BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

_______________________________________________

HOÀNG THỊ MAI HƯƠNG QUAN HỆ CHÍNH TRỊ - AN NINH, KINH TẾ GIỮA NHẬT BẢN VÀ MỸ TỪ NĂM 1951 ĐẾN NĂM 1960 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ NGHỆ AN - 2023

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

_______________________________________________

HOÀNG THỊ MAI HƯƠNG QUAN HỆ CHÍNH TRỊ - AN NINH, KINH TẾ GIỮA NHẬT BẢN VÀ MỸ TỪ NĂM 1951 ĐẾN NĂM 1960 Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới Mã số: 9229011 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. PHẠM NGỌC TÂN 2. PGS.TS. VĂN NGỌC THÀNH

NGHỆ AN - 2023

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận án là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Nếu sai sót tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Nghiên cứu sinh

Hoàng Thị Mai Hương

ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin được tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Phạm Ngọc Tân và

PGS.TS Văn Ngọc Thành đã luôn hướng dẫn, đồng hành, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.

Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Khoa Lịch sử, Trường Sư phạm,

Trường Đại học Vinh đã nhiệt tình giúp đỡ, góp ý cho tôi trong quá trình thực hiện

Luận án.

Tôi xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã luôn động viên, khích lệ

và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện Luận án này.

Tác giả Luận án

Hoàng Thị Mai Hương

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................i LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii MỤC LỤC ................................................................................................................ iii DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .................................................................................... v DANH MỤC BẢNG, BIỂU .................................... Error! Bookmark not defined. MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...................................... 6 1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ................................................................. 6 1.1.1. Các công trình nghiên cứu chính sách đối ngoại của Nhật Bản và Mỹ .......... 6 1.1.2. Các công trình nghiên cứu quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản - Mỹ .................................................................................................. 11 1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam ................................................................. 17

1.2.1. Những công trình đề cập đến chính sách đối ngoại của Nhật Bản và Mỹ ....................................................................................................... 17 1.2.2. Những công trình đề cập đến quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế Nhật Bản - Mỹ .................................................................................................. 20

1.3. Nhận xét về tình hình nghiên cứu và những vấn đề luận án cần tập trung giải quyết ..................................................................................................... 22 1.3.1. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu ................................................ 22 1.3.2. Những vấn đề luận án cần tập trung giải quyết ...................................... 24

Chương 2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ CHÍNH TRỊ - AN NINH, KINH TẾ GIỮA NHẬT BẢN VÀ MỸ TỪ NĂM 1951 ĐẾN NĂM 1960 ....................................................................................................... 25 2.1. Tình hình quốc tế và khu vực châu Á - Thái Bình Dương ............................ 25 2.1.1. Sự hình thành Trật tự thế giới hai cực và cuộc Chiến tranh lạnh ........... 25 2.1.2. Sự phát triển của Liên Xô, hệ thống XHCN và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới ............................................................................... 28 2.1.3. Sự ra đời và phát triển của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ......... 31 2.1.4. Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam .................................. 33 2.2. Quan hệ Nhật Bản - Mỹ trước năm 1951 ...................................................... 36 2.2.1. Quan hệ Nhật Bản - Mỹ trước năm 1945 ............................................... 36 2.2.2. Quan hệ Nhật Bản - Mỹ từ năm 1945 đến năm 1951 ............................. 38

2.3. Tình hình Nhật Bản và chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Mỹ (1951 - 1960) .......................................................................................................... 43 2.3.1. Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của Nhật Bản (1951 - 1960) ........... 43 2.3.2. Chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Mỹ (1951 - 1960) ............. 46

2.4. Tình hình Mỹ và chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Nhật Bản (1951 - 1960) ....................................................................................................... 50

iv

2.4.1. Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Mỹ (1951 - 1960) ........................... 50 2.4.2. Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Nhật Bản (1951 - 1960) ............. 51 2.5. Vai trò của các nhà lãnh đạo Nhật Bản và Mỹ .............................................. 57 2.5.1. Thủ tướng Nhật Bản Yoshida Shigeru và Kishi Nobusuke ................... 57 2.5.2. Tổng thống Mỹ Harry Truman và Dwight David Eisenhower .............. 59 Tiểu kết chương 2 ................................................................................................. 62

Chương 3. THỰC TRẠNG QUAN HỆ CHÍNH TRỊ - AN NINH, KINH TẾ GIỮA NHẬT BẢN VÀ MỸ TỪ NĂM 1951 ĐẾN NĂM 1960 ..................... 64 3.1. Quan hệ chính trị - an ninh ............................................................................ 64

3.1.1. Tiến trình phát triển của quan hệ chính trị - an ninh Nhật Bản - Mỹ (1951 - 1960) .................................................................................................... 64 3.1.2. Quan hệ chính trị - an ninh Nhật Bản - Mỹ trong các vấn đề cụ thể (1951 - 1960) .................................................................................................... 78 3.2. Quan hệ kinh tế .............................................................................................. 92

3.2.1. Tiến trình phát triển của quan hệ kinh tế Nhật Bản - Mỹ trong những năm 1951 - 1960 .................................................................................... 92 3.2.2. Các lĩnh vực trong quan hệ kinh tế ......................................................... 99 Tiểu kết chương 3 ............................................................................................... 108

Chương 4. NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ CHÍNH TRỊ - AN NINH, KINH TẾ GIỮA NHẬT BẢN VÀ MỸ TỪ NĂM 1951 ĐẾN NĂM 1960 ................... 109

4.1. Kết quả và hạn chế của quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 1951 - 1960 ................................................................................... 109 4.1.1. Kết quả .................................................................................................. 109 4.1.2. Hạn chế ................................................................................................. 114

4.2. Tác động của quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ giai đoạn 1951 - 1960 ................................................................................. 117 4.2.1. Đối với Nhật Bản ................................................................................ 117 4.2.2. Đối với Mỹ ........................................................................................... 123 4.2.3. Đối với khu vực và quốc tế .................................................................. 126

4.3. Đặc điểm của quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 1951 - 1960 ................................................................................................ 128 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 146 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ .............................................................................................................. 150 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 151 PHỤ LỤC .............................................................................................................. PL1

v

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

A. Tiếng Anh TT Viết tắt

1 ANZUS Tiếng Anh Australia, New Zealand, United States Security Treaty

5 GATT

2 CENTO Central Treaty Organization Central Intelligence Agency 3 CIA European Union 4 EU General Agreement on Tariffs and Trade Gross Domestic Product 6 GDP Nghĩa tiếng Việt Hiệp ước An ninh Australia, New Zealand và Mỹ Tổ chức Hiệp ước Trung tâm Cục Tình báo Trung ương Mỹ Liên minh châu Âu Hiệp ước chung về thuế quan và thương mại Tổng sản phẩm quốc nội

7 GNP Gross National Product Tổng sản phẩm quốc gia

8 FEFTCL Foreign Exchange and Foreign Trade Control Law

9 IMF International Monetary Fund

10 MAP Military Assistance Program

11 MITI

Treaty Atlantic 12 NATO

the fo 13 SCAP Luật trao đổi với nước ngoài và kiểm soát ngoại thương của Nhật Bản Quỹ Tiền tệ quốc tế Chương trình hỗ trợ quân sự của Mỹ Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế của Nhật Bản Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương Chỉ huy tối cao các lực lượng Đồng minh

Treaty Asia Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á 14 SEATO

Ministry of International Trade and Industry North Organization Supreme Commander Allied Powers Southeast Organization United States dollar World Bank Đô la Mỹ Ngân hàng Thế giới

Viết tắt Nghĩa tiếng Việt

15 USD 16 WB B. Tiếng Việt TT 1 CHND 2 CHDCND 3 CHDC 4 CNCS 5 CNTB 7 CNXH 8 GPDT 10 Nxb 12 TBCN 13 XHCN Cộng hoà nhân dân Cộng hoà dân chủ nhân dân Cộng hòa dân chủ Chủ nghĩa cộng sản Chủ nghĩa tư bản Chủ nghĩa xã hội Giải phóng dân tộc Nhà xuất bản Tư bản chủ nghĩa Xã hội chủ nghĩa

vi

6

Bảng Bảng 2.1. Tỷ lệ học sinh Nhật Bản đi học qua các năm ........................................... 46 Bảng 2.2. Giá trị viện trợ và cho vay về kinh tế của Mỹ đối với Nhật Bản (1948 -1960) .............................................................................................................. 56 Bảng 3.1. Những nội dung thể hiện mức độ quan hệ Mỹ - Nhật Bản (1951-1960) ....... 77 Bảng 3.2. Hỗ trợ quân sự của Mỹ dành cho thế giới và Nhật Bản (1951-1960) ........... 90 Bảng 3.3. Giá trị hàng hóa và dịch vụ của Mỹ trong Chiến tranh Triều Tiên .......... 93 Bảng 3.4. Chỉ số kinh tế Nhật Bản trong và sau Chiến tranh Triều Tiên ................. 94 Bảng 3.5. Tăng giá của Nhật Bản (so sánh với Mỹ, Anh) trong Chiến tranh Triều Tiên .................................................................................................................. 95 Bảng 3.6. Giá trị xuất, nhập khẩu của Nhật Bản (1951 - 1960) ................................ 98 Bảng 3.7. Cán cân thương mại của Nhật Bản với Mỹ (1951 - 1960) ..................... 101 Bảng 3.8. Khối lượng xuất nhập khẩu giữa Nhật Bản với Mỹ và các khu vực năm 1950, 1955, 1960 ............................................................................................. 102 Bảng 3.9. Đầu tư trực tiếp của Mỹ đến các quốc gia, khu vực trong các năm 1951, 1955, 1960 ..................................................................................................... 105 Bảng 3.10. Đầu tư của Mỹ ở Nhật Bản, Indonesia, Philippines (1951-1960) ................ 106 Bảng 4.1. Giá trị xuất khẩu của Mỹ đến Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines ............... 125 Bảng 4.2. Chi tiêu quân sự của Mỹ (hàng hoá và dịch vụ) ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines và Thái Lan (1953 - 1960) ......................................................... 142

Biểu Biểu 4.1. Thị phần của Mỹ trong thương mại Nhật Bản (1931-1977) ................... 112 Biểu 4.2. Tốc độ tăng sản phẩm quốc dân Nhật Bản (tính theo giá cố định) những năm 1953 - 1960 .......................................................................................... 120

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Quan hệ Nhật Bản và Mỹ có lịch sử lâu dài và trải qua nhiều thăng trầm. Từ

giữa thế kỷ XIX, Mỹ đã “mở cửa” Nhật Bản và buộc quốc gia này phải ký kết các hiệp ước bất bình đẳng. Từ đó, Nhật Bản trở thành điểm dừng chân quan trọng của Mỹ ở

châu Á. Dưới thời Minh Trị, Nhật Bản từng bước đấu tranh và giành được quyền bình

đẳng hơn trong quan hệ với Mỹ. Trong gần 50 năm đầu thế kỷ XX, về cơ bản Nhật Bản

và Mỹ trở thành hai đối thủ cạnh tranh trong quá trình tìm kiếm thị trường và mở rộng ảnh hưởng ở châu Á - Thái Bình Dương. Đặc biệt, trong Chiến tranh thế giới thứ hai,

hai nước trở thành đối thủ trực tiếp trên chiến trường. Sau khi chiến tranh kết thúc,

Nhật Bản là nước bại trận và Mỹ được quyền thay mặt các nước Đồng minh chiếm

đóng Nhật Bản.

Ngày 8/9/1951, Hiệp ước Hoà bình San Francisco được ký kết, mở ra trang

mới trong lịch sử Nhật Bản. Theo đó, kể từ ngày Hiệp ước có hiệu lực, tình trạng

chiến tranh giữa Nhật Bản và các nước Đồng minh chấm dứt. Cùng ngày, Hiệp ước

An ninh Nhật - Mỹ cũng được ký kết, đánh dấu một bước ngoặt trong quan hệ giữa

Nhật Bản và Mỹ. Với hai hiệp ước này, quan hệ hai nước đã chuyển sang giai đoạn

mới. Đến ngày 19/1/1960, hai nước tiếp tục ký Hiệp ước hợp tác và an ninh tương

hỗ Nhật - Mỹ, đánh dấu sự củng cố của mối quan hệ đồng minh.

Quan hệ đồng minh giữa Nhật Bản và Mỹ được hình thành trong bối cảnh

cuộc Chiến tranh lạnh bước vào giai đoạn căng thẳng, quan hệ Mỹ - Xô đối đầu,

tình hình quốc tế và khu vực diễn biến rất phức tạp. Chính vì vậy, mối quan hệ này chịu ảnh hưởng sâu sắc của tình hình quốc tế, đồng thời thể hiện một cách rõ

nét sự toan tính lợi ích quốc gia của mỗi nước.

Quan hệ Nhật Bản và Mỹ giai đoạn 1951-1960 có vị trí hết sức đặc biệt trong lịch sử quan hệ hai nước. Đây là giai đoạn mở ra một trang mới trong lịch sử Nhật Bản khi quốc gia này chấm dứt số phận bị chiếm đóng và được đối xử bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Đây cũng là giai đoạn tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, căng thẳng. Bởi vậy, việc Nhật Bản và Mỹ thiết lập quan hệ đồng minh được xem là kết quả tất yếu của sự tác động những nhân tố chủ quan và khách quan. Việc hai nước thiết lập, tăng cường và củng cố quan hệ đồng minh không chỉ nhằm phục vụ

cho mục tiêu, lợi ích của mỗi nước, mà còn đặt cơ sở vững chắc cho quan hệ song

phương giữa hai nước trong giai đoạn sau. Trong giai đoạn 1951- 1960, quan hệ

2

Nhật Bản và Mỹ được triển khai toàn diện, tuy nhiên quan hệ chính trị - an ninh và

kinh tế là những lĩnh vực nổi bật và quan trọng nhất.

Do đó, nghiên cứu, làm sáng rõ quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật

Bản và Mỹ trong giai đoạn 1951 - 1960 là việc làm cần thiết, có ý nghĩa khoa học

và ý nghĩa thực tiễn:

Về mặt khoa học: Nghiên cứu quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản

và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960 sẽ làm sáng rõ những nhân tố tác động, thực trạng

mối quan hệ song phương, đánh giá kết quả, hạn chế, tác động và đặc điểm của nó.

Qua nghiên cứu vấn đề này, có thể thấy được sự vận động của mối quan hệ giữa hai

nước trong bối cảnh cuộc Chiến tranh lạnh và những toan tính của mỗi nước.

Nghiên cứu quan hệ Nhật Bản - Mỹ trong giai đoạn 1951 - 1960 sẽ góp phần

lý giải sự thành công của Nhật Bản, đồng thời hiểu rõ hơn chiến lược toàn cầu của

Mỹ trong bối cảnh quốc tế phức tạp lúc bấy giờ.

Về mặt thực tiễn: Trên nền tảng được thiết lập từ năm 1951, quan hệ đồng

minh giữa Nhật Bản và Mỹ mặc dù xảy ra không ít khó khăn, thách thức, nhưng

về cơ bản luôn được củng cố và phát triển. Đến nay, quan hệ Nhật - Mỹ vẫn là

một trong những mối quan hệ đồng minh vững chắc. Hai nước vẫn đóng vai trò

quan trọng trong chính sách của nhau và trở thành mối quan hệ điển hình trong

quan hệ quốc tế.

Với những lý do nêu trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề: “Quan hệ chính trị -

an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960" làm đề tài

luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử thế giới của mình.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa

Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960.

Phạm vi nghiên cứu

Về thời gian: Thời gian mà luận án tập trung nghiên cứu là từ năm 1951 đến

năm 1960. Tác giả xác định mốc mở đầu là ngày 8/9/1951 - ngày ký Hiệp ước Hoà

bình San Francisco và Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ, tạo ra bước chuyển biến căn bản

trong quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ. Mốc kết thúc là ngày 19/1/1960 - ngày ký Hiệp

ước hợp tác và an ninh tương hỗ Nhật - Mỹ. Đây là sự kiện thể hiện sự củng cố quan

hệ song phương giữa hai nước Nhật, Mỹ.

3

Tuy nhiên, để đảm bảo tính liên tục và hệ thống, luận án còn đề cập khái quát

đến quan hệ Nhật Bản - Mỹ thời kỳ trước năm 1951 cũng như có những đánh giá, nhận xét về quan hệ giữa hai nước giai đoạn sau.

Về không gian: Không gian nghiên cứu chính của luận án là Nhật Bản và

Mỹ. Mặc dù vậy, do quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế giữa hai nước trong giai đoạn 1951 - 1960 diễn ra trong bối cảnh quốc tế hết sức phức tạp, chịu sự tác động

lớn của nhiều nhân tố ở khu vực nên luận án có đề cập đến khu vực châu Á - Thái

Bình Dương ở những thời điểm khác nhau.

Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế song phương giữa Nhật Bản và Mỹ trong giai đoạn 1951 - 1960. Bởi đây là

những lĩnh vực quan trọng và nổi bật nhất, thể hiện bản chất của quan hệ hai nước

giai đoạn này. Quan hệ chính trị - an ninh chủ yếu xoay quanh vấn đề sự hình thành,

triển khai quan hệ đồng minh giữa hai nước. Quan hệ kinh tế tập trung vào lĩnh vực

thương mại và đầu tư. Luận án không nghiên cứu quan hệ chính trị - an ninh và kinh

tế giữa hai nước trong các diễn đàn đa phương. Trong luận án, diễn đàn đa phương

chỉ được tiếp cận dưới góc độ tham chiếu, bổ trợ cho việc làm rõ quan hệ song

phương giữa hai nước.

Ngoài giới hạn về thời gian, không gian và nội dung nói trên, những vấn đề

khác không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu của luận án là phục dựng quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ trên lĩnh

vực chính trị - an ninh và kinh tế giai đoạn 1951 - 1960. Từ đó, đánh giá kết quả đạt được, hạn chế và tác động của mối quan hệ này đối với từng nước, khu vực, quốc

tế; đồng thời rút ra những đặc điểm của mối quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa

hai nước giai đoạn 1951-1960.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án được xác định là: - Thứ nhất, phân tích những nhân tố tác động đến quan hệ chính trị - an ninh

và kinh tế Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 1951 - 1960.

- Thứ hai, phân tích tiến trình và những nội dung chủ yếu trong quan hệ

chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 1951 - 1960.

- Thứ ba, đánh giá, nhận xét về quan hệ chính trị - an ninh và quan hệ kinh tế

giữa Nhật Bản và Mỹ trong giai đoạn 1951 - 1960. Trong đó tập trung làm rõ những

4

kết quả đạt được, hạn chế; tác động đối với từng nước, khu vực, quốc tế; những đặc

điểm của mối quan hệ này.

4. Nguồn tài liệu

Tài liệu gốc: Bao gồm các hiệp ước, hiệp định, thoả thuận hợp tác; tuyên bố

chung giữa hai nước; các báo cáo thống kê về quan hệ giữa hai nước của Bộ Ngoại giao Nhật Bản và Mỹ; các bài phát biểu, diễn văn của lãnh đạo hai nước được tập

hợp trong các tập tư liệu hoặc đăng tải trên báo chí, website chính thống…

Tài liệu tham khảo: Bao gồm các sách chuyên khảo, sách tham khảo bằng tiếng

Anh, tiếng Nhật, tiếng Việt về quan hệ Nhật Bản - Mỹ và các vấn đề liên quan; các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ trong và ngoài nước liên quan đến quan hệ Nhật Bản -

Mỹ; các bài báo khoa học bằng tiếng Việt và tiếng Anh được đăng tải đăng trên các

tạp chí trong nước và quốc tế; các kỷ yếu hội thảo khoa học có nội dung liên quan

đến đề tài; các trang tin của website chính thức của Bộ Ngoại giao Nhật Bản và Mỹ,

các bài viết được đăng tải trên các website có độ tin cậy cao trong và ngoài nước…

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài vận dụng và quán triệt quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng,

chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; vận

dụng quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về các vấn đề quan hệ quốc tế để

nghiên cứu quan hệ Nhật Bản - Mỹ.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu chuyên ngành là phương

pháp lịch sử và phương pháp logic. Phương pháp lịch sử nhằm tái hiện quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 1951 - 1960 dưới góc độ lịch

sử. Phương pháp logic giúp tác giả có những phân tích, nhìn nhận, đánh giá khách

quan về mối quan hệ này.

Đối tượng nghiên cứu của luận án thuộc lĩnh vực quan hệ quốc tế, vì vậy, tác giả còn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu chuyên ngành quan hệ quốc tế như tổng hợp, so sánh, phân tích giải thích, phân tích nội dung, phân tích sự kiện… Với các phương pháp này, quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960 được đặt trong bối cảnh quan hệ quốc tế, được tái hiện một cách khách quan và được đánh giá một cách đa chiều, khoa học.

Ngoài ra, đối tượng nghiên cứu của luận án cũng thuộc lĩnh vực kinh tế, bởi

vậy, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chuyên ngành kinh tế như

5

thống kê, lập bảng so sánh, biểu đồ, định tính, định lượng, diễn dịch, quy

nạp…nhằm làm sáng rõ nội dung quan hệ kinh tế giữa hai nước Nhật - Mỹ.

6. Đóng góp của luận án

Đây là công trình đầu tiên ở Việt Nam tập trung nghiên cứu quan hệ chính trị

- an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960. Vì vậy, đóng góp của luận án là:

- Phục dựng một cách có hệ thống, chân thực và khách quan quan hệ chính

trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ trong giai đoạn 1951 - 1960.

- Tập trung phân tích, làm sáng rõ những nhân tố tác động (dưới ba cấp độ thế giới, khu vực, quốc gia và cá nhân), tiến trình, nội dung cụ thể trong quan hệ giữa

Nhật Bản và Mỹ trên lĩnh vực chính trị - an ninh và kinh tế trong giai đoạn 1951 -

1960. Trên cơ sở đó, rút ra những đánh giá, nhận xét về mối quan hệ này.

- Quan hệ Nhật Bản - Mỹ nói chung, quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế

giữa hai nước giai đoạn 1951- 1960 nói riêng là mối quan hệ điển hình trong quan hệ

quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai, gắn với bối cảnh thế giới vô cùng phức tạp.

Đến nay, quan hệ đồng minh giữa hai nước không ngừng được củng cố và được xem

là một trong những liên minh bền vững nhất thế giới. Nội dung của luận án sẽ góp

phần làm rõ bản chất của mối quan hệ này.

- Luận án hệ thống hóa và bổ sung tư liệu mới về quan hệ chính trị - an ninh,

kinh tế Nhật Bản - Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960; là tài liệu tham khảo bổ ích cho

công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập lịch sử Nhật Bản, lịch sử Mỹ, quan hệ hai

nước và quan hệ quốc tế thời hiện đại.

7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của luận án bao

gồm 4 chương:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu. Chương 2. Những nhân tố tác động đến quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế

giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960.

Chương 3. Thực trạng quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và

Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960.

Chương 4. Nhận xét về quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và

Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960.

6

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ trên lĩnh vực chính trị - an ninh và kinh tế cũng

như các lĩnh vực khác đã được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm ở

những mức độ khác nhau. Trên cơ sở những công trình và tài liệu tiếp cận được, chúng tôi nhận thấy vấn đề này đã được đề cập đến ở một số góc độ sau đây:

1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

Quan hệ Nhật - Mỹ là là đề tài thu hút nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan

tâm ở những góc độ khác nhau. Trên cơ sở nguồn tài liệu chúng tôi tiếp cận được, luận án bước đầu nhìn nhận một số vấn đề liên quan với hai nhóm nội dung sau:

1.1.1. Các công trình nghiên cứu chính sách đối ngoại của Nhật Bản và Mỹ Chính sách đối ngoại của hai nước, trong đó có giai đoạn 1951 - 1960 thu hút

nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới tham gia với những công trình tiêu biểu sau đây:

Về chính sách đối ngoại của Nhật Bản, tác giả Irie Akira với công trình: Ngoại

giao Nhật Bản: Sự lựa chọn của Nhật Bản trong thời đại toàn cầu hoá, (Nguyễn Đức

Minh, Lê Thị Bình dịch, Nxb Tri thức, 2012). Cuốn sách phác họa lịch sử ngoại giao

Nhật Bản từ những năm 1940 đến năm 1990; đi sâu phân tích vai trò của Nhật Bản

trên trường quốc tế, đặc biệt trong mối quan hệ lịch sử với các nước châu Á. Chương

2 với tiêu đề: “Sự khởi đầu lại của ngoại giao Nhật Bản” có đề cập ít nhiều đến những

nội dung liên quan đến luận án mà chúng tôi thực hiện như: “Quân sự hoá trong

Chiến tranh lạnh”; “Hiệp ước Hoà bình và thể chế San Fransisco”; “Nhu cầu đặc biệt

của Triều Tiên” và “Quan hệ thương mại Nhật - Trung”…

Cũng tác giả Irie Akira có Ngoại giao Nhật Bản (từ Minh trị Duy tân đến hiện đại) (Nguyễn Đức Minh, Lê Thị Bình dịch, Nxb Tri thức, 2013). Công trình

này nghiên cứu công phu về nền ngoại giao Nhật Bản từ thời Minh Trị đến thời kỳ Chiến tranh lạnh. Tác giả đã phân tích sâu những chính sách ngoại giao lớn mà Nhật Bản đã triển khai trong giai đoạn 1951 - 1960. Tác giả tập trung vào “Chính sách ngoại giao kinh tế” của Nhật Bản thời kỳ Yoshida, cũng như tác động của những yếu tố bên ngoài đến việc thực thi nền ngoại giao Nhật Bản như cuộc Chiến tranh Triều Tiên, quan hệ Xô - Mỹ, quan hệ Trung - Mỹ…

Tác giả Tadao Umesao có cuốn, Lịch sử nhìn từ quan điểm sinh thái học: Văn minh Nhật Bản trong bối cảnh thế giới. Sách xuất bản lần đầu năm 1964, được dịch ra tiếng Việt do Nxb Thế giới ấn hành năm 2007. Cuốn sách cung cấp một

7

cách nhìn độc đáo về Nhật Bản và thế giới, đặt hiện tượng Nhật Bản trong bối cảnh

tổng quan về thế giới để phân tích và giải thích hiện tượng ấy. Tác giả chú ý đến yếu tố lịch sử, văn hoá và đặc biệt là về địa lý trong nghiên cứu, lý giải về Nhật

Bản. Những điều kiện về địa lý góp phần tạo ra “môi trường sinh thái đặc biệt” giúp

Nhật Bản có sự gần gũi với phương Tây, làm cho Nhật Bản trở thành “hiện tượng dị biệt” của châu Á. Mặc dù không đề cập trực tiếp đến chính sách đối ngoại của Nhật

Bản, nhưng cuốn sách giúp chúng tôi có thêm hiểu biết, cách nhìn nhận về đất nước,

con người Nhật Bản, từ đó hiểu rõ hơn về chính sách đối ngoại của Nhật Bản.

Tác giả Peter Calvocoressi có công trình: Chính trị thế giới sau năm 1945, (Nguyễn Văn Hạnh, Hoàng Bằng Giang, Nguyễn Ngọc Hùng dịch, Nxb Lao động,

Hà Nội, 2007). Trong cuốn sách này, tác giả dành riêng một mục “Nhật Bản” để

trình bày tình hình Nhật Bản sau năm 1945, trong đó đề cập ở mức độ nhất định

chính sách đối ngoại của quốc gia này.

Tác giả Shigeru Yoshida trong công trình Japan's Decisive Century 1867-

1967, (New York: Frederick A. Praeger, Publishers, 1967) đã khái quát tình hình

Nhật Bản trong vòng một thế kỷ từ năm 1867 đến năm 1967, trong đó, chính sách

đối ngoại của Nhật Bản là một trong những nội dung nổi bật. Chính sách đối ngoại

của Nhật Bản đối với Mỹ cũng được đề cập ở những phương diện nhất định.

Tác giả Kevin J. Cooney có cuốn Japan's Foreign Policy Since 1945

(Routledge, New York, 2015). Cuốn sách gồm 9 chương, trong đó liên quan đến

luận án của chúng tôi là chương 1: Giới thiệu: Câu chuyện về Nhật Bản sau Chiến

tranh thế giới thứ hai và chương 2: Một chính sách đối ngoại “bất thường”. Tác giả

phân tích sâu tình hình chính trị và an ninh của Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai và việc thực hiện chính sách đối ngoại “không bình thường” của Nhật Bản.

Về mặt đối ngoại, tác giả đi sâu phân tích Học thuyết Yoshida.

Nhóm tác giả gồm Glenn D. Hook, Julie Gilson, Christopher W. Hughes và Hugo Dobson có công trình Japan's International Relations: Politics, economics and security (Routledge, Taylo and Francis Group, London and New York, 2009). Trong đó, phần 1 trình bày khái quát quan hệ quốc tế của Nhật Bản, nhấn mạnh tầm quan trọng của các mối quan hệ quốc tế của Nhật Bản. Từ phần 2 trở đi, trình bày quan hệ giữa Nhật Bản với Mỹ, Đông Á và châu Âu. Cuốn sách là biên niên sử các sự kiện của Nhật Bản và các vấn đề thế giới từ năm 1933 đến năm 2006.

Tác giả Takashi Inoguchi có cuốn: Japan’s International Relations

(Bloomsbury Publishing plc, London - New Delhi, New York, Sydney, 2012). Cuốn

8

sách đề cập đến ba vấn đề lớn trong quan hệ quốc tế của Nhật Bản: thứ nhất, vai trò của

Nhật Bản trên trường quốc tế cả quá khứ lịch sử và hiện tại; thứ hai, vai trò của Nhật Bản trên một số lĩnh vực chủ yếu như kinh tế, an ninh song phương và khu vực; thứ ba,

vai trò của Nhật Bản trong bối cảnh phức tạp của quan hệ Mỹ - Xô…

Nhóm tác giả Thomas U. Berger, Mike M. Mochizuki, Jitsuo Tsuchiyama có

cuốn Japan in International Politics: The Foreign Policies of an Adaptive State,

(Lynne Rienner Pub, 2007). Cuốn sách là tập hợp các bài viết của nhiều nhà nghiên

cứu quốc tế về sự thay đổi chính sách đối ngoại của Nhật Bản để thích ứng với nền

chính trị quốc tế. Các bài viết tập trung vào 3 mảng lớn: Chính sách về chính trị, chính

sách về kinh tế và quan hệ của Nhật Bản với khu vực.

Inoguchi Takashi và Purnendra Jain trong cuốn Japanese Foreign Policy

Today (Palgrave Macmillan, New York, 2000) đã tập hợp các bài viết phân tích về

những vấn đề chính trong quan hệ quốc tế của Nhật Bản khi nước này hướng tới một

trật tự thế giới mới. Điều đáng chú ý trong công trình này là đã đề cập đến những vấn

đề cấp bách của khu vực và toàn cầu cũng như tác động của chúng đối với Nhật Bản.

Mặc dù nội dung cuốn sách chủ yếu viết về thời kỳ sau Chiến tranh lạnh nhưng ít

nhiều có đề cập đến chính sách đối ngoại của Nhật Bản giai đoạn 1951-1960.

Tác giả Makoto Iokibe với cuốn The Diplomatic History of Postwar Japan

(Routledge, Taylo and Francis Group, London and New York, 2011), trình bày một

cách tổng thể, toàn diện và cập nhật về các mối quan hệ quốc tế của Nhật Bản từ

cuối Chiến tranh Thái Bình Dương. Tác giả đã sử dụng nhiều tài liệu, hồi ký và nhật

ký của Nhật Bản mới được giải mật. Cuốn sách giới thiệu tính cách và cách tiếp cận

của các nhà lãnh đạo và chính khách Nhật Bản thời hậu chiến trong việc đối phó với

một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Mặt khác, cuốn sách cũng bàn về sự phát

triển và hiện diện của Nhật Bản trên trường quốc tế. Một trong những nội dung

quan trọng là tác giả đã phân tích nhiều vấn đề của Nhật Bản trong giai đoạn sau

Chiến tranh thế giới thứ hai, như vấn đề bị chiếm đóng vào nửa cuối những năm 40,

diễn biến chính trị trong những năm 50… và cách thức tiến hành chính sách đối

ngoại của Nhật Bản. Sách cũng đề cập đến mục tiêu trong quan hệ đối ngoại của

Nhật Bản và mối quan hệ của nước này với các nước láng giềng, các nước đồng

minh và các cường quốc khác trên thế giới.

Ngoài những cuốn sách đã trình bày ở trên, chính sách đối ngoại của Nhật

Bản cũng là chủ đề của nhiều bài viết đăng trên các tạp chí khoa học.

9

Tác giả Brendan M. Howe và Joel R. Campbell có bài viết: Continuity and

Change: Evolution, Not Revolution, in Japan's Foreign and Security Policy Under

the DPJ (Asian Perspective, Vol. 37, No 1, Jan-Mar. 2013, pp 99-123). Nội dung

chủ yếu của bài viết là nghiên cứu về tính liên tục và thay đổi trong chính sách an

ninh và đối ngoại của Nhật Bản dưới thời cầm quyền của Đảng Dân chủ Nhật Bản

(DPJ). Bên cạnh đó, các tác giả đã có sự phân tích, đối sánh với chính sách an ninh

và đối ngoại của Nhật Bản dưới thời Đảng Dân chủ Tự do (LDP).

Yoneyuki Sugita có bài The Yoshida Doctrine as a Myth (The Japanese

Journal of American Studies, No. 27, 2016, Pp 123-143). Tác giả cho rằng học

thuyết Yoshida có ý nghĩa to lớn và lâu dài đối với Nhật Bản. Bài báo tập trung

phân tích các điều kiện để Nhật Bản, một quốc gia bại trận, thực lực yếu có thể đề

xuất và thành công với Học thuyết Yoshida. Yoneyuki Sugita khẳng định sự ưu việt

về đối ngoại của học thuyết Yoshida cũng như những động thái của Mỹ đối với

Nhật Bản để học thuyết này có thể thành công.

Kết thúc thời kỳ bị Mỹ chiếm đóng, Nhật Bản bước vào giai đoạn phát triển

“thần kỳ”, nhất là về kinh tế. Có nhiều công trình nghiên cứu về sự phát triển kinh

tế Nhật Bản, những công trình này ít nhiều đề cập đến chính sách đối ngoại của

Nhật Bản, như là cơ sở để đất nước này tạo nên “làn gió mới” về kinh tế. Bởi trên

thực tế, sự phát triển kinh tế được tác động bởi chính sách đối ngoại “khôn khéo”

của Nhật Bản. Các công trình tiêu biểu như: Yoshihara K. với “Sự phát triển kinh tế

Nhật bản” (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991); Viện Nghiên cứu Đại học Chuo

với “Kinh tế Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai” (Nxb Khoa học Xã hội, Hà

Nội, (1992); Nakamura Takafusa với “Những bài giảng về lịch sử kinh tế Nhật Bản

hiện đại 1926-1994” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998)…

Bên cạnh những cuốn sách, bài viết trên các tạp chí, chính sách đối ngoại của

Nhật Bản còn được thể hiện trên một số luận án, tiêu biểu là tác giả Wrenn Yennie

Lindgren với luận án chuyên ngành Quan hệ quốc tế với đề tài “Japanese Foreign

Policy Repertoires” (Stockholm University, Sweden, 2021). Phạm vi của luận án là

từ sau Chiến tranh lạnh nhưng ít nhiều đã đề cập đến chính sách đối ngoại của Nhật

Bản trong những năm 50 của thế kỷ XX.

Về chính sách đối ngoại của Mỹ thời kỳ hiện đại, đặc biệt là từ sau Chiến

tranh thế giới thứ hai đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả trên thế giới. Những

công trình chúng tôi tiếp cận được gồm có:

10

Cuốn Chính sách đối ngoại Hoa Kỳ: động cơ của sự lựa chọn trong thế kỷ XXI của tác giả Bruce W. Jentleson (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004) là công trình nghiên cứu sâu sắc về chính sách đối ngoại của Mỹ. Cuốn sách gồm 2 phần, 10 chương, được xem như một giáo trình về chính sách đối ngoại của Mỹ. Phần I tập trung trình bày cơ sở lý luận và lịch sử hình thành; Phần II trình bày những nội dung cơ bản của quá trình hoạch định chính sách trong thời kỳ mới, cũng như những thách thức đặt ra đối với Mỹ trong thế kỷ XXI. Trong Phần I, tác giả đề cập nhiều đến Chiến tranh lạnh, trong đó có chính sách “răn đe hạt nhân và kiềm chế” với hai giai đoạn: giai đoạn hình thành (1947 - 1950) và giai đoạn tăng cường (1950 - 1960).

Cuốn Nước Mỹ nửa thế kỷ - Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong và sau Chiến tranh lạnh của Thomas J. Mc. Cormick (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004) đã phân tích sâu sắc và có hệ thống nhiều khía cạnh trong chính sách đối ngoại của Mỹ thời kỳ trong và sau Chiến tranh lạnh, đặc biệt là quá trình triển khai và suy thoái của chính sách bá quyền của Mỹ. Liên quan đến phạm vi nghiên cứu của luận án, có những nội dung như: cuộc khủng hoảng của trật tự mới (1947 - 1950); quân sự hóa và sự hội nhập của Thế giới thứ ba (1950 - 1956); sự bá quyền ở giai đoạn cao trào (1957 - 1967).

Cuốn Chính trị thế giới sau năm 1945 của tác giả Peter Calvocoressi (Nxb Lao động, Hà Nội, 2007), ở phần “Các siêu cường quốc”, tác giả có đề cập ở mức độ nhất định chính sách đối ngoại của Mỹ.

Cuốn US Foreign Policy since 1945 của Alan P. Dobson và Steve Marsh (Taylor & Francis e-Library, New York, 2007) trình bày về chính sách đối ngoại của Mỹ từ năm 1945 với các nội dung: Sự hình thành, phát triển và thực thi chính sách đối ngoại của Mỹ; nước Mỹ và cuộc Chiến tranh lạnh (1945 - 1961); chính sách hợp tác và đối đầu của các siêu cường với Mỹ (1950 - 1991); Mỹ và châu Âu (1950 - 1989); Mỹ và châu Á (1945 - 1989); Mỹ và châu Phi, Trung Đông (1945 - 1989)… Trong cuốn sách này, chính sách của Mỹ với Nhật Bản trong giai đoạn 1951 - 1960 được trình bày tương đối khái quát.

Cuốn US Foreign Policy của Michael Cox và Doug Stockes (Oxford University Press, 2018) là tập hợp nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu chính trị, quan hệ quốc tế trên thế giới, đã đánh giá về chính sách đối ngoại của Mỹ, phân tích vai trò của Mỹ trong chính trị quốc tế. Mặc dù các bài viết chủ yếu nhấn mạnh những vấn đề gần đây trong chính sách đối ngoại của Mỹ, nhưng vẫn có những bài đề cập đến chính sách đối ngoại của Mỹ thời kỳ trước. Tiêu biểu là bài “Chính sách đối ngoại của Mỹ trong Chiến tranh lạnh” của Richard Raull.

11

Cuốn A Concise History of U.S. Foreign Policy của Joyce P. Kaufman, tái

bản lần thứ tư (Rowman And Littlefield, Lanham - Boulder - New York - London, 2017) khái quát chính sách đối ngoại của Mỹ từ khi lập quốc đến năm 2017. Trong

đó, tập trung vào việc trình bày sự hình thành chính sách đối ngoại thời Chiến tranh

lạnh và lý giải tại sao sự kết thúc của Chiến tranh lạnh lại là một thách thức đối với Mỹ. Liên quan đến nội dung luận án có phần “Việc tạo ra một siêu cường: Chính

sách đối ngoại thời kỳ Chiến tranh lạnh”. Tác giả phân tích chính sách của các Tổng

thống Mỹ H. Truman, D. Eisenhower, G. Kennedy.

Cuốn American Foreign Policy: Past, Present, and Future của Glenn P. Hastedt, tái bản lần thứ 11 (Rowman And Littlefield, Lanham - Boulder - New

York - London, 2018) đề cập chính sách đối ngoại của Mỹ trong quá khứ, hiện tại

và tương lai. Tác giả nhìn về quá khứ và xem xét những kinh nghiệm đã giúp hình

thành chính sách đối ngoại của Mỹ ngày nay. Phần nội dung của cuốn sách liên

quan đến luận án của chúng tôi là chính sách của Mỹ trong thời kỳ Chiến tranh lạnh.

Cuốn The American Occupation of Japan - The Origins of the Cold War in

Asia của Michael Schaller (Oxford University Press, New York, 1985) luận giải

nguồn gốc của Chiến tranh lạnh ở châu Á dẫn đến việc quân đội Mỹ chiếm đóng

Nhật Bản. Với quyết tâm biến Nhật Bản thành bức tường chống lại Liên Xô và

phong trào cách mạng ở các nước châu Á, Mỹ đã chủ trương cải cách kinh tế và xã

hội. Tài liệu này là cơ sở cho chúng tôi tham khảo để làm rõ những nhân tố tác động

(chính sách của Mỹ đối với Nhật Bản) đến quan hệ Nhật Bản - Mỹ (1951 - 1960).

Ngoài những công trình đã trình bày ở trên, có thể tìm thấy chính đối ngoại

của Mỹ qua những công trình về lịch sử nước Mỹ. Tiêu biểu như Eric Foner (chủ biên) với Lịch sử mới của nước Mỹ (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003);

Howard Cincotta với Khái quát về lịch sử nước Mỹ (Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội, 2000… Vì nội dung chính là viết về lịch sử nước Mỹ qua thời gian dài nên ở những quyển sách này, chính sách đối ngoại của Mỹ được thể hiện một cách khái quát, gián tiếp.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế

Nhật Bản - Mỹ

Quan hệ Nhật Bản - Mỹ từ năm 1945 đến nay là vấn đề thu hút các nhà nghiên cứu trên thế giới. Tuy nhiên, cho đến nay, không có nhiều công trình nghiên

cứu về quan hệ giữa hai nước giai đoạn 1951 - 1960, nhất là quan hệ về chính trị -

an ninh và kinh tế. Những công trình mà chúng tôi tiếp cận được, tiêu biểu có:

12

John Swenson - Wright với cuốn Unequal Allies? United States Security and

Alliance Policy Toward Japan, 1945 - 1960 (Stanford University Press, 2005). Trên cơ sở những tài liệu mới, cuốn sách phân tích và đánh giá liên minh song phương

giữa Mỹ và Nhật Bản thời kỳ đầu Chiến tranh lạnh. Tác giả khẳng định sự thực dụng

và nhạy cảm của mối quan hệ giữa hai nước và cho rằng mối quan hệ này đã tạo nên một liên minh vững chắc, có tác động lớn đến khu vực. Công trình này là tư liệu cần

thiết cho chúng tôi thực hiện luận án, nhất là về nội dung chính trị - an ninh.

Cuốn U.S. - Japan Relation in a Changing World (Brookings Institution

Press, Washington, D.C. 2002) là công trình của nhiều nhà nghiên cứu. Các tác giả đã phân tích mối quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ, đưa ra những phân tích chuyên sâu

về nhiều chủ đề; xem xét kỹ lưỡng bối cảnh lịch sử, cung cấp cho người đọc các

công cụ dự đoán để hiểu các sự kiện khi chúng diễn ra. Thay vì nghiên cứu mối

quan hệ Nhật Bản - Mỹ theo từng vấn đề một, các tác giả đã xem xét các xu hướng

cụ thể và sau đó phân tích sự ảnh hưởng của những xu hướng này đến mối quan hệ

giữa hai nước nói chung. Có thể nói, các tác giả đã có những đánh giá rất thuyết

phục về hiện trạng và tương lai của quan hệ Nhật Bản - Mỹ sau 50 năm gắn bó.

Cuốn sách có nhiều nội dung quan trọng liên quan đến luận án của chúng tôi, nhưng

liên quan trực tiếp nhất là chương 1: “Giới thiệu: Hệ thống San Francisco những

năm 1950” và chương 10: “Thực chất của mối quan hệ Mỹ - Nhật Bản”.

Aaron Forsberg với America and the Japanese Miracle: The Cold War

Context of Japan's Postwar Economic Revival, 1950 - 1960 (University of North

Carolina Press, 2000). Nội dung của cuốn sách viết về sự hồi sinh kinh tế của Nhật

Bản sau chiến tranh trong một thế giới bị phân cực bởi Chiến tranh lạnh và vai trò của Mỹ đối với sự phục hồi, phát triển kinh tế của Nhật Bản giai đoạn 1950 - 1960.

Dựa trên nhiều hồ sơ lưu trữ của Mỹ, Anh và Nhật Bản, A. Forsberg chứng minh

rằng, chiến lược Chiến tranh lạnh của Mỹ và cam kết của Mỹ đối với thương mại tự do đóng vai trò trung tâm trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Nhật Bản và củng cố mối quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ. Tác giả cũng nhấn mạnh đến sự tác động của Chiến tranh lạnh, môi trường kinh doanh đến thành công của Nhật Bản. Trên cơ sở phân tích khoa học, Forsberg bác bỏ quan điểm cho rằng Chính phủ Mỹ đã hy sinh lợi ích thương mại của mình để có lợi cho quan hệ đối tác quân sự với Nhật Bản. Trong công trình này, có những nội dung cần cung cấp tư liệu cho

luận án, đó là: “Hội nhập của Nhật Bản với khối thương mại phương Tây”; “Đầu tư

trực tiếp nước ngoài vào Nhật Bản”; “Tăng trưởng tốc độ cao 1955 - 1960”…

13

Kent E. Calder có công trình Pacific Alliance Reviving U.S. - Japan Relations

(Yale University Press, 2010). Mặc dù nội dung chủ yếu viết về quan hệ liên minh xuyên Thái Bình Dương giữa Mỹ và Nhật Bản trong thời gian sau Chiến tranh lạnh,

nhưng công trình đã phân tích nhiều vấn đề quá khứ của mối quan hệ liên minh song

phương này, nhất là về quân sự và an ninh. Theo tác giả, mối quan hệ liên minh vẫn rất quan trọng đối với an ninh của Mỹ và Nhật Bản cũng như sự ổn định của châu Á.

Michael Shaller với công trình Altered States: The United States and Japan

Since the Occupation (Oxford University Press, New York, 1997), trong đó, tác giả

trình bày bối cảnh lịch sử của việc Mỹ biến Nhật Bản từ kẻ thù thành đồng minh trong những từ 1945 đến 1973, về Nhật Bản nổi lên như một cường quốc kinh tế khu

vực và toàn cầu. Schaller tập trung vào các mối quan hệ chính trị và kinh tế, làm sáng

rõ chính sách của Mỹ đối với Nhật Bản với mục đích biến Nhật Bản trở thành bức

tường thành chống CNCS ở châu Á. Trong cuốn này có nhiều nội dung liên quan trực

tiếp đến vấn đề mà luận án nghiên cứu như: “Nhật Bản những năm 1945 - 1950”;

“Chiến tranh Triều Tiên và nền hoà bình của Nhật Bản”; “Sự hợp tác kinh tế Mỹ -

Nhật Bản (1950 - 1953)”; “Sự khủng hoảng của Hiệp ước năm 1960”…

Nhóm tác giả gồm Glenn D. Hook, Julie Gilson, Christopher W. Hughes and

Hugo Dobson có công trình Japan's International Relations: Politics, economics

and security (London and New York, Routledge, Taylo and Francis Group, 2009).

Phần 2 cuốn sách trình bày mối quan hệ chính trị, kinh tế và an ninh giữa Nhật Bản

và Mỹ. Về quan hệ chính trị, tác giả phân tích những thay đổi trong quan hệ hai

nước; trình bày dư luận trong từng nước... Về quan hệ kinh tế, gồm các nội dung

như quan hệ thương mại, các dự án khu vực, các hiệp định thương mại tự do giữa Nhật Bản và Mỹ, sự phát triển và các tiêu chuẩn kinh tế tự do. Về quan hệ an ninh,

công trình tập trung trình bày các nội dung: Diễn giải hiệp ước An ninh; quan hệ

giữa hai nước thời kỳ Chiến tranh lạnh.

Takashi Inoguchi có cuốn Japan’s International Relations (London - New Delhi, New York, Sydney, Bloomsbury Publishing plc, 2012). Phần 2 của cuốn sách dành riêng để nói về quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ. Trong đó, nội dung đáng chú ý là những ý tưởng và cấu trúc của quan hệ hai nước.

Robert Murphy xuất bản công trình Diplomat among Warriors (Garden City, New York: Doubleday & Company, Inc. 1964). R. Murphy là một nhà ngoại giao

đã từng hoạt động trong ba chính quyền tổng thống Mỹ (F. Roosevelt, H. Truman

và D. Eisenhower). Phần lớn nội dung cuốn sách kể về sự phục vụ của Murphy ở

14

Bắc Phi thuộc Pháp, Ý, Đức và cuối cùng là Nhật Bản trong và sau Chiến tranh thế

giới thứ hai. Quan hệ Nhật Bản - Mỹ (1951 - 1960) được phác hoạ một cách giản lược. Tác giả cũng có những đánh giá về Chiến tranh Triều Tiên, quan hệ Trung -

Xô và một số nội dung khác liên quan đến luận án.

Akira Iriye, Robert A. Wampler (Edited) với công trình Partnership: The United States and Japan, 1951 - 2001, (Kodansha International Ltd, Tokyo, New

York, London, 2001), xuất bản nhân dịp kỷ niệm 50 năm Hiệp ước An ninh Mỹ -

Nhật Bản và Hiệp ước Hòa bình San Fransico. Sách tập hợp nhiều bài viết của các

tác giả khác nhau. Công trình trình bày mối quan hệ đối tác giữa Mỹ và Nhật Bản trong vòng 50 năm, mối quan hệ mà cựu Đại sứ Mỹ tại Nhật Bản Mike Mansfield

gọi là “quan trọng nhất - không có vấn đề gì”. Nội dung của cuốn sách bao gồm các

phần: Các vấn đề chính trị; liên minh an ninh; quan hệ kinh tế… Liên quan đến giai

đoạn mà luận án nghiên cứu có nhiều bài viết nổi bật như: “Mối quan hệ Mỹ - Nhật

Bản ở châu Á - Thái Bình Dương” của Mike M. Mochizuki; “Chiếm lĩnh, thống trị

và liên minh: Nhật Bản trong chính sách an ninh của Mỹ, 1945 - 1969” của Marc

Gallicchio; “Chính sách kinh tế của Mỹ hướng tới Nhật Bản, 1945 - 1976” của

Michael A. Barnhart… Các bài viết này nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ

Nhật Bản - Mỹ trong lịch sử, trong đó có giai đoạn 1951 - 1960 và cung cấp cho

người đọc sự hiểu biết về các ưu tiên của hai quốc gia khi họ đứng trước ngưỡng

cửa của một thế kỷ mới. Những phân tích sâu sắc và nguồn tư liệu quý của công

trình này là cơ sở cho chúng tôi thực hiện luận án.

Leon Hollerman (edited) với Japan and the United States: economic and

Political Adversaries (Westview Press, Boulder, Colorado, USA, 1980). Cuốn sách cũng là công trình tập hợp nhiều bài viết quan trọng về quan hệ chính trị, kinh tế

Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 1951 - 1960 như: “Chủ nghĩa can thiệp trong thời kỳ Nhật

Bản bị chiếm đóng” của Leon Hollerman; “Công nghệ vượt trội: Một cột mốc trong sự phát triển của Nhật Bản thời hậu chiến” của Mieko Nishimiz; “Quan hệ về khoa học và công nghệ Nhật Bản - Mỹ” của Takeo Sasagaw; “Các vấn đề thương mại của Mỹ liên quan đến Nhật Bản” của Eleanor M. Hadle; “Chính sách ngoại thương của Nhật Bản” của Hiroshi Kat…

Melvyn P. Leffler và Odd Arne Westad có bài Japan, the United States, and

the Cold War, 1945 - 1960 in trong Melvyn P. Leffler, Odd Arne Westad, (2010)

“The Cambridge History of the Cold War, pp. 244 - 265” (Cambridge University

Press, 2010). Bài viết phân tích mối quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ từ sau Chiến

15

tranh thế giới lần thứ hai; nhấn mạnh việc Nhật Bản bị Mỹ chiếm đóng; sự tái thiết

Nhật Bản của Mỹ và những chính sách của Mỹ trong những năm 1950. Tác giả tiếp

cận quan hệ hai nước từ góc nhìn của cuộc Chiến tranh lạnh; vai trò của Nhật Bản

trong việc thực hiện chiến lược toàn cầu của Mỹ.

Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu về kinh tế Nhật Bản cũng ít nhiều thể

hiện quan hệ giữa hai nước trong giai đoạn 1951 - 1960. Có thể kể ra một số công

trình: Yutaka Kosai với Kỷ nguyên tăng trưởng nhanh - Những nhận xét về nền kinh

tế Nhật Bản sau chiến tranh (Viện Kinh tế thế giới, Hà Nội, 1991); Viện Nghiên

cứu Đại học Chuo với Kinh tế Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai (Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992); Nakamura Takafusa với Những bài giảng về Lịch

sử kinh tế Nhật Bản hiện đại 1926 - 1994 (Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1998);

G.C.Allen với Chính sách kinh tế Nhật Bản, tập 1, tập 2 (Viện Kinh tế thế giới, Hà

Nội, 1988)…

Quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản - Mỹ trong giai đoạn 1951 -

1960 cũng được một số nhà nghiên cứu công bố trên tạp chí có uy tín trên thế giới:

Sarah Kovner có bài viết: The Soundproofed Superpower: American Bases and

Japanese Communities, 1945 - 1972 (The Journal of Asian Studies, Volume 75, Issue

1, February 2016, pp. 87 - 109; Published online by Cambridge University Press: 25

January 2016). Bài viết đề cập đến việc xây dựng các căn cứ quân sự Mỹ tại Nhật Bản

và tác động của nó đối với xã hội Nhật Bản. Theo tác giả, những hệ lụy của các căn cứ

quân sự Mỹ tại Nhật Bản là rất lớn như về mại dâm, tranh chấp lãnh thổ, vũ khí hạt

nhân… bài viết cũng phân tích những biện pháp mà Chính phủ Nhật Bản và Chính phủ

Mỹ đã phối hợp để hợp pháp hoá sự hiện diện của quân đội Mỹ tại Nhật Bản.

Nhóm tác giả Michael Beckley, Yusaku Horiuchi và Jennifer M. Miller có

bài America’s Role In The Making of Japan’s Economic Miracle (Journal of East

Asian Studies, Volume 18, Issue 1, March 2018, pp. 1 - 21; Published online by

Cambridge University Press: 09 January 2018). Bài viết tập trung phân tích vai trò

của Mỹ trong việc tạo nên kỳ tích kinh tế của Nhật Bản, khẳng định sự tăng trưởng

vượt bậc của Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai không thể thực hiện được

nếu không có liên minh Nhật Bản - Mỹ.

Ngoài ra, quan hệ Nhật Bản - Mỹ trong giai đoạn 1951 - 1960, trong đó có

quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế cũng được nghiên cứu qua các luận án, luận

văn. Những công trình mà chúng tôi tiếp cận được gồm:

16

Luận án tiến sĩ Lịch sử Building a New Kind of Alliance: The United States,

Japan, and the Cold War, 1950 - 1961 của Jennifer M. Mille (University of Wisconsin-Madison, 2012). Luận án trình bày việc xây dựng liên minh giữa Mỹ và

Nhật Bản trong bối cảnh Chiến tranh lạnh (1950 - 1961). Luận án có 4 chương:

Chương 1: Xây dựng một Liên minh tích cực: Hiệp ước Hòa bình San Francisco, 1947 - 1952; Chương 2: Cuộc đấu tranh về việc tái vũ trang: Tư cách thành viên

Nhật Bản trong Chương trình An ninh Tương hỗ, 1951 - 1954; Chương 3: Căn cứ

quân sự của Mỹ ở Nhật Bản: Biểu tình công khai và sự hòa giải của của Mỹ, 1951 -

1957; Chương 4: Các cuộc biểu tình chống lại Hiệp ước An ninh Mỹ - Nhật Bản, 1957 - 1961. Luận án chủ yếu khai thác quá trình thiết lập liên minh giữa hai nước

và phản ứng của của nhân dân Nhật Bản đối với liên minh đó. Đây là công trình có

phạm vi thời gian nghiên cứu giống với đề tài luận án của tác giả, là nguồn tài liệu

cần thiết giúp tác giả trong quá trình triển khai luận án.

Luận án tiến sĩ US - Japan Relations during the Korean War của Kim Nam

Gyun (University of North Texas, 1995) trình bày quan hệ Mỹ - Nhật Bản trong

Chiến tranh Triều Tiên. Nội dung của luận án bao gồm những vấn đề: Sự lựa chọn

của Mỹ và Nhật Bản trước Chiến tranh Triều Tiên; An ninh của Hàn Quốc, Nhật

Bản và Mỹ; Chiến tranh và Hiệp ước hoà bình với Nhật Bản; Đơn đặt hàng mới ở

châu Á; Chiến tranh Triều Tiên với nền kinh tế Nhật Bản… Luận án đã luận giải

một cách thuyết phục tác động của Chiến tranh Triều Tiên đối với diễn tiến quan hệ

Mỹ - Nhật Bản và sự tác động của chiến tranh đối với những tính toán của Mỹ trong

bối cảnh tình hình quốc tế phức tạp.

Luận án tiến sĩ Triết học U.S. - Japan Influence Relations, 1945 - 1990: An Analysis of the Politics of Demand, Concession, and Compromise của Tae Youl Paek

(Southern Illinois University, Carbondale, USA, 1986). Luận án phân tích mối quan

hệ hữu cơ giữa Mỹ và Nhật Bản, chủ yếu là nhu cầu và sự nhượng bộ giữa hai quốc gia qua các giai đoạn 1945 - 1952, 1953 - 1972, 1973 - 1990. Liên quan đến đến luận án của chúng tôi là những nội dung trong hai giai đoạn đầu, như: Phi quân sự hóa của Nhật Bản; bản Hiến pháp sửa đổi của Nhật Bản; sự tan rã của Zaibatsu của Nhật Bản; Hiệp ước Hòa bình và an ninh Mỹ - Nhật Bản; sự gia nhập của Nhật Bản vào Liên hợp quốc; sự gia hạn của Hiệp ước An ninh Mỹ - Nhật Bản…

Luận văn thạc sĩ Lịch sử U.S. - Japan relations - Towards a military alliance

của Alexandra E. Smith (Georgetown University, Washington, D.C. 2014). Luận

văn trình bày sự phát triển của mối quan hệ Mỹ - Nhật Bản từ năm 1853 cho đến

17

khi hình thành và phát triển liên minh quân sự song phương. Tác giả khẳng định

mối quan hệ giữa Mỹ và Nhật Bản có nhiều biến đổi trong suốt lịch sử lâu dài của nó. Chương đầu tiên trình bày sự thiết lập và biến đổi của mối quan hệ hai nước,

chủ yếu là về kinh tế; Chương thứ hai phân tích cách thiết lập quan hệ thương mại

và cạnh tranh dẫn đến Chiến tranh Thái Bình Dương; Chương thứ ba và chương cuối cùng đánh giá cách hai quốc gia trở thành đối tác sau khi chiến tranh kết thúc.

Như vậy, ở nước ngoài đã có nhiều công trình bao gồm sách, bài viết, luận

án, luận văn nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Mỹ, Nhật Bản và quan hệ giữa

hai nước. Tuy nhiên, phần lớn các công trình đều nghiên cứu về chính sách đối ngoại và quan hệ giữa hai nước có phạm vi dài về mặt thời gian, chủ yếu tập trung

vào giai đoạn trong và sau Chiến tranh lạnh. Quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế

giữa Nhật Bản và Mỹ trong giai đoạn 1951 - 1960 ít được nghiên cứu, hoặc chỉ là

một nội dung trong tổng thể công trình của các tác giả. Dù liên quan trực tiếp hay

gián tiếp, những công trình của các nhà nghiên cứu trên thế giới là tài liệu bổ ích

cho chúng tôi thực hiện luận án của mình.

1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam

Trên cơ sở nguồn tài liệu tập hợp được, chúng tôi chia tình hình nghiên cứu ở

Việt Nam thành các hai nhóm:

1.2.1. Những công trình đề cập đến chính sách đối ngoại của Nhật

Bản và Mỹ

Về chính sách đối ngoại của Nhật Bản:

Cuốn: “Lịch sử thế giới hiện đại” của tác giả Nguyễn Anh Thái (chủ biên) do

Nxb Giáo dục phát hành năm 2006. Trong mục II, chương XI (Các nước tư bản chủ yếu từ 1945 đến 1973), các tác giả đã khái quát ngắn gọn tình hình chính trị và

chính sách đối ngoại của Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Tác giả khẳng

định trong chính sách đối ngoại, Nhật Bản đẩy mạnh liên minh với Mỹ và biến thành căn cứ chiến lược của Mỹ.

Cuốn “Chính sách đối ngoại Nhật Bản sau Chiến tranh lạnh” do Ngô Xuân Bình (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 2000. Mặc dù sách chủ yếu viết về chính sách đối ngoại của Nhật Bản sau Chiến tranh lạnh, tuy nhiên ít nhiều liên quan đến nội dung mà luận án nghiên cứu. Đáng chú ý là Chương I: “Cơ sở của sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Nhật sau Chiến tranh lạnh”.

Cuốn “Nhật Bản đường đi tới một siêu cường kinh tế” của tác giả Lê Văn

Sang và Lưu Ngọc Trịnh, do Nxb Khoa học xã hội phát hành năm 1991. Trong

18

Chương III, Phần II: Cải cách và tái thiết 1945 - 1951 đã điểm qua những chính

sách của Mỹ đối với Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai và phân tích tác động của những chính sách ấy đối với sự phát triển kinh tế Nhật Bản.

Cuốn Kinh tế Nhật Bản giai đoạn “thần kỳ” của Lê Văn Sang do Viện Kinh tế

thế giới ấn hành năm 1988. Theo tác giả, giai đoạn phát triển “thần kỳ” của nền kinh tế Nhật Bản kéo dài từ năm 1951 đến năm 1973. Trong cuốn sách, tác giả trình bày

thực trạng phát triển nhanh của nền kinh tế, luận giải nguyên nhân và tác động của sự

phát triển đó. Là công trình chuyên về kinh tế, tuy nhiên nội dung của nó ít nhiều liên

quan đến chính sách đối ngoại của Nhật Bản, trong đó có chính sách đối với Mỹ giai đoạn 1951 - 1960, nhất là trong Chương 1 và Chương 2 của cuốn sách.

Cuốn Kinh tế Nhật Bản - những bước thăng trầm trong lịch sử của Lưu Ngọc

Trịnh được Nxb Thống kê xuất bản năm 1998. Trong Chương VI (Giai đoạn 1945 -

1952: Cải cách và kiến thiết), tác giả có nội dung “Sự thay đổi chính sách của Mỹ

và Kế hoạch Dodge”; “Chiến tranh Triều Tiên và Hiệp ước Hoà bình San

Francisco”. Những vấn đề vừa nêu có liên quan đến đối tượng nghiên cứu của luận

án mà chúng tôi thực hiện.

Cuốn Nhật Bản trong thời kì Đảng Dân chủ Tự do cầm quyền (1955 - 1993)

của Nguyễn Thanh Hiền, do Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 2002. Trong chương

II, phần 2.1, tác giả đã trình bày tình hình chính trị và chính sách đối ngoại của Nhật

Bản. Trong đó tác giả đã trình bày đôi nét về chính sách đối ngoại của Nhật Bản từ

những năm 50 và có đề cập đến chính sách đối ngoại của Nhật Bản với Mỹ.

Cuốn Lịch sử Nhật Bản do Phan Ngọc Liên (chủ biên), Nxb Văn hoá -

Thông tin phát hành năm 1995. Là một tác phẩm thông sử, cuốn sách viết về lịch sử Nhật Bản từ những trang sử đầu tiên đến năm 1994. Trong chương VI (Từ sau

Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay (1945-1994)), tác giả trình bày tình hình và

chính sách đối ngoại của Nhật Bản, trong đó nhấn mạnh đến Chiến tranh Triều Tiên và việc ký Hiệp ước San Francisco.

Cuốn Lịch sử Nhật Bản do Nguyễn Quốc Hùng (chủ biên) được Nxb Thế giới xuất bản năm 2007. Chương IX: Nhật Bản từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đề cập ở mức độ nhất định chính sách đối ngoại của Nhật Bản.

Cuốn Kinh tế Nhật Bản giai đoạn phát triển thần kỳ 1955 - 1973 của tác giả Trần Văn Thọ được Nxb Đà Nẵng xuất bản năm 2022. Cuốn sách tập trung trình bày

về sự phát triển của kinh tế Nhật Bản, lý giải nguyên nhân tạo nên sự phát triển đó.

Tuy vậy, sách có đề cập đến tình hình chính trị, đối ngoại của Nhật Bản với nhiều nội

19

dung liên quan đến luận án của chúng tôi, nhất là phần I “Kỳ tích phát triển hậu chiến

Nhật Bản” với những nội dung quan trọng như: Đêm trước của một thời đại: Nhật Bản giữa những năm 50; Mở cửa, hội nhập và chính sách công nghiệp…

Ngoài ra, một số công trình viết về lịch sử Nhật Bản có đề cập một cách gián

tiếp chính sách đối ngoại của Nhật Bản giai đoạn 1951 - 1960, như: Vĩnh Sính với

Nhật Bản cận đại, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1991; Lê Văn Quang với Lịch sử

Nhật Bản, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ

Chí Minh, 1997... Nhìn chung, trong các công trình này, khi trình bày những nội

dung về kinh tế, chính trị… chính sách đối ngoại của Nhật Bản được nhắc đến ở

một mức độ nhất định.

Trên một số tạp chí chuyên ngành và tạp chí khoa học của các trường đại học

cũng đăng tải một số bài viết liên quan đến chính sách đối ngoại của Nhật Bản nói

chung và chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Mỹ giai đoạn 1951 - 1960 nói

riêng: Nguyễn Văn Kim với Nhật Bản ba lần mở của - ba sự lựa chọn, Nghiên cứu

Lịch sử, số 5, 2004; Nguyễn Văn Tận có bài: Nhìn lại chính sách đối ngoại của

Nhật Bản trong những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX và hệ quả của nó, Tạp chí

Nghiên cứu Nhật Bản số 4 (28), 2000; Trần Anh Phương có bài: Tìm hiểu chính

sách đối ngoại của Nhật Bản từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, Tạp chí

Nghiên cứu Nhật Bản số 1 (55), 2005); Nguyễn Quốc Hùng có bài: Nhật Bản và

trật tự thế giới ở Đông Á thế kỷ XX, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 2

(44), 4/2003; Hoàng Thị Minh Hoa có bài: Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới lần

thứ hai dưới góc độ đặc thù dân tộc, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 3

(45), 6/2003; Trương Việt Hà có bài: Nhìn lại chính sách an ninh của Nhật Bản thời

kỳ Chiến tranh lạnh, Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 4, 2015; Lê Thị Bình có bài: Nhật

Bản triển khai chính sách ngoại giao kinh tế từ sau Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ

(1951) đến năm 1975, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Đồng Tháp, số 15, 2015…

Những bài viết nói trên phân tích khá sâu chính sách đối ngoại của Nhật Bản, trong

đó có chính sách đối với Mỹ, là cơ sở tham khảo cần thiết cho chúng tôi trong quá

trình thực hiện luận án của mình.

Về chính sách đối ngoại của Mỹ:

Cuốn: “Đặc trưng văn hóa Mỹ và sự tác động tới chính sách đối ngoại của Mỹ”

do Nguyễn Thái Yên Hương chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, 2018. Tiếp cận

vấn đề từ góc độ văn hóa, lịch sử, các tác giả đã đi sâu phân tích những nét đặc trưng

của văn hóa Mỹ và ảnh hưởng của nó trong chính sách đối ngoại của Mỹ với các nước.

20

Cuốn Lịch sử thế giới hiện đại của tác giả Nguyễn Anh Thái (chủ biên) do Nxb Giáo dục phát hành năm 2006. Trong chương XI: Các nước tư bản chủ yếu từ 1945 đến 1973, mục I: Nước Mỹ từ năm 1945 đến 1973, tác giả đã khái quát về chính sách đối ngoại hay “chiến lược toàn cầu” của Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Sách đề cập đến cơ sở, mục tiêu và biện pháp thực hiện “chiến lược toàn cầu” của Mỹ.

Luận án tiến sỹ Lịch sử Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Nhật Bản trong nửa đầu thế kỷ XX, của Trần Thiện Thanh (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008), trình bày chính sách đối ngoại của Mỹ với Nhật Bản từ năm 1905 đến năm 1952 với ba giai đoạn: Giai đoạn 1905 - 1930; giai đoạn 1931 - 1945; giai đoạn 1945 - 1952. Nội dung và tính chất của từng giai đoạn khác nhau, phù hợp với diễn biến chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Nhật Bản. Phần liên quan đến nội dung của luận án của chúng tôi chỉ chiếm một dung lượng rất ngắn.

Chính sách đối ngoại của Mỹ cũng được một số nhà nghiên cứu Việt Nam thể hiện trên các tạp chí hoặc kỷ yếu hội thảo khoa học. Tiêu biểu có: Nguyễn Quốc Hùng và Nguyễn Thái Yên Hương với bài Thử bàn về văn hoá Mỹ và chính sách đối ngoại của Mỹ, Kỷ yếu Hội thảo tiếp cận nghiên cứu Hoa Kỳ học và kinh nghiệm cho Việt Nam, Hà Nội, 2003; Nguyễn Thị Nga với bài “Chủ nghĩa biệt lệ trong chính sách đối ngoại của Mỹ”, tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 3, 2004… Tuy nhiên, những bài viết này chỉ đề cập ở những khía cạnh riêng biệt, chuyên sâu về chính sách đối ngoại của Mỹ, chỉ liên quan đến nội dung luận án của chúng tôi ở mức độ nhất định và một cách gián tiếp.

1.2.2. Những công trình đề cập đến quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế

Nhật Bản - Mỹ

Có thể nói, các công trình nghiên cứu về quan hệ Nhật Bản - Mỹ nói chung, quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế giữa hai nước giai đoạn 1951 - 1960 ở Việt Nam rất ít. Nếu có cũng mang tính khái quát, thường tập trung vào từng nội dung cụ thể mà không mang tính toàn diện. Nhóm công trình này chủ yếu là các sách về quan hệ quốc tế và một số bài viết trên các tạp chí khoa học chuyên ngành.

Cuốn Quan hệ quốc tế ở Đông Á trong lịch sử (Trung Quốc - Triều Tiên - Nhật Bản) của tác giả Lê Văn Quang được Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh ấn hành năm 1993. Phần thứ tư cuốn sách trình bày quan hệ quốc tế ở Đông Á từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, tác giả đề cập đến nhiều nội dung quan trọng như “Vấn đề Nhật Bản”, “Chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953)”, “Vấn đề ký hoà ước với Nhật Bản”. Thông qua đó, quan hệ Nhật Bản và Mỹ, nhất là trên lĩnh vực chính trị, an ninh được đề cập dưới góc độ của quan hệ quốc tế ở khu vực.

21

Cuốn Lịch sử quan hệ quốc tế hiện đại (1945 - 2000) của nhóm tác giả Trần

Nam Tiến (chủ biên), Nguyễn Tuấn Khanh, Trần Phi Tuấn, Nxb Giáo dục xuất bản năm 2008. Đây là công trình nghiên cứu công phu về quan hệ quốc tế từ năm 1945

đến năm 2000. Liên quan nhiều đến nội dung luận án của chúng tôi là Chương II:

Chiến tranh lạnh và sự đối đầu hai cực Xô - Mỹ và hai khối Đông - Tây (từ năm 1947 đến những năm đầu thập niên 70). Các tác giả đã đề cập đến những vấn đề

liên quan đến quan hệ chính trị - an ninh Nhật Mỹ giai đoạn 1951 - 1960, như: Việc

ký hoà ước với Nhật và sự ra đời Hiệp ước An ninh Mỹ - Nhật (năm 1951); sự hình

thành hai nhà nước mới trên bán đảo Triều Tiên và Chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953); Mỹ xây dựng liên minh quân sự mới ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương…

Cuốn Giáo trình lịch sử quan hệ quốc tế từ 1945 - 1990 của tác giả Trần Văn

Đào và Phan Doãn Nam do Học viện Quan hệ quốc tế phát hành năm 2001. Khi đề cập

đến quan hệ ngoại giao của các nước phương Tây, các tác giả đã nói đến quan hệ của

Mỹ và Nhật Bản, tập trung vào nội dung Mỹ lôi kéo các nước ký hoà ước riêng rẽ với

Nhật Bản, quá trình ký hoà ước và Hiệp ước An ninh Mỹ - Nhật…

Bên cạnh đó, có những công trình về quan hệ quốc tế ít nhiều có liên quan đến

quan hệ Nhật Bản - Mỹ: Nguyễn Xuân Sơn (chủ biên), Trật tự thế giới thời kỳ Chiến

tranh lạnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; Nguyễn Quốc Hùng, Quan hệ quốc

tế từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay (1945 - 1996), Nxb Giáo dục, 1999;

Nguyễn Quốc Hùng, Quan hệ quốc tế thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000…

Quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản - Mỹ được một số nhà

nghiên cứu công bố trên tạp chí. Tiêu biểu có thể kể đến là: Trần Quang Minh, Vài

nét về quan hệ thương mại Nhật - Mỹ, 1955 - 1985, tạp chí Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, số 3 (38), tháng 6/2002; Hoàng Xuân Hoà, Quan hệ Mỹ - Trung Quốc

- Nhật Bản: Quá khứ và tương lai, tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 11/2002; Nguyễn

Tuấn Minh, Quan hệ thương mại Nhật - Mỹ nửa cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 5/2009; Nguyễn Văn Du, Ngô Chí Nguyện, Hệ thống liên minh an ninh song phương giữa Mỹ và các nước Đồng minh tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương: Lịch sử và hiện tại, tạp chí Lý luận chính trị, tháng 7/2020… Những bài viết nói trên do bị bó hẹp về mặt dung lượng, phạm vi về thời gian tương đối dài và do cách tiếp cận nên chỉ đề cập một mức độ nhất định quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ giai đoạn 1951 - 1960.

Như vậy, trong thời gian gần đây, ở Việt Nam đã có một số công trình

nghiên cứu về mối quan hệ của Nhật Bản với Mỹ. Tuy nhiên, các công trình mà

22

chúng tôi tiếp cận được chủ yếu đề cập mối quan hệ đó một cách khái quát hoặc

riêng lẻ, mà chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về mối quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ giai đoạn 1951 - 1960.

1.3. Nhận xét về tình hình nghiên cứu và những vấn đề luận án cần tập

trung giải quyết

1.3.1. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu Những vấn đề đã được giải quyết Sau khi tổng hợp các công trình nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam theo các

nhóm vấn đề như trên, tác giả cho rằng những vấn đề đã được giải quyết bao gồm:

Thứ nhất, một số công trình mà chúng tôi tiếp cận được (bao gồm những công

trình nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Nhật Bản, về chính sách đối ngoại của

Mỹ, về quan hệ hai nước) đã phân tích ở mức độ khác nhau những nhân tố tác động

đến quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ, đề cập đến những vấn

đề như sự ảnh hưởng của cuộc Chiến tranh lạnh, chính sách chung của Mỹ, hoàn cảnh

và sự lựa chọn của Nhật Bản, những nền tảng vốn có trong quan hệ hai nước… Đáng

chú ý là các công trình nhấn mạnh đến vị trí của hai nước Nhật Bản và Mỹ dành cho

nhau. Trong đó, nước Mỹ có vai trò quan trọng và là ưu tiên số 1 trong chính sách đối

ngoại của Nhật Bản; còn Nhật Bản được coi là quốc gia có vị trí then chốt, là đồng

minh, là “con bài” chiến lược của Mỹ ở châu Á.

Thứ hai, một số công trình đã đề cập đến diễn biến quan hệ song phương Nhật

Bản và Mỹ trong một thời gian dài, nhất là suốt cả thời kỳ Chiến tranh lạnh, trong đó

có khoảng thời gian 1951-1960. Các công trình này đã phân tích mối quan hệ “cộng sinh”, sự “cần nhau” vì lợi ích chính trị - an ninh, cũng như quan hệ kinh tế (thương

mại, đầu tư…) và các lĩnh vực khác của mỗi nước.

Thứ ba, với phạm vi thời gian nghiên cứu dài, đặc biệt là từ sau Chiến tranh

thế giới thứ hai đến kết thúc Chiến tranh lạnh, một số công trình đã có đánh giá tác động, hệ quả của mối quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ. Tác động đó được phân tích ở phương diện đối với Nhật Bản, Mỹ và với thế giới trong bối cảnh tình hình quốc tế phức tạp lúc bấy giờ. Trong các công trình đó vấn đề chính trị - an ninh đã được đề cập đến, nhưng chỉ mang tính khái quát và không phải là nội dung trọng tâm của các công trình này.

Những kết quả nghiên cứu ở nước ngoài và Việt Nam về quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng để chúng tôi triển khai luận án.

Đồng thời, giúp chúng tôi xây dựng ý tưởng, nội dung và lựa chọn phương pháp

23

nghiên cứu phù hợp. Về mặt nội dung, đó là cơ sở để phục dựng thực trạng quan hệ

chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ (1951 - 1960). Mặt khác, những kết quả đó góp phần giúp chúng tôi có góc nhìn đa chiều khi nhìn nhận, đánh giá đối

tượng nghiên cứu; giúp chúng tôi nhận định khách quan, khoa học về những kết quả

đạt được và hạn chế, tác động của quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế Nhật Bản - Mỹ (1951 - 1960) cũng như rút ra những đặc điểm của mối quan hệ song phương này.

Những vấn đề chưa được giải quyết

Mặc dù có khá nhiều công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa Nhật Bản

và Mỹ, nhưng về cơ bản còn mang tính khái quát. Về phạm vi thời gian, phần nhiều công trình nghiên cứu quan hệ hai nước trong suốt cả thời kỳ Chiến tranh lạnh, một

số khác nghiên cứu thời kỳ sau Chiến tranh lạnh, số lượng công trình nghiên cứu về

giai đoạn 1951 - 1960 không nhiều. Một số công trình tập trung vào từng nội dung cụ

thể về chính trị, an ninh hoặc kinh tế mà thiếu những công trình chuyên sâu về quan

hệ chính trị - an ninh và kinh tế giữa hai nước trong giai đoạn 1951 - 1960. Có thể nói

rằng, hầu như chưa có công trình chuyên khảo nào nghiên cứu có hệ thống mối

quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ trên lĩnh vực chính trị - an ninh và kinh tế từ năm

1951 đến năm 1960 với tư cách là đối tượng nghiên cứu riêng biệt.

Ngoài những vấn đề đã được nghiên cứu nói trên, nhiều vấn đề quan trọng

trong quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến

năm 1960 chưa được đề cập hoặc còn mang tính sơ lược. Có thể khái quát thành

những vấn đề dưới đây:

Thứ nhất, các công trình chưa làm sâu sắc và toàn diện những nhân tố tác

động đến quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960. Các nhân tố đó chưa được đánh giá đầy đủ ở các cấp độ: Thế giới, khu

vực; quốc gia và cá nhân. Đồng thời chưa có phân tích đúng mức về tác động của

các sự kiện quan trọng trên thế giới và khu vực diễn ra cùng thời gian. Điều đó ảnh hưởng đến việc nhìn nhận, đánh giá về mối quan hệ Nhật Bản và Mỹ trong phạm vi thời gian mà luận án nghiên cứu.

Thứ hai, các công trình chưa làm rõ được thực trạng quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ trong giai đoạn 1951 - 1960. Bởi vì, giai đoạn này chỉ là một khoảng thời gian ngắn trong phạm vi nghiên cứu của phần lớn các công trình đã công bố. Hơn nữa, hầu như chưa có cách tiếp cận đa chiều (vừa làm rõ

tiến trình, vừa xoáy sâu vào những vấn đề cụ thể) trong quan hệ song phương Nhật

Bản và Mỹ (1951 - 1960).

24

Thứ ba, những công trình có liên quan đến nội dung luận án mà chúng tôi

tiếp cận được đến từ nhiều quốc gia khác nhau, được xuất bản trong những thời điểm khác nhau nên đã ảnh hưởng đến quan điểm, cách nhìn nhận và đánh giá vấn

đề. Một số tác giả còn nặng về vấn đề ý thức hệ, một số lại quá nhấn mạnh cách tiếp

cận từ góc độ Chiến tranh lạnh, số khác lại thiên về việc nhìn nhận từ phía Nhật Bản hoặc Mỹ… Chính vì vậy, dẫn đến những nhận định thiếu khách quan, thiếu tính

khoa học, chưa đánh giá đúng bản chất của mối quan hệ này.

1.3.2. Những vấn đề luận án cần tập trung giải quyết

Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, bổ sung những nguồn tư liệu mới, luận án đặt ra những vấn đề cần tập trung

giải quyết như sau:

Thứ nhất, trình bày và phân tích sâu sắc, đầy đủ những nhân tố tác động đến

mối quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm

1960. Những nhân tố được đề cập trong luận án bao gồm: Tình hình quốc tế và khu

vực; quan hệ Nhật Bản - Mỹ trước năm 1951; tình hình Nhật Bản và chính sách đối

ngoại của Nhật Bản đối với Mỹ; tình hình Mỹ và chính sách đối ngoại của Mỹ đối

với Nhật Bản; vai trò của các nhà lãnh đạo Nhật Bản và Mỹ.

Thứ hai, trình bày một cách có hệ thống và toàn diện thực trạng quan hệ

chính trị - an ninh và kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960; làm

rõ tiến trình cũng như những nội dung cốt lõi của mối quan hệ giữa hai nước trong

các lĩnh vực nói trên.

Thứ ba, trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực trạng mối quan hệ chính trị - an

ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960, rút ra một số nhận xét về mối quan hệ song phương này. Những nhận xét tập trung vào các mặt: Kết

quả đạt được, hạn chế; tác động đối với từng nước và khu vực; những đặc điểm của

mối quan hệ giữa hai nước trên các lĩnh vực nêu trên.

Thứ tư, tiếp thu những kết quả nghiên cứu về mối quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960 đã được công bố, luận án sẽ phân tích, đánh giá, chọn lọc tư liệu, đảm bảo độ tin cậy và phù hợp với quan điểm khách quan để xác định đúng bản chất của mối quan hệ giữa hai nước. Vấn đề khoa học xuyên suốt mà luận án muốn làm rõ là: Quan hệ giữa hai nước là mối quan hệ đồng minh chặt chẽ trên cơ sở lợi dụng lẫn nhau, trong đó Mỹ lợi dụng

Nhật Bản để thực hiện chiến lược toàn cầu của mình, Nhật Bản lợi dụng Mỹ để tập

trung phát triển kinh tế.

25

Chương 2

NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ CHÍNH TRỊ - AN NINH,

KINH TẾ GIỮA NHẬT BẢN VÀ MỸ TỪ NĂM 1951 ĐẾN NĂM 1960

2.1. Tình hình quốc tế và khu vực châu Á - Thái Bình Dương

2.1.1. Sự hình thành Trật tự thế giới hai cực và cuộc Chiến tranh lạnh

Đầu năm 1945, cục diện Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn quyết

định. Những mâu thuẫn giữa các nước Đồng minh trở gay gắt, trong đó, nổi lên ba

vấn đề cần phải giải quyết: kết thúc nhanh chóng chiến tranh ở châu Âu và châu Á - Thái Bình Dương; tổ chức lại trật tự thế giới sau chiến tranh; phân chia khu vực đóng

quân theo chế độ quân quản ở các nước phát xít chiến bại và phân chia phạm vi thế

lực giữa các nước tham gia chiến tranh chống phát xít [85, tr. 223].

Từ ngày 4 đến 12/2/1945, lãnh đạo cấp cao của Liên Xô (Joseph Stalin), Mỹ

(Franklin D. Roosevelt) và Anh (Winston S. Churchill) đã họp hội nghị ở Yalta

(Liên Xô) để bàn những vấn đề quan trọng của cuộc chiến tranh. Hội nghị quyết

định việc kết thúc chiến tranh ở châu Âu và châu Á - Thái Bình Dương và thành lập

tổ chức Liên hiệp quốc. Theo thoả thuận của ba cường quốc, sau khi chiến tranh kết thúc ở châu Âu, Liên Xô sẽ tham gia chiến tranh chống Nhật Bản ở châu Á - Thái

Bình Dương với các điều kiện: 1. Bảo vệ nguyên trạng Mông Cổ, công nhận nền

độc lập của nước CHND Mông Cổ; 2. Khôi phục quyền lợi của Nga bị vi phạm bởi

cuộc chiến tranh Nga - Nhật năm 1904 - 1905, cụ thể: (a) Phần phía Nam của

Sakhalin cũng như các đảo tiếp giáp với nó sẽ được trả lại cho Liên Xô; (b) Thương

cảng Lữ Thuận sẽ được quốc tế hóa, các lợi ích hàng đầu của Liên Xô tại cảng này

được bảo đảm…, (c) Tuyến đường sắt phía Đông Trung Quốc và tuyến đường sắt

Nam Mãn Châu sẽ được điều hành chung bởi một công ty chung Xô - Trung; 3.

Quần đảo Kurile sẽ được giao cho Liên Xô [115]. Hội nghị cũng thoả thuận về việc đóng quân ở các nước bại trận để giải giáp quân đội phát xít và phân chia phạm vi ảnh hưởng của các cường quốc thắng trận ở châu Âu và châu Á. Theo thoả thuận tại hội nghị, Nhật Bản thuộc phạm vi ảnh hưởng của Mỹ và các nước phương Tây. Điều này có ảnh hưởng lớn đến quan hệ Nhật Bản và Mỹ về sau.

Từ ngày 17/7 đến ngày 2/8/1945, ba nhà lãnh đạo Joseph Stalin, Franklin D.

Roosevelt và Winston S. Churchill (sau đó Clement Attlee thay) tham dự Hội nghị

Potsdam. Hội nghị đã thoả thuận nguyên tắc giải quyết vấn đề Nhật Bản. Ngày

26/7/1945, hội nghị thông qua Tuyên cáo Potsdam kêu gọi Nhật Bản đầu hàng (do

26

Mỹ, Anh, Trung Hoa Dân quốc ký (đến ngày 28/7/1945, Liên Xô mới ký vào bản

Tuyên cáo). Tuyên cáo khẳng định: “Đã đến lúc người Nhật Bản phải tự quyết định

xem họ có nên để cho mình tiếp tục bị những người có đầu óc hiếu chiến kiểm soát

mà không sáng suốt nhận thấy rằng chính họ đang đưa Đế quốc Nhật Bản đến

ngưỡng cửa của sự hủy diệt; hoặc hành động theo con đường của lương tri… Phải

xác định thời hạn cho việc loại bỏ tất cả các quyền hạn và ảnh hưởng của những

người đã lừa dối người dân Nhật Bản bắt tay vào cuộc chinh phục thế giới. Chúng tôi

nhấn mạnh rằng, sẽ không thể có một trật tự mới của hòa bình, an ninh và công lý

cho đến khi chủ nghĩa quân phiệt vô trách nhiệm hoàn toàn bị loại bỏ trên thế giới…

Đến khi một trật tự mới được thiết lập và đến khi có bằng chứng thuyết phục rằng

sức mạnh chiến tranh của Nhật Bản đã bị tiêu hủy, những địa điểm trong lãnh thổ

Nhật Bản sẽ bị chiếm đóng theo chỉ định của các nước Đồng minh…” [164, tr.18].

Hội nghị Potsdam cũng quy định một số vấn đề khác đối với Nhật Bản: Chủ quyền

của Nhật Bản trở lại đất Nhật chính thống (chủ yếu ở 4 đảo: Honshu, Hokkaido,

Kyushu và Shikoku); Đồng minh sẽ mở toà án ở Tokyo để xét xử tội phạm chiến

tranh; Nhật Bản chỉ được phát triển công nghiệp hoà bình; thủ tiêu lực lượng vũ trang

và giải tán quân đội Nhật Bản.

Quyết định của các hội nghị quốc tế, nhất là Hội nghị Yalta đã đặt nền tảng cho

một trật tự thế giới mới từng bước được hình thành trong những năm 1945-1947,

thường được gọi là “Trật tự hai cực Yalta”. Trật tự này là sự đối đầu giữa một cực là

Mỹ và một cực là Liên Xô. Việc phân chia thế lực giữa hai nước này diễn ra rất

quyết liệt, có ảnh hưởng rất lớn đến cục diện thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ

hai. Những thoả thuận đạt được từ các hội nghị nói trên đã phân chia khu vực ảnh

hưởng trên thế giới, chủ yếu giữa hai siêu cường quốc Liên Xô và Mỹ, vốn là những

lực lượng chủ yếu đánh bại Chủ nghĩa phát xít. Tuy nhiên, với bản chất của hai chế

độ chính trị - xã hội khác nhau nên sau chiến tranh, hai nước nhanh chóng chuyển

từ liên minh chống phát xít trở thành đối địch, ra sức lôi kéo, tập hợp đồng minh và

hình thành hai phe đối đầu nhau: XHCN do Liên Xô đứng đầu và TBCN do Mỹ

đứng đầu.

Trong cục diện phức tạp sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhất là trước sự lôi

kéo đồng minh của Liên Xô và Mỹ, Nhật Bản không thể tránh khỏi những tác động

lớn. Quốc gia này có một vị trí quan trọng ở Viễn Đông, châu Á - Thái Bình

Dương, lại vừa trải qua thất bại nặng nề trong chiến tranh nên trở thành đối tượng bị

27

lôi kéo, nhất là từ phía Mỹ. Đó là điều kiện để quan hệ Nhật Bản và Mỹ thay đổi

nhanh chóng sau chiến tranh.

Tháng 3/1947, Tổng thống Mỹ Harry S. Truman đã đọc diễn văn trước Quốc

hội Mỹ. Theo ông ta, các nước Đông Âu “vừa mới bị cộng sản thôn tính” và những

đe dọa tương tự đang diễn ra ở châu Âu và nhiều nước khác nữa. Vì thế, Mỹ phải

lãnh đạo “thế giới tự do” chống lại sự đe doạ của CNCS và sự “bành trướng” của

nước Nga. H. Truman đã phát động cuộc chiến tranh chống Liên Xô và các nước

XHCN. Với bài diễn văn này, “Chủ nghĩa Truman” chính thức ra đời và cũng được

coi là mốc mở đầu cho Chiến tranh lạnh.

Chiến tranh lạnh “là cuộc đối đầu giữa hai khối chính trị, quân sự lớn Đông -

Tây đứng đầu là Liên Xô và Mỹ, hình thức của cuộc đấu tranh này là vừa hòa bình vừa phi hòa bình, hai siêu cường Mỹ - Xô là diễn viên chính của cuộc Chiến tranh lạnh, quan hệ giữa hai bên đã trở thành nội dung hạt nhân của Chiến tranh lạnh” [96,

tr.27]. Ba mảng cơ bản của cuộc Chiến tranh lạnh là: thành lập các khối liên minh

quân sự, chạy đua vũ trang và các cuộc chiến tranh cục bộ.

Từ năm 1947 đến đến năm 195l đã diễn ra nhiều sự kiện nổi bật trong cuộc

đối đầu giữa hai phe. Tháng 6/1947, Mỹ đưa ra Kế hoạch Marshall nhằm “phục

hưng châu Âu”, theo đó Mỹ sẽ viện trợ cho các nước châu Âu để khôi phục kinh tế.

Để đối phó lại, tháng 9/1947, các nước XHCN thành lập Cục Thông tin quốc tế

(KOMINFORM). Tháng 1/1949, Liên Xô và các nước Anbani, Ba Lan, Bungari,

Hunggari, Rumani, Tiệp Khắc thành lập Hội đồng Tương trợ kinh tế (SEV). Ngày

4/4/1949, Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương được 12 nước ký kết tại Washington và

chính thức có hiệu lực từ ngày 4/8/1949. Hiệp ước này đánh dấu sự ra đời của tổ

chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO).

Trong những năm 50, Chiến tranh lạnh được đẩy lên cao với mức độ đối đầu

gia tăng nhanh chóng. Mỹ và Liên Xô đẩy mạnh việc thành lập các tổ chức quân sự. Ngoài khối NATO, Mỹ đã lôi kéo đồng minh, thành lập nhiều tổ chức quân sự nhằm hỗ trợ cho NATO và bao vây Liên Xô như: ANZUS (9/1951), gồm Mỹ, Australia, New Zealand; SEATO (9/1954) ở Đông Nam Á gồm Mỹ, Anh, Australia, New Zealand, Pháp, Philippines, Thái Lan, Pakistan; CENTO1 (1958) ở Trung Cận Đông gồm Anh, Iran, Pakistan, Thổ Nhĩ Kỳ… Về phía các nước XHCN, ngày 14/5/1955,

1 Tiền thân của CENTO là tổ chức Hiệp ước Baghdad, thành lập năm 1955; đến năm 1958, sau khi cách mạng Iraq thành công, Iraq rút khỏi tổ chức này, tổ chức Hiệp ước Baghdad được đổi tên thành CENTO.

Liên Xô, Anbani, Bungari, Hunggari, CHDC Đức, Ba Lan, Rumani, Tiệp Khắc đã ký

28

Hiệp ước Hữu nghị, hợp tác và tương trợ Warszawa, đánh dấu sự ra đời của tổ chức

Warszawa.

Trong những năm 50, các cuộc chiến tranh, xung đột cũng diễn ra ở nhiều nơi

tiêu biểu là Chiến tranh Triều Tiên; vụ quốc hữu hoá kênh đào Suez; cuộc Chiến

tranh Đông Dương; xung đột giữa các cường quốc ở Trung Cận Đông… Trong đó, Chiến tranh Triều Tiên có ảnh hưởng rõ nét nhất đến Nhật Bản nói chung và quan hệ

Nhật Bản - Mỹ nói riêng.

Bối cảnh chung đó đã tác động lớn đến quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ. Để

thực hiện cuộc Chiến tranh lạnh, Mỹ phải tìm mọi cách lôi kéo các nước đồng minh

hòng ngăn chặn “làn sóng cộng sản” đang diễn ra có phần “khó kiểm soát” ở châu

Âu cũng như châu Á. Chính điều này đã làm cho Mỹ siết chặt chính sách chiếm

đóng Nhật Bản từ 15/8/1945 đến 8/9/1951 và từ sau ngày 8/9/1951 thì thực hiện

chính sách đồng minh. Chiến tranh lạnh không những làm cho Mỹ thay đổi chính

sách với Nhật Bản, mà nó còn làm thay đổi cả bản chất của mối quan hệ Nhật - Mỹ.

Từ quan hệ chiếm đóng nhanh chóng chuyển sang quan hệ liên minh, trong đó Nhật

- Mỹ liên minh trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự…

2.1.2. Sự phát triển của Liên Xô, hệ thống XHCN và phong trào giải phóng

dân tộc trên thế giới

Ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, quan hệ đồng minh chống

phát xít của Liên Xô với các cường quốc phương Tây vốn dĩ mong manh, nhanh

chóng tan vỡ. Liên Xô bị các nước TBCN, đứng đầu là Mỹ tiến hành bao vây kinh

tế, cô lập về chính trị.

Mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, nhưng Liên Xô vẫn từng bước

khôi phục và phát triển kinh tế, củng cố chính trị, tiếp tục tiến theo con đường

XHCN. Liên Xô đã đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng

CNXH. Năm 1950, sản lượng công nghiệp của Liên Xô tăng 73% so với trước

chiến tranh [60, tr.314]. Năm 1949, Liên Xô sản xuất thành công bom nguyên tử,

phá thế độc quyền về vũ khí nguyên tử của Mỹ. Với những thành tựu đạt được, Liên

Xô không ngừng củng cố vị thế của mình trên trường quốc tế, nhanh chóng vươn

lên trở thành cường quốc về kinh tế, chính trị và là đối thủ cạnh tranh số 1 của Mỹ.

Theo thoả thuận giữa các nước thắng trận, Liên Xô được kiểm soát miền Bắc

Triều Tiên, Nam Sakhalin và quần đảo Kurile. Đây là những địa điểm cận kề, có thể

bao vây Nhật Bản (Sakhalin nằm ở bờ biển phía Đông của Nga và nằm ngay phía

29

Bắc đảo Hokkaido của Nhật Bản; quần đảo Kurile nằm ở Đông Bắc Hokkaido của

Nhật Bản). Những hoạt động của Liên Xô ở những nơi này đã đe doạ đến những toan tính của Mỹ đối với Nhật Bản.

Ở Triều Tiên, trước khi Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện năm 1945, Liên Xô đưa quân vào bán đảo Triều Tiên. Sau đó, Liên Xô và Mỹ đồng ý chia bán đảo này thành hai phần, với đường phân cách là vĩ tuyến 38. Liên Xô tiếp quản miền Bắc còn Mỹ quản lý miền Nam. Ở miền Bắc, Liên Xô tăng cường thiết lập ảnh hưởng về chính trị, quân sự…, ủng hộ chính phủ của Kim Nhật Thành, huấn luyện quân đội, trang bị vũ khí cho quân đội Bắc Triều Tiên...

Sakhalin vốn có lịch sử phức tạp, do sự tranh giành giữa Nga và Nhật Bản. Sau Chiến tranh Nga - Nhật, hai nước đã ký Hiệp định Portsmouth vào năm 1905, theo đó thì phần phía Nam của đảo (từ 50° vĩ Bắc) thuộc chủ quyền của Nhật Bản. Theo các thỏa thuận tại Hội nghị Yalta, Liên Xô được nắm quyền kiểm soát Sakhalin. Chính vì vậy, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô đã thiết lập chủ quyền lên toàn bộ Sakhalin.

Quần đảo Kurile có khoảng hơn 50 đảo và nhiều đảo đá nhỏ khác, từng là nơi diễn ra sự tranh chấp quyết liệt giữa Nga và Nhật Bản trong lịch sử. Ba ngày sau khi Nhật Bản tuyên bố đầu hàng, ngày 18/8/1945, Liên Xô tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Kurile. Từ đó, Kurile trở thành địa bàn giúp Liên Xô có thể khống chế Viễn Đông, đe dọa đến an ninh của Nhật Bản. Quần đảo Kurile có ảnh hưởng đến những chính sách của Mỹ đối với Nhật Bản về sau.

Bên cạnh đó, cùng với việc phát triển kinh tế, xây dựng CNXH, Liên Xô cũng giúp đỡ các nước ở Đông Âu và phong trào GPDT trên thế giới. Khi truy kích và tiêu diệt phát xít Đức ở các nước Đông Âu, Liên Xô đã giúp đỡ nhân dân các nước này nổi dậy lật đổ chế độ chiếm đóng của phát xít Đức và tay sai, thành lập chính quyền dân chủ nhân dân. Sau đó, các nước Anbani, Bungari, Hunggari, Nam Tư, Rumani, Tiệp Khắc đã lựa chọn con đường XHCN.

Trong những năm 1947 - 1949, các nước Anbani, Bungari, Hunggari, Nam tư, Rumani, Tiệp Khắc lần lượt hoàn thành cách mạng dân chủ nhân dân và bắt đầu bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Riêng ở Đông Đức, dưới sự giúp đỡ của Liên Xô, ngày 7/10/1949, nước CHDC Đức được thành lập, tham gia chính phủ gồm đại biểu của tất cả các đảng phái trong Mặt trận Dân tộc Dân chủ Đức. Sự ra đời của các nhà nước dân chủ nhân dân Đông Âu đánh dấu CNXH đã vượt ra khỏi phạm vi lãnh thổ Liên Xô, trở thành hệ thống ở châu Âu. Trong những năm 50, các nước Đông Âu đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp phần củng cố hệ thống CNXH.

30

Ở châu Á, tình hình cũng diễn biến hết sức phức tạp, nằm ngoài sự kiểm soát

của Mỹ. CHND Mông Cổ nhanh chóng hoàn thành khôi phục kinh tế sau chiến tranh, bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Ở Bắc Triều Tiên, ngày 21/9/1948, Quốc hội tối

cao tuyên bố thành lập nước CHDCND Triều Tiên. Ở Việt Nam, từ năm 1947, cuộc

kháng chiến của nhân dân Việt Nam bước vào giai đoạn quyết liệt và từng bước giành được những thắng lợi quan trọng. Ngày 1/10/1949, nước CHND Trung Hoa ra

đời, đánh dấu hệ thống XHCN thế giới đã được hình thành, nối liền từ Âu sang Á.

Nỗi lo về CNCS của Mỹ càng tăng lên gấp bội.

Trong suốt những năm 50, CNXH trên thế giới ngày càng phát triển và lớn mạnh. Nước CHDCND Triều Tiên không ngừng được củng cố; cuộc kháng chiến

chống Pháp của nhân dân Việt Nam giành thắng lợi (năm 1954), miền Bắc Việt

Nam hoàn toàn giải phóng, tiến lên CNXH; năm 1959, cách mạng Cuba thành công

và Cuba tiến lên xây dựng CNXH. Lúc này, CNXH trở thành một hệ thống từ châu

Âu sang châu Á đến châu Mỹ. Điều đó đã tác động trực tiếp đến Trật tự Yalta và

chiến lược toàn cầu của Mỹ. Mỹ phải quyết liệt hơn với chính sách “ngăn chặn”

CNCS ở châu Á - Thái Bình Dương. Trong khi đó, Nhật Bản có vị trí địa - chiến

lược ở Đông Bắc Á với phía Tây Bắc là Liên Xô, phía Tây là Trung Quốc, phía Nam

là Đông Nam Á. Nhật Bản cũng là láng giềng của Triều Tiên. Từ Nhật Bản có thể

làm bàn đạp tấn công sang các nước nói trên. Vì vậy, Nhật Bản là lựa chọn tốt nhất

của Mỹ, bởi nó có thể trở thành bức tường bao vây Liên Xô và ngăn chặn CNCS ở

châu Á. Đây là nhân tố thúc đẩy quan hệ đồng minh của Nhật Bản và Mỹ nhanh

chóng xác lập và phát triển.

Như vậy, có thể nói sự phát triển của Liên Xô và sự ra đời, phát triển của hệ thống XHCN thế giới là một trong những nguyên nhân làm cho quan hệ đồng minh

Nhật Bản - Mỹ được xác lập và khi CNXH càng phát triển thì càng làm cặp quan hệ

này trở nên khăng khít hơn.

Cùng với sự lớn mạnh của Liên Xô và sự ra đời của hệ thống XHCN, phong trào GPDT trên thế giới cũng phát triển mạnh mẽ, có tác động không nhỏ đến quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ.

Sự sụp đổ của Chủ nghĩa phát xít Đức ở châu Âu và Chủ nghĩa quân phiệt Nhật ở châu Á, cùng với sự suy yếu của các nước đế quốc, thực dân là điều kiện khách quan cho phong trào GPDT phát triển mạnh mẽ ở khắp nơi trên thế giới. Bên

cạnh đó, hệ thống XHCN trở thành “chỗ dựa tin cậy đối với các cuộc đấu tranh giải

phóng vì độc lập, hoà bình, dân chủ và tiến bộ” [34, tr.5].

31

Ở châu Á, phong trào phát triển mạnh và lan rộng ở khắp Đông Nam Á, Đông

Bắc Á và Nam Á, bước đầu làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các quốc gia ở Đông Nam Á như Indonesia, Việt Nam, Lào giành

độc lập. Tiếp đó, phong trào GPDT cũng dâng lên mạnh mẽ ở các nước Miến Điện,

Philippines, Mã Lai. Ở Đông Bắc Á, ngày 1/10/1949, cách mạng Trung Quốc thành công, nước CHND Trung Hoa được thành lập. Đây là một thắng lợi vô cùng quan

trọng của phong trào GPDT thế giới. Ở Nam Á, tiêu biểu nhất là phong trào ở Ấn Độ.

Cuộc đấu tranh đòi độc lập của nhân dân Ấn Độ diễn ra liên tục, đến năm 1950, Ấn

Độ tuyên bố độc lập hoàn toàn. Ở Tây Á, năm 1946, cách mạng thành công ở Syria, Liban. Trong những năm 50, cách mạng lại nổ ra ở Iran, Iraq. Ở châu Phi, phong trào

GPDT cũng bùng lên, đầu tiên ở Ai Cập, nước Cộng hoà Ai Cập ra đời (6/1953). Từ

nửa sau những năm 50, phong trào bùng lên mạnh mẽ ở Algeria, Tunisia, Maroc,

Sudan, Ghana... Tại Mỹ Latinh, từ năm 1945 đến năm 1959, phong trào đấu tranh

của nhân dân phát triển ở nhiều quốc gia, tiêu biểu nhất là ở Cuba. Cuba trở thành lá

cờ đầu của phong trào đấu tranh chống chế độ độc tài, chống chủ nghĩa thực dân

mới của Mỹ, giành độc lập, tự do, dân chủ.

Sự phát triển của phong trào GPDT trên thế giới đã buộc các nước thực dân dần

dần phải từ bỏ các thuộc địa của mình. Vấn đề đặt ra là, khi các quốc gia này giành độc

lập, họ sẽ theo phe nào, XHCN hay TBCN? Đó là điều cả Mỹ và Liên Xô đều quan

tâm. Trên thực tế, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, với ảnh hưởng của Liên Xô, nhiều

quốc gia sau khi giành được độc lập đã lựa chọn con đường XHCN. Điều này đã làm

cho ảnh hưởng của Mỹ nói riêng và phe TBCN nói chung có nguy cơ bị thu hẹp dần.

Sự phát triển của phong trào GPDT ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã biến Nhật Bản trở thành “tiền đồn” của Mỹ, ngăn chặn CNCS ở châu Á. Chính vì vậy, có thể nói,

phong trào GPDT cũng là một trong những yếu tố thúc đẩy sự phát triển quan hệ Nhật

Bản - Mỹ.

2.1.3. Sự ra đời và phát triển của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Trung Quốc là một quốc gia có vị trí quan trọng ở khu vực châu Á, có diện tích lớn, giàu tài nguyên thiên nhiên, nên ngay từ rất sớm các nước phương Tây đã nhảy vào “xâu xé”. Từ khi bị rơi vào thân phận bị nô dịch, nhân dân Trung Quốc đã tích cực đấu tranh để giành lại chủ quyền dân tộc, tuy nhiên đều thất bại.

Từ cuối những năm 20 của thế kỷ XX, Tưởng Giới Thạch được sự giúp sức

của Mỹ đã xây dựng một lực lượng quân đội mạnh, đánh bại các tập đoàn quân

phiệt khác và đối đầu với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Khi Chiến tranh thế giới thứ

32

hai kết thúc, cùng với sự hình thành của trật tự thế giới mới và sự ra đời cuộc Chiến

tranh lạnh, Mỹ âm mưu ngăn chặn làn sóng cộng sản lan tràn ở châu Á. Trung Quốc

là “nơi mà Mỹ đã bỏ công sức nhiều nhất trong thời kỳ 1947-1949, hy vọng rằng sẽ

tiêu diệt lực lượng cách mạng và đạt được nền thống trị trên lục địa trên 700 triệu

người” [60, tr.314]. Theo thoả thuận của ba cường quốc (Xô, Mỹ, Anh) tại Yalta,

chính phủ liên hiệp của Quốc dân đảng được thành lập có sự tham gia của Đảng

Cộng sản Trung Quốc. Tuy nhiên, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, do lực lượng

của Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày càng lớn mạnh, nên Mỹ tăng cường viện trợ

cho Tưởng Giới Thạch. Mỹ đã trang bị, huấn luyện trên 50 vạn quân Tưởng Giới

Thạch, giúp đỡ vận chuyển quân Tưởng đến bao vây các khu giải phóng, giúp

Chính phủ Quốc dân đảng độc quyền trong việc giải giáp quân Nhật. Mỹ còn trực

tiếp đưa hơn đưa hơn 11 vạn quân vào một số cảng biển và sân bay ở Thượng Hải,

Thiên Tân, Bắc Kinh, Tân Hoàng Đảo, Thanh Đảo [68, tr.211]. Trong vòng chưa

đầy hai năm sau khi chiến tranh chống Nhật kết thúc, Mỹ đã viện trợ cho Tưởng

Giới Thạch 4,430 tỷ USD, trong đó chủ yếu là viện trợ quân sự [85, tr.321].

Ngày 10/10/1945, Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản đã ký Hiệp định Song

Thập, quy định những biện pháp bảo vệ hoà bình trong nước, xác định sẽ tổ chức

Hội nghị hiệp thương chính trị để xây dựng đất nước. Tuy nhiên, chưa đầy một năm

sau, tháng 7/1946 nội chiến Quốc - Cộng bùng nổ. Trải qua hơn 3 năm chiến tranh,

phần thắng đã thuộc về Đảng Cộng sản. Ngày 1/10/1949, nước CHND Trung Hoa

được thành lập.

Sự ra đời của nước CHND Trung Hoa đánh dấu CNXH đã mở rộng từ châu

Âu sang châu Á, trở thành hệ thống thế giới. Sự kiện này đã giáng một đòn mạnh mẽ

vào chính sách “ngăn chặn” của Mỹ. Đối với nhiều người Mỹ, “Trung Quốc đỏ”, là

“một kẻ thù đáng ngại hơn Liên Xô” [4, tr.137]. Thắng lợi của cách mạng Trung

Quốc có ảnh hưởng to lớn đối với quan hệ Nhật Bản - Mỹ. “Con bài” Tưởng Giới

Thạch thất bại đồng nghĩa với âm mưu biến Trung Quốc thành bức tường ngăn chặn

CNCS ở châu Á của Mỹ cũng thất bại.

Sau khi thành lập, trong những năm 50, CHND Trung Hoa tiến hành khôi

phục kinh tế và cải cách dân chủ, cải tạo XHCN đối với nền kinh tế, bước đầu xây

dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. Đến năm 1956, tổng giá trị sản phẩm

quốc dân đạt 163,9 tỷ Nhân dân tệ; công nghiệp đạt 64,2 tỷ Nhân dân tệ, chiếm

33

51,3% tổng giá trị sản phẩm công nông nghiệp; lương thực đạt 192,75 triệu tấn [64,

tr.317]. Về mặt đối ngoại, CHND Trung Hoa thực hiện chính sách “Nhất biên đảo”,

ngả hẳn về phía Liên Xô để chống Mỹ.

Sự ra đời, phát triển của CHND Trung Hoa với vai trò ngày càng quan trọng

trên trường quốc tế đã biến nước này thành một thế lực cạnh tranh với Mỹ và tác

động trực tiếp đến Nhật Bản. Chính vì thế, Mỹ đã sử dụng Nhật Bản như một công

cụ để kiềm chế CHND Trung Hoa. Bởi vậy, đây cũng là nhân tố quan trọng tác

động đến quan hệ Nhật - Mỹ trong những năm 1951 - 1960.

2.1.4. Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam Với vị trí gần gũi giữa Nhật Bản và bán đảo Triều Tiên, cùng với “Chính

sách ngăn chặn” của Mỹ đối với CNCS nên cuộc Chiến tranh Triều Tiên (1950 -

1953) trở thành một nhân tố có tác động rất lớn đến quan hệ chính trị - an ninh và

kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ.

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên. Khi chiến tranh kết thúc, Triều Tiên bị chia cắt thành hai miền Bắc và Nam lấy vĩ tuyến 380 làm ranh giới. Theo Hội nghị Yalta và Postdam, quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Bắc,

quân đội Mỹ chiếm đóng miền Nam. Sau sự thất bại của các cuộc đàm phán nhằm thiết lập một chính phủ thống nhất, cuối năm 1948, hai chính phủ riêng rẽ được thành lập ở

hai miền Nam, Bắc với chế độ chính trị hoàn toàn đối lập nhau.

Tháng 6/1950, Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ giữa một bên là quân đội Nam

Triều Tiên, quân đội Mỹ, các nước đồng minh của Mỹ và một bên là quân đội Bắc

Triều Tiên, quân Chí nguyện Trung Quốc với sự hậu thuẫn mọi mặt của Liên Xô. Mỹ

lo sợ CNCS tiếp tục lan tràn ở Viễn Đông nên ngay khi Bắc Triều Tiên tấn công xuống

Nam Triều Tiên, Tổng thống H. Truman ngay lập tức ra lệnh cho tướng Doglas Mac

Arthur cử quân đội Mỹ ở Nhật Bản đến Triều Tiên “bảo vệ người Mỹ ở Seoul”.

Trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên, Nhật Bản đã đóng vai trò là một hậu cứ quan trọng của Mỹ. Từ các căn cứ quân sự ở Nhật Bản, quân đội Mỹ xuất kích tấn công Triều Tiên. Bởi vì, ngay từ khi phát động Chiến tranh lạnh, Mỹ đã xây dựng Nhật Bản như một pháo đài của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương để bao vây Liên Xô và hệ thống XHCN, ngăn chặn CNCS. Đến 1950, Nhật Bản đã thực sự trở thành pháo đài của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương để trực tiếp ngăn chặn CNCS lan tràn từ Bắc

Triều Tiên xuống Nam Triều Tiên.

Chiến tranh Triều Tiên như một liều thuốc thử quan hệ đồng minh Mỹ và

Nhật Bản vừa mới thiết lập năm 1951. Mặc dù lực lượng vũ trang Nhật Bản không

34

trực tiếp tham chiến, nhưng một số lượng lớn người Nhật đã đến Triều Tiên phục vụ

trong lĩnh vực hậu cần, kỹ thuật, phục vụ chiến đấu.

Chiến tranh Triều Tiên được ví như “ngọn gió thần” thổi vào nền kinh tế Nhật

Bản. Điều quan trọng nhất dẫn đến sự phát triển bột phát của kinh tế Nhật Bản là nguồn

ngoại tệ của Mỹ đổ vào nền kinh tế nước này để giải quyết các khoản chi tiêu quân sự

của Mỹ - được gọi là thu nhập đặc biệt” [49, tr.236]. Những đơn đặt hàng, khoản viện

trợ hay những đầu tư của Mỹ cho Nhật Bản để Nhật Bản sản xuất vũ khí, trang thiết bị

phục vụ chiến tranh đã mang đến những lợi ích to lớn cho Nhật Bản. Chỉ tính riêng giá

trị các đơn đặt hàng mà Mỹ dành cho Nhật Bản trong chiến tranh cũng rất lớn và tăng

nhanh: năm 1950 là 229,995 triệu USD, năm 1952 là 305,543 triệu USD [56, tr. 241].

Chính vì vậy, cuộc Chiến tranh Triều Tiên có tác động trực tiếp đến quan hệ Nhật Bản

- Mỹ nói chung, quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế hai nước nói riêng. Cuộc chiến

tranh này đã làm cho vị trí của Nhật Bản vốn đã quan trọng trong chiến lược toàn cầu

của Mỹ nay càng trở nên quan trọng hơn. Nó cũng là một phần nguyên nhân thúc đẩy

liên minh Nhật - Mỹ sớm ra đời và phát triển.

Cùng với Chiến tranh Triều Tiên, cuộc Chiến tranh Việt Nam cũng có tác

động đến quan hệ Nhật Bản và Mỹ. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, quân Anh

được cử đến Việt Nam để giải giáp quân đội Nhật, đồng thời giúp Pháp tái thiết lập

chế độ thực dân tại đây. Ngày 23/9/1945, Anh giúp Pháp tấn công Sài Gòn, mở đầu

cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai.

Trong những năm 1946 - 1947, Mỹ không can thiệp và cũng không viện trợ

cho cuộc viễn chinh của Pháp ở Đông Dương. Đến năm 1947, theo kế hoạch

Marshall, Mỹ đã viện trợ cho Pháp 3 tỷ USD, nhờ đó Pháp giảm bớt khó khăn trong

cuộc Chiến tranh xâm lược Việt Nam. Giai đoạn này Mỹ thực sự chưa quan tâm

nhiều đến Việt Nam và các nước Đông Dương khác.

Tuy nhiên, với những chuyển biến quan trọng trên thế giới, đặc biệt sự ra đời

nước CHND Trung Hoa năm 1949, Mỹ tìm mọi cách ngăn chặn “làn sóng đỏ” đang

dâng trào. Lúc này, giới chiến lược quân sự Mỹ lo ngại về việc CNCS sẽ tràn xuống

Đông Nam Á. Bởi Đông Nam Á là khu vực rộng lớn nằm sát sườn phía nam Trung

Quốc, có vị trí địa chiến lược, là cửa ngõ đi vào Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.

Kiểm soát được Đông Nam Á còn giúp Mỹ duy trì an ninh và đảm bảo lưu thông

hàng hoá trên Thái Bình Dương. Do đó, năm 1949, Mỹ chính thức dính líu đến chiến

tranh Việt Nam. Mỹ không chỉ viện trợ cho Pháp duy trì cuộc chiến tranh này, mà từ

35

năm 1950, Mỹ còn viện trợ trực tiếp cho chính quyền Bảo Đại không qua Pháp. Vào

các năm 1950-1954, chính sách của Mỹ đối với Việt Nam biểu hiện ở chỗ “Mỹ bỏ

tiền, bỏ sức ra giúp Pháp và chính quyền Bảo Đại tiến hành chiến tranh” [96, tr.128].

Ngày 20/7/1954, Hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết, quân Pháp

buộc phải rút khỏi Việt Nam. Khi Pháp thất bại, Mỹ đã nhảy vào thế chân, bởi Mỹ biết rõ vị trí của Việt Nam trong chính sách “ngăn chặn” của mình. Việt Nam là quốc

gia tiếp giáp và án ngữ cửa ngõ phía Nam của Trung Quốc, vị trí địa lý của Việt

Nam có tác động tới môi trường an ninh toàn khu vực Đông Nam Á.

Chính vì vậy, Mỹ tìm mọi cách thao túng chính trị, hậu thuẫn cho lực lượng thân Mỹ ở miền Nam Việt Nam, hòng chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam Việt

Nam trở thành “pháo đài” mới chống CNCS. Để thực hiện mưu đồ đó, ngày

13/6/1954, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm về miền Nam lập chính phủ mới. Từ tháng

8/1954, Mỹ bắt đầu đưa hàng trăm cố vấn quân sự, tình báo, gián điệp vào miền Nam

Việt Nam.

Mỹ tăng cường viện trợ cho chính quyền Ngô Đình Diệm. Ngày

17/11/1954, Joseph Lawton Collins, Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ được cử sang Sài

Gòn làm đại sứ. Ông ta đề ra kế hoạch viện trợ trực tiếp cho Việt Nam. Tháng 1/1955, Mỹ chính thức viện trợ quân sự trực tiếp cho quân đội Việt Nam Cộng hòa. Từ năm

1955 đến năm 1961, Mỹ đã viện trợ trị giá 1 tỷ USD cho chính quyền Ngô Đình Diệm,

trong đó phần lớn là viện trợ quân sự [96, tr.129-130]. Từ năm 1955 đến 1960, có tất cả

800 chuyến tàu chờ vũ khí và phương tiện quân sự của Mỹ vào miền Nam Việt Nam.

Số viện trợ này giúp chính quyền Sài Gòn đủ sức duy trì bộ máy hành chính và quân

sự. Từ giữa những năm 60, Mỹ trực tiếp đưa quân đội Mỹ vào Việt Nam và trực tiếp

can thiệp, thực hiện cuộc chiến tranh tại Việt Nam và Đông Dương.

Là đồng minh của Mỹ nên Nhật Bản ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến tranh ở Việt

Nam và Đông Dương. Nhìn chung, các chính phủ Nhật Bản trong giai đoạn 1951-1960

đều thực thi chính sách chống lại Việt Nam DCCH, ủng hộ chính quyền Sài Gòn do Mỹ dựng lên. Đến năm 1955, Nhật Bản đã có quan hệ chính thức với Chính phủ Sài Gòn. Về kinh tế, Nhật Bản tăng cường buôn bán với Nam Việt Nam, trong khi đó buôn bán với Campuchia, Lào và Việt Nam Dân chủ cộng hoà rất hạn chế. Xuất khẩu của Nhật Bản sang Nam Việt Nam năm 1956 đạt 53,253 triệu USD, năm 1960 đạt 61,450

triệu USD; nhập khẩu từ Nam Việt Nam năm 1956 đạt 1,576 triệu USD, năm 1960 đạt 4,757 triệu USD [136, tr. 24]. Trong những sau đó, Mỹ đã sử dụng Nhật Bản làm căn cứ hậu cần và là nơi xuất phát của máy bay quân sự đánh phá Việt Nam. Nhật Bản còn

36

nhận được nhiều đơn đặt hàng của quân đội của Mỹ, trở thành “nhà thầu quân sự” cho

Mỹ và quân đội Sài Gòn [2].

Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam cũng là một trong những yếu tố có tác động đến quan hệ Nhật Bản và Mỹ nói chung, quan hệ hai nước trên lĩnh vực chính trị - an ninh và kinh tế giai đoạn 1951 - 1960 nói riêng. Nhật Bản và Việt Nam đều có vị trí đặc biệt trong việc ngăn chặn ảnh hưởng của CNCS ở châu Á - Thái Bình Dương mà Mỹ thực hiện, đều là những quốc gia mà Mỹ muốn khống chế. Trong cuộc chiến này, Nhật Bản là căn cứ phục vụ cho mục tiêu của Mỹ ở Việt Nam và ngược lại Nhật Bản cũng được hưởng nhiều lợi ích do chiến tranh mang lại.

2.2. Quan hệ Nhật Bản - Mỹ trước năm 1951

2.2.1. Quan hệ Nhật Bản - Mỹ trước năm 1945

Từ năm 1791, các đoàn tàu Mỹ đã tìm cách cập bến Nhật Bản nhưng bất

thành. Năm 1854, Đô đốc Matthue Calbraith Perry chỉ huy 4 tàu chiến đến Nhật

Bản, gây sức ép buộc chính quyền Mạc Phủ ký Hiệp ước Kanagawa (còn gọi là

“Hiệp ước Hoà bình và hữu nghị”), buộc Nhật Bản mở cửa Shimoda và Hakodate,

cho phép tàu biển Mỹ được lấy than, lương thực, nước tại các hải cảng này. Với

Hiệp ước Kanagawa, Mỹ đã đạt được mục đích mở cửa Nhật Bản, đánh dấu sự phá

sản của chính sách “đóng cửa” của Mạc Phủ trong suốt hơn 200 năm. Trong những

năm 1857 - 1858, Mỹ ép Nhật Bản ký thêm nhiều hiệp ước và giành được nhiều

quyền lợi ở Nhật Bản. Bên cạnh đó, trong khoảng 4 năm (1854 - 1858), Nhật Bản

đã ký hiệp ước ngoại giao và thương mại với tất cả 20 nước và khu vực lãnh thổ của

3 châu lục. Trong đó, châu Âu 13 nước, châu Á 3 nước và châu Mỹ 4 nước [46].

Trong thời kỳ Minh Trị, quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ có nhiều chuyển biến.

Nhật Bản thực hiện cuộc cải cách khá toàn diện nhằm thay đổi diện mạo đất nước,

tăng cường vị thế quốc gia. Trong khi đó, thời gian này, Mỹ tiếp tục chính sách tìm

kiếm thị trường ở phương Đông, “băng qua đại dương và tìm những vùng biên giới

mới ở bên ngoài” [42, tr.558]. Mỹ đã giúp đỡ Nhật Bản trong cuộc cải cách, cử

nhiều chuyên gia đến Nhật Bản giúp đỡ chính quyền Minh Trị thực hiện hoạch định

các chính sách cải cách.

Từ đầu thế kỷ XX, Nhật Bản củng cố được vị thế của mình ở khu vực châu

Á, nhất là ở Mãn Châu, Triều Tiên. Chính sách của Mỹ đối với Nhật cũng dần dần

trở nên thay đổi. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nhật Bản tuyên chiến với Đức

và đứng về phe Hiệp ước. Lợi dụng lúc các nước châu Âu bận tham chiến, Nhật Bản

tìm mọi cách bành trướng ở châu Á - Thái Bình Dương và mở rộng phạm vi ảnh hưởng

37

ở Trung Quốc. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, mâu thuẫn Nhật Bản và Mỹ

chủ yếu xoay quanh vấn đề Trung Quốc và Viễn Đông do những đòi hỏi “quá đáng”

của Nhật Bản khi muốn chiếm toàn bộ thuộc địa của Đức ở Trung Quốc và Thái Bình

Dương. Cuối cùng, tại Hội nghị Washington, Nhật Bản phải chấp nhận “luật chơi” do

Mỹ đưa ra. Nhật Bản phải rút quân khỏi bán đảo Sơn Đông, từ bỏ nhiều đặc quyền

khác ở Trung Quốc. Nhằm tạo thế cân bằng quân sự ở Thái Bình Dương, ngày

6/2/1922, Hiệp ước 5 nước (Mỹ, Anh, Nhật, Pháp, Italia) được ký kết xác định tỷ suất

trọng tải chủ lực là 5:5:3 cho Mỹ, Anh và Nhật Bản [72, tr.186].

Tháng 5/1929, Nhật Bản lại đưa quân xâm lược Sơn Đông nhưng bị thất bại. Thủ tướng Nhật Bản Tanaka đề nghị phải dùng chiến tranh để xoá bỏ những “bất

công” mà Nhật phải chịu đựng trong Hiệp ước Washington (1921 - 1922), công khai

đòi xem xét lại vấn đề về lực lượng hải quân do Hiệp ước Washington quy định. Ngày

18/9/1931, Nhật Bản tạo ra “sự kiện đường sắt Nam Mãn Châu” và lấy cớ đó để

đánh chiếm Đông Bắc Trung Quốc. Sau đó, vào tháng 3/1932, Nhật Bản đã lập ra

cái gọi là “nước Mãn Châu” với chính phủ bù nhìn do Phổ Nghi đứng đầu, biến

miền Đông Bắc Trung Quốc thành thuộc địa và bàn đạp của những cuộc phiêu lưu

quân sự mới. Những hành động của Nhật Bản vi phạm trắng trợn đến hệ thống

Versailles - Washington, đụng chạm đến quyền lợi của Mỹ làm cho mâu thuẫn Nhật

Bản - Mỹ càng căng thẳng hơn.

Nhìn chung, trong các vấn đề quyền lợi ở Trung Quốc và Viễn Đông, giữa Nhật Bản và Mỹ luôn xảy ra mâu thuẫn. Tuy nhiên, trong vấn đề chống Liên Xô,

Nhật Bản và Mỹ lại tìm được tiếng nói chung. Do nuôi hy vọng sẽ thúc đẩy Nhật Bản

chĩa mũi kiếm chiến tranh chống Liên Xô, Mỹ đã nhượng bộ. Mỹ vẫn làm ngơ trước

nhiều hành động của Nhật Bản. Đỉnh cao của chính sách dung dưỡng của Mỹ đối với

Nhật Bản và các nước phương Tây là Hiệp định Anh - Nhật, thường gọi là “Hiệp định

Arita - Craigie” ngày 23/7/1939, được coi là một “Muynich phương Đông”. Chính sự nhân nhượng của Mỹ đã làm Nhật Bản có những hành động ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của Mỹ ở Trung Quốc. Nhật Bản tuyên bố gạt ảnh hưởng của Anh, Pháp, Mỹ ra khỏi châu Á. Tháng 5/1939, Nhật Bản còn buộc Mỹ phải thừa nhận “quyền của Nhật Bản” quản lý các tô giới của nước ngoài ở Thượng Hải là nơi Mỹ có nhiều quyền lợi đầu tư nhất. Nhật Bản còn thể hiện tham vọng chiếm toàn bộ thuộc

địa của Anh, Pháp, Mỹ, Hà Lan ở châu Á - Thái Bình Dương.

Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, quan hệ Nhật Bản và Mỹ trở thành quan

hệ đối đầu thù địch bởi hai bên đứng về hai chiến tuyến. Việc Nhật Bản bí mật ký kết

38

với Liên Xô Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau ngày 13/4/1941 đã làm giới chức Mỹ

phản ứng dữ dội. Điều tai hại hơn đối với Mỹ là từ cuối năm 1941, Nhật Bản quyết định tấn công vào lực lượng của Mỹ và Anh ở Viễn Đông, nhưng Nhật Bản vẫn che

đậy âm mưu, vẫn tiếp tục thực hiện đàm phán với Mỹ để “tạo cảm tưởng rằng Nhật vẫn

muốn giải quyết mâu thuẫn Mỹ - Nhật bằng con đường hoà bình thương lượng” [67, tr.169]. Trên thực tế, các cuộc thương lượng giữa Mỹ và Nhật Bản không hề có sự tiến

triển. Nhật Bản cho rằng những đề nghị của Mỹ là “sự đe dọa đến bản thân sự tồn tại

của đế chế Nhật”, “không còn khả năng để tiếp tục đàm phán”. Còn Ngoại trưởng Mỹ

Cordell Hull cho rằng: “Cuộc đàm phán ngoại giao của chúng ta với Nhật Bản thực tế đã chấm dứt, và từ đây công việc sẽ được chuyển vào tay Bộ chỉ huy các lực lượng vũ

trang” [67, tr.170]. Ngày 7/12/1941, quân đội Nhật Bản tấn công chớp nhoáng vào

Trân Châu Cảng, chính thức mở đầu cuộc Chiến tranh châu Á - Thái Bình Dương.

Quan hệ đối địch giữa hai bên lên đến đỉnh cao. Cùng ngày 7/12/1941, Mỹ tuyên bố

tình trạng chiến tranh với Nhật Bản.

Sau “Sự kiện Trân Châu Cảng”, các cuộc chiến tranh giữa Nhật Bản và Mỹ đã

diễn ra khắp châu Á - Thái Bình Dương. Mỹ cũng giúp nhân dân các nước châu Á

chống Nhật. Đến năm 1945, khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn

kết thúc, Mỹ càng tích cực tham gia vào mặt trận chống Nhật Bản. Ngày 6/8 và

9/8/1945, Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hirosima và Nagasaki của Nhật

Bản, gây ra cảnh tượng kinh hoàng. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, quan hệ

giữa hai nước bước sang giai đoạn mới, đó là quan hệ giữa một nước thắng trận với

một nước bại trận.

Như vậy, quan hệ Nhật Bản - Mỹ trước Chiến tranh thế giới thứ hai trải qua nhiều thăng trầm. Từ chỗ bất bình đẳng cuối thời Tokugawa, chuyển sang giai đoạn

cộng tác cùng lợi ích thời Minh Trị, sau đó lại chuyển sang quan hệ căng thẳng từ

khi Nhật Bản mạnh lên, trở thành cường quốc khu vực, cuối cùng kết thúc bằng quan hệ đối đầu trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Việc Nhật Bản thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã tạo ra bước ngoặt mới trong quan hệ Nhật Bản - Mỹ. Quan hệ giữa hai nước trong giai đoạn này là cơ sở lịch sử cho Nhật Bản, Mỹ thiết lập quan hệ song phương trong giai đoạn tiếp theo.

2.2.2. Quan hệ Nhật Bản - Mỹ từ năm 1945 đến năm 1951 Sau khi cuộc chiến tranh chống Nhật ở châu Á - Thái Bình Dương chấm dứt,

Mỹ tìm mọi cách để giành được quyền chiếm đóng Nhật Bản. Số phận Nhật Bản

thực chất đã được các nước Đồng minh định đoạt theo những thoả thuận ở Yalta và

39

Potsdam. Thực tế, từ sau Tuyên cáo Potsdam, Nhật Bản đã bắt đầu chịu sự chiếm

đóng của lực lượng Đồng minh. Tuy nhiên, sau khi Nhật Bản ký hiệp ước đầu hàng Đồng minh vô điều kiện (2/9/1945), đã diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai khuynh

hướng chủ yếu - một bên là quan điểm của Liện Xô về việc tuân thủ những nghị

quyết Potsdam về dân chủ hoá triệt để Nhật Bản và một bên là quan điểm của Mỹ giải quyết “vấn đề Nhật Bản” theo các chính sách riêng rẽ của mình [65, tr.223-

224]. Ngày 13/9/1945, Mỹ công bố một Bị vong lục với nhan đề “Những nguyên

tắc cơ bản trong chính sách của Mỹ đối với Nhật Bản trong thời kỳ chiếm đóng”.

Trong đó, bên cạnh tuyên bố thủ tiêu chế độ quân phiệt Nhật, thực hiện dân chủ hoá Nhật Bản, Mỹ còn thể hiện ý đồ riêng rẽ một mình nắm quyền chi phối Nhật Bản.

Bị vong lục nêu rõ: việc chiếm đóng và kiểm soát Nhật Bản dựa trên cơ sở tham

khảo ý kiến của các cường quốc Đồng minh, nhưng “trong trường hợp có những

bất đồng giữa các Đồng minh với nhau, thì chính sách của Mỹ sẽ đóng vai trò quyết

định” [65, tr. 224]. Liên Xô không đồng ý với Mỹ và lúc đầu yêu cầu thành lập một

hội đồng kiểm soát Nhật Bản, sau đó đề nghị thành lập uỷ ban tư vấn Đồng minh để

giải quyết “Vấn đề Nhật Bản”. Mục đích của Liên Xô là muốn giải quyết vấn đề

Nhật Bản bằng con đường tập thể, không để Mỹ độc quyền lũng đoạn Nhật Bản.

Những tranh chấp về cơ chế giải quyết “Vấn đề Nhật Bản” chỉ được giải quyết tại Hội nghị Ngoại trưởng Tam Cường (Xô, Mỹ, Anh) ở Moscow tháng 12/19451. Trên thực tế, Mỹ đã giành được quyền chiếm đóng Nhật Bản. Trong suốt thời gian chiếm

đóng từ ngày 14/8/1945 đến tháng 9/1951, Tướng Douglas Mac Arthur được chỉ

định giữ chức Tổng chỉ huy tối cao các lực lượng Đồng minh (SCAP). Ở Nhật Bản

lúc này tồn tại một dạng chính quyền kép, trong đó Bộ chỉ huy Đồng minh nắm quyền tối cao, Chính phủ Nhật Bản giữ vai trò là một chính quyền thứ hai với

nhiệm vụ phục hồi và phát triển kinh tế [60, tr. 417].

1 Hội nghị đã quyết định thành lập hai cơ quan: Một là Uỷ ban Viễn Đông đóng tại Washington với sự tham gia của 11 nước: Liên Xô, Mỹ, Anh, Trung Quốc, Pháp, Hà Lan, New Zealand, Australia, Canada, Ấn Độ, Philipines, có chức năng xác định đường lối chính trị, các nguyên tắc và cơ sở chung mà Nhật Bản phải tuân theo; hai là Hội đồng Đồng Minh gồm đại biểu của Liên Xô, Mỹ, Trung Quốc (mỗi nước 4 đại biểu), Anh, Australia, New Zealand, Ấn Độ (mỗi nước 1 đại biểu), đóng trụ sở tại Tokyo, có chức năng tư vấn cho các cơ quan chiếm đóng ở Nhật Bản và kiểm tra việc thực hiện các điều kiện đầu hàng của Nhật Bản. Những quyết định của Hội nghị Moscow về việc giải quyết vấn đề Nhật Bản rõ ràng mang tính thoả hiệp.

Từ năm 1945 đến năm 1947, về cơ bản, Mỹ chủ trương duy trì một nước Nhật Bản yếu cả về kinh tế, chính trị và quân sự, để không thể trở thành đối thủ cạnh tranh nguy hiểm của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương, như đã xảy ra trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Mục tiêu chủ yếu của lực lượng chiếm đóng là

40

“phi quân sự hoá” và “dân chủ hoá” Nhật Bản. Nói cách khác, Mỹ chiếm đóng Nhật Bản với mục đích cải tạo, trừng phạt, kiềm chế Nhật Bản chứ không phải giúp nước này xây dựng, phát triển. Có thể ngắn gọn chính sách của Mỹ đối với Nhật Bản thời gian đầu sau khi chiến tranh kết thúc ở hai điểm được Tổng thống Truman thông qua: 1. Đảm bảo rằng Nhật Bản sẽ không trở thành mối đe doạ cho Mỹ và hoà bình thế giới; 2. Chiếm đóng Nhật Bản phải đưa đến việc thành lập một chính phủ hoà bình và chịu trách nhiệm tôn trọng chính nghĩa của các dân tộc khác, sẽ ủng hộ những hoạt động của Mỹ và những nguyên tắc của Liên hợp quốc [60, tr. 418].

Để thực hiện mục đích kiềm chế Nhật Bản, D. M. Arthur đã soạn thảo một kế hoạch tổng quát, ngắn gọn, cụ thể. Về chính trị, SCAP đã thực hiện hàng loạt biện pháp chính trị nhằm ngăn chặn sự phục hồi chủ nghĩa quân phiệt, tạo điều kiện để thực hiện dân chủ hoá xã hội Nhật Bản. SCAP ra lệnh thủ tiêu quân đội và hải quân Nhật Bản. Ngày 16/09/1945, Mac Arthur công bố lực lượng vũ trang của Nhật bị giải trừ hoàn toàn [86, tr.156]. SCAP giao cho người Nhật chịu trách nhiệm thực hiện việc giải ngũ đối với lực lượng quân đội của họ và ước tính có khoảng 7 triệu binh lính Nhật đã giải ngũ.

Ngày 11/09/1945, để khuyến khích các hoạt động dân chủ, SCAP đã ban hành 5 chính sách cải cách công đoàn, quyền bầu cử của phụ nữ, loại bỏ tư tưởng quân phiệt trong giáo dục ở nhà trường, thủ tiêu chế độ quân phiệt, thực hiện chế độ dân chủ kinh tế. Bên cạnh đó, những tổ chức còn bị nghi ngờ có tư tưởng quân phiệt đều bị giải thể… SCAP cũng giải tán Bộ Nội vụ (là Bộ có có quyền lực rất lớn), cấm tổ chức cảnh sát mật, tổ chức lại tổng cục cảnh sát trước đây thành cảnh sát thị sảnh (cảnh sát thủ đô) và cảnh sát sảnh (cảnh sát địa phương). SCAP còn tổ chức hàng loạt các cuộc thanh trừng các quan chức cao cấp và chính phủ, loại bỏ những người cộng sản ra khỏi chính phủ và các cơ quan truyền thông đại chúng.

Đặc biệt, SCAP cho soạn thảo Hiến pháp mới 11/1946 thay thế cho Hiến pháp Minh Trị năm 1889. Với Hiến pháp mới, Thiên hoàng mất đi quyền lãnh đạo đất nước và chỉ còn là biểu tượng của quốc gia, Thiên hoàng không còn giữ được vai trò quan trọng như trước đây, nhất là về phương diện chính trị. Trong Hiến pháp 1946 có một nội dung then chốt (Điều 9) “Tuyên bố hoà bình”. Theo đó, Nhật Bản không duy trì hải, lục, không quân và các lực lượng chiến đấu khác, không công nhận quyền tham gia chiến tranh với bất cứ nước nào [49, tr. 233]. Nhật Bản tuyên bố từ bỏ chiến tranh, không có lực lượng quân đội mà chỉ duy trì lực lượng phòng vệ với một số lượng hạn chế để bảo đảm an ninh quốc gia. Chính vì vậy, Hiến pháp mới của Nhật Bản được gọi là “Hiến pháp hoà bình”.

41

Về kinh tế, tháng 2/1947, SCAP công bố “Luật thủ tiêu tập trung quá mức sức mạnh kinh tế”. Theo đó, các Daibatsu - công ty tư bản độc quyền bị giải tán. SCAP cho rằng đây là các tập đoàn kinh tế gia tộc, có sự câu kết chặt chẽ với lợi ích kinh tế với giới tài phiệt và là nguyên nhân thúc đẩy chiến tranh. Lúc bấy giờ, ở Nhật Bản có những tập đoàn Daibatsu khổng lồ như Mitsui, Mitsubishi, Yasuda… Theo yêu cầu của SCAP, 83 công ty cổ phần và 57 gia đình Daibatsu phải giao nộp hoặc bị tịch thu tài sản, tổng cộng lên tới 233 triệu cổ phần [49, tr.223]. Nhờ giải tán các Daibatsu, những người chịu sự kiểm soát của chúng cũng được độc lập. Đến cuối năm 1947, có 47 tổ chức Daibatsu bị giải tán, hai tập đoàn lớn nhất Mitsui và Mitsubishi bị phân tán thành 240 công ty riêng biệt [65, tr.227]. Ngoài ra, SCAP còn tiến hành các cải cách khác về tổ chức công nghiệp quân sự.

Về xã hội, trong những năm 1945 - 1947, theo chỉ thị của SCAP, Nghị viện Nhật Bản đã lần lượt thông qua và công bố các đạo luật về lao động: Luật Công đoàn năm 1945, Luật Điều chỉnh quan hệ lao động 1946, Luật Tiêu chuẩn lao động năm 1947, Luật Dịch vụ công cộng quốc gia năm 1947. Những đạo luật đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng của phong trào công đoàn và cải thiện đáng kể điều kiện lao động của công nhân.

Từ năm 1947, tình hình thế giới có những chuyển biến nhanh chóng, nhất là những diễn biến của cuộc Chiến tranh lạnh giữa Liên Xô, Mỹ và tác động trực tiếp của cuộc nội chiến ở Trung Quốc đã làm cho Mỹ thay đổi chính sách đối với Nhật Bản. Ở Trung Quốc, tình hình ngày càng bất lợi cho Mỹ khi “con bài” Tưởng Giới Thạch ngày càng thất thế, điều đó đã làm cho “thái độ và quyền lực của Mỹ đối với Nhật Bản thường ngược với quan hệ Mỹ - Trung” [41, tr. 226]. Do vậy, Mỹ nhìn thấy Nhật Bản có vị trí cực kỳ quan trọng ở Viễn Đông, nhất là đối với chiến lược toàn cầu của mình. Quan hệ giữa hai bên vì thế cũng có thay đổi lớn. Mỹ từ chỗ muốn dùng sức mạnh biến Nhật Bản thành nước yếu đuối nay chuyển sang chủ trương muốn thúc đẩy sự phục hồi của Nhật Bản, sử dụng sức mạnh kinh tế và quân sự Nhật Bản, biến Nhật Bản thành đối trọng của CNCS ở châu Á.

Mỹ bắt đầu viện trợ lương thực và các mặt hàng dầu mỏ, quặng sắt, các nguyên liệu cần thiết cho Nhật Bản. Tính đến năm 1951, tổng kinh phí mà Mỹ đưa vào Nhật Bản để hỗ trợ cho nền kinh tế nước này là hơn 2 tỷ USD [38, tr. 339]. Hầu hết các kim ngạch nhập siêu đều được Mỹ cung cấp bằng viện trợ. Kim ngạch viện trợ của Mỹ đối với Nhật Bản thời gian này tăng nhanh, từ 304 triệu USD năm 1947 lên 539 triệu USD năm 1949 [71, tr. 104]. Viện trợ của Mỹ đã có tác động lớn đối với quá trình khôi phục kinh tế Nhật Bản.

42

Tháng 3/1947, Thứ trưởng Bộ Lục quân Mỹ Draper đến thăm Nhật Bản và tuyên bố giảm số tiền bồi thường chiến tranh của Nhật xuống còn 1/4 so với trước đó [71, tr.104] (con số đầu tiên mà Phái đoàn bồi thường chiến tranh của Mỹ đưa ra là 1,466 tỷ Yên theo thời giá 1939). Tháng 12/1948, M. Arthur nhận được lệnh của Chính phủ Mỹ là phải bắt đầu ngay không được chậm trễ việc ổn định nền kinh tế Nhật Bản. Nếu ở thời kỳ đầu chiếm đóng, việc khôi phục kinh tế là việc của Chính phủ Nhật Bản thì giờ đây Mỹ can thiệp tích cực vào kinh tế Nhật Bản. Đồng thời, Mỹ cử Joseph M. Dodge, Chủ tịch Ngân hàng Detroit - người được giao trọng trách thiết lập và thực hiện chương trình cải cách tiền tệ ở Tây Đức, sang làm Công sứ đặc mệnh toàn quyền tại Nhật Bản để làm cố vấn kinh tế cho SCAP.

J. M. Dodge chủ trương xây dựng một nền kinh tế trên nguyên tắc lao động của thị trường tự do, không có sự can thiệp của nhà nước. Có thể nói ngắn gọn kế hoạch của Dodge là “ổn định và độc lập hoá” nền kinh tế Nhật Bản. Ông đưa ra ba chính sách cơ bản của nền kinh tế Nhật Bản: thứ nhất, cân bằng ngân sách; thứ hai, đình chỉ mọi khoản tiền cho vay mới của ngân hàng tái thiết nhằm cắt đứt nguồn cung ứng tiền tệ mới, nguyên nhân cơ bản của lạm phát; thứ ba, giảm và cắt bỏ chế độ trợ cấp. Ngoài ra, Nhật Bản có thể tham gia vào việc thương mại quốc tế với tỷ giá hối đoái cố định và ổn định. Ngày 25/4/1949, SCAP đã quy định tỷ giá 360 Yên bằng 1 USD [71, tr.106].

Tiếp đó, tháng 5/1949, một nhóm chuyên gia Mỹ được cử đến Nhật Bản. Tháng 9/1949, nhóm này đã đệ trình dự án cải cách thuế khoá ở Nhật Bản để chống lại lạm phát và nhằm ổn định nền kinh tế. Tháng 6/1949, Mỹ xem xét lại đạo luật về chống độc quyền, công khai mở ra con đường để tập trung hoá sản xuất và tư bản, phục hồi những tập đoàn lớn ở Nhật Bản.

Bên cạnh đó, nhằm thực hiện cải cách toàn diện nền kinh tế Nhật Bản, SCAP còn thực hiện cải cách ruộng đất. Cuộc cải cách được chia làm hai đợt: đợt 1 thực hiện từ tháng 1/1946, đợt 2 thực hiện từ tháng 11/1946.

Có thể thấy, trong thời gian thực hiện chiếm đóng, Mỹ đã thay đổi hoàn toàn mục tiêu đối với Nhật Bản, Mỹ đã giúp đỡ, ủng hộ Nhật Bản nhiều hơn để Nhật Bản khôi phục và phát triển về kinh tế. Những biện pháp của Mỹ “có tác động rất lớn, đặt nền tảng cho tốc độ phát triển cao của nền kinh tế Nhật Bản, một sự phát triển sau đó mà Mỹ cố gắng khống chế trong quỹ đạo của họ” [65, tr 231]. Mục tiêu quan trọng nhất của Mỹ khi chủ trương phục hồi nền kinh tế Nhật Bản là biến Nhật Bản thành “một bức tường chống cộng sản” ở châu Á, sử dụng Nhật Bản để thay thế cho chế độ Quốc dân đảng ở Trung Quốc.

43

Như vậy, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ thay mặt các nước Đồng minh

chiếm đóng Nhật Bản, mở ra thời kỳ mới trong quan hệ hai nước. Hai bên kết thúc quan hệ đối đầu, chiến tranh, thay vào đó là quan hệ chiếm đóng và bị chiếm đóng.

Đồng thời với việc chiếm đóng Nhật Bản, trước những chuyển biến của tình hình thế

giới và những tính toán về lợi ích, Mỹ đã thay đổi mục tiêu đối với Nhật Bản với việc thực hiện cải cách về kinh tế, chính trị - xã hội… Điều đó đã làm cho tình hình Nhật

Bản đã có những thay đổi nhanh chóng. Nhìn chung, trong thời gian bị chiếm đóng,

Nhật Bản phụ thuộc vào những chính sách của Mỹ. Nhật Bản “có rất ít sự lựa chọn.

Bản thân con đường Nhật Bản đã lựa chọn phần lớn được quyết định bởi môi trường bên ngoài” [41, tr.212]. Trong thời gian này, Mỹ mạnh hơn Nhật Bản rất nhiều,

quan hệ giữa hai nước “mang tính thứ bậc, giống như quan hệ giữa một người anh

cả với đứa em chưa trưởng thành của mình” [134, tr. 39]. Mặc dù vậy, sự thay đổi

chính sách của Mỹ đã làm cho quan hệ Nhật Bản - Mỹ có những chuyển biến nhanh,

đặt tiền đề cho sự phát triển của quan hệ Nhật - Mỹ ở giai đoạn sau, trước hết là giai

đoạn 1951 - 1960.

2.3. Tình hình Nhật Bản và chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Mỹ

(1951 - 1960)

2.3.1. Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của Nhật Bản (1951 - 1960)

Về chính trị: Sau khi ký kết Hiệp ước Hoà bình San Francisco và Hiệp ước

An ninh Nhật Bản - Mỹ (ngày 9/8/1951), tình hình Nhật Bản có thay đổi lớn, các

đảng phái chính trị có những phản ứng trái ngược nhau. Đảng Cộng sản và các đảng

công nông thì kiên quyết chống lại, trong khi đó các đảng tư sản lại ủng hộ việc ký

các hiệp ước nói trên. Đến tháng 4/1952, Mỹ tuyên bố giải tán Bộ Chỉ huy quân đội chiếm đóng Nhật Bản.

Từ năm 1952, Nhật Bản bước vào thời kỳ “phát triển thần kỳ”. Chính phủ

Nhật Bản liên tục đưa ra những chiến lược kinh tế năng động để phát triển đất nước. Tuy nhiên, tình trạng độc quyền về chính trị và tham nhũng đã làm giảm uy tín giới cầm quyền. Chính vì vậy, phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân đòi làm trong sạch bộ máy và đòi quyền lợi trong giai đoạn này tăng cao.

Từ năm 1951 đến năm 1960, nền chính trị Nhật Bản dưới sự điều hành của các Thủ tướng: Yoshida Shigeru (1951 - 12/1954), Hatoyama Ichiro (12/1954 - 12/1956), Ishibashi Tanzan (12/1956 - 1/1957), Kishi Nobusuke (1/1957 -

7/1960). Nhìn chung, chính trường Nhật Bản không thực sự ổn định với nhiều lần

cải tổ nội các và thay đổi thủ tướng. Tính ổn định tương đối chỉ được thể hiện

44

trong giai đoạn cầm quyền của Thủ tướng Yoshida Shigeru và Thủ tướng Kishi

Nobusuke. Trong thời kỳ cầm quyền của hai thủ tướng này, quan hệ Nhật Bản - Mỹ diễn ra nhiều sự kiện quan trọng.

Mặc dù vậy, trong giai đoạn này, giới cầm quyền Nhật Bản thường xuyên

vấp phải các cuộc đấu tranh của các đảng phái và lực lượng chính trị trong nước. Các lực lượng chính trị tiến bộ chỉ trích chính sách của Thủ tướng Yoshida

Shigeru là “sự phản bội” đối với Nhật Bản, đã dập tắt hy vọng hòa bình và độc lập

của người dân. Những người đấu tranh cho rằng: “Không có một điều khoản nào

trong hiệp định khiến chúng ta nghĩ đến Nhật Bản độc lập. Chúng ta không nhận ra bằng chứng nào về Yoshida (người được đánh giá cao trong quản lý đối nội

nhưng hòa giải trong quan hệ đối ngoại) đã cố gắng bảo vệ quyền tự chủ và độc

lập của chúng ta” [124, tr.175].

Tháng 10/1958, khi Chính phủ Nhật Bản và Mỹ tiến hành đàm phán tại

Tokyo để chuẩn bị thay đổi Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ, các đảng phái đối lập và

lực lượng tiến bộ đã tập hợp nhân dân dương cao ngọn cờ chống Mỹ với những

hình thức đấu tranh phong phú như mít tinh, bãi công, tuần hành thị uy, ký tên vào

đơn thỉnh nguyện... Ngày 25/3/1959, theo sáng kiến của Tổng công đoàn Nhật

Bản và Đảng Xã hội, Ủy ban toàn quốc đấu tranh chống Hiệp ước An ninh Nhật -

Mỹ được thành lập. Tham gia Đại hội thành lập Ủy ban có 620 đại biểu của 134 tổ

chức khác nhau trong toàn Nhật Bản. Ủy ban toàn quốc chống Hiệp ước An ninh

Nhật - Mỹ đã thu thập được 20 triệu chữ ký vào bản kiến nghị gửi lên Chính phủ

Nhật Bản đòi thủ tiêu Hiệp ước An ninh và Hiệp ước hành chính ký với Mỹ. Ngày

16/1/1960, để ngăn cản không cho Thủ tướng Kishi Nobusuke sang Mỹ ký kết hiệp ước an ninh mới, 900.000 quần chúng đã tổ chức một cuộc biểu tình thị uy.

Không ngăn cản được chính quyền gia hạn và phê chuẩn hiệp ước an ninh mới ký

với Mỹ (19/1/1960), cuộc đấu tranh do Ủy ban toàn quốc chống Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ tiếp tục cuộc đấu tranh đòi Chính phủ của Thủ tướng Kishi Nobusuke từ chức và đòi giải tán quốc hội vừa mới phê chuẩn hiệp ước này (20/5/1960). Trước sức đấu tranh của nhân dân Nhật Bản, Chính phủ Kishi Nobusuke đã phải hủy bỏ chuyến thăm Nhật Bản của Tổng thống Mỹ D. Eisenhower dự định vào ngày 19/6/1960, là ngày Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ mới ký kết có hiệu lực. Ngày 23/6/1960, nội các của Thủ tướng Kishi Nobusuke đã phải tuyên bố từ chức.

Trong quan hệ đối ngoại, Nhật Bản chủ trương lệ thuộc vào Mỹ để được

đảm bảo về mặt an ninh. Tuy nhiên, trước sự phản đối của giới chính trị và nhân

45

dân, Nhật Bản đã từng bước mở rộng quan hệ với nhiều nước và các tổ chức trên

thế giới. Từ tháng 5/1955, Nhật Bản bắt đầu đàm phán với Liên Xô về việc bình thường quan hệ hai nước. Đến ngày 19/10/1956, Nhật Bản và Liên Xô chính thức

bình thường hoá quan hệ và thiết lập quan hệ ngoại giao. Năm 1955, Nhật Bản

chính thức tham gia Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT). Tháng 12/1956, Nhật Bản gia nhập Liên hợp quốc. Đối với CHND Trung Hoa, tuy chưa

có quan hệ nhà nước chính thức, nhưng các đại biểu của giới kinh doanh Nhật Bản

đã cùng các tổ chức thương mại Trung Quốc ký kết hiệp định trao đổi hàng hoá.

Về kinh tế: Với những cải cách kinh tế của SACP, nhất là từ sau kế hoạch của M. Dodge, kinh tế Nhật Bản từng bước phục hồi. Mặt khác, cuộc Chiến tranh

Triều Tiên đã trở thành “cơ hội vàng” để kinh tế Nhật Bản bứt phá. Nhu cầu to lớn

về hàng hoá của cuộc chiến tranh buộc Mỹ phải cung cấp một khoản kinh phí lớn

để giải quyết các chi tiêu về quân sự (riêng năm 1951 lên tới 592 triệu USD).

Đồng thời, Mỹ phải tăng cường đầu tư vào máy móc, thiết bị… Điều đó đã tác

động lớn đến nền kinh tế Nhật Bản. Đến năm 1951, Nhật Bản phục hồi được mức

sản xuất trước chiến tranh (1934 - 1936).

Từ năm 1952 trở đi, nền kinh tế Nhật Bản bước vào giai đoạn phát triển

“thần kỳ”, khiến thế giới phải kinh ngạc. Nguyên nhân chủ yếu là những tác động

của tình hình quốc tế buộc Mỹ phải đầu tư vào Nhật Bản và vai trò quan trọng của

chính phủ trong điều hành và hoạch định các chính sách phát triển kinh tế.

Từ năm 1952 đến năm 1958, tổng sản phẩm quốc dân tăng với tốc độ 6,9%,

năm 1959 tăng 10%, năm 1960 tăng 15,4% [38, tr.342]. Trong khi đó, những năm

1956 - 1960, tăng trưởng trên danh nghĩa của Mỹ chỉ đạt 4,8%, của Anh đạt 5,9%, Cộng hoà Liên bang Đức đạt 9,2% [98, tr.272]. Trong những năm 1950 - 1960, tốc

độ tăng trưởng hàng năm của công nghiệp Nhật Bản là 15,9%, gấp 6 lần Mỹ

(2,6%), gấp gần 2 lần Tây Đức (9,4%) [38, tr.342]. Ngành nông nghiệp phát triển theo hướng thâm canh với trình độ cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá và điện khí hoá cao. Về ngoại thương, năm 1955, 80% giá trị hàng xuất khẩu là hàng công nghiệp [38, tr. 342]. Các sản phẩm như tàu thuỷ, thép, chế tạo máy công cụ, than đá, hoá chất, phân bón… trở thành mặt hàng xuất khẩu trụ cột của Nhật Bản. Đầu tư vào nghiên cứu khoa học để phục vụ kinh tế cũng được đẩy mạnh, năm 1955 đạt 40,1 tỷ Yên và tăng liên tục trong những năm tiếp theo, đến năm tài chính 1959 - 1960 đạt

171,1 tỷ Yên [71, tr.159]. Năm 1955, Nhật Bản có 1.445 phòng thí nghiệm phục

vụ nghiên cứu khoa học.

46

Về xã hội: Từ năm 1952 trở đi, cùng với sự phát triển nhanh chóng của kinh

tế, xã hội Nhật Bản cũng có nhiều khởi sắc. Trình độ học vấn của người dân Nhật Bản không ngừng được nâng cao. Các gia đình Nhật Bản đã hình thành thói quen

cho con cái theo học đại học. Nhu cầu về chăm sóc sức khoẻ được giải quyết tốt

hơn. Chi phí cho việc chăm sóc sức khoẻ năm 1955 đạt 220 tỷ Yên [38, tr.348]. Số lượng học sinh đi học qua các năm được thể hiện ở bảng sau:

Bảng 2.1. Tỷ lệ học sinh Nhật Bản đi học qua các năm

Năm/tỷ lệ (%) 1935 1947 1955 1965

Giáo dục tiểu học 99.6 99.8 99.87 99.8

Giáo dục sơ trung 39.7 61.7 80 83.8

Giáo dục cao trung 3.0 5.8 8.8 14.6

[60, tr. 452]

Tuy nhiên, do sự tăng trưởng nhanh của sản xuất công nghiệp nên tình trạng ô

nhiễm môi trường trở thành một vấn đề lớn của Nhật Bản và quá trình đô thị hoá nhanh

làm cho sự tập trung dân số ở các thành phố lớn, các trung tâm công nghiệp quá lớn.

Như vậy, sau khi ký hiệp ước với Mỹ, tình hình Nhật Bản có nhiều thay đổi.

Về chính trị, chính trường Nhật Bản có nhiều biến động với những lần thay đổi nội

các liên tục, chỉ ổn định tương đối vào thời kỳ cầm quyền của Yoshida Shigeru và

Kishi Nobusuke. Trong khi đó, các lực lượng chính trị và quần chúng không ngừng

đấu tranh, chủ yếu phản đối việc ký kết Hiệp ước An ninh Nhật Bản - Mỹ. Về kinh tế, Nhật Bản đã có bước phát triển rất nhanh chóng, tổng sản phẩm quốc dân tăng

cao hơn các nước tư bản phương Tây. Về xã hội, đời sống của nhân dân được nâng

cao do tác động của sự phát triển kinh tế.

2.3.2. Chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Mỹ (1951 - 1960)

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, bắt đầu thời kỳ được gọi là “sự

khởi đầu lại của nền ngoại giao Nhật Bản”. Trong khoảng thời gian từ năm 1945

đến năm 1951, dưới sự chiếm đóng của Mỹ, chính sách đối ngoại của Nhật Bản bị bó hẹp bởi vô số quy định, chủ yếu xoay quanh Mỹ và các đồng minh của Mỹ. Đó thực sự là một chính sách đối ngoại lệ thuộc vào Mỹ.

Hiến pháp Nhật Bản năm 1946 định hướng chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời gian đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai, được xem như là bản thiết kế

đại cương để xây dựng nên nước Nhật Bản hiện đại. Thực tế cho thấy, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai 1945 đến 1950, chính sách đối ngoại của Nhật Bản bị Mỹ chi phối.

47

Sau khi Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ được ký kết (1951), Nhật Bản trở thành

đồng minh số một của Mỹ ở châu Á, dựa vào sự bảo trợ của Mỹ để đảm bảo an ninh quốc gia. Nhật Bản có “cơ hội trở lại chính trường quốc tế, mở rộng và khôi phục

quan hệ với các nước trên thế giới” [1, tr.24]. Khi quan hệ đồng minh được thiết lập

một cách vững chắc, Nhật Bản có điều kiện thực thi chính sách “ngoại giao kinh tế”. Trong đó, một mặt Nhật Bản phát triển quan hệ kinh tế với Mỹ và các nước

phương Tây, mặt khác coi trọng các nước láng giềng châu Á, xem như một “đòn

bẩy” quan trọng để phát triển kinh tế.

Năm 1957, Bộ Ngoại giao Nhật Bản lần đầu tiên công bố cuốn “Sách xanh”, trong đó nhấn mạnh đến ba nguyên tắc cơ bản mà Nhật Bản cần đặt nền tảng cho

chính sách ngoại giao của mình: (1) Nhật Bản cần tôn trọng Liên hợp quốc như là

cơ quan trụ cột trong việc phát huy hòa bình và hòa hợp trên thế giới; (2) Nhật Bản

cần phát triển quan hệ hòa hợp với các nước dân chủ tự do; (3) Nhật Bản cần hành

động một cách tích cực với cương vị một thành viên của châu Á. “Sách xanh” viết:

“Nước ta theo nguyên tắc hòa bình, chỉ có một sự lựa chọn duy nhất có thể đạt được

để cải thiện điều kiện sống của 90 triệu dân ở bốn đảo, phát triển kinh tế, nuôi

dưỡng sức mạnh quốc gia, đó là tiếp xúc một cách hòa bình với các nước ở hải

ngoại. Do đó, nhiệm vụ quan trọng thứ hai của chính sách ngoại giao của chúng ta

là chính sách ngoại giao kinh tế nhằm phát huy những quan hệ kinh tế phù hợp với

nhu cầu của nền kinh tế nước ta” [136, tr. 14]. Bộ Ngoại giao Nhật Bản cũng khẳng

định: “Hoàn toàn chính xác khi cho rằng Nhật Bản không thể phát triển kinh tế nếu

không có thịnh vượng và hòa bình ở châu Á” [136, tr. 14].

Từ năm 1948, Mỹ thực hiện “đường lối đảo ngược” đối với Nhật Bản khi từng bước biến Nhật Bản từ kẻ thù thành đồng minh. Mỹ tăng cường các biện pháp để biến

Nhật Bản thành thành trì chống cộng ở châu Á với viện trợ về kinh tế, đề ra những kế

hoạch khôi phục kinh tế Nhật Bản. Nhật Bản có nhiều lợi ích trong khôi phục và phát triển đất nước, tuy nhiên cũng vì thế mà chính sách đối ngoại của Nhật Bản càng lệ thuộc hơn vào Mỹ, phạm vi lựa chọn của Nhật Bản bị thu hẹp. Trong việc xác lập quan hệ với nước khác hiển nhiên là Nhật Bản bị lệ thuộc vào Mỹ.

Cuộc Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ đã làm thay đổi tình hình Nhật Bản. Cuộc chiến tranh này cùng với sự thắng lợi của Đảng Cộng sản ở Trung Quốc gần như đã làm đảo lộn tình hình châu Á, trước hết là Đông Bắc Á, chia khu vực này

thành hai vùng cộng sản và tư bản. Cuộc Chiến tranh Triều Tiên “đã trở thành yếu tố

quyết định sự đối đầu Mỹ - Xô và Mỹ - Trung ở châu Á và Nhật Bản là căn cứ của

48

Mỹ đương nhiên cũng bị cuốn vào quan hệ đối lập này” [41, tr. 225]. Là nước nằm

gần kề Trung Quốc và Triều Tiên, Nhật Bản bị hút vào quỹ đạo của chiến tranh. Tình hình đó lại làm cho Nhật Bản càng xích gần hơn với Mỹ, bị Mỹ lôi kéo, chi phối.

Sau khi Hiệp ước Hoà bình San Francisco và Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ

được kí kết vào ngày 9/8/1951, đường lối đối ngoại Nhật Bản được thể hiện rõ nét

trong Học thuyết Yoshida. Học thuyết Yoshida không chỉ chỉ đạo chính sách đối ngoại

của Nhật Bản nói chung và đối với Mỹ nói riêng thời kỳ ông cầm quyền (1948 - 1954),

mà còn được các thủ tướng kế tiếp là Hatoyama Ichiro, Ishibashi Tanzan, Kishi

Nobusuke... tiếp nhận và kế tục. Điều đó làm cho nền ngoại giao Nhật Bản những năm

50 của thế kỷ XX về cơ bản mang tính thống nhất và tiếp tục được củng cố, phát triển

vào những năm 60. Học thuyết Yoshida đặt việc phát triển kinh tế lên hàng đầu và cố

gắng hồi phục nhanh nhất có thể, nhấn mạnh vào mối quan hệ với Mỹ, sự phụ thuộc

vào quân đội Mỹ để đảm bảo nền an ninh của Nhật Bản.

Theo Thủ tướng Yoshida Shigeru, xuất phát từ nhiều lý do, việc thân thiện với

Mỹ (và cả với Anh) phải được coi là nguyên tắc chỉ đạo của nền ngoại giao Nhật

Bản. Lý do thứ nhất là chính sách thân Mỹ, Anh của Nhật Bản đã có lịch sử từ sau

chiến tranh Nhật - Trung (1894 - 1895). Ông cho rằng “sự rối loạn quan hệ với Anh,

Mỹ của Nhật Bản từ sự biến Mãn Châu đến Chiến tranh Thái Bình Dương nếu xét về

dòng chảy lớn của lịch sử thì không phải là trạng thái vốn có của Nhật Bản mà chỉ là

sự điều chỉnh nhất thời mà thôi” [41, tr. 231]. Nhật Bản cũng không việc gì phải từ

bỏ chủ nghĩa thân Mỹ, Anh có tính truyền thống đó. Lý do thứ hai, khi xem xét thế

giới trong sự đối lập giữa khối cộng sản và khối chống cộng thì Nhật Bản đương

nhiên phải đi với phe chống cộng, nhưng mặt khác Nhật Bản cũng không thể tự mình

chống lại phe cộng sản được nên đương nhiên cần tới Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ.

Lý do thứ ba, Nhật Bản xét về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước thì có

tính Tây Âu nhiều hơn tính châu Á [41, tr. 232], cho nên nếu đi với các nước châu Á

mới nổi, các nước Arập, châu Phi chống lại Mỹ, Anh là “lý luận ngu xuẩn, thiếu hiểu

biết tình hình”. Lý do thứ tư, có lẽ là lý do quan trọng nhất, đó là yếu tố về kinh tế.

Theo Yoshida thì “Nhật Bản là đất nước hải dương, rõ ràng phải thông qua buôn bán

với nước ngoài để nuôi sống 90 triệu dân. Vì vậy không thể không tự mình coi trọng

mối quan hệ với hai nước Anh, Mỹ là những nước có mối liên hệ thông thương với

Nhật Bản phong phú nhất, kinh tế và kỹ thuật cũng tiên tiến nhất và về lịch sử cũng

có mối quan hệ sâu sắc” [41, tr. 233].

49

Trong những năm 50, chính sách của Nhật Bản đối với Mỹ gần như là nhất

quán. Nhật Bản dựa vào Hiệp ước đã ký với Mỹ, lợi dụng sự bảo hộ của Mỹ để tập

trung phát triển kinh tế. Những vấn đề đối ngoại của Nhật Bản với các nước, các tổ

chức quốc tế bị sự chi phối của Mỹ và phải theo quỹ đạo của Mỹ. Tuy nhiên, dưới

sức ép của các lực lượng chính trị và quần chúng nhân dân, ở Nhật Bản xuất hiện xu

hướng đòi bình đẳng hơn trong quan hệ giữa hai nước. Năm 1960, hai nước lại ký

hiệp ước an ninh để thay thế, bổ sung cho hiệp ước ký năm 1951. Về mặt quân sự,

Nhật Bản vẫn dựa vào vũ khí hạt nhân và các căn cứ quân sự của Mỹ. Còn về chính

trị, để giảm bớt sự tùy thuộc vào Mỹ, Hiệp ước đã quy định rằng Mỹ phải hiệp

thương trước với Nhật Bản về những hành động quân sự của mình tại Nhật Bản…

So với Hiệp ước An ninh ký năm 1951 thì hiệp ước này đã “thể hiện rõ hơn sự “tự

chủ bình đẳng” của Nhật Bản và ít ra về mặt chính trị cũng đã làm cho Nhật Bản

đứng vào địa vị ngang hàng với Mỹ” [41, tr. 238-239].

Một vấn đề có tính quyết định đến chính sách của Nhật Bản cũng như đến sự

tiến triển của quan hệ Nhật Bản và Mỹ là vấn đề lợi ích quốc gia của Nhật Bản. Đối với

mỗi quốc gia trên thế giới, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc là vấn đề có tính nguyên

tắc “bất biến” trong quan hệ quốc tế. Lợi ích quốc gia - dân tộc hàm chứa cả các mục

tiêu chiến lược của quốc gia trong những giai đoạn lịch sử cụ thể. Đối với Nhật Bản,

thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã làm cho vị thế chính trị, kinh tế bị suy

giảm nghiêm trọng. Mục tiêu chiến lược hàng đầu của Nhật Bản là phải khôi phục địa

vị đã mất. Vấn đề lợi ích quốc gia, nhất là trong hoàn cảnh đầy khó khăn lúc bấy giờ đã

dẫn đến việc Nhật Bản thực sự có nhu cầu hợp tác với Mỹ, lựa chọn Mỹ để thiết lập

quan hệ đồng minh.

Thực trạng đất nước sau Chiến tranh thế giới thứ hai đặt Nhật Bản trước nhiều

sự lựa chọn con đường phát triển. Về mặt lý thuyết, giới lãnh đạo Nhật Bản có quyền

“chọn phe”. Tuy nhiên, xuất phát từ nhận thức tính chất của Chiến tranh lạnh, Nhật

Bản đã đứng về phía Mỹ. Bởi vì, trong tình hình thế giới lúc đó, Nhật Bản có thể lợi

dụng sự bảo trợ của Mỹ để tập trung phát triển kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu chiến

lược là khôi phục địa vị đã mất. Do “sự căng thẳng của môi trường quốc tế nên Nhật đã

có thể chuyên tâm vào ngoại giao kinh tế như chủ trương của Yoshida… ” [41, tr. 233].

Có thể nói, lựa chọn và phát triển quan hệ với Mỹ là “phù hợp” nhất với tình hình của

Nhật Bản. Đứng về phía Mỹ, nghĩa là Nhật Bản quyết tâm tiếp tục theo con đường

50

TBCN. Con đường đó mang tính lâu dài, đã được thiết lập vững chắc trong lịch sử (từ

Cải cách Minh Trị) và đã đưa Nhật Bản lên hàng cường quốc thế giới. Vì lẽ đó, Nhật

Bản thấy được giá trị con đường mà đất nước đã từng đi, không muốn từ bỏ.

Có thể nói, chính sách đối ngoại của Nhật Bản từ sau 1951đến năm 1960 nhìn

chung là dựa vào Mỹ, lệ thuộc Mỹ. Chính sách của Nhật Bản đã tác động sâu sắc đến

quan hệ toàn diện của hai nước, trong đó có quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế.

2.4. Tình hình Mỹ và chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Nhật Bản

(1951 - 1960)

2.4.1. Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Mỹ (1951 - 1960) Về chính trị, trong giai đoạn 1951 - 1960 nói riêng, về hình thức, tình hình

chính trị Mỹ ít có sự thay đổi so với trước. Tuy nhiên, giai đoạn này, do sự tập trung

sản xuất và tư bản rất cao dẫn đến sự liên minh chặt chẽ giữa giới công nghiệp và

quân sự, giữa trùm tư bản và giới chính trị Mỹ. Điều này ảnh hưởng đến chính sách

đối nội và đối ngoại của Mỹ. Ở Mỹ vẫn tồn tại chế độ hai đảng (Đảng Dân chủ và

Đảng Cộng hoà) thay nhau cầm quyền. Từ năm 1945 đến năm 1953, Đảng Dân chủ

cầm quyền với đại diện là Tổng thống Harry Truman; từ năm 1953 đến năm 1961,

Đảng Cộng hoà cầm quyền với đại diện là Tổng thống Dwight Eisenhower.

Về kinh tế, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ là siêu cường có tiềm lực lớn nhất thế giới về mọi mặt. Trong khi hầu hết các nước tham chiến, dù thắng trận hay bại

trận, đều bị tàn phá nặng nề, còn Mỹ, với vị trí địa lý thuận lợi, không bị tổn thất nhiều

so với các nước châu Âu và hơn thế nữa, lại thu được những khoản lợi nhuận khổng lồ.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế Mỹ tăng trưởng nhanh hơn bất cứ

giai đoạn nào trong thế kỷ XX [13, tr. 241]. Tổng sản phẩm quốc dân của Mỹ giai đoạn

này tăng nhanh chóng, nhảy vọt từ 200 tỷ USD năm 1940 lên 300 tỷ USD năm 1950 và

lên tới 500 tỷ USD năm 1960 [32, tr. 348]. Mỹ nhanh chóng trở thành trung tâm kinh tế

tài chính lớn nhất thế giới. Mỹ sở hữu là ¾ lượng vàng của thế giới tư bản với giá trị gần 25 tỷ USD. Mỹ trở thành chủ nợ duy nhất của thế giới và ngay cả các nước tư bản châu Âu cũng biến thành con nợ của Mỹ.

Mặc dù không thế tránh khỏi những cuộc khủng hoảng và suy thoái mang tính chu kỳ (vào các năm: 1953 - 1954, 1957 - 1958, 1960 - 1961), nhưng nhìn chung từ năm 1951 đến năm 1960, nền kinh tế Mỹ phát triển nhanh. Sự phát triển đó do nhiều

nguyên nhân. Về mặt chủ quan, nền kinh tế Mỹ có trình độ tập trung sản xuất và tư bản rất cao; nước Mỹ đã nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ thời chiến sang

thời bình; giới cầm quyền Mỹ đã lợi dụng sự suy yếu của các nước tư bản sau Chiến

51

tranh thế giới thứ hai để phát triển. Về mặt khách quan, Mỹ gần như không bị thiệt

hại bởi chiến tranh; Mỹ là nước đi tiên phong và tận dụng triệt để những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại.

Về xã hội, nhìn chung, quyền tự do dân chủ của nhân dân Mỹ bị hạn chế.

Chính phủ Mỹ ban hành nhiều chính sách nhằm chống lại sự hoạt động của các tổ chức công đoàn, cấm công nhân bãi công. Dưới thời Tổng thống H. Truman đã có

gần 200 đạo luật hạn chế quyền đấu tranh của nhân dân lao động. Hoạt động của

những người theo CNCS và những người cánh tả bị hạn chế một cách triệt để. Trong

những năm 50, phong trào Mc Carthy phát triển mạnh tạo nên không khí ngột ngạt trong xã hội Mỹ. Khi Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Mc Carthy đã tiến hành “một

chiến dịch bôi nhọ khét tiếng” [63, tr. 28]. Hàng trăm người Mỹ đã bị buộc tội là

“cộng sản” hoặc “cảm tình viên cộng sản”, trở thành đối tượng của các cuộc điều tra

và thẩm vấn, nhiều người bị bắt giam, có những người buộc phải tự tử.

Đời sống của đông đảo nhân dân lao động Mỹ gặp nhiều khó khăn. Trong xã

hội Mỹ, phân hoá giàu nghèo trở nên rất trầm trọng. Trong giai đoạn này ở Mỹ có

hàng chục triệu người sống trong cảnh nghèo đói.

Những chính sách nói trên của giới cầm quyền Mỹ là nguyên nhân gây nên

sự bất ổn trong xã hội. Mâu thuẫn trong lòng xã hội Mỹ không bao giờ chấm dứt,

các cuộc đấu tranh của nhân dân liên tiếp diễn ra để phản đối chiến tranh, đòi quyền

dân chủ, chống phân biệt chủng tộc...

Tình hình đối nội có ảnh hưởng rất lớn đến chính sách đối ngoại của mọi

quốc gia. Đối với Mỹ, với nền kinh tế phát triển và tình hình chính trị ổn định là cơ

sở để Chính phủ Mỹ thực hiện chiến lược toàn cầu, trong đó có chính sách đối ngoại đối với Nhật Bản, giai đoạn 1951-1960.

2.4.2. Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Nhật Bản (1951 - 1960)

1 Những cơ sở chủ yếu để hoạch định chiến lược toàn cầu là: Mỹ đã vươn lên về mọi mặt, trở thành nước mạnh nhất trong phe TBCN; hệ thống TBCN đều bị kiệt quệ do chiến tranh và phải phụ thuộc vào Mỹ; với sự thất bại của các nước phát xít Đức, Italia, Nhật Bản, thế giới xuất hiện một “khoảng trống quyền lực” rộng lớn, Mỹ cần lấp vào chỗ trống đó. Trong khi đó, hệ thống XHCN đứng đầu là Liên Xô không ngừng lớn mạnh, phong trào GPDT trên thế giới phát triển mạnh trở thành rào cản trong việc thực hiện tham vọng của Mỹ.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, giới cầm quyền Mỹ đã đề ra chiến lược toàn cầu nhằm thống trị thế giới. Từ những cơ sở chủ quan và khách quan1, giới cầm quyền Mỹ cho rằng, nước Mỹ có đủ sức mạnh để thống trị thế giới, đồng thời, Mỹ phải đứng ra để đảm đương sứ mệnh “lãnh đạo thế giới tự do” chống lại CNCS và phong trào cách mạng thế giới. Tổng thống H. Truman đã dùng những lời rất hoa mỹ để nói về điều này: “Chúng ta phải xây dựng một thế giới mới, một thế giới tốt

52

hơn rất nhiều - cái thế giới mà trong đó chân giá trị vĩnh cửu của con người được

tôn trọng” [32, tr. 336].

Chiến lược toàn cầu của Mỹ với ba mục tiêu cơ bản: Một là, ngăn chặn, đẩy

lùi, tiến tới tiêu diệt hệ thống XHCN; hai là, đàn áp phong trào giải dân tộc, phong

trào hoà bình, dân chủ trên thế giới; ba là, khống chế các nước tư bản đồng minh, tập hợp các lực lượng quốc tế đặt dưới sự lãnh đạo của Mỹ. Những mục tiêu nói trên là

nhất quán trong chính sách đối ngoại của Mỹ trong thời gian này. Để thực hiện chiến

lược toàn cầu, Mỹ đã triển khai các biện pháp rất toàn diện.

Về mặt kinh tế, ngày 5/6/1947, Ngoại trưởng Mỹ George Marshall đã đề ra kế hoạch viện trợ kinh tế nhằm khôi phục kinh tế các nước châu Âu (thường gọi là

Kế hoạch Marshall). Tháng 7/1947, các nước châu Âu chấp nhận viện trợ của Mỹ,

thống nhất yêu cầu Mỹ viện trợ 17 tỷ USD trong vòng 4 năm [32, tr. 340]. Tháng

4/1948, Quốc hội Mỹ thông qua “Đạo luật viện trợ cho nước ngoài”, quy định

những nước nhận viện trợ phải để cho Mỹ được hưởng những đặc quyền về kinh tế,

chính trị và quân sự, kể cả quyền được can thiệp vào công việc nội bộ của nước đó.

Kế hoạch Marshall là một thắng lợi lớn của Mỹ trong việc thực hiện chính sách đối

ngoại, trước hết là đối với châu Âu. Nó được xem là một trong những sự khởi

xướng ngoại giao thành công nhất trong lịch sử nước Mỹ [32, tr. 340]. Ngoài ra, Mỹ

còn sử dụng các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế để tiến hành bao vây, cô lập và

cấm vận kinh tế đối với nhiều nước đi ngược lại với lợi ích của mình. Trên thực tế,

Mỹ đã áp đặt một phần yêu sách chính trị của mình thông qua yêu cầu bắt buộc các

nước nhận viện trợ phải thực hiện các điều kiện như: chịu kiểm soát việc sử dụng

tiền cho vay, cải tạo kinh tế theo hướng thị trường tự do, chịu sự can thiệp vào công việc nội bộ… Đó cũng là cách thức Mỹ áp đặt và mở rộng phạm vi ảnh hưởng chính

trị của nền “dân chủ kiểu Mỹ” sang các quốc gia khác trên thế giới.

Về đối ngoại, để ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới tiêu diệt hệ thống XHCN và phong trào cách mạng trên thế giới, Tổng thống H. Truman thực hiện “Chính sách ngăn chặn” (còn được là Chủ nghĩa Truman). Chính sách này được đề ra dựa trên những đề xuất của Kennan, một chuyên gia Liên Xô của Mỹ. Ông ta chủ trương “ngăn chặn lâu dài”, kiên trì nhưng phải cứng rắn và cảnh giác trước những hành động của Liên Xô. Có thể nói, “Chính sách ngăn chặn” đã trở thành nền tảng quan trọng trong chính sách đối ngoại của Mỹ từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Ngày 12/3/1947, Tổng thống H. Truman đọc diễn văn trước Quốc hội Mỹ,

chính thức phát động cuộc Chiến tranh lạnh nhằm tiêu diệt Liên Xô và các nước

53

XHCN. Để thực hiện Chiến tranh lạnh, Mỹ tiến hành hàng loạt âm mưu như bao

vây cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế, chạy đua vũ trang và “diễn biến hoà bình”, ủng hộ lực lượng phản động lên nắm quyền ở nhiều nước, thực hiện chia cắt

đất nước ở nhiều quốc gia (Đức, Triều Tiên)… Vào đầu năm 1950, Hội đồng an

ninh quốc gia Mỹ cho rằng: “Giờ đây, cuộc tấn công vào thế giới tự do đã có khắp nơi trên thế giới” [4, tr. 137].

Sau khi lên nắm quyền vào năm 1954, Tổng thống Dwight David Eisenhower và giới cầm quyền Mỹ chủ trương đẩy mạnh chính sách “ngăn chặn” lên cao hơn một bước nữa nhằm buộc Liên Xô và các nước XHCN phải lùi bước. Eisenhower đề ra chiến lược toàn cầu có tên là “Trả đũa ồ ạt”, thực hiện chính sách ngoại giao “Bên miệng hố chiến tranh”, chủ trương đẩy mạnh Chiến tranh lạnh. Điều đó đã làm cho mâu thuẫn giữa hai phe lên đến đỉnh cao, gây tình trạng đối đầu căng thẳng, gay gắt trong quan hệ quốc tế.

Về mặt quân sự, Mỹ thành lập nhiều tổ chức quân sự, thành lập các căn cứ ở khắp nơi trên thế giới và ký kết các liên minh quân sự song phương với các nước đồng minh. Đến năm 1960, bên cạnh các hiệp ước, tổ chức có trước năm 1950 như Hiệp ước RIO (1947), NATO (1949), Mỹ thành lập các tổ chức, hiệp ước và liên minh quân sự mới: Hiệp ước ANZUS (1951), SEATO (1954), CENTO (1958), các hiệp ước song phương với Nhật Bản (1951), Philippines (1951), Hàn Quốc (1953), Đài Loan (1955)… Các tổ chức này được thành lập chủ yếu nhằm phục vụ cho chiến lược toàn cầu của Mỹ. Mỹ cũng chú trọng việc xây dựng các căn cứ quân sự và đưa quân chiếm đóng ở nước ngoài. Trong những năm 50, Mỹ đã thiết lập được khoảng 2.000 căn cứ quân sự, đưa hàng chục vạn quân đóng ở nhiều nơi. Mặt khác, Mỹ nhúng tay vào nhiều cuộc chiến tranh ở các khu vực trên thế giới và tăng cường chạy đua vũ trang với Liên Xô.

Có thể nói, đến năm 1960, với thực lực chiếm ưu thế tuyệt đối so với tất cả các quốc gia khác, Mỹ đã thực hiện chiến lược toàn cầu với mục tiêu bá chủ thế giới. Chính sách của Mỹ có tác động đến quan hệ của Mỹ với các nước trên thế giới, trong đó có quan hệ với Nhật Bản giai đoạn 1951 - 1960.

Nhật Bản luôn có vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của Mỹ từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Xét về mặt địa lý, Nhật Bản là quốc đảo, xung quanh là hàng loạt các biển thông nhau, trong đó phía Đông và Nam là Thái Bình Dương, phía Tây Bắc là biển Nhật Bản, phía Đông Bắc là biển Okhotsk... Bằng đường biển từ Nhật Bản dễ dàng đi tới các quốc gia khác như: Nga ở phía Tây Bắc, Trung Quốc ở phía Tây, Đông Nam Á ở phía Nam và qua Thái Bình Dương để sang châu Mỹ.

54

Trong bối cảnh Liên Xô và hệ thống XHCN, phong trào GPDT thế giới trở thành thách thức thực sự về quyền lực và lợi ích đối với Mỹ thì Nhật Bản lại càng có vị trí chiến lược đối với Mỹ. Đặc biệt, trong những năm 50 thế kỷ XX, khi những bất lợi của Mỹ ở châu Á gia tăng do biến chuyển của tình hình ở Trung Quốc, bán đảo Triều Tiên, Đài Loan… thì Mỹ càng có nhu cầu tăng cường quan hệ với Nhật Bản. Nhật Bản sẽ có vai trò đặc biệt trong thế trận bao vây, chống phá Liên Xô, CHND Trung Hoa, hệ thống XHCN và ngăn cản phong trào GPDT ở Đông Á và Đông Nam Á. Cùng với Hàn Quốc, Đài Loan, Philipines và Thái Lan, việc khống chế Nhật Bản sẽ bổ sung thêm một căn cứ vào “hạm đội không thể đánh chìm” của Mỹ ở châu Á. Nhật Bản cũng sẽ trở thành một “chân cầu”, bến cảng và sân bay rất thuận tiện cho hạm đội, máy bay Mỹ vào châu Á.

Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Nhật Bản từ năm 1951 đến năm 1960

không nằm ngoài khuôn khổ của chính sách đối ngoại mà Mỹ theo đuổi. Có thể tóm

lược những nét chính về chính sách của Mỹ đối với Nhật Bản bằng những điểm

dưới đây:

Một là, xây dựng Nhật Bản thành đồng minh để đảm bảo lợi ích của Mỹ ở

khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Những tính toán của Mỹ về việc chấm dứt chế độ chiếm đóng và ký kết hòa

ước với Nhật Bản theo điều kiện của Mỹ đã xuất hiện từ năm 1947, nhưng do tính

chất phức tạp của tình hình lúc bấy giờ nên Mỹ chưa thực hiện được. Đến khi CHND

Trung Hoa thành lập (1949), đặc biệt là khi Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ (1950),

vấn đề thiết lập quan hệ đồng minh với Nhật Bản trở thành vấn đề cấp bách đối với

Mỹ. Mỹ bắt đầu xem xét sức mạnh kỹ nghệ và quân sự của Nhật Bản là một hậu

thuẫn đáng kể cho lực lượng quân sự của Mỹ ở Viễn Đông. Bởi thế, đối với Mỹ, Nhật

Bản trước đó không lâu là kẻ thù, trong chốc lát trở thành người đồng minh chủ yếu

[72, tr. 258]. Tình hình ở châu Á - Thái Bình Dương và thế giới chuyển biến nhanh

chóng đã thôi thúc Mỹ ký các hiệp ước liên minh với Nhật Bản, nhất là sau khi Liên

xô và CHND Trung Hoa ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Trung - Xô vào tháng

2/1950. Có thể nói, sự định hình cấu trúc hai phe, hai cực ngày càng rõ nét ở châu Á -

Thái Bình Dương là một trong những nhân tố quan trọng làm cho Mỹ thay đổi chính

sách đối với Nhật Bản. Mỹ tìm mọi cách để nhanh chóng đưa Nhật Bản vào quỹ đạo

của mình.

Ngày 29/5/1951, Chính phủ Mỹ đã gửi cho các nước thành viên Ủy ban Viễn

Đông bản dự thảo hòa ước với Nhật Bản do Mỹ chuẩn bị mà không hề có sự tham khảo

55

của các bên liên quan. Sau đó, Mỹ và Anh đứng ra tổ chức Hội nghị San Francisco từ

ngày 4 đến 8/9/1951 với sự tham gia của đại biểu 52 nước để bàn vấn đề ký hòa ước

với Nhật Bản. Tại Hội nghị, Mỹ đã đạt được quy tắc về thủ tục, thể thức làm việc, thực

chất là loại trừ các khả năng đưa vào dự thảo của hòa ước bất kỳ một đề nghị và điều

khoản bổ sung nào. Đoàn đại biểu Liên Xô đã kịch liệt phê phán dự thảo hòa ước và đề

nghị thảo luận để bổ sung thêm nhiều điều khoản vào dự thảo. Tuy nhiên, đề nghị của

Liên Xô đã bị Chủ tịch Hội nghị là Ngoại trưởng Mỹ Dean Acheson bác bỏ với lý do

những đề nghị này hình như vượt ra ngoài khuôn khổ của trình tự và thể thức làm việc

của hội nghị và không có trong chương trình nghị sự của hội nghị [65, tr. 250]. Cuối

cùng Hòa ước San Francisco đã được ký kết, gồm 27 điều khoản. Với Hòa ước này,

Mỹ đã đạt được mục đích riêng của mình. Hòa ước đã phê chuẩn việc ở lại vô thời hạn

của quân đội Mỹ ở Nhật Bản. Đặc biệt, Hòa ước này đã mở đường cho Mỹ và Nhật

Bản đi đến ký kết một loạt những hiệp ước song phương khác.

Chỉ 5 giờ sau khi ký Hòa ước San Francisco, Mỹ đã ký với Nhật Bản Hiệp ước

An ninh Nhật - Mỹ. Hiệp ước này đã trao cho Mỹ quyền duy trì quân đội của mình ở

Nhật Bản với sứ mệnh “đảm bảo hòa bình và an ninh ở Viễn Đông và an ninh của Nhật

Bản”, và để “đàn áp những cuộc đấu tranh lớn và tình trạng vô trật tự ở Nhật Bản”,

Theo hiệp ước này, Mỹ còn nhận được quyền thiết lập các căn cứ quân sự của mình ở

Nhật Bản, tiến hành các hoạt động quân sự ở Viễn Đông; có thể sử dụng các đảo của

Nhật Bản như là bàn đạp quân sự để tấn công các mục tiêu ở châu Á.

Hai hiệp ước nói trên đã thiết lập cơ sở pháp lý cho quan hệ đồng minh Mỹ -

Nhật Bản. Để củng cố quan hệ đồng minh với Nhật Bản, Mỹ còn ký thêm nhiều

hiệp định song phương như “Hiệp định Hành chính” (ngày 28/2/1952), “Hiệp ước

bổ sung về sử dụng lãnh thổ” (ngày 26/7/1952), “Hiệp định về các biện pháp đặc

biệt liên quan đến việc sử dụng lãnh thổ” (ngày 15/5/1955)…

Sau khi ký kết các hiệp ước với Nhật Bản, Mỹ đã duy trì căn cứ quân sự ở

Nhật Bản, chủ trương tái vũ trang Nhật Bản. Tháng 3/1954, hai bên đã ký hiệp ước

về viện trợ quân sự Mỹ cho Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản cam kết “mở rộng và

duy trì sức mạnh quốc phòng của mình và sức mạnh phòng thủ của các nước thuộc

thế giới tự do” [65, tr. 255]. Mỹ đã tăng cường viện trợ quân sự, tạo điều kiện cho

Nhật Bản tái vũ trang. Chỉ tính viện trợ quân sự của Mỹ dành cho Nhật Bản trong

giai đoạn này tăng rất nhanh, năm 1954 Mỹ bắt đầu viện trợ cho Nhật Bản với 0,5

triệu USD, đến năm 1959 lên tới 131,5 triệu USD [123, tr. 120].

56

Ngày 19/1/1960, tại Washington, Mỹ và Nhật Bản tái ký kết Hiệp ước An

ninh nhằm bổ sung và thay thế cho Hiệp ước năm 1951. Thực chất, hiệp ước năm 1960 nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc duy trì lâu dài của các căn cứ quân sự Mỹ ở

Nhật Bản. Mỹ lại đạt được một thắng lợi về mặt ngoại giao trong việc thực hiện

chiến lược toàn cầu ở những năm tiếp theo.

Hai là, hỗ trợ Nhật Bản phục hồi và phát triển kinh tế.

Ngay từ năm 1947, Ngoại trưởng Mỹ Dean Acheson cho rằng nên biến Nhật

Bản và Đức thành “những công xưởng” của châu Á và châu Âu [151, tr. 195]. Thực

tế thì việc hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế mà Mỹ dành cho Nhật Bản cũng chỉ phục vụ cho mục đích chính trị của Mỹ. Nhà nghiên cứu về lịch sử ngoại giao Mỹ

và Nhật Bản Irie Akira cho rằng: “Việc ổn định chính trị, ngăn chặn cộng sản hóa

bằng cách tái thiết kinh tế đã là cốt lõi trong chính sách đối với Nhật Bản của Mỹ”

[41, tr. 225]. Giới cầm quyền Mỹ nhận thức rằng, mặc dù đã ký kết Hiệp ước An

ninh, có thể khống chế Nhật Bản về chính trị, quân sự, nhưng nếu “o ép”, kìm hãm

sự phát triển kinh tế Nhật Bản thì sẽ đưa đến hậu quả xấu cho nước Mỹ, gây ra sự

phản ứng của giới tư bản Nhật Bản. Dù sao thì Nhật Bản cũng đã từng là một nước

có nền kinh tế TBCN phát triển với mức độ tập trung tư bản rất cao. Mặt khác, nước

Mỹ cũng không thể duy trì một đồng minh yếu ớt, nghèo nàn về kinh tế, không đủ

khả năng để triển khai những chính sách đối ngoại của Mỹ ở khu vực.

Trong giai đoạn 1951-1960, Mỹ đã tiến hành viện trợ và cho Nhật Bản vay

để phục hồi, phát triển kinh tế. Tính từ năm 1948 đến năm 1960, con số này là

1.555 triệu USD [125, tr. 200], trong đó tập trung vào giai đoạn 1948 - 1952 (khi

Mỹ đang thực hiện chính sách chiếm đóng và phục vụ nhu cầu của Chiến tranh Triều Tiên) và giai đoạn 1953 - 1957 (những năm đầu tiên khi kết thúc chế độ

chiếm đóng, khi Nhật Bản cần số vốn lớn để phục hồi kinh tế). Những năm sau đó,

viện trợ kinh tế của Mỹ giảm dần, trong khi viện trợ quân sự được ưu tiên.

Bảng 2.2. Giá trị viện trợ và cho vay về kinh tế của Mỹ đối với Nhật Bản (1948 -1960) Đơn vị tính: Triệu USD

[125, tr. 200].

Thời gian 1948-1952 1953-1957 1958 1959 1960 Giá trị 1.221 219 68 25 22

57

Nhờ chính sách viện trợ và cho vay của Mỹ nên nền kinh tế Nhật Bản có

những chuyển biến nhanh, tốc độ phát triển và giá trị tổng sản phẩm quốc dân tăng nhanh. Ngoài viện trợ và cho vay, Mỹ ủng hộ Nhật Bản phát triển quan hệ kinh tế

với các nước phương Tây, gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế.

Như vậy, trong giai đoạn 1951 - 1960, chính sách mà Mỹ thực thi đối với Nhật Bản là chính sách đồng minh, là một bộ phận trong chiến lược toàn cầu của

Mỹ. Để thực thi chính sách đó, Mỹ đã hỗ trợ Nhật Bản phục hồi và phát triển kinh

tế. Xét đến cùng, chính sách của Mỹ đối với Nhật Bản trước hết phục vụ lợi ích

thiết thân của nước Mỹ. Chính sách đó có tác động rất lớn đến quan hệ giữa hai nước nói chung, quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế nói riêng.

2.5. Vai trò của các nhà lãnh đạo Nhật Bản và Mỹ

2.5.1. Thủ tướng Nhật Bản Yoshida Shigeru và Kishi Nobusuke

Trong thời gian từ ngày 8/9/1951 đến 19/1/1960, các thủ tướng Yoshida

Shigeru, Hato Yama Ichino, Ishibashi Tanzan, Kishi Nobusuke thay nhau cầm

quyền ở Nhật Bản. Trong các thủ tướng đó, Thủ tướng Yoshida Shigeru và thủ

tướng Kishi Nobusuke có vai trò nổi bật trong lãnh đạo đất nước và trong quan hệ

Nhật - Mỹ.

2.5.1.1. Thủ tướng Nhật Bản Yoshida Shigeru

Yoshida Shigeru (1878-1967) là thành viên của Đảng Tự do, giữ cương vị

Thủ tướng Nhật Bản trong hai giai đoạn: Từ tháng 5/1946 đến tháng 5/1947 và từ

tháng 10/1948 đến tháng 12/1954, là một trong những người nắm giữ chức vụ thủ

tướng lâu nhất trong lịch sử Nhật Bản.

Trong cuốn “Thế kỷ quyết định của Nhật Bản 1867 - 1967”, Shigeru Yoshida viết rằng: “...một tháng sau khi chấm dứt chiến tranh Thái Bình Dương, tôi đã gặp

Đô đốc Kantaro Suzuki, người từng là Thủ tướng Nhật Bản. Suzuki đã nói với tôi:

“Điều quan trọng là trở thành một người chiến thắng tốt trong một cuộc chiến tranh, nhưng điều quan trọng không kém là làm một người thua cuộc tốt”. Những lời này của Đô đốc Suzuki đã trở thành kim chỉ nam trong các cuộc đàm phán của tôi khi tôi trở thành thủ tướng” [158, tr. 48 - 49]. Chính tư tưởng “làm một người thua cuộc tốt” đã chi phối ít nhiều đến đường lối lãnh đạo của Yoshida.

Là một chính trị gia sắc sảo, “Yoshida đã nhận thức được những cơ hội cũng như mối nguy hiểm mà trật tự quốc tế mới gây ra, nhận thấy rằng lịch sử cung cấp

những ví dụ về những thành công sau khi đã thua trong chiến tranh” [160, tr. 75].

Lên cầm quyền trong bối cảnh Mỹ bắt đầu thay đổi chính sách đối với Nhật Bản,

58

Yoshida đã lãnh đạo Nhật Bản tận dụng thành công những khoản viện trợ, đầu tư

của Mỹ, từng bước phục hồi nền kinh tế đất nước. Để tăng cường hợp tác với SCAP, nội các Yoshida thực thi những biện pháp rất cứng rắn chống lại phong trào

đấu tranh của nhân dân, ngăn cản phong trào công đoàn, thanh trừng những “phần

tử đỏ” ra khỏi các cơ quan, xí nghiệp… Đồng thời, Yoshida lập lại lực lượng cảnh sát dự bị, tăng lực lượng Bộ Chỉ huy cảnh vệ hải quân.

Năm 1951, Chính phủ Yoshida đã ký kết Hoà ước San Francisco, Hiệp ước

An ninh Nhật - Mỹ. Các hiệp ước này nhằm kết thúc việc chiếm đóng của nước

ngoài, đảm bảo an ninh cho Nhật Bản.

Sau khi Mỹ kết thúc chế độ chiếm đóng Nhật Bản, Yoshida đề ra một đường

lối rất cụ thể để phát triển đất nước, thường gọi là “Học thuyết Yoshida”. Nội dung

của Học thuyết này có 3 điểm cốt lõi: Một là, Nhật Bản coi mình là thành viên của

phương Tây, nghĩa là đi với Mỹ, coi đó là nền tảng ngoại giao; hai là, dựa vào Mỹ để

đảm bảo an ninh quốc phòng, hạn chế đến mức tối thiểu việc xây dựng lực lượng

phòng vệ của riêng mình; ba là, coi trọng ngoại giao kinh tế. Trọng tâm trong Học

thuyết Yoshida vẫn là tập trung phát triển kinh tế dưới sự bảo trợ của Mỹ về an ninh.

Đây là đường lối đúng mà Yoshida đã vạch ra cho Nhật Bản trong hoàn cảnh lúc đó.

Bởi vì do sự căng thẳng của môi trường kinh tế nên Nhật Bản “đã chuyên tâm vào

ngoại giao kinh tế như chủ trương của Yoshida” [41, tr. 233]. Chính sách này tác

động sâu sắc đến đường lối phát triển của Nhật Bản trong thập niên 50 và những năm

sau đó.

Có thể nói, Yoshida đã có ảnh hưởng lớn đến quan hệ Nhật Bản - Mỹ trong

giai đoạn 1951 - 1960. Chính sự cầm quyền ổn định, đường lối phù hợp đã góp phần giúp Nhật Bản vượt qua được giai đoạn khó khăn, tạo nền tảng để đưa đất

nước này bước vào giai đoạn phát triển “thần kỳ”. Điều đáng chú ý là Yoshida nhận

được sự tin tưởng của Chính phủ Mỹ. Học thuyết mà ông đề xướng có thể thực hiện được vì “nó thỏa mãn lợi ích của Mỹ, hoặc ít nhất là vì Mỹ đã đồng ý với nó [178]. Ông giúp Mỹ thực hiện hiệu quả những chính sách của mình ở Nhật Bản. Bởi vậy, Yoshida được coi như “một biểu tượng của mối liên minh Mỹ - Nhật” [63, tr. 93].

Trong những thập kỷ 70, 80 của thế kỳ XX, Học thuyết Yoshida vẫn có giá trị lớn đối với Nhật Bản. Nó “không chỉ được quan tâm trong lịch sử mà còn phù hợp với sự hiểu biết về các chính sách an ninh và đối ngoại hiện tại của Nhật Bản”

[178]. Đối với nhiều nhà nghiên cứu lịch sử và chính trị, Yoshida được xem là

“người hình thành thể chế hậu chiến Nhật Bản” [91, tr. 45].

59

2.5.1.2. Thủ tướng Nhật Bản Kishi Nobusuke

Kishi Nobusuke (1896 - 1987) giữ cương vị Thủ tướng Nhật Bản từ tháng

2/1957 đến tháng 7/1960. Ông được xem là “người xác lập, củng cố thể chế chính

trị hậu chiến mà Thủ tướng Yoshida xây dựng bước đầu” [91, tr. 52] và có ảnh

hưởng đến quan hệ Nhật Bản - Mỹ.

Trong thời gian hơn 3 năm làm thủ tướng, Kishi luôn nỗ lực để cải thiện

quan hệ với Mỹ theo hướng bình đẳng hơn, trong đó có việc sửa đổi nội dung của

Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ năm 1951. Quan điểm của Kishi là phải điều chỉnh

Hiệp ước nhằm tăng cường vai trò, chủ quyền và tính độc lập của Nhật Bản và

không để Mỹ đơn phương quyết định những vấn đề liên quan đến các căn cứ quân

sự trên đất Nhật Bản.

Trong thời gian cầm quyền, Kishi đã chuẩn bị kỹ các chính sách nhằm nâng

cao vị thế của Nhật Bản trên trường quốc tế, bao gồm cả với Mỹ. Ông đưa ra nhiều

chính sách cho thấy Nhật Bản sẽ ngày càng đóng vai trò quan trọng trên vũ đài

chính trị thế giới, nhất là tại châu Á. Ngày 20/5/1957, ông phát biểu: “Phương châm

cơ bản về quốc phòng”, theo đó, Nhật Bản sẽ từng bước tăng cường năng lực bảo vệ

đất nước. Ngay sau đó, ông thực hiện một loạt chuyến công du đến các nước Miến

Điện, Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka, Thái Lan và đảo Đài Loan để giải quyết vấn đề

bồi thường chiến tranh, mở ra quan hệ mới với các nước châu Á.

Kishi cũng hai lần tới Mỹ để trao đổi và quyết định về quan hệ song phương,

lần thứ nhất vào tháng 6/1957, lần thứ hai vào tháng 1/1960. Trong những lần này,

tư tưởng nhất quán của ông là đấu tranh cho sự bình đẳng hơn trong quan hệ giữa

hai nước. Ông chính là người ký Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ năm 1960 với những

điều khoản được sửa đổi hoặc giải thích rõ ràng hơn so với hiệp ước năm 1951.

Kishi có vai trò quyết định trong việc kết hợp hai đảng Tự do và Dân chủ

thành Đảng Dân chủ Tự do (LDP) cầm quyền trong thời gian rất dài về sau. Trong

thời gian cầm quyền, ông vẫn tiếp tục thực hiện “Học thuyết Yoshida”, ưu tiên phát

triển kinh tế, tạo cơ sở cho nền kinh tế Nhật Bản phát triển nhanh chóng.

2.5.2. Tổng thống Mỹ Harry Truman và Dwight David Eisenhower

Nước Mỹ thời kỳ 1951 - 1960 gắn liền với sự lãnh đạo của hai tổng thống:

Harry Truman nắm quyền từ năm 1951 đến năm 1953 và Dwight David Eisenhower

nắm quyền từ 1953 đến năm 1960. Hai ông đã có vai trò quan trọng trong mối quan

hệ Mỹ - Nhật Bản.

60

2.5.2.1. Tổng thống Mỹ Harry Truman

H. Truman là tổng thống thứ 33 của nước Mỹ, cầm quyền từ năm 1945 đến năm

1953. Tháng 4/1945, khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai chuẩn bị đến hồi kết, Tổng

thống Mỹ Franklin D.Roosevelt đột ngột qua đời, với tư cách là Phó Tổng thống đương

nhiệm, Truman lên làm Tổng thống Mỹ. Bản thân Truman ban đầu cảm thấy “mình

chưa được rèn luyện tốt để quản lý đất nước” và nói rằng “Tôi chưa đủ trưởng thành

cho công việc này” [32, tr.337]. Nhưng Truman đã nhanh chóng đáp lại những thách

thức mới và tỏ rõ là một người năng nổ, luôn là người thích nhận xét vấn đề để đưa

cách giải quyết. Đã có người cho rằng “nhận xét là đặc điểm của sự kiên quyết của

Harry Truman” [140, tr.38]. Ông cũng là người có khả năng đưa ra những quyết định

rất mau lẹ với tính quyết đoán cao. Quả đúng như vậy, sự nghiệp chính trị của H.

Truman gắn với những sự kiện lớn có ảnh hưởng tới lịch sử thế giới như vụ thả bom

nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, ban hành Kế hoạch Marshall, thành lập khối

NATO, can thiệp quân sự vào Chiến tranh Triều Tiên… Cũng chính Truman là người

đã phát động cuộc Chiến tranh lạnh.

Điểm nổi bật nhất có tác động sâu sắc đến nước Mỹ và quan hệ Nhật Bản -

Mỹ chính là “Học thuyết Truman” dựa trên nền tảng là “Chính sách ngăn chặn”. Bản

thân Truman đã từng khẳng định rằng: “Học thuyết của ông đánh dấu một “bước

ngoặt” trong chính sách đối ngoại Mỹ, gắn liền với quan niệm cho rằng an ninh của

Mỹ gắn chặt với an ninh thế giới. Học thuyết đã trở thành yếu tố trung tâm trong việc

hình thành thế đối đầu về ý thức hệ thời kỳ Chiến tranh lạnh, thúc đẩy một chiến dịch

lớn nhằm kiềm chế Liên Xô và ngăn chặn CNCS trên toàn thế giới” [31].

Truman là người thay đổi chính sách đối với Nhật Bản sau Chiến tranh thế

giới thứ hai từ “đánh quỵ” sang “phục hồi”, từ kẻ thù thành đồng minh. Trong hoàn

cảnh Chiến tranh lạnh ngày càng căng thẳng, nhất là sau khi CHND Trung Hoa ra

đời, sự căng thẳng của hai miền Nam, Bắc Triều Tiên, H. Truman muốn xây dựng

Nhật Bản thành phòng tuyến chống cộng hiệu quả ở châu Á, thay thế chính quyền

Tưởng Giới Thạch đã thất bại ở Trung Quốc.

Trong giai đoạn 1951 - 1953, quãng thời gian cuối nhiệm kỳ thứ hai cầm

quyền, Truman đã tích cực thúc đẩy việc ký kết Hoà ước San Francisco, Hiệp ước An

ninh Nhật - Mỹ và những hiệp ước khác với Nhật Bản để thiết lập liên minh giữa hai

nước, tăng cường sự lệ thuộc của Nhật Bản vào Mỹ. Có thể nói, sự phát triển trong

quan hệ giữa hai nước thời gian này mang đậm dấu ấn cá nhân của Truman.

61

2.5.2.2. Tổng thống Mỹ Dwight David Eisenhower

Dwight David Eisenhower là Tổng thống thứ 34 trong lịch sử nước Mỹ, cầm quyền từ năm 1953 đến năm 1961. Ông từng là một vị tướng cao cấp, là Tư lệnh các

lực lượng Đồng minh tại châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai, người đã chỉ

huy cuộc đổ bộ lên khu vực bờ biển Normandy thuộc nước Pháp vào ngày 6/6/1944. Trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 1952, chính trường Mỹ phân hoá sâu

sắc vì cuộc Chiến tranh Triều Tiên. Một số thượng nghị sĩ đứng đầu là Thượng Nghị

sỹ Robert A. Taft, thuộc tiểu bang Ohio muốn Mỹ rút lui khỏi cuộc chiến tranh Triều

Tiên bởi vì cuộc chiến tranh này sớm trở thành một chiến trường đẫm máu. Trong khi đó, Eisenhower không đồng ý với Thượng Nghị sỹ Taft, ông cho rằng Mỹ không thể

sống trong hòa bình và tự do mà lại tránh né các vấn đề xảy ra tại các nơi khác trên

thế giới. Lúc đó, người Mỹ cho rằng, chỉ có Eisenhower mới có thể khắc phục được

tình trạng chia rẽ của chính trường Mỹ. Kết quả là trong cuộc bầu cử tổng thống năm

1952, Eisenhower giành chiến thắng.

Từ năm 1953 đến năm 1961, Eisenhower trải qua hai nhiệm kỳ tổng thống

Mỹ. Quan điểm gần như nhất quán của ông là thể hiện sự thù địch với CNCS và tin

tưởng mạnh mẽ vào an ninh tập thể. Cầm quyền trong hoàn cảnh Chiến tranh lạnh

diễn biến căng thẳng, D. Eisenhower tiếp tục thực hiện “Chính sách ngăn chặn” của

Mỹ thời kỳ Truman và đẩy nó ở mức quyết liệt hơn. Trong diễn văn nhậm chức đầu

tiên của mình, ông tuyên bố: “Những sức mạnh của cái thiện và cái ác đang tập trung

vũ trang và đối lập nhau chưa từng có như trước đây trong lịch sử” [32, tr.345]. Ông

đề ra chiến lược “Trả đũa ồ ạt”, thực hiện chính sách ngoại giao “bên miệng hố chiến

tranh”, đẩy mối mâu thuẫn Đông - Tây lên cao.

Quan hệ Nhật Bản - Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960 diễn ra gần như trọn vẹn

trong thời gian cầm quyền của Eisenhower, bởi thế Eisenhower có ảnh hưởng rất lớn

đến thực tiễn cũng như chiều hướng phát triển của mối quan hệ giữa hai bên. Eisenhower đã kế thừa và phát triển chính sách của Mỹ đối với Nhật Bản mà Tổng thống Truman đã thực hiện, chủ trương liên kết đồng minh chặt chẽ với Nhật Bản, lôi kéo nước này phục vụ cho lợi ích của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương.

Dưới sự chỉ đạo của Eisenhower, Mỹ đã ký với Nhật Bản một loạt hiệp định về an ninh, quốc phòng, hành chính, tài chính, thương mại, như Hiệp định Hàng hải và Thương mại, Hiệp định Hành chính, Hiệp ước bổ sung về sử dụng lãnh thổ, hiệp

định phòng thủ chung… Hiệp định hỗ trợ phòng thủ chung ký kết vào năm 1954

quy định hai bên sẽ giúp đỡ nhau chống lại CNCS, đồng thời mở rộng và cải tổ lực

62

lượng vũ trang của Nhật Bản [63, tr.93]. Đặc biệt, dưới thời Tổng thống D.

Eisenhower, hai nước ký Hiệp ước An ninh 1960, quy định kéo dài quan hệ đồng minh. Hiệp ước An ninh năm 1960 đánh dấu sự củng cố và phát triển quan hệ giữa

hai nước, đặt nền tảng cho quan hệ song phương tiếp tục phát triển trong giai đoạn

sau đó.

Tiểu kết chương 2

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình thế giới diễn biến hết sức phức

tạp. Quan hệ đồng minh Xô - Mỹ chống Chủ nghĩa phát xít trong thời gian chiến

tranh nhanh chóng tan vỡ và được thay thế bằng quan hệ thù địch. Trật tự hai cực hình thành, thế đối đầu giữa hệ thống XHCN do Liên Xô đứng đầu và TBCN do Mỹ

đứng đầu ngày càng sâu sắc. Trong bối cảnh đó, cuộc Chiến tranh lạnh mà Mỹ phát

động đã làm thế giới luôn ở trong trạng thái căng thẳng. Cả Mỹ và Liên Xô ra sức

lôi kéo đồng minh để thực hiện mục tiêu của mình. Đây là nhân tố đầu tiên tác động

làm thay đổi quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô nhanh chóng khắc phục hậu quả

chiến tranh, thực hiện chính sách phát triển kinh tế và đạt được nhiều thành tựu trên

mọi lĩnh vực. Liên Xô trở thành thành trì của cách mạng thế giới, giúp đỡ về vật

chất và tinh thần cho nhiều dân tộc trên thế giới đi theo con đường XHCN. CNXH

ra đời ở nhiều quốc gia Đông Âu và sau đó trở thành hệ thống thế giới. Trong khi

đó, tình hình ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương cũng diễn biến hết sức nhanh

chóng theo hướng bất lợi cho những tính toán của Mỹ. Sự ra đời của nước CHND

Trung Hoa đã làm cho “con bài” Tưởng Giới Thạch mà lâu nay Mỹ gửi gắm rất

nhiều kỳ vọng đã thất bại. Thêm vào đó, cuộc Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam đã có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của phong trào cách mạng

thế giới, thực sự đe doạ đến lợi ích của Mỹ, đặt “Chính sách ngăn chặn” của Mỹ đối

với CNCS ở châu Á - Thái Bình Dương trước nhiều nguy cơ. Điều đó đã tác động sâu sắc đến chính sách đối ngoại của Mỹ nói chung và quan hệ Mỹ - Nhật Bản nói riêng, góp phần quan trọng buộc Mỹ phải tìm mọi cách lôi kéo, thiết lập quan hệ đồng minh với Nhật Bản. Nhân tố này có tác động quan trọng để quan hệ đồng minh giữa hai nước ra đời sớm hơn.

Sự ra đời của nước CHND Trung Hoa, sự bùng nổ của cuộc Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam đã làm cho vị trí của Nhật Bản càng trở nên

quan trọng hơn bao giờ hết trong chính sách “ngăn chặn” của Mỹ. Bởi vậy, những

nhân tố đó đã tác động sâu sắc đến quan hệ Nhật Bản - Mỹ trong giai đoạn 1951 -

63

1960 trên tất cả các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực chính trị - an ninh và kinh tế, làm cho

quan hệ Nhật - Mỹ trở nên gắn bó hơn và không ngừng được tăng cường.

Một trong những nhân tố tác động đến quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản và Mỹ trong giai đoạn 1951 - 1960 là mối quan hệ lịch sử của hai nước được thiết lập trong quá khứ. Mối quan hệ đó vốn có nhiều thăng trầm, có lúc hợp tác, có lúc căng thẳng, thậm chí đối đầu trực tiếp. Từ năm 1945 đến năm 1951, Mỹ chiếm đóng Nhật Bản, hướng Nhật Bản theo quỹ đạo của mình. Do đó, quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế hai nước trong giai đoạn 1951 - 1960 có nhiều thuận lợi để phát triển.

Trong giai đoạn 1951 - 1960, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của Nhật Bản và Mỹ có những đặc trưng riêng, tác động đến quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế giữa hai nước. Hai nước luôn dành cho nhau vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của mình và thể hiện rõ nhu cầu thực hiện chính sách liên minh với nhau. Trong bối cảnh phức tạp của cuộc đối đầu giữa hai phe, Mỹ muốn biến Nhật Bản thành pháo đài chống cộng ở châu Á - Thái Bình Dương, phục vụ cho chính sách toàn cầu của mình. Trong khi đó, Nhật Bản không có nhiều lựa chọn về mặt đối ngoại đã nhất quán chính sách dựa vào Mỹ để đảm bảo an ninh cho mình.

Quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ trong giai đoạn

1951 - 1960 còn chịu ảnh hưởng của nhân tố cá nhân. Trong đó, nổi bật nhất là vai

trò của Thủ tướng Nhật Bản Yoshida Shigeru và Kishi Nobusuke, Tổng Mỹ H.

Truman và D. Eisenhower. Những nhân vật này đã đưa ra những chủ trương và

quyết sách có ảnh hưởng to lớn đến tình hình của mỗi nước và ảnh hưởng sâu sắc

đến quan hệ giữa Nhật Bản - Mỹ nói chung, quan hệ trên lĩnh vực chính trị - an ninh

và kinh tế nói riêng.

64

Chương 3

THỰC TRẠNG QUAN HỆ CHÍNH TRỊ - AN NINH, KINH TẾ GIỮA NHẬT BẢN VÀ MỸ TỪ NĂM 1951 ĐẾN NĂM 1960

3.1. Quan hệ chính trị - an ninh

3.1.1. Tiến trình phát triển của quan hệ chính trị - an ninh Nhật Bản - Mỹ

(1951 - 1960)

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chịu sự chi phối và lệ thuộc rất lớn vào Mỹ,

Nhật Bản đã coi Mỹ là một chỗ dựa quan trọng để thực hiện các mục tiêu chính trị

và kinh tế của mình. Học thuyết Yoshida lấy mối quan hệ an ninh Nhật Bản - Mỹ làm cơ sở đối ngoại là biểu hiện quyết tâm “cam chịu”. Nó rất thích hợp với “cái gọi

là chủ nghĩa hiện thực sau chiến tranh của Nhật Bản. Có nghĩa là, quan hệ an ninh

Nhật - Mỹ vừa xử lý các vấn đề vốn dĩ vận dụng trên quan điểm của nước lớn vừa

dự kiến khả năng tiến tới đường lối phi nước lớn trong các quan hệ đối nội và đối

ngoại của Nhật Bản” [3, tr. 112].

Đến năm 1949, tình hình thế giới, nhất là ở châu Á diễn biến rất phức tạp, đe

dọa đến quyền lợi nước Mỹ. Ngày 1/10/1949, nước CHND Trung Hoa thành lập,

chính thức thiết lập sự cầm quyền của Đảng Cộng sản, điều đó có nghĩa là chiến

lược của Mỹ ở Trung Quốc đã thất bại. Thêm vào đó, tình hình ở Triều Tiên cũng

căng thẳng, đối diện với một cuộc nội chiến. Đến năm 1950, cuộc Chiến tranh Triều

Tiên bùng nổ. Để thực hiện mục tiêu của mình, nước Mỹ cần có những chính sách

cụ thể hơn, thiết thực hơn. Mối quan hệ với Nhật Bản vì thế cũng chuyển biến

nhanh chóng.

Về phía Nhật Bản, trong thời kỳ bị quân đội Mỹ chiếm đóng, Nhật Bản bị động về chính sách đối nội, đối ngoại. Từ năm 1948, khi Mỹ thay đổi chính sách,

Nhật Bản vẫn không thể thoát được “cái ô” của Mỹ. Quan hệ song phương giữa hai

nước vì thế cũng phát triển theo hướng chịu sự kiểm soát của Mỹ. Lúc này, vị trí của Nhật Bản quan trọng hơn bao giờ hết trong chiến lược toàn cầu của Mỹ đang triển khai ở châu Á - Thái Bình Dương. Mỹ muốn biến Nhật Bản thành “pháo đài” chống CNCS, đồng thời bao vây Liên Xô và các nước XHCN.

Trước tình hình đó, Mỹ và Nhật Bản đã triển khai thiết lập quan hệ đồng minh. Một mặt, Mỹ muốn biến Nhật Bản thành đồng minh gần gũi, một khâu chủ chốt trong chiến lược toàn cầu của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương, mặt khác Mỹ vẫn muốn tiếp tục khống chế Nhật Bản cả về chính trị, kinh tế và quân sự giống như đối với các nước đồng minh khác. Để đạt được mục tiêu đó, trước hết, Mỹ phải tiến

65

hành ký hoà ước với Nhật Bản. Tuy nhiên, Mỹ tìm mọi cách né tránh việc ký hoà ước với Nhật Bản trong khuôn khổ của Hội nghị Ngoại trưởng Tứ Cường vì sợ vấp phải sự phản đối của Liên Xô. Mỹ chủ trương giải quyết vấn đề này trong khuôn khổ của Uỷ ban Viễn Đông. Ngày 1/6/1950, Chính phủ Nhật tuyên bố tán thành ký một hòa ước riêng rẽ, phục hồi “tự do, bình đẳng” cho nước Nhật và mong muốn được bảo vệ chống lại cuộc tiến công có thể xảy ra của Liên Xô hoặc một cuộc nổi dậy của đảng cộng sản ở trong nước.

Ngày 4/9/1950, Tổng thống H. Truman công khai tuyên bố ý định tiến hành đàm phán đi đến ký kết hiệp ước hoà bình với Nhật Bản và các nước thành viên Uỷ ban Viễn Đông. Cùng ngày, Bộ Ngoại giao Mỹ gửi bản dự thảo hoà ước (do Mỹ đơn phương soạn thảo trước đó) đến các nước có liên quan để “tham khảo ý kiến”. Trong dự thảo này không có nội dung nói về nguyên tắc phi quân phiệt hoá cũng như dân chủ hóa Nhật Bản cùng những nguyên tắc quan trọng khác vốn đã được ghi trong Tuyên ngôn Cai rô năm 1943 và Hội nghị Yalta năm 1945.

Các cuộc đàm phán với các nước thuộc Uỷ ban Viễn Đông bắt đầu từ tháng 9/1950 đến tháng 3/1951 tại New York và Washington. Liên Xô và Ấn Độ phản đối Mỹ chủ trương tái vũ trang và thiết lập căn cứ quân sự trên đất Nhật Bản. Trong khi đó, các nước Australia, Miến Điện, New Zealand, Philippines nghi ngại về việc thiếu những điều khoản quy định hạn chế quân sự đối với Nhật Bản. Ngoại trưởng hai nước Australia và New Zealand đều cho rằng, nếu hiệp định không bao gồm những điều khoản hạn chế tái vũ trang của Nhật Bản thì cần có sự đảm bảo chắc chắn của Mỹ (bằng việc kí hiệp ước Thái Bình Dương) nhằm chống lại những hành động xâm lược của Nhật Bản. Như vậy, dự thảo mà Mỹ nêu ra vừa gặp những ý kiến phản đối, vừa có những ý kiến đồng ý nhưng cần kèm theo điều kiện.

Bất chấp sự phản đối của nhiều nước, Chính phủ Mỹ vẫn công khai tuyên bố rằng việc ký hòa ước với Nhật Bản không chỉ đơn thuần là vấn để thủ tiêu tình trạng chiến tranh với Nhật Bản, mà trước hết là nhằm “thiết lập một pháo đài hùng mạnh chống lại nguy cơ xâm lược của CNCS” [65, tr. 248]. Mỹ, Anh và các đồng minh không quan tâm đến những ý kiến phản đối, vẫn tăng cường thúc đẩy quá trình ký hòa ước.

John Foster Dulles lúc đó là Đặc phái viên, Cố vấn cho Ngoại trưởng Mỹ, Trưởng đoàn đàm phán với Nhật Bản, cũng là người đảm nhiệm việc chuẩn bị dự thảo hòa ước tin rằng, nếu ông ta thuyết phục được Nhật Bản đồng ý với các điều khoản hoà bình do Mỹ đưa ra, đặc biệt là vấn đề an ninh thì các quốc gia khác (trừ Liên Xô và CHND Trung Hoa) sẽ làm theo.

66

Từ ngày 29/1 đến ngày 7/2/1951, J. Dulles đã tiến hành nhiều cuộc thảo luận

với Thủ tướng Nhật Bản Yoshida Shigeru. Cuối cùng hai bên đã đạt nhiều thoả thuận nhưng chủ yếu cũng dựa trên những điều khoản do Mỹ đã chuẩn bị trước. Theo đó,

Mỹ và Nhật Bản sẽ ký ba thoả thuận có liên quan đến vấn đề an ninh và tái vũ trang.

Trong đó, hiệp ước hoà bình chỉ đề cập hết sức vắn tắt đến vấn đề an ninh và tuyên bố về quyền tự phòng vệ tập thể vốn có của Nhật Bản theo quy định của Hiến chương

Liên hợp quốc. Toàn bộ phần nội dung còn lại quy định chủ quyền đầy đủ của người

dân Nhật Bản và các đại diện do họ bầu ra trên lãnh thổ Nhật Bản. Chủ quyền đó

không bị giới hạn bởi bất cứ điều khoản nào mà phần lớn kẻ thù cũ của Nhật Bản muốn áp đặt trong hòa ước. Nhật Bản cũng không bị bắt buộc phải trả các khoản bồi

thường chiến tranh và được quyền tự do thương mại.

Hội nghị San Francisco diễn ra từ ngày 4 đến 8/9/1951 với sự tham dự của

đại biểu 52 nước. Một số nước như Ấn Độ, Miến Điện, Nam Tư do chọn đường lối

trung lập nên không đến dự. Các nước CHND Trung Hoa, Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa và CHDCND Triều Tiên là những nước chịu nhiều tai họa nhất của cuộc xâm

lược và đã góp phần quan trọng vào chiến thắng Chủ nghĩa quân phiệt Nhật lại

không được mời tham dự, trong khi đó lại có đến 20 nước Mỹ Latinh được mời

tham dự Hội nghị [12, tr. 121].

Ý đồ của Mỹ là muốn đại biểu các nước đến dự Hội nghị hoà bình chỉ để

thông qua và ký vào dự thảo do Mỹ soạn sẵn, không cần thảo luận thêm và cho rằng

đại biểu Liên Xô và các nước XHCN khác sẽ tẩy chay không đến. Trái với tính toán

đó, đại biểu Liên Xô đã tham gia Hội nghị San Francisco để tố cáo tính chất không

công bằng và thái độ vô trách nhiệm của Chính phủ Mỹ. Tại hội nghị, Đoàn đại biểu Liên Xô do Bộ trưởng Ngoại giao A.A Grômưcô dẫn đầu, đã kịch liệt phê phán dự

thảo hòa ước của Mỹ. Liên Xô cho rằng dự thảo đó đang thúc đẩy Nhật Bản vào con

đường tái vũ trang, tham gia liên minh quân sự với Mỹ. Liên Xô đề nghị giải quyết các vấn đề lãnh thổ trên cơ sở những hiệp ước quốc tế; hạn chế thiết lập các lực lượng vũ trang và sản xuất thiết bị phương tiện chiến tranh trong phạm vi và nhu cầu quốc phòng của Nhật Bản; phát triển kinh tế phục vụ hoà bình; Nhật Bản không được tham gia các liên minh quân sự nhằm chống lại bất kỳ một nước nào tham chiến chống Nhật trước đây; nước ngoài rút tất cả các lực lượng chiếm đóng và huỷ bỏ các căn cứ quân sự ở Nhật Bản. Phía Liên Xô đề nghị thảo luận các điều khoản

và đề nghị bổ sung điều khoản do Liên Xô đưa ra. Nhưng yêu cầu này đã bị Chủ

tịch hội nghị là Ngoại trưởng Mỹ Dean Acheson bác bỏ với lý do: những đề nghị

67

này đã vượt ra ngoài khuôn khổ của trình tự và thể thức làm việc của hội nghị và

không có trong chương trình nghị sự của hội nghị. Ngoài Liên Xô, đại biểu của Na Uy, Ai Cập, Indonesia, Syria, Arab Saudi và một số đại biểu khác cũng phê phán

nhiều điểm trong dự thảo hoà ước. Đại biểu các nước này nêu rõ “vấn đề đất đai đã

không được giải quyết công bằng và chủ quyền của Nhật bị xúc phạm” [12, tr.121]. Nhưng tất cả những đề nghị đó đã bị đa số các nước tham gia hội nghị dưới sự

khống chế của Mỹ bác bỏ.

Cuối cùng, ngày 8/9/1951, Hiệp ước Hoà bình San Francisco với Nhật Bản

(còn được gọi là Hoà ước San Francisco hay Hiệp ước San Francisco) được hội nghị thông qua. 49/52 quốc gia tham dự hội nghị đã ký vào hiệp ước. Ba nước Liên Xô,

Tiệp Khắc và Ba Lan không ký hiệp định này vì những đề nghị của mình không

được đáp ứng.

Hiệp ước Hoà bình San Francisco bao gồm 27 điều khoản được trình bày

trong 7 chương: Chương 1: Hoà bình (Điều 1); Chương 2: Lãnh thổ (Điều 2 đến

Điều 4); Chương 3: An ninh (Điều 5 đến Điều 6); Chương 4: Các điều khoản về

chính trị và kinh tế (Điều 7 đến Điều 13); Chương 5: Yêu cầu và sở hữu (Điều 14

đến Điều 21); Chương 6: Giải quyết tranh chấp (Điều 22); Chương 7: Điều khoản

cuối cùng (Điều 23 đến Điều 27) [168], [183].

Điểm a, Điều 1 Hiệp ước quy định: “Tình trạng chiến tranh giữa Nhật Bản và

các nước Đồng minh chấm dứt kể từ ngày Hiệp ước này có hiệu lực như quy định tại Điều 23”1; Điểm b quy định: “Các cường quốc Đồng minh công nhận chủ quyền đầy đủ của nhân dân Nhật Bản và các vùng lãnh hải của nước này” [168], [183].

Theo Hiệp ước này, tình trạng chiến tranh giữa Nhật Bản với một số nước như Liên Xô, CHND Trung Hoa và một số nước khác vẫn chưa chấm dứt về mặt

pháp lý. Chương 2, Điều 2 của Hiệp ước quy định:

“(a) Nhật Bản công nhận nền độc lập của Hàn Quốc, từ bỏ mọi quyền, danh

nghĩa và yêu sách đối với Hàn Quốc...

1 Điều 23 Hiệp ước quy định: (a): Hiệp ước này sẽ được phê chuẩn bởi các quốc gia ký kết, bao gồm cả Nhật Bản, và sẽ có hiệu lực đối với tất cả các quốc gia đã phê chuẩn…; (b) Nếu Hiệp ước không có hiệu lực trong vòng chín tháng kể từ ngày Nhật Bản phê chuẩn, thì bất kỳ quốc gia nào đã phê chuẩn có thể gửi thông báo về hiệu lực đó gửi cho Chính phủ của Nhật Bản và Mỹ, không muộn hơn ba năm kể từ ngày Nhật Bản phê chuẩn.

(b) Nhật Bản từ bỏ mọi quyền và yêu sách ở Đài Loan và quần đảo Bành Hồ. (c) Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và yêu sách đối với quần đảo Kurile, cũng như đối với các phần lãnh thổ thuộc đảo Sakhalin và các đảo tiếp giáp mà Nhật Bản đã giành được theo quy định của Hiệp ước Portsmouth ngày 5/9/1905.

68

(d) Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh hiệu, tước vị và yêu sách đối với các

vùng lãnh thổ uỷ trị theo quyết định của Hội Quốc liên và công nhận của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc ngày 02/04/1947 về việc mở rộng hệ thống uỷ thác cho các

quần đảo Thái Bình Dương trước đây thuộc quyền uỷ trị của Nhật Bản.

(e) Nhật Bản từ bỏ mọi yêu sách đối với bất kỳ quyền, danh nghĩa hoặc lợi ích nào liên quan đến khu vực Nam Cực, cho dù xuất phát từ các hoạt động của

công dân Nhật Bản hay cách khác...” [168], [183].

Có thể thấy, về lãnh thổ, Hiệp ước tuy nhắc đến những đảo thuộc Nga trước

đây nhưng không chỉ ra rằng phần phía Nam đảo Sakhalin và các đảo Kurile được trả về cho Liên Xô như đã quy định bởi các hiệp ước trước đây tại Yalta. Hiệp ước

cũng không nhắc đến quan hệ giữa Nhật Bản với CHND Trung Hoa. Vì vậy, trên

phương diện pháp lý, hoà bình vẫn chưa hoàn toàn được khôi phục; quan hệ giữa

Nhật Bản và các nước châu Á khác vẫn chưa được giải quyết; các vấn đề về lãnh

thổ cũng không được xác định rõ ràng.

Với lý do quyền tự vệ của Nhật Bản, Hiệp ước đã quy định về sự tham gia

của quốc gia này vào một liên minh quân sự nào đó. Điều này là sự chuẩn bị để

Nhật Bản có thể tham gia hợp pháp vào các liên minh quân sự của Mỹ. Như vậy, kể

từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, lần đầu tiên Nhật Bản được cộng đồng quốc tế

công nhận độc lập, chủ quyền và có quyền ký kết liên minh quân sự với nước ngoài.

Mặt khác, Hiệp ước không chứa đựng bất kì một quy định nào về dân chủ hoá

Nhật Bản và đảm bảo quyền dân chủ cho nhân dân Nhật Bản. Điều này khá giống với

chính sách dung dưỡng của Mỹ và các nước tư bản châu Âu đối với Đức vào những

năm 30 để rồi hình thành chủ nghĩa phát xít, đưa đến những hậu quả khủng khiếp cho loài người.

Với Hiệp ước Hoà bình San Francisco, Nhật Bản thật sự đã có những cơ hội

mới. Trước hết, cơ hội để tái vũ trang và tái lập chủ nghĩa quân phiệt. Hiệp ước không có bất kỳ một điều khoản nào quy định việc Nhật Bản không được tái vũ trang đất nước, cũng không có một điều khoản nào quy định đảm bảo an ninh cho các quốc gia, vùng lãnh thổ đã từng bị Nhật Bản xâm chiếm. Ngược lại, Nhật Bản còn được Mỹ và các nước đồng minh tạo điều kiện tối đa để tái vũ trang và tái thiết lập chủ nghĩa quân phiệt, tạo ra mối nguy hiểm mới ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Về phía Mỹ, Mỹ chính là nước được lợi nhiều nhất trong Hiệp ước Hoà bình

San Francisco. Với Hiệp ước này, Mỹ có quyền đóng quân trên lãnh thổ Nhật Bản,

sử dụng Nhật Bản như một căn cứ quân sự, căn cứ địa của Mỹ ở châu Á. Đồng thời

69

biến Nhật Bản thành đồng minh, thành “pháo đài” ở Viễn Đông để ngăn chặn làn

sóng CNCS đang “lan tràn” ở châu Á. Mỹ cũng có những đặc quyền về kinh tế ở Nhật Bản, bởi trong suốt thời gian chiếm đóng, kinh tế Nhật Bản đã phụ thuộc vào

các công ty độc quyền Mỹ.

Trong khi đó, những “cơ hội” mà Nhật Bản nhận được rất rõ ràng, đó là cơ hội trở thành đồng minh của Mỹ, cho phép Mỹ sử dụng lãnh thổ để đảm bảo cho sự

an toàn của mình, đồng thời để thực hiện mục tiêu ngăn chặn CNCS. Cũng nhờ

Hiệp ước này mà Nhật Bản có điều kiện để “thay da đổi thịt”, có những chuyển biến

nhanh chóng về kinh tế - xã hội. Thực tế ngay sau đó thì Nhật Bản bước vào thời kỳ phát triển “thần kỳ” về mặt kinh tế.

Phát biểu tại Hội nghị ngày 7/9/1951, Thủ tướng Nhật Bản Yoshida Shigeru cho

rằng: Hiệp ước này “không phải là hiệp ước báo thù, mà là một công cụ hòa giải. Phái

đoàn Nhật Bản vui vẻ chấp nhận hiệp ước công bằng và hào phóng này”; “…Tôi hy

vọng Hiệp ước hòa bình sẽ được ký kết bởi càng nhiều quốc gia có đại diện tại Hội

nghị này càng tốt. Nhật Bản quyết tâm thiết lập với họ các mối quan hệ tin cậy và hiểu

biết lẫn nhau, hợp tác cùng nhau vì sự tiến bộ và tự do của thế giới” [149].

Đối với cả Nhật Bản và Mỹ, Hiệp ước Hoà bình San Francisco là hiệp ước

mà hai bên cùng có lợi. J. Dulles cho rằng đó là “một nền hoà bình thân thiện và

hào phóng” [100, tr. 113], với ngụ ý rằng, so với những gì mà Nhật Bản đã gây ra

cho thế giới thì kết cục này rất có lợi cho Nhật Bản. Tuy nhiên, đối với các nước là

đối thủ của Mỹ hoặc là một số nước đã bị Nhật Bản từng xâm chiếm trước đây, hiệp

ước này không mang lại lợi ích gì. Nó thực sự đã bỏ qua những tuyên bố hợp pháp

của các quốc gia đã bị Nhật Bản xâm chiếm về việc bồi thường thiệt hại mà họ đã phải gánh chịu. Nó cũng không tuyên bố về việc chấm dứt tình trạng chiến tranh với

một số nước. Các nước XHCN như Liên Xô, CHND Trung Hoa phải chịu những

thiệt thòi do hiệp ước mang lại. Nó đã vi phạm đến quyền lợi chính đáng của CHND Trung Hoa, một số vùng lãnh thổ vốn không thể tách rời như Đài Loan, Hồng Kông,… đã bị cắt đứt khỏi quốc gia này. Các quần đảo Sakhalin và Kuril cũng không được chuyển giao lại cho Liên Xô theo quy định tại Yalta. Những điều này trái với những thoả thuận quốc tế, vi phạm nghiêm trọng đến các quyết định của các nước Đồng minh đã đạt được tại Yalta và Potsdam.

Hiệp ước Hoà bình San Francisco mà Mỹ và các nước ký với Nhật Bản đã

mở đầu cho “Hệ thống Hiệp ước San Francisco”. Hiệp ước này là cơ sở pháp lý để

Mỹ ký kết các hiệp ước song phương tiếp theo với Nhật Bản và biến nước này

70

thành một đồng minh quân sự quan trọng của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương.

Cũng bởi vậy, Hiệp ước Hoà bình San Francisco đã mở đầu cho mối quan hệ mật thiết về chính trị - an ninh giữa Nhật Bản và Mỹ.

Ngay sau khi Hiệp ước Hoà bình San Francisco được ký kết, Mỹ đã có cơ sở

pháp lý để ký các hiệp định song phương với Nhật Bản. Chỉ 5 giờ sau khi ký Hiệp ước Hoà bình San Francisco, cũng trong ngày 8/9/1951, Ngoại trưởng Mỹ M.

Acheson và Thủ tướng Nhật Bản Yoshida đã ký một hiệp ước quan trọng, đó là

Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ.

Lời nói đầu của của Hiệp ước nêu rõ: “Vào ngày này, Nhật Bản đã ký Hiệp ước Hòa bình với các nước Đồng minh. Khi Hiệp ước đó có hiệu lực, Nhật Bản sẽ

không có phương tiện hữu hiệu để thực hiện quyền tự vệ vốn có của nó vì đã bị giải

giáp… Nhật Bản mong muốn một hiệp ước an ninh với Mỹ có hiệu lực đồng thời với

Hiệp ước hòa bình. Hiệp ước Hòa bình công nhận rằng Nhật Bản với tư cách là

một quốc gia có chủ quyền có quyền tham gia vào các thỏa thuận an ninh tập thể,

và xa hơn nữa, Hiến chương Liên hợp quốc công nhận rằng tất cả các quốc gia đều

có quyền tự vệ cá nhân và tập thể vốn có” [157], [184].

Ngoài Lời nói đầu, Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ có 5 điều. Nội dung cơ bản

từ Điều I đến Điều III chủ yếu nói về sự đồng ý của Nhật Bản đối với quyền đóng

quân của Mỹ; việc bố trí lực lượng vũ trang của Mỹ tại Nhật Bản sẽ được xác định

bằng hiệp định hành chính giữa hai chính phủ.

Điều IV Hiệp ước quy định: “Hiệp ước này sẽ hết hạn bất cứ khi nào theo ý

kiến của Chính phủ Mỹ và Nhật Bản, hoặc khi Liên hợp quốc có những biện pháp thay

thế cho an ninh cá nhân và tập thể đảm bảo cho hoà bình và an ninh ở Nhật Bản”. Điều V quy định: “Hiệp ước này sẽ được Mỹ và Nhật Bản phê chuẩn và sẽ có hiệu lực

khi các văn kiện phê chuẩn được hai bên trao đổi tại Washington” [157], [184].

Tại Lễ ký Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ ngày 8/9/1951, Ngoại trưởng Mỹ D. Acheson phát biểu rằng: “Không được hiểu nhầm về mục đích của Hiệp ước này. Mục đích của nó là hòa bình”; “Hiệp ước này thể hiện sự tin cậy lẫn nhau ngày càng tăng giữa Nhật Bản và Mỹ trong 6 năm qua. Vào thời điểm này, người dân Nhật Bản có lý do để yên tâm về mục đích của Mỹ. Và đến lượt chúng tôi, chúng tôi tin chắc rằng người dân Nhật Bản không muốn có chủ nghĩa quân phiệt cũ nữa, mà chân thành mong muốn hòa bình thực sự” [150].

Hiệp ước Hoà bình San Francisco và Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ vấp phải ý

kiến trái chiều ở Nhật Bản. Nó bị nhiều đảng phái chính trị phản đối. Tuy nhiên, ngày

71

26/10/1951, Quốc hội Nhật Bản đã phê chuẩn hai hiệp ước nói trên. Hiệp ước Hoà bình

San Francisco nhận được 307 phiếu thuận, 47 phiếu chống; Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ nhận được 289 phiếu thuận, 71 phiếu chống [66, tr. 244]. Ngày 19/01/1952,

Thượng viện Mỹ cũng thông qua Hiệp ước Hoà bình với số phiếu thuận là 66, số phiếu

chống là 10 và Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ với số phiếu thuận cao. Như vậy, sau khi ký kết không lâu, hai hiệp ước đã được Quốc hội Nhật Bản và Mỹ thông qua.

Theo quy định tại Điều III của Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ, ngày 28/2/1952,

tại Tokyo, Nhật Bản ký với Mỹ Hiệp định Hành chính (Administrative agreement).

Lời nói đầu của Hiệp định ghi rõ: “Ngày 08/09/1951, Nhật Bản và Mỹ đã ký kết Hiệp ước An ninh quy định việc triển khai các lực lượng hải, lục, không quân

của Mỹ ở Nhật Bản và khu vực xung quanh Nhật Bản.

Và trong Điều III của Hiệp ước đó quy định rằng các điều kiện chi phối việc

bố trí các lực lượng vũ trang của Mỹ tại Nhật Bản sẽ được xác định bởi các Hiệp

định Hành chính giữa hai chính phủ.

Mỹ và Nhật Bản mong muốn hoàn tất các thỏa thuận hành chính sẽ có hiệu

lực đối với các nghĩa vụ tương ứng của họ theo Hiệp ước An ninh; sẽ tăng cường và

coi trọng mối quan hệ gắn bó giữa hai bên...” [102].

Hiệp định Hành chính gồm 29 điều, chỉ cần ký kết bởi đại diện của chính

phủ hai nước, không cần có sự thông qua của quốc hội. Mặc dù mang tên là Hiệp

định “hành chính”, nhưng thực chất hiệp định này cụ thể hoá vấn đề điều chỉnh việc

đóng quân của lực lượng quân sự Mỹ trên đất Nhật Bản và xung quanh Nhật Bản.

Hiệp định Hành chính cùng với Hiệp ước Hoà bình và Hiệp ước An ninh đã

tạo ra “hệ thống Hiệp ước San Francisco”, có hiệu lực từ 28/04/1952. Quan hệ Nhật Bản - Mỹ từ đây không còn là quan hệ của một nước bại trận bị chiếm đóng với một

nước Đồng minh thắng trận chiếm đóng nữa, mà là quan hệ đồng minh.

Ngoài những hiệp ước nói trên, trong giai đoạn 1951 - 1960, Nhật Bản và Mỹ còn ký nhiều hiệp ước khác liên quan đến các lĩnh vực khác. Như Hiệp ước bổ sung về sử dụng lãnh thổ, ký ngày 26/7/1952; Hiệp định hợp tác, buôn bán và hàng hải, ký ngày 2/4/1953; Hiệp định hỗ trợ phòng thủ lẫn nhau, ký ngày 8/3/1954…

Sau khi thiết lập quan hệ đồng minh, Nhật Bản và Mỹ không ngừng củng cố và phát triển, thắt chặt quan hệ song phương. Người Mỹ cho rằng quan hệ liên minh Nhật Bản và Mỹ giai đoạn này là “bất khả xâm phạm”. Cựu Đại sứ Mỹ tại Nhật Bản từng nhận xét về mối liên minh này là “mối quan hệ quan trọng nhất trên thế giới” [131, tr.1]. Ngoại trưởng Mỹ J. Dulles cũng tin rằng đã xây dựng được một liên

72

minh công bằng giữa Mỹ và Nhật Bản, với sự coi trọng chiều hướng phát triển kinh tế là yếu tố quan trọng để tránh sự trỗi dậy của Chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản [131, tr. 2]. Tuy nhiên, không khó để nhận ra rằng, mối quan hệ này mang tính chất của sự kèm cặp, hạn chế cạnh tranh, nhưng để cả hai cùng phát triển.

Để củng cố quan hệ đồng minh, các nhà lãnh đạo hai nước đã thúc đẩy các hoạt động ngoại giao cấp cao. Chính vì vậy, quan hệ giữa hai nước về mặt chính trị ngày càng khăng khít.

Đầu tháng 11/1954, Thủ tướng Nhật Bản Yoshida thăm Mỹ và tiến hành hội đàm với Tổng thống D. Eisenhower. Hai bên tái khẳng định tinh thần hợp tác hữu nghị là đặc trưng cho mối quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ.

Ngoài việc hội đàm với Tổng thống D. Eisenhower, Thủ tướng Nhật Bản đã có các cuộc gặp với Ngoại trưởng J. Dulles, Bộ trưởng Tài chính George Magoffin Humphrey, Bộ trưởng Quốc phòng Charles Erwin Wilson và một số nhân vật quan trọng khác trong Chính phủ Mỹ.

Ngày 10/11/1954, tại Washington, Thủ tướng Nhật Bản Yoshida và Tổng thống Mỹ D. Eisenhower ra Tuyên bố chung. Tuyên bố khẳng định: “Thủ tướng và Tổng thống nhất trí rằng sự đoàn kết và quyết tâm của các dân tộc tự do đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp hòa bình thế giới. Họ tuyên bố rằng hai chính phủ sẽ hợp tác với các quốc gia tự do ở châu Á tiếp tục nỗ lực đoàn kết để duy trì và thúc đẩy hòa bình và thịnh vượng của châu Á. Thủ tướng tái khẳng định quyết tâm đóng góp của Chính phủ Nhật Bản vào những nỗ lực này và đặc biệt nhấn mạnh mong muốn của Nhật Bản hợp tác ở mọi nơi có thể, nhằm phát triển sức mạnh kinh tế của các quốc gia tự do ở châu Á” [127]. Tổng thống Mỹ và Thủ tướng Nhật Bản tuyên bố: “Mục tiêu của chính phủ hai nước là hòa bình, hai nước mong muốn hòa bình và tự do…” [127].

Tháng 6/1957, Thủ tướng Nhật Bản Kishi Nobusuke thăm Mỹ. Trong chuyến thăm này, ngoài việc hội đàm với Tổng thống Mỹ D. Eisenhower, Thủ tướng Kishi và đoàn đã gặp gỡ với các quan chức cấp cao Mỹ như Ngoại trưởng, Bộ trưởng Tài chính, Bộ trưởng Thương mại, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ, Chủ tịch Ngân hàng Xuất nhập khẩu và nhiều nhà lãnh đạo của Thượng viện Mỹ. Sau khi rời Washington, Thủ tướng Kishi còn thăm các vùng khác của Mỹ và gặp gỡ lãnh đạo các doanh nghiệp và tổ chức tư nhân khác.

Trong cuộc hội đàm giữa Tổng thống Mỹ D. Eisenhower và Thủ tướng Nhật Bản Kishi Nobusuke, hai bên đã thảo luận nhiều vấn đề quan trọng mà cả hai nước cùng quan tâm. Trong đó, tập trung vào quan hệ Mỹ - Nhật Bản và các chủ đề quốc tế, đặc biệt là tình hình ở châu Á.

73

Hai nhà lãnh đạo cũng đã thảo luận về Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ ký năm

1951 và cho rằng Hiệp ước An ninh năm 1951 mang tính chất chuyển tiếp chứ không phải tồn tại vĩnh viễn. Eisenhower và Kishi đồng ý thành lập một ủy ban liên chính

phủ để nghiên cứu các vấn đề nảy sinh liên quan đến hiệp ước. Uỷ ban đó sẽ tham

vấn những vấn đề liên quan đến việc bố trí và sử dụng lực lượng của Mỹ tại Nhật Bản. Đồng thời cũng sẽ xem xét những điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ

trong các lĩnh vực để đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của nhân dân hai nước.

Ngày 21/6/1957, Thủ tướng Nhật Bản Kishi Nobusuke và Tổng thống Mỹ D.

Eisenhower ra Tuyên bố chung. Tuyên bố nhấn mạnh: “Lãnh đạo hai nước nhất trí

rằng, mặc dù nguy cơ chiến tranh đã giảm bớt phần nào, nhưng CNCS quốc tế vẫn

là một mối đe dọa lớn. Theo đó, họ nhất trí rằng các quốc gia tự do cần tiếp tục giữ gìn sức mạnh và sự thống nhất của họ. Các bên đều công nhận rằng sức mạnh răn

đe của thế giới tự do trong những năm gần đây đã có hiệu quả trong việc ngăn chặn

các hành động xâm lược công khai ở Viễn Đông và thế giới”. “Thủ tướng và Tổng thống tin tưởng rằng, quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ đang bước vào kỷ nguyên mới

dựa trên lợi ích chung và sự tin cậy” [128].

Chuyến thăm Mỹ của Thủ tướng Kishi là hoạt động rất cần thiết trong hoàn

cảnh Nhật Bản lúc đó. Bởi vì, phong trào chống Mỹ ở Nhật Bản phát triển mạnh.

Đông đảo nhân dân và các lực lượng chính trị đối lập ở Nhật Bản đấu tranh phản

đối Hiệp ước An ninh năm 1951, chống lại việc đóng quân Mỹ ở Nhật Bản… Do

đó, cuộc viếng thăm này là dịp hai nước nhìn nhận lại quan hệ trong thời gian đã

qua và bàn cách đối phó. Hai nhà lãnh đạo hai nước tin tưởng rằng việc thảo luận

của họ sẽ “góp phần quan trọng vào việc tăng cường hiểu biết lẫn nhau và thống

nhất những lợi ích cơ bản, góp phần củng cố hơn nữa quan hệ hữu nghị giữa hai

nước trong những năm tới” [128].

Một trong những nét nổi bật trong quan hệ chính trị - an ninh giữa Nhật Bản và Mỹ trong giai đoạn này chính là việc hai nước tăng cường hợp tác để thực hiện mục tiêu của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương. Đây là một biểu hiện tất yếu của quan hệ đồng minh trong bối cảnh cuộc Chiến tranh lạnh đang leo thang. Trong đó, Nhật Bản trở thành một vị trí chiến lược của Mỹ trong chính sách của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương.

Trong suốt những năm 50 của thế kỷ XX, thế đối đầu Mỹ - Xô không những không thay đổi mà còn gia tăng căng thẳng. Tuy nhiên, cả hai bên đều sợ bùng nổ chiến tranh thế giới lần nữa nên không can thiệp công khai vào phạm vi thế lực của

74

nhau mà ra sức củng cố đồng minh của mình. Trong tình hình chung đó, “vị trí của Nhật Bản với tư cách là một nước đồng minh của Mỹ cũng trở nên thiếu tính mềm dẻo” [41, tr.230]. Có nghĩa là Mỹ đã gắn chặt Nhật Bản trong những tính toán lợi ích của mình, Nhật Bản phải tham gia vào mặt trận chống cộng sản. Chính vì vậy, tuy nói rằng Nhật Bản từ khi ký Hiệp ước San Francisco và Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ đã được giải phóng khỏi sự chiếm đóng nhưng thực chất vẫn dưới sự chi phối của Mỹ. Và dù muốn hay không, sau một thời gian, Nhật Bản cũng đã trở lại vũ đài quốc tế với tư cách là một nước thuộc một phe trong Chiến tranh lạnh.

Mỹ muốn biến Nhật Bản thành pháo đài chống cộng sản ở châu Á - Thái Bình Dương bởi đây là thời điểm Liên Xô cũng có những đối sách mạnh mẽ, làm cho cuộc đối đầu Đông - Tây ngày thêm căng thẳng. Một tuần sau khi kế nhiệm Dean Acheson làm Ngoại trưởng Mỹ, phát biểu trên Đài truyền hình Mỹ ngày 27/1/1953, John Foster Dulles đã bàn về một số vấn đề cấp bách về chính sách đối ngoại. Khi nói về Đông Á, J. Dulles nhận xét: “Liên Xô đang tìm kiếm Nhật Bản, không chỉ thông qua những gì họ đang làm ở các khu vực phía bắc quần đảo và ở Triều Tiên mà còn thông qua những gì họ đang làm ở Đông Dương. Nếu họ có được bán đảo Đông Dương, Thái Lan, Miến Điện, Mã Lai thì họ sẽ có cái gọi là “vựa lúa của châu Á”. Đó là khu vực mà các dân tộc lớn ở châu Á như Nhật Bản và Ấn Độ cũng cần một lượng lớn lương thực của họ. Nếu Liên Xô nắm quyền kiểm soát “vựa lúa của châu Á” sẽ là một vũ khí khác để mở rộng quyền kiểm soát của họ sang Nhật Bản và Ấn Độ. Đó là một mối nguy hiểm ngày càng tăng” [143, tr.296]. Do đó, Nhật Bản phải có trách nhiệm cùng Mỹ chống lại chính sách của Liên Xô tại châu Á - Thái Bình Dương.

Bên cạnh Liên Xô, CHND Trung Hoa cũng trở thành đối trọng của Mỹ ở khu vực này. Tình hình căng thẳng giữa CHND Trung Hoa và chính quyền Quốc dân đảng ở Đài Loan buộc Mỹ phải có tính toán lâu dài đối với Tưởng Giới Thạch. Tổng thống Mỹ D. Eisenhower tìm mọi cách để ngăn chặn các nỗ lực của CHND Trung Hoa nhằm giải phóng Đài Loan. Ngày 29/1/1955, Quốc hội Mỹ thông qua “Nghị quyết Đài Loan 1955”, trao quyền cho Tổng thống Mỹ có thể sử dụng vũ lực bảo vệ Đài Loan. Đây “thực chất là một tấm séc trống để sử dụng vũ lực chống lại CHND Trung Hoa, bao gồm cả vũ khí hạt nhân chiến thuật” [105, tr. 98]. Tháng 3/1955, Hiệp ước Phòng thủ chung Mỹ - Trung (Đài Loan) có hiệu lực, Ngoại trưởng Mỹ J. Dulles đến Đài Loan cùng chính quyền Đài Loan trao đổi văn kiện phê chuẩn, đồng thời gặp gỡ Tưởng Giới Thạch để thảo luận vấn đề phối hợp phòng thủ giữa hai bên.

75

Trong giai đoạn 1951 - 1960, dưới tác động của Mỹ, Nhật Bản đã mở rộng

chính sách đối ngoại. Tuy nhiên, điều này cũng nằm trong sự kiểm soát của Mỹ.

Chính vì thế, địa vị quốc tế của Nhật Bản được cải thiện nhanh chóng. Trước hết là

ưu tiên thiết lập quan hệ của Nhật Bản với các nước đồng minh với Mỹ. Năm 1952,

Ngoại trưởng Mỹ J. Dulles đã gửi thư cho Thủ tướng Nhật Bản Yoshida về việc

thiết lập quan hệ hệ ngoại giao với Đài Loan. Mùa xuân năm 1952, Tokyo và Đài

Bắc ký Hiệp ước hòa bình và thiết lập quan hệ ngoại giao và thương mại [143, tr.

294]. Theo những thoả thuận của Nhật Bản và Mỹ trong Hiệp ước An ninh năm

1951, Mỹ cũng không cản trở việc Nhật Bản khôi phục quan hệ ngoại giao với Liên

Xô và Trung Quốc [100, tr. 114]. Đó chính là cơ sở rất quan trọng để đến năm 1956

Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô và một số nước XHCN. Ngoài

ra, Nhật Bản cũng đạt được nhiều bước tiến trong quan hệ với CHND Trung Hoa và

chính thức tham gia vào Liên hợp quốc năm 1957.

Để thắt chặt quan hệ đồng minh, tháng 1/1960, phái đoàn cấp cao của Chính

phủ Nhật Bản do Thủ tướng Kishi Nobusuke dẫn đầu sang thăm Mỹ. Chuyến thăm

này diễn ra trong bối cảnh quốc tế có những thay đổi, tình hình Nhật Bản cũng xuất

hiện nhiều vấn đề cần quan tâm, nhất là phong trào phản đối Mỹ của nhân dân Nhật

Bản dâng cao. Hai bên đã dành thời gian chủ yếu để thảo luận về tình hình quốc tế

và xem xét về mối quan hệ Nhật Bản và Mỹ.

Ngày 19/1/1960, tại Washington, hai nước ký Hiệp ước hợp tác và an ninh

tương hỗ Nhật - Mỹ (cũng thường được gọi là Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ năm

1960). Hiệp ước gồm 10 điều. Trong Lời nói đầu, hai nước đã thể hiện nhu cầu hợp

tác lẫn nhau: “Mong muốn củng cố mối quan hệ hòa bình và hữu nghị truyền thống

tồn tại giữa hai bên và duy trì các nguyên tắc dân chủ, tự do cá nhân và pháp

quyền; mong muốn khuyến khích hợp tác kinh tế chặt chẽ hơn giữa hai bên và thúc

đẩy các điều kiện ổn định kinh tế và hạnh phúc ở hai quốc gia… đã quyết tâm ký kết

hiệp ước hợp tác và an ninh tương hỗ [169], [205]”.

Nội dung của Hiệp ước thể hiện nhiều vấn đề như: cam kết giải quyết mọi

tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hòa bình, chống sự đe dọa sử dụng vũ lực

chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của các nước; đóng góp vào việc

phát triển hơn nữa các mối quan hệ quốc tế bằng cách củng cố thể chế tự do của

mình, thực hiện tốt nguyên tắc của các thể chế quốc tế; tìm cách loại bỏ xung đột

trong các chính sách kinh tế quốc tế và khuyến khích sự hợp tác kinh tế lẫn nhau…

76

Về mặt an ninh, hai bên đã có những điều khoản chặt chẽ thể hiện sự hợp tác và

giúp đỡ lẫn nhau. Điều III quy định: “Hai bên hợp tác với nhau liên tục và hiệu quả, viện trợ lẫn nhau để phát triển, tùy thuộc vào các quy định của hiến pháp, tuỳ thuộc

vào khả năng của nhau để chống lại cuộc tấn công vũ trang”. Điều IV quy định: “Hai

bên sẽ tham vấn với nhau về việc thực hiện hiệp ước này và theo yêu cầu của mỗi bên bất cứ khi nào an ninh của Nhật Bản hoặc hòa bình và an ninh quốc tế ở Viễn Đông bị

đe dọa”. Điều V quy định: “Mỗi bên thừa nhận rằng một cuộc tấn công vũ trang

chống lại chính họ trong các lãnh thổ dưới sự quản lý của Nhật Bản sẽ nguy hiểm đến

hòa bình và an toàn của chính họ và họ sẽ hành động để giải quyết mối nguy hiểm đó phù hợp với các quy định của hiến pháp...” [169], [205]. Một vấn đề quan trọng nữa là

hiệp ước này quy định Mỹ tiếp tục được đóng quân ở Nhật Bản để đảm bảo an ninh

của Nhật Bản và duy trì hòa bình và an ninh quốc tế ở Viễn Đông.

Hai bên cũng thống nhất, “Hiệp ước này sẽ có hiệu lực cho đến khi Chính

phủ Nhật Bản và Chính phủ Mỹ có ý kiến… Sau khi Hiệp ước có hiệu lực được 10

năm, một trong hai bên có thể thông báo cho bên kia ý định chấm dứt hiệp ước,

trong trường hợp đó, hiệp ước sẽ chấm dứt sau một năm kể từ khi thông báo đó

được đưa ra” [169], [205]. Khi hiệp ước này có hiệu lực thì Hiệp ước An ninh giữa

Nhật Bản và Mỹ được ký kết tại thành phố San Francisco vào ngày 8/9/1951 sẽ hết

hiệu lực.

Thực chất Hiệp ước hợp tác và an ninh Nhật - Mỹ năm 1960 là sự điều chỉnh

Hiệp ước An ninh mà hai nước đã ký năm 1951 để phù hợp với hoàn cảnh mới. Nó

chính là kết quả của thực tiễn quan hệ giữa hai nước trong gần một thập kỷ đã qua,

cũng là sự điều chỉnh trước làn sóng đấu tranh của nhân dân và các đảng phái chính trị Nhật Bản. Việc ký kết Hiệp ước hợp tác và an ninh Nhật - Mỹ (19/1/1960) thể

hiện bước phát triển mới trong quan hệ chính trị, an ninh Nhật Bản - Mỹ.

Cũng trong ngày 19/1/1960, Thủ tướng Nhật Bản Kishi Nobusuke và Tổng

thống Mỹ D. Eisenhower ra Tuyên bố chung, khẳng định hai nhà lãnh đạo: “tin tưởng rằng mối quan hệ đối tác và hợp tác giữa hai quốc gia được củng cố bởi hiệp ước mới, được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc về chủ quyền bình đẳng và hợp tác lẫn nhau, đặc trưng cho mối quan hệ hiện tại giữa hai nước”; Thủ tướng và Tổng thống đều mong muốn tiếp tục hợp tác chặt chẽ giữa hai nước trong khuôn khổ Hiệp ước mới về hợp tác và an ninh” [129].

Như vậy, nét bao trùm trong quan hệ chính trị - an ninh Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 1951 - 1960 là sự thiết lập và củng cố quan hệ đồng minh giữa hai bên. Mối

77

quan hệ đó tuy vẫn có những mâu thuẫn, nhưng nhìn tổng thể là mang tính cộng sinh. Trong cuốn sách Quan hệ Mỹ - Nhật Bản trong thế giới đang đổi thay (U.S. - Japan Relation in a Changing World) do Steven K. Vogel biên tập, các tác giả đã đưa ra bảng thống kê khái quát những nội dung chủ yếu thể hiện sự hợp tác và căng thẳng ở các mức độ khác nhau giữa hai nước giai đoạn 1951 - 1960:

Bảng 3.1. Những nội dung thể hiện mức độ quan hệ Mỹ - Nhật Bản

(1951-1960)

Thời gian Nội dung nổi bật Sự hợp tác Sự căng thẳng

1951 Cao Trung bình

1951-1958 Thấp Trung bình

1952 Thấp Trung bình

1954 Thấp Trung bình

1956 Thấp Cao

1956 Thấp Trung bình

1958-1960 Cao Cao Hiệp ước Hòa bình San Francisco Hiệp ước An ninh Mỹ - Nhật được đàm phán và ký kết. Xuất khẩu công nghệ của Mỹ: Các công ty Mỹ (RCA, Dupont, Motorola) bán bản quyền cho các công ty Nhật Bản. Các biện pháp hạn chế thương mại Nhật - Trung: Các quan chức Mỹ buộc Thủ tướng Yoshida phải đồng ý. Sự cố thuyền đánh cá Nhật Bản bị nhiễm phóng xạ từ vụ thử bom nguyên tử của Mỹ Mỹ đặt căn cứ hạt nhân ở Nhật Bản: Nhật Bản chống lại các nỗ lực của Mỹ nhằm chuyển vũ khí hạt nhân và các tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân vào các căn cứ của Nhật Bản. Các biện pháp hạn chế xuất khẩu “tự nguyện”: Các quan chức Nhật Bản giảm xuất khẩu hàng dệt may, cá ngừ và hàng điện sang Mỹ Đàm phán sửa đổi và gia hạn Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ

[160, tr. 6] Những nội dung được thống kê ở trên, xét đến cùng, cũng chỉ thể hiện quan điểm cá nhân, có thể chưa đầy đủ những sự kiện về chính trị - an ninh giữa Nhật Bản và Mỹ, nhưng phần nào đã cho thấy được diễn biến của quan hệ giữa hai nước thông qua một số sự kiện quan trọng. Mức độ căng thẳng trong quan hệ giữa hai nước đều liên quan đến những vấn đề quan trọng như việc Mỹ đặt căn cứ hạt nhân ở Nhật Bản hay đàm phán sửa đổi và gia hạn Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ.

78

3.1.2. Quan hệ chính trị - an ninh Nhật Bản - Mỹ trong các vấn đề cụ thể

(1951 - 1960)

3.1.2.1. Vấn đề Chiến tranh Triều Tiên

Theo kết quả của Hội nghị Yalta (2/1945), Triều Tiên được chia làm hai

miền, lấy vĩ tuyến 38 làm giới tuyến tạm thời. Miền Bắc thuộc quyền quân quản

của Liên Xô, miền Nam thuộc quyền quân quản của Mỹ. Theo quyết nghị của Hội

nghị Ngoại trưởng 5 cường quốc là Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc

(12/1945), sẽ thành lập một chính phủ thống nhất ở Triều Tiên. Tuy nhiên, vấn đề

này gặp quá nhiều khó khăn do sự bất đồng Xô, Mỹ. Quả thật, tình hình ở hai miền

diễn biến theo sự chi phối của Liên Xô và Mỹ.

Ở miền Nam, dưới sự thao túng của Mỹ, ngày 10/5/1948, một cuộc bầu cử

quốc hội được tiến hành, Lý Thừa Vãn lên nắm chính quyền, thành lập nước Đại Hàn

dân quốc (Hàn Quốc). Ngay trong ngày, Mỹ thừa nhận Chính phủ Hàn Quốc, sau đó

nhiều nước đồng minh của Mỹ cũng công nhận Chính phủ Lý Thừa Vãn. Từ tháng 8

đến tháng 12/1948, Hàn Quốc ký nhiều hiệp ước bất bình đẳng với Mỹ, trong đó có

hiệp định “viện trợ” cho phép Mỹ kiểm soát kinh tế, tài chính ở Hàn Quốc. Ở miền

Bắc, tháng 8/1948, Hội nghị nhân dân toàn Triều Tiên được bầu ra. Ngày 9/9/1948,

Hội nghị tuyên bố thành lập nước CHDCND Triều Tiên, cử Chính phủ do Kim Nhật

Thành đứng đầu. Sau đó, Liên Xô và các nước Đông Âu công nhận Chính phủ Kim

Nhật Thành. Tháng 12/1948, Liên Hợp quốc thành lập “Uỷ ban thường trực của Liên

hợp quốc về Triều Tiên”. Sau đó, Liên Xô và Mỹ tuyên bố rút quân khỏi Triều Tiên.

Sau khi hai quốc gia thành lập, mâu thuẫn giữa hai miền Nam Bắc luôn luôn

trong tình trạng căng thẳng. Ngày 25/6/1950, quân đội Bắc Triều Tiên đã vượt qua vĩ

tuyến 38, tấn công Hàn Quốc. Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. Quân đội Nam Triều

Tiên chạy tán loạn về phía Nam. Chỉ trong một thời gian ngắn, Bắc Triều Tiên đã

chiếm 95% đất đai và 97% dân số ở miền Nam [85, tr. 239]. Trước tình đó, Hội đồng

Bảo an Liên hợp quốc ra nghị quyết yêu cầu Mỹ cử tư lệnh lực lượng thống nhất của

Liên hợp quốc đến Triều Tiên. Ngày 15/9/1950, quân đội 16 nước mang danh nghĩa

Liên hiệp quốc do Mỹ chỉ huy đã đổ bộ vào Triều Tiên. Lực lượng của Mỹ bao gồm

hải quân, không quân và lục quân. Dưới sự chỉ huy của Mỹ, quân Liên hợp quốc đã

đẩy lùi quân đội Bắc Triều Tiên khỏi miền Nam và đánh chiếm miền Bắc. Ngày

5/10/1950, Trung Quốc phái quân Chí nguyện sang “kháng Mỹ viện Triều” giúp quân

đội Bắc Triều Tiên đẩy lùi quân đối phương khỏi miền Bắc.

79

Chiến sự kéo dài đến năm 1953, nhưng từ tháng 7/1951 các cuộc đàm phán

về ngừng bắn đã được tổ chức. Sau gần 200 phiên họp và 400 giờ thảo luận kéo dài hơn 2 năm, các bên mới có thể đi đến Hiệp định đình chiến ngày 27/7/1953 [5]. Mãi

đến tháng 7/1953, Hiệp định đình chiến được ký kết tại Bàn Môn Điếm, kết thúc

cuộc chiến tranh khốc liệt trên bán đảo Triều Tiên. Theo Hiệp định, vĩ tuyến 38

được chọn làm ranh giới quân sự giữa hai miền, thiết lập một khu phi quân sự rộng

4km để ngăn cách quân đội hai bên. Tuy hai miền Nam, Bắc Triều Tiên đã ký hiệp

định đình chiến, nhưng quan hệ giữa hai miền thường xuyên căng thẳng.

Cuộc Chiến tranh Triều Tiên trở thành tâm điểm của Chiến tranh lạnh trong

những năm 50, trở thành yếu tố quyết định sự đối đầu Mỹ - Xô và Mỹ - Trung ở châu Á. Chính vì vậy, nó được quốc tế hoá một cách nhanh chóng. Các quan chức

Mỹ đều cho rằng, Chiến tranh Triều Tiên không phải là một cuộc nội chiến của hai

miền Nam, Bắc, mà là cuộc chiến tranh “xâm lược” của Liên Xô thông qua một chế

độ bù nhìn. Bộ Ngoại giao Mỹ lập luận rằng “không có khả năng Bắc Triều Tiên

hành động mà không có chỉ thị trước từ Moscow” [133, tr.61]. Trên thực tế, Liên

Xô mặc dù không đưa quân tham chiến nhưng đã hỗ trợ vũ khí, trang thiết bị cho quân miền Bắc và quân Chí nguyện Trung Quốc. Trong khi đó, Mỹ mang danh Liên

hợp quốc đưa quân đội trực tiếp tham chiến.

Về phía Mỹ, Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ đã khiến an ninh của Nhật Bản

được đặt lên hàng đầu. Theo Báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 25/6/1950, nếu

miền Nam Triều Tiên rơi vào tay cộng sản thì có nhiều hệ quả tai hại, trong đó có

việc “sẽ mang lại cho Moscow một vũ khí quan trọng để đe dọa Nhật Bản liên minh

trong tương lai với Mỹ” [133, tr. 62]. Vị trí của Triều Tiên thực sự đặc biệt quan

trọng đối an ninh của Nhật Bản cũng như chính sách của Mỹ ở châu Á nên Mỹ hết

sức lo lắng. Giới lãnh đạo Mỹ nhận thức rằng, mục tiêu cuối cùng của cuộc tấn công

của cộng sản vào Hàn Quốc là Nhật Bản nên đã khẳng định Hàn Quốc đóng vai trò quan trọng đối với sự phòng thủ của Nhật Bản. Theo quan điểm của người Mỹ, Chiến tranh Triều Tiên đã hợp nhất ba quốc gia Hàn Quốc, Mỹ và Nhật Bản thành một khối an ninh, trong đó an ninh Nhật Bản là yếu tố quyết định gắn kết ba quốc gia đó lại với

nhau theo “Chính sách ngăn chặn” của Mỹ. Trưởng ban các vấn đề Đông Bắc Á của Chính phủ Mỹ Bishop tuyên bố: “Nếu sự thống trị của cộng sản đối với toàn bộ bán đảo Triều Tiên trở thành hiện thực, các đảo của Nhật Bản sẽ bị bao vây ba mặt bởi

một vòng cung liên tục của cộng sản… Nhật Bản hầu như nằm trong tầm bắn của

quân đội Liên Xô từ các đồn ở Sakhalin và Kuriles ở phía Đông Bắc và các vị trí của

80

cộng sản ở miền Nam Triều Tiên ở phía Tây Nam” [133, tr. 51]. Đô đốc Forrest P.

Sherman, Chỉ huy Lực lượng Hải quân Mỹ cũng chỉ ra rằng: “Triều Tiên là một mối đe dọa chiến lược đối với Nhật Bản”. Các quan chức Washington đã liên kết an ninh

Nhật Bản với vấn đề Triều Tiên và đi đến thống nhất: “Cần đẩy ra khỏi lục địa châu

Á một con dao găm nhằm vào Nhật Bản” [133, tr. 63]. Bản thân Thủ tướng Nhật Bản Yoshida cũng khẳng định rằng: Chiến tranh Triều Tiên là một mối đe dọa đối với an

ninh của Nhật Bản, ông cho rằng: “…Chúng ta không thể nói là thoát khỏi nguy

hiểm” [133, tr. 69-70].

Rõ ràng, Triều Tiên, trước hết là Nam Triều Tiên có vị trí chiến lược đối với Nhật Bản và Chiến tranh Triều Tiên thực sự là một mối đe dọa đối với an ninh Nhật

Bản. Bộ Ngoại giao Mỹ cho rằng, nếu cộng sản “chiếm hữu Triều Tiên sẽ vô hiệu

hóa sự hữu dụng của Nhật Bản như một căn cứ của Mỹ” [133, tr.70]. Ngoại trưởng

Mỹ J. Dulles còn lập luận rằng, nếu cộng sản thống trị Hàn Quốc, thì “Nhật Bản sẽ

ở giữa hàm của gấu Nga”. Các quan chức Washington cũng nhấn mạnh khả năng

Liên Xô tấn công Nhật Bản, CIA báo cáo rằng Liên Xô có khả năng “vận chuyển và

hỗ trợ hậu cần cho một cuộc tấn công đường thủy vào Nhật Bản với 10 đến 11 sư

đoàn (mỗi sư đoàn 11.000 người)” [139]. Với những nhận thức đó, Mỹ không thể

cho phép cộng sản kiểm soát toàn bộ bán đảo Triều Tiên và Mỹ quyết tâm bảo vệ

Nhật Bản bằng cách can thiệp vào Chiến tranh Triều Tiên trước khi Liên Xô tấn

công Nhật Bản.

Cuộc chiến tranh này có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện “Chính sách

ngăn chặn” của Mỹ. Trong giai đoạn 1950 - 1960, Mỹ tiếp tục theo đuổi chính sách

đối ngoại với “mục tiêu mang tính bá quyền về một hệ thống thế giới hội nhập đơn nhất” do Mỹ chi phối [89, tr. 32]. Phương thức được sử dụng để mở rộng bá quyền

là quân sự hóa chính sách đối ngoại và “sự hội nhập ép buộc với hệ thống thế giới”

[90, tr. 270]. Sau khi Tưởng Giới Thạch thất bại ở Trung Quốc, ngoài việc chuyển vai trò đồng minh chủ chốt sang Nhật Bản, Mỹ còn muốn thiết lập một bàn đạp chiến lược quan trọng khác trên toàn bộ bán đảo Triều Tiên để trực tiếp bao vây hệ thống XHCN, mà trước hết là nước CHND Trung Hoa vừa mới ra đời. Chính vì vậy, Mỹ dồn rất nhiều công sức vào cuộc chiến tranh này, một mặt xây dựng quân đội Nam Triều Tiên, một mặt ồ ạt đưa quân vào bán đảo Triều Tiên. Mặc dù có tới 16 nước gửi quân đội đến tham chiến dưới lá cờ của Liên hợp quốc ở Triều Tiên,

tuy nhiên lực lượng của Mỹ vẫn chiếm đa số, với 50,3% bộ binh, 85,9% hải quân,

93,4% không quân [65, tr. 240-241].

81

Trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên, quan hệ Nhật Bản - Mỹ được thể hiện rất

chặt chẽ, có thể nói đó là bước phát triển mới trong quan hệ giữa hai nước. Khi chiến tranh bùng nổ, Nhật Bản lúc này đang bị Mỹ chi phối, gần như đã trở thành

đồng minh của Mỹ (cho dù chưa ký hiệp ước song phương) và là căn cứ của Mỹ

nên dù muốn hay không cũng bị lôi kéo vào cuộc chiến tranh, bị cuốn vào mối quan hệ đối đầu Mỹ - Xô và Mỹ - Trung. Chính thực tế cuộc đối đầu Mỹ - Xô, tiếp đó là

việc hình thành khuôn khổ đối đầu Mỹ - Trung “là những sự kiện quan trọng nhất

đối với ngoại giao Nhật Bản sau Thế chiến II” [41, tr. 227].

Trong cuộc chiến tranh này, với vị trí gần Triều Tiên, Nhật Bản trở thành căn cứ quan trọng nhất của Mỹ, là nơi tập kết vũ khí, các lực lượng chiến đấu, hậu cần,

nhiên liệu cho quân đội Mỹ và Liên hợp quốc. Thực sự, Nhật Bản đã “trở thành kho

chứa vũ khí chiến tranh” [63, tr. 91]. Từ các căn cứ ở Nhật Bản, các máy bay ném

bom chiến thuật của Mỹ (chủ yếu là máy bay B-29) trực tiếp ném bom vào Bắc

Triều Tiên [6]. Một bộ phận tàu chở quân đội từ Mỹ sang phục vụ chiến tranh cũng

được tập kết ở Nhật Bản sau đó mới di chuyển để đổ bộ vào Triều Tiên. Hơn nữa,

trong chiến tranh, một bộ phận lớn quân đội Mỹ ở Nhật Bản mà Mỹ duy trì từ sau

Chiến tranh thế giới thứ hai cũng được điều động sang Triều Tiên tham chiến. Đội

quân đó vẫn do tướng Douglas Mac Arthur chỉ huy.

Tại Nhật Bản, công nghiệp quân sự được phục hồi để sản xuất vũ khí, đạn

dược phục vụ cho quân đội Mỹ tham chiến ở Triều Tiên. Mỹ còn có nhiều đơn đặt

hàng cho Nhật Bản sản xuất nhu yếu phẩm phục vụ chiến tranh. Để các lực lượng

vũ trang của Mỹ có thể tham chiến tại Triều Tiên, Mỹ cần phải có một lượng lớn

các vật tư, nguyên liệu. Chính phủ Mỹ quyết định rằng, các mặt hàng này sẽ được mua tại Nhật Bản. Tháng 3/1951, Chính phủ Mỹ đã thông qua nghị quyết cung cấp

không hạn chế các nguyên liệu công nghiệp cần thiết cho Nhật Bản để sản xuất

phục vụ nhu cầu quân sự. Chỉ tính riêng thu nhập của Nhật Bản từ các đơn đặt hàng quân sự của Mỹ từ năm 1950 đến năm 1953 đã chiếm tới 43,7% tổng thu nhập xuất khẩu [66, tr. 240]. Cũng trong thời gian này, Nhật Bản đã cung cấp cho Mỹ vũ khí và đồ quân dụng trị giá 2,470 tỷ USD [97, tr. 297].

Trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên, vấn đề vai trò quân sự của Nhật Bản được bàn luận rất nhiều ở Mỹ và Nhật Bản. Câu hỏi quan trọng nhất cần phải giải đáp là liệu công dân Nhật Bản có thể gia nhập quân đội Liên hợp quốc để tham

chiến hay không? Nhiều nghị sỹ của Thượng viện Mỹ lên tiếng đề nghị Tổng thống

H. Truman cho phép công dân Nhật Bản tình nguyện nhập ngũ để phục vụ các chiến

82

dịch ở Triều Tiên [133, tr.69]. Thượng nghị sĩ Mỹ Warren Magnuson còn đề xuất

một dự luật sử dụng quân nhân Nhật Bản tại Hàn Quốc. Theo W. Magnuson, sẽ cho phép công dân Nhật Bản tự nguyện nhập ngũ trong quân đội Mỹ với thời hạn 3 năm

và được trả một nửa mức lương của các quân nhân Mỹ cùng cấp bậc. W. Magnuson

hy vọng rằng đề xuất này sẽ làm cho Mỹ có một “nguồn cung cấp lớn các binh sĩ Nhật Bản giàu kinh nghiệm, những người có khát vọng hòa bình ở phương Đông

thậm chí còn lớn hơn quân đội Mỹ đang chiến đấu ở Hàn Quốc” [133, tr.71-72].

Trong khi đó, Thủ tướng Nhật Bản Yoshida mặc dù công khai ủng hộ các

hành động quân sự của Mỹ ở Hàn Quốc và tích cực hợp tác với Liên hợp quốc, đã phản đối mạnh mẽ sự can dự về mặt quân sự của Nhật Bản vào Chiến tranh Triều

Tiên. Yoshida cố gắng để Nhật Bản không dính líu về quân sự vào Chiến tranh

Triều Tiên, vì theo ông: “Một đội quân tình nguyện Nhật Bản tham gia vào các

cuộc chiến với Triều Tiên là điều không mong muốn về mặt chính trị” [133, tr. 69-

70]. Yoshida lo ngại rằng vấn đề quân tình nguyện Nhật Bản có thể trở thành trở

ngại cho việc ký kết hiệp ước hòa bình hoặc dẫn đến việc áp đặt các điều khoản

khắc nghiệt hơn đối với Nhật Bản. Tuy nhiên, trong Chính phủ Nhật Bản cũng có

những người bất đồng ý kiến với Thủ tướng Yoshida, ủng hộ sự tham gia của binh

sĩ Nhật Bản vào Chiến tranh Triều Tiên. Đại diện cho quan điểm này là Chánh án

Tòa án Tối cao Kotaro Tanaka. Tanaka cho rằng công dân Nhật Bản có thể gia nhập

lực lượng Liên hợp quốc với tư cách cá nhân nếu Liên hợp quốc yêu cầu Nhật Bản

thành lập các đội tình nguyện. Hitoshi Ashida, cựu Ngoại trưởng trong Nội các

Katayama từ năm 1947 đến năm 1948 cho rằng, Chiến tranh Triều Tiên là một cơ

hội tuyệt vời để Nhật Bản tham gia vào chính trị quốc tế, việc tham gia tích cực vào chiến tranh sẽ là có nhiều lợi ích lớn cho tương lai của Nhật Bản. Ashida nhấn mạnh

rằng: “Chính phủ Yoshida hiện tại nên tận dụng các cơ hội do Chiến tranh Triều

Tiên mang lại để đặt Nhật Bản ngang hàng với các nước” [133, tr. 73]. Ông đề nghị Chính phủ Yoshida nhanh chóng thành lập một cơ quan để hỗ trợ việc cung cấp vật tư cho quân đội Mỹ và Liên hợp quốc tham gia Chiến tranh Triều Tiên. Thậm chí, ông còn đề nghị thành lập một “nội các chiến tranh” liên minh thay cho chính phủ hiện tại.

Mọi cuộc tranh luận kết thúc khi lực lượng quân đội Mỹ đổ bộ thành công vào Triều Tiên. Trong quân đội Mỹ và Liên hợp quốc tham chiến ở Triều Tiên

không có các binh sĩ Nhật Bản với tư cách là người chiến đấu trực tiếp. Mỹ chủ yếu

sử dụng người Hàn Quốc để bổ sung vào quân đội của mình. Về mặt chính thức, các

83

lực lượng quân sự Nhật Bản không tham gia vào Chiến tranh Triều Tiên, nói đúng

hơn “Nhật Bản không thể là một quốc gia tham chiến” [63, tr. 91]. Tuy nhiên, hàng nghìn người Nhật đã bí mật tham gia vào công tác phục vụ chiến đấu.

Các chuyên gia đường sắt và vận tải biển của Nhật Bản đã làm việc tại Hàn

Quốc cùng với các thủy thủ đoàn được đào tạo bài bản dưới sự chỉ huy của quân đội Mỹ và Liên hợp quốc. Theo Robert Murphy, Đại sứ Mỹ tại Nhật Bản, nếu không có

sự hỗ trợ từ các chuyên gia Nhật Bản, những người quen thuộc với Hàn Quốc, Mỹ

đã không thể ở lại Hàn Quốc [154, tr. 347-348]. Trong chiến tranh, Mỹ đã sử dụng

các kỹ thuật viên Nhật Bản và thiết bị của họ cho hoạt động chiến tranh ở Triều Tiên, bởi vì đội ngũ kỹ thuật viên và trang thiết bị mà Hàn Quốc cung cấp không đủ

để vận hành bến cảng, nhà máy điện và các ngành công nghiệp thiết yếu khác liên

quan đến hoạt động chiến tranh. Hơn nữa, người Nhật Bản đã rất quen thuộc với

những công việc này ở Triều Tiên. Trước năm 1945, Nhật Bản đã xây dựng hầu hết

các nhà máy, đường sắt, bến cảng... ở Triều Tiên và không cho phép người Triều

Tiên trở thành kỹ thuật viên thành thạo trong bất kỳ lĩnh vực công nghiệp nào.

Chính vì vậy, Bộ Tư lệnh quân đội Liên hợp quốc ở Triều Tiên ưu tiên sử dụng các

kỹ thuật viên có kinh nghiệm từ Nhật Bản. Theo Tướng Mark Clark, Tư lệnh Lực

lượng Liên hợp quốc tại Triều Tiên, người Nhật Bản “nhanh nhẹn hơn, có thể vận

chuyển và bảo trì thiết bị với chi phí thấp hơn nhiều”. Trong Hồi ký của mình,

Tướng Clark khẳng định, có 300.000 hoặc 400.000 người Nhật Bản đã được Mỹ

tuyển dụng làm nhiều công việc thiết yếu phục vụ chiến tranh tại Nam Triều Tiên

và vùng xung quanh [133, tr. 77].

Ngoài ra, các tàu của Nhật Bản tham gia vào việc chuyên chở, vận tải quân đội và vũ khí Mỹ sang chiến trường Triều Tiên [66, tr. 240]. Khi Mỹ thực hiện cuộc

đổ bộ vào Incheon, một phần ba trong số 120 tàu chở Quân đoàn 10 từ Nhật Bản

đến Triều Tiên là của Nhật Bản [133, tr. 77]. Lực lượng Mỹ tại Hàn Quốc cũng sử dụng các chuyên gia Nhật Bản để hỗ trợ tiền tuyến. Mỹ đã sử dụng nhiều tàu quét mìn của Nhật Bản để rà phá bom mìn mà đối phương rải ở bờ biển, hải cảng của Triều Tiên. Trên thực tế, có khoảng 20 tàu quét mìn của Nhật Bản được điều động thực hiện nhiệm vụ này.

Rõ ràng, Mỹ và Nhật Bản đều nhận thức một cách đầy đủ ảnh hưởng của Chiến tranh Triều Tiên đối với lợi ích của Mỹ và đối với an ninh của Nhật Bản. Hai

nước đã có những tính toán để đối phó với những mục tiêu của Liên Xô, CHND

Trung Hoa và CHDCND Triều Tiên. Mặc dù không tham gia trực tiếp vào quân đội

84

Mỹ trong cuộc chiến tranh này, nhưng Nhật Bản vẫn đóng vai trò quan trọng. Mối

quan hệ giữa hai nước trong Chiến tranh Triều Tiên trước hết là thực hiện chính sách toàn cầu của Mỹ, nhưng mặt khác là để đảm bảo an ninh của Nhật Bản. Đối

với Nhật Bản, cuộc chiến tranh này có ảnh hưởng rất sâu sắc, được ví như “ngọn

gió thần” thổi tới làm thay đổi rõ nét tình hình Nhật Bản. Chưa xét đến lĩnh vực kinh tế, nó còn là cơ sở để Mỹ củng cố chủ trương ký kết hiệp ước hoà bình, hiệp

ước an ninh song phương với Nhật Bản nhằm tăng cường khả năng phòng thủ cho

Nhật Bản, sẵn sàng đối phó với những mối đe dọa tương tự như cuộc Chiến tranh

Triều Tiên.

3.1.2.2. Vấn đề căn cứ quân sự Mỹ ở Nhật Bản

Xây dựng căn cứ quân sự Mỹ ở Nhật Bản là nội dung trọng tâm trong quan

hệ chính trị - an ninh giữa Nhật Bản và Mỹ giai đoạn 1951 - 1960. Đó là vấn đề

từng được bàn đến ngay từ khi Mỹ chưa kết thúc chế độ chiếm đóng ở Nhật Bản.

Thủ tướng Nhật Bản Shigeru Yoshida từng đề xuất với Chính phủ Mỹ về việc đặt

các căn cứ quân sự vĩnh viễn trên lãnh thổ Nhật Bản để đổi lấy ba bảo đảm: “1. Sự

phục hồi chủ quyền quốc gia càng nhanh càng tốt; 2. Được đảm bảo tiếp cận thị

trường Mỹ để bán hàng hóa và khả năng Nhật Bản được tập trung phát triển kinh tế

mà không phải trả chi phí duy trì quân đội; 3. Đảm bảo an ninh chống lại CNCS mà

ảnh hưởng của nó ngày càng lớn ở châu Á vào thời điểm đó” [144, tr. 26]. Thủ

tướng Yoshida cũng từng khẳng định: “Để có sự đảm bảo lâu dài về an ninh của

mình, Nhật Bản sẽ cung cấp các cơ sở đồn trú cho các lực lượng hải, lục, không

quân của Mỹ” [20, tr. 18]. Ông cũng có lần nói rằng: “Mục tiêu trước mắt là xây

dựng và phát triển kinh tế, còn hãy để Mỹ giữ nhà cho chúng ta” [20, tr. 18]. Khi vấn đề này được quy định trong các hiệp ước Nhật Bản và Mỹ ký kết, Mỹ đã thực

hiện một cách nhanh chóng, triệt để.

Hiệp ước hoà bình San Francisco không đề cập việc nước ngoài rút lực lượng và huỷ bỏ các căn cứ quân sự tại Nhật Bản, đồng thời cho phép Nhật Bản được ký kết liên minh quân sự với nước ngoài. Như vậy, theo Hiệp ước này, Mỹ vẫn tiếp tục đóng quân tại Nhật Bản và được duy trì các căn cứ quân sự của mình tại đây, mở đường cho việc tái vũ trang lại Nhật Bản. Nói cách khác, Hiệp ước đã đảm bảo cho sự hiện diện của lực lượng vũ trang nước ngoài trên lãnh thổ Nhật Bản và duy trì các căn cứ quân sự của Mỹ tại Nhật Bản. Điều này cho phép Nhật Bản không bị

ngăn cản tham gia vào các liên minh quân sự và có thể ký kết liên minh quân sự với

nước ngoài.

85

Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ ký ngày 8/9/1951 đã đề cập trực tiếp đến việc

duy trì lực lượng quân đội Mỹ ở Nhật Bản. Ngay trong Lời nói đầu, Hiệp ước khẳng định: “…Nhật Bản mong muốn, như một thỏa thuận tạm thời để phòng thủ rằng,

Mỹ nên duy trì các lực lượng vũ trang của riêng mình trong và ngoài Nhật Bản để

ngăn chặn các cuộc tấn công vũ trang vào Nhật Bản.

Mỹ vì lợi ích của hòa bình và an ninh sẵn sàng duy trì một số lực lượng vũ

trang của mình ở trong và ngoài Nhật Bản với kỳ vọng rằng Nhật Bản sẽ từng bước

đảm nhận trách nhiệm phòng thủ của mình nhằm chống lại một cách trực tiếp hoặc

gián tiếp các mối đe dọa tấn công hoặc những hành động trái với các mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc” [157], [184].

Để cụ thể hơn vấn đề đóng quân của Mỹ ở Nhật Bản, từ Điều I đến Điều III

của Hiệp ước thể hiện rõ:

“Điều I: Nhật Bản thoả thuận cho Mỹ và Mỹ chấp nhận quyền duy trì các lực

lượng trên bộ, trên không và trên biển ở Nhật Bản và các vùng phụ cận Nhật Bản.

Những lực lượng đó có thể dùng để đóng góp vào việc duy trì hoà bình và an ninh quốc

tế ở Viễn Đông, cũng như để bảo vệ nền an ninh của Nhật Bản chống lại mọi sự xâm

lược từ bên ngoài. Những lực lượng đó có thể sử dụng theo yêu cầu của Chính phủ

Nhật Bản, để giúp Nhật Bản dập tắt những cuộc bạo động và những rối loạn quy mô

lớn ở Nhật Bản do sự “xúi giục” hay “can thiệp” của một hay nhiều nước gây ra.

Điều II: Trong thời gian thực hiện quyền nêu tại Điều I, nếu không có sự

đồng ý của Mỹ, Nhật Bản sẽ không cấp cho bất cứ một quốc gia nào quyền được

xây dựng bất kỳ một căn cứ quân sự hay đơn vị đồn trú nào cố định hay quá cảnh

mặt đất hoặc trên không hay lực lượng hải quân trên đất Nhật Bản.

Điều III: Các điều kiện về việc bố trí lực lượng vũ trang của Mỹ tại Nhật Bản

sẽ được xác định bằng Hiệp định Hành chính giữa hai chính phủ” [157], [184].

Để xác định cụ thể các điều kiện bố trí lực lượng quân đội Mỹ như quy định tại Điều III của Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ, hai bên đã ký Hiệp định Hành chính vào ngày 28/2/1952. Ở Khoản 1, Điều II, Hiệp định này quy định: “Nhật Bản đồng ý cho Mỹ quyền sử dụng các cơ sở và khu vực cần thiết để thực hiện các mục đích nêu tại Điều I của Hiệp ước An ninh. Các thỏa thuận về các cơ sở và khu vực cụ thể mà hai chính phủ chưa đạt được trước ngày hiệp định này có hiệu lực sẽ được hai chính phủ ký kết thông qua Ủy ban hỗn hợp quy định tại Điều XXVI của hiệp định này. “Cơ sở vật chất và các khu vực” bao gồm đồ đạc, thiết bị cần thiết cho hoạt động của các cơ sở và khu vực đó” [102]. Khoản 1, Điều III quy định: “Mỹ sẽ có quyền trong các cơ sở và khu vực cần thiết hoặc thích hợp cho việc thiết lập, sử

86

dụng, hoạt động phòng thủ hoặc kiểm soát các hoạt động quốc phòng. Mỹ cũng có quyền lực và thẩm quyền về đất đai, lãnh hải và không phận tiếp giáp hoặc gần khu vực quốc phòng, đó là điều kiện cần thiết để hỗ trợ và kiểm soát các cơ sở và khu vực quốc phòng. Trong việc thực hiện các quyền lực bên ngoài các cơ sở và khu vực quốc phòng cần có sự tham vấn giữa hai chính phủ thông qua ủy ban hỗn hợp nếu có nhu cầu” [102].

Cũng theo Hiệp định Hành chính, nhân viên quân sự và công dân Mỹ ở Nhật Bản được hưởng “trị ngoại pháp quyền”. Nhật Bản còn cam kết gánh những khoản tiền lớn để nuôi quân đội chiếm đóng Mỹ và chịu để cho quân đội Mỹ sử dụng nhiều hải cảng, sân bay và căn cứ quân sự khác phục vụ cho Chiến tranh Triều Tiên của Mỹ.

Đến Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ ngày 19/1/1960, hai bên tiếp tục thống nhất về sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Nhật Bản. Điều VI của Hiệp ước nêu rõ: “Với mục đích đảm bảo an ninh của Nhật Bản và duy trì hòa bình, an ninh quốc tế ở Viễn Đông, các lực lượng lục quân, không quân, hải quân Mỹ được sử dụng các cơ sở và khu vực ở Nhật Bản. Việc sử dụng các cơ sở và khu vực này cũng như tình trạng của các lực lượng vũ trang Mỹ tại Nhật Bản sẽ được điều chỉnh bởi một thỏa thuận riêng, thay thế Hiệp ước hành chính theo Điều III của Hiệp ước An ninh giữa Nhật Bản và Mỹ...” [169], [205].

Như vậy, Hiệp ước Hoà bình San Francisco, Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ và Hiệp ước Hành chính đã tạo căn cứ pháp lý một cách đầy đủ cho việc quân Mỹ đồn trú lâu dài ở Nhật Bản. Nhật Bản mất quyền duy trì quân đội, Mỹ được duy trì quân đội tại Nhật Bản để đảm bảo an ninh cho Nhật Bản. Thực tế đây là sự chính thức hóa việc có mặt của quân Mỹ tại Nhật Bản cũng như sự phụ thuộc an ninh hoàn toàn của Nhật vào Mỹ. Để triển khai việc xây dựng các căn cứ quân sự của Mỹ, Nhật Bản đã ban hành nhiều văn bản, hai bên cũng ký kết thêm nhiều thoả thuận khác.

Theo cam kết trong Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ (ký năm 1951 và sửa đổi năm 1960), Mỹ có nghĩa vụ hợp tác với Nhật Bản nhằm đảm bảo an toàn hàng hải, hỗ trợ phòng thủ tên lửa đạn đạo, bảo đảm biên giới trên không, điều phối không lưu, cứu trợ thảm họa... Theo Hiệp ước, nhiều căn cứ quân sự của Mỹ đã được triển khai tại Nhật Bản kèm với máy bay, trực thăng, tàu thủy, trạm radar, hệ thống tên lửa phòng không, doanh trại lính thủy đánh bộ [26].

Theo các thoả thuận giữa lãnh đạo hai nước, Mỹ được trao 612 căn cứ và khu vực, trong đó có 300 khu vực được sử dụng vô thời hạn, quân Mỹ còn được nhận 18 khu vực khác để tiến hành tập trận và 35 sân bay cùng các hải cảng, xí nghiệp và bệnh viện quân sự khác. Okinawa là tổ hợp căn cứ quân sự lớn nhất của Mỹ, nơi tập trung tới 88 căn cứ với 35.000 lính Mỹ.

87

Căn cứ không quân Inuit là một căn cứ quân sự lớn cũng được xây dựng trong thời gian này. Ban đầu, căn cứ được xây dựng cho Bộ Chỉ huy không quân chiến thuật Mỹ (Strategic Air Command - SAC) và được sử dụng định kì để các máy bay B-36 Peacemaker và B-47 Stratojet thử nghiệm trong suốt những năm 50. Đây cũng là nơi lý tưởng để thử nghiệm tính khả thi và tính chịu đựng của hệ thống vũ khí trong điều kiện thời tiết cực lạnh. Tại căn cứ không quân này cũng diễn ra các cuộc thử nghiệm với máy bay B-52 Strato Fortress trong những năm 50 và những năm 60.

Có thể thấy, Mỹ đã lựa chọn những vùng rất quan trọng đối với an ninh của Nhật Bản cũng như lợi ích của Mỹ để xây dựng các căn cứ quân sự. Những căn cứ đó thuận tiện cho việc phòng thủ lẫn tấn công, có khả năng khống chế cả một vùng rộng lớn, nhất là trong bối cảnh Chiến tranh lạnh đang căng thẳng. Nó phải là “bức tường thành để đối trọng với một CHDCND Triều Tiên ngang ngạnh và một Trung Quốc đang vươn lên. Theo logic Chiến tranh lạnh, thì “con sói luôn trực sẵn ngoài cửa, tai ương sẽ xảy ra với bất cứ ai lơ là chuyện canh gác và gây nguy hiểm cho an ninh khu vực”” [83]. Okinawa chính “hòn đá then chốt của Thái Bình Dương”, là địa điểm quan trọng bậc nhất của Mỹ ở Nhật Bản và được đánh giá là “nơi có tầm quan trọng chiến lược trong con mắt của người Mỹ [172].

Okinawa là hòn đảo lớn nhất của quần đảo Ryukyu, nằm ở phía Nam Nhật Bản, về mặt địa lý, gần với lục địa Trung Quốc hơn Tokyo. Chính vì vậy, xét về mặt quân sự, Okinawa trở thành nơi có thể khống chế CHND Trung Hoa, CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc, Đông Nam Á và cả Thái Bình Dương. Từ Okinawa đến các mục tiêu như Đài Bắc, Thượng Hải, Hồng Kông, Seoul, Manila và Tokyo đều nằm trong bán kính 1.500 km. Điều này càng giải thích tại sao hòn đảo này luôn là căn cứ quân sự quan trọng của Mỹ ở châu Á.

Sau khi Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ được ký kết, căn cứ quân sự của Mỹ ở Okinawa không ngừng được củng cố. Okinawa trở thành căn cứ quan trọng bậc nhất của quân đội Mỹ không chỉ ở Nhật Bản mà còn trên toàn thế giới, là công cụ đắc lực của Mỹ trong việc thực hiện chiến lược toàn cầu của mình. Tại Okinawa, trong giai đoạn này có các căn cứ quân sự lớn như: căn cứ Courtney, được xây dựng như một cơ sở hàng hải của Mỹ từ tháng 1/1956 khi các đơn vị của Sư đoàn hàng hải số 3 được chuyển từ Mc Gill ở Yokosuka, Kanagawa đến; căn cứ Foster, đóng vai trò như trụ sở chính, như văn phòng đại diện của lực lượng Mỹ tại Nhật Bản; căn cứ Gonsalves ở phía Bắc Okinawa (được thành lập năm 1958), còn được gọi là khu vực đào tạo phía Bắc (Northern Training Area, NTA), với diện tích 17.500 mẫu

88

Anh (71 km2). Căn cứ này có 22 khu hạ cánh máy bay trực thăng, một khu trung tâm đào tạo, huấn luyện thuỷ quân lục chiến Mỹ; căn cứ Futenma, đây là căn cứ không quân lớn nhất của Mỹ tại Okinawa. Ngoài ra, tại Okinawa còn có các căn cứ như Hansen, Mc Tureous, Kadena và rất nhiều căn cứ quân sự khác của Mỹ. Vì vị trí đặc biệt như vậy nên Mỹ không muốn trả lại Okinawa cho Nhật Bản mà muốn chiếm giữ lâu dài. Ngay cả khi Hiệp ước Hoà bình San Francisco đã được ký kết, Nhật Bản được khôi phục chủ quyền nhưng vẫn không bao gồm quần đảo Ryukyu (Mãi đến năm 1972, Okinawa mới được trao lại cho Nhật Bản).

Ngoài Okinawa, nhiều vùng khác ở Nhật Bản cũng được Mỹ lựa chọn để xây dựng căn cứ quân sự và đóng quân, trong đó có Tokyo. Quân đội Mỹ hiện diện dày đặc ở Tokyo… trung tâm Tokyo đã trở thành một “nước Mỹ thu nhỏ” với đầy cờ Mỹ [124, tr.169]. Ngoài ra, còn có những căn cứ khác như căn cứ không quân Misawa trên đảo Honshu; Trạm Thủy quân lục chiến Iwakuni (xây dựng từ năm 1958); Hạm đội chỉ huy Sasebo (trên đảo Kyushu thuộc tỉnh Nagasaki)…

Như vậy, trong giai đoạn 1951 - 1960, sau khi ký kết các hiệp ước với Nhật Bản, Mỹ đã “hợp pháp hoá” việc xây dựng các căn cứ quân sự trên đất Nhật Bản. Căn cứ quân sự của Mỹ đóng vai trò vừa thực hiện chính sách đối ngoại của Mỹ vừa đảm bảo an ninh cho Nhật Bản. Đó cũng là biểu hiện sâu sắc cho mối quan hệ đồng minh giữa Nhật Bản và Mỹ trong giai đoạn này. Do đó, Mỹ cũng muốn Nhật Bản đóng góp vào an ninh chung của khu vực cũng như đối với Mỹ. Trước hết là khả năng sẵn sàng chống lại CNCS. Trong một bản ghi nhớ có tựa đề “Các nguyên tắc được áp dụng trong việc bố trí lực lượng Mỹ tại Nhật Bản”, U. Alexis Johnson - Giám đốc Văn phòng các vấn đề Đông Bắc Á lưu ý rằng: “Một trong những mục tiêu an ninh chính của chính sách Mỹ đối với Nhật Bản là đạt được mức đóng góp tối đa của Nhật Bản cho sự chống lại CNCS” [124, tr.171].

Những căn cứ quân sự trên đất Nhật Bản có vai trò to lớn trong chính sách của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương. Các căn cứ này không chỉ duy trì sự an toàn của Mỹ ở Nhật Bản mà còn đóng vai trò hỗ trợ cho các căn cứ quân sự khác của Mỹ rải rác khắp các đảo ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Về sau, trong cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam, hầu hết quân đội, máy bay chiến đấu,… đều xuất phát từ các căn cứ quân sự ở Nhật Bản.

3.1.2.3. Vấn đề tái vũ trang Nhật Bản Hiến pháp năm 1946 cấm Nhật Bản duy trì các lực lượng vũ trang và phát động chiến tranh. Do đó, các căn cứ của Mỹ như là một loại “chính sách bảo hiểm”, đảm bảo an ninh nội địa cho Nhật Bản. Tuy nhiên, do những tính toán của Mỹ và Nhật Bản, các lực lượng vũ trang Nhật Bản từng bước được tái thành lập.

89

Về vấn đề tái vũ trang Nhật Bản, năm 1951, chính trường Nhật Bản diễn ra những cuộc tranh luận gay gắt. Đảng Cộng sản Nhật Bản chủ trương “phản đối việc tái vũ trang liên quan đến Mỹ”; Đảng Xã hội “phản đối bất kỳ sự sự tái vũ trang nào”; Đảng Dân chủ chia làm hai bộ phận, một bộ phận chủ trương “ủng hộ tái vũ trang”, một bộ phận “ủng hộ tái vũ trang nhanh chóng”; Đảng Tự do chủ trương “hỗ trợ tái vũ trang” [160, tr. 102]. Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau, nội các của Thủ tướng Yoshida thuộc Đảng Tự do ngay từ đầu đã chủ trương dựa vào Mỹ để tái vũ trang Nhật Bản ở mức độ vừa phải, không đến mức tái quân phiệt hoá Nhật Bản như trước đây, bởi trước sau Yoshida vẫn ưu tiên phát triển kinh tế hơn.

Từ năm 1950, ngay sau khi Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, tướng Mac Arthur đã đề nghị Chính phủ Nhật Bản thành lập Lực lượng Cảnh sát dự bị (Keisatsu yobitai) gồm 75.000 người. Trên thực tế, đây là lực lượng quân đội được phiên chế và trang bị những phương tiện chiến tranh hiện đại như máy bay, xe tăng, chiến hạm… Đây cũng chính là lực lượng thay thế cho một bộ phận quân đội Mỹ làm nhiệm vụ ở Nhật Bản được điều sang chiến trường Triều Tiên. Theo diễn biến phức tạp của tình hình khu vực và cuộc Chiến tranh lạnh, tháng 8/1952, Chính phủ Nhật Bản thành lập Sở Bảo an. Đến tháng 10/1952, Lực lượng Cảnh sát dự bị được đổi thành Lực lượng bảo an (Ho’antai) với quân số được tăng lên đến 125.000 người. Nhiệm vụ chính của lực lượng này vẫn là đảm bảo an ninh nội bộ Nhật Bản. Tuy nhiên, việc biên chế thêm bộ phận An toàn bờ biển (lực lượng tự vệ trên biển), bộ phận An toàn mặt đất (lực lượng tự vệ trên bộ) và bộ phận An toàn hàng không (lực lượng tự vệ hàng không) là một bước tiến nhằm đảm nhận nhiều trách nhiệm hơn trong việc phòng thủ. Đến năm 1954, Lực lượng bảo an lại được nâng lên thành Cục Phòng vệ (Ji’eitai). Sự xuất hiện của Cục Phòng vệ trên thực tế đã phá vỡ những nguyên tắc căn bản đã được quy định rõ trong Hiến pháp năm 1946 [38, tr. 341]. Thế là, dưới danh nghĩa các đội tự vệ, lực lượng hải, lục, không quân của Nhật Bản đã chính thức được xây dựng [97, tr. 309]. Đến năm 1960, quân số của các lực lượng phòng vệ Nhật Bản lên đến 206.000 người.

Ngày 8/3/1954, Chính phủ hai nước Nhật Bản và Mỹ ký Hiệp định hỗ trợ phòng thủ lẫn nhau (bao gồm 11 điều), trong đó “khẳng định lại niềm tin của hai bên như đã nêu trong Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản được ký kết tại thành phố San Francisco ngày 8/9/1951 rằng, Nhật Bản với tư cách là một quốc gia có chủ quyền, có quyền tự vệ cá nhân hoặc tập thể được nêu trong Điều 51 của Hiến chương Liên hợp quốc” [173]. Hiệp định cũng quy định cơ chế viện trợ và cung cấp cho nhau các thiết bị phục vụ cho việc đảm bảo an ninh Nhật Bản. Ngoài ra, Hiệp

90

định còn quy định: Nhật Bản phải “...hoàn thành các nghĩa vụ quân sự... để phù hợp với sự ổn định chính trị và kinh tế của Nhật Bản,… thực hiện các bước thích hợp để đảm bảo việc sử dụng hiệu quả bất kỳ hỗ trợ nào do Chính phủ Mỹ cung cấp” [123, tr. 49].

Từ năm 1951, cùng thời điểm với việc ký Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ, nước Mỹ thực hiện Chương trình hỗ trợ quân sự (Military Assistance Program - MAP). Đây là chương trình không chỉ dành cho Nhật Bản mà còn cho nhiều nước khác nữa. MAP chủ yếu hỗ trợ thiết bị quân sự cho các nước kèm theo quy định quốc gia nhận hàng không được chuyển các mặt hàng này cho bên thứ ba mà không có sự đồng ý của Mỹ.

Nhật Bản bắt đầu nhận viện trợ từ MAP chính thức vào năm 1954 (chương trình này thực hiện đối với Nhật Bản đến năm 1967 thì kết thúc). Số hỗ trợ quân sự của Mỹ dành cho Nhật Bản đến năm 1960 thể hiện ở bảng sau: Bảng 3.2. Hỗ trợ quân sự của Mỹ dành cho thế giới và Nhật Bản (1951-1960)

Đơn vị tính: Triệu USD

Năm

1951 1952 1953 1954 1955 1956 1957 1958 1959 1960 Cộng Hỗ trợ quân sự của Mỹ dành cho thế giới 980,0 1.481,0 4.159,0 3.296,0 2.396,0 2.920,0 2.078,0 2.325,0 2.050,0 1.697,0 23.382,0 Hỗ trợ quân sự của Mỹ dành cho Nhật Bản 0,0 0,0 0,0 0,5 39,4 97,9 111,0 130,9 131,5 85,8 597

[123, tr. 120]

Như vậy, viện trợ quân sự của Mỹ dành cho Nhật Bản tăng liên tục từ năm 1954 đến năm 1960 và đạt đỉnh vào năm 1959. Từ sau năm 1960 thì giảm: Năm 1961 còn 66,9 triệu USD, năm 1963 còn 34,2 triệu USD [123, tr. 120]. Những số liệu này cho thấy giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1959 là giai đoạn quan trọng nhất trong Chương trình hỗ trợ quân sự mà Mỹ dành cho Nhật Bản. Đây cũng chính là khoảng thời gian Hiệp định hỗ trợ phòng thủ lẫn nhau giữa Mỹ và Nhật Bản bắt đầu được thực hiện. Tháng 7/1954, Nhật Bản thông qua hai đạo luật là Luật Thành lập cơ quan quốc phòng và Luật Lực lượng phòng vệ. Các quy định của hai đạo luật này càng củng cố cơ sở pháp lý cho Nhật Bản để nhận viện trợ quân sự của Mỹ.

91

Trên thực tế, mặc dù thiếu cơ sở pháp lý, bắt đầu từ năm 1950, Nhật Bản đã

nhận viện trợ quân sự của Mỹ, tuy nhiên các số liệu về vấn đề này hầu như được giữ bí mật. Mặc dù số liệu của Mỹ về viện trợ quân sự dành cho Nhật Bản từ năm 1950

đến năm 1954 chưa bao giờ được giải mật, nhưng theo các nguồn tin mà phía Nhật

Bản đưa ra, con số này đạt 210,8 triệu USD cho những năm 1951 - 1953. Trong số đó, lực lượng lục quân (Lực lượng tự vệ trên bộ) của Nhật Bản đã nhận được trang

thiết bị trị giá 88,5 triệu USD, số còn lại thuộc về lực lượng hải quân (Lực lượng tự

vệ trên biển) [123, tr. 52-53].

Năm 1952 và năm 1954, Mỹ và Nhật Bản đã ký hai hiệp định về cho mượn tàu. Theo đó, năm 1952, Mỹ cho Nhật Bản mượn 68 tàu quân sự, bao gồm 18 tàu khu

trục tuần tra và 50 tàu đổ bộ cỡ lớn, năm 1954, Mỹ cho Nhật Bản mượn 159 tàu

(trong đó có 37 tàu đổ bộ và 18 tàu khu trục tuần tra thực tế đã được trả cho Mỹ)

[123, tr. 53]. Như vậy, theo hai hiệp định cho mượn tàu năm 1952 và 1954, Mỹ đã

cho Nhật Bản mượn tổng cộng 227 tàu, trong đó có 55 tàu được trả lại Mỹ. Trong

172 tàu còn lại thì có 170 tàu được chuyển đổi sang dạng viện trợ [174].

Ngoài việc mượn các tàu từ Mỹ, lực lượng hải quân Nhật Bản cũng nhận

được một lượng đáng kể các trang thiết bị khác dưới dạng viện trợ không hoàn lại.

Theo Chương trình hỗ trợ quân sự, lực lượng hải quân đã nhận được khoản viện trợ

263,8 triệu USD, trong đó 54,5 triệu USD được tạo thành từ các tàu được chuyển

đổi sang viện trợ không hoàn lại [123, tr. 54].

Viện trợ quân sự mà Mỹ dành cho lực lượng không quân (lực lượng tự vệ

hàng không) của Nhật Bản bắt đầu từ năm 1955. Trong suốt thời gian Chương trình

hỗ trợ quân sự (tính đến năm 1967), Mỹ viện trợ cho Nhật Bản tổng trị giá 422,3 triệu USD, bao gồm 1.248 máy bay. [123, tr. 55].

Viện trợ không hoàn lại cho lực lượng lục quân (lực lượng tự vệ trên bộ) của

Nhật Bản theo Chương trình hỗ trợ quân sự cũng rất lớn với 226 xe tăng và 295 phương tiện chiến đấu khác. Có tài liệu còn cho rằng, chỉ trong những năm 1951 - 1956, số lượng xe tăng mà Mỹ viện trợ cho Nhật Bản là 782 chiếc. Nhật Bản cũng nhận được 179.000 tấn đạn dược. Ngoài ra, còn có 339 khẩu pháo các loại, 196 tên lửa Nike và 360 tên lửa Hawk… [123, tr. 55].

Có thể thấy, sự hỗ trợ về quân sự của Mỹ chủ yếu phục vụ cho việc tái vũ trang Nhật Bản. Viện trợ không hoàn lại của Mỹ là một trong những nguồn lực mà

Nhật Bản mong muốn để tăng cường hơn nữa khả năng quốc phòng của mình. Về

bản chất, sự tái vũ trang Nhật Bản cũng phương cách hữu hiệu để gia tăng sức mạnh

92

của Mỹ và thắt chặt quan hệ đồng minh Mỹ - Nhật. Việc Mỹ ủng hộ tái vũ trang và

hỗ trợ quân sự cho Nhật Bản trước hết xuất phát từ lợi ích của nước Mỹ. Khi Nhật Bản là đồng minh quan trọng của Mỹ, “cánh tay vươn dài” cho sức mạnh của Mỹ ở

châu Á thì Mỹ muốn Nhật Bản không chỉ là quốc gia có nền kinh tế phát triển, mà

còn muốn Nhật Bản có tiềm lực quân sự nhất định để ổn định tình hình trong nước và hỗ trợ Mỹ đối phó với những đe dọa từ bên ngoài.

Như vậy, từ khi ký kết Hiệp ước Hoà bình San Francisco, Hiệp ước An ninh

Nhật - Mỹ (1951), quan hệ đồng minh giữa Nhật Bản và Mỹ đã được hình thành. Từ

đó đến năm 1960, mối quan hệ giữa hai nước không ngừng được củng cố và phát triển dựa trên lợi ích của mỗi bên. Nhật Bản muốn dựa vào Mỹ để đảm bảo an ninh

quốc gia, trong khi Mỹ coi trọng Nhật Bản để thực hiện chính sách đối ngoại của

mình. Mối quan hệ chính trị - an ninh giữa hai nước được thể hiện qua nhiều vấn đề

cụ thể. Cuộc Chiến tranh Triều Tiên cho thấy sự “cần nhau” giữa Nhật Bản và Mỹ,

đồng thời cũng là cơ hội để Nhật Bản phục hồi, phát triển kinh tế. Hai bên cũng đã

thống nhất về việc Mỹ xây dựng các căn cứ quân sự ở Nhật Bản nhằm giúp đảm

bảo an ninh của Nhật Bản và thực hiện Chiến lược ngăn chặn của Mỹ. Mỹ còn giúp

Nhật Bản tái vũ trang, từng bước gắn chặt nước này vào cuộc Chiến tranh lạnh.

3.2. Quan hệ kinh tế

3.2.1. Tiến trình phát triển của quan hệ kinh tế Nhật Bản - Mỹ trong

những năm 1951 - 1960

Với sự hỗ trợ đắc lực của Mỹ trong những năm sau Chiến tranh thế giới thứ

hai, nhất là việc thực hiện cải cách kinh tế, nền kinh tế Nhật Bản đã chuyển mình

nhanh chóng. Năm 1951, Nhật Bản phục hồi được mức sản xuất trước chiến tranh (1934 - 1936). Sau Hiệp ước Hoà bình San Francisco, Nhật Bản tranh thủ tối đa

điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế. Từ năm 1952, Nhật Bản bước vào thời kỳ

phát triển nhanh mà người ta vẫn gọi là sự phát triển “thần kỳ” kéo dài đến năm 1973. Giai đoạn 1951 - 1960 gần như nằm trọn trong khoảng thời gian của sự phát triển “thần kỳ” đó. Một trong những nguyên nhân để nền kinh tế Nhật Bản có thể phát triển mạnh mẽ như vậy chính là quan hệ giữa quốc gia này với Mỹ.

Chiến tranh Triều Tiên, cuộc chiến tranh mà Mỹ trực tiếp tham gia có sức ảnh hưởng rất lớn đến Nhật Bản không chỉ về mặt chính trị - an ninh mà còn cả kinh tế. Thậm chí, ảnh hưởng về mặt kinh tế còn lấn át cả mặt chính trị - an ninh. Chính

vì vậy, hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng, Chiến tranh Triều Tiên là

“ngọn gió thần” hay “làn gió của Chúa” thổi vào nền kinh tế Nhật Bản.

93

Cuộc chiến tranh bùng nổ đã làm cho tình hình kinh tế Nhật Bản thay đổi bất

ngờ. Để cho các lực lượng vũ trang Mỹ có thể chiến đấu trên chiến trường Triều

Tiên, họ cần phải có một lượng lớn các vật tư, nguyên liệu, phương tiện, vũ khí...

Chính phủ Mỹ quyết định rằng các mặt hàng này sẽ được mua tại Nhật Bản. Vì

khoản này không thuộc các chi phí của lực lượng chiếm đóng (không phải Liên hiệp

quốc chi trả) mà do ngân sách quân sự của Mỹ chi trả. Do đó, Nhật Bản đã trở thành

căn cứ hậu cần của Mỹ. Những đơn hàng mà Nhật Bản nhận được đều đến từ Mỹ,

tập trung vào những hàng đặc biệt và đồ tiếp tế quân sự. Các hàng hoá đặc biệt mà

Mỹ đặt mua ở Nhật Bản là: xe tải, vải bông, vải len, phụ tùng ô tô, than, súng đạn,

dây thép gai, bao tải gai, đồ gỗ và các mặt hàng thiết yếu hàng ngày khác dùng cho

sinh hoạt của binh lính… Cùng với những đơn hàng là các loại dịch vụ kèm theo

như dịch vụ sửa chữa và các dịch vụ khác.

Bảng 3.3. Giá trị hàng hóa và dịch vụ của Mỹ trong Chiến tranh Triều Tiên

Đơn vị tính: Triệu USD

Năm Hàng hoá Dịch vụ

1950 229,995 98,927

1951 235,851 79,767

1952 305,543 188,785

1953 124,700 170,910

[56, tr. 241]

Có thể khẳng định, nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến sự phát triển vượt

bậc của nền kinh tế Nhật Bản những năm đầu thập niên 1950, ngoài các đơn đặt hàng

là số ngoại tệ của Mỹ đổ vào Nhật Bản để giải quyết các khoản chi tiêu của giới quân

sự Mỹ, bao gồm cả những chi tiêu của binh lính và gia đình họ ở Nhật Bản. Số tiền

đó được gọi là khoản “thu nhập đặc biệt”. Trong suốt cuộc Chiến tranh Triều Tiên,

Mỹ đã chi số tiền rất lớn, nếu như hai năm đầu của chiến tranh (1950 - 1951), con số

này là 592 triệu USD, thì năm 1952 và năm 1953 đã tăng lên thành 824 và 809 triệu

USD, bằng 60-70% giá trị xuất khẩu của Nhật Bản. Những năm sau đó (1954 - 1956),

Mỹ vẫn tiếp tục duy trì số tiền này, con số có giảm nhưng hàng năm vẫn đạt trên 500

triệu USD. Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản gọi chi tiêu của Mỹ là “viện

trợ thần thánh” và nói rằng tác động của Chiến tranh Triều Tiên đối với Nhật Bản là

“tương đương với Kế hoạch Marshall ở châu Âu” [101, tr. 4-85].

94

Khi chiến tranh nổ ra, thị trường Nhật Bản đã phát triển bột phát, chủ yếu là

do nhu cầu phục vụ chiến tranh. Hàng xuất khẩu vì thế đã tăng lên nhanh chóng.

Khai thác mỏ và sản xuất công nghiệp của Nhật Bản cũng tăng với nhịp độ nhanh từ

đầu mùa thu năm 1950, tăng khoảng 50% trong năm sau khi chiến tranh bắt đầu

[100, tr. 108]. Do cán cân thanh toán được cải thiện, nguồn vốn dồi dào đã tác động

tích cực đến sự tăng trưởng của nền kinh tế Nhật Bản.

Bảng 3.4. Chỉ số kinh tế Nhật Bản trong và sau Chiến tranh Triều Tiên

Năm 1950 1951 1952 1953 1954 1955 1956

Xuất khẩu (triệu USD) 820 1.355 1.273 1.270 1.629 2.011 2.501

Thu nhập đặc biệt (triệu USD) - 592 824 809 597 557 595

Nhập khẩu (triệu USD) 975 1.995 2.028 2.410 2.399 2.471 3.230

Chỉ số khai mỏ và công nghiệp 22,3 30,8 33,0 40,3 43,7 47,0 57,5 chế tạo (%)

Chỉ số về việc làm thường xuyên 43,3 51,9 53,1 55,6 58,7 60,4 66,2 trong công nghiệp chế tạo (%)

Chỉ số tiền lương danh nghĩa đối 40,2 51,6 60,7 68,1 71,7 74,5 86,4 với công nghiệp chế tạo (%)

Chỉ số tiền lương thực tế đối với 59,5 65,8 73,5 77,4 76,5 80,5 87,5 công nghiệp chế tạo (%)

[71, tr 113]

Khoản “thu nhập đặc biệt” này không chỉ giúp Nhật Bản giải quyết ngay tình

trạng thiếu hụt cán cân thanh toán, mà còn giúp nước này có thêm vốn đầu tư máy

móc, thiết bị để sản xuất công nghiệp… Bên cạnh đó, việc đặt hàng của Mỹ “chẳng

những mở ra thị trường tiêu thụ cho công nghiệp Nhật Bản vốn đang ở trong hoàn

cảnh khốn đốn, mà còn giúp cho Nhật Bản thu được một số lớn ngoại tệ, từ đó kích

thích sự khôi phục và phát triển của nền kinh tế Nhật Bản” [97, tr. 297]. Đồng thời,

do nhu cầu chiến tranh, một số ngành công nghiệp Nhật Bản như đóng tàu, điện,

than, thép không đủ công suất, buộc Chính phủ Nhật Bản phải mở rộng đầu tư cho

các ngành này. Đầu tư máy móc, thiết bị cho các ngành này từ năm 1951 đến năm

1958 tăng hàng năm: năm 1951 là 170.000 triệu Yên, năm 1958 là 518.000 triệu

Yên [71, tr. 110]. Chính điều này cùng với các chính sách khuyến khích của Chính

phủ đã góp phần làm cho nền công nghiệp Nhật Bản trong giai đoạn 1951 - 1960

phát triển rất nhanh, với tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt 15,9%, gấp 6 lần Mỹ

95

(2,6%), gấp 6 lần Anh (2,9%), xấp xỉ 3 lần Pháp (5,4%) và gấp gần 2 lần Tây Đức

(9,4%) [38, tr. 342-343].

Bên cạnh đó, những đơn đặt hàng của Mỹ cũng làm tăng giá bán buôn ở

Nhật Bản. Một năm sau khi bắt đầu cuộc Chiến tranh Triều Tiên, giá bán buôn đã

tăng vọt 47% và giá tiêu thụ tăng 15%. Ngay cả so sánh với Mỹ và Anh, mức tăng

giá này của Nhật Bản cũng cao hơn. Có thể thấy rõ hơn ở bảng dưới đây

Bảng 3.5. Tăng giá của Nhật Bản (so sánh với Mỹ, Anh) trong Chiến tranh Triều Tiên

Đơn vị tính: %

Năm

1949 1950 1951 1952 1953 Giá bán buôn của Nhật Bản 100 118,2 164,1 167,3 168,4 Giá bán buôn của Anh 100 102,4 111,2 111,2 114,7

Giá bán buôn của Mỹ 100 104,5 116,1 112,9 111,5 [100, tr.130] Sau khi Chiến tranh Triều Tiên kết thúc, các đơn đặt hàng quân sự của Mỹ

giảm xuống, nhưng bù lại, công nghiệp Nhật Bản lại nhận được đơn đặt hàng quân

sự của Chính phủ Nhật Bản và nguồn đầu tư của tư bản nước ngoài. Thời gian này,

tư bản nước ngoài đầu tư vào Nhật Bản, chủ yếu là từ Mỹ tăng, nguyên nhân ở chỗ

lợi nhuận ở đây rất cao, đạt tới 12%, trong khi ở các nước tư bản khác thường chỉ là

3-4%, hơn nữa, lương công nhân ở Nhật Bản thấp hơn nhiều so với các nước ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Đây cũng là khoảng thời gian Mỹ dành cho Nhật Bản nhiều khoản

vay tín dụng, chiếm 77% tổng khoản vay tín dụng của tư bản nước ngoài. Những

khoản vay dài hạn được cung cấp trước hết bởi Ngân hàng xuất nhập khẩu Mỹ,

Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế (do Chính phủ Mỹ chi phối). Trong thời gian 1953 - 1959, có tới 90% khoản vay từ hai ngân hàng trên được dùng để phát triển các ngành then chốt của Nhật Bản [66, tr. 252].

Nhìn chung, Chiến tranh Triều Tiên có tác động rất lớn đến nền kinh tế Nhật Bản. Mỹ chính là nhân tố rất quan trọng đưa đến sự thay đổi của nền kinh tế Nhật Bản thông qua những đơn đặt hàng phục vụ cho quân đội trong chiến tranh. “Cú

hích” Chiến tranh Triều Tiên không những tạo cơ sở cho sự phát triển Nhật Bản mà

còn tạo tiền đề cho quan hệ kinh tế giữa hai nước Nhật Bản, Mỹ. Kết quả của chiến

tranh là “Mỹ và Nhật Bản trở nên gần gũi hơn về mặt kinh tế” [101, tr. 86].

96

Ngày 2/4/1953, tại Tokyo, Nhật Bản và Mỹ ký Hiệp định hợp tác, buôn bán

và hàng hải. Trong hiệp định này, hai nước khẳng định “mong muốn tăng cường mối quan hệ hòa bình và hữu nghị truyền thống đã có, khuyến khích các mối quan

hệ kinh tế và văn hóa chặt chẽ hơn và nhận thức rõ những đóng góp có thể được

thực hiện cho những mục đích này bằng cách thúc đẩy quan hệ thương mại cùng có lợi, khuyến khích đầu tư cùng có lợi” [170]. Hiệp định bao gồm 25 điều quy

định những vấn đề về hợp tác thương mại và hàng hải giữa hai nước. Trong đó, từ

Điều I đến Điều XVIII là các quy định về vấn đề thương mại giữa hai bên. Theo

Hiệp định này, Nhật Bản và Mỹ đã tạo những điều kiện tốt nhất cho các cá nhân, doanh nghiệp hai bên hoạt động thương mại ở quốc gia mình, như được tự do kinh

doanh, được bảo đảm an ninh, tài sản, được hỗ trợ các thủ tục pháp lý và nhiều

vấn đề liên quan khác.

Việc ký kết Hiệp định hợp tác, buôn bán và hàng hải giữa Nhật Bản và Mỹ

là sự kiện quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ kinh tế giữa hai

nước. Nó đã tạo cơ chế cho việc đẩy mạnh hoạt động xuất, nhập khẩu giữa hai

nước. Từ đó, quan hệ kinh tế, nhất là trên lĩnh vực thương mại có sự tăng trưởng

mạnh mẽ.

Ngày 8/3/1954, hai nước ký hiệp định về các biện pháp kinh tế. Hiệp định

gồm 5 điều khoản, tập trung quy định những biện pháp nhằm phát triển kinh tế giữa

hai bên. Trong đó, Chính phủ Nhật bản và Mỹ khẳng định đề cao sự ổn định kinh tế,

coi đó là điều cần thiết cho hòa bình và an ninh quốc tế. Chính phủ Mỹ cam kết hỗ

trợ phát triển nông nghiệp và công nghiệp của Nhật Bản… Cùng ngày, hai bên lại

ký Thoả thuận mua bán nông sản gồm 7 điều khoản. Nội dung chủ yếu là những thoả thuận về việc hai nước mua bán, thanh toán khi mua nông sản của nhau.

Cũng trong ngày 8/3/1954, Nhật Bản và Mỹ còn ký Hiệp định Bảo lãnh Đầu

tư Nhật - Mỹ. Hiệp định bao gồm 3 điều khoản, chủ yếu quy định về việc đảm bảo đầu tư song phương, chủ yếu là từ phía Mỹ đối với Nhật Bản.

Trong chuyến thăm Mỹ của Thủ tướng Nhật Bản Yoshida vào tháng 11/1954, lãnh đạo hai nước đã thảo luận chi tiết về tình hình kinh tế của Nhật Bản. Hai bên cho rằng, sự thịnh vượng kinh tế của Nhật Bản là một vấn đề quan trọng đối với thế giới. Việc phát triển kinh tế ở Nhật Bản một phần phụ thuộc vào khả năng của chính người dân Nhật Bản, một phần phụ thuộc vào khả năng mở rộng thương mại với các nước

khác. Từ khi chiến tranh kết thúc, Mỹ đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế

của Nhật Bản. Tuyên bố chung của Thủ tướng Shigeru Yoshida và Tổng thống D.

97

Eisenhower ngày 10/11/1954, nêu rõ: “Mỹ nhận thức được những nỗ lực mà Nhật

Bản đang thực hiện để giải quyết khó khăn về kinh tế và sẽ tiếp tục xem xét để có thể hỗ trợ người dân Nhật Bản cải thiện cuộc sống của mình” [127].

Cũng trong chuyến thăm này, chính phủ hai nước đã đạt được thỏa thuận

chung về hợp tác kinh tế. Theo đó, Mỹ sẽ giúp đỡ Nhật Bản mở rộng ngoại thương và cân bằng quan hệ kinh tế đối ngoại. Mỹ sẽ bán cho Nhật Bản các mặt hàng nông

sản, thực hiện một chương trình tăng năng suất cho các lĩnh vực kinh tế. Ngoài ra,

Mỹ sẽ hỗ trợ tài chính để Nhật Bản cải thiện kinh tế trong nước cũng như phát triển

kinh tế khu vực…

Trong chuyến thăm Mỹ vào tháng 6/1957, Thủ tướng Nhật Bản Kishi đã

cùng Tổng thống Mỹ D. Eisenhower thảo luận nhiều vấn đề về quan hệ kinh tế giữa

hai nước. Hai nhà lãnh đạo khẳng định không chỉ mong muốn duy trì quan hệ

thương mại ở mức cao mà còn đẩy mạnh quan hệ chặt chẽ trên các lĩnh vực kinh tế

khác. Thủ tướng Kishi bày tỏ lo ngại khi Mỹ có động thái hạn chế nhập khẩu và

khẳng định tầm quan trọng hàng đầu của thị trường Mỹ đối với thương mại Nhật

Bản và Nhật Bản đang thực hiện các biện pháp để phát triển hàng xuất khẩu sang

Mỹ. Trong khi đó, Tổng thống D. Eisenhower khẳng định, Chính phủ Mỹ sẽ duy trì

chính sách truyền thống về thương mại ở mức độ cao mà không có những hạn chế

tùy tiện và không cần thiết với Nhật Bản. Tổng thống bày tỏ hy vọng về việc dỡ bỏ

các hạn chế của địa phương đối với các sản phẩm của Nhật Bản [128].

Một vấn đề quan trọng trong quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ trong giai

đoạn 1951 - 1960 là vai trò của Mỹ trong việc hội nhập kinh tế quốc tế của Nhật

Bản. Với vị trí của nền kinh tế Mỹ trong thế giới TBCN, Mỹ đã giúp đỡ Nhật Bản từng bước tham gia vào những tổ chức kinh tế quốc tế và mở rộng hoạt động

thương mại với nhiều nước.

Sau khi nắm quyền ở Mỹ, chính quyền của Tổng thống D. Eisenhower chủ trương hướng nền kinh tế Nhật Bản theo quỹ đạo phương Tây, hỗ trợ Nhật Bản phát triển quan hệ thương mại với phương Tây. Không giống như hầu hết các đảng viên Cộng hòa, D. Eisenhower ủng hộ tự do thương mại. Vấn đề Mỹ quan tâm đầu tiên là việc Nhật Bản gia nhập vào các hiệp định thương mại của phương Tây, trong đó quan trọng nhất là tham gia vào GATT (tiền thân của Tổ chức Thương mại thế giới về sau). Từ năm 1953, Mỹ bắt đầu giúp đỡ Nhật gia nhập GATT. Để giúp đỡ Nhật Bản

gia nhập tổ chức này, Mỹ đã thành lập một bộ phận chuyên trách với nhiệm vụ đảm

bảo cho Nhật Bản được đàm phán gia nhập trên cơ sở hoàn toàn bình đẳng. Tuy

98

nhiên, quá trình đàm phán gặp nhiều khó khăn, do ý kiến trái chiều của nhiều nước,

trong đó có Anh. Cuối cùng, năm 1954, 27 quốc gia thành viên GATT đã mời Nhật Bản tham gia nhưng không có quyền biểu quyết chính thức. Đến năm 1955, Nhật Bản

mới trở thành thành viên chính thức của GATT. Ngoài ra, Nhật Bản cũng gia nhập

Ngân hàng Thế giới vào tháng 8/1952. Bắt đầu từ năm 1953, với các khoản vay của Ngân hàng Thế giới (WB), một số dự án kinh tế đã được thực hiện ở Nhật Bản, như

sản xuất điện, phát triển các ngành công nghiệp cơ bản, giao thông, cấp nước và cơ sở

hạ tầng [166]. Cũng vào tháng 8/1952, Nhật Bản gia nhập Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF),

nhưng xin bảo lưu không tham gia (Điều 8 của tổ chức này quy định các nước thành viên không được hạn chế trao đổi ngoại tệ dù cho nhập siêu tăng lên) [91, tr. 65].

Với sự giúp đỡ của Mỹ, cùng với chính sách thích hợp của Chính phủ Nhật

Bản như chính sách tập trung vào xuất khẩu, chính sách miễn thuế quan và nhiều

biện pháp khác, nền kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn 1951 - 1960 phát triển nhanh.

Hoạt động xuất nhập khẩu có nhiều chuyển biến. Giá trị xuất nhập khẩu của Nhật

Bản trong giai đoạn này được thể hiện ở bảng sau:

Bảng 3.6. Giá trị xuất, nhập khẩu của Nhật Bản (1951 - 1960)

Đơn vị tính: 1.000 Yên

Năm 1951 1952 1953 1954 1955 1956 1957 1958 1959 1960 Xuất khẩu 488.776.775 458.243.197 458.943.408 586.525.032 723.815.976 900.229.011 1.028.886.636 1.035.561.686 1.244.337.203 1.459.633.161 Nhập khẩu 737.241.298 730.351.682 867.469.443 863.785.437 889.714.970 1.162.704.360 1.542.090.900 1.091.924.896 1.295.816.732 1.616.807.363

[145]

Có thể thấy, giá trị xuất khẩu của Nhật Bản tăng đều hàng năm, từ hơn 488 tỷ Yên năm 1951, tăng lên hơn 900 tỷ Yên năm 1956 và gần 1.500 tỷ Yên năm 1960. Nhập khẩu cũng tăng nhanh, từ hơn 737 tỷ Yên năm 1951 lên hơn 1.162 tỷ Yên

năm 1956 và đạt hơn 1.616 tỷ Yên năm 1960. Sau khi kết thúc Chiến tranh Triều Tiền, thị trường thương mại của Nhật Bản được đa dạng hoá (gồm cả với các nước

phương Tây, Đông Nam Á, Đài Loan và CHND Trung Hoa...). Tuy nhiên, với sự

99

giúp đỡ của Mỹ và do truyền thống quan hệ kinh tế giữa hai nước nên phần lớn giá

trị xuất nhập khẩu của Nhật Bản là với Mỹ.

Trong thị trường xuất khẩu thế giới, thị phần của Nhật Bản giai đoạn này

tăng nhanh. Năm 1955, trong tổng số xuất khẩu của thế giới (không kể Liên Xô, các

nước Đông Âu và CHND Trung Hoa), Nhật Bản chiếm 2,4%, năm 1960 chiếm 3,6%. Thị phần của Nhật Bản trong xuất khẩu hàng công nghiệp thế giới năm 1955

là 4,3%, năm 1960 là 5,9%. Thị phần trong xuất khẩu các loại máy móc thế giới (kể

cả xe hơi và xe vận tải) năm 1955 là 1,7%, năm 1960 là 3,9% [91, tr. 79].

Như vậy, quan hệ kinh tế Nhật Bản - Mỹ trong giai đoạn 1951 - 1960 chịu ảnh

hưởng của mối quan hệ đồng minh giữa hai nước. Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ đã

tạo cho Nhật Bản “chiếc ô hạt nhân” để bảo vệ Nhật Bản, giúp quốc gia này tập trung

vào phát triển kinh tế. Học thuyết Yoshida mà một trong những nội dung của nó là

“ngoại giao kinh tế” vì thế đạt được nhiều thành công. Không chỉ bảo đảm về an

ninh, Mỹ còn đảm bảo cho sự phát triển của nền kinh tế của Nhật Bản. Đó là một

trong những lý do để Nhật Bản đạt được “phép màu kinh tế” trong giai đoạn này.

3.2.2. Các lĩnh vực trong quan hệ kinh tế

3.2.2.1. Quan hệ thương mại

Trong giai đoạn 1951 - 1960, quan hệ thương mại Nhật Bản và Mỹ đạt được

nhiều kết quả và không ngừng phát triển. Trước hết, hai nước đã thường xuyên đưa

ra những biện pháp để thúc đẩy xuất khẩu.

Về phía Nhật Bản, trong những năm 50, Nhật Bản theo đuổi chính sách

“kinh tế trên hết”. Vì mục đích phát triển kinh tế, Nhật Bản chấp nhận sự thụ động

về mặt ngoại giao, về các vấn đề quốc tế và luôn xem xét tác động của chúng đối

với nền kinh tế. Chính sách này đã có hiệu quả trong việc phục hồi nhanh chóng và

phát triển của nền kinh tế của Nhật Bản. Quan hệ thương mại của Nhật Bản với các

nước được thiết lập và ngày càng mở rộng.

Ngay từ tháng 12/1949, Nhật Bản ban hành Luật trao đổi với nước ngoài và kiểm soát ngoại thương (FEFTCL - Foreign Exchange and Foreign Trade Control Law), chấm dứt tình trạng tất cả các mặt hàng xuất khẩu đều phải được cấp giấy phép. Với việc ban hành FEFTCL, xuất khẩu được phép tự do, ngoại trừ một số mặt hàng được chỉ định, chẳng hạn như những mặt hàng có tính chất chiến lược, những mặt hàng thiếu hụt trong nước... Bộ Tài chính Nhật Bản kiểm soát xuất khẩu để điều chỉnh quan hệ thương mại với các nước, các khu vực. Trong quan hệ thương mại với các nước, Nhật Bản chủ trương ưu tiên cho việc xuất khẩu sang những quốc gia sử dụng giao dịch bằng đồng USD, không khuyến khích xuất khẩu hàng hóa

100

sang khu vực đồng Bảng Anh. Mặc dù chính sách khuyến khích xuất khẩu của Chính phủ Nhật trong những năm 50 không thông thoáng như chính sách tự do hoá thương mại trong những năm 60, nhưng đã có tác động lớn đối với quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và Mỹ.

Trong khi khuyến khích xuất khẩu thì Nhật Bản chủ trương kiểm soát nhập khẩu. Các mặt hàng nhập khẩu phải được cấp giấy phép. Giấy phép nhập khẩu quy định số lượng tối đa cho hàng hóa nhập khẩu tổng thể cũng như riêng lẻ. Việc cấp giấy phép này khá dễ dàng cho nhiều mặt hàng như thực phẩm, nguyên liệu thô và máy móc thiết bị cụ thể, nhưng khá khó khăn đối với với hàng tiêu dùng, đặc biệt là những mặt hàng xa xỉ [159, tr. 9]. Các thủ tục nhập khẩu đều do Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế của Nhật Bản (MITI) quản lý.

Về phía Mỹ, trong giai đoạn 1951 - 1960, Mỹ duy trì quan hệ đồng minh với Nhật Bản cả trong lĩnh vực kinh tế. Những mục tiêu về chính trị - an ninh của Mỹ ở Nhật Bản đã càng thắt chặt quan hệ kinh tế, trong đó có thương mại giữa hai nước. Sau khi Nhật Bản hết thời gian bị chiếm đóng, Mỹ đã thúc ép Nhật Bản duy trì các biện pháp kiểm soát thương mại với khối các nước XHCN, thực thi kiểm soát chất lượng đối với các sản phẩm xuất khẩu. Ở một góc độ nào đó, chính sách của Mỹ đã góp phần định hình nền kinh tế Nhật Bản và các mô hình tương tác của Nhật Bản với thế giới bên ngoài. Trong giai đoạn này, quan hệ thương mại giữa hai nước là “quan hệ giữa người bảo trợ và người được bảo trợ, trong đó Mỹ đã dành cho Nhật Bản sự ủng hộ và bảo vệ một cách đơn phương như một người bảo trợ có quyền lực và đã giúp Nhật Bản đi vào cộng đồng quốc tế” [54].

Chính vì vậy, mặc dù Quốc hội Mỹ nhiều lần tranh cãi về những ưu đãi kinh tế của Mỹ đối với Nhật Bản, nhưng nhìn chung, Mỹ vẫn dành cho Nhật Bản nhiều điều kiện thuận lợi trong quan hệ thương mại. Tổng thống D. Eisenhower “đã thúc ép Nhật Bản tăng cường tiếp cận thị trường Mỹ và trở thành thành viên của GATT, định hướng lại hoạt động ngoại thương của Nhật Bản về phía Tây và gắn kết Nhật Bản với nền kinh tế Mỹ” [101, tr. 4]. Bởi vậy, sau khi Nhật Bản tham gia vào GATT, Mỹ có nhiều thuận lợi trong triển khai quan hệ thương mại với Nhật Bản.

Ngoài những những văn bản quy định cụ thể cho từng lĩnh vực thương mại, Hiệp định hợp tác, buôn bán và hàng hải mà hai nước ký ngày 2/4/1953 là cơ sở quan trọng nhất để phát triển quan hệ thương mại giữa hai bên. Điều VII của Hiệp định quy định: “Các công dân và công ty của một trong hai bên sẽ được quyền tham gia vào tất cả các loại hình thương mại, hoạt động công nghiệp, tài chính và các hoạt động kinh doanh khác trong lãnh thổ của bên kia cho dù là trực tiếp hoặc đại lý hoặc thông qua phương tiện của bất kỳ hình thức pháp nhân hợp pháp nào. Những công dân và công ty đó sẽ được phép trong các lãnh thổ nước bên kia: (a)

101

thành lập và duy trì các chi nhánh, cơ quan, văn phòng, nhà máy và các cơ sở khác phù hợp với hoạt động kinh doanh của họ; (b) tổ chức các công ty theo pháp luật của bên kia; (c) kiểm soát và quản lý các doanh nghiệp mà họ đã thành lập hoặc mua lại. Hơn nữa, các doanh nghiệp mà họ kiểm soát, cho dù dưới hình thức sở hữu cá nhân, công ty hay hình thức khác… sẽ được đối xử như các doanh nghiệp được kiểm soát bởi các công dân và công ty của bên khác” [170], [189]. Điểm 1, Điều XII cũng quy định rõ: “Các công dân và công ty của một trong hai bên sẽ được đối xử theo quy định của bên kia và đối xử tối huệ quốc đối với các khoản thanh toán, chuyển tiền và các công cụ tài chính khác…” [170], [189].

Hiệp định hợp tác, buôn bán và hàng hải đánh dấu hai nước bình thường quan hệ thương mại kể từ năm 1939. Hiệp định đã có những quy định cụ thể liên quan đến hoạt động thương mại giữa hai nước với nhau. Hai bên thống nhất sẽ dành cho nhau sự tự do thương mại và hàng hải như quy định tại Điều XIX. Tuy nhiên, hai bên không được tự do buôn bán các mặt hàng vàng, bạc, các vật liệu có thể phân hạch, các sản phẩm có nguồn gốc từ vật liệu có thể phân hạch… Việc sản xuất hoặc vận chuyển vũ khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh được quy định ở văn bản khác. Từ năm 1951 đến năm 1960, hai nước đã triển khai các hoạt động xuất nhập khẩu. Số liệu cụ thể về cán cân thương mại của Mỹ với Nhật Bản được thể hiện ở bảng dưới đây:

Bảng 3.7. Cán cân thương mại của Nhật Bản với Mỹ (1951 - 1960)

Đơn vị tính: Triệu USD Cán cân

- 396 - 404 - 424 - 414 - 251 - 440 - 718 - 321

Năm 1951 1952 1953 1954 1955 1956 1957 1958 1959 1960 Nhập khẩu 601 633 686 693 683 998 1.319 987 1.079 1.447 Xuất khẩu 205 229 262 279 432 558 601 666 1.029 1.149 - 50 - 298

[101, tr. 10]

Trong quan hệ thương mại giữa hai nước, xuất khẩu của Mỹ đến Nhật Bản hàng năm luôn lớn hơn chiều ngược lại và giá trị tăng liên tục: từ 601 triệu USD

năm 1951 lên 1.319 triệu USD năm 1957 và 1.447 triệu USD năm 1960. Trong

khi đó, ở chiều ngược lại, xuất khẩu từ Nhật Bản giá trị tuy còn khiêm tốn nhưng

vẫn tăng liên tục: từ 205 triệu USD năm 1951, lên 718 triệu USD năm 1957 và

102

1.149 triệu USD năm 1960. Nhìn vào số liệu nói trên có thể thấy, trong quan hệ

với Mỹ, Nhật Bản là nước nhập siêu, tuy nhiên cán cân ngày càng nhỏ dần. Năm 1951, cán cân xuất khẩu so với nhập khẩu của Mỹ là 396 triệu USD và chiều

ngược lại đối với Nhật là -396 triệu USD. Năm 1960, cán cân xuất khẩu so với

nhập khẩu của Mỹ là 298 triệu USD và chiều ngược lại đối với Nhật là -298 triệu USD. Năm 1951, giá trị xuất khẩu của Mỹ hơn giá trị nhập khẩu là 1,93 lần, năm

1956 hơn 1,78 lần, đến năm 1960 chỉ còn hơn 1,25 lần. Điều này cho thấy, nhập

siêu của Nhật Bản ngày càng giảm, giá trị xuất khẩu của Nhật Bản vào Mỹ ngày

càng tăng.

Cũng trong khoảng thời gian này, so sánh tình hình xuất nhập khẩu của

Nhật Bản đối với CHND Trung Hoa như sau (tính bằng triệu Yên): Về nhập

khẩu: Năm 1951 đạt 7.778 triệu, năm 1956 đạt 20.113 triệu, năm 7.462 triệu; về

xuất khẩu: Năm 1951 đạt 2.098 triệu, năm 1956 đạt 24.242 triệu, năm 1960 đạt

981 triệu [101, tr. 15-16]. Có thể thấy, hoạt động xuất khẩu của Nhật Bản với

Mỹ ổn định hơn, trong khi đối với CHND Trung Hoa không ổn định, tăng giảm

thất thường. Giá trị xuất nhập khẩu của Nhật Bản từ CHND Trung Hoa cũng

thấp hơn so với Mỹ. Chỉ tính riêng năm 1951, nhập khẩu của Nhật Bản từ CHND

Trung Hoa là 21,6 triệu USD, chỉ chiếm 1,1% tổng kim ngạch nhập khẩu [101,

tr. 15]. Điều này cũng cho thấy Mỹ đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động

xuất nhập khẩu của Nhật Bản.

Trong tương quan xuất nhập khẩu giữa Nhật Bản với các khu vực trên thế

giới thì quan hệ thương mại Nhật Bản và Mỹ rất nổi trội. Bảng dưới đây là tổng

hợp khối lượng xuất nhập khẩu của Nhật Bản đối với các khu vực năm 1950, 1955 và 1960:

Bảng 3.8. Khối lượng xuất nhập khẩu giữa Nhật Bản với Mỹ và các khu vực năm 1950, 1955, 1960

Khu vực

Mỹ Châu Á Châu Âu Nam Mỹ Châu Phi Châu Úc 1950 64.547 137.931 35.893 11.166 26.554 10.789 Xuất khẩu 1955 161.732 303.460 74.086 53.533 74.009 27.181 1960 389.837 540.325 178.200 64.657 126.637 71.763 Đơn vị: Triệu Yên Nhập khẩu 1955 278.021 325.421 62.999 37.432 22.664 73.569 1960 556.334 506.550 161.442 52.109 59.002 145.955 1950 150.565 113.587 13.871 14.172 9.454 30.389

[101, tr. 18, 20]

103

Nhìn vào bảng trên có thể thấy, xuất khẩu của Nhật Bản tới Mỹ các năm

1950, 1955, 1960 lớn hơn rất nhiều so với châu Âu, Nam Mỹ, châu Phi và châu Úc (mỗi châu lục lại có rất nhiều quốc gia). Giá trị xuất khẩu của Nhật Bản tới Mỹ chỉ

đứng sau châu Á do điều kiện địa lý gần gũi hơn. Còn về khối lượng nhập khẩu, Mỹ

là quốc gia mà Nhật Bản nhập khẩu nhiều nhất so với các khu vực. So với châu Á, nhập khẩu của Nhật Bản từ Mỹ năm 1950 nhiều hơn 37.128 triệu Yên, năm 1960

hơn 49.784 triệu Yên. Chỉ có năm 1955 là thấp hơn 47.400 triệu Yên.

Năm 1954, Nhật Bản vượt qua Philippines để trở thành nhà xuất khẩu hàng hóa lớn nhất ở Đông Á sang Mỹ. Đến năm 1957, hàng xuất khẩu của Nhật Bản chiếm hơn một nửa tổng số hàng hóa Đông Á; năm 1960 tỷ lệ này lên đến 55%. Bốn quốc gia có kim ngạch thương mại với Mỹ lớn nhất là Nhật Bản, Mã Lai/Singapore, Indonesia và Philippines, chiếm gần 90% kim ngạch nhập khẩu của Đông Á sang Mỹ và nhận 95% xuất khẩu từ Mỹ [125, tr. 25].

Điều này cho thấy sự khăng khít trong quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và Mỹ cũng như sự quan trọng của Mỹ đối với nền kinh tế Nhật Bản. Trên thực tế, Chính phủ Nhật Bản luôn mong muốn các mối quan hệ chính trị ổn định và không muốn có rủi ro cho việc tiếp cận thị trường Mỹ. Trong khi đó, Chính phủ Mỹ cũng muốn gia tăng quan hệ thương mại với Nhật Bản để loại bỏ khả năng nền kinh tế Nhật Bản bị tác động từ phía CHND Trung Hoa hoặc khối cộng sản. Sau khi Nhật Bản gia nhập GATT, hoạt động ngoại thương của Nhật Bản vẫn chủ yếu xoay quanh trục kinh tế song phương với Mỹ. Chính vì vậy, có lúc, cả hai chính phủ đã can thiệp vào thị trường theo những cách không phù hợp với các nguyên tắc của thương mại tự do.

Nhật Bản xuất khẩu đến Mỹ chủ yếu là những mặt hàng thế mạnh của mình như hàng dệt may, bông, lúa mì, thịt bò… Trong đó, hàng dệt may là sản phẩm chủ lực được xuất khẩu sang Mỹ với số lượng lớn, thậm chí gây nên sự phản đối của các nhà sản xuất hàng dệt may ở Mỹ.

Nhật Bản nhập khẩu từ Mỹ những mặt hàng mà trong nước thiếu hoặc cần thiết cho việc phục hồi và phát triển kinh tế như thiết bị kỹ thuật, công nghệ, năng lượng, đồ quân sự, nhiên liệu, nguyên liệu, lương thực, hoá chất, sản phẩm chế tạo… Mặt hàng nhập khẩu quan trọng nhất của Nhật Bản là về kỹ thuật, công nghệ. Nhật Bản rất chú trọng đến việc tận dụng lợi thế của nước “đi sau” để du nhập công nghệ tiên tiến của các nước để rút ngắn khoảng cách với những nước tiên tiến, con đường đó ngắn hơn nhiều việc tập trung đầu tư tìm tòi công nghệ mới. Tính từ năm 1950 đến năm 1974, Nhật Bản nhập khẩu kỹ thuật của nước ngoài lên tới 15.289 vụ,

104

trong đó năm 1950 có 27 vụ và năm 1970 là 1.572 vụ, tăng 58 lần. Trong đó, gần 70% là nhập từ Mỹ, hơn 10% từ Tây Đức [94, tr. 241]. Con số nhập công nghệ cụ thể năm 1955 và 1960 là: Năm 1955 Nhật Bản nhập 186 vụ với giá trị 20 triệu USD; năm 1960 nhập 588 vụ với giá trị lên đến 95 triệu USD. Trong khi đó, số tiền Nhật Bản đầu tự sản xuất công nghệ năm 1955 là 0,2 triệu USD, năm 1960 là 2 triệu USD [91, tr. 209]. Những hợp đồng nhập kỹ thuật, công nghệ chủ yếu liên quan đến các ngành chế tạo máy, hoá chất, luyện kim,... Từ các sản phẩm nhập khẩu đó, Nhật Bản đã nỗ lực đổi mới, nâng cao, biến chúng thành kỹ thuật riêng, qua đó đóng góp vào tiến bộ khoa học và kỹ thuật của nhân loại.

Nhờ nhập kỹ thuật và phương pháp sản xuất hiện đại của nước ngoài nên Nhật Bản đã đẩy nhanh tốc độ phát triển nhiều ngành công nghiệp mới, làm cho cơ cấu công nghiệp thay đổi sâu sắc theo chiều hướng có lợi cho việc đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế. Việc nhập khẩu kỹ thuật còn giúp Nhật Bản nhanh chóng nâng cao năng suất lao động xã hội. Theo các nhà kinh tế Nhật Bản, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân hàng năm từ năm 1955 đến năm 1966 ở Nhật Bản là 9,4% [94, tr. 242]. Trong quan hệ thương mại song phương, Nhật Bản và Mỹ đạt nhiều kết quả, tuy nhiên cũng gặp không ít khó khăn. Với mong muốn khôi phục và phát triển nền kinh tế sau chiến tranh, Nhật Bản chủ trương xây dựng nền kinh tế mang nặng tính dân tộc, bảo hộ các ngành sản xuất đang còn nhỏ bé của mình nên đã đề ra một số biện pháp bảo hộ kinh tế trong nước, hạn chế nhập khẩu. Trong khi đó, giới kinh doanh Mỹ luôn đòi hỏi sự bình đẳng trong kinh doanh, phải xem Nhật Bản như các đối tác kinh tế khác, không có sự ưu ái như Chính phủ Mỹ vẫn làm. “Cuộc chiến” về thương mại giữa hai nước xuất hiện trong những năm 1958 - 1960 khi nền kinh tế Nhật Bản có tốc độ phát triển rất cao và khi Mỹ đã trở thành thị trường nước ngoài quan trọng nhất của Nhật Bản. Xung đột thương mại xuất hiện trong nhiều ngành, trong đó mạnh nhất là hàng dệt may. Các bang ở miền Nam nước Mỹ đã thông qua luật yêu cầu dán nhãn cho tất cả các mặt hàng dệt may không phải do Mỹ sản xuất. Cũng vì điều này mà hai nước đã đạt được một thỏa thuận 5 năm về hạn chế xuất khẩu của Nhật Bản sang Mỹ [104, tr. 205].

Bên cạnh đó, yếu tố chính trị cũng tác động sâu sắc đến quan hệ thương mại Nhật Bản - Mỹ. Điều đó được chứng minh bằng việc Mỹ không ủng hộ Nhật Bản phát triển ngoại thương với CHND Trung Hoa ở cấp độ nhà nước. Mỹ cũng nỗ lực chống lại việc CHND Trung Hoa và khối cộng sản cản trở việc Nhật Bản tiếp cận thị trường Mỹ. Chính vì vậy, hoạt động thương mại của Nhật Bản với CHND Trung Hoa và các nước XHCN bị hạn chế nhiều. Nhật Bản “mặc dù không nhiệt tình, những đã tuân theo sự chỉ đạo của Mỹ về chính sách Trung Quốc và duy trì các hạn

105

chế thương mại với khối cộng sản” [101, tr. 200]. Trong khi đó, Mỹ tìm cách để lôi kéo nền kinh tế Nhật Bản theo quỹ đạo với các nước phương Tây.

3.2.2.2. Quan hệ đầu tư Một đặc điểm nổi bật của sự phát triển kinh tế Nhật Bản trong những năm 50 là lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nước này rất hạn chế. Một phần nguyên nhân là từ phía Chính phủ Nhật Bản khi tăng cường chế độ kiểm soát vốn, tạo thành một “cửa lưới” đối với nhiều quốc gia muốn đầu tư vào Nhật Bản. Bộ Tài chính Nhật Bản thành lập Ủy ban Đầu tư nước ngoài (sau đổi tên thành Hội đồng Đầu tư nước ngoài) để tăng cường kiểm soát chặt chẽ đầu tư. Những chính sách đó cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa bảo hộ kinh tế của Nhật Bản. Mặt khác, một lý do nữa để Nhật Bản thực hiện chính sách này là sự phụ thuộc vào sự đầu tư của Mỹ, dựa vào Mỹ để phát triển kinh tế.

Ngày 2/4/1953, Mỹ và Nhật Bản ký Hiệp định Hợp tác, buôn bán và hàng hải, trong đó quy định những đặc quyền của Mỹ trong việc đầu tư vào Nhật Bản [95, tr. 33]. Chính vì vậy, trong giai đoạn 1951 - 1960, trong khi đầu tư trực tiếp của các nước đến Nhật Bản không nhiều thì đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Nhật Bản vẫn tăng hàng năm. Nếu như năm 1950 mới chỉ có 19 triệu USD thì năm 1955 là 129 triệu USD, năm 1960 đạt 254 triệu USD [101, tr. 180]. Kết quả đầu tư này chưa lớn và tốc độ tăng chậm. Một trong những nguyên nhân của nó là Chính phủ Nhật Bản áp dụng chính sách kiểm soát vốn từ nước ngoài.

Đầu tư của Mỹ vào Nhật Bản so với tổng số vốn đầu tư trực tiếp của Mỹ đối các khu vực và một số nước khác còn khá khiêm tốn. Điều đó được thể hiện ở bảng dưới đây:

Bảng 3.9. Đầu tư trực tiếp của Mỹ đến các quốc gia, khu vực trong các năm 1951, 1955, 1960

Đơn vị tính: Triệu USD

Khu vực, quốc gia 1950 1955 1960

Nhật Bản Canada Mỹ Latinh Anh Các nước châu Âu khác Châu Phi (không bao gồm Nam Phi) Trung Đông Đông Á (trừ Nhật Bản) …. Tổng 19 3.575 4.445 847 886 287 692 290 … 11.788 129 6.494 6.233 1.426 1.591 572 1.014 483 … 19.313 254 11.179 7.481 3.234 3.457 639 1.139 984 … 31.865

[101, tr. 180]

106

Có thể thấy, đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Nhật Bản khá thấp so với đầu tư vào các quốc gia, khu vực và thế giới. So sánh riêng với đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Nhật Bản và đầu tư trực tiếp của Mỹ trên toàn thế giới, tỷ lệ đó là: Năm 1950: 19/11.788 triệu USD bằng 0,161%; năm 1955: 129/19.313 tương đương 0,667%; năm 1960: 254/31.865 triệu USD tương đương 0,797%. Mỹ dành nguồn vốn lớn đầu tư cho các nước Mỹ Latinh, Canada, châu Âu… là những quốc gia và khu vực có vị trí đặc biệt đối với Mỹ.

Tuy nhiên, so sánh đầu tư trực tiếp của Mỹ với Nhật Bản với một số quốc gia

ở châu Á thì sự chênh lệch không lớn. Bảng dưới đây thể hiện điều đó.

Bảng 3.10. Đầu tư của Mỹ ở Nhật Bản, Indonesia, Philippines (1951-1960)

101 79 189 209 163 387 181 196 341 140 100 270 75 66 179 112 55 219 185 169 306 Quốc gia 48 Nhật Bản Indonesia 66 Philippines 163 Đơn vị tính: Triệu USD 1951 1952 1953 1954 1955 1956 1957 1958 1959 1960 254 178 414

129 75 231 [125, tr. 198] Nhìn bảng trên ta thấy, đầu tư của Mỹ vào Nhật Bản tăng liên tục, nhưng vẫn còn thấp, thấp hơn cả Philippines. Điều này xuất phát từ nhiều yếu tố: các quy định nghiêm ngặt, yêu cầu cấp phép và quyền sở hữu ở Nhật Bản; thuế suất; sự hấp dẫn của các khu vực khác ở nước ngoài. Quan trọng nhất là rất ít công ty Mỹ muốn đánh cược vào tương lai của Nhật Bản - một đất nước xa xôi, thị trường nội địa nghèo nàn và đòi hỏi một khoản đầu tư đáng kể về thời gian và tiền bạc. Trong khi đó, Philippines là quốc gia mà Mỹ đã thiết lập được ảnh hưởng mang tính truyền thống, từ đầu thế kỷ XX.

Hơn nữa, sở dĩ con số đầu tư của Mỹ vào Nhật Bản khiêm tốn như vậy là do Mỹ còn dành cho Nhật Bản một số lượng lớn viện trợ và các đơn hàng đặc biệt khác phục vụ cho hoạt động quân sự của Mỹ tại đây. Trên thực tế, tổng số tiền các khoản mà Mỹ đầu tư cho Nhật Bản là rất lớn. Chỉ tính từ năm 1953 đến năm 1960, tính tất cả các khoản, Mỹ đã đổ hơn 4 tỷ USD vào nền kinh tế Nhật Bản [125, tr. 26]. Nhật Bản đã trở thành trung tâm kinh tế ở Đông Á và là một trong ba đối tác kinh tế hàng đầu của Mỹ trên thế giới, chỉ đứng sau Pháp với tư cách là nguồn mua sắm lớn ở nước ngoài [125, tr. 27]. Những khoản tiền của Mỹ đã giúp tài trợ cho quá trình hiện đại hóa công nghiệp và thu hẹp mức thâm hụt thương mại của Nhật Bản. Mặt khác, khoảng cách về kinh tế giữa hai nước ngày càng được rút ngắn. Năm 1952, GDP của Mỹ gấp khoảng 12 lần ở Nhật Bản. Đến năm 1960, GDP của Mỹ và Nhật Bản đã giảm xuống còn 7,4 lần [134, tr.18].

107

Như vậy, về quy mô, đầu tư của Mỹ đến Nhật Bản không lớn. Giá trị đầu tư

còn ở mức khiêm tốn. Nhưng đầu tư của Mỹ với Nhật Bản trong thời gian này được

phân bổ trên nhiều lĩnh vực, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực quan trọng như khai

thác mỏ, khai thác dầu, chế tạo, thiết bị kỹ thuật điện tử, nước giải khát, dịch vụ

công cộng… Nhiều tập đoàn lớn của Mỹ đã tham gia vào hoạt động đầu tư tại Nhật

Bản, tiêu biểu như Standard Oil, Texaco, Exxon, General Motors, Sperry, Bendix,

Coca Cola, Monsanto, IBM, ITT, NCR…

Đầu tư trực tiếp và tất cả các khoản tiền của Mỹ bỏ ra ở Nhật Bản (gồm cả viện trợ, cho vay1 và chi tiêu quân sự2…) vừa có ý nghĩa phục hồi và phát triển kinh

tế Nhật Bản, vừa củng cố vai trò của Nhật Bản trong chính sách an ninh của Mỹ ở

châu Á - Thái Bình Dương.

Từ năm 1951, Nhật Bản đã chú ý đến và bắt đầu thực hiện đầu tư ra nước

ngoài, tuy nhiên đây là thời gian Nhật Bản phải tập trung phục hồi kinh tế trong

nước nên chưa ưu tiên cho hoạt động này. Do đó, đầu tư của Nhật Bản đến Mỹ

trong giai đoạn 1951 - 1960 không mạnh bằng chiều ngược lại. Tính cả thời gian dài

từ năm 1951 đến năm 1972, đầu tư của Nhật Bản đến Mỹ đạt 1.200 triệu USD

[211]. Sở dĩ đầu tư của Nhật Bản đến Mỹ còn khiêm tốn là phù hợp với hoàn cảnh

hai nước lúc bấy giờ. Nhật Bản chủ trương dựa vào Mỹ để xây dựng và phát triển

kinh tế. Hơn nữa, lúc đó nền kinh tế Mỹ đứng đầu thế giới, có tính cạnh tranh cao,

không phải là thị trường lý tưởng cho các khoản đầu tư từ Nhật Bản.

Nói chung, trong giai đoạn 1951-1960, cùng với quan hệ thương mại, hai nước

đã triển khai quan hệ đầu tư. Quan hệ đầu tư song phương tuy không đạt được nhiều

kết quả cao như quan hệ thương mại nhưng vẫn đóng vai trò rất đáng kể trong quan

hệ kinh tế giữa hai bên. Trong quan hệ đầu tư, chủ yếu là đầu tư của Mỹ đối với Nhật

1 Tuy nhiên, số tiền viện trợ và cho vay mà Mỹ dành cho Nhật Bản giảm nhanh, từ 1.221 triệu USD trong những năm 1948-1952, còn 68 triệu USD năm 1958 xuống còn 22 triệu USD năm 1960. Trong khi đó, viện trợ và cho vay về quân sự tăng giảm không ổn định, tuỳ theo từng năm, nhưng nhìn chung là giảm, đến năm 1960 chỉ còn 86 triệu USD [125, tr. 200]. 2 Trong các khoản chi tiêu quân sự của Mỹ (bao gồm hàng hoá và dịch vụ quân sự) ở các nước châu Á trong thời gian từ 1953 đến năm 1960 thì Nhật Bản luôn ở vị trí dẫn đầu. Năm 1953, chi tiêu quân sự của Mỹ ở Nhật Bản là 771 triệu USD [125, tr. 201]. Nếu tính từ năm 1945 đến năm 1955, nền kinh tế Nhật Bản đã thu hút được khoảng hơn 6 tỷ USD từ Mỹ, trong đó có 2 tỷ USD viện trợ kinh tế và 4 tỷ USD chi tiêu quân sự. Từ năm 1955 đến năm 1960, chương trình mua sắm của Mỹ phục vụ cho nhu cầu quân sự vẫn được duy trì ở mức cao. Tính bình quân từ năm 1945 đến năm 1965, hàng năm Mỹ dành cho Nhật Bản khoảng 500 triệu USD trợ cấp quân sự [143, tr. 296].

Bản, còn chiều ngược lại rất khiêm tốn.

108

Tiểu kết chương 3 Sau khi ký Hiệp ước Hoà bình San Francisco và Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ (năm 1951), Nhật Bản trở lại là một quốc gia có chủ quyền, không còn bị đối xử như một nước bại trận bị chiếm đóng. Vì vậy, trong giai đoạn 1951 - 1960, quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ bước vào giai đoạn khác về chất so với giai đoạn trước đó.

Về chính trị - an ninh: hai nước thiết lập quan hệ đồng minh chặt chẽ. Nhật Bản trở thành một đồng minh quan trọng của Mỹ và giữ vai trò then chốt trong chiến lược toàn cầu của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương. Để củng cố và phát triển quan hệ song phương, Nhật Bản và Mỹ đã ký kết nhiều hiệp ước xác định vị thế, quyền lợi của Mỹ ở Nhật Bản. Điều quan trọng nhất từ các hiệp ước này là Nhật Bản chấp nhận vai trò của Mỹ trong việc đảm bảo an ninh quốc gia của mình. Lãnh đạo cấp cao hai nước đã thường xuyên tiến hành nhiều cuộc thăm viếng, hội đàm. Tiêu biểu là các chuyến thăm Mỹ và hội đàm với Tổng Mỹ D. Eisenhower của Thủ tướng Nhật Bản Yosshida (11/1954) và Thủ tướng Kishi (tháng 6/1957 và 1/1960).

Quan hệ đồng minh giữa Nhật Bản và Mỹ cũng được thể hiện trong nhiều vấn đề cụ thể. Trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên, Mỹ đã sử dụng Nhật Bản như là một căn cứ quân sự và hậu cần chủ yếu phục vụ chiến tranh. Nhật Bản cho phép Mỹ được quyền xây dựng căn cứ quân sự và tiếp tục đóng quân tại Nhật Bản; giúp đỡ Nhật Bản tái vũ trang. Các căn cứ quân sự Mỹ trở thành “cái ô” đảm bảo an ninh cho Nhật Bản, Nhật Bản không còn lo ngại các cuộc tấn công từ bên ngoài. Tuy nhiên, mối quan hệ đồng minh giữa hai bên vấp phải nhiều trở ngại, chủ yếu là do sự phản đối của các lực lượng chính trị đối lập và nhân dân Nhật Bản. Mặc dù vậy, đến tháng 1/1960, hai nước vẫn tiếp tục ký kết Hiệp ước an ninh, củng cố quan hệ đồng minh đã có.

Về kinh tế: trên cơ sở quan hệ chính trị - an ninh được tăng cường, quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ đạt nhiều kết quả. Hai nước đã ký kết một số hiệp định trong các lĩnh vực buôn bán, hàng hải, bảo lãnh đầu tư, nông nghiệp, công nghiệp… Trong các cuộc hội đàm cấp cao, lãnh đạo hai nước cũng bàn nhiều về hợp tác kinh tế song phương, khẳng định ưu tiên phát triển quan hệ kinh tế Nhật Bản - Mỹ. Trong quá trình triển khai quan hệ kinh tế song phương, Mỹ đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế Nhật Bản. Mỹ là thị trường xuất nhập khẩu chủ yếu và là quốc gia đầu tư lớn nhất vào Nhật Bản. Ngoài ra, Mỹ còn dành cho Nhật Bản nhiều khoản viện trợ và cho vay, giúp kinh tế Nhật Bản phát triển. Trong sự phát triển “thần kỳ” của Nhật Bản giai đoạn này không thể không nhắc đến vai trò của Mỹ. Trong khi đó, Nhật Bản đã rất thành công trong việc tận dụng thị trường Mỹ và những đầu tư của Mỹ để phát triển kinh tế đất nước.

109

Chương 4

NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ CHÍNH TRỊ - AN NINH, KINH TẾ

GIỮA NHẬT BẢN VÀ MỸ TỪ NĂM 1951 ĐẾN NĂM 1960

4.1. Kết quả và hạn chế của quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế Nhật

Bản - Mỹ giai đoạn 1951 - 1960

4.1.1. Kết quả

Quan hệ Nhật Bản và Mỹ trên lĩnh vực chính trị - an ninh và kinh tế giai

đoạn 1951 - 1960 diễn ra trong bối cảnh quốc tế, khu vực hết sức phức tạp, nhưng

vẫn không ngừng phát triển và đạt được những kết quả to lớn. Chúng ta có thể khái

quát như sau:

Thứ nhất, hai nước đã thiết lập được quan hệ đồng minh vững chắc về chính

trị - an ninh

Với việc ký Hiệp ước San Francisco và Hiệp ước an ninh Nhật Bản - Mỹ vào

ngày 8/9/1951, quan hệ đồng minh giữa hai nước chính thức được thiết lập. Trên cơ

sở đó, hai nước tăng cường quan hệ chặt chẽ trên các lĩnh vực, trước hết là lĩnh vực

chính trị - an ninh. Theo Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ năm 1951, Mỹ được quyền

đóng quân tại Nhật Bản nhằm đảm bảo an ninh của Nhật Bản trước sự tấn công từ

bên ngoài cũng như ổn định tình hình trong nước.

Trong giai đoạn 1951-1960, mối quan hệ đồng minh giữa hai nước được triển

khai theo nhiều nội dung. Về chính trị - an ninh trước hết được thể hiện ở việc ký kết

các hiệp ước, hiệp định và các cuộc thăm viếng giữa lãnh đạo cấp cao hai nước.

Ngoài Hiệp ước San Francisco và Hiệp ước an ninh, Nhật Bản và Mỹ còn

tiến hành ký kết nhiều văn bản khác. Hiệp định Hành chính giữa hai nước ký ngày

28/2/1952 đã cụ thể hoá việc triển khai các lực lượng quân đội của Mỹ ở Nhật Bản.

Theo Hiệp định, Nhật Bản và Mỹ khẳng định: “Sẽ tăng cường và coi trọng mối

quan hệ gắn bó giữa hai bên” [102]. Ngoài ra, hai bên còn ký nhiều hiệp ước, hiệp

định liên quan đến các lĩnh vực khác nhau. Ngày 26/7/1952, hai nước ký Hiệp ước

bổ sung về sử dụng lãnh thổ, ngày 8/3/1954 ký Hiệp định hỗ trợ phòng thủ lẫn nhau

và cùng nhau ký kết nhiều hiệp định về hợp tác kinh tế.

Để củng cố quan hệ đồng minh, trong giai đoạn này, Nhật Bản và Mỹ đã tiến hành nhiều cuộc trao đổi ngoại giao, nhất là các cuộc gặp gỡ cấp cao. Trong đó, nổi bật nhất là cuộc gặp giữa Thủ tướng Nhật Bản Yoshida và Thủ tướng Kishi với

110

Tổng thống Mỹ D. Eisenhower. Tháng 11/1954, Thủ tướng Nhật Bản Yoshida thăm Mỹ và có cuộc hội đàm với Tổng thống Eisenhower. Chuyến thăm đã củng cố quan hệ đồng minh vừa mới ra đời và tạo cơ sở cho quan hệ hai nước tiếp tục phát triển. Tại cuộc hội đàm, hai bên khẳng định sẽ phát triển quan hệ Nhật Bản và Mỹ trên tinh thần hợp tác. Tháng 6/1957, Thủ tướng Nhật Bản Kishi Nobusuke thăm Mỹ. Trong cuộc hội đàm giữa Thủ tướng Nhật Bản Kishi và Tổng thống Mỹ Eisenhower, hai bên đã thảo luận về quan hệ song phương. Hai nhà lãnh đạo quyết định thành lập ủy ban liên chính phủ để nghiên cứu các vấn đề nảy sinh liên quan đến Hiệp ước an ninh ký năm 1951, chuẩn bị cho việc tái ký kết hiệp ước an ninh vào năm 1960. Thủ tướng Kishi và Tổng thống Eisenhower đều khẳng định sự phát triển của quan hệ đồng minh giữa hai nước, cho rằng quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ đang bước vào kỷ nguyên mới dựa trên lợi ích và sự tin cậy lẫn nhau. Tháng 1/1960, Thủ tướng Kishi sang thăm Mỹ. Tại chuyến thăm này, hai nước đã ký Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ năm 1960. Lãnh đạo hai nước “mong muốn tiếp tục hợp tác chặt chẽ trong khuôn khổ hiệp ước mới về hợp tác và an ninh” [129]. Hiệp ước này chính là sự khẳng định lại mối quan hệ đồng minh giữa hai nước từ năm 1951, đồng thời đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ giữa hai nước.

Trên thực tế, nhiều vấn đề chính trị - an ninh giữa hai nước đã được triển khai, thể hiện sự vững chắc của mối quan hệ đồng minh. Tiêu biểu là trong vấn đề Chiến tranh Triều Tiên, vấn đề xây dựng căn cứ quân sự của Mỹ ở Nhật Bản và vấn đề tái vũ trang Nhật Bản. Trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên, Mỹ đã biến Nhật Bản thành nơi sản xuất trang thiết bị quân sự, cung cấp hậu cần phục vụ cho quân đội Mỹ. Nhật Bản trở thành căn cứ của quân đội Mỹ khi tiến hành chiến tranh. Để thực hiện mục tiêu khống chế châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ xây dựng hàng loạt căn cứ quân sự với một lực lượng đông đảo quân đội đồn trú lâu dài ở Nhật Bản. Đồng thời, Mỹ cũng từng bước muốn Nhật Bản chia sẻ gánh nặng trong việc bảo đảm an ninh cho Nhật và giúp Nhật Bản tái vũ trang.

Có thể nói, mặc dù vẫn còn nhiều trở ngại nhưng quan hệ đồng minh Nhật Bản - Mỹ trong giai đoạn 1951-1960 là mối quan hệ vững chắc. Nó không những là nền tảng của chính sách đối ngoại của Nhật Bản mà còn đặt cơ sở cho quan hệ giữa hai nước tiếp tục phát triển trong giai đoạn sau. Sau Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ năm 1960, cho đến khi kết thúc Chiến tranh lạnh, để củng cố và phát triển quan hệ, Nhật Bản và Mỹ đã nhiều lần điều chỉnh hiệp định an ninh song phương. Sau Chiến tranh lạnh, liên minh giữa hai nước vẫn là một liên minh vững chắc bậc nhất trên thế giới.

111

Trong và sau Chiến tranh lạnh, Mỹ duy trì liên minh với nhiều quốc gia trên

thế giới. Mạng lưới căn cứ quân sự và đồng minh toả khắp năm châu là “nền tảng

vững chắc cho sức mạnh Mỹ, cho phép nước này triển khai sức mạnh quân sự tới

bất kỳ nơi nào trên thế giới chỉ trong vẻn vẹn một giờ đồng hồ” [48]. Tuy nhiên,

trong mắt các nhà lãnh đạo Mỹ, không phải đồng minh nào cũng quan trọng như

nhau. Tầm quan trọng của các đồng minh có thể thay đổi theo từng giai đoạn lịch

sử, phụ thuộc vào những toan tính lợi ích của Mỹ. Ví như liên minh Mỹ - Anh

chẳng hạn, Mỹ và Anh vốn có mối quan hệ lịch sử hết sức đặc biệt, là đồng minh

thân thiết trong Chiến tranh thế giới thứ hai, khi Chiến tranh lạnh bùng nổ, Anh là

thành viên chủ chốt của NATO, giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính

sách của Mỹ ở châu Âu. Tuy nhiên, quan hệ Mỹ - Anh về mặt chính trị - an ninh

gắn chặt với quan hệ Mỹ - NATO. NATO là một khối liên minh dựa trên nguyên

tắc an ninh tập thể, ngoài Anh còn có nhiều thành viên quan trọng khác, nên Mỹ

không quá chú trọng đến từng thành viên riêng rẽ (trong đó có Anh). Vào những

năm 70, 80, khi đối đầu Mỹ - Xô dần dần đi vào hoà dịu, Mỹ không còn chú trọng

đến châu Âu như trước, quan hệ Mỹ - Anh vì thế không còn được như thời kỳ đầu

sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Khi thế đối đầu Mỹ - Xô kết thúc, CHND Trung

Hoa vươn lên mạnh mẽ trở thành đối trọng đe doạ đến bá quyền của Mỹ, Mỹ đã

tăng cường sự quan tâm đến các đồng minh ở châu Á - Thái Bình Dương. Bởi thế,

trong suốt chiều dài lịch sử trong và sau Chiến tranh lạnh, liên minh với Nhật Bản

luôn được ưu tiên trong chính sách của Mỹ.

Thứ hai, quan hệ kinh tế Nhật Bản - Mỹ không ngừng phát triển

Mặc dù không được ưu tiên như lĩnh vực chính trị - an ninh nhưng quan hệ kinh

tế giữa Nhật Bản và Mỹ trong giai đoạn 1951 - 1960 đạt được nhiều kết quả nổi bật.

Trước hết hai nước đã thống nhất ký kết nhiều hiệp định, thoả thuận hợp tác

về kinh tế. Ngày 2/3/1953, hai nước ký kết Hiệp định Hàng hải và Thương mại hữu

nghị. Hiệp định quy định những điều khoản thuận lợi cho hoạt động buôn bán của

công dân và công ty của hai nước, chủ yếu là của Mỹ. Trong ngày 8/3/1954, hai

nước ký một loạt các hiệp định, thoả thuận tăng cường hợp tác kinh tế, đó là Thoả

thuận Mua bán nông sản Nhật Bản - Mỹ; Hiệp định Về các biện pháp kinh tế Nhật

Bản - Mỹ; Hiệp định Bảo lãnh đầu tư Nhật Bản - Mỹ…

Thoả thuận Mua bán nông sản Nhật Bản - Mỹ tạo cơ sở cho việc bán các sản

phẩm nông nghiệp Mỹ cho Nhật Bản. Theo thỏa thuận này, Mỹ thanh toán số USD

112

cần thiết để mua các sản phẩm nông nghiệp và Nhật Bản dự trữ số Yên tương

đương trong tài khoản của Mỹ do Ngân hàng Trung ương Nhật Bản thiết lập. Trong

Hiệp định về các biện pháp kinh tế Nhật Bản - Mỹ, hai nước thừa nhận rằng ổn định

kinh tế là điều cần thiết cho hòa bình và an ninh quốc tế; Chính phủ Mỹ sẵn sàng

đẩy mạnh mua các sản phẩm nông nghiệp nhằm mục đích hỗ trợ sự phát triển của

sản xuất nông nghiệp Nhật Bản. Hiệp định Bảo lãnh Đầu tư Nhật Bản - Mỹ cho

phép Chính phủ Mỹ sử dụng một số biện pháp bảo vệ các doanh nhân Mỹ để thúc

đẩy đầu tư vào Nhật Bản như việc xây dựng kế hoạch đầu tư, thanh toán, khiếu

nại... của người đầu tư từ phía Mỹ.

Trong giai đoạn 1951 - 1960, Nhật Bản và Mỹ đã xúc tiến đẩy mạnh quan hệ

thương mại và đầu tư. Về thương mại, cán cân xuất nhập khẩu từ năm 1951 đến

năm 1957 nghiêng hẳn về Mỹ. Cán cân năm cao nhất là 1957 với 718 triệu USD

(Mỹ xuất khẩu 1.319 triệu USD, nhập khẩu 601 triệu USD). Những năm 1958 -

1960, cán cân giảm dần, thấp nhất là năm 1959 với 50 triệu USD (Mỹ xuất khẩu

1.079 triệu USD, nhập khẩu 1.029 triệu USD) [101, tr. 10]. Dần dần nhập siêu của

Nhật Bản ngày càng giảm, giá trị xuất khẩu của Nhật Bản vào Mỹ ngày càng tăng.

Giai đoạn 1951 - 1960, Mỹ là bạn hàng thương mại lớn nhất của Nhật Bản,

chiếm 23,1% tổng giá trị xuất khẩu và 34,3% giá trị nhập khẩu của Nhật Bản. Riêng

nhập khẩu, giá trị nhập khẩu từ Mỹ của Nhật Bản giai đoạn này cao hơn các giai

đoạn trước và sau đó (1931-1940, 1961-1970, 1970-1977). Xem bảng dưới đây:

Biểu 4.1. Thị phần của Mỹ trong thương mại Nhật Bản (1931-1977)

Đơn vị tính: %

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [134, tr. 112]

Về đầu tư, trong giai đoạn 1951 - 1960, đầu tư trực tiếp của Mỹ đến Nhật

Bản tăng nhanh, từ 19 triệu USD năm 1950 lên 129 triệu USD năm 1955 và đạt 254

113

triệu USD năm 1960 [101, tr. 180]. So với các thị trường đầu tư khác của Mỹ như

Canada, khu vực Mỹ Latinh thì đầu tư của Mỹ vào Nhật Bản còn thấp, nhưng nếu so sánh với các nước châu Á thì con số này đạt khá và tăng nhanh. Lấy Indonesia

làm ví dụ, năm 1951, Mỹ đầu tư vào Indonesia 66 triệu USD, năm 1960 là 178 triệu

USD, con số này đối với Nhật Bản trong hai năm nói trên là 48 triệu USD và 254 triệu USD. Đầu tư của Mỹ vào Nhật Bản trong giai đoạn này tập trung chủ yếu vào

các lĩnh vực: khai thác mỏ, khai thác dầu, chế tạo, thiết bị kỹ thuật điện tử, nước

giải khát, dịch vụ công cộng… Những khoản đầu tư của Mỹ đã tạo điều kiện cho

Nhật Bản phát triển kinh tế.

Kết quả của quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ trong giai đoạn 1951-1960

trở thành một trong những động lực để hai nước tiếp tục hợp tác, cùng nhau trở thành

những nền kinh tế phát triển nhất, nhì thế giới.

Nguyên nhân của kết quả quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế Nhật Bản - Mỹ:

Những kết quả mà hai nước đạt được trong quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật

Bản - Mỹ giai đoạn 1951 - 1960 do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, nước Mỹ nhất quán thực hiện chính sách đối với Nhật Bản. Mục

tiêu bao trùm của Mỹ trong quan hệ với Nhật Bản là chi phối Nhật Bản theo quỹ

đạo của Mỹ để thực hiện chiến lược toàn cầu, trước hết là ngăn chặn sự phát triển

của CNCS ở châu Á - Thái Bình Dương. Do đó, trước sau Mỹ chỉ muốn biến Nhật

Bản thành đồng minh, đóng vai trò quan trọng để thực thi chính sách của Mỹ ở khu

vực này. Mỹ đã tìm mọi cách để loại bỏ vai trò của Liên Xô và các nước khác, từng

bước thiết lập vai trò “đơn nhất” của mình ở Nhật Bản, ký kết hiệp ước hoà bình,

hiệp ước an ninh riêng rẽ với Nhật Bản. Mỹ tăng cường “buộc chặt” Nhật Bản vào những toan tính chính trị của mình ở châu Á - Thái Bình Dương để chống lại CNCS

phát triển ở khu vực này. Đó là nguyên nhân sâu xa để Mỹ triển khai quan hệ chính

trị - an ninh và kinh tế với Nhật Bản và đạt được những kết quả rất đáng chú ý.

Thứ hai, Nhật Bản có nhu cầu phát triển quan hệ với Mỹ. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, là nước bại trận, bị thiệt hại nặng nề, Nhật Bản bị Mỹ chiếm đóng. Tình hình đó buộc Nhật Bản phải có sự lựa chọn con đường phát triển của mình. Từ năm 1951 đến năm 1960, Nhật Bản đã dựa vào Mỹ để bảo đảm an ninh cho đất nước và tập trung phát triển kinh tế. Về mặt đối ngoại, Nhật Bản thực hiện chính sách ngoại giao kinh tế do Thủ tướng Yoshida đề xướng. Nhật Bản đã tận dụng tối

đa nguồn lợi thu được từ những chi phí quân sự của Mỹ trong Chiến tranh Triều

Tiên, phát triển quan hệ thương mại và tranh thủ nguồn vốn đầu tư từ Mỹ.

114

Thứ ba, ngoài những nguyên nhân chủ quan trên, kết quả của quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ trong giai đoạn 1951 - 1960 còn do những tác động từ những yếu tố khách quan. Điều đáng chú ý nhất là quan hệ Nhật Bản và Mỹ nhận được sự ủng hộ của các nước tư bản, trước hết là các nước đồng minh của Mỹ. Về mặt chính trị - an ninh, với vị thế của một cường quốc đứng đầu thế giới TBCN, Mỹ đủ sức chi phối các nước cùng phe theo quỹ đạo của mình. Chính vì vậy, chính sách đối ngoại của Mỹ nói chung và chính sách của Mỹ đối với Nhật Bản nói riêng về cơ bản nhận được sự đồng tình của các nước TBCN. Một trong những bằng chứng tiêu biểu nhất là việc 49/52 nước tham gia Hội nghị San Francisco đồng ý ký kết Hiệp ước Hoà bình với Nhật Bản cho dù họ không được tham gia vào việc soạn thảo dự thảo hiệp ước. Ngoài ra, trong thập kỷ 50, ngay cả Liên hợp quốc - tổ chức quốc tế quan trọng nhất thế giới cũng bị Mỹ chi phối và ủng hộ Mỹ. Liên hợp quốc đã thông qua các nghị quyết có lợi cho Mỹ, như các nghị quyết về Chiến tranh Triều Tiên: khuyến nghị các thành viên hỗ trợ cho Hàn Quốc khi cần thiết để đẩy lùi cuộc tấn công vũ trang cũng như nhằm khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế trong khu vực; Bộ Tư lệnh Liên hợp quốc (UNC) được “tùy ý sử dụng cờ của Liên hợp quốc” trong quá trình hoạt động chống lại Bắc Triều Tiên. Về mặt kinh tế, hầu hết các nước TBCN ủng hộ chính sách “thoát Á nhập Âu” của Nhật Bản, phần lớn các nước hỗ trợ, đồng ý kết nạp Nhật Bản vào các tổ chức kinh tế quốc tế như GATT, WB, IMF. Đồng thời, các tổ chức này cũng đã có nhiều chính sách tạo điều kiện cho Nhật Bản phát triển kinh tế, trong đó có phát triển quan hệ kinh tế với Mỹ.

4.1.2. Hạn chế Thứ nhất, quan hệ chính trị - an ninh còn tồn tại nhiều bất cập. Đó là mối quan hệ thiếu bình đẳng, sự lệ thuộc quá mức của Nhật Bản đối với Mỹ. Bên cạnh đó, quan hệ Nhật Bản - Mỹ gặp nhiều cản trở, thách thức.

Có thể nói rằng, việc Nhật Bản thiết lập quan hệ đồng minh với Mỹ, ngoài ý muốn chủ quan nhằm dựa vào Mỹ để đảm bảo an ninh và tập trung phát triển kinh còn có một nguyên nhân nữa đó là Nhật Bản dường như không có sự lựa chọn khác. Trong hoàn cảnh chịu sự chi phối mạnh mẽ của Mỹ lúc đó (Mỹ là nước chiếm đóng Nhật Bản, thực hiện nhiều cải cách kinh tế - xã hội để phục hồi nền kinh tế Nhật Bản và đưa quốc gia này theo con đường dân chủ hoá), thì Nhật Bản rất khó để thoát khỏi quỹ đạo của Mỹ. Tính bình đẳng trong quan hệ chính trị - an ninh song phương thể hiện rất mờ nhạt. Phần lớn những vấn đề cốt lõi trong quan hệ chính trị - an ninh giữa hai nước phần lớn đều do Mỹ quyết định.

115

Quan hệ chính trị - an ninh giữa Nhật Bản và Mỹ giai đoạn 1951 - 1960 gặp

nhiều cản trở và thách thức. Nổi bật nhất là sự phản ứng gay gắt của các lực lượng chính trị đối lập và quần chúng nhân dân Nhật Bản. Họ đã tiến hành đấu tranh

bằng nhiều hình thức như đấu tranh nghị trường, biểu tình… Nội dung đấu tranh

chủ yếu là phản đối việc ký kết hiệp ước an ninh, phản đối sự có mặt của quân đội và xây dựng căn cứ quân sự của Mỹ ở Nhật Bản, lên án những vụ việc lính Mỹ

gây ra đối với nhân dân Nhật Bản… Trước sức đấu tranh của các đảng phái và

quần chúng nhân dân, hai nước Nhật Bản và Mỹ buộc phải đàm phán để điều

chỉnh hiệp định an ninh.

Thứ hai, quan hệ kinh tế Nhật - Mỹ (1951 - 1960) phát triển chưa tương

xứng với mối quan hệ đồng minh giữa hai nước. Trong đó, quan hệ thương mại tuy

có phát triển nhưng quy mô còn nhỏ, còn nhiều thách thức với cán cân nghiêng hẳn

về phía Mỹ. Bên cạnh đó, quan hệ đầu tư mang tính một chiều.

Trong giai đoạn 1951 - 1960, Nhật Bản và Mỹ đã đạt được những kết quả nổi

bật về thương mại, nhưng xét đến cùng vẫn chưa tương xứng với tính chất của mối

quan hệ giữa hai bên. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của hai nước năm 1951 đạt

806 triệu USD, năm 1955 đạt 1.115 triệu USD, năm 1960 đạt 2.596 triệu USD. Mặc

dù kim ngạch xuất nhập khẩu của hai nước tăng nhanh nhưng quy mô vẫn còn nhỏ.

Trong suốt cả giai đoạn 1951-1960, Mỹ luôn ở trong tình trạng xuất siêu, Nhật Bản

ở trong tình trạng nhập siêu, mặc dù mức độ chênh lệch giảm dần. Năm 1951, kim

ngạch xuất nhập khẩu của Mỹ gấp 2,93 lần so với chiều ngược lại, năm 1955 và

1960, con số này là 1,58 và 0,99 lần [101, tr. 10].

Quan hệ thương mại giữa hai nước cũng gặp nhiều thử thách, xuất hiện tranh chấp thương mại trong nhiều ngành. Về phía Nhật Bản, MITI quản lý rất chặt các

hoạt động nhập khẩu, thực hiện cấp giấy phép đối với nhiều hàng hoá nhập khẩu.

Về phía Mỹ, giới kinh doanh đòi hỏi Nhật Bản phải được đối xử như các đối tác kinh tế khác, yêu cầu Chính phủ Mỹ không được dành ưu đãi quá lớn cho Nhật Bản. Năm 1955, cuộc xung đột thương mại giữa hai nước chính thức bắt đầu, được đánh dấu bằng xung đột về hàng dệt may. Thậm chí, một số bang ở miền Nam Mỹ đã thông qua luật yêu cầu dán nhãn cho tất cả các mặt hàng dệt may không phải do Mỹ sản xuất, mục đích là chống lại hàng dệt may từ Nhật Bản. Cho đến đầu những năm 60, tranh chấp thương mại giữa Nhật Bản và Mỹ vẫn chủ yếu xoay quanh các sản phẩm

công nghiệp nhẹ, mãi đến giữa những năm 60, bắt đầu chuyển sang lĩnh vực công

nghiệp nặng với các sản phẩm từ sắt thép.

116

Quan hệ đầu tư thể hiện rõ tính một chiều, chủ yếu là Mỹ đầu tư vào Nhật Bản, trong khi đầu tư của Nhật Bản đến Mỹ rất ít. Quy mô đầu tư của Mỹ vào Nhật Bản cũng đang ở mức khiêm tốn, một phần là do Mỹ còn dành cho Nhật Bản một số lượng lớn viện trợ và các đơn hàng đặc biệt khác phục vụ cho hoạt động quân sự của Mỹ ở Nhật Bản.

Nguyên nhân của những hạn chế trong quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế

Nhật Bản - Mỹ:

Một là, Mỹ là cường quốc, có tiềm lực chính trị, kinh tế mạnh nhất thế giới, có đủ khả năng để chi phối, áp đặt Nhật Bản lệ thuộc vào đường lối của mình vạch ra. Trong quan hệ với Nhật Bản, Mỹ chú trọng lĩnh vực chính trị - an ninh hơn kinh tế. Quan hệ kinh tế với Nhật Bản xét đến cùng cũng phục vụ cho mục tiêu quan trọng nhất của Mỹ là củng cố quan hệ đồng minh về chính trị - an ninh. Để xây dựng Nhật Bản thành một đồng minh đủ sức thực hiện chính sách của mình ở châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ đã mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư, nhưng ở mức độ không được đe dọa đến vị thế kinh tế, không trở thành đối thủ cạnh tranh của Mỹ.

Hai là, Nhật Bản chưa đủ tiềm lực để thiết lập sự bình đẳng trong quan hệ với Mỹ. Như đã trình bày, trong hoàn cảnh lịch sử giai đoạn 1951 - 1960, nước Nhật phải tiếp tục khắc phục hậu quả chiến tranh. Điều đó đã buộc Nhật Bản phải lệ thuộc vào Mỹ. Mặt khác, do đang trong thời kỳ tập trung phục hồi và phát triển kinh tế nên Nhật Bản khó có điều kiện để cạnh tranh với kinh tế Mỹ, vì thế xuất khẩu của Nhật Bản sang Mỹ luôn ở trong tình trạng thấp hơn chiều ngược lại. Giai đoạn này, Nhật Bản ưu tiên tiếp nhận đầu tư từ bên ngoài, trước hết là từ Mỹ và chưa có nguồn lực để đầu tư ra bên ngoài.

Ba là, do những tác động của những yếu tố bên ngoài. Tình hình quốc tế căng thẳng với nét bao trùm là mâu thuẫn Mỹ - Xô rất quyết liệt và tình hình khu vực có nhiều biến động (sự ra đời và phát triển của CHND Trung Hoa, Chiến tranh Triều Tiên, vấn đề Đài Loan…) cũng là nguyên nhân làm cho quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ bị chi phối. Mâu thuẫn Mỹ - Xô càng căng thẳng, tình hình khu vực càng phức tạp thì Mỹ càng cần phải “nắm chắc”, áp đặt Nhật Bản để thực hiện mục tiêu của mình. Do đó, Nhật Bản chịu sự lệ thuộc vào Mỹ. Ở góc độ kinh tế, cả các nước TBCN và các nước XHCN đều có nhu cầu phát triển quan hệ với Nhật Bản. Trong giai đoạn này, Nhật Bản phát triển quan hệ thương mại với nhiều nước tư bản châu Âu, châu Mỹ, châu Á… Ngay cả, với CHND Trung Hoa thuộc phe XHCN cũng đạt được nhiều kết quả về thương mại với Nhật Bản. Các nước này đều trở thành yếu tố cạnh tranh đối với quan hệ kinh tế Nhật Bản - Mỹ.

117

4.2. Tác động của quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản

và Mỹ giai đoạn 1951 - 1960

4.2.1. Đối với Nhật Bản Thứ nhất, quan hệ chính trị - an ninh giữa Nhật Bản và Mỹ giúp Nhật Bản

đảm bảo được an ninh quốc gia và có điều kiện mở rộng quan hệ đối ngoại

Quan hệ chính trị - an ninh với Mỹ giúp Nhật Bản hoàn toàn yên tâm về an ninh trước sự bảo hộ của Mỹ. Mỹ sẽ chịu trách nhiệm trước bất kỳ một cuộc tấn công nào từ bên ngoài vào Nhật Bản và cả những cuộc bạo động bên trong Nhật Bản. Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ năm 1951 xác định quyền đóng quân của Mỹ trên đất Nhật Bản. Việc bố trí lực lượng vũ trang của Mỹ tại Nhật Bản được xác định bằng Hiệp định Hành chính giữa hai chính phủ. Thực tế trong giai đoạn 1951-1960, dưới cái “ô bảo hộ” của Mỹ, an ninh của Nhật Bản được Mỹ đảm bảo. Sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Nhật Bản là sự răn đe các nước trong khu vực ý định tấn công Nhật Bản. Có thể nói, “đối với các nước xung quanh thì sự hiện diện của các phương diện chiến đấu của Mỹ đã tạo ra một sức ép đối với họ không chỉ đối với ý đồ tấn công Nhật Bản mà ngay cả ý đồ bố trí và sắp xếp các phương tiện chiến đấu hướng đến Nhật Bản” [57, tr. 7].

Mặt khác, quan hệ an ninh, quân sự với Mỹ cho phép Nhật Bản tiếp cận với kỹ thuật quốc phòng hàng đầu của Mỹ. Cho dù không công bố và được mang danh dưới những tên gọi khác, dưới sự giúp sức của Mỹ, Nhật Bản đã từng bước tái vũ trang trong một giới hạn nhất định. Do đó, lực lượng vũ trang Nhật Bản được tiếp cận với những trang thiết bị quân sự hiện đại lúc bấy giờ.

Nhờ quan hệ với Mỹ, cho phép Nhật Bản dễ dàng phát triển quan hệ với các nước tư bản phương Tây, trước hết là các nước đồng minh thân cận của Mỹ. Sau khi ký Hiệp ước San Fransico và Hiệp ước an ninh với Mỹ, Nhật Bản tự coi mình là thành viên của phương Tây, xác định phương châm chủ yếu trong chính sách đối ngoại của mình là “thoát Á nhập Âu”. Với những hành động trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản là kẻ thù của nhiều nước phương Tây, địa vị kinh tế, chính trị bị hạ thấp, không có khả năng để tự mình thiết lập quan hệ với các nước tư bản. Những thoả thuận Nhật Bản - Mỹ về việc hạn chế sức mạnh quân sự của Nhật Bản đã làm cho các nước tư bản phương Tây tin rằng Nhật Bản khó có thể khôi phục chủ nghĩa quân phiệt. Sự bảo trợ về an ninh của Mỹ đối với Nhật Bản đã giúp nước này thuận lợi trong việc hợp tác với các nước phương Tây. Chính vì vậy, sau khi ký Hiệp ước San Fransico và Hiệp ước an ninh với Mỹ, Nhật Bản đã có quan hệ ngoại giao chính thức với hầu hết các quốc gia phương Tây.

118

Quan hệ với Mỹ cho phép Nhật Bản tham gia tích cực vào những diễn

biến chính trị ở châu Á - Thái Bình Dương và tham gia vào chiến lược toàn cầu của Mỹ. Trong cuộc gặp gỡ để thảo luận vấn đề ký kết Hiệp ước Hoà bình với J.

Dulles vào ngày 29/1/1951, Thủ tướng Nhật Bản Yoshida nói rằng: “Tôi muốn

Mỹ soạn thảo một hiệp ước mà Nhật Bản có thể phê chuẩn nhưng không phải hy sinh lòng tự trọng của mình. Tôi muốn hiệp ước hòa bình khôi phục nền độc lập

của Nhật Bản, thiết lập nền dân chủ Nhật Bản một cách an toàn... Nhật Bản

muốn hợp tác để củng cố thế giới tự do khi Nhật Bản đã trở thành một quốc gia

như vậy” [165]. Yoshida cũng sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu của Mỹ, bao gồm vấn đề cho phép Mỹ sử dụng lực lượng của mình ở Nhật Bản “để đóng góp vào

duy trì hòa bình và an ninh quốc tế ở Viễn Đông” [165]. Chính vì vậy, Nhật Bản

đã ủng hộ những chính sách an ninh của Mỹ cũng như chiến lược mà Mỹ thực

hiện ở châu Á - Thái Bình Dương nói riêng và trên thế giới nói chung. Nhật Bản

đã tham gia hầu hết vào các hoạt động của Mỹ nhằm chống lại CNCS và hệ

thống XHCN cũng như phong trào GPDT ở châu Á - Thái Bình Dương. Trong

cuộc Chiến tranh Triều Tiên, Chiến tranh Việt Nam, mặc dù Nhật Bản chỉ phục

vụ hậu cần và cung cấp trang thiết bị chiến tranh cho Mỹ, nhưng Nhật Bản đã thể

hiện một vai trò không thể thiếu trong chiến lược chiến tranh của Mỹ.

Thứ hai, quan hệ chính trị - an ninh giữa Nhật Bản và Mỹ làm cho Nhật

Bản phần nào bị mất đi tính độc lập, tự chủ

Cùng với việc Nhật Bản được Mỹ đảm bảo an ninh thì quan hệ với Mỹ đã

làm cho Nhật Bản đã phần nào bị mất đi tính độc lập, tự chủ, đó chính là “tính

hai mặt của một vấn đề” trong mối quan hệ song phương giữa hai nước. Sự phụ thuộc quá mức vào Mỹ đã làm cho Nhật Bản dường như không thể tự mình giải

quyết trước những nguy cơ về an ninh từ bên ngoài. Trên thực tế, chính sách đối

ngoại của Nhật Bản chịu sự tác động của Mỹ, đó chính là cái giá phải trả cho việc dựa vào Mỹ để đảm bảo an ninh quốc gia. Với quan hệ đồng minh không bình đẳng, chính sách đối ngoại của Nhật Bản trong giai đoạn 1951 - 1960 đã phải điều chỉnh theo quan điểm của Mỹ, “phải nhìn vào thái độ và hành động của Mỹ để điều chỉnh các quan hệ đối ngoại của mình” [57, tr. 7]. Giới cầm quyền Nhật Bản ít nhiều có tâm lý “phó mặc” trong việc giữ gìn an ninh quốc gia của mình cho Mỹ. Về sau, cựu Thủ tướng Nhật Bản Yukio Hatoyama cho rằng:

“Việc Nhật Bản luôn dõi theo lập trường của Mỹ trong chính sách ngoại giao

của mình là điều tai họa cho đất nước và sẽ dẫn đến tình trạng mất tự chủ” [9].

119

Rất nhiều sự kiện trong quan hệ hai nước thể hiện sự mất tự chủ của Nhật

Bản. Khi Tổng thống Mỹ D. Eisenhower thực hiện chính sách “đẩy lùi CNCS”, “bên miệng hố chiến tranh” và chiến lược quân sự “trả đũa ồ ạt”, Mỹ chủ trương

đưa vũ khí hạt nhân và tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân đến các căn cứ Mỹ ở

Nhật Bản mà không báo trước. Phía Nhật Bản nhiều lần bày tỏ thái độ không hài lòng về hành động này của Mỹ. Năm 1955, trong cuộc gặp gỡ của phái đoàn ngoại

giao hai nước tại Washington, Ngoại trưởng Nhật Bản Shigemitsu đề nghị với

Ngoại trưởng Mỹ J. Dulles về việc sửa đổi Hiệp ước an ninh năm 1951 vì ông cho

rằng hiệp ước này đã làm cho Nhật Bản ở vào vị trí “bị khuất phục”. Tuy nhiên, Dulles “không tự tin rằng Chính phủ Nhật Bản có đầy đủ khả năng, sự cố kết và

thống nhất để vận hành hoạt động theo hiệp ước mới và Hiệp ước an ninh có thể

được sửa đổi khi mà Nhật Bản có khả năng đảm đương toàn bộ trách nhiệm bảo vệ

toàn bộ quần đảo Nhật Bản và hỗ trợ Mỹ ở nước ngoài” [88, tr. 58].

Nhật Bản cũng không có sự chủ động trong việc mở rộng quan hệ đối

ngoại với các nước nếu như không được Mỹ ủng hộ. Đó là lý do trong những

năm 1951 - 1960, dù muốn, Nhật Bản cũng không thể phát triển quan hệ ngoại

giao cấp nhà nước với CHND Trung Hoa, mà chỉ có thể triển khai quan hệ kinh

tế ở mức độ thấp.

Thứ ba, quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ đã thúc

đẩy nền kinh tế Nhật Bản phát triển nhanh. Tác động về mặt kinh tế đối với Nhật

Bản có lẽ nằm ngoài toan tính ban đầu của Mỹ, bởi Mỹ chú trọng nhiều đến quan

hệ chính trị - an ninh hơn, muốn xây dựng quan hệ liên minh với Nhật Bản trong

bối cảnh Mỹ bị thu hẹp về không gian ảnh hưởng. Tuy nhiên, quan hệ liên minh chính trị - an ninh đã tác động sâu sắc đến nền kinh tế Nhật Bản, làm cho kinh tế

quốc gia này thay đổi nhanh chóng.

Do Nhật Bản không phải chi tiêu cho quốc phòng và không phải đảm nhận trách nhiệm giữ gìn an ninh nên có điều kiện dồn toàn lực vào việc phát triển kinh tế. Điều đó đã góp phần làm cho nền kinh tế Nhật Bản phát triển nhanh chóng, bước vào giai đoạn “thần kỳ”. Khi đàm phán Hiệp ước San Fransico, Thủ tướng Nhật Bản Yoshida đã không đồng ý với đề nghị của Đặc phái viên, Cố vấn Ngoại trưởng Mỹ J. Dulles về việc đòi Nhật Bản tái vũ trang quy mô lớn. Theo Yoshida thì “việc tái vũ trang Nhật Bản… sẽ đặt gánh nặng rất lớn lên vai dân

chúng, sẽ kích thích sự mất ổn định quốc gia…” [88, tr.55]. Vì vậy, từ nội các

của Thủ tướng Yoshida đến nội các của Thủ tướng Kishi đã lựa chọn và nhất

120

quán chủ trương không biến Nhật Bản thành cường quốc quân sự, chỉ tập trung

vào phát triển kinh tế.

Trong thời kỳ bị chiếm đóng, dưới sự giúp đỡ của Mỹ, nền kinh tế Nhật

Bản từng bước được phục hồi. Đến năm 1951, về cơ bản Nhật Bản phục hồi

được mức sản xuất trong những năm 1934-1936. Cuộc Chiến tranh Triều Tiên trở thành cú hích mạnh mẽ làm cho nền kinh tế Nhật Bản phát triển vượt bậc khi

nước này được cung cấp một số vốn lớn để sản xuất những mặt hàng cho quân

đội Mỹ phục vụ chiến tranh. Nhật Bản đã tận dụng “thời cơ vàng” để đầu tư hiện

đại hoá thiết bị công nghiệp. Năm 1952, đầu tư của Nhật Bản, chủ yếu về thiết bị công nghiệp chiếm tới 25% tổng sản phẩm quốc dân và tăng vọt vào các năm

tiếp theo [14, tr. 8]. Thiết bị mới đã rút ngắn hố ngăn cách kỹ thuật giữa Nhật

Bản với các nước phương Tây trong các ngành công nghiệp. Bên cạnh đó, Nhật

Bản rất chú ý đến việc xây dựng lại tổ chức tài chính và thương mại. Mặc dù

trong giai đoạn 1951-1960, nền kinh tế Nhật Bản phải đương đầu với những đợt

suy thoái mang tính chu kỳ vào năm 1954, 1958 nhưng tốc độ phát triển của

Nhật Bản vẫn được duy trì ở mức cao.

Biểu 4.2. Tốc độ tăng sản phẩm quốc dân Nhật Bản (tính theo giá cố định) những năm 1953 - 1960

Đơn vị tính: %

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [69, tr. 10]

Ngoại trừ năm 1958 đạt thấp, còn lại tốc độ tăng sản phẩm quốc dân Nhật Bản thời gian này đều đạt trên 6%, năm 1960 đạt tới 14,6%. Tốc độ tăng trung bình từ năm 1956 đến năm 1960 đạt 9,75%. Sự tăng trưởng này đã phá tan những nghi ngờ của các nước tư bản về khả năng của Nhật Bản, khiến cả thế giới phải kinh ngạc.

Tốc độ phát triển bình quân hàng năm của công nghiệp Nhật Bản trong giai đoạn 1950-1960 là 15,9%, gấp 6 lần Mỹ, hơn 5 lần Anh, xấp xỉ 3 lần Pháp và gần gấp đôi Cộng hoà Liên bang Đức. Tốc độ phát triển nông nghiệp cũng tăng nhanh

121

hơn so với các nước tư bản tiên tiến, tăng 3,8%, trong khi đó Pháp tăng 2,8%, Italia tăng 2,5%, Cộng hoà Liên bang Đức tăng 2,4%, Mỹ tăng 1,3% [50, tr. 302-303]. Trong cơ cấu kinh tế, Nhật Bản chú trọng phát triển lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, giảm lĩnh vực nông nghiệp. Năm 1955, nông lâm thuỷ sản chiếm 19,2%, công nghiệp chiếm 33,8%, dịch vụ chiếm 47%; năm 1960, các lĩnh vực trên lần lượt là 12,8%, 40,8% và 46,6% [91, tr. 63].

Về kinh tế đối ngoại, quan hệ Nhật - Mỹ đã tạo điều kiện để kinh tế Nhật Bản thâm nhập trực tiếp vào thị trường thế giới. Cùng với việc phát triển quan hệ thương mại với Mỹ, Nhật Bản cũng tiếp cận và phát triển thị trường các nước tư bản châu Âu. Với sự ủng hộ của Mỹ, Nhật Bản thuận lợi trong việc thâm nhập thị trường các nước châu Âu. Năm 1955, xuất khẩu của Nhật Bản sang các nước châu Âu (chủ yếu là các nước TBCN) đạt 74.086 triệu Yên, năm 1960 đạt 178.200 triệu Yên [101, tr. 20].

Đặc biệt, với sự giúp đỡ của Mỹ, Nhật Bản có điều kiện thuận lợi để gia nhập và mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế. Tháng 8/1952, Nhật Bản gia nhập WB và IMF. WB đã nhanh chóng thực hiện nhiều dự án ở Nhật Bản. Đối với tổ chức IMF, Nhật Bản xin bảo lưu không tham gia Điều 8 của tổ chức này (quy định các nước thành viên không được hạn chế trao đổi ngoại tệ dù cho nhập siêu tăng lên). Do đó, trong những năm 1952-1964, Nhật Bản vẫn được phép hạn chế việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài [91, tr. 65]. Đến năm 1964, Nhật Bản mới trở thành viên đầy đủ của IMF. Tháng 12/1955, Nhật Bản chính thức gia nhập GATT. Tuy nhiên, vì điều kiện kinh tế của đất nước, Nhật Bản xin hoãn tham gia Điều khoản thứ 11 của tổ chức này (quy định các nước thành viên không được hạn chế nhập khẩu vì lý do cán cân thanh toán bị nhập siêu). Nhờ vậy, Nhật Bản đưa một chương trình tự do hoá rất tỉ mỉ, bắt đầu từ những ngành dễ thực hiện nhất và từng bước đưa thêm các ngành khác vào chương trình tự do hoá [91, tr. 65].

Đối với thị trường châu Á, nhờ mối quan hệ với Mỹ, Nhật Bản có thể tập trung mở rộng thị trường trong khu vực này. Với chiêu bài “ngoại giao kinh tế”, Nhật Bản đã bồi thường chiến tranh cho các nước ở khu vực bằng hàng hoá, từng bước mở rộng thị trường xuất khẩu. Giá trị xuất khẩu của Nhật Bản đến các nước châu Á tăng nhanh chóng và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số hàng xuất khẩu của Nhật Bản đến các nước và khu vực khác trên thế giới. Năm 1950, xuất khẩu của Nhật Bản đến các nước châu Á đạt 137.931 triệu Yên, năm 1955 đạt 303.460 triệu Yên, năm 1960 đạt 540.325 triệu Yên [101, tr. 20]. Trong số này Đông Nam Á chiếm số lượng chủ yếu, với số liệu năm 1950, 1955, 1960, lần lượt là 102.011 triệu Yên, 203.270 triệu Yên và 359.640 triệu Yên [101, tr. 20].

122

Khi bàn về nguyên nhân dẫn đến sự thành công của nền kinh tế Nhật Bản

giai đoạn 1951 - 1960 nói riêng và cả giai đoạn 1951 - 1973 nói chung, hầu như ít người phủ nhận vai trò của Mỹ đối với nền kinh tế Nhật Bản, nhất là trong giai đoạn

1951 - 1960. Chính quan hệ chặt chẽ về chính trị - an ninh và kinh tế với Mỹ đã tạo

đà thuận lợi cho Nhật Bản có sức bật rất lớn về kinh tế.

Thứ tư, quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ tạo ra sự

bất ổn trong xã hội Nhật Bản

Quan hệ Nhật Bản - Mỹ (1951 - 1960) có tác động mạnh đối với xã hội Nhật

Bản, dẫn đến phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân. Phong trào bùng lên mạnh mẽ trước hết là nhằm chống lại “Hệ thống Hiệp ước San Francisco”, chống

việc Mỹ xây dựng các căn quân sự và chống chính sách thân Mỹ “quá lộ liễu” của

nội các Yoshida. Ngày 1/5/1952, 3 triệu quần chúng trên toàn Nhật Bản đã họp mít

tinh và xuống đường tuần hành, chống Hiệp ước San Francisco. Tại Tokyo có

400.000 người tham gia biểu tình. Khi đoàn biểu tình tiến vào Quảng trường Hoàng

cung thì bị quân cảnh đàn áp đẫm máu, làm hai người chết tại chỗ, 300 người bị

thương, hơn 1.000 người bị bắt giữ. Đó là “sự kiện 1/5 đẫm máu” nổi tiếng trong

lịch sử Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới hai [97, tr. 311].

Trong thời gian đồn trú ở Nhật Bản, sĩ quan và binh lính của Mỹ luôn có thái

độ ngang ngược, làm cho nhân dân Nhật Bản hết sức bất mãn. Do vậy, trên khắp cả

nước đã nổi lên phong trào đấu tranh chống quân đội Mỹ xây dựng căn cứ. Những

người tham gia đã triệu tập cả hội nghị toàn quốc chống lại các căn cứ quân sự. Có

những nơi nông dân đấu tranh rất kiên trì với những hình thức như ngồi yên khắp

đồng nội để biểu tình suốt 100 ngày, có nơi đấu tranh liên tục trong suốt 2 năm. Năm 1956, nông dân một số quận ở Tokyo đã chống lại việc trưng dụng đất để mở

rộng căn cứ không quân của Mỹ. Họ kết hợp với công nhân, tiểu thương để triển

khai cuộc đấu tranh, nhiều lần tẩy chay nhân viên của chính phủ đến cưỡng bức để đo đất, thậm chí còn xảy ra xô xát với cảnh sát. Phong trào đấu tranh ở Okinawa cũng diễn ra mạnh mẽ để bảo vệ đất đai, chống việc xây dựng căn cứ quân sự của Mỹ. Ngày 20/6/1956, có đến 56 thị trấn và thôn xã ở Okinawa đã triệu tập đại hội cư dân chống lại việc trưng dụng đất đai [97, tr. 311].

Ngày 20/1/1957, binh sỹ Mỹ William S. Girard đã bắn chết một phụ nữ Nhật Bản khi cô này thu thập các hộp đạn đã qua sử dụng tại một trường bắn ở Trại Weir (tỉnh Gunma). Vụ việc này đã dấy lên làn sóng phản đối dữ dội của nhân dân và các lực lượng chính trị tiến bộ ở Nhật Bản. Điểm mấu chốt trong vụ việc này là vấn đề

123

tài phán hình sự, ai sẽ là người xét xử Girard. Ban đầu, quân đội Mỹ tìm cách duy trì quyền tài phán đối với Girard. Họ cũng công khai xin lỗi và bồi thường cho gia đình nạn nhân. Tuy nhiên, trước sức ép từ nhiều phía, chính Tổng thống D. Eisenhower buộc phải đưa ra quyết định là Toà án Nhật Bản sẽ xét xử Girard. Cuối cùng, Tòa án Nhật Bản đã xét xử Girard và tuyên anh ta với một bản án treo, cho phép anh ta trở lại Mỹ.

Đến năm 1957, với nhiều nguyên nhân, trong đó có sự tác động của phong trào đấu tranh của nhân dân Nhật Bản. Các căn cứ và lực lượng quân sự của Mỹ tại Nhật Bản trở thành vấn đề chính trị trọng tâm nhất của mối quan hệ Nhật Bản - Mỹ. Chính điều đó đã buộc Nhật Bản và Mỹ phải ngồi lại đàm phán để sửa đổi Hiệp ước An ninh năm 1951.

Như vậy, quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản - Mỹ không chỉ tác động đến chính trị - an ninh của Nhật Bản mà còn tác động sâu sắc đến kinh tế và xã hội nước này. Tác động đó đã góp phần làm cho nền kinh tế Nhật Bản phát triển “thần kỳ”, củng cố vị thế của Nhật Bản trên trường quốc tế, giúp Nhật Bản vươn lên thành một cường quốc kinh tế. Đồng thời cũng cho thấy liên minh Nhật - Mỹ không phải hoàn toàn suôn sẻ, vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ.

4.2.2. Đối với Mỹ Quan hệ Nhật Bản - Mỹ tạo điều kiện cho Mỹ củng cố thế lực, triển khai

thuận lợi chiến lược toàn cầu ở châu Á - Thái Bình Dương

Sự lớn mạnh của Liên Xô, cộng thêm với những sự kiện diễn ra ở Trung Quốc và Triều Tiên đã làm không gian ảnh hưởng của Mỹ trên thế giới nói chung và ở châu Á - Thái Bình Dương bị thu hẹp. Để củng cố vị thế của mình và thực hiện chính sách đối ngoại kiềm chế, ngăn chặn CNCS, Mỹ đã chọn Nhật Bản, biến Nhật Bản thành đồng minh thân cận.

Thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã để lại một khoảng trống về an ninh và quyền lực. Với lợi thế là một cường quốc thắng trận, được quyền chiếm đóng Nhật Bản, Mỹ đã có thuận lợi để lấp đầy khoảng trống đó. Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ năm 1951 là sự kiện chính thức đánh dấu vai trò chi phối của Mỹ đối với Nhật Bản. Với việc lôi kéo và chi phối Nhật Bản, phần nào Mỹ đã đạt được một trong những mục tiêu của chiến lược toàn cầu, đó là hướng các nước đồng minh theo quỹ đạo của mình, Mỹ đã khống chế được Nhật Bản về an ninh, quân sự, tránh cho Nhật Bản không trở thành một cường quốc quân sự cạnh tranh với Mỹ và tránh sự phục hồi Chủ nghĩa quân phiệt. Chính vì vậy, lôi kéo và chi phối được Nhật Bản, Mỹ đã loại bỏ triệt để mối lo ngại về sự cạnh tranh quân sự của Nhật Bản đối với Mỹ.

124

Mặt khác, liên minh với Nhật Bản, Mỹ có thể thiết lập một vành đai chống cộng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đảm bảo cho lợi ích của mình. Sự phát triển ngày càng lớn mạnh của hai quốc gia cộng sản là Liên Xô và CHND Trung Hoa càng làm tăng thêm sự lo lắng của Mỹ. Liên minh Nhật Bản - Mỹ cho phép Mỹ duy trì được thế cân bằng chiến lược ở châu Á - Thái Bình Dương, giúp Mỹ có thể đối phó với nhiều vấn đề xảy ra ở khu vực này, chẳng hạn, đối với vấn đề trên bán đảo Triều Tiên hay vấn đề phòng thủ chiến lược khu vực. Nhiều chính khách Mỹ đã tỏ ra lo ngại về việc nếu xảy ra biến cố ở bán đảo Triều Tiên hay trong trường hợp khẩn cấp ở Đông Á mà phải huy động lực lượng từ Guam hoặc Hawaii thì quá xa. Nhưng nếu có một đồng minh Nhật Bản liền kề Triều Tiên và cũng rất gần các khu vực quan trọng ở Đông Á, vấn đề trên đã được giải quyết triệt để. Với vị trí địa lý của mình, Nhật Bản cũng trở thành địa điểm “đắc địa” cho Mỹ trong việc khống chế Thái Bình Dương.

Với Hiệp ước An ninh ký với Nhật Bản năm 1951, Mỹ biến Nhật Bản thành bàn đạp cho các lực lượng của Mỹ ở Viễn Đông, lôi kéo Nhật Bản vào liên minh chống Liên Xô và các nước XHCN, làm hậu cứ cho Mỹ trong Chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953), đàn áp phong trào dân chủ đang phát triển mạnh mẽ ở Nhật Bản… Năm 1960, Hiệp ước An ninh được sửa đổi theo hướng ít bất bình đẳng hơn giữa hai nước, theo đó, Mỹ cam kết bảo vệ an ninh cho Nhật Bản, tuy vậy Mỹ vẫn tiếp tục khẳng định sự hiện diện quân sự của mình ở Nhật Bản. Từ đó, “an ninh của Nhật Bản gắn chặt với Mỹ và nước này trở thành quân bài quan trọng trong chiến lược khu vực và toàn cầu của Mỹ suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh” [10, tr. 110-111]. Thậm chí, Hiệp ước ký năm 1960 cho phép quân đội Mỹ đưa vũ khí nguyên tử vào Nhật Bản mà không cần hỏi ý kiến trước.

Có thể thấy, đối với Mỹ, thiết lập quan hệ đồng minh với Nhật Bản đã giúp Mỹ phần nào hiện thực hoá chiến lược toàn cầu, ngăn chặn làn sóng CNCS ở châu Á - Thái Bình Dương. Trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên, mặc dù CHDCND Triều Tiên được sự giúp đỡ của Trung Quốc và sự hậu thuẫn của Liên Xô đã tràn qua vĩ tuyến 38°, nhưng “quân đội Liên hiệp quốc” đứng đầu là Mỹ với căn cứ chiến lược và hậu phương quan trọng Nhật Bản đã nhanh chóng đẩy lùi đối phương trở lại vĩ tuyến 38°. Kết cục của cuộc chiến từ năm 1953 về sau được giữ nguyên, Triều Tiên bị chia cắt thành hai miền Nam, Bắc; Hàn Quốc trở thành đồng minh của Mỹ. Diễn biến của Chiến tranh lạnh những năm 50 và thời gian sau đó còn chứng minh rằng căn cứ Nhật Bản tỏ ra thật sự hiệu quả trong chiến lược ngăn chặn của Mỹ đối với Liên Xô, CHND Trung Hoa.

125

Quan hệ chặt chẽ với Nhật Bản trong giai đoạn 1951 - 1960 tạo cơ sở để Mỹ có thể dễ dàng triển khai chính sách của mình. Ở phương diện này, rõ ràng nhất là việc Nhật Bản phát huy tốt vai trò cung cấp nhu yếu phẩm cần thiết phục vụ cho quân đội Mỹ thực hiện các cuộc chiến tranh. Trong hai cuộc Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã không mất công vận chuyển tốn kém và mất thời gian cho những mặt hàng quân sự từ Mỹ, mà đã có nguồn cung trực tiếp từ Nhật Bản. Nếu không có Nhật Bản, Mỹ khó có thể thực hiện được cuộc Chiến tranh ở Triều Tiên và Việt Nam. Với các căn cứ quân sự trên đất Nhật Bản, Mỹ đã gửi quân đội và máy bay chiến đấu đến khắp các nước châu Á. Phần lớn lực lượng quân đội Mỹ chiến đấu ở Triều Tiên được chuyển từ Nhật Bản. Trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, phần lớn máy bay chiến đấu của Mỹ cũng được điều động từ Nhật Bản. Như vậy, Nhật Bản đã giúp Mỹ có khả năng ứng biến nhanh hơn với các tình huống, cũng như cung cấp nhu yếu phẩm phục vụ chiến tranh.

Quan hệ kinh tế Nhật - Mỹ đã mở rộng thị trường thương mại và đầu tư cho

tư bản Mỹ, góp phần thúc đẩy nền kinh tế Mỹ phát triển

Quan hệ kinh tế Nhật Bản - Mỹ trong giai đoạn 1951 - 1960 có tác động đến kinh tế nước Mỹ cho dù không lớn bằng tác động đến Nhật Bản. Mỹ đã định hướng cho nền kinh tế Nhật Bản đi theo nền kinh tế kiểu Mỹ, chịu sự lệ thuộc vào Mỹ. Mỹ muốn Nhật Bản trở thành một quốc gia mạnh về kinh tế, thành một đồng minh có đủ tiềm lực, do đó nền kinh tế Nhật Bản có liên quan chặt chẽ với nền kinh tế Mỹ.

Trong giai đoạn này, cùng với Canada, các nước Mỹ Latinh, Australia, Anh,... Nhật Bản là bạn hàng lớn của Mỹ. Mỹ xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản những sản phẩm như thiết bị kỹ thuật, năng lượng, đồ quân sự, nhiên liệu, nguyên liệu, lương thực, hoá chất, sản phẩm chế tạo… và nhập khẩu những thứ mà trong nước thiếu như hàng dệt may, bông, lúa mì, thịt bò… Nước Mỹ chiếm tới 34,3% thị phần nhập khẩu và 23,1% thị phần xuất khẩu của Nhật Bản [101, tr. 10]. Nếu so sánh với các đồng minh khác của Mỹ ở châu Á như Hàn Quốc và Philippines cùng thời gian thì giá trị xuất khẩu của Mỹ đến Nhật Bản lớn hơn nhiều. Số liệu cụ thể xem bảng dưới đây:

Bảng 4.1. Giá trị xuất khẩu của Mỹ đến Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines

Thời gian 1951 1956 1960 Nhật Bản 601 998 1.447 Đơn vị tính: Triệu USD Philippines 366,5 331,8 294,8

Hàn Quốc 45,4 192,9 152,5 [101, tr. 10]; [125, tr.195]

126

Nhìn vào bảng trên thấy rằng, giá trị xuất khẩu của Mỹ đến Nhật Bản tăng nhanh, năm 1951 đạt 601 triệu USD, năm 1960 đạt 1.447 triệu USD. Trong khi đó, giá trị xuất khẩu của Mỹ sang Hàn Quốc đạt thấp, cao nhất cũng chỉ đạt 192,9 triệu USD; còn giá trị xuất khẩu của Mỹ sang sang Philippines mặc dù cao hơn Hàn Quốc nhưng vẫn thấp hơn Nhật Bản và ngày càng giảm.

Như vậy, với việc liên minh với Nhật Bản, nền kinh tế Mỹ có thêm thị trường lớn để xuất và nhập khẩu hàng hóa. Điều đáng nói là trong giai đoạn 1951- 1960, thị trường Nhật Bản dù là gián tiếp hay trực tiếp đều chịu ảnh hưởng của Mỹ. Các doanh nghiệp Mỹ cũng tích cực tìm kiếm thị trường đầu tư ở Nhật Bản. Giá trị đầu tư của Mỹ tại Nhật Bản năm 1960 chiếm hơn ¼ tổng giá trị đầu tư của nước này ở các nước Đông Á khác [101, tr. 180]. Tuy giá trị và quy mô đầu tư của Mỹ vào Nhật Bản chưa cao nhưng có ý nghĩa nhất định đối với nền kinh tế Mỹ.

4.2.3. Đối với khu vực và quốc tế Quan hệ chính trị - an ninh Nhật Bản - Mỹ đã làm cho Trật tự hai cực Yalta

được triển khai mạnh mẽ hơn ở châu Á - Thái Bình Dương

Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực rộng lớn, có nhiều quốc gia với môi trường chính trị - an ninh rất phức tạp. Đây cũng là khu vực có sự hiện diện của nhiều cường quốc trên thế giới với sự tập trung lợi ích ngày càng tăng và khả năng đua tranh quyền lực quyết liệt. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, cả hai thống TBCN và XHCN đều ra sức gia tăng ảnh hưởng ở khu vực này. Vì thế, tại đây đã diễn ra sự cạnh tranh hết sức quyết liệt giữa hai bên.

Nhật Bản rõ ràng không phải là “điểm nóng” của Chiến tranh lạnh, ở đây cũng không xảy ra đụng đầu trực tiếp giữa hai hệ thống, không có chiến tranh như ở Triều Tiên hay Việt Nam. Tuy nhiên, những gì diễn ra ở Nhật Bản với sự chi phối của Mỹ đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình khu vực. Điều này bắt nguồn từ những toan tính và âm mưu của Mỹ ở khu vực này từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau khi lên nhậm chức Tổng thống Mỹ H. Truman đẩy mạnh thực thi chính sách chống cộng sản, chống Liên Xô. Truman cho rằng: “Toàn thế giới nên áp dụng chế độ Mỹ” [96, tr. 39]. Chính vì vậy, Mỹ ra sức xây dựng ảnh hưởng tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ở Đông Bắc Á, với quyền được chiếm đóng Nhật Bản, Mỹ thực hiện các cuộc cải cách nhằm thiết lập một chế độ chính trị giống Mỹ tại Nhật Bản. Còn tại Nam Triều Tiên, Mỹ dựng lên chính phủ Lý Thừa Vãn. Ở Trung Quốc, Mỹ ủng hộ Chính phủ Quốc dân đảng. Ở Đông Nam Á, Mỹ ủng hộ các nước thực dân Pháp, Anh, Hà Lan tiến hành chiến tranh xâm lược, thiết lập lại chế độ thực dân…

127

Ngay từ cuối những năm 40, Mỹ đã muốn ký kết hoà ước với Nhật Bản, nhưng chưa kịp thực hiện thì Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. Chỉ hơn một năm, sau khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra, Mỹ vội vàng ký kết hiệp ước với Nhật Bản nhằm “cột chặt” Nhật Bản về phía mình. Nhật Bản đã được bổ sung vào hệ thống đồng minh của Mỹ trên thế giới. Những thoả thuận giữa hai nước, đặc biệt là việc Nhật Bản cho phép Mỹ sử dụng các căn cứ quân sự và đóng quân ở Nhật Bản đã làm cho việc quân sự hoá được đẩy mạnh ở châu Á - Thái Bình Dương, làm cho tình hình chính trị ở khu vực luôn trong tình trạng căng thẳng. Với các căn cứ “đắc địa” ở Nhật Bản, quân đội Mỹ có thể khống chế CHND Trung Hoa, CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc, Đông Nam Á và cả Thái Bình Dương.

Ngoài ra, tình thế đối đầu căng thẳng trong khu vực còn được thể hiện ở eo biển Đài Loan khi Mỹ cho Hạm đội 7 án ngữ eo biển này nhằm ngăn chặn CHND Trung Hoa giải phóng Đài Loan. Ở Đông Dương, Mỹ công khai ủng hộ chính sách xâm lược của Pháp và từng bước can thiệp ngày càng sâu rộng vào bán đảo này. Từ năm 1954, Mỹ tìm cách hất cẳng Pháp, nắm lấy miền Nam Việt Nam, dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm. Mỹ - Diệm xé bỏ Hiệp đình Giơnevơ về Đông Dương, tiến hành cuộc chiến tranh đơn phương chống Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản - Mỹ đã làm tương quan lực

lượng giữa hai hệ thống TBCN và XHCN có sự thay đổi

Việc Nhật Bản trở thành đồng minh của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương đã góp thêm sức mạnh cho hệ thống TBCN do Mỹ đứng đầu. Đồng thời, nó đã làm cho cán cân quyền lực ở khu vực này có sự thay đổi. Ở đây, sự phát triển của hệ thống XHCN gặp nhiều khó khăn.

Nhật Bản là một quốc gia có vị trí chiến lược trong khu vực và là nước có trình độ khoa học - kỹ thuật phát triển cao. Việc Nhật Bản liên minh chặt chẽ với Mỹ ở châu Á đã gây bất lợi cho các nước XHCN và gia tăng tiềm lực của hệ thống TBCN cả về kinh tế, an ninh, quân sự.

Hơn nữa, sau khi trở thành đồng minh của Mỹ, Nhật Bản đã tỏ rõ hiệu quả trong “Chính sách ngăn chặn” CNCS “lan tràn” ở châu Á nói chung, Đông Nam Á nói riêng. Đông Nam Á đã trở thành “bộ phận cấu thành quan trọng trên tuyến ngăn chặn” CNCS của Mỹ. Riêng bán đảo Đông Dương lại là chiến tuyến chống lại “sự bành trướng của CNCS thế giới dưới sự lãnh đạo của Liên Xô” [96, tr. 127]. Những hành động mà Mỹ tiến hành ở Đông Dương và Việt Nam trong những năm 50, 60 có liên quan đến Nhật Bản. Từ Nhật Bản, Mỹ có điều kiện thuận lợi để triển khai các hoạt động quân sự ở Việt Nam và các nước Đông Dương khác.

128

Quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản - Mỹ có tác động đến cuộc

Chiến tranh lạnh

Sau khi Mỹ phát động Chiến tranh lạnh, tình hình thế giới ngày càng trở nên

căng thẳng. Chiến tranh này đã tác động đến quan hệ Nhật Bản - Mỹ, làm cho quan

hệ giữa hai nước gắn bó hơn. Nhưng khi liên minh Nhật Bản - Mỹ được thiết lập, nó tác động trở lại cuộc Chiến tranh lạnh. Nếu Tây Đức được coi là “tiền đồn” ở châu

Âu, thì Nhật Bản được coi là “tiền đồn” ở châu Á để thực hiện mục tiêu ngăn chặn

của Mỹ. Điều đó, đồng nghĩa rằng, Liên Xô tiếp tục phải đối phó với cuộc bao vây

từ hai mặt, phía Tây là CHLB Đức, phía Đông là Nhật Bản giống như trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhưng nếu như trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô đã

phải đối đầu với các cuộc tấn công vũ trang trực tiếp từ đối thủ, còn giai đoạn này là

phải đối phó với một cuộc tấn công không trực tiếp.

Bên cạnh đó, liên minh Nhật Bản - Mỹ cũng góp vào hệ thống các khối quân

sự của Mỹ trên thế giới, làm cho hệ thống đó trở nên hùng mạnh hơn. Hệ thống đó

bao gồm NATO ở châu Âu, SEATO ở Đông Nam Á, CENTO ở Trung Cận Đông,

ANZUS ở Thái Bình Dương… Liên minh Nhật Bản - Mỹ năm 1951 cũng như

những khối liên minh quân sự do Mỹ thiết lập không nằm ngoài mục đích bao vây

Liên Xô và các nước XHCN. Ở châu Á - Thái Bình Dương, liên minh Nhật Bản -

Mỹ đóng vai trò then chốt trong việc thực hiện mục đích nói trên của Mỹ.

Nhật Bản và các đồng minh khác của Mỹ đã phụ thuộc chặt chẽ vào Mỹ, bị

Mỹ chi phối về chính trị - an ninh, quân sự và kinh tế. Điều đó càng làm cho Mỹ

củng cố được vị trí siêu cường số một thế giới, có điều kiện để duy trì chiến lược

toàn cầu.

Đối phó lại những hành động từ phía Mỹ, các nước XHCN ở châu Âu đã

thiết lập khối liên minh quân sự Warszawa. Các khối liên minh quân sự của hai bên

tăng cường chạy đua vũ trang và gây căng thẳng ở nhiều khu vực trên thế giới. Mặc dù các khối quân sự này tránh đối đầu trực tiếp, nhưng hai bên đã thực hiện các cuộc chiến tranh cục bộ, làm cho cuộc Chiến tranh lạnh thêm căng thẳng. Tình hình này không chỉ giới hạn trong những năm 50 mà còn kéo dài trong suốt mấy thập niên sau đó.

4.3. Đặc điểm của quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế Nhật Bản - Mỹ

giai đoạn 1951 - 1960

Nghiên cứu quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản - Mỹ giai đoạn

1951 - 1960 có thể rút ra một số đặc điểm sau đây:

129

Thứ nhất, quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ (1951 -

1960) thể hiện rõ toan tính chính trị của mỗi nước

Nhật Bản và Mỹ vốn là kẻ thù của nhau, có quan hệ đối đầu trong Chiến

tranh thế giới thứ hai, nhưng khi chiến tranh kết thúc, quan hệ hai nước đã chuyển

biến nhanh chóng thành quan hệ đồng minh. Vậy nguyên nhân nhân sâu xa của sự thay đổi này là gì? Xét về bản chất, nó bắt nguồn từ chiến lược toàn cầu của Mỹ và

nhu cầu phát triển kinh tế của Nhật Bản.

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, tình hình quốc tế có nhiều thay

đổi. Sự thất bại của Nhật Bản đã tạo ra bước ngoặt trong quan hệ Mỹ và Nhật Bản, là tiền đề để hai nước liên kết với nhau. Xét ở bình diện quốc tế, nổi lên ba vấn đề

quan trọng: Một là, Mỹ chiếm ưu thế tuyệt đối về quân sự, kinh tế, khoa học - kỹ

thuật; hai là, sự lớn mạnh của Liên Xô và sự ra đời của hệ thống XHCN; ba là, Trật

tự hai cực Yalta được thiết lập sau chiến tranh, đứng đầu là Xô, Mỹ mâu thuẫn gay

gắt, luôn luôn ở vào thế đối đầu. Trước tình hình đó, Mỹ cho rằng chỉ có Mỹ mới có

đủ khả năng “lãnh đạo thế giới tự do”. Giới lãnh đạo Mỹ tham vọng trở thành “bá

chủ toàn cầu”, muốn chi phối cả thế giới, nhưng sự cản trở lớn nhất của họ lúc này

chính là hệ thống XHCN đang lớn mạnh nhanh chóng. Điều này đe dọa trực tiếp

đến quyền lợi của Mỹ, vì thế, Mỹ không thể ngồi yên nhìn CNCS “hoành hành” và

quyết không để Liên Xô “bành trướng”. Với người Mỹ, “Liên Xô dường như rất tận

tụy với cuộc chinh phục châu Âu và thế giới vì chính Liên Xô, vì CNCS và có khả

năng đạt được mục tiêu” [63, tr. 12]. Do đó, Mỹ đã đề ra chiến lược toàn cầu nhằm

tiêu diệt Liên Xô và các nước XHCN, trước mắt là ngăn chặn làn sóng CNCS đang

“lan tràn” khắp thế giới. Chính sách đó chính thức bắt đầu thực hiện dưới thời Tổng thống H. Truman khi ông công khai nêu lên “sứ mệnh lãnh đạo thế giới tự do chống

lại sự bành trướng của CNCS”, giúp đỡ các dân tộc trên thế giới chống lại sự “đe

dọa” của CNCS, đặc biệt là chống lại sự “bành trướng” của Liên Xô. “Chính sách ngăn chặn” được thay đổi tùy theo so sánh lực lượng hai phía trong từng thời kỳ, với các chính sách - chiến lược: “Trả đũa ồ ạt” (1954), “Bên miệng hố chiến tranh” của Tổng thống D. Eisenhower (1956). Nội dung chính của các chiến lược trên là “Chống trả người Nga bằng sức mạnh thường xuyên ở bất cứ nơi nào họ mưu toan xâm phạm lợi ích của ổn định và hòa bình” [7].

Cần phải khẳng định, trung tâm của sự tranh giành giữa Mỹ và Liên Xô sau

Chiến tranh thế giới lần thứ hai nằm ở châu Âu khi Liên Xô ra sức củng cố Đông

Âu còn Mỹ ra sức khống chế Tây Âu. Mặc dù vậy, Mỹ không bỏ qua những khu

130

vực khác. Con số khoảng 2.000 căn cứ quân sự và hàng chục vạn quân Mỹ đóng ở

nhiều nơi trên thế giới trong những năm 50 đã thể hiện điều đó. Có thể nói, ngoài châu Âu thì châu Á - Thái Bình Dương là nơi Mỹ dành sự quan tâm lớn nhất. Đây

khu vực có vị trí, vai trò quan trọng đối với Mỹ, do đó Mỹ muốn phát triển thế lực

của mình, lôi kéo, khống chế các nước theo quỹ đạo của mình, tìm mọi cách để ngăn chặn ảnh hưởng của CNCS. Bởi thế, châu Á - Thái Bình Dương trở thành khu

vực điển hình cho “Chính sách ngăn chặn” của Mỹ. Ở khu vực này, Nhật Bản với

địa thế gần Liên Xô và CHND Trung Hoa nên lại càng giữ vai trò mang tính “mũi

nhọn chiến lược” trong chính sách của Mỹ. Chính vì vậy, Mỹ đã phớt lờ những thỏa thuận đã có tại Hội nghị Yalta và Posdam, tìm cách gạt bỏ Liên Xô và các nước

Đồng minh để chiếm đóng Nhật Bản rồi tiến tới khống chế Nhật Bản. Hơn nữa,

trong bối cảnh Liên Xô và CHND Trung Hoa đã thiết lập và thắt chặt quan hệ, đe

dọa thực sự đến lợi ích an ninh của Mỹ, Mỹ lại càng muốn “trói chặt” Nhật Bản,

biến quốc gia này thành tiền đồn, “pháo đài”, chống cộng ở châu Á - Thái Bình

Dương. Mỹ “cần bảo đảm nắm được Nhật Bản. Nhật Bản phải ở trong phe Mỹ,

không có quyền đứng trung lập” [171]. Diễn biến lịch sử trong giai đoạn 1951 -

1960 đã chứng tỏ vai trò to lớn của Nhật Bản trong “Chính sách ngăn chặn” của Mỹ

cũng như những hoạt động gia tăng ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực châu Á - Thái

Bình Dương. Cùng với những vị trí ở châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Philippines,

Thái Lan và những đảo trên Thái Bình Dương như Hawaii, Mariana, Guam,… Nhật

Bản đã trở thành một mắt xích quan trọng, tạo nên hệ thống hoàn chỉnh trong việc

thực hiện “Chính sách ngăn chặn” của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương.

Bên cạnh âm mưu tiêu diệt CNCS, để thực hiện mưu đồ bá chủ của mình, Mỹ còn tham vọng khống chế các nước đồng minh. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai,

Mỹ đứng đầu một cực và không muốn bất cứ một nước đồng minh nào của Mỹ vươn

lên và cạnh tranh với mình. Mỹ muốn điều khiển họ, bắt họ phụ thuộc vào những chính sách của mình. Bằng nhiều cách khác nhau, hoặc bằng thủ đoạn chính trị, hoặc bằng các biện pháp kinh tế, Mỹ đã “cột chặt” các nước đồng minh, buộc họ lệ thuộc chặt chẽ vào Mỹ. Chính sách của Mỹ đối với Nhật Bản cũng không ngoại lệ. Như một tất yếu, khi Mỹ đã bỏ tiền để hỗ trợ kinh tế và đảm bảo an ninh cho Nhật Bản thì Nhật Bản phải lệ thuộc vào Mỹ cả về chính trị, an ninh lẫn kinh tế. Trên thực tế, quan hệ Nhật Bản - Mỹ không phải là mối quan hệ bình đẳng, bản chất của quan hệ này

xuất phát từ sự lợi dụng lẫn nhau, trong đó Mỹ lợi dụng Nhật Bản vì những mưu toan

chính trị của mình, muốn tiêu diệt CNCS và khống chế các nước đồng minh.

131

Về phía Nhật Bản, mặc dù trong quan hệ với Mỹ, Nhật Bản phải chấp nhận sự khống chế của Mỹ, nhưng quốc gia này đã rất khôn khéo lợi dụng mối quan hệ với Mỹ để phát triển kinh tế và nâng cao địa vị của mình trên trường quốc tế. Điều lợi rõ ràng nhất đối với Nhật Bản là dựa vào sự đảm bảo an ninh của Mỹ, không phải lo đến vấn đề an ninh quốc gia nên “toàn tâm toàn lực” phát triển kinh tế. Trong suốt giai đoạn 1951 - 1960, chi phí dành cho quốc phòng của Nhật Bản rất ít, thậm chí nó trở thành cái cớ cho Chính phủ Mỹ khước từ đề nghị của Nhật Bản đòi xem xét lại Hiệp ước An ninh năm 1951, bởi “Nhật Bản đã không làm đầy đủ cho quốc phòng của bản thân nó” [82, tr.36]. Mãi đến năm 1960, hai nước mới đạt được thoả thuận rằng Nhật Bản sẽ chi 1% tổng sản phẩm quốc gia của mình vào quốc phòng [82, tr. 36].

Phát biểu tại Hội nghị hoà bình San Francisco tháng 9/1951, Thủ tướng Nhật Bản Yoshida nói rằng: “Nhờ viện trợ của Mỹ, nền kinh tế bị tàn phá do chiến tranh của Nhật Bản được cứu vãn, Nhật Bản đang đạt được nhiều tiến bộ trên con đường phục hồi. Chúng tôi xác định rằng quốc gia của chúng tôi sẽ không còn là gánh nặng cho các quốc gia khác mà sẽ đóng góp tích cực vào sự thịnh vượng của thế giới, đồng thời tuân thủ đầy đủ các thông lệ thương mại công bằng trong thương mại quốc tế… chúng tôi sẽ đóng góp vào sự phát triển lành mạnh của thương mại thế giới. Hiệp ước hiện tại mở ra cánh cửa cho việc hiện thực hóa những khát vọng như vậy của Nhật Bản trong lĩnh vực kinh tế” [149]. Có thể thấy, Thủ tướng Yoshida thể hiện rõ quan điểm từ bỏ chiến tranh và nhấn mạnh tới việc phát triển kinh tế. Chính ông cũng là người đề xuất học thuyết mang tên mình với nội dung cốt lõi là dựa vào Mỹ để phát triển kinh tế, coi trọng ngoại giao kinh tế. Với chính sách nhất quán đó, trong giai đoạn 1951 - 1960, Nhật Bản đã tranh thủ thời cơ để khôi phục và phát triển kinh tế đất nước.

Nhật Bản lợi dụng quan hệ với Mỹ để mở rộng thị trường sang Mỹ. Trong những năm 50, đặc biệt từ năm 1954 đến năm 1960, Nhật Bản đã tăng cường thâm nhập vào thị trường Mỹ và Mỹ đã trở thành một thị trường xuất nhập khẩu lớn nhất của Nhật Bản. Trong Báo cáo có tên là “Các vấn đề thương mại với Mỹ và thương mại giữa Đông và Tây”, tháng 9/1957, Bộ Ngoại giao Nhật Bản khẳng định: “Thương mại năm ngoái với Mỹ chiếm khoảng 30% tổng giá trị nhập khẩu và hơn 20% tổng giá trị xuất khẩu của Nhật Bản. Thương mại với Mỹ có tầm quan trọng sống còn đối với nền kinh tế Nhật Bản”; “Trong chính sách thương mại hiện nay của chúng ta với Mỹ, làm thế nào để có thể tăng cường xuất khẩu vào Mỹ một cách suôn sẻ mà không gây ra trở ngại, trong khi phải làm thế nào để tiết kiệm tiêu dùng USD và nhập khẩu một cách hợp lý…” [179].

132

Mặt khác, Nhật Bản cũng lợi dụng quan hệ đồng minh với Mỹ để có thể phát

triển quan hệ thương mại trực tiếp với các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là các quốc gia thuộc phạm vi ảnh hưởng của Mỹ. Chẳng hạn, miền Nam Việt Nam là một

thị trường lớn và quan trọng đối với Nhật Bản. Năm 1956, tổng giá trị hàng hoá của

Nhật Bản xuất khẩu sang miền Nam Việt Nam là 53,3 triệu USD, năm 1960 là 61,5 triệu USD [136, tr. 24].

Nhờ sức ép của Mỹ, Nhật Bản đã giảm được đáng kể kinh phí bồi thường

chiến tranh đối với những nước ở châu Á mà Nhật Bản đã xâm lược trong Chiến

tranh thế giới thứ hai. Vào cuối những năm 50, Nhật Bản phải cam kết ký vào các hiệp ước bồi thường chiến tranh với Miến Điện, Philippines, Indoneisia và miền Nam

Việt Nam với tổng số tiền lên đến 1,152 tỷ USD cùng với 737,5 triệu USD cho vay.

Với vai trò của Mỹ, Nhật Bản đã ký với Philippines, Indonesia những hiệp

ước về việc bồi thường chiến tranh và được chấp nhận bồi thường ở mức rất “hợp

lý”. Không những vậy, những khoản bồi thường chiến tranh còn làm lợi cho nền

kinh tế Nhật Bản. Nhật Bản đã “bồi thường chiến tranh” bằng hàng hoá, thiết bị cho

Philippines, Miến Điện năm 1954, Indonesia năm 1958. Với miền Nam Việt Nam,

dưới sức ép của Mỹ, Nhật Bản chỉ bồi thường cho Chính quyền Sài Gòn 39 triệu

USD [2, tr. 56] và được trả bằng hàng hóa. Chính phương thức bồi thường chiến

tranh này, đã tạo điều kiện để Nhật Bản xâm nhập kinh tế và mở rộng thị trường

xuất khẩu.

Có thể thấy, trong mối quan hệ Nhật Bản và Mỹ, cả hai bên đã thể hiện rõ

những mưu toan, tính toán vì lợi ích của riêng mình. Trong khi Mỹ lợi dụng Nhật

Bản để thực hiện mục đích về chính trị, an ninh là chủ yếu thì Nhật Bản lợi dụng Mỹ để đảm bảo an ninh quốc gia và phát triển kinh tế. Nhìn một cách khách quan

thì trong giai đoạn 1951-1960, cả hai bên đều đạt được mục đích riêng của mình.

Thứ hai, trong quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản - Mỹ giai

đoạn 1951 - 1960, quan hệ chính trị - an ninh giữ vai trò chủ đạo và quyết định

Mục đích ban đầu của hai nước khi thiết lập quan hệ đồng minh là phòng thủ

chiến lược. Mỹ muốn dùng Nhật Bản làm căn cứ quân sự chiến lược ở châu Á -

Thái Bình Dương để có thể phản ứng nhanh với mọi biến động diễn ra ở khu vực

này. Còn Nhật Bản muốn lợi dụng sự đảm bảo an ninh của Mỹ để phòng thủ quốc

gia, đối phó với những cuộc tấn công từ bên ngoài cũng như giữ gìn an ninh bên

trong. Thủ tướng Nhật Bản Yashida khẳng định: “Không có vũ khí, chúng ta phải

tránh nguy cơ chiến tranh, tìm kiếm sự giúp đỡ từ một quốc gia có thể và sẽ giúp

133

chúng ta. Đó là lý do tại sao chúng tôi sẽ ký kết một hiệp ước an ninh với Mỹ, theo

đó quân đội Mỹ sẽ được giữ lại Nhật Bản tạm thời cho đến khi mối nguy hiểm qua

đi, hoặc hòa bình và an ninh quốc tế sẽ được đảm bảo dưới sự bảo trợ của Liên hợp

quốc hoặc một thỏa thuận an ninh tập thể” [149]. Vì thế, trong Hiệp ước An ninh

Nhật - Mỹ năm 1951, nội dung chủ yếu là những thoả thuận của hai bên về vấn đề

an ninh, quân sự và phòng thủ. Sau khi đã hình thành liên minh an ninh, quân sự,

quan hệ trên các lĩnh vực khác đã nảy sinh. Đặc biệt, trong suốt những năm 50, ở

châu Á - Thái Bình Dương tình hình có nhiều biến động, hai bên đã đẩy mạnh mối

quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực, song có thể nói rằng, dù đẩy mạnh hợp tác kinh

tế, khoa học - kỹ thuật hay các lĩnh vực nào khác thì một phần của sự hợp tác đó

vẫn nhằm mục đích ban đầu: chính trị - an ninh.

Một điều dễ nhận thấy là Mỹ không đặt mục tiêu hợp tác kinh tế đơn thuần

với Nhật Bản, mà sự hợp tác kinh tế Mỹ - Nhật Bản lúc đầu phát sinh từ cuộc Chiến

tranh Triều Tiên. Ngoài việc Mỹ phải mua những mặt hàng thiết yếu của Nhật Bản

phục vụ nhu cầu của binh lính Mỹ đồn trú tại các căn cứ quân sự ở Nhật Bản, thì

những đơn đặt hàng quân sự của Mỹ cho Nhật Bản để phục vụ cuộc Chiến tranh

Triều Tiên đã làm tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Nhật Bản đối với Mỹ.

Tính đến năm 1955, 80% giá trị mặt hàng xuất khẩu của Nhật Bản là hàng công

nghiệp, trong đó, phần lớn là công nghiệp chiến tranh. Từ năm 1954, quan hệ kinh

tế hai bên được đẩy mạnh thêm một bước, nguyên nhân của nó là vì vị trí của Nhật

Bản ngày càng quan trọng đối với chiến lược của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương,

đặc biệt trong cuộc chiến tranh mà Mỹ thực hiện ở Đông Dương.

Bên cạnh đó, việc hợp tác khoa học - kỹ thuật giữa Nhật Bản và Mỹ ở giai

đoạn này cũng nhằm mục đích an ninh, quân sự. Do nhu cầu về phương tiện và các

nhu yếu phẩm phục vụ chiến tranh nên Nhật Bản đã đầu tư rất lớn cho việc nghiên

cứu lĩnh vực chế tạo máy móc, cũng như nhập khẩu khoa học - kỹ thuật từ nước

ngoài. Việc nhập khẩu kỹ thuật thông qua hợp tác với các công ty nước ngoài tăng

nhanh. Từ 27 hợp đồng năm 1950, tăng lên 101 năm 1951, 133 năm 1952, 103 năm

1953. Trong đó, các hợp đồng với các công ty Mỹ chiếm đa số. Vì vậy, những sản

phẩm được sản xuất tại Nhật Bản, nhất là những trang thiết bị phục vụ chiến tranh

như máy bay, xe tăng.., có chất lượng rất tốt, ngang với những sản phẩm được chế tạo

tại Mỹ. Như vậy, nhìn từ khía cạnh hợp tác kinh tế và khoa học - kỹ thuật có thể thấy

rõ nó cũng phục vụ cho mục đích an ninh, quân sự của Mỹ.

134

Thứ ba, quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ mang tính

“một chiều”, trong đó Mỹ đóng vai trò chủ động, còn Nhật Bản chủ động chấp nhận sự “lép vế” trước Mỹ

Ngay từ khi Mỹ “mở cửa” Nhật Bản, Nhật Bản phải kí hàng loạt hiệp ước bất

bình đẳng với Mỹ và các nước phương Tây. Lúc bấy giờ, so sánh về tiềm lực kinh tế, quân sự và vị thế quốc tế thì Nhật Bản còn đứng sau nhiều nước phương Tây.

Ngay cả khi Nhật Bản đứng vào hàng ngũ các cường quốc TBCN tham gia vào các

hội nghị quốc tế để giải quyết các vấn đề quốc tế quan trọng ở Hội nghị Versailles

và Hội nghị Washington, Nhật Bản vẫn luôn là kẻ chịu nhiều thua thiệt. Nhật Bản luôn tìm cách khắc phục tình trạng đó và có tham vọng vươn lên làm bá chủ Đông

Á. Để thay đổi vị thế của mình, chia lại thị trường thế giới, Nhật Bản đã gây Chiến

tranh Thái Bình Dương. Nhưng kết cục của chiến tranh không như giới cầm quyền

Nhật Bản mong muốn, quốc gia này thực sự sụp đổ. Trong khi đó, lịch sử nước Mỹ

kể từ khi lập quốc đã chứng minh rằng, những quốc gia nhận sự ủng hộ, viện trợ

kinh tế của Mỹ thì sẽ phải chịu sự khống chế về chính trị của Mỹ. Điều này hoàn

toàn đúng với trường hợp Nhật Bản. Từ khi bị Mỹ chiếm đóng và trong suốt những

năm 50, Nhật Bản đã nhận viện trợ từ Mỹ, do đó, nước này phải chịu sự chi phối từ

Mỹ. Thậm chí người Nhật Bản thường nói rằng: “khi New York hắt hơi thì Tokyo

sẽ bị viêm phổi” [30].

Dường như “vận mệnh” của Nhật Bản đã được Mỹ định đoạt sau khi Mỹ

giành được quyền chiếm đóng Nhật Bản từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.

Mỹ cũng chính là quốc gia hoạch định phương hướng phát triển cho Nhật Bản khi

kết thúc chế độ chiếm đóng. Mỹ gần như tự mình quyết định nội dung của Hiệp ước Hoà bình San Francisco, hầu như không cần tham khảo các nước khác, nếu có cũng

chỉ là chiếu lệ. Tại Hội nghị San Francisco tháng 9/1951, bất chấp sự phản ứng của

Liên Xô và một số nước XHCN, Mỹ vẫn tìm cách lôi kéo các nước để đồng ý ký vào Hiệp ước Hoà bình. Hiệp ước này đã làm cơ sở cho việc ký kết hiệp ước an ninh song phương Mỹ và Nhật Bản.

Kể từ khi trở thành đồng minh của Mỹ, Nhật Bản được coi là quốc gia đã được

phục hồi “tự do, bình đẳng”. Tuy nhiên, trên thực tế, Nhật Bản vẫn bị lệ thuộc chặt chẽ

vào Mỹ cả về đối nội lẫn đối ngoại, nhất là về đối ngoại. Trên nhiều phương diện, quan

hệ giữa hai nước mang tính “áp đặt” từ phía Mỹ và Nhật Bản dường như là người thực

thi. Nước Mỹ là “người anh cả áp đảo của Nhật Bản, phòng vệ cho họ, trở thành thị

trường lớn nhất của họ cũng như cung cấp cho họ những mối liên hệ bạn hàng quan

135

trọng nhất và gây áp lực lên mối quan hệ văn hóa giữa Nhật Bản và thế giới. Sẽ thật dễ

để người Mỹ có thể mong muốn có một mối quan hệ trên cơ sở bình đẳng với người

Nhật, nhưng sẽ khó để người Nhật có thể hoàn toàn cảm thấy bình đẳng với người Mỹ”

[30]. Hơn nữa, trong bối cảnh trong nước và quốc tế lúc bấy giờ, Nhật Bản không còn

sự lựa chọn nào khác ngoài việc liên minh toàn diện với Mỹ để được Mỹ đảm bảo an

ninh. Việc Nhật Bản ký Hiệp ước Hòa bình và Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ là sự lựa

chọn bắt buộc [40, tr. 103]. Do đó đã có ý kiến cho rằng, đối với Nhật Bản thì Hiệp ước

An ninh ký năm 1951 “không có gì khác hơn một vật tượng trưng hiện đại của các hiệp

ước bất bình đẳng đầy cay đắng thời Minh Trị” [88, tr. 61].

Trên thực tế, quan hệ với Mỹ sẽ trở thành trục chính trong các mối quan hệ

quốc tế của Nhật Bản ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và thế giới nói

riêng. Nói cách khác, trong việc thực hiện chính sách đối ngoại của mình, Nhật Bản

đều phải “xem xét” đến quan hệ với Mỹ, theo dõi lập trường của Mỹ, cân nhắc việc

mình làm có đúng quỹ đạo của Mỹ hay không. Điều này thể hiện rõ trong bức điện

gửi về Bộ Ngoại giao Mỹ năm 1960 của Đại sứ Mỹ tại Nhật Bản M. Douglas Mac

Athur II nói rõ: “Bắt đầu từ năm 1952, chủ quyền của Nhật Bản đã được khôi phục

một cách hợp pháp bằng hiệp ước hòa bình. Tuy nhiên, việc khôi phục chủ quyền này

trên một số khía cạnh chỉ là danh nghĩa vì Nhật Bản vẫn còn phụ thuộc nhiều vào Mỹ

và họ cảm thấy họ phải làm rất nhiều điều như chúng ta mong muốn trong các vấn đề

đối nội và đối ngoại. Về mặt ngoại giao, Nhật Bản phần lớn bị cô lập; về mặt kinh tế,

nước này vẫn nhận được viện trợ không hoàn lại từ chúng ta và cán cân thương mại

của nó bị bất lợi nặng nề…” [163]. Trong cuộc hội đàm với Tổng thống Mỹ ngày

19/6/1957, Thủ tướng Nhật Bản Kishi khẳng định: “… Nhật Bản sẽ thực hiện đúng

trách nhiệm của mình. Nhật Bản có những trách nhiệm cả trong và ngoài nước. Ở

trong nước, Nhật Bản thực hiện chính sách chống lại CNCS. Ở ngoài nước, Nhật Bản

là một trong những cộng sự thân cận của Mỹ” [88, tr.60].

Tính “một chiều” trong quan hệ Nhật Bản - Mỹ được thể hiện rõ nét trên

phương diện chính trị - an ninh, khi những nội dung cốt lõi trong quan hệ giữa hai

nước chủ yếu diễn ra ở Nhật Bản, đặc biệt là vấn đề căn cứ quân sự của Mỹ, vấn đề

tái vũ trang Nhật Bản, vấn đề biến Nhật Bản thành căn cứ cung cấp nguồn lực chiến

tranh của Mỹ ở Triều Tiên… Bên cạnh đó, trên phương diện kinh tế, Nhật Bản cũng

chưa đủ tiềm lực để cạnh tranh sòng phẳng với Mỹ. Mỹ là nước xuất siêu và đầu tư

chủ yếu sang Nhật Bản.

136

Trong quan hệ với Mỹ giai đoạn 1951 - 1960, Nhật Bản phải chịu “lép vế”

trước Mỹ. Điều đó không chỉ diễn ra trong giai đoạn này mà còn trong nhiều thập kỷ sau. Tuy nhiên, cần khách quan đánh giá rằng, Nhật Bản đã tự nguyện chấp nhận

thực trạng đó vì mục tiêu trước nhất là bảo vệ, khôi phục và phát triển đất nước, phù

hợp với hoàn cảnh của Nhật Bản lúc bấy giờ. Cựu Đại sứ Nhật Bản tại Mỹ Nomura Kichisaburo cho rằng: “Để đảm bảo an ninh của đất nước, Nhật Bản phải yêu cầu

quân Mỹ đồn trú tại Nhật… người có thể bảo vệ Nhật Bản” [88, tr. 53].

Lịch sử Nhật Bản đã chứng kiến nhiều lần dân tộc này chủ động mở cửa để

học tập nước ngoài. Người Nhật “luôn có những đánh giá chính xác về sức mạnh văn hoá cùng tiềm lực kinh tế, quân sự của từng nước để rồi đưa ra những quyết

định lựa chọn đồng minh chiến lược phù hợp” [45, tr.58]. Trong giai đoạn 1951 -

1960, Nhật Bản đã đánh giá đúng khả năng của bản thân và tiềm lực của Mỹ để

chấp nhận đi theo quỹ đạo của Mỹ. Lại một lần nữa, Nhật Bản mở cửa với phương

Tây, học tập để rồi bắt kịp phương Tây. Tinh thần dân tộc Nhật Bản đã được phát

huy, vì tương lai, họ sẵn sàng chấp nhận thách thức để phát triển. Nhà kinh tế học

Takeuchi Hiroshi nói rằng: “Trong chiến tranh, Mỹ đã bỏ bom giết hại người Nhật,

kể cả dân thường. Nhật phải phát triển, phải đuổi kịp Mỹ. Đó là con đường duy

nhất để đền đáp lại người đã chết vì chiến tranh” [91, tr. 47]. Tinh thần đó đã góp

phần làm cho Nhật Bản phát triển mạnh mẽ. Chưa đầy một thập kỷ kể từ khi thất

bại trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã phục hồi được nền kinh tế và

bước vào giai đoạn “thần kỳ” trong sự nể phục của thế giới.

Mặt khác, Nhật Bản chấp nhận “lép vế” trong quan hệ với Mỹ bởi những lợi

ích mà Mỹ mang lại cho Nhật kể từ khi kết thúc chiến tranh. Không thể phủ nhận vai trò của Mỹ đối với sự phục hồi của Nhật Bản từ đống đổ nát do chiến tranh để

lại. Trong thời gian chiếm đóng Nhật Bản, Mỹ đã thực thi nhiều chính sách về chính

trị, kinh tế, xã hội, góp phần giúp Nhật Bản vượt qua giai đoạn khó khăn nhất. Khoảng 10 năm sau chiến tranh, nền kinh tế Nhật Bản đã được phục hồi và bước đầu đạt mức tăng trưởng cao.

Thứ tư, quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản - Mỹ (1951 - 1960) chịu

sự chi phối sâu sắc của Chiến tranh lạnh và quan hệ giữa các cường quốc.

Về cơ bản cho đến trước năm 1949, cuộc đối đầu giữa Liên Xô và Mỹ vẫn có khuynh hướng đối lập về tư tưởng và chính trị, sau đó mới dần mang tính quân sự.

Từ năm 1949, yếu tố quân sự trong quan hệ đối đầu của hai cường quốc Mỹ, Xô trở

thành chủ đạo. Hai bên tăng cường quân đội, lôi kéo, tập hợp đồng minh, tiến tới

137

các hoạt động vũ trang. Nói cách khác, sự đối lập về tư tưởng của hai bên đã trở nên

sâu sắc trong khi những hoạt động thúc đẩy hòa bình quốc tế và hợp tác Mỹ - Xô không đủ mạnh để ngăn chặn sự quân sự hóa Chiến tranh lạnh. Năm 1949, Mỹ ký

kết Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương với các nước Tây Âu. Đây là lần đầu tiên trong

thời bình, nước Mỹ thực hiện một mối quan hệ đồng minh mang tính quân sự. Mục đích rõ ràng của Mỹ khi ký hiệp ước này là nhằm vào Liên Xô và các nước XHCN

Đông Âu. Hiệp ước thể hiện quan hệ quân sự của Mỹ và Tây Âu, chia châu Âu làm

hai phần Tây Âu và Đông Âu. Trong khi đó, Liên Xô đã bố trí lực lượng quân sự ở

các nước Đông Âu, Tháng 10/1949, khi chính quyền của Đảng Cộng sản được thiết lập ở Trung Quốc thì Liên Xô và CHND Trung Hoa đã ký kết hiệp ước thiết lập

quan hệ đồng minh song phương. Liên Xô cũng ký Hiệp ước quân sự với CHDCND

Triều Tiên. Năm 1949, Liên Xô đã chế tạo thành công bom nguyên tử và tiếp tục

tăng cường sức mạnh quân sự với vũ khí hạt nhân là trung tâm.

Ngân sách quốc phòng của Liên Xô và Mỹ trước năm 1949 không có gì bất

thường nhưng sau năm 1950 thì tình hình đã thay đổi. Ngân sách quốc phòng của

Mỹ năm 1949 là 12 tỷ USD nhưng sau 2 năm đã tăng lên 33,3 tỷ USD. Tất nhiên,

phần lớn ngân sách bổ sung là để phục vụ cho cuộc Chiến tranh Triều Tiên, nhưng

không phải là tất cả. Trong tài liệu số 68 NSC được lập trước khi Chiến tranh Triều

Tiên bùng nổ (tháng 6/1950), Mỹ cũng đã đề cập đến tính cần thiết của việc gia tăng

khẩn cấp ngân sách quốc phòng [40, tr. 87]. Thời gian đầu của những năm 50, ngân

sách quốc phòng của Liên Xô chưa bằng một nửa của Mỹ, nhưng về tỷ trọng trong

GNP thì cao hơn Mỹ. Như vậy, có thể nói, nếu xét về tỷ trọng ngân sách quốc

phòng với GNP ở thời điểm đó thì Liên Xô là nước đầu tư cho quốc phòng lớn nhất thế giới [40, tr. 87].

Tình trạng như trên đã dẫn đến căng thẳng trong quan hệ quốc tế. Có thể nói,

từ đầu những năm 50, cuộc chạy đua vũ trang giữa Mỹ và Liên Xô đã mang tính bước ngoặt, hai nước đều hình thành các nhóm đồng minh quân sự và ra sức chạy đua vũ trang. Không chỉ châu Âu, châu Á cũng bị chia hai về chế độ chính trị với sự nâng đỡ của Mỹ và Liên Xô. Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ càng thể hiện rõ nét sự đối đầu căng thẳng này.

Quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 1951-1960 diễn ra trong bối cảnh cuộc Chiến tranh lạnh bước vào giai đoạn căng thẳng nên

chịu sự chi phối sâu sắc của nó và về khách quan, mối quan hệ này đã tác động trở

lại đối với cuộc Chiến tranh lạnh. Nói cách khác, Chiến tranh lạnh là một trong

138

những cơ sở ra đời, chịu sự tác động của quan hệ đồng minh Nhật Bản - Mỹ và

cũng là nhân tố chi phối sâu sắc đến mối quan hệ này. Có thể nói, diễn biến của quan hệ Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 1951 - 1960 cùng chiều với sự phát triển Chiến

tranh lạnh.

Bắt đầu từ Hiệp ước Hoà bình San Francisco, Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ năm 1951 đến Hiệp ước An ninh năm 1960, các sự kiện chính của quan hệ Nhật

Bản - Mỹ thể hiện sự ứng phó đối với cuộc Chiến tranh lạnh đang diễn biến. Bản

thân giới lãnh đạo Nhật Bản và Mỹ cho dù trực tiếp hay gián tiếp đều khẳng định lý

do chính của việc phát triển mối quan hệ song phương là nhằm phù hợp với con đường mà hai nước đã lựa chọn, đó là con đường của “thế giới tự do”, “thế giới dân

chủ”. Tại Hội nghị hoà bình San Francisco tháng 9/1951, Thủ tướng Nhật Bản

Yoshida nói rằng: “Thật không may, các thế lực của sự áp bức và chuyên chế vẫn

hoạt động trên khắp thế giới. Những thế lực này đang càn quét hơn một nửa lục địa

châu Á, gieo mầm bất hòa, gieo rắc bất ổn, rối ren và bùng phát thành những cuộc

xâm lược công khai ở ngay trước cửa Nhật Bản… Ngày nay, chính sự uy hiếp của

cộng sản đã đe dọa chúng tôi… một ngày nào đó làn sóng xâm lược này sẽ tràn

xuống bờ biển của chúng tôi. Vì lợi ích của sự tồn tại của chúng tôi, chúng tôi bắt

buộc phải thực hiện một biện pháp an ninh thích hợp” [149].

Tuyên bố chung của Thủ tướng Nhật Bản Yoshida và Tổng thống Mỹ Eisenhower ngày 10/11/ 1954 khẳng định: “Tổng thống và Thủ tướng nhất trí rằng sự đoàn kết và quyết tâm của các dân tộc tự do đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp hòa bình thế giới. Họ tuyên bố rằng Chính phủ hai nước sẽ hợp tác với các quốc gia tự do của châu Á, tiếp tục nỗ lực đoàn kết để duy trì và thúc đẩy hòa bình và thịnh vượng của châu Á” [127]. Tháng 6/1957, tại Washington, Thủ tướng Nhật Bản Kishi và Tổng thống Mỹ Eisenhower đã hội đàm về quan hệ Nhật Bản - Mỹ và thảo luận về các vấn đề quốc tế mà hai bên cùng quan tâm. Hai nhà lãnh đạo cho rằng: “Mặc dù nguy cơ chiến tranh chung đã phần nào giảm bớt, nhưng CNCS quốc tế vẫn là một mối đe dọa lớn… các quốc gia tự do cần tiếp tục giữ gìn sức mạnh và sự thống nhất… Sức mạnh răn đe của thế giới tự do trong những năm gần đây đã có hiệu quả trong việc ngăn chặn các hành động xâm lược công khai ở Viễn Đông và thế giới” [128]. Đến cuộc hội đàm tháng 1/1960, Thủ tướng Nhật Bản Kishi và Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower tiếp tục coi trọng mối quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ trên cơ sở đánh giá về tình hình quốc tế và tuyên bố rằng “quan hệ chặt chẽ hơn là điều cần thiết để đạt được hòa bình trong công lý và tự do” và “nhất trí

139

việc Nhật Bản ngày càng tham gia nhiều hơn vào các cuộc thảo luận quốc tế về vấn đề châu Á sẽ vì lợi ích của thế giới tự do” [129]. Cần phải chú ý đến những từ ngữ mà lãnh đạo hai nước đã dùng như “dân chủ”, “tự do”, “công lý”, đó là những từ ngữ mà lúc bấy giờ các nước tư bản thường dùng, có ý lên án chế độ XHCN là thiếu dân chủ, không có tự do và “tàn bạo”…

Sự thật lịch sử đã chứng minh rằng, khi cuộc Chiến tranh lạnh bị đẩy lên cao thì quan hệ đồng minh Nhật Bản - Mỹ càng gắn bó và tỏ ra có hiệu quả hơn. Điều đó góp phần dẫn đến tình thế cạnh tranh tương đối cân bằng ở châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là ở Đông Á giữa Mỹ và Liên Xô trong suốt những năm 50. Đặc điểm này còn được duy trì trong suốt nhiều thập niên sau đó, Nhật Bản và Mỹ vẫn là đồng minh gắn bó khăng khít không thể tách rời.

Bản chất của sự căng thẳng trong Chiến tranh lạnh chính là sự căng thẳng của quan hệ giữa Mỹ và Liên Xô. Thập kỷ 50 chính là giai đoạn mà sự đối đầu giữa hai nước bắt đầu quyết liệt. Một điều rõ ràng là sự đối lập về quân sự đã tăng cả về lượng và chất so với trước. Ví dụ, số đầu đạn hạt nhân của Mỹ năm 1950 là trên dưới 1.000, sau 10 năm đã lên tới con số 20.000. Năm 1955, Liên Xô hầu như không có đầu đạn hạt nhân thì đến năm 1960 đã có trên 3.000 đầu đạn hạt nhân. Tổng số vũ khí hạt nhân cả Mỹ và Liên Xô năm 1950 đều rất nhỏ nhưng 10 năm sau thì Mỹ có tới 19 triệu megaton, Liên Xô cũng có tới 18 triệu megaton [40, tr. 118]. Ngân sách quân sự của hai nước tăng nhiều, nhất là ngân sách dành cho trang bị vũ khí hạt nhân. Đặc biệt chi phí dành cho quân sự của Liên Xô tăng rất rõ, nếu năm 1950 chưa bằng một nửa của Mỹ thì đến năm 1963 đã tăng với tốc độ phi mã lên tới 54,7 tỷ USD (Mỹ 52,5 tỷ USD) [40, tr. 118]. Trong thế đối đầu căng thẳng đó, quan hệ Nhật Bản - Mỹ không thể không bị cuốn vào quan hệ giữa hai cường quốc đứng đầu hai phe. Khi hai cực Mỹ - Xô càng xung đột mạnh, càng căng thẳng thì quan hệ Nhật Bản với Mỹ cũng được tăng cường hơn.

Bên cạnh chịu sự chi phối của quan hệ Mỹ - Xô là mối quan hệ cốt lõi của Chiến tranh lạnh, quan hệ Nhật Bản và Mỹ giai đoạn 1951 - 1960 còn chịu sự chi phối của quan hệ Mỹ - CHND Trung Hoa. Khi Tưởng Giới Thạch thất bại ở đại lục và buộc phải chạy ra Đài Loan, nước CHND Trung Hoa được thành lập đã đe doạ nghiêm trọng đến lợi ích của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương. Vì vậy, Mỹ nhanh chóng công nhận chính quyền Đài Loan, âm mưu tách Đài Loan ra khỏi Trung Quốc và cố gắng ngăn chặn CHND Trung Hoa giải phóng Đài Loan bằng vũ lực. Dưới sự thao túng của Mỹ, Đài Loan thậm chí còn đại diện cho Trung Quốc trong vai trò Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc.

140

CHND Trung Hoa nhanh chóng đứng về phía Liên Xô, ký với Liên Xô Hiệp

ước hữu nghị, đồng minh và tương trợ vào tháng 2/1950. Ngoài ra, CHND Trung Hoa còn cử quân Chí nguyện tham gia Chiến tranh Triều Tiên, trực tiếp đối đầu với

Mỹ. Do đó, Chiến tranh Triều Tiên không chỉ là sự đối đầu Mỹ - Xô nữa, mà còn là

đối đầu Mỹ - CHND Trung Hoa. Có thể khẳng định, quan hệ Mỹ và CHND Trung Hoa trong suốt những năm 50 là quan hệ đối đầu, “Bắc Kinh và Washington đã

chắc chắn coi nhau là kẻ thù nguy hiểm” [101, tr. 13]. Do đó, mọi tính toán của Mỹ

ở châu Á thời gian này không chỉ để đối chọi lại với Liên Xô mà còn chống lại cả

CHND Trung Hoa. Chính những hoạt động của CHND Trung Hoa càng thúc đẩy việc thực thi chính sách đồng minh của Mỹ đối với Nhật Bản.

Trong suốt giai đoạn 1951 - 1960, bị chi phối bởi mối quan hệ đối đầu giữa

Mỹ và CHND Trung Hoa, Nhật Bản buộc phải lựa chọn con đường gắn kết Mỹ.

Nhật Bản chỉ thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức và ký nhiều hiệp định về

thương mại, hàng không… với Đài Loan nhưng tuyệt đối không thừa nhận CHND

Trung Hoa. Trong quan hệ với CHND Trung Hoa, Nhật Bản chỉ duy trì tình trạng

phi chính thức. Một số nhà nghiên cứu gọi đó là chính sách “Hai nước Trung Hoa”

(Two-China Policy) và đó là “một mặc định bởi sự tác động của nhân tố Mỹ” [109].

Mãi đến khi quan hệ Mỹ - CHND Trung Hoa có biểu hiện hoà dịu, Mỹ có những

điều chỉnh trong chính sách đối ngoại với CHND Trung Hoa theo hướng tích cực

thì Nhật Bản bắt đầu thực hiện chính sách “Một nước Trung Hoa”. Ngày 29/9/1972,

Nhật Bản và CHND Trung Hoa mới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.

Thứ năm, trong giai đoạn 1951 - 1960, so sánh với các đồng minh khác của Mỹ

ở châu Á (Hàn Quốc, Philippines, Thái Lan), Nhật Bản là đồng minh quan trọng nhất

Xây dựng liên minh để cân bằng quyền lực là vấn đề được các nước châu Âu

tiến hành từ lâu, nhất là trong thời kỳ cận đại. Tuy nhiên, đối với Mỹ, mãi khi Chiến

tranh lạnh nổ ra, Mỹ mới lần đầu tiên tham gia vào liên minh quân sự trong thời

bình. Để thực hiện chiến lược toàn cầu của mình, Mỹ đã liên tiếp hình thành các

liên minh quân sự, xây dựng quan hệ đồng minh với nhiều nước trên thế giới. Nếu

“không có các đồng minh, Mỹ không thể duy trì được ưu thế áp đảo quân sự cũng

như sức ảnh hưởng chính trị ở tất cả các khu vực trọng yếu cùng lúc” [48, tr. 186-

187]. Trong giai đoạn 1951 - 1960, Mỹ đã thiết lập quan hệ đồng minh với một số

nước ở khu vực châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines, Thái Lan… thông

qua các liên minh quân sự.

141

Liên minh Mỹ - Hàn Quốc được xác lập sau khi chính phủ thân Mỹ của Tổng

thống Lý Thừa Vãn được thành lập năm 1948 tại Hàn Quốc. Sau khi Chiến tranh

Triều Tiên kết thúc, Hiệp ước liên minh Mỹ - Hàn được ký kết ngày 1/10/1953,

trong đó quy định trách nhiệm trợ giúp nhau trong trường hợp một trong hai bên bị

tấn công, đồng thời mở đường cho việc triển khai lâu dài quân đội Mỹ tại Hàn

Quốc. Hàn Quốc từ đó trở nên gắn kết chặt chẽ vào Mỹ về kinh tế và vận mệnh an

ninh quốc gia suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh… [10, tr.110-111].

Liên minh Mỹ - Philippines ra đời vào năm 1951 khi hai nước ký Hiệp ước

phòng thủ chung quy định hai bên sẽ tương trợ nhau nếu một trong hai bị tấn công.

Suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh, Philippines là tiền đồn quân sự và nơi cung cấp hậu

cần quan trọng nhất cho sự hiện diện của Mỹ tại Đông Nam Á.

Liên minh Mỹ - Thái Lan cũng được hình thành trong những năm 50. Thái

Lan là một trong những đồng minh lâu năm nhất của Mỹ tại Đông Nam Á, là một

trong hai quốc gia của khu vực (cùng với Philippines) tham gia vào tổ chức SEATO

do Mỹ thành lập. Thời kỳ Chiến tranh lạnh, Thái Lan trở thành một “chiến sĩ tiên

phong” trong chiến lược ngăn chặn CNCS của Mỹ tại Đông Nam Á.

Mỗi liên minh có một vai trò và vị trí khác nhau, ra đời trong hoàn cảnh và

phục vụ mục đích khác nhau của Mỹ. Nếu như liên minh Mỹ - Hàn Quốc ra đời

nhằm bình ổn tình hình trên bán đảo Triều Tiên, thì liên minh Mỹ - Philippines và

Mỹ - Thái Lan ra đời trước hết nhằm mục đích ngăn chặn CNCS từ CHND Trung

Hoa và Việt Nam Dân chủ cộng hoà phát triển xuống Đông Nam Á. Mặc dù vậy,

các liên minh này cùng có điểm chung lớn nhất đó là ra đời để thực hiện chiến lược

toàn cầu của Mỹ.

Các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines và Thái Lan tạo thành thế liên

hoàn vững chắc trong vành đai chống cộng của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương.

Nếu nắm chắc được các quốc gia này thì Mỹ sẽ có ưu thế trong cuộc chiến chống lại

các nước XHCN, do vậy, Mỹ không ngừng củng cố các liên minh nói trên.

Tuy nhiên, trong giai đoạn 1951 - 1960, so sánh với các liên minh đã nêu, đối

với Mỹ, liên minh với Nhật Bản quan trọng hơn cả. Điều đó được thể hiện mấy điểm: Thứ nhất, Mỹ đã tạo được những cơ sở hết sức vững chắc ở Nhật Bản sau khi Chiến

tranh thế giới thứ hai kết thúc. Với tư cách đại diện cho phe Đồng minh chiếm đóng Nhật Bản, Mỹ đã thực thi nhiều chính sách ở quốc gia này như xây dựng Hiến pháp 1946, cải cách ruộng đất, xây dựng bộ máy nhà nước, xây dựng nền dân chủ, phục

142

hồi kinh tế…; thứ hai, Nhật Bản có vị trí chiến lược đối với Mỹ trong việc ngăn chặn

Liên Xô và CHND Trung Hoa. Đối với Liên Xô, Nhật Bản trở thành “mũi kiếm” chĩa về Liên Xô từ phía Tây. Đối với CHND Trung Hoa với vị trí gần gũi, căn cứ quân sự

ở Okinawa có thể khống chế nhiều mục tiêu quan trọng ở đại lục Trung Quốc. Ngoài

ra, Nhật Bản đã đóng vai trò đắc lực đối với Mỹ trong Chiến tranh Triều Tiên, góp phần ngăn cản CNCS “thôn tính” toàn bộ bán đảo này. Muốn ngăn chặn tầm ảnh

hưởng của CNCS ở châu Á thì Nhật Bản là một trong những bức tường hữu hiệu

nhất; thứ ba, tại Nhật Bản, Mỹ có các căn cứ quân sự nhiều nhất với số quân đồn trú

lớn nhất. Chỉ tính riêng tổ hợp căn cứ quân sự Okinawa đã tập trung tới 88 căn cứ với 35.000 lính Mỹ. Ngoài ra còn rất nhiều các căn cứ quân sự khác như Tokyo,

Inuit… so với các căn cứ của Mỹ ở Philippin như căn cứ Guam hay các căn cứ ở Hàn Quốc, Thái Lan thì các căn cứ `ở Nhật lớn hơn rất nhiều; thứ tư, về viện trợ kinh tế và quân sự, Mỹ đều ưu tiên Nhật Bản hơn các nước. Chỉ tính riêng chi tiêu cho quân sự của Mỹ (bao gồm cả hàng hoá và dịch vụ) ở các nước Nhật Bản, Hàn

Quốc và Philippines, Thái Lan đã thể hiện điều đó:

Bảng 4.2. Chi tiêu quân sự của Mỹ (hàng hoá và dịch vụ) ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines và Thái Lan (1953 - 1960)

Đơn vị tính: Triệu USD

Quốc gia 1953 1954 1955 1956 1957 1958 1959 1960

Nhật Bản Hàn Quốc Philippines Thái Lan 771 570 44 62 39 40 1 1 502 499 465 418 381 405 90 62 41 46 6 1 37 50 2 58 57 5 94 47 7 Tổng 1953-1960 4.011 535 373 28

88 53 5 [125, tr. 201].

Nhìn vào bảng trên thấy rằng, chi tiêu quân sự của Mỹ ở Nhật Bản lớn hơn

rất nhiều so với các nước Hàn Quốc, Philippines, Thái Lan. Tổng chi tiêu những năm 1953 - 1960 của Mỹ ở Nhật Bản lớn hơn 7,49 lần Hàn Quốc, hơn 10,75 lần so với Philippines và hơn 143,25 lần so với Thái Lan. Điều này phần nào cho thấy tầm

quan trọng của Nhật Bản trong các hoạt động quân sự của Mỹ.

Thứ sáu, quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ (1951 - 1960) tác động mạnh mẽ đến quan hệ chung giữa hai nước và đặt nền tảng cho quan

hệ song phương ở các giai đoạn sau

Chính trị - an ninh và kinh tế là nội dung cốt lõi, quan trọng nhất trong quan hệ

toàn diện Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 1951 - 1960. Diễn biến của quan hệ hai nước trên

143

các lĩnh vực này có ảnh hưởng lớn đến các lĩnh vực khác. Trong bối cảnh thế giới của

thập kỷ 50, nếu Mỹ và Nhật Bản không thiết lập được liên minh chính trị - an ninh chặt chẽ cũng như không có quan hệ kinh tế khởi sắc thì không thể tạo cơ sở để phát

triển quan hệ trên các lĩnh vực. Do đó, quan hệ song phương trên các lĩnh vực khác

như văn hoá, giáo dục, khoa học - kỹ thuật… có điều kiện thuận lợi phát triển.

Về văn hoá: với mục tiêu biến đổi hình ảnh một quốc gia quân sự thành một

quốc gia yêu chuộng hoà bình và dân chủ, Nhật Bản tham gia vào tổ chức UNESCO

(năm 1951) và đẩy mạnh các hoạt động văn hóa ở nước ngoài, trong đó có Mỹ. Tại

Mỹ, Nhật Bản tổ chức nhiều hoạt động để giới thiệu văn hóa truyền thống như trà đạo, nghệ thuật cắm hoa... Trong những năm 1952 - 1960, nhiều đoàn nghệ thuật

truyền thống của Nhật Bản đến Mỹ biểu diễn nghệ thuật với sứ mệnh “đảm bảo

Nhật Bản là bạn của Mỹ ở châu Á”. Phía Nhật Bản chủ trương tổ chức các hoạt

động văn hóa ở nước ngoài nói chung và Mỹ nói riêng phải tránh những gì liên

quan tới Samurai và tinh thần Samurai, bởi nó có thể gợi đến hình ảnh một nước

Nhật quân phiệt. Mặt khác, trên cơ sở quan hệ gắn bó, trong giai đoạn này, Nhật

Bản chú ý tiếp thu có chọn lọc văn hoá Mỹ, lên án những hành động phi văn hoá

của lính Mỹ ở Nhật Bản gây ra...

Về giáo dục: quan hệ chính trị chặt chẽ và quan hệ kinh tế phát triển cùng

với chính sách hợp lý của Nhật Bản đã thúc đẩy quan hệ hợp tác giáo dục giữa hai

nước tiến triển. Trong giai đoạn này, giáo dục Nhật Bản chú trọng đến việc đào tạo

nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu khôi phục và phát triển kinh tế, làm chủ công nghệ

mới. Bên cạnh đẩy mạnh đào tạo kỹ sư trong nước, Nhật Bản cũng cử một số lượng

lớn lưu học sinh sang Mỹ học tập.

Về khoa học - kỹ thuật: Đây là lĩnh vực chịu tác động khá rõ nét từ quan hệ

chính trị - an ninh và kinh tế. Mỹ là nước đi đầu trong cuộc Cách mạng khoa học -

kỹ thuật hiện đại, sở hữu nhiều phát minh quan trọng. Cuộc Chiến tranh Triều Tiên là dịp hiếm có để Nhật Bản được tiếp cận với nền khoa học - kỹ thuật tiên tiến của Mỹ. Để phục vụ cho nhu cầu chiến tranh, Mỹ đã mang vào Nhật Bản các thiết bị kỹ thuật hiện đại. Mỹ cũng là thị trường nhập khẩu chủ yếu của Nhật Bản, trong đó có công nghệ. Trong số 186 vụ nhập khẩu công nghệ với kinh phí 20 triệu USD (năm 1955) và 588 vụ với số tiền 95 triệu USD (năm 1960) mà Nhật Bản thực hiện thì phần lớn có nguồn gốc từ Mỹ [91, tr. 209]. Công nghệ mới của Mỹ là cơ sở để Nhật

Bản nghiên cứu, ứng dụng, cải tiến và phổ cập công nghệ trong toàn quốc, đóng vai

trò quan trọng trong sự phát triển “thần kỳ” của quốc gia này.

144

Quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến

năm 1960 không chỉ ảnh hưởng đến hai quốc gia ở giai đoạn đó mà còn đặt nền tảng cho quan hệ song phương về sau.

Trong những năm sau 1960 đến khi kết thúc Chiến tranh lạnh, nhìn chung,

quan hệ Nhật Bản - Mỹ vẫn phát triển theo quỹ đạo chung đã được xác định từ Hiệp ước an ninh năm 1951. Một mặt, Mỹ vẫn muốn hướng Nhật Bản phát triển trong

phạm vi khống chế của mình, mặt khác, lại muốn Nhật Bản gánh vác trọng trách lớn

hơn trong việc đảm bảo an ninh với Mỹ. Bởi vậy, mặc dù Nhật Bản ngày càng lớn

mạnh và mong muốn có vị thế bình đẳng hơn trong quan hệ với Mỹ, nhưng vẫn chưa thể thoát khỏi hoàn cảnh lệ thuộc vào Mỹ.

Quan hệ Nhật Bản - Mỹ những thập niên sau năm 1960 bắt đầu xuất hiện

những yếu tố bình đẳng hơn thậm chí mang tính cạnh tranh. Điều đó xuất phát từ

hai nguyên nhân cơ bản: một là do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Nhật Bản;

hai là những tính toán của Mỹ trước sự biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới.

Trong nhiều chính sách của Mỹ, Nhật Bản đã tỏ thái độ không hài lòng như việc

yêu cầu Nhật Bản phải chia sẻ gánh nặng với Mỹ trong vấn đề bán đảo Triều Tiên

hay những vấn đề mà quân đội Mỹ gây ra tại Nhật Bản, ngăn cản Nhật Bản phát

triển quan hệ với CHND Trung Hoa… Nhật Bản thể hiện mong muốn có sự bình

đẳng hơn trong quan hệ với Mỹ. Điều đó, được dấy lên mạnh mẽ vào đầu những

năm 70 khi thế giới tư bản gặp nhiều rối ren với những sự kiện như khủng hoảng

đồng USD, khủng hoảng dầu mỏ… Trong khi đó, vào thời gian này nền kinh tế

Nhật Bản phát triển đến đỉnh điểm của sự “thần kỳ”. Do vậy, khi nền kinh tế Nhật

Bản trở nên mạnh mẽ hơn và nước Nhật cảm thấy tự tin hơn, họ có quyền đòi hỏi vị trí xứng đáng hơn trên trường quốc tế. Tổng thống Mỹ R. Nixon từng nhận xét:

“Người Nhật, về cơ bản là những người năng động, không tự hài lòng với chính

mình và cực kỳ tham vọng. Họ không thể bị giam cầm và có thể chơi với bất kỳ ai mà họ có thể, họ sẽ sử dụng mọi thứ để chống lại chúng ta” [89]. Bên cạnh đó, những xung đột, cạnh tranh về kinh tế giữa hai nước từ năm 1960 cũng bắt đầu gia tăng. Nước Mỹ đã áp lên Nhật Bản chính sách được gọi là “giới hạn tự nguyện”, giới hạn lượng hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ rất nhiều mặt hàng, từ sản phẩm dệt may đến găng tay chơi bóng chày… Mặt khác, các doanh nghiệp Mỹ rất bất mãn với những giới hạn nghiêm ngặt mà chính phủ Nhật Bản đang duy trì dưới dạng này hay dạng

khác lên các mặt hàng nhập khẩu từ Mỹ [30].

Cho dù có nhiều mâu thuẫn, cạnh tranh, tuy nhiên nhìn một cách tổng thể,

145

hai nước Nhật Bản và Mỹ vẫn có nhiều điểm cốt lõi chung không thể tách rời nhau.

Từ sau khi hai nước ký Hiệp ước hợp tác và an ninh tương hỗ Nhật - Mỹ (tháng 1/1960) đến khi kết thúc Chiến tranh lạnh, Nhật Bản và Mỹ đã nhiều lần điều chỉnh

hiệp ước an ninh song phương. Năm 1970, hai bên thống nhất tiếp tục duy trì Hiệp

ước và sẽ được tự động tiếp tục gia hạn, hiểu cách khác là hai bên đã ký một hiệp ước vĩnh viễn. Tuy nhiên, từ năm 1960, do sự chuyển biến của tình hình thế giới,

Nhật Bản đã chủ động tham gia tích cực hơn vào chiến lược toàn cầu của Mỹ, nhất

là tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đồng thời chấp nhận gánh vác một phần

chi phí quân sự vào việc bảo vệ an ninh của mình.

Sau Chiến tranh lạnh, mặc dù bối cảnh quốc tế, khu vực biến đổi sâu sắc,

nhưng “hệ thống liên minh an ninh song phương vẫn là xương sống trong hợp tác an

ninh của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương, là điểm tựa quan trọng nhất cho chiến

lược của Mỹ ở khu vực” [10]. Đầu thập kỷ 90, quan hệ đồng minh Mỹ - Nhật được

tái định hình và tiếp tục được xác định là trụ cột vững chắc của kiến trúc an ninh

khu vực. Hai nước ký kết “Tuyên bố chung Nhật - Mỹ về an ninh: Liên minh cho

thế kỷ XXI” vào tháng 4/1996. Tuyên bố này cùng với thỏa thuận hợp tác quốc

phòng Mỹ - Nhật sửa đổi ký ngày 23/12/1997 đã “tái khẳng định mối quan hệ an

ninh song phương vững chắc giữa hai nước, đồng thời mở rộng phạm vi hợp tác an

ninh song phương trước đây từ mục tiêu trọng tâm là bảo vệ Nhật Bản sang cả mục

tiêu hòa bình và an ninh quốc tế tại Viễn Đông” [10].

146

KẾT LUẬN

1. Quan hệ Nhật Bản - Mỹ có lịch sử lâu dài, trải qua không ít thăng trầm và biến động trong những giai đoạn khác nhau. Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã đưa quan hệ hai nước chuyển sang bước ngoặt mới, từ đó tính chất đối đầu giữa hai nước được loại bỏ và thay thế bằng quan hệ giữa nước chiếm đóng - nước bị chiếm đóng và cuối cùng là quan hệ đồng minh. Ngày 8/9/1951, hai nước ký Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ, chính thức thiết lập quan hệ đồng minh. Ngày 19/1/1960, hai nước tái ký kết Hiệp ước An ninh trên cơ sở điều chỉnh nội dung của hiệp ước đã ký kết năm 1951. Mối quan hệ đồng minh Nhật Bản - Mỹ trở thành một trong những điển hình cho các mối quan hệ đồng minh song phương trong Chiến tranh lạnh. Giai đoạn 1951 - 1960 là khoảng thời gian sôi động của quan hệ hai nước với nhiều sự kiện, nội dung mà hai bên đã triển khai. Trong quan hệ Nhật Bản và Mỹ giai đoạn này, quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế có nội dung phong phú hơn cả, thể hiện bản chất của mối quan hệ giữa hai nước. Nhật Bản và Mỹ tiến hành hợp tác về chính trị - an ninh, kinh tế nhằm mưu cầu lợi ích quốc gia của riêng mình, phù hợp với tình hình chính trị thế giới lúc bấy giờ.

2. Quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản - Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960 chịu tác động sâu sắc của nhiều nhân tố gồm cả khách quan và chủ quan, từ góc độ quốc tế, khu vực, quốc gia đến cá nhân. Mối quan hệ này diễn ra trong bối cảnh quốc tế và khu vực hết sức phức tạp từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhất là trong những năm 50 của thế kỷ XX. Cuộc Chiến tranh lạnh đẩy thế giới thành hai hệ thống đối đầu: hệ thống TBCN do Mỹ đứng đầu và hệ thống XHCN do Liên Xô đứng đầu. Từ khi CHND Trung Hoa ra đời, CNXH trở thành hệ thống thế giới và không ngừng lớn mạnh. Bên cạnh đó là sự phát triển mạnh mẽ của phong trào GPDT trên thế giới. Cuộc Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam bùng nổ có tác động không nhỏ đến quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ. Tình hình đó buộc Nhật Bản phải lựa chọn con đường liên minh với Mỹ và Mỹ phải có những toan tính cho chiến lược toàn cầu của mình.

Với những cơ sở đã được thiết lập trong lịch sử, nhất là trong thời gian Mỹ chiếm đóng Nhật Bản, hai nước có điều kiện để phát triển quan hệ song phương. Có thể nói, trong bối cảnh mới sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ có điều kiện thuận lợi để liên minh với Nhật Bản. Trong thời gian chiếm đóng Nhật Bản, Mỹ đã ngăn cản sự phục hồi của Chủ nghĩa quân phiệt, thực hiện những cải cách dân chủ, chủ

147

trương khôi phục nền kinh tế Nhật Bản, từng bước chuẩn bị những tiền đề nhằm biến quốc gia này thành đồng minh của mình. Trong khi đó, với thất bại nặng nề trong chiến tranh và phải gánh chị u những hậu quả nặng nề về kinh tế, chính trị, xã hội, Nhật Bản gặp vô vàn khó khăn trong việc tái thiết đất nước và lấy lại vị thế đã mất. Hoàn cảnh đó không cho phép Nhật Bản tự quyết định số phận của mình mà phải chấp nhận các phán quyết quốc tế dưới sự thực thi chủ yếu của Mỹ. Từ năm 1945 đến năm 1951, mặc dù Mỹ là nước chiếm đóng, Nhật Bản là nước bị chiếm đóng, nhưng quan hệ hai nước vẫn có điều kiện để xích lại gần nhau. Trong hoàn cảnh đặc biệt lúc bấy giờ, Nhật Bản không có sự lựa chọn nào khả dĩ hơn là tăng cường quan hệ với Mỹ, đi theo quỹ đạo của Mỹ.

Nhân tố cá nhân cũng có ảnh hưởng lớn đến quan hệ hai nước nói chung cũng như trên lĩnh vực chính trị - an ninh và kinh tế nói riêng. Trong giai đoạn 1951-1960, nước Mỹ trải qua hai đời tổng thống là Harry S. Truman và Dwight D. Eisenhower. Đây là hai nhân vật có tư tưởng chống CNCS kịch liệt, đều thống nhất mục tiêu bá chủ toàn cầu của Mỹ, chủ trương thiết lập và phát triển quan hệ đồng minh với Nhật Bản. Trong thời kỳ cầm quyền của Truman và Eisenhower, Nhật Bản là đối tác không thể tách rời với lợi ích của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương. Ở Nhật Bản, Thủ tướng Yoshida Shigeru và Thủ tướng Kishi Nobusuke là những người có ảnh hưởng rõ nét đến diễn biến quan hệ Nhật Bản - Mỹ. Yoshida Shigeru là người trực tiếp ký kết Hiệp ước An ninh với Mỹ, chủ trương phi quân sự hoá Nhật Bản, tập trung phát triển kinh tế, thực hiện chính sách “ngoại giao kinh tế”. Quan trọng hơn, học thuyết mà ông đề xướng có ảnh hưởng lớn đến Nhật Bản không chỉ trong giai đoạn ông cầm quyền mà còn trong thời gian dài về sau. Trong khi đó, Kishi Nobusuke là người ký Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ năm 1960 và là người luôn có tư tưởng đấu tranh để giành quyền bình đẳng với Mỹ và nâng cao vị thế của Nhật Bản trên trường quốc tế.

3. Dưới tác động của những yếu tố khách quan và chủ quan nói trên, từ năm 1951 đến năm 1960, Nhật Bản và Mỹ đã triển khai quan hệ đồng minh. Về cơ bản, mối quan hệ này đã chi phối quan hệ giữa hai nước trên tất cả các phương diện, trong đó lớn nhất là lĩnh vực chính trị - an ninh và kinh tế. Với tiềm lực hùng mạnh về kinh tế và quân sự, Mỹ theo đuổi mục tiêu bá chủ toàn cầu, tìm mọi cách lôi kéo đồng minh để tiêu diệt Liên Xô và hệ thống XHCN. Ở châu Á - Thái Bình Dương, Nhật Bản trong tình thế không có nhiều lựa chọn đã đứng cùng chiến tuyến với Mỹ, vận hành theo quỹ đạo do Mỹ đề ra. Để thắt chặt quan hệ đồng minh, hai nước đã ký nhiều hiệp ước, hiệp định, thoả thuận hợp tác, tiến hành nhiều cuộc hội đàm cấp

148

cao. Với Hiệp ước Hoà bình San Francisco, Nhật Bản được công nhận là một quốc gia có chủ quyền, có quyền tham gia vào các thỏa thuận an ninh tập thể, mở đường cho việc Nhật Bản ký kết hiệp ước an ninh với Mỹ. Hiệp ước An ninh Nhật Bản - Mỹ năm 1951 xác định quyền duy trì căn cứ quân sự của Mỹ tại Nhật Bản. Tiếp đó, hai nước ký Hiệp định Hành chính quy định việc bố trí lực lượng vũ trang của Mỹ tại Nhật Bản. Đến năm 1960, hai nước tái ký hiệp ước an ninh với mong muốn “củng cố mối quan hệ hòa bình và hữu nghị truyền thống giữa hai bên”, thực chất tái khẳng định quan hệ đồng minh và vai trò của Mỹ ở Nhật Bản. Mỹ tiếp tục được quyền đóng quân ở Nhật Bản để đảm bảo an ninh của Nhật Bản và thực hiện chiến lược toàn cầu ở châu Á - Thái Bình Dương.

Trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên, Nhật Bản trở thành căn cứ quan trọng nhất của Mỹ, là nơi tập kết các lực lượng quân đội, vũ khí, hậu cần cho quân đội Mỹ và đóng vai trò quan trọng trong cuộc chiến tranh này. Mỹ đã triển khai xây dựng nhiều căn cứ quân sự trên lãnh thổ Nhật Bản, vừa nhằm thực hiện chiến lược toàn cầu của Mỹ, nhất là thực hiện ngăn chặn CNCS, vừa đảm bảo an ninh cho Nhật Bản. Mặt khác, hai nước đã thoả thuận từng bước tái vũ trang Nhật Bản, dưới danh nghĩa các đội tự vệ, lực lượng hải, lục, không quân của Nhật Bản đã chính thức được xây dựng. So với quan hệ chính trị - an ninh giữa hai nước, đối với Mỹ, kinh tế không phải là lĩnh vực được ưu tiên. Tuy nhiên, do nhu cầu của hai nước, đặc biệt là từ phía Nhật Bản, quan hệ kinh tế song phương được triển khai. Hai nước đã ký nhiều hiệp định, thoả thuận về kinh tế, tạo cơ sở pháp lý cho việc hợp tác. Trong giai đoạn 1951 - 1960, Nhật Bản và Mỹ đẩy mạnh quan hệ trên lĩnh vực thương mại và đầu tư. Hai nước trở thành thị trường quan trọng của nhau, trong đó Mỹ là bạn hàng và nhà đầu tư lớn nhất của Nhật Bản, đóng vai trò to lớn đối với sự phục hồi và phát triển kinh tế Nhật Bản.

4. Mặc dù còn những hạn chế, nhưng quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản - Mỹ đạt được nhiều kết quả: hai nước đã thiết lập được quan hệ đồng minh vững chắc về chính trị - an ninh, thúc đẩy quan hệ kinh tế Nhật Bản - Mỹ không ngừng phát triển. Đồng thời, mối quan hệ này có tác động lớn đến hai nước, khu vực và quốc tế. Đối với Nhật Bản, nó đã giúp quốc đảo này đảm bảo được an ninh, có điều kiện mở rộng quan hệ đối ngoại, đặc biệt là thúc đẩy sự phát triển nhanh của nền kinh tế. Nhưng nó cũng khiến cho Nhật Bản phần nào bị mất đi tính độc lập, tự chủ và tạo ra sự bất ổn trong xã hội. Đối với Mỹ, quan hệ với Nhật Bản tạo điều kiện cho Mỹ củng cố thế lực, triển khai thuận lợi chiến lược toàn cầu ở châu Á - Thái Bình Dương cũng như mở rộng thị trường thương mại và đầu tư góp phần thúc đẩy nền

149

kinh tế phát triển. Mối quan hệ này cũng tác động đến khu vực và quốc tế ở mức độ khác nhau. Nó đã tác động đến cuộc Chiến tranh lạnh, làm cho Trật tự hai cực Yalta được triển khai rộng rãi hơn ở châu Á - Thái Bình Dương; dẫn đến sự thay đổi trong tương quan lực lượng của giữa hai hệ thống TBCN và XHCN.

5. Với tư cách là mối quan hệ đồng minh điển hình giai đoạn 1951-1960, quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ trên lĩnh vực chính trị - an ninh, kinh tế (1951-1960) mang nhiều đặc điểm riêng biệt. Nó thể hiện rõ toan tính chính trị, vì lợi ích quốc gia - dân tộc của mỗi nước. Trong mối quan hệ đó, lĩnh vực chính trị - an ninh giữ vai trò chủ đạo và quyết định; mang tính “một chiều”, Mỹ đóng vai trò chủ động, Nhật Bản chủ động chấp nhận sự “lép vế” trước Mỹ. Đồng thời, mối quan hệ này chịu sự chi phối sâu sắc của cuộc Chiến tranh lạnh, của quan hệ giữa các cường quốc. Trong sự so sánh với các đồng minh khác của Mỹ ở châu Á như Hàn Quốc, Philippines, Thái Lan, đồng minh Mỹ - Nhật là đồng minh quan trọng nhất; có tác động mạnh mẽ đến quan hệ giữa hai nước, khu vực và đặt nền tảng cho quan hệ song phương về sau. Thực tế lịch sử cho thấy, Nhật Bản là đồng minh mạnh mẽ, kiên định, quan trọng nhất và là đồng minh có tính ổn định, bền vững cao của Mỹ tại châu Á - Thái Bình Dương.

6. Mối quan hệ này diễn ra trong bối cảnh quốc tế hết sức phức tạp, chịu sự chi phối sâu sắc của cuộc Chiến tranh lạnh đang vào lúc căng thẳng, đồng thời nó được cấu thành từ nhu cầu thực sự “cần nhau” của hai nước. Xét về mặt bản chất, quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ trong giai đoạn 1951-1960 là mối quan hệ đồng minh chặt chẽ trên cơ sở lợi dụng lẫn nhau, trong đó Mỹ lợi dụng Nhật Bản để thực hiện chiến lược toàn cầu của mình, Nhật Bản lợi dụng Mỹ để đảm bảo an ninh quốc gia và tập trung phát triển kinh tế. Thiết lập quan hệ đồng minh với Mỹ, Nhật Bản được đảm bảo an ninh quốc gia, không phải lo việc phòng thủ, giảm chi phí cho quốc phòng để tập trung, dồn lực vào phát triển kinh tế. Trong khi đó, quan hệ với Nhật Bản đã giúp Mỹ thuận lợi trong việc thực hiện chiến lược toàn cầu ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, biến Nhật Bản thành một bàn đạp cho các lực lượng quân sự Mỹ kiềm chế các nước cộng sản, có thể cơ động khi xảy ra các xung đột ở khu vực này.

Quan hệ về chính trị - an ninh và kinh tế giữa Nhật Bản - Mỹ trong giai đoạn 1951-1960 là một trong những cơ sở cho hai nước tiếp tục phát triển quan hệ đồng minh trong giai đoạn sau. Điều này góp phần lý giải tại sao đồng minh Nhật Bản - Mỹ là một trong những cặp đồng minh ổn định, vững chắc và cho thấy rằng, dù trong những thập kỷ sau đó thế giới diễn ra những chuyển biến sâu sắc nhưng hai nước vẫn dành cho nhau vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của mình.

150

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

1. Hoàng Thị Mai Hương (2017), Một số tác động của quan hệ Nhật - Mỹ đến khu vực và quốc tế trong giai đoạn 1951 - 1960, Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và châu

Á, số 5 (54) 2017, ISSN 0866 - 7314, tr. 48-55.

2. Hoàng Thị Mai Hương (2017), Quan hệ Nhật - Mỹ và tác động của của nó đối

với hai nước và khu vực châu Á - Thái Bình Dương giai đoạn 1951 - 1960, Tạp

chí Khoa học Đại học Vinh, ISSN 1859-2228, số 46, 1B, 2017 tr.13 - 20.

3. Hoàng Thị Mai Hương (2022), Quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và Mỹ giai

đoạn 1951 - 1960, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, ISN 1013 - 4328, số 2

(2022), tr.92-104

4. Hoàng Thị Mai Hương (2022), Căn cứ quân sự của Mỹ ở Nhật Bản từ 1951 - 1960,

Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, ISN 1013 - 4328, số 4 (2022) tr 92 - 104.

5. Hoàng Thị Mai Hương, Lê Thế Cường (2022), Tác động của Chiến tranh Triều

Tiên 1950 - 1953 đến Nhật Bản và quan hệ Nhật - Mỹ giai đoạn 1951 - 1960,

Tạp chí Khoa học Đại học Vinh, ISSN 1859-2228, (2022) tr 5 - 13.

151

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tài liệu tiếng Việt 1.

2.

3.

4.

5.

(1950-1953) & Những điều chưa biết; tranh Triều Tiên 6.

7.

truy

8.

9.

Lê Thị Bình (2015), “Nhật Bản triển khai chính sách ngoại giao kinh tế từ sau Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ (1951) đến năm 1975”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Đồng Tháp, số 15. Lê Thị Bình (2016), “Tác động của nhân tố Mỹ đến quan hệ Nhật Bản - Nam Việt Nam trước năm 1975”, Nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, số 6, tr 52-58. Ngô Xuân Bình (2000), Chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời kì sau Chiến tranh lạnh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Bruce W. Jentleson (2004), Chính sách đối ngoại Hoa Kỳ: động cơ của sự lựa chọn trong thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Chặng đường dài tới lễ ký Hiệp định Đình chiến trên bán đảo Triều Tiên, https://vov.vn/the-gioi/ho-so/chang-duong-dai-toi-le-ky-hiep-dinh-dinh- chien-tren-ban-dao-trieu-tien-799075.vov; truy cập ngày 5/10/2020. Chiến https://thongtinhanquoc.com/chien-tranh-trieu-tien/; truy cập ngày 10/7/2021. Chính sách ngăn chặn (Containment policy), http://nghiencuuquocte.org/ 2015/12/05/chinh-sach-ngan-chan-containment-policy/; cập ngày 2/6/2020. Đỗ Lộc Diệp (Chủ biên), (2003), Mỹ - Âu - Nhật Bản: văn hoá và phát triển, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. Dõi theo lập trường Mỹ, Nhật Bản sẽ mất tự chủ về ngoại giao, https://m.anninhthudo.vn/doi-theo-lap-truong-my-nhat-ban-se-mat-tu-chu- ve-ngoai-giao-post218816.amp; truy cập ngày 18/10/2020.

- Vị 10. Nguyễn Văn Du, Ngô Chí Nguyện (2020), “Hệ thống liên minh an ninh song phương giữa Mỹ và các nước đồng minh tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương: Lịch sử và hiện tại”, Lý luận chính trị, tháng 7, tr.110-119. tướng 11. Dwight Eisenhower thành tổng trở

12.

13.

thống Hoa Kỳ, http://nghiencuuquocte.org/2015/05/07/dwight-eisenhower/; truy cập ngày 20/10/2020. Trần Văn Đào, Phan Doãn Nam (2001), Giáo trình Lịch sử quan hệ quốc tế từ 1945 - 1990, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội. Eric Foner (chủ biên) (2003), Lịch sử mới của nước Mỹ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

152

14. G.C.Allen (1988), Chính sách kinh tế Nhật Bản, tập 1, Viện Kinh tế Thế

giới, Hà Nội.

15. G.C.Allen (1988), Chính sách kinh tế Nhật Bản, tập 2, Viện Kinh tế Thế

16.

giới, Hà Nội. Phạm Giảng (1996), Lịch sử quan hệ quốc tế từ Chiến tranh thế giới thứ hai đến Chiến tranh Triều Tiên, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. George Sansom (1994), Lịch sử Nhật Bản (tập 1), Nxb Khoa học xã hội. 18. George Sansom (1994), Lịch sử Nhật Bản (tập 2), Nxb Khoa học xã hội. 19. George Sansom (1995), Lịch sử Nhật Bản (tập 3), Nxb Khoa học xã hội. 20.

Trương Việt Hà (2015), “Nhìn lại chính sách an ninh của Nhật Bản thời kỳ Chiến tranh lạnh”, Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 4.

21. Hồ Việt Hạnh, Ngô Xuân Bình (Chủ biên), (2002), Nhật Bản những năm đầu

thế kỉ XXI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

22. Hệ thống căn cứ quân sự toàn cầu của Mỹ, https://nhandan.vn/baothoinay- truy cập

hosotulieu/he-thong-can-cu-quan-su-toan-cau-cua-my--637344/; ngày 6/9/2021.

23. Nguyễn Thanh Hiền (2002), Nhật Bản trong thời kì đảng Dân chủ - Tự do

cầm quyền (1955 - 1993), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

24. Dương Phú Hiệp, Phạm Hồng Thái (chủ biên), (2004), Nhật Bản trên đường

cải cách, Viện Khoa học xã hội.

25. Dương Quang Hiệp (2019), Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ sau nội chiến đến kết thúc chiến tranh thế giới thứ nhất (1865 - 1918), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

26. Hiệp ước An ninh Mỹ - Nhật: Những đơn vị không quân của Mỹ làm gì tại Nhật trong hơn 60 năm qua?, https://baoquocte.vn/hiep-uoc-an-ninh-my- nhat-nhung-don-vi-khong-quan-cua-my-lam-gi-tai-nhat-trong-hon-60-nam- qua-151744.html; truy cập ngày 19/9/2021.

27. Hoàng Thị Minh Hoa (6/2003), “Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai dưới góc độ đặc thù dân tộc”, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 3 (45). 28. Hoàng Xuân Hoà (2002), “Quan hệ Mỹ - Trung Quốc - Nhật Bản: Quá khứ

và tương lai”, Châu Mỹ ngày nay, số 11.

29. Vũ Hoài (1999), “Một số vấn đề liên quan đến lĩnh vực đối ngoại của Nhật

Bản”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản, số 2 (44).

30. Học giả Mỹ đánh giá quan hệ Mỹ - Nhật sau Thế chiến II, https://ordi.vn/hoc-gia-my-danh-gia-quan-he-my-nhat-sau-the-chien-ii.html; truy cập ngày 9/8/2021.

153

31. Học thuyết Truman (Truman Doctrine): http://nghiencuuquocte.org/

2015/08/22/hoc-thuyet-truman-truman-doctrine/; truy cập ngày 12/6/2021.

32. Howard Cincotta (2000), Khái quát về lịch sử nước Mỹ, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

33. Vũ Dương Huân (chủ biên) (2003), Quan hệ của Mỹ với các nước lớn ở khu

vực châu Á - Thái Bình Dương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Nguyễn Quốc Hùng (1999), Quan hệ quốc tế từ sau Chiến tranh thế giới lần

thứ hai đến nay (1945 - 1996), Nxb Giáo dục

35. Nguyễn Quốc Hùng (2000), Quan hệ quốc tế thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

36. Nguyễn Quốc Hùng (2003), “Nhật Bản và trật tự thế giới ở Đông Á thế kỷ

XX”, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 2 (44).

37. Nguyễn Quốc Hùng, Nguyễn Thái Yên Hương (2003),“Thử bàn về văn hoá

Mỹ và chính sách đối ngoại của Mỹ”, Kỷ yếu Hội thảo tiếp cận nghiên cứu

Hoa Kỳ học và kinh nghiệm cho Việt Nam, Hà Nội.

38. Nguyễn Quốc Hùng (chủ biên) (2007), Lịch sử Nhật Bản, Nxb Thế giới.

39. Nguyễn Thái Yên Hương (chủ biên), Đặc trưng văn hóa Mỹ và sự tác động

tới chính sách đối ngoại của Mỹ, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

40. Irie Akira (2012) Ngoại giao Nhật Bản: Sự lựa chọn của Nhật Bản trong thời

đại toàn cầu hoá, Nxb Tri thức.

41. Irie Akira (2013), Ngoại giao Nhật Bản (từ Minh Trị Duy tân đến hiện đại)”,

Nxb Tri thức.

42. Irwin Unger (2009), Lịch sử Hoa Kỳ - Những vấn đề quá khứ, Nxb Từ điển

bách khoa.

43. Joseph E.stiglitz và Shahid (chủ biên), (2002), Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông

Á, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Juro Teranishi và Yutaka Kosai (chủ biên), (1995), Kinh nghiệm cải cách

kinh tế Nhật Bản, trung tâm kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

45. Nguyễn Văn Kim (2004), “Nhật Bản ba lần mở của - ba sự lựa chọn”,

Nghiên cứu Lịch sử, số 5, tr 48-60.

46. Nguyễn Văn Kim (2001), “Nhật Bản mở cửa - Phân tích nội dung các bản

“Hiệp ước bất bình đẳng” do Mạc Phủ Edo ký với phương Tây”, Nghiên cứu

lịch sử, số 4, tr.75-85.

154

47.

Lê Linh Lan (1996), “Hiệp ước An ninh Mỹ - Nhật: liên minh cho thế kỷ XXI”, Nghiên cứu quốc tế, tháng 12.

48. Ngô Di Lân (2018), “Bàn về chính sách liên minh của Mỹ: Quá khứ, hiện tại

49.

và tương lai”, Nghiên cứu quốc tế, số 3 (114), tr.185-210 Phan Ngọc Liên (chủ biên) (1995), Lịch sử Nhật Bản, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

50. Nguyễn Tiến Lực (2018), Nhật Bản những bài học từ lịch sử, Nxb Thông tin

và Truyền thông, Hà Nội.

51. Bùi Xuân Lưu, Trần Quang Minh (2001), Chính sách ngoại thương Nhật Bản thời kì tăng trưởng cao và toàn cầu hoá kinh tế, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 52. Michel Beau (2002), Lịch sử chủ nghĩa tư bản từ 1500 đến 2000, Nxb Thế giới. 53. Michio Morishima (1991), “Tại sao Nhật Bản thành công”? Công nghệ

54.

phương Tây và tính cách Nhật Bản, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trần Quang Minh (2002), “Vài nét về quan hệ thương mại Nhật - Mỹ, 1955 - 1985”, Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, số 3 (38).

55. Nguyễn Tuấn Minh (2009), “Quan hệ thương mại Nhật - Mỹ nửa cuối thế kỷ

XX và đầu thế kỷ XXI”, Châu Mỹ ngày nay, số 5.

56. Nakamura Takafusa (1998), Những bài giảng về lịch sử kinh tế Nhật Bản

hiện đại 1926-1994, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

57. Nguyễn Ngọc Nghiệp (2016), “Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ và tác động đối

với Nhật Bản”, Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 11 (189), tr 3-11.

58. Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng (2005), Lịch sử thế giới cận đại, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

59. Vũ Dương Ninh (chủ biên) (2006), Lịch sử quan hệ quốc tế, tập 1, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

60. Vũ Dương Ninh (chủ biên) (2006), Một số chuyên đề lịch sử thế giới, Nxb

Đại học Quốc gia Hà Nội.

61. N.I.Nozemsev (1961), Chính sách đối ngoại của Mỹ, Nxb Sự thật, Hà Nội. 62.

Trần Anh Phương (2005), “Tìm hiểu chính sách đối ngoại của Nhật Bản từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản, số 1(55). Peter Calvocoressi (2007), Chính trị thế giới sau năm 1945, Nxb Lao động, Hà Nội.

63. 64. Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Huy Quý (2001), Lịch sử Trung Quốc, Nxb Giáo

65.

dục, Hà Nội. Lê Văn Quang (1993), Quan hệ quốc tế ở Đông Á trong lịch sử (Trung Quốc - Triều Tiên - Nhật Bản), Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

155

66. Lê Văn Quang (1997), Lịch sử Nhật Bản, Trường Đại học Khoa học Xã hội

và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Lê Văn Quang (2001), Lịch sử quan hệ quốc tế từ 1917 đến 1945, Nxb Giáo 67.

dục, Hà Nội.

68. Nguyễn Huy Quý (2004), Lịch sử cận đại Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

69. Lê Văn Sang (1988), Kinh tế Nhật Bản giai đoạn “thần kỳ”, Viện Kinh tế Thế

giới, Hà Nội.

70.

Lê Văn Sang (2000), Kinh tế các nước công nghiệp chủ yếu sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

71. Lê Văn Sang - Lưu Ngọc Trịnh (1991), Nhật Bản đường đi tới một siêu

cường kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

72. Vĩnh Sính (1991), Nhật Bản cận đại, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 73. Phạm Minh Sơn (Chủ nhiệm) (2008), Chính sác đối ngoại của một số nước

lớn trên thế giới, Đề tài cấp cơ sở, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

74. Phạm Minh Sơn, Nguyễn Thị Quế, Phạm Lê Dạ Hương (2020), Giáo trình chính

sách đối ngoại của một số nước lớn trên thế giới, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

75. Nguyễn Xuân Sơn (chủ biên) (1997), Trật tự thế giới thời kỳ Chiến tranh

lạnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

76. Nguyễn Thiết Sơn (2004), Hoa Kỳ kinh tế và quan hệ quốc tế, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

77. Tadao Umesao (2007), Lịch sử nhìn từ quan điểm sinh thái học: Văn minh

Nhật Bản trong bối cảnh thế giới, Nxb Thế giới, Hà Nội. Takafusa Nakamura (1985), Phát triển kinh tế của nước Nhật hiện đại, Bộ 78.

Ngoại giao Nhật Bản, Hà Nội.

79.

80.

81.

Takafusa Nakamura (1988), Kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh: sự phát triển và cơ cấu, tập 1, Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế thế giới, Hà Nội. Takafusa Nakamura (1988), Kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh: sự phát triển và cơ cấu, tập 2, Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế thế giới, Hà Nội. Takafusa Nakamura (1988), Kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh: sự phát triển và cơ cấu, tập 3, Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế thế giới, Hà Nội. Takashi Inoguchi và Daniel I. Okimoto (1993), Kinh tế học chính trị Nhật 82.

Bản, quyển II: Vai trò quốc tế nổi lên của Nhật Bản, tập 3, Nxb Khoa học xã

hội - Viện Kinh tế thế giới, Hà Nội.

156

83. Tại sao Mỹ vẫn duy trì căn cứ quân sự tại Nhật; https://laodong.vn/archived/

truy cập ngày

tai-sao-my-van-duy-tri-can-cu-quan-su-tai-nhat-672346.ldo; 16/8/2020.

84. Nguyễn Văn Tận (2000), “Nhìn lại chính sách đối ngoại của Nhật Bản trong những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX và hệ quả của nó”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản, số 4 (28).

85. Nguyễn Anh Thái (chủ biên) (2006), Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

86.

Trần Thiện Thanh (2008), Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Nhật Bản trong nửa đầu thế kỷ XX, Luận án tiến sĩ lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã

hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

87. Trần Thiện Thanh (2010), “Quan hệ kinh tế Mỹ - Nhật Bản 1931-1941”,

Nghiên cứu Lịch sử, số 5.

88. Trần Thiện Thanh (2015), “Con đường dẫn đến việc ký kết Hiệp ước An

ninh và hợp tác song phương Mỹ - Nhật Bản năm 1960”, Tạp chí Châu Mỹ

ngày nay, số 2, tr. 53-64.

89. Trần Thiện Thanh (2017), “Chính sách đối ngoại song phương Mỹ - Nhật

Bản hai thập kỷ cuối thời kỳ Chiến tranh lạnh”, Nghiên cứu Ấn Độ và châu

Á, số 5, tr 32-40

90. Thomas J Mc Cormick (2004), Nước Mỹ nửa thế kỷ - Chính sách đối ngoại

của Hoa Kỳ trong và sau Chiến tranh lạnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

91. Trần Văn Thọ (2022), Kinh tế Nhật Bản giai đoạn phát triển thần kỳ 1955-

1973, Nxb Đà Nẵng. Lê Bá Thuyên (1997), Hoa Kỳ cam kết và mở rộng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

92. 93. Trần Nam Tiến (chủ biên) (2008), Lịch sử quan hệ quốc tế hiện đại (1945 -

94.

95.

96.

2000), Nxb Giáo dục, Hà Nội. Lưu Ngọc Trịnh (1998), Kinh tế Nhật Bản - Những bước thăng trầm trong lịch sử, Nxb Thống Kê, Hà Nội. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia, Viện Sử học (2002), Thế giới những sự kiện lịch sử thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội Trương Tiểu Minh (2002), Chiến tranh lạnh và di sản của nó, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

97. Từ Thiên Tân, Lương Chí Minh (chủ biên) (2002), Lịch sử thế giới, tập 6:

Thời đương đại (1945-2000), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

157

98. Viện Nghiên cứu Đại học Chuo (1992), Kinh tế Nhật Bản sau Chiến tranh

thế giới thứ hai, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

99. Yoshihara K. (1991), Sự phát triển kinh tế Nhật Bản, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 100. Yutaka Kosai (1991), Kỷ nguyên tăng trưởng nhanh - Những nhận xét về nền

kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh, Viện Kinh tế Thế giới, Hà Nội.

B. Tài liệu tiếng Anh 101. Aaron Forsberg (2000), America and the Japanese Miracle: The Cold War Context of Japan's Postwar Economic Revival, 1950-1960, University of

North Carolina Press.

102. Administratizve Agreement under Article III of the Security Treaty between the United States of America and Japan; https://worldjpn.grips.ac.jp/

documents/texts/docs/19520228.T1E.html; truy cập ngày 15/6/2021. 103. Alexandra E. Smith, B.A (2014), U.S. - Japan relations - Towards a military

alliance, Master thesis, Georgetown University, Washington, D.C.

104. Akira Iriye, Robert A. Wampler (Edited) (2001), Partnership: The United States and Japan, 1951 - 2001, Kodansha International Ltd, Tokyo, New

York, London.

105. Alan P. Dobson and Steve Marsh (2007), US Foreign Policy since 1945,

Taylor & Francis e-Library, New York.

106. Arthur Power Dudden (1992), The American pacific: from the old China

trade to thee present, Oxford University Press.

107. Brendan M. Howe and Joel R. Campbell (2013), “Continuity and Change: Evolution, Not Revolution, in Japan's Foreign and Security Policy Under the DPJ”, Asian Perspective, Vol. 37, No 1, Jan-Mar, pp 99-123).

108. Calder, K (1988) “Japanese Foreign Economic Policy Formation: Explaining

the Reactive State”, World Politics 40, pp 517-541.

109. Chalmers Johnson (1986), “The Patterns of Japanese Relations with China,

1952-1982”, Pacific Affairs, vol. 59, No. 3 (Autumn, 1986), pp. 402-428.

110. Coversation Between President Nixon dan John B. Connally, Washington, January 31, 1973, http://history.state.gov/historicaldocuments/frus1969- 76ve12/d167; truy cập ngày 20/8/2021.

111. David M. Potter, “Evolution of Japan’s Postwar Foreign Policy”, https://citeseerx.ist.psu.edu/viewdoc/download?doi=10.1.1.393.7614&rep=re

p1&type=pdf; truy cập ngày 20/8/2021.

158

112. Edward J. Lincoln (1999), Trouble time: US - Japan trade relation in 1990s,

Bookings Intitution press, Washingtpn D.c.

113. Exchanged Notes, Regarding the Implementation of Article VI of Treaty of Mutual Cooperation and Security between Japan and the United States of America, https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/docs/19600119.T2E.html; truy cập ngày 20/8/2021

114. Exchanged Notes, Regarding Mutual Defense Assistance Agreement between the United States and Japan, https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/d ocs/19600119.T4E.htm; truy cập ngày 20/8/2021.

115. February 11, 1945 Yalta Conference Agreement, Declaration of a Liberated Europe, https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/116176; truy cập ngày 18/12/2021.

116. Fen Osler Hampson; Michael Hart (1999), Multilateral Negotiations: Lessons from Arms Control, Trade, and the Environment, Johns Hopkins University Press.

117. Glenn D. Hook, Julie Gilson, Christopher W. Hughes and Hugo Dobson (2009), Japan's International Relations: Politics, economics and security, London and New York, Routledge, Taylo and Francis Group.

118. Glenn P. Hastedt, American Foreign Policy: Past, Present, and Future,

Rowman And Littlefield, Lanham - Boulder - New York - London. 119. Green, M. (2001), Japan’s Reluctant Realism, New York: Palgrave. 120. Hayao, K. (1993), Japan’s Prime Minister, Pittsburgh: University of

Pittsburgh Press.

121. Hook, G., Gilson, J., Hughes, C., and Dobson, H. (2005), Japan’s

122.

International Relations, Second edition. London: Routledge. Inoguchi Takashi and Purnendra Jain (2000), Japanese Foreign Policy Today, Palgrave Macmillan, New York.

123. James Lowell Freed (1976), The US - Japan Alliance 1951-1976, Naval

Postgraduate School, Monterey, California.

124. Jennifer M. Mille (2012), Building a New Kind of Alliance: The United States, Japan, and the Cold War, 1950 - 1961, Doctor of history, University of Wisconsin-Madison.

125. John Christopher Traylor (1987), American business and United States foreign economic policy in East Asia, 1953-1960, Master thesis, The University of Arizona.

159

126. John Swenson - Wright (2005), Unequal Allies? United States Security and Alliance Policy Toward Japan, 1945 - 1960, Stanford University Press. 127. Joint Statement of Japanese Prime Minister Yoshida and U.S. President Eisenhower issued on November 10, 1954, https://worldjpn.grips.ac.jp/

documents/texts/JPUS/19541110.D1E.html; truy cập ngày 10/8/2021. 128. Joint communique of Japanese Prime Minister Kishi and U.S. President Eisenhower issued on June 21, 1957, https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/

texts/JPUS/19570621.D1E.html; truy cập ngày 10/8/2021.

129. Joint Communique of Japanese Prime Minister Kishi and U.S. President Eisenhower Issued on January 19, 1960, https://worldjpn.grips.ac.jp/

documents/texts/JPUS/19600119.D1E.html; truy cập ngày 10/8/2021. 130. Joyce P. Kaufman (2017), A Concise History of U.S. Foreign Policy, Rowman

And Littlefield, Lanham - Boulder - New York - London.

131. Kent E. Calder (2009), Pacific Alliance Reviving U.S.-Japan Relations, Yale

University Press, New Haven & London.

132. Kevin J. Cooney (2015), Japan's Foreign Policy Since 1945, Routledge, New York. 133. Kim Nam Gyun (1995), US - Japan Relations during the Korean War,

Doctor of History, University of North Texas.

134. Leon Hollerman (edited) (1980), Japan and the United States: conomic and

Political Adversaries, Westview Press, Boulder, Colorado, USA.

135. Makoto Iokibe (2011), The Diplomatic History of Postwar Japan, Routledge,

Taylo and Francis Group, London and New York.

136. Masaysia Shiraishi (1990), Japanese relations with Viemnam 1951-1987,

Cornell University, Ithaco, New York.

137. Mary Jane Turner, Kenneth Switzer, Charlotte Redden (1996), American

Government: Principles and Practice, Glencoe/McGraw-Hill School Pub Co.

138. Melvyn P. Leffler, Odd Arne Westad (2010), “Japan, the United States, and the Cold War, 1945-1960” in Melvyn P. Leffler, Odd Arne Westad, (2010) The Cambridge History of the Cold War, pp. 244 - 265, Cambridge University Press.

139. Memorandum by the Central Intelligence Agency to the President, July 7, 1950, NSC-CIA File, Box 1, Harry S. Truman Library, Independence, Missouri. 140. Michael J. Lacey (1989), The Truman presidenc, Woodrow Wilson

International Center for Scholars and Cambridge University Press.

160

141. Michael Beckley, Yusaku Horiuchi and Jennifer M. Miller (2018), “America’s Role In The Making of Japan’s Economic Miracle”, Journal of East Asian Studies, Volume 18, Issue 1, March, pp. 1 - 21, Published online

by Cambridge University Press: 09 January.

142. Michael Cox và Doug Stockes (2018), US Foreign Policy, Oxford University Press. 143. Michael Schaller (1985), The American Occupation of Japan - The Origins

of the Cold War in Asia, Oxford University Press, New York.

144. Michael Shaller (1997), Altered States: The United States and Japan Since

the Occupation”, Oxford University Press, New York.

145. Ministry of Finance Japan, Total Value of Exports and Imports (1950) - Trade Statistics of Japan, https://www.customs.go.jp/toukei/suii/html/nenbet_e.htm;

truy cập ngày 28/3/2021.

146. Morinosuke Kajima (1965), A Brief diplomatic history of modern Japan,

Charles E. Tuttle Co Publishers, Tokyo.

147. Miyashita, A. and Sato, Y. (ed.) (2001), Japanese Foreign Policy in Asia and

the Pacific, New York: Palgrave.

148. Notes Exchanged between Prime Minister Yoshida and Secretary of State Acheson at the Time of the Signing of the Security Treaty between Japan and the United States of

America, https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/docs/19510908.T3E.html; truy

cập ngày 10/8/2021.

149. Prime Minister Shigeru Yoshida's Speech at the San Francisco Peace Conference; truy cập https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/JPUS/19510907.S1E.html;

ngày 18/8/2021.

150. Remarks by Dean Acheson, Secretary of State at the Ceremony for the Signing of the United States-Japanese Security Treaty; https://worldjpn.grips.ac.jp/

documents/texts/JPUS/19510908.S1E.html; truy cập ngày 18/8/2021.

151. Richard B. Finn (1992), Winners in peace Mac Arthur, Yoshida and Postwar

Japan, University of California, Berkeley - Los Angeles - Oxford.

152. Reinhard Drifte (1986), Arms production in Japan: The military application

of Civilian technology, Westvien press, London.

153. Robert J.C. Butow (1954), Japan’s Decision to Surrender, Stanford

University Press.

154. Robert Murphy (1964), Diplomat among Warriors, Garden City, New York:

Doubleday & Company, Inc.

161

155. Ryuzo Sato, Julianne Nelson (1989), Beyond trade friction: Japan - U.S.

economic relations, Cambridge University Press.

156. Sarah Kovner (2016) “The Soundproofed Superpower: American Bases and

Japanese Communities, 1945 - 1972”, The Journal of Asian Studies, Volume

75, Issue 1, February 2016, pp. 87 - 109, Published online by Cambridge

University Press: 25 January.

157. Security Treaty Between Japan and the United States of America,

https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/docs/19510908.T2E.html; truy

cập ngày 18/8/2021.

158. Shigeru Yoshida (1967) Japan's Decisive Century 1867-1967, New York:

Frederick A. Praeger, Publishers.

159. Shinji Takagi (1996), The Japanese System of Foreign Exchange and Trade

Control, 1950-1964, The conference Micro-economic Reform and

Deregulation in Japan, Columbia University on March 22-23.

160. Steven K. Vogel (2002), U.S. - Japan Relation in a Changing World,

Brookings Institution Press, Washington, D.c.

161. Takashi Inoguchi (2012), Japan’s International Relations”, Bloomsbury

Publishing plc, London - New Delhi, New York, Sydney.

162. Tae Youl Paek (1986), U.S. - Japan Influence Relations, 1945 - 1990: An

Analysis of the Politics of Demand, Concession, and Compromise, Doctor of

philosophy, Southern Illinois University, Carbondale, USA.

163. Telegram From the Embassy in Japan to the Department of State,

https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1958-60v18/d203; truy cập

ngày 15/3/2022.

164. The
Potsdam
Declaration
(July
26,
1945),Proclamation
Defining
the
Terms

for
the
Japanese
Surrender,
July
26,
1945
in Robert J.C. Butow (1954),

Japan’s Decision to Surrender, Stanford University Press.

165. The Tokyo Foundation For Policy Research, Building the Japan-US

Alliance, 1951-72: A Diplomatic Reassessment; https://www.tkfd.or.jp/en/

research/detail.php?id=328; truy cập ngày 20/6/2020.

166. The World Bank In Japan, https://www.worldbank.org/en/country/japan; truy

cập ngày 8/8/2021.

162

167. Thomas U. Berger, Mike M. Mochizuki, Jitsuo Tsuchiyama (2007), Japan in

International Politics: The Foreign Policies of an Adaptive State, Lynne

Rienner Pub.

168. Treaty of Peace with Japan. Signed at San Francisco, on 8 September 1951;

https://treaties.un.org/doc/publication/unts/volume%20136/volume-136-i-

1832-english.pdf; truy cập ngày 20/8/2020.

169. Treaty of Mutual Cooperation and Security between Japan and the United States of

America; Japan-U.S. Security - Mofa, https://www.mofa.go.jp/region/n-

america/us/q&a/ref/1.html; truy cập ngày 21/8/2020.

170. Treaty of Friendship, Commerce, and Navigation between the United States

and Japan, 1953; https://tcc.export.gov/Trade_Agreements/All_Trade_

Agreements/exp_005539.asp; truy cập ngày 15/5/2021.

171. Stuart Auerbach (1993), How the US built Japan Inc, Washington Post

National Weekly Edition, 26 July - 1 Aug.

172. Understanding the Issue of US Military Bases in Okinawa;

https://www.ifri.org/sites/default/files/atoms/files/understanding_the_issue_o

f_u.s._military_bases_in_okinawa.pdf; truy cập ngày 20/5/2021

173. U.S. and Japan Mutual Defense Assistance Agreement;

https://people.unica.it/annamariabaldussi/files/2015/04/USA-Japan-Treaty-

1954.pdf; truy cập ngày 10/5/2020

174. US Treaties and other International Agreements, Vo1s. 3 - 23, US

Government Printing office, 1952-1973.

175. Van Wolferen, K. (1990), The Enigma of Japanese Power, New York:

Vintage Books.

176. Wrenn Yennie Lindgren (2021), Japanese Foreign Policy Repertoires,

Doctor of International Relations, Stockholm University, Sweden.

177. Zamazawa Ippiei (1990), Economic development international trade: the

Japanese model, East - West center, Honolulu, Hawaii.

178. Yoneyuki Sugita (2016) “The Yoshida Doctrine as a Myth”, The Japanese

Journal of American Studies, No. 27, Pp 123-143.

163

C. Tài liệu tiếng Nhật

179. 対米貿易および東西貿易の諸問題, (Các vấn đề thương mại với Mỹ và

thương mại giữa Đông và Tây) https://www.mofa.go.jp/mofaj/gaiko/bluebook/

1957/s32-2-2-3.htm; truy cập ngày 15/6/2021.

180. 日本國憲法 (Hiến pháp Nhật Bản), https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/

texts/docs/19461103.O1J.html.

181. 日米関係資料集1945−1960 (Tư liệu quan hệ Nhật - Mỹ 1945 -

1960), https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/indices/JPUS/index45-60.html;

truy cập ngày 15/6/2021.

182. サンフランシスコ平和会議における吉田茂総理大臣の受諾演説,195

1年9月7日(Bài phát biểu của Thủ tướng Shigeru Yoshida tại Hội nghị

Hòa bình San Francisco, ngày 7/9/1951), https://worldjpn.grips.ac.jp/

documents/texts/JPUS/19510907.S1J.html; truy cập ngày 15/6/2021

183. サンフランシスコ平和会議における吉田茂総理大臣の受諾演説,

1951年9月8日(Hiệp ước Hòa bình San Francisco (Hiệp ước Hòa bình

với Nhật Bản, ngày 8/9/1951), https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/

texts/docs/19510908.T1J.html; truy cập ngày 15/6/2021.

184. 日米安全保障条約(旧)(日本国とアメリカ合衆国との間の安全保障

条約), 1951年9月8日 (Hiệp ước An ninh giữa Nhật Bản và Mỹ),

ngày 8/9/1951), https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/docs/

19510908.T2J.html; truy cập ngày 15/6/2021.

185. 吉田・アチソン交換公文(日本国とアメリカ合衆国との間の安全保障

条約の署名に際し吉田内閣総理大臣とアチソン国務長官との間に交換

された公文), 1951年9月8日(Tuyên bố chính thức giữa Thủ tướng

Yoshida và Ngoại trưởng Dean Acheson tại lễ ký Hiệp ước An ninh giữa Nhật Bản và Mỹ), ngày 9/8/1951), https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/t

exts/docs/19510908.T3J.html; truy cập ngày 15/6/2021.

186. 日米行政協定(日本国とアメリカ合衆国との間の安全保障条約第三条

164

に基く行政協定), 1952年2月28日(Hiệp định Hành chính Nhật

Bản - Mỹ (Hiệp định Hành chính dựa trên Điều 3 của Hiệp ước An ninh giữa Nhật Bản và Mỹ), ngày 28/2/1952), https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/

texts/docs/19520228.T1J.html; truy cập ngày 16/6/2021.

187. 日本国とアメリカ合衆国との間の安全保障条約第三条に基く行政協定

の実施に伴う土地等の使用等に関する特別措置法,

1952年5月15日(Đạo luật về các biện pháp đặc biệt liên quan đến

việc sử dụng đất, v.v. Đi kèm với việc thực hiện các thỏa thuận hành chính

dựa trên Điều 3 của Hiệp ước An ninh giữa Nhật Bản và Hợp chủng quốc

Hoa Kỳ, ngày 15/5/1952), https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/

JPUS/19520515.O1J.html; truy cập ngày 16/6/2021.

188. 日米船舶貸借協定(日本国とアメリカ合衆国との間の船舶貸借協定),

1952年11月12日(Hợp đồng cho thuê tàu Nhật-Mỹ, ngày

12/11/1952), https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/JPUS/

19521112.T1J.html; truy cập ngày 18/6/2021.

189. 日米友好通商航海条約(日本国とアメリカ合衆国との間の友好通商航

海条約), 1953年4月2日署名,1953年10月30日効力発生

(Hiệp định Hàng hải và Thương mại Hữu nghị Hoa Kỳ-Nhật Bản, ngày

2/4/1953), https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/JPUS/19530402.

T1J.html; truy cập ngày 18/6/2021.

190. 日米行政協定第17条改定に関する議定書(日本国とアメリカ合衆国

との間の安全保障条約第三条に基く行政協定第十七条を改正する議定

書), 1953年9月29日(Nghị định thư về việc sửa đổi Điều 17 của

Hiệp định Hành chính Nhật-Mỹ, ngày 29/9/1953), https://worldjpn.grips .ac.jp/documents/texts/JPUS/19530929.T1J.html; truy cập ngày 19/6/2021.

191. 経済的措置に関する日本国とアメリカ合衆国との間の協定,

1954年3月8日 (Hiệp định các biện pháp kinh tế Hoa Kỳ-Nhật Bản),

https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/JPUS/19540308.T3J.html; truy

165

cập ngày 19/6/2021.

192. 農産物の購入に関する日本国とアメリカ合衆国との間の協定,

1954年3月8日(Thỏa thuận mua bán nông sản Nhật-Mỹ),

truy

https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/JPUS/19540308.T2J.html; cập ngày 19/6/2021.

193. 投資の保証に関する日本国とアメリカ合衆国との間の協定, (Hiệp định

Bảo lãnh Đầu tư Nhật-Mỹ, ngày 8/3/1954), https://worldjpn.grips.ac.jp/

documents/texts/JPUS/19540308.T4J.html; truy cập ngày 19/6/2021.

194. 吉田総理大臣とアイゼンハワー大統領との間の共同声明,

1954年11月10日(Tuyên bố chung giữa Thủ tướng Yoshida và

Tổng thống Eisenhower, 10 tháng 11 năm 1954), https://worldjpn.grips.ac.jp/

documents/texts/JPUS/19541110.D1J.html; truy cập ngày 19/6/2021.

195. 防衛分担金減額に関する日米共同声明, 1955年4月19日(Tuyên

bố chung Mỹ -Nhật Bản về Cắt giảm đóng góp quốc phòng, ngày

19/4/1955), https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/JPUS/19550419.

D1J.html; truy cập ngày 20/6/2021.

196. 重光外務大臣とダレス米国務長官の共同声明,

1955年8月31日(Tuyên bố chung của Ngoại trưởng Nhật Bản

Mamoru Shigemitsu và Ngoại trưởng Mỹ Dulles, ngày 31/8/1955),

https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/JPUS/19550831.D1J.html; truy

cập ngày 20/6/2021.

197. 原子力の非軍事的利用に関する日米協定(原子力の非軍事的利用に関

する協力のための日本国政府とアメリカ合衆国政府との間の協定),

1955年11月14日(Hiệp định Nhật-Mỹ về việc phi sử dụng năng

lượng hạt nhân, ngày 14/11/1955), https://worldjpn.grips.ac.jp/

documents/texts/JPUS/19551114.T1J.html; truy cập ngày 20/6/2021.

198. 岸信介首相とアイゼンハワー米大統領との共同コミュニケ,

1957年6月21日(Thông cáo chung giữa Thủ tướng Nobusuke Kishi

166

và Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower, ngày 21/6/1957), https://worldjpn.

grips.ac.jp/documents/texts/JPUS/19570621.D1J.html; truy cập ngày

25/6/2021.

199. 日米安保委員会設置に関する日米共同発表, 1957年8月6日, (Thông

báo chung Nhật-Mỹ về việc thành lập Ủy ban An ninh Mỹ-Nhật, ngày

6/8/1957), https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/JPUS/19570806.

D1J.html; truy cập ngày 25/6/2021.

200. ジラード事件前橋地裁判決, 1957年11月19日 (Quyết định của

Tòa án Quận Maebashi về vụ việc Girard, ngày 19/11/1957),

https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/JPUS/19571119.O1J.html; truy

cập ngày 25/6/2021.

201. 日米安保改定交渉に関するソ連覚書(ソ連外務大臣より門脇駐ソ大使

に手交された一九五八年十二月二日付覚書訳文),

1958年12月2日(Bản ghi nhớ của Liên Xô về các cuộc đàm phán sửa

đổi an ninh Nhật-Mỹ, ngày 2/12/1958), https://worldjpn.grips.ac.jp/

documents/texts/JPUS/19581202.O1J.html; truy cập ngày 28/6/2021.

202. 七月六日総理、外務大臣、在京米大使会談録 (Ghi chép về buổi phỏng

vấn Thủ tướng, Ngoại trưởng, Đại sứ Mỹ tại Tokyo ngày 6/7/1959),

https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/JPUS/19590706.O1J.html; truy

cập ngày 28/6/2021.

203. マッカーサー米大使の横浜ロータリークラブにおける演説,

1959年10月13日 (Bài phát biểu của Đại sứ Mỹ MacArthur tại Câu

lạc bộ Rotary, Yokohama, ngày 13/10/1959), https://worldjpn.grips.ac.jp/

documents/texts/JPUS/19591013.S1J.html; truy cập ngày 28/6/2021.

204. 千九百六十年一月十九日に発表された岸日本国総理大臣とアイゼンハ

ウァー合衆国大統領との共同コミュニケ, 1960年1月19日,

(Thông cáo chung giữa Thủ tướng Nobusuke Kishi và Tổng thống

Eisenhower, ngày 19/1/1960), https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/

167

texts/JPUS/19600119.D1J.html; truy cập ngày 28/6/2021.

205. 日米安全保障条約(新)(日本国とアメリカ合衆国との間の相互協力

及び安全保障条約), 1960年1月19日 (Hiệp ước An ninh Nhật -

Mỹ, ngày 19/1/1960), https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/docs/

19600119.T1J.html; truy cập ngày 28/6/2021.

206. 相互協力及び安全保障条約についての合意された議事録,

1960年1月19日 (Biên bản nhất trí của Hiệp ước An ninh Mỹ - Nhật

Bản, ngày 19/1/1960), https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/

JPUS/19600119.O1J.html; truy cập ngày 28/6/2021.

207. 日本国とアメリカ合衆国との間の相互協力及び安全保障条約第六条の

実施に関する交換公文, 1960年1月19日(Tuyên bố trao đổi về hợp

tác lẫn nhau giữa Nhật Bản và Mỹ và việc thực hiện Điều 6 của Hiệp ước An

ninh, ngày 19/1/1960), https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/docs/

19600119.T2J.html; truy cập ngày 2/7/2021.

208. 吉田・アチソン交換公文等に関する交換公文,

1960年1月19日(Trao đổi văn bản chính thức liên quan đến Yoshida-

Acheson, ngày 19/1/1960), https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/

docs/19600119.T3J.html; truy cập ngày 2/7/2021.

209. 相互防衛援助協定に関する交換公文, 1960年1月19日(Thư trao

đổi về Hiệp định tương trợ quốc phòng, ngày 19/1/1960), https://worldjpn.

grips.ac.jp/documents/texts/docs/19600119.T4J.html; truy cập ngày

2/7/2021.

210. 日米地位協定(日本国とアメリカ合衆国との間の相互協力及び安全保

障条約第六条に基づく施設及び区域並びに日本国における合衆国軍隊

の地位に関する協定), 1960年1月19日(Thoả thuận về địa vị Nhật

- Mỹ, ngày 19/1/1960), https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/

docs/19600119.T5J.html; truy cập ngày 2/7/2021.

211. 斎藤高宏(1991),“わが国食品産業のアメリカへの直接投資とM&A”,

168

農業総合研究第 45 巻第 1 号, p. 99-170. (Đầu tư trực tiếp và hoạt động mua

bán, sáp nhập của ngành công nghiệp thực phẩm Nhật Bản tại Mỹ)

PL1

PHỤ LỤC

I. Phụ lục bảng biểu

1. Biên niên các sự kiện chính

Sự kiện Nội dung

9/1951 Hội nghị Hòa bình San Francisco

8/9/1951 Ký kết Hiệp ước Hòa bình San Francisco

8/9/1951 Ký kết Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ

28/2/1952 Ký kết Hiệp định Hành chính

Ký kết Hiệp ước Hàng hải và Thương mại hữu nghị Mỹ - 2/4/1953 Nhật Bản

8/3/1954 Ký kết Hiệp định hỗ trợ phòng thủ lẫn nhau

Đoàn đại biểu cấp cao Chính phủ Nhật Bản do Thủ tướng 11/1954 Shigeru Yoshida dẫn đầu sang thăm Mỹ

Tuyên bố chung của Thủ tướng Shigeru Yoshida và Tổng 10/11/1954 thống Mỹ Eisenhower

Hội đàm giữa Ngoại trưởng Nhật Bản Shigemitsu và Ngoại 8/1955 trưởng Mỹ Dulles

Tuyên bố chung của Ngoại trưởng Nhật Bản Mamoru 31/8/1955 Shigemitsu và Ngoại trưởng Mỹ Dulles

Đoàn đại biểu cấp cao Chính phủ Nhật Bản do Thủ tướng 6/1957 Nobusuke Kishi dẫn đầu sang thăm Mỹ

Tuyên bố chung giữa Thủ tướng Nobusuke Kishi và Tổng 21/6/1957 thống Mỹ Eisenhower

Đoàn đại biểu cấp cao Chính phủ Nhật Bản do Thủ tướng 1/1960 Nobusuke Kishi dẫn đầu sang thăm Mỹ

Tuyên bố chung giữa Thủ tướng Kishi và Tổng thống Mỹ 19/1/1960 Eisenhower

19/1/1960 Ký kết Hiệp ước hợp tác và an ninh tương hỗ Nhật - Mỹ

PL2

2. Giá trị viện trợ và cho vay về quân sự của Mỹ đối với Nhật Bản (1953 -1960)

Đơn vị tính: Triệu USD

Thời gian Giá trị

1953-1957 408

1958 131

1959 147

1960 86

[Nguồn: John Christopher Traylor (1987), American business and United

States foreign economic policy in East Asia, 1953-1960, Master thesis, The

University of Arizona; tr 200].

3. Tốc độ tăng sản phẩm quốc dân Nhật Bản (tính theo giá cố định) (1953 - 1960)

Đơn vị tính: %

Tốc độ tăng Năm

1953 7,2

1954 6,5

1955 6,4

1956 8,3

1957 11,5

1958 3,7

1959 10,3

1960 14,6

[Nguồn: Lê Văn Sang (1988), Kinh tế Nhật Bản giai đoạn “thần kỳ”, Uỷ ban

Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế thế giới, Hà Nội, tr. 9.]

PL3

II. Phụ lục văn bản

1. Hiệp ước Hòa bình San Francisco (Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản)

(ngày 8/9/1951)

Treaty of Peace with Japan

[Place] San Francisco

[Date] September 8, 1951

Whereas the Allied Powers and Japan are resolved that henceforth their

relations shall be those of nations which, as sovereign equals, cooperate in friendly

association to promote their common welfare and to maintain international peace

and security, and are therefore desirous of concluding a Treaty of Peace which will

settle questions still outstanding as a result of the existence of a state of war

between them;

Whereas Japan for its part declares its intention to apply for membership in

the United Nations and in all circumstances to conform to the principles of the

Charter of the United Nations; to strive to realize the objectives of the Universal

Declaration of Human Rights; to seek to create within Japan conditions of stability

and well-being as defined in Articles 55 and 56 of the Charter of the United Nations

and already initiated by post-surrender Japanese legislation; and in public and

private trade and commerce to conform to internationally accepted fair practices;

Whereas the Allied Powers welcome the intentions of Japan set out in the

foregoing paragraph;

The Allied Powers and Japan have therefore determined to conclude the

present Treaty of Peace, and have accordingly appointed the undersigned

Plenipotentiaries, who, after presentation of their full powers, found in good and

due form, have agreed on the following provisions:

CHAPTER I

PEACE

Article 1

(a) The state of war between Japan and each of the Allied Powers is

terminated as from the date on which the present Treaty comes into force between

Japan and the Allied Power concerned as provided for in Article 23.

(b) The Allied Powers recognize the full sovereignty of the Japanese people

over Japan and its territorial waters.

PL4

CHAPTER II

TERRITORY Article 2

(a) Japan, recognizing the independence of Korea, renounces all right, title,

and claim to Korea, including the islands of Quelpart, Port Hamilton and Dagelet.

(b) Japan renounces all right, title and claim to Formosa and the Pescadores.

(c) Japan renounces all right, title and claim to the Kurile Islands, and to that

portion of Sakhalin and the islands adjacent to it over which Japan acquired

sovereignty as a consequence of the Treat of Portsmouth of September, 5,1905.

(d) Japan renounces all right, title and claim in connection with the League

of Nations Mandate System, and accepts the action of the United Nations Security

Council of April 2, 1947, extending the trusteeship system to the Pacific Islands

formerly under mandate to Japan.

(e) Japan renounces all claim to any right or title to or interest in connection

with any part of the Antarctic area, whether deriving from the activities of Japanese

nationals or otherwise.

(f) Japan renounces all right, title and claim to the Spratly Islands and to the

Paracel Islands.

Article 3

Japan will concur in any proposal of the United States to the United Nations

to place under its trusteeship system, with the United States as the sole

administering authority, Nansei Shoto south of 29° north latitude (including the

Ryukyu Islands and the Daito Islands), Nanpo Shoto south of Sofu Gan (including the Bonin Islands, Rosario Island and the Volcano Islands) and Parece Vela and

Marcus Island. Pending the making of such a proposal and affirmative action

thereon, the United States will have the right to exercise all and any powers of administration, legislation and jurisdiction over the territory and inhabitants of these islands, including their territorial waters.

Article 4 (a) Subject to the provisions of paragraph (b) of this Article, the disposition of property of Japan and of its nationals in the areas referred to in Article 2, and their claims, including debts, against the authorities presently administering such

areas and the residents (including juridical persons) thereof, and the disposition in

Japan of property of such authorities and residents, and of claims, including debts,

PL5

of such authorities and residents against Japan and its nationals, shall be the subject

of special arrangements between Japan and such authorities. The property of any of the Allied Powers or its nationals in the areas referred to in Article 2 shall, insofar

as this has not already been done, be returned by the administering authority in the

condition in which it now exists. (The term nationals whenever used in the present Treaty includes juridical persons.)

(b) Japan recognizes the validity of dispositions of property of Japan and

Japanese nationals made by or pursuant to directives of the United States Military

Government in any of the areas referred to in Articles 2 and 3.

(c) Japanese owned submarine cables connecting Japan with territory

removed from Japanese control pursuant to the present Treaty shall be equally

divided, Japan retaining the Japanese terminal and adjoining half of the cable, and

the detached territory the remainder of the cable and connecting terminal facilities.

CHAPTER III

SECURITY

Article 5

(a) Japan accepts the obligations set forth in Article 2 of the Charter of the

United Nations, and in particular the obligations.

(i) to settle its international disputes by peaceful means in such a manner that

international peace and security, and justice, are not endangered;

(ii) to refrain in its international relations from the threat or use of force

against the territorial integrity or political independence of any State or in any other

manner inconsistent with the Purposes of the United Nations;

(iii) to give the United Nations every assistance in any action it takes in

accordance with the Charter and to refrain from giving assistance to any State

against which the United Nations may take preventive or enforcement action.

(b) The Allied Powers confirm that they will be guided by the principles of

Article 2 of the Charter of the United Nations in their relations with Japan.

(c) The Allied Powers for their part recognize that Japan as a sovereign nation possesses the inherent right of individual or collective self-defense referred to in Article 51 of the Charter of the United Nations and that Japan may voluntarily enter into collective security arrangements.

Article 6

(a) All occupation forces of the Allied Powers shall be withdrawn from

PL6

Japan as soon as possible after the coming into force of the present Treaty, and in

any case not later than 90 days thereafter. Nothing in this provision shall, however, prevent the stationing or retention of foreign armed forces in Japanese territory

under or in consequence of any bilateral or multilateral agreements which have been

or may be made between one or more of the Allied Powers, on the one hand, and Japan on the other.

(b) The provisions of Article 9 of the Potsdam Proclamation of July 26,

1945, dealing with the return of Japanese military forces to their homes, to the

extent not already completed, will be carried out.

(c) All Japanese property for which compensation has not already been paid,

which was supplied for the use of the occupation forces and which remains in the

possession of those forces at the time of the coming into force of the present Treaty,

shall be returned to the Japanese Government within the same 90 days unless other

arrangements are made by mutual agreement.

CHAPTER IV

POLITICAL AND ECONOMIC CLAUSES

Article 7

(a) Each of the Allied Powers, within one year after the present Treaty has

come into force between it and Japan, will notify Japan which of its prewar bilateral

treaties or conventions with Japan it wishes to continue in force or revive, and any

treaties or conventions so notified shall continue in force or be revived subject only

to such amendments as may be necessary to ensure conformity with the present

Treaty. The treaties and conventions so notified shall be considered as having been continued in force or revived three months after the date of notification and shall be

registered with the Secretariat of the United Nations. All such treaties and

conventions as to which Japan is not so notified shall be regarded as abrogated.

(b) Any notification made under paragraph (a) of this Article may except from the operation or revival of a treaty or convention any territory for the international relations of which the notifying Power is responsible, until three months after the date on which notice is given to Japan that such exception shall cease to apply. Article 8

(a) Japan will recognize the full force of all treaties now or hereafter concluded

by the Allied Powers for terminating the state of war initiated on September 1, 1939, as

PL7

well as other arrangements by the Allied Powers or in connection with the restoration

of peace. Japan also accepts the arrangements made for terminating the former League of Nations and Permanent Court of International Justice.

(b) Japan renounces all such rights and interests as it may derive from being

a signatory power of the Conventions of St. Germain-en-Laye of September l0, 1919, and the Straits Agreement of Montreux of July 20, 1936, and from Article 16

of the Treaty of Peace with Turkey signed at Lausanne on July 24, 1923.

(c) Japan renounces all rights, title and interests acquired under, and is

discharged from all obligations resulting from, the Agreement between Germany and the Creditor Powers of January 20, 1930, and its Annexes, including the Trust

Agreement, dated May 17, 1930; the Convention of January 20, 1930, respecting

the Bank for International Settlements; and the Statutes of the Bank for

International Settlements. Japan will notify to the Ministry of Foreign Affairs in

Paris within six months of the first coming into force of the present Treaty its

renunciation of the rights, title and interests referred to in this paragraph.

Article 9

Japan will enter promptly into negotiations with the Allied Powers so

desiring for the conclusion of bilateral and multilateral agreements providing for the

regulation or limitation of fishing and the conservation and development of fisheries

on the high seas.

Article I0

Japan renounces all special rights and interests in China, including all

benefits and privileges resulting from the provisions of the final Protocol signed at Peking on September 7, 1901, and all annexes, notes and documents supplementary

thereto, and agrees to the abrogation in respect to Japan of the said protocol,

annexes, notes and documents.

Article 11 Japan accepts the judgments of the International Military Tribunal for the Far East and of other Allied War Crimes Courts both within and outside Japan, and will carry out the sentences imposed thereby upon Japanese nationals imprisoned in Japan. The power to grant clemency, to reduce sentences and to parole with respect to such prisoners may not be exercised except on the decision of the Government or

Governments which imposed the sentence in each instance, and on the

recommendation of Japan. In the case of persons sentenced by the International

PL8

Military Tribunal for the Far East, such power may not be exercised except on the

decision of a majority of the Governments represented on the Tribunal, and on the recommendation of Japan.

Article 12

(a) Japan declares its readiness promptly to enter into negotiations for the conclusion with each of the Allied Powers of treaties or agreements to place their

trading, maritime and other commercial relations on a stable and friendly basis.

(b) Pending the conclusion of the relevant treaty or agreement, Japan will,

during a period of four years from the first coming into force of the present Treaty.

(1) accord to each of the Allied Powers, its nationals, products and vessels

(i) most-favored-nation treatment with respect to customs duties, charges,

restrictions and other regulations on or in connection with the importation and

exportation of goods;

(ii) national treatment with respect to shipping, navigation and imported

goods, and with respect to natural and juridical persons and their interests-such

treatment to include all matters pertaining to the levying and collection of taxes,

access to the courts, the making and performance of contracts, rights to property

(tangible and intangible), participation in juridical entities constituted under

Japanese law, and generally the conduct of all kinds of business and professional

activities;

(2) ensure that external purchases and sales of Japanese state trading

enterprises shall be based solely on commercial considerations.

(c) In respect to any matter, however, Japan shall be obliged to accord to an Allied Power national treatment, or most-favored-nation treatment, only to the

extent that the Allied Power concerned accords Japan national treatment or most-

favored-nation treatment, as the case may be, in respect of the same matter. The reciprocity envisaged in the foregoing sentence shall be determined, in the case of products, vessels and juridical entities of, and persons domiciled in, any non- metropolitan territory of an Allied Power, and in the case of juridical entities of, and persons domiciled in, any state or province of an Allied Power having a federal government, by reference to the treatment accorded to Japan in such territory, state or province.

(d) In the application of this Article, a discriminatory measure shall not be

considered to derogate from the grant of national or most-favored-nation treatment,

PL9

as the case may be, if such measure is based on an exception customarily provided

for in the commercial treaties of the party applying it, or on the need to safeguard

that party's external financial position or balance of payments (except in respect to

shipping and navigation), or on the need to maintain its essential security interests,

and provided such measure is proportionate to the circumstances and not applied in

an arbitrary or unreasonable manner.

(e) Japan's obligations under this Article shall not be affected by the exercise

of any Allied rights under Article 14 of the present Treaty; nor shall the provisions

of this Article be understood as limiting the undertakings assumed by Japan by

virtue of Article 15 of the Treaty.

Article 13

(a) Japan will enter into negotiations with any of the Allied Powers, promptly

upon the request of such Power or Powers, for the conclusion of bilateral or

multilateral agreements relating to international civil air transport.

(b) Pending the conclusion of such agreement or agreements, Japan will,

during a period of four years from the first coming into force of the present Treaty,

extend to such Power treatment not less favorable with respect to air-traffic rights

and privileges than those exercised by any such Powers at the date of such coming

into force, and will accord complete equality of opportunity in respect to the

operation and development of air services.

(c) Pending its becoming a party to the Convention on International Civil

Aviation in accordance with Article 93 thereof, Japan will give effect to the

provisions of that Convention applicable to the international navigation of aircraft,

and will give effect to the standards, practices and procedures adopted as annexes to

the Convention in accordance with the terms of the Convention.

CHAPTER V

CLAIMS AND PROPERTY

Article 14

(a) It is recognized that Japan should pay reparations to the Allied Powers for

the damage and suffering caused by it during the war. Nevertheless it is also

recognized that the resources of Japan are not presently sufficient, if it is to maintain

a viable economy, to make complete reparation for all such damage and suffering

and at the same time meet its other obligations.

PL10

Therefore,

1. Japan will promptly enter into negotiations with Allied Powers so desiring, whose present territories were occupied by Japanese forces and damaged by Japan,

with a view to assisting to compensate those countries for the cost of repairing the

damage done, by making available the services of the Japanese people in production, salvaging and other work for the Allied Powers in question. Such

arrangements shall avoid the imposition of additional liabilities on other Allied

Powers, and, where the manufacturing of raw materials is called for, they shall be

supplied by the Allied Powers in question, so as not to throw any foreign exchange burden upon Japan.

2. (I) Subject to the provisions of subparagraph (II) below, each of the Allied

Powers shall have the right to seize, retain, liquidate or otherwise dispose of all

property, rights and interests of

(a) Japan and Japanese nationals,

(b) persons acting for or on behalf of Japan or Japanese nationals, and

(c) entities owned or controlled by Japan or Japanese nationals,

which on the first coming into force of the present Treaty were subject to its

jurisdiction. The property, rights and interests specified in this sub-paragraph shall

include those now blocked, vested or in the possession or under the control of

enemy property authorities of Allied Powers, which belonged to, or were held or

managed on behalf of, any of the persons or entities mentioned in (a), (b) or (c)

above at the time such assets came under the controls of such authorities.

(II) The following shall be excepted from the right specified in sub-

paragraph (I) above:

(i) property of Japanese natural persons who during the war resided with the

permission of the Government concerned in the territory of one of the Allied Powers, other than territory occupied by Japan, except property subjected to restrictions during the war and not released from such restrictions as of the date of the first coming into force the present Treaty;

(ii) All real property, furniture and fixtures owned by the Government of Japan and used for diplomatic or consular purposes, and all personal furniture and furnishings and other private property not of an investment nature which was

normally, necessary for the carrying out of diplomatic and consular functions,

owned by Japanese" diplomatic and consular personnel;

PL11

(iii) property belonging to religious bodies or private charitable institutions

and used exclusively for religious or charitable purposes;

(iv) property, rights and interests which have come within its jurisdiction in

consequence of the resumption of trade and financial relations subsequent to

September 2, 1945, between the country concerned and Japan, except such as have resulted from transactions contrary to the laws of the Allied Power concerned;

(v) obligations of Japan or Japanese nationals, any right, title or interest in

tangible property located in Japan, interests in enterprises organized under the laws

of Japan, or any paper evidence thereof; provided that this exception shall only apply to obligations of Japan and its nationals expressed in Japanese currency.

(III) Property referred to in exceptions (i) through (v) above shall be returned

subject to reasonable expenses for its preservation and administration. If any such

property has been liquidated the proceeds shall be returned instead.

(IV) The right to seize, retain, liquidate or otherwise dispose of property as

provided in sub-paragraph (I) above shall be exercised in accordance with the laws

of the Allied Power concerned, and the owner shall have only such rights as may be

given him by those laws.

(V) The Allied Powers agree to deal with Japanese trademarks and literary

and artistic property rights on a basis as favorable to Japan as circumstances ruling

in each country will permit.

(b) Except as otherwise provided in the present Treaty, the Allied Powers

waive all reparations claims of the Allied Powers, other claims of the Allied Powers

and their nationals arising out of any actions taken by Japan and its nationals in the course of the prosecution of the war, and claims of the Allied Powers for direct

military costs of occupation.

Article 15 (a) Upon application made within nine months of the coming into force of the present Treaty between Japan and the Allied Power concerned, Japan will, within six months of the date of such application, return the property, tangible and intangible, and all rights or interests of any kind in Japan of each Allied Power and its nationals which was within Japan at any time between December 7, 1941, and September 2, 1945, unless the owner has freely disposed thereof without duress or

fraud. Such property shall be returned free of all encumbrances and charges to

which it may have become subject because of the war, and without any charges for

PL12

its return. Property whose return is not applied for by or on behalf of the owner or

by his Government within the prescribed period may be disposed of by the Japanese Government as it may determine. In cases where such property was within Japan on

December 7, 1941, and cannot be returned or has suffered injury or damage as a

result of the war, compensation will be made on terms not less favorable than the terms provided in the draft Allied Powers Property Compensation Law approved by

the Japanese Cabinet on July 13, 1951.

(b) With respect to industrial property rights impaired during the war, Japan

will continue to accord to the Allied Powers and their nationals benefits no less than those heretofore accorded by Cabinet Orders No. 309 effective September 1 , 1949,

No.12 effective January 28, 1950, and No. 9 effective February 1, 1950, all as now

amended, provided such nationals have applied for such benefits within the time

limits prescribed therein.

(c) (i) Japan acknowledges that the literary and artistic property rights which

existed in Japan on December 6, 1941, in respect to the published and unpublished

works of the Allied Powers and their nationals have continued in force since that

date, and recognizes those rights which have arisen, or but for the war would have

arisen, in Japan since that date, by the operation of any conventions and agreements

to which Japan was a party on that date, irrespective of whether or not such

conventions or agreements were abrogated or suspended upon or since the outbreak

of war by the domestic law of Japan or of the Allied Power concerned.

(ii) Without the need for application by the proprietor of the right and

without the payment of any fee or compliance with any other formality, the period from December 7, 1941, until the coming into force of the present Treaty between

Japan and the Allied Power concerned shall be excluded from the running of the

normal term of such rights; and such period, with an additional period of six months, shall be excluded from the time within which a literary work must be translated into Japanese in order to obtain translating rights in Japan.

Article 16 As an expression of its desire to indemnify those members of the armed forces of the Allied Powers who suffered undue hard-ships while prisoners of war of Japan, Japan will transfer its assets and those of its nationals in countries which

were neutral during the war, or which were at war with any of the Allied Powers, or,

at its option, the equivalent of such assets, to the International Committee of the

PL13

Red Cross which shall liquidate such assets and distribute the resultant fund to

appropriate national agencies, for the benefit of former prisoners of war and their families on such basis as it may determine to be equitable. The categories of assets

described in Article 14 (a) 2 (II) (ii) through (v) of the present Treaty shall be

excepted from transfer, as well as assets of Japanese natural persons not residents of Japan on the first coming into force of the Treaty. It is equally understood that the

transfer provision of this Article has no application to the 19,770 shares in the Bank

for International Settlements presently owned by Japanese financial institutions.

Article 17 (a) Upon the request of any of the Allied Powers, the Japanese Government

shall review and revise in conformity with international law any decision or order of

the Japanese Prize Courts in cases involving ownership rights of nationals of that

Allied Power and shall supply copies of all documents comprising the records of

these cases, including the decisions taken and orders issued. In any case in which

such review or revision shows that restoration is due, the provisions of Article 15

shall apply to the property concerned.

(b) The Japanese Government shall take the necessary measures to enable

nationals of any of the Allied Powers at any time within one year from the coming

into force of the present Treaty between Japan and the Allied Power concerned to

submit to the appropriate Japanese authorities for review any judgment given by a

Japanese court between December 7, 1941, and such coming into force, in any

proceedings in which any such national was unable to make adequate presentation

of his case either as plaintiff or defendant. The Japanese Government shall provide that, where the national has suffered injury by reason of any such judgment, he shall

be restored in the position in which he was before the judgment was given or shall

be afforded such relief as may be just and equitable in the circumstances.

Article 18 (a) It is recognized that the intervention of the state of war has not affected the obligation to pay pecuniary debts arising out of obligations and contracts (including those in respect of bonds) which existed and rights which were acquired before the existence of a state of war, and which are due by the Government or nationals of Japan to the Government or nationals of one of the Allied Powers, or are due by the

Government or nationals of one of the Allied Powers to the Government or nationals

of Japan. The intervention of a state of war shall equally not be regarded as affecting

PL14

the obligation to consider on their merits claims for loss or damage to property or for

personal injury or death which arose before the existence of a state of war, and which may be presented or represented by the Government of one of the Allied Powers to

the Government of Japan, or by the Government of Japan to any of the Governments

of the Allied Powers. The provisions of this paragraph are without prejudice to the rights conferred by Article 14.

(b) Japan affirms its liability for the prewar external debt of the Japanese

State and for debts of corporate bodies subsequently declared to be liabilities of the

Japanese State, and expresses its intention to enter into negotiations at an early date with its creditors with respect to the resumption of payments on those debts; to

encourage negotiations in respect to other prewar claims and obligations; and to

facilitate the transfer of sums accordingly.

Article 19

(a) Japan waives all claims of Japan and its nationals against the Allied

Powers and their nationals arising out of the war or out of actions taken because of

the existence of a state of war, and waives all claims arising from the presence,

operations or actions of forces or authorities of any of the Allied Powers in Japanese

territory prior to the coming into force of the present Treaty.

(b) The foregoing waiver includes any claims arising out of actions taken by

any of the Allied Powers with respect to Japanese ships between September l, 1939,

and the coming into force of the present Treaty, as well as any claims and debts

arising in respect to Japanese prisoners of war and civilian internees in the hands of

the Allied Powers, but does not include Japanese claims specifically recognized in the laws of any Allied Power enacted since September 2, 1945.

(c) Subject to reciprocal renunciation, the Japanese Government also

renounces all claims (including debts) against Germany and German nationals on behalf of the Japanese Government and Japanese nationals, including inter- governmental claims and claims for loss or damage sustained during the war, but excepting (a) claims in respect of contracts entered into and rights acquired before September 1, 1939, and (b) claims arising out of trade and financial relations between Japan and Germany after September 2, 1945. Such renunciation shall not prejudice actions taken in accordance with Articles 16 and 20 of the present Treaty.

(d) Japan recognizes the validity of all acts and omissions done during the

period of occupation under or in consequence of directives of the occupation

PL15

authorities or authorized by Japanese law at that time, and will take no action

subjecting Allied nationals to civil or criminal liability arising out of such acts or omissions.

Article 20

Japan will take all necessary measures to ensure such disposition of German assets in Japan as has been or may be determined by those powers entitled under the

Protocol of the proceedings of the Berlin Conference of 1945 to dispose of those

assets, and pending the final disposition of such assets will be responsible for the

conservation and administration thereof.

Article 21

Notwithstanding the provisions of Article 25 of the present Treaty, China

shall be entitled to the benefits of Articles 10 and 14 (a) 2; and Korea to the benefits

of Articles 2, 4, 9 and 12 of the present Treaty.

CHAPTER VI

SETTLEMENT OF DISPUTES

Article 22

If in the opinion of any Party to the present Treaty there has arisen a dispute

concerning the interpretation or execution of the Treaty, which is not settled by

reference to a special claims tribunal or by other agreed means, the dispute shall, at

the request of any party thereto, be referred for decision to the International Court of

Justice. Japan and those Allied Powers which are not already parties to the Statute

of the International Court of Justice will deposit with the Registrar of the Court, at

the time of their respective ratifications of the present Treaty, and in conformity with the resolution of the United Nations Security Council, dated October 15, 1946,

a general declaration accepting the jurisdiction, without special agreement, of the

Court generally in respect to all disputes of the character referred to in this Article.

CHAPTER VII FlNAL CLAUSES Article 23 (a) The present Treaty shall be ratified by the States which sign it, including Japan, and will come into force for all the States which have then ratified it, when instruments of ratification have been deposited by Japan and by a majority, including the United States of America as the principal occupying Power, of the following States, namely Australia, Canada, Ceylon, France, Indonesia, the

PL16

Kingdom of the Netherlands, New Zealand, Pakistan, the Republic of the Philippines, the United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland, and the United States of America. The present Treaty shall come into force for each State which subsquently ratifies it, on the date of the deposit of its instrument of ratification.

(b) If the Treaty has not come into force within nine months after the date of the deposit of Japan's ratification, any State which has ratified it may bring the Treaty into force between itself and Japan by a notification to that effect given to the Governments of Japan and the United States of America not later than three years after the date of deposit of Japan's ratification.

Article 24 All instruments of ratification shall be deposited with the Government of the United States of America which will notify all the signatory States of each such deposit, of the date of the coming into force of the Treaty under paragraph (a) of Article 23, and of any notifications made under paragraph (b) of Article 23.

Article 25 For the purposes of the present Treaty the Allied Powers shall be the States at war with Japan, or any State which previously formed a part of the territory of a State named in Article 23, provided that in each case the State concerned has signed and ratified the Treaty. Subject to the provisions of Article 21, the present Treaty shall not confer any rights, titles or benefits on any State which is not an Allied Power as herein defined; nor shall any right, title or interest of Japan be deemed to be diminished or prejudiced by any provision of the Treaty in favor of a State which is not an Allied Power as so defined.

Article 26 Japan will be prepared to conclude with any State which signed or adhered to the United Nations Declaration of January 1, 1942, and which is at war with Japan, or with any State which previously formed a part of the territory of a State named in Article 23, which is not a signatory of the present Treaty, a bilateral Treaty of Peace on the same or substantially the same terms as are provided for in the present Treaty, but this obligation on the part of Japan will expire three years after the first coming into force of the present Treaty. Should Japan make a peace settlement or war claims settlement with any State granting that State greater advantages than those provided by the present Treaty, those same advantages shall be extended to the parties to the present Treaty.

PL17

Article 27

The present Treaty shall be deposited in the archives of the Government of the United States of America which shall furnish each signatory State with a

certified copy thereof.

IN FAITH WHEREOF the undersigned Plenipoterntiaires have signed the

present Treaty.

DONE at the city of San Francisco this eighth day of September, 1951, in the

English, French and Spanish languages, all being equally authentic, and in the

[Nguồn: https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/docs/19510908.T1E.html]

Japanese language.

PL18

2. Hiệp ước An ninh Nhật Bản - Mỹ (ngày 8/9/1951)

Security Treaty Between Japan and the United States of America [Place] San Francisco

[Date] September 8, 1951

Japan has this day signed a Treaty of Peace with the Allied Powers. On the coming into force of that Treaty, Japan will not have the effective means to exercise

its inherent right of self-defense because it has been disarmed.

There is danger to Japan in this situation because irresponsible militarism has

not yet been driven from the world. Therefore Japan desires a Security Treaty with the United States of America to come into force simultaneously with the Treaty of

Peace between Japan and the United States of America.

The Treaty of Peace recognizes that Japan as a sovereign nation has the right

to enter into collective security arrangements, and further, the Charter of the United

Nations recognizes that all nations possess an inherent right of individual and

collective self-defense.

In exercise of these rights, Japan desires, as a provisional arrangement for its

defense, that the United States of America should maintain armed forces of its own

in and about Japan so as to deter armed attack upon Japan.

The United States of America, in the interest of peace and security, is

presently willing to maintain certain of its armed forces in and about Japan, in the

expectation, however, that Japan will itself increasingly assume responsibility for its

own defense against direct and indirect aggression, always avoiding any armament

which could be an offensive threat or serve other than to promote peace and security in accordance with the purposes and principles of the United Nations Charter.

Accordingly, the two countries have agreed as follows:

ARTICLE I Japan grants, and the United States of America accepts, the right, upon the coming into force of the Treaty of Peace and of this Treaty, to dispose United States land, air and sea forces in and about Japan. Such forces may be utilized to contribute to the maintenance of international peace and security in the Far East and to the security of Japan against armed attack from without, including assistance given at the express request of the Japanese Government to put down large-scale

internal riots and disturbances in Japan, caused through instigation or intervention

by an outside power or powers.

PL19

ARTICLE II

During the exercise of the right referred to in Article I, Japan will not grant, without the prior consent of the United States of America, any bases or any rights,

powers or authority whatsoever, in or relating to bases or the right of garrison or of

maneuver, or transit of ground, air or naval forces to any third power.

ARTICLE III

The conditions which shall govern the disposition of armed forces of the

United States of America in and about Japan shall be determined by administrative

agreements between the two Governments.

ARTICLE IV

This Treaty shall expire whenever in the opinion of the Governments of

Japan and the United States of America there shall have come into force such

United Nations arrangements or such alternative individual or collective security

dispositions as will satisfactorily provide for the maintenance by the United Nations

or otherwise of international peace and security in the Japan Area.

ARTICLE V

This Treaty shall be ratified by Japan and the United States of America and

will come into force when instruments of ratification thereof have been exchanged

by them at Washington.

IN WITNESS WHEREOF the undersigned Plenipotentiaries have signed this

Treaty.

DONE in duplicate at the city of San Francisco, in the Japanese and English

languages, this eighth day of September, 1951.

FOR JAPAN:

Shigeru Yoshida

FOR THE UNITED STATES OF AMERICA; Dean Acheson John Foster Dulles Alexander Wiley Styles Bridges [Nguồn:

https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/docs/19510908.T2E.html]

PL20

3. Hiệp định Hành chính Nhật Bản - Mỹ (Hiệp định Hành chính dựa trên

Điều 3 của Hiệp ước An ninh giữa Nhật Bản và Mỹ) (ngày 28/2/1952)

Administratizve Agreement under Article III of the Security Treaty

between the United States of America and Japan

[Place] Tokyo [Date] February 28, 1952

PREAMBLE

Whereas the United States of America and Japan on September 8, 1951,

signed a Security Treaty which contains provisions for the disposition of United States land, air and sea forces in and about Japan;

And whereas Article III of that Treaty state that the conditions which shall

govern the disposition of the armed forces of the United States in and about Japan

shall be determined by administrative agreements between the two Governments;

And whereas the United States of America and Japan are desirous of

concluding practical administrative arrangements which will give effect to their

respective obligations under the Security Treaty and will strengthen the close bonds

of mutual interest and regard between their two peoples;

Therefore, the Governments of the United States of America and of Japan

have entered into this Agreement in terms as set forth below:

ARTICLE I

In this Agreement the expression

(a) "members of the United States armed forces" means the personnel on

active duty belonging to the land, sea or air armed services of the United States of America when in the territory of Japan.

(b) "civilian component" means the civilian persons of United States

nationality who are in the employ of, serving with, or accompanying the United States armed forces in Japan, but excludes persons who are ordinarily resident in Japan or who are mentioned in paragraph 1 of Article XIV. For the purposes of this Agreement only, dual nationals, United States and Japanese, who are brought to Japan by the United States shall be considered as United States nationals.

(c) "dependents" means (1) Spouse, and children under 21 ;

(2) Parents, and children over 21, if dependent for over half their support

upon a member of the United States armed forces or civilian component.

PL21

ARTICLE II

1. Japan agrees to grant to the United States the use of the facilities and areas necessary to carry out the purposes stated in Article I of the Security Treaty.

Agreements as to specific facilities and areas, not already reached by the two

Governments by the effective date of this Agreement, shall be concluded by the two Governments through the Joint Committee provided for in Article XXVI of this

Agreement. "Facilities and areas" include existing furnishings, equipment and

fixtures necessary to the operation of such facilities and areas.

2. At the request of either party, the United States and Japan shall review such arrangements and may agree that such facilities and areas shall be returned to

Japan or that additional facilities and areas may be provided.

3. The facilities and areas used by the United States armed forces shall be

returned to Japan whenever they are no longer needed for purposes of this

Agreement, and the United States agrees to keep the needs for facilities and areas

under continual observation with a view toward such return.

4. (a) When facilities and areas such as target ranges and maneuver grounds

are temporarily not being used by the United States armed forces, interim use may

be made by Japanese authorities and nationals provided that it is agreed that such

use would not be harmful to the purposes for which the facilities and areas are

normally used by the United States armed forces.

(b) With respect to such facilities and areas as target ranges and maneuver

grounds which are to be used by United States armed forces for limited periods of

time, the Joint Committee shall specify in the agreements covering such facilities and areas the extent to which the provisions of this Agreement shall apply.

ARTICLE III

1. The United States shall have the rights, power and authority within the facilities and areas which are necessary or appropriate for their establishment, use, operation, defense or control. The United States shall also have such rights, power and authority over land, territorial waters and airspace adjacent to, or in the vicinities of such facilities and areas, as are necessary to provide access to such facilities and areas for their support, defense and control. In the exercise outside the facilities and areas of the rights, power and authority granted in this Article, there

should be, as the occasion requires, consultation between the two Governments

through the Joint Committee.

PL22

2. The United States agrees that the above-mentioned rights, power and

authority will not be exercised in such a manner as to interfere unnecessarily with navigation, aviation, communication, or land travel to or from or within the

territories of Japan. All questions relating to frequencies, power and like matters

used by apparatus employed by the United States designed to emit electric radiation shall be settled by mutual arrangement. As a temporary measure the United States

armed forces shall be entitled to use, without radiation interference from Japanese

sources, electronic devices of such power, design, type of emission, and frequencies

as are reserved for such forces at the time this Agreement becomes effective.

3. Operations in the facilities and areas in use by the United States armed

forces shall be carried on with due regard for the public safety.

ARTICLE IV

1. The United States is not obliged, when it returns facilities and areas to

Japan on the expiration of this Agreement or at an earlier date, to restore the

facilities and areas to the condition in which they were at the time they became

available to the United States armed forces, or to compensate Japan in lieu of such

restoration.

2. Japan is not obliged to make any compensation to the United States for

any improvements made in the facilities and areas or for the buildings or structures

left thereon on the expiration of this Agreement or the earlier return of the facilities

and areas.

3. The foregoing provisions shall not apply to any construction which the

United States may undertake under special arrangements with Japan.

ARTICLE V

1. United States and foreign vessels and aircraft operated by, for, or under

the control of the United States for official purposes shall be accorded access to any port or airport of Japan free from toll or landing charges. When cargo or passengers not accorded the exemptions of this Agreement are carried on such vessels and aircraft, notification shall be given to the appropriate Japanese authorities, and such cargo or passengers shall be entered according to the laws, and regulations of Japan. 2. The vessels and aircraft mentioned in paragraph 1, United States Government-owned vehicles including armor, and members of the United States

armed forces, the civilian component, and their dependents shall be accorded access

to and movement between facilities and areas in use by the United States armed

PL23

forces and between such facilities and areas and the ports of Japan.

3. When the vessels mentioned in paragraph 1 enter Japanese ports, appropriate notification shall, under normal conditions, be made to the proper

Japanese authorities. Such vessels shall have freedom from compulsory pilotage,

but if a pilot is taken pilotage shall be paid for at appropriate rates.

ARTICLE VI

1. All civil and military air traffic control and communications systems shall

be developed in close coordination and shall be integrated to the extent necessary

for fulfillment of collective security interests. Procedures, and any subsequent changes thereto, necessary to effect this coordination and integration will be

established by mutual arrangement.

2. Lights and other aids to navigation of vessels and aircraft placed or

established in the facilities and areas in use by United States armed forces and in

territorial waters adjacent thereto or in the vicinity thereof shall conform to the

system in use in Japan. The United States and Japanese authorities which have

established such navigation aids shall notify each other of their positions and

characteristics and shall give advance notification before making any changes in

them or establishing additional navigation aids.

ARTICLE VII

The United States armed forces shall have the right to use all public utilities

and services belonging to, or controlled or regulated by the Government of Japan,

and to enjoy priorities in such use, under conditions no less favorable than those that

may be applicable from time to time to the ministries and agencies of the Government of Japan

ARTICLE VIII

The Japanese Government undertakes to furnish the United States armed forces with the following meteorological services under present procedures, subject to such modifications as may from time to time be agreed between the two Governments or as may result from Japan's becoming a member of the International Civil Aviation Organization or the World Meteorological Organization:

(a) Meteorological observations from land and ocean areas including

observations from weather ships assigned to positions known as "X" and "T".

(b) Climatological information including periodic summaries and the

historical data of the Central Meteorological Observatory.

PL24

(c) Telecommunications service to disseminate meteorological information

required for the safe and regular operation of aircraft.

(d) Seismographic data including forecasts of the estimated size of tidal

waves resulting from earthquakes and areas that might be affected thereby.

ARTICLE IX

1. The United States shall have the right to bring into Japan for purposes of

this Agreement persons who are members of the United States armed forces, the

civilian component, and their dependents.

2. Members of the United States armed forces shall be exempt from Japanese

passport and visa laws and regulations. Members of the United States armed forces,

the civilian component, and their dependents shall be exempt from Japanese laws

and regulations on the registration and control of aliens, but shall not be considered

as acquiring any right of permanent residence or domicile in the territories of Japan.

3. Upon entry into or departure from Japan members of the United States

armed forces shall be in possession of the following documents:

(a) personal identity card showing name, date of birth, rank and number,

service, and photograph; and

(b) individual or collective travel order certifying to the status of the

individual or group as a member or members of the United States armed forces and

to the travel ordered.

For purposes of their identification while in Japan, members of the United

States armed forces shall be in possession of the foregoing personal identity card.

4. Members of the civilian component, their dependents, and the dependents

of members of the United States armed forces shall be in possession of appropriate

documentation issued by the United States authorities so that their status may be

verified by Japanese authorities upon their entry into or departure from Japan, or

while in Japan.

5. If the status of any person brought into Japan under paragraph 1 of this

Article is altered so that he would no longer be entitled to such admission, the

United States authorities shall notify the Japanese authorities and shall, if such

person be required by the Japanese authorities to leave Japan, assure that

transportation from Japan will be provided within a reasonable time at no cost to the

Japanese Government.

PL25

ARTICLE X

1. Japan shall accept as valid, without a driving test or fee, the driving permit

or license or military driving permit issued by the United States to a member of the

United States armed forces, the civilian component, and their dependents.

2. Official vehicles of the United States armed forces and the civilian

component shall carry distinctive numbered plates or individual markings which

will readily identify them.

3. Privately owned vehicles of members of the United States armed forces,

the civilian component, and their dependents shall carry Japanese number plates to

be acquired under the same conditions as those applicable to Japanese nationals.

ARTICLE XI

1. Save as provided in this Agreement, members of the United States armed

forces, the civilian component, and their dependents shall be subject to the laws and

regulations administered by the customs authorities of Japan.

2. All materials, supplies and equipment imported by the United States

armed forces, the authorized procurement agencies of the United States armed

forces, or by the organizations provided for in Article XV, for the official use of the

United States armed forces or for the use of the members of the United States armed

forces, the civilian component, and their dependents, and materials, supplies and

equipment which are to be used exclusively by the United States armed forces or

are ultimately to be incorporated into articles or facilities used by such forces, shall

be permitted entry into Japan; such entry shall be free from customs duties and

other such charges. Appropriate certification shall be made that such materials,

supplies and equipment are being imported by the United States armed forces, the

authorized procurement agencies of the United States armed forces, or by the

organizations provided for in Article XV, or, in the case of materials, supplies and

equipment to be used exclusively by the United States armed forces or ultimately to

be incorporated into articles or facilities used by such forces, that delivery thereof is

to be taken by the United States armed forces for the purposes specified above.

3. Property consigned to and for the personal use of members of the United

States armed forces, the civilian component, and their dependents, shall be subject to customs duties and other such charges, except that no duties or charges shall be paid with respect to:

PL26

(a) Furniture and household goods for their private use imported by the

members of the United States armed forces or civilian component when they first arrive to serve in Japan or by their dependents when they first arrive for reunion

with members of such forces or civilian component, and personal effects for private

use brought by the said persons upon entrance.

(b) Vehicles and parts imported by members of the United States armed

forces or civilian component for the private use of themselves or their dependents.

(c) Reasonable quantities of clothing and household goods of a type which

would ordinarily be purchased in the United States for everyday use for the private use of members of the United States armed forces, civilian component, and their

dependents, which are mailed into Japan through United States military post offices.

4. The exemptions granted in paragraphs 2 and 3 shall apply only to cases of

importation of goods and shall not be interpreted as refunding customs duties and

domestic excises collected by the customs authorities at the time of entry in cases of

purchases of goods on which such duties and excises have already been collected.

5. Customs examination shall not be made in the following cases:

(a) Units and members of the United States armed forces under orders

entering or leaving Japan;

(b) Official documents under official seal;

(c) Mail in United States military postal channels and military cargo shipped

on a United States Government bill of lading.

6. Except as such disposal may be authorized by the Japanese and United

States authorities in accordance with mutually agreed conditions, goods imported into Japan free of duty shall not be disposed of in Japan to persons not entitled to

import such goods free of duty.

7. Goods imported into Japan free from customs duties and other such charges pursuant to paragraphs 2 and 3, may be re-exported free from customs duties and other such charges.

8. The United States armed forces, in cooperation with Japanese authorities, shall take such steps as are necessary to prevent abuse of privileges granted to the United States armed forces, members of such forces, the civilian component, and their dependents in accordance with this Article.

9. (a) In order to prevent offenses against laws and regulations administered

by the customs authorities of the Japanese Government, the Japanese authorities and

PL27

the United States armed forces shall assist each other in the conduct of inquiries and

the collection of evidence.

(b) The United States armed forces shall render all assistance within their

power to ensure that articles liable to seizure by, or on behalf of, the customs

authorities of the Japanese Government are handed to those authorities.

(c) The United States armed forces shall render all assistance within their

power to ensure the payment of duties, taxes, and penalties payable by members of

such forces or of the civilian component, or their dependents.

(d) Vehicles and articles belonging to the United States armed forces seized by the customs authorities of the Japanese Government in connection with an

offense against its customs or fiscal laws or regulations shall be handed over to the

appropriate authorities of the force concerned.

ARTICLE XII

1. The United States shall have the right to contract for any supplies or

construction work to be furnished or undertaken in Japan for purposes of, or

authorized by, this Agreement, without restriction as to choice of supplier or person

who does the construction work.

2. Materials, supplies, equipment and services which are required from local

sources for the maintenance of the United States armed forces and the procurement

of which may have an adverse effect on the economy of Japan shall be procured in

coordination with, and, when desirable, through or with the assistance of, the

competent authorities of Japan.

3. Materials, supplies, equipment and services procured for official purposes in Japan by the United States armed forces, or by authorized procurement agencies

of the United States armed forces upon appropriate certification shall be exempt

from the following Japanese taxes: (a) Commodity tax (b) Travelling tax (c) Gasoline tax (d) Electricity and gas tax Materials, supplies, equipment and services procured for ultimate use by the United States armed forces shall be exempt from commodity and gasoline taxes

upon appropriate certification by the United States armed forces. With respect to

any present or future Japanese taxes not specifically referred to in this Article which

PL28

might be found to constitute a significant and readily identifiable part of the gross

purchase price of materials, supplies, equipment and services procured by the United States armed forces, or for ultimate use by such forces, the two Governments

will agree upon a procedure for granting such exemption or relief there from as is

consistent with the purposes of this Article.

4. Local labor requirements of the United States armed forces or civilian

component shall be satisfied with the assistance of the Japanese authorities.

5. The obligations for the withholding and payment of income tax and of

social security contributions, and, except as may otherwise be mutually agreed, the conditions of employment and work, such as those relating to wages and

supplementary payments, the conditions for the protection of workers, and the rights

of workers concerning labor relations shall be those laid down by the legislation of

Japan.

6. Members of the civilian component shall not be subject to Japanese laws

or regulations with respect to terms and conditions of employment.

7. Neither members of the United States armed forces, civilian component,

nor their dependents, shall by reason of this Article enjoy any exemption from taxes

or similar charges, relating to personal purchases of goods and services in Japan

chargeable under Japanese legislation.

8. Except as such disposal may be authorized by the Japanese and United

States authorities in accordance with mutually agreed conditions, goods purchased

in Japan exempt from the taxes referred to in paragraph 3, shall not be disposed of

in Japan to persons not entitled to purchase such goods exempt from such tax.

ARTICLE XIII

1. The United States armed forces shall not be subject to taxes or similar

charges on property held, used or transferred by such forces in Japan.

2. Members of the United States armed forces, the civilian component, and their dependents shall not be liable to pay any Japanese taxes to the Japanese Government or to any other taxing agency in Japan on income received as a result of their service with or employment by the United States armed forces, or by the organizations provided for in Article XV. The provisions of this Article do not exempt such persons from payment of Japanese taxes on income derived from

Japanese sources, nor do they exempt United States citizens who for United States

income tax purposes claim Japanese residence from payment of Japanese taxes on

PL29

income. Periods during which such persons are in Japan solely by reason of being

members of the United States armed forces, the civilian component, or their dependents shall not be considered as periods of residence or domicile in Japan for

the purpose of Japanese taxation.

3. Members of the United States armed forces, the civilian component, and their dependents shall be exempt from taxation in Japan on the holding, use, transfer

inter se, or transfer by death of movable property, tangible or intangible, the

presence of which in Japan is due solely to the temporary presence of these persons

in Japan, provided that such exemption shall not apply to property held for the purpose of investment or the conduct of business in Japan or to any intangible

property registered in Japan. There is no obligation under this Article to grant

exemption from taxes payable in respect of the use of roads by private vehicles.

ARTICLE XIV

1. Persons, including corporations organized under the laws of the United

States, and their employees who are ordinarily resident in the United States and

whose presence in Japan is solely for the purpose of executing contracts with the

United States for the benefit of the United States armed forces shall, except as

provided in this Article, be subject to the laws and regulations of Japan.

2. Upon certification by appropriate United States authorities as to their

identity, such persons and their employees shall be accorded the following benefits

of this Agreement:

(a) Rights of accession and movement, as provided for in Article V,

paragraph 2;

(b) Entry into Japan in accordance with the provisions of Article IX;

(c) The exemption from customs duties, and other such charges provided for

in Article XI, paragraph 3, for members of the United States armed forces, the civilian component, and their dependents;

(d) If authorized by the United States Government, the right to use the

services of the organizations provided for in

Article XV; (e) Those provided for in Article XIX, paragraph 2, for members of the

armed forces of the United States, the civilian component, and their dependents;

(f) If authorized by the United States Government, the right to use military

payment certificates, as provided for in Article XX ;

PL30

(g) The use of postal facilities provided for in Article XXI;

(h) Exemption from the laws and regulations of Japan with respect to terms

and conditions of employment.

3. Such persons and their employees shall be so described in their passports

and their arrival, departure and their residence while in Japan shall from time to time be notified by the United States armed forces to the Japanese authorities.

4. Upon certification by an authorized officer of the United States armed

forces depreciable assets except houses, held, used, or transferred, by such persons

and their employees exclusively for the execution of contracts referred to in paragraph 1 shall not be subject to taxes or similar charges of Japan.

5. Upon certification by an authorized officer of the United States armed

forces, such persons and their employees shall be exempt from taxation in Japan on

the holding, use, transfer by death, or transfer to persons or agencies entitled to tax

exemption under this Agreement, of movable property tangible or intangible, the

presence of which in Japan is due solely to the temporary presence of these persons

in Japan, provided that such exemption shall not apply to property held for the

purpose of investment or the conduct of other business in Japan or to any intangible

property registered in Japan. There is no obligation under this Article to grant

exemption from taxes payable in respect of the use of roads by private vehicles.

6. The persons and their employees referred to in paragraph 1 shall not be

liable to pay income or corporation taxes to the Japanese Government or to any

other taxing agency in Japan on any income derived under a contract made in the

United States with the United States Government in connection with the construction, maintenance or operation of any of the facilities or areas covered by

this Agreement. The provisions of this paragraph do not exempt such persons from

payment of income or corporation taxes on income derived from Japanese sources, nor do they exempt such persons and their employees who, for United States income tax purposes, claim Japanese residence, from payment of Japanese taxes on income. Periods during which such persons are in Japan solely in connection with the execution of a contract with the United States Government shall not be considered periods of residence or domicile in Japan for the purposes of such taxation.

7. Japanese authorities shall have the primary right to exercise jurisdiction

over the persons and their employees referred to in paragraph 1 of this Article in

PL31

relation to offenses committed in Japan and punishable by the law of Japan. In those

cases in which the Japanese authorities decide not to exercise such jurisdiction they shall notify the military authorities of the United States as soon as possible. Upon

such notification the military authorities of the United States shall have the right to

exercise such jurisdiction over the persons referred to as is conferred on them by the law of the United States.

ARTICLE XV

1. (a) Navy exchanges, post exchanges, messes, social clubs, theaters,

newspapers and other non-appropriated fund organizations authorized and regulated by the United States military authorities may be established in the facilities and

areas in use by the United States armed forces for the use of members of such

forces, the civilian component, and their dependents. Except as otherwise provided

in this Agreement, such organizations shall not be subject to Japanese regulations,

Iicense, fees, taxes or similar controls.

(b) When a newspaper authorized and regulated by the United States military

authorities is sold to the general public, it shall be subject to Japanese regulations,

Iicense, fees, taxes or similar controls so far as such circulation is concerned.

2. No Japanese tax shall be imposed on sales of merchandise and services by

such organizations, except as provided in paragraph I (b), but purchases within

Japan of merchandise and supplies by such organizations shall be subject to

Japanese taxes.

3. Except as such disposal may be authorized by the United States and

Japanese authorities in accordance with mutually agreed conditions, goods which are sold by such organizations shall not be disposed of in Japan to persons not

authorized to make purchases from such organizations.

4. The obligations for the withholding and payment of income tax and of social security contributions, and, except as may otherwise be mutually agreed, the conditions of employment and work, such as those relating to wages and supplementary payments, the conditions for the protection of workers, and the rights of workers concerning labor relations shall be those laid down by the legislation of Japan.

5. The organizations referred to in this Article shall provide such information

to the Japanese authorities as is required by Japanese tax legislation.

ARTICLE XVI

It is the duty of members of the United States armed forces, the civilian

PL32

component, and their dependents to respect the law of Japan and to abstain from any

activity inconsistent with the spirit of this Agreement, and, in particular, from any political activity in Japan.

ARTICLE XVII

1. Upon the coming into force with respect to the United States of the "Agreement between the Parties to the North Atlantic Treaty regarding the Status of

their Forces", signed at London on June 19, 1951, the United Sates will immediately

conclude with Japan, at the option of Japan, an agreement on criminal jurisdiction

similar to the corresponding provisions of that Agreement.

2. Pending the coming into force with respect to the United States of the

North Atlantic Treaty Agreement referred to in paragraph 1, the United States

service courts and authorities shall have the right to exercise within Japan exclusive

jurisdiction over all offenses which may be committed in Japan by members of the

United States armed forces, the civilian component, and their dependents, excluding

their dependents who have only Japanese nationality. Such jurisdiction may in any

case be waived by the United States.

3. While the jurisdiction provided in paragraph 2 is effective, the following

provisions shall apply:

(a) Japanese authorities may arrest members of the United States armed

forces, the civilian component, or their dependents outside facilities and areas in use

by United States armed forces for the commission or attempted commission of an

offense, but in the event of such an arrest, the individual or individuals shall be

immediately turned over to the United States armed forces. Any person fleeing from the jurisdiction of the United States armed forces and found in any place outside the

facilities and areas may on request be arrested by the Japanese authorities and

turned over to the United States authorities.

(b) The United States authorities shall have the exclusive right to arrest within facilities and areas in use by United States armed forces. Any person subject to the jurisdiction of Japan and found in any such facility or area will, on request, be turned over to the Japanese authorities.

(c) The United States authorities may, under due process of law, arrest, in the vicinity of such a facility or area, any person in the commission or attempted

commission of an offense against the security of that facility or area. Any such

person not subject to the jurisdiction of the United States armed forces shall be

PL33

immediately turned over to Japanese authorities.

(d) Subject to the provisions of paragraph 3 (c), the activities outside the facilities and areas of military police of the United States armed forces shall be

limited to the extent necessary for maintaining order and discipline of and arresting

members of the United States armed forces, the civilian component, and their dependents.

(e) The authorities of the United States and Japan shall cooperate in making

available witnesses and evidence for criminal investigations and other criminal

proceedings in their respective tribunals and shall assist each other in the making of investigations. In the event of a criminal contempt, perjury, or an obstruction of

justice before a tribunal which does not have criminal jurisdiction over the

individual committing the offense, he shall be tried by a tribunal which has

jurisdiction over him as if he had committed the offense before it.

(f) The United States armed forces shall have the exclusive right of removing

from Japan members of the United States armed forces, the civilian component, and

their dependents. The United States will give sympathetic consideration to a request

by the Government of Japan for the removal of any such person for good cause.

(g) Japanese authorities shall have no right of search or seizure, with respect

to any persons or property, within facilities and areas in use by the United States

armed forces, or with respect to property of the United States armed forces

wherever situated. At the request of the Japanese authorities the United States

authorities undertake, within the limits of their authority, to make such search and

seizure and inform the Japanese authorities as to the results thereof. In the event of a judgment concerning such property, except property owned or utilized by the

United States Government, the United States will turn over such property to the

Japanese authorities for disposition in accordance with the judgment. Japanese authorities shall have no right of search or seizure outside facilities and areas in use by the United States armed forces with respect to the persons or property of members of the United States armed forces, the civilian component, or their dependents, except as to such persons as may be arrested in accordance with paragraph 3 (a) of this Article, and except as to cases where such search is required for the purpose of arresting offenders under the jurisdiction of Japan.

(h) A death sentence shall not be carried out in Japan by the United States

armed forces if the legislation of Japan does not provide for such punishment in a

PL34

similar case.

4. The United States undertakes that the United States service courts and authorities shall be willing and able to try and, on conviction, to punish all offenses

against the laws of Japan which members of the United States armed forces, civilian

component, and their dependents may be alleged on sufficient evidence to have committed in Japan, and to investigate and deal appropriately with any alleged

offense committed by members of the United States armed forces, the civilian

component, and their dependents, which may be brought to their notice by Japanese

authorities or which they may find to have taken place. The United States further undertakes to notify the Japanese authorities of the disposition made by United

States service courts of all cases arising under this paragraph. The United States

shall give sympathetic consideration to a request from Japanese authorities for a

waiver of its jurisdiction in cases arising under this paragraph where the Japanese

Government considers such waiver to be of particular importance. Upon such

waiver, Japan may exercise its own jurisdiction.

5. In the event the option referred to in paragraph 1 is not exercised by Japan,

the jurisdiction provided for in paragraph 2 and the following paragraphs shall

continue in effect. In the event the said North Atlantic Treaty Agreement has not

come into effect within one year from the effective date of this Agreement, the

United States will, at the request of the Japanese Government, reconsider the

subject of jurisdiction over offenses committed in Japan by members of the United

States armed forces, the civilian component, and their dependents.

ARTICLE XVIII 1. Each party waives all its claims against the other party for injury or death

suffered in Japan by a member of its armed forces, or a civilian governmental

employee, while such member or employee was engaged in the performance of his official duties in cases where such injury or death was caused by a member of the armed forces, or a civilian employee of the other party acting in the performance of his official duties.

2. Each party waives all its claims against the other party for damage to any property in Japan owned by it, if such damage was caused by a member of the armed forces or a civilian governmental employee of the other party in the

performance of his official duties.

3. Claims, other than contractual, arising out of acts or omissions of members

PL35

of, or employees of the United States armed forces in the performance of offictal

duty or out of any other act, omission or occurrence for which the United States armed forces is legally responsible, arising incident to non-combat activities and

causing injury, death, or property damage in Japan to third parties shall be dealt

with by Japan in accordance with the following provisions:

(a) Claims shall be filed within one year from the date on which they arise

and shall be considered and settled or adjudicated in accordance with the laws and

regulations of Japan with respect to claims arising from the activities of its own

employees.

(b) Japan may settle any such claims, and payment of the amount agreed

upon or determined by adjudication shall be made by Japan in yen.

(c) Such payment, whether made pursuant to a settlement or to adjudication

of the case by a competent tribunal of Japan, or the final adjudication by such a

tribunal denying payment, shall be binding and conclusive.

(d) The cost incurred in satisfying claims pursuant to the preceding

subparagraphs shall be shared on terms to be agreed by the two Governments.

(e) In accordance with procedures to be established, a statement of all claims

approved or disapproved by Japan pursuant to this paragraph, together with the

findings in each case, and a statement of the sums paid by Japan, shall be sent to the

United States periodically, with a request for reimbursement of the share to be paid

by the United States. Such reimbursement shall be made within the shortest possible

time in yen.

4. Each party shall have the primary right, in the execution of the foregoing paragraphs, to determine whether its personnel were engaged in the performance of

official duty. Such determination shall be made as soon as possible after the arising

of the claim concerned. When the other party disagrees with the results of such determination, that party may bring the matter before the Joint Committee for consultation under the provisions of Article XXVI of this Agreement.

5. Claims against members of or employees of the United States armed forces arising out of tortious acts or omissions in Japan not done in the performance of official duty shall be dealt with in the following manner:

(a) The Japanese authorities shall consider the claim and assess

compensation to the claimant in a fair and just manner, taking into account all the

circumstances of the case, including the conduct of the injured person, and shall

PL36

prepare a report on the matter.

(b) The report shall be delivered to the United States authorities, who shall then decide without delay whether they will offer an ex gratia payment, and if so, of

what amount.

(c) If an offer of ex gratia payment is made, and accepted by the claimant in full satisfaction of his claim, the United States authorities shall make the payment

themselves and inform the Japanese authorities of their decision and of the sum paid.

(d) Nothing in this paragraph shall affect the jurisdiction of the Japanese

courts to entertain an action against a member or employee of the United States armed forces, unless and until there has been payment in full satisfaction of the

claim.

6. (a) Members of and civilian employees of the United States armed forces,

excluding those employees who have only Japanese nationality, shall not be subject

to suit in Japan with respect to claims specified in paragraph 3, but shall be subject

to the civil jurisdiction of Japanese courts with respect to all other types of cases.

(b) In case any private movable property, excluding that in use by the United

States armed forces, which is subject to compulsory execution under Japanese law,

is within the facilities and areas in use by the United States armed forces, the United

States authorities shall upon the request of Japanese courts, possess and turn over

such property to the Japanese authorities.

(c) The United States authorities shall cooperate with the Japanese

authorities in making available witnesses and evidence for civil proceedings in

Japanese tribunals.

7. Disputes arising out of contracts concerning the procurement of materials,

supplies,equipment, services, and labor by or for the United States armed forces, which

are not resolved by the parties to the contract concerned, may be submitted to the Joint Committee for conciliation, provided that the provision of this paragraph shall not prejudice any right which the parties to the contract may have to file a civil suit.

ARTICLE XIX 1. Members of the United States armed forces, the civilian component, and their dependents, shall be subject to the foreign exchange controls of the Japanese Government.

2. The preceding paragraph shall not be construed to preclude the

transmission into or outside of Japan of United States dollars or dollar instruments

PL37

representing the official funds of the United States or realized as a result of service

or employment in connection with this Agreement by members of the United States armed forces and the civilian component, or realized by such persons and their

dependents from sources outside of Japan.

3. The United States authorities shall take suitable measures to preclude the abuse of the privileges stipulated in the preceding paragraph or circumvention of the

Japanese foreign exchange controls.

ARTICLE XX

1. (a) United States military payment certificates denominated in dollars may be used by persons authorized by the United States for internal transactions within

the facilities and areas in use by the United States armed forces. The United States

Government will take appropriate action to insure that authorized personnel are

prohibited from engaging in transactions involving military payment certificates

except as authorized by United States regulations. The Japanese Government will

take necessary action to prohibit unauthorized persons from engaging in

transactions involving military payment certificates and with the aid of United

States authorities will undertake to apprehend and punish any person or persons

under its jurisdiction involved in the counterfeiting or uttering of counterfeit

military payment certificates.

(b) It is agreed that the United States authorities will apprehend and punish

members of the United States armed forces, the civilian component, or their

dependents, who tender military payment certificates to unauthorized persons and

that no obligation will be due to such unauthorized persons or to the Japanese Government or its agencies from the United States or any of its agencies as a result

of any unauthorized use of miiitary payment certificates within Japan.

2. In order to exercise control of military payment certificates the United States shall have the right to designate certain American financial institutions to maintain and operate, under United States supervision, facilities for the use of persons authorized by the United States to use military payment certificates. Institutions authorized to maintain military banking facilities will establish and maintain such facilities physically separated from their Japanese commercial banking business, with personnel whose sole duty is to maintain and operate such

facilities. Such facilities shall be permitted to maintain United States currency bank

accounts and to perform all financial transactions in connection therewith including

PL38

receipt and remission of funds to the extent provided by Article XIX, paragraph 2,

of this Agreement.

ARTICLE XXI

The United States shall have the right to establish and operate, within the

facilities and areas in use by the United States armed forces, United States military post offices for the use of members of the United States armed forces, the civilian

component, and their dependents, for the transmission of mail between United

States military post offices in Japan and between such military post offices and

other United States post offices. ARTICLE XXII

The United States shall have the right to enroll and train all eligible United

States citizens, residing in Japan, in the reserve organizations of the armed forces of

the United States, except that the prior consent of the Japanese Government shall be

obtained in the case of persons employed by the Japanese Government.

ARTICLE XXIII

The United States and Japan will cooperate in taking such steps as may from

time to time be necessary to ensure the security of the United States armed forces,

the members thereof, the civilian component, their dependents, and their property.

The Japanese Government agrees to seek such legislation and to take such other

action as may be necessary to ensure the adequate security and protection within its

territory of installations, equipment, property, records and official information of

the United States, and for the punishment of offenders under the applicable laws of

Japan.

ARTICLE XXIV

In the event of hostilities, or imminently threatened hostilities, in the Japan

area, the Governments of the United States and Japan shall immediately consult together with a view to taking necessary joint measures for the defense of that area and to carrying out the purposes of Article 1 of the Security Treaty.

ARTICLE XXV 1. It is agreed that the United States will bear for the duration of this Agreement without cost to Japan all expenditures incident to the maintenance of the United States armed forces in Japan except those to be borne by Japan as provided

in paragraph 2.

2. It is agreed that Japan will:

PL39

(a) Furnish for the duration of this Agreement without cost to the United

States and make compensation where appropriate to the owners and suppliers thereof all facilities, areas and rights of way, including facilities and areas jointly

used such as those at airfields and ports, as provided in Articles II and III.

(b) Make available without cost to the United States, until the effective date of any new arrangement reached as a result of periodic reexamination, an amount of

Japanese currency equivalent to $155 million per annum for the purpose of

procurement by the United States of transportation and other requisite services and

supplies in Japan. The rate of exchange at which yen payments will be credited shall be the official par value, or that rate considered most favorable by the United States

which on the day of payment is available to any party, authorized by the Japanese

Government or used in any transaction with any party by the Japanese Government

or its agencies or by Japanese banks authorized to deal in foreign exchange, and

which, if both countries have agreed par values with the International Monetary

Fund, is not prohibited by the Articles of Agreement of the Fund.

3. It is agreed that arrangements will be effected between the Governments

of the United States and Japan for accounting applicable to financial transactions

arising out of this Agreement.

ARTICLE XXVI

1. A Joint Committee shall be established as the means for consultation

between the United States and Japan on all matters requiring mutual consultation

regarding the implementation of this Agreement. In particular, the Joint Committee

shall serve as the means for consultation in determining the facilities and areas in Japan which are required for the use of the United States in carrying out the

purposes stated in Article I of the Security Treaty.

2. The Joint Committee shall be composed of a representative of the United States and of Japan, each of whom shall have one or more deputies and a staff. The Joint Committee shall determine its own procedures, and arrange for such auxiliary organs and administrative services as may be required. The Joint Committee shall be so organized that it may meet immediately at any time at the request of the representative of either the United States or Japan.

3. If the Joint Committee is unable to resolve any matter, it shall refer that

matter to the respective Governments for further consideration through appropriate

channels.

PL40

ARTICLE XXVII

1. This Agreement shall come into force on the date on which the Security

Treaty between the United States and Japan enters into force.

2. Each party to this Agreement undertakes to seek from its legislature

necessary budgetary and legislative action with respect to provisions of this Agreement which require such action for their execution.

ARTICLE XXVIII

Either party may at any time request the revision of any Article of this

Agreement, in which case the two Governments shall enter into negotiation through appropriate channels.

ARTICLE XXIX

This Agreement, and agreed revisions thereof, shall remain in force while the

Security Treaty remains in force unless earlier terminated by agreement between the

parties.

In witness whereof the representatives of the two Governments, duly

authorized for the purpose, have signed this Agreement.

Done at Tokyo, in duplicate, in the English and Japanese languages, both

texts authentic, this twenty-eighth day of February, 1952.

FOR THE GOVERNMENT OF THE UNITED STATES OF AMERICA:

Dean Rusk

Earl Johnson

FOR THE GOVERNMENT OF JAPAN:

K. Okazaki

[Nguồn:https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/docs/19520228.T1E.html]

PL41

4. Tuyên bố chung của Thủ tướng Shigeru Yoshida và Tổng thống

Eisenhower (ngày 10/11/1954)

Joint Statement of Japanese Prime Minister Yoshida and U.S. President

Eisenhower issued on November 10, 1954

[Place] Washington

[Date] November 10, 1954

President Eisenhower and Prime Minister Yoshida met on November 9 and

reaffirmed the spirit of friendly cooperation characterizing the relations between the United States and Japan. The Prime Minister also met with Secretary of State

Dulles, Secretary of Treasury Humphrey, Secretary of Defense Wilson and Director

Stassen of the Foreign Operations Administration. The Prime Minister and

Secretary Dulles at their meetings this week, after a full and frank exchange of

views on matters of mutual interest, reviewed the conversations held during the past

three weeks by representatives of the two governments.

I

The President and the Prime Minister agreed that the solidarity and

determination of the free nations had greatly advanced the cause of world peace.

They declared that their governments would, in cooperation with the free nations of

Asia, continue their united efforts to maintain and promote the peace and prosperity

of Asia. The Prime Minister reaffirmed his government's determination to make a

full contribution to these efforts and in particular stressed Japan's desire to

cooperate wherever possible, in the development of economic strength by the free nations of Asia.

The President and the Prime Minister declared that the goals of their

governments are peaceful and that their peoples desire peace and liberty for themselves and all their neighbors.

II Representatives of both governments discussed Japan's economic situation in detail. It was agreed that the economic well-being of the Japanese people is a matter of importance to the entire free world. The achivement of improved economic conditions in Japan depends partly upon the ability of the Japanese people

themselves to pursue sound and constructive internal monetary and other economic

policies and partly upon Japan's ability to expand its trade with other countries. By

PL42

various means since the end of the war the United States has been able to contribute

substatially to the economic progress which Japan has achieved. The United States is aware of the efforts which Japan is making to solve its difficult economic

problems and will continue to examine sympathetically means whereby it can assist

the Japanese people to advance their well-being.

A number of specific measures were discussed in the recent talks. General

arrangement was reached that the United States would cooperate with Japan in its

efforts to expand its foreign trade and achieve a better balance in its foreign

economic relations. It was further agreed that the United States would sell to Japan agricultural commodities and that a substantial portion of the proceeds of these sales

will be used for Japan's domestic economic improvement and defense support, and

for regional economic development. Other steps were discussed, such as the

establishment of a productivity program in Japan and the mutual benefits which

might aise from Japan's participation with the other free nations of South and

Southeast Asia in the economic development of that area. Both sides agreed that

these measures would be of marked benefit to Japan by improving its economic

position and facilitating its efforts to attain a higher standard of living.

III

United States representatives expressed regret over the incident on March 1

in which 23 Japanese fishermen were injured - one fatally - by the fall-out of

radioactive materials following a nuclear test in the Pacific. They emphasized their

belief that peaceful uses of atomic energy would be steadily developed and would

eventually become of great value to Japan and other friendly nations throughout the world.

IV

Nguồn: [https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/JPUS/19541110.D1E.html]

There were also discussion of the disposition of Japanese assets vested by the United States and representatives of the United States stated that this matter is under consideration. Among other subjects reviewed were communist efforts to weaken and discredit the operations of free governments of Asia, the request of Japan for expedited consideration of the cases of war criminals, and the status of the Ryukyu and Bonin Islands in the light of the present international situation, as wel as the desire of Japan for the return to the Bonin Islands of former inhabitants.

PL43

5. Tuyên bố chung của Ngoại trưởng Nhật Bản Mamoru Shigemitsu và

Ngoại trưởng Mỹ J. Dulles (ngày 31/8/1955)

重光外務大臣とダレス米国務長官の共同声明

[場所] 米国務省

[年月日] 1955年8月31日

共同声明

日本国副総理兼外務大臣重光葵は、国務長官ジョン・フォスター・ダレ

ス及び他の米国政府高官との間の三日間にわたる会談を終了した。

外務大臣と同席した主な人々は、農林大臣河野一郎、日本民主党幹事長

岸信介、駐米大使井口貞夫、国際連合日本政府代表部長加瀬俊一大使及

び内閣官房副長官松本瀧蔵である。

外務大臣及びその一行と会談した米国の官吏には、国務次官ハーバート

・フーヴァー・Jr、国防次官ルーベン・B・ロバートソン・Jr、統

合参謀本部議長アーサー・W・ラドフォード海軍大将、国際協力庁長官

ジョン・ホリスター、国務副次官ロバート・マーフィー、国防次官補ゴ

ードン・グレイ、駐日大使ジョン・M・アリソン、国務次官補代理ウィ

リアム・J・シーボルトが含まれていた。

最近の国際情勢、特にジュネーヴにおける「頂上」会談の意義、国際連

PL44

合における軍縮問題に関する現在の討議、及びジュネーヴにおける来る

べき外相会議について世界的な観点から、自由な、かつ、忌憚なき意見

の交換が行われ、また、極東情勢についても討議が行われた。ダレス長

官は、全般的な平和の増進に導くべきあらゆる方途を忍耐強く探求しつ

つ、確乎として自由を支持する米国の政策を説明した。重光外務大臣は

、ソ連邦及び中国における自らの経験に徴し、時刻の政策を解明した。

国務長官及び外務大臣は、大規模な戦争の急迫した危険は遠のいたよう

であるが、国際情勢、特に極東の情勢には、いまだ不安定な要素が残つ

ており、平和のより良い見通しを維持するためには、自由世界が引続き

結束することが必要であるという見解に一致した。

外務大臣は、日本が、その外交政策の礎石として、米国及び自由世界と

の協力を維持する決意を表明した。これに関連して、国務長官と外務大

臣は、極東における安定及び永続的平和を確保するために、日米両国間

において、一層緊密な協力が行われることが望ましいことを認め、両国

政府が共通の関心を有する諸問題について引続き協議すべきことに意見

が一致した。

日本の安全保障に関する基本的諸問題が討議された。外務大臣は、日本

の防衛力が現在相当の水準に達したことを指摘し、日本の能力の範囲内

において防衛力漸増の政策が継続されるべき旨の堅い決意を表明した。

外務大臣は、日本の防衛当局が最近作成した日本の防衛能力増強に関す

る諸計画を説明した。これらの諸計画は、東京における日米防衛関係に

PL45

関する継続的な協議の過程において検討され、かつ、戦略上の要請に照

して随時再検討されるべきことに意見が一致した。

日本が、できるだけすみやかにその国土の防衛のための第一次的責任を

執ることができ、かくて西太平洋における国際の平和と安全の維持に寄

与することができるような諸条件を確立するため、実行可能なときはい

つでも協力的な基礎にたつて努力すべきことに意見が一致した。また、

このような諸条件が実現された場合には、現行の安全保障条約をより相

互性の強い条約に置き代えることを適当とすべきことについても意見が

一致した。

さらに、このような条約を締結することを目標として、東京において防

衛問題に関する日米両国代表間の協議を行うべきこと、及びその協議に

当つては、日本自体の防衛力が増大するに伴い、アジアにおける関連し

た事態を考慮しつつ、米国の地上部隊を漸進的に撤退させる計画を樹立

することについて考慮を払うべきことに意見が一致した。

在日米軍の支持のための日本の財政的寄与の問題に関しては、今後数年

間にわたる漸減に関する一般的方式を設定することが望ましいことにつ

いて意見の一致を見た。

外務大臣は、日本が諸外国、特にアジアの諸国との貿易を伸張させる必

要があることを強調し、また、日本がガットの正式加盟国となるために

PL46

米国が与えた援助に対して謝意を表明した。

ダレス長官は、米国の法律の基くアジアの自由諸国の経済発展のための

援助に関する現在の構想を述べた。目下計画されている諸措置は、日本

の経済的地位を改善し、生活水準の向上を達成しようとする日本の努力

を容易にするであろうということが認められた。同長官は、外国民間投

資が日本及びアジア地域内の他の諸国において経済開発に寄与すること

ができることを強調した。

外務大臣は、米国の管轄権の下にある戦争犯罪人の早期釈放を要請した

。国務長官は、問題の複雑性を述べるとともに、戦争犯罪人釈放の問題

を継続的にかつ緊急に検討すべき旨を表明した。

占領期間中日本に供与された経済援助の処理については、なんら大きな

障害が残つていないこと、及び東京における本件に関する両国政府間の

交渉を早期に妥結させるため極力努力することに意見が一致した。

今次会談を通じ、日米両国の代表は、日本はアジアの大国として、アジ

アの安定と平和に貢献するため、他のアジア諸国と友好的に協力して積

極的役割を果すべきであると認めた。両国代表は、日本が国内安定の確

立、国民経済の再建及び防衛能力の強化に努力していることにかんがみ

、日米両国間の継続的協力のため一層強固な基礎が存在することに意見

が一致した。重光外務大臣及びダレス国務長官は、両国が相携えて、か

PL47

つ、他国とともに世界の平和と自由の強化のための任務を遂行しうるた

めに、この協力関係をさらに拡大せんとする両国政府の決意をあらため

て確認した。

[Nguồn: https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/JPUS/19550831.D1J.html]

PL48

6. Tuyên bố chung giữa Thủ tướng Nobusuke Kishi và Tổng thống Mỹ

Eisenhower (ngày 21/6/1957)

Joint communique of Japanese Prime Minister Kishi and U.S. President

Eisenhower issued on June 21, 1957

[Place] Washington

[Date] June 21, 1957

The President of the United States and the Prime Minister of Japan concluded today valuable discussions on topics of interest to both countries. Their

talks focused mainly on United States-Japanese relations but they also discussed

international subjects of mutual concern, especially the situation in Asia.

During his three-day visit the Prime Minister and members of his party met

at length with Secretary of State and also met with the Secretary of the Treasury, the

Secretary of Commerce, the Chairman of the United States Joint Chief of Staff, the

President of the Export-Import Bank and Appropriate Representative of the

President and of the Departments of Defense and Agriculture, and with leaders of

the United States Congress. After leaving Washington, the Prime Minister will visit

other parts of the United States and meet with leaders of business and other private

organizations.

I

The President and the Prime Minister agreed that, although the dangers of

general war had somewhat receded, international communism remains a major threat. Accordingly, they agreed that the free nations should continue to preserve

their strength and their unity. It was mutually recognized that the deterrent power of

the free world had, in recent years, been effective in preventing overt aggression in the Far East and the world.

The President and the Prime Minister are convinced that relations between Japan and the United States are entering a new era firmly based on common interests and trust. Their discussions covered the many mutual advantages and benefits of close relations between the United States and Japan. The President and the Prime Minister decided, therefore, that it would be appropriate to affirm the

following principles of cooperation between the two countries:

1) Relations between the United States and Japan rest on a solid foundation

PL49

of sovereign equality, mutual interest and cooperation beneficial to both nations. In

the years ahead, this relationship will provide a vital element in strengthening the free world.

2) Both nations are dedicated to peace based on liberty and justice in

accordance with the principles of the United Nations. They are resolved to work toward the establishment of conditions under which peace and freedom can prevail.

To this end they will support the United Nations and contribute their best efforts to

preserve and enhance the unity of the free world. They will oppose the use of force

by any nation except in individual or collective self-defense as provided in the United Nations Charter.

3) In the interests of continued peace, the free world must maintain its

defensive capability until armaments are brought under effective control.

Meanwhile, the free nations need to intensify their efforts to foster the conditions

necessary for economic and social progress and for strengthening freedom in Asia

and throughout the world. Free Asian nations which desire assistance, should be

aided in carrying forward measures for economic development and technical

training.

4) The United States and Japan reaffirm the desirability of a high level of

world trade beneficial to free nations and of orderly trade between the two

countries, without unnecessary and arbitrary restrictions.

5) The two countries fully agree that an effective international agreement for

the reduction of armaments, both nuclear and conventional is of crucial importance

for the future of the world. They will continue in close consultation on this important problem.

Within the context of these principles the President and the Prime Minister

reviewed the great changes which have taken place in Japan in recent years, including Japan's extensive economic recovery and admission to the United Nations, both of which the President warmly welcomed.

II Existing security arrangements between the United States and Japan were discussed. It was agreed to establish an intergovernmental committee to study problems arising in relation to the Security Treaty including consultation, whenever

practicable, regarding th disposition and employment in Japan by the United States

of its forces. The committee will also consult to assure principles of the United

PL50

Nations Charter. The President and the Prime Minister affirmed their understanding

that the Security Treaty of 1951 was designed to be transitional in character and not in that form to remain in perpetuity. The committee will also consider future

adjustments in the relationships between the United States and Japan in these fields

adequate to meet the needs and aspirations of the peoples of both countries.

The United States welcomed Japan's plans for the buildup of her defense

forces and accordingly, in consonance with the letter and spirit of the Security

Treaty, will substantially reduce the numbers of United States forces in Japan within

the next year, including a prompt withdrawal of all United States ground combat forces. The United States plans still further reductions as the Japanese defense

forces grow.

The President, while recognizing that Japan must trade to live, stressed the

continuing need for control on exports of strategic materials to those countries

threatening the independence of free nations through the extension of international

communism. The Prime Minister, while agreeing with the need for such control in

cooperation with other free world governments, pointed out the necessity for Japan

to increase its trade.

The Prime Minister emphasized the strong desire of the Japanese people for

the return of administrative control over the Ryukyu and Bonin Islands to Japan.

The President reaffirmed the United States position that Japan possesses residual

sovereignty over these islands. He pointed out, however, that so long as the

conditions of threat and tension exist in the Far East the United States will find it

necessary to continue the present status. He stated the United States will continue its policy of improving the welfare and well-being of the inhabitants of the islands and

of promoting their economic and cultural advancement.

Economic and trade relations between the United States and Japan were discussed at length. The President and the Prime Minister mutually confirmed not only the desires for a high level of trade but also the need for close relations between the two countries in other economic fields. The Prime Minister, while expressing his deep concern over certain movements in the United States for import restrictions, explained that in consideration of the predominant importance of the United States market for Japanese trade Japan is taking measures for an orderly

development of her exports to the United States. The President confirmed that the

United States Government will maintain its traditional policy of a high level of trade

PL51

without unnecessary and arbitrary restrictions. He expressed his hopes for the

removal of local restrictions on the sale of Japanese products.

The Prime Minister described his recent tour of certain Asian countries and

said that he had been deeply impressed with the serious efforts these countries are

making toward economic development. He expressed his conviction that further progress in the economic development of these countries would greatly coutribute

to stability and freedom in Asia. The president expressed his full agreement with the

Prime Minister. The President and the Prime Minister discussed ways in which free

Asian countries might be further asisted in developing their economies. The views of the Prime Minister will be studied by the United States.

The President ahd the Prime Minister discussed the early cessation of both

the testing and the manufacture of nuclear weapons as part of a first step in a

safeguarded disarmament program. The President told the Prime Minister that the

latter's views are being taken into account in formulating the United States position

at the current United Nations disarmament session in London.

The President and the Prime MInister are convinced that their exchange of

views will contribute much to strengthening mutual understanding and to agreement

on fundamental interests which will further solidify the friendly relations between

the two countries in the years to come.

[Nguồn:

https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/JPUS/19570621.D1E.html]

PL52

7. Hiệp ước hợp tác và an ninh tương hỗ Nhật - Mỹ (ngày 19/01/1960) Treaty of Mutual Cooperation and Security between Japan and the

United States of America [Place] Washington [Date] January 19, 1960 Japan and the United States of America,

Desiring to strengthen the bonds of peace and friendship traditionally

existing between them, and to uphold the principles of democracy, individual

liberty, and the rule of law,

Desiring further to encourage closer economic cooperation between them

and to promote conditions of economic stability and well-being in their countries,

Reaffirming their faith in the purposes and principles of the Charter of the

United Nations, and their desire to live in peace with all peoples and all

governments,

Recognizing that they have the inherent right of individual or collective self-

defense as affirmed in the Charter of the United Nations,

Considering that they have a common concern in the maintenance of

international peace and security in the Far East,

Having resolved to conclude a treaty of mutual cooperation and security ,

Therefore agree as follows:

ARTICLE I

The Parties undertake, as set forth in the Charter of the United Nations, to settle any international disputes in which they may be involved by peaceful means

in such a manner that international peace and security and justice are not

endangered and to refrain in their international relations from the threat or use of

force against the territorial integrity or political independence of any state , or in any other manner inconsistent with the purposes of the United Nations.

The Parties will endeavor in concert with other peace-loving countries to strengthen the United Nations so that its mission of maintaining international peace and security may be discharged more effectively .

ARTICLE II

The Parties will contribute toward the further development of peaceful and friendly international relations by strengthening their free institutions, by bringing

about a better understanding of the principles upon which these institutions are

PL53

founded, and by promoting conditions of stability and well-being. They will seek to

eliminate conflict in their international economic policies and will encourage economic collaboration between them.

ARTICLE III

The Parties, individually and in cooperation with each other, by means of continuous and effective self-help and mutual aid will maintain and develop, subject

to their constitutional provisions, their capacities to resist armed attack.

ARTICLE IV

The Parties will consult together from time to time regarding the implementation of this Treaty, and, at the request of either Party, whenever the

security of Japan or international peace and security in the Far East is threatened.

ARTICLE V

Each Party recognizes that an armed attack against either Party in the

territories under the administration of Japan would be dangerous to its own peace

and safety and declares that it would act to meet the common danger in accordance

with its constitutional provisions and processes. Any such armed attack and all

measures taken as a result thereof shall be immediately reported to the Security

Council of the United Nations in accordance with the provisions of Article 51 of the

Charter. Such measures shall be terminated when the Security Council has taken the

measures necessary to restore and maintain international peace and security.

ARTICLE VI

For the purpose of contributing to the security of Japan and the maintenance

of international peace and security in the Far East, the United States of America is granted the use by its land, air and naval forces of facilities and areas in Japan . The

use of these facilities and areas as well as the status of United States armed forces in

Japan shall be governed by a separate agreement, replacing the Administrative Agreement under Article III of the Security Treaty between Japan and the United States of America, signed at Tokyo on February 28, 1952, as amended, and by such other arrangements as may be agreed upon.

ARTICLE VII This Treaty does not affect and shall not be interpreted as affecting in any way the rights and obligations of the Parties under the Charter of the United Nations

or the responsibility of the United Nations for the maintenance of international

peace and security.

PL54

ARTICLE VIII

This Treaty shall be ratified by Japan and the United States of America in accordance with their respective constitutional processes and will enter into force on

the date on which the instruments of ratification thereof have been ex-changed by

them in Tokyo.

ARTICLE IX

The Security Treaty between Japan and the United States of America signed

at the city of San Francisco on September 8, 1951 shall expire upon the entering

into force of this Treaty. ARTICLE X

This Treaty shall remain in force until in the opinion of the Governments of

Japan and the United Sates of America there shall have come into force such United

Nations arrangements as will satisfactorily provide for the maintenance of

international peace and security in the Japan area.

However, after the Treaty has been in force for ten years, either Party may

give notice to the other Party of its intention to terminate the Treaty, in which case

the Treaty shall terminate one year after such notice has been given.

IN WITNESS WHEREOF the undersigned Plenipotentiaries have signed this

Treaty.

DONE in duplicate at Washington in the Japanese and English languages,

both equally authentic, this 19th day of January, 1960.

FOR JAPAN :

Nobusuke Kishi Aiichiro Fujiyama

Mitsujiro Ishii

Tadashi Adachi Koichiro Asakai FOR THE UNITED STATES OF AMERICA Christian A. Herter Douglas MacArthur 2nd J. Graham Parsons [Nguồn: https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/docs/19600119.T1E.html]

PL55

8. Tuyên bố chung giữa Thủ tướng Nobusuke Kishi và Tổng thống

Eisenhower (ngày 19/1/1960)

Joint Communique of Japanese Prime Minister Kishi and U.S. President

Eisenhower Issued on January 19, 1960

[Place] Washington [Date] January 19, 1960

The Prirne Minister of Japan and the President of the United States conferred

at the White House today prior to the formal signing of the Treaty of Mutual

Cooperation and Security between Japan and the United States. Their discussions were devoted chiefly to a broad and comprehensive review of current international

developments, and to an examination of Japanese-American relations. Japanese

Minister of Foreign Affairs Fujiyama and American Secretary of State Herter also

took part in the White House talks. Later the Prime Minister and his party conferred

with the Secretary of State on matters of mutual concern to the two countries.

1. The Prime Minister and the President first discussed the international

situation. The President told the Prime Minister of the profound impression made

upon him during his recent trip to South Asia, the Near East, Africa and Europe by

the overwhelming desire throughout these areas for early realization of the goals of

the United Nations, international peace, respect for human rights, and a better life.

In discussing the international situation, the President stated his determination to

exert every effort at the impending summit meeting to achieve meaningful progress

toward these goals. The Prime Minister expressed full agreement and support for

the President's determination.

In this connection, the Prime Minister and the President agreed that

disarmament with the essential guarantees of inspection and verification, is a

problem of urgent and central importance to all nations, whose resolution would contribute greatly to reducing the burden of armaments and the risk of war. They expressed the further hope that early agreement can be reached on an adequately safeguarded program for the discontinuance of nuclear weapons tests. They concluded that the world is entering a period affording important opportunities which they have every intention of exploring most seriously but only on the basis of tested performance not merely promises. Both leaders recognized that all of man's

intellect wisdom and imagination must be brought into full play to achieve a world

at peace under justice and freedom. They expressed the conviction that, during this

PL56

period and particularly until all nations abide faithfully by the purposes and

principles of the U.N. and forego the resort to force, it is essential for free nations to maintain by every means their resolution, their unity and their strength.

2. The Prime Minister and the President considered the security relationship

between Japan and the United States in the light of their evaluation of the current international situation and declared that this closer relationship was essential to the

achievement of peace in justice and freedom. They are convinced that the

partnership and cooperation between their two nations is strengthened by the new

treaty which has been drawn up on the basis of the principles of equal sovereignty and mutual cooperation that characterize the present relationship between the two

countries. Both leaders look forward to the ratification of the treaty and to the

celebration of this year of the centennial of Japan's first diplomatic mission to the

United States as further demonstrations of the strength and continuity of Japanese-

American friendship.

In viewing relations between Japan and the United States since their last

meeting in June 1957, the Prime Minister and the President expressed particular

gratification at the success of efforts since that time to develop the new era in

relations between the two countries based on common interest, mutual trust, and the

principles of cooperation.

Both the Prime Minister and the President looked ahead to continued close

cooperation between the two countries within the framework of the new Treaty of

Mutual Cooperation and Security. They are convinced that the treaty will materially

strengthen peace and security in the Far East and advance the cause of peace and freedom throughout the world. They are convinced also that the treaty will foster an

atomosphere of mutual confidence. In this connection, the Prime Minister discussed

with the President the question of prior consultation under the new treaty. The President assured him that the United States government has no intention of acting in a manner contrary to the wishes of the Japanese government with respect to the matters involving prior consultation under the treaty.

The Prime Minister and the President also discussed the situation in Asia. They reaffirmed their belief that they should maintain close contact and consultation with relation to future development in this area. They agreed that Japan's increasing

participation in the international discussion of the problem of Asia will be in the

interest of the free world.

PL57

3. The Prime Minister and the President agreed that the expansion of trade

among free nations, the economic progress and elevation of living standards in less developed countries are of paramount importance, and will contribute to stability

and progress so essential to the achievement of peace in the world.

The Prime Minister and the President exchanged views on the European Economic and Trade Communities and on the role that can be played by the

industrialized free world countries in the economic development of the less

developed areas. Both leaders called particular attention to the urgent desire of

peoples in the less developed areas of the world for the economic advancement without which they cannot preserve their freedom. They stressed the role which

increasingly must be played by the industrialized nations of the free world in

assisting the progress of the less developed areas. The President particularly

referred to the increasing role the Japanese people are playing in the economic

development of free Asia.

In considering economic relations between Japan and the United States the

Prime Minister and the President recognized that trade between their two nations is

of great benefit to both countries, noting that the United States is the largest

purchaser of Japanese exports, and Japan is the second largest buyer of American

goods. They expressed gratification at the growth of mutually profitable trade

between the two countries. They reaffirmed their conviction that the continued and

orderly expansion of world trade, through the avoidance of arbitrary and new

unnecessary trade restrictions, and through active measures to remove existing

obstacles, is essential to the well-being and progress of both countries.

The Prime Minister stressed the importance of Japan and the United States

consulting on a continuing basis with regard to economic matters of mutual interest.

The President expressed full agreement to this view.

4. The President expressed his particular gratification that the Prime Minister could come to Washington on this occasion so important in Japanese-American relations. The Prime Minister expressed his appreciation for the opportunity to meet again with the President.

The Prime Minister and the President agreed that their talks will contribute to

the continued strengthening of the Japanese-American partnership.

Nguồn: https://worldjpn.grips.ac.jp/documents/texts/JPUS/19600119.D1E.html

PL58

III. Phụ lục hình ảnh

Quang cảnh Hội nghị quốc tế San Francisco (9/1951)

[Nguồn: https://tuoitre.vn/bat-chap-cong-ly-va-du-luan-504790.htm]

PL59

Thủ tướng Nhật Bản Shigeru Yoshida ký Hiệp ước hòa bình San Francisco tại Nhà hát Opera Tưởng niệm Chiến tranh vào ngày 8/9/1951 tại San Francisco [Nguồn: https://aboutjapan.japansociety.org/signing_usjapan_securitytreaty]

PL60

Thủ tướng Nhật Bản Shigeru Yoshida bắt tay John Foster Dulles sau khi ký Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ ngày 8/9/1951 [Nguồn: https://www.presidio.gov/blog/the-signing-of-the-pacific-security-treaties- in-the-presidio]

PL61

Bản đồ các căn cứ quân sự của Mỹ ở Nhật Bản [Nguồn: https://apjjf.org/-Yokemoto-Masafumi/3185/article.html]

PL62

Thủ tướng Nhật Bản Nobusuke Kishi ký Hiệp ước hợp tác và an ninh tương hỗ dưới sự chứng kiến của Tổng thống Dwight Eisenhower (ngày 19/1/1960) [Nguồn: https://www.taiwannews.com.tw/en/news/3860685]

PL63

Nhân dân Nhật Bản biểu tình chống Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ năm 1960 [Nguồn: https://www.tofugu.com/japan/japan-militarization/]