VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN LÊ TRỌNG TÂM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THANH NIÊN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính Mã số: 9 38 01 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đinh Ngọc Vượng TS. Phan Thanh Hà HÀ NỘI, 2023

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

trích dẫn trong luận án có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Các kết quả trình bày

trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình

nghiên cứu sinh nào khác.

Hà Nội, ngày 27 tháng 10 năm 2023

Tác giả luận án

Nguyễn Lê Trọng Tâm

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1 ................................................................................................................... 9

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ......................................................... 9

1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................................ 9 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ................................................................... 9

1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam ................................................................... 13

1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án ................... 22 1.2.1. Những ưu điểm, những kết quả nghiên cứu mà Luận án sẽ tiếp tục kế thừa, phát triển ........................................................................................................................ 22

1.2.2. Về những vấn đề còn chưa được giải quyết thấu đáo hoặc cần phải tiếp tục nghiên cứu ..................................................................................................................... 24

1.3. Cơ sở lý luận và hướng tiếp cận nghiên cứu của đề tài ............................... 27 1.3.1. Cơ sở lý thuyết ................................................................................................... 27 1.3.2. Khung phân tích để làm rõ lý thuyết ................................................................ 27

Kết luận chương 1 ...................................................................................................... 30

CHƯƠNG 2 ................................................................................................................. 32

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ............................ 32

VỀ THANH NIÊN ..................................................................................................... 32

2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về thanh niên .......... 32 2.1.1. Khái niệm thanh niên, quản lý nhà nước về thanh niên ................................. 32

2.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về thanh niên ............................................... 42

2.1.3. Vai trò của quản lý nhà nước về thanh niên .................................................... 44

2.2. Nội dung, chủ thể quản lý nhà nước về thanh niên ..................................... 49 2.2.1. Nội dung quản lý nhà nước về thanh niên ....................................................... 49 2.2.2. Chủ thể quản lý nhà nước về thanh niên ......................................................... 59

2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về thanh niên ...................... 66 2.3.1. Chính sách của Nhà nước về thanh niên ......................................................... 66

2.3.2. Yếu tố kinh tế ..................................................................................................... 66

2.3.3. Hội nhập quốc tế và khu vực ............................................................................ 67

Kết luận chương 2 ...................................................................................................... 69

CHƯƠNG 3 ................................................................................................................. 70

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THANH NIÊN ........................ 70 TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...................................................................... 70

3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh ....................................................................................................... 70 3.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh ................................... 70

3.1.2. Tình hình thanh niên tại thành phố Hồ Chí Minh .......................................... 72

3.1.3. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên tại thành phố Hồ Chí Minh ........................................................................................................................................ 74

3.2. Thực tiễn quản lý Nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh ........................................................................................................................................ 77 3.2.1. Xây dựng chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên ................................................................................................................. 77

3.2.2. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển thanh niên ...................................................................................................................... 90

3.2.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên ...................................................................................................................... 93

3.2.4. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về thanh niên ........ 95

3.2.5. Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên ........................................................... 97 3.2.6. Hợp tác quốc tế về thanh niên .......................................................................... 98

3.3. Đánh giá chung về thực tiễn quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh ....................................................................................................... 99 3.3.1. Những kết quả đạt được trong quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh ......................................................................................................... 99

3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh ......................................................................................101

Kết luận chương 3 ....................................................................................................106

CHƯƠNG 4 ...............................................................................................................108

DỰ BÁO TÌNH HÌNH THANH NIÊN, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THANH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ......................................................................108

4.1. Dự báo tình hình thanh niên Việt Nam và quan điểm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên ............................................................................108 4.1.1. Bối cảnh đất nước và tình hình thanh niên Việt Nam ..................................108

4.1.2. Quan điểm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên ..................111

4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên trong giai đoạn hiện nay ............................................................................................................116 4.2.1. Nhận thức đúng, đầy đủ hơn về vai trò của thanh niên và quản lý nhà nước về thanh niên ...............................................................................................................116

4.2.2. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý nhà nước về thanh niên ....................................................................................................................117

4.2.3. Hoàn thiện pháp luật về thanh niên, quản lý nhà nước về thanh niên ........118

4.2.5. Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về thanh niên ....................................................................................................................123

4.2.6. Tiếp tục kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên để đáp ứng với nhiệm vụ được giao ....................................................................................................125

4.2.7. Phát huy tốt cơ chế phối hợp liên ngành giữa các bộ, ngành trung ương và chính quyền địa phương, đảm bảo tính thống nhất, khoa học, hiệu quả trong quá trình xây dựng, thực thi chính sách, pháp luật về thanh niên .................................127 4.2.8. Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác quốc tế thanh niên ........................131 Kết luận chương 4 .................................................................................................... 132

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 138

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đối với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, thanh niên luôn là lực lượng

đóng vai trò vô cùng quan trọng. Do vậy, các quốc gia luôn dành sự quan tâm,

nguồn lực để phát triển, bảo vệ thanh niên thông qua những chính sách, pháp

luật dành cho thanh niên. Ở Việt Nam, ngay khi Cách mạng Tháng Tám năm

1945 thành công, trong “Thư gửi các bạn thanh niên” ngày 17 tháng 8 năm

1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh là

một phần do thanh niên, thanh niên là chủ tương lai của đất nước”. Kế thừa tư

tưởng của Người, trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước, Đảng Cộng sản

Việt Nam luôn đặt niềm tin và tạo điều kiện để thanh niên có cơ hội phát triển,

xứng đáng với sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Báo cáo chính trị tại Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục đánh giá cao vị trí, vai trò của

thanh niên, đề ra những nhiệm vụ lãnh đạo công tác thanh niên: “Tăng cường

giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá, nâng cao

lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn

lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội; xây dựng môi

trường, điều kiện học tập, lao động, giải trí, rèn luyện để phát triển lành mạnh,

toàn diện, hài hoà cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ. Tạo động lực cho

thanh niên xung kích trong học tập, lao động sáng tạo, khởi nghiệp, lập nghiệp;

làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại, phát huy vai trò quan

trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [22, tr.168].

Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành

nhiều chính sách, pháp luật để quản lý và phát triển thanh niên. Luật Thanh

niên cùng với các văn bản quy phạm pháp luật khác về thanh niên được ban

hành và đi vào thực tiễn đã giúp cho công tác quản lý nhà nước về thanh niên

1

có những chuyển biến tích cực, các quyền và nghĩa vụ của thanh niên được bảo

đảm; vai trò, trách nhiệm của thanh niên trong việc tham gia phát triển kinh tế

- xã hội ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội

nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển của thanh niên Việt Nam phải đối mặt với

không ít những khó khăn, thách thức. Thanh niên đang có những thay đổi về

cơ cấu xã hội, địa vị kinh tế, tư tưởng chính trị, tâm lý, lối sống… Mặt trái của

nền kinh tế thị trường cùng với sự chuyển dịch cơ cấu lao động gây khó khăn

cho công tác quản lý, tập hợp và đoàn kết thanh niên ở vùng nông thôn, vùng

sâu, vùng xa, nhất là những vùng đặc biệt khó khăn; tình trạng vi phạm pháp

luật và tệ nạn xã hội trong thanh niên đang có chiều hướng gia tăng, nhiều thế

lực xấu kích động, lôi kéo, chuyển hóa thanh niên. Vì vậy, Nhà nước cần có

những chính sách, giải pháp, đặc biệt là nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về

thanh niên để phát huy, phát triển và tạo điều kiện cho thế thệ trẻ kế thừa và

phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì

Nhân dân.

Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật

lớn nhất khu vực phía Nam, trong những năm qua, lực lượng lao động trong độ

tuổi thanh niên chiếm phần lớn trong cơ cấu ngành nghề của lực lượng lao động

xã hội, cơ cấu này hiện đã bắt đầu chuyển dịch tích cực theo hướng giảm dần

số lượng lao động trong khu vực nông nghiệp, tăng dần lao động trong khu vực

công nghiệp và dịch vụ, góp phần to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội

của Thành phố. Nhận thức và hành động của thanh niên có sự chuyển biến tích

cực, ý thức công dân, lý tưởng cách mạng được nâng cao; phần lớn thanh niên

ngại khó khăn, gian khổ, xung kích, tình nguyện vì cộng đồng; có trách nhiệm

với gia đình và xã hội; trình độ học vấn, nghề nghiệp, hiểu biết pháp luật từng

bước được nâng cao. Tuy nhiên, trước những biến động của tình hình kinh tế,

2

văn hóa, xã hội, thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng bộc lộ những tồn

tại, hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển thanh niên trong giai đoạn

mới. Trong khi đó, quản lý nhà nước về thanh niên chưa thực sự phát huy hiệu

quả cụ thể như: các cấp chính quyền địa phương chưa nhận thức đầy đủ về vị

trí, vai trò của thanh niên cũng như chưa xác định rõ vị trí, chức năng, nhiệm

vụ của công tác quản lý nhà nước về thanh niên nên chưa thực sự quan tâm, chỉ

đạo quyết liệt và đồng bộ, có nơi, có lúc coi đó là nhiệm vụ của tổ chức Đoàn

thanh niên, Hội liên hiệp thanh niên các cấp; sự phối hợp liên ngành và lồng

ghép các chương trình, đề án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội còn thiếu sự

rõ ràng, chặt chẽ nên khi triển khai nhiệm vụ trên thực tế vẫn còn có sự chồng

chéo, trùng dẫm; chính sách, pháp luật về thanh niên, quản lý nhà nước về thanh

niên chưa đầy đủ, đồng bộ… Điều này đặt ra yêu cầu phải có nghiên cứu tổng

thể về quản lý nhà nước về thanh niên để có những phân tích, đánh giá làm cơ

sở cho sự hoàn thiện chính sách, pháp luật về thanh niên, tạo cơ sở pháp lý để

nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên.

Từ những lí do trên, tôi chọn đề tài Quản lý nhà nước về thanh niên từ

thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh làm đề tài luận án tiến sĩ ngành Luật hiến

pháp và luật hành chính.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về thanh

niên cũng như thực tiễn quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí

Minh, luận án đề xuất các giải pháp nhằm phát huy kết quả và khắc phục hạn

chế trong quản lý nhà nước về thanh niên ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng

và cả nước nói chung.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

3

Để thực hiện mục đích trên, luận án giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau:

- Tổng hợp, đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án,

trong đó, làm rõ những vấn đề đã được nghiên cứu và những khoảng trống cần

tiếp tục nghiên cứu.

- Luận giải những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về thanh niên như:

khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung của quản lý nhà nước về thanh niên;

những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về thanh niên.

- Phân tích, đánh giá thực tiễn quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành

phố Hồ Chí Minh, những kết quả đạt được cũng như chỉ ra những hạn chế và

nguyên nhân của hạn chế trong quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố

Hồ Chí Minh.

- Dự báo tình hình thanh niên trong thời gian tới; đưa ra quan điểm và đề

xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên ở

Việt Nam trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,

tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội

nhập quốc tế.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án tập trung nghiên cứu các chính sách, pháp luật về thanh niên, chủ

thể và đối tượng quản lý nhà nước về thanh niên; thực tiễn quản lý nhà nước về

thanh niên của các cơ quan nhà nước thông qua việc ban hành chính sách, pháp

luật, chương trình, chiến lược liên quan đến thanh niên và thực tiễn thực hiện.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về không gian: Quản lý nhà nước về thanh niên có thể được

nghiên cứu từ nhiều góc độ với những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, trong

phạm vi một luận án, chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về quản lý

nhà nước về thanh niên; thực tiễn quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành

4

phố Hồ Chí Minh.

- Phạm vi về thời gian: Luận án chủ yếu tập trung nghiên cứu quản lý nhà

nước về thanh niên trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt kể từ khi Luật Thanh niên

năm 2005 được ban hành.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp luận

Đề tài luận án “Quản lý nhà nước về thanh niên từ thực tiễn Thành phố

Hồ Chí Minh” sử dụng phương pháp tiếp cận liên ngành với sự kết hợp của

nhiều ngành khoa học xã hội và tiếp cận lịch sử. Đề tài dựa trên cơ sở lý luận

của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên, nhà nước và

pháp luật; các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước về thanh niên.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng tổng thể các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp

phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương

pháp hệ thống, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích - dự báo.

Các phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu nội dung trong các chương,

mục của luận án như sau:

Chương 1: Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp

tổng hợp và phương pháp phân tích. Qua thống kê và tổng hợp các công trình

nghiên cứu khoa học trong nước và ngoài nước về những vấn đề có liên quan

đến nội dung luận án, phân tích những nội dung cơ bản trong các công trình

nghiên cứu đó và đưa ra đánh giá về tình hình nghiên cứu.

Chương 2: Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp tổng

hợp, phương pháp so sánh để đưa ra khái niệm về thanh niên, quản lý nhà nước

về thanh niên cũng như đặc điểm, vai trò, nội dung của quản lý nhà nước về

thanh niên. Đồng thời, phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước

5

về thanh niên.

Chương 3: Luận án sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp tổng

hợp, phương pháp phân tích, phương pháp hệ thống để đánh giá thực trạng pháp

luật và thực tiễn quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí, từ đó

chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập.

Chương 4: Luận án sử dụng phương pháp phân tích - dự báo, phương pháp

phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử

và phương pháp thống kê… nhằm dự báo xu hướng phát triển của xã hội nói

chung và thanh niên nói riêng; làm rõ các quan điểm, chủ trương của Đảng và

chính sách, pháp luật của Nhà nước và những yêu cầu đặt ra, từ đó đưa ra các

giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

Đây là một công trình chuyên khảo, nghiên cứu một cách khoa học, toàn

diện và có hệ thống về quản lý nhà nước về thanh niên. Luận án có những đóng

góp mới về mặt khoa học với những nội dung cụ thể như sau:

Thứ nhất, bổ sung, phát triển những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước

về thanh niên, cụ thể: làm rõ khái niệm, đặc điểm và nội dung của quản lý nhà

nước về thanh niên; phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về

thanh niên trong giai đoạn hiện nay, đó là những yếu tố về chính sách của nhà

nước, tình hình kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.

Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về thanh niên tại

Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó, làm sáng tỏ những thành tựu, hạn chế và

nguyên nhân của những hạn chế trong quản lý nhà nước về thanh niên, từ đó làm

cơ sở đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên.

Thứ ba, luận án đã đưa ra một hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả quản lý nhà nước về thanh niên ở Việt Nam hiện nay trên cơ sở dự báo tình

hình thanh niên dưới tác động của xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và có

6

tính đến đặc trưng của thanh niên. Ngoài những giải pháp trước mắt, luận án

chú trọng đến những giải pháp ở tầm chiến lược, mang tính lâu dài đó là tiếp

tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về thanh niên.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

6.1. Ý nghĩa khoa học

Luận án đã nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn

của quản lý nhà nước về thanh niên. Kết quả nghiên cứu của luận án đóng góp

vào việc làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về thanh niên. Luận

án cũng góp phần luận giải những yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về

thanh niên.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Thực tiễn quản lý nhà nước về thanh niên ở nước ta trong thời gian qua

cũng bộc lộ một số điểm hạn chế. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân,

trong đó, chính sách, pháp luật về thanh niên chưa thực sự đồng bộ, thống nhất,

các cơ quan quản lý nhà nước nhận thức chưa đầy đủ về vai trò, vị trí của thanh

niên trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy, những kết quả

nghiên cứu và đề xuất những giải pháp của luận án có ý nghĩa góp phần hoàn

thiện và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên ở Việt Nam hiện

nay. Luận án còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên

cứu, giảng dạy và cho các cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận

án gồm 4 chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu

Chương 2: Những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về thanh niên

Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ

7

Chí Minh

Chương 4: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước

8

về thanh niên trong giai đoạn hiện nay

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

Vấn đề về thanh niên, quyền của thanh niên, chính sách, pháp luật về thanh

niên đã được các nước trên thế giới quan tâm nhưng việc dịch thuật và phổ biến

các công trình viết về những nội dung này của các nước trên thế giới ở Việt

Nam còn hạn chế nên các tư liệu mà tác giả được tiếp cận chủ yếu thông qua

một số cuốn sách tiêu biểu, một số bài viết của các học giả và thông qua các

công ước nhân quyền chung thiết lập các quyền đặc biệt quan trọng đối với

thanh niên.

- Cuốn The International Law of Youthe Rights (Luật quốc tế về quyền

thanh niên) của Jorge Cardona, Giuseppe Porcaro, Jaakko Weuro, and Giorgio

Zecca (biên tập), phiên bản sửa đổi lần hai, Nhà xuất bản Brill [98]. Cuốn sách

giới thiệu nghiên cứu tiên phong, độc đáo của William Angel (1966) về nguồn

gốc, sự phát triển và các đặc điểm cơ bản của Luật quốc tế về quyền của thanh

niên. Bao gồm cả tài liệu nguồn và các bình luận về các xu hướng lịch sử để

xây dựng và hệ thống hóa các công cụ và tiêu chuẩn quốc tế trong lĩnh vực này

cũng như những hành động của các tổ chức chính phủ, liên chính phủ và phi

chính phủ để thúc đẩy và bảo vệ các quyền của thanh niên. Đồng thời, đưa ra

lời kêu gọi sử dụng công cụ quốc tế để giám sát, thúc đẩy và bảo vệ tốt hơn

quyền thanh niên trên toàn cầu. Phiên bản này sửa đổi, cập nhật và mở rộng với

mục đích duy trì và cập nhật nghiên cứu lịch sử mang tính bước ngoặt do

William Angel thực hiện và giới thiệu cho mọi người; giới thiệu thông tin cập

nhật, phân tích tình trạng của Luật quốc tế về quyền thanh niên và cung cấp

một bản tổng hợp các nguồn luật dễ sử dụng cho các nhà nghiên cứu và các nhà

9

thực tiễn hoạt động trong lĩnh vực này. Quan trọng là cuốn sách này cung cấp

một lộ trình cho người đọc để kết thúc các nguồn của Luật quốc tế về quyền

thanh niên và là tài liệu tham khảo để thấy được các văn bản pháp luật liên quan

có hiệu lực; thúc đẩy nghiên cứu pháp lý, chính trị và xã hội học sâu hơn trong

lĩnh vực học thuật, cũng như hỗ trợ các hành động vận động mạnh mẽ hơn để

nâng cao quyền của những người trẻ tuổi.

- Cuốn Những nguyên lý lêninnít về giáo dục thanh niên của X.M. Lê-pê-

kin (Phó tiến sĩ sử học M.Lê-pê-kin (1975), NXB Lêningrat [100]. Trên cơ sở

học thuyết Mác – Lênin về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc giáo dục

thanh niên, tác giả đã luận giải những nội dung của nguyên lý Lêninnít về giáo

dục thanh niên; phương pháp, hình thức và kinh nghiệm trong công tác giáo

dục đoàn viên, thanh niên của Đoàn Thanh niên Cộng sản Lênin Liên Xô. Trong

đó, tác giả cũng phân tích sâu sắc những nguyên tắc cơ bản về sự lãnh đạo của

Đảng Cộng sản Liên Xô đối với Đoàn Thanh niên Cộng sản Liên Xô.

- Cuốn Bàn về thanh niên của M.I.Calinin (M.I.Calinin (1982), Bàn về

thanh niên, NXB Thanh niên, Hà Nội [44]. Với những kinh nghiệm trong công

tác thanh niên, tác giả đã đưa ra những kinh nghiệm quý báu trong công tác

giáo dục thanh niên, đồng thời, tác giả cũng đưa ra những yêu cầu cụ thể về

phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công tác của cán bộ làm công tác

thanh niên nói chung, cán bộ đoàn nói riêng. Theo tác giả: Trong công tác thanh

niên, không được sao chép một cách thiếu suy nghĩ những phương pháp của

“người lớn tuổi”, cũng không dùng mệnh lệnh hành chính mà chúng ta thường

gặp trong các tổ chức kinh tế… “Điều quan trọng ở đây là phải tính đến những

đặc điểm của lứa tuổi thanh niên, đến tính nhạy cảm đặc biệt của họ, đến lòng

khao khát của họ vươn tới những lý tưởng cao đẹp…”, “việc coi thường những

đặc điểm của lứa tuổi chỉ có thể làm cho công tác đoàn bị khô héo, cằn cỗi đi,

10

chỉ có thể làm cho thanh niên khiếp sợ và xa lánh Đoàn” [44, tr.13-14].

- Cuốn Youth Policy and Social Inclusion: Critical Debates with Young

People (Chính sách thanh niên và hòa nhập xã hội: cuộc tranh luận quan trọng

với thanh niên của Monica Barry) [99]. Với cách tiếp cận toàn diện và đa ngành,

tác giả đã xác định và phân tích các yếu tố thúc đẩy hoặc cản trở sự hòa nhập

xã hội của những người trẻ tuổi trong xã hội ngày nay. Tác giả đã tìm kiếm câu

hỏi về khả năng sẵn sàng để được tham gia vào các hoạt động xã hội của những

người trẻ tuổi trong các điều khoản của chính sách và thực tiễn; khám phá mức

độ mà những người trẻ tuổi có quyền truy cập vào địa vị, quyền và trách nhiệm

cũng như người trưởng thành thực sự.

- Bài viết Comparative Analysis of National Youth Policy in Different

Countrie (Phân tích, so sánh về Chính sách Quốc gia Thanh niên ở các nước

khác nhau trên thế giới) của Indira Rystina, Zhaniya Kussainova (2014) [97].

Từ thực trạng thanh niên các nước trên thế giới, nhất là các nước đang phát

triển, tác giả đã khuyến khích thanh niên thực hiện các quyền của mình trong

những điều kiện, hoàn cảnh phù hợp. Tác giả cũng đưa ra các tiêu chuẩn quốc

tế về Chính sách quốc gia về thanh niên; phân tích toàn cầu về hành động để

thúc đẩy chính sách quốc gia thanh niên; phân tích, so sánh các quốc gia đã

thực hiện Chính sách quốc gia thanh niên. Ngoài ra, tác giả đưa ra các tiêu

chuẩn, điều kiện và các bước cho việc thực hiện các chính sách về thanh niên.

Bên cạnh đó, luận án cũng tiếp cận các văn bản quan trọng của pháp luật

quốc tế và khu vực liên quan đến thanh niên, trong đó chủ yếu là các công ước

nhân quyền chung thiết lập các quyền đặc biệt đối với thanh niên, cụ thể như:

Công ước quốc tế về quyền trẻ em, bảo vệ trẻ em và thanh thiếu niên đến 18

tuổi, có tính đến các yếu tố dễ bị tổn thương ảnh hưởng đặc biệt đến tuổi tác

của họ; Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, trong đó có quyền về sức

khỏe và thông tin đã tạo cơ sở cho việc thúc đẩy sức khỏe sinh sản và tình dục

11

của thanh niên. Các tuyên bố chính trị quốc tế, các khuyến nghị, nghị quyết và

các tài liệu khác về các chủ để liên quan đến thanh niên, tuy không tạo thành

luật ràng buộc về mặt pháp lý mà chính phủ phải thông qua nhưng chúng vẫn

đóng một vai trò quan trọng trong việc thiết lập các tiêu chuẩn và thông lệ tốt

liên quan đến việc xây dựng và thực hiện chính sách thanh niên ở cấp quốc gia.

Một mặt, các tài liệu này cung cấp cho chính phủ các tiêu chuẩn để hợp pháp

hóa việc vận động của họ; mặt khác, các điều khoản của chúng có thể được

chuyển thành các mục tiêu chương trình và các biện pháp can thiệp cụ thể. Điển

hình như Chương trình Hành động Thế giới về Thanh niên, đó là một tập hợp

các mục tiêu hoặc nguyên tắc mà các chính phủ đã đồng ý thực hiện để hỗ trợ

thanh niên. Hay Hiến chương Thanh niên châu Phi và Hiến chương châu Âu về

sự tham gia của thanh niên vào đời sống địa phương và khu vực, Hiệp ước

Thanh niên châu Âu kể từ khi được tuyên bố đã thúc đẩy hành động của Liên

minh châu Âu trong lĩnh vực thanh niên…

Ở cấp độ toàn cầu, các vấn đề liên quan đến thanh niên được các quốc gia

đặc biệt quan tâm. Vị trí Người đại diện của Tổng thư ký Liên Hợp quốc về

thanh niên đã được thành lập vào năm 2013, 190 quốc gia có cơ quan trung

ương chịu trách nhiệm về thanh niên và các hội nghị thượng đỉnh của thanh

niên như: Diễn đàn Thanh niên của ECOSOC, UNESCO, Diễn đàn Thanh niên

khối thịnh vượng chung và Hội nghị Thanh niên thế giới… đã trở thành nền

tảng có ảnh hưởng trên thế giới. Những hoạt động này được dựa trên các khuôn

khổ chính sách thanh niên quốc tế lâu dài như Chương trình hành động Thế

giới của Liên Hợp quốc dành cho thanh niên WPAY và Kế hoạch Hành động

Khối thịnh vượng chung Trao quyền cho Thanh niên PAYE.

Các cơ quan chính của Liên Hợp quốc đã xây dựng các chiến lược định

hướng công việc của họ đối với thanh niên. Chiến lược Thanh niên của UNDP

và Chiến lược của UNFPA về thanh thiếu niên đặt ra các ưu tiên của họ trong

12

phát triển thanh niên, bao gồm tăng cường trao quyền kinh tế, cam kết và sự

tham gia cộng đồng, xây dựng khả năng phục hồi, sức khỏe tình dục và sinh

sản, chú trọng đến những thanh niên bị cách ly và thiệt thòi, đặc biệt là thanh

niên nữ.

Từ tổng quan tình hình nghiên cứu ở ngoài nước cho thấy, những công

trình nghiên cứu trên mới chỉ tập trung nghiên cứu về công tác giáo dục thanh

niên, luật quốc tế về thanh niên, quyền của thanh niên, chính sách đối với thanh

niên, các hoạt động của các tổ chức chính phủ, liên chính phủ và phi chính phủ

trong việc sử dụng công cụ pháp lý để thúc đẩy và bảo vệ các quyền thanh

niên…, nghiên cứu thanh niên với tư cách là chủ thể của chính sách chứ chưa

có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu một các hệ thống và tổng thể về

quản lý nhà nước về thanh niên.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam

Ở Việt Nam, thanh niên, chính sách, pháp luật về thanh niên, quản lý nhà

nước về công tác thanh niên, quản lý nhà nước về thanh niên là nội dung đã

được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu khoa học và tổng kết thực

tiễn. Những nội dung này được công bố trên các tạp chí khoa học, báo cáo khoa

học, đề tài nghiên cứu, luận văn, luận án, các cuốn sách được xuất bản hoặc

đăng tải trên các trang thông tin điện tử…

1.1.2.1. Đề tài khoa học

Đặng Văn Nhân, Viện Nghiên cứu Thanh niên (2013), Nghiên cứu các

giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành Luật Thanh niên của Đoàn

TNCS Hồ Chí Minh. Đề tài đã phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật

về thanh niên, từ đó đề xuất một số nhóm giải pháp về nâng cao nhận thức,

quan điểm chỉ đạo đối với công tác thi hành Luật Thanh niên và sửa đổi, bổ

sung một số quy định của Luật Thanh niên làm cơ sở pháp lý để thực hiện quản

13

lý nhà nước về thanh niên.

Nguyễn Long Hải (2015), Một số nội dung sửa đổi, bổ sung Luật thanh

niên năm 2005, Đề tài khoa học cấp Bộ, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.

Đề tài đề xuất phương án xây dựng Luật thanh niên (sửa đổi) trên tinh thần luật

về phát triển thanh niên. Những nội dung nghiên cứu của đề tài mới dừng lại ở

việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung một số nội dung chưa phù hợp của Luật thanh

niên năm 2005; tập trung vào chương quyền và nghĩa vụ của thanh niên mà

chưa có sự phân tích, đánh giá cụ thể về trách nhiệm của Nhà nước trong việc

xây dựng, thực hiện các chính sách để bảo đảm cho thanh niên thực hiện quyền

và nghĩa vụ.

Nguyễn Thị Quỳnh Hoa (2017), Tổng quan tình hình thanh niên giai đoạn

2012-2017 và dự báo tình hình thanh niên giai đoạn 2017-2022, Đề tài khoa

học cấp Bộ, Viện Nghiên cứu Thanh niên. Đề tài đã tổng quan tình hình thanh

niên giai đoạn 2012-2017 với những nét nổi bật và một số vấn đề cần quan tâm,

dự báo tình hình thanh niên giai đoạn 2017-2022, từ đó đề xuất một số khuyến

nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Đoàn và phong trào Thanh

thiếu nhi trong thời gian tới.

Nguyễn Long Hải (2017), Chính sách phát triển thanh niên – Thực trạng

và giải pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.

Đề tài làm rõ những vấn đề lý luận về chính sách phát triển thanh niên như khái

niệm, đặc điểm, nội dung chính sách phát triển thanh niên và chính sách phát

triển thanh niên ở một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam;

phân tích, đánh giá thực trạng chính sách phát triển thanh niên ở Việt Nam. Từ

đó, đề xuất giải pháp tiếp tục xây dựng hệ thống chính sách phát triển thanh

niên ở nước ta với nhóm giải pháp chung và các nhóm giải pháp cụ thể của

Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Ủy ban Quốc gia về thanh niên Việt

14

Nam, các cơ quan trong bộ máy Nhà nước.

Đỗ Thị Thu Hằng (2019), Giải pháp của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong

việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thanh niên, Đề tài khoa học cấp Bộ,

Viện Nghiên cứu Thanh niên. Đề tài đã phân tích, tổng quan cơ sở lý luận và

hoạt động của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh về bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của thanh niên; phân tích, đánh giá những hạn chế, nguyên nhân

của hạn chế và bài học kinh nghiệm. Đặc biệt, đề tài đã đưa ý kiến thanh niên

về các điều kiện để Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thực hiện tốt công tác bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp cho thanh niên; nhu cầu, mong đợi của thanh niên

đối với việc Đoàn TNCS Hồ Chí Minh hỗ trợ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của thanh niên.

Ngoài ra còn có các đề tài của các tác giả như: Nguyễn Đắc Vinh (2014),

Những vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới công tác thanh vận trong tình hình

mới, Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số: CT.KXĐTN 14 – 01, Viện Nghiên cứu

Thanh niên, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; Đỗ Thị Thu Hằng (2014),

Cơ sở lý luận và thực tiễn việc sửa đổi, bổ sung Luật thanh niên năm 2005, Đề

tài khoa học cấp Bộ, Viện Nghiên cứu Thanh niên; Đỗ Thị Thu Hằng (2019),

Giải pháp của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của thanh niên, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Nghiên cứu Thanh niên.

1.1.2.2. Các sách chuyên khảo và tham khảo

Tác giả Nguyễn Hồng Tung, Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt

Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị Quốc

gia, Hà Nội, năm 2011. Dựa trên nhiều nguồn tư liệu ở trong và ngoài nước,

bằng cách tiếp cận đa ngành, tác giả đã phân tích, làm sáng tỏ những nội dung

cơ bản, những ưu điểm và hạn chế trong chính sách và pháp luật đối với thanh

niên. Ngoài ra, tác giả còn chỉ ra diện mạo và đặc điểm của thế hệ thanh niên

Việt Nam hiện nay. Phân tích, làm rõ thực trạng và xu hướng biến đổi lối sống

15

của thế hệ trẻ Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế;

những yếu tố tác động, có tính chất định hướng đối với việc hình thành và quá

trình biến đổi lối sống của thanh niên. Từ đó, đề xuất sáu nhóm giải pháp nhằm

xây dựng lối sống của thanh niên Việt Nam phù hợp với tiến trình đổi mới đất

nước hiện nay như: nhóm giải pháp liên quan đến đường lối, chính sách thanh

niên của Đảng và Nhà nước; các tổ chức, đoàn thể của thanh niên; gia đình và

giáo dục gia đình đối với thanh niên; giáo dục học đường đối với thanh niên;

truyền thông đại chúng và từ chính bản thân thanh niên.

Bộ Nội vụ, Quỹ Dân số Liên Hợp quốc tại Việt Nam (UNFPA), Báo cáo

quốc gia về thanh niên, Hà Nội, 2015. Báo cáo sử dụng các số liệu thứ cấp từ

các cuộc điều tra quốc gia trong những năm gần đây để đưa ra các chỉ số định

lượng và phân tích định tính về thực trạng giáo dục, việc làm và chăm sóc sức

khỏe cho thanh niên và sự tham gia của thanh niên trong việc xây dựng và thực

thi chính sách trong các lĩnh vực này. Báo cáo cũng đề cập đến tổ chức bộ máy

quản lý thanh niên cũng như nội dung quản lý nhà nước về thanh niên, chính

sách phát triển thanh niên Việt Nam… Đồng thời, báo cáo đưa ra các khuyến

nghị nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật để phát triển toàn diện

thanh niên trong thời gian tới.

Cuốn sách Quản lý nhà nước về thanh niên thời kỳ công nghiệp hóa, hiện

đại hóa, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016 do TS. Vũ Đăng Minh

(chủ biên). Tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hiệu quả

quản lý nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên; phân tích, đánh giá thực

trạng hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên từ năm

1945 đến nay và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà

nước về thanh niên giai đoạn hiện nay. Trong đó, cuốn sách cũng đưa ra một

số kiến nghị đối với cấp ủy, chính quyền các cấp

Nghiên cứu của nước ngoài về thanh niên Việt Nam phải kể đến Báo cáo

16

nghiên cứu thế hệ trẻ Việt Nam của tổ chức British Council, 8/2020. Báo cáo

tập trung nghiên cứu Thế hệ trẻ Việt Nam, đưa ra tuyên bố rõ ràng từ những

người Việt trẻ (từ 16 đến 30 tuổi) về những trăn trở và khát vọng của họ về

tương lai Việt Nam. Báo cáo chỉ ra rằng, thế hệ trẻ Việt Nam nhận thức rõ và

trân trọng những cải thiện trong giáo dục, cơ hội việc làm, sự mở cửa và hiện

đại hóa xã hội. Tuy nhiên, cũng giống như những người đồng trang lứa ở các

quốc gia khác trong chuỗi nghiên cứu, để cảm thấy tự tin và an toàn về tương

lai của bản thân, người Việt trẻ muốn và cần nhiều hơn thế, trong đó có sự tập

trung nhiều hơn và kĩ năng sống, các kết nối giữa giáo dục và việc làm. Người

trẻ ở nông thôn và người trẻ ở thành thị có những quan điểm và kì vọng khác

nhau về vai trò và giá trị của cộng đồng và quốc gia. Báo cáo cũng chỉ ra một

vài quan ngại của giới trẻ về việc họ cảm thấy ít có tiếng nói trong xã hội và

quá trình hoạch định chính sách, cũng như bày tỏ mong muốn nâng cao việc

thực thi các luật phòng, chống tham nhũng.

Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh,

10/2022, Các báo cáo chuyên đề, đề án, chương trình, kế hoạch, công trình

thanh niên, tham luận. Để nhìn nhận, đánh giá một cách toàn diện về kết quả

đạt được trong từng mặt công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi thành phố

trong nhiệm kỳ 2017-2022, cuốn sách đã tổng hợp các báo cáo chuyên đề, tham

luận; dự thảo các đề án, chương trình, kế hoạch, công trình thanh niên của

nhiệm kỳ XI (2022-2027).

1.1.2.3. Tạp chí, bài báo khoa học

Công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những

nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng của Nguyễn Phú Trọng (2013),

Tạp chí Cộng sản, (1), tr6-11. Bài viết đã khẳng định và làm rõ vai trò, vị trí

của công tác thanh niên trong giai đoạn mới hiện nay. Đồng thời, tác giả đưa ra

một số giải pháp để phát triển hơn nữa công tác này như: Cần coi trọng và làm

17

tốt hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho thanh, thiếu niên; đẩy

mạnh các phong trào hành động cách mạng, phát huy vai trò xung kích, sáng

tạo của tuổi trẻ; chăm lo, củng cố xây dựng cho tổ chức Đoàn vững mạnh, tích

cực tham gia xây dựng Đảng.

Đỗ Thị Thu Hằng, Nguyễn Tuấn Dũng (2019), Nghiên cứu xây dựng

khung chi tiết của Luật Thanh niên theo hướng tiếp cận phát triển đăng trên

mục nghiên cứu của Trang thông tin điện tử của Viện Nghiên cứu Thanh niên.

Bài viết đã luận giải cơ sở lý luận của việc sửa đổi Luật Thanh niên theo hướng

tiếp cận phát triển thanh niên. Theo đó, quan điểm của các nước trong khối

Thịnh vượng chung, phát triển thanh niên là “nâng cao vị trí của thanh niên,

trao cho họ khả năng dựa vào năng lực của chính mình trong cuộc sống. Điều

đó sẽ làm cho họ có thể đóng góp và được hưởng lợi từ sự ổn định chính trị, sự

phát triển kinh tế và môi trường pháp lý thuận lợi, đảm bảo sự tham gia đầy đủ

của họ với tư cách là một thành viên tích cực trong xã hội”. Đồng thời, bài viết

cũng phân tích, luận giải cơ sở thực tiễn của việc xây dựng Luật Thanh niên

sửa đổi theo hướng tiếp cận phát triển với các vấn đề cụ thể như: giáo dục, đào

tạo cho thanh niên; lao động, việc làm cho thanh niên; sức khỏe của thanh niên;

sự tham gia của thanh niên; quyền và nghĩa vụ của thanh niên; hệ thống chính

sách, pháp luật về thanh niên; hệ thống quản lý nhà nước về thanh niên; các

chủ thể tham gia công tác phát triển thanh niên…

Bài viết Kinh nghiệm của pháp luật Hàn Quốc quy định về thanh thiếu

niên (Phần 1, 2, 3) đăng trên mục Kinh nghiệm quốc tế của Trang thông tin

điện tử của Ủy ban Thường vụ Quốc hội – Ban công tác đại biểu, năm 2020.

Bài viết giới thiệu khái quát hệ thống pháp luật về thanh thiếu niên ở Hàn Quốc;

nội dung các luật về thanh thiếu niên ở Hàn Quốc như: Luật khuyến khích sự

tham gia của thanh thiếu niên, Luật khung về thanh thiếu niên, Luật hỗ trợ phúc

lợi xã hội cho thanh thiếu niên, Luật khuyến khích tuyển dụng thanh niên…

18

Đây được xem là nguồn tham thảo đặc biệt hữu ích cho Việt Nam trong việc

xây dựng chính sách phát triển thanh thiếu niên, đặc biệt là trong các vấn đề

như: mục đích, nguyên tắc phát triển thanh thiếu niên, bảo vệ thanh thiếu niên;

cơ cấu tổ chức, hệ thống hoạt động của cơ quan làm công tác thanh niên; khuyến

khích thanh thiếu niên vào các hoạt động xây dựng chính sách…

Bài viết Bàn về tư tưởng, quan điểm và các nội dung liên quan đến việc

sửa đổi Luật Thanh niên năm 2005 của Trần Anh Tuấn, đăng trên tạp chí điện

tử Nghiên cứu Lập pháp. Tác giả khẳng định Luật Thanh niên năm 2005 là cơ

sở pháp lý quan trọng để ban hành và thực hiện các chính sách, pháp luật đối

với thanh niên, tạo tiền đề cho sự phát triển của thanh niên. Qua gần 15 năm

thực hiện, bên cạnh các kết quả đã đạt được, Luật Thanh niên đã bộc lộ nhiều

hạn chế, còn nhiều quy định chung chung, chưa có các chế tài để bảo đảm thực

hiện Luật, quyền và nghĩa vụ của thanh niên chưa được quy định cụ thể, rõ

ràng. Từ đó, tác giả đưa ra tư tưởng, quan điểm và các nội dung liên quan đến

việc sửa đổi Luật Thanh niên năm 2005.

Bài viết Tìm hiểu về công tác thanh niên và quản lý nhà nước về công tác

thanh niên của Phòng Công tác Thanh niên – Sở Nội vụ tỉnh Vĩnh Phúc đăng

trên cổng Thông tin điện tử của Sở Nội vụ tỉnh Vĩnh Phúc. Bài viết đã khẳng

định quản lý nhà nước đối với công tác thanh niên có ý nghĩa đặc biệt quan

trọng, không chỉ xuất phát từ đòi hỏi phát triển của thanh niên, mà còn là yêu

cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo con đường xã hội chủ

nghĩa. Bài viết cũng đưa ra khái niệm về công tác thanh niên, khái niệm quản

lý nhà nước đối với công tác thanh niên, quản lý nhà nước đối với thanh niên.

Một số bài viết của các tác giả khác như: Trần Anh Tuấn, Một cách tiếp

cận đối với tư tưởng, quan điểm và các nội dung sửa đổi Luật Thanh niên năm

2005, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 5/2020; LP, Chín nhiệm vụ trọng tâm trong

quản lý nhà nước về thanh niên năm 2022, Báo Điện tử Chính phủ ngày

19

14/2/2022; Vụ Phổ biến giáo dục, pháp luật, Bộ Tư pháp, Một số điểm mới của

Luật Thanh niên năm 2020 so với Luật Thanh niên năm 2005 đăng trên Trang

Thông tin về phổ biến giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp ngày 16/6/2021; Nguyễn

Văn Hùng, Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong

thời kỳ mới đăng trên Trang Thông tin điện tử của Hội đồng Lý luận Trung

ương ngày 18/3/2021; Nguyễn Hồng Kiên, Quản lý nhà nước về công tác thanh

niên hiện nay đăng trên Tạp chí Điện tử Tổ chức Nhà nước ngày 25/8/2014;

Nguyễn Đắc Vinh (2015), Phát huy vai trò xung kích, tinh thần tình nguyện

của thanh niên trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội

nhập quốc tế, Tạp chí Cộng sản, (869), tr.22-26.

1.1.2.4. Luận văn, luận án

Luận án tiến sĩ khoa học chính trị của Lê Thị Hà (2017), Đổi mới phương

thức lãnh đạo của các Tỉnh ủy vùng Bắc Trung Bộ đối với công tác thanh niên

hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã làm rõ những

vấn đề lý luận và thực tiễn về đổi mới phương thức lãnh đạo của các tỉnh ủy

vùng Bắc Trung Bộ đối với công tác thanh niên trong giai đoạn hiện nay. Phân

tích, đánh giá thực trạng đổi mới phương thức lãnh đạo của các tỉnh ủy vùng

Bắc Trung Bộ đối với công tác thanh niên từ năm 2008 (từ khi có Nghị quyết

số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với

công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa) đến năm

2015. Từ đó, đề xuất phương hướng và những giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới

phương thức lãnh đạo của các tỉnh ủy vùng Bắc Trung Bộ đối với công tác

thanh niên đến năm 2025.

Lê Văn Ri (2017) Đổi mới tổ chức và hoạt động của Đoàn thanh niên

Cộng sản Hồ Chí Minh trong đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước, Luận án tiến sĩ ngành Chính trị học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí

Minh. Tác giả đã làm rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và yêu cầu về tổ

20

chức và hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, đồng thời,

phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng

sản Hồ Chí Minh, làm rõ những nhân tố ảnh hưởng và những vấn đề đặt ra đối

với tổ chức và hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Hoàng Minh Tuấn (2017), Quản lý nhà nước về viên chức từ thực tiễn các

đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ

Chí Minh, Luận án tiến sĩ Luật hiến pháp và luật hành chính, Học viện Khoa

học xã hội, Hà Nội. Luận án đã phân tích, luận giải những vấn đề lý luận và

thực tiễn của quản lý nhà nước đối với viên chức trong các đơn vị sự nghiệp

công lập thuộc Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Từ đó, đưa ra các giải

pháp hoàn thiện quản lý về viên chức nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ viên

chức, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, góp phần nâng

cao chất lượng phục vụ các dịch vụ cơ bản, thiết yếu của người dân và cộng

đồng, đáp ứng yêu cầu phát triển chung của đất nước và hội nhập quốc tế.

Bên cạnh đó phải kể đến các luận văn, luận án như: Nguyễn Minh Trí

(2011), Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác thanh niên trong

giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị -

Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

Đàm Thị Thư (2014), Chính sách phát triển thanh niên từ thực tiễn Viện

Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Luận văn thạc sĩ ngành Chính sách công,

Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

Trần Ngọc Hương (2015), Quản lý nhà nước về công tác thanh niên từ

thực tiễn Thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ ngành Luật Hiến pháp và luật

hành chính, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

Nguyễn Quốc Huy (2016), Quản lý nhà nước về công tác thanh niên từ

thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn thạc sĩ ngành Luật Hiến pháp và luật hành

21

chính, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước cho thấy, các công trình

nghiên cứu tập trung vào việc nghiên cứu, tổng hợp, tham khảo hệ thống chính

sách, pháp luật về thanh niên của các nước trên thế giới và chính sách về thanh

niên ở Việt Nam; nghiên cứu, tổng kết, đánh giá về Luật Thanh niên năm 2005;

quản lý nhà nước về công tác thanh niên; hệ thống hóa các văn bản quy phạm

pháp luật về quản lý nhà nước về thanh niên… Đến nay, mới chỉ có công trình

nghiên cứu của tác giả Vũ Đăng Minh, đây là công trình nghiên cứu tổng thể

về những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước về thanh niên. Tuy

nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về lý luận và tổng kết

thực tiễn về quản lý nhà nước về thanh niên ở Thành phố Hồ Chí Minh.

1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án

1.2.1. Những ưu điểm, những kết quả nghiên cứu mà Luận án sẽ tiếp

tục kế thừa, phát triển

Từ những công trình có liên quan đến thanh niên, chính sách, pháp luật và

quản lý nhà nước về thanh niên; nhận định khái quát về nội dung của các công

trình nghiên cứu này, có thể thấy một số kết quả nghiên cứu nổi bật như:

Thứ nhất, các công trình đã nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn

liên quan đến thanh niên, nhất là nhấn mạnh vai trò quan trọng của thanh niên

đối với bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Nhiều công trình khẳng định, thanh

niên Việt Nam là lực lượng xã hội có tiềm năng to lớn, đã và đang giữ vai trò

quan trọng trong quá trình phát triển đất nước. Thanh niên luôn được Đảng và

Nhà nước đặt ở vị trí trọng tâm trong chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, phát huy

nhân tố và nguồn lực con người. Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển mới của

đất nước, một bộ phận thanh niên Việt Nam cũng bộc lộ những hạn chế, yếu

kém như thiếu kiến thức, kỹ năng cần thiết cho yêu cầu phát triển, hội nhập;

22

thiếu lý tưởng, dễ bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật…

Thứ hai, các công trình nghiên cứu đã khái quát những vấn đề lý luận và

thực tiễn liên quan đến chính sách, pháp luật về thanh niên. Các chính sách về

thanh niên phần lớn đều sử dụng cách tiếp cận dựa trên quyền, theo đó thanh

niên được xác định là người có quyền và nhà nước được xác định là bên có

nghĩa vụ. Ở đây, phát triển thanh niên được xác định là một nghĩa vụ mà nhà

nước phải thực hiện với công dân của mình, cung cấp một cơ sở vững chắc hơn

để công dân yêu cầu chính phủ phải thực hiện các nghĩa vụ này một cách thỏa

đáng. Để phát triển, bảo vệ thanh niên, phần lớn các quốc gia trên thế giới đều

có chính sách, pháp luật dành cho thanh niên. Điển hình như Hàn Quốc, một

quốc gia là minh chứng tiêu biểu cho việc xây dựng chính sách thanh thiếu

niên, lấy phát triển thanh thiếu niên như là động lực để phát triển kinh tế, xã

hội. Với mục tiêu và nguyên tắc bảo vệ, phát triển thanh thiếu niên cụ thể và rõ

ràng, pháp luật Hàn Quốc quy định một bộ luật khung về thanh thiếu niên, trong

đó nhấn mạnh nhiệm vụ cơ bản là: đảm bảo phúc lợi xã hội cho thanh thiếu

niên, bảo vệ thanh thiếu niên, đảm bảo sự tham gia cho thanh thiếu niên, bảo

vệ thanh thiếu niên trong quan hệ lao động. Ở Việt Nam, các tác giả đã khẳng

định sự ra đời của Luật Thanh niên là cơ sở pháp lý quan trọng để ban hành và

thực hiện các chính sách, pháp luật đối với thanh niên, tạo tiền đề cho sự phát

triển của thanh niên.

Thứ ba, các công trình nghiên cứu đã nghiên cứu những vấn đề lý luận và

thực tiễn liên quan đến vai trò của công tác thanh niên và quản lý nhà nước về

công tác thanh niên. Trong đó khẳng định, quản lý nhà nước đối với công tác

thanh niên có vai trò đặc biệt quan trọng, điều này không chỉ xuất phát từ đòi

hỏi phát triển của thanh niên mà còn là yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; khẳng định vấn

đề quản lý nhà nước về công tác thanh niên luôn được Đảng và Nhà nước quan

23

tâm. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự phối hợp

của các ngành, đoàn thể và toàn xã hội, quản lý nhà nước về công tác thanh

niên đã đạt được nhiều thành tựu, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc ban

hành các cơ chế, chính sách bảo đảm việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của

thanh niên, phát huy vai trò xung kích, sáng tạo, tiềm năng to lớn của thanh

niên trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; mở rộng quan hệ hợp

tác quốc tế về thanh niên với các nước, các tổ chức trên thế giới; góp phần tăng

cường giáo dục, bồi dưỡng thanh niên, bảo vệ thanh niên trước những tác động

tiêu cực và tệ nạn xã hội; đề cao trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội

đối với thanh niên và công tác thanh niên. Đồng thời, các tác giả phân tích

những ưu điểm và hạn chế trong quản lý nhà nước về công tác thanh niên.

Thứ tư, quản lý nhà nước về thanh niên đã được đề cập đến trong một số

nghiên cứu. Các nghiên cứu tập trung chủ yếu vào việc hệ thống hóa các văn

bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước, đánh giá hoạt động quản lý nhà

nước về thanh niên ở từng địa phương. Một nghiên cứu tổng thể về quản lý nhà

nước về thanh niên thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã luận giải những

vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về thanh niên như: đưa ra khái niệm thanh

niên, quản lý nhà nước về thanh niên, nội dung và hiệu quả quản lý nhà nước

về thanh niên, kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong công tác quản

lý nhà nước về thanh niên; phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả quản lý nhà

nước về thanh niên ở nước ta hiện nay. Đồng thời, đưa ra phương hướng và đề

xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên.

1.2.2. Về những vấn đề còn chưa được giải quyết thấu đáo hoặc cần

phải tiếp tục nghiên cứu

Việc nghiên cứu về thanh niên, chính sách, pháp luật về thanh niên và

quản lý nhà nước về thanh niên đã được các nhà nghiên cứu, các cơ quan nghiên

cứu khoa học và các cơ quan quản lý quan tâm và bước đầu đã có những nhìn

24

nhận khái quát về vấn đề này. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu được công

bố mới chỉ dừng lại ở việc phân tích vai trò của thanh niên, quản lý nhà nước

về công tác thanh niên, còn việc nghiên cứu trên phương diện lý luận, đánh giá

thực trạng quản lý nhà nước về thanh niên chưa được chú trọng đúng mức. Đã

có một vài công trình là sách tham khảo, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên

cứu về quản lý nhà nước về công tác thanh niên nhưng cho đến nay, trước sự

biến động của đời sống kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, cần có một công trình

nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện vấn đề quản lý nhà nước về thanh

niên trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của

quản lý nhà nước về thanh niên ở Việt Nam trong giai đoạn hiện này là thực sự

cần thiết. Luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu tập trung vào khoảng nghiên cứu còn

trống sau đây:

Về lý luận

- Khái niệm về thanh niên, quản lý nhà nước về thanh niên. Trên cơ sở

phân tích một cách khoa học các quan điểm trước đây về thanh niên, quản lý

nhà nước về thanh niên để đưa ra khái niệm khái quát về thanh niên, quản lý

nhà nước về thanh niên và đặc biệt nhìn nhận vai trò của quản lý nhà nước về

thanh niên trong quản lý nhà nước.

- Về đặc điểm, nội dung của quản lý nhà nước về thanh niên: với việc kế

thừa các kết quả nghiên cứu đã được thực hiện, luận án tập trung phân tích,

luận giải để làm rõ những đặc điểm, nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về

thanh niên.

- Mặc dù đã có những công trình nghiên cứu về những yếu tố tác động đến

quản lý nhà nước trong các lĩnh vực cụ thể cũng như trong quản lý nhà nước

về công tác thanh niên, nhưng phân tích và làm rõ các yếu tố tác động đến quản

lý nhà nước về thanh niên thì còn ít được đề cập. Vì vậy, luận án đặt ra nhiệm

25

vụ cần phải nghiên cứu các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về thanh niên.

Trên cơ sở xác định các yếu tố ảnh hưởng, luận án có căn cứ để đưa ra những

giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên.

Về thực trạng quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh

- Pháp luật về thanh niên cũng sẽ được luận án xem xét ở mức độ cần thiết

giúp cho việc phân tích, đánh giá thực trạng quản lý về thanh niên tại Thành

phố Hồ Chí Minh. Các nghiên cứu được thực hiện đã đề cập một cách khái quát

các quy định của pháp luật hiện hành về thanh niên cũng như thực tiễn thực

hiện pháp luật. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, phân tích này chưa được thực hiện

một cách có hệ thống. Luận án sẽ tiếp tục phân tích, đánh giá thực trạng pháp

luật về thanh niên cũng như thực tiễn thực hiện; đồng thời, phân tích làm rõ

những thành tựu và hạn chế để làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện

pháp luật về thanh niên.

- Chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp về thực trạng quản lý nhà

nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở các báo cáo, chiến

lược phát triển thanh niên của Thành phố Hồ Chí Minh, luận án tập trung phân

tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí

Minh; phân tích, đánh giá những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những

thành tựu và hạn chế trong quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ

Chí Minh để làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản

lý nhà nước về thanh niên.

Về giải pháp

Trên cơ sở nhận thức lý luận cũng như đánh giá thực trạng quản lý nhà

nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh, luận án có nhiệm vụ đưa ra

quan điểm và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về thanh niên ở Việt Nam

hiện nay.

Tóm lại, qua sự khái quát các công trình nghiên cứu nêu trên, xuất phát từ

26

thực tiễn quản lý nhà nước về thanh niên và đặc biệt trong điều kiện xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu

quản lý nhà nước về thanh niên càng trở nên cần thiết, đặc biệt là khi Luật

Thanh niên năm 2005 được ban hành và đi vào thực tiễn.

1.3. Cơ sở lý luận và hướng tiếp cận nghiên cứu của đề tài

1.3.1. Cơ sở lý thuyết

1.3.1.1. Một số lý thuyết dự kiến sử dụng

Quản lý nhà nước về thanh niên là một vấn đề mới, chưa có sự nghiên cứu

thỏa đáng về vấn đề này. Vì vậy, để có nhận thức đúng về vấn đề này, luận án

sử dụng một số cơ sở lý thuyết để nghiên cứu như sau:

- Lý thuyết về quản lý nhà nước.

- Lý thuyết về tiếp cận dựa trên quyền con người.

Ngoài ra, luận án còn được thực hiện trên phương pháp luận duy vật biện

chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất, vai trò của thanh niên; thái độ của

các đảng mácxít với thanh niên và quan điểm về nhà nước và pháp luật. Tư

tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên, đặc biệt là những dấu

ấn của Người trong việc phát huy vai trò của thanh niên; các quan điểm của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thanh niên, quản lý nhà nước về

thanh niên.

1.3.2. Khung phân tích để làm rõ lý thuyết * Các câu hỏi nghiên cứu đặt ra

1. Những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về thanh niên là gì? Nội dung

của quản lý nhà nước về thanh niên?

Giả thuyết nghiên cứu:

- Những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về thanh niên đã được nghiên

cứu bước đầu nhưng chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện;

chưa có đánh giá, tổng kết thực tiễn. Đề tài làm sáng tỏ và sâu sắc hơn khái

27

niệm quản lý nhà nước về thanh niên, vai trò, đặc điểm của quản lý nhà nước

về thanh niên. Có rất nhiều các quan niệm khác nhau về quản lý nhà nước về

thanh niên, nhưng có thể hiểu: “Quản lý nhà nước về thanh niên là quá trình

tác động có mục đích của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bằng chính sách,

pháp luật và tổ chức thực hiện có hiệu quả, hiệu lực chính sách, pháp luật trên

thực tế tác động trực tiếp đến thanh niên theo những nguyên tắc và phương

pháp quản lý nhằm bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của

thanh niên theo quy định của Hiến pháp, pháp luật”.

- Quản lý nhà nước về thanh niên có vai trò rất quan trọng trong quản lý

nhà nước, bao gồm các nội dung cơ bản như: xây dựng chính sách, pháp luật

và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên; xây dựng và tổ chức

thực hiện chiến lược, sách lược, chương trình, kế hoạch phát triển thanh niên;

xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về thanh

niên; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về thanh niên; kiểm

tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong việc thực hiện

chính sách, pháp luật về thanh niên; hợp tác quốc tế về thanh niên; ban hành

chính sách hỗ trợ, khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện chính sách

đối với thanh niên.

2. Quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

đã đạt được những kết quả và có những hạn chế như thế nào?

Giả thuyết nghiên cứu: Quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ

Chí Minh đã đạt được những thành tựu nhất định, góp phần bảo vệ, tạo điều

kiện cho thuận lợi cho thanh niên phát triển và trưởng thành; phát huy vai trò

xung kích, sáng tạo và tiềm năng to lớn của thanh niên trong sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trước sự biến đổi của đời sống xã hội, quản

lý nhà nước về thanh niên vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng

28

được yêu cầu phát triển thanh niên trong điều kiện mới của đất nước.

Kết quả nghiên cứu (dự kiến): Đánh giá đúng thực trạng quản lý nhà nước

về thanh niên hiện nay tại Thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở pháp luật về

thanh niên, các nội dung quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí

Minh; phân tích, đánh giá những ưu điểm và hạn chế, bất cập của quản lý nhà

nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh, làm rõ nguyên nhân của những

hạn chế, bất cập đó.

3. Cần làm gì để nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước về thanh niên, phát

huy tốt nhất vai trò của thanh niên trong điều kiện mới?

Giả thuyết nghiên cứu: Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh

niên, phát huy tốt nhất vai trò của thanh niên trong điều kiện mới cần có những

giải pháp tổng thể và giải pháp cụ thể như: nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng

đối với công tác quản lý nhà nước về thanh niên; hoàn thiện chính sách, pháp

luật về thanh niên; tiếp tục kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên;

phát huy tốt cơ chế phối hợp liên ngành giữa các bộ, ngành trung ương và chính

29

quyền địa phương…

Kết luận chương 1

Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, việc nghiên cứu về thanh niên

nói chung, chính sách, pháp luật, quản lý nhà nước về thanh niên nói riêng đã

được sự quan tâm của các nhà quản lý, cơ quan quản lý, các nhà nghiên cứu và

các cơ quan nghiên cứu khoa học. Các nghiên cứu ở nước ngoài chủ yếu về

công tác giáo dục thanh niên, quyền thanh niên, luật quốc tế về thanh niên,

chính sách đối với thanh niên, các hoạt động của các tổ chức chính phủ, liên

chính phủ và phi chính phủ trong việc sử dụng công cụ pháp lý để thúc đẩy và

bảo vệ quyền thanh niên…

Ở Việt Nam, quản lý nhà nước về thanh niên trong những năm gần đây đã

được các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học và các cơ quan quản lý quan tâm

và bước đầu đã có những nhìn nhận khái quát về vấn đề này. Tuy nhiên, các

công trình nghiên cứu tập trung vào việc nghiên cứu tổng hợp, tham khảo hệ

thống chính sách, pháp luật về thanh niên của các nước trên thế giới và chính

sách, pháp luật về thanh niên ở Việt Nam; nghiên cứu thanh niên với tư cách là

chủ thể chính sách. Cho đến nay, mới chỉ có công trình nghiên cứu của tác giả

Vũ Đăng Minh “Quản lý nhà nước về thanh niên thời kỳ công nghiệp hóa, hiện

đại hóa” năm 2016 nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện về quản lý nhà

nước về thanh niên. Đây là nguồn tư liệu tham khảo quan trọng của tác giả

trong quá trình thực hiện luận án, song cho đến nay, sau một thời gian khá dài,

chính sách, pháp luật về thanh niên có nhiều thay đổi dẫn đến quản lý nhà nước

về thanh niên cũng phải có những thích ứng phù hợp. Việc đánh giá thực trạng

cũng như thực tiễn quản lý nhà nước về thanh niên có nhiều điểm không còn

cập nhật với tình hình thực tế. Nghiên cứu pháp luật về thanh niên như một

30

hành lang pháp lý để thực hiện quản lý nhà nước về thanh niên còn ít được đề cập.

Từ những nội dung đã được đề cập hay còn “bỏ trống” kể trên, luận án sẽ

tập trung xem xét, luận giải và làm sáng tỏ cả về lý luận và thực tiễn trong

những chương tiếp theo. Để giải quyết những vấn đề đó, ngoài các phương

pháp nghiên cứu và tiếp cận truyền thống, luận án còn sử dụng cách tiếp cận

31

nghiên cứu liên ngành.

CHƯƠNG 2

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

VỀ THANH NIÊN

2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về thanh niên

2.1.1. Khái niệm thanh niên, quản lý nhà nước về thanh niên

* Khái niệm thanh niên

Với mỗi một quốc gia, thanh niên là nguồn lực quan trọng, là tương lai

của cộng đồng, dân tộc. Cuối thế kỷ XIX, trong bối cảnh xã hội tư bản với

những mâu thuẫn ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản

lên cao, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần

chúng, trong đó có lực lượng thanh niên. C. Mác đã gọi thanh niên là cội nguồn

sự sống dân tộc. Kế thừa và phát triển quan điểm của C. Mác, Ph.Ăngghen về

thanh niên, V.I. Lênin luôn đánh giá cao vai trò của thanh niên. V.I. Lênin coi

những người vô sản trẻ tuổi chẳng những là đội quân hậu bị hùng mạnh của

cách mạng, mà còn là những chủ nhân tương lai của đất nước. Tương lai của

chủ nghĩa cộng sản thuộc về thanh niên, thanh niên là người xây dựng chủ nghĩa

cộng sản. Trong bài diễn văn “Nhiệm vụ của Đoàn Thanh niên” tại Đại hội III

toàn Nga của Đoàn Thanh niên Cộng sản Nga ngày 02 tháng 10 năm 1920,

ngay trong phần đầu bài diễn văn, V.I.Lênin khẳng định: “Nhiệm vụ thật sự xây

dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, chính là của thanh niên” [91, tr. 354].

Thanh niên là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, vì vậy, tùy

theo góc tiếp cận của từng ngành mà khái niệm về thanh niên được xác định

khác nhau. Trên thế giới chưa có một định nghĩa thống nhất về thanh niên. Tùy

vào yếu tố văn hóa, điều kiện kinh tế, xã hội mà các quốc gia có các định nghĩa

khác nhau về thanh niên. Các nhà sinh học nhìn nhận thanh niên như một giai

32

đoạn phát triển trong vòng đời của con người; các nhà kinh tế học lại xem thanh

niên như một lực lượng nhân công hùng hậu, là nguồn lực bổ sung cho đội ngũ

lao động sản xuất và người tiêu dùng trong tương lai…

Theo Bộ từ điển Duden của Đức “thanh niên” (Jugend) được giải thích

với ba nghĩa khác nhau, xét về góc độ xã hội – dân cư, thanh niên được hiểu là

“toàn thể những người trẻ tuổi” (Gesamheit junger Menschen). Ngoài ra, trong

tiếng Đức còn có từ “Jugendliche” với nghĩa là những người trẻ tuổi, ở trong

độ tuổi giữa trẻ em và người lớn. Dưới góc độ pháp lý họ “là những người ở độ

tuổi giữa 14 và 18” [96, tr.729].

Bộ từ điển Oxford (tiếng Anh) từ “youth” (thanh niên) là “người trẻ tuổi,

trong giai đoạn giữa tuổi thơ ấu và tuổi người lớn, hăng hái, nhiệt tình, thiếu

kinh nghiệm hoặc chỉ những đặc trưng khác của độ tuổi này. Khi được dùng ở

dạng số nhiều thì từ này chỉ tập hợp những người trẻ tuổi” [95, tr877].

Ở Việt Nam, thanh niên cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Từ

điển tiếng Việt định nghĩa “thanh niên là người trẻ, đang ở độ tuổi trưởng

thành” [54, Tr.1178]. Với cách hiểu này, thanh niên được coi là những người

trẻ tuổi, đang ở độ tuổi trưởng thành nhưng cách giải thích này chưa làm rõ độ

tuổi cụ thể của thanh niên và những đặc điểm tâm – sinh lý của thanh niên ở

giai đoạn này như thế nào.

Từ góc độ xã hội học, thanh niên được xem như là một giai đoạn chuyển

đổi từ kết thúc thời kỳ thơ ấu phụ thuộc chuyển sang xác lập vai trò cá nhân

qua các hoạt động độc lập với tư cách đầy đủ của người trưởng thành, có lối

sống và văn hóa đặc trưng và là một trong các chủ thể của các quan hệ xã hội.

Khi nghiên cứu về lối sống của thanh niên Việt Nam hiện nay, Nguyễn Hồng

Tung cho rằng: “tuổi thanh niên là độ tuổi quá độ từ trẻ em sang người lớn

trong cuộc đời mỗi con người”. Điều này có nghĩa là: thanh niên là lớp người

đang trưởng thành và hoàn thiện về năng lực thể chất, tinh thần và nhân cách.

33

Họ không còn là trẻ em, nhưng cũng chưa hoàn toàn là người lớn” [73, tr.10].

Dưới góc độ tâm – sinh lý, thanh niên là giai đoạn thay đổi của một con

người, phát triển từ một đứa trẻ thành một người trưởng thành với sự hoàn thiện

cơ thể về mặt sinh học và những chuyển biến về tâm – sinh lý, tình cảm điển

hình của tuổi dậy thì. Thanh niên có sự khác biệt lớn về nhiều mặt như: độ tuổi,

nơi sinh sống, nghề nghiệp…, do đó, các đặc điểm tâm lý của thanh niên rất

phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, đặc tính chung của thanh niên là tính trẻ, thể

hiện ở sự năng động, nhiệt huyết, dám mạo hiểm, giàu ước mơ và hoài bão lớn,

thích cái mới, thích giao lưu, học hỏi và mong muốn có những đóng góp cho

xã hội để khẳng định bản thân.

Từ góc độ pháp luật, tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội,

chính trị, lịch sử, truyền thống cũng như mục tiêu phát triển toàn diện thanh

niên, mỗi quốc gia có quy định khác nhau về độ tuổi của thanh niên. Trong số

196 quốc gia được khảo sát, có 39/196 quốc gia quy định tuổi thanh niên tối

thiểu là 16 tuổi; 95/196 quốc gia quy định độ tuổi thanh niên tối thiểu là 15

tuổi; ngoài ra, có 62/196 quốc gia quy định chính sách chung áp dụng cho thanh

thiếu niên với độ tuổi tối thiểu dưới 15 tuổi (ví dụ: Hàn Quốc, Bỉ, Burtan,...).

Độ tuổi thanh niên tối đa phổ biến của các nước trên thế giới là dưới 30 tuổi

với 136/148 quốc gia; 48/196 quốc gia quy định độ tuổi tối đa của thanh niên

dưới 26 tuổi. Ngoài ra, có một số quốc gia quy định độ tuổi tối đa của thanh

niên hơn 30 tuổi như: Brunei (40 tuổi), Zimbabue (35 tuổi), Afganishtan (35

tuổi) [101]. Ở khu vực Đông Nam Á, các quốc gia thành viên ASEAN thống

nhất khoảng độ tuổi thanh niên trong khu vực là từ 15 – 35 tuổi [102, tr.1]. Tuy

nhiên, pháp luật của đa số các quốc gia lại có những quy định độ tuổi thanh

niên khác nhau, trong đó độ tuổi tối thiểu của thanh niên phổ biến là 15 tuổi

(8/11 quốc gia); độ tuổi tối đa của thanh niên phổ biến là không quá 30 tuổi

34

(6/11 quốc gia). Ngoài ra, có một số quốc gia quy định khác về độ tuổi tối đa

của thanh niên như: Brunei, Malaysia (không quá 40 tuổi); Singapore (không

quá 35 tuổi); Myanmar (không quá 18 tuổi); Thái Lan (không quá 25 tuổi) [101].

Trên cơ sở phân biệt các đặc điểm về tâm – sinh lý và điều kiện xã hội so

với các nhóm lứa tuổi khác, trong nhiều năm, các tổ chức và cơ quan thuộc hệ

thống Liên hợp quốc xác nhận trong Năm Quốc tế Thanh niên nhóm người từ

15 đến 24 tuổi được xác định là thanh niên. Nhóm thanh niên từ 15 đến 24 tuổi

là mục tiêu của Năm Quốc tế Thanh niên của Liên hợp quốc (1985) và được đề

cập trong hầu hết các nghị quyết và báo cáo về thanh niên của hệ thống các cơ

quan của Liên hợp quốc. Hướng dẫn của Năm Quốc tế Thanh niên được Đại

hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1985 đã đề cập đến vấn đề thanh niên

này như một định nghĩa theo trình tự thời gian về ai là thanh niên, so với ai là

trẻ em hoặc ai là người lớn, độ tuổi này cũng thay đổi theo từng quốc gia và

nền văn hóa. Tuy nhiên, vì mục đích thống kê, Liên hợp quốc xác định những

người trong độ tuổi từ 15 đến 24 là thanh niên mà không đưa ra những định

nghĩa khác của các quốc gia thành viên.

Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về quyền trẻ em được thông qua vào

năm 1989 đã đóng góp rất nhiều vào việc thúc đẩy và bảo vệ quyền trẻ em. Tuy

nhiên, trong Điều 1 và Điều 38 của Công ước đã gây bất lợi lớn về mặt pháp lý

và chính trị đối với việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền của thanh thiếu niên bằng

cách gây nhầm lẫn giới hạn độ tuổi của trẻ em và thanh niên. Điều 1 xác định:

“Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18

tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi

thành niên sớm hơn”. Khoản 2 và 3 Điều 38: “2. Các Quốc gia thành viên phải

thi hành mọi biện pháp khả thi có thể thực hiện được nhằm bảo đảm rằng những

người chưa đến tuổi 15 không phải trực tiếp tham gia chiến sự; 3. Các Quốc

gia thành viên phải tránh tuyển mộ bất kỳ người nào chưa đến 15 tuổi vào lực

35

lượng vũ trang của mình; khi tuyển mộ trong số những người đã đến 15 tuổi

nhưng chưa đến 18 tuổi, các Quốc gia thành viên phải cố gắng ưu tiên tuyển

mộ những người nhiều tuổi nhất trong số đó” [43].

Nhìn chung, việc xác định độ tuổi của thanh niên là một vấn đề phức tạp.

Hiện nay, khoa học cũng chưa đưa ra được những căn cứ vững chắc để giải

quyết vấn đề này một cách cơ bản. Tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể của từng

quốc gia, lứa tuổi thanh niên có thể bắt đầu và kết thúc khác nhau, nhưng tựu

chung lại có những nội dung cơ bản giống nhau. Khái quát lại, có thể chia lứa

tuổi thanh niên ra thành các bậc như: 14 – 17 tuổi; 18 – 23 tuổi và từ 23 tuổi

trở lên.

Ở Việt Nam, Luật thanh niên năm 2020 xác định: “Thanh niên Việt Nam

là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi”. Như vậy độ tuổi của thanh

niên Việt Nam đã có sự thay đổi so với giai đoạn trước đây khi độ tuổi thanh

niên được hiểu gần như đồng nhất với tuổi đoàn viên là từ 15 đến 30 tuổi. Với

cách định nghĩa thanh niên theo đội tuổi này thì trên thực tế, thanh niên có mặt

ở tất cả mọi giới, mọi ngành, mọi giai tầng, mọi khu vực dân cư và trong tất cả

các dân tộc khác nhau trên đất nước Việt Nam. Điều lệ Đoàn Thanh niên Cộng

sản Hồ Chí Minh quy định tuổi đoàn viên từ 16 tuổi đến 30 tuổi. Hội Liên hiệp

thanh niên Việt Nam quy định tuổi thanh niên từ 16 tuổi đến 35 tuổi. Tuổi 35

cũng được coi là tuổi giới hạn chung cho khái niệm “tuổi trẻ”, “lao động trẻ”

và “trí thức trẻ”.

Từ những quan điểm về thanh niên nói trên, có thể định nghĩa khái quát

về thanh niên như sau: Thanh niên là nhóm dân số đặc thù, ở một độ tuổi nhất

định, có mặt trong tất cả các dân tộc, giai cấp, tầng lớp xã hội và các lĩnh vực

của đời sống xã hội; có những đặc điểm chung về tâm – sinh lý; có vai trò quan

trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc trong hiện tại và tương lai.

Theo cách quản lý và phân loại đối tượng thanh niên của Trung ương

36

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, thanh niên Việt Nam được chia

thành các nhóm: Thanh niên nông thôn, thanh niên công nhân, thanh niên

công chức và viên chức, thanh niên đô thị, thanh niên học sinh và sinh viên,

thanh niên trong các lực lượng vũ trang. Các nhóm thanh niên đặc thù bao

gồm: thanh niên dân tộc thiểu số, thanh niên có đạo, thanh niên đang học tập,

lao động ở nước ngoài, các nhóm thanh niên yếu thế (thanh niên bị nhiễm

HIV/AIDS, thanh niên khuyết tật, thanh niên sau cai nghiện và sau cải tạo trở

về tái hòa nhập với cộng đồng.

Với cách hiểu như trên, chúng ta thấy thanh niên có một số đặc điểm như sau:

Thứ nhất, thanh niên là một nhóm tầng lớp xã hội đặc thù, chiếm số đông

trong dân số cả nước. Họ không phải là một giai cấp nhưng có mặt trong tất cả

các nhóm dân tộc, tôn giáo, ở các giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội

ngũ trí thức; có mặt ở tất cả các địa phương, các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội,

quốc phòng, an ninh…

Thứ hai, thanh niên là những người trẻ với độ tuổi sung sức nhất về thể

chất và phát triển trí tuệ, luôn năng động, sáng tạo, nhiệt huyết, thích khám phá,

tìm tòi cái mới và dám đối mặt với thử thách để khẳng định mình. Phạm vi tuổi

của thanh niên khá rộng (từ 16 đến 30 tuổi), vì vậy, xét ở góc độ nghề nghiệp,

trong thanh niên phân thành nhiều nhóm và đối tượng khác nhau.

Thứ ba, thanh niên là lực lượng có tiềm năng to lớn, đã và đang giữ vai

trò quan trọng trong sự tồn tại, phát triển của mỗi quốc gia; thái độ, ý thức chính

trị, ý thức về trách nhiệm thế hệ của thanh niên đối với hiện tại và tương lai của

đất nước ngày càng được khẳng định. Vị trí, vai trò của thanh niên được xác

định từ chính đặc điểm lứa tuổi, từ tương quan lực lượng lao động trong phát

triển triển kinh tế - xã hội của đất nước và từ trong thực tiễn lịch sử cách mạng.

Trong Thư gửi thanh niên (tháng 8/1947), Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thanh

niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy,

37

mạnh hay yếu, một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm người

chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyên tinh thần và lực

lượng của mình, phải làm việc chuẩn bị cái tương lai đó” [48, tr.216]. Hội

nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X về tăng cường sự lãnh

đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa khẳng định: “Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong

những nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh của dân tộc; là lực

lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc đòi hỏi hy

sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo. Thanh niên là độ tuổi sung sức nhất về

thể chất và phát triển trí tuệ, luôn năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng định

mình” [19, tr.41-42]. Thanh niên chính là nhóm xã hội – dân cư có sứ mệnh

đón nhận sự “trao quyền” giá trị, bàn giao nhiệm vụ, ủy thác trách nhiệm, gửi

gắm niềm tin của thế hệ đi trước.

* Công tác thanh niên

Thuật ngữ công tác thanh niên được sử dụng trong văn kiện của Đảng tại

Nghị quyết số 26 của Bộ Chính trị (tháng 7/1985) khóa V về “Tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên”. Công tác thanh niên là một bộ

phận quan trọng trong công tác thanh vận của Đảng, bao gồm toàn bộ những

hoạt động của Đảng, Nhà nước, Đoàn thanh niên và các chủ thể xã hội khác

nhằm giáo dục, bồi dưỡng và tạo điều kiện cho thanh niên phát triển, trưởng

thành; phát huy tính xung kích và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng của lực

lượng thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị định

số 120/2007/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 2007 của Chính phủ hướng dẫn thi

hành một số điều của Luật thanh niên năm 2005 quy định: “Công tác thanh

niên là những hoạt động của Đảng, Nhà nước và xã hội nhằm giáo dục, bồi

dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên phấn đấu và trưởng thành; đồng

thời phát huy vai trò xung kích, sức sáng tạo và tiềm năng to lớn của thanh niên

38

trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (khoản 2 Điều 4).

Hiện nay có bốn chủ thể cùng tham gia thực hiện công tác thanh niên tùy

theo vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, bao gồm: Đảng Cộng

sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đoàn Thanh

niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân khác.

Như vậy, có thể hiểu, công tác thanh niên là hoạt động có mục đích của các tổ

chức, tùy theo vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình tác động vào

thanh niên nhằm giáo dục, bồi dưỡng định hướng và phát huy thanh niên, đáp

ứng những yêu cầu chính đáng, hợp pháp của thanh niên và yêu cầu phát triển

của đất nước và xã hội.

Bản chất và nội dung cơ bản của công tác thanh niên bao gồm một hệ

thống các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước; nghị

quyết, chương trình, kế hoạch của Đoàn thanh niên và các chủ thể xã hội khác

cùng với các phương thức, giải pháp thích hợp trong sự phối hợp và phân công

trong phạm vi toàn xã hội. Tất cả nhằm tạo ra những tác động tích cực trong

quá trình tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng và phát huy thanh niên. Nói cách khác,

công tác thanh niên chính là sự tác động tổng hợp của các chủ thể xã hội đến

thanh niên, nhằm hình thành một nguồn nhân lực trẻ có chất lượng cao đáp ứng

yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

* Khái niệm quản lý nhà nước về thanh niên

Để tìm hiểu thế nào là quản lý nhà nước về thanh niên, trước hết, chúng ta

cần xuất phát từ khái niệm “quản lý” để hiểu các khái niệm có liên quan. Quản

lý được hiểu là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý

nhằm chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn các quan hệ xã hội và hoạt động của cá

nhân hướng tới đạt được các mục tiêu đề ra. Theo Từ điển giải thích các thuật

ngữ hành chính, quản lý là các hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm đạt

được mục đích đã đề ra thông qua việc áp dụng các nguyên tắc và phương pháp

39

quản lý [82, tr.58]. Theo một cách chung nhất, quản lý được hiểu là sự tác động

định hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó

phát triển phù hợp với những quy luật nhất định [59, tr105-109].

Trong lịch sử phát triển của nhân loại, quản lý nhà nước ra đời cùng với

sự xuất hiện của nhà nước. Đó là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước,

được sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và được

xem là một chức năng thiết yếu của nhà nước để quản lý xã hội. Có rất nhiều

cách hiểu khác nhau về quản lý nhà nước. Theo Giáo trình quản lý hành chính

nhà nước: “Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng

quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con

người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm

thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây

dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” [25, tr.407].

Giáo trình Lý luận hành chính nhà nước định nghĩa: “Quản lý nhà nước

là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng

pháp luật và chính sách để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả

các mặt của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện,

nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội” [21, tr3].

Trong nghiên cứu lí luận về nhà nước và pháp luật, quản lý nhà nước

thường được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, quản lý nhà

nước bao gồm toàn bộ các hoạt động: hoạt động lập pháp của các cơ quan lập

pháp, hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan hành pháp, hoạt

động bảo vệ pháp luật của các cơ quan tư pháp. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà

nước là hoạt động hành chính của cơ quan thực thi quyền lực nhà nước (quyền

hành pháp) để quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội theo quy

định của pháp luật

Quản lý nhà nước được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã

40

hội như: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, an ninh, quốc phòng, ngoại

giao… nhằm phục vụ các nhu cầu hợp pháp của người dân. Quản lý nhà nước

là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước, do các cơ

quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, lấy pháp luật làm công cụ quản lý chủ

yếu nhằm duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội, thỏa mãn nhu cầu hợp

pháp của nhân dân.

Từ những phân tích, luận giải về thanh niên và quản lý nhà nước, chúng

ta có thể hiểu quản lý nhà nước về thanh niên: Quản lý nhà nước về thanh niên

là quá trình tác động có mục đích của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bằng

chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện có hiệu quả, hiệu lực chính sách,

pháp luật trên thực tế tác động trực tiếp đến thanh niên theo những nguyên tắc

và phương pháp quản lý nhằm bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách

nhiệm của thanh niên theo quy định của Hiến pháp, pháp luật.

Trong thực tế, đối với thanh niên, luôn tồn tại hai khái niệm đó là quản lý

nhà nước về thanh niên và quản lý nhà nước về công tác thanh niên, hai khái

niệm này được sử dụng phổ biến, đôi khi được dùng như là những khái niệm

tương đồng, đều hướng đến mục tiêu cuối cùng là chăm lo cho thanh niên. Tuy

nhiên, về cơ bản, đây là hai khái niệm có nội hàm khác nhau. Trước hết, về chủ

thể quản lý, quản lý nhà nước về thanh niên và quản lý nhà nước về công tác

thanh niên đều có chung chủ thể quản lý là các cơ quan trong bộ máy nhà nước

thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên.

Nhưng khi nói đến quản lý nhà nước về thanh niên nghĩa là nói đến quản lý nhà

nước thông qua chính sách, pháp luật tác động trực tiếp đến những thanh niên

cụ thể với tư cách là công dân; nói đến quản lý nhà nước về công tác thanh niên

có nghĩa là quản lý nhà nước thông qua chính sách, pháp luật, cơ chế, tổ chức

bộ máy tác động tới thanh niên (với tư cách là một lực lượng xã hội là chính,

được tập hợp trong tổ chức và thông qua tổ chức) và các chủ thể xã hội có vai

41

trò trong hoạt động vận động, bồi dưỡng, giáo dục và phát huy thanh niên.

Về đối tượng quản lý, trong quản lý nhà nước về thanh niên, đối tượng

quản lý nhà nước trực tiếp là thanh niên, còn trong quản lý nhà nước về công

tác thanh niên, đối tượng quản lý là những tổ chức, những chủ thể xã hội trực

tiếp hay gián tiếp tác động đến thanh niên và các tổ chức, các chủ thể xã hội

thực hiện công tác thanh niên. Quản lý nhà nước về thanh niên là quản lý trực

tiếp của nhà nước đối với thanh niên, còn quản lý nhà nước đối với công tác

thanh niên là quản lý nhà nước một cách gián tiếp đối với thanh niên thông qua

tổ chức hay các chủ thể xã hội tác động tới thanh niên.

Về phương pháp quản lý, nếu trong quản lý nhà nước đối với thanh niên,

phương pháp quản lý chính là mệnh lệnh mang tính quyền lực bắt buộc của chủ

thể quản lý đối với khách thể quản lý là thanh niên với tư cách là công dân hoặc

phương pháp thuyết phục, thì trong quản lý nhà nước đối với công tác thanh

niên, bên cạnh phương pháp mệnh lệnh, chủ thể quản lý hoặc là trực tiếp hoặc

là gián tiếp, hoặc là thông qua các chủ thể xã hội khác, phương pháp vận động,

thuyết phục, tư vấn, hỗ trợ sẽ được chú trọng để giúp cho thanh niên hiểu rõ

quyền và nghĩa vụ của mình và tự giác tuân thủ pháp luật và các chính sách liên

quan. Ngoài ra, thông qua các cơ chế, chính sách, pháp luật, chủ thể quản lý

còn điều phối và huy động các chủ thể xã hội khác tham gia vào quá trình vận

động, giáo dục, định hướng, hướng dẫn và hỗ trợ thanh niên trong việc thực

hiện quyền và nghĩa vụ của mình.

2.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về thanh niên

Thứ nhất, quản lý nhà nước về thanh niên là một dạng quản lý xã hội đặc

thù, mang tính quyền lực nhà nước, do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực

hiện chức năng quản lý nhà nước đối với một đối tượng đặc biệt là thanh niên,

họ vừa là công dân, đồng thời, vừa là nhóm nhân khẩu đặc thù trong cơ cấu dân

số. Đó là một lực lượng hùng hậu, có sức trẻ (cả về thể lực và trí lực), là nguồn

42

nhân lực lao động dồi dào; là lực lượng xung kích, đi đầu trong mọi lĩnh vực

hoạt động của xã hội. Với tư cách là công dân, thanh niên được hưởng mọi

chính sách chung của Nhà nước, có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân quy

định trong Hiến pháp và pháp luật; với tư cách là một tầng lớp xã hội đặc thù,

thanh niên còn được hưởng các quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ được quy

định trong Luật thanh niên.

Thứ hai, quản lý nhà nước về thanh niên là một dạng quản lý đối với một

lực lượng xã hội cụ thể, mà những vấn đề của nó liên quan trực tiếp đến tất cả

các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, đây là một dạng quản lý tổng

hợp, đa diện và phức tạp, đòi hỏi phải có sự phối hợp hài hòa, thống nhất giữa

các cấp, các ngành. Cơ chế phối hợp liên ngành trong thực thi chính sách, pháp

luật đối với thanh niên có vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước. Bên cạnh

Bộ Nội vụ cần có sự tham gia, phối hợp của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan

thuộc Chính phủ, cơ quan trung ương và địa phương, các tổ chức chính trị - xã

hội. Việc phối hợp này được thể hiện trong suốt quá trình quản lý, từ khâu

hoạch định chính sách, xây dựng thể chế, đến việc tổ chức thực thi chính sách,

pháp luật. Trong đó, các thiết chế tư vấn liên ngành như Ủy ban quốc gia về

thanh niên có vai trò rất quan trọng. Được thành lập bởi Chính phủ, Ủy ban

quốc gia về thanh niên có cơ chế làm việc phối hợp liên ngành về thanh niên

để tư vấn cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xây dựng, ban

hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên.

Thứ ba, quản lý nhà nước về thanh niên mang tính toàn diện về mọi mặt

đối với mọi đối tượng thanh niên (công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30

tuổi). Đặc trưng này khác với với các tổ chức, các chủ thể xã hội khác. Ví dụ

như: Ủy ban Quốc gia về thanh niên có chức năng tư vấn giúp Thủ tướng Chính

phủ về công tác thanh niên; hay Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và

Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam có chức năng quản lý đoàn viên, hội viên

43

tham gia vào tổ chức này chứ không phải là toàn bộ lực lượng thanh niên trong

toàn xã hội. Trong khi đó, quản lý nhà nước về thanh niên, các cơ quan trong

bộ máy nhà nước bằng chính sách, pháp luật tác động trực tiếp đến tất cả các

đối tượng là thanh niên.

2.1.3. Vai trò của quản lý nhà nước về thanh niên

Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế và từ

chính đòi hỏi đối với sự phát triển của thanh niên, quản lý nhà nước về thanh

niên có vai trò rất quan trọng, thể hiện trên các mặt:

Thứ nhất, quản lý nhà nước về thanh niên là hoạt động quản lý của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương của

Đảng và chính sách của Nhà nước về thanh niên thành pháp luật

Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, Đảng ta luôn đề cao vị trí, vai

trò của thanh niên; xác định thanh niên là lực lượng xung kích của cách mạng.

Đồng thời, Đảng đặt ra nhiệm vụ cho Nhà nước, cho toàn xã hội trong việc

chăm lo, giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ. Quan điểm, chủ trương của

Đảng đối với việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên được thể

hiện trong các Chỉ thị, Nghị quyết. Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng 12

năm 1986) chỉ rõ: Thanh niên phải được bảo đảm việc làm khi bước vào đời

và được quan tâm giáo dục về nhân cách, bản lĩnh và lý tưởng theo phương

châm “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Trước

tình hình quốc tế ngày càng phức tạp, ngày 13 tháng 3 năm 1991, Bộ Chính

trị (khóa VI) ban hành Nghị quyết số 25/NQ-TW về Đổi mới và tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên. Nghị quyết khẳng định vai

trò, vị trí quan trọng của thanh niên đối với tương lai dân tộc và vận mệnh Tổ

quốc; khẳng định những quan điểm cơ bản về công tác thanh niên và phương

hướng, nội dung, giải pháp chủ yếu của công tác thanh niên. Nghị quyết Hội

nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII nêu rõ: “Sự nghiệp

44

đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng

đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước

theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng

thanh niên”.

Tiếp đến, hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X

đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25 tháng 7 năm 2008 về Tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghị quyết khẳng định: “Thanh niên là rường

cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích

trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự

thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc

tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Nghị quyết tiếp tục khẳng định chủ trương

nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên trong thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong đó đưa ra sáu nhóm giải pháp cơ

bản gồm: 1. Củng cố kiện toàn Ủy ban Quốc gia về thanh niên Việt Nam và

giao cho Ủy ban một số nhiệm vụ, quyền hạn để tham mưu cho Chính phủ

thống nhất quản lý nhà nước về thanh niên. Các bộ, ngành và ủy ban nhân dân

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện chức năng quản lý nhà nước

về thanh niên theo lĩnh vực, địa bàn và theo sự phân công, phân cấp của Chính

phủ. Thành lập Hội đồng công tác thanh niên ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương làm nhiệm vụ tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố thực hiện

quản lý nhà nước về thanh niên và Chính phủ chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực

hiện mô hình này; 2. Xác định chỉ số về thanh niên và công tác thanh niên trong

chỉ số thống kê quốc gia, trong chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của

các ngành, các cấp; 3. Tăng cường vai trò giám sát và phản biện xã hội của

Đoàn Thanh niên, các tổ chức thanh niên đối với việc xây dựng và tổ chức thực

hiện các chủ trương, chính sách về thanh niên, công tác thanh niên; 4. Thực

45

hiện tốt Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, tạo điều kiện để thiếu nhi

phát triển toàn diện, trở thành những thanh niên tốt; 5. Tập trung chỉ đạo để

hoàn thành các mục tiêu trong Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến

năm 2010; xây dựng Chiến lược phát triển thanh niên đến năm 2020, gắn với

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; cụ thể hóa các chủ trương của Đảng trong

giáo dục, bồi dưỡng phát huy vai trò của thanh niên; 6. Sửa đổi, bổ sung Luật

thanh niên phù hợp với tình hình mới. Ban hành Luật việc làm. Sớm ban hành

cơ chế, chính sách để giải quyết chỗ ở, nơi sinh hoạt văn hóa, thể thao cho thanh

niên làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất và học sinh, sinh viên đang

học tập.

Báo cáo Chính trị tại Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Tăng cường giáo

dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá, nâng cao lòng yêu nước,

tự hào dân tộc, nuôi dưỡng hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần

trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội; xây dựng môi trường, điều kiện học

tập, lao động, giải trí, rèn luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hoà cả

về trí tuệ, thể chất và giá trị thảm mỹ cho thế hệ trẻ. Tạo động lực cho thanh

niên xung kích trong học tập, lao động, sáng tạo, khởi nghiệp, làm chủ các kiến

thức khoa học, công nghệ hiện đại, phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc. Chăm lo nuôi dưỡng, giáo dục, bảo vệ thiếu niên, nhi đồng;

dành những điều kiện tốt nhất, sự chăm lo chu đáo nhất cho trẻ em - tương lai

của đất nước” [22, tr 168].

Để quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về thanh

niên đi vào thực tiễn và phát huy tác dụng, cần phải được thể chế hóa thành

pháp luật thì nó mới trở thành phương tiện quản lý của nhà nước, có sức mạnh

cưỡng chế buộc các tổ chức, cá nhân phải thi hành. Thông qua pháp luật, một

mặt, mọi người dân nắm bắt được đường lối, chủ trương của Đảng; mặt khác,

là cơ sở để Đảng kiểm tra, đánh giá, hoàn thiện đường lối, chủ trương chưa phù

46

hợp. Qua các thời kỳ, pháp luật về thanh niên được xây dựng và ngày càng

hoàn thiện. Kể từ khi Quốc hội khóa XI thông qua Luật thanh niên số

53/2005/QH11 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2006 đã có rất

nhiều văn bản quy phạm pháp luật về thanh niên được ban hành, tạo cơ sở pháp

lý cho việc chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng và phát huy thanh niên; nâng cao hiệu

lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên. Đặc biệt, sự ra đời của Luật thanh

niên năm 2020 có ý nghĩa chính trị, pháp lý sâu sắc trong điều kiện mới; tiếp

tục bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của thanh niên; quy

định trách nhiệm của thanh niên, các chính sách của Nhà nước đối với thanh

niên; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức thanh niên, tổ chức khác, cơ sở giáo

dục, gia đình và cá nhân đối với thanh niên; quản lý nhà nước về thanh niên.

Thứ hai, quản lý nhà nước về thanh niên giúp tổ chức thực hiện có hiệu

quả chính sách, pháp luật; một mặt, bảo đảm việc thực hiện các quyền và nghĩa

vụ của thanh niên, mặt khác, giáo dục, đào tạo thanh niên thành công dân tốt,

phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo

vệ Tổ quốc. Chính sách, pháp luật là công cụ quan trọng của quản lý nhà nước

về thanh niên. Chính sách, pháp luật được ban hành với mục đích là để quản

lý, phát triển thanh niên theo những định hướng mong muốn nhằm đạt được

những kết quả, mục tiêu nhất định. Và điều đó chỉ có thể đạt được khi chính

sách, pháp luật được tổ chức thực hiện có hiệu quả trong đời sống xã hội.

Kinh nghiệm của các nước cho thấy, Luật thanh niên không chỉ đơn thuần

là tuyên ngôn về quyền và nghĩa vụ của thanh niên mà nó còn là khung pháp lý

cho toàn bộ công tác thanh niên bao gồm các thiết chế, thể chế cần thiết và đảm

bảo thực hiện cụ thể. Hiện nay, trên thế giới đã có 142/196 quốc gia có chính

sách riêng về thanh niên và 43/196 quốc gia ban hành Luật Thanh niên, ví dụ

như: Luật thanh niên Bungari (2012), Luật thanh niên Inđônêxia (2009), Luật

thanh niên Cộng hòa Philíppin (1994), Luật thanh niên Hàn Quốc (1987, 1989,

47

1991, 2002), Luật thanh niên và nhi đồng Cuba (1978), Luật thanh niên

Hunggari (1971)... Tùy thuộc vào thể chế chính trị, các quốc gia này có những

quy định khác nhau nhưng điểm chung trong Luật thanh niên đó là xác định rõ

vai trò, trách niệm và quyền của thanh niên; các hoạt động cấm đối với thanh

niên; trách nhiệm của nhà nước đối với thanh niên trong các lĩnh vực học tập,

chăm sóc y tế, việc làm, chỗ ở…

Phần lớn các quốc gia đều xây dựng một khung pháp lý hoàn chỉnh cho

công tác thanh niên, bao gồm: hệ thống các cơ quan chuyên trách công tác thanh

niên từ trung ương tới địa phương. Ở trung ương có Ủy ban thanh niên của

Quốc hội chịu trách nhiệm xây dựng chính sách thanh niên và giám sát thực thi

các chính sách này; công tác thanh niên được giao cho một Bộ chủ quản tổ chức

thực hiện với các chi nhánh ở địa phương. Ngoài ra, công tác thanh niên còn

được thực hiện bởi các tổ chức xã hội trong mối quan hệ chặt chẽ với các cơ

quan nhà nước. Đồng thời, có cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin và đánh giá,

giám sát được chú trọng nhằm đảm bảo thực thi trên thực tế.

Thứ ba, quản lý nhà nước về thanh niên giúp duy trì và thúc đẩy thanh

niên phát triển toàn diện theo định hướng. Thanh niên với các đặc điểm tâm

sinh lý lứa tuổi của mình, họ không chỉ là chủ thể tích cực trong tiến trình phát

triển xã hội mà còn là đối tượng chịu sự tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ của sự

biến đổi xã hội; đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi mà lối sống và các giá

trị, chuẩn mực xã hội đang có sự chuyển biến mạnh mẽ dưới tác động của xu

thế hội nhập quốc tế. Những tác động này có thể mang tính tích cực, hoàn thiện

nhân cách của thanh niên, tạo động lực cho thanh niên phát triển và đóng góp

cho sự phát triển của của xã hội. Nhưng ngược lại, cũng có thể mang đến những

tác động tiêu cực, làm cho thanh niên mất ý chí, nghị lực phấn đấu, dễ dao động

về lập trường chính trị, lệch lạc về giá trị đạo đức, sống thực dụng và sa vào tệ

nạn xã hội. Do vậy, bằng chính sách, pháp luật, các cơ quan Nhà nước được

48

giao quyền quản lý nhà nước về thanh niên có trách nhiệm duy trì và tạo lập

những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thanh niên, duy trì và phát triển

các nguồn lực, kiến tạo các nguồn lực vật chất, sử dụng có hiệu quả các nguồn

lực tài chính để tạo những điều kiện tốt nhất cho thanh niên phát triển và giảm

thiểu tình trạng rủi ro từ nhiều phía, định hướng thanh niên, bảo vệ thanh niên

phát triển lành mạnh.

2.2. Nội dung, chủ thể quản lý nhà nước về thanh niên

2.2.1. Nội dung quản lý nhà nước về thanh niên

Từ khái niệm, đặc điểm của quản lý nhà nước về thanh niên và quy định

pháp luật hiện hành có thể khái quát nội dung quản lý nhà nước về thanh niên

gồm những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, xây dựng chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện chính sách,

pháp luật về thanh niên.

Xây dựng chính sách và pháp luật về quản lý nhà nước về thanh niên là

một nội dung trọng tâm và quan trọng trong việc quản lý và phát triển thanh

niên. Để quản lý nhà nước về thanh niên cần có một hệ thống chính sách, pháp

luật đồng bộ về thanh niên. Nhà nước là chủ thể chính trong xây dựng chính

sách, pháp luật về thanh niên. Đồng thời, Nhà nước cần huy động người dân,

đặc biệt là thanh niên vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật về thanh

niên. Huy động sự tham gia tích cực của thanh niên cần có quá trình tương tác

hai chiều giữa cơ quan xây dựng chính sách, pháp luật và thanh niên, tôn trọng

các ý kiến của thanh niên đưa ra và nghiên cứu để đưa các ý kiến phù hợp vào

quá trình xây dựng chính sách, pháp luật về thanh niên.

Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhà nước đều ban hành chính sách

phát triển thanh niên với mục tiêu hướng tới phát triển toàn diện thanh niên trên

các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống như: học tập, sức khỏe, thể chất và tinh

thần, lao động, việc làm và sự tham gia của thanh niên vào đời sống chính trị

49

và dân sự; đồng thời, huy động tối đa nguồn lực thanh niên vào việc xây dựng,

phát triển đất nước. Trong các chính sách này, các nhà nước đều quy định nguồn

lực và điều kiện để bảo đảm thực hiện mục tiêu đề ra. Đây chính là văn kiện

pháp lý cơ bản bảo đảm cho sự phát triển của các công dân trẻ, phát triển và

thực hiện tiềm năng của thanh niên cho sự phát triển đất nước. Ở Châu Âu, các

quốc gia có hai hướng xây dựng chính sách thanh niên: Một là, xây dựng một

chính sách phát triển thanh niên tổng thể hoặc khung chính sách bao gồm nhiều

lĩnh vực khác nhau, tiêu biểu như: Áo, Azerbaijan, Thụy Điển; hai là, xây dựng

chính sách phát triển thanh niên theo từng lĩnh vực riêng biệt như: Na Uy, Đan

Mạch… Mặc dù nội dung chính sách về thanh niên có sự đa dạng và khác biệt

giữa các quốc gia, nhưng điểm chung trong chính sách về thanh niên của các

quốc gia ở châu Âu đó là mục tiêu chính sách phát triển thanh niên của các

quốc gia châu Âu được định hướng và xây dựng trên cơ sở các chỉ số phát triển

thanh niên.

Hay tại các quốc gia châu Phi, chính sách thanh niên tập trung vào ba lĩnh

vực chính, đó là: giáo dục và việc làm; sức khỏe và phòng chống HIV/AIDS và

khuyến khích sự tham gia của thanh niên vào các hoạt động chính trị. Hầu hết

các quốc gia Ả Rập đều có chính sách về thanh niên. Tại Ma rốc, chính sách về

thanh niên được xây dựng trên cơ sở Hiến pháp năm 2011 và được cụ thể hóa

trong Luật về thanh niên với sự tham vấn của Hội đồng tư vấn về thanh niên và

Cộng đồng hành động thanh niên, trong đó tập trung vào các vấn đề chính như

giáo dục, việc làm, hệ thống y tế và sự tham gia của thanh niên. Còn với Tunisia,

chính sách về thanh niên không được xây dựng tập trung, thống nhất vào một

văn bản cụ thể mà nằm ở nhiều văn bản khác nhau, trong đó nhấn mạnh vai trò

quan trọng của thanh niên trong việc xây dựng và phát triển đất nước. Algeria

lại tập trung vào việc tạo cơ hội rèn luyện cho thanh niên, quản lý thanh niên,

hạn chế các hành vi nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe của thanh niên… Ở các

50

nước Đông Nam Á, các quốc gia ASEAN cũng thống nhất xây dựng và thực

hiện Bộ chỉ số phát triển thanh niên khu vực ASEAN với bốn lĩnh vực cơ bản

là giáo dục, sức khỏe và hạnh phúc, việc làm và cơ hội, sự tham gia của thanh

niên nhằm có những đánh giá tổng hợp và nhất quán về tình hình phát triển

thanh niên của các nước thành viên.

Để đánh giá kết quả thực hiện chính sách phát triển thanh niên của các

quốc gia trên thế giới, bộ chỉ số phát triển thanh niên (Young Development

Index – YDI) đã được xây dựng và thực hiện tại các nước trong Khối thịnh

vượng chung phát triển. Bộ chỉ số phát triển thanh niên toàn cầu bao gồm 18

chỉ số đo lường sự tiến bộ của phát triển thanh niên trong 5 lĩnh vực quan

trọng của thanh niên, đó là: Giáo dục; sức khỏe và hạnh phúc; việc làm và cơ

hội; sự tham gia đời sống chính trị; sự tham gia đời sống công dân. Mỗi lĩnh

vực được đo lường bởi từ 2 đến 6 chỉ số khác nhau, sử dụng nguồn dữ liệu

chung toàn cầu.

Với Việt Nam, từ đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước thể chế hóa

thành chính sách, pháp luật về thanh niên; quy định rõ trách nhiệm, nhiệm vụ

của các cấp, các ngành trong quản lý nhà nước về thanh niên. Nhà nước xây

dựng chính sách, pháp luật về thanh niên nhằm đảm bảo quyền bình đẳng, lợi

ích hợp pháp, chính đáng của thanh niên. Một mặt, giúp thanh niên nhận thức

và tin tưởng Nhà nước luôn cam kết hỗ trợ, tạo điều kiện cho thanh niên thực

hiện vai trò, sứ mệnh của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Từ đó, thanh niên tiếp cận trách nhiệm với tâm thế đảm nhận trọng trách chứ

không phải là gánh nặng; mặt khác, các nhóm thanh niên đặc thù cũng nhận

thức được sự quan tâm thỏa đáng của Nhà nước đối với họ. Nhiều chính sách

cho thanh niên đã được ban hành thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước

đối với việc chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục và phát huy thanh niên. Qua các thời

kỳ, Nhà nước xây dựng, ban hành nhiều chính sách về thanh niên và bảo đảm

51

thực hiện bằng các quyền hiến định, luật định. Việc xây dựng, ban hành và hoàn

thiện chính sách, pháp luật về thanh niên đã tạo nên một hàng lang pháp lý bảo

đảm quyền của thanh niên; giúp các cơ quan quản lý nhà nước nâng cao hiệu

lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên, phát huy được sức mạnh của

thanh niên trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm

quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh hội nhập quốc tế.

Thứ hai, xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch

phát triển thanh niên.

Để triển khai chính sách, pháp luật về thanh niên, các cơ quan có thẩm

quyền cần phải xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế

hoạch phát triển thanh niên. Trong đó, chiến lược là cơ sở quan trọng để các

cấp, các ngành cụ thể hóa thành cơ chế, chính sách phát triển thanh niên, bảo

đảm phù hợp với hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước; gắn với trách

nhiệm tổ chức thực hiện của từng cấp, từng ngành; đồng thời, phát huy vai

trò, sự tham gia của cả hệ thống chính trị, các tổ chức, cá nhân và thanh niên.

Chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển thanh niên được các quốc

gia đặc biệt quan tâm. Điều này đã góp một vai trò quan trọng trong việc thiết

lập các tiêu chuẩn và điều kiện tốt nhất cho việc xây dựng và thực hiện chính

sách thanh niên ở cấp quốc gia. Minh chứng rõ nét đầu tiên phải kể đến Chương

trình Hành động Thế giới về Thanh niên, Kế hoạch Hành động Thanh niên

Braga (Diễn đàn Thanh niên Thế giới) 1998, Chiến lược Trao quyền cho Thanh

niên Dakar 2001.

Tại khóa họp 73 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, Tổng Thư ký Liên hợp

quốc Antonio Guterres phát động một chiến lược đối tác mới với chủ đề “Tuổi

trẻ 2030 – Youth 2030” nhằm góp phần biến những ý tưởng của thanh niên

hành động thực tiễn trong cuộc sống. Chiến lược “Tuổi trẻ 2030” nhằm vào

năm lĩnh vực chủ chốt, bao gồm: mở ra những con đường mới để huy động sự

52

tham gia của thanh niên và giúp tiếng nói của họ được lan tỏa; tăng cường, chú

trọng công tác giúp thanh niên tiếp cận giáo dục và các dịch vụ y tế; đặt vấn đề

trao quyền kinh tế cho thanh niên làm trọng tâm của những chiến lược phát

triển, với việc chú trọng vào đào tạo và việc làm; hỗ trợ bảo đảm quyền, sự can

dự về chính trị và dân sự của thanh niên; ưu tiên hỗ trợ thanh niên sống tại

những vùng xung đột và khủng hoảng nhân đạo. Ngoài ra, để thực thi chương

trình nghị sự “Tuổi trẻ 2030” vì sự phát triển bền vững cho một thế giới hòa

bình hơn, bền vững hơn và thịnh vượng hơn, thế giới rất cần thanh niên đóng

vai trò tiên phong.

Ở Việt Nam, để phát triển và huy động tối đa nguồn lực thanh niên, nhiều

chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển thanh niên được xây dựng và ban

hành. Sau những kết quả đạt được của Chiến lược phát triển thanh niên Việt

Nam năm 2011-2020 (ban hành kèm theo Quyết định số 2474/QĐ-TTg ngày

30 tháng 12 năm 2011 của Thủ tưởng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát

triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2011-2020), ngày 24 tháng 7 năm 2021

Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1331/QĐ-TTg Ban hành Chiến lược

phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030 với mục tiêu tổng quát là

xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam phát triển toàn diện, giàu lòng yêu nước,

có ý chí tự cường, tự hào dân tộc; có lý tưởng cách mạng, hoài bão, khát vọng

vươn lên xây dựng đất nước; có đạo đức, ý thức công dân, chấp hành pháp luật;

có sức khỏe và lối sống lành mạnh; có văn hóa, kiến thức, trình độ học vấn, kỹ

năng sống, nghề nghiệp và việc làm; có ý chí lập thân, lập nghiệp, năng động,

sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ. Phát triển nguồn nhân lực trẻ chất lượng

cao đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước và hội nhập

quốc tế. Phát huy tinh thần cống hiến, xung kích, tình nguyện và nâng cao trách

nhiệm của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chiến lược

có sáu mục tiêu cụ thể gồm: 1. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; cung

53

cấp thông tin về tư vấn, hỗ trợ pháp lý cho thanh niên; 2. Giáo dục, nâng cao

kiến thức, kỹ năng; tạo điều kiện để thanh niên bình đẳng về cơ hội học tập,

nghiên cứu, đổi mới sáng tạo; 3. Nâng cao chất lượng đào tạo nghề và tạo việc

làm bền vững cho thanh niên; phát triển nguồn nhân lực trẻ chất lượng cao; 4.

Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho thanh niên; 5. Nâng cao đời sống

văn hóa, tinh thần cho thanh niên; 6. Phát huy vai trò của thanh niên trong tham

gia phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Các mục tiêu, chỉ tiêu được đề ra trong Chiến lược bảo đảm thống nhất

với quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về

thanh niên; phù hợp với xu thế quản lý và sự phát triển của thanh niên trong

thời kỳ hội nhập, toàn cầu hóa; đồng thời, phù hợp với mục tiêu phát triển bền

vững của Liên hợp quốc, chỉ số phát triển thanh niên toàn cầu và chỉ số phát

triển thanh niên khu vực ASEAN… Chiến lược quốc gia về phát triển thanh

niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030 là một công cụ quan trọng, cung cấp nền

tảng vững chắc cho các bộ, ban, ngành cũng như các cơ quan, tổ chức tham gia

triển khai Luật thanh niên và giải quyết các nhu cầu của thanh niên một cách

toàn diện.

Bên cạnh đó, rất nhiều các chương trình, kế hoạch được các cơ quan có

thẩm quyền ban hành như: Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên

Việt Nam giai đoạn II (2016-2020) (ban hành kèm theo Quyết định số

1042/QĐ-TTg ngày 17 tháng 7 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ); Kế hoạch

thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030 của

Bộ Nội vụ (ban hành kèm theo Quyết định số 1113/QĐ-BNV ngày 17 tháng 10

năm 2021); Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam

trong ngành giáo dục giai đoạn 2021-2030 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (ban

hành kèm theo Quyết định số 619/QĐ-BGDĐT ngày 3 tháng 3 năm 2022).

Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà

54

nước về thanh niên

Bộ máy nhà nước muốn hoạt động có hiệu quả thì cần phải có đội ngũ cán

bộ, công chức có chất lượng. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ chính là đầu tư

cho phát triển đất nước lâu dài và bền vững. Do đó, việc xây dựng đội ngũ cán

bộ, công chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu,

phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và

hiệu quả.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” đã chỉ rõ:

“Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích

cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem tình hình của dân chúng

báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. Vì vậy,

cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Công việc thành công hoặc thất bại đều

do cán bộ tốt hay kém”. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã khẳng

định: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất, năng lực,

uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước…; có cơ chế lựa chọn,

đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài… Đồng thời, có cơ chế sàng lọc, thay thế

kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức

công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân

dân” [22, tr. 178-179].

Thanh niên là một lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan

trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; họ không phải là một giai cấp xã

hội mà là một tầng lớp xã hội đặc thù với những đặc điểm tâm – sinh lý khác

nhau theo từng lứa tuổi. Để phát huy được sức mạnh của thanh niên và nâng

cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về thanh niên cần một đội ngũ cán bộ,

công chức làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên có bản lĩnh chính trị

vững vàng, có phẩm chất đạo đức, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đồng

thời phải am hiểu về thanh niên. Đây là những người trực tiếp vận hành hệ

55

thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên từ Trung ương đến địa

phương; là những người trực tiếp tham gia xây dựng các văn bản quy phạm

pháp luật và tổ chức thực hiện nhiệm vụ ban hành chính sách, chiến lược,

chương trình, kế hoạch phát triển thanh niên. Do vậy, trình độ, năng lực và

phẩm chất của đội ngũ này là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng

trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên. Việc xây dựng

đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên cần tập

trung vào những nội dung sau:

- Xây dựng quy hoạch cán bộ, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ theo hướng

đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, có tính đến nhu cầu và khả năng phát

triển.

- Tập trung đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về thanh niên

cho đội ngũ cán bộ, công chức chuyên trách các cấp để nâng cao khả năng tham

mưu, đề xuất, tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về thanh niên.

Thứ tư, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về thanh

niên

Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật giữ vị trí quan trọng

trong đời sống xã hội, là một bộ phận quan trọng của công tác giáo dục, là trách

nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam và sự điều phối, tổ chức thực hiện của các cơ quan nhà nước và các tổ

chức, đoàn thể; là khâu then chốt, quan trọng để chủ trương của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước thực sự đi vào cuộc sống, đi vào ý thức, hành

động của từng chủ thể trong xã hội. Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây

dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn

mới trong mục tiêu cụ thể đến năm 2030 đã xác định: “Ðẩy mạnh tuyên truyền,

phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân về

56

Hiến pháp và pháp luật, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

và yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”.

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật là khâu đầu tiên

trong tổ chức thực thi chính sách, pháp luật; là “cầu nối” để đưa pháp luật vào

đời sống. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và Nhà

nước đề ra nhằm từng bước nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và

nhân dân, nâng cao năng lực áp dụng pháp luật, thiết lập kỷ cương, phát huy

dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong

những năm gần đây, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của các cơ quan,

bộ, ban ngành được thực hiện theo các chương trình, kế hoạch cụ thể được

Chính phủ phê duyệt.

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về thanh niên là

truyền đạt nội dung pháp luật về thanh niên cho các đối tượng cụ thể, giúp cho

họ hiểu được các quy định của pháp luật về thanh niên để thực hiện trên thực

tế. Tùy từng đối tượng cụ thể mà việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính

sách, pháp luật được thực hiện thông qua các hình thức khác nhau như: tuyên

truyền miệng; tổ chức hội nghị, tập huấn; phổ biến pháp luật, tọa đàm chuyên

sâu về Hiến pháp và Luật thanh niên; tuyên truyền pháp luật trên các phương

tiện thông tin đại chúng và các hệ thống truyền thanh công cộng; biên soạn và

phát hành các tài liệu…

Thứ năm, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo

trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên

Một nội dung rất quan trọng trong quản lý nhà nước về thanh niên đó là

kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong việc thực

hiện chính sách, pháp luật về thanh niên. Hoạt động này giúp cho các chủ thể

quản lý nhà nước về thanh niên kịp thời phát hiện những ưu điểm, hạn chế trong

57

công tác quản lý và có những giải pháp khắc phục kịp thời. Đồng thời, đây cũng

là cơ sở để bảo đảm chính sách, pháp luật về thanh niên được triển khai tổ chức

thực hiện trên thực tiễn. Hoạt động kiểm tra, thanh tra cần phải được tiến hành

thường xuyên, đúng pháp luật và không làm ảnh hưởng tới hoạt động bình

thường của các đối tượng kiểm tra, thanh tra là các tổ chức, cá nhân theo quy

trình, thủ tục chặt chẽ mà pháp luật quy định. Bên cạnh đó, cần kịp thời nắm

bắt và giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý nghiêm minh theo pháp luật đối với

các vi phạm chính sách, pháp luật về thanh niên. Hoạt động kiểm tra, thanh tra

cần được quy định cụ thể trách nhiệm kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải

quyết khiếu nại, tố cáo trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên

không chỉ ở một cấp, một cơ quan cụ thể mà phải được thực hiện ở tất cả các

cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện các nội dung liên quan đến quản lý

nhà nước về thanh niên từ trung ương đến địa phương.

Thứ sáu, hợp tác quốc tế về thanh niên

Hợp tác quốc tế về thanh niên là một hoạt động rất quan trọng, nhất là

trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Nhà nước xây dựng chính sách,

pháp luật và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về hợp tác quốc tế về thanh

niên trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng về hội nhập quốc tế. Luật thanh

niên năm 2020 đã dành một điều quy định về hợp tác quốc tế về thanh niên với

nguyên tắc bảo đảm bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh

thổ, phù hợp với pháp luật mỗi nước, điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và thông lệ quốc tế. Trong đó, Luật cũng

quy định nội dung hợp tác quốc tế về thanh niên bao gồm: a) Tham gia tổ chức

quốc tế; ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế về thanh niên;

chương trình, dự án hợp tác quốc tế về thanh niên; b) Trao đổi thông tin, kinh

nghiệm quản lý và chính sách, pháp luật về thanh niên; c) Giao lưu giữa thanh

58

niên Việt Nam với thanh niên các nước.

Trong những năm qua, Nhà nước ta luôn tạo điều kiện cho thanh niên chủ

động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế; tham gia giải quyết các vấn đề

toàn cầu; tham gia công tác ngoại giao Nhân dân để nâng tầm ảnh hưởng của

Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động và tham gia có hiệu quả vào giải quyết

các vấn đề toàn cầu như: giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống

khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, phòng

ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh hiểm nghèo… Hiện nay, các tổ chức thanh niên

của Việt Nam đang có kết nối với khoảng 250 tổ chức thanh niên các nước và

các tổ chức phi chính phủ trên khắp thế giới. Có 21 tổ chức thanh niên tại nước

ngoài là Ban cán sự Đoàn, Hội liên hiệp thanh niên sinh viên, Hội sinh viên…

Thứ bảy, ban hành chính sách hỗ trợ, khuyến khích tổ chức, cá nhân tham

gia thực hiện chính sách đối với thanh niên

Để chính sách đối với thanh niên được triển khai có hiệu quả trên thực

tiễn, Nhà nước cần huy động sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong việc

thực hiện chính sách đối với thanh niên. Nhà nước cần có những chính sách hỗ

trợ cụ thể để những tổ chức, cá nhân như doanh nghiệp, các tổ chức xã hội cùng

đồng hành, có trách nhiệm trong việc đầu tư cho thanh niên. Các doanh nghiệp

có thể hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên, các tổ chức xã hội có thể huy động

thêm vốn tài chính của các tổ chức nước ngoài để phục vụ cho công tác phát

triển thanh niên, nhất là trong việc hỗ trợ thanh niên lập nghiệp.

2.2.2. Chủ thể quản lý nhà nước về thanh niên

Để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên cần có cơ quan

chuyên trách làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên. Cơ quan này có

chức năng nghiên cứu, tham mưu cho Nhà nước về cơ chế, chính sách về thanh

niên như xây dựng văn bản pháp luật. Trên thế giới, thực hiện chức năng quản

lý nhà nước về thanh niên, nhiều quốc gia đã giao cho cơ quan của chính phủ

59

thực hiện việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về thanh

niên. Nhiều quốc gia đã thành lập Bộ Thanh niên hoặc Bộ Thanh niên và Thể

thao để giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Ví dụ

như: các nước Ôxtrâylia, Malaxia thành lập Bộ Thanh niên; Bungari,

Inđônêxia, Philíppin, Bănglađét (thành lập Bộ Thanh niên và Thể thao; Pháp

thành lập Bộ Thanh niên, Thể thao, Giáo dục và Cộng đồng. Một số quốc gia

khác lại thành lập Tổng cục Thanh niên thuộc Bộ Văn hóa – Du lịch như Hàn

Quốc [50, tr.74]. Dù mô hình tổ chức có khác nhau nhưng nhiệm vụ chính của

các cơ quan này là tham mưu giúp chính phủ ban hành và tổ chức thực hiện cơ

chế, chính sách cho thanh niên. Có thể thấy, mô hình chung trong việc xây dựng

và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên của các nước là xây

dựng một hệ thống những chủ thể tham gia với cấu trúc như sau: một là, hệ

thống cơ quan nhà nước ở trung ương; hai là, hệ thống các cơ quan nhà nước

ở địa phương, trong đó, một số quốc gia phân quyền cho chính quyền địa

phương được tự chủ trong việc xây dựng chính sách thanh niên cho riêng mình

phù hợp với quy định chung về chính sách thanh niên; ba là, các dịch vụ xã hội

dành cho thanh niên tồn tại ở tất cả các quốc gia được rà soát với các tên gọi

khác nhau và giải quyết các vấn đề khác nhau trong đời sống của thanh niên;

bốn là, các tổ chức phi chính phủ làm công tác thanh niên có thể bao gồm các

tổ chức của thanh niên hoặc các tổ chức làm việc vì thanh niên; năm là, mạng

lưới các cơ quan, tổ chức làm công tác thanh niên kết nối tất cả những cơ quan,

tổ chức, cá nhân tham gia công tác thanh niên {28, tr.52,53}.

Ở Việt Nam, trước đây, Chính phủ chưa giao cho một cơ quan nào thực

hiện quản lý nhà nước về thanh niên. Đến năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị

định số 48/2008/NĐ-CP ngày 17 tháng 4 năm 2008 quy định chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn và cơ cấu của Bộ Nội vụ, trong đó, giao cho Bộ Nội vụ quản lý

nhà nước về công tác thanh niên. Thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị tại Thông

60

báo số 327-TB/TW ngày 13 tháng 8 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban

hành Quyết định số 1471/QĐ-TTg về việc thành lập Vụ Công tác thanh niên

thuộc Bộ Nội vụ để giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ thực hiện chức năng quản lý nhà

nước về thanh niên. Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 04/2011/TT-

BNV ngày 10 tháng 02 năm 2011 hướng dẫn bổ sung nhiệm vụ, tổ chức và biên

chế của Sở Nội vụ, Phòng Nội vụ thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện về công tác

thanh niên.

Theo đó, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã

thành lập Phòng Công tác thanh niên thuộc Sở Nội vụ (bố trí có từ 02 đến 05

biên chế) và bố trí 01 biên chế chuyên trách về công tác thanh niên cho Phòng

Nội vụ cấp huyện; đối với cấp xã, nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên

được giao cho công chức Văn phòng - Thống kê thực hiện. Các bộ, cơ quan

ngang bộ giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên cho Vụ Tổ chức cán

bộ thực hiện. Đến ngày 31 tháng 10 năm 2014, Bộ Nội vụ ban hành Thông tư

số 15/2014/TT-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ

chức của Sở Nội vụ thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương; Phòng Nội vụ thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã thuộc tỉnh (bãi

bỏ Thông tư số 04/2011/TT-BNV ngày 10 tháng 02 năm 2011 của Bộ Nội vụ).

Theo đó, Phòng Công tác thanh niên được sáp nhập vào Phòng Xây dựng chính

quyền và đổi tên thành Phòng Xây dựng chính quyền và Công tác thanh niên

nhưng chức năng, nhiệm vụ của quản lý nhà nước về thanh niên của các địa

phương cơ bản vẫn được giữ nguyên. Bộ máy thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà

nước về thanh niên đã phát huy được hiệu quả trong việc tham mưu xây dựng,

ban hành chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối

với thanh niên; đồng thời phối hợp chặt chẽ với Đoàn Thanh niên các cấp xây

dựng và tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật nhằm chăm lo, bồi dưỡng,

61

đào tạo và phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của thanh niên.

Hiện nay, theo Luật thanh niên năm 2020 quy định tổ chức bộ máy quản

lý nhà nước về thanh niên gồm có các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm cụ thể

như sau:

Một là, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về thanh niên và có trách

nhiệm trong việc: Bảo đảm hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện các nội dung quản

lý nhà nước về thanh niên; bảo đảm cơ chế và biện pháp phối hợp giữa các Bộ,

cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương và cơ

quan, tổ chức có liên quan trong việc xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật

đối với thanh niên; bảo đảm xây dựng và thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu phát

triển thanh niên trong chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội dài hạn, trung hạn và hằng năm của quốc gia, ngành, lĩnh vực; báo cáo kết

quả thực hiện chính sách, pháp luật đối với thanh niên theo yêu cầu của Quốc

hội.

Hai là, Ủy ban quốc gia về Thanh niên Việt Nam là tổ chức phối hợp liên

ngành, có chức năng tư vấn giúp Thủ tướng Chính phủ về công tác thanh niên.

Ba là, Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà

nước về thanh niên và có trách niệm: Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ

quan nhà nước có thẩm quyền ban hành chính sách, pháp luật về thanh niên;

chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển thanh niên; đề xuất việc lồng ghép

chính sách, chỉ tiêu, mục tiêu phát triển thanh niên khi xây dựng chính sách,

chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của ngành, lĩnh

vực. Hướng dẫn các Bộ, ngành lồng ghép chỉ tiêu thống kê về thanh niên Việt

Nam vào hệ thống chỉ tiêu của Bộ, ngành; hướng dẫn các Bộ, cơ quan ngang

Bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh

niên; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ, công

chức làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên; chủ trì, phối hợp với các cơ

62

quan có liên quan quản lý, khai thác và công bố dữ liệu về thanh niên, chỉ số

phát triển thanh niên; chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan

thuộc Chính phủ và Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh xây

dựng, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với thanh niên; kiểm tra,

thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị; sơ kết, tổng kết, thi đua, khen

thưởng; xử lý vi phạm theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá

nhân có thẩm quyền xử lý vi phạm trong việc thực hiện chính sách, pháp luật

đối với thanh niên; hằng năm, báo cáo Chính phủ kết quả thực hiện chính sách,

pháp luật đối với thanh niên và nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên; chủ

trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan quản lý hoạt động hợp tác quốc tế về

thanh niên theo quy định của pháp luật.

Bốn là, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn

của mình, phối hợp với Bộ Nội vụ thực hiện quản lý nhà nước về thanh niên và

có trách nhiệm: Ban hành chính sách, cơ chế tạo điều kiện cho thanh niên tham

gia vào các chương trình phát triển của ngành, lĩnh vực; lồng ghép chính sách,

chỉ tiêu, mục tiêu phát triển thanh niên khi xây dựng chính sách, chiến lược,

chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của ngành, lĩnh vực; lồng

ghép các chỉ tiêu thống kê về thanh niên Việt Nam vào hệ thống chỉ tiêu của

Bộ, ngành; hướng dẫn Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chính sách, pháp

luật đối với thanh niên thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực;

hằng năm, báo cáo việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với thanh niên theo

ngành, lĩnh vực, gửi Bộ Nội vụ để tổng hợp, báo cáo Chính phủ.

Năm là, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn

của mình, có trách nhiệm: Ban hành nghị quyết về phát triển thanh niên tại địa

phương để thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với thanh niên;

quyết định các chỉ tiêu, mục tiêu phát triển thanh niên trong nghị quyết phát

triển kinh tế - xã hội của địa phương hằng năm và từng giai đoạn; quyết định

63

phân bổ dự toán ngân sách để tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, chiến

lược, chương trình, kế hoạch phát triển thanh niên tại địa phương; giám sát việc

thực hiện chính sách, pháp luật đối với thanh niên tại địa phương; quyết định

biên chế của cơ quan được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh

niên.

Sáu là, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của

mình, thực hiện quản lý nhà nước về thanh niên và có trách nhiệm: Tổ chức

thực hiện chính sách, pháp luật, chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển

thanh niên tại địa phương; lồng ghép các chỉ tiêu, mục tiêu phát triển thanh niên

khi xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương

hằng năm và từng giai đoạn; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác

quản lý nhà nước về thanh niên; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng

của thanh niên khi đầu tư phát triển các cơ sở giáo dục, y tế, tư vấn sức khỏe,

cơ sở hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao; quản lý, khai thác và công bố dữ

liệu thống kê về thanh niên, chỉ số phát triển thanh niên tại địa phương; thực

hiện công tác thống kê, thông tin, hằng năm báo cáo kết quả thực hiện chính

sách, pháp luật về thanh niên, gửi Bộ Nội vụ để tổng hợp, báo cáo Chính phủ;

kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về

thanh niên; chỉ đạo, hướng dẫn Ủy ban nhân dân cấp dưới thực hiện nhiệm vụ

quản lý nhà nước về thanh niên.

Theo Thông tư số 5/2021/TT-BNV ngày 12 tháng 8 năm 2021 của Bộ Nội

vụ Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Nội

vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Phòng Nội vụ thuộc Ủy ban nhân dân

cấp huyện thì Sở Nội vụ và Phòng Nội vụ là cơ quan có trách nhiệm giúp Ủy

ban nhân dân cùng cấp thực hiện quản lý nhà nước về thanh niên trên địa bàn

và có nhiệm vụ:

64

Sở Nội vụ

- Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: Tổ chức triển khai thực hiện

chính sách, pháp luật, chiến lược, chương trình, kế hoạch, dự án, đề án phát

triển thanh niên tại địa phương; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công

tác quản lý nhà nước về thanh niên; thực hiện lồng ghép các chỉ tiêu, mục tiêu

phát triển thanh niên khi xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế -

xã hội của địa phương hàng năm và từng giai đoạn, bảo đảm quyền và lợi ích

hợp pháp, chính đáng của thanh niên;

- Giải quyết theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền thực hiện cơ

chế, chính sách đối với thanh niên; giải quyết những vấn đề liên quan đến thanh

niên theo quy định của pháp luật và phân cấp quản lý của Ủy ban nhân dân cấp

tỉnh;

- Quản lý, khai thác và công bố dữ liệu thống kê về thanh niên, chỉ số phát

triển thanh niên tại địa phương theo quy định của pháp luật.

Phòng Nội vụ

- Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện: Tổ chức triển khai thực

hiện chính sách, pháp luật, chiến lược, chương trình, kế hoạch, dự án, đề án

phát triển thanh niên tại địa phương; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm

công tác quản lý nhà nước về thanh niên; thực hiện lồng ghép các chỉ tiêu, mục

tiêu phát triển thanh niên khi xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội của địa phương hàng năm và từng giai đoạn, bảo đảm quyền và lợi

ích hợp pháp, chính đáng của thanh niên;

- Giải quyết theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền thực hiện cơ

chế, chính sách đối với thanh niên; giải quyết những vấn đề liên quan đến thanh

niên theo quy định của pháp luật và phân cấp quản lý của địa phương;

- Quản lý, khai thác và công bố dữ liệu thống kê về thanh niên, chỉ số phát

65

triển thanh niên tại địa phương theo quy định của pháp luật.

2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về thanh niên

2.3.1. Chính sách của Nhà nước về thanh niên

Chính sách thanh niên được hiểu là một bộ phận của chính sách công. Đó

chính là những định hướng, sách lược, giải pháp và công cụ mà Nhà nước ban

hành để tác động trực tiếp lên đối tượng thanh niên nhằm thực hiện những mục

tiêu nhất định hoặc giải quyết những vấn đề nhất định. Chính sách quốc gia về

thanh niên là văn bản pháp lý cơ bản về thanh niên, trong đó quy định các mục

tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc và các giải pháp chủ yếu nhằm tạo ra các điều kiện

kinh tế - xã hội, pháp luật và các bảo đảm cho sự phát triển của thanh niên và

huy động tiềm năng của thanh niên phục vụ cho sự phát triển của đất nước.

Ở Việt Nam, chính sách thanh niên của Nhà nước chính là sự thể chế hóa

những quan điểm, tư tưởng, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tư tưởng

nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta đó là bảo đảm các quyền cơ

bản của thanh niên, tạo điều kiện cho thanh niên phát triển trên nhiều lĩnh vực

và bảo đảm quyền tham gia của thanh niên trong việc xây dựng và tổ chức thực

hiện chính sách thanh niên.

2.3.2. Yếu tố kinh tế

Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước có ảnh hưởng rất lớn đối với quản

lý nhà nước về thanh niên. Đây là nhân tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu

lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên. Chính sách, pháp luật của nhà

nước muốn được thực hiện có hiệu quả phải được đảm bảo về kinh tế. Kinh tế

phát triển tạo ra nguồn lực (điều kiện về cơ sở vật chất, nguồn tài chính, môi

trường làm việc…) cho việc nghiên cứu, xây dựng, ban hành và tổ chức thực

hiện chính sách, pháp luật về thanh niên; phục vụ cho hoạt động quản lý nhà

nước về thanh niên. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của mình mà mỗi quốc gia

có quy định nguồn tài chính để đảm bảo thực hiện chính sách, pháp luật về

66

thanh niên. Mức độ nguồn tài chính để đảm bảo cho việc thực hiện công tác

thanh niên không đồng nhất và nguồn tài chính có thể xuất phát từ phía ngân

sách nhà nước cũng có thể được gây quỹ từ nhiều nguồn khác. Ví dụ, Luật

khung về thanh niên Hàn Quốc quy định một chương (chương VIII) về việc

thành lập quỹ công tác thanh niên ở Trung ương do Bộ Bình đẳng giới và Gia

đình quản lý, lấy từ nhiều nguồn khác nhau trong đó có nguồn ngân sách, nguồn

tài trợ của các tổ chức, cá nhân, lợi nhuận từ việc sử dụng quỹ… và thành lập

các quỹ thanh niên ở địa phương.

Hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu

công nghệ của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được xác định trong

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 được thông qua tại

Đại hội lần thứ XIII của Đảng là điều kiện, môi trường thuận lợi để thanh niên

thể hiện tài năng, sức trẻ, cống hiến cho đất nước. Trong điều kiện phát triển

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thanh niên ngày nay có

điều kiện phát triển tốt hơn cả về thể chất, trình độ học vấn, những kỹ năng hiện

đại so với nhiều thế hệ thanh niên lớp trước. Nhưng nền kinh tế thị trường cũng

đòi hỏi thanh niên phải không ngừng học tập, rèn luyện tay nghề, rèn luyện bản

thân để tránh khỏi những tác động tiêu cực. Điều này đòi hỏi quản lý nhà nước

về thanh niên phải được tăng cường hơn nữa. Một mặt, khơi dậy và sử dụng

hiệu quả những thế mạnh của thanh niên cho sự phát triển kinh tế của đất nước;

mặt khác, tạo điều kiện để thanh niên được phát triển toàn diện cả về thể lực,

trí lực và tâm lực đáp ứng đòi hỏi của nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự

phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

2.3.3. Hội nhập quốc tế và khu vực

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc mở cửa, hội nhập quốc tế đã trở thành

một yêu cầu khách quan khi mà các quốc gia đang tập trung đẩy mạnh phát

67

triển kinh tế, phát triển đất nước. Hiện nay, tình hình thế giới có nhiều biến

động khó đoán định, sự cạnh tranh giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, xu

hướng hình thành cục diện đa cực, đa trung tâm, đa tầng nấc ngày càng rõ nét.

Điều này tác động sâu rộng và toàn diện đến cục diện thế giới, khu vực, quan

hệ quốc tế và sự ổn định chính trị, kinh tế, xã hội của các quốc gia trên thế giới.

Xu thế này đòi hỏi nước ta bên cạnh việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế

sâu rộng và toàn diện thì cũng cần phải tính đến yếu tố “linh hoạt” và “hiệu

quả”. Văn kiện đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Chủ động và tích

cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội

nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả

vì lợi ích quốc gia – dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia” [22,

tr.164].

Xu thế hội nhập quốc tế mở ra môi trường mới với nhiều thuận lợi cho

quá trình xây dựng đất nước. Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế trong rất

nhiều lĩnh vực, từ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ đến chính trị, văn

hóa… Hội nhập quốc tế tạo ra cho công dân nói chung và thanh niên Việt Nam

nói riêng nhiều cơ hội giao lưu và phát triển, đặc biệt là cơ hội học tập, việc

làm… Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế cũng đã và đang đặt ra cho thanh niên

Việt Nam nhiều thách thức, đó là sự tương thích giữa trình độ học vấn với các

cơ hội tìm kiếm việc làm có thu nhập cao; sự dung hòa giữa văn hóa truyền

thống với lối sống hiện đại… Hội nhập quốc tế tạo ra nhiều cơ hội để phát triển

nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức mà thanh niên phải vượt qua. Đây cũng là

những vấn đề mà quản lý nhà nước cần phải quan tâm, giải quyết. Chính sách,

pháp luật về thanh niên phải đảm bảo yêu cầu phù hợp với xu thế hội nhập quốc

tế, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và những biến đổi của thanh niên Việt

Nam trong tình hình mới. Nhất là việc xây dựng chính sách, pháp luật cần thực

hiện cơ chế đảm bảo quyền tham gia của thanh niên trong công tác xây dựng

68

và thực thi các chính sách, pháp luật tác động tới họ.

Kết luận chương 2

Thanh niên là một nhóm dân số đặc thù, ở một độ tuổi nhất định, có vai

trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc cả trong hiện tại

và tương lai. Sự phát triển của thanh niên luôn là vấn đề được quan tâm hàng

đầu của Việt Nam cũng như ở nhiều quốc gia trên thế giới. Hầu hết các quốc

gia luôn dành sự quan tâm, đầu tư cho thanh niên và đề ra những chính sách,

pháp luật để bảo đảm quyền của thanh niên, thúc đẩy thanh niên phát triển cũng

như đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Trong đó, việc bảo đảm, bảo vệ

quyền được sống, được học hành, được làm việc và các quyền tự do của thanh

niên có tầm quan trọng và ý nghĩa đặc biệt.

Với những đặc trưng riêng của mình, quản lý nhà nước về thanh niên có

vai trò quan trọng trong việc thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành

chính sách, pháp luật, chiến lược, chương trình hành động để bảo đảm quyền,

nghĩa vụ hợp pháp của thanh niên và phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt

trong phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, giúp duy trì và

thúc đẩy thanh niên phát triển toàn diện theo định hướng.

Những vấn đề lý luận cơ bản của quản lý nhà nước về thanh niên đã được

nghiên cứu, phân tích trong chuyên đề này như: Khái niệm, đặc điểm, vai trò

và nội dung, chủ thể của quản lý nhà nước về thanh niên; các yếu tố ảnh hưởng

đến quản lý nhà nước về thanh niên… Kết quả nghiên cứu này, bước đầu hướng

vào làm nền tảng cho việc đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về thanh niên,

69

trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về thanh niên.

CHƯƠNG 3

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THANH NIÊN

TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về thanh niên tại

Thành phố Hồ Chí Minh

3.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh

Thành phố Hồ Chí Minh là Thành phố trực thuộc Trung ương, thuộc loại

đô thị đặc biệt của Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội gần 1.730km đường bộ, nằm

ở ngã tư quốc tế giữa các con đường hàng hải từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang

Tây, là tâm điểm của khu vực Đông Nam Á. Phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương,

phía Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai,

phía Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu, phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh

Long An và Tiền Giang. Trung tâm thành phố cách bờ biển Đông 59km đường

70

chim bay và có 12 km bờ biển. Đây là đầu mối giao thông nối liền các tỉnh

trong vùng và là cửa ngõ quốc tế. Thành phố có hệ thống cảng và sân bay lớn

nhất cả nước với tổng diện tích tự nhiên là 2.095,2 km². Thành phố được chia

thành 22 quận huyện, trong đó có 01 thành phố, 16 quận và 5 huyện gồm: Thành

phố Thủ Đức, Quận 1, Quận 3, Quận 4, Quận 5, Quận 6, Quận 7, Quận 8, Quận

10, Quận 11, Quận 12, Quận Bình Thạnh, Quận Bình Tân, Quận Gò Vấp, Quận

Phú Nhuận, Quận Tân Bình, Quận Tân Phú, Huyện Bình Chánh, Huyện Cần

Giờ, Huyện Củ Chi, Huyện Hóc Môn và Huyện Nhà Bè. Thành phố Thủ Đức

là thành phố đầu tiên và cũng là thành phố duy nhất thuộc đơn vị hành chính

thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương.

Thành phố là nơi hội tụ đa dạng các thành phần xã hội đến sinh sống, học

tập và làm việc; tổng dân số là 8.993.082 người, trong đó dân cư phân bố không

đồng đều, chủ yếu tập trung ở thành thị với 7.125.493 người, nông thôn là

1.867.589 người [71]. Thời gian gần đây, do yêu cầu giãn dân và quá trình đô

thị hóa, dân cư có xu hướng dịch chuyển từ nội thành ra ngoại thành và các

quận mới xây.

Trong quá trình phát triển và hội nhập, thành phố Hồ Chí Minh luôn là

một trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ của cả nước; là hạt nhân

của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, một trong ba vùng kinh tế trọng điểm

lớn nhất nước. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, về quy mô thành

phố chỉ chiếm 0,6% diện tích và 8,3% dân số nhưng đã đóng góp 20,2% tổng

sản phẩm quốc gia, 26,1% giá trị sản xuất công nghiệp và 44% dự án đầu

tư nước ngoài.

Thực hiện tốt các nhiệm vụ và giải pháp mà Nghị quyết 16-NQ/TW của

Bộ Chính trị về phương hướng nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh

đến năm 2020 đã đề ra cùng với việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế -

xã hội đất nước thời kỳ 2011-2020, đến năm 2020, Thành phố phải đạt được

71

mục tiêu: “Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh văn minh, hiện đại với vai trò

đô thị đặc biệt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đóng góp

ngày càng lớn với khu vực và cả nước; từng bước trở thành trung tâm lớn về

kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học – công nghệ của đất nước và khu vực

Đông Nam Á; góp phần tích cực đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp

theo hướng hiện đại vào năm 2020”. Vai trò, vị trí của thành phố đối với khu

vực và cả nước sẽ được nâng lên tầm cao mới. Đó sẽ là một thành phố có kinh

tế phát triển cao dựa trên nền tảng dịch vụ và công nghiệp có giá trị gia tăng

cao, nơi hội tụ của giới kinh doanh, thu hút các tập đoàn kinh tế trong và ngoài

nước, một trung tâm công nghiệp, tài chính và thương mại của Đông Nam Á.

3.1.2. Tình hình thanh niên tại thành phố Hồ Chí Minh

Việt Nam đang ở thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”, thanh niên chiếm tỉ lệ

lớn nhất trong cơ cấu dân số so với các thời kỳ lịch sử phát triển nhân khẩu

của đất nước. Theo số liệu mới nhất của Ủy ban Quốc gia về thanh niên Việt

Nam, hiện nay nước ta có hơn 22,1 triệu người trong độ tuổi thanh niên,

chiếm khoảng 22,5% dân số cả nước và gần 36% lực lượng lao động. Trong

đó, gần 60% thanh niên sống ở nông thôn và 98,7% người trong độ tuổi lao

động có việc làm.

Là thành phố đông dân nhất cả nước, thanh niên thành phố Hồ Chí Minh

chiếm một số lượng lớn trong tổng dân số của thành phố, đây là lực lượng quan

trọng góp phần đảm bảo tính trẻ trong cơ cấu dân số của Thành phố, tạo cảm

hứng để tái tạo sự năng động chung, góp phần vào sự phát triển bền vững của

Thành phố. Tính đến năm 2020, thanh niên thành phố Hồ Chí Minh là 2,9 triệu

thanh niên (từ 16 tuổi đến 30 tuổi), chiếm 30% tổng dân số của thành phố, trong

đó, thanh niên nông thôn chiếm khoảng 10%, thanh niên dân tộc thiểu số chiếm

khoảng 8%; lực lượng lao động thanh niên là 1,2 triệu người. Bên cạnh lực

lượng thanh niên có hộ khẩu thường trú, mỗi năm, Thành phố còn tiếp nhận

72

một lực lượng thanh niên từ các tỉnh, thành phố khác đến sinh sống, học tập,

làm việc. Năm 2019 có khoảng 187.000 người trong độ tuổi thanh niên từ các

địa phương khác đến Thành phố. Trong 10 năm qua, thanh niên Thành phố tăng

nhanh về số lượng từ 2.089 triệu người lên khoảng 2,9 triệu người [88].

Thanh niên Thành phố có sự chuyển biến tích cực về nhận thức và hành

động, về ý thức công dân và lý tưởng cách mạng; nêu cao tinh thần yêu nước,

quan tâm đến các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; không ngại khó

khăn, gian khổ, xung kích, tình nguyện vì cộng đồng; có trách nhiệm với gia

đình và xã hội; trình độ học vấn, nghề nghiệp, hiểu biết pháp luật từng bước

được nâng lên; hăng say lao động và học tập. Thanh niên công nhân lao động

không ngừng cải tiến kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh; công chức, viên chức

trẻ chủ động ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý nhà nước, cải cách hành

chính; thanh niên lực lượng vũ trang có nhận thức chính trị vững vàng, trung

thành với Đảng, với nhân dân, trình độ, kỹ thuật, nghiệp vụ ngày càng nâng

cao; trí thức trẻ tích cực nghiên cứu khoa học, ứng dụng, chuyển giao kỹ thuật,

công nghệ mới đạt hiệu quả khá tốt; doanh nhân trẻ tích cực tham gia các hoạt

động xã hội, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Thanh niên ngày

càng thể hiện rõ nét vai trò của mình trong các phong trào, các cuộc vận động

và sự phát triển của Thành phố, địa phương, đơn vị.

Tuy nhiên, những mặt trái của nền kinh tế thị trường, của hội nhập quốc

tế cũng đã tác động không nhỏ đến một phận thanh niên Thành phố. Vẫn còn

một bộ phận thanh niên chưa xác định được lý tưởng, chạy theo lối sống thực

dụng, suy thoái đạo đức, xu hướng bạo lực, bạo hành trong ứng xử, quan hệ xã

hội tăng lên; sống thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và cộng đồng, ít

quan tâm đến tình hình đất nước, mắc các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật;

trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận thanh niên chưa đáp

ứng yêu cầu phát triển của Thành phố; một bộ phận thanh niên thiếu kiến thức

73

về lịch sử, văn hóa dân tộc, ngoại ngữ, tin học, tác phong làm việc, khả năng

tư duy độc lập, kỹ năng thực hành xã hội; còn thụ động trong nắm bắt những

cơ hội để vươn lên; một số ít thanh niên bị lợi dụng, kích động, lôi kéo vào các

hành vi gây rối, vi phạm pháp luật…

3.1.3. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên tại thành phố

Hồ Chí Minh

Thực hiện Thông tư số 04/2011/TT-BNV về hướng dẫn bổ sung nhiệm

vụ, tổ chức và biên chế của Sở Nội vụ, Phòng Nội vụ thuộc Ủy ban nhân dân

cấp tỉnh, cấp huyện về công tác thanh niên, Ủy ban nhân dân Thành phố đã giao

Sở Nội vụ thành lập phòng Công tác thanh niên thuộc Sở Nội vụ làm đầu mối

phụ trách tham mưu công tác quản lý nhà nước về thanh niên của Thành phố;

các Sở, ngành, Phòng Nội vụ các quận, huyện, Ủy ban nhân dân các xã, phường,

thị trấn bố trí cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên. Đến nay,

Thành phố đã có 56/56 Sở, ngành có 01 lãnh đạo và 01 chuyên viên thuộc khối

Văn phòng hoặc Phòng Tổ chức cán bộ phụ trách làm đầu mối tham mưu cho

lãnh đạo cơ quan, đơn vị; 22/22 quận, huyện và thành phố Thủ Đức có 01 lãnh

đạo và 01 chuyên viên Phòng Nội vụ phụ trách và 319/322 xã, phường, thị trấn

có 01 chuyên viên văn phòng – thống kê phụ trách. Tổng số lãnh đạo phụ trách

công tác quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố là 80 người, chuyên

viên là 402 người [88]. Đồng thời, Ủy ban nhân dân Thành phố thành lập Hội

đồng Công tác thanh niên Thành phố trên cơ sở hoạt động kiêm nhiệm của các

thành viên là lãnh đạo của các Sở, ngành Thành phố với nòng cốt là hai cơ quan

có vai trò chính trong công tác phát triển thanh niên là Thành Đoàn và Sở Nội

vụ. Hội đồng có chức năng là cơ quan chuyên môn giúp việc trực tiếp tham

mưu, tư vấn, đề xuất đến chính quyền Thành phố ban hành các chính sách, tổ

chức thực hiện các chương trình, đề án nhằm bảo đảm cho thanh niên Thành

phố thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ trong Luật thanh niên, từ đó phát

74

triển bản thân, góp phần xây dựng và phát triển Thành phố, phát triển đất nước.

Sau khi Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 15/2014/TT-BNV ngày 31

tháng 10 năm 2014 về Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu

tổ chức của Sở Nội vụ thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương; Phòng Nội vụ thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành

phố thuộc tỉnh, bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên của Thành phố được

sắp xếp lại. Cụ thể:

- Sở Nội vụ thành lập Phòng Tổ chức phi chính phủ và công tác thanh niên

với 06 biên chế, trong đó bố trí 03 công chức chuyên trách có trách nhiệm trực

tiếp tham mưu cho lãnh đạo Sở trình Ủy ban nhân dân Thành phố các nhiệm

vụ quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn Thành phố. Từ đầu

năm 2020 đến nay, do yêu cầu của việc sắp xếp, tổ chức tinh gọn lại bộ máy

hành chính nhà nước và được sự đồng ý của Bộ Nội vụ, Ủy ban nhân dân Thành

phố đã ban hành Quyết định số 15/2020/QĐ-UBND ngày 19 tháng 6 năm 2020

về ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Sở Nội vụ Thành phố Hồ Chí

Minh, trong đó quy định nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thanh niên

được tách ra khỏi phòng Tổ chức phi chính phủ và công tác thanh niên chuyển

giao về Phòng Xây dựng chính quyền và đổi tên thành Phòng Xây dựng chính

quyền và công tác thanh niên (kèm theo 02 công chức chuyên trách nhiệm vụ

công tác thanh niên được chuyển từ Phòng Tổ chức phi chính phủ và công tác

thanh niên về Phòng Xây dựng chính quyền và công tác thanh niên).

- Đối với sở, ngành có 20 sở, ngành Thành phố thực hiện việc phân công

01 công chức thuộc Phòng Hành chính, Tổ chức cán bộ, Văn phòng Sở hoặc

Bí thư Đoàn cơ quan kiêm nhiệm làm công tác thanh niên.

- Đối với Phòng Nội vụ cấp huyện có 22/22 quận, huyện và thành phố Thủ

Đức bố trí 01 công chức thuộc Phòng Nội vụ và phân công 68 công chức thuộc

các phòng chuyên môn khác của 7/22 quận, huyện và thành phố Thủ Đức thực

75

hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên.

- Có 319/322 Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn thực hiện việc phân

công công chức Văn phòng – Thống kê phụ trách công tác thanh niên tại địa

phương.

Theo Quyết định số 37/2021/QĐ-UBND ngày 09 tháng 9 năm 2021 của

Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quy định quản lý nhà nước

về thanh niên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thì Ủy ban nhân dân Thành

phố Hồ Chí Minh thống nhất quản lý nhà nước về thanh niên trên địa bàn Thành

phố Hồ Chí Minh, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện các nội dung quản

lý nhà nước về thanh niên; các cơ quan, đơn vị có liên quan thực hiện chức

năng quản lý nhà nước về thanh niên theo phân công của Ủy ban nhân dân

Thành phố Hồ Chí Minh.

Trong đó, Sở Nội vụ là cơ quan Thường trực giúp Ủy ban nhân dân Thành

phố Hồ Chí Minh quản lý nhà nước về thanh niên, tham mưu Ủy ban nhân dân

Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện các nhiệm vụ cụ thể như: Tổ chức triển khai

thực hiện các văn bản hướng dẫn của Trung ương về thanh niên. Đồng thời chỉ

đạo, hướng dẫn nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên cho các cơ quan, đơn

vị; xây dựng Chương trình, Kế hoạch phát triển thanh niên của Thành phố trên

cơ sở bám sát nội dung hướng dẫn của Trung ương và nhiệm vụ chính trị của

Thành phố Hồ Chí Minh; rà soát, xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật

đối với thanh niên thuộc chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn Thành phố

Hồ Chí Minh; lồng ghép các mục tiêu, chỉ tiêu về phát triển thanh niên trong

xây dựng và tổ chức thực hiện Chiến lược, Chương trình, Kế hoạch phát triển

kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh. Trong đó, xác định rõ các nội

dung hoạt động, cơ chế, chính sách và điều kiện thực hiện để đạt được mục

tiêu, chỉ tiêu đề ra; chủ trì việc phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị triển khai

thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên. Chủ động phối hợp với

76

Cục Thống kê Thành phố và các cơ quan, đơn vị có liên quan xây dựng, quản

lý, khai thác dữ liệu thống kê về thanh niên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí

Minh và báo cáo Bộ Nội vụ theo quy định; phối hợp với Thành Đoàn Thành

phố Hồ Chí Minh và các cơ quan, đơn vị có liên quan tham mưu Ủy ban nhân

dân Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức gặp gỡ, đối thoại với thanh niên, tham

vấn ý kiến của thanh niên về các vấn đề có liên quan đối với thanh niên; tham

gia đầy đủ các khóa tập huấn, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ do Bộ Nội

vụ tổ chức. Đồng thời chủ trì tổ chức bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ cho

đội ngũ cán bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên của

Thành phố Hồ Chí Minh; quản lý hoạt động hợp tác quốc tế về thanh niên theo

quy định của pháp luật; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý

vi phạm theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm

quyền xử lý vi phạm trong việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với thanh

niên; khen thưởng theo thẩm quyền và trình cấp có thẩm quyền tập thể, cá nhân

có thành tích xuất sắc trong công tác quản lý nhà nước về thanh niên của Thành

phố Hồ Chí Minh; chủ trì sơ kết, tổng kết, báo cáo Bộ Nội vụ, Chính phủ tình

hình thực hiện các quy định của pháp luật đối với thanh niên.

- Các Sở, ban, ngành Thành phố: Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và thẩm

quyền quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực; ngoài chức năng, nhiệm vụ đã

được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phân công tại Chương trình,

Kế hoạch phát triển thanh niên Thành phố theo từng giai đoạn.

3.2. Thực tiễn quản lý Nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí

Minh

3.2.1. Xây dựng chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện chính sách,

pháp luật về thanh niên

Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên, Thành phố Hồ Chí Minh đã

77

xây dựng và ban hành chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về thanh niên

và quản lý nhà nước về thanh niên. Các chính sách về thanh niên được ban hành

cụ thể như: Chính sách đối với thanh niên dân tộc thiểu số (Chính sách đào tạo

nghề tạo việc làm cho thanh niên người dân tộc thiểu số ban hành kèm theo

Quyết định số 3819/QĐ-UBND ngày 26 tháng 7 năm 2016 của Ủy ban nhân

dân Thành phố về phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề, tạo việc làm cho người dân

tộc thiểu số trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2016-2020; chính

sách đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng…); chính

sách đối với thanh niên xung phong (chế độ tiền lương, trợ cấp; cấp trang phục

theo niên hạn 02 năm một lần); chính sách đối với thanh niên khuyết tật, thanh

niên nhiễm HIV/AIDS, thanh niên sau cai nghiên ma túy, sau cải tạo (Ủy ban

nhân dân Thành phố thực hiện Chương trình “Mục tiêu 03 giảm” và triển khai

thực hiện đề án “Tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người

sau cai nghiện”). Ngoài ra, Thành phố cũng lồng ghép chính sách phát triển

thanh niên khi xây dựng chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế -

xã hội của ngành, lĩnh vực hàng năm và từng giai đoạn.

Thành phố đã ban hành và triển khai thực hiện nhiều văn bản nhằm cụ thể

hóa Luật thanh niên như: Chỉ thị só 29/2014/CT-UBND ngày 19 tháng 12 năm

2014 về việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác thanh

niên trên địa bàn thành phố; Quy chế số 5090/QC-UBND-TĐTN ngày 28 tháng

9 năm 2016 của Ủy ban nhân dân thành phố và Ban Chấp hành Thành Đoàn

TNCS Hồ Chí Minh về phối hợp công tác của Ủy ban nhân dân thành phố và

Ban Chấp hành Thành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; Quyết định số 37/2021/QĐ-

UBND ngày 09 tháng 9 năm 2021 ban hành Quy định quản lý nhà nước về

thanh niên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Trong đó, xác định nội dung

quản lý nhà nước về thanh niên gồm: Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật

đối với thanh niên và các văn bản hướng dẫn của các cấp có thẩm quyền về

78

thanh niên tại địa phương; xây dựng chương trình, Kế hoạch phát triển thanh

niên ở địa phương. Lồng ghép các mục tiêu, chỉ tiêu về phát triển thanh niên

trong xây dựng và tổ chức thực hiện Chương trình, Kế hoạch phát triển kinh tế

- xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh; xây dựng quy hoạch về đầu tư phát triển

các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao, vui chơi, giải trí cho thanh

thiếu niên phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của địa phương, trình Hội đồng

nhân dân cùng cấp phê duyệt để tổ chức thực hiện; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng

về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức phụ trách công tác

quản lý nhà nước về thanh niên tại địa phương; xây dựng dữ liệu thống kê về

thanh niên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; thực hiện hoạt động hợp tác

quốc tế thanh niên theo quy định; tổ chức gặp gỡ, đối thoại với thanh niên để

nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của thanh niên; lắng nghe ý kiến, kiến nghị, đề

xuất của thanh niên để kịp thời chỉ đạo giải quyết, xử lý những khó khăn, bất

cập, vướng mắc trong công tác thanh niên; tham vấn ý kiến của thanh niên về

các vấn đề liên quan cần giải quyết đối với thanh niên; thanh tra, kiểm tra, xử

lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến thực hiện chính sách,

pháp luật về thanh niên tại địa phương; báo cáo kết quả thực hiện chính sách,

pháp luật đối với thanh niên và việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về

thanh niên; chủ trì sơ kết, tổng kết công tác quản lý nhà nước về thanh niên tại

địa phương. Quyết định số 37/2021/QĐ-UBND cũng quy định rõ trách nhiệm

của các cơ quan, đơn vị, tổ chức có liên quan trong việc thực hiện quản lý nhà

nước về thanh niên của Thành phố.

Ngoài ra, các Sở, ban ngành Thành phố và Ủy ban nhân dân quận – huyện

và thành phố Thủ Đức căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao và các văn

bản hướng dẫn, triển khai nhiệm vụ từ các Bộ - ngành Trung ương xây dựng

chương trình, kế hoạch phát triển thanh niên theo ngành, lĩnh vực, đơn vị quản

lý hành chính phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của thành phố nhằm triển

79

khai có hiệu quả Luật thanh niên.

Để chính sách, pháp luật về thanh niên đi vào cuộc sống, Thành ủy, Ủy

ban nhân dân Thành phố tổ chức các buổi hội nghị tuyên truyền, phổ biến chính

sách, pháp luật về thanh niên đến các ngành, các cấp trên địa bàn Thành phố để

triển khai đồng bộ, đa dạng và thường xuyên, đảm bảo việc tiếp cận đầy đủ các

chính sách, pháp luật của Nhà nước đến các đối tượng thanh niên khác nhau

đang sinh sống, học tập và làm việc tại Thành phố.

Trong những năm qua, công tác tuyên truyền, phổ biến Luật thanh niên

đến các cán bộ, công chức, thanh niên, người dân của Thành phố được thực

hiện đầy đủ, thường xuyên và đem lại hiệu quả tích cực. Thành phố đã trực tiếp

tổ chức nhiều buổi tuyên truyền, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức sinh

động, trực quan như các chuyên mục, chuyên trang pháp luật trên hệ thống báo

chí, đài phát thanh, đài truyền hình thành phố, trực tiếp tư vấn pháp luật tại các

trường học, khu nhà trọ, khu lưu trú thanh niên công nhân, miễn phí phát tờ rơi,

áp phích, băng rôn, panel tuyên truyền… Mỗi năm từ một đến hai lần, Thành

phố định kỳ tổ chức Hội nghị quán triệt Luật thanh niên, tập huấn nghiệp vụ

công tác quản lý nhà nước về thanh niên cho toàn bộ đội ngũ cán bộ, công chức

trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện công tác thanh niên và quản lý nhà nước về

công tác thanh niên trên địa bàn Thành phố.

Việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên

đã đem lại những kết quả nhất định thể hiện trên một số lĩnh vực cụ thể:

- Trong lĩnh vực học tập của thanh niên

Chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền và nghĩa vụ của thanh niên

trong học tập đã được Thành phố cụ thể hóa thành các Đề án, chương trình, kế

hoạch hành động và triển khai tổ chức thực hiện. Thanh niên Thành phố được

tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận với học tập và bình đẳng về cơ hội học tập. Đối

với giáo dục phổ thông, thanh niên đang theo học tại các cơ sở giáo dục luôn

80

được quan tâm và tạo điều kiện trong học tập và rèn luyện. Thanh niên từ đủ

16 tuổi đến dưới 18 tuổi được phân luồng theo học tại các trường Trung học

phổ thông trên địa bàn thành phố, số còn lại ngoài chỉ tiêu vào các trường Trung

học phổ thông công lập được sắp xếp theo học tại mạng lưới các trường Trung

học phổ thông ngoài công lập và các Trung tâm Giáo dục thường xuyên. Từ

năm 2011 đến năm 2020, Thành phố hoàn thành chỉ tiêu mỗi năm đạt 80%

thanh niên Thành phố có trình độ học vấn trung học phổ thông và tương đương.

Đối với đào tạo và dạy nghề, thanh niên tốt nghiệp trung học cơ sở không

tiếp tục theo học bậc trung học phổ thông được sắp xếp vào học tại các Trường

Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng nghề, trung cấp nghề có đào tạo

bậc Trung cấp chuyên nghiệp hệ tốt nghiệp Trung học cơ sở (từ 16 tuổi đến

dưới 18 tuổi). Đối với học sinh tốt nghiệp Trung học cơ sở không tiếp tục học

Trung học phổ thông mà ưu tiên lựa chọn học nghề hoặc học bậc trung cấp

chuyên nghiệp tại các trường trung cấp, cao đẳng, ngoài chế độ miễn, giảm học

phí mức từ 50% trở lên tùy từng đối tượng còn được ưu tiên về chế độ học bổng

khuyến khích học tập. Các cơ sở giáo dục dành mức kinh phí tương đương 8%

tổng thu học phí để thực hiện chế độ học bổng, khuyến khích học tập.

Đối với phổ cập giáo dục, với nhóm thanh niên trong diện phổ cập giáo

dục, ngành giáo dục luôn quan tâm và phối hợp với các ban, ngành và địa

phương trên địa bàn thành phố để thực hiện. Nhiều trường trung cấp chuyên

nghiệp, dạy nghề đã tổ chức lấy ý kiến phản hồi từ các doanh nghiệp qua việc

tiếp nhận sinh viên, học sinh đang làm việc tại doanh nghiệp để đổi mới mục

tiêu, nội dung và chương trình đào tạo; đồng thời, tăng cường phần thực hành,

thực tập lên 50-75% tổng thời gian theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo

nhằm nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên khi ra trường có

đầy đủ kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cần thiết đáp ứng được các yêu cầu

của doanh nghiệp và xã hội nói chung; mở rộng liên kết đào tạo với các trường

81

đại học, cao đẳng trong nước để tạo điều kiện cho học sinh được học liên thông

lên bậc cao hơn như: Trường Cao đẳng công nghệ Thủ Đức liên kết với Trường

Đại học Bình Dương, Trường trung cấp Ánh Sáng liên kết với Trường trung

cấp Đắk Lắk, Trường Trung cấp Âu Việt liên kết với Trường Cao đẳng Y tế

Trà Vinh và Trường Cao đẳng Y tế Kiên Giang…

Các trường chuyên nghiệp phối hợp với các trung tâm giáo dục thường

xuyên, trung tâm kỹ thuật hướng nghiệp, các trường Trung học cơ sở và trường

Trung học phổ thông, 24 phòng giáo dục và đào tạo các quận, huyện và các

báo, đài tổ chức các buổi tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trong việc định

hướng nghề nghiệp; đưa học sinh Trung học cơ sở và trường Trung học phổ

thông đến trường chuyên nghiệp để tham quan, tìm hiểu ngành nghề; tổ chức

ngày hội tư vấn hướng nghiệp và việc làm với sự phối hợp của các doanh

nghiệp, đoàn thể, chính quyền địa phương như Trường Trung cấp kỹ thuật và

nghiệp vụ Sài Gòn, Trường Cao đẳng Công nghệ Thủ Đức…

- Trong lĩnh vực khoa học, công nghệ

Thực hiện các nội dung trong Luật thanh niên, Thành phố quan tâm, chỉ

đạo các sở, ban ngành phối hợp chặt chẽ với tổ chức Đoàn thành niên thường

xuyên tổ chức các hội thi, cuộc thi nghiên cứu, sáng tạo, khoa học trẻ, điển hình

như giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka. Giải thưởng này là hoạt

động học thuật bổ ích cho sinh viên Thành phố trau dồi năng lực nghiên cứu

khoa học, phát huy sáng kiến. Từ năm 2013 đến nay, đã có 2.266/5.486 đề tài

nghiên cứu khoa học, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, ứng dụng khoa học kỹ thuật

công nghệ, giải pháp hiến kế được ứng dụng vào thực tiễn, trong đó có 184 đề

tài nghiên cứu khoa học đạt Giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka

cấp thành phố và tham gia cấp Bộ đạt giải thưởng cao. Bên cạnh đó còn có

phong trào “Tuổi trẻ sáng tạo” với 02 cuộc thi “Ý tưởng sáng tạo trẻ” và “Sáng

82

tạo thanh thiếu nhi thành phố” được duy trì hàng năm nhằm tạo điều kiện, môi

trường phát huy nhiều sáng kiến thực hành tiết kiệm được áp dụng trong thực

tế; Hội thi tin học trẻ thành phố Hồ Chí Minh.

Hàng năm, Thành phố dành một khoản kinh phí từ ngân sách để động

viên, khuyến khích thanh niên tham gia nghiên cứu, ứng dụng và phát triển các

sản phẩm sáng tạo vào cuộc sống như chương trình Vườn ươm Khoa học Công

nghệ trẻ, Quỹ Bảo trợ Tài năng trẻ. Ngoài ra, Thành phố ban hành hoặc lồng

ghép các cơ chế, chính sách để tạo điều kiện cho thanh niên tham gia hoạt động

khoa học, nghiên cứu khoa học và tạo môi trường để thanh niên cập nhật thông

tin khoa học kỹ thuật.

- Trong lĩnh vực lao động, việc làm của thanh niên

Lao động, việc làm của thanh niên là vấn đề luôn được Nhà nước quan

tâm và tạo điều kiện. Điều 10 Luật thanh niên quy định quyền và nghĩa vụ của

thanh niên trong lao động; Điều 18 quy định trách nhiệm của nhà nước đối với

thanh niên trong lao động. Luật việc làm đã dành 01 điều (Điều 21) quy định

hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên. Đồng thời, Chính phủ đã ban hành Nghị

định số 61/2015/NĐ-CP ngày 9 tháng 7 năm 2015 quy định về chính sách hỗ

trợ tạo việc làm và Quỹ Quốc gia về việc làm, trong đó, dành 01 chương với 6

điều (Chương IV) quy định về hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên; hỗ trợ thanh

niên lập nghiệp, khởi nghiệp.

Xác định thanh niên là lực lượng lao động quan trọng để thúc đẩy sự phát

triển kinh tế - xã hội, trên cơ sở chính sách, pháp luật của Nhà nước, Thành phố

đã có nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng lao động và giải quyết

việc làm cho thanh niên. Thành phố thường xuyên thực hiện khảo sát tình hình

sử dụng lao động và nhu cầu tuyển dụng lao động tại doanh nghiệp, nhu cầu

học nghề và việc làm của sinh viên, học sinh, người lao động; thực hiện phân

tích thị trường lao động định kỳ hàng tháng, hàng quý, hàng năm, dự báo nhu

83

cầu nhân lực thành phố ngắn hạn (dưới 01 năm), trung hạn (3-5 năm) và dài

hạn giai đoạn 2011-2015, 2015-2020 đến năm 2025 góp phần thực hiện hiệu

quả “Chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phục vụ công nghiệp

hóa, hiện đại hóa Thành phố”, “Quy hoạch phát triển nhân lực Thành phố Hồ

Chí Minh giai đoạn 2011-2020” và kế hoạch chương trình đào tạo, chương trình

làm việc của Thành phố hàng năm và giai đoạn 2020-2025.

Từ kết quả phân tích, dự báo tình hình lao động, việc làm hàng năm, Thành

phố đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, các trường Đại học, Cao đẳng, trung học

chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề và giải quyết việc làm tổ chức hoạt động

hướng nghiệp, tuyển sinh gắn kết đào tạo theo nhu cầu xã hội. Trung bình mỗi

năm thực hiện tư vấn hướng nghiệp cho trên 200.000 lượt học sinh, sinh viên,

người lao động, trong đó 100% trong độ tuổi thanh niên [87]. Mạng lưới các cơ

sở giáo dục nghề nghiệp của thành phố tiếp tục được hoàn thiện và phát triển

với nhiều hình thức sở hữu và loại hình đào tạo, từng bước đáp ứng nhu cầu

học nghề của người lao động trên địa bàn thành phố.

- Giải quyết việc làm

Từ năm 2006-2016, Thành phố đã giải quyết việc làm cho 3.129.083 lao

động, trong đó có khoảng 65%-70% lao động trong độ tuổi thanh niên được tư

vấn, giới thiệu việc làm trong các thành phần kinh tế tương ứng với 2,1 triệu

người. Bên cạnh số lao động được tư vấn, giới thiệu việc làm trong nước thông

qua các thành phần kinh tế, thành phố luôn quan tâm đến hoạt động đưa người

lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, tạo điều kiện để các đối tượng lao

động – trong đó có đối tượng thanh niên – tiếp cận nhanh chóng các thông tin,

chương trình đi làm việc ở các nước thông qua các cơ quan nhà nước, tổ chức

đoàn thể các cấp, các phương tiện thông tin đại chúng. Số lao động của thành

phố được giải quyết việc làm thông qua hoạt động đưa người lao động đi làm

việc ở nước ngoài là 7.042 người, đặc thù của thị trường lao động một số nước

84

ưu tiên tiếp nhận lao động có độ tuổi từ 18 đến 29 tuổi, do đó lao động thanh

niên đi làm việc ở nước ngoài chiếm khoảng 80% tổng số lao động; có 100%

lao động được tham gia khóa học bồi dưỡng kiến thức cần thiết và giáo dục

định hướng trước khi đi làm việc ở nước ngoài.

- An ninh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc

Giáo dục bồi dưỡng kiến thức an ninh, quốc phòng, truyền thống yêu

nước, ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho thanh niên luôn được Thành phố

quan tâm thực hiện. Thành phố thường xuyên triển khai các đợt sinh hoạt

chuyên đề chính trị, thông tin tình hình chính trị định kỳ giúp cho thanh niên

và người dân nâng cao nhận thức trước những âm mưu, thủ đoạn của các thế

lực thù địch; thường xuyên nắm bắt dư luận xã hội trong đoàn viên, thanh niên;

đồng thời, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng tham gia giữ vững ổn

định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thành phố. Hàng năm, Thành

phố ban hành các văn bản, hướng dẫn về công tác tuyển chọn và gọi công dân

nhập ngũ có thời hạn trong Công an nhân dân. Hội đồng Nghĩa vụ quân sự

Thành phố thường xuyên quân tâm, chỉ đạo thực hiện tốt công tác tuyên truyền

và vận động giáo dục thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự, nhất là công dân và gia

đình có con em trong độ tuổi sẵn sàng nhập ngũ; tổ chức đưa thanh niên nhập

ngũ tham quan giáo dục truyền thống ở các đơn vị nhận quân, tổ chức về nguồn

thăm và viếng bia tưởng niệm, căn cứ cách mạng.

Bên cạnh đó, Thành phố thực hiện chính sách hậu phương quân đội với

nhiều chương trình công tác xã hội như: xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa,

xây dựng nhà tình nghĩa nhà tình thương... với số tiền hỗ trợ là 102,138 tỷ đồng,

bình quân mỗi thanh niên lên đường nhập ngũ được nhận một phần quà trị giá

khoảng 2,5 triệu đồng. Với thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, thực

hiện đào tạo nghề cho bộ đội xuất ngũ; hỗ trợ giới thiệu việc làm cho 22.673

thanh niên, hỗ trợ vốn cho 4.858 thanh niên với tổng số vốn vay trên 21 tỷ đồng.

85

- Hoạt động văn hóa, nghệ thuật, vui chơi, giải trí

Thành phố tổ chức nhiều các loại hình hoạt động văn hóa, văn nghệ, tạo

điều kiện cho thanh niên có sân chơi lành mạnh, bổ ích. Các bảo tàng thường

xuyên duy trì việc tổ chức các hoạt động giáo dục, giao lưu phục vụ cho các

đối tượng là học sinh, sinh viên và đoàn viên thanh niên như: giao lưu đờn ca

tài tử, Câu lạc bộ Em yêu lịch sử; tổ chức các chương trình giao lưu với nhiều

chủ đề gắn với thanh, thiếu nhi, với quê hương, đất nước và tình thương yêu

trong gia đình; duy trì các Hội thi vẽ tranh hàng năm trong thanh niên, học sinh

với chủ đề “Nét vẽ xanh”; phối hợp với các trường đại học, cao đẳng, phổ thông

tổ chức phong trào “Xây dựng trường học thân thiện”, “Hành trình đến với bảo

tàng”, “chương trình “Giờ sử học tại Bảo tàng”; tổ chức mô hình thi đua “Công

tác tuyên truyền giáo dục về Biển đảo” cho học sinh, sinh viên và đoàn viên,

thanh niên. Các nhà hát Giao hưởng – Nhạc, Vũ kịch tiếp tục xây dựng các

chương trình định kỳ và chương trình phục vụ cho giới sinh viên, học sinh

Thành phố Hồ Chí Minh được tổ chức vào ngày 29 hàng tháng tại Nhà hát

Thành phố.

Bên cạnh đó, Thành ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố tạo điều kiện về kinh

phí, cơ sở vật chất để Tổ chức Đoàn thanh niên của Thành phố và các đơn vị

văn hóa trực thuộc Thành Đoàn thường xuyên và định kỳ tổ chức các buổi giao

lưu văn hóa, văn nghệ, các buổi sinh hoạt, hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh

trong thanh niên như: chương trình “Họp mặt sinh viên xa nhà vui tết”; tổ chức

cuộc thi “hát về thời hoa đỏ” dành cho các bạn trẻ yêu tích dòng nhạc truyền

thống cách mạng; các buổi sinh hoạt dã ngoại cho thanh thiếu nhi thành phố…;

tiếp tục thực hiện Đề án xây dựng Nhà Văn hóa Thanh niên, Đề án thực hiện

giai đoạn 2 Trung tâm sinh hoạt dã ngoại thanh thiếu nhi thành phố.

- Lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, y tế

Thành phố thực hiện nhiều hoạt động chăm sóc sức khỏe cho thanh niên

86

như: tổ chức truyền thông (phát sóng trên đài phát thanh, đài truyền hình,

Website, Trung tâm Truyền thông và Giáo dục sức khỏe, Trung tâm Dinh

dưỡng, Trung tâm sức khỏe sinh sản…), giáo dục sức khỏe cho thanh niên về

các vấn đề sức khỏe sinh sản vị thành niên và thanh niên, dinh dưỡng, vận động

hợp lý, an toàn vệ sinh thực phẩm và các bệnh lây qua đường tình dục HIV-

AIDS, dịch bệnh Covid-19; tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề bảo vệ sức

khỏe và dinh dưỡng cho các đối tượng thanh niên ở các trường đại học, cao

đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, khu công nghiệp… kết hợp các hoạt động của

nhà văn hóa sinh viên, cân đối với các hoạt động sức khỏe vị thành niên khác.

Trên cơ sở những hướng dẫn về công tác phát triển thanh niên Thành phố

giai đoạn 2011-2020, Ủy ban nhân dân Thành phố xây dựng kế hoạch triển khai

thực hiện lồng ghép các hoạt động vào “Chương trình Chiến lược quốc gia về

bình đẳng giới trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011-2020” theo

từng giai đoạn và triển khai các hoạt động đảm bảo gắn kết chặt chẽ giữa mục

tiêu bình đẳng giới với kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của ngành,

lĩnh vực. Đặc biệt, Thành phố dành nguồn lực để chăm lo các các thanh niên

thuộc nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội. Từ năm 2017-2020, tổng

số người khuyết tật được tập huấn kỹ năng sống là trên 10.000 người, trong đó

trên 2.500 thanh niên khuyết tật. Số thanh niên khuyết tật được tạo điều kiện

tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí, hòa nhập cộng đồng là trên 5.800 lượt

người, đạt tỷ lệ 100% [88].

- Lĩnh vực thể dục – thể thao

Thành phố quan tâm, đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở hoạt động thể

dục – thể thao, thu hút thanh niên và người dân đến tham gia tâp luyện; kêu gọi

đầu tư để phát triển thêm các môn thể thao phong trào, các môn thể thao giải

trí. Đặc biệt, công tác phối hợp liên tịch giữa ngành thể thao và ngành giáo dục

đào tạo được triển khai đồng bộ từ thành phố đến quận, huyện. Thành phố thực

87

hiện Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-

2030 với Chương trình phát triển thể lực, tầm vóc bằng giải pháp tăng cường

giáo dục thể chất đối với học sinh từ 03 tuổi đến 18 tuổi. Kết quả, 100% số

trường phổ thông các cấp thực hiện đầy đủ chương trình giáo dục thể chất chính

khóa; 90% số trường tổ chức và tham dự Hội khỏe Phù Đổng học sinh từ cấp

cơ sở trường học đến cấp quận, huyện và thành phố; 75% số trường tổ chức các

lớp ngoại khóa thể dục, thể thao trong nhà trường và tổ chức các giải thi đấu

thể thao ngoại khóa; 50% học sinh được học bơi lội, đặc biệt là bậc tiểu học

nhằm tiến tới việc phổ cập bơi lội; 95% học sinh đạt tiêu chuẩn đánh giá xếp

loại thể lực theo Quyết định số 53/2008/QĐ-BGDĐT ngày 18 tháng 9 năm

2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo; 75% số trường học phổ thông có câu lạc bộ

thể dục, thể thao; có hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động thể dục, thể

thao; có đủ giáo viên và hướng dẫn viên thể dục thực hiện tốt hoạt động thể

thao ngoại khóa; 100% các trường phổ thông các cấp tổ chức và tham dự Hội

khỏe Phù Đổng học sinh từ cấp cơ sở trường học đến quận, huyện và thành phố [88].

Hàng năm, Thành phố tổ chức giải vô địch học sinh thành phố để duy trì

phong trào chung và phát hiện, tuyển chọn năng khiếu cho thể thao thành tích

cao của thành phố. Đồng thời, phối hợp với Thành đoàn và Hội thể thao Đại

học và chuyên nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Giải thể thao vô địch

thể thao sinh viên thành phố với 14 môn thể thao, góp phần nâng cao chất lượng

hoạt động thể chất trong lực lượng sinh viên thành phố.

- Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình

Thành phố tổ chức thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 21 tháng 2 năm

2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về xây dựng gia đình thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến

năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030; Luật hôn nhân gia đình; Luật trẻ em,

Luật bình đẳng giới; Luật phòng, chống bạo lực gia đình; Pháp lệnh dân số cho

88

các đối tượng là thanh niên nhằm nâng cao ý thức của thanh niên trong hôn

nhân và xây dựng gia đình trẻ hạnh phúc. Đồng thời, Thành phố quan tâm chỉ

đạo và thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt, tư vấn kiến thức tiền hôn nhân

cho các thanh niên chuẩn bị lập gia đình; tư vấn tham gia khám sức khỏe tiền

hôn nhân cho các cặp vợ chồng trẻ; tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật hôn

nhân gia đình, Luật phòng, chống bạo lực gia đình tại các khu nhà trọ tập trung

đông thanh niên là công nhân, sinh viên và tại các khu chế xuất, khu công

nghiệp, khu dân cư trên địa bàn thành phố. Bên cạnh đó, Thành phố cũng tổ

chức vận động thực hiện văn minh, lành mạnh, tiết kiệm trong việc cưới; hàng

năm, phối hợp với Thành Đoàn tổ chức “Lễ cưới tập thể” nhằm chăm lo đời

sống tinh thần, vật chất cho thanh niên là công nhân, người lao động trẻ có hoàn

cảnh khó khăn.

- Tham gia quản lý nhà nước và xã hội

Để thanh niên có cơ hội được tham gia nhiều hơn vào việc quản lý nhà

nước và xã hội, Thành phố đã quan tâm, tạo điều kiện và khuyến khích thanh

niên tham gia đóng góp ý kiến, phát huy tinh thần chủ động xung kích, sáng tạo

vào các vấn đề kinh tế - xã hội. Đồng thời, thông qua các buổi giao lưu, đối

thoại hàng năm của lãnh đạo Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố, Ủy ban

nhân dân các quận, huyện với thanh niên để lắng nghe những trăn trở, bức xúc

của thanh niên và những ý kiến góp ý tích cực, phát huy vai trò của thanh niên

trong việc giám sát các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức nhà nước trong

việc điều hành, quản lý và xây dựng đất nước. Từ năm 2012 đến nay, Thành

phố có 24/24 quận, huyện tổ chức định kỳ hàng năm các buổi giao lưu, đối

thoại với thanh niên với sự tham gia của các cấp ủy Đảng và lãnh đạo Ủy ban

nhân dân. Thành phố cũng có những chính sách để vận động, thu hút tài năng

trẻ, sinh viên tốt nghiệp loại khá, giỏi từ các trường cao đẳng, đại học trên địa

bàn Thành phố vào công tác tại các cơ quan nhà nước để đóng góp trực tiếp

89

vào công tác quản lý, điều hành bộ máy nhà nước như: Chương trình tạo nguồn

quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ trẻ; chương trình tạo

nguồn quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý trẻ tuổi; chương trình đào tạo thạc

sĩ, tiến sĩ; chương trình tạo nguồn quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất thân

từ công nhân [87].

3.2.2. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch

phát triển thanh niên

Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên, Thành phố đã ban hành các

chương trình, kế hoạch phát triển thanh niên Thành phố. Cụ thể như: Chương

trình phát triển thanh niên Thành phố giai đoạn 2020-2021 (ban hành kèm theo

Quyết định số 6028/QĐ-UBND ngày 27 tháng 11 năm 2012 của Ủy ban nhân

dân Thành phố Hồ Chí Minh. Chương trình cụ thể hóa Chiến lược phát triển

thanh niên Việt Nam giai đoạn 2011-2020 (ban hành kèm theo Quyết định số

2472/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ). Trong

đó đề ra mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể và các giải pháp phù hợp với đặc điểm

kinh tế - xã hội và tình hình phát triển của thanh niên Thành phố. Ngoài ra,

Thành phố ban hành Kế hoạch thực hiện giai đoạn I (2011-2015) và giai đoạn

II (2016-2020) của Chương trình phát triển thanh niên Thành phố giai đoạn

2011-2020. Các Sơ, ban ngành và Ủy ban nhân dân quận, huyện căn cứ vào

chức năng, nhiệm vụ của mình và các văn bản hướng dẫn, triển khai nhiệm vụ

từ các Bộ, ngành Trung ương xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển thanh

niên phù hợp với từng địa phương.

Xác định nhiệm vụ, công tác phát triển thanh niên là trọng tâm xây dựng

đất nước và Thành phố trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết

định số 1331/QĐ-TTg ngày 24 tháng 7 năm 2021 phê duyệt Chiến lược phát

90

triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030, Ủy ban nhân dân Thành phố

đã ban hành Quyết định số 3685/QĐ-UBND ngày 28 tháng 10 năm 2021 phê

duyệt Chương trình phát triển thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn

2021-2030.

Mục tiêu tổng quát của Chiến lược là: “Xây dựng thế hệ thanh niên Việt

Nam phát triển toàn diện, giàu lòng yêu nước, có đạo đức cách mạng, ý thức

công dân và lý tưởng xã hội chủ nghĩa; có trình độ học vấn, nghề nghiệp, việc

làm; có văn hóa, sức khỏe, kỹ năng sống và ý chí vươn lên; xumg kích, sáng

tạo làm chủ khoa học, công nghệ tiên tiến; hình thành nguồn nhân lực trẻ có

chất lượng cao đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa và hội nhập quốc tế. Phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của thanh niên,

tăng cường công tác thu hút nguồn lực thanh niên là người Việt Nam ở nước

ngoài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiến tới hình thành thế hệ

thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế tục truyền thống và sự nghiệp cách mạng

của Đảng, của dân tộc, của quê hương; phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước

mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Đồng thời, ngày 13 tháng 01 năm 2022, Ủy ban nhân dân Thành phố cũng

ban hành Kế hoạch số 135/KH-UBND về thực hiện công tác quản lý nhà nước

về thanh niên năm 2022 để triển khai thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên

Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và Chương trình phát triển thanh niên Thành

phố giai đoạn 2021-2030, trong đó tập trung vào các nội dung cụ thể như: Tổ

chức triển khai thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam và Chương

trình phát triển thanh niên Thành phố giai đoạn 2021-2030; triển khai thực hiện

Luật thanh niên năm 2020 và các Nghị định có liên quan; tổ chức triển khai

thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về thanh niên và công tác thanh niên,

tập huấn nghiệp vụ quản lý nhà nước về công tác thanh niên; thực hiện chế độ,

chính sách đối với thanh niên; triển khai thực hiện Bộ chỉ tiêu thống kê về thanh

91

niên Việt Nam theo quy định tại Thông tư số 11/2018/TT-BNV ngày 14 tháng

9 năm 2018 và Thông tư số 07/2020/TT-BNV ngày 15 tháng 12 năm 2020 của

Bộ Nội vụ quy định về chế độ báo cáo thống kê về thanh niên Việt Nam; triển

khai các hoạt động hợp tác quốc tế về thanh niên theo chức năng, nhiệm vụ của

bộ, ngành và địa phương; công tác kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm

vụ quản lý nhà nước về thanh niên, Chương trình phát triển thanh niên Thành

phố giai đoạn 2021-2030.

Công tác tuyên truyền, phổ biến Chiến lược phát triển thanh niên đến các

cán bộ, công chức, thanh niên và người dân tại Thành phố được thực hiện đầy

đủ, thường xuyên và đi vào thực chất. Trên cơ sở hướng dẫn hàng năm của Bộ

Nội vụ về nhiệm vụ trọng tâm trong quản lý nhà nước về thanh niên; để bảo

đảm quyền, nghĩa vụ của thanh niên cũng như triển khai các chương trình cụ

thể trong Chiến lược, Chương trình phát triển thanh niên theo từng giai đoạn,

Thành phố đã ban hành nhiều văn bản mang tính định hướng, hướng dẫn, tổ

chức triển khai các nhiệm vụ cụ thể phù hợp với tình hình phát triển của Thành

phố và thanh niên Thành phố như: Công văn số 195/SNV-CTTN ngày 22 tháng

2 năm 2013 của Sở Nội vụ hướng dẫn về thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm

trong công tác quản lý nhà nước về thanh niên năm 2013; Công văn số 891-

CV-TU ngày 27 tháng 01 năm 2014 của Thành ủy về lãnh đạo thực hiện tốt

“Năm thanh niên tình nguyện” 2014; Công văn số 948-CV/TU ngày 05 tháng

5 năm 2014 của Thành ủy về triển khai thực hiện Kết luận số 80-KL/TW ngày

25 tháng 7 năm 2013 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số

25-NQ/TW; Công văn số 190/SNV-CTTN ngày 25 tháng 02 năm 2014 của Sở

Nội vụ về hướng dẫn thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh niên đối

với các Sở, ban ngành thành phố, Ủy ban nhân dân quyện, huyện, phường, xã,

thị trấn; Công văn số 2184/UBND-VX ngày 20 tháng 5 năm 2014 của Ủy ban

nhân dân Thành phố về triển khai thực hiện Kết luận số 80-KL/TW ngày 25

92

tháng 12 năm 2013 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 25-

NQ/TW ngày 25 tháng 7 năm 2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa

X; Kế hoạch số 2660/KH-UBND ngày 31 tháng 5 năm 2016 về tiếp tục triển

khai thực hiện Kế hoạch số 45/KH-UBND ngày 07 tháng 01 năm 2010 của Ủy

ban nhân dân Thành phố về thực hiện Chương trình hành động số 42-CTr/TU

ngày 20 tháng 10 năm 2008 của Thành ủy thực hiện Nghị quyết số 25-NQ-TW

ngày 25 tháng 7 năm 2008 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh

niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Quy chế số 5090/QC-

UBND-TĐTN ngày 28 tháng 9 năm 2016 của Ủy ban nhân dân thành phố và

Ban Chấp hành Thành đoàn TNCS Hồ Chí Minh về phối hợp công tác của Ủy

ban nhân dân thành phố và Ban Chấp hành Thành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh…

Các sở, ngành có lĩnh vực chuyên môn liên quan trực tiếp đến công tác

thanh niên như: Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Văn hóa và Thể thao, Sở Y tế, Sở

Lao động – Thương binh và Xã hội… và 22/22 Ủy ban nhân dân quận, huyện

và thành phố Thủ Đức đã ban hành Chương trình phát triển thanh niên của

ngành và địa phương giai đoạn 2011-2020; 90% sở, ban ngành thành phố, Ủy

ban nhân dân các quận, huyện hàng năm đều ban hành Kế hoạch công tác quản

lý nhà nước về thanh niên theo định hướng của Kế hoạch công tác quản lý nhà

nước về thanh niên của thành phố. Bên cạnh đó, các sở, ban ngành ký kết các

kế hoạch liên tịch phối hợp hoạt động với Thành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh để

triển khai sâu, rộng về chính sách, pháp luật phát triển thanh niên ở những lĩnh

vực mà ngành phụ trách cũng như những chính sách riêng biệt theo từng lĩnh

vực trong công tác thanh niên được các Bộ, ngành hướng dẫn thực hiện.

3.2.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà

nước về thanh niên

Thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước

93

về thanh niên và công tác thanh niên đối với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành

phố trực thuộc Trung ương và Thông tư số 04/2011/TT-BNV về hướng dẫn

bổ sung nhiệm vụ, tổ chức và biên chế của Sở Nội vụ, Phòng Nội vụ thuộc

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện về công tác thanh niên, Thành phố đã

giao Sở Nội vụ Thành phố thành lập Phòng Công tác thanh niên thuộc Sở Nội

vụ; sắp xếp mỗi quận, huyện có 01 lãnh đạo và 01 chuyên viên chuyên trách

tham mưu công tác quản lý nhà nước về thanh niên; tại xã, phường, thị trấn

có 01 chuyên viên chuyên trách phụ tách tham mưu về công tác quản lý nhà

nước về thanh niên.

Năm 2014, thực hiện Thông tư số 15/2014/TT-BNV về hướng dẫn chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Nội vụ thuộc Ủy ban nhân

dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Phòng Nội vụ thuộc Ủy ban nhân

dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Sở Nội vụ Thành phố thành lập

Phòng Tổ chức phi chính phủ và công tác thanh niên với 06 biên chế, trong đó

bố trí 03 công chức chuyên trách có trách nhiệm trực tiếp tham mưu cho lãnh

đạo Sở trình Ủy ban nhân dân Thành phố các nhiệm vụ quản lý nhà nước về

công tác thanh niên trên địa bàn Thành phố. Hiện nay, nhiệm vụ quản lý nhà

nước về công tác thanh niên được tách ra khỏi phòng Tổ chức phi chính phủ và

công tác thanh niên chuyển về phòng Xây dựng chính quyền và công tác thanh

niên với 02 công chức chuyên trách nhiệm vụ công tác thanh niên; các sở, ngành

bố trí 01 công chức làm công tác thanh niên; phòng Nội vụ cấp huyện sắp xếp

01 công chức thuộc Phòng Nội vụ và phân công 68 công chức thuộc các phòng

chuyên môn khác của các quận, huyện thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về

thanh niên; Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn phân công công chức Văn

phòng – Thống kê phụ trách công tác thanh niên tại địa phương.

Hàng năm, Thành phố chủ động triển khai và phối hợp với Bộ Nội vụ tổ

chức các lớp bồi dưỡng kiến thức và nghiệp vụ quản lý nhà nước về thanh niên

94

cho lãnh đạo sở, ban, ngành thành phố, lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp huyện;

công chức tham mưu quản lý nhà nước về thanh niên thuộc các sở, ban, ngành

thành phố và phòng Nội vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; lãnh đạo tổ chức

Đoàn thanh niên cấp Thành phố và cấp huyện. Tổ chức tập huấn Luật thanh

niên và Nghị định hướng dẫn thi hành cho các cán bộ, công chức làm công tác

quản lý nhà nước về thanh niên tại các Sở, ban ngành của Thành phố và các

quận, huyện. Thành phố cũng xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ

quản lý nhà nước về công tác thanh niên cho cán bộ, công chức làm công tác

thanh niên tại các sở, ban ngành, Ủy ban nhân dân quận, huyện, công chức phụ

trách công tác thanh niên tại Văn phòng – Thống kê tại Ủy ban nhân dân xã,

phường, thị trấn. Sở Nội vụ phối hợp với Thành đoàn xây dựng kế hoạch, mở

các lớp bồi dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ, phương pháp trong công tác quản lý

về công tác thanh niên, bao gồm: kỹ năng lập kế hoạch; xây dựng báo cáo;

thuyết trình trước đám đông; soạn thảo văn bản; phương pháp làm việc nhóm…

Ngoài ra, Thành phố còn tổ chức tập huấn các kỹ năng thực hành công vụ, các

lớp đào tạo trình độ tiếng Anh cho các cán bộ Đoàn là cán bộ, công chức, viên

chức thuộc các cơ quan hành chính, sự nghiệp trên địa bàn Thành phố.

3.2.4. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về thanh niên

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về thanh niên đến

với cán bộ, công chức, thanh niên, người dân Thành phố là một nhiệm vụ được

thực hiện đầy đủ, thường xuyên và đạt được những kết quả nhất định. Thành

ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố đã tổ chức nhiều buổi hội nghị tuyên truyền,

phổ biến chính sách, pháp luật về thanh niên đến các cấp, các ngành trên địa

bàn Thành phố để triển khai đồng bộ, đa dạng và thường xuyên.

Thực hiện Quyết định số 2106/QĐ-TTg ngày 26 tháng 11 năm 2010 của

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tăng cường công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật của thanh, thiếu niên giai đoạn 2011-

95

2015, Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành Kế hoạch số 4143/KH-UBND

ngày 19 tháng 8 năm 2011 về triển khai thực hiện Đề án “Tăng cường công tác

phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh, thiếu

niên giai đoạn 2011-2015”; Kế hoạch số 11571/KHPH-TĐTP-HĐPBTP ngày

31 tháng 11 năm 2018 Kế hoạch liên tịch thực hiện Chuyên mục pháp luật trên

Trang thông tin điện tử Thành Đoàn và phim chuyên đề tuyên truyền, giáo dục

về pháp luật cho thanh niên trong Chương trình truyền hình thanh niên của

Thành Đoàn; Kế hoạch số 02/KH-HĐPB ngày 26 tháng 3 năm 2019 về tăng

cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật

cho thanh, thiếu niên năm 2019 trên địa bàn Thành phố

Thành phố tổ chức nhiều hoạt động triển khai Kế hoạch như: tổ chức

các buổi tuyên truyền, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức sinh động, trực

quan như các chuyên mục, chuyên trang pháp luật trên hệ thống báo chí, đài

phát thanh, đài truyền hình thành phố; trực tiếp tư vấn pháp luật tại các

trường học, khu nhà trọ, khu lưu trú thanh niên công nhân, phát miễn phí tờ

rơi, áp phích, băng rôn, panel tuyên truyền…; tạo điều kiện để Đoàn TNCS

Hồ Chí Minh của Thành phố tổ chức nhiều phong trào, hội thi, cuộc thi tìm

hiểu kiến thức pháp luật thông qua việc tìm hiểu các Bộ luật liên quan trực

tiếp đến đời sống và việc làm của thanh niên như: Bộ luật lao động, Bộ luật

dân sự, Luật thanh niên…; các cơ quan thông tấn, báo chí định kỳ lồng ghép

các bài viết, chuyên trang, chuyên mục về tìm hiểu Luật thanh niên với hình

thức các tin, bài cụ thể, sinh động phản ánh về các vấn đề liên quan đến việc

thực hiện Luật thanh niên nói riêng và các vấn đề giáo dục pháp luật cho

đoàn viên, thanh niên thành phố nói chung.

Thành phố đã định kỳ tổ chức hội nghị quán triệt Luật thanh niên, tập huấn

nghiệp vụ công tác quản lý nhà nước về thanh niên (mỗi năm từ một đến hai

lần) cho toàn bộ đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện

96

công tác thanh niên và quản lý nhà nước về công tác thanh niên của Thành phố.

Trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2017, Thành phố đã tổ chức được 10

buổi tập huấn cấp thành phố cho hơn 1.000 cán bộ, công chức, viên chức thực

hiện công tác thanh niên và quản lý nhà nước về thanh niên của thành phố; Ủy

ban nhân dân các quận, huyện tổ chức hơn 20 đợt tập huấn công tác quản lý

nhà nước về thanh niên cho gần 2.500 cán bộ, công chức, viên chức tại các

quận, huyện [87]. Thành phố thường xuyên chỉ đạo, định hướng để hệ thống tổ

chức Đoàn thanh niên các cấp của Thành phố phát huy tốt vai trò trong công

tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho thanh niên về đường lối, chủ trương của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong đó đặc biệt tuyên truyền sâu,

rộng về Luật thanh niên.

3.2.5. Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo

trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên

Thực hiện hướng dẫn của Bộ Nội vụ, hàng năm, Sở Nội vụ phối hợp với

các tổ chức có liên quan thực hiện kiểm tra, thanh tra trong việc thực hiện chính

sách, pháp luật về thanh niên. Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thanh

niên của Thành phố có những chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả

nhất định. Phần lớn các sở, ban ngành Thành phố, Ủy ban nhân dân các quận,

huyện đã có dành sự quan tâm và đầu tư đúng mức nhằm phát triển thanh niên

Thành phố như: xây dựng Kế hoạch thực hiện Chương trình phát triển thanh

niên Thành phố; ban hành kế hoạch thực hiện công tác quản lý nhà nước về

thanh niên hằng năm; lồng ghép các mục tiêu, chỉ tiêu về phát triển thanh niên

trong các hoạt động tại cơ quan, đơn vị; xây dựng báo cáo định kỳ và đột xuất

khi có yêu cầu. Thông qua việc kiểm tra, thanh tra, giám sát, Thành phố kịp

thời nắm bắt và giải quyết những khó khăn, vướng mắc của các cơ quan chuyên

môn, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên của Thành

97

phố; đồng thời, có những đề xuất, kiến nghị với Chính phủ và Bộ Nội vụ xem

xét, ban hành chính sách phát triển thanh niên phù hợp với tình hình kinh tế -

xã hội của Thành phố.

3.2.6. Hợp tác quốc tế về thanh niên

Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của

Nhà nước trong công tác đối ngoại, mở rộng hợp tác đa phương trên nhiều lĩnh

vực, trong đó có hợp tác quốc tế về thanh niên. Hàng năm, Thành phố giao cho

Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức các hoạt động giao lưu giữa thanh niên thành

phố với thanh niên và sinh viên các nước trên thế giới. Các chương trình giao

lưu, tập huấn ở trong và ngoài nước cho thanh thiếu nhi thành phố được tổ chức

đa dạng; các hoạt động giao lưu, gắn kết với các nước có quan hệ ngoại giao

truyền thống với Việt Nam được chú trọng và tăng cường. Các hoạt động nổi

bật được triển khai như: tổ chức đoàn đại biểu Thành phố Hồ Chí Minh tham

gia Liên hoan thanh niên quốc tế Vladivostok tại Liên Bang Nga; tiếp nhận 20

sinh viên Malaysia từ YSS – Tổ chức sinh viên tình nguyện Malaysia (thuộc

Bộ Giáo dục Malaysia) tham gia vào các hoạt động tình nguyện hè của đoàn

viên, thanh niên Thành phố…

3.2.7. Ban hành chính sách hỗ trợ, khuyến khích tổ chức, cá nhân tham

gia thực hiện chính sách đối với thanh niên

Thực hiện Quyết định số 897/QĐ-TTg ngày 26 tháng 7 năm 2022 của Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình “Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp giai

đoạn 2022-2030”, Thành phố đã triển khai nhiều buổi tập huấn, bồi dưỡng kiến

thức nền tảng cho thanh niên về khởi sự kinh doanh, phát triển doanh nghiệp

cụ thể như: kiến thức về quản trị sản xuất, quản trị nhân sự, marketing, quản trị

chất lượng, quản trị chuỗi cung ứng… Đồng thời, tổ chức hội nghị đối thoại

giữa các doanh nhân trẻ, thanh niên với lãnh đạo Thành phố, quận, huyện và

sở, ban ngành để doanh nhân, thanh niên có cơ hội gặp gỡ, chia sẻ và bày tỏ

98

nguyện vọng của bản thân về chính sách khởi nghiệp, góp phần thúc đẩy việc

hoàn thiện chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với việc hỗ trợ doanh nghiệp,

thanh niên trong khởi nghiệp, lập nghiệp, sản xuất, kinh doanh; các tổ chức

doanh nghiệp và cá nhân các doanh nhân trẻ có những hỗ trợ thanh niên trong

hoạt động khởi nghiệp.

Thành phố cũng có những chính sách hỗ trợ thanh niên tiếp cận các nguồn

vốn, hỗ trợ tài chính thông qua các chương trình, chính sách ưu đãi cho thanh

niên khởi nghiệp, lập nghiệp; tăng cường hỗ trợ vốn cho các cơ sở sản xuất,

kinh doanh do đoàn viên, hội viên, thanh niên làm chủ thông qua nguồn vốn

vay Quốc gia về việc làm do Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, UBND

Thành phố quản lý; do Ngân hàng Chính sách xã hội huy động, nguồn vốn

Ngân hàng Chính sách xã hội nhận ủy thác từ các địa phương, các tổ chức, cá

nhân trong và ngoài nước để cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc

làm và nguồn vốn hợp pháp khác.

3.3. Đánh giá chung về thực tiễn quản lý nhà nước về thanh niên tại

Thành phố Hồ Chí Minh

3.3.1. Những kết quả đạt được trong quản lý nhà nước về thanh niên

tại Thành phố Hồ Chí Minh

3.3.1.1. Kết quả đạt được

Thứ nhất, chính sách, pháp luật về thanh niên từng bước được hoàn thiện.

Luật thanh niên và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo cơ sở pháp lý để

Thành phố ban hành và triển khai thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên,

các chương trình, Kế hoạch phát triển thanh niên của Thành phố. Luật thanh

niên đã quy định cụ thể về các chính sách của nhà nước với thanh niên, nội

dung quản lý nhà nước về thanh niên. Đây là căn cứ pháp lý để Thành phố ban

hành các chính sách cụ thể bảo đảm cho thanh niên thực hiện quyền và nghĩa

vụ của mình; đồng thời, phát huy được thế mạnh của thanh niên trong phát triển

99

kinh tế - xã hội của Thành phố. Trong giai đoạn từ năm 2011 – 2020, Thành

phố đã cụ thể hóa các chỉ tiêu, mục tiêu, nội dung chỉ đạo của Chiến lược phát

triển thanh niên Việt Nam vào Chương trình phát triển thanh niên Thành phố

và cơ bản đã hoàn thành đầy đủ các chỉ tiêu, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đề

ra. Việc nghiên cứu, xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn, thực hiện Luật

thanh niên, các chính sách dành cho thanh niên được Thành phố triển khai kịp

thời, hỗ trợ, tạo cơ chế thuận lợi cho các tổ chức thanh niên và thanh niên thành

phố có đủ điều kiện để học tập, lao động, vui chơi, nghiên cứu, rèn luyện và

phát triển toàn diện.

Thứ hai, các ngành, các cấp trong các cơ quan nhà nước của Thành phố

đã có sự đổi mới nhận thức về vai trò, tầm quan trọng, trách nhiệm của từng cơ

quan quản lý nhà nước trong việc đảm bảo các điều kiện về cơ chế, chính sách

để thanh niên phát triển toàn diện; phát huy giá trị của các thế hệ thanh niên

Thành phố vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tổ chức bộ máy làm

công tác quản lý nhà nước về thanh niên của Thành phố từ cấp tỉnh, cấp huyện

được thiết lập và hoàn thiện.

Thứ ba, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện nhiệm vụ quản lý

nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên được định hình và kiện toàn

thành một hệ thống xuyên suốt từ cấp thành phố đến phường, xã, thị trấn; trình

độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ được nâng cao; thường xuyên được cập

nhật các chính sách, pháp luật về cho thanh niên, các phương pháp quản lý,

thực thi nhiệm vụ và công tác tham mưu triển khai các chương trình, kế hoạch

phát triển thanh niên.

3.3.1.2. Nguyên nhân của kết quả

Phát triển thanh niên là truyền thống của dân tộc, Đảng, Nhà nước và xã

hội luôn đánh giá đúng vị trí, vai trò quan trọng của thanh niên trong sự nghiệp

cách mạng của Đảng và dân tộc. Với Thành phố Hồ Chí Minh, trong những

100

năm qua, công tác quản lý nhà nước về thanh niên được tăng cường, nâng cao

hiệu quả thông qua việc triển khai, thực hiện Luật thanh niên và các chính sách

về thanh niên nhằm bồi dưỡng, phát huy thanh niên và tạo điều kiện về cơ sở

vật chất, phương tiện cho công tác quản lý nhà nước về thanh niên. Thành ủy,

Ủy ban nhân dân thành phố thường xuyên quan tâm và chỉ đạo kịp thời các sở,

ban ngành có liên quan thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên theo các tiêu

chí, mục tiêu đã đề ra, đảm bảo việc hoàn thành các nội dung, giải pháp phát

triển thanh niên có hiệu lực và hiệu quả.

3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong quản lý nhà nước về

thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh

3.3.2.1. Hạn chế trong quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố Hồ

Chí Minh

Thứ nhất, một số chính sách dành cho thanh niên được quy định trong

Luật thanh niên chưa được quan tâm, đầu tư nghiên cứu, triển khai thực hiện;

việc lồng ghép chỉ tiêu phát triển thanh niên trong chương trình, mục tiêu của

Thành phố còn hạn chế dẫn đến các kế hoạch, chương trình, mục tiêu phát triển

thanh niên chưa đảm bảo theo đúng tiến độ và hiệu quả đề ra. Số liệu thống kê

và việc thu thập dữ liệu thống kê về thanh niên Thành phố theo các tiêu chí của

Bộ chỉ tiêu thống kê về thanh niên Việt Nam chưa được thực hiện một cách

khoa học, chưa đảm bảo tính chính xác và tin cậy để làm căn cứ nghiên cứu

tình hình phát triển thanh niên của Thành phố và đánh giá cụ thể hiệu quả các

chỉ tiêu, mục tiêu, nội dung giải pháp của Chương trình phát triển thanh niên

Thành phố giai đoạn 2011-2020.

Thứ hai, việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp

luật, chiến lược, chính sách, chương trình phát triển thanh niên tại cơ sở một số

nơi còn chậm, nhiều nội dung chưa được triển khai đồng bộ và hiệu quả. Việc

triển khai Luật thanh niên năm 2005 chưa thật sự đồng bộ và rộng rãi, còn bó

101

hẹp trong phạm vi thanh niên và Đoàn thanh niên; nhiều cấp ủy, chính quyền

chưa thật sự vào cuộc và đầu tư cho thanh niên. Công tác tuyên truyền, phổ

biến, quán triệt triển khai Luật thanh niên của một số sở, ban ngành và địa

phương chưa thật sự quyết liệt; chủ yếu do Đoàn thanh niên chủ trì thực hiện;

nội dung tuyên truyền còn đơn giản.

Thứ ba, nhận thức về vị trí, vai trò của quản lý nhà nước về thanh niên của

một số cấp ủy, chính quyền địa phương còn hạn chế, coi việc phát triển thanh

niên là nhiệm vụ chủ yếu của Đoàn thanh niên. Vì vậy, chưa thực sự quan tâm,

chỉ đạo sát sao và động bộ công tác quản lý nhà nước về thanh niên; một số cơ

quan chuyên môn, các cấp chính quyền giao việc tham mưu, quản lý nhà nước

về thanh niên cho tổ chức Đoàn. Bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về

thanh niên mới được kiện toàn, một số nơi, số chỗ chưa phân định rạch ròi trách

nhiệm giữa cơ quan quản lý nhà nước về thanh niên với cơ quan tư vấn về công

tác thanh niên; đội ngũ nhân sự thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh

niên còn kiêm nhiệm nhiều công tác khác nhau và thường xuyên có sự thay đổi

dẫn đến một số công việc phải triển khai, tập huấn lại từ đầu làm chậm tiến độ

thực hiện các Kế hoạch phát triển thanh niên đã đề ra. Việc tham mưu xây dựng

chính sách, pháp luật về thanh niên tại các đơn vị và đội ngũ công chức, viên

chức làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên còn hạn chế, thiếu chủ động,

chủ yếu trông chờ vào hướng dẫn, chỉ đạo của cấp trên.

Thứ tư, công tác phối hợp giữa các ngành liên quan trong việc tổ chức

thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên cũng như việc triển khai

các nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch, đề án, dự án phát triển thanh niên còn

thiếu chặt chẽ, chất lượng và hiệu quả chưa cao; một số sở, ban ngành chưa chủ

động phối hợp với Đoàn thanh niên để triển khai thực hiện theo trách nhiệm

được phân công nên chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo, bồi dưỡng

102

và phát huy năng lực của thanh niên.

3.3.2.2. Nguyên nhân của hạn chế trong quản lý nhà nước về thanh niên

tại Thành phố Hồ Chí Minh

Thứ nhất, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thanh niên chưa đầy

đủ, đồng bộ, thiếu các quy định cụ thể. Từ khi Luật thanh niên năm 2005 ra

đời và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2006, Chính phủ mới ban hành 03

nghị định hướng dẫn thi hành, gồm: Nghị định số 120/2007/NĐ-CP ngày 23

tháng 7 năm 2007 về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thanh niên;

Nghị định số 61/2012-NĐ-CP ngày 10 tháng 8 năm 2012 quy định về chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ; Nghị định số

12/2011/NĐ-CP ngày 30 tháng 01 năm 2011 về tổ chức và chính sách đối với

thanh niên xung phong; Nghị định số 78/2017/NĐ-CP ngày 03 tháng 7 năm

2017 về sửa đổi, bổ sung Nghị định số 120/2007/NĐ-CP của Chính phủ hướng

dẫn thi hành một số điều của Luật thanh niên. Trong đó, Nghị định số 120/NĐ-

CP của Chính phủ về mặt nội dung chưa thống nhất, trong Nghị định đã quy

định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức các bộ, cơ quan ngang

bộ về công tác thanh niên, nhưng chưa xác định rõ trách nhiệm phối hợp quản

lý Nhà nước về công tác thanh niên theo từng ngành, lĩnh vực được Chính phủ

phân công nên chưa phát huy hiệu quả của Nghị định trong việc triển khai

thực hiện Luật thanh niên.

Trong quá trình triển khai thực hiện, Luật thanh niên năm 2005 cũng bộc

lộ một số vướng mắc, bất cập như: một số quy định của Luật thanh niên còn

chung chung, chưa sát với đối tượng thanh niên, khó triển khai thực hiện trong

thực tiễn; thiếu đồng bộ với các chính sách khác; các quy định về quyền và

nghĩa vụ của thanh niên trong các điều, khoản của Luật chưa được quy định rõ

ràng, cụ thể, chưa phân định rõ giữa quyền và nghĩa vụ của thanh niên; các quy

định về trách nhiệm của Nhà nước, gia đình, nhà trường và xã hội chưa cụ thể,

103

chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc kêu gọi, khuyến khích mà không đến cập đến

trách nhiệm, bổn phận của thanh niên đối với bản thân mình, đối với quốc gia,

dân tộc. Các hành vi bị nghiêm cấm được quy định trong Luật quá cụ thể và

chi tiết, không bao quát hết những quy định ở các văn bản quy phạm pháp luật

thuộc các lĩnh vực khác nhau trong đó có thanh niên là đối tượng áp dụng. Luật

thanh niên và các văn bản hướng dẫn thực hiện còn thiếu những chế tài đủ mạnh

để điều chỉnh các hoạt động quản lý nhà nước về thanh niên nên chưa có sự

nhận thức và hành động đầy đủ.

Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thanh niên tuy đã được triển

khai sâu, rộng, có nhiều hình thức mới, song nhiều quy định trong Luật thanh

niên chưa cụ thể, thiên về là khẩu hiệu tuyên truyền dẫn đến việc khi có vấn đề

phát sinh trong xã hội liên quan đến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thanh

niên khó thực hiện.

Thứ hai, bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên mới được kiện toàn; cán

bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên chưa đầy đủ, không

ổn định, thường xuyên có sự thay đổi và phải kiêm nhiệm thêm các mảng công

tác khác nên công tác tham mưu, đề xuất ban hành, hướng dẫn và đôn đốc tổ

chức thực hiện cơ chế, chính sách cho thanh niên còn gặp nhiều khó khăn, lúng

túng. Trong khi đó các cơ quan, đơn vị có nhiều nhiệm vụ liên quan trực tiếp

đến sự phát triển của thanh niên chỉ tham gia ở góc độ phối hợp hoặc theo yêu

cầu của đề án, nhiệm vụ từ văn bản chỉ đạo của Trung ương, chưa có sự chủ

động tham mưu theo yêu cầu, nguyện vọng phát triển của thanh niên Thành

phố. Trong khi đó, chưa có văn bản mang tính pháp lý quy định rõ ràng, cụ thể

đối với công chức phụ trách công tác thanh niên tại Ủy ban nhân dân xã,

phường, thị trấn.

Thứ ba, Bộ chỉ tiêu thống kê về thanh niên Việt Nam đã được Thủ tướng

ban hành theo Quyết định số 158/QĐ-TTg ngày 25 tháng 01 năm 2016 và Bộ

104

Nội vụ ban hành tại Thông tư số 11/2018/TT-BNV ngày 14 tháng 9 năm 2018

đã góp phần tạo nên hệ thống kiểm soát, đánh giá việc thực hiện các chỉ tiêu

phát triển thanh niên ở từng ngành, lĩnh vực, theo từng năm và từng giai đoạn;

giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có sở sở để nghiên cứu, xây

dựng các chính sách hỗ trợ, khuyến khích sự vận động, phát triển toàn diện của

thanh niên. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai Bộ chỉ tiêu thống kê còn thiếu

công cụ, cơ chế, kinh phí và nguồn lực để thực hiện việc thu thập các số liệu

liên quan đến thanh niên để đưa vào đánh giá theo các tiêu chí. Do đó, việc thực

hiện quản lý nhà nước về thanh niên chưa có được những thông tin xác thực,

phản ánh đúng thực trạng, nhu cầu của thanh niên để làm cơ sở, tham mưu, đề

xuất và hoạch định chính sách, pháp luật đối với thanh niên.

Thứ tư, kinh phí, cơ sở vật chất dành cho việc triển khai, tổ chức thực hiện

chính sách, pháp luật về thanh niên còn hạn chế; các chương trình, đề án, dự án

về thanh niên và công tác thanh niên đã được cấp có thẩm quyền ban hành song

không được bố trí kinh phí để thực hiện hoặc không đủ kinh phí để thực hiện

105

đầy đủ các nội dung nên thường không đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra.

Kết luận chương 3

Thanh niên và bảo đảm quyền và nghĩa vụ của thanh niên là vấn đề được

Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Nhiều chính sách cho thanh niên đã được

ban hành thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước ta đối với việc chăm lo,

bồi dưỡng, giáo dục và phát huy thanh niên. Luật thanh niên năm 2005 ra đời

tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc ban hành các chính sách, pháp luật về

thanh niên; đồng thời, phát huy vai trò xung kích, tình nguyện sức sáng tạo,

tiềm năng to lớn của thanh niên trong việc tham gia phát triển kinh tế - xã hội

và bảo vệ Tổ quốc. Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,

pháp luật của nhà nước đối với thanh niên, Thành phố Hồ Chí Minh đã ban

hành và tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật, chương trình, kế hoạch

phát triển thanh niên. Thành phố coi trọng công tác quản lý nhà nước về thanh

niên, đặt thanh niên là vấn đề trọng tâm trong chính sách phát triển con người,

phát triển nguồn lực; đầu tư ngân sách chăm lo cho thanh niên trên một số mặt

cơ bản như: học tập, lao động và đào tạo nghề, giải quyết việc làm, ủng hộ tài

năng trẻ trong học tập, trong nghiên cứu khoa học, công nghệ, lao động sản

xuất và kinh doanh, trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật, vui chơi, giải trí…

Đồng thời, có những chính sách khuyến khích, phát huy thanh niên trong phát

triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, trên thực tế, quản lý nhà nước về thanh niên tại Thành phố

cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên

chưa cao; việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật,

chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển thanh niên còn chậm, chưa đồng

bộ, nhiều nội dung chính sách triển khai chưa thực sự hiệu quả; một số cơ quan,

đơn vị còn chậm triển khai, vận dụng các quy định của Luật thanh niên trong

thực hiện nhiệm vụ trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình để đảm bảo các

106

điều kiện về cơ chế, chính sách cho thanh niên thực hiện quyền và nghĩa vụ của

mình; một số yêu cầu bức thiết của thanh niên như đào tạo, giải quyết việc làm

(nhất là đối với thanh niên nông thôn) chưa được giải quyết kịp thời. Việc phân

tích những kết quả, hạn chế cũng như nguyên nhân hạn chế của quản lý nhà

nước về thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh là cơ sở để đưa ra các giải pháp

nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về thanh niên ở Việt Nam giai đoạn hiện

107

nay.

CHƯƠNG 4

DỰ BÁO TÌNH HÌNH THANH NIÊN, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP

NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THANH NIÊN

TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

4.1. Dự báo tình hình thanh niên Việt Nam và quan điểm nâng cao

hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên

4.1.1. Bối cảnh đất nước và tình hình thanh niên Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang

đứng trước những cơ hội và thách thức lớn. Tình hình thế giới đang diễn biến

phức tạp với những biến động to lớn, khó dự báo. Trong tương lai, hòa bình,

hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ

nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ và sự phụ thuộc của các nước đang phát triển,

nước nhỏ vào nước lớn đang có xu hướng gia tăng, tác động không nhỏ đến

vấn đề bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc. Nền kinh tế thế giới có nguy cơ lâm

vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và có thể còn kéo dài do tác động của

đại dịch Covid-19 và xung đột địa chính trị. Cuộc cách mạng công nghệp lần

thứ tư tiếp tục phát triển mạnh mẽ, mở ra một thời đại mới về phát triển lực

lượng sản xuất, dẫn tới sự thay đổi nền tảng trên mọi mặt của đời sống chính

trị - xã hội của các nước trên thế giới. Xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ do

mẫu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên, can thiệp lật đổ,

khủng bố tiếp diễn phức tạp; các điểm nóng vẫn tồn tại và mở rộng ở nhiều khu

vực trên thế giới. Bên cạnh đó, cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng gay

gắt hơn với các thách thức an ninh phi truyền thống, an ninh lương thực, an

ninh nguồn nước, an ninh tài chính, an ninh mạng, khủng bố vũ trang, biến đổi

khí hậu, thiên tai, dịch bệnh…

Với vị trí địa lý đặc thù, Việt Nam chịu sự tác động rất lớn từ những biến

108

động của thế giới. Tuy nhiên, cùng với sự ổn định về chính trị, thế và lực của

Việt Nam ngày càng gia tăng trên trường quốc tế; vai trò của Việt Nam trong

hợp tác cũng như tham gia xử lý các vấn đề mang tính toàn cầu được cộng đồng

quốc tế đánh giá cao. Là nước có sự phát triển nhanh về công nghệ thông tin

nên Việt Nam cũng có những điều kiện thuận lợi để tiếp cận công nghệ, tranh

thủ thị trường, tham gia mạng lưới sản xuất và chuỗi cung ứng khu vực và toàn

cầu, cũng như ứng dụng thành tựu khoa học – công nghệ mới, tạo sức đột phá

trong phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc

phòng – an ninh, góp phần tích cực trong việc bảo đảm lợi ích quốc gia – dân

tộc trong tình hình mới. Trong những năm tới, Việt Nam hội nhập quốc tế sâu,

rộng hơn và sẽ phải thực hiện đầy đủ, hiệu quả các cam kết khi tham gia các

hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; phấn đấu đạt mục tiêu đến giữa thế kỷ

XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Với vai trò là một lực lượng quan trọng, góp phần to lớn vào sự phát triển

của đất nước, thanh niên luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, đặt niềm tin và

sự kỳ vọng lớn, tạo mọi điều kiện thuận lợi để chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng và

phát huy thế hệ trẻ. Dân số thanh niên nước ta ước tính năm 2018 là 23.316.036

người chiếm 24,6% dân số cả nước, giảm 0,6% so với năm 2017 (25,2%) [70].

So với quy mô các nhóm dân số khác, quy mô dân số thanh niên có xu hướng

thu hẹp, thể hiện ở tỉ lệ dân số nhóm tuổi từ 16-30 giảm, trong khi tỉ lệ dân số

nhóm tuổi từ 31-59 và đặc biệt là từ 60 trở lên tăng [70]. Trong quy mô dân số

Việt Nam năm 2018 do website Mô hình tháp dân số thế giới dự báo từ năm

1950 đến năm 2100 cung cấp, nhóm dân số trong độ tuổi thanh niên từ 15 đến

29 tuổi mặc dù đang chiếm tỉ lệ nhiều nhất, trong đó nhóm 25-29 tuổi đang ở

bậc tháp rộng nhất, nhưng nhóm dân số ở độ tuổi đầu thanh niên 20-24 tuổi và

15-19 tuổi đang bị thu hẹp. Nhóm dân số ở độ tuổi sau thanh niên 30-34 có xu

hướng tăng lên [105]. Việt Nam sắp bước qua thời kỳ dân số vàng, tiến tới già

109

hóa dân số. Vấn đề sụt giảm nguồn nhân lực lao động trong tương lai tiếp tục

là vấn đề được đặt ra khi mà số người trong độ tuổi lao động ngày càng giảm

và số lao động phụ thuộc ngày càng tăng lên.

Năm 2018, tỉ lệ dân số nam thanh niên cao hơn tỉ lệ nữ thanh niên với

khoảng cách 2,0%. Sự chênh lệch giới tính trong dân số thanh niên tiếp tục có

xu hướng tăng so với năm trước. Thanh niên khu vực nông thôn chiếm 62,6%,

thanh niên ở khu vực thành thị chiếm 37,4%; dân số thanh niên ở khu vực nông

thôn năm 2018 có dấu hiệu giảm đi so với năm 2017, ngược lại, dân số thanh

niên khu vực thành thị có dấu hiệu tăng lên.

Trong 5 năm tới và giai đoạn 2030-2045, thanh niên Việt Nam chủ yếu

thuộc nhóm độ tuổi sinh ra trong nửa cuối thập niên 1990 đến 2012, dự báo

chiếm gần ¼ dân số cả nước và gần 1/3 dân số trong độ tuổi lao động. Thanh

niên có trình độ trung học phổ thông là chủ yếu, đạt 47,9%. Tỷ lệ thanh niên

không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 76%. Trong số thanh niên có trình độ

chuyên môn kỹ thuật, 3,1% là thanh niên có trình độ dạy nghề; 3,7% thanh niên

có trình độ trung học chuyên nghiệp; 5,9% thanh niên có trình độ cao đẳng;

10,5% thanh niên có trình độ đại học trở lên. Tỷ lệ thanh niên tham gia lực

lượng lao động là 79,8%. Tỷ lệ thanh niên có việc làm là 94,9%; tỷ lệ thất

nghiệp trong thanh niên là 5,06% [44]. Đây là thế hệ sinh ra và lớn lên trong

thời đại kỹ thuật số phát triển, với những đặc điểm về tính cách, tư duy, nhận

thức, tiềm năng, xu hướng và phong cách sống… có nhiều điểm mới.

Trong những năm tới và giai đoạn 2030-2045, đứng trước sự phát triển

nhanh chóng, mạnh mẽ của khoa học, công nghệ; năng lực hội nhập, kỹ năng

xã hội được nâng lên, thanh niên sẽ có xu hướng tự học, tiếp cận thông tin số,

giải trí và sáng tạo trên nền tảng số; coi trọng và tham gia tích cực vào các hoạt

động khởi nghiệp, sáng tạo; di cư và dịch chuyển lao động mạnh mẽ. Đại đa số

thanh niên đề cao, phát huy các giá trị truyền thống, văn hoá tốt đẹp của nhân

110

loại, của dân tộc; ý thức rõ trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc và nhân dân,

tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; thể

hiện rõ lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước,

khát vọng cống hiến, tinh thần đổi mới, sáng tạo, lẽ sống vì xã hội, cộng đồng.

Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển của đất nước, nhất là nền

kinh tế phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế, đứng trước nhiều khó

khăn, thách thức mới do tác động của đại dịch COVID-19; nguy cơ khủng

hoảng kinh tế toàn cầu; xu hướng "già hóa dân số" và dân số trong độ tuổi thanh

niên đang có xu hướng giảm dần qua từng năm đem đến những áp lực không

nhỏ cho kinh tế - xã hội; tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa tăng mạnh; các vấn

đề an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh gay gắt,

phức tạp; sự phát triển của mạng xã hội… Cùng với đó, yêu cầu nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực trẻ để tận dụng ưu thế của những năm cuối trong thời kỳ

"dân số vàng", đáp ứng yêu cầu của sự thay đổi công nghệ, tự động hoá, sự xuất

hiện của các nghề nghiệp mới với tính chất công việc và yêu cầu kỹ năng mới;

khoảng cách giữa trình độ chuyên môn, kỹ năng của lực lượng lao động thanh

niên và nhu cầu của thị trường lao động; tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng gia tăng

do công nghệ không ngừng phát triển; nhu cầu giao tiếp trực tiếp giảm do thói

quen sử dụng thiết bị thông minh chi phối… là những tác động và thách thức

nhất định đến tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quá trình học tập, lao động,

việc làm, sức khoẻ của thanh niên, nhất là bộ phận thanh niên yếu thế, thanh

niên công nhân, nông thôn, dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt

khó khăn.

4.1.2. Quan điểm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên

Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Dảng

đã chỉ rõ: “Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối

sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ,

111

hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước,

với xã hội; xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao động, giải trí, rèn

luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và giá

trị thẩm mỹ. Tạo động lực cho thanh niên xung kích trong học tập, lao động,

sáng tạo, khởi nghiệp, lập nghiệp; làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ

hiện đại, phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc” [22, tr.168].

Bước vào thời kỳ đổi mới, với đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, thế

và lực của đất nước không ngừng tăng lên, Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của

Đảng khẳng định tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công

nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa

bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát

triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu cụ thể:

“Đến năm 2025: Là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện

đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.

Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển

có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.

Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước: Trở thành nước phát

triển, thu nhập cao”.

Xuất phát từ chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển thanh niên,

trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên cần

tập trung vào những nội dung sau:

4.1.2.1. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công

tác quản lý nhà nước về thanh niên

Đảng lãnh đạo thanh niên và công tác quản lý nhà nước về thanh niên bằng

đường lối, quan điểm và chủ trương thông qua công tác chính trị, tư tưởng, tổ

112

chức, cán bộ, kiểm tra và giám sát. Ngoài ra, Đảng lãnh đạo thông qua công tác

chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ của Đảng. Các cấp ủy Đảng lãnh đạo trực

tiếp và toàn diện thanh niên và công tác quản lý nhà nước về thanh niên.

Hoàn thiện quản lý nhà nước về thanh niên ở nước ta trong giai đoạn hiện

nay cần tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về thanh niên

nói chung và quản lý nhà nước về thanh niên nói riêng. Trong đó, cần nâng cao

nhận thức, trách nhiệm cho các cấp ủy đảng về quản lý nhà nước về thanh niên;

đổi mới cách thức lãnh đạo công tác thanh niên để đúng, sát với yêu cầu của

hoàn cảnh, nguyện vọng của thanh niên.

4.1.2.2. Quản lý nhà nước về thanh niên phải xuất phát từ quyền và nghĩa

vụ của thanh niên

Thanh niên là một trong những nhân tố có vai trò quan trọng, quyết định

tương lai, vận mệnh của đất nước, có sức trẻ, thể lực dồi dào, tư duy năng động,

sáng tạo. Bên cạnh những quyền và nghĩa vụ như mọi công dân khác đã được

pháp luật quy định, thanh niên còn có những quyền, nghĩa vụ riêng của thanh

niên mà các tổ chức, cá nhân phải bảo đảm thực hiện. Quản lý nhà nước về

thanh niên thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc đáp ứng quyền và

nghĩa vụ của thanh niên. Vì vậy, hoàn thiện quản lý nhà nước về thanh niên cần

phải thực hiện trên cơ sở quyền và nghĩa vụ của thanh niên. Theo đó, quyền

của thanh niên phải được tôn trọng, bảo đảm nhằm tạo điều kiện cho thanh niên

phát huy sức trẻ, khả năng, trí tuệ đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc chứ không phải tạo ra đặc quyền, đặc lợi cho thanh niên so với những

công dân khác. Nhà nước cần có những giải pháp để thanh niên được tham gia

nhiều hơn vào quá trình xây dựng và thực thi các chính sách công để đảm bảo

cho các chính sách đó được xây dựng đáp ứng nhu cầu thực tiễn của thanh niên.

Thanh niên là đối tượng vừa được thụ hưởng chính sách, pháp luật của nhà

nước dành cho thanh niên; vừa có quyền tham gia vào việc xây dựng và thực

113

hiện chính sách, pháp luật nói chung và chính sách, pháp luật về thanh niên nói

riêng. Sự tham gia của thanh niên thể hiện ở việc đề xuất ý tưởng, trình bày ý

kiến với cơ quan xây dựng chính sách, phản biện, tuyên truyền, phổ biến, triển

khai thực hiện, kiểm tra, giám sát và đề xuất sửa đổi. Với sự tham gia này, thanh

niên được trao quyền như những cá nhân cũng như các thành viên của xã hội,

đồng thời tạo cho họ cơ hội nói lên tiếng nói của mình đối với những vấn đề

ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Đây chính là yếu tố quan trọng bảo đảm hiệu

lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên.

4.1.2.3. Bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa mục tiêu phát triển thanh niên

với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn

Quản lý nhà nước về thanh niên phải xuất phát từ mục tiêu phát triển kinh

tế - xã hội của đất nước. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-

2030 xác định mục tiêu tổng quát: “Phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát

triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện

đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền

vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với

nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; khơi dậy

khát vọng phát triển đất nước, phát huy sức sáng tạo, ý chí và sức mạnh toàn

dân tộc, xây dựng xã hội phồn vinh, dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ

cương, an toàn, bảo đảm cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân; không

ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; bảo vệ vững chắc Tổ quốc,

môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín

của Việt Nam trên trường quốc tế. Phấn đấu đến năm 2045 trở thành nước phát

triển, thu nhập cao”. Đây chính điều kiện, môi trường thuận lợi để thanh niên

thể hiện tài năng, sức trẻ, cống hiến cho đất nước. Đất nước ổn định, kinh tế -

xã hội tăng trưởng tạo cơ hội lớn cho thanh niên học tập, tiếp cận văn minh

nhân loại, nâng cao tri thức, nhất là được thụ hưởng những thành tựu khoa học

114

– công nghệ.

Những thành tựu của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế đã tạo nên

sức mạnh tổng hợp và không ngừng nâng cao uy tín, vị thế của đất nước trên

trường quốc tế, tạo ra những tiền đề quan trọng để đất nước phát triển nhanh,

bền vững. Đặc biệt, Việt Nam đang ở thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”. Đây chính

là cơ hội lớn để phát triển kinh tế - xã hội và phát huy tối đa tiềm lực của đất

nước thông qua phát huy vai trò của lực lượng thanh niên. Do vậy, quản lý nhà

nước về thanh niên phải xuất phát từ yêu cầu mục tiêu phát triển kinh tế - xã

hội của đất nước. Quản lý nhà nước về thanh niên phải góp phần khơi dậy và

sử dụng hiệu quả nguồn lực thanh niên đối với quá trình phát triển kinh tế - xã

hội của đất nước.

4.1.2.4. Tạo sự bình đẳng về cơ hội phát triển giữa các nhóm thanh niên,

quan tâm thanh niên yếu thế

Quản lý nhà nước về thanh niên phải tạo sự bình đẳng về cơ hội phát triển

giữa các nhóm thanh niên, đặc biệt quan tâm đến nhóm thanh niên yếu thế.

Trong đó, Nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất

phục vụ cho sự phát triển của thanh niên; tạo cơ hội về học tập, về việc làm, về

nâng cao sức khỏe, thể lực, tầm vóc, kỹ năng sống cho các nhóm thanh niên.

Với thanh niên yếu thế như thanh niên dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa,

thanh niên khuyết tật… thì quản lý nhà nước nhằm hướng tới giúp giảm thiểu,

tiến tới xóa bỏ sự ngăn cách, phân hóa; Nhà nước cần có những chính sách về

giáo dục để tạo cơ hội học tập bình đẳng giữa các nhóm thanh niên, trong đó,

tập trung đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu

115

số nhằm từng bước giảm dần sự chênh lệch về phát triển giữa các vùng, miền.

4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên

trong giai đoạn hiện nay

4.2.1. Nhận thức đúng, đầy đủ hơn về vai trò của thanh niên và quản lý

nhà nước về thanh niên

Với mỗi quốc gia trên thế giới, thanh niên luôn được coi là một phần rất

quan trọng của xã hội; một tiềm năng lớn góp phần vào sự phát triển quốc gia

và xây dựng một thế giới công bằng và hòa bình. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà

nước luôn coi trọng thanh niên, coi thanh niên là lực lượng quan trọng giữ vị

trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố và nguồn lực; thanh niên là chủ

nhân hiện tại và tương lai của đất nước, là đội quân xung kích cách mạng trong

sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời, luôn quan tâm, chăm lo

xây dựng và phát huy sức mạnh của các thế hệ thanh niên tham gia vào sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Các cấp, các ngành và các tổ chức, đoàn thể xã hội đã có nhiều chủ trương,

giải pháp nhằm phát huy vai trò, sức mạnh của thanh niên trong các lĩnh vực

của đời sống xã hội. Tuy nhiên, sức mạnh của thanh niên Việt Nam hiện nay

vẫn chưa được phát huy tương xứng với tiềm năng của lực lượng này để thực

sự trở thành một nguồn nội lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội

và tham gia thực hiện các nhiệm vụ khác của đất nước. Ở nhiều nơi, không ít

cấp ủy, chính quyền còn chưa thực sự coi trọng công tác quản lý nhà nước về

thanh niên, coi đó là việc của tổ chức Đoàn. Vì vậy, trước yêu cầu, nhiệm vụ

của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, việc nhận thức đúng đắn và phát huy đầy

đủ vai trò, sức mạnh của thanh niên được đặt ra như một yêu cầu khách quan.

Việc nhận thức về thanh niên, vai trò quản lý nhà nước về thanh niên cần

116

được đầy đủ, thống nhất với những nội dung cụ thể như sau:

- Nâng cao nhận thức trong hệ thống chính trị và cơ quan nhà nước về

thanh niên và quản lý nhà nước về thanh niên; thống nhất nhận thức về sự cần

thiết và trách nhiệm của Nhà nước trong quản lý nhà nước về thanh niên, sự

cần thiết của cơ quan quản lý nhà nước chuyên trách về thanh niên, chứ không

phải chỉ phụ thuộc vào hoạt động của tổ chức Đoàn thanh niên.

- Hiểu và phân biệt rõ ràng nội dung các khái niệm “quản lý nhà nước về

thanh niên” với khái niệm “quản lý đoàn viên”, “quản lý thanh niên”, “công tác

thanh niên”, “quản lý nhà nước về công tác thanh niên”…; phân định rõ trách

nhiệm, thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước về thanh niên với chức năng,

nhiệm vụ của tổ chức Đoàn thanh niên. Từ đó, xác định rõ phạm vi trách nhiệm,

vị trí, vai trò, nhiệm vụ của quản lý nhà nước về thanh niên.

- Xác định hoạt động quản lý nhà nước về thanh niên là trách nhiệm của

Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, trong đó, trách nhiệm chính thuộc về ngành

Nội vụ, các cấp chính quyền từ Trung ương tới địa phương với sự phối hợp,

hỗ trợ từ các bộ, ban ngành, địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội đặc biệt

là tổ chức Đoàn thanh niên, nhằm tạo ra một thế hệ công dân trẻ hội đủ các

tiêu chuẩn đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của

đất nước.

4.2.2. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý nhà

nước về thanh niên

Nghị quyết số 25/NQ-TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa X)

về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã nhấn mạnh trách nhiệm, hiệu lực, hiệu

quả quản lý nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên: “Nhà nước quản

lý thanh niên và công tác thanh niên; thể chế hóa đường lối, chủ trương của

Đảng về thanh niên và công tác thanh niên thành pháp luật, chính sách, chiến

117

lược, chương trình hành động và cụ thể hóa trong các chương trình, kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh hằng năm của các cấp,

các ngành”. Theo đó, Đảng đề ra chủ trương, đường lối để Nhà nước thể chế

hóa thành chính sách, pháp luật về giáo dục và đào tạo, giải quyết việc làm,

xóa đói giảm nghèo, cung cấp thông tin khoa học và công nghệ cho thanh thiếu

niên để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội…

Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên, cấp ủy

đảng các cấp cần quán triệt đầy đủ, sâu sắc nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh

niên trong phạm vi cơ quan, tổ chức, đơn vị của mình. Từ đó có những chủ

trương cụ thể phù hợp với vị trí, chức năng của bộ, ngành, địa phương để lãnh

đạo chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện chiến

lược phát triển thanh niên với những chính sách, biện pháp, bước đi cụ thể.

Đồng thời, các cấp ủy Đảng phải có biện pháp quán triệt, yêu cầu mỗi đảng

viên gương mẫu thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên và công

tác thanh niên trên các cương vị công tác của mình.

Tổ chức Đảng các cấp cần phân công thường vụ, thường trực cấp ủy phụ

trách công tác thanh niên một cách trách nhiệm, phân công đảng viên có năng

lực, kinh nghiệm, tình cảm đối với thanh niên để phụ trách quản lý nhà nước

đối với thanh niên, từ đó nâng cao hiệu quả lãnh đạo công tác quản lý nhà

nước về thanh niên, đặc biệt trong việc bố trí, đào tạo và sử dụng cán bộ có

trình độ chuyên môn, có kỹ năng và ý thức trách nhiệm cao phụ trách công

tác thanh niên.

4.2.3. Hoàn thiện pháp luật về thanh niên, quản lý nhà nước về thanh niên

Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc

tiếp tục xây dựng, hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thanh niên,

quản lý nhà nước về thanh niên nói riêng là một nhiệm vụ rất quan trọng, tập

118

trung vào những nội dung cụ thể sau đây:

- Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật thanh niên năm 2020,

Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030. Trong đó,

hướng dẫn thực hiện thống nhất từ trung ương đến địa phương. Từ đó, hoàn

thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ vị trí, vai trò, chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho cán bộ, công chức đang thực hiện công tác quản

lý nhà nước về thanh niên tại các sở, ban ngành thuộc Ủy ban nhân dân các cấp

để có cơ chế cho việc thực hiện chính sách cho thanh niên và đội ngũ cán bộ,

công chức làm công tác quản lý nhà nước ở địa phương.

- Xây dựng Nghị định quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật thanh

niên năm 2020 trên cơ sở thống nhất một số quan điểm mang tính nguyên tắc

như: tiếp tục thể chế, cụ thể hóa Luật thanh niên năm 2020 và một số văn bản

quy phạm pháp luật có liên quan; ngôn ngữ sử dụng trong Nghị định phải rõ

ràng, không đa nghĩa; quá trình xây dựng Nghị định phải tuân thủ đầy đủ quy

định của pháp luật về trình tự, thủ tục thực hiện theo quy định của pháp luật,

đảm bảo những quy định khi được ban hành có tính khả thi, đáp ứng yêu cầu

của thực tiễn.

- Hoàn thiện, bổ sung chi tiết các quy định pháp luật về bảo vệ thanh niên,

bảo vệ dữ liệu về thanh niên trên mạng, trong đó đặc biệt lưu ý đến chế tài xử

phạt vi phạm hành chính.

- Sửa đổi, bổ sung hoạt động đối ngoại của nhà nước về thanh niên theo

nguyên tắc xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà

nước về thanh niên trong việc trao đổi, học tập kinh nghiệm thuộc lĩnh vực xây

dựng, hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với thanh niên.

4.2.4. Hoàn thiện chính sách phát triển thanh niên

Thanh niên được khẳng định là lớp người làm chủ tương lai của đất nước;

luôn được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nguồn

119

lực con người; chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực

bảo đảm cho sự ổn định và phát triền bền vững của đất nước. Tại hầu hết các

quốc gia, ở các mức độ khác nhau, Nhà nước đều có các chính sách đối với

thanh niên để bồi dưỡng, đào tạo và phát huy sự tham gia của thanh niên vào

tiến trình phát triển xã hội. Ở Việt Nam, Nhà nước cũng đã có nhiều chính sách

hướng tới mục tiêu xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam phát triển toàn diện;

phát huy tinh thần cống hiến, xung kích, tình nguyện và nâng cao trách nhiệm

của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc hoàn thiện

chính sách về thanh niên cần tập trung ở một số một số lĩnh vực cụ thể như:

- Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo cho thanh niên

Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc điều chỉnh các chính sách hỗ trợ

học tập cho thanh niên. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế như: sự khác biệt

trong tiếp cận giáo dục giữa dân tộc Kinh và các nhóm dân tộc thiểu số, giữa

thanh niên con em có hoàn cảnh khó khăn, giữa các vùng kinh tế - xã hội; sự

phân luồng đào tạo sau trung học cơ sở và hướng nghiệp cho học sinh, thanh

niên còn bất cập, chưa đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đề ra; cơ cấu đào tạo

nghề chưa sát với nhu cầu của xã hội… Trong thời gian tới, Nhà nước cần ban

hành chính sách tạo điều kiện cho học sinh được học tập, hướng nghiệp và có

việc làm ngay sau khi học xong chương trình trung cấp chuyên nghiệp hoặc

trung cấp nghề; ưu tiên dạy nghề cho thanh niên là bộ đội, công an xuất ngũ,

thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nữ thanh niên, thanh niên khuyết tật…;

đổi mới phương thức thông tin về cơ chế, chính sách, pháp luật về giáo dục và

đào tạo cho thanh niên; phát huy vai trò của thanh niên tham gia xây dựng,

giám sát chính sách, pháp luật về giáo dục, đào tạo; xây dựng xã hội học tập

thông qua việc thực hiện hiệu quả Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn

2021-2030; nâng cao năng lực ngoại ngữ, năng lực số cho thanh niên.

120

- Đối với lĩnh vực lao động, giải quyết việc làm

Từ các số liệu về lao động, việc làm và đào tạo nghề của Việt Nam cho

thấy, hiện nay, thanh niên Việt Nam đang gặp phải những vấn đề như: thất

nghiệp và thiếu việc làm; thanh niên nông thôn gặp nhiều khó khăn trong việc

tìm kiếm các cơ hội có việc làm ổn định; chất lượng lực lượng lao động còn

thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và cuộc cách mạng

khoa học công nghệ, tỷ lệ thanh niên được đào tạo chuyên môn kỹ thuật còn

thấp; định hướng đào tạo nghề còn nhiều khó khăn, bất cập, đặc biệt, đào tạo

cao đẳng, đại học chưa gắn với thị trường lao động.

Để khắc phục những hạn chế trong vấn đề lao động và việc làm của thanh

niên, tạo ra lực lượng lao động vàng, chúng ta cần xây dựng một chiến lược

phát triển nguồn nhân lực gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

nhằm tận dụng hiệu quả cơ hội vàng của dân số cho phát triển; tập trung vào

cải cách và điều chỉnh hệ thống đào tạo đại học, đào tạo nghề và chuyên môn

kỹ thuật hướng đến thị trường nhằm tạo ra một lực lượng lao động kỹ thuật có

tay nghề, có trình độ chuyên môn, đáp ứng yêu cầu lao động có kỹ năng của

các doanh nghiệp; ưu tiên tạo việc làm cho thanh niên là bộ đội, công an xuất

ngũ, thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nữ thanh niên, thanh niên khuyết

tật; hỗ trợ việc làm cho thanh niên sau cai nghiện, thanh niên hoàn lương; xây

dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động, nâng cao năng lực

hệ thống dịch vụ việc làm, các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc

làm cho thanh niên; có chính sách tạo điều kiện để thanh niên được tư vấn, định

hướng nghề nghiệp, cung cấp thông tin thị trường lao động; vay vốn ưu đãi và

nguồn tín dụng hợp pháp để tạo việc làm, phát triển sản xuất, kinh doanh; có

chính sách hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp, lập nghiệp, tham gia phát triển kinh

tế; nhân rộng các mô hình khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo thành công; hỗ trợ

121

phát triển các vườn ươm doanh nghiệp; ưu tiên nguồn vốn Quỹ quốc gia về việc

làm, vốn từ Ngân hàng chính sách xã hội để hỗ trợ thanh niên làm kinh tế thuộc

đối tượng vay vốn tại Ngân hàng chính sách xã hội theo quy định.

- Đối với lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe, đời sống văn hóa,

tinh thần cho thanh niên

Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe của thanh niên là một nội dung

rất quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên. Luật thanh

niên năm 2020 quy định: “Tư vấn, hỗ trợ nâng cao sức khỏe cho thanh niên;

phòng, chống bạo lực gia đình, bạo lực học đường, xâm hại tình dục; phòng,

chống ma túy, HIV/AIDS; phòng ngừa bệnh lây truyền qua đường tình dục,

bệnh xã hội khác và các nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất, tinh thần

của thanh niên. Bảo đảm cho thanh niên được cung cấp thông tin, tiếp cận dịch

vụ thân thiện về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục; được

tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn” (Điều 19). Bảo vệ, chăm sóc, nâng

cao sức khỏe, đời sống văn hóa, tinh thần cho thanh niên cần tập trung vào

những nhiệm vụ sau:

+ Nhà nước có chính sách để chăm sóc sức khỏe, nâng cao tầm vóc, thể

lực của thanh niên Việt Nam; tổ chức các hoạt động trang bị kiến thức, kỹ năng

về rèn luyện thể chất, nâng cao sức khỏe, chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe

tình dục, sức khỏe tâm thần; dân số và phát triển, bình đẳng giới và phòng

chống bạo lực trên cơ sở giới, bạo lực gia đình, bạo lực học đường, xâm hại

tình dục; các biện pháp phòng, chống HIV/AISD cho thanh niên; tổ chức tuyên

truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, kiến thức về kỹ năng sống cho thanh niên;

tổ chức các chương trình giáo dục kỹ năng trong trường học; nâng cao chất

lượng, hiệu quả hoạt động các thiết chế văn hóa thể thao, nhà thiếu nhi của

Đoàn; xây dựng các điểm sinh hoạt, vui chơi cho thanh thiếu nhi; phát triển sâu

122

rộng các hoạt động rèn luyện thể dục, thể thao trong thanh niên.

+ Tổ chức các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao, hoạt động

sinh hoạt cộng đồng cho thanh niên đô thị, thanh niên nông thôn, thanh niên

vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội

đặc biệt khó khăn tham gia tại nơi học tập, làm việc và cư trú. Quan tâm đầu tư

các chương trình, cuộc thi có tính giáo dục, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, phát

huy sở trường của thanh niên trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; tổ chức các

hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức, kỹ năng cho thanh niên sử dụng

các phương tiện kỹ thuật số phục vụ mục đích giao tiếp, truyền thông, kinh

doanh trên nền tảng kinh tế số.

4.2.5. Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách,

pháp luật về thanh niên

Xây dựng chính sách, pháp luật về thanh niên là nhiệm vụ quan trọng,

song hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên chỉ có thể đạt được khi làm tốt

công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về thanh niên, tập trung

vào những nhiệm vụ sau:

- Tiếp tục nâng cao nhận thức của cấp ủy, lãnh đạo các bộ, ngành, địa

phương về vị trí, vai trò của thanh niên và công tác tuyên truyền, phổ biến chính

sách, pháp luật về thanh niên đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

- Đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất và các điều kiện bảo đảm triển khai công

tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về thanh niên.

- Lựa chọn các nội dung pháp luật để phổ biến cho thanh niên phù hợp với

nhu cầu và lứa tuổi, trong đó chú trọng các quy định về quyền và nghĩa vụ,

trách nhiệm của thanh niên liên quan đến một số lĩnh vực pháp luật như: lao

động; việc làm; dân sự; hình sự; hôn nhân và gia đình; bảo vệ, chăm sóc, giáo

123

dục trẻ em; giao thông đường bộ; phòng, chống các tệ nạn xã hội như ma túy,

mại dâm; bảo vệ môi trường, biển đảo; cư trú, bình đẳng giới; bạo lực học

đường; khởi nghiệp…

- Lựa chọn hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp

với đặc điểm của đối tượng, địa bàn; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin,

tận dụng tối đa ưu thế của các công cụ, phương tiện truyền thông hiện đại, mạng

xã hội; xây dựng các bộ công cụ, sản phẩm tuyên truyền trẻ trung, sinh động

phù hợp với thị hiếu của thanh niên trên internet, mạng xã hội và các thiết bị di

động thông minh; lồng ghép tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với các

hoạt động văn hóa, văn nghệ, các phong trào, hoạt động của tổ chức Đoàn thanh

niên.

- Xây dựng mạng lưới tuyên truyền viên quản lý nhà nước về thanh niên

ở các cấp; bồi dưỡng, nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ thanh niên

làm báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật là người dân tộc thiểu số và tham

gia công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tại vùng đồng bào dân

tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khan.

- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước về thanh niên; các văn bản quy phạm pháp luật về

thanh niên, quản lý nhà nước về thanh niên như: Luật thanh niên năm 2020;

Nghị định số 13/2021/NĐ-CP ngày 01 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ quy

định về đối thoại với thanh niên; cơ chế, chính sách và biện pháp thực hiện

chính sách đối với thanh niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; Nghị định số

17/2021/NĐ-CP ngày 09 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ quy định về chính

sách đối với thanh niên xung phong, thanh niên tình nguyện; Chiến lược phát

triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030 đã được Thủ tưởng Chính phủ

phê duyệt theo Quyết định số 1331/QĐ-TTg ngày 24 tháng 7 năm 2021...

- Đổi mới nội dung, hình thức phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh niên

124

phù hợp với từng nhóm đối tượng và điều kiện địa bàn, trong đó chú trọng

nhóm thanh niên dễ bị tổn thương, thanh niên vùng đồng bào dân tộc thiểu số

và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn...

- Tổ chức tập huấn nghiệp vụ quản lý nhà nước về thanh niên và các văn

bản có liên quan, trong đó, Sở nội vụ tham mưu cho Ủy ban nhân dân ban hành

kế hoạch và tổ chức tập huấn nghiệp vụ quản lý nhà nước về thanh niên và các

văn bản cho các đối tượng như: các bộ, công chức của các sở, ban, ngành trực

tiếp tham mưu, xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách pháp luật đối với

thanh niên và quản lý nhà nước về thanh niên; các cán bộ, công chức trực tiếp

làm công tác thanh niên...

4.2.6. Tiếp tục kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên để đáp

ứng với nhiệm vụ được giao

Hiện nay, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên các cấp đang

tiếp tục được kiện toàn; cán bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về

thanh niên chưa đầy đủ, chưa ổn định và thường xuyên có sự thay đổi nên công

tác tham mưu, đề xuất ban hành, hướng dẫn và đôn đốc thực hiện cơ chế, chính

sách cho thanh niên còn gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó các cơ quan, đơn vị

có nhiều nhiệm vụ liên quan đến sự phát triển của thanh niên chỉ tham gia ở

góc độ phối hợp hoặc theo yêu cầu của đề án, nhiệm vụ từ văn bản chỉ đạo của

Trung ương mà chưa có sự chủ động tham mưu theo yêu cầu, nguyện vọng

phát triển của thanh niên. Vì vậy, công tác quản lý nhà nước về thanh niên

chưa thực sự phát huy được hiệu quả. Để phát huy được sức mạnh của thanh

niên và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên cần có một

đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên có bản

lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, có trình độ chuyên môn nghiệp

vụ, đồng thời phải am hiểu về thanh niên, tập trung vào những nội dung sau:

- Thực hiện tốt chế độ, chính sách cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản

125

lý nhà nước về thanh niên. Thực hiện quy hoạch đội ngũ cán bộ làm công tác

quản lý nhà nước về thanh niên theo hướng đảm bảo số lượng, nâng cao chất

lượng. Trong đó, xác định đầy đủ những tiêu chuẩn, yêu cầu về trình độ chuyên

môn như: có tinh thần xung kích, tình nguyện, có tác phong giao tiếp thân

thiện, cởi mở, nhiệt tình; am hiểu về thanh niên, nắm bắt tâm sinh lý lứa tuổi,

đặc điểm thanh niên; vận dụng sáng tạo các chủ trương của Đảng, chính sách,

pháp luật của nhà nước về thanh niên và quản lý nhà nước về thanh niên; có

kiến thức và năng lực tham mưu hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách,

pháp luật về thanh niên.

- Bổ sung vị trí việc làm và biên chế chuyên trách về quản lý nhà nước

về thanh niên ở các bộ, ngành tương đương với mô hình tại các địa phương

nhằm khắc phục tình trạng giao kiêm nhiệm như hiện nay; các bộ, ngành

Trung ương cần bố trí, phân công cán bộ theo dõi, thực hiện công tác quản

lý nhà nước về thanh niên của bộ, ngành để làm đầu mối phối hợp với Bộ

Nội vụ tổ chức triển khai thực hiện. Cần đặc biệt chú trọng bổ sung đội ngũ

cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên ở cấp quận, huyện và

phường, nhất là các quận có đông thanh niên với sự phức tạp của nhiều thành

phần; Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố giao trách nhiệm cho các cơ quan

liên quan và xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện quản lý nhà nước về

thanh niên tới các cấp chính quyền.

- Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà

nước về thanh niên. Trong đó, chú trọng các kiến thức chung như: quan điểm,

đường lối của Đảng về thanh niên; các văn bản quy phạm pháp luật về thanh

niên và quản lý nhà nước về thanh niên; các kỹ năng, nghiệp vụ và phương

pháp quản lý nhà nước về thanh niên như: kỹ năng lập kế hoạch, xây dựng và

tổ chức triển khai thực hiện các chương trình, đề án, dự án phát triển thanh

niên; kỹ năng lồng ghép các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển thanh niên khi xây

126

dựng chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các cấp, các ngành;

kỹ năng kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật cho thanh niên

và quản lý nhà nước về thanh niên.

4.2.7. Phát huy tốt cơ chế phối hợp liên ngành giữa các bộ, ngành trung

ương và chính quyền địa phương, đảm bảo tính thống nhất, khoa học, hiệu

quả trong quá trình xây dựng, thực thi chính sách, pháp luật về thanh niên

Sự phối hợp liên ngành giữa các bộ, ngành trung ương và chính quyền địa

phương thông qua việc thực hiện quản lý nhà nước về thanh niên theo lĩnh vực,

địa bàn là rất cần thiết. Chính phủ luôn quan tâm, tạo cơ chế phối hợp giải

quyết các vấn đề liên quan đến thanh niên, thông qua việc định kỳ hàng năm

làm việc với Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Ngày 29

tháng 12 năm 2017, Chính phủ đã ký Nghị quyết liên tịch số 01/NQLT-CP-

BCHTWĐ về Quy chế phối hợp công tác của Chính phủ và Ban Chấp hành

Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh giai đoạn 2017-2022,

trong đó giao cho các bộ, ngành liên quan phối hợp với Trung ương Đoàn trong

công tác chăm lo, bồi dưỡng và phát huy thanh niên; phối hợp xây dựng, thực

hiện và giám sát chính sách, pháp luật đối với thanh niên; quy định chế độ hội

họp, cung cấp, trao đổi thông tin về thanh niên và công tác thanh niên. Ủy ban

nhân dân các tỉnh, thành phố phối hợp với Ban Chấp hành tỉnh, thành đoàn

triển khai quy chế phối hợp, cụ thể hóa các nội dung trong chương trình, kế

hoạch hoạt động năm. Tuy nhiên, trên thực tế, sự phối hợp giữa các cơ quan

quản lý nhà nước còn chưa chặt chẽ. Cơ chế phối hợp, cung cấp thông tin giữa

Bộ Nội vụ với Ủy ban quốc gia về thanh niên Việt Nam, Trung ương Đoàn

Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các bộ, ngành với chính quyền các địa

phương trong thực hiện quản lý nhà nước về thanh niên vẫn còn hạn chế. Để

nâng cao hiệu quả của cơ chế phối hợp liên ngành cần tập trung vào một số nội

dung sau:

127

- Hàng năm, Bộ Nội vụ cần có hướng dẫn cụ thể về các tiêu chí để thực

hiện các nhiệm vụ, đề án, dự án được giao trong Luật thanh niên năm 2020 và

các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật thanh niên năm 2020.

Ban hành các văn bản chỉ đạo đối với các bộ, ngành liên quan trong việc triển

khai thực hiện theo hệ thống ngành dọc ở các lĩnh vực chuyên môn như: giáo

dục, y tế, văn hóa – thể thao, lao động – thương binh và xã hội; bổ sung quy

định về xây dựng bộ công cụ để thu thập dữ liệu về thanh niên và giao trách

nhiệm cụ thể cho từng cơ quan, đơn vị phụ trách ở từng nội dung dữ liệu, trong

đó có cơ quan chịu trách nhiệm quản lý, tổng hợp làm đầu mối cung cấp số

liệu khi cần thiết cho các ngành, các cấp chính quyền làm cơ sở cho việc nghiên

cứu, tham mưu cũng như đánh giá mức độ hoàn thành các chỉ tiêu trong việc

thực hiện các chính sách dành cho thanh niên.

- Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, các tổ chức chính trị -

xã hội, các tổ chức xã hội có đối tượng trong độ tuổi thanh niên trong quá trình

thực hiện các giải pháp từ Trung ương đến địa phương. Trong đó, tập trung

vào mạng lưới các cơ sở Đoàn bao phủ đến các phường, xã sẽ thuận lợi trong

việc rà soát, thống kê đối tượng thanh niên, nắm bắt nhu cầu về đào tạo, việc

làm, khởi nghiệp của thanh niên để có sự phối hợp kịp thời.

- Các bộ, ngành, cơ quan liên quan tăng cường phối hợp với Trung ương

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức triển khai có hiệu quả Luật

thanh niên, Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và

chính sách, pháp luật đối với thanh niên; tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ, công

chức, viên chức trẻ và đoàn viên, thanh niên phát huy tinh thần xung kích trong

tham gia, đề xuất các giải pháp cải cách thủ tục hành chính, tham gia xây dựng

Chính phủ điện tử, chính quyền điện tử và chuyển đổi số quốc gia. Nâng cao

vai trò, vị trí của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong

việc xây dựng Chính phủ mới, liêm chính, kỷ cương, hành động, hiệu quả, vì

128

nhân dân phục vụ.

- Các cơ quan quản lý nhà nước về thanh niên chịu trách nhiệm chính

trong việc quản lý các số liệu về tình hình thanh niên; nghiên cứu, khảo sát, dự

báo và lập kế hoạch về quản lý thanh niên theo định kỳ; tham mưu chính sách,

quy định cho Ủy ban nhân dân các cấp ban hành hoặc trình các cơ quan cấp

trên; triển khai, đôn đốc, theo dõi việc thực hiện các chính sách, quy định đó

trong thực tiễn; thẩm định, cho ý kiến và trình Ủy ban nhân dân các cấp ban

hành, quyết định đối với các đề án, dự án, chương trình… liên quan đến phát

triển thanh niên; theo dõi, xử lý, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực

quản lý nhà nước đối với thanh niên.

- Định kỳ hàng năm, Bộ Nội vụ phối hợp với Trung ương Đoàn Thanh

niên Cộng sản Hồ Chí Minh tham mưu Thủ tướng Chính phủ tổ chức Hội nghị

đối thoại với thanh niên để nắm bắt tình hình; lắng nghe những kiến nghị, đề

xuất của thanh niên, kịp thời chỉ đạo giải quyết, tháo gỡ những tồn tại, hạn chế,

những khó khăn, vướng mắc liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của thanh

niên trong quá trình xây dựng, triển khai thực hiện chính sách, pháp luật của

nhà nước đối với thanh niên. Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí

Minh có trách nhiệm phối hợp, trao đổi thông tin với các bộ, cơ quan ngang

bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong quá trình tham gia nghiên cứu, đề xuất hoặc

góp ý xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật, chế độ,

chính sách cho thanh niên và công tác thanh niên; phối hợp với Bộ Nội vụ triển

khai các nội dung nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về

thanh niên.

- Lồng ghép chính sách thanh niên trong các chính sách phát triển ngành,

lĩnh vực, địa phương; đưa các chỉ số của thanh niên và quản lý nhà nước về

thanh niên vào chỉ số thống kê quốc gia, trong chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội của các ngành, các cấp; coi việc thực hiện các chỉ tiêu phát triển

129

thanh niên là một trong những chỉ số đánh giá sự tăng trưởng của từng địa

phương, đơn vị và cả nước.

- Ủy ban quốc gia về thanh niên Việt Nam cần tiếp tục nâng cao năng lực

tham mưu tổng hợp; tăng cường kinh phí nghiên cứu chính sách, tổ chức các

diễn đàn đối thoại chính sách, xây dựng trang thông tin điện tử của Ủy ban là

nơi trao đổi, thông tin chính thống về chính sách phát triển thanh niên; chú

trọng công tác phối hợp trong nghiên cứu chính sách với Viện Nghiên cứu

Thanh niê Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và các ban của Trung ương

Đoàn theo dõi các đối tượng, lĩnh vực, Vụ Công tác thanh niên Bộ Nội vụ;

thực hiện tốt vai trò của Ủy ban trong công tác đối ngoại về thanh niên, thông

qua đó, trao đổi kinh nghiệm quốc tế, thu hút nguồn lực cho sự phát triển thanh

niên; tăng cường hoạt động kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách phát

triển thanh niên ở các địa phương, bộ, ngành.

- Sở Nội vụ cần tăng cường phối hợp với các sở ban ngành xây dựng,

hoàn thiện và đẩy mạnh triển khai hiệu quả các chương trình, đề án về thanh

niên. Tham mưu tuyển chọn, bố trí và sử dụng có hiệu quả tài năng trẻ trên tất

cả các lĩnh vực, tạo bước chuyển có tính đột phá trong công tác cán bộ; xây

dựng cơ chế bố trí cán bộ trẻ có tài năng đảm nhận các nhiệm vụ quan trọng,

phù hợp; tạo bước đột phá trong việc bố trí, sử dụng cán bộ trong độ tuổi thanh

niên để từng bước nâng tỉ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý trẻ ở các cấp, các ngành.

- Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tham gia quản lý nhà nước về

thanh niên trên một số mặt như: tham gia xây dựng chính sách, pháp luật liên

quan đến thanh niên và quản lý nhà nước về thanh niên với những phương thức

khác nhau; chủ động xây dựng và đề xuất, trình các cơ quan quản lý nhà nước

có thẩm quyền, tham gia đóng góp ý kiến, phản biện chính sách đối với đoàn

viên thanh niên trực tiếp tại đơn vị; thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục

pháp luật, chính sách cho thanh niên; kiểm tra, giám sát quá trình và kết quả

130

thực hiện pháp luật, chính sách đối với thanh niên và công tác thanh niên; tham

gia hợp tác quốc tế về thanh niên.

4.2.8. Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác quốc tế thanh niên

Chiến lược phát triển thanh niên giai đoạn 2021-2030 đã đề ra giải pháp

đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong thực hiện Chiến lược: (a) Tăng cường hợp tác

quốc tế trong xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên; giao lưu

thanh niên; tích cực, chủ động tham gia xây dựng, ký kết và thực hiện điều

ước, thỏa thuận khu vực và quốc tế về thanh niên; (b) Nâng cao nhận thức của

thanh niên về chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có

hiệu quả; tạo điều kiện để thanh niên tham gia các hoạt động hợp tác, giao lưu

quốc tế về thanh niên; (c) Khai thác, phát huy hiệu quả sự hỗ trợ của các tổ

chức quốc tế để thực hiện Chiến lược gắn với thực hiện và hoàn thành các mục

tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc, chỉ tiêu phát triển thanh niên toàn

cầu và các cam kết, mục tiêu của Cộng đồng ASEAN.

Thực trạng về quản lý nhà nước về thanh niên cho thấy, phần lớn công

tác hợp tác quốc tế về thanh niên do Đoàn thanh niên thực hiện là chính. Hiện

nay, nội dung này đã được giao cho ngành Nội vụ. Để thực hiện tốt nhiệm vụ

này, cần xây dựng quy chế quản lý nhà nước đối với lĩnh vực hợp tác quốc tế

về thanh niên. Trong đó, quy định cụ thể nội dung quản lý, nội dung hợp tác

quốc tế về thanh niên, công tác thanh niên, chủ thể chịu trách nhiệm làm đầu

mối quản lý, liên lạc, tiếp nhận, tổ chức các hoạt động này với danh nghĩa các

tổ chức khác nhau; tăng cường hợp tác quốc tế về thanh niên, bảo đảm nguyên

tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với

luật pháp của mỗi nước, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và thông

lệ quốc tế.

Chính phủ tạo điều kiện để Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ

Chí Minh và Ủy ban Quốc gia về thanh niên Việt Nam tổ chức các hoạt động

131

đối ngoại thanh niên và hợp tác quốc tế về thanh niên, mở rộng, đa phương

hóa, đa dạng hóa quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế; tổ chức các hoạt động

giao lưu, kết nối, hỗ trợ thanh niên, du học sinh nước ngoài đang sinh sống,

học tập tại Việt Nam và hỗ trợ, phát huy lực lượng thanh niên Việt Nam tại

nước ngoài; nâng cao chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại

thông qua đội ngũ báo cáo viên là cán bộ ngoại giao có kinh nghiệm, cung cấp

các thông tin về tình hình thế giới và khu vực cho Trung ương Đoàn; tổ chức

các hoạt động nâng cao năng lực hội nhập quốc tế, đặc biệt là năng lực ngoại

ngữ, tiếng Anh cho thanh niên; đẩy mạnh công tác vận động, khuyến khích,

phát huy vai trò của thanh niên Việt Nam ở nước ngoài hướng về Tổ quốc, góp

phần xây dựng đất nước; tăng cường hợp tác, khai thác các dự án, nguồn lực

quốc tế theo quy định của pháp luật để hỗ trợ công tác đoàn và phong trào

thanh thiếu nhi, đặc biệt là lĩnh vực tình nguyện vì cộng đồng, phát triển bền

vững, nâng cao năng lực hội nhập quốc tế, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.

Kết luận chương 4

Dưới tác động của xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và cuộc

cách mạng khoa học công nghệ 4.0, bên cạnh những cơ hội, thanh niên thế giới

và thanh niên Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn, thách thức, đòi hỏi phải

có sự thay đổi để thích ứng với những biến đổi của đời sống xã hội. Để phát

huy sức lực, trí tuệ của thanh niên vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

trong tình hình mới cần có sự chung tay của toàn xã hội, trong đó, nâng cao

132

hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên có ý nghĩa hết sức quan trọng. Làm

tốt công tác quản lý nhà nước về thanh niên sẽ góp phần hình thành một thế hệ

thanh niên Việt Nam thời kỳ mới có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị

kiên định, vững vàng; trung thành và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của

Đảng; có lý tưởng cách mạng cao đẹp, giàu lòng yêu nước; có trí tuệ, sức khỏe;

giàu ước mơ, hoài bão; có khát vọng cống hiến sức trẻ, trí tuệ của mình cho sự

nghiệp xây dựng đất nước giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.

Mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên nhằm hướng

đến việc tạo ra một môi trường thuận lợi nhất để thanh niên thực hiện quyền

và nghĩa vụ của mình; đồng thời, phát huy vai trò của thanh niên trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đạt được mục tiêu này, những giải

pháp mà chúng tôi hướng đến là nâng cao nhận thức về vai trò của thanh niên,

quản lý nhà nước về thanh niên; xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về

thanh niên, quản lý nhà nước về thanh niên; tiếp tục kiện toàn bộ máy quản lý

nhà nước về thanh niên để đáp ứng với nhiệm vụ được giao; phát huy tốt cơ

chế phối hợp liên ngành giữa các bộ, ngành trung ương và chính quyền địa

phương, đảm bảo tính thống nhất, khoa học, hiệu quả trong quá trình xây dựng,

thực thi chính sách, pháp luật về thanh niên…

KẾT LUẬN

Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, có vai trò rất quan trọng đối với sự

phát triển trong hiện tại và tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc. Phát triển thanh

niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước. Tuyên bố của Teheran

đã viết: “Khát vọng của thế hệ trẻ về một thế giới tốt đẹp hơn, trong đó các

quyền con người và các quyền tự do cơ bản được thực hiện đầy đủ, phải được

khuyến khích cao nhất. Tuổi trẻ bắt buộc phải tham gia vào việc định hình

tương lai của nhân loại” (Tuyên bố Teheran, Hành động cuối cùng của

133

Confcnam Quốc tế hoặc Nhân quyền, Teheran. Iran, ngày 22 tháng 4 đến ngày

13 tháng 5 năm 1968 (đoạn 17)) [98, tr.16]. Để phát triển thanh niên, hầu hết

các quốc gia trên thế giới đều có chính sách về thanh niên với mục đích chung

là tạo ra và phát huy những điều kiện tốt nhất cho sự phát triển và đóng góp

cho xã hội của thanh niên.

1. Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, quyền, nghĩa vụ của thanh

niên, chính sách phát triển thanh niên đã được các nước trên thế giới quan tâm

và ghi nhận trong các quy tắc pháp lý của quốc gia và quốc tế, được bảo đảm

thực hiện trên thực tế. Ở Việt Nam, chính sách, pháp luật, quản lý nhà nước về

thanh niên đã được các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học, các cơ quan quản lý

quan tâm và bước đầu đã có những nhìn nhận khái quát về vấn đề này. Tuy

nhiên, đó cũng mới chỉ là những công trình nghiên cứu đơn lẻ, chưa hệ thống,

toàn diện.

2. Về mặt lý luận, luận án đã đưa ra khái niệm quản lý nhà nước về thanh

niên “là quá trình tác động có mục đích của cơ quan nhà nước có thẩm quyền

bằng chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện có hiệu quả, hiệu lực chính

sách, pháp luật trên thực tế tác động trực tiếp đến thanh niên theo những

nguyên tắc và phương pháp quản lý nhằm bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ

và trách nhiệm của thanh niên theo quy định của Hiến pháp, pháp luật”.

Luận án cũng đã làm rõ vai trò, đặc điểm, nội dung cũng như các yếu tố

ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về thanh niên.

3. Về mặt thực tiễn, bằng việc đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về

thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, quản lý nhà nước về thanh

niên được Nhà nước quan tâm, thanh niên là trọng tâm trong chính sách phát

triển con người, phát triển nguồn lực. Điều này góp phần hình thành một thế

hệ thanh niên Việt Nam thời kỳ mới có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính

trị kiên định, vững vàng; có sức khỏe, trí tuệ và khát vọng cống hiến; góp phần

134

vào sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trước xu thế

toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, thực tiễn quản lý nhà nước về thanh

niên cũng bộc lộ những hạn chế nhất định như: hiệu quả quản lý nhà nước về

thanh niên chưa cao; việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách,

pháp luật chưa đồng bộ, nhiều nội dung chính sách triển khai chưa thực sự hiệu

quả…

4. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về thanh

niên, qua phân tích hạn chế và những nguyên nhân của hạn chế và dự báo tình

hình thanh niên Việt Nam, luận án đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả quản lý nhà nước về thanh niên như: nhận thức đúng, đầy đủ về vai trò của

thanh niên và quản lý nhà nước về thanh niên; nâng cao vai trò lãnh đạo của

Đảng đối với công tác quản lý nhà nước về thanh niên; hoàn thiện pháp luật về

thanh niên, quản lý nhà nước về thanh niên; hoàn thiện chính sách phát triển

thanh niên; nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp

luật về thanh niên; tiếp tục kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên;

phát huy tốt cơ chế phối hợp liên ngành trong quản lý nhà nước về thanh niên;

đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác quốc tế thanh niên.

5. Với tầm hiểu biết còn hạn chế và trong phạm vi có hạn, luận án đã phân

tích, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước về thanh

niên để từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về

thanh niên ở Việt Nam hiện nay. Những kết quả nghiên cứu bước đầu của luận

án góp phần nâng cao nhận thức về quyền, nghĩa vụ của thanh niên, thông qua

đó, góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước về thanh niên để thanh niên phát

triển và phát huy sức mạnh của thanh niên vào phát triển kinh tế - xã hội và

135

xây dựng đất nước.

136

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

_________________________

Các bài viết Tạp chí liên quan công trình:

1. Nguyễn Lê Trọng Tâm.2022 “Quản lý nhà nước về công tác thanh niên trong giai

đoạn hiện nay”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, ISSN 0866-756X, số 08/2022,

tr.90-97;

2. Nguyễn Lê Trọng Tâm.2022 “Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với công

tác thanh niên tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí

Nhân lực Khoa học xã hội, ISSN 0866-756X, số 08/2022, tr.41-47;

3. Nguyễn Lê Trọng Tâm.2020. “Quy định mới của Luật thanh niên 2020 và giải

pháp triển khai thực hiện”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, ISSN 9866-7535, số

12/2020, tr.55-59;

137

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt

1. Bộ Nội vụ (2008), Thông tư số 04/2008/TT-BNV ngày 04 tháng 6 năm

2008 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Nội vụ, Phòng Nội vụ thuộc Ủy ban nhân dân

cấp tỉnh, cấp huyện.

2. Bộ Nội vụ (2011), Quyết định số 1923/QĐ-BNV ngày 28 tháng 11 năm

2011 của Bộ Nội vụ về việc phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng nghiệp

vụ quản lý nhà nước về Công tác thanh niên cho đội ngũ cán bộ, công

chức làm Công tác thanh niên các cấp, các ngành giai đoạn 2011-2015.

3. Bộ Nội vụ, Quỹ dân số Liên Hợp quốc tại Việt Nam (UNFPA) (2015),

Báo cáo quốc gia về thanh niên Việt Nam, Hà Nội.

4. Bộ Nội vụ - UNDPA (2017), tài liệu Hội nghị Triển khai thực hiện các

văn kiện mới được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành về tổ chức

và chính sách đối với thanh niên”, Hà Nội.

5. Bộ Nội vụ - UNFPA (2022), Tài liệu hội nghị phổ biến, triển khai thực

hiện chính sách, pháp luật về thanh niên, Khánh Hòa.

6. Bộ Nội vụ (2022), Công văn số 439/BNV-CTTN ngày 09 tháng 2 năm

2022 của Bộ Nội vụ về việc hướng dẫn thực hiện một số nhiệm vụ trọng

tâm trong công tác quản lý nhà nước về thanh niên năm 2022.

British Council (2020), Báo cáo nghiên cứu thế hệ trẻ Việt Nam, Hà Nội. 7.

Chính phủ (2007), Nghị định số 120/2007/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 8.

2007 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh niên

năm 2005.

9. Chính phủ (2008), Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm

2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy

138

ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

10. Chính phủ (2008), Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm

2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy

ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh.

11. Chính phủ (2008), Quyết định số 103/2008/QĐ-TTg ngày 21 tháng 7

năm 2008 của Thủ tưởng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Hỗ trợ thanh

niên học và tạo việc làm giai đoạn 2008-2015”.

12. Chính phủ (2011), Quyết định số 2474/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm

2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển thanh

niên Việt Nam giai đoạn 2011-2020.

13. Chính phủ (2012), Nghị định số 61/2012/NĐ-CP ngày 10 tháng 8 năm

2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu

tổ chức của Bộ Nội vụ.

14. Chính phủ (2021), Nghị định số 13/2021/NĐ-CP ngày 01 tháng 3 năm

2021 của Chính phủ Quy định về đối thoại với thanh niên; cơ chế, chính

sách và biện pháp thực hiện chính sách đối với thanh niên từ đủ 16 tuổi

đến dưới 18 tuổi.

15. Chính phủ (2021), Quyết định số 1331/QĐ-TTg ngày 24 tháng 7 năm

2021 của Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển thanh niên Việt

Nam giai đoạn 2021-2030.

16. Chính phủ (2022), Quyết định số 282/QĐ-TTg ngày 25 tháng 02 năm

2022 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ chế

hoạt động của Ủy ban Quốc gia về Thanh niên Việt Nam.

17. Chính phủ - Ban Chấp hành Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh

(2022), Nghị quyết liên tịch Ban hành Quy chế phối hợp công tác của

Chính phủ và Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản

139

Hồ Chí Minh giai đoạn 2022 - 2027

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Sự thật, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban

Chấp hành Trung ương khóa X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ XIII, tập I, tập II, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.

23. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Đoàn Thành phố Hồ Chí

Minh (2022), Các báo cáo chuyên đề, đề án, chương trình, kế hoạch,

công trình thanh niên, tham luận, Hà Nội.

24. Nguyễn Hải Đăng (2012), Tổ chức, đào tạo cán bộ làm công tác thanh

thiếu niên theo chương trình giáo dục đại học tại Học viện Thanh thiếu

niên Việt Nam, Đề tài khoa học cập Bộ, Hà Nội.

25. Giáo trình Quản lý hành chính nhà nước, tập 1, NXB Chính trị Quốc gia,

2007.

26. Lê Thị Hà (2017), Đổi mới phương thức lãnh đạo của các tỉnh ủy vùng

Bắc Trung bộ đối với công tác thanh niên giai đoạn hiện nay, Luận án

tiến sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà

Nội, 2017.

27. Nguyễn Long Hải (2015), Một số nội dung sửa đổi, bổ sung Luật thanh

niên năm 2005, Đề tài khoa học cấp Bộ, Trung ương Đoàn TNCS Hồ

140

Chí Minh.

28. Nguyễn Long Hải (2017), Chính sách phát triển thanh niên – Thực trạng

và giải pháp, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Ủy ban Quốc gia về thanh niên

Việt Nam - Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.

29. Đỗ Thị Thu Hằng, Nguyễn Tuấn Dũng (2019), Nghiên cứu xây dựng

khung chi tiết của Luật thanh niên theo hướng tiếp cận phát triển, Viện

Nghiên cứu Thanh niên, yri.edu.vn, ngày đăng 15/11/2019.

30. Đỗ Thị Thu Hằng (2019), Giải pháp của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ

Chí Minh trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thanh niên,

Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện nghiên cứu Thanh niên.

31. Đỗ Thị Thu Hằng, Nguyễn Tuấn Dũng (2019), Nghiên cứu xây dựng

khung chi tiết của Luật Thanh niên theo hướng tiếp cận phát triển đăng

trên mục nghiên cứu của Trang thông tin điện tử của Viện Nghiên cứu

Thanh niên.

32. Nguyễn Thị Quỳnh Hoa (2017), Tổng quan tình hình nghiên cứu thanh

niên giai đoạn 2012-2017 và dự báo tình hình thanh niên giai đoạn 2017-

2022, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Nghiên cứu Thanh niên.

33. Nguyễn Văn Hùng (2021), Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công

tác thanh niên trong thời kỳ mới, Trang Thông tin điện tử của Hội đồng

Lý luận Trung ương ngày 18/3/2021, http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-

doi/doi-moi-su-lanh-dao-cua-dang-doi-voi-cong-tac-thanh-nien-trong-

thoi-ky-moi.html

34. Nguyễn Xuân Hùng (2019), Nghiên cứu tổng kết 10 năm Đoàn TNCS

Hồ Chí Minh thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành

Trung ương Đảng khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với

công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”,

141

Đề tài khoa học cấp Bộ, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.

35. Nguyễn Quốc Huy (2016), Quản lý nhà nước về công tác thanh niên từ

thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn thạc sĩ ngành Luật Hiến pháp và

luật hành chính, Học viện Khoa học xã hội.

36. Trần Ngọc Hương (2015), Quản lý nhà nước về công tác thanh niên từ

thực tiễn Thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ ngành Luật Hiến pháp và

luật hành chính, Học viện Khoa học xã hội.

37. Nguyễn Hồng Kiên (2022), Quản lý nhà nước về côn tác thanh niên hiện

nay, Tạp chí điện tử Tổ chức Nhà nước,

https://tcnn.vn/news/detail/4570/Quan_ly_nha_nuoc_ve_cong_tac_thanh_nien_hien_n

ayall.html;

38. Vũ Thành Liêm (2014), Quản lý nhà nước về công tác thanh niên từ thực

tiễn Quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ ngành Luật

hiến pháp và luật hành chính, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

Liên Hợp quốc (1948), Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền. 39.

Liên Hợp quốc (1966), Công ước quốc tế các quyền kinh tế, xã hội và 40.

văn hóa.

Liên Hợp quốc (1976), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị. 41.

Liên Hợp quốc (1979), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối 42.

xử đối với phụ nữ.

43. Liên Hợp quốc (1979), Công ước về quyền trẻ em.

44. M.I. Calinin (1982), Bàn về thanh niên, NXB Thanh niên, Hà Nội.

45. Học viện Hành chính (2010), Giáo trình Lý luận hành chính nhà nước

(Giáo trình đại học).

Hồ Chí Minh tuyển tập (1980), tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội. 46.

Hồ Chí Minh toàn tập (1995), tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 47.

Hồ Chí Minh Toàn tập (2011), NXB Chính trị Quốc gia. 48.

142

Hồ Chí Minh (1980), Về giáo dục thanh niên, NXB Thanh niên, Hà Nội. 49.

50. Vũ Đăng Minh (2016), Quản lý nhà nước về thanh niên thời kỳ công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2016.

51. Hồ Chí Minh (2002), Về giáo dục thanh niên, NXB Thanh niên, Hà Nội.

52. Monica Barry (2005), Chính sách thanh niên và hòa nhập xã hội:

cuộc tranh luận quan trọng với thanh niên.

53. Đặng Văn Nhân (2018), Điều tra một số nội dung sửa đổi Luật

Thanh niên, Đề tài khoa học cấp Viện, Viện Nghiên cứu Thanh niên.

54. Hoàng Phê (chủ biên), (2013), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng – Trung

tâm Từ điển học, Hà Nội.

55. LP, Chín nhiệm vụ trọng tâm trong quản lý nhà nước về thanh niên

năm 2022, Báo Điện tử Chính phủ ngày 14/2/2022,

https://baochinhphu.vn/9-nhiem-vu-trong-tam-trong-quan-ly-nha-

nuoc-ve-thanh-nien-nam-2022-10222021414242465.htm

56. Phòng Công tác thanh niên, Sở Nội vụ tỉnh Vĩnh Phúc, Tìm hiểu về

công tác thanh niên và quản lý nhà nhà nước về công tác thanh niên,

Trang Thông tin Sở Nội vụ Tỉnh Vĩnh Phúc,

https://sonoivu.vinhphuc.gov.vn/ct/cms/chuyenmon/Lists/XayDun

gChinhQuyen/View_Detail.aspx?ItemID=62, ngày đăng 24/4/2022.

Quốc hội (2005), Luật Thanh niên năm 2005. 57.

Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 58.

Quốc hội (2020), Luật Thanh niên 2020. 59.

Lê Văn Ri (2017), Đổi mới tổ chức và hoạt động của Đoàn Thanh niên 60.

Cộng sản Hồ Chí Minh trong đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước, Luận án tiến sĩ ngành Chính trị học, Học viện Chính trị Quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

61. Đoàn Văn Thái (2006), Quản lý nhà nước đối với công tác thanh niên

143

trong giai đoạn hiện nay, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

62. Lê Hồng Thắm (2015), Đổi mới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Kiên Giang đối

với công tác thanh niên trong giai đoạn hiện nay, Luận văn ngành Xây

dựng Đảng và chính quyền Nhà nước, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

63. Đàm Thị Thư (2014), Chính sách phát triển thanh niên từ thực tiễn Viện

Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Luận văn thạc sĩ ngành Chính sách

công, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

64. Nguyễn Minh Trí (2011), Tỉnh ủy Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác thanh

niên trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, Học

viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

65. Nguyễn Phú Trọng (2013), Công tác thanh niên là vấn đề sống còn của

dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách

mạng, Tạp chí Cộng sản, (1), tr6-11.

66. Nguyễn Văn Trung (2008), Chính sách và quản lý nhà nước về công tác

thanh niên ở một số nước trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

67. Hoàng Minh Tuấn (2017), Quản lý nhà nước về viên chức từ thực tiễn

các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng

sản Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ ngành Luật Hiến pháp và luật hành

chính, Học viện Khoa học xã hội.

68. Trần Anh Tuấn (2005), Một cách tiếp cận đối với tư tưởng, quan điểm

và các nội dung sửa đổi Luật Thanh niên năm 2005, Tạp chí Tổ chức nhà

nước, (5).

69. Trần Anh Tuấn (2020), Bàn về tư tưởng, quan điểm và các nội dung liên

quan đến việc sửa đổi Luật Thanh niên năm 2005,

http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210506.

70. Tổng cục Thống kê (2018), Số liệu thống kê về dân số, lao động, việc

144

làm, học tập của thanh niên 2017 – ước tính 2018

71. Tổng Cục thống kê (2019), Kết quả toàn bộ tổng điều tra dân số và nhà

ở năm 2019.

72. Nguyễn Hồng Tung (2011), Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt

Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

73. Phạm Hồng Tung (2011), Về đặc điểm và xu hướng chủ yếu trong lối sống

của thanh niên Việt Nam hiện nay, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số

3/2021.

74. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học,

NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

75. Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cư, Ủy ban Thường vụ Quốc hội –

Ban Công tác đại biểu, Kinh nghiệm của pháp luật Hàn Quốc quy định

về thanh thiếu niên (Phần 1),

http://ttbd.gov.vn/Home/Default.aspx?portalid=52&tabid=108&catid=4

34&distid=4753.

76. Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cư, Ủy ban Thường vụ Quốc hội –

Ban Công tác đại biểu (2020), Kinh nghiệm của pháp luật Hàn Quốc quy

định về thanh thiếu niên (Phần 2),

http://ttbd.gov.vn/Home/Default.aspx?portalid=52&tabid=108&catid=4

34&distid=4754.

77. Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cư, Ủy ban Thường vụ Quốc hội –

Ban Công tác đại biểu (2020), Kinh nghiệm của pháp luật Hàn Quốc quy

định về thanh thiếu niên (Phần 3),

http://ttbd.gov.vn/Home/Default.aspx?portalid=52&tabid=108&catid=4

34&distid=47535.

78. Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cư, Ủy ban Thường vụ Quốc hội –

145

Ban Công tác đại biểu (2020), Kinh nghiệm của pháp luật Hàn Quốc quy

định về thanh thiếu niên (Phần 4),

http://ttbd.gov.vn/Home/Default.aspx?portalid=52&tabid=108&catid=4

34&distid=4775.

79. Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2005), Luật Thanh

niên một số nước (Tài liệu tham khảo xây dựng Luật Thanh niên), Hà Nội.

80. Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2002), Chiến lược

phát triển thanh niên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

81. Nguyễn Văn Trung (2008), Chính sách và quản lý nhà nước về công tác

thanh niên ở một số nước trên thế giới, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

82. Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính (2022), NXB Lao động.

83. Ủy ban nhân dân (2012), Quyết định số 6028/QĐ-UBND ngày 27 tháng

11 năm 2012 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về ban hành

Chương trình phát triển thanh niên Thành phố giai đoạn 2011-2020.

84. Ủy ban nhân dân (2012), Quyết định số 3662/QĐ-UBND ngày 14 tháng

9 năm 2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về

việc ban hành Đề án tiếp nhận và hợp đồng sinh viên tốt nghiệp Đại học

chính quy về công tác tại Uỷ ban nhân dân xã, phường giai đoạn 2012-

2015.

85. Ủy ban nhân dân (2013), Kế hoạch số 1939/KH-UBND ngày 24 tháng 4

năm 2013 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về thực hiện

chương trình phát triển thanh niên Thành phố giai đoạn 2011-2015.

86. Ủy ban nhân dân (2017), Báo cáo số 117/BC-UBND ngày 10 tháng 7

năm 2017 Báo cáo tổng kết, đánh giá 10 năm thi hành Luật thanh niên

năm 2005 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

87. Ủy ban nhân dân (2017), Báo cáo số 117/BC-UBND ngày 10 tháng 7

146

năm 2017 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về Tổng kết,

đánh giá 10 năm thi hành Luật thanh niên năm 2005 trên địa bàn Thành

phố Hồ Chí Minh

88. Ủy ban nhân dân (2020), Báo cáo số 200/BC-UBND ngày 28 tháng 10

năm 2020 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Báo cáo tổng

kết thực hiện Chương trình phát triển thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh giai

đoạn 2011-2020.

89. Ủy ban nhân dân (2021), Quyết định số 37/2021/QĐ-UBND ngày 09

tháng 9 năm 2021 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban

hành Quy định quản lý nhà nước về thanh niên trên địa bàn Thành phố

Hồ Chí Minh.

90. Ủy ban nhân dân (2021), Quyết định số 3685/QĐ-UBND ban hành

Chương trình phát triển thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2021-

2030.

91. V.I.Lênin, Toàn tập, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tập 41.

92. Nguyễn Đắc Vinh (2014), Những vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới

công tác thanh vận trong tình hình mới, Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số:

CT.KXĐTN14-01, Viện Nghiên cứu Thanh niên – Trung ương Đoàn

Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

93. Nguyễn Đắc Vinh (2015), Phát huy vai trò xung kích, tinh thần tình

nguyện của thanh niên trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa và hội nhập quốc tế, Tạp chí Cộng sản, (869), tr.22-26.

94. Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp (2021), Một số điểm mới

của Luật Thanh niên năm 2020 so với Luật Thanh niên năm 2005,

https://pbgdpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/trao-doi-kinh-

nghiem.aspx?ItemID=127

147

II. Tài liệu nước ngoài

95. Allen, R.e. (Ed), The Oxford Dictionnayry of Curent English,

Oxford University Press, 1994, p.877-880.

96. Drosdowski, Guenther, Duden – Deutsches Universalwoerterbuch,

Dudenverlag, Mainnheim – Leipzig – Wien – Zuerich, 1996, S.792,

S.793.

97. Indira Rystina, Zhaniya Kussainova (2014), Comparative Analysis

of National Youth Policy in Different Countrie, Procedia – Social

and Behavioral Sciences, số 140, tr.654-658.

98. Jorge Cardona, Giuseppe Porcaro, Jaakko Weuro, and Giorgio

Zecca (2015), The International Law of Youth Rights, Publisher:

Brill/Nijhoff.

99. Monica Barry (2005), Youth Policy and Social Inclusion: Critical

Debates with Young People.

100. M.Lê-pê-kin (1975), Những nguyên lý Lêninnít về giáo dục thanh

niên, NXB Lêningrat.

101. http://www.youthpolicy.org/factsheets/.

102. First ASEAN youth development index, tr.1.

103. http://www.youthpolicy.org/factsheets/.

104. 2016 Global Youth Development Index.

105. http://www.populationpyramid.net/viet-nam/2018/ Tháp dân số mô

phỏng sự phát triển của dân số Việt Nam dự báo trong năm 2018 phân

theo giới và tuổi (trích từ website Mô hình tháp dân số thế giới từ năm

148

1950 đến năm 2100).