BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA
QUẢN TRỊ CÔNG TY TỚI CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN
KẾ TOÁN CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Ngành: Quản trị kinh doanh
NGUYỄN THỊ MAI ANH
Hà Nội – 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA
QUẢN TRỊ CÔNG TY TỚI CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN
KẾ TOÁN CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 9340101
Nghiên cứu sinh: Nguyễn Thị Mai Anh
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS, TS Nguyễn Tiến Hoàng
2. TS Nguyễn Thị Hoàng Anh
Hà Nội – 2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong Luận án là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ một công trình khoa học nào khác.
Tác giả Luận án
Nguyễn Thị Mai Anh
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS,TS Nguyễn Tiến Hoàng và TS Nguyễn Thị
Hoàng Anh đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên và tạo mọi điều kiện cho tôi
để tôi có thể hoàn thành Luận án. Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu trường
Đại học Ngoại thương, Ban giám đốc Cơ sở II Đại học Ngoại thương tại thành phố
Hồ Chí Minh, Khoa Sau đại học, Ban Chủ nhiệm Bộ môn Quản trị kinh doanh và Tài
chính kế toán, cùng các thầy cô, đồng nghiệp, bạn bè đã tạo điều kiện thuận lợi và
nhiệt tình giúp đỡ.
Tôi xin chân thành cảm ơn Công ty Cổ phần Stoxplus, Công ty Cổ phần Tài
Việt (Vietstock) đã cung cấp dữ liệu nghiên cứu cần thiết và các chuyên gia đã hỗ trợ
tôi nhiệt tình trong việc đưa ra những góp ý, nhận xét rất hữu ích và quý báu để tôi
hoàn thiện Luận án của mình.
Cuối cùng và đặc biệt quan trong, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia
đình đã luôn tin tưởng, yêu thương, cảm thông và khích lệ tôi hoàn thành chương
trình học tiến sĩ.
Tác giả Luận án
Nguyễn Thị Mai Anh
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................................... iii
DANH MỤC THUẬT NGỮ VÀ VIẾT TẮT ............................................................ viii
DANH MỤC BẢNG ......................................................................................................... ix
DANH MỤC ĐỒ THỊ, SƠ ĐỒ, HÌNH ......................................................................... x
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ......................................................................................................... 9
1.1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan tới chất lượng thông tin kế toán ...... 9
1.2. Tổng quan các nghiên cứu liên quan tới tác động của quản trị công ty tới
chất lượng thông tin kế toán ...................................................................................... 18
1.2.1. Các nghiên cứu về tác động của cấu trúc sở hữu tới chất lượng
thông tin kế toán .................................................................................................... 19
1.2.2. Các nghiên cứu về tác động của đặc điểm Hội đồng quản trị tới chất
lượng thông tin kế toán ........................................................................................ 21
1.2.3. Các nghiên cứu về tác động của đặc điểm Ban kiểm soát tới chất
lượng thông tin kế toán ........................................................................................ 23
1.3. Khoảng trống cho nghiên cứu ........................................................................... 27
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN KẾ TOÁN
VÀ TÁC ĐỘNG CỦA QUẢN TRỊ CÔNG TY TỚI CHẤT LƯỢNG THÔNG
TIN KẾ TOÁN ................................................................................................................. 31
2.1. Cơ sở lý luận về chất lượng thông tin kế toán ................................................ 31
2.1.1. Những vấn đề chung về chất lượng thông tin kế toán .............................. 31
2.1.1.1.Thông tin kế toán ........................................................................................ 31
iv
2.1.1.2. Chất lượng thông tin kế toán .................................................................... 33
2.1.2. Các phương pháp đo lường chất lượng thông tin kế toán .................... 38
2.1.2.1. Quản trị lợi nhuận ...................................................................................... 38
2.1.2.2. Sai sót trên báo cáo tài chính ................................................................... 41
2.2. Cơ sở lý luận về quản trị công ty ...................................................................... 44
2.2.1. Khái niệm quản trị công ty .......................................................................... 44
2.2.2. Cơ chế quản trị công ty................................................................................. 47
2.2.3. Nguyên tắc quản trị công ty ......................................................................... 52
2.3. Cơ sở lý luận về tác động của quản trị công ty tới chất lượng thông tin kế toán ..... 54
2.3.1. Các lý thuyết nền ............................................................................................ 54
2.3.1.1. Lý thuyết thông tin bất cân xứng ............................................................. 54
2.3.1.2. Lý thuyết đại diện ...................................................................................... 55
2.3.1.3. Lý thuyết tam giác gian lận ...................................................................... 56
2.3.1.4. Lý thuyết các bên có liên quan ................................................................ 58
2.3.2. Tác động của quản trị công ty tới chất lượng thông tin kế toán ......... 59
2.3.2.2. Tác động của đặc điểm Hội đồng quản trị tới chất lượng thông tin kế toán . 62
2.3.2.3. Tác động của đặc điểm Ban kiểm soát tới chất lượng thông tin kế toán ...... 66
2.3.2.1. Tác động của cấu trúc sở hữu tới chất lượng thông tin kế toán ........... 59
2.4. Mô hình nghiên cứu ............................................................................................. 69
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................... 71
3.1. Thiết kế nghiên cứu .............................................................................................. 71
3.2. Các giả thuyết nghiên cứu .................................................................................. 73
3.2.1. Giả thuyết nghiên cứu liên quan tới tác động của cấu trúc sở hữu tới
chất lượng thông tin kế toán .................................................................................. 73
v
3.2.2. Giả thuyết nghiên cứu liên quan tới tác động của đặc điểm Hội đồng
quản trị tới chất lượng thông tin kế toán ............................................................ 74
3.2.3. Giả thuyết nghiên cứu liên quan tới tác động của đặc điểm Ban kiểm
soát tới chất lượng thông tin kế toán .................................................................... 76
3.3. Mô hình hồi quy và đo lường biến trong mô hình ........................................ 77
3.3.1. Mô hình hồi quy ............................................................................................. 77
3.3.2. Đo lường biến trong mô hình ...................................................................... 77
3.3.2.1. Đo lường biến phụ thuộc .......................................................................... 79
3.3.2.2. Đo lường biến độc lập ............................................................................... 84
3.3.2.3. Đo lường biến kiểm soát .......................................................................... 85
3.4. Thu thập và xử lý dữ liệu .................................................................................... 89
3.4.1. Thu thập dữ liệu ............................................................................................. 89
3.4.2. Xử lý dữ liệu .................................................................................................... 91
3.5. Phương pháp hồi quy .......................................................................................... 91
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA QUẢN TRỊ
CÔNG TY TỚI CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN KẾ TOÁN CỦA CÁC CÔNG
TY NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM ............ 93
4.1. Thực trạng chất lượng thông tin kế toán của các công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam ................................................................................. 93
4.1.1. Tổng quan chất lượng thông tin kế toán của các công ty niêm yết .... 93
4.1.2. Thực trạng chất lượng thông tin kế toán của các công ty niêm yết theo năm ... 96
4.1.3. Thực trạng chất lượng thông tin kế toán của các công ty niêm yết theo ngành 98
4.1.4. Thực trạng chất lượng thông tin kế toán của một số chỉ tiêu báo cáo
kết quả kinh doanh ................................................................................................. 101
4.1.5. Đánh giá về chất lượng thông tin kế toán của các công ty niêm yết trên
thị trường chứng khoán Việt Nam ...................................................................... 105
vi
4.2. Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu ................................................................ 107
4.3. Kết quả phân tích tương quan và hồi quy .................................................... 109
4.3.1. Ma trận tương quan .................................................................................... 109
4.3.2. Kết quả hồi quy mô hình đo lường chất lượng thông tin kế toán thông
qua quản trị lợi nhuận ........................................................................................... 113
4.3.2.1. Kiểm định khuyết tật của mô hình ........................................................ 113
4.3.2.2. Kết quả hồi quy ........................................................................................ 114
4.3.3. Kết quả hồi quy mô hình đo lường chất lượng thông tin kế toán thông
qua sai sót trên báo cáo tài chính ........................................................................ 120
4.3.3.1. Kiểm định khuyết tật của mô hình ........................................................ 121
4.3.3.2. Kết quả hồi quy ........................................................................................ 122
4.4. Tổng hợp kết quả nghiên cứu tác động của quản trị công ty tới chất lượng thông
tin kế toán của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam ........ 128
4.4.1. Tác động của cấu trúc sở hữu tới chất lượng thông tin kế toán ........ 130
4.4.2. Tác động của đặc điểm Hội đồng quản trị tới chất lượng thông tin kế toán ... 131
4.4.3. Tác động của đặc điểm Ban kiểm soát tới chất lượng thông tin kế toán ... 133
4.4.4. Tác động của các biến kiểm soát tới chất lượng thông tin kế toán ... 133
CHƯƠNG 5: HOÀN THIỆN QUẢN TRỊ CÔNG TY NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN KẾ TOÁN CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM ........................................ 135
5.1. Định hướng nâng cao chất lượng thông tin kế toán trong quá trình phát
triển và hội nhập ........................................................................................................ 135
5.2. Các giải pháp hoàn thiện quản trị công ty nhằm nâng cao chất lượng
TTKT từ phía doanh nghiệp ................................................................................... 137
5.2.1. Các giải pháp liên quan đến cấu trúc sở hữu ........................................ 137
5.2.2. Các giải pháp liên quan đến đặc điểm của Hội đồng quản trị ........... 142
vii
5.2.3. Các giải pháp liên quan đến đặc điểm của Ban kiểm soát .................. 144
5.2.4. Các giải pháp khác ...................................................................................... 144
5.3. Một số khuyến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước liên quan tới quản trị
công ty nhằm nâng cao chất lượng thông tin kế toán ........................................ 145
5.3.1. Hoàn thiện các văn bản pháp lý quy định về quản trị công ty ........... 146
5.3.2. Hỗ trợ các công ty niêm yết trong việc hoàn thiện hệ thống quản trị
công ty ....................................................................................................................... 147
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................................. 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 152
PHỤ LỤC 1: HỆ THỐNG PHÂN LOẠI NGÀNH THEO CHUẨN ICB ......... 166
PHỤ LỤC 2: THỐNG KÊ CÁC BIẾN CHÍNH CỦA MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ... 172
PHỤ LỤC 3: MA TRẬN TƯƠNG QUAN ............................................................... 173
PHỤ LỤC 4: KẾT QUẢ HỒI QUY MÔ HÌNH ĐO LƯỜNG CHẤT LƯỢNG
THÔNG TIN KẾ TOÁN THÔNG QUA QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN ................. 175
PHỤ LỤC 5: KẾT QUẢ HỒI QUY MÔ HÌNH ĐO LƯỜNG CHẤT LƯỢNG
THÔNG TIN KẾ TOÁN THÔNG QUA SAI SÓT TRÊN BÁO CÁO TÀI
CHÍNH ............................................................................................................................. 181
viii
DANH MỤC THUẬT NGỮ VÀ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Tên đầy đủ bằng tiếng Anh Tên đầy đủ bằng tiếng Việt
Báo cáo tài chính BCTC
Ban kiểm soát BKS
Chief Executive Officer Giám đốc điều hành CEO
Chất lượng thông tin CLTT
ESOP Employee Stock Ownership Kế hoạch phát hành cổ phiếu cho
Plan cán bộ công nhân viên
FASB The Financial Accounting Hội đồng chuẩn mực kế toán tài
Standards Board chính Hoa Kỳ
IASB The International Accounting Hội đồng chuẩn mực kế toán
Standards Board quốc tế
ICB Industry Classification Tiêu chuẩn phân ngành
Benchmark
IIA Hiệp hội kiểm toán nội bộ The Institute of Internal
Auditors Hoa Kỳ
Return on Assets Hệ số sinh lời trên tổng tài sản ROA
Ordinary Least Square Phương pháp bình phương thông OLS
thường nhỏ nhất
QTCT Quản trị công ty
TTCK Thị trường chứng khoán
TTKT Thông tin kế toán
VACPA Vietnam Association of Hội kiểm toán viên hành nghề
Certified Public Accountants Việt Nam
VSA Vietnam Audit Standards Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
ix
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Một số nghiên cứu về ảnh hưởng của quản trị công ty tới chất lượng thông
tin kế toán .................................................................................................................. 25
Bảng 3.1. Các biến trong mô hình nghiên cứu .......................................................... 86
Bảng 4.1. Mức độ quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết ................................ 93
Bảng 4.2. Tỷ lệ sai sót trên BCTC của các công ty niêm yết ................................... 94
Bảng 4.3. Mức độ quản trị lợi nhuận các công ty niêm yết theo ngành ................... 99
Bảng 4.4. Tỷ lệ sai sót của các công ty niêm yết theo ngành ................................. 101
Bảng 4.5. Thống kê về sai sót một số chỉ tiêu thuộc báo cáo kết quả kinh doanh .. 102
Bảng 4.6. Thống kê các biến chính của mô hình .................................................... 107
Bảng 4.7. Ma trận tương quan mô hình đo lường chất lượng tin kế toán thông qua
quản trị lợi nhuận .................................................................................................... 111
Bảng 4.8. Ma trận tương quan mô hình đo lường chất lượng tin kế toán thông qua sai
sót trên báo cáo tài chính ......................................................................................... 112
Bảng 4.9. Hệ số phóng đại phương sai VIF của biến độc lập ................................. 113
Bảng 4.10. Kết quả kiểm định Breusch – Pagan mô hình đo lường chất lượng tin kế
toán thông qua quản trị lợi nhuận ........................................................................... 114
Bảng 4.11. Kết quả hồi quy mô hình đo lường chất lượng tin kế toán thông qua quản
trị lợi nhuận ............................................................................................................. 115
Bảng 4.12. Kết quả kiểm định Hosmer-Lemeshow mô hình đo lường chất lượng tin
kế toán thông qua sai sót trên báo cáo tài chính ...................................................... 121
Bảng 4.13. Kết quả hồi quy mô hình đo lường chất lượng tin kế toán thông qua sai
sót trên báo cáo tài chính ......................................................................................... 123
Bảng 4.14. Tổng hợp kết quả nghiên cứu của Luận án ........................................... 129
x
DANH MỤC ĐỒ THỊ, SƠ ĐỒ, HÌNH
Đồ thị 4.1. Thực trạng quản trị lợi nhuận theo năm từ 2010-2020 ........................... 96
Đồ thị 4.2. Tỷ lệ sai sót trên báo cáo tài chính theo năm từ 2010-2020 ................... 97
Sơ đồ 2.1. Mô hình chất lượng thông tin kế toán theo FASB và IASB (2010) ........ 35
................................................................................................................................... 35
Sơ đồ 2.2. Mô hình chất lượng thông tin kế toán theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam
(2002) ........................................................................................................................ 37
Sơ đồ 3.1. Thiết kế nghiên cứu của Luận án ............................................................. 71
Hình 2.1. Tam giác gian lận ...................................................................................... 57
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Luận án
Báo cáo tài chính là sản phẩm đầu ra của hệ thống kế toán, phản ánh các thông
tin kinh tế, tài chính của đơn vị, và được coi là một trong những cơ sở quan trọng nhất
để người sử dụng thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp như nhà quản trị,
nhà đầu tư, chủ nợ... có thể phân tích được năng lực tài chính của doanh nghiệp, từ
đó đưa ra các quyết định. Nếu TTKT được phản ánh trên BCTC có chất lượng kém,
người sử dụng thông tin không thể phân tích được bức tranh tài chính, kinh doanh của
doanh nghiệp, không đánh giá đúng hiệu quả hoạt động cũng như không thể đánh giá
tính sinh lời của dự án để đưa ra quyết định một cách hợp lý. Chủ đề nghiên cứu về
chất lượng TTKT được các nhà khoa học đặc biệt quan tâm, đặc biệt sau các gian lận
TTKT của các tổ chức lớn như Enron năm 2001, WorldCom năm 2002, hay gần đây
là bê bối của tập đoàn Wirecard năm 2020 với khoản tiền gửi 2 tỷ USD khống. Một
trong những khía cạnh được được các nhà khoa học đặt ra và lý giải về sự suy giảm
chất lượng TTKT đến từ vấn đề người đại diện và tính bất cân xứng thông tin. Mặc
dù được ủy quyền quản lý từ chủ sở hữu với kỳ vọng sẽ tối ưu hóa lợi ích của cổ đông,
song trên thực tế, trong quá trình ra quyết định, BGĐ có xu hướng đặt lợi ích cá nhân
lên trước mục tiêu của doanh nghiệp, tạo ra mâu thuẫn về lợi ích giữa chủ sở hữu và
nhà điều hành. Trong trường hợp đó, BGĐ có động cơ và cơ hội để can thiệp, điều
chỉnh các TTKT trên BCTC vì mục tiêu lương, thưởng hoặc nhằm che giấu các vấn
đề của doanh nghiệp như kết quả kinh doanh thua lỗ do lo ngại bị sa thải. Vấn đề
thông tin bất cân xứng đã đặt cổ đông, những người chủ sở hữu thực sự đồng thời
cũng là người hưởng lợi cuối cùng, vào thế bị động trong việc tiếp cận TTKT. Do đó
các cổ đông cần có cơ chế kiểm soát hiệu quả hoạt động của BGĐ trong việc cung
cấp TTKT được trình bày trên BCTC. Nghiên cứu của Loebbecke và cộng sự (1989),
Beasley (1996) đã chỉ ra rằng việc giám sát hoạt động của BGĐ không hữu hiệu là
nguyên nhân dẫn đến hiện tượng suy giảm chất lượng TTKT. Trong bối cảnh đó,
Quản trị công ty (corporate governance) được coi là một giải pháp để khắc phục vấn
đề này, thông qua việc gắn kết lợi ích của nhà điều hành với lợi ích của cổ đông, giúp
nâng cao độ tin cậy của thông tin trên BCTC (Watts và Zimmerman, 1986). Hệ thống
2
QTCT được kỳ vọng sẽ phát huy chức năng giám sát, nhằm ngăn ngừa và phát hiện
các hành vi gian lận, điều chỉnh thông tin, từ đó nâng cao chất lượng thông tin kế
toán.
Nhằm cung cấp bằng chứng thực nghiệm về tác động của QTCT tới chất lượng
TTKT, các nhà khoa học đã nghiên cứu mối quan hệ này trong bối cảnh ở nhiều quốc
gia khác nhau, ví như nghiên cứu tại Mỹ của Vafeas (2000), tại Hy Lạp của
Dimitropoulos và Asteriou (2010), tại Pháp của Fathi (2013), tại Brazil của Holtz và
Sarlo Neto (2014), tại Ghana của Kukah và cộng sự (2016), tại Indonesia của
Firmansyah và Irawan (2019), tại Trung Quốc của Wang và Yung (2011)… Những
nghiên cứu này tin rằng QTCT sẽ giúp nâng cao chất lượng TTKT. Trong đó, QTCT
thường được xem xét trên hai khía cạnh: một là đặc điểm về cấu trúc sở hữu và hai là
đặc điểm của bộ máy QTCT. Đối với đặc điểm của bộ máy quản trị, các nhà khoa học
thường tập trung khai thác các đặc thù của HĐQT. Nguyên nhân do HĐQT được xem
là một cơ chế quản trị, là cơ quan đại diện cho cổ đông, được cổ đông bầu chọn, với
chức năng quan trọng là kiểm tra, giám sát hoạt động của BGĐ, đóng vị thế quan
trọng trong việc kiểm soát vấn đề đại diện (Garciá Meca và Sánchez- Ballesta, 2009).
Ngoài ra, ở một số quốc gia như Trung Quốc, hệ thống quản trị công ty còn bao gồm
BKS, với vai trò đại diện cho cổ đông thực hiện chức năng giám sát việc thực thi
quyền và nghĩa vụ của cả các thành viên HĐQT và BGĐ. Tuy nhiên, tùy vào đặc
điểm kinh tế, chính trị của từng quốc gia, ảnh hưởng của từng khía cạnh QTCT tới
chất lượng TTKT không đồng nhất, thậm chí mang tính trái chiều.
Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển của TTCK, vấn đề về chất lượng TTKT
trên BCTC cũng nhận được quan tâm từ người sử dụng, đặc biệt là nhà đầu tư. Tuy
nhiên trên thực tế, trong suốt 20 năm hoạt động và phát triển, đã có không ít những
sai sót nghiêm trọng trên BCTC của các công ty niêm yết, có thể kể đến trường hợp
Công ty Cổ phần Tập đoàn Đại Dương (OGC), năm 2014 trước kiểm toán, tập đoàn
này báo cáo lợi nhuận là 408 tỷ đồng tuy nhiên sau kiểm toán báo lỗ lên tới 2.548 tỷ
đồng. Hay trường hợp Công ty Cổ phần Hoàng Anh Gia Lai (HAG) khi trước đó công
ty này công bố BCTC 2019 với khoản lợi nhuận chưa phân phối là 290 tỷ đồng, tuy
nhiên, sang năm 2020, HAG đã điều chỉnh hồi tố khoản lợi nhuận chưa phân phối
năm 2019 lỗ thêm 4.916 tỷ đồng do bổ sung dự phòng các khoản phải thu. Những sai
3
sót diễn ra thường xuyên, liên tục cho thấy một bộ phận không nhỏ các công ty niêm
yết đã công bố BCTC với chất lượng TTKT kém. Điều này không chỉ ảnh hưởng tới
lợi ích của cổ đông các công ty nói trên, mà còn nghiêm trọng hơn là làm mất niềm
tin từ các nhà đầu tư, từ đó dẫn tới sự rời bỏ thị trường. Xuất phát từ thực tiễn đó, các
nhà khoa học tại Việt Nam cũng đặc biệt quan tâm tới vấn đề chất lượng TTKT, và
quản trị công ty được xem là một giải pháp nâng cao chất lượng TTKT. Với mục tiêu
đề xuất các giải pháp nhằm giúp các doanh nghiệp có thể phát huy được chức năng
kiểm soát của QTCT, cần có các bằng chứng thực nghiệm về tác động của QTCT tới
chất lượng TTKT, trong bối cảnh nghiên cứu trên TTCK Việt Nam. Kế thừa các
nghiên cứu trên thế giới, các nghiên cứu về tác động của QTCT tới chất lượng TTKT
cũng được một số nhà khoa học thực hiện tại Việt Nam, như nghiên cứu của Trần Thị
Giang Tân và cộng sự (2015), Bùi Văn Dương và Ngô Hoàng Điệp (2017), Nguyễn
Thu Hằng và cộng sự (2018)... Tuy nhiên, những nghiên cứu này được thực hiện với
số quan sát nhỏ hoặc khai thác vấn đề QTCT trên một số ít khía cạnh riêng lẻ, chủ
yếu tập trung vào khía cạnh cấu trúc sở hữu và đặc điểm HĐQT mà chưa chú ý tới
các đặc thù về BKS. Do vậy, xuất phát từ tính thực tiễn của đề tài cũng như cơ sở
khoa học, nhằm cung cấp bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của QTCT tới chất
lượng TTKT, theo các khía cạnh đa dạng bao gồm cả cấu trúc sở hữu, đặc điểm của
HĐQT và đặc điểm của BKS, tác giả đã chọn đề tài “Nghiên cứu tác động của quản
trị công ty tới chất lượng thông tin kế toán của các công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam” làm chủ đề nghiên cứu của Luận án.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
Mục tiêu nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu về tác động của QTCT tới chất lượng TTKT, từ
đó đưa ra các giải pháp về hoàn thiện QTCT, nhằm nâng cao chất lượng TTKT của
các công ty niêm yết.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện được những mục tiêu nghiên cứu trên, các nhiệm vụ cụ thể của
Luận án bao gồm:
Thứ nhất, Luận án hệ thống hóa cơ sở lý luận về QTCT, chất lượng TTKT, và
tác động của QTCT tới chất lượng TTKT.
4
Thứ hai, Luận án phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng TTKT của các công
ty niêm yết trên TTCK Việt Nam.
Thứ ba, trên cơ sở thu thập dữ liệu, xây dựng mô hình nghiên cứu, Luận án thực
hiện tìm hiểu và phân tích những tác động của QTCT lên chất lượng TTKT của các
công ty niêm yết thông qua ba khía cạnh: cấu trúc sở hữu, đặc điểm HĐQT và đặc
điểm của BKS.
Thứ tư, dựa trên kết quả phân tích, Luận án đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn
thiện QTCT, từ đó nâng cao chất lượng TTKT của các công ty niêm yết trên TTCK
Việt Nam.
Câu hỏi nghiên cứu:
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đặt ra, nghiên cứu xác định các câu hỏi chính
bao gồm:
(1) Cơ sở lý luận về QTCT, chất lượng TTKT và tác động của QTCT tới chất
lượng TTKT là gì?
(2) Thực trạng chất lượng TTKT của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam?
(3) QTCT, với ba nhân tố cấu trúc sở hữu, đặc điểm của HĐQT, đặc điểm của BKS
có tác động như thế nào tới chất lượng TTKT của các công ty niêm yết trên TTCK Việt
Nam?
(4) Các giải pháp về hoàn thiện QTCT nhằm nâng cao chất lượng TTKT là gì?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án:
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là tác động của quản trị công ty tới chất
lượng thông tin kế toán.
Phạm vi nghiên cứu của Luận án:
Phạm vi nội dung: Trong nghiên cứu này, Luận án tiếp cận vấn đề chất lượng
TTKT trên khía cạnh tính trung thực của thông tin trên BCTC. Đây được coi là đặc
tính cơ bản của TTKT theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam 01 ban hành bởi Bộ Tài
chính (2002), phù hợp với quy định của Chuẩn mực kế toán quốc tế. Theo đó, TTKT
được coi là trung thực khi đảm bảo được tính đầy đủ, khách quan và không có sai sót
trọng yếu (IASB, 2018). Việc đo lường chất lượng TTKT tập trung vào tính trung
thực của chỉ tiêu lợi nhuận, thực hiện thông qua hai mô hình là quản trị lợi nhuận trên
5
cơ sở dồn tích và sai sót trên BCTC. Theo đó, chất lượng TTKT được đánh giá cao
khi hạn chế hiện tượng quản trị lợi nhuận và không có sai sót trọng yếu. Nhằm phân
tích ảnh hưởng của QTCT tới chất lượng TTKT, Luận án khai thác các vấn đề về
QTCT trên khía cạnh nội bộ, với ba yếu tố quan trọng là cấu trúc sở hữu, đặc điểm
của HĐQT và đặc điểm của BKS. Trong đó, cấu trúc sở hữu bao gồm sở hữu Nhà
nước, sở hữu tổ chức và sở hữu BGĐ; đặc điểm HĐQT bao gồm: quy mô, tính kiêm
nhiệm, tính độc lập, giới tính, thâm niên, và trình độ chuyên môn kế toán, tài chính
của thành viên HĐQT; đặc điểm BKS bao gồm: quy mô, giới tính, thâm niên và trình
độ chuyên môn kế toán, tài chính của thành viên BKS.
Phạm vi không gian
Phạm vi không gian của Luận án là các công ty niêm yết trên trên Sở Giao dịch
Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà
Nội (HNX), không bao gồm các định chế tài chính (như ngân hàng, công ty bảo hiểm,
công ty chứng khoán…) vì bảng cân đối kế toán của nhóm công ty này cũng như
những đặc thù trong hoạt động kinh doanh và đầu tư khác với các doanh nghiệp thông
thường. Đây là hai sàn giao dịch chứng khoán lớn và có uy tín nhất Việt Nam. Bên
cạnh đó, các công ty niêm yết trên hai sàn này là các công ty đại chúng, với báo cáo
tài chính được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán lớn của Việt Nam và trên thế giới.
Phạm vi thời gian
Phạm vi thời gian của Luận án là giai đoạn 2009-2020. Luận án không sử dụng
giai đoạn trước năm 2009 là giai đoạn thị trường có nhiều bất ổn, dữ liệu biến động
lớn và thiếu hụt một số chỉ tiêu quan trọng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập dữ liệu:
Luận án sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp là BCTC chưa kiểm toán và đã được
kiểm toán của các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ
Chí Minh (HOSE) và Hà Nội (HNX), không bao gồm các định chế tài chính (như
ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán…), được cung cấp bởi Stoxplus.
Bên cạnh đó, dữ liệu về quản trị được cung cấp bởi Công ty Cổ phần Tài Việt
(Vietstock). Dữ liệu về trình độ chuyên môn của HĐQT và BKS do tác giả thu thập
từ Báo cáo thường niên của các công ty niêm yết. Các dữ liệu được kiểm tra tính lặp
6
và loại bỏ các quan sát bị trùng và các quan sát có giá trị bất thường (outliers). Dữ
liệu được thao tác và xử lý trên phần mềm Stata 14.2.
Phương pháp xử lý dữ liệu:
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, Luận án sử dụng phương pháp định lượng.
Để đánh giá ảnh hưởng của QTCT tới chất lượng TTKT, với biến phụ thuộc đo
bằng quản trị lợi nhuận trên cơ sở dồn tích, tác giả sử dụng phương pháp hồi quy bình
phương thông thường nhỏ nhất (Ordinary Least Square - OLS). Trong mô hình đánh
giá ảnh hưởng của QTCT tới chất lượng TTKT, với biến phụ thuộc đo bằng sai sót
trên BCTC, tác giả sử dụng phương pháp hồi quy binary logistic. Hai mô hình đều
kiểm soát hiệu ứng cố định ngành và năm, kết hợp với ước lượng sai số chuẩn mạnh
(robust standard errors) trong trường hợp mô hình nghiên cứu xuất hiện hiện tượng
phương sai thay đổi. Ngoài ra, nhằm mô tả thực trạng chất lượng TTKT, tác giả sử
dụng phương pháp thống kê mô tả trên hai khía cạnh là mức độ quản trị lợi nhuận và
sai sót trên BCTC.
5. Những đóng góp mới của Luận án
Những đóng góp về mặt lý luận
Thứ nhất, Luận án đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về chất lượng TTKT,
QTCT và ảnh hưởng của QTCT tới chất lượng TTKT từ các nghiên cứu trên thế giới
và Việt Nam. Luận án đã tổng hợp các phương pháp đo lường chất lượng TTKT. Theo
đó các nghiên cứu về chất lượng TTKT được thực hiện theo hai hướng chính: một là
đo lường chất lượng TTKT bằng cách xây dựng thang đo tổng hợp trên các khía cạnh
về thuộc tính chung của TTKT, dựa vào dữ liệu khảo sát; hai là nghiên cứu về từng
đặc điểm riêng lẻ của TTKT với hai thuộc tính cơ bản là tính trung thực và tính thích
hợp, dựa vào dữ liệu thứ cấp trên BCTC và dữ liệu thị trường. Từ đó, Luận án lựa
chọn hướng nghiên cứu về chất lượng TTKT theo đặc điểm riêng lẻ, với dữ liệu tài
chính được thu thập từ BCTC và dữ liệu về đặc thù quản trị được thu thập từ báo cáo
thường niên để đảm bảo tính khách quan và tin cậy của kết quả nghiên cứu. Luận án
tập trung vào đặc điểm tính trung thực của TTKT do đây là đặc điểm cơ bản, được
quy định trong Chuẩn mực kế toán Việt Nam, phù hợp với Chuẩn mực kế toán quốc
tế.
7
Thứ hai, nhằm đo lường tính trung thực của TTKT, Luận án sử dụng cả hai
thước đo quản trị lợi nhuận và sai sót trên BCTC để phản ánh về chất lượng TTKT.
Cụ thể, quản trị lợi nhuận được xác định dựa trên mức độ dồn tích bất thường, sai sót
trên báo cáo tài chính được xác định bằng chênh lệch lợi nhuận trước và sau kiểm
toán. Việc sử dụng cả hai mô hình đo lường chất lượng TTKT sẽ giúp việc nghiên
cứu về chất lượng TTKT trở nên sâu sắc hơn, do quản trị lợi nhuận thể hiện mức độ
can thiệp nhằm điều chỉnh thông tin trên báo cáo tài chính, cho thấy việc vi phạm tính
khách quan trong ghi nhận TTKT, còn sai sót trên BCTC thể hiện BCTC được công
bố tồn tại sai sót trọng yếu. Kết quả nghiên cứu vì vậy cũng trở nên đáng tin cậy hơn.
Thứ ba, để xác định sai sót trên BCTC, Luận án là công trình nghiên cứu đầu
tiên bổ sung ý kiến kiểm toán bên cạnh thước đo doanh nghiệp có chênh lệch lợi
nhuận trước và sau kiểm toán vượt ngưỡng trọng yếu hay không. Việc công ty phải
điều chỉnh lợi nhuận sau kiểm toán vượt ngưỡng trọng yếu thể hiện BCTC của công
ty có sai sót, gây ảnh hưởng tới quyết định của người sử dụng thông tin. Tuy nhiên,
trên thực tế, có một số công ty có sai sót trên BCTC nhưng không điều chỉnh báo cáo
theo ý kiến của kiểm toán viên, do đó sẽ không phát sinh chênh lệch lợi nhuận ở
ngưỡng trọng yếu, nhưng phải nhận ý kiến kiểm toán không phải chấp nhận toàn phần.
Do vậy, Luận án mở rộng việc xác định công ty có sai sót trên BCTC là những công
ty có chênh lệch lợi nhuận sau kiểm toán vượt ngưỡng trọng yếu hoặc nhận ý kiến
kiểm toán không phải chấp nhận toàn phần.
Thứ tư, Luận án khai thác về quản trị công ty trên cả ba khía cạnh là cấu trúc sở
hữu, đặc điểm HĐQT và đặc điểm BKS, trong khi các công trình nghiên cứu trước
đó chỉ tập trung vào cấu trúc sở hữu hoặc đặc điểm của HĐQT. Mô hình QTCT có
BKS là một đặc trưng của các công ty cổ phần tại Việt Nam. Do vậy, so với các nghiên
cứu trước đó về tác động của QTCT tới chất lượng TTKT, các khía cạnh quản trị được
khai thác đa dạng hơn. Ngoài ra, việc mở rộng dữ liệu nghiên cứu là các công ty niêm
yết trong khoảng thời gian từ 2009-2020 được kỳ vọng sẽ giúp cho kết quả nghiên
cứu trở nên đáng tin cậy hơn trong việc cung cấp bằng chứng thực nghiệm về ảnh
hưởng của QTCT tới chất lượng TTKT.
8
Những đóng góp về mặt thực tiễn:
Thứ nhất, Luận án đã mô tả về thực trạng chất lượng TTKT của các công ty
niêm yết trên TTCK Việt Nam. Kết quả nghiên cứu đặt ra mối lo ngại về tính trung
thực của TTKT được các công ty công bố thông qua BCTC, đồng thời nhận thức tầm
quan trọng của việc nâng cao chất lượng TTKT, và QTCT được xem là một giải pháp
cho vấn đề nói trên.
Thứ hai, kết quả nghiên cứu của Luận án cung cấp bằng chứng thực nghiệm về
ảnh hưởng của QTCT tới chất lượng TTKT của các công ty niêm yết trên ba khía
cạnh là cấu trúc sở hữu, đặc điểm của HĐQT và đặc điểm của BKS. Đó là ảnh hưởng
tích cực của sở hữu Nhà nước, sở hữu tổ chức, sở hữu BGĐ lên chất lượng TTKT.
Mặt khác, việc các công ty có HĐQT quy mô lớn, độc lập, thành viên HĐQT có thâm
niên, có chuyên môn kế toán tài chính, sự có mặt của các thành viên nữ trong HĐQT
và các thành viên BKS có thâm niên sẽ giúp gia tăng hiệu quả giám sát, đảm bảo chất
lượng TTKT. Kết quả nghiên cứu là cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các
chính sách về QTCT nhằm giúp các công ty nâng cao chất lượng TTKT.
6. Kết cấu của Luận án
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án bao gồm
năm chương:
Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Chương 2: Cơ sở lý luận về chất lượng thông tin kế toán và tác động của
quản trị công ty tới chất lượng thông tin kế toán
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu về tác động quản trị công ty tới chất lượng
thông tin kế toán của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Chương 5: Hoàn thiện quản trị công ty nhằm nâng cao chất lượng thông
tin kế toán tại các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
9
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan tới chất lượng thông tin kế toán
Nghiên cứu về CLTT kế toán là một chủ đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
khoa học trong lĩnh vực tài chính kế toán. TTKT là sản phẩm của hệ thống kế toán
(Mulyani và Arum, 2016), được các bên có liên quan như cổ đông, nhà đầu tư, chủ
nợ… sử dụng làm cơ sở để ra quyết định. Các thông tin kém chất lượng sẽ gây ảnh
hưởng tới hiệu quả quyết định của người sử dụng thông tin. Ví dụ nhà đầu tư khi sử
dụng TTKT thiếu chính xác sẽ dẫn tới việc đánh giá sai về tình hình kinh doanh của
doanh nghiệp, từ đó có thể đưa các quyết định đầu tư bất lợi; chủ nợ sử dụng các
TTKT từ doanh nghiệp thiếu trung thực trong quá trình thẩm định có thể dẫn tới sai
lầm trong việc ra quyết định cho vay hoặc thu hồi nợ. CLTT kế toán thể hiện tính hữu
ích của thông tin (Azar và cộng sự, 2019), cho thấy sự đáp ứng của thông tin đối với
nhu cầu của người sử dụng (Mulyani và Arum, 2016). Vì vậy câu hỏi được đặt ra là
TTKT như thế nào được coi là đáp ứng nhu cầu của người sử dụng, hay nói cách khác
CLTT kế toán cần đảm bảo các đặc điểm như thế nào?
Các nghiên cứu về CLTT kế toán được các nhà khoa học tập trung vào một số
thuộc tính của TTKT như tính trung thực, thích hợp, đầy đủ, kịp thời, dễ hiểu và có
thể kiểm chứng được (Jonas và Banchet, 2004). Việc đề xuất các thuộc tính này của
TTKT bắt nguồn từ khuôn khổ các khái niệm về TTKT ban hành bởi các tổ chức nghề
nghiệp quốc tế như Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB), Hội đồng chuẩn
mực kế toán tài chính của Hoa Kỳ (FASB), hoặc xuất phát từ quy định của nước sở
tại. Vào năm 1966, Hiệp hội kế toán Mỹ (AAA) đã công bố một báo cáo về nền tảng
lý thuyết của kế toán (A statement of Basic Accounting Theory) và nêu rõ rằng mục
tiêu chính của lý thuyết kế toán là phải đưa ra được các thuộc tính của thông tin nhằm
đảm bảo tính hữu ích đối với người sử dụng thông tin. Các đặc tính về CLTT kế toán
được Hội đồng chuẩn mực kế toán Hoa Kỳ FASB đề xuất lần đầu vào năm 1980, theo
đó TTKT sẽ hữu ích cho người sử dụng trong việc ra quyết định khi đảm bảo được
hai thuộc tính cơ bản là tính thích hợp (relevance) và tính tin cậy (reliability), bên
10
cạnh các thuộc tính có liên quan là phản hồi, dự báo, kịp thời, có thể kiểm chứng,
trung lập, trung thực, có thể so sánh. Sau này, Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế
IASB (2001) đã đưa ra các khái niệm làm nền tảng cho việc lập và trình bày BCTC,
theo đó, CLTT kế toán cần đảm bảo các đặc tính cơ bản là dễ hiểu, thích hợp, tin cậy
và so sánh được. Như vậy, IASB và FASB có sự tương đồng nhất định về quan điểm,
từ đó làm tiền đề cho việc hợp nhất khung khái niệm của IASB và FASB (2010),
nhằm hướng tới việc phát triển một khuôn khổ khái niệm chung giữa hai tổ chức, mà
trước hết là thống nhất về mục tiêu và các thuộc tính về CLTT. Theo đó CLTT kế
toán được hợp nhất với chất lượng BCTC, TTKT phản ánh trên BCTC được coi là
hữu ích khi đảm bảo hai thuộc tính cơ bản là thích hợp (relevance), trung thực (faithful
representation). Ngoài ra, quan điểm hòa hợp của IASB và FASB (2010) còn đề cập
tới các thuộc tính làm gia tăng CLTT: có thể so sánh (comparability), có thể kiểm
chứng (verifiability), kịp thời (timeliness) và dễ hiểu (understandability). Tại Việt
Nam, trước yêu cầu khách quan về việc xây dựng một bộ chuẩn mực kế toán chung,
năm 2002, Hệ thống Chuẩn mực Kế toán Việt Nam ra đời, trong đó trước hết quy
định và hướng dẫn về các nguyên tắc, các yêu cầu kế toán cơ bản. Theo đó, TTKT
phải đảm bảo yêu cầu về tính trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời, dễ hiểu và có
thể so sánh, trong đó tính trung thực được coi là đặc tính cơ bản của TTKT.
Từ quy định về các thuộc tính thông tin, khi nghiên cứu về CLTT kế toán, các
nhà khoa học thực hiện theo hai hướng: một là, nghiên cứu CLTT kế toán tổng hợp
theo các thuộc tính về thông tin, trong đó, dữ liệu thường là dữ liệu sơ cấp, thu thập
thông qua khảo sát; hai là, nghiên cứu theo từng thuộc tính riêng lẻ, trong đó, dữ
liệu thường là dữ liệu thứ cấp, được thu thập từ BCTC của các công ty và dữ liệu
thị trường.
Đối với các nghiên cứu xây dựng thang đo tổng hợp về CLTT kế toán theo
các thuộc tính thông tin:
Jonas và Banchet (2000) đã khảo sát và xây dựng thang đo tổng hợp về CLTT
trên nền tảng của FASB (1980) gồm hai đặc tính quan trọng nhất là tính tin cậy và
thích hợp, cùng với 11 thuộc tính có liên quan bao gồm: phản hồi, dự báo, kịp thời,
11
có thể kiểm chứng, trung lập, trung thực, có thể hiểu được, nhất quán, có thể so sánh,
rõ ràng và đầy đủ.
Phát triển từ mô hình được khởi xướng bởi Jonas và Banchet (2000), Beest và
cộng sự (2009) đã xây dựng 21 thuộc tính cho hai đặc điểm cơ bản của CLTT kế toán
FASB và IASB là thích hợp, trung thực, và ba đặc điểm bổ sung: có thể so sánh, có
thể hiểu, và tính kịp thời. Sau này năm 2013, các tác giả đã phát triển mô hình nghiên
cứu của mình lên 33 thuộc tính để giải thích cho năm đặc điểm nói trên.
Trong khi đó, nghiên cứu của Bukenya (2014) đo lường CLTT kế toán trong
lĩnh vực công tại Uganda thông qua việc xây dựng thang đo tổng hợp gồm: tin cậy,
dễ hiểu, thích hợp, chính xác và kịp thời. Thông qua dữ liệu sơ cấp thu thập từ khảo
sát, nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của CLTT kế toán tới hiệu quả tài chính của khu
vực công với tương quan dương.
Ngoài ra, trong nghiên cứu của Gacheru (2017) tại Kenya, tác giả đã tiến hành
khảo sát 200 người trong lĩnh vực kế toán tài chính và đề xuất các biến đo lường
CLTT kế toán bao gồm tính tin cậy, thích hợp và có thể so sánh. Kết quả nghiên cứu
cho thấy CLTT kế toán có tác động dương tới hiệu quả của việc ra quyết định.
Kế thừa các nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới, tại Việt Nam, các
nhà khoa học cũng đã xây dựng các thang đo tổng hợp để đo lường chất lượng TTKT.
Nguyễn Tố Tâm (2014) đã tiến hành phỏng vấn chuyên gia, xây dựng thang đo và
khảo sát các cán bộ đảm nhiệm trực tiếp công tác kế toán, tài chính, kiểm soát thuộc
các công ty niêm yết thuộc Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh để đo
lường, đánh giá CLTT kế toán và mối liên hệ giữa tổ chức kiểm soát nội bộ với CLTT
kế toán. Trong phần đánh giá về CLTT kế toán, tác giả đã xây dựng thang đo dựa trên
6 yếu tố cơ bản của TTKT, bao gồm: tính thích hợp, trung thực, xác nhận, dễ hiểu, có
thể so sánh và kịp thời. Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố cơ bản về CLTT kế
toán đều được đánh giá tốt, ngoại trừ yếu tố kịp thời được đánh giá trên mức trung
bình.
Trần Thị Thanh Tú và cộng sự (2014) đã xây dựng mô hình các nhân tố ảnh
hưởng tới CLTT của các công ty niêm yết, trong đó việc đo lường CLTT dựa trên nền
tảng quan điểm của các tổ chức kế toán như FASB, IASB và Hệ thống Chuẩn mực kế
12
toán Việt Nam, bao gồm: tính phù hợp, đáng tin cậy, trung thực và khách quan, đầy
đủ, kịp thời, dễ hiểu, có thể so sánh được, tính xác nhận. Bài nghiên cứu dừng lại ở
việc đề xuất mô hình, tuy vậy đây có thể được coi là cơ sở để tác giả vận dụng kiểm
định tại TTCK Việt Nam.
Phạm Quốc Thuần (2015) đã tổng hợp một số công trình nghiên cứu về CLTT
kế toán. Bằng phương pháp phân tích, nghiên cứu đã kết luận mô hình đo lường về
CLTT kế toán được công bố bởi IASB và FASB là mô hình đạt được sự đồng thuận
của phần lớn nhà nghiên cứu, phù hợp với xu hướng hòa hợp và hội tụ quốc tế về
chuẩn mực kế toán.
Nguyễn Trọng Nguyên (2015) đã đo lường CLTT BCTC bằng cách sử dụng
thang đo 16 thuộc tính dựa trên đặc điểm chất lượng của IASB và FASB. Kết quả
nghiên cứu cho thấy CLTT kế toán ở dưới mức trung bình, thậm chí có 158/195 công
ty trong mẫu nghiên cứu chiếm 81,1% có chất lượng yếu kém, thể hiện chủ yếu ở hai
hoạt động trình bày và công bố báo cáo.
Đối với các nghiên cứu về chất lượng thông tin kế toán theo từng đặc tính
riêng lẻ: các nhà khoa học tập trung vào hai đặc tính quan trọng nhất của thông tin đó
là tính trung thực và tính thích hợp (FASB và IASB, 2010)
Nghiên cứu về chất lượng thông tin kế toán gắn liền với tính trung thực của
thông tin
Dựa trên khung khái niệm của các tổ chức quốc tế về kế toán, nghiên cứu của
Dechow và cộng sự (1996), Beasley (1996), Jonas & Blanchet (2000), Willekens
(2008) đã xây dựng cách đo lường về CLTT theo đặc điểm trung thực với ba yếu tố:
tính đầy đủ (complete), trung lập (neutral), không có sai sót trọng yếu (free from
material error). Nhằm đo lường CLTT kế toán, các nhà khoa học đã nghiên cứu về
CLTT kế toán thông qua hai khái niệm là quản trị lợi nhuận và sai sót trên BCTC.
Theo đó, TTKT được coi là trung thực khi không có hiện tượng quản trị lợi nhuận tức
là thông tin đã đảm bảo trung lập, khách quan, đầy đủ; và không có các sai sót trên
BCTC đồng nghĩa với việc không còn sai sót trọng yếu.
Các nghiên cứu về chất lượng thông tin kế toán trên khía cạnh quản trị lợi nhuận
13
Như đã phân tích, CLTT kế toán được đảm bảo khi thông tin phản ánh trung
thực tình hình về hoạt động kinh doanh của công ty, hay nói cách khác thông tin cần
phải được phản ánh đầy đủ, khách quan, trung lập, không bị can thiệp làm phát sinh
các điều chỉnh như thay đổi các ghi chép kế toán, điều chỉnh các ước tính, hay khai
khống các thông tin về tài sản, thu nhập của đơn vị…, làm sai lệch thông tin khi công
bố. Các hành vi điều chỉnh thường tập trung vào con số lợi nhuận cuối cùng trên
BCTC, vì vậy được gọi là quản trị lợi nhuận. Quản trị lợi nhuận là một chủ đề sớm
được các học giả kinh tế quan tâm, xảy ra khi nhà quản trị can thiệp vào việc ghi nhận
thông tin tài chính hay cấu trúc lại những giao dịch mua bán thông thường để thay đổi
con số cuối cùng trên BCTC, nhằm làm sai lệch kỳ vọng của cổ đông vào tình trạng
kinh tế thực sự của công ty hoặc nhằm tác động tích cực lên kết quả các hợp đồng dựa
vào số liệu kế toán được công bố như hợp đồng lương, thưởng của nhà quản lý (Healy
và Wahlen, 1999). BCTC có hiện tượng quản trị lợi nhuận thể hiện CLTT kế toán
thấp. Các nhà khoa học cho rằng quản trị lợi nhuận có thể thực hiện bằng cách điều
chỉnh giao dịch thực tế xảy ra trong năm tài chính (quản trị lợi nhuận thông qua giao
dịch thực) hoặc thay đổi phương pháp kế toán hay các ước lượng khi thể hiện trên
BCTC làm phát sinh các khoản dồn tích bất thường (quản trị lợi nhuận trên cơ sở dồn
tích).
Quản trị lợi nhuận thông qua giao dịch thực là hành vi cố ý thay đổi doanh thu
được công bố theo ý muốn của nhà quản trị bằng cách đổi thời gian hay cấu trúc hoạt
động, đầu tư hay giao dịch tài chính để đạt được hiệu quả kinh tế (Zang, 2011). Theo
Roychowdhury (2006), các nhà quản lý có thể sử dụng chiết khấu hoặc các các khoản
tín dụng để tạm thời đẩy nhanh doanh số bán hàng, dẫn đến sự gia tăng lợi nhuận
trong giai đoạn hiện tại, tuy nhiên điều này không ảnh hưởng tới dòng tiền hoạt động.
Bên cạnh đó, các điều chỉnh về chi phí như chi phí quảng cáo, chi phí nghiên cứu và
phát triển và chi phí bán hàng, chi phí quản lý công ty dẫn tới tổng chi phí thấp bất
thường cũng được coi là dấu hiệu của quản trị lợi nhuận. Biểu hiện thứ ba liên quan
tới chi phí sản xuất khi mà các nhà quản lý cố tình đẩy mạnh sản xuất hơn mức cần
thiết, từ đó giảm tổng chi phí sản xuất trung bình cho mỗi đơn vị, nhằm giảm giá vốn
hàng bán và tăng lợi nhuận biên. Những hành vi cố ý thông qua giao dịch nhằm điều
14
chỉnh lợi nhuận trên báo cáo đều làm TTKT không còn khách quan, trung thực, hay
nói cách khác là làm suy giảm CLTT kế toán
Khác với quản trị lợi nhuận thông qua giao dịch thực, quản trị lợi nhuận trên cơ
sở dồn tích được thực hiện bằng thay đổi phương pháp kế toán hoặc phương pháp ước
lượng (Zang, 2011) như thay đổi ước tính dự phòng, thay đổi cách tính giá hàng xuất
kho… từ đó làm thay đổi lợi nhuận kế toán nhưng không làm phát sinh dòng tiền.
Cách làm này dẫn tới sự chênh lệch giữa lợi nhuận và dòng tiền, và được gọi là quản
trị lợi nhuận trên cơ sở dồn tích. Mặc dù việc thay đổi các phương pháp kế toán hay
thay đổi các ước lượng là vấn đề được chuẩn mực kế toán cho phép, tuy vậy việc thay
đổi này có thể làm làm TTKT không giữ được tính trung lập, khách quan, nói các
khác, CLTT kế toán sẽ không được đảm bảo. Về mặt bản chất, trong hoạt động kinh
doanh, các doanh nghiệp sẽ xuất hiện các khoản dồn tích do phát sinh chênh lệch giữa
dòng tiền và lợi nhuận kế toán, tuy nhiên khoản dồn tích quá cao so với đặc điểm của
ngành và của quy mô doanh nghiệp là dấu hiệu cho thấy hiện tượng quản trị lợi nhuận.
Vì vậy để đo lường CLTT kế toán trên khía cạnh quản trị lợi nhuận, các nhà khoa học
dựa vào các khoản dồn tích bất thường, trong đó khoản dồn tích bất thường chính là
chênh lệch giữa dồn tích trong kỳ của doanh nghiệp với các khoản dồn tích thông
thường. Khoản dồn tích bất thường thể hiện sự mức độ áp đặt chủ quan của nhà quản
trị để điều chỉnh lợi nhuận. Nghiên cứu của Jones (1991) được xem là đặt nền móng
cho việc xác định mức độ quản trị lợi nhuận qua các khoản dồn tích. Trong mô hình
gốc, Jones (1991) định nghĩa khoản dồn tích thông thường là ước tính dồn tích dựa trên
sự thay đổi doanh thu và giá trị tài sản cố định của các doanh nghiệp cùng ngành nghề.
Dồn tích bất thường là chênh lệch giữa tổng giá trị của dồn tích doanh nghiệp với phần
dồn tích thông thường được ước lượng bằng cách trên. Các nghiên cứu về sau khi thực
hiện các đánh giá liên quan tới CLTT kế toán cũng đã kế thừa nghiên cứu về quản trị
lợi nhuận dựa trên biến dồn tích của Jones (1991) như Becker (1998), Krishnan (2003)
và bổ sung một số yếu tố thích hợp như của Dechow và cộng sự (1995) với các khoản
phải thu, Kothari và cộng sự (2005) đưa thêm biến hiệu quả hoạt động, hay Chaney và
cộng sự (2011) bổ sung biến lạm phát và tăng trưởng GDP; hoặc Fathi (2013) bổ sung
chỉ số BM (giá trị ghi sổ trên giá trị thị trường) khi ước lượng các khoản dồn tích thông
thường.
15
Tại Việt Nam, các nhà khoa học rất quan tâm và sử dụng quản trị lợi nhuận trên
cơ sở dồn tích làm thước đo chính về chất lượng TTKT. Nghiên cứu của tác giả Phùng
Anh Thư và Nguyễn Vĩnh Khương (2018) và tác giả Phùng Anh Thư và Thái Hồng
Thụy Khánh (2018) đều sử dụng quản trị lợi nhuận để phản ánh CLTT kế toán. Kết
quả nghiên cứu của Phùng Anh Thư và Nguyễn Vĩnh Khương (2018) cho thấy khả
năng hoạt động liên tục có tác động thuận chiều tới CLTT BCTC, phản ánh tình hình
sức khỏe tài chính của công ty có ảnh hưởng tới CLTT BCTC. Bên cạnh đó, nghiên
cứu của Phùng Anh Thư và Thái Hồng Thụy Khánh (2018) cung cấp bằng chứng thực
nghiệm cho thấy quy mô doanh nghiệp, khả năng sinh lời, đòn bẩy tài chính có ảnh
hưởng đến chất lượng BCTC của công ty niêm yết. Cả hai nghiên cứu đều sử dụng
dữ liệu từ 279 công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam trong khoảng thời gian 2009-
2015.
Cùng sử dụng quản trị lợi nhuận thông qua các khoản dồn tích để đo lường
CLTT kế toán, Nguyễn Thu Hằng và cộng sự (2018) trong nghiên cứu đã sử dụng mô
hình Jones (1991), Dechow và cộng sự (1995), Kothari và cộng sự (2005). Kết quả
đo lường các khoản dồn tích bất thường bằng 3 phương pháp này khá tương đương.
Kết quả hồi quy cho thấy có mối tương quan giữa QTCT và quản trị lợi nhuận.
Nghiên cứu về chất lượng thông tin kế toán trên khía cạnh sai sót trên báo cáo
tài chính
Các chuẩn mực kiểm toán của Mỹ định nghĩa sai sót/ gian lận BCTC là hành vi gây
ra sai lệch trọng yếu của BCTC. Theo Hiệp hội các nhà điều tra gian lận Hoa Kỳ, sai sót/
gian lận BCTC là sự xuyên tạc về tình trạng tài chính của một doanh nghiệp, được thực
hiện thông qua sự trình bày sai hoặc bỏ sót số tiền hoặc thông tin thuyết minh trong
BCTC để đánh lừa người sử dụng BCTC. Theo đó các hành vi sai sót mang tính chất cố
ý được coi là gian lận. Các BCTC tồn tại các sai sót/ gian lận được coi là BCTC thiếu
trung thực, đồng nghĩa với việc CLTT kém, gây phương hại tới quyền lợi của người sử
dụng thông tin. Các nghiên cứu về CLTT kế toán thông qua sai sót/ gian lận trên BCTC
xác định doanh nghiệp có sai sót/gian lận trên BCTC bằng cách dựa vào báo cáo về gian
16
lận như báo cáo AAERs1 (Accounting and Auditing enforcement Release) (Roden và
cộng sự, 2016). Ngoài ra một số nghiên cứu khác dựa vào chênh lệch BCTC trước và
sau kiểm toán vượt ngưỡng trọng yếu, tính trên lợi nhuận, doanh thu, hoặc tài sản
(Kinney và cộng sự, 1994), cho thấy công ty đã công bố BCTC không đảm bảo chất
lượng.
Một hướng tiếp cận khác về CLTT kế toán qua sai sót đó là dựa vào ý kiến của
đơn vị kiểm toán độc lập. Các nghiên cứu của Kim và Yang (2007), Willekens (2008)
đều cho rằng báo cáo kiểm toán có khả năng cung cấp một sự đảm bảo phù hợp về tính
trung thực của báo cáo kế toán. Maines và Wahen (2006) cho rằng báo cáo kiểm toán
chấp nhận toàn phần chính là điều kiện cần thiết để thể hiện TTKT là đáng tin cậy và
được trung thực. Do vậy, bên cạnh quản trị lợi nhuận, ý kiến kiểm toán thể hiện báo cáo
không còn sai sót trọng yếu được coi là thước đo thể hiện CLTT kế toán (Dechow và
cộng sự, 2011; Pucheta‐Martínez và cộng sự, 2016)
Nhìn chung, các nghiên cứu về chất lượng lượng TTKT thông qua sai sót trọng
yếu, ngoài việc dựa trên báo cáo thống kê về gian lận, chủ yếu được thực hiện trên cơ
sở báo báo cáo của kiểm toán độc lập. Theo đó, CLTT kế toán được đảm bảo khi báo
cáo không có sai sót trọng yếu, hay nói cách khác là không có chênh lệch sau kiểm
toán ở mức trọng yếu hoặc nhận được ý kiến chấp nhận toàn phần từ kiểm toán viên.
Tại Việt Nam, các nhà khoa học khi nghiên cứu về sai sót trên báo cáo tài chính
chủ yếu sử dụng thước đo chênh lệch lợi nhuận trước và sau kiểm toán. Nghiên cứu
của tác giả Nguyễn Thị Hải Hà (2014) sử dụng phương pháp thống kê mô tả với thước
đo chênh lệch BCTC trước và sau kiểm toán cho thấy chất lượng BCTC thiếu tin cậy
của các công ty niêm yết trên thị trường. Số liệu trong năm nghiên cứu cho thấy hầu
hết doanh nghiệp đều có hiện tượng giảm lợi nhuận sau kiểm toán, thậm chí chuyển
lãi thành lỗ, từ lỗ nhẹ sang lỗ nặng, chủ yếu điều chỉnh ở chỉ tiêu chi phí tài chính. Từ
đó, bài viết đề xuất một số giải pháp tập trung hoàn thiện khung pháp lý và hệ thống
văn bản hướng dẫn, tăng khả năng thực thi của cơ quan quản lý thị trường, nâng cao
1 Kể từ năm 1982, Ủy ban chứng khoán và Sàn giao dịch Mỹ (SEC) đã phát hành báo cáo AAERs nhằm cung cấp thông tin về các sai phạm của các cá nhân hoặc đơn vị và ảnh hưởng của các sai phạm này tới BCTC (Nguồn: Beasley, M.S., 1996. An empirical analysis of the relation between the board of director composition and financial statement fraud. Accounting review, pp.443-465.)
trách nhiệm xã hội của công ty niêm yết.
17
Nghiên cứu về chất lượng thông tin kế toán gắn liền với tính thích hợp của
thông tin
Bên cạnh đặc điểm trung thực, tính thích hợp cũng được xem là một yếu tố để
đánh giá CLTT kế toán. TTKT thích hợp sẽ hữu ích cho người sử dụng, thể hiện có
chất lượng tốt. IASB (2018) định nghĩa TTKT có tính thích hợp khi có khả năng tạo
ra được sự khác biệt trong quyết định của người sử dụng, nghĩa là thông tin đó có khả
năng dự báo và khả năng xác nhận. Khả năng dự báo có được khi người sử dụng dùng
những thông tin đó để dự đoán dòng thu nhập của doanh nghiệp trong tương lai.
Thông tin tài chính có khả năng xác nhận khi thông tin cung cấp các phản hồi về các
đánh giá trước đó. Đây là hai tính chất có liên quan mật thiết với nhau, ví dụ thông
tin về doanh thu của năm hiện tại của doanh nghiệp có thể xác định được mức độ
thích hợp thông qua việc so sánh các chỉ số của những năm trước, và cũng được sử
dụng để dự đoán doanh thu của năm tiếp theo. Kết quả của việc so sánh sẽ giúp người
sử dụng cải thiện việc dự đoán của mình. Theo đó, TTKT có giá trị thích hợp nếu tồn
tại một mối quan hệ giữa các thông tin công bố trên BCTC với giá trị thị trường của
cổ phiếu hoặc lợi nhuận của cổ phiếu (Francis và Schipper, 1999). Nói cách khác, giá
trị thích hợp của TTKT là khả năng của các số liệu kế toán trong việc tóm tắt các
thông tin cơ bản của giá cổ phiếu (Liu và Liu, 2007). Do vậy các mô hình hồi quy để
đo lường tính thích hợp đều tập trung vào giá cổ phiếu và thông tin BCTC. Nếu mối
liên hệ này chặt chẽ nghĩa là thông tin thích hợp và ngược lại. Nghiên cứu của Azar
và cộng sự (2019) cho rằng có hai mô hình gốc thường được các học giả sử dụng để
đo lường tính thích hợp của TTKT: mô hình về thu nhập cổ phiếu (Easton và Harris,
1991) và mô hình giá cổ phiếu (Ohlson, 1999).
Đối với mô hình của Easton và Harris (1991), giá trị thích hợp chính là phần dư
của mô hình đo lường ảnh hưởng của thu nhập cổ phiếu EPS lên lợi nhuận của cổ
phiếu, trong đó lợi nhuận cổ phiếu được xác định bằng chênh lệch giá cổ phiếu trong
hai năm liền kề cộng cổ tức được chia. Các nghiên cứu sau này như nghiên cứu của
Niu (2006), Klai và Omri (2011) tiếp tục kế thừa mô hình nói trên để đo lường giá trị
thích hợp của TTKT.
18
Đối với mô hình của Ohlson (1999) hay còn gọi là mô hình EBO, giá trị thích
hợp là phần dư của mô hình đo lường mối quan hệ của giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu,
thu nhập cổ phiếu EPS và giá trị thị trường. Sau này mô hình EBO còn được bổ sung
biến sự thay đổi trong thu nhập trên một cổ phiếu, tạo nên mô hình EBO điều chỉnh.
Vận dụng mô hình của Ohlson (1999), Adaa và Hanefah (2018) đã nghiên cứu về
CLTT kế toán thông qua tính thích hợp của TTKT.
Tại Việt Nam, hướng nghiên cứu dựa trên đặc tính thích hợp của chất lượng
thông tin kế toán không thực sự bổ biến. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Phương
Hồng (2016) sử dụng mẫu dữ liệu từ 2012-2014 với số lượng 123 công ty niêm yết.
Tính thích hợp của thông tin được đo lường bằng mô hình EBO điều chỉnh (Ohlson,
1999). Tuy nhiên khi sử dụng mô hình EBO điều chỉnh, hệ số xác định R2 đo lường
khả năng giải thích của mô hình chỉ ở mức 39%, thấp hơn so với các nghiên cứu được
thực hiện tại các thị trường khác. Bên cạnh đó, khi sử dụng thang đo về đặc tính thích
hợp để nghiên cứu về ảnh hưởng của QTCT tới CLTT BCTC, biến chất lượng đo
bằng mô hình EBO chỉ có tương quan với duy nhất một yếu tố trên 11 biến quản trị
đề xuất.
Ngoài ra, các học giả còn tiến hành mở rộng việc đo lường đánh giá CLTT kế
toán thông qua việc đánh giá các thuộc tính làm gia tăng CLTT. Beest (2009) đo
lường tính kịp thời bằng cách lấy logarit tự nhiên số ngày kể từ kết thúc năm tài chính
cho tới thời điểm ký báo cáo kiểm toán. Tính có thể so sánh được xác định bằng cách
xem xét công ty có thay đổi chính sách kế toán qua các thời kỳ hay không (Jonas và
Blanchet, 2000). Tính dễ hiểu thể hiện TTKT phải được phân loại, đặc tính hóa và
trình bày một cách rõ ràng (Jonas & Blanchet, 2000). Khi người sử dụng càng hiểu
được thông tin, chất lượng BCTC càng được nâng cao. Việc sử dụng đồ thị và bảng
biểu giúp thông tin được trình bày rõ ràng (Courtis, 2005).
1.2. Tổng quan các nghiên cứu liên quan tới tác động của quản trị công ty tới
chất lượng thông tin kế toán
Các nghi vấn về CLTT kế toán xuất phát từ vấn đề đại diện giữa nhà quản trị và
cổ đông. Mặt khác, Lý thuyết thông tin bất cân xứng cho thấy mặc dù là người chủ sở
hữu thực sự, tuy nhiên cổ đông luôn là người ở thế bị động trong việc tiếp cận thông
19
tin BCTC được cung cấp bởi BGĐ. BGĐ trong quá trình vận hành hệ thống TTKT,
có đầy đủ vị thế và động cơ để cung cấp thông tin thiếu chất lượng cho cổ đông, xuất
phát từ lợi ích cá nhân. Động cơ có thể liên quan tới lương, thưởng, hoặc lo ngại bị sa
thải khi tình hình kinh doanh của công ty không hiệu quả như kỳ vọng của cổ đông.
Nhằm hạn chế hành vi can thiệp làm giảm CLTT kế toán, các cổ đông cần có sự kiểm
soát hiệu quả hoạt động của BGĐ. QTCT được xem là giải pháp hiệu quả cho vấn đề
này. QTCT được hiểu là các cơ chế nội bộ để kiểm soát công ty, liên quan tới các mối
quan hệ giữa BGĐ, HĐQT, các cổ đông và các bên có liên quan (OECD, 2004). Ngoài
ra, theo La Porta và cộng sự (2000), QTCT còn giúp các bên liên quan bên ngoài
doanh nghiệp, đặc biệt là các cổ đông thiểu số, bảo vệ mình khỏi những hành vi tổn
hại đến quyền sở hữu trước các cổ đông kiểm soát. Do đó, các nghiên cứu về tác động
của tác động của QTCT tới chất lượng TTKT thường tiếp cận về QTCT trên hai khía
cạnh chính là cấu trúc sở hữu và đặc điểm của thành phần quản trị. Trong đó, thành
phần quản trị chủ yếu bao gồm HĐQT và BKS. HĐQT bao gồm các thành viên do cổ
đông bầu chọn, nhằm đại diện cho các chủ sở hữu, thực hiện chức năng giám sát hoạt
động của BGĐ, qua đó bảo vệ quyền lợi của cổ đông và các bên liên quan khỏi các
nguy cơ bị phương hại lợi ích từ BGĐ. Ở một số quốc gia như Anh, Mỹ, HĐQT có
thể chia thành nhiều Ủy ban như Ủy ban kiểm toán, Ủy ban lương thưởng. Trong khi
đó, tại một số quốc gia như Trung Quốc, Indonesia, cấu trúc QTCT còn bao gồm
BKS, là cơ quan do các cổ đông bầu ra nhằm giám sát và đánh giá việc thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của thành viên HĐQT và BGĐ.
Các nghiên cứu về tác động của cấu trúc sở hữu tới chất lượng thông tin kế
toán
Cấu trúc sở hữu được hiểu là sự phân bổ vốn chủ sở hữu theo quyền, có mối
tương quan với tỷ lệ vốn chủ sở hữu được nắm giữ bởi các chủ sở hữu, chi phối bởi
vấn đề người đại diện, bao gồm: vấn đề giữa ban quản lý và chủ sở hữu, vấn đề giữa
cổ đông kiểm soát và cổ đông nhỏ lẻ (Liu và Lu, 2007). Donnelly và Lynch (2002)
tin rằng tính tập trung của cấu trúc sở hữu làm cho các cổ đông kiểm soát có động lực
bảo vệ quyền lợi của mình bằng cách gia tăng sự giám sát.
20
Bài nghiên cứu của hai tác giả Wang và Yung (2011) đề cập về ảnh hưởng của
sở hữu Nhà nước tới CLTT kế toán qua thang đo quản trị lợi nhuận. Nghiên cứu bắt
đầu từ việc lật lại nghi ngờ về việc các doanh nghiệp Nhà nước thường hoạt động
không hiệu quả vì những lý do như mâu thuẫn lợi ích, sự ỷ lại vào trợ cấp chính phủ,
hoạt động quản trị yếu kém. Tuy vậy kết quả nghiên cứu lại cho thấy doanh nghiệp
càng có nhiều vốn Nhà nước lại càng có ít hành vi quản trị lợi nhuận. Nguyên nhân
là do sự bảo hộ từ phía Nhà nước làm giảm động lực để nhà quản trị tìm cách sửa đổi
BCTC. Kết quả này có ý nghĩa thống kê khi mô hình được chạy cho toàn mẫu hay
cho giai đoạn trước quá trình tự do hóa kinh tế diễn ra ở Trung Quốc. Khi mở rộng
nghiên cứu về sở hữu của BGĐ, tác giả chưa tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ
giữa sở hữu của BGĐ và CLTT kế toán.
Tương tự, Kao (2014) đã tìm hiểu về ảnh hưởng của IFRS, tính bất cân xứng
thông tin và QTCT lên CLTT kế toán. Nghiên cứu được thực hiện trên TTCK Trung
Quốc. Xét riêng trên góc độ QTCT, nghiên cứu tập trung phân tích về cấu trúc sở hữu
và chỉ ra rằng sở hữu Nhà nước có ảnh hưởng tích cực lên CLTT kế toán ở khía cạnh
trung thực và thích hợp; sở hữu của nhà quản lý cấp cao có tác động tích cực lên tính
kịp thời và thích hợp của TTKT; trong khi đó tỷ lệ sở hữu của HĐQT có tác động tích
cực trên cả 3 đặc tính trung thực, kịp thời và thích hợp. Ở chiều ngược lại, các doanh
nghiệp có tỷ lệ sở hữu cổ đông tổ chức càng cao sẽ cung cấp thông tin thiếu trung
thực, thích hợp và không kịp thời. Tuy vậy, nghiên cứu chưa tìm được bằng chứng về
ảnh hưởng của sở hữu BGĐ tới tính trung thực của TTKT.
Sử dụng mô hình đo lường CLTT kế toán thông qua thước đo quản trị lợi nhuận,
cụ thể là mô hình của Kothari và cộng sự (2005), Anwar và Buvanendra (2019) đã
kiểm định sự ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu lên quản trị lợi nhuận của các công ty
niêm yết tại Sri Lanka. Kết quả nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu
của cổ đông tổ chức và của nhà điều hành càng lớn, được kiểm toán bởi Big4 sẽ hạn
chế hiện tượng thao túng lợi nhuận, cho thấy CLTT kế toán tốt. Mặt khác, doanh
nghiệp có tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài càng cao thì mức độ thao túng lợi
nhuận càng lớn. Tuy vậy, mẫu nghiên cứu chỉ bao gồm 355 quan sát từ 71 công ty
trong khoảng thời gian từ 2013-2018.
21
Tương tự nghiên cứu của Anwar và Buvanendra (2019), Firmansyah và Irawan
(2019) cũng sử dụng mô hình của Kothari và cộng sự (2005) để đo lường CLTT kế
toán thông qua thước đo quản trị lợi nhuận. Trên cơ sở dữ liệu tài chính và quản trị
của các công ty niêm yết tại Indonesia, nghiên cứu đã chỉ ra mối tương quan âm giữa
sở hữu tổ chức với mức độ quản trị lợi nhuận, hay nói cách khác doanh nghiệp có tỷ
lệ sở hữu của nhà đầu tư tổ chức lớn sẽ có CLTT kế toán tốt. Tuy nhiên, nghiên cứu
chưa cung cấp được bằng chứng về vai trò của thành viên độc lập với CLTT kế toán.
Tại Việt Nam, Nguyễn Thu Hằng và cộng sự (2018) đã tìm hiểu tác động của
QTCT đến hành vi thao túng lợi nhuận thông qua các khoản dồn tích của các công ty
niêm yết. Sử dụng dữ liệu BCTC của 652 công ty phi tài chính niêm yết trên Sở Giao
dịch Chứng khoán Hà Nội và TP.HCM trong giai đoạn 2010-2016, kết quả nghiên
cứu cho thấy các doanh nghiệp có sở hữu của BGĐ và sở hữu Nhà nước lớn sẽ hạn
chế hành vi thao túng lợi nhuận, tuy nhiên nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng về
ảnh hưởng của sở hữu cổ đông tổ chức tới CLTT kế toán.
Các nghiên cứu về tác động của đặc điểm Hội đồng quản trị tới chất lượng
thông tin kế toán
Với chức năng là cơ quan quản lý, HĐQT đại diện cho cổ đông thực hiện kiểm
tra, theo dõi hoạt động của BGĐ, đóng một vị thế quan trọng trong việc kiểm soát vấn
đề đại diện (García‐Meca và Sánchez‐Ballesta, 2009).
Vafeas (2000) tìm hiểu ảnh hưởng của đặc thù HĐQT tới CLTT kế toán. Nghiên
cứu thu thập dữ liệu từ 350 doanh nghiệp ở Mỹ. Kết quả nghiên cứu cho thấy công ty
có số lượng thành viên HĐQT càng ít thì khả năng cung cấp thông tin về thu nhập
của doanh nghiệp đó càng cao. Tuy nhiên nghiên cứu này không tìm ra được bằng
chứng về tác động của tính độc lập của các thành viên HĐQT đến khả năng cung cấp
thông tin.
Nghiên cứu của Xie và cộng sự (2003) sử dụng quản trị lợi nhuận thông qua các
khoản dồn tích làm thước đo chất lượng kế toán. Kết quả nghiên cứu cho thấy HĐQT
có vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn hiện tượng quản trị thu nhập, trong đó, quy
mô HĐQT, tỷ lệ thành viên độc lập là các tổ chức và thành viên độc lập trong HĐQT
có chuyên môn về tài chính có tác động tích cực tới CLTT kế toán. Tuy nhiên, nghiên
22
cứu không tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ giữa tính kiêm nhiệm và CLTT kế
toán
Khác với nghiên cứu của Vafeas (2000) và Xie và cộng sự (2003),
Dimitropoulos và Asteriou (2010) lại không tìm thấy mối liên hệ giữa số lượng thành
viên HĐQT tới CLTT kế toán. Thay vào đó, kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan
hệ tích cực giữa CLTT kế toán và tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập. Dữ liệu được thu
thập trong thời gian 5 năm từ năm 2000 đến năm 2004 tại Hy Lạp.
Fathi (2013) đã kiểm định mối quan hệ giữa QTCT với CLTT kế toán tài chính
dựa trên các khía cạnh: đặc điểm của HĐQT, cơ cấu sở hữu và hệ thống kiểm soát.
Nghiên cứu được thực hiện trên mẫu là các công ty niêm yết trong khoảng thời gian
5 năm từ 2004 đến 2008, với số lượng quan sát là 505. Kết quả nghiên cứu cho thấy
tương quan dương giữa quy mô của HĐQT và được kiểm toán bởi Big4 với CLTT kế
toán. Tuy nhiên, nghiên cứu chưa tìm thấy mối quan hệ giữa tính độc lập của HĐQT
với CLTT kế toán.
Holtz và Sarlo Neto (2014) lại cho thấy số lượng thành viên HĐQT lại có mối
quan hệ ngược chiều đến CLTT kế toán. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng ủng hộ quan
điểm cho rằng mức độ độc lập giữa các thành viên ban quản trị và việc tách biệt vai
trò của chủ tịch HĐQT và giám đốc điều hành có tác động tích cực đến CLTT kế toán
được báo cáo. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu là 207 công ty tại Brazil trong giai đoạn từ
năm 2008 – 2011, với cỡ mẫu chỉ bao gồm 678 quan sát.
Tương tự kết quả nghiên cứu của Holtz và Sarlo Neto (2014), Kukah và cộng
sự (2016) xem xét QTCT trên các góc độ đặc điểm HĐQT, cấu trúc sở hữu. Kết quả
cho thấy doanh nghiệp có HĐQT độc lập, không có sự kiêm nhiệm giữa CEO và chủ
tịch HĐQT sẽ có CLTT kế toán tốt.
Sử dụng mô hình tam giác gian lận làm nền tảng, Roden và cộng sự (2016) đã
coi các đặc điểm của HĐQT là nhân tố có ảnh hưởng tới khả năng gian lận trên BCTC,
làm suy yếu CLTT kế toán. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của các doanh nghiệp ở Mỹ
từ năm 2003-2010. Kết quả cho thấy việc HĐQT có thâm niên công tác, kiêm nhiệm
chức danh CEO và chủ tịch HĐQT, và có tỷ lệ nam giới cao có thể tạo cơ hội cho
gian lận diễn ra. Mặt khác tỷ lệ thành viên độc lập trong Hội đồng cao có thể hạn chế
23
khả năng phát sinh gian lận trên BCTC. Tuy nhiên, nghiên cứu chưa chỉ ra được bằng
chứng về ảnh hưởng chuyên môn tài chính của thành viên HĐQT tới CLTT kế toán.
Tại Việt Nam, Nguyễn Trọng Nguyên (2015) đã thực hiện khảo sát đánh giá ở
195 công ty niêm yết. Kết quả nghiên cứu cho thấy các nhân tố về tính độc lập của
HĐQT, tần suất cuộc họp, thành viên HĐQT có kiến thức về chuyên môn tài chính
kế toán, công ty niêm yết có bộ phận kiểm toán nội bộ có ảnh hưởng đến chất lượng
BCTC. Tuy vậy, nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ giữa sự kiêm
nhiệm chức danh của HĐQT tới chất lượng BCTC.
Trần Thị Giang Tân và cộng sự (2015) đã xem xét nhân tố thuộc về đặc thù quản
trị, cụ thể là sự kiêm nhiệm chức danh giám đốc điều hành và chủ tịch HĐQT, là yếu
tố ảnh hưởng tới gian lận BCTC. Sử dụng mẫu nghiên cứu là 78 công ty niêm yết tại
Sở Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh năm 2012, kết quả nghiên cứu
cho thấy, việc kiêm nhiệm hai chức danh nói trên dẫn đến rủi ro phát sinh gian lận
BCTC, hay nói cách khác làm suy giảm chất lượng BCTC.
Nguyễn Thị Phương Hồng (2016) coi QTCT là một nhân tố tác động tới chất
lượng BCTC. Kết quả nghiên cứu thể hiện các doanh nghiệp có giám đốc điều hành
kiêm nhiệm chủ tịch HĐQT, có tỷ lệ thành viên độc lập thấp, thành viên HĐQT hạn
chế về chuyên môn tài chính sẽ có chất lượng BCTC thấp.
Bùi Văn Dương và Ngô Hoàng Điệp (2017) đã xem xét ảnh hưởng của HĐQT
lên hành vi quản trị lợi nhuận. Kết quả nghiên cứu đã chứng minh rằng quy mô của
HĐQT, tỷ lệ thành viên HĐQT có chuyên môn tài chính, tỷ lệ thành viên nữ thuộc
HĐQT có mối quan hệ cùng chiều với chất lượng TTKT. Tuy vậy nghiên cứu không
tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ giữa mô hình kiêm nhiệm hai chức danh Chủ
tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc điều hành, tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập không
điều hành, số lần họp HĐQT với hành vi QTLN của người quản lý doanh nghiệp.
Nghiên cứu được thực hiện dựa trên số liệu BCTC, Báo cáo thường niên và Báo cáo
quản trị của 430 công ty phi tài chính niêm yết trên TTCK Việt Nam, giai đoạn 2010-
2015.
Các nghiên cứu về tác động của đặc điểm Ban kiểm soát tới chất lượng
thông tin kế toán
24
BKS là bộ phận do Đại hội đồng cổ đông bầu chọn nhằm kiểm tra, giám sát tính
hợp pháp, chính xác và trung thực trong việc quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh,
ghi chép sổ sách kế toán doanh nghiệp, BCTC và việc chấp hành điều lệ công ty, nghị
quyết, quyết định của HĐQT. Theo đó, BKS là giải pháp cho vấn đề đại diện bởi vì
sự giám sát này sẽ góp phần ngăn cản những hành vi cơ hội của BGĐ và vấn đề thông
tin bất cân xứng giữa cổ đông và nhà điều hành. Mô hình có sự tham gia của BKS áp
dụng tại một số ít quốc gia như Trung Quốc và Đức.
Nghiên cứu của Firth và cộng sự (2007) được thực hiện tại Trung Quốc nhằm
tìm hiểu mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu, cơ cấu quản trị hai tầng và CLTT kế toán.
Kết quả nghiên cứu cho thấy bên cạnh cấu trúc sở hữu, đặc điểm của BKS, mà cụ thể
là quy mô BKS có tác động tích cực tới CLTT, tuy nhiên nghiên cứu không tìm thấy
bằng chứng về ảnh hưởng của các cuộc họp BKS tới CLTT kế toán khi đo lường
CLTT kế toán theo ý kiến của kiểm toán.
Nghiên cứu của Ran và cộng sự (2014) đã kiểm định ảnh hưởng của đặc điểm
BKS trong mối quan hệ với CLTT kế toán với dữ liệu là các công ty niêm yết trên
TTCK Trung Quốc. Nhóm tác giả đã đo lường CLTT kế toán thông qua mức độ quản
trị lợi nhuận dồn tích của Kothari và cộng sự (2005). Kết quả nghiên cứu cho thấy
thành viên BKS có chuyên môn về kế toán và BKS có tỷ lệ nữ cao sẽ tác động tích
cực tới CLTT kế toán. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu chưa cung cấp được bằng chứng
về ảnh hưởng của quy mô BKS tới CLTT kế toán.
Nghiên cứu của Panzer và Müller (2015) đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm
về ảnh hưởng tích cực của vai trò nữ giới trong BKS tới chất lượng thu nhập. Ngoài
ra, các doanh nghiệp có trưởng, phó BKS là nữ giới sẽ có CLTT kế toán tốt hơn.
Nghiên cứu được thực hiện trên mẫu là 320 quan sát với 64 công ty niêm yết.
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về đặc điểm của BKS tới chất lượng TTKT hiện
nay rất hạn chế. Nghiên cứu của Nguyễn Trọng Nguyên (2015) là một trong số ít các
nghiên cứu xem xét tác động của đặc điểm BKS tới CLTT kế toán tại Việt Nam. Tuy
nhiên, nghiên cứu cũng chưa cung cấp được bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ
này.
25
Bảng 1.1 tóm tắt một số kết quả nghiên cứu chủ yếu liên quan tới ảnh hưởng
của QTCT tới CLTT kế toán
Bảng 1.1: Một số nghiên cứu về ảnh hưởng của quản trị công ty tới
chất lượng thông tin kế toán
Tác giả Quốc gia Kết quả nghiên cứu
Các nghiên cứu về ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu tới CLTT kế toán
Wang và Trung Sở hữu của cổ đông Nhà nước có tác động tích cực tới
Yung (2011) Quốc CLTT kế toán
Kao (2014) Trung Sở hữu của cổ đông Nhà nước và của BGĐ có tác động
Quốc tích cực tới CLTT kế toán
Sở hữu HĐQT có tác động ngược chiều tới CLTT kế
toán
Anwar và Sri Lanka Sở hữu của cổ đông tổ chức và của BGĐ, được kiểm
Buvanendra toán bởi Big4 có tác động tích cực tới CLTT kế toán
(2019)
Firmansyah Indonesia Sở hữu của cổ đông tổ chức có tác động tích cực tới
và Irawan CLTT kế toán
(2019)
Nguyễn Thị Việt Nam Sở hữu Nhà nước và sở hữu của BGĐ có tác động tích
Thu Hằng và cực tới CLTT kế toán
cộng sự
(2018)
Các nghiên cứu về ảnh hưởng của đặc điểm HĐQT tới CLTT kế toán
Vafeas (2000) Mỹ Quy mô HĐQT có tác động ngược chiều tới CLTT kế
toán
26
Tác giả Quốc gia Kết quả nghiên cứu
Xie và cộng Mỹ Quy mô HĐQT, tỷ lệ thành viên độc lập là các tổ chức
sự (2003) và thành viên độc lập trong HĐQT có chuyên môn về
tài chính có tác động tích cực tới CLTT kế toán
Dimitropoulos Hy Lạp Tỷ lệ thành viên độc lập có tác động tích cực tới CLTT
và Asteriou kế toán
(2010)
Fathi (2013) Pháp Quy mô HĐQT, việc được kiểm toán bởi các công ty
kiểm toán uy tín có tác động tích cực tới CLTT kế toán
Holtz và Sarlo Brazil Số lượng thành viên HĐQT và tính kiêm nhiệm của chủ
Neto (2014) tịch HĐQT có tác động ngược chiều tới CLTT kế toán.
Tỷ lệ thành viên độc lập có tác động tích cực tới CLTT
kế toán
Kukah và Ghana Tính độc lập của HĐQT, bất kiêm nhiệm giữa hai chức
cộng sự danh chủ tịch HĐQT và CEO có tác động tích cực tới
(2016) CLTT kế toán
Roden và Mỹ Thâm niên công tác của HĐQT, kiêm nhiệm giữa hai
cộng sự chức danh chủ tịch HĐQT và CEO, tỷ lệ thành viên
(2016) HĐQT là nam giới có tác động ngược chiều tới CLTT
kế toán
Nguyễn Việt Nam Tính độc lập, tần suất cuộc họp, thành viên HĐQT có
Trọng chuyên môn kế toán tài chính có tác động tích cực tới
Nguyên CLTT kế toán
(2015)
Trần Thị Việt Nam Sự kiêm nhiệm chức danh chủ tịch HĐQT và CEO có
Giang Tân và tác động ngược chiều tới CLTT kế toán
cộng sự
(2015)
27
Tác giả Quốc gia Kết quả nghiên cứu
Nguyễn Thị Việt Nam Sự kiêm nhiệm chức danh chủ tịch HĐQT và CEO, tỷ lệ
Phương Hồng thành viên độc lập thấp, thành viên HĐQT hạn chế về
(2016) chuyên môn tài chính có tác động ngược chiều tới
CLTT kế toán
Bùi Văn Việt Nam Quy mô của HĐQT, tỷ lệ thành viên HĐQT có chuyên
Dương và môn tài chính, tỷ lệ thành viên nữ thuộc HĐQT có tác
Ngô Hoàng động tích cực tới CLTT kế toán
Điệp (2017)
Các nghiên cứu về ảnh hưởng của đặc điểm BKS tới CLTT kế toán
Firth và cộng Trung Quy mô BKS có tác động tích cực tới CLTT kế toán
sự (2007) Quốc
Ran và cộng Trung Thành viên BKS có chuyên môn về kế toán và BKS có
sự (2014) Quốc tỷ lệ nữ cao tác động tích cực tới CLTT kế toán
Panzer và Đức Thành viên BKS, trưởng phó BKS là nữ giới có tác
Müller (2015) động tích cực tới CLTT kế toán
Nguồn: Tác giả tổng hợp
1.3. Khoảng trống cho nghiên cứu
Qua các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan tới đề tài nghiên
cứu của Luận án “Ảnh hưởng của quản trị công ty đến chất lượng thông tin kế toán
của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, có thể thấy rằng
đây là một chủ đề nghiên cứu có tính thực tiễn cao và thu hút được sự quan tâm của
các nhà khoa học trong lĩnh vực tài chính, kế toán và quản trị. Từ các phân tích về
tổng quan nghiên cứu, nghiên cứu sinh tổng kết và tìm ra khoảng trống nghiên cứu
và hướng đi của Luận án như sau:
Về việc đo lường chất lượng thông tin kế toán
Trước hết, tổng quan các nghiên cứu về CLTT kế toán đều thừa nhận quan điểm
về CLTT kế toán trên cơ sở tính hữu ích của thông tin đối với người sử dụng. Các
28
thuộc tính về TTKT được nghiên cứu theo các đặc điểm chất lượng thông tin do các
tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp về kế toán như FASB và IASB xây dựng, hoặc phù hợp
với quy định của quốc gia sở tại. Các nghiên cứu về CLTT kế toán hiện đại chủ yếu
được thực hiện theo phương pháp định lượng với hai hướng đo lường chính: một là
xây dựng thang đo tổng hợp trên cơ sở đặc tính của CLTT. Các nghiên cứu này thực
hiện khảo sát đối tượng sử dụng thông tin, đối tượng tạo lập thông tin; hai là nghiên
cứu theo từng đặc điểm riêng lẻ với hai đặc điểm cơ bản là tính trung thực và tính
thích hợp dựa trên số liệu BCTC và diễn biến giá cổ phiếu trên thị trường. Tại Việt
Nam, các nghiên cứu gần đây chủ yếu đi theo hai hướng này. Hướng tiếp cận của
Luận án là nghiên cứu CLTT kế toán theo đặc điểm riêng lẻ, sử dụng dữ liệu thứ cấp
là báo cáo tài chính của các công ty niêm yết. Mặt khác theo Chuẩn mực Kế toán Việt
Nam, TTKT cần đảm bảo tính trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời, dễ hiểu và có
thể so sánh, trong đó đặc tính trung thực là yêu cầu cơ bản và quan trọng hàng đầu.
Do vậy, tác giả sẽ triển khai Luận án theo hướng nghiên cứu về CLTT kế toán theo
đặc điểm trung thực, phù hợp với quan điểm của FASB, IASB và thống nhất với
chuẩn mực kế toán Việt Nam.
Hai là, các nghiên cứu về CLTT kế toán theo đặc điểm trung thực cho rằng
thông tin kế toán trung thực khi báo cáo tài chính không có hiện tượng quản trị lợi
nhuận hoặc không có sai sót. Tổng quan nghiên cứu cho thấy, hai vấn đề này được
các nhà khoa học nghiên cứu độc lập. Nghiên cứu về quản trị lợi nhuận được thực
hiện trên quan điểm các nhà quản trị thay đổi các phương pháp kế toán, các ước tính
theo chủ quan dẫn đến thay đổi lợi nhuận. Vấn đề quản trị lợi nhuận làm suy giảm
CLTT kế toán do vi phạm tính khách quan, khiến TTKT được điều chỉnh theo ý muốn
của nhà quản trị hơn là phản ánh trung thực tình hình tài chính của công ty. Các nghiên
cứu này sử dụng báo cáo đã kiểm toán và đặt nghi ngờ về CLTT kém tại các công ty
có các khoản dồn tích bất thường lớn. Trong khi đó nghiên cứu về sai sót trọng yếu
lại dựa trên đánh giá của kiểm toán viên về BCTC của đơn vị được kiểm toán, cho
thấy đơn vị đã có những sai phạm trong việc lập và trình bày báo cáo và bị phát hiện
bởi các kiểm toán viên. Các nghiên cứu này dựa trên mức độ chênh lệch báo cáo
trước, sau kiểm toán, ý kiến của công ty kiểm toán toán, cho thấy mức độ trung thực
của báo cáo trước kiểm toán hoặc dựa vào thống kê các công ty gian lận BCTC. Căn
29
cứ vào các phân tích trên, khác với các nghiên cứu trước đó, Luận án sẽ thực hiện
nghiên cứu về CLTT kế toán thông qua việc sử dụng hai thước đo là quản trị lợi nhuận
và sai sót trọng yếu, thể hiện việc nghiên cứu về CLTT kế toán được toàn diện hơn,
dựa vào BCTC cả trước và sau kiểm toán.
Ba là, khi nghiên cứu về CLTT kế toán trong mối tương quan ngược chiều với
sai sót trọng yếu, lược khảo các nghiên cứu trước đó tác giả nhận thấy sai sót trọng
yếu được đo lường theo ba hướng: một là BCTC sau kiểm toán bị chỉnh sửa trên mức
trọng yếu, hai là báo cáo kiểm toán không nhận được ý kiến chấp nhận toàn phần, ba
là dựa vào báo cáo về các công ty có gian lận trên BCTC. Tại Việt Nam, chưa có báo
cáo chính thức thống kê về các công ty gian lận BCTC, do vậy trong Luận án, tác giả
lựa chọn hướng nghiên cứu dựa vào chênh lệch lợi nhuận sau kiểm toán. Bên cạnh
đó, tác giả đề xuất các đo lường sai sót trọng yếu theo hướng kết hợp, tức là, công ty
không có sai sót trọng yếu cần được hiểu là công ty nhận báo cáo kiểm toán dạng
chấp nhận toàn phần và không có chênh lệch trên mức trọng yếu. Đề xuất được thực
hiện trên cơ sở Chuẩn mực Kiểm toán VSA 700, cho phép kiểm toán đưa ra ý kiến
chấp nhận toàn phần trong trường hợp báo cáo có sai sót trọng yếu và được công ty
chỉnh sửa. Như vậy nếu chỉ sử dụng chênh lệch trên mức trọng yếu là chưa đủ để thể
hiện BCTC có sai sót mà cần kết hợp ý kiến kiểm toán. Đây được coi là khoảng trống
nghiên cứu và sẽ được tác giả khai thác trong Luận án.
Về các khía cạnh quản trị công ty trong nghiên cứu tác động của quản trị
công ty tới chất lượng thông tin kế toán
Một là, tại Việt Nam, các nghiên cứu về đặc điểm của BKS tới CLTT kế toán
rất hạn chế, chủ yếu tập trung vào hai khía cạnh đặc điểm HĐQT và cấu trúc sở hữu.
Trong khi đó, BKS là một cơ quan có vai trò quan trọng, đại diện cho cổ đông để
giám sát hoạt động của HĐQT và BGĐ. Do vậy, trong nghiên cứu này, tác giả sẽ bổ
sung các yếu tố liên quan tới BKS bao gồm quy mô, giới tính và chuyên môn tài chính
kế toán và kiểm định ảnh hưởng của các yếu tố này lên CLTT kế toán.
Hai là, tổng quan nghiên cứu cho thấy các nghiên cứu trước đây chỉ nghiên cứu
một số các yếu tố riêng lẻ về QTCT, hơn nữa mỗi quốc gia khác nhau, tùy thuộc vào
đặc điểm kinh tế chính trị, mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này tới CLTT kế toán
30
lại thể hiện khác nhau, thậm chí ngược chiều. Ngay tại Việt Nam, theo cách đo lường
và dữ liệu khác nhau, các nghiên cứu cũng không đồng nhất về mối quan hệ này. Điều
này cho thấy cần một nghiên cứu tổng hợp với phạm vi nghiên cứu bao gồm không
gian và thời gian nghiên cứu đủ lớn để tìm hiểu về ảnh hưởng của QTCT tới CLTT
kế toán. Trong Luận án, tác giả nghiên cứu và đưa vào mô hình cả ba khía cạnh của
QTCT bao gồm đặc điểm HĐQT, đặc điểm BKS và cấu trúc sở hữu với kỳ vọng,
QTCT là giải pháp nâng cao CLTT kế toán. Với dữ liệu thứ cấp mang tính khách
quan từ các công ty niêm yết và trong khoảng thời gian 12 năm từ 2009-2020, Luận
án kỳ vọng sẽ cung cấp kết quả đáng tin cậy về ảnh hưởng của QTCT lên CLTT kế
toán.
Trên cơ sở tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước về chất lượng thông
tin kế toán và tác động của quản trị công ty tới chất lượng thông tin kế, Luận án đã
phân tích và đề ra khoảng trống nghiên cứu. Luận án mong muốn sẽ đóng góp bằng
chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của QTCT lên CLTT kế toán trên các khía cạnh đa
dạng của quản trị, từ đó đề xuất các giải pháp, khuyến nghị thích hợp về việc hoàn
thiện quản trị công ty đối với công ty niêm yết, cơ quan quản lý, nhằm nâng cao CLTT
kế toán.
31
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN KẾ TOÁN
VÀ TÁC ĐỘNG CỦA QUẢN TRỊ CÔNG TY TỚI CHẤT LƯỢNG
THÔNG TIN KẾ TOÁN
2.1. Cơ sở lý luận về chất lượng thông tin kế toán
2.1.1. Những vấn đề chung về chất lượng thông tin kế toán
2.1.1.1.Thông tin kế toán
Khái niệm thông tin kế toán
Thông tin kế toán là sản phẩm của hệ thống kế toán (Mulyani và Arum, 2016),
có được thông qua quá trình thu thập, lưu trữ, phân phối và xử lý thông tin trong lĩnh
vực tài chính, kinh tế. Thông tin kế toán phản ánh các vấn đề về kinh tế, tài chính của
một doanh nghiệp (Kaplan và Roll, 1972). Mặt khác, theo Gelinas and Dull (2008),
thông tin là những sự kiện, con số thể hiện tính hữu ích với người sử dụng để phục vụ
việc ra quyết định bởi vì nó giảm sự không chắc chắn và tăng tri thức về vấn đề được
đề cập. Do vậy các nghiên cứu về thông tin kế toán thường gắn liền với tính hữu ích
của thông tin.
Đối tượng sử dụng thông tin kế toán
Theo Weigandt và cộng sự (2013), đối tượng sử thông tin kế toán bao gồm người
sử dụng bên trong và người sử dụng bên ngoài đơn vị.
Đối tượng sử dụng thông tin kế toán bên trong đơn vị là các nhà quản lý công
ty, có thể kể đến như BGĐ, giám đốc tài chính, trưởng bộ phận marketing, bộ phận
giám sát sản phẩm... Các nhà quản lý sử dụng thông tin kế toán làm cơ sở cho việc
lập kế hoạch, tổ chức và kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của đơn vị. Mặt
khác, thông tin kế toán đối với nhà quản lý là cơ sở cho các nhận định, đánh giá về
tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó giúp cho các nhà
quản lý thực hiện hoặc điều chỉnh các chiến lược, mục tiêu đã đề ra.
Đối tượng sử dụng thông tin kế toán bên ngoài đơn vị rất đa dạng, bao gồm chủ
sở hữu là các cổ đông không điều hành, các nhà đầu tư, chủ nợ, hay cơ quan Nhà
32
nước. Dựa trên thông tin kế toán, chủ sở hữu có thể đánh giá được mức độ hiệu quả
của đồng vốn bỏ ra, đánh giá được năng lực quản lý, điều hành doanh nghiệp của
BGĐ, từ đó đưa ra quyết định để tối ưu hóa lợi ích. Với nhà đầu tư, trên cơ sở phân
tích về tình hình tài sản, nguồn vốn, hoạt động và kết quả kinh doanh hàng năm và
dòng tiền, các nhà đầu tư sẽ đánh giá được khả năng sinh lợi và triển vọng phát triển
của doanh nghiệp, và quyết định có nên đầu tư vào doanh nghiệp hay không. Ở vị thế
là chủ nợ, thông tin kế toán là cơ sở quan trọng giúp đánh giá được tình hình tài chính
như tính thanh khoản, hiệu quả hoạt động hay khả năng trả nợ của doanh nghiệp, nhờ
vậy, các tổ chức tín dụng có thể đưa ra quyết định về việc có nên cho doanh nghiệp
vay tiền hay không, hoặc giám sát tình hình trả nợ của doanh nghiệp khi đã giải ngân.
Trên khía cạnh vĩ mô, thông tin kế toán là cơ sở để các cơ quan Nhà nước giám sát
các hoạt động của doanh nghiệp, từ đó đưa ra các chính sách phù hợp hỗ trợ các doanh
nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Phân loại thông tin kế toán
Thông tin kế toán rất đa dạng. Căn cứ vào đối tượng sử dụng, thông tin kế toán
được chia thành thông tin kế toán tài chính và thông tin kế toán quản trị.
Thông tin kế toán tài chính là sản phẩm của kế toán tài chính. Theo Luật Kế toán
Việt Nam số 88/2015/QH13 ban hành bởi Quốc hội (2015), kế toán tài chính là việc
thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính bằng BCTC
cho đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin của đơn vị kế toán. Với sản phẩm là
BCTC, thông tin kế toán tài chính cung cấp các dữ liệu về tình hình tài chính, kết quả
tài chính và các luồng tiền của doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu của số đông những
người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế, đồng thời cho thấy kết quả
quản lý của BGĐ đối với các nguồn lực được giao (IASB, 2012). Tại Việt Nam, theo
Thông tư 200/2014/TT-BTC ban hành bởi Bộ Tài chính (2014), BCTC bao gồm: bảng
cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và
thuyết minh BCTC. Mục đích của thông tin kế toán tài chính là cung cấp các thông
tin hữu ích cho người sử dụng thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp nhằm
làm cơ sở cho các quyết định. Thông tin kế toán tài chính được phản ánh trên BCTC,
do đó còn được gọi là thông tin BCTC.
33
Thông tin kế toán quản trị là sản phẩm của kế toán quản trị. Theo Luật Kế toán
Việt Nam số 88/2015/QH13 ban hành bởi Quốc hội (2015), kế toán quản trị là việc
thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản
trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán. Thông tin kế toán quản
trị được phản ánh qua các báo cáo quản trị như báo cáo kế hoạch ngân sách, báo cáo
phân tích mối quan hệ giữa doanh thu, chi phí và lợi nhuận. Thông tin kế toán quản
trị hướng tới đối tượng sử dụng thông tin là người bên trong đơn vị như BGĐ, các
nhà quản lý cấp trung. Khác với kế toán tài chính, kế toán quản trị không mang tính
bắt buộc. Tuy nhiên thông tin kế toán quản trị có ý nghĩa vô cùng quan trọng, hướng
tới mục tiêu tạo thêm giá trị cho doanh nghiệp thông qua việc kiểm soát và sử dụng
nguồn lực một cách tối ưu, và được coi là công cụ hữu hiệu của quản trị doanh nghiệp
trong việc thực hiện các mục tiêu quản lý.
Như vậy, thông tin kế toán rất đa dạng. Trong phạm vi luận án, tác giả hướng
tới đối tượng thông tin kế toán tài chính, là các thông tin kế toán được phản ánh trong
BCTC (sau đây gọi tắt là TTKT). Nguyên nhân do BCTC là báo cáo phục vụ cho mọi
đối tượng sử dụng thông tin cả bên trong và bên ngoài đơn vị, làm cơ sở cho việc ra
quyết định, phù hợp với việc phân tích về CLTT kế toán trên góc độ người sử dụng.
Mặt khác, đây là báo cáo mang tính chất bắt buộc, do vậy việc thu thập thông tin sẽ
mang tính khách quan.
2.1.1.2. Chất lượng thông tin kế toán
Khái niệm chất lượng thông tin
Theo Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO) ISO 9000:2005, chất lượng là mức
độ của một tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng các yêu cầu. Trong các nghiên cứu
trước đây, các nhà khoa học đã đưa ra một số quan điểm về CLTT. Theo Huang và
cộng sự (1999), CLTT thể hiện sự thích hợp của thông tin đối với người sử dụng.
Trong khi đó Kahn và Strong (1998) lại cho rằng CLTT là đặc tính của thông tin để
giúp đạt được các yêu cầu hay sự mong đợi của người sử dụng thông tin.
Theo Baltzan (2012), thông tin có chất lượng tốt nếu nó được xem là phù hợp
với các yêu cầu của người sử dụng thông tin bao gồm: chính xác, đầy đủ, phù hợp,
kịp thời và nhất quán. Mở rộng hơn, nghiên cứu của Wang và Strong (1996) chỉ ra
34
chất lượng thông tin cần đảm bảo các yêu cầu cơ bản là: (1) Tính nội tại của chất
lượng thông tin gồm: Tính chính xác, tính khách quan, độ tin cậy và uy tín cung cấp
thông tin; (2) Chất lượng thông tin trong tình huống cụ thể gồm: Sự phù hợp, giá trị
gia tăng, kịp thời, đầy đủ; (3) Tính đại diện của chất lượng thông tin gồm: Sự dễ hiểu,
biểu mẫu quy định, tính phổ thông, có thể so sánh được; (4) Khả năng tiếp cận thông
tin gồm khả năng tiếp cận thông tin, tính bảo mật thông tin
Như vậy các khái niệm về CLTT đều tập trung vào vấn đề tính hữu ích của
thông tin. Nhìn chung, CLTT là được hiểu là mức độ tập hợp các đặc tính của thông
tin nhằm đáp ứng yêu cầu của người sử dụng.
Khái niệm chất lượng thông tin kế toán
Về cơ bản, thông tin kế toán là một loại thông tin, do đó khái niệm về CLTT kế
toán gắn liền với khái niệm về CLTT, nghĩa là gắn liền với người sử dụng thông tin.
Theo Azar và cộng sự (2019), CLTT kế toán là khái niệm gắn liền với tính hữu ích
của thông tin kế toán đối với người sử dụng. Trong khi đó, Mulyani và Arum (2016)
cho rằng CLTT kế toán thể hiện sự đáp ứng của thông tin kế toán đối với nhu cầu của
người sử dụng. TTKT được coi là hữu ích, đáp ứng nhu cầu của người sử dụng khi
đảm bảo được những thuộc tính cơ bản.
Các thuộc tính cơ bản của thông tin kế toán
Với mục tiêu hướng tới tính hữu ích trong việc ra quyết định của người sử dụng
thông tin, các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp về kế toán đã ban hành các khung khái
niệm liên quan tới các thuộc tính về thông tin kế toán. Tại mỗi quốc gia, việc áp dụng
các hướng dẫn liên quan tới thuộc tính cơ bản về thông tin kế toán có thể được ghi
nhận theo Chuẩn mực kế toán quốc tế hoặc điều chỉnh theo quy định của nước sở tại.
Trong đó, quy định về thuộc tính cơ bản của TTKT được thừa nhận rộng rãi là theo
quan điểm hòa hợp của FASB và IASB (2010)
Các yêu cầu về thông tin kế toán quan điểm của Hội đồng chuẩn mực kế toán
tài chính Hoa Kỳ (FASB) và Ủy ban Chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB)
Các đặc tính về CLTT kế toán được Hội đồng chuẩn mực kế toán Hoa Kỳ FASB
đề xuất lần đầu vào năm 1980, theo đó thông tin kế toán sẽ hữu ích cho người sử dụng
35
trong việc ra quyết định khi đảm bảo được hai thuộc tính cơ bản là tính thích hợp
(relevance) và tính tin cậy (reliability), ngoài ra bổ sung đặc tính có thể so sánh
(comparability). Sau này, theo quan điểm đồng thuận với FASB, Hội đồng Chuẩn
mực kế toán quốc tế IASB đã ban hành một bộ khung khái niệm về các quy tắc trình
bày và công bố thông tin kế toán, theo đó CLTT kế toán thể hiện trong BCTC phản
ánh khả năng ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng được xác định qua hai
nhóm đặc tính cơ bản là tính trình bày trung thực (faithful representation), tính thích
hợp (relevance) và một số đặc điểm nâng cao nhằm gia tăng CLTT kế toán bao gồm
có thể so sánh (comparability), dễ hiểu (understandability), kịp thời (timeliness) và
khả năng kiểm chứng (verifiability). Mô hình về CLTT kế toán được thể hiện qua sơ
đồ 2.1.
Sơ đồ 2.1. Mô hình chất lượng thông tin kế toán theo FASB và IASB (2010)
Tính hữu ích
Trình bày trung thực Thích hợp
Đầy đủ Khách quan Không sai sót Giá trị xác nhận Giá trị dự đoán
Kiểm chứng Có thể so sánh
Kịp thời Dễ hiểu
Nguồn: IASB (2010)
Trình bày trung thực: Đặc tính trình bày trung thực thể hiện việc các TTKT
phản ánh được vị thế kinh tế thực sự của doanh nghiệp, nghĩa là các nghĩa vụ và nguồn
36
lực kinh tế, bao gồm các giao dịch và sự kiện, được thể hiện đầy đủ trong BCTC.
Trình bày trung thực chỉ đạt được khi diễn giải của một sự kiện kinh tế phải được đầy
đủ, khách quan và không có những sai sót trọng yếu. Những thông tin tài chính được
trình bày trung thực sẽ thể hiện được bản chất của hiện tượng kinh tế thông qua các
giao dịch, sự kiện kinh tế phát sinh.
Tính thích hợp: Thông tin kế toán tài chính có tính thích hợp khi có khả năng
tạo ra được sự khác biệt trong quyết định của người sử dụng, nghĩa là thông tin đó có
khả năng dự báo và khả năng xác nhận. Khả năng dự báo có được khi người sử dụng
dùng những thông tin đó để dự đoán dòng thu nhập của doanh nghiệp trong tương lai.
Thông tin tài chính có khả năng xác nhận khi thông tin cung cấp các phản hồi về các
đánh giá trước đó. Đây là hai tính chất có liên quan mật thiết với nhau, ví dụ thông
tin về doanh thu của năm hiện tại của doanh nghiệp có thể xác định được mức độ
thích hợp thông qua việc so sánh các chỉ số của những năm trước, và cũng được sử
dụng để dự đoán doanh thu của năm tiếp theo. Kết quả của việc so sánh sẽ giúp người
sử dụng cải thiện việc dự đoán của mình.
Khả năng so sánh: Khả năng so sánh cho phép người sử dụng BCTC so sánh
thông tin tài chính như vị thế tài chính, dòng tiền hay kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Người sử dụng có thể so sánh số liệu theo chuỗi thời gian hoặc giữa các doanh
nghiệp trên cùng một thời điểm.
Tính dễ hiểu: Tính dễ hiểu được định nghĩa là khi người sử dụng có những hiểu
biết nhất định về kế toán có thể đọc và hiểu thông tin tài chính được trình bày.
Tính kịp thời: Tính kịp thời của thông tin tài chính thể hiện khi thông tin đó được
cung cấp kịp thời cho người sử dụng để đưa ra quyết định trước khi mất đi giá trị.
Khả năng kiểm chứng: Khả năng kiểm chứng nghĩa là các nhà quan sát độc lập và
có trình độ chuyên môn đạt được sự đồng thuận, rằng một thông tin hoặc một nhóm
thông tin là chính xác.
Các thuộc tính thông tin kế toán quan điểm của chuẩn mực kế toán Việt Nam
37
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01(Bộ Tài chính, 2002), thông tin kế toán
phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản, bao gồm tính trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp
thời, dễ hiểu, và có thể so sánh, thể hiện qua sơ đồ 2.2.
Sơ đồ 2.2. Mô hình chất lượng thông tin kế toán theo Chuẩn mực kế toán
Việt Nam (2002)
Thông tin kế toán
Kịp thời Dễ hiểu Trung thực Có thể so sánh
Đầy đủ Khách quan
Nguồn: Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01 (2002)
Tính trung thực thể hiện các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và
báo cáo trên cơ sở các bằng chứng đầy đủ, khách quan và đúng với thực tế về hiện
trạng, bản chất nội dung và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Đặc điểm khách quan cho thấy các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi
chép và báo cáo đúng với thực tế, không bị xuyên tạc, bóp méo.
Thông tin được coi là đầy đủ khi mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh liên
quan tới kỳ kế toán phải được ghi chép và báo cáo đầy đủ, không bị bỏ sót.
Ngoài ra, các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo kịp thời,
đúng hoặc trước thời hạn quy định, không được chậm trễ.
Tính dễ hiểu thể hiện ở việc các thông tin và số liệu kế toán được trình bày trong
BCTC phải rõ ràng, dễ hiểu đối với người sử dụng. Thông tin về những vấn đề phức
tạp trong BCTC phải được giải trình trong phần thuyết minh.
Thông tin kế toán phải có thể so sánh, nghĩa là các thông tin và số liệu kế toán cần
được tính toán và trình bày nhất quán. Trường hợp không nhất quán thì phải giải trình
trong phần thuyết minh để người sử dụng BCTC có thể so sánh và đánh giá.
38
Trong các đặc tính nói trên, đặc tính trung thực được xem là đặc điểm cơ bản,
bao gồm cả tính khách quan và đầy đủ.
Nhìn chung, mặc dù các thuộc tính của CLTT kế toán được nhắc tới trên nhiều
khía cạnh khác nhau, tuy nhiên trong phạm vi luận án, tác giả tập trung vào thuộc tính
trung thực do đặc điểm này được coi là thuộc tính cơ bản của thông tin kế toán, được
nhấn mạnh trong Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01 (Bộ Tài chính, 2002), đồng
thuận với quan điểm của Hiệp hội nghề nghiệp kế toán như FASB và IASB.
Như vậy, CLTT kế toán trên khía cạnh trung thực được hiểu là mức độ mà thông
tin kế toán phản ánh các thông tin một cách đầy đủ, khách quan và không có sai sót
trọng yếu.
2.1.2. Các phương pháp đo lường chất lượng thông tin kế toán
Như đã phân tích trong phần 2.1.1, luận án tập trung đo lường CLTT kế toán
trên khía cạnh trung thực, do vậy các phương pháp được trình bày là các cách thước
đo lường CLTT kế toán gắn với tính trung thực. Tính trung thực của thông tin kế toán
được hiểu là đặc tính thể hiện thông tin kế toán được cung cấp đầy đủ, khách quan và
không có sai sót trọng yếu.
TTKT trên BCTC rất đa dạng, bao gồm các thông tin về tài sản, nguồn vốn, lợi
nhuận và các dòng tiền, trong đó thông tin về lợi nhuận được xem là cơ sở quan trọng
để người sử dụng thông tin đưa ra quyết định. Do vậy trong các nghiên cứu về TTKT,
các nhà khoa học chủ yếu tập trung vào thông tin lợi nhuận. Mặt khác, theo Botosan
(2004), việc đo lường một cách trực tiếp CLTT kế toán trên cơ sở tính trung thực gặp
rất nhiều khó khăn. Các nghiên cứu liên quan tới CLTT kế toán do đó được thực hiện
gián tiếp theo hai hướng: một là thông tin kế toán được coi là trung thực khi không
có hiện tượng quản trị lợi nhuận, và hai là tính trung thực thể hiện trong việc BCTC
không có sai sót trọng yếu.
2.1.2.1. Quản trị lợi nhuận
Quản trị lợi nhuận là một chủ đề được các học giả kinh tế quan tâm, xảy ra khi
nhà quản trị can thiệp vào việc ghi nhận thông tin tài chính hay cấu trúc lại những
giao dịch mua bán thông thường để thay đổi con số cuối cùng trên BCTC, nhằm làm
sai lệch kỳ vọng của cổ đông vào tình trạng kinh tế thực sự của công ty hoặc tác động
39
tích cực lên kết quả các hợp đồng dựa vào số liệu kế toán được công bố (Healy và
Wahlen, 1999). Một số nghiên cứu cho rằng quản trị lợi nhuận có thể là các hoạt động
của nhà quản trị nhằm đạt được các mục tiêu lợi nhuận (Degeorge và cộng sự, 1999)
hoặc nhằm đạt được thu nhập cá nhân của nhà quản trị (Cheng và Warfield, 2005)
hoặc nhằm tác động đến các hoạt động phát hành cổ phiếu (Cohen và Zarowin, 2010).
Nhìn chung, các hành vi này đã khiến BCTC vi phạm tính khách quan, dẫn tới người
sử dụng thông tin có cái nhìn sai lệch về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do
đó, BCTC có hiện tượng quản trị lợi nhuận thể hiện CLTT kế toán thấp. Để đo lường
quản trị lợi nhuận, hầu hết các nghiên cứu về CLTT kế toán đều sử dụng thước đo về
mức độ dồn tích bất thường, phương pháp này do đó được gọi là quản trị lợi nhuận
trên cơ sở dồn tích.
Quản trị lợi nhuận trên cơ sở dồn tích (accrual-based earnings management) là
khái niệm liên quan tới việc các nhà quản trị điều chỉnh lợi nhuận kế toán bằng thay
đổi phương pháp kế toán hoặc phương pháp ước lượng khi thể hiện một giao dịch trên
BCTC (Zang, 2011) như thay đổi ước tính dự phòng, thay đổi phương pháp tính khấu
hao tài sản cố định, hay thay đổi cách tính giá hàng xuất kho… Việc thay đổi này không
ảnh hưởng tới dòng tiền của đơn vị nhưng lại làm thay đổi lợi nhuận trên báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh, do vậy làm phát sinh các khoản chênh lệch giữa lợi nhuận
và dòng tiền, hay còn gọi là các khoản dồn tích (accruals).
Cơ sở dồn tích là nguyên tắc kế toán cơ bản tại Việt Nam cũng như trên thế giới,
theo đó nghiệp vụ kinh tế được ghi nhận tại thời điểm phát sinh chứ không căn cứ vào
thời điểm thực tế thu hoặc chi tiền. Điều này dẫn tới sự không đồng nhất giữa dòng
tiền và lợi nhuận kế toán, tạo ra các khoản dồn tích. Các chuẩn mực kế toán cho phép
doanh nghiệp sử dụng khá nhiều các khoản dồn tích, liên quan đến khấu hao, dự
phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng đầu tư tài chính, dự phòng phải thu khó đòi...
Tuy nhiên, việc xác định các giá trị ước tính liên quan đến các khoản dồn tích phụ
thuộc rất nhiều vào ý kiến chủ quan của nhà điều hành, ảnh hưởng đến việc ghi nhận
doanh thu, chi phí và lợi nhuận báo cáo trong kỳ. Về mặt bản chất, việc phát sinh các
khoản dồn tích tại đơn vị là hoạt động thường xuyên do áp dụng nguyên tắc cơ sở dồn
tích. Tuy nhiên, khi nhà điều hành thay đổi các phương pháp ước lượng kế toán sẽ
dẫn đến các khoản dồn tích tăng lên trên mức thông thường, do đó được gọi là các
40
khoản dồn tích bất thường. Các khoản dồn tích bất thường càng lớn, mức độ quản trị
lợi nhuận càng tăng, dẫn tới CLTT kế toán càng giảm.
Nhằm xác định giá trị các khoản dồn tích bất thường, cần xác định giá trị các khoản
dồn tích thông thường (khoản dồn tích không thể điều chỉnh). Chênh lệch giữa tổng giá
trị các khoản dồn tích và giá trị các khoản dồn tích thông thường chính là giá trị các khoản
dồn tích bất thường, thể hiện qua công thức:
=
TAi,t − NDAi,t DAi,t Trong đó:
: Tổng các khoản dồn tích
TAi,t : Khoản dồn tích thông thường
NDAi,t : Khoản dồn tích bất thường
DAi,t Trong khi đó, các khoản dồn tích là chênh lệch giữa lợi nhuận thuần từ hoạt
động kinh doanh và dòng tiền hoạt động, được xác định theo công thức:
TAi,t = NOPi,t − CFOi,t Trong đó:
: Tổng các khoản dồn tích
TAi,t : Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh
NOPi,t : Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh
CFOi,t Như vậy, vấn đề trọng tâm của phương pháp đo lường là xác định giá trị của
các khoản dồn tích thông thường. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số phương pháp
tính khác nhau nhằm xác định khoản giá trị này.
Theo Jones (1991), khối lượng đầu tư tăng bắt buộc kéo theo tài sản vận hành tăng,
do vậy làm tăng các khoản dồn tích, và đây là khoản dồn tích thông thường. Trong mô
hình ban đầu, Jones ước tính các khoản dồn tích thông thường là mức dồn tích bình quân
của ngành được ước tính dựa trên mức tăng trưởng doanh thu và tài sản cố định của các
doanh nghiệp cùng ngành. Mức độ dồn tích bất thường chính là trị tuyệt đối sự khác biệt
41
giữa tổng dồn tích với mức độ dồn tích thông thường. Khoản dồn tích bất thường càng
cao thì khả năng quản trị lợi nhuận càng lớn.
Tuy nhiên, Dechow và cộng sự (1995) cho rằng mô hình Jones (1991) gặp hạn
chế trong trường hợp nhà quản trị có thể tăng doanh thu cuối năm bằng cách bán hàng
trả chậm hơn mức bình thường, dẫn tới doanh thu và các khoản dồn tích đều tăng
nhưng không chắc các khoản nợ phải thu này sẽ thu hồi được. Do vậy, Dechow và
cộng sự đã đề xuất hiệu chỉnh mô hình Jones (1991) bằng cách bổ sung phần tăng
giảm các khoản phải thu.
Phát triển từ mô hình của Dechow và cộng sự (1995), Kothari và cộng sự (2005)
cho rằng để ước lượng các khoản dồn tích tin cậy hơn cần kiểm soát hiệu quả hoạt
động của công ty nên đã đề xuất đưa biến ROA vào mô hình nghiên cứu
2.1.2.2. Sai sót trên báo cáo tài chính
Sai sót trên BCTC (misstatements) là sự khác biệt giữa giá trị, cách phân loại,
trình bày hoặc thuyết minh của một khoản mục trên BCTC với giá trị, cách phân loại,
trình bày hoặc thuyết minh của khoản mục đó theo khuôn khổ về lập và trình bày
BCTC được áp dụng (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 450, 2012). Các sai sót trên
BCTC sẽ dẫn đến BCTC sai lệch, do vậy gây phương hại tới lợi ích của người có liên
quan khi sử dụng thông tin làm cơ sở đưa ra quyết định. Theo đó, CLTT kế toán được
đánh giá cao khi công ty không có hiện tượng sai sót trên BCTC. Khi sai sót trên
BCTC được xác định là hành vi cố ý, được gọi là gian lận (frauds). Tuy nhiên, rất khó
để xác định sai sót là hành vi có chủ đích hay không, do vậy các nhà nghiên cứu
thường sử dụng chung cả hai khái niệm sai sót và gian lận nhằm phản ánh sai sót nói
chung trên BCTC. Các chuẩn mực kiểm toán của Mỹ định nghĩa sai sót/ gian lận BCTC
là hành vi gây ra sai lệch trọng yếu của BCTC. Theo Hiệp hội các nhà điều tra gian lận
Hoa Kỳ, sai sót/ gian lận BCTC là sự xuyên tạc về tình trạng tài chính của một doanh
nghiệp được thực hiện thông qua sự trình bày sai hoặc bỏ sót số tiền hoặc thông tin thuyết
minh trong BCTC để đánh lừa người sử dụng BCTC. Nhìn chung, quan điểm của các
hiệp hội và chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam và trên thế giới đều xem xét sai sót
trên BCTC trên góc độ trọng yếu. Trong đó, thông tin sai sót được coi là trọng yếu có
nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hoặc thiếu tính chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng
42
đến các quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
số 320). Sai sót trọng yếu, do đó, được hiểu là sai sót ở mức ảnh hưởng tới quyết định
của người sử dụng thông tin.
Để xác định một đơn vị có sai sót trên BCTC hay không, một số nghiên cứu
sử dụng dữ liệu về các công ty gian lận BCTC theo báo cáo AAERs (Accounting
and Auditing Enforcement Release) của Ủy ban chứng khoán và Sàn giao dịch Mỹ
(SEC) (Beasley, 1996; Roden và cộng sự, 2016).
Một hướng nghiên cứu khác để xác định sai sót trọng yếu là dựa vào việc điều
chỉnh BCTC (restatements), cho thấy các báo cáo được công bố trước đó không trung
thực. Nghiên cứu của Qiu và cộng sự (2019) đã chứng minh việc điều chỉnh BCTC
là yếu tố quan trọng thể hiện khả năng công ty đã có sai sót trên BCTC. Theo
Badertscher & Burks (2012), sự điều chỉnh BCTC diễn ra khi các công ty được yêu
cầu phải lập lại các BCTC do BCTC được công bố trước đó có chứa sai sót kế toán
trọng yếu. Các nghiên cứu này căn cứ vào chênh lệch BCTC trước và sau kiểm toán
có vượt ngưỡng trọng yếu hay không. Theo Kinney (1994) và chương trình kiểm toán
mẫu báo cáo tài chính hướng dẫn bởi Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam
(VACPA) (2019), sai sót trên BCTC được xác định bằng tỷ lệ chênh lệch lợi nhuận
trước và sau kiểm toán, trong đó, dù lợi nhuận được điều chỉnh tăng hay giảm đều thể
hiện có sai sót trên BCTC, do đó, mức chênh lệch lợi nhuận được trị tuyệt đối.
Lợi nhuận sau kiểm toán - Lợi nhuận trước kiểm toán Chênh lệch = lợi nhuận Lợi nhuận trước kiểm toán
Căn cứ của quan điểm này là BCTC đã kiểm toán được tin tưởng có thể cung
cấp một sự đảm bảo hợp lý cho việc cung cấp thông tin một cách trung thực về các
hiện tượng kinh tế. Điều này đồng thời đảm bảo đặc tính được kiểm chứng, được coi
là một đặc tính nâng cao trong CLTT kế toán. Như vậy, việc những doanh nghiệp có
sự điều chỉnh thông tin kế toán sau kiểm toán ở mức trọng yếu cho thấy CLTT kế
toán được công bố của các doanh nghiệp này trước đó là thấp. Nghiên cứu của Kinney
(1994) cũng như hướng dẫn của VACPA cho rằng nếu tỷ lệ giữa giá trị sai sót và lợi
nhuận ít hơn 5% là chắc chắn không trọng yếu; nếu nằm trong khoảng từ 5% - 10%
được xem là có khả năng trọng yếu và nếu trên 10% được xem là chắc chắn trọng
43
yếu. Do vậy các nghiên cứu khi đo lường sai sót thường tập trung ở mức lợi nhuận
chênh lệch 5% (Nguyễn Tiến Hùng và cộng sự, 2018; Kinney, 1994) hoặc 10% (Trần
Thị Giang Tân và cộng sự, 2014)
Một số nhà nghiên cứu có cách tiếp cận khác về chất lượng lượng TTKT qua sai
sót đó là dựa vào ý kiến của đơn vị kiểm toán độc lập. Các nghiên cứu của Kim và
Yang (2007), Willekens (2008) đều cho rằng báo cáo kiểm toán thể hiện ý kiến của
kiểm toán viên về tính trung thực và hợp lý của BCTC có khả năng cung cấp một sự
đảm bảo phù hợp về tính trung thực của báo cáo kế toán. Có bốn loại ý kiến kiểm
toán, bao gồm ý kiến chấp nhận toàn phần, ý kiến ngoại trừ, ý kiến trái ngược và ý
kiến từ chối. Kiểm toán viên sẽ đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần trong trường hợp
kiểm toán viên kết luận rằng BCTC đã được lập phù hợp với khuôn khổ về lập và
trình bày BCTC được áp dụng, tức là báo cáo của đơn vị được kiểm toán không còn
sai sót trọng yếu trên các khía cạnh trọng yếu. Theo Chuẩn mực kiểm toán 705 (Bộ
tài chính, 2012), trong trường hợp đơn vị kiểm toán không chỉnh sửa theo ý kiến của
kiểm toán viên, kiểm toán viên không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần mà sẽ
đưa một trong ba dạng ý kiến được gọi là “ý kiến kiểm toán ngoại trừ”, “ý kiến kiểm
toán trái ngược” và “từ chối đưa ra ý kiến”. Kiểm toán viên phải trình bày “ý kiến
kiểm toán ngoại trừ” khi kiểm toán viên kết luận là các sai sót, xét riêng lẻ hay tổng
hợp lại, có ảnh hưởng trọng yếu nhưng không lan tỏa đối với BCTC; hoặc kiểm toán
viên không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở
đưa ra ý kiến kiểm toán, nhưng kiểm toán viên kết luận rằng những ảnh hưởng có thể
có của các sai sót chưa được phát hiện (nếu có) có thể là trọng yếu nhưng không lan
tỏa đối với BCTC. “Ý kiến kiểm toán trái ngược” được đưa ra khi dựa trên các bằng
chứng kiểm toán đầy đủ, thích hợp đã thu thập được, kiểm toán viên kết luận là các
sai sót, xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, có ảnh hưởng trọng yếu và lan tỏa đối với BCTC.
Kiểm toán viên phải từ chối đưa ra ý kiến khi không thể thu thập được đầy đủ bằng
chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán và kiểm toán viên
kết luận rằng những ảnh hưởng có thể có của các sai sót chưa được phát hiện (nếu có)
có thể là trọng yếu và lan tỏa đối với BCTC. Maines và Wahen (2006) cho rằng báo
cáo kiểm toán chấp nhận toàn phần chính là điều kiện cần thiết để thể hiện TTKT là
được trung thực. Theo đó, CLTT kế toán được xác định khi đơn vị nhận được ý kiến
44
chấp nhận toàn phần hay không (Dechow và cộng sự, 2011; Pucheta‐Martínez và
cộng sự, 2016)
Trong phạm vi luận án tác giả sử dụng hai cách đo lường là quản trị lợi nhuận và
sai sót trên BCTC. Đây là hai thước đo được các nhà nghiên cứu sử dụng phổ biến, và
được đánh giá phản ánh được CLTT kế toán trên khía cạnh trung thực. Theo đó, quản
trị lợi nhuận được đo bằng giá trị của các khoản dồn tích bất thường. Do Việt Nam chưa
có báo cáo về gian lận và sai sót của các công ty niêm yết, vì vậy tác giả xác định sai
sót trên BCTC bằng chênh lệch lợi nhuận trước và sau kiểm toán kết hợp ý kiến kiểm
toán. CLTT kế toán được xác định bằng mối quan hệ ngược chiều với quản trị lợi nhuận
và sai sót trên BCTC, đo lường bằng giá trị các khoản dồn tích bất thường và việc
BCTC nhận được ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần hay có chênh lệch lợi nhuận
trước và sau kiểm toán có vượt ngưỡng trọng yếu hay không.
2.2. Cơ sở lý luận về quản trị công ty
2.2.1. Khái niệm quản trị công ty
Sự phát triển về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp dẫn tới nhu cầu cấp
bách của đơn vị về vốn, kéo theo việc mở rộng quy mô tài sản, các khoản nợ và nguồn
vốn từ chủ sở hữu. Tại các công ty có nhiều chủ sở hữu, việc thống nhất về vấn đề
điều hành giữa các chủ sở hữu gặp nhiều khó khăn, do vậy chủ sở hữu sẽ ủy quyền
cho một hoặc một số cá nhân (BGĐ) với kỳ vọng người được ủy quyền sẽ sử dụng
hiệu quả nguồn vốn, làm tối ưu hóa lợi ích chủ sở hữu. Tuy nhiên, trên thực tế, BGĐ
không nhất thiết đưa ra các quyết định vì lợi ích của cổ đông mà có thể xuất phát từ
lợi ích cá nhân như lương thưởng, hoặc lợi ích nhóm. Nhằm che giấu các vấn đề về
hoạt động kinh doanh của đơn vị, BGĐ có đủ động cơ và cơ hội trong việc cung cấp
thông tin sai lệch về đơn vị cho các chủ sở hữu. Mặc dù là người hưởng lợi cuối cùng
từ kết quả kinh doanh của đơn vị, chủ sở hữu lại là người bị động trong việc tiếp cận
thông tin kế toán, dẫn tới nguy cơ đưa ra các quyết định sai lầm do vấn đề về tính bất
cân xứng thông tin. Do vậy, chủ sở hữu cần tạo một cơ chế giám sát hoạt động điều
hành của BGĐ để đảm bảo quyền lợi của mình, gọi là QTCT. Khác với khái niệm
quản trị kinh doanh (Business management) hướng tới công tác điều hành quản lý
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do BGĐ thực hiện, khái niệm Quản
45
trị công ty (corporate governance) quan tâm tới các cơ chế quản lý hoạt động điều
hành của BGĐ từ các bên liên quan như nhà đầu tư, cổ đông nhỏ lẻ, chủ nợ, cơ quan
Nhà nước... Nói cách khác, vấn đề QTCT được đặt ra nhằm đảm bảo hoạt động kinh
doanh được thực hiện đúng với mục đích ban đầu là tối ưu hóa lợi ích của các bên
liên quan.
Quản trị công ty, theo nghĩa rộng, là hệ thống những cơ chế mà thông qua đó
nhà đầu tư bên ngoài doanh nghiệp bảo vệ mình khỏi những hành vi gây tổn hại đến
quyền sở hữu doanh nghiệp của họ trước những thành phần nội bộ (bao gồm BGĐ và
cổ đông kiểm soát) (La Porta và cộng sự, 2000). Tập trung trên khía cạnh của cổ đông,
theo Parkinson (1995), QTCT là một quá trình giám sát và kiểm soát nhằm đảm bảo
các hoạt động quản lý công ty được thực hiện phù hợp với lợi ích của cổ đông. Hay
Shleifer và Vishny (1997) xem xét QTCT liên quan đến cách các nhà cung cấp tài
chính đảm bảo có thể thu lợi từ đầu tư của mình. Nhìn chung, quan điểm này tập trung
vào vấn đề người đại diện, về mâu thuẫn lợi ích giữa BGĐ và chủ sở hữu công ty.
Mặt khác, vấn đề bất cân xứng thông tin đặt ra mâu thuẫn giữa cổ đông kiểm soát và
cổ đông nhỏ lẻ, khi mà các cổ đông kiểm soát có thể dựa vào lợi thế của mình về
quyền kiểm soát phục vụ lợi ích cá nhân và lợi ích nhóm để đưa ra các quyết định gây
bất lợi tới lợi ích của cổ đông nhỏ lẻ. Do vậy La Porta và cộng sự (2000) tin rằng
QTCT ngoài việc ngăn chặn các hành vi gây phương hại tới quyền sở hữu của cổ
đông của BGĐ, còn ngăn chặn các hành vi cổ đông kiểm soát gây tổn hại tới lợi ích
của cổ đông nhỏ lẻ. Nhìn chung, QTCT được xem là cơ chế thúc đẩy sự công bằng
và minh bạch và tín nhiệm (Tăng Thị Thanh Thủy, 2020).
Theo Ross và cộng sự (2005), Gillan (2006), QTCT bao gồm cơ chế giám sát
nội bộ và cơ chế giám sát bên ngoài doanh nghiệp. Trong mô hình về cơ chế quản trị
do Ross và cộng sự (2005) đề xuất, HĐQT là cơ quan đứng đầu của cơ chế quản trị
nội bộ, chịu trách nhiệm tư vấn, giám sát quản lý, thuê, sa thải và trả lương, thưởng
cho Ban giám đốc (Jensen, 1993). BGĐ là những cá nhân do HĐQT thuê, bổ nhiệm
và chịu trách nhiệm điều hành doanh nghiệp. Là bên được ủy nhiệm, BGĐ đại diện
cho cổ đông để đưa ra các quyết định đầu tư bao gồm việc lựa chọn tài sản đầu tư và
cách thức tài trợ các khoản đầu tư. Cơ chế quản trị bên ngoài bao gồm các cổ đông
không điều hành là người chủ sở hữu công ty và chủ nợ, được coi là bên cấp vốn cho
46
công ty. Mô hình thể hiện được liên kết giữa các thành phần tham gia, trong đó cổ
đông là người cấp vốn, đồng thời bầu chọn các thành viên HĐQT, thay mặt cổ đông
giám sát, tư vấn hoạt động của BGĐ. Trong khi đó chủ nợ là người cung cấp các
khoản tín dụng, đồng thời có trách nhiệm giám sát BGĐ trong việc sử dụng các khoản
vay và khả năng thu hồi nợ. Mở rộng hơn, Gillan (2006) đề xuất cơ chế về QTCT với
các thành phần giám sát bên ngoài bao gồm cả luật pháp; thị trường vốn, thị trường
kiểm soát doanh nghiệp, thị trường lao động và thị trường sản phẩm; các nhà cung
cấp thông tin trên thị trường vốn như chuyên gia phân tích tín dụng, vốn chủ sở hữu
và QTCT; các dịch vụ kế toán, tài chính, pháp lý từ các doanh nghiệp như công ty
kiểm toán, bảo hiểm trách nhiệm và dịch vụ tư vấn ngân hàng đầu tư; và các cơ chế
giám sát khác như các phương tiện truyền thông
Trong khi đó, theo nghĩa hẹp, QTCT chỉ bao gồm cơ chế quản trị từ bên trong
đơn vị, thể hiện qua cơ chế giám sát nội bộ. Cụ thể, theo OECD (2015), QTCT là thủ
tục và quy trình mà theo đó một tổ chức được điều hành và kiểm soát. Cơ cấu QTCT
quy định rõ việc phân chia quyền lợi và trách nhiệm giữa các đối tượng tham gia tổ
chức như HĐQT, BGĐ, cổ đông và các bên có quyền lợi liên quan khác và đặt ra các
nguyên tắc, thủ tục cho việc ra quyết định. QTCT cũng tạo ra một cơ cấu nhằm đề ra
các mục tiêu của công ty, và xác định các phương tiện để đạt được những mục tiêu
đó, cũng như để giám sát hiệu quả hoạt động của công ty.
Tại Việt Nam, Chính phủ (2017) đã ban hành Nghị định 71/2017/NĐ-CP về quy
chế QTCT, trong đó định nghĩa: “QTCT là hệ thống các nguyên tắc bao gồm, đảm bảo
cơ cấu quản trị hợp lý, đảm bảo hiệu quả hoạt động của HĐQT, BKS; đảm bảo quyền
lợi của cổ đông và những người có liên quan; đảm bảo đối xử công bằng giữa các cổ
đông; công khai minh bạch cho mọi hoạt động của công ty”. Cách hiểu này tiếp cận về
QTCT trên góc độ cơ chế giám sát nội bộ, phù hợp với thông lệ quốc tế. So với khái niệm
QTCT của OECD (2015), Nghị định 71 bổ sung thành phần của QTCT bao gồm cổ đông,
HĐQT, BGĐ và cả BKS.
Trong phạm vi Luận án, tác giả tiếp cận khái niệm QTCT theo hướng tập trung
vào các cơ chế nội bộ của doanh nghiệp, phù hợp với quy định tại Việt Nam. Theo
đó, QTCT là các cơ chế nhằm đảm bảo quyền lợi của cổ đông và các bên liên quan,
47
hướng tới sự công bằng, công khai, minh bạch về hoạt động kinh doanh của đơn vị.
2.2.2. Cơ chế quản trị công ty
Như đã phân tích, trong phạm vi Luận án, QTCT được hiểu là cơ chế nội bộ
nhằm đảm bảo quyền lợi của cổ đông và các bên liên quan. QTCT được kỳ vọng là
giải pháp cho vấn đề mâu thuẫn lợi ích giữa nhà quản lý và chủ sở hữu, cũng như mâu
thuẫn giữa cổ đông nhỏ lẻ và cổ đông kiểm soát. Nghiên cứu về QTCT, được hiểu là
nghiên cứu về các cơ chế QTCT, do vậy, thường tập trung vào hai vấn đề quan trọng
là về cấu trúc sở hữu và đặc điểm quản trị công ty
Cấu trúc sở hữu:
Cấu trúc sở hữu được hiểu là sự phân bổ vốn chủ sở hữu theo quyền, có mối
tương quan với tỷ lệ vốn chủ sở hữu được nắm giữ bởi các chủ sở hữu. Mỗi công ty,
tùy vào số lượng sở hữu cổ phần khác nhau của các cổ đông, sẽ có cấu trúc sở hữu
khác nhau.
Afify (2009) lập luận rằng các cổ đông đều có nhu cầu bình đẳng về thông tin,
không có cổ đông nào có khuynh hướng chi phối thông tin nhiều hơn các cổ đông còn
lại. Tại Việt Nam, quyền của cổ đông được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2020 số
59/2020/QH. Theo đó, cổ đông có quyền tham dự, phát biểu trong cuộc họp Đại hội
đồng cổ đông và thực hiện quyền biểu quyết trực tiếp. Các cổ đông lớn nắm giữ từ
5% tổng số cổ phần có quyền xem xét, tra cứu, trích lục sổ biên bản và nghị quyết,
quyết định của HĐQT, BCTC giữa năm và hằng năm, báo cáo của BKS, hợp đồng,
giao dịch phải thông qua HĐQT và tài liệu khác; yêu cầu BKS kiểm tra từng vấn đề
cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết.
Ngoài ra Điều 4, Nghị định số 71/2017/NĐ-CP ban hành bởi Bộ Tài chính (2017) bổ
sung quyền đối với cổ động liên quan tới sự công bằng, minh bạch. Theo đó, cổ đông
có quyền được đối xử công bằng. Mỗi cổ phần của cùng một loại đều tạo cho cổ đông
sở hữu các quyền, nghĩa vụ và lợi ích ngang nhau. Cổ đông có quyền được tiếp cận
đầy đủ thông tin định kỳ và thông tin bất thường do công ty công bố theo quy định
của pháp luật. Trong khi đó, cổ đông lớn không được lợi dụng ưu thế của mình gây
ảnh hưởng đến các quyền, lợi ích của công ty và của các cổ đông khác.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc sở hữu cổ phần với số lượng khác nhau dẫn tới các
48
cổ đông có vị thế khác nhau. Các cổ đông lớn với ưu thế về số lượng cổ phần sở hữu
hoặc đại diện, có quyền tham gia vào hệ thống QTCT, chi phối vấn đề quản trị và tiếp
cận thông tin. Trong khi đó, các cổ đông thiểu số là các cá nhân hoặc tổ chức bên
ngoài đơn vị lại gặp bất lợi so với cổ đông lớn. Khi quyền sở hữu tập trung vào tay
của một hoặc một số cổ đông sẽ dẫn đến việc các cổ đông này có quyền kiểm soát và
tác động đến hoạt động của doanh nghiệp. Theo Leech (1991), quyền kiểm soát được
định nghĩa là quyền thực hiện toàn quyền đối với việc ra quyết định quan trọng bao
gồm việc chỉ định BGĐ. Khi mức độ tập trung quyền sở hữu tăng lên, vấn đề người
đại diện sẽ chuyển từ xung đột lợi ích giữa chủ sở hữu và người quản lý sang mâu
thuẫn giữa cổ đông kiểm soát và cổ đông thiểu số (Shleifer và Vishny, 1997). Ở chiều
ngược lại, Donnelly và Lynch (2002) cho rằng tính tập trung của cấu trúc sở hữu làm
cho các cổ đông kiểm soát có động lực bảo vệ quyền lợi của mình bằng cách gia tăng
sự giám sát đối với hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy, một cấu trúc sở hữu tập
trung có thể tác động lên CLTT kế toán theo hai hướng: thứ nhất, hướng tích cực –
tính tập trung quyền sở hữu cao sẽ làm giảm khả năng điều chỉnh thông tin kế toán
bởi nhà quản lý (Yeo và cộng sự, 2002), thứ hai, hướng tiêu cực – khi phần lớn cổ
phần tập trung vào một số cổ đông lớn, sẽ phát sinh lợi ích nhóm, các cổ đông lớn
này có thể gây sức ép tác động lên BGĐ, khiến họ phải thực hiện những hành vi điều
chỉnh báo cáo dẫn đến suy giảm CLTT. Các nghiên cứu về QTCT đều xem xét cấu
trúc sở hữu với các đặc điểm về tỷ lệ sở hữu như là một khía cạnh của QTCT. Các
nghiên cứu này nhằm tìm kiếm câu trả lời về bằng chứng thực nghiệm về một cấu
trúc sở hữu hợp lý mà qua đó hạn chế được mâu thuẫn giữa cổ đông kiểm soát và cổ
đông nhỏ lẻ, đồng thời phát huy được chức năng giám sát đối với hoạt động quản lý
của BGĐ. Kế thừa từ các nghiên cứu trước đó đã phân tích ở chương I và dựa trên
các dữ liệu đã thu thập, Luận án tìm hiểu các tác động của QTCT tới CLTT kế toán
trên góc độ cấu trúc sở hữu với các đặc điểm về sở hữu Nhà nước, sở hữu của cổ đông
tổ chức và sở hữu BGĐ.
Đặc điểm quản trị công ty
QTCT là các cơ chế nhằm đảm bảo quyền lợi cổ đông và các bên liên quan, do
vậy bên cạnh vấn đề cấu trúc sở hữu, các nghiên cứu về QTCT còn tập trung vào cơ
chế quản trị, bao gồm Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát
49
Hội đồng quản trị
HĐQT, là một cơ chế quản trị, bao gồm những thành viên do cổ đông lựa chọn,
đóng vai trò trung tâm trong hệ thống giám sát. Với chức năng là cơ quan quản lý của
doanh nghiệp, HĐQT đại diện cho cổ đông thực hiện kiểm tra, theo dõi hoạt động của
BGĐ, đóng một vị thế quan trọng trong việc kiểm soát vấn đề đại diện (García‐Meca
và Sánchez‐Ballesta, 2009). Nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động, các thành viên trong
HĐQT được bầu chọn từ các cổ đông, không chỉ là những cá nhân có sở hữu cổ phần
đủ lớn, mà phải là những đại diện tiêu biểu đảm bảo tính khách quan, độc lập và được
tín nhiệm về kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm đa dạng trong các lĩnh vực có liên
quan như pháp luật, tài chính, kế toán, kinh doanh. Tuy vậy, tùy theo đặc điểm cấu
tạo, không phải tất cả các HĐQT đều thực hiện tốt vai trò giám sát của mình. Các
nghiên cứu về HĐQT thể hiện mối quan tâm của các học giả về việc đề xuất một mô
hình HĐQT với các đặc điểm có thể phát huy tốt vai trò kiểm soát hoạt động của nhà
điều hành.
Tại Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp 2020 số 59/2020/QH, HĐQT là cơ quan
quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện quyền và
nghĩa vụ của công ty, trừ các quyền và nghĩa vụ thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng
cổ đông. Nghị định số 71/2017/NĐ-CP quy định HĐQT phải chịu trách nhiệm trước
cổ đông về hoạt động của công ty; đối xử bình đẳng đối với tất cả cổ đông và tôn
trọng lợi ích của người có quyền lợi liên quan đến công ty; đảm bảo hoạt động của
công ty tuân thủ các quy định của pháp luật, Điều lệ và quy định nội bộ của công ty;
xây dựng Quy chế nội bộ về QTCT và trình Đại hội đồng cổ đông thông qua và báo
cáo tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông. Cơ cấu thành viên HĐQT cần phải chú ý các
nguyên tắc: Số lượng thành viên HĐQT từ 3 đến 11 người. Về tính kiêm nhiệm: Chủ
tịch HĐQT không được kiêm nhiệm chức danh Giám đốc (Tổng giám đốc) của cùng
01 công ty đại chúng. Về tính độc lập: Cơ cấu HĐQT cần đảm bảo sự cân đối giữa
các thành viên điều hành và các thành viên không điều hành, tối thiểu 1/3 tổng số
thành viên HĐQT là thành viên không điều hành. Về đặc điểm của thành viên HĐQT,
cần đảm bảo sự cân đối giữa các thành viên có kiến thức và kinh nghiệm về pháp luật,
tài chính, lĩnh vực hoạt động kinh doanh của công ty và có xét yếu tố về giới. Các
công ty, phụ thuộc vào đặc điểm doanh nghiệp, sẽ thực hiện việc bầu chọn thành viên
50
HĐQT thông qua đại Hội đồng cổ đông, đảm bảo quy định của pháp luật về cơ cấu
thành viên HĐQT.
Kế thừa các nghiên cứu trước đó đã phân tích ở chương I và dựa trên các dữ liệu
đã thu thập, Luận án tìm hiểu các tác động của QTCT tới CLTT kế toán trên khía
cạnh HĐQT ở góc độ đặc điểm HĐQT. Các đặc điểm HĐQT được đề cập đến trong
Luận án bao gồm quy mô HĐQT; tính kiêm nhiệm chức danh chủ tịch HĐQT và giám
đốc điều hành, tính độc lập trong HĐQT; đặc điểm của thành viên HĐQT về thâm
niên, giới tính và chuyên môn kế toán tài chính.
Ban kiểm soát
BKS, là một cơ chế quản trị, bao gồm các kiểm soát viên do Đại hội đồng cổ
đông bầu chọn. Nghiên cứu của Bezemer và cộng sự (2007) cho rằng BKS là giải
pháp cho vấn đề người đại diện. Sự giám sát của BKS giảm thiểu vấn đề bất cân xứng
thông tin giữa cổ đông và nhà quản trị, ngăn cản các hành vi sai lệch vì mục đích cá
nhân của các nhà điều hành. Theo Luật doanh nghiệp 2020 số 59/2020/QH, BKS có
trách nhiệm thực hiện giám sát HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong việc
quản lý và điều hành công ty. Ngoài ra, Luật doanh nghiệp 2020 quy định BKS có
trách nhiệm giám sát việc tổ chức thực hiện chiến lược phát triển, kế hoạch kinh
doanh, thực hiện các mục tiêu chiến lược và mục tiêu kế hoạch của công ty; giám sát
và đánh giá hiệu lực và mức độ tuân thủ quy chế kiểm toán nội bộ, quy chế quản lý
và phòng ngừa rủi ro, quy chế báo cáo và các quy chế quản trị nội bộ khác của công
ty; giám sát tính hợp pháp, tính hệ thống và trung thực trong công tác kế toán, sổ kế
toán, trong nội dung BCTC, các phụ lục và tài liệu liên quan; giám sát các giao dịch
của công ty với các bên có liên quan; giám sát thực hiện các dự án đầu tư lớn, giao
dịch mua, bán và giao dịch kinh doanh khác có quy mô lớn hoặc giao dịch kinh doanh
bất thường của công ty; lập và gửi báo cáo đánh giá, kiến nghị về các nội dung trên
cho cơ quan đại diện chủ sở hữu.
Về mặt cơ cấu quản lý, không phải mọi công ty cổ phần đều phải có BKS. Điều
này phụ thuộc vào quy định của từng quốc gia. Ở Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp
2020 số 59/2020/QH, các công ty cổ phần có quyền lựa chọn tổ chức quản lý và hoạt
động theo một trong hai mô hình: (1) Đại hội đồng cổ đông, HĐQT, Ban kiểm soát
51
và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp công ty cổ phần có dưới 11 cổ đông
và các cổ đông là tổ chức sở hữu dưới 50% tổng số cổ phần của công ty thì không bắt
buộc phải có BKS; (2) Đại hội đồng cổ đông, HĐQT và Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc. Trường hợp này ít nhất 20% số thành viên HĐQT phải là thành viên độc lập và
có Ủy ban kiểm toán trực thuộc HĐQT. Như vậy, nếu thỏa mãn điều kiện, các doanh
nghiệp có quyền lựa chọn mô hình QTCT có BKS hoặc mô hình QTCT không có
BKS nhưng có Ủy ban kiểm toán trực thuộc HĐQT. Cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm
vụ của Ủy ban kiểm toán quy định tại Điều lệ công ty hoặc quy chế hoạt động của Ủy
ban kiểm toán do HĐQT ban hành. Khác với BKS thực hiện giám sát cả HĐQT và
BGĐ, Ủy ban kiểm toán là cơ quan chuyên môn thuộc HĐQT tập trung chủ yếu vào
nhiệm vụ giám sát hoạt động của doanh nghiệp, cụ thể: (a) Giám sát tính trung thực
của báo cáo tài chính của công ty và công bố chính thức liên quan đến kết quả tài
chính của công ty; (b) Rà soát hệ thống kiểm soát nội bộ và quản lý rủi ro; (c) Rà soát
giao dịch với người có liên quan thuộc thẩm quyền phê duyệt của HĐQT hoặc Đại
hội đồng cổ đông và đưa ra khuyến nghị về những giao dịch cần có phê duyệt của
HĐQT hoặc Đại hội đồng cổ đông; (d) Giám sát bộ phận kiểm toán nội bộ của công
ty;đ) Kiến nghị công ty kiểm toán độc lập, mức thù lao và điều khoản liên quan trong
hợp đồng với công ty kiểm toán để HĐQT thông qua trước khi trình lên Đại hội đồng
cổ đông thường niên phê duyệt; (e) Theo dõi và đánh giá sự độc lập, khách quan của
công ty kiểm toán và hiệu quả của quá trình kiểm toán, đặc biệt trong trường hợp công
ty có sử dụng các dịch vụ phi kiểm toán của bên kiểm toán; (g) Giám sát nhằm bảo
đảm công ty tuân thủ quy định của pháp luật, yêu cầu của cơ quan quản lý và quy
định nội bộ khác của công ty. Mô hình quản trị có sự tham gia của Ủy ban kiểm toán
được coi là mô hình tiến bộ, xuất hiện nhiều tại các quốc gia trên thế giới như Anh,
Mỹ. Trong đó, vai trò về việc giám sát hướng tới công khai, minh bạch được đánh giá
cao, đặc biệt là quyền giám sát bộ phận kiểm toán nội bộ và đề xuất đơn vị kiểm toán
độc lập. Trên thực tế ở Việt Nam, hầu hết các công ty niêm yết đều lựa chọn mô hình
quản lý có sự tham gia của BKS. Về cơ cấu thành viên BKS cần chú ý nguyên tắc: Về
quy mô, số lượng Kiểm soát viên ít nhất là 03 người và nhiều nhất là 05 người. Về yêu
cầu trình độ, Đối với công ty niêm yết và công ty đại chúng do Nhà nước nắm giữ trên
50% vốn điều lệ, Kiểm soát viên phải là kiểm toán viên hoặc kế toán viên. Trưởng BKS
52
phải là kế toán viên hoặc kiểm toán viên chuyên nghiệp và phải làm việc chuyên trách
tại công ty.
Xuất phát từ vấn đề thực tiễn, kế thừa các nghiên cứu trước đó đã phân tích ở
chương I và dựa trên các dữ liệu đã thu thập, Luận án tìm hiểu các tác động của QTCT
tới CLTT kế toán trên khía cạnh BKS ở góc độ đặc điểm BKS. Các góc độ về đặc
điểm BKS được đề cập đến trong Luận án bao gồm quy mô, thâm niên, chuyên môn
kế toán tài chính và giới tính của thành viên BKS.
2.2.3. Nguyên tắc quản trị công ty
Tại Việt Nam, nguyên tắc của QTCT, theo Nghị định 71/2-17/NĐ-CP, bao gồm:
Một là, đảm bảo cơ cấu quản trị hợp lý. Gillan (2006) cho rằng cơ chế QTCT
bao gồm cơ chế nội bộ và cơ chế bên ngoài. Cơ chế quản trị bên ngoài được xem là
yếu tố môi trường bên ngoài như luật pháp, thị trường hoặc các cơ chế giám sát khác
tác động đến hoạt động quản trị của đơn vị. Trong khi đó, cơ chế quản trị nội bộ bao
gồm các cơ chế liên quan tới HĐQT, cơ chế khuyến khích, cấu trúc vốn, quy chế và
điều lệ, hệ thống kiểm soát nội bộ. Ngoài ra, ở Việt Nam và một số quốc gia như
Trung Quốc, Hà Lan, thành phần quản trị còn có BKS. Mỗi đơn vị có đặc thù riêng,
do vậy nhiệm vụ của QTCT là cần thiết kế và vận hành một cơ cấu hợp lý về quy mô,
thành phần, phù hợp pháp luật, hướng tới mục tiêu chung là đảm bảo sự minh bạch,
công bằng.
Hai là, đảm bảo hiệu quả hoạt động của HĐQT và BKS. HĐQT và BKS là các
cơ chế quản trị quan trọng nằm trong hệ thống QTCT. Trong đó, HĐQT được tập hợp
bởi các thành viên do đại Hội đồng cổ đông bầu ra, nhằm đại diện cho cổ đông thực
hiện các chức năng giám sát hoạt động kinh doanh của BGĐ và xây dựng chiến lược,
mục tiêu dài hạn cho đơn vị. BKS do cổ đông bầu chọn với chức năng giám sát HĐQT,
BGĐ (giám đốc hoặc tổng giám đốc) trong việc quản lý và điều hành công ty, kiểm
tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều
hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập BCTC
cũng như thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, BCTC hàng năm và sáu tháng của
công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của HĐQT. Hoạt động QTCT hiệu quả
khi HĐQT và BKS thực hiện tốt vai trò, chức năng của mình, đặc biệt là chức năng
53
giám sát, qua đó ngăn chặn các hành vi gian lận, gây phương hại tới lợi ích của các
bên liên quan
Ba là, đảm bảo quyền lợi của cổ đông và các bên có liên quan. Ngoài cổ đông
với tư cách là chủ sở hữu có liên đới trực tiếp về quyền lợi về tài sản và hoạt động
kinh doanh của, các bên có liên quan tới công ty bao gồm các cơ quan Nhà nước, chủ
nợ, nhà đầu tư, nhà cung cấp, người lao động… Những cá nhân hay tổ chức này có
quyền lợi liên quan tới hoạt động của đơn vị, như cơ quan Nhà nước thực hiện chức
năng giám sát và thu thuế; chủ nợ cấp tín dụng, theo dõi và thu hồi nợ, nhà đầu tư
xem xét các vấn đề liên quan tới đầu tư hoặc rút vốn khỏi đơn vị, người lao động liên
quan tới các chi phí lương và các khoản hỗ trợ… Do vậy, QTCT cần phải hướng tới
nhiệm vụ tôn trọng và đảm bảo cho quyền lợi của các bên liên quan bao gồm các cá
nhân bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, cũng như chịu trách nhiệm về các khiếu
nại, tố cáo khi vi phạm quyền, luật lao động, quyền được tiếp cận thông tin kịp thời
và tin cậy, quyền của chủ nợ trong trường hợp phá sản.
Bốn là, đảm bảo đối xử công bằng giữa các cổ đông. Vấn đề bất cân xứng thông
tin làm phát sinh mâu thuẫn giữa cổ đông kiểm soát và cổ đông nhỏ lẻ. Các cổ đông
kiểm soát với lợi thế về tỷ lệ sở hữu có thể tham gia vào hoạt động điều hành hoặc
giám sát. Trong khi đó, cổ đông nhỏ lẻ là chủ sở hữu nhưng bị hạn chế quyền trực
tiếp tham gia hoạt động nói trên. Do đó các nhà khoa học có cơ sở tin rằng, các cổ
đông lớn nắm quyền kiểm soát có thể thể tận dụng vị thế của mình để đưa ra các quyết
định gây phương hại tới lợi ích của cổ đông nhỏ lẻ. Do vậy, việc QTCT cần đặt nhiệm
vụ đối xử công bằng giữa các cổ đông, liên quan tới các chính sách biểu quyết, hạn
chế các giao dịch nội gián, giảm thiểu xung đột lợi ích và hướng tới sự chính trực,
công bằng.
Năm là, công khai, minh bạch mọi hoạt động của công ty. Các thông tin công
bố bao gồm cả thông tin bắt buộc và tự nguyện, thông tin tài chính hay phi tài chính
đều cần phải đảm bảo tính trung thực, hợp lý và kịp thời. Trong đó, các thông tin về
BCTC không chỉ được giám sát bởi các cơ chế nội bộ mà còn bởi các tổ chức kiểm
toán độc lập có uy tín từ bên ngoài. Việc công khai, minh bạch không chỉ đảm bảo lợi
ích của các bên liên quan mà còn làm tăng uy tín của đơn vị. Nhà nước, chủ nợ, nhà
54
đầu tư hay các đối tác sẽ đánh giá cao các đơn vị có hệ thống thông tin công bố minh
bạch.
2.3. Cơ sở lý thuyết về tác động của quản trị công ty tới chất lượng thông tin kế
toán
2.3.1. Các lý thuyết nền
Thông tin kế toán trên BCTC phản ánh tình hình tài chính, tình hình kinh doanh
và các luồng tiền của một doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu hữu ích cho số đông những
người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế (Chuẩn mực kế toán Việt Nam
số 21, 2003), và được coi là cơ sở để ra quyết định đối với người sử dụng. Đối tượng
sử dụng thông tin kế toán rất đa dạng, bao gồm cả nhóm đối tượng bên trong và bên
ngoài doanh nghiệp, có thể kể đến như nhà điều hành, chủ sở hữu, nhà đầu tư, chủ nợ
hay các cơ quan quản lý. Mỗi nhóm đối tượng có mục đích sử dụng thông tin khác
nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, thông tin kế toán được cung cấp bởi nhà điều hành, và
không phải lúc nào cũng đảm bảo chất lượng, tức là phản ánh được trung thực hợp lý
tình hình tài chính, tình hình và kết quả kinh doanh và các luồng tiền của doanh
nghiệp. Bên cạnh một số nguyên nhân khách quan, các nhà khoa học đã lý giải hiện
tượng này bằng một số lý thuyết nền thể hiện vấn đề đến từ chính doanh nghiệp.
2.3.1.1. Lý thuyết thông tin bất cân xứng
Lý thuyết thông tin bất cân xứng (Asymmetric Information) được khởi xướng
bởi Akerlof (1970), phản ánh việc các bên tham gia trong giao dịch kinh tế, có một
số người có đầy đủ thông tin hơn những người khác. Sự thuận tiện hay thiệt thòi về
thông tin sẽ ảnh hưởng lên quyết định lựa chọn của họ, khiến cho kết quả giao dịch
không còn ở trạng thái tối ưu. Theo đó, BGĐ là những người đứng đầu và điều hành
doanh nghiệp, cung cấp thông tin về tình hình tài chính qua BCTC, trong khi cổ đông
là chủ sở hữu doanh nghiệp lại là những người sử dụng thông tin về tình hình hoạt
động của công ty. Với vị thế đó, BGĐ sẽ nắm được thông tin rõ hơn so với cổ đông,
người vốn dĩ là chủ của doanh nghiệp. Do vậy, cổ đông sẽ có tâm lý lo lắng do không
đủ căn cứ để đánh giá được liệu những thông tin mà BGĐ cung cấp đã trung thực,
hợp lý hay chỉ là những thông tin được thổi phồng, từ đó thiếu cơ sở để đưa ra các
quyết định. Điều này tương tự như trong thị trường ô tô, người bán có thể biết rõ đặc
55
tính chiếc xe của mình muốn bán và bán với giá cao hơn. Còn người mua không có
những thông tin xác thực, đầy đủ và kịp thời của chiếc ô tô mình muốn mua nên có
thể trả giá thấp hơn giá trị thực của chiếc ô tô đó. Tình trạng này gây ra tổn thất xã
hội và nhiều vấn đề khác như sự mất lòng tin vào sản phẩm tương tự có chất lượng
tốt trên thị trường.
Hiện tượng thông tin bất cân xứng này dẫn đến hai hệ quả đó là: sự lựa chọn đối
nghịch (adverse selection) và rủi ro đạo đức (moral hazard). Lựa chọn đối nghịch xảy
ra khi trong một thị trường, người bán hoặc người mua biết rõ hơn về tính chất sản
phẩm mà đối tượng kia không biết. Rủi ro đạo đức xảy ra khi một bên có nhiều thông
tin hơn và che đậy hành vi sau khi ký kết hợp đồng giao dịch, tạo ra bất lợi cho đối
phương để trục lợi. Trên thị trường tài chính, với mục đích thu hút vốn đầu tư từ
những chủ thể bên ngoài vốn hạn chế về nguồn thông tin, BGĐ có xu hướng điều
chỉnh thông tin theo hướng có lợi cho doanh nghiệp, gây bất lợi về thông tin đối với
các nhà đầu tư. Đứng trên góc độ mối quan hệ giữa chủ sở hữu và BGĐ, khi ký kết
hợp đồng ủy thác, BGĐ cam kết sử dụng nguồn lực tài chính đúng mục đích, cùng
các điều khoản về cách thức phân phối các khoản lợi nhuận từ việc khai thác nguồn
lực tài chính ấy. Mặc dù đã cố gắng bao quát tất cả các điều khoản nhưng các bên tham
gia phải chấp nhận một thực tế rằng không thể dự báo được tất cả những kịch bản, tình
huống bất ngờ trong tương lai, vì thế trong quá trình điều hành doanh nghiệp, hầu hết các
quyền kiểm soát còn lại sẽ thuộc về người quản lý (Shleifer và Vishny, 1997). Điều này
có thể dẫn đến rủi ro đạo đức khi BGĐ có xu hướng tận dụng quyền lực và lợi thế về
thông tin trong mối quan hệ với nhà đầu tư để tối đa hóa lợi ích của bản thân thay vì tối
đa hóa lợi ích chủ sở hữu.
2.3.1.2. Lý thuyết đại diện
Lý thuyết đại diện được phát triển bởi Jensen và Meckling (1976). Về mặt lý
thuyết, các cổ đông là những người sở hữu thực sự tại các công ty cổ phần. Tuy nhiên
số lượng cổ đông không giới hạn khiến việc điều hành trực tiếp doanh nghiệp của các
chủ sở hữu trở nên không khả thi về mặt thực tế. Để giải quyết vấn đề này, các chủ
sở hữu (người ủy thác) ký hợp đồng với một bên khác là BGĐ (người đại diện) nhằm
thay mặt cho các cổ đông điều hành hoạt động của công ty. Lúc này, mối quan hệ
56
giữa người ủy thác - người đại diện ra đời, đồng thời phát sinh vấn đề người đại diện.
BGĐ nắm trong tay quyền điều hành công ty, với tư cách là người được các cổ đông
ủy quyền kiểm soát cùng kỳ vọng đem lại lợi ích chủ sở hữu. Trong khi đó, mặc dù
là chủ sở hữu, song cổ đông không điều hành hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy,
người đại diện (BGĐ) có xu hướng hành động vì lợi ích cá nhân mà không vì lợi ích
chung của doanh nghiệp, ví như khi đứng trước một quyết định kinh doanh, người đại
diện có thể bị hấp dẫn bởi lợi ích bản thân mà ra quyết định phương hại tới lợi ích của
doanh nghiệp. Mặt khác, sức hấp dẫn từ các khoản tiền thưởng, tiền lương và các lợi
ích khác khiến cho BGĐ có động cơ điều chỉnh thông tin kế toán, nhằm che giấu các
vấn đề về quản lý, hoặc làm đẹp BCTC do phần lớn các kế hoạch khen thưởng này
dựa trên các con số kế toán. Những hành vi này làm suy giảm CLTT kế toán, ảnh
hưởng tới quyền lợi của chủ sở hữu. Do đó các cổ đông cần kiểm soát hành vi của
BGĐ nhằm đảm bảo họ thực hiện đúng nghĩa vụ với chủ sở hữu và cung cấp BCTC
có chất lượng cao. Để làm được điều này, cổ đông phải chấp nhận chi phí đại diện
(agency cost). Theo Jensen và Mecklink (1976) chi phí đại diện là tổng các chi phí:
chi phí kiểm soát (Monitoring Expenditure), là chi phí được trả cho các kiểm soát
viên nhằm báo động cho các cổ đông khi các nhà quản lý trục lợi cho bản thân họ quá
nhiều; chi phí giao kèo (Bonding Expenditure) là chi phí nhằm ngăn ngừa những hậu
quả xấu có thể xảy ra từ những hành động thiếu trung thực của các nhà quản lý và tổn
thất lợi ích là những tổn thất xảy ra do sự khác biệt giữa những quyết định trên thực
tế của các nhà quản lý và những quyết định nhằm tối đa hóa lợi ích cho các cổ đông.
Các chi phí này nhằm duy trì hệ thống QTCT, giám sát hoạt động của BGĐ.
2.3.1.3. Lý thuyết tam giác gian lận
Trong số các lý thuyết có liên quan tới gian lận, lý thuyết tam giác gian lận của
Cressey (1953) đã được thừa nhận rộng rãi và ứng dụng phổ biến. Donald R.Cressey
được biết đến là nhà nghiên cứu tội phạm tại trường Đại học Indiana ở Mỹ. Ông đã
nghiên cứu và chỉ ra rằng hành vi gian lận xảy ra khi hội đủ ba yếu tố Động cơ/Áp
lực, Cơ hội và Thái độ/Sự hợp lý hóa.
57
Hình 2.1. Tam giác gian lận
Nguồn: Lý thuyết Tam giác gian lận (Cressey, 1953)
Động cơ/Áp lực: Cressey cho rằng gian lận xảy ra khi nhân viên, nhà quản lý
hay tổ chức chịu áp lực về tài chính, tinh thần hay áp lực về kết quả hoạt động đối với
bên thứ ba. Chẳng hạn như sự khó khăn về mặt tài chính, sự bất đồng trong các mối
quan hệ với chủ doanh nghiệp hay áp lực khi chưa hoàn thành hoặc không hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao,…
Cơ hội: Trong trường hợp này, yếu tố thứ nhất có thể được xem là tiền đề cho
yếu tố Cơ hội. Theo đó, khi đã tồn tại động cơ hay áp lực cao kết hợp với cơ hội thuận
lợi, doanh nghiệp có thể tiến hành hành vi gian lận. Theo Rasha và Andrew (2012),
cơ hội được thể hiện một điểm yếu trong hệ thống kiểm soát, nơi mà nhân viên có khả
năng khai thác tình huống để thực hiện hành vi lừa đảo. Theo Ewa và Udoayang
(2012), sự vắng mặt hoặc kiểm soát không hiệu quả, thiếu giám sát hoặc phân chia
nhiệm vụ không đầy đủ có thể dẫn tới cơ hội gian lận.
Thái độ/Khả năng hợp lý hóa: Yếu tố cuối cùng này có thể xem là điều kiện đủ
để hành vi gian lận xảy ra. Không phải ai khi chịu áp lực cao và có cơ hội tốt đều thực
hiện hành vi gian lận, mà điều này còn tùy thuộc vào thái độ và cá tính của từng cá
nhân. Phần lớn những người có hành vi gian lận thường biện hộ cho thái độ phạm tội
của mình, họ tự trấn an rằng chuyện này sẽ không bao giờ lặp lại. Nhưng nếu tiếp tục,
người thực hiện sẽ không còn cảm thấy băn khoăn hay khó xử về hành vi mình đang
làm, khi đó mọi việc diễn ra dễ dàng hơn, thậm chí thường xuyên hơn và họ cảm thấy
hợp lý cũng như dễ chấp nhận hơn.
58
Lý thuyết Tam giác gian lận sau đó đã trở thành lý thuyết nền tảng trong các
nghiên cứu về gian lận, thậm chí trở thành cơ sở xây dựng Chuẩn mực kiểm toán liên
quan tới dấu hiệu nhận biết gian lận trên BCTC. Tương tự như các tổ chức, hiệp hội
nghề nghiệp trên thế giới, Việt Nam cũng đã vận dụng lý thuyết tam giác gian lận để
xây dựng các hướng dẫn áp dụng nhận biết đặc điểm gian lận trong Chuẩn mực kiểm
toán 240- Trách nhiệm của kiểm toán viên liên quan đến gian lận trong quá trình kiểm
BCTC. Theo đó, gian lận, dù là lập BCTC gian lận hay biển thủ tài sản, đều có liên
quan đến động cơ hoặc áp lực phải thực hiện hành vi gian lận, một cơ hội rõ ràng để
thực hiện điều đó và việc hợp lý hoá hành vi gian lận.
Thông tin kế toán thiếu trung thực xảy ra khi BGĐ có động cơ hoặc gặp phải áp
lực làm đẹp báo tài chính, hệ thống kiểm soát yếu kém và thái độ không tốt. Hay nói
cách khác, doanh nghiệp có xu hướng cung cấp thông tin kế toán kém chất lượng khi
gặp vấn đề về sức ép phải điều chỉnh báo cáo, khi hệ thống quản trị yếu kém, không
giám sát được hành vi của BGĐ và BGĐ có vấn đề về đạo đức. Điều này đặt ra vấn
đề cấp thiết của việc tăng cường hiệu quả QTCT nhằm ngăn chặn các cơ hội điều
chỉnh TTKT.
2.3.1.4. Lý thuyết các bên có liên quan
Một số nghiên cứu cho rằng lý thuyết đại diện chỉ tập trung vào mối quan hệ
giữa cổ đông và BGĐ. Wearing và Wearing (2005) cho rằng điều này có thể dẫn tới
việc nhà điều hành sẽ cố gắng thỏa mãn các cổ đông về mặt lợi nhuận mà hy sinh lợi
ích trong dài hạn. Lý thuyết các bên liên quan nhấn mạnh tầm ảnh hưởng của các đối
tượng có lợi ích trực tiếp lẫn gián tiếp tới hoạt động của đơn vị bao gồm cổ đông, Nhà
nước, chủ nợ, nhà cung cấp, khách hàng và thậm chí cả công chúng nếu những thông
tin về hoạt động của đơn vị có thể ảnh hưởng tới môi trường pháp lý, thị trường tài
chính. Do đó, HĐQT không chỉ đại diện cho cổ đông mà còn cho tất cả các bên liên
quan về mặt lợi ích, tránh khỏi sự phương hại đến từ thành phần nội bộ như BGĐ
hoặc cổ đông kiểm soát
Với các bên liên quan, thông tin kế toán là cơ sở để đưa ra các quyết định như
quyết định đầu tư của nhà đầu tư, quyết định cho vay hoặc thu hồi nợ của chủ nợ…
Do đó, HĐQT cần phải đảm bảo cung cấp thông tin kế toán chất lượng cho các bên
59
liên quan. Điều này tạo ra lợi ích dài hạn đối với công ty, khi nhận được sự tin cậy từ
các thành phần bên ngoài đơn vị. Trên góc độ thị trường tài chính, việc minh bạch
TTKT ở mỗi công ty là nền tảng cho sự phát triển của thị trường, xây dựng lòng tin
và thu hút nhà đầu tư, tạo sự phát triển bền vững.
Như vậy, các lý thuyết nền đã góp phần giải thích nguyên nhân của hiện tượng
suy giảm CLTT kế toán, đồng thời cho thấy việc xây dựng hệ thống giám sát hoạt
động của BGĐ hữu hiệu là giải pháp nâng cao CLTT kế toán để thông tin trở nên hữu
ích đối với người sử dụng.
2.3.2. Tác động của quản trị công ty tới chất lượng thông tin kế toán
Luận án tiếp cận về QTCT trên khía cạnh nội bộ, theo đó, QTCT là các cơ chế
nhằm đảm bảo quyền lợi của cổ đông và các bên liên quan. Như đã phân tích ở mục
2.3.2, xuất phát từ các nghiên cứu trước đó và các dữ liệu thu thập được, khi nghiên
cứu tác động của QTCT tới CLTT kế toán, các khía cạnh quản trị công ty được đề
cập tới trong Luận án bao gồm cấu trúc sở hữu, đặc điểm của HĐQT và đặc điểm của
BKS
2.3.2.1. Tác động của cấu trúc sở hữu tới chất lượng thông tin kế toán
Cấu trúc sở hữu được hiểu là sự phân bổ vốn chủ sở hữu theo quyền, có mối
tương quan với tỷ lệ vốn chủ sở hữu được nắm giữ bởi các chủ sở hữu. Với tỷ lệ sở
hữu khác nhau, các cổ đông lớn với ưu thế về tỷ lệ sở hữu, có quyền tham gia vào hệ
thống QTCT, chi phối vấn đề quản trị và tiếp cận thông tin. Lý thuyết bất cân xứng
thông tin phản ánh mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa các cổ đông lớn và cổ đông thiểu số
trong việc tiếp cận thông tin kế toán với lợi thế thuộc về cổ đông lớn. Tuy vậy, một
số nghiên cứu lại cho rằng tỷ lệ sở hữu lớn khiến cổ đông lớn có động lực bảo vệ
quyền lợi của mình bằng cách gia tăng sự giám sát đối với hoạt động của doanh nghiệp
thông qua việc tham gia vào công tác quản trị. Nhìn chung, các nghiên cứu về mối
quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và CLTT kế toán có kết quả không thống nhất tùy thuộc
vào đặc điểm nền kinh tế của từng quốc gia. Kế thừa từ các nghiên cứu trước đây và
dữ liệu thu thập, luận án xem xét vấn đề về tác động của cấu trúc sở hữu tới CLTT kế
toán tập trung trên ba khía cạnh: sở hữu Nhà nước, sở hữu của cổ đông tổ chức và sở
hữu của BGĐ.
60
Tác động của sở hữu của Nhà nước tới chất lượng thông tin kế toán
Nhà nước là một chủ thể đặc biệt của nền kinh tế, vừa hoạt động theo quy luật
thị trường, vừa thay mặt Chính phủ thực hiện vấn đề phúc lợi xã hội. Wang và Yung
(2011) có cơ sở để tin rằng thông tin kế toán được cung cấp bởi các công ty có vốn
Nhà nước có tính tin cậy thấp. Trước tiên, các cổ phần Nhà nước không có chủ sở
hữu thực sự, hay nói cách khác, nhà quản trị tại các doanh nghiệp này không thực sự
có quyền sở hữu, bởi vậy họ thiếu động cơ làm việc, quan liêu. Mặt khác, tại các
doanh nghiệp có vốn Nhà nước, vấn đề người đại diện sẽ phát sinh do sự xung đột lợi
ích từ cổ đông lớn là Nhà nước và các cổ đông thiểu số. Với sự tập trung sở hữu lớn,
Nhà nước trong vai trò là đại cổ đông có quyền quyết định các vấn đề quan trọng hoặc
đề cử giám đốc điều hành mà không vấp phải sự can thiệp từ các cổ đông thiểu số. Vì
vậy mâu thuẫn từ vấn đề người đại diện kết hợp với sự quản lý thiếu chặt chẽ của hệ
thống giám sát khiến cho nhà điều hành có rất nhiều thời cơ để thực hiện hành vi làm
sai lệch BCTC nhằm che giấu các vấn đề của doanh nghiệp hoặc trục lợi cho bản thân.
Bên cạnh đó, Shleifer và Vishny (1989) cho rằng quyền sở hữu tập trung thường thúc
đẩy việc tự quản lý và mở rộng lợi ích kiểm soát của cá nhân, hay nói cách khác, các
đơn vị Nhà nước quản lý tại các doanh nghiệp có xu hướng lạm quyền, hành xử vì lợi
ích riêng hơn là tối đa hóa lợi ích của cổ đông bao gồm cả Chính phủ và cổ đông thiểu
số trong trường hợp này. Tuy vậy, kết quả nghiên cứu của Wang và Yung (2011) tại
các doanh nghiệp Trung Quốc lại chứng minh điều ngược lại. Theo đó, Wang và Yung
(2011) đã chỉ ra rằng mức độ sở hữu Nhà nước cao có khuynh hướng ngăn chặn hành
vi điều chỉnh BCTC, nâng cao CLTT kế toán. Điều này được giải thích bởi các doanh
nghiệp được Nhà nước rót vốn sẽ có khả năng được bảo hộ. Bên cạnh đó, ưu tiên của
Chính phủ về chiến lược của công ty sẽ liên quan đến sự đánh đổi giữa việc theo đuổi
lợi ích của cổ đông và các mục tiêu khác ví dụ như lợi ích cộng đồng. Vì vậy kết quả
tài chính không phải là mục đích hàng đầu của đơn vị. Do đó, nhà điều hành không
có áp lực đáng kể trong việc điều chỉnh, làm đẹp thông tin kế toán để khiến cổ đông
hài lòng. Một nguyên nhân khác được đề cập tới là điều khoản có tính ràng buộc về
mặt pháp lý từ phía Nhà nước khi rót vốn vào đơn vị có thể khiến cho BGĐ thận trọng
hơn trong hành vi sửa đổi thông tin kế toán. Kết quả nghiên cứu này nhận được đồng
thuận của Kao (2014) và từ một số nghiên cứu tại Việt Nam như Nguyễn Thu Hằng
61
và cộng sự (2018), Nguyễn Thị Mai Anh (2019).
Tác động của sở hữu của cổ đông tổ chức tới chất lượng thông tin kế toán
Cornett và cộng sự (2008), Firmansyah và Irawan (2019), Anwar và Buvanendra
(2019) cho rằng sở hữu nhà đầu tư tổ chức càng cao thì CLTT kế toán càng tốt. Vấn
đề này được được các nhà nghiên cứu lập luận rằng cổ đông sở hữu lượng cổ phiếu
lớn của doanh nghiệp có xu hướng nâng cao độ tin cậy của BCTC bằng cách giám sát
các hành vi làm sai lệch thông tin kế toán của nhà điều hành. Như vậy, cùng với việc
sở hữu một lượng lớn cổ phần, với cương vị là một đối tác chiến lược có lợi ích gắn
liền với đơn vị, các nhà đầu tư tổ chức có cả động lực và cơ hội giám sát, kiểm tra
nhà quản lý để bảo vệ quyền lợi của mình bằng cách tham gia trực tiếp vào hệ thống
giám sát của đơn vị. Mặt khác, các tổ chức lại có kiến thức chuyên môn của những
nhà đầu tư chuyên nghiệp nên sẽ giám sát chặt chẽ và theo đó, hạn chế các hành vi
điều chỉnh thông tin kế toán (Jiambalvo và cộng sự, 2002, Jiraporn và Gleason, 2007).
Một số nghiên cứu tại Việt Nam đã cung cấp các bằng chứng thực nghiệm và ủng hộ
kết quả này như Nguyễn Thị Phương Hồng (2016), Nguyễn Thị Mai Anh (2019). Tuy
nhiên, một số quan điểm khác lại cho rằng nhà đầu tư tổ chức khi sở hữu một lượng cổ
phiếu đủ lớn có nguy cơ lợi dụng sức ảnh hưởng của mình tác động lên BGĐ để điều
khiển doanh nghiệp theo ý riêng, gây phương hại đến các nhà đầu tư thiểu số. Do đó
Cheng và Reitenga (2001), Burns và cộng sự (2010) tin rằng khi sở hữu nhà đầu tư tổ
chức tăng lên, hành vi quản trị lợi nhuận trong doanh nghiệp cũng sẽ tăng, làm suy yếu
CLTT kế toán. Bên cạnh những nghiên cứu trên, một số nhóm tác giả khác lại không tìm
thấy mối quan hệ giữa nhà đầu tư tổ chức và CLTT kế toán như nghiên cứu của Siregar
và Utama (2008) tại Indonesia.
Tác động của sở hữu của Ban giám đốc tới chất lượng thông tin kế toán
Kao (2014), Anwar và Buvanendra (2019) cho rằng sở hữu của BGĐ có quan
hệ tích cực tới CLTT kế toán. Khi sở hữu của BGĐ càng cao, vấn đề người đại diện
được giải quyết vì lợi ích của cá nhân nhà quản trị lúc này được gắn với lợi ích của
cổ đông (Jensen & Meckling, 1976). Loebbecke (1989) cho rằng tỷ lệ sở hữu của
BGĐ cao sẽ giúp hạn chế chi phí đại diện vì khi đó BGĐ dường như đang điều hành
công ty của chính mình nên động cơ thực hiện điều chỉnh thông tin kế toán sẽ giảm
62
đi. Khi đó, lợi ích của BGĐ được gắn kết chặt chẽ với lợi ích chung của toàn doanh
nghiệp và gắn liền với các cổ đông khác. Họ điều hành doanh nghiệp càng tốt thì giá
trị tài sản của họ càng tăng lên, và khoản giá trị này đến từ hai nguồn: lương thưởng,
phúc lợi dành cho nhà quản lý và phần giá trị cổ phiếu trên thị trường đang nắm giữ.
Hơn nữa, tỷ lệ sở hữu của BGĐ càng cao sẽ càng giảm thiểu áp lực bị thay thế, từ đó
làm giảm áp lực điều chỉnh thông tin kế toán. Kết luận này nhận được sự đồng thuận
của một số nghiên cứu tại Việt Nam như Nguyễn Thu Hằng và cộng sự (2018),
Nguyễn Thị Mai Anh (2019). Tuy vậy, một số nghiên cứu lại không tìm ra được tác
động đáng kể của sở hữu BGĐ lên CLTT kế toán như nghiên cứu của García‐Meca
và Sánchez‐Ballesta (2009).
2.3.2.2. Tác động của đặc điểm Hội đồng quản trị tới chất lượng thông tin kế toán
HĐQT là cơ quan đại diện cho cổ đông thực hiện kiểm tra, theo dõi hoạt động
của BGĐ, đóng một vị thế quan trọng trong việc kiểm soát vấn đề đại diện (García‐
Meca và Sánchez‐Ballesta, 2009). Được xem là một giải pháp giải quyết mâu thuẫn
về lợi ích giữa chủ sở hữu và BGĐ, việc tăng cường chức năng giám sát của HĐQT
hướng tới mục tiêu hạn chế cơ hội gian lận trong việc cung cấp thông tin kế toán từ
BGĐ. Xuất phát từ các nghiên cứu trước đây và từ dữ liệu thu thập, Luận án đề cập
tới đặc điểm HĐQT trên các khía cạnh bao gồm quy mô HĐQT; tính kiêm nhiệm
chức danh chủ tịch HĐQT và giám đốc điều hành, tính độc lập trong HĐQT; đặc điểm
của thành viên HĐQT về thâm niên, giới tính và chuyên môn kế toán tài chính.
Tác động của quy mô Hội đồng quản trị tới chất lượng thông tin kế toán
Quy mô HĐQT thể hiện qua số lượng thành viên của Hội đồng. Theo Raheja
(2005), việc quyết định số lượng thành viên trong Hội đồng tùy thuộc vào đặc thù
hoạt động, tổ chức và nhu cầu quản trị và quy định Pháp luật. Như vậy mỗi doanh
nghiệp khác nhau sẽ có quy mô HĐQT riêng biệt, và có thể bị khống chế theo quy
định của từng quốc gia.
Một số quan điểm cho rằng HĐQT có quy mô nhỏ sẽ thể hiện chức năng giám
sát tốt hơn (Jensen, 1993). Ông cho rằng quy mô càng nhỏ thì vấn đề quan liêu càng
giảm thiểu, cơ cấu tinh gọn giúp phát huy chức năng giám sát của Hội đồng. Mặt
khác, số lượng thành viên HĐQT càng nhiều càng khiến vấn đề giao tiếp và phối hợp
63
giữa các thành viên trở nên rời rạc hơn. Việc có quá nhiều người ra quyết định trong
một tổ chức có thể làm giảm nỗ lực làm việc của tổ chức đó, đồng thời làm tốn nhiều
thời gian và chi phí để mọi thành viên đưa ra ý kiến và thống nhất được quan điểm về
một vấn đề (Firth và cộng sự, 2007). Quan điểm này được sự ủng hộ của Yermack
(1996), Vafeas (2000), Holtz và cộng sự (2014) khi cùng kết luận rằng quy mô HĐQT
nhỏ sẽ giám sát hiệu quả hơn quy mô lớn. Các tác giả này tin rằng quy mô HĐQT
càng lớn, BGĐ càng dễ dàng điều chỉnh lợi nhuận, do vậy làm giảm CLTT kế toán.
Ngược lại, nghiên cứu của Xie và cộng sự (2003) và Fathi (2013) lại cho rằng HĐQT
càng đông thành viên sẽ phát huy hiệu quả chức năng giám sát, hạn chế khả năng điều
chỉnh báo cáo của BGĐ, nguyên nhân là sự phát triển về quy mô HĐQT sẽ dẫn tới sự
đa dạng về chuyên môn và kinh nghiệm, giúp tăng khả năng quản trị, bảo vệ lợi ích
của cổ đông. Nghiên cứu của Nguyễn Thu Hằng và cộng sự (2018) cũng có kết luận
tương tự và lý giải HĐQT có quy mô lớn sẽ giúp hạn chế khả năng thỏa hiệp, cấu kết
trong nội bộ để phương hại lợi ích chủ sở hữu. Một số nghiên cứu tại Việt Nam của
các tác giả Lê Thị Mỹ Hạnh (2015), Bùi Văn Dương và Ngô Hoàng Điệp (2017) cũng
đồng tình với quan điểm này. Tuy nhiên, một số nghiên cứu lại không tìm ra bằng
chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa quy mô HĐQT và CLTT kế toán như nghiên
cứu của Dimitropoulos và Asteriou (2010).
Tác động của tính độc lập Hội đồng quản trị tới chất lượng thông tin kế
toán
Tính độc lập trong HĐQT được hiểu là việc các thành viên HĐQT không tham
gia điều hành doanh nghiệp. Các thành viên độc lập được coi là những người có vai
trò quan trọng trong việc giám sát hoạt động của doanh nghiệp. Phần lớn các nhà
nghiên cứu đều tin rằng HĐQT sẽ phát huy hiệu quả chức năng giám sát khi có tỷ lệ
thành viên độc lập cao hơn so với thành viên điều hành, do vậy có thể hạn chế khả
năng điều chỉnh thông tin kế toán, giúp nâng cao CLTT (Dimitropoulos và Asteriou,
2010; Holtz và cộng sự, 2014; của Roden và cộng sự, 2016). So với các thành viên
độc lập, các thành viên HĐQT nằm trong ban điều hành có xu hướng thông đồng hoặc
bao che, tạo cơ hội cho các hành vi điều chỉnh thông tin kế toán của Ban điều hành,
để tạo một bức tranh tốt hơn mức thực tế thông qua việc che đậy những thông tin tiêu
cực và cung cấp những thông tin không đầy đủ hoặc thiếu chính xác. Trong khi đó, với
64
tư cách là nhà điều hành, các thành viên không độc lập cũng phải chịu trách nhiệm
trước cổ đông về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các thành viên
độc lập được đánh giá cao bởi sự khách quan, vì vậy có thể tăng cường chức năng giám
sát của HĐQT. Một số nghiên cứu tại Việt Nam cũng có kết luận tương tự như nghiên
cứu của Nguyễn Trọng Nguyên (2015), Nguyễn Thị Phương Hồng (2016). Bên cạnh
đó, một số nghiên cứu như nghiên cứu Mak và Tan (2006) lại không tìm thấy mối liên
hệ giữa CLTT kế toán với tính độc lập của HĐQT.
Tác động của tính kiêm nhiệm tới chất lượng thông tin kế toán
Tính kiêm nhiệm phản ánh việc chủ tịch HĐQT có đồng thời là giám đốc điều
hành hay không. Theo đó, Chủ tịch HĐQT là người chịu trách nhiệm điều hành
HĐQT, giám sát hoạt động của giám đốc điều hành và giải quyết các xung đột phát
sinh trong HĐQT. Giám đốc điều hành chịu trách nhiệm quản lý doanh nghiệp, bao
gồm cả việc thực hiện các quyết định của HĐQT. Việc kiêm nhiệm hai chức danh
chủ tịch HĐQT và giám đốc điều hành đồng nghĩa với việc người kiêm nhiệm sẽ đồng
thời có chức năng giám sát và chức năng thực hiện.
Nghiên cứu của Loebbecke (1989), Holtz và cộng sự (2014), Mawuena và cộng
sự (2016), Roden và cộng sự (2016) đã cho thấy các doanh nghiệp có chủ tịch HĐQT
kiêm tổng giám đốc thì CLTT kế toán sẽ thấp, nguyên nhân do tính kiêm nhiệm này
đã làm suy yếu đi vai trò của HĐQT. Điều này được lý giải rằng khi doanh nghiệp có
HĐQT kiêm giám đốc điều hành thì quyền lực sẽ được tập trung vào một người, khiến
cho người này có cơ hội để thực hiện các hành vi trục lợi. Bên cạnh đó, tính kiêm
nhiệm của chủ tịch cho phép giám đốc điều hành có thể kiểm soát thông tin truyền tải
đến cách thành viên HĐQT khác một cách hiệu quả, vì thế gây trở ngại cho việc giám
sát (Jensen, 1993). Do đó, tính kiêm nhiệm chức danh chủ tịch HĐQT và giám đốc
điều hành làm suy giảm chất lượng giám sát, tác động tiêu cực tới CLTT kế toán. Kết
luận này nhận được sự đồng tình của một số nghiên cứu tại Việt Nam như Trần Thị
Giang Tân và cộng sự (2014), Lê Thị Mỹ Hạnh (2015), Nguyễn Thị Phương Hồng
(2016). Tuy vậy, một số nghiên cứu khác như Bugshan (2005), Davidson và cộng sự
(2005), Bùi Văn Dương và Ngô Hoàng Điệp (2017) lại không tìm thấy bằng chứng
về mối quan hệ giữa tính kiêm nhiệm và CLTT kế toán.
65
Tác động của Thâm niên Hội đồng quản trị tới chất lượng thông tin kế toán
Đặc tính thâm niên thể hiện thời gian gắn bó của thành viên HĐQT với công ty.
Tổng hợp các nghiên cứu cho thấy có nhiều quan điểm khác nhau về mối quan hệ
giữa thâm niên của nhà quản trị với CLTT kế toán. Ghosh và cộng sự (2010),
Keehwan và Joon (2014) đã nghiên cứu và cung cấp bằng chứng thực nghiệm cho
thấy tính thâm niên của HĐQT có thể hạn chế vấn đề quản trị lợi nhuận, từ đó đảm
bảo CLTT kế toán. Libit và Freier (2015) lý giải việc thành viên HĐQT có thâm niên
công tác sẽ giúp họ có kinh nghiệm và sự hiểu biết sâu sắc về công ty. Sự quen thuộc
về các đặc điểm hoạt động kinh doanh, chế độ quản lý giúp cho các thành viên có thể
giám sát chặt chẽ hoạt động của nhà điều hành. Tuy nhiên, ở một góc độ khác, Vafeas
(2003) lại cho rằng, việc gắn bó quá lâu với công ty đồng nghĩa với sự thân thuộc
trong mối quan hệ giữa các thành viên với nhà điều hành. Điều này có thể khiến cho
HĐQT mất đi tính độc lập và khách quan, làm suy yếu chức năng giám sát của HĐQT.
Đồng quan điểm, Roden và cộng sự (2016) coi việc thành viên HĐQT có thâm niên
là cơ hội để BGĐ có thể thực hiện hành vi gian lận BCTC, làm giảm CLTT kế toán.
Tác động của trình độ chuyên môn tài chính kế toán Hội đồng quản trị tới
chất lượng thông tin kế toán
Chất lượng giám sát của HĐQT phụ thuộc vào năng lực chuyên môn của người
tham gia giám sát. Các nhà nghiên cứu tin rằng HĐQT có các thành viên có chuyên
môn trong lĩnh vực tài chính có khả năng phát hiện các hành vi quản trị lợi nhuận của
BGĐ nhờ vào những am hiểu của mình (Xie, và cộng sự, 2003) và do đó làm tăng
chất lượng BCTC (Qinghua và cộng sự, 2007). Skousen và Wright (2008) cho rằng
khả năng phát sinh gian lận trên BCTC sẽ cao hơn nếu HĐQT thiếu vắng các chuyên
gia tài chính. Ngoài ra, các phát hiện của Agrawal và Chadha (2005) khi nghiên cứu
về các công ty Hoa Kỳ đã nêu bật tầm quan trọng kiến thức kế toán của các thành
viên HĐQT không điều hành trong việc giảm khả năng phải điều chỉnh BCTC. Nhìn
chung việc các thành viên HĐQT có năng lực chuyên môn đi cùng với sự hiểu biết
trong lĩnh vực tài chính và kế toán giúp hệ thống giám sát của doanh nghiệp hiệu quả
hơn trong vấn đề phát hiện các hành vi điều chỉnh BCTC, từ đó giúp nâng cao CLTT
kế toán.
66
Tác động của giới tính Hội đồng quản trị tới chất lượng thông tin kế toán
Sự tham gia của nữ giới trong HĐQT là một chủ đề thu hút sự quan tâm của
nhiều học giả. Có rất nhiều các nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm cho
thấy sự đa dạng trong giới tính, cùng với sự tham gia của nữ giới trong HĐQT có tác
động tích cực tới doanh nghiệp, đặc biệt trong vấn đề đảm bảo CLTT kế toán
(Thiruvadi và Huang, 2011). Barua và cộng sự (2010) tin rằng do sự khác biệt về đặc
điểm giới tính, phụ nữ có khả năng thực hiện tốt chức năng giám sát hơn so với nam
giới. Trước tiên, Croson và Gneezy (2009) nhận thấy sự khác biệt về giới tính trong
hành vi chấp nhận rủi ro. Cả nam và nữ đều có xu hướng tự tin, nhưng nam giới sẽ tự
tin về mức độ thành công khi đối mặt với những tình huống không chắc chắn hơn so
với phụ nữ (Deaux và Farris 1977). Đàn ông có xu hướng xem các tình huống rủi ro
là một thách thức hấp dẫn, trong khi phụ nữ xác định rủi ro là một mối đe dọa mà họ
sẽ cố gắng tránh né. Về phương diện cảm xúc, phụ nữ biểu lộ cảm xúc mạnh mẽ hơn
nam giới (Harshman và Paivio, 1987); do đó, phụ nữ có xu hướng lo lắng và sợ hãi
hơn khi phải đối mặt với kết quả tiêu cực. Chính vì lẽ đó, trong vai trò là thành viên
HĐQT, phụ nữ có xu hướng giám sát chặt chẽ do lo ngại rủi ro phát sinh những vấn
đề có thể ảnh hưởng tới CLTT kế toán. Thứ hai, Stedham và cộng sự (2007),
Thiruvadi và Huang (2011) cho rằng phụ nữ có xu hướng chịu ảnh hưởng bởi chủ
nghĩa bảo thủ, lý luận đạo đức và không khoan nhượng với hành vi cơ hội hơn nam
giới, do đó, họ không dễ bị thỏa hiệp hoặc hành xử trái với các quy định đề ra. Vì vậy,
Srinidhi và cộng sự (2011) kết luận sự hiện diện của phụ nữ trong HĐQT có thể cải
thiện tính kỷ luật và tăng niềm tin của nhà đầu tư về BCTC. Quan điểm này nhận
được sự đồng thuận của Clatworthy và Peel (2013), Roden và cộng sự (2016) cùng
với kết luận cho rằng sự gia tăng tỷ lệ thành viên nữ trong HĐQT có tác động tích
cực tới CLTT kế toán.
2.3.2.3. Tác động của đặc điểm Ban kiểm soát tới chất lượng thông tin kế toán
BKS bao gồm các kiểm soát viên do Đại hội đồng cổ đông bầu chọn. Nghiên
cứu của Bezemer và cộng sự (2007) cho rằng BKS là giải pháp cho vấn đề người đại
diện. BKS trong doanh nghiệp có nghĩa vụ giám sát và đánh giá việc thực hiện các
quyền, nghĩa vụ của thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty; giám
67
sát và đánh giá hiệu lực và mức độ tuân thủ quy chế kiểm toán nội bộ, quy chế quản
lý và phòng ngừa rủi ro, quy chế báo cáo và các quy chế quản trị nội bộ khác của công
ty; giám sát tính hợp pháp, tính hệ thống và trung thực trong công tác kế toán, sổ kế
toán, trong nội dung BCTC. Theo đó, BKS được kỳ vọng sẽ hoạt động hiệu quả, từ
đó nâng cao chất lượng BCTC. Xuất phát từ các nghiên cứu trước đây và dữ liệu thu
thập, Luận án nghiên cứu về tác động của đặc điểm BKS tới CLTT kế toán trên các
khía cạnh: quy mô, thâm niên, chuyên môn tài chính kế toán và giới tính của thành
viên BKS.
Tác động của quy mô Ban kiểm soát tới chất lượng thông tin kế toán
Quy mô BKS thể hiện số thành viên trong BKS. Theo Firth và cộng sự (2007),
quy mô BKS là một yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng BCTC vì các
BKS có quy mô lớn có thể có lợi thế dựa trên cơ sở kiến thức rộng hơn và do đó thực
hiện vai trò giám sát hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, việc tăng số lượng thành viên cho
phép các thành viên phân chia khối lượng công việc giám sát thích hợp hơn, mỗi
thành viên sẽ có thời gian và nhiệm vụ cụ thể để thực hiện trách nhiệm của mình, vì
vậy BCTC sẽ có chất lượng tốt hơn, thông tin trên báo cáo trở nên thích hợp hơn để
người sử dụng có thể ra quyết định hiệu quả. Kết quả này cũng nhận được đồng tình
của Hendra (2016). Tuy nhiên, một số nghiên cứu lại không tìm thấy bằng chứng về
sự ảnh hưởng của quy mô BKS tới CLTT kế toán như Xie và cộng sự (2003).
Anisykurlillah và cộng sự (2020)
Tác động của thâm niên Ban kiểm soát tới chất lượng thông tin kế toán
Thâm niên BKS thể hiện thời gian công tác của các thành viên BKS tại doanh
nghiệp. Chen và cộng sự (2006) cho rằng sự gắn bó của các thành viên BKS cho thấy
kinh nghiệm cũng như sự hiểu biết của thành viên đó với doanh nghiệp. Việc gắn bó
với doanh nghiệp cho phép các thành viên này có được kinh nghiệm công tác, đồng
thời nắm rõ được đặc thù doanh nghiệp, đặc biệt là hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn
vị, từ đó nâng cao hiệu quả giám sát, làm tăng CLTT kế toán. Tuy nhiên,
Anisykurlillah và cộng sự (2020) lại không tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ giữa
thâm niên BKS và CLTT kế toán
68
Tác động của chuyên môn về tài chính và kế toán của Ban kiểm soát tới
chất lượng thông tin kế toán
Nghiên cứu của Anisykurlillah và cộng sự (2020) đã cho thấy mối tương quan
tích cực giữa chuyên môn tài chính của BKS và CLTT kế toán. Nguyên nhân là do
các kiến thức về kế toán và tài chính cho phép các thành viên BKS dễ dàng tiếp cận
một cách độc lập và hiệu quả các vấn đề kế toán của doanh nghiệp. Họ có đủ khả năng
để để đánh giá các phương pháp, các ước tính và giả định kế toán được thực hiện trên
BCTC của công ty (Beasley, 2009) để kịp thời phát hiện và khắc phục những sai sót
còn tồn tại trên BCTC. Những thành viên này cũng có khả năng hiểu được các vấn đề
của kiểm toán viên độc lập và hỗ trợ kiểm toán viên trong trường hợp có mâu thuẫn
với BGĐ nhằm đảm bảo chất lượng của kiểm toán và báo cáo sau kiểm toán. Ran và
cộng sự (2014) cũng chỉ ra rằng khi BKS có chuyên môn về lĩnh vực kế toán, họ có
khả năng phát hiện các hành vi quản trị lợi nhuận và gian lận tài chính kịp thời, từ đó
nâng cao CLTT kế toán. Tuy nhiên, nghiên cứu của Hendra (2016) lại không tìm thấy
bằng chứng của mối quan hệ này
Tác động của giới tính Ban kiểm soát tới chất lượng thông tin kế toán
Khi nghiên cứu về CLTT kế toán, không ít các nghiên cứu đã chứng minh tác
động tích cực của việc hiện diện các thành viên nữ trong BKS đến việc gia tăng tính
minh bạch của BCTC. Các nghiên cứu chỉ ra rằng nữ giới là những người giám sát
chặt chẽ trong quản lý, họ xem trọng sự độc lập và nhiều khả năng sẽ hành động vì
lợi ích của cổ đông hơn (Carter, 2003; Adams và Ferreira, 2009). Đó là do họ có tâm
lý lo sợ rủi ro hơn và nhạy cảm với các chuẩn mực đạo đức hơn nam giới (Byrnes và
cộng sự, 1999), vì vậy họ có mức độ cảnh giác cao hơn để đảm bảo CLTT, và phù
hợp với vai trò giám sát (Ran và cộng sự, 2014; Panzer, và Müller, 2015). Ngoài ra,
phụ nữ cũng có khuynh hướng tuân thủ các quy tắc và quy định trong việc quyết định
tài chính cao hơn nam giới (Bernardi và Arnold, 1997). Từ đó, các tác giả tin rằng các
thành viên nữ trong BKS sẽ kiểm tra các hoạt động kiểm soát một cách nghiêm túc
và kỹ lưỡng hơn các đồng nghiệp nam, vì vậy các công ty có tỷ lệ thành viên nữ trong
BKS cao sẽ phát huy tốt chức năng giám sát, từ đó nâng cao CLTT kế toán (Ran và
cộng sự, 2014).
69
Như vậy, mặc dù kết quả nghiên cứu về vấn đề ảnh hưởng của QTCT tới CLTT
kế toán ở mỗi quốc gia có sự khác biệt, thậm chí ngược chiều, tuy nhiên các nhà khoa
học đều thống nhất rằng khi cho rằng QTCT là một giải pháp đối với việc nâng cao
CLTT kế toán. QTCT giúp phát huy được chức năng giám sát của cổ đông đối với
hoạt động của nhà điều hành, từ đó giảm thiểu hậu quả của vấn đề người đại diện,
khắc phục được hiện tượng bất cân xứng thông tin. Dưới sự giám sát chặt chẽ của hệ
thống quản trị, TTKT sẽ có chất lượng tốt hơn, là cơ sở cho việc ra quyết định của
người sử dụng thông tin. Trong các nghiên cứu, ảnh hưởng của QTCT tới CLTT kế
toán không đồng nhất do vì sự chi phối của môi trường pháp lý và tính thay đổi theo
thời kỳ. Vì thế, với điều kiện kinh tế chính trị đặc thù tại Việt Nam, nghiên cứu về
việc xây dựng HĐQT, BKS và thiết kế cấu trúc sở hữu để tối ưu hóa chức năng của
HĐQT và BKS, gia tăng CLTT kế toán là một nghiên cứu cần thiết với sự cân nhắc
các yếu tố phù hợp.
2.4. Mô hình nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu và kế thừa các nghiên cứu về CLTT kế toán, QTCT và phân
tích cụ thể các yếu tố của QTCT ảnh hưởng tới CLTT kế toán, kết hợp với đặc thù
của Việt Nam, tác giả tiến hành xây dựng mô hình nghiên cứu phù hợp với mục tiêu
nghiên cứu. Trong mô hình nghiên cứu này tác giả đo lường CLTT kế toán trên khía
cạnh trung thực dựa trên khuôn mẫu của IASB và FASB, phù hợp với chuẩn mực kế
toán Việt Nam (2003). Biến phụ thuộc CLTT kế toán được đo lường theo hai thước
đo là quản trị lợi nhuận và sai sót trên BCTC. Biến độc lập là các nhân tố thuộc QTCT
bao gồm biến về cấu trúc sở hữu như sở hữu Nhà nước, sở hữu của cổ đông tổ chức,
sở hữu của BGĐ; đặc điểm của HĐQT như quy mô HĐQT, tính kiêm nhiệm chức
danh chủ tịch HĐQT và giám đốc điều hành, tỷ lệ thành viên độc lập, đặc điểm thâm
niên, chuyên môn về tài chính, kế toán, giới tính của HĐQT; và đặc điểm của BKS
bao gồm số lượng, thâm niên, chuyên môn về tài chính, kế toán và giới tính của thành
viên BKS. Từ đó, Luận án xem xét ảnh hưởng của các yếu tố thuộc QTCT đã nêu lên
CLTT kế toán.
70
Sơ đồ 2.3. Mô hình nghiên cứu
Sở hữu Nhà nước
Sở hữu tổ chức
CẤU TRÚC SỞ HỮU Sở hữu Ban giám đốc
Quy mô
Tính độc lập
Tính kiêm nhiệm
Thâm niên
ĐẶC ĐIỂM CỦA HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ Chuyên môn
CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN KẾ TOÁN Giới tính
Quy mô
Thâm niên
Chuyên môn
ĐẶC ĐIỂM CỦA BAN KIỂM SOÁT Giới tính
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Như vậy, trên cơ sở khung lý thuyết nghiên cứu về CLTT kế toán, QTCT và
tác động của QTCT tới CLTT kế toán, Luận án đã tổng hợp và đề xuất mô hình nghiên
cứu. Mô hình là là tiền đề cho việc trả lời các câu hỏi nghiên cứu, kết hợp với việc áp
dụng các phương pháp nghiên cứu để đưa ra kết quả nghiên cứu cuối cùng của Luận
án.
71
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu của Luận án được mô tả bằng sơ đồ 3.1:
Sơ đồ 3.1. Thiết kế nghiên cứu của Luận án
Tổng quan nghiên cứu về vấn đề CLTT kế toán và tác động của
QTCT tới CLTT kế toán
Khung lý thuyết của nghiên cứu
Xây dựng mô hình và phương pháp nghiên cứu
Tác động của QTCT tới CLTT kế Tác động của QTCT tới CLTT kế
toán đo lường bằng quản trị lợi nhuận toán đo lường bằng sai sót trên BCTC
Phương pháp hồi quy binary logistic, Phương pháp bình phương thông
cố định hiệu ứng ngành và năm thường nhỏ nhất (OLS), cố định hiệu
ứng ngành và năm
- Thực trạng CLTT kế toán của các công ty niêm yết - Ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu lên CLTT kế toán
- Ảnh hưởng của đặc điểm HĐQT lên CLTT kế toán
- Ảnh hưởng của đặc điểm BKS lên CLTT kế toán Các giải pháp hoàn thiện QTCT nhằm nâng cao
CLTT kế toán tại các công ty niêm yết trên TTCK
Việt Nam
Nguồn: Tác giả xây dựng
72
Nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra và trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu, nghiên
cứu được thực hiện qua ba bước: (1) Xây dựng khung lý thuyết, (2) Xây dựng mô
hình, phương pháp nghiên cứu và (3) Phân tích kết quả nghiên cứu và đưa ra giải
pháp.
Bước 1: Xây dựng khung lý thuyết
Luận án xây dựng khung lý thuyết từ tổng quan nghiên cứu trong và ngoài nước
về CLTT kế toán và tác động của QTCT tới CLTT kế toán. Kế thừa các nghiên cứu
trước đó, tác giả đã lựa chọn hướng nghiên cứu về CLTT kế toán trên khía cạnh trung
thực, là đặc tính cơ bản được quy định trong Chuẩn mực Kế toán Việt Nam. Từ đó,
tác giả xây dựng khung lý thuyết về tác động của QTCT lên CLTT kế toán
Bước 2: Xây dựng mô hình và phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào khung lý thuyết đã xây dựng ở bước 1, tác giả xác định mục tiêu
nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, xây dựng mô hình, đề xuất các giả thuyết nghiên cứu
và lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp. Tác giả đã thu thập các dữ liệu về tài
chính do Công ty Cổ phần Stoxplus, dữ liệu quản trị do Công ty Cổ phần Tài Việt
(Vietstock) cung cấp, kết hợp thu thập dữ liệu về trình độ chuyên môn của HĐQT và
BKS từ báo cáo thường niên của các công ty niêm yết. Phương pháp định lượng, cụ
thể là phương pháp hồi quy bình phương nhỏ nhất OLS và phương pháp hồi quy
binary logistic cố định hiệu ứng ngành và năm là hai phương pháp được lựa chọn lần
lượt cho hai mô hình kiểm định tác động của QTCT tới CLTT kế toán đo bằng quản
trị lợi nhuận trên cơ sở dồn tích và sai sót trên BCTC.
Bước 3: Phân tích kết quả nghiên cứu và đưa ra giải pháp
Sử dụng mô hình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu ở bước 2, Luận án
phân tích, thảo luận kết quả nghiên cứu cuối cùng bao gồm thực trạng CLTT kế toán
của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam và thực hiện hồi quy, từ đó cung cấp
bằng chứng thực nghiệm về tác động của QTCT tới CLTT kế toán trên các khía cạnh
cấu trúc sở hữu, đặc điểm của HĐQT và đặc điểm của BKS. Kết quả nghiên cứu là
cơ sở cho các giải pháp liên quan tới QTCT nhằm nâng cao CLTT kế toán của các
công ty niêm yết Việt Nam.
73
3.2. Các giả thuyết nghiên cứu
3.2.1. Giả thuyết nghiên cứu liên quan tới tác động của cấu trúc sở hữu tới chất
lượng thông tin kế toán
Sở hữu Nhà nước (SH_NHANUOC)
Cơ sở lý luận cho thấy các nghiên cứu về ảnh hưởng của sở hữu Nhà nước tới
CLTT kế toán cung cấp các kết luận ngược chiều do ảnh hưởng của đặc điểm kinh tế
chính trị của từng quốc gia và tính thời điểm của nghiên cứu. Theo đó, sở hữu Nhà
nước có thể hạn chế hoặc gia tăng kẽ hở cho hành vi cơ hội của BGĐ, thể hiện qua sự
điều chỉnh thông tin kế toán. Xuất phát từ đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam, các
công ty nhận được vốn Nhà nước có ưu thế từ sự bảo hộ của Nhà nước trong các chính
sách về tín dụng, kinh doanh. Đi kèm với đó, hiệu quả hoạt động kinh doanh không
được xem là ưu tiên hàng đầu, thay vào đó, các công ty này có thể được duy trì hoạt
động để phục vụ cho các mục đích khác, chẳng hạn như phúc lợi xã hội, an ninh quốc
gia, mục đích chính trị. Với ưu thế về vấn đề Nhà nước tập trung sở hữu, áp lực lợi
nhuận từ cổ đông thiểu số là không đáng kể, BGĐ các doanh nghiệp có vốn Nhà nước
không phải chịu sức ép trong việc làm đẹp BCTC để che giấu các vấn đề của doanh
nghiệp, làm hài lòng cổ đông, do vậy CLTT kế toán được cung cấp bởi các công ty
có sở hữu Nhà nước được xem là trung thực, đáng tin cậy. Bằng cách lý giải này,
Luận án ủng hộ quan điểm của Wang và Yung (2011), Kao (2014), Nguyễn Thu Hằng
và cộng sự (2018) và đề xuất giả thuyết nghiên cứu H1:
Giả thuyết H1: Công ty có sở hữu của Nhà nước càng lớn thì CLTT kế toán càng
cao.
Sở hữu của cổ đông tổ chức (SH_TOCHUC)
Cổ đông tổ chức được đánh giá là có lợi thế về mặt chuyên môn, đủ khả năng
phát hiện các hành vi điều chỉnh thông tin kế toán cũng như có nhiều kênh thông tin,
nhiều nguồn lực vật chất để thực hiện giám sát nhà quản lý hơn (Elsbach và
Bhattacharya, 2001). Việc sở hữu lượng cổ phần đủ lớn tạo điều kiện cho các tổ chức
này có thể tham gia vào hệ thống giám sát, cũng như làm gia tăng động lực khiến các
nhà đầu tư tổ chức này thực hiện kiểm tra giám sát chặt chẽ hoạt động của BGĐ,
nhằm đảm bảo công ty nhận góp vốn sẽ cung cấp thông tin kế toán có chất lượng. Với
74
các lập luận nói trên, tương tự Cornett và cộng sự (2008), Firmansyah và cộng sự
(2019), tác giả đề xuất giả thuyết H2:
Giả thuyết H2: Công ty có sở hữu của cổ đông tổ chức càng lớn thì CLTT kế
toán càng cao.
Sở hữu của BGĐ (SH_BGD)
Jensen và Meckling (1976) cho rằng một trong những cách giúp hạn chế chi phí
đại diện là gia tăng tỷ lệ sở hữu của BGĐ, khi đó dường như BGĐ sẽ điều hành doanh
nghiệp của chính mình, lợi ích của BGĐ sẽ gắn liền với lợi ích của doanh nghiệp. Mặt
khác, áp lực bị sa thải sẽ giảm nếu BGĐ sở hữu lượng cổ phần đủ lớn. Do vậy, BGĐ
sẽ không phải chịu áp lực về việc làm sai lệch thông tin kế toán để làm đẹp BCTC,
xoa dịu cổ đông. Tương tự nghiên cứu của Loebbecke (1989), Kao (2014), tác giả đề
xuất giả thuyết H3:
Giả thuyết H3: Công ty có sở hữu của BGĐ càng lớn thì CLTT kế toán càng cao.
3.2.2. Giả thuyết nghiên cứu liên quan tới tác động của đặc điểm Hội đồng quản
trị tới chất lượng thông tin kế toán
Quy mô HĐQT (QUYMO_HDQT)
Nghiên cứu của Xie và cộng sự (2003) và Fathi (2013) cho rằng HĐQT có quy
mô lớn sẽ phát huy hiệu quả chức năng giám sát với sự kiểm soát bao trùm, tập hợp
được nhiều ý kiến và kinh nghiệm của các nhà chuyên môn, do đó hạn chế được hành
vi điều chỉnh thông tin kế toán của BGĐ, nâng cao CLTT kế toán. Đồng thuận với
quan điểm này, tác giả đề xuất giả thuyết H4 cho mô hình nghiên cứu:
Giả thuyết H4: Công ty có quy mô HĐQT càng lớn thì CLTT kế toán càng cao.
Tính độc lập (DOCLAP_HDQT)
Phần lớn các nghiên cứu đều tin rằng thành viên độc lập có vai trò quan trọng
trong việc đảm bảo chức năng giám sát của HĐQT. Những thành viên độc lập được
đánh giá cao bởi tính khách quan, do vậy trong quá trình kiểm tra, đánh giá hoạt động
của nhà điều hành, họ giữ được thế trung lập và không bị ràng buộc bởi mối quan hệ
với BGĐ. Từ đó, các nghiên cứu của Holtz và cộng sự (2014), Roden và cộng sự
75
(2016) đã cung cấp bằng chứng về mối quan hệ tích cực giữa tính độc lập của HĐQT
và CLTT kế toán. Trên cơ sở lập luận này, tác giả đề xuất giả thuyết H5:
Giả thuyết H5: Công ty có HĐQT càng độc lập thì CLTT kế toán càng cao
Tính kiêm nhiệm (KIEMNHIEM_HDQT)
Nghiên cứu của Loebbecke (1989), Roden và cộng sự (2016) cho rằng công ty
có Chủ tịch HĐQT kiêm nhiệm giám đốc điều hành sẽ có CLTT kế toán thấp do vấn
đề kiêm nhiệm hai chức danh này dẫn tới một cá nhân sẽ nắm trong tay cả hai chức
năng là chức năng giám sát và chức năng điều hành, do vậy làm suy yếu vai trò của
HĐQT. Vấn đề tập quyền này dấy lên mối lo ngại về việc lợi dụng quyền lực để trục
lợi và che đậy thông tin bằng các bút toán điều chỉnh của cá nhân kiêm nhiệm. Trên
cơ sở lý giải này, tác giả đề xuất giả thuyết H6:
Giả thuyết H6: Công ty không có tình trạng Chủ tịch HĐQT kiêm giám đốc điều
hành thì CLTT kế toán càng cao.
Thâm niên HĐQT (THAMNIEN_HDQT)
Nghiên cứu của Ghosh và cộng sự (2010), Kim và Yang (2014) cho thấy việc
HĐQT có thâm niên đồng nghĩa với sự gắn bó lâu năm cùng công ty sẽ giúp cho các
thành viên này có sự hiểu biết và quen thuộc với hoạt động kinh doanh cũng như chế
độ thông tin kế toán của công ty, từ đó giúp hệ thống giám sát của công ty hoạt động
hiệu quả hơn. Vì vậy HĐQT có thâm niên được kỳ vọng sẽ giúp nâng cao CLTT kế
toán. Ủng hộ quan điểm này, tác giả đề xuất giả thuyết H7:
Giả thuyết H7: Công ty có thành viên HĐQT càng có thâm niên thì CLTT kế
toán càng cao.
Trình độ chuyên môn của HĐQT (CHUYENMON_HDQT)
Các nghiên cứu của Qinghua và cộng sự (2007), Skousen và Wright (2008) đều
đánh giá cao ảnh hưởng tích cực của việc HĐQT có chuyên môn tài chính và kế toán
lên CLTT kế toán. Bằng sự am hiểu về kế toán và tài chính, các thành viên này được
kỳ vọng sẽ phát hiện được các hành vi điều chỉnh thông tin kế toán của nhà điều hành,
từ nó giúp nâng cao CLTT kế toán. Với luận điểm này, tác giả đề xuất giả thuyết H8:
76
Giả thuyết H8: Công ty có tỷ lệ thành viên HĐQT có chuyên môn trong lĩnh vực
tài chính kế toán càng cao thì CLTT kế toán càng cao.
Giới tính HĐQT (GIOITINH_HDQT)
Các nghiên cứu về ảnh hưởng của giới tính HĐQT lên CLTT kế toán đều cho
thấy sự tham gia của nữ giới trong HĐQT có tác động tích cực tới CLTT kế toán
(Thiruvadi and Huang, 2011). Các thành viên HĐQT là nữ thường được đánh giá cao
trong vai trò giám sát. Điều này được lý giải do đặc điểm của giới tính, khi mà phụ
nữ thường có xu hướng tránh né các rủi ro, mà sự sai lệch thông tin kế toán được coi
là một rủi ro của hệ thống giám sát. Mặt khác, với đặc tính chịu ảnh hưởng bởi tính
bảo thủ, lý luận đạo đức, sự tham gia của phụ nữ trong HĐQT được kỳ vọng là sẽ
tăng cường hiệu quả vai trò giám sát của HĐQT, qua đó giúp tăng cường CLTT kế
toán. Do đó, tác giả đề xuất giả thuyết H9:
Giả thuyết H9: Công ty có tỷ lệ thành viên nữ trong HĐQT càng lớn thì CLTT
kế toán càng cao.
3.2.3. Giả thuyết nghiên cứu liên quan tới tác động của đặc điểm Ban kiểm soát tới
chất lượng thông tin kế toán
Quy mô Ban kiểm soát (QUYMO_BKS)
Theo Firth và cộng sự (2007), số lượng thành viên BKS có liên quan tích cực
đến CLTT kế toán. Một cơ quan với nhiều thành viên sẽ đa dạng về chuyên môn và
kinh nghiệm, do đó sẽ đạt được hiệu quả giám sát, nâng cao CLTT kế toán. Từ đó,
tác giả đề xuất giả thuyết H10:
Giả thuyết H10: Công ty có quy mô BKS càng lớn, CLTT kế toán càng cao.
Thâm niên Ban kiểm soát (THAMNIEN_BKS)
Nghiên cứu của Chen và cộng sự (2006) cho thấy việc BKS có thâm niên sẽ
giúp cho họ có kinh nghiệm và quen thuộc với hệ thống kiểm soát nội bộ của công ty,
từ đó giúp hệ thống giám sát của công ty hoạt động hiệu quả hơn. Vì vậy, BKS có
thâm niên được kỳ vọng sẽ giúp nâng cao CLTT kế toán. Từ đó, tác giả đề xuất giả
thuyết H11:
Giả thuyết H11: Công ty có BKS càng có thâm niên thì CLTT kế toán càng cao.
77
Trình độ chuyên môn của BKS (CHUYENMON_BKS)
Ran và cộng sự (2014) đánh giá cao ảnh hưởng tích cực của BKS có chuyên
môn kế toán, tài chính lên CLTT kế toán. Bằng sự am hiểu trong lĩnh vực chuyên
môn, các thành viên BKS được kỳ vọng sẽ phát hiện điểm yếu hệ thống kiểm soát nội
bộ, từ đó giúp nâng cao CLTT kế toán. Với luận điểm này, tác giả đề xuất giả thuyết
H12:
Giả thuyết H12: Công ty có tỷ lệ thành viên BKS có chuyên môn trong lĩnh vực
tài chính kế toán càng cao thì CLTT kế toán càng cao.
Giới tính BKS (GIOITINH_BKS)
Nghiên cứu của Ran và cộng sự (2014) cho thấy sự tham gia của nữ giới trong
BKS có tác động tích cực tới CLTT kế toán. Điều này được lý giải rằng các thành
viên nữ trong BKS thường được đánh giá cao trong vai trò giám sát. Từ đó, tác giả đề
xuất giả thuyết H13:
Giả thuyết H13: Công ty có tỷ lệ thành viên nữ trong BKS càng lớn thì CLTT kế
toán càng cao.
3.3. Mô hình hồi quy và đo lường biến trong mô hình
3.3.1. Mô hình hồi quy
Từ các giả thuyết đề xuất tại mục 3.2, để kiểm định ảnh hưởng của các yếu tố QTCT
tới CLTT kế toán, Luận án đề xuất mô hình nghiên cứu chung là Mô hình (1):
β β β
0 +
1CAUTRUC_SOHUUi,t +
2DACDIEM_HDQTi,t + (1)
3DACDIEM_BKSi,t +
4BIEN_KIEM_SOATi,t + εi,t
β β CHATLUONG_TTKTi,t =
Trong đó:
: CLTT kế toán
CHATLUONG_TTKTi,t : Cấu trúc sở hữu
CAUTRUC_SOHUUi,t : Đặc điểm của HĐQT
DACDIEM_HDQTi,t : Đặc điểm của BKS
DACDIEM_BKSi,t
78
: Các biến kiểm soát
0 β
BIEN_KIEM_SOATi,t β : Hệ số chặn
2,
1,
3 : Phần dư
β β : Các hệ số
εi,t Để làm rõ các biến độc lập và biến phụ thuộc, Mô hình (1) được cụ thể hóa bằng
Mô hình (2) như sau:
β β β
0 +
1SH_NHANUOCi,t +
2SH_TOCHUCi,t +
β β CHATLUONG_TTKTi,t β =
3SH_BGDi,t +
5DOCLAP_HDQTi,t +
β
β 4QUYMO_HDQTi,t + β 7THAMNIEN_HDQTi,t +
9GIOITINH_HDQTi,t +
11THAMNIEN_BKSi,t +
8CHUYENMON_HDQTi,t + β β 10QUYMO_BKSi,t+ β
12CHUYENMON_BKSi,t +
13GIOITINH_BKSi,t + (2)
14BIEN_KIEM_SOATi,t + εi,t
β β 6KIEMNHIEM_HDQTi,t + β
Trong đó:
: CLTT kế toán, đo lường bằng QTCT trên cơ sở dồn tích
hoặc đo lường bằng khả năng phát sinh sai sót trên BCTC, nhận giá trị bằng 1 nếu có CHATLUONG_TTKTi,t
,
,
,
sai sót, nhận giá trị bằng 0 nếu không có sai sót.
SH_NHANUOCi,t
SH_TOCHUCi,t
,
, SH_BGDi,t , QUYMO_HDQTi,t, DOCLAP_HDQTi,t
, , , KIEMNHIEM_HDQTi,t, GIOITINH_HDQTi,t, , THAMNIEN_HDQTi,t, CHUYENMON_HDQTi,t
QUYMO_BKSi,t THAMNIEN_BKSi,t
lần lượt là sở hữu Nhà nước, sở hữu cổ đông tổ chức, sở hữu BGĐ, CHUYENMON_BKSi,t GIOITINH_HDQTi,t quy mô, tính độc lập, tính kiêm nhiệm, thâm niên, giới tính, trình độ chuyên môn GIOITINH_BKSi,t HĐQT, quy mô, thâm niên, chuyên môn và giới tính BKS
: Các biến kiểm soát
0 β
BIEN_KIEM_SOATi,t β : Hệ số chặn
14
1,
2, …
β β : Các hệ số
79
: Phần dư
εi,t 3.3.2. Đo lường biến trong mô hình
3.3.2.1. Đo lường biến phụ thuộc
Đo lường biến phụ thuộc CLTT kế toán theo quản trị lợi nhuận trên cơ sở
dồn tích
Luận án sử dụng thước đo quản trị lợi nhuận trên cơ sở dồn tích để đo lường
CLTT kế toán trong mối quan hệ ngược chiều. Theo đó, CLTT kế toán được đánh giá
tốt khi doanh nghiệp hạn chế hiện tượng quản trị lợi nhuận. Trong đó, mức độ quản
trị lợi nhuận trên cơ sở dồn tích được xác định bằng giá trị tuyệt đối của các khoản
dồn tích bất thường. Trong Luận án, tác giả sử dụng ba cách tính giá trị của các khoản
dồn tích theo mô hình Jones (1991), mô hình của Dechow và cộng sự (1995), và mô
hình của Kothari và cộng sự (2005). Đây là ba mô hình được ứng dụng phổ biến trong
các nghiên cứu về CLTT kế toán.
Đo lường quản trị lợi nhuận bằng cách tính các khoản dồn tích bất thường
theo mô hình Jones (1991)
Nghiên cứu của Jones (1991) được coi là nghiên cứu nền tảng trong việc xác
định dồn tích bất thường, là cơ sở xác định thước đo mức độ thao túng lợi nhuận.
Theo đó, các khoản dồn tích được chia thành hai phần: phần dồn tích thông thường
và phần dồn tích bất thường.
= (3)
NDAi,t + DAi,t TAi,t Trong đó:
: Tổng các khoản dồn tích;
TAi,t : Khoản dồn tích thông thường;
NDAi,t : Khoản dồn tích bất thường;
DAi,t Tổng các khoản dồn tích là chênh lệch giữa thu nhập và dòng tiền từ hoạt động
kinh doanh, theo Becker (1998), tính như sau:
( (4)
NOPi,t − CFOi,t )/Asseti,t−1 TAi,t =
80
Trong đó:
: Tổng các khoản dồn tích của doanh nghiệp i vào năm t
TAi,t : lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp i năm t
: là dòng tiền từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp i vào năm t
NOPi,t CFOi,t : là tài sản đầu kỳ của doanh nghiệp i vào năm t
Asseti,t−1 Như vậy để xác định được các khoản dồn tích bất thường (DA) cần tính được
giá trị của các khoản dồn tích thông thường (NDA). Jones (1991) cho rằng khối lượng
đầu tư tăng bắt buộc kéo theo tài sản vận hành tăng, do vậy làm tăng các khoản dồn
tích, đây là khoản dồn tích thông thường. Vì vậy, tổng các khoản dồn tích tùy thuộc
vào tài sản cố định và sự thay đổi doanh thu trong mỗi ngành nghề, như trong Mô
hình 5:
1 TAi,t = α1 Asseti,t−1 + α3 PPEi,t Asseti,t−1 + εi,t (5) Asseti,t−1 + α2 ∆REVi,t Trong đó:
TAi,t: là tổng các khoản dồn tích được tính bởi công thức (4);
Asseti,t-1 là tài sản đầu kỳ;
∆REVi,t là thay đổi doanh thu;
PPEi,t là tổng tài sản cố định.
Mô hình Jones (1991) (Mô hình 5) được ước lượng với các doanh nghiệp trong
cùng ngành và cùng năm (mỗi ước lượng đòi hỏi tối thiểu có 15 quan sát). Việc phân
ngành trong Luận án được thực hiện theo phân ngành Cấp 1 theo chuẩn phân ngành
quốc tế - ICB (Industry Classification Benchmark). Giá trị ước lượng của tổng các
khoản dồn tích tính dựa trên Mô hình 5 chính là ước lượng của các khoản dồn tích
thông thường (NDA) theo ngành và năm. Chênh lệch giữa tổng các khoản dồn tích
với các khoản dồn tích thông thường chính là các khoản dồn tích bất thường. Vì quản
trị lợi nhuận là hành vi điều chỉnh lợi nhuận nên việc điều chỉnh tăng hay giảm, đồng
nghĩa với biến dồn tích có thể mang giá trị âm hay dương, đều thể hiện sự can thiệp
điều chỉnh lên BCTC. Do vậy giá trị tuyệt đối của các khoản dồn tích bất thường được
81
tính từ Mô hình 5 (ký hiệu là QTLN_1) là thước đo phù hợp được sử dụng đo lường
của mức độ thao túng lợi nhuận, giá trị này càng lớn thì mức độ quản trị lợi nhuận
càng cao.
Đo lường quản trị lợi nhuận bằng cách tính các khoản dồn tích bất thường
theo mô hình của Dechow và cộng sự (1995)
Theo Dechow và cộng sự (1995), có thể điều chỉnh doanh thu bằng cách gia
tăng bán hàng trả chậm hơn mức bình thường. Điều này làm tăng doanh thu và tổng
các khoản dồn tích thông qua việc tăng các khoản phải thu nhưng lại đặt nghi vấn về
việc liệu doanh nghiệp có thể thu được tiền từ các khoản bán hàng trả chậm đó không.
Để khắc phục vấn đề này, Dechow và cộng sự (1995) đề xuất mô hình điều chỉnh
bằng cách bổ sung phần tăng giảm các khoản phải thu so với Mô hình 5, sau đó ước
lượng các khoản dồn tích bất thường (QTLN_2) như trong nghiên cứu của Jones
(1991).
1 TAi,t = α1 + α3 PPEi,t Trong đó: Asseti,t−1 Asseti,t−1 + εi,t (6) Asseti,t−1 + α2 ∆REVi,t − ∆RECi,t
TAi,t: là tổng các khoản dồn tích được tính bởi công thức (4);
Asseti,t-1 là tài sản đầu kỳ;
∆REVi,t là thay đổi doanh thu;
: Thay đổi các khoản nợ phải thu;
∆RECi,t PPEi,t là tổng tài sản cố định.
Đo lường quản trị lợi nhuận bằng cách tính các khoản dồn tích bất thường
theo mô hình của Kothari và cộng sự (2005)
Kothari và cộng sự (2005) cho rằng để ước lượng các khoản dồn tích tin cậy hơn
cần kiểm soát hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nên đã đề xuất đưa biến ROA
vào mô hình Dechow và cộng sự (1995) nhằm xem xét mối quan hệ tuyến tính giữa
biến kế toán dồn tích và kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Sau đó, việc xác định
82
các khoản dồn tích bất thường (QTLN_3) được thực hiện tương tự trong nghiên cứu
của Jones (1991).
1 TAi,t = β1 + β3 PPEi,t Asseti,t−1 Asseti,t−1 + β4ROAi,t + εi,t (7) Asseti,t−1 + β2 ∆REVi,t − ∆RECi,t Trong đó:
TAi,t: là tổng các khoản dồn tích được tính bởi công thức (4);
Asseti,t-1 là tài sản đầu kỳ;
∆REVi,t là thay đổi doanh thu;
: Thay đổi các khoản nợ phải thu;
∆RECi,t PPEi,t: là tổng tài sản cố định.
: tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản của doanh nghiệp
ROAi,t Như vậy, từ việc hồi quy 3 mô hình (5), (6), (7), các khoản dồn tích bất thường
QTLN_1, QTLN_2, QTLN_3 được ước lượng, đo lường cho mức độ quản trị lợi
nhuận. Quản trị lợi nhuận tương quan nghịch chiều với CLTT kế toán, do vậy
QTLN_1, QTLN_2, QTLN_3 càng thấp, càng thể hiện doanh nghiệp có CLTT kế
toán tốt.
Đo lường biến phụ thuộc CLTT kế toán theo sai sót trên BCTC
Bên cạnh thước đo quản trị lợi nhuận, Luận án sử dụng kết hợp sai sót trên
BCTC làm thước đo cho CLTT kế toán trong mối quan hệ ngược chiều. Theo đó,
CLTT kế toán được đánh giá tốt khi doanh nghiệp hạn chế hiện tượng sai sót BCTC.
IASB và FASB định nghĩa, thông tin kế toán được coi là trình bày trung thực khi
không có sai sót trọng yếu, do đó sai sót trên BCTC thường được các nghiên cứu đo
lường thông qua việc xác định mức trọng yếu. Nghiên cứu của Kinney (1994) cũng
như hướng dẫn của Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam cho rằng nếu tỷ lệ giữa
giá trị sai sót và lợi nhuận trên báo cáo ít hơn 5% được xem là chắc chắn không trọng
yếu; nếu tỷ lệ này nằm trong khoảng từ 5% - 10% sẽ được xem là có khả năng trọng
yếu và nếu tỷ lệ này trên 10% được xem là chắc chắn trọng yếu. Do vậy các nghiên
cứu khi đo lường sai sót thường tập trung ở mức lợi nhuận chênh lệch 5% (Nguyễn
83
Tiến Hùng và cộng sự, 2018; Kinney, 1994) hoặc 10% (Trần Thị Giang Tân và cộng
sự, 2014). Kế thừa các nghiên cứu trước đó, tác giả đề xuất hai cách xác định sai sót
trọng yếu:
SAI_SOT_1 nhận giá trị bằng 1 khi doanh nghiệp có chênh lệch lợi nhuận trước
và sau kiểm toán từ 5% trở lên, ngược lại, SAI_SOT_1 nhận giá trị bằng 0.
SAI_SOT_2 nhận giá trị bằng 1 khi doanh nghiệp có chênh lệch lợi nhuận trước
và sau kiểm toán từ 10% trở lên, ngược lại, SAI_SOT_2 nhận giá trị bằng 0.
Trong Luận án, ngoài cách sử dụng chênh lệch lợi nhuận kiểm toán, tác giả đề
xuất cách đo lường sai sót bổ sung ý kiến kiểm toán là chấp nhận toàn phần hay không.
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 260 (Bộ Tài chính, 2012), các kiểm toán
viên sau khi phát hiện các sai sót trọng yếu sẽ phải trao đổi với ban quản trị đơn vị
được kiểm toán trước khi phát hành báo cáo kiểm toán. Kiểm toán viên sẽ đưa ra ý
kiến chấp nhận toàn phần trong trường hợp kiểm toán viên kết luận rằng BCTC đã
được lập, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày
BCTC được áp dụng, tức là báo cáo của đơn vị được kiểm toán không còn sai sót
trọng yếu. Ý kiến chấp nhận toàn phần được đưa ra trong cả trường hợp BCTC của
đơn vị được kiểm toán bị phát hiện có sai sót trọng yếu, tuy nhiên đơn vị được kiểm
toán chấp nhận sửa theo ý kiến của kiểm toán viên. Do đó thực chất, ý kiến của kiểm
toán viên được đưa ra trên cơ sở báo cáo kiểm toán đã chỉnh sửa. Trong trường hợp
đơn vị kiểm toán không chỉnh sửa theo ý kiến của kiểm toán viên, kiểm toán viên
không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần mà sẽ đưa một trong ba dạng ý kiến
được gọi là “ý kiến kiểm toán ngoại trừ”, “ý kiến kiểm toán trái ngược” và “từ chối
đưa ra ý kiến” (Chuẩn mực kiểm toán số 705, 2012). Như vậy, theo tác giả, có thể
phát sinh trường hợp doanh nghiệp có sai sót trên BCTC, nhưng không chỉnh sửa theo
ý kiến của kiểm toán viên, khi đó sẽ không phát sinh chênh lệch báo cáo trước và sau
kiểm toán. Do đó nếu đo lường sai sót trên BCTC theo SAI_SOT_1 và SAI_SOT_2
sẽ bỏ sót trường hợp này là sai sót trọng yếu. Vì vậy, doanh nghiệp không có sai sót
trọng yếu cần được hiểu là doanh nghiệp nhận báo cáo kiểm toán dạng chấp nhận toàn
phần và có chênh lệch lợi nhuận trước và sau kiểm toán dưới mức trọng yếu, ngược
lại doanh nghiệp có sai sót trọng yếu là doanh nghiệp nhận báo cáo kiểm toán dạng
84
không phải chấp nhận toàn phần, hoặc có có chênh lệch lợi nhuận trước và sau kiểm
toán trên mức trọng yếu. Vì vậy tác giả đề xuất hai cách đo lường cho Luận án:
SAI_SOT_3 nhận giá trị bằng 1 khi doanh nghiệp có chênh lệch lợi nhuận trước
và sau kiểm toán từ 5% trở lên hoặc báo cáo kiểm toán thể hiện ý kiến kiểm toán
không phải chấp nhận toàn phần, ngược lại, SAI_SOT_3 nhận giá trị bằng 0.
SAI_SOT_4 nhận giá trị bằng 1 khi doanh nghiệp có chênh lệch lợi nhuận trước
và sau kiểm toán từ 10% trở lên hoặc báo cáo kiểm toán thể hiện ý kiến kiểm toán
không phải chấp nhận toàn phần, ngược lại, SAI_SOT_4 nhận giá trị bằng 0.
3.3.2.2. Đo lường biến độc lập
Đo lường biến độc lập cấu trúc sở hữu
SH_NHANUOC- sở hữu Nhà nước: được tính bằng tỷ lệ sở hữu vốn của cổ
đông là Nhà nước;
SH_TOCHUC- sở hữu tổ chức: được tính bằng tỷ lệ sở hữu vốn của cổ đông là
nhà đầu tư tổ chức (không bao gồm Nhà nước);
SH_BGD- sở hữu BGĐ: được tính bằng tỷ lệ sở hữu vốn của cổ đông là BGĐ.
Đo lường biến độc lập đặc điểm của HĐQT
Liên quan các giả thuyết được đề xuất trong phần 2.1, các biến độc lập được đưa
vào mô hình về đặc điểm HĐQT được xác định như sau:
QUYMO_HDQT- quy mô HĐQT: được tính bằng logarit tự nhiên của số lượng
thành viên HĐQT;
DOCLAP_HDQT- Tính độc lập HĐQT: được tính bằng tỷ lệ giữa số thành viên
thuộc HĐQT nhưng không thuộc BGĐ và tổng số thành viên của HĐQT;
KIEMNHIEM_HDQT- tính kiêm nhiệm: là một biến giả, nhận giá trị 1 khi Chủ
tịch HĐQT đồng thời là Giám đốc điều hành (CEO) của doanh nghiệp và bằng 0 nếu
hai chức vụ này được đảm nhiệm bởi hai người khác nhau;
THAMNIEN_HDQT- thâm niên HĐQT: được tính bằng logarit tự nhiên của
trung bình thâm niên công tác tính từ năm bắt đầu làm việc đến năm quan sát của các
thành viên HĐQT;
85
CHUYENMON_HDQT- chuyên môn HĐQT: được tính bằng tỷ lệ giữa số thành
viên thuộc HĐQT có chuyên môn kế toán tài chính và tổng số thành viên của HĐQT.
Trong đó, chuyên môn của thành viên HĐQT được xác định dựa trên lĩnh vực chuyên
môn theo bằng cấp (như Cao đẳng, Đại học, Thạc sĩ, Tiến sĩ) của thành viên đó;
GIOITINH_HDQT- giới tính HĐQT: được tính bằng tỷ lệ giữa số thành viên
thuộc HĐQT là nữ và tổng số thành viên của HĐQT.
Đo lường biến độc lập đặc điểm của BKS
Liên quan các giả thuyết được đề xuất trong phần 3.2, các biến độc lập được đưa
vào mô hình về đặc điểm BKS được xác định như sau:
QUYMO_BKS- quy mô BKS: được tính bằng logarit tự nhiên của số lượng
thành viên BKS;
THAMNIEN_BKS- thâm niên BKS: được tính bằng logarit tự nhiên của trung
bình thâm niên công tác tính từ năm bắt đầu làm việc đến năm quan sát của các thành
viên BKS;
CHUYENMON_BKS- chuyên môn BKS: được tính bằng tỷ lệ giữa số thành
viên thuộc BKS có chuyên môn kế toán tài chính và tổng số thành viên của BKS.
Trong đó, chuyên môn của thành viên BKS được xác định dựa trên lĩnh vực chuyên môn
theo bằng cấp (như Cao đẳng, Đại học, Thạc sĩ, Tiến sĩ) của thành viên đó;
GIOITINH_BKS- giới tính BKS: được tính bằng tỷ lệ giữa số thành viên thuộc
BKS là nữ và tổng số thành viên của BKS.
3.3.2.3. Đo lường biến kiểm soát
Luận án sử dụng hai biến giả ngành (NGANH) và năm (NAM) để kiểm soát
hiệu ứng cố định theo ngành và năm. Ngoài ra, tương tự các nghiên cứu của Beneish
(1997), Peikun và Jing (2010), Anwar và Buvanendra (2019), Luận án còn sử dụng
một số biến để làm biến kiểm soát trong mô hình bao gồm các biến: dòng tiền hoạt
động (CFOA)- được tính bằng dòng tiền hoạt động chia cho tổng tài sản của doanh
nghiệp đầu kỳ, biến giả thể hiện thua lỗ trong hoạt động kinh doanh (THUA_LO)-
nhận giá trị 1 khi lợi nhuận hai năm trước nhỏ hơn 0, và bằng 0 nếu ngược lại, cùng
với quy mô doanh nghiệp (QUYMO_DN)- được tính bằng logarit tự nhiên của tổng
86
tài sản, đòn bẩy tài chính (DON_BAY)- được tính bằng tổng nợ chia cho vốn chủ sở
hữu, biến chất lượng kiểm toán (BIG4)- biến giả, nhận giá trị 1 khi kiểm toán bởi các
doanh nghiệp kiểm toán thuộc nhóm Big4 (EY, Deloitte, PwC và KPMG) và bằng 0
nếu ngược lại. Ngoài ra, Luận án có bổ sung biến kiểm toán nội bộ (KTNB)- biến giả,
nhận giá trị 1 khi công ty có bộ phận kiểm toán nội bộ và bằng 0 nếu ngược lại, tương
tự nghiên cứu của García và cộng sự (2012)
Bảng 3.1 tổng kết các biến, cách đo lường và dấu kỳ vọng liên quan tới các biến
phụ thuộc và biến độc lập của mô hình nghiên cứu
Bảng 3.1. Các biến trong mô hình nghiên cứu
Dấu
Tên biến Ý nghĩa Giải thích/cách tính kỳ
vọng
Biến phụ thuộc
Giá trị tuyệt đối của khoản dồn tích bất Mức độ quản QTLN_1 thường, được ước lượng từ mô hình trị lợi nhuận Jones (1991)
Giá trị tuyệt đối của khoản dồn tích bất Mức độ quản thường, ước lượng từ mô hình của QTLN_2 trị lợi nhuận Dechow và cộng sự (1995)
Giá trị tuyệt đối của khoản dồn tích bất Mức độ quản QTLN_3 thường, được ước lượng mô hình của trị lợi nhuận Kothari và cộng sự (2005)
Biến giả, bằng 1 khi doanh nghiệp có Sai sót trên SAI_SOT_1 chênh lệch lợi nhuận trước và sau kiểm BCTC toán từ 5% trở lên, ngược lại, bằng 0
Biến giả, bằng 1 khi doanh nghiệp có Sai sót trên SAI_SOT_2 chênh lệch lợi nhuận trước và sau kiểm BCTC toán từ 10% trở lên, ngược lại, bằng 0
87
Dấu
Tên biến Ý nghĩa Giải thích/cách tính kỳ
vọng
Biến giả, bằng 1 khi doanh nghiệp có
chênh lệch lợi nhuận trước và sau kiểm Sai sót trên SAI_SOT_3 toán từ 5% trở lên hoặc nhận ý kiến kiểm BCTC toán không phải chấp nhận toàn phần,
ngược lại, bằng 0
Biến giả, bằng 1 khi doanh nghiệp có
chênh lệch lợi nhuận trước và sau kiểm Sai sót trên SAI_SOT_4 toán từ 10% trở lên hoặc nhận ý kiến BCTC kiểm toán không phải chấp nhận toàn
phần, ngược lại, bằng 0.
Biến độc lập: Nhóm các biến liên quan đến đặc điểm cấu trúc sở hữu
SH_ - Sở hữu của tỷ lệ sở hữu vốn của cổ đông là Nhà nước Nhà nước NHANUOC
Sở hữu của tỷ lệ sở hữu vốn của cổ đông là nhà đầu - SH_ các nhà đầu tư tổ chức (không tính sở hữu của Nhà TOCHUC tư tổ chức nước)
Sở hữu của - SH_BGD tỷ lệ sở hữu vốn của cổ đông là BGĐ BGĐ
Biến độc lập: Nhóm các biến liên quan đến đặc điểm HĐQT
QUYMO - Quy mô Logarit tự nhiên của số lượng thành viên
HĐQT HĐQT _HDQT
Tỷ lệ giữa số thành viên thuộc HĐQT - DOCLAP Tính độc lập nhưng không thuộc BGĐ và tổng số HĐQT _HDQT thành viên của HĐQT;
88
Dấu
kỳ Tên biến Ý nghĩa Giải thích/cách tính
vọng
Biến giả, nhận giá trị bằng 1 nếu chủ tịch + KIEMNHIEM Tính kiêm HĐQT đồng thời là Giám đốc điều hành, nhiệm _HDQT ngược lại bằng 0
THAMNIEN - Thâm niên Logarit tự nhiên của trung bình thâm
HĐQT niên công tác thành viên HĐQT _HDQT
CHUYENMON - Chuyên môn Tỷ lệ thành viên HĐQT có chuyên môn
HĐQT về tài chính và kế toán _HDQT
Tỷ lệ giữa số thành viên thuộc HĐQT là - GIOITINH Giới tính nữ và tổng số thành viên của HĐQT HĐQT _HDQT
Biến độc lập: Nhóm các biến liên quan đến đặc điểm BKS
QUYMO - Logarit tự nhiên của số lượng thành viên Quy mô BKS BKS _BKS
THAMNIEN_ Thâm niên Logarit tự nhiên của trung bình thâm -
BKS niên công tác thành viên BKS BKS
CHUYENMON - Chuyên môn Tỷ lệ thành viên BKS có chuyên môn về
BKS tài chính và kế toán _ BKS
GIOITINH - Giới tính Tỷ lệ giữa số thành viên thuộc BKS là
BKS nữ và tổng số thành viên của HĐQT _ BKS
Biến kiểm soát
Biến giả, nhận giá trị bằng 1 khi lợi + Tình trạng THUALO nhuận hai năm trước nhỏ hơn 0, ngược thua lỗ lại bằng 0
89
Dấu
kỳ Tên biến Ý nghĩa Giải thích/cách tính
vọng
+ Đòn bẩy tài DONBAY Tỷ lệ tổng nợ và vốn chủ sở hữu chính
- Quy mô QUYMO_DN Logarit tự nhiên của tổng tài sản doanh nghiệp
Chất lượng Biến giả, nhận giá trị bằng 1 nếu được - BIG4 kiểm toán điểm toán bởi Big 4, ngược lại bằng 0
Dòng tiền Tỷ lệ dòng tiền hoạt động và tổng tài sản - CFOA đầu kỳ hoạt động
Biến giả, nhận giá trị bằng 1 khi công ty - Kiểm toán có bộ phận kiểm toán nội bộ, ngược lại KTNB nội bộ bằng 0
Nguồn: Tác giả tổng hợp
3.4. Thu thập và xử lý dữ liệu
3.4.1. Thu thập dữ liệu
Mẫu dữ liệu sử dụng trong Luận án này gồm các công ty niêm yết trên Sở Giao
dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội trong khoảng thời gian 12 năm
từ 2009-2020 không bao gồm các định chế tài chính (như ngân hàng, công ty bảo
hiểm, công ty chứng khoán…) do sự khác biệt về BCTC cũng như các quy định trong
hoạt động kinh doanh của các công ty này.
Các dữ liệu từ BCTC bao gồm báo cáo trước và sau kiểm toán được cung cấp
bởi Công ty Cổ phần Stoxplus. Đối với dữ liệu sau kiểm toán, mẫu dữ liệu ban đầu
gồm 686 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán thành
phố Hồ Chí Minh và Hà Nội trong khoảng thời gian 12 năm từ 2009-2020, bao gồm
7.545 quan sát. Việc đo lường các khoản dồn tích được dựa trên tổng tài sản của kỳ
trước, nên mẫu sẽ mất các quan sát của năm đầu tiên, và chỉ còn các quan sát từ 2010-
90
2020. Dữ liệu về ngành được cung cấp bởi Công ty Cổ phần Stoxplus, trong đó cách
phân ngành được áp dụng theo phân ngành cấp một theo chuẩn phân ngành bốn cấp
của ICB2 (Industry Classification Benchmark). Cách phân ngành cấp một này bao
gồm 10 ngành lần lượt là công nghệ thông tin, công nghiệp, dầu khí, dịch vụ tiêu
dùng, dược phẩm và y tế, hàng tiêu dùng, nguyên vật liệu, tài chính, tiện ích cộng
đồng, viễn thông. Do cách tính các khoản dồn tích bất thường ước lượng với các
doanh nghiệp trong cùng ngành và cùng năm với mỗi ước lượng đòi hỏi tối thiểu có
15 quan sát, hai ngành có ít quan sát là dầu khí và viễn thông bị loại khỏi dữ liệu. Đối
với dữ liệu trước kiểm toán, một số quan sát bị loại bỏ do thiếu thông tin tài chính, cụ
thể là thông tin lợi nhuận. Kết hợp với việc kiểm tra tính lặp và loại bớt các quan sát
bị trùng, mẫu nghiên cứu còn lại 5.225 quan sát.
Dữ liệu về quản trị bao gồm cấu trúc sở hữu, quy mô, tính kiêm nhiệm, tính độc
lập, giới tính, thâm niên thành viên HĐQT, quy mô, thâm niên, giới tính BKS được
cung cấp bởi công ty cổ phần Tài Việt (Vietstock). Trong đó, dữ liệu về cấu trúc sở
hữu bao gồm sở hữu của cổ đông tổ chức và sở hữu Nhà nước được xác định trên
danh sách các cổ đông lớn (sở hữu từ 5% lượng cổ phần lưu hành3). Riêng dữ liệu về
sở hữu cổ đông tổ chức đã được xử lý bằng cách loại bỏ dữ liệu về cổ đông tổ chức
là Nhà nước nhằm đảm bảo kết quả nghiên cứu về tác động của sở hữu cổ đông tổ
chức tới chất lượng thông tin kế toán không bị ảnh hưởng bởi yếu tố sở hữu Nhà nước.
Bên cạnh đó, dữ liệu về trình độ chuyên môn của HĐQT và BKS được tác giả thu
thập bằng tay từ báo cáo thường niên của các công ty niêm yết. Cuối cùng, sau khi
loại trừ các quan sát thiếu thông tin quản trị, tác giả thu được bộ dữ liệu bảng không
cân (unbalanced panel data) bao gồm 3.735 quan sát. Cụ thể, ngành công nghệ thông
tin có 65 quan sát, ngành công nghiệp có 1.710 quan sát, ngành dược phẩm và y tế có
131 quan sát, ngành dịch vụ tiêu dùng có 238 quan sát, ngành hàng tiêu dùng có 537
quan sát, ngành nguyên vật liệu có 492 quan sát, ngành tiện ích công cộng có 227
(Nguồn: Ủy ban chứng khoán Nhà nước
sử dụng phổ biến
truy cập
2 ICB (Industry Classification Benchmark) là hệ thống phân ngành do FTSE Group và DowJone xây dựng và được tại http://www.ssc.gov.vn/ubck/faces/oracle/webcenter/portalapp/pages/vi/). Chi tiết phân ngành ICB được thể hiện trong Phụ lục 1 của Luận án
3 Luật Chứng khoán 54/2019/QH14 quy định cổ đông lớn là là cổ đông sở hữu từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của một tổ chức phát hành. (nguồn: Quốc hội, 2019, Luật Chứng khoán số 54/2019/QH14)
quan sát, ngành tài chính có 335 quan sát. Ngoài ra, khi thống kê theo năm, năm 2010
91
có 251 quan sát, năm 2011 có 262 quan sát, năm 2012 có 307 quan sát, năm 2013 có
332 quan sát, năm 2014 có 313 quan sát, năm 2015 có 327 quan sát, năm 2016 có 329
quan sát, năm 2017 có 437 quan sát, năm 2018 có 451 quan sát, năm 2019 có 388
quan sát và năm 2020 có 338 quan sát.
3.4.2. Xử lý dữ liệu
Sau khi thu thập dữ liệu gồm các biến tài chính và quản trị từ 2009-2020, tác giả
tiến hành xử lý các quan sát có giá trị bất thường (outliers) do những quan sát này
không mang tính đại diện, có thể khiến ước lượng giá trị trung bình của các biến bị
chệch, ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu. Việc xử lý quan sát có giá trị bất thường
được thực hiện bằng cách thay thế các quan sát có giá trị nhỏ hơn 5% bằng giá trị tại
5%, giá trị lớn hơn 95% được thay thế bằng giá trị tại 95% cho các biến tổng tài sản,
doanh thu thuần, lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, tổng dồn tích đã hiệu
chỉnh bởi tổng tài sản, tài sản cố định hữu hình hiệu chỉnh bởi tổng tài sản, chênh lệch
của doanh thu và khoản phải thu hiệu chỉnh bởi tổng tài sản, các dữ liệu về sở hữu
bao gồm sở hữu Nhà nước, sở hữu của cổ đông tổ chức, sở hữu của Ban giám đốc.
Các thao tác xử lý dữ liệu được thực hiện trên phần mềm Stata 14.2
3.5. Phương pháp hồi quy
Đối với mô hình hồi quy dùng quản trị lợi nhuận để ước lượng CLTT kế toán,
trong các phương pháp hồi quy, phương pháp OLS là phương pháp được sử dụng phổ
biến, tương tự như trong nghiên cứu của Chen và cộng sự (2011), Xie và cộng sự
(2013). Mô hình nghiên cứu sử dụng biến giả ngành và năm nhằm cố định hiệu ứng
ngành và năm. Trong trường hợp mô hình có khuyết tật phương sai thay đổi, Luận án
sử dụng kết hợp tùy chọn Robust (phương pháp sai số chuẩn mạnh- robust standard
errors).
Đối với mô hình hồi quy dùng sai sót trên BCTC để ước lượng CLTT kế toán,
tác giả sử dụng phương pháp hồi quy binary logistic. Đây là mô hình được sử dụng
hầu hết trong các nghiên cứu về sai sót trên BCTC như của Beasley (1996), Summers
và Sweeney (1998), Dechow và đồng sự (2011). Phương pháp hồi quy binary logistic
dùng để dự đoán xác suất xảy ra sai sót trên BCTC. Biến phụ thuộc của mô hình lúc
92
này là biến nhị phân, xảy ra và không xảy ra. Tương tự như mô hình trên, mô hình
binary logistic sử dụng biến giả cố định ngành và năm.
Từ Khung lý thuyết được xây dựng ở Chương 2, sang Chương 3, Luận án đã
xây dựng thiết kế nghiên cứu và đề xuất các giả thuyết nghiên cứu. Từ đó, Luận án
đã xây dựng mô hình nghiên cứu chính là mô hình hồi quy đa biến. Trong đó biến
phụ thuộc CLTT kế toán được đo lường theo hai cách: một là đo lường thông qua
mức độ quản trị lợi nhuận; hai là đo lường thông qua sai sót trên BCTC, được xác
định trong trường hợp doanh nghiệp có chênh lệch lợi nhuận trước và sau kiểm toán
ở ngưỡng trọng yếu, kết hợp việc doanh nghiệp phải nhận ý kiến kiểm toán không
phải chấp nhận toàn phần. Các biến độc lập là các biến về QTCT, được thể hiện trên
ba khía cạnh cấu trúc sở hữu, đặc điểm HĐQT, đặc điểm BKS. Luận án đã mô tả cách
thức thu thập, xử lý dữ liệu và phương pháp hồi quy. Đây là cơ sở cho kết quả nghiên
cứu được mô tả ở chương 4 của Luận án.
93
CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA QUẢN TRỊ CÔNG TY
TỚI CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN KẾ TOÁN CỦA CÁC CÔNG TY
NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
4.1. Thực trạng chất lượng thông tin kế toán của các công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam
CLTT kế toán của các công ty niêm yết Việt Nam được mô tả tập trung vào khía
cạnh đặc điểm trung thực của CLTT, đo lường thông qua quản trị lợi nhuận và sai sót
trên BCTC. Cụ thể, biến QTLN_1, QTLN_2, QTLN_3 là mức độ quản trị lợi nhuận,
đo lường lần lượt theo mô hình Jones (1991), mô hình của Dechow và cộng sự (1995),
và mô hình của Kothari và cộng sự (2005). Biến SAISOT_1, SAI_SOT_2,
SAI_SOT_3, SAI_SOT_4 là biến đại diện cho thước đo sai sót trên BCTC, đo lường
xác suất có sai sót trên BCTC, trong đó sai sót trên báo cáo được ghi nhận khi có
chênh lệch lợi nhuận sau kiểm toán là 5%, 10% hoặc kết hợp với ý kiến không phải
chấp nhận toàn phần của kiểm toán viên. Theo đó, CLTT kế toán của đơn vị được
đảm bảo khi không có sai sót trọng yếu và hạn chế hiện tượng quản trị lợi nhuận.
4.1.1. Tổng quan chất lượng thông tin kế toán của các công ty niêm yết
Bảng 4.1 trình bày thống kê mức độ quản trị lợi nhuận trên cơ sở dồn tích của các
công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam trong giai đoạn 2010-2020.
Bảng 4.1. Mức độ quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết
Mức độ quản trị lợi nhuận Trung bình
QTLN_1 0,0801
QTLN_2 0,0809
QTLN_3 0,0793
Nguồn: Tác giả tổng hợp theo tính toán từ phần mềm STATA 14.2
Thống kê từ bảng 4.1 cho thấy giá trị trung bình của quản trị lợi nhuận ở 3 cách
đo khá tương đồng, lần lượt là 0,0801, 0,0809, 0,0793. Kết quả này gần với nghiên
cứu của Nguyễn Thu Hằng và cộng sự (2018) trong giai đoạn từ 2010-2016 là 0,074,
94
có phần thấp hơn so với số liệu tại một số quốc gia như Trung Quốc ở mức 0,094
trong nghiên cứu của Chen và cộng sự (2011), tại Ai cập là 0,9875 (Soliman và Ragab,
2013), hay Jordan là 0,1330 (Abed và cộng sự, 2012), và có phần cao hơn so với một
số quốc gia như Úc là 0,0624 (Liu, 2012) hay Thổ Nhĩ Kỳ là 0,0077 (Aygun và cộng
sự, 2014). Sự chênh lệch này đến từ khác biệt về phạm vi nghiên cứu bao gồm không
gian và thời gian. Bên cạnh đó, một số công ty có mức độ quản trị lên tới 0,6, cụ thể
là Công ty Cổ phần đầu tư Sao Thăng Long (DST) năm 2017 (0,631), Công ty Cổ
phần xây dựng số 7 (VC7) năm 2018 (0,614) cho thấy CLTT kế toán ở mức báo động.
Xét trên khía cạnh sai sót trên BCTC, chênh lệch báo cáo sau kiểm toán được
coi là một hiện tượng phổ biến trên TTCK Việt Nam.
Bảng 4.2. Tỷ lệ sai sót trên báo cáo tài chính của các công ty niêm yết
Đơn vị:%
Tỷ lệ sai sót trên BCTC Trung bình
Chênh lệch lợi nhuận sau kiểm toán 76,3
SAI_SOT_1 24
SAI_SOT_2 16,6
SAI_SOT_3 27
SAI_SOT_4 20,4
Nguồn: Tác giả tổng hợp theo tính toán từ phần mềm STATA 14.2
Bảng 4.2 chỉ ra trong giai đoạn từ năm 2010 tới 2020, có tới 76,3% công ty có
sai sót dẫn tới phải điều chỉnh lại báo cáo sau kiểm toán, với quy mô trung bình về
chênh lệch lợi nhuận ở mức 3,19 tỷ đồng (theo thống kê từ dữ liệu), đồng nghĩa chỉ
có 23,7% công ty có BCTC trước kiểm toán đáng tin cậy. Các sai sót ở mức trọng yếu
luôn ảnh hưởng đến các quyết định kinh tế của người sử dụng thông tin. Thống kê từ
dữ liệu nghiên cứu cho thấy, có tới 24% công ty có BCTC sai sót ở mức trọng yếu
5% và 16,6% công ty có BCTC có sai sót ở mức trọng yếu 10%. Tỷ lệ sai sót ở mức
trọng yếu 5%, cao hơn so với nghiên cứu tại Trung Quốc của Chen và Li (2010) là
20%, và ở Malaysia của Abdullah và cộng sự (2010) là 1%, cho thấy sự phổ biến về
95
sai sót trên BCTC tại Việt Nam. Ngoài ra, có tới 27% công ty có chênh lệch sau kiểm
toán trên 5% hoặc nhận được ý kiến không phải chấp nhận toàn phần, và 20,4% công
ty có chênh lệch sau kiểm toán trên 10% hoặc nhận được ý kiến không phải chấp nhận
toàn phần. Nghiêm trọng hơn, thống kê từ dữ liệu chỉ ra trong các trường hợp điều
chỉnh lợi nhuận sau kiểm toán, có 1,17% công ty có BCTC bị chỉnh sửa từ lãi thành
lỗ, và 0,21% công ty được chỉnh sửa từ lỗ thành lãi. Đây được coi là những sai sót có
ảnh hưởng lớn đến người sử dụng thông tin do vấn đề thay đổi bản chất kết quả kinh
doanh của công ty. Trong đó việc kết quả kiểm toán bị sửa từ lãi thành lỗ phổ biến
hơn so với việc sửa báo cáo từ lỗ thành lãi, đặt ra nghi vấn về sự điều chỉnh thông tin
nhằm che giấu kết quả kinh doanh thua lỗ của công ty. Chi tiết hơn, có một số công
ty có mức điều chỉnh lợi nhuận rất lớn, gây mất lòng tin nơi người sử dụng BCTC và
làm suy giảm tính minh bạch thị trường. Một trong những trường hợp có điều chỉnh
giảm sau kiểm toán lớn nhất phải kể đến Công ty Cổ phần tập đoàn Đại Dương (OGC)
khi trong năm 2014, công ty này có lợi nhuận trước kiểm toán là 408 tỷ đồng, nhưng
sau kiểm toán lại báo cáo lỗ 2.547 tỷ đồng, chênh lệch lên tới 2.956 tỷ. Ngoài vấn đề
giá trị điều chỉnh lớn, công ty được coi là có sai sót nghiêm trọng khi có điều chỉnh
sau kiểm toán từ lãi sang lỗ. Các khoản điều chỉnh của OGC phần lớn đến từ chênh
lệch chi phí tài chính khi thay vì 73 tỷ thì sau kiểm toán là 1.624 tỷ, trong đó chi phí
lãi vay gần 262 tỷ, bổ sung dự phòng các khoản đầu tư 234 tỷ, và lỗ thanh lý khoản
đầu tư vào OceanBank là 1.092 tỷ. Không chỉ vậy, tiếp sang năm 2015, lợi nhuận sau
kiểm toán của công ty này tiếp tục giảm 762 tỷ so với báo cáo tự lập, chênh lệch chủ
yếu nằm ở hai khoản mục chi phí tài chính và chi phí quản lý doanh nghiệp. Công ty
Cổ phần Hoàng Anh Gia Lai (HAG) năm 2017 cũng có hành vi điều chỉnh mạnh
BCTC sau kiểm toán từ 1.032,5 tỷ đồng xuống còn 371,6 tỷ, giảm 64% so với báo
cáo tự lập. Phần lớn sự điều chỉnh giảm này đến từ chênh lệch tăng chi phí như giá
vốn hàng bán, chi phí tài chính và chi phí quản lý doanh nghiệp. Ở chiều ngược lại,
một số công ty có lợi nhuận sau kiểm toán tăng mạnh, có thể kể đến trường hợp của
Công ty Cổ phần Nhiệt điện Bà Rịa (BTP) năm 2011 với báo cáo trước kiểm toán là
lỗ 176 tỷ đồng, trong khi sau kiểm toán lại báo lãi 62,7 tỷ đồng, nguyên nhân chủ yếu
do điều chỉnh tăng doanh thu khi giá điện trong báo cáo trước kiểm toán là giá tạm
tính, còn giá trên báo cáo sau kiểm toán là giá mới được duyệt. Trường hợp của BTP
96
không chỉ đáng chú ý do mức chênh lệch lớn mà ngược với OGC, đây là trường hợp
báo cáo sau kiểm toán bị đổi thành từ lỗ sang lãi, ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi
của nhà đầu tư. Sự phổ biến của hiện tượng chênh lệch lợi nhuận sau kiểm toán, thậm
chí diễn ra liên tiếp tại cùng một công ty, với số tiền chênh lệch lớn, báo cáo sau kiểm
toán bị điều chỉnh từ lãi sang lỗ, từ lỗ thành lãi. Điều này cho thấy sai sót trên BCTC
là một vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng tới tính minh mạch của TTCK Việt Nam, dẫn
tới sự mất lòng tin của nhà đầu tư về CLTT.
4.1.2. Thực trạng chất lượng thông tin kế toán của các công ty niêm yết theo năm
Đồ thị 4.1 trình bày tình trạng mức độ quản trị lợi nhuận theo từng năm của các
công ty niêm yết.
0.1
0.09
0.08
0.07
0.06
0.05
0.04
0.03
0.02
0.01
0
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
QTLN_1
QTLN_2
QTLN_3
Đồ thị 4.1. Thực trạng quản trị lợi nhuận theo năm từ 2010-2020
Nguồn: Tác giả tổng hợp theo tính toán từ phần mềm STATA 14.2
Nhìn chung, thực trạng quản trị lợi nhuận trong giai đoạn 2010-2020 không có
chênh lệch đáng kể giữa các năm trong cả ba thước đo QTLN_1, QTLN_2, QTLN_3.
Giai đoạn 2012-2014 và 2019-2020 mức độ quản trị lợi nhuận của các công ty có
97
phần thấp hơn so mức trung bình của giai đoạn. Ngược lại, năm 2017 là năm các công
ty có mức độ quản trị lợi nhuận cao nhất, thể hiện sự hạn chế về CLTT kế toán.
Xét trên khía cạnh sai sót trên BCTC, Đồ thị 4.2 mô tả thực trạng điều chỉnh
BCTC do sai sót theo từng năm, cụ thể trong giai đoạn 2010-2020.
Đồ thị 4.2. Tỷ lệ sai sót trên BCTC theo năm từ 2010-2020
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
SAI_SOT_1
SAI_SOT_2
SAI_SOT_3
SAI_SOT_4
chênh lệch LN
Đơn vị: %
Nguồn: Tác giả tổng hợp theo tính toán từ phần mềm STATA 14.2
Tỷ lệ sai sót BCTC của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam luôn ở mức
cao khoảng 70% trong giai đoạn từ 2010-2020 và không có chênh lệch đáng kể giữa
các năm. Trong đó, giai đoạn 2011-2013 được coi là thời kỳ các công ty phải điều
chỉnh báo cáo sau kiểm toán nhiều nhất. Đây cũng là giai đoạn bất ổn của TTCK nói
riêng và nền kinh tế nói chung do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế năm 2008,
đồng thời các công ty phải chịu kết quả kinh doanh không thuận lợi. Tỷ lệ này có xu
hướng giảm trong thời gian gần đây, thấp nhất là năm 2020, ở mức 68,6%. Xu hướng
này cũng tương tự khi xét tới tỷ lệ sai sót theo mức trọng yếu 5% và 10%, hoặc nhận
98
ý kiến kiểm toán không phải chấp nhận toàn phần. Giai đoạn 2011-2013, tỷ lệ sai sót
trọng yếu ở mức cao, sau đó có chiều hướng giảm, thấp nhất là năm 2020. Nhìn chung
năm 2011 là năm các công ty niêm yết Việt Nam có CLTT kế toán thấp trong giai đoạn
2010-2020 khi có giá trị quản trị lợi nhuận và sai sót ở mức cao. Đây cũng là thời khó
khăn của TTCK Việt Nam khi VNIndex mất 27,55% còn 351,55 điểm, HNX- Index mất
48,6% dừng tại 57,6%, thanh khoản sụt giảm nghiêm trọng, kinh tế vĩ mô bất lợi khi lạm
phát tăng kỷ lục với CPI lên tới 18,5%. Kết quả kinh doanh yếu kém cùng giá cổ phiếu
ở mức rất thấp với 433 mã cổ phiếu có giá dưới 10.000 đồng và 186 mã cổ phiếu có giá
dưới 5.000 đồng trên tổng 696 mã cổ phiếu, đã gây áp lực lớn đối với các công ty niêm
yết dưới sức ép của cổ đông. Vì vậy, giai đoạn này, xu hướng điều chỉnh thông tin kế
toán trở nên rõ ràng hơn so với các thời kỳ ổn định, đặc biệt là so với năm 2020, là năm
TTCK Việt Nam có thời kỳ tăng trưởng mạnh mẽ.
4.1.3. Thực trạng chất lượng thông tin kế toán của các công ty niêm yết theo ngành
Bảng 4.3 cung cấp thông tin về vấn đề quản trị lợi nhuận ở từng ngành theo ba
thước đo QTLN_1, QTLN_2, QTLN_3. Mặc dù phân ngành cấp 1 của ICB có 10
ngành, tuy nhiên do cách tính các khoản dồn tích bất thường ước lượng với các doanh
nghiệp trong cùng ngành và cùng năm với mỗi ước lượng đòi hỏi tối thiểu có 15 quan
sát, do đó hai ngành có ít quan sát là dầu khí và viễn thông bị loại khỏi dữ liệu. Do
vậy, Luận án mô tả thực trạng CLTT kế toán theo 8 ngành là công nghệ thông tin,
công nghiệp, dịch vụ tiêu dùng, dược phẩm và y tế, hàng tiêu dùng, nguyên vật liệu,
tiện ích công cộng và tài chính. Trong đó, bộ dữ liệu không bao gồm các định chế tài
chính như ngân hàng, các công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, các công ty cung
cấp dịch vụ tài chính do sự khác biệt về đặc điểm báo cáo tài chính của các công ty
này. Vị vậy, ngành tài chính được mô tả trong bảng 4.3 chỉ bao gồm các công ty bất
động sản (chi tiết phân ngành ICB, Phụ lục 1).
Với sự đồng đều ở cả 3 thước đo QTLN_1, QTLN_2, QTLN_3, bảng 4.5 cho
thấy hiện tượng quản trị lợi nhuận xảy ra phổ biến ở các công ty thuộc ngành nguyên
vật liệu với mức độ quản trị lợi nhuận trên 3 thước đo lần lượt là 0,0867; 0,0882;
0,0873 và ngành tài chính lần lượt là 0,0953; 0,0938; 0,0934, trong khí đó các công
ty trong ngành dược phẩm y tế và tiện ích công cộng, mức độ quản trị lợi nhuận có
99
phần thấp hơn khi nhỏ hơn 0,07. Nguyên nhân là do các ngành nguyên vật liệu và tài
chính với đặc điểm riêng có về TTKT phát sinh nhiều ước tính liên quan tới trị giá
hàng tồn kho và các khoản đầu tư, do vậy khả năng điều chỉnh dẫn tới phát sinh các
khoản dồn tích bất thường sẽ cao hơn các ngành còn lại.
Bảng 4.3. Mức độ quản trị lợi nhuận các công ty niêm yết theo ngành
Ngành QTLN_1 QTLN_2 QTLN_3
Công nghệ Thông tin 0,0794 0,0834 0,0802
Công nghiệp 0,0782 0,0788 0,0764
Dược phẩm và y tế 0,0603 0,0612 0,0541
Dịch vụ tiêu dùng 0,0751 0,0756 0,0753
Hàng tiêu dùng 0,0840 0,0859 0,0853
Nguyên vật liệu 0,0867 0,0882 0,0873
Tiện ích công cộng 0,0664 0,0665 0,0664
Tài chính 0,0953 0,0938 0,0934
Tổng 0,0801 0,0809 0,0793
Nguồn: Tác giả tổng hợp theo tính toán từ phần mềm STATA 14.2
Bên cạnh đó, bảng 4.4 cho thấy tình trạng sai sót trên BCTC xảy ra phổ biến
trên tất cả các ngành, lĩnh vực kinh doanh của các công ty niêm yết, trong đó, các
ngành có tỷ lệ sai sót lớn nhất là công nghệ thông tin, tiếp đó là hàng tiêu dùng và tài
chính. Khi xét theo quan điểm trọng yếu, thứ tự này lần lượt là công nghệ thông tin,
tài chính và nguyên vật liệu.
Ngành công nghệ thông tin có tỷ lệ công ty có sai sót dẫn đến điều chỉnh lại báo
cáo sau kiểm toán lên tới 88,6%, trong đó có 35,4% sai sót ở mức trọng yếu 5%, và
27,7% sai sót trọng yếu ở mức 10%. Nếu kết hợp với việc nhận được ý kiến kiểm
toán không phải chấp nhận toàn phần, con số này lần lượt là 43,1% và 36,9% Một số
công ty điển hình trong hoạt động trong ngành có mức sai sót sau kiểm toán lớn như
Công ty Cổ phần công nghệ viễn thông Saigontel (SGT) khi liên tiếp hàng năm có sai
100
sót trên BCTC với giá trị lớn. Năm 2015, SGT bị điều chỉnh giảm lợi nhuận sau kiểm
toán ở mức 15,7 tỷ đồng, tương ứng với 41% so với báo cáo tự lập, chủ yếu do tính
sai giá vốn. Năm 2016, Công ty bị ghi giảm lợi nhuận sau kiểm toán là 18,7 tỷ đồng,
tức là 26,8% so với trước kiểm toán, chênh lệch phần lớn liên quan tới dự phòng. Đến
năm 2017, lợi nhuận sau kiểm toán của SGT bị ghi giảm 35,4 tỷ đồng, tương đương
với mức giảm 24,2% so với trước kiểm toán, nguyên nhân chủ yếu do lỗi phần mềm khi
ghi nhận thiếu giá vốn hàng bán. Sang năm 2018, công ty này có mức giảm lợi nhuận
sau kiểm toán 7,1 tỷ đồng, tương ứng với 5,6% so với lợi nhuận trước kiểm toán do bị
loại một số các khoản doanh thu không đủ điều kiện và chưa đánh giá chênh lệch tỷ giá.
Hầu hết các sai sót của SGT và các công ty trong ngành đều có liên quan tới công tác ghi
nhận doanh thu và giá vốn của đơn vị do đặc điểm ngành nghề.
Các công ty thuộc ngành hàng tiêu dùng cũng có tỷ lệ sai sót cao lên tới 81,7%,
trong đó có 23,5% sai sót ở mức trọng yếu 5%, và 14% sai sót trọng yếu ở mức 10%.
Khi kết hợp với việc nhận được ý kiến kiểm toán không phải chấp nhận toàn phần,
con số này lần lượt là 25,9% và 16,9%. Một số công ty trong ngành có mức độ sai sót
lớn, phải kể đến trường hợp của Công ty Cổ phần Thủy sản số 4 (TS4). Năm 2016,
công ty thông báo lợi nhuận trước kiểm toán ở mức 7,3 tỷ, tuy nhiên sau kiểm toán,
công ty điều chỉnh kết quả kinh doanh thành lỗ 6,6, tỷ, chênh lệch 14 tỷ, tức là chênh
lệch 190% so với báo cáo tự lập. Sai sót nghiêm trọng này là một trong số liên tiếp
các báo cáo chênh lệch sau kiểm toán TS4, như năm 2010, lợi nhuận bị điều chỉnh
giảm là 27,1%, năm 2011 là 37,4%, 2012 là 7,3%, 2013 là 44,7%, 2015 là 20,1%,
2017 là 25,6%. Phần lớn nguyên nhân của các sai sót này phát sinh liên quan tới việc
tính sai giá vốn hàng bán của công ty.
Bên cạnh đó, một số ngành có tỷ lệ sai sót trên BCTC thấp hơn so với trung
bình, phải kể tới tiện ích công cộng, dịch vụ tiêu dùng, và dược phẩm y tế, lần lượt là
68,9%, 72,2% và 74,5%. Trong đó ngành dược phẩm y tế được coi là ngành nghề có
tỷ lệ sai sót trọng yếu thấp nhất, với tỷ lệ sai sót ở mức 15,3% so với mức 21,8% và
17,6% của ngành dịch vụ tiêu dùng và tiện ích công cộng, khi xét trên mức trọng yếu
5%.
101
Bảng 4.4. Tỷ lệ sai sót của các công ty niêm yết theo ngành
Đơn vị: %
Chênh SAI_SOT SAI_SOT SAI_SOT SAI_SOT
Ngành lệch lợi _1 _2 _3 _4
nhuận
Công nghệ Thông tin 88,6 35,4 27,7 43,1 36,9
Công nghiệp 75,2 23,3 15,6 26,4 19,4
Dược phẩm và y tế 74,5 15,3 10,7 16,0 11,5
Dịch vụ tiêu dùng 72,2 21,8 15,5 26,1 21,0
Hàng tiêu dùng 81,7 23,5 14,0 25,9 16,9
Nguyên vật liệu 78,4 24,2 18,3 28,5 23,4
Tiện ích công cộng 68,9 17,6 13,2 19,8 15,4
Tài chính 81,1 34,9 26,9 36,7 29,9
Tổng 76,3 24,0 16,6 27,0 20,4
Nguồn: Tác giả tổng hợp theo tính toán từ phần mềm STATA 14.2
4.1.4. Thực trạng chất lượng thông tin kế toán của một số chỉ tiêu báo cáo kết quả
kinh doanh
Kết quả thống kê từ bảng 4.5 cho thấy, 76,3% BCTC của các công ty niêm yết
trong giai đoạn 2010-2020 có sai sót dẫn đến điều chỉnh, trong đó tỷ lệ và quy mô
điều chỉnh giảm sau kiểm toán cao hơn so với điều chỉnh tăng, cụ thể, có 45,8% BCTC
bị điều chỉnh giảm với quy mô lợi nhuận trung bình bị giảm là 3,26 tỷ và 32,2%
BCTC được điều chỉnh tăng về lợi nhuận với quy mô trung bình là 3,06 tỷ. Nói cách
khác, các công ty có xu hướng khai tăng lợi nhuận trên báo cáo tự lập hơn so với việc
điều chỉnh giảm lợi nhuận. Ngoài ra, bảng 4.5 mô tả thực trạng sai sót của một số chỉ
tiêu quan trọng trên báo cáo kết quả kinh doanh, bao gồm doanh thu bán hàng và cung
cấp dịch vụ, giá vốn hàng bán, thu nhập tài chính, chi phí tài chính, chi phí bán hàng
102
và chi phí quản lý doanh nghiệp trên cả hai khía cạnh là tỷ lệ sai sót và quy mô trung
bình của sai sót.
Bảng 4.5. Thống kê về sai sót một số chỉ tiêu thuộc báo cáo kết quả kinh doanh
Đơn vị: %, tỷ đồng
Tỷ lệ sai Quy mô trung Chỉ tiêu sót (%) bình (tỷ đồng)
39,8 19,4 Chênh lệch doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
17,3 18 Chênh lệch tăng sau kiểm toán
22,5 20,4 Chênh lệch giảm sau kiểm toán
61,2 11,6 Chênh lệch giá vốn hàng bán
30,9 13,7 Chênh lệch tăng sau kiểm toán
30,3 9,42 Chênh lệch giảm sau kiểm toán
37,7 2,52 Chênh lệch thu nhập tài chính
20,8 1,55 Chênh lệch tăng sau kiểm toán
16,9 3,71 Chênh lệch giảm sau kiểm toán
47,2 2,66 Chênh lệch chi phí tài chính
26,5 3,15 Chênh lệch tăng sau kiểm toán
20,7 2,27 Chênh lệch giảm sau kiểm toán
31,6 1,85 Chênh lệch chi phí bán hàng
17,2 2,32 Chênh lệch tăng sau kiểm toán
14,3 1,45 Chênh lệch giảm sau kiểm toán
63,7 2,15 Chênh lệch chi phí quản lý doanh nghiệp
37,1 2,27 Chênh lệch tăng sau kiểm toán
26,6 2,07 Chênh lệch giảm sau kiểm toán
78 3,19 Chênh lệch lợi nhuận
103
Tỷ lệ sai Quy mô trung Chỉ tiêu sót (%) bình (tỷ đồng)
32,2 3,07 Chênh lệch tăng sau kiểm toán
45,8 3,26 Chênh lệch giảm sau kiểm toán
Nguồn: Tác giả tổng hợp theo tính toán từ phần mềm STATA 14.2
Đối với chỉ tiêu doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, tỷ lệ sai sót dẫn đến
điều chỉnh sau kiểm toán là 39,8%, thấp hơn so với phần lớn các khoản mục chi phí,
cho thấy các công ty có xu hướng sai sót về chi phí hơn doanh thu. Tuy chiếm tỷ trọng
không lớn, song quy mô trung bình của các khoản sai sót này lại ở mức cao nhất là
19,4 tỷ đồng, cho thấy tính nghiêm trọng của việc ghi nhận sai về khoản mục này lên
BCTC. Bên cạnh đó, chênh lệch giảm về khoản mục doanh thu bán hàng và cung cấp
dịch vụ sau kiểm toán cao hơn chênh lệch tăng cả về tỷ lệ lẫn giá trị. Hay nói cách
khác, trên báo cáo tự lập, các công ty có xu hướng ghi nhận tăng về doanh thu hơn so
với việc bỏ sót doanh thu. Việc báo cáo tăng so với thực tế thể hiện công ty có hành
vi ghi nhận một số khoản mục không đủ điều kiện thành doanh thu như trường hợp
Công ty Cổ phần công nghệ viễn thông Saigontel (SGT) năm 2018 hoặc do công ty
nhầm lẫn trong hạch toán như giải trình của Công ty Cổ phần Quốc Cường Gia Lai
(QCG) năm 2012 với số chênh lệch về doanh thu sau kiểm toán lên tới 1.142 tỷ. Việc
báo cáo giảm về doanh thu trong thực tế thể hiện việc công ty bỏ sót hoặc ghi nhận
sai giá trị doanh thu liên quan đến giá bán hoặc doanh số tiêu thụ như trường hợp của
Công ty Cổ phần Nhiệt điện Bà Rịa (BTP) năm 2011 dẫn đến báo cáo sau kiểm toán
từ lỗ thành lãi.
So với chỉ tiêu doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, chỉ tiêu giá vốn hàng
bán có tỷ lệ sai sót cao hơn tới 61,2%, với quy mô là 11,6 tỷ, đồng thời là chỉ tiêu về
chi phí có quy mô điều chỉnh vượt trội. Theo nguyên tắc hạch toán đối với hoạt động
bán hàng, hạch toán doanh thu sẽ đi kèm với ghi nhận giá vốn. Do đó việc điều chỉnh
sai sót về doanh thu thường đi kèm với điều chỉnh sai sót về giá vốn. Tuy nhiên, thực
trạng sai sót của các công ty niêm yết cho thấy trong khi tỷ lệ sai sót về doanh thu chỉ
chiếm 39,8%, tỷ lệ sai sót của giá vốn lên tới 61,2%, điều này biểu hiện ngoài các
điều chỉnh về giá vốn liên quan tới doanh thu, các công ty còn có hiện tượng sai sót
104
là hạch toán bán hàng bỏ sót không ghi nhận giá vốn, dẫn đến doanh thu tăng nhưng
giá vốn không tăng như trường hợp Công ty Cổ phần công nghệ viễn thông Saigontel
mã SGT. Một số nguyên nhân khác có liên quan tới vấn đề này là không trích lập
hoặc trích lập thiếu dự phòng giảm giá hàng tồn kho như Công ty Cổ phần Hùng
Vương (HVG) hay Công ty Cổ phần tập đoàn Đại Châu (DCS). Bên cạnh đó, sai sót
liên quan tới giá vốn cũng có thể do tính toán sai như trường hợp của Công ty Cổ
phần Thủy sản số 4 (TS4). Tỷ lệ điều chỉnh tăng và giảm chỉ tiêu giá vốn hàng bán là
tương đương, 30,3% so với 30,9%, tuy nhiên quy mô điều chỉnh tăng lại lớn hơn điều
chỉnh giảm là 13,7 tỷ so với 9,42 tỷ, dẫn đến xu hướng chính của điều chỉnh lợi nhuận
là điều chỉnh giảm.
Chỉ tiêu thu nhập tài chính và chi phí tài chính có tỷ lệ và quy mô sai sót lần lượt
là 37,7%, 47,2% và 2,52 tỷ, 2,66 tỷ. Trong đó, tỷ lệ điều chỉnh tăng thu nhập và tăng
chi phí tài chính cao hơn so với xu hướng ngược lại, trong khi đó, xét về quy mô thì
việc điều chỉnh giảm thu nhập và tăng chi phí tài chính có giá trị lớn hơn, lần lượt là
3,71 và 3,15 tỷ. Các sai sót liên quan tới doanh thu và chi phí tài chính thường liên
quan tới việc không ghi nhận chênh lệch tỷ giá hối đoái dẫn đến ghi thiếu doanh thu
và chi phí tài chính như trường hợp của SGT, tính sai hoặc bỏ sót lợi nhuận được chia
do hợp tác kinh doanh, bỏ sót chi phí lãi vay như trường hợp của công ty phát triển
nhà Thủ Đức (TDH) hoặc trích trước chi phí lãi vay vượt quá số tiền phải trả (trường
hợp của Công ty Cổ phần tập đoàn Kỹ nghệ gỗ Trường Thành (TTF). Một sai sót phổ
biến khác đối với khoản mục chi phí tài chính là việc trích lập thiếu hoặc sai dự phòng
các khoản đầu tư tài chính như trường hợp Công ty Cổ phần Hoàng Anh Gia Lai
(HAG) hoặc trường hợp của Công ty Cổ phần Sông Đà 7 (SD7), đã biến công ty này
từ lãi sang lỗ sau kiểm toán vào năm 2017.
So với các chi phí còn lại trên báo cáo kết quả kinh doanh, chi phí bán hàng có
tỷ lệ sai sót thấp nhất, ở mức 31,6% và chi phí quản lý doanh nghiệp có tỷ lệ sai sót
cao nhất là 63,7%. Quy mô sai sót của hai chi phí này ở mức thấp lần lượt là 1,85 tỷ
và 2,15 tỷ. Nhìn chung, tương tự chi phí tài chính, cả hai chi phí này đều có xu hướng
tăng sau kiểm toán. Cụ thể, đối với chi phí bán hàng, 17,2% báo cáo có xu hướng tăng
với quy mô trung bình là 2,32 tỷ, 14,3% báo cáo có xu hướng giảm với giá trị trung
bình là 1,45 tỷ. Đối với chi phí quản lý doanh nghiệp, 37,1% báo cáo có điều chỉnh
105
tăng với quy mô 2,27 tỷ, và 26,6% báo cáo có điều chỉnh giảm với quy mô 2,07 tỷ.
Các sai sót trong hai khoản mục này chủ yếu do tính sai, tính thiếu một số chi phí liên
quan tới hoạt động bán hàng và quản lý công ty. Riêng đối với chi phí quản lý doanh
nghiệp, sai sót của khoản mục này còn liên quan tới việc trích lập dự phòng nợ phải
thu khó đòi như trường hợp của Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản An Giang
(AGF).
Như vậy, tình trạng sai sót của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam diễn
ra phổ biến với tỷ lệ lên tới 76,3%, trong đó các sai sót liên quan tới chi phí có xu
hướng cao hơn doanh thu. Tuy nhiên xét về quy mô, sai sót liên quan tới doanh thu
và giá vốn có giá trị lớn hơn. Mặt khác nhìn chung, các công ty có tỷ lệ điều chỉnh
tăng về chi phí và giảm về doanh thu sau kiểm toán cao, dẫn tới lợi nhuận sau kiểm
toán bị giảm, hay nói cách khác, tình trạng khai báo lợi nhuận cao hơn thực có diễn
ra phổ biến hơn so với việc báo cáo lợi nhuận thấp hơn thực tế.
4.1.5. Đánh giá về chất lượng thông tin kế toán của các công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam
Qua các phân tích nêu trên, có thể rút ra một số nhận xét về CLTT kế toán của
các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam:
Một là, tổng quan, các công ty niêm yết tại Việt Nam có biểu hiện của việc điều
chỉnh lợi nhuận thông qua việc thay đổi các ước tính kế toán và có những sai sót trong
việc lập và trình bày BCTC dẫn đến phải điều chỉnh báo cáo sau kiểm toán hoặc nhận
được ý kiến không phải chấp nhận toàn phần. CLTT kế toán của các công ty niêm yết
Việt Nam được đánh giá ở mức trung bình so với các nước trong khu vực và trên thế
giới khi xét theo tiêu chí quản trị lợi nhuận trên cơ sở dồn tích. Tuy nhiên vấn đề sai
sót dẫn đến phải điều chỉnh báo cáo sau kiểm toán lại diễn ra phổ biến, chiếm tới
76,3% các công ty niêm yết, trong đó có tới 24% các công ty có sai sót trọng yếu ở
mức 5%, và 16,6% có sai sót trọng yếu ở mức 10%, đây được coi là mức cao so với
các nước, đặt ra mối nghi ngại về CLTT kế toán của các công ty niêm yết. Như vậy ở
Việt Nam, các công ty niêm yết có xu hướng sai sót trong lập BCTC khi BCTC do
công ty tự lập có sự khác biệt giữa giá trị, cách phân loại, trình bày hoặc thuyết minh
so với khuôn khổ được áp dụng.
106
Hai là, CLTT kế toán của các công ty niêm yết có sự thay đổi theo năm và
ngành. Trong đó, các CLTT kế toán của các công ty niêm yết có xu hướng cải thiện
trong giai đoạn thị trường ổn định, và có xu hướng bị đánh giá thấp trong giai đoạn
thị trường gặp nhiều khó khăn, cho thấy xu thế điều chỉnh lợi nhuận để che giấu tình
trạng kinh doanh khi có kết quả kinh doanh không thuận lợi của các công ty niêm yết.
Bên cạnh đó, các công ty niêm yết cũng có xu hướng điều chỉnh lợi nhuận thông qua
việc thay đổi các ước tính kế toán trong bối cảnh thị trường tăng trưởng mạnh nhằm
đáp ứng kỳ vọng của cổ đông. Ngoài ra, các ngành tài chính và nguyên vật liệu được
đánh giá có CLTT kế toán thấp hơn các ngành khác xét theo cả hai tiêu chí là quản trị
lợi nhuận trên cơ sở dồn tích và sai sót trọng yếu trên BCTC, còn ngành công nghệ
thông tin lại có mức điều chỉnh lợi nhuận sau kiểm toán ở mức cao. Trong khi đó,
ngành tiện ích công cộng được đánh giá có CLTT kế toán tốt khi có mức độ quản trị
lợi nhuận và tỷ lệ sai sót trên BCTC ở mức thấp. Nguyên nhân được lý giải là do sự
khác biệt về ngành nghề kinh doanh khi mà các ngành như tài chính, nguyên vật liệu,
công nghệ thông tin có liên quan tới nhiều ước tính kế toán cũng như dễ gặp phải sai
sót trong việc tính toán các khoản mục hàng tồn kho, tài sản cố định và các khoản đầu
tư tài chính.
Ba là, tỷ lệ khai tăng lợi nhuận dẫn đến phải điều chỉnh giảm lợi nhuận sau kiểm
toán của các công ty niêm yết chiếm tỷ trọng lớn hơn so với việc khai giảm lợi nhuận,
cho thấy các công ty có xu hướng báo cáo kết quả kinh doanh tốt hơn thực có. Thậm
chí, tỷ lệ các công ty có BCTC phải sửa lại sau kiểm toán từ lãi thành lỗ cũng chiếm
tỷ trọng hơn hẳn so với xu hướng ngược lại, đây là loại sai sót rất nghiêm trọng, có
ảnh hưởng tới quyền lợi của người sử dụng thông tin trên BCTC. Trong các khoản
mục có liên quan tới lợi nhuận, khoản mục doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
và giá vốn hàng bán bị điều chỉnh nhiều nhất, trong khi đó tỷ lệ điều chỉnh về các loại
chi phí lại cao hơn nhiều so với doanh thu.
Như vậy, số liệu thống kê cho thấy vấn đề điều chỉnh lợi nhuận trên báo cáo tài
chính, thể hiện việc cung cấp thông tin kế toán thiếu trung thực là hiện tượng phổ biến
đối với các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam. Điều này gây ảnh hưởng nghiêm
trọng tới lợi ích của người sử dụng thông tin khi đưa ra các quyết định dựa trên thông
tin thiếu tin cậy. Điều này đặt ra sự cần thiết của việc QTCT nhằm tăng cường hệ
107
thống giám sát doanh nghiệp, bảo vệ người sử dụng thông tin khỏi các hành vi phương
hại từ cách thành phần nội bộ. Do vậy, nghiên cứu về tác động của QTCT tới CLTT
kế toán có tính thực tiễn cao, nhằm cung cấp các bằng chứng thực nghiệm về sự ảnh
hưởng của các khía cạnh QTCT tới CLTT kế toán, làm cơ sở cho các giải pháp về
việc hoàn thiện QTCT, từ đó nâng cao CLTT kế toán.
4.2. Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu
Trên cơ sở thu thập và xử lý dữ liệu từ các công ty phi tài chính niêm yết trên
Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà
Nội trong khoảng thời gian từ 2009-2020, Luận án thu được bộ dữ liệu bảng không
cân gồm 3.015 quan sát. Bảng 4.6 trình bày thống kê mô tả các biến độc lập và biến
phụ thuộc chính của mô hình.
Bảng 4.6. Thống kê các biến chính của mô hình
Số quan Trung Đô lệch Cực Cực
BIẾN sát bình chuẩn tiểu đại
BIẾN PHỤ THUỘC
QTLN_1 3.735 0,0801 0,0736 0,6310 0
QTLN_2 3.735 0,0809 0,0743 0,6193 0
QTLN_3 3.735 0,0793 0,0728 0,6456 0
SAI_SOT_1 3.735 0,2396 0,4269 1 0
SAI_SOT_2 3.735 0,1660 0,3721 1 0
SAI_SOT_3 3.735 0,2701 0,4441 1 0
SAI_SOT_4 3.735 0,2037 0,4028 1 0
BIẾN ĐỘC LẬP
SH_NHANUOC 3.735 0,1761 0,2315 0,6499 0
SH_TOCHUC 3.735 0,1906 0,2325 0,7880 0
SH_BGD 3.735 0,0506 0,0792 0,2815 0
108
Số quan Trung Đô lệch Cực Cực
BIẾN sát bình chuẩn tiểu đại
QUYMO_HDQT 3.735 1,6748 0,1884 1,0986 2,3979
DOCLAP_HDQT 3.735 0,5626 0,2198 0 1
KIEMNHIEM_HDQT 3.735 0,2701 0,4441 0 1
THAMNIEN_HDQT 3.735 2,0065 0,4319 0 3,6376
CHUYENMON_HDQT 3.735 0,0846 0,1286 0 0,8000
GIOITINH_HDQT 3.735 0,1399 0,1654 0 1
QUYMO_BKS 3.735 1,0949 0,1140 0 1,6094
THAMNIEN_BKS 3.735 1,7862 0,5183 0 3,4012
CHUYENMON_BKS 3.735 0,2441 0,2897 0 1
Trong đó: QTLN_1, QTLN_ 2, QTLN_3 lần lượt là giá trị tuyệt đối của khoản dồn tích tùy ý tính theo Jones 1991, Dechow 1995 và Kothari 2005, SH_NHANUOC, SH_TOCHUC, SAI_SOT_1, SAI_SOT_2,SAI_SOT_3,SAI_SOT_4 là biến giả, bằng 1 lần lượt khi có chênh lệch lợi nhuận sau kiểm toán từ 5%, 10%, chênh lệch lợi nhuận sau kiểm toán từ 5% hoặc nhận ý kiến kiểm toán không phải chấp nhận toàn phần, chênh lệch lợi nhuận sau kiểm toán từ 10% hoặc nhận ý kiến kiểm toán không phải chấp nhận toàn phần, SH_BGD lần lượt là tỷ lệ sở hữu của Nhà nước, nhà đầu tư tổ chức và BGĐ, QUYMO_HDQT là quy mô HĐQT, KIEMNHIEM_HDQT là biến giả, bằng 1 khi chủ tịch HĐQT kiêm CEO, DOCLAP_HDQT là tỷ lệ thành viên độc lập, THAMNIEN_HDQT, CHUYENMON_HDQT, GIOITINH_HDQT là thâm niên, tỷ lệ thành viên có chuyên môn kế toán tài chính, tỷ lệ giới tính nữ của HĐQT, QUYMO_BKS, THAMNIEN_BKS, CHUYENMON_BKS, GIOITINH_BKS lần lượt là quy mô, thâm niên, tỷ lệ thành viên có chuyên môn kế toán tài chính và tỷ lệ giới tính nữ của BKS Nguồn: Tác giả tổng hợp theo tính toán từ phần mềm Stata 14.2
GIOITINH_BKS 3.735 0,4462 0,3162 0 1
Biến phụ thuộc mô tả CLTT kế toán đã được phân tích trong nội dung 4.1 CLTT
kế toán của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam. Đối với các biến độc lập, giá
trị trung bình tỷ lệ sở hữu của Nhà nước, nhà đầu tư tổ chức và của BGĐ lần lượt là
17,6%, 19,1% và 5,1%, cho thấy trong các công ty niêm yết tại TTCK Việt Nam, các
cổ đông tổ chức tư nhân đang dần chiếm ưu thế về sở hữu, vượt so với cổ đông Nhà
109
nước. Tỷ lệ sở hữu của BGĐ có mức trung bình đạt 5,6% thể hiện việc nắm giữ cổ
phần tại doanh nghiệp mình điều hành của các nhà quản trị nhìn chung còn chưa cao,
cho thấy một biểu hiện của vấn đề tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý.
Liên quan tới đặc điểm HĐQT, quy mô của HĐQT tương ứng với số tuyệt đối
là từ 3 đến 11 thành viên, phù hợp với quy định tại điều 150 của Luật Doanh Nghiệp
(2014), trung bình số lượng thành viên là 5,4 người, trong đó, tỷ lệ công ty có chủ
tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc chiếm 27%, số liệu này có xu hướng giảm trong
những năm trở lại đây do ảnh hưởng của Nghị định số 71/2017/NĐ-CP, theo đó từ
01/08/2020 Chủ tịch HĐQT không được kiêm nhiệm chức danh Giám đốc (Tổng
giám đốc) của cùng một công ty đại chúng. Ngoài ra tỷ lệ thành viên không điều hành
trong Ban quản trị ở mức 56%, trong đó có một số doanh nghiệp có HĐQT đều là
thành viên không điều hành như Công ty Cổ phần Tasco (HUT) năm 2018, Công ty
Cổ phần Sam Holdings (SAM) năm 2018. Ngược lại có không ít doanh nghiệp không
có thành viên không điều hành như Công ty Cổ phần cơ điện và xây dựng Việt Nam
(MCG) năm 2017 và Công ty Cổ phần Nam Việt (ANV) năm 2018. Xét về đặc điểm
của thành viên HĐQT, tỷ lệ nữ giới trong thành viên HĐQT chỉ ở mức 14%, nhiều
doanh nghiệp không có thành viên nữ và chỉ một số ít doanh nghiệp có tỷ lệ nữ giới
vượt trội, cao nhất là Công ty Cổ phần Vĩnh Hoàn (VHC) ở mức 80%, cho thấy tình
trạng kém đa dạng về giới tính trong cấu trúc của HĐQT tại các doanh nghiệp Việt
Nam. Trong khi đó, trung bình thâm niên của thành viên HĐQT tương ứng với số
tuyệt đối là 7,6 năm, với mức nhỏ nhất là 1 năm và cao nhất là 11 năm như trường
hợp của Công ty Cổ phần Nam Việt (ANV). Trung bình có 8,4% thành viên HĐQT
có chuyên môn về kế toán tài chính.
Bên cạnh đó, trung bình BKS các công ty niêm yết Việt Nam có số lượng thành
viên theo số tuyệt đối là 3 người, với thâm niên 7,2 năm, 24,4% có trình độ chuyên
môn kế toán tài chính và tỷ lệ nữ là 44,6%.
4.3. Kết quả phân tích tương quan và hồi quy
4.3.1. Ma trận tương quan
Ma trận tương quan được sử dụng để phân tích tương quan nhằm xác định có
hay không có mối liên hệ tuyến tính giữa biến phụ thuộc CLTT kế toán và các biến
110
độc lập. Đồng thời, việc phân tích tương quan còn làm cơ sở để phát hiện hiện tượng
đa cộng tuyến trong mô hình nghiên cứu mà Luận án đã đề xuất. Hiện tượng đa cộng
tuyến là hiện tượng mà các biến độc lập trong mô hình có sự tương quan chặt với
nhau. Để loại bỏ hiện tượng này, đảm bảo tính chính xác của mô hình, tác giả thực
hiện kiểm tra tương quan giữa các biến sử dụng trong bài bằng tương quan hạng
Spearman. Luận án sử dụng tương quan Spearman do trong mô hình nghiên cứu có
một số biến không liên tục như KIEMNHIEM_HDQT, THUA_LO, BIG4. Kiểm định
T-statistics cho thấy, đối với mô hình đo lường CLTT kế toán thông qua quản trị lợi
nhuận, các biến chính SH_NHANUOC, SH_BGD, QUYMO_HDQT,
THAMNIEN_HĐQT, CHUYENMON_HDQT, QUYMO_BKS, THAMNIEN_BKS
có tác động lên biến phụ thuộc với cả 3 cách đo lường QTLN_1, QTLN_2 và
QTLN_3. Đối với mô hình đo lường CLTT kế toán thông qua sai sót trên BCTC, các
biến chính có ý nghĩa thống kê là SH_NHANUOC, SH_TOCHUC, SH_BGĐ,
QUYMO_HDQT, DOCLAP_HĐQT, KIEMNHIEM_HDQT, THAMNIEN_HDQT,
CHUYENMON_HDQT, GIOITINH_HĐQT, QUYMO_BKS, THAMNIEN_BKS,
CHUYENMON_BKS, trong đó các biến SH_NHANUOC, SH_TOCHUC,
SH_BGD, QUYMO_HDQT, KIEMNHIEM_HDQT, THAMNIEN_HDQT,
CHUYENMON_HDQT, QUYMO_BKS, THAMNIEN_BKS có ý nghĩa với cả 4
cách đo lường sai sót trên báo cáo tài chính.
Bảng 4.7 và 4.8 thể hiện ma trận tương quan các biến độc lập trong mô hình
nghiên cứu. Kết quả ma trận tương quan hạng Spearman xuất hiện cặp biến
THAMNIEN_HDQT và THAMNIEN_BKS có tương quan ở mức 0,55. Điều này cho
thấy có thể có khả năng xuất hiện hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình nghiên cứu.
Trong trường hợp xuất hiện cặp biến có tương quan cao, Luận án sử dụng thêm hệ số
VIF để kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến, đồng thời tách hai biến THAMNIEN_HDQT
và THAMNIEN_BKS để đảm bảo thận trọng với hiện tượng này.
BIG4
Các biến
THUA LO
QTLN _2
QTLN _3
QTLN _1
SH_ BGD
DON BAY
CF OA
KT NB
KIEM NHIEM _HDQT
THAM NIEN_ HDQT
CHUYEN MON_ BKS
DOC LAP_ HDQT
SH_ TO CHUC
THAM NIEN _BKS
GIOI TINH _BKS
QUY MO_ HDQT
SH_ NHA NUOC
QUY MO _BKS
111
CHUY EN MON_ HDQT
GIOI TINH _ HDQT
QTLN_1
1
QTLN_2
0,95*
1
QTLN_3
0,87*
0,91*
1
SH_NHANUOC
-0,07*
-0,06*
-0,05*
1
SH_TOCHUC
-0,02
-0,01
-0,01
-0,37*
1
SH_BGD
0,04*
0,03*
0,03*
-0,21*
-0,25*
1
QUYMO_HDQT
-0,05*
-0,06*
-0,06*
-0,09*
0,10*
-0,05*
1
DOCLAP_HDQT
0,00
-0,01
-0,01
0,02
0,07*
-0,14*
0,12*
1
KIEMNHIEM_HDQT
0,02
0,01
0,02
-0,12*
-0,15*
0,43*
-0,04*
-0,15*
1
THAMNIEN_HDQT
-0,05*
-0,05*
-0,06*
-0,04*
-0,07*
0,08*
0,16*
0,08*
0,04*
1
CHUYENMON_HDQT
-0,05*
-0,04*
-0,06*
0,08*
0,07*
-0,10*
0,11*
0,05*
-0,03*
0,00
1
GIOITINH_HDQT
-0,01
0,00
0,00
-0,07*
-0,02
0,09*
0,03*
-0,02
0,06*
0,02
0,09*
1
QUYMO_BKS
0,03*
0,03*
0,04*
0,18*
-0,13*
0,22*
-0,20*
-0,19*
0,09*
-0,33*
-0,03
-0,03*
1
THAMNIEN_BKS
-0,04*
-0,04*
-0,04*
0,03
-0,04*
0,03*
0,11*
0,13*
0,04*
0,55*
-0,03*
0,02
-0,23*
1
CHUYENMON_BKS
-0,01
0,00
-0,02
-0,03*
0,05*
-0,06*
0,08*
0,06*
-0,07*
0,04*
0,21*
0,04*
-0,14*
0,05*
1
GIOITINH_BKS
0,01
0,01
0,00
-0,06*
0,03*
-0,04*
0,04*
-0,01
-0,06*
0,00
0,08*
0,14*
-0,12*
-0,05*
0,12*
1
THUALO
0,02
0,01
0,01
-0,05*
-0,01
0,00
-0,02
0,03*
0,02
-0,04*
-0,02
-0,02
0,02
-0,05*
-0,02
-0,01
1
DONBAY
0,01
0,01
0,02
0,04*
-0,02
0,04*
-0,06*
-0,06*
-0,05*
0,03*
-0,08*
-0,13*
0,03
-0,04*
-0,06*
-0,10*
0,01
1
QUYMO_DN
-0,06*
-0,06*
-0,05*
-0,03*
0,16*
-0,15*
0,24*
0,00
-0,09*
0,01
0,07*
-0,03*
-0,07*
-0,06*
0,13*
0,00
-0,03*
0,33*
1
BIG4
-0,05*
-0,04*
-0,04*
-0,04*
0,27*
-0,12*
0,08*
0,04*
-0,09*
-0,07*
0,07*
-0,06*
0,03*
-0,02
0,09*
-0,08*
0,01
0,02
0,39*
1
CFOA
-0,05*
-0,05*
-0,03*
0,14*
0,06*
-0,11*
0,07*
0,05*
-0,07*
0,04*
0,05*
0,03*
0,00
0,07*
0,04*
-0,01
-0,06*
-0,25*
-0,05*
0,04*
1
KTNB
-0,05*
-0,04*
-0,05*
-0,02
0,05*
0,03
0,02
-0,02
0,00
-0,04*
0,02
0,08*
0,06*
-0,03*
0,07*
0,02
-0,01
-0,02
0,12*
0,07*
0,00
1
. *: p<0,1
Nguồn: Tác giả tổng hợp theo tính toán từ phần mềm Stata 14.2
Bảng 4.7. Ma trận tương quan Mô hình đo lường chất lượng thông tin kế toán thông qua quản trị lợi nhuận QUY MO _DN
112
Các biến
SAI_S OT_1
SAI_S OT_2
SAI_S OT_3
SAI_S OT_4
SH_ BGD
THU ALO
DON BAY
BIG 4
CF OA
KT NB
GIOI TINH_ HDQT
THAM NIEN_ HDQT
SH_ NHA NUOC
QUY MO__ HDQT
THAM NIEN _BKS
DOC LAP_ HDQT
SH_ TOCH UC
QUY MO _BKS
GIOI TINH _BKS
QUY MO_ DN
KIEM NHIE M_ HDQT
CHUY EN MON_ HDQT
CHU YEN MON _BKS
SAI_SOT_1
1
SAI_SOT_2
0,79*
1
SAI_SOT_3
0,92*
0,73*
1
SAI_SOT_4
0,72*
0,88*
0,83*
1
SH_NHANUOC
-0,05*
-0,06*
-0,05*
-0,04*
1
SH_TOCHUC
-0,09*
-0,08*
-0,09*
-0,08*
-0,37*
1
SH_BGD
0,07*
0,05*
0,06*
0,04*
-0,21*
-0,25*
1
QUYMO_HDQT
-0,06*
-0,07*
-0,07*
-0,08*
-0,09*
0,10*
-0,05*
1
DOCLAP_HDQT
0,00
-0,02
-0,02
-0,04*
0,02
0,07*
-0,14*
0,12*
1
KIEMNHIEM_HDQT
0,07*
0,07*
0,05*
0,05*
-0,12*
-0,15*
0,43*
-0,04*
-0,15*
1
THAMNIEN_HDQT
-0,07*
-0,08*
-0,07*
-0,08*
-0,04*
-0,07*
0,08*
0,16*
0,08*
0,04*
1
CHUYENMON_HDQT
-0,06*
-0,05*
-0,07*
-0,06*
0,08*
0,07*
-0,10*
0,11*
0,05*
-0,03*
0,00
1
GIOITINH_HDQT
-0,03*
-0,02
-0,03*
-0,02
-0,07*
-0,02
0,09*
0,03*
-0,02
0,06*
0,02
0,09*
1
QUYMO_BKS
0,04*
0,04*
0,04*
0,03*
0,18*
-0,13*
0,22*
-0,20*
-0,19*
0,09*
-0,33*
-0,03
-0,03*
1
THAMNIEN_BKS
-0,06*
-0,07*
-0,06*
-0,06*
0,03
-0,04*
0,03*
0,11*
0,13*
0,04*
0,55*
-0,03*
0,02
-0,23*
1
CHUYENMON_BKS
-0,04*
-0,03*
-0,03*
-0,03
-0,03*
0,05*
-0,06*
0,08*
0,06*
-0,07*
0,04*
0,21*
0,04*
-0,14*
0,05*
1
GIOITINH_BKS
-0,02
-0,03
-0,01
-0,02
-0,06*
0,03*
-0,04*
0,04*
-0,01
-0,06*
0,00
0,08*
0,14*
-0,12*
-0,05*
0,12*
1
THUALO
0,10*
0,09*
0,13*
0,14*
-0,05*
-0,01
0,00
-0,02
0,03*
0,02
-0,04*
-0,02
-0,02
0,02
-0,05*
-0,02
-0,01
1
DONBAY
0,13*
0,10*
0,12*
0,09*
0,04*
-0,02
0,04*
-0,06*
-0,06*
-0,05*
0,03*
-0,08*
-0,13*
0,03
-0,04*
-0,06*
-0,10*
0,01
1
QUYMO_DN
0,02
0,01
0,00
-0,01
-0,03*
0,16*
-0,15*
0,24*
0,00
-0,09*
0,01
0,07*
-0,03*
-0,07*
-0,06*
0,13*
0,00
-0,03*
0,33*
1
BIG4
-0,05*
-0,05*
-0,06*
-0,05*
-0,04*
0,27*
-0,12*
0,08*
0,04*
-0,09*
-0,07*
0,07*
-0,06*
0,03*
-0,02
0,09*
-0,08*
0,01
0,02
0,39*
1
CFOA
-0,17*
-0,16*
-0,17*
-0,16*
0,14*
0,06*
-0,11*
0,07*
0,05*
-0,07*
0,04*
0,05*
0,03*
0,00
0,07*
0,04*
-0,01
-0,06*
-0,25*
-0,05*
0,04*
1
KTNB
0,00
0,00
0,00
-0,02
-0,02
0,00
-0,04*
0,02
0,06*
-0,03*
0,07*
0,12*
0,07*
-0,01
-0,02
0,02
-0,00
1
0,01 *: p<0,1
0,05*
0,03
0,02
0,08* Nguồn: Tác giả tổng hợp theo tính toán từ phần mềm Stata 14.2
Bảng 4.8. Ma trận tương quan Mô hình đo lường chất lượng thông tin kế toán thông qua sai sót trên báo cáo tài chính
113
4.3.2. Kết quả hồi quy mô hình đo lường chất lượng thông tin kế toán thông qua
quản trị lợi nhuận
Mô hình đo lường CLTT kế toán thông qua quản trị lợi nhuận với 3 cách đo
lường biến quản trị lợi nhuận là QTLN_1, QTLN_2, QTLN_3 theo Jones (1991),
Dechow và cộng sự (1995), Kothari và cộng sự (2005) có kết quả cho thấy các giá trị
Prob đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1% tương ứng lần lượt giá trị thống kê F (36,
3698) = 5,66 với Prob > F = 0.0000, F (36, 3698) = 5,78 với Prob > F = 0.0000, F
(36, 3698) = 5,61 với Prob > F = 0.0000, thể hiện sự phù hợp của mô hình.
4.3.2.1. Kiểm định khuyết tật của mô hình
Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến
Bảng 4.9. Hệ số phóng đại phương sai VIF của biến độc lập
Biến VIF 1/VIF
THAMNIEN_HDQT 1,59 0,63
THAMNIEN_BKS 1,59 0,63
SH_TOCHUC 1,59 0,63
SH_NHANUOC 1,55 0,64
SH_BGD 1,55 0,65
QUYMO_DN 1,39 0,72
BIG4 1,28 0,78
KIEMNHIEM_HDQT 1,28 0,78
DONBAY 1,15 0,87
QUYMO_HDQT 1,10 0,91
CHUYENMON_BKS 1,10 0,91
CFOA 1,08 0,92
CHUYENMON_HDQT 1,08 0,92
DOCLAP_HDQT 1,07 0,94
GIOITINH_BKS 1,05 0,95
KTNB 1,03 0,97
QUYMO_BKS 1,02 0,98
THUALO 1,01 0,99
Mean VIF 1,25
Nguồn: Tác giả tổng hợp theo tính toán từ phần mềm Stata 14.2
114
Bảng 4.9 thể hiện các biến không có sự tương quan cao. Nếu một biến độc lập
có VIF lớn hơn hoặc bằng 10 thì biến đó được xem là có đa cộng tuyến với các biến
độc lập còn lại. Kết quả cho thấy hệ số VIF của biến độc lập đều có giá trị nhỏ. Tuy
nhiên nhằm thận trọng với hiện tượng đa cộng tuyến, kết hợp với việc bảng 4.7 xuất
hiện cặp biến có tương quan cao là THAMNIEN_HDQT và THAMNIEN_BKS ở
mức 0,55, tác giả tiến hành tách cặp biến này trong các mô hình nghiên cứu.
Kiểm định phương sai sai số thay đổi
Để kiểm định phương sai sai số thay đổi, tác giả sử dụng kiểm định Breusch –
Pagan.
Bảng 4.10. Kết quả kiểm định Breusch – Pagan mô hình đo lường chất lượng
thông tin kế toán thông qua quản trị lợi nhuận
Ho: Constant variance Ho: Constant variance Ho: Constant variance
Variables: fitted values Variables: fitted values of Variables: fitted values
of QTLN_3 QTLN_2 of QTLN_1
chi2(1) = 424.19 chi2(1) = 352.50 chi2(1) = 354.81
Prob > chi2 = 0.0000 Prob > chi2 = 0.0000 Prob > chi2 = 0.0000
Nguồn: Tác giả tổng hợp theo tính toán từ phần mềm Stata 14.2
Kết quả kiểm định cho thấy Prob có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Như vậy mô
hình xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi. Để khắc phục hiện tượng phương sai thay
đổi, như đã trình bày trong phần phương pháp nghiên cứu, tác giả sử dụng ước lượng
sai số chuẩn mạnh (robust standard errors).
4.3.2.2. Kết quả hồi quy
Bảng 4.11 trình bày kết quả hồi quy mô hình nghiên cứu đo lường CLTT kế
toán thông qua quản trị lợi nhuận với 3 biến phụ thuộc QTLN_1, QTLN_2, QTLN_3
theo Jones (1991), Dechow và cộng sự (1995), Kothari và cộng sự (2005) kết hợp
phương pháp sai số chuẩn mạnh do xuất hiện hiện tượng phương sai thay đổi. Để thận
trọng vấn đề đa cộng tuyến, Luận án đã tách cặp biến THAMNIEN_HDQT và
THAMNIEN_BKS.
115
Bảng 4.11. Kết quả hồi quy mô hình đo lường chất lượng thông tin kế toán thông qua quản trị lợi nhuận
QTLN_1 QTLN_1 QTLN_2 QTLN_2 QTLN_3 QTLN_3
SH_NHANUOC
SH_TOCHUC
SH_BGD
QUYMO_HDQT
DOCLAP_HDQT
KIEMNHIEM_HDQT
THAMNIEN_HDQT
CHUYENMON_HDQT
GIOITINH_HDQT
QUYMO_BKS
THAMNIEN_BKS CHUYENMON_BKS GIOITINH_BKS
-0,0214*** (-3,20) -0,00566 (-0,83) -0,0307 (-1,53) -0,0101 (-1,46) 0,00473 (0,66) -0,000164 (-0,05) -0,0131*** (-3,26) -0,0169* (-1,88) -0,00223 (-0,27) -0,00990 (-0,84) 0,00401 (0,91) 0,00261 (0,67)
-0,0214*** (-3,18) -0,00443 (-0,65) -0,0356* (-1,76) -0,0109 (-1,57) 0,00660 (0,93) -0,0000515 (-0,02) -0,0179** (-1,98) -0,00188 (-0,23) -0,00830 (-0,70) -0,00538* (-1,94) 0,00478 (1,08) 0,00253 (0,64)
-0,0191*** (-2,84) -0,00340 (-0,50) -0,0234 (-1,13) -0,0128* (-1,83) 0,00457 (0,63) -0,00106 (-0,34) -0,0132*** (-3,28) -0,0161* (-1,78) 0,000679 (0,08) -0,00944 (-0,78) 0,00448 (1,01) 0,00185 (0,47)
-0,0190*** (-2,83) -0,00217 (-0,32) -0,0283 (-1,36) -0,0136* (-1,94) 0,00644 (0,90) -0,000944 (-0,30) -0,0171* (-1,87) 0,00103 (0,13) -0,00783 (-0,64) -0,00550** (-1,99) 0,00526 (1,19) 0,00176 (0,45)
-0,0181*** (-2,72) -0,00257 (-0,38) -0,0178 (-0,87) -0,0121* (-1,78) 0,00312 (0,43) -0,000208 (-0,07) -0,0147*** (-3,70) -0,0189** (-2,10) -0,000553 (-0,07) -0,0105 (-0,86) 0,00165 (0,38) 0,00179 (0,46)
-0,0180*** (-2,71) -0,00122 (-0,18) -0,0232 (-1,13) -0,0130* (-1,90) 0,00518 (0,73) -0,0000814 (-0,03) -0,0200** (-2,21) -0,000169 (-0,02) -0,00869 (-0,71) -0,00620** (-2,28) 0,00251 (0,58) 0,00169 (0,44)
116
THUALO DONBAY QUYMO_DN BIG4
CFOA
KTNB _cons
Hiệu ứng cố định năm QTLN_1 0,00333 (0,46) -0,0000657 (-0,11) -0,00257** (-2,24) -0,00519* (-1,66) -0,0627*** (-3,17) -0,0237*** (-4,21) 0,214*** (6,37) Có QTLN_1 0,00405 (0,56) -0,0000852 (-0,14) -0,00278** (-2,42) -0,00488 (-1,57) -0,0640*** (-3,21) -0,0237*** (-4,19) 0,201*** (6,07) Có QTLN_2 0,0000120 (0,00) -0,000289 (-0,47) -0,00215* (-1,86) -0,00557* (-1,78) -0,0699*** (-3,52) -0,0229*** (-4,05) 0,214*** (6,29) Có QTLN_2 0,000735 (0,10) -0,000309 (-0,50) -0,00235** (-2,04) -0,00526* (-1,68) -0,0712*** (-3,57) -0,0228*** (-4,03) 0,201*** (6,00) Có QTLN_3 0,000388 (0,05) 0,0000614 (0,10) -0,00205* (-1,80) -0,00509* (-1,66) -0,0531*** (-2,63) -0,0231*** (-4,26) 0,213*** (6,32) Có QTLN_3 0,00118 (0,16) 0,0000392 (0,07) -0,00228** (-2,00) -0,00473 (-1,55) -0,0545*** (-2,68) -0,0230*** (-4,24) 0,199*** (5,98) Có
Trong đó: QTLN_1, QTLN_ 2, QTLN_3 lần lượt là giá trị tuyệt đối của khoản dồn tích tùy ý tính theo Jones (1991), Dechow và cộng sự (1995) và Kothari và cộng sự (2005), SH_NHANUOC, SH_TOCHUC, SH_BGD lần lượt là tỷ lệ sở hữu của Nhà nước, nhà đầu tư tổ chức và BGĐ, QUYMO_HDQT là quy mô HĐQT, KIEMNHIEM_HDQT là biến giả, bằng 1 khi chủ tịch HĐQT kiêm CEO, DOCLAP_HDQT là tỷ lệ thành viên độc lập, THAMNIEN_HDQT, CHUYENMON_HDQT, GIOITINH_HDQT là thâm niên, tỷ lệ thành viên có chuyên môn kế toán tài chính, tỷ lệ giới tính nữ của HĐQT, QUYMO_BKS, THAMNIEN_BKS, CHUYENMON_BKS, GIOITINH_BKS lần lượt là quy mô, thâm niên, tỷ lệ thành viên có chuyên môn kế toán tài chính và tỷ lệ giới tính nữ của BKS, THUA_LO bằng 1 nếu lợi nhuận trong 2 năm liền trước bé hơn 0, DON_BAY là đòn bẩy tài chính, QUYMO_DN là quy mô doanh nghiệp, BIG4 là biến giả, bằng 1 khi doanh nghiệp được kiểm toán bởi Big4, CFOA là dòng tiền hoạt động hiệu chỉnh bởi tổng tài sản đầu kỳ,KTNB là biến giả, bằng 1 khi doanh nghiệp có bộ phận kiểm toán nội bộ.
Có 3.735 Có 3.735 Hiệu ứng cố định ngành Số quan sát * p<0,10 Có 3.735 ** p<0,05 Có 3.735 *** p<0,01 Có 3.735 Có 3.735
Nguồn: Tác giả tổng hợp theo tính toán từ phần mềm Stata 14.2
117
Kết quả hồi quy mô hình đo lường chất lượng thông tin kế toán thông qua quản
trị lợi nhuận cho thấy cho thấy các biến về QTCT có ảnh hưởng tới CLTT kế toán
bao gồm các biến sở hữu Nhà nước, sở hữu BGĐ, quy mô HĐQT, thâm niên, chuyên
môn kế toán tài chính của thành viên HĐQT và thâm niên BKS. Trong đó, biến sở
hữu Nhà nước, thâm niên và chuyên môn kế toán tài chính của thành viên HĐQT,
thâm niên BKS có ý nghĩa trong tất cả mô hình nghiên cứu đo lường quản trị lợi
nhuận khác nhau.
Sở hữu Nhà nước: Kết quả nghiên cứu của Luận án cho thấy biến sở hữu Nhà
nước có ý nghĩa thống kê mạnh mức 1% ở tất cả mô hình nghiên cứu đề xuất, thể
hiện mối tương quan ngược chiều của sở hữu Nhà nước với hành vi quản trị lợi nhuận.
Điều này hàm ý các công ty có sở hữu Nhà nước càng lớn thì CLTT kế toán càng tốt,
hay các công ty có vốn Nhà nước có CLTT kế toán tốt hơn các công ty đa số vốn tư
nhân. Như vậy giả thuyết H1 được chấp nhận. Kết quả nghiên cứu đồng thuận với
Wang và Yung (2011), Kao (2014), và một số nghiên cứu tại Việt Nam của Nguyễn
Thu Hằng và cộng sự (2018), Nguyễn Thị Mai Anh (2019). Thứ nhất, Wang và Yung
(2011) lý giải rằng các công ty được Nhà nước rót vốn bên cạnh việc nhận được sự
bảo hộ của Nhà nước như hỗ trợ tín dụng, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, thì đi
kèm với đó là sự đánh đổi giữa lợi ích cổ đông với các mục tiêu chính trị hay lợi ích
cộng đồng, nói cách khác kết quả kinh doanh đôi khi không phải là mục tiêu hàng
đầu của đơn vị. Thực tế tại Việt Nam cho thấy các công ty có vốn Nhà nước nhìn
chung có CLTT kế toán tốt, như trường hợp Công ty Cổ phần xi măng Hà Tiên (HT1)
do tổng Công ty Cổ phần xi măng Hà Tiên sở hữu tới 79,7%, các khoản dồn tích bất
thường luôn ở ngưỡng thấp, nhận giá trị 0,0017 đối với thước đo theo mô hình Jones
(1991), cho dù kết quả kinh doanh không thực sự ấn tượng với ROA chỉ ở mức 4%.
Nguyên nhân được chỉ ra là các công ty có vốn Nhà nước này không chịu áp lực đáng
kể về kết quả kinh doanh so với các doanh nghiệp có vốn tư nhân. Sự bảo hộ của Nhà
nước cùng với vấn đề tập quyền, khiến cho BGĐ các công ty này không phải chịu áp
lực để phải thực hiện các hành vi điều chỉnh thông tin kế toán, làm hài lòng cổ đông,
bởi lẽ vai trò của cổ đông nhỏ lẻ là không đáng kể, trong khi cổ đông Nhà nước lại
sẵn sàng hy sinh lợi ích kinh tế cho mục tiêu chính trị. Điều này cũng phù hợp với lý
thuyết về tam giác gian lận của Cressey (1953) khi cho rằng gian lận chỉ xảy ra khi
118
hội tụ ba yếu tố cơ hội, áp lực, và thái độ, vậy nên khi áp lực không đủ lớn sẽ thiếu
động cơ xảy ra gian lận. Thứ hai, Nhà nước là một nhà đầu tư đặc biệt, các nhà quản
trị sẽ phải đối mặt với các vấn đề pháp lý nếu để xảy ra các vấn đề liên quan tới gian
lận. Thực tế ở Việt Nam, trong thời gian qua đã có nhiều lãnh đạo doanh nghiệp có
vốn Nhà nước bao gồm cả công ty niêm yết và chưa niêm yết phải chịu trách nhiệm
pháp lý với các hành vi gian lận, trục lợi vốn Nhà nước như tại công ty bia rượu nước
giải khát Sài Gòn (SAB), Công ty Cổ phần hóa dầu và nhiên liệu sinh học dầu khí
Phú Thọ (PVB). Trong bối cảnh Nhà nước đang đẩy mạnh việc chống tham nhũng,
các nhà quản trị tại các đơn vị sử dụng vốn và ngân sách Nhà nước sẽ e ngại trong
việc thực hiện hành vi làm sai lệch thông tin kế toán, qua đó đảm bảo CLTT kế toán.
Sở hữu BGĐ: Biến sở hữu của BGĐ có ý nghĩa thống kê thấp, với mức ý nghĩa
10% ở mô hình đo lường CLTT kế toán thông qua quản trị lợi nhuận theo Jones
(1991) và không có ý nghĩa thống kê ở mô hình đo lường CLTT kế toán thông qua
quản trị lợi nhuận theo Dechow và cộng sự (1995), Kothari và cộng sự (2005). Kết
quả thể hiện tương quan âm giữa sở hữu của BGĐ và sai sót trên BCTC, hàm ý các
công ty có sở hữu của BGĐ càng lớn thì CLTT kế toán càng tốt. Như vậy giả thuyết
H3 được chấp nhận. Kết quả này đồng thuận với nghiên cứu của Loebbecke (1989),
Kao (2014), Anwar và Buvanendra (2019), và một số nghiên cứu tại Việt Nam như
Nguyễn Thu Hằng và cộng sự (2018). Điều này được lý giải rằng khi sở hữu của
BGĐ càng cao, vấn đề người đại diện được giải quyết, vì thế làm hạn chế các hành
vi sai phạm (Warfield và cộng sự, 1995). Lúc này, sở hữu của BGĐ đủ lớn đồng nghĩa
với việc BGĐ dường như lãnh đạo chính công ty của mình, do đó gắn chặt lợi ích
kinh tế cá nhân và lợi ích chung của doanh nghiệp. Thay vì tư lợi, BGĐ sẽ cố gắng
điều hành công ty hiệu quả để làm gia tăng giá trị tài sản của đơn vị, qua đó đồng thời
gia tăng thu nhập của bản thân từ lương thưởng và phần tăng trưởng giá trị cổ phiếu
mà bản thân sở hữu. Trên góc độ yếu tố động cơ/ áp lực theo Lý thuyết Tam giác gian
lận của Cressey (1953), việc sở hữu cổ phần công ty càng lớn đồng nghĩa với việc
BGĐ sẽ hạn chế được áp lực giải trình kết quả hoạt động kinh doanh với các cổ đông
nhỏ lẻ khác, thậm chí cả áp lực bị sa thải nếu đơn vị hoạt động không hiệu quả. Điều
này phần nào giúp BGĐ giảm thiểu động cơ điều chỉnh số liệu, sẵn sàng cung cấp
thông tin kế toán trung thực, qua đó giúp đảm bảo CLTT kế toán của đơn vị.
119
Quy mô HĐQT: Kết quả hồi quy cho thấy biến quy mô của HĐQT có ý nghĩa
yếu ở mức 10% trong mô hình đo lường CLTT kế toán thông qua quản trị lợi nhuận
theo Dechow và cộng sự (1995), Kothari và cộng sự (2005), thể hiện tương quan âm,
hàm ý công ty có HĐQT càng lớn thì CLTT kế toán càng tốt. Kết quả này phù hợp
với nghiên cứu của Xie và cộng sự (2003) và Fathi (2013) khi cho rằng HĐQT có
quy mô lớn sẽ phát huy hiệu quả chức năng giám sát, tập hợp được nhiều ý kiến và
kinh nghiệm của các nhà chuyên môn, do đó hạn chế được hành vi điều chỉnh thông
tin BCTC của BGĐ, nâng cao CLTT kế toán.
Thâm niên HĐQT: Kết quả nghiên cứu cho thấy biến thâm niên HĐQT có ý
nghĩa thống kê mạnh ở mức 1% trong tất cả mô hình nghiên cứu đề xuất, thể hiện
mối tương quan ngược chiều của thâm niên HĐQT với hành vi quản trị lợi nhuận.
Điều này hàm ý công ty có HĐQT có thâm niên càng lâu thì CLTT kế toán càng cao,
như vậy giả thuyết H7 được chấp nhận. Kết quả này đồng thuận với nghiên cứu của
Ghosh và cộng sự (2010), Keehwan Kim và Joon SunYang (2014). Nguyên nhân
được chỉ ra là việc các thành viên HĐQT có thâm niên công tác thể hiện thời gian
gắn bó lâu năm của các thành viên này với công ty, từ đó cho thấy mức độ hiểu biết
về hoạt động kinh doanh, về hoạt động của ban điều hành cũng như cơ chế thông tin
kế toán của đơn vị. Sự am hiểu về chính công ty giúp tăng cường hiệu quả chức năng
giám sát của đơn vị khi mà những thành viên này được kỳ vọng đủ sự quen thuộc và
kinh nghiệm để nhận biết những vấn đề của đơn vị, bao gồm cả vấn đề liên quan tới
thông tin kế toán được cung cấp bởi nhà điều hành. Điều này giúp HĐQT phát huy
được ưu thế kiểm soát thông qua việc ngăn ngừa, phát hiện các hành vi điều chỉnh số
liệu kế toán, làm đẹp BCTC nhằm che giấu các vấn đề kinh doanh của nhà điều hành.
Như vậy, việc các thành viên HĐQT có thâm niên gắn bó với công ty được coi là yếu
tố hạn chế cơ hội thực hiện hành vi sai phạm trong việc tạo lập và công bố thông tin
của nhà điều hành. Điều này phù hợp với lý thuyết về tam giác gian lận của Cressey
(1953) khi cho rằng gian lận chỉ xảy ra khi hội tụ ba yếu tố cơ hội, áp lực, và thái độ,
vậy nên khi hệ thống kiểm soát vận hành tốt sẽ khiến sai phạm không có cơ hội để
phát sinh, qua đó giúp đảm bảo CLTT kế toán.
Chuyên môn của HĐQT: Kết quả nghiên cứu cho thấy biến chuyên môn
HĐQT có ý nghĩa thống kê ở mức 5-10% trong mô hình đo lường CLTT kế toán
120
thông qua quản trị lợi nhuận theo nghiên cứu của Jones (1991), Dechow và cộng sự
(1995), Kothari và cộng sự (2005), thể hiện mối tương quan ngược chiều của đặc
điểm về chuyên môn kế toán tài chính HĐQT với hành vi quản trị lợi nhuận. Điều
này hàm ý HĐQT càng có nhiều thành viên có chuyên môn về kế toán tài chính thì
công ty có CLTT kế toán càng cao, như vậy giả thuyết H8 được chấp nhận. Kết quả
này đồng thuận với nghiên cứu của Qinghua và cộng sự (2007), Skousen và Wright
(2008). Bên cạnh vấn đề thâm niên gắn bó, việc HĐQT có chuyên môn trong lĩnh
vực kế toán tài chính được kỳ vọng sẽ tăng cường khả năng ngăn ngừa, phát hiện sai
sót trên BCTC. Các hành vi điều chỉnh báo cáo kế toán thường được hiện tinh vi,
thông qua các bút toán phức tạp. Do vậy các thành viên HĐQT có chuyên môn nghiệp
vụ về kế toán, tài chính được xem là có ưu thế hơn so với các thành viên còn lại trong
việc ngăn ngừa hoặc phát hiện các hành vi này. Nói cách khác, việc HĐQT có chuyên
môn kế toán tài chính sẽ phát huy hiệu quả chức năng giám sát của HĐQT, hạn chế
cơ hội phát sinh điều chỉnh thông tin kế toán, qua đó giúp đảm bảo CLTT kế toán tại
đơn vị.
Thâm niên của BKS: Kết quả hồi quy cho thấy biến thâm niên của BKS có ý
nghĩa ở mức 5% trong mô hình đo lường CLTT kế toán theo Dechow và cộng sự (1995),
Kothari và cộng sự (2005), ý nghĩa ở mức 10% đối với mô hình đo lường CLTT kế toán
theo Jones (1991). Như vậy giả thuyết H11 được chấp nhận. Kết quả này hàm ý, công ty
có thành viên BKS càng có thâm niên thì CLTT kế toán càng tốt. Kết quả này đồng thuận
với nghiên cứu của Chen và cộng sự (2006) khi cho rằng thâm niên của các thành viên
BKS phản ánh kinh nghiệm cũng như sự hiểu biết của thành viên đó với công ty, do đó
các thành viên đó có thể nắm rõ được hệ thống kiểm soát nội bộ của công ty, từ đó nâng
cao hiệu quả giám sát, làm tăng CLTT kế toán
4.3.3. Kết quả hồi quy mô hình đo lường chất lượng thông tin kế toán thông qua
sai sót trên báo cáo tài chính
Mô hình đo lường CLTT kế toán thông qua sai sót trên BCTC sử dụng phương
pháp hồi quy binary logistic, hay hồi quy nhị phân, được sử dụng để dự đoán mô hình
mà biến phụ thuộc dạng nhị phân 0 hoặc 1. Mô hình hồi quy logistic nhằm ước lượng
ảnh hưởng của các nhân tố đến xác suất doanh nghiệp sai sót trên BCTC. Kết quả
121
kiểm định cho thấy cả 4 mô hình với 4 thước đo sai sót trên BCTC là SAI_SOT_1,
SAI_SOT_2, SAI_SOT_3, SAI_SOT_4 đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1% tương
ứng lần lượt LR chi2(36) = 383,74, Prob > chi2 = 0.0000, LR chi2(36) = 324,74 Prob
> chi2 = 0.0000, LR chi2(36) = 410,58 Prob > chi2 = 0.0000, LR chi2(36) = 380.56
Prob > chi2 = 0.0000.
Bên cạnh đó, để kiểm tra sự phù hợp của mô hình, tác giả sử dụng thêm kiểm
định Hosmer và Lemeshow, theo đó kết quả tần suất dự đoán và tần suất quan sát
càng gần nhau thì mô hình càng phù hợp. Kiểm định Hosmer-Lemeshow sử dụng
thống kê Pearson chi-square từ bảng tần suất dự đoán và tần suất quan sát để tính toán
giá trị p-value. Với kỳ vọng giá trị p-value đủ lớn để mô hình cho thấy không có sự
khác biệt giữa giá trị quan sát và giá trị dự đoán.
Bảng 4.12. Kết quả kiểm định Hosmer-Lemeshow mô hình đo lường chất
lượng thông tin kế toán thông qua sai sót trên báo cáo tài chính
SAI_SOT_1 SAI_SOT_2 SAI_SOT_3 SAI_SOT_4
HosmerLemeshow HosmerLemeshow HosmerLemeshow HosmerLemeshow
Prob>chi2=0,5063 Prob>chi2=0,7160 Prob>chi2=0,4719 Prob>chi2=0,5814
Nguồn: Tác giả tổng hợp theo tính toán từ phần mềm Stata 14.2
Kết quả kiểm định Hosmer-Lemeshow cho thấy p-value >5%, do đó mô hình
đang xem xét là phù hợp.
4.3.3.1. Kiểm định khuyết tật của mô hình
Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến
Tương tự mô hình đo lường CLTT kế toán thông qua quản trị lợi nhuận, bảng
4.9 cho thấy hệ số VIF của các biến trong mô hình thấp. Tuy nhiên nhằm thận trọng
với hiện tượng đa cộng tuyến được thể hiện ở bảng 4.8 ma trận tương quan, tác giả
tiến hành tách hai biến có tương quan cao là THAMNIEN_HDQT và
THAMNIEN_BKS đối với mô hình đo lường CLTT kế toán thông qua sai sót trên
BCTC
122
Kiểm định phương sai sai số thay đổi
Theo Wooldridge (2015), quy trình kiểm tra hiện tượng phương sai sai số thay
đổi trong mô hình logit có thể được thực hiện bằng cách ước lượng mô hình logit
chuẩn để nhận lấy chỉ số dự báo của mỗi biến giải thích, sau đó ước lượng mô hình
logit mở rộng bằng cách thêm các giá trị biến giải thích dự báo, từ đó thực hiện kiểm
tra ý nghĩa thống kê kết hợp của các thành phần tương tác. Kết quả kiểm định cho
thấy tại 4 mô hình đo lường CLTT kế toán bằng sai sót BCTC nhận giá trị lần lượt
Prob > chi2 0,7069; Prob > chi2 0,1341, Prob > chi2 0.7624 và Prob > chi2 = 0,0929,
cho thấy không có hiện tượng phương sai thay đổi.
Như vậy, mô hình đo lường CLTT kế toán thông qua sai sót trên BCTC được
coi là phù hợp, và có thể được sử dụng để đo lường ảnh hưởng của các yếu tố thuộc
QTCT lên CLTT kế toán.
4.3.3.2. Kết quả hồi quy
Bảng 4.13 thể hiện kết quả hồi quy của mô hình đo lường đo lường CLTT kế
toán kế toán thông qua sai sót trên BCTC. Do thận trọng vấn đề đa cộng tuyến, Luận
án đã tách cặp biến THAMNIEN_HDQT và THAMNIEN_BKS. Vì vậy, tương tự
mô hình đo lường CLTT kế toán thông qua quản trị lợi nhuận, mô hình đo lường
CLTT kế toán thông qua sai sót trên BCTC được chia thành các mô hình trong đó có
sự tách biệt hai biến độc lập là THAMNIEN_HDQT và THAMNIEN_BKS và với 4
biến phụ thuộc SAI_SOT_1, SAI_SOT_2, SAI_SOT_3, SAI_SOT_4.
Kết quả hồi quy cho thấy các biến về QTCT có ảnh hưởng tới CLTT kế toán
bao gồm các biến sở hữu Nhà nước, sở hữu tổ chức, sở hữu Ban giám đốc, quy mô,
tính độc lập của HĐQT, thâm niên, chuyên môn kế toán tài chính, giới tính của thành
viên HĐQT và thâm niên BKS. Trong đó, biến sở hữu Nhà nước, sở hữu cổ đông tổ
chức, quy mô HĐQT, thâm niên của thành viên HĐQT và BKS có ý nghĩa trong tất
cả mô hình nghiên cứu đo lường sai sót trên BCTC khác nhau.
123
SAI_SOT_1 SAI_SOT_1 SAI_SOT_2 SAI_SOT_2 SAI_SOT_3 SAI_SOT_3 SAI_SOT_4 SAI_SOT_4
Bảng 4.13. Kết quả hồi quy mô hình đo lường chất lượng thông tin kế toán thông qua sai sót trên báo cáo tài chính
SH_NHANUOC
SH_TOCHUC
SH_BGĐ
QUYMO_HDQT
DOCLAP_HDQT
KIEMNHIEM_HDQT
THAMNIEN_HDQT
CHUYENMON_HDQT
GIOITINH_HDQT
QUYMO_BKS
THAMNIEN_BKS CHUYENMON_BKS GIOITINH_BKS
-1.180*** (-5.16) -1.247*** (-5.24) -0.179 (-0.28) -0.638*** (-2.74) -0.288 (-1.23) 0.0634 (0.61) -0.560*** (-4.96) -0.659* (-1.91) -0.556** (-2.08) 0.112 (0.30) -0.0789 (-0.51) 0.0793 (0.59)
-1.183*** (-5.18) -1.193*** (-5.03) -0.388 (-0.61) -0.682*** (-2.94) -0.209 (-0.90) 0.0708 (0.68) -0.712** (-2.06) -0.553** (-2.07) 0.181 (0.49) -0.267*** (-2.98) -0.0478 (-0.31) 0.0790 (0.59)
-1.402*** (-5.35) -1.504*** (-5.48) -0.934 (-1.29) -0.753*** (-2.82) -0.442* (-1.67) 0.168 (1.44) -0.646*** (-5.11) -0.411 (-1.05) -0.377 (-1.24) 0.157 (0.37) -0.0434 (-0.25) -0.119 (-0.77)
-1.401*** (-5.35) -1.448*** (-5.30) -1.168 (-1.61) -0.805*** (-3.02) -0.363 (-1.38) 0.181 (1.56) -0.489 (-1.24) -0.380 (-1.25) 0.242 (0.57) -0.366*** (-3.62) -0.00776 (-0.04) -0.116 (-0.76)
-1.037*** (-4.73) -1.207*** (-5.28) -0.547 (-0.87) -0.642*** (-2.85) -0.571** (-2.51) 0.0228 (0.23) -0.582*** (-5.37) -0.749** (-2.26) -0.426* (-1.67) 0.151 (0.42) -0.000930 (-0.01) 0.0539 (0.42)
-1.041*** (-4.76) -1.150*** (-5.06) -0.760 (-1.22) -0.688*** (-3.07) -0.485** (-2.15) 0.0288 (0.29) -0.798** (-2.41) -0.420* (-1.65) 0.225 (0.63) -0.262*** (-3.07) 0.0313 (0.21) 0.0534 (0.41)
-1.166*** (-4.84) -1.429*** (-5.64) -1.159* (-1.68) -0.749*** (-3.00) -0.794*** (-3.19) 0.0540 (0.49) -0.646*** (-5.50) -0.590 (-1.61) -0.263 (-0.94) 0.176 (0.45) 0.0486 (0.30) -0.117 (-0.82)
-1.168*** (-4.86) -1.370*** (-5.44) -1.395** (-2.03) -0.800*** (-3.22) -0.707*** (-2.86) 0.0640 (0.58) -0.656* (-1.79) -0.259 (-0.93) 0.261 (0.65) -0.334*** (-3.57) 0.0842 (0.52) -0.115 (-0.81)
124
THUALO DONBAY QUYMO_DN BIG4
CFOA
SAI_SOT_1 SAI_SOT_1 SAI_SOT_2 SAI_SOT_2 SAI_SOT_3 SAI_SOT_3 SAI_SOT_4 SAI_SOT_4 0,985*** (5,35) 0,114*** (5,43) 0,0659 (1,64) -0,234* (-1,93) -2,043*** (-5,93) 0,157 (0,57) -0,443 (-0,38) Có
0,894*** (4,55) 0,112*** (5,19) 0,0298 (0,65) -0,172 (-1,22) -2,309*** (-5,92) 0,276 (0,91) -0,0824 (-0,06) Có
1,001*** (5,45) 0,112*** (5,37) 0,0561 (1,40) -0,222* (-1,83) -2,100*** (-6,10) 0,135 (0,49) -0,879 (-0,75) Có
0,882*** (4,49) 0,113*** (5,26) 0,0429 (0,93) -0,188 (-1,34) -2,246*** (-5,76) 0,305 (1,01) 0,269 (0,20) Có
1,271*** (6,90) 0,111*** (5,38) 0,0188 (0,49) -0,204* (-1,75) -2,009*** (-6,03) 0,280 (1,08) 1,198 (1,05) Có
1,289*** (7,01) 0,109*** (5,31) 0,00892 (0,23) -0,191 (-1,63) -2,069*** (-6,22) 0,261 (1,00) 0,702 (0,62) Có
1,346*** (7,22) 0,113*** (5,42) -0,0201 (-0,47) -0,114 (-0,87) -2,105*** (-5,76) 0,396 (1,41) 2,444* (1,94) Có
1,362*** (7,32) 0,112*** (5,34) -0,0324 (-0,76) -0,0968 (-0,74) -2,172*** (-5,95) 0,372 (1,32) 2,004 (1,59) Có
KTNB _cons Hiệu ứng cố định năm
Trong đó: SAI_SOT_1, SAI_SOT_2,SAI_SOT_3,SAI_SOT_4 là biến giả, bằng 1 lần lượt khi có chênh lệch lợi nhuận sau kiểm toán từ 5%, 10%, chênh lệch lợi nhuận sau kiểm toán từ 5% hoặc nhận ý kiến kiểm toán không phải chấp nhận toàn phần, chênh lệch lợi nhuận sau kiểm toán từ 10% hoặc nhận ý kiến kiểm toán không phải chấp nhận toàn phần, SH_NHANUOC, SH_TOCHUC, SH_BGD lần lượt là tỷ lệ sở hữu của Nhà nước, nhà đầu tư tổ chức và BGĐ, QUYMO_HDQT là quy mô HĐQT, KIEMNHIEM_HDQT là biến giả, bằng 1 khi chủ tịch HĐQT kiêm CEO, DOCLAP_HDQT là tỷ lệ thành viên độc lập, THAMNIEN_HDQT, CHUYENMON_HDQT, GIOITINH_HDQT là thâm niên, tỷ lệ thành viên có chuyên môn kế toán tài chính, tỷ lệ giới tính nữ của HĐQT, QUYMO_BKS, THAMNIEN_BKS, CHUYENMON_BKS, GIOITINH_BKS lần lượt là quy mô, thâm niên, tỷ lệ thành viên có chuyên môn kế toán tài chính và tỷ lệ giới tính nữ của BKS, THUA_LO bằng 1 nếu lợi nhuận trong 2 năm liền trước bé hơn 0, DON_BAY là đòn bẩy tài chính, QUYMO_DN là quy mô doanh nghiệp, BIG4 là biến giả, bằng 1 khi doanh nghiệp được kiểm toán bởi Big4, CFOA là dòng tiền hoạt động hiệu chỉnh bởi tổng tài sản đầu kỳ, KTNB là biến giả, bằng 1 khi doanh nghiệp có bộ phận kiểm toán nội bộ
Có 3.735 Có 3.735 Có 3.735 Có 3.735 Có 3.735 Hiệu ứng cố định ngành Số quan sát * p<0,10 Có 3.735 ** p<0,05 Có 3.735 *** p<0,01 Có 3.735
Nguồn: Tác giả tổng hợp theo tính toán từ phần mềm Stata 14.2
125
Sở hữu Nhà nước: Kết quả nghiên cứu của mô hình đo lường CLTT kế toán
thông qua sai sót trên BCTC cho thấy biến sở hữu Nhà nước có ý nghĩa thống kê
mạnh mức 1% ở tất cả mô hình nghiên cứu đề xuất, thể hiện mối tương quan ngược
chiều của sở hữu Nhà nước với khả năng phát sinh sai sót trên BCTC. Điều này hàm
ý các công ty có sở hữu Nhà nước càng lớn thì CLTT kế toán càng tốt. Kết quả nghiên
cứu này ủng hộ kết quả hồi quy đo lường CLTT kế toán qua quản trị lợi nhuận, cho
thấy tính vững của mối tương quan này.
Sở hữu cổ đông tổ chức: Kết quả nghiên cứu của Luận án cho thấy biến sở hữu
cổ đông tổ chức có ý nghĩa thống kê mạnh mức 1% ở mô hình đo lường CLTT kế
toán thông qua sai sót trên BCTC, thể hiện tương quan âm giữa sở hữu của cổ đông
tổ chức và sai sót trên BCTC. Điều này hàm ý các công ty có sở hữu cổ đông tổ chức
càng lớn thì CLTT kế toán càng tốt, hay các công ty được sở hữu bởi cổ đông tổ chức
có CLTT kế toán tốt hơn các công ty có đa số vốn góp từ cá nhân. Như vậy giả thuyết
H2 được chấp nhận. Do trong dữ liệu cổ đông tổ chức đã loại bỏ sở hữu của Nhà
nước, vì vậy kết quả không bị ảnh hưởng bởi sở hữu Nhà nước. Kết quả nghiên cứu
tương đồng với kết luận trong nghiên cứu của Jiambalvo và cộng sự (2002), Jiraporn
và Gleason (2007), và một số nghiên cứu tại Việt Nam của Nguyễn Thị Phương Hồng
(2016), Nguyễn Thị Mai Anh (2019). Điều này lý giải rằng sự có mặt của các nhà
đầu tư tổ chức đủ lớn sẽ giúp tăng cường giám sát hoạt động quản trị của BGĐ
(Cornett và cộng sự, 2008). Thông thường khi mua với lượng cổ phần lớn, mang tính
dài hạn, các nhà đầu tư tổ chức sẽ có động lực và cơ hội để giám sát hoạt động của
nhà điều hành như tham gia vào HĐQT, hoặc vào BKS. Điều này phù hợp với quy
định ở Nghị định số 71/2017/NĐ-CP hướng dẫn về QTCT áp dụng đối với công ty
đại chúng, theo đó nếu nhóm cổ đông sở hữu cổ phần phổ thông trong thời hạn liên
tục ít nhất 06 tháng có quyền đề cử ứng viên HĐQT. Như trường hợp Công ty cơ khí
Lữ Gia (LGC), chủ tịch và phó chủ tịch HĐQT đều là đại diện cho hai tổ chức sở hữu
cổ phần của Công ty Cổ phần cơ khí Lữ Gia, kết quả kiểm toán cũng cho thấy công
ty không có sai sót trọng yếu và nhận được ý kiến chấp nhận toàn phần từ đơn vị kiểm
toán. Khác với nhà đầu tư nhỏ lẻ phần lớn không chuyên, ít vốn và tâm lý dễ dao
động, các nhà đầu tư tổ chức được kỳ vọng là những nhà đầu tư dài hạn, chuyên
nghiệp, có khả năng phát hiện cách hành vi điều chỉnh thông tin kế toán từ BGĐ.
126
Điều này làm tăng cường hiệu quả chức năng kiểm gia giám sát, qua đó giúp đảm bảo
CLTT kế toán của đơn vị.
Sở hữu Ban giám đốc: Kết quả nghiên cứu của mô hình đo lường CLTT kế
toán thông qua sai sót trên BCTC cho thấy biến sở hữu Ban giám đốc có ý nghĩa
thống kê yếu ở mức 10% đối với mô hình sử dụng thước đo SAI_SOT_4, thể hiện
mối tương quan ngược chiều của sở hữu Ban giám đốc với khả năng phát sinh sai sót
trên BCTC. Điều này hàm ý các công ty có sở hữu Ban giám đốc càng lớn thì CLTT
kế toán càng tốt. Kết quả nghiên cứu này ủng hộ kết quả hồi quy đo lường CLTT kế
toán qua quản trị lợi nhuận theo Jones (1991).
Quy mô HĐQT: Kết quả hồi quy cho thấy biến quy mô của HĐQT có ý nghĩa
mạnh ở mức 1% trong tất cả mô hình đo lường CLTT kế toán thông qua sai sót trên
BCTC, thể hiện tương quan âm, hàm ý công ty có HĐQT càng lớn thì CLTT kế toán
càng tốt, đồng thuận với kết quả nghiên cứu mô hình đo lường CLTT kế toán thông
qua quản trị lợi nhuận. Kết quả nghiên cứu này ủng hộ kết quả hồi quy đo lường
CLTT kế toán qua quản trị lợi nhuận.
Tính độc lập của HĐQT: Kết quả hồi quy cho thấy biến tính độc lập của HĐQT
có ý nghĩa thống kế trong mô hình đo lường CLTT kế toán thông qua thước đo sai
sót trên BCTC với mức ý nghĩa 1% ở thước đo SAI_SOT_4, 5% ở thước đo
SAI_SOT_3 và 10% ở thước đo SAI_SOT_2 thể hiện tương quan âm, chấp nhận giả
thuyết H5. Kết quả hàm ý công ty có HĐQT càng độc lập thì CLTT kế toán càng tốt.
Kết quả này đồng thuận với nghiên cứu của Dimitropoulos và Asteriou (2010), Holtz
và cộng sự(2014) của Roden và cộng sự (2016), và một số kết quả nghiên cứu tại Việt
Nam của Nguyễn Trọng Nguyên (2015), Nguyễn Thị Phương Hồng (2016). Nguyên
nhân là các thành viên độc lập sẽ đảm bảo được tính khách quan trong việc đánh giá
hoạt động cũng như CLTT kế toán được cung cấp bởi nhà điều hành. Ngược lại, các
thành viên không độc lập bị đặt trong mối nghi ngờ về hiệu quả của chức năng kiểm
soát khi thực hiện kiểm tra, đánh giá hoạt động của chính bản thân. Trước tiên, việc
kiểm tra TTKT hay hoạt động được thực hiện bởi chính nhà điều hành có thể dẫn tới
tâm lý chủ quan do đó bỏ lọt, không phát hiện được sai sót phát sinh. Thứ hai, nếu
sai sót là hành vi cố tình được thực hiện bởi nhà điều hành nhằm che giấu các vấn đề
127
của đơn vị, trên cương vị là người giám sát, thành viên không độc lập có xu hướng
bao che, bỏ qua sai phạm của ban điều hành, dẫn đến CLTT kế toán kém, không đáng
tin cậy.
Thâm niên HĐQT: Kết quả nghiên cứu cho thấy biến thâm niên HĐQT có ý
nghĩa thống kê mạnh ở mức 1% trong tất cả mô hình đo lường CLTT kế toán dựa vào
sai sót trên BCTC, thể hiện mối tương quan ngược chiều của thâm niên HĐQT với
sai sót trên BCTC. Kết quả này đồng thuận với kết quả nghiên cứu của Mô hình đo
lường CLTT kế toán thông qua quản trị lợi nhuận, cho thấy tính vững của mối tương
quan này.
Chuyên môn của HĐQT: Kết quả nghiên cứu cho thấy biến chuyên môn
HĐQT có ý nghĩa thống kê ở mức 5%-10% trong mô hình sử dụng thước đo
SAI_SOT_1, SAI_SOT_3 và SAI_SOT_4, thể hiện mối tương quan ngược chiều của
đặc điểm về chuyên môn kế toán tài chính của HĐQT với sai sót trên BCTC. Điều
này hàm ý tỷ lệ thành viên HĐQT càng có chuyên môn về kế toán tài chính thì công
ty có CLTT kế toán càng cao. Kết quả này đồng thuận với kết quả nghiên cứu của mô
hình đo lường CLTT kế toán thông qua quản trị lợi nhuận.
Giới tính của Hội đồng quản trị: Kết quả nghiên cứu cho thấy biến giới tính
Hội đồng quản trị có ý nghĩa thống kê ở mức 5% trong mô hình sử dụng thước đo
SAI_SOT_1 và 10% trong mô hình sử dụng thước đo SAI_SOT_3, thể hiện mối
tương quan ngược chiều của đặc điểm về giới tính của Hội đồng quản trị với sai sót
trên báo cáo tài chính. Điều này hàm ý Hội đồng quản trị có tỷ lệ nữ giới càng cao thì
công ty có chất lượng thông tin kế toán càng tốt. Kết quả này ủng hộ quan điểm trước
đó của Thiruvadi và Huang (2011), Clatworthy và Peel (2013), Roden và cộng sự
(2016). Điều này được lý giải rằng phụ nữ có khả năng thực hiện tốt chức năng giám
sát hơn so với nam giới khi mà trong vai trò là thành viên Hội đồng quản trị, phụ nữ
có xu hướng giám sát chặt chẽ do lo ngại rủi ro phát sinh những vấn đề có thể ảnh
hưởng tới chất lượng thông tin kế toán. Mặt khác, phụ nữ có xu hướng coi trọng lý
luận đạo đức và không khoan nhượng với hành vi cơ hội do đó, họ không dễ bị thỏa
hiệp hoặc hành xử trái với các quy định đề ra.
128
Thâm niên của BKS: có ý nghĩa thống kê mạnh với mức ý nghĩa 1% đối với
mô hình đo lường CLTT kế toán thông qua sai sót trên BCTC với cả 4 cách đo lường
sai sót, thể hiện mối tương quan ngược chiều của đặc điểm về thâm niên của BKS với
CLTT kế toán. Kết quả này hàm ý thành viên BKS càng có thâm niên công tác thì
CLTT kế toán càng tốt. Kết quả này đồng thuận với kết quả của mô hình đo lường
CLTT kế toán thông qua quản trị lợi nhuận. Việc BKS có thâm niên thể hiện sự hiểu
biết về đơn vị không chỉ giúp BKS ngăn chặn các hành vi quản trị lợi nhuận, mà còn
hạn chế hiện tượng sai sót trên BCTC.
4.4. Tổng hợp kết quả nghiên cứu tác động của quản trị công ty tới chất lượng thông
tin kế toán của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Từ các giả thuyết nghiên cứu được đề xuất ở chương 3 và kết quả hồi quy mô
hình nghiên cứu, bảng 4.14 tổng kết kết quả nghiên cứu tác động của QTCT tới chất
lượng thông tin kế toán của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam. Trong đó các
khía cạnh QTCT bao gồm cấu trúc sở hữu, đặc điểm HĐQT, đặc điểm BKS; CLTT
kế toán được đo lường thông qua mối tương quan ngược chiều với quản trị lợi nhuận
và sai sót trên BCTC.
Kết quả nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm cho thấy QTCT có ảnh
hưởng tới CLTT kế toán. Các biến thuộc cấu trúc sở hữu và đặc điểm của HĐQT có
ý nghĩa thống kê ở các mức khác nhau và với cách đo lường CLTT kế toán khác nhau.
Nhìn chung, các yếu tố thuộc QTCT có ảnh hưởng tới CLTT kế toán là: sở hữu Nhà
nước (SH_NHANUOC), sở hữu cổ đông tổ chức (SH_TOCHUC), sở hữu BGĐ
(SH_BGD), quy mô của HĐQT (QUYMO_HDQT), tính độc lập của HĐQT
(DOCLAP_HDQT), thâm niên công tác của HĐQT (THAMNIEN_HDQT), chuyên
môn kế toán tài chính của thành viên HĐQT (CHUYENMON_HDQT), giới tính của
thành viên HĐQT (GIOITINH_HDQT) và thâm niên công tác của BKS
(THAMNIEN_BKS). Các biến có ý nghĩa đều có dấu phù hợp với giả thuyết ban đầu.
129
Bảng 4.14. Tổng hợp kết quả nghiên cứu của Luận án
Giả thuyết nghiên cứu Quản trị lợi Sai sót trên Kết quả
nhuận BCTC
Tác động của cấu trúc sở hữu tới CLTT kế toán
H1: Công ty có sở hữu của Nhà - - Chấp
nước càng lớn thì CLTT kế toán nhận
càng cao.
H2: Công ty có sở hữu của cổ đông Không có ý - Chấp
tổ chức càng lớn thì CLTT kế toán nghĩa thống kê nhận
càng cao.
H3: Công ty có sở hữu của BGĐ - - Chấp
càng lớn thì CLTT kế toán càng nhận
cao.
Tác động của đặc điểm HĐQT tới CLTT kế toán
H4: Công ty có quy mô HĐQT - - Chấp
càng lớn thì CLTT kế toán càng nhận
cao
H5: Công ty có HĐQT càng độc Không có ý - Chấp
lập thì CLTT kế toán càng cao nghĩa thống kê nhận
H6: Công ty không có tình trạng Không có ý Không có ý Bác bỏ
Chủ tịch HĐQT kiêm giám đốc nghĩa thống kê nghĩa thống kê
điều hành thì CLTT kế toán sẽ cao.
H7: Công ty có HĐQT càng có - - Chấp
thâm niên thì CLTT kế toán càng nhận
cao
H8: Công ty có tỷ lệ thành viên - - Chấp
HĐQT có chuyên môn trong lĩnh nhận
vực tài chính kế toán càng cao thì
CLTT kế toán càng cao.
130
Giả thuyết nghiên cứu Quản trị lợi Sai sót trên Kết quả
nhuận BCTC
H9: Công ty có tỷ lệ thành viên nữ Không có ý - Chấp
trong HĐQT càng lớn thì CLTT kế nghĩa thống kê nhận
toán càng cao.
Tác động của đặc điểm BKS tới CLTT kế toán
H10: Công ty có quy mô BKS càng Không có ý Không có ý Bác bỏ
lớn, CLTT kế toán càng cao. nghĩa thống kê nghĩa thống kê
H11: Công ty có BKS càng có - - Chấp
nhận thâm niên thì CLTT kế toán càng
cao
H12: Công ty có tỷ lệ thành viên Không có ý Không có ý Bác bỏ
BKS có chuyên môn trong lĩnh vực nghĩa thống kê nghĩa thống kê
tài chính kế toán càng cao thì
CLTT kế toán càng cao.
H13: Công ty có tỷ lệ thành viên nữ Không có ý Không có ý Bác bỏ
trong BKS càng lớn thì CLTT kế nghĩa thống kê nghĩa thống kê
toán càng cao.
Nguồn: tác giả tổng hợp
4.4.1. Tác động của cấu trúc sở hữu tới chất lượng thông tin kế toán
Nhìn chung, các biến về cấu trúc sở hữu đều có ảnh hưởng tới CLTT kế toán.
Trong các biến về cấu trúc sở hữu, sở hữu Nhà nước là biến có ý nghĩa thống
kê mạnh nhất trên cả hai cách đo lường CLTT kế toán, là quản trị lợi nhuận và sai sót
trên BCTC. Mối quan hệ mang tương quan âm này cho thấy ảnh hưởng tích cực của
sở hữu Nhà nước lên chất lượng thông tin BCTC. Điều này phù hợp với thực tiễn
nước ta hiện nay khi mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhà nước vẫn nhận được sự
bảo hộ đáng kể từ Nhà nước về vấn đề cơ chế và tài chính. Đặc thù chung của doanh
nghiệp Nhà nước là mục tiêu hoạt động của các doanh nghiệp này bên cạnh lợi nhuận
còn mang tính chính trị, do vậy những công ty này trong nhiều trường hợp sẵn sàng
hy sinh lợi ích kinh tế để thực hiện nhiệm vụ xã hội. Điều này khiến các nhà quản trị
131
không quá áp lực trong việc báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp mình vì
vậy làm giảm đáng kể động cơ điều chỉnh TTKT trên BCTC. Bên cạnh đó, nhà quản
trị tại các doanh nghiệp Nhà nước còn chịu ràng buộc bởi các quy định pháp luật
mang tính răn đe với chế tài nghiêm tắc trong việc sử dụng vốn Nhà nước sai mục
đích và báo cáo che giấu sai phạm, từ đó hạn chế hành vi điều chỉnh thông tin trên
BCTC.
Liên quan đến sở hữu của các nhà đầu tư tổ chức, kết quả có ý nghĩa thống kê
đối với CLTT kế toán khi đo lường thông qua sai sót trên BCTC. Kết quả cho thấy
vai trò tích cực của các cổ đông tổ chức đối với việc hạn chế sai sót trên BCTC. Với
số vốn đủ lớn, cổ đông tổ chức có thể tham gia vào việc quản trị doanh nghiệp. Cùng
với kiến thức, chuyên môn và kinh nghiệm, các tổ chức này có thể phát huy hiệu quả
khả năng giám sát, qua đó hạn chế vấn đề sai sót trên BCTC. Tuy vậy dường như các
nhà đầu tư tổ chức mới chỉ dừng ở mức độ kiểm soát sự sai sót của báo cáo mà chưa
thực sự quan tâm đến sự điều chỉnh lợi nhuận bằng cách thay đổi các phương pháp
kế toán.
Liên quan đến yếu tố sở hữu của BGĐ, Luận án đã chỉ ra bằng chứng về ảnh hưởng
tích cực của sở hữu BGĐ lên chất lượng thông tin BCTC. Với số lượng cổ phần đủ lớn,
vấn đề người đại diện được giải quyết, BGĐ dường như lãnh đạo doanh nghiệp của chính
mình, vì vậy sẽ hạn chế hành vi tư lợi. Mặt khác, BGĐ lúc này không phải chịu áp lực
của việc sa thải khi kết quả kinh doanh của doanh nghiệp không tốt, qua đó giảm động
cơ điều chỉnh TTKT trên BCTC.
4.4.2. Tác động của đặc điểm Hội đồng quản trị tới chất lượng thông tin kế toán
Kết quả hồi quy cho thấy có năm yếu tố thuộc đặc điểm HĐQT có tác động tới
CLTT kế toán là quy mô, tính độc lập, thâm niên, chuyên môn kế toán tài chính và
giới tính của HĐQT. Trong đó, biến quy mô HĐQT, thâm niên và chuyên môn kế
toán tài chính của thành viên HĐQT có ý nghĩa thống kê trên cả mô hình đo lường
CLTT kế toán thông qua quản trị lợi nhuận và sai sót trên BCTC.
Đối với quy mô HĐQT, số lượng thành viên trong Hội đồng đóng một vai trò
hạn chế hành vi thao túng lợi nhuận và sai sót trên BCTC. HĐQT có quy mô lớn sẽ
giúp hạn chế sự tập quyền, khả năng thỏa hiệp, cấu kết trong nội bộ gây phương hại
132
lợi ích chủ sở hữu, đồng thời giúp giảm thiểu chi phí đại diện. Mặt khác, số lượng
thành viên HĐQT càng đông sẽ càng đa dạng về kinh nghiệm, chuyên môn, từ đó
giúp nâng cao hiệu quả giám sát, hạn chế cơ hội để Ban giám đốc thực hiện hành vi
điều chỉnh thông tin BCTC, phương hại lợi ích của chủ sở hữu.
Mặt khác, kết quả nghiên cứu của đề tài chỉ ra vai trò tích cực của các thành
viên độc lập tới chất lượng thông tin BCTC. Các thành viên độc lập được kỳ vọng sẽ
khách quan và không bị ảnh hưởng bởi nhà điều hành, vì vậy sẽ tăng cường hiệu quả
giám sát, giúp nâng cao chất lượng thông tin BCTC.
Ngoài ra, việc các thành viên HĐQT có thâm niên và chuyên môn trong lĩnh
vực tài chính kế toán thể hiện sự gắn bó, hiểu biết về hệ thống quản trị của đơn vị,
cũng như kinh nghiệm và có chuyên môn kiến thức nền tảng sẽ giúp tăng cường hiệu
quả của hoạt động giám sát, qua đó phát hiện, hạn chế các hành vi điều chỉnh báo
cáo, giúp nâng cao CLTT kế toán.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cho thấy vai trò quan trọng của thành viên nữ
trong HĐQT đối với việc nâng cao CLTT kế toán. Các thành viên nữ được đánh giá
cao trong vai trò kiểm soát khi họ có xu hướng giám sát chặt chẽ và không dễ thỏa
hiệp với các hành vi gian lận gây ảnh hưởng tới CLTT kế toán,
Kết quả nghiên cứu chưa cung cấp được bằng chức thực nghiệm về mối quan hệ
giữa biến kiêm nhiệm chức danh chủ tịch HĐQT và giám đốc điều hành với CLTT kế
toán. Kỳ vọng ban đầu của Luận án là việc không có sự kiêm nhiệm chức danh Chủ
tịch HĐQT và giám đốc sẽ phát huy hiệu quả chức năng giám sát của HĐQT, từ đó
đảm bảo CLTT kế toán. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của Nghị định số 71/2017/NĐ-CP
khi quy định không cho phép Chủ tịch HĐQT được kiêm nhiệm chức danh Giám đốc
(Tổng giám đốc) của cùng một công ty đại chúng dẫn đến tác động đặc trưng về tính
kiêm nhiệm tới CLTT kế toán trở nên không rõ ràng. Một số nghiên cứu trước đó cùng
không tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ này như, Bugshan (2005), Davidson và
cộng sự (2005), Bùi Văn Dương và Ngô Hoàng Điệp (2017), Nguyễn Thị Mai Anh
(2019).
133
4.4.3. Tác động của đặc điểm Ban kiểm soát tới chất lượng thông tin kế toán
Kết quả hồi quy cho thấy biến thâm niên BKS có ý nghĩa thống kê ở cả hai mô
hình đo lường CLTT kế toán bằng quản trị lợi nhuận và sai sót trên BCTC. Kết quả
nghiên cứu cung cấp bằng chứng về việc BKS có thâm niên công tác sẽ gắn bó và
nắm được các vấn đề của đơn vị, do đó tăng cường hiệu quả giám sát. Ngoài chức
năng giám sát tình hình hoạt động của công ty, BKS còn có trách nhiệm thay mặt cổ
đông giám sát hoạt động của các thành viên HĐQT, đồng thời phối hợp với hoạt động
của HĐQT, BGĐ và cổ đông. Do đó, tương tự HĐQT, các thành viên BKS cần có sự
hiểu biết cũng như kinh nghiệm, qua đó phát huy được hiệu quả giám sát, nâng cao CLTT
kế toán.
Các biến còn lại về đặc điểm BKS bao gồm quy mô, giới tính và chuyên môn
kế toán tài chính không có ý nghĩa thống kê, phần nào thể hiện vai trò hạn chế của
BKS hiện nay tại các công ty niêm yết. Kỳ vọng ban đầu của nghiên cứu là BKS có
quy mô lớn, có sự tham gia của nữ giới và thành viên có chuyên môn tài chính kế toán
sẽ giúp nâng cao CLTT kế toán. Tuy nhiên, số lượng kiểm soát viên của các công ty
niêm yết hiện nay khá ít do quy định của Nghị định số 71/2017/NĐ-CP khống chế số
lượng thành viên BKS tối thiểu 3 và tối đa 5, trong khi đó trưởng BKS phải là kế toán
viên hoặc kiểm toán viên chuyên nghiệp, dẫn đến chênh lệch về quy mô, giới tính cũng
như chuyên môn thành viên BKS không đáng kể. Vì vậy, tác động của các biến này
lên CLTT kế toán trở nên không rõ ràng. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của
Ran và cộng sự (2014), Xia và Zhao (2009).
4.4.4. Tác động của các biến kiểm soát tới chất lượng thông tin kế toán
Các biến kiểm soát được đưa vào mô hình đều có ý nghĩa thống kê, bao gồm
biến về chất lượng kiểm toán (BIG4), biến kiểm toán nội bộ (KTNB), biến thể hiện
thua lỗ trong hoạt động kinh doanh (THUA_LO), quy mô doanh nghiệp
(QUYMO_DN), dòng tiền hoạt động (CFOA) và đòn bẩy tài chính (DON_BAY).
Kết quả nghiên cứu cho thấy biến chất lượng kiểm toán có tác động tích cực
tới CLTT kế toán. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Becker (1998) ở thị trường
Mỹ, Kitiwong (2014) ở khu vực các quốc gia Đông Nam Á hay Nguyễn Thu Hằng
và cộng sự (2018) tại Việt Nam. Các công ty kiểm toán có chất lượng tốt như Big4
134
với nguồn lực và chuyên môn sẵn có được coi là luôn thận trọng trong việc đánh giá
sự trung thực và hợp lý của thông tin kế toán, do vậy sẽ hạn chế được những hành vi
điều chỉnh số liệu của nhà điều hành. Ngoài ra, việc các công ty có kiểm toán nội bộ
sẽ giúp tăng cường chất lượng kiểm soát nội bộ, qua đó tăng cường quản trị công ty
và hạn chế các hành vi quản trị lợi nhuận. Kết quả này đồng thuận với nghiên cứu
của García và cộng sự (2012). Các dấu hiệu về tài chính cũng cho thấy các doanh
nghiệp có quy mô tài sản lớn, không thua lỗ, ít vay nợ và có dòng tiền thuần từ hoạt
động kinh doanh lớn sẽ có CLTT kế toán tốt. phù hợp với các nghiên cứu trước đó
của các nghiên cứu của Beneish (1997), Peikun và Jing (2010), Anwar và Buvanendra
(2019). Các doanh nghiệp có quy mô lớn thường xem trọng việc xây dựng cơ chế
giám sát của nhà quản trị, do vậy hạn chế được các hành vi điều chỉnh thông tin kế
toán. Mặt khác, BGĐ các doanh nghiệp có kết quả kinh doanh lãi, hạn chế vay nợ và
có dòng tiền hoạt động kinh doanh lớn sẽ không gặp áp lực phải làm đẹp BCTC để
làm hài lòng cổ đông, do vậy các doanh nghiệp này sẽ có CLTT kế toán tốt.
Như vậy, bên cạnh việc phân tích thực trạng chất lượng thông tin kế toán của
các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2010-
2020, Luận án đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm về tác động của QTCT tới CLTT
kế toán của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy
tác động tích cực của QTCT tới CLTT kế toán. Cụ thể, trên góc độ cấu trúc sở hữu,
các công ty được sở hữu bởi các cổ đông Nhà nước, cổ đông tổ chức và có tỷ lệ sở
hữu của BGĐ càng cao thì CLTT kế toán sẽ tốt. Trên góc độ đặc điểm của HĐQT và
BKS, HĐQT quy mô lớn, độc lập, thành viên HĐQT có thâm niên và chuyên môn kế
toán tài chính, có tỷ lệ thành viên nữ cao, thành viên BKS có thâm niên sẽ có hiệu
quả giám sát tốt, qua đó hạn chế các hành vi điều chỉnh lợi nhuận và các sai sót trên
BCTC. Kết quả nghiên cứu là cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện
QTCT tại các công ty niêm yết, qua đó nâng cao CLTT kế toán.
135
CHƯƠNG 5
HOÀN THIỆN QUẢN TRỊ CÔNG TY NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
THÔNG TIN KẾ TOÁN CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
5.1. Định hướng nâng cao chất lượng thông tin kế toán trong quá trình phát
triển và hội nhập
Nâng cao chất lượng TTKT là mục tiêu gắn liền với việc phát triển kinh tế quốc
gia. TTKT không chỉ là thông tin mang tính nội bộ doanh nghiệp mà còn là cơ sở của
việc ra quyết định của các đối tượng bên ngoài đơn vị có liên quan như chủ nợ, nhà
đầu tư, Nhà nước... Nhìn rộng hơn, chất lượng TTKT được đảm bảo giúp gia tăng uy
tín của đơn vị, tạo cơ hội cho các công ty tiếp cận các nguồn lực tài chính bên ngoài,
từ đó giảm chi phí sử dụng vốn và tăng giá trị doanh nghiệp. Nhà đầu tư hay chủ nợ
sẽ sẵn sàng đầu tư hoặc cho vay khi rủi ro về tính bất cân xứng thông tin bị hạn chế,
quyền lợi về tiếp cận và sử dụng thông tin của thành phần nội bộ và thành phần bên
ngoài là như nhau. Đối với cơ quan Nhà nước, việc các công ty cung cấp TTKT chất
lượng là cơ sở để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý, giám sát hoạt động của
doanh nghiệp nói riêng và thị trường vốn nói chung. Với thông tin chất lượng, TTCK
sẽ phát huy tốt vai trò là kênh dẫn vốn, thu hút nhà đầu tư trong và ngoài nước, từ đó
nâng cao năng lực cạnh tranh và uy tín ở mức độ quốc gia, mặt khác, giảm thiểu ảnh
hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới đối với nền kinh tế quốc gia.
Nhận thức được tầm quan trọng của TTKT, trong bối cảnh nhằm bắt kịp với yêu
cầu đổi mới theo hướng xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
và xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nhà nước đã ban hành hệ thống các văn bản về
hệ thống kế toán và kiểm toán Việt Nam. Cho đến này, chúng ta đã có Luật kế toán
Việt Nam (2015), hệ thống Chuẩn mực kế toán Việt Nam (2002), hệ thống Nghị định
hướng dẫn Luật Kế toán, hệ thống Thông tư. Trong đó, các quy định hiện hành đã và
đang từng bước hội nhập với hệ thống Chuẩn mực kế toán quốc tế. Trong bối cảnh
nước ta đã và đang tham gia vào các tổ chức kinh tế, chính trị khu vực và trên thế
giới, việc dùng chung một ngôn ngữ TTKT và đảm bảo chất lượng TTKT cung cấp
có ý nghĩa vô cùng cấp thiết, không chỉ với doanh nghiệp mà còn với nền kinh tế.
136
Chiến lược kế toán kiểm toán tầm nhìn tới năm 2030 được Thủ tướng chính phủ
đã phê duyệt theo Quyết định số 480/QĐ-TTg (2013) với các nhiệm vụ cụ thể:
Một là, nâng cao chất lượng hệ thống thông tin kinh tế, tài chính, ngân hàng
thông qua việc hoàn thiện và nghiêm túc thực thi các văn bản Luật kế toán, Luật kiểm
toán độc lập; cập nhật, hoàn thiện các hệ thống Chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù
hợp với sự đổi mới của Chuẩn mực kế toán quốc tế và đáp ứng yêu cầu quản lý nền
kinh tế thị trường của Việt Nam; hoàn thiện và tạo lập đầy đủ khuôn khổ pháp lý về
kiểm tra thực thi pháp luật kế toán, kiểm toán; về quản lý, giám sát hoạt động cũng
như thị trường kế toán, kiểm toán.
Hai là, tăng cường quản lý Nhà nước về kế toán, kiểm toán trên cơ sở đổi mới
cơ chế hoạt động, tăng cường lực lượng cho cơ quan quản lý Nhà nước về kế toán
kiểm toán của Bộ Tài chính, đồng thời nâng cao chất lượng quản lý nghề nghiệp, phù
hợp với thông lệ quốc tế, có sự kết hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý Nhà nước và
các tổ chức nghề nghiệp; đồng thời thiết lập cơ chế và hệ thống kiểm tra, giám sát
của Nhà nước đối với chất lượng công tác kế toán, kiểm toán thông tin trên báo cáo
tài chính của các đơn vị, qua đó nhằm tăng cường giám sát chất lượng báo cáo tài
chính, đảm bảo tính trung thực, hợp lý, minh bạch, xử lý nghiêm các sai phạm về lập
và trình bày báo cáo tài chính.
Ba là, phát triển mạnh thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán, tăng nhanh số
lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán và số lượng kế toán viên, kiểm toán viên hành nghề;
mở rộng thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán trong và ngoài nước; nâng cao chất
lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán; đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ kế toán, kiểm
toán, đáp ứng yêu cầu quản lý của nền kinh tế quốc dân.
Bốn là, phát triển nguồn nhân lực về kế toán, kiểm toán đủ về số lượng, đảm
bảo về chất lượng trên cơ sở triển khai hiệu quả các nội dung; đổi mới, tăng cường
công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng
các chương trình và bộ tài liệu chuẩn, phù hợp với thông lệ quốc tế về đào tạo, bồi
dưỡng, thi các chứng chỉ nghề nghiệp kế toán, kiểm toán.
Năm là, tăng cường hội nhập quốc tế, tạo dựng mối liên hệ chặt chẽ, thừa nhận
lẫn nhau giữa Việt Nam và các quốc gia trong khu vực, trên thế giới và các tổ chức
137
quốc tế; tham gia với tư cách là thành viên chính thức của các tổ chức nghề nghiệp
quốc tế; tham gia chủ động vào quá trình xây dựng các chuẩn mực báo cáo quốc tế
thông qua các diễn đàn trong khu vực và thế giới.
Sáu là, tăng cường tổ chức hệ thống thông tin thông qua việc thiết lập hệ thống
kết nối thông tin giữa giữa các cấp, đơn vị, các công ty cung cấp dịch vụ kế toán,
kiểm toán; tổ chức và phát triển trang điện tử của cơ quan quản lý, giám sát của tổ
chức nghề nghiệp, tiến đến tổ chức thực hiện quản lý nghề trực tuyến.
5.2. Các giải pháp hoàn thiện quản trị công ty nhằm nâng cao chất lượng TTKT
từ phía doanh nghiệp
Với mục tiêu nâng cao chất lượng TTKT, hoàn thiện hệ thống quản trị công ty
được coi là giải pháp hiệu quả từ phía doanh nghiệp. Dựa trên mẫu dữ liệu từ các
doanh nghiệp niêm yết trên hai Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội và Thành phố Hồ
Chí Minh, Luận án tìm hiểu tác động của các nhân tố thuộc quản trị công ty đến CLTT
kế toán của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cung cấp
bằng chứng thực nghiệm về tác động của cấu trúc sở hữu, đặc điểm HĐQT và đặc
điểm BKS lên CLTT kế toán. Cụ thể, các công ty có sở hữu Nhà nước, sở hữu cổ
đông tổ chức, sở hữu BGĐ lớn có xu hướng cung cấp TTKT chất lượng. Trên góc độ
đặc điểm HĐQT, các đơn vị có quy mô HĐQT lớn, độc lập, thành viên HĐQT có
thâm niên và chuyên môn trong lĩnh vực kế toán tài chính và tỷ lệ thành viên nữ cao
sẽ tăng cường chức năng giám sát, hạn chế các hành vi điều chỉnh TTKT từ các thành
phần nội bộ. Ngoài ra, đối với đặc điểm của BKS, kết quả nghiên cứu cung cấp bằng
chứng cho thấy tác động tích cực của các thành viên BKS có thâm niên với CLTT kế
toán của các công ty niêm yết. Từ các kết quả nghiên cứu nói trên, Luận án đề xuất
một số giải pháp hoàn thiện QTCT từ góc độ công ty niêm yết nhằm nâng cao CLTT
kế toán.
5.2.1. Các giải pháp liên quan đến cấu trúc sở hữu
Giải pháp liên quan tới sở hữu cổ đông tổ chức
Kết quả nghiên cứu cho thấy tương quan tích cực giữa sở hữu của cổ đông tổ
chức tới chất lượng TTKT. Khác với các nhà đầu tư nhỏ lẻ, nhà đầu tổ chức thường
có chiến lược đầu tư dài hạn, nguồn vốn lớn, cho phép các nhà đầu tư này có thể cử
138
đại diện tham gia vào hệ thống quản trị công ty trong vai trò giám sát như trở thành
thành viên HĐQT hay thành viên BKS. Bản thân các tổ chức khi xem xét danh mục
đầu tư đã đặt niềm tin vào cổ phiếu của các công ty niêm yết minh bạch thông tin và
có kết quả kinh doanh khả quan. Trong quá trình tham gia vào hệ thống giám sát, các
cá nhân đại diện sở hữu của tổ chức được kỳ vọng là các chuyên gia trong lĩnh vực
kinh tế tài chính, do vậy sẽ tăng hiệu quả giám sát, hạn chế các hành vi điều chỉnh
TTKT. Do đó, một trong những giải pháp được đề xuất là thu hút sự tham gia của các
nhà đầu tư tổ chức.
Đối với các công ty niêm yết, nhằm thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư tổ
chức, khi tăng vốn, ngoài việc phát hành cho cổ đông hiện hữu, công ty có thể thực
hiện phát hành riêng lẻ với đối tượng là cổ đông chiến lược hay các nhà đầu tư tổ
chức. Theo Luật Doanh nghiệp 2020 số 59/2020/QH14, chào bán cổ phần riêng lẻ là
việc công ty tăng thêm số lượng cổ phần, loại cổ phần được quyền chào bán để tăng
vốn điều lệ và đáp ứng hai điều kiện: một là, không chào bán thông qua phương tiện
thông tin đại chúng; hai là, chào bán cho dưới 100 nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư
chứng khoán chuyên nghiệp hoặc chỉ chào bán cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên
nghiệp. Trên thực tế, khi công ty mục tiêu cần huy động vốn riêng lẻ từ các nhà đầu
tư tổ chức, thì vị thế đàm phán của nhà đầu tư tổ chức cũng khác so với vị thế của cổ
đông hiện hữu. Thông thường, nhà đầu tư tổ chức sẽ giải ngân vốn đầu tư khi công
ty đảm bảo các điều kiện nhất định về cả khía cạnh pháp lý cũng như tài chính, thương
mại. Do đó, việc đề xuất một phương án sử dụng vốn hiệu quả, đàm phán và đặt ra
điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư tổ chức khi phát hành riêng lẻ, kể cả thuận lợi hơn
so với cổ đông hiện hữu, là việc rất cần thiết, nâng cao sự chủ động cho công ty và
nhà đầu tư tổ chức. Để nâng cao hiệu quả phát hành riêng lẻ, các công ty niêm yết có
thể sử dụng dịch vụ tư vấn phát hành từ các tổ chức tài chính như ngân hàng, các
công ty chứng khoán. Với lợi thế về kinh nghiệm, chuyên môn và mối quan hệ với
các trung gian tài chính, các nhà đầu tư tổ chức khác, các tổ chức này có khả năng hỗ
trợ các công ty niêm yết trong việc tìm kiếm nhà đầu tư cũng như tư vấn, đàm phán
và thực hiện các thủ tục pháp lý để chào bán riêng lẻ cổ phiếu.
Đối với nhà đầu tư tổ chức nước ngoài, theo Nghị định số 155/2020/NĐ-CP tỷ
lệ sở hữu của các nhà đầu tư này đang không bị hạn chế ở mức tối đa, ngoại trừ một
139
số trường hợp đặc biệt tuân thủ điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, các công
ty hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh mà pháp luật liên quan có quy định
về sở hữu nước ngoài, hoặc hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh thuộc
danh mục ngành, nghề hạn chế tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Trong trường hợp ngành, nghề tiếp cận thị trường có điều kiện tại danh mục không
quy định cụ thể về tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ của nhà đầu tư nước ngoài trong tổ chức
kinh tế thì tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa tại công ty là 50% vốn điều lệ. Trong trường
hợp này các công ty niêm yết do bị khống chế tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài nên
sẽ gặp khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài nói chung
và nhà đầu tư tổ chức nói riêng. Do vậy, các công ty này cần có sự lựa chọn các nhà
đầu tư nước ngoài có năng lực về vốn, phù hợp định hướng chiến lược của công ty,
thay vì mở tối đa tỷ lệ sở hữu cho tất cả nhà đầu tư nhỏ lẻ hay nhà đầu tư tổ chức.
Cuối cùng, nhằm thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư tổ chức, các công ty niêm
yết cần nâng cao chất lượng của chính bản thân đơn vị trên TTCK. Nhà đầu tư tổ
chức hay cá nhân sẽ có xu hướng lựa chọn các công ty có tình hình kinh doanh tốt,
đồng thời minh bạch trong công bố thông tin. Minh bạch thông tin trên thị trường
được hiểu là việc các chủ thể kinh tế (người dân, doanh nghiệp hoặc Chính phủ) có
thể cập nhật các thông tin liên quan đến thị trường một cách đầy đủ, tin cậy, kịp thời
và có thể tiếp cận một cách dễ dàng (Vishwanath và Kaufmann, 1999). Các công ty
cần công khai các thông tin đơn vị bao gồm cả thông tin tài chính và phi tài chính.
Nghị định số 71/2017/NĐ-CP quy định Công ty đại chúng, bao gồm các công ty niêm
yết, có nghĩa vụ công bố đầy đủ, chính xác và kịp thời thông tin định kỳ và bất thường
về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính và tình hình quản trị công ty
cho cổ đông và công chúng, và công bố thông tin khác nếu các thông tin đó có khả
năng ảnh hưởng đến giá chứng khoán và ảnh hưởng đến quyết định của cổ đông và
nhà đầu tư. Việc công bố thông tin tài chính phải được các công ty niêm yết công bố
định kỳ hàng quý, 6 tháng soát xét và hằng năm có kiểm toán. Tuy nhiên, trên thực
tế các công ty niêm yết thường xuyên vi phạm quy định về công bố thông tin. Theo
thống kê của Ủy ban Chứng khoán (2018), trong năm 2018, có 397 trường hợp (129
tổ chức và 268 cá nhân) vi phạm liên quan đến hành vi thao túng, tạo cung cầu giả
trên TTCK; buộc cải chính thông tin đối với 3 trường hợp báo cáo không chính xác,
140
công bố thông tin sai lệch. Điều này làm hạn chế uy tín của công ty cũng như làm
mất niềm tin của nhà đầu tư, từ đó khó dành được sự quan tâm của các nhà đầu tư tổ
chức có chuyên môn. Do vậy, bản thân công ty cần nâng cao ý thức trong việc thực
hiện công khai, minh bạch và kịp thời thông tin.
Giải pháp liên quan tới sở hữu của Ban giám đốc
Kết quả nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm cho thấy các công ty có
tỷ lệ sở hữu BGĐ càng cao, CLTT kế toán toán càng tốt. Khi nhà điều hành trở thành
chủ sở hữu, vấn đề đại diện được giải quyết, do vậy BGĐ sẽ không chỉ nỗ lực trong việc
điều hành công ty vì vấn đề lương thưởng theo hợp đồng lao động mà còn bởi thu nhập
tới từ cổ phần sở hữu khi công ty có kết quả kinh doanh tốt. Ngoài ra, BGĐ khi trở thành
chủ sở hữu sẽ giảm bớt áp lực bị sa thải do đó, hạn chế động cơ điều chỉnh thông tin
nhằm che giấu của đơn vị liên quan tới hoạt động kinh doanh.
Nhằm gia tăng sở hữu của BGĐ, giải pháp được đề xuất là khuyến khích các
đơn vị có chính sách động viên cho cán bộ nhân viên, đặc biệt là BGĐ bằng cổ phiếu.
Theo Gillan (2006), cơ chế khuyến khích là một phần quan trọng của quản trị công
ty, bao gồm lương cơ bản, các khoản phúc lợi, phụ cấp, tiền thưởng và cổ phiếu. Việc
chia thưởng cho cán bộ công nhân viên nói chung và BGĐ nói riêng có thể được thực
hiện thông qua hình thức phát hành cổ phiếu cho cán bộ công nhân viên (ESOP).
ESOP là kế hoạch phát hành cổ phiếu theo chương trình lựa chọn cho người lao động
trong công ty. Cổ phiếu ESOP thường được phát hành với giá ưu đãi, thấp hơn giá
thị trường kèm một số điều kiện như hạn chế chuyển nhượng trong một khoảng thời
gian nhất định. ESOP một mặt bảo đảm phúc lợi cho nhân viên mà công ty cũng
không phải tốn nhiều chi phí, thậm chí còn tăng vốn chủ sở hữu để phục vụ sản xuất,
kinh doanh. Ngoài ra, so với thưởng bằng tiền mặt, thì thưởng bằng cổ phiếu có tác
dụng giúp nhân viên gắn bó với công ty hơn và cố gắng đóng góp vào hoạt động kinh
doanh của công ty. Tuy nhiên việc phát hành ESOP sẽ ảnh hưởng tới quyền lợi của
các cổ đông hiện hữu khác do giá cổ phiếu bị pha loãng, vì vậy cần phải được các cổ
đông biểu quyết thông qua và khống chế bởi một tỷ lệ nhất định. Theo thông tư
162/2015/TT-BTC của Bộ Tài Chính, việc phát hành cổ phiếu ESOP phải đảm bảo
các điều kiện: một là, có chương trình lựa chọn và kế hoạch phát hành cổ phiếu được
141
Đại hội đồng cổ đông thông qua; hai là, tổng số cổ phiếu phát hành theo chương trình
trong mỗi 12 tháng không được vượt quá 5% số cổ phần đang lưu hành của công ty;
ba là, Hội đồng quản trị phải công bố rõ những nội dung về các tiêu chuẩn và danh
sách người lao động được tham gia chương trình, nguyên tắc xác định giá bán, nguyên
tắc xác định số cổ phiếu được phân phối cho từng đối tượng và thời gian thực hiện.
Việc phát hành ESOP được sử dụng khá phổ biến tại các công ty trên thế giới, đặc
biệt là công ty công nghệ, và cũng không còn quá xa lạ ở Việt Nam. Tuy vậy, ESOP
phát sinh mặt trái khi nhiều công ty niêm yết thực hiện phát hành ESOP với giá phát
hành quá thấp so với giá thị trường, như trường hợp ngân hàng Việt Nam Thịnh vượng
(VPB) năm 2018 giá thị trường 26.000 đồng, giá ESOP là 10.000 đồng, hay Công ty
Cổ phần thế giới Di động (MWG) năm 2020 đã phát hành ESOP giá 10.000 đồng,
trong khi giá trị thị trường là 128.000 đồng. Ngoài ra, cần phải được làm rõ tiêu chí
đối tượng nhận quyền mua ESOP, tránh việc thao túng biến ESOP thành công cụ vì
lợi ích cá nhân của một nhóm lãnh đạo chủ chốt. Mặc dù có nhiều mặt trái, nhưng
không thể phủ nhận giá trị mang lại của ESOP trong việc khuyến khích, động viên
cán bộ nhân viên gắn bó và cống hiến vì công ty. Do vậy, các công ty niêm yết cần
lựa chọn phương án ESOP liên quan tới khối lượng phát hành, giá phát hành, đối
tượng thụ hưởng công bằng, hợp lý, vừa khuyến khích được nhân viên, vừa không
gây phương hại tới quyền lợi của cổ đông hiện hữu.
Giải pháp liên quan tới sở hữu Nhà nước
Kết quả nghiên cứu cho thấy các công ty có tỷ lệ sở hữu Nhà nước càng lớn thì
chất lượng TTKT càng tốt. Điều này được lý giải rằng các công ty nhận góp vốn từ
Nhà nước bên cạnh mục tiêu về lợi nhuận, còn thực hiện các mục tiêu chính trị. Sự
hỗ trợ về vốn và các cơ chế chính sách từ Nhà nước giúp cho BGĐ càng đơn vị có
vốn góp Nhà nước không quá áp lực về kết quả kinh doanh của đơn vị. Mặt khác, tại
các công ty sở hữu Nhà nước, vị thế của cổ đông thiểu số rất hạn chế, do vậy BGĐ
các công ty này không phải chịu áp lực đáng kể về lợi nhuận, do vậy hạn chế động
cơ điều chỉnh TTKT. Tuy vậy, kết quả nghiên cứu không hàm ý chính sách về việc
gia tăng tỷ lệ sở hữu Nhà nước tại các công ty niêm yết. Tại Việt Nam, Nhà nước chủ
trương cổ phần hóa, thoái vốn nhằm tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế, do vậy việc thu
hút vốn đầu tư Nhà nước không được coi là giải pháp phù hợp. Một hướng giải thích
142
khác cho rằng các công ty có vốn Nhà nước có CLTT kế toán tốt hơn các doanh
nghiệp tư nhân là bởi BGĐ các công ty này gặp áp lực liên quan tới chế tài xử phạt
trong trường hợp để phát sinh các gian lận và điều chỉnh thông tin công bố. Do vậy,
đứng từ góc độ doanh nghiệp, các công ty niêm yết có thể xây dựng một hệ thống chế
tài xử phạt đối với các hành vi thiếu trung thực của BGĐ, đặc biệt trong việc công bố
các TTKT, gây phương hại tới lợi ích các bên liên quan bao gồm trừ vào lương
thưởng, khiển trách, cảnh cáo, sa thải, thậm chí truy tố pháp luật.
5.2.2. Các giải pháp liên quan đến đặc điểm của Hội đồng quản trị
Kết quả nghiên cứu của Luận án đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm về tác
động của đặc điểm HĐQT tới CLTT kế toán. Các công ty có quy mô HĐQT lớn, độc
lập, thành viên có thâm niên và chuyên môn trong lĩnh vực tài chính kế toán và có tỷ
lệ thành viên nữ cao sẽ gia tăng hiệu quả giám sát, từ đó cung cấp CLTT kế toán tốt.
Xét về quy mô HĐQT, kết quả nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm
cho thấy HĐQT có quy mô càng lớn thì CLTT kế toán càng tốt. Theo Nghị định số
71/2017/NĐ-CP, quy mô HĐQT phải tối thiểu 3 thành viên và tối đa 11 thành viên.
Mặc dù các công ty niêm yết đã tuân thủ tốt quy định này, nhưng nhìn chung quy mô
thành viên HĐQT ở Việt Nam khá thấp, chỉ ở mức trung bình 5 thành viên theo thống
kê từ dữ liệu nghiên cứu. Trong khi đó tại một số quốc gia khác như Malaysia, trung
bình số lượng thành viên HĐQT là 7 người. Việc một HĐQT có quy mô lớn sẽ đa
dạng các thành viên với kinh nghiệm và chuyên môn, đồng thời hạn chế sự thông
đồng giữa các thành viên, qua đó nâng cao chất lượng giám sát. Do vậy các công ty
niêm yết cần xem xét gia số lượng thành viên HĐQT, cân đối phù hợp với quy mô
doanh nghiệp. Trong quá trình thực hiện chức năng giám sát, nhằm tối ưu hóa lợi thế
của các thành viên, cần có sự phân công phân nhiệm cụ thể, tránh tình trạng chồng
chéo hoặc giám sát mang tính hình thức.
Xét về tính độc lập của HĐQT, kết quả nghiên cứu cho thấy các công ty có tỷ
lệ thành viên độc lập càng cao thì chất lượng TTKT càng tốt. Nghị định số
71/2017/NĐ-CP quy định các công ty niêm yết cần đảm bảo tối thiểu 1/3 là thành
viên độc lập. Các quy định về tính độc lập bao gồm cả độc lập về nhân thân và kinh
tế, được nêu rõ trong Luật doanh nghiệp số 59/2020/QH14. Các công ty niêm yết
143
ngoài việc tuân thủ các quy định có liên quan, cần gia tăng tỷ lệ thành viên độc lập.
Bởi các thành viên độc lập được đánh giá cao ở sự khách quan. Đứng vai trò là nhà
giám sát, thành viên độc lập được kỳ vọng sẽ đưa ra các quyết định ít thiên vị hoặc
không thiên vị, hạn chế phát sinh xung đột lợi ích nhóm, bảo vệ cổ đông thiểu số và
các bên liên quan. Ngoài ra, các thành viên độc lập được kỳ vọng sẽ thể hiện chức
năng tư vấn khi những phân tích, quyết định được dựa trên sự khách quan. Sự xuất
hiện của thành viên độc lập cũng được xem là minh chứng cho thấy tính công khai
minh bạch của các công ty niêm yết. Tuy nhiên các quy định hiện hành mang tính
chất phổ quát, do đó các công ty cần xây dựng riêng các chính sách, điều lệ cụ thể
với thực tế đơn vị. Việc quy định, bổ nhiệm cần rõ ràng, minh bạch từ khâu đề cử
nhân sự để đảm người được đề cử đảm bảo tính độc lập cho tới việc bầu chọn và bổ
nhiệm. Các công ty niêm yết có thể thuê các đơn vị tư vấn, kiểm toán để đánh giá tính
độc lập của thành viên HĐQT hàng năm. Ngoài ra, để nâng cao trách nhiệm cũng như
phát huy các ưu thế từ thành viên độc lập, các chính sách lương thưởng cũng cần
được thiết kế phù hợp, tránh tình trạng cấu kết với các thành phần nội bộ, gây phương
hại lợi ích của các bên có liên quan.
Xét về tính thâm niên, chuyên môn và giới tính của HĐQT, sự xuất hiện của
thành viên nữ và việc thành viên HĐQT càng có thâm niên và chuyên môn kế toán
tài chính thì CLTT kế toán cáng tốt. Các thành viên HĐQT có thâm niên và chuyên
môn kế toán chính được đánh giá cao trong việc thực hiện chức năng giám sát bởi sự
gắn bó, quen thuộc cũng như kinh nghiệm chuyên môn của mình. Trong khi đó các
thành viên HĐQT là nữ giới có xu hướng giám sát chặt chẽ và coi trọng sự tuân thủ.
Mặc dù, Nghị định số 71/2017/NĐ-CP chỉ mang tính hướng dẫn, theo đó cơ cấu Hội
đồng quản trị cần đảm bảo sự cân đối giữa các thành viên có kiến thức và kinh nghiệm
về pháp luật, tài chính, lĩnh vực hoạt động kinh doanh của công ty và có xét yếu tố
về giới, song các công ty cần chú trọng hơn về việc lựa chọn thành viên HĐQT hướng
tới các cá nhân có chuyên môn tài chính kế toán, thâm niên công tác và trao thêm cơ
hội cho các ứng viên nữ. Việc lựa chọn các thành viên có thâm niên công tác cần cân đối
với tỷ lệ thành viên độc lập. Ngoài ra do tính chất chuyên môn đặc thù, các thành viên
HĐQT có chuyên môn kế toán tài chính có khả năng phát hiện các sai sót, gian lận trên
báo cáo tài chính, vì vậy các công ty cần quy định số lượng hoặc tỷ lệ các thành viên có
144
chuyên môn này. Bên cạnh đó, ngoài việc lựa chọn các thành viên có chuyên môn về tài
chính kế toán tốt, các công ty niêm yết có thể tạo điều kiện, hỗ trợ các thành viên tham
dự các khóa học trong và ngoài nước nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, từ đó áp
dụng trong thực tế quản trị tại chính đơn vị mình.
5.2.3. Các giải pháp liên quan đến đặc điểm của Ban kiểm soát
Kết quả nghiên cứu của Luận án đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm về ảnh
hưởng của thâm niên BKS tới CLTT kế toán. Theo đó, các công ty có các kiểm soát
viên càng có thâm niên sẽ có sự hiểu biết, quen thuộc với hệ thống quản trị, giám sát
của đơn vị, do vậy phát huy được hiệu quả giám sát, nâng cao CLTT kế toán. Do đó,
khi đề cử nhân sự tham gia Ban kiểm sát, các công ty niêm yết nên lựa chọn các ứng
viên có thâm niên công tác tại đơn vị. Tuy nhiên khi bổ nhiệm kiểm soát viên cần chú
ý yêu cầu liên quan tới tính thâm niên, cụ thể theo Luật doanh nghiệp 2020, nhiệm
kỳ kiểm soát viên không quá 05 năm và có thể được bổ nhiệm lại nhưng không quá
02 nhiệm kỳ liên tục tại công ty đó. Đồng thời, theo Nghị định 71/2017/NĐ-CP, kiểm
soát viên không được làm việc trong bộ phận kế toán, tài chính của công ty, trong đó
trưởng BKS phải là kế toán viên hoặc kiểm toán viên chuyên nghiệp và phải làm việc
chuyên trách tại công ty. Những quy định này dẫn đến việc khó khăn khi lựa chọn
các kiểm soát viên vừa có thâm niên công tác tại đơn vị, vừa không làm việc trong
bộ phận kế toán tài chính, vừa không quá hai nhiệm kỳ công tác tức là không quá 10
năm. Do vậy, dù ưu tiên lựa chọn các kiểm toán viên có thâm niên, trình độ phù hợp,
các công ty vẫn cần đảm bảo quy định về nhiệm kỳ. Những ứng viên BKS có thể xem
xét là những người có thâm niên công tác của đơn vị, không nhất thiết là thành viên
BKS trước đó, bởi các nhân viên này cũng có ưu thế về sự hiểu biết về doanh nghiệp,
từ đó phát huy được chức năng giám sát của BKS, nâng cao CLTT kế toán.
5.2.4. Các giải pháp khác
Giải pháp liên quan tới kiểm toán độc lập
Mặc dù Luận án xem xét quản trị công ty trên khía cạnh nội bộ bao gồm cấu
trúc sở hữu, đặc điểm HĐQT, đặc điểm BKS. Tuy nhiên, xét trên quan điểm mở rộng,
Gillan (2006) cho rằng, QTCT còn bao gồm các thành phần bên ngoài như sự tham
giám sát của các công ty kiểm toán. Kết quả nghiên cứu của Luận án đã cung cấp
145
bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng tích cực của chất lượng kiểm toán tới CLTT
kế toán. Theo đó, các công ty được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán độc lập lớn
như Big 4 sẽ có chất lượng TTKT tốt. Các công ty kiểm toán lớn được đánh giá cao
về uy tín, tính độc lập và chuyên môn trong lĩnh vực kiểm toán do đó có khả năng
phát hiện các sai sót, gian lận về TTKT. Ngoài chức năng kiểm tra, giám sát, các công
ty kiểm toán lớn còn thực hiện chức năng tư vấn, bao gồm tư vấn về hệ thống quản
trị, qua đó nâng cao hiệu quả giám sát nội bộ từ phía đơn vị. Mặt khác, việc được
kiểm toán bởi các công ty có chất lượng tốt giúp nâng cao uy tín của đơn vị về việc
công khai, minh bạch thông tin, từ đó nhận được sự tin tưởng từ các bên liên quan
như cổ đông, nhà đầu tư, chủ nợ hoặc các cơ quan quản lý. Do đó, các công ty niêm
yết có thể cân nhắc lựa chọn các công ty kiểm toán lớn như Big 4 nhằm hướng tới
mục tiêu nâng cao CLTT kế toán.
Giải pháp liên quan tới kiểm toán nội bộ
Bên cạnh kiểm toán độc lập, Hội đồng quản trị và Ủy ban kiểm toán, kiểm
toán nội bộ được xem là một trong các cơ chế giám sát quan trọng, thực hiện đánh
giá và và tư vấn thường xuyên, từ đó nâng cao hiệu quả quản trị (IIA,2017). Nghị
định 05/2019/NĐ-CP đã nhấn mạnh vai trò của kiểm toán nội bộ và quy định các
công ty niêm yết phải thực hiện kiểm toán nội bộ. Theo đó, mục tiêu cơ bản của kiểm
toán nội bộ là thông qua các hoạt động kiểm tra, đánh giá và tư vấn, kiểm toán nội bộ
đưa ra các đảm bảo mang tính độc lập, khách quan và các khuyến nghị về hệ thống
kiểm soát nội bộ của đơn vị đã được thiết lập và vận hành một cách phù hợp nhằm
phòng ngừa, phát hiện, xử lý các rủi ro của đơn vị; các quy trình quản trị và quy trình
quản lý rủi ro của đơn vị đảm bảo tính hiệu quả và có hiệu suất cao; các mục tiêu hoạt
động và các mục tiêu chiến lược, kế hoạch và nhiệm vụ công tác mà đơn vị đạt được.
Kết quả nghiên cứu của Luận án cho thấy các công ty có bộ phận kiểm toán nội bộ
thì chất lượng thông tin kế toán sẽ tốt. Do vậy, nhằm nâng cao hiệu quả giảm sát, các
công ty niêm yết cần tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ đảm bảo yêu cầu độc lập,
khách quan và tuân thủ pháp luật, từ đó nâng cao chất lượng thông tin kế toán.
5.3. Một số khuyến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước liên quan tới quản trị
công ty nhằm nâng cao chất lượng thông tin kế toán
146
5.3.1. Hoàn thiện các văn bản pháp lý quy định về quản trị công ty
Kết quả nghiên cứu cho thấy QTCT giữ vai trò quan trọng trong việc giám sát
hoạt động của nhà điều hành và là một trong những công cụ hữu hiệu tăng cường chất
lượng thông tin trình bày trên BCTC. Vị vậy, việc ban hành quy định đảm bảo tính
khoa học, phù hợp với thực trạng nền kinh tế, chặt chẽ, cụ thể và toàn diện là đòi hỏi
cấp bách từ thực tiễn. Kết quả nghiên cứu ủng hộ và bổ sung các quy định hiện hành
về việc tăng cường hiệu quả giám sát của HĐQT. Tuy nhiên trong bối cảnh TTCK
ngày càng phát triển, việc thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài ngày càng tăng, đòi hỏi
cần có sự hoàn thiện các văn bản pháp lý theo hướng tiếp cận với các quy định quản
trị công ty tại các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời, các văn bản
pháp lý cần được làm rõ để giúp các công ty có thể áp dụng vào thực tế đơn vị.
Một là, Nghị định 71/2017/NĐ-CP quy định số lượng thành viên HĐQT là từ 3
đến 11 thành viên, thấp hơn so với một số nước trong khu vực như Thái Lan là 5 đến
12 thành viên (Tăng Thị Thanh Thủy, 2020). Kết quả nghiên cứu cho thấy số thành
viên trong HĐQT càng nhiều, hiệu quả mang lại trong quản trị càng cao, theo đó,
công tác kiểm tra giám sát đối với hoạt động của Ban giám đốc được tăng cường, hạn
chế những cơ hội để Ban điều hành này thực hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Chính
vì thế, cơ quan quản lý Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích gia tăng số lượng thành
viên của HĐQT trong phạm vi cho phép hoặc quy định cụ thể số lượng thành viên
HĐQT tương ứng với quy mô doanh nghiệp.
Hai là, về chuyên môn của HĐQT, Nghị định 71/2017/NĐ-CP hướng dẫn cơ
cấu HĐQT cần đảm bảo sự cân đối giữa các thành viên có kiến thức và kinh nghiệm
về pháp luật, tài chính, lĩnh vực hoạt động kinh doanh của công ty và có xét yếu tố
về giới. Văn bản chưa thực sự có định nghĩa về vấn đề chuyên môn, tiêu chí xác định
như thế nào là có chuyên môn trong lĩnh vực gì. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp
niêm yết công bố thông tin liên quan tới chuyên môn của thành viên HĐQT chủ yếu
theo hướng về chuyên ngành tốt nghiệp các bậc Cao đẳng, Đại học, Cao học, Tiến sĩ.
Trong khi đó, thực tế có nhiều chuyên gia không tốt nghiệp đúng chuyên ngành nhưng
có các chứng chỉ quốc tế về các lĩnh vực như kế toán, tài chính, những người này
cũng nên được xem là có chuyên môn trong lĩnh vực nói trên. Mặt khác, trong quá
147
trình thu thập dữ liệu, tác giả nhận thấy nhiều công ty chỉ công bố trình độ chuyên
môn của các thành viên ở mức Đại học, cử nhân, hay thạc sĩ, tiến sĩ thể hiện sự nhầm
lẫn giữa vấn đề học vấn và vấn đề chuyên môn. Điều này gây khó khăn trong việc lựa
chọn các thành viên HĐQT có kiến thức chuyên môn phù hợp. Do vậy, các cơ quan
ban ngành cần có các hướng dẫn chi tiết, giúp các công ty có thể nắm rõ và thực hiện.
Ba là, về việc xử phạt các đơn vị vi phạm về QTCT, các công ty đại chúng, cá
nhân liên quan hiện bị xử lý vi phạm theo Nghị định số 108/2013/NĐ-CP với mức
phạt từ cảnh báo tới phạt tiền tối đa 100.000.000 đồng. Mức xử phạt hiện nay chưa
mang tính răn đe, dẫn đến việc có nhiều công ty niêm yết chưa thực sự nghiêm túc
trong việc quản trị công ty và công bố báo cáo có chất lượng. Do đó, Nhà nước cần
xem xét tăng mức xử phạt về tài chính cũng như các biện pháp xử lý như ngừng giao
dịch cổ phiếu hoặc truy tố pháp luật đối với các cá nhân, tổ chức có hành vi gian lận
gây thiệt hại nghiêm trọng đối với các bên liên quan.
5.3.2. Hỗ trợ các công ty niêm yết trong việc hoàn thiện hệ thống quản trị công ty
QTCT có vai trò quan trọng trong việc nâng cao CLTT kế toán, giúp ngăn ngừa
các sai sót, gian lận về TTKT. Ngoài các khuyến nghị từ phía các công ty niêm yết,
thực hiện theo quy định hướng dẫn của Nhà nước, sự hỗ trợ, tạo điều kiện từ các cơ
quan ban ngành và các tổ chức Hiệp hội được coi là một trong những khuyến nghị
quan trọng, giúp các công ty hoàn thiện hệ thống quản trị
Trước tiên, Nhà nước cần đẩy mạnh, tuyên truyền vai trò của QTCT. Những
năm gần đây, Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch
chứng khoán Hà Nội đã tổ chức cuộc bình chọn các công ty niêm yết có hệ thống
quản trị tốt nhất, và các công ty có báo cáo thường niên tốt nhất. Bộ tiêu chí đánh giá
quản trị công ty được xây dựng trên nguyên tắc quản trị công ty của Tổ chức Hợp tác
và phát triển kinh tế (OECD) và khu vực ASEAN, được bên thứ 3 độc lập đánh giá
và được soát xét bởi 4 công ty kiểm toán hàng đầu (Big 4). Theo đó, một trong những
điểm quan trọng nhất của quản trị công ty là tạo ra một cơ cấu HĐQT có tính phản
biện cao nhằm duy trì sự cân bằng giữa rủi ro và lợi ích. Nhóm quản trị công ty tốt là
những đơn vị có HĐQT với sự hiện diện của nhiều thành viên độc lập với vai trò phản
biện thực chất chứ không phải hình thức. Ðể nâng cao chất lượng báo cáo thường
148
niên, ngoài các vấn đề liên quan tới tính trung thực, giải thưởng còn khuyến khích
các công ty niêm yết bổ sung thông tin về hoạt động quản trị rủi ro doanh nghiệp, so
sánh hoạt động của doanh nghiệp với doanh nghiệp cùng ngành, trình bày đánh giá
việc thực hiện QTCT hay có thể hiện các hoạt động quan hệ với nhà đầu tư đã thực
hiện trong năm. Những giải thưởng này là sự động viên hữu ích từ các cơ quan Nhà
nước đối với các công ty luôn nỗ lực hoàn thiện hệ thống QTCT, là sự ghi nhận tích
cực từ các bên liên quan, giúp nâng cao uy tín của đơn vị. Mặt khác, hình ảnh các
công ty đạt giải thưởng được coi là tấm gương để các công ty khác nỗ lực hoàn thiện
mình hơn. Do đó, cần tiếp tục phát huy các hình thức giải tương tự theo hướng quy
mô hơn, chuyên nghiệp hơn nhằm vinh danh các đơn vị có chất lượng QTCT và chất
lượng báo cáo thường niên tốt.
Thứ hai, các cơ quan Nhà nước có thể phối hợp với các tổ chức nghề nghiệp
nhằm tổ chức các diễn đàn, sự kiện, các lớp học để chia sẻ về vấn đề QTCT, qua đó
giúp các công ty, đặc biệt là công ty niêm yết gia tăng kiến thức, sự hiểu biết, học hỏi
để áp dụng cho chính đơn vị mình. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc các thành viên
HĐQT có chuyên môn kế toán tài chính tốt sẽ phát huy hiệu quả giám sát của hệ
thống quản trị, nâng cao chất lượng TTKT. Do vậy, ngoài các chủ đề liên quan trực
tiếp tới QTCT, các cơ quan, Hiệp hội có thể mở các khóa học chuyên sâu về kế toán,
tài chính nhằm giúp các cá nhân có kiến thức chuyên môn tốt hơn, từ đó áp dụng
trong điều kiện riêng của đơn vị mình.
Thứ ba, cần nâng cao vai trò của các Hiệp hội doanh nghiệp trong việc gắn kết
các doanh nghiệp, chia sẻ các khó khăn, thách thức với các đơn vị trong quá trình xây
dựng và vận hành hệ thống QTCT, tạo ra diễn đàn giao lưu để các công ty có thể học
hỏi kinh nghiệm từ các chuyên gia và chính các công ty khác trong việc xây dựng và
vận hành hệ thống quản trị
Nhìn chung, các khuyến nghị liên quan tới các chính sách, hỗ trợ sẽ giúp các
công ty niêm yết nhận thức được tốt hơn vai trò của QTCT cũng như xây dựng các
cơ chế, chính sách nhằm tăng cường hiệu quả giám sát, qua đó nâng cao CLTT kế
toán, tăng cường uy tín của đơn vị. Trên góc độ quản lý thị trường, sự minh bạch của
các công ty niêm yết chính là cơ sở cho sự phát triển bền vững của TTCK.
149
KẾT LUẬN
Chất lượng thông tin kế toán là một vấn đề quan trọng, thu hút sự quan tâm của
người sử dụng báo cáo tài chính nói chung và đối với các nhà nghiên cứu nói riêng,
đặc biệt là sau sự sụp đổ của hàng loạt công ty lớn trên thế giới vào đầu thế kỷ 21 bắt
nguồn từ gian lận trên báo cáo tài chính. Tại Việt Nam, CLTT kế toán được coi là
vấn đề đáng lo ngại khi hàng loạt công ty niêm yết thường xuyên phải điều chỉnh báo
cáo, cho thấy các báo cáo được công bố trước đó thiếu tin cậy. Trong bối cảnh đó,
QTCT được coi là giải pháp hiệu quả khắc phục vấn đề về nâng cao CLTT kế toán.
Dựa trên tổng hợp các nghiên cứu trong và ngoài nước, Luận án đã hệ thống
hóa khung lý thuyết về CLTT kế toán, QTCT và tác động của yếu tố quản trị công ty
tới CLTT kế toán. Trên cơ sở đó, Luận án đã xây dựng mô hình nghiên cứu về tác
động của QTCT tới CLTT kế toán. Mô hình nghiên cứu là mô hình hồi quy, với biến
phụ thuộc CLTT kế toán được đo lường thông qua quản trị lợi nhuận và sai sót trên
báo cáo tài chính, trong đó quản trị lợi nhuận được ước lượng trên mức dồn tích bất
thường được đề xuất bởi Jones (1991), Dechow và cộng sự (1995), Kothari và cộng
sự (2005), còn sai sót trên báo cáo tài chính được xác định dựa trên chênh lệch lợi
nhuận trước, sau kiểm toán và ý kiến kiểm toán. Biến độc lập bao gồm ba biến chính
là cấu trúc sở hữu, đặc điểm Hội đồng quản trị, đặc điểm của BKS, cụ thể bao gồm
sở hữu Nhà nước, sở hữu cổ đông tổ chức, sở hữu Ban giám đốc, quy mô, tính độc
lập của HĐQT, tính kiêm nhiệm hai chức danh chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc, các
đặc điểm về thâm niên, chuyên môn kế toán tài chính, giới tính của thành viên HĐQT,
đặc điểm quy mô, thâm niên, chuyên môn kế toán tài chính, giới tính của thành viên
BKS.
Sử dụng dữ liệu là công ty phi tài chính niêm yết trên hai Sở giao dịch chứng
khoán Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội trong 12 năm từ 2009-
2020, Luận án tiến hành mô tả về thực trạng TTKT của các công ty niêm yết. Kết quả
nghiên cứu cho thấy tình trạng các công ty niêm yết thường xuyên cung cấp báo có
CLTT kế toán thiếu trung thực, không đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng thông
tin, thể hiện rõ nhất ở việc có tới 76,3% công ty niêm yết có hiện tượng điều chỉnh
báo cáo sau kiểm toán, trong đó có nhiều công ty có sai sót điều chỉnh ở ngưỡng trọng
150
yếu. Từ kết quả hồi quy mô hình nghiên cứu, Luận án đã cung cấp bằng chứng thực
nghiệm về ảnh hưởng tích cực của sở hữu Nhà nước, sở hữu cổ đông tổ chức, sở hữu
của nhà quản trị, quy mô, tính độc lập, thâm niên, giới tính và chuyên môn kế toán
tài chính của HĐQT, thâm niên của thành viên BKS lên chất lượng TTKT. Cụ thể,
các công ty có sở hữu Nhà nước, sở hữu tổ chức và sở hữu BGĐ càng cao sẽ cung
cấp TTKT có chất lượng tốt. Trên khía cạnh đặc điểm HĐQT, các công ty có quy mô
HĐQT lớn, càng độc lập, thành viên HĐQT càng có thâm niên, chuyên môn kế toán
tài chính và tỷ lệ thành viên nữ cao thì chất lượng giám sát càng tốt, qua đó hạn chế
hành vi điều chỉnh lợi nhuận từ BGĐ. Trên khía cạnh đặc điểm BKS, thành viên BKS
càng có thâm niên thì CLTT kế toán của công ty càng cao. Kết quả nghiên cứu là cơ
sở để Luận án đề xuất các giải pháp với doanh nghiệp nhằm hoàn thiện hệ thống
QTCT và các khuyến nghị với cơ quan Nhà nước về chính sách, từ đó nâng cao CLTT
kế toán của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Tuy nhiên, Luận án vẫn còn một số hạn chế nhất định. Về phương pháp đo
lường CLTT kế toán, Luận án mới dừng ở việc đo lường theo đặc điểm trình bày
trung thực trên khía cạnh quản trị lợi nhuận và sai sót BCTC. Trong hướng nghiên
cứu tiếp theo, tác giả có thể mở rộng sang một số đặc điểm khác như tính thích hợp,
dễ hiểu, có thể so sánh, kiểm chứng, hoặc kịp thời. Trên khía cạnh về QTCT, Luận
án chưa xử lý một cách chi tiết dữ liệu về sở hữu, về đặc điểm của HĐQT và BKS.
Hướng nghiên cứu tiếp theo có thể thực hiện đó là cụ thể hóa thông tin về sở hữu của
nhà đầu tư tổ chức thành sở hữu của nhà đầu tư tổ chức chuyên nghiệp (như quỹ đầu
tư), sở hữu nhà đầu tư nước ngoài, qua đó tìm hiểu tác động tỷ lệ sở hữu của các tổ
chức này đến chất lượng BCTC. Trên góc độ về đặc điểm của HĐQT và BKS, tác giả
có thể mở rộng khái niệm về tính độc lập của thành viên HĐQT không chỉ bao gồm
thành viên không điều hành mà còn không có quan hệ nhân thân với Ban điều hành,
kết hợp với việc đi chi tiết vào đặc điểm của các thành viên độc lập như thâm niên,
giới tính, chuyên môn nhằm tìm hiểu sâu hơn về ảnh hưởng của QTCT lên CLTT kế
toán. Ngoài ra, ở hướng nghiên cứu tiếp theo, tác giả có thể kiểm định tác động của
QTCT tới CLTT kế toán của các công ty niêm yết theo một số ngành để xem xét sự
khác biệt của mối quan hệ này trong từng ngành.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Mai Anh, 2019, Quản trị doanh nghiệp và sai sót báo cáo tài chính
của các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam, Tạp chí Kinh tế đối ngoại Số 122/2019
ISSN 1859- 4050, 94-106
2. Nguyễn Thị Mai Anh, 2020, Vận dụng mô hình tam giác gian lận trên báo cáo
tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Quản lý và kinh tế quốc tế
số 129/2020 ISSN 2615-9848, 38-59
3. Nguyễn Thị Mai Anh, 2021, Ảnh hưởng trình độ chuyên môn của Hội đồng quản
trị đến chất lượng TTKT, Tạp chí công thương số 3 tháng 2/2021 ISSN 0866-
7756, 307-313
4. Nguyễn Thu Hằng, Nguyễn Thị Mai Anh, Nguyễn Thị Thanh Loan, 2019, Thao
túng lợi nhuận nhằm đạt ngưỡng lợi nhuận: bằng chứng thực nghiệm tại Việt
Nam, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, Số 113 (2/2019) ISSN 1859-4050, 60-74
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Thị Mai Anh, 2019, Quản trị công ty và sai sót BCTC của các công ty
niêm yết Việt Nam, Tạp chí Kinh tế đối ngoại số 122/2019, 94-106
2. Bộ Tài chính, 2015, Thông tư 162/2015/TT-BTC hướng dẫn việc chào bán
chứng khoán ra công chúng. Chào bán cổ phiếu để hoán đổi, phát hành thêm
cổ phiếu, mua lại cổ phiếu, bán cổ phiếu quỹ và chào mua công khai cổ phiếu
3. Bộ Tài chính, 2014, Thông tư 200/2014/TT-BTC hướng dẫn chế độ kế toán
doanh nghiệp
4. Bộ Tài chính, 2012, Chuẩn mực kiểm toán 260- Trao đổi các vấn đề với Ban
quản trị đơn vị được kiểm toán
5. Bộ Tài chính, 2012, Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 320 – Mức trọng yếu
trong lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán.
6. Bộ Tài chính, 2012, Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 450 - Đánh giá các sai
sót phát hiện trong quá trình kiểm toán.
7. Bộ Tài chính, 2012, Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 705 - Ý kiến kiểm toán
không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần
8. Bộ Tài chính, 2002, Chuẩn mực Kế toán số 01
9. Bùi Văn Dương và Ngô Hoàng Điệp, 2017, Đặc điểm Hội đồng quản trị và
hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam, Tạp chí khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, Số 54(3)
2017
10. Chính phủ, 2020, Nghị định số 155/2020/NĐ-CP về quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật chứng khoán
11. Chính phủ, 2019, Nghị định số 05/2019/NĐ-CP về kiểm toán nội bộ
12. Chính phủ, 2017, Nghị định 71/2017/NĐ-CP về quy chế quản trị công ty
13. Chính phủ, 2013, Nghị định 108/2013/NĐ-CP về quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán
14. Nguyễn Thị Hải Hà, 2014, Chất lượng công bố thông tin của các công ty niêm
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Thực trạng và giải pháp, Tạp chí
Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và kinh doanh, Tập 30, số 3 (2014) 37-45
15. Lê Thị Mỹ Hạnh, 2015, Minh bạch thông tin tài chính của công ty niêm yết trên
153
thị trường chứng khoán Việt Nam. Luận án Tiến sĩ, Đại học Kinh tế Thành phố
Hồ Chí Minh
16. Nguyễn Thu Hằng, Nguyễn Mạnh Hiệp, Trần Thị Tuyết Trâm, 2018, Quản trị
công ty và hành vi thao túng lợi nhuận của công ty niêm yết Việt Nam Tạp chí
công nghệ Ngân hàng.
17. Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam, 2019, Chương trình kiểm toán mẫu áp
dụng cho kiểm toán báo cáo tài chính
18. Nguyễn Thị Phương Hồng, 2016, Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của
công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán – bằng chứng thực nghiệm tại Việt
Nam. Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
19. Nguyễn Tiến Hùng, Huỳnh Văn Sáu & Nguyễn Trí Dũng, 2018. Gian lận BCTC
tại các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP Hồ Chí Minh. Tạp
chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, pp. 45-55.
20. Nguyễn Trọng Nguyên, 2015, Tác động của quản trị công ty đến chất lượng
BCTC tại các công ty niêm yết tại Việt Nam. Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh
21. Nguyễn Tố Tâm, 2014, Hoàn thiện tổ chức kiểm soát nhằm tăng cường chất
lượng TTKT tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Đại học Kinh tế Quốc dân
22. Nguyễn Viết Lợi, 2013. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán. NXB Tài chính
23. Quốc hội, 2020, Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14
24. Quốc hội, 2019, Luật Chứng khoán số 54/2019/QH14
25. Quốc hội, 2015. Luật Kế toán Việt Nam số 88/2015/QH13
26. Trần Thị Giang Tân, Nguyễn Trí Tri, Đinh Ngọc Tú, Hoàng Trọng Hiệp và
Nguyễn Đinh Hoàng Uyên, 2014, Đánh giá rủi ro gian lận BCTC của các công
ty niêm yết tại Việt Nam. Tạp chí Phát triển Kinh tế, 26 1, 74-94.
27. Phạm Quốc Thuần, 2015, Bàn về tiêu chuẩn đánh giá CLTT kế toán, Tạp chí
Phát triển Khoa học và Công nghệ, T. 18, S. 1Q
28. Thủ tướng Chính phủ, 2013, Quyết định số 480/QĐ-TTg về việc phê duyệt
chiến lược kế toán- kiểm toán đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
29. Tăng Thị Thanh Thủy, 2020, Nghiên cứu tác động của quản trị công ty đến hiệu
quả hoạt động kinh doanh tại các doanh nghiệp chế biến thực phẩm niêm yết
154
trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Đại học Ngoại thương
30. Phùng Anh Thư và Nguyễn Vĩnh Khương, 2018, Tác động của khả năng hoạt
động liên tục đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính của các công ty niêm
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia
Hà Nội: Kinh tế và kinh doanh, Tập 34, Số 3(2018) 1-10
31. Phùng Anh Thư và Thái Hồng Thụy Khánh, 2018, Các yếu tố ảnh hưởng đến
chất lượng BCTC: nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam, Nghiên cứu khoa học
kiểm toán, số 128 13-19
32. Trần Thị Thanh Tú, Nguyễn Thị Hồng Thúy, Nguyễn Tố Tâm, 2014, Xây dựng
mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng công bố thông tin
của công ty niêm yết, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và kinh doanh, Tập
30, Số 3 (2014) 26-36
Tiếng Anh
33. Abdullah, S., Yusof, N., & Nor, M., 2010. Financial restatements and corporate
governance among Malaysian listed companies. Managerial Auditing Journal,
25 (6), 526-552
34. Abed, S., Al-Attar, A., & Suwaidan, M., 2012. Corporate Governance and
Earnings Management: Jordanian Evidence. International Business Research,
5(1): 216-225.
35. Adaa, A.H.M.A. and Hanefah, M.M., 2018. Board Characteristics and Muslim
Ownership Structure on Value Relevance of Accounting Information: Evidence from
Malaysian Shariah Compliant Companies. The Journal of Muamalat and Islamic
Finance Research Vol. 15, No. 2, December 2018, pp. 39-53
36. Adams, R.B. and Ferreira, D., 2009. Women in the boardroom and their impact
on governance and performance. Journal of financial economics, 94(2),
pp.291-309.
37. Afify, H.A.E., 2009. Determinants of audit report lag. Journal of Applied
Accounting Research, Vol. 10 No. 1, pp. 56-86.
38. Akerlof, G., 1970, The market for lemons: Quality uncertainty and the market
mechanism. Quarterly. Journal of Economics, 84(3), pp.488-500.
155
39. Alchian, A.A. and Demsetz, H., 1972. Production, information costs, and
economic organization. The American economic review, 62(5), pp.777-795.
40. Anwar, H. and Buvanendra, S., 2019. Earnings Management and Ownership
Structure: Evidence from Sri Lanka. International Journal of Theory & Practice
Vol. 10, No. 01, June, 2019.
41. Azar, N., Zakaria, Z. and Sulaiman, N.A., 2019. The Quality of Accounting
Information: Relevance or Value- Relevance?.Asian Journal of Accounting
Perspectives, 12(1), pp.1-21.
42. Aygun, M., Ic, S., & Sayim, M., 2014. The Effects of Corporate Ownership
Structure and Board Size on Earnings Management: Evidence from Turkey.
International Journal of Business and Management, 9(12): 123-132.
43. Badertscher, B. & Burks, 2012. Accounting restatements and the timeliness of
disclosures. Accounting Horizons. 25(4), pp.609-629.
44. Baltzan, P., 2012. Business Driven Information Systems. Third Edition. New
York: McGraw Hill, International Edition.
45. Barua, A., L.F. Davidson, D.V. Rama and S. Thiruvadi, 2010. CFO gender and
Accruals Quality, Accounting Horizons, Vol. 24, No., 1, pp. 25-39
46. Beasley, M., 1996, An empirical analysis of the relation between board of
director compensation and financial statement fraud. The Accounting Review,
71(4), 443-466.
47. Becker, C. L., Defond, M. L., Jiambalvo, J. & Subramanyam, K., 1998. The
effect of audit quality on earnings management. Contemporary accounting
research, 15, 1-24.
48. Beest, F.V., Braam, G.J.M. and Boelens, S., 2009. Quality of Financial
Reporting: measuring qualitative characteristics.
49. Beneish, M. D. ,1997, Detecting GAAP violation: Implications for assessing
earnings management among firms with extreme financial performance,
Journal of Accounting & Public Policy, page 271 – 309
156
50. Bernardi, R.A. and Arnold Sr, D.F., 1997. An examination of moral
development within public accounting by gender, staff level, and
firm. Contemporary Accounting Research, 14(4), pp.653-668.
51. Bezemer, P.J., Peij, S.C., Maassen, G.F. and van Halder, H., 2012. The changing
role of the supervisory board chairman: the case of the Netherlands (1997–
2007). Journal of Management & Governance, 16(1), pp.37-55.
52. Botosan, C.A., 2004. Discussion of a framework for the analysis of firm risk
communication. The International Journal of Accounting, 39(3), pp.289-295.
53. Bradbury, Mak, Tan, 2006, Board characteristics, audit committee
characteristics and abNo.rmal accruals, Pacific accounting review, Vol.18,
pp.47-68.
54. Bugshan, T., 2005. Corporate governance, earnings management, and the
information content of accounting earnings: Theoretical model and empirical
tests. PhD Thesis, Bond University, Australia.
55. Bukenya, M., 2014. Quality of accounting information and financial
performance of Uganda’s public sector. American Journal of Research
Communication, 2(5), pp.183-203.
56. Burns, N., Kedia, S. and Lipson, M., 2010. Institutional ownership and
monitoring: Evidence from financial misreporting. Journal of Corporate
Finance, 16(4), pp.443-455.
57. Byrnes, J.P., Miller, D.C. and Schafer, W.D., 1999. Gender differences in risk
taking: a meta-analysis. Psychological bulletin, 125(3), p.367.
58. Carter, D.A., Simkins, B.J. and Simpson, W.G., 2003. Corporate governance,
board diversity, and firm value. Financial review, 38(1), pp.33-53.
59. Chaney, P.K., Faccio, M. and Parsley, D., 2011. The quality of accounting
information in politically connected firms. Journal of accounting and
Economics, 51(1-2), pp.58-76.
60. Chen. F., Hope, O.K, Li, Q.Y, 2010. Financial reporting quality and investment
efficiency of private Firms in emerging markets. The accounting review, 86(4),
pp.1255-1288.
157
61. Chen, H., Chen, J. Z., Lobo, G. J., & Wang, Y., 2011. Effects of audit quality
on earnings management and cost of equity capital: Evidence from China.
Contemporary Accounting Research, 28(3), 892-925.
62. Chen, G., Firth, M., Gao, D.N. and Rui, O.M., 2006. Ownership structure,
corporate governance, and fraud: Evidence from China. Journal of Corporate
Finance, 12(3), pp.424-448.
63. Cheng, C.A. and Reitenga, A., 2009. Characteristics of institutional investors
and discretionary accruals. International Journal of Accounting & Information
Management. Vol. 17 No. 1, pp. 5-26.
64. Cheng, Q. & Warfield, T. D., 2005, Equity incentives and earnings
management. The accounting review, 80, 441-476
65. Clatworthy, M.A. and Peel, M.J, 2013, The impact of voluntary audit and
governance characteristics on accounting errors in private companies, Journal
of Accounting and Public Policy, 32:3, 1–25
66. Cohen, D., and P. Zarowin. 2010. Accrual-based and real earnings
management activities around seasoned equity offerings. Journal of Accounting
& Economics 50 (1): 2–19.
67. Cornett, M.M., Marcus, A.J. and Tehranian, H., 2008, Corporate governance
and pay-for-performance: The impact of earnings management, Journal of
financial economics, Vol.87, pp.357-373
68. Courtis, J.K., 1995. Readability of annual reports: Western versus Asian
evidence. Accounting, Auditing & Accountability Journal.
69. Cressey, D.R., 1953. Other people's money; a study of the social psychology of
embezzlement.
70. Croson, R. and Gneezy, U., 2009, Gender Differences in Preferences, Journal
of economic literature, 47(2), pp. 448–474
Stewart, J. and Kent, P., 2005. Internal governance 71. Davidson, R., Goodwin
structures and earnings management. Accounting & Finance, 45(2), pp.241-267. ‐
72. Deaux, K. and Farris, E., 1977. Attributing Causes for One’s Own Performance:
The Effects of Sex, Norms, and Outcome, Journal of Research in personallty, 11,
pp. 59– 72
158
73. Dechow, P.M., Sloan, R.G. and Sweeney, A.P., 1995. Detecting earnings
management. Accounting review, pp.193-225.
74. Dechow, P.M., Sloan, R.G. and Sweeney, A.P., 1996. Causes and consequences
of earnings manipulation: An analysis of firms subject to enforcement actions
by the SEC. Contemporary accounting research, 13(1), pp.1-36.
75. Dechow, P.M. and Dichev, I.D., 2002. The quality of accruals and earnings: The
role of accrual estimation errors. The accounting review, 77(s-1), pp.35-59.
76. Dechow, P.M., Ge, W., Larson, C.R. and Sloan, R.G., 2011. Predicting material
accounting misstatements. Contemporary accounting research, 28(1), pp.17-82.
77. Degeorge, F., Patel, J. & Zeckhauser, R. 1999. Earnings management to exceed
thresholds. The Journal of Business, 72, 1-33.
78. Dimitropoulos, P.E. and Asteriou, D., 2010. The effect of board composition on
the informativeness and quality of annual earnings: Empirical evidence from
Greece. Research in International Business and Finance, 24(2), pp.190-205.
79. Donnelly, R. and Lynch, C., 2002. The ownership structure of UK firms and the
informativeness of accounting earnings. Accounting and Business
Research, 32(4), pp.245-257.
80. Easton, P.D. and Harris, T.S., 1991. Earnings as an explanatory variable for
returns. Journal of accounting research, 29(1), pp.19-36.
81. Elsbach, K.D. and Bhattacharya, C.B., 2001. Defining who you are by what
you're not: Organizational disidentification and the National Rifle
Association. Organization Science, 12(4), pp.393-413.
82. Ewa, E.U. and Udoayang, J.O., 2012. The impact of internal control design on
banks ability to investigate staff fraud, and life style and fraud detection in
Nigeria. International Journal of Research in Economics & Social ‟
Sciences, 2(2), pp.32-43.
83. FASB, 1980, Statement of financial Accounting concepts No.,2, Qualitative
Characteristics of Accounting information
84. Fathi, J., 2013. The determinants of the quality of financial information
disclosed by French listed companies. Mediterranean Journal of Social
Sciences, 4(2), pp.319-319.
159
85. Firmansyah, A. and Irawan, F., 2019. IFRS Adoption, Corporate Governance,
Accounting Information Quality. Accounting Analysis Journal, 8(1), pp.59-65.
86. Firth, M., Fung, P.M. and Rui, O.M., 2007. Ownership, two-tier board
structure, and the informativeness of earnings–Evidence from China. Journal of
accounting and public policy, 26(4), pp.463-496.
87. Francis, J. and Schipper, K., 1999. Have financial statements lost their
relevance? Journal of accounting Research, 37(2), pp.319-352.
88. Gacheru, F.A.I.T.H., 2017. Effect of Financial Accounting Information Quality
on Decision Making: a Survey of Public Benefit Organizations in Nairobi
County.
89. García, L.S., Barbadillo, E.R. and Pérez, M.O., 2012. Audit committee and
internal audit and the quality of earnings: empirical evidence from Spanish
companies. Journal of Management & Governance, 16(2), pp.305-331.
Meca, E. and Sánchez Ballesta, J.P., 2009. Corporate governance and 90. García
analysis. Corporate governance: an international earnings management: A meta ‐ ‐
review, 17(5), pp.594-610. ‐
91. Ghosh, A., Marra, A. and Moon, D., 2010. Corporate boards, audit committees,
and earnings management: pre and post SOX evidence. Journal of Business
Finance & Accounting, 37(9 10), pp.1145-1176. ‐ ‐
92. Gillan, S.L., 2006. Recent developments in corporate governance: An overview. ‐
Journal of Corporate finance 12 (2006), pp. 381-402
93. Harshman, R.A. and Paivio, A., 1987. " Paradoxical" sex differences in self-
reported imagery. Canadian Journal of Psychology/Revue canadienne de
psychologie, 41(3), p.287.
94. Healy, P.M. and Wahlen, J.M., 1999. A review of the earnings management
literature and its implications for standard setting. Accounting horizons, 13(4),
pp.365-383.
95. Hendra, G.I., 2016. Analysis of the Effect of Sharia Supervisory Board (SSB)
Function on Earning Quality of Islamic Banks. Tazkia Islamic Finance and
Business Review, 10(2).
160
96. Holtz, L. and Sarlo Neto, A., 2014. Effects of board of directors' characteristics
on the quality of accounting information in Brazil. Revista Contabilidade &
Finanças, 25(66), pp.255-266.
97. Huang, K. T., Lee, Y. W., Wang, R. Y., 1999. Quality information and
Knowledge, New Jersey: Prentice Hall.
98. IASB, 2010. The Conceptual Framework for Financial Reporting. London.
99. IASB, 2012. The Conceptual Framework, IASB update, London
100. IASB, 2018. The Conceptual Framework, London
101. IIA - Institute of Internal Auditors, (2017). International standards for the
professional practice of internal auditing guide: Independence and
Objectivity. Altamonte Springs, FL.: The Institute of Internal Auditors
102. Jeff Wooldridge ,2015, Introductory Econometrics: A Modern Approach
103. Jensen, 1993, The modern industrial revolution, exit, and the failure of internal
control systems, the Journal of Finance, Vol.48, pp.831-880
104. Jensen, M.C. and Meckling, W.H., 1976. Theory of the firm: Managerial
behavior, agency costs and ownership structure. Journal of financial
economics, 3(4), pp.305-360. Jerry J. Weygandt, Paul D. Kimmel, Donald E.
Kieso, 2013, Financial Accounting, 9th Edition
105. Jiambalvo, J., Rajgopal, S. and Venkatachalam, M., 2002. Institutional
ownership and the extent to which stock prices reflect future
earnings. Contemporary accounting research, 19(1), pp.117-145.
106. Jiraporn, P. and Gleason, K.C., 2007. Capital structure, shareholder rights,
and corporate governance. Journal of Financial Research, 30(1), pp.21-33.
financial 107. Jonas, G.J. and Blanchet, J., 2000. Assessing quality of
reporting. Accounting horizons, 14(3), p.353.
J.J., 1991. Earnings management during import relief 108. Jones,
investigations. Journal of accounting research, 29(2), pp.193-228.
109. Kahn, Beverly K., and Diane M. Strong, 1998. Product and Service
Performance Model for Information Quality: An Update. IQ, 102-115.
161
110. Kaplan, R., & Roll, R. ,1972. Investor Evaluation of Accounting Information: Some
Empirical Evidence. The Journal of Business, 45(2), 225-257. Retrieved March 5,
2021,
111. Kao, T.H.W.H.S., 2014. The effect of IFRS, information asymmetry and
corporate governance on the quality of accounting information. Asian
Economic and Financial Review, 4(2), p.226.
112. Kim, K. and Yang, J.S., 2014. Director tenure and financial reporting quality:
evidence from Korea. Review of Integrative Business and Economics
Research, 3(1), p.237.
113. Kinney JR, W. R. M. R. D., 1994. Does auditing reduce bias in financial
reporting? A review of audit-related adjustment studies. Auditing, p. 149.
114. Kitiwong, W., 2014. Earnings management and audit quality: evidence from
Southeast Asia. Doctoral dissertation, University of York.
115. Klai, N. and Omri, A., 2011. Corporate governance and financial reporting
quality: The case of Tunisian firms. International business research, 4(1),
pp.158-166.
116. Kothari, S.P., Leone, A.J. and Wasley, C.E., 2005. Performance matched
discretionary accrual measures. Journal of accounting and economics, 39(1),
pp.163-197.
117. Krishnan, G.V., 2003. Audit quality and the pricing of discretionary
accruals. Auditing: A journal of practice & theory, 22(1), pp.109-126.
118. Kukah, M.A., Amidu, M. and Abor, J.Y., 2016. Corporate governance
mechanisms and accounting information quality of listed firms in
Ghana. African Journal of Accounting, Auditing and Finance, 5(1), pp.38-58.
119. La Porta, R., Lopez-de-Silanes, F., Shleifer, A. and Vishny, R., 2000. Investor
protection and corporate governance. Journal of financial economics, 58(1-2),
pp.3-27.
120. Lavalle, L., 2002. The Best and Worst Boards–How the Corporate Scandals are
Sparking a Revolution in Governance. BusinessWeek, October, 7, p.2002.
121. Leech, D. and Leahy, J., 1991. Ownership structure, control type classifications
and the performance of large British companies. The Economic
162
Journal, 101(409), pp.1418-1437.
122. Libit, W.M. and Freier, T.E., 2015. Is 75 the new 68? Director tenure,
mandatory director retirement and related issues. Insights, 29(3), pp.2-11.
123. Lichtenstein, S., Fischhoff, B., & Phillips, L. D. 2013, Calibration of
probabilities: The state of the art to 1980, Judgment under Uncertainty, pp.306–
334
124. Liu & Lu, 2007, Corporate governance and earnings management in the
Chinese listed companies: A tunneling perspective, Journal of Corporate
Finance, Vol.13, pp.881-906,
125. Loebbecke J. K. Eining M, M & Willingham J. J., 1989, Auditors ‘experience
with material irregularities: Frequency, nature and detectability, Auditing: A
Journal of Practice and Theory, Vol 9, pp 1-28
126. Maines, L.A. and Wahlen, J.M., 2006. The nature of accounting information
reliability: Inferences from archival and experimental research. Accounting
Horizons, 20(4), pp.399-425.
127. Mulyani, S. and Arum, E.D.P., 2016. The influence of manager competency and
internal control effectiveness toward accounting information
quality. International Journal of Applied Business and Economic
Research, 14(1), pp.181-190.
128. Niu, F. F., 2006, Corporate governance and the quality of accounting earnings:
a Canadian perspective. International Journal of Managerial Finance, 2(4), 302-
327.
129. OECD 2015. G20/OECD Principles of Corporate Governance. OECD: Paris.
At https://www. oecd ilibrary.org/governance/g20 oecd principles of
corporate governance 2015_ 9789264236882 en ‐ ‐ ‐ ‐
‐ 130. Ohlson, J.A., 1999. On transitory earnings. Review of accounting studies, 4(3), ‐ ‐ ‐
pp.145-162.
131. Panzer, L. and Müller, S., 2015. Earnings quality and gender diversity on
German supervisory boards: an empirical analysis. Problems and perspectives
in management, (13, Iss. 4), pp.9-18.
132. Parkinson, J.E., 1995. Corporate power and responsibility: Issues in the theory
163
of company law. OUP Catalogue.
133. Peikun, C.W.J.L.Y. and Jing, Y.A.N.G., 2010. The Herding Behavior
Difference between Institutional Investor and Individual Investor [J]. Journal of
Financial Research, 11.
Martínez, M.C., Bel Oms, I. and Olcina Sempere, G., 2016. Corporate 134. Pucheta
governance, female directors and quality of financial information. Business ‐ ‐
‐ Ethics: A European Review, 25(4), pp.363-385.
135. Qinghua, W.U., Pingxin, W., and Junming, Y. I. N., 2007, Audit committee,
board characteristics and quality of financial reporting: An empirical research
on Chinese securities market, Business Review, 1(3), pp. 385–400
136. Qiu, S., He, H.Q. and Luo, Y.S., 2019. The value of restatement to fraud
prediction. Journal of Business Economics and Management, 20(6), pp.1210-
1237.
137. Raheja, C.G., 2005. Determinants of board size and composition: A theory of
corporate boards. Journal of financial and quantitative analysis, pp.283-306.
138. Ran, G., Fang, Q., Luo, S. and Chan, K.C., 2015. Supervisory board
characteristics and accounting information quality: Evidence from
China. International Review of Economics & Finance, 37, pp.18-32.
139. Rasha, K. and Andrew, H., 2012. The new fraud triangle. Journal of Emerging
Trends in Economics and Management Sciences, 3(3), pp.20-33.
140. Roden, D.M., Cox, S.R. and Kim, J.Y., 2016. The fraud triangle as a predictor
of corporate fraud. Academy of Accounting and Financial Studies
Journal, 20(1), p.80.
141. Ross, S.A., Westerfield, R.W., Jaffe, J., 2005. Corporate Finance, 7th edition
142. Roychowdhury, S., 2006, Earnings management through real activities
manipulation. Journal of accounting and economics, 42(3), 335-370.
143. Shleifer, A. and Vishny, R.W., 1997. A survey of corporate governance. The
journal of finance, 52(2), pp.737-783.
144. Siregar, S.V. and Utama, S., 2008. Type of earnings management and the effect of
ownership structure, firm size, and corporate-governance practices: Evidence
from Indonesia. The international journal of accounting, 43(1), pp.1-27.
164
factors and 145. Skousen, C.J. Wright, C.J., 2008. Contemporaneous risk
the prediction of financial statement fraud, Journal of Forensic Accounting IX: 37-
62
146. Soliman, M. M., Ragab, A. A., 2013. Board of director’s attributes and earning
management: Evidence from Egypt, Proceedings of 6th International Business
and Social Sciences Research Conference, 3-4 January, Dubai, UAE.
147. Stedham, Y. Yamamura, J.H. and Beekun, R.I. 2007, Gender differences in
business ethics: justice and relativist perspectives, Business Ethics: A European
Review, 16:2, 163–174
148. Summers, S. L and Swenney, J. T, 1998. Fraudulently misstated financial
statements and insider trading: An empirical analysis". The Accounting
Review Vol.73, page 131 – 146.
149. Thiruvadi, S., Huang, H., 2011, Audit committee Gender differences and earnings
management, gender in management, An International Journal, 26, 483– 498,
150. Vafeas, N., 2000. Board structure and the informativeness of earnings. Journal
of Accounting and Public policy, 19(2), pp.139-160.
tenure and outside director 151. Vafeas, N., 2003. Length of board
independence. Journal of Business Finance & Accounting, 30(7 8), pp.1043-1064.
152. Vishwanath, T. and Kaufmann, D., 1999. Towards transparency in finance and ‐
governance. Available at SSRN 258978.
153. Wang, R.Y. and Strong, D.M., 1996. Beyond accuracy: What data quality
means to data consumers. Journal of management information systems, 12(4),
pp.5-33.
154. Wang, L. and Yung, K., 2011. Do state enterprises manage earnings more than
privately owned firms? The case of China. Journal of Business Finance &
Accounting, 38(7 8), pp.794-812.
‐ 155. Watts, R.L. and Zimmerman, J.L., 1986. Positive accounting theory,
Englewood Cliffs, NY: Prentice-Hall.
156. Wearing, R. and Wearing, B., 2005. Cases in corporate governance. Sage.
165
157. Well, Joseph T., 2013, Corporate fraud handbook: Prevention and Detection,
Wiley, Hoboken, ISBN 9781118757260.
158. Willekens, M., 2008. Effects of external auditing in privately held companies:
Empirical evidence from Belgium. International Journal of Academic
Research, 5(1), pp.20-37.
159. Wooldridge, J.M., 2015. Introductory Econometrics: A Modern Approach
160. Xia, B. and Zhao, C., 2009, January. Empirical Research of the Relationship
between Characteristics of Supervisory Board and Earnings Quality. In 2009
Second International Workshop on Knowledge Discovery and Data
Mining (pp. 409-412). IEEE.
161. Xie, B., Davidson III, W.N. and DaDalt, P.J., 2003. Earnings management and
corporate governance: the role of the board and the audit committee. Journal
of corporate finance, 9(3), pp.295-316.
162. Yeo, G.H., Tan, P.M., Ho, K.W. and Chen, S.S., 2002. Corporate ownership
structure and the informativeness of earnings. Journal of Business Finance &
Accounting, 29(7‐8), pp.1023-1046.
163. Yermack, D., 1996. Higher market valuation of companies with a small board
of directors, Journal of financial economics, Vol.40, pp.185-211
164. Zang, A. Y. 2011. Evidence on the trade-off between real activities
manipulation and accrual-based earnings management. The Accounting
Review, 87, 675-703
166
PHỤ LỤC 1: HỆ THỐNG PHÂN LOẠI NGÀNH THEO CHUẨN ICB
Phân Nhóm ngành lớn Ngành chính ngành Ngành phụ Subsectors Super Sectors Industries sectors
0533- Thăm dò và sản xuất dầu khí 0530- Sản xuất
dầu khí 0537- Dầu khí tích hợp
0573- Thiết bị, dịch vụ khai thác dầu 0570- Thiết bị, 0001- Dầu 0500- Dầu mỏ dịch vụ và phân khí khí phối dầu khí 0577- ống dẫn dầu khí
0583- Thiết bị năng lượng tái tạo 0580- Năng
lượng thay thế 0587- Nhiên liệu thay thế
1353-Hóa chất cơ bản – Sản phẩm 1300- Hóa nhựa, cao su, hóa chất 1350- Hóa chất chất 1357 - Hóa chất chuyên dụng
1733 - Trồng rừng, khai thác gỗ và kinh 1730 - Lâm doanh lâm sản nghiệp và giấy 1737 - Giấy
1753 - Nhôm 1000- 1750 - Kim loại 1755 - Kim loại màu Nguyên công nghiệp vật liệu 1757 - Thép 1700 - Tài
nguyên cơ 1771 - Khai thác than
bản 1773 - Kim cương và đá quý
1770 - Khai 1775 - Khai khoáng chung
khoáng 1777 - Khai thác vàng
1779 - Khai thác bạch kim và các kim
loại quý khác
2353 - Thiết bị, vật liệu xây dựng 2000 - 2300 - 2350 - Xây Công Xây dựng, dựng và VLXD 2357 - Xây dựng, xây lắp nghiệp VLXD
167
Phân Nhóm ngành lớn Ngành chính Ngành phụ Subsectors ngành Super Sectors Industries sectors
2710 - Công 2713 - Công nghiệp hàng không vũ trụ
nghiệp hàng
không vũ trụ và 2717 - Công nghiệp quốc phòng quốc phòng
2723 - Thùng, hộp, bao bì 2720 - Công
nghiệp đa dụng 2727 - Công nghiệp đa ngành
2733 - Các linh kiện và thiết bị điện 2730 - Thiết bị
điện, điện tử 2737 - Các thiết bị điện tử 2700 - 2753 - Các phương tiện thương mại và 2750 - Cơ khí, Các sản xe thùng chế tạo máy phẩm và 2757 - Máy công nghiệp dịch vụ 2771 - Dịch vụ bưu chính công 2773 - Vận tải biển nghiệp 2770 - Vận tải, 2775 - Đường sắt kho bãi 2777 - Dịch vụ vận tải
2779 - Xe tải
2791 - Các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh
2793 - Đào tạo nhân sự và việc làm 2790 - Dịch vụ
2795 - Điều hành, theo dõi tài chính hỗ trợ, tư vấn,
thiết kế 2797 - Các nhà cung cấp công nghiệp
2799 - Dịch vụ xử lý nước thải, rác thải
3353 - Ô tô 3300 - Ôtô 3350 - Ôtô và 3355 - Linh kiện ôtô và linh linh kiện ôtô 3000 - kiện ôtô 3357 - Lốp Hàng tiêu 3533 - Bia 3500 - dùng 3530 - Đồ uống Thực 3535 - Chưng cất và bán rượu
168
Phân Nhóm ngành lớn Ngành chính Ngành phụ Subsectors ngành Sectors Super Industries sectors
phẩm và 3537 - Nước giải khát
đồ uống 3573 - Nông sản, thủy sản, đồn điền 3570 - Sản xuất
thực phẩm 3577 - Sản phẩm thực phẩm
3722 - Sản phẩm gia dụng lâu bền
3724 - Sản phẩm gia dụng không lâu 3720 - Hàng bền gia dụng 3726 - Nội thất 3700 - 3728 - Xây dựng nhà ở Hàng tiêu 3743 - Đồ điện tử tiêu dùng 3740 - Hàng dùng cá 3745 - Sản phẩm tiêu khiển tiêu khiển nhân và 3747 - Đồ chơi gia đình 3763 - Quần áo và đồ phụ kiện 3760 - Đồ dùng 3765 - Da giầy cá nhân 3767 - Sản phẩm cá nhân
3780 - Thuốc lá 3785 - Thuốc lá
4533 - Các nhà cung cấp dịch vụ y tế 4530 - Thiết bị 4535 - Trang thiết bị y tế 4000 – và dịch vụ y tế Dược 4500 - Y 4537 - Vật tư y tế
phẩm và y tế 4570 - Dược 4573 - Công nghệ sinh học
tế phẩm và công 4577 - Dược phẩm nghệ sinh học
5330 - Bán lẻ 5333 - Bán lẻ thuốc
thực phẩm và 5337 - Bán buôn bán lẻ thực phẩm 5000 - dược phẩm 5300 - Dịch vụ 5371 - Bán lẻ đồ may mặc Bán lẻ 5370 - Bán lẻ tiêu dùng chung 5373 - Bán lẻ tổng hợp
169
Phân Nhóm ngành lớn Ngành chính Ngành phụ Subsectors ngành Super Sectors Industries sectors
5375 - Bán lẻ đồ nội thất
5377 - Dịch vụ tiêu dùng đặc chủng
5379 - Bán lẻ đặc chủng
5553 - Phát thanh truyền hình 5500 -
Truyền 5550 - Truyền 5555 - Các công ty truyền thông
thông thông 5557 - Xuất bản
5751 - Hàng không chở khách
5752 - Cờ bạc 5700 - Du 5750 - Du lịch 5753 - Khách sạn lịch và và giải trí 5755 - Dịch vụ giải trí giải trí 5757 - Nhà hàng và bar
5759 - Du lịch
6530 - Viễn 6535 - Viễn thông cố định 6000 - 6500 - thông cố định Viễn Viễn 6570 - Viễn thông thông thông di động 6575 - Viễn thông di động
7535 - Sản xuất và cung cấp điện truyền
thống
7530 - Điện 7537 - Sản xuất và cung cấp điện bằng 7000 – 7500 - năng lượng thay thế Tiện ích Các dịch 7573 - Phân phối khí đốt công cộng vụ hạ tầng 7570 - Ga,
nước và các 7575 - Đa tiện ích tiện ích khác 7577 - Cung cấp nước sạch
170
Phân Nhóm ngành lớn Ngành chính Ngành phụ Subsectors ngành Super Sectors Industries sectors
8300 - 8350 - Ngân 8355 - Ngân hàng Ngân hàng hàng
8532 - Các công ty bảo hiểm tổng hợp 8530 - Bảo 8534 - Môi giới bảo hiểm hiểm phi nhân 8536 - Bảo hiểm tài sản và tai nạn thọ 8538 - Tái bảo hiểm 8500 - 8570 - Bảo Bảo hiểm 8575 - Bảo hiểm nhân thọ hiểm nhân thọ
8580 - Công ty
bảo hiểm 8581 - Công ty bảo hiểm
8633 - Các công ty đầu cơ và phát triển 8630 - Đầu tư
bất động sản bất động sản và 8000 - Tài dịch vụ 8637 - Dịch vụ bất động sản chính 8671 - Tín thác đầu tư bất động sản
công nghiệp và văn phòng
8672 - Tín thác đầu tư bất động sản bán
lẻ 8600 - Bất 8673 - Tín thác đầu tư bất động sản nhà động sản 8670 - Đầu tư ở tín thác bất 8674 - Tín thác đầu tư bất động sản đa động sản dạng
8675 - Tín thác đầu tư bất động sản đặc
biệt
8676 - Tín thác đầu tư bất động sản thế
chấp
171
Phân Nhóm ngành lớn Ngành chính Ngành phụ Subsectors ngành Super Sectors Industries sectors
8677 - Tín thác đầu tư bất động sản
khách sạn và nhà nghỉ
8771 - Quản lý tài sản
8773 - Tài chính bán lẻ 8700 - 8770 - Tài 8775 - Tài chính đặc thù Dịch vụ chính tổng hợp tài chính 8777 - Dịch vụ tài chính
8779 - Tài chính thế chấp
8780 - Công ty 8781 - Công ty Chứng khoán Chứng khoán
8900 - 8980 - Quỹ 8985 - Quỹ đóng Đầu tư đóng
chứng
khoán/phi 8995 - Quỹ mở chứng 8990 - Quỹ mở
khoán
9533 - Dịch vụ điện toán
9530 - Phần 9535 - Dịch vụ internet
mềm và dịch 9000 - vụ điện toán 9537 - Công nghệ phần mềm Công 9500 - 9572 - Công nghệ phần cứng nghệ Công nghệ 9574 - Thiết bị điện tử văn phòng 9570 - Công thông tin nghệ phần cứng 9576 - Thiết bị bán dẫn
và thiết bị 9578 - Thiết bị viễn thông
Nguồn: Stockbiz, truy cập tại
https://www.stockbiz.vn/Industries.aspx?Code=9570&view=0
172
PHỤ LỤC 2: THỐNG KÊ CÁC BIẾN CHÍNH CỦA MÔ HÌNH NGHIÊN
CỨU
Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ phần mềm STATA 14.2
173
PHỤ LỤC 3: MA TRẬN TƯƠNG QUAN
174
175
PHỤ LỤC 4: KẾT QUẢ HỒI QUY MÔ HÌNH ĐO LƯỜNG CHẤT LƯỢNG
THÔNG TIN KẾ TOÁN THEO QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN
176
177
178
179
180
181
PHỤ LỤC 5: KẾT QUẢ HỒI QUY MÔ HÌNH ĐO LƯỜNG CHẤT LƯỢNG
THÔNG TIN KẾ TOÁN THEO SAI SÓT TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
182
183
184
185
186
187
188