BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

KHĂM MON CHĂN THẠ CHÍT

CẢI CÁCH BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI - 2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

KHĂM MON CHĂN THẠ CHÍT

CẢI CÁCH BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

Chuyên ngành: Quản lý công

Mã số: 62 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. Nguyễn Thị Thu Hà

PGS.TS. Nguyễn Thị Phượng

HÀ NỘI - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi, các số liệu nêu trong luận án là trung thực,có nguồn

gốc xuất xứ rõ ràng. Kết quả nghiên cứu trong luận án

chưa từng được công bố ở bất cứ công trình khoa học

nào khác.

Tác giả luận án

Khăm mon Chăn thạ chít

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu .......................................................... 7

1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài ......................... 7

1.2. Đánh giá các công trình nghiên cứu ........................................................... 22

1.3. Những vấn đề luận án cần phải giải quyết ................................................. 23

Chương 2: Lý luận chung về cải cách bộ máy hành chính nhà nước .......... 26

2.1. Cải cách bộ máy hành chính nhà nước ............................................................. 26

2.2. Mục tiêu, yêu cầu và tiêu chí cải cách bộ máy hành chính Nhà nước .............. 36

2.3. Nội dung, nguyên tắc và yếu tố tác động đến cải cách bộ máy

hành chính Nhà nước ........................................................................................ 46

2.4. Kinh nghiệm cải cách bộ máy hành chính Nhà nước một số nước .................. 59

Chương 3: Thực trạng cải cách bộ máy hành chính Nhà nước

Cộng Hòa Dân chủ Nhân dân Lào .......................................................... 71

3.1. Khái quát đặc điểm chung của nhà nước CHDCND Lào ................................ 71

3.2. Cải cách bộ máy hành chính Nhà nước CHCDND Lào ................................. 77

3.3. Một số tồn tại và nguyên nhân trong cải cách bộ máy hành chính

Nhà nước CHDCND Lào ..................................................................... 107

Chương 4: Quan điểm, giải pháp cải cách bộ máy hành chính

Nhà nước CHDCND Lào........................................................... 114

4.1. Quan điểm cải cách bộ máy hành chính Nhà nước CHCDND Lào..........114

4.2. Một số giải pháp cải cách bộ máy hành chính Nhà nước

CHDCND Lào........................................................................................124

KẾT LUẬN................................................................................................149

- Danh mục công trình khoa học của tác giả đã công bố

- Tài liệu tham khảo

- Phụ lục

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

BCT : Bộ chính trị

BMHC : Bộ máy hành chính

BCH : Ban chấp hành

Ban cải cách tổ chức bộ máy Nhà nước BCBN :

CHDCND Lào Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào :

CP : Chính Phủ

CQ : Cơ quan

CQHC : Cơ quan hành chính

CT-CP : Chỉ thị Chính Phủ

CTN : Chủ tịch nước

ĐNDCM Lào Đảng Nhân dân Cách mạng Lào :

MTTQ : Mặt Trận Tổ Quốc

TT : Thủ tướng

TW : Trung ương

TAND : Tòa án nhân dân

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

TANDPT : Tòa án nhân dân phúc thẩm

: VKSNDPT Viện kiểm sát nhân dân phúc thẩm

VPHQ : Văn phòng Quốc Hội

VPTT : Văn phòng Thủ tướng

VPTW : Văn phòng Trung ương

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BẢNG

HÌNH 3.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước CHDCND Lào.........................76

Bảng 3.2. Số lượng cán bộ chủ chốt kiêm nhiệm trên cả nước 2015..............78

Hình 4.1: Mô hình tổ chức bộ máy chính phủ Trung ương...........................144

Hình 4.2. Mô hình hiện nay: Tập trung thẩm quyền ban hành

chính sách công vào cơ quan hành chính trung ương................146

Hình 4.3. Mô hình tương lai: Xu thế phân quyền cho địa phương................147

Hình 4.4. Mô hình cơ quan hành chính nhà nước trong tương lai................147

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận án

Cải cách bộ máy hành chính Nhà nước là một vấn đề khó khăn phức

tạp, là công việc cần thiết của các quốc gia trên thế giới, là nội dung then chốt

không thể thiếu trong cải cách hành chính nhà nước. Tiến hành tốt cải cách bộ

máy hành chính Nhà nước sẽ đem lại hiệu quả trong quá trình quản lý nhà

nước và xây dựng được nền hành chính trong sạch, vững mạnh. Chủ tịch Cay

Sỏn Phôm Vi Han đã căn dặn: “Để góp phần xây dựng bộ máy nhà nước nói

chung và bộ máy hành chính trọng sạch vững mạnh phải quy định rõ chức

năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước; thực hiện nghiêm

nguyên tắc tập trung dân chủ, giải quyết tốt mối quan hệ bên trong của các tổ

chức, có sự phân công, giao trách nhiệm và xây dựng hệ thống phối, kết hợp

chặt chẽ, hoạt động có tổ chức, theo pháp luật nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ

được giao; mỗi tổ chức phải có cơ cấu phù hợp, không chồng chéo, trùng lắp,

khoa học, tạo điều kiện cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy tiến hành

trôi chảy, thông suốt và nhuần nhuyễn; xây dựng cơ sở hạ tầng bảo đảm cho

bộ máy hoạt động tốt; bố trí và sắp xếp nhân sự vào làm việc đúng tiêu chuẩn

chức danh và công việc cụ thể”[101, tr 20-21].

Để phát huy tinh thần nêu trên; Đảng nhân dân cách mạng Lào đã đề ra

đường lối, chính sách cụ thể trong việc tiến hành cải cách bộ máy hành chính

ở các nhiệm kỳ; đặc biệt Đại hội IX của Đảng nhân dân Cách mạng Lào nhấn

mạnh: “Tiếp tục cải cách bộ máy hành chính nhà nước trung ương và địa

phương theo hướng gọn nhẹ, phù hợp và hiệu quả, vận dụng khoa học công

nghệ và phương thức quản lý hiện đại vào trong quá trình quản lý nhà

nước”[110, tr 101]. Kết quả đạt được trong quá trình phát huy tinh thần của

Đảng nêu trên đã làm cho tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính được

đổi mới một bước và thu được những thành tựu bước đầu tạo thế và lực mới

đưa đất nước chuyển sang thời kỳ phát triển mới. Về cơ cấu tổ chức bộ máy

hành chính đã được cải thiện; chức năng nhiệm vụ của các cơ quan hành

1

chính nhà nước đã được quy định rõ hơn; sự phân cấp giữa các cơ quan hành

chính Trung ương và địa phương đã có sự điều chỉnh theo từng giai đoạn; sự

phối hợp giữa các ngành có kết quả tốt; việc xây dựng cơ sở kỹ thuật hiện đại

như xây dựng chính phủ điện tử, chính quyền địa phương điện tử đã được chú

trọng; cán bộ công chức đảm bảo về số lượng và chất lượng... Tuy nhiên

những yêu cầu bức thiết của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước, tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, nhất là bộ máy hành chính đã

bộc lộ nhiều khuyết điểm đang cản trở công cuộc đổi mới đó là: Bộ máy hành

chính nhà nước vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, thủ tục rườm rà, phiền hà;

chức năng, nhiệm vụ chồng chéo; hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả, tệ quan

liêu, lãng phí, tham nhũng vẫn còn khá phổ biến; việc xác định và phân công

chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước của chính phủ và mỗi

cơ quan Trung ương còn thiếu sự rõ ràng, chưa hợp lý, trùng lắp, nhất là ở

những lĩnh vực hấp dẫn và lĩnh vực quản lý có sự giao thoa, đan xen về phạm

vi, đối tượng giữa các bộ, ngành. Phân công, phân cấp quản lý nhà nước giữa

Trung ương và địa phương chưa cụ thể; giữa các cấp hành chính địa phương

vẫn còn nhiều hạn chế. Việc tổ chức phối hợp giữa các ngành, lĩnh vực chưa

thật sự hiệu quả; mạng lưới điện tử để tạo điều kiện tham gia đóng góp ý kiến

của người dân và việc cung cấp các dịch vụ để phục vụ nhân dân thông qua

công nghệ hiện đại chưa được áp dụng nhiều; thực trạng kiêm chức của cán

bộ chủ chốt có nhiều vấn đề đặt ra …Ngoài ra còn có nhiều những vấn đề

không đáp ứng và làm thỏa mãn nhu cầu phục vụ của nhân dân theo đúng bản

chất Nhà nước của dân, do dân và vì dân, cho nên đã nảy sinh nhiều vấn đề

làm mất đi lòng tin từ phía nhân dân.

Để khắc phục những thiếu sót, sửa chữa những khuyết điểm, xây dựng

một nhà nước có nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, hiện đại,

hoạt động có hiệu lực, hiệu quả thì việc tiếp tục cải cách bộ máy hành chính

nhà nước CHDCND Lào là có cơ sở lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, tác

giả mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài: “Cải cách bộ máy hành chính nhà

nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào” với sự mong muốn góp một phần

2

lý luận khoa học nhằm vận dụng vào phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát

triển nền hành chính nhà nước Lào hiện nay.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

- Mục đích việc nghiên cứu đề tài là làm rõ những quan điểm, khái niệm

khoa học về cải cách bộ máy hành chính nhà nước Lào. Đồng thời đề tài xây

dựng luận cứ khoa học thực tiễn cải cách bộ máy hành chính nhà nước

CHDCND Lào hiện nay. Từ đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm

hoàn thiện tổ chức bộ máy CHDCND Lào đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải

cách nền hành chính nhà nước hiện nay ở Lào.

- Để đạt được mục đích trên nhiệm vụ đặt ra của việc nghiên cứu là:

Xác định khái niệm bộ máy hành chính nhà nước nói chung, bộ máy

hành chính nhà nước Lào nói riêng; khái niệm, đặc điểm cải cách bộ máy

hành chính nhà nước; mục tiêu, yêu cầu, tiêu chí, nội dung và nguyên tắc của

cải cách bộ máy hành chính nhà nước, xác định các yếu tố ảnh hưởng đến cải

cách BMHC nhà nước, đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng cải cách bộ máy

hành chính nhà nước Lào trong điều kiện hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

- Đối tượng nghiên cứu:

Cải cách bộ máy hành chính nhà nước CHDCND Lào được xem là

những biện pháp, cách thức và thực hiện thẩm quyền của hệ thống hành pháp

trong điều kiện hội nhập nhằm nâng cao vai trò hành pháp và tổ chức của các

cơ quan hành chính nhà nước Lào. Do vậy, đối tượng nghiên cứu của đề tài

luận án là những hoạt động cải cách bộ máy hành chính nhà nước của Lào đó

là: sắp xếp, tổ chức lại hoạt động các cơ quan của chính phủ và cơ quan hành

chính các cấp; xác định lại thẩm quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chính phủ,

các cơ quan thuộc chính phủ và cơ quan hành chính các cấp trong bối cảnh

hội nhập sâu rộng.

- Phạm vị nghiên cứu:

Là đổi mới (cải cách) cách thức, tổ chức và hoạt động của bộ máy hành

chính nhà nước CHDCND Lào. Trong đó đối tượng nghiên cứu cụ thể:

3

+ Tổ chức, sắp xếp hợp nhất chia tách các cơ quan thuộc bộ máy hành

pháp từ trung ương đến địa phương.

+ Nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy cũng như sự

phối hợp, phân công hoạt động giữa các bộ phận cấu thành của bộ máy, giữa

cơ quan hành pháp với lập pháp và tư pháp trong chừng mực nhất định.

Phạm vi về thời gian luận án tập trung nghiên cứu thực tiễn cải cách

BMHC nhà nước CHDCND Lào từ năm 2006 đến nay.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

- Phương pháp luận:

Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện

chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa

Mác-Lênin; tư tưởng Cay Son Phôm Vi Han; quan điểm của Đảng và Nhà

nước Lào về cải cách bộ máy hành chính nhà nước trong bối cảnh hội nhập

quốc tế và mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa.

- Phương pháp nghiên cứu:

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể cho từng chương, mục trong đề tài

luận án bao gồm:

+ Phương pháp tổng hợp, phân tích được sử dụng trong chương 1 khi

nghiên cứu các công trình của Việt Nam, Lào và một số nước khác.

+ Phương pháp so sánh được sử dụng đối với chương lý luận về cải cách

bộ máy hành chính nhà nước.

+ Phương pháp thống kê, nghiên cứu tài liệu, điều tra xã hội học, chứng

minh lịch sử trên cơ sở kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Nhằm đánh giá, kết

luận và đưa ra những kiến nghị cụ thể, giải quyết vấn đề của luận án về cải

cách bộ máy hành chính nhà nước được sử dụng ở chương 3, chương 4.

5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học

- Câu hỏi nghiên cứu

+ Cải cách bộ máy hành chính nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân

Lào hiện nay cần tập trung giải quyết vấn đề gì ?

4

+ Thiết kế mô hình như thế nào hợp lý cho bộ máy hành chính nhà nước

CHDCND Lào trong tương lai ?

- Giả thuyết khoa học

+ Cải cách bộ máy hành chính nhà nước CHDCND Lào sẽ thành công

khi giải quyết được vấn đề: Sắp xếp lại cơ cấu bộ máy hành chính nhà nước;

điều chỉnh lại chức năng, nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước; phân

cấp và phối hợp nhuần nhuyễn, thống suốt từ Trung ương tới cơ sở; phát triển

mạng lưới điện tử và phát huy hiệu quả chế độ kiêm nhiệm giữa người đứng

đầu cơ quan Đảng và chính quyền.

+ Trong tương lai, đất nước ngày càng phát triển, chính phủ có nhiều

việc làm, để đảm bảo cho tổ chức bộ máy hành chính hoạt động hiệu quả cần

phải xây dựng mô hình mới, nhằm phát huy dân chủ và nâng cao vai trò của

cơ quan hành chính nhà nước.

6. Những điều mới và đóng góp của luận án

Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu về cải cách BMHC nhà

nước CHDCND Lào dưới góc độ của khoa học quản lý công. Những điểm

mới và cũng là những khoa học của luận án khi bảo vệ thành công sẽ là những

đóng góp của luận án:

- Những luận điểm về cải cách hành chính nhà nước, cải cách bộ máy

hành chính nhà nước là những giá trị quan trọng, thể hiện sự phát triển, thay

đổi về chất của bộ máy hành chính nhà nước trong tiến trình quản lý nhà nước

ở Lào.

- Mục tiêu, yêu cầu, nội dung và các nghiên tắc cải cách bộ máy hành

chính nhà nước là phạm trù pháp lý vừa mang tính chung của bộ máy nhà

nước nói chung, BMHC nhà nước CHDCND Lào nói riêng là những cơ sở để

tổ chức và hoạt động trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử.

- Khái quát thực trạng cải cách BMHC nhà nước CHDCND Lào từ 2006

đến nay nhằm xác định những thành tựu cũng như hạn chế trong việc cải cách

BMHC nhà nước Lào trong điều kiện hội nhập và phát triển.

5

- Xác lập và củng cố quan điểm hoàn thiện cải cách BMHC nhà nước

CHDCND Lào.

- Đề xuất những giải pháp cụ thể, sát thực tế có khả năng thực hiện trong

tiến trình cải cách BMHC nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý

hành chính nhà nước của hệ thống hành pháp Lào hiện nay.

- Ý nghĩa của luận án:

+ Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về cải cách bộ

máy hành chính nhà nước Lào. Vì vậy, những kết quả nghiên cứu sẽ là những

tiêu chí bổ sung quan trọng cho lý luận và thực tiễn của khoa học quản lý

hành chính nhà nước nói chung và của Lào nói riêng.

+ Kết quả nghiên cứu của luận án còn là tài liệu tham khảo có giá trị đối

với các nhà nghiên cứu, giảng dạy và đối với mọi đối tượng học viên của học

viện hành chính Lào, Việt Nam, các trường đại học, các cơ sở đào tạo liên

quan tới hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Trong chừng mực nhất định

công trình còn có giá trị tham khảo cho các nhà quản lý hành chính ở Lào

(nhất là đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan hành chính nhà

nước) trong việc hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình.

+ Những kết luận của luận án sẽ góp phần tích cực cho quá trình hoàn

thiện về tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước; là cơ sở tiếp

tục cải cách BMHC nhà nước đáp ứng yêu cầu của hội nhập và phát triển

cũng như góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền CHDCND Lào hiện nay.

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ

lục, luận án gồm 4 chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.

Chương 2: Lý luận chung về cải cách bộ máy hành chính nhà nước.

Chương 3: Thực trạng cải cách bộ máy hành chính nhà nước Cộng hòa

Dân chủ Nhân dân Lào.

Chương 4: Quan điểm và giải pháp cải cách bộ máy hành chính

nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.

6

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. TỔNG QUAN CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam

Cải cách bộ máy nhà nước nói chung, bộ máy hành chính nhà nước nói

riêng là nội dung quan trọng trong quá trình tổ chức và hoạt động của các cơ

quan hành chính nhà nước. Trong thời gian qua vấn đề cải cách bộ máy hành

chính đã có nhiều nước tiến hành, có nhiều tác giả nghiên cứu và đưa vào vận

dụng trong việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính. Các tác giả

trên thế giới tập trung nghiên cứu khá nhiều về lý luận, quan điểm, đặc điểm

của bộ máy nhà nước và bộ máy hành chính nhà nước. Các nhà nghiên cứu đã

từng làm rõ về nguyên tắc chung trong việc tổ chức và họat động của bộ máy

nhà nước, bộ máy hành chính nhà nước và đã đưa ra những mục tiêu, nội

dung cải cách, các quan điểm, định hướng cải cách bộ máy nói chung và bộ

máy hành chính nhà nước nói riêng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -xã hội

của mỗi quốc gia. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam liên quan tới cải

cách bộ máy hành chính nhà nước từ năm 2000 đến nay thể hiện như sau:

- Công trình nghiên cứu của tác giả Lê Sĩ Dược (2000): “Cải cách bộ

máy hành chính cấp Trung ương trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước

ta”[7]. Công trình nghiên cứu chia thành 3 phần: thứ nhất làm rõ về bộ máy

hành chính cấp trung ương trong cơ cấu nhà nước, trong đó quan niệm về

quyền hành pháp trong hệ thống quyền lực nhà nước, nghiên cứu đối tượng

chính phủ - chủ thể cơ bản thực hiện quyền hành pháp, tiếp theo tập trung làm

rõ các thành phần quan trọng trong cơ cấu tổ chức của Chính phủ, đặc biệt là

Bộ. Thứ hai, Nêu thực trạng tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính cấp

Trung ương ở Việt Nam qua các thời kỳ từ năm 1945 đến 1992; từ đó nêu lên

thực trạng tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính cấp Trung ương Việt

Nam hiện nay, trong đó có sự phân tích những mặc thành công và những hạn

chế nhất định trong cải cách bộ máy hành chính Trung ương ở Việt Nam.

7

Phần thừ ba, tác giả đưa ra phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của

bộ máy hành chính cấp Trung ương ở nước ta hiện nay, trong đó làm rõ sự

cần thiết phải đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính; đưa ra

những quan điểm và một số kiến nghị đổi mới tổ chức và hoạt động củ bộ

máy hành chính cấp trung ương. Công trình nghiên cứu này có đảm bảo tính

lịch sử và lô gíc có ý nghĩa rất lớn trong quá trình cải cách bộ máy hành chính

Trung ương. Tuy nhiên công trình này không chỉ nghiên cứu riêng đối với bộ

máy hành chính trung ương mà có nội dung tiếp cận cả hệ thống của bộ máy

nhà nước, cho nên chưa thể hiện đầy đủ và sâu sắc khi tham khảo trong khi

tiến hành cải cách bộ máy hành chính nhà nước.

- Công trình khoa học của Nguyễn Ngọc Hiến (2001): “Các giải pháp

thúc đẩy cải cách hành chính ở Việt Nam”[16] không chỉ tập trung nghiên

cứu về bộ máy hành chính nhà nước mà còn nghiên cứu mọi mặt trong hệ

thống hành chính ở Việt Nam. Đầu tiên công trình đã đi thẳng nghiên cứu quá

trình cải cách hành chính ở Việt Nam những năm qua; từ đó nêu ra các rào

cản trong cải cách, làm rõ nguyên nhân dẫn tới hạn chế trong cải cách hành

chính; tiếp theo tác giả đã đưa ra kiến nghị các giải pháp thúc đẩy cải cách

hành chính, tập trung vào 4 nôi dung: cải cách thể chế hành chính, cải cách bộ

máy hành chính nhà nước, cải cách công vụ, công chức và cải cách tài chính

công. Ngoài ra, tác giả còn nghiên cứu thêm về cải cách chính quyền địa

phương, cải tiến việc cung ứng dịch vụ công và tăng cường ứng dụng công

nghệ thông tin trong quản lý nhà nước. Đây là công trình có nội dung đa

dạng, có tính bao quát và có ý nghĩa quan trọng trong quá trình cải cách hành

chính nhà nước hiện nay. Tuy nhiên công trình này vẫn chưa làm rõ về chức

năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính nhà nước cho nên chưa xác định rõ

vấn đề đang chồng chéo trong tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính

các cấp.

- Công trình nghiên cứu của tác giả Võ Kim Sơn (2004): “Phân cấp

quản lý nhà nước, lý luận và thực tiễn”[39]. Cuốn sách giới thiệu một số mô

hình quản lý hành chính nhà nước với những nội dung: đưa ra cơ sở lý luận về

8

phân cấp trong quản lý hành chính nhà nước; các hình thức phân cấp và nêu

thực trạng phân cấp quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam từ năm 1945

đến 2003 và đưa ra nội dung thiết thực nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả

của phân công, phân cấp quản lý hành chính nhà nước. Công trình nghiên cứu

này có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứu về cải cách bộ máy hành

chính nhà nước, bởi vì phân cấp là một bộ phận không thể thiếu được trong

hoạt động quản lý hành chính nhà nước nói chung và cải cách bộ máy hành

chính nhà nước nói riêng. Tuy nhiên công trình nghiên cứu này chưa có giải

pháp cụ thể để hoàn thiện sự phân cấp, phân công trong bộ máy hành chính

nhà nước.

- Nguyễn Hồng Diên (2009), luận án tiến sĩ quản lý hành chính công:

“Tổ chức và hoạt động của chính quyền tỉnh theo hướng xây dựng nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”[8]. Công trình đã nghiên cứu cơ sở

lý luận về tổ chức hoạt động của chính quyền cấp tỉnh theo hướng xây dựng

nhà nước pháp quyền. Luận án cũng đã tập trung nghiên cứu thực trạng tổ

chức và hoạt động của chính quyền cấp tỉnh trong thời gian qua và đánh giá

việc tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp tỉnh phù hợp với thực tế ở Việt

Nam. Để góp phần vào việc tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp tỉnh,

luận án đã đưa ra một số quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức chính quyền

cấp tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam. Trong đó tập trung vào một số giải pháp: Một là, hoàn thiện thể

chế pháp luật về tổ chức chính quyền trên địa bản tỉnh. Hai là, tăng cường

phân cấp, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền tỉnh và phân cấp

cho chính quyền tỉnh tập trung vào vấn để những gì chính quyền tỉnh làm tốt

hơn, thích hợp hơn nên giao cho cấp chính quyền tỉnh đó đảm nhiệm. Ba la,

tăng cường công tác kiểm tra, than tra, giám sát việc thực hiện pháp luật. Bốn

là, nâng cao khả năng xây dựng và ban hành thể chế của chính quyền tỉnh.

Năm là, nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị

của tổ chức, công dân. Sáu là, tiếp tục tiến hành cải cách hành chính, tập trung

vào 4 nội dung chính: cải cách thể chế hành chính, cải cách bộ máy hành

9

chính, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài chính công. Bảy là,

đổi mới công tác tổ chức-nhân sự của chính quyền tỉnh trong đó tập trung giải

quyết việc bầu cử; việc đánh giá cán bộ; thực hiện tốt công tác tuyển dụng và

luân chuyển cán bộ theo quy hoạch. Tám là, tăng cường công tác đào tạo bồi

dưỡng cán bộ công chức và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Từ các giải

pháp trên luận án đã đưa ra mô hình tổ chức chính quyền tỉnh, đã đề xuất mô

hình tổng thể về tổ chức chính quyền tỉnh trong nhà nước pháp quyền ở Việt

Nam. Luận án có cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn cao, có tính khả thi và

không khó trong việc thực hiện triển khai. Những thành công của luận án

cũng làm cơ sở trong việc nghiên cứu luận án về cải cách bộ máy hành chính

nhà nước ở Việt Nam nói chung và cải cách bộ máy hành chính nhà nước Lào

nói riêng. Tuy nhiên luận án cũng chỉ dừng lại trong việc đổi mới tổ chức và

hoạt động của chính quyền tỉnh, chưa làm rõ về cơ cấu bộ máy hành chính các

cấp; chưa đề ra hướng cải cách mang tính cụ thể; chưa làm rõ chức năng

nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp chính quyền. luận án mặc dù có hướng cải

cách bộ máy chính quyền tỉnh như ủy ban nhân dân các cấp, nhưng chưa sát

với thực tế cải cách bộ máy hành chính cấp tỉnh ở CHDCND Lào.

- Đặng Xuân Phương (2011): “Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của

Bộ, cơ quan ngang bộ trong quá trình cải cách hành chính ở Việt Nam”[35].

Công trình đã tập trung nghiên cứu các nội dung quan trọng trong cải cách bộ

máy hành chính nhà nước Trung ương. Cuốn sách đã nghiên cứu cơ sở lý luận

về khái niệm, tính chất, vai trò, chức năng nhiệm vụ của bộ, cơ quan ngang

bộ, đồng thời đã nêu lên cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ và hình

thức tổ chức hoạt động, cơ chế làm việc của bộ, cơ quan ngang bộ. Cuốn

sách đã nêu thực tiễn về tổ chức và hoạt động của bộ, cơ quan ngang bộ,

những bất cập, hạn chế về tổ chức và hoạt động của bộ, cơ quan ngang bộ ở

Việt Nam, có tham khảo kinh nghiệm cải cách hành chính của một số nước

trên thế giới, đa đưa ra một số phương hướng và giải pháp cho việc hoàn thiện

tổ chức và hoạt động của Bộ, cơ quan ngang bộ ở Việt Nam trong cải cách

hành chính, một vấn đề quan trọng của tiến trình đổi mới, chủ động hội nhập

10

kinh tế quốc tế của đất nước. Các giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt

động của bộ, cơ quan ngang bộ đã tập trung vào 4 nội dung: Một là, hoàn

thiện một số vấn đề pháp lý cơ bản liên quan đến việc tổ chức và hoạt động

của bộ, cơ quan ngang bộ, trong các quy định pháp luật; hai là, Đưa ra giải

pháp đổi mới cơ cấu tổ chức của Bộ và cơ quan ngang Bộ; ba là, tách bạch

hoạt động công quyền với hoạt động cung ứng dịch vụ công và hoạt động

quản lý, giám sát tài sản nhà nước tại doanh nghiệp; bốn là, đổi mới cơ chế

hoạt động quản lý của bộ, cơ quan ngang bộ. Ngoài ra tác giả có một số kiến

nghị rất khoa học và phù hợp với điều kiện cải cách hành chính ở Việt Nam.

Vì vậy, việc nghiên cứu cuốn sách này rất phù hợp với xu hướng cải cách ở

CHDCND Lào. Tuy nhiên, công trình mới chỉ dừng lại trong việc giải quyết

bộ máy hành chính cấp Bộ và cơ quan ngang bộ mà không bao gồm các cơ

quan thuộc chính phủ và cơ quan hành chính ngành dọc.

- Nguyễn Ngọc Thanh: Luận án tiến sĩ quản lý hành chính công

(2013)“Đổi mới nhằm nâng cao chất lượng chính quyền cấp cơ sở ở nước ta

hiện nay”[53]. Luận án rất thành công trong việc đưa ra cơ sở lý luận về

chính quyền cấp cơ sở; làm rõ các từ khóa và các khái niệm liên quan; từ đó

luận án đã nghiên cứu thực trạng chính quyền cấp cơ sở ở Việt Nam, trong đó

có tập trung nghiên cứu về bộ máy hành chính cấp cơ sở trong thời gian qua;

luận án đã nêu rõ những mặt hạn chế của chính quyền cấp cơ sở; công trình

cũng tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình đổi mới nhằm nâng cao chất

lượng chính quyền cấp cơ sở ở nước Việt Nam sau nay. Nhất là một số định

hướng đổi mới, xuất phát từ quan điểm đổi mới và yêu cầu đổi mới. Đặc biệt

là những giải pháp sau:

Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức, hoạt động

của chính quyền cấp cơ sở; trong đó tập trung vào giải quyết việc sửa đổi, bổ

sung Hiến pháp hiện hành; xây dựng, ban hành một đạo luật về chính quyền

địa phương. Hai là, đổi mới tổ chức và hoạt động bộ máy chính quyền cấp cơ

sở; trong đó tập trung giải quyết đối với Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân

dân xã, thị trấn; đổi mới đối với Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân

11

phường; đổi mới Ủy ban nhân dân quận, phường thành cấp chính quyền cơ

sở. Ba là, xây dựng và thực hiện quy hoạch; kế hoạch phát triển kinh tế. Bốn

là, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Năm là, thực

hiện cải cách thủ tục hành chính. Sau là, tăng cường củng cố mối quan hệ

giữa chính quyền cơ sở với hệ thống chính trị cùng cấp và hệ thống chính trị

và các tổ chức tự quản ở phường và thôn, làng, ấp, bản. Bảy là, hoàn thiện

phân cấp giữa cấp huyện và cấp cơ sở trong thực hiện vai trò quản lý nhà

nước ở địa phương. Tám là, đổi mới công tác quy hoạch cán bộ, công chức

chính quyền cơ sở; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

chính quyền cấp cơ sở. Chín là, tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh thực hiện chế

độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức chính quyền cơ sở và hiện

đại hóa cơ sơ vật chất, trang thiết bị đối với trụ sở làm việc của chính quyền

cấp cơ sở. Luận án đã đưa ra giải pháp rất đầy đủ và có thệ thống đảm bảo

tính lô gích, có thể vận dụng vào giải quyết việc đổi mới nhằm nâng cao chất

lượng chính quyền cấp cơ sở ở Việt Nam. Mặc dù vậy, công trình chưa có

giải pháp cụ thể trong cải cách bộ máy cơ sở. Thực tiễn cho thấy cần tiếp tục

cải cách bộ máy hành chính nhà nước nói chung, bộ máy hành chính cấp cơ

sở nói riêng phù hợp với điều kiện và môi trường CHDCND Lào trong giai

đoạn hiện nay.

- Nguyễn Thị Phượng “Minh bạch hóa hoạt động quản lý hành chính

Nhà nước từ lý luận tới thực tiễn”[37]. Tác giả đã tiếp cận đến quan niệm về

“minh bạch” và “minh bạch hóa”, là một vấn đề quan trọng trong những

nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền. Tác giả đã tập

trung nghiên cứu thưc tiễn pháp lý và thực hiện minh bạch hóa hoạt động

quản lý hành chính nhà nước Việt Nam trong những năm qua, trong đó có

nghiên cứu ở các cơ quan quản lý hành chính nhà nước như: Chính phủ và Ủy

ban nhân dân các cấp; đưa ra kết quả hoạt động trong một số Bộ, ngành và địa

phương. Từ đó đưa ra một số kiến nghị có tính khoa học và phù hợp với điều

kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay. Công trình cũng là tài liệu tham khảo trong

quá trình nghiên cứu đề tài luận án của tác giả. Tuy nhiên, công trình chưa đề

12

cập nhiều đến bộ máy hành chính nhà nước, chỉ nghiên cứu thực tiễn minh

bạch hóa hoạt động quản lý hành chính nhà nước trong quá trình xây dựng

nhà nước pháp quyền ở Việt Nam để làm cho cơ quan quản lý nhà nước hoạt

động có hiệu lực và hiệu quả.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở Lào

Cải cách bộ máy nhà nước là một yêu cầu cần thiết đối với mọi quốc

gia trên thế giới nói chung, đối với CHDCND Lào nói riêng và đã được tiến

hành một cách liên tục, thường xuyên. Tuy nhiên, trong quá trình cải cách bộ

máy nhà nước ở Lào, có rất ít các công trình nghiên cứu một cách có hệ

thống, phần lớn các công trình chủ yếu tập trung giải quyết theo tinh thần đại

hội Đảng cũng như quan điểm của Đảng đã đề ra trong các kỳ đại hội. Tuy

nhiên, trên phương diện nghiên cứu khoa học lý luận và thực tiễn cải cách bộ

máy ở Lào có thể kể đến các công trình nghiên cứu của một số tác giả sau:

- EN SOLATHI (2000), luận án tiến sĩ: “Xây dựng Nhà nước đảm bảo

quyền lực của nhân dân lao động ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong

giai đoạn hiện nay”[60]. Luận án của tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận trong đó

tập trung trình bày về nhà nước và quyền lực nhà nước qua các thời kỳ lịch sử

và làm rõ khái niệm về tổ chức bộ máy nhà nước bao gồm bộ máy lập pháp,

hành pháp và tư pháp. Trong phần thực trạng, luận án đã làm rõ thực trạng bộ

máy nhà nước trong đó tập trung nghiên cứu bộ máy lập pháp (Quốc hội);

nghiên cứu bộ máy hành pháp trong đó tập trung vào bộ máy hành chính từ

năm 1975-1990 và bộ máy tư pháp trong đó tập trung nghiên cứu bộ máy ở

Viện kiểm sát nhân dân tối cáo và Tòa án nhân dân tối cao. Luận án đã trình

bày về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước trên cơ sở quyền lực của nhân dân lao

động. Từ đó, luận án đã đưa ra các giải pháp về việc chỉnh đốn hệ thống thiết

chế và phương thức họat động của Nhà nước CHDCND Lào trong giai đoạn

xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Những kết quả nghiên cứu trong

công trình khoa học về xây dựng nhà nước bảo đảm quyền lực của nhân dân

lao động, về phương diện lý luận và thực tiễn cũng là cơ sở cơ bản cho việc

tiếp tục nghiên cứu về cải cách BMHC nhà nước ở CHDCND Lào của tác giả

13

đang thực hiện. Tuy nhiên, luận án cũng chưa bàn nhiều về cải cách bộ máy

hành chính nhà nước mà chỉ tập trung nghiên cứu về làm thế nào mới xây

dựng nhà nước cũng như bộ máy nhà nước là thực sư của dân, do dân và vì

dân. Luận án chỉ dừng lại trong việc đưa ra các giải pháp trong xây dựng nhà

nước bảm đảm quyền lực của nhân dân lào động.

- Công trình nghiên cứu của Phăn Khăm Vi Pha Văn (2001) “Một số suy

nghĩ về việc kiện toàn bộ máy Chính phủ”[86]; công trình đã nêu sự cần thiết

khách quan trong việc hoàn thiện cơ cấu chính phủ; trong đó nghiên cứu thực

trạng của cơ quan chính phủ trong thời gian qua, đánh giá những mặt hạn chế

trong cơ cấu chính phủ. Từ đó đưa ra một số ý tưởng nhằm góp phần hoàn

thiện bộ máy chính phủ ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Có thể nói đây là

một công trình nghiên cứu của một vị lãnh đạo cấp cao, khi cảm nhận được sự

bất hợp lý trong bộ máy chính phủ. Công trình có ý nghĩa quan trọng trong

quá trình nhận thức về cải cách bộ máy chính phủ sau nay ở Cộng hòa Dân

chủ Nhân dân Lào. Công trình này chưa đảm bảo đầy đủ các nội dung cần

thiết trong cải cách cơ cấu, bởi vì phạm vi nghiên cứu quá hẹp. Mặc dù các ý

tưởng đưa ra đều có tính khả thi nhưng chưa phù hợp với đặc điểm và đặc thù

ở CHDCND Lào.

- Khăm Môn Vi Vông Xay (2005) đề tài khoa học: “Cải cách chính

quyền địa phương để phát triển kinh tế xã hội”[87]. Đề tài nghiên cứu của tác

giả đã làm rõ tính cấp thiết trong cải cách chính quyền địa phương; đưa ra

mục tiêu và phương hướng cải cách hành chính trong những năm tới. đã quy

định các nội dung cụ thể trong việc tiến hành cải cách hành chính, tập trung

vào 3 nội dụng: cải cải thể chế, cải cách bộ máy hành chính và cải cách nhân

sự trong cơ quan hành chính. Là công trình nghiên cứu có đề cập về chính

quyền địa phương nhưng chỉ tập trung ở 3 cấp chính quyền địa phương: cấp

tỉnh, cấp huyện và cấp bản. Còn cụm bản không nói tới trong khi cơ quan này

đang hoạt động có hiệu quả; và cũng chưa xác định rõ cụm bản này nằm ở

đâu trong các cấp chính quyền địa phương. Còn cơ cấu bộ máy hành chính

cấp bản vẫn chưa đưa ra được giải pháp hoàn thiện.

14

- Chăn Phêng Phông Si Khăm (2007), luận văn: “Bộ máy hành chính

nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, sơ lược và định hướng hoàn

thiện”[6]. Tác giả tập trung nghiên cứu hình thức tổ chức bộ máy hành chính

nhà nước mang tính lịch sử cao. Tuy nhiên chưa có sự phân tích thành tưu của

việc tổ chức và họat động của Hội đồng Bộ trưởng, mà mới chỉ nêu lên chức

năng, nhiệm vụ và quyền hạn của bộ máy hành chính Trung ương và địa

phương theo luật định. Ngoài ra, luận văn cũng chưa phân tích được những

mặt hạn chế của bộ máy hành chính nhà nước Lào trong thời gian qua, cho

nên khó đưa ra được giải pháp cho sự việc tiếp tục hoàn thiện bộ máy hành

chính nước CHDCND Lào phù hợp với xu thế phát triển chung. Trong phần 3

mới chỉ tập trung đưa ra giải pháp, đó là về việc hoàn thiện bộ máy hành

chính Trung ương và bộ máy hành chính địa phương nhưng còn chưa rõ ràng,

chưa đầy đủ, chưa nghiên cứu sâu về chức năng, nhiệm vụ, về sự phân cầp,

phối hợp của các cơ quan hành chính nhà nước và chưa liên kết với những

hạn chế của bộ máy hành chính. Cho nên, đây là nhiệm vụ mà luận án của tác

giả cần phải tiếp tục nghiên cứu theo hướng gọn hơn và phù hợp hơn theo tinh

thần đại hội Đảng và Nhà nước đã đề ra.

- Công trình nghiên cứu của tác giả Vi Xay Phăn Đa Nu Vông (2008):

“Quản lý công mới trong bộ máy nhà nước”[104]. Tác giả đã làm rõ khái

niệm về bộ máy nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp); nêu rõ đặc trưng

của bộ máy nhà nước, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,

đồng thời đưa ra các mô hình, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước. Từ đó đã có

sự thiết kế bộ máy nhà nước cho phù hợp với công cuộc đổi mới đất nước,

phù hợp với điều kiện xây dựng và bảo vệ tổ quốc Cộng hòa dân chủ nhân

dân Lào. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu này chỉ tập trung đưa ra lý luận

chung, chưa nghiên cứu sâu thực tiễn và chưa đưa ra được giải pháp làm thế

nào đề cơ quan quản lý hành chính nhà nước hoạt động có hiệu lực và hiệu

quả.

- Si Phục Vông Phắc Đi (2011), đề tài khoa học: “Tổ chức bộ máy Nhà

nước đáp ứng với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền trong điều kiện

15

phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Cộng hòa dân chủ

nhân dân Lào”[98]. Đề tài nghiên cứu đã tập trung làm rõ một số lý luận về

khái niệm, tính chất, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước trong đó có

đề cập tới bộ máy hành chính nhà nước. Đưa ra các mô hình quản lý hành

chính Nhà nước trên thế giới. Làm rõ chức năng, nhiệm vụ và cơ chế phối

hợp trong cơ quan hành chính các cấp; đặt ra yêu cầu cần thiếu đối với việc

thiết lập bộ máy hành chính phù hợp với xu hướng phát triển đất nước. Những

vấn đề này cũng là cơ sở giúp cho luận án tham khảo và tìm kiếm mô hình tổ

chức và hoạt động phù hợp với tình hình phát triển hiện nay. Công trình

nghiên cứu đã tập trung vào 3 cơ quan nhà nước: Quốc hội, Chính phủ và

Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao mà chưa bàn nhiều

về cơ cấu tổ chức bộ máy của chính phủ và chính quyền địa phương chỉ bàn

về cơ quan hành pháp môt cách chung chung.

1.1.3. Một số các công trình nghiên cứu của nước khác

Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước được tổ chức và

hoạt động theo những nguyên tắc chung, thống nhất tạo thành một cơ chế

đồng bộ, thống nhất để thực hiện các nhiệm vụ và chức năng của nhà nước.

Bộ máy nhà nước có vị trí vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị, có vai

trò quyết định quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Chính vì vậy,

việc nghiên cứu về cải cách bộ máy nhà nước đã có nhiều tác giả toàn thế giới

đề cấp tới, đã thể hiện thông qua các công trình nghiên cứu sau:

- RICH ARD C.SCHOEDER (1999) “An Outline of AMERICAN

Government” (Khái quát về chính quyền Mỹ)[63]. Cuốn sách đã tập trung

trình bày Hiến pháp Mỹ và chế độ Hiến pháp Mỹ với những vấn đề có tính

chất đặc trưng như: Phân quyền, chế độ tổng thống, chế độ lưỡng viện, quyền

của công dân, vấn đề kiểm soát tính chất hợp hiến của các đạo luật, vấn đề

đảng phái chính trị. Cuốn sách bao gồm 7 phần: Hiến pháp một văn kiện

trường tồn; giải thích Hiến pháp, người liên bang; nhánh hành pháp, quyền

lực của Tổng Thống; nhánh lập pháp, quyền lực của quốc hội; nhánh tư pháp,

giải thích Hiến pháp; một quốc gia của nhiều chính quyền và Những nền tảng

16

của chính quyền Mỹ. Cuốn sách đã làm rõ việc phân quyền trong bộ máy nhà

nước, bảo đảm được cơ chế phân quyền và kiểm soát quyền lực. Công trình là

tài liệu quý giá để tác giả tham khảo trong quá trình nghiên cứu về cải cách bộ

máy hành chính nhà nước trong điều kiện hội nhập và phát triển, nhất là trong

điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, việc tổ chức nhà nước

theo chế độ Tổng thống Hoa Kỳ đều có sự khác hẳn với điều kiện tổ chức bộ

máy nhà nước ở CHDCND Lào, do Lào còn là quốc gia mới bắt đầu phát

triển, mọi điều kiện cho việc tổ chức và hoạt động như BMNN của chính

quyền Hòa Kỳ là chưa phù hợp cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, công

trình nghiên cứu vẫn là tài liệu tham khảo bổ ích khi đề tài luận án nghiên

cứu, đề xuất các kiến nghị về tổ chức và hoạt động của BMHC của nhà nước

CHDCND Lào.

- James D. Wolfensohn (1997), “Nhà nước trong một thế giới đang

chuyển đổi”[62]. Cuốn sách tập trung bàn về nhà nước và bộ máy nhà nước:

nhà nước nên làm gì, nên làm thế nào và có thể làm thế nào có thể đạt được

kết quả tốt hơn trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng; cuốn sách đưa

ra những ví dụ điển hình về một số nhà nước hoạt động có hiệu quả cũng như

một số nhà nước hoạt động kém hiệu quả. Cuốn sách đã bàn về chiến lược hai

phần: Một là, tập trung các họat động của Nhà nước sao cho khớp (phù hợp)

với khả năng của nó. Nhà nước không nên làm quá nhiều việc, điều tốt hơn là

nên làm cho các chính phủ tập trung sức vào các hoạt động công cộng cốt lõi

có tầm quan trọng then chốt đối với phát triển. Hai là, nên tìm cách cải tiến

khả năng của nhà nước bằng tăng cường các thể chế công cộng. Cuốn sách

nhấn mạnh đặc biệt vào những cơ chế kích thích các quan chức làm công việc

tốt hơn và linh hoạt hơn, đồng thời có những cơ chế đề kiểm chế hành vi độc

đoán và tham nhũng. Tuy nhiên, công trình vẫn chưa có giải pháp cụ thể để

góp phần cho nhà nước vững mạnh.

- Salvatore SChiavo-Campo và Pachampet Sundaram (2003) “To Serve

and to Preserve Improving Public Administration In a CompetitiveWorld”[64]

(Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công trong một thể giới cạnh tranh).

17

Cuốn sách này là công trình nghiên cứu công phu có giá trị về mặt lý luận và

thực tiễn, gồm 4 phần, 21 chương. Trên cơ sở phân tích khái quát bối cảnh

chính trị, kinh tế thế giới, tác giả đã phác họa bức tranh toàn cảnh về nền hành

chính công trong thể kỷ XXI. Tác giả đã tập trung nghiên cứu và làm rõ về cơ

chế tổ chức bộ máy nhà nước và tổ chức chính phủ như: cơ chế hình thành và

điều phối chính sách của Trung ương; cơ cấu tổ chức của chính quyền Trung

ương, chính quyền cấp dưới và chính quyền địa phương; đưa ra lý thuyết về

phi tập trung hóa, về các cơ quan không thuộc bộ và việc quản lý các doanh

nghiệp nhà nước; về quản lý nguồn nhân lực của chính phủ, về quản lý nhân

sự trong bộ máy chính phủ, vè đầu tư phát triển nhân sự cho chính phủ; quản

lý về chi tiêu của chính phủ Trung ương, chính quyền địa phương; làm rõ bản

chất của việc mua sắm công, về việc làm và tiền lương trong khu vực nhà

nước; về mối quan hệ giữa người dân với chính quyền; tính liêm chính, tinh

thần trách nhiệm và chất lượng dịch vụ hành chính…Tác giả công trình đã đi

sâu luận giải những bài học kinh nghiệm, cả bài học thành công và thất bại

của các quốc gia trong quá trình tiến hành cách cách hành chính. Đặc biệt tác

giả còn đề cập những vấn đề hết sức bức xúc đối với nhiều nước như đấu

tranh chống quan liêu, tham nhũng, làm thất thoát nguồn vốn và đầu tư thiếu

hiệu quả, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong sạch và có năng lực, xóa

bỏ những thủ tục hành chính phiền hà. Đây là một cuốn tài liệu tham khảo

hữu dụng, có thể giúp ích cho việc nghiên cứu luận án về cải cách bộ máy

hành chính nhà nước, nhất là trong việc hoạch định chính sách và các tác

nhân tham gia hoạch định chính sách của Chính phủ và chính quyền cấp tỉnh

ở Lào trong quá trình cải cách bộ máy hành chính nhà nước. Tuy nhiên, công

trình chưa đưa ra phương hướng và giải pháp cụ thể trong khi tiến hành cải

cách bộ máy hành chính nhà nước.

- The World Bank (2005): “Phân cấp ở Đông Á để chính quyền địa

phương phát huy tác dụng”[65]. Cuốn sách đã tập hợp các báo cáo của các tác

giả và điểm lại về cải cách giữa các chính phủ trong khu vực, chắt lọc ra

những nội dung chính, nêu bật những kinh nghiệm bổ ích. Cuốn sách tập

18

trung nghiên cứu 6 nước Đông Á, nơi mà hoạt động phân quyền đã trở thành

một vấn đề quan trọng đó là Campuchia, Trung Quốc, Indonesia, Philippin,

Thái Lan và Việt Nam. Cuốn sách đã tổng kết những kết quả đạt được trong

quá trình phi tập trung hóa ở Đông Á và về cuộc cải cách tiêu biểu đang được

tiến hành. Việc nghiên cứu về phân cấp trong quản lý hành chính nhà nước là

nội dụng tất yếu trong quá trình cải cách bộ máy hành chính Nhà nước. Một

hệ thống phân cấp được thiết kế tốt sẽ mang lại nhiều lợi ích và đẩy mạnh

việc tăng trưởng và ổn định kinh tế. Nếu phân cấp được thiết kế không tốt,

hoặc được thực hiện giám sát không hợp lý, thì nó có thể làm cho sự kiểm

soát lỏng lẻo đối với hoạt động của chính quyền địa phương, ảnh hưởng đến

tăng trưởng kinh tế, quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công. Cho nên

trong cải cách bộ máy hành chính, phân cấp là vấn đề cần thiết. Tuy nhiên,

công trình cải cách bộ máy hành chính nhà nước của World Bank cũng có đề

cập tới việc phân cấp trong bộ máy hành chính địa phương ở Đông Á, trong

đó tập trung vào 6 nước nhưng chưa nói đến việc phân cấp ở cấp chính quyền

địa phương CHDCND Lào.

- Tác phẩm nghiên cứu của V.I Lênin (1978)“Thà ít mà tốt”, là công

trình nghiên cứu sâu sắc về vấn đề cải tổ bộ máy nhà nước[26]. Tác phẩm đã

phân tích thực trạng của bộ máy nhà nước, nhất là Bộ dân ủy thanh tra công

nông còn nhiều yếu kém, tổ chức và hoạt động kiểu cũ, bất cập. Từ đó đặt ra

yêu cầu cải tổ bô máy nhà nước. Những nội dung chủ yếu trong việc tiến hành

cải cách là: Phân tích, đánh giá chung về thực trạng bộ máy nhà nước sau 5

năm Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Nêu những thành tựu trong

việc tạo ra một xã hội mới, một kỷ nguyên mới. Đồng thời cũng đề cập tới

mặt hạn chế trong việc tổ chức và hoạt động bộ máy quan liêu, bảo thủ, không

chịu đổi mới; trong đó đã đề cập tới nguyên nhân làm cho tổ chức bộ máy nhà

nước hạn chế đó là: công nhân chưa biết xây dựng bộ máy nhà nước; thiếu

kiến thức về nhà nước và năng lực tổ chức thực tiễn. Mục tiêu chính của tác

phẩm “Thà ít mà tốt” là: xây dựng bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa có đầy

đủ năng lực quản lý xã hội và đưa nền kinh tế tiềm năng thành nền kinh tế xã

19

hội chủ nghĩa. V.I. Lênin đã đưa ra phương châm cải cách đó là: tiến hành

trọng điểm, trước hết tập trung vào Bộ dân ủy thanh tra công nông và tiến

hành vững chắc, thận trọng, nhưng tránh lề mề, kém hiệu quả. Tác phẩm đã

đưa ra giải pháp: lựa chọn, đào tạo đội ngũ cán bộ nhà nước, thanh lọc khỏi

bộ máy những kẻ quan liêu, ăn hối lộ, phần từ lạc lõng khác; sáp nhập Ban

kiểm tra của đảng với bộ dân ủy thanh tra công nông. Nội dung chính của tác

phẩm Thà ít mà tốt là tập trung giải quyết bộ máy nhà nước trong đó là bộ

máy hành chính như: Bộ dân ủy thanh tra công nông. Đây là tác phẩm có giá

trị thực tiễn đối với công cuộc cải cách nền hành chính nói chung và cải cách

bộ máy hành chính nói riêng ở CHDCND Lào. Tuy nhiên, công trình mới chỉ

dừng lại làm nền tảng về tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao

động; tác phẩm mang tính lý luận và tính lịch sử cao.

- Hoàng Xiêu Yông (2006) “Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà

nước Trung Quốc”[114], sách tham khảo, Khoa nhà nước và pháp luật-

Trường Đảng Trung ương, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trong công trình

nghiên cứu của mình, tác giả Hoàng Xiêu Yông đã đề cập tới các nguyên tắc

tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Trung Quốc, đã chứng minh cơ sở

lý luận và đưa ra thực tiễn có khoa học về tổ chức và hoạt động của bộ máy.

Trong đó tác giả có nêu các nội dung có liên quan đến bộ máy hành chính nhà

nước như: việc phân chia khu hành chính và cơ quan ngành dọc của Chính

phủ Trung Quốc; nêu lên tình hình việc phân chia khu hành chính thành các

cấp khác nhau từ Trung ương đến cơ sở; làm rõ cơ cấu ngành dọc của hệ

thống hành chính. Từ đó đã nêu thực trạng về việc tổ chức bộ máy chính phủ

Trung ương và việc cải cách bộ máy đó. Công trình còn đưa ra thực trạng việc

tiến hành cải cách bộ máy của chính phủ Trung Quốc trong thời gian qua như

việc: nhập và tách của các cơ quan hành chính nhà nước. Trên cơ sở đó tác

giả đưa ra nhận thức về lý thuyết của cải cách bộ máy hành chính trong các

giai đoạn. Trong đó có nhấn mạnh việc cải cách bộ máy hành chính Trung

quốc chủ yếu là thêm bớt, tăng giảm bộ máy hành chính mà chưa thay đổi

nhiều về mặt chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan hành chính nhà

20

nước như thế nào là phù hợp. Tác giả đã đưa ra cơ chế vận động của Chính

phủ Trung Quốc và tập trung đưa ra phương thức chỉ đạo của chính phủ

Trung Quốc về cải cách bộ máy như: Chế độ trách nhiệm, nhất là chế độ trách

nhiệm của chính phủ trung ương và chính phủ địa phương; chế độ hội họp của

chính phủ trung ương và địa phương; cơ chế về quản lý ngành dọc nhất là các

ngành thuế, hải quan, công-thương, môi trường- tài nguyên…; trong quá trình

quản lý theo ngành dọc phải bố trí ngân sách cho các cấp nhanh chóng và phù

hợp. Tác giả đã đưa ra rất nhiều cơ sở lý luận, đưa ra các quan điểm, nêu thực

trạng của bộ máy hành chính nhà nước với nội dung phong phú, cái nhìn đa

dạng. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu của tác giả Hoàng Xiêu Yông cũng

còn chưa đi nghiên cứu sâu về những hạn chế và giải pháp chủ yếu nhằm cải

cách bộ máy hành chính, tác giả chỉ đưa ra lý luận chung và các định hướng

chung cho việc cải cách chính phủ Trung Quốc. Tuy nhiên, đây cũng là công

trình hữu ích làm tài liệu tham khảo cho đề tài nghiên cứu của tác giả trong

vấn đề thực tiễn cải cách bộ máy hành chính nhà nước.

- Tinh Tinh (2002):“Cải cách chính phủ - Cơn lốc chính trị cuối thế kỷ

XX”[49]. Cuốn sách đã tập trung nghiên cứu về cải cách cơ cấu Quốc Vụ

Viện, trong đó có đánh giá thực trạng trong việc tổ chức và hoạt động của bộ

máy hành chính nhà nước cũng như sự hoạt động của cán bộ công chức trong

bộ máy nhà nước nói chung, bộ máy hành chính nhà nước nói riêng. Nội dung

nghiên cứu trong cuốn sách đã được chia thành VII chương: bao gồm các nội

dung quan trọng xoay quanh cải cách cơ cấu, khởi đầu bằng việc trình bày nội

dung Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc lần thứ IX, nêu phương án cải cách

cơ cấu; chương tiếp theo đã đề cập tới chặng đường gian nan-nhìn lại và suy

nghĩ về những cuộc cải cách cơ cấu của Trung Quốc; cải cách cơ cấu trong

nền kinh tế thị trường; cuốn sách đã nêu tình trạng tinh giản biên chế đã dẫn

đến việc những người ở lại hay ra đi, những thất vọng và hy vọng; từ đó tác

giả đã đưa ra một khuôn mẫu mới cho chính phủ Trung Quốc, đưa ra các vẫn

đề then chốt, đột phá, đặt ra cơ chế ràng buộc nhằm đảm bảo trong cuộc cải

cách; trên cơ sở đó đưa ra mô hình hệ thống lớn, năng lực lớn, chính quyền

21

nhỏ xã hội lớn, mô hình chuyển đổi chức năng và các mô hình khác. Phần

cuối của cuốn sách đã đề cấp tới cơ cấu chính phủ nước ngoài một số nước

trên thế giới. Cuốn sách đã phân tích thực trạng, nêu những điều bất cập trong

thực tế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như bộ máy

hành chính và sự hoạt động của cán bộ công chức. Cuốn sách là tài liệu tham

khảo cho các cuộc cải cách. Đây có thể được coi là tài liệu có giá trị và ý

nghĩa trong việc tiến hành cải cách bộ máy hành chính nhà nước ở CHDCND

Lào đang tiến hành cải cách hiện nay.

1.2. ĐÁNH GIÁ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

Cải cách bộ máy nhà nước nói chung, bộ máy hành chính nhà nước

CHDCND Lào nói riêng là nội dung cần thiết và cấp bách quyết định sự

nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Cải cách bộ máy nhà nước và

bộ máy hành chính nhà nước mặc dù có rất nhiều công trình của các tác giả

trong và ngoài nước nghiên cứu với nhiều khía cạnh khác nhau. Những công

trình nghiên cứu đó cũng đã thể hiện sự đầy đủ, đa dạng về lý luận và thực

tiễn trong việc tiến hành cải cách bộ máy hành chính nhà nước, nhưng các

công trình nêu trên chưa thể hiện được hết các nội dung thực tiễn trong quá

trình cải cách bộ máy hành chính nhà nước CHDCND Lào đang đặt ra hiện

nay. Có thể đánh giá chung ở các công trình nghiên cứu như sau:

- Hầu hết các công trình nghiên cứu liên quan đến cải cách bộ máy

hành chính nhà nước nêu trên đều cho thấy có sự tương đồng ở những mức độ

nhất định về cả cách thức tổ chức và phân công, phâp cấp thực hiện chức

năng, nhiệm vụ của từng cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước, và được

thể hiện ở các công trình của Việt Nam.

- Nhìn chung các công trình nghiên cứu ở Lào nêu trên ở mức độ nhất

định đều liên quan đến cải cách bộ máy nhà nước và bộ máy hành chính nhà

nước ở CHDCND Lào. Tuy nhiên, cũng có một số các công trình đã được

công bố và có nội dung liên quan nhưng chưa bàn nhiều về vấn đề cải cách bộ

máy hành chính nhà nước như các bài báo, một số luận văn cao học và đề tài

khoa học.

22

- Công trình của một số nước khác đã thể hiện đầy đủ cả lý luận khoa

học và thực tiễn cấp bách. Nhưng các công trình nghiên cứu và ý tưởng của

một số nước phương tây đã có một phần nào khác biệt với các nước châu Á

nói chung, CHDCND Lào nói riêng.

1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CẦN PHẢI GIẢI QUYẾT

Từ các thực trạng của bộ máy hành chính nhà nước nêu trên, luận án sẽ

tập trung phân tích ưu và nhược điểm của bộ máy hành chính nhà nước từ

Trung ương đến địa phương trên mọi mặt. Và đưa ra phương pháp giải quyết

phù hợp với điều kiện cải cách bộ máy hành chính ở CHDCND Lào hiện nay.

Một là, Đưa ra những lý luận mang tính khoa học trong việc điều chỉnh

chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan

thuộc chính phủ và chính quyền địa phương các cấp cho phù hợp với yêu cầu

quản lý nhà nước trong tình hình mới để tránh chồng chéo, lấn sân, ỷ lại, dựa

dẫm…

Hai là, đưa ra cơ sở lý luận trong việc phân cấp quản lý trong cơ quan

hành chính nhà nước trung ương- địa phương, phân cấp giữa các cấp chính

quyền địa phương, tăng cường mối liên hệ và trách nhiệm của chính quyền

trước nhân dân địa phương. Phân cấp công việc với phân cấp về tài chính, tổ

chức và cán bộ. Định rõ những loại việc địa phương toàn quyền quyết định,

những việc phải có ý kiến của Trung ương và những việc phải thực hiện theo

quy định của Trung ương.

Ba là, đưa ra các giải pháp trong tiến hành cải cách cơ cấu bộ máy

hành chính Trung ương và địa phương phù hợp vào đặc điểm và điều kiện ở

CHDCND Lào cũng như phù hợp với chương trình cải cách bộ máy hành

chính nhà nước địa phương theo chương trình 3 xây.

Bốn là, đề ra một số giải pháp nhằm giải quyết các mối quan hệ phối

hợp giữa cơ quan hành chính nhà nước cấp trên với cấp dưới, giữa cơ quan

hành chính ngành dọc với ngành ngang. Tránh tình trạng một quan cơ quan

ngành dọc dưới sự chỉ đạo của hai cơ quan cấp trên.

23

Năm là, Xây dựng chính phủ điện tử để làm điều kiện thuận lợi cho

việc tham gia đóng góp ý kiến của nhân dân đối với tổ chức và hoạt động của

bộ máy nhà nước nói chung, bộ máy hành chính nói riêng.

Sáu là, Đề xuất một số mô hình bộ máy hành chính nhà nước từ trung

ương đến địa phương trong tương lai, phù hợp với xu thế ngày càng phát triển

của nền hành chính nhà nước Lào.

Tất cả các vấn đề nêu trên đều là nội dung mang tính cấp thiết, cần

được giải quyết kịp thời và cụ thể. Đặc biệt trong điều kiện bộ máy hành

chính nhà nước CHDCND Lào hoạt động trên thực tế chưa thật sự hiệu quả,

như: Tinh giản bộ máy nhà nước, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công

chức góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý hành chính nhà nước

trong điều kiện hội nhập. Vì vậy, chỉ có tiến hành cải cách bộ máy hành chính

nhà nước thật sự vững mạnh, bộ máy hành chính nhà nước mới đáp ứng yêu

cầu phục vụ nhân dân một cách tốt nhất bảo đảm Nhà nước của dân, do dân

và vì dân.

Tiểu kết chương 1:

Cải cách bộ máy hành chính nhà nước là đề tài có thể nói là không có

nước nào bỏ qua trong tổ chức và hoạt động của chính phủ và chính quyền địa

phương. Các nước trên thế giới tùy vào trình độ phát triển cũng như các điều

kiện tự nhiên- xã hội, dân tộc, tôn giáo của mình mà có thể tiến hành cải cách

với nội dung khác nhau và những hình thức thực hiện nhất định. Công trình

nghiên cứu của mỗi tác giả đều có sự thành công nhất đinh, nhưng mức độ để

đưa vào vận dụng trong thực tiễn đều vẫn còn là vấn đề đặt ra là tiếp tục

nghiên cứu và hoàn thiện.

Đối với các công trình nghiên cứu của các tác giả ngoài nước đều liên

quan đến một số khía cạnh của cải cách bộ máy hành chính. Sự thành công

của các công trình nêu trên đã làm rõ về cơ sở lý luận liên quan đến cải cách

bộ máy hành chính; các quan điểm, luận điểm đã được thừa nhận rộng rãi, cơ

sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu đã được sử dụng trong nhiều công

trình nghiên cứu. Các tác giả đã thành công trong việc nghiên cứu thực trạng

24

của cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính, đồng thời đã phân tích đánh giá mặt

hạn chế trong cải cách bộ máy hành chính nhà nước và đưa ra phương hướng

và giải pháp có giá trị khoa học; có giá trị cao cho việc nghiên cứu học tập

của sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh cũng như những người quan tâm đến

vấn đề cải cách hành chính nói chung, cải cách bộ máy hành chính nói riêng.

Đối với CHDCND Lào, đề tài cải cách bộ máy hành chính là một vấn

đề mới. Qua nghiên cứu tổng hợp các công trình khoa học, sách báo, tạp chí

đã công bố ở trong và ngoài nước, có thể khẳng định cho đến này chưa có một

công trình nào nghiên cứu hoàn chỉnh và có thệ thống về vấn đề cải cách bộ

máy hành chính nhà nước CHDCND Lào.

Vì vậy, đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về: Cải cách bộ máy hành

chính Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào của tác giả.

25

CHƯƠNG 2

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẢI CÁCH BỘ MÁY HÀNH CHÍNH

NHÀ NƯỚC

2.1. CẢI CÁCH BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

2.1.1. Khái niệm bộ máy hành chính nhà nước

Trong nền hành chính nhà nước, với tính cách là một thể thống nhất về

mặt cơ cấu tổ chức, các cơ quan hành chính nhà nước, là các bộ phận hợp

thành giữ vị trí vô cùng quan trọng. Trên phương diện lý luận về nhà nước, bộ

máy hành chính nhà nước được hiểu là hệ thống các cơ quan nhà nước thực

hiện chức năng của nền hành chính nhà nước-chức năng chấp hành và điều

hành, các cơ quan đó được gọi là cơ quan hành chính nhà nước.

Do sự khác biệt về chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và xã hội

nên bộ máy hành chính nhà nước ở các quốc gia khác nhau được tổ chức

không giống nhau. Vì vây, nhiều tác giả cũng có cách tiếp cận khác nhau về

bộ máy hành chính nhà nước cụ thể là:

Theo Từ điển Luật học: “Bộ máy hành chính nhà nước là tổng thể hệ

thống các cơ quan chấp hành và điều hành lập ra để quản lý toàn diện hoặc

quản lý ngành, lĩnh vực trong cả nước hoặc trên phạm vi lãnh thổ nhất định.

Bộ máy hành chính thường là bộ phận phát triển và phức tạp nhất của bộ

máy nhà nước của một quốc gia. Bộ máy hành chính Nhà nước được tổ chức

thành hệ thống thống nhất theo đơn vị hành chính từ Trung ương đến địa

phương, đứng đầu là Chính phủ [45, tr 82].

Như vậy, các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập trên cơ sở

luật định để thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn trong từng lĩnh vực nhất

định. Là một bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước. Cơ quan hành chính

nhà nước còn có những dấu hiệu đặc thù, nhờ đó chúng ta có thể phân biệt với

các cơ quan khác của nhà nước.

Thứ nhất, cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan có chức năng quản lý

hành chính nhà nước - hoạt động chấp hành và điều hành là hoạt động mang

26

tính dưới luật;

Thứ hai, cơ quan hành chính nhà nước có phạm vi thẩm quyền nhất định

giới hạn trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước do pháp luật quy định;

Thứ ba, các cơ quan hành chính nhà nước có mối liên hệ trong hệ thống

trực thuộc, cấp trên cấp dưới tạo thành một hệ thống thống nhất từ trung ương

đến cơ sở.

Ngoài ra, từ cách tiếp cận trên có thể thấy rằng; đứng đầu cơ quan hành

chính nhà nước là Chính phủ. Chính vì vậy, để hoàn thành tốt những nhiệm

vụ trên, chính phủ phải được tổ chức thành một bộ máy thống nhất với các bộ

phận cấu thành hợp lý để đảm đương các chức năng nhiệm vụ và quyền hạn

trong từng lĩnh vực cụ thể. Bộ máy đó bao gồm các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ

quan thuộc chính phủ... Đồng thời các cơ quan hành chính nhà nước trung

ương, hoạt động quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, văn hóa, xã

hội, quốc phòng và an ninh còn phải được tiến hành trong phạm vi từng địa

phương. Để đảm trách nhiệm vụ này, một hệ thống các cơ quan quản lý hành

chính địa phương được thiết lập trên từng đơn vị hành chính lãnh thổ của

quốc gia.

Theo, Từ điển Giải thích thuật ngữ hành chính thì bộ máy hành chính

nhà nước là “hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước hợp thành chỉnh thể

thống nhất (Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang bộ…và ủy ban nhân dân

các cấp, các sở, phòng…của Ủy ban nhân dân), có chức năng, nhiệm vụ được

pháp luật quy định rõ ràng, được tổ chức theo một trật tự thứ bậc và hoạt

động trong mối quan hệ truyền đạt, điều phối, kiểm tra…để thực hiện quyền

hành pháp và quản lý, điều hành mọi mặt đời sống xã hội của một quốc

gia”[59, tr 14].

Như vậy, có thể thấy bộ máy hành chính nhà nước là một hệ thống tổ

chức lớn nhất bao gồm nhiều vấn đề quan trọng mà bất cứ tổ chức nào khác

đều không có. Hay nói cách khác, tổ chức bộ máy hành chính nhà nước là một

hệ thống đặc biệt, vừa chứa dựng bên trong có những nguyên tắc chung về

khoa học tổ chức, vừa có đặc điểm của bộ máy cai trị mang tính quyền lực

27

công, vừa chứa đựng các yếu tố thuộc về khoa học tổ chức quản lý, nhưng nó

cũng có những đặc trưng riêng biệt mà các tổ chức thông thường không có, đó

là hoạt động mang tính công quyền (thực hiện quyền hành pháp). Ví dụ (Luật

tổ chức Chính Phủ Việt Nam năm 2001, sửa đổi năm 2015).

Hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước được đặt dưới sự giám sát

trực tiếp và thường xuyên của các cơ quan quyền lực nhà nước. Bộ máy hành

chính nhà nước được thành lập trên cơ sở pháp luật, chịu sự chỉ đạo điều hành

của cơ quan hành chính cao nhất, trong phạm vi hoạt động chấp hành và điều

hành để nhằm thực hiện chức năng quản lý, đưa đường lối, chính sách, chủ

trương của giai cấp cầm quyền vào cuộc sống.

Bộ máy hành chính nhà nước là một bộ phận cấu thành của hệ thống tổ

chức bộ máy nhà nước, thực thi một trong ba ngành của quyền lực nhà nước.

Bộ máy hành chính nhà nước được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến địa

phương, đứng đầu là chính phủ chịu trách nhiệm thực hiện quyền hành pháp.

Để thực thi quyền hành pháp hiệu lực và hiệu quả cao nhất, bộ máy hành

chính nhà nước được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc thứ bậc, cấp trên

lãnh đạo, chỉ đạo, cấp dưới phục tùng, tuân lệnh và chịa sự kiểm soát của cấp

trên trong hoạt động. Bộ máy hành chính nhà nước mặc dù là một bộ máy

thống nhất, thông suốt từ Trung ương đến địa phương, song nó thường được

chia thành hai bộ phận: một là, bộ máy hành chính nhà nước ở Trung ương-

tức là bộ máy của Chính phủ và các cơ quan thuộc chính phủ có vai trò quản

lý nền hành chính toàn quốc; hai là, bộ máy hành chính nhà nước ở địa

phương-bao gồm toàn bộ các cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương

nhằm thực thi nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước tại địa phương. Bộ máy

hành chính nhà nước Trung ương và địa phương có thể được hiểu như sau:

Bộ máy hành chính Trung ương: Là hệ thống các cơ quan hành chính

nhà nước trung ương hợp thành chỉnh thể thống nhất (chính phủ, các bộ, cơ

quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ…) có chức năng, nhiệm vụ được

pháp luật quy định, thực hiện quyền hành pháp ở trung ương.

28

Trong cơ cấu nhà nước, Chính phủ có một vai trò hết sức quan trọng. Ở

các nước trên thế giới, Chính phủ có thể có các tên gọi khác nhau, như Chính

phủ, Nội các, Hội đồng Bộ trưởng, Hội đồng nhà nước…, nhưng khái quát

nhất, Chính phủ là cơ quan được lập ra để tổ chức thực hiện trên thực tế

quyền lực nhà nước, tiến hành hoạt động quản lý, điều hành và đứng đầu hệ

thống các cơ quan hành chính nhà nước.

Trong cơ cấu tổ chức của chính phủ bao gồm: Các bộ, cơ quan ngang

bộ. Trong công trình nghiên cứu này gọi chung là cấp bộ. Bộ được hiểu và sử

dụng theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, tiếp cận dưới góc độ thuật ngữ

hành chính. Bộ là cơ quan hành chính cấp trung ương, có chức năng điều

hành, chỉ đạo và quản lý công việc của chính phủ trong phạm vi toàn xã hội,

cả nước, có quyền thay mặt chính phủ trong lĩnh vực, ngành được giao. Bộ là

cơ quan hành chính cấp trung ương mà người đứng đầu thông thường là nhân

vật chính trị hoặc chính trị gia.

Điều 19 luật chính phủ Lào đã quy định: “Bộ và cơ quan ngang bộ là

bộ máy chính phủ, có chức năng tham mưu cho chính phủ và quản lý vĩ mô

đối với ngành, lĩnh vực trên phạm vi cả nước”[113, tr 6].

Theo thuật ngữ hành chính: “Bộ là cơ quan của chính phủ được thành

lập theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối

với ngành (đa ngành), lĩnh vực nhất định trên phạm vi cả nước”[20, tr 12].

Bộ là cơ quan hành chính ở cấp trung ương, chịu trách nhiệm điều hành

và vạch ra chiến lược phát triển ở một hay một số lĩnh vực nhất định. Là cơ

quan thực hiện quyền lực Nhà nước về mặt hành pháp và là cơ quan thẩm

quyền riêng.

Trong chính phủ, ngoài các bộ quản lý ngành, lĩnh vực là những đơn vị

chủ yếu tiến hành hoạt động quản lý hành chính nhà nước, còn có các cơ quan

thuộc chính phủ được thành lập để thực thi một số hoạt động cụ thể của nhà

nước hoặc được trao một số chức năng quản lý nhà nước, nhưng không có

quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Những cơ quan này được

thành lập nhằm thực thi những điều quy định của Hiến pháp và pháp luật trên

29

lĩnh vực cụ thể mà các bộ không có hoặc thực hiện hạn chế. Ở các nước, loại

cơ quan này thường được gọi là các cơ quan độc lập, do người đứng đầu hành

pháp lập. Một số cơ quan là những nhóm quản lý có quyền giám sát nhưng

khu vực đặc biệt của nền kinh tế. Một số cơ quan khác cung cấp các dịch vụ

đặc biệt cho chính phủ hoặc cho xã hội.

Cơ quan thuộc chính phủ làm việc theo chế độ thủ trưởng. Thủ trưởng

cơ quan thuộc chính phủ chịu trách nhiệm trước chính phủ, Thủ tướng Chính

phủ về các công việc được giao. Việc thành lập cơ quan thuộc chính phủ linh

hoạt hơn việc thành lập các bộ. Số lượng các cơ quan thuộc chính phủ tùy

thuộc vào việc thiết kế tổ chức bộ máy chính phủ trong từng nhiệm kỳ. Ví dụ:

nhiệm kỳ (2006-2011) chính phủ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào có 10 cơ

quan thuộc chính phủ; năm 2015 giảm xuống chỉ còn lại 1 cơ quan thuộc

Chính phủ. Ở Việt Nam cơ quan thuộc chính phủ có 8 cơ quan.

Bộ máy hành chính địa phương: Bộ máy hành chính địa phuơng có thể

được hiểu trên hai phương diện: phương diện thứ nhất là “tập hợp tất cả các tổ

chức hành chính địa phương, hay nói cách khác, đó là hệ thống của các tổ

chức hành chính địa phương (cơ quan hành chính địa phương); phương diện

thứ hai là một thực thể hoạt động quản lý các vấn đề trên một địa phương nhất

định. Có thể là những thực thể quản lý chung các vấn đề (Ủy ban nhân dân);

cũng có thể là quản lý một vấn đề cụ thể”[10, tr 201].

Điều 2 Luật hành chính địa phương CHDCND Lào quy định: Hành

chính địa phương là cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương được phân chia

thành 3 cấp: Cấp tỉnh, cấp huyện và cấp bản (làng).

Cấp tỉnh có tỉnh và thành phố, trong trường hợp cần thiết có thể thành

lập đặc khu; cấp huyện có huyện và thị xã; cấp bản có bản (làng).

Chính phủ đã giao trách nhiệm cho chính quyền địa phương quản lý đất

đai, tài nguyên môi trường và nhân dân nhằm bảo vệ và xây dựng địa phương

có sự phát triển tiến bộ, giàu mạnh và hạnh phúc.

Bộ máy hành chính địa phương ở CHDCND Lào là cơ quan hành chính

30

địa phương các cấp, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, văn bản của

các cơ quan nhà nước cấp trên.

Từ những phân tích nêu trên, có thể hiểu một cách chung nhất của bộ

máy hành chính nhà nước là một hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước

từ trung ương đến địa phương được lập ra để thực hiện chức năng quản lý

nhà nước theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

2.1.2. Khái niệm cải cách hành chính

Đứng trên góc độ hành chính học, việc nghiên cứu thuật ngữ cải cách

hành chính trước hết phải được bắt đầu từ khái niệm “cải cách”. Cải cách có

nghĩa là “sửa đổi những bộ phận cũ không hợp lý cho thành mới, đáp ứng yêu

cầu của tình hình khách quan”[41, tr 208]; hay là “sự sửa đổi căn bản từng

phần, từng mặt của đời sống xã hội theo hướng tiến bộ mà không đụng tới nền

tảng của chế độ xã hội hiện hành”[38, tr 58].

Trên cơ sở khái niệm cải cách, đã có nhiều khái niệm về cải cách hành

chính được đưa ra như sau:

- “Cải cách hành chính có thể hiểu là một quá trình thay đổi cơ bản, lâu

dài, liên tục bao gồm cơ cấu của quyền lực hành pháp và tất cả các hoạt động

có ý thức của bộ máy nhà nước nhằm đạt được sự hợp tác giữa các bộ phận và

các cá nhân vì mục đích chung của cộng đồng và phối hợp các nguồn lực để

tạo ra hiệu lực và hiệu quả quản lý và chất lượng các sản phẩm (dịch vụ hoặc

hàng hoá) phục vụ nhân dân thông qua các phương thức tổ chức và thực hiện

quyền lực. Hiểu theo nghĩa này, cải cách hành chính là những thay đổi được

thiết kế có chủ định nhằm cải tiến một cách cơ bản các khâu trong hoạt động

quản lý của bộ máy nhà nước từ việc: lập kế hoạch; định thể chế; tổ chức;

công tác cán bộ; tài chính; chỉ huy; phối hợp; kiểm tra; thông tin; và đánh giá.

Cũng có thể hiểu cải cách hành chính là một quá trình thay đổi nhằm nâng cao

hiệu lực và hiệu quả hành chính, cải tiến tổ chức, chế độ và phương pháp

hành chính cũ, xây dựng chế độ và phương thức hành chính mới trong lĩnh

vực quản lý của bộ máy hành chính nhà nước”[22, tr1].

31

- Có những học giả đã đưa ra khái niệm theo hướng nhấn mạnh kế

hoạch, tính mục tiêu, tính tiến bộ và những nỗ lực để cải cách hành chính.

Chẳng hạn, tác giả Gerald E Caiden cho rằng: “Cải cách hành chính là sự tác

động nhân tạo của việc chuyển đổi hành chính chống lại sự kháng cự”[61, tr 1].

- Một số tác giả khác lại nhấn mạnh việc nâng cao hiệu suất, cải tiến chế

độ và phương thức hành chính cũ, xây dựng chế độ và phương thức hành chính

mới. Họ cho rằng: “cải cách hành chính là quá trình lâu dài và liên tục nhằm

nâng cao hiệu suất hành chính, cải tiến chế độ và phương thức hành chính cũ,

xây dựng chế độ và phương thức hành chính mới trong phạm vi quản lý của hệ

thống các cơ quan thực thi quyền hành pháp cũng như tất cả các hoạt động có ý

thức của bộ máy nhà nước”[56, tr 49].

- Khi đi sâu nghiên cứu về nội dung cải cách nền hành chính, một số tác

giả cho rằng: “cải cách hành chính đề cập đến những thay đổi trong toàn bộ hệ

thống hành chính công, nó bao gồm toàn bộ việc tổ chức lại các bộ, xác định

nhiệm vụ và chức năng của các đơn vị hành chính, cải tiến các phương thức và

thủ tục, đào tạo cán bộ...; Cải tiến sự phối hợp ở cấp cao hơn của chính phủ.

Mọi sự cải tiến cơ cấu, thủ tục, năng lực và động cơ của cán bộ với mực đích

nâng cao năng lực quản lý và tổ chức của các tổ chức công cũng được xem là

cải cách hành chính theo nghĩa này”[42, tr 43].

- Trong Từ điển hành chính, “Cải cách hành chính là hệ thống những

chủ trương, biện pháp tiến hành những sửa đổi, cải tiến mang tính cơ bản và có

hệ thống nền hành chính nhà nước (hay còn gọi là nền hành chính công, nền

hành chính quốc gia) về các mặt: Thể chế, cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động,

chế độ công vụ, quy chế công chức, năng lực, trình độ, phẩm chất phục vụ của

đội ngũ công chức làm việc trong bộ máy đó”[43, tr 31].

Như vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ cải cách hành chính

và ở những nước có trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau có cách hiểu

khác nhau. Tuy nhiên, trên cơ sở những khái niệm đã nêu có thể thấy rõ sự

thống nhất của chúng trên một số nội dung sau:

32

+ Cải cách hành chính là sự thay đổi có kế hoạch theo một mục tiêu nhất

định nhưng không làm triệt tiêu hay thay đổi bản chất của hệ thống hành chính

mà là đổi mới, hoàn thiện để hệ thống hành chính hoạt động hiệu quả hơn.

+ Cải cách hành chính hướng tới sự điều tiết những mâu thuẫn trong cơ

cấu tổ chức và cơ chế quản lý của bộ máy hành chính nhà nước.

+ Cải cách hành chính nhà nước không chỉ tập trung vào việc định rõ

trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân mà thông qua đó nhằm thiết lập một hệ

thống hành chính chặt chẽ từ trên xuống dưới.

+ Cải cách hành chính không phải là cải cách chế độ chính trị, kinh tế -

xã hội mà là quá trình khắc phục mọi trở lực trong cơ cấu tổ chức và cơ chế

hoạt động của nền hành chính, làm cho nó phát triển một cách năng động và

phù hợp với sự biến đổi kinh tế - xã hội.

Từ các khái niệm và cách nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau có thể

tổng kết lại như sau: Cải cách hành chính là quá trình cải biến có kế hoạch cụ

thể để đạt mục tiêu hoàn thiện một hay một số nội dung của nền hành chính

nhà nước (thể chế, cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ,

công chức...) nhằm xây dựng nền hành chính công đáp ứng yêu cầu của một

nền hành chính hiệu lực, hiệu quả và hiện đại.

Từ các quan điểm cải cách hành chính nêu trên đã có mối quan hệ mật

thiết đến cải cách bộ máy hành chính nhà nước. Bộ máy hành chính cồng

kềnh, hoạt động không trôi chảy, hiệu quả không cao nhất định có ảnh hưởng

rất lớn đến cải cách hành chính. Các nước trên thế giới do điều kiện khác nhau,

việc đặt ra tổng thể cải cách hành chính có thể không giống nhau: Ví dụ:

Chương trình Tổng thề cải cách hành chính ở Việt Nam nhằm vào 4 nội dung:

Cải cách thủ tục hành chính, cải cách bộ máy hành chính, cải cách cán bộ công

chức và cải cách tài chính công. Còn đối với chương trình tổng thể cải cách ở

CHDCND Lào đã đặt ra 3 nội dung: Cải cách thủ tục hành chính, cải cách bộ

máy hành chính và cải cách cán bộ, công chức.

Cải cách bộ máy hành chính là trọng tâm của cải cách hành chính, bởi vì

trong cải cách bộ máy hành chính đã làm cho cơ cấu bộ máy hành chính hợp

33

lý; góp phần điều chỉnh chức năng và nhiệm vụ của bộ máy hành chính các cấp

cho phù hợp với tình hình mới của đất nước. Điều chỉnh những công việc của

chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ và chính quyền

địa phương các cấp. Cải cách hành chính đã tác động đến cải cách bộ máy hành

chính bẳng cách ban hành và áp dựng những quy định mới trong việc phân cấp

quản lý, tăng cường mối quan hệ và trách nhiệm của chính quyền trước nhân

dân. Cải cách bộ máy hành chính là quá trình bố trí lại cơ cấu chính phủ, điều

chỉnh lại bộ máy hành chính bên trong và chính quyền địa phương. Đồng thời

trong cải cách bộ máy đã góp phần cải tiến phương thức quản lý, lề lối làm việc

của cơ quan hành chính các cấp, xác định rõ các nguyên tắc làm việc và quy

chế phối hợp trong sự vận hành bộ máy hành chính. Định rõ phận sự, thẩm

quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan. Cải cách bộ máy hành

chính còn tạo sự thuận lợi trong việc áp dụng các công cụ, phương pháp quản

lý tiên tiến, hiện đại trong các cơ quan hành chính nhà nước, góp phần phát

triển nền hành chính hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.

Chính vì vậy, Cải cách bộ máy hành chính là nội dung trọng tâm của cải

cách hành chính, có quan hệ mật thiết với cải cách hành chính. Cải cách bộ

máy hành chính hiệu quả sẽ tác động đến cải cách thủ tục hành chính hiệu

lực; tạo động lực tốt cho cán bộ công chức thực hiện nhiệm vụ góp phần xây

dựng một nền hành chính vững mạnh, trong sạch, hiệu lực, hiện quả và hiện

đại, tạo cơ sở vững chắc trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

2.1.3. Khái niệm cải cách bộ máy hành chính nhà nước

Cải cách bộ máy hành chính là quá trình lâu dài và phải thực hiện liên

tục. Tất cả các nước đều tiến hành cuộc cải cách bộ máy hành chính với sự

mong muốn có được nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững

mạnh, minh bạch hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Cải cách bộ máy hành chính là

một yếu tố quan trọng nếu làm tốt thì sẽ đem lại sự thuận lợi rất lớn cho việc

quản lý và phục vụ theo đúng bản chất của hành chính. Ngược lại, nếu không

thận trọng trong tiến trình cải cách thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến công dân cũng

như làm tổn thất kinh phí của nhà nước. Cải cách bộ máy hành chính không

34

thể làm xong ngay một lúc mà còn cần có thời gian và có sự cân nhắc, nhận

định đánh giá mỗi lần cải cách. Mục đích của cải cách bộ máy hành chính là

nhằm làm cho nền hành chính nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân.

Trên cơ sở nghiên cứu khoa học hành chính, đã có nhiều quan điểm về

cải cách bộ máy hành chính được đưa ra như sau:

- “Cải cách bộ máy hành chính nhằm tạo sự thích ứng với yêu cầu phát

triển nền kinh tế thị trường và công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cải cách bộ

máy hành chính nhà nước phải tăng cường tính tập trung thống nhất quản lý

của Chính phủ, cơ quan nhà nước ở trung ương trên những ngành, lĩnh vực,

vấn đề cơ bản, chủ yếu. Đồng thời, phát huy mạnh mẽ tính chủ động, sáng tạo

của các cấp chính quyền địa phương, kết hợp tốt quản lý theo ngành với quản

lý theo lãnh thổ”[57, tr 256].

- Có tác giả nhấn mạnh rằng: “Cải cách bộ máy hành chính là sự đổi

mới quan trọng về vai trò, chức năng, trách nhiệm của tổ chức, bộ máy chính

phủ, các bộ và cơ quan hành chính các cấp địa phương cho phù hợp với cơ

chế mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”[34, tr152].

- “Cải cách bộ máy hành chính là bố trí lại cơ cấu tổ chức của Chính

phủ; điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong của các bộ, cơ quan ngang

bộ, cơ quan thuộc chính phủ; cải cách bộ máy chính quyền địa phương; cải

tiến phương thức quản lý, lề lối làm việc của cơ quan hành chính các cấp;

thực hiện từng bước hiện đại hóa nền hành chính”[5, tr 449].

- Khi tiến hành nghiên cứu về nội dung cải cách bộ máy hành chính nhà

nước có tác giả quy định rõ các nội dung và lộ trình thực hiện; họ cho rằng

“cải cách hành chính phải tập trung vào 8 nội dung cụ thể: một là, điều chỉnh

chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc

chính phủ và chính quyền địa phương các cấp; hai là, từng bước điều chỉnh

những công việc mà chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc

chính phủ và chính quyền địa phương đảm nhiệm để khắc phục trồng chéo,

trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, chuyển giao dịch vụ cho các tổ chức khác;

ba là, ban hành các quy định mới về phân cấp trung ương-địa phương, các

35

cấp chính quyền địa phương, gắn phân cấp với tài chính, tổ chức, cán bộ; bốn

là, bố trí lại cơ cấu tổ chức của chính phủ hợp lý; năm là, điều chỉnh cơ cấu

tổ chức bên trong các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ; sau là,

cải cách tổ chức bộ máy chính quyền địa phương; bảy là, cải tiến phương thức

quản lý, lề lối làm việc của cơ quan hành chính các cấp, tám là, thực hiện

từng bước hiện đại hóa hành chính”[58, tr 21].

Từ cách tiếp cận nêu trên, mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau nhưng

các tác giả đều thống nhất về khái niệm cải cách bộ máy hành chính một số

điểm như sau:

+ Cải cách bộ máy hành chính là việc sắp xếp, bố trí lại bộ máy hành

chính từ Trung ương đến cơ sở gồm: Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ

quan thuộc chỉnh phủ, chính quyền địa phương các cấp.

+ Cải cách bộ máy hành chính nhà nước là qúa trình điều chỉnh chức

năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước.

+ Cải cách bộ máy hành chính nhà nước là quá trình thay đổi cách thức

tổ chức, lề lối làm việc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính

Nhà nước.

Kế thừa những yếu tố hợp lý trong các quan điểm trên, tác giả luận án

cho rằng: Cải cách bộ máy hành chính nhà nước có thể được hiểu là quá trình

thay đổi, điều chỉnh, bố trí lại bộ máy hành chính nhà nước (Chính phủ, các

bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, chính quyền địa phương các

cấp) đáp ứng yêu cầu thực tế khách quan.

2.2. MỤC TIÊU, YÊU CẦU VÀ TIÊU CHÍ CẢI CÁCH BỘ MÁY HÀNH

CHÍNH NHÀ NƯỚC

2.2.1. Mục tiêu cải cách bộ máy hành chính nhà nước

Mục tiêu của cải cách bộ máy hành chính nhà nước gắn liền với công

cuộc đổi mới đất nước, đặc biệt là gắn liền với cải cách thể chế, cải cách cộng

vụ, công chức và tài chính công. Cải cách bộ máy hành chính nhà nước hướng

tới mục tiêu là: xây dựng bộ máy hành chính theo hướng “gọn nhẹ, hợp lý,

hiệu quả, trong sạch”[89, tr 27].

36

Để góp phần xây dựng bộ máy hành chính nhà nước được tổ chức và

hoạt động đúng hướng, trước hết cần thống nhất và năm rõ mục tiêu trong cải

cách bộ máy hành chính nhà nước:

- Gọn nhẹ, có nghĩa là hợp lý, không quá lớn, chỉ duy trì các cơ quan

hành chính cảm thấy cần thiết; kiên quyết xóa bỏ những cơ quan không cần

thiết; có thể sát nhập, có thể xóa bỏ đầu mối trung gian cản trở quá trình thực

hiện nhiệm vụ và tạo sự khó khăn cho cấp dưới.

- Hợp lý, có nghĩa là bộ máy có sự cân bằng, phù hợp, cân đối, không

lãng phí, điều quan trọng bộ máy hành chính phải đảm bảo việc thực hiện

nhiệm vụ và làm tròn trách nhiệm.

- Hiệu quả, có nghĩa là hoàn thành tốt kế hoạch đã quy định hoặc hoàn

thiện tốt nhiệm vụ, không lãng phí nguồn vốn đầu tư của nhà nước.

- Trong sạch, có nghĩa là bộ máy không có tình trạng quan liêu, tham

nhũng, hối lộ, minh bạch, rõ ràng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, không

che dấu; hoạt động theo nguyên tắc công khai và có thể kiểm tra được mọi

lúc, mọi nơi (Ngoại trừ các công việc liên quan đến bí mật và sự ổn định của

quốc gia), nghĩa là mọi chính sách, kế hoạch, chương trình cũng như những

văn bản pháp luật phải được tổ chức phổ biến cho nhân dân và mọi hoạt động

của nhà nước phải được giải thích, trình bày nguyên nhân một cách hợp lý.

Xu thế phát triển của nền hành chính với các mục tiêu đặt ra ngày càng

mang tính đầy đủ và cần thiết: Trong cải cách hành chính cần xây dựng được

bộ máy hành chính nhà nước: dân chủ, trong sạch, vững mạnh, hoạt động

hiệu lực và hiệu quả. Dân chủ ở đây có nghĩa là chính quyền của nhân dân; là

một chính phủ trong đó quyền lực tối cao được trao cho người dân và thực

hiện bởi họ. Vững mạnh là thể hiện sự mạnh mẽ của tổ chức hoạt động của bộ

máy hành chính nhà nước. Hiệu lực có nghĩa là trong tổ chức và hoạt động

của bộ máy hành chính nhà nước phải thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và

hoạt động có kết quả trong việc thực hiện chức năng quản lý đạt được các

mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra. Hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước thể

hiện trong kết quả đạt được với toàn bộ các nguồn lực đã sử dụng.

37

Trong chương trình cải cách bộ máy hành chính nhà nước của mỗi

nước đều đặt ra các mục tiêu có tính riêng biệt, phù hợp với đặc điểm và đặc

thù của đất nước. Trong chương trình cải cách bộ máy hành chính của mình,

có nước đặt ra các mục tiêu: “Xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà

nước từ trung ương tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại,

hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều

hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà nước”[33, tr1].

Trên cơ sở lý luận khoa học thể hiện trong các chương trình cải cách

cũng như dựa trên các quan điểm khác nhau trong khi tiến hành cải cách hành

chính nói chung và cải cách bộ máy hành chính nói riêng có thể thống nhất

rằng mục tiêu cải cách bộ máy hành chính nhà nước là hướng tới mục tiêu:

Tinh gọn, hợp lý, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực và hiệu quả.

2.2.2. Yêu cầu cải cách bộ máy hành chính nhà nước

Để thực hiện mục tiêu nêu trên, trong cải cách bộ máy hành chính phải

đảm bảo được yêu cầu sau:

- Phát huy dân chủ, đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân

Dân chủ là yêu cầu, là một đòi hỏi khách quan đối với bất cứ nền hành

chính hiện đại nào trên thế giới; không có dân chủ hay mất dân chủ thì không

thể phát triển kinh tế-xã hội và không thể xây dựng và củng cố nền hành

chính với tư cách là yếu tố vô cùng quan trọng trong hệ thống chính trị-kinh

tế-xã hội. Đảng đã khẳng định: “Nhà nước dân chủ nhân dân của chúng ta là

Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Kiện toàn nhà nước dân chủ nhân dân phải gắn liền với việc nâng cao quyền

làm chủ của dân và tất cả vì lợi ích của dân”[109, tr 59]. Nền hành chính hiện

đại là nền hành chính phục vụ, nền hành chính đáp ứng các yêu cầu của một

xã hội dân sự. Do vậy, nền hành chính đó cần phải được củng cố trên nguyên

tắc đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Theo nguyên lý của chủ

nghĩa Mác-Lênin, dân chủ là hình thức nhà nước, trong đó dân chủ phải thể

hiện tính kỷ cương và trật tự; không thể có dân chủ “vô chính phủ”, vì dân

chủ mà không trong khuôn khổ nhất định thì về thực chất là sự hỗn độn, vô

38

trật tự mà điều này trái với yêu cầu khách quan về sự ổn định và phát triển của

chính các quan hệ kinh tế-xã hội. Vấn đề đặt ra là cần tổ chức và hoạt động bộ

máy hành chính nhà nước như thế nào để vừa đảm bảo bản chất nhân dân của

Nhà nước, vừa phát huy được tiềm năng trí tuệ và công sức của nhân dân lại

vừa đảm bảo, tính tập trung thống nhất, hiệu lực và hiệu quả của bộ máy hành

chính nhà nước. Đó cũng là điều có ý nghĩa quyết định cho sự thành công của

công cuộc cải cách bộ máy hành chính nhà nước hiện nay.

Yêu cầu này phải được tiếp tục quán triệt, đề cao trong suốt tiến trình

cải cách bộ máy hành chính nhà nước trên tất cả các khía cạnh của vấn đề: từ

thể chế hoá chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; xác định mô hình tổ chức bộ

máy, bố trí cán bộ đến xây dựng các nguyên tắc hoạt động của bộ máy…

Trong điều kiện hiện nay, yêu cầu phát huy dân chủ, đảm bảo quyền

lực nhà nước thuộc về nhân dân đối với việc đổi mới tổ chức và hoạt động

của bộ máy hành chính nhà nước cần được nhận thức với những nội dung căn

bản như sau:

+ Cải cách bộ máy hành chính nhà nước đảm bảo nguyên tắc phục vụ

nhân dân, lấy sự phục vụ nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân

trong việc làm ăn, kinh doanh và sinh sống làm mục tiêu cao cả, niềm vinh

quang của bộ máy chính quyền và mỗi cán bộ công chức;

+ Đảm bảo để nhân dân tham gia được nhiều nhất, tốt nhất vào hoạt

động quản lý hành chính nhà nước; các quyết định hành chính, hành vi

hành chính đều phải dựa trên các căn cứ pháp luật, đảm bảo tính công khai,

minh bạch trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.

+ Xây dựng cơ chế pháp lý để nhân dân và các tổ chức xã hội góp ý,

phản biện đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, các đề án,

chương trình phát triển kinh tế-xã hội của chính quyền từ trung ương đến cơ

sở, nhất là những dự án, dự thảo, đề án có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi

ích hợp pháp của các nhóm xã hội liên quan;

39

+ Cải cách bộ máy hành chính nhà nước phải đảm bảo tính thân thiện với

dân; người dân có thể dễ dàng tiếp cận và hiểu biết; có cơ chế pháp lý cho

nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy hành

chính nhà nước, chống quan liêu tham nhũng. Người dân có quyền và có điều

kiện thực tế để thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện với các việc làm

sai trái, vi phạm pháp luật và đạo đức của các cơ quan và người có thẩm

quyền trong bộ máy hành chính;

+ Cải cách bộ máy hành chính nhà nước phải đảm bảo tính an toàn, tin

tưởng và tốt nhất cho người dân: Điều này đòi hỏi các cơ quan và nhân viên

hành chính nhà nước không chỉ biết hành động trên cơ sở công vụ mà còn

phải dựa trên nền tảng đạo đức vì dân. Pháp luật không thể quy định một cách

đầy đủ những nghĩa vụ pháp lý mà cơ quan và nhân viên hành chính nhà nước

phải làm những điều tốt nhất cho dân. Đạo đức công vụ có vai trò ngày càng

quan trọng trong nền hành chính hiện đại vì nó tạo nền tảng vững chắc, bổ

sung và lấp đầy những chỗ trống của pháp luật.

- Xây dựng bộ máy hành chính nhà nước thích ứng với nền kinh tế thị

trường

Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, Nhà nước đóng vai

trò là người trực tiếp tổ chức điều hành nền sản xuất xã hội. Nhà nước vừa là

chủ sở hữu, vừa là người nắm quyền lực công; vừa thực hiện vai trò quản lý

kinh tế vừa là nhà kinh doanh.

Chuyển sang nền kinh tế thị trường, vai trò, chức năng của nhà nước đã

thay đổi một cách căn bản. Bản chất của nền kinh tế thị trường là nền kinh tế

hoạt động tự do, tự định đoạt trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể

độc lập trong kinh doanh. Do vậy, Nhà nước với tư cách là người nắm quyền

lực công phải đóng vai trò trọng tài, duy trì trật tự theo luật pháp để cho các

hoạt động kinh tế-xã hội được vận hành một cách tự do, an toàn và đạt hiệu

quả. Và từ vai trò, chức năng đó của Nhà nước đã và đang đặt ra những yêu

cầu mới đối với việc xây dựng tổ chức và các nguyên tắc hoạt động của bộ

máy hành chính nhà nước cần phải phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế-xã

40

hội trong cơ chế kinh tế thị trường. Đảng chỉ rõ: “…Chúng ta phải chú ý củng

cố hệ thống hành chính nhà nước theo hướng cơ quan hành chính cấp trung

ương gọn nhẹ và thực hiện vai trò quản lý vĩ mô là chính, làm cho cơ quan

hành chính địa phương có khả năng và năng lực hơn nữa trong việc tổ chức

điều hành”[109, tr 61].

Có thể nhận thức được những yêu cầu của nền kinh tế thị trường đối với

cải cách bộ máy hành chính nhà nước trên những nét chủ yếu như sau:

+ Bộ máy hành chính nhà nước cần phải tinh, gọn:

Sự cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian của bộ máy hành chính nhà

nước là điều trái với yêu cầu cho sự phát triển các quan hệ kinh tế-xã hội

trong cơ chế thị trường và nhất thiết phải khắc phục. Trên thực tế ở các quốc

gia hiện nay, vấn đề đặt ra cần khắc phục một quan niệm sai lầm chỉ đơn giản

tiến hành cải cách bộ máy hành chính theo kiểu “cơ học” là thu gọn số lượng

đầu mối các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và số lượng các

sở ban ngành ở địa phương. Ở một tư duy và tầm nhìn chiến lược về cải cách

bộ máy hành chính nhà nước, cần phải nghiên cứu quán triệt các quan điểm

về bản chất, chức năng, vai trò của Nhà nước, của hệ thống hành chính nhà

nước cũng như của mỗi cơ quan trong hệ thống đó theo yêu cầu của nền kinh

tế thị trường, tuỳ theo trình độ và cấp độ phát triển của nó, từ đó xác định

nhiệm vụ quyền hạn cùng với tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực, tài chính

cần thiết, xác định thẩm quyền của mỗi cấp, mỗi cơ quan; phân công chức

trách, nhiệm vụ của mỗi cán bộ, công chức một cách khoa học.

Tất cả tạo nên tính thống nhất và sức mạnh cần thiết cho bộ máy hành

chính nhà nước nhằm đáp ứng những đòi hỏi lớn lao và phức tạp của các quan hệ kinh tế-xã hội trong nền kinh tế thị trường.

+ Bộ máy hành chính nhà nước hiệu lực và hiệu quả

Nền kinh tế thị trường đòi hỏi một bộ máy hành chính nhà nước thống

nhất, mạnh mẽ, đó là điều có tính quy luật. Sự mạnh mẽ của quyền lực nhà

nước trong thế giới hiện đại thể hiện chủ yếu ở quyền hành pháp và hệ thống

41

hành chính nhà nước. Đây cũng chính là đặc điểm phổ biến của các nhà nước

trên thế giới hiện nay. Bởi lẽ nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự do cạnh

tranh một cách bình đẳng nhưng cũng với nhiều diễn biến rất phức tạp, mau

lẹ, khó lường và trong nó cũng chứa đựng nhiều nguy cơ mất ổn định, mất trật

tự và nhiều hành vi vi phạm, xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể

và của xã hội nói chung. Không ai ngoài Nhà nước có thể đóng vai trò là

người duy trì trật tự pháp luật, đảm bảo để tự do và quyền của con người

không bị xâm hại, để các hoạt động kinh tế-xã hội diễn ra trong an toàn và đạt

hiệu quả cao. Bộ máy hành chính nhà nước mạnh nghĩa là bộ máy ấy có đủ

quyền uy và sức mạnh duy trì và củng cố trật tự, có đủ năng lực định hướng,

hỗ trợ, dẫn dắt nền kinh tế-xã hội phát triển theo mục tiêu vì con người và tiến

bộ xã hội. Trong nền kinh tế thị trường và hoàn cảnh quốc tế như hiện nay, bộ

máy hành chính nhà nước mạnh có nghĩa là bộ máy ấy phải đảm bảo vận

hành một cách thông suốt, kịp thời bảo vệ, ngăn ngừa một cách hữu hiệu tất

cả những gì xâm hại đến cuộc sống của người dân.

Trong nền kinh tế thị trường, một trong những đòi hỏi khách quan đối

với cải cách bộ máy hành chính nhà nước là phải tiết kiệm và hiệu quả.

Không thể tổ chức và duy trì hoạt động một hệ thống hành chính không có

hiệu quả, gây lãng phí cho nhà nước và cho xã hội. Ngày nay, tính hiệu quả

về kinh tế-xã hội là một trong những vấn đề quan trọng nhất đối với hệ thống

bộ máy hành chính nhà nước, cần phải được xem xét đánh giá thường xuyên

từ phía Nhà nước và công dân cũng như các tổ chức xã hội. Nếu hoạt động

không có hiệu quả, toàn bộ hệ thống tổ chức hay một khâu nào trong đó nhất

thiết phải được xem xét lại và khắc phục vì sự thông suốt của bộ máy hành

chính có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh tế-xã hội và đời sống hàng

ngày của người dân.

- Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho địa phương trên cơ sở đảm bảo

nguyên tắc tập trung dân chủ.

Điều cần thiết nhất của nhiều quốc gia hiện nay là phải cải cách chế

độ phân chia cấp quản lý, cần phải giao quyền và trách nhiệm giải quyết

42

vấn đề cho từng cấp một cách rõ ràng, nhất định. Đồng thời, cần phải có

thể thức phối hợp chặt chẽ để phát triển quyền làm chủ của từng cấp trong

việc thực hiện quyền và nhiệm vụ của mình.

Chúng ta có thể nhận thức được rằng về mặt cơ cấu tổ chức, chính quyền

nhà nước là khối thống nhất nhưng không phải là một thực thể đơn lẻ. Sự

phân chia thành các cấp trong bộ máy chính quyền nhà nước là yêu cầu khách

quan xuất phát từ phân tầng các phạm vi lợi ích của xã hội, trong đó có lợi ích

toàn quốc, toàn dân tộc, lợi ích các địa phương và vùng lãnh thổ. Nguyên tắc

tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong cải cách bộ máy hành chính nhà

nước. Nguyên tắc này đòi hỏi đảm bảo sự tập trung thống nhất quyền lực nhà

nước vào chính quyền trung ương đồng thời phát huy mạnh mẽ tính chủ động,

độc lập, sáng tạo của chính quyền địa phương. Để thực hiện nguyên tắc này,

Chính phủ Lào cần tiếp tục được củng cố tổ chức một cách hợp lý, đảm bảo

có một chính phủ mạnh với hiệu lực quản lý thông suốt từ trung ương đến cơ

sở, tương xứng với vị trí, vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của

đất nước. Các cơ quan của Chính phủ (bộ, cơ quan ngang bộ) phải đủ năng

lực quản lý một cách toàn diện các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội, mỗi

cơ quan phải là đầu mối đắc lực giúp Chính phủ thống nhất quản lý thông

suốt đối với các ngành các cấp, trên phạm vi cả nước về lĩnh vực liên quan.

Trong điều kiện hiện nay, phân cấp, phân quyền cho địa phương không

đối lập với việc tập trung thống nhất quyền lực vào chính quyền trung ương,

không đối lập với nguyên tắc tập trung dân chủ mà ngược lại là sự đảm bảo

vững chắc cho nguyên tắc tập trung dân chủ. Xu hướng của các nền hành

chính hiện đại trên thế giới là phân cấp, phân quyền mạnh mẽ cho chính

quyền địa phương, đảm bảo tính độc lập trên cơ sở pháp luật của mỗi cấp

chính quyền. Mỗi cấp chính quyền trong hệ thống hành chính nhà nước hoạt

động chủ yếu trên cơ sở luật pháp chứ không phải theo mệnh lệnh trực tiếp

của cấp trên. Yêu cầu này thể hiện một trong những nội dung căn bản của nhà

nước pháp quyền và xã hội công dân.

43

Muốn đẩy mạnh được sự phân cấp, phân quyền trong hệ thống hành

chính cần nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế luật pháp, đẩy

mạnh sự kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan và người có thẩm

quyền trong bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng, hoàn thiện thiết chế và

thể chế giám sát tư pháp đối với hoạt động của bộ máy hành chính.

2.2.3. Tiêu chí cải cách bộ máy hành chính nhà nước

Có thể nói rằng, một trong những khó khăn lớn nhất đối với nền hành

chính nước đó chính là đánh giá hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính

nhà nước. Hiện nay khó có thể nâng cao được hiệu quả và chất lượng của bộ

máy hành chính nhà nước khi chưa xác định được chính xác thế nào là hiệu quả

cũng như chưa thiết lập được hệ thống các tiêu chí để đánh giá hiệu quả bộ

máy hành chính cũng như hiệu quả trong cải cách bộ máy hành chính nhà nước

Hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước có thể hiểu là kết

quả quản lý đạt được trong sự tương quan với mức độ chi phí các nguồn lực,

trong mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội. Hiệu quả của bộ

máy hành chính nhà nước là đạt được mục tiêu đề ra trong quá trình cải cách

trên phương diện: về cơ cấu bộ máy hành chính nhà nước, chức năng nhiệm

vụ, phân cấp phối hợp giữa các cấp hành chính và áp dụng công nghệ hiện đại

vào trong quá trình quản lý hành chính nhà nước.

Kết quả hoạt động quản lý của bộ máy hành chính nhà nước là con

đường duy nhất giúp tổ chức đạt được mục tiêu. Song nếu chỉ đơn thuần chạy

theo kết quả mà không chú trọng đến quá trình thì chúng ta cũng sẽ không thể

đạt được mục tiêu như mong muốn. Quản lý hành chính là con đường nhưng

đi qua con đường ấy bằng phương tiện gì, đi với tốc độ bao nhiêu, phải vượt

qua những chướng ngại vật nào và trong thời gian bao lâu thì hoàn toàn không

có câu trả lời cố định mà nó hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng ''đọc'' tình

huống, khả năng phân tích, tầm nhìn và khả năng hoạch định chính sách của

các nhà quản lý. Hiệu quả của quản lý hành chính không đơn giản chỉ là việc

chúng ta có đạt được mục tiêu hay không mà phải là việc chúng ta đạt được

mục tiêu với chi phí thấp nhất theo khả năng và phù hợp với thời gian đã

44

định. Muốn làm được điều này trong quá trình cải cách bộ máy hành chính

nhà nước luận án đưa ra một số tiêu chí:

Một là, tiêu chí về cơ cấu. Cải cách bộ máy hành chính nhà nước cần

phải điều chỉnh và bố trí lại cơ cấu một cách hợp lý. Tuy nhiên trong quá trình

cải cách bộ máy hành chính nhà nước khó có thể xác định được chính xác về

số lượng cơ cấu: ví dụ ở Trung ương cần có bao nhiêu Bộ, cơ quan ngang Bộ,

cơ quan thuộc Chính phủ; địa phương cần có bao nhiêu sở, cơ quan tương

dương. Trong cải cách bộ máy đôi khi về số lượng có thể tăng lên, có thể

giảm đi nhưng phài phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước đem lại hiệu

quả cao.

Hai là, tiêu chí chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy hành chính

nhà nước từ Trung ương đến địa phương được quy định cụ thể rõ ràng, đầy

đủ; đảm bảo tốt nhiệm vụ, trách nhiệm cá nhân, tổ chức được phát huy hiệu

quả; tránh tình trạng một cơ quan cấp dưới đặt dưới sự lãnh đạo của hai cơ

quan cấp trên, không có cơ quan nào chịu trách nhiệm trực tiếp.

Ba là, tiêu chí về phân cấp, phối hợp phải được quy định rõ ràng trong

văn bản pháp luật; phân định rõ thẩm quyền của trung ương vời địa phương,

quy định cụ thể, đầy đủ về công việc nào trung ương có quyền quyết định,

công việc nào địa phương có quyền quyết định và công việc nào giữa trung

ương và địa phương phối hợp thực hiện. Cần có cơ chế phối hợp nhuần

nhuyễn ngành dọc và ngành ngang.

Bốn là, tiêu chí về mức độ đưa công nghệ hiện đại vào phục vụ nhân

dân (xây dựng chính phủ điện tử), các cơ quan hành chính nhà nước từ trung

ương đến cơ sở có mạng lưới điện tử đảm bảo, có đầy đủ các trang thiết bị cần

thiết trong việc triển khai chương trình chính phủ điện tử với sự tham gia tích

cực của người dân, xây dựng được môi trường công dân điện tử.

Như vậy, đứng trước nhu cầu phải cải cách bộ máy hành chính nhà

nước CHDCND Lào, trước hết chính phủ Lào cần xác định được mình đang

đứng ở đâu, cải cách là tất yếu song cải cách như thế nào, từng bước hay triệt

để, khâu nào trước khâu nào sau đòi hỏi phải có cái nhìn hết sức ''mở''. Biết

45

được chúng ta muốn gì đã khó nhưng đạt được điều đó với chi phí thấp nhất,

phù hợp với khả năng của đất nước lại càng khó hơn. Nhưng nếu thực hiện

theo các tiêu chí có thể giải quyết tốt các hạn chế trong giai đoạn hiện nay.

2.3. NỘI DUNG, NGUYÊN TẮC VÀ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CẢI CÁCH

BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

2.3.1. Nội dung cải cách bộ máy hành chính nhà nước

Cải cách bộ máy hành chính là một trong những nội dung trọng tâm

trong cải cách hành chính nhà nước. Cải cách bộ máy hành chính là một quá

trình cải cách rất phức tạp và cần nhiều thời gian, muốn cải cách được thì cần

rất nhiều yếu tố. Nội dung trọng tâm trong cải cách bộ máy hành chính cần

tập trung vào các nội dung cơ bản sau:

Một là, sắp xếp, tinh giản bộ máy hành chính nhà nước, cải cách cơ cấu

tổ chức bộ máy theo hướng cơ bản là làm cho tinh gọn, giảm bớt đầu mối,

khắc phục sự cồng kềnh và bất hợp lý về cơ cấu, nâng cao chất lượng hoạt

động có hiệu lực, hiệu quả, kiện toàn tổ chức nền hành chính theo hướng quản

lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực bao quát các thành phần kinh tế - xã hội;

đảm bảo cho bộ máy vừa giữ được sự ổn định cần thiết, vừa có sự đổi mới

một cách căn bản trong thời kỳ mới, điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy bên

trong của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ. Quan tâm

nhiều hơn đến việc cải cách bộ máy cấp vụ, phòng để đáp ứng nhiệm vụ tham

mưu cho bộ về quản lý vĩ mô; vụ và phòng nào có chức năng, nhiệm vụ giống

nhau hoặc gắn bó với nhau nên tiến hành sáp nhập để làm cho bộ máy giảm

xuống. Cải cách bộ máy hành chính Trung ương theo hướng, có việc, phải có

cơ quan chịu trách nhiệm; một bộ hoặc cơ quan ngang bộ có thể quản lý nhiều

việc; nhưng một việc không cho phép nhiều cơ quan cùng làm.

Cải cách một bước bộ máy chính quyền địa phương cho phù hợp với

thực tế; sắp xếp, điều chỉnh các sở/ban chuyên môn của thành phố theo mô

hình bộ máy hành chính đô thị cho thích hợp với vị trí, tính chất, đặc điểm và

quy mô của mỗi thành phố; điều chỉnh cơ cấu sở/ban của các tỉnh theo mô

hình bộ máy quản lý hành chính ở nông thôn; điều chỉnh bộ máy hành chính

46

cấp tỉnh thành phố đáp ứng yêu cầu xây tỉnh thành đơn vị chiến lược; đối với

cấp tỉnh rất cần thiết xây dựng hội đồng nhân dân để tăng cường tính tập thể

trong quản lý hành chính tại địa phương. Điều chỉnh lại bộ máy phòng/ban

hành chính ở cấp huyện theo hướng xây huyện trở thành đơn vị vững mạnh

toàn diện; điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy cấp cơ sở theo hướng xây bản

(làng) trở thành đơn vị phát triển. Cải cách tổ chức bộ máy chính quyền địa

phương, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ trên cơ sở phân cấp quản lý; sắp

xếp, tổ chức lại cơ quan chuyên môn của chính quyền địa phương các cấp

theo hướng trách nhiệm rõ ràng, phân công rành mạch, bộ máy gọn nhẹ, tăng

cường tính chuyên nghiệp. Nghiên cứu việc thành lập cơ quan hành chính cấp

thị xã; sắp xếp một số văn phòng cấp huyện theo hướng một văn phòng làm

nhiều việc, có nhiều bộ chỉ đạo. Việc thành lập bộ máy hành chính ở địa

phương là dựa trên yêu cầu thực tế của công việc và đặc điểm của địa

phương; không cần thiết phải tổ chức như nhau và cũng không cần thiết tổ

chức giống hệt với cấp trung ương.

Hai là, điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của chính phủ, các bộ, cơ quan

ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ và chính quyền địa phương các cấp cho

phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới, theo hướng: chính

phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ tập trung thực hiện chức năng xây dựng, ban

hành thể chế, kế hoạch, chính sách, quản lý vĩ mô, chỉ đạo và kiểm tra thực

hiện; phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan hành chính

nhà nước và người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước. Điều chỉnh những

công việc mà chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ

và chính quyền địa phương đảm nhiệm để khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp

về chức năng, nhiệm vụ; chuyển cho các tổ chức khác làm những công việc

về dịch vụ không cần thiết phải do cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp

thực hiện.

Ba là, phân cấp và phối hợp giữa các cơ quan hành chính các cấp. Thực

hiện phân cấp, nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm của chính quyền địa

phương, tăng cường mối liên hệ và trách nhiệm của chính quyền trước nhân

47

dân địa phương; gắn liền phân cấp công việc với phân cấp về tài chính, tổ

chức và cán bộ. Phân cấp là sự phân định các quyền, nhiệm vụ, trách

nhiệm…bằng cách quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp theo

nguyên tắc tập trung dân chủ để vừa bảo đảm việc điều hành tập trung, thống

nhất của Chính phủ đồng thời phát huy dân chủ, nâng cao tính năng động của

mỗi địa phương, cơ sở. Phân cấp tạo nên các cơ quan có thứ bậc khác nhau

trong một hệ thống, mỗi cấp được giao nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm nhất

định để phát huy tính tự chủ, năng động và sáng tạo của mình, nhằm phục vụ

cho việc thực hiện một hay nhiều nhiệm vụ nào đó đạt hiệu quả cao nhất.

Phối hợp giữa các ngành, lĩnh vực hiệu quả, thông suốt từ trên xuống

dưới, từ dưới lên trên, phối hợp giữa bộ máy trung trương và bộ máy ở địa

phương, giữa ngành dọc và ngành ngang. Chủ động phối hợp có hiệu quả

giữa cơ quan chính phủ, giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan do chinh phủ

thành lập, giữa trung ương với chính quyền cấp tỉnh về việc lập kế hoạch phát

triển kinh tế - xã hội ở địa phương; về quản lý cán bộ công chức và thu chi

ngân sách nhà nước, phối hợp giữa các cấp chính quyền địa phương. Phối hợp

đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và vai trò của mỗi cơ quan, mỗi cấp,

tránh tình trạng trông chờ đùn đẩy lên cấp trên, bỏ trống một số công việc và

một việc có nhiều cơ quan thực hiện (nhất là trong lĩnh vực mang lại lợi ích

về kinh tế).

Bốn là, xây dựng chính phủ điện tử tạo điều kiện thuận lợi cho việc

tham gia đóng góp ý kiến của nhân dân đối với tổ chức và hoạt động của bộ

máy nhà nước nói chung, bộ máy hành chính nói riêng. Chính phủ điện tử là

chính phủ coi nhân dân như là những khách hàng làm trung tâm dịch vụ của

mình. Là việc áp dụng các thành tựu khoa học cộng nghệ thông tin truyền

thông, đặc biệt là công nghệ Internet, điện thoại di động, truyền thông tương

tác để thiết lập hệ thống truyền thông điện tử nhằm thỏa mãn cao các nhu cầu

tìm kiếm nguồn thông tin đa chiều và sử dụng các dịch vụ công của nhà nước

đối với bất cứ người dân nào, ở bất kỳ nơi đâu và ở bất kể lúc nào. Việc xây

dựng chính phủ điện tử là cách thức hoạt động liên thông của cả hệ thống các

48

cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước có ứng dụng công nghệ thông tin

điện tử để bảo đảm việc chấp hành và điều hành của các cơ quan hành chính

nhà nước trong mỗi lĩnh vực của đời sống xã hội và cung ứng đầy đủ, khẩn

trương các thông tin cho mọi tổ chức, cá nhân thông qua các phương tiện

thông tin điện tử. Chính phủ điện tử là việc tạo lập mối quan hệ dịch vụ giữa 3

chủ thể: Chính phủ với nhau, chính phủ với các doanh nghiệp và chính phủ

với nhân dân.

2.3.2. Nguyên tắc cải cách bộ máy hành chính nhà nước

Cải cách tổ chức bộ máy hành chính liên quan đến hệ thống chính trị,

phải làm thận trọng, có bước đi vững chắc, trong mỗi bước tiến hành cần bảo

đảm bảo các nguyên tắc sau:

- Nguyên tắc Đảng lãnh đạo

Trong lĩnh vực hành chính nhà nước, nguyên tắc Đảng lãnh đạo thể hiện

cụ thể thông qua các hình thức hoạt động của Đảng như sau:

+ Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách về quản lý nhà nước nói

chung và quản lý hành chính nhà nước nói riêng: Trên cơ sở chủ trương,

đường lối, chính sách của Đảng, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thể chế

hoá thành các văn bản quy phạm pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động

quản lý hành chính nhà nước. Ở đây, cần nhấn mạnh là chủ trương đường lối,

chính sách của Đảng về những vấn đề có liên quan bao giờ cũng được xác

định là cơ sở rất quan trọng để các thủ thể quản lý hành chính nhà nước xem

xét và đưa ra quyết định quản lý. Tuy vậy, các nghị quyết của Đảng không

phải là văn bản quy phạm pháp luật cho nên để thể chế hoá các chủ trương,

đường lối chính sách của Đảng cần phải có hàng loạt những hoạt động mang

tính chất quyền lực nhà nước của các chủ thể quản lý nhà nước.

+ Vai trò lãnh đạo của Đảng trong quản lý hành chính nhà nước thể

hiện trong công tác tổ chức cán bộ: Đây là công việc có vai trò đặc biệt

quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của quản lý hành chính nhà

nước. Sự lãnh đạo của Đảng về công tác này thể hiện ở chỗ Đảng bồi

dưỡng, đào tạo những đảng viên ưu tú, có phẩm chất và năng lực để gánh

49

vác những trọng trách trong bộ máy hành chính nhà nước. Tổ chức Đảng

có ý kiến về việc bố trí, sắp xếp cán bộ vào các vị trí lãnh đạo các cơ quan

hành chính nhà nước. Những ý kiến này có ý nghĩa rất quan trọng đối với

cộng tác tổ chức cán bộ. Tuy nhiên vấn đề bầu, bổ nhiệm được thực hiện

bởi các cơ quan hành chính nhà nước theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy

định. Ý kiến của tổ chức Đảng là cơ sở để các cơ quan nhà nước xem xét

và đưa ra quyết định cuối cùng.

+ Đảng lãnh đạo bộ máy hành chính nhà nước bằng hình thức kiểm tra

việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng trong hoạt động

quản lí hành chính nhà nước

Việc kiểm tra này nhằm đánh giá hiệu quả, tính thực tế của các chính

sách mà Đảng đã đề ra. Thông qua công tác kiểm tra, các tổ chức Đảng nắm

được thông tin hai chiều về tình hình thực hiện các chủ trương, chính sách của

Đảng. Trên cơ sở đó, Đảng kịp thời đề ra các biện pháp uốn nắn những biểu

hiện lệch lạc nhằm làm cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước đi theo

đúng định hướng phù hợp với lợi ích của nhân dân.

- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Trong quản lý hành chính nhà nước, các chủ thể quản lý hành chính sử

dụng pháp luật với tính chất là phương tiện, công cụ quan trọng để đảm bảo

thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, phương tiện hay

công cụ này chỉ thực sự phát huy vai trò, tác dụng khi nó được tôn trọng và

thực hiện một cách nghiêm chỉnh trên thực tế. Vì vậy, pháp chế xã hội chủ

nghĩa với nội dung là sự tôn trọng và tuân thủ triệt để pháp luật của các cơ

quan, cán bộ công chức nhà nước, các tổ chức và mọi cá nhân đã trở thành

nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước,

trong đó có các cơ quan hành chính nhà nước.

Điều 10 Hiến pháp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào năm 1991 quy

định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, mọi tổ chức của

Đảng và Nhà nước, các tổ chức quần chúng, các tổ chức xã hội và mọi công

dân phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Quản lý hành

50

chính nhà nước là công việc phức tạp gồm những lĩnh vực hoạt động khác.

Đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý hành

chính nhà nước có nghĩa là phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu đối với từng lĩnh

vực hoạt động khác nhau đó, cụ thể là: Thứ nhất, trong hoạt động ban hành văn

bản quy phạm pháp luật. Thứ hai, trong tổ chức thực hiện pháp luật.

- Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào cải cách bộ

máy hành chính nhà nước

Điều 2 Hiến pháp năm 1991 quy định: “Nhà nước Cộng hoà dân chủ

nhân dân Lào là Nhà nước của nhân dân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân,

do nhân dân và vì quyền lợi của nhân dân. Các bộ tộc bao gồm các tầng lớp

trong xã hội do công nhân, nông dân và trí thức làm nòng cốt”. Thấm nhuần

nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân, từ khi ra đời, Nhà nước luôn tạo

điều kiện để nhân dân lao động thực sự đóng vai trò là người làm chủ đất

nước, tham gia tích cực vào quản lý hành chính nhà nước cũng như quá trình

cải cách bộ máy hành chính nhà nước.

Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành

chính nhà nước không những thể hiện bản chất giai cấp của Nhà nước mà còn

tạo điều kiện phát huy sức mạnh của toàn thể nhân dân các bộ tộc trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Việc ghi nhận nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào cải

cách bộ máy hành chính nhà nước đã đặt trước nhà nước nhiệm vụ tạo điều

kiện thuận lợi, cung cấp các phương tiện cơ bản để nhân dân lao động tham

gia vào cải cách bộ máy hành chính đồng thời xây dựng cơ chế đảm bảo

quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân. Nguyên tắc này thể hiện qua

các hình thức tham gia của nhân dân lao động như sau:

+ Tham gia vào hoạt động của các cơ quan quản lý hành chính nhà

nước thông qua cơ quan đại diện

Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền

lực nhà nước cao nhất. Nhân dân bầu người đại diện của mình vào cơ quan

quyền lực nhà nước. Cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp xem xét và quyết

51

định các vấn đề quan trọng của đất nước trong đó có vấn đề quản lý hành

chính nhà nước.

Bên cạnh đó, nhân dân còn tham gia vào hoạt động của các cơ quan hành

chính nhà nước với tư cách là các cán bộ công chức trong bộ máy hành chính

nhà nước. Với tư cách này, họ có thể đem mọi năng lực trí tuệ và tâm quyết

của mình phục vụ nhân dân. Là những người con ưu tú của nhân dân, hơn ai

hết, các cán bộ công chức hiểu rõ được tình thế và vận hội của đất nước nên

họ có thể đưa ra được những giải pháp thích hợp cho hoạt động quản lý hành

chính nhà nước. Các cán bộ công chức trong bộ máy hành chính nhà nước

được tuyển chọn từ trong các tầng lớp nhân dân lao động, được đào tạo một

cách chính quy, được rèn luyện phẩm chất chính trị, tư cách đạo đức, tác

phong phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân theo chuẩn mực của người cán bộ

công chức. Vì vậy, xét về phương diện này họ chính là những người thực hiện

vai trò tham gia quản lý hành chính nhà nước cho nhân dân một cách trực

tiếp. Hoạt động công vụ của người cán bộ công chức thể hiện nội dung hoạt

động quản lý hành chính của Nhà nước nhưng cũng là sự thể hiện vai trò làm

chủ của người dân đối với quá trình quản lý hành chính nhà nước vì lợi ích

của chính nhân dân.

+ Nhân dân lao động tham gia hoạt động tự quản ở cơ sở

Hoạt động quản lý hành chính là hoạt động diễn ra trên phạm vi rất rộng,

cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Việc người dân tham gia các hoạt động tự quản tại

nơi cư trú như tham gia sinh hoạt tổ dân phố, tham gia đội bảo vệ, trực tiếp

bầu trưởng bản để quản lý, điều hành hoạt động tại địa phương… là một trong

những hình thức tích cực góp phần nâng cao hiệu quả quản lý hành chính nhà

nước ở địa phương.

- Nguyên tắc tập trung dân chủ.

Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của

bộ máy nhà nước nói chung, cải cách bộ máy hành chính nhà nước nói riêng.

52

Điều 5 Hiến pháp năm 1991 quy định: “Quốc hội và tất cả các cơ quan của

Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.

Nguyên tắc tập trung dân chủ yêu cầu sự kết hợp hài hoà giữa tập trung

và dân chủ. Trong hoạt động quản lý nhà nước, tập trung nhằm đảm bảo sự

thâu tóm quyền lực nhà nước vào chủ thể quản lý để điều hành, chỉ đạo việc

thực hiện pháp luật, dân chủ là việc mở rộng quyền cho các đối tượng quản lý

nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lý, phát huy khả năng của

đối tượng quản lý trong quá trình thực hiện pháp luật. Cả hai yếu tố này phải

có sự phối hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ với nhau, chúng có mối quan hệ

qua lại và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển trong quản lý hành chính nhà

nước. Nếu chỉ có sự lãnh đạo tập trung mà không có mở rộng dân chủ thì dễ

dẫn tới sự lạm quyền của công dân, nảy sinh tệ quan liêu, hách dịch, cửa

quyền, tham nhũng. Ngược lại, nếu không có sự lãnh đạo tập trung thống nhất

sẽ dẫn đến tình trạng tuỳ tiện vô chính phủ, cục bộ địa phương. Trong cải

cách bộ máy hành chính nhà nước, nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện ở

những mặt sau:

Thứ nhất, sự phục tùng của các cơ quan hành chính cấp dưới đối với cơ

quan hành chính cấp trên, của địa phương đối với trung ương. Sự phục tùng

này đảm bảo cho trung ương và các cơ quan hành chính cấp trên có quyền uy

để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương. Thiếu sự

phục tùng đó sẽ dẫn đến việc buông lỏng sự lãnh đạo, sự quản lý của trung

ương, của cấp trên, làm nảy sinh tình trạng tuỳ tiện, vô chính phủ, cục bộ địa

phương. Sự phục tùng trong quản lý hành chính biểu hiện ở cả hai phương

diện: tổ chức và hoạt động. Tất cả các yêu cầu và mệnh lệnh do trung ương

và cấp trên đưa ra, địa phương và cấp dưới có nhiệm vụ phải thi hành. Tuy

nhiên cần phải nhấn mạnh rằng sự phục tùng ở đây không phải là sự phục

tùng vô điều kiện mà là sự phục tùng những mệnh lệnh hợp pháp. Đồng thời

trung ương, cấp trên phải tôn trọng địa phương, cấp dưới về công tác tổ chức

hoạt động và các vấn đề khác trong quản lý hành chính nhà nước, có như

53

vậy mới khắc phục được tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm mất đi tính

chủ động sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của địa phương và cấp dưới.

Thứ hai, sự phân cấp quản lý giữa trung ương với địa phương.

Phân cấp quản lý là sự phân định rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn

của các cấp trong bộ máy hành chính nhà nước. Khi tiến hành phân cấp quản

lý đã có sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới nhằm đạt

được một cách có hiệu quả nhất mục tiêu chung của hoạt động quản lý hành

chính nhà nước. Mỗi cấp quản lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền

và những phương tiện cần thiết để thực hiện một cách tốt nhất những mục

tiêu, nhiệm vụ của mình. Trong phạm vi thẩm quyền được giao, mỗi cấp quản

lý được phép tiến hành những hoạt động nhất định nhằm phát huy tính năng

động sáng tạo của mình.

Thứ ba, hướng về cơ sở. Chính quyền cấp cơ sở (cấp bản) là cấp chính

quyền gần dân, sát dân nhất trong bộ máy hành chính nhà nước. Chính quyền

cấp cơ sở nắm được tâm tư nguyện vọng và nhu cầu của người dân và các tổ

chức của họ một cách nhanh nhạy và sâu sát nhất. Các cơ quan quản lý hành

chính nhà nước ở trung ương và cấp trên cần tạo mọi điều kiện để mở rộng

dân chủ ở chính quyền cấp cơ sở và các đơn vị cơ sở - những tổ chức của

nhân dân. Điều này sẽ góp phần tích cực trong việc thúc đẩy hoạt động sản

xuất kinh doanh và cung ứng dịch vụ ở cơ sở đạt hiệu quả cao hơn.

- Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ

Sự kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ là nguyên tắc

phổ biến trong quản lý hành chính nhà nước các nước. Nguyên tắc kết hợp

quản lý theo ngành và theo lãnh thổ càng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong

tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Vấn đề phân cấp quản

lý có ý nghĩa chiến lược cho việc khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội; ổn

định chính trị, trật tự xã hội; xây dựng và củng cố cơ cấu tổ chức bộ máy hành

chính nhà nước. Đảng chỉ rõ: “Phân cấp quản lý, phân công trách nhiệm và

thẩm quyền quyết định của các cấp rõ ràng, quy định hệ thống phối hợp

54

nhuần nhuyễn nhằm phát huy tính tích cực trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp”[97, tr 65]. Bộ máy hành chính nhà nước là một hệ

thống thống nhất thực hiện việc quản lý nhà nước theo lãnh thổ. Cấp trung

ương (cấp quốc gia) bao gồm các bộ và cơ quan ngang bộ, chủ yếu tập trung

ở thủ đô, chỉ có một số đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ do trung ương

thành lập ở các tỉnh đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Chính phủ.

Trong quản lý hành chính nhà nước, sự phối kết hợp quản lý theo ngành

với quản lý theo lãnh thổ cần phải được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tổ

chức bộ máy chính nhà nước gọn nhẹ, đa chức năng, hiệu lực và hiệu quả đáp

ứng các yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Nếu quản lý theo ngành mà tách

rời yếu tố lãnh thổ sẽ hàm chứa nguy cơ phá vỡ sự thống nhất của các quan hệ

kinh tế-xã hội trên lãnh thổ và ngược lại. Trong điều kiện đất nước đang xây

dựng nền kinh tế thị trường, nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản

lí theo lãnh thổ ngày càng đóng vai trò quan trọng. Nguyên tắc này quy định

tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước theo những yêu cầu

nhất định.

Trong quá trình cải cách bộ máy hành chính nếu thực hiện đúng các

nguyên tắc trên sẽ đảm bảo được mục tiêu xây dựng hành chính quốc gia dân

chủ và hiện đại, được chỉ huy thống nhất và thông suốt, có đủ quyền hạn,

năng lực, hiệu lực và hiệu quả, một hệ thống cơ quan hành chính hợp lý, hoạt

động liên tục, có kỷ cương trong khuôn khổ pháp luật, bảo đảm cho phát triển

kinh tế, xã hội, đội ngũ công chức có năng lực và trong sạch, được đãi ngộ

thỏa đáng, một hệ thống luật pháp hành chính và thủ tục hành chính đơn giản

nhưng rõ ràng, bảo đảm cho bộ máy nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì

dân và chịu sự giám sát của nhân dân.

2.3.3. Yếu tố tác động đến cải cách bộ máy hành chính nhà nước

Trong qúa trình xây dựng nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào,

trong đó trọng tâm là cải cách bộ máy là đòi hỏi của công cuộc đổi mới toàn

diện đất nước. Để thực hiện tốt vấn đề đó, tổ chức bộ máy hành chính nhà

nước không thể giữ nguyên trạng như trong giai đoạn vừa qua, cần tiến hành

55

cải cách cho phù hợp với điều kiện khách quan, trong đó xuất phát từ các yếu

tố sau:

- Xuất phát từ chủ trương, đường lối của đảng và chính sách của nhà

nước, điều kiện chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập

quán, truyền thống văn hóa và giai đoạn lịch sử nhất định của dân tộc.

- Cải cách bộ máy hành chính nhà nước phải phù hợp với đòi hỏi của

nền kinh tế thị trường nhiều thành phần là điều tất yếu phải thực hiện. Đại hội

IX của Đảng nhân dân Cách mạng Lào nhấn mạnh: “xây dựng kinh tế thị

trường theo hướng xã hội chủ nghĩa”[112, tr 24], có nghĩa là phải xây dựng

kinh tế thị trường đi đúng hướng quy định, đặt dưới sự kiểm tra giám sát và

điều tiết của Nhà nước.

- Khoa học công nghệ phát triển với những bước nhảy vọt, chưa từng

thấy là những thách thức, đòi hỏi đối với bộ máy nhà nước nói chung và nền

hành chính quốc gia Lào nói riêng trong việc đổi mới và hoàn thiện mình để

có thể sử dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học cộng nghệ phát triển.

Vai trò của cộng nghệ trong hành chính là “hoạt động hợp lý khoa học để

thực hiện một chức năng, nhiệm vụ hành chính trên cơ sở áp dụng giải pháp

có tính tối ưu và sử dụng các phương tiên kỹ thuật hiện đại nhằm tạo ra tiến

bộ trong quá trình quản lý hành chính”[47, tr 64]. Chính vì thế khoa học công

nghệ phát triển là yếu tố tác động đến bộ máy hành chính nhà nước phải hoàn

thiện mình.

- Trong cải cách bộ máy hành chính, yếu tố con người là yếu tố bảo

đảm cho sự thành công của công cuộc cải cách; Một là, Đội ngũ cán bộ công

chức, sự quyết tâm của các nhà lãnh đạo trong cuộc cuộc cải cách về mọi mặt

của đất nước, nhất là cán bộ cao cấp và trung cấp là những người vừa quyết

tâm thực hiện đường lối lãnh đạo của cấp trên, vừa có kiến thức về lý thuyết

cũng như trong thực tiễn quản lý hành chính và công cuộc cải cách bộ máy

hành chính nhà nước; hai là, quần chúng nhân dân, những người nhận các

dịch vụ của nền hành chính. Suy cho cùng thì lực cản cải cách bộ máy hành

chính đều do con người làm ra.

56

Đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước ở Lào hiện nay khá đông, đang

tích cực đóng góp sức mạnh vào hoạt động của cơ quanh hành chính nhà

nước. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử của đất nước, đội ngũ cán bộ được hình

thành và phát triển từ nhiều nguồn khác nhau, năng lực, trình độ chuyên môn

nghiệp vụ không đồng đều, hiện tượng vừa yếu vừa thiếu cán bộ khá phổ

biến. Đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh, hay nói cách khác chưa đủ tài

đức để thực hiện công vụ. Có quan niệm cho rằng: “Dựng nước lấy học làm

đầu, cần trị lấy nhân tài làm gốc”[9, tr 124].

Nhân dân chính là lực lượng quan trọng nhất có quyền đòi hỏi nhà

nước tiến hành cải cách bộ máy hành chính và giám sát nhà nước thực hiện

công cuộc cải cách này nhằm mục tiêu phục vụ nhân dân được tốt hơn. Tuy

nhiên, nhân dân chưa nhận thức được vai trò và lợi ích của mình, vì ý thức

dân chủ chưa cao, còn thờ ơ trước vấn đề bầu cử, ứng cử, ít quan tâm, không

am hiểu pháp luật. Ý thức dân chủ, năng lực dân chủ, văn hóa pháp luật, văn

hóa dân chủ chưa phát triển thành nhu cầu văn hóa. Tâm lý bình quân, thụ

động, ỷ lại, trông chờ, thoái thác trách nhiệm, tách rời quyền và nghĩa vụ dù

đã bị kinh tế thị trường làm cho lung lay được một phần nhưng vẫn tỏ ra có

sức bám rễ dai dẳng trong đời sống cá nhân và cộng động. Tháo gỡ được

những rào cản về con người sẽ tạo động lực cho cải cách bộ máy hành chính

thành công.

- Toàn cầu hóa phát triển làm cho sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc

gia ngày càng tăng. Sự liên kết kinh tế trên phạm vi khu vực cũng như toàn

cầu diễn ra nhanh chóng và ở nhiều cấp độ khác nhau, từ song phương, đa

phương, tam giác, tứ giác, từ tiểu khu vực đến toàn khu vực, toàn cầu châu

lục. Vì thế, Bộ ngoại giao Lào đã nhấn mạnh: “Việc tham gia thành lập hội

đồng ASEAN vừa là cơ hội vừa là thách thức cho nước CHDCND Lào về ổn

định chính trị, kinh tế và văn hóa - xã hội”[76, tr 11]. Hội nhập quốc tế không

chỉ phù hợp với xu thế của thời đại, mà còn đáp ứng nhu cầu nội tại và lợi ích

của dân tộc trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động theo chiều thuận, còn nảy sinh

57

những vấn đề phức tạp về an ninh, về môi trường… Vì thế phải tiếp tục cải

cách bộ máy nhà nước, nhất là cải cách nền hành chính nói chung, bộ máy

hành chính nói riêng để chủ động khai thác mặt thuận lợi, hạn chế và vượt

qua được những thách thức. Có như vậy, nhà nước mới có khả năng kiểm soát

được toàn bộ nền kinh tế, dẫn dắt các thành phần kinh tế đi theo định hướng

xã hội chủ nghĩa.

Những biến đổi to lớn và sâu sắc của thế kỷ XXI với xu thế toàn cầu

hóa và hội nhập kinh tế thế giới, những yêu cầu của nền kinh tế tri thức đã và

đang đặt nước Lào trước nhiều cơ hội và thách thức đặc biệt đối với việc thực

hiện các yêu cầu của AFTA, WTO…Chính phủ Lào đã xác định mục tiêu

phát triển kinh tế xã hội của đất nước là “đến năm 2020 đưa đất nước thoát

khỏi quốc gia kém phát triển, trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa,

tiến lên xã hội chủ nghĩa, chủ động mở rộng quan hệ hợp tác trong khu vực

và quốc tế”[96, tr 4]. Để thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đề

ra, đất nước phải giải quyết nhiều vấn đề, đó là đạt được tốc độ tăng trưởng

kinh tế cao, xây dựng được những điều kiện cần thiết để có thể tận dụng được

mọi cơ hội của hội nhập và toàn cầu hóa cho việc phát triển kinh tế, xây dựng

một hệ thống hành chính tạo ra điều kiện thuận lợi cho phát triển nền kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng một Nhà nước thực sự là

“của dân, do dân và vì dân”. Có thể nói, cải cách bộ máy hành chính là điều

kiện quan trọng và cần thiết bảo đảm thực hiện thành công mục tiêu phát triển

kinh tế xã hội của đất nước, vừa là đòi hỏi khách quan của một đất nước đang

đứng trước một bối cảnh quốc tế với nhiều thời cơ và vận hội mới.

2.4. KINH NGHIỆM CẢI CÁCH BỘ MÁY HÀNH CHÍNH MỘT SỐ NƯỚC

2.4.1. Kinh nghiệm cải cách bộ máy hành chính nhà nước Cộng hòa

Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

Chủ trương cải cách hành chính nói chung, bộ máy hành chính nói

riêng được Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra từ năm 1991. Chương trình cải

cách bộ máy hành chính Việt Nam hiện nay đã đặt ra các mốc cụ thể: từ

(2001-2010) và (2011-2020). Kết quả đạt được trong cải cách bộ máy hành

58

chính đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã

hội của đất nước.

Để làm chỗ dựa vững chắc cho việc thực hiện chương trình cải cách có

hiệu quả. Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam

năm 2013. Đây là bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện, đáp ứng yêu

cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế của Việt Nam

trong thời kỳ mới. Hiến pháp năm 2013 có một chương mới quy định về "Hội

đồng bầu cử Quốc gia, Kiểm toán nhà nước”(Chương X). Ngoài ra, Hiến

pháp năm 2013 còn đổi tên "Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân

(UBND)" thành "Chính quyền địa phương". Với các quy định về chính phủ,

Hiến pháp năm 2013 có một số điểm mới: Thứ nhất, Hiến pháp năm 2013

chính thức khẳng định: Chính phủ "là cơ quan thực hiện quyền hành pháp".

Thứ hai, quy định cụ thể về vai trò và trách nhiệm của các thành viên Chính

phủ. Quy định về trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ trong việc thực hiện

chế độ báo cáo trước Nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng

về những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và

Thủ tướng Chính phủ. Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 không còn giao cho

Chính phủ quyền quyết định về điều chỉnh địa giới hành chính (thực tế là cả

chia tách, thành lập mới) các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh như khoản 10

Điều 112 Hiến pháp năm 1992 quy định[14].

Để đảm bảo trong việc tiến hành cải cách bộ máy hành chính phù hợp

với điều kiện mới, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Tổ chức Chính phủ

năm 2015. về nhiệm vụ, quyền hạn hành pháp của Chính phủ, có 2 điểm mới

quan trọng . Thứ nhất, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 đã khẳng định

mạnh mẽ, đặt lên hàng đầu nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong tổ chức

thi hành Hiến pháp và pháp luật. Trong đó, coi trọng trước hết là nhiệm vụ,

quyền hạn lập quy: “Ban hành kịp thời và đầy đủ các văn bản pháp luật để thi

hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của

Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước và để thực

hiện các nhiệm vụ được giao”. Thứ hai, cụ thể hóa thẩm quyền hoạch định

59

chính sách của Chính phủ. Chính phủ có nhiệm vụ, quyền hạn đề xuất, xây

dựng trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định hoặc

quyết định theo thẩm quyền các chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch

và các chương trình, dự án khác.

Để nhằm mục đích tinh giản tổ chức bộ máy Luật Tổ chức Chính phủ

năm 2015 đã quy định cụ thể về số lượng cấp phó và cơ cấu tổ chức của bộ,

cơ quan ngang bộ, tạo khuôn khổ thể chế vững chắc thúc đẩy cải cách tổ chức

bộ máy, đổi mới phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước ở

trung ương[29].

Để cải cách bộ máy chính quyền địa phương hợp lý, Quốc hội Việt

Nam đã ban hành Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, trong đó

có một số điểm mới:

Thứ nhất, Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã bổ sung thêm đơn

vị hành chính: thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị

hành chính - kinh tế đặc biệt. Đây là quy định nhằm cụ thể hóa điểu 110 Hiến

pháp năm 2013.

Thứ hai, một trong những điểm mới nổi bật của Luật Tổ chức chính

quyền địa phương so với Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đó là có

sự phân biệt giữa chính quyền địa phương ở nông thôn và ở đô thị, phù hợp

với đặc điểm kinh tế, địa lý, dân cư, kết cấu hạ tầng và yêu cầu quản lý ở mỗi

địa bàn[30].

Hiện nay, cải cách bộ máy hành chính nhà nước ở Việt Nam đã tập trung

vào 4 nội dung sau:

1. Tiến hành tổng rà soát về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ

cấu tổ chức và biên chế hiện có của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc

Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban

nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và các cơ quan, tổ chức khác thuộc bộ máy hành

chính nhà nước ở Trung ương và địa phương.

60

2. Tổng kết, đánh giá mô hình tổ chức và chất lượng hoạt động của chính

quyền địa phương nhằm xác định mô hình tổ chức phù hợp, bảo đảm phân

định đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, sát thực tế, hiệu lực, hiệu quả;

xây dựng mô hình chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn phù hợp;

Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm quản lý thống nhất về tài nguyên,

khoáng sản quốc gia, quy hoạch và có định hướng phát triển; tăng cường giám

sát, kiểm tra, thanh tra; đồng thời đề cao vai trò chủ động, tinh thần trách

nhiệm, nâng cao năng lực của từng cấp, từng ngành;

3. Tiếp tục đổi mới phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà

nước; thực hiện thống nhất và nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế một cửa,

một cửa liên thông tập trung tại bộ phận tiếp nhận, trả kết quả thuộc Văn

phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện; bảo đảm sự hài

lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà

nước đạt mức trên 80% vào năm 2020;

4. Cải cách và triển khai trên diện rộng cơ chế tự chủ, tự chịu trách

nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; chất lượng dịch vụ công từng

bước được nâng cao, nhất là trong lĩnh vực giáo dục, y tế, bảo đảm sự hài

lòng của cá nhân đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trong các

lĩnh vực giáo dục, y tế đạt trên 80% vào năm 2020[31, tr 3].

Kết quả đạt được trong cải cách tổ chức bộ máy hành chính, cơ cấu tổ

chức Chính phủ khóa sau tinh gọn, hợp lý hơn; số lượng các bộ, cơ quan

ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ từ 48 cơ quan (năm 2001) đến năm 2010

còn 30 cơ quan (giảm được 18 cơ quan). Đối với cơ quan nang bộ tách bạch

được chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ với

chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước và hoạt

động tự chủ của các đơn vị sự nghiệp thuộc bộ, phù hợp với cơ chế quản lý

mới trong kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Đối với các cơ quan

thuộc Chính phủ, Chính phủ đã ban hành từng Nghị định quy định chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức đối với từng cơ quan thuộc Chính

phủ, bảo đảm phù hợp với tính chất, đặc điểm hoạt động sự nghiệp của từng

61

cơ quan. Để bảo đảm tính thống nhất trong quản lý nhà nước đối với các hoạt

động sự nghiệp của các cơ quan thuộc Chính phủ, Chính phủ đã phân công

các thành viên Chính phủ trực tiếp chỉ đạo và thực hiện chức năng quản lý

ngành, lĩnh vực đối với các cơ quan thuộc Chính phủ. Đối với cơ quan

chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện được tổ chức thống

nhất, phù hợp với đặc thù ở từng địa phương.

2.4.2. Kinh nghiệm cải cách bộ máy hành chính Trung Quốc.

Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) là nước đông dân

nhất trên thế giới. Hiện nay, dân số Trung Quốc trên 1,35 tỷ người. Mô hình

tổ chức bộ máy nhà nước Trung Quốc là mô hình của các nước thuộc khối xã

hội chủ nghĩa. Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước Trung Quốc theo mô

hình Quốc vụ viện. Thực chất đây là một loại hình Hội đồng Nhà nước.

Từ khi thực hiện đường lối mở cửa (1978), Trung Quốc đã trải qua 5

giai đoạn cải cách hành chính, trong đó cải cách bộ máy hành chính nhà nước

là trọng tâm:

Giai đoạn từ cuối 2003 trở đi: Phát huy kết quả các giai đoạn trước, đưa

cải cách đi vào chiều sâu để thực sự thay đổi chức năng của chính quyền theo

phương châm: biến từ chính quyền vô hạn (cái gì cũng làm) sang chính quyền

hữu hạn (quản lý bằng pháp luật, chỉ làm những việc thuộc chức năng đích

thực là quản lý hành chính nhà nước). Đầu năm 2003, Chương trình cải cách

hành chính của Quốc vụ viện đã được thông qua, các nhiệm vụ chính là:

- Cải cách cơ chế quản lý tài sản công; lập cơ quan quản lý công sản để

triệt để tách chức năng quản lý hành chính của cơ quan công quyền với quản

lý của các doanh nghiệp nhà nước.

- Đổi mới cơ chế điều tiết vĩ mô thông qua chính sách phát triển; thành

lập Uỷ ban cải cách và phát triển thay cho Uỷ ban kế hoạch phát triển Quốc

vụ viện; thành lập cơ quan hợp tác và giao lưu khu vực để thực hiện chức

năng phối hợp phát triển.

- Đẩy mạnh Chương trình tin học hoá, từng bước xây dựng chính phủ

điện tử.

62

- Xác định lại sự phân công và cơ cấu tổ chức, biên chế của từng bộ,

ngành căn cứ vào chức năng mới.

- Giảm thiểu nội dung quản lý nhà nước, trên cơ sở đó tiếp tục thu gọn

bộ máy quản lý hành chính.

Đối với cải cách cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính. Qua ba lần cải

cách gần đây, tổ chức bộ máy các bộ của Trung Quốc cơ bản không có thay

đổi lớn về mặt số lượng (trừ việc bỏ Uỷ ban kế hoạch phát triển Quốc vụ viện

để thành lập Uỷ ban cải cách và phát triển). Hiện tại Trung Quốc có 29 bộ và

Uỷ ban nhà nước. Chính quyền địa phương được tổ chức thành ba cấp hoàn

chỉnh: cấp tỉnh (tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc Trung ương, đặc khu

hành chính) gồm 31 đơn vị (22 tỉnh, 4 thành phố trực thuộc Trung ương, 5

khu tự trị), 2 khu hành chính đặc biệt [114, tr 69].

Những kết quả ghi nhận trong cải cách bộ máy hành chính nhà nước

Trung Quốc.

Cải cách cơ cấu trong thời gian qua là giảm thiểu các doanh nghiệp nhà

nước, đi đôi với việc bỏ cơ chế chính quyền trực tiếp quản lý doanh nghiệp;

sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp. Cho đến thời điểm hiện tại, Trung Quốc chỉ

còn 189 doanh nghiệp nhà nước do Trung ương trực tiếp quản lý (trong tổng

số 300.000 doanh nghiệp quốc hữu); về cơ bản không còn doanh nghiệp thuộc

bộ. Để giúp Chính phủ quản lý doanh nghiệp nhà nước, Trung Quốc đã thành

lập Uỷ ban quản lý tài sản quốc hữu ở cấp trung ương và đang triển khai ở cấp

địa phương.

Chức năng quản lý nhà nước của Chính phủ được xác định là "quản lý

vĩ mô, giám sát thị trường, quản lý xã hội và phục vụ công cộng (dịch vụ

công)". Theo đó, 7 lĩnh vực Chính phủ trung ương tập trung quản lý là quốc

phòng, ngoại giao, chính sách tài chính, ngân hàng, điện lực, thông tin, đường

sắt. Các lĩnh vực còn lại thực hiện phân cấp mạnh cho chính quyền địa

phương.

Chính quyền địa phương được giao nhiều quyền hơn. Nguyên tắc cơ

bản được thực hiện là: “công việc nào, đơn vị tổ chức nào làm tốt nhất thì

63

giao cho đơn vị, tổ chức đó” và sự hoạt động được giám sát và kiểm soát bởi

hệ thống pháp luật nghiêm minh cho tất cả các tổ chức. Điều quy định khá rõ

và là một bước cải cách rất quan trọng là ba cấp chính quyền địa phương có

trách nhiệm, nghĩa vụ như nhau trong việc quản lý hành chính nhà nước tại

địa phương và chỉ chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Quốc vụ viện.

Thông qua quá trình cải cách, chính quyền Trung Quốc đã có sự thay

đổi, mọi vấn đề cải cách đều đặt dưới sự lãnh đạo của Ông Tập Cận Bình, ông

đã đưa ra các biện pháp để cải cách đất nước, hướng tới giấc mơ Trung Hoa.

Trong thông điệp chào mừng năm mới 2015, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận

Bình nêu rõ. Trung Quốc trong năm mới sẽ “ỷ pháp trị quốc-cải cách toàn diện”[3, tr 1]. Chính quyền Tập Cận Bình đã sử dụng “ba mũi tên cải cách chí

mạng” để giải quyết các món nợ mới lẫn nợ cũ mà Bắc Kinh gặp phải. Trong

đó bao gồm xác định giá trị Trung Hoa, cải cách hệ thống quyền lực làm đòn

bẩy để cải cách nền kinh tế. Chính sách mới của Chủ tịch nước Trung Quốc

đã tập trung đào sâu các lĩnh vực cải cách nhằm phát huy hiệu quả từ mô hình

“phân quyền quản lý mà ông Đặng Tiểu Bình đưa ra. Điển hình là việc cho

phép nguồn lực tư nhân tham gia đầu tư, quản lý các lĩnh vực mà trước nay

nhà nước kiểm soát độc quyền, bao gồm quân sự, tài chính, giao thông vận

tải, phát triển hệ thống hạ tầng quốc gia.

Qua tiến trình thực hiện chính sách mở cửa với bên ngoài và thực hiện

công cuộc cải cách về kinh tế. Nhà nước Trung Quốc nhận thức được vai trò

to lớn của bộ máy hành chính nhà nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã

hội. Đảng cộng sản Trung Quốc đã có rất nhiều nghị quyết liên quan đến việc

cải cách bộ máy hành chính nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả

quản lý đất nước. Những biện pháp manh tính chất định hướng, vĩ mô đã

được vạch ra nhằm mục tiêu xây dựng: “Tất cả mọi quyền lực của nước Cộng

hòa nhân dân Trung Hoa thuộc về nhân dân” Theo tinh thần của Đảng Cộng

sản Trung Quốc đề ra.

2.4.3. Kinh nghiệm cải cách bộ máy hành chính Liên bang Nga

64

Những năm 90 khi nhà nước Liên bang Nga mới được hình thành, dưới

thời Cựu Tổng thống Boris Enxin, nước Nga với nền dân chủ và luật pháp yếu

kém, một xã hội dân sự mới phôi thai, một nền kinh tế dựa trên khai thác

nguyên liệu thô và một dân số bần cùng hóa, một nước Nga quẩn quanh trong

ngõ cụt không tìm thấy lối ra, bị Mỹ và các nước phương Tây thao túng và chi

phối thì nay lại vươn dậy nhanh trở thành đối tác với tiếng nói có trọng lượng

buộc Mỹ và phương Tây phải thay đổi thái độ. Yếu tố góp phần tạo ra các biến

đổi về chất có tính đột biến đó là về cải cách bộ máy hành chính Nhà nước.

Nga là quốc gia kế tục Liên Xô, là nước cộng sản đầu tiên, mô hình

chính trị của nhà nước Liên Xô là mẫu hình chung cho các quốc gia xã hội

chủ nghĩa khác. Đặc điểm bao trùm của thể chế chính trị của nhà nước Liên

Xô là chế độ một đảng lãnh đạo. Hệ thống chính trị Xô Viết theo nguyên tắc

tập trung dân chủ. Đảng cộng sản lãnh đạo tối cao và toàn diện mọi mặt:

chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa. Cơ quan quyền lực cao nhất của Liên Xô là

Xô Viết tối cao Liên Xô. Có cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp và

trực tiếp đảm nhiệm chức năng lập pháp. Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô Viết tối

cao là nguyên thủ quốc gia trên danh nghĩa, nhưng Tổng Bí thư Ủy ban Trung

ương Đảng Cộng Sản mới là nhân vật số một. Cơ quan quyền lực cao nhất là

Đại hội đại biểu nhân dân, cơ quan thường trực của nó là Xô Viết tối cao. Ở

địa phương cơ quan quyền lực cao nhất là Xô Viết địa phương do dân bầu. Xô

Viết tối cao bầu ra Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (thủ tướng) và phê chuẩn

thành phần hội đồng bộ trưởng (Chính phủ) là cơ quan chấp hành của nó, đảm

nhiệm chức năng hành pháp ở Trung ương. Tương tự, Xô Viết địa phương

bầu ra Ủy ban hành chính để đảm nhiệm chức năng hành pháp ở địa phương.

Hệ thống chính trị như vậy của Nhà nước Liên Xô làm xã hội Xô Viết

mang đặc tính tập trung quyền lực rất lớn của Đảng. Có lúc nào đó đặc tính

này có thể mang lại tác dụng tốt nhưng đồng thời nó là nguyên nhân rất dễ

dẫn đến các hiện tượng lạm dụng quyền lực của các cấp đảng vì các cấp ủy

đảng thực tế gần như không bị nhân dân kiểm soát, Đảng vừa làm ra pháp luật

và vừa thi hành pháp luật mà hệ quả là hiện tượng vi phạm các quyền tự do

65

của công dân đã được hiến pháp quy định, cũng như các tiêu cực khác ví dụ

tình trạng không quy được trách nhiệm cá nhân…trong giai đoạn cuối của

Liên Xô hệ thống này đã mất tính uyển chuyển năng động gây ra thời kỳ được

gọi là “thời kỳ trì trệ”.

Năm 1985, Tổng bí thư mới Mikhail Sergeyevich Gorbachov bắt đầu

tiến hành cải tổ, nhưng những nỗ lực cải cách đó không thu được kết quả như

mong đợi. Trong xã hội Liên Xô có nhiều mâu thuẫn trầm trọng. Ngày 25

tháng 12 năm 1991 Liên Xô chấm dứt tồn tại. Nhà nước Cộng hòa Liên bang

mới chính thức ra đời, từ đó đã thay đổi nhiều hiến pháp. Theo Hiến pháp

1993, Liên bang Nga là một nước cộng hòa liên bang với Tổng thống được

bầu trực tiếp theo nguyên tắc bỏ phiếu kín, phổ thông, bình đẳng và trực tiếp.

Tổng thống là người đứng đầu Nhà nước và người đảm bảo quyền tự do của

công dân. Tổng thống bổ nhiệm Thủ tướng Chính phủ với sự đồng ý của Nghị

viện, bổ nhiệm các phó Thủ tướng và các Bộ trưởng theo đề nghị của Thủ

tướng. Tổng thống cũng có thẩm quyền liên quan tới hoạt động hành pháp.

Tổng thống không phải là người đứng đầu chính phủ nhưng có quyền chủ tọa

các phiên họp của Chính phủ, quyết định việc từ chức của Chính phủ.

Kết quả đạt được trong quá trình cải cách bộ máy hành chính của Liên

bang Nga thể hiện như sau:

- Bộ máy hành chính có sự thay đổi nhiều, Hội đồng có 12 Phó Thủ

tướng, 60 Bộ và Ủy ban Nhà nước. Sau khi cải tổ năm 2004, hiện nay Chính

phủ còn 17 Bộ, 7 Cục và 30 cơ quan Chính phủ.

- Việc phân chia đơn vị hành chính rõ rang hơn, hiện nay Liên bang Nga

chia làm 83 khu vực lãnh thổ - hành chính là chủ thể của Liên bang, gồm: 21

nước cộng hoà, 46 tỉnh, 01 tỉnh tự trị, 09 vùng, 4 khu tự trị, 02 thành phố trực

thuộc TW là Mát-xcơ-va và Xanh Pê-téc-bua. Ngoài ra, nước Nga được chia

thành 8 Đại khu Liên bang do Đại diện toàn quyền của Tổng thống đứng đầu.

- Thành công trong việc thực hiện mô hình "phân quyền": phân quyền

ngang - cơ chế phân chia quyền lực giữa các thiết chế quyền lực ở trên cùng

một mức độ - phân quyền ngang hàng (giữa các thiết chế quyền lực ở trung

66

ương); phân quyền dọc - cơ chế phân chia quyền lực giữa trung ương và địa

phương; phân quyền đặc biệt (lưu quyền) - quyền lực mà nhân dân sử dụng

bằng các hình thức khác nhau nhằm thực thi trực tiếp, giám sát và chế ước sự

tùy tiện của cơ quan nhà nước khi các cơ quan nhà nước sử dụng phần quyền

lực đã được phân chia.

- Hơn hai mươi năm kể từ ngày Liêng bang Nga, “nước Nga mới”,

nước Nga “hậu Xô Viết”- bước lên vũ đài quốc tế không chỉ với tư cách một

quốc gia độc lập, có chủ quyền, được cộng đồng thế giới thừa nhận, mà cũng

với tư cách “quốc gia kế tục Liên Xô”. Qua bao thăng trầm, Liên bang Nga

giờ đây dường như đã hội tụ đầy đủ các yếu tố làm nên sức mạnh của một

cường quốc thời kỳ “hậu Xô Viết”. Liên bang Nga hiện nay có thế mạnh về

tốc độ tăng trưởng kinh tế kỷ lục trong những năm gần đây, vị thế ủy viên

thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc; nằm trong tay kho vũ khí hạt

nhân lớn, diện tích lãnh thổ rất lớn, sở hữu lượng dầu mỏ khổng lồ và các

khoáng sản quý.

Qua việc tìm hiểu nền hành chính Liên bang Nga có thể thấy sự thay

đổi lớn từ một nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa sang mô hình thực hiện

theo chế độ tổng thống và theo đó đất nước có sự phát triển mạnh về kinh tế,

quân sự, thương mại…đây là kinh nghiệm cải tổ đất nước thành công nhất

trong lịch sử, đem lại tự do, hạnh phúc cho toàn dân tộc.

2.4.4. Kinh nghiệm cải cách bộ máy hành chính của Hàn Quốc

Từ một quốc gia nông nghiệp, kém phát triển trong thập kỷ 60 của thế

kỷ XX, chỉ sau hơn 30 năm, Hàn Quốc đã vươn lên trở thành một “con hổ

châu Á” và là một trong mười nền kinh tế phát triển nhất thế giới.

Bắt đầu từ năm 2003 dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Roh Moo Hyun,

Hàn Quốc đã tiến hành đổi mới chính phủ nhằm vào 5 mục tiêu đó là: xây

dựng một chính phủ linh hoạt; cung ứng dịch vụ công có chất lượng cao; mở

rộng quyền tự quản và chịu trách nhiệm; mở rộng việc tiết lộ các thông tin

công; khuyến khích sự tham gia của người dân.

67

Để làm cho công cuộc đổi mới chính phủ đi đến thành công; Chính phủ

Hàn Quốc đã tham gia theo đuổi mục tiêu: “Chính phủ có khả năng”, “chính

phủ giao tiếp” và “chính phủ đáng tin cậy”[40, tr 338].

Kết quả thu được từ quá trình cải cách rất khả quan. Về cải cách tổ

chức BMHC, chú trọng phân cấp là vấn đề mấu chốt nhất. Hiện nay, cải cách

bộ máy hành chính vẫn còn tiếp tục, đặc biệt trong ngày 18 tháng 11 năm

2014. Cơ cấu bộ máy chính phủ Hàn Quốc có sự thay đổi. Theo Luật sửa đổi

bộ máy chính phủ được Nội các thông qua hôm 18/11 và có hiệu lực hôm

19/11, Hàn Quốc đã có thêm Cơ quan an toàn quốc dân và Cơ quan cải cách

nhân sự trực thuộc Văn phòng Thủ tướng. Cựu Phó Chủ tịch Hội đồng tham

mưu trưởng liên quân Hàn Quốc Park In-yong được đề cử làm Bộ trưởng,

Giám đốc Cơ quan an toàn quốc dân, và Cố vấn kinh doanh Công ty cáp

quang Samsung Lee Geun-myeon được đề cử làm Thứ trưởng, Giám đốc Cơ

quan cải cách nhân sự.

Như vậy, thông qua cuộc cải cách bộ máy hành chính, Chính phủ Hàn

Quốc đã thay đổi cơ cấu từ 17 bộ, 3 cơ quan ngang bộ và 18 cục thành 17 bộ,

5 cơ quan ngang bộ và 16 cục. Đây được cho là bước đi cần thiết nhằm tăng

cường năng lực đối phó với tai nạn và đảm bảo an toàn. Cơ quan an toàn quốc

dân sẽ đóng vai trò “tháp điều khiển”, bao quát mọi công tác liên quan đến

đảm bảo an toàn, củng cố khả năng đối phó với tai nạn. Cơ quan cải cách

nhân sự đặt mục tiêu quét sạch những lề thói tiêu cực, sự câu kết giữa quan

chức và các tổ chức, doanh nghiệp tư.

Đối với cải cách bộ máy chính quyền địa phương. Hiện nay, Cơ cấu hành

chính của chính quyền địa phương thường gồm ba cấp: 1. Thành phố thủ phủ

Seoul, tỉnh thành thủ phủ; 2. Thành phố, hạt, quận tự trị; 3. Eup, Myon và Dong.

Ngày nay, Chính phủ Hàn Quốc đang tiến hành cải cách mạnh mẽ tổ

chức và hoạt động của chính quyền địa phương nhằm đáp ứng một cách tốt

nhất nhu cầu của người dân. Chính phủ Hàn Quốc đã xác định 4 vấn đề cơ

bản trong cuộc cải cách này. Một là, chuyển dần từ mô hình nhà nước là đơn

vị sản xuất cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho người dân sang mô hình đưa

68

người dân vào tự sản xuất hàng hoá và dịch vụ công nhằm giảm giá thành,

nâng cao chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ. Hai là, Luật “Tăng cường

trao quyền cho chính quyền địa phương” được ban hành đã hướng tới việc

thay đổi mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa

phương. Nội dung cơ bản là, chính quyền trung ương mạnh dạn trao quyền

cho chính quyền địa phương tự quyết định những vấn đề cơ bản liên quan đến

đời sống của người dân ở địa phương. Ba là, xuất phát từ nhu cầu nâng cao

chất lượng đời sống của người dân như phát triển nhà ở, xây dựng công sở,

đường sá, cầu cống…mà chính quyền địa phương phải tự đặt trách nhiệm của

mình trong việc thực hiện nội dung này. Bốn là, xu hướng toàn cầu hoá và xã

hội thông tin trong tương lai đã tác động đến cách điều hành và quản lý của

chính quyền địa phương. Do đó, không còn cách nào khác chính quyền địa

phương phải tự cải cách, thay đổi cách quản lý cho phù hợp. Tức là phải quản

lý bằng công nghệ thông tin thông qua chính quyền điện tử và quản lý điện tử.

2.4.5. Bài học kinh nghiệm cho Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

trong quá trình cải cách bộ máy hành chính nhà nước

Từ thực tiễn nghiên cứu quá trình cải cách bộ máy hành chính của một

số nước nêu trên có thể rút ra được một số bài học cho Cộng hòa Dân chủ

Nhân dân Lào như sau:

Một là, cải cách bộ máy hành chính cần xác định rõ nội dung: rà soát

lại cơ cấu tổ chức bộ máy; chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành

chính các cấp; đánh giá việc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa

phương các cấp; đổi mới phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà

nước; cải cách và triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị

sự nghiệp dịch vụ công…

Hai là, cải cách hành chính phải thận trọng và cần phải học hỏi kinh

nghiệm của quốc tế. Vai trò người đứng đầu là yếu tố quyết định sự thành

công của công cuộc cải cách. Phải có sự quyết tâm, dám nghĩ, dám làm, dám

chịu trách nhiệm; có tư duy chiến lược trong quá trình cải cách bộ máy hành

69

chính nhà nước để xây dựng bộ máy hành chính trong sạch, năng động và

hiệu quả.

Ba là, Cải cách bộ máy hành chính có thể là sự biến đổi về chất có tính

đột biến cả về chính trị, cách thức tổ chức bộ máy cho hợp lý với điều kiện

khách quan nhằm phát huy dân chủ, công bằng trong xã hội, tạo ra một xã hội

mới thực sự phục vụ nhân dân.

Bốn là, quyết tâm đổi mới Chính phủ phù hợp với điều kiện phát triển

đất nước; đổi mới chính phủ phải nhằm mục tiêu: “xây dựng một chính phủ

minh bạch, chính phủ điện tử và chính phủ có sự tham gia của người dân”.

Đổng thời đầu tư xây dựng cơ sở kỹ thuật hạ tầng phục vụ nền hành chính

quốc gia nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của BMHC nhà nước.

Tiểu kết chương 2:

Cải cách bộ máy hành chính nhà nước là chủ đề có bề dày về lý luận và

rất cần thiết ở CHDCND Lào trong quá trình xây dựng và hoàn thiện đất

nước. Chính vì vậy, để bảo đảm cho công trình nghiên cứu, tác giả làm rõ

nhiều khái niệm và quan điểm xung quan cải cách bộ máy hành chính nhà

nước nhất là khái niệm về bộ máy hành chính nhà nước; khái niệm cải cách

bộ máy hành chính nhà nước; từ đó làm rõ mục tiêu, yêu cầu, nội dung,

nguyên tắc, các yếu tố tác động đến công cuộc cải cách bộ máy hành chính

nhà nước. Tác giả cũng đã nghiên cứu các kinh nghiệm của một số nước đang

phát triển nhằm rút ra những kinh nghiệm bổ ích cho CHDCND Lào. Xuất

phát từ lý luận trên, đã tạo cơ sở vững chắc trong qúa trình nghiên cứu làm rõ

việc nghiên cứu và phân tích thực trạng tiếp theo.

CHƯƠNG 3

THỰC TRẠNG CẢI CÁCH BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

70

3.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA DÂN

CHỦ NHÂN DÂN LÀO

3.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội

Nước CHDCND Lào được giải phóng ngày 2 tháng 12 năm 1975. Là

một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, thuộc khu vực Đông Nam Á,

nằm sâu trong lục địa. Là mọt quốc gia nằm sâu trong lục địa, CHDCND Lào

có đường biên giới chung dài 4.825 Km với 5 quốc gia trong khu vực: phía

Bắc giáp Trung quốc, phía Tây Bắc giáp Myanma, phía Tây giáp với Thái

Lan, phía Đông giáp với Việt Nam và phía Nam giáp với Campuchia.

Nước CHDCND Lào có diện tích: 236.800 km2. Theo số liệu thống kê

năm 2015, dân số Lào là 6.368.481 người, gồm 49 bộ tộc. Hiện nay đất nước

được chia thành 17 tỉnh và một thủ đô, có 148 huyện và 8.753 bản[99, tr 159].

Lào là một nước có địa hình đa dạng: có núi, có cao nguyên, có đồng

bằng, có thung lũng nhưng không có lấy một thước bờ biển. Vì vậy, đất nước

gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại trong mối quan hệ, trong việc giao thông với

các nước khác. Tuy nhiên Lào có nhiều sông ngòi, suối rất quan trọng cho

nông nghiệp. Các sông suối này cung cấp phù sa, nước tưới cho trồng trọt và

thực phẩm cho nhân dân Lào. Sông chính là sông Mê Kông, là con sông lớn

nhưng chưa được phát huy, chưa được sử dụng hết giá trị kinh tế của nó vì

còn đang ở trạng thái hoang sơ. Trong tương lai những con sông ở Lào là

nguồn cung cấp năng lượng thủy điện mạnh.

Về phát triển kinh tế-xã hội, sau khi thực hiện đường lối đổi mới và tổ

chức triển khai nghị quyết đại hội IX của Đảng nhân dân Cách mạng Lào.

CHDCND Lào đã giành được thắng lợi trên nhiều mặt như chính trị, văn hóa,

kinh tế, giáo dục... Về chính trị đã giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền toàn

vẹn lãnh thổ; ổn định về hệ thống chính trị và trật tự xã hội.

Trong lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội có nhiều thành công, nhất là tốc

độ tăng trưởng kinh tế 7,9 %, mức thu nhập bình quân đầu người 1.970 đôla/

năm[88, tr 4]. Kinh tế có sự ổn định; công tác xóa đói giảm nghèo của nhân

dân gắn liền với việc xây dựng bản và cụm bản phát triển đạt được nhiều

71

thành công, các hộ nghèo giảm xuống từ 20,4% trong năm 2010, chỉ còn lại

không đến 10 % trong năm 2015. Chương trình xây dựng bản phát triển và

sáp nhập bản được tổ chức một cách chủ động và đạt nhiều thành tích. Một số

bản đã trở thành trung tâm phát triển kinh tế - xã hội và trở thành đô thị nhỏ ở

nông thôn; quan trọng hơn là xuất hiện yếu tố mới trong quá trình làm ăn của

nhân dân các bộ tộc ở các địa phương.

Về việc tổ chức thực hiện chính sách văn hóa - xã hội đạt nhiều thành

tích; cải cách hệ thống giáo dục quốc gia có bước thành công nhất là trong

việc tạo điều kiện, mở rộng mạng lưới giáo dục, nâng cao chất lượng giáo

dục; hệ thống tạo nghề được tổ chức triển khai khắp nơi và đến các tỉnh; sự

nghiệp giáo dục đã trở thành của quần chúng; hệ thống các trường học đã

được triển khai đến vùng sâu vùng xa và các huyện nghèo; tỷ lệ đến trường

của trẻ em từ 3-4 tuổi đạt 14,6% vượt kế hoạch; tỷ lệ đến trường của học sinh

từ 6-10 tuổi tăng lên từ 84,2% trong năm 2006 đến 93% trong năm 2010.

Trình độ học vấn của giáo viên liên tục được nâng cao; cơ sở đào tạo có số

lượng tăng lên, chất lượng đa dạng, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế

xã hội.

Về y tế, chăm sóc sức khỏe đã được cải thiện, số lượng của đội ngũ bác

sĩ, y tá ngày càng tăng; tạo điều kiện tốt trong quá trình dịch vụ y tế có chất

lượng, thực hiện tốt chính sách chăm sóc sức khỏe, góp phần bảo vệ sức khỏe

và tăng tuổi thọ của nhân dân. Hiện nay, tuổi thọ bình quân của nhân dân Lào

là 64,7 năm (đối với nữ 66,7 năm, đối với nam 62,7 năm).

Về lao động, phúc lợi xã hội, phát triển tay nghề đã được tiến hành liên

tục. Hiện nay (2015) có 163 trung tâm dạy nghề và phát triển tay nghề và đã

đào tạo tay nghề cho 248.765 lao động; đã tìm kiếm việc làm cho 277.439 lao

động; bảo đảm quyền lợi của người lao động và người sử dụng lao động theo

quy định của pháp luật.

Từ đặc điểm tự nhiên và phát triển kinh tế xã hội nêu trên đã tạo điều

kiện tốt cho quá trình phát triển đất nước cũng như việc hoàn thiện bộ máy

72

hành chính nhà nước CHDCND Lào đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước và phù hợp với điều kiện khách quan của đất nước.

3.1.2. Khái quát về bộ máy nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

Sau khi giải phóng hoàn toàn đất nước, thoát khỏi sự thống trị áp bức

của thực dân, nước Lào thật sự bước vào cuộc sống mới hàn gắn vết thương

chiến tranh và xây dựng nước Lào từ một nước nghèo nàn lạc hậu thành một

nước Lào mới, đời sống nhân dân no ấm và hạnh phúc. Từ đó làm cho hệ

thống chính quyền Lào có sự đổi mới và tiến bộ, đặc biệt Lào đã ban hành

bản Hiến pháp đầu tiên vào năm 1991 và sửa đổi bổ sung năm 2003 đã quy

định thiết chế của người đứng đầu rõ ràng và quy định bộ máy Nhà nước thể

hiện như sau:

Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia của CHDCND Lào, đại diện cho

nhân dân Lào đa chủng tộc trong và ngoài nước. Chủ tịch nước do Quốc hội

bầu ra chiếm được số phiếu ít nhất 2/3 của số đại biểu Quốc hội tham dự hội

nghị, Nhiệm kỳ của chủ tịch nước bằng nhiệm kỳ Quốc hội.

Bộ máy nhà nước bao gồm 3 cơ quan chính: Cơ quan lập pháp, hành

pháp và tư pháp.

Cơ quan lập pháp (Quốc hội)

Quốc hội là cơ quan đại diện quyền và lợi ích của các dân tộc, là cơ quan

quyền lực Nhà nước, đồng thời là cơ quan lập pháp, có thẩm quyền quyết định

những vấn đề cơ bản của đất nước, kiểm tra giám sát hoạt động của cơ quan

hành pháp, tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân. Quốc hội có nhiệm kỳ 5

năm.

Quốc hội bầu Ủy ban thường vụ Quốc hội bao gồm chủ tịch, phó chủ

tịch và các ủy bản khác. Chủ tịch, phó chủ tịch Quốc hội đồng thời là chủ tịch

và phó chủ tịch của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Ủy ban thường vụ có nhiệm vụ chính đó là: triệu tập và chuẩn bị khóa

họp của Quốc hội; Giải thích và giám sát; kiểm tra việc thực hiện hiến pháp

và pháp luật của các cơ quan hành chính, tư pháp. Ủy ban thường vụ Quốc

hội có thể triệu tập cuộc họp bất thường nếu thấy cần thiết.

73

Các đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn thủ tướng, các thành viên của

chính phủ, chánh án tòa án nhân dân tối cao và viện trưởng viện kiểm sát

nhân dân. Cơ quan hoặc người được thẩm vấn buộc phải trả lời các cuộc thẩm

vấn trước mặt Quốc hội đang dự họp bằng lời hay bằng văn bản. Trong kỳ

họp, các đại biểu Quốc hội không bị truy nã giam giữ nếu không có sự đồng ý

của Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội. Trường hợp phạm tội quả

tang hay khẩn cấp cơ quan có thẩm quyền phải báo cáo trước Quốc hội để

kiểm tra, quyết định.

Cơ quan hành pháp

Cơ quan hành pháp của Lào bao gồm chính phủ, các bộ, cơ quan ngang

bộ (trung ương) và chính quyền địa phương. Chính phủ có nhiệm vụ quản lý

thống nhất và thi hành các công việc trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn

hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại.

Cơ cấu chính phủ gồm: Thủ tướng, phó thủ tướng, các bộ trưởng và thủ

trưởng các cơ quan ngang bộ. Chính phủ có nhiệm kỳ 5 năm.Thủ tướng là

người đứng đầu chính phủ, thay chính phủ chỉ đạo và phối hợp các hoạt động

của các bộ trưởng, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan khác thuộc chính phủ

và bộ máy hành chính địa phương. Cơ cấu chính phủ gồm 21 bộ và cơ quan

ngang bộ, có nhiệm vụ quản lý công việc của bộ mình như: lên kế hoạch

phát triển kinh tế-xã hội của ngành; lập dự trữ ngân sách thu chi; quản lý cán

bộ, viên chức; chỉ đạo về chuyên môn cho ngành của mình ở địa phương nếu

có nhu cầu. Văn phòng Chính phủ là cơ quan Nhà nước cấp Trung ương là cơ

quan giúp việc và tham mưu cho thủ tướng, đồng thời liên kết và hoạch định

các chính sách liên quan đến công việc của chính phủ và quản lý Nhà nước.

Theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc 1/4 tổng số đại biểu

Quốc hội, Quốc hội có thể tiến hành cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với

chính phủ hoặc các thành viên của chính phủ. Sau cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm

24 tiếng, Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Quốc hội xem xét lại vấn đề. Việc

xem xét này phải được thực hiện cách lần bỏ phiếu bất tính nhiệm đầu tiên 48

74

tiếng, nếu chính phủ hoặc một thành viên chính phủ nào đó vẫn không có

được sự tín nhiệm thì phải từ chức.

Chính quyền địa phương ở nước CHDCND Lào được chia thành 3 cấp,

bao gồm: cấp tỉnh, huyện và bản. Cấp tỉnh có cơ quan hành chính tỉnh, cấp

huyện có cơ quan hành chính huyện, cấp bản có cơ quan hành chính bản.

Đứng đầu cơ quan hành chính các cấp được gọi là: Tỉnh trưởng, huyện trưởng

và trưởng thôn (bản).

Cơ quan tư pháp

Hệ thống cơ quan tư pháp của Lào được tổ chức theo hệ thống ngành

dọc gồm có Tòa án và viện kiểm sát, có nhiệm vụ giải thích, hướng dẫn việc

thi hành luật, kiểm tra việc tuân thủ và xét xử các vụ án dân sự, hình sự.

Tòa án bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa phúc thẩm, Tòa án nhân

dân cấp tỉnh, tòa án nhân dân cấp khu vực và tòa án quân sự. Tòa án tối cao là

cấp tòa án cao nhất của Nhà nước, có nhiệm vụ kiểm tra các bản án của các

tòa án cấp dưới. Tòa án các cấp tiến hành xét xử theo nguyên tắc tập thể. Khi

xét xử, các Thẩm phán phải được độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Phiên tòa

phải xét xử công khai trừ trường hợp pháp luật đã quy định, các bị cáo có

quyền bào chữa và đoàn luật sư có quyền tương trợ về mặt pháp lý cho bị cáo.

Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tư pháp của nhà nước tiến hành

kiểm tra sự tuân thủ đúng đắn, thống nhất về pháp luật của các bộ, cơ quan

chính quyền, các tổ chức quần chúng, các tổ chức xã hội và mọi công dân.

Đồng thời viện kiểm sát còn là những cơ quan tư pháp Nhà nước thực hiện

quyền công tố, thay mặt Nhà nước đề nghị mức án và luận tội.

Viện kiểm sát gồm: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát

phúc thẩm, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh-thành phố, Viện Kiểm sát khu vực

và Viện Kiểm sát quân đội.

Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ đạo các hoạt động của viện kiểm sát

nhân dân các cấp. Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong khi thi hành nhiệm

vụ, chỉ tuân thủ theo pháp luật và những chỉ thị của viện trưởng viện kiểm sát

nhân dân tối cao. (Xem hình 3.1)

75

HÌNH 3.1: CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CHDCND LÀO

Quốc hội

Chủ tịch nước

Cơ quan tư pháp

CP-Thủ tướng

Các bộ,cơ quan ngang bộ

Văn phòng chính phủ

VKSND tối cao

Tỉnh trưởng

TAND PT

VKSND PT

VPQH

Văn phòng Tỉnh

VKSND tỉnh

Các sở, Ban

Huyện trưởng

VP huyện

Các phòng, ban

VKSND khu vực

TAND khu vực

Trưởng bản

NHÂN DÂN

TAND tối cao TAND tỉnh Bầu trực tiếp Ghi chú Quan hệ phụ thuộc Quan hệ phối hợp Nguồn: Bộ nội vụ, nước CHDCND Lào (2015)

3.2. CẢI CÁCH BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA DÂN

CHỦ NHÂN DÂN LÀO

3.2.1. Thực trạng sự kết hợp vai trò người đứng đầu của tổ chức

Đảng với người đứng đầu của chính quyền

76

Vấn đề kiêm nhiệm hai chức danh vừa là lãnh đạo cơ quan của đảng

đồng thời cũng là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước. Trên thực tế

cũng có một số nước đã thực hiện như Trung Quốc, Tổng Bí thư đồng thời là

Chủ tịch nước; Cu Ba, Tổng Bí thư đồng thời cũng là chủ tịch Hội đồng Bộ

trưởng, một số nước tư bản cũng có mô hình này như Anh, Thái Lan...Chủ

tịch Đảng đồng thời cũng là Thủ tướng Chính phủ. Như vậy, mô hình kiêm

nhiệm đã được hình thành và tồn tại khá lâu, nhưng ở mỗi nước lại có những

tình đặc thù riêng phụ thuộc vào chế độ chính trị của quốc gia đó.

Xuất phát từ đặc thù và hoàn cảnh cụ thể cách mạng dân tộc, dân chủ

do Đảng NDCM Lào trực tiếp lãnh đạo, qua thực tiễn lãnh đạo và chủ đạo

phong trào cách mạng đã xác định: Xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân,

do dân lao động các bộ tộc làm chủ, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Sau

khi nắm được chính quyền đến nay, CHDCND Lào đã thiết lập cơ cấu tổ chức

bộ máy phù hợp với thực tế của đất nước.

Về việc thực hiện chế độ kiêm nhiệm vừa là lãnh đạo cơ quan của Đảng

và cơ quan hành chính nhà nước ở CHDCND Lào đến nay đã trải qua 30 năm.

Sau khi đổi mới đất nước đảng tiếp tục nhấn mạnh: Trong điều kiện chúng ta

thiếu cán bộ nhất là cán bộ cốt cán. Chúng ta có thể thực hiện chế độ một

người kiêm hai chức danh đó là chức danh là lãnh đạo cơ quan Đảng và chính

quyền. Nhưng để thực hiện chế độ tốt cần phải xem xét điều kiện cụ thể, nhất

là vấn đề tuyển chọ cán bộ cốt cán, có đạo đức, năng lực và có uy tín thực sự

để thực hiện nhiệm vụ nặng nề của mình.

Thực tế cho thấy, để làm rõ hai chức năng và trọng trách lúc nào thực

hiện với tư cách là Bí thư đảng ủy, lúc nào thực hiện tư cách là chủ tích cơ

quan hành chính nhà nước thì những cán bộ đảm nhiệm hai chức danh này

đều thực hiện theo hướng: Ngồi ở chức bí thư đảng ủy phải biết đưa những

vấn đề về đường lối, chính sách và vấn đề có tính chiến lược ra bàn bạc, thảo

luận với đảng ủy để tổ chức thực hiện đường lối chính sách của Đảng về kinh

tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, đối ngoại, công tác xây dựng đảng, công tác

tổ chức, công tác cán bộ, công tác tư tưởng, công tác quần chúng. Ngồi cương

77

vị chủ tịch cơ quan hành chính nhà nước cần phải lấy tất cả nghị quyết của

cấp ủy để thảo luận với cơ quan hành chính và xây dựng kế hoạch, quy hoạch

cụ thể, phương pháp và biện pháp chỉ đạo thực hiện nghị quyết của đảng ủy

đạt kết quả tốt.

Sự hình thành và phát triển mô hình kiêm nhiệm hai chức danh chủ

chốt là bí thư đảng ủy và thủ trưởng cơ quan ở Trung ương, bí thư đảng ủy

với tỉnh trưởng, đô trưởng và huyện trưởng. Đến nay các cơ quan bộ máy

hành chính từ Trung ương đến địa phương đều thực hiện chế độ kiêm nhiệm,

thể biện qua bảng 3.2.

Bảng 3.2. Số lượng cán bộ chủ chốt kiêm nhiệm trên cả nước 2015

Số lượng STT Chức danh Tổng Nữ

1 Bộ trưởng kiêm bí thư 21 2

2 Tỉnh trưởng kiêm bí thư 18 0

3 Huyện trưởng kiêm bí thư 148 9

4 Trưởng bản kiêm bí thư 8.753 255

Nguồn: Bộ nội vụ, CHDCND Lào, năm 2015

Qua nghiên cứu mô hình kiêm nhiệm giữa cơ quan đảng và cơ quan

nhà nước; dưới góc độ quản lý có một số điểm đáng chú ý sau:

Thứ nhất, điểm mấu chốt, đầu tiên, có ý nghĩa bao chùm nhất đó là việc

tăng cường sự lãnh đạo của đảng với chính quyền. Đảng là người tổ chức nắm

về đường lối cán bộ, thông qua đó Đảng phân công cho những đảng viên ưu

tú nắm và lãnh đạo chính quyền. Đảng lãnh đạo chính quyền bằng đường lối

chính sách của minh mà chính quyền phải tổ chức thực hiện, đồng thời Đảng

kiểm tra các cơ quan chính quyền thông qua các đảng viên hoạt động ở các cơ

quan đó. Đảng phải năm vững 10 vấn đề trọng yếu: Công tác chính trị và tư

tương; nắm vững công tác vận động quần chúng nhân dân xây dựng cơ sở

vững mạnh; nắm tất cả các công cụ chuyên chính chính quyền dân chủ nhân

dân (lực lượng vũ trang, an ninh, cơ quan tư pháp); nắm chiến lược, chính

78

sách đối ngoại; nắm tổ chức và cán bộ; nắm bộ máy nhà nước từ trung ương

đến địa phương; nắm và lãnh đạo về đường lối chính sách kinh tế, tài chính và

tiền tệ; đề ra đường lối, chính sách về giáo dục, văn hóa, xã hội; nắm vững

công tác kiểm tra.

Thứ hai, việc kiêm chức giữa hai chức danh bí thư đảng ủy và thủ

trưởng cơ quan hay tỉnh trưởng, huyện trưởng, khi xét chức năng, nhiệm vu

cơ bản là thống nhất giữa công tác Đảng và chính quyền. Bí thư đảng ủy có

nhiệm vụ và trách nhiệm lãnh đạo toàn diện tổ chức triển khai, kiểm tra thực

hiện nghị quyết của đảng bộ, cụ thể hóa nghị quyết đó thành kế hoạch, quy

hoạch, phương pháp và biện pháp cụ thể để tổ chức thực hiện trên thực tế hai

là một, một là hai. Nhất là khi tổ chức theo mô hình tỉnh trưởng càng có ý

nghĩa hết sức quan trọng, muốn giải quyết một cách khoa học, mối quan hệ

trên tránh những điều bất cập như: biểu hiện độc đoán, quan lieu, cửa quyền,

lấn sân hoặc ỷ lại, dựa dẫm phải xây dựng quy chế làm việc khoa học, cụ thể

và nghiêm túc, chặt chẽ.

Thứ ba, kiêm nhiệm giữa cơ quan đảng và chính quyền có ưu điểm nữa

là: thu gọn đầu mối trong việc quyết định và triển khai công việc nhan chóng,

thuận tiện hơn, không phải hội họp nhiều lần, ý kiến bí thư hoặc thủ trưởng,

tỉnh trưởng không chậm trễ. Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc tập trung

dân chủ vẫn được duy trì ở các cơ quan hành chính trung ương cấp lãnh đạo

thủ trưởng, phó thủ trưởng, đồng thời là đảng viên của Đảng ủy bộ đó. Đối

với địa phương cấp phó tỉnh trưởng, phó huyện trưởng đều là thường vụ tỉnh

ủy, huyện ủy. Trên thực tế nơi nào do điều kiện và lý do không thực hiện

được chế độ kiêm chức giữa bí thư và thủ trưởng cơ quan thường thiếu sự

thống nhất, tình trạng lấn sân, dựa dẫm, ỷ lại, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau

cái đúng - cái tốt là của mình, cái sai đẩy cho người khác vẫn xảy ra.

Qua phân tích thực trạng kiêm nhiệm trên có thể rút ra một số nhận xét

sau: Một là, mô hình kiêm nhiệm hai chức danh là phù hợp với điều kiện

chính trị; trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục, tập quán, truyền thống

văn hóa và giai đoạn lịch sử nhất định của dân tộc. Hai là, mô hình kiêm chức

79

bí thư và thủ trưởng cơ quan hành chính ở Lào, là cấp thiết vì hệ thống bộ

máy nhà nước chưa được củng cố và hoàn thiện. Ba là, Khi thực hiện mô hình

kiêm chức vấn đề quan trọng mang tính quyết định phải chọn được người cán

bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, trình độ năng lực

và có uy tín.

3.2.2. Thực trạng cải cách cơ cấu bộ máy hành chính nhà nước

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

3.2.1.1.Thực trạng cải cách cơ cấu bộ máy hành chính Trung ương

Cải cách bộ máy hành chính nhà nước ở Trung ương đã được Đảng

nhân dân cách mạng Lào và Chính phủ quan tâm từ nhiều thập kỷ qua. Nhưng

cải cách bộ máy hành chính Nhà nước chỉ dựa vào điều kiện thực tế và yêu

cầu của công việc của từng nhiệm kỳ của đại hội. Chính vì vậy, những năm

gần đây việc tách, nhập của bộ máy hành chính đã được thực hiện liên tục.

Bắt đầu từ 2006 cơ cấu tổ chức chính phủ đã được tiến hành sắp xếp, bảo đảm

tinh gọn, hợp lý đến mức cần thiết.

Nhiệm kỳ (2006-2010), cơ cấu tổ chức chính phủ khóa VI có 26 cơ quan

(trong đó có 16 bộ, cơ quan ngang bộ và 10 cơ quan thuộc chính phủ). Chính

phủ có 27 thành viên bao gồm: Thủ tướng Chính phủ, 4 phó thủ tướng, 16

thành viên Chính phủ là Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và 6 Bộ

trưởng được phân công phụ trách các cơ quan thuộc Chính phủ (trong số

thành viên Chính phủ có 3 Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng đó là: Bộ trưởng cơ

quan thanh tra Chính phủ; Bộ trưởng Bộ ngoại giao và Bộ trưởng Bộ quốc

phòng). Sau khi sắp xếp, điều chỉnh lại các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan

thuộc Chính phủ cơ cấu tổ chức Chính phủ khoá VII (2011-2015) bao gồm:

+ Tổ chức Bộ máy Chính phủ: Tổng số 22 cơ quan, trong đó có 21 bộ,

cơ quan ngang bộ và 1 cơ quan thuộc chính phủ (so với chính phủ khóa VI

giảm được 4 cơ quan và 9 đầu mối; tăng thêm 4 bộ và 1 cơ quan thuộc chính

phủ); chủ yếu trên cơ sở hợp nhất, nâng cấp và tổ chức lại các cơ quan thuộc

Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước do vậy đã giảm được 9 cơ quan

thuộc Chính phủ).

80

+ Thành viên Chính phủ có 29 thành viên, bao gồm: Thủ tướng Chính

phủ, 5 Phó Thủ tướng Chính phủ (trong đó có 2 Phó Thủ tướng kiêm Bộ

trưởng Bộ giáo dục và thể thao; Bộ trưởng Bộ ngoại giao), 21 thành viên

Chính phủ là Bộ trưởng và Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ; và hai Bộ

trưởng được phân công phụ trách cơ quan thuộc chính phủ (so với Chính phủ

khoá VI có 27 thành viên Chính phủ tăng 02 thành viên, giảm được 4 thành

viên Bộ trưởng phụ trách cơ quan thuộc chính phủ). Đây là nhiệm kỳ Chính

phủ có số lượng Phó Thủ tướng nhiều, có điều kiện thuận lợi trong quá trình

quản lý nhà nước đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

+ Điểm nhấn mạnh về sắp xếp, điều chỉnh các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ

quan thuộc Chính phủ mang tính cải cách như sau:

- Thay đổi tên Văn phòng Thủ tướng trước đây thành Văn phòng chính

phủ hiện nay.

- Thành lập Bộ nội vụ, bằng cách nâng cấp Tổng cục hành chính và quản

lý nhân sự từ cơ quan thuộc chính phủ.

- Thành lập Bộ bưu chính viễn thông và truyền thông bằng cách nâng

cấp cơ quan bưu chính viễn thông quốc gia từ cơ quan thuộc chính phủ;

- Thành lập Bộ khoa học và công nghệ

- Thành lập Bộ tài nguyên và môi trường bằng cách sáp nhập Ban tài

nguyên nước và môi trường và sáp nhập Ban quản lý đất vào bộ này;

- Ủy ban thể dục thể thao quốc gia đã sáp nhập vào Bộ giáo dục đào tạo

thành Bộ giáo dục đào tạo và thể thao;

- Cơ quan thanh tra nhà nước đã sáp nhập vào cơ quan kiểm tra Đảng và

trở thành cơ quan kiểm tra chính phủ;

- Sáp nhập Ủy ban du lịch quốc gia vào Bộ văn hóa thông tin, thành Bộ

văn hóa thông tin và du lịch.

Hiện nay, bộ máy hành chính trung ương gồm 18 bộ, 3 cơ quan ngang bộ

và 1 cơ quan thuộc chính phủ, gồm: Bộ ngoại giao; Bộ nội vụ; Bộ tư pháp; Bộ

lao động và phúc lợi xã hội; Bộ tài nguyên và môi trường; Bộ văn hoá-thông

tin và du lịch; Bộ y tế; Bộ giáo dục và thể thao; Bộ công thương; Bộ tài chính;

81

Bộ giao thông vận tải; Bộ nông-lâm nghiệp; Bộ kế hoạch và đầu tư; Bộ năng

lượng và mỏ; Bộ quốc phòng; Bộ an ninh; Bộ khoa học, công nghệ và thông

tin; Bộ bưu chính viễn thông; Văn phòng chính phủ; Ban kiểm tra chính phủ,

Ngân hàng nhà nước[89, tr 14].

+ Trọng tâm cải cách cơ cấu tổ chức Chính phủ khóa VI chủ yếu tập

trung vào sắp xếp, điều chỉnh, thành cấp một số bộ và sáp nhập các cơ quan

thuộc Chính phủ theo hướng:

- Thành lập một số bộ cấn thiết cho quản lý nhà nước để đáp ứng nhu

cầu ngày càng cao trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

- Sáp nhập các cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước

để hình thành bộ hoặc cơ quan ngang bộ nhằm bước đầu thu gọn đầu mối

quản lý, sau này làm cơ sở cho việc tiếp tục sắp xếp, kiện toàn trong các

nhiệm kỳ Chính phủ theo mục tiêu dài hạn hơn. Sáp nhập các cơ quan thuộc

Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước vào các bộ quản lý ngành tương

ứng, để hình thành bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực với quy mô mở rộng hơn,

nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với từng ngành, lĩnh vực trong

mối quan hệ đa ngành, đa lĩnh vực.

- Sự cải cách này đánh dấu một mốc quan trọng là kết thúc nhiều loại

hình cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước tồn tại trong

nhiều khóa Chính phủ; đã thu gọn đáng kể số lượng các cơ quan thuộc Chính

phủ đến mức cần thiết để chuyển sang hoạt động theo cơ chế mới - tự chủ, tự

chịu trách nhiệm phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

+ Kết quả cải cách tổ chức bộ máy chính phủ đáng ghi nhận là:

- Thành lập được một số Bộ và hình thành được các bộ quản lý đa

ngành, đa lĩnh vực giúp cho bộ máy tổ chức Chính phủ được tinh gọn, khắc

phục đáng kể tình trạng bỏ trống hoặc chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa

các cơ quan nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; đảm bảo tính

thống nhất, thông suốt và liên thông giữa các ngành, lĩnh vực khi nằm trong

cùng một bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực.

82

- Thực hiện được mục tiêu, yêu cầu cải cách hành chính đó là không còn

nhiều loại hình cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước về

ngành, lĩnh vực, thu gọn số lượng các cơ quan thuộc Chính phủ đến mức cần

thiết.

- Sáp nhập được các cơ quan thuộc chính phủ vào bộ máy bên trong của

một số Bộ làm cho bộ máy tinh gọn, phù hợp với chức năng nhiệm vụ. Ban

hành xong các nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của bộ máy

chính phủ sau khi thành lập và sáp nhập cơ cấu tổ chức bộ máy chính phủ.

+ Về cải cách bộ máy hành chính bên trong: Chỉnh phủ cũng đã tiến

hành thành lập một số vụ, bố trí sắp xếp lại bộ máy hành chính phù hợp với

chức năng, nhiệm vụ và phù hợp với điều kiên thực tế khách quan của mỗi

Bộ, cơ quan ngang bộ; tiến hành kiện toàn cơ cấu tổ chức bên trong của các

bộ gồm: văn phòng, các vụ chức năng.

Đối với cơ quan thuộc Văn phòng Chính phủ, Chính phủ đã phân công

các thành viên Chính phủ trực tiếp chỉ đạo và thực hiện chức năng quản lý

ngành, lĩnh vực như: Văn phòng quản lý kinh tế đặc khu, trọng điểm; Ủy ban

cải cách kinh doanh; Ủy ban giám sát quốc gia, kiểm tra và chống ma túy; ủy

ban khuyến khích phụ nữ.

Kết quả của việc tiến hành cải cách đã làm cho chức năng của các bộ, cơ

quan ngang bộ đã được rà soát, điều chỉnh bổ sung theo hướng tập trung vào

chức năng quản lý nhà nước về các ngành, lĩnh vực theo phân công, phân cấp

của Chính phủ. Nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, cơ quan ngang bộ trong các

Nghị định của Chính phủ đã phân định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của từng

cấp: những việc trình Chính phủ xem xét, quyết định; những việc trình Thủ

tướng Chính phủ xem xét, quyết định và những việc do mình tự quyết định và

chịu trách nhiệm.

Các Vụ chức năng và tổ chức tương đương: Vụ, Văn phòng thực hiện

chức năng tham mưu, giúp việc. Các loại tổ chức này có xu hướng tăng dần

do việc kiện toàn và tăng thêm Bộ và cơ quan ngang bộ và các tổ chức quản

83

lý chuyên ngành để tạo điều kiện cho công tác tham mưu, thực thi quản lý nhà

nước đối với ngành, lĩnh vực được tốt hơn.

Tổng hợp quá trình sắp xếp, cải cách cơ cấu tổ chức bên trong của các

bộ, cơ quan ngang bộ có sự biến động như: Theo khảo sát thực tế Chính phủ

khóa VI (2006-2010); bộ máy bên trong của 16 Bộ, cơ quan ngang bộ và 10

cơ quan thuộc chính phủ gồm: 260 vụ. Đến nay 2015, bộ máy bên trong của

21 Bộ, cơ quan ngang bộ và 1 cơ quan thuộc Chính phủ gồm: 299 vụ (so với

chính phủ khóa VI tăng lên 39 vụ). Ngoài ra các cơ quan thuộc văn phòng

Chính phủ hiện nay cũng có xu hướng được nâng cấp như: Ủy ban cải cách

kinh doanh đề nghị nâng cấp thành Tổng cục gồm 3 văn phòng tương đương

vụ và Ủy ban giám sát quốc gia, kiểm tra và chống ma túy, đề nghị nâng cấp

thành Tổng cục, có 3 văn phòng tham mưu, có vị trí tương đương vụ.

Như vậy, để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước các chuyên ngành, lĩnh

vực trong tình hình mới theo xu hướng gọn nhẹ, vững mạnh và hiệu quả, các

vụ không những không giảm xuống còn có số lượng tăng lên trong tương lai.

3.2.1.2. Cải cách cơ cấu bộ máy hành chính địa phương.

Hiện nay, chính quyền địa phương ở nước CHDCND Lào được chia

thành 3 cấp, bao gồm: cấp tỉnh, huyện và bản. Cấp tỉnh có cơ quan hành

chính tỉnh, cấp huyện có cơ quan hành chính huyện, cấp bản có cơ quan hành

chính bản.

Cải cách bộ máy hành chính địa phương kể từ đại hội VII của Đảng

nhân dân Cách mạng Lào đến nay đã có sự thay đổi đáng kể. Kết quả tiến

hành cải cách góp phần điều chỉnh cơ cấu của bộ máy hành chính cấp tỉnh

hợp lý hơn, về chức năng nhiệm vụ của các cơ quan hành chính địa phương

cũng giảm bớt đi sự trùng lắp và chồng chéo, sự phân cấp quản lý ở cấp tỉnh

cũng tương đối rõ ràng; các cơ quan hành chính ngành dọc tại địa phương

cũng có sự thay đổi đáng hợp lý với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của địa

phương, cụ thể như sau:

Đối với cấp tỉnh: Quá trình cải cách kể từ khi năm 2001 đã làm cho bộ

máy từ cấp tỉnh đến cấp huyện có sự thay đổi. Bộ máy cấp tỉnh cả nước gồm

84

16 tỉnh, 1 thủ đô Viêng Chăn và 1 Đăc khu Xay Sổm Bun. Tính chất thành lập

đặc khu này để giải quyết những điểm nóng đã thường xuyên xảy ra ở khu

vực này. Sau khi tình hình ở đặc khu ổn định trở lại, Bộ chính trị Ban chấp

hành Trung ương Đảng NDCM Lào đã ban hành Nghị quyết số 13/BCT, ngày

13/1/2006 về việc xóa bỏ Ban chấp hành Đảng khu ủy và cơ quan hành chính

của Đặc khu Xay Sổm Bun. Đã chuyển một số huyện của Xay Sổm Bun trực

thuộc các tỉnh lân cận như là Tỉnh Xiêng Khoảng và Tỉnh Viêng Chăn. Đến

đại hội VIII của Đảng nhân dân cách mạng Lào, tổ chức chính quyền địa

phương ở CHDCND Lào chỉ còn lại 16 tỉnh và 1 Thủ đô Viêng Chăn. Sau

một thời gian xóa bỏ chính quyền tỉnh Xay Sổm Bun, mặc dù tình hình ở tỉnh

này có sự ổn định nhưng việc quản lý nhà nước tại địa phương lại gặp nhiều

khó khăn; đặc biệt việc tổ chức triển khai chương trình 3 xây: “xây tỉnh trở

thành đơn vị chiến lược, xây huyện trở thành đơn vị phát triển toàn diện, xây

bản trở thành đơn vị phát triển”, cho nên đến Đại hội IX của Đảng nhân dân

Cách mạng Lào năm 2011, Quốc hội đã ban hành quyết định thành lập tỉnh

Xay Sổm Bun và xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy đầy đủ nhằm đảm bảo việc

tổ chức hoạt động của chính quyền tỉnh Xay Sổm Bun có hiệu quả, thành lập

các cơ quan chuyên môn ngành dọc giống như các tỉnh khác trong cả nước;

sắp xếp, bố trí cán bộ công chức vào đảm nhiệm các chức vụ tại tỉnh ổn định

và kịp thời.

Khi số lượng của Bộ, cơ quan ngang bộ và chính quyền tỉnh tăng lên

thì các sở thuộc ngành dọc tại địa phương cũng thay đổi theo bộ máy hành

chính Trung ương. Tại các tỉnh đã thành lập sở nội vụ, sở bưu chính viễn

thông, sở tài nguyên môi trường, sở khoa học công nghệ…trong đó tổ chức

bộ máy hành chính ngành dọc ở tỉnh Xay Sổm Bun mới thành lập cũng được

bổ sung đầy đủ.

Trong hệ thống bộ máy hành chính ở địa phương cấp tỉnh là cấp quản

lý điều hành quan trọng và cần thiết của bộ máy hành chính nhà nước nói

chung, bộ máy hành chính của chính quyền địa phương nói riêng. Sự thay đổi

của bộ máy hành chính cấp tỉnh đã tác động đến việc tổ chức và hoạt động

85

của chính quyền cấp tỉnh đạt được kết quả thành công và nhiều thành tích

đáng kể trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, hoàn thành tốt

nhiệm vị mà cấp trên giao cho. Đa số các địa phương trong cả nước thực hiện

tốt đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trong số đó có

một số tỉnh đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thu thuế với số lượng

đáng kể đóng góp vào ngân sách Nhà nước.

Đối với các sở ngành dọc cũng có sự thay đổi theo sự thay đổi của cơ

quan chuyên môn cấp trên. Hiện nay các sở ngành dọc tại địa phương (cấp

tỉnh) không giống nhau, một số tỉnh 18 sở và một số tỉnh 20 sở và cơ quan

tương đương, tùy thuộc vào điều kiện thực tế của tỉnh. Đối với cơ quan trực

thuộc văn phòng tỉnh một số tỉnh 4 phòng, 5 phòng.

Đối với cấp huyện: theo hướng dẫn số 29/UCTW, ở cấp huyện bộ máy

tham mưu giúp việc trực tiếp cho huyện trưởng và đảng ủy huyện là văn

phòng huyện gồm có các đơn vị sau: Đơn vị nghiên cứu và tổng thợp, đơn vị

hành chính huyện và đơn vị quản trị-tài vụ. Đối với cấp huyện, trong quá trình

cải cách sắp tới sẽ thử nghiệm thành lập thị xã ở thủ đô Viêng Chăn và tỉnh

Luông Pha Bang để thực hiện đúng theo luật chính quyền địa phương quy

định đó là chính quyền cấp tỉnh có tỉnh và thành phố, cấp huyện có huyện và

thị xã, cấp bản có bản. Đặc biệt thực hiện theo chỉ thị số 39/CT-CP, ngày

26/11/2007 về việc thí điểm cải cách tổ chức bộ máy cấp huyện trong phạm vi

toàn quốc. Việc cải cách bộ máy cấp huyện được thực hiện theo hướng phân

chia 3 loại huyện: Huyện phát triển, huyện đang phát triển và huyện nông

thôn. Bộ máy ở 3 loại huyện nói trên sẽ không hoàn toàn giống nhau, điều đó

tùy thuộc vào điều kiện thực tế. Theo quyết định số 03/QĐ-BCBN, ngày 21

tháng 1 năm 2009 của Ban cải cách tổ chức bộ máy nhà nước về tiêu chuẩn

mỗi loại, việc phân loại huyện trong cả nước như sau: Bộ máy cấp huyện loại

1 bao gồm 25 phòng (trừ phòng quân đội, phòng an ninh) và các phòng trực

thuộc văn phòng huyện. Bộ máy huyện loại 2 bao gồm 20 phòng (trừ phòng

quân đội, phòng an ninh) và các phòng trực thuộc văn phòng huyện. Bộ máy

huyện loại 3 bao gồm 19 phòng (trừ phòng quân đội, phòng an ninh) và các

86

phòng trực thuộc văn phòng huyện. Thông qua cuộc khảo sát đã xác định số

huyện trong 142 huyện cả nước cho thấy: Huyện phát triển (loại 1) có 35

huyện, huyện đang phát triển (loại 2) có 73 huyện và huyện loại 3 có 34

huyện[79, tr 6]. Nhà nước đã tiến hành cải cách bộ máy đúng theo tiêu chuẩn

nói trên xong trong 6 huyện ở 6 tỉnh như: Viêng Chăn, Luông Pha Bang,

Luông Năm Tha, U Dôm Xay, Khăm Muôn, Sa La Văn và đang tiếp tục triển

khai trong các tỉnh khác trong những năm tiếp theo.

Đến năm 2011, cả nước tổ chức triển khai nghị quyết đại hội IX của

Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Đang chủ động tổ chức thí điểm “xây dựng

huyện trở thành đơn vị vững mạnh toàn diện” theo tinh thần đại hội IX của

Đảng nhân dân cách mạng Lào và Chỉ thị “3 xây”của thủ tướng chính phủ đề

ra. Đối với cấp huyện chính phủ đã quy định 3 huyện của thủ đô Viêng Chăn

và 3 huyện của mỗi tỉnh để đưa vào thí điểm[91, tr 2]. Chỉ thị của Thủ tướng

chính phủ đã góp phần làm thay đổi của bộ máy hành chính cấp huyện phù

hợp với điều kiện thực tế hơn theo hướng mỗi huyện gồm 14 phòng: (phòng

quân sự, phòng công an, phòng tư pháp, phòng nội vụ, phòng giáo dục và thể

thao, phòng y tế, phòng văn hóa thông tin và du lịch, phòng lao động và phúc

lợi xã hội, phòng kế hoạch và đầu tư, phòng tài chính, phòng nông-lâm

nghiệp, phòng tài nguyên và môi trường, phòng công nghiệp và thương mại,

phòng giao thông vận tải)[95, tr 2-3].

Hiện nay, thông qua cuộc cải cách hành chính, cơ quan hành chính cấp

huyện đã có sự cải thiện về cả số lượng và chất lượng. Việc tách và nhập

huyện trên cả nước được tiến hành liên tục. Nếu năm 2010 số huyện trên cả

nước 143 huyện, đến nay (2015) số huyện đã tăng lên đến 148 huyện.

Đối với cấp bản (làng): hiện nay đang tiến hành cải cách vai trò của

trưởng bản và trong tương lai sẽ thành lập bản thành đơn vị hành chính cấp cơ

sở có đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, bộ máy để hoạt động quản lý như

cấp huyện và tỉnh. Theo Nghị định số 102/CP ngày 5/7/1993 về việc tổ chức

và quản lý bản trong đó quy định Bộ máy hành chính cấp bản bao gồm: Ban

kinh tế, Ban văn hóa-xã hội, Ban bảo vệ an ninh.

87

Thực hiện theo chỉ thị số 09/BCT, ngày 08/03/2004 về xây dựng cụm

bản phát triển để góp phần phát triển kinh tế xã hội và xóa đỏi giảm nghèo ở

cơ sở nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược xóa đói giảm nghèo trong năm

2015. Tổ chức này đã và đang tiến hành triển khai vào thực tế, có chức năng

nhiệm vụ quản lý nhà nước, quản lý xã hội và giữ vững ổn định về chính trị ở

cơ sở; một cụm bản bao gồm 10 bản (làng) hoặc 11 bản, tùy điều kiện thực tế

của mỗi huyện, đứng đầu cụm bản là công chức của Nhà nước, có chức vụ

huyện ủy.

Để thực hiện Nghị quyết 3 xây của Đảng nhân dân cách mạng Lào có

hiệu quả, Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 8/NQ-BCT ngày 6 tháng 9

năm 2013 về cải cách bộ máy hành chính cấp bản và thực hiện chế độ chính

sách đối với cán bộ cấp bản không có lương. Trong đó có nhấn mạnh: Xây

dựng bản trở thành đơn vị phát triển phải tập trung giải quyết 2 vấn đề sau:

Một là, tập trung vào cải cách cơ cấu tổ chức bộ máy của cơ quan hành

chính bản một cách có hệ thống và thống nhất trên cả nước; trước hết phải bắt

đầu từ các đối tượng bản đã làm thí điểm; việc xây dựng bộ máy ủy ban hành

chính bản phải thực hiện theo hướng gọn nhẹ, nhưng bảo đảm việc tổ chức và

hoạt động của hệ thống chính trị-hành chính cũng như việc quản lý nhà nước

ở cấp bản; đồng thời bảo đảm môi trường làm việc, sản xuất hàng hóa và dịch

vụ, tạo thu nhập cho nhân dân theo pháp luật quy định.

Hai là, tập trung vào cải cách chế độ chính sách đối với cán bộ cấp bản

phù hợp với trách nhiệm, đời sống sinh hoạt và điều kiện kinh tế; coi việc trợ

cấp là yếu tố khuyến khích cán bộ cấp bản chủ động thực hiện nhiệm vụ lãnh

đạo và quản lý nhà nước ở cấp bản[102, tr 2].

Đến lúc này bộ máy hành chính cấp bản có sự thay đổi từ con số trước

đây là 3 đơn vị, tăng lên 4 đơn vi: Đơn vị quản lý hành chính, đơn vị kinh tế,

đơn vị văn hóa-xã hội và đơn vị an ninh-quốc phòng[81, tr 4].

Quá trình cải cách cơ quan hành chính cấp bản cũng làm thay đổi số

lượng của bản trên cả nước. Nếu năm 2006 cả nước có: 10.292 bản, đến nay

(2015) số bản đã giảm xuống chỉ còn 8.753 bản[89, tr 12]. Sự thay đổi này là

88

sự thành công rất lớn trong việc thực hiện Nghị quyết số 3 của Bộ Chính trị

về xây dựng bản trở thành đơn vị phát triển, xây dựng bản lớn thành Thành

thị nhỏ ở nông thôn; Đồng thời sự thay đổi còn góp phần vào quá trình phát

triển kinh tế xã hội các bản làng có hiệu quả, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh

phúc cho nhân dân tại cơ sở.

Để chứng minh kết quả trong quá trình cải cách cơ cấu bộ máy hành

chính nhà nước nêu trên cần xem xét thông qua số liệu điều tra xã hội học cho

thấy: Với số lượng 500 người tham gia đóng góp ý kiến, là cán bộ lãnh đạo

các cấp, đến từ cơ quan hành chính Trung ương 150 người chiếm 30%, cơ

quan hành chính địa phương 250 người chiếm 50% và cán bộ ở các cơ quan

đảng 100 người chiếm 20%, khi được hỏi về số lượng bộ máy hành chính nhà

nước: 85% cho là số lượng nhiều, 10% cho là vừa và 5% cho là ít. Khi nhận

xét về sự tăng hay giảm đối với bộ máy hành chính bên trong: ý kiến cho là

tăng chiếm 90%, ý kiến cho là giảm 2% và ý kiến khác 8%.

Thông qua các số liệu điều tra cho thấy, mặc dù cải cách bộ máy hành

chính nhà nước khá thành công có nhiều sự thay đổi về cơ cấu và loại hình

nhưng chưa đáp ứng được với yêu cầu trong quá trình cải cách bộ máy theo

hướng gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả.

3.2.3. Thực trạng đổi mới về chức năng nhiệm vụ của bộ máy hành

chính nhà nước

- Về chức năng nhiệm vụ của bộ máy hành chính Trung ương

Khi cơ cấu bộ máy hành chính nhà nước có sự thay đổi đã dẫn tới sự

thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi bộ, cơ quan ngang

bộ…Đặc biệt đối với các bộ, cơ quan ngang bộ mới thành lập và đổi tên như:

Chính phủ đã ban hành: Nghị định số 245/CP, ngày 16/8/2011 về việc tổ chức

và họat động của cơ quan Thanh tra Chính phủ; Nghị định số 291/CP, ngày

19/9/2011 về việc tổ chức và hoạt động của Văn phòng Chính phủ sau khi đổi

tên Văn phòng Thủ tướng thành Văn phòng Chính phủ theo nghị quyết số

10/QH-ngày 24/6/2011; Nghị định số 396/CP, ngày 02/11/2011 về tổ chức và

hoạt động của Bộ văn hoá, thông tin và du lịch sau khi nhập Ủy ban du lịch

89

quốc gia vào Bộ này; Nghị định số 282/CP, ngày 07/09/2011 về tổ chức và

hoạt động của Bộ giáo dục và thể thao, sau khi sáp nhập Ban thể theo quốc

gia vào Bộ này; và ban hành các nghị định đối với các bộ mới thành lập: Nghị

định số 435/CP, ngày 28/11/2011 về tổ chức hoạt động của Bộ tài nguyên và

môi trường; Nghị định số 309/CP, ngày 28/09/2011 của Bộ khoa học công

nghệ; Nghị định số 303/CP, ngày 26/09/2011 của Bộ bưu chính viễn thông;

Nghị định số 253/CP, ngày 19/08/2011 về tổ chức và hoạt động của Bộ nội vụ.

Ngoài ra Chính phủ còn ban hành các nghị định về tổ chức và hoạt động

của một số Bộ sau khi có sự thay đổi của bộ máy bên trong như: Nghị định số

372/CP, ngày 21/10/2011 về tổ chức và hoạt động của Bộ năng lượng và mỏ

sau khi chuyển vụ khí tượng thủy văn vào bộ máy bên trong của Bộ tài

nguyên và môi trường. Nghị định số 262/CP, ngày 28/06/2012 của Bộ nông

nghiệp và lâm nghiệp); Nghị định số 178/CP, ngày 05/04/2012 của Bộ y tế;

Nghị định số 522/CP, ngày 23/12/2011 của Bộ công thương; Nghị định số 80

ngày 29/02/2007 của Bộ tài chính.

Thời gian qua, các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương của Lào

đã triển khai tổ chức thi hành các quy định của Hiến pháp sửa đổi năm 2003

và các đạo luật cụ thể hoá trên các lĩnh vực quản lý nhà nước. Hoạt động quản

lý của bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương bao trùm toàn diện các lĩnh

vực của đời sống chính trị, kinh tế-xã hội, văn hoá, giáo dục, quốc phòng an

ninh, đối ngoại. Tuy nhiên, chuyển sang nền kinh tế thị trường, theo tiến trình

của sự nghiệp đổi mới đất nước, tính chất, phạm vi, mức độ và phương thức

hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước đã có sự thay đổi theo hướng

quản lý gián tiếp thông qua chính sách, luật pháp và các công cụ quản lý vĩ

mô khác. Hoạt động của bộ máy hành chính trung ương từ chỗ quản lý trực

tiếp, điều hành bằng các mệnh lệnh với các đối tượng quản lý như trước đây

thì nay đã chuyển mạnh sang hoạt động chủ yếu là ban hành và tổ chức thực

hiện các chính sách, kiểm tra kiểm soát việc tuân theo pháp luật, tạo môi

trường thuận lợi, hỗ trợ các doanh nghiệp và người đầu tư nói chung tiến hành

kinh doanh. Hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước trung ương ở

90

Lào đã bao trùm lên toàn bộ nền kinh tế quốc dân, từ chỗ còn mang tính cai

trị, nay cũng chuyển mạnh mẽ sang tính phục vụ, không phân biệt các thành

phần kinh tế, chế độ sở hữu. Về chức năng tổ chức và điều hành hoạt động

của bộ máy hành chính nhà nước, các cơ quan hành chính nhà nước trung

ương ở Lào, trong đó đứng đầu là Chính phủ đã có những đổi mới quan trọng.

Trên cơ sở tổ chức bộ máy đã được cải cách, theo quy định của Hiến pháp,

luật, Chính phủ và các bộ, cơ quan ngang bộ đã hoạt động nhịp nhàng hơn, sự

điều hành từ trung ương xuống đến cơ sở đảm bảo thông suốt, nhanh chóng,

kịp thời, đáp ứng những yêu cầu mới của đất nước. Điểm đặc trưng trong hoạt

động tổ chức, điều hành nền hành chính quốc gia ở Lào trong những năm qua

đó là sự đảm bảo tuân theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, đảm bảo

tính tối thượng của pháp luật. Hoạt động của Chính phủ, các cơ quan hành

chính nhà nước ở trung ương và sự chỉ đạo của các cơ quan này đối với các

cơ quan cấp dưới trong hệ thống hành chính nhà nước đều được thực hiện

trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.

- Về chức năng nhiệm vụ cơ quan hành chính địa phương

Cơ quan hành chính địa phương là tổ chức hành chính nhà nước cấp địa

phương, có chức năng đại diện và có trách nhiệm trước chính phủ trong việc

quản lý chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực,

sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường, bảo vệ quốc gia, bảo vệ

an ninh và đối ngoại theo chính phủ giao. Tổ chức và hoạt động của cơ quan

hành chính địa phương dựa theo nguyên tắc tập trung dân chủ và có sự phân

cấp quản lý; cấp bản phụ thuộc cấp huyện, cấp huyện phụ thuộc cấp tỉnh, cấp

tỉnh phụ thuộc chính phủ; có Đảng ủy tỉnh lãnh đạo và chịu trách nhiệm trên

cơ sở Hiến pháp và pháp luật.

Quá trình cải cách bộ máy hành chính nhà nước trong thời gian qua đã

làm cho chức năng, nhiệm vụ của cơ quan hành chính địa phương có sự đổi

mới theo hướng tích cực. Đặc biệt trong điều kiện tổ chức triển khai Nghị

quyết số 03/BCT, ngày 15/2/2012 của Bộ chính trị về xây tỉnh trở thành đơn

vị chiến lược, xây huyện trở thành đơn vị vững mạnh toàn diện, xây bản trở

91

thành đơn vị phát triển. Để thực hiện tốt nghị quyết trên Thủ tướng Chính phủ

nước CHDCND Lào đã ban hành Chỉ thị số 16/CP, ngày 15/6/2012 về việc

thực hiện thí điểm chương trình 3 xây. Từ điều kiện trên chức năng, nhiệm vụ

của cơ quan hành chính địa phương đã có sự đổi thay. Đối với cơ quan hành

chính các cấp đã được giao nhiều thẩm quyền quyết định những vấn đề quan

trọng mà trước đây chưa từng có.

Đối với chức năng nhiệm vụ của cơ quan hành chính cấp tỉnh cũng

có sự thay đổi như sau:

Nếu như trước đây, điều 7, luật hành chính địa phương Lào quy định về

chức năng nhiệm vụ của cơ quan hành chính địa phương là: có chức năng,

nhiệm vụ quản lý hành chính về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội; xây dựng

và sử dụng nguồn nhân lực, sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi

trường và các nguồn lực khác; bảo vệ an ninh, quốc phòng ở địa phương và

thực hiện công tác đối ngoại theo ủy quyền của Chính phủ. Việc quy định

chức năng nhiệm vụ như trên thì không rõ ràng, cho nên để bảo đảm cho việc

hòan thiện chức năng nhiệm vụ của cơ quan hành chính hiệu quả; chức năng

nhiệm vụ của cơ quan hành chính cấp tỉnh đã có sự thay đổi như:

Cơ quan hành chính cấp tỉnh có nhiệm vụ xây dựng chiến lược phát

triển toàn diện địa phương của mình, cho phù hợp với chiến lược phát triển

chung của đất nước, phù hợp với đặc điểm, thế mạnh và tiềm lực của địa

phương, đồng thời tập trung thực hiện chiến lược trên trở thành hiện thực.

Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch và ngân sách nhà nước trong

quá trình phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng; bảo vệ và

sử dụng các nguồn lực tự nhiên và hội nhập kinh tế quốc tế với các nước láng

giềng.

Bảo đảm an ninh quốc phòng và trật tự an toàn trong địa bàn địa

phương, tổ chức chỉ đao, hướng dẫn việc xây huyện trở thành đơn vị vững

mạnh toàn diện, xây bản trở thành đơn vị phát triển, coi đây là công việc ưu

tiên hàng đầu của cấp tỉnh,

92

Tổ chức phối hợp với các bộ - cơ quan ngang bộ, các ngành, lĩnh vực

trung ương, nghiên cứu xây dựng trung tâm khuyến khích sản xuất hàng hóa

và dịch vụ, công nghiệp, thủ công, nông nghiệp, vận chuyển và các dịch vụ

khác, nhất là trung tâm nghiên cứu-dịch vụ về loài giống động thực vật; trung

tâm dịch vụ về thú y; trung tâm dịch vụ tín dụng...phối kết hợp với các cơ

quan trung ương trong việc tổ chức và thực hiện chương trình tập huấn nâng

cao trình độ tay nghề, tạo việc làm, bảo vệ văn hóa truyền thống tốt đẹp của

đất nước và các dân tộc.

Tổ chức chỉ đạo cơ quan hành chính cấp huyện trong việc lập kế hoạch,

quy hoạch và chương trình tìm kiếm công ăn việc làm ổn định, phát triển cơ

sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở cấp bản, nhất là điện, đường, trường, trạm, cung

cấp nước sách...Tổ chức chỉ đạo và tạo điều kiện về vốn, cán bộ...cho việc xây

dựng trung tâm phát triển trọng điểm của tỉnh, bản (làng) trọng điểm gương

mẫu về sự phát triển của huyện cho phù hợp.

Quản lý và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ

của các ngành lĩnh vực đang hoạt động tại địa phương theo sự phân công

trách nhiệm của Trung ương và quản lý trực tiếp các chương trình phát triển ở

cấp tỉnh.

Xem xét việc phê duyệt và quản lý dự án, chương trình đầu tư của tư

nhân trong và ngoài nước theo sự phân cấp quản lý. Khai thác tất cả nguồn

thu và tiến hành thu đầy đủ, quản lý chi tiêu công đã thông qua trong quốc hội

và thực hiện nghiệm quy chế tài chính.

Rà soát và cải cách thể chế, cơ chế quản lý nhà nước do cấp tỉnh ban

hành cho gọn, dễ hiểu và dễ thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình

làm ăn, sản xuất hàng hóa của nhân dân, hoạt động kinh doạnh sản xuất,

thương mại và dịch vụ của các nhà đầu tư trong và ngoài nước theo sự phân

cấp quản lý.

Quản lý, sử dụng tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ-công chức ngành

dọc và ngành ngang ở cấp tỉnh theo quy chế quản lý cán bộ và luật quy định.

Thực hiện việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, thuyên chuyển chức danh giám đốc sở

93

ở cấp tỉnh và tương đương, trên cơ sở tiêu chí, điều kiện chức danh quản lý do

các bộ và cơ quan trung ương đề ra.

Quan hệ, hợp tác với nước ngoài theo sự ủy quyền của chính phủ và

thực hiện các chức năng, nhiệm vụ do Chính phủ giao phó.

Đối với chức năng nhiệm vụ của cơ quan hành chính huyện có sự

thay đổi như sau:

Điều 20, luật hành chính địa phương quy định: cơ quan hành chính cấp

huyện có chức năng quản lý hành chính về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội;

xây dựng và sử dụng nguồn nhân lực, sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên

nhiên, môi trường và các nguồn lực khác; bảo vệ an ninh, quốc phòng ở cấp

huyện và thực hiện công tác đối ngoại theo ủy quyền của cấp tỉnh. Nhưng để

đáp ứng với chương trình 3 xây, cơ quan hành chính cấp tỉnh đã có sự thay

đổi về chức năng, nhiệm vụ như:

Có nhiệm vụ lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của huyện phù hợp

với chiến lược phát triển chung của tỉnh, phù hợp với đặc điểm, thế mạnh và

tiềm lực của địa phương.

Thực hiện nhiệm vụ là một đơn vị thực hiện kế hoạch và ngân sách cấp

hai của tỉnh, khai thác tốt nguồn thu và thực việc thu chi đầy đủ; quản lý chi

tiêu công theo sự phân cấp quản lý của các ngành lĩnh vực trên cơ sở ủy

quyền của cấp tỉnh và thực hiện nghiêm quy chế tài chính.

Bảo đảm an ninh quốc phòng và trật tự an toàn trong địa bàn địa

phương; xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch và ngân sách nhà nước trong

quá trình phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng, bảo vệ và

sử dụng các nguồn lực tự nhiên ở cấp huyện trong từng giai đoạn.

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống bộ máy tổ chức, các cơ quan tham

mưu giúp cơ quan hành chính cấp huyện, bao gồm: phòng chuyên môn cấp

huyện, các cơ quan-ngành dọc của trung ương đặt tại địa phương (thuế, kho

bạc, quân đội, công an, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân và phòng

thông kê).

94

Quản lý, sử dụng bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ, công chức ở cấp

huyện theo quy chế quản lý công chức và luật định; quyết định bổ nhiệm,

miễn nhiệm, thuyên chuyển chức danh trưởng phòng chuyên môn cấp huyện

và các cơ quan tương đương trên cơ sở tiêu chí, điều kiện do các bộ, ngành

trung ương đề ra.

Chỉ đạo và tổ chức thực hiện xây dựng bản trở thành đơn vị phát triển

coi công tác nay là công việc ưu tiên của cấp huyện. Xây dựng trung tâm sản

xuất hàng hóa công nghiệp, thủ công, nông nghiệp và dịch vụ theo sự chỉ đạo

và quyết định của cấp tỉnh, nhất là trung tâm cung cấp nòi giống động thực

vật; trung tâm dịch vụ về thú y; trung tâm dịch vụ tín dụng và đơn vị thu mua

các sản phẩm sản xuất ra. Xây dựng chương trình phát triển cơ sở kinh tế, xã

hội ở cấp cơ sở nhất là hệ thống đường, thủy lợi, tạo việc làm ổn định nhằm

xóa đói giảm nghèo và hạn chế phá rừng làm nương.

Quy định mô hình bản trọng điểm về phát triển và tập trung vốn, cán

bộ, vật chất và phương tiện cần thiết tổ chức hiện hiện trong thực tiễn; quản lý

dự án của nhà nước đang tiến hành tại địa phương theo sự phân công trách

nhiệm và phân cấp quản lý của cấp tỉnh, quản lý trực tiếp dự án phát triển ở

cấp huyện, đồng thời quản lý và sử dụng có hiệu quả kết quả của dự án trên.

Xem xét việc phê duyệt và quản lý vốn đầu tư của tư nhân trong và

ngoài nước theo sự phân cấp quản lý đã được quy định trong pháp luật. Chỉ

đạo, hướng dẫn bản thành lập quỹ của nhân dân, kiểm tra giám sát hoạt động

của nguồn quỹ trên, tích cực phát huy lợi ích của nó.

Rà soát và cải cách thể chế, cơ chế quản lý nhà nước do cấp huyện ban

hành cho gọn, dễ hiểu và dễ thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình

làm ăn, sản xuất hàng hóa của nhân dân, hoạt động kinh doanh sản xuất,

thương mại và dịch vụ của các nhà đầu tư trong và ngoài nước theo sự phân

cấp quản lý.

Quan hệ, hợp tác với cấp huyện của các nước hai bên đường biên giới

theo ủy quyền của cơ quan hành chính cấp tỉnh. Thực hiện chức năng nhiệm

vụ và quyền hạn do cấp tỉnh giao phó.

95

Đối với chức năng nhiệm vụ của cơ quan hành chính cấp bản (làng)

có sự thay đổi như sau:

Điều 47, luật hành chính địa phương Lào quy đinh: cơ quan hành chính

cấp bản có chức năng quản lý hành chính về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã

hội của bản; bảo vệ an toàn, trật tự xã hội; bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và

môi trường trong bản. Nhưng sau khi triển khai thực hiện chương trình 3 xây,

nhằm xây bản trở thành đơn vị phát triển; làm cho chức năng, nhiệm vụ cơ

quan hành chính cấp bản có sự thay đổi, quy định rõ ràng cụ thể hơn như:

Cơ quan hành chính cấp bản, thực hiện chức năng, nhiệm vụ quán triệt

chủ trương, đường lối, pháp luật, truyền thống giáo dục, đoàn kết dân tộc làm

cho quần chúng nhân dân thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ.

Phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng, khoa học, công

nghệ nhằm điều chỉnh tốt đời sống nhân dân ở các bản, bảo vệ tài nguyên môi

trường có sự ổn định.

Chủ động tổ chức thực hiện công tác an ninh quốc phòng, quản lý tốt

dân cư, người nước ngoài đang sinh sống và du nhập ở các bản, tổ chức thực

hiện việc xây dựng cơ sở chính trị, phát triển nông thôn toàn diện trên địa bàn

theo sự chỉ đạo của cấp trên.

Thu thập thông tin về kinh tế - xã hội; nhu cấu phát triển của bản, xây

dựng kế hoạch phát triển bản phù hợp với đặc điểm, thế mạnh và tiềm lực của

bản; hướng dẫn gia đình trong việc lập kế hoạch phát triển kinh tế gia đình,

đồng thời tổ chức thực hiện trở thành hiện thực.

Tạo điều kiện thuận lợi trong việc tổ chức thực hiện dự án hoặc chương

trình sản xuất, kinh doanh của nhà nước, tư nhân trong và ngoài nước được sự

cho phép đầu tư và hoạt động ở các bản; giám sát, nắm bắt tình hình hoạt

động, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường, phong tục tập quán tốt đẹp...để

báo cáo lên cấp trên.

Chủ động hoặc kiến nghị cấp trên cải cách bộ máy cấp bản phù hợp với

vị trí của bản trong đô thị hoặc nông thôn; thúc đẩy, khuyến khích và tạo điều

kiện cho Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể, cơ quan tổ chức xã hội, mọi thành

96

phần kinh tế và nhân dân tham gia vào quá trình tổ chức thực hiện xây dựng

cơ sở chính trị và phát triển nông thôn đã từng thực hiện ở địa phương.

Giữ gìn, khuyến khích phong tục tập quán, văn hóa tốt đẹp của đất

nước và các dân tộc; động viên khuyến khích sinh hoạt của nhân dân bảo đảm

sức khỏe, tạo điều kiện cho nhân dân không biết chữ và trẻ em trong độ tuổi

đi học được học hành; chủ động chống tiêu cực ở địa bàn bản.

Tổ chức, tạo điều kiện thu ngân sách (lệ phí và dịch vụ) vào trong ngân

sách nhà nước và kho bạc quản lý bản một cách đúng đắn, đầy đủ, kịp thời

theo pháp luật quy định; quản lý và sử dụng quỹ quản lý bản trong sạch và

hiệu quả; chỉ đạo tổ chức và hoạt động hiệu quả tiền quỹ của cơ quan hành

chính cấp bản.

Giải quyết các mâu thuẫn, đơn thư tố cáo, đề nghị của nhân dân theo

phạm vi quyền và nghĩa vụ của mình. Báo cáo tình hình mọi mặt của các bản

lên huyện trưởng, theo quy định của pháp luật và thực hiện mọi nhiệm vụ của

cơ quan hành chính cấp huyện giao phó.

Kết quả đạt được trong quá trình thay đổi về chức năng, nhiệm vụ và

quyền hạn của cơ quan hành chính các cấp nêu trên đã làm cho vai trò của cơ

quan hành chính các cấp ngày càng được nâng cao. Sự thay đổi chức năng,

nhiệm vụ của cơ quan hành chính Trung ương với việc thay đổi cơ cấu bên

trong của cơ quan hành chính là phù hợp; các văn bản pháp luật cũng có sự

đổi mới theo hướng tích cực, quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan

hành chính các cấp. Đối với cơ quan hành chính địa phương cũng được điều

chỉnh lại phù hợp với điều kiện thực tế. Chức năng, nhiệm vụ của văn phòng

hành chính cấp tỉnh, cấp huyện có sự đổi mới đúng với vai trò tham mưu cho

cấp trên. Sự thay đổi về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan hành chính cấp bản

đã góp phần cho vai trò cấp bản được nâng cao. Sự thay đổi về chức năng,

nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước đều đi đôi với sự thay đổi của các

văn bản luật và dưới luật như: Hiện nay (2016) nhà nước Lào đã ban hành

119 bộ luật, trong đó có 24 bộ luật sửa đổi và bổ sung; ngoài ra để phù hợp

với yêu cầu cải cách bộ máy hành chính nhà nước Thủ tướng cũng đã ban

97

hành 86 nghị định; 12 quyết định và 48 nghị quyết của Chính phủ. Việc ban

hành nhiều văn bản pháp luật mới cũng làm cho chức năng nhiệm vụ của một

số cơ quan hành chính nhà nước thay đổi theo. Bên cạnh sự thành công nêu

trên thì việc đổi mới về chức năng nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước

cần được xem xét lại trong số liệu điều tra: khi hỏi về chức năng, nhiệm vụ

của các cơ quan hành chính nhà nược, những người tham gia đóng góp ý kiến

40% cho rằng một Bộ nên làm một việc, 45% cho rằng một Bộ nên làm nhiều

việc cho bộ máy gọn nhẹ, 15% cho rằng tùy theo điều kiện cụ thể. Trong khi

đó 72% cho rằng các cơ quan hành chính nhà nước vẫn có tình trạng chồng

chéo, 28% cho rằng chức năng được quy định rõ ràng. Từ kết quả của cuộc

điều tra này đã chứng minh thực trạng sự thay đổi về chức năng, nhiệm vụ

của các cơ quan hành chính nhà nước cũng chưa thật sự phù hợp với điều kiện

hiện nay.

3.2.4. Thực trạng phân cấp và phối hợp giữa Trung ương-địa phương

Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, ngoài quy định

trong luật, Chính phủ ban hành một số quy định về cơ cấu tổ chức bộ máy của

hệ thống các cơ quan quản lý hành chính nhà nước các cấp. Tuy nhiên có

nhiều vấn đề nhằm thực thi quyền hành pháp, Chính phủ giữ quyền quyết

định. Ví dụ vấn đề cơ cấu tổ chức bộ máy của các cấp chính quyền và về công

tác quản lý nhân sự. Chính vì vậy, về quyền quyết định còn mang tính tập

trung (tập quyền). Chỉ có Chính phủ mới có quyền quyết định số lượng, cơ

cấu tổ chức của các cấp chính quyền địa phương. Ví dụ các cơ quan chuyên

môn ngành dọc được thành lập do chính phủ quyết định theo đề nghị của bộ

trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Các cơ quan chuyên môn theo ngành

dọc (sở) tại địa phương được thành lập theo mô hình cơ cấu tổ chức chung

của các bộ, cơ quan ngang bộ và đặc điểm, điều kiện cụ thể của địa phương

trên cơ sở có sự thống nhất giữa Bộ, cơ quan ngang bộ với chính quyền tỉnh.

Đối với việc thành lập, bãi bỏ, tách, nhập tỉnh, thành phố do chính phủ đề

nghị và Quốc hội quyết.

98

Việc thực hiện phân cấp, phân quyền quản lý trong hệ thống hành chính

nhà nước trong thời gian qua đã thực hiện theo quy chế và nguyên tắc cụ thể;

Theo quyết định của Bộ chính trị số 21/BCT, ngày 8 tháng 5 năm 1993 (hiện

nay vẫn còn hiệu lực) quy đinh: Các Bộ có trách nhiệm quản lý ngành mình

thông suốt từ Trung ương đến cấp huyện, vì Bộ trực tiếp tổ chức các sở cấp

tỉnh, các phòng ở cấp huyện, cả về nhân sự và chuyên môn. Còn tỉnh, huyện

chỉ giúp Bộ về công tác theo dõi cán bộ công chức của Bộ mình đóng ở địa

phương.

Đối với cấp tỉnh, thành phố, Chính phủ đã phân cấp và quy định chức

năng nhiệm vụ, quyền hạn cho một số lĩnh vực như đảm bảo trật tự và an ninh

xã hội, quan hệ và hợp tác với nước ngoài theo quyết định của Chính phủ, tổ

chức thực hiện pháp luật và chính sách của nhà nước một cách nghiêm túc,

đảm bảo nguồn thu, chi ngân sách, quản lý các công trình của Chính phủ đóng

ở địa phương của tỉnh hoặc do sự phân cấp của Chính phủ, phê duyệt và quản

lý một số công trình có tiền vốn không nhiều (1.000.000 USD), chịu trách

nhiệm quy hoạch đào tạo, quản lý, sử dụng thực hiện chính sách đối với cán

bộ công chức theo quyền hạn của mình[78].

Trong việc tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính Trung ương

đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phối hợp cùng nhau thực hiện để đạt

được mục tiêu theo sự mong muốn, hạn chế tối đa xung đột và mâu thuẫn

giữa các cơ quan hành chính Nhà nước. Trong thực tế của nước CHDCND

Lào hiện nay mối quan hệ giữa cơ quan hành chính Trung ương với nhau và

mối quan hệ phối hợp Trung ương và địa phương tương đối chặt chẽ. Bởi vì

có văn bản quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ, cơ

quan ngang Bộ và cơ quan thuộc chính phủ.

Trong quá trình làm việc các cơ quan hành chính ở Trung ương với

nhau đều có sự phối hợp chặt chẽ: cụ thể là các Bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ

quan tương đương đã có sự phối hợp với văn phòng chính phủ trong quá trình

quản lý Nhà nước. Trong khi thực hiện nhiệm vụ có một số công việc là do

Bộ trực tiếp giải quyết (Các vấn đề thuộc trách nhiệm của Bộ do pháp luật

99

quy định, các vấn đề nằm trong kế hoạch chung của chính phủ mà không liên

quan đến Bộ khác; các vấn đề nằm trong kế hoạch của Bộ mà chính phủ đã

thông qua; có sự chỉ đạo, quyết định hoặc thủ tướng trực tiếp ra lệnh…) có

một số công việc các Bộ cần phải phối hợp cùng nhau giải quyết (các vấn đề

được quy định trong pháp luật, nằm trong kế hoạch do chính phủ hoặc thủ

tướng đã thông qua nhưng liên quan đến bộ khác, trong trường hợp này các

bộ phải chủ động phối hợp thống nhất với nhau giải quyết và báo cáo thủ

tướng, nếu không thống nhất mới trình lên xin ý kiến thủ tướng) và có một số

công việc phải đề nghị văn phòng chính phủ giải quyết.

Mối quan hệ phối hợp giữa các Bộ với Văn phòng chính phủ đã được

tiến hành thường xuyên chặt chẽ. Trong quá trình quản lý của mình các bộ

đều thực thiện theo chính sách của chính phủ và quy định của Nhà nước. Khi

có vấn đề thật sự cần thiết bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ có quyền

lên báo cáo, xin ý kiến trực tiếp với thủ tướng hoặc báo cáo bằng văn bản gửi

đến văn phòng chính phủ để nghiên cứu rồi báo cáo với thủ tướng xem xét,

hoặc có thể đem trao đổi trong hội nghị chính phủ khi vấn đề đó không nằm

trong thẩm quyền của bộ mình. Ví dụ các vấn đề về quy hoạch phát triển kinh

tế xã hội; Về ngân sách nhà nước và điều chỉnh ngân sách Nhà nước; dự thảo

pháp lệnh và sắc lệnh; thành lập, bãi bỏ, tách, nhập các bộ, cơ quan ngang

bộ…Ngoài ra còn có các vấn đề làm ảnh hưởng đến sự ổn định của đất nước

và ảnh hưởng đến chính trị giữa các quốc gia; tình hình thiên nhiên đe dọa

cuộc sống và tài sản của nhân dân; các vấn đề ảnh hưởng đến sự ổn định kinh

tế quốc gia; các vấn đề ảnh hướng đến ngân sách của Nhà nước… Tất cả các

vấn đề nêu trên đều thể hiện đến sự phối hợp một cách có hệ thống của các bộ

máy hành chính ở Trung ương với nhau, nhằm thực hiện mục tiêu chung của

Nhà nước đề ra.

Thời gian qua quan hệ phối hợp giữa các cơ quan trung ương và cơ

quan hành chính địa phương cũng được quy định tương đối rõ ràng đặc biệt

giữa 3 lĩnh vực: lập kế hoạch, dự án và ngân sách; phối hợp về phê duyệt kế

hoạch, ngân sách; về quản lý cán bộ - công chức.

100

Về lập kế hoạch, dự án và ngân sách: Thời gian qua các ngành lĩnh vực

chuyên môn cấp bản, cấp huyện, cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ cung cấp mọi

thông tin liên quan đến ngành chuyên môn, báo cáo lên ngành chuyên môn

cấp trên. Việc lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cơ quan hành chính

các địa phương đều dựa trên kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Bộ - cơ

quan chuyên môn cấp trung ương; chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của

tỉnh cũng được xây dựng trên cơ sở kế hoạch phát triển của các sở, ngành. Về

việc xây dựng chiến lược phát triển và dự án của các ngành chuyên môn của

các bộ, cơ quan trung ương cũng được thực hiện trên cơ sở chiến lược phát

triển của ngành chuyên môn đóng ở các tỉnh toàn quốc và có sự đóng góp ý

kiến của tỉnh trưởng. Về xây dựng chiến lược phát triển ngành chuyên môn

cấp tỉnh cũng dựa trên cơ sở chiến lược phát triển các phòng chuyên môn cấp

huyện toàn tỉnh và có sự đóng góp ý kiến của huyện trưởng. Việc xây dựng

kế hoạch phát triển ngành chuyên môn cấp huyện cũng dựa trên đặc điểm và

tiềm năng của huyện.

Về sự phối hợp phê duyệt kế hoạch, ngân sách: Thời gian qua Chính

phủ đã thông báo và chuyển giao kế hoạch, ngân sách mỗi năm cho các Bộ -

cơ quan cấp trung ương và các tỉnh, thành phố triển khai thực hiện theo quy

định sau khi Quốc hội thông qua. Các Bộ - cơ quan trung ương thực hiện việc

phân chia và chuyển giao các kế hoạch, ngân sách nhà nước cho các cơ quan

phụ thuộc, do mình trực tiếp quản lý. Các tỉnh, thành phố xem xét quyết định

phân chia và chuyển giao các kế hoạch và ngân sách cho các sở chuyên môn ở

cấp tỉnh, thành phố, các huyện thuộc tỉnh theo quy định của Quốc hội và

thông báo của Chính phủ trước khi triển khai thực hiện. Cấp tỉnh là tỉnh

trưởng, thị trưởng là người ra lệnh trong việc chi ngân sách, một số trường

hợp cần thiết, tỉnh trưởng, thị trưởng có sự ủy quyền cho giám đốc sở ra lệnh

về chi ngân sách nhưng dựa trên quy định của pháp luật. Các huyện cũng có

sự phân chia và chuyển giao kế hoạch và ngân sách cho các phòng chuyên

môn ở cấp huyện, việc quyết định chi ngân sách là do huyện trưởng thực hiện.

101

Về phối hợp quản lý cán bộ - công chức: trong thời gian qua các Bộ -

cơ quan trung ương đã quy định chức danh và chỉ tiêu các loại chức danh của

ngành mình, phối hợp với cơ quan hành chính cấp tỉnh trong việc xây dựng

kế hoạch đào tạo cán bộ quản lý cấp tỉnh, cấp huyện, tiến hành đào tạo, bồi

dưỡng và quy định đối tượng cho cấp tỉnh và cấp huyện. Bộ trưởng, thủ

trưởng cơ quan cấp trung ương chỉ đạo, kiểm tra, giám sát hoạt động của giám

đốc sở trong việc thực hiện pháp luật; trong trường hợp không có khả năng

làm việc hoặc vi phạm pháp luật, bộ trưởng đã đề nghị tỉnh trưởng xem xét,

thuyên chuyển, trừng phạt hoặc cách chức. Trong việc quản lý cán bộ cấp

tỉnh; tỉnh trưởng, thị trưởng có quyền bổ nhiệm, thuyên chuyển, cách chức,

tăng cấp, trừng phạt giám đốc sở, phó giám đốc sở và các chức vụ tương

đương dựa trên cơ sở chỉ tiêu, điều kiện chức danh quản lý của các Bộ - cơ

quan trung ương đề ra theo đề nghị của ban tổ chức cán bộ cấp tỉnh và sự

thống nhất của bộ trưởng-thủ trưởng cơ quan ngang bộ có liên quan và sở nội

vụ ở địa phương. Trong trường hợp bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan trung ương

và tỉnh trưởng, thị trưởng không thống nhất, cũng đã có sự phối hợp với Bộ

nội vụ và cơ quan liên quan xem xét việc bổ nhiệm, thuyên chuyển, cách

chức, tăng cấp, trừng phạt đối với cán bộ, công chức vi phạm pháp luật. Đối

với cấp huyện, việc bổ nhiệm, thuyên chuyển, cách chức, tăng chức, trừng

phạt trưởng phòng, phó trưởng phòng và các chức danh tương đương đều dựa

trên chỉ tiêu điều kiện chức danh quản lý của các bộ, cơ quan trung ương đề

ra, theo đề nghị của ban tổ chức cán bộ huyện và sự thống nhất của các sở cấp

tỉnh có liên quan và phòng nội vụ của huyện. Trong trường hợp giám đốc sở

và huyện trưởng chưa có sự thống nhất là báo cáo lên tỉnh trưởng xem xét.

Kết quả đạt được trong việc phân cấp, phối hợp trong quản lý hành

chính nhà nước CHDCND Lào trong thời gian qua đã được quy định rõ, cụ

thể như: Hiện nay (2016), trong 21 Bộ, cơ quan ngang bộ; có tới 15 Bộ đã

triển khai tốt quá trình phân cấp, phối hợp, giao nhiệm vụ nhất định cho địa

phương quyết định, theo chương trình 3 xây của Chinh phủ đề ra và được

triển khai trên cả nước; trong đó tập trung thí điểm 51 huyện và 105 bản.

102

Thành tựu của việc phân cấp và phối hợp tạo điều kiện tốt cho bộ máy hành

chính nhà nước tổ chức và hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đem lại sự thành

công trong hệ thống hành chính nhà nước, góp phần vào quá trình xây dựng

nền hành chính tiến bộ, minh bạch và vững mạnh. Để chứng minh kết quả quá

trình phân cấp, phối hợp của bộ máy hành chính nhà nước cần chú ý đến số

liệu điều tra: khi được hỏi về phân cấp, 35% cho rằng nên tập trung mọi

quyền lực ở Trung ương, 51% cho rằng nên phân quyền quyết định cho địa

phương và 11% cho rằng tùy theo lĩnh vực cụ thể. Đối với địa phương 90%

có ý kiến cho rằng giữ lại 3 cấp quản lý, 5% cho rằng thành lập thêm cấp

quản lý, 2% giảm bớt cấp quản lý và 3% tủy theo điều kiện cụ thể. Về việc

thành lập Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện: 40% cho rằng nên thành lập

Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, 35% nên thành lập Hội đồng nhân dân cấp

huyện, không có ý kiến về thành lập Hội đồng cấp bản và 25% có ý kiến

không thành lập Hội đồng nhân dân. Kết quả nay đều chứng minh cho sự lựa

chọn đúng đắn khi thành lập các cấp quản lý cũng như việc thành lập Hội

đồng nhân dân các cấp.

3.2.5.Thực trạng chính phủ điện tử Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

Trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện nhà nước Lào hiện nay đã đặt

ra nhiều lĩnh vực cần tiến hành cải cách, trong đó cải cách bộ máy hành chính

nhà nước là nội dung then chốt, quan trọng, cấp thiết. Muốn xây dựng được

một nhà nước của dân, do dân và vì dân; nhà nước phải thân thiện, dễ tiếp

cận, phải mong muốn mang lại dịch vụ công của mình đến với người dân và

doanh nghiệp nhiều hơn.

Đối với việc xây dựng chính phủ điện tử ở CHDCND Lào, có thể được

coi là vấn đề rất mới và ít được quan tâm. Nhưng để bảo đảm cho việc quản lý

nhà nước hiệu quả và hiện đại; Chính phủ Lào rất nỗ lực trong việc phát triển

mạng luới điện tử ở các cơ quan hành chính nhà nước cả Trung ương và địa

phương. Tạo lập mối quan hệ dịch vụ giữa 3 chủ thể:

Một là, giữa chính phủ với nhau (Goverment to government, G2G).

Đây là chế độ trao đổi và sử dụng thông tin thông qua hệ thống điện tử giữa

103

các cơ quan hành chính nhà nước như: thông tin về cán bộ, thông tin về ngân

sách và các thông tin tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước trong

quá trình dịch vụ nhân dân và các doanh nghiệp...hiện nay, đang tiến hành ở

các cơ quan hành chính nhà nước và có sự đầu tư giữa các cơ quan nhà nước.

Hai là, tiếp tục triển khai dịch vụ của cơ quan quản lý hành chính nhà

nước với các doanh nghiệp (Government to Business-G2B); đây là hình thức

nâng cao dịch vụ của cơ quan hành chính nhà nước với các doanh nghiệp

thông qua hệ thống điện tử như: thông tin cho phép đăng ký kinh doanh;

thông tin đóng và hoàn thuế; thông tin về đấu thầu dự án nhà nước..., ngoài ra

các doanh nghiệp cũng có khả năng kết nối dịch vụ với nhau (Business to

Business, B2B).

Ba là, dịch vụ của các đơn vị hành chính nhà nước với nhân dân

(Government to Citizen Service, G2C); đây là loại hình dịch vụ của chính phủ

với nhân dân như: cung cấp các thủ tục và nhận thức các thông tin của nhà

nước hoặc xây dựng hệ thống thông tin cộng đồng (Telecanter).

Việc xây dựng chính phủ điện tử ở CHDCND Lào là nhiệm vụ của Văn

phòng Chính phủ, tuy nhiên do cơ quan này chưa có đủ nhân sự về chuyên

môn cho nên đã giao nhiệm vụ này cho Bộ khoa học và công nghệ đảm nhiệm

với tư cách là cơ quan tham mưu cho chính phủ theo Nghị định số 444/CP,

ngày 24/12/2007. Dự án xây dựng chính phủ điện tử có thời gian thực hiện từ

năm 2007-2009.

Sau khi đại hội đại biểu lần đầu tiên của Quốc hội khóa VII đã xem xét

và thông qua một số vấn đề quan trọng của đất nước 5 năm (2011-2015) và đã

công nhận cơ cấu bộ máy của chính phủ gồm 21 Bộ, cơ quan ngang Bộ.

Chính vì vậy, Chính phủ đã chuyển dự án xây dựng chính phủ điện tử sang

Bộ bưu chính và viễn thông theo Nghị định số 303/CP, ngày 26/9/2011. Từ

đó dự án đã được triển khai thực hiện.

Từ thực tế nêu trên làm cho việc xây dựng chính phủ điện tử có bước

phát triển. Nhưng việc trao đổi thông tin trong các cơ quan hành chính nhà

nước CHDCND Lào thời gian qua vẫn còn tình trạng sử dụng văn bản và thẻ

104

nhớ, có một số cơ quan sử dụng thông qua hệ thống internet và email. Đối với

các văn phòng của các Bộ ở trung ương phần lớn sử dụng thông qua hệ thống

máy tính liên kết bên trong (Local Areas Network) kết nối giữa các cơ quan

hành chính nhà nước để sử dụng thông tin điện tử chung. Thông qua việc

khảo sát thực tế ở các cơ quan hành chính nhà nước trung ương, năm 2015

cho thấy: Trong 25 cơ quan hành chính nhà nước, đã được trang bị 2.456 máy

tính, chiếm 37% so với số lượng cán bộ ở trung ương. hoặc có thể tính trung

bình 3 cán bộ/1 máy tính. Đây là số liệu tương đối có ưu thế so với các nước

đang phát triển ở một số nước. Nhưng mức độ sử dụng máy tính giữa các cơ

quan hành chính chưa đồng đều. Đối với các Bộ, cơ quan ngang bộ như: Ngân

hàng nhà nước Lào, Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính, Bộ Khoa học, công nghệ,

Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Bưu chính viễn thông... được trang bị máy

tính chiếm hơn 70% so với số lượng cán bộ. Đối với Bộ tư pháp, Bộ kế hoạch

và đầu tư, Bộ Quốc phòng, Bộ An ninh, Bộ Nông Lâm nghiệp, Bộ Y tế, Văn

phòng chính phủ, số lượng máy tính được trang bị chưa tới 15% so với số

lượng cán bộ. Tất các máy tính của cơ quan hành chính Trung ương, chỉ có

779 máy kết nối mạng, chiếm 31,7% so với số lượng máy tính đã được trạng

bị. Hiện nay, số lượng cán bộ làm việc ở cơ quan hành chính trung ương là

6.633 người, trong đó chỉ có 1.443 cán bộ đã sử dụng mạng internet. Việc sử

dụng internet, phần lớn sử dụng trong thời gian làm việc chiếm tới 95%. Hình

thức sử dụng mạng để trao đổi, gửi tài liệu chiếm 60%, sử dụng mạng để

nghiên cứu và tham khảo thông tin nước ngoài chiếm 37%, còn lại 2% dùng

để xem các thông tin trong nước và một số ít không đến 1% sử dụng đàm

thoại và chơi game[100, tr 6].

Từ đặc điểm trên đã cho thấy việc sử dụng mạng lưới thông tin trong

quá trình trao đổi thông tin giữa các cơ quan hành chính chưa thật sự phổ

biến. Nhưng để nhằm xây dựng một Chính phủ thật sự phục vụ nhân dân.

Chính phủ Lào rất quyết tâm trong việc đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng

điện tử như sau:

105

- Chính phủ đã xây dựng hệ thống quản lý nhà nước bằng hệ thống điện

tử, xây trụ sở trung tâm quản lý mạng lưới điện tử, trung tâm quản lý thông

tin điện tử, trung tâm dịch vụ chương trình quản lý nhà nước và hai phòng

dành cho cuộc tập huấn tin học.

- Để làm cho việc trảo đổi thông tin thuận lợi giữa trung ương và địa

phương. Chính phủ đã xây dựng trụ sở làm việc ở 17 tỉnh và bố trí đầy đủ các

trạng thiết bị điện tử và hệ thống kết nối toàn diện. xây dựng mạng lưới quản

lý cổng thông tin điện tử và quản lý chương trình điện tử trong hệ thống quản

lý nhà nước và mở các lớp tập huấn tin học ở địa phương.

- Chính phủ đã xây dựng mạng lưới hệ thống cài đặt có 5 dây cáp kết

nối với 85 cơ quan hành chính nhà nước đặt ở Thủ đô Viêng Chăn. Cài đặt hệ

thống truyền tin gồm 11 đơn vị. Đối với địa phương cũng được cài đặt hệ

thống dây cáp kết nối với 17 văn phòng tỉnh và đã cài đặt hệ thống kết nối

Wimax với 160 văn phòng của các sở ở 17 tỉnh trên cả nước.

- Đã xây dựng hệ thống chương trình điện tử gồm có địa chỉ tên cổng

thông tin điện tử quốc gia (National Portal) là: http://www.laogov.gov.la, đây

là hệ thống thông tin điện tử có thể tổng hợp các thông tin của các cơ quan và

các tổ chức có khả năng phổ biến về thông tin thông qua internet. Ngoài ra

còn có các chương trình khác đã được thiết lập để đáp ứng nhu cầu của các cơ

quan nhà nước đem vận dụng như: hệ thống thu thập thông tin (E-Archive);

hệ thống theo dõi ra-vào và thu ghi văn bản (E-Documentation); hệ thống

đăng ký điện tử (E-Registation); hệ thống xem thông tin trong bản đồ điện tử

(E-Map); hệ thống học từ xa (E-Learning portal); hệ thống tổ chức họp từ xa

(Teleconference system)...

- Đã cung cấp trang thiết bị đầy đủ cho trung tâm thông tin điện tử quốc

gia, tạo điều kiện thuận lợi về chuyên môn trong việc thực hiện chương trình

của các ngành lĩnh vực, tư vấn, góp ý và tập huấn tin học cho các đối tượng

một cách thường xuyên. Thời gian qua đã tập huấn nâng cao trình độ chuyên

môn cho đội ngũ cán bộ thực hiện dự án 85 người và đã tập huấn nâng cao

106

trình độ chuyên môn về công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ ở các ngành

lĩnh vực 200 người.

Kết quả đạt được trong việc xây dựng chính phủ điện tử ở CHDCND

Lào là thể hiện sự nỗi lực của chính phủ trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng,

tạo nền tảng vững chắc trong việc xây dựng nền hành chính nhà nước hiệu

quả và hiện đại; góp phần vào quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất

nước. Tuy nhiên cần chứng minh cho kết quả xây dựng chính phủ điện tử,

theo số liệu điều tra cho thấy khi được hỏi về dịch vụ chính phủ điện tử với số

lượng được hỏi 500 người: 10 người chiếm 2% cho là tốt; 225 người chiếm

45% cho là dịch vụ kém; 200 người chiếm 40% cho là hình như không được

sử dụng và 65 người chiếm 13% cho là không hiểu về dịch vụ của chính phủ

điện tử. Kết quả trên cho thấy, việc triển khai dịch vụ chính phủ điện tử ở các

cơ quan hành chính các cấp chưa được coi trọng. Cho nên cần phải có giải

pháp phù hợp với điều kiện cộng nghệ ngày cang phát triển như hiện nay.

3.3. MỘT SỐ TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN TRONG CẢI CÁCH BỘ

MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

3.3.1. Một số tồn tại trong cải cách bộ máy hành chính nhà nước

Cải cách bộ máy hành chính nhà nước CHDCND Lào cơ bản đã thành

công rất nhiều. Tuy nhiên, cải cách bộ máy hành chính Nhà nước vẫn còn bộc

lộ những hạn chế như sau:

Một là, bộ máy hành chính nhà nước vẫn còn cồng kềnh, nhiều đầu

mối, nhiều tầng nấc, thiếu tính thống nhất và chưa hợp lý cả theo chiều dọc và

chiều ngang. Việc nâng cấp các Ban thành các Bộ, việc sáp nhập một số Ban

thuộc Chính phủ trước đây vào các Bộ đều đang là thách thức không nhỏ cho

việc tổ chức hoạt động của bộ. Việc đổi tên gọi của các cơ quan hành chính

nhà nước chưa thật sự phù hợp.

Trong thời gian qua mặc dù số lượng các bộ, các cơ quan ngang bộ

tăng không nhiều, nhưng bộ máy giúp việc của các bộ, các cơ quan ngang bộ

lại được tăng lên rất nhiều. Điều này làm cho bộ máy cơ quan hành chính

trung ương trở nên cồng kềnh, trong khi năng lực quản lý không được cải

107

thiện, gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động của chính phủ nói

riêng, bộ máy hành chính nói chung.

Bộ máy hành chính địa phương chưa hoàn thiện; luật chính quyền địa

phương còn quy định chung chung về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của

cơ quan hành chính địa phương. Chưa phân biệt rõ các chức năng như: về

kinh tế, văn hóa- xã hội, khoa học-công nghệ, an ninh - quốc phòng... Chính

vì vậy, mới xảy ra tình trạng chồng chéo, trùng lắp khi thực hiện một số

nhiệm vụ.

Bộ máy cơ quan hành chính cấp tỉnh bao gồm văn phòng tỉnh và các cơ

quan ngành dọc. Hiện nay, hoạt động tham mưu giúp việc cho lãnh đạo Đảng,

chính quyền ở địa phương của các văn phòng tỉnh, văn phòng huyện chưa thật

sự hiệu quả do thiếu cán bộ có trình độ, năng lực nghiên cứu tổng hợp; chưa

thường xuyên đi sâu đi sát vào thực tế đời sống nhân dân địa phương để cập

nhật thông tin một cách kịp thời dẫn tới ý kiến tham mưu đưa ra chưa sát thực

và hiệu quả. Trên thực tế bộ máy cơ quan ngành dọc ở địa phương lại tăng

lên, bộ máy bên trong của văn phòng tỉnh vẫn chưa thống nhất. Tình hình đó

khiến cho bộ máy hành chính tỉnh thêm nặng nề và gây quá tải cho ngân sách

nhà nước.

Bộ máy hành chính cấp huyện vẫn chưa hợp lý, sự phân loại huyện

thành: loại 1, loại 2 và loại 3; đã xảy ra tình trạng mâu thuẫn về việc cung cấp

ngân sách của nhà nước. Việc quy định về cơ cấu tổ chức bộ máy cấp huyện

vẫn chung chung, chưa phân biệt nào là tổ chức bộ máy hành chính, nào là tổ

chức bộ máy nhà nước ở cấp huyện, cho nên xảy ra tình trạng lẫn lộn khi tiến

hành cải cách bộ máy hành chính cấp huyện. Đối với cấp thị xã, luật đã quy

định rõ về cơ cấu tổ chức bộ máy, về chức năng nhiệm vụ và quyền hạn,

nhưng đến nay tổ chức này chưa xuất hiện.

Hoạt động của cấp bản còn những bất cập, chưa đạt hiệu quả như mong

đợi do trình độ năng lực chuyên môn, ý thức trách nhiệm và phẩm chất chính

trị của cán bộ chưa đáp ứng theo yêu cầu công việc. Trong khi đó ở cấp bản

còn xuất hiện một tổ chức cụm bản, nhưng tổ chức này luật chưa quy định

108

nằm ở vị trí nào của cấp chính quyền địa phương. Việc quy định cơ cấu tổ

chức bộ máy chính quyền cấp bản không có sự thống nhất (Nghị quyết Bộ

chính trị số 08, ngày 6 tháng 9 năm 2013 quy định có 5 đơn vị: Đơn vị hành

chính, đơn vị tổ chức đảng và quần chúng, đơn vị kinh tế-tài chính, đơn vị văn

hóa-xã hội, đơn vị quốc phòng-an ninh. Nhưng quyết định số 674 của Bộ nội

vụ ngày 27/9/2012 lại quy định cơ cấu của bộ máy hành chính cấp bản bao

gồm 4 đơn vị: Đơn vị hành chính, đơn vị kinh tế, đơn vị văn hóa xã hội, đơn

vị quốc phòng-an ninh) cho nên rất phức tạp trong việc tổ chức thực hiện. Về

việc thực hiện trợ cấp đối với các đơn vị tham mưu cho cơ quan hành chính

cấp bản chưa được quy định rõ, cho nên chưa khuyến khích cán bộ cấp bản

năng động tham gia công việc trong cơ quan hành chính cấp bản.

Hai là, việc quy định vai trò, quyền hạn và nhiệm vụ của một số bộ, cơ

quan ngang bộ và bộ máy giúp việc vẫn chưa rõ ràng. Nội dung quản lý điều

hành của một số bộ, cơ quan ngang bộ vẫn chưa được quy định một cách cụ

thể hợp lý. Sự phân cấp giữa trung ương và địa phương trong quản lý hành

chính nhà nước chưa hợp lý, làm cho địa phương chưa phát huy được vai trò

chủ động sáng tạo trong điều hành công việc ở địa phương đồng thời làm cho

hoạt động của bộ máy hành chính ở trung ương ôm đồm, sự vụ, kém hiệu quả.

Việc quy định cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính địa phương chưa rõ

ràng. Luật hành chính địa phương đã quy định nhưng chưa rõ. Điều 8 quy

đinh: Bộ máy hành chính cấp tỉnh gồm văn phòng tỉnh, thành phố; các sở

ngành dọc và các cơ quan tương đương đặt tại tỉnh, thành phố. Điều 10 quy

định: các sở ngành dọc và cơ quan tương đương là bộ phận trong cơ cấu tổ

chức bộ máy hành chính cấp tỉnh, thành phố; có chức năng tham mưu cho Bộ,

cơ quan ngang bộ, tỉnh, thành phố. Điều 14, mục 13 quy định quyền hạn của

tỉnh trưởng: Bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc cách chức Chánh văn phòng, phó

chánh văn phòng tỉnh, chánh văn phòng huyện và phó chánh văn phòng huyện

và phó phòng các cơ quan chuyên môn ngành dọc.

Vấn đề chưa rõ ràng và phù hợp ở chỗ: Một là, luật quy định các sở

ngành dọc cấp tỉnh là bộ máy hành chính của tỉnh, nhưng trong thực tế trong

109

nghị định về tổ chức và hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ cấp trung

ương vẫn còn quy định là các sở ở cấp tỉnh là bộ máy của bộ, cơ quan ngang

bộ. Hai là, Luật quy định các sở là bộ máy hành chính cấp tỉnh, nhưng tham

mưu cho cả tỉnh và các bộ, có nghĩa là cả tỉnh và Bộ đều chỉ đạo chung một

sở nhưng không ai chịu trách nhiệm chính. Ba là, Sở là bộ máy của ủy ban

hành chính tỉnh, nhưng đứng trên phương diện của pháp luật, tỉnh trưởng và

thị trưởng không có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức giám đốc sở,

chỉ có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức Chánh văn phòng tỉnh, phó

chánh văn phòng tỉnh và các trưởng và phó văn phòng và phòng chuyên môn

ngành dọc. Cho nên vấn đề này vẫn còn phải tiếp tục cải cách.

Ba là, việc phân cấp giữa Trung ương và địa phương trong lĩnh vực

hành chính nhà nước không những không bảo đảm giúp cho địa phương phát

huy được tính chủ động quản lý điều hành công việc ở địa phương mà còn

làm cho hoạt động của bộ máy hành chính Trung ương ôm đồm, kém hiệu

quả. Việc pháp luật quy định không rõ chức năng quản lý vĩ mô của các Bộ,

cơ quan ngang Bộ dẫn đến việc tổ chức thực hiện gặp nhiều khó khăn như:

khó xác định công việc nào chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ hoặc địa phương

và công việc nào phải được thống nhất thực hiện giữa Trung ương và địa

phương.

Việc phân cấp quản lý hành chính Nhà nước giữa các cấp chính quyền

địa phương đang còn nhiều điều bất cập, triển khai còn khó khăn, lúng túng;

cấp trên ôm đồm, bao biện công việc của cấp dưới và hiện tượng cấp dưới

đùn đẩy lên cấp trên còn rất phổ biến.

Trên thực tế, một mặt các Bộ, ngành Trung ương chưa thật sự muốn

phân cấp cho địa phương trên từng lĩnh vực cụ thể; mặt khác cũng lúng túng

về lý luận và cách làm, nên khó triển khai thực hiện được chủ trương và yêu

cầu phân cấp.

Cơ quan ngành dọc tại địa phương vừa là bộ máy hành chính ở địa

phương vừa là bộ máy của các Bộ và cơ quan ngang Bộ, tức là đưới sự chỉ

đạo của hai cơ quan cấp trên. Do vậy, nhiều sự chỉ đạo của hai cơ quan không

110

đồng bộ thống nhất, cho nền làm cho việc tổ chức hoạt động trong thực tiễn

chưa thật sự hiệu quả. Hơn nữa khi các sở, ngành dọc sai phạm trong việc tổ

chức thực hiện nhiệm vụ không biết sẽ đổ trách nhiệm về đâu.

Bốn là, sự phối hợp giữa các sở và tổ chức chính quyền địa phương

chưa thống nhất, có nhiều công việc các sở muốn làm do được sự chỉ đạo cấp

trên theo ngành dọc của mình nhưng chính quyền địa phương lại chưa đồng ý

cho nên không có được sự thống nhất chung, do vậy, phải trình lên cho chính

phủ xem xét, mất rất nhiều thời gian, làm cho kế hoạch, dự án, chương trình

tổ chức thực hiện không kịp thời, đúng lúc…

Văn phòng tỉnh là cầu nối giữa chính quyền địa phương với các ban

ngành đóng trên địa bàn nhưng thời gian vừa qua hoạt động này chưa thực sự

phát huy được hiệu quả, thiếu sự phối hợp chặt chẽ lẫn nhau, chưa tạo được

mối quan hệ công tác giữa các ban ngành với chính quyền địa phương cũng

như hướng sự chỉ đạo hướng dẫn của chính quyền địa phương tới các đơn vị

sản xuất kinh doanh tại địa bàn chưa được thuận lợi và kịp thời.

Năm là, trong điều kiện mở cửa hội nhập với quốc tế, đòi hỏi cho nền

hành chính nước nhà phải có sự thay đổi theo hướng tích cực và hiện đại.

Thời gian qua các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa

phương chưa thực hiện tốt việc phát triển công nghệ thông tin và vận dụng

chính phủ điện tử và chính quyền địa phương điện tử vẫn còn hạn chế. Hệ

thống mạng vẫn gặp nhiều khó khăn. Mặc dù đảng và nhà nước có chủ trương

trong việc hiện đại hóa nền hành chính bằng cách xây dựng chính phủ điện tử

với mục đích tạo điều kiện thuận lợi trong hệ thống dịch vụ giữa chính phủ

với chính phủ Chính phủ với doanh nghiệp và Chính phủ với nhân dân,

nhưng trên thực tế chỉ tạo ra được nền tảng về cơ sở hạ tầng và trang thiết bị,

còn hệ thống dịch vụ vẫn nhiều cái bất cập.

Sáu là, một vấn đề nữa là một vấn đề rất phức tạp, đôi khi chưa bảo

đảm tính khoa học khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong cơ chế kiêm

nhiệm của cán bộ lãnh đạo. Cho nên dễ xảy ra tình trạng Đảng làm thay công

việc của nhà nước.

111

3.3.2. Nguyên nhân tồn tại trong cải cách bộ máy hành chính nhà

nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

Có nhiều nguyên nhân, song có thể nêu mốt số nguyên nhân như sau:

Một là, cơ cấu bộ máy hành chính cồng kềnh thiếu nhất quán và thiếu

cơ sở khoa học, có nguyên nhân từ việc tách, nhập, lập tổ chức mới, giải thể

tổ chức cũ. Rất nhiều việc tách nhập, thành lập, giải thể không lý giải được.

Hai là, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính nhà nước chồng

chéo là do chưa xác định chính xác về chức năng; nhiều việc có lợi ích về

kinh tế có nhiều cơ quan hành chính tích cực tham gia bằng nhiều hình thức

khác nhau. Có một số tổ chức mới thành lập có chức năng nhiệm vụ gần nhau

với các tổ chức khác thì lại lúng túng trong quá trình thực hiện. Vai trò của cơ

quan có chức năng điều chỉnh các văn bản dưới luật chưa được nâng cao, cho

nên khi đề xuất các chương trình cải cách lên chính phủ chưa được thông qua;

Có một số ít cán bộ, công chức am hiểu về lĩnh vực quản lý nhà nước và có

chuyên môn về quản lý công cho nên ảnh hưởng không nhỏ đến việc thiết lập

các chương trình, dự án cải cách và tổ chức triển khai chương trình cải cách

bộ máy hành chính chưa thật sự hiệu quả.

Ba là, Việc phân cấp, phối hợp hiệu quả chưa cao, thiếu nhuần nhuyễn

là do các văn bản pháp luật, văn bản dưới luật chưa quy định rõ về thẩm

quyền, trách nhiệm cụ thể. Việc phối hợp trong quản lý giữa cơ quan hành

chính các cấp chưa thật sự thông suốt là do ngành dọc, ngành ngang và nội bộ

có mẫu thuẫn; một phần cũng có nguyên nhân từ phương thức quản lý, lề lối

làm việc chưa được cải tiến.

Bốn là, việc xây dựng chính phủ điện tử để phát triển nền hành chính

theo hướng hiện đại chưa được chú trọng là do trang thiết bị chưa đầy đủ, hệ

thống mạng chưa đảm bảo; một số cán bộ lãnh đạo chưa có thói quen và chưa

thành thạo sử dụng công nghệ thông tin hiện đại. Trình độ người dân có khả

năng đóng góp ý kiến thông qua hệ thống mạng còn hạn chế.

Năm là, do đặc điểm nổi bật của hệ thống bộ máy hành chính ở Lào,

có một Đảng duy nhất là Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cầm quyền. Thực

112

hiện kiêm chức vừa đứng đầu đảng vừa đứng đầu cơ quan hành chính. Điều

này đòi hỏi phải có sự quy định rất khoa học, phân định rành mạch về chức

năng, nhiệm vụ và chọn được những người xứng đáng nhất để đảm nhiệm các

chức vụ quan trọng này.

Tiểu kết chương 3:

Trong điều kiện triển khai nghị quyết Đại hội IX của Đảng nhân dân

cách mạng Lào và hoàn thiện bộ máy hành chính nhà nước Lào, hiện nay, bộ

máy hành chính nhà nước Lào đã có xu thế phát triển theo hướng tích cực. Về

kiêm nhiệm chức vụ đảng và chính quyền cũng có mặt tích cực nhất định; cơ

cấu chỉnh phủ cũng có sự thay đổi cả về số lượng và chất lượng hoạt động; bộ

máy có sự phù hợp với điều kiện khách quan; chức năng nhiệm vụ và quyền

hạn đã được tiến hành điều chỉnh phù hợp đem lại hiệu lực, hiệu quả trong

quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc phân cấp quản lý giữa

trung ương và địa phương rõ ràng, chính quyền trung ương đã trao nhiều thẩm

quyền cho địa phương phát huy được vai trò. Việc phối hợp giữa các cơ quan

hành chính trung ương và địa phương nhuần nhuyễn và thông suốt, làm cho

công việc tiến hành trôi chảy và hiệu quả. Việc phát triển nền hành chính theo

hướng hiện đại đã được tiến hành và đưa vào dịch vụ tương đối hiệu quả.

Nhưng đi đôi với kết quả đạt được cải cách bộ máy hành chính nhà nước vẫn

còn nhiều bất cập nhất là về mặt cơ cấu, về chức năng, nhiệm vụ, về sự phân

cấp, phối hợp và việc phát triển nền hành chính hiện đại. Chính vì vậy, việc

tìm ra những giải pháp thích hợp với điều kiện cải cách bộ máy hành chính

nhà nước hiện nay ở CHDCND Lào là vấn đề cấp bách.

113

CHƯƠNG 4

QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CẢI CÁCH BỘ MÁY HÀNH CHÍNH

CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

4.1. QUAN ĐIỂM CẢI CÁCH BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC LÀO

Để kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính các cấp phải có một hệ thống

quan điểm được xác định đúng đắn, rõ ràng với tính cách là chỗ đứng, cách

nhình tổng thể, bao quát, xuyên suốt cả trước mắt và lâu dài, có sự định

hướng theo mục tiêu, nội dung đối tượng, giải pháp và có sự chỉ đạo nhất

quán, thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Trong các nghị quyết của

Đảng đã đề ra một số quan điểm cần phải nắm vững trong quá trình cải cách

bộ máy hành chính nhà nước:

4.1.1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc quá trình cải

cách bộ máy hành chính

Đảng nhân dân Cách mạng Lào là một Đảng xuất thân từ Đảng cộng sản

Đông Dương, người đại diện cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động

các bộ tộc Lào, quyết tâm bảo vệ quyền lợi của mọi tầng lớp nhân dân các dân

tộc Lào trong cả nước. “Đảng nhân dân cách mạng Lào là một Đảng chính trị

Mác-Lênin chân chính của giai cấp công nhân Lào, là đội tiên phong và cũng

là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân”[85, tr 21].

“Đảng nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo nhà nước, Mặt trận tổ quốc,

các tổ chức chính trị - xã hội bằng đường lối, chủ trương, các quan điểm

mang tính chiến lược, lãnh đạo công tác tư tương, công tác tổ chức-cán bộ và

kiểm tra giám sát việc tổ chức thực hiện; tổ chức Đảng trong các cơ quan nhà

nước và các tổ chức chính trị xã hội là lực lượng lãnh đạo tổ chức triển khai

đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, thể chế hóa thành luật, kế hoạch,

chương trình hoạt động của cơ quan nhà nước”[73, tr 67], Đảng phải đứng

vững trên lập trường: “Đảng lãnh đạo nhà nước, nhưng không làm thay nhà

nước”[111, tr 7].

114

Với tư cách là người vạch ra cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chính

sách và định hướng lớn để xây dựng và phát triển đất nước, bất kỳ đảng nào

nếu không có sự tham gia một cách tích cực của nhà nước vào quá trình xây

dựng đường lối, chủ trương, các chính sách của đảng sẽ không phù hợp với

những yêu cầu cấp bách của từng ngành, từng địa phương và tính khả thi của

đường lối đó cũng khó mà thực hiện thành công được. Nếu nhà nước tham gia

ngay từ bước đầu của quá trình chuẩn bị các chủ trương, chính sách và các

nghị quyết của đảng thì cơ quan của nhà nước có thể tiếp nhận và triển khai

được ngay ở các ngành và các địa phương.

Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với nhà nước, Đảng nhân dân cách

mạng Lào chăm lo đến việc củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng để

nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đảng trong cơ quan nhà nước, tạo

ra sức mạnh, đảm bảo cho sự thống nhất và tính tiên phong gương mẫu của

đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm cho mọi đầu mối của công việc được thuận lợi

và ăn khớp với nhân dân.

Đối với cải cách bộ máy hành chính nhà nước. Đảng nhân dân cách

mạng Lào đã đưa ra định hướng chỉ đạo như sau:

- Cải cách bộ máy hành chính nhà nước gắn liền với xây dựng, chỉnh đốn

Đảng, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước

nói chung và nền hành chính nói riêng, nhằm giữ vững và phát huy bản chất

của giai cấp công nhân, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì

dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

- Nền hành chính phải được tổ chức thành một hệ thống thống nhất ổn

định, hoạt động thông suốt, trên cơ sở phân công, phân cấp và chế độ trách

nhiệm rành mạch, có kỷ cương nghiêm ngặt, cơ quan hành chính và cán bộ,

công chức nhà nước chịu sự giám sát chặt chẽ của nhân dân. Áp dụng các cơ

chế, biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa những hành vi mất dân chủ, tự do, tùy

tiện, quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân.

- Các chủ trương, giải pháp cải cách hành chính phải gắn liền chặt chẽ

với bước đi của đổi mới kinh tế, với yêu cầu phát triển đất nước trong quá

115

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, hình thành và

hoàn thiện các yếu tố của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,

giữ vững trật tự, kỷ cương trong các hoạt động kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân.

- Cải cách bộ máy hành chính là nhiệm vụ rộng lớn, phức tạp đòi hỏi có

tầm nhìn bao quát với những giải pháp đồng bộ, kết hợp chặt chẽ cải cách

hành chính với đổi mới hoạt động lập pháp, cải cách tư pháp. Cải cách bộ

máy hành chính phải được tiến hành từng bước vững chắc, có trọng tâm,

trọng điểm, lựa chọn khâu đột phá trong từng giai đoạn cụ thể.

Từ những quan điểm chỉ đạo trên, là điều kiện thuận lợi cho việc tiến

hành cải cách bộ máy hành chính nhà nước. Nắm vững tinh thần chỉ đạo của

Đảng, linh hoạt trong việc tổ chức triển khai sẽ đem lại cho cải cách bộ máy

hành chính ở CHDCND Lào đi đúng hứơng và đạt được mục tiêu đề ra.

4.1.2. Cải cách bộ máy hành chính dựa trên cơ sở xây dựng Nhà

nước pháp quyền Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

Nhà nước pháp quyền là nhà nước tổ chức và hoạt động trên cơ sở hệ

thống pháp luật hoàn thiện, phù hợp với các quy luật vận động mang tính

khách quan của nền kinh tế-xã hội nhằm mục tiêu vì con người, cho con

người. Trong nhà nước pháp quyền, hoạt động của toàn thể bộ máy nhà nước

và các nhân viên nhà nước đều đặt trên cơ sở pháp luật, trong phạm vi được

giới hạn bởi pháp luật. Trong khi đó, người dân có quyền làm tất cả những gì

mà pháp luật không cấm, không trái với các quy tắc đạo đức xã hội hay quy

tắc sinh hoạt cộng đồng.

Nhà nước pháp quyền từ những ý niệm, quan điểm đơn lẻ, cục bộ về

việc chế ngự quyền lực nhà nước để tránh sự lạm dụng nó, do một số nhà

tư tưởng, nhà triết học đưa ra đã trở thành một học thuyết hoàn chỉnh, thể

hiện niềm mơ ước và khát vọng về một nền dân chủ của hàng nghìn thế hệ

con người.

Ngày nay, quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền đã trở thành quan

điểm chính thức và phổ biến đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Trong Văn

116

kiện Đại hội VIII, Đảng nhân dân cách mạng Lào tiếp tục nhấn mạnh quan

điểm xây dựng nhà nước pháp quyền như sau: “Để quản lý nhà nước phù hợp

với cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, Đảng có kế hoạch từng

bước xây dựng Nhà nước pháp quyền, phù hợp với tình hình hiện tại của đất

nước,tạo điều kiện cho tất cả công dân được thực hiện quyền và lợi ích một

cách đầy đủ của mình, đảm bảo sự bình đẳng trước pháp luật, ngăn chặn hiện

tượng vi phạm pháp luật. Đồng thời, phải tiếp tục tăng cường tuyên truyền,

giáo dục, phổ biến về pháp luật, xây dựng ý thức tuân thủ và thực hiện pháp

luật rộng rãi trong xã hội”[109, tr.61].

Quan điểm nhà nước pháp quyền trong cải cách bộ máy hành chính nhà

nước Lào hiện nay cần được xác định theo những nội dung cơ bản sau:

- Cải cách bộ máy hành chính nhà nước dựa trên và trong khuôn khổ

pháp luật - một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, thống nhất, được xây

dựng trên cơ sở quyền lực nhân dân, vì lợi ích của nhân dân và phù hợp với

yêu cầu của các quy luật phát triển kinh tế-xã hội của đất nước;

- Thực hiện nguyên tắc cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ công chức

hành chính nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật quy định; cơ quan hành

chính nhà nước, cán bộ công chức trong hệ thống hành chính nhà nước

nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, nêu cao tinh thần trách nhiệm phục vụ

nhân dân, đem lại cho nền kinh tế-xã hội những sản phẩm dịch vụ công tốt

nhất;

- Cải cách bộ máy hành chính nhà nước phải đảm bảo tính phù hợp với

các yêu cầu khách quan của đời sống kinh tế-xã hội trong mỗi giai đoạn nhất

định; vừa phát huy được sức mạnh của chính quyền nhân dân vừa tôn trọng và

phát huy vai trò to lớn của các thiết chế xã hội dân sự như các tổ chức xã hội-

nghề nghiệp, đoàn thể quần chúng, các hiệp hội kinh tế… Quản lý hành chính

nhà nước không loại trừ, phủ nhận mà dựa trên nền tảng và được sự hỗ trợ, bổ

sung của quản lý xã hội;

- Thực hiện nguyên tắc phân công, phân cấp, phối hợp, kiểm tra giám

sát giữa các cơ quan, các cấp chính quyền trong quản lý hành chính nhà

117

nước sao cho hoạt động của mỗi cơ quan, người có thẩm quyền trong bộ

máy hành chính nhà nước đều được sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ từ bên

trong và bên ngoài;

- Công khai, minh bạch hoá hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước

để người dân có thể dễ dàng tiếp cận và tham gia xây dựng, góp ý đối với

chính sách, pháp luật và các đề án phát triển kinh tế-xã hội do các cấp chính

quyền đưa ra; có cơ chế pháp lý để kiểm soát việc sử dụng các nguồn lực vật

chất, tài chính nhằm ngăn ngừa tệ quan liêu, tham nhũng một cách có hiệu quả.

4.1.3. Xác định rõ vai trò của Chính phủ trong cải cách bộ máy hành

chính nhà nước

Đối với công cuộc cải cách tổ chức bộ máy hành chính, Chính phủ là

chủ thể quyết định sự thành bại trong công cuộc cải cách. Việc xác định rõ

chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ và chính quyền địa phương trong quá

trình cải cách bộ máy hành chính vừa là nền tảng vừa là chỗ dựa vững chắc

trong quá trình cải cách bộ máy trên thực tế. Chính vì vậy, để góp phần vào

quá trình hoàn thiện bộ máy hành chính nhà nước cần phải làm rõ vai trò của

chính phủ và chính quyền địa phương như sau:

- Tiến hành rà soát, làm thật rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách

nhiệm của chính phủ, thủ tướng chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan

thuộc chính phủ và chính quyền địa phương để loại bỏ những chồng chéo,

trùng lắp giữa các cơ quan với nhau và có sự phân công rõ ràng, cụ thể hơn về

thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cấp trong hệ thống chính trị.

- Việc xác định được đúng chức năng, nhiệm vụ là cơ sở quyết định để

thiết lập tổ chức. Vì vậy, đây là một vấn đề cơ bản và cấp thiết, nên cần phải

tiến hành một cách khoa học, kiên quyết, chặt chẽ trong toàn bộ hệ thống

hành chính. Nguyên tắc mỗi cơ quan, mỗi tổ chức, mỗi bộ phận hợp thành

đều phải có chức năng nhiệm vụ một cách đích thực rõ ràng và đảm bảo có đủ

thầm quyền đi đôi với trách nhiệm để thực hiện đầy đủ các chức năng nhiệm

vụ đó.

118

Cần tiếp tục đổi mới về vai trò, chức năng của chính phủ trong nền kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước CHDCND Lào. Việc phân

định vai trò, chức năng của chính phủ theo các cấp độ sau: Thứ nhất, những

việc nhất thiết chính phủ phải làm và chỉ có chính phủ làm. Thứ hai, những

việc có cả chính phủ và nhân dân cùng làm. Thứ ba, những việc chính phủ có

thể có hoặc có thể không tham gia làm. Thứ tư, những việc chỉ để cho nhân

dân và các tổ chức phi chính phủ làm.

Ở CHDCND Lào chính phủ với tư cách là người đứng ra lo toan và

chịu trách nhiệm đối với những vấn đề chung nhất và cơ bản của toàn xã hội.

Vì vậy chính phủ thực hiện vai trò, chức năng thống nhất quản lý, chỉ đạo,

điều hành thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, quốc

phòng, an ninh và đối ngoại. Từ đó cần thống nhất quan điểm chức năng,

nhiệm vụ quản lý nhà nước của chính phủ, các bộ quản lý vĩ mô đối với toàn

xã hội và quản lý bằng pháp luật, chính sách và hướng dẫn, kiểm tra, kiểm

soát. Còn cơ quan chính quyền địa phương là quản lý hành chính nhà nước

trên địa bàn, chỉ đạo tổ chức thực hiện thể chế, chính sách, chịu trách nhiệm

trước chính phủ.

Đại hội IX của Đảng nhân dân cách mạng Lào (2011) đã nhấn mạnh:

“Đối với cơ quan quản lý hành chính nhà nước phải tiến hành cải cách theo

hướng gọn nhẹ, phù hợp và hoạt động có hiệu quả. Các bộ, cơ quan quản lý

nhà nước Trung ương phải tập trung chủ yếu vào công việc quản lý vĩ mô, tổ

chức triển khai đường lối, nghị quyết của Đảng thành kế hoạch, chương trình

hoạt động đối với ngành một cách kịp thời và chỉ đạo tổ chức thực hiện có

hiệu quả. Đồng thời chủ động triển khai văn bản pháp luật đã được Quốc hội

ban hành và coi trọng tính hiệu lực. Trong những năm tiếp theo phải tiến hành

cải cách bộ máy chính phủ nhằm đảm bảo việc thực hiện chức năng quản lý

nhà nước vững mạnh và có hiệu quả tránh tình trạng trùng lắp giữa các bộ

thực hiện chức năng quản lý toàn ngành với các cơ quan thực hiện chức năng

tham mưu của chính phủ”[110, tr 48].

119

Đối với địa phương trong quá trình tiến hành cải cách hành chính phải

tiến hành theo hướng nhằm tăng cường bộ máy chính quyền (cơ quan hành

chính địa phương) theo đúng bản chất hệ thống chính trị của nhà nước Lào.

Để làm tốt điều này, cải cách bộ máy hành chính địa phương phải phát huy

được nền dân chủ, là bộ phận của nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả

quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đại hội IX của Đảng nhân dân cách

mạng Lào nhấn mạnh: “cải cách hệ thống quản lý nhà nước theo hướng gọn

nhẹ, thuận lợi, nhanh chóng, trong sạch, đặc biệt cơ quan hành chính địa

phương phải quan tâm nhiều hơn trong việc tiếp xúc với nhân dân, thu nhận

những đề nghị và tố cáo của họ để đề nghị tới các ngành liên quan xem xét,

giải quyết”[88, tr 63].

Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của cơ quan hành chính địa phương

các cấp và các ngành lĩnh vực đóng tại địa phương. Rà soát lại chức năng

nhiệm vụ của các cơ quan hành chính địa phương từ đó điều chỉnh phù hợp

với luật hành chính địa phương. Thực hiện tốt pháp luật về hành chính, đúng

các pháp quy của chính phủ thể hiện đúng mối quan hệ về chức năng, quyền

hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ giữa nhà nước và nhân dân. Và nhất là giữa

chính quyền địa phương và nhân dân theo một hệ thống thể chế nền hành

chính dân chủ và nghiêm ngặt.

Nâng cao vai trò của người đứng đầu chính quyền địa phương, chủ

động điều chỉnh, bố trí lại những bộ phận không hợp lý và hoạt động kém

hiệu quả; thực hiện tốt vai trò của nhà lãnh đạo và nhà quản lý; đảm bảo tròn

trách nhiệm được giao. Trong tiến hành cải cách bộ máy chính quyền địa

phương phải thể hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ, khắc phục tư

tưởng cục bộ, phân tán, cũng như tiếp tục khắc phục tập trung quan liêu; kết

hợp quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ, giải quyết tốt quan hệ theo

chiều dọc và chiều ngang trong hệ thống quản lý từ Trung ương xuống các địa

phương. Xây dựng một bộ máy hành chính gọn, nhẹ, quản lý có hiệu lực hiệu

quả.

120

Trong công cuộc cải cách bộ máy hành chính địa phương, cũng cần

định rõ hai lĩnh vực với những nét đặc thù riêng là cải cách bộ máy hành

chính ở Trung ương và cải cách bộ máy hành chính ở địa phương. Tuy công

cuộc cải cách bộ máy hành chính ở địa phương phụ thuộc rất nhiều vào cải

cách bộ máy hành chính ở Trung ương, nhưng công tác hành chính ở địa

phương do phải trực tiếp giải quyết các công việc với dân, nên không chỉ có

nội dung phong phú và đa dạng, mà nó còn đòi hỏi phải được chủ động giải

quyết nhanh, gọn, chính xác và hiệu quả cao những yêu cầu hàng ngày của

dân, tất nhiên là trong khuôn khổ luật pháp nhà nước. Trong điều kiện bộ máy

hành chính địa phương chưa được kiện toàn, trình độ công chức lại có hạn, thì

phải cải cách từng bước, làm vững chắc, bảo đảm ổn định chính trị, thúc đẩy

sự phát triển và tăng trưởng kinh tế - xã hội bền vững.

4.1.4. Cải cách bộ máy hành chính phải vừa đảm bảo tính nguyên

tắc vừa xuất phát từ những đặc điểm, thực tiễn của đất nước

Cải cách bộ máy hành chính các nước trên thế giới mặc dù đã đưa ra

các mục tiêu và có nhiều nội dung tương đối giống nhau nhưng trong quá

trình thực hiện cải cách bộ máy hành chính nhà nước của mỗi nước đều có

bước tiến hành không giống nhau; có thể là do chế độ chính trị, hệ thống quản

lý hành chính nhà nước; do điều kiện chủ quan và khách quan...Đối với quá

trình cải cách bộ máy hành chính CHDCND Lào cũng có xuất phát điểm từ

tính đặc thù và hoàn cảnh cụ thể của cách mạng dân tộc và dân chủ do Đảng

nhân dân cách mạng Lào tiếp tục chỉ đạo, qua thực tiễn lãnh đạo và chỉ đạo

phong trào cách mạng đã xác định: “Xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân,

do nhân dân lao động các bộ tộc làm chủ, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của

Đảng, là người bảo vệ quyền lợi của họ và của cả dân tộc, được thể hiện qua

sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc”[105, tr 48].

Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy hành chính nhà nước,

Đảng NDCM Lào luôn luôn nhận thức đúng về điểm xuất phát, từ tính đặc

thù của xã hội và truyền thống dân tộc, để xây dựng bộ máy hành chính nhà

nước. Cơ cấu bộ máy hành chính nhà nước phải gọn nhẹ, phù hợp và chất

121

lượng là một nhiệm vụ lớn đối với một đảng cầm quyền. Để đảm bảo cho việc

xây dựng bộ máy hành chính có hiệu quả, hiệu lực thực hiện các chức năng,

quyền hạn của mình Đảng NDCM Lào đã học hỏi và nắm vững những

nguyên lý và nguyên tắc cơ bản về khoa học tổ chức nói chung cũng như tổ

chức bộ máy hành chính nhà nước. Các nguyên lý và nguyên tắc nó đã được

vận dụng từng bước một thông qua đường lối, chính sách của Đảng, qua các

đại hội, một chính phủ gọn nhẹ, vững mạnh và có chất lượng cần phải nắm

vững những nguyên lý cơ bản về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước. Trong

tổ chức bộ máy nhà nước, bộ máy hành chính nhà nước là một bộ phận của bộ

máy nhà nước có nhiệm vụ tổ chức thực hiện quyết định của bộ máy lập pháp.

“Nhà nước là một bộ máy cai trị”[25, tr 210]. Vì thế bộ máy hành chính nhà

nước có đặc trưng riêng, mặc dù đặc trưng đó không chỉ phụ thuộc vào quy

mô của cơ cấu tổ chức bộ máy đó, cái quan trọng nó phụ thuộc vào sự hoạt

động của bộ máy hành chính nhà nước mang tính công quyền. Cho nên bộ

máy hành chính nhà nước dù ở mô hình tổ chức nào nó cũng mang nguyên lý

chung như sau:

Bộ máy hành chính nhà nước là một tổ chức có quyền ban hành các

quyết định hành chính thuộc quyền hành pháp, hoạch định và phê chuẩn các

chủ trương, chính sách quản lý và tổ chức thực hiện các quyết định đó; đáp

ứng nhu cầu đòi hỏi của công dân, của xã hội về sự phát triển trên tất cả lĩnh

vực. Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước nhằm tạo ra một cơ cấu với các

mối quan hệ ổn định, vững chắc và thông suốt từ Trung ương đến tận các đơn

vị hành chính cơ sở thấp nhất[55, tr 87].

Hệ thống tổ chức bộ máy hành chính là một hệ thống thứ bậc; từ trên

xuống dưới (từ Trung ương đến địa phương) quyền lực hành chính nhà nước

được thực hiện theo tính chất thực thi mệnh lệnh một cách nghiêm túc. Đối

với cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước ở các nước trên thế giới cũng

vậy đều thể hiện tính thứ bậc; mặc dù khác nhau về tên gọi, thiết chế chính trị,

mô hình tổ chức nhưng về nguyên tắc tổ chức bộ máy hành chính nhà nước

đều tuân thủ theo các nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc xây dựng bộ máy

122

hành chính nhà nước là: “nguyên tắc dưới sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền

đối với bộ máy hành chính nhà nước; nguyên tắc kết hợp dân chủ; nguyên tắc

tuân thủ pháp chế; nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước theo ngành kết hợp

với quản lý lãnh thổ; nguyên tắc phân biệt sự quản lý nhà nước với quản lý

kinh doanh của các doanh nghiệp tự chủ”[55, tr 82].

Đối với cải cách bộ máy hành chính nhà nước Lào cần thực hiện theo

các nguyên tắc sau:

Thứ nhất: Dựa trên những quan điểm cơ bản nhất của Đảng, trong từng

lĩnh vực, cũng như chiến lược, kế hoạch và các chương trình chấn hưng kinh

tế và xã hội.

Thứ hai: Tổ chức theo nguyên tắc gọn, hợp lý, chất lượng và hiệu quả

nhất: để đảm bảo cho sự quản lý của bộ máy hành chính các cấp có đủ năng

lực. Bộ máy phải tinh gọn, phù hợp, mạnh mới hoạt động nhịp nhàng giữa các

cơ quan chức năng nghiên cứu, tham mưu, dự báo với cơ quan có thẩm quyền

quyết định.

Thứ ba: Xây dựng quy chế, lề lối làm việc theo nguyên tắc tập trung

dân chủ và chế độ thủ trưởng, trên cơ sở có sự phân công rõ ràng, có sự kết

hợp với nhau một cách đồng bộ chặt chẽ giữa các ngành, các cấp.

Thứ tư: Cần tiến hành từng bước một cách chắc chắn kinh nghiệm,

tranh thủ thời gian trong tổ chức thực hiện nhưng không vội vàng hấp tấp.

Từ những nguyên lý và các nguyên tắc chung về tổ chức bộ máy hành

chính nhà nước Đảng NDCM Lào đã tiếp cận và vận dụng một cách sáng tạo

các nguyên lý và nguyên tắc vào thực tiễn ở Lào và xây dựng nguyên tắc để

xây dựng và củng cố bộ máy hành chính nhà nước trong thời gian tới theo

hướng nghị quyết đại hội IX của Đảng nhân dân cách mạng Lào đề ra: “Tích

cực cải cách cơ quan hành hành nhà nước Trung ương và địa phương theo

hướng gọn nhẹ, phù hợp và hiệu quả, phấn đấu sử dụng khoa học công nghệ

và phương thức quản lý hiện đại trong cơ quan hành chính nhà nước. Vấn đề

cấp bách nhất phải sửa đổi luật Chính phủ, luật hành chính địa phương, quy

chế về công chức và các điều lệ liên quan cho phù hợp với đòi hỏi cần thiết

123

trong việc tăng cường năng lực thực hiện chức năng quản lý vĩ mô của các cơ

quan Trung ương; đồng thời tạo điều kiện đầy đủ trong việc phát huy trách

nhiệm và tính tự chủ của địa phương trong việc thực hiện các nhiệm vụ được

giao. Quan tâm phát triển đội ngũ cán bộ bằng cách đào tạo, bồi dưỡng, nâng

cao trình độ chuyên môn, kiến thức mọi mặt nhất là: về chính trị, hành chính,

chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức để bảo vệ quyền lợi chính đáng

của người dân”[110, tr 88].

4.2. MỐT SỐ GIẢI PHÁP CẢI CÁCH BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ

NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHAN DÂN LÀO

4.2.1. Cải cách cơ cấu bộ máy hành chính nhà nước

4.2.1.1. Đối với cơ cấu bộ máy hành chính Trung ương

Trong điều kiện phát triển hiện nay, mỗi quốc gia đều phải có sự điều

chỉnh và tổ chức lại các cơ quan quản lý hành chính nhà nước khi cảm thấy

hoạt động không hiệu quả. Đối với nước CHDCND Lào việc điều chỉnh cơ

cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước càng quan trọng và cần thiết. Trong

giai đoạn thực hiện chiến lược mở cửa đất nước, hội nhập khu vực, quốc tế,

đòi hỏi cơ cấu tổ chức chính phủ thay đổi theo hướng tích cực phù hợp môi

trường thực tế, tạo điều kiện thuận lợi và nâng cao tính hiệu quả trong hợp tác

với chính phủ các nước.

Cải cách cơ cấu tổ chức bộ máy theo hướng cơ bản là làm cho tinh gọn,

giảm bớt đầu mối; khắc phục sự cồng kềnh và bất hợp lý về cơ cấu, nâng cao

chất lượng hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, kiện toàn tổ chức nền hành chính

theo hướng quản lý Nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực bao quát các thành phần

kinh tế, xã hội; cải cách phải bảo đảm cho bộ máy vừa giữ được sự ổn định

cần thiết, vừa có sự đổi mới một cách căn bản trong thời kỳ mới.

Sắp xếp, điều chỉnh lại cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước ở trung ương

là tinh giản hợp lý tối đa cơ cấu chính phủ cho phù hợp với điều kiện thực tế

quản lý nhà nước ở Lào. Có thể giảm dần số bộ đến mức cần thiết; căn cứ vào

hai tiêu chí: một là, số lượng của công việc đã được giao, tức là thuộc về

chính năng nhiệm vụ quản lý nhà nước; hai là, số lượng của bộ máy bên

124

trong: bao nhiêu vụ, văn phong tương đương. Bởi vì trong thực tế một số Bộ

chỉ có 8 vụ và cơ quan tương đương; nếu so với thực tiễn cải cách bộ máy

hành chính theo hướng gọn nhẹ thì cần thay đổi về cơ cấu bên trong bằng

cách sáp nhập một số công việc vào các Bộ để làm tăng bộ máy bên trong có

đủ khả năng quản lý nhiều ngành, lĩnh vực, làm cho số lượng bộ giảm xuống;

làm được như vậy sẽ thu gọn được đầu mối, tiết kiệm được cả chi tiêu và

nhân sự.

+ Đối với cơ quan thuộc thủ tướng chính phủ: Trong thực tế cơ quan

thuộc chính phủ đã giảm nhưng các cơ quan thuộc thủ tướng vẫn còn nhiều và

các cơ quan này đang có xu hướng nâng cấp thành tổng cục và cơ quan ngang

bộ. Cho nên đối với các cơ quan này nên phải giải quyết theo hướng sau:

Đối với Ban cải cách doanh nghiệp: Có hai phương án cần giải quyết:

Phương án 1: Vì cơ quan này thực hiện hai nhiệm vụ lớn: Một là, quản

lý về doanh nghiệp nhà nước và cổ phần của nhà nước với tư nhân. Hai là,

doanh nghiệp tư nhân và hợp tác kinh tế của nhân dân. Việc quản lý và

khuyến khích hai bộ phần này thực hiện bằng hệ thống pháp luật theo cơ chế

thị trường, công bằng trước pháp luật. Ngoài ra hiện nay có hai Ủy ban quốc

gia: Ủy ban cải cách doanh nghiệp nhà nước và quản lý khuyến khích doanh

nghiệp vừa và nhỏ. Hai ủy ban này đang hoạt động tích cực, có khả năng cạnh

tranh tốt cả trong và ngoài nước. Cho nên, nếu tiếp tục giữ lại hai Ủy ban này

sẽ trùng lắp, đồng thời sẽ tốn kém về vật chất, tài chính, nhân sự...Vì vậy, nên

sắp xếp lại theo hướng: Chuyển việc cải cách doanh nghiệp tư nhân cho bộ

công thương quản lý, bởi vì bộ này có chức năng quản lý về đăng ký kinh

doanh. Đồng thời bộ máy tham mưu về quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ

cũng nằm trong bộ này, cho nên việc chuyển văn phòng của ban cải cách

doanh nghiệp về bộ công thương sẽ làm cho việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ

trôi chảy, có sự thống nhất hơn. Đối với việc cải cách doanh nghiệp nhà nước

và doanh nghiệp có cổ phần của nhà nước với tư nhân, công việc này đã từng

là công việc thuộc chức năng nhiệm vụ của bộ tài chính, đại diện cho nhà

nước trong việc làm chủ vốn theo luật định.

125

Phương án 2: có thể giữ lại Ủy ban cải cách doanh nghiệp có 1 văn

phòng là cơ quan tham mưu. Nếu thấy cần thiết thì bổ sung nhân sự vào cho

đầy đủ.

Đối vớ Ủy Ban giám sát quốc gia, kiểm tra và chống ma túy:

Phương án 1: nên chuyển công việc này cho Bộ an ninh, Bởi vì việc

đấu tranh chống ma túy là nhiệm vụ của Bộ an ninh, vì bộ nay cũng có đủ lực

lượng để thực hiện nhiệm vụ, đồng thời phù hợp với nguyên tắc quản lý vĩ mô

và theo ngành từ Trung ương đến địa phương. Còn chủ tịch có thể là Bộ

trưởng hoặc thứ trưởng.

Phương án 2: Vẫn giữ lại thành Ban kiểm tra và chống ma túy, gồm 1

văn phòng, bổ sung nhân sự vào cho đủ theo chức nghiệp. Nhưng vấn đề đang

đặt ra ở đây là ai sẽ chịu trách nhiệm và làm chủ tịch.

Trong việc tiến hành cải cách cơ quan thuộc Thủ thướng chính phủ

phải chú ý một số vấn đề sau:

- Những cơ quan có chức năng quản lý nhà nước mà liên quan đến chức

năng quản lý nhà nước của Bộ, ngành nào thì đưa về Bộ, ngành đó quản lý.

Khi đưa về Bộ thì thuộc cơ cấu tổ chức của Bộ đó, nếu cần thiết thì sắp xếp

lại tổ chức, bộ máy cho hợp lý.

- Những cơ quan đang chịu sự quản lý Nhà nước của một Bộ khác thì

có thể đưa về trực thuộc Bộ đó quản lý trực tiếp để thống nhất thực hiện chức

năng quản lý nhà nước với các hoạt động sự nghiệp. Hợp nhất một số cơ

quan có chức năng nhiệm vụ giống nhau, gần nhau, có liên quan đến nhau

thành một tổ chức, hoặc nâng cấp lên thành Bộ nếu thấy cần thiết và đủ điều

kiện. Đối với cơ quan nào mà xét thấy thực sự có vai trò, chức năng quan

trọng, nếu đủ điều kiện thì nâng cấp lên thành Bộ. Chỉ để lại một số rất ít các

cơ quan trực thuộc chính phủ mà xét thấy chưa thể đưa vào bộ nào quản lý là

thích hợp và có hiệu quả được. Đối với các tổ chức liên ngành có chức năng

chính làm tư vấn cho thủ tướng chính phủ để giải quyết những vấn đề có liên

quan đến nhiều Bộ, ngành và đòi hỏi sự phối hợp liên ngành, thì xử lý theo

126

nguyên tắc chung: không có bộ máy và biên chế riêng, hoạt động theo chế độ

kiêm nhiệm và có thời hạn.

- Đối với các Ban chủ nhiệm các chương trình quốc gia do thủ tướng

chính phủ quyết định thành lập như Ban chủ nhiệm chương trình kinh tế, kỹ

thuật, công nghệ, mục tiêu quốc gia về việc làm…thì không đặt đầu mối trực

thuộc thủ tướng, mà giao cho Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ

quan thuộc chính phủ làm chủ nhiệm chương trình có văn phòng giúp việc đặt

tại Bộ, ngành chủ trì.

- Đối với các tổ chức chuyên trách có chức năng giúp thủ tướng chính

phủ về một lĩnh vực công tác độc lập nhất định thì xử lý theo hứơng:

Những tổ chức có nhiệm vụ gắn với chức năng quản lý nhà nước của

Bộ nào thì đưa tổ chức đó về Bộ tương ứng quản lý. Những tổ chức làm chức

năng tham mưu, tư vấn, đề xuất trực tiếp cho thủ tướng chính phủ, không có

chức năng chỉ đạo, điều hành thì không thành cơ quan độc lập mà nằm trong

văn phòng chính phủ. Biến chế tính trong tổng số biên chế của văn phòng

chính phủ. Những tổ chức nào đã hết chức năng nhiệm vụ hoặc xét thấy

không còn cần thiết nữa thì trình thủ tướng chính phủ quyết định giải thể.

4.2.1.2. Đối với cơ cấu bộ máy hành chính địa phương

Cơ cấu chính quyền địa phương của nước Cộng hoà dân chủ nhân dân

Lào có hai điểm đặc thù so với nhiều nước trên thế giới: một là không có cấp

xã mà có cấp bản; hai là cơ cấu của mỗi cấp theo mô hình trưởng đơn vị hành

chính (tỉnh trưởng, thị trưởng - đối với thành phố thuộc trung ương; huyện

trưởng, trưởng bản), không tổ chức thành uỷ ban nhân dân. Trong điều kiện

đó, để khắc phục những điểm yếu, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động

của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương hiện nay cần đẩy mạnh

thực hiện một số giải pháp cụ thể sau:

Đối với bộ máy hành chính ở địa phương tiếp tục giữ nguyên cấp chính

quyền địa phương hiện tại như: cấp tỉnh-thành phố, cấp huyện và cấp bản.

Bảo đảm sự ổn định địa giới hành chính, tăng cường chức năng quản lý

vĩ mô và đa ngành của các cơ quan hành chính địa phương. Công tác quản lý

127

theo ngành và theo lãnh thổ phải thực hiện đúng theo nguyên tắc tập trung

dân chủ. Ngoài những lĩnh vực tổ chức quản lý theo ngành dọc trên các lĩnh

vực kinh tế, dịch vụ khác, địa phương có quyền chủ động quản lý theo đúng

các quy định của pháp luật, tức là thực hiện thi hành pháp luật một cách đúng

đắn. Giữa các cấp chính quyền địa phương cũng cần có sự phân cấp rõ theo

hướng việc nào đó cấp nào giải quyết sát với thực tế hơn thì giao quyền cho

cấp đó. Việc phân định trách nhiệm, thẩm quyền của các cấp chính quyền

phải phù hợp với tính chất và yêu cầu của từng ngành và từng lĩnh vực hoạt

động với chức năng nhiệm vụ của từng cấp chính quyền trên từng địa bàn.

Cấp tỉnh : Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các văn phòng

tỉnh, văn phòng huyện với tư cách là cơ quan tham mưu, giúp việc cho lãnh

đạo Đảng và Nhà nước bằng việc tăng cường cán bộ có trình độ năng lực tổng

hợp, nghiên cứu. Đây có thể coi là giải pháp quan trọng hàng đầu trong số các

giải pháp cải cách bộ máy chính quyền địa phương ở Lào hiện nay cũng phù

hợp với yêu cầu chung về mô hình chính quyền địa phương trưởng đơn vị

hành chính ở các nước là cần phải có bộ máy tham mưu, giúp việc tốt;

Kết hợp việc phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan

hành chính ở trung ương với việc đẩy mạnh công tác phân cấp cho chính

quyền địa phương; cần xác định rõ những lĩnh vực, công việc do bộ quản lý,

phạm vi những lĩnh vực phân cấp cho chính quyền địa phương;

Kết hợp việc sắp xếp cơ cấu bộ máy cơ quan hành chính cấp tỉnh, huyện,

bản. Sắp xếp lại các sở, ban của bộ, cơ quan ngang bộ đóng ở địa phương theo

tinh thần Nghị quyết đại hội IX của Đảng nhân dân cách mạng Lào và Chỉ thị

3 xây của thủ tướng chính phủ. Xác định cơ chế hợp lý phối kết hợp giữa các

chức danh lãnh đạo cấp uỷ Đảng (bí thư Đảng uỷ) và người đứng đầu cơ quan

hành chính ở các cấp chính quyền địa phương;

Sắp xếp, điều chỉnh các sở/ban chuyên môn tại thành phố theo mô hình

tổ chức bộ máy hành chính đô thị cho phù hợp với vị trí, tính chất, đặc điểm

và quy mô của thành phố. Điều chỉnh lại cơ cấu tổ chức các sở/ban cuả các

tỉnh theo mô hình tổ chức bộ máy quản lý hành chính ở nông thôn. Trong đó

128

có tính đến tính chất, đặc điểm riêng biệt của các tỉnh miền núi, biên giới,

vùng sâu, vùng xa của mỗi tỉnh.

Cải cách bộ máy hành chính cấp tỉnh phải đi đôi với xây dựng tỉnh trở

thành đơn vị chiến lược theo hướng:

- Quy định quyền và trách nhiệm về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế-

xã hội và văn hóa cho tỉnh-ủy ban hành chính cấp cao nhất ở địa phương rõ

ràng hơn, giao nhiệm vụ cho tỉnh có nhiều trách nhiệm trong tổ chức thực

hiện công tác chuyên môn và các chương trình phát triển địa phương (Ngoài

trừ các chương trình, dự án cấp nhà nước). Đồng thời phải phân chia lợi ích

cho tương xứng với trách nhiệm để thúc đẩy sự chủ động của tỉnh; đối với

tỉnh cũng phải nghĩ tới lợi ích chung của quốc gia và góp phần thực hiện

nghĩa vụ với Trung ương đúng theo pháp luật quy định.

- Quy định cơ chế và quy chế quản lý cán bộ làm việc tại tỉnh theo

hướng: giao quyền bổ nhiệm hoặc cách chức cán bộ có chức vụ giám đốc sở

cho tỉnh trưởng, nhưng phải dựa vào tiêu chí chức nghiệp của trung ương đề

ra và có sự phối hợp, xin ý kiến thành văn từ các cơ quan ngành dọc.

- Nghiên cứu các nguyên tắc về công việc không cho phép cấp tỉnh tự

quyết định (không có quyền quyết định), đặc biệt trong việc quản lý, khai thác

và sử dụng tài nguyên thiên nhiên; việc quản lý và sử dụng khoản thu nhập đã

thu được vượt quá kế hoạch; việc cho thuế hoặc bán tài sản nhà nước; việc

cho phép và đăng ký kinh doanh; việc quản lý phương tiện…

- Nghiên cứu tính khả thi trong việc thành lập các thành phố với việc

quy định rõ về chức năng nhiệm vụ. Thành lập Hội đồng nhân dân trong

tương lai, dựa trên điều kiện và khả năng thực tế cũng như tính tất yếu trong

việc tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, quan lý xã hội ở địa phương; Bởi

vì việc thực hiện quản lý nhà nước ở địa phương theo chế độ một thủ trưởng

không tránh được tình trang quan liêu, tham nhũng; cho nên việc thành lập

hội đồng nhân dân là giải pháp tốt, vì hội đồng nhân dân sẽ đại diện cho ý chí,

nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân; Hội đồng nhân dân là do nhân

dân bầu và chịu trách nhiệm trước nhân dân ở địa phương và cơ quan hành

129

chính cấp trên. Việc thành lập hội đồng nhân dân sẽ tạo điều kiện tốt cho việc

quyết định tập thể thay cho quyết định cá nhân về chủ trương, biện pháp quan

trọng để phát huy tiềm năng của địa phương và phát triển địa phương về mọi

mặt. Đồng thời hội đồng nhân dân sẽ là cơ quan thực hiện quyền giám sát đối

với hoạt động của Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính địa phương.

Cấp huyện: điều chỉnh lại tổ chức bộ máy các phòng/ban chuyên môn

của huyện theo mô hình tổ chức bộ máy hành chính đô thị, đảm bảo tính

thống nhất, không cắt khúc các đối tượng quản lý một cách thiếu thực tế. Điều

chỉnh lại tổ chức bộ máy các phòng/ban hành chính nông thôn. Trong đó cũng

tính đến tính chất, đặc điểm riêng biệt của các huyện biên giới, vùng đồng

bằng, ven đô.

Trong điều kiện hiện nay, cải cách bộ máy hành chính cấp huyện phải

đi đôi với việc xây dựng huyện trở thành đơn vị vững mạnh toàn diện theo

hướng:

- Quy định quyền và trách nhiệm quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã

hội và văn hóa đối với cấp huyện cho phù hợp, giao trách nhiệm cho huyện

nhiều hơn trong việc tổ chức thực hiện công tác chuyên môn và các chương

trình phát triển địa phương gắn liền với việc xóa đói giảm nghèo, xây dựng

làng phát triển và xây dựng đô thi nhỏ ở nông thôn; đồng thời phải phân chia

lợi ích cho huyện tương xứng với trách nhiệm nhằm khuyến khích sự chủ

động tham gia hoạt động công tác của huyện. Nhưng cấp huyện cũng phải

nghĩ tới lợi ích chung của tỉnh và góp phần thực hiện nghĩa vụ với cấp tỉnh.

- Quy định nguyên tắc về công việc không cho phép cấp huyện tự quyết

định (không có quyền quyết định) đặc biệt trong lĩnh vực quản lý, khai thác

và sử dụng tài nguyên thiên nhiên; việc quản lý nguồn thu - chi ngân sách;

quản lý tài sản nhà nước; việc cho phép đăng ký kinh doanh…

- Quy định cơ chế và quy chế quản lý cán bộ ở cấp huyện cho phù hợp,

giao quyền cho huyện trưởng bổ nhiệm hoặc cách chức cán bộ có chức vụ

trưởng phòng của cơ quan ngành dọc, dựa vào tiêu chí chức nghiệp đã quy

định và có sự phối hợp, xin ý kiến thành văn của cấp tỉnh.

130

- Cải cách, sắp xếp hệ thống tổ chức bộ máy của ủy ban hành chính

huyện cho phù hợp với điều kiện thực tế; đồng thời bố trí cán bộ cho phù hợp

với yêu cầu công việc và chương trình phát triển của mỗi huyện.

- Thành lập thị xã đúng theo luật chính quyền địa phương đã quy định;

từ đó quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ, đồng thời phải quy định số lượng

bản (làng) và dân số thuộc một huyện cho phù hợp để đảm bảo quá trình phát

triển và quản lý nhà nước ở cấp huyện. Khi thành lập thị xã phải đảm bảo các

tiêu chí: “thị xã là đơn vị hành chính địa phương, là đô thị, là trụ trở của ủy

ban hanh hành chính tỉnh, thành phố hoặc là các đô thị có đủ điều kiện theo

quy định của pháp luật; là khu vực đông dân, kinh tế, chính trị, văn hóa - xã

hội và dịch vụ phát triển, có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ở địa

phương, một thị xã bao gồm nhiều bản”[74, tr 18].

Cấp bản: Trong hệ thống bộ máy chính quyền 4 cấp của nhà nước,

phải đặc biệt chú trọng đến chính quyền cấp cơ sở (cấp bản), bởi vị trí, vai trò

của nó trong thực hiện quyền lực nhà nước và là cấp chính quyền cơ sở, có ý

nghĩa chiến lược, giải quyết mối quan hệ trực tiếp giữa nhà nước với nhân

dân. Cấp bản có vai trò quan trọng trong quản lý cộng đồng. Bản phải được tổ

chức chặt chẽ và đầy đủ các bộ phận tham mưu. Những người làm việc trong

chính quyền cấp bản phải được trợ cấp thỏa đáng mới kích thích họ làm việc

tích cực. Tạo điều kiện thuận lợi, xây dựng trụ sở làm việc cho chính quyền

cấp bản hoạt động tốt hơn.

Đối với cấp bản hãy chú ý đến tổ chức cụm bản hiện nay, bởi vì cụm

bản là cấp chính quyền địa phương mới xuất hiện những năm gần đây nhưng

chưa được đưa vào trong hệ thống hành chính Nhà nước. Cho nên cấn tiếp tục

nghiên cứu và đưa chính quyền cụm bản vào trong hệ thống chính quyền địa

phương, cho phù hợp với chức năng nhiệm vụ quản lý Nhà nước ở cơ sở. Có

quy định rõ về nhiệm vụ quyền hạn, nhận sự, trụ sở làm việc để trở thành một

đơn vị quản lý hành chính Nhà nước.

Khi cải cách bộ máy hành chính cấp bản phải gắn liền với việc xây

dựng làng phát triển theo hướng như sau:

131

- Xây dựng bản thành đơn vị phát triển theo 4 nội dụng và 4 mục tiêu.

Tiến hành sáp nhập bản cho phù hợp để xây dựng bản đảm bảo các tiêu chí

theo pháp luật quy định; bản nào có điều kiện tốt phải xây dựng bản phát

triển, quan tâm nhiều hơn về việc bố trí bản đảm bảo về hệ thống cơ sở hạ

tầng kinh tế - văn hóa- xã hội.

- Quy định khu trọng điểm phát triển của Trung ương, của tỉnh, của

huyện phù hợp với thế mạnh và sự cần thiết; đồng thời lên kế hoạch phát triển

và đưa vào trong kế hoạch phát triển và dự toán ngân sách nhà nước để tiếp

tục thực hiện đạt kết quả cao.

- Thực hiện chế độ bầu trưởng bản, đồng thời phải đề cử cán bộ đi làm

trưởng bản ở những nơi cần thiết. Thực hiện chế độ trợ cấp đối với trưởng bản

và các bộ phận giúp việc trong ủy ban hành chính bản phù hợp với điều kiện

kinh tế hiện nay.

- Chính quyền cấp cơ sở là do nhân dân bầu, tiếp xúc hàng ngày trực

tiếp với nhân dân. Cần tạo sự gần gũi với dân, dám chịu trách nhiệm trước

nhân dân, đồng thời thường xuyên khuyến khích tham gia vào các cuộc đối

thoại giữa công dân và các nhà chức trách một cách bình đẳng, nhằm giải

quyết thoả đáng các công việc của địa phương, của nhân dân. Hồ Chí Minh

chỉ rõ: “Nếu không có nhân dân thì chính phủ không đủ lực lượng; nếu không

có chính phủ thì nhân dân không có ai dẫn đường. Đảng lãnh đạo nhưng nhân

dân là chủ. Dân như nước, bộ đội như cá, lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân

hết. Tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào dân theo đúng đường lối quần

chúng sẽ tạo nên sức mạnh vô địch”[12, tr 282].

4.2.2. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy

hành chính nhà nước

Cần phân biệt được giữa các cơ quan hoạch định thể chế với các cơ

quan tổ chức thực hiện, tránh tình trạng lẫn lộn chức năng làm giảm hiệu quả

hoạt động. Phân biệt được các loại hình quản lý của các cơ quan hành chính

Nhà nước: cơ quan nào có chức năng quản lý nhà nước, cơ quan nào có chức

năng làm dịch vụ công, cơ quan nào có chức năng đào tạo, bồi dưỡng…Chức

132

năng, nhiệm vụ, thẩm quyền trách nhiệm giữa các cơ quan trong hệ thống tổ

chức bộ máy hành chính phải quy định cụ thể, rõ ràng, để tránh tình trạng vừa

chống chéo vừa bỏ sót, bỏ trống một số lĩnh vực.

- Nhiệm vụ, quyền hạn của chính phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ phải phân

định rõ. Phải có văn bản pháp lý mới phù hợp với điều kiện cụ thể. Ban hành

văn bản pháp luật mới thay cho Quyết định số 21/QĐ-BTC, của Bộ chính trị,

vì văn bản này đã cũ chưa quy định cụ thể chi tiết như việc quy định nhiệm vụ

quyền hạn của tỉnh trưởng trong việc quản lý cán bộ, công chức của Bộ, cơ

quan ngang bộ đang công tác tại địa phương, phải quy định cụ thể tỉnh trưởng

có quyền quản lý đến đâu, nội dung quản lý về những vấn đề gì phải được thể

hiện cụ thể bằng văn bản pháp luật.

+ Khi xảy ra tình trạng chồng chéo về chức năng thì thường có sự tranh

chấp kéo dài, các bên đều có những quan niệm, luận cứ khoa học, lý do thực

tiễn để chứng minh. Như vậy để giải quyết sự chồng chéo về chức năng thì

phải làm theo hướng sau:

- Chỉ khi nào sự trùng lắp, chồng chéo chức năng trong hệ thống thì cần

có sự phân công lại,

- Một việc chỉ có một cơ quan phụ trách chính, các cơ quan chức năng

khác tham gia là cơ quan phối hợp.

- Cơ quan được giao phụ trách, khi vi phạm nếu từ chối không nhận thì

Chính phủ vẫn bắt buộc phải nhận.

- Cơ quan hành chính nhà nước phải có đội ngũ cán bộ nhiều kinh

nghiệm có khả năng hoàn thành nhiệm vụ.

4.2.3. Tăng cường phân cấp giữa Trung ương với địa phương và

giữa các cấp trong hệ thống hành chính nhà nước

Đây là giải pháp rất quan trọng để thúc đẩy cải cách hành chính nói

chung, cải cách bộ máy hành chính nói riêng. Thực hiện phân cấp, phân

quyền quản lý trong hệ thống hành chính nhà nước được đặt ra như một nhu

cầu khách quan và rất cần thiết. Trong việc tiến hành phân cấp quản lý giữa

trung ương và địa phương phải thực hiện theo hướng sau:

133

- Cấp nào quản lý có hiệu quả thì giao cho cấp đó đảm nhiệm, Chính

phủ, các Bộ, ngành Trung ương đã và sẽ tiếp tục phân cấp ngày càng mạnh

các khâu quản lý cho địa phương. Trung ương phải tập trung vào chỉ đạo,

quản lý vĩ mô theo nội dung, đối tượng, phạm vi quản lý nhà nước đối với

toàn xã hội. Còn lại phân cấp cho địa phương khâu tổ chức thực hiện và quản

lý trực tiếp ở hầu hết các công việc trên địa bàn hành chính của mình.

- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước tập trung theo ngành dọc

những lĩnh vực an ninh, quốc phòng, ngoại giao, thuế, kho bạc, hải quan.

Phân cấp quản lý nhà nước các lĩnh vực khác theo phạm vi địa giới hành

chính cho chính quyền địa phương các cấp thực hiện Phân cấp nhiệm vụ thẩm

quyền, trách nhiệm của Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương cho chính

quyền địa phương trong từng lĩnh vực cụ thể: về tổ chức bộ máy; các nguồn

thu và chi ngân sách; kinh tế chung; kinh tế chuyên ngành; khoa học, công

nghệ và mội trường; văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao; lao động, việc

làm và các vấn đề xã hội; trật tự an toàn xã hội; tư pháp; ngoại vụ; nội vụ (tôn

giáo, dân tộc, biên giới, dân số, dân cư, địa giới hành chính...). Chính phủ

phải ban hành các cơ chế chính sách, tiêu chuẩn và kiểm tra việc thực hiện

của chính quyền địa phương các cấp.

- Định rõ, phân loại công việc, việc nào là chỉ một cấp làm, việc nào là

hai cấp thực hiện (nhưng phải chỉ rõ việc của từng cấp).Trong phân cấp, tránh

việc làm trùng lắp giữa các cấp mà không rõ trách nhiệm hoặc phân tán, cắt

khúc công việc ra theo từng cấp.

- Thực hiện việc phân cấp về tổ chức bộ máy cho chính quyền địa

phương theo hướng chính phủ quy định mô hình tổ chức bộ máy chung cho

các địa phương bao gồm các tổ chức cần phải có từ tỉnh đến huyện, bản; còn

những tổ chức cụ thể ngoài quy định chung thì các địa phương căn cứ vào đặc

điểm, đặc thù của từng địa phương mà quy định cho sát và phù hợp, song

không vượt quá số lượng tổ chức đã ấn định cho mỗi cấp chính quyền.

- Hiện nay, biên chế quản lý nhà nước của các địa phương do ban tổ

chức cán bộ chính phủ thống nhất quản lý và hàng năm giao chỉ tiêu biên chế

134

cho các địa phương. Quản lý biên chế luôn gắn với tổ chức bộ máy, do vậy,

tiến hành phân cấp về tổ chức bộ máy cho chính quyền địa phương sẽ gắn với

việc phân cấp quản lý biên chế. Vấn đề là cả hai công việc này cần phải được

phối hợp, cân đối một cách khoa học để việc phân cấp có hiệu quả nhất.

- Nghiên cứu cơ chế quản lý biên chế nhà nước theo khối lượng công

việc, theo cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức cần cho từng loại tổ chức để làm

cơ sở cho việc xác định biên chế và thực hiện các khoán biên chế và quỹ tiền

lương. Đây là các vấn đề được các địa phương quan tâm. Bởi vì đây cũng là

một giải pháp để tinh giản biên chế, giảm chi phí hành chính, tăng thu nhập

cho công chức và tăng hiệu quả của công tác quản lý nhà nước.

Việc phân cấp cần tiến hành khẩn trương, tích cực, song phải có bước

đi, cách làm cho phù hợp với từng ngành, từng vùng lãnh thổ, thực hiện việc

chuẩn bị chu đáo, qua các khâu khảo sát, xây dựng mô hình; tiến hành thí

điểm; sơ kết rút kinh nghiệm triển khai. “Nếu phân cấp được thiết kế không

tốt, hoặc được thực hiện giám sát không hợp lý, thì nó có thể làm cho sự kiểm

soát lỏng lẻo đối với hoạt động của chính quyền địa phương, ảnh hưởng đến

tăng trưởng kinh tế, quản lý Nhà nước và cung cấp dịch vụ”[32, tr 1].

Thực hiện quá trình phân cấp thẩm quyền trong quản lý và dịch vụ là

một vấn đề không đơn giản; cho nên phải chú ý rằng: “Nếu giao cho địa

phương có nhiều quyền quyết định sẽ tạo nên sự phân tán, chia rẽ, bản vị địa

phương; ngược lại, nếu phân cấp cho địa phương quá ít quyền hoặc thậm chí

địa phương không có quyền quyết định vấn đề gì cả, thì sẽ tạo ra sự trì trệ,

chờ đợi trung ương, làm cho bộ máy hành chính nhà nước trở nên kém hiệu

quả. Không thích ứng nhanh với những đòi hỏi và sự thay đổi của nền kinh tế

thị trường sôi động”[15, tr 38-39]. Vì vậy, khi thực hiện vấn đề phân cấp phải

cân nhắc thận trọng.

4.2.4. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các ngành, lĩnh vực

trong hệ thống hành chính nhà nước

Việc phối hợp trong các cơ quan hành chính nhà nước có vai trò quan

trọng quyết định đến sự thành công trong tổ chức và hoạt động của bộ máy

135

hành chính các cấp. Đối với cơ quan hành chính Trung ương phải thực hiện

đúng chức năng, nhiệm vụ, nắm rõ cơ chế tổ chức phối hợp trong khi giải

quyết công việc. Chính phủ phải ban hành các quy định để làm cơ sở cho việc

phối hợp giữa các cơ quan được thuận lợi và hiệu quả. Đối với các cơ quan

ngành dọc và ngành ngang phải có cơ chế tổ chức phối hợp nhuần nhuyễn.

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý theo ngành dọc với

chính quyền địa phương phải được quy định bằng văn bản pháp lý cụ thể, để

tránh tình trạng, làm một việc phải lắng nghe hai bên chỉ đạo, vừa nghe theo

cấp trên theo ngành dọc, vừa nghe sự chỉ đạo của chính quyền địa phương,

đôi khi có một số việc hai bên không thống nhất với nhau lại làm khó xử cho

các cơ quan thực hiện. chính vì vậy, phải được quy định cụ thể rõ ràng khi vi

phạm mới biết được trách nhiệm đó thuộc về ai.

+ Đối với việc phối hợp giữa các cơ quan hành chính Trung ương phải

thật chặt chẽ, đặc biệt mối quan hệ giữa các cơ quan của Chính phủ. Thủ

tướng, các phóThủ tướng nhất quyết không làm thay công việc của bộ trưởng,

thủ trưởng cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc chính phủ. Thủ tướng Chính

phủ, các phó thủ tướng cần tập trung vào công tác chỉ đạo, phối hợp công việc

giữa các bộ, ngành và địa phương, giải quyết những vấn đề vượt khỏi thẩm

quyền của bộ trưởng và trực tiếp nắm các vấn đề lớn, như lập quy, kế hoạch,

ngân sách, tổ chức và nhân sự hành chính cao cấp. Thực tế cho thấy, Chính

phủ, Thủ tướng Chính phủ còn giải quyết nhiều việc thuộc chức năng, nhiệm

vụ của các bộ, ngành. Do nhiều quy định về sự phối hợp giữa các bộ, ngành

với nhau, giữa các bộ và các tỉnh, thành phố còn thiếu chặt chẽ, dẫn đến tình

trạng các bộ, ngành thụ động, đẩy việc lên chính phủ và Thủ tướng Chính

phủ. Có nhiều vấn đề thuộc thẩm quyền của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan

ngang bộ nhưng các cơ quan này có xu hướng đẩy lên dùng quyền lực của

Thủ tướng Chính phủ thông qua hình thức các tổ chức tư vấn liên ngành để

việc thực hiện được thuận lợi hơn. Vì vậy, cần có các giải pháp hữu hiệu bảo

đảm cho Thủ tướng Chính phủ và các Phó thủ tướng không phải làm thay

công việc của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc chính

136

phủ, tập trung vào giải quyết những công việc đích thực thuộc trách nhiệm

của mình, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của chính phủ. Đây cũng là điều

kiện để giảm bớt các cuộc họp, các giấy tờ hành chính, đồng thời tiết kiệm chi

phí hành chính của Chính phủ.

+ Đối với việc phối hợp giữa các cấp và các công việc cụ thể phải làm

theo hướng sau:

- Đối với việc xây dựng kế hoạch và chương trình hoạt động ở địa

phương: Tại địa phương, các sở, ngành, đơn vị của các bộ có trách nhiệm

nghiên cứu, tổng hợp và xây dựng kế hoạch cụ thể trong lĩnh vực của mình,

sau đó trình lên văn phòng tỉnh tổng kết và xây dựng kế hoạch ngắn hạn, dài

hạn. Trước khi đề nghị lên cấp trên theo ngành dọc của mình phải có sự bàn

bạc, thống nhất với nhau, trong trường hợp không có sự thống nhất phải tổng

kết các ý kiến khác nhau cùng với kế hoạch đó trình đến văn phòng chính phủ

xem xét.

Các bộ, cơ quan ngang bộ trước khi xây dựng kế hoạch hoạt động

thường niên, 6 tháng, một kỳ, có tính chất bao trùm cả nước phải dựa vào kế

hoạch của các sở, ngành và đơn vị của mình ở địa phương như đã thống nhất

với chính quyền địa phương.

Mọi kế hoạch, chương trình của các bộ, cơ quan ngang bộ sau khi chính

phủ đã xem xét và phê duyệt chính thức phải gửi cho chính quyền địa

phương để thúc đẩy, khuyến khích tổ chức thực hiện và sau đó gửi các kế

hoạch đó xuống các sở, ngành và đơn vị ở địa phương biết và tổ chức thực

hiện. Chính quyền địa phương có nhiệm vụ báo cáo hoặc chứng minh kết quả

thành công trong quá trình tổ chức thực hiện kế hoạch, chương trình lên các

bộ và cơ quan ngang bộ thường xuyên; trong trường hợp có vấn đề trước khi

báo cáo lên cấp trên phải có sự thống nhất với các sở, ngành ở địa phương để

tránh tình trạng nội dung báo cáo trái ngược nhau hoặc không thống nhất.

- Đối với quản lý cán bộ phải có sự phối hợp chặt chẽ: quản lý cán bộ

công chức thực hiện theo nguyên tắc tập trung thống nhất trong phạm vi cả

137

nước trên cơ sở có sự phân cấp quản lý giữa trung ương, ngành chuyên môn

và địa phương.

Mỗi kỳ các sở ở cấp tỉnh phải báo cáo việc quản lý cán bộ công chức ở

chuyên ngành mình trước chính quyền địa phương để địa phương biết được

sự thay đổi về số lượng của cán bộ công chức. Trước khi bổ nhiệm, thuyên

chuyển và bãi nhiệm, kỷ luật những người có chức vụ từ giám đốc sở, phó

giám đốc sở, trưởng phòng cấp huyện thì lãnh đạo cấp Trung ương của các

ngành có liên quan phải phối hợp với chính quyền địa phương để thống nhất

với nhau; trong trường hợp ý kiến của lãnh đạo ngành dọc cấp trên và chính

quyền địa phương không thể quyết định được thì phải đề nghị tới Bộ nội vụ

xem xét.

Cán bộ công chức của các bộ và cơ quan ngang bộ trong khi đi thực

hiện công vụ ở địa phương phải có thủ tục để báo cáo và nêu mục đích, công

việc sẽ tổ chức thực hiện, thời gian, địa điểm với lãnh đạo chính quyền địa

phương biết để chỉ đạo, thống nhất, tạo điều kiện hoặc cùng nhau thực hiện

thành công; Nếu không nhận được sự đồng ý của lãnh đạo chính quyền địa

phương phải hoãn lại và trình lên Bộ nội vụ xem xét

Sở, ngành và đơn vị của bộ và cơ quan ngang bộ tại địa phương đại

diện cho bộ hoặc cơ quan ngang bộ đó, nhưng không có quyền quyết định

các vấn đề thay bộ hoặc cơ quan ngang bộ (Trừ trường hợp được ủy quyền

của bộ hoặc cơ quan ngang bộ) đồng thời tổ chức triển khai nghị quyết, mệnh

lệnh của chính quyền địa phương liên quan đến ngành của mình.

Tóm lại, để phối hợp được tốt nhất, phải có một hệ thống văn bản quy

phạm pháp luật đầy đủ và rành mạch quy định rõ quy chế làm việc, các mối

quan hệ, trong đó cần định rõ chế độ trách nhiệm và kỷ luật. Để bảo đảm cho

việc phối hợp hiệu quả vấn đề tinh thần trách nhiệm, cộng đồng, hợp tác...vẫn

có vai trò hết sức quan trọng.

4.2.5. Phát triển chính phủ điện tử trong hoạt động của bộ máy

hành chính nhà nước

Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan hành chính nhà nước

138

là nội dung không thể thiếu trong giai đoạn hiện nay. Đảng nhân dân Cách

mạng Lào nhấn mạnh: “khoa học công nghệ có vai trò quan trọng đối với quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. chính vì thế, phải tập trung nghiên cứu và

vận dụng sự thành công của khoa học công nghệ để khai thác và phát huy

tiềm năng của đất nước”[110, tr 83]. Để triển khai tinh thần nêu trên, Chính

phủ đã tập trung xây dụng Chính phủ điện tử để tạo điều kiện thuận lợi cho

mối quan hệ đối tác giữa Chính phủ, khu vực tư nhân và người dân.

Phát triển chính phủ điện tử là quá trình vận dụng công nghệ thông tin

vào trong hệ thống hành chính nhà nước từ các Bộ, cơ quan ngang bộ, vụ,

tỉnh, huyện và bản; nhằm tạo ra hệ thống quản lý hiện đại và cung cấp hệ

thống công nghệ hiện đại phù hợp đối với người dân. Mục đích của xây dựng

chính phủ điện tử là taọ điều kiện cho nhân dân có thể truy cập vào hệ thống

thông tin của nhà nước mọi lúc, mọi nơi thông qua mạng điện tử; thông qua

hệ thống điện tử này nhân dân ở cấp cơ sở, đặc biệt nhân dân ở vùng khó

khăn có thể nhận được dịch vụ do nhà nước cung cấp rất thuận lợi, vừa tiết

kiệm thời gian vừa tiết kiệm được chi phí. Chính phủ điện tử ngoài việc cung

cấp dịch vụ đến với người dân thì vẫn còn tạo điều kiện thuận lợi trong mối

quan hệ giữa chính phủ với nhau, giữa chính phủ với doanh nghiệp...có nhiều

thuận lợi và hiệu quả. Cho nên, trong quá trình cải cách bộ máy hành chính

nhà nước, xây dựng chính phủ điện tử cũng là nội dung rất quan trọng và

không thể thiếu. Nhưng để xây dựng chính phủ điện tử đáp ứng với đặc điểm

và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước Lào hiện nay cần phải tập

trung theo hướng sau:

- Trước hết chính phủ Lào cần ban hành các bộ luật để tạo điều kiện và

vận dụng chính phủ điện tử có hiệu quả như: luật giao dịch điện tử; luật công

nghệ thông tin; luật viễn thông...đây là nền tảng quan trọng để ứng dụng công

nghệ thông tin, truyền thông ở Lào nói chung và các dịch vụ công điện tử của

chính phủ nói riêng.

- Xây dựng hệ thống chính phủ điện tử thuận lợi, tạo được sự tin tưởng

cho các cơ quan nhà nước. Xây dựng cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin-

139

truyền thông và xây dựng cổng thông tin điện tử. Xây dựng cơ sở hạ tầng

trang thiết bị, kho dự phòng và các hệ thống an ninh. Sắp xếp, bố trí nguồn

nhân lực vào các lĩnh vực thực hiện chương trình ứng dụng, cơ sở dữ liệu, ổ

cứng và mạng. Hỗ trợ mỗi vùng thông qua bàn trợ giúp và các dịch vụ hành

chính.

- Đào tạo kỹ năng tin học cho đội ngũ cán bộ, công chức và công dân;

để phục vụ tốt các tổ chức và công dân, cần có đội ngũ cán bộ, công chức vận

hành hệ thống dịch vụ trực truyến một cách thành thạo. Đồng thời bản thân

các tổ chức và công dân tiếp nhận các dịch vụ này cũng cần có các hiểu biết

căn bản về công nghệ thông tin. Do đó, việc đào tạo kỹ năng, tin học cho đội

ngũ cán bộ, công chức và công dân là rất cần thiết. Chính phủ điện tử không

cần: “công chức điện tử” mà còn cần có “công dân điện tử”. Người dân chỉ có

thể tham gia các dịch vụ của chính phủ nếu những dịch vụ trực truyến này tốt,

thuận lợi, nhanh chóng. Công dân điện tử cũng là người đóng góp ý kiến hay

các ý tưởng để các dịch vụ công điện tử của chính phủ ngày càng nâng cao

chất lượng và hiệu quả.

- Bảo đảm an toàn và bí mật thông tin cá nhân của các dịch vụ công

trực truyến. Cho nên các chuyên gia an ninh mạng và công ty xây dựng phần

mềm dịch vụ công trực truyến cần lựa chọn phương án để hài hòa hai yếu tố

an ninh và sự thuận tiện. Nhưng cũng cần có biện pháp phòng ngừa với những

nguy cơ như: bị đánh cắp dữ liệu, sai lệch kết quả, sửa đổi thông tin, giả mạo.

Để phòng ngừa tất cả nguy cơ này các biện pháp đảm bảo an ninh phải được

thực hiện ở tất cả các tầng truy nhập.

- Xây dựng các chương trình bằng tiếng Lào để tạo điều kiện thuận lợi

cho nhân dân tham gia hiệu quả. Đồng thời phải đưa các chương trình này vào

trong hệ thống giáo dục các cấp; nhằm tạo cơ hội nghiên cứu và phát triển khả

năng về tin học của học sinh, sinh viên.

- Tăng cường thanh tra, kiểm tra trong tổ chức và hoạt động chính phủ

điện tử. Các hoạt động này cần được tiến hành thường xuyên, định kỳ để có

thể phát hiện những thiếu sót của các quy trình điện tử trong hoạt động của

140

nội bộ chính phủ hoặc những sai phạm trong các giao dịch điện tử của chính

phủ. Kiểm tra định kỳ còn có thể dự đoán được các rủi ro sẽ xảy ra, từ đó tìm

các biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa.

Tóm lai, xây dựng và phát triển chính phủ điện tử với công nghệ cao,

kỹ thuật hiện đại cho phép xử lý và chuyển thông tin nhanh chóng và chính

xác. Nhờ công nghệ thông tin và viễn thông chính phủ điện tử tiết kiệm được

thời gian và chi phí trong các công việc xử lý giấy tờ, do đó, tăng cường hiệu

quả trong hoạt động của chính phủ. Cho nên nếu thực hiện tốt và phát triển

chính phủ điện tử đi đúng hướng, phù hợp với đặc điểm ở Lào thì sẽ góp phần

phát triển nền hành chính nhà nước Lào hiện đại, minh bạch và hiệu quả.

4.2.6. Đề xuất một số mô hình bộ máy hành chính nhà nước Cộng

hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong tương lai

4.2.6.1. Phát huy hiệu quả chế độ kiêm nhiệm hai chức danh lãnh

đạo đảng và chính quyền

Trong điều kiện đất nước Lào ngày càng phát triển, nhà nước có rất

nhiều việc phải làm, nhưng đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng về chất lượng, cho

nên chưa đến lúc phải tách hai chức danh (mặc dù số liệu điều tra có tới 58%

tán thành với ý kiến tách hai chức danh, chỉ có 36% tán thành với ý kiến tiếp

tục thực hiện chế độ kiêm nhiệm). Trên thực tế mô hình kiêm nhiệm vẫn còn

phù hợp với điều kiện đất nước Lào hiện nay. Tuy nhiên, nếu duy trì theo mô

hình này cần phải phát huy hiệu quả theo hướng:

Một là, cán bộ lãnh đạo và quản lý phải có quy chế làm việc hợp lý,

điều chỉnh được thời gian, tập trung vào công việc, làm đúng vai trò của mỗi

chức danh cụ thể, không lẫn lộn, nhất định hiệu quả và chất lượng sẽ cao hơn.

Hiện nay khối lượng công việc nhiều, khó thực hiện hài hoà công tác đảng -

công việc chính quyền. Công việc của chủ tịch thường trực tiếp, cụ thể, khẩn

trương, đa dạng và phức tạp dễ lôi cuốn bí thư đồng thời là chủ tịch tập trung

cho công tác chính quyền, cho nên khi duy trì mô hình kiêm nhiệm hai chức

danh, cán bộ lãnh đạo quản lý phải giải quyết được hai công việc song song.

Vừa tập trung công sức cho công tác đảng và công tác chính quyền, biết phân

141

chia thời gian nghiên cứu chủ trương, đường lối, biết giành thời gian giải

quyết công việc của chính quyền cụ thể, có thời gian cho việc suy nghĩ, đề

xuất những chủ trương, kế hoạch lớn, thường xuyên đi cơ sở, chống tình trạng

quan liêu, thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát đầy đủ.

Hai là, duy trì chế độ kiêm nhiệm hai chức danh lãnh đạo đảng và

chính quyền sẽ giải quyết được mâu thuẫn, giải quyết công việc được nhanh

hơn. Mô hình kiêm nhiệm phải xác định rõ và làm tốt vai trò của mình, nhất

là khi ở “vai bí thư” phải giải quyết theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân

phụ trách, khi ở “vai chủ tịch” phải giải quyết theo nguyên tắc thủ trưởng

quyết định.

Ba là, mô hình kiêm nhiệm hai chức danh lãnh đạo đảng và chính

quyền cần phải có chế độ lựa chọn cán bộ hiệu quả, lựa chọn được những

người có khả năng thật sự để đảm nhiệm cả hai chức vụ bí thư đồng thời là

chủ tịch; tập trung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có chất lượng; đồng thời phải

luôn luôn được nâng cao về kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ công tác đảng và

quản lý nhà nước.

Bốn là, việc tuyển dụng cán bộ vào đảm nhiệm chức danh kiêm nhiệm

phải có đủ các tiêu chuẩn: về phẩm chất chính trị, phải có lập trường chính trị

vững vàng, kiên định và quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới,

kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối quan điểm của Đảng. Về năng lực lãnh

đạo quản lý, phải thể hiện việc vận dụng đúng đắn đường lối, chính sách của

Đảng và Nhà nước, chủ động sáng tạo, tham gia các quyết định của tập thể và

tổ chức có hiệu quả. Về kiến thức và kỹ năng chuyên môn, có trình độ lý luận

chính trị, hiểu biết lĩnh vực quản lý nhà nước, có khả năng thành thạo giỏi

việc của mình, biết sâu sắc và kỹ lưỡng việc chung. Về đạo đức cá nhân phải

có đạo đức cách mạng cần kiệm, liên, chính, chí công vô tư, có ý thức tổ chức

kỷ luật, giữ gìn đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan hành chính nhà nước, gắn

bó với quần chúng.

4.2.6.2. Mô hình bộ máy hành chính nhà nước tương lai

Trên cơ sở tham khảo mô hình bộ máy hành chính Việt Nam, Trung Quốc

142

Liên bang Nga và Hàn Quốc đã nêu trong chương 2. Cả 4 nước có hệ thống tổ

chức hành chính khác nhau: Đối với mô hình của Việt Nam và Trung Quốc là

nước xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo, liên minh công nông

làm cơ sở, chuyên chính dân chủ nhân dân. Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ

căn bản của hai nước. Mô hình của Việt Nam và Trung Quốc đã tổ chức theo

mô hình nhà nước đơn nhất, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên Trung

Quốc khác Việt Nam trong việc thực hiện chế độ kiêm nhiệm chức danh tổng

bí thư và chủ tịch nước. Cả hai mô hình này là điều kiện cần thiết trong việc

thiết kế mô hình tổ chức bộ máy cho CHDCND Lào.

Đối với mô hình của Liên bang Nga và Hàn Quốc, đều có sự khác biệt

về chế độ chính trị. Tuy nhiên, Liên bang Nga là quốc gia kế tục Liên Xô,

thực hiện mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên, tiến hành cải cách rất thành công

trong kỷ lục. Đối với Hàn Quốc là một nước dân chủ toàn diện và theo chế độ

cộng hòa Tổng thống; Thủ tướng Hàn Quốc do tổng thống chỉ định và lãnh

đạo chính phủ. Việc phân cấp quản lý của Hàn Quốc là giao quyền tự quản

cho địa phương để tạo điều kiện cho địa phương phát huy vai trò. Cho nên

việc học hỏi kinh nghiệm của các nước có nền hành chính khác nhau cũng là

điều kiện tốt trong việc vận dụng bài học quản lý công mới vào điều kiện đất

nước Lào hiện nay.

Những mô hình tổ chức bộ máy hành chính nhà nước của các nước nêu

trên, là tạo điều kiện cho việc thiết kế mô hình bộ máy hành chính Lào trong

tương lai như sau:

Đối với Trung ương:

Mô hình chính phủ được xây dựng theo quan điểm:

- Quyền lực nhà nước thống nhất, nhưng có sự phân công rành mạch;

cơ quan nào quản lý tốt nhất giao cho cơ quan đó làm, cấp nào quản lý có

hiệu quả giao cho cấp đó thực hiện.

- Xây dựng hệ thống hành pháp và hành chính thống nhất, theo thứ bậc

hành chính chặt chẽ.

- Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân Dân Cách Mạng Lào.

143

Tổ chức bộ máy Chính phủ như sau:

- Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, chỉ huy tối cao hệ thống hành

pháp và hành chính; là người đứng đầu chính phủ và do Quốc hội bầu ra trong

số đại biểu Quốc hội; ban hành các sắc lệnh và quyết định;

- Thủ tướng Chính phủ do Chủ tịch nước chọn trong số đại biểu Quốc

hội và do Quốc hội bầu; là người đứng thứ hai thực hiện quyền hành pháp và

người đứng đầu nền hành chính nhà nước.

- Các thành viên chính phủ do Thủ tướng đề nghị và Quốc hội bầu; các

thành viên chính phủ chịu trách nhiệm tập thể trước Chủ tịch nước và Quốc

hội và chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng, (xem hình 4.1)

Hình 4.1: Mô hình tổ chức bộ máy chính phủ Trung ương

Bầu

Bầu

Cử tri/công dân có quyền bầu cử

Đề cử

Bầu, miễn nhiệm

Quốc hội Chủ tịch nước

Theo đề nghị CTN CCTN

Bổ nhiệm, miễn nhiệm theo nghị quyết Quốc hội

Đề cử

Phê chuẩn theo

Thủ tướng chính phủ

Đề nghị của TT

- Các phó thủ tướng - Các thành viên CP

Đối với địa phương:

Trong tương lai, việc tổ chức bộ máy hành chính nhà nước địa phương

phải tuân thủ các nguyên tắc:

144

- Tư cách pháp nhân công pháp của các cấp chính quyền địa phương;

- Áp dụng thể chế tản quyền hay phân quyền địa phương đúng với thể

chế chính trị và điều kiện của đất nước.

- Thực hiện quyền tập trung và giám sát của Trung ương và quyền tự

quản của các địa phương (phân cấp, phân quyền của địa phương) theo luật

pháp quy định;

- Cấp chính quyền địa phương, cấp tỉnh có tỉnh và thành phố, cấp

huyện có huyện và thị xã, cấp bản có bản. Tuy nhiên cơ quan hành chính cấp

tỉnh và huyện đều phải có Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính các cấp.

còn đối với cơ quan hành chính cấp bản không tổ chức HĐND vì cấp này là

cấp cơ sở mang tính tự quản.

- Thực hiện chế độ bổ nhiệm các công chức lãnh đạo địa phương, trên

cơ sở bảo đảm tiêu chuẩn các chức danh quy định;

Sự thay đổi của bộ máy hành chính nhà nước sẽ dẫn đến sự thay đổi về

việc phân quyền giữa cơ quan hành chính trung ương và địa phương. Xu thế

phân quyền trong điều kiện mới trung ương không thể ôm đồm, với tay xuống

chính quyền địa phương như trước đây mà cần hướng tới xây dựng chính

quyền tự quản ở địa phương.

Một nguyên tắc quan trọng trong phân quyền là “việc gì cấp dưới có

khả năng làm tốt, tiện lợi hơn cho người dân và doanh nghiệp thì phân cho

cấp dưới làm và chịu trách nhiệm trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất trong

quản lý nhà nước”. Nhiều nước đã áp dựng nguyên tắc tự quản địa phương.

Chính quyền tự quản sẽ có chủ quyền trên các lĩnh vực chủ yếu của địa

phương như: ban hành các quy định riêng, thiết lập bộ máy, sử dụng viên

chức giúp việc. Quyết định tài chính và các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã

hội của địa phương. Như vậy, chính quyền địa phương được độc lập hoạt

động theo luật định. Các cấp chính quyền thực hiện chức năng kiểm tra,

hướng dẫn, giám sát về tính hợp pháp và hợp lý của chính quyền địa phương.

Về tổ chức bộ máy: tổ chức HĐND do dân bầu và lập ra cơ quan thực

thi hoạt động quản lý hành chính nhà nước và kiểm soát hoạt động của cơ

145

quan này. Về thực chất cơ quan quản lý hành chính nhà nước là cơ quan

thường trực của HĐND, do HĐND lập ra.

Như vậy, về nguyên tắc tổ chức chính quyền địa phương tự quản là

phân cấp theo lãnh thổ, tự phục vụ, tự quyết định và tự trang trai thu, chi ngân

sách tho hướng trọn gói. Ưu thế nổi trội của chính quyền địa phương tự quản

buộc phải quan tâm ngày càng nhiều lợi ích, nhu cầu chính đáng của nhân dân

địa phương và người dân sẽ tích cực tham gia các hoạt động của chính quyền

địa phương như thông qua các quyền bầu, miễn nhiệm đại biểu HĐND tỉnh,

HĐND huyện và trưởng bản khi mình không còn tín nhiệm; đồng thời có

nghĩa vụ đóng góp các hoạt động tự quản của địa phương (xem hình 4.2, hình

4.3 và hình 4.4).

Hình 4.2. Mô hình hiện nay: Tập trung thẩm quyền ban hành

Trung ương

Cấp tỉnh

Cấp huyện

Cấp bản

Càng xuống

thấp càng ít

thẩm quyền ban

hành chính sách

chính sách công vào cơ quan hành chính trung ương

146

Hình 4.3. Mô hình tương lai: Xu thế phân quyền cho địa phương

Trung ương (Chính phủ)

Chính quyền địa phương

Việc nào trung ương đã phân quyền cho địa phương

thì giao cho địa phương tự quyết định

Hình 4.4. Mô hình cơ quan hành chính nhà nước trong tương lai

Quốc Hội

Chủ tịch nước

Chính phủ

TANDTC

VKSNDTC

Sở

CQHC cấp tỉnh

HĐND Tỉnh

TANDPT

VKSNDPT

Phòng

CQHC cấp huyện

HĐND huyện

TAND tỉnh

VKSND tỉnh

Ban

CQHC cấp bản

VKSND Khu vực

TAND Khu vực

Bộ, CQ ngang bộ

Nhân Dân

Lưu ý: cơ quan hành chính các cấp có cơ quan chuyên môn giúp việc

147

Qua các giải pháp và một số mô hình trên cho thấy, nếu bộ máy hành

chính nhà nước ở CHDCND Lào điều chỉnh được theo hướng như vậy sẽ đảm

đảm được hiệu quả trong tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà

nước: Một là, góp phần phát huy dân chủ và công bằng trong các quan hệ

giữa cơ quan quản lý nhà nước với công dân và tổ chức; hai là, công khai

minh bạch về thông tin; ba là, chức năng, nhiệm vụ rõ ràng, có hệ thống phối

hợp nhuần nhuyễn, thông suốt từ trung ương đến địa phương; bốn là, hiện đại

hóa nền hành chính; năm là, thái độ phục vụ và ứng xử đối với công dân sẽ

tốt hơn, có độ tin cậy và sẵn sàng trong phục vụ; sáu là, tạo sự hài lòng trong

công việc của công chức, sự hài lòng của công dân.

Tiểu kết chương 4:

Cải cách bộ máy hành chính nhà nước ở CHDCND Lào là nội dung mà

Đảng và Nhà nước rất quan tâm suốt quá trình xây dựng và bảo về tổ quốc.

Chính vì vậy, để đảm bảo cho cải cách bộ máy hành chính nhà nước thành

công, Đảng nhân dân Cách mạng Lào đã đưa ra nhiều quan điểm, định hướng

để làm cơ sở vững chắc trong quá trình tổ chức và triển khai vào thực tế phù

hợp với điều kiện khách quan. Những quan điểm nêu trên đều thể hiện được

tính pháp lý, tính nguyên tắc, tính dân chủ...Làm tốt một số quan điểm trên có

thể góp phần vào quá trình cải cách bộ máy hành chính đi đúng hướng và có

hiệu quả. Chính vì vậy, để phát huy tinh thần của Đảng nhân dân Cách mạng

Lào trên, Nhà nước đã chủ động triển khai cải cách bộ máy hành chính vào

thưc tế có hiệu quả; nhưng vẫn còn mặc phải những hạn chế nhất định. Vì thế,

để góp phần vào giải quyết những vấn đề trên, tác giả đã đưa ra một số đề

xuất cải cách cơ cấu bộ máy hành chính nhà nước; về chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước; về sự phân cấp và phối hợp

quản lý giữa trung ương và địa phương, giữa các ngành lĩnh vực và đề xuất

phát triển chính phủ điện tử và đề xuất một số mô hình tổ chức bộ máy hành

chính nhà nước Lào trong tương lai nhằm xây dựng nền hành chính thực sự

phục vụ nhân dân được tốt hơn và hiệu quả hơn.

148

KẾT LUẬN

Cải cách bộ máy hành chính Nhà nước là một vấn đề khó khăn phức

tạp, là công việc cần thiết của các quốc gia trên thế giới. Là nội dung then

chốt không thể thiếu trong cải cách hành chính. Nước nào giải quyết nhanh,

tiến hành đúng lúc, đúng mức và kịp thời sẽ góp phần tích cực trong quá trình

thiết kế tổ chức bộ máy hành chính nhà nước gọn nhẹ, phù hợp và có hiệu

quả; có khả năng điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính

nhà nước hợp lý, rõ ràng; làm cho việc phân công phân cấp quản lý hiệu quả

tránh được tình trạng chồng chéo, trùng lắp; tạo lập được mối quan hệ phối

kết hợp các ngành lĩnh vực chặt chẽ tác động tích cực đến quá trình phát triển

kinh tế - xã hội của đất nước.…Để đáp ứng yêu cầu trên luận án tiến sĩ đã tập

trung nghiên cứu một số nội dung:

Luận án tập trung nghiên cứu các công trình của các tác giả về nội dung

liên quan đến cải cách bộ máy hành chính nhà nước; trong đó gồm có các

công trình nghiên cứu của Việt Nam, công trình nghiên cứu của một số tác giả

ở Lào và công trình nghiên cứu của một số nước. Từ đó đánh giá các kết quả

nghiên cứu của các tác giả và đưa ra một số nội dung mà tác giả trên chưa đề

cấp tới nhằm mục đích giải quyết những nội dung quan trọng và sát với thực

tế của CHDCND Lào.

Để làm rõ cơ sở lý luận, luận án tập trung đưa ra các quan điểm, định

nghĩa, giải đáp những từ khóa; đặc biệt làm rõ các khái niệm liên quan về cải

cách bộ máy hành chính nhà nước; đưa ra mục đích, yêu cầu, nội dung và

nguyên tắc trong cải cách bộ máy hành chính; đồng thời nghiên cứu kinh

nghiệm của một số nước và rút ra bài học cho quá trình cải cách nhà nước ở

CHDCND Lào.

Từ đó nghiên cứu thực trạng, xuất phát từ đặc điểm chung của nhà

nước Lào; nêu và phân tích thực trạng cải cách bộ máy hành chính nhà nước

trong thời gian qua, tập trung vào những nội dung quan trong: thực trạng về

kiêm nhiệm hai chức danh lãnh đạo đảng và chính quyền; về cải cách cơ cấu

149

bộ máy hành chính trong đó nêu rõ quá trình cải cách cơ cấu bộ máy hành

chính Trung ương và địa phương; phân tích về chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn của bộ máy hành chính nhà nước; phân tích việc phân cấp quản lý giữa

Trung ương và địa phương, việc tổ chức phối hợp giữa các cơ quan hành

chính nhà nước cũng như các ngành, lĩnh vực; từ đó nghiên cứu quá trình xây

dựng nền hành chính hiện đại trong thời gian qua. Từ kết quả trên luận án có

đề cập một số hạn chế trong quá trình cải cách; đây chính là chỗ dựa trong khi

đề xuất một số giải pháp.

Để bảo đảm cho việc đề xuất các giải pháp; luận án nghiên cứu các

quan điểm của Đảng nhân dân Cách mạng Lào về cải cách bộ máy hành chính

nhà nước, các quan điểm trên đều thể hiện tính cấp bách, sự cần thiết khách

quan trong cải cách bộ máy hành chính, đồng thời thể hiện được sự đúng đắn

trong đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước. Để góp

phần vào cải cách bộ máy hành chính nhà nước thành công; luận án đề xuất

một số giải pháp như: một là, cải cách cơ cấu bộ máy hành chính cả trung

ương và địa phương, theo hướng gọn nhẹ, phù hợp và hiệu quả; hai là, xác

định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong hệ thống hành

chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở; ba là, phân cấp quản lý giữa bộ máy

hành chính Trung ương và địa phương; bốn là, tổ chức phối hợp giữa các

ngành, lĩnh vực; năm là, xây dụng và phát triển chính phủ điện tử để cung cấp

các dịch vụ công đáp ứng với nhu cầu ngày càng cao của nhân dân; sáu là đề

xuất mô hình tổ chức bộ máy hành chính nhà nước Lào trong tương lai nhằm

xây dựng bộ máy hành chính hiện đại và phục vụ nhân dân được tốt hơn,

nhanh hơn, hiệu quả hơn. Những đề xuất trên là có cơ sở khoa hoc, có tính

khả thi và phù hợp với điều kiện cải cách bộ máy hành chính ở CHDCND

Lào hiện nay. Tuy nhiên, luận án chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết, các lập

luận còn nhiều yếu tố chủ quan, cần có thời gian hoàn thiện, phát triển. Tác

giả mong được sự chỉ giáo của quý thầy cô, các nhà khoa học trong hội đồng,

và sự góp ý của độc giả và các bạn học viên, nghiên cứu sinh về những khiếm

khuyết của luận án. Xin chân thành cảm ơn.

150

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

1. Khăm Mon Chăn Thạ chít: “Cải cách hành chính nhà nước Cộng hòa Dân

chủ Nhân dân Lào trong điều kiện hiện nay”, Tạp chí Lý luận Chính trị -

Hành chính, Học viện chính trị và Hành chính Quốc gia Lào số tháng

5,6/2015.

2. Khăm Mon Chăn Thạ Chít: “Cải cách bộ máy hành chính nhà nước Cộng

hòa Dân chủ Nhân dân Lào”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 235, tháng

8/2015.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHẦN TIẾNG VIỆT: 1. Đào Duy Anh, Từ điển Hán-Việt, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, năm 1996.

2. Bộ nội vu, Học viện hành chính quốc gia (2014), tài liệu bồi dưỡng ngạch

chuyên viên chính, Nxb, Bách khoa.

3. Thiên Bình, Cải cách Trung quốc, Chính sách của Tập Cận Bình, 2015.

4. Nguyễn Chiến (2013), Cải cách hành chính: kinh nghiệm từ quốc tế.

5. Ngô Thành Can (2013), tổng quan về nghiên cứu khoa học hành chính

(sách chuyên khảo), Nxb, lao động, Hà Nội.

6. Chăn Pheng Phong Si Khăm (2007), luận văn: “Bộ máy hành chính nhà

nước CHDCND Lào, sơ lược và định hướng hoàn thiện”, luận văn thạc sĩ

quản lý hành chính công, học viện hành chính thành phố Hồ Chí Minh.

7. Lê Sĩ Dược(2000) cải cách bộ máy hành chính cấp trung ương trong cộng

cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta, Nxb, chính trị quốc gia.

8. Nguyễn Hồng Diên (2009): “Tổ chức và hoạt động của chính quyền tỉnh

theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”,

luận án tiến sĩ quản lý hành chính công, Học viện hành chính quốc gia.

9. Phan Hữu Dật (chủ biên)(1984): Phương sách dùng người của ông cha ta

trong lịch sử, Nxb, Chính trị quốc gia.

10. Giáo trình quản lý và phát triển tổ chức hành chính nhà nước(2006), Nxb

giáo dục, Hà Nội.

11. Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật (2007), Nxb, Khoa học

và kỹ thuật.

12. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (2009) dành cho sinh viên đại học - cao

đẳng khối không chuyên ngành Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb

chính trị quốc gia.

13. Giáo trình quản lý Nhà nước đối với tổ chức phi chính phủ(2009), Nxb

Khoa học và kỹ thuật.

14. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, năm 2013.

15. Tô Tử Hạ “Cải cách hành chính địa phương, lý luận và thực tiễn”, Nxb

chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.

16. Nguyễn Ngọc Hiến(2001) (chủ biên), các giải pháp thúc đẩy cải cách

hành chính ở Việt Nam, Nxb chính trị quốc gia.

17. Nguyễn Ngọc Hiến (2002), vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ

công, Nxb, văn hóa, thông tin.

18. Hành chính công dùng cho nghiên cứu và giảng dạy sau đại học (2006),

Nxb, khoa học và kỹ thuật.

19. Hành chính công, Nxb, khoa học và kỹ thuật, Hà Nội 2006.

20. Đinh Ngọc Hiện (chủ biên), Thuật ngữ hành chính, Hà Nội, 2009.

21. Nguyễn Hữu Hải (2013), tìm hiểu hành chính công Hoa Kỳ, lý luận và

thực tiễn, Nxb, Chính trị quốc gia.

22. Nguyễn Thị Hồng Hải, (2014)“cải cách hành chính nhà nước”, tài liệu bồi

dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý nước CHDCND Lào.

23. Nguyễn Hữu Khiển (2007), Hỏi-đáp về quản lý hành chính nhà nước, tập

2, Nxb, lý luận chính trị.

24. Bùi Huy Khiên (2013), quản lý công (sách chuyên khảo), Học viện hành

chính quốc gia, Nxb, Chính trị-Hành chính.

25. V.I. Lênin (1978), toàn tập, tập 33, nhà xuất bản tiến bộ, Matxcơva.

26. V.I. Lênin (1978) “Thà ít mà tốt”, tập 45, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va.

27. Luật tổ chức chính phủ Việt Nam, 2001

28. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân Việt Nam, ngày 26

tháng 11 năm 2003.

29. Luật tổ chức Chính phủ Việt Nam, năm 2015

30. Luật tổ chức chính quyền địa phương Việt Nam, năm 2015.

31. Đào Thị Kim Loan (2007) luận án tiến sĩ: “Cải giải pháp hoàn thiện cơ

cấu bộ máy bên trong của các bộ trong giai đoạn cải cách hành chính nhà

nước hiện nay”.

32. Ngân hàng thế giới “phân cấp ở Đông Á để chính quyền địa phương phát

huy tác dụng”, Nxb, văn hóa thông tin, năm 2005.

33. Nghị quyết Ban hành chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước

giai đoạnh 2011-2020, số 30/NQ-CP, ngày 08/11/2011.

34. Than Văn Phúc (2001), cải cách hành chính nhà nước, thực trạng, nguyên

nhân và giải pháp, Nxb, chính trị Quốc gia, Hà Nội.

35. Đặng Xuân Phương (2011), “Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Bộ, cơ

quan ngang bộ trong quá trình cải cách hành chính ở Việt Nam”, Sách

chuyên khảo, Nxb chính trị quốc gia-sự thật, Hà Nội.

36. Nguyễn Thị Phượng (2013), Tổ chức đơn vị hành chính lãnh thổ Việt

Nam, Nxb, Chính trị quốc gia.

37. Nguyễn Thị Phượng “Minh bạch hóa hoạt động quản lý hành chính Nhà

nước từ lý luận tới thực tiễn”. Tạp chí quản lý nhà nước, Học viện hành

chính quốc gia số 222 (7/2014)

38. Sổ tay pháp lý thông dụng, Nxb Giáo dục, 1998.

39. Võ Kim Sơn (2004), Phân cấp quản lý nhà nước, lý luận và thực tiễn, Nhà

xuất bản chính trị quốc gia.

40. Diệp Văn Sơn (2006), Cải cách hành chính, những vấn đề cần biết, Nxb

lao động, Hà nội.

41. Từ điển tiếng Việt, Nxb, Đà Nẵng, 1997.

42. Từ điển cải cách hành chính và cải cách kinh tế(2001), Nxb, Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

43. Từ điển hành chính, Dự án cải cách hành chính - VIE/92/2002, Hà Nội.

44. Lê Anh Tuấn (2003), cải cách hành chính theo lý thuyết quản lý công mới

ở Nhật Bản và một số nước ASEAN.

45. Từ điển luật học, Nxb Tư pháp, năm 2006.

46. Nguyền Phương Thảo: Kinh nghiệm về tổ chức chính quyền địa phương

của một số nước trên thế giới, năm 2014.

47. Thuật ngữ hành chính(2009), viện nghiên cứu khoa học hành chính, học

viện hành chính quốc gia, Hà Nội.

48. Lê Sĩ Thiệp, Cải cách bộ máy hành chính cấp Trung ương trong công

cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.

49. Tinh Tinh (2002), Cải cách chính phủ cơn lốc chính trị cuối thế kỷ XXI,

Nxb, Công An nhân dân.

50. Nguyễn Văn Thâm (2003), tổ chức điều hành hoạt động của các công sở,

Nxb, chính trị quốc gia.

51. Tài liệu bồi dưỡng trưởng thôn, bản về quản lý nhà nước(2007), Nxb,

Khoa học và kỹ thuật.

52. Thái Vĩnh Thắng: Thể chế chính trị các nước Châu Âu, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội, 2008.

53. Nguyễn Ngọc Thanh (2013)“Đổi mới nhằm nâng cao chất lượng chính

quyền cấp cơ sở ở nước ta hiện nay”, luận án tiến sĩ quản lý hành chính

công, Học viện hành chính quốc gia, Hà Nội.

54. Tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước, tập bài giảng dùng cho đào tạo cử

nhân hành chính, Hà Nội, năm 2013.

55. Đoàn Trọng Truyến (1997), Hành chính học đại cương, Nxb, chính trị

quốc gia Hà Nội.

56. Đoàn Trọng Truyến (2000), đề tài: “cải cách hành chính và cải cách kinh

tế”, Hà Nội.

57. Đoàn Trọng Truyến (2006), cải cách hành chính và công cuộc xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb, tư pháp.

58. Bùi Thế Vĩnh (2006), mười hai vấn đề về thiết kế và phân tích tổ chức các

cơ quan hành chính nhà nước, Nxb, giao thông vận tải, Hà Nội.

59. Viện nghiên cứu khoa học hành chính “thuật ngữ hành chính”, năm 2009.

60. En So La Thi (2000), luận án tiến sĩ: “Xây dựng Nhà nước đảm bảo quyền

lực của nhân dân lao động ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong

giai đoạn hiện nay, luận án tiến sĩ chính trị học, Học viện chính trị và

hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

61. Gerald E Caiden (1961), Cải cách hành chính, Nxb, Allen Lane the

Penguin.

62. James D. Wolfensohn (1997), “Nhà nước trong một thế giới đang chuyển

đổi”, do Ngân hàng thế giới ấn hành. Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.

63. RICH ARD C.SCHOEDER (1999) “An Outline of AMERICAN

Government”, (Khái quát về chính quyền Mỹ), sách tham khảo Nxb

chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Salvatore SChiavo-Campo và Pachampet Sundaram (2003) “Phục vụ và

duy trì: Cải thiện hành chính công trong một thể giới cạnh tranh”, Sách

tham khảo, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

65. The World BanK (2005): “Phân cấp ở Đông Á để chính quyền địa

phương phát huy tác dụng. Nxb, văn hóa thông tin, Hà Nội.

66. http/www. chính phủ việt Nam, năm 2015.

67. http/www. Kết quả nghiên cứu về cải cách hành chính tại Trung quốc,

Hàn Quốc, Singapore, năm 2013.

68. http://www.nclp.org.vn.

PHẦN TIẾNG LÀO

(Cay Xon Phôm Vi Han (1985) Tuyển tập, tập I)

(Cay Xon Phôm Vi Han (1987), tuyển tập, tập II)

(Cay Xon Phôm Vi Han (1997), tuyển tập, tập III)

(Cay Xon Phôm Vi Han (2005), tuyển tập, tập IV)

69. Ä¡¦º­ ²ö´¸ò¹¾­ (1985) ­ò²ö­Àìõº¡-À³˜­-, -͘´ I 70. Ä¡¦º­ ²ö´¸ò¹¾­ (1987) ­ò²ö­Àìõº¡-À³˜­-, -͘´ II 71. Ä¡¦º­ ²ö´¸ò¹¾­ (1997) ­ò²ö­Àìõº¡-À³˜­-, -͘´ III 72. Ä¡¦º­ ²ö´¸ò¹¾­ (2005) ­ò²ö­Àìõº¡-À³˜­-, -͘´ IV. 73. ¡ö©ì½®¼®¢º¤²ñ¡¯½§¾§ö­ ¯½ªò¸ñ©ì¾¸, ¯ó 2011.

(Điều lệ của Đảng Nhân Dân Cách Mạng Lào, năm 2011)

¡ö©Ï¾¨-¡¾­-¯ö¡£º¤-êɺ¤-«…­,

-Àì¡êó

03/¦²§,

¸ñ­-êó

74. 21/10/2003-.

(Luật Tổ Chức Chính quyền địa phương, số 03/QH, ngày 21/10/2003)

75. ¡ö©Ï¾¨-§ñ®-¦ö´®ñ©-꾤-¯ñ­¨¾ -Àì¡êó 08/¦²§, ­½£º­Í¸¤-¸¼¤-

¥ñ­, ¸ñ­-êó 24/12/2007.

(Luật tài sản tri thức số 08/QH, Thủ đô Viêng Chăn, ngày 24/12/2007)

76. ¡½§¸¤-¡¾­-ªÈ¾¤¯½-Àê© (2013), -º¡¾© -Áì½ ¦…¤-êɾ-꾨-

¢º¤ ¯½-Àê© ¦¾ê¾ì½­½-ìñ© ¯½§¾êò¯½-Ν½§¾§ö­-쾸 í-¡¾­-

À¢í¾-»È¸´-¦½´¾£ö´-º¾-§¼­;

²ò´-¥¿ÎȾ¨-©¨¡ö´-º¾§¼­,

­½

£º­Í¸¤-¸¼¤-¥ñ­.

(Bộ ngoại giao (2013), cơ hội và thách thức của nước CHDCND Lào khi hội nhập

AEC, Nxb, vụ ASEAN, Thủ độ Viêng Chăn)

77. ¢Ó-ªö¡ìö¤ ¢º¤-­¾¨ö¡ ¸È¾-©É¸¨ ¡¾­¥ñ©-ª˜¤-£÷É´-£º¤-®É¾­,

ìö¤-¸ñ­-êó 7/8/1993.

(Quyết định của Thủ tướng về việc tổ chức quản lý cấp bản, ngày 7/8/1993)

78. ¢Ó-ªö¡ìö¤-¢º¤ ¦½²¾-ìñ©«½´ö­ªó Àì¡êó 30/¦²ì, ¸ñ­-êó 9/1/1984

¡È¼¸-¡ñ® ¡¾­-Á®È¤-Îɾ-†, ¦©-¢º®-À¢© ¡È¼¸-¡ñ® ¡¾­-£÷É´-

£º¤-À¦©«½¡ò© ì½¹¸È¾¤-¦ø­-¡¾¤ -Áì½ êɺ¤-«…­.

(Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng số 30/QH, ngày 9/1/1984 về việc phân công

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý kinh tế giữa Trung ương và địa phương)

¢Óªö¡ìö¤ Àì¡êó 03/£¯ºì

ìö¤¸ñ­êó 21

´ñ¤¡º­ 2009

79.

¸È¾©É¸¨¡¾­»ñ®»º¤Àºö¾´¾©«¾­

¡¾­¥ñ©¯½À²©À´õº¤ Áì½

¡¤¥¡¡¾­¥©ª˜¤¢˜­À´º¤Ã­‰¸¯½À©.

(Quyết định số 03/UBCN, ngày 21/1/2009, về việc quy định tiêu chuẩn phân loại

huyện và bộ máy tổ chức hành chính cấp huyện cả nước)

80.

¢Óªö¡ìö¤Àì¡êó 03/¡´¦²,

ìö¤¸ñ­êó 20

²ô©¦½²¾ 2011

¸È¾©É¸¨¡¾­¦É¾¤®É¾­À¯ñ­¹ö¸Îȸ¨

²ñ©ê½­¾,

¦É¾¤®É¾­Ã¹¨ÈùÉÀ¯ñ­ªö¸À´õº¤­Éº¨Ã­§ö­­½®ö©.

(Quyết định số 03/BCT, ngày 20/5/2011 về xây dựng bản trở thành đơn vị phát triển,

xây dựng bản lớn thành khu đô thị ở nông thôn)

81.

¢Ó-ªö¡-ìö¤-

¢º¤-¡½§¸¤-²¾¨-í Àì¡êó 674/²­,

ìö¤¸ñ­êó

27/9/2012

¸È¾©É¸¨¡¾­¥©ª˜¤

Á½

¡¾­À£ˆº­Ä¹¸¢º¤º¤¡¾­¯¡£º¤®É¾­.

(Quyết định của Bộ nội vụ số 674/NV, ngày 27/9/2012 về tổ chức và hoạt động của

cơ quan hành chính cấp bản)

82. ¢Óªö¡ìö¤ Àì¡êó 104/­¨, ìö¤¸ñ­êó 4 ¡ñ­¨¾ 2012 ¸È¾©É¸¨

¡¾­£÷É´£º¤²½­ñ¡¤¾­Œìñ©«½ ¡º­ ª¾´¢½ÁΤ¡¾­µøÈêɺ¤«…­.

(Quyết định số 104/CP ngày 4/9/2012 về việc quản lý cán bộ-công chức theo ngành

ở địa phương).

83.

¢Óªö¡ìö¤Àì¡êó 631/²­,

ìö¤¸ñ­êó 4/9/2012

¸È¾©É¸¨

¡¾­ºº¡Àº¡½¦¾­ê¾¤ìñ©«½¡¾­ ¢º¤ºö¤¡¾­¯ö¡£º¤®É¾­.

(Quyết định số 631/NV, ngày 4/9/2012 về việc ban hành các thủ tục hành chính của

cơ quan hành chính cấp bản)

84. ¢Óªö¡ìö¤¢º¤­¾¨ö¡Àì¡êó 99/­¨, ìö¤¸ñ­êó 8/10/2013 ¸È¾©É¸¨

¡¾­¯ñ®¯÷¤ì½®º®º÷©Îø­

ùɲ½­¡¤¾­¢˜­®É¾­†®Ò´À¤­À©º­.

(Quyết định của Thủ tướng số 99/CP, ngày 8/10/2013 về cải cách chế độ hỗ trợ đối

với cán bộ cấp bản không có lương)

85. £¤¡¾­ ¡¾­À´õº¤¢º¤²ñ¡ ¯½§¾§ö­¯½ªò¸ñ©ì¾¸, 1972.

(Cương lĩnh chính trị của Đảng Nhân Dân Cách Mạng Lào, năm 1972)

86. £¿-²ñ­ ¸ò²¾-¸ñ­ (2001) “®¾¤-Á­¸-£¸¾´-£ò© ¡È¼¸-¡ñ® ¡¾­-

®øì½­½¡ö¤¥ñ¡-ìñ©«½®¾­” ¸¾-ì½-¦¾­- º¾-ì÷­-ÃÏÈ, -À©õº­ 4 /

2001. (Phăn Khăm Vi Pha Văn (2001) “một số suy nghĩ về cải cách bộ máy chính phủ”, tạp chí ALUNMAY, tháng 4/2001)

87. £¿-´ø­ ¸ò-²ö¤-ħ (2005), ®ö©-¸ò꽨¾¦¾©: “¯½ªò-»ø®-º¿­¾©-

¡¾­-¯ö¡£º¤-êɺ¤-«…­ À²ˆº²©

½­¾-À¦©«½¡ò©Œ¦ñ¤£ö´”,

¦½«¾®ñ­-¡¾­-À´õº¤ -Áì½ ¡¾­-¯ö¡£º¤-Á¹È¤-§¾©ì¾¸. (Khăm Moon Vi Phông Xay (2005), đề tài khoa học: “cải cách chính quyền địa

phương nhằm phát triển kinh tế - xã hội”, Học viện chính trị và hành chính quốc gia

Lào)

88. £½­½Â£¦½­¾ºö®»ö´¦ø­¡¾¤²ñ¡(2011), Àº¡½¦¾­À°ó¨Á°Èº½êò®¾¨

À­ºÃ­´½ª¡º¤ ¯½§÷´ ù¨È£˜¤ê IX ¢º¤²ñ¡ ¯½§¾§ö­ ¯½ªò¸ñ©ì¾¸.

(Ban tuyên huấn trung ương Đảng, tài liệu phổ biến nội dung nghị quyết đại hội IX

của Đảng Nhân Dân Cách Mạng Lào)

89. £¿´ø­ ¸ò²ö¤Ä§ (2012), ¦½²¾®-¡¾­¥©ª˜¤¡¤¥¡-ìñ© -Á-ì½ êò©-꾤, -¸òêó¡¾­¯È¼­-Á¯¤-ÃÏÈ¡¾­¥ñ©-ª˜¤¡¤¥¡-ìñ© ª¾´-

£¸¾´-ªÉº¤¡¾­¦É¾¤-ìñ©-Á¹È¤-¡ö©Ï¾¨

--í-À¤ˆº­-

Ä¢²ñ©ê½­¾-À¦©«½¡ò©-¦ò­£É¾ ª¾´-¡ö­-Ä¡-ª½Í¾© ª¾-´êò©-

¦ñ¤£ö´-­ò¨ö´ µøÈ- ¦¯¯ 쾸. (Khăm Moon Vi Phông Xay (2012), thực trạng tổ chức bộ máy nhà nước và phương

hướng, giải pháp đổi mới việc tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng Nhà

nước pháp quyền trong điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường

định hướng XHCN ở CHDCND Lào)

90.

£¿¦„¤Àì¡êó 16/­¨

ìö¤¸ñ­êó 15

/6-/2012

¸È¾©É¸¨

¡¾­êö©ìº¤¦É¾¤Á¢¸¤À¯ñ­¹ö¸Îȸ¨¨÷©

꽦¾©,

¦É¾¤À´º¤À¯­¹¸Îȸ¨À¢˜´Á¢¤»º®©É¾­

Á½

¦É¾¤®É¾­À¯ñ­¹ö¸Îȸ¨²ñ© ê½­¾. (Chỉ thị số 16/CP, ngày 15/6/2012 về thí điểm xây dựng tỉnh trở thành đơn vị chiến

lược, xây huyện trở thành đơn vị vững mạnh toàn diện và xây bản trở thành đơn vị

phát triển)

91. £¿Á­½­¿¡È¼¸¡®¡¾­¥©ª˜¤¯½ª®© £¿¦„¤¢º¤­¾¨¡©«½´­ª

Àì¡êó 01/­¨,

ìö¤¸ñ­êó 13

¡ð콡ö© 2012

¸È¾©É¸¨

¡¾­êö©ìº¤¦É¾¤Á¢¸¤À¯ñ­¹ö¸Îȸ¨¨÷©ê½¦¾©,

¦É¾¤À´õº¤ À¯ñ­

¹¸Îȸ¨À¢˜´Á¢¤»º®©É¾­, ¦É¾¤®É¾­À¯­ ¹¸Îȸ¨²©½­¾. (Hướng dẫn về tổ chức thực hiện chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 01/CP, ngày

13/7/2012 về thí điểm xây dựng tỉnh trở thành đơn vị chiến lược, xây huyện trở thành

đơn vị vững mạnh toàn diện, xây bản trở thành đơn vị phát triển)

-

92. £¿¦„¤Á­½­¿À²†´Àª´ ¢º¤£½­½À¢¾ê¡¾­¦­¡¾¤²¡À¡ê 21/£¦²,

¸ñ­êó

7

¦ò¤¹¾

2012

À«ò¤®ñ­©¾¦½¹¾¨À좾£½­½²ñ¡¡½§¸¤Œºö¤¡¾­ºÉº´¢É¾¤¦ø­¡¾¤,

À좾£½­½ ²ñ¡­½£º­Í¸¤, ®ñ­©¾Á¢¸¤, À좾£½­½²ñ¡À´õº¤ 51

ªö¸À´õº¤À»ñ©êö©ìº¤Ã­ê‰¸ ¯½Àê©. (Hướng dẫn của ban thư ký trung ương đảng số 21/TW, ngày 7/8/2012 gửi tới các

đồng chính bí thư ban chấp hành đảng của các bộ - cơ quan ngang bộ, bí thư tỉnh,

thành phố, bí thư huyện của 51 huyện đối tượng làm thí điểm trên cả nước)

93. £¿Á­½­¿Àì¡êó 2202/¡¤

ìö¤¸ñ­êó 15-/8/2012

¸È¾©É¸¨

¡¾­À»ñ©êö©ìº¤¦¾´¦É¾¤¢º¤¡½ §¸¤¡¾­À¤ò­.

(Hướng dẫn số 2202/BTC, ngày 15/8/2012 về việc thực hiện thí điểm chương trình 3

xây của Bộ tài chính)

94.

£¿¦„¤Á­½­¿Àì¡êó

04/²­

ìö¤¸ñ­êó

14/9/2012

¡È¼¸¡ñ®¡¾­¦‰¤²½­ñ¡¤¾­¢½ÁΤ²¾¨ íìö¤§È¸¨®É¾­.

(Hướng dẫn số 04/NV, ngày 14/9/2012 về việc cử đội ngũ cán bộ của ngành nội vụ

xuống giúp việc ở cấp bản)

95. £¿Á­½­¿ ¢º¤£½­½¯®¯÷¤¡¤¥¡¡¾­¥©ª˜¤©«½®¾­ À¡ê

01/£¯¡ì,

¸ñ­êó

19

ª÷ì¾

2012

¡È¼¸¡®¡¾­¡¿­©½®®¡¾­¥©ª˜¤¡¤¥¡

µÀ´º¤À¯¾Ï¾¨†À»©ê©º¤ 3 ¦É¾¤.

(Hướng dẫn của Ủy ban cải cách bộ máy chính phủ số 01/UBCN, ngày 19/10/2012

về việc quy định tổ chức bộ máy ở các huyện làm thí điểm chương trình 3 xây)

96. £¿-¦„¤-Á­½­¿-¢º¤-­¾¨ö¡ìñ©«½´ö­ªó ¡È¼¸-¡ñ® ¸ò-Ħ-êñ© -

À«ò¤-¯ó 2030, ¨÷©-ê½-¦¾©-²ñ©ê½­¾ À¦©«½¡ò©Œ¦ñ¤£ö´ 10

¯ó (2016Œ2025) Áì½ -Á°­-²ñ©ê½­¾-À¦-©«½¡ò©Œ¦ñ¤£ö´ 5

¯ £˜¤-êó VIII (2016Œ2020), -Àì¡êó 24/­¨, ¸ñ­-êó 7-/5/2014.

(Hướng dẫn của Thủ tướng Chính phủ về tầm nhìn đến năm 2030, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2016-2025) và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ VIII (2016-2020), số 24/TT, ngày 7/5/2014)

97. ¦ñ¤-츴-À­œº-í-¦¿£ñ­-¢º¤- ¡º¤-¯½§÷´-ù¨È-¸¼¡-¤¾­-¥ñ©-ª˜¤-

ꉸ-¯½-Àê©-£˜¤-êó 8, ²ò´-¥¿ÎȾ¨-©¨ ¸¾ì½¦¾­ ¡Ò¦É¾¤-²ñ¡,

­½£º­Í¸¤-¸¼¤-¥ñ­, 2009.

(Tổng hợp các nội dung quan trọng của đại hội công tác tổ chức lần thứ VIII, Nxb

tạp chí xây dựng Đảng, thủ đô Viêng Chăn, năm 2009)

98. ¦ó-²÷¡ ¸ö¤-²ñ¡©ó (2011), ¹ö¸-®ö©-¸ò꽨¾¦¾©: “¥ñ©-ª˜¤-¡ö¤¥ñ¡-

ìñ© ªº®-¦½Îº¤-¡ñ®£¸¾´-ªÉº¤

¡¾­-í-¡¾­-¦É¾¤-ìñ©-Á¹È¤-

¡ö©Ï¾¨-í-À¤ˆº­-Ä¢-²ñ©ê½­¾-À¦©«½¡ò©-ª½Í¾©-ª¾´-êò©-

¦ñ¤£ö´ ­ò¨ö´-µøÈ ¦¾ê¾ì½­½-ìñ©¯½§¾êò¯½-Ī ¯½§¾§ö­-쾸”,

¦½-«¾-®ñ­-¡¾­-À´õº¤Œ¡¾­-¯ö¡£º¤-Á¹È¤-§¾©-쾸. (Si Phục Vông Phắc Đi (2011), đề tài khoa học: “tổ chức bộ máy nhà nước đáp ứng

với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền trong điều kiện phát triển kinh tế thị

trường theo định hướng XHCN ở CHDCND Lào”, Học viện chính trị và hành chính

quốc gia Lào)

99.

¦É¾¤-ìñ©-Á¹È¤-¡ö©Ï¾¨-í-À¤ˆº­-Ä¢-²ñ©ê½­¾-À¦©«½¡ò©-

ª½Í¾©-ª¾´-êò©-¦ñ¤£ö´-­ò¨ö´-µøÈ¦¾ê¾ ì½­½-ìñ© ¯½§¾êò¯½-

Ī ¯½§¾§ö­ 쾸, ²ò´-¥¿ÎȾ¨-©¨ ¦½-«¾-®ñ­-¡¾­-À´õº¤ -Áì½

¡¾­-¯ö¡£º¤-Á¹È¤-§¾©-쾸, ¯ó 2014. (Xây dựng nhà nước pháp quyền trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo

định hướng XHCN ở CHDCND lào, Nxb, học viện chính trị và hành chính quốc gia

Lào, năm 2014)

¡¾­-®ðìò¹¾­-ª¾´-êò©-Àº-Àìñ¡-ªù­ò¡, ¯ó 2015. (Báo cáo về việc tổ chức thực hiện chương trình xây dựng chính phủ điện tử

năm 2013)

101. ´ø­-À§œº 55 ¯ó ¡È¼¸-¡ñ® ¸¼¡-¤¾­-¥ñ©-ª˜¤ ¢º¤ ²¡-¯½§¾§ö­

¯½ªò¸ñ©-쾸, ¯ó 2010-.

(Truyền thống 55 năm về việc tổ chức của Đảng Nhân Dân Cách mạng Lào, 2010)

102. ´½ªò ¢º¤-¡ö´-¡¾­-À´õº¤-¦ø-­¡¾¤-²ñ¡, -Àì¡êó 08/¡´¦², ¸ñ­-êó

16/9/2013 ¸È¾-©É¸¨ ¡¾­-¯ñ®¯÷¤-ºö¤¡¾­-¯ö¡£º¤-®É¾­ Áì½

¡¾­-¯½ªò®ñ©-ì½®º®-º÷©-Îø­-ùÉ-²½­ñ¡¤¾­-¢˜­-®É¾-­†-

®Ò-´ó-À¤ò­- À©õº­-. (Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng số 08/BCT, ngày 16/9/2013 về cải

cách cơ quan hành chính cấp bản và thực hiện chế độ hỗ trợ đối với cán bộ cấp bản

không có lương)

103-. ìñ©«½ê¿-´½­ø­ 1991, ¯ñ®¯÷¤ 2003.

(Hiến pháp 1991, sửa đổi, bổ sung 2003)

104. ¸ò-ħ ®ñ­©¾-­÷¸ö¤ (2008): “®ðìò¹¾­-Á®®-ÃÏÈ-í-¡ö¤¥ñ¡-

ìñ©”, -Àº¡½¦¾­-£í­£¸É¾, ¦½-«¾-®ñ­ ¡¾­-À´õº¤Œ¡¾­-¯ö¡£º¤-

Á¹È¤-§¾©-쾸.

100. ®ö©-쾨-¤¾­-¡È¼¸-¡ñ®-¡¾­-¯½ªò®ñ©-£¤¡¾­-¦É¾¤-ì½®ö®-

(Vi Xay Băn Đa Nu Vông (2008): “Quản lý công mới”, tài liệu nghiên cứu của học

viện chính trị và hành chính quốc gia Lào)

105. Àº¡½¦¾­¡º¤¯½§÷´Ã¹¨È£˜¤ê II ¢º¤²ñ¡ ¯½§¾§ö­ ¯½ªò¸ñ©ì¾¸, ¯ó

1972.

(Văn kiện đại hội II của Đảng NDCM Lào, 1972)

106. Àº¡½¦¾­¡º¤-¯½§÷´-ù¨È-£˜¤-êó V ¢º¤-²ñ¡ ¯½§¾§ö­ ¯½ªò¸ñ©-쾸,

¯ó 1991

(Văn kiện đại hội V của Đảng NDCM Lào, 1991)

107. Àº¡½¦¾­¡º¤-¯½§÷´-ù¨È-£˜¤-êó VI ¢º¤-²ñ¡ ¯½§¾§ö­ ¯½ªò¸ñ©-

쾸, ¯ó 1996

(Văn kiện đại hội VI của Đảng NDCM Lào, 1996)

108. Àº¡½¦¾­¡º¤-¯½§÷´-ù¨È-£˜¤-êó VII ¢º¤-²ñ¡ ¯½§¾§ö­ ¯½ªò¸ñ©-

쾸, ¯ó 2001.

(Văn kiện đại hội VII của Đảng NDCM Lào, 2001)

109-. Àº¡½¦¾­¡º¤-¯½§÷´-ù¨È-£˜¤-êó

VIII

¢º¤-²ñ¡

¯½§¾§ö­

¯½ªò¸ñ©ì¾¸, ¯ó 2006.

(Văn kiện đại hội VIII của Đảng NDCM Lào, 2006)

10. Àº¡½¦¾­´½ª¡º¤¯½§÷´Ã¹¨È£˜¤ê IX ¢º¤²ñ¡¯½§¾§ö­ ¯½ªò¸ñ©ì¾¸, ¯ó

2011.

(Văn kiện đại hội IX của Đảng NDCM Lào, 2011)

1. Àº¡½¦¾­ À§ˆº´§´´½ª¡º¤¯½§÷´Ã¹¨È£˜¤ê IX ¡È¼¸¡ñ®¡¾­­¿Íñ¡ÁÍȤ

í¹¸¢Ó: “À²†´½¸®©®¾©¢º¤²¡, £¸¾´¦¾´¾©¡¿º¿­¾©¢º¤²¡”,

¯ó 2011.

(Tài liệu quán triệt nghị quyết đại hội IX cho cán bộ chủ chốt với chủ đề: “tăng

cường vai trò của Đảng, năng lực nắm quyền của Đảng, 2011”)

112.

Àº¡½¦¾­-£¦½­¾-À°ó¨-Á°È-À­œº-í-´½ªò-¡º¤-¯½§÷´-ù¨È-

£˜¤-êó IX ¢º¤-²ñ¡ ¯½§¾§ö­ ¯½ªò ¸ñ© 쾸, -²ò´-¥¿ÎȾ¨-©¨,

£½­½--£¦½­¾-ºö®»ö´-¦ø­-¡¾¤, ¯ó 2011.

(Tài liệu tuyên truyền phổ biến nội dung đại hội IX của Đảng NDCM Lào, Nxb ban

tuyên huấn trung ương, 2011)

113. Àº¡½¦¾­ ¡ö©Ï¾¨ìñ©«½®¾­ Àì¡êó 01/1995.

(Luật tổ chức Chính phủ số 01/1995)

114. »¸È¾¤-§È¼¸µö¤ (2007), “¥ñ©-ª˜¤ -Áì½ -À£ˆº­-Ÿ-¢º¤- ¡ö¤¥ñ¡-ìñ©- ¦¯ ¥ó­”, --Àº¡½¦¾­-»ñ®-çÉ- ¡¾­-»¼­-¡¾­-¦º­,

£½­½-¸ò§¾ ìñ© -Áì½ ¡ö©Ï¾¨, -»¤»¼­-²ñ¡-¦ø­-¡¾¤. (Hoàng Xiêu Yong (2007), “tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Trung

Quốc”, tài liệu phục vụ học, bồi dưỡng cho cán bộ chủ chốt Lào, khoa nhà nước và

pháp luật, Trường Đảng Trung ương).

PHỤ LỤC 1

CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY CHÍNH PHỦ 2006 ĐẾN 2015

I. Giai đoạn 2006-2011

Cơ cấu bộ máy của chính phủ gồm 14 Bộ, 2 cơ quan ngang Bộ và 10

cơ quan thuộc Chính phủ.

1. Văn phòng Chính phủ

2. Bộ ngoại giao

3. Bộ công an

4. Bộ quốc phòng

5. Bộ tư pháp

6. Bộ tài chính

7. Bộ nông – lâm nghiệp

8. Bộ công nghiệp và thương mại

9. Bộ giao thông và vận tải

10. Bộ giáo dục

11. Bộ năng lượng và khoáng sản

12. Bộ y tế

13. Bộ văn hóa thông tin

14. Bộ lao động và phúc lợi xã hội

15. Bộ kế hoạch và đầu tư

16. Ngân hàng Nhà nước

10 cơ quan thuộc Chính phủ bao gồm:

- tổng cục hành chính và quản lý nhân sự

- Ban khoa học và công nghệ quốc gia

- Ban bưu chính và viễn thông quốc gia

- Ban kiểm toán nhà nước

- Ban quản lý đất quốc gia

- Ban tài nguyên nước và môi trường

- Ban thanh tra nhà nước

- Ủy ban thể thao quốc gia

- Viện khoa học xã hội quốc gia.

II. Giai đoạn 2011-2015

Cơ cấu bộ máy của chính phủ gồm 18 Bộ, 3 cơ quan ngang Bộ và 1

cơ quan thuộc Chính phủ.

1. Bộ ngoại giao;

2. Bộ nội vụ;

3. Bộ tư pháp;

4. Bộ lao động và phúc lợi xã hội;

5. Bộ tài nguyên và môi trường;

6. Bộ văn hoá-thông tin và du lịch;

7. Bộ y tế;

8.Bộ giáo dục và thể thao;

9. Bộ công thương;

10. Bộ tài chính;

11. Bộ giao thông vận tải;

12. Bộ nông-lâm nghiệp;

13. Bộ kế hoạch và đầu tư;

14. Bộ năng lượng và mỏ;

15. Bộ quốc phòng;

16. Bộ an ninh;

17. Bộ khoa học - công nghệ;

18. Bộ bưu chính viễn thông và truyền thông;

19. Văn phòng chính phủ;

20. Cơ quan kiểm tra chính phủ;

21. Ngân hàng nhà nước.

1 Cơ quan thuộc Chính phủ

Ủy ban phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo Trung ương

Nguồn thông tin: Bộ Nội Vụ, Nước CHDCND Lào (năm 2015)

PHỤ LỤC 2

CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH CẤP TỈNH, HUYỆN Ở LÀO

Hiện nay, đơn vị hành chính địa phương bao gồm: 17 tỉnh, 1 Thủ độ

với 148 huyện. I. TP Viêng Chăn

VIII. T. Hoa Phăn

XIII. T. Sa Văn Na Khết

01. H. Chăn Thạ Bu Ly

01. H. ẸT

01. H. Cay Sỏn Phôm Vi Han

02. H. Si Khốt Ta Bong

02. H. Xiêng Khò

02. H. Xay Bu Ly

03. H. Xay Sệt Tha

03. H. Sốp Bầu

03. H. U Thum Phon

04. H. Si Sắt Tạ Nac

04. H. Viêng Xay

04. H. At Sa Phăng Thong

05. H. Na Xai Thong

05. H. Xăm Tày

05. H. At Sa Phon

06. H. Xay Tha Ny

06. H. Xăm Nữa

06. H. Pha Lan Xay

07. H. Hat Xai Phong

07. H. Hóa Mường

07. H. Phin

08. H. Săng Thong

08. H. Quận

08. H. Xê Pôn

09. H. Pac Ngưm

09. H. Hiểm

09. H. Vi Lă Bu Ly

10. H. Xon

10. H. Nong

II. T. Phông Sa Ly

01.H. Phông Sa Ly

11. H. Chăm Phon

IX. T. Xay Nha Bu Ly

02. H. May

01. H. Xay Nha Bu Ly

12. H. Xôn Nă Bu Ly

03. H. Khóa

02. H. Hống Sá

13. H. Xay Phu Thong

04. H. Săm Phăn

03. H. Ngân

14. H. Song Khon

05. H. Nhọt Ù

04. H. Phiêng

15. H. Tha Pang Thong

05. H. Pac Lai

III. T. LuổngNămTha

XIV. T. Sa La Văn

01. H. Luổng Năm Tha

06. H. Khop

01. H. Lâu Ngam

02. H. Sing

07. H. Thông My Xay

02. H. Không Xê Đồn

03. H. Long

08. H. Bo Ten

03. H. Nặ Khon Phêng

04. H. Viêng Phu Kha

09. H. Xiêng Hon

04. H. Va Pi

05. H. Na Le

10. H. Ken Thạo

05. H. Tụm Lan

11. H. Xay Sá Than

06. H. Tặ Ôi

IV. T. U Đôm Xay

07. H. Să Muội

01. H. Xay

X. T. Xiêng Khoảng

02. H. Beng

01. H. Pách

08. H. Sa La Văn

03. H. Hun

02. H. Khăm

04. H. La

03. H. Khun

XV. T. Xê Kong

05. H. Na Mỏ

03. H. Pha Xay

01. H. Đạc Chưng

06. H. Ngà

04. H. Phu Kụt

02. H. Ka Lưm

07. H. Pac Beng

05. H. Nong Hét

03. H. Tha Teng

06. H. Móch

04. H. Lặ Mam

V. T. Bò Kẹo

01. H. Huổi Xai

XI. T. Viêng Chăn.

XVI. T. Chăm Pa Sắc

02. H. Tôn Phẩng

01. H. Ca Sĩ

01. H. Pac Xê

03. H. Pac Tha

02. H. Văng Viêng

02. H. Xặ Nặ Sôm Bun

04. H. Pha U Đôm

03. H. Mẹt

03. H. Ba Chiêng Chă Lơn Súc

05. H. Mừng

04. H. Phương

04. H. Pac Xong

05. H. Hin Hợp

05. H. Phôn Thong

VI. T. Luổng Pha Bang

01. H. Luổng Pha Bang

06. H. Kẹo U Đôm

06. H. Pặ Thum Phon

02. H. Nan

07. H. Phôn Hông

07. H. Chăm Pa Sắc

03. H. Pac U

08. H. Xặ Nặ Kham

08. H. Su Khu Ma

04. H. Chom Phết

09. H. Viêng Khăm

09. H. Mun Lặ Pa Mộc

05. H. Xiêng Ngân

10. H. Thu Lặ Khôm

10. H. Khổng

06. H. Phu Khun

11. H. Mừn

XVII. T. Ắt Ta Pư

07. H. Ngoi

01. H. Xay Sệt Tha

XII. T. Khăm Muôn

08. H. Năm Bạc

01. H. Tha Khách

02. H. Sa Mặc Khy Xay

09. H. Pac Xeng

02. H. Hin Bun

03. H. Sặ Nam Xay

10. H. Viêng Khăm

03. H. Nong Bốc

04. H. Xan Xay

11. H. Phôn Xay

04. H. Xê Băng Phay

05. H. Phu Vông

05. H. Mạ Ha Xay

XVIII. T. Bo Lý Khăm Xay

12. H. Phôn Thong

06. H. Nhôm Ma Lat

01. H. Pac Xăn

VII. T. Xay Sổm Bun

01. H. Ặ Nụ Vông

07. H. Na Kai

02. H. Tha Pha Bạt

02. H. Hôm

08. H. Xay Bua Thong

03. H. Pac Ka Đing

03. H. Long Xan

10. H. Bua La Pha

04. H. Bo Lý Khăn

04. H. Long Cheng

11. Khun Khăm

05. H. Khăm Kợt

05. H. Tha Thôm

06. H. Viêng Thong

07. H. Xay Chăm Phon

Nguồn thông tin: Bộ Nội Vụ, Nước CHDCND Lào, Năm 2015

PHỤ LỤC 3

PHIẾU ĐIỀU TRA

(Thu thập ý kiến về cải cách bộ máy hành chính nhà nước CHDCND

Lào)

Để giúp cho công tác nghiên cứu và đưa ra mô hình bộ máy hành chính

nhà nước CHDCND Lào hiện nay. Xin ông (bà) vui lòng dành thời gian điền

thông tin vào phiếu điều tra này bằng cách đánh dấu  vào ô thích hợp hoặc

viết thêm ý kiến cá nhân vào phần giấy để trắng.

Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của ông (bà)

Cơ quan công tác:………………………………………………………..

Giới tính: Nam , Nữ

1. Theo bạn bộ máy hành chính nhà nước Lào, bao gồm bộ phận nào sau đây:

- Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ

- Cơ quan hành chính địa phương các cấp

- Tất cả các cơ quan nêu trên

2. Bạn thấy thế nào về cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước Lào gồm

18 bộ, 3 cơ quan ngang bộ.

- Nhiều

- Ít

- Vừa

3. Theo bạn, bộ máy bên trong của các cơ quan hành chính trung ương có xu

hướng tăng hay giảm xuống.

- Tăng

- Giảm

- Ý kiến khác………………………………………

4. Bạn thấy thế nào về việc đổi tên Văn phòng Thủ tướng sang Văn phòng

Chính phủ.

- Hợp lý

- Chưa hợp lý

- Ý kiến khác …………………………….

5. Bạn cho biết, việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính

Trung ương

- Một Bộ làm một việc

- Một Bộ làm nhiều việc

- Ý kiến khác…………………………………………………………………..

6. Bạn hãy cho biết, thực trạng chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính

nhà nước.

- Chồng chéo

- Rõ ràng

7. Theo bạn, nên phân cấp quản lý như thế nào phù hợp.

- Tập trung mọi quyền lực ở Trung ương

- Trao nhiều quyền quyết định cho địa phương

- Ý kiến khác:…………………………………………………………………

8. Theo bạn, để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước tại địa phương hiện nay

cần mấy cấp quản lý.

- Giữ lại 3 cấp quản lý

- Thành lập thêm cấp quản lý

- Giảm bớt cấp quản lý

- Ý kiến khac:…………………………………………………………………

9. Theo ban, cụm bản có phải là một cấp trong hệ thống quản lý hành chính

địa phương không ?

- Có

- Không

10. Bạn cho biết, cấp nào sau đây nên thành lập Hội đồng nhân dân ?

- Cấp tỉnh

- Cấp huyện

- Cấp bản

- Không cấp nào

11. Bạn nghĩ thế nào về việc dịch vụ chính phủ điện tử trong bộ máy hành

chính nhà nước ?

- Tốt

- Kém

- Hình như không được sử dụng

- Ý kiến khác:…………………………………………………………..

12. Bạn thấy thế nào về kiêm nhiệm chức danh lãnh đạo đảng và chính quyền

- Tiếp tục thực hiện kiêm nhiệm

- Tách hai chức danh

- Ý kiến khác…………………………………………………………..

13. Bạn có cần thay đổi mô hình nào trong các mô hình sau đây

- Mô hình tách hai chức vụ bí thư và chủ tịch

- Thành lập hội đồng nhân dân ở hai cấp tỉnh, huyện

- Tự quản địa phương

- Ý kiến khác:…………………………………………………………..

PHỤ LỤC 4

KẾT QUẢ XỬ LÝ PHIẾU ĐIỀU TRA

Số phiếu: 500 phiếu: Trong đó 150 phiếu thu thập ý kiến cán bộ công

chức ở cơ quan hành chính Trung ương; 250 phiếu, thu thập ý kiến ở các cơ

quan hành chính địa phương và 100 phiếu, thu thập ý kiến từ các tổ chức

đảng.

Những người tham gia đóng góp ý kiến, về giới tính nam chiếm 69%

và nữ chiếm 31%.

Kết quả xử lý phiếu điều tra cụ thể sau:

1. Theo bạn bộ máy hành chính nhà nước Lào, bao gồm bộ phận nào sau đây:

- Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ: 15%

- Cơ quan hành chính địa phương các cấp: 18%

- Tất cả các cơ quan nêu trên: 67%.

2. Bạn thấy thế nào về cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước Lào gồm

18 bộ, 3 cơ quan ngang bộ.

- Nhiều : 85%

- Ít : 10%

- Vừa : 5%

3. Theo bạn, bộ máy bên trong của các cơ quan hành chính trung ương có xu

hướng tăng hay giảm xuống.

: - Tăng 90%

: - Giảm 2%

: - Ý kiến khác 8%

4. Bạn thấy thế nào về việc đổi tên Văn phòng Thủ tướng sang Văn phòng

Chính phủ.

: - Hợp lý 35%

: - Chưa hợp lý 57%

: - Ý kiến khác 7%

5. Bạn cho biết, việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính

Trung ương

- Một Bộ làm một việc : 40%

- Một Bộ làm nhiều việc : 45%

- Ý kiến khác : 5%

6. Bạn hãy cho biết, thực trạng chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính

nhà nước.

- Chồng chéo : 72%

- Rõ rang : 28%

7. Theo bạn, nên phân cấp quản lý như thế nào phù hợp.

- Tập trung mọi quyền lực ở Trung ương : 35%

- Trao nhiều quyền quyết định cho địa phương : 54%

- Ý kiến khác : 11%

8. Theo bạn, để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước tại địa phương hiện nay

cần mấy cấp quản lý.

- Giữ lại 3 cấp quản lý : 90%

- Thành lập thêm cấp quản lý : 5%

- Giảm bớt cấp quản lý : 2%

- Ý kiến khac : 3%

9. Theo ban, cụm bản có phải là một cấp trong hệ thống quản lý hành chính

địa phương không ?

- Có : 38%

- Không : 62%

10. Bạn cho biết, cấp nào sau đây nên thành lập Hội đồng nhân dân ?

: - Cấp tỉnh 40%

: - Cấp huyện 35%

: - Cấp bản 0%

: - Không cấp nào 25%

11. Bạn nghĩ thế nào về việc dịch vụ chính phủ điện tử trong bộ máy hành

chính nhà nước ?

- Tốt : 2%

- Kém : 45%

- Hình như không được sử dụng : 40%

- Ý kiến khác : 13%

12. Bạn thấy thế nào về kiêm nhiệm chức danh lãnh đạo đảng và chính quyền

- Tiếp tục thực hiện kiêm nhiệm : 36%

- Tách hai chức danh 58% :

- Ý kiến khác 6% :

13. Bạn có cần thay đổi mô hình nào trong các mô hình sau đây

- Mô hình tách hai chức vụ bí thư và chủ tịch : 39%

- Thành lập hội đồng nhân dân ở hai cấp tỉnh, huyện : 42%

- Tự quản địa phương : 18%

- Ý kiến khác : 1%