xa rời trách nhiệm xã hội, nhƣng chƣa bao giờ tinh thần

ngƣời nghệ sỷ đƣợc tự do nhƣ thời hiện đại, tự do để cất lên tiếng nói của con ngƣời bằng đủ

giọng điệu và đủ sắc thái cảm xúc. Pablô Neruda cảm khái viết: "Tôi tin ở cá tính, ở cái nét

riêng qua tất cả mọi ngôn ngữ, mọi hình thức, mọi phƣơng hƣớng của công việc sáng tạo

nghệ thuật" (99). Nadim Hikmét cũng viết với cảm hứng không kém: "Mỗi nghệ sỷ phải tìm

tòi suốt đời. Trong cuộc tìm tòi này, anh ta không đƣợc lặp lại chính mình, nhƣng phải biết

bảo vệ cá tính của mình, và không bắt chƣớc ngƣời khác" (99). Thơ là tiếng vọng sáng tạo

của kinh nghiệm sống cá nhân. Nhà thơ không mô phỏng thế giới mà tự thể hiện về nó. Tạo

lập cái riêng, không lẫn trộn vào ngƣời khác, là đích hƣớng tới của mọi nhà thơ trong thời đại

yêu cầu cao và tạo mọi điều kiện cho mỗi cá nhân tự sáng nhƣ thời đại chúng ta đang sống.

148

Thời trƣớc, ở Việt Nam cá nhân con ngƣời chƣa thể vùng vẫy trong bầu trời cao rộng

nhƣ bây giờ. Con ngƣời là một yếu tố của tam tài: Thiên - Địa - Nhân. Cho "vật ngã" là đồng

nhất, Trang Tử đã kịch liệt phản đối việc xem con ngƣời, nhất là con ngƣời cá nhân là trung

tâm của vũ trụ. Cổ nhân, nếu có bàn về "phong cách thi ca", cũng chỉ đƣa ra những nhận xét

chung chung và sơ sài. Bùi Huy Bích trong "Lữ trung tạp thuyết" có bình về sự "sâu rộng"

của Trƣơng Hán Siêu, sự "tú lệ" của Nguyễn Trung Ngạn, sự "tuấn phát" của Phạm Sƣ Mạnh.

Đó là những nhà thơ nổi tiếng đời Trần. Riêng về đời Lê, Bùi Huy Bích có khen "lời đẹp, ý

mạnh" của Nguyễn Trãi, "kỳ vĩ khẳng khái" của Lý Tử Cấu, "thù phụng đúng thể" của Thân

Nhân Trung... (35.3,24). Kể ra Bùi Huy Bích cũng đã nói đƣợc những điểm cốt lõi trong văn

nghiệp của họ, nhƣng tìm đƣợc sự phân tích, lý giải cụ thể, thấu đáo thì hầu nhƣ không thấy.

Cái riêng có phần bị chìm khuất, cái mới ít có điều kiện bộc lộ, mặc dầu ai cũng có thể lập

luận thơ là tình của nhà thơ, mỗi ngƣời một tính, một tình, nên mỗi ngƣời đều có thơ riêng.

Trong khi, với văn chƣơng hiện đại, sự cách tân mới mẻ lại là đặc điểm không thể

thiếu của thơ hay và nhà thơ danh tiếng. Khách quan mà xem xét thì không phải ngƣời xƣa

không có lúc chú ý tới cái mới. "Văn quý biến". Kinh Dịch nói: "Vằn trên da hổ biến hóa nên

màu sắc rực rỡ đẹp đẽ, vằn trên da báo biến hóa, nên màu sắc lộng lẫy, huy hoàng" (49,173).

Lƣu Hiệp chỉ ra một trong nhƣng lề luật khi viết văn là "biến "hóa" để "không mục nát"

(49,177). Yêu cầu "xuất tân ý" nhằm" cổ kim chi biến", xét ở một góc độ nào đó, là yêu cầu

tự thân của văn chƣơng. Tào Tuyết cần, tác giả "Hồng lâu mộng" bất hủ, từng chủ trƣơng:

"yếu tân kỳ biệt chí" (cần phải mới mẻ độc đáo). Trong tiểu

149

thuyết "Hồng lâu mộng" Lâm Đại Ngọc khen bài "Phù dung lỗi" (điếu hoa phù dung) của Giả

Bảo Ngọc là "Tân kỳ tế văn" (văn tế mới mẻ) (49, 260).

Đọc thơ ngƣời khác gắng phát hiện ra cái mới là khuynh hƣớng tự nhiên của việc bình

thơ xƣa cũng nhƣ nay, bởi thơ đạt tới "cõi thần diệu" bao giờ cũng mang "khí" lạ. Nhƣng cái

mới mẻ trong văn chƣơng thời trƣớc không thể thoát khỏi khuôn khổ chung gò bó, chật hẹp,

rất khác với cái mới mẻ thời hiện đại. L. Parô viết: "Phải luôn tự đổi mới, phải thay những đề

tài cảm xúc mà sức mạnh đã bi giảm sút, sáng tạo ra những phƣơng tiện mới" (87). Nhà thơ

hiện đại thu nhận để tự giàu có. Làm thơ viết văn với A.Giacômetti là "cuộc phiêu lƣu, cuộc

đại phiêu lƣu và mỗi ngày nhìn thấy xuất hiện một cái gì chƣa từng biết trong từng một

khuôn mặt" (99). Tính sáng tạo trong thơ đƣợc đòi hỏi cao và triệt để. Ngay ngôn từ cũng

"cần phải nảy mầm nếu không đó là từ giả" (A.Brơtông - 99). Cho nên, nếu ai đó có nói

"không có các qui tắc chung trong sáng tạo thi ca" thì cũng không có gì quá đáng.

Có thể thấy rõ mặt hạn chế của quan niệm thơ cổ trong sự đối sánh với đời sống thi ca

hiện đại. Cũng có thể thấy rõ mặt hạn chế này trong sự đối chiếu với quan niệm thơ phƣơng

Tây. Một trong những điểm dễ nhận thấy đó là: tính chất mơ hồ trong các khái niệm của thi

luận cổ Trung Quốc và Việt Nam. Phần nhiều các khái niệm dùng trong xem xét, đánh giá thi

ca nhƣ: văn, chất, lý, khí, hình, thần... đều lấy từ những phạm trù triết học. Một số khái niệm

có sắc thái chuyên biệt nhƣ: phú, hứng, tỵ, điệu, tứ, cách... thì không đƣợc quan tâm định

nghĩa một cách xác định. Giáo sƣ Phƣơng Lựu không phải không có lý khi cho rằng: "Dƣờng

nhƣ những khái niệm lý luận văn học Trung Hoa (và

150

cũng có thể nói Việt Nam — P.Q.T.) chỉ để cảm nhận chứ không phải để xác nhận" (85.2).

Điều này có gốc gác từ kiểu tƣ duy đặc thù của Á Đông. Khác với ngƣời phƣơng Tây,

ngƣời phƣơng Đông không ƣa phân tích rành mạch định nghĩa rõ ràng. Nhận thức của họ

nghiêng về sự hình dung có tính tổng hợp, trực giác. Lão gia nói đến "tĩnh quan", còn Phật

gia thì nói đến "đốn ngộ". Nhƣ vậy mới có điều kiện tiếp cận đƣợc bản thể của vũ trụ và vạn

vật vốn "siêu lôgic". Thế giới với Lão Tử là "hỗn độn"phi trật tự. Còn theo Phật thì thế giới là

"vô nội ngoại, vô trung biên". Để nhận biết thế giới, mọi sự phân tích, lý giải có khi không

hiệu quả mà còn làm phƣơng hại đến tính toàn vẹn của muôn vật. Kiểu tƣ duy đó có nhiều

điểm tƣơng đồng với "Hiện tƣợng luận" xuất hiện ở phƣơng Tây vào thế kỵ XX này. Theo

khuynh hƣớng triết học ấy thì "phƣơng pháp phân tích lôgic có thể tạo ra sự uy hiếp cho tính

hoàn chỉnh của thế giới". Vậy nên cách tốt nhất là hãy tập trung cảm giác và trí lực mà nƣơng

theo tính sinh động, toàn vẹn vốn có của hiện tƣợng.

Nhƣ vậy, không phải mọi điều trong quan niệm thơ cổ đều đáng đƣợc chúng ta ngày

nay kế thừa và phát huy. Đứng ở tầm cao thời đại cho phép, với tinh thần gạn đục khơi trong,

truyền thống lý luận thơ cổ khi đƣợc nhiều ngƣời quan tâm nghiên cứu và kế thừa chắc sẽ

đƣợc khai thác ở nhiều phƣơng diện khác nữa.

151

PHẦN III: KẾT LUẬN

Ngƣời xƣa vậy là đã bàn đến hầu hết các vấn đề của thơ, từ nội dung đến hình thức, từ

chủ thể đến khách thể, từ bản chất thơ đến việc bình thơ. Nhiều vấn đề đã đƣợc các danh nho

cũng nhƣ hàn sỷ, hữu danh cũng nhƣ vô danh giải quyết khá thấu dáo, đi gần với quan niệm

thi ca tiến bộ của nhân loại và quan niệm thi ca hiện đại của dân tộc. Từ tất cả những gì đã

đƣợc phân tích, biện giải chúng ta hoàn toàn có cơ sở để khẳng định: Đã tồn tại trong quá

khứ một nền thi luận cổ Việt Nam.

Ở đây tồn tại một thực tế gồm hai mặt: ảnh hưởng sâu đậm của lý luận thơ cổ Trung

Hoa tới Việt Nam và ý thức độc lập, sáng tạo trong tƣ duy thi ca của các thi nhân học giả

nƣớc ta thời trƣớc. Đó là một thực tế không riêng đối với ta, mà cũng không riêng trong lãnh

vực văn chƣơng, học thuật, bởi (theo cách nói của Trƣơng Tái đời Tống) muôn vật "nhất lý"

nhƣng "phận thù‖. Muốn thành công cần vận dụng cái của ngƣời vào hoàn cảnh của mình.

Phƣơng châm hành động của ngƣời Trung Quốc là vừa Tây dụng" vừa "trung thể", của ngƣời

Triều Tiên là vừa "Tây khí" vừa "Đông đạo", của ngƣời Nhật Bản là vừa "dƣơng tài" vừa

"hòa hồn". Có lẽ đây là chiếc chìa khóa thần giúp các nƣớc đồng văn này có đƣợc những

bƣớc tiến nhảy vọt tiếp cận đến văn minh hiện đại chăng?

Vì vậy, có thể khẳng định: giao lƣu, hòa hợp là quy luật phát triển của bất cứ nền văn

hóa nào, không loại trừ ngay cả những nền văn hóa có lịch sử lâu đời và đạt đƣợc những

thành tựu rực rỡ. Theo I. S. Lisevich,

152

trong thực tế lịch sử nhân loại, không có nền văn minh phát triển nào lại chối từ việc tiếp

nhận. Ngay văn hóa Trung Hoa, một nền văn hóa đóng vai trồ hạt nhân trong vùng văn hóa

Viễn Đông rộng lớn cũng không nằm ngoài thực tế này. Thời cổ đại, văn hóa Trung Hoa rõ

ràng chịu ảnh hƣởng của nền văn hóa phƣơng Nam. Sang thời trung đại, văn hóa Trung Quốc

đã có ít nhất ba quá trình tích hợp văn hóa với các bộ tộc phƣơng Nam thời Lục Triều, với

ngƣời Nguyên, ngƣời Thanh và với phƣơng Tây từ thế kỉ XVIII (62.2). Từ đó, chúng tôi tán

đồng với ý kiến của giáo sƣ Lê Đình Kỳ: "Do điều kiện lịch sử một nghìn năm Bắc thuộc, cha

ông ta không tránh khỏi chịu ảnh hƣởng của nền văn hóa và học thuật Trung Hoa... Điều

đáng tự hào là mặc dầu bị áp bức nặng nề từ phƣơng Bắc, dân tộc ta đã không chịu để cho bị

đồng hóa, vẫn nêu cao tinh thần độc lập tự chủ trong chính trị cũng nhƣ trong đời sống tinh

thần nói chung" (57.2,350).

Vậy là đã tồn tại trên thực tế một nên lý luận thi ca độc đáo, phong phú và quý giá

trong thời trung đại ở Việt Nam, và nền thi học đó "cũng có tầm cỡ nhƣ bất cứ nền thi học

của nƣớc nào, nếu ta biết khai thác những cái đƣợc giấu kín trong đó" (Đỗ Văn Hỵ - 35.3,93).

Trong việc "khai thác" di sản lý luận thi ca quá khứ, công lao đầu thuộc về những nhà

Hán Nôm học Việt Nam hiện đại đã không quản bao khó khăn tham gia vào công cuộc sƣu

tầm, biên dịch, hiệu đính, chú giải các văn bản cổ. Cho tới giờ, nguồn tƣ liệu giúp cho việc

tìm hiểu quan niệm thi ca Việt Nam thời trung đại mặc dầu có thể chƣa thật tập trung, phong

phú và đa dạng nhƣng thật đáng kể và nhất là có đủ cơ sở cho việc khái quát nhiều vấn đề lý

luận chung cũng nhƣ việc đào sâu nhiều vấn đề lý luận cụ thể. Chúng tôi hy vọng các nhà

Hán Nôm học uyên bác, giàu

153

kinh nghiệm và tâm huyết sẽ tiếp tục dồn thời gian và công sức vào công việc phát hiện và

chỉnh lý nguồn tƣ liệu cổ, giúp đẩy nhanh việc nghiên cứu di sản lý luận văn chƣơng trung

đại sang một giai đoạn mới với những thành tựu lớn hon.

Từ những gì đã đƣợc trình bày, chúng tôi xin đƣợc rút ra một số điểm bao quát sau

đây:

- Các thi nhân, học giả xƣa rõ ràng không có ý định "lập thuyết". Những ý kiến bàn về

thơ của họ, hoặc mang tính tức thời nhân bàn về một tập thơ hay một tuyển thơ sắp ra mắt

hoặc mang tính gián tiếp nhân bàn về thế đạo nhân tâm hay về "văn" nói chung. Nhƣng từ đó,

có thể rút ra nhiều điều có giá trị phổ quát, lâu dài mang tính đặc thù thể loại sâu sắc chung

quanh những vấn đề lý luận thi ca cơ bản nhƣ: chủ thể và sản phẩm sáng tạo, nội dung và

hình thức tác phẩm, bản thể và tiếp nhận thi ca...

- Những lời bàn luận về thơ thời trƣớc thƣờng là tiếng nói "gan ruột" của những nhà

sáng tác. Đó là kết quả của quá trình suy ngẫm và thể nghiệm dài lâu của những ngƣời không

chỉ am hiểu mà còn yêu thích thi ca, không chỉ biết nói mà còn biết làm (thƣờng làm nhiều

hơn nói, và khi không thể không lên tiếng thì nói ít và nói ngắn). Do vậy, ý kiến của họ mang

những đặc điểm riêng tạo nên sức cuốn hút riêng, đặc biệt thâm thía và sâu sắc.

- Một trong những đặc điểm nổi bật của những lời bàn về thơ của các học giả, thi

nhân thời trƣớc là tính thẳng thắn và chân thực. Họ thƣờng khiêm nhƣờng giãi bày những suy

nghĩ, đúng hơn là những cảm nghĩ về thơ, mong tìm gặp sự đồng điệu của bậc tri âm, tri kỵ.

Rất ít xảy ra tranh luận. Mà nếu có tranh luận về học thuật thì cũng không mấy

154

gay gắt. Họ thƣờng bình tâm trình bày những kiến giải của bản thân, không có ý áp đặt mà

lấy sự thuyết phục ngƣời đối thoại làm mục đích chính.

- Những ý kiến bàn về thơ của ngƣời xƣa bắt nguồn từ vốn đời, vốn đọc, vốn học

đƣợc tích lũy thƣờng xuyên và không biết mệt mỏi. Nhiều thi nhân học giả thời trƣớc đã hấp

thụ đƣợc những hiểu biết cao nhất mà thời đại của họ cho phép. Dựa trên cơ sở của vốn tri

thức mang tính bách khoa, lý luận thi ca cổ đồng thời là bộ phận quý giá của vốn tri thức ấy -

vốn tri thức đƣợc ông cha ta kiên trì thâu thái trong những năm tháng đầy khó khăn, thử thách

không chỉ đối với số phận của dân tộc mà còn đối với cuộc đời của mỗi ngƣời, không chỉ về

vật chất mà còn về tinh thần. Tri thức về văn chƣơng, về thi ca nhiêu lần đáng quý hơn còn

bởi lẽ đó.

- Là một bộ phận của tƣ tƣởng, quan niệm thi ca cổ đồng thời gắn bó mật thiết với

những hình thái tƣ tƣởng khác của ngƣời xua: tƣ tƣởng chính trị, tƣ tƣởng triết học, tƣ tƣởng

đạo đức, tƣ tƣởng học thuật... Trong mối quan hệ này, quan niệm thi ca vừa chịu ảnh hƣởng

vừa tác động trở lại những quan niệm khác ở cả hai phía tích cực và tiêu cực. Trên cơ sở phân

tích, lí giải đúng đắn những mặt tinh hoa đáng trân trọng cùng những mặt hạn chế đáng phê

phán, chúng ta sẽ có thái độ phù hợp trong việc tiếp nhận di sản lí luận thi ca trong quá khứ

của ông cha.

- Những tinh hoa của quan niệm thơ cổ Việt Nam là một trong những đóng góp độc

đáo của nền học thuật và tƣ tƣởng dân tộc vào kho tàng văn hóa chung của nhân loại. Tất

nhiên ở đây có không ít điều mà giáo sƣ Đỗ Văn Hỵ gọi là sự "ngẫu hợp", nghĩa là sự gặp gỡ

tự nhiên của những bộ óc lớn thuộc mọi thời đại ở mọi phƣơng diện. Bởi vì nhận thức của

con ngƣời có thể rất khác nhau về cách thức sống về mục đích và bản

155

chất cơ bản là gần gũi nhau. Điều này phù hợp với nhận thức của tác giả "Liêu thi thoại": "Bế

môn tạo xa, xuất môn hợp quỷ" (đóng cửa tạo xe, ra cửa vừa đƣờng - 35.3, 4).

Quan niệm thi ca cổ Việt Nam là một bộ phận then chốt của quan niệm văn chƣơng,

rộng ra là quan niệm mỷ học của dân tộc ta thời trung đại. Nắm đƣợc lý luận thơ ngày xƣa,

chúng, ta mới có điều kiện hiểu đúng cái hay, cái đẹp của thơ trong quá khứ, mới đánh giá

đúng di sản thi ca thời trƣớc. Lý luận thơ xƣa đồng thời là một trong những căn cứ để hiện

đại hóa thơ Việt Nam hôm nay. Việc tìm hiểu quan niệm thơ thời trung đại sẽ giúp chúng ta

từng bƣớc lấp bằng chỗ trống trong lý luận thơ nói riêng, trong lý luận văn chƣơng nói chung,

nhằm xây dựng một nền lý luận văn chƣơng hiện đại - dân tộc.

Chúng tôi luôn ý thức sâu sắc rằng: Nghiên cứu quan niệm thơ cổ Việt Nam là công

việc nặng nhọc và lâu dài của nhiều ngƣời, nhiều thế hệ. Do điều kiện và khả năng có hạn,

chúng tôi mới đi vào một vài vấn đề chung, khó tránh khỏi sơ sài và hạn hẹp. Chúng tôi mong

mỏi các nhà nghiên cứu tiếp tục mở rộng, đào sâu để việc tìm hiểu di sản lý luận thi ca cổ của

dân tộc đạt đƣợc những thành tựu mới, lớn hơn nhiều.

156

PHỤ LỤC

SƠ LƢỢC VỀ CÁC TÁC GIẢ

(Xếp theo vần chữ cái)

- QUÂN BÁC (chƣa rõ tiểu sử)

- BÙI HUY BÍCH (1744-1818)

Hiệu Tồn Am, tên chữ Hy Chƣơng, ngƣời làng Định Công, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà

Đông (nay thuộc thành Hà Nội).

Đậu Hoàng giáp năm 1769. Làm đến chức Hành tham tụng (Tể tƣớng)

Tác giả: "Nghệ An thi tập", "Tồn Am thi tập", nổi tiếng nhất là hai hợp tuyển: "Hoàng

Việt thi tuyển", "Hoàng Việt văn tuyển".

- NGUYỄN ĐỊCH CÁT (Chƣa rõ tiểu sử)

- NGÔ THÌ CHÍ (1753-1788)

Tự Học Tốn, hiệu Uyên Mật, thuộc Ngô gia văn phái. Đỗ Á nguyên hƣơng tiến dƣới

triều Lê.

Tác giả "Học Phi thi tập", "Học Phi văn tập", "Hào môn khoa sớ"...

- PHAN HUY CHÚ (1782-1840)

Tự Lâm Khanh, hiệu Mai Phong, ngƣời làng Sài Sơn (tức làng Thầy), phủ Quốc Oai,

trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hà Tây).

Hai lần đi thi chỉ đậu tú tài. Nhờ nổi tiếng hay chữ, ông đƣợc triệu vào cung bổ các

chức quan. Hai lần đƣợc cử làm Phó sứ sang Trung Quốc.

157

Tác giả: "Hoàng Việt địa dư chí", "Hoa thiều ngâm lục", "Hoa trình lục ngâm"...

nhung giá trị nhất là bộ "Lịch triều hiến chương loại chí".

- NGUYỄN DU (1765-1820)

Tự Tố Nhƣ, hiệu Thanh Hiên, ngƣời làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tinh Hà Tĩnh.

Làm quan đến Tham tri bộ Lễ dƣới triều Nguyễn. Làm chánh sứ đi Trung Quốc.

Tác giả: "Thanh Hiên thi tập", "Nam trung tạp ngâm", "Bắc hành tạp lục", "Đoạn

trường tân thanh" (quen gọi là 'Truyện Kiều"), "Chiêu hồn thập loại chúng sinh"...

- PHẠM NGUYỄN DU (1739-1786).

Tự Hiếu Đức và Dƣỡng Hiên, hiệu Thạch Động, ngƣời làng Đặng Điền, huyện Chân

Phúc, tỉnh Nghệ An.

Đậu Hoàng giáp năm 1779.

Tác giả: "Nam hành ký đắc lục", "Thạch Động tiên sinh thi tập", "Độc sử si tưởng",

"Đoạn trường lục"...

- CAO XUÂN DỤC (1842-1923)

Tự Tử Phát, hiệu Long Cƣơng, ngƣời làng Thịnh Mỷ, phủ Diễn Châu tỉnh Nghệ An.

Đậu Cử nhân năm 1877, làm quan đến Học bộ Thƣợng thƣ.

Tác giả: "Quốc triều hương khoa lục", "Quốc triều khoa bảng lục", "Nhân thế tu tri",

"Long cương văn đối"...

- NGUYỄN DƢ (thế kỵ XVI)

Ngƣời làng Đỗ Tùng, huyện Gia Phúc, (nay thuộc huyện Thanh Miện tỉnh Hải Hƣng),

học trò Nguyễn Bỉnh Khiêm, bạn học Phùng Khắc Khoan.

158

Thi Hƣơng đậu Giải nguyên, thi Hội chỉ trúng tam trƣờng, đƣợc bổ làm tri huyện,

đƣợc một năm thì cáo quan về ở ẩn.

- VŨ TRỌNG ĐẠI (chƣa rõ tiểu sử)

- ĐỖ TUẤN ĐẠI (chƣa rõ tiểu sử)

- NGUYỄN ĐỨC ĐẠT (1823-?)

Tác giả: "Truyền kỳ mạn lục".

Tự Khoát Nhƣ, hiệu Nam Sơn chủ nhân, ngƣời làng Trung Cần huyện Thanh Chƣơng,

tỉnh Nghệ An.

Đậu Thám hoa năm 1853, làm quan đến Tuần phủ.

Tác giả: "Nam Sơn tùng thoại", "Nam Sơn di thảo", "Vịnh sử thăng bình", "Vịnh sử

- LÊ QUÝ ĐÔN (1726-1784)

thi tập"....

Chính tên là Lê Danh Phƣơng. Tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đƣờng, làng Diên Hà, huyện

Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ (nay là huyện Hƣng Hà, tỉnh Thái Bình).

Đậu Bảng nhãn năm 1752, làm quan đến chức Công bộ Thƣợng thƣ.

Tác giả: "Vân đài loại ngữ", "Đại Việt thông sử", "Phủ biên tạp lục", "Kiến văn tiểu

- NGÔ CƢƠNG MẠNH ĐOAN (chƣa rõ tiểu sử)

- NGÔ QUÍ ĐỒNG (thế kỵ XIX)

lục", "Quế Đường thi tập", "Quế Đường văn tập", "Toàn Việt thi lục"....

Hiệu Huyền Đồng Tử, ngƣời Thừa Thiên. Làm quan dƣới triều Tự Đức.

- TRẦN CAO ĐỆ (chƣa rõ tiểu sử)

Tác giả: "Thơ thất ai"

159

- NGUYỄN TƢ GIẢN (1823-1890)

Tự Tuân Phúc và Hy Bật, hiệu Vân Lộc và Thạch Nông, ngƣời làng Dụ Lâm, huyện

Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh (nay là huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc).

Đậu Hoàng giáp năm 1844, làm đến chức bộ Lại Thƣợng thƣ.

Tác giả: "Thạch Nông thi tập", 'Thạch Nông văn tập", “Yên thiều thi thảo", "Yên thiều

bút lục", "Thạch Nông tung thoại"...

- PHAN THANH GIẢN (1796-1867)

Tự Tĩnh Bá và Đạm Trai, hiệu Lƣơng Khê và Ƣớc Phu, biệt hiệu Mai Xuyên, ngƣời

làng Bảo Thanh, huyện Bảo An (nay là huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre).

Đỗ Tiến sĩ năm 1826. Làm đến Thƣợng thƣ bộ Hình và bộ Hộ, từng sang sứ Trung

Quốc, Nam Dƣơng và Tân gia ba.

Tác giả: "Lương Khê thi thảo", "Lương Khê văn thảo'...

- NGUYỄN DƢỠNG HẠO (?—?)

Ngƣời huyện Duy Xuyên, Thăng Hoa (nay là tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng).

Tác giả: "Tựa Phong trúc tập".

- NGUYỄN HÀNH (1771—1824)

Chính tên là Nguyễn Đạm, tự Tử Kính, hiệu Nam Thúc, cháu ruột Nguyễn Du, ngƣời

làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

Đậu Tiến sĩ và đƣợc xếp vào "An Nam ngũ tuyệt" (tức năm nhà thơ danh tiếng nhất

đƣơng thời).

Tác giả : "Quan đông tập" và "Minh Quyên thi tập".

- NGUYỄN THƢỢNG HIỀN (1866-1925)

Tự Đỉnh Nam và Đình Thần, hiệu Mai Sơn, ngƣời làng Liên Bạt, huyện Sơn Lãng

(nay là tỉnh Hà Tây).

160

Đậu Hoàng giáp năm 1889.

Tác giả: "Nam chi tập", "Hạc thư ngâm biến", "Mai Sơn ngâm tập" Nam Hương tập",

Mai Sơn ngâm thảo"...

- PHẠM ĐÌNH HỔ (1768-1839)

Tự Tùng Niên và Bỉnh Trực, hiệu Đông Dã Tiều, ngƣời làng Đan Loan, tổng Minh

Loan, huyện Đƣờng An, phủ Thƣợng Hồng, trấn Hải Dƣơng (nay thuộc tỉnh Hải Hƣng).

Làm quan dƣới triều Minh Mệnh năm 1821.

Tác giả: "Vũ trung tùy bút", "Tang thương ngẫu lục" (soạn chung với Nguyễn Án),

"Châu Phong tạp thảo", "Đông Dã học ngôn thi tập", "Tùng cúc liên mai tứ hữu"...

- NGÔ THÌ HOÀNG (1770-?)

Hiệu Huyền Trai và Thạch Ổ, trong Ngô gia văn phái.

Đậu tú tài năm 1807.

Tác giả: "Thạch ổ di chương".

- PHAN HUY ÍCH (1750-1822)

Tự Khiêm Thụ Phủ, hiệu Dụ Am, quê gốc ở làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc (sau

đổi là Can Lộc), trấn Nghệ An. Từ sau khi nhà Lê mất, cha ông đến ở làng Thụy Khuê, phủ

Quốc Oai, trấn Sơn Nam (nay là tỉnh Hà Tây).

Đậu Đình nguyên Tiến sĩ năm 1775. Đi sứ Trung Quốc năm 1790.

Tác giả: "Dụ Am ngôn lục tập", "Dụ Am văn tập", "Cúc Đường bách vịnh thi tập".

Ông còn là một trong số dịch giả "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn.

- PHÙNG KHẮC KHOAN (1528-1613)

161

Tự Hoàng Phu, hiệu Nghị Trai và Mai Nham Tử, ngƣời làng Phùng Xá, huyện Thạch

Thất, trấn Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Hà Tây).

Đậu Tiến sĩ năm 1580. Đi sứ Trung Quốc năm 1597.

Tác giả: "Ngôn chí thi tập", "Huấn đồng thi tập", "Đa thức tập", "Mai Lĩnh sứ hoa thi

tập", "Đào nguyên hành"...

- LÊ HỮU KIỀU (1690-1760)

Hiệu Tồn Trai, ngƣời làng Liêu Xá, huyện Mỷ Hào, tỉnh Hải Hƣng. Đậu Tiến sỷ năm

1718, làm quan đến Binh bộ Thƣợng thƣ. Từng đi sứ Trung Quốc.

Tác giả: "Bắc sứ hiệu tần tập".

- TRẦN BÁ KIÊN (chƣa rõ tiểu sử)

Tác giả: "Tựa thơ Khuê oán".

- NGUYỄN BỈNH KHIÊM (1491-1585)

Tự Hanh Phủ, hiệu Bạch Vân cƣ sĩ, biệt hiệu Tuyết Giang, ngƣời làng Trung Am,

huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Hƣng (nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng).

Đỗ Trạng nguyên đời Mạc Đăng Doanh, làm quan đến Thƣợng thƣ bộ Lại, tƣớc Trình

Quốc công.

Tác giả: "Bạch Vân am thi tập", "Bạch Vân quốc ngữ thi tập".

- NGÔ THẾ LÂN (thế kỵ XVIII)

Tự Hoàn Phác, hiệu Ái Trúc, quê xã Vu Lai, huyện Quảng Điền, trấn Thuận Hóa (nay

thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế).

Tác giả: "Phong trúc tập ".

- VŨ KHÂM LÂN (1702-?)

Còn có tên Vũ Khâm Thận, quê làng Ngọc Lạc, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Hƣng.

162

Đậu Tiến sỷ năm 1727, làm quan đến Tham tụng.

Tác giả: "Phủ sát bị mật".

- TRẦN DANH LÂM (1704-1777)

Tự Khiêm Trai, ngƣời làng Bảo Triện, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.

Đậu Tiến sỷ năm 1731, làm quan đến Binh bộ Thị Lang. Năm 1776 làm Lại bộ

Thƣợng thƣ.

Tác giả: "Hoan châu phong thổ thoại".

- BÙI DƢƠNG LỊCH (1757-1827)

Tự Tồn Trai, hiệu Thạch Phủ, ngƣời làng Yên Hội, xã An Toàn, huyện La Sơn, trấn

Nghệ An (nay thuộc xã Châu Phong, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh).

Đậu Hoàng giáp năm 1787.

Tác giả: "Nghệ An ký", "Ốc lậu thoại", "Tồn Trai thi tập".

- NGUYỄN VĂN LÝ (1795—1868)

Ngƣời thôn Trung Phụng, Đống Đa, Hà Nội.

Đậu Tiến sỷ năm Minh Mệnh 1313, làm quan đến Đốc học.

Tác giả: "Chí hiên thi thảo".

- HOÀNG ĐỨC LƢƠNG (?—?)

Ngƣời Ngọ Kiều, Gia Lâm, Hà Nội.

Đậu Hoàng giáp năm 1468, làm đến chức quan Tham nghị, có đi sứ Trung Quốc.

Tác giả: "Trích diễm thi tập".

- NGUYỄN MẠI (1852—?)

Tự Tiểu Cao, quê xã Niêm Phù, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên.

163

Đỗ Phó bảng năm 1889.

Tác giả: "Việt Nam phong sử" (văn).

- NGUYỄN HÀM NINH (1808-1867)

Tự Thuận Chi, hiệu Tĩnh Trai và Nhâm Sơn, ngƣời làng Trung Ái phủ Quảng trạch

(nay thuộc tỉnh Quảng Bình).

Tác giả: "Nhâm Sơn thi tập" "Tĩnh Trai thi sao", "Phản thúc ước".

- NGÔ THÌ NHẬM (1746-1803)

Tự Hi Doãn, hiệu Đạt Hiên, thuộc Ngô gia văn phái. Đậu Tiến sỷ năm 1776. Đƣợc

triều Tây Sơn cử đi sứ Trung Quốc năm 1793.

Tác giả: "Thúy Vân nhàn vịnh" "Ngọc đường xuân khiếu", "Cúc hoa thi trận'', "Thu

cận dương ngôn", "Cẩm đường nhàn thoại", Hoàng Hoa đồ phả", "Hàn các anh hoa", "Kim

mã hành dư, "Xuân thu quản kiến", "Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh"...

- NGUYỄN HỒNG NHẬM (1829-1883)

Còn có tên là Nguyễn Phúc Thì, hiệu Dực Tông, lên ngôi vua lấy niên hiệu Tự Đức

(1848-1883).

Tác giả: "Ngự chế thi tập", "Cơ dư tự tỉnh thi tập", "Việt sử tổng vịnh tập"... Nổi tiếng

với bài thơ Nôm "Khóc Bằng Phi".

- PHẠM VĂN NGHỊ (1805—1880)

Hiệu Nghĩa Trai, quê xã Tam Đăng, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hƣng, tỉnh Nam Định

(nay là tỉnh Nam Hà). Đậu Hoàng giáp năm 1838.

Tác giả: "Tự ký", "Tùng V i ê n văn tập", "Nghĩa Trai thi văn tập", "Tứ thành thất thủ

phú"...

DOÃN UẨN (7—1849)

164

Còn có tên Doãn Ôn, quê Ngoại Lăng, tỉnh Thái Bình. Đậu Cử nhân và làm quan dƣới

triều Minh Mệnh.

- ĐINH LINH UY (chƣa rõ tiểu sử)

- KÍNH TRAI NGÔ HY PHAN (chƣa rõ tiểu sử)

- NGUYỄN THỨ PHỦ (chƣa rõ tiểu sử)

- LÝ VĂN PHỨC (1785-1849)

Tự Lân Chi, hiệu Khắc Trai, ngƣời phƣờng Hồ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận (nay thuộc

Hà Nội).

Đỗ Cử nhân năm 1819, làm quan đến chức Tham tri bộ Lễ. Đi sứ hoặc công cán ra

nƣớc ngoài nhiều lần.

Tác giả: "Tây hành kiến văn kỷ lược", "Tây hành thi ký", “Việt hành ngâm thảo",

"Việt hành tục ngâm", "Học ngâm tồn thảo"....

- CAO BÁ QUÁT (1809—1855)

Tự Chu Thần, hiệu Cúc Đƣờng và Mẫn Hiên, quê làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh

Bắc Ninh (nay thuộc ngoại thành Hà Nội).

Đậu Cử nhân 1831.

Tác giả: "Cao Bá Quát thi tập", "Cao Chu Thần di cảo", "Cao Chu Thần thi tập",

"Mẫn Hiên thi tập", "Tài tử đa cùng phú"...

- BÙI NGỌC QUỶ (1796-1861)

Còn có tên Bùi Quĩ, tự Hữu Trúc, quê làng Hải Thiên, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hƣng Yên

(nay thuộc tỉnh Hải Hƣng).

Đậu Tiến sỷ năm 1829, làm quan đến Tham tri bộ Hình, Tổng đốc Bình Định. Năm

1848 làm chánh sứ sang Trung Quốc.

Tác giả : "Yên đài anh thoại", "Hữu Trúc thi tập", "Hải phái thi văn tập", "Sứ trình

anh thoại khúc", "Yên hành khúc", "Yên hành tổng tác"...

165

- HÀ TÔNG QUYỀN (1789-1839)

Tự Tốn Phủ, hiệu Phƣơng Trạch và Hải ông, quê gốc Nghệ An sau cƣ trú ở làng Cát

Động, Thanh Oai, Hà Tây.

Đậu Tiến sỷ năm 1822. Từng đi "hiệu lực" tức phục vụ đoàn công cán sang Inđônêsia.

Tác giả : "Dương mộng tập", "Tốn Phủ thi tập", "Tốn Phủ văn tập"...

- NGUYỄN QUÝNH (thế kỵ XVIII)

Quê làng Trƣờng Lƣu, xã Lai thạch, huyện La Sơn (nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh).

Đỗ Tiến sĩ năm 1772, làm quan đời Lê Chiêu Thống.

Tác giả: Tựa "Tây hồ mạn hứng" của Ninh Tốn.

- NHỮ BÁ SỶ (1788-1867)

Tự Nguyên Lập, hiệu Đạm Trai, ngƣời làng Cát, xã Cát Xuyên, tổng Chƣơng Sơn

(nay là huyện Hoàng Hóa, tỉnh Thanh Hóa).

Đỗ Cử nhân năm 1821, làm đến Đốc học Thanh Hóa.

Tác giả: "Phi điểu nguyên âm".

- NGÔ THÌ SỶ (1726-1780)

Tự Thế Lộc, hiệu Ngọ Phong, thuộc Ngô gia văn phái.

Đậu Tiến sĩ năm 1766, làm quan đến Trấn thủ Lạng Sơn.

Tác giả: "Anh ngôn thi tập", "Quan lan thi tập", "Nhị Thanh động tập", "Khuê ai

lục"...

- NGUYỄN VĂN SIÊU (1796-1872)

Tự Tốn Ban, hiệu Phƣơng Đình, ngƣời làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì (nay thuộc

ngoại thành Hà Nội).

Đỗ Phó bảng năm 1828, có đi sứ Trung Quốc.

166

Tác giả: "Đại Việt địa dư toàn biên" (soạn chung với Bùi Ngọc Quỷ) "Phương Đình

thi văn tập", "Phương Đình văn loại", "Phương Đình thi loại"..

- LÝ TỬ TẤN (1378-1457)

Quê làng Triều Đông, huyện Thƣờng Phúc, đạo Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hà Tây).

Đậu Thái học sinh đời Hồ, đồng khoa với Nguyễn Trãi năm 1400. Từng giữ chức Học

sỷ Viện Hàn lâm.

Tác giả: Tựa "Việt âm thi tập tân tuyển".

- PHAN PHU TIÊN (thế kỵ XV)

Tự Tín Thần, hiệu Mặc Hiên, quê làng Đông Học, huyện Từ Liêm, (nay là ngoại

thành Hà Nội).

Đậu Thái học sinh năm 1399. Làm đến Tri quốc sử Viện.

Tác giả: "Việt âm thi tập" và "Đại việt sử ký tục biên".

- NINH TỐN (1743 - ?)

Tự Khiêm Nhƣ và Hy Chí, hiệu Mẫn Hiên, Chuyết Am và Chuyết Sơn. Quê làng Côi

Trì, huyện Yên Mô, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Ninh Bình).

Đậu Tiến sĩ và làm quan dƣới triều Lê Cảnh Hƣng.

Tác giả: "Chuyết Sơn thi tập" và "Tây hộ mạn hứng".

- VŨ DUY THANH (1810 - ?)

Ngƣời làng Kim Bồng, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.

Đậu Bảng nhãn năm Tự Đức thứ tƣ, làm quan tới chức Quốc tử giám tế tử.

Tác giả: "Bồng châu thi văn tập".

- MIÊN THẨM (1819 - 1870)

167

Hiệu Thƣơng Sơn và Bạch Hào Từ, thƣờng gọi là Tùng Thiện Vƣơng con trai vua

Minh Mệnh.

Tác giả ; "Thương Sơn thi tập".

- Trúc Đào chủ nhân TÔN HÀNH THỊ (chƣa rõ tiểu sử)

- ĐỖ KIÊM THIỆN (thế kỵ XIX)

Ngƣời Nhân Mục, Thanh Trì, Hà Nội.

Đỗ Tiến sĩ năm 1787.

Tác giả : "Kim mã ẩn phu cảm tình lệ tập" (văn).

- NAM SƠN THÚC (chƣa rõ tiểu sử)

- LÊ HY THƢỜNG (chƣa rõ tiểu sử)

- PHẠM PHÚ THỨ (1820-1880)

Hiệu Trúc Đƣờng, biệt hiệu Giá Viên và Trúc An. Ngƣời làng Đông Bàn, huyện Diên

Phƣớc, tỉnh Quảng Nam.

Đậu Tiến sĩ năm 1843, làm quan đến Thƣợng thƣ bộ Hộ. Từng đi sứ sang Pháp năm

1863.

Tác giả : "Tây phù thi thảo", "Giá viên biệt lục", "Trúc Đường tiên sinh thi văn tập",

"Giá Viền toàn tập" (gồm 26 quyển).

- NGUYỄN TRÃI (1380 - 1442)

Hiệu Úc Trai, quê làng Chi Ngại, huyện Phƣợng Sơn (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh

Hải Hƣng).

Đậu Thái học sinh năm 1400, có làm quan đời Hồ, sau là mƣu sĩ số một của Lê Lợi

trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Tác' giả: "Quân trung từ mệnh tập", "Bình Ngô đại cáo", "Lam Sơn thực lục", "Dư

địa chí", "Chí Linh sơn phú", "ức Trai thi tập", "Quốc âm thi tập" "Băng Hồ di sự lục"...

- LÊ HỮU TRÁC (1721-1790)

168

Còn có tên Lê Hữu Huân, hiệu Hải Thƣợng Lãn Ông ngƣời thôn Văn Xá, xã Liêu Xá,

huyện Đƣờng Hào, trấn Hải Dƣơng (nay thuộc huyện Mỷ Văn, tỉnh Hải Hƣng).

- NGÔ THÌ TRÍ (1766-?)

Tác giả: "Hải Thượng Y tông tâm tĩnh", "Thượng Kinh ký sự”.

Hiệu Dƣỡng Hạo, thuộc Ngô gia văn phái.

Làm quan đến chức Hữu thị lang bộ Hộ đời Tây Sơn.

- MIÊN TRINH (1820-1897)

Tác giả: "Sóc Nam hành kính".

Tự Khôn Chƣơng, biệt tự Quý Trọng, hiệu Tĩnh Phố, biệt hiệu Vi Dã, thƣờng gọi là

Tuy Lý Vƣơng.

Tác giả: "Vi Dã hợp tập", "Tuy quốc công thi tập", "Nữ phạm diễn nghĩa từ".

- NGUYỄN CƢ TRINH (1716-1767)

Tự là Nghi, hiệu Đạm Am, ngƣời gốc trấn Nghệ An, sau di cƣ vào làng An Hòa,

huyện Hƣơng Trà (nay thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế). Đỗ Hƣơng tiến.

Tác giả: "Đạm Am thi tập", "Quảng Ngãi thập nhị cảnh", "Sãi vãi".

- NGÔ THÌ VỊ (1774-1821)

Còn có tên là Ngô Thì Hƣơng, thuộc Ngô gia văn phái.

Tác giả: "Mai dịch thú dư", "Thù phụng toàn tập", Thành phủ công di thảo".

- NGÔ THẾ VINH (1802-1856)

Hiệu Trúc Đƣờng và Dƣơng Đình, tự Trọng Phu và Trọng Dực, ngƣời làng Bái

Dƣơng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định (nay thuộc tỉnh Nam Hà).

Đậu Tiến sĩ năm 1829, làm quan đến chức Lang trung bộ Lễ.

169

Tác giả: "Bái Dương Ngô tiên sinh", "Bái Dương thư tập", "Ngô Dương Đình văn

tập", "Trúc Đường thi văn thảo"...

- DƢƠNG PHÙNG XUÂN (chƣa rõ tiểu sử)

- ĐỖ HẠ XUYÊN (chƣa rõ tiểu sử)

- TRẦN THẾ XƢƠNG (chƣa rõ tiểu sử)

170

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TIẾNG VIỆT:

A- TÁC PHẨM:

1. CAO XUÂN DỤC: Tựa "Thoại nông lục" - Tạp chí Văn học, Số 3/1978

2. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (tập II) TK X đến TK XVIII - Nxb Văn học, H.,

1962

3. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (Tập III) TK XVIII - giữa TK XIX - Nxb Văn học,

H., 1962

4. Lê Quý Đôn toàn tập (I) - Nxb Khoa học xã hội, H., 1976

5. Lê Quý Đôn toàn tập (II) - Nxb Khoa học xã hội, H. , 1977

6. Lê Quý Đôn Toàn tập (III) - Nxb Khoa học xã hội, H. , 1978

7. LÊ QUÝ ĐÔN: Vân đài loại ngữ (tập I) - Nxb Văn hóa, H., 1962

8. LÊ QUÝ ĐÔN: ''Vân dài loại ngữ (tập II) - Nxb Văn hóa, H.,1962

9. LÊ THỨC HOẠCH: Tựa "Nông sự toàn đồ" - Tạp chí Văn học, Số 3/1978

10. NGÔ THÌ SỶ: Đọc thơ Bạch Cư Dị - Tạp chí Văn học, Số 5/1973

11. Nguyễn Du toàn tập (tập I) - Nxb Văn học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học,

H., 1995

12. Nguyễn Du toàn tập (tập II) - Nxb Văn học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học,

H., 1995

13. NGUYỄN ĐỨC ĐẠT: Nam Sơn tùng thoại - Tạp chí Văn học, Số 1/1974

171

14. NGUYỄN MIÊN TRINH: Tựa "Tĩnh phố thi tập" - Tạp chí Văn học, Số 3/1979

15. Nguyễn Trãi toàn tập - Nxb Khoa học xã hội, H., 1976.

16. PHAN HUY CHÚ : Lịch triều hiến chƣơng loại chú (tập IV) - Nxb Sử học, H. ,

1961

17.1. Tạp chí Văn học, Số 6/1963: Trích đăng ý kiến của nhiều học giả, thi nhân thuộc

thế kỵ XVIII và XIX ở Việt Nam

17.2. Tạp chí Vặn học, Số 9/1968: Trích đăng ý kiến của nhiều học giả, thi nhân thuộc

nhiều thế kỵ ở Việt Nam

17.3. Tạp chí Văn Học, Số 3/1979 : Trích đăng ý kiến của Cao Xuân Dục, Miên Trinh

18. Thơ văn Cao Bá Quát - Nxb Văn học, H., 1984

19. Thơ văn Lý - Trần (tập I) - Nxb Khoa học xã hội, H., 1978

20. Thơ văn Lý - Trần (tập II) - Nxb Khoa học xã hội, H., 1978

21. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nxb Văn học, H., 1983.

22. Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm (tập I) - Nxb Khoa học xã hội, H., 1978

23. Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm (tập II) - Nxb Khoa học xã hội, H., 1978

B. LÝ LUẬN VÀ NGHIÊN CỨU

24. ARNAUĐÔP M.: Tâm lý học sáng tạo văn học - Nxb Văn học, H., 1978

25.1. BAKHTIN M. : Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki - Nxb giáo dục, H., 1993

172

25.2. BAKHTIN M. : Nghệ thuật và trách nhiệm - Văn nghệ Quân đội, Số

11/1995

26. BÙI DUY TÂN : Văn học chữ Hán trong mối tương quan với văn học Nôm ở

Việt Nam - Tạp chí Văn học, Số 2/1995

27. BÙI HẠNH CẨN: Lê Quý Đôn - Nxb Văn hóa, H., 1985

28.1. BÙI VĂN NGUYÊN: Văn chương Nguyễn Trãi - Nxb Đại học và THCN,

H., 1984

28.2. BÙI VĂN NGUYÊN - HÀ MINH ĐỨC: Thơ ca Việt Nam (hình thức và thể

loại) - Nxb Khoa học xã hội, H., 1971

29. CAO XUÂN HUY: Tư tưởng phương Đông - gợi những điểm nhìn tham chiếu

- Nxb Văn học, H., 1995

30. DOÃN CHÍNH (chủ biên): Đại cương lịch sử triết học phương Đông cổ đại -

Nxb Giáo dục, H., 1993

31. DƢƠNG QUẢNG HÀM: Việt Nam văn học sử yếu - Bộ Giáo dục Sài Gòn,

Trung tâm học liệu xuất bản, 1968

32. ĐÀO DUY ANH: Việt Nam văn học sử cương - Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1992

33. ĐỖ ĐỨC HIỂU: Đổi mới phê bình văn học - Nxb Khoa học xã hội và Nxb

Mũi Cà Mau, 1993

34. ĐỖ LAI THÚY: Về một xu hướng đổi mới thi pháp thơ hiện nay - Báo Văn

nghệ, Số 53 /1994

35. 1. ĐỖ VĂN HỴ: Người xưa bàn về văn chương (tập I) - Nxb Khoa học xã hội,

H., 1993

35.2. ĐỖ VĂN HỴ: Thơ với nhà thơ Lê Quý Đôn - Tạp chí Văn học, Số 6/1984

173

35.3. ĐỖ VĂN HỴ: Nhà thơ và tác phẩm - Dẫn luận "Thơ với người xưa" (Tài liệu

đánh máy), Di cảo

36. ĐỔNG TRỌNG MINH: Sơ lược lịch sử Trung Quốc - Nxb Ngoại văn, Bắc

Kinh, 1963

37.1. ĐINH GIA KHÁNH - BÙI DUY TÂN - MAI CAO CHƢƠNG: Văn học Việt

Nam từ thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVIII (Hai tập) -Nxb Đại học và THCN, H:, 1978, 1979

37.2. ĐINH GIA KHÁNH (chủ biên): Điển cố văn học - Nxb Khoa học xã hội, H.,

1977

38.1. ĐINH THỊ MINH HẰNG: Góp phần tìm hiểu những quan điểm văn học của

Lê Quý Đôn - Tạp chí Văn học, Số 5 / 1 9 8 3

38.2. ĐINH THỊ MINH HẰNG: Quan niệm của Lê Quý Đôn về những yếu tố hiện

thực trong văn học - Tạp chí Văn học, Số 3/1992

39. GULAIÉP N. A. : Lý luận văn học - Nxb Đại học và THCN, H., 1982

40. GURÊVICH A. : Những phạm trù văn hóa trung đại (bản dịch in ronéo của

Hoàng Ngọc Hiến)

41.1. HÀ MINH ĐỨC: Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại - Nxb

Khoa học xã hội, H., 1974

41.2. HÀ MINH ĐỨC (chủ biên): Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp

đổi mới - Nxb Sự thật, H. 1991.

42.1. HẦU NGOẠI LƢ - TRIỆU KỴ BÂN - ĐỖ QUỐC TƢỜNG: Học thuyết Tử

Tư Mạnh Tử - Nxb Sự thật, H., 1960

42.2. HẦU NGOẠI LƢ - TRIỆU KỴ BÂN - ĐỖ QUỐC TƢỜNG: Bàn về tư tưởng

cổ đại Trung Quốc - Nxb Sự thật, H., 1961

174

43. HOÀNG TRINH: Từ ký hiệu học đến thi pháp học - NxbKhoa học xã hội, H.,

1992

44. HOÀI THANH - HOÀI CHÂN: Thi nhân Việt Nam - Nxb Văn học, H., 1992

45. HỒ SỶ VỊNH: Đổi mới là sự nghiệp của văn hóa và trí tuệ - Báo Văn nghệ, số

8/1995

46. HUYỀN GIANG: Có những quan niệm về con người cá nhân của phương

Đông không? - Tạp chí Văn học, Số 6/1995.

47. JAKOBSON R.: Thi pháp học - Tài liệu tham khảo sau Đại học, Đại học Sư

phạm Tp. Hồ Chí Minh xuất bản, 1994 (Trần Duy Châu dịch)

48. KENZABURÔ OÊ: Sinh ra từ sự mơ hồ Nhật Bản - Báo Văn nghệ Trẻ, số 3-

1995.

49. KHÂU CHÂN THANH: Lý luận văn học, nghệ thuật cổ điển Trung Quốc -

Nxb Giáo dục, H., 1995

50. KHRAPTRENKÔ M. B.: Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn

học - Nxb Tác phẩm mới, H., 1978

51. KÔNRÁT N. I.: Về khái niệm văn học ở Trung Quốc - Nghiên cứu nghệ thuật,

Số 5+6/ 1981

52. KIM THÁNH THÁN: Phê bình thơ Đường - Đại học Tổng hợp Tp. Hồ Chí

Minh xuất bản, 1990

53. LẠC NAM: Tìm hiểu các thể thơ - từ thơ cổ phong đến thơ luật - Nxb Văn

học, H., 1993

54. LÂM NGỮ ĐƢỜNG: Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa - Nxb Văn hóa,

H., 1994

175

55.1. LÊ BÁ HÁN (chủ biên): Thuật ngữ nghiên cứu văn học - ĐH Sư phạm Vinh

xuất bản, 1974

55.2. LÊ BÁ HÁN - TRẦN ĐÌNH SỬ - NGUYỄN KHẮC PHI: Từ điển thuật ngữ

văn học - Nxb Giáo dục, H., 1992

56.1. LÊ CHÍ DŨNG: Về quan niệm văn học của Nguyễn Đình Chiểu - Tạp chí

Khoa học, Đại học và THCN, Số 3/1993

56.2. LÊ CHÍ DŨNG: Thử nhìn lại con sông văn học Việt Nam - Lang Bian, Số

5/1995

57.1. LÊ ĐÌNH KỲ. Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực - Hội Nhà văn Tp. Hồ Chí

Minh xuất bản, 1993

57.2. LÊ ĐÌNH KỲ: Tìm hiểu văn học - Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1984

58. LÊ HUY TIÊU: Chuyện xếp ngôi thứ trong làng văn ở Trung Quốc - Báo Văn

nghệ, Số 39/1995.

59. LÊ NGỌC TRÀ: Lý luận và văn học - Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 1990.

60.1. LÊ TRÍ VIỄN (chủ biên): Lịch sử văn học Việt Nam (tập 3 và tập 4A) - Nxb

Giáo dục, H., 1976

60.2. LÊ TRÍ VIỄN: Đặc điểm có tính quy luật của lịch sử văn học Việt Nam - Đại

học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh xuất bản năm 1984

6 1 . LỘC PHƢƠNG THỦY (chủ biên). Phê bình văn học Pháp thế kỷ XX - Nxb

Văn học, H., 1995

62.1. LISEVICH I.S: Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa (Trần Đình Sử dịch) -

Đại học SP Tp. Hồ Chí Minh xuất bản, 1993

62.2. LISEVICH I.S.: Trao đổi khoa học tại Viện Văn học - Tạp chí Văn học, Số

5/1994

176

63.1. MAI QUỐC LIÊN: Ngô Thì Nhậm trong văn học Tây Sơn - Sở VHTT Nghĩa

Bình, 1985

63.2. MAI QUỐC LIÊN: Dưới gốc me vườn Nguyễn Huệ - Sở VHTT Nghĩa Bình,

1986

63.3. MAI QUỐC LIÊN: Lời giới thiệu "Nguyễn Du toàn tập" -Nxb Văn học và

Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 1995

64. NGÔ TẤT TỐ: Lão Tử - Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1992

65. NGUYỄN BÁ THÀNH: Tư duy thơ và tư duy thơ Việt Nam hiện đại - Nxb

Văn học, H., 1995.

66.1. NGUYỄN DUY CẦN: Dịch học tinh hoa - Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1993

66.2. NGUYỄN DUY CẦN : Trang tử tinh hoa - Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1992

66.3. NGUYỄN DUY CẦN: Lão Tử tinh hoa - Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1992

67. NGUYỄN ĐĂNG MẠNH: Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn -

Nxb Giáo dục, H., 1994

68.1. NGUYỄN ĐĂNG THỤC: Lịch sử triết học phương Đông (5 tập) - Nxb Tp. Hồ

Chí Minh, 1991

68.2. NGUYỄN ĐĂNG THỤC: Lịch sử tư tưởng Việt Nam ( 3 tập) - Nxb Tp. Hồ

Chí Minh, 1992

69. NGUYỄN ĐỔNG CHI: Việt Nam cổ văn hóa sử - Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh,

1993

70. NGUYỄN ĐỨC DÂN: Những vấn đề lý luận của văn học so sánh - Nxb Khoa

học xã hội, H., 1995

177

71. NGUYỄN HOÀNG PHƢƠNG: Tích hợp đa văn hóa Đông Tây cho một chiến

lược giáo dục tương lai - Nxb Giáo dục, H., 1995

72. NGUYỄN HỮU LƢỢNG: Kinh dịch với vũ trụ quan phương Đông - Nxb Trẻ,

Tp. Hồ Chí Minh, 1992

73.1. NGUYỄN HUỆ CHI: Từ nghĩa rộng và hẹp của hai chữ "văn học" trong

quá khứ đến việc phân loại các loại hình văn học thời Lý Trần - Tạp chí Văn học, Số

5 / 1976

74. NGUYỄN HỮU SƠN: Về con người cá nhân trong thơ Nguyễn Trãi - Tạp chí

Văn học, Số 9/1995

75. NGUYỄN LỘC: Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ

XIX (tập I, II) - Nxb Đại học và THCN, H., 1976 và 1978

76. NGUYỄN MINH TÂN (chủ biên): Từ trong di sản... - Nxb Tác phẩm mới, H.,

1981

77. NGUYỄN NGUYÊN TRỨ: Thơ và thẩm bình thơ - Nxb Giáo dục, H., 1991

78. NGUYỄN PHAN CẢNH: Ngôn ngữ thơ - Nxb Đại học và THCN, H., 1987

79. NGUYỄN TIẾN ĐOÀN: Lương nghi tương phùng: nguồn gốc quan niệm của

văn học Trung Quốc - Sông Phố (Hội Văn nghệ Đồng Nai), Số 29/1995

80. NGUYỄN THỊ DƢ KHÁNH: Phân tích tác phẩm văn học nhìn từ góc độ thi

pháp - Nxb Giáo dục, H., 1995

81. NGUYỄN VĂN ĐƢỜNG: Công việc bình thơ của Hoài Thanh - Tạp chí Văn

học, Số 5 / 1 9 9 5

82. OCTAVIO PAZ: Đi tìm thời hiện đại - Tạp chí Văn học, Số 5/1994

178

83.1. PHAN NGỌC: Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều - Nxb Khoa

học xã hội, H., 1985

83.2. PHAN NGỌC: Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới - Nxb Văn hóa Thông

tin, H., 1994

84. PHONG LÊ (chủ biên): Văn học và hiện thực - Nxb Khoa học xã hội, H., 1990

85.1. PHƢƠNG LỰU: Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam - Nxb Giáo dục, H.,

1985

85.2. PHƢƠNG LỰU: Đôi điểm khác biệt giũa lý luận văn học Đông - Tây - Tạp

chí Văn học, số 11-1995

85.3. PHƢƠNG LỰU: Vài nét về lý luận văn học và mỹ học cổ điển Trung Quốc -

Tạp chí Văn học, Số 6/1971

85.4. PHƢONG LỰU: Giới thiệu "Văn tâm điêu long" của Lưu Hiệp - Thông báo

nghệ thuật, Số 12/1975

85.5. PHƢƠNG LỰU: Theo Kinh dịch, văn là gì? - Báo Văn nghệ, Tết Bính Tý

1996.

85.6. PHƢƠNG LỰU: Thuyết "Di tình" trong văn nghệ - Báo Văn nghệ, Số

86. THÀNH DUY: Về tính dân tộc trong văn học - Nxb Khoa học xã hội, H., 1982

42/1994

87. THẾ MẠC: Thơ thế nào là hay - Tản viên sơn (Hội văn nghệ Hà Tây), Số

88.1. TRẦN ĐÌNH HƢỢU - LÊ CHÍ DŨNG: Văn học Việt Nam giai đoạn giao

8+9/1994

thời (1900 -1930) - Nxb Đại học và THCN, H., 1988

88.2. TRẦN ĐÌNH HƢỢU: Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại - Nxb

Văn hóa Thông tin, H., 1995

179

89.1. TRẦN ĐÌNH SỬ: Thi pháp thơ Tố Hữu - Nxb Tác phẩm mới, H., 1987 89.2. TRẦN ĐÌNH SỬ: Thời trung đại - cái tôi trong các học thuyết trong đời

sống - Tạp chí Văn học, Số 7/1995

89.3. TRẦN ĐÌNH SỬ: Giáo sư Trần Đình Hượu với việc nghiên cứu văn hóa

truyền thống - Báo Văn nghệ, Số 8/1995

90. TRẦN NGHĨA: Góp phần tìm hiểu "Văn dĩ tải đạo" trong văn học cổ Việt

Nam - Tạp chí Văn học, Số 2/1970

91. TRẦN NGỌC VƢƠNG: Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam (loại hình học tác

giả văn học) - Nxb Giáo dục, H., 1995

92. TRẦN NHO THÌN: Nhìn lại quan hệ giữa văn và đạo - Tạp chí Khoa học, Đại

học Tổng hợp Hà Nội, Số 2/1990.

93.1. TRẦN THANH ĐẠM: Thơ mới (1930-1945) và thơ hôm nay - Báo Văn nghệ,

Số 45/1994

93.2. TRẦN THANH ĐẠM: Ý nghĩa lịch sử và giá trị nhân văn của văn chương

dân tộc 50 năm qua - Báo Văn nghệ, Số 4 9 / 1 9 9 5

94. TRẦN THANH MẠI: Tìm hiểu quan niệm văn học của Lê Quý Đôn -Tạp chí

Văn học, số 4-1960

95. TRẦN TRỌNG KIM: Nho giáo - Nxb TP.HỒ Chí Minh, 1992

96.1. TRẦN VĂN GIÀU: Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ TK XIX đến

Cách mạng tháng Tám (tập I), Nxb Khoa học xã hội, H., 1973

96.2. TRẦN VĂN GIÀU: Triết học và tư tưởng - Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1988

97. TRƢƠNG CHÍNH: Hương hoa đất nước - N x b V ă n học, H., 1979

180

98. SUZUKY: Đại cương triết học Trung Quốc - Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1992

99. Báo Văn nghệ các số: 17/1994, 38/1994, 45/1994, 50/1994, 50/1995... có đăng ý

kiến của nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu nƣớc ngoài.

100. VŨ ĐÚC PHÚC: Thế nào là thơ hay? - Báo Văn nghệ, Số 47/1994

101. VŨ HẠNH: Đọc lại Truyện Kiều - Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh, 1993

102. VŨ KHIÊU: Anh hùng và nghệ sỹ - Nxb Văn học Giải phóng, 1975.

103. VŨ NGỌC KHÁNH. Truyền thống phê bình trong văn học ta - Tạp chí Văn

học, Số 4 /1969.

104. XUÂN DIỆU: Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (tập I) - Nxb Văn học, H., 1981

TIẾNG NGA

105. GRIN TSER P. : Poetika slova, Voproxƣ literaturƣi, 1-1984.

106. NIKULIN N. L.: Vietnamxkaia literatura X-XDC, M., 1977

107. LIKHACHEV Đ.X.: Poetika drevneruxxkoi literaturưi, Khuđôgiextvennaia

literatura, L. 1967

108. OBXIANNIKOB M. PH.: Ixtoria extetitrxkoi muxli, M., Vuxsaia skola, 1984.

109. POXPELOB G. N.: Teoria literaturui, M., Vuxsaia skola, 1978

110. TATARKEVICH V.: Đrevnhia extetika, Ixkuxxtvo, M., 1977