intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Báo chí học: Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:215

68
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận án nhằm phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay, từ đó nêu rõ những vấn đề đặt ra, đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm tăng cường quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại trong thời gian tới. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Báo chí học: Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN BÙI THỊ VÂN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC HÀ NỘI - 2021
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN BÙI THỊ VÂN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành : Báo chí học Mã số : 9 32 01 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS,TS. Lưu Văn An 2. PGS,TS. Đinh Thị Thu Hằng HÀ NỘI - 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS, TS. Lưu Văn An; PGS, TS. Đinh Thị Thu Hằng. Các số liệu thống kê, kết quả nghiên cứu, phát hiện mới của luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào trước đây. Luận án có sử dụng, phát triển, kế thừa một số tư liệu, số liệu, kết quả nghiên cứa từ các sách, giáo trình, tài liệu… liên quan đến nội dung luận án. Hà Nội, ngày … tháng …. năm 2021 Tác giả luận án Bùi Thị Vân
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU......................................................................................................................... 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ..................................................................................................................... 12 Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI .... 36 1.1. Một số vấn đề lý luận về báo chí đối ngoại ................................................. 36 1.2. Các yếu tố của quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ............................... 47 1.3. Đặc điểm và vai trò của quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại................. 62 Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................................................... 67 2.1. Khái quát về hoạt động của báo chí và báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay .............................................................................................................. 67 2.2. Những thành tựu trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại và nguyên nhân....................................................................................................... 70 2.3. Một số hạn chế và nguyên nhân ................................................................ 107 Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............... 119 3.1. Một số vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại .......... 119 3.2. Xu hướng quản lý báo chí đối ngoại của Việt Nam trong những năm tới .... 129 3.3. Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại trong thời gian tới....................................................................................................... 132 3.4. Một số khuyến nghị ................................................................................... 156 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 161 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................................................................... 165 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 166 PHỤ LỤC
  5. DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1. Thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại của chủ thể quản lý .......70 Biểu đồ 2.2. Thành tựu của đối tượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ............72 Biểu đồ 2.3. Quản lý việc xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại ......................................................... 76 Biểu đồ 2.4. Quản lý việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí, xây dựng chế độ, chính sách về báo chí đối ngoại .........80 Biểu đồ 2.5. Quản lý tổ chức thông tin và quản lý thông tin của báo chí đối ngoại .....83 Biểu đồ 2.6. Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo của các cơ quan báo chí và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại ........................................................86 Biểu đồ 2.7. Quản lý hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại ..........................................91 Biểu đồ 2.8. Quản lý chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê và công tác khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí đối ngoại ...................95 Biểu đồ 2.9. Phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua các công cụ quản lý là các văn bản qui phạm pháp luật .........................................97 Biểu đồ 2.10. Phương thức quản lý nhà nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ......................................................99 Biểu đồ 2.11. Phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua thanh tra, kiểm tra, giám sát và đề xuất khen thưởng, kỷ luật các hành vi vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại ...............................................................101 Biểu đồ 2.12. Quản lý thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại ...............................................................................................105
  6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh hội nhập thông tin quốc tế, ngoài việc cung cấp thông tin cho môi trường truyền thông trong nước, mỗi quốc gia trên thế giới đều xây dựng cho mình một chiến lược truyền thông đối ngoại để phát triển, với mục tiêu nâng cao sức ảnh hưởng và bảo vệ quyền lợi trên trường quốc tế. Điều 4 Luật Báo chí (năm 2016) khẳng định: Báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị-xã hội-nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp; là diễn đàn của nhân dân [116]. Nội dung được xác định rõ trong Luật Báo chí cho thấy, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò, vị trí và tầm quan trọng của báo chí trong đời sống xã hội. Báo chí đối ngoại là một bộ phận quan trọng trên mặt trận đối ngoại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trước vai trò to lớn của báo chí đối ngoại, Đảng luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của báo chí đối ngoại như một công cụ quan trọng trên mặt trận tư tưởng, thông tin, giải thích để thế giới hiểu rõ tính chính nghĩa của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia; xác lập vị thế, biểu tượng, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam trên trường quốc tế. Hoạt động báo chí đối ngoại có những đặc điểm khá riêng biệt so với hoạt động báo chí nói chung, cả về đối tượng tác động, địa điểm - không gian cho đến phương pháp, cách thức. Hoạt động báo chí đối ngoại ở nước ta được thực hiện đồng bộ từ cấp quốc gia đến cấp địa phương. Trong đó, các tỉnh biên giới đã tổ chức hoạt động báo chí đối ngoại với các quốc gia giáp ranh lãnh thổ với nhiều nét đặc thù, sáng tạo. Có thể khẳng định, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, báo chí nước ta có những bước phát triển nhanh về số lượng ấn phẩm, số kênh phát thanh, truyền hình, loại hình và chất lượng thông tin, nguồn nhân lực theo hướng hội tụ, tích hợp truyền thông đa loại hình, đa phương tiện, song những nghiên cứu về việc phát triển báo chí đối ngoại còn hạn chế, mặt khác cũng chưa có nhiều nghiên cứu về quản lý báo chí đối ngoại, chính vì vậy đây là lĩnh vực còn khá mới mẻ về lý luận và thực tiễn quản lý báo chí đối ngoại của nước ta. Hệ thống báo chí đối ngoại của Việt Nam bao gồm các cơ quan báo chí tiêu biểu như: các kênh phát thanh-truyền hình tiếng nước ngoài của Đài Tiếng nói Việt
  7. 2 Nam (VOV5), Đài Truyền hình Việt Nam (VTV4) và Truyền hình Thông tấn của Thông tấn xã Việt Nam; các tờ báo thuộc Thông tấn xã Việt Nam như nhật báo tiếng Anh Việt Nam News, nhật báo tiếng Pháp Le Courrier du Vietnam, Báo ảnh Việt Nam, tạp chí Vietnam Law and Legal Forum; các kênh báo mạng điện tử Quê hương, Vietnam plus…; các bản tin tiếng nước ngoài của Bộ Ngoại giao; khoảng 40 báo và tạp chí đối ngoại bằng tiếng Anh, Pháp, Nga, Hoa… Hiện nay, có 30 văn phòng báo chí nước ngoài đăng ký thường trú tại Việt Nam. Mỗi năm trung bình có khoảng 230 đoàn với hơn 1000 phóng viên nước ngoài vào nước ta tác nghiệp. Đồng thời, Việt Nam có 5 cơ quan báo chí (Thông tấn xã Việt Nam, Báo Nhân Dân, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Báo Thanh niên) đặt 53 văn phòng đại diện ở nước ngoài. Trong bối cảnh báo chí truyền thông nói chung, báo chí đối ngoại nói riêng, Đảng và Nhà nước ta đã tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý, đảm bảo báo chí truyền thông phát huy tối đa vai trò tiên phong trên mặt trận tư tưởng, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, tôn chỉ mục đích của mình. Nhiều nghị quyết của Đảng, văn bản của Nhà nước được ban hành nhằm định hướng, quy định, yêu cầu các cơ quan báo chí đối ngoại thực hiện, giảm thiểu những hiện tượng tiêu cực trong hoạt động báo chí. Đặc biệt, năm 2016, Quốc hội đã ban hành Luật báo chí mới. Năm 2016 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2434/QĐ-TTg, phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Năm 2019, Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 với mục tiêu sắp xếp hệ thống báo chí gắn với đổi mới mô hình tổ chức, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý nhà nước về báo chí để phát triển hệ thống báo in, báo hình, báo nói, báo điện tử, xây dựng một số cơ quan báo chí chủ lực, đa phương tiện làm nòng cốt, có vai trò định hướng dư luận xã hội, thông tin đối ngoại, sắp xếp hệ thống báo chí, khắc phục tình trạng chồng chéo, đầu tư dàn trải, buông lỏng quản lý, hoạt động xa rời tôn chỉ, mục đích; gắn với việc xác định rõ trách nhiệm lãnh đạo, quản lý nhà nước về báo chí của các cấp ủy Đảng, chính quyền, nhất là của người đứng đầu cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, phóng viên, biên tập viên có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển báo chí trong tình hình mới. Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại đã bộc lộ nhiều bất cập: hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật còn chưa đầy đủ, các cơ quan quản lý
  8. 3 nhà nước về báo chí còn thiếu chuyên nghiệp trong xử lý các vấn đề phát sinh, lúc thì lỏng lẻo, lúc lại thắt chặt, hạn chế sự sáng tạo của báo chí đối ngoại, dẫn đến tình trạng một số cơ quan báo chí thực hiện nghiêm chỉnh tôn chỉ, mục đích nhưng lại chậm đổi mới về hình thức, nội dung, tính hấp dẫn chưa cao, hiệu quả thông tin thấp. Trong tác nghiệp, không ít phóng viên thiếu thận trọng trong việc chọn lựa, kiểm chứng nguồn tin, thông tin một chiều. Tình trạng bị động lúng túng, chậm chạp đối phó trong đấu tranh với các thông tin xuyên tạc và luận điểm sai trái vẫn chưa được khắc phục. Báo chí đối ngoại chưa phản ánh đầy đủ, đa dạng, kịp thời những thành tựu của nước ta trong các lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tự do tín ngưỡng, thiếu sức thuyết phục cả về lý luận và thực tiễn. Các thế lực cơ hội, thù địch ở trong và ngoài nước chống phá quyết liệt với những thủ đoạn ngày càng tinh vi. Các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị trong và ngoài nước đã lợi dụng báo chí xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh Việt Nam, chia rẽ Việt Nam với bạn bè quốc tế. Bên cạnh số lượng, loại hình cơ quan báo chí, chất lượng nội dung thông tin, còn là vấn đề tổ chức nhân sự cơ quan báo chí đối ngoại, sự phối hợp giữa các cơ quan báo chí đối ngoại, cơ chế chính sách đối với hoạt động báo chí đối ngoại…Tất cả đã đặt ra nhu cầu cần thiết phải có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại trên cả phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn. Với những tính cấp thiết như trên, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ ngành Báo chí học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn, tác giả luận án khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay, từ đó nêu rõ những vấn đề đặt ra, đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm tăng cường quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại trong thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau đây: Nghiên cứu, hệ thống hóa, làm rõ các khái niệm công cụ: Quản lý, quản lý nhà nước, báo chí đối ngoại; làm rõ vai trò, nhiệm vụ, nguyên tắc, nội dung, phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, nghiên cứu khái quát về tình hình hoạt động của báo chí đối ngoại ở Việt Nam
  9. 4 Khảo sát thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam, chỉ ra thành tựu, hạn chế và nguyên nhân. Nêu rõ những vấn đề đặt ra, xu hướng và đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm tăng cường quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Xuất phát từ điều kiện thực tế, đề tài tập trung khảo sát, nghiên cứu các nội dung liên quan đến quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại của chủ thể quản lý bao gồm các cơ quan quản lý nhà nước về thông tin đối ngoại: Cục thông tin đối ngoại thuộc Bộ Thông tin - Truyền thông, Bộ Ngoại giao. Ngoài ra tác giả nghiên cứu đối tượng quản lý là các cơ quan báo chí đối ngoại chủ lực ở Trung ương bao gồm Thông tấn xã Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam. Đây là cơ quan báo chí đối ngoại chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan có thẩm quyền theo quy định. Phạm vi thời gian nghiên cứu: trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến tháng 12/2019. Đây là khoảng thời gian dễ tiếp cận các nguồn tài liệu, đảm bảo tính cập nhật; đồng thời có nhiều nội dung, chuyên môn đáp ứng được những tiêu chí cơ bản của đề tài đặt ra. Phạm vi địa bàn nghiên cứu: Thực hiện tại Hà Nội 4. Giả thuyết nghiên cứu Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam không những có vai trò quan trọng trong công tác thông tin đối ngoại mà còn là chiến lược để xây dựng một nền báo chí cách mạng phục vụ cho sự lãnh đạo của Đảng. Trước vai trò và nhiệm vụ quan trọng như vậy, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại luôn có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan báo chí đối ngoại để giữ vững tôn chỉ, mục đích góp phần quan trọng trở thành lực lượng của công tác thông tin đối ngoại, là một bộ phận trong công tác tuyên truyền và công tác tư tưởng của Đảng, là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị. Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ngoài những đặc điểm chung về phương thức, nội dung như quản lý các loại hình báo chí khác. Quản lý nhà nước về báo chí
  10. 5 đối ngoại có những đặc thù riêng, bởi báo chí đối ngoại không chỉ là một bộ phận trong công tác tuyên truyền và công tác tư tưởng của Đảng, mà còn để phục vụ triển khai các chính sách phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa, an ninh, quốc phòng bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo, với những đặc thù của một loại hình báo chí chủ yếu hướng ra bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. Điều này xuất phát từ yêu cầu, tôn chỉ, mục đích của báo chí đối ngoại. Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay đã phần nào đáp ứng được mục đích, yêu cầu của Đảng và Nhà nước ta đặt ra. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn một số hạn chế như hệ thống các văn bản pháp luật còn thiếu, trình độ, kỹ năng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại chưa đáp ứng được yêu cầu mới. Điều này dẫn đến thực trạng còn một số cơ quan báo chí đối ngoại hoạt động chưa thực sự đáp ứng tốt sự nhiệm vụ quan trọng của công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới. Nội dung thông tin trên báo chí đối ngoại chưa thực sự phong phú, hấp dẫn, sinh động, ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng, quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về báo chí truyền thông, về quản lý nhà nước, về quản lý báo chí truyền thông. Theo Mác-Ăngghen, báo chí có hai chức năng chính là tuyên truyền và cổ vũ tinh thần của công chúng. Lênin kế thừa nguyên tắc của Mác và bổ sung thêm nguyên tắc tổ chức tập thể. Báo chí là cơ quan ngôn luận của Đảng, Đảng lãnh đạo tập thể nên báo chí xem là người tổ chức tập thể. Hồ Chí Minh cho rằng, nhiệm vụ của tờ báo là tuyên truyền cổ động, huấn luyện, giáo dục và tổ chức dân chúng để đưa dân chúng đến mục đích chung. Theo quan điểm của Đảng ta, báo chí có vai trò tổ chức xã hội và tham gia vào đời sống xã hội. Báo chí được xem như một diễn đàn xã hội qua đó công chúng không phân biệt đẳng cấp, không phân biệt giàu sang đều có thể tham gia thảo luận các sự kiện chính trị xã hội. Trên cơ sở đó, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về báo chí, tuyên truyền đối ngoại, thông tin đối ngoại, quản lý nhà nước về báo
  11. 6 chí đối ngoại… Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, tác giả lựa chọn và sử dụng một số lý thuyết truyền thông để thực hiện đề tài luận án. 5.2. Cơ sở lý thuyết Việc xây dựng cơ sở lý thuyết của luận án được dựa trên một số lý thuyết chính sau: 5.2.1. Lý thuyết “Quản lý tổng quát” Lý thuyết này cũng đã chỉ ra rằng, tất cả các nhà quản lý đều phải thực hiện năm chức năng là: kế hoạch - tổ chức - chỉ huy - phối hợp - kiểm soát. Hiện nay, trong các sách về khoa học quản lý, năm chức năng đó được rút gọn thành bốn chức năng căn bản là: hoạch định - tổ chức - lãnh đạo - kiểm soát. Cùng với Ph.W.Taylo, H. Phayon được thừa nhận là nhà đồng sáng lập ra khoa học quản lý hiện đại và đã đưa khả năng áp dụng tới các loại hình tổ chức khác. Đến nay, mười bốn nguyên tắc quản lý chung của ông vẫn còn giá trị đối với lý luận và thực tiễn quản lý. Ví dụ, bốn nguyên tắc đầu tiên là: Phân chia công việc; thẩm quyền và trách nhiệm thống nhất; kỷ luật cao; thống nhất lãnh đạo/chỉ huy... 5.2.2. Lý thuyết lãnh đạo dựa trên cơ sở tố chất Theo lý thuyết này (được công bố vào những năm 1930 - 1940), các nhà lãnh đạo sinh ra đã có các tố chất hay đặc tính tự nhiên, có tính bản năng, năng lực sẵn có (có tố chất siêu phàm, có những giá trị vượt trội so với người khác), chứ không phải chỉ do luyện tập hay cố gắng mà đạt được. Lý thuyết đã tìm ra những đặc điểm, tính cách của nhà lãnh đạo có liên hệ mật thiết tới thành công của tổ chức. Tuy nhiên, khi các lý thuyết về lãnh đạo khác xuất hiện và các cuộc tranh luận, phản biện về lãnh đạo có sự tham gia rộng rãi của xã hội, nhất là khi phần lớn những nhà lãnh đạo thành đạt cũng không thừa nhận họ thừa hưởng những tố chất đặc biệt, thì quan điểm về tố chất lãnh đạo cũng có sự thay đổi. Đây cũng chính là lý do dẫn tới việc các nhà nghiên cứu chuyển hướng tới học thuyết lãnh đạo dựa trên cơ sở hành vi ở giai đoạn 1950. 5.2.3. Lý thuyết lãnh đạo dựa trên cơ sở hành vi Lý thuyết tập trung vào hành động, công việc cụ thể mà một nhà lãnh đạo thực hiện. Hành vi của nhà lãnh đạo lại phụ thuộc vào đặc điểm tính cách và kỹ năng của nhà lãnh đạo đó. Có thể coi lý thuyết lãnh đạo dựa trên cơ sở hành vi là một bước phát triển của lý thuyết lãnh đạo dựa trên cơ sở tố chất, lấy lý thuyết này làm nền tảng. Có hai vấn đề quan trọng trong hành vi của nhà lãnh đạo: sự quan tâm tới công việc và con người trong tổ chức, đây cũng chính là hai nhân tố quyết định tới hiệu quả lãnh đạo.
  12. 7 5.2.4. Lý thuyết hội tụ truyền thông Lý thuyết này được phát triển vào những năm 70 của thế kỷ XX bắt đầu tư khái niệm hội tụ của tác giả Nicholas Negropronte đưa ra khái niệm hội tụ, kể từ đây những nghiên cứu về lý thuyết này được phát triển mạnh mẽ. Hội tụ truyền thông tích hợp các loại truyền thông mới và truyền thông truyền thống, cung cấp cho công chúng nhiều cơ hội lựa chọn cách tiếp cận. Các loại phương tiện truyền thông tích hợp với nhau. Môi trường hội tụ truyền thông, người làm truyền thông sử dụng mọi phương tiện để chuyển tải nội dung truyền thông và công chúng được tự do lựa chọn cách tiến cận nội dung thông tin. Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại có thể áp dụng lý thuyết này ở các khía cạnh như quản lý tòa soạn hội tụ, quản lý phát triển hệ thống nhà báo làm báo chí đối ngoại cũng như quản lý sử dụng các phương tiện truyền thông. 5.2.5. Lý thuyết truyền thông và truyền thông đại chúng Cuốn sách “Truyền thông, lý thuyết và kỹ năng cơ bản” [57] có tổng kết lại một số lý thuyết truyền thông. Với lý thuyết thâm nhập xã hội, báo chí sẽ tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích đối tượng địa bàn, thời gian để phổ biến nội dung và hình thức cho phù hợp. Lý thuyết hành động lý tính và lý thuyết thuyết phục, khả năng tác động của truyền thông trong việc thay đổi đáng kể nhận thức của đối tượng cả về phương diện nhận thức, thái độ, hành vi. Các lý thuyết này có thể được vận dụng trong việc chuyển tải các nội dung “đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực cơ hội, thù địch”. Lý thuyết này có thể áp dụng vào việc xây dựng nội dung báo chí đối ngoại qua sự thuyết phục công chúng về mặt lý trí và cảm xúc, quản lý góp phần quản lý nội dung báo chí đối ngoại. 5.2.6. Lý thuyết đóng khung Lý thuyết này được Gregory Bateson ghi nhận là người đầu tiên đưa ra lý thuyết này vào năm 1972. Lý thuyết đóng khung được xem như một lý thuyết về truyền thông đại chúng, đề cập đến cách truyền thông và trình bày thông tin cho công chúng. Các phương tiện truyền thông nhấn mạnh một số sự kiện và sau đó đặt công chúng trong một bối cảnh cụ thể để khuyến khích hoặc không khuyến khích một số giải thích. Theo cách này, các phương tiện truyền thông thực hiện một ảnh hưởng có chọn lọc đối với cách mọi người nhìn nhận thực tế. Các nhà báo lựa chọn những sự kiện, giá trị và quan điểm nào sẽ được đề cập hoặc đưa ra thực sự nổi bật. Điều này có nghĩa là các nhà báo áp dụng các khung diễn giải riêng của họ khi đóng khung các
  13. 8 thông điệp. Các nhà báo cũng bị ảnh hưởng bởi các chuẩn mực xã hội, thói quen báo chí và định hướng chính trị hoặc tư tưởng của họ. Với lý thuyết đóng khung, việc quản lý báo chí đối ngoại nhấn mạnh vào quản lý tôn chỉ, mục đích mà một tờ báo đối ngoại cũng như cơ quan báo chí đối ngoại phải tuân thủ. Bên cạnh các lý thuyết nêu trên còn có các lý thuyết như: 5.2.7. Lý thuyết quản lý tâm trạng (Mood management theory), các thông điệp và thông tin truyền thông có thể làm thay đổi tâm trạng của các cá nhân. Lý thuyết đưa ra giả định trạng thái tâm lý của một cá nhân sử dụng ảnh hưởng của phương tiện truyền thông và các lựa chọn có sẵn để tối ưu hóa tâm trạng. Ngoài ra còn có một số suy luận lý thuyết gợi ý và hỗ trợ tiếp xúc với nội dung thông điệp để đưa đến những kết quả tác động theo mong muốn. 5.2.8. Lý thuyết hiệu ứng hạn chế (Limited effects theory), được đề xuất bởi nhà xã hội học người Mỹ gốc Áo Paul Lazarsfeld. Lý thuyết này cho rằng ngay cả khi có một hiệu ứng được tạo ra bởi các phương tiện truyền thông về suy nghĩ và ý kiến của các cá nhân, hiệu ứng này có thể đạt ở mức tối thiểu hoặc có thể tác động theo cách tốt nhất. Tất cả các phương tiện truyền thống đều có ảnh hưởng đến những suy nghĩ, quan điểm và thái độ của công chúng. 5.2.9. Lý thuyết tiếp nhận (Reception theory), thường được gọi là “Lý thuyết đối tượng hoặc lý thuyết tiếp nhận của người đọc được Stuart Hall phát triển vào năm 1973. Lý thuyết tập trung vào mã hóa và giải mã nội dung thông điệp được phổ biến cho người đọc bất kể dưới hình thức truyền thông nào như như tạp chí in, truyền hình, radio, trò chơi,... Ngày nay các nhà lý thuyết thực hiện phân tích phương tiện thông qua lý thuyết tiếp nhận thường rút ra kết quả từ trải nghiệm của độc giả. 5.3. Phương pháp luận Luận án áp dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng để xem xét: thực trạng hoạt động quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay được đặt trong bối cảnh hội nhập thông tin quốc tế như hiện nay. Ngoài việc cung cấp thông tin cho môi trường truyền thông trong nước, mỗi quốc gia trên thế giới đều xây dựng cho mình một chiến lược truyền thông đối ngoại để phát triển, với mục tiêu nâng cao sức ảnh hưởng và bảo vệ quyền lợi thiết thực của mình trên trường quốc tế. Với khả năng tác động, ảnh hưởng sâu sắc tới nhận thức công chúng, báo chí là phương tiện hiệu quả và tích cực nhất để đưa những chủ trương, chính sách, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta
  14. 9 đến với người dân trong nước, đồng bào ở nước ngoài, bạn bè quốc tế; đồng thời mang những thông tin quốc tế tới công chúng Việt Nam. Luận án áp dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét ứng với mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn nhận thức của con người có những thay đổi nhất định. Vì vậy nên quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay sẽ có những thay đổi nhất định. 5.4. Phương pháp nghiên cứu cụ thể Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành: khoa học quản lý, quản lý nhà nước, báo chí học, xã hội học để trình bày các nội dung nghiên cứu nhằm đạt mục đích, nhiệm vụ đặt ra. Các phương pháp chung: lô gic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh, nghiên cứu tài liệu, khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội học. 5.4.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu Luận án sử dụng phương pháp phân tích tài liệu để xây dựng cơ sở dữ liệu cho đề tài nghiên cứu. Trong khuôn khổ đề tài, nghiên cứu sinh đã chọn lọc, hệ thống các tài liệu bao gồm (sách, bài báo, đề tài khoa học …) về báo chí nói chung, báo chí đối ngoại. Ngoài ra, tác giả cũng thu thập các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các số liệu tại các buổi giao ban báo chí toàn quốc hàng tuần do Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, các công trình trong và ngoài nước đã nghiên cứu về quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại. Mục đích của phương pháp phân tích tài liệu là tìm hiểu lịch sử nghiên cứu về báo chí đối ngoại, nắm bắt những nội dung của các nghiên cứu đi trước. Trong quá trình phân tích tài liệu, nghiên cứu sinh sẽ thực hiện các công việc cụ thể như phân tích nguồn, phân tích nội dung và tổng hợp tài liệu. 5.4.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi Quy mô điều tra xã hội học thông qua phỏng vấn bằng bảng hỏi với cỡ mẫu 400 người. Thực hiện với các nhà báo công tác tại các cơ quan báo chí khác nhau bao gồm cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động báo chí ở Trung ương và địa phương và các nhà báo đang trực tiếp thực hiện làm các nhiệm vụ thực tiễn như biên tập, sản xuất nội dung báo chí đối ngoại, phóng viên, giảng viên và sinh viên báo chí, truyền thông. Mục đích của phương pháp này là tìm hiểu hiệu quả, đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay.
  15. 10 Việc chọn mẫu điều tra được tính toán theo phương pháp chọn chủ định và chọn mẫu ngẫu nhiên nhằm đảm bảo tính đại diện và tính khoa học của các thông tin cần thu thập tại các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động báo chí ở Trung ương và các cơ quan chủ quản báo chí đối ngoại. Khách thể điều tra là 400 cán bộ quản lý báo chí, biên tập viên, phóng viên tại Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, cán bộ quản lý báo chí tại Bộ Thông tin và Truyền thông. 5.4.3. Phương pháp phỏng vấn sâu Để làm rõ những vấn đề chuyên sâu trong nội dung nghiên cứu, đề tài tiến hành phỏng vấn sâu, lấy ý kiến của một số lãnh đạo quản lý báo chí, nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách, nhà báo, phóng viên tại các cơ quan báo chí, truyền thông đối ngoại về công tác công tác quản lý báo chí đối ngoại. Khách thể tham gia phỏng vấn: 6 người, trong đó 4 cán bộ báo chí và cán bộ quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại tại Bộ Thông tin và Truyền thông; 1 cán bộ Đài Truyền hình Việt Nam; 1 cán bộ Đài Tiếng nói Việt Nam. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận án góp phần làm rõ lý luận cơ bản về quản lý nhà nước về báo chí nói chung và quản lý báo chí đối ngoại nói riêng; đưa ra một số khái niệm, nguyên tắc, nội dung, phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại góp phần nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại; đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại từ năm 2016 đến năm 2019, chỉ rõ những kết quả, hạn chế và nguyên nhân. Trên cơ sở đó nêu lên những vấn đề đặt ra, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp các cơ quan, tổ chức, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động báo chí và quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại của mình. Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu các môn học của chuyên ngành quan hệ quốc tế và thông tin đối ngoại tại Học viện báo chí và Tuyên truyền cũng như ở các cơ sở đào tạo về quan hệ quốc tế. Đồng thời làm tài liệu phục vụ công tác bồi dưỡng cán bộ báo chí đối ngoại.
  16. 11 Kết quả nghiên cứu cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho những người quan tâm đến vấn đề quản lý báo chí nói chung và quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại nói riêng. 7. Đóng góp mới của luận án 7.1. Đóng góp về lý luận Luận án góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước về báo chí nói chung và quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại nói riêng. Luận án đưa ra một số khái niệm, nội dung, phương thức, nguyên tắc quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại góp phần tăng cường quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại. 7.2. Đóng góp về thực tiễn Luận án khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại từ năm 2016 đến 2019. Trên cơ sở kết quả khảo sát, chỉ rõ những kết quả, nguyên nhân những kết quả đã đạt được, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đó và những vấn đề đặt ra trong quản lý báo chí đối ngoại ở nước ta. Luận án nêu lên một số vấn đề đặt ra, dự báo xu hướng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại của Việt Nam trong những năm tiếp theo, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp và khuyến nghị nhằm tăng cường quản lý về báo chí đối ngoại ở Việt Nam trong thời gian tới. 8. Kết cấu của luận án Ngoài mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 3 chương: Chương 1. Lý luận chung quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam. Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay. Chương 3. Một số vấn đề đặt ra và giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam trong thời gian tới.
  17. 12 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước về các vấn đề liên quan đến báo chí đối ngoại, quản lý báo chí, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại Ở nước ngoài, nghiên cứu về hoạt động thông tin báo chí, báo chí đối ngoại và quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại được đề cập và nghiên cứu ở những nước phát triển, nhất là ở những nước có nền báo chí phát triển mạnh mẽ như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh, Pháp, Thụy Điển, Trung Quốc,... Cuốn sách Truyền thông với thế giới: Ngoại giao của Hoa Kỳ với các nước [187] của tác giả Martin F.Herz (1990) luận giải sự xung đột ý thức hệ, sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia như một trong những lý do đưa đến sự phát triển của cuộc cách mạng truyền thông trên toàn thế giới. Tác giả thể hiện trách nhiệm của các nhà ngoại giao công chúng để tư vấn cho về các tác động liên văn hóa của truyền thông đối ngoại của Hoa Kỳ và ảnh hưởng của họ đối với dư luận nước ngoài. Ông đưa ra sự phê phán các hoạt động ngoại giao công chúng hiện tại của Hoa Kỳ được rút ra từ kinh nghiệm ba mươi lăm năm của ông trong quá trình hoạt động đối ngoại. Cũng nghiên cứu về xã hội thông tin, nhóm tác giả G.Bechmann G, J.Fecker, U.Huws, G.V.Hootergem, M.L.Mirabile, A.B.Moniz, S.Siochru (1999) trong cuốn sách Xã hội thông tin, công việc và các hình thức xã hội mới [179] chỉ ra sự phát triển của báo chí sẽ tạo ra nhiều việc làm mới và để đáp ứng với những yêu cầu ngày càng cao của xã hội, nội dung các tờ báo cũng thay đổi về các tổ chức, đưa tin, viết bài và tham gia vào định hướng dư luận xã hội. Cuốn sách Những vấn đề cơ bản của đạo đức nghề nghiệp nhà báo (2003) [96] của tác giả G.V.Ladutina mặc dù không trực tiếp đề cấp đến vấn đề quản lý nhà nước về báo chí hay quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại song tác giả đã gián tiếp nói về vấn đề này khi đề cập đến trách nhiệm xã hội của nhà báo đối ngoại cũng như hoạt động nghề nghiệp, trong đó có vấn đề sa sút đạo đức nghề báo, sự thúc đẩy của lợi ích kinh tế, các vấn đề thuộc về cơ chế. Tác giả đưa ra một số định hướng như tôn trọng khách quan, định hướng dư luận và bản thân mỗi nhà báo không ngừng tự hoàn thiện bản thân. Cuốn sách Nghệ thuật thông tin” [97] tác giả Line Ross (2004), Chủ nhiệm các Chương trình thông tin công cộng tại Khoa Thông tin và Tuyên truyền Đại học Tổng
  18. 13 hợp Laval, Canada tập trung vào các nội dung tri thức, kinh nghiệm cơ bản trong thu thập, lựa chọn, sắp xếp, bố cục, viết bài và biên tập tin, những kỹ năng mà mỗi nhà báo cần có để đứng vững trong nghề. Bên cạnh đó, tác giả còn đề cập đến vấn đề thông cáo báo chí, một loại hình thông tin mà các tập đoàn kinh doanh, cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội đang sử dụng rộng rãi trong những năm gần đây để tiếp cận với công chúng. Cuốn sách Nghiệp vụ báo chí lý luận và thực tiễn [167] của tác giả V.V.Vôrôsilốp (2004), nhà báo người Nga tập trung làm rõ những vấn đề lý luận nghiệp vụ và kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động báo chí của nước Nga và thế giới. Tác giả đã điểm lại lịch sử báo chí một số nước trên thế giới ở cả 5 châu lục cùng sự phát triển của kỹ thuật công nghệ thông tin, các loại hình và chức năng, kết quả hoạt động truyền thông. Ngoài ra, tác giả phân tích sâu về chuẩn mực pháp lý, đạo đức, quan hệ tiếp thị và vấn đề nghiệp vụ tại các tòa soạn. Tuy nhiên, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn trong cuốn sách gắn với điều kiện và hoàn cảnh của nước Nga song cũng có một số điểm cơ bản để người làm báo và các cơ quan báo chí cũng như cơ quan quản lý nhà nước về báo chí có thể tham khảo, nhằm thúc đẩy sự phát triển báo chí nước ta trong thời kỳ mới. Cuốn sách Tổ chức và quản lý báo chí [181] của hai tác giả Herbert Lee Williams và Frank Warren Rucker đề cập đến cơ cấu chức năng của một tòa soạn báo, những trang thiết bị cần thiết và cách bố trí, sắp xếp để các trang thiết bị trong một tòa soạn và quy trình in ấn. Đây chỉ là quy trình về việc tổ chức bộ máy và tổ chức sản xuất một tờ báo, song đó cũng là gợi ý giúp các nhà quản lý báo chí nắm được quy trình sản xuất một tờ báo. Cuốn sách Báo chí và xã hội [182] của hai tác giả người Mỹ George L.Bird và E.Merwwin chỉ ra tầm ảnh hưởng của báo chí đến công chúng và báo chí tham gia vào rất nhiều quá trình xã hội. Ngược lại, vai trò của công chúng với sự phát triển của báo chí và một trong những động lực thúc đẩy báo chí phát triển chính là nắm vững thị hiếu của độc giả, song tác giả cũng chỉ ra báo chí cần có tôn chỉ, mục đích để đảm bảo định hướng cho công chúng, làm cho báo chí phản ánh đúng thực tiễn. Cuốn sách Truyền thông đại chúng - những kiến thức cơ bản [49] của tác giả người Đức Claudia đề cập những vấn đề lý luận cơ bản mang tính nghiệp vụ truyền thông như các vấn đề về thông tin, phương tiện thông tin, hoạt động thông tin, đối tượng thông tin, trách nhiệm, nghĩa vụ đạo đức của người làm báo, nghề nghiệp báo
  19. 14 chí và hoạt động truyền thông trong cơ chế thị trường. Với cách tiếp cận như vậy chủ yếu phục vụ cho những người nghiên cứu nghiệp vụ báo chí, song cũng là tài liệu cần thiết cho những người làm công tác quản lý báo chí để hiểu về truyền thông trong thế giới hiện đại. Cuốn sách Xã hội thông tin (2006) [179] của tác giả Frank Webster cho rằng sự phát triển mạnh mẽ mọi mặt của xã hội làm cho nhu cầu tìm hiểu, khai thác thông tin của con người gia tăng với tốc độ nhanh chóng. Vì lí do này nhiều loại hình báo chí, các trang mạng xã hội mới ra đời, ban đầu nó chỉ nhằm vào mục đích thông tin nhưng giờ đây người ta còn xây dựng nó trở thành một hoạt động kinh tế đem lại lợi nhuận cao. Cũng nghiên cứu về xã hội thông tin, nhóm tác giả G.Bechmann G, J.Fecker, U.Huws, G.V.Hootergem, M.L.Mirabile, A.B.Moniz, S.Siochru trong cuốn sách Xã hội thông tin, công việc và các hình thức xã hội mới (1999) [179] còn chỉ ra sự phát triển của báo chí sẽ tạo ra nhiều việc làm mới và để đáp ứng với những yêu cầu ngày càng cao của xã hội, nội dung các tờ báo cũng thay đổi về các tổ chức, đưa tin, viết bài và tham gia vào định hướng dư luận xã hội. Trong cuốn sách Báo chí quốc tế [185], tác giả Kevin Williams (tại chương 1: Toàn cầu hóa và báo chí quốc tế và chương 5: Kỹ thuật tiêu chuẩn: Quản lý tin tức và báo chí quốc tế) cho rằng, quản lý báo chí là một trong những phương thức lãnh đạo của mọi quốc gia. Báo chí phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, việc đưa báo chí trong nước ra nước ngoài đều phải đảm bảo theo những tiêu chuẩn, quy định về báo chí nói chung của mỗi nước cũng như đội ngũ nhà báo trong quá trình tác nghiệp cũng phải được quản lý theo những quy định chung của mỗi nước. Đây dường như là điều kiện bắt buộc giúp cho các cơ quan quản lý báo chí tập trung chỉ đạo việc đưa các nội dung thông tin lên báo chí và quản lý đội ngũ nhà báo. Cuốn sách Sức mạnh của truyền thông trong chính trị (2006) [51] của Doris A.Graber thuộc trường Đại học Illinois, Mỹ và cuốn sách Sức mạnh của tin tức truyền thông [103] của tác giả Michael Schudson (2003) chỉ ra những thay đổi của đời sống chính trị ở châu Mỹ với sự tác động của truyền, sự động này có tầm ảnh hưởng sâu rộng giữa người làm báo với các nhà chính trị. Ngoài ra, tác giả đưa ra những dự đoán về sự phát triển của truyền thông trong tương lai, tác động của truyền thông kiểu cũ và mới vào chính trường và vai trò của các nhà báo trong vận động hành lang có thể dẫn đến hậu quả làm chệch hướng các luật và quy định về truyền thông. Những dự đoán
  20. 15 này ngày càng được thực tiễn kiểm chứng tính đúng đắn trong đời sống chính trị và những gợi ý cho việc quản lý truyền thông đang trở thành vấn đề cấp thiết. Cuốn sách Hội tụ truyền thông và mô hình kinh doanh truyền thông phát triển: Cơ hội tổng quan và chiến lược [191] của tác giả Simon McPhillips (2008), Giám đốc Truyền thông tại Sprint Nextel Corp, Hoa Kỳ và Omar Merlo thuộc Đại học Cambridge, Anh nhận định: Sự hội tụ truyền thông đem đến nhiều cơ hội song nhiều nhà quan sát trong ngành công nghiệp truyền thông lại bi quan về những thay đổi như vậy. Tuy nhiên, bằng chứng cho thấy ngành công nghiệp truyền thông có thể nắm lấy cơ hội này, vì có rất nhiều mô hình kinh doanh truyền thông đang phát triển. Các tác giả cung cấp một cái nhìn tổng quan toàn diện về những thay đổi ảnh hưởng đến ngành công nghiệp truyền thông, xác định cách thức mô hình kinh doanh truyền thông đang phát triển, với những hậu quả và cuối cùng, xác định và thảo luận các cơ hội chính cho những người tham gia vào quá trình kinh doanh truyền thông. Cuốn sách Sổ tay quản lý truyền thông: Cẩm nang cho các học viên truyền hình và phát thanh ở các nước trong quá trình chuyển đổi (2009) [177] của tác giả John Prescott Thomas, cung cấp một số kinh nghiệm cho việc quản lý các tổ chức truyền thông về cơ cấu và tổ chức bộ máy, kế hoạch chiến lược và quản trị tài chính, kế hoạch và quản lý nguồn nhân lực… ở nhiều bối cảnh truyền thông khác nhau và đặc biệt liên quan đến các quốc gia đang phát triển. Trong đó tác giả đưa ra một số nghiên cứu trường hợp tại một số cơ quan truyền thông nhằm gợi ý cho về cách tổ chức quản lý truyền hình trong bối cảnh thế giới thay đổi. Cuốn sách Quản lý phóng viên báo chí nước ngoài trong quá khứ, hiện tại và tương lai trước xu thế toàn cầu báo chí của Dannika Lewis (2010) thuộc đại học Elon (Mỹ) cho rằng, sự kết nối của báo chí đối ngoại ngày càng phức tạp. Vì lẽ đó, sự thăng trầm và phát triển của báo chí đối ngoại nước ngoài trong suốt lịch sử, hiện tại và tương lai cần phải được quan tâm. Tuy nhiên, các nội dung đăng tải trên báo chí đối ngoại cần phải được xác minh nhằm tránh sự sai lệch dẫn đến việc tiếp nhận và hiểu sai vấn đề. Các nhà báo có thể cung cấp nhiều kiến thức và thông tin với ngôn ngữ và văn hóa ra thế giới nhưng cách họ thể hiện đôi khi lại chưa hoàn toàn đáp ứng các yêu cầu của nơi cần cung cấp thông tin cũng như yêu cầu của các quốc gia có tờ báo đối ngoại. Khi các văn phòng thường trú và phóng viên hoạt động ở nước ngoài có thể không hiệu quả trong việc đưa tin các vấn đề toàn cầu phức tạp họ cần phải được hướng dẫn, quản lý [174].
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2