BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
LÊ ĐỨC HIỀN
CHẾ TẠO VÀ NGHIÊN CỨU CÁC TÍNH CHẤT TỪ,
TỪ ĐIỆN TRỞ CỦA VẬT LIỆU PEROVSKITE KÉP
Sr2FeMoO6 PHA TẠP La VÀ Zn
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC VẬT LIỆU
HÀ NỘI – 2021
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
LÊ ĐỨC HIỀN
CHẾ TẠO VÀ NGHIÊN CỨU CÁC TÍNH CHẤT TỪ,
TỪ ĐIỆN TRỞ CỦA VẬT LIỆU PEROVSKITE KÉP
Sr2FeMoO6 PHA TẠP La VÀ Zn
Ngành: Khoa học vật liệu
Mã số: 9440122
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC VẬT LIỆU
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS. TS. NGUYỄN PHÚC DƢƠNG
2. TS. TẠ VĂN KHOA
HÀ NỘI – 2021
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự hƣớng dẫn
của GS. TS. Nguyễn Phúc Dƣơng và TS. Tạ Văn Khoa. Các số liệu và kết quả chính
trong luận án đƣợc công bố trong các bài báo đã đƣợc xuất bản của tôi và các cộng sự.
Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Lê Đức Hiền
Tập thể hƣớng dẫn:
3
GS. TS. Nguyễn Phúc Dƣơng TS. Tạ Văn Khoa
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tác giả luận án xin đƣợc cảm ơn chân thành sâu sắc với hai ngƣời thầy
hƣớng dẫn GS. TS. Nguyễn Phúc Dƣơng và TS. Tạ Văn Khoa đã hƣớng dẫn chỉ bảo
tận tình về kiến thức chuyên môn cũng nhƣ những hỗ trợ vật chất và tinh thần trong
quá trình thực hiện luận án này.
Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ tạo điều kiện của lãnh đạo Viện ITIMS, Phòng Đào tạo,
Trƣờng Đại học Bách khoa Hà Nội để tôi có thể hoàn thành luận án. Tôi cũng xin cảm
ơn sự giúp đỡ về mặt khoa học, động viên khuyến khích về mặt tinh thần từ GS. TSKH
Thân Đức Hiền, TS. Lƣơng Ngọc Anh, TS. Đào Thị Thủy Nguyệt, TS. Tô Thanh
Loan, TS. Trần Thị Việt Nga, các nghiên cứu sinh và học viên cao học của Phòng thí
nghiệm Nano từ và Siêu dẫn nhiệt độ cao để tôi có đủ quyết tâm thực hiện nghiên cứu
hoàn thành luận án.
Tôi xin cảm ơn lãnh đạo Viện Công nghệ/Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng đã tạo
điều kiện cho tôi tham gia nghiên cứu sinh. Tôi xin cảm ơn tới các thủ trƣởng, các
đồng nghiệp tại Viện Công nghệ đã nhiệt tình tạo điều kiện về thời gian, giúp đỡ các
công việc trong quá trình tôi đi học.
Luận án đã nhận đƣợc sự giúp đỡ thực hiện các phép đo của Viện AIST, Phòng thí
nghiệm Vật lý Vật liệu Từ và Siêu dẫn thuộc Viện Khoa học Vật liệu; Khoa Hóa học –
Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội; Viện Khoa học Vật liệu, VAST. Viện nghiên cứu
tia synchrotron (SLRI) Thái Lan; Viện Van der Waalse-Zeeman – Đại học
Amsterdam, Hà Lan. Xin cảm ơn những sự giúp đỡ máy móc thiết bị từ các đơn vị
nghiên cứu này.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc tới Đại gia đình và gia đình nhỏ của
mình. Với tình yêu thƣơng vô hạn và niềm tin tƣởng tuyệt đối, gia đình cùng vợ và hai
con, các anh em trong gia đình đã cùng tôi vƣợt qua rất nhiều khó khăn để quyết tâm
hoàn thành bản luận án này.
Hà Nội, tháng 2 năm 2021
Tác giả
4
Lê Đức Hiền
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................................................... 3
LỜI CẢM ƠN .......................................................................................................................................... 4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU .............................................................................. iv
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ............................................................................................................ vi
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ................................................................................................................ vii
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẬT LIỆU PEROVSKITE KÉP Sr2FeMoO6 ............................... 7
1.1 Cấu trúc tinh thể của SFMO ...................................................................................................... 8
1.2 Cấu trúc điện tử của SFMO .................................................................................................... 10
1.2.1 Bố trí điện tử ở các mức năng lƣợng của SFMO ......................................................... 11
1.2.2 Momen từ trên một đơn vị công thức của SFMO ......................................................... 12
1.2.3 Tƣơng tác sắt từ và nhiệt độ Curie ................................................................................. 14
1.3 Hiệu ứng từ điện trở ................................................................................................................. 19
1.4 Các yếu tố ảnh hƣởng lên tính chất của SFMO .................................................................. 21
1.4.1 Ảnh hƣởng của độ bất trật tự cation .............................................................................. 21
1.4.2 Ảnh hƣởng của pha tạp .................................................................................................... 24
1.4.3 Hiệu ứng kích thƣớc nanomet ......................................................................................... 36
Kết luận chƣơng 1 ............................................................................................................................... 40
CHƢƠNG 2. CÔNG NGHỆ CHẾ TẠO VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................... 41
2.1 Công nghệ chế tạo các hạt SFMO có kích thƣớc nanomet ............................................... 41
2.1.1 Phƣơng pháp gốm ............................................................................................................ 42
2.1.2 Phƣơng pháp Sol-gel ........................................................................................................ 43
2.2 Thực nghiệm .............................................................................................................................. 44
2.2.1 Hóa chất và thiết bị sử dụng ............................................................................................ 45
2.2.2 Chế tạo Sol ......................................................................................................................... 46
2.2.3 Tạo Gel ................................................................................................................................ 46
i
2.2.4 Đốt Gel ................................................................................................................................ 46
2.2.5 Ép viên ................................................................................................................................ 47
2.2.6 Thiêu kết ............................................................................................................................. 47
2.3 Các phƣơng pháp nghiên cứu cấu trúc và tính chất của SFMO....................................... 52
2.3.1 Phân tích nhiệt DTA-TGA ................................................................................................. 52
2.3.2 Nhiễu xạ tia X ..................................................................................................................... 53
2.3.3 Nhiễu ạ tia và phổ hấp thụ tia ng nguồn synchrotron .................................... 54
2.3.4 Phân tích Rietvel ............................................................................................................. 54
2.3.5 Hiển vi điện tử qu t SEM ............................................................................................... 55
2.3.6 Nghiên cứu tính chất từ của vật liệu ằng từ kế mẫu rung (VSM) ............................ 55
2.3.7 Giao thoa kế lƣợng tử siêu ẫn (SQUID) ...................................................................... 56
2.3.8 Đo từ điện trở bằng phƣơng pháp ốn mũi ò ............................................................. 57
Kết luận chƣơng 2 ............................................................................................................................... 60
CHƢƠNG 3. NGHIÊN CỨU CẤU TRÚC, TÍNH CHẤT TỪ CỦA PEROVSKITE KÉP
Sr2FeMoO6 CHẾ TẠO BẰNG PHƢƠNG PHÁP SOL-GEL VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA PHA
SrMoO4 LÊN HIỆU ỨNG TỪ ĐIỆN TRỞ ........................................................................................ 61
3.1 Cấu trúc tinh thể, hình thái hạt của hệ mẫu SFMO ............................................................. 63
3.2 Tính chất từ của vật liệu SFMO .............................................................................................. 70
3.3 Nghiên cứu sự ảnh hƣởng của hàm lƣợng pha SrMoO4 SMO lên hiệu ứng từ điện trở
của SFMO ......................................................................................................................................... 74
Kết luận chƣơng 3 ............................................................................................................................... 81
CHƢƠNG 4. ẢNH HƢỞNG CỦA PHA TẠP La LÊN CẤU TRÚC VÀ TÍNH CHẤT CỦA SFMO
................................................................................................................................................................ 82
4.1 Cấu trúc tinh thể và hình thái hạt của hệ mẫu SFMO pha tạp La ..................................... 83
4.2 Tính chất từ của vật liệu SFMO pha tạp La .......................................................................... 88
4.3 Tính chất điện của vật liệu SFMO pha tạp La ...................................................................... 92
Kết luận chƣơng 4 ............................................................................................................................. 100
ii
CHƢƠNG 5. ẢNH HƢỞNG CỦA PHA TẠP Zn LÊN CẤU TRÚC VÀ TÍNH CHẤT CỦA SFMO
.............................................................................................................................................................. 101
5.1 Cấu trúc tinh thể và hình thái hạt của hệ mẫu SFMO pha tạp Zn ................................... 102
5.2 Tính chất từ của vật liệu SFMO pha tạp Zn........................................................................ 106
5.3 Từ điện trở và độ phân cực spin .......................................................................................... 109
Kết luận chƣơng 5 ............................................................................................................................. 111
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .............................................................................................................. 112
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA LUẬN ÁN .............................................. 114
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................................... 115
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
1. Chữ viết tắt
Bất trật tự cation (Antisite Defect)
Mật độ trạng thái (Density of States)
Perovskite kép (Double Perovskite)
Phân tích nhiệt vi sai (Differential Thermal Analysis)
Đơn vị công thức ASD:
DOS:
DP:
DTA:
đ.v.c.t.:
FESEM: Hiển vi điện tử quét phát xạ trƣờng (Field Emission Scanning Electron Microscope) ICP-AES Phƣơng pháp quang phổ phát xạ plasma (Inductively Coupled Plasma
ITMR:
LMTO:
LFMR:
MR:
MRAM:
SAXS:
SEM:
SXRD:
tử siêu dẫn (Superconducting Quantum SFMO:
SLFMO
SFZMO:
SQUID: lƣợng
iv
Phổ hấp thụ tia X (X-ray Absortion Spectroscopy)
Nhiễu xạ tia X (X-ray Diffraction) Atomic Emission Spectroscopy)
Từ điện trở xuyên ngầm qua biên hạt (Intergrain Tunneling
Magnetoresistance)
(Linear Mufin-Tin Orbital)
Từ điện trở ở từ trƣờng thấp (Low Field Magneto-resistance)
Từ điện trở (Magneto-resistance)
Bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên từ điện trở (Magnetoresistive Random
Access Memory)
Tán xạ tia X góc nhỏ (Small Angle X-ray Scattering)
Hiển vi điện tử quét (Scanning Electron Microscope)
Nhiễu xạ bột tia X phát xạ đồng bộ (Synchrotron Radiation X-ray
Powder Diffaction)
Sr2FeMoO6
Sr2-xLaxFeMoO6
Sr2Fe1-xZnxMoO6
thoa kế
Giao
Interference Device)
Hiển vi điện tử truyền qua (Transmission Electron Microscope)
TEM:
Phân tích nhiệt khối lƣợng (Thermo Gravimetry Analysis)
TGA:
Từ điện trở xuyên ngầm (Tunneling Magnetoresistance)
TMR:
Mật độ khối thể tích
VMD:
VSM:
Từ kế mẫu rung (Vibrating Sample Magnetometer)
XANES: Cấu trúc gần hấp thụ tia X (X-ray Absortion Near Edge Structure)
XAS:
XRD:
2. Các ký hiệu
Số mũ tới hạn của hàm Bloch
Độ rộng bán vạch của phổ nhiễu xạ tia X
Góc nhiễu xạ tia X
Điện trở suất
Magneton Bohr
Đơn vị Ångström
Độ dẫn (xuyên ngầm phụ thuộc spin)
Độ cảm từ
Thừa số bình phƣơng tối thiểu
Hằng số mạng
Khoảng cách ôxy tới vị trí A
Khoảng cách ôxy tới vị trí B
Khoảng cách ôxy tới vị trí B‟
Kích thƣớc tinh thể
thừa số dung hạn
Hằng số Land‟e
Độ dẫn điện (không có phân cực spin)
Từ trƣờng ngoài
Cƣờng độ dòng điện
Cƣờng độ nhiễu xạ tính toán
Cƣờng độ nhiễu xạ thực nghiệm
Chiều cao rào thế
momen từ
Mômen từ tự phát
Mômen từ bão hòa
v
:
:
θ:
ρ:
µB:
:
:
:
2:
a:
dA-O:
dB-O:
dB‟-O:
D:
f:
gJ:
G0:
H:
I:
Ical:
Iobs:
k2:
m:
Msp:
Ms:
MR(%): Giá trị hiệu ứng từ điện trở
Độ phân cực spin
P:
Độ bất trật tự cation
p:
Hệ số tƣơng quan
Rwp:
Bán kính nguyên tử i
ri:
Độ dày rào thế
s:
Momen spin
S:
Nhiệt độ thiêu kết
Ta:
Nhiệt độ Curie
TC:
V:
Hiệu điện thế
VMDhydr: Mật độ khối thể tích theo phƣơng pháp thủy tĩnh
VMDXRD: Mật độ khối thể tích theo lý thuyết (XRD)
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Hàm lượng các pha trong hợp chất SFMO của các mẫu M1, M2, M3 ........ 51
Bảng 2.2: Tham số hiệu chuẩn C [123]. ....................................................................... 58
Bảng 3.1: Kí hiệu các mẫu và kết quả phân tích ICP-AES. ........................................ 633
Bảng 3.2: Kết quả phân tích Rietveld của các mẫu SFMO. ........................................ 666
Bảng 3.3: Phân bố cation trên mạng B và B’ của các mẫu SFMO............................. 688
Bảng 3.4: Mật độ khối thể tích (VMD) của các mẫu. ................................................. 700
Bảng 3.5: Momen từ tổng của các mẫu ở 0 K theo tính toán và thực nghiệm. ........... 722
Bảng 3.6: Giá trị từ điện trở MRmax của các mẫu đo ở 87 K và 300 K. ..................... 777
Bảng 4.1: Các tham số cấu trúc của các mẫu Sr2-xLaxFeMoO6 (hằng số mạng a và c;
độ dài liên kết , , ; thể tích ô đơn vị V; kích thước tinh thể trung
bình D) và giá trị các hệ số tinh chỉnh (χ2 và Rwp). ..................................................... 855
Bảng 4.2: Độ từ hóa (M) ở 5 K, momen từ theo thực nghiệm (mexp) tại 5 K và theo tính
toán m(0)cal ở trạng thái cơ bản, nhiệt độ Curie (TC), điện trở suất (ρ) và độ phân cực
spin (P) tại 5 K của các mẫu Sr2-xLaxFeMoO6. ........................................................... 922
Bảng 5.1: Giá trị các hằng số mạng (a và c), thể tích ô đơn vị (V), kích thước tinh thể
trung bình (D), ứng suất ε = Δd/d và tỷ phần pha SrMoO4 của các mẫu SFZMO. .. 1044
vi
Bảng 5.2: Giá trị của momen từ; mexp(T) tại 5 K; nhiệt độ Curie Tc; điện trở suất ρ;
MRmax; độ phân cực spin P của các mẫu. .................................................................. 1088
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 1.1: Cấu trúc lý tưởng của SFMO .......................................................................... 8
Hình 1.2: Cấu trúc vùng của SFMO [41] ..................................................................... 10
Hình 1.3: Sơ đồ mức năng lượng của các quỹ đạo electron. ........................................ 11
Hình 1.4: Sơ đồ trật tự sắt từ của SFMO [36]. ............................................................. 13
Hình 1.5: Momen từ tổng và nhiệt độ Curie (TC) phụ thuộc vào tỷ lệ khuyết oxy [38] 14
Hình 1.6: Sơ đồ tách mức năng lượng Sr2FeMoO6 theo Kobayashi [5]. ...................... 15
Hình 1.7: Mật độ trạng thái của Sr2FeMoO6 (a) và Sr2FeReO6 (b) [5]. ...................... 17
Hình 1.8: Sự bố trí của các nguyên tử Fe và Mo của SFMO trong cấu trúc lý tưởng (A)
và khi có hiện tượng đảo (B và C) [52]. ........................................................................ 21
Hình 1.9: a) Momen từ bão hòa phụ thuộc nhiệt độ của SFMO. b) Đường làm khớp
của momen từ bão hòa tại T = 5K và nhiệt độ Curie phụ thuộc độ bất trật tự cation
[57]. ............................................................................................................................... 23
Hình 1.10: Momen từ bão hòa (Ms) ở 5 K phụ thuộc độ trật tự (S) cho mẫu SFMO [61]
....................................................................................................................................... 24
Hình 1.11: Sự phụ thuộc của nhiệt độ Curie TC vào bán kính nguyên tử ở vị trí A của
hợp chất A2FeMoO6: ([67]-vuông; [68]-tròn và [13]-tam giác). ................................. 26
Hình 1.12: Momen từ phụ thuộc vào nhiệt độ của các mẫu Sr2Fe1-xZnxMoO6 [106] ... 31
Hình 1.13: Đường cong từ hóa của các mẫu Sr2Fe1−xZnxMoO6 [103] ......................... 31
Hình 1.14: Momen từ bão hòa phụ thuộc vào nồng độ x của Zn [104] ........................ 32
Hình 1.15: Từ điện trở phụ thuộc vào nhiệt độ của các mẫu Sr2-xLaxFeMoO6 [108]. 33
Hình 1.16: Sự thay đổi giá trị MR của vật liệu SLFMO theo nồng độ của La [80]. .... 34
Hình 1.17: Các đường cong MR của các mẫu Sr2Fe1-xZnxMoO6 [104]. ....................... 35
Hình 1.18: Các đường cong MR của các mẫu Sr2Fe1-xZnxMoO6 [103]. ....................... 36
vii
Hình 1.19: Hiệu ứng từ điện trở của các mẫu SFMO có kích thước hạt khác nhau [8].
....................................................................................................................................... 38
Hình 1.20: Các đường cong MR phụ thuộc vào từ trường của các mẫu SFMO [110]. 38
Hình 2.1: Sơ đồ tổng hợp vật liệu có cấu trúc nano. .................................................... 41
Hình 2.2: Quy trình tổng hợp vật vật liệu bằng phương pháp gốm truyền thống......... 42
Hình 2.3: Phương pháp sol-gel để tạo ôxit phức hợp. .................................................. 44
Hình 2.4: Giản đồ phân tích nhiệt DTA-GTA của gel SFMO. ...................................... 48
Hình 2.5: Phổ nhiễu xạ XRD của các mẫu thiêu kết ở các nhiệt độ khác nhau. ........... 49
Hình 2.6: Giản đồ XRD của các mẫu SFMO thiêu kết ở các môi trường khác nhau. .. 50
Hình 2.7: Quy trình công nghệ chế tạo Sr2FeMoO6 bằng phương pháp Sol-Gel. ........ 52
Hình 2.8: Thiết bị PPMS Dynacool. .............................................................................. 56
Hình 2.9: Sơ đồ nguyên lý của phương pháp 4 mũi dò. ................................................ 57
Hình 2.10: Sơ đồ hệ đo điện trở bằng phương pháp bốn mũi dò. ................................. 58
Hình 2.11: Hệ đo từ điện trở bằng phương pháp 4 mũi dò cùng với hệ nam châm điện.
....................................................................................................................................... 59
Hình 2.12: Bản vẽ thiết kế chế tạo đồ gá đo điện trở: 1 – Cữ chặn; 2 – Vỏ ngoài; 3 –
Gá kim; 4 – Điện cực đàn hồi. ...................................................................................... 60
Hình 3.1: Phổ nhiễu xạ tia X của 3 mẫu D1, D2, D3. ................................................... 64
Hình 3.2: Phổ nhiễu xạ SXRD của các mẫu SFMO. ..................................................... 65
Hình 3.3: Phân tích Rietveld của mẫu SFMO ủ tại 1100 oC. ........................................ 65
Hình 3.4: Phổ XANES của các mẫu cùng với phổ chuẩn của Fe2O3 và FeO. .............. 67
Hình 3.5: Ảnh FESEM của các mẫu SFMO. ................................................................. 68
Hình 3.6: Đường cong từ nhiệt của các mẫu ở từ trường 100 Oe. ............................... 70
Hình 3.7: Sự phụ thuộc của momen từ tự phát Ms theo nhiệt độ của các mẫu. ............ 71
viii
Hình 3.8: Momen từ tự phát MS phụ thuộc vào nhiệt độ của các mẫu SFMO. ............. 72
Hình 3.9: Các đường cong từ hóa của các mẫu ở 80 K (a) và 300 K (b). .................... 74
Hình 3.10: Sự phụ thuộc của điện trở suất ρ(H=0) vào nhiệt độ của các mẫu SFMO. 75
Hình 3.11: Hiệu ứng từ điện trở của các mẫu đo ở nhiệt độ 87 K (a) và 300 K (b). .... 77
Hình 3.12: Các đường cong MR của mẫu D1 được đo ở các nhiệt độ khác nhau. ...... 79
Hình 3.13: Sự đóng góp sắt từ được tính ra từ đường cong từ hóa của mẫu D1. ........ 79
Hình 3.14: Sự phụ thuộc vào nhiệt độ của phân cực spin P và hằng số α. ................... 80
Hình 4.1: Kết quả XRD của các mẫu SLFMO. ............................................................. 83
Hình 4.2: Phổ nhiễu xạ SXRD của các mẫu Sr2-xLaxFeMoO6. ..................................... 84
Hình 4.3: Kết quả xử lý Rietveld của mẫu Sr1.7La0.3FeMoO6. ..................................... 85
Hình 4.4: Hằng số mạng (a) và thể tích ô đơn vị (V) phụ thuộc vào nồng độ La (x). .. 86
Hình 4.5: Ảnh FESEM của các mẫu Sr2-xLaxFeMoO6. ................................................. 88
Hình 4.6: Sự phụ thuộc momen từ vào nhiệt độ của các mẫu Sr2-xLaxFeMoO6. ........... 89
Hình 4.7: Đường cong từ hóa ở 5 K (a) và 300 K (b) của các mẫu Sr2-xLaxFeMoO6. . 90
Hình 4.8: Momen từ mExp phụ thuộc vào nhiệt độ T của các mẫu Sr2-xLaxFeMoO6. Các
đường cong liền nét là đường làm khớp theo hàm Bloch. ............................................. 91
Hình 4.9: Sự phụ thuộc vào nhiệt độ của điện trở suất ρ(H=0) của các mẫu SLFMO. 93
Hình 4.10: Sự phụ thuộc của độ dẫn ζ vào nhiệt độ của mẫu x = 0 (a) và các mẫu x =
0,1 ÷ 0,4 (b). .................................................................................................................. 93
Hình 4.11: (a) Logarithm của độ dẫn (lnζ) phụ thuộc vào 1/T1/2 của các mẫu Sr2-
xLaxFeMoO6; (b) Phần phóng đại của các đường cong ở nhiệt độ thấp. ..................... 94
Hình 4.12: Hiệu ứng từ điện trở MR của Sr2-xLaxFeMoO6 tại 5 K (a) và 300 K (b). ... 95
Hình 4.13: Làm khớp giá trị MR của các mẫu Sr2-xLaxFeMoO6. .................................. 97
ix
Hình 4.14: Độ phân cực spin P(5K) phụ thuộc độ bất trật tự cation (a) và momen từ
(b). .................................................................................................................................. 98
Hình 4.15: Sự phụ thuộc vào nhiệt độ của độ phân cực spin của các mẫu được chuẩn
hóa đến các giá trị P(5K). ............................................................................................. 99
Hình 5.1: Giản đồ SXRD của các mẫu SFZMO với các nồng độ Zn khác nhau. ....... 103
Hình 5.2: Kết quả xử lý Rietveld của mẫu Sr2Fe0.9Zn0.1MoO6. ................................... 104
Hình 5.3: Ảnh FESEM của các mẫu Sr2Fe1-xZnxMoO6. .............................................. 105
Hình 5.4: Đường cong từ hóa của các mẫu Sr2Fe1-xZnxMoO6 ở 5 K (a) và 300 K (b).
..................................................................................................................................... 106
Hình 5.5: Sự phụ thuộc nhiệt độ của mômen từ của các mẫu Sr2Fe1-xZnxMoO6. ....... 107
Hình 5.6: Các đường cong từ nhiệt của các mẫu Sr2Fe1-xZnxMoO6. .......................... 109
x
Hình 5.7: Các đường cong MR ở 5 K (a) và 300 K (b). .............................................. 110
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Thế hệ các linh kiện spin điện tử đầu tiên ra đời dựa trên hiệu ứng từ điện trở của
các cấu trúc đa lớp sắt từ [1], điển hình là các đầu đọc thông tin dạng van spin và bộ
nhớ truy cập ngẫu nhiên từ điện trở (MRAM). Sự dẫn điện trong các linh kiện này phụ
thuộc rất lớn vào độ phân cực spin của các lớp sắt từ, thƣờng dùng hiện nay là các hợp
kim của Fe, Co, and Ni với độ phân cực spin khoảng 40% [2]. Các vật liệu với độ phân
cực spin cao hơn có thể cải thiện vƣợt bậc tính năng của linh kiện và rất cần thiết để
phát triển thế hệ các linh kiện ba cực, ví dụ nhƣ các transistor spin. Một phổ rộng các
vật liệu, bao gồm các hợp kim Heusler [3] và perovskites kép [4], đã đƣợc chứng minh
là độ phân cực spin về lý thuyết có thể đạt đến 100%. Điều đó có nghĩa là tất các các
electron dẫn đều có cùng hƣớng spin. Do đó cấu trúc vùng năng lƣợng sẽ chỉ có một
hƣớng quay của các trạng thái spin vƣợt qua mức năng lƣợng Fermi. Ngoài ra, nhiệt độ
Curie (TC) cao của các loại vật liệu cũng đƣợc quan tâm nghiên cứu để ứng dụng trong
các hệ thống điện tử hiện đại, những vật liệu này cần có khả năng hoạt động ở nhiệt độ
phòng. Và khi kích thƣớc của các thiết bị có xu thế ngày càng nhỏ, nó cũng sẽ tối ƣu để
kết hợp các vật liệu đa chức năng vào cấu trúc thiết bị.
Trên thế giới, các công trình nghiên cứu và ứng dụng vật liệu oxit nửa kim loại có
có cấu trúc nano ngày một tăng mạnh cả về số lƣợng và chất lƣợng. Ở Việt Nam, Viện
ITIMS (Đại học Bách Khoa Hà Nội) là cơ sở nghiên cứu đầu tiên về vật liệu sắt từ nửa
kim loại dạng hợp kim Heusler từ năm 2005. Các nghiên cứu đã thu đƣợc những kết
xCuxMnSb [3] và các kết quả về đặc trƣng từ và hiệu ứng từ điện trở biên hạt trên các
quả về sự hình thành pha, đặc tính sắt từ nửa kim loại của hệ hợp kim bán Heusler Co1-
màng mỏng NiMnSb chế tạo bằng phƣơng pháp bốc bay nổ [4]. Bên cạnh đó, thông
qua việc thực hiện các đề tài NAFOSTED mang mã số 103.02.105.09 và 103.02-
2012.07 phòng thí nghiệm Nano từ và Siêu dẫn nhiệt độ cao của Viện ITIMS đã thu
đƣợc một số kết quả khả quan về chế tạo và nghiên cứu thành phần hóa học, cấu trúc
1
tinh thể, hình thái học và các tính chất vật lý ở thang nanomet của các hệ hạt nano oxit
từ tính, đây là cơ sở tốt để mở rộng các nghiên cứu này sang các hệ vật liệu oxit từ tính
có tính nửa kim loại có dạng cấu trúc tinh thể perovskite kép.
Perovskite kép (Double Perovskite – DP) có công thức hóa học chung là A2BB’O6,
trong đó A là kim loại đất hiếm hoặc kiềm thổ; B và B’ là các kim loại chuyển tiếp.
Cùng với việc thay thế các ion ở các vị trí khác nhau nhằm thay đổi các tính chất của
chúng một cách có kiểm soát thì perovskite kép rất đa dạng về chủng loại. Sr2FeMoO6
(SFMO) đã đƣợc nhận sự quan tâm đáng kể khi công trình của Kobayashi và cộng sự
đƣợc công bố. SFMO là hệ vật liệu oxit nửa kim loại có nhiệt độ Curie cao, có trật tự
lý tƣởng đƣợc dự đoán là một vật liệu nửa kim loại với độ phân cực spin 100% ở mức
Fermi [5]. Tổng mô men từ của hợp chất đƣợc mô tả tốt bằng mô hình ion của sự sắp
xếp phản sắt từ giữa spin lõi Fe3+(3d) và spin Mo5+(4d) dẫn đến momen từ tổng là 4 µB
trên một đơn vị công thức (µB/đ.v.c.t). Cùng với việc phát hiện hiệu ứng từ điện trở ở
nhiệt độ phòng và từ trƣờng nhỏ, SFMO đã cho thấy tiềm năng ứng dụng của mình vào
các thiết bị spintronics.
Trên Thế giới, một số lƣợng lớn các bài báo đã đƣợc công bố trên cơ sở SFMO ở
dạng hạt [6†10], đơn tinh thể [11] và dạng màng mỏng [12†15]. Các tính chất điện tử
và từ tính của SFMO phụ thuộc nhiều vào cấu trúc, sự cân bằng hóa học, độ trật tự
cation. Các đặc tính bên trong của vật liệu đã đƣợc nghiên cứu trên mẫu bột ép và các
đơn tinh thể để tìm ra mối liên hệ giữa từ tính và cơ chế dẫn điện. Còn ở trong nƣớc
các công trình nghiên cứu về vật liệu perovskite kép còn rất hạn chế, đặc biệt chƣa có
công trình công bố nào về hệ SFMO.
Để đóng góp những hiểu biết về vai trò của trật tự cation, trạng thái hóa trị, hiệu ứng
pha tạp và hiệu ứng giảm kích thƣớc lên các tính chất sắt từ nửa kim loại, luận án lựa
chọn vật liệu Sr2FeMoO6 (SFMO) làm đối tƣợng nghiên cứu với mục đích là làm chủ
công nghệ chế tạo vật liệu, từ đó nghiên cứu các tính chất từ, tính chất điện của chúng.
Trên cơ sở vật liệu thu đƣợc, luận án sẽ tiến hành thay thế một số loại ion với hàm
2
lƣợng nhất định vào vị trí của Sr và Fe để nghiên cứu ảnh hƣởng của sự pha tạp, độ trật
tự cation lên tính chất của SFMO cũng nhƣ thay đổi những thuộc tính của nó để đem
lại các tính chất mong muốn, đặc biệt là hiệu ứng từ điện trở của vật liệu SFMO.
2. Mục tiêu của luận án
xLaxFeMoO6, Sr2Fe1-xZnxMoO6.
• Làm chủ công nghệ chế tạo các vật liệu perovskite kép Sr2FeMoO6, Sr2-
• Làm sáng tỏ vai trò của trật tự cation, trạng thái hóa trị, hiệu ứng pha tạp và
hiệu ứng giảm kích thƣớc lên tính chất từ và điện của các mẫu.
• Khống chế tỷ số từ điện trở trong các mẫu thông qua sự thay đổi phân bố kích
thƣớc hạt, mật độ và bản chất của biên hạt.
Tên của luận án đƣợc lựa chọn là: “Chế tạo và nghiên cứu các tính chất từ, từ điện
trở của vật liệu perovskite kép Sr2FeMoO6 pha tạp La và Zn”.
3. Đối tƣợng và nội dung nghiên cứu
xLaxFeMoO6, Sr2Fe1-xZnxMoO6.
Đối tượng nghiên cứu: Các hệ vật liệu perovskite kép Sr2FeMoO6, Sr2-
Nội dung nghiên cứu:
xLaxFeMoO6, Sr2Fe1-xZnxMoO6, làm cơ sở cho quá trình nghiên cứu tiếp theo.
- Nghiên cứu công nghệ chế tạo các hệ vật liệu perovskite kép Sr2FeMoO6, Sr2-
- Nghiên cứu cấu trúc, hình thái học và các tính chất từ, tính chất điện của vật liệu
perovskite kép Sr2FeMoO6. Nghiên cứu ảnh hƣởng của pha SrMoO4, phân bố cation và
quá trình từ hóa lên hiệu ứng từ điện trở trong các mẫu SFMO đƣợc chế tạo bằng
phƣơng pháp Sol-Gel.
- Nghiên cứu về ảnh hƣởng của cấu trúc vi mô đến các tính chất từ và điện của vật
liệu Sr2-xLaxFeMoO6. Nghiên cứu ảnh hƣởng của biên hạt và sự thay thế La đối với
tính chất từ và tính dẫn spin, sử dụng các tác nhân bắt nguồn từ sự bất trật tự cation và
3
pha tạp electron lên sự phân cực spin của vật liệu.
- Nghiên cứu ảnh hƣởng của kích thƣớc cation và mật độ điện tích trong trật tự BB‟
của vật liệu Sr2Fe1-xZnxMoO6, cũng nhƣ nghiên cứu tác động của cation pha tạp đối với
tính chất từ, tính chất điện và cấu trúc của perovskites kép SFMO.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp chế tạo mẫu: Tổng hợp hóa học (sol-gel).
- Nghiên cứu cấu trúc: XRD, FESEM, DTA-TGA...
- Nghiên cứu tính chất từ: từ kế mẫu rung VSM, SQUID.
- Nghiên cứu tính chất điện của các mẫu bột ép: Phƣơng pháp 4 mũi dò, SQUID
(Dynacool).
5. Ý nghĩa thực tiễn và khoa học của luận án
Ý nghĩa thực tiễn: Các hệ vật liệu perovskite kép Sr2FeMoO6, Sr2-xLaxFeMoO6,
Sr2Fe1-xZnxMoO6 có nhiều tiềm năng ứng dụng trong thực tiễn. Với những đặc tính có
đƣợc nhƣ độ phân cực spin cao, hiệu ứng từ điện trở lớn ở nhiệt độ phòng và từ trƣờng
thấp… các hệ vật liệu này rất cần thiết để phát triển thế hệ các linh kiện spintronics
nhƣ cảm biến từ có độ nhạy cao, các transistor spin, các đầu đọc thông tin dạng van
spin hay bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên từ điện trở (MRAM)... Để ứng dụng trong thực
tiễn, làm chủ đƣợc công nghệ chế tạo các vật liệu perovskite kép có các tính chất mong
muốn và điều chỉnh chúng một cách có kiểm soát là yêu cầu rất quan trọng. Phƣơng
pháp chế tạo đƣợc sử dụng trong luận án này là phƣơng pháp sol-gel có thể dễ dàng
thay đổi thành phần pha mong muốn, dễ dàng điều khiển các điều kiện chế tạo và có
định hƣớng áp dụng trong quy mô sản xuất vật liệu cho mục tiêu ứng dụng vào thực
tiễn.
Ý nghĩa khoa học: Các kết quả nghiên cứu trong luận án đóng góp những hiểu biết
nhất định về vai trò của trật tự cation, trạng thái hóa trị, hiệu ứng pha tạp và hiệu ứng
giảm kích thƣớc lên tính chất sắt từ nửa kim loại của các mẫu vật liệu, khả năng cung
cấp dòng spin có độ phân cực cao của các hợp chất sắt từ nửa kim loại. Với việc ghi
4
nhận và giải thích mối liên hệ giữa độ bất trật tự cation, kích thƣớc hạt, nồng độ pha
thứ cấp cũng nhƣ bản chất của biên hạt lên các tính chất mà đặc biệt trong đó là hiệu
ứng từ điện trở, các kết quả của luận án cũng đóng góp thêm những kết quả nghiên cứu
cơ bản trong lĩnh vực khoa học và công nghệ nano. Các kết quả nghiên cứu khoa học
cơ bản này là tiền đề để tác giả luận án cũng nhƣ các nhà nghiên cứu khác tham khảo
cho các lĩnh vực khác nhau.
6. Đóng góp mới của luận án
Lần đầu tiên ở trong nƣớc, luận án đã làm chủ công nghệ chế tạo vật liệu perovskite
kép SFMO bằng phƣơng pháp sol-gel. Đây là kết quả có ý nghĩa tiên quyết để tiến
hành các nghiên cứu tiếp theo trên hệ vật liệu này. Thành công của việc chế tạo các
mẫu SFMO là điều kiện để đƣa ra những kết quả phân tích mang tính định lƣợng, đánh
giá những nhân tố tác động trực tiếp lên tính chất vật liệu và đóng góp vào những kết
quả nghiên cứu chung trên thế giới về hệ vật liệu perovskite kép.
Với phƣơng pháp nghiên cứu hợp lý, sử dụng các thiết bị phân tích tiên tiến ở trong
nƣớc (Nhiễu xạ tia X_XRD, Hiển vi điện tử quét phát xạ trƣờng_FESEM, Từ kế mẫu
rung_VSM, Quang phổ phát xạ plasma_ICP-OES..) cũng nhƣ tiếp cận các thiết bị của
nƣớc ngoài (đo Nhiễu xạ bột tia X phát xạ đồng bộ_SXRD ở Thái Lan, hệ Giao thoa kế
lƣợng tử siêu dẫn_SQUID ở Hà Lan) luận án đã thu thập tƣơng đối đầy đủ các thông
tin cần thiết cho quá trình phân tích nhƣ hàm lƣợng pha, kích thƣớc tinh thể, kích thƣớc
hạt, sự phân bố cation cũng nhƣ đo đạc các tính chất từ và hiệu ứng từ điện trở của vật
liệu SFMO.
Ngoài những kết quả nghiên cứu mang tính cơ bản, luận án đã cung cấp thêm thông
tin về tác động của hàm lƣợng pha SrMoO4, phân bố cation và quá trình từ hóa lên hiệu
ứng từ điện trở xuyên ngầm biên hạt (ITMR) trong các mẫu Sr2FeMoO6. Luận án đã
thành công trong việc pha tạp các nguyên tố La, Zn lên vật liệu SFMO, trên cơ sở đó
mô tả ảnh hƣởng của cấu trúc vi mô đến tính chất từ và tính chất điện của các mẫu
perovskite kép SFMO, nghiên cứu ảnh hƣởng của biên hạt cũng nhƣ độ trật tự cation
lên hiệu ứng ITMR của hệ vật liệu này. Khống chế tỷ số từ điện trở, độ phân cực spin
5
trong các mẫu bột ép dạng hạt có kích thƣớc nano thông qua sự thay đổi phân bố cation
và mật độ biên hạt. Vật liệu SFMO pha La có độ phân cực spin cao nhất đạt 74%. Độ
phân cực spin đạt gần 100% đối với các mẫu thay thế Zn (x = 0,15) cho Fe và giá trị
hiệu ứng từ điện trở đạt ~ 43 %.
Dựa trên nguyên lý đo điện trở bằng phƣơng pháp 4 mũi dò, luận án đã thiết kế và
chế tạo thành công hệ đo điện trở ở các nhiệt độ khác nhau. Với việc sử dụng hệ nam
châm điện của thiết bị Từ kế tích phân (từ trƣờng lên đến 10 kOe), hiệu ứng từ điện trở
không chỉ đƣợc đo ở nhiệt độ phòng mà có thể xuống đến nhiệt độ của Nito lỏng (80
K).
7. Bố cục của luận án
Mở đầu
Chương 1: Tổng quan về vật liệu perovskite kép Sr2FeMoO6
Chương 2: Công nghệ chế tạo và phƣơng pháp nghiên cứu
Chương 3: Nghiên cứu cấu trúc, tính chất từ của perovskite kép Sr2FeMoO6 chế tạo
bằng phƣơng pháp sol-gel và ảnh hƣởng của pha SrMoO4 lên hiệu ứng từ điện trở.
Chương 4: Ảnh hƣởng của pha tạp La lên cấu trúc và tính chất của SFMO.
Chương 5: Ảnh hƣởng của pha tạp Zn lên cấu trúc và tính chất của SFMO.
Kết luận và kiến nghị
Danh mục các công trình đã công bố của luận án
6
Tài liệu tham khảo.
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẬT LIỆU PEROVSKITE KÉP
Sr2FeMoO6
Năm 1961, tính ferri từ quanh nhiệt độ phòng ở oxit perovskite kép (DP) A2BB’O6
với B’ là Rheni (Re) đã đƣợc công bố bởi Long và Ward [16]. Các nghiên cứu tiếp theo
trên perivskite kép hệ Re tiếp tục khám phá các tính chất từ và điện của chúng. Phát
hiện này về DP dựa trên hệ Re đã kích thích các nghiên cứu về các hợp chất sắt từ mới
với cấu trúc tinh thể perivskite kép nhƣ B’ = Mo và B’ = W theo báo cáo của Patterson
và đồng nghiệp vào năm 1963 [17]. Nghiên cứu này cho thấy, tính sắt từ trên nhiệt độ
phòng cũng có thể có ở một số các hợp chất kể trên. Hiệu ứng mạnh của sự phân bố
cation kết hợp với kích thƣớc cation ở vị trí A của A2BB’O6 đã đƣợc nhận thấy trong
nghiên cứu của Galasso và các cộng sự [18]. Kể từ đó, các nhà nghiên cứu nhận thấy
rằng tƣơng tác siêu trao đổi không thể giải thích đƣợc cho trật tự ferri từ của B và B’ đã
đƣợc quan sát đối với các hợp chất này. Các hợp chất A2FeMoO6 và A2FeReO6 cũng đã
đƣợc tìm thấy là có tính dẫn cao. Một số nghiên cứu nhỏ vẫn tiếp tục diễn ra trên vật
liệu này trong thời gian tiếp theo, và đến năm 1998, Sr2FeMoO6 (SFMO) đã đƣợc nhận
sự quan tâm đáng kể khi công trình của Kobayashi và cộng sự cùng với dự đoán lý
thuyết của trạng thái cơ bản nửa kim loại (half-metal) với cấu trúc vùng đặc biệt, trong
đó chỉ có một nửa số điện tử có cùng hƣớng spin trong phân vùng mật độ trạng thái
ứng với khoảng năng lƣợng bao quanh mức Fermi, dẫn đến độ phân cực spin của các
vật liệu này là 100 %, và nhiệt độ Curie (TC) khoảng giữa 410 - 450 K [5]. Các phép đo
thực nghiệm của công trình trên các mẫu bột ép cho thấy TC = 415 K và một hiệu ứng
từ điện trở âm ở từ trƣờng thấp cho thấy đặc tính nửa kim loại của hợp chất kể trên. Kể
từ đó, một số lƣợng lớn các bài báo đã đƣợc công bố trên cơ sở SFMO ở dạng hạt, đơn
tinh thể và dạng màng mỏng. Các tính chất điện và từ tính của SFMO phụ thuộc nhiều
vào cấu trúc [19], sự cân bằng hóa học [20] và thứ tự sắp xếp các vị trí Fe/Mo [21].
Các đặc tính bên trong của vật liệu đã đƣợc nghiên cứu trên mẫu bột ép và các đơn tinh
thể để tìm ra mối liên hệ giữa từ tính và cơ chế dẫn điện [8,13,14,22]. Việc chế tạo
7
màng mỏng SFMO và nghiên cứu tính chất của chúng đã đƣợc thực hiện trong các
công trình [12†15]. Trong những năm gần đây, các công trình tiếp tục đƣợc công bố
dựa trên hệ vật liệu SFMO [23†29]. Các công trình tập trung nghiên cứu về công nghệ
chế tạo vật liệu dạng đa tinh thể [24] hay màng mỏng [23,26,27], cũng nhƣ nghiên cứu
các tính chất từ và tính chất điện dựa trên sự thay đổi các hiện tƣợng nhƣ độ trật tự
cation, sự “khuyết oxy” [25] và ứng dụng chúng trong các lĩnh vực khác nhau. Tiềm
năng này của SFMO và các vật liệu tƣơng tự khác để sử dụng trong các thiết bị
spintronics là động lực cho sự nghiên cứu và phát triển tiếp theo.
1.1 Cấu trúc tinh thể của SFMO
Sr2FeMoO6 (SFMO) có cấu trúc của một perovskite kép A2BB’O6, trong đó A là kim
loại kiềm thổ hoặc đất hiếm có hóa hóa trị hai (A = Ca, Sr, Ba), B và B’ là các kim loại
chuyển tiếp dị thƣờng (nhƣ B = Fe, Cr, Co… và B’ = Mo, Re, W,…). Các nguyên tử Fe
và Mo nằm bên trong các bát diện FeO6 và MoO6 sắp xếp đan xen lẫn nhau tạo thành 2
mạng con, các nguyên tử Sr với bán kính nguyên tử lớn hơn đặt ở giữa mỗi khối lập
phƣơng đƣợc hình thành bởi các bát diện. Một cấu trúc lý tƣởng của SFMO đƣợc mô tả
trên Hình 1.1.
Hình 1.1: Cấu trúc lý tưởng của SFMO [22].
Các bát diện sắp xếp đan xen lẫn nhau theo một trật tự lý tƣởng khi mà các khối bát
8
diện FeO6 đƣợc bao quanh bởi sáu bát diện MoO6 và ngƣợc lại. Thứ tự sắp xếp này
liên quan đến sự khác biệt về kích thƣớc của bán kính ion của hai cation B và B’ [30].
Với cấu trúc khối lý thuyết, góc Fe-O-Mo là 180o cần thiết cho các tính chất từ điển
hình của vật liệu [11]. Độ dài và góc liên kết giữa các nguyên tử quyết định tính đối
xứng của mạng tinh thể.
SFMO có cấu trúc lập phƣơng hoặc tứ diện với các nhóm không gian Fm3m và I4/m
tƣơng ứng [19]. Cấu trúc lập phƣơng đƣợc mô tả trong nhóm không gian Fm3m, tuy
nhiên cấu trúc này rất dễ bị biến dạng dƣới tác động của áp suất và thay đổi nhiệt độ.
Các bát diện trải qua sự biến dạng nghiêng theo hƣớng thuận lợi nhất để đáp ứng sự
không phù hợp về kích thƣớc của các cation trong mạng tinh thể, điều này dẫn đến sự
giảm tính đối xứng của mạng cubic. Bằng cách thức méo mạng a0a0c - trong ký hiệu
Glazer, cấu trúc lập phƣơng chuyển thành một tứ diện, và nhóm không gian Fm3m
đƣợc thay thế bởi nhóm không gian I4/m.
Bằng phƣơng pháp nhiễu xạ tia X dùng nguồn synchrotron, Moritomo và cộng sự
quan sát thấy rằng khi nhiệt độ giảm, sự đối xứng của tinh thể thay đổi từ lập phƣơng
sang tứ diện [19]. Quá trình chuyển đổi này diễn ra gần TC của SFMO cung cấp thêm
bằng chứng cho thấy cấu trúc có mối liên hệ với cơ chế từ tính. Nghiên cứu trên vật
liệu đơn tinh thể, Tomioka và cộng sự đƣa ra kết quả là SFMO có cấu trúc tinh thể tứ
diện đối xứng với các thông số mạng a = b = 5.577 Å và c = 7.887 Å, với thể tích ô cơ
sở 245,3 Å3 và độ trật tự Fe/Mo là 92 % [11].
Để đánh giá mức độ méo mạng của tinh thể ABO3, V.Goldschmidt đã đƣa ra định
nghĩa thừa số dung hạn (f) đƣợc xác định bằng công thức [31]:
√ ( )
(1.1)
Trong đó rA, rB và rO lần lƣợt là bán kính của các nguyên tử A, B và Oxy. Đối với
các hợp chất perovskite kép, thừa số dung hạn cần tính đến hai khoảng cách tƣơng ứng
B-O và B’-O:
√ (〈 〉 )
9
(1.2)
Trong đó, ri là bán kính hiệu dụng của nguyên tử i (i = A, B, B’, O)
〈 〉
(1.3)
Một cách gần đúng, công thức sau đây đƣợc áp dụng cho cả hệ vật liệu perovskite
kép A2BB’O6:
Đối với f > 1,05: Có cấu trúc lục giác;
1,00 < f ≤ 1,05: Hợp chất trở thành lập phƣơng trong nhóm không gian Fm3m;
0,97 < f ≤ 1,00: Có cấu trúc tƣơng ứng là tứ diện với nhóm không gian I4/m;
Còn nếu f ≤ 0,97: Hợp chất trở thành đơn tà (P21/n) hoặc trực thoi.
1.2 Cấu trúc điện tử của SFMO
Cấu trúc điện tử của perovskite kép SFMO có thể đƣợc tính toán bằng phƣơng pháp
phiếm hàm mật độ [5], phƣơng pháp linear muffin-tin orbital (LMTO) [32], và bằng
quang phổ quang học của đơn tinh thể [11]. Trong Hình 1.2 cho thấy sơ đồ cấu trúc
vùng năng lƣợng của SFMO.
Hình 1.2: Cấu trúc vùng năng lượng của SFMO [27].
Các vùng quỹ đạo O(2p) lấp đầy dải năng lƣợng thấp nhất trong cả cấu hình spin lên
và spin xuống. Trong cấu hình spin lên, các electron Fe(3d) lai hóa với O, đƣợc biểu
diễn bằng sự chồng chéo của các dải. Các dải spin xuống của Mo đƣợc đặt cách nhau
trên mức Fermi với một khoảng cách năng lƣợng đáng kể giữa chúng và Fe. Tƣơng tự
cấu hình spin lên, vùng spin xuống với năng lƣợng thấp hầu nhƣ có mặt của các
10
electron O(2p). Tuy nhiên, ở các mức năng lƣợng gần mức Fermi, cả các electron định
xứ Fe(3d) và electron Mo(4d) đều cho thấy sự kết hợp mạnh mẽ với các electron
O(2p). Những dải này tạo điều kiện cho tính dẫn của các electron, và đảm bảo rằng các
hạt mang điện đƣợc phân cực 100% [5].
1.2.1 Bố trí điện tử ở các mức năng lƣợng của SFMO
Sự lai hóa của các vùng spin xuống của Fe và Mo tạo điều kiện cho cơ chế từ tính và
tính dẫn. Hình 1.3 minh họa sơ đồ mức năng lƣợng các quỹ đạo electron của Fe và Mo.
Hình 1.3: Sơ đồ mức năng lượng của các quỹ đạo electron [27].
Fe có 5 electron định xứ trong vùng spin lên t2g và eg, Mo có 1 electron đƣợc định
xứ trong vùng spin xuống t2g. Các dải spin xuống t2g của cả hai quỹ đạo d có năng
lƣợng tƣơng tự do sự lai hóa của Fe, Mo và các liên kết O. Kết quả năng lƣợng của các
electron đƣợc xây dựng trên cơ sở sự lai hóa của các obitan. Khi khoảng cách liên kết
bị thay đổi do ứng suất mạng, hoặc khi liên kết bị thay đổi do khuyết tật mạng, sự lai
hóa trên bị mất đi. Các đặc tính dẫn của SFMO xảy ra nhƣ là kết quả của cấu trúc điện
tử này. Khi các spin của các nguyên tử Fe và Mo đƣợc sắp xếp một cách trật tự, điện
trở của vật liệu thấp và do tán xạ spin là ít hơn trong trƣờng hợp này. Điều này có
nghĩa là electron Mo lƣu động di chuyển qua mạng tinh thể mà không thay đổi hƣớng
của nó. SFMO cũng có các thuộc tính từ điện trở xuyên ngầm TMR [8,33†35]. Thay vì
sử dụng một cấu trúc không đồng bộ giữa các lớp, các đƣờng xuyên ngầm electron của
11
SFMO thông qua các ranh giới của các hạt hoặc ranh giới của các miền từ.
Độ phân cực spin (P) của các electron có spin thiểu số nằm tại vùng lai hóa B(t2g↓)–
O(2p)–B’(t2g↓), chịu trách nhiệm cho cả cơ chế dẫn điện và tƣơng tác sắt từ, các hiệu
ứng từ điện trở lớn đƣợc chờ đợi trong pha sắt từ của perovskite kép [36]. Độ phân cực
spin (P) đƣợc xác định bằng công thức sau:
(1.4)
Trong đó N↑(↓) là mật độ của các trạng thái chiếm đóng trên một đơn vị thể tích ở
mức Fermi trong vùng con có spin đa số (hoặc thiểu số). Do đó, khi một trong những
mật độ trạng thái spin đƣợc dự báo đặt ở mức Fermi, P = -1. Trong trƣờng hợp của
nhiều perovskite kép nhƣ (Sr, Ca, Ba)2FeMoO6; (Sr, Ca, Ba)2FeReO6; Sr2CrReO6 và
(Sr, Ca)2CrWO6, theo lý thuyết đƣợc dự đoán rằng P = -1 [36].
Tính phân cực spin bằng cách tạo ra từ điện trở xuyên ngầm (TMR) trong các đƣờng
dẫn với các điện cực làm từ perovskite kép không đạt kết quả nhƣ mong muốn bởi khó
khăn để tạo ra các màng mỏng perovskite kép với chất lƣợng cao. Balcells và các cộng
sự đã áp dụng các kỹ thuật in bản mạch tiên tiến để tạo ra mô hình các kênh dẫn ngầm
nano trên các khối SFMO liên tục siêu nhỏ [9]. Các kênh dẫn SFMO/SrTiO3/Co đã thể
hiện TMR = 50 % ở 4 K, tƣơng ứng với P = −0.86 trong mô hình của Julliere [37].
Màng SFMO chất lƣợng cao với bề mặt phẳng mịn có thể đƣợc phát triển trên nền
SrTiO3 (001) và (111) bằng phƣơng pháp lắng đọng nhiệt độ cao (khoảng 900 oC), tuy
nhiên các tính chất rất dễ bị thay đổi trong môi trƣờng lắng đọng (áp suất oxy phải dƣới
10-5 mbar) [38†40]. Vì vậy, hầu hết các báo cáo nghiên cứu về sự dẫn phụ thuộc spin
trong perovskite kép đều đƣợc thực hiện trong vật liệu gốm đa tinh thể.
1.2.2 Momen từ trên một đơn vị công thức của SFMO
Trong cấu trúc perovskite kép lý tƣởng, Fe và Mo chiếm các vị trí tinh thể riêng biệt
B và B‟ tạo thành hai phân mạng phản song song nhau. Giá trị momen từ bão hòa (MS)
ở nhiệt độ thấp cũng đƣợc đƣa ra trong trật tự phản sắt từ giữa spin lõi Fe3+ và electron
Mo5+ (4d). Nếu chia sự đóng góp sắt từ thành các thành phần định xứ (5 μB/đ.v.c.t. từ
12
spin lõi của Fe và một phần phát sinh từ việc phân cực spin xuống hoàn toàn Mo t2g
của vùng dẫn -1 μB/đ.v.c.t.), tổng của chúng là bằng nhau. Mômen từ của Fe3+ và Mo5+
tƣơng ứng bằng 5 μB và 1 μB, do vậy mômen từ trong cấu trúc SFMO lý tƣởng là:
gJμB(5/2 - 1/2) = 4 μB/đ.v.c.t., (1.5)
trong đó, gJ là hằng số Land'e khi chỉ có đóng góp của spin đến xung lƣợng góc.
Nhƣ vậy, theo tính toán lý thuyết đƣợc trình bày bởi Kobayashi và đồng nghiệp [5],
giá trị momen từ của SFMO là 4 μB trên một đơn vị công thức. Tuy nhiên, giá trị này là
khó đạt đƣợc trên thực tế khi có sự bất trật tự cation trong vật liệu, điều này đƣợc lý
giải do có sự hoán đổi vị trí của các cation Fe3+ và Mo5+ cho nhau. Các tính chất từ của
SFMO cũng đƣợc kiểm soát bởi sự sắp xếp cation của Fe/Mo. Sự liên kết phản sắt từ
xảy ra giữa các nguyên tử Mo và Fe là kết quả của cƣờng độ trao đổi liên nguyên tử.
Hình 1.4 cũng cho thấy liên kết theo định hƣớng của các spin, spin điện tử của mỗi
nguyên tử khác nhau đáng kể về độ lớn (SFe=5/2 và SMo=1/2).
Hình 1.4: Sơ đồ trật tự sắt từ của SFMO [36].
Phần trên của Hình 1.4 là sơ đồ cấu trúc từ của một tinh thể SFMO với độ trật tự là
tuyệt đối. Mạng con của Fe (màu xanh) và mạng con của Mo (màu tím) là mỗi sắt từ,
nhƣng khi kết hợp với nhau chúng tạo ra một momen ferri từ. Sự lai hóa của các dải
spin xuống tạo điều kiện cho những thay đổi về cƣờng độ trao đổi và tồn tại trong cấu
trúc sắt từ. Sự lai hóa giữa Fe và Mo thông qua anion O là phù hợp với cơ chế trao đổi
kép của Zener [41]. Khi các cation Fe và Mo đảo vị trí cho nhau, giá trị Ms bị giảm đi
so với giá trị lý thuyết. Độ bất trật tự cation này sẽ ảnh hƣởng đến các tính chất khác
13
đƣợc điều khiển bởi liên kết Fe-Mo. Greneche và các cộng sự [42] cho thấy rằng bất
trật tự cation là nguyên nhân chính của Ms thấp. Mặc dù định hƣớng spin vẫn không
đổi do các tƣơng tác trao đổi phản sắt từ giữa các nguyên tử Fe và Mo, độ lớn tổng của
các spin lên và spin xuống sẽ thay đổi đáng kể, nhƣ đƣợc mô tả trong phần dƣới cùng
của Hình 1.4. Borges và cộng sự [43] đƣa ra một kết luận tƣơng tự, ngay cả 1% độ bất
trật tự cation cũng làm giảm Ms xuống 0,1 μB/đ.v.c.t.
Martin Hoffmann và các cộng sự [44] đã nghiên cứu sự phụ thuộc của momen từ và
nhiệt độ Curie vào sự “khuyết oxy” ở trong vật liệu SFMO (Hình 1.5).
Hình 1.5: Momen từ tổng và nhiệt độ Curie (TC) phụ thuộc vào tỷ lệ khuyết oxy [44].
Nghiên cứu chỉ ra rằng, hóa trị hỗn hợp quan sát bằng thực nghiệm của ion Fe (Fe2+
và Fe3+) chủ yếu là do sự khuyết oxy. Sự khuyết oxy dẫn đến việc làm tăng nhiệt độ
Curie TC ở trong mẫu SFMO cũng nhƣ làm giảm momen từ tổng của chúng. Với tỷ lệ
khuyết oxy tăng từ 0 đến 10 % ở trong mẫu dẫn đến nhiệt độ Curie tăng từ 180 K lên
330 K và momen từ tổng giảm từ 4 µB/đ.v.c.t. xuống còn 2,8 µB/đ.v.c.t.
1.2.3 Tƣơng tác sắt từ và nhiệt độ Curie
1.2.3.1 Tương tác sắt từ
Tính sắt từ trong perovskites kép có nhiệt độ TC cao phát sinh do spin của các ion ở
vị trí B và B’. Trong SFMO, các quỹ đạo Fe3+ (3d5) và Mo5+ (4d1) tại các khe của bát
diện đƣợc hình thành thông qua điện tích âm O2-. Sơ đồ tách mức năng lƣợng của
14
SFMO đƣợc trình bày trên Hình 1.6.
Hình 1.6: Sơ đồ tách mức năng lượng Sr2FeMoO6 theo Kobayashi [5].
Do đó, trạng thái cơ bản có 3 mức năng lƣợng, và trạng thái kích thích đầu tiên có 2
mức năng lƣợng, cụ thể là |t2g| và |eg| tƣơng ứng. Chúng cách nhau một khe năng lƣợng
là ∆CEF = 10Dq ~ 1 eV [5], trong đó Dq là cƣờng độ của trƣờng tinh thể [45].
Trong đó x, y, z là tọa độ nguyên tử và |l, m> là những hàm điều hòa phỏng cầu.
Trong cấu hình spin cao, nguyên tử Fe3+ có momen spin S = 5/2. Điều này dẫn đến
sự tách mức năng lƣợng trao đổi cao ∆ex ~ 3 eV giữa các mức spin lên và spin xuống,
nhƣ đã đƣợc thể hiện trong tính toán cấu trúc dải dựa trên lý thuyết phiếm hàm mật độ
[5,32].
Kết quả tƣơng tự cũng thu đƣợc cho các nguyên tử Fe với sự có mặt của Re, trong
khi các hợp chất B = Cr (Cr3+, S = 3/2) và B = Mn (Mn2+, S = 5/2) năng lƣợng tách mức
15
nội nguyên tử theo lý thuyết Hund khoảng 2 eV và 4 eV [46,47] tƣơng ứng. Vì vậy,
trong hầu hết các trƣờng hợp ∆ex>>∆CEF tại vị trí B. Ngƣợc lại, cƣờng độ trao đổi kép
của nguyên tử B’ là không đáng kể, do đó năng lƣợng tách do trƣờng tinh thể chiếm ƣu
thế.
Tuy nhiên, mô hình này không giải thích đƣợc hai trong số các tính chất vật lý chính
của SFMO. Đầu tiên, sự phân cực spin cao ở trạng thái kim loại dƣới nhiệt độ TC và
hóa trị không nguyên của Fe đƣợc đƣa ra trong các thí nghiệm Mossbauer và hấp thụ
tia X [9,42,48,49,50]. Thứ hai, nhiệt độ trật tự từ cao quan sát thấy trong SFMO là
không tƣơng thích với mô hình siêu trao đổi – cơ sở của tƣơng tác từ của các electron
loại d. Mặc dù các nghiên cứu nhiễu xạ hạt neutron đã chỉ ra bằng chứng thực nghiệm
của sự sắp xếp ferri từ [51,52], các giá trị TC lớn sẽ đòi hỏi một liên kết siêu trao đổi
giữa Mo và Fe và nó không phải xuất phát từ bản chất của nguyên tố nhƣ Mo. Hơn
nữa, các phép đo độ cảm từ trong cơ chế thuận từ cho một hằng số trao đổi Curie-
Weiss dƣơng cho thấy một sự tƣơng tác từ tính và là sắt từ trong bản chất của chúng.
Do đó, phải kết hợp lý thuyết về cấu trúc điện tử để giải thích từ tính của chúng.
Trong tính toán đầu tiên về mật độ trạng thái (DOS) của Kobayashi và cộng sự [5],
phần lớn dòng spin lên tạo ra một dải cấm khoảng 0.8 eV. Phần ít spin xuống Mo và Fe
ở mức t2g đƣợc điền đầy, trong khi mức eg là trống rỗng (xem Hình 1.7).
Các dải nằm ở mức Fermi có sự phân cực spin âm điền đầy (P = -1), và chủ yếu là
từ Mo và Fe t2g, với một số nhỏ của O ở trạng thái 2p. Việc tính toán mang lại các giá
trị dự tính cho ∆CEF, và cho việc trao đổi phân cách tại nguyên tử Fe, ∆ex. Tuy nhiên,
Mo t2g↓ đƣợc mở rộng bất thƣờng và đẩy xuống mức Fermi. Xem xét một mô hình liên
kết chặt chẽ bao gồm các quỹ đạo d tại vị trí Fe và Mo, và quỹ đạo p tại các vị trí oxy,
Sarma cùng đồng nghiệp [32] nhận ra rằng sự phân chia bất thƣờng này chỉ có thể phù
hợp với một cƣờng độ trao đổi nội nguyên tử hữu hiệu, ∆’ex, lớn hơn khoảng 20 lần so
với một nguyên tử nhƣ Mo. Các thành phần chính cho một ∆’ex cao nhƣ vậy là quá
trình nhảy của electron giữa các trạng thái Fe và Mo với cùng spin và quỹ đạo, trong
đó cho phép sự lai hóa Fe(t2g↓)-O(2p)-Mo(t2g↓) và do đó trạng thái năng lƣợng spin
16
xuống của Mo nhỏ hơn, trong khi trạng thái năng lƣợng spin lên đƣợc đẩy cao hơn.
Hình 1.7: Mật độ trạng thái của Sr2FeMoO6 [5].
Trùng với các quan sát thực nghiệm [48,53], việc dịch chuyển điện tích do các cơ
chế nhảy tạo ra một trạng thái Fe(3-δ)+/Mo(5+δ)+ (hoặc Fe(3-δ)+ /Re(5+δ)+) với 0 <δ <1, nhƣ
ban đầu đƣợc đề xuất bởi Garcia-Landa và đồng nghiệp [54]. Ngoài ra, kể từ khi các
trạng thái Fe(t2g) đã phân cực spin xuống điền đầy, việc nhảy của electron chỉ xảy ra
khi các momen spin định xứ Fe có trật tự sắt từ. Nhƣ vậy, sự tƣơng tác nhảy củng cố
trật tự sắt từ của các nguyên tử gần Fe nhất, do đó TC tăng. Sự tƣơng tác phản sắt từ
giữa Fe và Mo trƣớc khi có sự tƣơng tác nhảy là rất quan trọng, nếu không sự thay đổi
của các mức t2g↓ và t2g↑ Mo sẽ có hƣớng ngƣợc lại, kết quả là làm giảm TC.
Điều kiện cần trong mô hình của Sarma là mức Fermi phải nằm trong dải cấm năng
17
lƣợng lớn trong dải cấu trúc điện tử của các trạng thái nguyên tử B. Trong trƣờng hợp
của Sr2FeMoO6, dải cấm đƣợc hình thành giữa các dải Fe eg↑ và t2g↓, nhƣ thể hiện
trong Hình 1.7, trong khi trong hợp chất A2CrWO6 dải cấm nằm giữa các dải Cr t2g↑ và
eg↑ [55]. Năng lƣợng đạt đƣợc nhờ tƣơng tác trao đổi do cơ chế nhảy giữa các nguyên
tử không từ tính và spin cao của các kim loại 3d đã đƣợc tổng quát hóa bởi Kanamori
và cộng sự [56] cho các hợp chất kim loại chuyển tiếp khác. Mặt khác, các hệ
A2FeWO6 (A = Ba, Sr) đã đƣợc tìm thấy là chất cách điện và cho thấy sự sắp xếp phản
sắt từ của các momen Fe, mà là kết quả của các tính chất Fe2+/W6+ của trạng thái hóa
trị và không phải là kết quả của việc nhảy electron. Năng lƣợng cao của các mức W 5d
so với Mo 4d và Re 5d làm cản trở cơ chế nhảy này. Sự tƣơng tác siêu trao đổi phản sắt
từ làm ổn định nhiệt độ Neel thấp của các phản sắt từ quan sát trong hợp chất
Sr2FeWO6. Điều này đã đƣợc làm sáng tỏ bằng trao đổi kép Hamilton trong hệ hợp kim
Sr2FeMoxW1-xO6 tại vị trí B’ [57], trong đó cho thấy sự chuyển đổi phản sắt từ điện
môi đến sắt từ kim loại khi tăng hàm lƣợng Mo đến x ~ 0.3, điều này phù hợp với các
dữ liệu thực nghiệm trƣớc đó [5].
1.2.3.2 Nhiệt độ Curie
Từ những năm 1960, nhiệt độ Curie (TC) cao trong khoảng 410-450 K [5] đã đƣợc
quan sát thấy trong SFMO và đƣợc coi là một đặc tính quan trọng cho các ứng dụng
của nó với các thiết bị điện làm việc ở nhiệt độ phòng. TC của vật liệu đƣợc định nghĩa
là nhiệt độ mà tại đó có sự chuyển đổi từ ferri từ sang thuận từ. Việc xác định nhiệt độ
này tƣơng ứng với năng lƣợng cần thiết để vƣợt qua năng lƣợng trao đổi chịu trách
nhiệm cho định hƣớng ferri từ của các spin electron của Fe và Mo. Tổng năng lƣợng
trao đổi của hệ đƣợc thể hiện trong phƣơng trình 1.6.
Etotal = Ez + Eex + Ea + ED (1.6)
Trong phƣơng trình này, Ez là năng lƣợng Zeeman của hệ, mô tả sự tƣơng tác của
vật liệu với từ trƣờng ngoài, Eex là năng lƣợng trao đổi mô tả sự tƣơng tác giữa các
nguyên tử lân cận gần nhất, Ea không có sự đối xứng tinh thể, và Ed là năng lƣợng khử
từ mô tả các tƣơng tác nguyên tử tầm xa. Do tính chất sắt từ của Fe, trật tự ở tầm xa
18
tƣơng đối nhỏ. Các đối xứng tinh thể là tƣơng đối cao cho SFMO (tứ giác/khối) và Ea
cũng đƣợc bỏ qua. Do đó, hai tƣơng tác quan trọng nhất là Ez và Eex. Khi các dao động
nhiệt của các electron tăng lên do nhiệt độ, mạng tinh thể mở rộng và tƣơng tác giữa
các electron yếu đi. Các spin từ sẽ bắt đầu hỗn loạn khi các tƣơng tác cục bộ của riêng
chúng giảm đi, do đó làm giảm Eex tổng thể của hệ và làm giảm dần momen từ hóa của
mẫu. Sử dụng máy đo từ SQUID, momen từ bão hòa phụ thuộc vào nhiệt độ đƣợc đƣa
ra và TC đƣợc định nghĩa là nhiệt độ mà tại đó momen từ của mẫu giảm xuống 0. Với
việc giữ lại các tính chất từ trên nhiệt độ phòng, SFMO đƣợc sử dụng mà không phải
làm mát nhƣ một số chất siêu dẫn.
1.3 Hiệu ứng từ điện trở
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng hiệu ứng từ điện trở (MR) trong perovskite kép dạng
hạt phát sinh từ sự tán xạ phụ thuộc spin tại các biên hạt. Cơ chế dẫn điện cơ bản là
điện tử xuyên ngầm qua các biên hạt cách điện của vật liệu dạng hạt. Perovskite kép
đáp ứng hai điều kiện tiên quyết cho hiệu ứng từ điện trở xuyên ngầm (TMR) xảy ra
trong các mẫu đa tinh thể: độ phân cực khác không trên mẫu vật liệu và các biên hạt
cách điện đủ nhỏ để cho phép sự xuyên ngầm của điện tử giữa các hạt. Hiệu ứng từ
điện trở với cơ chế xuyên ngầm qua các biên hạt đƣợc gọi là hiệu ứng từ điện trở xuyên
ngầm biên hạt (ITMR – Intergrain tunneling magnetoresistance).
Hiệu ứng ITMR đƣợc giải thích nhƣ sau: một tập hợp các hạt đƣợc phân cách với
nhau bằng các đƣờng biên hạt cách điện đƣợc xem nhƣ một mạng lƣới các điện cực
đƣợc nhúng trong một ma trận cách điện. Khi không có từ trƣờng ngoài tác dụng,
momen từ tổng của vật liệu bằng 0 và các momen từ của các hạt sắp xếp ngẫu nhiên.
Theo lý thuyết TMR đơn giản nhất [37], điều này tạo ra trạng thái điện trở cao hơn so
với trạng thái điện trở thấp đạt đƣợc trên đƣờng bão hòa, khi mà tất cả các momen từ
của các hạt lân cận là song song. Do đó, dƣới tác dụng của từ trƣờng ngoài, mẫu bị
giảm điện trở suất khi momen từ tiệm cận bão hòa. Để đƣa ra một cách tiếp cận lý
thuyết cho sự phụ thuộc của ITMR vào từ trƣờng, luận án sử dụng mô hình Inoue và
Maekawa [58] cho ITMR của một tập hợp các hạt từ đơn cực trong một ma trận cách
19
điện. Mô hình này là một phần mở rộng của mô hình Slonczewski về tính dẫn điện của
một kênh dẫn, nơi mà các điện cực hình thành một góc tùy ý. Gọi m là momen từ hóa
của một mẫu đa tinh thể có các hạt không tƣơng tác từ tính với nhau, mô hình của
Inoue và Maekawa đƣa ra biểu thức sau cho độ dẫn điện:
G(H) = G0(1+P2m2)exp(-2ks) (1.7)
Trong đó, G0 là độ dẫn điện trong trƣờng hợp không có phân cực spin và nằm trong
giới hạn κs → 0. κ2 và s tƣơng ứng là chiều cao và độ dày rào thế của kênh dẫn đƣợc
hình thành tại các biên hạt. Trong trƣờng hợp này, nó là giá trị trung bình của hàm mũ
trong toàn bộ mẫu, đƣợc cân bằng hàm xác suất tƣơng ứng của nó [59]. Ví dụ, phƣơng
trình (1.7) sẽ chính xác nếu chiều cao và độ dày của rào thế là hằng số và bằng κ2 và s
tƣơng ứng. Vì vậy, nếu giả định rằng các đặc tính rào thế, các hệ số κ, s độc lập với từ
( ) ( )
trƣờng, ta có thể tính toán từ phƣơng trình (1.7) độ dẫn từ kết hợp với hiệu ứng ITMR:
( )
( )
( ) (1.8)
Khi mà điện trở xác định là R = 1/G, ta thay thế phƣơng trình (1.8) bằng phƣơng
( ) ( )
trình của từ điện trở:
( )
( )
(1.9)
( ) ( )
( )
( )
( )
( ) (1.10)
Mỗi định nghĩa MR đƣợc sử dụng tùy thuộc vào mục đích riêng. Đặc biệt, MR0 rất
hữu ích khi muốn thêm nhiều đóng góp vào tác động của MR trong chuỗi [59], trong
khi sử dụng MRh dễ dàng hơn để kết hợp các đóng góp song song [60].
Lƣu ý rằng, ngoài các tham số nhƣ P và m, hiệu ứng ITMR phụ thuộc mạnh vào đặc
tính bên ngoài các hạt, chẳng hạn nhƣ kích thƣớc, khiếm khuyết bề mặt, tạp chất và
20
tính chất biên hạt.
1.4 Các yếu tố ảnh hƣởng lên tính chất của SFMO
1.4.1 Ảnh hƣởng của độ bất trật tự cation
Trong cấu trúc lý tƣởng, các nguyên tử Fe và Mo sẽ sắp xếp theo thứ tự xen kẽ
giống nhƣ trƣờng hợp của NaCl. Nhƣng trong thực tế thƣờng xảy ra việc các nguyên tử
Fe đƣợc thay thế bởi các nguyên tử Mo và ngƣợc lại. Điều này đƣợc gọi là hiện tƣợng
bất trật tự cation, và thƣờng đƣợc đánh giá bởi độ bất trật tự cation ASD (Antisite
Defect). Điều này là do các nguyên tử sắt tạo thành một dãy trong cấu trúc nhƣ một
ranh giới giữa hai pha trong cấu trúc do liên kết phản sắt từ Fe – O – Fe mạnh hơn so
với liên kết sắt từ Fe – O – Mo, chúng đƣợc hiển thị trong sơ đồ Hình 1.8. Trong
nghiên cứu [61] đƣa ra kết luận rằng sự bất trật tự cation ASD không chỉ là khiếm
khuyết điểm nhƣ trong Hình 1.8 B, mà cấu trúc sẽ bị xáo trộn hơn. Những chuỗi hoặc
vùng bị xáo trộn lớn này đƣợc gọi là vùng đảo, đƣợc biểu diễn trong Hình 1.8 C và
đƣợc quan sát bằng kính hiển vi điện tử năng lƣợng cao [62].
Hình 1.8: Sự bố trí của các nguyên tử Fe và Mo của SFMO trong cấu trúc lý tưởng (A) và khi
có hiện tượng đảo (B và C) [62].
Độ bất trật tự cation ASD đƣợc kiểm soát bởi các thông số công nghệ, chẳng hạn
nhƣ thời gian thiêu kết và nhiệt độ. Có thể nói rằng, nhiệt độ càng cao dẫn đến độ trật
tự càng tốt hơn [9,63], mặc dù thời gian thiêu kết quá dài dẫn tới việc xuất hiện các pha
thứ cấp [64]. Quy tắc này chỉ có giá trị ở nhiệt độ thiêu kết dƣới 1200 oC, còn ở nhiệt
21
độ cao hơn, độ bất trật tự cation giảm khi nhiệt độ tăng lên [65,66].
Rất nhiều các nghiên cứu đƣợc thực hiện dựa trên khuyết tật mạng và độ bất trật tự
cation ASD, các kết quả nghiên cứu lý thuyết [67] và thực nghiệm [9] là phù hợp với
nhau đã chỉ ra rằng, momen từ bão hòa của SFMO giảm tuyến tính từ giá trị lý thuyết 4
μB/đ.v.c.t. theo sự tăng lên của độ bất trật tự cation theo quy tắc Ms = (4 - 8x) μB/đ.v.c.t.,
trong đó x là phần nhỏ các nguyên tử Fe đƣợc thay thế bởi Mo. Sự tƣơng tác Fe – O –
Fe là một cặp tƣơng tác phản sắt từ mạnh, do đó làm giảm tổng số từ hóa gây ra bởi các
nguyên tử Fe, trong khi Mo bị sai lệch trong Mo – O – Mo là từ tính và không bù lại
đƣợc sự giảm momen từ do sự sai lệch các nguyên tử Fe gây ra. Tƣơng tự nhƣ vậy, TC
và hiệu ứng từ điện trở giảm do sự bất trật tự cation trong SFMO [61,67,68].
Với độ bất trật tự cation cao, vật liệu SFMO không còn là nửa kim loại nữa và
không có hiệu ứng từ điện trở ở từ trƣờng thấp, mặc dù MR ở từ trƣờng cao không bị
ảnh hƣởng bởi độ bất trật tự cation ASD [21,61]. Điều này đƣợc giải thích bởi cơ chế
của hiệu ứng MR, hiệu ứng MR ở từ trƣờng thấp phụ thuộc vào tính sắt từ nửa kim loại
và do sự tán xạ phụ thuộc spin của các sóng mang điện phân cực spin, trong khi MR ở
từ trƣờng cao có nguồn gốc từ sự xuyên ngầm qua biên hạt [21].
Độ trật tự không phải là điều duy nhất ảnh hƣởng đến tính chất của MR, kích thƣớc
hạt cũng đóng một vai trò quan trọng. SFMO có kích thƣớc hạt nhỏ hơn vẫn có giá trị
MR tốt hơn so với SFMO có độ trật tự cao nhƣng có kích thƣớc hạt lớn [62]. Các thông
số mạng cũng thay đổi do sự bất trật tự cation đó, nhƣng không đủ để cho biết sự khác
biệt giữa các mẫu có độ trật tự cao hay thấp [21,68]. Độ trật tự đƣợc ƣớc tính từ các
đỉnh peak siêu mạng và cƣờng độ của chúng trên dữ liệu nhiễu xạ tia X [9,21,68].
Rietveld sàng lọc đƣợc sử dụng để xác định độ bất trật tự cation ASD từ dữ liệu XRD
bằng cách thiết lập các cặp Fe/Mo nhƣ một trong các thông số đƣợc hiệu chỉnh [9].
Các công trình thực nghiệm đã nghiên cứu ảnh hƣởng của phƣơng pháp chế tạo lên
các đặc tính cấu trúc và từ tính, nhiều trong số đó tập trung vào độ trật tự cation ở vị trí
B và B’ [9,21,69,70], đƣợc công bố nhằm tìm hiểu và kiểm soát tính chất của vật liệu.
Ogale A.S. và các cộng sự [67] đã sử dụng kết quả thí nghiệm của Kobayashi cùng
22
với mô phỏng của Monte Carlo để nghiên cứu sự phụ thuộc của độ bất trật tự cation tại
vị trí B lên các tính chất từ và tính chất spin của SFMO. Hình 1.9 dƣới đây cho thấy
các kết quả mô phỏng cho momen từ bão hòa của vật liệu nhƣ là một hàm của nhiệt độ,
với độ bất trật tự cation là 0, 5, 10, 15 và 20 %.
Hình 1.9: a) Momen từ bão hòa phụ thuộc nhiệt độ của SFMO; b) Đường làm khớp của
momen từ bão hòa tại T = 5K và nhiệt độ Curie phụ thuộc độ bất trật tự cation [67].
Với các dữ liệu đƣợc đƣa ra trong Hình 1.9(b) cho ta thấy sự suy giảm tuyến tính
của cả nhiệt độ Curie và momen từ bão hòa khi độ bất trật tự cation tăng. Tuy nhiên,
điều đó không có nghĩa là với độ bất trật tự cation 20 % sẽ đem lại sự giảm của momen
từ xuống 20 %. Bất kỳ sự „sai chỗ‟ cation nào đều ảnh hƣởng đến thuộc tính của 6
cation lân cận và có khả năng gây ra sự bất trật tự cation ở các vị trí xa hơn. Các nghiên
cứu chỉ ra rằng trong SFMO trật tự Fe-Mo về lý thuyết rất quan trọng đối với tính nửa
kim loại và có tác dụng rất nhạy cảm đối với tính chất từ của vật liệu. Góc dƣới bên trái
Hình 1.9(b) chỉ ra rằng, với độ bất trật tự cation 13 % đo đƣợc bởi Kobayashi và cộng
sự là phù hợp với lý thuyết, vì nó dự đoán đúng nhiệt độ Curie và momen từ bão hòa
tại T = 5K.
Y. H. Huang cùng các cộng sự [71] đã nghiên cứu sự ảnh hƣởng độ trật tự lên tính
chất từ của mẫu SFMO. Bằng cách thay đổi các chế độ tổng hợp khác nhau, các tác giả
đã nâng cao độ trật tự cation lên đến 95% và mômen từ của mẫu đã đạt đến 3,96
23
µB/đ.v.c.t. (Hình 1.10).
Hình 1.10: Momen từ bão hòa (Ms) ở 5 K phụ thuộc độ trật tự (S) cho mẫu SFMO [71].
1.4.2 Ảnh hƣởng của pha tạp
1.4.2.1 Pha tạp lên vị trí A
Bằng cách thay đổi các ion tại vị trí A, hai trong số những tính chất vật lý quan trọng
cho sự tƣơng tác sắt từ của SFMO có thể đƣợc thay đổi một cách có kiểm soát. Một là
ứng suất nội nguyên tử tại vị trí A, đƣợc sử dụng để điều chỉnh các thông số cấu trúc và
nhóm không gian tinh thể. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ứng suất tác động lên mạng
tinh thể ảnh hƣởng đến tƣơng tác từ. Thứ hai là mật độ điện tử ở mức Fermi, chủ yếu là
bị chiếm bởi Fe-O-Mo, nó quyết định đến liên kết sắt từ gián tiếp. Hai tham số này tác
động trực tiếp lên tính chất từ và tính dẫn của vật liệu.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra tác động của sự thay thế cùng hóa trị các nguyên tử Sr,
Ba, Ca dẫn đến những thay đổi nhất định tính chất từ thông qua thay đổi các thông số
cấu trúc và cấu trúc vùng điện tử [36,59]. Ngƣợc lại, việc doping điện tử bằng cách
thay thế La3+ hoặc Nb3+ làm tăng đáng kể nhiệt độ Curie. Loại doping này cũng sẽ tạo
ra những hiệu ứng nhƣ ứng suất nội nguyên tử và dung tích điện tử [7,72]. Để có một
bức tranh thực sự về bản chất vật lý, ta không thể thảo luận về những thay đổi cấu trúc
và ảnh hƣởng của việc lấp đầy vùng dẫn một cách riêng biệt. Điều này là do trong thực
tế, rất khó để tránh sự xuất hiện của cả hai hiệu ứng này cùng một lúc. Cần phải phân
24
tích cẩn thận các lý do cho những thay đổi quan sát đƣợc trong tính chất từ, tức là
không chỉ về hiệu ứng doping điện tử và hiệu ứng ứng suất mà còn thông qua các tác
dụng phụ khác nhƣ độ bất trật tự cation, hóa trị của oxy, sự khác nhau về kích thƣớc
cation và việc xuất hiện các pha thứ cấp [36].
Với mục đích kết hợp giá trị đạt đƣợc của hiệu ứng từ điện trở với nhiệt độ Curie
cao nhất có thể, các tác giả nghiên cứu thƣờng tiến hành việc kiểm tra doping điện tử ở
mức Fermi. Doping điện tử đạt đƣợc ở perovskite kép bằng cách thay thế cation đất
hiếm hóa trị hai bằng cation hóa trị 3 tại vị trí A. Nghiên cứu đầu tiên đƣợc chứng minh
có hiệu quả để tăng TC trong Sr2-xLaxFeMoO6 [73] (TC = 425 K và 490 K cho x = 0 và x
= 1 tƣơng ứng). Ngoài các ấn phẩm liên quan đến pha tạp La và Nd trong A2FeMoO6
[74,75], việc thay thế ở A2-xLaxCrWO6 cũng làm tăng TC mạnh [76,77]. Do đó, việc
doping điện tử làm tăng cƣờng tính sắt từ và nhiệt độ Curie cao trong các hợp chất
perovskite kép (ít nhất là lên đến một mức pha tạp nhất định).
Bán kính nguyên tử trung bình tại vị trí A (rA) đƣợc thay đổi để xác định thành phần
cation trong các perovskites kép A2FeMoO6 (A = Ba, Sr, Ca). Các sơ đồ pha thể hiện
trong Hình 1.11, và cho thấy sự phụ thuộc của Tc vào bán kính nguyên tử rA. Bán kính
nguyên tử trung bình tại vị trí A (rA) đƣợc thay đổi để đo thành phần cation trong
perovskite kép A2FeMoO6 (A = Ba, Sr, Ca). Khi giảm rA trong hệ CaxSr2−xFeMoO6, độ
uốn lũy tiến của góc Fe–O–Mo, đƣợc tạo ra do sự mất đối xứng, đóng vai trò quan
trọng hơn trong tƣơng tác từ so với việc giảm d(B,B‟)-O. Điều này dẫn đến việc giảm tất
cả TC khi rA < rSr = 1,44 Å. Ảnh hƣởng của sự thay đổi cấu trúc lên trạng thái oxi hóa
của Fe đã đƣợc nghiên cứu qua phổ nhiễu xạ tia X [78†80]. Nguyên tử Fe luôn ở trạng
thái hóa trị trung gian 2+/3+, nhƣng trong tất cả các hợp chất, đƣờng cộng hƣởng chính
gần với trạng thái 3+ phản ánh thực tế rằng electron chủ yếu đƣợc định xứ ở trạng thái
Mo 4d. Trong khi đó, trong các hợp chất A2 = Sr2 và Ca2, các giá trị của phổ hấp thụ Fe
gần nhƣ giống nhau, ở trong các hợp chất BaxSr2-xFeMoO6 có sự dịch chuyển hóa học
của phổ hấp thụ về phía trạng thái Fe2+ và tỷ lệ thuận với x. Đây là bằng chứng về mối
25
quan hệ chặt chẽ giữa trạng thái điện tử và cƣờng độ lai hóa (hoặc tƣơng đƣơng, TC),
đƣợc xác định bởi khoảng cách d(B,B’)_O và góc Fe–O–Mo.
Hình 1.11: Sự phụ thuộc của nhiệt độ Curie TC vào bán kính nguyên tử ở vị trí A của hợp chất
A2FeMoO6: ([81]-vuông; [82]-tròn và [13]-tam giác).
Một xu hƣớng tƣơng tự liên quan đến trạng thái oxi hóa của Fe nhƣ là một hàm của
rA đã đạt đƣợc bằng quang phổ Mossbauer, mặc dù việc định lƣợng hóa trị Fe phụ
thuộc nhiều vào sự lựa chọn của các giá trị tham chiếu cho sự thay đổi đồng phân Fe2+
và Fe3+ [42,49].
Trong A2FeMoO6, nhiệt độ Curie cao nhất đạt đƣợc khi A là Sr, do sự cân bằng của
( )
〈 〉 〈 〉 (1.11)
tử số và mẫu số trong phƣơng trình (1.11):
Đồng thời, việc này đòi hỏi lai hóa Vdpdπ của Fe(t2g)–Mo(t2g) là tối đa cho hợp chất
này. Khi thay Sr bằng Ba hoặc Ca, Vdpdπ và TC sẽ cùng giảm với sự giảm T(ω) (Sr đến
Ca) hoặc tăng khoảng cách nguyên tử (Sr đến Ba). Sự giảm điện tích tại vị trí Fe, và
kéo theo là mật độ điện tử ở dải Mo t2g, đạt mức tối đa khi năng lƣợng Mo t2g đạt đƣợc
tƣơng ứng mức Fermi đƣợc tối ƣu hóa bởi lai hóa Vdpdπ, tức là điều kiện để cho nhiệt
độ Curie tối đa. Tất cả các phép đo Mossbauer và XANES cho đến nay đều chứng
minh rằng, mật độ điện tử μMo xuất hiện từ sự phân tán electron tỷ lệ với TC
26
[42,78,83†85].
Có rất nhiều báo cáo về cấu trúc của các hợp chất cụ thể [52,81,86,87], hoặc thậm
chí có một số nghiên cứu có hệ thống nhƣ là một hàm của thành phần cation vị trí A
trong giới hạn rA [88,89]. Nhƣng bức tranh thực sự chỉ xuất hiện khi tất cả các mẫu
nghiên cứu thuộc cùng một lô, TC phải đƣợc đo trên cùng một thiết bị và ảnh hƣởng
của các khuyết tật nhƣ độ bất trật tự cation, hóa trị của oxy và tạp chất đƣợc xem xét
đầy đủ. Sự thay thế thành phần tại một vị trí gây ra sự không đồng nhất hóa học cục bộ
trong mạng tinh thể. Khi các cation khác nhau có mặt tại cùng một vị trí tinh thể, các
biến dạng cục bộ trong các bát diện BO6/B’O6 đƣợc tạo ra, và biến dạng này sẽ lan
truyền và cuối cùng phân rã theo các cơ chế đàn hồi tiêu chuẩn. Nghiên cứu ảnh hƣởng
của độ bất trật tự cation lên nhiệt độ Curie trong hệ mẫu Sr2−x(Ca0.55Ba0.45)xFeMoO6, F.
Sher và các cộng sự [90] đã đƣa ra kết luận rằng sự tăng độ bất trật tự cation tại vị trí A
làm giảm giá trị của TC.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng có thể tăng cƣờng nhiệt độ Curie bằng cách thay thế một
phần của La3+ cho Sr2+ trong Sr2FeMoO6. Sự không tƣơng thích về bán kính ion đã làm
thay đổi đáng kể độ dài và góc liên kết của Fe-O-Mo và Mo-Mo, dẫn đến sự thay đổi
tƣơng tác từ giữa các nguyên tử Fe và Mo, do đó ảnh hƣởng đến các tính chất điện và
từ tính của chúng. Rao và các công sự [91] đã nghiên cứu ảnh hƣởng của nồng độ La
trong vật liệu Sr2-xLaxFeMoO6 với x thay đổi từ 0 đến 1 (bƣớc 0,2). Kết quả nghiên cứu
chỉ ra rằng, khi tăng nồng độ La từ 0 đến 1, momen bão hòa đã giảm tuyến tính từ 1,85
đến 0,25 µB/đ.v.c.t., trong khi đó giá trị hiệu ứng từ điện trở tăng cho đến x = 0,4 và sau
đó giảm dần.
Azizi và các cộng sự [92] đã sử dụng phƣơng pháp tổng hợp gốm để tiến hành pha
tạp La với mục đích làm sáng tỏ ảnh hƣởng của cấu trúc tinh thể, hình thái hạt, tính
chất điện đến hoạt động điện hóa của các mẫu Sr2−xLaxFeMoO6 (x = 0; 0,25; 0,5 và 1).
La làm tăng thể tích ô đơn vị và tham số a trong khi c không thay đổi. Khi tăng hàm
lƣợng La, số lƣợng trung tâm tạo mầm tinh thể cũng tăng theo. Các trung tâm tạo mầm
27
này nâng cao số lƣợng hạt với kích thƣớc nhỏ. Điện trở suất của các hợp chất pha tạp
thấp hơn so với các hợp chất nguyên mẫu. Sự giảm này khi tăng hàm lƣợng La đƣợc
quy cho hiệu ứng phát sinh từ sự pha tạp electron.
Hussain và các cộng sự [93] tiến hành nghiên cứu ảnh hƣởng của doping điện tử
thông qua việc thay thế một phần La3+ cho Sr2+ lên các tính chất cấu trúc, tính chất từ
và từ nhiệt (magnetocaloric) của perovskite kép Sr2FeMoO6. Các tác động của La thay
xLaxFeMoO6 (x = 0; 0,1; 0,2 và 0,3) đã đƣợc nghiên cứu. Sự gia tăng của tham số mạng
thế vị trí của Sr đối với các tính chất cấu trúc, tính chất từ và từ nhiệt của Sr2-
a và thể tích ô cơ sở đƣợc quan sát thấy với nồng độ La tăng dần trong khi tham số
mạng đơn vị c vẫn gần nhƣ không đổi. Các đƣờng cong M_T cho thấy momen từ tăng
với sự gia tăng của hàm lƣợng La lên đến x = 0,2. Tuy nhiên, khi tiếp tục tăng hàm
lƣợng La (x > 0,2) đã dẫn đến momen từ giảm, nguyên nhân là do sự gia tăng của độ
bất trật tự cation Fe/Mo trong vật liệu.
Saitoh [94] đã tiến hành pha tạp La lên vật liệu SFMO và nghiên cứu cấu trúc điện
tử của Sr2−xLaxFeMoO6 bằng phƣơng pháp quang phổ quang hóa và tính toán cấu trúc
dải LDA+U. Các cấu trúc đỉnh kép quan sát đƣợc ở ∼0,2 eV và 1.3 eV đã đƣợc xác
định là tƣơng ứng với băng dẫn Fe–Mo t2g↓ và Fe eg↑. Khi pha tạp La, sự tăng cƣờng
cƣờng độ của cả hai băng dẫn này đã đƣợc quan sát thấy và đƣợc giải thích là do sự
phân bố lại các điện tử Fe đƣợc kích hoạt bởi việc doping điện tử.
Trong nghiên cứu [72], Sanyal cho thấy sự hình thành của pha phản sắt từ theo cơ
chế động năng đối với các hợp chất giàu La của hệ Sr2−xLaxFeMoO6. Tác giả đã chỉ ra
rằng các hợp chất Sr2FeMoO6 pha tạp La chuyển dần sang trạng thái pha phản sắt từ
khi nồng độ La tăng lên. Đối với các mẫu giàu La của hệ vật liệu Sr2−xLaxFeMoO6 với
x > 1.6, trạng thái cơ bản trở thành phản sắt từ. Các pha phản sắt từ đƣợc tìm thấy này
chịu sự chi phối của cơ chế động năng ở trong vật liệu SFMO và đạt đƣợc bằng cách
thay đổi nồng độ chất mang.
Sanchez [95] tiến hành pha tạp La lên SFMO và nghiên cứu hiệu ứng doping điện tử
lên tính chất sắt từ và cấu trúc của perovskite kép Sr2-xLaxFeMoO6 (0 ≤ x ≤ 1). Nghiên
28
cứu chỉ ra rằng, việc doping điện tử (pha tạp La) đã làm tăng độ bất trật tự cation khi
hàm lƣợng La tăng. Momen từ bão hòa của các mẫu giảm khi hàm lƣợng La tăng,
trong khi TC thay đổi không tuyến tính trong các hợp chất này. Điều này đƣợc cho là
liên quan đến ứng suất nội nguyên tử khi pha tạp La. Khi thay thế Sr2+ bằng La3+ đã
dẫn đến việc tăng thể tích ô cơ sở và sự biến dạng của bát diện. Điều này đã làm tăng
khoảng cách các liên kết cũng nhƣ các góc liên kết nhỏ đi và làm giảm tƣơng tác sắt từ.
Hơn nữa, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, các electron pha tạp có xu hƣớng định vị theo
quỹ đạo của Mo đối với các mẫu có x < 0,3. Những đặc điểm này chứng minh cho việc
TC giảm đƣợc quan sát thấy ở mức độ pha tạp thấp và TC chỉ đƣợc tăng cƣờng ở mức
pha tạp cao. Tuy nhiên, việc sử dụng các hợp chất pha tạp La với nồng độ cao trong
thực tế bị hạn chế vì chúng chứa nồng độ bất trật tự cation cao. Điều này gây ra sự
giảm Ms do tƣơng tác phản sắt từ Fe–Fe tại các vị trí đảo. Việc ƣu tiên giảm đi các
cation Mo và phân bố ngẫu nhiên La3+ trong ma trận Sr2+ là nguồn gốc của việc tăng độ
bất trật tự cation khi x tăng.
1.4.2.2 Pha tạp lên vị trí B và B’
Độ bất trật tự cation phần nào ảnh hƣởng đến sự thay đổi các bát diện BO6 và B’O6,
chủ yếu đƣợc quyết định bởi sự khác biệt giữa bán kính ion và mật độ điện tích. Tuy
nhiên, vẫn chƣa rõ ràng cơ chế vật lý cơ bản nào gây nên sự bố trí các nguyên tử B
hoặc B’ trong mạng lƣới tinh thể của chúng. Việc pha tạp ở các vị trí B và B’ với các
cation khác nhau có thể kiểm tra vai trò của kích thƣớc cation và mật độ điện tích trong
trật tự BB’, cũng nhƣ nghiên cứu tác động của cation pha tạp đối với tính chất từ và cấu
trúc của perovskites kép. Có hai cách để thực hiện doping ở các vị trí B hoặc B’ trong
khi vẫn giữ đƣợc các tính chất vật lý thiết yếu của perovskites kép: thay đổi hệ số tỉ lệ
B/B’ (1:1) một cách có hệ thống hoặc thay thế các ion kim loại chuyển tiếp khác vào vị
trí B hoặc B’.
Sau khi phát hiện ra hiệu ứng từ điện trở ở từ trƣờng thấp trong SFMO, các cấu trúc
perovskite kép A2BB’O6 tƣơng tự cũng đã đƣợc nghiên cứu. Thay đổi trên A-site:
thay đổi Ca2FeMoO6 [96†98], Ba2FeMoO6 [42,90], trên B-site: Sr2CrMoO6,
29
Sr2CoMoO6 và Sr2MnMoO6 [46] và B'-site: Sr2FeRuO6 [100], Sr2FeWO6 [101]. Đối
với các nghiên cứu về cấu trúc điện tử SFMO, La đã đƣợc sử dụng để thay thế Sr cho
doping điện tử [73,102], các hiệu ứng doping lỗ tƣơng tự đã đƣợc nghiên cứu khi Ba
thay thế cho Sr [103] và W thay thế cho Mo [104†106]. Các đặc tính từ đã đƣợc nghiên
cứu với sự thay thế Sr với các nguyên tử từ tính nhƣ Nd [103] và sự thay thế Fe với các
nguyên tử không từ tính nhƣ Al [107]. Các chất pha tạp khác đƣợc sử dụng để hiểu rõ
hơn về các đặc tính và các vấn đề về cấu trúc, nhƣ: thay thế Fe bằng Mn [108], V
[109], Zn [110], Ni [111] và Cr [112]. Tất cả các nghiên cứu này đã giúp tăng sự hiểu
biết về các đặc tính SFMO.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng cấu trúc từ tính, đặc biệt là các bất trật tự cation đƣợc
thay đổi đáng kể bằng cách pha tạp tại vị trí Fe, do đó công việc thay thế ion Fe sẽ hữu
ích hơn để hiểu mối tƣơng quan giữa cấu trúc từ tính và tính dẫn của vật liệu SFMO.
Sự khác biệt về kích thƣớc của các nguyên tử B và B’ hoặc điện tích của các ion B
và B‟ càng lớn dẫn đến khả năng các hợp chất sẽ có độ trật tự càng cao. Do bán kính
của các ion Zn2+ lớn hơn các ion Fe3+, nên việc thay thế các ion Fe3+ bằng Zn2+ tạo điều
kiện cho sự hình thành cấu trúc có độ trật tự cao. Việc tổng hợp các mẫu SFMO đa tinh
thể với mức độ trật tự cation cao thƣờng đòi hỏi thời gian thiêu kết dài hơn và ở nhiệt
độ thiêu kết cao [9]. Tuy nhiên, kích thƣớc của hạt sẽ tăng lên khi tăng thời gian thiêu
kết và điều này làm cho hiệu ứng MR giảm [10]. Do đó, việc nghiên cứu để kiểm soát
độ trật tự cao của Fe/Mo cùng với việc không làm tăng kích thƣớc hạt sẽ rất hữu ích
trong việc ứng dụng vật liệu SFMO trên cơ sở hiệu ứng từ điện trở ở từ trƣờng thấp.
Trong nghiên cứu [113] Lu và các cộng sự đã sử dụng phƣơng pháp tổng hợp gốm
để chế tạo và nghiên cứu các tính chất của vật liệu Sr2Fe1−xZnxMoO6 với nồng độ của
Zn (x) thay đổi lần lƣợt là 0; 0,05; 0,15 và 0,25. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng sự thay
thế các ion Fe3+ bằng các ion Zn2+ lúc đầu tạo điều kiện cho sự hình thành cấu trúc có
trật tự hơn, khi nồng độ Zn tiếp tục tăng cấu trúc sẽ mất trật tự hơn vì sự hiện diện của
pha thứ cấp. Hình 1.12 cho thấy sự phụ thuộc nhiệt độ của các đƣờng cong từ hóa của
30
các hợp chất.
Hình 1.12: Momen từ phụ thuộc vào nhiệt độ của các mẫu Sr2Fe1-xZnxMoO6 [113].
Phân tích Rietveld dựa trên nhiễu xạ tia X của các mẫu chỉ ra rằng sự thay thế các
ion Fe3+ bằng các ion Zn2+ tạo điều kiện cho sự hình thành các ion Mo6+. Đặc tính spin-
glass đƣợc giải thích trên cơ sở cạnh tranh giữa siêu trao đổi phản sắt từ và tƣơng tác
trao đổi kép sắt từ. Mẫu với x = 0 có momen từ thấp hơn phát sinh từ sự bất trật tự
cation của sắp xếp vị trí B và B‟, điều này tăng cƣờng các tƣơng tác siêu trao đổi tầm
xa (Fe–O–Fe) bằng cách ghép nối với tƣơng tác Fe–O–Mo. Khi tỷ lệ Zn ở mức x =
0,05, giá trị momen từ là lớn nhất; hơn nữa, đối với tất cả các mẫu có mức pha tạp
tƣơng ứng, giá trị momen từ cao hơn so với mẫu không pha tạp.
Hình 1.13 cho thấy sự thay đổi của momen từ các mẫu xung quanh nhiệt độ Curie
(TC).
Hình 1.13: Đường cong từ hóa của các mẫu Sr2Fe1−xZnxMoO6 [113].
31
Nhiệt độ chuyển pha TC đƣợc xác định từ phép ngoại suy của đƣờng cong trong
vùng chuyển tiếp sang momen từ bằng không. TC đƣợc trích xuất nhƣ là một hàm của
nồng độ Zn đƣợc hiển thị trong Hình 1.13 (hình nhỏ). TC đo đƣợc của mỗi mẫu pha tạp
Zn cao hơn so với mẫu không pha tạp, phù hợp với dữ liệu XRD của nghiên cứu này.
Tƣơng tự, nhóm nghiên cứu của Wang [114] cũng đã sử dụng phƣơng pháp gốm để
chế tạo các mẫu Sr2Fe1−xZnxMoO6 (x = 0; 0,05; 0,1 và 0,2) và nghiên cứu ảnh hƣởng
của Zn lên các tính chất của SFMO. Trên Hình 1.14 cho thấy sự giảm tuyến tính của
momen từ bão hòa khi tăng nồng độ Zn.
Hình 1.14: Momen từ bão hòa phụ thuộc vào nồng độ x của Zn [114].
Các đặc tính cấu trúc và từ tính của SFZMO đã đƣợc nghiên cứu. Các sàng lọc cấu
trúc cho thấy mức độ trật tự cation lúc đầu giảm khi tăng hàm lƣợng Zn và sau đó tăng
với hàm lƣợng Zn tăng thêm. Kết quả đo từ tính phù hợp với các nghiên cứu trƣớc đó
cho thấy sự hình thành các chuỗi liên kết Mo–O–Zn–O–Mo đã phân chia vùng sắt từ
lớn thành nhiều vùng nhỏ hơn và làm suy yếu sự tƣơng tác từ giữa chúng, và các liên
kết phản sắt từ Fe–O–Fe tạo ra đã bị triệt tiêu bởi Zn [114]. Các vùng từ tính nhỏ với
tƣơng tác từ yếu hơn nhạy cảm hơn với từ trƣờng bên ngoài. Do đó, giá trị của hiệu
32
ứng MR ở từ trƣờng thấp đƣợc tăng cƣờng trong khi giảm giá trị MR ở từ trƣờng cao.
1.4.2.3 Ảnh hƣởng của pha tạp lên hiệu ứng MR
Nhƣ đã chỉ ra ở phần trên, hiệu ứng từ điện trở trong perovskite kép dạng hạt chủ
yếu theo cơ chế xuyên ngầm qua các biên hạt (ITMR). Nhƣ vậy, độ lớn của hiệu ứng
ITMR phụ thuộc vào các tham số nội tại nhƣ độ phân cực spin P, ASD, vách domain,
ranh giới pha đảo và các đặc tính bên ngoài các hạt, chẳng hạn nhƣ kích thƣớc, khiếm
khuyết bề mặt, tạp chất và tính chất biên hạt. Do đó, có hai cách tiếp cận để nâng cao
hiệu ứng ITMR của một mẫu: hoặc là tối đa hóa mức độ phân cực spin của vật liệu
hoặc là điều chỉnh bản chất của biên hạt. Việc pha tạp các nguyên tố vào vật liệu
SFMO ngoài đem lại những thay đổi về các tính chất cấu trúc, tính chất từ, còn ảnh
hƣởng đến độ lớn của hiệu ứng từ điện trở. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, việc pha tạp
các nguyên tố vào vị trí của Sr và Fe làm thay đổi bản chất của biên hạt cách điện hoặc
cải thiện độ trật tự ion ở trong vật liệu [91,114,115]. Hai nhân tố này có tác động tích
cực đến độ lớn của hiệu ứng ITMR.
Để nghiên cứu hiệu ứng pha tạp electron cũng nhƣ ảnh hƣởng của việc doping điện
tử lên hiệu ứng từ điện trở, Stephen và các cộng sự [115] đã tiến hành chế tạo và
nghiên cứu trên các mẫu Sr2-xLaxFeMoO6 (với x = 0; 0,2 và 0,4). Kết quả nghiên cứu
chỉ ra rằng, khi hàm lƣợng La tăng, giá trị của hiệu ứng từ điện trở giảm và nó liên
quan tới việc giảm sự phân cực spin ở trong các mẫu (Hình 1.15).
Hình 1.15: Từ điện trở phụ thuộc vào nhiệt độ của các mẫu Sr2-xLaxFeMoO6 [115].
33
Điều này đƣợc giải thích là với việc tăng nồng độ La đã làm tăng độ bất trật tự
cation gần với biên hạt dẫn đến sự tán xạ spin mà không phải là kết quả của sự thay đổi
nồng độ chất mang.
Trong nghiên cứu [91], Rao và các cộng sự cho thấy ảnh hƣởng của nồng độ La lên
vật liệu SFMO với các nồng độ từ 0 đến 1 % mol (bƣớc thay đổi là 0,2). Độ lớn của
hiệu ứng ITMR ở từ trƣờng thấp (0,88 T) cho các mẫu x = 0,2 và x = 0,4 là 5 %; 7 % ở
nhiệt độ phòng và 13 %; 10 % ở nhiệt độ 10 K tƣơng ứng (Hình 1.16). Lực kháng từ Hc
tăng, momen từ bão hòa giảm cho thấy sự mất trật tự của định hƣớng spin là nguyên
nhân chính dẫn đến tăng cƣờng giá trị ITMR ở từ trƣờng thấp đối với các mẫu có x ≤
0,4. Trong khi các giá trị của Hc, Mr/Ms, Mr và momen từ bão hòa giảm nhanh đối với
các mẫu có x ≥ 0,4 cho thấy sự tăng cƣờng pha đảo ở ranh giới pha, dẫn đến giá trị thấp
hơn của hiệu ứng ITMR ở từ trƣờng thấp.
Hình 1.16: Sự thay đổi giá trị MR của vật liệu SLFMO theo nồng độ của La [91].
34
Khi nghiên cứu hiệu ứng từ điện trở xuyên ngầm giữa các hạt (ITMR), nên xét đến
hai yếu tố khác nhau – thứ nhất là các yếu tố nội tại (nghĩa là MR ở từ trƣờng cao) và
thứ hai là các yếu tố từ bên ngoài (nghĩa là MR ở từ trƣờng thấp). Trong trƣờng hợp
hiệu ứng từ điện trở ở từ trƣờng thấp, các hạt lân cận với biên hạt cách điện mỏng trở
thành song song (từ tính) với từ trƣờng tác dụng là nhỏ đã tạo nên sự tăng về giá trị của
MR. Việc tăng hàm lƣợng La làm tăng nồng độ khuyết tật tại vị trí đảo [61,73] và làm
tăng hiệu quả chiều cao của rào thế, tạo điều kiện cho đƣờng hầm lên đến một giới hạn
nhất định về chiều cao rào thế và cản trở các quá trình tƣơng tự. Trong nghiên cứu này,
giá trị chiều cao rào thế đạt cao nhất ở nhiệt độ phòng và 10K tƣơng ứng khi x = 0,4 và
0,2.
Trong nghiên cứu của Wang và các cộng sự [114], giá trị của hiệu ứng từ điện trở
tăng nhẹ trong các mẫu Sr2Fe1−xZnxMoO6 (x = 0; 0,05; 0,1 và 0,2) so với mẫu không
pha tạp (Hình 1.17).
Hình 1.17: Các đường cong MR của các mẫu Sr2Fe1-xZnxMoO6 [114].
Với việc kết quả đo từ tính phù hợp với các nghiên cứu trƣớc đó, tác giả nghiên cứu
cho rằng sự hình thành các chuỗi liên kết Mo–O–Zn–O–Mo đã phân chia vùng sắt từ
lớn thành nhiều vùng nhỏ hơn và làm suy yếu sự tƣơng tác từ giữa chúng, và các liên
kết phản sắt từ Fe–O–Fe tạo ra đã bị triệt tiêu bởi sự có mặt của Zn. Các vùng từ tính
nhỏ hơn với tƣơng tác từ yếu nhạy cảm hơn với từ trƣờng bên ngoài. Do đó, giá trị của
35
hiệu ứng LFMR đƣợc tăng cƣờng trong khi giảm giá trị MR ở từ trƣờng cao.
Trong nghiên cứu [113] Lu và các cộng sự đã sử dụng phƣơng pháp tổng hợp gốm
để chế tạo và nghiên cứu các tính chất của vật liệu Sr2Fe1−xZnxMoO6 với nồng độ của
Zn thay đổi lần lƣợt là 0; 0,05; 0,15 và 0,25. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, hiệu ứng
LFMR đƣợc tăng cƣờng ở mức vừa phải với x = 0,05 (Hình 1.18) và nguồn gốc của nó
đƣợc xác định là sự cạnh tranh giữa việc giảm nồng độ của các electron dẫn và tƣơng
tác siêu trao đổi yếu hơn ở trong ranh giới pha đảo. Một hiệu ứng từ điện trở âm tuyến
tính trong từ trƣờng đã đƣợc quan sát cho x = 0,25. Cơ chế trao đổi kép đƣợc đề xuất
để làm sáng tỏ các kết quả thu đƣợc và đó cũng cho thấy sự tồn tại đồng thời của các
cặp hóa trị (Fe3+, Mo5+) và (Zn2+, Mo6+).
Hình 1.18: Các đường cong MR của các mẫu Sr2Fe1-xZnxMoO6 [113].
1.4.3 Hiệu ứng kích thƣớc nanomet
Trong một báo cáo gần đây của Harnagea và cộng sự [116], giá trị MR = 5 % đã đo
đƣợc ở nhiệt độ phòng với một từ trƣờng tác dụng là 1 kOe cho mẫu SFMO kích thƣớc
submicron đƣợc chế tạo bằng phƣơng pháp sol-gel. Hiệu ứng này vẫn tồn tại ở nhiệt độ
cao hơn: MR = 1,3 % ở 400K và từ trƣờng là 2 kOe. Sự tăng cƣờng của hiệu ứng MR ở
từ trƣờng thấp đƣợc quan sát thấy là do sự kết hợp tốt giữa sự phân bố kích thƣớc hạt
và giá trị của độ phân cực spin P cao. Trật tự cation cao giữa Fe và Mo (mức ASD thấp
hơn 8%) tƣơng ứng với giá trị momen từ bão hòa Msat = 3,5 µB/đ.v.c.t. ở nhiệt độ 5K.
Nghiên cứu về ảnh hƣởng của bản chất biên hạt cũng đã đƣợc tiến hành. Để đạt đƣợc
36
giá trị ITMR cao nhất, cấu trúc vi mô mong muốn của vật liệu sẽ bao gồm một tập hợp
các hạt hoạt động nhƣ một mạng lƣới các điện cực đƣợc phân tách bởi các biên hạt
đƣợc coi là ma trận cách điện. Khi không có từ trƣờng ngoài tác dụng, momen từ tổng
của vật liệu bằng 0 và momen từ của các hạt sắp xếp ngẫu nhiên, điều này tạo ra trạng
thái điện trở cao hơn so với trạng thái điện trở thấp đạt đƣợc trên đƣờng bão hòa, khi
mà tất các các momen từ của các hạt lân cận là song song.
Niebieskikwiat và các cộng sự [6] đã nghiên cứu hiệu ứng MR trong các mẫu SFMO
đƣợc chuẩn bị bởi phƣơng pháp phản ứng trạng thái rắn với các mức ASD khác nhau.
Các tác giả đã tiến hành oxy hóa biên hạt của các mẫu và theo dõi sự thay đổi của
momen từ, điện trở suất và giá trị của MR. Quá trình oxy hóa các hạt SFMO tạo ra pha
SrMoO4 đã tăng cƣờng giá trị MR (MRmax ∼ 40 % với từ trƣờng 90 kOe ở nhiệt độ 5
K). Các kết quả cho thấy, để tăng hiệu ứng ITMR thì mục tiêu quan trọng nhất không
phải là độ trật tự Fe/Mo quá cao mà phải là tăng cƣờng số lƣợng biên hạt cách điện.
Sau khi tiến hành oxy hóa, một trong các mẫu có momen từ bão hòa thấp tới 1,6
µB/đ.v.c.t. có hiệu ứng ITMR cao gấp 3 lần so với các mẫu khác đƣợc chế tạo với Msat
= 3,0 µB/đ.v.c.t.
Số lƣợng biên hạt đƣợc tăng lên bằng cách giảm kích thƣớc hạt thành kích thƣớc
nanomet. Yuan và các cộng sự [8] đã chế tạo các mẫu SFMO có kích thƣớc hạt trong
khoảng 29†45 nm bằng phƣơng pháp Sol-Gel và cho thấy mẫu có kích thƣớc hạt 29
nm có hiệu ứng từ điện trở Δρ/ρ0 lớn nhất, tức là 30 % và 20 % ở từ trƣờng 4 kOe trên
dải nhiệt độ từ 20 K đến 300 K (Hình 1.19). Hơn nữa, pha cách điện không từ tính
SrMoO4 thƣờng đƣợc tìm thấy tại biên hạt trong quá trình chuẩn bị và xử lý mẫu đã tạo
điều kiện cho các electron xuyên ngầm giữa các hạt. Sự gia tăng MR là hệ quả của việc
giảm đơn điệu độ dẫn điện khi đƣờng kính hạt giảm. Nói cách khác, khi số lƣợng biên
hạt tăng lên, LFMR trở nên rõ rệt hơn. Mặt khác, SFMO đơn tinh thể với độ bất trật tự
37
cation cao [11] cho thấy hiệu ứng LFMR là không đáng kể.
Hình 1.19: Hiệu ứng từ điện trở của các mẫu SFMO có kích thước hạt khác nhau [8].
Tƣơng tự, nhóm nghiên cứu của Li [117] đã chế tạo vật liệu SFMO bằng phƣơng
pháp sol-gel và thay đổi kích thƣớc hạt bằng cách thay đổi nhiệt độ thiêu kết. Các mẫu
SFMO chế tạo có kích thƣớc hạt lần lƣợt là 34,5; 39,7 và 44,3 nm. Các đƣờng cong
MR phụ thuộc vào từ trƣờng ở nhiệt độ 10 K và 300 K đƣợc thể hiện trong Hình 1.20.
Hình 1.20: Các đường cong MR phụ thuộc vào từ trường của các mẫu SFMO [117].
Kết quả cho thấy, giá trị của MR tăng khi giảm kích thƣớc hạt và các giá trị của MR
tăng mạnh ở vùng từ trƣờng thấp và tăng chậm hơn ở vùng từ trƣờng cao đối với
trƣờng hợp đo ở nhiệt độ 10 K (Hình 1.20(a)). Nhƣng ở nhiệt độ phòng, giá trị của MR
tăng gần nhƣ tuyến tính với từ trƣờng (Hình 1.20(b)). Các tác giả cho rằng, ảnh hƣởng
38
của tán xạ ở biên hạt yếu hơn do từ trƣờng ở nhiệt độ cao dẫn đến một giá trị nhỏ và sự
phụ thuộc tuyến tính vào trƣờng MR, các hiệu ứng ở biên hạt đáng chú ý hơn đối với
mẫu có kích thƣớc hạt nhỏ, và khi kích thƣớc hạt trở nên lớn hơn do quá trình ủ đã làm
giảm giá trị của hiệu ứng MR.
Kai Wang và các cộng sự [118] đã điều chỉnh hàm lƣợng SrMoO4 (3†7,5 mol%)
trong các mẫu SFMO bằng cách nghiền trộn chúng với thời gian nghiền khác nhau. Họ
cho thấy rằng, ITMR tăng (lên đến 17 % với từ trƣờng 10 kOe ở nhiệt độ 5K) với sự
gia tăng của hàm lƣợng tạp chất SrMoO4.
Sử dụng phản ứng của SFMO với nƣớc và công nghệ siêu âm hóa học Zhong và các
cộng sự [33] đã nâng cao hàm lƣợng SrMoO4 tại ranh giới cách điện của các hạt ở kích
thƣớc micron và nâng cao hiệu ứng từ điện trở xuyên ngầm lên đến 35 % ở nhiệt độ
phòng.
Đặc biệt, việc điều chỉnh pha SrMoO4 trong mẫu SFMO bằng cách nghiền bi năng
lƣợng cao và thiêu kết trong môi trƣờng chân không, Yuan và các cộng sự [8] cho thấy
hiệu ứng MR của mẫu tăng theo nhiệt độ và giá trị của nó ở nhiệt độ phòng cao bất
thƣờng (~ 100 % ở 15 kOe). Trong trƣờng hợp này, sự tăng cƣờng giá trị MR không
thể giải thích đơn giản chỉ dựa vào độ phân cực spin của vật liệu. Hiện tƣợng này là do
sự cạnh tranh giữa các tác động trái ngƣợc của pha dẫn SFMO và tạp chất cách điện
SrMoO4, nó làm giảm nhiệt độ chuyển tiếp kim loại – cách điện ở nhiệt độ cao và làm
tăng tƣơng ứng hiệu ứng MR ở từ trƣờng thấp gần với nhiệt độ chuyển tiếp kim loại –
cách điện.
Tóm lại, các kết quả đƣợc mô tả ở trên chỉ ra rằng, hiệu ứng ITMR phát sinh từ sự
tán xạ phụ thuộc spin tại các biên hạt cách điện chịu trách nhiệm cho hiệu ứng từ điện
trở quan sát đƣợc dƣới tác dụng của từ trƣờng ngoài, và loại trừ mọi ảnh hƣởng của các
đặc tính dẫn nội tại (ngoài điều kiện tiên quyết của sự phân cực spin cao) và độ bất trật
tự cation trên LFMR. Tuy nhiên, không thể loại trừ sự phụ thuộc spin vận chuyển qua
biên hạt cách điện nhƣ là một nguồn bổ sung đáng kể của hiệu ứng từ điện trở. Hiệu
ứng này đã đƣợc Eerenstein và cộng sự mô tả một cách cẩn thận khi nghiên cứu trên
39
các màng mỏng Fe3O4 epitaxy và nó mang lại một sự tuyến tính của hiệu ứng từ điện
trở vào từ trƣờng ngoài lớn hơn so với từ trƣờng “dị hƣớng đơn trục”. Tuy nhiên, hiệu
ứng này chỉ đạt đƣợc trong các mẫu có số lƣợng pha đảo đáng kể, tƣơng ứng nó làm
giảm momen từ bão hòa của mẫu. Đây là trƣờng hợp của phim SFMO ở trong [119],
trong đó từ điện trở đƣợc tìm thấy là tuyến tính và rất nhỏ ở từ trƣờng thấp (∼1.2% ở 2
kOe). Ngƣợc lại, LFMR kết hợp với ITMR có mặt bất cứ khi nào mẫu có chứa biên
hạt, và nó cho thấy sự phụ thuộc dốc hơn nhiều vào từ trƣờng.
Hình dạng của đƣờng cong phụ thuộc từ trƣờng của MR liên quan đến một số hiện
tƣợng, chẳng hạn nhƣ tính chất của bề mặt hạt, sự tồn tại của các tạp chất có tính cách
điện, độ bất trật tự cation của mẫu hoặc các nguồn từ tính nội tại khác. Chính vì vậy,
luận án sẽ tập trung vào hiệu ứng từ điện trở của các mẫu SFMO có kích thƣớc
nanomet, điều này thực sự làm tăng sự quan tâm đến vật liệu SFMO cho các ứng dụng
công nghệ tiềm năng khi hiệu ứng MR xảy ra ở một từ trƣờng vừa phải (< 1 kOe), cùng
với chi phí sản xuất thấp và TC cao của SFMO đã làm cho các hợp chất này rất có tiềm
năng trong các ứng dụng nhƣ cảm biến từ trƣờng và chiết áp không tiếp xúc [120].
Kết luận chƣơng 1
Trong chƣơng này, luận án đã trình bày phần tổng quan về vật liệu SFMO với các
đặc trƣng về cấu trúc tinh thể, cấu trúc điện tử, các tính chất từ và điện của chúng.
Trình bày tổng quan các nghiên cứu của các tác giả trên thế giới về sự ảnh hƣởng lên
tính chất vật liệu perovskite kép của các hiện tƣợng nhƣ độ bất trật tự cation, hiệu ứng
pha tạp lên vị trí A hoặc B và B’ cũng nhƣ nghiên cứu sự thay đổi giá trị của hiệu ứng
từ điện trở dƣới sự tác động của các hiện tƣợng. Qua phần tổng quan này ta hiểu đƣợc
một cách đầy đủ hơn về các tính chất vật liệu SFMO cũng nhƣ những tác động lên tính
chất từ và điện của nó, từ đó định hƣớng đƣợc đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu
trên cơ sở vật liệu SFMO, xây dựng quy trình thực nghiệm cụ thể để nghiên cứu và
40
phát triển vật liệu vào những định hƣớng ứng dụng cụ thể.
CHƢƠNG 2. CÔNG NGHỆ CHẾ TẠO VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1 Công nghệ chế tạo các hạt SFMO có kích thƣớc nanomet
Nhƣ đã biết, tính chất của vật liệu ngoài sự phụ thuộc vào thành phần, bản chất liên
kết, cấu trúc tinh thể…còn phụ thuộc vào độ đồng nhất, độ tinh khiết, kích thƣớc hạt.
Những yếu tố này do công nghệ chế tạo vật liệu quyết định bao gồm: thiết bị, hoá chất
ban đầu, các yếu tố công nghệ trong quy trình chế tạo nhƣ thời gian nghiền, nung, chế
độ gia nhiệt... Vì vậy, khi tổng hợp vật liệu cần nghiên cứu xem nên dùng phƣơng pháp
công nghệ nào để thu đƣợc kết quả mong muốn. Hạt nano từ tính đƣợc chế tạo theo hai
nguyên tắc: vật liệu khối đƣợc nghiền nhỏ đến kích thƣớc nano (top-down) và hình
thành hạt nano từ các nguyên tử (bottom-up).
Hình 2.1: Sơ đồ tổng hợp vật liệu có cấu trúc nano.
Phƣơng pháp từ trên xuống dựa trên nguyên lý là dùng kỹ thuật nghiền và biến dạng
để biến vật liệu thể khối với tổ chức hạt thô thành cỡ hạt kích thƣớc nano. Đây là các
phƣơng pháp đơn giản, rẻ tiền nhƣng rất hiệu quả. Trong quá trình nghiền, vật liệu ở
dạng bột đƣợc trộn lẫn với những viên bi đƣợc làm từ các vật liệu rất cứng (thép,
gốm…) và đƣa vào máy nghiền. Máy nghiền có thể là nghiền lắc, nghiền rung hoặc
nghiền ly tâm hành tinh. Trong quá trình nghiền, các viên bi cứng cùng vật liệu khối va
chạm vào nhau và phá vỡ bột đến kích thƣớc nano. Phƣơng pháp biến dạng đƣợc sử
dụng với các kỹ thuật đặc biệt nhằm tạo ra sự biến dạng cực lớn mà không làm phá huỷ
41
vật liệu.
Phƣơng pháp từ dƣới lên dựa trên nguyên lý là sự hình thành vật liệu nano từ các
nguyên tử hoặc ion. Phƣơng pháp từ dƣới lên đƣợc phát triển rất mạnh mẽ vì tính linh
động và chất lƣợng của sản phẩm cuối cùng. Phần lớn các vật liệu nano thƣờng dùng
hiện nay đƣợc chế tạo từ phƣơng pháp này. Phƣơng pháp từ dƣới lên là phƣơng pháp
vật lý, hóa học hoặc kết hợp cả hai phƣơng pháp hóa-lý.
• Phƣơng pháp vật lý: là phƣơng pháp tạo vật liệu nano từ nguyên tử hoặc chuyển
pha. Có các phƣơng pháp vật lý nhƣ bốc bay nhiệt (đốt, phún xạ, phóng điện hồ
quang), hoặc bằng phƣơng pháp chuyển pha...
• Phƣơng pháp hóa học: là phƣơng pháp tạo vật liệu nano từ các ion. Phƣơng pháp
hóa học có đặc điểm là rất đa dạng vì tùy thuộc vào vật liệu cụ thể mà ngƣời ta phải
thay đổi kỹ thuật chế tạo cho phù hợp. Các phƣơng pháp hóa học bao gồm kết tủa, sol-
gel, nhiệt phân...
• Phƣơng pháp kết hợp: là phƣơng pháp tạo vật liệu nano dựa trên các nguyên tắc
vật lý và hóa học nhƣ: điện phân, ngƣng tụ từ pha khí,...
2.1.1 Phƣơng pháp gốm
Theo kỹ thuật gốm cổ truyền, các ôxít phức hợp đƣợc tổng hợp bằng cách trộn lẫn
hỗn hợp các ôxít, các muối cacbonat, axetat và các muối khác. Thực hiện nhiều lần quá
trình “nghiền - ép – nung” đến khi sản phẩm đạt đến độ đồng nhất và độ tinh khiết
mong muốn. Phản ứng xảy ra khi nung hỗn hợp bột các ôxít đã ép ở nhiệt độ cao (bằng
khoảng 2/3 nhiệt độ nóng chảy). Dƣới đây là sơ đồ tổng hợp mẫu gốm theo phƣơng
pháp truyền thống.
Hình 2.2: Quy trình tổng hợp vật vật liệu bằng phương pháp gốm truyền thống.
42
Trong sơ đồ trên, công đoạn (1) có nhiệm vụ tính toán thành phần của nguyên liệu
ban đầu (đi từ oxit, hiđroxit, hoặc các muối vô cơ) sao cho đạt tỷ lệ hợp thức của sản
phẩm mong muốn. Công đoạn (2) có tác dụng nghiền mịn nguyên liệu để tăng diện tích
tiếp xúc giữa các chất phản ứng và khuếch tán đồng đều các chất trong hỗn hợp. Công
đoạn (3) nhằm tăng mức độ tiếp xúc giữa các chất phản ứng. Công đoạn (4) là thực
hiện phản ứng giữa các pha rắn – đây là công đoạn quan trọng nhất. Vì phản ứng giữa
các pha rắn không thể thực hiện đƣợc hoàn toàn, nghĩa là trong sản phẩm vẫn còn có
mặt tiền chất ban đầu chƣa phản ứng hết nên thƣờng phải tiến hành nghiền trộn lại rồi
ép viên, nung lại lần thứ hai. Nhiều khi phải lặp lại quy trình đó nhiều lần mới đạt đƣợc
kết quả mong muốn.
Trong phƣơng pháp này, ở nhiệt độ thiêu kết các chất vẫn ở trạng thái rắn nên tốc độ
phản ứng rất chậm, do sự khuếch tán trong pha rắn nhỏ. Khi hai chất tiếp xúc với nhau,
ban đầu phản ứng xảy ra nhanh và do bề dày lớp sản phẩm tăng dần nên quãng đƣờng
khuếch tán tăng vì vậy tốc độ phản ứng ngày càng chậm đi. Muốn tăng tốc độ phản
ứng ta cần phải tăng nhiệt độ, tăng thời gian nghiền để tăng tốc độ khuyếch tán, nhƣng
quá trình nghiền lại làm bẩn vật liệu. Ƣu điểm của phƣơng pháp này là đơn giản,
nhƣng sản phẩm thu đƣợc có độ đồng nhất và độ tinh khiết hoá học không cao, dải
phân bố kích thƣớc hạt rộng và nhiệt độ thiêu kết thƣờng rất cao.
2.1.2 Phƣơng pháp Sol-gel
Phƣơng pháp sol-gel do R. Roy đề xuất năm 1956 [121] cho phép trộn lẫn các chất ở
quy mô nguyên tử do đó sản phẩm thu đƣợc có độ đồng nhất và tinh khiết cao, bề mặt
riêng lớn, dải phân bố kích thƣớc hạt hẹp. Chính từ những ƣu điểm này, trong những
năm gần đây sol-gel đã trở thành một trong những phƣơng pháp tổng hợp ôxit phức
hợp quan trọng nhất trong lĩnh vực khoa học vật liệu.
Sol-gel là một phƣơng pháp hóa học ƣớt tổng hợp các phần tử huyền phù dạng keo
rắn trong chất lỏng và tạo thành nguyên liệu lƣỡng pha của chất rắn đƣợc chứa đầy
43
dung môi cho đến khi xảy ra quá trình chuyển tiếp sol-gel.
Hình 2.3: Phương pháp sol-gel để tạo ôxit phức hợp.
Trong phƣơng pháp sol-gel các phần tử trung tâm trải qua 2 phản ứng hóa học cơ
bản: phản ứng thủy phân và phản ứng ngƣng tụ (dƣới xúc tác axit hoặc bazơ) để hình
thành một mạng lƣới trong toàn dung dịch. Bản chất của gel phụ thuộc vào sự tồn tại
của pha rắn và pha lỏng. Sol-Gel là một trong những biến thể của phƣơng pháp Pechini
nhƣng không dùng ethylene glycol. Các muối là muối nitrate của kim loại. Phản ứng
tạo càng diễn ra giữa axit citric và ion kim loại diễn ra bình thƣờng. Khi cho bay hơi
loại bớt nƣớc, axit citric trùng ngƣng loại nƣớc ở các vị trí OH dẫn đến sự gel hóa. Khi
gel đƣợc nâng nhiệt độ, phản ứng giữa gốc nitrate NO3 và citric tỏa nhiều nhiệt, nhiệt
này đƣợc cung cấp cho các phân tử bên cạnh và diễn ra một phản ứng dây chuyền
trong toàn bộ khối gel. Chính vì thế mà phƣơng pháp này đƣợc gọi là phƣơng pháp sol-
gel tự bốc cháy.
2.2 Thực nghiệm
Qua nghiên cứu tổng quan các phƣơng pháp chế tạo vật liệu có kích thƣớc nanomet,
luận án lựa chọn Sol-gel là phƣơng pháp chính để chế tạo vật liệu Perovskite kép
Sr2FeMoO6 (SFMO) với những ƣu điểm nhƣ:
+ Khả năng chế tạo vật liệu có cấu trúc nanomet với độ đồng đều cao;
+ Vật liệu có độ tinh khiết cao;
+ Có thể điều khiển cấu trúc vật liệu với độ pha tạp lớn;
44
+ Nhiệt độ thiêu kết không quá cao (so với phƣơng pháp gốm);
+ Là một phƣơng pháp khá đơn giản để thực hiện với điều kiện trang bị công nghệ ở
trong nƣớc.
* Tiến trình công nghệ chế tạo SFMO bằng phƣơng pháp Sol-gel đƣợc xác định nhƣ
sau:
Chuẩn bị Hóa chất, TB sử dụng Chế tạo Sol Tạo Gel Đốt gel Ép viên
Thiêu kết
2.2.1 Hóa chất và thiết bị sử dụng
2.2.1.1 Nguyên liệu đầu vào
+ Sr(NO3)2.4H2O (99,5 %; xuất xứ: Trung Quốc)
+ Fe(NO3)3.9H2O (99 %; xuất xứ: Trung Quốc)
+ La(NO3)3.6H2O (99,99 %; xuất xứ: Trung Quốc)
+ Zn(NO3)2.6H2O (98 %; xuất xứ: Trung Quốc)
+ Muối Amonium molybdate (NH4)6Mo7O24.4H2O (99,9 %; xuất xứ: Đức)
+ Axit Nitric HNO3 (68 %; xuất xứ: Hàn Quốc)
+ Axit Citric C6H8O7.4H2O (99,5%; xuất xứ: Trung Quốc)
2.2.1.2 Thiết bị sử dụng
- Các thiết bị phòng thí nghiệm: pipet, cốc đựng..
- Dụng cụ, trang thiết bị phụ trợ.
- Máy khuấy từ: nhiệt độ làm việc đến 120 oC.
- Tủ sấy: nhiệt độ làm việc đến 150 oC.
- Thiết bị đốt: nhiệt độ làm việc đến 800 oC.
- Thiết bị ép: 10 tấn.
- Thiết bị thiêu kết: đạt nhiệt độ làm việc ~1300 oC, có hệ thống hút chân không và
45
cung cấp khí trong quá trình thiêu kết.
2.2.2 Chế tạo Sol
Các muối nitrat Sr(NO3)2, Fe(NO3)3 lần lƣợt đƣợc hòa tan trong axit nitric loãng để
tạo thành các dung dịch có nồng độ 1M. Một lƣợng các dung dịch muối nitrat đƣợc lấy
theo thành phần danh định cho vào cốc khuấy, muối (NH4)6Mo7O24.4H2O đƣợc thêm
vào hỗn hợp dung dịch sao cho thành phần mol các kim loại Sr2+, Fe3+ và Mo6+ tƣơng
ứng với thành phần mol của chúng trong hợp chất SFMO. Axit axetic (AC) với nồng
độ 3M đƣợc sử dụng với tỷ lệ: nAC=3∑nKL (trong đó, nKL=số mol của các kim loại sử
dụng làm tiền chất ban đầu). Tỷ lệ giữa axít citric và kim loại là rất quan trọng: khi mật
độ ion kim loại tăng lên sẽ tạo ra nhiều mầm kết tinh hơn khi xử lý nhiệt, nghĩa là kích
thƣớc hạt sẽ nhỏ hơn. Tuy nhiên, mật độ này quá cao sẽ làm giảm sự đồng đều trong
việc hòa trộn các ion kim loại khác nhau dẫn đến suy giảm tính đơn pha của vật liệu.
Hỗn hợp thu đƣợc đƣợc khuấy đều bằng cách sử dụng máy khuấy từ ở nhiệt độ 80 oC
cho đến khi Sol đƣợc tạo thành.
2.2.3 Tạo Gel
Trƣớc khi Sol đƣợc tạo ra, tủ sấy đã phải đƣợc chuẩn bị sẵn để đảm bảo thiết bị hoạt
động ổn định ở nhiệt độ là 110 oC. Sol sau khi tạo thành cho ngay vào tủ sấy vì Sol có
thời gian bảo quản giới hạn, với thời gian thì các hạt Sol hút nhau dẫn đến đông tụ keo.
Trong quá trình giữ nhiệt, giữa các hạt sol hình thành liên kết oxide kim loại (M-O-M)
ba chiều trong dung dịch. Giữ ở nhiệt độ đó trong vòng 24 giờ sẽ nhận đƣợc Gel với độ
rỗ xốp cao. Độ rỗ xốp càng cao phản ánh mức độ trộn lẫn ở quy mô nguyên tử của các
ion kim loại càng tốt và quyết định đến chất lƣợng đơn pha của mẫu sau thiêu kết. Nếu
Gel bị đông lại thì quá trình tạo Gel chƣa thành công, cần phải nghiên cứu thay đổi
nồng độ AC sử dụng cũng nhƣ tỷ lệ mol của AC so với tổng số lƣợng mol của các kim
loại.
2.2.4 Đốt Gel
Để xác định đƣợc chế độ đốt, Gel đƣợc tiến hành đốt ở các nhiệt độ và thời gian
46
khác nhau, tiến hành ủ để đánh giá ảnh hƣởng của các chế độ đốt Gel lên chất lƣợng
của sản phẩm. Qua quá trình thử nghiệm và phân tích, luận án đã lựa chọn nhiệt độ đốt
là 550 oC trong vòng 2 giờ. Với nhiệt độ và thời gian đó sẽ loại bỏ gần nhƣ hoàn toàn
các hợp chất hữu cơ, tạo ra tiền hợp chất có độ mịn cao. Điều này là rất quan trọng bởi
nó quyết định đến chất lƣợng của mẫu sau thiêu kết. Với tiền hợp chất có độ sạch và độ
mịn cao, mẫu thu nhận đƣợc có mật độ khối lớn, các hạt bột đƣợc sít chặt hơn sau ép sẽ
là điều kiện thuận lợi cho quá trình khuếch tán trong quá trình thiêu kết và tạo ra vật
liệu có độ tin khiết cao, có mật độ cao (tức là độ rỗ xốp thấp) sẽ là điều kiện tốt cho
quá trình nghiên cứu tính chất điện sau này.
2.2.5 Ép viên
Tiền hợp chất đƣợc nghiền bằng cối mã não. Vì cối chày bằng mã não có độ cứng
cao, đặc biệt là phẳng, nên trong quá trình nghiền không đƣa tạp chất vào và cũng
không để dính phối liệu lại trong khe rãnh của cối làm sai lệch tỷ lệ các chất trong phản
ứng. Bột sau khi nghiền đƣợc ép thành viên với kích thƣớc tùy thuộc vào mục đích sử
dụng và phụ thuộc vào không gian buồng thiêu kết. Lực ép là một thông số quan trọng
bởi vì khi lực ép thấp sẽ tạo ra khoảng cách giữa các hạt lớn làm giảm sự khuếch tán
trong quá trình thiêu kết, vật liệu nhận đƣợc có độ rỗ xốp lớn. Ngƣợc lại, khi lực ép
quá cao tạo ra ứng suất nội lớn dẫn đến việc mẫu sẽ bị nứt, vỡ trong quá trình thiêu kết
và không đo đƣợc điện trở.
Qua quá trình thực nghiệm, luận án đã lựa chọn đƣợc phƣơng án ép đó là ép cơ học
(không sử dụng chất liên kết) với lực ép 1,5 – 2 tấn/cm2. Các mẫu sau thiêu kết đảm
bảo đƣợc độ sít chặt, không bị nứt vỡ trong quá trình thiêu kết…đây là điều kiện cần
thiết để nghiên cứu tính chất điện sau này.
2.2.6 Thiêu kết
Thiêu kết là công đoạn mang ý nghĩa quyết định đến việc tổng hợp vật liệu bằng
phƣơng pháp Sol-Gel. Quá trình thiêu kết phụ thuộc vào các yếu tố nhƣ: nhiệt độ, thời
47
gian, môi trƣờng thiêu kết.
2.2.6.1 Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ
Để xác định đƣợc nhiệt độ thiêu kết, gel đƣợc tiến hành phân tích nhiệt (DTA).
Hình 2.4: Giản đồ phân tích nhiệt DTA-GTA của gel SFMO.
Dựa trên giản đồ phân tích nhiệt DTA–TGA của gel ta thấy có 3 khoảng sụt giảm
khối lƣợng mẫu phân tích tƣơng ứng với các khoảng nhiệt độ 30 – 160 ºC, 160 – 400
ºC và 400 – 800 ºC. Ở vùng nhiệt độ 30 – 160 ºC là vùng các dung môi và nƣớc bay
hơi nên tƣơng ứng trên đƣờng DTA xuất hiện đỉnh thu nhiệt ở 92 ºC. Trên 200 ºC, một
số các hợp chất hữu cơ bắt đầu bốc cháy và quá trình tỏa nhiệt đạt cực đại ở 256 ºC. Ta
thấy quá trình tỏa nhiệt mạnh ở dải nhiệt độ từ 450 – 600 ºC, tƣơng ứng với sự hình
thành các hợp chất của Sr, Fe và Mo. Ở 600 ºC, khối lƣợng giảm đến cực tiểu và tăng
dần lên khi nhiệt độ tăng, chứng tỏ có xảy ra phản ứng hóa học ở vùng nhiệt độ này,
hay có sự chuyển pha ở vùng nhiệt độ trên 600 ºC. Quá trình này thể hiện rõ qua đỉnh
48
thu nhiệt ở 681 ºC trên đƣờng DTA.
Dựa trên phân tích nhiệt, các mẫu perovskite kép đƣợc chế tạo với các chế độ nhiệt
nhƣ sau (với cùng thời gian ủ là 8 giờ): 800 oC; 900 oC; 1000 oC; 1100 oC; 1200 oC ở
trong môi trƣờng chân không (10-1 mbar). Các mẫu sau thiêu kết có kết quả phân tích
X-ray đƣợc đƣa ra trong Hình 2.5.
Hình 2.5: Phổ nhiễu xạ XRD của các mẫu thiêu kết ở các nhiệt độ khác nhau.
Qua kết quả phân tích XRD cho ta thấy ở dƣới 900 oC sự hình thành pha chính
SFMO chƣa rõ, hàm lƣợng các pha thứ cấp chiếm một tỷ lệ khá lớn (> 50 %). Trên 900
oC, nồng độ pha chính SFMO tăng dần cùng với việc tăng nhiệt độ thiêu kết mặc dù
các mẫu vẫn chƣa đơn pha. Điều này xác định đƣợc là mẫu SFMO phải đƣợc thiêu kết
ở nhiệt độ cao, còn việc chƣa đạt đƣợc đơn pha phải đƣợc nghiên cứu thêm về các chế
độ công nghệ khác nhƣ thời gian và môi trƣờng thiêu kết.
2.2.6.2 Nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường thiêu kết.
Để lựa chọn môi trƣờng thiêu kết, các mẫu đƣợc chế tạo cùng một quy trình công
nghệ và tiến hành thiêu kết trong các môi trƣờng khác nhau và ở cùng một nhiệt độ là
1100 oC. Đối với các mẫu thiêu kết trong môi trƣờng chân không nhƣ đã chỉ ra ở trên,
mặc dù đã nâng nhiệt độ lên đến 1200 oC nhƣng mẫu chƣa đơn pha, nồng độ pha
49
SrMoO4 còn rất lớn. Qua tham khảo các tài liệu cho thấy rằng cần sự có mặt của khí
khử trong quá trình thiêu kết [19]. Chính vì vậy môi trƣờng thiêu kết đƣợc lựa chọn là
khí argon (Ar) đƣợc trộn thêm một hàm lƣợng nhất định khí H2. Khí argon là một loại
khí trơ có tác dụng đảm bảo môi trƣờng không có oxy trong quá trình thiêu kết. Vai trò
của khí hydro là khử lƣợng oxy dƣ ở trong mẫu và chuyển ion Mo6+ trong muối
molypdat thành ion Mo5+ trong hợp chất SFMO.
Hình 2.6: Giản đồ XRD của các mẫu SFMO thiêu kết ở các môi trường khác nhau.
Để xác định hàm lƣợng H2 thêm vào, luận án đã tiến hành thiêu kết 03 mẫu ở 1100
ºC (8 giờ) trong các môi trƣờng (100-x)% Ar / x% H2 với x = 10 (M1), 15 (M2) và 20
(M3). Kết quả phân tích XRD đƣợc đƣa ra trong Hình 2.6.
Các kết quả từ giản đồ nhiễu xạ tia X cho thấy các mẫu sau khi ủ nhiệt trong môi
trƣờng khí khử đều chứa pha perovskite kép. Bên cạnh đó các mẫu còn chứa một lƣợng
tạp chất nhất định là các hợp chất SrMoO4 và Sr2MoO4 trong đó Mo mang hóa trị
tƣơng ứng +6 và +4. Tác giả luận án đã phân tích các giản đồ XRD bằng phƣơng pháp
Rietveld để xác định hàm lƣợng các pha có trong mẫu. Các kết quả phân tích cấu trúc
50
đƣợc liệt kê trong Bảng 2.1.
Bảng 2.1: Hàm lượng các pha trong hợp chất SFMO của các mẫu M1, M2, M3.
Mẫu M1 M2 M3
85 95 85 Hàm lƣợng Sr2MoFeO6, % mol
11 0 15 Hàm lƣợng SrMoO4, % mol
4 5 0 Hàm lƣợng Sr2MoO4, % mol
Phân tích Rietveld cho thấy hàm lƣợng của Sr2MoO4 phụ thuộc rõ nét vào nồng độ
khí H2. Hàm lƣợng pha chính đạt cực đại ở mẫu M2 ủ trong môi trƣờng 85% Ar + 15%
H2 với 95 % mol pha SFMO và 5 % mol pha Sr2MoO4.
2.2.6.3 Nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian thiêu kết
Để nghiên cứu ảnh hƣởng của thời gian thiêu kết lên chất lƣợng của vật liệu SFMO,
các mẫu đƣợc chế tạo ở cùng chế độ công nghệ thiêu kết nhƣng thay đổi về thời gian.
Nhiệt độ đƣợc xác định là 1100 oC (trong môi trƣờng khí 85% Ar + 15% H2) với thời
gian thay đổi giữa các mẫu là 6h, 8h, 10h và 12 h. Đối với mẫu thiêu kết trong 6 giờ đã
hình thành pha chính Sr2FeMoO6, tuy nhiên hàm lƣợng pha SrMoO4 còn nhiều (gần 50
%). Khi kéo dài thời gian thiêu kết, hàm lƣợng pha SFMO tăng dần và kèm theo đó là
hàm lƣợng pha SrMoO4 ở trong mẫu giảm và mẫu thiêu kết trong 8 giờ đã gần nhƣ
hoàn toàn đơn pha. Đối với mẫu thiêu kết trong 10 giờ bắt đầu xuất hiện pha Sr2MoO4
và đến mẫu thiêu kết trong 12 giờ đã làm cho hàm lƣợng pha thứ cấp này còn lớn hơn.
Điều này đƣợc giải thích là với sự có mặt của khí H2 đóng vai trò là khí khử, khi kéo
dài thời gian thiêu kết quá lâu Mo6+ trong muối molypdat sau khi bị khử thành Mo5+ ở
trong hợp chất SFMO, sẽ tiếp tục bị khử để thành Mo4+ trong pha thứ cấp Sr2MoO4.
Chính vì vậy thời gian thiêu kết trong vòng 8 giờ là hợp lý để thu nhận vật liệu SFMO
với độ đơn pha cao nhất.
Nhƣ vậy, luận án đã xác định đƣợc quy trình công nghệ chế tạo mẫu SFMO kích
51
thƣớc nano bằng phƣơng pháp Sol-Gel nhƣ sau:
Axit Citric 3M Sr(NO3)2.1M Fe(NO3)3.1M (NH4)6Mo7O24.4H2O
80oC KHUẤY
110oC/24h Ủ
550oC/2h ĐỐT
1100-1200oC/8h/15%H2+85%Ar
1,5tấn/cm2 ÉP VIÊN
THIÊU KẾT
Sr2FeMoO6
Hình 2.7: Quy trình công nghệ chế tạo Sr2FeMoO6 bằng phương pháp Sol-Gel.
2.3 Các phƣơng pháp nghiên cứu cấu trúc và tính chất của SFMO
2.3.1 Phân tích nhiệt DTA-TGA
Phân tích khối lƣợng theo nhiệt độ TGA (Thermo Gravimetry Analysis) là phƣơng
pháp dùng để phân tích sự suy giảm khối lƣợng của các vật liệu theo nhiệt độ.
Phƣơng pháp này giúp xác định các thành phần nhƣ độ ẩm, thành phần bay hơi,
thành phần cháy hay thành phần phản ứng với khí mang. Khi kết hợp với một nam
châm vĩnh cửu, phân tích phổ khối lƣợng theo nhiệt độ còn giúp xác định nhiệt độ
52
Curie của các hệ mẫu có từ tính [122].
Phân tích nhiệt quét vi sai (Differential scanning calorimetry- DSC) là một kỹ thuật
phân tích nhiệt đƣợc dùng phổ biến trong nghiên cứu vật lý chất rắn, khoa học vật liệu,
hóa học, cho phép xác định các tính chất chuyển pha nhiệt của mẫu thông qua việc đo
dòng nhiệt tỏa ra (hoặc thu vào) từ một mẫu đƣợc đốt nóng trong dòng nhiệt với nhiệt
độ quét trong các tốc độ khác nhau.
Thiết bị đo sử dụng là Pyris đặt tại Phòng thí nghiệm Công nghệ Hóa học, Khoa hóa
lý lỹ thuật, Học Viện Kỹ thuật quân sự. Dải nhiệt độ đo của thiết bị này từ nhiệt độ
phòng đến 1000 oC, độ nhạy đạt tới 0,1 mg.
2.3.2 Nhiễu xạ tia X
Phƣơng pháp phân tích cấu trúc tinh thể và pha bằng nhiễu xạ tia X (XRD: X ray
diffraction) khi thỏa mãn điều kiện phản xạ Bragg.
(2.1)
Với cấu trúc tinh thể tứ diện, hằng số mạng a và c xác định theo công thức:
trong đó dhkl là khoảng cách giữa các mặt tinh thể; h, k, l là chỉ số Miller.
Theo Sherrer, kích thƣớc tinh thể dXRD tính theo công thức:
( )
(2.2)
trong đó λ là bƣớc sóng tia X, β là độ rộng bán vạch của các đỉnh nhiễu xạ.
Các giản đồ nhiễu xạ tia X đƣợc ghi trên máy “D8 Advance Bruker” của Đức, ống
phát CuK-alpha 40kV - 40mA, detector bán dẫn Sol-X với bƣớc sóng λ = 1,54059 Å,
góc quét 2θ từ 10° đến 80°, tốc độ quét 0,02 † 0,05 °/s. Để xác định các pha kết tinh sử
dụng dữ liệu của ASTM (American Society for Testing and Materials). Thiết bị đo đặt
53
tại Khoa Hóa học, ĐHKHTN.
2.3.3 Nhiễu xạ tia X và ph hấp thụ tia X d ng ngu n synchrotron
Synchrotron là quá trình gia tốc các hạt mang điện nhƣ proton hoặc electron gần với
tốc độ ánh sáng bằng từ trƣờng và điện trƣờng lớn, chúng sẽ phát ra các tia điện từ gọi
là tia synchrotron. So với nguồn nhiễu xạ tia X thông thƣờng trong các phòng thí
nghiệm, nguồn nhiễu xạ synchrotron có cƣờng độ cao hơn nhiều lần cho phép thực
hiện các thí nghiệm nhanh, số liệu thống kê thu đƣợc tốt và lƣợng mẫu sử dụng ít. Nó
là một quang phổ liên tục kéo dài từ tần số vô tuyến đến vùng X quang vì vậy dễ dàng
chọn bƣớc sóng phù hợp tùy vào yêu cầu thí nghiệm.
Hệ synchrotron ở Nakhon Ratchasima (Thái Lan) gồm 8 chùm tia có thể thực hiện
đƣợc nhiều phép đo khác nhau nhƣ đo tán xạ tia X góc nhỏ (Small Angle X-ray
Scattering – SAXS) nghiên cứu cấu trúc nano của vật liệu. Các nghiên cứu sự sắp xếp
các nguyên tử trong vật liệu bằng phép đo phổ hấp thụ tia X (X – ray
AbsortionSpectroscopy – XAS).
Phép đo XAS sử dụng trong việc xác định trạng thái hóa trị và cấu trúc vùng lân cận
của nguyên tử hấp thụ gồm phổ hấp thụ XANES (X-ray Absorption Near Edge
Structure) và phổ EXAFS (Extended X-ray Absorption Fine Structure) cung cấp thông
tin về khoảng cách giữa nguyên tử hấp thụ với các nguyên tử lân cận và số lƣợng
nguyên tử trong một khoảng cách nhất định [123].
2.3.4 Phân tích Rietveld
Hugo M. Rietveld đã xây dựng một phƣơng pháp tính toán cấu trúc tinh thể từ phổ
nhiễu xạ tia X gọi là phƣơng pháp xử lý Rietveld (Rietveld refinement) [124]. Phƣơng
pháp này đƣợc áp dụng cho cả các phổ nhiễu xạ khác nhau nhƣ phổ nhiễu xạ neutron,
nhiễu xạ synchrotron hay nhiễu xạ điện tử. Phƣơng pháp xử lý Rietveld đã đƣợc ứng
dụng rất hiệu quả trong nghiên cứu cấu trúc của cả mẫu khối và mẫu hạt nano với dữ
liệu thu đƣợc từ các thí nghiệm nhiễu xạ neutron, nhiễu xạ tia X thông thƣờng và nhiễu
xạ tia X sử dụng nguồn synchrotron [125,126]. Số liệu thu đƣợc từ các thí nghiệm
54
nhiễu xạ đƣợc phân tích xử lý bằng phƣơng pháp Rietveld cho phép xác định chính xác
những thông tin về cấu trúc ở trật tự xa bao gồm nhóm không gian, các thông số mạng,
vị trí các nguyên tử trong các phân mạng, phân bố của các ion giữa các phân mạng và
những thông số về biến dạng ở cấp độ tinh thể, kích thƣớc trung bình của vùng tán xạ
đồng nhất (crystallite size) và định lƣợng các pha trong mẫu. Các số liệu nhiễu xạ đƣợc
phân tích bằng phƣơng pháp Rietveld sử dụng phần mềm FullProf [127] và MRIA
[128] các đỉnh nhiễu xạ Bragg đƣợc mô tả bởi hàm phân bố Voigt bằng cách tổng hợp
từ hai hàm Gauss hoặc Lorentz [129]. Với phƣơng pháp này, cƣờng độ tính toán đƣợc
mô hình hóa dựa trên tính toán thừa số bình phƣơng tối thiểu (χ2) và hệ số tƣơng quan
(Rwp) từ các dữ liệu nhiễu xạ. Để đánh giá độ tin cậy của kết quả thu đƣợc, χ2 phải gần
bằng 1 và các hệ số Rwp quanh giá trị 10 %.
2.3.5 Hiển vi điện tử qu t SEM
Kính hiển vi điện tử quét (SEM: Scanning Electron Microscope) là công cụ cho
phép quan sát bề mặt mà không cần phá hủy mẫu vật và hoạt động ở chân không cao.
Ảnh SEM của các mẫu trong luận án đƣợc chụp trên kính hiển vi điện tử quét phát
xạ trƣờng (FESEM) của hãng JEOL, có độ phóng đại 800.000 lần đặt tại Viện AIST,
Trƣờng Đại học Bách Khoa Hà Nội và thiết bị Hitachi S-4800 tại Viện Khoa học vật
liệu, VAST – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
2.3.6 Nghiên cứu tính chất từ của vật liệu bằng từ kế m u rung VSM
Phƣơng pháp từ kế mẫu rung (VSM: Vibrating Sample Magnetometer) dựa trên định
luật cảm ứng điện từ. Khi một vật có mômen từ M dao động cạnh cuộn dây sẽ gây ra
trong cuộn dây một suất điện động cảm ứng tỷ lệ với M. Gắn mẫu đo vào đầu một
thanh rung, đặt giữa hai cuộn dây nhỏ giống nhau cuốn xung đối, mắc nối tiếp, toàn bộ
hệ thống này đƣợc đặt giữa hai cực của một nam châm điện, khi mẫu dao động hai đầu
các cuộn dây xuất hiện một suất điện động. Bằng thiết bị này có thể khảo sát sự phụ
thuộc của mômen từ vào cƣờng độ từ trƣờng M = f(H), đƣờng cong từ trễ và đồng thời
cũng xác định đƣợc sự phụ thuộc của mômen từ vào nhiệt độ M = f(T) từ đó xác định
55
đƣợc nhiệt độ Curie (TC)…. Hệ từ kế mẫu rung có từ trƣờng tối đa 10 kOe, độ phân
giải 1 Oe, độ nhạy 10-5 emu/g, nhiệt độ đo 77 K đến 900 K. Thiết bị VSM đƣợc đặt tại
Viện ITIMS, trƣờng ĐHBK Hà Nội.
2.3.7 Giao thoa kế lƣợng tử siêu d n SQUID
Tính chất từ và từ điện trở của các mẫu đƣợc khảo sát bằng thiết bị giao thoa kế
lƣợng tử siêu dẫn (superconducting quantum interference device) - SQUID. Một vòng
siêu dẫn có một tiếp xúc Josephson sẽ tạo thành một SQUID xoay chiều (rf SQUID),
một vòng siêu dẫn có hai tiếp xúc Josephson song song với nhau sẽ tạo thành một
SQUID một chiều (dc SQUID). Một SQUID thƣờng bao gồm một (rf) hoặc hai (dc)
điện trở mắc song song với lớp tiếp xúc để loại trừ hiện tƣợng trễ của đặc trƣng I-V.
Các từ kế SQUID đạt tới độ nhạy tốt hơn 10-9 emu ngay cả khi từ trƣờng ngoài là 9 T.
Khả năng đo theo nhiệt độ đƣợc thực hiện bằng cách đƣa vào một buồng mẫu bộ phận
điều nhiệt trong không gian chứa cuộn cảm ứng. Các thiết bị giao thoa kế lƣợng tử siêu
dẫn (SQUID) cho phép thực hiện phép đo từ tính từ 1,8 K đến 300 K, thƣờng đƣợc sử
dụng để phát hiện những moment từ vô cùng nhỏ với độ nhạy rất cao.
Tính chất từ và từ điện trở của các mẫu đƣợc đo trên thiết bị PPMS DynaCool
(Physical Property Measurement System Dynacool), đây là một công cụ đƣợc thiết kế
để đo lƣờng nhiều tính chất vật lý của mẫu (Hình 2.8).
Hình 2.8: Thiết bị PPMS Dynacool.
Thiết bị PPMS DynaCool đƣợc đặt tại trƣờng Đại học Tổng hợp Amsterdam – Hà
56
Lan.
2.3.8 Đo từ điện trở bằng phƣơng pháp bốn mũi dò
Phƣơng pháp đo từ điện trở đã đƣợc lựa chọn là phƣơng pháp 4 mũi dò, đây cũng là
phƣơng pháp chủ yếu để nghiên cứu về hiệu ứng từ điện trở trên thế giới hiện nay.
2.3.8.1 Sơ đồ nguyên lý
Sơ đồ nguyên lý của phƣơng pháp bốn mũi dò đƣợc trình bày trên Hình 2.9. Bốn
điện cực đƣợc bố trí thẳng hàng và cách đều nhau một khoảng s, đƣợc tì lên bề mặt của
mẫu. Trong đó hai điện cực phía ngoài (1 và 4) là hai điện cực dòng đƣợc cấp dòng với
Điện cực
Mẫu
u
cƣờng độ I, hai điện cực trong (2 và 3) là hai điện cực thế để đo điện thế đầu ra V.
Hình 2.9: Sơ đồ nguyên lý của phương pháp 4 mũi dò [130].
Khi đó điện trở suất (ρ) của vật liệu đƣợc tính theo công thức [130]:
trong đó: t là chiều dày của mẫu đo; C là tham số hiệu chuẩn – phụ thuộc vào tỷ lệ
chiều dày (hoặc đƣờng kính) của mẫu so với khoảng cách s giữa các điện cực. Tham số
57
hiệu chuẩn đƣợc chỉ ra trong Bảng 2.2.
Bảng 2.2: Tham số hiệu chuẩn C [130].
Tham số hiệu chuẩn C phụ thuộc Tham số hiệu chuẩn C phụ
thuộc vào chiều dày t của mẫu vào đƣờng kính d của mẫu
t/s
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
0.8
0.9
1.0
1.2
1.4
1.6 C1 (t/s)
1.0000
0.9995
0.9974
0.9919
0.9816
0.9662
0.9459
0.9215
0.8643
0.8026
0.7419 d/s
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
200 C2 (d/s)
4.1712
4.4364
4.4892
4.5080
4.5167
4.5215
4.5244
4.5262
4.5275
4.5284
4.5314
2.3.8.2 Thiết kế và chế tạo thiết bị đo
Sơ đồ chi tiết hệ đo điện trở bằng phƣơng pháp bốn mũi dò đƣợc trình bày trên Hình
2.10.
Hình 2.10: Sơ đồ hệ đo điện trở bằng phương pháp bốn mũi dò.
58
Bốn mũi dò đƣợc đặt thẳng hàng trên bề mặt mẫu. Nguồn dòng đƣợc cấp qua các
mũi dò 1 và 4. Tín hiệu thế từ hai đầu 2 và 3 đƣợc thu nhận qua thiết bị Fluke. Một cặp
nhiệt đƣợc gắn vào mẫu để xác định nhiệt độ thông qua hiệu điện thế giữa hai đầu cặp
nhiệt. Mẫu đo đƣợc đặt vào bộ gá đo và đặt vào một buồng chân không. Toàn bộ buồng
mẫu đƣợc nhúng trong Nito lỏng. Một điện trở nhiệt đƣợc đặt trên đế mẫu để đo điện
trở theo nhiệt độ. Số liệu từ Fluke đƣợc chuyển đến máy tính qua cổng R322. Máy tính
với chƣơng trình lập sẵn sẽ tự động ghi nhận, xử lý số liệu và vẽ đồ thị phụ thuộc vào
nhiệt độ của điện trở. Để đo hiệu ứng từ điện trở, luận án đã sử dụng hệ nam châm của
Cần gắn đồ
gá mẫu
Bình chứa
nitow lỏng
Hệ nam
châm điện
Bộ điều nhiệt
Nguồn dòng
hệ đo từ kế tích phân nhƣ trong Hình 2.11.
Hình 2.11: Hệ đo từ điện trở bằng phương pháp 4 mũi dò cùng với hệ nam châm điện.
Dựa trên sơ đồ nguyên lý của phƣơng pháp bốn mũi dò đƣợc trình bày ở trên, sản
59
phẩm đồ gá đo điện trở đã đƣợc thiết kế và chế tạo nhƣ Hình 2.12.
Hình 2.12: Bản vẽ thiết kế chế tạo đồ gá đo điện trở: 1 – Cữ chặn; 2 – Vỏ ngoài; 3 – Gá kim;
4 – Điện cực đàn hồi.
Kết luận chƣơng 2
Trong chƣơng 2 đã trình bày khái quát về các phƣơng pháp chế tạo vật liệu có kích
thƣớc nanomet, cụ thể là phƣơng pháp gốm và phƣơng pháp Sol-Gel. Luận án đã phân
tích những ƣu điểm và nhƣợc điểm của từng phƣơng pháp, những khó khăn trong quá
trình nghiên cứu khi sử dụng phƣơng pháp gốm cũng nhƣ những cơ sở để lựa chọn
phƣơng án chế tạo vật liệu nghiên cứu bằng phƣơng pháp Sol-Gel. Trên cơ sở đó đã
đƣa ra đƣợc quy trình thực nghiệm hiệu quả, phân tích đánh giá những tác động của
các yếu tố công nghệ từ đó xây dựng quy trình công nghệ chế tạo và đã chế tạo thành
công hệ vật liệu perovskite kép SFMO có độ đơn pha cao để phục vụ cho quá trình
nghiên cứu tiếp theo.
Để nghiên cứu cấu trúc và tính chất của các hệ hạt, luận án đã tiếp cận các thiết bị
đo đạc hiện đại trong và ngoài nƣớc với độ tin cậy, độ chính xác cao. Các kết quả phân
tích và thảo luận sẽ đƣợc trình bày trong các nghiên cứu cụ thể của luận án.
Dựa trên nguyên lý đo điện trở bằng phƣơng pháp 4 mũi dò, tác giả luận án đã thiết
kế và chế tạo thành công hệ đo từ điện trở ở các nhiệt độ khác nhau. Với việc sử dụng
hệ nam châm điện của thiết bị Từ kế tích phân (từ trƣờng lên đến 10 kOe), hiệu ứng từ
điện trở không chỉ đƣợc đo ở nhiệt độ phòng mà có thể xuống đến nhiệt độ của Nitơ
60
lỏng (80 K).
CHƢƠNG 3. NGHIÊN CỨU CẤU TRÚC, TÍNH CHẤT TỪ CỦA
PEROVSKITE KÉP Sr2FeMoO6 CHẾ TẠO BẰNG PHƢƠNG
PHÁP SOL-GEL VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA PHA SrMoO4 LÊN
HIỆU ỨNG TỪ ĐIỆN TRỞ
Sr2FeMoO6 (SFMO) thuộc họ perovskite kép với trạng thái nửa kim loại trong đó
các electron dẫn điện đƣợc phân cực hoàn toàn và có nhiệt độ chuyển đổi sắt từ cao
hơn nhiệt độ phòng (TC > 400 K). Trong hợp chất, phần lớn dòng spin lên với một dải
năng lƣợng đƣợc hình thành bởi các spin lõi của ion Fe3+ (S = 5/2). Mặt khác, trạng
thái spin xuống t2g của Mo và Fe cùng với một số nhỏ của O ở trạng thái 2p tạo thành
một băng dẫn nằm ở mức Fermi, đƣợc lấp đầy một phần bởi các electron 4d1 của Mo5+
và sự phân cực spin âm điền đầy (P = -1), trong khi mức eg là trống rỗng. Các trạng
thái t2g của Mo và Fe đƣợc kết cặp với nhau thông qua một cơ chế tƣơng tác nhảy. Bởi
vì các trạng thái Fe t2g đƣợc phân cực spin xuống điền đầy, việc nhảy của electron chỉ
xảy ra khi các momen spin định xứ Fe có trật tự sắt từ. Momen từ tổng đƣợc mô tả bởi
mô hình ion của một sự sắp xếp phản sắt từ giữa spin lõi Fe3+ và spin Mo5+ 4d, tạo nên
mô men của hệ là 4 µB/đ.v.c.t. Tuy nhiên, trong thực nghiệm luôn tồn tại một sự hoán
đổi vị trí của các cation Fe3+ và Mo5+ cho nhau hay còn gọi là độ bất trật tự cation
(ASD), do đó momen từ bão hòa thƣờng thấp hơn giá trị lý thuyết.
Một trong những thách thức trong các nghiên cứu về vật liệu nửa kim loại là việc cải
thiện tính chất từ điện trở xuyên ngầm (ITMR) trong các hệ hạt có đặc tính dẫn bị chi
phối bởi đƣờng dẫn phân cực spin thông qua biên hạt cách điện. Một số công trình với
mục đích này đã đƣợc thực hiện trên các mẫu SFMO ở dạng khối và nano. Độ lớn của
hiệu ứng ITMR phụ thuộc vào cả các tham số nội tại nhƣ độ phân cực spin P, ASD,
vách domain, ranh giới pha đảo và các đặc tính bên ngoài các hạt, chẳng hạn nhƣ kích
thƣớc, khiếm khuyết bề mặt, tạp chất và/hoặc tính chất biên hạt đƣợc tổng hợp. Do đó,
có hai cách tiếp cận để nâng cao hiệu ứng ITMR của một mẫu: đầu tiên là tối đa hóa
61
mức độ phân cực spin của vật liệu, thứ hai là điều chỉnh bản chất của biên hạt. Trong
một báo cáo gần đây của Harnagea và cộng sự [116], sự tăng cƣờng của hiệu ứng MR
ở từ trƣờng thấp đƣợc quan sát thấy là do sự kết hợp tốt giữa sự phân bố kích thƣớc hạt
và giá trị của độ phân cực spin P cao. Niebieskikwiat và các cộng sự [131] đã nghiên
cứu hiệu ứng MR trong các mẫu SFMO đƣợc chuẩn bị bởi phƣơng pháp phản ứng
trạng thái rắn với các mức ASD khác nhau. Các tác giả đã tiến hành oxy hóa biên giới
hạt của các mẫu và theo dõi sự thay đổi của momen từ, điện trở suất và giá trị của MR.
Các kết quả cho thấy, để tăng hiệu ứng ITMR thì mục tiêu quan trọng nhất không phải
là độ trật tự Fe/Mo quá cao mà phải là tăng cƣờng số lƣợng biên hạt cách điện. Sau khi
tiến hành oxy hóa, một trong các mẫu có momen từ bão hòa thấp tới 1,6 µB/đ.v.c.t. có
hiệu ứng ITMR cao gấp 3 lần so với các mẫu khác đƣợc chế tạo với Msat = 3,0
µB/đ.v.c.t. Số lƣợng biên hạt đƣợc tăng lên bằng cách giảm kích thƣớc hạt thành kích
thƣớc nanomet. Yuan và các cộng sự [8] đã chế tạo các mẫu SFMO có kích thƣớc hạt
trong khoảng 29-45 nm bằng phƣơng pháp Sol-Gel và cho thấy mẫu có kích thƣớc hạt
29 nm có hiệu ứng từ điện trở Δρ/ρ0 lớn nhất. Trong một nghiên cứu khác,
Niebieskikwiat và các cộng sự [6] cho thấy rằng quá trình oxy hóa các hạt SFMO gây
ra pha SrMoO4 tạo nên sự tăng cƣờng giá trị MR. Kai Wang và các cộng sự [118] đã
điều chỉnh lƣợng SrMoO4 trong các mẫu SFMO bằng cách nghiền trộn chúng với thời
gian nghiền khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ITMR tăng với sự gia tăng của
hàm lƣợng tạp chất SrMoO4. Sử dụng phản ứng của SFMO với nƣớc và công nghệ siêu
âm hóa học, Zhong và các cộng sự [33] đã nâng cao hàm lƣợng SrMoO4 tại ranh giới
cách điện của các hạt ở kích thƣớc micron và nâng cao hiệu ứng từ điện trở xuyên
ngầm lên đến 35 % ở nhiệt độ phòng.
Phần nhỏ của pha SrMoO4 tại các biên hạt là một tham số điều chỉnh hữu ích để cải
thiện độ lớn hiệu ứng ITMR. Bởi vì hàm lƣợng của pha ở biên hạt phụ thuộc vào kích
thƣớc hạt trung bình của pha chính, nên nó cần đƣợc nghiên cứu mang tính định lƣợng
hơn nữa về ảnh hƣởng của các pha thứ cấp lên hiệu ứng ITMR của các mẫu với sự
phân bố kích thƣớc hạt khác nhau ở cấp độ nanomet. Ở trong chƣơng này, luận án tiến
hành chế tạo các mẫu với việc thay đổi nhiệt độ thiêu kết nhằm thay đổi kích thƣớc hạt
62
cũng nhƣ nồng độ pha thứ cấp SrMoO4, trên cơ sở đó cung cấp thêm thông tin về tác
động của hàm lƣợng pha SrMoO4, phân bố cation và quá trình từ hóa lên hiệu ứng
ITMR trong các mẫu SFMO có kích thƣớc nanomet.
3.1 Cấu trúc tinh thể, hình thái hạt của hệ m u SFMO
Các mẫu SFMO đƣợc tổng hợp bằng phƣơng pháp Sol-Gel, quy trình công nghệ
cũng nhƣ các chế độ tổng hợp đã đƣợc trình bày trong chƣơng II. Để nghiên cứu cấu
trúc tinh thể và các tính chất của SFMO, 03 mẫu đã đƣợc chế tạo với các nhiệt độ thiêu
kết thay đổi lần lƣợt là 900, 1000, 1100 oC và ký hiệu D1, D2, D3 tƣơng ứng. Các mẫu
chế tạo đƣợc tiến hành phân tích quang phổ phát xạ plasma (ICP-EAS) để xác định
hàm lƣợng mol của các nguyên tố. Kí hiệu các mẫu và kết quả phân tích ICP-EAS
đƣợc đƣa ra trong Bảng 3.1.
Bảng 3.1: Kí hiệu các mẫu và kết quả phân tích ICP-AES.
STT Kí hiệu Nhiệt độ thiêu kết
(oC) mẫu
D1 1 900 Hàm lƣợng chỉ tiêu phân tích
(%)
Mo
20,64 Sr
39,04 Fe
12,51
D2 2 1000 12,28 21,20 40,32
D3 3 1100 12,13 20,94 39,73
Kết quả ICP-AES chỉ ra rằng tỷ lệ mol của [Sr]: [Fe]: [Mo] rất gần với tỷ lệ của các
cation kim loại đầu vào (2:1:1) cho thấy lƣợng cation trong các mẫu đƣợc bảo toàn
trong quá trình chế tạo. Các bƣớc phân tích bổ sung đƣợc thực hiện cho thấy không có
sự hình thành các pha khác bao gồm Sr2MoO4, SrFeO3, Fe2O3 và SrO ở trong các mẫu
nghiên cứu.
Cấu trúc của hệ mẫu đƣợc nghiên cứu trên giản đồ nhiễu xạ tia X với bƣớc quét
0.05o/s. Các kết quả nghiên cứu sơ bộ về sự hình thành cấu trúc và kích thƣớc hạt theo
63
nhiệt độ thiêu kết đƣợc xem xét để lựa chọn điều kiện công nghệ phù hợp. Hình 3.1
biểu thị giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu thiêu kết ở các nhiệt độ lần lƣợt là 900 oC,
1000 oC và 1100 oC.
Hình 3.1: Phổ nhiễu xạ tia X của 3 mẫu D1, D2, D3.
Từ Hình 3.1 cho thấy các mặt phản xạ phản ánh cấu trúc tinh thể tứ diện thuộc nhóm
không gian I4m xuất hiện rõ ràng với 5 peak của 5 mặt phản xạ chính của perovskite
kép SFMO (020)_(112); (013)_(022); (220)_(004); (132)_024); (040)_(224) thể hiện
các mẫu chủ yếu đơn pha. Các peak với chân peak tƣơng đối hẹp xuất hiện rõ ràng cho
thấy các mẫu đã đƣợc tinh thể hóa tốt và kích thƣớc tinh thể trung bình là khá lớn. Để
nâng cao độ chính xác trong các tính toán, luận án tiếp tục nghiên cứu cấu trúc của các
mẫu bằng phổ nhiễu xạ tia X dùng tia X có cƣờng độ cao bƣớc sóng ngắn từ máy gia
tốc (SXRD). Chất lƣợng phổ nhiễu xạ bột tia X phát xạ đồng bộ cho chất lƣợng số liệu
thực nghiệm tốt hơn rất nhiều so với nhiễu xạ tia X với độ nhiễu của đƣờng nền thấp.
Đồng thời, các peak của tạp chất nhỏ trong mẫu cũng xuất hiện rõ ràng hơn giúp ta
định lƣợng đƣợc chúng trong mẫu. Kết quả SXRD của các mẫu đƣợc thể hiện trong
Hình 3.2. Có thể thấy rằng, đối với các mẫu D1 và D2, bên cạnh pha perovskite kép
64
chính, một pha thứ cấp SrMoO4 (nhóm không gian I41/a) đã đƣợc phát hiện và một
phần rất nhỏ tạp chất không xác định tƣơng ứng với peak tại giá trị của 2θ khoảng 25o.
Còn đối với mẫu D3 khi nhiệt độ thiêu kết lên 1100 oC đã gần nhƣ hoàn toàn đơn pha.
Hình 3.2: Phổ nhiễu xạ SXRD của các mẫu SFMO.
Số liệu SXRD đƣợc phân tích sử dụng phƣơng pháp xử lý Rietveld với sự trợ giúp
của chƣơng trình FullProf [124]. Các đỉnh nhiễu xạ đƣợc mô hình hóa theo hàm
pseudo-Voight. Độ tin cậy của dữ liệu làm khớp đƣợc kiểm tra bằng giá trị thừa số
bình phƣơng tối thiểu (χ2) và hệ số tƣơng quan (Rwp). Kết quả tính toán đƣợc chấp nhận
khi χ2 tiến đến 1, và Rwp xấp xỉ bằng 10 % [132]. Một đƣờng nhiễu xạ synchrotron với
đƣờng phân tích dữ liệu làm khớp cho mẫu D3 đƣợc thể hiện trên Hình 3.3. Các điểm
thực nghiệm (Iobs) khớp tốt với đƣờng lý thuyết (Ical).
Hình 3.3: Phân tích Rietveld của mẫu SFMO ủ tại 1100 oC.
65
Phân tích định lƣợng pha đƣợc thực hiện bằng cách sử dụng các cấu trúc chuẩn của
pha perovskite kép và pha SrMoO4 để xác định các phân số mol của hai pha trong các
mẫu. Phần mol của tạp chất tƣơng ứng với peak không xác định trong các mẫu D1 và
D2 đƣợc xác định là <3% (trong sai số của phép phân tích Reitveld) và có thể bỏ qua
trong tính toán. Nồng độ Sr, Fe, Mo trong pha perovskit kép chính đã đƣợc xác định
dựa trên các phân số mol của hai pha và tỷ lệ [Sr]: [Fe]: [Mo] tổng thể trong các mẫu
lấy từ ICAP-AES trong Bảng 3.1.
Kết quả định lƣợng cho SrMoO4 và thành phần của pha chính, các giá trị hiệu chỉnh
của các tham số cấu trúc bao gồm hằng số mạng (a, c), thể tích ô đơn vị (V), kích thƣớc
tinh thể trung bình (D), thừa số bình phƣơng tối thiểu (χ2) và hệ số tƣơng quan (Rwp)
đƣợc đƣa ra trong Bảng 3.2.
Bảng 3.2: Kết quả phân tích Rietveld của các mẫu Sr2FeMoO6.
D3
Mẫu
5.605
7.913
248.595
26
3
1.18
8.67
D2
5.584
7.909
246.611
21
16
1.40
9.48 D1
5.575
7.881
244.946
18
28
1.37
8.70 a, Å
c, Å
V, Å3
D, nm
SrMoO4, mol%
χ2
Rwp
Kết quả cho thấy lƣợng tạp chất giảm khi nhiệt độ thiêu kết tăng. Do sự tồn tại của
một lƣợng tạp chất đáng kể, pha chính trong các mẫu D1 và D2 phải có lƣợng Fe dƣ
thừa. Mẫu D3 chỉ chứa ∼3% pha SrMoO4 nên đƣợc coi là đơn pha. Pha SFMO có cấu
trúc tứ giác đối xứng (nhóm không gian I4/m) với các vị trí nguyên tử: Sr trong 4d
(1/2, 0, 1/4), Fe / Mo ở cả vị trí B của 2a (0, 0 , 0) và B‟ của 2b (0, 0, 1/2), oxy ở O1
(0.289, 0.227, 0) và O2 ở (0, 0, 0.252) nhƣ trong tài liệu tham khảo [133].
Ta thấy rằng các hằng số mạng a và c và dẫn đến thể tích ô đơn vị tăng nhẹ khi đi từ
các mẫu D1 đến D3. Kết quả này đƣợc giải thích do trật tự cấu trúc: trong mô hình ion,
66
khi mật độ tăng lên, xác suất chuyển electron từ vị trí Mo tại B‟ sang Fe tại vị trí B
tăng lên, tạo ra các cặp Fe2+/Mo6+ (0.78, 0.59 Å) với bán kính trung bình của các cation
ở vị trí bát diện r = 0.69 Å lớn hơn r = 0.63 Å đối với các cặp Fe3+/Mo5+ (0.645, 0.61
Å). Kích thƣớc trung bình của vùng tán xạ kết hợp D (thƣờng đƣợc gọi là kích thƣớc
tinh thể) thu đƣợc bằng cách phân tích điểm peak mở rộng. Trong nghiên cứu này, D
đƣợc xác định bằng cách sử dụng chƣơng trình FullProf với điều kiện là đã có hàm
phân giải của thiết bị đo. Kích thƣớc tinh thể đƣợc phân bố ở kích thƣớc nano từ 18
đến 26 nm.
Hình 3.4: Phổ XANES của các mẫu cùng với phổ chuẩn của Fe2O3 và FeO.
Hình 3.4 cho thấy phổ XANES tại Fe K-edge của các mẫu nghiên cứu và của chuẩn
oxit sắt (oxit sắt và hematit). So sánh năng lƣợng edge của mẫu với các chất chuẩn cho
thấy năng lƣợng edge của các mẫu tƣơng ứng với mẫu của Fe2O3, cho biết trạng thái
hóa trị của Fe tồn tại trong các mẫu chủ yếu ở vị trí 3+. Tác giả luận án giả định rằng
các ion Sr và Mo có hóa trị tƣơng ứng là 2+ và 5+, nồng độ oxy trong các mẫu đƣợc
điều chỉnh sao cho phù hợp. Phân tích Rietveld đã xác định sự phân bố cation của các
mẫu thiêu kết ở các nhiệt độ khác nhau và đƣa ra trong Bảng 3.3. Qua bảng phân tích
kết quả sự phân bố cation ta thấy rằng, trong tất cả các mẫu tồn tại một lƣợng Fe đáng
67
kể tại vị trí B’.
Bảng 3.3: Phân bố cation trên mạng B và B’ của các mẫu Sr2FeMoO6.
Mẫu D1 D2 D3
Sr2[Fe0.80Mo0.20]B Sr2[Fe0.84Mo0.16]B Sr2[Fe0.88Mo0.22]B Phân bố cation [Fe0.39Mo0.61]B’O5.81 [Fe0.26Mo0.74]B’O5.9 [Fe0.12Mo0.78]B’O6
Lƣợng Fe tại vị trí B’ thể hiện độ bất trật tự cation của các mẫu trong quá trình chế
tạo và nó ảnh hƣởng đến các tính chất nội tại của vật liệu nhƣ tính chất dẫn, tính chất từ
và nhiệt độ Curie (sẽ đƣợc thảo luận sâu hơn ở các phần tiếp theo). Kết quả cũng cho
thấy, độ bất trật tự cation của các mẫu giảm khi nhiệt độ thiêu kết tăng lên từ 900 đến
1100 oC.
Kích thƣớc và hình thái hạt của các mẫu đƣợc xác định bởi FESEM nhƣ trong Hình
3.5.
Hình 3.5: Ảnh FESEM của các mẫu SFMO.
68
Những hình ảnh ở bên trái với thanh tỷ lệ 1 µm (Hình 3.5 (a-c)) chỉ ra rằng các mẫu
đƣợc tạo thành từ các cụm submicron và nó trở nên lớn hơn ở nhiệt độ thiêu kết Ta cao
hơn. Tuy nhiên, kết quả trong hình ảnh bên phải với thanh tỷ lệ 100 nm (Hình 3.5 (d-f))
cho thấy, đối với tất cả các mẫu, mỗi cụm chứa nhiều hạt nhỏ ở thang nanomet. Quan
sát này phù hợp với việc mở rộng các đỉnh nhiễu xạ SXRD của các mẫu. Có thể kết
luận rằng với các điều kiện chế tạo mẫu trong nghiên cứu của luận văn, sự phát triển
của các hạt nhỏ thành các hạt lớn bị cản trở và các cấu trúc nano đƣợc giữ lại trong các
mẫu. Sự cản trở việc tăng trƣởng của hạt một phần là do SrMoO4 đƣợc phân tách tại
các biên hạt. Loại vi cấu trúc này thuận lợi cho quá trình xuyên ngầm phụ thuộc spin sẽ
đƣợc thảo luận trong phần tiếp theo. Các yếu tố khác ảnh hƣởng đến vi cấu trúc là tốc
độ gia nhiệt và thời gian thiêu kết.
Mật độ khối thể tích (VMD) của mẫu đƣợc xác định bằng phƣơng pháp cân thủy tĩnh
(VMDhydr) và tính theo công thức [134]:
( ) (3.1)
Trong đó:
m1 – Khối lƣợng mẫu khi cân trong không khí (g).
m2 – Khối lƣợng mẫu khi cân trong nƣớc (g).
ρo – Khối lƣợng riêng của nƣớc (ở nhiệt độ tiến hành thí ghiệm - đo bằng tỷ trọng kế
hoặc tra bảng).
d- Tỷ trọng không khí.(~ 0,001 g/cm3)
VMDXRD = 2M/(NA*Vuv) (3.2)
Để so sánh, VMD cũng đƣợc tính toán bằng công thức:
trong đó M là khối lƣợng tính bằng gam trên mol dựa trên các phân số mol của pha
chính SFMO và pha thứ cấp SrMoO4. Ở đây, NA là hằng số Avogadro và Vuv là thể tích
69
ô đơn vị. Các giá trị VMD đƣợc đƣa ra trong Bảng 3.4.
Bảng 3.4: Mật độ khối thể tích (VMD) của các mẫu.
D1
4.74
4.44 D2
4.83
4.51 D3
5.49
5.24 Mẫu
VMDXRD, g/cm3
VMDhydr, g/cm3
Các giá trị VMD thu đƣợc bằng hai phƣơng pháp tƣơng đối trùng khớp với nhau cho
cả ba mẫu. Các giá trị VMDhydr nhỏ hơn một vài phần trăm so với các giá trị VMDXRD
(< 6,6 %), sự chênh lệch các giá trị đó đƣợc giải thích bởi độ xốp của các mẫu.
3.2 Tính chất từ của vật liệu SFMO
Hình 3.6 biểu diễn các đƣờng cong phụ thuộc momen từ của các mẫu vào nhiệt độ
với từ trƣờng bên ngoài tác dụng không đổi là H = 100 Oe. Từ các đƣờng M-T này ta
xác định nhiệt độ Curie (TC) của các mẫu bằng cách lấy điểm cắt giữa tiếp tuyến của
phần đƣờng cong có độ dốc lớn nhất với trục nhiệt độ T (Bảng 3.5).
Hình 3.6: Đường cong từ nhiệt của các mẫu ở từ trường 100 Oe.
Nhiệt độ Curie của các mẫu thấp hơn so với kỳ vọng về lý thuyết (khi các mẫu có độ
trật tự tuyệt đối). Điều này đƣợc giải thích là do sự sai lệch vị trí của các nguyên tử Fe
và Mo (hiệu ứng ASD) đã dẫn đến việc giảm số lƣợng các electron lƣu động và làm
giảm TC. Có nghĩa là đối với các mẫu có mức độ ASD càng cao, nhiệt độ TC càng
giảm. Xu hƣớng này cũng đƣợc quan sát thông qua các thí nghiệm đƣợc báo cáo cho
vật liệu khối và đƣợc xác định bằng cách tính toán cấu trúc dải sử dụng kỹ thuật
70
Monte-Carlo [67].
Các đƣờng cong từ hóa của các mẫu đƣợc đo ở các nhiệt độ khác nhau, từ các đƣờng
cong từ hóa ta xác định momen từ tự phát Ms của các mẫu ở các nhiệt độ khác nhau
bằng cách ngoại suy phần tuyến tính của đƣờng cong về từ trƣờng bằng không. Các giá
trị Ms phụ thuộc vào nhiệt độ của các mẫu đƣợc dựng thành các đồ thị và đƣa ra trong
Hình 3.7.
Hình 3.7: Sự phụ thuộc của momen từ tự phát Ms theo nhiệt độ của các mẫu.
Ta thấy rằng trong vùng nhiệt độ lên đến khoảng một nửa nhiệt độ Curie, Ms giảm
tuyến tính khi nhiệt độ tăng và tiếp tục giảm mạnh hơn khi nhiệt độ đạt TC. Tính chất
này phù hợp với các kết quả thu đƣợc từ các tính toán cấu trúc dải đƣợc báo cáo về vật
liệu SFMO của Meetei và cộng sự [135].
Để xác định mômen từ tự phát Ms(0) tại 0K, các giá trị Ms ở nhiệt độ dƣới 300K
đƣợc làm khớp bằng cách sử dụng hàm Bloch:
Ms(T) = Ms(0)[1 − BTα] (3.3)
trong đó B là hằng số và α là số mũ Bloch. Các giá trị Ms tại 0 K cho các mẫu đƣợc
xác định bằng cách ngoại suy phần tuyến tính của các đƣờng cong phụ thuộc vào T
71
xuống 0 Kelvin (Hình 3.8).
Hình 3.8: Momen từ tự phát MS phụ thuộc vào nhiệt độ của các mẫu SFMO.
Từ số liệu của momen từ tự phát, momen từ tổng tính trên một đơn vị công thức ở 0
exp, đƣợc tính toán với sự điều chỉnh cho phần tạp chất không từ tính SrMoO4 K, m0
trong mỗi mẫu. Các kết quả đƣợc thể hiện trong Bảng 3.5.
Bảng 3.5: Momen từ tổng của các mẫu ở 0 K theo tính toán và thực nghiệm.
Mẫu
exp, µB/đ.v.c.t
cal, µB/đ.v.c.t
D3
3.05
3.14
430
14,6
11,3 m0
m0
TC, K
ρ(87 K), mΩcm
ρ(300 K), mΩcm D1
1.65
1.75
418
54,8
33 D2
2.41
2.46
420
33,5
22,8
Giá trị m0 của mẫu thấp hơn nhiều so với giá trị mong đợi cho mẫu có độ trật tự
tuyệt đối (4 µB/đ.v.c.t.). Điều này dễ hiểu khi mà các ion Fe ở vị trí B’ là các cặp phản
sắt từ với Fe ở vị trí B qua liên kết 180o (Fe-O-Fe). Để phân tích định lƣợng đóng góp
cho m0, luận án lựa chọn mô hình đƣợc phát triển bởi Topwal và cộng sự đối với hệ
Sr2Fe1+xMo1−xO6 với −1≤ x ≤ 0,25. Trong nghiên cứu đó, một sự trùng khớp tốt giữa
kết quả thực nghiệm và mô hình đã đƣợc thể hiện. Tổng momen từ đƣợc đóng góp bởi
hai yếu tố, cụ thể là, từ những momen định xứ của Fe (mFe) và các electron dẫn điện
(mMo). Sự đóng góp vào momen từ tổng đƣợc xác định qua công thức:
Fe – nB’
Fe) µB/đ.v.c.t, (3.4)
72
mFe = 5(nB
Fe và nB’
Fe là phần mol của Fe3+ (SFe = 5/2; gFe = 2) trên mạng con B và B’
trong đó nB
tƣơng ứng. Tiếp đến, để ƣớc tính sự phân cực mMo của các điện tử dẫn, trƣớc tiên cần
lƣu ý rằng Mo đƣợc bao quanh bởi sáu nguyên tử Fe trong vật liệu SFMO với độ trật tự
lý tƣởng trong băng dẫn phân cực hoàn toàn tƣơng ứng với mMo = −1 µB/đ.v.c.t. (SMo =
1/2; gMo = 2).
Khi các nguyên tử Mo nằm ở vị trí trên mạng con của Fe do sự bất trật tự cation, các
kênh nhảy MoB-MoB’ qua trạng thái oxy đƣợc tạo ra nhƣ trong trƣờng hợp của SrMoO4
gây ra sự khử cực của băng dẫn. Trong giới hạn của SrMoO4 với Mo chỉ đƣợc bao
quanh bởi Mo, momen từ tổng của các electron dẫn là bằng không. Giả sử sự khử cực
của các electron Mo tỷ lệ thuận với số lƣợng các vị trí Mo trong mạng con Fe, Momen
Mo](1−3x)/(1-x) với dấu trừ tổng âm trên mMo
Mo − 2nB
Mo + nB’
Mo nB’
từ của Mo đƣợc tính bằng cách nội suy tuyến tính giữa hai giới hạn bằng cách sử dụng
biểu thức mMo = -[ nB
đại diện cho kết cặp phản sắt từ giữa mFe và mMo. Tổng momen từ trên một đơn vị công
thức m0 = mFe + mMo đƣợc đánh giá đơn giản dựa trên giá trị x và nồng độ Fe và Mo
cal tính toán cho các mẫu đƣợc thể hiện trong trên các mạng con B và B’. Giá trị của m0
Bảng 3.5 và phù hợp với các giá trị đƣợc xác định bằng thực nghiệm.
Từ các đƣờng cong momen từ tự phát Ms phụ thuộc vào nhiệt độ, ta cũng xác định
đƣợc nhiệt độ Curie TC bằng cách lấy tiếp tuyến của các đƣờng cong này về trục nhiệt
độ. Nhiệt độ TC đƣợc lấy theo phƣơng pháp này có giá trị lần lƣợt là 400, 411, 420 oC
cho các mẫu D1, D2 và D3. Các giá trị này thấp hơn so với phƣơng pháp lấy TC theo
đƣờng M_T ở từ trƣờng 100 Oe (Bảng 3.5) khoảng 10 oC. Điều này liên quan đến năng
lƣợng dị hƣớng hiệu dụng ở trong các mẫu, nên các đƣờng cong M_T có xu hƣớng
thoải hơn so với các đƣờng cong Ms_T có độ dốc lớn hơn, khi mà momen từ tự phát
của các mẫu tại một nhiệt độ là không thay đổi.
Các đƣờng cong từ hóa đo đƣợc ở 80 và 300 K của ba mẫu đƣợc thể hiện trong Hình
73
3.9.
Hình 3.9: Các đường cong từ hóa của các mẫu ở 80 K (a) và 300 K (b).
Đối với các mẫu D1 và D2, đƣờng cong từ hóa ở nhiệt độ thấp cho thấy độ nhạy từ
trƣờng cao χHF là lớn. Giá trị χHF giảm dần từ mẫu D1 đến mẫu D3. Kết quả này liên
quan chặt chẽ đến sự chiếm đóng của các ion Fe trong vị trí B’. Khi ion Fe chiếm các
vị trí ở B’, sự liên kết phản sắt từ giữa các ion Fe tại B và B’ đƣợc tạo ra, dẫn đến giảm
tổng momen từ hóa so với các cấu trúc có trật tự cao hơn. Khi từ trƣờng tác dụng, các
momen Fe không song song buộc phải căn chỉnh theo hƣớng từ trƣờng và do đó độ
nhạy từ trƣờng cao xuất hiện. Một nguyên nhân khác cho χHF và momen từ tự phát
giảm là do sự mất trật tự spin ở vùng bề mặt của các hạt nano.
3.3 Nghiên cứu sự ảnh hƣởng của hàm lƣợng pha SrMoO4 (SMO)
lên hiệu ứng từ điện trở của SFMO
Một trong những thách thức trong các nghiên cứu về vật liệu nửa kim loại là việc cải
thiện tính chất từ điện trở xuyên ngầm (ITMR) trong các hệ hạt có đặc tính dẫn bị chi
phối bởi đƣờng dẫn phân cực spin thông qua biên hạt cách điện.
Nhƣ đã chỉ ra ở trên, độ lớn của hiệu ứng ITMR phụ thuộc vào cả các tham số nội
tại nhƣ độ phân cực spin P, ASD, vách domain, ranh giới pha đảo và các đặc tính bên
ngoài các hạt, chẳng hạn nhƣ kích thƣớc, khiếm khuyết bề mặt, tạp chất và tính chất
74
biên hạt đƣợc tổng hợp. Do đó, có hai cách tiếp cận để nâng cao hiệu ứng ITMR của
một mẫu: đầu tiên là tối đa hóa mức độ phân cực spin của vật liệu, thứ hai là điều chỉnh
bản chất của biên hạt.
Điện trở suất của các mẫu đƣợc đo ở từ trƣờng bằng không bằng phƣơng pháp 4 mũi
dò (Phần 3.8 – Chƣơng II), hai điện cực phía ngoài (1 và 4) đƣợc cấp dòng với cƣờng
độ 10 µA , điện thế đầu ra V đƣợc lấy từ hai điện cực bên trong (2 và 3), khi đó điện trở
suất (ρ) của vật liệu đƣợc tính theo công thức [130]:
(3.5)
ρ = 4,532 * C * t V
I
trong đó: t là chiều dày của mẫu đo; C là tham số hiệu chuẩn (Bảng 2.1). Các đƣờng
cong phụ thuộc vào nhiệt độ của điện trở suất các mẫu đƣợc đƣa ra trong Hình 3.10.
Hình 3.10: Sự phụ thuộc của điện trở suất ρ(H=0) vào nhiệt độ của các mẫu SFMO.
Hình 3.10 cho thấy kết quả của sự phụ thuộc nhiệt độ của điện trở suất ρ(T) đƣợc đo
ở từ trƣờng bằng không. Sự giảm đơn điệu của ρ đƣợc quan sát thấy cho tất cả các mẫu
khi nhiệt độ tăng, điều đó cho thấy tính bán dẫn trong phạm vi nhiệt độ đo. Điện trở
suất của các mẫu nằm trong phạm vi mΩcm và giảm từ D1 xuống D3. Điều đã đƣợc
chứng minh rằng điện trở suất của các mẫu đa tinh thể SFMO phụ thuộc vào cả hai yếu
tố: là các yếu tố nội tại nhƣ ASD và sự không cân bằng hóa học; cũng nhƣ các yếu tố
bên ngoài nhƣ kích thƣớc hạt, độ xốp, tính chất hóa học và độ dày của các biên hạt, vv.
75
Các mẫu với độ trật tự Fe/Mo cao và thành phần gần với sự cân bằng hóa học dự kiến
sẽ cho thấy điện trở suất giảm bởi vì các điện tử dẫn trong nó di chuyển tốt hơn do
giảm tán xạ của các điện tử dẫn phân cực spin, đƣợc tạo ra do bất trật tự cation. Tuy
nhiên, các yếu tố bên ngoài có tác động mạnh hơn về độ lớn của điện trở suất. Các
nghiên cứu trƣớc đây đã chỉ ra rằng điện trở suất của tinh thể SFMO là rất nhỏ ngay cả
với số lƣợng đáng kể ASD (khoảng 0,3 mΩcm ở 300 K) so với mẫu đa tinh thể điển
hình có cùng độ bất trật tự cation (trong phạm vi vài mΩcm ở 300 K) [11]. Mẫu D3
gần nhƣ đơn pha và đã cải thiện trật tự Fe/Mo. Do đó giá trị điện trở suất của nó là thấp
nhất (Bảng 3.6). Với nhiệt độ thiêu kết thấp hơn, ASD và pha cách điện SrMoO4 cao
hơn, dẫn đến tăng cƣờng điện trở suất với hệ số lớn hơn khoảng 40 và 20 đơn vị trong
các mẫu D1 và D2 tƣơng ứng, so với trƣờng hợp của D3. Ngoài ra, sự thay đổi kích
thƣớc hạt với các điều kiện xử lý nhiệt khác nhau cũng ảnh hƣởng đến số lƣợng và tính
chất của các biên hạt và do đó ảnh hƣởng đến giá trị của điện trở suất.
Một đặc điểm chung của các đƣờng cong MR là chúng giảm nhanh trong phạm vi từ
trƣờng thấp và với sự tăng lên của từ trƣờng, nó tiếp tục giảm nhƣng tỷ lệ thấp hơn.
MR trong phạm vi từ trƣờng thấp đƣợc giải thích bằng cơ chế xuyên ngầm qua biên
hạt. Theo mô hình đơn giản do Inoue và Maekawas đề xuất [58], mẫu đƣợc mô tả nhƣ
một mạng lƣới các điện cực là các hạt SFMO và chúng đƣợc phân cách bởi lớp oxit
cách điện. Ở từ trƣờng bằng không, momen từ tổng của mẫu bằng 0 và momen từ của
các hạt sắp xếp ngẫu nhiên, tạo thành trạng thái cách điện cao hơn so với trạng thái
điện trở thấp đạt đƣợc trên trƣờng bão hòa, khi tất cả các momen từ của các hạt lân cận
là song song. Do đó, dƣới tác dụng của từ trƣờng ngoài, mẫu bị giảm điện trở suất khi
momen từ tiến tới bão hòa. Theo mô hình này, hiệu ứng ITMR hoàn toàn xảy ra dƣới
từ trƣờng bão hòa. Thành phần thứ hai đƣợc quan sát ở từ trƣờng cao hơn liên quan
đến một số hiện tƣợng đƣợc chỉ ra trong một số nghiên cứu đƣợc công bố nhƣ ASD
trong các hạt, tính chất từ của bề mặt hạt và sự tồn tại của các tạp chất từ trong các biên
hạt cách điện, v.v. Việc loại bỏ sự mất trật tự spin ở những vị trí này bằng cách tác
76
dụng từ trƣờng làm tăng tổng điện trở suất [58].
Điện trở nhƣ một hàm của từ trƣờng đƣợc đo ở các nhiệt độ khác nhau. Đƣờng cong
từ điện trở đẳng nhiệt của các mẫu ở 87 K và 300 K đƣợc đƣa ra trong Hình 3.11.
Hình 3.11: Hiệu ứng từ điện trở của các mẫu đo ở nhiệt độ 87 K (a) và 300 K (b).
Giá trị cao nhất của MR đạt đƣợc trong trƣờng tác dụng cao nhất (H = 10 kOe) đƣợc
ký hiệu là MRmax. Một xu hƣớng quan sát thấy ở tất cả các nhiệt độ thực nghiệm là giá
trị MR cao hơn đối với mẫu D1 và giảm dần trong các mẫu D2 và D3 (Bảng 3.6).
Bảng 3.6: Giá trị từ điện trở MRmax của các mẫu đo ở 87 K và 300 K.
Mẫu D1 D2 D3
-14 -11,3 -3,9 MRmax (87 K), %
-1,9 -1,5 -0,85 MRmax (300 K), %
Nhƣ đã chỉ ra qua phân tích Rietveld và đƣợc xác nhận bằng dữ liệu từ hóa, trật tự
Fe/Mo đƣợc cải thiện bằng cách tăng nhiệt độ thiêu kết. Do đó sự phân cực spin trong
vật liệu sẽ thay đổi theo hƣớng ngƣợc lại so với giá trị MR và mẫu D3 đƣợc mong đợi
là có P cao nhất. Và trong Bảng 3.2 cũng đã chỉ ra rằng lƣợng tạp chất SrMoO4 cao
nhất trong mẫu D1 và gần nhƣ biến mất trong mẫu D3. Do độ lớn của MR phụ thuộc
không chỉ vào sự phân cực spin mà còn trên vi cấu trúc của các mẫu, các kết quả này
77
làm nổi bật tác động quan trọng của pha thứ cấp lên độ lớn của hiệu ứng từ điện trở.
Trong các mẫu có giá trị MRmax cao (D1 và D2), sự tách biệt SrMoO4 cách điện tại biên
hạt tăng cƣờng rào thế giữa các hạt và do đó tạo điều kiện cho quá trình ITMR.
Hiệu ứng MR cũng nhạy cảm với nồng độ của SrMoO4 đƣợc biểu hiện bởi thực tế là
mặc dù mẫu D1 có trật tự Fe/Mo thấp hơn so với mẫu D2 và hai mẫu có kích thƣớc
tinh thể tƣơng tự nhau, hiệu ứng MR trong D1 là lớn hơn do nồng độ SrMoO4 cao hơn.
Từ quan điểm này, ta thấy rằng cấu trúc vi mô của mẫu D3 là không có một lƣợng tạp
chất đáng kể đã không tạo điều kiện cho quá trình xuyên ngầm. Mặt khác, tại Ta = 1100
oC, sự khuếch tán giữa các hạt đã tạo ra các kênh dẫn kim loại và dẫn đến giảm giá trị
của MR. Kết quả là, so với các trƣờng hợp của hai mẫu khác, sự thay đổi độ dốc của
các đƣờng cong MR của mẫu D3 ở từ trƣờng thấp xuống từ trƣờng cao là ít hơn và độ
lớn của MR ở từ trƣờng thấp là nhỏ so với hai mẫu còn lại.
Trong số các mẫu, vi cấu trúc của mẫu D1 dƣờng nhƣ là thuận lợi nhất cho quá trình
xuyên ngầm, do đó mẫu này đã đƣợc lựa chọn để phân tích dữ liệu MR dựa trên mô
(3.6)
hình của Inoue và Maekawa [58]:
trong đó m = MH(T)/Ms(0) - là sự suy giảm của momen từ.
Lƣu ý rằng tất cả các đại lƣợng vật lý RH, R0, P và M(H) đƣợc xác định ở nhiệt độ
nhất định, Ms(0) là momen từ bão hòa ở 0 K. Để mô tả đầy đủ các đƣờng cong MR,
ngoài đóng góp ITMR, một số hạng tuyến tính α(H) đƣợc thêm vào cho sự đóng góp
( ) (3.7)
của sự mất trật tự spin trong các mẫu nhƣ đã thảo luận trƣớc đó [58]:
Các đƣờng làm khớp tốt nhất với các đƣờng MR thực nghiệm của mẫu D1 theo
78
phƣơng trình (3.7) đƣợc thể hiện trong Hình 3.12.
Hình 3.12: Các đường cong MR của mẫu D1 được đo ở các nhiệt độ khác nhau.
Kết quả cho thấy dữ liệu từ điện trở tƣơng đối phù hợp với mô hình ITMR đơn giản.
Trong các phép tính, P và α là các tham số phù hợp và m đƣợc xác định từ dữ liệu đẳng
nhiệt M(H) và giá trị ngoại suy Ms(0).
Hình 3.13: Sự đóng góp sắt từ được tính ra từ đường cong từ hóa của mẫu D1.
Cần lƣu ý rằng các electron dẫn điện trong pha SFMO chịu trách nhiệm về ITMR,
do đó m phải xuất phát từ sự đóng góp sắt từ, và sự đóng góp đó đƣợc trích xuất từ các
đƣờng cong M(H) bằng cách trừ đi momen từ hóa gây ra bởi từ trƣờng χHF H. Bƣớc
trích xuất này đƣợc mô tả trong Hình 3.13 cho đƣờng cong từ hóa ở 87 K. Giá trị P và
79
α đƣợc lấy làm tham số làm khớp và đƣợc vẽ trong Hình 3.14.
Hình 3.14: Sự phụ thuộc vào nhiệt độ của phân cực spin P và hệ số α.
Hệ số α giảm đơn điệu khi nhiệt độ tăng, nó đƣợc giải thích bởi sự kích thích nhiệt
cạnh tranh với sự ức chế mất trật tự spin gây ra bởi từ trƣờng. Mặt khác, P giảm chậm
trong dải nhiệt độ thấp và giảm nhanh ở nhiệt độ trên 200 K. Giá trị của P đƣợc tìm
thấy tƣơng ứng là 0,26 tại 87 K và 0,11 tại 300 K và bằng phép ngoại suy tuyến tính
Fe, trong trƣờng hợp này là 0,39
giá trị tại 0 K đƣợc tìm thấy là ~0,27. Sự phân cực spin giảm mạnh trong mẫu này là do
ASD với một phần mol lớn của Fe tại vị trí B’, nB‟
(Bảng 3.3). Đây là lý do chính cho giá trị thấp của MR quan sát so với các mẫu có trật
tự cao đã đƣợc thảo luận trong phần tổng quan. Nó cũng chỉ ra rằng trong vật liệu này
có lƣợng Fe dƣ thừa x = 0,19. Cho đến nay không có nghiên cứu thực nghiệm nào cho
việc phân cực spin của các mẫu SFMO với các mức tƣơng đƣơng của ASD. Tuy nhiên,
một nghiên cứu lý thuyết đã giải quyết vấn đề này. Meetei và các cộng sự [135] xem
xét ảnh hƣởng của lƣợng dƣ thừa Fe và ASD cho sự phân cực spin của vật liệu sử dụng
kỹ thuật Monte- Carlo. Kết quả cho thấy ở trạng thái cơ bản, P không thay đổi khi tăng
Fe = 0,2. Giá trị P của mẫu D1 phù hợp
x từ 0 lên 0,15, trong khi đó nó giảm nhanh hơn với ASD từ 1 trong cấu trúc đƣợc sắp
xếp hoàn hảo đến ~ 0,31 trong vật liệu với nB‟
80
với kỳ vọng lý thuyết.
Kết luận chƣơng 3
Các thông tin về độ bất trật tự cation, thành phần pha, hình thái học, tính chất từ và
tính chất điện của các mẫu SFMO nano chế tạo bằng phƣơng pháp Sol-gel đã đƣợc
công bố trong chƣơng này. Với phƣơng pháp chế tạo này, hàm lƣợng của pha SrMoO4
và độ bất trật tự cation có thể đƣợc kiểm soát bằng cách thay đổi nhiệt độ thiêu kết. Kết
quả cho thấy hàm lƣợng pha thứ cấp và độ bất trật tự cation của các mẫu giảm khi nhiệt
độ thiêu kết tăng từ 900 đến 1100 oC. Các hằng số mạng a và c và dẫn đến thể tích ô
đơn vị tăng nhẹ khi đi từ mẫu D1 đến D3. Kích thƣớc và hình thái hạt của các mẫu phụ
thuộc rõ nét vào nhiệt độ thiêu kết Ta. Kích thƣớc tinh thể đƣợc phân bố từ 18 đến 26
nm. Mômen từ tự phát Ms(0) của các mẫu tăng khi nhiệt độ thiêu kết tăng. Nhiệt độ TC
có giá trị lần lƣợt là 400, 411, 420 oC cho các mẫu D1, D2 và D3. Giá trị độ nhạy từ
trƣờng cao χHF giảm dần từ mẫu D1 đến mẫu D3.
Momen từ của các mẫu đƣợc phân tích dựa trên dữ liệu phân bố cation thu đƣợc từ
sàng lọc của Rietveld và áp dụng mô hình ghép cho các spin định xứ Fe và spin lƣu
động Mo. Các kết quả cho thấy sự phù hợp cao với dữ liệu từ hóa thu đƣợc thông qua
các phép đo từ tính. Pha thứ cấp SrMoO4 đóng một vai trò quan trọng trong việc xác
lập độ lớn của hiệu ứng ITMR. Trong các mẫu, mẫu D1 (thiêu kết ở 900 oC) có kích
Fe = 0,39), có giá trị MR lớn nhất. Hơn nữa, các
thƣớc tinh thể trung bình nhỏ nhất (18 nm), nhƣng có hàm lƣợng SrMoO4 cao nhất (28
mol%) và độ bất trật tự cation cao (nB‟
đƣờng cong MR đƣợc mô tả tốt bởi mô hình xuyên ngầm điện tử qua rào thế cách điện
và sự đóng góp của sự mất trật tự spin. Những kết quả này rất hữu ích cho việc lựa
81
chọn nồng độ pha thứ cấp đối với các giá trị MR cao trong vật liệu SFMO nano.
CHƢƠNG 4. ẢNH HƢỞNG CỦA PHA TẠP La LÊN CẤU
TRÚC VÀ TÍNH CHẤT CỦA SFMO
Sr2FeMoO6 kết tinh trong cấu trúc tứ giác của perovskite kép (với nhóm không gian
I4/m). Cấu trúc này là sự sắp xếp tại góc của các bát diện FeO6 và MoO6 xen kẽ dọc
theo ba hƣớng của tinh thể và tạo thành các phân lớp B và B’ tƣơng ứng, trong khi các
cation Sr kiềm thổ chiếm các vị trí trống (A) giữa các bát diện. Hợp chất có trật tự lý
tƣởng đƣợc dự đoán là một vật liệu nửa kim loại với độ phân cực spin 100% ở mức
Fermi [5]. Tổng mô men từ của hợp chất đƣợc mô tả tốt bằng mô hình ion của sự sắp
xếp phản sắt từ giữa spin lõi Fe3+ và spin Mo5+ 4d dẫn đến momen từ tổng là 4
µB/đ.v.c.t. Tuy nhiên trên thực tế, trong các vật liệu luôn tồn tại một độ bất trật tự
cation antisite (ASD) nhất định trong đó một số ion Mo chiếm các vị trí ion Fe và
ngƣợc lại, do đó momen từ bão hòa thƣờng thấp hơn giá trị lý thuyết [36,136,150]. Độ
bất trật tự cation phụ thuộc vào các điều kiện chế tạo và các nguyên tố thay thế. Ví dụ,
ngƣời ta đã chứng minh rằng khi thay thế La cho Sr tại các vị trí A, ASD tăng lên khi
tăng nồng độ La do sự khác biệt về điện tích và bán kính giữa hai ion này [36].
Sự thay thế một phần cho Sr2+ hóa trị hai bằng các cation hóa trị ba nhƣ La3+ cũng
dẫn đến hiệu ứng pha tạp electron, nó làm tăng sự lấp đầy băng dẫn và do đó nhiệt độ
Curie tăng lên [73]. Ngoài ra, thay thế La cũng làm giảm đáng kể điện trở suất của các
mẫu [59,91]. Rao và các cộng sự đã chỉ ra rằng khi La thay thế cho Sr đến 50 % mol
dẫn đến giảm điện trở suất ở nhiệt độ phòng lên đến 5 lần [91]. Một số nghiên cứu cho
rằng hiệu ứng này liên quan đến sự phân tách La ở biên hạt cung cấp trạng thái điện tử
có năng lƣợng thấp hơn chiều cao rào thế ngăn cách giữa các hạt lân cận [86,132].
Trong chƣơng này mô tả cấu trúc vi mô của các vật liệu Sr2-xLaxFeMoO6 đƣợc chế
tạo bằng quy trình sol-gel đã đƣa ra trong Mục 2.2 của Chƣơng 2. Dữ liệu từ hóa và từ
điện trở trong một phạm vi nhiệt độ rộng đến 5 K đƣợc trình bày. Ảnh hƣởng của biên
hạt và sự thay thế La đối với từ tính và tính dẫn spin đƣợc phân tích, sử dụng các tác
nhân bắt nguồn từ sự bất trật tự cation và pha tạp electron lên sự phân cực spin của vật
82
liệu.
4.1 Cấu trúc tinh thể và hình thái hạt của hệ m u SFMO pha tạp La
Cấu trúc của hệ mẫu SLFMO đƣợc nghiên cứu trên giản đồ nhiễu xạ tia X. Kết quả
XRD của các mẫu đƣợc hiển thị trong Hình 4.1.
Hình 4.1: Kết quả XRD của các mẫu SLFMO.
Qua giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu sơ bộ cho thấy các mẫu là đơn pha với 5
đỉnh peak tƣơng ứng với 5 mặt phản xạ chính của pha perovskite kép SFMO:
(020)_(112); (013)_(022); (220)_(004); (132)_024); (040)_(224). Việc không xuất hiện
các pha lạ cho thấy La gần nhƣ đã thâm nhập hoàn toàn vào cấu trúc tứ diện của SFMO
đƣợc hình thành trong quá trình chế tạo với tất cả các thành phần của x. Để có hình ảnh
rõ nét hơn cũng nhƣ tăng độ chính xác của các phép phân tích, các mẫu đƣợc tiến hành
phân tích nhiễu xạ tia X dùng tia X có cƣờng độ cao bƣớc sóng ngắn từ máy gia tốc
(SXRD). Chất lƣợng phổ nhiễu xạ bột tia X phát xạ đồng bộ cho chất lƣợng số liệu
thực nghiệm tốt hơn rất nhiều so với nhiễu xạ tia X với độ nhiễu của đƣờng nền thấp.
Các thí nghiệm nhiễu xạ bột tia X phát xạ đồng bộ đã đƣợc thực hiện bằng phƣơng
pháp tán xạ tia X góc nhỏ/rộng (SAXS/WAXS) của Viện nghiên cứu Synchrotron
(Thái Lan) (λ = 1,54 Å). Kết quả phân tích SXRD của các mẫu đƣợc đƣa trong Hình
83
4.2.
Hình 4.2: Phổ nhiễu xạ SXRD của các mẫu Sr2-xLaxFeMoO6.
Các pha Sr2-xLaxFeMoO6 có cấu trúc tứ giác đối xứng (nhóm không gian I4/m) với
các vị trí nguyên tử: Sr/La tại 4d(1/2, 0, 1/4), Fe/Mo ở cả vị trí B 2a(0, 0, 0) và B‟ 2b(0,
0, 1/2), và oxy tại O1(0.289, 0.227, 0) và tại O2(0, 0, 0.252). Hai vị trí sau đƣợc lấy từ
phân tích nhiễu xạ neutron đƣợc báo cáo trong tài liệu tham khảo [86].
Dữ liệu nhiễu xạ đƣợc phân tích bằng phƣơng pháp Rietveld với sự trợ giúp của
chƣơng trình FullProf [127]. Các đỉnh nhiễu xạ đƣợc mô hình hóa bằng hàm giả Voigt,
là tổng của các hàm Gaussian và Lorentzian [129]. LaB6 đã đƣợc sử dụng nhƣ một
chuẩn để xác định độ mở rộng thiết bị. Chất lƣợng phân tích dựa vào giá trị thừa số
bình phƣơng tối thiểu (χ2) và hệ số tƣơng quan (Rwp), theo đó kết quả phân tích có độ
tin cậy cao khi χ2 tiến đến 1 và Rwp gần bằng 10 [132].
Một ví dụ về sự tinh chỉnh của kết quả SXRD đƣợc hiển thị trong Hình 4.3 cho mẫu
84
SLFMO với x = 0,3. Các điểm thực nghiệm (Iobs) khớp tốt với đƣờng lý thuyết (Ical).
Hình 4.3: Kết quả xử lý Rietveld của mẫu Sr1.7La0.3FeMoO6.
Bảng 4.1: Các tham số cấu trúc của các mẫu Sr2-xLaxFeMoO6 (hằng số mạng a và c; độ dài
liên kết , , ; thể tích ô đơn vị V; kích thước tinh thể trung bình D), nhiệt
độ Curie (Tc) của các mẫu, giá trị các hệ số tinh chỉnh (χ2 và Rwp) và phân bố cation giữa các
vị trí tinh thể.
x
a, Å
c, Å
,Å
,Å
,Å
V, Å3
D, nm
Phân bố
cation
0
5.605
7.919
2.717
2.027
1.902
248.783
26
(Sr2)A
[Fe0.9Mo0.1]B
[Fe0.1Mo0.9]B‟
0.1
5.587
7.915
2.713
2.024
1.887
247.063
19.7
(Sr1.9La0.1)A
[Fe0.77Mo0.23]B
[Fe0.23Mo0.77]B‟
0.2
5.581
7.913
2.711
2.023
1.909
246.471
19.2
(Sr1.8La0.2)A
[Fe0.745Mo0.255]B
[Fe0.255Mo0.745]B‟
0.3
5.575
7.912
2.709
2.022
1.895
245.910
19.0
(Sr1.7La0.3)A
[Fe0.67Mo0.33]B
[Fe0.33Mo0.67]B‟
0.4
5.573
7.874
2.707
2.021
1.901
244.553
19.6
(Sr1.6La0.4)A
[Fe0.64Mo0.36]B
[Fe0.36Mo0.64]B‟
1.18
8.67
410
1.05
3.96
405
1.29
5.36
407
1.33
5.19
409
1.07
5.11
415
χ2
Rwp
Tc, K
85
Các giá trị của thừa số bình phƣơng tối thiểu (χ2), hệ số tƣơng quan (Rwp), các hằng
số mạng (a và c), thể tích ô đơn vị (V), kích thƣớc tinh thể trung bình (D), độ dài liên
kết trung bình giữa các cation trong vị trí A, B và B‟ với oxy (, , )
và sự phân bố các cation giữa các vị trí tinh thể khác nhau, đƣợc đƣa ra trong Bảng 4.1.
Ta thấy rằng, khi nồng độ La tăng làm cho độ bất trật tự cation tăng. Độ bất trật tự
cation này là do một phần mol của Fe ở vị trí B‟ và một lƣợng Mo tƣơng ứng ở vị trí B,
khi x tăng từ 0 đến 0,4 hàm lƣợng mol của Fe ở trên phân mạng B‟ của Mo tăng từ 0,1
đến 0,36. Việc tăng độ bất trật tự cation ASD này ảnh hƣởng đến các tính chất của vật
liệu SLFMO và sẽ đƣợc thảo luận chi tiết vào các phần tiếp theo.
Trên Hình 4.4 biểu thị sự thay đổi của hằng số mạng a và thể tích ô đơn vị (V) theo
nồng độ La.
Hình 4.4: Hằng số mạng (a) và thể tích ô đơn vị (V) phụ thuộc vào nồng độ La (x).
Qua Hình 4.4 ta thấy rằng, hằng số mạng a và kéo theo là thể tích ô đơn vị V giảm
nhẹ khi x thay đổi từ 0 đến 0,4. Điều này đƣợc giải thích là do ảnh hƣởng của sự thay
86
thế La cho Sr trong vật liệu SFMO và do sự bất trật tự cation ASD trong quá trình chế
tạo vật liệu. Tại vị trí A, các ion La3+ với bán kính ion nhỏ hơn (rLa3+ = 1,03 Å) đã thay
thế một phần Sr2+ (rSr2+ = 1,18 Å) nên làm cho hằng số mạng và thể tích ô đơn vị giảm.
Liên quan đến hiệu ứng thứ hai, trong mô hình ion, khi độ bất trật tự cation tăng lên,
xác suất electron chuyển từ vị trí Mo tại các vị trí B‟ sang Fe tại các vị trí B giảm
xuống, tạo ra các cặp Fe3+/Mo5+ (0,645/0,61 Å) với bán kính trung bình của các cation
vị trí bát diện r = 0,63 Å nhỏ hơn r = 0,69 Å của cặp Fe2+/Mo6+ (0,78/0,59 Å). Bán
kính ion đƣợc tìm thấy trong tài liệu tham khảo [55].
Kích thƣớc tinh thể trung bình D thu đƣợc bằng cách phân tích độ mở rộng cực đại
của đƣờng nhiễu xạ, sử dụng chƣơng trình FullProf với điều kiện là hàm phân giải của
thiết bị đo đã đƣợc cung cấp. Kích thƣớc tinh thể nằm trong phạm vi nano và giảm từ
26 nm đối với mẫu tinh khiết xuống 19 † 20 nm đối với các mẫu thay thế. Điều này
đƣợc giải thích là do khi pha tạp La vào SFMO đã làm tăng các mầm kết tinh trong quá
trình thiêu kết và với sự hiện diện của hai loại cation khác nhau tại các vị trí A cho thấy
rất khó hình thành các khối tán xạ kết hợp lớn và các tinh thể tồn tại với kích thƣớc nhỏ
hơn.
Kích thƣớc và hình thái hạt của các mẫu đƣợc xác định bởi FESEM và kết quả đƣợc
thể hiện trong Hình 4.5. Các vi ảnh cho thấy các mẫu đƣợc tạo thành từ các hạt có kích
thƣớc nano với đƣờng kính nhỏ hơn 100 nm. Kết quả này phù hợp với việc mở rộng
các đỉnh nhiễu xạ XRD trong các mẫu. Có thể kết luận rằng, với thời gian ủ 8 giờ là
không đủ cho sự phát triển của các hạt nhỏ thành hạt lớn hơn và do đó cấu trúc tinh thể
nano đƣợc giữ lại trong các mẫu. Đối với các mẫu có pha tạp La, kích thƣớc các hạt có
xu hƣớng nhỏ đi và tách biệt rõ nét hơn so với mẫu không pha tạp. Điều này đƣợc giải
thích là do khi pha tạp La đã tạo ra nhiều hơn mầm kết tinh trong quá trình thiêu kết và
khi quá trình tán xạ bị cản trở do sự có mặt đồng thời hai loại cation khác nhau ở vị trí
87
A đã làm cho ranh giới giữa các hạt trở nên rõ ràng hơn.
x = 0
x = 0.1 x = 0.2
x = 0.4 x = 0.3
Hình 4.5: Ảnh FESEM của các mẫu Sr2-xLaxFeMoO6.
4.2 Tính chất từ của vật liệu SFMO pha tạp La
Sự phụ thuộc của momen từ vào nhiệt độ của các mẫu SLFMO với từ trƣờng tác
dụng không đổi là 100 Oe đƣợc biểu diễn trên Hình 4.6. Nhiệt độ chuyển pha TC của
các mẫu đƣợc xác định từ các đƣờng cong M_T bằng cách lấy điểm cắt giữa tiếp tuyến
của phần đƣờng cong có độ dốc lớn nhất với trục nhiệt độ T. Các giá trị TC của các mẫu
88
đƣợc đƣa ra trong Bảng 4.1.
Hình 4.6: Sự phụ thuộc momen từ (M) vào nhiệt độ (T) của các mẫu Sr2-xLaxFeMoO6.
Ta thấy rằng, lúc đầu TC giảm khi bắt đầu pha tạp La với giá trị x = 0.1. Tuy nhiên,
TC có giá trị tăng dần khi nồng độ La tăng. Sự thay đổi của TC khi thay thế La đƣợc giải
thích dựa trên hai hiệu ứng gây ra bởi bất trật tự cation ASD và pha tạp điện tử. Do sự
trao đổi vị trí giữa các nguyên tử Mo và Fe, số lƣợng electron lƣu động sẽ giảm và TC
thấp hơn trong các mẫu có độ bất trật tự cation ASD cao hơn [17]. Điều này giải thích
tại sao giá trị TC cho x = 0 cao hơn giá trị của x = 0,1; 0,2 và 0,3 (Bảng 4.1). Mặt khác,
89
sự thay thế La cho Sr làm tăng nồng độ electron trong dải dẫn do đó tăng cƣờng tƣơng
tác sắt từ giữa các ion Fe [138]. Cơ chế thứ hai trở nên chiếm ƣu thế khi mức độ pha
tạp electron tăng lên và đến x = 0.4, giá trị TC đã cao hơn so với mẫu không pha tạp.
Đƣờng cong từ hóa của các mẫu đƣợc đo trong khoảng nhiệt độ từ 5 K đến 300 K
trong từ trƣờng tối đa là 5 T. Đƣờng cong từ hóa của năm mẫu đƣợc hiển thị trong
Hình 4.7.
Hình 4.7: Đường cong từ hóa ở 5 K (a) và 300 K (b) của các mẫu Sr2-xLaxFeMoO6.
Đƣờng cong từ hóa vẫn không hoàn toàn bão hòa khi từ trƣờng tác dụng là lớn nhất.
Một kết quả tƣơng tự đã đƣợc báo cáo bởi Navarro và cộng sự đối với các đƣờng cong
từ hóa của các mẫu đa tinh thể với từ trƣờng tác dụng lên đến 8 T [62]. Hiện tƣợng này
là do cấu trúc vi mô của các mẫu đƣợc cấu tạo từ các hạt nano. Ở từ trƣờng bằng
không, giả định rằng momen từ của các hạt chỉ sắp xếp ngẫu nhiên do tính bất đẳng
hƣớng và tƣơng tác từ tính hiệu quả giữa các hạt liền kề. Để bão hòa hoàn toàn momen
từ của các mẫu nano nhƣ vậy, từ trƣờng tác dụng lớn hơn đƣợc yêu cầu so với các mẫu
có hạt lớn hơn hoặc đơn tinh thể. Trong trƣờng hợp nhƣ vậy, định luật tiệm cận bão
hòa đƣợc sử dụng để ƣớc tính momen từ bão hòa Ms ở mỗi nhiệt độ. Ở đây, momen từ
đƣợc biểu thị dƣới dạng hàm của từ trƣờng [3]:
M = Ms(1 - a/H1/2 - b/H2), (4.1)
trong đó a/H1/2 phát sinh từ các khuyết tật trong các hạt và b/H2 liên quan đến năng
90
lƣợng dị hƣớng hiệu dụng của các mẫu. Từ dữ liệu momen từ tự phát ở các nhiệt độ
khác nhau, mô men từ tổng trên mỗi đơn vị công thức, mExp(T), đã đƣợc tính toán và vẽ
nhƣ là một hàm của nhiệt độ trong Hình 4.8.
Hình 4.8: Momen từ mExp phụ thuộc vào nhiệt độ T của các mẫu Sr2-xLaxFeMoO6. Các đường
cong liền nét là đường làm khớp theo hàm Bloch.
Mặt khác, ta ƣớc tính momen từ tổng mcal(0) ở trạng thái cơ bản dựa trên thông tin
phân bố cation. So với SFMO có độ trật tự lý tƣởng, các mẫu Sr2-xLaxFeMoO6 có
momen từ giảm do cả hai hiệu ứng antisite (ASD) và doping điện tử: (i) bất trật tự
cation ASD tạo ra các vùng chứa các ion Fe tại các vị trí B‟ đƣợc kết cặp với các ion
Fe ở vị trí B tạo thành cặp phản sắt từ thông qua liên kết 180o Fe-O-Fe; (ii) Khi La3+
thay thế các cation Sr2+, các lớp electron đƣợc điền đầy đến vùng dẫn có liên quan đến
trạng thái spin xuống. Trong những trƣờng hợp này, các giá trị m(0)cal đƣợc tính từ
công thức [36]:
mcal(0) = (4 - x)(1 - 2p), (4.2)
trong đó, p là độ bất trật tự cation đƣợc xác định thông qua phân tích Rietveld. Các
91
giá trị mexp(5K) và m(0)cal đƣợc liệt kê trong Bảng 4.2.
Bảng 4.2: Độ từ hóa (M) ở 5 K, momen từ theo thực nghiệm (mexp) tại 5 K và theo tính toán
m(0)cal ở trạng thái cơ bản, nhiệt độ Curie (TC), điện trở suất (ρ) và độ phân cực spin (P) tại 5
K của các mẫu Sr2-xLaxFeMoO6.
x
M (5K), emu/g
mexp(5K), µB/đ.v.c.t
m(0)cal, µB/đ.v.c.t
TC(K)
ρ(5K), mΩcm
P(5K), % 0,3
15,9
1,21
1,26
409
18
52 0,2
23,7
1,80
1,86
407
20
63 0,4
12,6
0,96
1,01
415
1,8
44 0
40,8
3,09
3,20
410
35
74
0,1
26,7
2,02
2,11
405
22
65
Các giá trị mexp ở 5 K thấp hơn một chút so với giá trị tính toán, điều này đƣợc giải
thích bằng sự tồn tại của khuyết tật mạng ở biên hạt. Một phần của các đƣờng cong
mexp(T) trong vùng nhiệt độ từ 5 K đến 300 K đƣợc mô tả tốt bằng định luật Bloch,
m(T)/m(0) = 1 - BT3/2, nó xuất phát từ lý thuyết về sóng quay đối với vật liệu sắt từ.
Những kết quả này phù hợp với dữ liệu momen từ đƣợc báo cáo bởi Tomioka và các
cộng sự cho mẫu đơn tinh thể SFMO với một số giá trị độ bất trật tự cation ASD [11].
4.3 Tính chất điện của vật liệu SFMO pha tạp La
Hình 4.9 cho thấy kết quả của sự phụ thuộc nhiệt độ của điện trở suất ρ(T) đƣợc đo
trong từ trƣờng bằng không. Một sự giảm đơn điệu của ρ đƣợc quan sát cho các mẫu x
= 0 khi nhiệt độ tăng, cho thấy tính bán dẫn trong phạm vi nhiệt độ đƣợc nghiên cứu.
Kết quả chỉ ra rằng, quá trình dẫn qua biên hạt có tác động đến các tính chất của vật
liệu. Khi nhiệt độ tăng, năng lƣợng nhiệt của các chất mang điện tử tăng lên và do đó
xác suất để chúng vƣợt qua các rào thế năng lƣợng giữa các hạt trở nên cao hơn, dẫn
đến giảm điện trở suất. So với điện trở suất ở 5 K của các mẫu đơn tinh thể (~ 0,3 † 0,4
mΩcm) [36], các mẫu có điện trở suất lớn hơn hai bậc. Khi nồng độ thay thế La tăng,
điện trở suất giảm cho các mẫu x = 0,1 † 0,3, điều này đƣợc giải thích do sự phân tách
La tại các biên hạt [92]. Bởi vì số lƣợng trạng thái thấp với các vùng La sẽ tăng lên khi
tăng hàm lƣợng La trong các mẫu, nên điện trở suất thấp hơn ở các mức thay thế cao
92
hơn. Với x = 0,4, các giá trị điện trở suất nằm trong phạm vi giá trị của các mẫu đơn
tinh thể. Điện trở suất thấp nhƣ vậy chỉ ra rằng các đƣờng dẫn kim loại đƣợc hình
thành trong biên hạt.
Hình 4.9: Sự phụ thuộc vào nhiệt độ T của điện trở suất ρ(H=0) của các mẫu SLFMO.
Đối với các hệ hạt trong đó độ dẫn của biên hạt đóng vai trò chủ đạo, độ dẫn của
chúng đƣợc xấp xỉ bằng cách nghịch đảo điện trở suất [98,118]. Hình 4.10 cho thấy sự
thay đổi độ dẫn ζ(T) cho các mẫu đƣợc chuẩn hóa đến 1 tại 5 K. Đƣờng liền nét biểu
thị kết quả làm khớp theo phƣơng trình (4.4) với các hệ số C2 = 8 x 10-5 K1.33 và C3 =
1.05 x 10-7 K-2.5.
93
Hình 4.10: Sự phụ thuộc của độ dẫn ζ vào nhiệt độ T của mẫu x = 0 (a) và các mẫu x = 0,1
÷ 0,4 (b).
Từ Hình 4.10 ta thấy rõ hơn thuộc tính phụ thuộc nhiệt độ của độ dẫn thay đổi từ
mẫu này sang mẫu khác với hàm lƣợng La tăng. Trong khi đối với các mẫu có x = 0 và
0,1 độ dẫn tăng dần theo nhiệt độ, đối với x = 0,2 và 0,3 tốc độ tăng độ dẫn trở nên yếu
hơn khi nhiệt độ đạt đến nhiệt độ phòng. Với x = 0,4 độ dẫn giảm đối với nhiệt độ trên
160 K.
Hình 4.11: (a) Logarithm của độ dẫn (lnζ) phụ thuộc vào 1/T1/2 của các mẫu Sr2-
xLaxFeMoO6; (b) Phần phóng đại của các đường cong ở nhiệt độ thấp.
Sự xuyên ngầm phụ thuộc spin (SD) qua rào thế cách điện thƣờng đƣợc hiểu là một
quá trình đàn hồi và độ dẫn xuyên ngầm ζSD này là một hàm của nhiệt độ đƣợc đƣa ra
trong tài liệu tham khảo [139]:
( ) [ ( ⁄ ) ⁄ ] (4.3)
trong đó P là độ phân cực spin, µ = M/Ms; độ từ hóa tƣơng đối, ζ0, là một hằng số và
Δ tỷ lệ thuận với thành phần và độ dày của biên xuyên ngầm. Sự thay đổi độ dẫn của
các mẫu có nhiệt độ T đƣợc biểu diễn qua mối liên hệ lnσ so với 1/T1/2 trong Hình 4.11.
Trong vùng nhiệt độ đƣợc khảo sát, các đƣờng cong này lệch rất mạnh so với đƣờng
tiệm cận. Bằng cách kiểm tra phần phóng đại ở nhiệt độ thấp nhất nhƣ trong Hình
4.11b, ta thấy rằng lnζ tăng tuyến tính với 1/T1/2 dƣới ~ 7 K. Tuy nhiên, độ dốc của
phần tuyến tính này đối với các mẫu là khá thấp tƣơng ứng với các giá trị Δ trong phạm
vi 3-7 mK. Một ƣớc tính dựa trên công thức (4.3) cho thấy dòng điện xuyên ngầm phải
đƣợc bão hòa dƣới 5 K. Phân tích này cho thấy các cơ chế độc lập spin (SI) cũng đóng
94
góp đáng kể vào tổng độ dẫn.
Các kênh dẫn đó đƣợc bắt nguồn từ cơ chế nhảy không đàn hồi ở bậc cao thông qua
các trạng thái cục bộ gây ra bởi sự không trật tự [98] và các đƣờng dẫn giống nhƣ kim
loại trong các mẫu thay thế La đƣợc hình thành thông qua sự phân tách La. Wang và
cộng sự cho thấy độ dẫn phụ thuộc nhiệt độ của các mẫu đa tinh thể SFMO tinh khiết
đƣợc mô tả bằng cách sử dụng mô hình hai kênh dẫn, một cho đƣờng hầm phụ thuộc
spin và kênh còn lại cho cơ chế nhảy độc lập spin [118]. Các dữ liệu thử nghiệm của
nghiên cứu đó đƣợc kết hợp rất tốt với mô hình này bằng cách kết hợp hai và ba bậc
nhảy. Đây cũng là trƣờng hợp của mẫu có x = 0 trong nghiên cứu hiện tại. Nhƣ đƣợc
chỉ ra trong Hình 4.10 (a), đƣờng cong đƣợc biểu thị bằng phƣơng trình 4.4 [140]:
ζ = ζSD + C2T1.33 + C3T2.5, (4.4)
trong đó ζSD là độ dẫn đƣờng hầm phụ thuộc spin bão hòa và C2, C3 là các hệ số cho
các bậc nhảy phụ thuộc spin bậc hai và bậc ba với điều kiện tuân theo định luật năng
lƣợng trong T.
Hiệu ứng từ điện trở nhƣ là một hàm của từ trƣờng đƣợc đo ở các nhiệt độ khác
nhau trong phạm vi 5-300 K. Các đƣờng cong từ điện trở đẳng nhiệt của các mẫu ở 5 K
và 300 K đƣợc hiển thị trong Hình 4.12.
Hình 4.12: Hiệu ứng từ điện trở MR của Sr2-xLaxFeMoO6 tại 5 K (a) và 300 K (b).
Một đặc điểm chung của các đƣờng cong là MR giảm nhanh trong phạm vi từ
trƣờng thấp. Khi từ trƣờng tăng lên nó tiếp tục giảm nhƣng với tốc độ chậm hơn nhiều.
MR trong phạm vi từ trƣờng thấp (LFMR) đƣợc giải thích bằng cơ chế xuyên ngầm
95
biên hạt. Ở từ trƣờng bằng không, tổng momen từ của mẫu bằng 0 và vectơ từ hóa của
các điểm hạt theo hƣớng ngẫu nhiên tạo thành trạng thái điện trở cao hơn so với trạng
thái điện trở thấp đạt đƣợc trên trƣờng bão hòa, khi tất cả các vectơ từ hóa của các hạt
lân cận đều song song. Do đó, dƣới tác dụng của từ trƣờng bên ngoài, mẫu trải qua sự
giảm điện trở suất khi quá trình từ hóa tiến đến bão hòa. Theo mô hình này, ITMR sẽ
diễn ra đầy đủ bên dƣới trƣờng bão hòa. Thành phần thứ hai đƣợc quan sát ở từ trƣờng
cao hơn (HFMR) liên quan đến một số hiện tƣợng đƣợc đƣa ra trong một số bài báo
đƣợc công bố nhƣ ASD trong các hạt lớn, tính chất từ tính của bề mặt hạt và sự tồn tại
của tạp chất từ trong biên hạt cách điện [59,62,141]. Việc triệt tiêu mất trật tự spin
trong các khuyết tật mạng tinh thể và biên hạt bằng cách tác dụng từ trƣờng làm cho
tổng điện trở suất tăng.
Các đƣờng cong từ điện trở đƣợc làm khớp theo lý thuyết xuyên ngầm đàn hồi phụ
( ) ( )
( )
(4.5)
trong đó số hạng tuyến tính αH đƣợc đƣa ra để giải thích cho từ điện trở biên hạt.
thuộc spin nhƣ phƣơng trình 4.5 [59]:
Trên thực tế, các đƣờng cong M-H của pha chính, chẳng hạn nhƣ các đƣờng cong đƣợc
hiển thị trong Hình 4.7, không đại diện cho tính chất của µ(H). Hiện tƣợng này đã đƣợc
công nhận cho các mẫu đa tinh thể. Điều đã đƣợc chứng minh là sự bất trật tự cation từ
có khả năng xảy ra ở các vùng biên hạt thay vì đặc tính trật tự từ của khối, đặc biệt là
trong trƣờng hợp mẫu nano [142]. Để mô hình hóa momen từ trong trƣờng hợp này,
µ(H) đã đƣợc sử dụng ở dạng sau đây [36]:
) (4.6)
( ) ( √ ⁄
Phƣơng trình (4.6) thƣờng đƣợc sử dụng để mô tả quá trình từ hóa của các hệ spin
thủy tinh có tính dị hƣớng yếu, nó đạt đến giá trị bão hòa khi tăng từ trƣờng [143]. Các
đƣờng cong MR thử nghiệm đƣợc làm khớp bằng cách sử dụng các phƣơng trình (4.5)
96
và (4.6) nhƣ đƣợc minh họa trong Hình 4.13 cho một số nhiệt độ.
Hình 4.13: Làm khớp giá trị MR theo lý thuyết xuyên ngầm đàn hồi phụ thuộc spin của các
mẫu Sr2-xLaxFeMoO6.
Dựa trên phân tích dữ liệu điện trở suất có thể kết luận rằng quá trình xuyên ngầm
phụ thuộc spin vẫn chiếm ƣu thế trong quá trình dẫn điện đối với các mẫu x = 0 † 0,3 ở
nhiệt độ rất thấp. Từ sự làm khớp, độ phân cực spin P ở 5 K đƣợc xác định cho các
mẫu qua phƣơng trình (4.5). Đối với mẫu x = 0,4, do đóng góp đáng kể từ các đƣờng
dẫn kim loại gây ra sự giảm rõ rệt của điện trở suất, sự phân cực đƣợc lấy ra từ dữ liệu
MR có giá trị thấp (không tin cậy).
Giá trị P (5K) giảm khi ASD tăng (Hình 4.14 (a)). Tính chất này đã đƣợc kiểm tra
trong một nghiên cứu về cấu trúc vùng điện tử của Aguilar và cộng sự, trong đó tác giả
cho rằng ASD đƣa đến các trạng thái liên kết Mo(B‟)-Mo(B) mới ở cấp độ Fermi cho
cả hai kênh spin lên và spin xuống, và do đó, vùng dẫn đƣợc khử cực [144]. Tuy nhiên,
97
điều đáng chú ý là mặc dù độ phân cực spin giảm khi tăng ASD, nhƣng các giá trị thu
đƣợc cho các mẫu trong nghiên cứu này cao hơn đáng kể so với dự kiến từ các tính
toán lý thuyết [135,144]. Theo Aguilar và các cộng sự [144], độ phân cực giảm xuống
65% với p = 10% và giảm gần nhƣ tuyến tính xuống 20% cho p = 40%.
Hình 4.14: Độ phân cực spin P(5K) phụ thuộc độ bất trật tự cation (a) và momen từ (b).
Đối với các mẫu trong nghiên cứu này, các giá trị phân cực cao hơn nhiều đã đƣợc
tìm thấy, cụ thể là P = 74 % cho p = 10 % (x= 0) và thậm chí vẫn có giá trị cao P* =
44,5 % cho p = 35,7 % (x = 0.4). Những khác biệt này liên quan đến đặc điểm cấu trúc
của các mẫu. Bản chất của ASD đã đƣợc kiểm tra cẩn thận trong các mẫu SFMO với
các độ bất trật tự cation khác nhau bởi Meneghini và các cộng sự khi sử dụng kỹ thuật
nhiễu xạ tia X và cấu trúc hấp thụ tia X (XAFS) kết hợp với mô phỏng cấu trúc [136].
Các tác giả đã chỉ ra rằng sự phân bố ASD trong thực tế không nhất thiết phải đồng
nhất, nhƣ thƣờng đƣợc giả định trong các tính toán cấu trúc dải. Trên thực tế, các
khuyết tật ASD có thể phân tách cùng nhau, tạo thành các mảng có kích thƣớc nanomet
giữ pha ma trận gần với cấu trúc lý tƣởng, do đó bảo toàn sự phân cực spin. Phân tích
cấu trúc vi mô mở rộng trên các mẫu sẽ đƣợc thực hiện để có đƣợc thông tin về phân
bố ASD. Trong Hình 4.14 (b) sự phụ thuộc độ phân cực P vào momen từ tính ở 5 K
98
đƣợc hiển thị. Ta thấy rằng, ngoại trừ giá trị P* đƣợc đánh giá thấp cho x = 0.4, độ
phân cực gần nhƣ tỷ lệ thuận với mô men từ. Mối quan hệ này là điển hình cho các kim
loại và hợp chất sắt từ [145].
Ở nhiệt độ cao, tham số phân cực trong công thức (4.5) đƣợc trích xuất từ các điểm
làm khớp phải là một tham số hiệu quả Peff do thực tế là có cả sự đóng góp của SD và
SI cho tổng độ dẫn đều quan trọng. Hai tham số có liên quan thông qua biểu thức sau
[146]: Peff = P/(1+ ζSI/ζSD)1/2 (4.7)
Vì độ dẫn SD, ζSD, bão hòa ở nhiệt độ thấp, do đó, nó xấp xỉ bằng ζ(5K) và biểu
thức bên trong của công thức (4.7) có thể đƣợc đánh giá từ các giá trị ζ(T) đƣợc chuẩn
hóa nhƣ trong Hình 4.10. Độ phân cực spin P của các mẫu ở các nhiệt độ khác nhau
đƣợc xác định từ các giá trị Peff đƣợc trích xuất và dữ liệu ζ(T) đƣợc chuẩn hóa bằng
công thức (4.7).
Hình 4.15: Sự phụ thuộc vào nhiệt độ T của độ phân cực spin của các mẫu được chuẩn hóa
đến các giá trị P(5K).
Sự phụ thuộc nhiệt độ của P đối với các mẫu P(T)/P(5K) đƣợc vẽ ra trong Hình 4.15
cho ta thấy nhiệt độ gây ra sự phân rã của P nhanh hơn khi ASD tăng. Thông tin về sự
thay đổi theo nhiệt độ của sự phân cực spin của vật liệu sắt từ vẫn còn hạn chế.
Villamor và các cộng sự đã xác định sự phân cực spin của hợp chất permalloy nhƣ là
một hàm của nhiệt độ thông qua phân tích dữ liệu từ điện trở của một Van spin Py/Cu
[147]. Sự phân rã của phân cực spin của permalloy tƣơng tự nhƣ đƣợc báo cáo trong
99
Hình 4.15 và đƣợc giải thích bằng sự tán xạ phonon-magnon tăng cƣờng ở nhiệt độ
cao. Đối với các mẫu perovskite kép, bên cạnh cơ chế tán xạ phonon-magnon, sự thay
đổi mật độ trạng thái (DOS) của các dải kéo xuống và spin lên gần mức Fermi cũng
ảnh hƣởng mạnh đến cƣờng độ phân cực spin. Tính toán cấu trúc dải của Meteei và các
cộng sự đối với trật tự của SFMO ở các nhiệt độ khác nhau cho thấy đối với T = 0 chỉ
có dải liên kết spin xuống bị chiếm giữ và SFMO là một chất nửa kim loại, nhƣng đối
với 0 < T < TC, sự đối xứng của nghịch đảo thời gian bị phá vỡ đã dẫn đến kết quả
DOS rất khác nhau, trong đó cả hai băng dẫn spin có DOS khác không ở cấp độ Fermi
[135]. Ngoài ra, với sự gia tăng của ASD, nhiều trạng thái có spin lên ở cấp độ Fermi
đƣợc hình thành thông qua việc xuất hiện dải liên kết Mo(B‟)-Mo(B) [144].
Kết luận chƣơng 4
Kết quả nghiên cứu của chƣơng 4 minh họa cấu trúc vi mô ảnh hƣởng đến tính chất
từ và tính chất điện của các mẫu perovskite kép Sr2-xLaxFeMoO6. Các mẫu cho thấy
tính chất từ điển hình của vật liệu sắt từ. Trong các hệ vật liệu nano, số lƣợng biên hạt
tăng lên, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xuyên ngầm biên hạt. Dòng xuyên ngầm
phụ thuộc spin trong các mẫu đơn pha của nghiên cứu này bão hòa ở nhiệt độ rất thấp
cho thấy một rào thế nhỏ so với những mẫu có pha cách điện ở biên hạt nhƣ SrMoO4
[118]. Khi nồng độ thay thế La tăng, sự phân tách La trong biên hạt tạo thành các kênh
dẫn kim loại, làm giảm mạnh điện trở suất và đồng thời giảm MR ở nhiệt độ cao. Độ
bất trật tự cation trong các mẫu đƣợc khảo sát tăng lên khi tăng nồng độ La, dẫn đến
giảm mô men từ và phân cực spin. Phân cực spin đƣợc tìm thấy tỷ lệ thuận với mô men
từ tổng ở 5 K. Phân cực spin cao hơn đạt đƣợc ở mức 5 K so với các giá trị đƣợc tính
toán trên lý thuyết và so với các kết quả đã đƣợc công bố trƣớc đây cho các mẫu có
cùng độ bất trật tự cation cho thấy rằng các bất trật tự cation có thể không đƣợc phân
bố đồng nhất mà tạo thành các mảng có kích thƣớc nanomet giữ pha ma trận gần với
100
cấu trúc lý tƣởng, do đó bảo toàn sự phân cực spin.
CHƢƠNG 5. ẢNH HƢỞNG CỦA PHA TẠP Zn LÊN CẤU
TRÚC VÀ TÍNH CHẤT CỦA SFMO
Để kiểm tra vai trò của kích thƣớc cation và mật độ điện tích trong trật tự BB‟, cũng
nhƣ nghiên cứu tác động của cation pha tạp đối với tính chất và cấu trúc của
perovskites kép, các nghiên cứu thƣờng tập trung vào việc thực hiện doping điện tử ở
các vị trí B hoặc B‟. Các nguyên tố có thể thay thế vào vị trí của Mo nhƣ W, Re và Ru,
còn các nguyên tố thay thế vào vị trí của Fe đa dạng hơn (Al, V, Cr, Mn, Co, Cu,
Zn…)[69,107-110,112,148]. Garia-Hernandezs và các cộng sự chỉ ra rằng các bất trật
tự cation trong SFMO có ảnh hƣởng lớn đến MR [149]. Các bất trật tự cation là một
phần các ion Fe (Mo) bị đặt sai vị trí tại các vị trí của Mo (Fe), cũng thƣờng gây ra sự
giảm momen từ tính trên một đơn vị công thức của vật liệu khối SFMO [62,149]. Giá
trị của MR ở từ trƣờng cao trong SFMO đơn tinh thể bắt nguồn từ các bất trật tự cation
[11], bởi vì các cặp liên kết phản sắt từ Fe-O-Fe tạo ra do bất trật tự cation sẽ làm tăng
độ nhạy từ trƣờng cao của vật liệu SFMO, trong khi các ứng dụng công nghệ thƣờng
tập trung vào hiệu ứng từ điện trở ở từ trƣờng thấp (LFMR) ở nhiệt độ phòng, thƣờng
rất nhạy cảm với từ trƣờng tác dụng. Việc thay thế Fe bằng một số nguyên tố nhƣ Mn,
Ni, Mg cho thấy sự cải thiện độ trật tự cation trong tinh thể. Trong khi một số nghiên
cứu cho thấy việc thay thế Mn và Mg dẫn đến sự giảm nhiệt độ Curie và momen từ và
do vậy hiệu ứng từ điện trở cũng bị giảm theo thì nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng việc
thay thế bằng Ni giúp tăng cƣờng đƣợc nhiệt độ Curie và momen từ của các mẫu [111].
Wang và các cộng sự cho thấy các ion Zn2+ có thể chiếm các vị trí của Fe tại phân
mạng B‟ làm giảm các sai hỏng vị trí Fe-O-Fe có tính phản sắt từ đồng thời tạo nên các
mạch liên kết Mo–O–Zn–O–Mo phi từ tính và cách điện ngăn cách các vùng sắt từ.
Các liên kết phi từ này đóng vai trò là các rào thế cho sự xuyên ngầm điện tử. Miền sắt
từ trong mẫu khối bị phân chia thành các vùng nhỏ dẫn đến dễ bị bão hòa từ do đó hiệu
ứng từ điện trở ở vùng từ trƣờng thấp đƣợc tăng cƣờng đáng kể [14]. Các kết quả này
cho thấy chỉ bằng cách pha tạp một lƣợng nhỏ các cation khác loại ta thu đƣợc các vật
101
liệu có độ trật tự tinh thể đƣợc tăng cƣờng từ đó cải thiện đƣợc tính chất từ điện trở của
chúng. Tuy nhiên cho đến nay, việc nghiên cứu hiệu ứng từ điện trở của các vật liệu
thay thế Fe chƣa đƣợc khảo sát đầy đủ cũng nhƣ chƣa có các đánh giá về độ phân cực
spin khi thay đổi độ trật tự cation và sự có mặt của các nguyên tố pha tạp trong hợp
chất.
Trong nghiên cứu này luận án sẽ khảo sát về hiệu suất xuyên ngầm điện tử trong các
hệ vi hạt SFMO pha tạp kẽm (SFZMO) và đánh giá ảnh hƣởng của nó lên độ phân cực
spin của vật liệu. Các mẫu Sr2Fe1-xZnxMoO6 đƣợc chế tạo theo quy trình tổng hợp Sol-
Gel với x thay đổi lần lƣợt là 0; 0,05; 0,1 và 0,15. Trong quy trình sol-gel, các muối
nitrat Fe(NO3)3.9H2O, Sr(NO3)2 và Zn(NO3)2.6H2O đƣợc hòa tan bởi axit nitric loãng
để đƣợc các dung dịch có nồng độ 1M. Các dung dịch trên đƣợc lấy một lƣợng theo
thành phần danh định và hòa tan vào axit citric 3M. Một lƣợng muối
(NH4)6Mo7O24.4H2O đƣợc thêm vào để thu đƣợc dung dịch cuối cùng trong đó tỷ lệ
mol giữa các ion kim loại đúng theo công thức hóa học của Sr2Fe1-xZnxMoO6. Tỷ lệ
mol của tổng lƣợng cation kim loại so với số mol axit citric là 1:3. Dung dịch thu đƣợc
đƣợc khuấy từ ở nhiệt độ 80 oC cho đến khi chất lỏng chuyển thành dạng gel. Gel đƣợc
sấy khô ở 110 oC trong 24 giờ, tiến hành nghiền và nung ở 500 oC trong 2 giờ. Tiền
chất thu đƣợc đƣợc ép thành các viên dƣới áp suất 2 tấn/cm2 và đƣợc thiêu kết ở nhiệt
độ 1200 oC dƣới dòng khí hỗn hợp H2/Ar (15 % H2) trong 8 giờ.
5.1 Cấu trúc tinh thể và hình thái hạt của hệ m u SFMO pha tạp Zn
Giản đồ nhiễu xạ SXRD của các mẫu Sr2Fe1-xZnxMoO6 (x = 0,05; 0,1; 0,15) đƣợc
biểu diễn trên Hình 5.1. Qua giản đồ ta thấy các mẫu đã tinh thể hóa với 5 đỉnh tƣơng
ứng với 5 mặt phản xạ chính của pha perovskite kép SFMO với nhóm không gian
I4/m: (020)_(112); (013)_(022); (220)_(004); (132)_(024); (040)_(224). Ta thấy rằng,
bên cạnh pha perovskite kép chính, còn tồn tại trong các mẫu một lƣợng nhỏ tạp chất
102
SrMoO4 (nhóm không gian I41/a).
Hình 5.1: Giản đồ SXRD của các mẫu SFZMO với các nồng độ Zn khác nhau.
Số liệu nhiễu xạ đƣợc xử lý và phân tích bằng phƣơng pháp Rietveld sử dụng
chƣơng trình FullProf. Các đỉnh nhiễu xạ Bragg đƣợc mô phỏng theo hàm pseudo-
Voigt. Phân tích định lƣợng pha đƣợc thực hiện bằng cách sử dụng các cấu trúc chuẩn
của pha perovskite kép và pha SrMoO4 để xác định các tỷ lệ mol của hai pha trong các
mẫu. Để xác định các tham số cấu trúc của pha chính perovskite kép, các tọa độ các
nguyên tử đƣợc áp dụng nhƣ sau: Sr tại 4d(1/2, 0, 1/4), Fe/Mo/Zn tại hai phân mạng B
2a(0, 0, 0) và B‟ 2b(0, 0, 1/2), O1 tại (0,289; 0,227; 0) và O2 tại 4e (0; 0; 0,252), hai vị
trí O1 và O2 đƣợc lấy theo tài liệu tham khảo [133]. Chất lƣợng của các kết quả phân
tích đƣợc đánh giá dựa trên giá trị χ2 và hệ số Rwp, theo đó kết quả phân tích có độ tin
cậy cao khi χ2 tiến tới 1 và Rwp bằng khoảng 10%. Hình 5.2 biểu diễn kết quả phân tích
103
Rietveld cho mẫu SFZMO với x = 0,1.
Hình 5.2: Kết quả xử lý Rietveld của mẫu Sr2Fe0.9Zn0.1MoO6.
Từ kết quả phân tích Rietveld, các giá trị của các hằng số mạng (a và c), thể tích ô
đơn vị (V), kích thƣớc tinh thể trung bình (D), ứng suất ε = Δd/d và tỷ phần pha thứ cấp
SrMoO4 đƣợc đƣa ra trong Bảng 5.1.
x
a, Å
c, Å
V, Å3
D, nm
ε, %
SrMoO4, mol%
Phân bố cation
Bảng 5.1: Giá trị các hằng số mạng (a và c), thể tích ô đơn vị (V), kích thước tinh thể trung
bình (D), ứng suất ε = Δd/d và tỷ phần pha SrMoO4 của các mẫu SFZMO.
0,15
5,5825(6)
7,8744(8)
245,40(5)
23
0,42
5
Sr2[Fe0.84Mo0.16]B
[Fe0.01Mo0.84Zn0.15]B‟O6
1,31
9,86
0,05
5,5814(5)
7,8711(6)
245,21(3)
26
0,51
7
Sr2[Fe0.9Mo0.1]B
[Fe0.05Mo0.9Zn0.05]B‟O6
1,54
11,2
0,10
5,5817(5)
7,8712(4)
245,23(4)
35
0,31
11
Sr2[Fe0.87Mo0.13]B
[Fe0.03Mo0.87Zn0.1]B‟O6
1,65
10,5
χ2
Rwp, %
Ta thấy rằng hằng số mạng a và c đều tăng làm tăng thể tích ô cơ sở khi nồng độ ion
Zn2+ tăng từ 0 đến 0,15. Điều này đƣợc giải thích là do bán kính ion của Zn2+ lớn hơn
so với Fe3+ và Mo5+ (rZn2+ = 0,88 Å, rFe3+ = 0,785 Å, rMo5+ = 0,75 Å) nên sự có mặt của
kẽm sẽ gây ra giãn nở mạng. Kích thƣớc tinh thể (D) và độ biến dạng mạng tinh thể (ε
= Δd/d) cũng đƣợc xác định dựa trên độ mở rộng của các đỉnh nhiễu xạ thông qua
104
phƣơng pháp phân tích Rietveld.
Kích thƣớc và hình thái hạt của các mẫu đƣợc xác định bởi FESEM. Ảnh FESEM
của các mẫu trên Hình 5.3 cho thấy các mẫu đƣợc tạo thành từ các hạt có kích thƣớc
nano với đƣờng kính nhỏ hơn 100 nm.
x = 0,05 x = 0
x = 0,15 x = 0,1
Hình 5.3: Ảnh FESEM của các mẫu Sr2Fe1-xZnxMoO6.
Kết quả này phù hợp với việc mở rộng các đỉnh nhiễu xạ SXRD trong các mẫu. Với
thời gian ủ 8 giờ là không đủ cho sự phát triển của các hạt nhỏ thành hạt lớn hơn và do
đó cấu trúc tinh thể nano đƣợc giữ lại trong các mẫu. Khi mẫu pha tạp Zn, kích thƣớc
các hạt có xu hƣớng nhỏ đi và tách biệt rõ nét hơn so với mẫu không pha tạp. Điều này
là do khi pha tạp Zn đã tạo ra nhiều mầm kết tinh hơn trong quá trình thiêu kết và khi
quá trình tán xạ bị cản trở, vật liệu giữ lại cấu trúc các hạt có kích thƣớc nhỏ và ranh
giới giữa các hạt trở nên rõ ràng hơn. Một điều ta thấy rõ trên ảnh FESEM rằng, sự pha
tạp ion Zn làm thay đổi hình dáng hạt. Khi nồng độ Zn càng tăng, các góc cạnh của hạt
105
từ hình dáng tròn chuyển dần sang nhọn. Tác giả luận án giả định rằng, trong quá trình
thiêu kết các hạt phát triển theo một số hƣớng tinh thể nhất định đã làm cho các hạt
ngày càng nhọn hơn.
5.2 Tính chất từ của vật liệu SFMO pha tạp Zn
Đƣờng cong từ hóa của các mẫu đƣợc đo trong khoảng nhiệt độ từ 5 K đến 300 K
trong từ trƣờng tối đa là 5 T. Đƣờng cong từ hóa của các mẫu đƣợc hiển thị trong Hình
5.4.
Hình 5.4: Đường cong từ hóa của các mẫu Sr2Fe1-xZnxMoO6 ở 5 K (a) và 300 K (b).
Các đƣờng cong từ hóa của các mẫu chƣa đạt trạng thái bão hòa hoàn toàn trong dải
106
từ trƣờng ngoài tác dụng. Hiện tƣợng này liên quan đến đặc điểm vi cấu trúc của các
mẫu ở dạng hạt nano. Do sự định hƣớng hƣớng ngẫu nhiên của mômen từ của các hạt
gây bởi sự cạnh tranh giữa năng lƣợng dị hƣớng và tƣơng tác hiệu dụng giữa các hạt
liền kề nên để bão hòa hoàn toàn mômen từ của các mẫu ta cần phải có từ trƣờng tác
dụng lớn hơn so với sự từ hóa các mẫu có kích thƣớc hạt lớn hoặc mẫu đơn tinh thể.
Trong trƣờng hợp nhƣ vậy, định luật tiến tới bão hòa đƣợc sử dụng để tính momen từ
bão hòa Ms ở mỗi nhiệt độ. Ở đây, momen từ đƣợc biểu thị dƣới dạng hàm của từ
trƣờng (theo công thức 4.1 đã đƣợc trình bày trong mục 4.2).
Các kết quả Ms đƣợc đƣa ra trong Bảng 5.2. Từ số liệu momen từ tự phát ở các nhiệt
độ khác nhau, các giá trị mômen từ tổng cộng trên một đơn vị công thức, mexp(T) đƣợc
tính toán và biểu diễn theo nhiệt độ nhƣ trong Hình 5.5.
Hình 5.5: Mômen từ (m) phụ thuộc nhiệt độ (T) của của các mẫu Sr2Fe1-xZnxMoO6.
Lƣu ý rằng trong tính toán mômen từ đã bổ chính phần đóng góp không từ của tạp
chất SrMoO4 có trong các mẫu theo tỷ lệ khối lƣợng nhƣ đã chỉ ra trong Bảng 5.2. Các
đƣờng phụ thuộc nhiệt độ của mômen từ, mexp(T), trong vùng nhiệt độ từ 5 K đến 300
K tuân theo định luật Bloch, m(T)/m(0) = 1 - BT3/2, phù hợp với lý thuyết về sóng spin
trong vật liệu sắt từ điển hình. Những kết quả này cũng phù hợp với các số liệu mômen
107
từ đã đƣợc báo cáo bởi một số các nghiên cứu trƣớc đây trên một số hệ SFMO [139].
Mômen từ của hợp chất SFMO rất nhạy với độ bất trật tự cation p trong vật liệu.
Wang và các công sự đã đề xuất mô hình tính toán mômen từ cho hai trƣờng hợp giới
hạn chiếm chỗ của Zn trong tinh thể [114]. Trƣờng hợp thứ nhất khi tất cả các ion Zn2+
nằm ở vị trí B, mômen từ của hệ đƣợc tính theo công thức:
(5.1) m = [(4 − 8p) − 4x]μB,
trong đó số hạng thứ hai tƣơng ứng với độ giảm mômen từ do sự hình thành cặp
Zn2+–O–Mo6+ phi từ. Trƣờng hợp thứ hai, Zn2+ nằm hoàn toàn tại vị trí B‟ khi đó
mômen từ đƣợc tính theo công thức:
(5.2) m = [(4 − 8p) − x(4 − 9p)]μB,
với số hạng thứ hai là sự giảm mômen từ gây bởi sự pha tạp Zn.
Từ số liệu mômen từ xác định từ thực nghiệm ta xác định đƣợc độ bất trật tự cation
theo hai phƣơng trình trên. Các mô hình về phân bố cation đƣợc đánh giá qua việc áp
dụng chúng vào quá trình làm khớp số liệu SXRD bằng phƣơng pháp Rietveld nhƣ đã
thảo luận ở Mục 5.1. Kết quả tính toán cho thấy mô hình phù hợp nhất tƣơng ứng với
phƣơng trình (5.1) khi tất cả các ion Zn2+ nằm ở vị trí B‟. Sự phân bố cation theo mô
hình này đƣợc đƣa ra trong Bảng 5.1 cùng với các tham số chất lƣợng của quá trình
làm khớp, Rwp và χ2.
Bảng 5.2: Giá trị của momen từ; mexp(T) tại 5 K; nhiệt độ Curie Tc; điện trở suất ρ; MRmax; độ
phân cực spin P của các mẫu.
0,1
0,05
35,32
40,25
2,68
3,05
396
410
-
11,4
~ 104
4,2
-
-33,7
-
-15,1
-
88,1
-
33,5
x
Ms (5 K), emu/g
mexp(5K), µB/f.u.
TC, K
ρ(5 K), Ωm
ρ(300 K), Ωm
MRmax(5 K), %
MRmax(300 K), %
P(5 K), %
P*(300 K), %
0,15
30,78
2,34
391
9,1
3
-41,4
-4,5
99,0
17,1
Chuyển pha từ đƣợc khảo sát thông qua các đƣờng cong từ nhiệt đo tại từ trƣờng
thấp H = 100 Oe. Nhiệt độ Curie đƣợc xác định dựa trên giao điểm của đƣờng tiếp
108
tuyến tại điểm có độ dốc lớn nhất với trục hoành nhƣ đƣợc biểu thị trên Hình 5.6.
Hình 5.6: Các đường cong từ nhiệt của các mẫu Sr2Fe1-xZnxMoO6.
Nhiệt độ Curie xác định cho các mẫu đƣợc chỉ ra trong Bảng 5.2. Các giá trị TC
giảm khi nồng độ Zn tăng cho thấy sự có mặt của nguyên tố phi từ tính nhƣ Zn đã làm
đứt các mạch liên kết sắt từ và làm giảm độ dài kết hợp sắt từ trong mạng tinh thể.
5.3 Từ điện trở và độ phân cực spin
Điện trở suất của các mẫu đƣợc khảo sát tại 5 K và 300 K, các kết quả đƣợc liệt kê
trong Bảng 5.2. So với mẫu x = 0 ((300K) = 3510-5 m) (Bảng 3.5) chế tạo ở cùng
điều kiện ta thấy giá trị điện trở suất của các mẫu pha kẽm với x = 0,05 và 0,15 tăng lên
tới 4 bậc độ lớn. Điều này cho thấy đóng góp của biên hạt vào điện trở suất trong các
mẫu này là rất lớn. Hợp phần pha kẽm x = 0,1 có nồng độ tạp chất cao nhất thể hiện giá
trị điện trở suất lên tới trên 104 m. Chúng tôi cũng lƣu ý rằng các mẫu x = 0,1 đƣợc
109
chế tạo lặp lại theo cùng một quy trình và đều cho giá trị điện trở suất lớn nhƣ vậy.
Ngay cả đối với các mẫu x = 0 có chứa pha SrMoO4 đã đƣợc khảo sát trong Chƣơng 3
cũng có điện trở suất nhỏ hơn so với các mẫu pha tạp kẽm tới 3 bậc độ lớn. Từ so sánh
này ta thấy Zn đóng vai trò trong việc làm tăng điện trở của hệ thông qua các tạp chất
tại biên hạt có thể ở dạng vô định hình mà ta không quan sát thấy đƣợc qua phổ nhiễu
xạ tia X.
Hình 5.7: Các đường cong MR ở 5 K (a) và 300 K (b).
Hiệu ứng từ điện trở chỉ quan sát đƣợc trên 2 mẫu có điện trở suất thấp hơn với x =
0,05 và 0,15. Hình 5.7 mô tả các đƣờng cong MR với từ trƣờng cực đại Hmax = 5 T đo
tại hai nhiệt độ T = 5 K và 300 K của các mẫu. Các giá trị MRmax của các mẫu tại từ
trƣờng tác dụng lớn nhất Hmax đƣợc đƣa ra trong Bảng 5.2. Ta thấy các giá trị từ điện
trở tại 5 K lớn hơn đáng kể so với các giá trị của các mẫu SFMO chế tạo ở cùng các
điều kiện đã trình bày ở các chƣơng trƣớc. Ngay cả đối với mẫu SFMO có độ trật tự
cation cao nhất là p = 0,1 có MRmax tại 5 K chỉ đạt -28%.
Các đƣờng cong MR đƣợc làm khớp theo công thức 4.5 từ đó giá trị độ phân cực
spin P đƣợc xác định cho các mẫu. Ở 5 K, độ phân cực spin đạt 80% và 99% lần lƣợt
cho các mẫu x = 0,5 và 0,15. Kết quả về hiệu ứng từ điện trở trƣớc hết khẳng định mô
hình phân bố cation trong đó Zn nằm hoàn toàn tại phân mạng B‟ phù hợp với kết quả
nghiên cứu trƣớc đây trên mẫu khối [114]. Bên cạnh đó các kết quả này cũng chỉ ra
rằng trong các mẫu hình thành nên các mạch liên kết cách điện Mo-O-Zn-O-Mo trong
110
mạng tinh thể, để lại phần pha chứa Fe với trật tự cấu trúc gần nhƣ hoàn hảo.
Ở nhiệt độ phòng ta thấy độ phân cực spin P* giảm so với ở 5 K trong đó ở mẫu x =
0,05 sự phân cực spin duy trì ở mức cao hơn so với mẫu x = 0,15. Hiện tƣợng này là do
phần đóng góp vào độ dẫn không phụ thuộc spin của biên hạt nên giá trị P* giảm đi so
với giá trị thực, ngoài ra độ phân cực có xu hƣớng giảm nhanh hơn theo nhiệt độ khi
nhiệt độ Curie của mẫu bị giảm đi.
Kết luận chƣơng 5
Các mẫu Sr2Fe1-xZnxMoO6 đã đƣợc chế tạo thành công bằng phƣơng pháp sol-gel.
Sự chiếm chỗ vị trí tinh thể của các nguyên tử Zn và ảnh hƣởng của chúng lên các tính
chất từ và điện đã đƣợc làm sáng tỏ.Việc pha tạp Zn vào vật liệu SFMO đã gây ra sự
giãn nở mạng. Kết quả phân tích cấu trúc chỉ ra rằng độ trật tự cation của các mẫu tăng
dần khi tăng hàm lƣợng Zn. Nhiệt độ trật tự từ và mô men từ giảm dần khi tăng nồng
độ Zn2+ từ 0 đến 0,15. Khi mẫu pha tạp Zn, kích thƣớc các hạt có xu hƣớng nhỏ đi và
tách biệt rõ nét hơn so với mẫu không pha tạp. Việc pha tạp Zn làm tăng điện trở suất
của các mẫu lên vài bậc độ lớn đồng thời làm giảm nhiệt độ Curie. Các kết quả cho
thấy Zn ƣu tiên chiếm các vị trí phân mạng B’ và không phân bố đều trong mạng tinh
thể mà có xu thế hình thành nên các mạch liên kết dài -Mo-O-Zn- ngăn cách các vùng
sắt từ chứa Fe với độ trật tự cation cao. Đặc điểm cấu trúc nhƣ vậy dẫn đến giá trị độ
phân cực spin xác định đƣợc ở 5 K đạt gần 100% ở mẫu x = 0,15.
Các kết quả này có ý nghĩa về mặt cải tiến công nghệ chế tạo vật liệu SFMO nhằm
đạt đƣợc độ trật tự tinh thể cao dựa trên sự ƣu tiên chiếm chỗ tinh thể của nguyên tố
không từ Zn. Bằng cách pha một lƣợng nhỏ tạp chất Zn, các mẫu SFMO chế tạo có độ
phân cực spin cao đồng thời nâng cao giá trị của hiệu ứng từ điện trở so với mẫu không
111
pha tạp (~ 43 %).
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
xLaxFeMoO6, Sr2Fe1-xZnxMoO6 bằng phƣơng pháp Sol-gel với độ đơn pha cao. Độ trật
- Luận án đã chế tạo thành công các hệ vật liệu perovskite kép Sr2FeMoO6, Sr2-
tự của Fe/Mo và nồng độ pha thứ cấp (SrMoO4) có thể đƣợc điều khiển bằng cách thay
đổi nhiệt độ thiêu kết. Dựa trên nguyên lý đo điện trở bằng phƣơng pháp 4 mũi dò, luận
án đã thiết kế và chế tạo thành công hệ đo từ điện trở ở các nhiệt độ khác nhau trong
phạm vi từ nhiệt độ của Nitơ lỏng (80 K) lên đến 500 K.
- Các mẫu Sr2FeMoO6 đã đƣợc chế tạo ở các nhiệt độ thiêu kết khác nhau để thay
đổi hàm lƣợng pha thứ cấp SrMoO4. Pha thứ cấp và mật độ biên hạt đóng một vai trò
quan trọng trong việc xác lập độ lớn của tỷ số từ điện trở. Trong số các mẫu đƣợc
nghiên cứu, mẫu D1 xử lý nhiệt tại 900ºC có kích thƣớc hạt trung bình nhỏ nhất (18
nm) và nồng độ SrMoO4 lớn nhất (28 %mol) thể hiện giá trị từ điện trở MR lớn nhất và
mặc dù mẫu có độ bất trật tự cation cao nhất (39 %). Độ phân cực spin đƣợc xác định
cho mẫu D1 bằng khoảng 30 % tại trạng thái cơ bản. Các kết quả nghiên cứu đã làm
sáng tỏ vai trò của trật tự ion, trạng thái hóa trị, hiệu ứng pha tạp và hiệu ứng giảm kích
thƣớc lên các tính chất sắt từ nửa kim loại của các mẫu hạt nano.
- Hệ hạt nano Sr2-xLaxFeMoO6 đơn pha (x = 0; 0,1; 0,2; 0,3 và 0,4) đƣợc chế tạo với
nhiệt độ thiêu kết ở 1200 ºC trong thời gian 8 giờ. La3+ thay thế một phần cho Sr2+ dẫn
tới hiệu ứng gia tăng điện tử ở vùng dẫn để đảm bảo điều kiện cân bằng điện tích, đồng
thời sự có mặt của La còn thay đổi trật tự cation và tăng độ dẫn qua biên hạt. Vật liệu
SFMO pha La có giá trị độ phân cực spin lớn hơn đáng kể so với các kết quả tính toán
lý thuyết cho các mạng perovskite kép có cùng độ bất trật tự cation. Độ phân cực spin
cao nhất đạt 74 %, cao hơn hẳn so với các vật liệu sắt từ thƣờng đƣợc sử dụng trong
các linh kiện spintronics hiện nay nhƣ Co, Ni và permaloy (~ 45 %).
- Bằng quy trình sol-gel luận án đã pha tạp thành công Zn vào vị trí của Fe trong hệ
112
vật liệu Sr2FeMoO6 với nồng độ Zn thay đổi lần lƣợt là 0,05; 0,1 và 0,15. Các kết quả
thu đƣợc cho thấy Zn ƣu tiên chiếm các vị trí phân mạng B‟ và không phân bố đều
trong mạng tinh thể mà có xu thế hình thành nên các mạch liên kết dài -Mo-O-Zn-
ngăn cách các vùng sắt từ chứa Fe với độ trật tự cation cao. Đặc điểm cấu trúc nhƣ vậy
dẫn đến giá trị độ phân cực spin xác định đƣợc ở 5 K đạt gần 100% ở mẫu x = 0,15 và
giá trị hiệu ứng từ điện trở của mẫu đạt ~ 43 %.
Kết quả nghiên cứu này gợi mở khả năng nghiên cứu về tƣơng quan giữa cấu trúc
tinh thể và cấu trúc điện tử trong các hợp chất sắt từ nửa kim loại nói chung thông qua
các đại lƣợng nhƣ từ độ và hiệu ứng từ điện trở xuyên ngầm và giúp kiểm chứng các
kết quả tính toán lý thuyết về cấu trúc điện tử của vật liệu.
KIẾN NGHỊ
Trong thời gian tới, nhóm nghiên cứu sẽ tiếp tục thực hiện các khảo sát về mối
tƣơng quan giữa các tính chất điện-từ và cấu trúc điện tử của các vật liệu sắt từ mới ở
thang nanomet có cấu trúc vùng năng lƣợng đặc biệt (half-metallic, spin-gapless), các
vật liệu đa chức năng thể hiện đồng thời tính bán dẫn, hạt tải phân cực spin và phân
cực điện. Các vật liệu này hứa hẹn những ứng dụng đột phá trong công nghệ mạch
logic, các linh kiện tích trữ và chuyển đổi năng lƣợng, cảm biến và spin quang điện tử
113
v.v.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA LUẬN ÁN
1. L. D. Hien, N. P. Duong, L. N. Anh, D. T. T. Nguyet, T. T. Loan, S.
Soontaranon, W. Klysubun, and T. D. Hien, “Tailoring Magnetoresistance in
Nanosized Sr2FeMoO6 by Varying the Content of the Parasitic SrMoO4 Phase”,
Science of Advanced Materials – SAM, Vol. 10, pp. 1–10, 2018.
2. L. D. Hien, N. P. Duong, L. N. Anh, and T. T. Loan, S. Soontaranon, A. Visser
“Correlations between structural, magnetic and electronic transport properties of
nano-sized (Sr, La) - (Fe, Mo) double perovskites”, J. Alloys Compd., vol. 793, pp.
375–384, 2019.
3. Lê Đức Hiền, Đào Thị Thủy Nguyệt, Tô Thanh Loan, Nguyễn Phúc Dƣơng,
Lƣơng Ngọc Anh, Thân Đức Hiền, “Ảnh hưởng của điều kiện chế tạo lên sự hình
thành pha và tính chất từ của các hạt perovskite kép Sr2FeMoO6 kích thước nano-met
chế tạo bằng phương pháp Sol-Gel”, Hội nghị Vật lý Chất rắn và Khoa học Vật liệu
Toàn quốc lần thứ 9 – SPMS, 2015.
4. Le Duc Hien, To Thanh Loan, Dao Thi Thuy Nguyet, Nguyen Phuc Duong,
Than Duc Hien, “Synchrotron X-ray Diffraction and X-ray Absorption Spectroscopic
Study of Sr2FeMoO6 Nanoparticles”, The 3rd International Conference on
Advanced Materials and Nanotechnology – ICAMN, Hanoi, 2016.
5. Le Duc Hien, Dao Thi Thuy Nguyet, Luong Ngoc Anh, To Thanh Loan,
Nguyen Phuc Duong, Ta Van Khoa, Than Duc Hien, “Magnetization and
Magnetoresistance of Particulate Sr2FeMoO6 Samples Prepared via Sol-gel Route and
Heat Treatment in H2/Ar Atmospheres”, VNU JOURNAL OF SCIENCE,
Mathematics – Physics Vol. 32, No. 4, 2016.
6. Lê Đức Hiền, Đào Thị Thủy Nguyệt, Tô Thanh Loan, Nguyễn Phúc Dƣơng,
Lƣơng Ngọc Anh, Tạ Văn Khoa, “Ảnh hưởng của pha tạp Zn lên cấu trúc và tính chất
từ của perovskite kép Sr2FeMoO6”, Hội nghị Vật lý Chất rắn và Khoa học Vật liệu
114
Toàn quốc lần thứ 10 – SPMS, 2017.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. M. Ziese and M. F. Thornton, eds., Spin Electronics, Springer, Berlin, (2001).
2. D. J. Monsma and S. P. Parkin, Spin polarization of tunneling current from
ferromagnet/Al2O3 interfaces using copper-doped aluminum superconducting films,
Appl. Phys. Lett. 77, 720 (2000).
3. N. P. Duong, L. T. Hung, T. D. Hien, N. P. Thuy, N. T. Trung, E. Brück, J. Magn,
Magnetic properties of half-metallic semi Heusler Co1−xCuxMnSb compounds,
Magn. Mater. 311, 605-608 (2007).
4. Nguyen Anh Tuan, Nguyen Phuc Duong, Structural, magnetic, and
magnetotransport properties of NiMnSb thin films deposited by flash evaporation,
Appl. Phys. Lett. 99, 162507 (2011).
5. K. L. Kobayashi, T. Kimura, H. Sawada, K. Terakura, Y. Tokura, Room-
temperature magnetoresistance in an oxide material with an ordered double-
perovskite structure, Nature 395, 677-680 (1998).
6. D. Niebieskikwiat, A. Caneiro, R. D. Sanchez, Oxygen-induced grain boundary
effects on magnetotransport properties of Sr2FeMoO6+δ, Phys. Rev. B 64 (2001).
7. H. Dulli, P. A. Dowben, S. H. Liou, E. W. Plummer, Surface segregation and
restructuring of colossal-magneto resistant manganese perovskites La0.65Sr0.35MnO3,
Phys. Rev. B 62 (2000).
8. C. L. Yuan, S. G. Wang, W. H. Song, T. Yu, J. M. Dai, S. L. Ye, Y. P. Sun,
Enhanced intergrain tunneling magnetoresistance in double perovskite Sr2FeMoO6
polycrystals with nanometer-scale particles, Appl. Phys. Lett. 75 38-53 (1999).
9. Balcells L. I., Navarro J., Bibes M., Roig A., Martinez B., Fontcuberta J., Cationic
ordering control of magnetization in Sr2FeMoO6 double perovskite. Appl. Phys.
Lett. 78, 781-783 (2001).
10. H. Han, B. J. Han, J. S. Park, B. W. Lee, S. J. Kim, and C. S. Kim, J., Effect of
115
grain size on magnetoresistance in Ba2FeMoO6, Appl. Phys. 89, 7687 (2001).
11. Y. Tomioka, T. Okuda, Y. Okimoto, R. Kumai, K. I. Kobayashi, Y. Tokura,
Magnetic and electronic properties of a single crystal of ordered double perovskite
Sr2FeMoO6, Physical Review B 61, 422-427 (2000).
12. M. Besse, F. Pailloux, A. Barthelemy, K. Bouzehounane, A. Fert, J. Olivier, O.
Durand, F. Wyczisk, R. Bisaro, J.P. Contour, Characterization methods of epitaxial
Sr2FeMoO6 thin films, J. Cryst. Growth 241, 448-454 (2002).
13. A. Di Trolio, R. Larciprete, A. M. Testa, D. Fiorani, P. Imperatori, S. Turchini,
N. Zema, Double perovskite Sr2FeMoO6 films: Growth, structure, and magnetic
behavior, J. Appl. Phys. 100 (2016).
14. T. Manako, M. Izumi, Y. Konishi, K. Kobayashi, M. Kawasaki, Y. Tokura,
Epitaxial thin films of ordered double perovskite Sr2FeMoO6, Appl. Phys. Lett. 74,
2215-2217 (1999).
15. J. Santiso, A. Figueras, J. Fraxedas, Thin films of Sr2FeMoO6 grown by pulsed
laser deposition: preparation and characterization, Surface and Interface Analysis
33, 676-680 (2002).
16. Longo J. and Ward R., Magnetic compound of Hexavalent Rhenium with the
perovskite-type structure, J. Am. Chem. Soc. 83 2816–8 (1961).
17. Patterson F. K, Moeller C. W and Ward R, Magnetic Oxides of
Molybdenum(V) and Tungsten(V) with the Ordered Perovskite Structure, Inorg.
Chem. 2 196–8 (1963).
18. Galasso F. S, Douglas F. C and Kasper R. J, Relationship Between Magnetic
Curie Points and Cell Sizes of Solid Solutions with the Ordered Perovskite
Structure, J. Chem. Phys. 44 1672–8 (1966).
19. Y. Moritomo, S. Xu, A. Machida, T. Akimoto, E. Nishibori, M. Takata, M.
Sakata, K. Ohoyama, Crystal and magnetic structure of conducting double
perovskite Sr2FeMoO6, Journal of the Physical Society of Japan 69 (2000).
20. J. Topfer, R. Kircheisen, S. Barth, Nonstoichiometry, point defects, and
116
magnetoresistance of Sr2FeMoO6-delta, Journal of Applied Physics 105 (2009).
21. D. D. Sarma, E. V. Sampathkumaran, S. Ray, R. Nagarajan, S. Majumdar, A.
Kumar, G. Nalini, T. N. G. Row, Magnetoresistance in ordered and disordered
double perovskite oxide, Sr2FeMoO6, Solid State Communications 114 (2000).
22. D. D. Sarma, S. Ray, Properties of a new magnetic material: Sr2FeMoO6,
Proceedings of the Indian Academy of Sciences-Chemical Sciences 113 (2001).
23. Deniz H., Preziosi D., Alexe M., Hesse D., Eisenschmidt C., Schmidt G.,
Pintilie L., Microstructure and properties of epitaxial Sr2FeMoO6 films containing
SrMoO4 precipitates, 3131–3138 (2015).
24. Kalanda N., Kim D., Demyanov S., Yu S., Yarmolich M., Petrov A., Kun, S.,
Sr2FeMoO6 nanosized compound with dielectric sheaths for magnetically sensitive
spintronic devices, Current Applied Physics, 18(1), 27–33 (2018).
25. Kalanda N., Turchenko V., Karpinsky D., Demyanov S., Yarmolich M.,
Balasoiu M., Sobolev N. A., The Role of the Fe/Mo Cations Ordering Degree and
Oxygen Non-Stoichiometry on the Formation of the Crystalline and Magnetic
Structure of Sr2FeMoO6-δ, 1800278, 1–7 (2018).
26. Kinjo A., Okuyama H., Films E. T., Hatabayashi K., Hitosugi T., Surface
topography and electrical properties in Sr2FeMoO6 films studied at cryogenic
temperatures, Journal of Physics: Conf. Series 969 (2018).
27. Kovalev L., Yarmolich M., Petrova M., Ustarroz J., Terryn H., Kalanda N.,
films prepared by Zheludkevich M. L., Double perovskite Sr2FeMoO6
electrophoretic deposition, ACS Appl. Mater. Interfaces 19201–19206 (2014).
28. Suresh Y. M., Shashidhar R., Bhikshamaiah B. G., Synthesis, characterization,
conductivity, magnetic double perovskite, Journal of Materials Science: Materials
in Electronics, (2018).
29. Wei Y., Sun L., Guo T., Zhao X., Enhanced magnetocaloric effect of
Sr1.8Eu0.13Ba0.07FeMoO6 perovskite compound. Ceramics International, (2017).
30. F. S. Galasso, R. Smoluchouski, N. Kurti, Structure, Properties and Preparation
of Perovskite-Type Compounds, Monographs in Solid State Physics, London
117
(1969).
31. Goldschmidt, Victor M., “Die Gesetze der Krystallochemie”. Die
Naturwissenschaften. 21: 477-485 (1926).
32. D. D. Sarma, P. Mahadevan, T. Saha-Dasgupta, S. Ray, A. Kumar, Electronic
structure of Sr2FeMoO6, Physical Review Letters 85 2549-2552 (2000).
33. W. Zhong, W. Liu, C. T. Au, and Y. W. Du, “Tunnelling magnetoresistance of
double perovskite Sr2FeMoO6 enhanced by grain boundary adjustment,”
Nanotechnology, vol. 17, no. 1, pp. 250–256 (2006).
34. Y. H. Huang, H. Yamauchi, M. Karppinen, Competition between intragranular
and intergranular tunneling magnetoresistance in polycrystalline Sr2FeMoO6,
Physical Review B 74 (2006).
35. D. D. Sarma, S. Ray, K. Tanaka, M. Kobayashi, A. Fujimori, P. Sanyal, H. R.
Krishnamurthy, C. Dasgupta, Intergranular magnetoresistance in Sr2FeMoO6 from a
magnetic tunnel barrier mechanism across grain boundaries, Physical Review
Letters 98 (2007).
36. D. Serrate, J. M. De Teresa, M. R. Ibarra, Double perovskites with
ferromagnetism above room temperature, J. Phys. Condens. Matter 19, 023201
(2007).
37. Julliere M., Tunneling between ferromagnetic films, Phys. Lett. A 54 225–6
(1975).
38. Westerburg W., Reisinger D. and Jacob G., Epitaxy and magnetotransport of
Sr2FeMoO6 thin films, Phys. Rev. B 62 R767–70 (2000).
39. Asano H., Kohara Y. and Matsui M., Growth and properties of high-Curie-
temperature Sr2CrReO6 thin films, Appl. Phys. Lett. 85, 263 (2004).
40. Sanchez D., Garcıa-Hernandez M., Auth N. and Jacob G., Structural, magnetic,
and transport properties of high-quality epitaxial Sr2FeMoO6 thin films prepared by
pulsed laser deposition, J. Appl. Phys. 96 2736–42 (2004).
41. C. Zener, Ferromagnetic Compounds of Manganese with Perovskite Structure,
118
Physical Review 82, 403-405 (1951).
42. J. M. Greneche, M. Venkatesan, R. Suryanarayanan, J. M. D. Coey, Mossbauer
spectrometry of A2FeMoO6 (A = Ca, Sr, Ba): Search for antiphase domains,
Physical Review B 63 (2001).
43. R. P. Borges, S. Lhostis, M. A. Bari, J. J. Versluijs, J. G. Lunney, J. M. D. Coey,
M. Besse, J. P. Contour, Thin films of the double perovskite Sr2FeMoO6 deposited
by pulsed laser deposition, Thin Solid Films 429, 5-12 (2003).
44. M. Hoffmann, V. N. Antonov, V. Lev, K. Kokko, and W. Hergert, Variation of
magnetic properties of Sr2FeMoO6 due to oxygen vacancies, (2018).
45. Maekawa S., Tohyama T., Barnes S. E., Ishihara S., Koshibae W. and Khaliullin
G., Physics of Transition Metal Oxides (Berlin: Springer) chapter 1, 2 (2003).
46. Wu H., Electronic structure study of double perovskites A2FeReO6 (A = Ba, Sr,
Ca) and Sr2MMoO6 (M = Cr, Mn, Fe, Co) by LSDA and LSDA+U, Phys. Rev. B 64
125126 (2001).
47. Vaitheeswaran G., Kanchana V. and Delin A., Pseudo-half-metallicity in the
double perovskite Sr2CrReO6 from density-functional calculations, Appl. Phys. Lett.
86 032513 (2005).
48. J. Gopalakrishnan, A. Chattopadhyay, S. B. Ogale, T. Venkatesan, R. L. Greene,
A. J. Millis, K. Ramesha, B. Hannoyer, and G. Marest, Phys. Rev. B. 62, 9538
(2000).
49. Linden J., Yamamoto T., Karppinen M. and Yamauchi H., Evidence for valence
fluctuation of Fe in Sr2FeMoO6−w double perovskite, Appl. Phys. Lett. 76 2925–7
(2000).
50. Colis S., Stoeffler D., Meny C., Fix T., Leuvrey C., Pourroy G., Dinia A. and
Panissod P., Structural defects in Sr2FeMoO6 double perovskite: Experimental
versus theoretical approach, J. Appl. Phys. 98 033905 (2005).
51. Lufaso M. W. and Woodward P. M., Prediction of the crystal structures of
perovskites using the software program SpuDS, Acta Crystallogr. B 57 725–38
119
(2001).
52. Chmaissem O., Drabowski B., Kolesnik S., Short S. and Jorgensen J. D.,
Nuclear and magnetic structural properties of Ba2FeMoO6, Phys. Rev. B 71 174421
(2005).
53. Kapusta C., Zajac D., Riedi P. C., Sikora M., Oates C. J., Blasco J. and Ibarra
M. R., J. Magn. Magn. Mater. 272–276 e1619–21 (2004).
54. Garcıa-Landa B., Ritter C., Ibarra M. R., Blasco J., Algarabel P. A., Mahendiran
R. and Garcıa J., Solid State Commun. 110 435–8 (1999).
55. Shannon R. D., Revised effective ionic radii and systematic studies of
interatomic distances in halides and chalcogenides, Acta Crystallogr. A 32 751
(1976).
56. Kanamori J. and Terakura K., A General Mechanism Underlying
Ferromagnetism in Transition Metal Compounds, J. Phys. Soc. Japan 70 1433–4
(2001).
57. Carvajal E., Navarro O., Allub R., Avignon M. and Alascio B., Ferromagnetic
transition in ordered double perovskites and related alloys, Eur. Phys. J. B 48 179–
87 (2005).
58. J. Inoue and S. Maekawa, Theory of tunneling magnetoresistance in granular
magnetic films. Phys. Rev. B 53, R11927 (1996).
59. D. Serrate, J. M. De Teresa, P. A. Algarabel, M. R. Ibarra, J. Galibert, Intergrain
magnetoresistance up to 50 T in the half-metallic (Ba0.8Sr0.2)2FeMoO6 double
perovskite: spin-glass behavior of the grain boundary, Phys. Rev. B 71 (2005).
60. Serrate D., De Teresa J. M., Algarable P. A., Fernandez-Pacheco R., Galibert J.
and Ibarra M. R., J. Appl. Phys. 97 084317 (2005).
61. M. García-Hernández, J. L. Martínez, M. J. Martínez-Lope, M. T. Casais, and J.
A. Alonso., Finding Universal Correlations between Cationic Disorder and Low
Field Magnetoresistance in FeMo Double Perovskite Series, Phys. Rev. Lett. 86,
120
2443 (2001).
62. J. Navarro, L. Balcells, F. Sandiumenge, M. Bibes, A. Roig, B. Martínez, J.
Fontcuberta, Antisite defects and magnetoresistance in Sr2FeMoO6 double
perovskite, J. Phys. Condens. Matter 13, 8481 (2001).
63. B. J. Park, H. Han, J. Kim, Y. J. Kim, C. S. Kim, B.W.Lee, Correlation between
anti-site disorder and magnetic properties in ordered perovskite Sr2FeMoO6, J.
Magn. and Magn. Mater. 272-276, 1851 (2004).
64. X. Z. Liao et al., Highly disordered intergrowths in Sr2FeMoO6, J. Appl. Phys.
96, 7747 (2004).
65. T. Shimada, J. Nakamura, T. Motohashi, H. Yamauchi, and M. Karppinen,
Kinetics and Thermodynamics of the Degree of Order of the B Cations in Double-
Perovskite Sr2FeMoO6, Chem. Mater. 15, 4494 (2003).
66. P. M. Woodward, Octahedral Tilting in Perovskites-Geometrical
Considerations, Acta Crystallogr., Sect.B: Struct. Sci. 53, 32 (1997).
67. Ogale, A. S., Ogale S. B., Ramesh, R., & Venkatesan, T., Octahedral cation site
disorder effects on magnetization in double-perovskite Sr2FeMoO6: Monte Carlo
simulation study. Appl. Phys. Lett. 75, 537-539 (1999).
68. D. Sanchez et al., Origin of neutron magnetic scattering in antisite-disordered
Sr2FeMoO6 double perovskites, Phys. Rev. B 65, 104426 (2002).
69. Moritomo Y., Shimamoto N., Xu S., Machida A., Nishibori E., Takata M.,
Sakata M., & Nakamura A., Effects of B-site Disorder in Sr2FeMoO6 with Double
Perovskite Structure. Jpn. J. Appl. Phys. 40, 7A (2001).
70. Ray S., Kumar A., Sarma D. D., Cimino R., Turchini S., Zennaro S., & Zema
N., Electronic and Magnetic Structures of Sr2FeMoO6. Phys. Rev. Lett. 87, 097204
(2001).
71. Y. H. Huang, J. Linde, H. Yamauchi, and M. Karppinen, “Simple and Efficient
Route to Prepare Homogeneous Samples of Sr2FeMoO6 with a High Degree of
Fe/Mo Order,” no. 9, pp. 4337–4342 (2004).
72. P. Sanyal, H. Das, and T. Saha-Dasgupta, “Evidence of kinetic-energy-driven
121
antiferromagnetism in double perovskites: A first-principles study of La-doped
Sr2FeMoO6,” Phys. Rev. B - Condens. Matter Mater. Phys., vol. 80, no. 22, pp. 1–10
(2009).
73. J. Navarro, C. Frontera, L. Balcells, B. Martinez, J. Fontcuberta, Raising the
Curie temperature in Sr2FeMoO6 double perovskites by electron doping, Phys. Rev.
B 64, 092411 (2001).
74. Rubi D., Frontera C., Nogues J. and Fontcuberta J., Enhanced ferromagnetic
interactions in electron doped NdxSr2−xFeMoO6 double perovskites, J. Phys.:
Condens. Matter 16 3173–82 (2004).
75. Serrate D., De Teresa J. M., Blasco J., Ibarra M. R., Morellon L. and Ritter C.,
Increase of Curie temperature in fixed ionic radius Ba1+xSr1−3xLa2xFeMoO6 double
perovskites, Eur. Phys. J. B 39 35–40 (2004).
76. Majewski P., Geprags S., Boger A., Opel M., Alff L. and Gross R., Epitaxial
growth of electron doped double perovskites LaxA2−xCrWO6 with A = Sr and Ca, J.
Magn. Magn. Mater. 290/291 1154–7 (2005).
77. Geprags S., Majewski P., Gross R., Ritter C. and Alff L., Electron doping in the
double perovskite LaxA2−xCrWO6 with A = Sr and Ca, J. Appl. Phys. 99, 08J102
(2006).
78. Kang J. S. et al, Bulk-sensitive photoemission spectroscopy of A2FeMoO6
double perovskites (A = Sr, Ba), Phys. Rev. B 66 113105 (2002).
79. Herrero-Martın J., Garcıa J., Subıas G., Blasco J. and Sanchez M. C., An x-ray
spectroscopic study of A2FeMoO6 and Sr2Fe1−xCrxMoO6 double perovskites, J.
Phys.: Condens. Matter 16 6877–90 (2004).
80. Rubi D, Navarro J, Fontcuberta J, Izquierdo M, Avila J and Asensio M C.,
Spectroscopic investigation of AS defects on the electronic structure of Sr2FeMoO6,
J. Phys. Chem. Solids 67 575–8 (2006).
81. Ritter C, Ibarra M R, Morellon L, Blasco J, Garcıa J and De Teresa J. M.,
Structural and magnetic properties of double perovskites AA'FeMoO6 (AA' = Ba2,
122
BaSr, Sr2 and Ca2), J. Phys.: Condens. Matter 12 8295–308 (2000).
82. Kim B. G., Hor Y. S. and Cheong S. W., Chemical-pressure tailoring of low-
field, room-temperature magnetoresistance in (Ca, Sr, Ba)Fe0.5Mo0.5O3, Appl. Phys.
Lett. 79 388–90 (2001).
83. Yokoyama H. and Nakagawa T., Nuclear Magnetic Resonances of 95Mo, 97Mo
and 57Fe in Ba2(FeMo)O6, Sr2(FeMo)O6, and Ca2(FeMo)O6, J. Phys. Soc. Japan 28
1197–201 (1970).
84. Wojcik M., Jedryka E., Nadolski S., Navarro J., Rubi D. and Fontcuberta J.,
NMR evidence for selective enhancement of Mo magnetic moment by electron
doping in Sr2−xLaxFeMoO6, Phys. Rev. B 69 100407 (2004).
85. Wojcik M., Jedryka E., Nadolski S., Rubi D., Frontera C., Fontcuberta J., Jurca
B., Dragoe N. and Berthet P., Electronic self-doping of Mo states in A2FeMoO6 (A
= Ca, Sr, and Ba) half-metallic ferromagnets: A nuclear magnetic resonance study
Phys. Rev. B 71 104410 (2005).
86. Chmaissem O, Kruk R, Dabrowski B, Brown D E, Xiong X, Kolesnik S,
Jorgensen J D and Kimball C W 2000 Phys. Rev. B 62 14197–205.
87. Rubi D., Frontera C., Fontcuberta J., Wojcik M., Jedryka E. and Ritter C.,
Ferromagnetic coupling in NdxCa2−xFeMoO6 double perovskites: Dominant band-
filling effects, Phys. Rev. B 70 094405 (2004).
88. Ritter C., Rubı D., Navarro J., Frontera C., Garcıa-Munoz J. L. and Fontcuberta
J., Magnetisation and neutron diffraction studies on Sr2-xCaxFeMoO6, J. Magn.
Magn. Mater. 272–276 852–4 (2004).
89. Frontera C., Rubı D., Navarro J., Garcıa-Munoz J. L. and Fontcubera J., Effect
of band filling and structural distortions on the Curie temperature of Fe-Mo double
perovskites, Phys. Rev. B 68 012412 (2003).
90. F. Sher, J. Paul Attfield, A. Venimadhev, Mark G. Blamire, K. Kamenev,
Cation Size Variance Effects in Magnetoresistive Sr2FeMoO6 Double Perovskites,
123
Chem. Mater. 17 176–80 (2005).
91. G. Narsinga Rao, S. Roy, C. Y. Mou, and J. W. Chen, “Effect of la doping on
magnetotransport and magnetic properties of double perovskite Sr2FeMoO6 system,”
J. Magn. Magn. Mater., vol. 299, no. 2, pp. 348–355 (2006).
92. F. Azizi, A. Kahoul, and A. Azizi, “Effect of La doping on the electrochemical
activity of double perovskite oxide Sr2FeMoO6 in alkaline medium,” vol. 484, pp.
555–560 (2009).
93. I. Hussain, M. S. Anwar, J. Woo, K. Chae, and B. Heun, “Influence of La
xLaxFeMoO6 (0 ≤ x ≤ 0.3) double perovskite,” vol. 6, pp. 5–10 (2016).
addition on the structural, magnetic and magnetocaloric properties in Sr2-
94. T. Saitoh, M. Nakatake, H. Nakajima, O. Morimoto, A. Kakizaki, S. Xu, Y.
Moritomo, N. Hamada, and Y. Aiura, “Electronic structure of Sr2−xLaxFeMoO6,”
vol. 147, pp. 601–603 (2005).
95. D. Sanchez, M. J. Mart, and M. T. Fern, “Electron and hole doping effects in
Sr2FeMoO6 double perovskites,” vol. 276, pp. 1732–1733 (2004).
J. Alonso et al., Chem. Mater. 12, 161 (1999). 96.
97. L. S. Lobanovskii, I. O. Troyanchuk, N. V. Pushkarev, and G. Szymczak,
Magnetoresistance effect in A2(FeMo)Ox double perovskites (A = Sr, Ca; 5.90 ≤ x ≤
6.05), Phys. Solid State 43, 677 (2001).
98. J. M. Dai et al., Ordered double-perovskite Ca2FeMoO6 compounds with
nanometer-scale grains: Structure, magnetism, and intergrain tunneling
magnetoresistance, Materials Science and Engineering B83, 217 (2001).
99. K. Yoshida, S. Kihara, and H. Shimizu, Reduction of Curie temperature and
saturation magnetization in Ba2−xNaxFeMoO6, Physica B 359-361, 1330 (2005).
100. P. Battle, T. Gibb, C. Jones, and F. Studer, Spin-glass behavior in Sr2FeRuO6
and BaLaNiRuO6: A comparison with antiferromagnetic BaLaZnRuO6, Journal of
Solid State Chemistry 78, 281 (1989).
101. A. Azad et al., A study on the nuclear and magnetic structure of the double
perovskites A2FeWO6 (A= Sr, Ba) by neutron powder diffraction and reverse Monte
124
Carlo modeling Materials Research Bulletin 37, 1797 (2002).
102. Y. Moritomo, Sh. Xu, A. Machida, T. Akimoto, E. Nishibori, M. Takata, and M.
Sakata, Electronic structure of double-perovskite transition-metal oxides, Phys. Rev.
B 61, R7827 (2000).
103. AH. Habib, A. Saleem, C. V. Tomy, and D. Bahadur, Structural, electronic, and
magnetic properties of Sr2−xBaxFeMoO6 (0 ⩽ x ⩽ 2), J. Appl. Phys. 97, 10A906
(2005).
104. D. Sanchez et al., Hole doping effects in Sr2FeMo1−xWxO6 (0 ≤ x ≤ 1) double
perovskites: a neutron diffraction study J. Phys. Cond. Mat. 17, 3673 (2005).
105. R. Dass and J. Goodenough, Itinerant to localized electronic transition in
Sr2FeMo1−xWxO6, Phys. Rev. B 63, 064417 (2001).
106. N. Massa, J. Alonso, M. Martinez-Lope, and M. Casais, Defect-induced strong
electron-phonon interaction and localization in Sr2FeMo1−xWxO6 (x = 0.0, 0.2, 0.5,
0.8, 1.0), Phys. Rev. B 72, V214303 (2005).
107. Y. Sui, X. J. Wang, Z. N. Qian, J. G. Cheng, Z. G. Liu, J. P. Miao, Y. Li, W. H.
Su, C. K. Ong, Enhancement of low-field magnetoresistance in polycrystalline
Sr2FeMoO6 with Al doping, Appl. Phys. Lett 85, 269 (2004).
108. J. H. Jung et al., Electronic structures of double perovskites
Sr2(Fe1−zMnz)MoO6: Doping-dependent optical studies, Phys. Rev. B 66, 104415
(2002).
109. Q. Zhang et al., Influence of V substitution for Fe on the transport and magnetic
properties of Sr2FeMoO6, Solid State Communications 133, 223 (2005).
110. M. Lu et al., J. Phys. Cond. Mat. 18, 1601 (2006).
111. C. Li, Y. Cailei, X. Junmin, and J. Wang, Enhancement of Magnetization and
Curie Temperature in Sr2FeMoO6 by Ni Doping, J. Am. Ceram. Soc 89, 672 (2005).
112. J. H. Kim, G. Y. Ahn, S. I. Park, and C. S. Kim, Effects of Cr doping on
magnetic properties of ordered Sr2FeMoO6, J. Magn. and Magn. Mater. 282, 295
125
(2004).
113. Min Feng Lu, Jing Ping Wang, Jian Fen Liu, Wei Song, Xian Feng Hao, “An
investigation of low-field magnetoresistance in the double perovskites
Sr2Fe1−xZnxMoO6 , x = 0 , 0.05 ,” J. Phys.: Condens. Matter 18, 1601–1612 (2006).
114. X. Wang, Y. Sui, Q. Yang, J. Cheng, Z. Qian, Z. Liu, and W. Su, “Effect of
doping Zn on the magnetoresistance of polycrystalline Sr2FeMoO6,” J. Alloys
Compd., vol. 431, no. 1–2, pp. 6–9 (2007).
115. J. Stephen, G. V. M. Williams, and B. J. Ruck, “Magnetotransport Study of
Electron Doping in Sr2FeMoO6,” Mater. Sci. Forum, vol. 700, pp. 19–22 (2011).
116. L. Harnagea, B. Jurca, and P. Berthet, “Low-field magnetoresistance up to 400
K in double perovskite Sr2FeMoO6 synthesized by a citrate route,” J. Solid State
Chem., vol. 211, pp. 219–226 (2014).
117. X. H. Li, Y. P. Sun, W. J. Lu, R. Ang, S. B. Zhang, X. B. Zhu, W. H. Song, and
J. M. Dai, “Size dependence of electronic and magnetic properties of double-
perovskite Sr2FeMoO6,” Solid State Commun., vol. 145, no. 3, pp. 98–102 (2008).
118. K. Wang and Y. Sui, Influence of the modulating interfacial state on Sr2FeMoO6
powder magnetoresistance properties. Solid State Commun. 129, 135 (2004).
119. Yin H. Q., Zhou J. S., Zhou J. P., Dass R., McDevitt J. T. and Goodenough J.
B., Appl. Phys. Lett. 75 2812–4 (1999).
120. Fontcuberta J. et al., Magnetoresistive oxides: new developments and
applications, J. Magn. Magn. Mater. 242–245 98–104 (2002).
121. Roy R. Aids in hydrothermal experimentation, Methods of making mixtures for
both “dry” and “wet” phase equilibrium studies. J. Am. Ceram. Soc., (1956).
122. Gabbott P.: Principles and Applications of Thermal Analysis. Blachwell (2008).
123. Newville M.: Fundamentals of XAFS. Rev. Mineral. Geochemistry. 78, 1, 33–
74 (2014).
124. Rietveld, H. M.: A profile refinement method for nuclear and magnetic
126
structures. J. Appl. Crystallogr. 2, 2, 65–71 (1969).
125. N. Marinoni, et al.: In situ high-temperature X-ray and neutron powder
diffraction study of cation partitioning in synthetic Mg(Fe0.5Al0.5)2O4 spinel. Phys.
Chem. Miner. 38, 1, 11–19 (2010).
126. S. E. Shirsath, et al.: Structure refinement, cation site location, spectral and
elastic properties of Zn2+ substituted NiFe2O4. J. Mol. Struct. 1024, 77–83 (2012).
127. Rodriguez-Carvajal, J.: FULLPROF: A Program for Rietveld Refinement and
Determination by Neutron Powder Diffraction. Phys. B. 192, 55–69 (1993).
128. Zlokazov et al, V.B.: MRIA - a program for a full profile analysis of powder
multiphase neutron-diffraction time-of-flight (direct and Fourier) spectra. J. Appl.
Crystallogr. 25, 447–451 (1992).
129. Balzar, D.: Voigt-Function Model in Diffraction Line-Broadening Analysis.
Oxford University Press, New York (1999).
130. Smits F. M. Measurement of sheet resistivities with the four-point probe. Bell
System Technical Journal. 34, 711-718 (1958).
131. D. Niebieskikwiat, F. Prado, A. Caneiro, and R. D. Sanchez, Antisite defects
versus grain boundary competition in the tunneling magnetoresistance of the
Sr2FeMoO6 double perovskite. Phys. Rev. B 70, 9 (2004).
132. McCusker et al, L. B.: Rietveld refinement guidelines. J. App. Cryst. 32, 36–50
(1999).
133. Y. C. Hu, J. J. Ge, Q. Li, Z. S. Jiang, X. S. Wu, and G. F. Cheng, Gd induced
the variations of anti-site defect and magnetism in the double perovskite oxides
Sr2FeMoO6. Mater. Chem. Phys. 124, 274 (2010).
134. Tiêu chuẩn Quốc gia TCVN 8189:2009 ISO 2738:1999 Vật liệu kim loại thiêu
kết, trừ hợp kim cứng-Vật liệu kim loại thiêu kết thẩm thấu-Xác định khối lƣợng
riêng, hàm lƣợng dầu và độ xốp hở, 2009.
135. O. N. Meetei, O. Erten, A. Mukherjee, M. Randeria, N. Trivedi, P. Woodward,
Theory of half-metallic double perovskites: Double exchange mechanism, Phys.
127
Rev. B 87, 165104 (2013).
136. C. Meneghini, S. Ray, F. Liscio, F. Bardelli, S. Mobilio, D. D. Sarma, Nature of
„„Disorder‟‟ in the ordered double perovskite Sr2FeMoO6, Phys. Rev. Lett. 103,
046403 (2009).
137. M. Taguchi, F. Matsui, N. Maejima, H. Matsui, H. Daimon, Disorder and mixed
valence properties of Sr2FeMoO6 studied by photoelectron diffraction and xray
absorption spectroscopy, Surf. Sci. 683, 53 (2019).
138. D. Serrate, J. M. De Teresa, J. Blasco, M. R. Ibarra, L. Morellon, C. Ritter,
xLaxFeMoO6 double perovskites, Appl. Phys. Lett. 80, 4573 (2002).
Large in polycrystalline low-field magnetoresistance and TC (Ba0.8Sr0.2)2-
139. S. Mitani, S. Takahashi, K. Takanashi, K. Yakushiji, S. Maekawa, H. Fujimori,
Enhanced magnetoresistance in insulating granular systems: evidence for higher-
order tunneling, Phys. Rev. Lett. 81, 2799 (1998).
140. Yizi Xu, D. Ephron, M. R. Beasley, Directed inelastic hopping of electrons
through metal-insulator-metal tunnel junctions, Phys. Rev. B 52, 2843 (1995).
141. A. Maignan, B. Raveau, C. Martin, M. Hervieu, Large intragrain
magnetoresistance above room temperature in the double perovskite Ba2FeMoO6, J.
Solid State Chem. 144, 224 (1999).
142. E. K. Hemery, G. V. M. Williams, H. J. Trodahl, The effect of isoelectronic
substitution on the magneto-resistance of Sr2-xBaxFeMoO6, Phys. B Condens. Matter
390, 175e178 (2017).
143. E. M. Chudnovsky, W. M. Saslow, R. A. Serota, Ordering in ferromagnets with
random anisotropy, Phys. Rev. B 33, 251 (1986).
144. B. Aguilar, O. Navarro, M. Avignon, Effect of cationic disorder on the spin
polarization in FeMo double perovskites, Europhys. Lett. 88, 67003 (2009).
145. D. Paraskevopoulos, R. Meservey, P. M. Tedrow, Spin polarization of electrons
tunneling from 3d ferromagnetic metals and alloys, Phys. Rev. B 16, 4907 (1977).
146. D. Rubi, J. Fontcuberta, Disclosing the origin of the reduced magnetoresistance
in electron-doped double perovskites, J. Phys. Condens. Matter 18, 7991e7998
128
(2006).
147. E. Villamor, M. Isasa, L. E. Hueso, F. Casanova, Temperature dependence of
spin polarization in ferromagnetic metals using lateral spin valves, Phys. Rev. B 88,
184411 (2013).
148. C. L. Yuan, Y. Zhu, and P. P. Ong, Enhancement of roomtemperature
magnetoresistance in Sr2FeMoO6 by reducing its grain size and adjusting its tunnel-
barrier thickness. Appl. Phys. Lett. 82, 934 (2003).
149. M. Garcıa-Hernandez, J. L. Martınez, M. J. Martınez-Lope, M. T. Casais, J. A.
Alonso, Finding Universal Correlations between Cationic Disorder and Low Field
Magnetoresistance in FeMo Double Perovskite Series, Phys. Rev. Lett. 86, 2443
(2001).
150. O. Navarro, F. Estrada, E. J. Guzman, M. Avignon, Electronic correlation
effects on the Curie temperature in double perovskites, Mater. Today: SAVE Proc. 5
129
17431 (2018).