VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN LÊ TRỌNG TÂM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THANH NIÊN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính Mã số: 9 38 01 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đinh Ngọc Vượng TS. Phan Thanh Hà HÀ NỘI, 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn trong luận án có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Các kết quả trình bày
trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu sinh nào khác.
Hà Nội, ngày 27 tháng 10 năm 2023
Tác giả luận án
Nguyễn Lê Trọng Tâm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1 ................................................................................................................... 9
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ......................................................... 9
1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................................ 9 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ................................................................... 9
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam ................................................................... 13
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án ................... 22 1.2.1. Những ưu điểm, những kết quả nghiên cứu mà Luận án sẽ tiếp tục kế thừa, phát triển ........................................................................................................................ 22
1.2.2. Về những vấn đề còn chưa được giải quyết thấu đáo hoặc cần phải tiếp tục nghiên cứu ..................................................................................................................... 24
1.3. Cơ sở lý luận và hướng tiếp cận nghiên cứu của đề tài ............................... 27 1.3.1. Cơ sở lý thuyết ................................................................................................... 27 1.3.2. Khung phân tích để làm rõ lý thuyết ................................................................ 27
Kết luận chương 1 ...................................................................................................... 30
CHƯƠNG 2 ................................................................................................................. 32
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ............................ 32
VỀ THANH NIÊN ..................................................................................................... 32
2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về thanh niên .......... 32 2.1.1. Khái niệm thanh niên, quản lý nhà nước về thanh niên ................................. 32
2.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về thanh niên ............................................... 42
2.1.3. Vai trò của quản lý nhà nước về thanh niên .................................................... 44
2.2. Nội dung, chủ thể quản lý nhà nước về thanh niên ..................................... 49 2.2.1. Nội dung quản lý nhà nước về thanh niên ....................................................... 49 2.2.2. Chủ thể quản lý nhà nước về thanh niên ......................................................... 59
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về thanh niên ...................... 66 2.3.1. Chính sách của Nhà nước về thanh niên ......................................................... 66
2.3.2. Yếu tố kinh tế ..................................................................................................... 66
2.3.3. Hội nhập quốc tế và khu vực ............................................................................ 67
Kết luận chương 2 ...................................................................................................... 69
CHƯƠNG 3 ................................................................................................................. 70
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THANH NIÊN ........................ 70 TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...................................................................... 70
3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh ....................................................................................................... 70 3.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh ................................... 70
3.1.2. Tình hình thanh niên tại thành phố Hồ Chí Minh .......................................... 72
3.1.3. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên tại thành phố Hồ Chí Minh ........................................................................................................................................ 74
3.2. Thực tiễn quản lý Nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh ........................................................................................................................................ 77 3.2.1. Xây dựng chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên ................................................................................................................. 77
3.2.2. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển thanh niên ...................................................................................................................... 90
3.2.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên ...................................................................................................................... 93
3.2.4. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về thanh niên ........ 95
3.2.5. Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên ........................................................... 97 3.2.6. Hợp tác quốc tế về thanh niên .......................................................................... 98
3.3. Đánh giá chung về thực tiễn quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh ....................................................................................................... 99 3.3.1. Những kết quả đạt được trong quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh ......................................................................................................... 99
3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh ......................................................................................101
Kết luận chương 3 ....................................................................................................106
CHƯƠNG 4 ...............................................................................................................108
DỰ BÁO TÌNH HÌNH THANH NIÊN, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THANH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ......................................................................108
4.1. Dự báo tình hình thanh niên Việt Nam và quan điểm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên ............................................................................108 4.1.1. Bối cảnh đất nước và tình hình thanh niên Việt Nam ..................................108
4.1.2. Quan điểm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên ..................111
4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên trong giai đoạn hiện nay ............................................................................................................116 4.2.1. Nhận thức đúng, đầy đủ hơn về vai trò của thanh niên và quản lý nhà nước về thanh niên ...............................................................................................................116
4.2.2. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý nhà nước về thanh niên ....................................................................................................................117
4.2.3. Hoàn thiện pháp luật về thanh niên, quản lý nhà nước về thanh niên ........118
4.2.5. Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về thanh niên ....................................................................................................................123
4.2.6. Tiếp tục kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên để đáp ứng với nhiệm vụ được giao ....................................................................................................125
4.2.7. Phát huy tốt cơ chế phối hợp liên ngành giữa các bộ, ngành trung ương và chính quyền địa phương, đảm bảo tính thống nhất, khoa học, hiệu quả trong quá trình xây dựng, thực thi chính sách, pháp luật về thanh niên .................................127 4.2.8. Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác quốc tế thanh niên ........................131 Kết luận chương 4 .................................................................................................... 132
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 138
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, thanh niên luôn là lực lượng
đóng vai trò vô cùng quan trọng. Do vậy, các quốc gia luôn dành sự quan tâm,
nguồn lực để phát triển, bảo vệ thanh niên thông qua những chính sách, pháp
luật dành cho thanh niên. Ở Việt Nam, ngay khi Cách mạng Tháng Tám năm
1945 thành công, trong “Thư gửi các bạn thanh niên” ngày 17 tháng 8 năm
1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh là
một phần do thanh niên, thanh niên là chủ tương lai của đất nước”. Kế thừa tư
tưởng của Người, trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn đặt niềm tin và tạo điều kiện để thanh niên có cơ hội phát triển,
xứng đáng với sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Báo cáo chính trị tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục đánh giá cao vị trí, vai trò của
thanh niên, đề ra những nhiệm vụ lãnh đạo công tác thanh niên: “Tăng cường
giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá, nâng cao
lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn
lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội; xây dựng môi
trường, điều kiện học tập, lao động, giải trí, rèn luyện để phát triển lành mạnh,
toàn diện, hài hoà cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ. Tạo động lực cho
thanh niên xung kích trong học tập, lao động sáng tạo, khởi nghiệp, lập nghiệp;
làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại, phát huy vai trò quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [22, tr.168].
Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành
nhiều chính sách, pháp luật để quản lý và phát triển thanh niên. Luật Thanh
niên cùng với các văn bản quy phạm pháp luật khác về thanh niên được ban
hành và đi vào thực tiễn đã giúp cho công tác quản lý nhà nước về thanh niên
1
có những chuyển biến tích cực, các quyền và nghĩa vụ của thanh niên được bảo
đảm; vai trò, trách nhiệm của thanh niên trong việc tham gia phát triển kinh tế
- xã hội ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội
nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển của thanh niên Việt Nam phải đối mặt với
không ít những khó khăn, thách thức. Thanh niên đang có những thay đổi về
cơ cấu xã hội, địa vị kinh tế, tư tưởng chính trị, tâm lý, lối sống… Mặt trái của
nền kinh tế thị trường cùng với sự chuyển dịch cơ cấu lao động gây khó khăn
cho công tác quản lý, tập hợp và đoàn kết thanh niên ở vùng nông thôn, vùng
sâu, vùng xa, nhất là những vùng đặc biệt khó khăn; tình trạng vi phạm pháp
luật và tệ nạn xã hội trong thanh niên đang có chiều hướng gia tăng, nhiều thế
lực xấu kích động, lôi kéo, chuyển hóa thanh niên. Vì vậy, Nhà nước cần có
những chính sách, giải pháp, đặc biệt là nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
thanh niên để phát huy, phát triển và tạo điều kiện cho thế thệ trẻ kế thừa và
phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì
Nhân dân.
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật
lớn nhất khu vực phía Nam, trong những năm qua, lực lượng lao động trong độ
tuổi thanh niên chiếm phần lớn trong cơ cấu ngành nghề của lực lượng lao động
xã hội, cơ cấu này hiện đã bắt đầu chuyển dịch tích cực theo hướng giảm dần
số lượng lao động trong khu vực nông nghiệp, tăng dần lao động trong khu vực
công nghiệp và dịch vụ, góp phần to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
của Thành phố. Nhận thức và hành động của thanh niên có sự chuyển biến tích
cực, ý thức công dân, lý tưởng cách mạng được nâng cao; phần lớn thanh niên
ngại khó khăn, gian khổ, xung kích, tình nguyện vì cộng đồng; có trách nhiệm
với gia đình và xã hội; trình độ học vấn, nghề nghiệp, hiểu biết pháp luật từng
bước được nâng cao. Tuy nhiên, trước những biến động của tình hình kinh tế,
2
văn hóa, xã hội, thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng bộc lộ những tồn
tại, hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển thanh niên trong giai đoạn
mới. Trong khi đó, quản lý nhà nước về thanh niên chưa thực sự phát huy hiệu
quả cụ thể như: các cấp chính quyền địa phương chưa nhận thức đầy đủ về vị
trí, vai trò của thanh niên cũng như chưa xác định rõ vị trí, chức năng, nhiệm
vụ của công tác quản lý nhà nước về thanh niên nên chưa thực sự quan tâm, chỉ
đạo quyết liệt và đồng bộ, có nơi, có lúc coi đó là nhiệm vụ của tổ chức Đoàn
thanh niên, Hội liên hiệp thanh niên các cấp; sự phối hợp liên ngành và lồng
ghép các chương trình, đề án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội còn thiếu sự
rõ ràng, chặt chẽ nên khi triển khai nhiệm vụ trên thực tế vẫn còn có sự chồng
chéo, trùng dẫm; chính sách, pháp luật về thanh niên, quản lý nhà nước về thanh
niên chưa đầy đủ, đồng bộ… Điều này đặt ra yêu cầu phải có nghiên cứu tổng
thể về quản lý nhà nước về thanh niên để có những phân tích, đánh giá làm cơ
sở cho sự hoàn thiện chính sách, pháp luật về thanh niên, tạo cơ sở pháp lý để
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên.
Từ những lí do trên, tôi chọn đề tài Quản lý nhà nước về thanh niên từ
thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh làm đề tài luận án tiến sĩ ngành Luật hiến
pháp và luật hành chính.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về thanh
niên cũng như thực tiễn quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí
Minh, luận án đề xuất các giải pháp nhằm phát huy kết quả và khắc phục hạn
chế trong quản lý nhà nước về thanh niên ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng
và cả nước nói chung.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
3
Để thực hiện mục đích trên, luận án giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tổng hợp, đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án,
trong đó, làm rõ những vấn đề đã được nghiên cứu và những khoảng trống cần
tiếp tục nghiên cứu.
- Luận giải những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về thanh niên như:
khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung của quản lý nhà nước về thanh niên;
những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về thanh niên.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành
phố Hồ Chí Minh, những kết quả đạt được cũng như chỉ ra những hạn chế và
nguyên nhân của hạn chế trong quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố
Hồ Chí Minh.
- Dự báo tình hình thanh niên trong thời gian tới; đưa ra quan điểm và đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên ở
Việt Nam trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu các chính sách, pháp luật về thanh niên, chủ
thể và đối tượng quản lý nhà nước về thanh niên; thực tiễn quản lý nhà nước về
thanh niên của các cơ quan nhà nước thông qua việc ban hành chính sách, pháp
luật, chương trình, chiến lược liên quan đến thanh niên và thực tiễn thực hiện.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Quản lý nhà nước về thanh niên có thể được
nghiên cứu từ nhiều góc độ với những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, trong
phạm vi một luận án, chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về quản lý
nhà nước về thanh niên; thực tiễn quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành
4
phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi về thời gian: Luận án chủ yếu tập trung nghiên cứu quản lý nhà
nước về thanh niên trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt kể từ khi Luật Thanh niên
năm 2005 được ban hành.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Đề tài luận án “Quản lý nhà nước về thanh niên từ thực tiễn Thành phố
Hồ Chí Minh” sử dụng phương pháp tiếp cận liên ngành với sự kết hợp của
nhiều ngành khoa học xã hội và tiếp cận lịch sử. Đề tài dựa trên cơ sở lý luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên, nhà nước và
pháp luật; các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về thanh niên.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng tổng thể các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp
phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương
pháp hệ thống, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích - dự báo.
Các phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu nội dung trong các chương,
mục của luận án như sau:
Chương 1: Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp
tổng hợp và phương pháp phân tích. Qua thống kê và tổng hợp các công trình
nghiên cứu khoa học trong nước và ngoài nước về những vấn đề có liên quan
đến nội dung luận án, phân tích những nội dung cơ bản trong các công trình
nghiên cứu đó và đưa ra đánh giá về tình hình nghiên cứu.
Chương 2: Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, phương pháp so sánh để đưa ra khái niệm về thanh niên, quản lý nhà nước
về thanh niên cũng như đặc điểm, vai trò, nội dung của quản lý nhà nước về
thanh niên. Đồng thời, phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước
5
về thanh niên.
Chương 3: Luận án sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp tổng
hợp, phương pháp phân tích, phương pháp hệ thống để đánh giá thực trạng pháp
luật và thực tiễn quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí, từ đó
chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập.
Chương 4: Luận án sử dụng phương pháp phân tích - dự báo, phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử
và phương pháp thống kê… nhằm dự báo xu hướng phát triển của xã hội nói
chung và thanh niên nói riêng; làm rõ các quan điểm, chủ trương của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước và những yêu cầu đặt ra, từ đó đưa ra các
giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Đây là một công trình chuyên khảo, nghiên cứu một cách khoa học, toàn
diện và có hệ thống về quản lý nhà nước về thanh niên. Luận án có những đóng
góp mới về mặt khoa học với những nội dung cụ thể như sau:
Thứ nhất, bổ sung, phát triển những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước
về thanh niên, cụ thể: làm rõ khái niệm, đặc điểm và nội dung của quản lý nhà
nước về thanh niên; phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về
thanh niên trong giai đoạn hiện nay, đó là những yếu tố về chính sách của nhà
nước, tình hình kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về thanh niên tại
Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó, làm sáng tỏ những thành tựu, hạn chế và
nguyên nhân của những hạn chế trong quản lý nhà nước về thanh niên, từ đó làm
cơ sở đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên.
Thứ ba, luận án đã đưa ra một hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước về thanh niên ở Việt Nam hiện nay trên cơ sở dự báo tình
hình thanh niên dưới tác động của xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và có
6
tính đến đặc trưng của thanh niên. Ngoài những giải pháp trước mắt, luận án
chú trọng đến những giải pháp ở tầm chiến lược, mang tính lâu dài đó là tiếp
tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về thanh niên.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa khoa học
Luận án đã nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
của quản lý nhà nước về thanh niên. Kết quả nghiên cứu của luận án đóng góp
vào việc làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về thanh niên. Luận
án cũng góp phần luận giải những yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về
thanh niên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thực tiễn quản lý nhà nước về thanh niên ở nước ta trong thời gian qua
cũng bộc lộ một số điểm hạn chế. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân,
trong đó, chính sách, pháp luật về thanh niên chưa thực sự đồng bộ, thống nhất,
các cơ quan quản lý nhà nước nhận thức chưa đầy đủ về vai trò, vị trí của thanh
niên trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy, những kết quả
nghiên cứu và đề xuất những giải pháp của luận án có ý nghĩa góp phần hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên ở Việt Nam hiện
nay. Luận án còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu, giảng dạy và cho các cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về thanh niên
Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ
7
Chí Minh
Chương 4: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
8
về thanh niên trong giai đoạn hiện nay
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Vấn đề về thanh niên, quyền của thanh niên, chính sách, pháp luật về thanh
niên đã được các nước trên thế giới quan tâm nhưng việc dịch thuật và phổ biến
các công trình viết về những nội dung này của các nước trên thế giới ở Việt
Nam còn hạn chế nên các tư liệu mà tác giả được tiếp cận chủ yếu thông qua
một số cuốn sách tiêu biểu, một số bài viết của các học giả và thông qua các
công ước nhân quyền chung thiết lập các quyền đặc biệt quan trọng đối với
thanh niên.
- Cuốn The International Law of Youthe Rights (Luật quốc tế về quyền
thanh niên) của Jorge Cardona, Giuseppe Porcaro, Jaakko Weuro, and Giorgio
Zecca (biên tập), phiên bản sửa đổi lần hai, Nhà xuất bản Brill [98]. Cuốn sách
giới thiệu nghiên cứu tiên phong, độc đáo của William Angel (1966) về nguồn
gốc, sự phát triển và các đặc điểm cơ bản của Luật quốc tế về quyền của thanh
niên. Bao gồm cả tài liệu nguồn và các bình luận về các xu hướng lịch sử để
xây dựng và hệ thống hóa các công cụ và tiêu chuẩn quốc tế trong lĩnh vực này
cũng như những hành động của các tổ chức chính phủ, liên chính phủ và phi
chính phủ để thúc đẩy và bảo vệ các quyền của thanh niên. Đồng thời, đưa ra
lời kêu gọi sử dụng công cụ quốc tế để giám sát, thúc đẩy và bảo vệ tốt hơn
quyền thanh niên trên toàn cầu. Phiên bản này sửa đổi, cập nhật và mở rộng với
mục đích duy trì và cập nhật nghiên cứu lịch sử mang tính bước ngoặt do
William Angel thực hiện và giới thiệu cho mọi người; giới thiệu thông tin cập
nhật, phân tích tình trạng của Luật quốc tế về quyền thanh niên và cung cấp
một bản tổng hợp các nguồn luật dễ sử dụng cho các nhà nghiên cứu và các nhà
9
thực tiễn hoạt động trong lĩnh vực này. Quan trọng là cuốn sách này cung cấp
một lộ trình cho người đọc để kết thúc các nguồn của Luật quốc tế về quyền
thanh niên và là tài liệu tham khảo để thấy được các văn bản pháp luật liên quan
có hiệu lực; thúc đẩy nghiên cứu pháp lý, chính trị và xã hội học sâu hơn trong
lĩnh vực học thuật, cũng như hỗ trợ các hành động vận động mạnh mẽ hơn để
nâng cao quyền của những người trẻ tuổi.
- Cuốn Những nguyên lý lêninnít về giáo dục thanh niên của X.M. Lê-pê-
kin (Phó tiến sĩ sử học M.Lê-pê-kin (1975), NXB Lêningrat [100]. Trên cơ sở
học thuyết Mác – Lênin về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc giáo dục
thanh niên, tác giả đã luận giải những nội dung của nguyên lý Lêninnít về giáo
dục thanh niên; phương pháp, hình thức và kinh nghiệm trong công tác giáo
dục đoàn viên, thanh niên của Đoàn Thanh niên Cộng sản Lênin Liên Xô. Trong
đó, tác giả cũng phân tích sâu sắc những nguyên tắc cơ bản về sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Liên Xô đối với Đoàn Thanh niên Cộng sản Liên Xô.
- Cuốn Bàn về thanh niên của M.I.Calinin (M.I.Calinin (1982), Bàn về
thanh niên, NXB Thanh niên, Hà Nội [44]. Với những kinh nghiệm trong công
tác thanh niên, tác giả đã đưa ra những kinh nghiệm quý báu trong công tác
giáo dục thanh niên, đồng thời, tác giả cũng đưa ra những yêu cầu cụ thể về
phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công tác của cán bộ làm công tác
thanh niên nói chung, cán bộ đoàn nói riêng. Theo tác giả: Trong công tác thanh
niên, không được sao chép một cách thiếu suy nghĩ những phương pháp của
“người lớn tuổi”, cũng không dùng mệnh lệnh hành chính mà chúng ta thường
gặp trong các tổ chức kinh tế… “Điều quan trọng ở đây là phải tính đến những
đặc điểm của lứa tuổi thanh niên, đến tính nhạy cảm đặc biệt của họ, đến lòng
khao khát của họ vươn tới những lý tưởng cao đẹp…”, “việc coi thường những
đặc điểm của lứa tuổi chỉ có thể làm cho công tác đoàn bị khô héo, cằn cỗi đi,
10
chỉ có thể làm cho thanh niên khiếp sợ và xa lánh Đoàn” [44, tr.13-14].
- Cuốn Youth Policy and Social Inclusion: Critical Debates with Young
People (Chính sách thanh niên và hòa nhập xã hội: cuộc tranh luận quan trọng
với thanh niên của Monica Barry) [99]. Với cách tiếp cận toàn diện và đa ngành,
tác giả đã xác định và phân tích các yếu tố thúc đẩy hoặc cản trở sự hòa nhập
xã hội của những người trẻ tuổi trong xã hội ngày nay. Tác giả đã tìm kiếm câu
hỏi về khả năng sẵn sàng để được tham gia vào các hoạt động xã hội của những
người trẻ tuổi trong các điều khoản của chính sách và thực tiễn; khám phá mức
độ mà những người trẻ tuổi có quyền truy cập vào địa vị, quyền và trách nhiệm
cũng như người trưởng thành thực sự.
- Bài viết Comparative Analysis of National Youth Policy in Different
Countrie (Phân tích, so sánh về Chính sách Quốc gia Thanh niên ở các nước
khác nhau trên thế giới) của Indira Rystina, Zhaniya Kussainova (2014) [97].
Từ thực trạng thanh niên các nước trên thế giới, nhất là các nước đang phát
triển, tác giả đã khuyến khích thanh niên thực hiện các quyền của mình trong
những điều kiện, hoàn cảnh phù hợp. Tác giả cũng đưa ra các tiêu chuẩn quốc
tế về Chính sách quốc gia về thanh niên; phân tích toàn cầu về hành động để
thúc đẩy chính sách quốc gia thanh niên; phân tích, so sánh các quốc gia đã
thực hiện Chính sách quốc gia thanh niên. Ngoài ra, tác giả đưa ra các tiêu
chuẩn, điều kiện và các bước cho việc thực hiện các chính sách về thanh niên.
Bên cạnh đó, luận án cũng tiếp cận các văn bản quan trọng của pháp luật
quốc tế và khu vực liên quan đến thanh niên, trong đó chủ yếu là các công ước
nhân quyền chung thiết lập các quyền đặc biệt đối với thanh niên, cụ thể như:
Công ước quốc tế về quyền trẻ em, bảo vệ trẻ em và thanh thiếu niên đến 18
tuổi, có tính đến các yếu tố dễ bị tổn thương ảnh hưởng đặc biệt đến tuổi tác
của họ; Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, trong đó có quyền về sức
khỏe và thông tin đã tạo cơ sở cho việc thúc đẩy sức khỏe sinh sản và tình dục
11
của thanh niên. Các tuyên bố chính trị quốc tế, các khuyến nghị, nghị quyết và
các tài liệu khác về các chủ để liên quan đến thanh niên, tuy không tạo thành
luật ràng buộc về mặt pháp lý mà chính phủ phải thông qua nhưng chúng vẫn
đóng một vai trò quan trọng trong việc thiết lập các tiêu chuẩn và thông lệ tốt
liên quan đến việc xây dựng và thực hiện chính sách thanh niên ở cấp quốc gia.
Một mặt, các tài liệu này cung cấp cho chính phủ các tiêu chuẩn để hợp pháp
hóa việc vận động của họ; mặt khác, các điều khoản của chúng có thể được
chuyển thành các mục tiêu chương trình và các biện pháp can thiệp cụ thể. Điển
hình như Chương trình Hành động Thế giới về Thanh niên, đó là một tập hợp
các mục tiêu hoặc nguyên tắc mà các chính phủ đã đồng ý thực hiện để hỗ trợ
thanh niên. Hay Hiến chương Thanh niên châu Phi và Hiến chương châu Âu về
sự tham gia của thanh niên vào đời sống địa phương và khu vực, Hiệp ước
Thanh niên châu Âu kể từ khi được tuyên bố đã thúc đẩy hành động của Liên
minh châu Âu trong lĩnh vực thanh niên…
Ở cấp độ toàn cầu, các vấn đề liên quan đến thanh niên được các quốc gia
đặc biệt quan tâm. Vị trí Người đại diện của Tổng thư ký Liên Hợp quốc về
thanh niên đã được thành lập vào năm 2013, 190 quốc gia có cơ quan trung
ương chịu trách nhiệm về thanh niên và các hội nghị thượng đỉnh của thanh
niên như: Diễn đàn Thanh niên của ECOSOC, UNESCO, Diễn đàn Thanh niên
khối thịnh vượng chung và Hội nghị Thanh niên thế giới… đã trở thành nền
tảng có ảnh hưởng trên thế giới. Những hoạt động này được dựa trên các khuôn
khổ chính sách thanh niên quốc tế lâu dài như Chương trình hành động Thế
giới của Liên Hợp quốc dành cho thanh niên WPAY và Kế hoạch Hành động
Khối thịnh vượng chung Trao quyền cho Thanh niên PAYE.
Các cơ quan chính của Liên Hợp quốc đã xây dựng các chiến lược định
hướng công việc của họ đối với thanh niên. Chiến lược Thanh niên của UNDP
và Chiến lược của UNFPA về thanh thiếu niên đặt ra các ưu tiên của họ trong
12
phát triển thanh niên, bao gồm tăng cường trao quyền kinh tế, cam kết và sự
tham gia cộng đồng, xây dựng khả năng phục hồi, sức khỏe tình dục và sinh
sản, chú trọng đến những thanh niên bị cách ly và thiệt thòi, đặc biệt là thanh
niên nữ.
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu ở ngoài nước cho thấy, những công
trình nghiên cứu trên mới chỉ tập trung nghiên cứu về công tác giáo dục thanh
niên, luật quốc tế về thanh niên, quyền của thanh niên, chính sách đối với thanh
niên, các hoạt động của các tổ chức chính phủ, liên chính phủ và phi chính phủ
trong việc sử dụng công cụ pháp lý để thúc đẩy và bảo vệ các quyền thanh
niên…, nghiên cứu thanh niên với tư cách là chủ thể của chính sách chứ chưa
có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu một các hệ thống và tổng thể về
quản lý nhà nước về thanh niên.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, thanh niên, chính sách, pháp luật về thanh niên, quản lý nhà
nước về công tác thanh niên, quản lý nhà nước về thanh niên là nội dung đã
được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu khoa học và tổng kết thực
tiễn. Những nội dung này được công bố trên các tạp chí khoa học, báo cáo khoa
học, đề tài nghiên cứu, luận văn, luận án, các cuốn sách được xuất bản hoặc
đăng tải trên các trang thông tin điện tử…
1.1.2.1. Đề tài khoa học
Đặng Văn Nhân, Viện Nghiên cứu Thanh niên (2013), Nghiên cứu các
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành Luật Thanh niên của Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh. Đề tài đã phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật
về thanh niên, từ đó đề xuất một số nhóm giải pháp về nâng cao nhận thức,
quan điểm chỉ đạo đối với công tác thi hành Luật Thanh niên và sửa đổi, bổ
sung một số quy định của Luật Thanh niên làm cơ sở pháp lý để thực hiện quản
13
lý nhà nước về thanh niên.
Nguyễn Long Hải (2015), Một số nội dung sửa đổi, bổ sung Luật thanh
niên năm 2005, Đề tài khoa học cấp Bộ, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Đề tài đề xuất phương án xây dựng Luật thanh niên (sửa đổi) trên tinh thần luật
về phát triển thanh niên. Những nội dung nghiên cứu của đề tài mới dừng lại ở
việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung một số nội dung chưa phù hợp của Luật thanh
niên năm 2005; tập trung vào chương quyền và nghĩa vụ của thanh niên mà
chưa có sự phân tích, đánh giá cụ thể về trách nhiệm của Nhà nước trong việc
xây dựng, thực hiện các chính sách để bảo đảm cho thanh niên thực hiện quyền
và nghĩa vụ.
Nguyễn Thị Quỳnh Hoa (2017), Tổng quan tình hình thanh niên giai đoạn
2012-2017 và dự báo tình hình thanh niên giai đoạn 2017-2022, Đề tài khoa
học cấp Bộ, Viện Nghiên cứu Thanh niên. Đề tài đã tổng quan tình hình thanh
niên giai đoạn 2012-2017 với những nét nổi bật và một số vấn đề cần quan tâm,
dự báo tình hình thanh niên giai đoạn 2017-2022, từ đó đề xuất một số khuyến
nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Đoàn và phong trào Thanh
thiếu nhi trong thời gian tới.
Nguyễn Long Hải (2017), Chính sách phát triển thanh niên – Thực trạng
và giải pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Đề tài làm rõ những vấn đề lý luận về chính sách phát triển thanh niên như khái
niệm, đặc điểm, nội dung chính sách phát triển thanh niên và chính sách phát
triển thanh niên ở một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam;
phân tích, đánh giá thực trạng chính sách phát triển thanh niên ở Việt Nam. Từ
đó, đề xuất giải pháp tiếp tục xây dựng hệ thống chính sách phát triển thanh
niên ở nước ta với nhóm giải pháp chung và các nhóm giải pháp cụ thể của
Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Ủy ban Quốc gia về thanh niên Việt
14
Nam, các cơ quan trong bộ máy Nhà nước.
Đỗ Thị Thu Hằng (2019), Giải pháp của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thanh niên, Đề tài khoa học cấp Bộ,
Viện Nghiên cứu Thanh niên. Đề tài đã phân tích, tổng quan cơ sở lý luận và
hoạt động của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh về bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của thanh niên; phân tích, đánh giá những hạn chế, nguyên nhân
của hạn chế và bài học kinh nghiệm. Đặc biệt, đề tài đã đưa ý kiến thanh niên
về các điều kiện để Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thực hiện tốt công tác bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho thanh niên; nhu cầu, mong đợi của thanh niên
đối với việc Đoàn TNCS Hồ Chí Minh hỗ trợ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của thanh niên.
Ngoài ra còn có các đề tài của các tác giả như: Nguyễn Đắc Vinh (2014),
Những vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới công tác thanh vận trong tình hình
mới, Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số: CT.KXĐTN 14 – 01, Viện Nghiên cứu
Thanh niên, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; Đỗ Thị Thu Hằng (2014),
Cơ sở lý luận và thực tiễn việc sửa đổi, bổ sung Luật thanh niên năm 2005, Đề
tài khoa học cấp Bộ, Viện Nghiên cứu Thanh niên; Đỗ Thị Thu Hằng (2019),
Giải pháp của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của thanh niên, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Nghiên cứu Thanh niên.
1.1.2.2. Các sách chuyên khảo và tham khảo
Tác giả Nguyễn Hồng Tung, Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt
Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, năm 2011. Dựa trên nhiều nguồn tư liệu ở trong và ngoài nước,
bằng cách tiếp cận đa ngành, tác giả đã phân tích, làm sáng tỏ những nội dung
cơ bản, những ưu điểm và hạn chế trong chính sách và pháp luật đối với thanh
niên. Ngoài ra, tác giả còn chỉ ra diện mạo và đặc điểm của thế hệ thanh niên
Việt Nam hiện nay. Phân tích, làm rõ thực trạng và xu hướng biến đổi lối sống
15
của thế hệ trẻ Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế;
những yếu tố tác động, có tính chất định hướng đối với việc hình thành và quá
trình biến đổi lối sống của thanh niên. Từ đó, đề xuất sáu nhóm giải pháp nhằm
xây dựng lối sống của thanh niên Việt Nam phù hợp với tiến trình đổi mới đất
nước hiện nay như: nhóm giải pháp liên quan đến đường lối, chính sách thanh
niên của Đảng và Nhà nước; các tổ chức, đoàn thể của thanh niên; gia đình và
giáo dục gia đình đối với thanh niên; giáo dục học đường đối với thanh niên;
truyền thông đại chúng và từ chính bản thân thanh niên.
Bộ Nội vụ, Quỹ Dân số Liên Hợp quốc tại Việt Nam (UNFPA), Báo cáo
quốc gia về thanh niên, Hà Nội, 2015. Báo cáo sử dụng các số liệu thứ cấp từ
các cuộc điều tra quốc gia trong những năm gần đây để đưa ra các chỉ số định
lượng và phân tích định tính về thực trạng giáo dục, việc làm và chăm sóc sức
khỏe cho thanh niên và sự tham gia của thanh niên trong việc xây dựng và thực
thi chính sách trong các lĩnh vực này. Báo cáo cũng đề cập đến tổ chức bộ máy
quản lý thanh niên cũng như nội dung quản lý nhà nước về thanh niên, chính
sách phát triển thanh niên Việt Nam… Đồng thời, báo cáo đưa ra các khuyến
nghị nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật để phát triển toàn diện
thanh niên trong thời gian tới.
Cuốn sách Quản lý nhà nước về thanh niên thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016 do TS. Vũ Đăng Minh
(chủ biên). Tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hiệu quả
quản lý nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên; phân tích, đánh giá thực
trạng hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên từ năm
1945 đến nay và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về thanh niên giai đoạn hiện nay. Trong đó, cuốn sách cũng đưa ra một
số kiến nghị đối với cấp ủy, chính quyền các cấp
Nghiên cứu của nước ngoài về thanh niên Việt Nam phải kể đến Báo cáo
16
nghiên cứu thế hệ trẻ Việt Nam của tổ chức British Council, 8/2020. Báo cáo
tập trung nghiên cứu Thế hệ trẻ Việt Nam, đưa ra tuyên bố rõ ràng từ những
người Việt trẻ (từ 16 đến 30 tuổi) về những trăn trở và khát vọng của họ về
tương lai Việt Nam. Báo cáo chỉ ra rằng, thế hệ trẻ Việt Nam nhận thức rõ và
trân trọng những cải thiện trong giáo dục, cơ hội việc làm, sự mở cửa và hiện
đại hóa xã hội. Tuy nhiên, cũng giống như những người đồng trang lứa ở các
quốc gia khác trong chuỗi nghiên cứu, để cảm thấy tự tin và an toàn về tương
lai của bản thân, người Việt trẻ muốn và cần nhiều hơn thế, trong đó có sự tập
trung nhiều hơn và kĩ năng sống, các kết nối giữa giáo dục và việc làm. Người
trẻ ở nông thôn và người trẻ ở thành thị có những quan điểm và kì vọng khác
nhau về vai trò và giá trị của cộng đồng và quốc gia. Báo cáo cũng chỉ ra một
vài quan ngại của giới trẻ về việc họ cảm thấy ít có tiếng nói trong xã hội và
quá trình hoạch định chính sách, cũng như bày tỏ mong muốn nâng cao việc
thực thi các luật phòng, chống tham nhũng.
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh,
10/2022, Các báo cáo chuyên đề, đề án, chương trình, kế hoạch, công trình
thanh niên, tham luận. Để nhìn nhận, đánh giá một cách toàn diện về kết quả
đạt được trong từng mặt công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi thành phố
trong nhiệm kỳ 2017-2022, cuốn sách đã tổng hợp các báo cáo chuyên đề, tham
luận; dự thảo các đề án, chương trình, kế hoạch, công trình thanh niên của
nhiệm kỳ XI (2022-2027).
1.1.2.3. Tạp chí, bài báo khoa học
Công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng của Nguyễn Phú Trọng (2013),
Tạp chí Cộng sản, (1), tr6-11. Bài viết đã khẳng định và làm rõ vai trò, vị trí
của công tác thanh niên trong giai đoạn mới hiện nay. Đồng thời, tác giả đưa ra
một số giải pháp để phát triển hơn nữa công tác này như: Cần coi trọng và làm
17
tốt hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho thanh, thiếu niên; đẩy
mạnh các phong trào hành động cách mạng, phát huy vai trò xung kích, sáng
tạo của tuổi trẻ; chăm lo, củng cố xây dựng cho tổ chức Đoàn vững mạnh, tích
cực tham gia xây dựng Đảng.
Đỗ Thị Thu Hằng, Nguyễn Tuấn Dũng (2019), Nghiên cứu xây dựng
khung chi tiết của Luật Thanh niên theo hướng tiếp cận phát triển đăng trên
mục nghiên cứu của Trang thông tin điện tử của Viện Nghiên cứu Thanh niên.
Bài viết đã luận giải cơ sở lý luận của việc sửa đổi Luật Thanh niên theo hướng
tiếp cận phát triển thanh niên. Theo đó, quan điểm của các nước trong khối
Thịnh vượng chung, phát triển thanh niên là “nâng cao vị trí của thanh niên,
trao cho họ khả năng dựa vào năng lực của chính mình trong cuộc sống. Điều
đó sẽ làm cho họ có thể đóng góp và được hưởng lợi từ sự ổn định chính trị, sự
phát triển kinh tế và môi trường pháp lý thuận lợi, đảm bảo sự tham gia đầy đủ
của họ với tư cách là một thành viên tích cực trong xã hội”. Đồng thời, bài viết
cũng phân tích, luận giải cơ sở thực tiễn của việc xây dựng Luật Thanh niên
sửa đổi theo hướng tiếp cận phát triển với các vấn đề cụ thể như: giáo dục, đào
tạo cho thanh niên; lao động, việc làm cho thanh niên; sức khỏe của thanh niên;
sự tham gia của thanh niên; quyền và nghĩa vụ của thanh niên; hệ thống chính
sách, pháp luật về thanh niên; hệ thống quản lý nhà nước về thanh niên; các
chủ thể tham gia công tác phát triển thanh niên…
Bài viết Kinh nghiệm của pháp luật Hàn Quốc quy định về thanh thiếu
niên (Phần 1, 2, 3) đăng trên mục Kinh nghiệm quốc tế của Trang thông tin
điện tử của Ủy ban Thường vụ Quốc hội – Ban công tác đại biểu, năm 2020.
Bài viết giới thiệu khái quát hệ thống pháp luật về thanh thiếu niên ở Hàn Quốc;
nội dung các luật về thanh thiếu niên ở Hàn Quốc như: Luật khuyến khích sự
tham gia của thanh thiếu niên, Luật khung về thanh thiếu niên, Luật hỗ trợ phúc
lợi xã hội cho thanh thiếu niên, Luật khuyến khích tuyển dụng thanh niên…
18
Đây được xem là nguồn tham thảo đặc biệt hữu ích cho Việt Nam trong việc
xây dựng chính sách phát triển thanh thiếu niên, đặc biệt là trong các vấn đề
như: mục đích, nguyên tắc phát triển thanh thiếu niên, bảo vệ thanh thiếu niên;
cơ cấu tổ chức, hệ thống hoạt động của cơ quan làm công tác thanh niên; khuyến
khích thanh thiếu niên vào các hoạt động xây dựng chính sách…
Bài viết Bàn về tư tưởng, quan điểm và các nội dung liên quan đến việc
sửa đổi Luật Thanh niên năm 2005 của Trần Anh Tuấn, đăng trên tạp chí điện
tử Nghiên cứu Lập pháp. Tác giả khẳng định Luật Thanh niên năm 2005 là cơ
sở pháp lý quan trọng để ban hành và thực hiện các chính sách, pháp luật đối
với thanh niên, tạo tiền đề cho sự phát triển của thanh niên. Qua gần 15 năm
thực hiện, bên cạnh các kết quả đã đạt được, Luật Thanh niên đã bộc lộ nhiều
hạn chế, còn nhiều quy định chung chung, chưa có các chế tài để bảo đảm thực
hiện Luật, quyền và nghĩa vụ của thanh niên chưa được quy định cụ thể, rõ
ràng. Từ đó, tác giả đưa ra tư tưởng, quan điểm và các nội dung liên quan đến
việc sửa đổi Luật Thanh niên năm 2005.
Bài viết Tìm hiểu về công tác thanh niên và quản lý nhà nước về công tác
thanh niên của Phòng Công tác Thanh niên – Sở Nội vụ tỉnh Vĩnh Phúc đăng
trên cổng Thông tin điện tử của Sở Nội vụ tỉnh Vĩnh Phúc. Bài viết đã khẳng
định quản lý nhà nước đối với công tác thanh niên có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, không chỉ xuất phát từ đòi hỏi phát triển của thanh niên, mà còn là yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo con đường xã hội chủ
nghĩa. Bài viết cũng đưa ra khái niệm về công tác thanh niên, khái niệm quản
lý nhà nước đối với công tác thanh niên, quản lý nhà nước đối với thanh niên.
Một số bài viết của các tác giả khác như: Trần Anh Tuấn, Một cách tiếp
cận đối với tư tưởng, quan điểm và các nội dung sửa đổi Luật Thanh niên năm
2005, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 5/2020; LP, Chín nhiệm vụ trọng tâm trong
quản lý nhà nước về thanh niên năm 2022, Báo Điện tử Chính phủ ngày
19
14/2/2022; Vụ Phổ biến giáo dục, pháp luật, Bộ Tư pháp, Một số điểm mới của
Luật Thanh niên năm 2020 so với Luật Thanh niên năm 2005 đăng trên Trang
Thông tin về phổ biến giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp ngày 16/6/2021; Nguyễn
Văn Hùng, Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong
thời kỳ mới đăng trên Trang Thông tin điện tử của Hội đồng Lý luận Trung
ương ngày 18/3/2021; Nguyễn Hồng Kiên, Quản lý nhà nước về công tác thanh
niên hiện nay đăng trên Tạp chí Điện tử Tổ chức Nhà nước ngày 25/8/2014;
Nguyễn Đắc Vinh (2015), Phát huy vai trò xung kích, tinh thần tình nguyện
của thanh niên trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế, Tạp chí Cộng sản, (869), tr.22-26.
1.1.2.4. Luận văn, luận án
Luận án tiến sĩ khoa học chính trị của Lê Thị Hà (2017), Đổi mới phương
thức lãnh đạo của các Tỉnh ủy vùng Bắc Trung Bộ đối với công tác thanh niên
hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã làm rõ những
vấn đề lý luận và thực tiễn về đổi mới phương thức lãnh đạo của các tỉnh ủy
vùng Bắc Trung Bộ đối với công tác thanh niên trong giai đoạn hiện nay. Phân
tích, đánh giá thực trạng đổi mới phương thức lãnh đạo của các tỉnh ủy vùng
Bắc Trung Bộ đối với công tác thanh niên từ năm 2008 (từ khi có Nghị quyết
số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa) đến năm
2015. Từ đó, đề xuất phương hướng và những giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của các tỉnh ủy vùng Bắc Trung Bộ đối với công tác
thanh niên đến năm 2025.
Lê Văn Ri (2017) Đổi mới tổ chức và hoạt động của Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh trong đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Luận án tiến sĩ ngành Chính trị học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh. Tác giả đã làm rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và yêu cầu về tổ
20
chức và hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, đồng thời,
phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, làm rõ những nhân tố ảnh hưởng và những vấn đề đặt ra đối
với tổ chức và hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hoàng Minh Tuấn (2017), Quản lý nhà nước về viên chức từ thực tiễn các
đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, Luận án tiến sĩ Luật hiến pháp và luật hành chính, Học viện Khoa
học xã hội, Hà Nội. Luận án đã phân tích, luận giải những vấn đề lý luận và
thực tiễn của quản lý nhà nước đối với viên chức trong các đơn vị sự nghiệp
công lập thuộc Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Từ đó, đưa ra các giải
pháp hoàn thiện quản lý về viên chức nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ viên
chức, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, góp phần nâng
cao chất lượng phục vụ các dịch vụ cơ bản, thiết yếu của người dân và cộng
đồng, đáp ứng yêu cầu phát triển chung của đất nước và hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó phải kể đến các luận văn, luận án như: Nguyễn Minh Trí
(2011), Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác thanh niên trong
giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị -
Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Đàm Thị Thư (2014), Chính sách phát triển thanh niên từ thực tiễn Viện
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Luận văn thạc sĩ ngành Chính sách công,
Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
Trần Ngọc Hương (2015), Quản lý nhà nước về công tác thanh niên từ
thực tiễn Thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ ngành Luật Hiến pháp và luật
hành chính, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Quốc Huy (2016), Quản lý nhà nước về công tác thanh niên từ
thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn thạc sĩ ngành Luật Hiến pháp và luật hành
21
chính, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước cho thấy, các công trình
nghiên cứu tập trung vào việc nghiên cứu, tổng hợp, tham khảo hệ thống chính
sách, pháp luật về thanh niên của các nước trên thế giới và chính sách về thanh
niên ở Việt Nam; nghiên cứu, tổng kết, đánh giá về Luật Thanh niên năm 2005;
quản lý nhà nước về công tác thanh niên; hệ thống hóa các văn bản quy phạm
pháp luật về quản lý nhà nước về thanh niên… Đến nay, mới chỉ có công trình
nghiên cứu của tác giả Vũ Đăng Minh, đây là công trình nghiên cứu tổng thể
về những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước về thanh niên. Tuy
nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về lý luận và tổng kết
thực tiễn về quản lý nhà nước về thanh niên ở Thành phố Hồ Chí Minh.
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án
1.2.1. Những ưu điểm, những kết quả nghiên cứu mà Luận án sẽ tiếp
tục kế thừa, phát triển
Từ những công trình có liên quan đến thanh niên, chính sách, pháp luật và
quản lý nhà nước về thanh niên; nhận định khái quát về nội dung của các công
trình nghiên cứu này, có thể thấy một số kết quả nghiên cứu nổi bật như:
Thứ nhất, các công trình đã nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan đến thanh niên, nhất là nhấn mạnh vai trò quan trọng của thanh niên
đối với bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Nhiều công trình khẳng định, thanh
niên Việt Nam là lực lượng xã hội có tiềm năng to lớn, đã và đang giữ vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển đất nước. Thanh niên luôn được Đảng và
Nhà nước đặt ở vị trí trọng tâm trong chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, phát huy
nhân tố và nguồn lực con người. Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển mới của
đất nước, một bộ phận thanh niên Việt Nam cũng bộc lộ những hạn chế, yếu
kém như thiếu kiến thức, kỹ năng cần thiết cho yêu cầu phát triển, hội nhập;
22
thiếu lý tưởng, dễ bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật…
Thứ hai, các công trình nghiên cứu đã khái quát những vấn đề lý luận và
thực tiễn liên quan đến chính sách, pháp luật về thanh niên. Các chính sách về
thanh niên phần lớn đều sử dụng cách tiếp cận dựa trên quyền, theo đó thanh
niên được xác định là người có quyền và nhà nước được xác định là bên có
nghĩa vụ. Ở đây, phát triển thanh niên được xác định là một nghĩa vụ mà nhà
nước phải thực hiện với công dân của mình, cung cấp một cơ sở vững chắc hơn
để công dân yêu cầu chính phủ phải thực hiện các nghĩa vụ này một cách thỏa
đáng. Để phát triển, bảo vệ thanh niên, phần lớn các quốc gia trên thế giới đều
có chính sách, pháp luật dành cho thanh niên. Điển hình như Hàn Quốc, một
quốc gia là minh chứng tiêu biểu cho việc xây dựng chính sách thanh thiếu
niên, lấy phát triển thanh thiếu niên như là động lực để phát triển kinh tế, xã
hội. Với mục tiêu và nguyên tắc bảo vệ, phát triển thanh thiếu niên cụ thể và rõ
ràng, pháp luật Hàn Quốc quy định một bộ luật khung về thanh thiếu niên, trong
đó nhấn mạnh nhiệm vụ cơ bản là: đảm bảo phúc lợi xã hội cho thanh thiếu
niên, bảo vệ thanh thiếu niên, đảm bảo sự tham gia cho thanh thiếu niên, bảo
vệ thanh thiếu niên trong quan hệ lao động. Ở Việt Nam, các tác giả đã khẳng
định sự ra đời của Luật Thanh niên là cơ sở pháp lý quan trọng để ban hành và
thực hiện các chính sách, pháp luật đối với thanh niên, tạo tiền đề cho sự phát
triển của thanh niên.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu đã nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn liên quan đến vai trò của công tác thanh niên và quản lý nhà nước về
công tác thanh niên. Trong đó khẳng định, quản lý nhà nước đối với công tác
thanh niên có vai trò đặc biệt quan trọng, điều này không chỉ xuất phát từ đòi
hỏi phát triển của thanh niên mà còn là yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; khẳng định vấn
đề quản lý nhà nước về công tác thanh niên luôn được Đảng và Nhà nước quan
23
tâm. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự phối hợp
của các ngành, đoàn thể và toàn xã hội, quản lý nhà nước về công tác thanh
niên đã đạt được nhiều thành tựu, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc ban
hành các cơ chế, chính sách bảo đảm việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
thanh niên, phát huy vai trò xung kích, sáng tạo, tiềm năng to lớn của thanh
niên trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; mở rộng quan hệ hợp
tác quốc tế về thanh niên với các nước, các tổ chức trên thế giới; góp phần tăng
cường giáo dục, bồi dưỡng thanh niên, bảo vệ thanh niên trước những tác động
tiêu cực và tệ nạn xã hội; đề cao trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội
đối với thanh niên và công tác thanh niên. Đồng thời, các tác giả phân tích
những ưu điểm và hạn chế trong quản lý nhà nước về công tác thanh niên.
Thứ tư, quản lý nhà nước về thanh niên đã được đề cập đến trong một số
nghiên cứu. Các nghiên cứu tập trung chủ yếu vào việc hệ thống hóa các văn
bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước, đánh giá hoạt động quản lý nhà
nước về thanh niên ở từng địa phương. Một nghiên cứu tổng thể về quản lý nhà
nước về thanh niên thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã luận giải những
vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về thanh niên như: đưa ra khái niệm thanh
niên, quản lý nhà nước về thanh niên, nội dung và hiệu quả quản lý nhà nước
về thanh niên, kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong công tác quản
lý nhà nước về thanh niên; phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả quản lý nhà
nước về thanh niên ở nước ta hiện nay. Đồng thời, đưa ra phương hướng và đề
xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên.
1.2.2. Về những vấn đề còn chưa được giải quyết thấu đáo hoặc cần
phải tiếp tục nghiên cứu
Việc nghiên cứu về thanh niên, chính sách, pháp luật về thanh niên và
quản lý nhà nước về thanh niên đã được các nhà nghiên cứu, các cơ quan nghiên
cứu khoa học và các cơ quan quản lý quan tâm và bước đầu đã có những nhìn
24
nhận khái quát về vấn đề này. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu được công
bố mới chỉ dừng lại ở việc phân tích vai trò của thanh niên, quản lý nhà nước
về công tác thanh niên, còn việc nghiên cứu trên phương diện lý luận, đánh giá
thực trạng quản lý nhà nước về thanh niên chưa được chú trọng đúng mức. Đã
có một vài công trình là sách tham khảo, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên
cứu về quản lý nhà nước về công tác thanh niên nhưng cho đến nay, trước sự
biến động của đời sống kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, cần có một công trình
nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện vấn đề quản lý nhà nước về thanh
niên trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của
quản lý nhà nước về thanh niên ở Việt Nam trong giai đoạn hiện này là thực sự
cần thiết. Luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu tập trung vào khoảng nghiên cứu còn
trống sau đây:
Về lý luận
- Khái niệm về thanh niên, quản lý nhà nước về thanh niên. Trên cơ sở
phân tích một cách khoa học các quan điểm trước đây về thanh niên, quản lý
nhà nước về thanh niên để đưa ra khái niệm khái quát về thanh niên, quản lý
nhà nước về thanh niên và đặc biệt nhìn nhận vai trò của quản lý nhà nước về
thanh niên trong quản lý nhà nước.
- Về đặc điểm, nội dung của quản lý nhà nước về thanh niên: với việc kế
thừa các kết quả nghiên cứu đã được thực hiện, luận án tập trung phân tích,
luận giải để làm rõ những đặc điểm, nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về
thanh niên.
- Mặc dù đã có những công trình nghiên cứu về những yếu tố tác động đến
quản lý nhà nước trong các lĩnh vực cụ thể cũng như trong quản lý nhà nước
về công tác thanh niên, nhưng phân tích và làm rõ các yếu tố tác động đến quản
lý nhà nước về thanh niên thì còn ít được đề cập. Vì vậy, luận án đặt ra nhiệm
25
vụ cần phải nghiên cứu các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về thanh niên.
Trên cơ sở xác định các yếu tố ảnh hưởng, luận án có căn cứ để đưa ra những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên.
Về thực trạng quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh
- Pháp luật về thanh niên cũng sẽ được luận án xem xét ở mức độ cần thiết
giúp cho việc phân tích, đánh giá thực trạng quản lý về thanh niên tại Thành
phố Hồ Chí Minh. Các nghiên cứu được thực hiện đã đề cập một cách khái quát
các quy định của pháp luật hiện hành về thanh niên cũng như thực tiễn thực
hiện pháp luật. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, phân tích này chưa được thực hiện
một cách có hệ thống. Luận án sẽ tiếp tục phân tích, đánh giá thực trạng pháp
luật về thanh niên cũng như thực tiễn thực hiện; đồng thời, phân tích làm rõ
những thành tựu và hạn chế để làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện
pháp luật về thanh niên.
- Chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp về thực trạng quản lý nhà
nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở các báo cáo, chiến
lược phát triển thanh niên của Thành phố Hồ Chí Minh, luận án tập trung phân
tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí
Minh; phân tích, đánh giá những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những
thành tựu và hạn chế trong quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ
Chí Minh để làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản
lý nhà nước về thanh niên.
Về giải pháp
Trên cơ sở nhận thức lý luận cũng như đánh giá thực trạng quản lý nhà
nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh, luận án có nhiệm vụ đưa ra
quan điểm và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về thanh niên ở Việt Nam
hiện nay.
Tóm lại, qua sự khái quát các công trình nghiên cứu nêu trên, xuất phát từ
26
thực tiễn quản lý nhà nước về thanh niên và đặc biệt trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu
quản lý nhà nước về thanh niên càng trở nên cần thiết, đặc biệt là khi Luật
Thanh niên năm 2005 được ban hành và đi vào thực tiễn.
1.3. Cơ sở lý luận và hướng tiếp cận nghiên cứu của đề tài
1.3.1. Cơ sở lý thuyết
1.3.1.1. Một số lý thuyết dự kiến sử dụng
Quản lý nhà nước về thanh niên là một vấn đề mới, chưa có sự nghiên cứu
thỏa đáng về vấn đề này. Vì vậy, để có nhận thức đúng về vấn đề này, luận án
sử dụng một số cơ sở lý thuyết để nghiên cứu như sau:
- Lý thuyết về quản lý nhà nước.
- Lý thuyết về tiếp cận dựa trên quyền con người.
Ngoài ra, luận án còn được thực hiện trên phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất, vai trò của thanh niên; thái độ của
các đảng mácxít với thanh niên và quan điểm về nhà nước và pháp luật. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên, đặc biệt là những dấu
ấn của Người trong việc phát huy vai trò của thanh niên; các quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thanh niên, quản lý nhà nước về
thanh niên.
1.3.2. Khung phân tích để làm rõ lý thuyết * Các câu hỏi nghiên cứu đặt ra
1. Những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về thanh niên là gì? Nội dung
của quản lý nhà nước về thanh niên?
Giả thuyết nghiên cứu:
- Những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về thanh niên đã được nghiên
cứu bước đầu nhưng chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện;
chưa có đánh giá, tổng kết thực tiễn. Đề tài làm sáng tỏ và sâu sắc hơn khái
27
niệm quản lý nhà nước về thanh niên, vai trò, đặc điểm của quản lý nhà nước
về thanh niên. Có rất nhiều các quan niệm khác nhau về quản lý nhà nước về
thanh niên, nhưng có thể hiểu: “Quản lý nhà nước về thanh niên là quá trình
tác động có mục đích của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bằng chính sách,
pháp luật và tổ chức thực hiện có hiệu quả, hiệu lực chính sách, pháp luật trên
thực tế tác động trực tiếp đến thanh niên theo những nguyên tắc và phương
pháp quản lý nhằm bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của
thanh niên theo quy định của Hiến pháp, pháp luật”.
- Quản lý nhà nước về thanh niên có vai trò rất quan trọng trong quản lý
nhà nước, bao gồm các nội dung cơ bản như: xây dựng chính sách, pháp luật
và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên; xây dựng và tổ chức
thực hiện chiến lược, sách lược, chương trình, kế hoạch phát triển thanh niên;
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về thanh
niên; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về thanh niên; kiểm
tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong việc thực hiện
chính sách, pháp luật về thanh niên; hợp tác quốc tế về thanh niên; ban hành
chính sách hỗ trợ, khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện chính sách
đối với thanh niên.
2. Quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
đã đạt được những kết quả và có những hạn chế như thế nào?
Giả thuyết nghiên cứu: Quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ
Chí Minh đã đạt được những thành tựu nhất định, góp phần bảo vệ, tạo điều
kiện cho thuận lợi cho thanh niên phát triển và trưởng thành; phát huy vai trò
xung kích, sáng tạo và tiềm năng to lớn của thanh niên trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trước sự biến đổi của đời sống xã hội, quản
lý nhà nước về thanh niên vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng
28
được yêu cầu phát triển thanh niên trong điều kiện mới của đất nước.
Kết quả nghiên cứu (dự kiến): Đánh giá đúng thực trạng quản lý nhà nước
về thanh niên hiện nay tại Thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở pháp luật về
thanh niên, các nội dung quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí
Minh; phân tích, đánh giá những ưu điểm và hạn chế, bất cập của quản lý nhà
nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh, làm rõ nguyên nhân của những
hạn chế, bất cập đó.
3. Cần làm gì để nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước về thanh niên, phát
huy tốt nhất vai trò của thanh niên trong điều kiện mới?
Giả thuyết nghiên cứu: Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh
niên, phát huy tốt nhất vai trò của thanh niên trong điều kiện mới cần có những
giải pháp tổng thể và giải pháp cụ thể như: nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với công tác quản lý nhà nước về thanh niên; hoàn thiện chính sách, pháp
luật về thanh niên; tiếp tục kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên;
phát huy tốt cơ chế phối hợp liên ngành giữa các bộ, ngành trung ương và chính
29
quyền địa phương…
Kết luận chương 1
Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, việc nghiên cứu về thanh niên
nói chung, chính sách, pháp luật, quản lý nhà nước về thanh niên nói riêng đã
được sự quan tâm của các nhà quản lý, cơ quan quản lý, các nhà nghiên cứu và
các cơ quan nghiên cứu khoa học. Các nghiên cứu ở nước ngoài chủ yếu về
công tác giáo dục thanh niên, quyền thanh niên, luật quốc tế về thanh niên,
chính sách đối với thanh niên, các hoạt động của các tổ chức chính phủ, liên
chính phủ và phi chính phủ trong việc sử dụng công cụ pháp lý để thúc đẩy và
bảo vệ quyền thanh niên…
Ở Việt Nam, quản lý nhà nước về thanh niên trong những năm gần đây đã
được các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học và các cơ quan quản lý quan tâm
và bước đầu đã có những nhìn nhận khái quát về vấn đề này. Tuy nhiên, các
công trình nghiên cứu tập trung vào việc nghiên cứu tổng hợp, tham khảo hệ
thống chính sách, pháp luật về thanh niên của các nước trên thế giới và chính
sách, pháp luật về thanh niên ở Việt Nam; nghiên cứu thanh niên với tư cách là
chủ thể chính sách. Cho đến nay, mới chỉ có công trình nghiên cứu của tác giả
Vũ Đăng Minh “Quản lý nhà nước về thanh niên thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa” năm 2016 nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện về quản lý nhà
nước về thanh niên. Đây là nguồn tư liệu tham khảo quan trọng của tác giả
trong quá trình thực hiện luận án, song cho đến nay, sau một thời gian khá dài,
chính sách, pháp luật về thanh niên có nhiều thay đổi dẫn đến quản lý nhà nước
về thanh niên cũng phải có những thích ứng phù hợp. Việc đánh giá thực trạng
cũng như thực tiễn quản lý nhà nước về thanh niên có nhiều điểm không còn
cập nhật với tình hình thực tế. Nghiên cứu pháp luật về thanh niên như một
30
hành lang pháp lý để thực hiện quản lý nhà nước về thanh niên còn ít được đề cập.
Từ những nội dung đã được đề cập hay còn “bỏ trống” kể trên, luận án sẽ
tập trung xem xét, luận giải và làm sáng tỏ cả về lý luận và thực tiễn trong
những chương tiếp theo. Để giải quyết những vấn đề đó, ngoài các phương
pháp nghiên cứu và tiếp cận truyền thống, luận án còn sử dụng cách tiếp cận
31
nghiên cứu liên ngành.
CHƯƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ THANH NIÊN
2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về thanh niên
2.1.1. Khái niệm thanh niên, quản lý nhà nước về thanh niên
* Khái niệm thanh niên
Với mỗi một quốc gia, thanh niên là nguồn lực quan trọng, là tương lai
của cộng đồng, dân tộc. Cuối thế kỷ XIX, trong bối cảnh xã hội tư bản với
những mâu thuẫn ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản
lên cao, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, trong đó có lực lượng thanh niên. C. Mác đã gọi thanh niên là cội nguồn
sự sống dân tộc. Kế thừa và phát triển quan điểm của C. Mác, Ph.Ăngghen về
thanh niên, V.I. Lênin luôn đánh giá cao vai trò của thanh niên. V.I. Lênin coi
những người vô sản trẻ tuổi chẳng những là đội quân hậu bị hùng mạnh của
cách mạng, mà còn là những chủ nhân tương lai của đất nước. Tương lai của
chủ nghĩa cộng sản thuộc về thanh niên, thanh niên là người xây dựng chủ nghĩa
cộng sản. Trong bài diễn văn “Nhiệm vụ của Đoàn Thanh niên” tại Đại hội III
toàn Nga của Đoàn Thanh niên Cộng sản Nga ngày 02 tháng 10 năm 1920,
ngay trong phần đầu bài diễn văn, V.I.Lênin khẳng định: “Nhiệm vụ thật sự xây
dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, chính là của thanh niên” [91, tr. 354].
Thanh niên là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, vì vậy, tùy
theo góc tiếp cận của từng ngành mà khái niệm về thanh niên được xác định
khác nhau. Trên thế giới chưa có một định nghĩa thống nhất về thanh niên. Tùy
vào yếu tố văn hóa, điều kiện kinh tế, xã hội mà các quốc gia có các định nghĩa
khác nhau về thanh niên. Các nhà sinh học nhìn nhận thanh niên như một giai
32
đoạn phát triển trong vòng đời của con người; các nhà kinh tế học lại xem thanh
niên như một lực lượng nhân công hùng hậu, là nguồn lực bổ sung cho đội ngũ
lao động sản xuất và người tiêu dùng trong tương lai…
Theo Bộ từ điển Duden của Đức “thanh niên” (Jugend) được giải thích
với ba nghĩa khác nhau, xét về góc độ xã hội – dân cư, thanh niên được hiểu là
“toàn thể những người trẻ tuổi” (Gesamheit junger Menschen). Ngoài ra, trong
tiếng Đức còn có từ “Jugendliche” với nghĩa là những người trẻ tuổi, ở trong
độ tuổi giữa trẻ em và người lớn. Dưới góc độ pháp lý họ “là những người ở độ
tuổi giữa 14 và 18” [96, tr.729].
Bộ từ điển Oxford (tiếng Anh) từ “youth” (thanh niên) là “người trẻ tuổi,
trong giai đoạn giữa tuổi thơ ấu và tuổi người lớn, hăng hái, nhiệt tình, thiếu
kinh nghiệm hoặc chỉ những đặc trưng khác của độ tuổi này. Khi được dùng ở
dạng số nhiều thì từ này chỉ tập hợp những người trẻ tuổi” [95, tr877].
Ở Việt Nam, thanh niên cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Từ
điển tiếng Việt định nghĩa “thanh niên là người trẻ, đang ở độ tuổi trưởng
thành” [54, Tr.1178]. Với cách hiểu này, thanh niên được coi là những người
trẻ tuổi, đang ở độ tuổi trưởng thành nhưng cách giải thích này chưa làm rõ độ
tuổi cụ thể của thanh niên và những đặc điểm tâm – sinh lý của thanh niên ở
giai đoạn này như thế nào.
Từ góc độ xã hội học, thanh niên được xem như là một giai đoạn chuyển
đổi từ kết thúc thời kỳ thơ ấu phụ thuộc chuyển sang xác lập vai trò cá nhân
qua các hoạt động độc lập với tư cách đầy đủ của người trưởng thành, có lối
sống và văn hóa đặc trưng và là một trong các chủ thể của các quan hệ xã hội.
Khi nghiên cứu về lối sống của thanh niên Việt Nam hiện nay, Nguyễn Hồng
Tung cho rằng: “tuổi thanh niên là độ tuổi quá độ từ trẻ em sang người lớn
trong cuộc đời mỗi con người”. Điều này có nghĩa là: thanh niên là lớp người
đang trưởng thành và hoàn thiện về năng lực thể chất, tinh thần và nhân cách.
33
Họ không còn là trẻ em, nhưng cũng chưa hoàn toàn là người lớn” [73, tr.10].
Dưới góc độ tâm – sinh lý, thanh niên là giai đoạn thay đổi của một con
người, phát triển từ một đứa trẻ thành một người trưởng thành với sự hoàn thiện
cơ thể về mặt sinh học và những chuyển biến về tâm – sinh lý, tình cảm điển
hình của tuổi dậy thì. Thanh niên có sự khác biệt lớn về nhiều mặt như: độ tuổi,
nơi sinh sống, nghề nghiệp…, do đó, các đặc điểm tâm lý của thanh niên rất
phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, đặc tính chung của thanh niên là tính trẻ, thể
hiện ở sự năng động, nhiệt huyết, dám mạo hiểm, giàu ước mơ và hoài bão lớn,
thích cái mới, thích giao lưu, học hỏi và mong muốn có những đóng góp cho
xã hội để khẳng định bản thân.
Từ góc độ pháp luật, tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội,
chính trị, lịch sử, truyền thống cũng như mục tiêu phát triển toàn diện thanh
niên, mỗi quốc gia có quy định khác nhau về độ tuổi của thanh niên. Trong số
196 quốc gia được khảo sát, có 39/196 quốc gia quy định tuổi thanh niên tối
thiểu là 16 tuổi; 95/196 quốc gia quy định độ tuổi thanh niên tối thiểu là 15
tuổi; ngoài ra, có 62/196 quốc gia quy định chính sách chung áp dụng cho thanh
thiếu niên với độ tuổi tối thiểu dưới 15 tuổi (ví dụ: Hàn Quốc, Bỉ, Burtan,...).
Độ tuổi thanh niên tối đa phổ biến của các nước trên thế giới là dưới 30 tuổi
với 136/148 quốc gia; 48/196 quốc gia quy định độ tuổi tối đa của thanh niên
dưới 26 tuổi. Ngoài ra, có một số quốc gia quy định độ tuổi tối đa của thanh
niên hơn 30 tuổi như: Brunei (40 tuổi), Zimbabue (35 tuổi), Afganishtan (35
tuổi) [101]. Ở khu vực Đông Nam Á, các quốc gia thành viên ASEAN thống
nhất khoảng độ tuổi thanh niên trong khu vực là từ 15 – 35 tuổi [102, tr.1]. Tuy
nhiên, pháp luật của đa số các quốc gia lại có những quy định độ tuổi thanh
niên khác nhau, trong đó độ tuổi tối thiểu của thanh niên phổ biến là 15 tuổi
(8/11 quốc gia); độ tuổi tối đa của thanh niên phổ biến là không quá 30 tuổi
34
(6/11 quốc gia). Ngoài ra, có một số quốc gia quy định khác về độ tuổi tối đa
của thanh niên như: Brunei, Malaysia (không quá 40 tuổi); Singapore (không
quá 35 tuổi); Myanmar (không quá 18 tuổi); Thái Lan (không quá 25 tuổi) [101].
Trên cơ sở phân biệt các đặc điểm về tâm – sinh lý và điều kiện xã hội so
với các nhóm lứa tuổi khác, trong nhiều năm, các tổ chức và cơ quan thuộc hệ
thống Liên hợp quốc xác nhận trong Năm Quốc tế Thanh niên nhóm người từ
15 đến 24 tuổi được xác định là thanh niên. Nhóm thanh niên từ 15 đến 24 tuổi
là mục tiêu của Năm Quốc tế Thanh niên của Liên hợp quốc (1985) và được đề
cập trong hầu hết các nghị quyết và báo cáo về thanh niên của hệ thống các cơ
quan của Liên hợp quốc. Hướng dẫn của Năm Quốc tế Thanh niên được Đại
hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1985 đã đề cập đến vấn đề thanh niên
này như một định nghĩa theo trình tự thời gian về ai là thanh niên, so với ai là
trẻ em hoặc ai là người lớn, độ tuổi này cũng thay đổi theo từng quốc gia và
nền văn hóa. Tuy nhiên, vì mục đích thống kê, Liên hợp quốc xác định những
người trong độ tuổi từ 15 đến 24 là thanh niên mà không đưa ra những định
nghĩa khác của các quốc gia thành viên.
Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về quyền trẻ em được thông qua vào
năm 1989 đã đóng góp rất nhiều vào việc thúc đẩy và bảo vệ quyền trẻ em. Tuy
nhiên, trong Điều 1 và Điều 38 của Công ước đã gây bất lợi lớn về mặt pháp lý
và chính trị đối với việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền của thanh thiếu niên bằng
cách gây nhầm lẫn giới hạn độ tuổi của trẻ em và thanh niên. Điều 1 xác định:
“Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18
tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi
thành niên sớm hơn”. Khoản 2 và 3 Điều 38: “2. Các Quốc gia thành viên phải
thi hành mọi biện pháp khả thi có thể thực hiện được nhằm bảo đảm rằng những
người chưa đến tuổi 15 không phải trực tiếp tham gia chiến sự; 3. Các Quốc
gia thành viên phải tránh tuyển mộ bất kỳ người nào chưa đến 15 tuổi vào lực
35
lượng vũ trang của mình; khi tuyển mộ trong số những người đã đến 15 tuổi
nhưng chưa đến 18 tuổi, các Quốc gia thành viên phải cố gắng ưu tiên tuyển
mộ những người nhiều tuổi nhất trong số đó” [43].
Nhìn chung, việc xác định độ tuổi của thanh niên là một vấn đề phức tạp.
Hiện nay, khoa học cũng chưa đưa ra được những căn cứ vững chắc để giải
quyết vấn đề này một cách cơ bản. Tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể của từng
quốc gia, lứa tuổi thanh niên có thể bắt đầu và kết thúc khác nhau, nhưng tựu
chung lại có những nội dung cơ bản giống nhau. Khái quát lại, có thể chia lứa
tuổi thanh niên ra thành các bậc như: 14 – 17 tuổi; 18 – 23 tuổi và từ 23 tuổi
trở lên.
Ở Việt Nam, Luật thanh niên năm 2020 xác định: “Thanh niên Việt Nam
là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi”. Như vậy độ tuổi của thanh
niên Việt Nam đã có sự thay đổi so với giai đoạn trước đây khi độ tuổi thanh
niên được hiểu gần như đồng nhất với tuổi đoàn viên là từ 15 đến 30 tuổi. Với
cách định nghĩa thanh niên theo đội tuổi này thì trên thực tế, thanh niên có mặt
ở tất cả mọi giới, mọi ngành, mọi giai tầng, mọi khu vực dân cư và trong tất cả
các dân tộc khác nhau trên đất nước Việt Nam. Điều lệ Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh quy định tuổi đoàn viên từ 16 tuổi đến 30 tuổi. Hội Liên hiệp
thanh niên Việt Nam quy định tuổi thanh niên từ 16 tuổi đến 35 tuổi. Tuổi 35
cũng được coi là tuổi giới hạn chung cho khái niệm “tuổi trẻ”, “lao động trẻ”
và “trí thức trẻ”.
Từ những quan điểm về thanh niên nói trên, có thể định nghĩa khái quát
về thanh niên như sau: Thanh niên là nhóm dân số đặc thù, ở một độ tuổi nhất
định, có mặt trong tất cả các dân tộc, giai cấp, tầng lớp xã hội và các lĩnh vực
của đời sống xã hội; có những đặc điểm chung về tâm – sinh lý; có vai trò quan
trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc trong hiện tại và tương lai.
Theo cách quản lý và phân loại đối tượng thanh niên của Trung ương
36
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, thanh niên Việt Nam được chia
thành các nhóm: Thanh niên nông thôn, thanh niên công nhân, thanh niên
công chức và viên chức, thanh niên đô thị, thanh niên học sinh và sinh viên,
thanh niên trong các lực lượng vũ trang. Các nhóm thanh niên đặc thù bao
gồm: thanh niên dân tộc thiểu số, thanh niên có đạo, thanh niên đang học tập,
lao động ở nước ngoài, các nhóm thanh niên yếu thế (thanh niên bị nhiễm
HIV/AIDS, thanh niên khuyết tật, thanh niên sau cai nghiện và sau cải tạo trở
về tái hòa nhập với cộng đồng.
Với cách hiểu như trên, chúng ta thấy thanh niên có một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, thanh niên là một nhóm tầng lớp xã hội đặc thù, chiếm số đông
trong dân số cả nước. Họ không phải là một giai cấp nhưng có mặt trong tất cả
các nhóm dân tộc, tôn giáo, ở các giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức; có mặt ở tất cả các địa phương, các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phòng, an ninh…
Thứ hai, thanh niên là những người trẻ với độ tuổi sung sức nhất về thể
chất và phát triển trí tuệ, luôn năng động, sáng tạo, nhiệt huyết, thích khám phá,
tìm tòi cái mới và dám đối mặt với thử thách để khẳng định mình. Phạm vi tuổi
của thanh niên khá rộng (từ 16 đến 30 tuổi), vì vậy, xét ở góc độ nghề nghiệp,
trong thanh niên phân thành nhiều nhóm và đối tượng khác nhau.
Thứ ba, thanh niên là lực lượng có tiềm năng to lớn, đã và đang giữ vai
trò quan trọng trong sự tồn tại, phát triển của mỗi quốc gia; thái độ, ý thức chính
trị, ý thức về trách nhiệm thế hệ của thanh niên đối với hiện tại và tương lai của
đất nước ngày càng được khẳng định. Vị trí, vai trò của thanh niên được xác
định từ chính đặc điểm lứa tuổi, từ tương quan lực lượng lao động trong phát
triển triển kinh tế - xã hội của đất nước và từ trong thực tiễn lịch sử cách mạng.
Trong Thư gửi thanh niên (tháng 8/1947), Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thanh
niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy,
37
mạnh hay yếu, một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm người
chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyên tinh thần và lực
lượng của mình, phải làm việc chuẩn bị cái tương lai đó” [48, tr.216]. Hội
nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa khẳng định: “Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong
những nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh của dân tộc; là lực
lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc đòi hỏi hy
sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo. Thanh niên là độ tuổi sung sức nhất về
thể chất và phát triển trí tuệ, luôn năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng định
mình” [19, tr.41-42]. Thanh niên chính là nhóm xã hội – dân cư có sứ mệnh
đón nhận sự “trao quyền” giá trị, bàn giao nhiệm vụ, ủy thác trách nhiệm, gửi
gắm niềm tin của thế hệ đi trước.
* Công tác thanh niên
Thuật ngữ công tác thanh niên được sử dụng trong văn kiện của Đảng tại
Nghị quyết số 26 của Bộ Chính trị (tháng 7/1985) khóa V về “Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên”. Công tác thanh niên là một bộ
phận quan trọng trong công tác thanh vận của Đảng, bao gồm toàn bộ những
hoạt động của Đảng, Nhà nước, Đoàn thanh niên và các chủ thể xã hội khác
nhằm giáo dục, bồi dưỡng và tạo điều kiện cho thanh niên phát triển, trưởng
thành; phát huy tính xung kích và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng của lực
lượng thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị định
số 120/2007/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 2007 của Chính phủ hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật thanh niên năm 2005 quy định: “Công tác thanh
niên là những hoạt động của Đảng, Nhà nước và xã hội nhằm giáo dục, bồi
dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên phấn đấu và trưởng thành; đồng
thời phát huy vai trò xung kích, sức sáng tạo và tiềm năng to lớn của thanh niên
38
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (khoản 2 Điều 4).
Hiện nay có bốn chủ thể cùng tham gia thực hiện công tác thanh niên tùy
theo vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, bao gồm: Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân khác.
Như vậy, có thể hiểu, công tác thanh niên là hoạt động có mục đích của các tổ
chức, tùy theo vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình tác động vào
thanh niên nhằm giáo dục, bồi dưỡng định hướng và phát huy thanh niên, đáp
ứng những yêu cầu chính đáng, hợp pháp của thanh niên và yêu cầu phát triển
của đất nước và xã hội.
Bản chất và nội dung cơ bản của công tác thanh niên bao gồm một hệ
thống các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước; nghị
quyết, chương trình, kế hoạch của Đoàn thanh niên và các chủ thể xã hội khác
cùng với các phương thức, giải pháp thích hợp trong sự phối hợp và phân công
trong phạm vi toàn xã hội. Tất cả nhằm tạo ra những tác động tích cực trong
quá trình tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng và phát huy thanh niên. Nói cách khác,
công tác thanh niên chính là sự tác động tổng hợp của các chủ thể xã hội đến
thanh niên, nhằm hình thành một nguồn nhân lực trẻ có chất lượng cao đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
* Khái niệm quản lý nhà nước về thanh niên
Để tìm hiểu thế nào là quản lý nhà nước về thanh niên, trước hết, chúng ta
cần xuất phát từ khái niệm “quản lý” để hiểu các khái niệm có liên quan. Quản
lý được hiểu là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý
nhằm chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn các quan hệ xã hội và hoạt động của cá
nhân hướng tới đạt được các mục tiêu đề ra. Theo Từ điển giải thích các thuật
ngữ hành chính, quản lý là các hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm đạt
được mục đích đã đề ra thông qua việc áp dụng các nguyên tắc và phương pháp
39
quản lý [82, tr.58]. Theo một cách chung nhất, quản lý được hiểu là sự tác động
định hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó
phát triển phù hợp với những quy luật nhất định [59, tr105-109].
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, quản lý nhà nước ra đời cùng với
sự xuất hiện của nhà nước. Đó là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước,
được sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và được
xem là một chức năng thiết yếu của nhà nước để quản lý xã hội. Có rất nhiều
cách hiểu khác nhau về quản lý nhà nước. Theo Giáo trình quản lý hành chính
nhà nước: “Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng
quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con
người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm
thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” [25, tr.407].
Giáo trình Lý luận hành chính nhà nước định nghĩa: “Quản lý nhà nước
là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng
pháp luật và chính sách để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả
các mặt của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện,
nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội” [21, tr3].
Trong nghiên cứu lí luận về nhà nước và pháp luật, quản lý nhà nước
thường được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, quản lý nhà
nước bao gồm toàn bộ các hoạt động: hoạt động lập pháp của các cơ quan lập
pháp, hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan hành pháp, hoạt
động bảo vệ pháp luật của các cơ quan tư pháp. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà
nước là hoạt động hành chính của cơ quan thực thi quyền lực nhà nước (quyền
hành pháp) để quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội theo quy
định của pháp luật
Quản lý nhà nước được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
40
hội như: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, an ninh, quốc phòng, ngoại
giao… nhằm phục vụ các nhu cầu hợp pháp của người dân. Quản lý nhà nước
là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước, do các cơ
quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, lấy pháp luật làm công cụ quản lý chủ
yếu nhằm duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội, thỏa mãn nhu cầu hợp
pháp của nhân dân.
Từ những phân tích, luận giải về thanh niên và quản lý nhà nước, chúng
ta có thể hiểu quản lý nhà nước về thanh niên: Quản lý nhà nước về thanh niên
là quá trình tác động có mục đích của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bằng
chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện có hiệu quả, hiệu lực chính sách,
pháp luật trên thực tế tác động trực tiếp đến thanh niên theo những nguyên tắc
và phương pháp quản lý nhằm bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách
nhiệm của thanh niên theo quy định của Hiến pháp, pháp luật.
Trong thực tế, đối với thanh niên, luôn tồn tại hai khái niệm đó là quản lý
nhà nước về thanh niên và quản lý nhà nước về công tác thanh niên, hai khái
niệm này được sử dụng phổ biến, đôi khi được dùng như là những khái niệm
tương đồng, đều hướng đến mục tiêu cuối cùng là chăm lo cho thanh niên. Tuy
nhiên, về cơ bản, đây là hai khái niệm có nội hàm khác nhau. Trước hết, về chủ
thể quản lý, quản lý nhà nước về thanh niên và quản lý nhà nước về công tác
thanh niên đều có chung chủ thể quản lý là các cơ quan trong bộ máy nhà nước
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên.
Nhưng khi nói đến quản lý nhà nước về thanh niên nghĩa là nói đến quản lý nhà
nước thông qua chính sách, pháp luật tác động trực tiếp đến những thanh niên
cụ thể với tư cách là công dân; nói đến quản lý nhà nước về công tác thanh niên
có nghĩa là quản lý nhà nước thông qua chính sách, pháp luật, cơ chế, tổ chức
bộ máy tác động tới thanh niên (với tư cách là một lực lượng xã hội là chính,
được tập hợp trong tổ chức và thông qua tổ chức) và các chủ thể xã hội có vai
41
trò trong hoạt động vận động, bồi dưỡng, giáo dục và phát huy thanh niên.
Về đối tượng quản lý, trong quản lý nhà nước về thanh niên, đối tượng
quản lý nhà nước trực tiếp là thanh niên, còn trong quản lý nhà nước về công
tác thanh niên, đối tượng quản lý là những tổ chức, những chủ thể xã hội trực
tiếp hay gián tiếp tác động đến thanh niên và các tổ chức, các chủ thể xã hội
thực hiện công tác thanh niên. Quản lý nhà nước về thanh niên là quản lý trực
tiếp của nhà nước đối với thanh niên, còn quản lý nhà nước đối với công tác
thanh niên là quản lý nhà nước một cách gián tiếp đối với thanh niên thông qua
tổ chức hay các chủ thể xã hội tác động tới thanh niên.
Về phương pháp quản lý, nếu trong quản lý nhà nước đối với thanh niên,
phương pháp quản lý chính là mệnh lệnh mang tính quyền lực bắt buộc của chủ
thể quản lý đối với khách thể quản lý là thanh niên với tư cách là công dân hoặc
phương pháp thuyết phục, thì trong quản lý nhà nước đối với công tác thanh
niên, bên cạnh phương pháp mệnh lệnh, chủ thể quản lý hoặc là trực tiếp hoặc
là gián tiếp, hoặc là thông qua các chủ thể xã hội khác, phương pháp vận động,
thuyết phục, tư vấn, hỗ trợ sẽ được chú trọng để giúp cho thanh niên hiểu rõ
quyền và nghĩa vụ của mình và tự giác tuân thủ pháp luật và các chính sách liên
quan. Ngoài ra, thông qua các cơ chế, chính sách, pháp luật, chủ thể quản lý
còn điều phối và huy động các chủ thể xã hội khác tham gia vào quá trình vận
động, giáo dục, định hướng, hướng dẫn và hỗ trợ thanh niên trong việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
2.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về thanh niên
Thứ nhất, quản lý nhà nước về thanh niên là một dạng quản lý xã hội đặc
thù, mang tính quyền lực nhà nước, do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực
hiện chức năng quản lý nhà nước đối với một đối tượng đặc biệt là thanh niên,
họ vừa là công dân, đồng thời, vừa là nhóm nhân khẩu đặc thù trong cơ cấu dân
số. Đó là một lực lượng hùng hậu, có sức trẻ (cả về thể lực và trí lực), là nguồn
42
nhân lực lao động dồi dào; là lực lượng xung kích, đi đầu trong mọi lĩnh vực
hoạt động của xã hội. Với tư cách là công dân, thanh niên được hưởng mọi
chính sách chung của Nhà nước, có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân quy
định trong Hiến pháp và pháp luật; với tư cách là một tầng lớp xã hội đặc thù,
thanh niên còn được hưởng các quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ được quy
định trong Luật thanh niên.
Thứ hai, quản lý nhà nước về thanh niên là một dạng quản lý đối với một
lực lượng xã hội cụ thể, mà những vấn đề của nó liên quan trực tiếp đến tất cả
các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, đây là một dạng quản lý tổng
hợp, đa diện và phức tạp, đòi hỏi phải có sự phối hợp hài hòa, thống nhất giữa
các cấp, các ngành. Cơ chế phối hợp liên ngành trong thực thi chính sách, pháp
luật đối với thanh niên có vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước. Bên cạnh
Bộ Nội vụ cần có sự tham gia, phối hợp của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, cơ quan trung ương và địa phương, các tổ chức chính trị - xã
hội. Việc phối hợp này được thể hiện trong suốt quá trình quản lý, từ khâu
hoạch định chính sách, xây dựng thể chế, đến việc tổ chức thực thi chính sách,
pháp luật. Trong đó, các thiết chế tư vấn liên ngành như Ủy ban quốc gia về
thanh niên có vai trò rất quan trọng. Được thành lập bởi Chính phủ, Ủy ban
quốc gia về thanh niên có cơ chế làm việc phối hợp liên ngành về thanh niên
để tư vấn cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xây dựng, ban
hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên.
Thứ ba, quản lý nhà nước về thanh niên mang tính toàn diện về mọi mặt
đối với mọi đối tượng thanh niên (công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30
tuổi). Đặc trưng này khác với với các tổ chức, các chủ thể xã hội khác. Ví dụ
như: Ủy ban Quốc gia về thanh niên có chức năng tư vấn giúp Thủ tướng Chính
phủ về công tác thanh niên; hay Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và
Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam có chức năng quản lý đoàn viên, hội viên
43
tham gia vào tổ chức này chứ không phải là toàn bộ lực lượng thanh niên trong
toàn xã hội. Trong khi đó, quản lý nhà nước về thanh niên, các cơ quan trong
bộ máy nhà nước bằng chính sách, pháp luật tác động trực tiếp đến tất cả các
đối tượng là thanh niên.
2.1.3. Vai trò của quản lý nhà nước về thanh niên
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế và từ
chính đòi hỏi đối với sự phát triển của thanh niên, quản lý nhà nước về thanh
niên có vai trò rất quan trọng, thể hiện trên các mặt:
Thứ nhất, quản lý nhà nước về thanh niên là hoạt động quản lý của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương của
Đảng và chính sách của Nhà nước về thanh niên thành pháp luật
Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, Đảng ta luôn đề cao vị trí, vai
trò của thanh niên; xác định thanh niên là lực lượng xung kích của cách mạng.
Đồng thời, Đảng đặt ra nhiệm vụ cho Nhà nước, cho toàn xã hội trong việc
chăm lo, giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ. Quan điểm, chủ trương của
Đảng đối với việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên được thể
hiện trong các Chỉ thị, Nghị quyết. Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng 12
năm 1986) chỉ rõ: Thanh niên phải được bảo đảm việc làm khi bước vào đời
và được quan tâm giáo dục về nhân cách, bản lĩnh và lý tưởng theo phương
châm “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Trước
tình hình quốc tế ngày càng phức tạp, ngày 13 tháng 3 năm 1991, Bộ Chính
trị (khóa VI) ban hành Nghị quyết số 25/NQ-TW về Đổi mới và tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên. Nghị quyết khẳng định vai
trò, vị trí quan trọng của thanh niên đối với tương lai dân tộc và vận mệnh Tổ
quốc; khẳng định những quan điểm cơ bản về công tác thanh niên và phương
hướng, nội dung, giải pháp chủ yếu của công tác thanh niên. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII nêu rõ: “Sự nghiệp
44
đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng
đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước
theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng
thanh niên”.
Tiếp đến, hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X
đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25 tháng 7 năm 2008 về Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghị quyết khẳng định: “Thanh niên là rường
cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự
thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc
tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Nghị quyết tiếp tục khẳng định chủ trương
nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong đó đưa ra sáu nhóm giải pháp cơ
bản gồm: 1. Củng cố kiện toàn Ủy ban Quốc gia về thanh niên Việt Nam và
giao cho Ủy ban một số nhiệm vụ, quyền hạn để tham mưu cho Chính phủ
thống nhất quản lý nhà nước về thanh niên. Các bộ, ngành và ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về thanh niên theo lĩnh vực, địa bàn và theo sự phân công, phân cấp của Chính
phủ. Thành lập Hội đồng công tác thanh niên ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương làm nhiệm vụ tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố thực hiện
quản lý nhà nước về thanh niên và Chính phủ chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực
hiện mô hình này; 2. Xác định chỉ số về thanh niên và công tác thanh niên trong
chỉ số thống kê quốc gia, trong chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
các ngành, các cấp; 3. Tăng cường vai trò giám sát và phản biện xã hội của
Đoàn Thanh niên, các tổ chức thanh niên đối với việc xây dựng và tổ chức thực
hiện các chủ trương, chính sách về thanh niên, công tác thanh niên; 4. Thực
45
hiện tốt Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, tạo điều kiện để thiếu nhi
phát triển toàn diện, trở thành những thanh niên tốt; 5. Tập trung chỉ đạo để
hoàn thành các mục tiêu trong Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến
năm 2010; xây dựng Chiến lược phát triển thanh niên đến năm 2020, gắn với
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; cụ thể hóa các chủ trương của Đảng trong
giáo dục, bồi dưỡng phát huy vai trò của thanh niên; 6. Sửa đổi, bổ sung Luật
thanh niên phù hợp với tình hình mới. Ban hành Luật việc làm. Sớm ban hành
cơ chế, chính sách để giải quyết chỗ ở, nơi sinh hoạt văn hóa, thể thao cho thanh
niên làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất và học sinh, sinh viên đang
học tập.
Báo cáo Chính trị tại Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Tăng cường giáo
dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá, nâng cao lòng yêu nước,
tự hào dân tộc, nuôi dưỡng hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần
trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội; xây dựng môi trường, điều kiện học
tập, lao động, giải trí, rèn luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hoà cả
về trí tuệ, thể chất và giá trị thảm mỹ cho thế hệ trẻ. Tạo động lực cho thanh
niên xung kích trong học tập, lao động, sáng tạo, khởi nghiệp, làm chủ các kiến
thức khoa học, công nghệ hiện đại, phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Chăm lo nuôi dưỡng, giáo dục, bảo vệ thiếu niên, nhi đồng;
dành những điều kiện tốt nhất, sự chăm lo chu đáo nhất cho trẻ em - tương lai
của đất nước” [22, tr 168].
Để quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về thanh
niên đi vào thực tiễn và phát huy tác dụng, cần phải được thể chế hóa thành
pháp luật thì nó mới trở thành phương tiện quản lý của nhà nước, có sức mạnh
cưỡng chế buộc các tổ chức, cá nhân phải thi hành. Thông qua pháp luật, một
mặt, mọi người dân nắm bắt được đường lối, chủ trương của Đảng; mặt khác,
là cơ sở để Đảng kiểm tra, đánh giá, hoàn thiện đường lối, chủ trương chưa phù
46
hợp. Qua các thời kỳ, pháp luật về thanh niên được xây dựng và ngày càng
hoàn thiện. Kể từ khi Quốc hội khóa XI thông qua Luật thanh niên số
53/2005/QH11 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2006 đã có rất
nhiều văn bản quy phạm pháp luật về thanh niên được ban hành, tạo cơ sở pháp
lý cho việc chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng và phát huy thanh niên; nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên. Đặc biệt, sự ra đời của Luật thanh
niên năm 2020 có ý nghĩa chính trị, pháp lý sâu sắc trong điều kiện mới; tiếp
tục bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của thanh niên; quy
định trách nhiệm của thanh niên, các chính sách của Nhà nước đối với thanh
niên; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức thanh niên, tổ chức khác, cơ sở giáo
dục, gia đình và cá nhân đối với thanh niên; quản lý nhà nước về thanh niên.
Thứ hai, quản lý nhà nước về thanh niên giúp tổ chức thực hiện có hiệu
quả chính sách, pháp luật; một mặt, bảo đảm việc thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của thanh niên, mặt khác, giáo dục, đào tạo thanh niên thành công dân tốt,
phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo
vệ Tổ quốc. Chính sách, pháp luật là công cụ quan trọng của quản lý nhà nước
về thanh niên. Chính sách, pháp luật được ban hành với mục đích là để quản
lý, phát triển thanh niên theo những định hướng mong muốn nhằm đạt được
những kết quả, mục tiêu nhất định. Và điều đó chỉ có thể đạt được khi chính
sách, pháp luật được tổ chức thực hiện có hiệu quả trong đời sống xã hội.
Kinh nghiệm của các nước cho thấy, Luật thanh niên không chỉ đơn thuần
là tuyên ngôn về quyền và nghĩa vụ của thanh niên mà nó còn là khung pháp lý
cho toàn bộ công tác thanh niên bao gồm các thiết chế, thể chế cần thiết và đảm
bảo thực hiện cụ thể. Hiện nay, trên thế giới đã có 142/196 quốc gia có chính
sách riêng về thanh niên và 43/196 quốc gia ban hành Luật Thanh niên, ví dụ
như: Luật thanh niên Bungari (2012), Luật thanh niên Inđônêxia (2009), Luật
thanh niên Cộng hòa Philíppin (1994), Luật thanh niên Hàn Quốc (1987, 1989,
47
1991, 2002), Luật thanh niên và nhi đồng Cuba (1978), Luật thanh niên
Hunggari (1971)... Tùy thuộc vào thể chế chính trị, các quốc gia này có những
quy định khác nhau nhưng điểm chung trong Luật thanh niên đó là xác định rõ
vai trò, trách niệm và quyền của thanh niên; các hoạt động cấm đối với thanh
niên; trách nhiệm của nhà nước đối với thanh niên trong các lĩnh vực học tập,
chăm sóc y tế, việc làm, chỗ ở…
Phần lớn các quốc gia đều xây dựng một khung pháp lý hoàn chỉnh cho
công tác thanh niên, bao gồm: hệ thống các cơ quan chuyên trách công tác thanh
niên từ trung ương tới địa phương. Ở trung ương có Ủy ban thanh niên của
Quốc hội chịu trách nhiệm xây dựng chính sách thanh niên và giám sát thực thi
các chính sách này; công tác thanh niên được giao cho một Bộ chủ quản tổ chức
thực hiện với các chi nhánh ở địa phương. Ngoài ra, công tác thanh niên còn
được thực hiện bởi các tổ chức xã hội trong mối quan hệ chặt chẽ với các cơ
quan nhà nước. Đồng thời, có cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin và đánh giá,
giám sát được chú trọng nhằm đảm bảo thực thi trên thực tế.
Thứ ba, quản lý nhà nước về thanh niên giúp duy trì và thúc đẩy thanh
niên phát triển toàn diện theo định hướng. Thanh niên với các đặc điểm tâm
sinh lý lứa tuổi của mình, họ không chỉ là chủ thể tích cực trong tiến trình phát
triển xã hội mà còn là đối tượng chịu sự tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ của sự
biến đổi xã hội; đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi mà lối sống và các giá
trị, chuẩn mực xã hội đang có sự chuyển biến mạnh mẽ dưới tác động của xu
thế hội nhập quốc tế. Những tác động này có thể mang tính tích cực, hoàn thiện
nhân cách của thanh niên, tạo động lực cho thanh niên phát triển và đóng góp
cho sự phát triển của của xã hội. Nhưng ngược lại, cũng có thể mang đến những
tác động tiêu cực, làm cho thanh niên mất ý chí, nghị lực phấn đấu, dễ dao động
về lập trường chính trị, lệch lạc về giá trị đạo đức, sống thực dụng và sa vào tệ
nạn xã hội. Do vậy, bằng chính sách, pháp luật, các cơ quan Nhà nước được
48
giao quyền quản lý nhà nước về thanh niên có trách nhiệm duy trì và tạo lập
những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thanh niên, duy trì và phát triển
các nguồn lực, kiến tạo các nguồn lực vật chất, sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực tài chính để tạo những điều kiện tốt nhất cho thanh niên phát triển và giảm
thiểu tình trạng rủi ro từ nhiều phía, định hướng thanh niên, bảo vệ thanh niên
phát triển lành mạnh.
2.2. Nội dung, chủ thể quản lý nhà nước về thanh niên
2.2.1. Nội dung quản lý nhà nước về thanh niên
Từ khái niệm, đặc điểm của quản lý nhà nước về thanh niên và quy định
pháp luật hiện hành có thể khái quát nội dung quản lý nhà nước về thanh niên
gồm những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, xây dựng chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện chính sách,
pháp luật về thanh niên.
Xây dựng chính sách và pháp luật về quản lý nhà nước về thanh niên là
một nội dung trọng tâm và quan trọng trong việc quản lý và phát triển thanh
niên. Để quản lý nhà nước về thanh niên cần có một hệ thống chính sách, pháp
luật đồng bộ về thanh niên. Nhà nước là chủ thể chính trong xây dựng chính
sách, pháp luật về thanh niên. Đồng thời, Nhà nước cần huy động người dân,
đặc biệt là thanh niên vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật về thanh
niên. Huy động sự tham gia tích cực của thanh niên cần có quá trình tương tác
hai chiều giữa cơ quan xây dựng chính sách, pháp luật và thanh niên, tôn trọng
các ý kiến của thanh niên đưa ra và nghiên cứu để đưa các ý kiến phù hợp vào
quá trình xây dựng chính sách, pháp luật về thanh niên.
Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhà nước đều ban hành chính sách
phát triển thanh niên với mục tiêu hướng tới phát triển toàn diện thanh niên trên
các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống như: học tập, sức khỏe, thể chất và tinh
thần, lao động, việc làm và sự tham gia của thanh niên vào đời sống chính trị
49
và dân sự; đồng thời, huy động tối đa nguồn lực thanh niên vào việc xây dựng,
phát triển đất nước. Trong các chính sách này, các nhà nước đều quy định nguồn
lực và điều kiện để bảo đảm thực hiện mục tiêu đề ra. Đây chính là văn kiện
pháp lý cơ bản bảo đảm cho sự phát triển của các công dân trẻ, phát triển và
thực hiện tiềm năng của thanh niên cho sự phát triển đất nước. Ở Châu Âu, các
quốc gia có hai hướng xây dựng chính sách thanh niên: Một là, xây dựng một
chính sách phát triển thanh niên tổng thể hoặc khung chính sách bao gồm nhiều
lĩnh vực khác nhau, tiêu biểu như: Áo, Azerbaijan, Thụy Điển; hai là, xây dựng
chính sách phát triển thanh niên theo từng lĩnh vực riêng biệt như: Na Uy, Đan
Mạch… Mặc dù nội dung chính sách về thanh niên có sự đa dạng và khác biệt
giữa các quốc gia, nhưng điểm chung trong chính sách về thanh niên của các
quốc gia ở châu Âu đó là mục tiêu chính sách phát triển thanh niên của các
quốc gia châu Âu được định hướng và xây dựng trên cơ sở các chỉ số phát triển
thanh niên.
Hay tại các quốc gia châu Phi, chính sách thanh niên tập trung vào ba lĩnh
vực chính, đó là: giáo dục và việc làm; sức khỏe và phòng chống HIV/AIDS và
khuyến khích sự tham gia của thanh niên vào các hoạt động chính trị. Hầu hết
các quốc gia Ả Rập đều có chính sách về thanh niên. Tại Ma rốc, chính sách về
thanh niên được xây dựng trên cơ sở Hiến pháp năm 2011 và được cụ thể hóa
trong Luật về thanh niên với sự tham vấn của Hội đồng tư vấn về thanh niên và
Cộng đồng hành động thanh niên, trong đó tập trung vào các vấn đề chính như
giáo dục, việc làm, hệ thống y tế và sự tham gia của thanh niên. Còn với Tunisia,
chính sách về thanh niên không được xây dựng tập trung, thống nhất vào một
văn bản cụ thể mà nằm ở nhiều văn bản khác nhau, trong đó nhấn mạnh vai trò
quan trọng của thanh niên trong việc xây dựng và phát triển đất nước. Algeria
lại tập trung vào việc tạo cơ hội rèn luyện cho thanh niên, quản lý thanh niên,
hạn chế các hành vi nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe của thanh niên… Ở các
50
nước Đông Nam Á, các quốc gia ASEAN cũng thống nhất xây dựng và thực
hiện Bộ chỉ số phát triển thanh niên khu vực ASEAN với bốn lĩnh vực cơ bản
là giáo dục, sức khỏe và hạnh phúc, việc làm và cơ hội, sự tham gia của thanh
niên nhằm có những đánh giá tổng hợp và nhất quán về tình hình phát triển
thanh niên của các nước thành viên.
Để đánh giá kết quả thực hiện chính sách phát triển thanh niên của các
quốc gia trên thế giới, bộ chỉ số phát triển thanh niên (Young Development
Index – YDI) đã được xây dựng và thực hiện tại các nước trong Khối thịnh
vượng chung phát triển. Bộ chỉ số phát triển thanh niên toàn cầu bao gồm 18
chỉ số đo lường sự tiến bộ của phát triển thanh niên trong 5 lĩnh vực quan
trọng của thanh niên, đó là: Giáo dục; sức khỏe và hạnh phúc; việc làm và cơ
hội; sự tham gia đời sống chính trị; sự tham gia đời sống công dân. Mỗi lĩnh
vực được đo lường bởi từ 2 đến 6 chỉ số khác nhau, sử dụng nguồn dữ liệu
chung toàn cầu.
Với Việt Nam, từ đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước thể chế hóa
thành chính sách, pháp luật về thanh niên; quy định rõ trách nhiệm, nhiệm vụ
của các cấp, các ngành trong quản lý nhà nước về thanh niên. Nhà nước xây
dựng chính sách, pháp luật về thanh niên nhằm đảm bảo quyền bình đẳng, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của thanh niên. Một mặt, giúp thanh niên nhận thức
và tin tưởng Nhà nước luôn cam kết hỗ trợ, tạo điều kiện cho thanh niên thực
hiện vai trò, sứ mệnh của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ đó, thanh niên tiếp cận trách nhiệm với tâm thế đảm nhận trọng trách chứ
không phải là gánh nặng; mặt khác, các nhóm thanh niên đặc thù cũng nhận
thức được sự quan tâm thỏa đáng của Nhà nước đối với họ. Nhiều chính sách
cho thanh niên đã được ban hành thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước
đối với việc chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục và phát huy thanh niên. Qua các thời
kỳ, Nhà nước xây dựng, ban hành nhiều chính sách về thanh niên và bảo đảm
51
thực hiện bằng các quyền hiến định, luật định. Việc xây dựng, ban hành và hoàn
thiện chính sách, pháp luật về thanh niên đã tạo nên một hàng lang pháp lý bảo
đảm quyền của thanh niên; giúp các cơ quan quản lý nhà nước nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên, phát huy được sức mạnh của
thanh niên trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm
quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh hội nhập quốc tế.
Thứ hai, xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch
phát triển thanh niên.
Để triển khai chính sách, pháp luật về thanh niên, các cơ quan có thẩm
quyền cần phải xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế
hoạch phát triển thanh niên. Trong đó, chiến lược là cơ sở quan trọng để các
cấp, các ngành cụ thể hóa thành cơ chế, chính sách phát triển thanh niên, bảo
đảm phù hợp với hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước; gắn với trách
nhiệm tổ chức thực hiện của từng cấp, từng ngành; đồng thời, phát huy vai
trò, sự tham gia của cả hệ thống chính trị, các tổ chức, cá nhân và thanh niên.
Chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển thanh niên được các quốc
gia đặc biệt quan tâm. Điều này đã góp một vai trò quan trọng trong việc thiết
lập các tiêu chuẩn và điều kiện tốt nhất cho việc xây dựng và thực hiện chính
sách thanh niên ở cấp quốc gia. Minh chứng rõ nét đầu tiên phải kể đến Chương
trình Hành động Thế giới về Thanh niên, Kế hoạch Hành động Thanh niên
Braga (Diễn đàn Thanh niên Thế giới) 1998, Chiến lược Trao quyền cho Thanh
niên Dakar 2001.
Tại khóa họp 73 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, Tổng Thư ký Liên hợp
quốc Antonio Guterres phát động một chiến lược đối tác mới với chủ đề “Tuổi
trẻ 2030 – Youth 2030” nhằm góp phần biến những ý tưởng của thanh niên
hành động thực tiễn trong cuộc sống. Chiến lược “Tuổi trẻ 2030” nhằm vào
năm lĩnh vực chủ chốt, bao gồm: mở ra những con đường mới để huy động sự
52
tham gia của thanh niên và giúp tiếng nói của họ được lan tỏa; tăng cường, chú
trọng công tác giúp thanh niên tiếp cận giáo dục và các dịch vụ y tế; đặt vấn đề
trao quyền kinh tế cho thanh niên làm trọng tâm của những chiến lược phát
triển, với việc chú trọng vào đào tạo và việc làm; hỗ trợ bảo đảm quyền, sự can
dự về chính trị và dân sự của thanh niên; ưu tiên hỗ trợ thanh niên sống tại
những vùng xung đột và khủng hoảng nhân đạo. Ngoài ra, để thực thi chương
trình nghị sự “Tuổi trẻ 2030” vì sự phát triển bền vững cho một thế giới hòa
bình hơn, bền vững hơn và thịnh vượng hơn, thế giới rất cần thanh niên đóng
vai trò tiên phong.
Ở Việt Nam, để phát triển và huy động tối đa nguồn lực thanh niên, nhiều
chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển thanh niên được xây dựng và ban
hành. Sau những kết quả đạt được của Chiến lược phát triển thanh niên Việt
Nam năm 2011-2020 (ban hành kèm theo Quyết định số 2474/QĐ-TTg ngày
30 tháng 12 năm 2011 của Thủ tưởng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát
triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2011-2020), ngày 24 tháng 7 năm 2021
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1331/QĐ-TTg Ban hành Chiến lược
phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030 với mục tiêu tổng quát là
xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam phát triển toàn diện, giàu lòng yêu nước,
có ý chí tự cường, tự hào dân tộc; có lý tưởng cách mạng, hoài bão, khát vọng
vươn lên xây dựng đất nước; có đạo đức, ý thức công dân, chấp hành pháp luật;
có sức khỏe và lối sống lành mạnh; có văn hóa, kiến thức, trình độ học vấn, kỹ
năng sống, nghề nghiệp và việc làm; có ý chí lập thân, lập nghiệp, năng động,
sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ. Phát triển nguồn nhân lực trẻ chất lượng
cao đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước và hội nhập
quốc tế. Phát huy tinh thần cống hiến, xung kích, tình nguyện và nâng cao trách
nhiệm của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chiến lược
có sáu mục tiêu cụ thể gồm: 1. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; cung
53
cấp thông tin về tư vấn, hỗ trợ pháp lý cho thanh niên; 2. Giáo dục, nâng cao
kiến thức, kỹ năng; tạo điều kiện để thanh niên bình đẳng về cơ hội học tập,
nghiên cứu, đổi mới sáng tạo; 3. Nâng cao chất lượng đào tạo nghề và tạo việc
làm bền vững cho thanh niên; phát triển nguồn nhân lực trẻ chất lượng cao; 4.
Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho thanh niên; 5. Nâng cao đời sống
văn hóa, tinh thần cho thanh niên; 6. Phát huy vai trò của thanh niên trong tham
gia phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Các mục tiêu, chỉ tiêu được đề ra trong Chiến lược bảo đảm thống nhất
với quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về
thanh niên; phù hợp với xu thế quản lý và sự phát triển của thanh niên trong
thời kỳ hội nhập, toàn cầu hóa; đồng thời, phù hợp với mục tiêu phát triển bền
vững của Liên hợp quốc, chỉ số phát triển thanh niên toàn cầu và chỉ số phát
triển thanh niên khu vực ASEAN… Chiến lược quốc gia về phát triển thanh
niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030 là một công cụ quan trọng, cung cấp nền
tảng vững chắc cho các bộ, ban, ngành cũng như các cơ quan, tổ chức tham gia
triển khai Luật thanh niên và giải quyết các nhu cầu của thanh niên một cách
toàn diện.
Bên cạnh đó, rất nhiều các chương trình, kế hoạch được các cơ quan có
thẩm quyền ban hành như: Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên
Việt Nam giai đoạn II (2016-2020) (ban hành kèm theo Quyết định số
1042/QĐ-TTg ngày 17 tháng 7 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ); Kế hoạch
thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030 của
Bộ Nội vụ (ban hành kèm theo Quyết định số 1113/QĐ-BNV ngày 17 tháng 10
năm 2021); Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam
trong ngành giáo dục giai đoạn 2021-2030 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (ban
hành kèm theo Quyết định số 619/QĐ-BGDĐT ngày 3 tháng 3 năm 2022).
Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà
54
nước về thanh niên
Bộ máy nhà nước muốn hoạt động có hiệu quả thì cần phải có đội ngũ cán
bộ, công chức có chất lượng. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ chính là đầu tư
cho phát triển đất nước lâu dài và bền vững. Do đó, việc xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu,
phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và
hiệu quả.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” đã chỉ rõ:
“Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích
cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem tình hình của dân chúng
báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. Vì vậy,
cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Công việc thành công hoặc thất bại đều
do cán bộ tốt hay kém”. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã khẳng
định: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất, năng lực,
uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước…; có cơ chế lựa chọn,
đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài… Đồng thời, có cơ chế sàng lọc, thay thế
kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức
công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân
dân” [22, tr. 178-179].
Thanh niên là một lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan
trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; họ không phải là một giai cấp xã
hội mà là một tầng lớp xã hội đặc thù với những đặc điểm tâm – sinh lý khác
nhau theo từng lứa tuổi. Để phát huy được sức mạnh của thanh niên và nâng
cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về thanh niên cần một đội ngũ cán bộ,
công chức làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên có bản lĩnh chính trị
vững vàng, có phẩm chất đạo đức, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đồng
thời phải am hiểu về thanh niên. Đây là những người trực tiếp vận hành hệ
55
thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên từ Trung ương đến địa
phương; là những người trực tiếp tham gia xây dựng các văn bản quy phạm
pháp luật và tổ chức thực hiện nhiệm vụ ban hành chính sách, chiến lược,
chương trình, kế hoạch phát triển thanh niên. Do vậy, trình độ, năng lực và
phẩm chất của đội ngũ này là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên. Việc xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên cần tập
trung vào những nội dung sau:
- Xây dựng quy hoạch cán bộ, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ theo hướng
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, có tính đến nhu cầu và khả năng phát
triển.
- Tập trung đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về thanh niên
cho đội ngũ cán bộ, công chức chuyên trách các cấp để nâng cao khả năng tham
mưu, đề xuất, tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về thanh niên.
Thứ tư, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về thanh
niên
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật giữ vị trí quan trọng
trong đời sống xã hội, là một bộ phận quan trọng của công tác giáo dục, là trách
nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam và sự điều phối, tổ chức thực hiện của các cơ quan nhà nước và các tổ
chức, đoàn thể; là khâu then chốt, quan trọng để chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước thực sự đi vào cuộc sống, đi vào ý thức, hành
động của từng chủ thể trong xã hội. Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn
mới trong mục tiêu cụ thể đến năm 2030 đã xác định: “Ðẩy mạnh tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân về
56
Hiến pháp và pháp luật, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”.
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật là khâu đầu tiên
trong tổ chức thực thi chính sách, pháp luật; là “cầu nối” để đưa pháp luật vào
đời sống. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và Nhà
nước đề ra nhằm từng bước nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và
nhân dân, nâng cao năng lực áp dụng pháp luật, thiết lập kỷ cương, phát huy
dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong
những năm gần đây, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của các cơ quan,
bộ, ban ngành được thực hiện theo các chương trình, kế hoạch cụ thể được
Chính phủ phê duyệt.
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về thanh niên là
truyền đạt nội dung pháp luật về thanh niên cho các đối tượng cụ thể, giúp cho
họ hiểu được các quy định của pháp luật về thanh niên để thực hiện trên thực
tế. Tùy từng đối tượng cụ thể mà việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính
sách, pháp luật được thực hiện thông qua các hình thức khác nhau như: tuyên
truyền miệng; tổ chức hội nghị, tập huấn; phổ biến pháp luật, tọa đàm chuyên
sâu về Hiến pháp và Luật thanh niên; tuyên truyền pháp luật trên các phương
tiện thông tin đại chúng và các hệ thống truyền thanh công cộng; biên soạn và
phát hành các tài liệu…
Thứ năm, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên
Một nội dung rất quan trọng trong quản lý nhà nước về thanh niên đó là
kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong việc thực
hiện chính sách, pháp luật về thanh niên. Hoạt động này giúp cho các chủ thể
quản lý nhà nước về thanh niên kịp thời phát hiện những ưu điểm, hạn chế trong
57
công tác quản lý và có những giải pháp khắc phục kịp thời. Đồng thời, đây cũng
là cơ sở để bảo đảm chính sách, pháp luật về thanh niên được triển khai tổ chức
thực hiện trên thực tiễn. Hoạt động kiểm tra, thanh tra cần phải được tiến hành
thường xuyên, đúng pháp luật và không làm ảnh hưởng tới hoạt động bình
thường của các đối tượng kiểm tra, thanh tra là các tổ chức, cá nhân theo quy
trình, thủ tục chặt chẽ mà pháp luật quy định. Bên cạnh đó, cần kịp thời nắm
bắt và giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý nghiêm minh theo pháp luật đối với
các vi phạm chính sách, pháp luật về thanh niên. Hoạt động kiểm tra, thanh tra
cần được quy định cụ thể trách nhiệm kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên
không chỉ ở một cấp, một cơ quan cụ thể mà phải được thực hiện ở tất cả các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện các nội dung liên quan đến quản lý
nhà nước về thanh niên từ trung ương đến địa phương.
Thứ sáu, hợp tác quốc tế về thanh niên
Hợp tác quốc tế về thanh niên là một hoạt động rất quan trọng, nhất là
trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Nhà nước xây dựng chính sách,
pháp luật và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về hợp tác quốc tế về thanh
niên trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng về hội nhập quốc tế. Luật thanh
niên năm 2020 đã dành một điều quy định về hợp tác quốc tế về thanh niên với
nguyên tắc bảo đảm bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, phù hợp với pháp luật mỗi nước, điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và thông lệ quốc tế. Trong đó, Luật cũng
quy định nội dung hợp tác quốc tế về thanh niên bao gồm: a) Tham gia tổ chức
quốc tế; ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế về thanh niên;
chương trình, dự án hợp tác quốc tế về thanh niên; b) Trao đổi thông tin, kinh
nghiệm quản lý và chính sách, pháp luật về thanh niên; c) Giao lưu giữa thanh
58
niên Việt Nam với thanh niên các nước.
Trong những năm qua, Nhà nước ta luôn tạo điều kiện cho thanh niên chủ
động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế; tham gia giải quyết các vấn đề
toàn cầu; tham gia công tác ngoại giao Nhân dân để nâng tầm ảnh hưởng của
Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động và tham gia có hiệu quả vào giải quyết
các vấn đề toàn cầu như: giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống
khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, phòng
ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh hiểm nghèo… Hiện nay, các tổ chức thanh niên
của Việt Nam đang có kết nối với khoảng 250 tổ chức thanh niên các nước và
các tổ chức phi chính phủ trên khắp thế giới. Có 21 tổ chức thanh niên tại nước
ngoài là Ban cán sự Đoàn, Hội liên hiệp thanh niên sinh viên, Hội sinh viên…
Thứ bảy, ban hành chính sách hỗ trợ, khuyến khích tổ chức, cá nhân tham
gia thực hiện chính sách đối với thanh niên
Để chính sách đối với thanh niên được triển khai có hiệu quả trên thực
tiễn, Nhà nước cần huy động sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong việc
thực hiện chính sách đối với thanh niên. Nhà nước cần có những chính sách hỗ
trợ cụ thể để những tổ chức, cá nhân như doanh nghiệp, các tổ chức xã hội cùng
đồng hành, có trách nhiệm trong việc đầu tư cho thanh niên. Các doanh nghiệp
có thể hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên, các tổ chức xã hội có thể huy động
thêm vốn tài chính của các tổ chức nước ngoài để phục vụ cho công tác phát
triển thanh niên, nhất là trong việc hỗ trợ thanh niên lập nghiệp.
2.2.2. Chủ thể quản lý nhà nước về thanh niên
Để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên cần có cơ quan
chuyên trách làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên. Cơ quan này có
chức năng nghiên cứu, tham mưu cho Nhà nước về cơ chế, chính sách về thanh
niên như xây dựng văn bản pháp luật. Trên thế giới, thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về thanh niên, nhiều quốc gia đã giao cho cơ quan của chính phủ
59
thực hiện việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về thanh
niên. Nhiều quốc gia đã thành lập Bộ Thanh niên hoặc Bộ Thanh niên và Thể
thao để giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Ví dụ
như: các nước Ôxtrâylia, Malaxia thành lập Bộ Thanh niên; Bungari,
Inđônêxia, Philíppin, Bănglađét (thành lập Bộ Thanh niên và Thể thao; Pháp
thành lập Bộ Thanh niên, Thể thao, Giáo dục và Cộng đồng. Một số quốc gia
khác lại thành lập Tổng cục Thanh niên thuộc Bộ Văn hóa – Du lịch như Hàn
Quốc [50, tr.74]. Dù mô hình tổ chức có khác nhau nhưng nhiệm vụ chính của
các cơ quan này là tham mưu giúp chính phủ ban hành và tổ chức thực hiện cơ
chế, chính sách cho thanh niên. Có thể thấy, mô hình chung trong việc xây dựng
và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên của các nước là xây
dựng một hệ thống những chủ thể tham gia với cấu trúc như sau: một là, hệ
thống cơ quan nhà nước ở trung ương; hai là, hệ thống các cơ quan nhà nước
ở địa phương, trong đó, một số quốc gia phân quyền cho chính quyền địa
phương được tự chủ trong việc xây dựng chính sách thanh niên cho riêng mình
phù hợp với quy định chung về chính sách thanh niên; ba là, các dịch vụ xã hội
dành cho thanh niên tồn tại ở tất cả các quốc gia được rà soát với các tên gọi
khác nhau và giải quyết các vấn đề khác nhau trong đời sống của thanh niên;
bốn là, các tổ chức phi chính phủ làm công tác thanh niên có thể bao gồm các
tổ chức của thanh niên hoặc các tổ chức làm việc vì thanh niên; năm là, mạng
lưới các cơ quan, tổ chức làm công tác thanh niên kết nối tất cả những cơ quan,
tổ chức, cá nhân tham gia công tác thanh niên {28, tr.52,53}.
Ở Việt Nam, trước đây, Chính phủ chưa giao cho một cơ quan nào thực
hiện quản lý nhà nước về thanh niên. Đến năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị
định số 48/2008/NĐ-CP ngày 17 tháng 4 năm 2008 quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu của Bộ Nội vụ, trong đó, giao cho Bộ Nội vụ quản lý
nhà nước về công tác thanh niên. Thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị tại Thông
60
báo số 327-TB/TW ngày 13 tháng 8 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 1471/QĐ-TTg về việc thành lập Vụ Công tác thanh niên
thuộc Bộ Nội vụ để giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về thanh niên. Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 04/2011/TT-
BNV ngày 10 tháng 02 năm 2011 hướng dẫn bổ sung nhiệm vụ, tổ chức và biên
chế của Sở Nội vụ, Phòng Nội vụ thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện về công tác
thanh niên.
Theo đó, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã
thành lập Phòng Công tác thanh niên thuộc Sở Nội vụ (bố trí có từ 02 đến 05
biên chế) và bố trí 01 biên chế chuyên trách về công tác thanh niên cho Phòng
Nội vụ cấp huyện; đối với cấp xã, nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên
được giao cho công chức Văn phòng - Thống kê thực hiện. Các bộ, cơ quan
ngang bộ giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên cho Vụ Tổ chức cán
bộ thực hiện. Đến ngày 31 tháng 10 năm 2014, Bộ Nội vụ ban hành Thông tư
số 15/2014/TT-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Sở Nội vụ thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; Phòng Nội vụ thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã thuộc tỉnh (bãi
bỏ Thông tư số 04/2011/TT-BNV ngày 10 tháng 02 năm 2011 của Bộ Nội vụ).
Theo đó, Phòng Công tác thanh niên được sáp nhập vào Phòng Xây dựng chính
quyền và đổi tên thành Phòng Xây dựng chính quyền và Công tác thanh niên
nhưng chức năng, nhiệm vụ của quản lý nhà nước về thanh niên của các địa
phương cơ bản vẫn được giữ nguyên. Bộ máy thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà
nước về thanh niên đã phát huy được hiệu quả trong việc tham mưu xây dựng,
ban hành chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối
với thanh niên; đồng thời phối hợp chặt chẽ với Đoàn Thanh niên các cấp xây
dựng và tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật nhằm chăm lo, bồi dưỡng,
61
đào tạo và phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của thanh niên.
Hiện nay, theo Luật thanh niên năm 2020 quy định tổ chức bộ máy quản
lý nhà nước về thanh niên gồm có các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm cụ thể
như sau:
Một là, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về thanh niên và có trách
nhiệm trong việc: Bảo đảm hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện các nội dung quản
lý nhà nước về thanh niên; bảo đảm cơ chế và biện pháp phối hợp giữa các Bộ,
cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương và cơ
quan, tổ chức có liên quan trong việc xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật
đối với thanh niên; bảo đảm xây dựng và thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu phát
triển thanh niên trong chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội dài hạn, trung hạn và hằng năm của quốc gia, ngành, lĩnh vực; báo cáo kết
quả thực hiện chính sách, pháp luật đối với thanh niên theo yêu cầu của Quốc
hội.
Hai là, Ủy ban quốc gia về Thanh niên Việt Nam là tổ chức phối hợp liên
ngành, có chức năng tư vấn giúp Thủ tướng Chính phủ về công tác thanh niên.
Ba là, Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà
nước về thanh niên và có trách niệm: Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành chính sách, pháp luật về thanh niên;
chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển thanh niên; đề xuất việc lồng ghép
chính sách, chỉ tiêu, mục tiêu phát triển thanh niên khi xây dựng chính sách,
chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của ngành, lĩnh
vực. Hướng dẫn các Bộ, ngành lồng ghép chỉ tiêu thống kê về thanh niên Việt
Nam vào hệ thống chỉ tiêu của Bộ, ngành; hướng dẫn các Bộ, cơ quan ngang
Bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh
niên; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ, công
chức làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên; chủ trì, phối hợp với các cơ
62
quan có liên quan quản lý, khai thác và công bố dữ liệu về thanh niên, chỉ số
phát triển thanh niên; chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ và Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh xây
dựng, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với thanh niên; kiểm tra,
thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị; sơ kết, tổng kết, thi đua, khen
thưởng; xử lý vi phạm theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền xử lý vi phạm trong việc thực hiện chính sách, pháp luật
đối với thanh niên; hằng năm, báo cáo Chính phủ kết quả thực hiện chính sách,
pháp luật đối với thanh niên và nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên; chủ
trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan quản lý hoạt động hợp tác quốc tế về
thanh niên theo quy định của pháp luật.
Bốn là, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, phối hợp với Bộ Nội vụ thực hiện quản lý nhà nước về thanh niên và
có trách nhiệm: Ban hành chính sách, cơ chế tạo điều kiện cho thanh niên tham
gia vào các chương trình phát triển của ngành, lĩnh vực; lồng ghép chính sách,
chỉ tiêu, mục tiêu phát triển thanh niên khi xây dựng chính sách, chiến lược,
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của ngành, lĩnh vực; lồng
ghép các chỉ tiêu thống kê về thanh niên Việt Nam vào hệ thống chỉ tiêu của
Bộ, ngành; hướng dẫn Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chính sách, pháp
luật đối với thanh niên thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực;
hằng năm, báo cáo việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với thanh niên theo
ngành, lĩnh vực, gửi Bộ Nội vụ để tổng hợp, báo cáo Chính phủ.
Năm là, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, có trách nhiệm: Ban hành nghị quyết về phát triển thanh niên tại địa
phương để thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với thanh niên;
quyết định các chỉ tiêu, mục tiêu phát triển thanh niên trong nghị quyết phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương hằng năm và từng giai đoạn; quyết định
63
phân bổ dự toán ngân sách để tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, chiến
lược, chương trình, kế hoạch phát triển thanh niên tại địa phương; giám sát việc
thực hiện chính sách, pháp luật đối với thanh niên tại địa phương; quyết định
biên chế của cơ quan được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh
niên.
Sáu là, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, thực hiện quản lý nhà nước về thanh niên và có trách nhiệm: Tổ chức
thực hiện chính sách, pháp luật, chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển
thanh niên tại địa phương; lồng ghép các chỉ tiêu, mục tiêu phát triển thanh niên
khi xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương
hằng năm và từng giai đoạn; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác
quản lý nhà nước về thanh niên; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của thanh niên khi đầu tư phát triển các cơ sở giáo dục, y tế, tư vấn sức khỏe,
cơ sở hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao; quản lý, khai thác và công bố dữ
liệu thống kê về thanh niên, chỉ số phát triển thanh niên tại địa phương; thực
hiện công tác thống kê, thông tin, hằng năm báo cáo kết quả thực hiện chính
sách, pháp luật về thanh niên, gửi Bộ Nội vụ để tổng hợp, báo cáo Chính phủ;
kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về
thanh niên; chỉ đạo, hướng dẫn Ủy ban nhân dân cấp dưới thực hiện nhiệm vụ
quản lý nhà nước về thanh niên.
Theo Thông tư số 5/2021/TT-BNV ngày 12 tháng 8 năm 2021 của Bộ Nội
vụ Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Nội
vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Phòng Nội vụ thuộc Ủy ban nhân dân
cấp huyện thì Sở Nội vụ và Phòng Nội vụ là cơ quan có trách nhiệm giúp Ủy
ban nhân dân cùng cấp thực hiện quản lý nhà nước về thanh niên trên địa bàn
và có nhiệm vụ:
64
Sở Nội vụ
- Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: Tổ chức triển khai thực hiện
chính sách, pháp luật, chiến lược, chương trình, kế hoạch, dự án, đề án phát
triển thanh niên tại địa phương; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công
tác quản lý nhà nước về thanh niên; thực hiện lồng ghép các chỉ tiêu, mục tiêu
phát triển thanh niên khi xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương hàng năm và từng giai đoạn, bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của thanh niên;
- Giải quyết theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền thực hiện cơ
chế, chính sách đối với thanh niên; giải quyết những vấn đề liên quan đến thanh
niên theo quy định của pháp luật và phân cấp quản lý của Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh;
- Quản lý, khai thác và công bố dữ liệu thống kê về thanh niên, chỉ số phát
triển thanh niên tại địa phương theo quy định của pháp luật.
Phòng Nội vụ
- Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện: Tổ chức triển khai thực
hiện chính sách, pháp luật, chiến lược, chương trình, kế hoạch, dự án, đề án
phát triển thanh niên tại địa phương; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác quản lý nhà nước về thanh niên; thực hiện lồng ghép các chỉ tiêu, mục
tiêu phát triển thanh niên khi xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương hàng năm và từng giai đoạn, bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của thanh niên;
- Giải quyết theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền thực hiện cơ
chế, chính sách đối với thanh niên; giải quyết những vấn đề liên quan đến thanh
niên theo quy định của pháp luật và phân cấp quản lý của địa phương;
- Quản lý, khai thác và công bố dữ liệu thống kê về thanh niên, chỉ số phát
65
triển thanh niên tại địa phương theo quy định của pháp luật.
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về thanh niên
2.3.1. Chính sách của Nhà nước về thanh niên
Chính sách thanh niên được hiểu là một bộ phận của chính sách công. Đó
chính là những định hướng, sách lược, giải pháp và công cụ mà Nhà nước ban
hành để tác động trực tiếp lên đối tượng thanh niên nhằm thực hiện những mục
tiêu nhất định hoặc giải quyết những vấn đề nhất định. Chính sách quốc gia về
thanh niên là văn bản pháp lý cơ bản về thanh niên, trong đó quy định các mục
tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc và các giải pháp chủ yếu nhằm tạo ra các điều kiện
kinh tế - xã hội, pháp luật và các bảo đảm cho sự phát triển của thanh niên và
huy động tiềm năng của thanh niên phục vụ cho sự phát triển của đất nước.
Ở Việt Nam, chính sách thanh niên của Nhà nước chính là sự thể chế hóa
những quan điểm, tư tưởng, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tư tưởng
nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta đó là bảo đảm các quyền cơ
bản của thanh niên, tạo điều kiện cho thanh niên phát triển trên nhiều lĩnh vực
và bảo đảm quyền tham gia của thanh niên trong việc xây dựng và tổ chức thực
hiện chính sách thanh niên.
2.3.2. Yếu tố kinh tế
Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước có ảnh hưởng rất lớn đối với quản
lý nhà nước về thanh niên. Đây là nhân tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên. Chính sách, pháp luật của nhà
nước muốn được thực hiện có hiệu quả phải được đảm bảo về kinh tế. Kinh tế
phát triển tạo ra nguồn lực (điều kiện về cơ sở vật chất, nguồn tài chính, môi
trường làm việc…) cho việc nghiên cứu, xây dựng, ban hành và tổ chức thực
hiện chính sách, pháp luật về thanh niên; phục vụ cho hoạt động quản lý nhà
nước về thanh niên. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của mình mà mỗi quốc gia
có quy định nguồn tài chính để đảm bảo thực hiện chính sách, pháp luật về
66
thanh niên. Mức độ nguồn tài chính để đảm bảo cho việc thực hiện công tác
thanh niên không đồng nhất và nguồn tài chính có thể xuất phát từ phía ngân
sách nhà nước cũng có thể được gây quỹ từ nhiều nguồn khác. Ví dụ, Luật
khung về thanh niên Hàn Quốc quy định một chương (chương VIII) về việc
thành lập quỹ công tác thanh niên ở Trung ương do Bộ Bình đẳng giới và Gia
đình quản lý, lấy từ nhiều nguồn khác nhau trong đó có nguồn ngân sách, nguồn
tài trợ của các tổ chức, cá nhân, lợi nhuận từ việc sử dụng quỹ… và thành lập
các quỹ thanh niên ở địa phương.
Hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu
công nghệ của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được xác định trong
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 được thông qua tại
Đại hội lần thứ XIII của Đảng là điều kiện, môi trường thuận lợi để thanh niên
thể hiện tài năng, sức trẻ, cống hiến cho đất nước. Trong điều kiện phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thanh niên ngày nay có
điều kiện phát triển tốt hơn cả về thể chất, trình độ học vấn, những kỹ năng hiện
đại so với nhiều thế hệ thanh niên lớp trước. Nhưng nền kinh tế thị trường cũng
đòi hỏi thanh niên phải không ngừng học tập, rèn luyện tay nghề, rèn luyện bản
thân để tránh khỏi những tác động tiêu cực. Điều này đòi hỏi quản lý nhà nước
về thanh niên phải được tăng cường hơn nữa. Một mặt, khơi dậy và sử dụng
hiệu quả những thế mạnh của thanh niên cho sự phát triển kinh tế của đất nước;
mặt khác, tạo điều kiện để thanh niên được phát triển toàn diện cả về thể lực,
trí lực và tâm lực đáp ứng đòi hỏi của nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2.3.3. Hội nhập quốc tế và khu vực
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc mở cửa, hội nhập quốc tế đã trở thành
một yêu cầu khách quan khi mà các quốc gia đang tập trung đẩy mạnh phát
67
triển kinh tế, phát triển đất nước. Hiện nay, tình hình thế giới có nhiều biến
động khó đoán định, sự cạnh tranh giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, xu
hướng hình thành cục diện đa cực, đa trung tâm, đa tầng nấc ngày càng rõ nét.
Điều này tác động sâu rộng và toàn diện đến cục diện thế giới, khu vực, quan
hệ quốc tế và sự ổn định chính trị, kinh tế, xã hội của các quốc gia trên thế giới.
Xu thế này đòi hỏi nước ta bên cạnh việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
sâu rộng và toàn diện thì cũng cần phải tính đến yếu tố “linh hoạt” và “hiệu
quả”. Văn kiện đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả
vì lợi ích quốc gia – dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia” [22,
tr.164].
Xu thế hội nhập quốc tế mở ra môi trường mới với nhiều thuận lợi cho
quá trình xây dựng đất nước. Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế trong rất
nhiều lĩnh vực, từ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ đến chính trị, văn
hóa… Hội nhập quốc tế tạo ra cho công dân nói chung và thanh niên Việt Nam
nói riêng nhiều cơ hội giao lưu và phát triển, đặc biệt là cơ hội học tập, việc
làm… Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế cũng đã và đang đặt ra cho thanh niên
Việt Nam nhiều thách thức, đó là sự tương thích giữa trình độ học vấn với các
cơ hội tìm kiếm việc làm có thu nhập cao; sự dung hòa giữa văn hóa truyền
thống với lối sống hiện đại… Hội nhập quốc tế tạo ra nhiều cơ hội để phát triển
nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức mà thanh niên phải vượt qua. Đây cũng là
những vấn đề mà quản lý nhà nước cần phải quan tâm, giải quyết. Chính sách,
pháp luật về thanh niên phải đảm bảo yêu cầu phù hợp với xu thế hội nhập quốc
tế, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và những biến đổi của thanh niên Việt
Nam trong tình hình mới. Nhất là việc xây dựng chính sách, pháp luật cần thực
hiện cơ chế đảm bảo quyền tham gia của thanh niên trong công tác xây dựng
68
và thực thi các chính sách, pháp luật tác động tới họ.
Kết luận chương 2
Thanh niên là một nhóm dân số đặc thù, ở một độ tuổi nhất định, có vai
trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc cả trong hiện tại
và tương lai. Sự phát triển của thanh niên luôn là vấn đề được quan tâm hàng
đầu của Việt Nam cũng như ở nhiều quốc gia trên thế giới. Hầu hết các quốc
gia luôn dành sự quan tâm, đầu tư cho thanh niên và đề ra những chính sách,
pháp luật để bảo đảm quyền của thanh niên, thúc đẩy thanh niên phát triển cũng
như đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Trong đó, việc bảo đảm, bảo vệ
quyền được sống, được học hành, được làm việc và các quyền tự do của thanh
niên có tầm quan trọng và ý nghĩa đặc biệt.
Với những đặc trưng riêng của mình, quản lý nhà nước về thanh niên có
vai trò quan trọng trong việc thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành
chính sách, pháp luật, chiến lược, chương trình hành động để bảo đảm quyền,
nghĩa vụ hợp pháp của thanh niên và phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt
trong phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, giúp duy trì và
thúc đẩy thanh niên phát triển toàn diện theo định hướng.
Những vấn đề lý luận cơ bản của quản lý nhà nước về thanh niên đã được
nghiên cứu, phân tích trong chuyên đề này như: Khái niệm, đặc điểm, vai trò
và nội dung, chủ thể của quản lý nhà nước về thanh niên; các yếu tố ảnh hưởng
đến quản lý nhà nước về thanh niên… Kết quả nghiên cứu này, bước đầu hướng
vào làm nền tảng cho việc đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về thanh niên,
69
trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về thanh niên.
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THANH NIÊN
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về thanh niên tại
Thành phố Hồ Chí Minh
3.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh là Thành phố trực thuộc Trung ương, thuộc loại
đô thị đặc biệt của Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội gần 1.730km đường bộ, nằm
ở ngã tư quốc tế giữa các con đường hàng hải từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang
Tây, là tâm điểm của khu vực Đông Nam Á. Phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương,
phía Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai,
phía Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu, phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh
Long An và Tiền Giang. Trung tâm thành phố cách bờ biển Đông 59km đường
70
chim bay và có 12 km bờ biển. Đây là đầu mối giao thông nối liền các tỉnh
trong vùng và là cửa ngõ quốc tế. Thành phố có hệ thống cảng và sân bay lớn
nhất cả nước với tổng diện tích tự nhiên là 2.095,2 km². Thành phố được chia
thành 22 quận huyện, trong đó có 01 thành phố, 16 quận và 5 huyện gồm: Thành
phố Thủ Đức, Quận 1, Quận 3, Quận 4, Quận 5, Quận 6, Quận 7, Quận 8, Quận
10, Quận 11, Quận 12, Quận Bình Thạnh, Quận Bình Tân, Quận Gò Vấp, Quận
Phú Nhuận, Quận Tân Bình, Quận Tân Phú, Huyện Bình Chánh, Huyện Cần
Giờ, Huyện Củ Chi, Huyện Hóc Môn và Huyện Nhà Bè. Thành phố Thủ Đức
là thành phố đầu tiên và cũng là thành phố duy nhất thuộc đơn vị hành chính
thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương.
Thành phố là nơi hội tụ đa dạng các thành phần xã hội đến sinh sống, học
tập và làm việc; tổng dân số là 8.993.082 người, trong đó dân cư phân bố không
đồng đều, chủ yếu tập trung ở thành thị với 7.125.493 người, nông thôn là
1.867.589 người [71]. Thời gian gần đây, do yêu cầu giãn dân và quá trình đô
thị hóa, dân cư có xu hướng dịch chuyển từ nội thành ra ngoại thành và các
quận mới xây.
Trong quá trình phát triển và hội nhập, thành phố Hồ Chí Minh luôn là
một trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ của cả nước; là hạt nhân
của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, một trong ba vùng kinh tế trọng điểm
lớn nhất nước. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, về quy mô thành
phố chỉ chiếm 0,6% diện tích và 8,3% dân số nhưng đã đóng góp 20,2% tổng
sản phẩm quốc gia, 26,1% giá trị sản xuất công nghiệp và 44% dự án đầu
tư nước ngoài.
Thực hiện tốt các nhiệm vụ và giải pháp mà Nghị quyết 16-NQ/TW của
Bộ Chính trị về phương hướng nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh
đến năm 2020 đã đề ra cùng với việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội đất nước thời kỳ 2011-2020, đến năm 2020, Thành phố phải đạt được
71
mục tiêu: “Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh văn minh, hiện đại với vai trò
đô thị đặc biệt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đóng góp
ngày càng lớn với khu vực và cả nước; từng bước trở thành trung tâm lớn về
kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học – công nghệ của đất nước và khu vực
Đông Nam Á; góp phần tích cực đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020”. Vai trò, vị trí của thành phố đối với khu
vực và cả nước sẽ được nâng lên tầm cao mới. Đó sẽ là một thành phố có kinh
tế phát triển cao dựa trên nền tảng dịch vụ và công nghiệp có giá trị gia tăng
cao, nơi hội tụ của giới kinh doanh, thu hút các tập đoàn kinh tế trong và ngoài
nước, một trung tâm công nghiệp, tài chính và thương mại của Đông Nam Á.
3.1.2. Tình hình thanh niên tại thành phố Hồ Chí Minh
Việt Nam đang ở thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”, thanh niên chiếm tỉ lệ
lớn nhất trong cơ cấu dân số so với các thời kỳ lịch sử phát triển nhân khẩu
của đất nước. Theo số liệu mới nhất của Ủy ban Quốc gia về thanh niên Việt
Nam, hiện nay nước ta có hơn 22,1 triệu người trong độ tuổi thanh niên,
chiếm khoảng 22,5% dân số cả nước và gần 36% lực lượng lao động. Trong
đó, gần 60% thanh niên sống ở nông thôn và 98,7% người trong độ tuổi lao
động có việc làm.
Là thành phố đông dân nhất cả nước, thanh niên thành phố Hồ Chí Minh
chiếm một số lượng lớn trong tổng dân số của thành phố, đây là lực lượng quan
trọng góp phần đảm bảo tính trẻ trong cơ cấu dân số của Thành phố, tạo cảm
hứng để tái tạo sự năng động chung, góp phần vào sự phát triển bền vững của
Thành phố. Tính đến năm 2020, thanh niên thành phố Hồ Chí Minh là 2,9 triệu
thanh niên (từ 16 tuổi đến 30 tuổi), chiếm 30% tổng dân số của thành phố, trong
đó, thanh niên nông thôn chiếm khoảng 10%, thanh niên dân tộc thiểu số chiếm
khoảng 8%; lực lượng lao động thanh niên là 1,2 triệu người. Bên cạnh lực
lượng thanh niên có hộ khẩu thường trú, mỗi năm, Thành phố còn tiếp nhận
72
một lực lượng thanh niên từ các tỉnh, thành phố khác đến sinh sống, học tập,
làm việc. Năm 2019 có khoảng 187.000 người trong độ tuổi thanh niên từ các
địa phương khác đến Thành phố. Trong 10 năm qua, thanh niên Thành phố tăng
nhanh về số lượng từ 2.089 triệu người lên khoảng 2,9 triệu người [88].
Thanh niên Thành phố có sự chuyển biến tích cực về nhận thức và hành
động, về ý thức công dân và lý tưởng cách mạng; nêu cao tinh thần yêu nước,
quan tâm đến các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; không ngại khó
khăn, gian khổ, xung kích, tình nguyện vì cộng đồng; có trách nhiệm với gia
đình và xã hội; trình độ học vấn, nghề nghiệp, hiểu biết pháp luật từng bước
được nâng lên; hăng say lao động và học tập. Thanh niên công nhân lao động
không ngừng cải tiến kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh; công chức, viên chức
trẻ chủ động ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý nhà nước, cải cách hành
chính; thanh niên lực lượng vũ trang có nhận thức chính trị vững vàng, trung
thành với Đảng, với nhân dân, trình độ, kỹ thuật, nghiệp vụ ngày càng nâng
cao; trí thức trẻ tích cực nghiên cứu khoa học, ứng dụng, chuyển giao kỹ thuật,
công nghệ mới đạt hiệu quả khá tốt; doanh nhân trẻ tích cực tham gia các hoạt
động xã hội, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Thanh niên ngày
càng thể hiện rõ nét vai trò của mình trong các phong trào, các cuộc vận động
và sự phát triển của Thành phố, địa phương, đơn vị.
Tuy nhiên, những mặt trái của nền kinh tế thị trường, của hội nhập quốc
tế cũng đã tác động không nhỏ đến một phận thanh niên Thành phố. Vẫn còn
một bộ phận thanh niên chưa xác định được lý tưởng, chạy theo lối sống thực
dụng, suy thoái đạo đức, xu hướng bạo lực, bạo hành trong ứng xử, quan hệ xã
hội tăng lên; sống thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và cộng đồng, ít
quan tâm đến tình hình đất nước, mắc các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật;
trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận thanh niên chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển của Thành phố; một bộ phận thanh niên thiếu kiến thức
73
về lịch sử, văn hóa dân tộc, ngoại ngữ, tin học, tác phong làm việc, khả năng
tư duy độc lập, kỹ năng thực hành xã hội; còn thụ động trong nắm bắt những
cơ hội để vươn lên; một số ít thanh niên bị lợi dụng, kích động, lôi kéo vào các
hành vi gây rối, vi phạm pháp luật…
3.1.3. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên tại thành phố
Hồ Chí Minh
Thực hiện Thông tư số 04/2011/TT-BNV về hướng dẫn bổ sung nhiệm
vụ, tổ chức và biên chế của Sở Nội vụ, Phòng Nội vụ thuộc Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh, cấp huyện về công tác thanh niên, Ủy ban nhân dân Thành phố đã giao
Sở Nội vụ thành lập phòng Công tác thanh niên thuộc Sở Nội vụ làm đầu mối
phụ trách tham mưu công tác quản lý nhà nước về thanh niên của Thành phố;
các Sở, ngành, Phòng Nội vụ các quận, huyện, Ủy ban nhân dân các xã, phường,
thị trấn bố trí cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên. Đến nay,
Thành phố đã có 56/56 Sở, ngành có 01 lãnh đạo và 01 chuyên viên thuộc khối
Văn phòng hoặc Phòng Tổ chức cán bộ phụ trách làm đầu mối tham mưu cho
lãnh đạo cơ quan, đơn vị; 22/22 quận, huyện và thành phố Thủ Đức có 01 lãnh
đạo và 01 chuyên viên Phòng Nội vụ phụ trách và 319/322 xã, phường, thị trấn
có 01 chuyên viên văn phòng – thống kê phụ trách. Tổng số lãnh đạo phụ trách
công tác quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố là 80 người, chuyên
viên là 402 người [88]. Đồng thời, Ủy ban nhân dân Thành phố thành lập Hội
đồng Công tác thanh niên Thành phố trên cơ sở hoạt động kiêm nhiệm của các
thành viên là lãnh đạo của các Sở, ngành Thành phố với nòng cốt là hai cơ quan
có vai trò chính trong công tác phát triển thanh niên là Thành Đoàn và Sở Nội
vụ. Hội đồng có chức năng là cơ quan chuyên môn giúp việc trực tiếp tham
mưu, tư vấn, đề xuất đến chính quyền Thành phố ban hành các chính sách, tổ
chức thực hiện các chương trình, đề án nhằm bảo đảm cho thanh niên Thành
phố thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ trong Luật thanh niên, từ đó phát
74
triển bản thân, góp phần xây dựng và phát triển Thành phố, phát triển đất nước.
Sau khi Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 15/2014/TT-BNV ngày 31
tháng 10 năm 2014 về Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Sở Nội vụ thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương; Phòng Nội vụ thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh, bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên của Thành phố được
sắp xếp lại. Cụ thể:
- Sở Nội vụ thành lập Phòng Tổ chức phi chính phủ và công tác thanh niên
với 06 biên chế, trong đó bố trí 03 công chức chuyên trách có trách nhiệm trực
tiếp tham mưu cho lãnh đạo Sở trình Ủy ban nhân dân Thành phố các nhiệm
vụ quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn Thành phố. Từ đầu
năm 2020 đến nay, do yêu cầu của việc sắp xếp, tổ chức tinh gọn lại bộ máy
hành chính nhà nước và được sự đồng ý của Bộ Nội vụ, Ủy ban nhân dân Thành
phố đã ban hành Quyết định số 15/2020/QĐ-UBND ngày 19 tháng 6 năm 2020
về ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Sở Nội vụ Thành phố Hồ Chí
Minh, trong đó quy định nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thanh niên
được tách ra khỏi phòng Tổ chức phi chính phủ và công tác thanh niên chuyển
giao về Phòng Xây dựng chính quyền và đổi tên thành Phòng Xây dựng chính
quyền và công tác thanh niên (kèm theo 02 công chức chuyên trách nhiệm vụ
công tác thanh niên được chuyển từ Phòng Tổ chức phi chính phủ và công tác
thanh niên về Phòng Xây dựng chính quyền và công tác thanh niên).
- Đối với sở, ngành có 20 sở, ngành Thành phố thực hiện việc phân công
01 công chức thuộc Phòng Hành chính, Tổ chức cán bộ, Văn phòng Sở hoặc
Bí thư Đoàn cơ quan kiêm nhiệm làm công tác thanh niên.
- Đối với Phòng Nội vụ cấp huyện có 22/22 quận, huyện và thành phố Thủ
Đức bố trí 01 công chức thuộc Phòng Nội vụ và phân công 68 công chức thuộc
các phòng chuyên môn khác của 7/22 quận, huyện và thành phố Thủ Đức thực
75
hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên.
- Có 319/322 Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn thực hiện việc phân
công công chức Văn phòng – Thống kê phụ trách công tác thanh niên tại địa
phương.
Theo Quyết định số 37/2021/QĐ-UBND ngày 09 tháng 9 năm 2021 của
Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quy định quản lý nhà nước
về thanh niên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thì Ủy ban nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh thống nhất quản lý nhà nước về thanh niên trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện các nội dung quản
lý nhà nước về thanh niên; các cơ quan, đơn vị có liên quan thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về thanh niên theo phân công của Ủy ban nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong đó, Sở Nội vụ là cơ quan Thường trực giúp Ủy ban nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh quản lý nhà nước về thanh niên, tham mưu Ủy ban nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện các nhiệm vụ cụ thể như: Tổ chức triển khai
thực hiện các văn bản hướng dẫn của Trung ương về thanh niên. Đồng thời chỉ
đạo, hướng dẫn nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên cho các cơ quan, đơn
vị; xây dựng Chương trình, Kế hoạch phát triển thanh niên của Thành phố trên
cơ sở bám sát nội dung hướng dẫn của Trung ương và nhiệm vụ chính trị của
Thành phố Hồ Chí Minh; rà soát, xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật
đối với thanh niên thuộc chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh; lồng ghép các mục tiêu, chỉ tiêu về phát triển thanh niên trong
xây dựng và tổ chức thực hiện Chiến lược, Chương trình, Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh. Trong đó, xác định rõ các nội
dung hoạt động, cơ chế, chính sách và điều kiện thực hiện để đạt được mục
tiêu, chỉ tiêu đề ra; chủ trì việc phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị triển khai
thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên. Chủ động phối hợp với
76
Cục Thống kê Thành phố và các cơ quan, đơn vị có liên quan xây dựng, quản
lý, khai thác dữ liệu thống kê về thanh niên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh và báo cáo Bộ Nội vụ theo quy định; phối hợp với Thành Đoàn Thành
phố Hồ Chí Minh và các cơ quan, đơn vị có liên quan tham mưu Ủy ban nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức gặp gỡ, đối thoại với thanh niên, tham
vấn ý kiến của thanh niên về các vấn đề có liên quan đối với thanh niên; tham
gia đầy đủ các khóa tập huấn, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ do Bộ Nội
vụ tổ chức. Đồng thời chủ trì tổ chức bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ cho
đội ngũ cán bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên của
Thành phố Hồ Chí Minh; quản lý hoạt động hợp tác quốc tế về thanh niên theo
quy định của pháp luật; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý
vi phạm theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền xử lý vi phạm trong việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với thanh
niên; khen thưởng theo thẩm quyền và trình cấp có thẩm quyền tập thể, cá nhân
có thành tích xuất sắc trong công tác quản lý nhà nước về thanh niên của Thành
phố Hồ Chí Minh; chủ trì sơ kết, tổng kết, báo cáo Bộ Nội vụ, Chính phủ tình
hình thực hiện các quy định của pháp luật đối với thanh niên.
- Các Sở, ban, ngành Thành phố: Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và thẩm
quyền quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực; ngoài chức năng, nhiệm vụ đã
được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phân công tại Chương trình,
Kế hoạch phát triển thanh niên Thành phố theo từng giai đoạn.
3.2. Thực tiễn quản lý Nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí
Minh
3.2.1. Xây dựng chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện chính sách,
pháp luật về thanh niên
Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên, Thành phố Hồ Chí Minh đã
77
xây dựng và ban hành chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về thanh niên
và quản lý nhà nước về thanh niên. Các chính sách về thanh niên được ban hành
cụ thể như: Chính sách đối với thanh niên dân tộc thiểu số (Chính sách đào tạo
nghề tạo việc làm cho thanh niên người dân tộc thiểu số ban hành kèm theo
Quyết định số 3819/QĐ-UBND ngày 26 tháng 7 năm 2016 của Ủy ban nhân
dân Thành phố về phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề, tạo việc làm cho người dân
tộc thiểu số trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2016-2020; chính
sách đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng…); chính
sách đối với thanh niên xung phong (chế độ tiền lương, trợ cấp; cấp trang phục
theo niên hạn 02 năm một lần); chính sách đối với thanh niên khuyết tật, thanh
niên nhiễm HIV/AIDS, thanh niên sau cai nghiên ma túy, sau cải tạo (Ủy ban
nhân dân Thành phố thực hiện Chương trình “Mục tiêu 03 giảm” và triển khai
thực hiện đề án “Tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người
sau cai nghiện”). Ngoài ra, Thành phố cũng lồng ghép chính sách phát triển
thanh niên khi xây dựng chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của ngành, lĩnh vực hàng năm và từng giai đoạn.
Thành phố đã ban hành và triển khai thực hiện nhiều văn bản nhằm cụ thể
hóa Luật thanh niên như: Chỉ thị só 29/2014/CT-UBND ngày 19 tháng 12 năm
2014 về việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác thanh
niên trên địa bàn thành phố; Quy chế số 5090/QC-UBND-TĐTN ngày 28 tháng
9 năm 2016 của Ủy ban nhân dân thành phố và Ban Chấp hành Thành Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh về phối hợp công tác của Ủy ban nhân dân thành phố và
Ban Chấp hành Thành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; Quyết định số 37/2021/QĐ-
UBND ngày 09 tháng 9 năm 2021 ban hành Quy định quản lý nhà nước về
thanh niên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Trong đó, xác định nội dung
quản lý nhà nước về thanh niên gồm: Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật
đối với thanh niên và các văn bản hướng dẫn của các cấp có thẩm quyền về
78
thanh niên tại địa phương; xây dựng chương trình, Kế hoạch phát triển thanh
niên ở địa phương. Lồng ghép các mục tiêu, chỉ tiêu về phát triển thanh niên
trong xây dựng và tổ chức thực hiện Chương trình, Kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh; xây dựng quy hoạch về đầu tư phát triển
các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao, vui chơi, giải trí cho thanh
thiếu niên phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của địa phương, trình Hội đồng
nhân dân cùng cấp phê duyệt để tổ chức thực hiện; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng
về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức phụ trách công tác
quản lý nhà nước về thanh niên tại địa phương; xây dựng dữ liệu thống kê về
thanh niên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; thực hiện hoạt động hợp tác
quốc tế thanh niên theo quy định; tổ chức gặp gỡ, đối thoại với thanh niên để
nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của thanh niên; lắng nghe ý kiến, kiến nghị, đề
xuất của thanh niên để kịp thời chỉ đạo giải quyết, xử lý những khó khăn, bất
cập, vướng mắc trong công tác thanh niên; tham vấn ý kiến của thanh niên về
các vấn đề liên quan cần giải quyết đối với thanh niên; thanh tra, kiểm tra, xử
lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến thực hiện chính sách,
pháp luật về thanh niên tại địa phương; báo cáo kết quả thực hiện chính sách,
pháp luật đối với thanh niên và việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về
thanh niên; chủ trì sơ kết, tổng kết công tác quản lý nhà nước về thanh niên tại
địa phương. Quyết định số 37/2021/QĐ-UBND cũng quy định rõ trách nhiệm
của các cơ quan, đơn vị, tổ chức có liên quan trong việc thực hiện quản lý nhà
nước về thanh niên của Thành phố.
Ngoài ra, các Sở, ban ngành Thành phố và Ủy ban nhân dân quận – huyện
và thành phố Thủ Đức căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao và các văn
bản hướng dẫn, triển khai nhiệm vụ từ các Bộ - ngành Trung ương xây dựng
chương trình, kế hoạch phát triển thanh niên theo ngành, lĩnh vực, đơn vị quản
lý hành chính phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của thành phố nhằm triển
79
khai có hiệu quả Luật thanh niên.
Để chính sách, pháp luật về thanh niên đi vào cuộc sống, Thành ủy, Ủy
ban nhân dân Thành phố tổ chức các buổi hội nghị tuyên truyền, phổ biến chính
sách, pháp luật về thanh niên đến các ngành, các cấp trên địa bàn Thành phố để
triển khai đồng bộ, đa dạng và thường xuyên, đảm bảo việc tiếp cận đầy đủ các
chính sách, pháp luật của Nhà nước đến các đối tượng thanh niên khác nhau
đang sinh sống, học tập và làm việc tại Thành phố.
Trong những năm qua, công tác tuyên truyền, phổ biến Luật thanh niên
đến các cán bộ, công chức, thanh niên, người dân của Thành phố được thực
hiện đầy đủ, thường xuyên và đem lại hiệu quả tích cực. Thành phố đã trực tiếp
tổ chức nhiều buổi tuyên truyền, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức sinh
động, trực quan như các chuyên mục, chuyên trang pháp luật trên hệ thống báo
chí, đài phát thanh, đài truyền hình thành phố, trực tiếp tư vấn pháp luật tại các
trường học, khu nhà trọ, khu lưu trú thanh niên công nhân, miễn phí phát tờ rơi,
áp phích, băng rôn, panel tuyên truyền… Mỗi năm từ một đến hai lần, Thành
phố định kỳ tổ chức Hội nghị quán triệt Luật thanh niên, tập huấn nghiệp vụ
công tác quản lý nhà nước về thanh niên cho toàn bộ đội ngũ cán bộ, công chức
trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện công tác thanh niên và quản lý nhà nước về
công tác thanh niên trên địa bàn Thành phố.
Việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên
đã đem lại những kết quả nhất định thể hiện trên một số lĩnh vực cụ thể:
- Trong lĩnh vực học tập của thanh niên
Chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền và nghĩa vụ của thanh niên
trong học tập đã được Thành phố cụ thể hóa thành các Đề án, chương trình, kế
hoạch hành động và triển khai tổ chức thực hiện. Thanh niên Thành phố được
tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận với học tập và bình đẳng về cơ hội học tập. Đối
với giáo dục phổ thông, thanh niên đang theo học tại các cơ sở giáo dục luôn
80
được quan tâm và tạo điều kiện trong học tập và rèn luyện. Thanh niên từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi được phân luồng theo học tại các trường Trung học
phổ thông trên địa bàn thành phố, số còn lại ngoài chỉ tiêu vào các trường Trung
học phổ thông công lập được sắp xếp theo học tại mạng lưới các trường Trung
học phổ thông ngoài công lập và các Trung tâm Giáo dục thường xuyên. Từ
năm 2011 đến năm 2020, Thành phố hoàn thành chỉ tiêu mỗi năm đạt 80%
thanh niên Thành phố có trình độ học vấn trung học phổ thông và tương đương.
Đối với đào tạo và dạy nghề, thanh niên tốt nghiệp trung học cơ sở không
tiếp tục theo học bậc trung học phổ thông được sắp xếp vào học tại các Trường
Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng nghề, trung cấp nghề có đào tạo
bậc Trung cấp chuyên nghiệp hệ tốt nghiệp Trung học cơ sở (từ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi). Đối với học sinh tốt nghiệp Trung học cơ sở không tiếp tục học
Trung học phổ thông mà ưu tiên lựa chọn học nghề hoặc học bậc trung cấp
chuyên nghiệp tại các trường trung cấp, cao đẳng, ngoài chế độ miễn, giảm học
phí mức từ 50% trở lên tùy từng đối tượng còn được ưu tiên về chế độ học bổng
khuyến khích học tập. Các cơ sở giáo dục dành mức kinh phí tương đương 8%
tổng thu học phí để thực hiện chế độ học bổng, khuyến khích học tập.
Đối với phổ cập giáo dục, với nhóm thanh niên trong diện phổ cập giáo
dục, ngành giáo dục luôn quan tâm và phối hợp với các ban, ngành và địa
phương trên địa bàn thành phố để thực hiện. Nhiều trường trung cấp chuyên
nghiệp, dạy nghề đã tổ chức lấy ý kiến phản hồi từ các doanh nghiệp qua việc
tiếp nhận sinh viên, học sinh đang làm việc tại doanh nghiệp để đổi mới mục
tiêu, nội dung và chương trình đào tạo; đồng thời, tăng cường phần thực hành,
thực tập lên 50-75% tổng thời gian theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo
nhằm nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên khi ra trường có
đầy đủ kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cần thiết đáp ứng được các yêu cầu
của doanh nghiệp và xã hội nói chung; mở rộng liên kết đào tạo với các trường
81
đại học, cao đẳng trong nước để tạo điều kiện cho học sinh được học liên thông
lên bậc cao hơn như: Trường Cao đẳng công nghệ Thủ Đức liên kết với Trường
Đại học Bình Dương, Trường trung cấp Ánh Sáng liên kết với Trường trung
cấp Đắk Lắk, Trường Trung cấp Âu Việt liên kết với Trường Cao đẳng Y tế
Trà Vinh và Trường Cao đẳng Y tế Kiên Giang…
Các trường chuyên nghiệp phối hợp với các trung tâm giáo dục thường
xuyên, trung tâm kỹ thuật hướng nghiệp, các trường Trung học cơ sở và trường
Trung học phổ thông, 24 phòng giáo dục và đào tạo các quận, huyện và các
báo, đài tổ chức các buổi tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trong việc định
hướng nghề nghiệp; đưa học sinh Trung học cơ sở và trường Trung học phổ
thông đến trường chuyên nghiệp để tham quan, tìm hiểu ngành nghề; tổ chức
ngày hội tư vấn hướng nghiệp và việc làm với sự phối hợp của các doanh
nghiệp, đoàn thể, chính quyền địa phương như Trường Trung cấp kỹ thuật và
nghiệp vụ Sài Gòn, Trường Cao đẳng Công nghệ Thủ Đức…
- Trong lĩnh vực khoa học, công nghệ
Thực hiện các nội dung trong Luật thanh niên, Thành phố quan tâm, chỉ
đạo các sở, ban ngành phối hợp chặt chẽ với tổ chức Đoàn thành niên thường
xuyên tổ chức các hội thi, cuộc thi nghiên cứu, sáng tạo, khoa học trẻ, điển hình
như giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka. Giải thưởng này là hoạt
động học thuật bổ ích cho sinh viên Thành phố trau dồi năng lực nghiên cứu
khoa học, phát huy sáng kiến. Từ năm 2013 đến nay, đã có 2.266/5.486 đề tài
nghiên cứu khoa học, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, ứng dụng khoa học kỹ thuật
công nghệ, giải pháp hiến kế được ứng dụng vào thực tiễn, trong đó có 184 đề
tài nghiên cứu khoa học đạt Giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka
cấp thành phố và tham gia cấp Bộ đạt giải thưởng cao. Bên cạnh đó còn có
phong trào “Tuổi trẻ sáng tạo” với 02 cuộc thi “Ý tưởng sáng tạo trẻ” và “Sáng
82
tạo thanh thiếu nhi thành phố” được duy trì hàng năm nhằm tạo điều kiện, môi
trường phát huy nhiều sáng kiến thực hành tiết kiệm được áp dụng trong thực
tế; Hội thi tin học trẻ thành phố Hồ Chí Minh.
Hàng năm, Thành phố dành một khoản kinh phí từ ngân sách để động
viên, khuyến khích thanh niên tham gia nghiên cứu, ứng dụng và phát triển các
sản phẩm sáng tạo vào cuộc sống như chương trình Vườn ươm Khoa học Công
nghệ trẻ, Quỹ Bảo trợ Tài năng trẻ. Ngoài ra, Thành phố ban hành hoặc lồng
ghép các cơ chế, chính sách để tạo điều kiện cho thanh niên tham gia hoạt động
khoa học, nghiên cứu khoa học và tạo môi trường để thanh niên cập nhật thông
tin khoa học kỹ thuật.
- Trong lĩnh vực lao động, việc làm của thanh niên
Lao động, việc làm của thanh niên là vấn đề luôn được Nhà nước quan
tâm và tạo điều kiện. Điều 10 Luật thanh niên quy định quyền và nghĩa vụ của
thanh niên trong lao động; Điều 18 quy định trách nhiệm của nhà nước đối với
thanh niên trong lao động. Luật việc làm đã dành 01 điều (Điều 21) quy định
hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên. Đồng thời, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 61/2015/NĐ-CP ngày 9 tháng 7 năm 2015 quy định về chính sách hỗ
trợ tạo việc làm và Quỹ Quốc gia về việc làm, trong đó, dành 01 chương với 6
điều (Chương IV) quy định về hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên; hỗ trợ thanh
niên lập nghiệp, khởi nghiệp.
Xác định thanh niên là lực lượng lao động quan trọng để thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội, trên cơ sở chính sách, pháp luật của Nhà nước, Thành phố
đã có nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng lao động và giải quyết
việc làm cho thanh niên. Thành phố thường xuyên thực hiện khảo sát tình hình
sử dụng lao động và nhu cầu tuyển dụng lao động tại doanh nghiệp, nhu cầu
học nghề và việc làm của sinh viên, học sinh, người lao động; thực hiện phân
tích thị trường lao động định kỳ hàng tháng, hàng quý, hàng năm, dự báo nhu
83
cầu nhân lực thành phố ngắn hạn (dưới 01 năm), trung hạn (3-5 năm) và dài
hạn giai đoạn 2011-2015, 2015-2020 đến năm 2025 góp phần thực hiện hiệu
quả “Chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phục vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa Thành phố”, “Quy hoạch phát triển nhân lực Thành phố Hồ
Chí Minh giai đoạn 2011-2020” và kế hoạch chương trình đào tạo, chương trình
làm việc của Thành phố hàng năm và giai đoạn 2020-2025.
Từ kết quả phân tích, dự báo tình hình lao động, việc làm hàng năm, Thành
phố đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, các trường Đại học, Cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề và giải quyết việc làm tổ chức hoạt động
hướng nghiệp, tuyển sinh gắn kết đào tạo theo nhu cầu xã hội. Trung bình mỗi
năm thực hiện tư vấn hướng nghiệp cho trên 200.000 lượt học sinh, sinh viên,
người lao động, trong đó 100% trong độ tuổi thanh niên [87]. Mạng lưới các cơ
sở giáo dục nghề nghiệp của thành phố tiếp tục được hoàn thiện và phát triển
với nhiều hình thức sở hữu và loại hình đào tạo, từng bước đáp ứng nhu cầu
học nghề của người lao động trên địa bàn thành phố.
- Giải quyết việc làm
Từ năm 2006-2016, Thành phố đã giải quyết việc làm cho 3.129.083 lao
động, trong đó có khoảng 65%-70% lao động trong độ tuổi thanh niên được tư
vấn, giới thiệu việc làm trong các thành phần kinh tế tương ứng với 2,1 triệu
người. Bên cạnh số lao động được tư vấn, giới thiệu việc làm trong nước thông
qua các thành phần kinh tế, thành phố luôn quan tâm đến hoạt động đưa người
lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, tạo điều kiện để các đối tượng lao
động – trong đó có đối tượng thanh niên – tiếp cận nhanh chóng các thông tin,
chương trình đi làm việc ở các nước thông qua các cơ quan nhà nước, tổ chức
đoàn thể các cấp, các phương tiện thông tin đại chúng. Số lao động của thành
phố được giải quyết việc làm thông qua hoạt động đưa người lao động đi làm
việc ở nước ngoài là 7.042 người, đặc thù của thị trường lao động một số nước
84
ưu tiên tiếp nhận lao động có độ tuổi từ 18 đến 29 tuổi, do đó lao động thanh
niên đi làm việc ở nước ngoài chiếm khoảng 80% tổng số lao động; có 100%
lao động được tham gia khóa học bồi dưỡng kiến thức cần thiết và giáo dục
định hướng trước khi đi làm việc ở nước ngoài.
- An ninh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc
Giáo dục bồi dưỡng kiến thức an ninh, quốc phòng, truyền thống yêu
nước, ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho thanh niên luôn được Thành phố
quan tâm thực hiện. Thành phố thường xuyên triển khai các đợt sinh hoạt
chuyên đề chính trị, thông tin tình hình chính trị định kỳ giúp cho thanh niên
và người dân nâng cao nhận thức trước những âm mưu, thủ đoạn của các thế
lực thù địch; thường xuyên nắm bắt dư luận xã hội trong đoàn viên, thanh niên;
đồng thời, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng tham gia giữ vững ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thành phố. Hàng năm, Thành
phố ban hành các văn bản, hướng dẫn về công tác tuyển chọn và gọi công dân
nhập ngũ có thời hạn trong Công an nhân dân. Hội đồng Nghĩa vụ quân sự
Thành phố thường xuyên quân tâm, chỉ đạo thực hiện tốt công tác tuyên truyền
và vận động giáo dục thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự, nhất là công dân và gia
đình có con em trong độ tuổi sẵn sàng nhập ngũ; tổ chức đưa thanh niên nhập
ngũ tham quan giáo dục truyền thống ở các đơn vị nhận quân, tổ chức về nguồn
thăm và viếng bia tưởng niệm, căn cứ cách mạng.
Bên cạnh đó, Thành phố thực hiện chính sách hậu phương quân đội với
nhiều chương trình công tác xã hội như: xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa,
xây dựng nhà tình nghĩa nhà tình thương... với số tiền hỗ trợ là 102,138 tỷ đồng,
bình quân mỗi thanh niên lên đường nhập ngũ được nhận một phần quà trị giá
khoảng 2,5 triệu đồng. Với thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, thực
hiện đào tạo nghề cho bộ đội xuất ngũ; hỗ trợ giới thiệu việc làm cho 22.673
thanh niên, hỗ trợ vốn cho 4.858 thanh niên với tổng số vốn vay trên 21 tỷ đồng.
85
- Hoạt động văn hóa, nghệ thuật, vui chơi, giải trí
Thành phố tổ chức nhiều các loại hình hoạt động văn hóa, văn nghệ, tạo
điều kiện cho thanh niên có sân chơi lành mạnh, bổ ích. Các bảo tàng thường
xuyên duy trì việc tổ chức các hoạt động giáo dục, giao lưu phục vụ cho các
đối tượng là học sinh, sinh viên và đoàn viên thanh niên như: giao lưu đờn ca
tài tử, Câu lạc bộ Em yêu lịch sử; tổ chức các chương trình giao lưu với nhiều
chủ đề gắn với thanh, thiếu nhi, với quê hương, đất nước và tình thương yêu
trong gia đình; duy trì các Hội thi vẽ tranh hàng năm trong thanh niên, học sinh
với chủ đề “Nét vẽ xanh”; phối hợp với các trường đại học, cao đẳng, phổ thông
tổ chức phong trào “Xây dựng trường học thân thiện”, “Hành trình đến với bảo
tàng”, “chương trình “Giờ sử học tại Bảo tàng”; tổ chức mô hình thi đua “Công
tác tuyên truyền giáo dục về Biển đảo” cho học sinh, sinh viên và đoàn viên,
thanh niên. Các nhà hát Giao hưởng – Nhạc, Vũ kịch tiếp tục xây dựng các
chương trình định kỳ và chương trình phục vụ cho giới sinh viên, học sinh
Thành phố Hồ Chí Minh được tổ chức vào ngày 29 hàng tháng tại Nhà hát
Thành phố.
Bên cạnh đó, Thành ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố tạo điều kiện về kinh
phí, cơ sở vật chất để Tổ chức Đoàn thanh niên của Thành phố và các đơn vị
văn hóa trực thuộc Thành Đoàn thường xuyên và định kỳ tổ chức các buổi giao
lưu văn hóa, văn nghệ, các buổi sinh hoạt, hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh
trong thanh niên như: chương trình “Họp mặt sinh viên xa nhà vui tết”; tổ chức
cuộc thi “hát về thời hoa đỏ” dành cho các bạn trẻ yêu tích dòng nhạc truyền
thống cách mạng; các buổi sinh hoạt dã ngoại cho thanh thiếu nhi thành phố…;
tiếp tục thực hiện Đề án xây dựng Nhà Văn hóa Thanh niên, Đề án thực hiện
giai đoạn 2 Trung tâm sinh hoạt dã ngoại thanh thiếu nhi thành phố.
- Lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, y tế
Thành phố thực hiện nhiều hoạt động chăm sóc sức khỏe cho thanh niên
86
như: tổ chức truyền thông (phát sóng trên đài phát thanh, đài truyền hình,
Website, Trung tâm Truyền thông và Giáo dục sức khỏe, Trung tâm Dinh
dưỡng, Trung tâm sức khỏe sinh sản…), giáo dục sức khỏe cho thanh niên về
các vấn đề sức khỏe sinh sản vị thành niên và thanh niên, dinh dưỡng, vận động
hợp lý, an toàn vệ sinh thực phẩm và các bệnh lây qua đường tình dục HIV-
AIDS, dịch bệnh Covid-19; tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề bảo vệ sức
khỏe và dinh dưỡng cho các đối tượng thanh niên ở các trường đại học, cao
đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, khu công nghiệp… kết hợp các hoạt động của
nhà văn hóa sinh viên, cân đối với các hoạt động sức khỏe vị thành niên khác.
Trên cơ sở những hướng dẫn về công tác phát triển thanh niên Thành phố
giai đoạn 2011-2020, Ủy ban nhân dân Thành phố xây dựng kế hoạch triển khai
thực hiện lồng ghép các hoạt động vào “Chương trình Chiến lược quốc gia về
bình đẳng giới trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011-2020” theo
từng giai đoạn và triển khai các hoạt động đảm bảo gắn kết chặt chẽ giữa mục
tiêu bình đẳng giới với kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của ngành,
lĩnh vực. Đặc biệt, Thành phố dành nguồn lực để chăm lo các các thanh niên
thuộc nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội. Từ năm 2017-2020, tổng
số người khuyết tật được tập huấn kỹ năng sống là trên 10.000 người, trong đó
trên 2.500 thanh niên khuyết tật. Số thanh niên khuyết tật được tạo điều kiện
tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí, hòa nhập cộng đồng là trên 5.800 lượt
người, đạt tỷ lệ 100% [88].
- Lĩnh vực thể dục – thể thao
Thành phố quan tâm, đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở hoạt động thể
dục – thể thao, thu hút thanh niên và người dân đến tham gia tâp luyện; kêu gọi
đầu tư để phát triển thêm các môn thể thao phong trào, các môn thể thao giải
trí. Đặc biệt, công tác phối hợp liên tịch giữa ngành thể thao và ngành giáo dục
đào tạo được triển khai đồng bộ từ thành phố đến quận, huyện. Thành phố thực
87
hiện Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-
2030 với Chương trình phát triển thể lực, tầm vóc bằng giải pháp tăng cường
giáo dục thể chất đối với học sinh từ 03 tuổi đến 18 tuổi. Kết quả, 100% số
trường phổ thông các cấp thực hiện đầy đủ chương trình giáo dục thể chất chính
khóa; 90% số trường tổ chức và tham dự Hội khỏe Phù Đổng học sinh từ cấp
cơ sở trường học đến cấp quận, huyện và thành phố; 75% số trường tổ chức các
lớp ngoại khóa thể dục, thể thao trong nhà trường và tổ chức các giải thi đấu
thể thao ngoại khóa; 50% học sinh được học bơi lội, đặc biệt là bậc tiểu học
nhằm tiến tới việc phổ cập bơi lội; 95% học sinh đạt tiêu chuẩn đánh giá xếp
loại thể lực theo Quyết định số 53/2008/QĐ-BGDĐT ngày 18 tháng 9 năm
2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo; 75% số trường học phổ thông có câu lạc bộ
thể dục, thể thao; có hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động thể dục, thể
thao; có đủ giáo viên và hướng dẫn viên thể dục thực hiện tốt hoạt động thể
thao ngoại khóa; 100% các trường phổ thông các cấp tổ chức và tham dự Hội
khỏe Phù Đổng học sinh từ cấp cơ sở trường học đến quận, huyện và thành phố [88].
Hàng năm, Thành phố tổ chức giải vô địch học sinh thành phố để duy trì
phong trào chung và phát hiện, tuyển chọn năng khiếu cho thể thao thành tích
cao của thành phố. Đồng thời, phối hợp với Thành đoàn và Hội thể thao Đại
học và chuyên nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Giải thể thao vô địch
thể thao sinh viên thành phố với 14 môn thể thao, góp phần nâng cao chất lượng
hoạt động thể chất trong lực lượng sinh viên thành phố.
- Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình
Thành phố tổ chức thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 21 tháng 2 năm
2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về xây dựng gia đình thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến
năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030; Luật hôn nhân gia đình; Luật trẻ em,
Luật bình đẳng giới; Luật phòng, chống bạo lực gia đình; Pháp lệnh dân số cho
88
các đối tượng là thanh niên nhằm nâng cao ý thức của thanh niên trong hôn
nhân và xây dựng gia đình trẻ hạnh phúc. Đồng thời, Thành phố quan tâm chỉ
đạo và thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt, tư vấn kiến thức tiền hôn nhân
cho các thanh niên chuẩn bị lập gia đình; tư vấn tham gia khám sức khỏe tiền
hôn nhân cho các cặp vợ chồng trẻ; tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật hôn
nhân gia đình, Luật phòng, chống bạo lực gia đình tại các khu nhà trọ tập trung
đông thanh niên là công nhân, sinh viên và tại các khu chế xuất, khu công
nghiệp, khu dân cư trên địa bàn thành phố. Bên cạnh đó, Thành phố cũng tổ
chức vận động thực hiện văn minh, lành mạnh, tiết kiệm trong việc cưới; hàng
năm, phối hợp với Thành Đoàn tổ chức “Lễ cưới tập thể” nhằm chăm lo đời
sống tinh thần, vật chất cho thanh niên là công nhân, người lao động trẻ có hoàn
cảnh khó khăn.
- Tham gia quản lý nhà nước và xã hội
Để thanh niên có cơ hội được tham gia nhiều hơn vào việc quản lý nhà
nước và xã hội, Thành phố đã quan tâm, tạo điều kiện và khuyến khích thanh
niên tham gia đóng góp ý kiến, phát huy tinh thần chủ động xung kích, sáng tạo
vào các vấn đề kinh tế - xã hội. Đồng thời, thông qua các buổi giao lưu, đối
thoại hàng năm của lãnh đạo Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố, Ủy ban
nhân dân các quận, huyện với thanh niên để lắng nghe những trăn trở, bức xúc
của thanh niên và những ý kiến góp ý tích cực, phát huy vai trò của thanh niên
trong việc giám sát các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức nhà nước trong
việc điều hành, quản lý và xây dựng đất nước. Từ năm 2012 đến nay, Thành
phố có 24/24 quận, huyện tổ chức định kỳ hàng năm các buổi giao lưu, đối
thoại với thanh niên với sự tham gia của các cấp ủy Đảng và lãnh đạo Ủy ban
nhân dân. Thành phố cũng có những chính sách để vận động, thu hút tài năng
trẻ, sinh viên tốt nghiệp loại khá, giỏi từ các trường cao đẳng, đại học trên địa
bàn Thành phố vào công tác tại các cơ quan nhà nước để đóng góp trực tiếp
89
vào công tác quản lý, điều hành bộ máy nhà nước như: Chương trình tạo nguồn
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ trẻ; chương trình tạo
nguồn quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý trẻ tuổi; chương trình đào tạo thạc
sĩ, tiến sĩ; chương trình tạo nguồn quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất thân
từ công nhân [87].
3.2.2. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch
phát triển thanh niên
Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên, Thành phố đã ban hành các
chương trình, kế hoạch phát triển thanh niên Thành phố. Cụ thể như: Chương
trình phát triển thanh niên Thành phố giai đoạn 2020-2021 (ban hành kèm theo
Quyết định số 6028/QĐ-UBND ngày 27 tháng 11 năm 2012 của Ủy ban nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh. Chương trình cụ thể hóa Chiến lược phát triển
thanh niên Việt Nam giai đoạn 2011-2020 (ban hành kèm theo Quyết định số
2472/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ). Trong
đó đề ra mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể và các giải pháp phù hợp với đặc điểm
kinh tế - xã hội và tình hình phát triển của thanh niên Thành phố. Ngoài ra,
Thành phố ban hành Kế hoạch thực hiện giai đoạn I (2011-2015) và giai đoạn
II (2016-2020) của Chương trình phát triển thanh niên Thành phố giai đoạn
2011-2020. Các Sơ, ban ngành và Ủy ban nhân dân quận, huyện căn cứ vào
chức năng, nhiệm vụ của mình và các văn bản hướng dẫn, triển khai nhiệm vụ
từ các Bộ, ngành Trung ương xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển thanh
niên phù hợp với từng địa phương.
Xác định nhiệm vụ, công tác phát triển thanh niên là trọng tâm xây dựng
đất nước và Thành phố trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định số 1331/QĐ-TTg ngày 24 tháng 7 năm 2021 phê duyệt Chiến lược phát
90
triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030, Ủy ban nhân dân Thành phố
đã ban hành Quyết định số 3685/QĐ-UBND ngày 28 tháng 10 năm 2021 phê
duyệt Chương trình phát triển thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn
2021-2030.
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược là: “Xây dựng thế hệ thanh niên Việt
Nam phát triển toàn diện, giàu lòng yêu nước, có đạo đức cách mạng, ý thức
công dân và lý tưởng xã hội chủ nghĩa; có trình độ học vấn, nghề nghiệp, việc
làm; có văn hóa, sức khỏe, kỹ năng sống và ý chí vươn lên; xumg kích, sáng
tạo làm chủ khoa học, công nghệ tiên tiến; hình thành nguồn nhân lực trẻ có
chất lượng cao đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế. Phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của thanh niên,
tăng cường công tác thu hút nguồn lực thanh niên là người Việt Nam ở nước
ngoài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiến tới hình thành thế hệ
thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế tục truyền thống và sự nghiệp cách mạng
của Đảng, của dân tộc, của quê hương; phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đồng thời, ngày 13 tháng 01 năm 2022, Ủy ban nhân dân Thành phố cũng
ban hành Kế hoạch số 135/KH-UBND về thực hiện công tác quản lý nhà nước
về thanh niên năm 2022 để triển khai thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên
Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và Chương trình phát triển thanh niên Thành
phố giai đoạn 2021-2030, trong đó tập trung vào các nội dung cụ thể như: Tổ
chức triển khai thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam và Chương
trình phát triển thanh niên Thành phố giai đoạn 2021-2030; triển khai thực hiện
Luật thanh niên năm 2020 và các Nghị định có liên quan; tổ chức triển khai
thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về thanh niên và công tác thanh niên,
tập huấn nghiệp vụ quản lý nhà nước về công tác thanh niên; thực hiện chế độ,
chính sách đối với thanh niên; triển khai thực hiện Bộ chỉ tiêu thống kê về thanh
91
niên Việt Nam theo quy định tại Thông tư số 11/2018/TT-BNV ngày 14 tháng
9 năm 2018 và Thông tư số 07/2020/TT-BNV ngày 15 tháng 12 năm 2020 của
Bộ Nội vụ quy định về chế độ báo cáo thống kê về thanh niên Việt Nam; triển
khai các hoạt động hợp tác quốc tế về thanh niên theo chức năng, nhiệm vụ của
bộ, ngành và địa phương; công tác kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước về thanh niên, Chương trình phát triển thanh niên Thành
phố giai đoạn 2021-2030.
Công tác tuyên truyền, phổ biến Chiến lược phát triển thanh niên đến các
cán bộ, công chức, thanh niên và người dân tại Thành phố được thực hiện đầy
đủ, thường xuyên và đi vào thực chất. Trên cơ sở hướng dẫn hàng năm của Bộ
Nội vụ về nhiệm vụ trọng tâm trong quản lý nhà nước về thanh niên; để bảo
đảm quyền, nghĩa vụ của thanh niên cũng như triển khai các chương trình cụ
thể trong Chiến lược, Chương trình phát triển thanh niên theo từng giai đoạn,
Thành phố đã ban hành nhiều văn bản mang tính định hướng, hướng dẫn, tổ
chức triển khai các nhiệm vụ cụ thể phù hợp với tình hình phát triển của Thành
phố và thanh niên Thành phố như: Công văn số 195/SNV-CTTN ngày 22 tháng
2 năm 2013 của Sở Nội vụ hướng dẫn về thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm
trong công tác quản lý nhà nước về thanh niên năm 2013; Công văn số 891-
CV-TU ngày 27 tháng 01 năm 2014 của Thành ủy về lãnh đạo thực hiện tốt
“Năm thanh niên tình nguyện” 2014; Công văn số 948-CV/TU ngày 05 tháng
5 năm 2014 của Thành ủy về triển khai thực hiện Kết luận số 80-KL/TW ngày
25 tháng 7 năm 2013 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số
25-NQ/TW; Công văn số 190/SNV-CTTN ngày 25 tháng 02 năm 2014 của Sở
Nội vụ về hướng dẫn thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh niên đối
với các Sở, ban ngành thành phố, Ủy ban nhân dân quyện, huyện, phường, xã,
thị trấn; Công văn số 2184/UBND-VX ngày 20 tháng 5 năm 2014 của Ủy ban
nhân dân Thành phố về triển khai thực hiện Kết luận số 80-KL/TW ngày 25
92
tháng 12 năm 2013 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 25-
NQ/TW ngày 25 tháng 7 năm 2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
X; Kế hoạch số 2660/KH-UBND ngày 31 tháng 5 năm 2016 về tiếp tục triển
khai thực hiện Kế hoạch số 45/KH-UBND ngày 07 tháng 01 năm 2010 của Ủy
ban nhân dân Thành phố về thực hiện Chương trình hành động số 42-CTr/TU
ngày 20 tháng 10 năm 2008 của Thành ủy thực hiện Nghị quyết số 25-NQ-TW
ngày 25 tháng 7 năm 2008 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh
niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Quy chế số 5090/QC-
UBND-TĐTN ngày 28 tháng 9 năm 2016 của Ủy ban nhân dân thành phố và
Ban Chấp hành Thành đoàn TNCS Hồ Chí Minh về phối hợp công tác của Ủy
ban nhân dân thành phố và Ban Chấp hành Thành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh…
Các sở, ngành có lĩnh vực chuyên môn liên quan trực tiếp đến công tác
thanh niên như: Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Văn hóa và Thể thao, Sở Y tế, Sở
Lao động – Thương binh và Xã hội… và 22/22 Ủy ban nhân dân quận, huyện
và thành phố Thủ Đức đã ban hành Chương trình phát triển thanh niên của
ngành và địa phương giai đoạn 2011-2020; 90% sở, ban ngành thành phố, Ủy
ban nhân dân các quận, huyện hàng năm đều ban hành Kế hoạch công tác quản
lý nhà nước về thanh niên theo định hướng của Kế hoạch công tác quản lý nhà
nước về thanh niên của thành phố. Bên cạnh đó, các sở, ban ngành ký kết các
kế hoạch liên tịch phối hợp hoạt động với Thành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh để
triển khai sâu, rộng về chính sách, pháp luật phát triển thanh niên ở những lĩnh
vực mà ngành phụ trách cũng như những chính sách riêng biệt theo từng lĩnh
vực trong công tác thanh niên được các Bộ, ngành hướng dẫn thực hiện.
3.2.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà
nước về thanh niên
Thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước
93
về thanh niên và công tác thanh niên đối với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương và Thông tư số 04/2011/TT-BNV về hướng dẫn
bổ sung nhiệm vụ, tổ chức và biên chế của Sở Nội vụ, Phòng Nội vụ thuộc
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện về công tác thanh niên, Thành phố đã
giao Sở Nội vụ Thành phố thành lập Phòng Công tác thanh niên thuộc Sở Nội
vụ; sắp xếp mỗi quận, huyện có 01 lãnh đạo và 01 chuyên viên chuyên trách
tham mưu công tác quản lý nhà nước về thanh niên; tại xã, phường, thị trấn
có 01 chuyên viên chuyên trách phụ tách tham mưu về công tác quản lý nhà
nước về thanh niên.
Năm 2014, thực hiện Thông tư số 15/2014/TT-BNV về hướng dẫn chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Nội vụ thuộc Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Phòng Nội vụ thuộc Ủy ban nhân
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Sở Nội vụ Thành phố thành lập
Phòng Tổ chức phi chính phủ và công tác thanh niên với 06 biên chế, trong đó
bố trí 03 công chức chuyên trách có trách nhiệm trực tiếp tham mưu cho lãnh
đạo Sở trình Ủy ban nhân dân Thành phố các nhiệm vụ quản lý nhà nước về
công tác thanh niên trên địa bàn Thành phố. Hiện nay, nhiệm vụ quản lý nhà
nước về công tác thanh niên được tách ra khỏi phòng Tổ chức phi chính phủ và
công tác thanh niên chuyển về phòng Xây dựng chính quyền và công tác thanh
niên với 02 công chức chuyên trách nhiệm vụ công tác thanh niên; các sở, ngành
bố trí 01 công chức làm công tác thanh niên; phòng Nội vụ cấp huyện sắp xếp
01 công chức thuộc Phòng Nội vụ và phân công 68 công chức thuộc các phòng
chuyên môn khác của các quận, huyện thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về
thanh niên; Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn phân công công chức Văn
phòng – Thống kê phụ trách công tác thanh niên tại địa phương.
Hàng năm, Thành phố chủ động triển khai và phối hợp với Bộ Nội vụ tổ
chức các lớp bồi dưỡng kiến thức và nghiệp vụ quản lý nhà nước về thanh niên
94
cho lãnh đạo sở, ban, ngành thành phố, lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp huyện;
công chức tham mưu quản lý nhà nước về thanh niên thuộc các sở, ban, ngành
thành phố và phòng Nội vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; lãnh đạo tổ chức
Đoàn thanh niên cấp Thành phố và cấp huyện. Tổ chức tập huấn Luật thanh
niên và Nghị định hướng dẫn thi hành cho các cán bộ, công chức làm công tác
quản lý nhà nước về thanh niên tại các Sở, ban ngành của Thành phố và các
quận, huyện. Thành phố cũng xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ
quản lý nhà nước về công tác thanh niên cho cán bộ, công chức làm công tác
thanh niên tại các sở, ban ngành, Ủy ban nhân dân quận, huyện, công chức phụ
trách công tác thanh niên tại Văn phòng – Thống kê tại Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn. Sở Nội vụ phối hợp với Thành đoàn xây dựng kế hoạch, mở
các lớp bồi dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ, phương pháp trong công tác quản lý
về công tác thanh niên, bao gồm: kỹ năng lập kế hoạch; xây dựng báo cáo;
thuyết trình trước đám đông; soạn thảo văn bản; phương pháp làm việc nhóm…
Ngoài ra, Thành phố còn tổ chức tập huấn các kỹ năng thực hành công vụ, các
lớp đào tạo trình độ tiếng Anh cho các cán bộ Đoàn là cán bộ, công chức, viên
chức thuộc các cơ quan hành chính, sự nghiệp trên địa bàn Thành phố.
3.2.4. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về thanh niên
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về thanh niên đến
với cán bộ, công chức, thanh niên, người dân Thành phố là một nhiệm vụ được
thực hiện đầy đủ, thường xuyên và đạt được những kết quả nhất định. Thành
ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố đã tổ chức nhiều buổi hội nghị tuyên truyền,
phổ biến chính sách, pháp luật về thanh niên đến các cấp, các ngành trên địa
bàn Thành phố để triển khai đồng bộ, đa dạng và thường xuyên.
Thực hiện Quyết định số 2106/QĐ-TTg ngày 26 tháng 11 năm 2010 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tăng cường công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật của thanh, thiếu niên giai đoạn 2011-
95
2015, Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành Kế hoạch số 4143/KH-UBND
ngày 19 tháng 8 năm 2011 về triển khai thực hiện Đề án “Tăng cường công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh, thiếu
niên giai đoạn 2011-2015”; Kế hoạch số 11571/KHPH-TĐTP-HĐPBTP ngày
31 tháng 11 năm 2018 Kế hoạch liên tịch thực hiện Chuyên mục pháp luật trên
Trang thông tin điện tử Thành Đoàn và phim chuyên đề tuyên truyền, giáo dục
về pháp luật cho thanh niên trong Chương trình truyền hình thanh niên của
Thành Đoàn; Kế hoạch số 02/KH-HĐPB ngày 26 tháng 3 năm 2019 về tăng
cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật
cho thanh, thiếu niên năm 2019 trên địa bàn Thành phố
Thành phố tổ chức nhiều hoạt động triển khai Kế hoạch như: tổ chức
các buổi tuyên truyền, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức sinh động, trực
quan như các chuyên mục, chuyên trang pháp luật trên hệ thống báo chí, đài
phát thanh, đài truyền hình thành phố; trực tiếp tư vấn pháp luật tại các
trường học, khu nhà trọ, khu lưu trú thanh niên công nhân, phát miễn phí tờ
rơi, áp phích, băng rôn, panel tuyên truyền…; tạo điều kiện để Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh của Thành phố tổ chức nhiều phong trào, hội thi, cuộc thi tìm
hiểu kiến thức pháp luật thông qua việc tìm hiểu các Bộ luật liên quan trực
tiếp đến đời sống và việc làm của thanh niên như: Bộ luật lao động, Bộ luật
dân sự, Luật thanh niên…; các cơ quan thông tấn, báo chí định kỳ lồng ghép
các bài viết, chuyên trang, chuyên mục về tìm hiểu Luật thanh niên với hình
thức các tin, bài cụ thể, sinh động phản ánh về các vấn đề liên quan đến việc
thực hiện Luật thanh niên nói riêng và các vấn đề giáo dục pháp luật cho
đoàn viên, thanh niên thành phố nói chung.
Thành phố đã định kỳ tổ chức hội nghị quán triệt Luật thanh niên, tập huấn
nghiệp vụ công tác quản lý nhà nước về thanh niên (mỗi năm từ một đến hai
lần) cho toàn bộ đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện
96
công tác thanh niên và quản lý nhà nước về công tác thanh niên của Thành phố.
Trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2017, Thành phố đã tổ chức được 10
buổi tập huấn cấp thành phố cho hơn 1.000 cán bộ, công chức, viên chức thực
hiện công tác thanh niên và quản lý nhà nước về thanh niên của thành phố; Ủy
ban nhân dân các quận, huyện tổ chức hơn 20 đợt tập huấn công tác quản lý
nhà nước về thanh niên cho gần 2.500 cán bộ, công chức, viên chức tại các
quận, huyện [87]. Thành phố thường xuyên chỉ đạo, định hướng để hệ thống tổ
chức Đoàn thanh niên các cấp của Thành phố phát huy tốt vai trò trong công
tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho thanh niên về đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong đó đặc biệt tuyên truyền sâu,
rộng về Luật thanh niên.
3.2.5. Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên
Thực hiện hướng dẫn của Bộ Nội vụ, hàng năm, Sở Nội vụ phối hợp với
các tổ chức có liên quan thực hiện kiểm tra, thanh tra trong việc thực hiện chính
sách, pháp luật về thanh niên. Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thanh
niên của Thành phố có những chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả
nhất định. Phần lớn các sở, ban ngành Thành phố, Ủy ban nhân dân các quận,
huyện đã có dành sự quan tâm và đầu tư đúng mức nhằm phát triển thanh niên
Thành phố như: xây dựng Kế hoạch thực hiện Chương trình phát triển thanh
niên Thành phố; ban hành kế hoạch thực hiện công tác quản lý nhà nước về
thanh niên hằng năm; lồng ghép các mục tiêu, chỉ tiêu về phát triển thanh niên
trong các hoạt động tại cơ quan, đơn vị; xây dựng báo cáo định kỳ và đột xuất
khi có yêu cầu. Thông qua việc kiểm tra, thanh tra, giám sát, Thành phố kịp
thời nắm bắt và giải quyết những khó khăn, vướng mắc của các cơ quan chuyên
môn, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên của Thành
97
phố; đồng thời, có những đề xuất, kiến nghị với Chính phủ và Bộ Nội vụ xem
xét, ban hành chính sách phát triển thanh niên phù hợp với tình hình kinh tế -
xã hội của Thành phố.
3.2.6. Hợp tác quốc tế về thanh niên
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước trong công tác đối ngoại, mở rộng hợp tác đa phương trên nhiều lĩnh
vực, trong đó có hợp tác quốc tế về thanh niên. Hàng năm, Thành phố giao cho
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức các hoạt động giao lưu giữa thanh niên thành
phố với thanh niên và sinh viên các nước trên thế giới. Các chương trình giao
lưu, tập huấn ở trong và ngoài nước cho thanh thiếu nhi thành phố được tổ chức
đa dạng; các hoạt động giao lưu, gắn kết với các nước có quan hệ ngoại giao
truyền thống với Việt Nam được chú trọng và tăng cường. Các hoạt động nổi
bật được triển khai như: tổ chức đoàn đại biểu Thành phố Hồ Chí Minh tham
gia Liên hoan thanh niên quốc tế Vladivostok tại Liên Bang Nga; tiếp nhận 20
sinh viên Malaysia từ YSS – Tổ chức sinh viên tình nguyện Malaysia (thuộc
Bộ Giáo dục Malaysia) tham gia vào các hoạt động tình nguyện hè của đoàn
viên, thanh niên Thành phố…
3.2.7. Ban hành chính sách hỗ trợ, khuyến khích tổ chức, cá nhân tham
gia thực hiện chính sách đối với thanh niên
Thực hiện Quyết định số 897/QĐ-TTg ngày 26 tháng 7 năm 2022 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình “Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp giai
đoạn 2022-2030”, Thành phố đã triển khai nhiều buổi tập huấn, bồi dưỡng kiến
thức nền tảng cho thanh niên về khởi sự kinh doanh, phát triển doanh nghiệp
cụ thể như: kiến thức về quản trị sản xuất, quản trị nhân sự, marketing, quản trị
chất lượng, quản trị chuỗi cung ứng… Đồng thời, tổ chức hội nghị đối thoại
giữa các doanh nhân trẻ, thanh niên với lãnh đạo Thành phố, quận, huyện và
sở, ban ngành để doanh nhân, thanh niên có cơ hội gặp gỡ, chia sẻ và bày tỏ
98
nguyện vọng của bản thân về chính sách khởi nghiệp, góp phần thúc đẩy việc
hoàn thiện chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với việc hỗ trợ doanh nghiệp,
thanh niên trong khởi nghiệp, lập nghiệp, sản xuất, kinh doanh; các tổ chức
doanh nghiệp và cá nhân các doanh nhân trẻ có những hỗ trợ thanh niên trong
hoạt động khởi nghiệp.
Thành phố cũng có những chính sách hỗ trợ thanh niên tiếp cận các nguồn
vốn, hỗ trợ tài chính thông qua các chương trình, chính sách ưu đãi cho thanh
niên khởi nghiệp, lập nghiệp; tăng cường hỗ trợ vốn cho các cơ sở sản xuất,
kinh doanh do đoàn viên, hội viên, thanh niên làm chủ thông qua nguồn vốn
vay Quốc gia về việc làm do Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, UBND
Thành phố quản lý; do Ngân hàng Chính sách xã hội huy động, nguồn vốn
Ngân hàng Chính sách xã hội nhận ủy thác từ các địa phương, các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước để cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc
làm và nguồn vốn hợp pháp khác.
3.3. Đánh giá chung về thực tiễn quản lý nhà nước về thanh niên tại
Thành phố Hồ Chí Minh
3.3.1. Những kết quả đạt được trong quản lý nhà nước về thanh niên
tại Thành phố Hồ Chí Minh
3.3.1.1. Kết quả đạt được
Thứ nhất, chính sách, pháp luật về thanh niên từng bước được hoàn thiện.
Luật thanh niên và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo cơ sở pháp lý để
Thành phố ban hành và triển khai thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên,
các chương trình, Kế hoạch phát triển thanh niên của Thành phố. Luật thanh
niên đã quy định cụ thể về các chính sách của nhà nước với thanh niên, nội
dung quản lý nhà nước về thanh niên. Đây là căn cứ pháp lý để Thành phố ban
hành các chính sách cụ thể bảo đảm cho thanh niên thực hiện quyền và nghĩa
vụ của mình; đồng thời, phát huy được thế mạnh của thanh niên trong phát triển
99
kinh tế - xã hội của Thành phố. Trong giai đoạn từ năm 2011 – 2020, Thành
phố đã cụ thể hóa các chỉ tiêu, mục tiêu, nội dung chỉ đạo của Chiến lược phát
triển thanh niên Việt Nam vào Chương trình phát triển thanh niên Thành phố
và cơ bản đã hoàn thành đầy đủ các chỉ tiêu, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đề
ra. Việc nghiên cứu, xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn, thực hiện Luật
thanh niên, các chính sách dành cho thanh niên được Thành phố triển khai kịp
thời, hỗ trợ, tạo cơ chế thuận lợi cho các tổ chức thanh niên và thanh niên thành
phố có đủ điều kiện để học tập, lao động, vui chơi, nghiên cứu, rèn luyện và
phát triển toàn diện.
Thứ hai, các ngành, các cấp trong các cơ quan nhà nước của Thành phố
đã có sự đổi mới nhận thức về vai trò, tầm quan trọng, trách nhiệm của từng cơ
quan quản lý nhà nước trong việc đảm bảo các điều kiện về cơ chế, chính sách
để thanh niên phát triển toàn diện; phát huy giá trị của các thế hệ thanh niên
Thành phố vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tổ chức bộ máy làm
công tác quản lý nhà nước về thanh niên của Thành phố từ cấp tỉnh, cấp huyện
được thiết lập và hoàn thiện.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện nhiệm vụ quản lý
nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên được định hình và kiện toàn
thành một hệ thống xuyên suốt từ cấp thành phố đến phường, xã, thị trấn; trình
độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ được nâng cao; thường xuyên được cập
nhật các chính sách, pháp luật về cho thanh niên, các phương pháp quản lý,
thực thi nhiệm vụ và công tác tham mưu triển khai các chương trình, kế hoạch
phát triển thanh niên.
3.3.1.2. Nguyên nhân của kết quả
Phát triển thanh niên là truyền thống của dân tộc, Đảng, Nhà nước và xã
hội luôn đánh giá đúng vị trí, vai trò quan trọng của thanh niên trong sự nghiệp
cách mạng của Đảng và dân tộc. Với Thành phố Hồ Chí Minh, trong những
100
năm qua, công tác quản lý nhà nước về thanh niên được tăng cường, nâng cao
hiệu quả thông qua việc triển khai, thực hiện Luật thanh niên và các chính sách
về thanh niên nhằm bồi dưỡng, phát huy thanh niên và tạo điều kiện về cơ sở
vật chất, phương tiện cho công tác quản lý nhà nước về thanh niên. Thành ủy,
Ủy ban nhân dân thành phố thường xuyên quan tâm và chỉ đạo kịp thời các sở,
ban ngành có liên quan thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên theo các tiêu
chí, mục tiêu đã đề ra, đảm bảo việc hoàn thành các nội dung, giải pháp phát
triển thanh niên có hiệu lực và hiệu quả.
3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong quản lý nhà nước về
thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh
3.3.2.1. Hạn chế trong quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ
Chí Minh
Thứ nhất, một số chính sách dành cho thanh niên được quy định trong
Luật thanh niên chưa được quan tâm, đầu tư nghiên cứu, triển khai thực hiện;
việc lồng ghép chỉ tiêu phát triển thanh niên trong chương trình, mục tiêu của
Thành phố còn hạn chế dẫn đến các kế hoạch, chương trình, mục tiêu phát triển
thanh niên chưa đảm bảo theo đúng tiến độ và hiệu quả đề ra. Số liệu thống kê
và việc thu thập dữ liệu thống kê về thanh niên Thành phố theo các tiêu chí của
Bộ chỉ tiêu thống kê về thanh niên Việt Nam chưa được thực hiện một cách
khoa học, chưa đảm bảo tính chính xác và tin cậy để làm căn cứ nghiên cứu
tình hình phát triển thanh niên của Thành phố và đánh giá cụ thể hiệu quả các
chỉ tiêu, mục tiêu, nội dung giải pháp của Chương trình phát triển thanh niên
Thành phố giai đoạn 2011-2020.
Thứ hai, việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật, chiến lược, chính sách, chương trình phát triển thanh niên tại cơ sở một số
nơi còn chậm, nhiều nội dung chưa được triển khai đồng bộ và hiệu quả. Việc
triển khai Luật thanh niên năm 2005 chưa thật sự đồng bộ và rộng rãi, còn bó
101
hẹp trong phạm vi thanh niên và Đoàn thanh niên; nhiều cấp ủy, chính quyền
chưa thật sự vào cuộc và đầu tư cho thanh niên. Công tác tuyên truyền, phổ
biến, quán triệt triển khai Luật thanh niên của một số sở, ban ngành và địa
phương chưa thật sự quyết liệt; chủ yếu do Đoàn thanh niên chủ trì thực hiện;
nội dung tuyên truyền còn đơn giản.
Thứ ba, nhận thức về vị trí, vai trò của quản lý nhà nước về thanh niên của
một số cấp ủy, chính quyền địa phương còn hạn chế, coi việc phát triển thanh
niên là nhiệm vụ chủ yếu của Đoàn thanh niên. Vì vậy, chưa thực sự quan tâm,
chỉ đạo sát sao và động bộ công tác quản lý nhà nước về thanh niên; một số cơ
quan chuyên môn, các cấp chính quyền giao việc tham mưu, quản lý nhà nước
về thanh niên cho tổ chức Đoàn. Bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về
thanh niên mới được kiện toàn, một số nơi, số chỗ chưa phân định rạch ròi trách
nhiệm giữa cơ quan quản lý nhà nước về thanh niên với cơ quan tư vấn về công
tác thanh niên; đội ngũ nhân sự thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh
niên còn kiêm nhiệm nhiều công tác khác nhau và thường xuyên có sự thay đổi
dẫn đến một số công việc phải triển khai, tập huấn lại từ đầu làm chậm tiến độ
thực hiện các Kế hoạch phát triển thanh niên đã đề ra. Việc tham mưu xây dựng
chính sách, pháp luật về thanh niên tại các đơn vị và đội ngũ công chức, viên
chức làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên còn hạn chế, thiếu chủ động,
chủ yếu trông chờ vào hướng dẫn, chỉ đạo của cấp trên.
Thứ tư, công tác phối hợp giữa các ngành liên quan trong việc tổ chức
thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên cũng như việc triển khai
các nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch, đề án, dự án phát triển thanh niên còn
thiếu chặt chẽ, chất lượng và hiệu quả chưa cao; một số sở, ban ngành chưa chủ
động phối hợp với Đoàn thanh niên để triển khai thực hiện theo trách nhiệm
được phân công nên chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo, bồi dưỡng
102
và phát huy năng lực của thanh niên.
3.3.2.2. Nguyên nhân của hạn chế trong quản lý nhà nước về thanh niên
tại Thành phố Hồ Chí Minh
Thứ nhất, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thanh niên chưa đầy
đủ, đồng bộ, thiếu các quy định cụ thể. Từ khi Luật thanh niên năm 2005 ra
đời và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2006, Chính phủ mới ban hành 03
nghị định hướng dẫn thi hành, gồm: Nghị định số 120/2007/NĐ-CP ngày 23
tháng 7 năm 2007 về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thanh niên;
Nghị định số 61/2012-NĐ-CP ngày 10 tháng 8 năm 2012 quy định về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ; Nghị định số
12/2011/NĐ-CP ngày 30 tháng 01 năm 2011 về tổ chức và chính sách đối với
thanh niên xung phong; Nghị định số 78/2017/NĐ-CP ngày 03 tháng 7 năm
2017 về sửa đổi, bổ sung Nghị định số 120/2007/NĐ-CP của Chính phủ hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật thanh niên. Trong đó, Nghị định số 120/NĐ-
CP của Chính phủ về mặt nội dung chưa thống nhất, trong Nghị định đã quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức các bộ, cơ quan ngang
bộ về công tác thanh niên, nhưng chưa xác định rõ trách nhiệm phối hợp quản
lý Nhà nước về công tác thanh niên theo từng ngành, lĩnh vực được Chính phủ
phân công nên chưa phát huy hiệu quả của Nghị định trong việc triển khai
thực hiện Luật thanh niên.
Trong quá trình triển khai thực hiện, Luật thanh niên năm 2005 cũng bộc
lộ một số vướng mắc, bất cập như: một số quy định của Luật thanh niên còn
chung chung, chưa sát với đối tượng thanh niên, khó triển khai thực hiện trong
thực tiễn; thiếu đồng bộ với các chính sách khác; các quy định về quyền và
nghĩa vụ của thanh niên trong các điều, khoản của Luật chưa được quy định rõ
ràng, cụ thể, chưa phân định rõ giữa quyền và nghĩa vụ của thanh niên; các quy
định về trách nhiệm của Nhà nước, gia đình, nhà trường và xã hội chưa cụ thể,
103
chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc kêu gọi, khuyến khích mà không đến cập đến
trách nhiệm, bổn phận của thanh niên đối với bản thân mình, đối với quốc gia,
dân tộc. Các hành vi bị nghiêm cấm được quy định trong Luật quá cụ thể và
chi tiết, không bao quát hết những quy định ở các văn bản quy phạm pháp luật
thuộc các lĩnh vực khác nhau trong đó có thanh niên là đối tượng áp dụng. Luật
thanh niên và các văn bản hướng dẫn thực hiện còn thiếu những chế tài đủ mạnh
để điều chỉnh các hoạt động quản lý nhà nước về thanh niên nên chưa có sự
nhận thức và hành động đầy đủ.
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thanh niên tuy đã được triển
khai sâu, rộng, có nhiều hình thức mới, song nhiều quy định trong Luật thanh
niên chưa cụ thể, thiên về là khẩu hiệu tuyên truyền dẫn đến việc khi có vấn đề
phát sinh trong xã hội liên quan đến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thanh
niên khó thực hiện.
Thứ hai, bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên mới được kiện toàn; cán
bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên chưa đầy đủ, không
ổn định, thường xuyên có sự thay đổi và phải kiêm nhiệm thêm các mảng công
tác khác nên công tác tham mưu, đề xuất ban hành, hướng dẫn và đôn đốc tổ
chức thực hiện cơ chế, chính sách cho thanh niên còn gặp nhiều khó khăn, lúng
túng. Trong khi đó các cơ quan, đơn vị có nhiều nhiệm vụ liên quan trực tiếp
đến sự phát triển của thanh niên chỉ tham gia ở góc độ phối hợp hoặc theo yêu
cầu của đề án, nhiệm vụ từ văn bản chỉ đạo của Trung ương, chưa có sự chủ
động tham mưu theo yêu cầu, nguyện vọng phát triển của thanh niên Thành
phố. Trong khi đó, chưa có văn bản mang tính pháp lý quy định rõ ràng, cụ thể
đối với công chức phụ trách công tác thanh niên tại Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn.
Thứ ba, Bộ chỉ tiêu thống kê về thanh niên Việt Nam đã được Thủ tướng
ban hành theo Quyết định số 158/QĐ-TTg ngày 25 tháng 01 năm 2016 và Bộ
104
Nội vụ ban hành tại Thông tư số 11/2018/TT-BNV ngày 14 tháng 9 năm 2018
đã góp phần tạo nên hệ thống kiểm soát, đánh giá việc thực hiện các chỉ tiêu
phát triển thanh niên ở từng ngành, lĩnh vực, theo từng năm và từng giai đoạn;
giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có sở sở để nghiên cứu, xây
dựng các chính sách hỗ trợ, khuyến khích sự vận động, phát triển toàn diện của
thanh niên. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai Bộ chỉ tiêu thống kê còn thiếu
công cụ, cơ chế, kinh phí và nguồn lực để thực hiện việc thu thập các số liệu
liên quan đến thanh niên để đưa vào đánh giá theo các tiêu chí. Do đó, việc thực
hiện quản lý nhà nước về thanh niên chưa có được những thông tin xác thực,
phản ánh đúng thực trạng, nhu cầu của thanh niên để làm cơ sở, tham mưu, đề
xuất và hoạch định chính sách, pháp luật đối với thanh niên.
Thứ tư, kinh phí, cơ sở vật chất dành cho việc triển khai, tổ chức thực hiện
chính sách, pháp luật về thanh niên còn hạn chế; các chương trình, đề án, dự án
về thanh niên và công tác thanh niên đã được cấp có thẩm quyền ban hành song
không được bố trí kinh phí để thực hiện hoặc không đủ kinh phí để thực hiện
105
đầy đủ các nội dung nên thường không đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra.
Kết luận chương 3
Thanh niên và bảo đảm quyền và nghĩa vụ của thanh niên là vấn đề được
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Nhiều chính sách cho thanh niên đã được
ban hành thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước ta đối với việc chăm lo,
bồi dưỡng, giáo dục và phát huy thanh niên. Luật thanh niên năm 2005 ra đời
tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc ban hành các chính sách, pháp luật về
thanh niên; đồng thời, phát huy vai trò xung kích, tình nguyện sức sáng tạo,
tiềm năng to lớn của thanh niên trong việc tham gia phát triển kinh tế - xã hội
và bảo vệ Tổ quốc. Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của nhà nước đối với thanh niên, Thành phố Hồ Chí Minh đã ban
hành và tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật, chương trình, kế hoạch
phát triển thanh niên. Thành phố coi trọng công tác quản lý nhà nước về thanh
niên, đặt thanh niên là vấn đề trọng tâm trong chính sách phát triển con người,
phát triển nguồn lực; đầu tư ngân sách chăm lo cho thanh niên trên một số mặt
cơ bản như: học tập, lao động và đào tạo nghề, giải quyết việc làm, ủng hộ tài
năng trẻ trong học tập, trong nghiên cứu khoa học, công nghệ, lao động sản
xuất và kinh doanh, trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật, vui chơi, giải trí…
Đồng thời, có những chính sách khuyến khích, phát huy thanh niên trong phát
triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, trên thực tế, quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố
cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên
chưa cao; việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật,
chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển thanh niên còn chậm, chưa đồng
bộ, nhiều nội dung chính sách triển khai chưa thực sự hiệu quả; một số cơ quan,
đơn vị còn chậm triển khai, vận dụng các quy định của Luật thanh niên trong
thực hiện nhiệm vụ trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình để đảm bảo các
106
điều kiện về cơ chế, chính sách cho thanh niên thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình; một số yêu cầu bức thiết của thanh niên như đào tạo, giải quyết việc làm
(nhất là đối với thanh niên nông thôn) chưa được giải quyết kịp thời. Việc phân
tích những kết quả, hạn chế cũng như nguyên nhân hạn chế của quản lý nhà
nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh là cơ sở để đưa ra các giải pháp
nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về thanh niên ở Việt Nam giai đoạn hiện
107
nay.
CHƯƠNG 4
DỰ BÁO TÌNH HÌNH THANH NIÊN, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THANH NIÊN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
4.1. Dự báo tình hình thanh niên Việt Nam và quan điểm nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên
4.1.1. Bối cảnh đất nước và tình hình thanh niên Việt Nam
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang
đứng trước những cơ hội và thách thức lớn. Tình hình thế giới đang diễn biến
phức tạp với những biến động to lớn, khó dự báo. Trong tương lai, hòa bình,
hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ
nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ và sự phụ thuộc của các nước đang phát triển,
nước nhỏ vào nước lớn đang có xu hướng gia tăng, tác động không nhỏ đến
vấn đề bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc. Nền kinh tế thế giới có nguy cơ lâm
vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và có thể còn kéo dài do tác động của
đại dịch Covid-19 và xung đột địa chính trị. Cuộc cách mạng công nghệp lần
thứ tư tiếp tục phát triển mạnh mẽ, mở ra một thời đại mới về phát triển lực
lượng sản xuất, dẫn tới sự thay đổi nền tảng trên mọi mặt của đời sống chính
trị - xã hội của các nước trên thế giới. Xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ do
mẫu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên, can thiệp lật đổ,
khủng bố tiếp diễn phức tạp; các điểm nóng vẫn tồn tại và mở rộng ở nhiều khu
vực trên thế giới. Bên cạnh đó, cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng gay
gắt hơn với các thách thức an ninh phi truyền thống, an ninh lương thực, an
ninh nguồn nước, an ninh tài chính, an ninh mạng, khủng bố vũ trang, biến đổi
khí hậu, thiên tai, dịch bệnh…
Với vị trí địa lý đặc thù, Việt Nam chịu sự tác động rất lớn từ những biến
108
động của thế giới. Tuy nhiên, cùng với sự ổn định về chính trị, thế và lực của
Việt Nam ngày càng gia tăng trên trường quốc tế; vai trò của Việt Nam trong
hợp tác cũng như tham gia xử lý các vấn đề mang tính toàn cầu được cộng đồng
quốc tế đánh giá cao. Là nước có sự phát triển nhanh về công nghệ thông tin
nên Việt Nam cũng có những điều kiện thuận lợi để tiếp cận công nghệ, tranh
thủ thị trường, tham gia mạng lưới sản xuất và chuỗi cung ứng khu vực và toàn
cầu, cũng như ứng dụng thành tựu khoa học – công nghệ mới, tạo sức đột phá
trong phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc
phòng – an ninh, góp phần tích cực trong việc bảo đảm lợi ích quốc gia – dân
tộc trong tình hình mới. Trong những năm tới, Việt Nam hội nhập quốc tế sâu,
rộng hơn và sẽ phải thực hiện đầy đủ, hiệu quả các cam kết khi tham gia các
hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; phấn đấu đạt mục tiêu đến giữa thế kỷ
XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với vai trò là một lực lượng quan trọng, góp phần to lớn vào sự phát triển
của đất nước, thanh niên luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, đặt niềm tin và
sự kỳ vọng lớn, tạo mọi điều kiện thuận lợi để chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng và
phát huy thế hệ trẻ. Dân số thanh niên nước ta ước tính năm 2018 là 23.316.036
người chiếm 24,6% dân số cả nước, giảm 0,6% so với năm 2017 (25,2%) [70].
So với quy mô các nhóm dân số khác, quy mô dân số thanh niên có xu hướng
thu hẹp, thể hiện ở tỉ lệ dân số nhóm tuổi từ 16-30 giảm, trong khi tỉ lệ dân số
nhóm tuổi từ 31-59 và đặc biệt là từ 60 trở lên tăng [70]. Trong quy mô dân số
Việt Nam năm 2018 do website Mô hình tháp dân số thế giới dự báo từ năm
1950 đến năm 2100 cung cấp, nhóm dân số trong độ tuổi thanh niên từ 15 đến
29 tuổi mặc dù đang chiếm tỉ lệ nhiều nhất, trong đó nhóm 25-29 tuổi đang ở
bậc tháp rộng nhất, nhưng nhóm dân số ở độ tuổi đầu thanh niên 20-24 tuổi và
15-19 tuổi đang bị thu hẹp. Nhóm dân số ở độ tuổi sau thanh niên 30-34 có xu
hướng tăng lên [105]. Việt Nam sắp bước qua thời kỳ dân số vàng, tiến tới già
109
hóa dân số. Vấn đề sụt giảm nguồn nhân lực lao động trong tương lai tiếp tục
là vấn đề được đặt ra khi mà số người trong độ tuổi lao động ngày càng giảm
và số lao động phụ thuộc ngày càng tăng lên.
Năm 2018, tỉ lệ dân số nam thanh niên cao hơn tỉ lệ nữ thanh niên với
khoảng cách 2,0%. Sự chênh lệch giới tính trong dân số thanh niên tiếp tục có
xu hướng tăng so với năm trước. Thanh niên khu vực nông thôn chiếm 62,6%,
thanh niên ở khu vực thành thị chiếm 37,4%; dân số thanh niên ở khu vực nông
thôn năm 2018 có dấu hiệu giảm đi so với năm 2017, ngược lại, dân số thanh
niên khu vực thành thị có dấu hiệu tăng lên.
Trong 5 năm tới và giai đoạn 2030-2045, thanh niên Việt Nam chủ yếu
thuộc nhóm độ tuổi sinh ra trong nửa cuối thập niên 1990 đến 2012, dự báo
chiếm gần ¼ dân số cả nước và gần 1/3 dân số trong độ tuổi lao động. Thanh
niên có trình độ trung học phổ thông là chủ yếu, đạt 47,9%. Tỷ lệ thanh niên
không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 76%. Trong số thanh niên có trình độ
chuyên môn kỹ thuật, 3,1% là thanh niên có trình độ dạy nghề; 3,7% thanh niên
có trình độ trung học chuyên nghiệp; 5,9% thanh niên có trình độ cao đẳng;
10,5% thanh niên có trình độ đại học trở lên. Tỷ lệ thanh niên tham gia lực
lượng lao động là 79,8%. Tỷ lệ thanh niên có việc làm là 94,9%; tỷ lệ thất
nghiệp trong thanh niên là 5,06% [44]. Đây là thế hệ sinh ra và lớn lên trong
thời đại kỹ thuật số phát triển, với những đặc điểm về tính cách, tư duy, nhận
thức, tiềm năng, xu hướng và phong cách sống… có nhiều điểm mới.
Trong những năm tới và giai đoạn 2030-2045, đứng trước sự phát triển
nhanh chóng, mạnh mẽ của khoa học, công nghệ; năng lực hội nhập, kỹ năng
xã hội được nâng lên, thanh niên sẽ có xu hướng tự học, tiếp cận thông tin số,
giải trí và sáng tạo trên nền tảng số; coi trọng và tham gia tích cực vào các hoạt
động khởi nghiệp, sáng tạo; di cư và dịch chuyển lao động mạnh mẽ. Đại đa số
thanh niên đề cao, phát huy các giá trị truyền thống, văn hoá tốt đẹp của nhân
110
loại, của dân tộc; ý thức rõ trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc và nhân dân,
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; thể
hiện rõ lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước,
khát vọng cống hiến, tinh thần đổi mới, sáng tạo, lẽ sống vì xã hội, cộng đồng.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển của đất nước, nhất là nền
kinh tế phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế, đứng trước nhiều khó
khăn, thách thức mới do tác động của đại dịch COVID-19; nguy cơ khủng
hoảng kinh tế toàn cầu; xu hướng "già hóa dân số" và dân số trong độ tuổi thanh
niên đang có xu hướng giảm dần qua từng năm đem đến những áp lực không
nhỏ cho kinh tế - xã hội; tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa tăng mạnh; các vấn
đề an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh gay gắt,
phức tạp; sự phát triển của mạng xã hội… Cùng với đó, yêu cầu nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực trẻ để tận dụng ưu thế của những năm cuối trong thời kỳ
"dân số vàng", đáp ứng yêu cầu của sự thay đổi công nghệ, tự động hoá, sự xuất
hiện của các nghề nghiệp mới với tính chất công việc và yêu cầu kỹ năng mới;
khoảng cách giữa trình độ chuyên môn, kỹ năng của lực lượng lao động thanh
niên và nhu cầu của thị trường lao động; tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng gia tăng
do công nghệ không ngừng phát triển; nhu cầu giao tiếp trực tiếp giảm do thói
quen sử dụng thiết bị thông minh chi phối… là những tác động và thách thức
nhất định đến tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quá trình học tập, lao động,
việc làm, sức khoẻ của thanh niên, nhất là bộ phận thanh niên yếu thế, thanh
niên công nhân, nông thôn, dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn.
4.1.2. Quan điểm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên
Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Dảng
đã chỉ rõ: “Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối
sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ,
111
hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước,
với xã hội; xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao động, giải trí, rèn
luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và giá
trị thẩm mỹ. Tạo động lực cho thanh niên xung kích trong học tập, lao động,
sáng tạo, khởi nghiệp, lập nghiệp; làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ
hiện đại, phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” [22, tr.168].
Bước vào thời kỳ đổi mới, với đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, thế
và lực của đất nước không ngừng tăng lên, Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng khẳng định tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu cụ thể:
“Đến năm 2025: Là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện
đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển
có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước: Trở thành nước phát
triển, thu nhập cao”.
Xuất phát từ chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển thanh niên,
trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên cần
tập trung vào những nội dung sau:
4.1.2.1. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công
tác quản lý nhà nước về thanh niên
Đảng lãnh đạo thanh niên và công tác quản lý nhà nước về thanh niên bằng
đường lối, quan điểm và chủ trương thông qua công tác chính trị, tư tưởng, tổ
112
chức, cán bộ, kiểm tra và giám sát. Ngoài ra, Đảng lãnh đạo thông qua công tác
chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ của Đảng. Các cấp ủy Đảng lãnh đạo trực
tiếp và toàn diện thanh niên và công tác quản lý nhà nước về thanh niên.
Hoàn thiện quản lý nhà nước về thanh niên ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay cần tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về thanh niên
nói chung và quản lý nhà nước về thanh niên nói riêng. Trong đó, cần nâng cao
nhận thức, trách nhiệm cho các cấp ủy đảng về quản lý nhà nước về thanh niên;
đổi mới cách thức lãnh đạo công tác thanh niên để đúng, sát với yêu cầu của
hoàn cảnh, nguyện vọng của thanh niên.
4.1.2.2. Quản lý nhà nước về thanh niên phải xuất phát từ quyền và nghĩa
vụ của thanh niên
Thanh niên là một trong những nhân tố có vai trò quan trọng, quyết định
tương lai, vận mệnh của đất nước, có sức trẻ, thể lực dồi dào, tư duy năng động,
sáng tạo. Bên cạnh những quyền và nghĩa vụ như mọi công dân khác đã được
pháp luật quy định, thanh niên còn có những quyền, nghĩa vụ riêng của thanh
niên mà các tổ chức, cá nhân phải bảo đảm thực hiện. Quản lý nhà nước về
thanh niên thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc đáp ứng quyền và
nghĩa vụ của thanh niên. Vì vậy, hoàn thiện quản lý nhà nước về thanh niên cần
phải thực hiện trên cơ sở quyền và nghĩa vụ của thanh niên. Theo đó, quyền
của thanh niên phải được tôn trọng, bảo đảm nhằm tạo điều kiện cho thanh niên
phát huy sức trẻ, khả năng, trí tuệ đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc chứ không phải tạo ra đặc quyền, đặc lợi cho thanh niên so với những
công dân khác. Nhà nước cần có những giải pháp để thanh niên được tham gia
nhiều hơn vào quá trình xây dựng và thực thi các chính sách công để đảm bảo
cho các chính sách đó được xây dựng đáp ứng nhu cầu thực tiễn của thanh niên.
Thanh niên là đối tượng vừa được thụ hưởng chính sách, pháp luật của nhà
nước dành cho thanh niên; vừa có quyền tham gia vào việc xây dựng và thực
113
hiện chính sách, pháp luật nói chung và chính sách, pháp luật về thanh niên nói
riêng. Sự tham gia của thanh niên thể hiện ở việc đề xuất ý tưởng, trình bày ý
kiến với cơ quan xây dựng chính sách, phản biện, tuyên truyền, phổ biến, triển
khai thực hiện, kiểm tra, giám sát và đề xuất sửa đổi. Với sự tham gia này, thanh
niên được trao quyền như những cá nhân cũng như các thành viên của xã hội,
đồng thời tạo cho họ cơ hội nói lên tiếng nói của mình đối với những vấn đề
ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Đây chính là yếu tố quan trọng bảo đảm hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên.
4.1.2.3. Bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa mục tiêu phát triển thanh niên
với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn
Quản lý nhà nước về thanh niên phải xuất phát từ mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-
2030 xác định mục tiêu tổng quát: “Phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát
triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện
đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền
vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với
nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; khơi dậy
khát vọng phát triển đất nước, phát huy sức sáng tạo, ý chí và sức mạnh toàn
dân tộc, xây dựng xã hội phồn vinh, dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ
cương, an toàn, bảo đảm cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân; không
ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; bảo vệ vững chắc Tổ quốc,
môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế. Phấn đấu đến năm 2045 trở thành nước phát
triển, thu nhập cao”. Đây chính điều kiện, môi trường thuận lợi để thanh niên
thể hiện tài năng, sức trẻ, cống hiến cho đất nước. Đất nước ổn định, kinh tế -
xã hội tăng trưởng tạo cơ hội lớn cho thanh niên học tập, tiếp cận văn minh
nhân loại, nâng cao tri thức, nhất là được thụ hưởng những thành tựu khoa học
114
– công nghệ.
Những thành tựu của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế đã tạo nên
sức mạnh tổng hợp và không ngừng nâng cao uy tín, vị thế của đất nước trên
trường quốc tế, tạo ra những tiền đề quan trọng để đất nước phát triển nhanh,
bền vững. Đặc biệt, Việt Nam đang ở thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”. Đây chính
là cơ hội lớn để phát triển kinh tế - xã hội và phát huy tối đa tiềm lực của đất
nước thông qua phát huy vai trò của lực lượng thanh niên. Do vậy, quản lý nhà
nước về thanh niên phải xuất phát từ yêu cầu mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Quản lý nhà nước về thanh niên phải góp phần khơi dậy và
sử dụng hiệu quả nguồn lực thanh niên đối với quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
4.1.2.4. Tạo sự bình đẳng về cơ hội phát triển giữa các nhóm thanh niên,
quan tâm thanh niên yếu thế
Quản lý nhà nước về thanh niên phải tạo sự bình đẳng về cơ hội phát triển
giữa các nhóm thanh niên, đặc biệt quan tâm đến nhóm thanh niên yếu thế.
Trong đó, Nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất
phục vụ cho sự phát triển của thanh niên; tạo cơ hội về học tập, về việc làm, về
nâng cao sức khỏe, thể lực, tầm vóc, kỹ năng sống cho các nhóm thanh niên.
Với thanh niên yếu thế như thanh niên dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa,
thanh niên khuyết tật… thì quản lý nhà nước nhằm hướng tới giúp giảm thiểu,
tiến tới xóa bỏ sự ngăn cách, phân hóa; Nhà nước cần có những chính sách về
giáo dục để tạo cơ hội học tập bình đẳng giữa các nhóm thanh niên, trong đó,
tập trung đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu
115
số nhằm từng bước giảm dần sự chênh lệch về phát triển giữa các vùng, miền.
4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên
trong giai đoạn hiện nay
4.2.1. Nhận thức đúng, đầy đủ hơn về vai trò của thanh niên và quản lý
nhà nước về thanh niên
Với mỗi quốc gia trên thế giới, thanh niên luôn được coi là một phần rất
quan trọng của xã hội; một tiềm năng lớn góp phần vào sự phát triển quốc gia
và xây dựng một thế giới công bằng và hòa bình. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà
nước luôn coi trọng thanh niên, coi thanh niên là lực lượng quan trọng giữ vị
trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố và nguồn lực; thanh niên là chủ
nhân hiện tại và tương lai của đất nước, là đội quân xung kích cách mạng trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời, luôn quan tâm, chăm lo
xây dựng và phát huy sức mạnh của các thế hệ thanh niên tham gia vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Các cấp, các ngành và các tổ chức, đoàn thể xã hội đã có nhiều chủ trương,
giải pháp nhằm phát huy vai trò, sức mạnh của thanh niên trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Tuy nhiên, sức mạnh của thanh niên Việt Nam hiện nay
vẫn chưa được phát huy tương xứng với tiềm năng của lực lượng này để thực
sự trở thành một nguồn nội lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội
và tham gia thực hiện các nhiệm vụ khác của đất nước. Ở nhiều nơi, không ít
cấp ủy, chính quyền còn chưa thực sự coi trọng công tác quản lý nhà nước về
thanh niên, coi đó là việc của tổ chức Đoàn. Vì vậy, trước yêu cầu, nhiệm vụ
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, việc nhận thức đúng đắn và phát huy đầy
đủ vai trò, sức mạnh của thanh niên được đặt ra như một yêu cầu khách quan.
Việc nhận thức về thanh niên, vai trò quản lý nhà nước về thanh niên cần
116
được đầy đủ, thống nhất với những nội dung cụ thể như sau:
- Nâng cao nhận thức trong hệ thống chính trị và cơ quan nhà nước về
thanh niên và quản lý nhà nước về thanh niên; thống nhất nhận thức về sự cần
thiết và trách nhiệm của Nhà nước trong quản lý nhà nước về thanh niên, sự
cần thiết của cơ quan quản lý nhà nước chuyên trách về thanh niên, chứ không
phải chỉ phụ thuộc vào hoạt động của tổ chức Đoàn thanh niên.
- Hiểu và phân biệt rõ ràng nội dung các khái niệm “quản lý nhà nước về
thanh niên” với khái niệm “quản lý đoàn viên”, “quản lý thanh niên”, “công tác
thanh niên”, “quản lý nhà nước về công tác thanh niên”…; phân định rõ trách
nhiệm, thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước về thanh niên với chức năng,
nhiệm vụ của tổ chức Đoàn thanh niên. Từ đó, xác định rõ phạm vi trách nhiệm,
vị trí, vai trò, nhiệm vụ của quản lý nhà nước về thanh niên.
- Xác định hoạt động quản lý nhà nước về thanh niên là trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, trong đó, trách nhiệm chính thuộc về ngành
Nội vụ, các cấp chính quyền từ Trung ương tới địa phương với sự phối hợp,
hỗ trợ từ các bộ, ban ngành, địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội đặc biệt
là tổ chức Đoàn thanh niên, nhằm tạo ra một thế hệ công dân trẻ hội đủ các
tiêu chuẩn đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
4.2.2. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý nhà
nước về thanh niên
Nghị quyết số 25/NQ-TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa X)
về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã nhấn mạnh trách nhiệm, hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên: “Nhà nước quản
lý thanh niên và công tác thanh niên; thể chế hóa đường lối, chủ trương của
Đảng về thanh niên và công tác thanh niên thành pháp luật, chính sách, chiến
117
lược, chương trình hành động và cụ thể hóa trong các chương trình, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh hằng năm của các cấp,
các ngành”. Theo đó, Đảng đề ra chủ trương, đường lối để Nhà nước thể chế
hóa thành chính sách, pháp luật về giáo dục và đào tạo, giải quyết việc làm,
xóa đói giảm nghèo, cung cấp thông tin khoa học và công nghệ cho thanh thiếu
niên để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội…
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên, cấp ủy
đảng các cấp cần quán triệt đầy đủ, sâu sắc nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh
niên trong phạm vi cơ quan, tổ chức, đơn vị của mình. Từ đó có những chủ
trương cụ thể phù hợp với vị trí, chức năng của bộ, ngành, địa phương để lãnh
đạo chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện chiến
lược phát triển thanh niên với những chính sách, biện pháp, bước đi cụ thể.
Đồng thời, các cấp ủy Đảng phải có biện pháp quán triệt, yêu cầu mỗi đảng
viên gương mẫu thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên và công
tác thanh niên trên các cương vị công tác của mình.
Tổ chức Đảng các cấp cần phân công thường vụ, thường trực cấp ủy phụ
trách công tác thanh niên một cách trách nhiệm, phân công đảng viên có năng
lực, kinh nghiệm, tình cảm đối với thanh niên để phụ trách quản lý nhà nước
đối với thanh niên, từ đó nâng cao hiệu quả lãnh đạo công tác quản lý nhà
nước về thanh niên, đặc biệt trong việc bố trí, đào tạo và sử dụng cán bộ có
trình độ chuyên môn, có kỹ năng và ý thức trách nhiệm cao phụ trách công
tác thanh niên.
4.2.3. Hoàn thiện pháp luật về thanh niên, quản lý nhà nước về thanh niên
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc
tiếp tục xây dựng, hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thanh niên,
quản lý nhà nước về thanh niên nói riêng là một nhiệm vụ rất quan trọng, tập
118
trung vào những nội dung cụ thể sau đây:
- Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật thanh niên năm 2020,
Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030. Trong đó,
hướng dẫn thực hiện thống nhất từ trung ương đến địa phương. Từ đó, hoàn
thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ vị trí, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho cán bộ, công chức đang thực hiện công tác quản
lý nhà nước về thanh niên tại các sở, ban ngành thuộc Ủy ban nhân dân các cấp
để có cơ chế cho việc thực hiện chính sách cho thanh niên và đội ngũ cán bộ,
công chức làm công tác quản lý nhà nước ở địa phương.
- Xây dựng Nghị định quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật thanh
niên năm 2020 trên cơ sở thống nhất một số quan điểm mang tính nguyên tắc
như: tiếp tục thể chế, cụ thể hóa Luật thanh niên năm 2020 và một số văn bản
quy phạm pháp luật có liên quan; ngôn ngữ sử dụng trong Nghị định phải rõ
ràng, không đa nghĩa; quá trình xây dựng Nghị định phải tuân thủ đầy đủ quy
định của pháp luật về trình tự, thủ tục thực hiện theo quy định của pháp luật,
đảm bảo những quy định khi được ban hành có tính khả thi, đáp ứng yêu cầu
của thực tiễn.
- Hoàn thiện, bổ sung chi tiết các quy định pháp luật về bảo vệ thanh niên,
bảo vệ dữ liệu về thanh niên trên mạng, trong đó đặc biệt lưu ý đến chế tài xử
phạt vi phạm hành chính.
- Sửa đổi, bổ sung hoạt động đối ngoại của nhà nước về thanh niên theo
nguyên tắc xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà
nước về thanh niên trong việc trao đổi, học tập kinh nghiệm thuộc lĩnh vực xây
dựng, hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với thanh niên.
4.2.4. Hoàn thiện chính sách phát triển thanh niên
Thanh niên được khẳng định là lớp người làm chủ tương lai của đất nước;
luôn được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nguồn
119
lực con người; chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực
bảo đảm cho sự ổn định và phát triền bền vững của đất nước. Tại hầu hết các
quốc gia, ở các mức độ khác nhau, Nhà nước đều có các chính sách đối với
thanh niên để bồi dưỡng, đào tạo và phát huy sự tham gia của thanh niên vào
tiến trình phát triển xã hội. Ở Việt Nam, Nhà nước cũng đã có nhiều chính sách
hướng tới mục tiêu xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam phát triển toàn diện;
phát huy tinh thần cống hiến, xung kích, tình nguyện và nâng cao trách nhiệm
của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc hoàn thiện
chính sách về thanh niên cần tập trung ở một số một số lĩnh vực cụ thể như:
- Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo cho thanh niên
Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc điều chỉnh các chính sách hỗ trợ
học tập cho thanh niên. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế như: sự khác biệt
trong tiếp cận giáo dục giữa dân tộc Kinh và các nhóm dân tộc thiểu số, giữa
thanh niên con em có hoàn cảnh khó khăn, giữa các vùng kinh tế - xã hội; sự
phân luồng đào tạo sau trung học cơ sở và hướng nghiệp cho học sinh, thanh
niên còn bất cập, chưa đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đề ra; cơ cấu đào tạo
nghề chưa sát với nhu cầu của xã hội… Trong thời gian tới, Nhà nước cần ban
hành chính sách tạo điều kiện cho học sinh được học tập, hướng nghiệp và có
việc làm ngay sau khi học xong chương trình trung cấp chuyên nghiệp hoặc
trung cấp nghề; ưu tiên dạy nghề cho thanh niên là bộ đội, công an xuất ngũ,
thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nữ thanh niên, thanh niên khuyết tật…;
đổi mới phương thức thông tin về cơ chế, chính sách, pháp luật về giáo dục và
đào tạo cho thanh niên; phát huy vai trò của thanh niên tham gia xây dựng,
giám sát chính sách, pháp luật về giáo dục, đào tạo; xây dựng xã hội học tập
thông qua việc thực hiện hiệu quả Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn
2021-2030; nâng cao năng lực ngoại ngữ, năng lực số cho thanh niên.
120
- Đối với lĩnh vực lao động, giải quyết việc làm
Từ các số liệu về lao động, việc làm và đào tạo nghề của Việt Nam cho
thấy, hiện nay, thanh niên Việt Nam đang gặp phải những vấn đề như: thất
nghiệp và thiếu việc làm; thanh niên nông thôn gặp nhiều khó khăn trong việc
tìm kiếm các cơ hội có việc làm ổn định; chất lượng lực lượng lao động còn
thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và cuộc cách mạng
khoa học công nghệ, tỷ lệ thanh niên được đào tạo chuyên môn kỹ thuật còn
thấp; định hướng đào tạo nghề còn nhiều khó khăn, bất cập, đặc biệt, đào tạo
cao đẳng, đại học chưa gắn với thị trường lao động.
Để khắc phục những hạn chế trong vấn đề lao động và việc làm của thanh
niên, tạo ra lực lượng lao động vàng, chúng ta cần xây dựng một chiến lược
phát triển nguồn nhân lực gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
nhằm tận dụng hiệu quả cơ hội vàng của dân số cho phát triển; tập trung vào
cải cách và điều chỉnh hệ thống đào tạo đại học, đào tạo nghề và chuyên môn
kỹ thuật hướng đến thị trường nhằm tạo ra một lực lượng lao động kỹ thuật có
tay nghề, có trình độ chuyên môn, đáp ứng yêu cầu lao động có kỹ năng của
các doanh nghiệp; ưu tiên tạo việc làm cho thanh niên là bộ đội, công an xuất
ngũ, thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nữ thanh niên, thanh niên khuyết
tật; hỗ trợ việc làm cho thanh niên sau cai nghiện, thanh niên hoàn lương; xây
dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động, nâng cao năng lực
hệ thống dịch vụ việc làm, các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc
làm cho thanh niên; có chính sách tạo điều kiện để thanh niên được tư vấn, định
hướng nghề nghiệp, cung cấp thông tin thị trường lao động; vay vốn ưu đãi và
nguồn tín dụng hợp pháp để tạo việc làm, phát triển sản xuất, kinh doanh; có
chính sách hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp, lập nghiệp, tham gia phát triển kinh
tế; nhân rộng các mô hình khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo thành công; hỗ trợ
121
phát triển các vườn ươm doanh nghiệp; ưu tiên nguồn vốn Quỹ quốc gia về việc
làm, vốn từ Ngân hàng chính sách xã hội để hỗ trợ thanh niên làm kinh tế thuộc
đối tượng vay vốn tại Ngân hàng chính sách xã hội theo quy định.
- Đối với lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe, đời sống văn hóa,
tinh thần cho thanh niên
Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe của thanh niên là một nội dung
rất quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên. Luật thanh
niên năm 2020 quy định: “Tư vấn, hỗ trợ nâng cao sức khỏe cho thanh niên;
phòng, chống bạo lực gia đình, bạo lực học đường, xâm hại tình dục; phòng,
chống ma túy, HIV/AIDS; phòng ngừa bệnh lây truyền qua đường tình dục,
bệnh xã hội khác và các nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất, tinh thần
của thanh niên. Bảo đảm cho thanh niên được cung cấp thông tin, tiếp cận dịch
vụ thân thiện về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục; được
tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn” (Điều 19). Bảo vệ, chăm sóc, nâng
cao sức khỏe, đời sống văn hóa, tinh thần cho thanh niên cần tập trung vào
những nhiệm vụ sau:
+ Nhà nước có chính sách để chăm sóc sức khỏe, nâng cao tầm vóc, thể
lực của thanh niên Việt Nam; tổ chức các hoạt động trang bị kiến thức, kỹ năng
về rèn luyện thể chất, nâng cao sức khỏe, chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe
tình dục, sức khỏe tâm thần; dân số và phát triển, bình đẳng giới và phòng
chống bạo lực trên cơ sở giới, bạo lực gia đình, bạo lực học đường, xâm hại
tình dục; các biện pháp phòng, chống HIV/AISD cho thanh niên; tổ chức tuyên
truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, kiến thức về kỹ năng sống cho thanh niên;
tổ chức các chương trình giáo dục kỹ năng trong trường học; nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động các thiết chế văn hóa thể thao, nhà thiếu nhi của
Đoàn; xây dựng các điểm sinh hoạt, vui chơi cho thanh thiếu nhi; phát triển sâu
122
rộng các hoạt động rèn luyện thể dục, thể thao trong thanh niên.
+ Tổ chức các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao, hoạt động
sinh hoạt cộng đồng cho thanh niên đô thị, thanh niên nông thôn, thanh niên
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn tham gia tại nơi học tập, làm việc và cư trú. Quan tâm đầu tư
các chương trình, cuộc thi có tính giáo dục, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, phát
huy sở trường của thanh niên trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; tổ chức các
hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức, kỹ năng cho thanh niên sử dụng
các phương tiện kỹ thuật số phục vụ mục đích giao tiếp, truyền thông, kinh
doanh trên nền tảng kinh tế số.
4.2.5. Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách,
pháp luật về thanh niên
Xây dựng chính sách, pháp luật về thanh niên là nhiệm vụ quan trọng,
song hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên chỉ có thể đạt được khi làm tốt
công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về thanh niên, tập trung
vào những nhiệm vụ sau:
- Tiếp tục nâng cao nhận thức của cấp ủy, lãnh đạo các bộ, ngành, địa
phương về vị trí, vai trò của thanh niên và công tác tuyên truyền, phổ biến chính
sách, pháp luật về thanh niên đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất và các điều kiện bảo đảm triển khai công
tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về thanh niên.
- Lựa chọn các nội dung pháp luật để phổ biến cho thanh niên phù hợp với
nhu cầu và lứa tuổi, trong đó chú trọng các quy định về quyền và nghĩa vụ,
trách nhiệm của thanh niên liên quan đến một số lĩnh vực pháp luật như: lao
động; việc làm; dân sự; hình sự; hôn nhân và gia đình; bảo vệ, chăm sóc, giáo
123
dục trẻ em; giao thông đường bộ; phòng, chống các tệ nạn xã hội như ma túy,
mại dâm; bảo vệ môi trường, biển đảo; cư trú, bình đẳng giới; bạo lực học
đường; khởi nghiệp…
- Lựa chọn hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp
với đặc điểm của đối tượng, địa bàn; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin,
tận dụng tối đa ưu thế của các công cụ, phương tiện truyền thông hiện đại, mạng
xã hội; xây dựng các bộ công cụ, sản phẩm tuyên truyền trẻ trung, sinh động
phù hợp với thị hiếu của thanh niên trên internet, mạng xã hội và các thiết bị di
động thông minh; lồng ghép tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với các
hoạt động văn hóa, văn nghệ, các phong trào, hoạt động của tổ chức Đoàn thanh
niên.
- Xây dựng mạng lưới tuyên truyền viên quản lý nhà nước về thanh niên
ở các cấp; bồi dưỡng, nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ thanh niên
làm báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật là người dân tộc thiểu số và tham
gia công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tại vùng đồng bào dân
tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khan.
- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về thanh niên; các văn bản quy phạm pháp luật về
thanh niên, quản lý nhà nước về thanh niên như: Luật thanh niên năm 2020;
Nghị định số 13/2021/NĐ-CP ngày 01 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ quy
định về đối thoại với thanh niên; cơ chế, chính sách và biện pháp thực hiện
chính sách đối với thanh niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; Nghị định số
17/2021/NĐ-CP ngày 09 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ quy định về chính
sách đối với thanh niên xung phong, thanh niên tình nguyện; Chiến lược phát
triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030 đã được Thủ tưởng Chính phủ
phê duyệt theo Quyết định số 1331/QĐ-TTg ngày 24 tháng 7 năm 2021...
- Đổi mới nội dung, hình thức phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh niên
124
phù hợp với từng nhóm đối tượng và điều kiện địa bàn, trong đó chú trọng
nhóm thanh niên dễ bị tổn thương, thanh niên vùng đồng bào dân tộc thiểu số
và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn...
- Tổ chức tập huấn nghiệp vụ quản lý nhà nước về thanh niên và các văn
bản có liên quan, trong đó, Sở nội vụ tham mưu cho Ủy ban nhân dân ban hành
kế hoạch và tổ chức tập huấn nghiệp vụ quản lý nhà nước về thanh niên và các
văn bản cho các đối tượng như: các bộ, công chức của các sở, ban, ngành trực
tiếp tham mưu, xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách pháp luật đối với
thanh niên và quản lý nhà nước về thanh niên; các cán bộ, công chức trực tiếp
làm công tác thanh niên...
4.2.6. Tiếp tục kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên để đáp
ứng với nhiệm vụ được giao
Hiện nay, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên các cấp đang
tiếp tục được kiện toàn; cán bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về
thanh niên chưa đầy đủ, chưa ổn định và thường xuyên có sự thay đổi nên công
tác tham mưu, đề xuất ban hành, hướng dẫn và đôn đốc thực hiện cơ chế, chính
sách cho thanh niên còn gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó các cơ quan, đơn vị
có nhiều nhiệm vụ liên quan đến sự phát triển của thanh niên chỉ tham gia ở
góc độ phối hợp hoặc theo yêu cầu của đề án, nhiệm vụ từ văn bản chỉ đạo của
Trung ương mà chưa có sự chủ động tham mưu theo yêu cầu, nguyện vọng
phát triển của thanh niên. Vì vậy, công tác quản lý nhà nước về thanh niên
chưa thực sự phát huy được hiệu quả. Để phát huy được sức mạnh của thanh
niên và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên cần có một
đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên có bản
lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, có trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, đồng thời phải am hiểu về thanh niên, tập trung vào những nội dung sau:
- Thực hiện tốt chế độ, chính sách cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản
125
lý nhà nước về thanh niên. Thực hiện quy hoạch đội ngũ cán bộ làm công tác
quản lý nhà nước về thanh niên theo hướng đảm bảo số lượng, nâng cao chất
lượng. Trong đó, xác định đầy đủ những tiêu chuẩn, yêu cầu về trình độ chuyên
môn như: có tinh thần xung kích, tình nguyện, có tác phong giao tiếp thân
thiện, cởi mở, nhiệt tình; am hiểu về thanh niên, nắm bắt tâm sinh lý lứa tuổi,
đặc điểm thanh niên; vận dụng sáng tạo các chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của nhà nước về thanh niên và quản lý nhà nước về thanh niên; có
kiến thức và năng lực tham mưu hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách,
pháp luật về thanh niên.
- Bổ sung vị trí việc làm và biên chế chuyên trách về quản lý nhà nước
về thanh niên ở các bộ, ngành tương đương với mô hình tại các địa phương
nhằm khắc phục tình trạng giao kiêm nhiệm như hiện nay; các bộ, ngành
Trung ương cần bố trí, phân công cán bộ theo dõi, thực hiện công tác quản
lý nhà nước về thanh niên của bộ, ngành để làm đầu mối phối hợp với Bộ
Nội vụ tổ chức triển khai thực hiện. Cần đặc biệt chú trọng bổ sung đội ngũ
cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên ở cấp quận, huyện và
phường, nhất là các quận có đông thanh niên với sự phức tạp của nhiều thành
phần; Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố giao trách nhiệm cho các cơ quan
liên quan và xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện quản lý nhà nước về
thanh niên tới các cấp chính quyền.
- Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà
nước về thanh niên. Trong đó, chú trọng các kiến thức chung như: quan điểm,
đường lối của Đảng về thanh niên; các văn bản quy phạm pháp luật về thanh
niên và quản lý nhà nước về thanh niên; các kỹ năng, nghiệp vụ và phương
pháp quản lý nhà nước về thanh niên như: kỹ năng lập kế hoạch, xây dựng và
tổ chức triển khai thực hiện các chương trình, đề án, dự án phát triển thanh
niên; kỹ năng lồng ghép các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển thanh niên khi xây
126
dựng chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các cấp, các ngành;
kỹ năng kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật cho thanh niên
và quản lý nhà nước về thanh niên.
4.2.7. Phát huy tốt cơ chế phối hợp liên ngành giữa các bộ, ngành trung
ương và chính quyền địa phương, đảm bảo tính thống nhất, khoa học, hiệu
quả trong quá trình xây dựng, thực thi chính sách, pháp luật về thanh niên
Sự phối hợp liên ngành giữa các bộ, ngành trung ương và chính quyền địa
phương thông qua việc thực hiện quản lý nhà nước về thanh niên theo lĩnh vực,
địa bàn là rất cần thiết. Chính phủ luôn quan tâm, tạo cơ chế phối hợp giải
quyết các vấn đề liên quan đến thanh niên, thông qua việc định kỳ hàng năm
làm việc với Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Ngày 29
tháng 12 năm 2017, Chính phủ đã ký Nghị quyết liên tịch số 01/NQLT-CP-
BCHTWĐ về Quy chế phối hợp công tác của Chính phủ và Ban Chấp hành
Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh giai đoạn 2017-2022,
trong đó giao cho các bộ, ngành liên quan phối hợp với Trung ương Đoàn trong
công tác chăm lo, bồi dưỡng và phát huy thanh niên; phối hợp xây dựng, thực
hiện và giám sát chính sách, pháp luật đối với thanh niên; quy định chế độ hội
họp, cung cấp, trao đổi thông tin về thanh niên và công tác thanh niên. Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố phối hợp với Ban Chấp hành tỉnh, thành đoàn
triển khai quy chế phối hợp, cụ thể hóa các nội dung trong chương trình, kế
hoạch hoạt động năm. Tuy nhiên, trên thực tế, sự phối hợp giữa các cơ quan
quản lý nhà nước còn chưa chặt chẽ. Cơ chế phối hợp, cung cấp thông tin giữa
Bộ Nội vụ với Ủy ban quốc gia về thanh niên Việt Nam, Trung ương Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các bộ, ngành với chính quyền các địa
phương trong thực hiện quản lý nhà nước về thanh niên vẫn còn hạn chế. Để
nâng cao hiệu quả của cơ chế phối hợp liên ngành cần tập trung vào một số nội
dung sau:
127
- Hàng năm, Bộ Nội vụ cần có hướng dẫn cụ thể về các tiêu chí để thực
hiện các nhiệm vụ, đề án, dự án được giao trong Luật thanh niên năm 2020 và
các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật thanh niên năm 2020.
Ban hành các văn bản chỉ đạo đối với các bộ, ngành liên quan trong việc triển
khai thực hiện theo hệ thống ngành dọc ở các lĩnh vực chuyên môn như: giáo
dục, y tế, văn hóa – thể thao, lao động – thương binh và xã hội; bổ sung quy
định về xây dựng bộ công cụ để thu thập dữ liệu về thanh niên và giao trách
nhiệm cụ thể cho từng cơ quan, đơn vị phụ trách ở từng nội dung dữ liệu, trong
đó có cơ quan chịu trách nhiệm quản lý, tổng hợp làm đầu mối cung cấp số
liệu khi cần thiết cho các ngành, các cấp chính quyền làm cơ sở cho việc nghiên
cứu, tham mưu cũng như đánh giá mức độ hoàn thành các chỉ tiêu trong việc
thực hiện các chính sách dành cho thanh niên.
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, các tổ chức chính trị -
xã hội, các tổ chức xã hội có đối tượng trong độ tuổi thanh niên trong quá trình
thực hiện các giải pháp từ Trung ương đến địa phương. Trong đó, tập trung
vào mạng lưới các cơ sở Đoàn bao phủ đến các phường, xã sẽ thuận lợi trong
việc rà soát, thống kê đối tượng thanh niên, nắm bắt nhu cầu về đào tạo, việc
làm, khởi nghiệp của thanh niên để có sự phối hợp kịp thời.
- Các bộ, ngành, cơ quan liên quan tăng cường phối hợp với Trung ương
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức triển khai có hiệu quả Luật
thanh niên, Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và
chính sách, pháp luật đối với thanh niên; tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức trẻ và đoàn viên, thanh niên phát huy tinh thần xung kích trong
tham gia, đề xuất các giải pháp cải cách thủ tục hành chính, tham gia xây dựng
Chính phủ điện tử, chính quyền điện tử và chuyển đổi số quốc gia. Nâng cao
vai trò, vị trí của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong
việc xây dựng Chính phủ mới, liêm chính, kỷ cương, hành động, hiệu quả, vì
128
nhân dân phục vụ.
- Các cơ quan quản lý nhà nước về thanh niên chịu trách nhiệm chính
trong việc quản lý các số liệu về tình hình thanh niên; nghiên cứu, khảo sát, dự
báo và lập kế hoạch về quản lý thanh niên theo định kỳ; tham mưu chính sách,
quy định cho Ủy ban nhân dân các cấp ban hành hoặc trình các cơ quan cấp
trên; triển khai, đôn đốc, theo dõi việc thực hiện các chính sách, quy định đó
trong thực tiễn; thẩm định, cho ý kiến và trình Ủy ban nhân dân các cấp ban
hành, quyết định đối với các đề án, dự án, chương trình… liên quan đến phát
triển thanh niên; theo dõi, xử lý, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
quản lý nhà nước đối với thanh niên.
- Định kỳ hàng năm, Bộ Nội vụ phối hợp với Trung ương Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh tham mưu Thủ tướng Chính phủ tổ chức Hội nghị
đối thoại với thanh niên để nắm bắt tình hình; lắng nghe những kiến nghị, đề
xuất của thanh niên, kịp thời chỉ đạo giải quyết, tháo gỡ những tồn tại, hạn chế,
những khó khăn, vướng mắc liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của thanh
niên trong quá trình xây dựng, triển khai thực hiện chính sách, pháp luật của
nhà nước đối với thanh niên. Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh có trách nhiệm phối hợp, trao đổi thông tin với các bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong quá trình tham gia nghiên cứu, đề xuất hoặc
góp ý xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật, chế độ,
chính sách cho thanh niên và công tác thanh niên; phối hợp với Bộ Nội vụ triển
khai các nội dung nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về
thanh niên.
- Lồng ghép chính sách thanh niên trong các chính sách phát triển ngành,
lĩnh vực, địa phương; đưa các chỉ số của thanh niên và quản lý nhà nước về
thanh niên vào chỉ số thống kê quốc gia, trong chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội của các ngành, các cấp; coi việc thực hiện các chỉ tiêu phát triển
129
thanh niên là một trong những chỉ số đánh giá sự tăng trưởng của từng địa
phương, đơn vị và cả nước.
- Ủy ban quốc gia về thanh niên Việt Nam cần tiếp tục nâng cao năng lực
tham mưu tổng hợp; tăng cường kinh phí nghiên cứu chính sách, tổ chức các
diễn đàn đối thoại chính sách, xây dựng trang thông tin điện tử của Ủy ban là
nơi trao đổi, thông tin chính thống về chính sách phát triển thanh niên; chú
trọng công tác phối hợp trong nghiên cứu chính sách với Viện Nghiên cứu
Thanh niê Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và các ban của Trung ương
Đoàn theo dõi các đối tượng, lĩnh vực, Vụ Công tác thanh niên Bộ Nội vụ;
thực hiện tốt vai trò của Ủy ban trong công tác đối ngoại về thanh niên, thông
qua đó, trao đổi kinh nghiệm quốc tế, thu hút nguồn lực cho sự phát triển thanh
niên; tăng cường hoạt động kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách phát
triển thanh niên ở các địa phương, bộ, ngành.
- Sở Nội vụ cần tăng cường phối hợp với các sở ban ngành xây dựng,
hoàn thiện và đẩy mạnh triển khai hiệu quả các chương trình, đề án về thanh
niên. Tham mưu tuyển chọn, bố trí và sử dụng có hiệu quả tài năng trẻ trên tất
cả các lĩnh vực, tạo bước chuyển có tính đột phá trong công tác cán bộ; xây
dựng cơ chế bố trí cán bộ trẻ có tài năng đảm nhận các nhiệm vụ quan trọng,
phù hợp; tạo bước đột phá trong việc bố trí, sử dụng cán bộ trong độ tuổi thanh
niên để từng bước nâng tỉ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý trẻ ở các cấp, các ngành.
- Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tham gia quản lý nhà nước về
thanh niên trên một số mặt như: tham gia xây dựng chính sách, pháp luật liên
quan đến thanh niên và quản lý nhà nước về thanh niên với những phương thức
khác nhau; chủ động xây dựng và đề xuất, trình các cơ quan quản lý nhà nước
có thẩm quyền, tham gia đóng góp ý kiến, phản biện chính sách đối với đoàn
viên thanh niên trực tiếp tại đơn vị; thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục
pháp luật, chính sách cho thanh niên; kiểm tra, giám sát quá trình và kết quả
130
thực hiện pháp luật, chính sách đối với thanh niên và công tác thanh niên; tham
gia hợp tác quốc tế về thanh niên.
4.2.8. Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác quốc tế thanh niên
Chiến lược phát triển thanh niên giai đoạn 2021-2030 đã đề ra giải pháp
đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong thực hiện Chiến lược: (a) Tăng cường hợp tác
quốc tế trong xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên; giao lưu
thanh niên; tích cực, chủ động tham gia xây dựng, ký kết và thực hiện điều
ước, thỏa thuận khu vực và quốc tế về thanh niên; (b) Nâng cao nhận thức của
thanh niên về chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có
hiệu quả; tạo điều kiện để thanh niên tham gia các hoạt động hợp tác, giao lưu
quốc tế về thanh niên; (c) Khai thác, phát huy hiệu quả sự hỗ trợ của các tổ
chức quốc tế để thực hiện Chiến lược gắn với thực hiện và hoàn thành các mục
tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc, chỉ tiêu phát triển thanh niên toàn
cầu và các cam kết, mục tiêu của Cộng đồng ASEAN.
Thực trạng về quản lý nhà nước về thanh niên cho thấy, phần lớn công
tác hợp tác quốc tế về thanh niên do Đoàn thanh niên thực hiện là chính. Hiện
nay, nội dung này đã được giao cho ngành Nội vụ. Để thực hiện tốt nhiệm vụ
này, cần xây dựng quy chế quản lý nhà nước đối với lĩnh vực hợp tác quốc tế
về thanh niên. Trong đó, quy định cụ thể nội dung quản lý, nội dung hợp tác
quốc tế về thanh niên, công tác thanh niên, chủ thể chịu trách nhiệm làm đầu
mối quản lý, liên lạc, tiếp nhận, tổ chức các hoạt động này với danh nghĩa các
tổ chức khác nhau; tăng cường hợp tác quốc tế về thanh niên, bảo đảm nguyên
tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với
luật pháp của mỗi nước, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và thông
lệ quốc tế.
Chính phủ tạo điều kiện để Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh và Ủy ban Quốc gia về thanh niên Việt Nam tổ chức các hoạt động
131
đối ngoại thanh niên và hợp tác quốc tế về thanh niên, mở rộng, đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế; tổ chức các hoạt động
giao lưu, kết nối, hỗ trợ thanh niên, du học sinh nước ngoài đang sinh sống,
học tập tại Việt Nam và hỗ trợ, phát huy lực lượng thanh niên Việt Nam tại
nước ngoài; nâng cao chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại
thông qua đội ngũ báo cáo viên là cán bộ ngoại giao có kinh nghiệm, cung cấp
các thông tin về tình hình thế giới và khu vực cho Trung ương Đoàn; tổ chức
các hoạt động nâng cao năng lực hội nhập quốc tế, đặc biệt là năng lực ngoại
ngữ, tiếng Anh cho thanh niên; đẩy mạnh công tác vận động, khuyến khích,
phát huy vai trò của thanh niên Việt Nam ở nước ngoài hướng về Tổ quốc, góp
phần xây dựng đất nước; tăng cường hợp tác, khai thác các dự án, nguồn lực
quốc tế theo quy định của pháp luật để hỗ trợ công tác đoàn và phong trào
thanh thiếu nhi, đặc biệt là lĩnh vực tình nguyện vì cộng đồng, phát triển bền
vững, nâng cao năng lực hội nhập quốc tế, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.
Kết luận chương 4
Dưới tác động của xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và cuộc
cách mạng khoa học công nghệ 4.0, bên cạnh những cơ hội, thanh niên thế giới
và thanh niên Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn, thách thức, đòi hỏi phải
có sự thay đổi để thích ứng với những biến đổi của đời sống xã hội. Để phát
huy sức lực, trí tuệ của thanh niên vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới cần có sự chung tay của toàn xã hội, trong đó, nâng cao
132
hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên có ý nghĩa hết sức quan trọng. Làm
tốt công tác quản lý nhà nước về thanh niên sẽ góp phần hình thành một thế hệ
thanh niên Việt Nam thời kỳ mới có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị
kiên định, vững vàng; trung thành và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của
Đảng; có lý tưởng cách mạng cao đẹp, giàu lòng yêu nước; có trí tuệ, sức khỏe;
giàu ước mơ, hoài bão; có khát vọng cống hiến sức trẻ, trí tuệ của mình cho sự
nghiệp xây dựng đất nước giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên nhằm hướng
đến việc tạo ra một môi trường thuận lợi nhất để thanh niên thực hiện quyền
và nghĩa vụ của mình; đồng thời, phát huy vai trò của thanh niên trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đạt được mục tiêu này, những giải
pháp mà chúng tôi hướng đến là nâng cao nhận thức về vai trò của thanh niên,
quản lý nhà nước về thanh niên; xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về
thanh niên, quản lý nhà nước về thanh niên; tiếp tục kiện toàn bộ máy quản lý
nhà nước về thanh niên để đáp ứng với nhiệm vụ được giao; phát huy tốt cơ
chế phối hợp liên ngành giữa các bộ, ngành trung ương và chính quyền địa
phương, đảm bảo tính thống nhất, khoa học, hiệu quả trong quá trình xây dựng,
thực thi chính sách, pháp luật về thanh niên…
KẾT LUẬN
Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, có vai trò rất quan trọng đối với sự
phát triển trong hiện tại và tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc. Phát triển thanh
niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước. Tuyên bố của Teheran
đã viết: “Khát vọng của thế hệ trẻ về một thế giới tốt đẹp hơn, trong đó các
quyền con người và các quyền tự do cơ bản được thực hiện đầy đủ, phải được
khuyến khích cao nhất. Tuổi trẻ bắt buộc phải tham gia vào việc định hình
tương lai của nhân loại” (Tuyên bố Teheran, Hành động cuối cùng của
133
Confcnam Quốc tế hoặc Nhân quyền, Teheran. Iran, ngày 22 tháng 4 đến ngày
13 tháng 5 năm 1968 (đoạn 17)) [98, tr.16]. Để phát triển thanh niên, hầu hết
các quốc gia trên thế giới đều có chính sách về thanh niên với mục đích chung
là tạo ra và phát huy những điều kiện tốt nhất cho sự phát triển và đóng góp
cho xã hội của thanh niên.
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, quyền, nghĩa vụ của thanh
niên, chính sách phát triển thanh niên đã được các nước trên thế giới quan tâm
và ghi nhận trong các quy tắc pháp lý của quốc gia và quốc tế, được bảo đảm
thực hiện trên thực tế. Ở Việt Nam, chính sách, pháp luật, quản lý nhà nước về
thanh niên đã được các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học, các cơ quan quản lý
quan tâm và bước đầu đã có những nhìn nhận khái quát về vấn đề này. Tuy
nhiên, đó cũng mới chỉ là những công trình nghiên cứu đơn lẻ, chưa hệ thống,
toàn diện.
2. Về mặt lý luận, luận án đã đưa ra khái niệm quản lý nhà nước về thanh
niên “là quá trình tác động có mục đích của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
bằng chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện có hiệu quả, hiệu lực chính
sách, pháp luật trên thực tế tác động trực tiếp đến thanh niên theo những
nguyên tắc và phương pháp quản lý nhằm bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ
và trách nhiệm của thanh niên theo quy định của Hiến pháp, pháp luật”.
Luận án cũng đã làm rõ vai trò, đặc điểm, nội dung cũng như các yếu tố
ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về thanh niên.
3. Về mặt thực tiễn, bằng việc đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về
thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, quản lý nhà nước về thanh
niên được Nhà nước quan tâm, thanh niên là trọng tâm trong chính sách phát
triển con người, phát triển nguồn lực. Điều này góp phần hình thành một thế
hệ thanh niên Việt Nam thời kỳ mới có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính
trị kiên định, vững vàng; có sức khỏe, trí tuệ và khát vọng cống hiến; góp phần
134
vào sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trước xu thế
toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, thực tiễn quản lý nhà nước về thanh
niên cũng bộc lộ những hạn chế nhất định như: hiệu quả quản lý nhà nước về
thanh niên chưa cao; việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách,
pháp luật chưa đồng bộ, nhiều nội dung chính sách triển khai chưa thực sự hiệu
quả…
4. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về thanh
niên, qua phân tích hạn chế và những nguyên nhân của hạn chế và dự báo tình
hình thanh niên Việt Nam, luận án đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước về thanh niên như: nhận thức đúng, đầy đủ về vai trò của
thanh niên và quản lý nhà nước về thanh niên; nâng cao vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với công tác quản lý nhà nước về thanh niên; hoàn thiện pháp luật về
thanh niên, quản lý nhà nước về thanh niên; hoàn thiện chính sách phát triển
thanh niên; nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp
luật về thanh niên; tiếp tục kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên;
phát huy tốt cơ chế phối hợp liên ngành trong quản lý nhà nước về thanh niên;
đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác quốc tế thanh niên.
5. Với tầm hiểu biết còn hạn chế và trong phạm vi có hạn, luận án đã phân
tích, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước về thanh
niên để từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
thanh niên ở Việt Nam hiện nay. Những kết quả nghiên cứu bước đầu của luận
án góp phần nâng cao nhận thức về quyền, nghĩa vụ của thanh niên, thông qua
đó, góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước về thanh niên để thanh niên phát
triển và phát huy sức mạnh của thanh niên vào phát triển kinh tế - xã hội và
135
xây dựng đất nước.
136
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
_________________________
Các bài viết Tạp chí liên quan công trình:
1. Nguyễn Lê Trọng Tâm.2022 “Quản lý nhà nước về công tác thanh niên trong giai
đoạn hiện nay”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, ISSN 0866-756X, số 08/2022,
tr.90-97;
2. Nguyễn Lê Trọng Tâm.2022 “Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với công
tác thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí
Nhân lực Khoa học xã hội, ISSN 0866-756X, số 08/2022, tr.41-47;
3. Nguyễn Lê Trọng Tâm.2020. “Quy định mới của Luật thanh niên 2020 và giải
pháp triển khai thực hiện”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, ISSN 9866-7535, số
12/2020, tr.55-59;
137
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Bộ Nội vụ (2008), Thông tư số 04/2008/TT-BNV ngày 04 tháng 6 năm
2008 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Nội vụ, Phòng Nội vụ thuộc Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh, cấp huyện.
2. Bộ Nội vụ (2011), Quyết định số 1923/QĐ-BNV ngày 28 tháng 11 năm
2011 của Bộ Nội vụ về việc phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ quản lý nhà nước về Công tác thanh niên cho đội ngũ cán bộ, công
chức làm Công tác thanh niên các cấp, các ngành giai đoạn 2011-2015.
3. Bộ Nội vụ, Quỹ dân số Liên Hợp quốc tại Việt Nam (UNFPA) (2015),
Báo cáo quốc gia về thanh niên Việt Nam, Hà Nội.
4. Bộ Nội vụ - UNDPA (2017), tài liệu Hội nghị Triển khai thực hiện các
văn kiện mới được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành về tổ chức
và chính sách đối với thanh niên”, Hà Nội.
5. Bộ Nội vụ - UNFPA (2022), Tài liệu hội nghị phổ biến, triển khai thực
hiện chính sách, pháp luật về thanh niên, Khánh Hòa.
6. Bộ Nội vụ (2022), Công văn số 439/BNV-CTTN ngày 09 tháng 2 năm
2022 của Bộ Nội vụ về việc hướng dẫn thực hiện một số nhiệm vụ trọng
tâm trong công tác quản lý nhà nước về thanh niên năm 2022.
British Council (2020), Báo cáo nghiên cứu thế hệ trẻ Việt Nam, Hà Nội. 7.
Chính phủ (2007), Nghị định số 120/2007/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 8.
2007 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh niên
năm 2005.
9. Chính phủ (2008), Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm
2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
138
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
10. Chính phủ (2008), Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm
2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh.
11. Chính phủ (2008), Quyết định số 103/2008/QĐ-TTg ngày 21 tháng 7
năm 2008 của Thủ tưởng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Hỗ trợ thanh
niên học và tạo việc làm giai đoạn 2008-2015”.
12. Chính phủ (2011), Quyết định số 2474/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm
2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển thanh
niên Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
13. Chính phủ (2012), Nghị định số 61/2012/NĐ-CP ngày 10 tháng 8 năm
2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Bộ Nội vụ.
14. Chính phủ (2021), Nghị định số 13/2021/NĐ-CP ngày 01 tháng 3 năm
2021 của Chính phủ Quy định về đối thoại với thanh niên; cơ chế, chính
sách và biện pháp thực hiện chính sách đối với thanh niên từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi.
15. Chính phủ (2021), Quyết định số 1331/QĐ-TTg ngày 24 tháng 7 năm
2021 của Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển thanh niên Việt
Nam giai đoạn 2021-2030.
16. Chính phủ (2022), Quyết định số 282/QĐ-TTg ngày 25 tháng 02 năm
2022 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ chế
hoạt động của Ủy ban Quốc gia về Thanh niên Việt Nam.
17. Chính phủ - Ban Chấp hành Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
(2022), Nghị quyết liên tịch Ban hành Quy chế phối hợp công tác của
Chính phủ và Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản
139
Hồ Chí Minh giai đoạn 2022 - 2027
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Sự thật, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII, tập I, tập II, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
23. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Đoàn Thành phố Hồ Chí
Minh (2022), Các báo cáo chuyên đề, đề án, chương trình, kế hoạch,
công trình thanh niên, tham luận, Hà Nội.
24. Nguyễn Hải Đăng (2012), Tổ chức, đào tạo cán bộ làm công tác thanh
thiếu niên theo chương trình giáo dục đại học tại Học viện Thanh thiếu
niên Việt Nam, Đề tài khoa học cập Bộ, Hà Nội.
25. Giáo trình Quản lý hành chính nhà nước, tập 1, NXB Chính trị Quốc gia,
2007.
26. Lê Thị Hà (2017), Đổi mới phương thức lãnh đạo của các tỉnh ủy vùng
Bắc Trung bộ đối với công tác thanh niên giai đoạn hiện nay, Luận án
tiến sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội, 2017.
27. Nguyễn Long Hải (2015), Một số nội dung sửa đổi, bổ sung Luật thanh
niên năm 2005, Đề tài khoa học cấp Bộ, Trung ương Đoàn TNCS Hồ
140
Chí Minh.
28. Nguyễn Long Hải (2017), Chính sách phát triển thanh niên – Thực trạng
và giải pháp, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Ủy ban Quốc gia về thanh niên
Việt Nam - Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
29. Đỗ Thị Thu Hằng, Nguyễn Tuấn Dũng (2019), Nghiên cứu xây dựng
khung chi tiết của Luật thanh niên theo hướng tiếp cận phát triển, Viện
Nghiên cứu Thanh niên, yri.edu.vn, ngày đăng 15/11/2019.
30. Đỗ Thị Thu Hằng (2019), Giải pháp của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thanh niên,
Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện nghiên cứu Thanh niên.
31. Đỗ Thị Thu Hằng, Nguyễn Tuấn Dũng (2019), Nghiên cứu xây dựng
khung chi tiết của Luật Thanh niên theo hướng tiếp cận phát triển đăng
trên mục nghiên cứu của Trang thông tin điện tử của Viện Nghiên cứu
Thanh niên.
32. Nguyễn Thị Quỳnh Hoa (2017), Tổng quan tình hình nghiên cứu thanh
niên giai đoạn 2012-2017 và dự báo tình hình thanh niên giai đoạn 2017-
2022, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Nghiên cứu Thanh niên.
33. Nguyễn Văn Hùng (2021), Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác thanh niên trong thời kỳ mới, Trang Thông tin điện tử của Hội đồng
Lý luận Trung ương ngày 18/3/2021, http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-
doi/doi-moi-su-lanh-dao-cua-dang-doi-voi-cong-tac-thanh-nien-trong-
thoi-ky-moi.html
34. Nguyễn Xuân Hùng (2019), Nghiên cứu tổng kết 10 năm Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”,
141
Đề tài khoa học cấp Bộ, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
35. Nguyễn Quốc Huy (2016), Quản lý nhà nước về công tác thanh niên từ
thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn thạc sĩ ngành Luật Hiến pháp và
luật hành chính, Học viện Khoa học xã hội.
36. Trần Ngọc Hương (2015), Quản lý nhà nước về công tác thanh niên từ
thực tiễn Thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ ngành Luật Hiến pháp và
luật hành chính, Học viện Khoa học xã hội.
37. Nguyễn Hồng Kiên (2022), Quản lý nhà nước về côn tác thanh niên hiện
nay, Tạp chí điện tử Tổ chức Nhà nước,
https://tcnn.vn/news/detail/4570/Quan_ly_nha_nuoc_ve_cong_tac_thanh_nien_hien_n
ayall.html;
38. Vũ Thành Liêm (2014), Quản lý nhà nước về công tác thanh niên từ thực
tiễn Quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ ngành Luật
hiến pháp và luật hành chính, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
Liên Hợp quốc (1948), Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền. 39.
Liên Hợp quốc (1966), Công ước quốc tế các quyền kinh tế, xã hội và 40.
văn hóa.
Liên Hợp quốc (1976), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị. 41.
Liên Hợp quốc (1979), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối 42.
xử đối với phụ nữ.
43. Liên Hợp quốc (1979), Công ước về quyền trẻ em.
44. M.I. Calinin (1982), Bàn về thanh niên, NXB Thanh niên, Hà Nội.
45. Học viện Hành chính (2010), Giáo trình Lý luận hành chính nhà nước
(Giáo trình đại học).
Hồ Chí Minh tuyển tập (1980), tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội. 46.
Hồ Chí Minh toàn tập (1995), tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 47.
Hồ Chí Minh Toàn tập (2011), NXB Chính trị Quốc gia. 48.
142
Hồ Chí Minh (1980), Về giáo dục thanh niên, NXB Thanh niên, Hà Nội. 49.
50. Vũ Đăng Minh (2016), Quản lý nhà nước về thanh niên thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2016.
51. Hồ Chí Minh (2002), Về giáo dục thanh niên, NXB Thanh niên, Hà Nội.
52. Monica Barry (2005), Chính sách thanh niên và hòa nhập xã hội:
cuộc tranh luận quan trọng với thanh niên.
53. Đặng Văn Nhân (2018), Điều tra một số nội dung sửa đổi Luật
Thanh niên, Đề tài khoa học cấp Viện, Viện Nghiên cứu Thanh niên.
54. Hoàng Phê (chủ biên), (2013), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng – Trung
tâm Từ điển học, Hà Nội.
55. LP, Chín nhiệm vụ trọng tâm trong quản lý nhà nước về thanh niên
năm 2022, Báo Điện tử Chính phủ ngày 14/2/2022,
https://baochinhphu.vn/9-nhiem-vu-trong-tam-trong-quan-ly-nha-
nuoc-ve-thanh-nien-nam-2022-10222021414242465.htm
56. Phòng Công tác thanh niên, Sở Nội vụ tỉnh Vĩnh Phúc, Tìm hiểu về
công tác thanh niên và quản lý nhà nhà nước về công tác thanh niên,
Trang Thông tin Sở Nội vụ Tỉnh Vĩnh Phúc,
https://sonoivu.vinhphuc.gov.vn/ct/cms/chuyenmon/Lists/XayDun
gChinhQuyen/View_Detail.aspx?ItemID=62, ngày đăng 24/4/2022.
Quốc hội (2005), Luật Thanh niên năm 2005. 57.
Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 58.
Quốc hội (2020), Luật Thanh niên 2020. 59.
Lê Văn Ri (2017), Đổi mới tổ chức và hoạt động của Đoàn Thanh niên 60.
Cộng sản Hồ Chí Minh trong đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, Luận án tiến sĩ ngành Chính trị học, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
61. Đoàn Văn Thái (2006), Quản lý nhà nước đối với công tác thanh niên
143
trong giai đoạn hiện nay, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
62. Lê Hồng Thắm (2015), Đổi mới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Kiên Giang đối
với công tác thanh niên trong giai đoạn hiện nay, Luận văn ngành Xây
dựng Đảng và chính quyền Nhà nước, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
63. Đàm Thị Thư (2014), Chính sách phát triển thanh niên từ thực tiễn Viện
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Luận văn thạc sĩ ngành Chính sách
công, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
64. Nguyễn Minh Trí (2011), Tỉnh ủy Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác thanh
niên trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
65. Nguyễn Phú Trọng (2013), Công tác thanh niên là vấn đề sống còn của
dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng, Tạp chí Cộng sản, (1), tr6-11.
66. Nguyễn Văn Trung (2008), Chính sách và quản lý nhà nước về công tác
thanh niên ở một số nước trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Hoàng Minh Tuấn (2017), Quản lý nhà nước về viên chức từ thực tiễn
các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ ngành Luật Hiến pháp và luật hành
chính, Học viện Khoa học xã hội.
68. Trần Anh Tuấn (2005), Một cách tiếp cận đối với tư tưởng, quan điểm
và các nội dung sửa đổi Luật Thanh niên năm 2005, Tạp chí Tổ chức nhà
nước, (5).
69. Trần Anh Tuấn (2020), Bàn về tư tưởng, quan điểm và các nội dung liên
quan đến việc sửa đổi Luật Thanh niên năm 2005,
http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210506.
70. Tổng cục Thống kê (2018), Số liệu thống kê về dân số, lao động, việc
144
làm, học tập của thanh niên 2017 – ước tính 2018
71. Tổng Cục thống kê (2019), Kết quả toàn bộ tổng điều tra dân số và nhà
ở năm 2019.
72. Nguyễn Hồng Tung (2011), Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt
Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
73. Phạm Hồng Tung (2011), Về đặc điểm và xu hướng chủ yếu trong lối sống
của thanh niên Việt Nam hiện nay, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số
3/2021.
74. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
75. Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cư, Ủy ban Thường vụ Quốc hội –
Ban Công tác đại biểu, Kinh nghiệm của pháp luật Hàn Quốc quy định
về thanh thiếu niên (Phần 1),
http://ttbd.gov.vn/Home/Default.aspx?portalid=52&tabid=108&catid=4
34&distid=4753.
76. Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cư, Ủy ban Thường vụ Quốc hội –
Ban Công tác đại biểu (2020), Kinh nghiệm của pháp luật Hàn Quốc quy
định về thanh thiếu niên (Phần 2),
http://ttbd.gov.vn/Home/Default.aspx?portalid=52&tabid=108&catid=4
34&distid=4754.
77. Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cư, Ủy ban Thường vụ Quốc hội –
Ban Công tác đại biểu (2020), Kinh nghiệm của pháp luật Hàn Quốc quy
định về thanh thiếu niên (Phần 3),
http://ttbd.gov.vn/Home/Default.aspx?portalid=52&tabid=108&catid=4
34&distid=47535.
78. Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cư, Ủy ban Thường vụ Quốc hội –
145
Ban Công tác đại biểu (2020), Kinh nghiệm của pháp luật Hàn Quốc quy
định về thanh thiếu niên (Phần 4),
http://ttbd.gov.vn/Home/Default.aspx?portalid=52&tabid=108&catid=4
34&distid=4775.
79. Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2005), Luật Thanh
niên một số nước (Tài liệu tham khảo xây dựng Luật Thanh niên), Hà Nội.
80. Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2002), Chiến lược
phát triển thanh niên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
81. Nguyễn Văn Trung (2008), Chính sách và quản lý nhà nước về công tác
thanh niên ở một số nước trên thế giới, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
82. Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính (2022), NXB Lao động.
83. Ủy ban nhân dân (2012), Quyết định số 6028/QĐ-UBND ngày 27 tháng
11 năm 2012 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về ban hành
Chương trình phát triển thanh niên Thành phố giai đoạn 2011-2020.
84. Ủy ban nhân dân (2012), Quyết định số 3662/QĐ-UBND ngày 14 tháng
9 năm 2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về
việc ban hành Đề án tiếp nhận và hợp đồng sinh viên tốt nghiệp Đại học
chính quy về công tác tại Uỷ ban nhân dân xã, phường giai đoạn 2012-
2015.
85. Ủy ban nhân dân (2013), Kế hoạch số 1939/KH-UBND ngày 24 tháng 4
năm 2013 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về thực hiện
chương trình phát triển thanh niên Thành phố giai đoạn 2011-2015.
86. Ủy ban nhân dân (2017), Báo cáo số 117/BC-UBND ngày 10 tháng 7
năm 2017 Báo cáo tổng kết, đánh giá 10 năm thi hành Luật thanh niên
năm 2005 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
87. Ủy ban nhân dân (2017), Báo cáo số 117/BC-UBND ngày 10 tháng 7
146
năm 2017 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về Tổng kết,
đánh giá 10 năm thi hành Luật thanh niên năm 2005 trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh
88. Ủy ban nhân dân (2020), Báo cáo số 200/BC-UBND ngày 28 tháng 10
năm 2020 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Báo cáo tổng
kết thực hiện Chương trình phát triển thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh giai
đoạn 2011-2020.
89. Ủy ban nhân dân (2021), Quyết định số 37/2021/QĐ-UBND ngày 09
tháng 9 năm 2021 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban
hành Quy định quản lý nhà nước về thanh niên trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh.
90. Ủy ban nhân dân (2021), Quyết định số 3685/QĐ-UBND ban hành
Chương trình phát triển thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2021-
2030.
91. V.I.Lênin, Toàn tập, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tập 41.
92. Nguyễn Đắc Vinh (2014), Những vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới
công tác thanh vận trong tình hình mới, Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số:
CT.KXĐTN14-01, Viện Nghiên cứu Thanh niên – Trung ương Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
93. Nguyễn Đắc Vinh (2015), Phát huy vai trò xung kích, tinh thần tình
nguyện của thanh niên trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế, Tạp chí Cộng sản, (869), tr.22-26.
94. Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp (2021), Một số điểm mới
của Luật Thanh niên năm 2020 so với Luật Thanh niên năm 2005,
https://pbgdpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/trao-doi-kinh-
nghiem.aspx?ItemID=127
147
II. Tài liệu nước ngoài
95. Allen, R.e. (Ed), The Oxford Dictionnayry of Curent English,
Oxford University Press, 1994, p.877-880.
96. Drosdowski, Guenther, Duden – Deutsches Universalwoerterbuch,
Dudenverlag, Mainnheim – Leipzig – Wien – Zuerich, 1996, S.792,
S.793.
97. Indira Rystina, Zhaniya Kussainova (2014), Comparative Analysis
of National Youth Policy in Different Countrie, Procedia – Social
and Behavioral Sciences, số 140, tr.654-658.
98. Jorge Cardona, Giuseppe Porcaro, Jaakko Weuro, and Giorgio
Zecca (2015), The International Law of Youth Rights, Publisher:
Brill/Nijhoff.
99. Monica Barry (2005), Youth Policy and Social Inclusion: Critical
Debates with Young People.
100. M.Lê-pê-kin (1975), Những nguyên lý Lêninnít về giáo dục thanh
niên, NXB Lêningrat.
101. http://www.youthpolicy.org/factsheets/.
102. First ASEAN youth development index, tr.1.
103. http://www.youthpolicy.org/factsheets/.
104. 2016 Global Youth Development Index.
105. http://www.populationpyramid.net/viet-nam/2018/ Tháp dân số mô
phỏng sự phát triển của dân số Việt Nam dự báo trong năm 2018 phân
theo giới và tuổi (trích từ website Mô hình tháp dân số thế giới từ năm
148
1950 đến năm 2100).