1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Chuyển dịch cơ cấu lao động (CCLĐ) trong nền kinh tế nói chung cũng như

trong từng nhóm ngành, trong các thành phần kinh tế và không gian lãnh thổ luôn là

chủ đề được quan tâm nghiên cứu bởi các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính

sách kinh tế - xã hội nói riêng, trong đó có các nhà địa lí học. Trong các văn kiện

của Đảng và Nhà nước, chuyển dịch CCLĐ được coi là một trong những nhiệm vụ

quan trọng của quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam nhằm phục vụ đắc lực cho

chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CCKT). Chuyển dịch CCLĐ vừa là kết quả, vừa là

nhân tố thúc đẩy chuyển dịch CCKT, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, đô thị

hóa và góp phần cân đối lại cung – cầu trên thị trường lao động.

Quá trình đô thị hóa ở nước ta đang diễn ra cùng với quá trình CNH - HĐH

đất nước. Đô thị hóa có tác động sâu sắc đến nhiều lĩnh vực đời sống của khu vực

đô thị, làm mở rộng quy mô các đô thị, thay đổi cơ cấu đất đai trong đô thị, thúc đẩy

tăng trưởng và chuyển dịch CCKT, đồng thời tác động đến số lượng và chất lượng

lao động, làm dịch chuyển lao động giữa các ngành kinh tế, giữa các khu vực kinh

tế trong đô thị. Đô thị hóa đã trở thành động lực cho phát triển, chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, cơ cấu lao động ở mỗi địa phương, mỗi vùng và cả nước.

TP. HCM là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, thành phố trực thuộc Trung

ương, đô thị loại đặc biệt, có số dân đứng đầu 63 tỉnh, thành phố (năm 2013 là

7.939,8 nghìn người, chiếm 8,7% dân số cả nước), nguồn lao động dồi dào, trong đó

lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế là trên 4,0 triệu người (chiếm 7,7%

lực lượng lao động cả nước). Thành phố đang diễn ra quá trình công nghiệp hóa, đô

thị hóa mạnh mẽ, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại (khu vực nông

nghiệp chỉ chiếm 1,0% trong GDP), năng suất lao động, GDP/LĐ tăng nhanh, năm

2013 đạt 212,9 triệu đồng/người (gấp 3,1 lần mức trung bình của cả nước là 68,7

triệu đồng/người), tỉ lệ đô thị hóa cao thứ hai cả nước sau TP. Đà Nẵng (82,4% so

với 32,4% của cả nước và 87,3% của TP. Đà Nẵng năm 2013).

Quá trình đô thị hóa nhanh cùng với nền kinh tế phát triển mạnh, TP. HCM đã

thu hút một lực lượng lao động rất lớn tập trung vào các ngành nghề khác nhau, làm

2

cho lao động tăng lên nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng, CCLĐ cũng có sự

chuyển dịch theo hướng CNH – HĐH. Nhưng hiện nay, TP. HCM vẫn chưa sử

dụng một cách hiệu quả nguồn lao động, chất lượng lao động còn hạn chế, tỉ lệ lao

động đang làm việc đã qua đào tạo có tăng trưởng nhưng chậm và không ổn định

(28,3% năm 2005, 27,0% năm 2010 và 31,8% năm 2013, đứng thứ ba cả nước sau

Hà Nội và Đà Nẵng). CCLĐ theo ngành chuyển dịch còn chậm, tỉ trọng lao động

trong các ngành thâm dụng lao động còn cao; CCLĐ theo không gian cũng đang có

nhiều biến động, không chỉ do chuyển dịch CCKT mà còn bị ảnh hưởng bởi thay

đổi hành chính và quy hoạch đô thị...

Có thể nói lao động và chuyển dịch CCLĐ của TP. HCM trong quá trình đô thị

hóa và trực tiếp là CNH – HĐH có những đặc trưng khác biệt. Vì vậy, tác giả đã

chọn đề tài “Chuyển dịch cơ cấu lao động ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá

trình đô thị hóa” làm luận án Tiến sĩ chuyên ngành Địa lí học. Luận án nhằm

nghiên cứu quá trình chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM nhanh hay chậm, có phù hợp

với quá trình chuyển dịch CCKT và định hướng phát triển của thành phố hay

không? Trên cơ sở đó rút ra những mặt tích cực và hạn chế trong quá trình chuyển

dịch để có những định hướng và giải pháp giải quyết những vấn đề chưa hoàn thiện,

còn tồn tại về CCLĐ và chuyển dịch CCLĐ của TP. HCM trong quá trình đô thị

hóa, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của thành phố trong thời gian tới.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Vận dụng cơ sở lí luận và thực tiễn về cơ cấu lao động, chuyển dịch CCLĐ và

quá trình đô thị hóa ở Việt Nam để làm sáng tỏ thực trạng chuyển dịch CCLĐ của

TP. HCM trong quá trình đô thị hóa giai đoạn 1999 – 2013. Trên cơ sở đó đề xuất

một số định hướng, dự báo về chuyển dịch CCLĐ của TP. HCM đến năm 2025 và

đưa ra một số giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu lao động đạt hiệu quả cao trong

thời gian tới.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan chọn lọc những vấn đề lí luận và thực tiễn về chuyển dịch CCLĐ

và đô thị hóa để vận dụng vào địa bàn nghiên cứu.

3

- Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch CCLĐ trong quá trình đô thị

hóa ở TP. HCM giai đoạn 1999 – 2013.

- Phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động ở TP. HCM trong quá trình

đô thị hóa giai đoạn 1999 - 2013.

- Dự báo sự chuyển dịch CCLĐ và đề xuất một số giải pháp nhằm chuyển dịch

CCLĐ trong quá trình đô thị hóa ở TP. HCM đến năm 2025.

3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu

3.1. Về nội dung

- Luận án tập trung nghiên cứu thực trạng chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM theo

những nội dung chính: theo nhóm ngành và ngành kinh tế, trong đó tập trung vào

một số ngành tiêu biểu; theo thành phần kinh tế; theo lãnh thổ; theo trình độ CMKT

và theo tuổi, giới tính.

- Các định hướng và giải pháp chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM trong quá trình

đô thị hóa có tính đến mối liên kết, hợp tác trong sử dụng lao động với VKTTĐPN

trong tương lai.

- Trong luận án, nghiên cứu chuyển dịch CCLĐ đang làm việc trong các ngành

kinh tế (hay lực lượng lao động), các số liệu được công bố chính thức, không

nghiên cứu lao động tự do, lao động xuất, nhập cư không chính thức và lao động là

người nước ngoài.

3.2. Về không gian

- Nghiên cứu chuyển dịch CCLĐ trên toàn bộ lãnh thổ hành chính hiện tại của

TP. HCM gồm 19 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành.

- Do có những thay đổi ranh giới hành chính trong quá trình ĐTH cũng như để

làm rõ hơn những đặc trưng khác biệt theo tổ chức không gian đô thị ở TP. HCM,

đề tài chia thành ba khu vực đô thị hóa: Khu vực nội đô (gồm 12 quận nội thành cũ

Q.1, 3, 4, 5, 6, 8, 10, 11, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Gò Vấp, Tân Bình); Khu vực

vùng ven (gồm 7 quận mới Q.2, 7, 9, 12, Thủ Đức, Bình Tân, Tân Phú); Khu vực

ngoại thành (gồm 5 huyện Nhà Bè, Cần Giờ, Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh).

- Đề tài có chú ý tới việc liên kết trong sử dụng lao động với các tỉnh lân cận

(Bình Dương, Đồng Nai…) và có tính đến tổ chức không gian đô thị Vùng TP.

4

HCM và Vùng KTTĐPN trong tương lai, được thể hiện ở phần định hướng và giải

pháp của chương 3.

3.3. Về thời gian

- Đề tài tập trung nghiên cứu quá trình chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM trong

giai đoạn 1999 – 2013 gắn liền với quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra

mạnh mẽ nhất trong giai đoạn này.

- Đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển

dịch CCLĐ của TP. HCM đến năm 2025.

- Trong quá trình nghiên cứu, tác giả thống nhất các mốc năm nghiên cứu để

thuận tiện cho việc so sánh và đánh giá gồm 1999, 2000, 2005, 2009 và 2013. Tuy

nhiên, do một số nội dung nghiên cứu số liệu có những thay đổi, điều chỉnh cách

tính và thu thập nên có sử dụng một số mốc năm khác nhau để nghiên cứu.

- Khi nghiên cứu chuyển dịch CCLĐ theo lãnh thổ, để đảm bảo tính tương thích

và đồng nhất về mặt số liệu tác giả sử dụng kết quả tổng hợp từ Tổng điều tra Dân

số và Nhà ở TP. HCM năm 1999 và 2009 để nghiên cứu chuyển dịch CCLĐ của

từng quận, huyện và ba khu vực đô thị hóa của thành phố.

4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Vấn đề lao động, CDCCLĐ trong quá trình ĐTH đã được nhiều nhà khoa học

và nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu thể hiện qua các công trình khoa học như luận

án, sách chuyên khảo, bài viết trên báo, tạp chí, các kỷ yếu hội thảo khoa học…

4.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan

Michael Spence, Patricia Clarke, Annez và Robert M. Buckley đồng chủ biên

(2010), Đô thị hóa và tăng trưởng [97]. Nội dung thể hiện mối quan hệ giữa quá

trình ĐTH và tăng trưởng kinh tế. Theo nhóm tác giả, để đạt được tốc độ tăng

trưởng cao và bền vững thì các ngành chế tạo và dịch vụ ở khu vực thành thị luôn

dẫn đầu, phát triển sản xuất nông nghiệp ở nông thôn với việc áp dụng KHKT đã

góp phần giải phóng sức lao động và bộ phận lao động đó sẽ di cư vào đô thị tham

gia các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp trong đô thị. Ngoài ra, NSLĐ trong các

ngành chế tạo và dịch vụ luôn cao hơn từ ba đến năm lần so với khu vực truyền

thống, và vì vậy, để nâng cao đời sống người dân khu vực nông thôn, giải pháp

5

quan trọng là chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang các ngành nghề

phi nông nghiệp có NSLĐ cao hơn.

Nhiêu Hội Lâm (2004), tác giả cuốn Kinh tế học đô thị [38] phân tích 6 nội

dung thuộc kinh tế đô thị, trong đó nội dung CCKT đô thị và khu vực kinh tế đô thị

đã cung cấp nhiều luận điểm có giá trị. Ông phân chia cơ cấu ngành của đô thị

thành ba khu vực sản xuất có quan hệ tỉ lệ cơ cấu và quy luật biến động của nó: tỉ

trọng ngành sản xuất thứ nhất giảm khi bước vào thời kì CNH, tỉ trọng ngành sản

xuất thứ hai tăng lên nhanh chóng nhưng khi đạt đến giới hạn cuối cùng (không

vượt quá 50%) thì bắt đầu giảm thấp, tỉ trọng ngành sản suất thứ ba bắt đầu tăng lên

nhanh chóng và chiếm tỉ trọng lớn nhất. Để minh chứng cho những luận cứ của

mình, ông đưa nhiều ví dụ về sự phát triển kinh tế trong quá trình ĐTH của các

nước phát triển như Anh, Pháp, Mĩ và các nước châu Á như Trung Quốc, Nhật

Bản… trong thời gian qua làm cơ sở thực tiễn.

Nolwen Heraff, Jean - Yves Martin biên tập (2001), Lao động, việc làm và

nguồn nhân lực ở Việt Nam sau 15 năm đổi mới. Cuốn sách là tập hợp bài viết của

nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu khái quát về tình hình lao động, việc

làm và nguồn nhân lực của nước ta trong giai đoạn từ sau đổi mới 1986 đến năm

2000. Trong quá trình đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường, Việt Nam có lợi thế

về nguồn nhân lực dồi dào nhưng hạn chế về chất lượng, số lao động chưa qua đào

tạo nghề chiếm tỉ lệ khá cao đã ảnh hưởng rất lớn đến phát triển KT - XH nước ta.

Ian Coxhead, Diệp Phan cùng các cộng sự (2009), Báo cáo thị trường lao

động, việc làm và đô thị hóa ở Việt Nam đến năm 2020: học hỏi từ kinh nghiệm

quốc tế [98]. Thông qua việc nghiên cứu và phân tích quá trình phát triển, lao động

và đô thị hóa trong bối cảnh khu vực hóa và toàn cầu hóa của các nước NICs, một

số nước Đông Nam Á (Malaysia, Thái Lan, Indonesia), Trung Quốc và Ấn Độ đã

rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc sử dụng nguồn lao động

trong quá trình đô thị hóa. Đồng thời báo cáo cũng đưa ra các khuyến nghị về chính

sách lao động và đô thị hóa cho nước ta từ nay đến năm 2020.

Ngân hàng Thế giới với báo cáo hỗ trợ kĩ thuật “Đánh giá đô thị hóa ở Việt

Nam” (2011) [41]. Báo cáo đã phân tích quá trình phát triển của hệ thống đô thị tại

6

Việt Nam thông qua những thay đổi về mặt hành chính, không gian đô thị, kinh tế,

dân số và phúc lợi, diễn ra trong toàn bộ hệ thống đô thị của nước ta. Báo cáo cho

thấy, Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của quá trình ĐTH, có sự chuyển đổi kinh tế

ngày càng tăng, hướng tới sản xuất công nghiệp tạo ra nhiều việc làm. Tốc độ tăng

trưởng kinh tế nhanh chóng của Việt Nam do hai hệ thống đô thị Hà Nội và TP.

HCM dẫn dắt nhờ tốc độ tăng trưởng cao và sự tập trung hoạt động công nghiệp

trong vùng nội đô cũng như các vùng lân cận.

Các báo cáo “Điều tra lao động - việc làm Việt Nam” của Bộ Lao động –

Thương binh và Xã hội, Tổng cục Thống kê công bố hằng năm cung cấp hệ thống

số liệu, dữ liệu và các đánh giá về thực trạng lao động - việc làm hằng năm trên

quy mô quốc gia cũng như trong từng tỉnh, thành của cả nước. Đó là nguồn tài

liệu, số liệu vô cùng quý giá và bổ ích giúp cho tác giả tham khảo và phục vụ cho

luận án của mình khi cần so sánh, đánh giá các vấn đề liên quan đến lao động -

việc làm của TP. HCM với cả nước và các địa phương khác.

Phạm Quý Thọ (2006), Chuyển dịch CCLĐ trong xu hướng hội nhập quốc tế

[60]. Tác giả đã trình bày một cách có hệ thống những vấn đề lí luận chủ yếu về

chuyển dịch CCLĐ như mối quan hệ giữa chuyển dịch CCKT với CCLĐ, bản chất

và xu hướng chuyển dịch CCLĐ, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch

CCLĐ. Trên cơ sở đó, tác giả phân tích và đánh giá thực trạng CDCCLĐ của nước

ta theo ngành kinh tế, thành phần kinh tế, vùng lãnh thổ cũng như những thay đổi

quan trọng về chất lượng lao động. Đưa ra các phương hướng, quan điểm và giải

pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy chuyển dịch CCLĐ ở nước ta trong thời gian tới.

Lê Xuân Bá (2006), Các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao

động nông thôn Việt Nam [2]. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả cùng cộng

sự đã làm rõ các khái niệm sử dụng trong nghiên cứu như lao động, cơ cấu kinh tế,

cơ cấu lao động; đưa ra những mô hình lý thuyết về mối liên kết giữa hai khu vực

nông nghiệp và phi nông nghiệp (dựa trên lí thuyết hai khu vực của Lewis); phân

tích các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang phi

nông nghiệp. Nhóm tác giả tập trung phân tích thực trạng chuyển dịch CCLĐ ở

7

nông thôn Việt Nam từ đầu những năm 1990 trở lại đây, đánh giá những mặt tích

cực và tiêu cực, mặt được và chưa được trong quá trình chuyển dịch CCLĐ.

Phí Thị Hằng (2014), Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành ở Thái Bình

trong giai đoạn hiện nay [27]. Luận án tập trung nghiên cứu quá trình chuyển dịch

CCLĐ theo ngành của Thái Bình trong giai đoạn từ 2001 đến 2012. Về mặt lí luận,

tác giả đã làm rõ cơ sở lí thuyết về chuyển dịch CCLĐ theo ngành ở địa bàn cấp

tỉnh, đưa ra nội dung và các xu hướng chuyển dịch, đặc biệt tác giả đã đưa ra bộ chỉ

tiêu đánh giá quá trình chuyển dịch CCLĐ theo ngành xét về số lượng và chất

lượng. Luận án đi sâu vào phân tích sự chuyển dịch lao động trong nội bộ các ngành

kinh tế của tỉnh dựa trên các tiêu chí đánh giá xét về quy mô và chất lượng; rút ra

những vấn đề còn tồn tại trong quá trình chuyển dịch và nguyên nhân của nó. Để từ

đó làm cơ sở đề xuất định hướng và giải pháp thúc đẩy chuyển dịch CCLĐ theo

ngành của tỉnh Thái Bình đến năm 2020.

Nguyễn Thị Thơm, Phí Thị Hằng (2009), Giải quyết việc làm cho lao động

nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa [61]. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng việc

làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở

Hải Dương – một tỉnh trọng điểm của ĐB sông Hồng – nhóm tác giả đã phân tích

tác động của đô thị hóa đến vấn đề lao động, việc làm trong nông nghiệp. Quá trình

CNH – HĐH cùng với quá trình đô thị hóa làm xuất hiện các KCN, cụm công

nghiệp mọc lên khắp nơi, diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp. Người nông dân mất

đất, mất tư liệu sản xuất dẫn đến không có việc làm, phải chuyển sang các hoạt

động phi nông nghiệp khác. Vì vậy, vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông

nghiệp lúc này là vấn đề bức thiết. Nhóm tác giả đã đưa ra những giải pháp trong

việc giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa như

giải pháp về quy hoạch, về mở rộng cầu lao động, nâng cao chất lượng lao động,…

Nguyễn Thị Hải Vân (2013), Đô thị hóa và việc làm lao động ngoại thành Hà

Nội [82]. Trên cơ sở lí luận về tác động của đô thị hóa tới lao động, việc làm ở nông

thôn và từ kinh nghiệm thực tiễn của hai thành phố lớn là TP. HCM và thành phố

Đà Nẵng trong điều tiết tác động của đô thị hóa tới lao động, việc làm ở nông thôn,

tác giả đã đi sâu phân tích thực trạng của thành phố Hà Nội. Ba yếu tố được tác giả

8

làm rõ gồm: tác động đến xu hướng lao động, việc làm ở nông thôn; tác động đến

cơ cấu và chất lượng lao động nông thôn ngoại thành; tác động đến việc làm và sinh

kế nông thôn ngoại thành. Qua phân tích cho thấy quá trình ĐTH đã làm thu hẹp

diện tích đất nông nghiệp, làm biến đổi cơ cấu ngành nghề và một bộ phận người

dân không có việc làm mới. Người nông dân mất đất phải tự tìm việc làm tự phát,

không ổn định và khó khăn khi chuyển qua các ngành nghề mới do không có trình

độ CMKT hoặc trình độ tay nghề yếu, họ di cư vào đô thị gây ra nhiều “hệ lụy”

nghiêm trọng cho cả khu vực thành thị và nông thôn lên các vấn đề kinh tế, xã hội

và môi trường.

Hà Thị Hằng (2013), “Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn

với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên - Huế hiện nay”[28]. Luận án đã

làm rõ những yêu cầu của nguồn nhân lực cho CNH – HĐH gắn với phát triển nền

kinh tế tri thức đó là nguồn nhân lực phải đảm bảo đủ về số lượng, có chất lượng

cao thể hiện ở thể lực, trí lực, trình độ học vấn, trình độ CMKT và có cơ cấu hợp lí.

Tác giả đưa ra bốn xu hướng chuyển dịch cơ cấu nguồn nhân lực theo hướng CNH

– HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là: (1) xu hướng chuyển dịch cơ cấu

nguồn nhân lực có trình độ CMKT theo cơ cấu nền kinh tế; (2) xu hướng chuyển

dịch theo ngành kinh tế; (3) xu hướng chuyển dịch theo vùng kinh tế và (4) xu

hướng chuyển dịch theo thành phần kinh tế.

Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu cơ sở lí luận về ĐTH và ĐTH

ảnh hưởng đến chuyển dịch CCLĐ như Kinh tế đô thị và vùng của tác giả Trần Văn

Tấn (chủ biên); Một số vấn đề KT – XH nảy sinh trong quá trình CNH, ĐTH ở Việt

Nam do Võ Văn Đức, Đinh Ngọc Giang đồng chủ biên; Dân số và tiến trình đô thị

hóa – động thái phát triển và triển vọng của Trần Cao Sơn; tác giả Trương Quang

Thao với cuốn Đô thị học – những khái niệm mở đầu; Đánh giá đô thị hóa ở Việt

Nam, báo cáo hỗ trợ kĩ thuật của Ngân hàng Thế giới; Di cư và đô thị hóa ở Việt

Nam của Tổng cục Thống kê; …

Các công trình nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn về lao động, chuyển dịch

CCLĐ như Phạm Đức Chính (2005), Thị trường lao động – cơ sở lí luận và thực

tiễn ở Việt Nam; Đinh Đăng Định, Một số vấn đề về lao động, việc làm và đời sống

9

người lao động ở Việt Nam hiện nay; Phát huy nguồn lực con người để CNH -

HĐH: kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam của Vũ Bá Thể (2005); Nguyễn

Văn Phúc, Mai Thị Thu (2012), Khai thác và phát triển tài nguyên nhân lực Việt

Nam; Lê Văn Toan với Lao động, việc làm trong xu thế toàn cầu hóa; Trần Xuân

Cầu, Mai Quốc Chánh (2009), Giáo trình kinh tế nguồn nhân lực; Dân số học đô thị

của Trần Hùng; Vũ Thị Kim Cúc với luận án Tiến sĩ Nghiên cứu chuyển dịch CCKT

nông nghiệp TP. Hải Phòng (2012)… Các đề tài nghiên cứu và tác phẩm của các

tác giả đã khái quát nội dung lí luận về nguồn lao động, chuyển dịch CCLĐ và sử

dụng lao động trong quá trình CNH – ĐTH ở nước ta và một số địa phương.

4.2. Các công trình nghiên cứu về lao động và chuyển dịch cơ cấu lao

động ở TP. HCM

Đàm Nguyễn Thuỳ Dương (2004), Nguồn lao động và sử dụng nguồn lao

động ở TP. HCM [20]. Luận án đã tổng hợp chọn lọc những vấn đề lí luận và thực

tiễn về nguồn lao động và sử dụng nguồn lao động để vận dụng vào địa bàn nghiên

cứu. Trên cơ sở phân tích quy mô, cơ cấu, chất lượng nguồn lao động và việc sử

dụng nguồn lao động theo các ngành cũng như thành phần kinh tế, tác giả cho thấy

TP. HCM có quy mô nguồn lao động lớn nhất cả nước, chiếm 7,7% tổng nguồn lao

động cả nước; lao động tập trung chủ yếu ở khu vực công nghiệp và dịch vụ; chất

lượng lao động ngày càng được nâng cao, tuy nhiên lao động kĩ thuật cao chủ yếu

tập trung ở khu vực kinh tế nhà nước và khu vực đầu tư nước ngoài; tỉ lệ thất nghiệp

còn cao; luận án đưa ra các giải pháp nhằm ổn định nguồn lao động và sử dụng lao

động một cách có hiệu quả trong quá trình phát triển kinh tế của TP. HCM.

Trần Hồi Sinh (chủ nhiệm đề tài) (2006), Chuyển dịch cơ cấu lao động 5

huyện ngoại thành TP. HCM trong quá trình đô thị hoá – thực trạng và giải pháp

[48]. Đề tài tập trung nghiên cứu ba vấn đề lớn như sau: làm rõ về mặt lí luận và nội

dung cơ cấu lực lượng lao động và chuyển dịch CCLĐ ở 5 huyện ngoại thành; phân

tích hiện trạng CCLĐ và chuyển dịch CCLĐ ở 5 huyện ngoại thành, so sánh mối

quan hệ giữa chuyển dịch CCKT và CCLĐ để đánh giá những mặt tích cực và hạn

chế trong quá trình chuyển dịch; đề xuất các chính sách, giải pháp để đẩy nhanh

10

việc chuyển dịch CCLĐ 5 huyện ngoại thành theo các mục tiêu phát triển KT - XH

của thành phố theo hướng nâng cao chất lượng lao động.

Nguyễn Thị Cành (2001), Điều tra nguồn nhân lực trên địa bàn TP. HCM [6].

Dựa trên các kết quả tổng hợp từ hai cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1989

và 1999, công trình nghiên cứu của nhóm tác giả đã xử lí và chọn lọc các số liệu

phân tích thực trạng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn TP. HCM giai

đoạn 1989 – 1999. Công trình đã cung cấp cơ sở hệ thống số liệu quan trọng có liên

quan đến thực trạng cung và cầu nguồn nhân lực của thành phố, dự báo nhu cầu

nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội TP. HCM trong giai đoạn tiếp theo.

Nguyễn Trần Dương (2006), Hiện trạng cung – cầu nguồn lao động kỹ thuật

TP. HCM và định hướng giải pháp đào tạo, sử dụng cho giai đoạn tới 2010 [21].

Tác giả cùng nhóm cộng sự đã tiến hành khảo sát tại 70 cơ sở sản xuất dịch vụ, 40

cơ sở đào tạo thuộc các thành phần kinh tế (nhà nước, tư nhân, liên doanh, 100%

vốn nước ngoài) cùng cơ sở dữ liệu điều tra của các công trình có liên quan. Dựa

trên kết quả đó, công trình đi sâu phân tích hiện trạng cung – cầu nguồn lao động kĩ

thuật TP. HCM, VKTTĐPN và Việt Nam. Qua phân tích cho thấy thị trường lao

động TP. HCM phát triển theo quy luật kinh tế thị trường nhiều thành phần, hội

nhập với khu vực và quốc tế. Nguồn lao động và cơ cấu việc làm có sự biến động,

số lao động không ổn định việc làm, mất việc làm hằng năm lớn, số lao động có

trình độ CMKT còn thiếu. Từ những đặc điểm và quan niệm mới về cung – cầu lao

động kĩ thuật trong điều kiện CNH – HĐH, cách mạng KHCN, đưa ra những dự báo

về nhu cầu lao động kĩ thuật, các yếu tố ảnh hưởng đến cung – cầu lao động kĩ thuật

cũng như xu hướng vận động của cơ cấu lực lượng lao động trên địa bàn TP. HCM.

Cao Minh Nghĩa (chủ nhiệm đề tài – 2007), Phân tích các mối quan hệ giữa

biến động dân số và tăng trưởng kinh tế trên địa bàn TP. HCM [42]. Thông qua

việc nghiên cứu thực trạng biến động nguồn lao động, sự thay đổi của cơ cấu lao

động về số lượng (ngành kinh tế, thành phần kinh tế) và theo chất lượng (trình độ

học vấn, trình độ CMKT), nhóm tác giả đã rút ra một số kết luận về lao động TP.

HCM như sau: (1) cơ cấu dân số trẻ, dân số trong độ tuổi lao động chiếm tỉ trọng

lớn; (2) cơ cấu lao động có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực, phù hợp với quá

11

trình CNH – HĐH; (3) chất lượng nguồn lao động ngày càng được nâng cao, tạo

thuận lợi để phát triển công tác đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển

của TP. HCM. Đề tài cũng đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh mối quan

hệ giữa dân số, lao động với tăng trưởng kinh tế như giải pháp về đào tạo nguồn

nhân lực trình độ cao, giải pháp phát triển các ngành kinh tế, giải pháp giải quyết

việc làm và nâng cao năng suất lao động…

Trần Hữu Quang (2010), Cư dân đô thị và không gian đô thị trong tiến trình

ĐTH ở TP. HCM: thực trạng và dự báo [46]. Đề tài nghiên cứu về mối quan hệ

giữa cư dân đô thị với không gian đô thị trong tiến trình ĐTH ở TP. HCM hiện nay

với những nội dung chính sau: những đặc điểm của cơ cấu dân số, lao động và gia

đình của cư dân đô thị TP. HCM, sự phân bố cư dân trên địa bàn đô thị TP. HCM,

không gian cư trú và động thái chuyển dịch nơi cư trú trong những thập niên qua.

Nguyễn Long Giao (2013), Phát triển nguồn nhân lực ở TP. HCM trong quá

trình CNH – HĐH, luận án đã trình bày, làm rõ hơn mặt lí luận về phát triển nguồn

nhân lực; phân tích, đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở TP. HCM trong

thời kì CNH – HĐH. Trên cơ sở đó luận án trình bày phương hướng và đề xuất một

số giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở TP. HCM trong quá trình CNH – HĐH.

Một số bài viết trong kỉ yếu Hội thảo Khoa học quốc gia “20 năm đô thị hóa

Nam Bộ - Lí luận và thực tiễn” [77] như “Đô thị hóa và sử dụng đất: phân tích

quá trình chuyển đổi đất đai tại TP. HCM giai đoạn 2004 – 2014” của Phạm Thái

Sơn; “Tác động của quá trình đô thị hóa đối với lao động nhập cư và biến động

việc làm ở TP. HCM” của tác giả Hoàng Văn Khải; Nguyễn Thị Mĩ Linh với bài

viết “Vai trò quản lí nhà nước trong kiểm soát quá trình phân bố dân cư tại TP.

HCM”… Thông qua bài viết, các tác giả đã phần nào khái quát lại tiến trình đô thị

hóa ở TP. HCM trong quá trình phát triển, đánh giá những tác động của quá trình đô

thị hóa đến một số vấn đề như phát triển không gian đô thị, sử dụng đất đai, lao

động nhập cư, chuyển dịch CCLĐ… Đây là những tài liệu tham khảo hữu ích cung

cấp thêm cho tác giả luận án trong quá trình hoàn thiện luận án của mình.

12

Một số công trình nghiên cứu, bài báo, luận án có liên quan đến lao động,

chuyển dịch CCKT và CCLĐ ở TP. HCM như Lương Minh Cừ, Đào Duy Huân,

Phạm Đức Hải (2013), Chuyển dịch CCKT, mô hình tăng trưởng kinh tế TP HCM

và Việt Nam theo hướng cạnh tranh đến năm 2020; Phạm Thị Xuân Thọ (2001) với

luận án Di dân ở TP. HCM và tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội;

Thị trường lao động TP. HCM trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và kết quả

điều tra doanh nghiệp về nhu cầu lao động của nhóm tác giả do Nguyễn Thị Cành

chủ biên (2001); Bạch Văn Bảy (chủ nhiệm đề tài - 1996) với Di dân, nguồn nhân

lực, việc làm và đô thị hoá ở TP. HCM; Lê Thị Ngọc Dung (chủ nhiệm đề tài -

2014) Lao động trong khu vực phi chính thức TP. HCM nhìn từ góc độ lịch sử,

văn hóa – Thực trạng và giải pháp; Đặng Ngọc Tùng với luận án Giải pháp phát

triển lực lượng lao động ngành công nghiệp của TP. HCM theo hướng CNH –

HĐH; Chính sách tác động tới sự phát triển thị trường sức lao động trên địa bàn

TP. HCM trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế (2006) của Đinh Thị Kim Chi; …

Một số công trình nghiên cứu về lao động và CCLĐ khu vực vùng ven và

ngoại thành TP. HCM trong quá trình ĐTH như Lê Văn Năm (chủ biên) với đề tài

Nông dân ngoại thành TP. HCM trong tiến trình ĐTH; Viện Kinh tế TP. HCM hội

thảo Nghiên cứu cơ chế chính sách thúc đẩy CDCCLĐ và nâng cao mức sống dân

cư ở khu vực nông thôn ngoại thành TP. HCM (2006); Dư Phước Tân (chủ nhiệm

đề tài) Các vấn đề KT - XH đặt ra đối với vùng ven trong quá trình ĐTH (2005).

Nhìn chung, vấn đề lao động và chuyển dịch CCLĐ trong quá trình ĐTH được

nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu cả về mặt lí luận và thực tiễn trên nhiều

khía cạnh khác nhau. Như vấn đề lao động và việc làm trong nền kinh tế thị trường;

chuyển dịch CCLĐ ở nông thôn hay khu vực ngoại thành; chuyển dịch CCLĐ theo

ngành kinh tế; chiến lược phát triển nguồn lao động, nguồn nhân lực chất lượng cao

trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế… Tuy nhiên, còn ít tác giả nghiên cứu kĩ cơ

cấu và chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM trong quá trình đô thị hoá, cũng như đưa ra

những giải pháp cho việc sử dụng lao động và chuyển dịch CCLĐ hợp lí, phù hợp

với quá trình đô thị hoá ở TP. HCM trong thời kì mới.

13

5. Quan điểm và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Quan điểm nghiên cứu

5.1.1. Quan điểm hệ thống

Trong quá trình nghiên cứu chuyển dịch CCLĐ tại TP. HCM, quan điểm hệ

thống được xem là quan điểm quan trọng. Nguồn lao động là một trong những

nguồn lực quan trọng trong quá trình phát triển KT - XH. Sự phát triển về số lượng

và chất lượng LĐ cũng như việc sử dụng LĐ phụ thuộc vào một CCKT hợp lí và

một thể chế xã hội nhất định. Vì vậy phải coi các vấn đề lao động như một hệ thống

con trong hệ thống KT - XH hoàn chỉnh, luôn vận động và phát triển không ngừng.

Trong hệ thống kinh tế - xã hội TP. HCM bao gồm nhiều hệ thống nhỏ hơn

như hệ thống các ngành kinh tế, hệ thống dân cư, xã hội, đô thị… Trong đó, con

người là chủ thể có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau. Bởi vậy, nghiên cứu lao

động và chuyển dịch cơ cấu lao động TP. HCM phải xem xét nó trong một hệ thống

hoàn chỉnh, thống nhất và không tách rời với sự phát triển kinh tế - xã hội của thành

phố. Đồng thời TP. HCM còn là một bộ phận của hệ thống lớn hơn thuộc vùng

Đông Nam Bộ, VKTTĐPN và cả nước. Vì vậy, sự chuyển dịch cơ cấu lao động của

TP. HCM có ảnh hưởng trực tiếp đến các tỉnh thành lân cận và với đất nước.

5.1.2. Quan điểm lãnh thổ

Nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động của TP. HCM phải được

đặt trong bối cảnh công nghiệp hóa - đô thị hoá và phát triển kinh tế - xã hội của TP.

HCM với những đặc thù của lãnh thổ về vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, tài nguyên

thiên nhiên, lịch sử phát triển, định hướng phát triển… Trên cơ sở đó đưa ra những

tiêu chí đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động và những nhận định, giải

pháp phù hợp với quá trình phát triển của thành phố.

Ngoài ra, việc nghiên cứu vấn đề lao động và chuyển dịch CCLĐ của thành

phố không thể tách rời vấn đề lao động và chuyển dịch CCLĐ của các tỉnh lân cận,

vùng Đông Nam Bộ, VKTTĐPN và cả nước. Vì nguồn lao động TP. HCM là một

bộ phận trong nguồn lao động của Vùng và cả nước. Từ việc xem xét với các bộ

phận lãnh thổ khác, sẽ xác định được những đặc trưng riêng phải giải quyết trong

điều kiện cụ thể của thành phố.

14

5.1.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh

Sự phát triển của dân số, kinh tế - xã hội trong quá khứ và hiện tại ảnh hưởng

rất lớn đến nguồn lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động trong hiện tại cũng như

tương lai. Việc nghiên cứu vấn đề lao động trong mối liên hệ giữa quá khứ, hiện tại

và tương lai sẽ làm rõ được bản chất của vấn đề theo một chuỗi thời gian.

Vận dụng quan điểm lịch sử - viễn cảnh trong việc nghiên cứu, luận án đã

phân tích, đánh giá thực trạng chuyển dịch CCLĐ trong từng giai đoạn lịch sử nhất

định phù hợp với chính sách, định hướng phát triển của thành phố qua các kì Đại

hội Đảng bộ và gắn với quá trình ĐTH. Trong đó, luận án cũng đặc biệt chú ý đến

các thời điểm lịch sử quan trọng và những biến động KT-XH có tác động đến phát

triển kinh tế của TP. HCM như hình thành các KCN – KCX, quá trình gia nhập

WTO… Từ thực trạng của hiện tại để hướng đến tương lai, đưa ra những định

hướng và dự báo thay đổi CCLĐ trong tương lai gắn liền với quá trình CNH - ĐTH.

5.1.4. Quan điểm phát triển bền vững

Phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động phải đi đôi với sử dụng hợp

lý, bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên, chống ô nhiễm môi trường, kết hợp hài

hoà giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội nhằm nâng cao chất

lượng cuộc sống con người. Vì vậy, chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM phải được xem

xét trong mối quan hệ với chuyển dịch CCKT, trong mối quan hệ với sự thay đổi

NSLĐ để đảm bảo sự phát triển bền vững trên các mặt kinh tế, xã hội, môi trường,

đảm bảo nâng cao chất lượng cuộc sống người lao động trong quá trình nghiên cứu.

5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu

5.2.1. Phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp tài liệu

Trên cơ sở thu thập, tổng hợp tài liệu từ các nguồn tài liệu thứ cấp giúp tác giả

tổng quan được các vấn đề lí luận để tạo nên cơ sở lí thuyết cho luận án. Các tài liệu

về kinh tế và lao động của thành phố giúp tác giả phân tích sâu hơn về thực trạng

chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM và rút ra những vấn đề chung trong quá trình

chuyển dịch. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả cố gắng đối chiếu các tài liệu

thuộc các nguồn khác nhau; sắp xếp, so sánh và hệ thống hóa để tìm ra các số liệu

hợp lí, logic phù hợp với nội dung nghiên cứu của luận án.

15

5.2.2. Phương pháp thực địa

Phương pháp thực địa là phương pháp truyền thống và cơ bản trong nghiên

cứu địa lí. Để có những số liệu bổ sung và có những luận cứ đánh giá thực trạng

kinh tế - xã hội và chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM, ngoài số liệu thống kê thu thập

được tác giả còn tiến hành thực địa tại một số địa bàn quận, huyện như Quận 9, Thủ

Đức, Bình Tân, huyện Bình Chánh, Hóc Môn. Đây là những địa bàn đang diễn ra

quá trình đô thị hóa nhanh, CCLĐ chuyển dịch nhanh chóng để đối chiếu, so sánh

với những kết quả mà tác giả phân tích thông qua cơ sở dữ liệu đã thu thập được.

Kết quả thu thập là cơ sở đánh giá tổng hợp ban đầu, thẩm định lại những nhận

định, dự báo trong quá trình nghiên cứu thực hiện nhiệm vụ đề tài.

5.2.3. Phương pháp thống kê

Các tài liệu thống kê đảm bảo giá trị pháp lí và tính khoa học được triệt để

khai thác phục vụ cho việc nghiên cứu của luận án. Trong quá trình nghiên cứu, tác

giả đã thu thập, tổng hợp, xử lí trên cơ sở dữ liệu và kết quả của cuộc Tổng điều tra

dân số và nhà ở Việt Nam và TP. HCM năm 1999 và 2009, các số liệu thống kê

kinh tế - xã hội của Tổng cục Thống kê, Cục Thống kê TP. HCM, các số liệu lao

động của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội TP. HCM, Trung tâm Dự báo nhu

cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TP. HCM thuộc Sở Lao động -

Thương binh và Xã hội TP. HCM cũng như từ các cơ quan quản lí của thành phố.

Tác giả cũng sử dụng các nguồn số liệu của các tổ chức, ban ngành, viện

nghiên cứu, số liệu thống kê về kinh tế - dân cư - lao động của các vùng và các địa

phương khác để phân tích, so sánh khi cần làm sáng tỏ vị trí của thành phố so với cả

nước hoặc các tỉnh thành lân cận.

5.2.4. Phương pháp bản đồ - GIS

Đây là phương pháp đặc trưng của nghiên cứu địa lí. Trong quá trình thực hiện

luận án, tác giả dựa trên cơ sở dữ liệu đã có thành lập nhiều biểu đồ, đồ thị và bảng

số liệu minh chứng để thể hiện thực trạng, các mối liên hệ, tác động qua lại giữa

phát triển kinh tế với vấn đề lao động và chuyển dịch CCLĐ của thành phố. Dựa

trên phần mềm MapInfo, tác giả thành lập một số bản đồ thể hiện sự thay đổi về

phân bố lao động theo không gian và thời gian của TP. HCM trong quá trình ĐTH.

16

5.2.5. Phương pháp dự báo

Đây là giai đoạn khái quát hóa, hệ thống hóa thông tin ở mức cao nhằm xác

định một vấn đề trong tương lai. Phương pháp dự báo mang tính chất phức tạp và

tính xác suất, tính chính xác của dự báo còn phụ thuộc vào mối quan hệ với sự biến

động kinh tế - xã hội của thành phố. Dựa trên cơ sở quy mô phát triển kinh tế GDP

và mức tăng năng suất lao động để đưa ra dự báo sự chuyển dịch cơ cấu lao động

của TP. HCM và một số nhận định về quá trình đô thị hóa của thành phố.

6. Đóng góp mới của luận án

- Đúc kết có chọn lọc trên cơ sở tổng quan và kế thừa cơ sở lí luận và thực tiễn

về lao động, chuyển dịch cơ cấu lao động và đô thị hóa. Lựa chọn được các tiêu chí

đánh giá chuyển dịch cơ cấu lao động để vận dụng vào trường hợp TP. HCM.

- Phân tích và làm rõ được các nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu lao

động trong quá trình đô thị hóa ở địa bàn nghiên cứu giai đoạn 1999 - 2013.

- Phân tích được thực trạng CDCCLĐ ở TP. HCM trong quá trình ĐTH giai

đoạn 1999 – 2013 theo nội dung chủ yếu là CDCCLĐ theo nhóm ngành và ngành

kinh tế, theo thành phần kinh tế, theo trình độ CMKT, theo tuổi, giới tính và chuyển

dịch phân theo lãnh thổ với ba khu vực đô thị là nội đô, vùng ven và ngoại thành.

Trên cơ sở đó đã đánh giá những kết quả cũng như hạn chế của sự chuyển dịch.

- Đề xuất được các nhóm giải pháp thúc đẩy chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM

trong tương lai trên cơ sở mục tiêu và định hướng phát triển kinh tế - xã hội và đánh

giá từ những kết quả nghiên cứu trong quá trình đô thị hóa đến năm 2025.

7. Cấu trúc luận án

Luận án “Chuyển dịch cơ cấu lao động ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá

trình đô thị hóa” ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung gồm 3 chương:

- Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu lao động và đô thị hóa.

- Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng và thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động ở

TP. HCM trong quá trình đô thị hóa.

- Chương 3: Định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động ở TP. HCM

trong quá trình đô thị hóa đến năm 2025.

17

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG VÀ ĐÔ THỊ HÓA

1.1. Cơ sở lí luận

1.1.1. Một số khái niệm về lao động, cơ cấu lao động và chuyển dịch CCLĐ

1.1.1.1. Lao động

 Lao động

Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người nhằm tạo ra của cải vật

chất và các giá trị tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của bản thân và xã hội. Theo

C.Mác thì “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên,

một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian,

điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên”[82, tr.22]. Để sản xuất ra

của cải vật chất xã hội con người phải dùng sức lao động của mình kết hợp với công

cụ lao động tác động lên đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho con

người. Lao động là điều kiện chủ yếu cho tồn tại của xã hội loài người, là cơ sở của

sự tiến bộ về kinh tế, văn hoá và xã hội.

Như vậy, lao động là hoạt động có mục đích của con người, thông qua hoạt

động lao động con người sử dụng công cụ lao động tác động đến đối tượng lao

động nhằm tạo ra các sản phẩm vật chất, tinh thần phục vụ cho nhu cầu của bản

thân và xã hội.

 Nguồn lao động

Nguồn lao động là nhân tố quan trọng hàng đầu của sự phát triển kinh tế - xã

hội, tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần phục vụ cho nhu cầu của xã hội,

có ảnh hưởng đến việc sử dụng các nguồn lực khác. Trong dân số, không phải tất cả

mọi người đều có thể tham gia sản xuất mà chỉ một bộ phận dân số trong độ tuổi

nhất định theo quy định. Có nhiều khái niệm về nguồn lao động như sau:

Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định của

pháp luật có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động (trên độ

tuổi lao động) đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân [39, tr.143].

18

Nguồn LĐ là toàn bộ những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những

người trong độ tuổi LĐ có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học,

đang làm nội trợ trong gia đình mình hoặc chưa có nhu cầu làm việc [80, tr.95].

Trong luận án, nguồn lao động được hiểu là bộ phận dân số trong độ tuổi lao

động (ở nước ta quy định nam từ 15 – 60 tuổi và nữ từ 15 – 55 tuổi) có khả năng lao

động và những người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi lao động) đang làm việc

trong các ngành kinh tế quốc dân.

Về mặt số lượng: nguồn lao động bao gồm:

- Những người từ 15 tuổi trở lên có việc làm.

- Những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang thất

nghiệp, đang đi học, đang làm nội trợ trong gia đình hoặc chưa có nhu cầu làm việc

và những người thuộc tình trạng khác (những người nghỉ việc hoặc nghỉ hưu trước

tuổi theo quy định của Bộ Luật lao động).

Về mặt chất lượng: nguồn lao động được đánh giá dựa trên trình độ học vấn,

trình độ chuyên môn, tay nghề, sức khỏe, ý thức, kinh nghiệm của người lao động.

Cần phân biệt rõ giữa nguồn lao động và dân số trong độ tuổi lao động. Nguồn

lao động chỉ bao gồm những người có khả năng lao động (dân số từ 15 tuổi trở lên

có việc làm và dân số trong tuổi lao động có khả năng lao động). Dân số trong độ

tuổi lao động bao gồm tất cả những người trong độ tuổi lao động theo quy định

(nam 15 – 60 tuổi, nữ 15 – 55 tuổi) có khả năng lao động và không có khả năng lao

động (tàn tật, mất sức lao động bẩm sinh hoặc mất sức lao động do chiến tranh, tai

nạn, nghề nghiệp…).

Nguồn lao động được chia thành hai bộ phận: dân số hoạt động kinh tế và dân

số không hoạt động kinh tế.

- Dân số hoạt động kinh tế (hay là lực lượng lao động)

Dân số hoạt động kinh tế (hay còn gọi là lực lượng lao động) bao gồm những

người đang làm việc và cả những người không có việc làm (thất nghiệp) nhưng

đang tích cực tìm việc làm trong một ngành nào đó của nền kinh tế trong một

khoảng thời gian xác định [80, tr.96].

19

Trong Báo cáo điều tra lao động – việc làm 2013 của Tổng cục Thống kê thì

“Lực lượng lao động hay dân số hoạt động kinh tế bao gồm những người đang làm

việc và thất nghiệp từ 15 tuổi trở lên”[74].

Trong Niên giám thống kê Việt Nam 2013, Tổng cục Thống kê đưa ra khái

niệm “Lực lượng lao động (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế hiện tại) bao

gồm những người từ 15 tuổi trở lên có việc làm (đang làm việc) và những người

thất nghiệp trong khoảng thời gian xác định”[70].

Trong luận án này, dân số hoạt động kinh tế (hay lực lượng lao động) bao gồm

những người từ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người không có việc làm (đang

thất nghiệp) nhưng có nhu cầu làm việc và đang tích cực tìm kiếm việc làm.

- Dân số không hoạt động kinh tế

Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm toàn bộ số người trong độ tuổi lao

động không tham gia hoạt động kinh tế. Những người này không hoạt động kinh tế

vì đang đi học (học sinh, sinh viên); đang làm công việc nội trợ cho bản thân và gia

đình, không có thu nhập; không có khả năng lao động (ốm đau, tàn tật…) và những

người không có nhu cầu làm việc (được hưởng lợi tức, thu nhập mà không phải làm

việc…) [20], [80].

Bảng 1.1: Nguồn lao động và dân số hoạt động kinh tế

Trong độ tuổi lao động

Ngoài độ tuổi lao động

Nội trợ

Đi học

Thất nghiệp

Đang làm việc

Lao động trẻ em

Không có khả năng lao động

Không có nhu cầu việc làm

Trên tuổi lao động đang làm việc

Trên tuổi lao động không làm việc

Dưới tuổi lao động không làm việc

Dân số không hoạt động kinh tế Dân số hoạt động kinh tế

Nguồn lao động

Nguồn: [80, tr.114]

Như vậy, quy mô nguồn lao động luôn lớn hơn lực lượng lao động, nguồn lao

động là cung tiềm năng về lao động còn lực lượng lao động là cung thực tế về lao

động. Nhìn chung, lực lượng lao động có sự khác nhau về cơ cấu tuổi, giới tính,

20

thành thị và nông thôn, giữa các nước và khu vực với trình độ phát triển KT – XH

khác nhau. Điều này phụ thuộc vào cơ cấu tuổi của dân số, đặc điểm KT – XH và

khả năng tạo việc làm cho những người trong độ tuổi lao động. Đây là bộ phận tích

cực và năng động nhất của dân số và là lực lượng quyết định cho sự phát triển của

một quốc gia.

 Việc làm

Trong Bộ luật Lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa

đổi năm 2012), tại điều 9 chương II đã định nghĩa việc làm là hoạt động lao động

tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm [95].

Theo Tổng cục Thống kê trong Báo cáo điều tra lao động – việc làm 2013 thì

“Việc làm là mọi hoạt động lao động từ 1 giờ trở lên tạo ra nguồn thu nhập không

bị pháp luật cấm”[74].

Như vậy, việc làm là tất cả các hoạt động của người lao động trong những

ngành nghề nhất định, không bị pháp luật ngăn cấm, nhằm tạo ra thu nhập hoặc lợi

ích cho bản thân, gia đình và xã hội.

Thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế

trong thời điểm điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc [20, tr.17].

Như vậy, thất nghiệp là những người có khả năng LĐ, có nhu cầu LĐ nhưng hiện

tại không có việc làm, đang tích cực tìm việc hoặc đang chờ đợi trở lại làm việc.

 Năng suất lao động

Năng suất lao động là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng lao động, đặc trưng

bởi quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả sản xuất) với lao động để sản

xuất ra nó. Năng suất lao động được đo bằng tổng sản phẩm trong nước tính bình

quân cho một lao động trong một thời kì nhất định, thường là một năm [87, tr.46].

Năng suất lao động phản ánh yếu tố chất lượng người lao động, đến cơ cấu

kinh tế của một quốc gia. Năng suất lao động trong ngành chế tạo và các dịch vụ

cao cấp thường cao hơn rất nhiều so với ngành nông nghiệp. Có hai cách để tăng

năng suất lao động: Một là, tăng hiệu quả của các ngành kinh tế bằng cách áp dụng

công nghệ mới, nâng cấp máy móc và đầu tư vào đào tạo kỹ năng và đào tạo nghề.

Tuy nhiên, năng suất lao động có thể tăng nhiều nhất bằng cách thứ hai, chuyển

21

dịch các ngành kinh tế sang các hoạt động có giá trị gia tăng lớn hơn. Bởi vậy, các

quốc gia cần chuyển dịch từ nông nghiệp và các ngành dịch vụ cấp thấp sang các

ngành chế tạo và các ngành dịch vụ cao cấp để nâng cao NSLĐ.

1.1.1.2. Cơ cấu lao động

 Khái niệm cơ cấu lao động

Theo PGS.TS Phạm Quý Thọ thì “Cơ cấu biểu thị cấu trúc của một hệ thống,

gồm nhiều bộ phận có mối liên hệ chặt chẽ với nhau; cơ cấu biểu hiện mối quan hệ

về tỉ trọng giữa các bộ phận hợp thành so với tổng thể hoặc là tỉ lệ giữa các bộ

phận với nhau, bộ phận này tăng thì bộ phận kia giảm và ngược lại”[60, tr.16].

Theo Giáo trình Kinh tế nguồn nhân lực “Cơ cấu lao động là tổng thể các mối

quan hệ tương tác giữa các bộ phận lao động trong tổng nguồn lao động và được

biểu hiện thông qua những tỉ lệ nhất định”[8, tr.80].

Như vậy, cơ cấu lao động là tương quan tỉ lệ giữa các bộ phận cấu thành của

tổng thể lao động, giữa các bộ phận này có mối quan hệ với nhau thể hiện cả về mặt

số lượng và chất lượng lao động trong những khoảng thời gian và không gian nhất

định, nó phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

 Phân loại cơ cấu lao động

 Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế

Ở nước ta, nền kinh tế được phân chia thành nhiều ngành kinh tế khác nhau

thuộc ba nhóm ngành kinh tế lớn gắn liền với sự phát triển của phân công lao động

xã hội trong từng giai đoạn phát triển:

- Khu vực I: bao gồm các ngành nông – lâm – ngư nghiệp.

- Khu vực II: bao gồm các ngành công nghiệp – xây dựng.

- Khu vực III: bao gồm các ngành dịch vụ.

Trong nội bộ mỗi nhóm ngành lớn này lại có sự kết hợp của các ngành nhỏ

hơn với những đặc điểm tương đối giống nhau hợp lại tạo nên cơ cấu nội bộ ngành.

Trong khu vực I bao gồm các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. Trong

đó, nông nghiệp bao gồm trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp; còn lâm

nghiệp có trồng, chăm sóc rừng và khai thác lâm sản; thủy sản có đánh bắt và nuôi

trồng thủy hải sản. Khu vực II là công nghiệp và xây dựng. Trong công nghiệp lại

22

bao gồm nhiều phân ngành thuộc ba nhóm: công nghiệp khai thác, công nghiệp chế

biến và công nghiệp sản xuất phân phối điện, khí đốt và nước. Khu vực III là tập

hợp của nhiều ngành với đặc điểm chung là không trực tiếp tham gia vào quá trình

sản xuất vật chất như thương mại, du lịch, ngân hàng, bảo hiểm, giao thông vận tải,

thông tin liên lạc, giáo dục, y tế… [70].

Như vậy, cơ cấu lao động theo nhóm ngành kinh tế là tương quan tỉ lệ cũng

như xu hướng vận động của lao động trong các ngành nghề khác nhau, ở các lĩnh

vực kinh tế khác nhau. Cơ cấu lao động theo nhóm ngành kinh tế có mối quan hệ

chặt chẽ với cơ cấu kinh tế và phản ánh trình độ phát triển của đất nước. Khi trình

độ phát triển kinh tế - xã hội càng cao thì lao động làm việc trong ngành công

nghiệp và dịch vụ tăng cả về số lượng và tỉ trọng.

 Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế

Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế gắn với các loại hình sở hữu nhất

định về tư liệu sản xuất. Thể hiện sự tương quan tỉ lệ cũng như xu hướng vận động,

phát triển của lao động giữa các thành phần kinh tế tham gia vào các ngành, các lĩnh

vực hay các bộ phận hợp thành của nền kinh tế. Nhờ đó sẽ huy động tối đa được sức

mạnh của mọi tầng lớp, thành phần khác nhau trong xã hội tham gia vào các hoạt

động kinh tế, xây dựng đất nước.

Số lượng các thành phần kinh tế được xác định tùy theo từng giai đoạn lịch sử

nhất định. Hiện nay, nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành

phần theo định hướng XHCN bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế ngoài nhà nước

(tập thể, tư nhân, cá thể) và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh

tế được xác định với vai trò khác nhau, trong đó KV kinh tế nhà nước đóng vai trò

chủ đạo, là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, cơ cấu lao động nước ta

cũng theo thành phần kinh tế gắn với ba khu vực: lao động KV kinh tế nhà nước,

lao động KV kinh tế ngoài nhà nước và lao động KV có vốn đầu tư nước ngoài.

 Cơ cấu lao động theo lãnh thổ (thành thị -nông thôn, các vùng kinh tế…)

Phản ánh sự phân công lao động xã hội về mặt không gian địa lí theo địa giới

hành chính (tỉnh, thành phố, huyện…), theo khu vực thành thị - nông thôn. Sử dụng

lao động theo lãnh thổ là một hình thức đặc biệt của phân công lao động xã hội, tạo

23

điều kiện phát huy lợi thế so sánh của từng vùng, từng khu vực so với khu vực khác.

Tùy theo điều kiện đặc thù của mỗi địa phương, mỗi vùng mà sẽ chuyên môn hóa

sản xuất một hay một số sản phẩm, để cung cấp cho nhu cầu của các vùng khác

trong nước và xuất khẩu. Những khu vực phát triển mạnh hơn sẽ thu hút lực lượng

lao động di chuyển đến. Từ đó có sự di chuyển lao động từ bộ phận lãnh thổ này

sang bộ phận lãnh thổ khác, dẫn đến sự thay đổi về nghề nghiệp, thay đổi cơ cấu lao

động trong các khu vực kinh tế khác nhau giữa các bộ phận lãnh thổ.

 Cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn kĩ thuật

Đây là cơ cấu rất quan trọng khi nghiên cứu cơ cấu lao động vì nó thể hiện

chất lượng nguồn lao động và để đo lường đánh giá trình độ CNH - HĐH đất nước.

Cơ cấu lao động theo trình CMKT thể hiện mối tương quan tỉ lệ cũng như xu hướng

biến động giữa các loại lao động có trình độ CMKT khác nhau. Cơ cấu lao động

theo trình độ CMKT được chia thành bốn cấp bậc gồm đào tạo nghề, trung học

chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và trên đại học (thạc sĩ, tiến sĩ).

 Cơ cấu lao động theo giới tính và độ tuổi

Lực lượng lao động được chia thành lao động nam, lao động nữ, lao động

trong độ tuổi và ngoài độ tuổi theo quy định của pháp luật lao động, trong đó, lao

động ngoài độ tuổi bao gồm lao động trên và dưới tuổi lao động có khả năng và

thực tế tham gia lao động. Cơ cấu lao động theo giới tính và độ tuổi phản ánh một

bức tranh tổng quát về đặc điểm lao động cũng như cơ cấu tuổi của lao động. Một

công cụ hữu ích để mô tả cơ cấu theo tuổi là tháp tuổi của lao động.

1.1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu lao động

 Khái niệm chuyển dịch cơ cấu lao động

Theo PGS.TS Phạm Quý Thọ “Chuyển dịch CCLĐ là sự thay đổi qua thời

gian về tỉ trọng của từng bộ phận trong tổng số lao động theo một không gian, thời

gian nào đó và diễn ra theo một xu hướng nào đó (tăng lên, giảm đi…)” [60, tr.18].

Theo PGS.TS Lê Xuân Bá “Chuyển dịch cơ cấu lao động là quá trình biến

đổi, chuyển hóa khách quan từ cơ cấu lao động cũ sang cơ cấu lao động mới tiến

bộ hơn, phù hợp với cơ cấu kinh tế trong một thời kì nhất định”[27, tr.25].

Theo Giáo trình Kinh tế nguồn nhân lực thì “Chuyển dịch CCLĐ là quá trình

24

thay đổi tỉ trọng và chất lượng lao động vào các ngành và các vùng khác nhau.

Chuyển dịch CCLĐ theo hướng tiến bộ là quá trình thay đổi tỉ trọng và chất lượng

lao động vào các ngành, các vùng theo xu hướng tiến bộ nhằm sử dụng đầy đủ và

có hiệu quả cao các nguồn nhân lực để tăng trưởng và phát triển kinh tế”[8, tr.80].

Tóm lại, có thể hiểu chuyển dịch CCLĐ là sự thay đổi tăng, giảm tỉ trọng của

từng bộ phận trong tổng số lao động, theo không gian và khoảng thời gian nào đó.

Như vậy, chuyển dịch CCLĐ diễn ra trong một không gian và thời gian nhất định,

làm thay đổi số lượng và chất lượng lao động nhằm tạo ra một CCLĐ mới phù hợp

với điều kiện phát triển kinh tế và những yêu cầu nhất định của xã hội.

Chuyển dịch CCLĐ đóng góp vào sự phân công lao động hợp lí giữa các

vùng, giữa các ngành nghề, tạo điều kiện cho người lao động được lựa chọn nghề

nghiệp phù hợp với trình độ, mang lại thu nhập cao hơn, tăng cơ hội tìm việc làm.

Chuyển dịch cơ cấu chất lượng lao động làm tăng tỉ trọng lao động đã qua đào tạo,

lao động có tay nghề phù hợp với nhu cầu của từng ngành nghề, đó là điều kiện tiên

quyết để thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH đất nước và là yếu tố quyết

định quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay.

 Nội dung chuyển dịch cơ cấu lao động

Chuyển dịch CCLĐ là sự thay đổi, vận động của các hiện tượng, các bộ phận

cấu thành tổng thể lao động theo chiều hướng nhất định tương đối ổn định trong

một thời gian với những bối cảnh kinh tế - xã hội xác định [60, tr.24]. Tùy theo

những giai đoạn lịch sử nhất định mà sẽ xuất hiện xu hướng chuyển dịch CCLĐ phù

hợp với sự phân công lao động xã hội, với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

 Chuyển dịch cơ cấu lao động theo nhóm ngành và ngành kinh tế

Đây là chuyển dịch CCLĐ quan trọng nhất, gắn liền với quá trình công nghiệp

hóa và đô thị hóa. Theo đó, CCLĐ có sự chuyển dịch: giảm tỉ trọng lao động trong

ngành nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ.

Thực tế cho thấy, ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, khi nền kinh tế

còn lạc hậu thì lao động nông nghiệp chiếm đại đa số với NSLĐ thấp. Nhưng khi

công nghiệp hóa được mở rộng và tăng tốc, sản xuất nông nghiệp được cơ giới hóa,

đạt NSLĐ cao thì lao động trong nông nghiệp sẽ giảm xuống, lao động trong ngành

25

công nghiệp và dịch vụ không ngừng tăng lên và chiếm tỉ trọng lớn. Xu hướng này

đã được các nhà kinh tế như J.Fourastier, Arthus Lewis, Harry T.Oshima… đưa ra

trong các lí thuyết về lao động của mình.

Nguyên nhân của xu hướng chuyển dịch trên là do:

- Ở giai đoạn đầu, nền kinh tế hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông

nghiệp, cung cấp lương thực, thực phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản của con

người, kĩ thuật sản xuất còn lạc hậu, năng suất lao động thấp vì vậy phân công lao

động xã hội còn hạn chế, lao động trong khu vực nông nghiệp vẫn còn cao.

- Khi KT - XH phát triển, KHKT được áp dụng vào các ngành kinh tế, đặc

biệt trong sản xuất nông nghiệp làm NSLĐ tăng cao, sản phẩm làm ra nhiều hơn

trong khi đòi hỏi lao động ít hơn. Hơn nữa quá trình CNH và ĐTH làm tăng hoạt

động của các ngành công nghiệp và dịch vụ vì thế lao động có xu hướng dịch

chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ để làm việc. Tuy nhiên, tùy theo

điều kiện phát triển, hoàn cảnh xuất phát điểm của mỗi nước khác nhau mà tỉ trọng

lao động phân bố các ngành kinh tế và quá trình CDCCLĐ cũng khác nhau.

Trong nội bộ từng ngành kinh tế cũng có sự chuyển dịch:

Đối với ngành nông – lâm – thủy sản: xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động

đang diễn ra theo hướng lao động ngành nông nghiệp giảm, lao động ngành thủy

sản tăng lên. Trong nội bộ ngành nông nghiệp thì giảm lao động trong ngành trồng

trọt, tăng tỉ trọng lao động trong chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp.

Đối với ngành công nghiệp – xây dựng: xu hướng hiện nay là giảm dần lao

động trong các ngành công nghiệp khai thác, các ngành công nghiệp thâm dụng lao

động, năng suất lao động thấp; tăng tỉ trọng lao động trong các ngành công nghiệp

chế biến, chế tạo, các ngành công nghệ cao, các ngành có khả năng cạnh tranh và

lợi thế xuất khẩu… Đây là xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động tất yếu, phù hợp

với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện khoa học kĩ thuật và công

nghệ phát triển mạnh mẽ và nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt.

Đối với ngành dịch vụ: trong điều kiện đẩy mạnh CNH, ĐTH hội nhập vào

nền kinh tế thế giới thì xu hướng chuyển dịch CCLĐ trong ngành dịch vụ sẽ là tăng

lao động ở các ngành dịch vụ chất lượng cao, dịch vụ mũi nhọn như tài chính, ngân

26

hàng, bảo hiểm, thông tin và truyền thông, KH - CN, GTVT, du lịch,… Tỉ trọng lao

động trong các ngành dịch vụ giản đơn, giá trị gia tăng thấp có xu hướng giảm.

 Chuyển dịch cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế

Trong quá trình CNH – ĐTH, các nước đều mở cửa nền kinh tế, tăng cường

thu hút vốn đầu tư, KHCN để đẩy mạnh phát triển kinh tế trong nước, thu hút sự

tham gia đóng góp của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. CCLĐ theo thành phần

kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tăng LĐ ở thành phần kinh tế ngoài nhà nước,

trong đó lao động tập trung chủ yếu trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài. Lao động làm việc trong thành phần kinh tế nhà nước,

kinh tế tập thể không tăng nhiều, thậm chí có xu hướng giảm xuống so với thời gian

trước. Tuy nhiên, để đảm bảo định hướng XHCN, KV thành phần kinh tế nhà nước

vẫn giữ vai trò chủ đạo, nòng cốt đảm bảo an toàn cho nền kinh tế quốc dân.

 Chuyển dịch cơ cấu lao động theo lãnh thổ

Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa cùng với quá trình phát triển kinh tế và

tiến bộ của KHKT đã tác động đến xu hướng chuyển dịch CCLĐ giữa thành thị và

nông thôn: làm tăng tỉ trọng lao động vào khu vực thành thị, giảm tỉ trọng lao động

ở khu vực nông thôn. Do đô thị là nơi tập trung nhiều KCN-KCX, cụm công nghiệp

với nhiều ngành nghề khác nhau thu hút một bộ phận lao động ở nông thôn không

có việc làm di cư nhằm tìm kiếm việc làm và tăng thu nhập. Ngoài ra, do quá trình

ĐTH, một bộ phận lao động nông nghiệp mất đất sản xuất phải đi tìm việc làm ở

nơi khác, phải chuyển sang lao động phi nông nghiệp. Ở khu vực thành thị, bên

cạnh những công việc đòi hỏi trình độ KHKT cao, lao động có chuyên môn tay

nghề thì vẫn còn tồn tại những công việc giản đơn, thu nhập thấp, các hoạt động

dịch vụ trong gia đình…không đòi hỏi lao động có CMKT vì vậy khu vực lao động

này cũng thu hút một bộ phận khá lớn lao động nông thôn vào thành thị làm việc.

Nghiên cứu CDCCLĐ theo lãnh thổ, đặc biệt phải quan tâm đến cơ cấu lao

động theo không gian đô thị “Cơ cấu không gian đô thị là hình thức triển khai tổ

chức một cách tối ưu về mật độ và vị trí ngành sản xuất đô thị, trong đó lấy phát

triển kinh tế làm trung tâm”[38, tr.309]. Trong cơ cấu không gian đô thị có sự phân

chia các khu vực chức năng đô thị và mỗi khu vực sẽ có một chức năng kinh tế - xã

27

hội đặc thù. Tại các đô thị, khu vực trung tâm có tiềm năng phát triển thương mại,

vì nơi đây dân số tập trung, là nơi giao thông phát triển nhất, tập trung hoạt động tài

chính tiền tệ, lượng tiêu thụ lớn; còn các xí nghiệp công nghiệp nói chung, sức cạnh

tranh không bằng thương mại nên có xu hướng dịch chuyển từ trong ra ngoài; và

hoạt động nông nghiệp chỉ còn phân bố ở khu vực ngoại ô. Từ đó dẫn đến việc điều

chỉnh và phân chia các khu vực chức năng đô thị như khu vực thương mại, khu nhà

ở, khu vực công nghiệp. Khi đô thị hóa càng nhanh, kinh tế càng phát triển thì quá

trình này diễn ra càng nhanh, không gian đô thị không ngừng được mở rộng về quy

mô và kéo theo đó là sự thay đổi của CCKT và CCLĐ của từng khu vực đô thị.

 Chuyển dịch cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn kĩ thuật

Chuyển dịch CCLĐ theo trình độ CMKT gắn với sự thay đổi về chất lượng lao

động, để đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao của nền kinh tế và phù hợp với

xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Trong xu hướng CNH – ĐTH chất lượng lao động

sẽ có sự thay đổi tích cực, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo, có tay nghề, có trình độ

chuyên môn kĩ thuật ngày càng tăng lên trong tổng số lao động. Sự chuyển dịch

diễn ra theo hai giai đoạn:

Ở giai đoạn thấp, chuyển dịch CCLĐ theo hướng tăng tỉ trọng lao động ở

trình độ thấp và giảm tỉ trọng lao động chưa có trình độ CMKT, chưa qua đào tạo.

Ở giai đoạn sau, tăng tỉ trọng lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật cao, tỉ

lệ lao động có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học, giảm tỉ lệ lao động có trình

độ thấp. Nghiên cứu xu hướng chuyển dịch CCLĐ theo trình độ chuyên môn kĩ

thuật không chỉ phản ánh chất lượng lao động, trình độ phát triển của nền kinh tế

mà nó còn phản ánh khả năng và tính hợp lí về quy mô đào tạo các cấp, về tính cân

đối giữa “thầy” và “thợ” trong lao động.

 Chuyển dịch cơ cấu lao động theo giới tính và độ tuổi

Chuyển dịch CCLĐ theo độ tuổi và giới tính chịu sự tác động của quá trình

biến động tự nhiên dân số, yếu tố già hóa dân số tác động đến CCLĐ, làm cho

CCLĐ cũng có xu hướng già hóa. Bên cạnh đó, do tác động của quá trình ĐTH, sự

di dân từ nông thôn vào đô thị, sự phát triển của các ngành kinh tế đô thị cũng tác

động đến đặc điểm giới tính của lao động. Cơ cấu ngành kinh tế là các ngành công

28

nghiệp nhẹ, cần nhiều lao động như dệt may, da giày, chế biến thực phẩm thì lao

động nữ sẽ nhiều hơn lao động nam; ngược lại CCKT là các ngành công nghiệp

nặng thì lao động nam sẽ nhiều hơn lao động nữ. Theo xu hướng phát triển thì tỉ lệ

nam tăng lên tương đối và tương ứng là giảm tỉ lệ nữ so với tổng lao động, phù hợp

với sự chuyển dịch các ngành kinh tế trong khu vực đô thị.

1.1.2. Đô thị hóa và công nghiệp hóa

1.1.2.1. Đô thị hóa

 Đô thị

Theo Luật Quy hoạch đô thị được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam phê chuẩn năm 2009 đã đưa ra khái niệm “Đô thị là khu vực tập trung

dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi

nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa hoặc chuyên

ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia hoặc vùng

lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị,

ngoại thị của thị xã;thị trấn”[94, điều 3, mục 1].

Về phân loại đô thị Việt Nam, theo Nghị định 42/2009/NĐ-CP, đô thị nước ta

được phân thành 6 loại như sau: loại đặc biệt, loại I, loại II, loại III, loại IV và loại

V, được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định công nhận. Các đô thị phân

loại dựa trên các đặc điểm sự khác biệt về vai trò, chức năng và trình độ phát triển

của đô thị; quy mô dân số; mật độ dân số; tỉ lệ lao động phi nông nghiệp; hệ thống

công trình hạ tầng đô thị và kiến trúc, cảnh quan đô thị [63, chương 2, điều 4].

Trong đó, đô thị loại đặc biệt có sự khác biệt về tổ chức không gian đô thị và

chức năng đô thị so với các loại đô thị khác. Đô thị là thành phố trực thuộc Trung

ương có các quận nội thành, huyện ngoại thành và các đô thị trực thuộc với chức

năng là trung tâm kinh tế, tài chính, chính trị, KHKT, GD - ĐT, du lịch… có vai trò

thúc đẩy sự phát triển KT - XH của cả nước; tỉ lệ lao động phi nông nghiệp tối thiểu

đạt 90% so với tổng số lao động. Hà Nội và TP. HCM được xác định là hai đô thị

loại đặc biệt do những đóng góp đặc biệt quan trọng và không thể thay thế đối với

sự phát triển KT - XH đất nước, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tập trung hoạt

động công nghiệp và dịch vụ trong vùng nội đô cũng như các vùng lân cận.

29

 Quá trình Đô thị hóa

Quá trình đô thị hóa chỉ mới được nghiên cứu phổ biến từ thế kỉ XX trở lại

đây, tuy nhiên thuật ngữ “đô thị hóa” đã ra đời từ năm 1867 trong tác phẩm

“Teoria General de la Urbanizacion” (lí luận chung về đô thị hóa) của tác giả

Ildefonso CERDÀ. CERDÀ quan niệm đô thị hóa không chỉ là sự mở rộng đô thị,

tăng dân số đô thị mà còn là quy hoạch xây dựng đô thị [52, tr.111].

Đô thị hóa bao gồm những thay đổi đa dạng về mặt kinh tế - xã hội - môi

trường, gắn liền với sự phát triển công – thương nghiệp, dịch vụ và sự phân bố dân

cư, phân bố lực lượng sản xuất dẫn đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội

từ nông nghiệp - nông dân - nông thôn sang công nghiệp - thị dân - đô thị với những

đặc trưng cơ bản sau:

- Đô thị hóa là xu thế tất yếu của mọi quốc gia trên con đường phát triển; nó là

một quá trình diễn ra lâu dài trong một không gian, lãnh thổ rộng lớn.

- Đô thị hóa gắn liền với quá trình CNH - HĐH, tiền đề cơ bản của ĐTH là sự

phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Vì vậy, trong quá trình ĐTH có sự CD

CCKT từ hoạt động nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp, thương mại và dịch vụ.

- Đô thị hóa là quá trình tập trung dân cư vào đô thị, do sự di chuyển dân cư từ

nông thôn vào đô thị làm tăng nhanh quy mô dân số đô thị; làm thay đổi sự phân bố

lực lượng sản xuất, phân bố dân cư; làm thay đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu

lao động do yêu cầu của CNH.

- Đô thị hóa làm mở rộng không gian đô thị ra các vùng xung quanh, cùng với

nó là sự thu hẹp đất nông nghiệp để phát triển các khu đô thị mới, khu công nghiệp,

thương mại, dịch vụ; dân cư gắn với các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp, làm

cho tỉ lệ lao động phi nông nghiệp tăng lên.

Đô thị hoá không phải là kết quả, mà là một quá trình. Quá trình đô thị hoá có

thể chia làm 3 giai đoạn, tương ứng với 3 trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:

Giai đoạn 1, đô thị mang đặc trưng của nền văn minh nông nghiệp, phân bố

phân tán, quy mô nhỏ, cơ cấu đơn giản. Quá trình gia tăng dân số và số lượng các

đô thị diễn ra chậm chạp, dân cư vẫn còn gắn với hoạt động sản xuất nông nghiệp.

30

Giai đoạn 2, các đô thị phát triển mạnh, gắn chặt với CNH, song hành cùng

với CNH. Đây là giai đoạn ĐTH tăng tốc với sự gia tăng khá nhanh quy mô và tỉ

trọng dân số đô thị do gia tăng cơ học, di cư từ nông thôn vào đô thị, mở rộng mạng

lưới đô thị, từ đó làm tăng quy mô lao động. Về mặt kinh tế, ĐTH cùng với quá

trình CNH thúc đẩy quá trình chuyển dịch CCKT từ nông nghiệp sang các hoạt

động công nghiệp và dịch vụ, chuyển lao động nông nghiệp sang các hoạt động phi

nông nghiệp, từ đó làm thay đổi CCLĐ trong đô thị. Quá trình này không chỉ làm

chuyển dịch CCKT và CCLĐ theo ngành mà còn đẩy nhanh sự CDCCKT vùng của

nông thôn ven đô sang đô thị, chuyển dân cư nông thôn thành dân cư đô thị.

Giai đoạn 3, tương ứng với thời kì văn minh hậu công nghiệp, sự phát triển

như vũ bão của cuộc CMKHCN hiện đại, sự bùng nổ của công nghệ thông tin và

truyền thông, CCKT đa dạng hơn, gia tăng hoạt động của các ngành công nghệ cao

và các dịch vụ hiện đại… làm thay đổi mạnh mẽ phương thức sản xuất và sinh hoạt,

lao động trong xã hội, đặc biệt ở các đô thị. Không gian đô thị có cơ cấu tổ chức

phức tạp, quy mô lớn; tỉ trọng dân số đô thị đi vào ổn định, tăng rất chậm hoặc

không tăng; CCKT và CCLĐ chuyển dịch mạnh sang các ngành dịch vụ và các

ngành công nghiệp có hàm lượng KHCN cao, NSLĐ cao.

1.1.2.2. Công nghiệp hóa

Quá trình CNH diễn ra từ khá sớm, gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp

ở các nước phương Tây vào cuối thế kỉ XVIII. Trong lịch sử phát triển, để từ nền

kinh tế lạc hậu tiến lên nền kinh tế hiện đại, bắt buộc các nước phải trải qua con

đường CNH và cùng với CNH là quá trình HĐH, CNH phải gắn liền với HĐH.

Theo nghĩa hẹp, CNH có thể hiểu là quá trình chuyển từ nền sản xuất nông

nghiệp truyền thống là chủ yếu sang nền sản xuất công nghiệp hiện đại đóng vai trò

chủ đạo, từ chỗ tỉ trọng lao động nông nghiệp chiếm chủ yếu có xu hướng giảm dần

trong khi đó tỉ trọng lao động công nghiệp có xu hướng tăng và chiếm tỉ trọng cao

trong cơ cấu lao động xã hội. Theo nghĩa rộng, CNH không chỉ là sự biến đổi về

kinh tế mà còn là những biến đổi về mặt văn hóa, xã hội lên một trình độ cao hơn.

Đó là sự chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, từ xã

31

hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp, từ văn minh nông nghiệp sang nền văn

minh công nghiệp, gắn với từng giai đoạn phát triển theo trình độ từ thấp đến cao.

HĐH là quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nghề mới, hiện đại gắn liền với

đổi mới công nghệ; là quá trình chuyển nền sản xuất từ trình độ công nghệ thấp

sang trình độ công nghệ cao hơn, từ đó tạo ra tăng trưởng kinh tế bền vững của nền

kinh tế [83]. Như vậy, quá trình HĐH không chỉ làm thay đổi về số lượng CCLĐ

mà còn thay đổi cả về chất lượng, tỉ trọng lao động có trình độ CMKT, tay nghề

không ngừng được nâng cao nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển KT - XH đất nước.

Đối với lao động của nước ta trong quá trình CNH – HĐH là cải biến lao động

thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kĩ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt tới NSLĐ

xã hội cao. Quá trình CNH – HĐH thường đi trước và là tiền đề kéo theo quá trình

đô thị hóa. Hai quá trình này có tác động rất lớn đến sự phân công lao động xã hội,

đến quy mô nguồn lao động và làm chuyển dịch CCLĐ giữa các ngành nghề ở khu

vực thành thị, nông thôn và giữa các vùng lãnh thổ trong đô thị.

1.1.3. Các lí thuyết liên quan đến chuyển dịch CCLĐ và đô thị hóa

1.1.3.1. Lí thuyết liên quan đến cơ cấu lao động xã hội của đô thị

Theo Colin Clark (1940), nhà kinh tế học người Anh, đã chia nền kinh tế hiện

đại thành ba khu vực: Khu vực I: sản phẩm được sản xuất ra có nguồn gốc tự nhiên;

Khu vực II: gia công các sản phẩm được sản xuất ra có nguồn gốc tự nhiên; Khu

vực III: là ngành sản xuất ra của cải vô hình [47, tr.19].

Dựa trên số liệu thống kê về sự thay đổi trong cơ cấu lao động của các nước tư

bản phương Tây, Jean.Fourastier (1963) đưa ra lí thuyết “Ba khu vực hoạt động

kinh tế - xã hội” chia nền kinh tế thành ba khu vực cơ bản.

- Khu vực I: là các hoạt động khai thác trực tiếp tài nguyên thiên nhiên như đất,

rừng, biển; trong đó hoạt động nông – lâm – ngư nghiệp là hoạt động chủ đạo trong

thời kì đầu của tất cả các cộng đồng mới thành lập.

- Khu vực II: dựa trên tiến bộ KHKT làm cho năng suất lao động xã hội tăng

nhanh, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. Mức sống dân cư đô thị

ngày càng cao tạo sức hút lớn đối với dòng di cư lao động từ nông thôn vào đô thị.

J.Fourastier gọi lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là lao động khu vực II.

32

- Khu vực III: KHKT ngày càng phát triển, sản xuất công nghiệp chuyển sang

giai đoạn tự động hóa, hoạt động dịch vụ phát triển để tiếp nhận nguồn lao động dư

thừa từ công nghiệp và để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. J.Fourastier

xếp các hoạt động trên vào khu vực III, gọi chung là lao động dịch vụ [80, tr.97].

Theo GS. Nhiêu Hội Lâm, Ủy ban kinh tế Trung Quốc đã quy định việc phân

chia ba ngành sản xuất của Trung Quốc như sau:

- Ngành sản xuất thứ nhất: nông nghiệp (nghề rừng, chăn nuôi, nghề cá).

- Ngành sản xuất thứ hai: công nghiệp (ngành khai thác, ngành chế tạo, nước

sạch, điện lực, nhiệt lượng, hơi đốt và ngành xây dựng).

- Ngành sản xuất thứ ba: các ngành nghề khác ngoài hai ngành sản xuất thứ nhất

và thứ hai. Do ngành sản xuất thứ ba có nhiều ngành nghề nên có thể chia thành hai

ngành lớn: ngành lưu thông và ngành dịch vụ [38, tr.248].

1.1.3.2. Lí thuyết liên quan đến chuyển dịch cơ cấu lao động

Năm 1935, nhà kinh tế học người Mĩ A.Fisher đưa ra lí thuyết “Quy luật tăng

năng suất lao động” trong cuốn “Các quan hệ kinh tế của tiến bộ kĩ thuật” phân

tích sự thay đổi xu hướng sử dụng lao động trong ba khu vực kinh tế: khu vực I

(nông – lâm – ngư nghiệp và khai thác khoáng sản), khu vực II (công nghiệp chế

biến và xây dựng), khu vực III (các ngành dịch vụ). Theo A.Fisher, với sự phát triển

của KHKT, ngành nông nghiệp là ngành dễ có khả năng thay thế lao động nhất, nhu

cầu lao động nông nghiệp giảm dần trong cơ cấu ngành kinh tế; ngành công nghiệp

là ngành khó có khả năng thay thế lao động hơn nông nghiệp và ngành dịch vụ là

ngành khó thay thế lao động nhất. Vì vậy, nhu cầu lao động trong ngành dịch vụ sẽ

có xu hướng tăng và tăng càng nhanh khi nền kinh tế càng phát triển.

Xu hướng chuyển dịch là tỉ trọng nông nghiệp có xu hướng giảm đi, tỉ trọng

công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng trong cơ cấu GDP và lao động. Theo

A.Fisher, tỉ lệ dịch vụ ở các nước phát triển có thể đạt trên 80%, công nghiệp từ 11-

12% và nông nghiệp giảm xuống dưới 5%. Một xu hướng khác cho thấy, khi nền

kinh tế bước sang giai đoạn phát triển cao thì tốc độ tăng của ngành dịch vụ sẽ cao

hơn so với tốc độ tăng của ngành công nghiệp. Trong ngành công nghiệp, tỉ trọng

ngành sản xuất sản phẩm có hàm lượng KHKT và vốn càng lớn và tăng nhanh, tỉ

33

trọng các ngành sử dụng nhiều lao động giảm dần. Đối với ngành dịch vụ, theo sự

phát triển kinh tế, các ngành dịch vụ chất lượng cao như tài chính ngân hàng, bảo

hiểm, giáo dục, du lịch… sẽ có tốc độ tăng nhanh và chiếm tỉ trọng cao [39, tr.85].

Hình 1.1. Sự chuyển dịch CCLĐ theo các khu vực kinh tế qua các giai đoạn ĐTH

Giai đoạn đô thị hóa

II

III

I

II2

II3

II1

Cấu trúc lao động xã hội liên tục chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp rồi từ

công nghiệp sang dịch vụ và khoa học, công nghệ

Cơ cấu lao động theo các khu vực kinh tế

I

I

I

I

I

II

II

II

II

III

III

II + III

III

III

I: 80-90%

I: 60-80%

I: 40-60%

I: 20-40%

I: 10-15%

II+III: 10-20%

II: 20-30%

II: 30-45%

II: 30-40%

II: 15-25%

III: 10-15%

III: 15-25%

III: 25-30%

III: 45-65%

Nguồn: [52, tr.121]

Theo lí thuyết Ba khu vực hoạt động KT - XH của J.Fourastier thì giữa quá

trình thay đổi CCLĐ trong ba khu vực kinh tế với các giai đoạn của quá trình ĐTH

có mối quan hệ với nhau. Vào đầu thời kì quá độ (1800), lao động khu vực nông

nghiệp chiếm tỉ lệ lớn nhất (80%). Nhưng nhờ áp dụng KHKT trong nông nghiệp,

cùng với quá trình mở rộng của đô thị, nhu cầu lao động trong các nhà máy, xí

nghiệp công nghiệp tăng lên, tiếp nhận sự chuyển dịch lao động từ khu vực nông

nghiệp qua, làm tỉ lệ lao động khu vực công nghiệp tăng lên đạt khoảng 40 – 50%

vào khoảng giữa thế kỉ XX, sau đó bắt đầu giảm xuống dần dần rồi đi vào ổn định ở

mức 15 – 20% tổng số lao động. Lao động trong khu vực dịch vụ phát triển tăng lên

liên tục do tiếp nhận nguồn lao động từ khu vực nông nghiệp và công nghiệp

chuyển qua và ngày càng chiếm chủ đạo trong cấu trúc lao động xã hội. Thời kì quá

độ kết thúc khi lao động trong khu vực dịch vụ chiếm tỉ trọng lớn nhất (80%).

34

Lí thuyết của J.Fourastier thể hiện sự thay đổi và phân bố LĐ ở ba khu vực

kinh tế trong quá trình ĐTH như sau: Giảm lực lượng LĐ trong khu vực nông

nghiệp; Tăng rồi giảm lực lượng LĐ trong khu vực công nghiệp; Tăng lực lượng

LĐ trong khu vực dịch vụ. Các nước đang phát triển, LĐ trong khu vực nông

nghiệp lớn hơn khu vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Nhưng hiện nay ở các

nước này, CCKT đang chuyển dịch nhanh từ khu vực I sang khu vực II và III, kéo

theo sự thay đổi CCLĐ từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ.

Nhà lịch sử kinh tế nổi tiếng người Mĩ Walter W.Rostow (1960) đã đưa ra mô

hình Rostow (Rostow model) thể hiện sự thay đổi CCKT và CCLĐ của mỗi quốc

gia trong quá trình phát triển. Giai đoạn 1: xã hội truyền thống, hoạt động sản xuất

nông nghiệp là chủ yếu, NSLĐ thấp. Giai đoạn 2: chuẩn bị cất cánh, thời kì quá độ

từ nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, xuất hiện một số ngành dịch

vụ phục vụ nhu cầu phát triển. Giai đoạn 3: cất cánh, công nghiệp giữ vai trò đầu

tàu trong tăng trưởng và phát triển kinh tế, CCKT là công nghiệp – nông nghiệp –

dịch vụ. Giai đoạn 4: trưởng thành, nền kinh tế bước vào giai đoạn phát triển ổn

định và hiện đại, nông nghiệp được cơ giới hóa, nhiều ngành công nghiệp mới, hiện

đại phát triển, các ngành dịch vụ phát triển nhanh, CCKT là công nghiệp – dịch vụ -

nông nghiệp. Giai đoạn 5: tiêu dùng cao, lao động thay đổi theo hướng tăng tỉ lệ

dân cư đô thị và lao động có trình độ chuyên môn, tay nghề cao, cơ cấu giai đoạn

này là dịch vụ - công nghiệp.

1.1.3.3. Lí thuyết liên quan đến di chuyển lao động từ nông thôn vào

thành thị

W.Arthur Lewis, nhà kinh tế học người Mĩ gốc Jamaica, đã đưa ra mô hình di

cư lao động nông thôn ra thành phố và việc phân phối lại lao động giữa hai khu vực

kinh tế nông nghiệp và công nghiệp trong tác phẩm “Lí thuyết về phát triển kinh

tế”(1954). Lewis chia nền kinh tế thành hai khu vực công nghiệp, nông nghiệp và

nghiên cứu sự di chuyển lao động giữa hai khu vực này: khu vực nông nghiệp

truyền thống đất đai chật hẹp, năng suất lao động thấp, lao động dư thừa, số lao

động này không có việc làm nên không có thu nhập. Khu vực công nghiệp thành thị

hiện đại có năng suất cao, thu hút lao động nông nghiệp xu hướng chuyển dần sang.

35

Sự di chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp giúp tăng năng suất lao

động nông nghiệp, tạo việc làm cho số lao động dư thừa trong nông nghiệp, tăng

thu nhập, tăng hiệu quả cho sản xuất công nghiệp từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển.

Todaro (1970) đưa ra mô hình sự di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị

dựa trên sự cải tiến mô hình của Lewis. Theo Todaro, không phải mọi lao động ra

thành phố đều tìm được việc làm ngay bởi vì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố: nhu

cầu lao động trong các ngành kinh tế, tỉ lệ việc làm và thất nghiệp ở thành phố, trình

độ tay nghề của người lao động. Ngoài ra, ông cũng chỉ ra rằng để khu vực thành thị

trở thành đầu tàu tăng trưởng kinh tế thì phải đặt trung tâm vào những ngành công

nghiệp có trình độ kĩ thuật cao. Nhưng những ngành này lại yêu cầu cao về vốn,

công nghệ, lao động có trình độ tay nghề vì vậy gây khó khăn cho nguồn lao động

từ khu vực nông thôn vốn tay nghề lao động thấp.

Harry T.Oshima, nhà kinh tế người Nhật Bản trong tác phẩm “Tăng trưởng

kinh tế ở các nước châu Á gió mùa” đưa ra quan điểm mới về mô hình phát triển

dựa trên những đặc điểm cơ bản của sản xuất nông nghiệp và hoạt động kinh tế ở

các nước khu vực châu Á gió mùa khác so với các nước Tây Âu. Ông đưa ra mô

hình tăng trưởng với ba giai đoạn phát triển khác nhau: (1) Giai đoạn bắt đầu của

quá trình tăng trưởng: tạo việc làm cho thời gian nhàn rỗi theo hướng tăng cường

đầu tư phát triển nông nghiệp. (2) Giai đoạn hai: hướng tới có việc làm đầy đủ bằng

cách đầu tư phát triển đồng thời cả nông nghiệp và công nghiệp. (3) Giai đoạn ba:

thực hiện phát triển các ngành kinh tế theo chiều sâu nhằm giảm cầu lao động.

1.1.3.4. Lí thuyết về tổ chức địa bàn cư trú, phát triển đô thị và đô thị

chức năng

Về phát triển không gian đô thị và tổ chức địa bàn cư trú của dân cư đã có

nhiều nhà nghiên cứu bàn về vấn đề này với nhiều mô hình và trường phái khác

nhau. Ernerst Burgess (1925) đưa ra mô hình “vùng vòng tròn đồng tâm” mô tả cấu

trúc phân bố của đô thị. Ông xem thành phố gồm có một loạt các khu vực hình tròn

và mỗi vùng được sử dụng với mục đích chuyên biệt với một bộ phân dân cư khác

biệt sinh sống, trong đó vùng lõi là khu trung tâm gắn với các hoạt động dịch vụ cao

cấp, các khu vực vùng ven gắn với hoạt động sản xuất công nghiệp và nông nghiệp.

36

Năm 1922, Raymond Unwyn, kiến trúc sư, trong cuốn “Thực tiễn quy hoạch

đô thị” đã đưa ra mô hình “đô thị vệ tinh” đầu tiên. Theo đó sẽ có một đô thị trung

tâm được bao quanh bởi một mạng lưới các đô thị nhỏ có quy mô giới hạn theo một

khoảng cách nào đó. Đô thị trung tâm sẽ được duy trì ở quy mô hiện hữu, hoặc thu

hẹp lại, trong khi các đô thị vệ tinh sẽ góp phần phân tán bớt dân số của đô thị lớn

với một quy mô dân số tối ưu nhằm tạo điều kiện sống tốt hơn cho dân cư đô thị.

“Mô hình khu vực” của Homer Hoyt đưa ra năm 1939 cho rằng cơ cấu đô thị

bao gồm các khu vực kéo dài từ vùng trung tâm đến khu vực ngoại vi theo các trục

giao thông thuận tiện và quan trọng. Theo đó, khu vực trung tâm vẫn là hoạt động

thương mại và dịch vụ cao cấp, dọc theo các tuyến giao thông ở khu vực ngoại vi là

các cơ sở công nghiệp và địa bàn cư trú của dân cư.

Tóm lại, các lí thuyết trên đều lí giải xu hướng phân bố lực lượng sản xuất,

chuyển dịch CCLĐ trong quá trình ĐTH trong mỗi giai đoạn phát triển KT - XH. Các

lí thuyết, quan điểm khác nhau của các nhà khoa học mặc dù đưa ra trong những thời

kì lịch sử nhất định đều có giá trị khoa học và chuẩn mực riêng. Từ những lí luận

chung đó, tạo điều kiện cho tác giả trong việc nghiên cứu sự thay đổi CCKT, CCLĐ

và xu hướng phân bố lao động phù hợp trong quá trình ĐTH vận dụng vào TP. HCM

trong giai đoạn nghiên cứu.

1.1.4. Các nhân tố ảnh hƣởng đến chuyển dịch cơ cấu lao động trong quá

trình đô thị hóa

1.1.4.1. Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ

Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ có ảnh hưởng sâu sắc đến phát triển và mở rộng

quy mô đô thị, đến phân bố và cơ cấu dân cư, lao động. Những nơi có vị trí địa lí

thuận lợi cho giao lưu phát triển kinh tế như ven các sông lớn, ven biển, trung tâm

của vùng đồng bằng châu thổ đất đai màu mỡ, là đầu mối giao thông vận tải quan

trọng (đường bộ, đường sắt, hàng không, cảng biển…) tạo điều kiện thuận lợi cho

liên kết vùng, giao lưu và trao đổi hàng hóa, thu hút đầu tư góp phần quan trọng

trong việc mở rộng và phát triển không gian đô thị, thu hút lao động tập trung vào

các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.

37

1.1.4.2. Nhân tố kinh tế - xã hội

 Trình độ phát triển kinh tế

- Quy mô, tốc độ tăng trưởng kinh tế

Quy mô nền kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến thu hút và sử dụng lao động.

Một đô thị có quy mô kinh tế càng lớn thì sức ảnh hưởng của đô thị đến nền kinh tế

của đất nước cũng như các vùng xung quanh càng lớn. Nó thể hiện ở sức hút và sức

lan tỏa của đô thị, đó là nhu cầu “nhập vào” các yếu tố bên ngoài như tiền vốn, tài

nguyên, sức lao động… cũng như “xuất ra” và cung ứng nhiều mặt hàng với các

vùng xung quanh. Vì vậy, làm tăng nhu cầu lao động trong sản xuất và tăng sức hút

đối với lao động ở các nơi khác đến.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế tác động đến tốc độ chuyển dịch CCKT và CCLĐ.

Khi các ngành kinh tế tăng trưởng nhanh, kéo theo sự chuyển dịch các ngành kinh

tế, từ đó yêu cầu lao động cũng phải chuyển dịch để cung lao động cho các ngành.

Ngoài ra, khi kinh tế phát triển mạnh thì CSHT cũng được đầu tư phát triển, mở

rộng các đô thị, hình thành nhiều KCN, khu dân cư… thu hút dân cư, làm tăng quy

mô cũng như chất lượng lao động. Qúa trình đô thị hóa và phát triển kinh tế có mối

quan hệ biện chứng với nhau, tăng trưởng kinh tế thường kéo theo mở rộng quy mô

các đô thị, đồng thời tác động đến chuyển dịch CCKT, cơ cấu xã hội của đô thị.

Quá trình ĐTH cũng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế đô thị do “sự khác biệt

giữa NSLĐ thành thị và NSLĐ nông thôn” và “mức tăng năng suất nhanh hơn ở

thành thị”. Nghĩa là NSLĐ thành thị cao hơn lao động nông thôn nên trong giai

đoạn đầu của ĐTH, sự chuyển dịch LĐ từ nông thôn ra thành phố sẽ góp phần thúc

đẩy nhanh chóng tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vì “mức tăng năng suất nông nghiệp

vẫn không thể so được với mức tăng năng suất đạt được nhờ việc luân chuyển LĐ

từ khu vực nông nghiệp sang các ngành nghề có năng suất lao động cao hơn” [98,

tr.IX]. Và vì thế, lao động cũng có xu hướng chuyển dịch từ khu vực nông nghiệp

với NSLĐ thấp sang các ngành công nghiệp và dịch vụ với NSLĐ cao hơn.

- Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Chuyển dịch CCKT và CCLĐ có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, tác

động qua lại lẫn nhau trong đó chuyển dịch CCKT quyết định chuyển dịch CCLĐ.

38

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh hay chậm quyết định sự chuyển dịch CCLĐ với

tốc độ nhất định. Trong đó, CCKT thường chuyển dịch trước và nhanh hơn so với

tốc độ chuyển dịch CCLĐ, định hướng cho thay đổi CCLĐ bởi tốc độ tăng trưởng

kinh tế thường nhanh hơn so với tốc độ tăng của năng suất lao động.

Sự phát triển kinh tế đô thị gắn liền với quá trình CDCCKT. Kinh tế đô thị với

cơ cấu ngành đa dạng, phần lớn là các ngành phi nông nghiệp, giá trị gia tăng chủ

yếu do yếu tố chất xám, ứng dụng KHKT trong sản xuất, có tính năng động cao và

hiệu quả lớn. Theo Michael Spence “năng suất trung bình của một người lao động

trong lĩnh vực chế tạo hoặc dịch vụ cao hơn khoảng từ ba đến năm lần so với năng

suất của một người lao động trong các khu vực truyền thống và đôi khi còn cao hơn

nhiều” [97, tr.XI]. Vì hiệu quả sản xuất của khu vực II và III cao hơn khu vực I nên

CCKT có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần vai trò của khu vực I, chuyển hướng

sản xuất phục vụ một số nhu cầu đặc thù đô thị và gia tăng vai trò của khu vực II và

III, đặc biệt là các ngành có hàm lượng khoa học cao, giá trị gia tăng lớn.

Cơ cấu thành phần kinh tế có ảnh hưởng đến việc sử dụng và phát huy khả

năng lao động sáng tạo của người lao động. Thành phần kinh tế đa dạng sẽ góp

phần tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giúp phát huy tính tự

chủ, độc lập của người lao động, tận dụng mọi nguồn vốn, kĩ thuật để sản xuất.

Cơ cấu theo lãnh thổ kinh tế là sự phân công lao động xã hội theo lãnh thổ trên

phạm vi cả nước. Việc xác lập CCKT theo lãnh thổ một cách hợp lý nhằm bố trí các

ngành sản xuất trên lãnh thổ sao cho thích hợp để triển khai có hiệu quả mọi tiềm

năng và lợi thế của từng vùng. Tùy theo nguồn lực kinh tế của mỗi vùng lãnh thổ

mà sẽ có hướng chuyên môn hóa sản xuất khác nhau từ đó tạo nên sự chuyên môn

hóa trong lao động giữa các vùng, góp phần sử dụng hợp lí, hiệu quả nguồn lao

động của địa phương.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một vùng, một quốc gia diễn ra nhanh hơn,

hiệu quả hơn khi các đô thị được mở rộng, các thành phố vệ tinh được xây dựng, cơ

sở hạ tầng được xây dựng và hoàn thiện đáp ứng nhu cầu lưu thông, trao đổi hàng

hóa và phát triển kinh tế. Từ đó dẫn đến sự phân công lao động xã hội, hình thành

nhiều ngành kinh tế mới, thúc đẩy dịch vụ phát triển.

39

 Dân số, phân bố dân cư và nguồn lao động

Quy mô, cơ cấu dân số có ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, cơ cấu lao động.

Gia tăng dân số đô thị phụ thuộc rất lớn vào gia tăng cơ học. Ở đô thị, do tỉ suất

sinh thấp và gia tăng cơ học cao nên tỉ trọng dân số dưới tuổi LĐ ở đô thị thấp hơn

nông thôn, ngược lại, tỉ trọng trong độ tuổi lao động cao hơn khu vực nông thôn.

Người di cư vào đô thị thường có tính chọn lọc cao về tuổi, giới tính, trình độ học

vấn: những người ở tuổi 20 – 35 tuổi và những người có học vấn cao hơn dễ chấp

nhận di cư hơn. Vì vậy, cơ cấu dân số và CCLĐ ở đô thị thường có cơ cấu trẻ, họ có

sức khỏe, lại có học vấn và trình độ cao, là những người năng động, sáng tạo trong

cuộc sống, công việc, có thể dễ dàng thay đổi nơi làm việc, nghề nghiệp, nơi cư trú

và dễ thích nghi với môi trường mới hơn so với LĐ lớn tuổi. Họ chính là nhân tố

quan trọng trong quá trình phân công LĐ xã hội, phân bố lực lượng lao động theo

ngành, theo lãnh thổ, góp phần đẩy nhanh quá trình CDCCLĐ của địa phương.

Quá trình ĐTH cũng làm gia tăng dòng di cư từ khu vực nông thôn vào thành

thị, làm tăng cung lao động ở thành thị, đặc biệt là lao động trẻ. Người nhập cư

thường phân bố không đều trong các khu vực của đô thị, bị thu hút nhiều hơn vào

một số khu vực nhất định (nơi tập trung các KCN, nơi có mức sống và chi phí sinh

hoạt thấp, …). Các luồng nhập cư không chỉ làm gia tăng quy mô dân số, lao động

mà còn làm thay đổi các đặc trưng nhân khẩu học, thay đổi cơ cấu ngành nghề, chất

lượng lao động và cả sự thay đổi phân bố lao động theo không gian đô thị.

Sự phân bố dân cư do quá trình ĐTH cũng ảnh hưởng đến chuyển dịch CCLĐ

của đô thị, bởi vì cộng đồng dân cư là chủ thể của thành phố, là nguồn lực quan

trọng cho phát triển kinh tế - xã hội. Sự thay đổi phân bố dân cư của đô thị do các

nguyên nhân: sự thay đổi cấu trúc không gian đô thị, phù hợp với quy hoạch không

gian đô thị, cũng như sự thay đổi các nhân tố thu hút dân cư (như cơ sở hạ tầng,

điều kiện ở và mức sống, khả năng tìm việc làm…); các luồng nhập cư vào đô thị và

sự phân bố người nhập cư vào các khu vực bên trong đô thị.

Số lượng và chất lượng nguồn lao động cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự

chuyển dịch CCLĐ. Trong chuyển dịch CCLĐ theo ngành, công nghiệp và dịch vụ

là những ngành đòi hỏi cao về chất lượng lao động, lao động đã qua đào tạo, lao

40

động có trình độ CMKT tăng lên để đáp ứng yêu cầu của ngành. Trong chuyển dịch

CCLĐ theo thành phần kinh tế, khu vực đầu tư nước ngoài ngày càng tăng phù hợp

với xu thế mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là khu vực đòi hỏi trình độ

KHCN cao, kinh nghiệm quản lí tiên tiến, người lao động có tay nghề và CMKT

cao. Do vậy, nguồn lao động chất lượng cao là nhân tố quan trọng đẩy nhanh quá

trình chuyển CCLĐ trong nền kinh tế.

 Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa

- Quá trình công nghiệp hóa

Công nghiệp hóa góp phần hình thành nền kinh tế công nghiệp hiện đại, đạt

năng suất và hiệu quả kinh tế cao, thúc đẩy CDCCKT. Gắn liền với quá trình CNH

là quá trình phân công lao động xã hội. Ở giai đoạn đầu của quá trình CNH, lao

động vẫn còn tập trung đông trong khu vực nông nghiệp, NSLĐ thấp, trình độ phân

công lao động xã hội hạn chế. Đến khi CNH đạt đến một trình độ nhất định của sự

phát triển, KHKT được ứng dụng vào trong sản xuất, nhu cầu LĐ nông nghiệp giảm

trong khi nhu cầu LĐ công nghiệp và dịch vụ tăng lên, vì thế, lao động có xu hướng

chuyển dịch từ nông nghiệp sang các ngành công nghiệp, dịch vụ.

Quá trình CNH còn thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế hiện đại. Hệ

thống cơ sở hạ tầng kĩ thuật, GTVT, TTLL phát triển; các KCN, khu đô thị, khu

thương mại mới được hình thành và ngày càng hiện đại là cơ sở để thu hút và hấp

dẫn đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy hoạt động kinh tế phi nông nghiệp diễn ra

ngày càng sôi nổi, đa dạng hóa và hình thành nhiều ngành nghề mới trong các lĩnh

vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ…Vì vậy, CCLĐ trong nội bộ từng ngành

kinh tế cũng có những thay đổi theo hướng giảm tỉ trọng LĐ trong các ngành thâm

dụng lao động, tăng tỉ trọng LĐ trong các ngành đòi hỏi chất xám, công nghệ cao.

Quá trình CNH còn là quá trình trang bị và trang bị lại những công cụ, thiết bị,

phương tiện sản xuất hiện đại và ứng dụng các thành tựu KHKT tiên tiến cho toàn

bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, lao động không chỉ có sự thay đổi về số lượng mà

còn chuyển dịch về chất lượng. Tỉ trọng lao động giản đơn, trình độ thấp ngày càng

giảm, tỉ lệ lao động phức tạp, lao động có CMKT cao tăng lên. Đặc biệt, tăng tỉ lệ

LĐ qua đào tạo, LĐ có CMKT trong các ngành sản xuất và dịch vụ chất lượng cao.

41

- Quá trình đô thị hóa

Quá trình CNH thúc đẩy quá trình đô thị hóa đã tạo nên sức hút mạnh mẽ đối

với dân cư từ các vùng nông thôn chuyển vào đô thị. Đô thị là nơi công nghiệp phát

triển mạnh, quá trình CNH diễn ra nhanh, kinh tế phát triển, thu nhập bình quân đầu

người cao, cơ sở hạ tầng đồng bộ hiện đại, thu hút đầu tư nước ngoài, tạo ra nhiều

việc làm đã trở thành “lực hút” rất lớn đối với lao động từ nông thôn di cư đến đô

thị, làm cho quy mô dân số và tỉ lệ dân thành thị gia tăng nhanh chóng, góp phần

làm tăng quy mô lực lượng lao động đô thị. Ở nước ta hiện nay, lao động đô thị tăng

nhanh chủ yếu do ba dòng di cư sau:

Thứ nhất, lao động từ khu vực nông thôn đổ về các đô thị để tìm việc làm.

Dòng di cư này sẽ tiếp tục diễn ra mạnh và là nguồn cung cấp lao động chủ yếu cho

đô thị, đóng vai trò quan trọng trong quá trình đô thị hóa ở các nước đang phát triển.

Thứ hai, dòng di cư của lao động có trình độ, CMKT từ đô thị nhỏ sang đô thị

lớn, từ đô thị chưa phát triển sang đô thị phát triển mạnh. Tình trạng này gây ra hiện

tượng “chảy máu chất xám” tại những đô thị có người lao động xuất cư.

Thứ ba, sinh viên các trường đại học, cao đẳng sau khi ra trường họ không về

lại quê hương mà tìm cách ở lại thành phố để tìm kiếm cơ hội việc làm hoặc đến các

đô thị khác để tìm việc.

Đô thị không chỉ là nơi tập trung về mặt số lượng mà còn góp phần nâng cao

chất lượng lao động. Môi trường làm việc, sản xuất, kinh doanh ở đô thị luôn biến

đổi và cạnh tranh gay gắt đòi hỏi người lao động ngoài ưu thế về độ tuổi, sức khỏe

cần phải có trình độ, kinh nghiệm, sự năng động nhạy bén trong công việc. Vì vậy

thu hút nguồn lao động chất xám, lao động chất lượng cao đến đô thị. Đối với lao

động tại chỗ đòi hỏi phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn của mình thì

mới có thể cạnh tranh được công việc với lao động nhập cư. Nhờ đó mà chất lượng

lao động ở đô thị không ngừng được nâng cao. Ngoài ra, đô thị còn là trung tâm văn

hóa, giáo dục của vùng hoặc cả nước, vì vậy nơi đây tập trung nhiều trung tâm

nghiên cứu khoa học, nhiều trường đại học, trung tâm dạy nghề…giúp người lao

động dễ dàng tiếp cận hệ thống giáo dục, hệ thống đào tạo nghề đa dạng các cấp,

giúp người lao động có thể nâng cao trình độ chuyên môn và tay nghề của mình.

42

Đô thị hóa làm chuyển đổi mục đích sử dụng đất, làm một bộ phận đất nông

nghiệp chuyển đổi thành đất công nghiệp và đất đô thị, chuyển một bộ phận người

dân sản xuất nông nghiệp sang các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp, làm cho

CCLĐ ở cả khu vực thành thị và nông thôn đều chuyển dịch nhanh chóng. Tuy

nhiên, bên cạnh đó cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề liên quan đến lao động, việc làm

như tình trạng người dân mất đất không tìm được việc làm phù hợp với trình độ,

việc xuất hiện nhiều KCN – KCX làm thiếu hụt nguồn lao động, nhất là nguồn lao

động trình độ cao, việc làm cho người dân tái định cư…

Sự mở rộng địa giới hành chính của các đô thị, hình thành các quận, huyện

mới vừa là kết quả vừa là điều kiện thúc đẩy quá trình đô thị hóa. Sự thay đổi về

ranh giới hành chính do nhu cầu mở rộng không gian đô thị trong quá trình công

nghiệp hóa đã ảnh hưởng đến quy hoạch và cấu trúc đô thị. Sự điều chỉnh địa giới

hành chính không chỉ ảnh hưởng đến quy mô dân số, diện tích đô thị nói chung và

các đơn vị hành chính trực thuộc nói riêng, mà còn làm thay đổi phân bố dân cư,

thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng và thay đổi cơ cấu kinh tế, ngành nghề của người

dân trong khu vực đô thị được mở rộng.

Sự phát triển kinh tế giữa các khu vực thường có sự khác nhau vì nó phụ thuộc

vào rất nhiều nhân tố liên quan đến sự phân bố không gian. So sánh sự phát triển

kinh tế giữa các vùng lãnh thổ khác nhau có thể thấy có sự mất cân bằng về phân bố

dân cư và phân bố các hoạt động kinh tế. Trong đó, đô thị trung tâm có vai trò chi

phối, dẫn dắt đối với kinh tế đô thị, có khả năng lan tỏa về kĩ thuật, nhân lực, vốn,

nắm giữ vai trò tổ chức và điều tiết sản xuất với các khu vực xung quanh.

 Cơ sở hạ tầng

Sự phát triển của CSHT có vai trò quan trọng trong thu hút đầu tư, phát triển

kinh tế. Số lượng và chất lượng cơ sở hạ tầng (GTVT, TTLL, điện, nước…) góp

phần đảm bảo các mối liên hệ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, tạo tiền đề hình thành

các KCN tập trung, thu hút sự tập trung của lao động. GTVT, TTLL là những yếu tố

quan trọng hàng đầu trong CSHT. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, nó đảm bảo

thông tin nhanh nhạy, lưu thông hàng hóa kịp thời, kích thích sản xuất phát triển,

tạo ra nhiều ngành nghề mới, góp phần phân công lại lao động xã hội.

43

Ngoài ra, CSHT phát triển góp phần mở rộng phạm vi hoạt động của đô thị,

tạo điều kiện thuận lợi cho liên kết, giao lưu và trao đổi hàng hóa, thúc đẩy đầu tư

góp phần quan trọng trong việc mở rộng và phát triển không gian đô thị. CSHT còn

đóng vai trò quan trọng trong phân công LĐ theo lãnh thổ khi đô thị đóng vai trò là

đầu mối GTVT, TTLL của vùng và cả nước. Sự phát triển của CSHT, đặc biệt là hạ

tầng giao thông và TTLL là một nhân tố quan trọng tạo nên những trung tâm đô thị

lớn. Đây là điều kiện để mở rộng địa bàn hoạt động kinh tế, mở rộng thị trường,

giúp mở rộng quy mô đô thị và kết nối dễ dàng với các vùng lân cận.

 Khoa học công nghệ

Tiến bộ KHCN làm cho cơ cấu ngành nghề có nhiều thay đổi, xuất hiện nhiều

ngành nghề lĩnh vực mới. Nhờ việc áp dụng KHCN vào trong sản xuất làm cho

NSLĐ tăng lên, chuyển từ nền kinh tế phát triển theo chiều rộng sang phát triển

theo chiều sâu. Điều này cũng đồng nghĩa với việc CDCCLĐ từ trình độ thấp lên

trình độ cao, từ lạc hậu đến hiện đại. Tiến bộ KHCN giúp CDCCKT theo hướng

hiện đại, tăng tỉ trọng của công nghiệp và dịch vụ có năng suất cao, trình độ công

nghệ hiện đại. Ngoài ra, nhờ tiến bộ của KHCN có thể làm cho các yếu tố về không

gian và thời gian được rút ngắn lại, tăng sức hút của đô thị góp phần mở rộng không

gian đô thị.

 Đường lối chính sách

Đường lối phát triển KT - XH tác động đến xu hướng chuyển dịch CCLĐ.

Trong mỗi giai đoạn khác nhau, các chủ trương và hệ thống chính sách có ảnh

hưởng to lớn đến CDCCLĐ. Đường lối đổi mới, phát triển kinh tế thị trường nhiều

thành phần với các chính sách hợp lí, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi thu hút

vốn đầu tư trong và ngoài nước, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường tiêu thụ

sản phẩm, lựa chọn và chuyển giao công nghệ… thúc đẩy phát triển các ngành kinh

tế, thành phần kinh tế, có khả năng thu hút lao động và làm thay đổi CCLĐ. Hệ

thống các chính sách quản lí phát triển đô thị, điều chỉnh không gian đô thị, sử dụng

đất đai, chính sách phát triển kinh tế, phát triển KHCN… trong quá trình đô thị hóa

tác động toàn diện đến quá trình chuyển dịch CCLĐ, không chỉ làm thay đổi sự

phân công lao động mà còn nâng cao chất lượng nguồn lao động.

44

 Trình độ học vấn của dân cư

Trình độ học vấn của dân cư ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động, cơ

cấu lao động theo trình độ, ngành nghề. Khi trình độ học vấn của dân cư được nâng

cao, số người trẻ được hưởng chế độ giáo dục tốt hơn, tỉ lệ biết chữ cao, số năm đến

trường nhiều sẽ có tác động tích cực đến vấn đề giáo dục chuyên môn, nghề nghiệp,

nâng cao kĩ năng tay nghề cho người lao động. Từ đó, làm cho chất lượng lao động

có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, CCLĐ theo trình độ CMKT được nâng cao

và cơ cấu ngành nghề đào tạo phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động.

Sự phát triển của hệ thống giáo dục – đào tạo cũng ảnh hưởng đến việc nâng

cao chất lượng lao động. Với việc đa dạng về loại hình giáo dục và cơ sở đào tạo

tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động dễ dàng nâng cao trình độ văn hóa,

chuyên môn tay nghề của mình. Đồng thời, hằng năm các cơ sở GD – ĐT cung cấp

cho thị trường lao động một đội ngũ lao động đã qua đào tạo, bổ sung lao động có

trình độ chuyên môn cho các ngành kinh tế.

 Đầu tư nước ngoài

Đầu tư nước ngoài là nhân tố quan trọng góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển

dịch CCKT và CCLĐ theo hướng CNH. Nhìn chung, trong giai đoạn đầu của quá

trình thu hút đầu tư nước ngoài, dòng vốn đầu tư thường hướng vào các ngành công

nghiệp khai thác và các ngành công nghiệp nhẹ tận dụng nguồn nguyên liệu và lao

động sẵn có. Cũng trong giai đoạn này, nguồn vốn thường tập trung vào các đô thị

lớn, các đô thị có CSHT, điều kiện kinh tế thuận lợi. Đầu tư nước ngoài sẽ tạo sự

chuyển biến mạnh mẽ trong cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu thành

phần kinh tế. Nhưng sang đến giai đoạn sau, dòng vốn đầu tư sẽ có sự thay đổi, dần

được thu hút sang các ngành có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các ngành đòi hỏi

KHCN vì vậy lao động cũng có sự thay đổi để đáp ứng với sự chuyển dịch đó.

 Thị trường lao động và liên kết Vùng trong sử dụng lao động

Thị trường lao động là tập hợp các hoạt động nhằm trao đổi, mua bán hàng

hóa, sức lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động, được cấu thành

bởi các yếu tố cung cầu lao động, giá cả sức lao động, sự cạnh tranh trên thị trường

lao động. Thị trường lao động luôn đa dạng và linh hoạt tùy thuộc vào luật pháp và

45

các nhân tố tác động đến thị trường như nhà nước, doanh nghiệp, chủ sở hữu, chính

sách, trình độ lao động,…và có ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch CCLĐ.

Tại các đô thị lớn, thị trường lao động rất sôi động do nguồn cung lao động

nhiều và nhu cầu lao động lớn. Nơi đây có thị trường tiêu thụ rộng lớn, tạo sức hấp

dẫn đối với các nhà sản xuất, thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng, mở rộng quy

mô sử dụng đất và quy mô hoạt động kinh tế phát triển của đô thị. Sự đa dạng về

ngành nghề, số lượng việc làm lớn, đáp ứng mọi trình độ là những yếu tố thu hút lao

động từ các nơi đổ về đô thị.

Giữa đô thị và các vùng xung quanh luôn có mối quan hệ tác động lẫn nhau,

bởi phạm vi kinh tế đô thị có tính co giãn, hoạt động kinh tế đô thị có chức năng lan

tỏa và mở. Khi tiến hành liên kết và hợp tác kinh tế khu vực, cần chú ý đến khía

cạnh lao động, là sự di chuyển lao động từ các vùng đến đô thị và ngược lại. Bởi

vấn đề lao động di cư có ảnh hưởng lớn đến nguồn lao động của các địa phương, nó

có thể tạo ra nguồn lao động dồi dào cho địa phương có lao động di cư đến nhưng

lại ảnh hưởng đến nguồn lao động của địa phương nơi xuất cư. Vì vậy, cần chú ý

khi hoạch định chính sách phát triển kinh tế và sử dụng lao động của Vùng.

1.1.4.3. Nhân tố tự nhiên

Các nhân tố tự nhiên như đất đai, địa hình, khí hậu, …tác động đến sự phát

triển không gian đô thị, về việc xây dựng kiến trúc và cảnh quan đô thị, xây dựng

các khu công nghiệp, khu dân cư, đến các hoạt động sản xuất trong đô thị từ đó ảnh

hưởng lớn đến cơ cấu lao động và việc làm của dân cư đô thị.

Địa hình ảnh hưởng đến việc cư trú, đi lại của con người, đến không gian kiến

trúc, quy hoạch đô thị cũng như tác động đến hoạt động kinh tế, đời sống của dân

cư. Dân cư và lao động thường tập trung đông ở những vùng có địa hình bằng

phẳng như các đồng bằng, khu vực ven biển để thuận tiện cho sản xuất và sinh hoạt.

Khí hậu ảnh hưởng đến việc tổ chức sản xuất nhất là hoạt động sản xuất nông

– lâm – ngư nghiệp, ảnh hưởng tới sinh hoạt của dân cư lao động và đến chất lượng

công trình hạ tầng kĩ thuật trong đô thị. Những nơi có khí hậu thời tiết tốt, thuận lợi

cho cuộc sống và sản xuất sẽ thu hút lao động nhiều hơn, quy mô đô thị lớn hơn so

với những nơi có khí hậu khắc nghiệt.

46

Đất đai ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng mở rộng đô thị, xây dựng CSHT kĩ

thuật đô thị, ảnh hưởng đến chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất đô thị từ đó tác động đến

CCLĐ và thay đổi việc làm của dân cư đô thị đặc biệt là trong KV nông nghiệp.

Tài nguyên nước mặt và nước ngầm là nguồn cung cấp nước phục vụ cho hoạt

động sản xuất và sinh hoạt của dân cư. Những nơi có nguồn nước phong phú, thuận

lợi cho các hoạt động sản xuất thì nguồn lao động tập trung đông đúc.

Nhìn chung, nhân tố tự nhiên có ảnh hưởng quan trọng đến sự phân bố các

hoạt động sản xuất, phân bố dân cư, lao động và từ đó tác động đến quá trình

chuyển dịch CCLĐ. Nhưng nhân tố KT - XH mới là nhân tố có ảnh hưởng quyết

định đến việc chuyển dịch CCLĐ giữa các ngành kinh tế, giữa các vùng lãnh thổ.

1.1.5. Các tiêu chí đánh giá chuyển dịch CCLĐ trong quá trình đô thị hóa

CCLĐ có sự thay đổi theo từng giai đoạn, từng thời kì lịch sử, gắn liền với

trình độ phát triển sản xuất và nhu cầu của xã hội theo xu thế từ thấp đến cao, từ

đơn giản đến phức tạp. Vì vậy, khi nghiên cứu CDCCLĐ phải được xem xét ở

nhiều góc độ khác nhau, phải thấy được xu hướng vận động (tăng hay giảm), tốc độ

chuyển dịch (nhanh hay chậm) và tính quy luật của nó trong một không gian và thời

gian nhất định.

1.1.5.1. Tiêu chí đánh giá sự chuyển dịch xét về quy mô và cơ cấu lao động

 Quy mô lao động

Quy mô lao động thường được biểu hiện thông qua chỉ tiêu phản ánh số lượng

lao động. Số lượng lao động là một bộ phận của nguồn lao động đang làm việc

trong các doanh nghiệp, các ngành, các khu vực cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc

dân. Đây được xem là tiêu chí quan trọng khi phân tích chuyển dịch CCLĐ bởi vì

muốn phản ánh CCLĐ trước hết phải xác định được số lượng lao động.

là số lượng lao động của bộ phận thứ n. Bộ phận có thể là lao động

Công thức tính: ∑LĐ = ∑

- ∑LĐ là quy mô (hay tổng số) lao động (của các bộ phận) (người) - ∑

theo ngành, theo thành phần kinh tế, theo trình độ CMKT...

Các chỉ tiêu phản ánh quy mô LĐ bao gồm: Chỉ tiêu số lượng LĐ theo ngành

(theo nhóm ngành, theo ngành cấp 1, theo ngành cấp 2,...); Chỉ tiêu số lượng LĐ

47

theo lãnh thổ (trong đó có thể chia ra theo ngành, theo thành phần kinh tế,...); Chỉ

tiêu số lượng LĐ theo TPKT; Chỉ tiêu số lượng LĐ theo trình độ CMKT.

Dưới tác động của quá trình ĐTH, quy mô LĐ đô thị có xu hướng ngày càng

tăng đặc biệt là quy mô LĐ trong khu vực công nghiệp và dịch vụ. Quy mô lao

động tăng do sức hút của đô thị đối với LĐ nhập cư; do tăng cầu LĐ khi kinh tế

ngày càng phát triển; do quá trình cơ giới hóa trong nông nghiệp, giải phóng sức LĐ

và đô thị phát triển là nơi tiếp nhận số lao động dư thừa này từ khu vực nông thôn.

 Cơ cấu lao động

Cơ cấu lao động là một phạm trù phản ánh một tập hợp các bộ phận cấu thành

tổng thể lao động theo những tỉ trọng nhất định và mối quan hệ về lao động giữa các

bộ phận đó. Cơ cấu lao động được tính theo công thức sau:

RLĐ ∑

Trong đó:

RLĐ: Tỉ trọng lao động của bộ phận n so với tổng thể (%)

LĐn: số lượng lao động của từng bộ phận cấu thành nên tổng thể

∑LĐ: số lượng lao động của tổng thể nghiên cứu

Các chỉ tiêu phản ánh CCLĐ theo ngành kinh tế (theo nhóm ngành, theo

ngành cấp 1, theo ngành cấp 2,...); theo thành phần kinh tế; theo lãnh thổ; theo trình

độ chuyên môn kỹ thuật,...

Công thức tính cơ cấu lao động đã được Tổng cục Thống kê sử dụng khi

nghiên cứu tình hình lao động và việc làm hằng năm của nước ta [73], [74] cũng

như được các tác giả sử dụng khi tìm hiểu đánh giá về thực trạng lao động và

chuyển dịch CCLĐ ở các địa phương khác nhau [6], [20], [27], [28], [30], [60]…

1.1.5.2. Tiêu chí đánh giá sự thay đổi tỉ trọng và tốc độ chuyển dịch CCLĐ

Chuyển dịch CCLĐ được tính bằng cách so sánh tỉ trọng LĐ của từng bộ phận

trong tổng thể thời gian này với thời gian trước đó hoặc giữa các bộ phận trong tổng

thể với nhau để thấy được đã tăng lên (hay giảm đi) bao nhiêu phần trăm [60].

Thông qua sự thay đổi tỉ trọng LĐ giữa các bộ phận là căn cứ để có thể xác định

được số lượng LĐ tham gia vào hoạt động của từng bộ phận, mức độ thu hút lao

48

động của các bộ phận đó, đánh giá sự chuyển dịch có hợp lí và tiến bộ hay không,

phù hợp với từng giai đoạn phát triển hay không?

Công thức tính sự biến đổi tỉ trọng CCLĐ của một bộ phận lao động trong một

khoảng thời gian nghiên cứu như sau:

RLĐn = RLĐn(t) – RLĐn(0)

Trong đó:

RLĐ: sự thay đổi tỉ trọng lao động của bộ phận n (%)

RLĐ(t): tỉ trọng lao động của bộ phận n vào năm t (năm nghiên cứu)

RLĐ(0): tỉ trọng lao động của bộ phận n vào năm đầu kì nghiên cứu

Tốc độ chuyển dịch CCLĐ được biểu hiện thông qua sự thay đổi về tỉ trọng

lao động giữa các bộ phận của nền kinh tế theo thời gian. Đây là tiêu chí quan trọng

nhằm xác định lao động được phân bố vào các ngành kinh tế, thành phần kinh tế,

lãnh thổ như thế nào, chuyển dịch nhanh hay chậm, hợp lí hay không hợp lí. Khi

nghiên cứu tốc độ CDCCLĐ, Tổng cục Thống kê và nhiều tác giả đã sử dụng công

thức tính tốc độ chuyển dịch CCLĐ bình quân như sau [ 27], [ 30], [48], [60], [82]...

)

dCCLĐ ( √ ( ) ( )

Trong đó:

dCCLĐ: tốc độ CDCCLĐ bình quân năm thời kì (từ sau năm gốc so sánh đến

năm thứ n)

RLĐ(t): CCLĐ năm cuối (năm thứ n) của thời kì nghiên cứu

RLĐ(0): CCLĐ năm gốc so sánh của thời kì nghiên cứu

n: số năm tính từ năm gốc so sánh cho đến năm báo cáo.

Nghiên cứu CDCCLĐ trong quá trình ĐTH cần đánh giá sự chuyển dịch từ

nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp, đặc biệt xem xét sự dịch chuyển trong

cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp và dịch vụ. ĐTH đi kèm với quá trình CNH làm

gia tăng các hoạt động công nghiệp, thương mại và dịch vụ trong đô thị. Tại các

vùng ĐTH, diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp nhường chỗ cho hoạt

động CN, cư trú và CSHT đô thị, sản xuất nông nghiệp giảm. Một bộ phận LĐ nông

49

nghiệp không có việc làm phải chuyển sang các hoạt động phi nông nghiệp khác.

Dẫn đến chuyển dịch LĐ trong các ngành kinh tế, TPKT, trong các khu vực ĐTH.

1.1.5.3. Tiêu chí đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu lao động gắn với cơ cấu

kinh tế và năng suất lao động

 Chuyển dịch CCLĐ gắn với chuyển dịch CCKT

Chuyển dịch CCLĐ gắn liền với chuyển dịch CCKT. Dựa trên so sánh về sự

thay đổi tỉ trọng và tốc độ tăng giảm giữa CCKT và CCLĐ qua một mốc thời gian

để thấy được sự thay đổi CCLĐ so với thay đổi cơ cấu các ngành kinh tế có phù

hợp và tương thích với nhau hay không, tốc độ chuyển dịch là nhanh hay chậm, sự

chuyển dịch đó có mang lại hiệu quả cao về kinh tế - xã hội hay không?

 Chuyển dịch CCLĐ gắn với thay đổi NSLĐ

Yếu tố góp phần không nhỏ vào sự thay đổi về quy mô và di chuyển lao động

giữa các ngành, các vùng trong quá trình đô thị hóa là năng suất của người lao động.

Người lao động có xu hướng di chuyển từ ngành, vùng có NSLĐ thấp sang những

ngành, vùng có NSLĐ cao hơn. Vì vậy, cần phân tích rõ mối quan hệ giữa NSLĐ và

chuyển dịch CCLĐ để đo lường mức độ ảnh hưởng trên [27], [42].

Năng suất lao động là chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả sử dụng lao động, thường đo

bằng tổng sản phẩm trong nước (theo giá hiện hành) tính bình quân một lao động

trong thời kì nghiên cứu (thường là một năm). Công thức tính năng suất lao động

như sau [42], [70], [88]:

NSLĐ: năng suất lao động (VNĐ/lao động)

∑ : tổng sản phẩm trong nước (GDP)

∑ : Tổng số lao động làm việc

Nghiên cứu tiêu chí này không chỉ thể hiện hiệu quả sản xuất và dịch vụ mà

còn là động lực để cải thiện đời sống và tăng thu nhập của người lao động, từ đó

thúc đẩy quá trình chuyển dịch CCLĐ đạt hiệu quả.

50

1.1.5.4. Tiêu chí đánh giá sự chuyển dịch xét về trình độ chuyên môn kĩ thuật

Trình độ CMKT của người lao động là người lao động được nhận một chứng

nhận bằng cấp về trình độ chuyên môn theo ngành nghề đào tạo nào đó qua thời

gian đào tạo nhất định theo quy định về chương trình đào tạo của hệ thống đào tạo

nước ta. Theo Tổng cục Thống kê, trình độ chuyên môn của người lao động được

phân thành bốn cấp bậc: đào tạo nghề, trình độ trung học chuyên nghiệp, trình độ

cao đẳng, trình độ đại học trở lên (đại học, thạc sĩ, tiến sĩ) [69]. Trình độ CMKT của

người lao động được thể hiện thông qua chỉ tiêu tỉ lệ lao động đã qua đào tạo:

rCMKT: tỉ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo (%)

∑ tổng số lao động đang làm việc

LĐCMKT : lao động đang làm việc đã qua đào tạo

Trong quá trình đô thị hóa, trình độ CMKT của người lao động không ngừng

được nâng cao. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo ngày càng tăng do sự cạnh tranh gay

gắt về việc làm đòi hỏi người lao động phải có trình độ, kinh nghiệm; người lao

động dễ dàng tiếp cận với hệ thống giáo dục đa dạng các cấp; việc trang bị và trang

bị lại công nghệ hiện đại trong quá trình CNH – HĐH sẽ gia tăng số lượng lao động

có trình độ, có khả năng sử dụng kĩ thuật tiên tiến, hiện đại.

1.1.5.5. Tiêu chí đánh giá sự chuyển dịch lao động theo Thương số vị trí

Để làm rõ hơn sự CDCCLĐ theo ngành và lãnh thổ của TP. HCM trong quá

trình ĐTH, luận án sử dụng Thương số vị trí. Thương số vị trí là thước đo để đo

mức độ tập trung địa lí của một ngành kinh tế, được xác định bằng tỉ lệ giữa việc

làm của một ngành trên tổng việc làm của địa phương chia cho tỉ lệ việc làm của

ngành đó trên tổng việc làm của toàn quốc. Nếu kết quả thu được lớn hơn (hoặc nhỏ

hơn 1), thì vị trí (địa phương) đó có mức độ chuyên môn hóa ngành cao hơn (hoặc

nhỏ hơn) so với mức trung bình trong toàn quốc. Chỉ số vị trí càng cao nghĩa là mức

độ tập trung, hoặc chuyên môn hóa của ngành tại vị trí (địa phương) cụ thể đó càng

cao [41, tr.30].

51

Công thức:

: số lao động làm việc trong ngành i của cả nước : tổng số lao động làm việc của cả nước

LQi: Thương số vị trí của ngành i : số lao động làm việc trong ngành i tại địa phương K : tổng số lao động làm việc tại địa phương K

Theo phân tích của Ngân hàng thế giới [41], các hoạt động phi nông nghiệp ở

nước ta tập trung nhiều ở các thành phố lớn và sự chuyên môn hóa sẽ giảm dần khi

chuyển sang các thành phố nhỏ hơn. Các đô thị đặc biệt, cũng là các thành phố lớn

nhất, có mức độ chuyên môn hóa cao hơn về các hoạt động sản xuất công nghiệp,

tiếp theo là các ngành thương mại, dịch vụ (phụ lục 1). Theo khoảng cách từ Hà Nội

và TP. HCM cho thấy, một số lượng lớn việc làm và tốc độ tăng trưởng cao nhất tập

trung tại Hà Nội, TP. HCM và các vùng ngoại ô lân cận trong vòng bán kính 70 km

tính từ trung tâm thành phố.

Sản xuất công nghiệp thường có xu hướng tập trung trước hết ở các thành phố

lớn trong giai đoạn đầu của quá trình CNH, ĐTH: trước hết tập trung tại các trung

tâm đô thị lõi, sau đó ngành sản xuất sẽ liên tục mở rộng ra các vùng ngoại ô

(“ngoại ô hóa”), cuối cùng sẽ tiến đến các thị trấn nhỏ hoặc nông thôn [41, tr.30].

Ngoài ra, sự tập trung các hoạt động sản xuất công nghiệp không chỉ giới hạn trong

các ranh giới đô thị hành chính. Trong nhiều trường hợp, các làng xã nông thôn nằm

gần các thành phố lớn (thường trong phạm vi bán kính 50 km) cũng là nơi phát triển

nhiều hoạt động sản xuất công nghiệp.

1.1.5.6. Tiêu chí so sánh chuyển dịch CCLĐ giữa các khu vực lãnh thổ

Để đánh giá những nét đặc thù của chuyển dịch CCLĐ trong nền kinh tế một

địa phương cần phải so sánh CCLĐ và tốc độ chuyển dịch CCLĐ của địa phương

đó so với địa phương khác. Ngoài ra, khi xem xét những nét đặc thù trong chuyển

dịch CCLĐ ở một địa phương cần so sánh cơ cấu lao động và tốc độ chuyển dịch cơ

cấu lao động của địa phương đó so với mức bình quân của vùng hoặc đất nước.

52

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở Việt Nam trong quá trình đô thị hóa

Sau gần 30 năm Đổi mới, cùng với quá trình CNH – HĐH đất nước, quá trình

ĐTH của nước ta đang diễn ra mạnh mẽ đã tác động đến quá trình chuyển dịch cơ

cấu lao động trong thời gian qua. Diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp do

quá trình đô thị hóa mở rộng; các dòng dịch chuyển lao động từ nông thôn ra thành

thị do thiếu việc làm ở nông thôn, do sức hấp dẫn ở các đô thị; các KCN – KCX

được hình thành ngày càng nhiều làm tăng nhu cầu lao động trong các ngành công

nghiệp và dịch vụ…Cơ cấu lao động của nước ta đã có nhiều thay đổi do tác động

của quá trình đô thị hóa được thể hiện ở một số đặc điểm sau:

Một là, nước ta có lực lượng lao động đông 53,2 triệu người, chiếm 59,3%

tổng dân số (năm 2013). Tỉ lệ tham gia lực lượng lao động chênh lệch đáng kể giữa

nam và nữ, tỉ lệ lao động nữ ít hơn so với lao động nam (48,6% và 51,4%); và

không đồng đều giữa các vùng, ĐBSCL có tỉ lệ lao động nữ thấp nhất 46,0%,

ĐBSH có tỉ lệ lao động nữ cao nhất 50,6%. Về CCLĐ theo tuổi, tỉ lệ dân số trong

độ tuổi lao động tăng nhanh trong thời gian qua, tăng từ 58,4% năm 1999 lên 65,2%

năm 2013. Cơ cấu tuổi của lực lượng lao động nước ta đang có sự biến đổi theo xu

hướng già hóa với tỉ lệ lao động độ tuổi từ 15-24 tuổi giảm từ 21,5% năm 2000

xuống 14,9% năm 2013, độ tuổi 25-49 tuổi giảm 66,1% xuống còn 59,9%, trong khi

lao động trên 50 tuổi trở lên tăng từ 12,4% lên 25,2%.

Hai là, quá trình CNH – HĐH gắn liền với quá trình đô thị hóa đang diễn ra đã

làm CCLĐ theo ngành có sự chuyển dịch tích cực theo hướng giảm tỉ trọng lao

động trong nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ. Tỉ

trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ tăng gần gấp đôi trong giai đoạn 1999 -

2013, tăng tương ứng từ 12% lên 21,2% và 19,2% lên 32,0%; lao động nông nghiệp

giảm mạnh từ 68,8% xuống còn 46,8%. Tuy vậy, có thể thấy rằng sự gia tăng tỉ lệ

lao động trong ngành công nghiệp vẫn còn chậm và lao động trong nhóm ngành

nông nghiệp mặc dù đã giảm nhưng vẫn còn chiếm ½ lực lượng lao động. Điều này

là do nước ta vẫn là một nước nặng về nông nghiệp, nông thôn, chỉ có khoảng

32,4% dân số sống ở các vùng đô thị (2013).

53

Khu vực nông thôn hoạt động sản xuất chính vẫn là nông nghiệp với trình độ

cơ giới hóa chưa cao nên cần một lực lượng lao động đông, chủ yếu là lao động

giản đơn, năng suất thấp. Ở khu vực miền núi và ven biển, tỉ lệ lao động làm việc

trong khu vực nông nghiệp còn khá cao, Tây Nguyên là 71,7%, TDMNPB là

69,4%, BTB và DHNTB là 54,5% (2013). Ngược lại, lao động trong ngành công

nghiệp và dịch vụ lại tập trung nhiều ở Đông Nam Bộ và ĐBSH, nơi có hai thành

phố lớn nhất nước là TP. HCM và Hà Nội.

Biểu đồ 1.1: Cơ cấu lực lượng lao động nước ta phân theo nhóm ngành

100%

19,2

90%

21,8

25,9

26,6

32,0

80%

12

13,1

70%

18,1

21,5

60%

21,2

50%

40%

68,8

30%

65,1

56,0

51,9

46,8

20%

10%

0%

1999 2000

2005

2009

2013

Nông - lâm - ngư nghiệp

Công nghiệp - xây dựng

Dịch vụ

Nguồn: xử lí từ [70], [74]

kinh tế giai đoạn 1999 - 2013 (%)

Ba là, chất lượng lao động nước ta đã được cải thiện, trình độ CMKT của lực

lượng lao động ngày càng được nâng cao, đóng góp đáng kể cho tăng trưởng kinh tế

và phát triển xã hội. Tỉ lệ lao động không có trình độ CMKT ngày càng giảm, số lao

động qua đào tạo ngày càng tăng. Tỉ lệ lao động không có trình độ CMKT giảm từ

91,9% năm 1999 xuống còn 81,8% năm 2013. Nhìn chung xu hướng này là tiến bộ,

tuy nhiên, mức giảm của tỉ lệ lao động không có trình độ CMKT còn chậm, chưa

đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp

CNH – HĐH đất nước. Đối với lao động qua đào tạo, tăng từ 8,1% lên 18,2% giai

đoạn 1999 - 2013, trong đó lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên tăng

khá nhanh, từ 2,7% lên 9,1% giai đoạn 1999 – 2013, tăng gần 4 lần.

54

Hiện nay, nước ta đang tồn tại tình trạng thừa lao động phổ thông, thiếu lao

động kĩ thuật, lao động có tay nghề, thể hiện ở sự mất cân đối giữa lao động có trình

độ cao đẳng, đại học so với lao động công nhân kĩ thuật, đào tạo nghề. Kinh nghiệm

ở các nước phát triển thì CCLĐ theo trình độ CMKT hợp lí sẽ có tỉ lệ 1 lao động

trình độ cao đẳng, đại học : 4 lao động trình độ trung học chuyên nghiệp : 10 công

nhân kĩ thuật [56, tr.134]. Nhưng của nước ta là tỉ lệ 1 : 0,41 : 0,59 (2013) đây là

một cơ cấu chưa hợp lí, phản ánh sự mất cân đối trong cơ cấu đào tạo của nước ta.

Bảng 1.2: Cơ cấu lực lượng lao động của nước ta theo trình độ chuyên môn

kĩ thuật giai đoạn 1999 - 2013 (%)

Các chỉ tiêu 1999 2005 2009 2013

Không có trình độ CMKT 91,9 84,8 82,4 81,8

Công nhân kĩ thuật 2,4 5,0 6,3 5,4

Trung học chuyên nghiệp 3,0 4,7 4,4 3,7

Cao đẳng, đại học trở lên 2,7 5,5 6,9 9,1

Nguồn: xử lí từ [70], [74]

Bốn là, lao động phân theo thành phần kinh tế đã có chuyển biến rõ nét. Việc

đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các hình thức tổ chức sản xuất tạo điều kiện cần

thiết cho sự hình thành, tồn tại và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Lao động

trong thành phần kinh tế nhà nước không có nhiều biến động và xu hướng giảm (từ

11,1% năm 1999 xuống 10,2% năm 2013), chuyển sang khu vực ngoài nhà nước

(88,4% năm 1999 và 87,3% năm 2013), đặc biệt khu vực đầu tư nước ngoài có sự

vươn lên mạnh mẽ từ 0,5% lên 3,4% giai đoạn 1999 - 2013. Tuy vậy, mức tăng lao

động khu vực kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài vẫn ở mức thấp và gia tăng

chậm. Sự chuyển dịch LĐ từ khu vực nhà nước sang khu vực kinh tế khác đang

diễn ra phù hợp với quá trình Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường, cho

thấy thị trường lao động nước ta phát triển theo hướng tiến bộ trong thời gian qua.

Năm là, LLLĐ phân bố không đồng đều giữa các vùng lãnh thổ, tập trung ở

các vùng kinh tế trọng điểm, đặc biệt ở những đô thị lớn và các đô thị tập trung

nhiều KCN – KCX. Những khu vực này tập trung nhiều lao động được đào tạo, có

55

bằng cấp cao. Lực lượng lao động theo vùng lãnh thổ đang có xu hướng tăng lao

động của vùng Đông Nam Bộ (tăng từ 13,9% năm 2005 lên 16,3% năm 2013) và

Tây Nguyên (5,7% lên 6,1%) và giảm LLLĐ ở các vùng ĐBSH (23,9% xuống

22,5%) và ĐBSCL (20,8% xuống 19,4%). Hai vùng ĐBSH và Đông Nam Bộ chiếm

38,8% lực lượng lao động cả nước, trong đó riêng hai thành phố Hà Nội và TP.

HCM chiếm 14,8% tổng LLLĐ cả nước. Hai vùng này cũng có tỉ lệ LĐ đã qua đào

tạo chiếm cao nhất cả nước (ĐBSH là 24,9% và Đông Nam Bộ là 23,5% - 2013).

Nhìn chung, sự chuyển dịch lao động theo vùng chịu tác động mạnh mẽ của các

dòng di dân nông thôn – nông thôn, nông thôn – đô thị của nước ta thời gian qua.

Do tác động của quá trình ĐTH và CNH, các đô thị được hình thành và mở

rộng, cùng với đó là sự phát triển các KCN - KCX đã thu hút một lượng lớn lao

động di cư từ nông thôn ra thành thị tìm việc làm, làm tăng tỉ trọng lao động ở các

vùng đô thị và giảm tỉ trọng lao động ở khu vực nông thôn. Năm 1999 có 22,3% lực

lượng lao động tập trung ở đô thị, năm 2009 tăng lên là 26,9%, đến năm 2013 tăng

lên 30,1%; trong khi đó tỉ lệ này vẫn cao ở khu vực nông thôn nhưng đã giảm từ

77,7% năm 1999 xuống còn 69,9% năm 2013. Chất lượng lao động nông thôn thấp

hơn nhiều so với chất lượng lao động thành thị. Năm 2013, lao động nông thôn đã

qua đào tạo là 11,5% trong khi ở thành thị là 33,9% (gấp 3 lần), đặc biệt là sự chênh

lệch ở trình độ đại học trở lên (nông thôn là 2,9%, thành thị là 16,7%, gấp 5,7 lần).

1.2.2. Chuyển dịch CCLĐ ở một số thành phố trong quá trình ĐTH

 Thành phố Hà Nội

Quá trình ĐTH của thành phố Hà Nội diễn ra nhanh chóng cùng với quá trình

điều chỉnh địa giới hành chính. Từ khi mở rộng địa giới hành chính đến nay, thành

phố Hà Nội có quy mô dân số đứng thứ hai toàn quốc, có trên 7,2 triệu người (đứng

sau TP. HCM là 7,98 triệu người), trong đó có 2.951,3 nghìn người sống ở khu vực

thành thị, tỉ lệ đạt 42,5% (2013). Với tốc độ tăng dân số nhanh, lực lượng lao động

của Hà Nội không ngừng tăng lên, ngoài lao động tại chỗ còn có một lượng lao

động từ các địa phương khác đến. Giai đoạn 2008 - 2014 tỷ lệ nhập cư thuần vào Hà

Nội khoảng 0,5%/năm, tương ứng với khoảng 30.000 - 35.000 người được bổ sung

thêm vào dân số Hà Nội mỗi năm từ nguồn nhập cư.

56

Thời gian qua, nhờ phát huy nguồn lực trong và ngoài nước, thành phố Hà Nội

đã có bước phát triển nhanh chóng, đạt nhiều kết quả trong tăng trưởng kinh tế, thu

hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.

Cùng với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế thì cơ cấu lao động cũng thay đổi

theo hướng tăng tỉ trọng lao động khu vực công nghiệp đô thị, giảm tỉ trọng lao

động khu vực nông nghiệp nông thôn. Năm 2013, tỉ trọng lao động công nghiệp –

xây dựng là 28,2%, dịch vụ là 47,5%, nông nghiệp là 24,3%. Tuy nhiên, tỉ lệ lao

động trong khu vực nông nghiệp của thành phố Hà Nội vẫn còn chiếm tỉ lệ khá cao.

Các vùng nông thôn của Hà Nội diễn ra quá trình ĐTH mạnh mẽ, hàng loạt

các ngành nghề dịch vụ được mở rộng phát triển. Quá trình này tạo thêm nhiều việc

làm và thu nhập cho lao động nông thôn. Ví dụ như huyện Từ Liêm, số lao động

hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tăng rất nhanh từ 22.379 lao động năm 2010 lên

54.700 lao động năm 2013 (gấp 2,5 lần). Một phần không nhỏ là do số lao động

nông nghiệp bị thu hồi đất đã chuyển sang hoạt động dịch vụ khi có các cơ sở dịch

vụ và đường xá được mở rộng. Năm 2013 có 1987 lao động nông nghiệp bị mất

việc làm do thu hồi đất ở huyện Từ Liêm.

Về cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế, do Hà Nội là thủ đô của Việt

Nam, nơi tập trung các cơ quan, ban ngành hành chính cấp Trung ương và địa

phương nên tỉ lệ lao động làm việc trong khu vực nhà nước khá cao, chiếm 15,4%

(trong khi cả nước là 10,2% và TP. HCM là 14,8%), lao động ngoài nhà nước

chiếm 78,7% và lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỉ lệ thấp

nhất (5,9%). Lao động đang có xu hướng tăng ở khu vực ngoài nhà nước, đặc biệt là

khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

Chất lượng lao động của Hà Nội cao nhất so với các tỉnh thành trong cả nước.

Nhiều năm qua công tác đào tạo nghề cho lao động luôn được Chính quyền Thành

phố đặc biệt quan tâm. Hà Nội tập trung các Viện, Trung tâm nghiên cứu, các

trường đại học, cao đẳng, các trung tâm dạy nghề hàng đầu cả nước, đã cung cấp

cho Hà Nội một đội ngũ lực lượng lao động có chuyên môn và tay nghề cao, đội

ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật có trình độ, các chuyên gia, thợ lành nghề… Đây là

lực lượng lao động dồi dào cung cấp cho các ngành công nghiệp – xây dựng và dịch

57

vụ. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo của Hà Nội là 36,9%, cao hơn so với TP. HCM là

31,4% (2013). Trong đó lao động có trình độ từ đại học trở lên chiếm tỉ lệ cao nhất

19%. Nguồn lao động chất lượng cao của Hà Nội chiếm 30% nguồn lao động chất

lượng cao của cả nước [74].

Mặc dù tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng khoảng 3,5%/năm nhưng số lao động

có trình độ CMKT phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở khu vực đô thị, các quận

nội thành, trong khi ở nông thôn đa phần lao động chưa qua đào tạo. Vì vậy, khi bị

tác động của ĐTH, chuyển đổi cơ cấu việc làm, một bộ phận lao động không có

trình độ rất dễ rơi vào tình trạng thất nghiệp hoặc làm những công việc tạm thời, thu

nhập bấp bênh. Năm 2013 tỉ lệ thiếu việc làm ở khu vực nông thôn của Hà Nội là

1,4%, cao hơn so với TP. HCM là 0,1%. Thực trạng về mất cân đối giữa cung - cầu

lao động, đặc biệt năng lực của lao động chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường

lao động đang là yếu tố cản trở tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội.

 Thành phố Đà Nẵng

Kể từ khi trở thành thành phố trực thuộc Trung ương (năm 1997) đến nay, Đà

Nẵng đã có những thay đổi to lớn, không ngừng trong phát triển đô thị. Trong

những năm gần đây, diện tích đô thị của thành phố Đà Nẵng liên tục mở rộng với

tốc độ đô thị hóa cao, tỉ lệ đô thị hóa cao nhất cả nước (87,3% - 2013) đã đem lại

cho Đà Nẵng một tầm vóc mới cả về không gian lẫn chất lượng đô thị. Đà Nẵng đã

phát huy những lợi thế về vị trí địa lí thuận lợi của mình là nằm trong VKTTĐ miền

Trung, giáp biển Đông để thu hút đầu tư phát triển hạ tầng, chuyển đổi mục đích sử

dụng đất nông nghiệp sang phát triển công nghiệp và dịch vụ.

Sự tăng lên của quy mô dân số cùng với tốc độ ĐTH đã kéo theo sự tăng

trưởng về quy mô lực lượng lao động của thành phố Đà Nẵng từ 330.827 người

năm 2000 lên 515.018 người năm 2013, tăng bình quân 2,9%/năm. Lực lượng lao

động dồi dào với cơ cấu trẻ, lao động độ tuổi dưới 35 chiếm 41,08%; phân bố chủ

yếu ở khu vực đô thị chiếm 87,62%, khu vực nông thôn chiếm 12,38% [31].

CCLĐ theo trình độ CMKT có sự tăng lên rõ rệt, đáp ứng cho nhu cầu của quá

trình CNH – ĐTH. Lao động chưa qua đào tạo giảm từ 75,5% năm 2001 xuống còn

65,3% năm 2013, lao động đã qua đào tạo tăng từ 24,5% lên 34,7%. Đặc biệt lao

58

động có trình độ từ CĐ, ĐH trở lên tăng nhanh từ 9,0% lên 20,7% [31]. Mặc dù

chất lượng lao động đã được nâng cao nhưng lao động chưa qua đào tạo còn chiếm

tỉ lệ lớn (65,3%); tỉ lệ đào tạo chưa thật hợp lí 1 CĐ – ĐH : 0,33 trung cấp chuyên

nghiệp : 0,35 công nhân kĩ thuật; sự phân bố LĐ giữa thành thị và nông thôn, giữa

các ngành kinh tế chưa đồng đều; lao động lành nghề, có trình độ cao còn thiếu…

Quá trình ĐTH của Đà Nẵng diễn ra nhanh, diện tích đất nông nghiệp bị thu

hẹp. Trong giai đoạn 2011 – 2013, Đà Nẵng đã thu hồi 3.924,06 ha đất nông nghiệp,

tổng số hộ bị thu hồi là 16.313 hộ, với tổng số LĐ là 46.772 người, trong đó số lao

động bị mất hoặc thiếu việc làm do thu hồi đất nông nghiệp 25.752 người, chiếm

55% tổng số LĐ nông nghiệp bị thu hồi đất. Việc chuyển những người nông dân bị

thu hồi đất sang hoạt động công nghiệp và dịch vụ là một tất yếu khách quan của

quá trình CNH, ĐTH. Nhưng điều khó khăn của thành phố là những LĐ nông

nghiệp phần lớn là LĐ giản đơn, chưa qua đào tạo nghề. Do đó họ rất khó kiếm

được việc làm tốt, có thu nhập cao và ổn định trong ngành công nghiệp và dịch vụ.

Về cơ cấu lao động theo ngành kinh tế, thành phố đang có sự chuyển dịch từ

công nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp sang dịch vụ - công nghiệp – nông nghiệp.

Quá trình đô thị hóa quá nhanh đã làm diện tích đất nông nghiệp giảm, quy mô sản

xuất nông nghiệp bị thu hẹp và tỉ trọng lao động nông nghiệp cũng giảm nhanh

chóng xuống từ 30,2% xuống 8,2% trong giai đoạn 2000 – 2013. Trong khi đó,

ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao và chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong

CCLĐ. Tỉ trọng lao động ngành dịch vụ tăng nhanh nhất từ 38,0% năm 2000 lên

58,8% năm 2012; ngành công nghiệp tăng từ 31,8% lên 33,0%. Sự chuyển dịch này

cho thấy Đà Nẵng đã tận dụng được lợi thế nằm ở vị trí trung tâm “trung chuyển”

trong nước với quốc tế, vai trò trung tâm kinh tế, thương mại – dịch vụ của miền

Trung, đặc biệt Đà Nẵng có tiềm năng rất lớn về phát triển du lịch và cảng biển. Vị

trí, vai trò này quy định và tạo cơ hội để Đà Nẵng phát triển các ngành dịch vụ, nhất

là dịch vụ cao cấp phục vụ GTVT, tài chính, ngân hàng, du lịch...

 Thành phố Cần Thơ

Thành phố Cần Thơ nằm trên bờ Tây sông Hậu, ở trung tâm vùng ĐBSCL.

Thành phố Cần Thơ là một trong năm thành phố lớn nhất nước trực thuộc Trung

59

ương, có tỉ lệ đô thị hóa là 66,5% (2013). Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh cùng

với sự chuyển dịch lao động từ nông thôn ra thành thị dẫn đến lực lượng lao động

của thành phố tăng lên nhanh chóng. Năm 2005 là 627,4 nghìn người tăng lên 698,6

nghìn người năm 2013.

Năm 2000, 52,9% lao động của thành phố Cần Thơ tập trung trong khu vực

sản xuất nông nghiệp, đến năm 2011 giảm xuống còn 39,9% (giảm 13%). Theo kết

quả TĐTDS năm 1999, trên địa bàn 5 quận nội thành, lực lượng lao động là 280

ngàn, trong đó hơn 34,4% hoạt động ở khu vực I. Đến năm 2009, lao động nông

nghiệp nội thành giảm 11 ngàn lao động, tương ứng giảm 10,8% trong cơ cấu sử

dụng lao động (23,6%). Trong khi đó, tỉ lệ lao động khu vực phi nông nghiệp tăng

lên tương ứng từ 65,6% lên 76,4% [76].

Sự gia tăng lực lượng lao động trong ngành phi nông nghiệp đánh dấu bước

phát triển nền kinh tế công nghiệp của thành phố. Trong tiến trình hội nhập, thành

phố Cần Thơ đã xây dựng và đưa vào hoạt động 6 KCN và CCKT chuyển dịch

phục vụ cho quá trình CNH của thành phố. Tuy nhiên, quá trình CDCCLĐ từ khu

vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp nhìn chung còn chậm, vì vậy, thành

phố Cần Thơ cần có biện pháp tác động để dịch chuyển lao động từ khu vực I sang

khu vực II, III mạnh hơn nữa để đạt sự phát triển kinh tế tốt nhất.

Tóm lại, qua tìm hiểu chuyển dịch CCLĐ của ba thành phố là Hà Nội, Đà

Nẵng và Cần Thơ cho thấy quá trình CNH, ĐTH ở các thành phố này đã và đang

diễn ra rất mạnh mẽ và có tác động lớn đến chuyển dịch CCLĐ cả về số lượng và

chất lượng. Quá trình chuyển dịch CCLĐ diễn ra khá nhanh và rõ nét, tỉ lệ lao động

nông nghiệp sụt giảm, đồng thời là sự gia tăng tỉ lệ lao động làm việc trong khu vực

công nghiệp và dịch vụ; tăng tỉ lệ lao động có trình độ CMKT, lao động có tay

nghề, giảm tỉ lệ lao động chưa qua đào tạo; lao động trong các thành phần kinh tế

cũng có sự chuyển biến sâu sắc… Tùy theo tốc độ ĐTH của từng địa phương mà

quá trình chuyển dịch CCLĐ diễn ra với cường độ mạnh nhẹ khác nhau. TP. HCM

là đô thị có tỉ lệ ĐTH cao thứ hai cả nước, vì vậy quá trình chuyển dịch CCLĐ của

thành phố cũng không nằm ngoài quy luật trên.

60

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Chuyển dịch cơ cấu lao động và vấn đề đô thị hóa đã được nhiều nhà khoa

học, nhiều tác giả trên thế giới và Việt Nam quan tâm, nghiên cứu. Đô thị hóa có tác

động sâu sắc đến nhiều lĩnh vực KT - XH của khu vực thành thị như tăng trưởng

kinh tế, việc làm, thu nhập, đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động… Đô thị

hóa đi kèm với quá trình CNH đã thu hút một số lượng lớn lao động di chuyển từ

nông thôn vào thành thị, tham gia vào các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp, thực

hiện quá trình phân công lao động xã hội giữa các vùng trong đô thị.

Trên cơ sở nghiên cứu các lí thuyết liên quan đến chuyển dịch CCLĐ và đô thị

hóa, tổng hợp các tiêu chí của một số tác giả khi nghiên cứu về chuyển dịch CCLĐ,

tác giả đề xuất các xu hướng và tiêu chí để đánh giá quá trình chuyển dịch CCLĐ.

Các xu hướng chuyển dịch CCLĐ theo ngành kinh tế, theo thành phần kinh tế, theo

trình độ CMKT, theo lãnh thổ và theo tuổi, giới tính.

Chuyển dịch cơ cấu lao động của Việt Nam và các thành phố Hà Nội, Đà

Nẵng, Cần Thơ cũng chịu tác động của quá trình đô thị hóa. Cơ cấu lao động có sự

chuyển dịch theo hướng giảm tỉ trọng lao động khu vực nông nghiệp, tăng tỉ trọng

lao động khu vực công nghiệp và dịch vụ, lao động có xu hướng di chuyển từ nông

thôn vào đô thị, chất lượng lao động của các đô thị ngày càng được nâng cao.

61

62

Chƣơng 2

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG VÀ THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH

CƠ CẤU LAO ĐỘNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA

2.1. Khái quát chung về thành phố Hồ Chí Minh

Sài Gòn – TP. HCM có lịch sử hình thành và phát triển hơn 300 năm. Trước

thế kỉ 17, khu vực này còn là một vùng đất hoang vu, rừng rậm, sình lầy với hệ sinh

thái còn ở dạng nguyên sinh, dân cư thưa thớt. Năm 1698 được coi là cột mốc quan

trọng đánh dấu sự ra đời chính thức của thành phố bằng việc xác lập về hành chính

từ Triều đình nhà Nguyễn. Từ cuối thế kỷ XVII trở đi, Sài Gòn dần trở thành trung

tâm hành chính quan trọng và là đầu mối trung tâm kinh tế, nơi trao đổi hàng hóa

của một vùng đất đai rộng lớn thuộc vùng Nam Bộ. Vì thế, Sài Gòn từ xa xưa đã có

sức thu hút mạnh mẽ dân cư từ các nơi khác đến, nhất là dòng di dân người Việt từ

các tỉnh miền Trung vào làm cho dân số gia tăng nhanh chóng.

Sau giải phóng, Sài Gòn đổi tên thành TP. HCM và có những bước phát triển

mạnh mẽ. Với vị trí địa lí thuận lợi, hệ thống mạng lưới cơ sở hạ tầng kĩ thuật và xã

hội đồng bộ; là nơi kết nối giao thông thuận lợi về đường bộ, đường sông, đường

biển, đường hàng không giữa 2 miền Đông và Tây Nam Bộ với khu vực Đông Nam

Á và thế giới, TP. HCM trở thành đô thị lớn nhất nước ta, trung tâm kinh tế, chính

trị, văn hóa, khoa học kĩ thuật quan trọng của cả nước.

Trong quá trình phát triển và hội nhập, TP. HCM luôn khẳng định vai trò là

đầu tàu kinh tế của cả nước; là hạt nhân của VKTTĐ phía Nam và trung tâm đối với

vùng Đông Nam Bộ. Thành phố đóng góp 20,1% kim ngạch xuất khẩu, 32,5% tổng

thu ngân sách quốc gia, 17,0% GTSXCN và 23,9% tổng GDP của cả nước. Tổng

sản phẩm trong nước (GDP) tăng nhanh qua các năm, năm 2013 ước đạt 764.561 tỷ

đồng (giá thực tế), tăng 16,0% so năm 2012. Thành phố là nơi hoạt động kinh tế

năng động nhất, đi đầu trong cả nước về thu hút đầu tư FDI. Năm 2013, TP HCM

có 477 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép mới với tổng số vốn đăng kí đạt

1.048 triệu USD, chiếm 7,3% tổng vốn FDI của cả nước [70].

63

Về mặt xã hội, dân số thành phố là 7.939,7 nghìn người, chiếm 8,7% dân số

cả nước. Đời sống người dân ngày càng được nâng cao, thu nhập bình quân đầu

người đạt trên 4.000 USD/người. Lực lượng lao động của TP. HCM đông và có

trình độ cao, lao động là 4,1 triệu người, chiếm 7,7% lao động cả nước, tỉ lệ lao

động đã qua đào tạo chiếm 31,4%, gấp 1,7 lần so với tỉ lệ lao động đã qua đào tạo

của cả nước (18,2%). Lao động tập trung chủ yếu trong ngành công nghiệp – xây

dựng và dịch vụ, chiếm 97,9%, CCLĐ chuyển dịch theo hướng CNH – HĐH.

Về không gian lãnh thổ, TP. HCM trải dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, thuộc khu vực Đông Nam Bộ, tọa độ địa lí từ 10o22’ đến 11o2’vĩ độ Bắc và từ 106o1’ đến 107o1’ kinh độ Đông. Thành phố tiếp giáp với 6 tỉnh: Bình Dương,

Đồng Nai, Bà Rịa –Vũng Tàu, Long An, Tiền Giang và Tây Ninh; phía nam giáp biển Đông. Diện tích toàn thành phố là 2095,01 km2, bao gồm 19 quận nội thành diện tích là 494,01 km2 và 5 huyện ngoại thành diện tích là 1601,00 km2 (2013).

Những năm gần đây tốc độ đô thị hóa ngày càng lan nhanh ra các quận vùng

ven và huyện ngoại thành làm cho diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp, quy mô

dân số tăng nhanh, hạ tầng đô thị không theo kịp với quá trình phát triển kinh tế

và quy hoạch đô thị gây ra nhiều vấn đề tiêu cực, tăng sức ép nhiều mặt lên hệ

thống CSHT giao thông, y tế, giáo dục, nhà ở, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng

kinh tế và chuyển dịch CCLĐ của TP. HCM thời gian qua.

2.2. Các nhân tố ảnh hƣởng đến chuyển dịch cơ cấu lao động ở thành phố

Hồ Chí Minh trong quá trình đô thị hóa

2.2.1. Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ

TP. HCM có vị trí địa lí rất thuận lợi cho tập trung dân cư và phát triển kinh tế.

TP. HCM nằm trong VKTTĐPN, gần Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu

là những trung tâm công nghiệp lớn của đất nước, giúp hình thành những tam giác,

tứ giác tăng trưởng kinh tế của vùng; nằm giữa một vùng nguyên, nhiên liệu đa

dạng và phong phú (ĐBSCL, ĐNB, Tây Nguyên) tạo điều kiện cho thành phố phát

triển đa dạng cơ cấu ngành nghề; TP. HCM còn là đầu mối giao lưu quốc tế, giúp

kết nối dễ dàng giữa các tỉnh thành trong cả nước và với quốc tế.

64

TP. HCM đóng vai trò là cực tăng trưởng kinh tế khu vực phía Nam kết hợp

với vị trí địa lí thuận lợi tạo điều kiện để Thành phố đẩy nhanh quá trình phát triển

kinh tế - xã hội, hình thành CCKT đa dạng, mở rộng quan hệ giao lưu trao đổi hàng

hóa và thu hút đầu tư từ các tỉnh thành trong cả nước, trong khu vực và thế giới.

Chính vì vậy, Thành phố là đô thị có sức hút đặc biệt đối với lao động nhập cư, thu

hút lao động vào nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Vị trí địa lí cũng thuận lợi

cho việc di chuyển lao động giữa các vùng và người lao động nước ngoài đến

Thành phố. Tuy nhiên, thời gian gần đây TP. HCM cũng chịu sự cạnh tranh về thu

hút lao động rất lớn từ các địa phương lân cận như Bình Dương, Đồng Nai… với

nhiều lợi thế và chính sách ưu đãi hơn so với TP. HCM.

2.2.2. Nhân tố kinh tế - xã hội

2.2.2.1. Trình độ phát triển kinh tế

 Quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế

TP. HCM có quy mô kinh tế lớn nhất nước, đóng góp 21,3% tổng GDP cả

nước (Hà Nội là 12,59% - 2013). Giai đoạn 1999 – 2013, GDP của thành phố tăng

gấp 11 lần, từ 69.022 tỉ đồng năm 1999 tăng lên 763.956 tỉ đồng năm 2013, tốc độ

tăng trưởng kinh tế bình quân luôn đạt trên hai con số, đạt 10,8%/năm, cao hơn mức

trung bình của cả nước 6,5%/năm; lực lượng lao động tăng 1,8 lần với tốc độ tăng

trưởng lao động bình quân đạt 3,9 %/năm. Kinh tế phát triển nhanh kéo theo sự gia

tăng lực lượng lao động nhằm đáp ứng cho nhu cầu của các ngành kinh tế.

Bảng 2.1 cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP theo ngành kinh tế của TP. HCM

đều cao hơn so với cả nước. Giữa các ngành kinh tế thì tốc độ tăng trưởng GDP

ngành công nghiệp và dịch vụ cao hơn nhiều so với ngành nông nghiệp, tuy nhiên

có sự khác biệt theo thời gian. Mức tăng trưởng bình quân GDP ngành công nghiệp

có xu hướng giảm dần từ 11,8% giai đoạn 1999 – 2005 xuống còn 7,9% giai đoạn

2011 - 2013, ngược lại mức tăng trưởng bình quân ngành dịch vụ lại có xu hướng

tăng tương ứng từ 8,7% lên 15,2% và hiện là khu vực có tốc độ tăng trưởng cao

nhất so với các ngành khác. Điều này cho thấy, TP. HCM đang chuyển dịch dần từ

vai trò là một trung tâm công nghiệp sang vai trò là một trung tâm dịch vụ không

những của Vùng mà còn của cả nước. Sự chuyển dịch này sẽ tác động rất lớn đến

65

quá trình tăng trưởng kinh tế của TP. HCM và ảnh hưởng đến chuyển dịch CCLĐ

của Thành phố trong thời gian tới.

Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng GDP theo ngành kinh tế của TP. HCM và cả nước

giai đoạn 1999 – 2013 (giá so sánh – đơn vị %)

TP. HCM Cả nƣớc Giai đoạn GDP DV CN NN GDP DV CN NN

8,7 11,8 4,2 6,0 9,9 4,1 1999 – 2005 10,0 7,0

12,3 10,1 4,8 7,7 7,9 3,3 2006 – 2010 11,2 7,0

Nguồn: xử lí từ [13], [70]

15,2 7,9 5,7 6,5 6,0 3,1 2011 – 2013 9,6 5,6

 Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Cùng với sự thay đổi về tốc độ tăng trưởng kinh tế, CCKT của Thành phố

cũng chuyển dịch theo hướng tăng dần tỉ trọng của ngành dịch vụ, giảm dần tỉ trọng

nông nghiệp và công nghiệp trong cơ cấu GDP. Trong đó, tập trung phát triển công

nghiệp theo hướng công nghệ, kĩ thuật tiên tiến, còn dịch vụ theo hướng chất lượng

cao. Hiện nay, khu vực dịch vụ có tốc độ tăng cao nhất và chiếm tỉ trọng lớn nhất

trong CCKT của TP. HCM, đóng vai trò là đầu tàu về tăng trưởng kinh tế thành

phố. Trong giai đoạn 1999 – 2013, tỉ trọng dịch vụ tăng từ 53,9% lên 58,4%. Ngược

lại, công nghiệp có tốc độ tăng trưởng chậm lại, CCKT có xu hướng giảm tỉ trọng,

từ 44,0% năm 1999 xuống còn 40,6% năm 2013. Khu vực nông nghiệp giảm tỉ

trọng xuống mức rất thấp, từ 2,1% năm 1999 xuống còn 1,0% năm 2013 (bảng 2.2).

Cơ cấu kinh tế trên thể hiện mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng nhanh của

ngành dịch vụ và công nghiệp với sự chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp sang các

hoạt động đô thị (chế tạo và dịch vụ). Sự phát triển của các ngành kinh tế đô thị là

động lực thúc đẩy quá trình tăng trưởng, bởi không quốc gia nào có tỉ lệ tăng trưởng

cao và bền vững nhờ vào ngành nông nghiệp.

Ngành dịch vụ phát triển nhanh chóng từ sau năm 2005 khi thành phố chủ

trương phát triển 9 nhóm ngành dịch vụ cao cấp. Trong những năm qua, nhóm

ngành dịch vụ này đã có những bước phát triển quan trọng, đóng góp vào sự gia

tăng tỉ trọng GDP của thành phố. Trong đó nổi bật là các ngành tài chính – ngân

66

hàng, vận tải – dịch vụ cảng và bưu chính viễn thông. Tài chính, ngân hàng và bảo

hiểm tăng nhanh nhất, từ 2,8% năm 1999 tăng lên 10,5% năm 2013. Đây là sự

chuyển dịch phù hợp với định hướng phát triển của TP HCM để trở thành trung tâm

tài chính – ngân hàng và dịch vụ lớn của cả nước, không chỉ phục vụ cho nhu cầu

thành phố mà còn phục vụ nhu cầu cho cả vùng KTTĐPN và khu vực Nam Bộ.

Bảng 2.2: Cơ cấu tổng sản phẩm phân theo ngành kinh tế của TP. HCM

giai đoạn 1999 - 2013 (giá thực tế - đơn vị %)

Tăng/giảm

Năm

1999

2005

2009

2013

1999-2013

Tổng số

100

100

100

100

Nông – lâm – ngư nghiệp

2,1

1,3

1,3

1,0

-1,1

Công nghiệp – xây dựng

44,0

48,1

44,5

40,6

-3,4

Dịch vụ

53,9

50,6

54,2

58,4

+4,5

Phân theo ngành dịch vụ

Thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ

15,1

12,6

11,6

12,9

-2,2

Vận tải kho bãi

8,8

10,1

7,3

8,3

-0,5

Khách sạn và nhà hàng

6,5

5,0

3,6

3,4

-3,1

Thông tin và truyền thông

-

-

2,6

3,5

-

Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm

2,8

5,2

11,4

10,5

+7,7

Kinh doanh bất động sản

5,0

6,6

5,7

3,4

-1,6

Hoạt động chuyên môn, KHCN

0,4

0,3

3,9

5,5

+5,1

Giáo dục – đào tạo

-

3,1

2,2

2,7

-

Y tế

-

3,3

2,7

3,4

-

Dịch vụ khác

15,3

4,4

3,2

4,8

-

Nguồn: xử lí từ [13]

TP. HCM đang có sự chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng từ

sản xuất công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động, năng suất lao động thấp sang sản

xuất các ngành sử dụng công nghệ cao, ít lao động, năng suất lao động cao. Sự

chuyển biến này có thể thấy thông qua sự thay đổi tỉ trọng giá trị sản xuất của các

ngành công nghiệp giai đoạn 1999 – 2013 (bảng 2.3). Tỉ trọng của các ngành công

nghiệp sử dụng nhiều lao động, NSLĐ thấp đều có xu hướng giảm: dệt may, da giày

67

(-5,2%); chế biến thực phẩm, đồ uống (-2,8%); sản xuất sản phẩm thuốc lá (-2,6%).

Ngược lại, tỉ trọng của các ngành sử dụng ít lao động, có hàm lượng KHCN cao có

xu hướng tăng: cơ khí (+4,9%), hóa chất (+4,2%), điện tử - tin học (+1,0%).

Bảng 2.3: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp TP. HCM giai đoạn 1999 – 2013

(giá thực tế – đơn vị %)

1999 2009

Tổng số 2013 Tăng/giảm 1999 - 2013 100 100 100

Chế biến thực phẩm và đồ uống 21,0 15,5 18,2 -2,8

Dệt may, da giày 22,9 17,2 17,7 -5,2

Sản xuất sản phẩm thuốc lá 4,3 2,2 1,7 -2,6

Sản xuất kim loại 2,5 1,5 1,7 -0,8

Hóa chất và các sản phẩm hóa chất 15,8 20,7 20,0 +4,2

Cơ khí 12,6 17,3 17,5 +4,9

Điện tử - Tin học 3,1 4,3 4,1 +1,0

Các ngành khác 17,8 21,3 19,1 +1,3

Nguồn: tính toán từ [13]

TP. HCM đang giảm dần tỉ trọng của các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao

động giản đơn, công nghệ thấp, gây ô nhiễm môi trường, xu hướng chuyển dịch các

ngành này về những địa phương có lợi thế về nguồn nguyên liệu và lao động, đang

hình thành và phát triển nhiều khu công nghiệp tập trung như Bình Phước, Long

An, Bình Dương, Đồng Nai. Tuy nhiên, quá trình chuyển dịch nhìn chung vẫn còn

chậm, riêng hai ngành thâm dụng lao động là chế biến thực phẩm, đồ uống và dệt

may, da giày vẫn chiếm tới 35,9% giá trị SXCN (đứng thứ 2 và 3 về GTSXCN so

với toàn ngành công nghiệp). Đây cũng là hai ngành chiếm tỉ trọng lao động nhiều

nhất của TP. HCM, chủ yếu là lao động nữ.

Khu vực N – L – NN giảm tỉ trọng xuống mức rất thấp do chuyển đổi một

phần diện tích đất nông nghiệp thành đất đô thị, thành lập các quận mới tách ra từ

các huyện ngoại thành làm cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp.

Trong cơ cấu nội bộ ngành, giảm tỉ trọng ở ngành nông nghiệp (-10,6%) và lâm

68

nghiệp (-2,3%), tăng tỉ trọng ngành thủy sản (+12,9%). Trong nông nghiệp, giảm tỉ

trọng trồng trọt (-10,7%), tăng tỉ trọng chăn nuôi (+13,5%) và chuyển dịch theo

hướng tăng tỉ trọng cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao (bảng 2.4).

Bảng 2.4: Cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông – lâm – ngư nghiệp của TP. HCM

giai đoạn 1999 – 2013 (giá thực tế - đơn vị %)

Năm 1999 2005 2009 2013

N - L - NN 100 100 100 100 Tăng/giảm 1999 - 2013

1. Nông nghiệp 84,0 67,5 77,9 73,4 -10,6

2. Lâm nghiệp 3,2 2,5 1,0 0,9 -2,3

3. Thủy sản 12,8 30,0 21,1 25,7 +12,9

4. Nông nghiệp 100 100 100 100

- Trồng trọt 48,8 39,4 32,7 38,1 -10,7

- Chăn nuôi 39,7 49,7 58,8 53,2 +13,5

- Dịch vụ NN 11,5 10,9 8,5 8,7 -2,8

Nguồn: xử lí từ [13]

Phát triển kinh tế nhiều thành phần là một trong những nội dung quan trọng

trong chiến lược phát triển kinh tế của TP. HCM. Thành phố đã tạo nhiều điều kiện

thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, là khu vực tạo khá nhiều việc

làm cho người lao động. KV kinh tế ngoài nhà nước và KV vốn đầu tư nước ngoài

ngày càng phát huy vai trò của mình đóng góp vào tăng trưởng, CDCCKT của

Thành phố. Đồng thời cũng thúc đẩy CDCCLĐ, nhất là ở các quận mới và huyện

ngoại thành, nơi tập trung nhiều KCN – KCX và các xí nghiệp sản xuất khác.

Cơ cấu GDP khu vực kinh tế nhà nước giảm mạnh từ 44,8% năm 1999 xuống

còn 17,2% năm 2013, giảm 27,6%. Do tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà

nước làm cho số lượng các doanh nghiệp nhà nước giảm đáng kể. Khu vực ngoài

nhà nước có tỉ trọng tăng từ 36,9% lên 59,0% giai đoạn 1999 - 2013, tăng 22,1%,

trở thành bộ phận đóng góp nhiều nhất trong cơ cấu GDP của thành phố.

Cùng với quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế thế giới, khu vực vốn đầu tư

nước ngoài cũng đóng góp ngày càng quan trọng. Khu vực đầu tư nước ngoài có tỉ

69

trọng tăng từ 18,3% lên 23,8%, tăng 5,6% (biểu đồ 2.1). Tuy nhiên tỉ lệ đóng góp

GDP của khu vực vốn đầu tư nước ngoài tăng chậm so với tiềm năng và lợi thế của

thành phố. Nguyên nhân là do chất lượng nguồn lao động TP HCM vẫn còn thấp,

CSHT chưa đáp ứng được so với nhu cầu của các doanh nghiệp nước ngoài khi đến

đầu tư kinh doanh tại Thành phố, nhất là các doanh nghiệp muốn đầu tư vào các

ngành công nghệ cao. Chuyển dịch CCKT đã có tác động rất lớn đến chuyển dịch

CCLĐ của TP. HCM thời gian qua.

Biểu đồ 2.1: Cơ cấu GDP phân theo thành phần kinh tế của TP. HCM

100%

18,3

21,8

23,2

23,8

80%

36,9

60%

43,2

KV có vốn ĐTNN

53,9

59,0

KVKT ngoài Nhà nước

40%

KVKT Nhà nước

44,8

20%

35,0

22,9

17,2

0%

1999

2005

2009 2013

9 9 9 1

0 0 0 2

1 0 0 2

2 0 0 2

3 0 0 2

9 0 0 2

0 1 0 2

1 1 0 2

2 1 0 2

3 1 0 2

5 0 0 2

6 0 0 2

7 0 0 2

8 0 0 2

4 0 0 2

Nguồn: [13]

giai đoạn 1999 - 2013 (%)

2.2.2.2. Dân số, phân bố dân cư và nguồn lao động

 Dân số, phân bố dân cư

TP. HCM là đô thị đặc biệt có quy mô dân số lớn nhất nước và tăng nhanh

trong thời gian qua. Giai đoạn 1999 - 2013 dân số thành phố tăng gấp 1,6 lần, chiếm

8,7% dân số cả nước. Trong thập niên 1990, tỉ lệ gia tăng dân số cơ học thấp hơn tỉ

lệ gia tăng tự nhiên; nhưng từ sau năm 2000 trở lại đây, tỉ lệ gia tăng cơ học cao hơn

so với gia tăng tự nhiên và đóng vai trò quyết định đối với gia tăng dân số TP. HCM

(bảng 2.5). Sự gia tăng này gắn liền với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, nhất là

khi nền kinh tế của thành phố liên tục đạt tốc độ tăng trưởng trên 10%/năm, cùng

với sự ra đời của hàng loạt các KCN – KCX đã đẩy nhanh quá trình đô thị hóa, tạo

ra lực hút nhập cư rất lớn,“tốc độ tăng cơ học của dân số tỉ lệ thuận với tốc độ tăng

trưởng kinh tế (GDP)” và “kinh tế càng tăng cao thì số người đến thành phố càng

nhiều và số người đi càng ít” [46].

70

Bảng 2.5: Một vài chỉ số về dân số TP. HCM giai đoạn 1999 – 2013

Năm

Chỉ tiêu

Đơn vị

1999

2005

2009

2013

1. Quy mô dân số

Người

5.037.155 6.239.938 7.201.550 7.939.752

Người

4.204.662 5.314.898 5.992.278 6.539.364

- Thành thị

83,5

85,2

83,2

82,4

%

Người

832.493

925.040 1.209.272 1.400.388

- Nông thôn

%

16,5

14,8

16,8

17,6

%

2. Tỉ lệ tăng dân số

2,2

3,14

3,21

2,89

%

- Tăng tự nhiên

1,36

1,15

1,04

0,91

- Tăng cơ học

0,84

1,99

2,17

1,98

3. Mật độ dân số

% Người/km2

2.404

2.978

3.437

3.790

Nguồn: [13]

Gia tăng dân số diễn ra không đồng đều trên toàn thành phố, phân bố dân cư

có sự khác biệt theo không gian đô thị. Xét cơ cấu tỉ trọng dân số theo 3 khu vực

nội đô, vùng ven và ngoại thành của TP. HCM giai đoạn 1999 – 2013 có thể thấy tỉ

lệ dân số giảm rõ rệt ở khu vực nội đô (-15,9%), tăng nhẹ ở khu vực ngoại thành

(+0,9%). Ngược lại, các quận vùng ven, nơi đang có quá trình ĐTH diễn ra nhanh,

công nghiệp phát triển mạnh, đã thực sự bùng nổ về dân số trong khoảng thời gian

trên dưới 15 năm nay (+15,0%), năm 2013 tăng hơn 3,2 lần so với năm 1999, tăng

từ 14,7% lên 29,7% trong tổng dân số toàn thành phố (bảng 2.6).

Bảng 2.6: Dân số và cơ cấu dân số theo khu vực nội đô, vùng ven và ngoại thành

của TP. HCM giai đoạn 1999 – 2013

Tốc độ tăng

Năm 1999

Tỉ lệ

Năm 2013

Tỉ lệ

Chênh

2000 - 2013 %

(ngƣời)

%

(ngƣời)

%

lệch

Khu vực nội đô

-15,9

3.401.754 67,2

4.075.951 51,3

1,29

Khu vực vùng ven

+15,0

744.184 14,7

2.358.057 29,7

8,59

Ngoại thành

+0,9

917.933 18,1

1.505.744 19,0

3,59

Thành phố

5.063.871

100

7.939.752 100

3,26

Nguồn: tính toán từ [13]

71

Về mật độ dân số, năm 2013 mật độ dân số toàn thành phố là 3.790 người/km2,

trong đó tập trung đông ở khu vực trung tâm, sau đó mật độ giảm dần ở khu vực

ven đô và ít nhất tại các huyện ngoại thành. Mật độ dân số khu vực nội đô rất cao trung bình 28.768 người/km2, có nhiều quận mật độ trên 40.000 người/km2 như Quận 4, 5, 10, 11; khu vực vùng ven mật độ là 7.628 người/km2; trong khi đó các huyện ngoại thành mật độ dân số thấp hơn rất nhiều, chỉ có 941 người/km2. Điều

này cho thấy khả năng thu hút dân số và lao động của khu vực ngoại thành còn rất

lớn cũng như có nhiều thuận lợi trong việc bố trí các khu dân cư mới, các khu –

cụm công nghiệp, các khu thương mại, dịch vụ và phát triển CSHT.

Có thể nói quá trình gia tăng dân số và phân bố dân cư trên địa bàn TP. HCM

trong thời gian qua đã phản ánh tác động của quá trình đô thị hóa và ảnh hưởng đến

sự thay đổi quy mô lao động cũng như sự phân bố lao động trên địa bàn thành phố.

Dân số TP. HCM đông và tăng nhanh tạo điều kiện cung cấp nguồn lao động dồi

dào và thị trường tiêu thụ rộng lớn, yếu tố thu hút vốn đầu tư và phát triển các

ngành kinh tế, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch CCKT và chuyển dịch CCLĐ.

 Lao động

TP. HCM là đô thị có lực lượng lao động rất lớn và tăng nhanh qua các năm.

Tốc độ tăng trưởng trung bình của lực lượng lao động khoảng 3,9%/năm và chiếm

khoảng 51,9% so với tổng dân số. Năm 1999 có 2,4 triệu lao động đang làm việc,

tăng lên 4,1 triệu lao động năm 2013, lao động tập trung chủ yếu trong ngành công

nghiệp – xây dựng và dịch vụ (97,9%).

Lực lượng lao động của TP. HCM có cơ cấu trẻ, độ tuổi 15 – 34 tuổi chiếm

42,1%; độ tuổi 35 – 55 tuổi là 48,8%; độ tuổi trên 55 tuổi là 9,1% (2013) [13]. Đây

là lợi thế lớn cho thành phố trong quá trình thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển

kinh tế và tạo điều kiện cho thành phố thực hiện CDCCKT một cách thuận lợi. Lao

động trẻ có ưu điểm là có sức khỏe và khả năng tiếp thu thành tựu khoa học công

nghệ nhanh hơn, thuận lợi trong việc chuyển dịch sang các ngành công nghiệp cao.

Xét về cơ cấu lao động theo giới tính của TP. HCM, tỉ trọng lực lượng lao

động nam luôn cao hơn lao động nữ nhưng đang có xu hướng giảm tỉ trọng. Năm

1999 lực lượng lao động nam chiếm tỉ trọng là 56,2%, đến năm 2013 giảm xuống

72

còn 53,1% tổng số lao động. Tỉ trọng lực lượng lao động nữ tăng từ 43,8% lên

46,9%. Lao động nữ thường có liên quan đến sự phát triển mạnh mẽ của các ngành

công nghiệp nhẹ thu hút nhiều lao động nữ như dệt, may, giày da, công nghiệp chế

biến LT-TP và các ngành du lịch, dịch vụ đang phát triển mạnh ở TP HCM trong

thời gian qua (giúp việc gia đình, phục vụ nhà hàng, khách sạn, …).

Quá trình CNH – ĐTH đã và đang thu hút một lực lượng lao động rất lớn từ

các địa phương đến TP. HCM (đội ngũ sinh viên, lao động nhập cư, lao động qua

đào tạo, cán bộ KHKT…), bổ sung vào thị trường lao động của Thành phố. Thị

trường lao động thành phố có thể đáp ứng được nhiều dạng lao động khác nhau từ

lao động giản đơn đến lao động có trình độ cao. Người nhập cư với trình độ khác

nhau có cách thức thích nghi khác nhau trong quá trình tiếp cận với thị trường lao

động việc làm này. Những người nhập cư tìm được việc làm tương đối dễ dàng hơn

so với người dân thành phố do họ chấp nhận những điều kiện làm việc khó khăn

hơn và thu nhập có thể ít hơn người dân tại chỗ. Năm 2013, trong tổng số 144.100

người từ 15 tuổi trở lên nhập cư vào TP. HCM thì có 122.600 người tham gia hoạt

động kinh tế, chiếm 85,1% so với tổng số người nhập cư từ 15 tuổi trở lên và cao

hơn so với tỉ số việc làm trên dân số 15 tuổi trở lên của thành phố (64,8%).

Theo kết quả Điều tra Biến động dân số Việt Nam 2013 cho thấy, lao động

nhập cư đến TP. HCM từ mọi vùng đất nước, đứng đầu là vùng ĐBSCL (38,6%),

Bắc Trung Bộ (21,2%) và Đông Nam Bộ (12,7%), nhất là các tỉnh Nghệ An, Đồng

Nai, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Cần Thơ,...cho thấy sức hút của một đô thị lớn

nhất cả nước. Nếu những đô thị nhỏ hơn, lao động nhập cư thường từ nông thôn di

chuyển vào đô thị hay từ các vùng xung quanh, tỉnh lân cận thì ngược lại, lao động

nhập cư vào TP. HCM có phạm vi rộng khắp cả nước, không chỉ là lao động phổ

thông từ các vùng nông thôn mà còn là lao động có chuyên môn, tay nghề từ các đô

thị nhỏ hơn cũng di chuyển đến TP. HCM. Vì vậy, lực lượng lao động của TP.

HCM không chỉ tăng về số lượng mà chất lượng cũng ngày càng được nâng lên.

Có sự chênh lệch khá lớn giữa lao động nhập cư nữ và nam, trong đó lao động

nữ nhập cư nhiều hơn so với lao động nam nhập cư (61,9% nữ so với 38,1% nam).

Do phần lớn lao động ngoại tỉnh đổ về thành phố tập trung chủ yếu vào các ngành

73

thâm dụng lao động, trình độ thấp như các ngành dệt may, giày da, chế biến thực

phẩm, hay hoạt động trong các ngành dịch vụ và buôn bán nhỏ. Trong các KCN –

KCX của thành phố, lao động nhập cư chiếm khoảng 70% lao động và tỉ lệ lao động

nữ chiếm 63% tổng số lao động. Đa số người nhập cư vào TP HCM tập trung trong

nhóm tuổi lao động (từ 15 tuổi trở lên) và có xu hướng trẻ hóa, trong đó tập trung

chủ yếu trong nhóm tuổi từ 15 - 39 tuổi chiếm 86,4% (2009). Điều này đem lại

nhiều lợi ích về tiềm năng lao động, bổ sung nguồn nhân lực cho thành phố, tạo

động lực thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế [3].

Lao động nhập cư đến thành phố tập trung chủ yếu ở các quận vùng ven và

huyện ngoại thành nơi đang diễn ra quá trình đô thị hóa mạnh và phát triển công

nghiệp, hình thành nhiều KCN – KCX và các khu đô thị mới, giá nhà đất và mức

sống ở đây tương đối thấp hơn so với khu vực nội thành. Trong số 24 quận, huyện

của toàn thành phố thì có 7 quận, huyện tập trung hơn 20% lao động nhập cư so với

dân số toàn quận, huyện. Trong đó chiếm tỉ lệ cao nhất là quận Thủ Đức với

121.569 người nhập cư, chiếm 33,1% dân số toàn quận; Bình Tân 143.840 người,

chiếm 30,7%; Quận 9 với 52.205 người, chiếm 25,2% dân số toàn quận (2009).

2.2.2.3. Quá trình đô thị hóa – công nghiệp hóa

 Quá trình công nghiệp hóa

Bốn mươi năm qua kể từ khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng, đất nước

được thống nhất, kinh tế TP. HCM đã phát triển mạnh mẽ và ngày càng khẳng định

vai trò đầu tàu trong quá trình CNH – HĐH đất nước. Thành phố là trung tâm công

nghiệp lớn nhất VKTTĐPN và cả nước, chiếm 36,0% GTSXCN của Vùng và

17,0% GTSXCN cả nước (Hà Nội là 7,7%) (2013). Trong giai đoạn 1999 – 2011,

công nghiệp TP. HCM đã có bước phát triển khá nhanh, số lượng cơ sở sản xuất

công nghiệp tăng thêm 38.460 CSSXCN, bình quân mỗi năm tăng 3.205 CSSXCN.

Đồng thời công nghiệp có sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng phát triển các

ngành trọng điểm có hàm lượng KHCN và giá trị gia tăng cao; chuyển dịch về mặt

lãnh thổ ngày càng rõ nét theo hướng từ nội đô ra khu vực vùng ven và ngoại thành.

Tuy vị trí công nghiệp của TP. HCM so với VKTTĐPN và cả nước vẫn lớn

nhất, nhưng đang tăng trưởng chậm dần và có sự giảm sút liên tục so với Vùng và

74

cả nước. Tốc độ tăng trưởng GTSXCN giai đoạn 2010 – 2013 của TP. HCM đạt

8,6%, cả nước là 9,4%. Tỉ trọng GTSXCN so với VKTTĐPN giảm từ 42,2% năm

2005 xuống còn 36,0% năm 2013; cả nước từ 23,5% năm 2005 xuống còn 17,0%

năm 2013. Nguyên nhân của sự giảm sút này là do sự phát triển mạnh mẽ của các

tỉnh thành khác (Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc…), do phát triển chủ yếu theo

chiều rộng, tăng trưởng nhờ vào tăng vốn và tăng lao động, giá trị gia tăng thấp.

TP. HCM tiến hành thành lập các KCN - KCX nhằm đẩy mạnh quá trình CNH

– HĐH, đưa thành phố trở thành trung tâm công nghiệp lớn nhất nước. Năm 1991

KCX Tân Thuận ra đời đầu tiên tại Quận 7 với diện tích 300 ha. Đến năm 1992,

KCX Linh Trung ra đời. Sau hơn 20 năm xây dựng và phát triển (1991 – 2013),

thành phố có 13 KCN -KCX đang hoạt động tập trung ở khu vực vùng ven và ngoại

thành (Quận 2, 7, 12, Thủ Đức, Tân Bình, Bình Tân, Bình Chánh, Củ Chi, Nhà Bè).

Ngoài ra, Thành phố thực hiện chính sách di dời các cơ sở công nghiệp gây ô

nhiễm từ khu vực nội thành ra các quận vùng ven và ngoại thành. Thành phố đã di

dời trên 1.400 cơ sở sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm, hiện nay vẫn còn tiếp tục di

dời số còn lại [19]. Bố trí các cụm công nghiệp hướng ra vùng ven và ngoại thành.

Cụm công nghiệp tập trung chủ yếu ở ngoại thành, 5 huyện đã có 22 cụm, chiếm

73,3%. Thành phố đã hình thành nên vòng đai công nghiệp tại các quận 2, 7, 9, 12,

Thủ Đức, Gò Vấp, Hóc Môn, Củ Chi, Tân Bình, Tân Phú, Bình Chánh, Bình Tân.

Các KCN – KCX ra đời cùng hàng ngàn các doanh nghiệp vừa và nhỏ được

hình thành đã đem lại những thay đổi rõ rệt trong thu hút đầu tư, phát triển công

nghiệp, tăng trưởng và chuyển dịch CCKT của TP. HCM. Trước đây các Quận 2, 7,

9, 12, Tân Bình, Thủ Đức, Bình Chánh, Củ Chi, Nhà Bè là những huyện nông thôn

ngoại thành, vùng ven thành phố, GTSXCN thấp; tuy nhiên, từ khi có KCN – KCX

trên các địa bàn này, đã chuyển hóa những vùng nông thôn, đầm lầy hoang hóa

thành vùng sản xuất công nghiệp, khang trang về hạ tầng kĩ thuật – xã hội. Giá trị

sản xuất công nghiệp của các quận, huyện nêu trên đã tăng nhanh đáng kể và có tỉ lệ

lao động công nghiệp chiếm tỉ lệ cao trong CCLĐ thành phố, cơ cấu lao động cũng

có sự khác biệt so với khu vực nội đô Thành phố (bản đồ KT – XH).

75

Để CDCCKT theo chiều sâu, gia tăng tỉ trọng của các ngành công nghệ cao,

Thành phố thành lập Khu công nghệ cao (Quận 9) và Công viên phần mềm Quang

Trung (Gò Vấp) tập trung vào các ngành mũi nhọn, thu hút lực lượng lao động có

trình độ CMKT, thúc đẩy CDCCLĐ theo chất lượng. Tuy nhiên, những ngành công

nghiệp thâm dụng lao động và có hàm lượng giá trị gia tăng thấp vẫn còn chiếm tỉ lệ

cao trong cơ cấu công nghiệp của thành phố. Các ngành sản xuất thực phẩm và đồ

uống, dệt may, da giày chiếm tới 37,6% tổng GTSXCN toàn thành phố (2013). Các

KCN của TP. HCM thu hút phần lớn dự án vào các ngành điện tử (25,5%), hóa

nhựa (14,9%), cơ khí (13,1%), dịch vụ (11,9%), thực phẩm (8,9%), dệt may

(8,8%)… Lao động tập trung khu vực sản xuất này thu hút một bộ phận lao động di cư

lớn, đặc biệt là lao động phổ thông.

 Quá trình đô thị hóa

Quá trình CNH đã tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy tiến trình ĐTH ở TP. HCM

trong thời gian qua. Nếu như giai đoạn 1975 – 1985, do tác động của hậu quả chiến

tranh và sự bao vây cấm vận của Mĩ cùng cơ chế kinh tế bao cấp đã làm cho hoạt

động kinh tế của thành phố trải qua giai đoạn rất khó khăn. Hoạt động kinh tế phi

nông nghiệp tập trung chủ yếu ở khu vực Đô thành Sài Gòn, còn các khu vực khác

hoạt động kinh tế chính vẫn là nông nghiệp. Quá trình đô thị hóa giai đoạn này được

gọi là giai đoạn “đô thị hóa âm” thể hiện ở sự giảm sút của quy mô dân số và tỉ lệ

đô thị hóa. Đô thị hóa chủ yếu phát triển theo chiều rộng với sự mở rộng không gian

lãnh thổ đô thị bằng việc sát nhập các quận, huyện lân cận làm tăng diện tích cả

thành phố còn chất lượng đô thị thì không được cải thiện nhiều, thậm chí nhiều nơi

hệ thống CSHT bị hư hỏng nặng, chất lượng cuộc sống của người dân thấp.

Bắt đầu từ năm 1986, TP. HCM bước vào thời kì đổi mới phát triển nền kinh

tế thị trường, thực hiện chính sách mở cửa hội nhập với kinh tế thế giới. Tuy nhiên,

trong 5 năm đầu tiên (1986 – 1990), kinh tế thành phố còn gặp nhiều khó khăn, quá

trình ĐTH diễn ra chậm chạm. Từ sau năm 1990, TP. HCM thực hiện tiến trình

ĐTH theo kiểu công nghiệp với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, đã đưa thành phố

trở thành trung tâm công nghiệp lớn nhất nước, đem lại những thay đổi rõ rệt cho

TP. HCM. Kinh tế phát triển đã thu hút một lượng lớn lao động từ khắp các nơi đổ

76

về thành phố tìm việc, làm cho dân số đô thị tăng lên nhanh chóng. Tỉ lệ ĐTH tăng

từ 73,5% năm 1990 lên 83,6% năm 1998, tốc độ ĐTH tăng trung bình là 4,0%/năm.

Tuy nhiên, thời kì này, TP. HCM có sự phát triển không đều về kinh tế cũng

như CSHT đô thị. Thành phố tập trung phát triển chủ yếu ở 12 quận nội thành cũ,

các công trình xây dựng lớn cũng như việc xây dựng và chỉnh trang hệ thống CSHT

cũng đều tập trung tại các quận trung tâm. Ngoài ra, còn có hàng nghìn nhà máy, xí

nghiệp, cơ sở sản xuất vẫn còn tập trung trong khu vực nội thành; các trung tâm

thương mại, dịch vụ vẫn chọn khu vực nội thành để xây dựng cho nên dân số và lao

động khu vực nội thành tăng nhanh. Giai đoạn 1992 – 1996 dân số nội thành tăng

thêm 309.641 người, ngoại thành tăng 137.720 người.

Sang giai đoạn 1999 – 2013 được xem là giai đoạn mà quá trình CNH – ĐTH

của TP. HCM diễn ra mạnh mẽ nhất, có sự thay đổi cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.

Được thể hiện ở sự tăng nhanh dân số đô thị, tỉ lệ ĐTH cao, không gian đô thị

không ngừng mở rộng, diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, chất lượng đô

thị được nâng cao… Điều đó đã tác động rất lớn đến quá trình CDCCLĐ của TP.

HCM trong tiến trình ĐTH được thể hiện thông qua một số yếu tố tác động sau:

- Tỉ lệ dân cư đô thị tăng nhanh, thu hút lao động nhập cư lớn

Trong giai đoạn 1999 - 2013, dân số đô thị gia tăng nhanh chóng, tăng từ

4.204.662 người lên 6.539.364 người, tỉ lệ ĐTH khá cao nhưng có sự khác biệt qua

các giai đoạn. Giai đoạn 1999 – 2005 tỉ lệ ĐTH tăng từ 83,4% lên 85,2% một phần

do gia tăng cơ học và một phần do sự thay đổi ranh giới hành chính. Tuy nhiên từ

sau năm 2005 trở lại đây, tỉ lệ này có xu hướng đi xuống, giảm còn 82,4% (2013),

đứng thứ hai sau Đà Nẵng và gấp 2,5 lần mức trung bình của cả nước (32,4%).

Nguyên nhân của sự giảm sút này là do quá trình dãn dân từ khu vực nội thành ra

khu vực ngoại thành, việc di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm ra khu vực ngoại

thành cùng với việc hình thành hàng loạt các KCN – KCX tập trung ở vành đai bên

ngoài thành phố dẫn đến việc dân số vùng nội đô giảm xuống, số dân vùng nông

thôn ngoại thành tăng lên, đặc biệt là khu vực vùng ven (7 quận mới) nơi có quá

trình ĐTH diễn ra mạnh, dân số tăng rất nhanh.

77

Khu vực vùng ven và ngoại thành thành phố có tốc độ ĐTH diễn ra nhanh

nhất, dân số tăng nhanh, chủ yếu là do gia tăng cơ học, do dân nhập cư từ các tỉnh

khác đến và dân cư từ khu vực nội thành di chuyển ra. Các chương trình cải tạo,

chỉnh trang khu trung tâm thành phố, mở rộng các trục giao thông khiến cho một số

lượng lớn dân cư bị giải tỏa phải di dời ra khu vực vùng ven và ngoại thành.

Tuy nhiên, ĐTH khu vực vùng ven và ngoại thành chủ yếu là do lao động

nhập cư từ các tỉnh khác đến, nhất là sau khi các KCN được phát triển mạnh tại khu

vực này. Thời kì 1994 - 1999 số người nhập cư bình quân năm là 97.786 người/năm

thì 5 năm tiếp theo 1999 - 2004 con số này đã là 126.000 người/năm. Theo Tổng

điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 1999, tổng số người nhập cư vào TP HCM

chiếm 21,7% tổng số người di cư cả nước (433.765 người), đến Tổng điều tra năm

2009, con số này đã tăng lên chiếm 30,2% (1.024.692 người). Quá trình di cư trên là

nguồn cung ứng lao động quan trọng cho nhu cầu của các nhà máy, xí nghiệp, KCN

đang mở ra ngày càng nhiều, đóng góp vào sự thay đổi CCLĐ theo hướng tích cực,

nâng cao trình độ học vấn và trình độ tay nghề người lao động TP. HCM.

- Đô thị hóa làm thay đổi không gian đô thị, phân bố lại dân cư, lao động

Quá trình CNH phát triển nhanh đã kéo theo quá trình ĐTH diễn ra mạnh. Để

đáp ứng cho lượng người tập trung quá đông và lấy đất phục vụ cho hoạt động kinh

tế, không gian đô thị thành phố nhanh chóng mở rộng ra khu vực ngoại thành với

việc thành lập thêm 7 quận mới là Quận 2, 7, 9, 12, Thủ Đức (1997), Tân Phú và

Bình Tân (2003) nâng tổng số quận nội thành lên thành 19 quận và 5 huyện ngoại

thành. Quá trình mở rộng không gian đô thị đã dẫn tới việc hình thành các khu vực

đô thị với chức năng kinh tế cụ thể: khu vực nội đô (12 quận nội thành cũ) gắn với

hoạt động kinh tế chính là dịch vụ, khu vực vùng ven (7 quận mới) với chức năng

chính là công nghiệp và dịch vụ, và 5 huyện ngoại thành là vùng sản xuất nông

nghiệp chính của thành phố.

Về phát triển không gian đô thị theo các hướng, không gian đô thị TP. HCM

phát triển theo hướng đa tâm với trung tâm tổng hợp tại khu vực nội đô, còn khu

vực vùng ven cùng 5 huyện ngoại thành phát triển theo bốn hướng, trong đó hai

hướng chính là hướng Đông và Nam (ra biển), hai hướng phụ là Bắc, Tây Bắc và

78

Tây, Tây Nam. Thời gian qua, các dự án đô thị và công trình trọng điểm về hạ tầng

giao thông được xây dựng gắn với các hướng theo quy hoạch đô thị làm cho việc

liên kết giữa khu vực nội thành – ngoại thành được thuận tiện. Nhiều tuyến đường

liên tỉnh cũng được xây dựng, tạo mối quan hệ liên vùng giữa TP. HCM với các

tỉnh của vùng Đông Nam Bộ và ĐBSCL đã góp phần thúc đẩy mối quan hệ giao lưu

kinh tế, thu hút dân cư và lao động, các dòng di chuyển lao động giữa TP. HCM với

các khu vực được thực hiện một cách thuận lợi.

Hướng Đông - Đông Bắc, tạo mối liên kết vùng gắn với Thuận An, Dĩ An

(Bình Dương), Biên Hòa (Đồng Nai) nối liền với khu dân cư đông đúc, đã hình

thành các KCN - KCX như Linh Trung, Bình Chiểu, khu Công nghệ cao Quận 9.

Hàng loạt các công trình được mở rộng và xây dựng như mở rộng xa lộ Hà Nội, xây

dựng tuyến cao tốc TP. HCM – Long Thành – Dầy Giây, cùng hàng loạt các nhà

máy, xí nghiệp, công trình dịch vụ kéo dài từ cầu Sài Gòn đến Thuận An.

Thành phố cũng phát triển về phía Nam, Đông Nam tiến ra biển, gắn với khu

vực Nhà Bè, Bình Chánh, Hiệp Phước, Cần Giờ kết nối với khu đô thị mới Nhơn

Trạch – Long Thành (Đồng Nai). Không gian đô thị được phát triển mạnh cùng với

việc xây dựng KCX Tân Thuận, KCN cảng Hiệp Phước, khu đô thị Phú Mĩ Hưng,..

phát triển dọc theo trục đường hành lang Nguyễn Hữu Thọ.

Về phía Bắc, Tây Bắc thành phố mở rộng về phía Củ Chi, Hóc Môn, Quận 12

kết nối với Tây Ninh, Campuchia dọc theo quốc lộ 22 và trục Xuyên Á. Một số

KCN đang hoạt động như Tân Thới Hiệp, Tân Phú Trung, công viên phần mềm

Quang Trung (Q.12), Tây – Bắc (Củ Chi) và nhiều cụm công nghiệp có quy mô lớn.

Về phía Tây, Tây Nam không gian đô thị thành phố mở rộng nhiều trên địa

bàn huyện Bình Chánh, đưa đến việc thành lập thêm 2 quận mới là Bình Tân và Tân

Phú. Khu vực phía Tây là cầu nối thông thương kinh tế, liên kết vùng với Long An

và khu vực ĐBSCL với các trục giao thông huyết mạch như quốc lộ 1A, tỉnh lộ 50,

tuyến cao tốc TP. HCM – Trung Lương. Thời gian qua, hàng loạt các KCN, nhà

máy, xí nghiệp, khu dân cư được xây dựng ở phía Tây trên địa bàn quận Bình Tân

và huyện Bình Chánh làm cho quá trình đô thị hóa ở đây diễn ra rất nhanh.

79

Những thay đổi về dân số theo ba khu vực đô thị và sự mở rộng không gian

phát triển đô thị theo 4 hướng trong quá trình CNH – ĐTH của TP. HCM đã ảnh

hưởng đến sự chuyển dịch lao động của thành phố. Cơ cấu lao động của Thành phố

có xu hướng giảm tỉ trọng lao động ở khu vực nội đô, tăng nhanh tỉ trọng lao động

vào các quận mới và các huyện ngoại thành. Cơ cấu lao động theo ngành nghề cũng

có sự thay đổi giữa các quận, huyện và các khu vực phát triển.

- Đô thị hóa làm thay đổi cơ cấu sử dụng đất đai

Dân số tập trung ngày càng đông, không gian đô thị ngày càng mở rộng làm

cho quá trình chuyển dịch đất đai của thành phố diễn ra mạnh mẽ, trong đó, một

diện tích lớn đất nông nghiệp đã và đang được chuyển đổi thành đất phi nông

nghiệp. Khi đất nông nghiệp được chuyển sang đất công nghiệp hay dịch vụ, một bộ

phận lớn người dân cũng chuyển từ hoạt động sản xuất nông nghiệp sang các hoạt

động phi nông nghiệp khác, dẫn đến chuyển dịch CCLĐ Thành phố thời gian qua.

Trong giai đoạn 1999 – 2013, đất nông nghiệp giảm tỉ trọng từ 62,4% xuống

còn 55,8% (-6,6%), đất phi nông nghiệp tăng tỉ trọng từ 35,5% lên 44,0% (+8,5%).

Tương ứng là tỉ trọng lao động nông nghiệp giảm từ 6,6% xuống còn 2,1% (-4,5%),

lao động phi nông nghiệp tăng từ 93,4% lên 97,9% (+4,5%).

Biểu đồ 2.2: Cơ cấu sử dụng đất của TP. HCM năm 1999 và 2013 (%)

Năm 1999

Năm 2013 0,2

2,1

Đất nông nghiệp

44,0

35,5

55,8

62,4

Đất phi NN

Đất chưa sử dụng

Nguồn: Tính toán từ [13], [77]

Diện tích đất nông nghiệp ở khu vực vùng ven và huyện ngoại thành giảm khá

nhanh do tác động của quá trình đô thị hóa. Giai đoạn 2006 – 2011, tại các quận số

hộ có đất nông nghiệp giảm mạnh 57,5%, ở các huyện giảm 24,7%. Hiện nay, TP.

HCM còn khoảng 116.917 ha đất nông nghiệp, tập trung chủ yếu ở 5 huyện ngoại

thành (chiếm 91,1% tổng diện tích đất nông nghiệp toàn thành phố). Ở một số

80

huyện, tỉ lệ diện tích đất nông nghiệp trên diện tích tự nhiên của huyện còn khá cao

như Củ Chi (74,4%), Cần Giờ (65,1%), Bình Chánh (67,3%), đây cũng là các huyện

có tỉ lệ lao động trong khu vực nông nghiệp cao.

Tại các quận mới như Quận 2, 7, 9, 12, Bình Tân, Thủ Đức do quá trình đô thị

hóa nhanh, nhiều KCN, khu dân cư được xây dựng nên đất nông nghiệp chỉ còn

khoảng từ 10 – 30% diện tích tự nhiên của quận. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng

đất từ đất nông nghiệp sang các lĩnh vực khác trong quá trình CNH – ĐTH đã làm

thay đổi cơ cấu việc làm của người lao động. Tỉ lệ lao động, việc làm ở khu vực

nông nghiệp giảm xuống và tăng nhanh tỉ lệ lao động, việc làm ở các ngành công

nghiệp, dịch vụ. Tại các quận trung tâm, quá trình ĐTH diễn ra từ khá sớm nên hiện

nay, đất đai khu vực này chủ yếu là đất phi nông nghiệp gắn với các hoạt động kinh

tế liên quan chủ yếu đến ngành dịch vụ và công nghiệp (xem bản đồ KT - XH).

2.2.2.4. Cơ sở hạ tầng

TP. HCM là đầu mối giao thông quan trọng bậc nhất cả nước với đầy đủ các

loại hình giao thông, dễ dàng kết nối với khu vực và thế giới. Hiện nay, TP. HCM

có hệ thống đường bộ xuyên tâm, các tuyến quốc lộ 1A, 13, 22, 51; các đường xa lộ

cửa ngõ như xa lộ Hà Nội, đường cao tốc TP. HCM – Trung Lương, TP. HCM –

Long Thành – Dầu Giây, đại lộ Võ Văn Kiệt,…; sân bay Tân Sơn Nhất, kết nối với

sân bay quốc tế Long Thành; hệ thống cảng biển quy mô lớn như cảng Sài Gòn,

cảng Hiệp Phước, cảng Cát Lái… giúp thành phố dễ dàng hình thành mối liên kết

phát triển liên vùng và phát huy nội lực của mình trong thu hút đầu tư, phát triển

kinh tế, thực hiện quá trình phân công lao động xã hội.

Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh làm lượng người đổ về thành

phố ngày một đông, nhu cầu đi lại và giao thông cho phát triển sản xuất cũng tăng

lên. Hiện tại, giao thông TP. HCM còn nhiều hạn chế, luôn trong tình trạng quá tải,

tình trạng tắc đường, kẹt xe, tai nạn giao thông ngày càng tăng gây thiệt hại đáng kể

đến phát triển kinh tế thành phố. Đây là thách thức ảnh hưởng rất lớn đến phát triển

kinh tế cũng như khả năng thu hút lao động nhập cư từ các vùng khác đến.

Mạng điện thoại phát triển nhanh trong hệ thống hạ tầng kĩ thuật, đem lại

những dịch vụ nhanh chóng, thuận tiện trong hoạt động kinh tế và sinh hoạt của dân

81

cư. Cơ sở hạ tầng kĩ thuật của TP. HCM thuộc loại tốt nhất cả nước, song vẫn còn

nhiều hạn chế, chưa đáp ứng kịp cho nhu cầu phát triển của thành phố. Nhất là ở

khu vực đang đô thị hóa mạnh như các quận mới và khu vực ngoại thành, hệ thống

CSHT như giao thông, điện, nước không theo kịp với đà gia tăng dân số và lao động

gây ra tình trạng quá tải. Điều kiện hạ tầng phục vụ dân sinh của nhiều KCN trong

tình trạng phát triển thiếu đồng bộ, không đảm bảo tiêu chuẩn về nhà ở cho công

nhân, hệ thống trường học, trạm xá, cấp thoát nước, …

2.2.2.5. Khoa học – công nghệ

TP. HCM được xem là trung tâm khoa học và công nghệ của cả nước trên các

khía cạnh tiềm lực về KHCN và những đóng góp KHCN vào phát triển kinh tế của

thành phố. Về tiềm lực KHCN, TP. HCM là trung tâm giáo dục, nghiên cứu lớn của

cả nước với hệ thống các trường đại học và cao đẳng chất lượng cao. Thành phố có

79 trường ĐH - CĐ, chiếm 18,5% tổng số trường ĐH và CĐ cả nước (427 trường –

2013); 36 trung tâm nghiên cứu ứng dụng khoa học - là nhân tố thúc đẩy quá trình

chuyển dịch CCLĐ theo hướng chất lượng.

TP. HCM là trung tâm công nghệ phần mềm của cả nước, có nhiều điều kiện

thuận lợi cho phát triển và ứng dụng CNTT. Thành phố thành lập công viên phần

mềm Quang Trung và Khu công nghệ cao Quận 9, chuyên thu hút các ngành công

nghệ kĩ thuật cao như lĩnh vực vi điện tử - CNTT, cơ khí chính xác – tự động hóa,

công nghệ sinh học, có khả năng tạo giá trị gia tăng lớn, đội ngũ lao động và KHKT

trình độ cao. Với sự phát triển của KHCN đã góp phần thúc đẩy nhanh sự phát triển

và chuyển dịch cơ cấu công nghiệp thành phố theo hướng nâng tỉ trọng sản phẩm

công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, nâng cao chất lượng nguồn lao động.

Hiện nay, thành phố đang đẩy mạnh thực hiện việc gắn kết giữa nghiên cứu

khoa học và thực tiễn, ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào sản xuất trong lĩnh vực

nông nghiệp và công nghiệp. Những ứng dụng KHCN này không chỉ đem lại hiệu

quả kinh tế cao, nâng cao NSLĐ, góp phần đẩy nhanh quá trình CDCCKT và

CCLĐ sang chiều sâu mà việc sử dụng KHKT vào sản xuất còn góp phần giải

phóng sức LĐ trong nông nghiệp và công nghiệp, chuyển LĐ sang khu vực dịch vụ.

82

2.2.2.6. Đường lối chính sách

Để thực hiện chuyển dịch CCKT, Đảng bộ và Chính quyền TP. HCM đã ban

hành nhiều chính sách, nghị quyết phát triển KT - XH trong thời gian qua. Nghị

quyết đại hội Đảng bộ TP. HCM lần thứ XIII xác định năm chương trình mang tính

đòn bẩy đến năm 2010, trong đó có chương trình hỗ trợ CDCCKT giai đoạn 2006 -

2010. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX xác định 6 chương trình đột phá trong đó có

Chương trình hỗ trợ CDCCKT, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ phát

triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu giai đoạn 2011 – 2015 với mục

tiêu tập trung các nguồn lực đẩy mạnh CDCCKT, phát triển nhanh các ngành, sản

phẩm công nghiệp, dịch vụ có hàm lượng KHCN cao, giá trị gia tăng cao.

Về chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ từng ngành kinh tế, TP. HCM ban hành

quyết định số 2425/2007/QĐ-UBND ngày 1/6/2007 về phê duyệt Chương trình

chuyển dịch cơ cấu công nghiệp – phát triển công nghiệp hiệu quả cao trên địa bàn

TP. HCM giai đoạn 2006 - 2010 tập trung ưu tiên phát triển bốn nhóm ngành công

nghiệp trọng yếu. Quyết định số 36/2011/QĐ-UBND ngày 10/6/2011 về Chính sách

khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị trên

địa bàn thành phố giai đoạn 2011 – 2015, khuyến khích các thành phần kinh tế

tham gia đầu tư, phát triển nông nghiệp theo hướng hiệu quả và bền vững.

Các chính sách về thu hút và sử dụng lao động nhập cư như chỉ thị số

08/1998/CT-UB-NCVX về việc tiếp tục tổ chức quản lí dân nhập cư vào thành phố,

các chính sách về đăng kí thường trú, tạm trú, nới lỏng việc nhập hộ khẩu để tạo

điều kiện cho người lao động nhanh chóng định cư, ổn định cuộc sống.

Chính sách về nâng cao chất lượng nguồn lao động, đặc biệt là lao động chất

lượng cao cũng được thành phố đặc biệt quan tâm. Các chương trình đào tạo nguồn

lao động chất lượng cao trong từng giai đoạn 2000 – 2005 và 2011 – 2015. Mục tiêu

là xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH, hội

nhập kinh tế quốc tế và CNH - HĐH; trong đó, tập trung nguồn nhân lực cho những

ngành, lĩnh vực có vai trò quyết định, tạo bước đột phá trong phát triển KT - XH

thành phố; đặc biệt tập trung vào nhóm ngành có hàm lượng công nghệ, giá trị gia

tăng cao, bảo đảm nhu cầu cho 9 ngành dịch vụ, 4 ngành công nghiệp trọng yếu.

83

2.2.2.7. Trình độ học vấn của dân cư

TP. HCM là trung tâm GD - ĐT của cả nước, đặc biệt là giáo dục đại học, trên

đại học và đào tạo nghề. Hệ thống đào tạo phát triển khá nhanh, các loại hình đào

tạo từ mầm non đến đại học và dạy nghề được mở rộng đã góp phần quan trọng

trong việc nâng cao trình độ người lao động. TP. HCM có tới 79 trường đại học và

cao đẳng, 10 trường cao đẳng nghề, 39 trường trung học chuyên nghiệp. Tổng số

sinh viên là 519.516 người, chiếm 25,2% sinh viên cả nước. Hằng năm cung cấp

cho thị trường lao động TP. HCM và khu vực phía Nam đội ngũ LĐ đã qua đào tạo,

LĐ có trình độ CMKT để phát triển các ngành kỹ thuật cao và dịch vụ hiện đại.

Trình độ học vấn lao động TP. HCM có chất lượng cao bậc nhất cả nước. Lao

động đã hoàn thành bậc THPT chiếm tỉ lệ 54,01% (2013), cao gấp 2 lần so với cả

nước (29,7%). Lao động có học vấn sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh công tác đào tạo

nghề, học tập để nâng cao trình độ CMKT. Tuy nhiên, trình độ học vấn có sự chênh

lệch khá lớn giữa thành thị và nông thôn. Ở thành thị, tỉ lệ lao động tốt nghiệp

THPT khá cao và tăng nhanh, năm 1999 là 30,46% tăng lên 49,7% năm 2009.

Ngược lại, trình độ học vấn lao động ở nông thôn tuy đã tăng nhưng vẫn còn thấp so

với thành thị (28,8% năm 2009). Điều này gây khó khăn trong việc giải quyết việc

làm cho lao động không có trình độ cũng như nâng cao chất lượng lao động khu vực

nông thôn nói riêng và TP HCM nói chung trong quá trình ĐTH. Nhà máy, xí

nghiệp được xây dựng và mở rộng ở nông thôn ngày càng nhiều, nhu cầu nhân công

có trình độ CMKT là rất lớn. Tuy nhiên, với trình độ học vấn thấp khiến họ khó

khăn trong việc tiếp nhận chương trình đào tạo của các trung tâm dạy nghề hoặc

chương trình đào tạo cho công nhân của nhà máy xí nghiệp đang mở ra trong vùng.

2.2.2.8. Đầu tư nước ngoài

Với 5.315 dự án đầu tư FDI còn hiệu lực, tổng vốn đầu tư là 36,3 tỷ USD

(2014), trong đó các dự án đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ chiếm 63,3% tổng vốn FDI,

công nghiệp – xây dựng là 36,6% còn lại là nông – lâm – thủy sản 0,1%. Các dự án

FDI góp phần đẩy nhanh quá trình CDCCKT theo định hướng phát triển của thành

phố, đưa công nghiệp và dịch vụ trở thành hai trụ cột chính của kinh tế TP HCM.

84

Thu hút đầu tư nước ngoài còn tác động đến chuyển dịch CCLĐ theo thành

phần kinh tế. Các dự án FDI luôn là khu vực thu hút đông lực lượng lao động, góp

phần giải quyết việc làm không chỉ cho lao động của thành phố mà còn các tỉnh,

thành phố khác, nhất là lực lượng lao động trẻ và lao động có trình độ chuyên môn

kĩ thuật cao. Thực tế trong những năm qua, FDI mang lại cơ hội việc làm rõ rệt cho

người lao động TP HCM và khu vực lân cận. Lao động trong các doanh nghiệp vốn

FDI tăng qua từng năm, đạt 582.369 lao động năm 2013, tăng 134,6% so với 2009.

Các doanh nghiệp FDI luôn đòi hỏi người lao động phải nâng cao tay nghề,

năng lực và trình độ quản lí, học hỏi tiếp thu công nghệ kĩ thuật hiện đại, kinh

nghiệm quản lí tiên tiến. Bên cạnh đó, TP. HCM đang hạn chế tiếp nhận các dự án

gây ô nhiễm môi trường, dự án có hàm lượng công nghệ thấp, đồng thời thu hút

những dự án có hàm lượng công nghệ cao, sử dụng ít lao động. Từ đó làm thay đổi

cả về số lượng và chất lượng lao động thành phố trong thời gian tới.

2.2.2.9. Thị trường lao động và liên kết Vùng trong sử dụng lao động

Quá trình toàn cầu hóa, mở cửa hội nhập vào kinh tế thế giới, tăng cường hợp

tác quốc tế, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã tạo điều kiện cho thị

trường lao động TP. HCM được mở rộng. Phát triển kinh tế thị trường nhiều thành

phần đã thu hút nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh, liên doanh, doanh nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp và nhiều ngành dịch vụ

khác nhau; nhiều trung tâm thương mại, ngân hàng, hệ thống văn phòng, khách sạn

cao cấp được xây dựng; hình thành nhiều KCN, khu đô thị hiện đại… góp phần tạo

ra số lượng việc làm lớn và thu hút nhiều lao động vào trong các ngành nghề và khu

vực kinh tế khác nhau. Ngoài ra, thị trường lao động TP. HCM rất đa dạng, từ

những công việc đòi hỏi người lao động phải có trình độ CMKT cao thì còn có rất

nhiều những công việc giản đơn, không yêu cầu về trình độ, có thể đáp ứng nhu cầu

việc làm cho nhiều đối tượng khác nhau.

Hiện nay, TP. HCM chiếm tỉ trọng GTSXCN cao nhất VKTTĐPN nhưng lại

đang có xu hướng giảm dần trong thời gian qua, giảm từ 42,2% năm 2005 xuống

còn 36,0% năm 2013. Sự giảm sút này là do TP. HCM đã đi trước một bước trong

phát triển kinh tế, hướng phát triển của thành phố trong thời gian qua và trong giai

85

đoạn sắp tới là đẩy nhanh tốc độ phát triển khu vực thương mại – dịch vụ, song

song với việc di dời các cơ sở công nghiệp qua các địa phương khác (Đồng Nai,

Bình Dương) nhằm tận dụng những ưu thế về tương quan vị trí liền kề thuận lợi, tài

nguyên thiên nhiên, giá thuê đất… Do đó trong thời gian qua, khu vực CN - XD của

TP. HCM có tốc độ tăng trưởng thấp hơn các tỉnh và ngày càng giảm sút tỉ trọng

trong cơ cấu khu vực công nghiệp toàn Vùng, tốc độ tăng GTSXCN của TP. HCM

giai đoạn 2005 – 2013 là 18,4%/năm, của toàn Vùng là 20,8%/năm.

Trong khi vai trò trung tâm công nghiệp của thành phố có xu hướng chuyển

dịch dần sang các tỉnh khác trong Vùng, nhất là trong những ngành công nghiệp có

giá trị gia tăng thấp, sử dụng nhiều lao động, thì vai trò là một trung tâm dịch vụ

ngày càng khẳng định rõ nét hơn. Sự thay đổi này cho thấy sẽ có sự thay đổi trong

cơ cấu sử dụng lao động giữa các tỉnh, thành trong Vùng trong thời gian tới, đòi hỏi

thúc đẩy mối quan hệ liên kết đa chiều trong vấn đề thu hút và sử dụng lao động

cũng như phát triển kinh tế giữa TP. HCM với các tỉnh trong VKTTĐPN.

2.2.3. Nhân tố tự nhiên

2.2.3.1. Địa hình

TP. HCM nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và ĐB sông

Cửu Long. Nhìn chung, địa hình TP. HCM tương đối thấp, khá bằng phẳng và đa

dạng tạo điều kiện thuận lợi phát triển nhiều mặt. Nơi có địa hình cao và địa chất

tương đối ổn định nằm ở phía Bắc – Đông Bắc và một phần Tây Bắc (Củ Chi, Thủ

Đức, Quận 9, 12) thuận lợi cho xây dựng các công trình, tổ chức hoạt động kinh tế

và sinh sống của dân cư. Hiện nay, đây là khu vực tập trung khá nhiều các KCN,

hình thành các khu đô thị cùng hệ thống CSHT hiện đại của thành phố. Ngược lại,

vùng trũng nằm ở phía Nam – Tây Nam và Đông Nam thành phố (Quận 7, 8, Bình

Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ) không thuận lợi cho dân cư tập trung sinh sống, thường

xuyên bị ngập trong những ngày triều cường, khó khăn trong việc xây dựng CSHT.

86

87

2.2.3.2. Khí hậu

TP. HCM nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa mang tính chất cận xích

đạo với hai mùa rõ rệt. Lượng bức xạ dồi dào, nền nhiệt cao và khá ổn định với nhiệt độ bình quân hàng năm là 27oC. Lượng mưa trung bình đạt trên dưới 2000

mm/năm. Nhìn chung, khí hậu TP. HCM khá ôn hòa, lượng mưa tương đối lớn,

nằm trong khu vực ít chịu ảnh hưởng của bão, đây là những điều kiện thuận lợi cho

sức khỏe người lao động và tổ chức hoạt động sản xuất, thu hút lao động nhập cư.

Đối với hoạt động nông nghiệp, điều kiện nhiệt độ và ánh sáng thuận lợi cho

sự phát triển đa dạng các chủng loại cây trồng và vật nuôi đạt năng suất cao; đối với

các hoạt động kinh tế công nghiệp – xây dựng và dịch vụ có thể tiến hành quanh

năm, ít bị gián đoạn bởi yếu tố thời tiết, việc đi lại và lưu thông hàng hóa cũng được

dễ dàng. Điều kiện khí hậu rất thuận lợi cho phát triển kinh tế và CDCCLĐ.

2.2.3.3. Đất đai

TP. HCM có tổng diện tích đất tự nhiên là 209.555 ha được chia thành bốn

nhóm đất chính: nhóm đất xám; nhóm đất phù sa; nhóm đất phèn và đất phèn mặn.

Đất nông nghiệp của TP. HCM chiếm 55,8% trong cơ cấu sử dụng đất, có khả năng

chuyển đổi sang đất phi nông nghiệp khi quá trình ĐTH được mở rộng. Đất đai ở

khu vực nội thành phần lớn sử dụng xây dựng các công trình nhà ở, nhà máy xí

nghiệp, CSHT phục vụ cho công nghiệp và dịch vụ; còn đất đai khu vực các huyện

ngoại thành đa số được sử dụng cho mục đích nông nghiệp và lâm nghiệp, dẫn đến

sự phân hóa lao động theo ngành nghề giữa các khu vực đô thị. Diện tích đất chưa

sử dụng của thành phố còn rất ít,458,7 ha chiếm 0,2% diện tích tự nhiên.

2.2.3.4. Thủy văn

Nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông Đồng Nai – Sài Gòn, TP. HCM có mạng

lưới sông ngòi, kênh rạch khá dày đặc với tổng chiều dài sông ngòi, kênh rạch là

7.955 km, tổng diện tích mặt nước ước chiếm khoảng 16% diện tích thành phố, đây

là nguồn cung cấp nước dồi dào thuận lợi để phát triển các ngành công nghiệp, đặc

biệt là các ngành công nghiệp cần nhiều nước (hóa chất, chế biến thực phẩm, dệt..).

Hệ thống thủy văn của TP. HCM còn tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng hệ

thống các cảng sông – biển quốc tế (cảng Sài Gòn, Bến Nghé, Cát Lái…), là hệ

88

thống giao thông đường thủy quan trọng trong phát triển kinh tế; mở rộng mối quan

hệ giao lưu, trao đổi buôn bán trong nước và quốc tế; thúc đẩy hoạt động công

nghiệp và dịch vụ phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình CDCCLĐ. Tuy

nhiên, hệ thống sông kênh rạch gây nên tình trạng thủy triều thâm nhập sâu tác động

xấu tới sản xuất nông nghiệp, hạn chế việc tiêu thoát nước ở khu vực nội thành, ảnh

hưởng đến các công trình hạ tầng và cuộc sống người dân.

Tóm lại, TP. HCM có vị trí địa lí thuận lợi, gần các vùng giàu tài nguyên, đầu

mối giao thông quan trọng; điều kiện khí hậu ôn hòa thích hợp cho hoạt động sản

xuất và cuộc sống của người lao động; hệ thống sông ngòi có giá trị nhiều mặt (giao

thông, sản xuất, sinh hoạt…); hệ thống đất đa dạng thích hợp cho phát triển nhiều

loại cây trồng, vật nuôi, thích hợp xây dựng CSHT… Như vậy, điều kiện tự nhiên

TP. HCM thuận lợi cho phát triển kinh tế, trở thành trung tâm kinh tế phát triển

mạnh nhất nước, với cơ cấu kinh tế đa ngành, đa thành phần, một đô thị đặc biệt có

sức hút lớn đối với lao động nhập cư, tạo việc làm cho người lao động, làm thay đổi

cơ cấu lao động cả về số lượng và chất lượng trong thời gian qua.

2.3. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động ở TP. Hồ Chí Minh trong quá

trình đô thị hóa

2.3.1. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế ở TP. HCM

2.3.1.1. Sự thay đổi về quy mô, tỉ trọng và tốc độ chuyển dịch CCLĐ phân

theo nhóm ngành kinh tế

Bảng 2.7 cho thấy, quy mô lao động TP. HCM trong giai đoạn 1999 – 2013

tăng nhanh từ 2.145.964 người lên 4.024.000 người, tăng gấp 1,87 lần. Trong đó,

lao động ngành dịch vụ cao nhất, tiếp đến là ngành công nghiệp và thấp nhất là

ngành nông nghiệp. Cơ cấu lao động thành phố là dịch vụ - công nghiệp - nông

nghiệp và đang có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng CNH – ĐTH, phù hợp với

xu hướng chuyển dịch CCKT: giảm tỉ trọng lao động ngành nông nghiệp (giảm

4,5%), tăng tỉ trọng lao động ngành công nghiệp – xây dựng (tăng 2,4%) và dịch vụ

(tăng 2,1%). Hai ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm tỉ trọng 97,9% trong cơ cấu

lao động thành phố.

89

Bảng 2.7: Lao động và cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế của TP. HCM

giai đoạn 1999 – 2013

Năm

Đơn vị

1999

2005

2009

2013

Tổng số

Ngƣời 2.145.964 2.676.420 3.676.206 4.024.000

Tốc độ tăng BQ % 2006- 2013 5,23

2000- 2005 3,75

2000- 2013 4,59

Người

141.862

145.282

101.759

84.504

0,39

-6,55

-3,63

Nông –

Lâm – Ngƣ

%

6,6

5,4

2,8

2,1

Người

889.921 1.226.932 1.599.957 1.766.536

5,49

4,66

5,02

CN – Xây

dựng

%

41,5

45,9

43,5

43,9

Người 1.114.181 1.304.206 1.974.490 2.172.960

2,65

6,59

4,88

Dịch vụ

%

51,9

48,7

53,7

54,0

Nguồn: xử lí từ [14], [50], [74]

 Trong công nghiệp – xây dựng

TP. HCM là trung tâm công nghiệp hàng đầu của VKTTĐPN và cả nước,

hàng loạt các KCN – KCX ra đời cùng các cơ sở công nghiệp đã thu hút một số

lượng lớn lao động vào làm việc, đặc biệt là lao động nhập cư. Giai đoạn 2000 –

2013, khu vực CN – XD có tốc độ tăng trưởng lao động cao nhất trong ba nhóm

ngành kinh tế, bình quân tăng 5,02%/năm, trong đó giai đoạn 2000 – 2005 tăng

nhanh nhất 5,49%/năm, giai đoạn 2006 – 2013, đạt bình quân 4,66%/năm. Trong cơ

cấu lao động, tỉ trọng lao động công nghiệp – xây dựng tăng từ 41,5% năm 1999 lên

45,9% năm 2005, sau đó giảm xuống còn 43,9% năm 2013.

Giai đoạn 1999 – 2005, lao động công nghiệp tăng nhanh nhất là do trong một

thời gian dài sau khi thống nhất đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường, TP.

HCM có nhiều lợi thế hơn so với các địa phương khác về tiềm lực kinh tế, tài chính,

nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng nên thuận lợi trong thu hút đầu tư, phát triển công

nghiệp. Trong giai đoạn này, nhiều KCN – KCX, nhiều doanh nghiệp công nghiệp

của các thành phần kinh tế khác nhau được hình thành và phát triển nên số lượng

lao động công nghiệp không ngừng tăng lên. Cơ cấu ngành công nghiệp là những

ngành thâm dụng lao động như dệt may, da giày, chế biến LT – TP (chiếm 41,3%

TGTSXCN – 2000) vì vậy nhu cầu lao động trong công nghiệp rất lớn.

90

Từ sau năm 2005, khu vực công nghiệp giảm tỉ trọng trong CCLĐ của TP.

HCM do chi phí đầu tư sản xuất ngày càng gia tăng, diện tích đất để mở rộng sản

xuất công nghiệp không còn nhiều, sự hình thành và phát triển của một số trung tâm

công nghiệp xung quanh TP. HCM như Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu

đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp dịch chuyển sang các địa phương khác

với chi phí sản xuất thấp hơn và được hưởng nhiều ưu đãi hơn TP. HCM. Ngoài ra,

thành phố đang thực hiện việc di dời các cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm, các ngành

công nghiệp thâm dụng lao động, năng suất lao động thấp từ nội thành ra khu vực

ngoại thành và sang các tỉnh khác. Thành phố tập trung đầu tư phát triển 4 nhóm

ngành công nghiệp trọng điểm, chuyển hướng phát triển từ chiều rộng sang chiều

sâu. Vì vậy, nhu cầu lao động trong ngành công nghiệp giảm, lao động dịch chuyển

sang ngành dịch vụ làm cho tỉ trọng lao động ngành dịch vụ tăng cao. Đây cũng là

sự chuyển dịch phù hợp định hướng phát triển của thành phố trong thời gian tới.

Bảng 2.8: Lao động và cơ cấu lao động công nghiệp – xây dựng phân theo

ngành kinh tế TP. HCM giai đoạn 1999 - 2013

Lao động

Tốc độ tăng BQ

2000-2013 (%)

Đơn vị

1999

2005

2009

2013

Tổng số

Ngƣời

889.921 1.226.932 1.599.957 1.766.536

5,02

Người

743.751 1.033.271 1.339.217 1.374.588

4,48

Công nghiệp

%

83,6

84,2

83,7

77,8

Người

146.170

193.661

260.740

391.948

7,30

Xây dựng

%

16,4

15,8

16,3

22,2

Nguồn: xử lí từ [14], [50], [74]

Trong ngành xây dựng, tỉ trọng lao động tăng nhanh từ 16,4% lên 22,2% giai

đoạn 1999 – 2013 (tăng 5,8%). Sự tăng trưởng nhanh của ngành xây dựng cho thấy

việc mở rộng nhanh chóng về không gian đô thị và tương ứng là nhu cầu về cơ sở

hạ tầng đô thị tăng lên. Thành phố luôn chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng

nhằm phục vụ cho phát triển KT - XH, thu hút đầu tư. Năm 2013 đầu tư cho xây

dựng cơ bản là 18.964,2 tỉ đồng, chiếm 25,7% trong cơ cấu chi ngân sách của thành

phố, tăng gấp 12,4 lần so với năm 2000 (1.527,5 tỉ đồng). Chính vì vậy, lao động

91

trong lĩnh vực xây dựng cũng tăng nhanh trong thời gian qua để phục vụ cho việc

hoàn thiện cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế của thành phố (bảng 2.8).

Trong quá trình phát triển ngành công nghiệp đô thị, con đường phát triển của

các nước phần lớn diễn ra theo mô hình: các hoạt động công nghiệp thường chuyên

môn hóa trong các ngành sản xuất sử dụng công nghệ thấp, thâm dụng lao động, sau

đó dần dần chuyển lên công nghệ bậc trung và công nghệ cao để tạo ra giá trị gia

tăng lớn [41, tr.34]. Sự phát triển công nghiệp của TP. HCM cũng không nằm ngoài

mô hình phát triển đó. Thành phố đang thay đổi cơ cấu sản xuất từ sản xuất công

nghiệp nhẹ sử dụng công nghệ thấp sang sản xuất công nghiệp nặng sử dụng công

nghệ cao (xem bảng 2.3). Sự thay đổi cơ cấu sản xuất các ngành công nghiệp đã kéo

theo sự thay đổi trong cơ cấu lao động của các ngành.

Bảng 2.9: Cơ cấu lao động một số ngành công nghiệp trong các doanh nghiệp

của TP. HCM giai đoạn 1999 – 2013 (%)

Tăng/giảm

1999

2005

2009

2013

Năm

1999 -2013

Cơ cấu

100

100

100

100

Dệt - may mặc

30,2

30,4

30,2

30,2

0

Giày da

26,1

23,7

17,2

21,0

-5,1

Chế biến TP, đồ uống

9,7

7,8

8,2

7,1

-2,6

Chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ

2,4

2,9

2,7

1,1

-1,3

Cơ khí

8,8

11,2

13,8

12,2

3,4

Hóa chất

9,3

9,5

10,3

9,8

0,5

Điện tử - tin học

1,1

1,2

1,8

2,6

1,5

Giấy và sản phẩm từ giấy

1,5

1,9

1,8

1,9

0,4

14

14,1

3,2

Các ngành khác

10,9

11,4

Nguồn: tính toán từ [13]

Qua bảng 2.9, CCLĐ một số ngành công nghiệp trong các doanh nghiệp của

TP. HCM cho thấy, CCLĐ trong nội bộ ngành công nghiệp thành phố có sự chuyển

dịch theo hướng tăng dần tỉ trọng lao động công nghiệp có hàm lượng công nghệ kĩ

thuật cao, giá trị gia tăng lớn và giảm tỉ trọng lao động trong các ngành thâm dụng

92

lao động, giá trị gia tăng thấp. Tỉ trọng lao động ngành cơ khí tăng 3,4%, ngành

điện tử - tin học tăng 1,5%, ngành hóa chất tăng 0,5%. Trong khi đó lao động trong

các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động giản đơn, giá trị gia tăng thấp, gây ô

nhiễm môi trường có xu hướng giảm như giày da giảm 5,1%, chế biến thực phẩm –

đồ uống giảm 2,6%, chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ giảm 1,3%.

Tuy CCLĐ công nghiệp đang có sự chuyển dịch tích cực, phù hợp với chuyển

dịch CCKT và theo từng giai đoạn phát triển của quá trình ĐTH nhưng tốc độ

chuyển dịch còn chậm. Các ngành thâm dụng lao động (chế biến thực phẩm - đồ

uống, dệt may, giày da) mặc dù tỉ trọng giảm nhưng vẫn là những ngành có tỉ trọng

lao động lớn nhất (chiếm tới 58,3% lao động). Ngược lại, các ngành có hàm lượng

công nghệ kĩ thuật cao, sử dụng ít lao động, giá trị gia tăng lớn như cơ khí, điện tử -

tin học chiếm tỉ trọng nhỏ trong cơ cấu lao động công nghiệp thành phố.

Quá trình ĐTH góp phần làm thay đổi sự phân bố lao động công nghiệp thành

phố. Việc quy hoạch, phát triển đô thị và xây dựng các KCN – KCX cùng hàng loạt

các cơ sở công nghiệp, nhà máy, xí nghiệp tập trung chủ yếu ở các quận mới và các

huyện ngoại thành dẫn đến khu vực này chiếm tới 53,4% tổng LĐ công nghiệp toàn

thành. Trong đó, tập trung đông nhất tại các quận, huyện có nhiều khu, cụm công

nghiệp như Bình Tân (17,9%), Tân Phú (15,4%), Bình Chánh (11,9%), Thủ Đức

(4,3%)… (2013). Thực tế tại các doanh nghiệp trong các KCN – KCX của TP.

HCM hiện nay đầu tư chủ yếu vào các ngành thâm dụng LĐ nên nhu cầu lao động

là rất lớn. Tại các KCN tốc độ tăng LĐ bình quân là 12,4%/năm giai đoạn 1999 –

2013. Hai ngành may mặc và giày da chiếm tới 47,1% tổng số lao động KCN, tiếp

theo là các ngành điện tử (17,5%), cơ khí (8,13%), chế biến thực phẩm (3,51%)…

Thị trường lao động thành phố hiện đang phải đối mặt với tình trạng cạnh

tranh lao động gay gắt từ các tỉnh thành lân cận. Hàng loạt các KCN và các cơ sở

công nghiệp được mở ra tại các tỉnh xung quanh thành phố do đó nhu cầu về lao

động tăng nhanh làm cho nguồn cung ứng có chiều hướng thiếu hụt. Mặc dù công

nghiệp thành phố đang có sự chuyển hướng sang các ngành nghề sử dụng ít lao

động và có trình độ chuyên môn cao (điện – điện tử, cơ khí chế tạo…) nhưng sự

chuyển dịch vẫn còn chậm.

93

 Trong ngành dịch vụ

TP. HCM là trung tâm thương mại – dịch vụ lớn nhất nước, nhiều ngành dịch

vụ chất lượng cao được hình thành và phát triển như tài chính, ngân hàng, chứng

khoán, bất động sản,… TP. HCM là nơi đầu tiên có thị trường chứng khoán, cũng là

nơi tập trung nhiều ngân hàng, trung tâm tài chính, thương mại đã thu hút một

lượng lao động khá lớn tập trung vào các ngành dịch vụ. Ngoài ra, thành phố còn có

đội ngũ chuyên viên kinh tế, kĩ thuật có trình độ được đào tạo từ nhiều nguồn, nhiều

nước khác nhau với một đội ngũ doanh nhân năng động, giàu kinh nghiệm trong

hoạt động lĩnh vực kinh tế thị trường, là điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ các ngành

thương mại – dịch vụ phát triển.

Bảng 2.10: Cơ cấu lao động phân theo các ngành dịch vụ của TP. HCM

giai đoạn 2005 – 2013 (%)

2005

2009

2013

Tăng/giảm

Năm

Tổng số

100

100

100

Thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ

41,4

42,0

40,5

-0,9

Vận tải kho bãi

17,1

13,3

13,3

-3,8

Khách sạn và nhà hàng

6,9

6,6

6,3

-0,6

Thông tin và truyền thông

5,9

5,3

4,9

-1,0

Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm

4,9

6,8

7,5

2,6

Kinh doanh bất động sản

3,2

3,7

3,7

0,5

Hoạt động chuyên môn, KHCN

7,7

8,9

9,7

2,0

Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ

9,0

9,0

9,3

0,3

Giáo dục – đào tạo

1,4

1,9

2,3

0,9

Y tế

0,9

1,0

1,2

0,3

Dịch vụ khác

1,7

1,5

1,2

-0,5

Nguồn: tính toán từ [13]

Trong giai đoạn 1999 – 2013, tỉ trọng lao động ngành dịch vụ của TP. HCM

tăng lên từ 51,9% lên 54,0%. Trong đó, Thành phố ưu tiên phát triển 9 nhóm ngành

dịch vụ, cơ cấu lao động cũng có sự chuyển dịch phù hợp. Các ngành dịch vụ thế

mạnh của thành phố đều tăng tỉ trọng, nhóm ngành hoạt động chuyên môn - KHCN

94

tăng 2%, nhóm ngành tài chính - ngân hàng - bảo hiểm tăng 2,6%, giáo dục – đào

tạo tăng 0,9%, bất động sản tăng 0,5%. Đây là dấu hiệu khả quan đối với các ngành

dịch vụ công nghệ cao của thành phố, tạo điều kiện thuận lợi cho TP. HCM nhanh

chóng chuyển hướng phát triển theo chiều sâu.

Mặc dù lao động trong các ngành dịch vụ của TP. HCM đang có sự chuyển

dịch tích cực và đúng định hướng nhưng lao động trong một số lĩnh vực mũi nhọn

còn chiếm một tỉ lệ nhỏ trong cơ cấu lao động dịch vụ thành phố. Các ngành dịch

vụ như hoạt động chuyên môn – KHCN chiếm 9,7%, thông tin và truyền thông

4,9%, hoạt động tài chính - ngân hàng – bảo hiểm 7,5%, giáo dục – đào tạo 2,3%, y

tế 1,2%, … Trong khi đó ba ngành thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ; vận tải

kho bãi và khách sạn, nhà hàng chiếm tới 61,1% lao động (bảng 2.10).

 Trong ngành nông – lâm – ngư nghiệp

Lao động ngành nông – lâm – ngư nghiệp TP. HCM đang có xu hướng giảm,

từ 141.862 người năm 1999 xuống còn 84.504 người năm 2013, tốc độ giảm trung

bình là 3,63 %/năm trong giai đoạn 2000 - 2013. Về tỉ trọng lao động giảm xuống

mức rất thấp, từ 6,6% năm 1999 xuống còn 2,1% năm 2013 trong cơ cấu lao động

của thành phố. Quá trình CNH và ĐTH đã có tác động khá rõ nét đến sự thay đổi

lao động và tỉ trọng lao động trong ngành N – L – NN của TP. HCM thời gian qua.

Thứ nhất, do tác động của quá trình CNH – ĐTH đang diễn ra nhanh ở các

quận mới và huyện ngoại thành làm cho diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp. Trong

giai đoạn 2000 – 2013, diện tích đất nông nghiệp của thành phố giảm 13.803 ha.

Theo Sở Tài nguyên Môi trường, giai đoạn 2001 – 2010, thành phố có gần 2.650 dự

án được giao đất với tổng diện tích là 19.943ha, trong đó diện tích dành cho dự án

nhà ở chiếm 38%, dự án thương mại chiếm 39%, dự án công trình công cộng là

23% [77, tr.275]. Phần lớn các dự án này đều sử dụng từ quỹ đất nông nghiệp của

thành phố. Khi đất nông nghiệp được chuyển đổi sang mục đích sử dụng khác như

xây dựng các KCN tập trung, trung tâm thương mại, khu dân cư mới, cơ sở hạ tầng

thì đi cùng với đó là quá trình biến đổi các hoạt động kinh tế sang lĩnh vực công

nghiệp và dịch vụ. Do mất đất hoặc thiếu đất sản xuất, một bộ phận người dân phải

chuyển đổi sang các ngành nghề phi nông nghiệp khác

95

Thứ hai, cùng với quá trình mở rộng nội thành, chia tách thành một số quận

mới và việc xây dựng nhiều KCN – KCX tại các quận mới này đã tạo ra nhiều việc

làm trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ với mức thu nhập cao hơn làm cho một

bộ phận dân cư nông thôn đặc biệt là lao động trẻ bỏ nông nghiệp chuyển sang các

ngành phi nông nghiệp để mong có cuộc sống tốt hơn.

Thứ ba, thời gian qua TP. HCM đã khai thác thế mạnh về công nghiệp, dịch

vụ và khoa học kĩ thuật hiện đại của mình để phục vụ cho việc phát triển nông

nghiệp, nông thôn theo hướng CNH – HĐH. Từ năm 2000 trở lại đây, thành phố

đẩy mạnh phát triển nông nghiệp đô thị, nông nghiệp công nghệ cao, ứng dụng tiến

bộ KHKT vào trong sản xuất làm cho lao động trong ngành nông nghiệp được giải

phóng. Vì vậy, tuy diện tích đất nông nghiệp và lao động trong ngành nông nghiệp

đang có xu hướng giảm nhưng giá trị sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp vẫn tăng

trưởng khá, bình quân đạt 4,3%/năm giai đoạn 2000 – 2013.

Tuy nhiên, một khó khăn đặt ra đối với lao động nông nghiệp thành phố dưới

tác động của quá trình ĐTH là trình độ của người lao động. Lao động nông nghiệp

phần lớn là lao động giản đơn, chưa qua đào tạo, tỉ lệ lao động có CMKT còn thấp.

Có 97,1% lao động chưa được đào tạo hoặc được đào tạo nhưng không có bằng cấp,

0,7% là đào tạo sơ cấp, 1,3% trung cấp và 0,9% có trình độ từ CĐ – ĐH trở lên

(2011). Vì vậy, lao động sẽ gặp nhiều khó khăn khi bị mất đất sản xuất, phải chuyển

từ nghề nông sang các ngành nghề phi nông nghiệp khác trong khi không có trình

độ chuyên môn nghiệp vụ. Trong trường hợp này, khả năng chuyển đổi nghề hoặc

tự tạo việc làm bị hạn chế và người nông dân phải chấp nhận làm các công việc đơn

giản, thu nhập thấp như lao động dịch vụ phổ thông, làm thuê, bán hàng rong cho

đến làm công nhân lao động phổ thông trong các KCN – KCX. Tuy nhiên, họ cũng

rất dễ rơi vào hoàn cảnh thiếu việc làm, thất nghiệp khi phải cạnh tranh với lực

lượng lao động nhập cư khá lớn từ các tỉnh thành khác đổ về thành phố hằng năm.

Trong nội bộ ngành nông – lâm – thủy sản, lao động chuyển dịch từ khu vực

nông, lâm nghiệp sang thủy sản. Tỉ trọng lao động ngành nông – lâm nghiệp giảm

từ 94,2% xuống còn 70,5% (giảm 23,7%). Ngược lại, tỉ trọng lao động ngành thủy

sản tăng nhanh từ 5,8% lên 29,5% trong giai đoạn 1999 – 2013. Tỉ trọng lao động

96

ngành thủy sản tăng do chuyển đổi một phần diện tích đất trồng trọt qua nuôi thủy

sản. Trong thời gian gần đây người dân ở hai huyện Cần Giờ và Nhà Bè chuyển đổi

một phần diện tích lúa một vụ năng suất thấp ở vùng nhiễm mặn sang nuôi tôm sú

theo các chương trình phát triển ngành nông nghiệp của thành phố và đẩy mạnh

đánh bắt xa bờ. Diện tích lúa của huyện Nhà Bè giảm 1.116 ha và huyện Cần Giờ

giảm 158ha trong giai đoạn 2005 – 2013. Lao động ngư nghiệp tăng nhanh cho thấy

chuyển dịch CCLĐ trong khu vực nông – lâm – ngư nghiệp là phù hợp, phát huy

được thế mạnh của vị trí địa lí, giáp biển và có mạng lưới sông ngòi dày đặc.

Bảng 2.11: Lao động và cơ cấu lao động ngành nông – lâm – ngư nghiệp

của TP. HCM giai đoạn 1999 - 2013

Lao động

Tốc độ tăng BQ

2000-2013 (%)

Đơn vị

1999

2005

2009

2013

Ngƣời

Tổng số

141.862 145.282 101.759

84.504

-3,63

Người 133.623 130.254 84.854

59.557

-5,61

Nông – Lâm

nghiệp

%

94,2

89,7

83,4

70,5

Người

8.239

15.028

16.905

24.947

8,23

Ngư nghiệp

%

5,8

10,3

16,6

29,5

Nguồn: xử lí từ [14], [50], [74]

Hiện nay, lao động trong ngành N – L – NN tập trung chủ yếu ở 5 huyện ngoại

thành, chiếm 90,5% tổng số lao động N – L – NN của toàn thành phố và một số

quận ven như Quận 12, Quận 9, Thủ Đức, Gò Vấp. Các huyện chiếm tỉ lệ lao động

nông nghiệp cao so với lao động nông nghiệp toàn thành phố là Củ Chi (56,0%),

Bình Chánh (19,1%), Hóc Môn (12,1%); các huyện chiếm tỉ lệ lao động ngành thủy

sản cao là Cần Giờ (77,3%), Bình Chánh (8,8%), Nhà Bè (7,5%) (2011) [16].

2.3.1.2. Mối quan hệ giữa chuyển dịch CCKT và chuyển dịch CCLĐ

Giữa chuyển dịch CCKT và CCLĐ theo ngành kinh tế có mối quan hệ gắn bó

với nhau dưới tác động của quá trình CNH và ĐTH, xu hướng ngành công nghiệp

và dịch vụ ngày càng tăng lên về số lượng và tỉ trọng trong CCKT, ngược lại ngành

nông nghiệp có xu hướng giảm. Sự thay đổi CCKT theo ngành cũng như trong nội

bộ ngành sẽ kéo theo sự thay đổi của CCLĐ trong tổng thể lao động xã hội.

97

Biểu đồ 2.3: Chuyển dịch cơ cấu GDP theo ngành kinh tế của TP HCM

100%

80%

50,6

53,9

54,2 57,9

58,4

52,6

60%

giai đoạn 1999 - 2013 (đơn vị % - theo giá thực tế)

Dịch vụ

CN - XD

40%

N-L-NN

48,1

44 45,4

44,5 41,0

40,6

20%

1,0

2,1 2,0

1,3

1,3 1,1

0%

1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

2009 2010 2013

1999 2000

2005

Nguồn: [13]

Biểu đồ 2.4: Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế của TP HCM

100%

80%

48,8

51,9

53,7 53,8

54,0

52,1

giai đoạn 1999 – 2013 (%)

Dịch vụ

60%

CN - XD

40%

N-L-NN

41,5

45,8

41,5

43,5 43,5

43,9

20%

2,1

6,6 6,4

5,4

2,8 2,7

0% 1999 2000

1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2009 2010 2013

2005

Nguồn:[14], [50], [74]

So sánh biểu đồ 2.3 và 2.4 có thể thấy động thái chuyển dịch cơ cấu GDP và

cơ cấu lao động theo ngành kinh tế của TP. HCM giai đoạn 1999 – 2013 như sau: tỉ

trọng GDP ngành N – L – NN của TP. HCM giảm 1,1%, ngành CN - XD giảm

3,4%, ngành dịch vụ tăng 4,5%. Trong khi đó, tỉ trọng lao động ngành N – L – NN

giảm 4,5%, ngành CN - XD tăng 2,4% và ngành dịch vụ tăng 2,1%.

- Chuyển dịch cơ cấu GDP và cơ cấu lao động nhóm ngành N – L – NN là

cùng chiều, đều có xu hướng giảm. Tỉ trọng lao động giảm 4,5% trong khi cơ cấu

kinh tế giảm 1,1% giai đoạn 1999 – 2013. Ngành N – L – NN là ngành sử dụng lao

98

động nhiều nên khi tỉ trọng kinh tế ngành thay đổi đã tác động mạnh đến tỉ trọng lao

động. Thời gian qua, do ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa nên diện tích đất nông

nghiệp ở khu vực quận ven và ngoại thành bị thu hẹp, người nông dân phải chuyển

sang các ngành nghề phi nông nghiệp khác; ngoài ra một bộ phận lao động, nhất là

lao động trẻ bị thu hút vào các ngành công nghiệp, thương mại và dịch vụ với thu

nhập cao hơn so với hoạt động nông nghiệp.

Cũng do tác động của CNH – ĐTH trong điều kiện đất nông nghiệp có xu

hướng giảm, nông nghiệp thành phố chuyển hướng sang sản xuất hàng hóa; chuyển

dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế hướng tới nền nông nghiệp sinh

thái và kỹ thuật cao; chuyển giao và ứng dụng KHCN vào trong sản xuất góp phần

giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và đạt hiệu quả

kinh tế cao. Trong thời gian tới, lao động trong ngành nông nghiệp tiếp tục giảm,

tăng nhu cầu lao động có chuyên môn kĩ thuật, có sự dịch chuyển lao động từ khu

vực nông nghiệp sang các khu vực kinh tế khác

- Chuyển dịch CCKT và CCLĐ ngành công nghiệp có sự khác biệt: tỉ trọng

công nghiệp trong GDP giảm 3,4% trong giai đoạn 1999 – 2013 (bình quân giảm là

0,24%/năm); trong khi lao động ngành tăng lên 2,4% (tăng bình quân 0,17%/năm).

Điều đó cho thấy, việc hình thành và phát triển các KCN - KCX, sự hình thành của

hàng loạt các doanh nghiệp sản xuất cùng với chính sách mở cửa thu hút đầu tư

nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi cho ngành công nghiệp TP. HCM phát triển

nhanh, thu hút lao động vào làm việc, giải quyết việc làm ngày càng nhiều cho

người lao động kể cả lao động của thành phố và lao động nhập cư.

Tuy nhiên, hiện nay đa số các ngành công nghiệp của thành phố ở tình trạng

gia công cũng như lắp ráp các chi tiết cơ khí có giá trị gia tăng thấp. Các ngành

công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, cơ cấu mặt hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn là

nguyên vật liệu, linh kiện, vật tư. Vì vậy hiệu quả kinh tế ngành không cao trong

khi nhu cầu lao động công nghiệp lớn dẫn đến tỉ trọng giá trị sản xuất ngành có xu

hướng giảm trong khi tỉ trọng lao động của ngành vẫn cao. Các ngành thâm dụng

lao động như dệt may, giày da, chế biến thực phẩm chỉ chiếm 35,9% GTSXCN của

toàn ngành công nghiệp nhưng sử dụng tới 58,3% lao động (2013).

99

Bảng 2.12: Mối tương quan giữa chuyển dịch cơ cấu GTSXCN và CDCCLĐ

một số ngành công nghiệp của TP. HCM giai đoạn 2000 – 2013 (%)

Cơ cấu giá trị CN

Cơ cấu lao động

2000

2013 % thay đổi

2000

2013 % thay đổi

Dệt may - Giày da

24,4

17,7

56,3

51,2

-6,7

-5,1

Chế biến TP, đồ uống

22,0

18,2

9,7

7,1

-3,8

-2,6

Cơ khí

13,8

17,5

8,8

12,2

3,7

3,4

Hóa chất

16,5

20,0

9,3

9,8

3,5

0,5

Điện tử - tin học

3,8

4,1

1,1

2,6

0,3

1,5

Nguồn: tính toán từ [13]

Các ngành kĩ thuật cao, sản phẩm có giá trị gia tăng cao như điện tử - tin học,

hóa chất, cơ khí mặc dù có sự chuyển dịch tích cực khi tỉ trọng GTSXCN tăng 7,5%

và CCLĐ tăng 5,4%, tuy nhiên, quá trình chuyển dịch diễn ra chậm (bảng 2.12). Về

trình độ công nghệ, đến nay, khả năng tự chế tạo trong công nghiệp vẫn còn hạn

chế, chủ yếu tập trung lắp ráp các thiết bị, động cơ đã được sản xuất ở nước ngoài

để tạo thành sản phẩm hoàn thiện. Nguyên nhân chính là do trình độ CMKT của lao

động TP. HCM còn thấp, chủ yếu là lao động phổ thông di cư từ nông thôn lên

thành phố tìm kiếm các công việc phổ thông; đa số các cơ sở xí nghiệp công nghiệp

thuộc doanh nghiệp tư nhân với quy mô vốn nhỏ nên mức độ đầu tư thay thế máy

móc thiết bị, công nghệ cũ bằng kĩ thuật mới, hiện đại còn hạn chế, chủ yếu sản

xuất trong các ngành sử dụng nhiều LĐ, không yêu cầu trình độ chuyên môn cao.

- Chuyển dịch GDP và lao động ngành dịch vụ có xu hướng tích cực, tăng lên

trong giai đoạn 1999 – 2013, trong đó cơ cấu GDP tăng 4,5% (0,23%/năm) và cơ

cấu lao động tăng 2,1% (0,15%/năm). Sự chuyển dịch này phù hợp với định hướng

phát triển kinh tế của thành phố trở thành trung tâm dịch vụ - thương mại - tài chính

lớn của cả nước và khu vực Đông Nam Á.

Từ sự chuyển dịch trên cho thấy, tốc độ chuyển dịch CCLĐ của TP. HCM thời

gian qua chậm hơn tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tốc độ chuyển dịch lao động

từ khu vực nông nghiệp và công nghiệp sang khu vực dịch vụ còn chậm, ảnh hưởng

đến hiệu quả kinh tế cũng như hiệu quả sử dụng lao động của thành phố. Tỉ trọng

100

các ngành công nghiệp và dịch vụ có hàm lượng khoa học kĩ thuật và giá trị gia tăng

cao chiếm tỉ trọng còn thấp trong cơ cấu GDP, chủ yếu vẫn là những ngành thâm

dụng lao động, giá trị gia tăng thấp. Thành phố nên lựa chọn một số ngành công

nghiệp và dịch vụ có lợi thế đầu tư có trọng tâm, trọng điểm làm động lực thúc đẩy

kinh tế phát triển, nâng cao chất lượng nguồn lao động để thực hiện quá trình

chuyển dịch CCKT và chuyển dịch CCLĐ theo chiều sâu.

2.3.1.3. Chuyển dịch cơ cấu lao động gắn với sự thay đổi năng suất lao

động theo ngành kinh tế

Năng suất lao động chia theo ngành kinh tế thể hiện mối tương quan giữa kết

quả sản xuất - kinh doanh của ngành với sử dụng lao động và hiệu quả kinh tế.

Năng suất lao động tỉ lệ thuận với kết quả sản xuất - kinh doanh và tỉ lệ nghịch với

sử dụng lao động. Qua đó cho thấy, những ngành thâm dụng lao động thì NSLĐ

thấp và ngược lại những ngành không thâm dụng lao động thì NSLĐ cao. Nghiên

cứu quá trình CDCCLĐ gắn với sự thay đổi NSLĐ theo ngành kinh tế là chỉ tiêu để

đánh giá hiệu quả và chất lượng chuyển dịch lao động so với chuyển dịch kinh tế

của TP. HCM trong quá trình ĐTH.

Bảng 2.13: Năng suất lao động theo ngành kinh tế của TP. HCM giai đoạn

1999 – 2013 (giá thực tế)

Năng suất lao động (nghìn đồng/ngƣời)

1999 2000 2005 2009 2013

Toàn thành 32.038 34.329 61.760 104.308 189.950

N – L – NN 10.066 10.465 14.599 43.190 91.936

CN – XD 33.992 37.554 64.827 103.716 175.847

Dịch vụ 33.275 34.705 64.129 107.937 205.041

Nguồn: tính toán của tác giả từ [13] và từ bảng 2.7

Bảng 2.13 cho thấy, trong giai đoạn 1999 – 2013, NSLĐ toàn nền kinh tế của

TP. HCM có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm, tăng 5,9 lần từ

32.038 nghìn đồng/người lên 189.950 nghìn đồng/người. NSLĐ các ngành kinh tế

cao nhất là ngành dịch vụ (205.041 nghìn đồng/người), tiếp đến là ngành CN - XD

101

(175.847 nghìn đồng/người) và nông nghiệp là ngành có NSLĐ thấp nhất (91.936

nghìn đồng/người). Thực trạng này phản ánh đúng tính quy luật là các ngành sản

xuất tư liệu sản xuất (công nghiệp – xây dựng) phát triển nhanh, kéo theo tỉ trọng

lao động tăng nhanh, tiếp đến là ngành dịch vụ để đáp ứng nhu cầu nâng cao đời

sống nhân dân. NSLĐ đã ảnh hưởng đến chuyển dịch CCLĐ từ ngành có NSLĐ

thấp sang ngành có NSLĐ cao.

Biểu đồ 2.5: Năng suất lao động và tốc độ tăng NSLĐ theo ngành kinh tế

250

200

của TP. HCM giai đoạn 2000 – 2013

) i ờ ƣ g n

Dịch vụ

/

150

CN - XD

đ . r t (

100

Nông nghiệp

50

Đ L S N c ứ M

0

0

2

4

10

12

8

14

16

18

6 Tốc độ tăng NSLĐ (%)

Nguồn: tính toán từ [13]

Ngành nông – lâm – ngư nghiệp có tốc độ tăng NSLĐ cao nhất và tốc độ giảm

lao động nhanh nhất (tốc độ tăng NSLĐ bình quân là 17,1%/năm và tốc độ giảm lao

động bình quân đạt 3,63%/năm). Nguyên nhân là do thành phố tập trung đầu tư xây

dựng CSHT hỗ trợ phát triển nông nghiệp theo hướng CNH - HĐH nông nghiệp và

xây dựng nông thôn mới. Thành phố có nhiều chương trình mục tiêu trọng điểm

phát triển nông nghiệp như Chương trình giống cây, giống con chất lượng cao;

chương trình mục tiêu phát triển đàn bò sữa; chương trình phát triển rau an toàn;

chương trình hoa - cây kiểng - cá cảnh… Vì vậy, ngành nông nghiệp TP. HCM tuy

chỉ chiếm khoảng 1% GDP nhưng chuyển dịch tích cực theo hướng nông nghiệp đô

thị, nông nghiệp công nghệ cao, trở thành trung tâm sản xuất giống cây, con và các

sản phẩm có chất lượng, hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng yêu cầu thị trường trong

nước và xuất khẩu. Kết quả là sức lao động nông nghiệp được giải phóng, lao động

nông nghiệp chuyển dịch sang các ngành kinh tế khác như công nghiệp và dịch vụ

làm cho năng suất lao động nông nghiệp tăng lên.

102

Ngành công nghiệp – xây dựng có tốc độ tăng lao động nhanh nhất nhưng tốc

độ tăng NSLĐ thấp nhất (tốc độ tăng lao động bình quân đạt 5,02%/năm và tốc độ

tăng NSLĐ bình quân là 12,5%/năm). Năm 1999 NSLĐ gấp 1,06 lần NSLĐ chung

toàn thành phố, đến năm 2013 chỉ còn 0,92 lần. Điều đó chứng tỏ, lao động ngành

công nghiệp của TP. HCM vẫn làm việc trong các ngành thâm dụng lao động, có

NSLĐ thấp, giá trị gia tăng không cao. Đối với ngành dịch vụ, tốc độ tăng NSLĐ

đứng thứ hai, đạt 13,9%. Năm 1999 NSLĐ gấp 1,04 lần NSLĐ chung toàn Thành,

năm 2013 tăng lên 1,08 lần, tuy có tăng nhưng còn chậm.

Ngoài chuyển dịch CCKT, việc gia tăng NSLĐ của nội bộ các ngành cũng

đóng vai trò quan trọng đối với chuyển dịch CCLĐ. Ngành N – L – NN có NSLĐ

thấp nhất, lao động có xu hướng di chuyển sang các ngành khác (lao động có xu

hướng giảm); ngành dịch vụ và công nghiệp có NSLĐ cao hơn nhưng tốc độ tăng

NSLĐ chậm, hiệu quả chuyển dịch chưa cao. So sánh NSLĐ của TP. HCM với

NSLĐ cả nước thì TP. HCM gấp 2,8 lần (189,9 triệu đồng/người so với 68,7 triệu

đồng/người), gấp 1,6 lần so với Hà Nội (118,7 triệu đồng/người). Tuy nhiên, so

sánh với các nước trong khu vực thì NSLĐ của Việt Nam nói chung và TP. HCM

nói riêng khá thấp. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), năm 2013, NSLĐ của

Việt Nam được xếp vào nhóm thấp nhất của khu vực châu Á – Thái Bình Dương,

thấp hơn Singapore 15 lần, Nhật Bản 11 lần, Hàn Quốc 10 lần, Malaysia 5 lần,

Thái Lan 2,5 lần. Việt Nam là 1 trong 3 nước có năng suất lao động thấp nhất

ASEAN, chỉ cao hơn Myanmar và Campuchia [87].

Đánh giá về nguyên nhân dẫn tới NSLĐ của TP. HCM đạt thấp, là do CCKT

và CCLĐ tuy có chuyển dịch tích cực nhưng vẫn còn chậm, các ngành kinh tế

chiếm tỉ trọng cao trong GDP vẫn là các ngành thâm dụng lao động. Thứ hai là do

chất lượng nguồn lao động thấp, cơ cấu đào tạo thiếu hợp lý, hiệu quả sử dụng lao

động qua đào tạo chưa cao. Thứ ba, máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ còn

lạc hậu. Thứ tư, do trình độ tổ chức quản lý còn yếu cùng với hiệu quả sử dụng các

nguồn lực thấp. Ngoài ra, tăng trưởng NSLĐ của TP. HCM trong các ngành sản

xuất và dịch vụ, là hai khu vực quyết định sự phát triển kinh tế của thành phố vẫn

còn ở mức thấp. Để cải thiện NSLĐ thành phố cần thực hiện việc nâng cao chất

103

lượng nguồn nhân lực, áp dụng tiến bộ KHKT, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu

vào hiện có, đầu tư phát triển các ngành công nghệ cao…

2.3.1.4. Đánh giá chuyển dịch cơ cấu lao động theo thương số vị trí

Quá trình đô thị hóa có ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp

sang các hoạt động kinh tế đô thị. Các hoạt động phi nông nghiệp thường tập trung

nhiều ở các thành phố lớn và sự chuyên môn hóa sẽ giảm dần khi chuyển sang các

thành phố nhỏ. Các đô thị đặc biệt, cũng là các thành phố lớn nhất, có mức độ

chuyên môn hóa cao hơn về các hoạt động sản xuất công nghiệp, tiếp theo là các

ngành thương mại, dịch vụ. Các khu vực có tỉ lệ đô thị hóa thấp thì mức độ chuyên

môn hóa này sẽ thấp hơn.

Sử dụng thương số vị trí phân theo ngành kinh tế để so sánh mức độ tập trung

lao động làm việc trong ngành kinh tế của TP. HCM so với cả nước. Chỉ số thương

số vị trí càng cao (lớn hơn 1) nghĩa là mức độ tập trung, hoặc chuyên môn hóa của

ngành đó cao hơn so với mức trung bình trong toàn quốc.

Biểu đồ 2.6. Chuyên môn hóa lao động phân theo ngành kinh tế của TP. HCM,

0,65

0,89

1,03

1,03

1,48

1,69

0,35

DV

0,8

1,41

1,61

CN - XD

1,33

1,53

N - L - NN

2,07

1,06

0,89

0,7

0,52

0,04 TP. HCM

Hà Nội

ĐNB

ĐBSH

ĐBSCL

Tây Nguyên

Hà Nội và một số vùng kinh tế nước ta, năm 2013

Nguồn: tính toán từ [74]

Qua biểu đồ 2.6 có thể thấy lao động trong các hoạt động phi nông nghiệp tập

trung nhiều ở các thành phố lớn và sự chuyên môn hóa sẽ giảm dần khi chuyển sang

các vùng có tỉ lệ đô thị hóa thấp hơn. Hai đô thị đặc biệt, Hà Nội và TP. HCM có

mức độ chuyên môn hóa lao động tập trung chủ yếu trong hai ngành công nghiệp –

xây dựng và dịch vụ. Ở TP. HCM, lao động ngành công nghiệp có mức độ tập trung

104

lao động gấp 2,07 lần của cả nước, ngành dịch vụ gấp 1,69 lần, ngược lại ngành

nông nghiệp mức độ tập trung lao động chỉ bằng khoảng 0,04 lần cả nước. Sự tập

trung lao động này phù hợp với mô hình tập trung hoạt động sản xuất công nghiệp

tại các đô thị trong giai đoạn đầu của quá trình đô thị hóa

Từ các phân tích ở mục 2.3.1 tác giả nhận thấy, CDCCLĐ của TP. HCM phản

ánh một cách khách quan xu thế chuyển dịch CCLĐ xã hội trong quá trình đô thị

hóa theo hướng: (1) chuyển dịch từ LĐ nông nghiệp sang LĐ công nghiệp, từ LĐ

công nghiệp sang LĐ dịch vụ; (2) chuyển từ LĐ giản đơn với các ngành thâm dụng

LĐ sang LĐ tri thức, LĐ có CMKT gắn với các ngành công nghệ cao, giá trị gia

tăng cao; (3) Chuyên môn hóa lao động tập trung chủ yếu vào các ngành kinh tế

phi nông nghiệp là chủ yếu. Hiện nay, thành phố đang hướng đến phát triển nền

kinh tế gắn với khoa học kĩ thuật và công nghệ như các nước phát triển khác với cơ

cấu kinh tế và lao động đang chuyển dịch từ công nghiệp sang dịch vụ, ưu tiên phát

triển các ngành dịch vụ hiện đại, công nghiệp công nghệ cao và nông nghiệp sinh

thái. Tuy nhiên, xu hướng này cũng mới chỉ ở giai đoạn đầu khi mà tỉ trọng lao

động trong các ngành dịch vụ cao cấp và công nghiệp mũi nhọn chiếm tỉ trọng nhỏ;

các ngành dịch vụ cấp thấp, công nghiệp sử dụng nhiều lao động vẫn chiếm tỉ trọng

cao và xu hướng chuyển dịch lao động từ công nghiệp sang dịch vụ chỉ thể hiện rõ

ở khu vực nội đô 12 quận nội thành cũ (sẽ được phân tích kĩ ở mục 2.3.3.2).

2.3.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế ở TP. HCM

2.3.2.1. Sự thay đổi về quy mô, tỉ trọng và tốc độ chuyển dịch CCLĐ phân

theo thành phần kinh tế

TP. HCM đi đầu trong phát triển nền kinh tế thị trường, thu hút các thành phần

kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh. Sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài (1987)

và Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990) đã tạo ra bước đột phá trong phát triển kinh tế

của TP. HCM. Để tạo điều kiện thuận lợi thực hiện chủ trương đổi mới, mở cửa

theo hướng CNH – HĐH, thành phố đã thành lập hàng loạt các KCN – KCX, ban

hành nhiều chính sách ưu đãi đối với nhà đầu tư, hoàn thiện CSHT… Quá trình

CNH được đẩy mạnh, số lượng các doanh nghiệp, xí nghiệp trong và ngoài nước

đến đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh ngày càng tăng nhanh.

105

Bảng 2.14: Số doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh và bình quân

vốn/doanh nghiệp phân theo thành phần kinh tế TP HCM giai đoạn 1999 - 2013

Số doanh nghiệp

Bình quân vốn/DN

Tốc độ

Tốc độ

(tỉ đồng)

Số lượng (DN)

Tỉ trọng (%)

tăng

tăng

%

%

1999

2013

1999 2013

1999

2013

Tổng số

8.616 121.107 100

100

22,5

22,8

39,7

4,7

KV Nhà nước

690

458 8,0

0,4

113,2 1.132,5

-3,4

21,1

KV ngoài Nhà

7.385 117.487 85,7

97,0

6,1

27,5

25,9

13,7

nước

KV có vốn đầu

541

3.162 6,3

2,6

136,6

328,9

15,8

7,6

tư NN

Nguồn: tính toán từ [13]

Bảng 2.14 cho thấy, giai đoạn 1999 – 2013 số doanh nghiệp thuộc khu vực

ngoài Nhà nước tăng nhanh nhất, với tốc độ tăng bình quân đạt 25,9 %/năm (tăng

gấp 15,9 lần); khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 5,8 lần với tốc độ tăng bình

quân là 15,8 %/năm. Số doanh nghiệp tăng lên nhanh trong khu vực kinh tế ngoài

Nhà nước, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo nhiều việc làm, thu hút lực

lượng lao động đông đảo tập trung trong các khu vực kinh tế này, không chỉ là lao

động của Thành phố mà còn cả những lao động của các tỉnh thành khác.

Ngoài ra, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh, không gian lãnh thổ đô thị được

mở rộng ra các huyện ngoại thành, quỹ đất cho sản xuất công nghiệp và dịch vụ

tăng lên do lấy từ đất nông nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng và mở rộng

nhà máy, xí nghiệp, các KCN, trung tâm thương mại… thu hút các dự án đầu tư của

tư nhân và nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, thời gian qua, lực lượng lao

động trong khu vực ngoài Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng

nhanh. Trong quá trình chuyển dịch CCKT, xu hướng chung là tỉ trọng khu vực

Nhà nước giảm, trong khi khu vực ngoài Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước

ngoài tăng lên. Cùng với thay đổi này là sự chuyển dịch lao động từ khu vực Nhà

nước sang thành phần kinh tế ngoài Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

106

Bảng 2.15: Lao động và cơ cấu lao động phân theo thành phần kinh tế

của TP. HCM giai đoạn 1999 – 2013

Tốc độ TBQ

Đơn vị

Năm

1999

2005

2009

2013

2000 - 2013 (%)

4,59

Tổng số

Ngƣời 2.145.964 2.676.420 3.676.206 4.024.000

0,74

Khu vực Nhà

Người

537.151

530.466

584.517

595.552

nước

25,03

19,82

15,9

14,8

%

Khu vực ngoài

Người 1.550.119 1.966.633 2.793.916 3.094.456

5,06

Nhà nước

72,23

73,48

76,0

76,9

%

Khu vực vốn đầu

Người

58.694

179.320

297.773

333.992

13,22

tư nước ngoài

2,74

6,70

8,1

8,3

%

Nguồn: xử lí từ [14], [50], [74]

Lao động khu vực ngoài Nhà nước tăng nhanh về số lượng cũng như tỉ trọng,

chiếm tỉ lệ cao nhất trong cơ cấu lao động của TP. HCM. Năm 1999, lao động khu

vực ngoài Nhà nước có 1.550.119 người, đến năm 2013 tăng lên 3.094.456 người;

về tỉ trọng lao động tăng từ 72,23% lên 76,9%; tốc độ tăng bình quân năm là 5,06

%/năm trong giai đoạn 2000 – 2013.

Lao động khu vực ngoài Nhà nước tăng nhanh do các cơ sở sản xuất tăng

nhanh về số lượng và quy mô sản xuất. Năm 1999 có 7.385 doanh nghiệp thuộc khu

vực ngoài nhà nước, chiếm 85,7% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất

kinh doanh của thành phố, đến năm 2013 tăng lên 117.487 doanh nghiệp, chiếm

97,0% tổng số doanh nghiệp. Quy mô vốn/doanh nghiệp cũng tăng nhanh từ 6,1 tỉ

đồng/doanh nghiệp lên 27,5 tỉ đồng/doanh nghiệp giai đoạn 1999 - 2013.

Lao động KV ngoài Nhà nước sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới, do chính

sách khuyến khích đầu tư; do các thủ tục hành chính về thành lập doanh nghiệp

ngày càng thuận tiện và đơn giản hơn trước; do quá trình cổ phần hóa, giao bán

khoán hoặc cho thuê doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh hơn. Đồng thời, ở các

cơ sở sản xuất tư nhân, cơ chế tuyển dụng LĐ linh hoạt, nhanh chóng, ít phụ thuộc

vào thủ tục hành chính rườm rà như KV Nhà nước, vì vậy LĐ dễ dàng tìm kiếm

việc làm. Đây là nhân tố tạo sức hút mạnh mẽ đối với LĐ nhập cư vào thành phố.

107

Lao động khu vực Nhà nước tăng chậm từ 537.151 lao động năm 1999 lên

595.552 lao động năm 2013, tốc độ tăng đạt 0,74%/năm. Về tỉ trọng giảm từ

25,03% xuống còn 14,8% trong giai đoạn 1999 – 2013. Điều này phù hợp với xu

thế phát triển nền kinh tế thị trường có điều tiết của nhà nước, chủ trương sắp xếp

lại các doanh nghiệp nhằm đa dạng hóa hình thức sở hữu.

Cơ cấu lao động đang có xu hướng chuyển dần từ khu vực Nhà nước sang khu

vực ngoài Nhà nước, đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Trong giai đoạn

1999 – 2013, lao động khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh nhất từ 58.694

lao động lên 333.992 lao động, tốc độ tăng bình quân đạt 13,22%/năm. Tỉ trọng lao

động tăng từ 2,74% lên 8,3% (tăng 5,56%). Do có nhiều KCN – KCX được hình

thành trên địa bàn thành phố cùng với sự ra đời của Luật doanh nghiệp, Luật đầu

tư… nên đã thu hút các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động, góp phần giải quyết việc

làm cho lao động TP. HCM. Năm 2013, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chỉ

chiếm 2,6% tổng số doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng đóng góp

tới 23,8% vào tổng GDP của thành phố và giải quyết việc làm cho 333.992 lao động

(chiếm 8,3% lao động), tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống và nâng cao

trình độ tay nghề cho người lao động.

2.3.2.2. Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ

cấu lao động

Bảng 2.16: Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động

TP. HCM giai đoạn 1999 – 2013 (%)

Tăng/giảm tỉ trọng cơ cấu

Tăng/giảm bình quân giai

giai đoạn 1999 – 2013 (%)

đoạn 1999 – 2013 (%)

Lao động

Lao động

GDP

GDP

Khu vực Nhà nước

-27,7

-10,03

-1,98

-0,72

KV ngoài Nhà nước

22,1

4,67

1,58

0,33

KV có vốn đầu tư NN

5,6

5,56

0,4

0,39

Nguồn: Tính toán từ bảng 2.15 và biểu đồ 2.1

Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động khu vực Nhà nước chuyển dịch cùng chiều,

có xu hướng giảm, CCKT giảm 27,7% trong khi CCLĐ giảm 10,03%. Lao động

108

khu vực nhà nước tập trung chủ yếu trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo

(26,9%), sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước, xử lí nước thải, rác thải

(17,9%), xây dựng (6,7%), thương mại (16,6%), vận tải kho bãi 14,3%... (2013).

Đặc biệt trong ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước; quản lí và xử lí

nước thải, rác thải thuộc nhà nước quản lí nên lao động khu vực Nhà nước chiếm tới

86,5% tổng số lao động của ngành này.

Khu vực ngoài Nhà nước chuyển dịch CCLĐ còn chậm hơn so với chuyển

dịch CCKT được thể hiện thông qua sự thay đổi về tỉ trọng GDP và lao động. Giai

đoạn 1999 – 2013, tỉ trọng GDP tăng 22,1% (từ 36,9% lên 59,0%), trong khi đó cơ

cấu lao động tăng tỉ trọng là 4,7% (từ 72,2% tăng lên 76,9%). Lao động tập trung

trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (30,5%), thương mại (24,3%), xây dựng

(14,2%), hoạt động tài chính, ngân hàng, bảo hiểm (3,1%), hoạt động chuyên môn,

KHCN (5,5%), hoạt động tài chính và dịch vụ (5,6%)... (2013).

Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã tác động đến quá trình CDCCKT và

CDCCLĐ của thành phố. Đối với ngành công nghiệp, đầu tư trực tiếp nước ngoài

thúc đẩy quá trình hiện đại hóa công nghệ hiện có và thay đổi cơ cấu nội bộ ngành

công nghiệp. Đối với ngành dịch vụ, thúc đẩy phát triển nhanh, đặc biệt là trong các

lĩnh vực khách sạn, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và kinh doanh bất động sản…

Lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tập trung chủ

yếu vào các lĩnh vực công nghiệp chế biến (74,5%), dịch vụ (21,2%), trong đó

thương mại (4,2%), tài chính, ngân hàng, bảo hiểm (4,8%), hoạt động chuyên môn

khoa học công nghệ (3,0%), thông tin truyền thông (3,3%), … (2013).

2.3.2.3. Chuyển dịch CCLĐ gắn với sự thay đổi năng suất lao động

Bảng 2.17 cho thấy, năng suất lao động khu vực ngoài Nhà nước mặc dù có

tốc độ tăng trưởng trung bình năm cao nhất, đạt 16,8%/năm trong giai đoạn 2000 –

2013 nhưng giá trị tuyệt đối vẫn thấp nhất so với khu vực nhà nước và khu vực có

vốn đầu tư nước ngoài. Do các xí nghiệp tập trung phát triển trong các ngành nghề

có chuyên môn kĩ thuật không cao, thâm dụng lao động, năng suất lao động thấp,

chủ yếu thu hút số lượng lớn lao động nhập cư với giá lao động thấp như các ngành

dệt may, da giày, chế biến thực phẩm.... Ngoài ra, do phần lớn các xí nghiệp, doanh

109

nghiệp thuộc khu vực ngoài Nhà nước có quy mô sản xuất vừa và nhỏ với quy mô

vốn/doanh nghiệp là nhỏ nhất (27,5 tỉ đồng/doanh nghiệp), ít hơn 41,2 lần so với

khu vực Nhà nước (1.132,5 tỉ đồng/doanh nghiệp) và 12 lần so với khu vực có vốn

đầu tư nước ngoài (328,9 tỉ đồng/doanh nghiệp) nên gây hạn chế trong việc đầu tư

đổi mới trang thiết bị, kĩ thuật, đây là yếu tố gây bất lợi trong việc nâng cao chất

lượng và trình độ chuyên môn tay nghề cho người lao động cũng như ảnh hưởng

đến định hướng chuyển dịch CCLĐ sang chiều sâu trong thời gian tới.

Bảng 2.17: Năng suất lao động theo thành phần kinh tế của TP. HCM

giai đoạn 1999 – 2013 (giá thực tế)

Năng suất lao động

Tốc độ tăng

(nghìn đồng/ngƣời)

BQ %

1999

2005

2009

2013

2000 - 2013

Toàn thành

32.038

61.760

104.308

189.950

13,4

Khu vực nhà nước

59.270

109.072

145.472

233.338

10,3

Khu vực ngoài nhà nước

16.544

36.313

62.194

145.660

16,8

Khu vực có vốn ĐTNN

216.819

200.887

262.769

521.749

6,5

Nguồn: xử lí từ bảng 2.15 và [13]

Khu vực vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng lao động nhanh nhất (13,22%)

nhưng tốc độ tăng NSLĐ đạt thấp nhất (6,5%) chứng tỏ khu vực FDI vẫn đang phát

triển theo chiều rộng, lao động tăng nhanh nhưng hiệu quả kinh tế không cao.

Qua phân tích có thể kết luận rằng, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước của TP.

HCM phần lớn tập trung trong các ngành thâm dụng lao động (chiếm 76,9% tổng số

lao động), quy mô vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhỏ (trung bình 27,5 tỉ

đồng/doanh nghiệp), hiệu quả sản xuất không cao (năng suất lao động đạt 116.024

triệu đồng/người). Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng thu hút nhiều lao

động (có tốc độ tăng lao động nhanh nhất 13,22%), NSLĐ cao nhất nhưng tốc độ

tăng NSLĐ thấp nhất chứng tỏ khả năng chuyển dịch sang các ngành thâm dụng

vốn, NSLĐ cao vẫn chưa đạt hiệu quả.

110

2.3.3. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo lãnh thổ ở TP. HCM

2.3.3.1. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo thành thị - nông thôn

Cơ cấu lao động giữa thành thị và nông thôn ít có sự biến động qua các năm.

Nhìn chung, tỉ trọng lao động khu vực thành thị luôn cao hơn 5 lần so với khu vực

nông thôn (83,4% so với 16,6% - 2013).

 Chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành kinh tế

Lao động tập trung ở khu vực thành thị gắn với các hoạt động kinh tế thuộc

lĩnh vực dịch vụ và công nghiệp là chủ yếu. Cơ cấu lao động khu vực N – L – NN ở

mức rất thấp, giảm từ 2,2% năm 1999 xuống còn 0,8% năm 2013, tỉ trọng lao động

khu vực CN – XD cũng giảm từ 42,3% xuống còn 31,1% giai đoạn 1999 – 2013.

Cơ cấu lao động ngành dịch vụ chuyển dịch nhanh chóng và chiếm tỉ trọng cao

nhất, tăng từ 55,5% năm 1999 lên 68,1% năm 2013. Lao động khu vực dịch vụ tập

trung chủ yếu trong các ngành thương mại (24,1%), dịch vụ lưu trú và ăn uống

(10,1%), vận tải kho bãi (7,7%), giáo dục - đào tạo (5%).

Trong hoạt động kinh tế của vùng nông thôn, sự chuyển dịch diễn ra mạnh mẽ

cùng với tiến trình đô thị hóa. Vai trò của sản xuất nông nghiệp giảm đi và hoạt

động kinh tế ngày càng chuyển sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Và vì thế cơ

cấu lao động khu vực nông thôn ngoại thành cũng có sự chuyển dịch. Lao động

trong ngành N – L – NN giảm tỉ trọng từ 29,1% năm 1999 xuống còn 11,4% năm

2013. Ngành CN – XD và ngành DV có tỉ trọng tăng, tương ứng từ 37,3% lên

42,0% và 33,6% lên 46,6% trong giai đoạn 1999 – 2013.

Biểu đồ 2.7: Cơ cấu lao động chia theo ngành kinh tế phân theo thành thị

và nông thôn của TP. HCM giai đoạn 1999 – 2013 (%)

Thành thị

Nông thôn

100%

100%

33,6

46,6

80%

80%

55,5

68,1

60%

60%

37,3

DV CN - XD N - L - NN

40%

40%

42,0

42,3

20%

20%

29,1

2,2

11,4

31,1 0,8

0%

0%

1999

2013

1999

2013

Nguồn: tính toán từ [14], [74]

111

Do quá trình ĐTH đang diễn ra mạnh mẽ, diện tích đất nông nghiệp mỗi năm

một thu hẹp, chuyển đổi sang đất chuyên dùng và thổ cư, chuyển lao động nông

nghiệp sang các hoạt động phi nông nghiệp. Nhiều tuyến đường giao thông nối từ

trung tâm thành phố đến khu vực vùng ven, ngoại thành làm cho giao thông nội,

ngoại thành được thuận lợi, dễ dàng kết nối với khu vực nông thôn, tạo thuận lợi

cho hoạt động thương mại và vận tải phát triển. Ngoài ra đời sống người dân khu

vực nông thôn ngày càng tăng lên nên cơ cấu ngành nghề cũng đa dạng hơn, nhiều

ngành dịch vụ được mở rộng và phát triển để đáp ứng cho nhu cầu. Tỉ trọng lao

động trong các ngành khách sạn và nhà hàng tăng từ 3,55% lên 7,9%, ngành thương

nghiệp tăng từ 12,6% lên 17,7%, hoạt động kinh doanh bất động sản tăng từ 0,28%

lên 1,2%, hoạt động văn hóa, thể thao từ 0,23% lên 1,1% …giai đoạn 1999 – 2013.

 Chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các thành phần kinh tế

Biểu đồ 2.8 cho thấy cơ cấu lao động phân theo thành phần kinh tế của khu

vực thành thị và nông thôn giai đoạn 1999 - 2013 đều có xu hướng giảm tỉ trọng lao

động ở khu vực Nhà nước và tăng tỉ trọng lao động khu vực ngoài Nhà nước và khu

vực có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó khu vực ngoài Nhà nước chiếm tỉ trọng lao

động lớn nhất. Lao động trong khu vực Nhà nước, thành thị giảm 11%, nông thôn

giảm 6,2%; khu vực ngoài Nhà nước, thành thị tăng 5,4%, nông thôn tăng 0,5%;

khu vực đầu tư nước ngoài, lao động thành thị tăng 5,6%, nông thôn tăng 5,7%.

Biểu đồ 2.8: Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế phân theo thành thị và

nông thôn của TP. HCM giai đoạn 1999 – 2013 (%)

Thành thị

Nông thôn

2,3

4,8

100%

7,9

100%

10,5

80%

80%

KV đầu tư NN

70,9

60%

79,1

60%

76,3

79,6

KV ngoài nhà nước

40%

40%

KV nhà nước

20%

20%

26,8

16,1

15,8

9,9

0%

0%

1999

2013

1999

2013

Nguồn: tính toán từ [14], [74]

112

Khu vực thành thị tập trung hầu hết các trung tâm hành chính sự nghiệp, cơ

quan, doanh nghiệp nhà nước nên tỉ trọng lao động khu vực nhà nước cao hơn so

với khu vực nông thôn (15,8% so với 9,9%). Ngược lại, các doanh nghiệp, xí

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường chọn khu vực nông thôn để đặt cơ sở sản

xuất do quỹ đất đai còn nhiều, thuận tiện trong việc xây dựng cơ sở sản xuất quy mô

lớn, được hưởng các chính sách ưu đãi về cơ sở hạ tầng, đất đai, môi trường và tận

dụng được nguồn lao động dồi dào, giá rẻ ở khu vực nông thôn cho các ngành cần

nhiều lao động. Tuy nhiên hiện nay, khu vực này đang nảy sinh các hệ lụy về vấn

đề ô nhiễm môi trường do chất thải từ các cơ sở sản xuất thải ra chưa qua xử lí.

2.3.3.2. Chuyển dịch lao động theo khu vực nội thành – ngoại thành

 Sự thay đổi về quy mô, tỉ trọng và tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động

Trong thời gian qua, quá trình mở rộng không gian đô thị của TP. HCM có

nhiều thay đổi, không gian đô thị được mở rộng ra khu vực vùng ven với việc lập

thêm nhiều quận mới và sát nhập một số diện tích ngoại thành vào nội thành, đồng

thời thành phố vẫn đang tiếp nhận những làn sóng di dân từ các tỉnh, thành đổ về

ngày một nhiều. Vì vậy, để làm rõ hơn những tác động của quá trình đô thị hóa đến

sự chuyển dịch CCLĐ theo không gian lãnh thổ đô thị, luận án tập trung nghiên cứu

theo ba khu vực là nội đô (12 quận nội thành cũ), vùng ven (7 quận mới) và ngoại

thành (5 huyện).

Bảng 2.18: Chuyển dịch cơ cấu lao động theo khu vực nội đô, vùng ven và

ngoại thành của TP. HCM giai đoạn 1999 – 2009

Tốc độ

Lao động

Lao động

Tỉ lệ

Tỉ lệ

Chênh lệch

tăng

năm 1999

năm 2009

(%)

(%)

1999-2009

%

(ngƣời)

(ngƣời)

Nội đô

1.433.519

-23,1

66,8

1.606.553 43,7

1,15

Vùng ven

323.584

+22,4

15,1

1.377.701 37,5

15,59

Ngoại thành

388.861

+0,7

18,1

691.952 18,8

5,93

Thành phố

2.145.964

100

3.676.206

100

5,53

Nguồn: tính toán theo [14]

113

Bảng 2.18 cho thấy, lao động có xu hướng tăng nhanh ở các quận vùng ven và

các huyện ngoại thành. Giai đoạn 2000 – 2009, khu vực nội đô có tốc độ tăng lực

lượng lao động là chậm nhất 1,15 %/năm, khu vực vùng ven có tốc độ tăng lao

động nhanh nhất 15,59 %/năm, khu vực ngoại thành tốc độ tăng đứng thứ hai (5,93

%/năm), cao hơn so với tốc độ tăng trung bình của toàn Thành phố. Xét cơ cấu tỉ

trọng lao động theo khu vực nội và ngoại thành TP. HCM giai đoạn 1999 - 2009 có

thể thấy tỉ trọng lao động giảm rõ rệt ở khu vực nội đô (-23,1%), tăng mạnh ở khu

vực vùng ven (+22,4%) và tăng nhẹ ở khu vực ngoại thành (+0,7%). So sánh với

bảng 2.6 ta thấy có mối quan hệ giữa tăng giảm LĐ ở ba khu vực phát triển của TP.

HCM phù hợp với việc tăng giảm dân số của ba khu vực này trong thời gian qua.

Khu vực nội đô có quá trình đô thị hóa diễn ra sớm nhất, hiện đang dần phát

triển theo chiều sâu, tăng cường đầu tư hiện đại hóa hệ thống CSHT, tập trung vào

các ngành dịch vụ, hạn chế phát triển công nghiệp trong khu vực nội đô. Chính

quyền thành phố có nhiều chủ trương, đề án thực hiện việc giãn dân từ khu nội

thành ra khu vực ngoại thành, di dời các cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm ra khu vực

ngoại thành, hạn chế nhập cư vào khu vực nội thành… Những biện pháp trên đã

làm giảm tỉ trọng lao động ở khu vực nội đô so với lao động toàn thành phố.

Ngược lại, lao động ở các quận vùng ven tăng nhanh trong thời gian gần đây

do nhiều nguyên nhân. Do các khu vực này đang diễn ra quá trình đô thị hóa mạnh,

hầu hết các cơ sở xí nghiệp công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp di dời từ khu vực nội

thành ra khu vực này, ngoài ra các KCN – KCX của thành phố cũng đều tập trung ở

khu vực vùng ven và huyện ngoại thành nên nhu cầu về lao động là rất lớn. Theo

Ban Quản lí KCN - KCX TP. HCM, tổng số lao động ở các KCN – KCX năm 2013

là khoảng 270.919 lao động, tăng gấp 5 lần so với năm 1999 (53.015 người), trong

đó lao động nữ chiếm 59,14%, đa số là lao động nhập cư từ các tỉnh thành khác đến

tập trung trong các ngành công nghiệp nhẹ (may mặc, giày da, chế biến lương thực

– thực phẩm…).

Quá trình ĐTH làm khu vực vùng ven được mở rộng, hình thành các đầu mối

GTVT quan trọng như đường cao tốc, bến xe, hệ thống các cảng…là những địa

điểm thu hút dân nhập cư tập trung với các ngành nghề lao động giản đơn như buôn

114

bán, bốc xếp, xe ôm… Ngoài ra, đa số các dự án tái định cư, các khu dân cư mới có

quy mô tương đối lớn và đồng bộ được triển khai thực hiện tại khu vực các quận

mới, quận ven. Giá nhà đất của các huyện ngoại thành cũng tương đối rẻ hơn so với

các quận nội thành, vì vậy lao động nhập cư với mức sống thấp thường chọn các

huyện ngoại thành để sinh sống.

Người nhập cư tập trung quá đông vào khu vực vùng ven và huyện ngoại

thành làm lực lượng lao động tăng lên rất nhanh, quy mô lao động ngày càng lớn đã

gây ra nhiều khó khăn trong việc giải quyết vấn đề việc làm. Phần lớn người nhập

cư di cư từ nông thôn lên thành thị là lao động phổ thông, không có trình độ CMKT

vì vậy khó đáp ứng được yêu cầu trong quá trình CNH và chuyển dịch cơ cấu kinh

tế theo chiều sâu. Nhiều nơi quá trình đô thị hoá diễn ra khá nhanh, chủ yếu là đô

thị hoá tự phát nên hệ thống cơ sở hạ tầng còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu

của dân cư, gây sức ép lên nhiều vấn đề vốn đã nan giải của TP HCM như: ô nhiễm

môi trường, tắc nghẽn giao thông, thiếu điện nước, nhà ở, tệ nạn xã hội,... đòi hỏi

thành phố phải có những giải pháp trong việc đầu tư phát triển đô thị, xây dựng

CSHT vật chất kĩ thuật và quản lí đô thị tại địa bàn này trong quá trình phát triển.

Về sự chuyển dịch lao động giữa các quận, huyện. Các quận có tỉ trọng lao

động giảm xuống trong cơ cấu lao động toàn Thành phố là Quận 1 (giảm 2,2%),

Quận 3 (1,9%), Quận 4 (1,5%), Quận 5 (1,8%), Quận 6 (1,7%), Quận 8 (1,2%),

Quận 10 (1,7%), Quận 11 (1,8%), Phú Nhuận (1,4%) và Bình Thạnh (2,2%). Đây là

các quận nội thành cũ, quá trình đô thị hóa đang đi vào chiều sâu, hoạt động kinh tế

chủ yếu diễn ra trong ngành dịch vụ.

Các quận có tỉ trọng lao động tăng nhanh là Quận 12 (2,4%), Quận 9 (0,5%),

Thủ Đức (2,6%), Quận 7 (1,6%)… đây là những quận đang có quá trình đô thị hóa

diễn ra mạnh mẽ, với sự xuất hiện một loạt các KCN cùng các cơ sở xí nghiệp công

nghiệp được di dời từ nội thành ra, tập trung các ngành công nghiệp nhẹ thu hút lực

lượng lao động tập trung đông tại đây.

Cơ cấu lao động của 5 huyện ngoại thành đều tăng, trong đó tỉ trọng lao động

huyện Hóc Môn chuyển dịch nhanh nhất (tăng 0,5%), Nhà Bè (0,2%), Củ Chi

(0,2%)…

115

Bảng 2.19: Sự thay đổi tỉ trọng lao động theo 4 hướng phát triển không gian đô thị

của TP. HCM giai đoạn 1999 - 2009

Thay

Tốc độ tăng

1999

Tỉ trọng

2009

Tỉ trọng

Hƣớng phát triển

đổi tỉ

2000-2009

(ngƣời)

%

(ngƣời)

%

trọng %

%

Nội đô

1.433.519

1.606.553

-23,1

66,8

43,7

1,15

Hướng Bắc – Tây Bắc

273.711

584.354

+3,1

7,88

12,8

15,9

Hướng Đông – Đông Bắc

200.551

455.535

+3,1

8,55

9,3

12,4

Hướng Tây – Tây Nam

146.223

818.077

6,8

+15,4

22,2

18,79

Hướng Nam – Đông Nam

91.960

211.687

+1,5

8,69

4,3

5,8

Tổng cộng

2.145.964

100

3.676.206

100

5,53

Nguồn: tính toán từ [14]

Xét theo bốn hướng phát triển không gian đô thị, lao động cũng có sự chuyển

dịch tương ứng với sự chuyển dịch dân số. Lao động TP. HCM phát triển theo hình

thức lan tỏa với 12 quận nội thành cũ (nội đô) thuộc phần “lõi” đô thị và mở rộng

theo bốn hướng. Trong đó, hướng tây – tây nam có tốc độ tăng lao động cao nhất

đạt 18,79 %/năm, tiếp đến là hướng nam – đông nam là 8,69 %/năm, hướng đông –

đông bắc 8,55 %/năm và hướng bắc – tây bắc đạt tốc độ tăng thấp nhất trong bốn

hướng 7,88 %/năm trong giai đoạn 2000 – 2009 (bảng 2.19).

Chuyển dịch CCLĐ có sự thay đổi như sau: khu vực nội đô có tỉ trọng lao

động giảm 23,1% trong CCLĐ của thành phố. Hướng tây – tây nam có CCLĐ

chuyển dịch nhanh nhất với tỉ trọng lao động tăng từ 6,8% năm 1999 lên 22,2%

năm 2009 (tăng 15,4%), hướng bắc – tây bắc có tỉ trọng tăng 3,1%. Trong khi đó,

hai hướng phát triển chính theo định hướng quy hoạch của thành phố là nam – đông

nam và đông – đông bắc lại chuyển dịch chậm, hướng đông – đông bắc tỉ trọng lao

động tăng 3,1%, hướng nam – đông nam tăng 1,5%.

Với sự chuyển dịch cơ cấu lao động như trên có thể thấy rằng, phân bố lao

động TP. HCM thời gian qua chịu tác động của nhu cầu thị trường hơn là tác động

của định hướng phát triển mà thành phố đề ra. Việc hai hướng phụ (với các Quận

12, Củ Chi, Hóc Môn, Bình Tân, Bình Chánh, Tân Phú) có cơ cấu lao động chuyển

dịch nhanh hơn hai hướng chính do diện tích đất nông nghiệp của hai hướng này

116

tương đối lớn, có thể chuyển đổi sang đất phi nông nghiệp phục vụ cho các ngành

công nghiệp và dịch vụ; giá đất đai và nhà ở của hai hướng này cũng tương đối phù

hợp với thu nhập của người lao động nhập cư; nền đất không quá thấp; thuận lợi về

giao thông; một số KCN và khu dân cư được hình thành và xây dựng trong thời

gian qua tại khu vực này cũng góp phần thu hút lao động…

Tuy nhiên, nếu sự phát triển không theo đúng định hướng quy hoạch không

gian của thành phố sẽ gây ra nhiều hệ quả đối với các vấn đề xã hội và môi trường

khi mà CSHT của các hướng phụ chưa được xây dựng để đáp ứng nhu cầu cho một

số lượng lớn người tập trung tại đây. Nhiều khu vực đô thị mới được xây dựng tự

phát, thiếu CSHT đã gây ra nhiều hậu quả cho đời sống nhân dân tại chỗ như: bị

ngập nước vào mùa mưa, thiếu hệ thống xử lý các chất thải gây ô nhiễm môi

trường, nhất là không phát huy hết tiềm năng của đất đai, gây lãng phí lớn quỹ đất

của Thành phố. Điều này sẽ càng làm trầm trọng thêm các vấn đề vốn đã nan giải

cuả thành phố như nhà ở, đất giao thông, kẹt xe, ngập nước, tệ nạn xã hội …

 Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế

Quá trình CNH – ĐTH đã có tác động rất lớn đến sự chuyển dịch CCLĐ theo

ngành kinh tế ở các quận huyện và ba khu vực phát triển của TP. HCM. Ở khu vực

nội đô, cơ cấu kinh tế có xu hướng giảm ở ngành nông nghiệp (-0,6%) và công

nghiệp (-5,2%), tăng ở ngành dịch vụ (+5,8%). Cơ cấu lao động ở đây là dịch vụ -

công nghiệp, nông nghiệp chiếm tỉ lệ rất thấp (0,2%). Các quận trung tâm thành phố

là những quận có tỉ trọng lao động trong ngành dịch vụ rất cao như Quận 1 (82,2%),

Quận 3 (79,6%), Quận 5 (77,3%), Quận 10 (76,5%), Phú Nhuận (75,3%).

Những năm gần đây, ngành dịch vụ của TP. HCM phát triển khá nhanh, đặc

biệt trong lĩnh vực thương mại, tài chính và ngân hàng, rất nhiều các cao ốc văn

phòng, trung tâm thương mại được xây dựng tại các quận trung tâm. Các ngân hàng,

công ty tài chính, bảo hiểm, trung tâm thương mại tập trung chủ yếu ở khu vực quận

trung tâm làm tăng số lượng lao động trong các ngành dịch vụ, tăng lao động bậc

cao. Đây là xu hướng hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển của các thành phố

lớn, nghĩa là thương mại, dịch vụ dần thay thế công nghiệp trong khu trung tâm.

117

Tuy nhiên, mật độ dân số đông tại khu vực nội thành, sự phân bố tập trung các

yếu tố sản xuất dịch vụ với các cao ốc văn phòng, những tổ hợp thương mại dịch vụ

lớn, thậm chí rất nhiều chung cư vẫn được tiếp tục xây dựng tại các quận trung tâm

trong thời gian qua đang làm ảnh hưởng đến quy hoạch dân cư, lao động và sản

xuất của thành phố. Đa phần người dân vẫn muốn sinh sống gần trung tâm để được

hưởng các dịch vụ xã hội tốt nhất, di chuyển bằng phương tiện cá nhân thuận tiện.

Vì vậy gây khó khăn trong việc di dời dân cư từ khu vực nội thành ra ngoại thành.

Biểu đồ 2.9: Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế khu vực nội đô, vùng ven và

100%

80%

43,6

37,4

61,2

60%

40%

39,1

47,1

20%

37,9 0,9

9,3

0%

23,5

Nội đô

Vùng ven

Ngoại thành

N-L-NN

CN-XD

DV

ngoại thành của TP. HCM năm 1999 (%)

Biểu đồ 2.10: Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế khu vực nội đô, vùng ven

100%

80%

42,1

38,6

66,9

60%

40%

32,9

56,1

50,4

20%

0,2

1,8

0%

11,0

Nội đô

Vùng ven

Ngoại thành

N-L-NN

CN-XD

DV

Nguồn: tính toán từ [14]

và ngoại thành của TP. HCM năm 2009 (%)

Khu vực vùng ven và khu vực ngoại thành lại có sự chuyển dịch cơ cấu lao

động theo hướng giảm ở khu vực nông nghiệp, tăng cơ cấu lao động ở khu vực công

118

nghiệp và dịch vụ. Cơ cấu lao động là công nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp, trong

đó công nghiệp là khu vực tập trung lao động đông nhất. Điều này phù hợp với quá

trình CNH – ĐTH của TP. HCM thời gian qua khi lựa chọn các quận mới và các

huyện là nơi tập trung các khu, cụm công nghiệp, là địa bàn tiếp nhận các xí nghiệp

công nghiệp di dời từ nội thành ra. Các quận có tỉ lệ lao động công nghiệp cao nhất

cũng là các quận tập trung nhiều khu, cụm công nghiệp nhất như Quận Bình Tân

(63,2%), Thủ Đức (60,7%), Bình Chánh (57,3%), Quận 9 (52%), Quận 12 (56,5%).

Vùng ngoại thành, gồm 5 huyện Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh, Nhà Bè và

Cần Giờ do xa khu vực nội đô nên đất nông nghiệp và lực lượng lao động nông

nghiệp còn nhiều và đang có xu hướng giảm. Do tác động của đô thị hóa, do sự

cạnh tranh về thu nhập, việc làm nên lao động nông nghiệp trẻ bỏ đồng ruộng, vào

nội thành làm thuê khiến cho nông thôn TP. HCM chỉ còn những lao động lớn tuổi

bám trụ với ruộng đồng. Đây là vùng cung cấp các sản phẩm nông nghiệp chính cho

cư dân đô thị, trình độ thâm canh cao với nhiều chủng loại cây trồng, vật nuôi đa

dạng, đặc biệt là các sản phẩm phục vụ cho yêu cầu tiêu dùng, giải trí của cư dân đô

thị và xuất khẩu. Tình hình ô nhiễm không khí, đất, nước do thâm canh nông

nghiệp, do các hoạt động sản xuất công nghiệp ngày càng nhiều. Hiện nay, những

huyện chiếm tỉ trọng lao động nông nghiệp vẫn còn lớn trong cơ cấu lao động của

huyện là Cần Giờ 32,3%, Củ Chi 20,4%, Hóc Môn 7%.

Giữa quá trình đô thị hóa và chuyển dịch CCLĐ có mối quan hệ khăng khít

với nhau. Tùy theo từng giai đoạn của quá trình ĐTH mà cơ cấu lao động cũng có

sự thay đổi. Ở giai đoạn đầu của quá trình đô thị hóa, CCLĐ có sự chuyển dịch từ

KV I sang KV II và III, nhưng sang đến giai đoạn sau của quá trình ĐTH thì lao

động chuyển dịch từ KV I, II sang KV III. Dưới tác động của quá trình ĐTH, từng

khu vực đô thị của TP. HCM cũng có sự chuyển dịch CCLĐ khác nhau.

Bảng 2.20 và biểu đồ 2.11 cho thấy, lao động trong ngành công nghiệp và dịch

vụ có mối tương quan tỉ lệ thuận với mức độ ĐTH, nghĩa là tỉ lệ ĐTH càng cao thì

việc làm trong ngành công nghiệp và dịch vụ càng nhiều. Các vùng đô thị đều có sự

tăng trưởng về lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ trong giai đoạn

1999 – 2009, tuy nhiên có sự khác biệt về tốc độ tăng trưởng. Khu vực nội đô có tỉ

119

lệ lao động trong ngành dịch vụ là cao nhất và dịch vụ cũng là khu vực duy nhất có

tốc độ tăng trưởng lao động (2,3%). Các quận vùng ven (7 quận mới) là khu vực có

tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp cao nhất và chiếm tỉ lệ lao động công nghiệp

nhiều nhất so với lao động công nghiệp toàn thành phố. Ngược lại, 5 huyện ngoại

thành do tỉ lệ ĐTH thấp hơn nên lao động nông nghiệp vẫn còn chiếm tỉ lệ lớn,

74,8% lao động nông nghiệp toàn thành.

Bảng 2.20: Cơ cấu lao động, chia theo tổ chức không gian lãnh thổ đô thị TP. HCM

Nội đô Vùng ven Ngoại thành Tổng cộng

Tỉ lệ % lao động ngành của từng vùng/lao động ngành toàn thành phố, năm 2009

Nông nghiệp 4,1 21,1 74,8 100

Công nghiệp 31,3 46,9 21,8 100

Dịch vụ 55,8 30,7 13,5 100

Tăng trưởng lao động, % thay đổi trong giai đoạn 1999 - 2009

Nông nghiệp -11,0 -2,1 -3,4

Công nghiệp -0,8 17,1 9,3

Dịch vụ 2,3 15,7 6,9

Biểu đồ 2.11: Thương số vị trí lao động các vùng đô thị so với lao động toàn

0,72

0,78

1,16

1,24

Dịch vụ

1,29

Công nghiệp

3,93

Nông nghiệp

0,76

0,64

0,07 Nội đô

Vùng ven

Ngoại thành

Thành phố, năm 2009

Nguồn: tính toán từ [14]

Xét mối quan hệ với các vùng xung quanh, theo một nghiên cứu của Ngân

hàng thế giới [41] so sánh giữa đặc điểm không gian hoạt động sản xuất công

nghiệp quanh Hà Nội và TP. HCM với các vùng ngoại ô cho thấy có sự khác biệt.

120

Nếu như ở Hà Nội khoảng 70% hàng hóa công nghiệp không phải sản xuất trong

khu vực nội thành mà là sản xuất tại các vùng ngoại ô xung quanh thành phố trong

phạm vi 70 – 140km. Các vùng ngoại ô chuyên môn hóa cao về hoạt động sản xuất

công nghiệp nặng và các ngành tăng trưởng nhanh. Ngược lại, đặc điểm không gian

hoạt động sản xuất công nghiệp tại TP. HCM và các vùng phụ cận có nhiều điểm

khác so với Hà Nội. Sản xuất công nghiệp tập trung gần TP. HCM hơn, cụ thể trong

bán kính 70 km. Sản xuất công nghiệp nhẹ tương đối phát triển trên diện rộng, trái

lại sản xuất công nghiệp nặng và các ngành tăng trưởng nhanh chỉ tập trung tại TP.

HCM và các vùng gần đó. Điều này cho thấy tính liên kết, hỗ trợ sản xuất của TP.

HCM và các vùng xung quanh thấp hơn so với Hà Nội và vùng phụ cận.

 Chuyển dịch cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế

Biểu đồ 2.12 và 2.13 cho thấy cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế của nội

thành và ngoại thành đều có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỉ trọng lao động khu

vực Nhà nước, tăng tỉ trọng lao động khu vực ngoài Nhà nước và khu vực có vốn

đầu tư nước ngoài, trong đó khu vực ngoài Nhà nước chiếm tỉ trọng lao động lớn

nhất. Phản ánh ảnh hưởng của đường lối đổi mới của nền kinh tế thị trường, phát

triển nhiều thành phần kinh tế, ra đời Luật đầu tư nước ngoài… Tuy nhiên, tùy theo

hoạt động kinh tế ở mỗi khu vực khác nhau nên lao động trong các thành phần kinh

tế ở mỗi khu vực cũng khác nhau.

Khu vực nội đô: tỉ trọng lao động khu vực Nhà nước giảm 7,5%, khu vực

ngoài Nhà nước tăng 4,7%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 2,8% giai đoạn

1999 – 2009. Tỉ trọng lao động trong khu vực Nhà nước của các quận nội đô cao

hơn so với vùng ven và các huyện ngoại thành do đây là trung tâm hành chính của

thành phố, các cơ quan, xí nghiệp nhà nước vẫn phân bố ở trong khu vực nội thành.

Khu vực vùng ven: tỉ trọng lao động khu vực Nhà nước giảm 13,1%, khu vực

ngoài Nhà nước tăng 2,6%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 15,7% giai đoạn

1999 – 2009. Tỉ trọng lao động khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cao nhất so với

ba khu vực phát triển gắn liền với sự hình thành của các KCN – KCX, thu hút các

dự án đầu tư FDI vào đây.

121

Khu vực ngoại thành, tỉ trọng lao động ngoài nhà nước cao nhất do tập trung

hầu hết các doanh nghiệp, xí nghiệp tư nhân, kinh doanh hộ gia đình với quy mô

sản xuất nhỏ, hoạt động trong các ngành thâm dụng lao động.

Biểu đồ 2.12: Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế khu vực nội đô, vùng ven

và ngoại thành của TP. HCM năm 1999 (%)

1,9

4,7

4,8

100

KV đầu tư NN

80

73,0

70,5

60

80,4

KV ngoài Nhà nước KV Nhà nước

40

20

25,1

24,7

14,9

0

Vùng ven

Nội đô

Ngoại thành

Biểu đồ 2.13: Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế khu vực nội đô, vùng ven

và ngoại thành của TP. HCM năm 2009 (%)

4,7

100

12,1

20,5

80

KV đầu tư NN

77,7

60

78,7

67,9

KV ngoài Nhà nước

40

KV Nhà nước

20

17,6

11,6

9,2

0

Vùng ven

Nội đô

Ngoại thành

Nguồn: tính toán từ [14]

2.3.4. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn kĩ thuật

Trong quá trình ĐTH, trình độ của người lao động có xu hướng ngày càng

được nâng cao, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo tăng lên. Môi trường kinh tế năng động

của đô thị cùng với quá trình mở rộng không gian đô thị, nâng cấp CSHT kĩ thuật,

phát triển mạnh các ngành công nghiệp và dịch vụ hiện đại, thay thế lao động thủ

122

công bằng cơ khí, tự động hóa trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề… là những yếu tố

tác động đến trình độ người lao động, đòi hỏi người lao động phải có chuyên môn

tay nghề. TP. HCM là đô thị có tỉ lệ ĐTH cao thứ hai cả nước, là trung tâm kinh tế,

văn hóa lớn nhất nước, vì vậy chất lượng lao động của TP. HCM không ngừng thay

đổi đóng góp đáng kể cho sự nghiệp phát triển kinh tế theo hướng CNH - HĐH của

thành phố nói riêng, khu vực Đông Nam Bộ và cả nước nói chung.

2.3.4.1. Chuyển dịch CCLĐ về trình độ CMKT của lao động TP. HCM

Hà Nội và TP. HCM là hai thành phố có tỉ lệ lao động đã qua đào tạo, đặc biệt

là lao động có trình độ đại học trở lên cao nhất cả nước. Tỉ lệ lao động đã qua đào

tạo của TP. HCM là 31,7%, gấp 1,8 lần so với mức chung của cả nước (17,9%);

trong đó lao động có trình độ đại học trở lên là 17,9%, gấp 2,6 lần cả nước (6,9%).

Hà Nội tỉ lệ lao động đã qua đào tạo là 36,9% (gấp 2,1 lần), lao động có trình độ đại

học trở lên là 19,0% (gấp 2,7 lần). Điều đó cho thấy rằng, Hà Nội và TP. HCM có

tiềm năng và thế mạnh trong những lĩnh vực, ngành nghề đòi hỏi trình độ CMKT

cao, sử dụng vốn lớn phù hợp với lực lượng lao động có trình độ và tay nghề cao.

Biểu đồ 2.14: Trình độ chuyên môn kĩ thuật của lực lượng lao động

100%

15,19

20,4

8,81 3,49 4,66

80%

14,3 3,7 7,2

5,55 7,57

3,5 7,8

60%

40%

83,04

74,8

71,69

68,3

20%

0%

2013 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

2005

1999

Không có trình độ CMKT Trung cấp chuyên nghiệp

2009 Đào tạo nghề Cao đẳng và Đại học trở lên

Nguồn: [14], [50], [74]

TP. HCM giai đoạn 1999 - 2013 (%)

Chuyển dịch CCLĐ theo trình độ CMKT của TP. HCM giai đoạn 1999 – 2013

là khá tích cực nhưng còn chậm: tỉ lệ lao động đã qua đào tạo CMKT tăng từ

16,96% lên 31,7%, tăng 14,74%, trung bình mỗi năm tăng 1%. Trong đó, lao động

123

trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên chiếm tỉ lệ cao nhất và tăng nhanh từ 8,81% lên

20,4%. Lao động trình độ trung cấp chuyên nghiệp không có sự thay đổi nhiều,

tương ứng từ 3,49% năm 1999 lên 3,5% năm 2013 và lao động đào tạo nghề tăng từ

4,66% lên 7,8%. Những thay đổi này là chậm so với quy mô của một đô thị lớn nhất

nước, có tốc độ tăng trưởng cao nhất nước. Tỉ lệ lao động không có trình độ CMKT

của TP. HCM chiếm tới 68,3% là một thách thức không nhỏ khi quy hoạch tổng thể

xác định TP. HCM là trung tâm công nghiệp – dịch vụ đa lĩnh vực của cả nước và

khu vực Đông Nam Á.

Cơ cấu lao động đã qua đào tạo của thành phố đang có sự mất cân đối giữa

cung và cầu lao động, xảy ra tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”. Tỉ lệ LĐ theo trình

độ CMKT hợp lí để sử dụng hiệu quả sức LĐ và phát triển kinh tế là 1 LĐ trình độ

CĐ – ĐH : 4 LĐ trung cấp chuyên nghiệp : 10 công nhân kĩ thuật. Nhưng hiện nay,

các tỉnh thành của Việt Nam nói chung và TP. HCM nói riêng đều có sự chênh lệch

rất lớn giữa lao động trình độ CĐ – ĐH so với công nhân kĩ thuật và LĐ nghề, phản

ánh sự mất cân đối trong cơ cấu đào tạo của nước ta. Tỉ lệ này của TP. HCM là 1 :

0,17 : 0,38; Hà Nội là 1 : 0,46 : 0,22; Đà Nẵng là 1 : 0,33 : 0,35.

Bảng 2.21: Chỉ số cơ cấu cung cầu lao động theo trình độ CMKT của TP. HCM

giai đoạn 2010 – 2013 (%)

Cầu

Cung

Trình độ CMKT

2010

2011 2012 2013 2010 2011 2012

2013

100

100

100

100

100

100

100

100

Lao động chưa qua đào tạo

56,41 45,81 40,98 38,10 0,55

1,02

1,63

1,76

Sơ cấp nghề

7,39

8,67

5,51

2,50

1,63

1,00

1,38

1,66

Công nhân KT lành nghề

2,07

4,03

4,04

4,77

2,82

4,02

0,98

2,13

Trung cấp (CN - TCN)

15,04 17,91 25,18 25,70 19,41 15,31 13,31 13,90

Cao đẳng (CN-CĐN)

7,69

11,69 10,76 14,05 21,65 20,21 27,81 26,75

Đại học

11,09 11,47 13,18 14,02 53,20 57,33 52,23 49,22

Trên đại học

0,31

0,42

0,35

0,86

0,74

1,35

2,66

4,51

Nguồn: [73]

124

Bảng 2.21 cho thấy nhu cầu về lao động có trình độ sơ cấp nghề, công nhân kĩ

thuật lành nghề và trung cấp cao hơn so với nguồn cung lao động, ngược lại lao

động trình độ cao đẳng – đại học trở lên cung lớn hơn cầu rất nhiều. Năm 2013 cầu

lao động cao đẳng là 14,05%, đại học là 14,02%; trong khi đó cung lao động là

26,75% đối với cao đẳng và 49,22% đối với trình độ đại học. Trong những năm tới,

xu hướng này ngày càng gia tăng khi mà học sinh sau khi ra trường vẫn có xu

hướng chọn học cao đẳng, đại học thay vì học kĩ thuật, trung học chuyên nghiệp và

học nghề. Vì vậy, thành phố phải đẩy mạnh quy mô đào tạo, nhất là đào tạo nghề

phải được coi là biện pháp hàng đầu để cung cấp lao động có chất lượng cho các

ngành kinh tế của thành phố.

2.3.4.2. Chuyển dịch CCLĐ về CMKT theo nhóm ngành kinh tế

Phân bố lực lượng lao động có trình độ CMKT trong các ngành kinh tế chưa

đồng bộ, còn mất cân đối, xảy ra tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu, nhiều ngành lao

động trình độ kĩ thuật còn thiếu. Năm 2009, lao động qua đào tạo tập trung nhiều

nhất ở nhóm ngành công nghiệp – xây dựng (61,33%) (trong đó công nghiệp là

58,93%, xây dựng là 2,41%), tiếp đến là nhóm ngành dịch vụ (38,5%) và thấp nhất

là nhóm ngành nông – lâm – ngư nghiệp (0,17%).

Bảng 2.22: Trình độ CMKT của lao động TP. HCM phân theo nhóm ngành

kinh tế năm 2009 (%)

Chỉ tiêu

N – L – NN

CN - XD

Dịch vụ

1. Lao động chưa qua đào tạo CMKT

96,46

18,27

58,43

2. Lao động đã qua đào tạo CMKT

81,73

41,57

3,54

 Sơ cấp

68,40

15,42

0,57

 Trung cấp

3,85

5,72

0,99

 Cao đẳng

1,47

3,06

0,3

 Đại học và trên Đại học

8,01

17,37

1,68

Nguồn: [14]

Trong từng nhóm ngành, trình độ CMKT của người lao động cũng có sự khác

nhau. Lao động có trình độ CMKT của ngành nông – lâm – ngư nghiệp khá thấp,

chỉ chiếm 3,54%, trong khi lao động chưa qua đào tạo là 96,46%. Như vậy có thể

125

thấy phần lớn lao động trong ngành nông nghiệp là lao động thủ công, làm việc theo

kinh nghiệm, thiếu kĩ năng lao động. Đây trở ngại lớn làm chậm quá trình chuyển

dịch CCLĐ, ảnh hưởng đến việc tăng NSLĐ. Đô thị hóa đang diễn ra mạnh đã dẫn

đến chuyển đổi mục đích sử dụng đất, làm giảm diện tích đất nông nghiệp tại các

vùng ngoại thành TP. HCM. Dưới tác động của quá trình này, một bộ phận không

nhỏ người lao động thuộc diện thu hồi đất sản xuất phải chuyển đổi việc làm. Tuy

nhiên, đại đa số họ là lao động phổ thông, không có trình độ CMKT, vì vậy rất dễ

trở thành người thất nghiệp hoặc thiếu việc làm. Tại vùng nông thôn ngoại thành

TP. HCM, sau khi bị thu hồi đất, một bộ phận lao động nông nghiệp chưa có việc

làm dẫn đến tình trạng thất nghiệp tăng lên từ 28,1% lên đến 38,8% [75].

Đối với ngành công nghiệp tuy đã có nhiều tiến bộ, chiếm tỉ lệ cao nhất trong

tổng số lao động đã qua đào tạo của TP. HCM, nhưng chủ yếu là đào tạo cấp thấp,

thiếu lao động chất lượng cao. Trong tổng số 81,73% lao động qua đào tạo của

ngành công nghiệp – xây dựng thì đào tạo sơ cấp nghề chiếm tỉ lệ cao nhất (68,4%),

lao động chất lượng cao (trình độ đại học và sau đại học) chiếm tỉ lệ nhỏ 8,01%.

Chất lượng lực lượng lao động ngành dịch vụ đã có sự chuyển biến đáng kể, trong

tổng số 820.828 lao động đã qua đào tạo của ngành dịch vụ (tỉ lệ 41,57%) thì có

17,37% lao động có trình độ đại học trở lên (2009) (xem bảng 2.22).

Trong quá trình CNH – ĐTH ở TP. HCM đã và đang hình thành các KCN tập

trung, nhiều KCN đã đi vào hoạt động và đạt hiệu quả cao, tạo ra hàng chục ngàn

chỗ làm việc mới mỗi năm, giải quyết việc làm cho lao động tại chỗ và nhất là lao

động nhập cư. Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp trong các KCN của TP. HCM

thuộc những ngành thâm dụng lao động, lao động từ các tỉnh chiếm trên 70%, tập

trung phần lớn ở các ngành dệt may, da giày, gia công lắp ráp và các ngành không

có yêu cầu tay nghề cao vì vậy lao động trong các KCN có chất lượng thấp.

Bảng 2.23 cho thấy, lao động trong các KCN – KCX của TP. HCM chủ yếu là

lao động phổ thông, không có trình độ CMKT. Năm 2005 lao động phổ thông là

149.548 người, chiếm 79,23% tổng số lao động. Năm 2013 tăng lên 215.068 lao

động, chiếm 79,38%; lao động có CMKT chiếm tỉ lệ 20,62%, trình độ đại học trở

lên chỉ chiếm 9,58%. Thế mạnh của TP. HCM là lao động có tay nghề, trong khi lao

126

động trong các KCN – KCX phần lớn là lao động phổ thông. Điều đó cho thấy cơ

cấu ngành nghề vẫn là những ngành thâm dụng lao động, NSLĐ thấp. Mặc dù thời

gian qua, thực hiện chủ trương chuyển dịch CCKT của thành phố, Ban quản lí các

KCN – KCX đã hạn chế tiếp nhận những dự án có trình độ công nghệ thấp, thâm

dụng lao động và gây ô nhiễm môi trường; tập trung thu hút các dự án có trình độ

công nghệ cao, ít gây ô nhiễm môi trường, thuộc một số ngành nghề mũi nhọn. Tuy

nhiên, sự chuyển dịch diễn ra chậm và lao động phổ thông vẫn chiếm đa số.

Bảng 2.23: Trình độ lao động trong KCX - KCN TP. HCM giai đoạn 2005 - 2013

Tổng số (ngƣời)

Tỷ lệ (%)

Năm

2005

2009

2013

2005

2009

2013

Tổng số

188.761 249.812 270.919

100

100

100

Lao động phổ thông

149.548 192.494 215.068

79,23

77,06

79,38

Cấp 1

7.073

9.738

10.247

3,75

3,90

3,78

Cấp 2

74.870

98.850 105.168

39,66

39,57

38,82

Cấp 3

67.605

83.906

99.653

35,82

33,59

36,78

Lao động có CMKT

39.213

57.318

55.851

20,77

22,94

20,62

Trung cấp, Cao đẳng

22.481

33.636

29.908

11,91

13,46

11,04

Đại học trở lên

16.732

23.682

25.943

8,86

9,48

9,58

Nguồn: [3]

2.3.4.3. Chuyển dịch CCLĐ về CMKT theo thành phần kinh tế

Trình độ CMKT của LLLĐ ở TP. HCM có sự khác biệt đáng kể trong các

thành phần kinh tế. Lao động không có trình độ CMKT chiếm tỉ trọng cao nhất ở

khu vực ngoài nhà nước (57,2%), tiếp đến là khu vực nhà nước (22,1%), khu vực có

vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỉ trọng thấp nhất (12,9%). Trong khi đó, lao động có

trình độ từ cao đẳng và đại học trở lên thì khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm

tỉ trọng cao nhất (68,3%), đứng thứ hai là khu vực nhà nước (52,4), khu vực ngoài

nhà nước có tỉ trọng thấp hơn rất nhiều so với hai khu vực trên (25,1%).

2.3.4.4. Chuyển dịch CCLĐ về CMKT theo lãnh thổ

Xét theo khu vực thành thị và nông thôn, lao động có trình độ CMKT của hai

khu vực đều có xu hướng tăng, trong đó khu vực thành thị chuyển dịch nhanh hơn

127

so với khu vực nông thôn. Giai đoạn 1999 – 2013, ở khu vực thành thị, tỉ trọng lao

động không có trình độ CMKT giảm nhanh từ 81,3% xuống còn 66,2% (giảm

15,1%); tỉ trọng lao động có trình độ từ CĐ – ĐH trở lên tăng nhanh từ 10,0% lên

22,8% trong cùng giai đoạn (tăng 12,8%). Ngược lại, khu vực nông thôn, lao động

không có CMKT giảm từ 91,9 xuống còn 81,0% (giảm 10,9%) và lao động có trình

độ từ CĐ – ĐH trở lên tăng từ 2,6% lên 7,9% (tăng 5,3%) (bảng 2.24).

Bảng 2.24: Cơ cấu lao động theo trình độ CMKT phân theo thành thị và nông

thôn của TP. HCM giai đoạn 1999 – 2013 (%)

Thành thị

Nông thôn

Tăng/

Tăng/

1999 2009 2013

1999 2009 2013

giảm

giảm

Không có CMKT

81,3

71,6

66,2

91,9

85,0

81,0

-15,1

-10,9

Đào tạo nghề

5,0

8,9

7,7

2,9

7,8

7,1

2,7

4,2

Trung cấp CN

3,7

2,3

3,3

2,6

2,1

4,0

-0,4

1,4

CĐ – ĐH trở lên

10,0

17,2

22,8

2,6

5,1

7,9

12,8

5,3

Tổng số

100

100

100

100

100

100

Nguồn: [14], [74]

Nhìn chung, trình độ lao động của khu vực nông thôn thấp hơn rất nhiều so

với khu vực thành thị do hoạt động kinh tế ở nông thôn chủ yếu trong lĩnh vực nông

nghiệp, các ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp có quy mô sản xuất nhỏ, chủ

yếu là kinh doanh hộ gia đình, cơ cấu ngành nghề ít hơn so với khu vực thành thị vì

vậy lao động ở nông thôn có trình độ thấp, lao động giản đơn là chủ yếu. Trong

những năm gần đây, do quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh, diện tích đất nông

nghiệp ở khu vực nông thôn chuyển đổi sang các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp

làm tăng nhu cầu việc làm trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, đặc biệt là nhu cầu

lao động có trình độ CMKT, vì vậy, khu vực này không chỉ thu hút lao động nhập

cư có chuyên môn tay nghề mà lao động tại chỗ cũng phải tự đào tạo để đáp ứng

cho nhu cầu địa phương. Tuy nhiên, do trình độ văn hóa thấp (phân tích ở 2.2.2.7)

nên khó khăn trong việc đào tạo CMKT cho người lao động, vì vậy lao động không

có CMKT chiếm tỉ lệ rất cao (81%).

128

Xét theo tổ chức không gian đô thị, trình độ CMKT của ba khu vực đều có xu

hướng tăng tỉ trọng lao động đã qua đào tạo, giảm tỉ trọng lao động không có

CMKT, tuy nhiên tỉ trọng tăng giảm khác nhau. Khu vực nội đô có tỉ trọng lao động

đã qua đào tạo tăng nhanh nhất 12,0%, trong đó trình độ từ CĐ – ĐH trở lên tăng

9,7%; khu vực vùng ven tỉ trọng lao động đã qua đào tạo tăng 8,4%, lao động trình

độ CĐ – ĐH trở lên cũng tăng cao nhất 4,8%; khu vực ngoại thành tỉ trọng lao động

đã qua đào tạo tăng chậm 6,1%, trong đó chủ yếu là lao động được đào tạo nghề,

tăng 4,4% (biểu đồ 2.15, 2.16).

Biểu đồ 2.15: Cơ cấu lao động theo trình độ CMKT khu vực nội đô, vùng ven và

ngoại thành của TP. HCM năm 1999 (%)

2,8

100

2,8 3,2

5,6 3,3 5,1

11,2 3,7 4,9

CĐ - ĐH trở lên

80

Trung cấp

60

Đào tạo nghề

91,2

86,0

80,2

40

Không có CMKT

20

0

Vùng ven

Nội đô

Ngoại thành

Biểu đồ 2.16: Cơ cấu lao động theo trình độ CMKT khu vực nội đô, vùng ven và

ngoại thành của TP. HCM năm 2009 (%)

20,9

10,4 2,4

5,2 2,1 7,6

9,6

CĐ - ĐH trở lên

2,8 8,1

Trung cấp

Đào tạo nghề

85,1

77,6

Không có CMKT

68,2

100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0

Vùng ven

Nội đô

Ngoại thành

Nguồn: tính toán từ [14]

129

So sánh về chất lượng lao động giữa ba khu vực thì khu vực nội đô lao động

đã qua đào tạo chiếm tỉ trọng cao nhất 31,8%, trong đó chủ yếu là lao động trình độ

CĐ – ĐH trở lên (20,9%); tiếp theo là khu vực vùng ven 22,4%; khu vực ngoại

thành lao động đã qua đào tạo chiếm tỉ trọng thấp nhất 14,9%, chủ yếu là đào tạo

nghề (7,6%). Lao động có trình độ từ CĐ – ĐH trở lên chiếm tỉ lệ cao tập trung ở

các Quận 1 (27,2%), Q.3 (31,1%), Q.10 (25,6%), Phú Nhuận (33,7%), Bình Thạnh

(26,5%). Các quận có tỉ lệ thấp là Bình Tân (5,5%), Q.6 (10,9%), Q.12 (9,2%), Q.9

(12,0%). Nhìn chung các quận trung tâm tỉ lệ lao động trình độ từ CĐ - ĐH trở lên

chiếm tỉ lệ cao hơn so với các quận vùng ven. Do đây là các quận đã trải qua quá

trình đô thị hóa từ lâu, hiện là trung tâm hành chính sự nghiệp, đặc trưng của các

ngành nghề cần những kiến thức chuyên môn cao như quản lí nhà nước, giáo dục, y

tế…; đây cũng là trung tâm thương mại và dịch vụ của thành phố với rất nhiều văn

phòng, nhà hàng, khách sạn, trung tâm tài chính, ngân hàng được đặt tại các quận

này. Các công ty, xí nghiệp và trung tâm dịch vụ thương mại có vốn đầu tư nước

ngoài cũng chọn các quận trung tâm đặt trụ sở và văn phòng giao dịch vì vậy tập

trung lao động có trình độ cao.

Lao động 5 huyện ngoại thành TP. HCM chủ yếu là lao động phổ thông và lao

động nghề phù hợp với các hoạt động chủ yếu trong ngành nông – lâm – thủy sản

và một số ngành nghề công nghiệp – dịch vụ không đòi hỏi trình độ chuyên môn

cao. Mặt khác, do lao động di cư nhất là lao động nông thôn từ các tỉnh thành khác

đến, lực lượng lao động này có trình độ văn hóa thấp, không có trình độ chuyên

môn tay nghề. Chất lượng lao động khu vực ngoại thành TP. HCM thấp so với yêu

cầu phát triển kinh tế, không chỉ gây khó khăn trong việc CDCCKT từ nông nghiệp

sang các ngành phi nông nghiệp mà còn ảnh hưởng đến việc áp dụng KHKT vào

trong sản xuất để chuyển sang phát triển nền nông nghiệp công nghệ cao.

Nhìn chung, lực lượng lao động của TP. HCM tuy đông nhưng chất lượng còn

thấp, phân bổ chưa hợp lí giữa các ngành nghề kinh tế, giữa các khu vực lãnh thổ.

Tình trạng lao động có tay nghề cung cấp không đủ ở khu vực đô thị hóa, các KCN

– KCX đang thiếu lao động có trình độ CMKT làm cản trở quá trình phát triển kinh

tế của thành phố. Một thực tế hiện nay của TP. HCM là số sinh viên được đào tạo

130

mặc dù tăng qua các năm nhưng các doanh nghiệp vẫn thiếu lao động có trình độ,

nhiều sinh viên ra trường thất nghiệp, không tìm được việc làm hoặc làm không

đúng ngành nghề được đào tạo. Nguyên nhân chủ yếu là do chất lượng lao động

được đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp, đào tạo không cân

đối giữa các ngành nghề, chưa căn cứ trên nhu cầu thực tế của các địa phương…

Quá trình hội nhập quốc tế luôn đặt ra những đòi hỏi khách quan về số lượng

cũng như những năng lực và phẩm chất cần thiết đối với người lao động. Ngày nay,

nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập đòi hỏi người lao động ngoài trình độ chuyên

môn lành nghề, phải có tính sáng tạo, có khả năng phân tích, tinh thần đồng đội, có

trình độ ngoại ngữ và công nghệ thông tin, am hiểu luật pháp… Điều đó phụ thuộc

chủ yếu vào vấn đề GD - ĐT. TP HCM cần ưu tiên phát triển GD - ĐT để nâng cao

chất lượng lao động, tăng tỉ lệ lao động có trình độ CMKT và giảm tỉ lệ lao động

chưa qua đào tạo phù hợp với xu thế phát triển của thành phố trong thời kì mới.

2.3.5. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo tuổi và giới tính

Biểu đồ 2.17 cho thấy có sự thay đổi về nhóm tuổi và giới tính của lao động

TP. HCM trong giai đoạn 1999 – 2013. Năm 1999, lao động thành phố có cơ cấu

tuổi tương đối trẻ, chiếm tỉ lệ cao nhất tập trung ở nhóm tuổi 20 – 30 tuổi, đến năm

2013 nhóm tuổi được mở rộng hơn, từ 20 – 40 tuổi. Có sự khác biệt về tỉ lệ tham

gia lao động theo nhóm tuổi giữa nam và nữ giới. Nữ giới thường tham gia lao động

sớm hơn và ra khỏi lao động cũng sớm hơn so với nam giới.

Biểu đồ 2.17: Cơ cấu tuổi của lực lượng lao động TP. HCM chia theo giới tính

năm 1999 và 2013 (%)

40

Năm 1999 Năm 2013

37.23

35

30.3

34.28

30

26.4

26.3

30

29.4

33.57

31.63

25

23.7

20.18

Nam

20

17.2

21.1

20

19.66

15

Nữ

13.8

7.63

10

10

6.65

5

2.8

3.85

2.2

5.32

0

0

16 - 19 20 - 29 30 - 39 40 - 49 50 - 59

16 - 19 20 - 29 30 - 39 40 - 49 50 - 59

Nguồn: [14], [74]

131

Cơ cấu giới tính của lao động trong các thành phần kinh tế có sự khác biệt.

KV nhà nước và KV ngoài nhà nước tỉ trọng nam nhiều hơn nữ, trong khi đó, KV

có vốn đầu tư nước ngoài lại có sự chênh lệch rất lớn giữa tỉ lệ nam và nữ, nữ chiếm

tỉ trọng cao hơn rất nhiều so với nam. KV nhà nước nam chiếm 54,9% và nữ chiếm

45,1%. Đối với KV ngoài nhà nước, nam 57,1%, nữ 42,9%. KV có vốn đầu tư nước

ngoài nam chiếm 39,4%, nữ chiếm 60,6%.

Có sự khác biệt về cơ cấu giới tính giữa KV vốn đầu tư nước ngoài so với khu

vực nhà nước, KV ngoài nhà nước và so với CCLĐ của toàn thành phố là do phần

lớn các nhà đầu tư nước ngoài đến từ các quốc gia thuộc khu vực Đông Á và Đông

Nam Á (chiếm 70,5% tổng nguồn vốn FDI), đứng đầu là Singapore 19,6%, thứ hai

là Malaysia 17,5%. Các quốc gia này thường tập trung đầu tư vào các ngành công

nghiệp nhẹ, sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày, công nghiệp chế biến

thực phẩm, kinh doanh các ngành dịch vụ, thương mại, du lịch cần nhiều lao động

nữ đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ, cần cù. Phần lớn các ngành trên thu hút số lượng lớn

LĐ nhập cư với thành phần lao động nhập cư là nữ nhiều hơn nam. Điều này ảnh

hưởng nhiều đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế TP HCM theo hướng tích cực

khi khu vực này vẫn tập trung phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động không

đòi hỏi chuyên môn tay nghề cao, thậm chí còn gây ô nhiễm môi trường nặng nề.

Cơ cấu tuổi của lao động giữa thành thị và nông thôn có sự khác biệt. Nhìn

chung lao động ở nông thôn có cơ cấu tuổi trẻ hơn so với khu vực thành thị. Năm

1999, lao động độ tuổi từ 15 – 29 tuổi ở nông thôn chiếm tỉ lệ cao nhất 48,6%, độ

tuổi từ 30 – 39 tuổi chiếm 27,7%. Trong khi đó, thành thị lao động độ tuổi từ 15 –

29 tuổi chiếm 45,7%, 30 – 39 tuổi là 28,9%. Do ở nông thôn, LĐ hoạt động chủ yếu

trong lĩnh vực nông nghiệp, không đòi hỏi về trình độ chuyên môn tay nghề, thời

gian đào tạo ngắn nên dân số nhanh chóng tham gia vào lực lượng lao động.

Trong thời gian qua, lao động ở khu vực thành thị và nông thôn có sự chuyển

dịch tự nhiên về cơ cấu lao động theo nhóm tuổi, theo hướng giảm tỉ trọng số lao

động trẻ khỏe ở độ tuổi 15 – 29 tuổi và tăng tỉ trọng lao động ở nhóm tuổi trên 40

tuổi trở lên. Năm 2013, ở khu vực thành thị tỉ trọng lao động nhóm tuổi 15 – 29 tuổi

132

là 25,3%, nhóm tuổi 30 – 39 tuổi là 29,0%, nhóm tuổi trên 40 chiếm 45,7%. Ở khu

vực nông thôn, tỉ trọng lao động nhóm tuổi 15 – 29 tuổi là 30,2%, nhóm tuổi 30 –

39 tuổi chiếm tỉ trọng là 33,2%, nhóm tuổi trên 40 chiếm 36,6%. So sánh sự thay

đổi tỉ trọng lao động theo độ tuổi của khu vực thành thị và nông thôn trong giai

đoạn 1999 – 2013 có thể thấy sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo độ tuổi có xu

hướng phát triển già hóa của lực lượng lao động. Đây là kết quả của việc giảm tỉ lệ

sinh xuống mức thấp liên tục trong những năm qua, việc chú trọng vào đào tạo về

trình độ văn hóa và chuyên môn tay nghề cho người lao động.

2.3.6. Đánh giá chung

 Thành tựu

TP. HCM có nguồn lao động đông và tăng nhanh đặc biệt là lao động nhập

cư, lao động của thành phố có cơ cấu trẻ, lao động nam nhiều hơn lao động nữ.

Đây là nguồn lao động dồi dào tạo điều kiện thuận lợi cho TP. HCM đẩy mạnh việc

thực hiện CDCCKT và CDCCLĐ theo đúng định hướng phát triển của thành phố.

Chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với quy hoạch phát triển KT - XH của

TP. HCM, đạt được kết quả tốt so với mục tiêu đề ra. Mục tiêu đặt ra đến năm

2005: tỉ trọng lao động nông – lâm – thủy sản là 4,8%, công nghiệp – xây dựng là

46,25% và dịch vụ là 48,95%; đến năm 2010 lần lượt là 3,62%, 44,35% và 52,03%.

Tuy nhiên, trên thực tế việc lao động dịch chuyển nhanh hơn và vượt kế hoạch so

với chỉ tiêu đề ra. Năm 2010, cơ cấu lao động TP. HCM đạt được là nông - lâm -

thủy sản 2,7%, công nghiệp – xây dựng 43,5% và dịch vụ là 53,8%.

Biểu đồ 2.18: ĐTH và lao động của TP. HCM năm 1999 và 2013 (đơn vị %)

Tỉ lệ ĐTH 100

82,4

80

83,4

60

40

Đất phi NN

LĐ công nghiệp

43,9

44

41,5

20 35,5 0

1999 2013

16,9

51,9

31,7

54

LĐ có CMKT

LĐ dịch vụ

133

Quá trình ĐTH đã có tác động tích cực đến CCLĐ của thành phố cả về số

lượng và chất lượng. Theo thời gian, tỉ lệ đất phi nông nghiệp, tỉ lệ lao động phi

nông nghiệp và lao động có trình độ CMKT tăng lên.

CDCCKT đã có tác động trực tiếp đến quá trình CDCCLĐ theo từng giai

đoạn phát triển. Giai đoạn đầu (1999 – 2005) cơ cấu lao động dịch chuyển từ khu

vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Lao động làm việc khu vực

I giảm mạnh, khu vực III có tỉ trọng cao nhất, tiếp theo là khu vực II. Sang giai

đoạn 2005 – 2013, tỉ trọng lao động tiếp tục giảm ở khu vực I và cả khu vực II,

tăng lên ở khu vực III. Đặc biệt là sự đóng góp của các ngành công nghiệp công

nghệ cao và các ngành dịch vụ cao cấp trong tăng trưởng và CDCCLĐ thành phố.

Chất lượng lao động của thành phố có những chuyển biến tích cực, số lao

động đã qua đào tạo ngày càng có chất lượng hơn, cơ cấu lao động qua đào tạo

ngày càng hợp lí hơn. Chất lượng lao động ở các trình độ đào tạo được nâng lên,

bước đầu đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Tỉ lệ lao động có trình độ

từ cao đẳng – đại học trở lên tăng nhanh từ 8,81% năm 1999 lên 20,4% năm 2013,

đây là tiền đề thuận lợi đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.

Sự hình thành các KCN - KCX đã góp phần đào tạo nâng cao kỹ năng, tay nghề và

kỉ luật lao động cùng với tác phong lao động công nghiệp cho người lao động.

Lao động theo thành phần kinh tế cũng chuyển dịch theo hướng giảm tỉ trọng

lao động khu vực nhà nước, tăng tỉ trọng lao động khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt

lao động tăng nhanh ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Theo ba khu vực kinh tế

thì, tỉ trọng lao động khu vực nhà nước cao nhất là ở vùng nội đô, khu vực vùng ven

chiếm tỉ lệ lao động có vốn đầu tư nước ngoài cao nhất so với ba khu vực, còn lao

động ngoài nhà nước có tỉ trọng cao nhất tập trung ở khu vực ngoại thành.

Cùng với quá trình phân bố lại dân cư, lao động TP. HCM có sự chuyển dịch

về mặt lãnh thổ với sự dịch chuyển của lao động từ khu vực nội đô ra khu vực vùng

ven và các huyện ngoại thành. Bước đầu hình thành nên các khu vực kinh tế, khu

vực nội đô lao động tập trung chủ yếu trong khu vực dịch vụ; vành đai lao động

công nghiệp tập trung ở các quận phía tây, tây bắc và đông bắc thành phố như Bình

Tân, Bình Chánh, Hóc Môn, Củ Chi, Quận 12, Thủ Đức, Tân Phú, Gò Vấp; vành

134

đai nông nghiệp tập trung ở các huyện ngoại thành với các huyện Cần Giờ, Nhà Bè,

Bình Chánh, Củ Chi.

 Hạn chế

Nhìn tổng thể, với vị trí địa lí thuận lợi, nhiều nguồn lực trong và ngoài nước

sẵn có tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động

của thành phố. Tuy nhiên, sự chuyển dịch còn chậm, chưa tương xứng với tiềm

năng và thế mạnh của một thành phố lớn như TP. HCM. Quá trình chuyển dịch

chưa mang tính bền vững giữa các ngành kinh tế và ngay trong nội bộ của từng

ngành công nghiệp – xây dựng, dịch vụ cũng như nông nghiệp.

Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành chưa phù hợp so với

chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong các ngành kinh tế, chỉ có ngành nông – lâm –

thủy sản là chuyển dịch lao động nhanh hơn so với chuyển dịch GDP (tỉ trọng GDP

giảm 1,1% trong khi lao động giảm 4,5% giai đoạn 1999 – 2013); trong khi đó lao

động ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ tốc độ chuyển dịch còn chậm.

Quá trình chuyển dịch CCLĐ trong nội bộ các ngành vẫn còn chậm, chưa đạt

được hiệu quả cao về năng suất lao động. Chuyển dịch CCLĐ trong nội bộ các

ngành đang diễn ra theo hướng giảm lao động thủ công, trình độ thấp sang ngành

sử dụng lao động kĩ thuật, trình độ cao, nâng cao chất lượng lao động và tăng

NSLĐ, tuy nhiên tốc độ chuyển dịch chậm. Thâm dụng lao động phổ thông trong

các ngành kinh tế của TP. HCM còn khá cao. Như ngành dệt may và da giày của

thành phố chiếm 50,3% lực lượng lao động công nghiệp nhưng chỉ tạo ra 18,0%

giá trị sản lượng của ngành (2013).

Sự phát triển KT - XH của các địa phương trong VKTTĐPN và cả nước đã

ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế của TP. HCM. Về mặt tích cực, các địa

phương phát triển mạnh các KCN sẽ giúp cho TP. HCM sẽ có nhiều lựa chọn trong

việc tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng khai thác tiềm năng và lợi thế của thành

phố để phát triển các ngành, lĩnh vực mang hiệu quả kinh tế cao, chuyển từ các

ngành thâm dụng lao động sang các ngành thâm dụng về vốn. Tuy nhiên, trong thời

gian qua, các địa phương phát triển nhanh chóng các KCN, có nhiều lợi thế so sánh

và chính sách ưu tiên trong thu hút đầu tư đã thu hút nguồn lao động từ thành phố.

135

Nhiều doanh nghiệp tại các KCN ở Bình Dương, Đồng Nai và một số tỉnh khác có

chính sách “trải thảm đỏ” để lôi kéo hàng ngàn lao động chất xám của TP. HCM về

tỉnh làm việc (trả lương cao, xe đưa rước, lo chỗ ăn ở…) dẫn đến thiếu hụt nguồn

lao động, đặc biệt là lao động chất xám, lao động có trình độ CMKT cao.

Đối với chuyển CCLĐ trong các thành phần kinh tế, khu vực kinh tế ngoài

nhà nước chiếm tỉ trọng lao động cao nhất nhưng đa số tập trung trong các ngành

nghề có CMKT không cao, những ngành thâm dụng lao động với NSLĐ thấp.

Doanh nghiệp trong khu vực này có quy mô vốn nhỏ, máy móc và trang thiết bị

công nghệ cũ. Hơn nữa, lao động chủ yếu là lao động nhập cư, người lao động đến

từ các vùng nông thôn với trình độ chuyên môn và tay nghề thấp, làm việc trong các

ngành có trình độ kĩ thuật thấp. Điều này gây khó khăn trong việc nâng cao trình độ

CMKT cho người lao động và đẩy mạnh chuyển dịch CCLĐ theo chiều sâu.

Bảng 2.25: Lao động và CCLĐ chia theo nghề nghiệp TP. HCM năm 2009 và 2013

2009

2013

Nghề nghiệp

Ngƣời

%

Ngƣời

%

Tổng số

3.676.206

100 4.024.000

100

Nhà lãnh đạo

68.406

2,0

1,7

71.044

Chuyên môn kỹ thuật bậc cao

611.633

13,5

15,2

496.745

Chuyên môn kỹ thuật bậc trung

237.410

5,9

5,9

215.899

Nhân viên

177.052

4,0

4,4

147.536

Dịch vụ cá nhân, bảo vệ và bán hàng

28,1 1.199.122

29,8

1.032.567

Nghề trong nông, lâm, ngư nghiệp

64.382

2,0

1,6

72.151

Thợ thủ công và các thợ khác có liên quan

563.346

14,5

14,0

533.698

Thợ lắp ráp và vận hành máy móc thiết bị

692.111

20,0

17,2

737.311

Nghề giản đơn

410.538

10,0

10,2

369.256

Nguồn:[12], [70]

Trình độ văn hóa, trình độ CMKT của lao động TP. HCM còn thấp so với yêu

cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Lao động chưa qua đào tạo CMKT

chiếm tỉ lệ cao 68,3% (năm 2013), lao động có trình độ CĐ – ĐH và trên ĐH còn

chiếm một tỉ lệ nhỏ trong cơ cấu các ngành kinh tế (20,4%). Cơ cấu đào tạo về mặt

136

trình độ và lĩnh vực đào tạo chưa phù hợp với yêu cầu phát triển nguồn lao động của

thành phố. Năm 2013, lao động có trình độ CMKT bậc cao chiếm 15,2%, CMKT

bậc trung chiếm 5,9% lực lượng lao động thành phố (bảng 2.25).

Số lượng người được đào tạo nghề có tăng nhưng chưa đáp ứng nhu cầu phát

triển và không cân đối giữa các bậc học, cao đẳng - đại học tăng nhanh trong khi

đào tạo nghề và trung học chuyên nghiệp tăng chậm hơn làm cho cơ cấu lao động

theo trình độ càng thêm bất hợp lý. Trên thực tế, quy mô đào tạo công nhân kĩ thuật

và trung cấp chuyên nghiệp quá nhỏ, trong khi quy mô đào tạo sinh viên trình độ

cao đẳng và đại học lớn và đang có xu hướng gia tăng. Năm học 2009 – 2010, thành

phố có 116.976 học sinh hệ giáo dục trung cấp chuyên nghiệp, 369.418 học sinh ở

các cơ sở đào tạo nghề và có 401.012 học sinh học giáo dục cao đẳng và đại học.

Số lượng và chất lượng LĐ phân bố không đồng đều theo lãnh thổ. Phần lớn

LĐ tập trung ở khu vực nội thành, đặc biệt là đội ngũ lao động có trình độ CMKT,

trong khi khu vực ngoại thành chủ yếu là lao động giản đơn, chất lượng thấp.

Đô thị TP. HCM phát triển chưa cân đối. Sự phát triển chưa đồng bộ giữa mở

rộng không gian đô thị và chất lượng đô thị. Sự phát triển không đồng đều giữa phía

Đông và phía Tây. Bên cạnh đó, dân số tại khu vực trung tâm phát triển quá nhanh

và CSHT không theo kịp sự phát triển của kinh tế - xã hội. Mặc dù hạ tầng kỹ thuật

đô thị của TP. HCM trong thời gian gần đây đã được quan tâm đầu tư cải tạo và

nâng cấp, nhưng nhìn chung vẫn còn yếu kém, chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn

của đô thị hiện đại, đặc biệt là vấn đề bảo vệ môi trường. Tình trạng yếu kém và lạc

hậu của hệ thống cấp nước, thoát nước, thu gom và xử lý chất thải, hệ thống giao

thông đang ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình chuyển dịch CCKT và CCLĐ.

137

138

139

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

TP. HCM có vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội thuận lợi cho

phát triển kinh tế, là đầu mối giao thông quốc tế, trung tâm công nghiệp – dịch vụ

của cả nước. Thành phố trở thành thị trường lao động lớn, có sức hút đối với lao

động nhập cư. Thời gian qua, đóng góp vào sự gia tăng dân số của thành phố chủ

yếu là do gia tăng cơ học, là dòng di cư từ các tỉnh thành phố khác đến TP. HCM

làm cho lực lượng lao động của thành phố đông và tăng nhanh, lao động có cơ cấu

trẻ và chất lượng lao động ngày càng được nâng cao.

Quá trình đô thị hóa ở TP. HCM đang diễn ra nhanh cùng với quá trình CNH –

HĐH. Tỉ lệ đô thị hóa đứng thứ hai cả nước với 82,4% dân số sống ở khu vực thành

thị. Cơ cấu sử dụng đất có sự chuyển biến theo hướng giảm diện tích đất nông

nghiệp và tăng diện tích đất phi nông nghiệp. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp

ngày càng bị thu hẹp cùng với đó là sự xuất hiện của các khu công nghiệp, khu dân

cư đã ảnh hưởng lớn đến cơ cấu lao động, việc làm của TP. HCM.

Dựa vào các tiêu chí đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu lao động của TP. HCM

như chuyển dịch cơ cấu kinh tế, năng suất lao động xã hội để phân tích quá trình

chuyển dịch cơ cấu lao động của TP. HCM, kết quả cho thấy cơ cấu lao động theo

ngành, theo thành phần kinh tế đều chuyển dịch theo hướng CNH – HĐH. Tuy

nhiên, quá trình chuyển dịch còn chậm, lao động vẫn chủ yếu tập trung trong các

ngành có năng suất và hiệu quả kinh tế không cao, các ngành thâm dụng lao động;

còn các ngành thâm dụng vốn, các ngành kĩ thuật cao và các ngành trọng điểm vẫn

chưa đạt hiệu quả cao. Có sự khác biệt trong cơ cấu lao động giữa khu vực thành thị

và nông thôn, giữa nội thành và ngoại thành.

Chất lượng lao động ngày càng được nâng cao. Đây là một tín hiệu tốt cho sự

phát triển kinh tế cuả thành phố theo định hướng phát triển theo chiều sâu, đổi mới

mô hình tăng trưởng kinh tế. Tuy vậy, số lao động có trình độ CMKT vẫn chưa đáp

ứng đủ nhu cầu phát triển của thành phố, có sự mất cân đối về lao động có trình độ

giữa các ngành kinh tế, thành phần kinh tế, mất cân đối giữa các bậc học và giữa

quan hệ cung – cầu lao động của TP. HCM.

140

Chƣơng 3

ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG Ở

TP. HỒ CHÍ MINH TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN NĂM 2025

3.1. Định hƣớng chuyển dịch cơ cấu lao động ở TP. HCM đến năm 2025

3.1.1. Căn cứ xây dựng định hƣớng

3.1.1.1. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng KTTĐPN

Vùng KTTĐPN là vùng kinh tế trọng điểm năng động nhất cả nước, tốc độ

tăng trưởng kinh tế cao; có vị trí, vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã

hội; là vùng có đầy đủ các lợi thế để phát triển công nghiệp, dịch vụ, đi đầu trong sự

nghiệp CNH – HĐH đất nước; trong đó TP. HCM là trung tâm kinh tế tổng hợp đa

chức năng lớn nhất Vùng và cả nước.

Theo Quyết định số 252/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 13/02/2014

về “Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng KTTĐPN đến

năm 2020, định hướng đến năm 2030”[66] xác định vùng KTTĐPN là đầu tàu phát

triển kinh tế của cả nước; là cầu nối với các khu vực ĐBSCL và Tây Nguyên. Trong

đó, khu vực TP. HCM và các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương là địa

bàn trọng điểm, phát huy vai trò động lực và lan tỏa phát triển cho các địa phương

khác trong Vùng và cả nước.

Cơ cấu kinh tế của Vùng chuyển dịch theo hướng hiện đại, tăng cường đóng

góp của khu vực dịch vụ, tập trung ưu tiên đầu tư các ngành có tiềm năng, lợi thế,

có năng suất lao động và hàm lượng tri thức cao. Đối với phát triển công nghiệp,

TP. HCM tập trung phát triển các ngành công nghiệp chủ lực, mũi nhọn, hàm lượng

công nghiệp cao, hạn chế phát triển thêm các KCN trong khu vực nội thành, chuyển

dần các cơ sở công nghiệp sang các tỉnh Tây Ninh, Long An, Bình Phước, Tiền

Giang. Ngành dịch vụ TP. HCM không chỉ chiếm tỉ trọng lớn nhất Vùng mà còn trở

thành trung tâm dịch vụ tầm khu vực Đông Nam Á, phát triển các loại hình dịch vụ

cao cấp như tài chính, ngân hàng, thương mại, du lịch, GTVT biển, nghiên cứu ứng

dụng và triển khai KHCN…. Đến năm 2020 các ngành công nghiệp – xây dựng và

dịch vụ chiếm 95 – 96% tổng GDP, trong đó tỉ trọng dịch vụ đạt khoảng 44%, tốc

độ tăng trưởng đạt khoảng 8,5 – 9%.

141

Tập trung đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao với cơ cấu

ngành hợp lí, phù hợp với yêu cầu phát triển KT – XH của Vùng. Nâng cao chất

lượng, mở rộng quy mô đào tạo với cơ cấu ngành nghề và trình độ hợp lý theo

nhiều hình thức, phấn đấu đạt tỉ lệ LĐ qua đào tạo khoảng 85% vào năm 2020. Trở

thành trung tâm giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và trung tâm

chuyển giao, ứng dụng KHCN hàng đầu cả nước. Đầu tư xây dựng trường Đại học

Quốc gia TP.HCM trở thành trung tâm đào tạo chất lượng cao của vùng và cả nước.

Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng CNH – HĐH,

giảm tỉ trọng và số lượng lao động trong nhóm ngành nông – lâm – ngư nghiệp,

tăng quy mô và tỉ trọng lao động phi nông nghiệp. Lao động khu vực dịch vụ, công

nghiệp – xây dựng chiếm trên 85% tổng số lao động.

Quy hoạch phát triển đô thị TP. HCM theo hướng đa trung tâm, nhằm tạo

động lực để phát triển các vùng xung quanh, giảm áp lực cho khu vực trung tâm TP.

HCM. Xét mối quan hệ giữa TP. HCM với các tỉnh trong vùng KTTĐPN, TP.

HCM được xác định là trung tâm động lực của Vùng; trung tâm dịch vụ, công

nghiệp, khoa học - công nghệ của khu vực Đông Nam Á. Tạo mối liên kết mang

tính hệ thống giữa các đô thị trong Vùng, phát triển các hành lang đô thị từ TP.

HCM với các đô thị vệ tinh như Nhơn Trạch, Long Thành, Dĩ An - Thuận An,

Trảng Bom, Bến Lức… dọc theo các hành lang quốc lộ 1A, 13, 22, 50, 51 nhằm

phát huy thế mạnh của các tỉnh.

3.1.1.2. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội TP. HCM

Theo Quyết định số 2631/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 31/12/2013

về “Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội TP. HCM đến năm

2020, tầm nhìn đến năm 2025” đã xác định mục tiêu và nhiệm vụ chung là “Xây

dựng TP. HCM trở thành thành phố văn minh, hiện đại với vai trò đô thị đặc biệt,

đi đầu trong sự nghiệp CNH - HĐH, đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển của

khu vực phía Nam và cả nước; từng bước trở thành trung tâm lớn về kinh tế, tài

chính, thương mại, khoa học công nghệ của đất nước và khu vực Đông Nam Á;

trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Vùng và cả nước”[67].

142

Định hướng phát triển KT - XH của thành phố trong mối quan hệ kinh tế - xã

hội với vùng TP. HCM. Vai trò đầu tàu kinh tế của TP. HCM là hạt nhân của Vùng

TP. HCM. Đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050: TP. HCM vẫn là thành phố lớn

nhất cả nước về quy mô dân số, quy mô GDP và GDP/người, giá trị thương mại và

thu hút FDI. Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm cao hơn 1,5 lần mức tăng trưởng

bình quân cả nước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2021 - 2025 đạt

từ 8,5% - 9%/ năm, GDP bình quân trên đầu người đạt từ 13.340 -14.285 USD.

Chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ phát triển theo chiều rộng sang

phát triển theo chiều sâu; sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao và áp dụng tiến bộ

KHCN vào sản xuất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu và mở

rộng thị trường nội địa; đẩy mạnh CDCCKT theo hướng dịch vụ - công nghiệp -

nông nghiệp. Tập trung phát triển các ngành, lĩnh vực thành phố có lợi thế, trong đó

ưu tiên phát triển 4 nhóm ngành công nghiệp có hàm lượng KHCN và giá trị gia

tăng cao; 9 ngành dịch vụ cao cấp; các sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao.

Bảng 3.1. Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế TP. HCM đến năm 2025

Đơn vị

2016 - 2020

2021 – 2025

Tốc độ tăng trưởng kinh tế

9,5 - 10

8,5 – 9

%

- Nông nghiệp

%

10,17 – 11

8,55 – 9,37

- CN – XD

%

8,7

8,5

- Dịch vụ

%

5,0

5,0

GDP/người

USD

8.430 - 8.822

13.340 – 14.285

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

- Nông nghiệp

%

0,74 – 0,78

0,61 – 0,66

- CN – XD

%

39,19 – 41,07

38,29 – 41,05

- Dịch vụ

%

58,16 – 60,07

58,29 – 61,10

Nguồn: [67]

Tỉ trọng của ngành dịch vụ tăng dần qua các năm, đến năm 2020 tỉ trọng

ngành dịch vụ chiếm 58,16 - 60,07% và đạt 58,29 - 61,10% năm 2025. Khu vực

công nghiệp thay đổi từ 39,19 - 41,07% năm 2020 đến năm 2025 đạt 38,29 -

41,05%. Khu vực nông nghiệp giảm từ 0,74 -0,78% năm 2020 xuống còn 0,61-

143

0,66% năm 2025. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân 10%/năm giai đoạn

2016 - 2020 và 12%/năm giai đoạn 2021 - 2025.

Mục tiêu đưa TP. HCM trở thành trung tâm lớn về giáo dục đào tạo chất lượng

cao của cả nước và khu vực Đông Nam Á, thành phố sẽ tiếp tục là nơi tập trung các

cơ sở đào tạo chất lượng cao trong nước và quốc tế, nâng cao chất lượng giáo dục

TP. HCM ngang tầm với các nước trong khu vực. Chú trọng công tác đào tạo nghề,

từng bước nâng cao trình độ lao động có CMKT; đào tạo nghề gắn với nhu cầu xã

hội. Phấn đấu đến năm 2020 tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt 85%, năm 2025 đạt 90%.

Về giao thông, mạng lưới giao thông được tập trung phát triển nối liền các khu

đô thị mới, các đô thị vệ tinh, các khu công nghiệp, các công trình đầu mối giao

thông liên vùng, gắn kết chặt chẽ với các tỉnh trong Vùng KTTĐPN. Phát triển hệ

thống giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt, đường hàng không để trở thành

đầu mối giao thông trong Vùng và kết nối khu vực Đông Nam Bộ với Tây Nam Bộ,

với khu vực và quốc tế.

Tập trung đầu tư phát triển giao thông công cộng, nâng cấp sân bay, bến cảng,

nâng cấp quốc lộ 1A, 13, 22, 50, 51 và mở trục đường giao thông nối liền thành phố

với các vùng đô thị phát triển, các KCN tập trung đang và sẽ hình thành theo quy

hoạch. Nâng cấp và bổ sung hệ thống giao thông đối ngoại của thành phố, tạo mối

liên kết giữa thành phố với khu vực phía Nam và cả nước. Các trục hướng tâm đối

ngoại như: trục TP. HCM - Biên Hòa - Vũng Tàu (Xa lộ Hà Nội); trục TP. HCM -

Long Thành - Dầu Giây; trục TP. HCM - Thủ Dầu Một - Chơn Thành (quốc lộ 13);

trục TP. HCM - Mộc Bài; trục cao tốc TP. HCM - Trung Lương - Cần Thơ… sẽ

giúp các tỉnh trong Vùng gắn kết hỗ trợ nhau phát triển đồng bộ, khai thác tốt nhất

thế mạnh kinh tế - xã hội tổng hợp của toàn vùng.

3.1.1.3. Thành tựu và hạn chế trong quá trình CDCCLĐ của TP. HCM

Quá trình ĐTH gắn với quá trình CNH đã tác động đến quá trình CDCCLĐ ở

TP. HCM. ĐTH diễn ra nhanh, kinh tế phát triển mạnh đã thu hút nguồn lao động

đông và tăng nhanh đặc biệt là lao động nhập cư lớn. Chuyển dịch CCLĐ theo

ngành và TPKT diễn ra phù hợp với quy hoạch phát triển KT - XH và quá trình

CNH - ĐTH, đạt được kết quả tốt so với mục tiêu đề ra. CCLĐ theo trình độ

144

CMKT cũng chuyển dịch tích cực, LĐ qua đào tạo ngày càng có chất lượng hơn,

CCLĐ qua đào tạo ngày càng hợp lí hơn. Chất lượng lao động ở các trình độ đào

tạo được nâng lên, bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Lao

động chuyển dịch về mặt lãnh thổ với sự dịch chuyển LĐ từ nội đô ra KV vùng ven

và ngoại thành do mở rộng không gian đô thị, do quy hoạch...

Tuy nhiên, tốc độ chuyển dịch vẫn còn chậm, chưa đạt được hiệu quả cao về

NSLĐ. Thâm dụng LĐ phổ thông trong các ngành kinh tế còn lớn. Đội ngũ LĐ

chất lượng cao và công nhân lành nghề vẫn còn thiếu nhiều so với nhu cầu xã hội.

Phân bố LĐ chưa hợp lí, đặc biệt là LĐ có trình độ CMKT tập trung chủ yếu tại

KV nội thành, KV ngoại thành chủ yếu là LĐ giản đơn, chất lượng thấp. Phân bố

không đều giữa các ngành kinh tế, lao động có trình độ tập trung chủ yếu trong

ngành dịch vụ và công nghiệp.

3.1.2. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu lao động TP. HCM

Chuyển dịch cơ cấu lao động TP. HCM phải gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh

tế nhằm thực hiện thành công định hướng phát triển kinh tế - xã hội TP. HCM đến

năm 2025 theo đúng quan điểm và mục tiêu phát triển của thành phố.

Chuyển dịch lao động của TP. HCM đến năm 2025 cần phải gắn kết với quá

trình chuyển dịch lao động của vùng KTTĐPN, cả nước và quốc tế. Trong mỗi giai

đoạn phát triển TP. HCM cần có kế hoạch phát triển cụ thể với từng chương trình

trọng điểm, hoạch định chỉ tiêu phấn đấu cho mỗi giai đoạn, phải có tầm nhìn dài

hạn và bước đi thích hợp theo yêu cầu phát triển của thành phố.

Chuyển dịch cơ cấu lao động TP. HCM phải đảm bảo tính hài hòa về cơ cấu

và cân đối lao động theo ngành/lĩnh vực, theo thành phần kinh tế; gắn với chuyển

đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu một cách hợp lí. Khai

thác lợi thế về vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, các nguồn lực về vốn, tài chính, khoa

học công nghệ và nguồn lực con người để thu hút đầu tư vào TP. HCM các ngành,

lĩnh vực sản xuất kinh doanh thâm dụng về vốn, lao động trình độ cao, những ngành

công nghiệp có giá trị gia tăng cao và các ngành dịch vụ cao cấp.

Chuyển dịch cơ cấu lao động TP. HCM phải gắn liền với quá trình CNH –

HĐH và quá trình đô thị hóa, phù hợp với quy hoạch và xây dựng hệ thống cơ sở hạ

145

tầng đô thị, với quy hoạch sử dụng đất đai và phát triển không gian đô thị của TP.

HCM. Phải có giải pháp giải quyết việc làm cho những lao động bị mất đất sản xuất

do tác động của ĐTH.

Chuyển dịch cơ cấu lao động TP. HCM phải gắn liền với yêu cầu của hội nhập

quốc tế, nâng cao chất lượng nguồn lao động nhằm đáp ứng sự nghiệp CNH – HĐH

đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình phân

công lao động diễn ra sâu sắc, bên cạnh sự hợp tác trong sản xuất là sự cạnh tranh

diễn ra ngày càng gay gắt. Trong đó, yếu tố người lao động là yếu tố quyết định cho

sự thành công của mỗi quốc gia. Quá trình dịch chuyển lao động sẽ diễn ra mạnh

mẽ, đòi hỏi các nước phải nâng cao chất lượng nguồn lao động, chuyển đổi cơ cấu

kinh tế phù hợp với tiềm năng và lợi thế của mình.

Chuyển dịch cơ cấu lao động TP. HCM phải khai thác và sử dụng có hiệu quả

nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển

kinh tế, gắn với mục tiêu giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập người lao động.

3.1.3. Các định hƣớng cụ thể ở TP. HCM

3.1.3.1. Định hướng phát triển kinh tế

 Quy mô, tăng trưởng kinh tế

TP. HCM tiếp tục đi đầu trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước, phát huy

những lợi thế về vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội để giữ vững vai

trò là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đóng góp ngày càng lớn trong cơ cấu

GDP của cả nước.

Vị trí trung tâm của thành phố trong mối quan hệ lãnh thổ với các vùng như

ĐBSCL, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên thúc đẩy mạnh mẽ mối quan hệ giao lưu,

trao đổi – hợp tác về kinh tế cũng như lao động giữa TP. HCM với các tỉnh thành

của các vùng miền.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn cao hơn so với cả nước, trong đó, khu vực

dịch vụ có tốc độ tăng nhanh nhất và đóng góp nhiều nhất trong cơ cấu GDP; tiếp

theo là khu vực công nghiệp – xây dựng và thấp nhất là khu vực nông nghiệp.

146

 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Định hướng phát triển kinh tế - xã hội TP. HCM đến năm 2025, TP. HCM đẩy

mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo chiều sâu: phát triển nhanh các ngành,

sản phẩm công nghiệp, dịch vụ có hàm lượng KHCN cao, giá trị gia tăng lớn; phát

triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái. Hình thành cơ cấu kinh tế

dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp.

Ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng và tỉ trọng cao nhất trong cơ cấu GDP,

trở thành trung tâm tài chính và dịch vụ cao cấp của cả nước và khu vực. Tốc độ

tăng trưởng GDP bình quân khu vực dịch vụ giai đoạn 2016 - 2020 đạt từ 10,17% -

11%/năm, giai đoạn 2021 - 2025 đạt từ 8,55% - 9,37 %/năm. Đến năm 2025, tỉ

trọng khu vực dịch vụ là 58,29% - 61,10% trong cơ cấu GDP [67].

Thành phố tập trung phát triển 9 nhóm ngành dịch vụ có giá trị cao và ưu thế

cạnh tranh mạnh là tài chính - tín dụng - ngân hàng - bảo hiểm; thương mại; vận tải,

kho bãi, dịch vụ cảng - hậu cần hàng hải và xuất nhập khẩu; bưu chính - viễn thông

và công nghệ thông tin - truyền thông; kinh doanh tài sản - bất động sản; dịch vụ

thông tin tư vấn, KHCN; du lịch; y tế; giáo dục - đào tạo. Định hướng này phù hợp

với nguồn lực và xu hướng phát triển của TP. HCM để trở thành trung tâm dịch vụ

khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, việc tập trung phát triển cùng một lúc 9 nhóm

ngành dịch vụ là quá nhiều, dễ dẫn đến đầu tư dàn trải, không có trọng tâm làm cho

quá trình CDCCKT diễn ra chậm, không đem lại hiệu quả như mong đợi.

Theo phân tích mục 2.2.2 ta thấy nhiều ngành chiếm tỉ trọng rất thấp trong

GDP, thậm chí tỉ trọng có xu hướng giảm (bảng 2.2). Vì vậy, thành phố nên xác

định quá trình CDCCKT theo từng giai đoạn, có thể là giai đoạn 5 năm, lựa chọn

một số ngành để tập trung đầu tư, sau đó tiếp tục đầu tư sang các ngành khác. Trước

mắt, cần tập trung vào các ngành thành phố có lợi thế cạnh tranh, có hàm lượng

KHCN và giá trị gia tăng cao như thương mại quốc tế, tài chính-ngân hàng, vận tải-

dịch vụ cảng, bưu chính viễn thông, du lịch. Đây là những ngành hiện có tốc độ

tăng trưởng cao, đóng góp phần lớn vào tỉ trọng GDP khu vực dịch vụ thành phố.

Công nghiệp đã và đang được tập trung ưu tiên phát triển các ngành có hàm

lượng KHCN và giá trị gia tăng cao, có lợi thế cạnh tranh, trong đó tập trung phát

147

triển 4 nhóm ngành mũi nhọn là cơ khí, điện tử - tin học, hóa chất, chế biến thực

phẩm – đồ uống. Hiện nay, TP. HCM đang đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là

chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các tỉnh thuộc vùng KTTĐPN về thu hút vốn đầu tư,

lao động, thị trường… đòi hỏi thành phố phải có sự điều chỉnh chiến lược phát triển

kinh tế phù hợp với lợi thế của mình trong giai đoạn mới. Đó là các lợi thế về: lực

lượng lao động kĩ thuật cao, đội ngũ công nhân lành nghề, trung tâm giáo dục hàng

đầu cả nước; hệ thống CSHT hoàn thiện nhất nước; hệ thống công nghiệp phụ trợ;

đầu mối giao thông quốc tế và thị trường tiêu thụ lớn nhất cả nước…

Những lợi thế này giúp cho TP. HCM có điều kiện thuận lợi tập trung chuyển

dịch sang các ngành công nghiệp kĩ thuật cao, giá trị gia tăng cao; phát triển các

ngành dịch vụ hiện đại, dịch vụ hỗ trợ sản xuất. Trong thời gian tới, các ngành công

nghiệp thâm dụng lao động, năng suất lao động thấp, những ngành mà thành phố

không có lợi thế cạnh tranh có xu hướng chuyển dịch sang các địa phương khác

nhất là các địa phương thuộc VKTTĐ phía Nam.

Song song với việc thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp và dịch vụ,

ngành nông nghiệp được đầu tư phát triển theo hướng nông nghiệp đô thị hiện đại,

hiệu quả và phát triển bền vững. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, gắn

nông nghiệp sinh thái với công nghiệp chế biến, sản xuất nông nghiệp kết hợp với

kinh doanh, phục vụ du lịch. Chỉ tiêu đến năm 2025 tỉ trọng nông nghiệp chiếm

khoảng 0,61 - 0,66% trong cơ cấu GDP, lao động làm việc trong lĩnh vực sản xuất

nông nghiệp khoảng 40.000 - 50.000 người.

Biểu đồ 3.1: Cơ cấu ngành kinh tế TP. HCM năm 2013 và dự báo đến năm 2025 (%)

Năm 2025

Năm 2013

0,6

1,0

38,3

40,6

58,4

61,1

Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ

Nguồn: [67]

148

Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế, khu vực nhà nước tiếp tục có xu

hướng giảm tỉ trọng, tăng nhanh ở khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu

tư nước ngoài. Trong thời gian tới, với sự phát triển nhanh của KHCN, nhất là công

nghệ thông tin và truyền thông tạo điều kiện cho thành phố nhanh chóng tiếp cận và

ứng dụng tiến bộ KHCN vào sản xuất. Đây là yếu tố quan trọng để thu hút đầu tư,

chuyển giao công nghệ, nhất là đối với các nhà đầu tư đến từ các nước phát triển.

Ngoài ra, thành phố đang thu hút đầu tư vào các ngành có trình độ công nghệ cao,

giá trị gia tăng lớn phù hợp với quá trình CDCCKT như đã phân tích ở trên. Vì vậy,

giai đoạn tới TP. HCM vẫn sẽ là địa phương đi đầu trong thu hút đầu tư nước ngoài

FDI, các tập đoàn lớn của nước ngoài vẫn tiếp tục đầu tư vào thành phố, đặc biệt là

các ngành có hàm lượng KHCN cao, các dịch vụ cao cấp, tài chính, ngân hàng, bất

động sản, y tế, giáo dục phù hợp với quy hoạch phát triển thành phố. Hiện nay, khu

vực đầu tư nước ngoài chiếm 23,8% cơ cấu GDP (2013), nếu thành phố có những

điều chỉnh về cơ chế và chính sách phù hợp thì khu vực này trong những năm tới sẽ

có sự chuyển dịch theo hướng tích cực cả về số lượng và chất lượng.

 Phát triển các KCN - KCX

Quy hoạch các khu - cụm công nghiệp tập trung của TP. HCM đến năm 2025

bao gồm 1 khu công nghệ cao có diện tích 872 ha; 20 KCN tập trung, KCX có diện

tích 6.020 ha và các cụm công nghiệp địa phương (cũ và mới) có diện tích 1.900 ha.

Trong thời gian tới, thành phố phát triển các KCN – KCX theo các hướng sau:

Thứ nhất, thành phố di dời các xí nghiệp công nghiệp gây ô nhiễm môi trường

ra khỏi khu vực nội thành cũ, hạn chế phát triển công nghiệp ở khu vực vùng ven,

mở rộng và thành lập mới các khu - cụm công nghiệp tại khu vực ngoại thành.

Vùng phát triển công nghiệp được phát triển tại các quận mới và các huyện Củ Chi,

Hóc Môn, Bình Chánh, Nhà Bè. Hiện nay, HEPZA quản lý 13 KCN - KCX đang

hoạt động với tổng diện tích là 2.471,83 ha, tập trung tại các quận mới Q.2, 7, 12,

Thủ Đức, Bình Tân và các huyện Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè. Dự kiến thành lập

thêm 6 KCN mới với tổng diện tích là 1.455,0 ha tập trung ở các huyện Củ Chi

(KCN Phước Hiệp, Bàu Đưng), Hóc Môn (KCN Xuân Thới Thượng), Bình Chánh

(KCN Lê Minh Xuân 2, 3, Vĩnh Lộc 3). Đồng thời thực hiện mở rộng 4 KCN ở Nhà

149

Bè (KCN Hiệp Phước GĐ3), Bình Chánh (KCN Lê Minh Xuân, Vĩnh Lộc), Củ Chi

(KCN Tây Bắc Củ Chi GĐ2).

Thứ hai, thực hiện chuyển dịch cơ cấu theo hướng thu hút đầu tư phát triển

những ngành công nghiệp sử dụng kỹ thuật và công nghệ cao, tạo ra những sản

phẩm có giá trị xuất khẩu lớn, hạn chế tiếp nhận các dự án đầu tư mới sử dụng

nhiều lao động phổ thông. Tại các KCN mở rộng và hình thành mới thu hút các

ngành mũi nhọn gắn với quy hoạch các ngành công nghiệp chủ lực của thành phố

như điện - điện tử, hóa chất cơ bản, cơ khí, chế biến thực phẩm... và công nghiệp

phụ trợ, công nghiệp sạch không gây ô nhiễm môi trường.

Thứ ba, phát triển các KCN - KCX của thành phố phù hợp với chiến lược phát

triển và phân bố lực lượng sản xuất của toàn vùng, có mối quan hệ hợp tác với các

KCN của các tỉnh lân cận trong VKTTĐPN nhằm khắc phục nhược điểm manh

mún, dàn trải, cạnh tranh lẫn nhau, giải quyết các vấn đề về môi trường và xã hội.

Tóm lại, theo định hướng đến 2025, cơ cấu kinh tế TP. HCM chuyển dịch

mạnh mẽ từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, từ sản xuất

công nghiệp sang các hoạt động dịch vụ; phát triển kinh tế mở cửa nhiều thành

phần, tăng cường thu hút vốn trong và ngoài nước, tập trung phát triển các ngành

kinh tế mũi nhọn, đẩy mạnh xuất khẩu nhằm tiếp cận với thị trường thế giới; Phát

triển các KCN của thành phố phù hợp với chiến lược phát triển và phân bố lực

lượng sản xuất của toàn vùng, có mối quan hệ hợp tác với các KCN của các tỉnh

lân cận trong một thể thống nhất. Với định hướng phát triển như trên, trong thời

gian tới lao động có xu hướng tập trung dịch chuyển sang khu vực dịch vụ, khu vực

ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, nhu cầu lao động có trình độ

chuyên môn, kĩ thuật cao ngày càng tăng, lao động chân tay giản đơn giảm và xu

hướng chuyển dần sang các tỉnh thành lân cận.

150

3.1.3.2. Định hướng về đô thị hóa

 Quy mô dân số thành phố

Bảng 3.2: Dân số TP. HCM năm 2013 và dự kiến phân bố đến năm 2025

2013

2025

Năm

TĐTBQ 2014 - 2025 %

%

%

Đơn vị

Người

Người

Nội đô

4.075.951

45,0

4.500.000

51,3

0,83

Quận mới

2.358.057

29,0

2.900.000

29,7

1,74

Các huyện

1.505.744

26,0

2.600.000

19,0

4,66

Toàn thành

7.939.752

10.000.000

1,94

100

100

Nguồn: [13], [65]

Theo “Quy hoạch chung xây dựng TP. HCM đến năm 2025” [65] thì quy mô

dân số dự kiến của TP. HCM là 10 triệu người và có khoảng 2,5 triệu khách vãng

lai. Trong đó, dân số khu nội đô khoảng 4,5 triệu người; khu vực vùng ven, quận

mới dân số khoảng 2,9 triệu người; khu vực ngoại thành khoảng 2,6 triệu người

(trong đó dân nông thôn khoảng 0,5 triệu người).

Theo quy hoạch trên thì khu vực nội đô có tốc độ tăng dân số thấp nhất, trung

bình 0,83 %/năm giai đoạn 2014 – 2025; khu vực ngoại thành có tốc độ tăng dân số

cao nhất 4,66 %/năm; khu vực quận mới tốc độ tăng đạt 1,74 %/năm. Tuy nhiên,

nếu so sánh với giai đoạn trước 2000 – 2013 (xem bảng 2.6), ta thấy khu vực vùng

ven, quận mới có tốc độ tăng dân số cao nhất 8,59 %/năm, khu vực ngoại thành tốc

độ tăng là 3,59 %/năm. Trong điều kiện khu vực vùng ven, quận mới vẫn tiếp tục

được quy hoạch là nơi tập trung các KCN – KCX; đầu tư xây dựng các khu đô thị

mới có quy mô lớn, hiện đại (khu đô thị mới Thủ Thiêm Q.2 diện tích 737 ha, Khu

công nghệ cao Q.9 diện tích 872 ha); xây dựng và hiện đại hệ thống CSHT và

CSVCKT đô thị; là nơi có sức hút dân cư lớn, đặc biệt là lao động nhập cư thì tốc

độ tăng dân số có xu hướng giảm đột ngột từ 8,59 %/năm xuống còn 1,74 %/năm là

điều khó có thể xảy ra. Năm 2013, dân số ở khu vực quận mới đã là 2,3 triệu người,

đến năm 2025 theo quy hoạch là 2,9 triệu người, tuy nhiên, thực tế dân số sẽ có thể

tăng cao hơn so với quy hoạch.

151

 Cơ cấu sử dụng đất

Theo “Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 của TP. HCM” [10] thì diện tích

đất nông nghiệp chuyển sang đất phi nông nghiệp giai đoạn 2013 – 2020 là 34.895

ha, trung bình giảm 4.985 ha/năm. Cơ cấu sử dụng đất có sự chuyển dịch mạnh mẽ,

trong đó đất nông nghiệp giảm 16,8%, đất phi nông nghiệp tăng 16,9% trong giai

đoạn 2013 – 2020 (biểu đồ 3.2).

Biểu đồ 3.2: Cơ cấu sử dụng đất của TP. HCM năm 2013 và dự kiến 2020 (%)

Năm 2013 0,2

Năm 2020 0,1

39,0

55,8

44,0

60,9

Đất nông nghiệp Đất phi nông nghiệp Đất chưa sử dụng

Nguồn: tính toán từ [10]

Đất đai của các huyện ngoại thành có sự chuyển dịch nhanh nhất do quá trình

ĐTH diễn ra mạnh mẽ, quỹ đất dành cho nông nghiệp còn khá lớn, có khả năng

chuyển đổi mục đích sử dụng thành đất phi nông nghiệp. Theo định hướng đến năm

2025, các huyện có 4 KCN dự kiến mở rộng với quy mô diện tích là 849,24 ha và 6

KCN dự kiến thành lập mới với tổng diện tích 1.455 ha; phát triển hai khu đô thị

mới quy mô lớn là KĐT Tây – Bắc (Củ Chi, Hóc Môn) diện tích khoảng 6.000 ha

và KĐT cảng Hiệp Phước (Nhà Bè) diện tích 3.900 ha; xây dựng các cụm công

nghiệp, khu dân cư mới, mở rộng và xây dựng mới hệ thống CSHT đô thị…làm cho

diện tích đất nông nghiệp giảm nhanh chóng, tăng diện tích đất phi nông nghiệp.

Đất đai ở khu vực nội đô chủ yếu là đất phi nông nghiệp và không có sự biến

động nhiều. Khu vực vùng ven xu hướng giảm diện tích đất nông nghiệp xuống còn

tỉ lệ thấp, đất đai chủ yếu để phục vụ cho xây dựng các khu đô thị mới hiện đại, các

khu dân cư, đất cho CSHT, xây dựng và quy hoạch mạng lưới GTVT, các cơ sở

nghiên cứu, giáo dục, nghỉ ngơi, giải trí, công viên cây xanh, nhà ở, cơ sở sản xuất...

152

 Phát triển không gian đô thị

 Khu vực nội đô

Gồm các quận nội thành cũ với diện tích tự nhiên là 14.100 ha, chỉ tiêu bình quân đất xây dựng đô thị 31,6 m2/người, đất ở 13,1 m2/người. Đây là khu vực có

quá trình phát triển trên 300 năm, quá trình đô thị hóa diễn ra sớm nhất, nơi tập

trung các cơ quan hành chính, các tổ chức đầu não cấp Trung ương và Thành phố,

các trung tâm thương mại, tài chính ngân hàng, trung tâm văn hóa khoa học kĩ

thuật… Trọng tâm ở khu vực này là cải tạo, chỉnh trang kết hợp với xây dựng mới

mạng lưới giao thông, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng đô thị; di dời các cơ sở xí nghiệp

công nghiệp ra bên ngoài; tập trung phát triển các ngành thương mại – dịch vụ, đặc

biệt là các ngành dịch vụ chất lượng cao.

Trung tâm tổng hợp chính của thành phố thuộc địa bàn Quận 1, Quận 3, một

phần Quận 4, Bình Thạnh và mở rộng sang khu đô thị mới Thủ Thiêm. Chức năng

chính là trung tâm hành chính, văn hóa, lịch sử; trung tâm tài chính, thương mại,

dịch vụ cao cấp; trung tâm KHCN, giáo dục đào tạo chất lượng cao.

Các khu vực còn lại thuộc địa bàn Quận 5, 6, 8, 10, 11, Phú Nhuận, Gò Vấp,

Tân Bình có chức năng là trung tâm tài chính, thương mại, dịch vụ; trung tâm

KHCN, y tế, GD - ĐT, văn hóa - thể thao; trung tâm công nghiệp công nghệ cao.

 Khu vực vùng ven

Gồm 7 quận mới diện tích đất khoảng 35.100 ha, chỉ tiêu đất xây dựng đô thị 104 m2/người, gấp 3,3 lần nội thành cũ. Đây là khu vực đang đô thị hóa rất nhanh.

Thời gian qua khu vực này đã tiếp nhận một bộ phận lớn dân cư được điều chuyển

từ trung tâm ra, chia sẻ một số chức năng mà khu vực trung tâm đã quá tải. Định

hướng trong thời gian tới, khu vực này tập trung xây dựng CSHT đô thị mới theo

hướng hiện đại, đồng bộ; xây dựng một số khu đô thị mới có quy mô lớn, hiện đại;

hoàn thiện và hiện đại các KCN – KCX hiện có, không xây dựng mới các KCN;

tiếp nhận các trường ĐH, CĐ, THCN từ nội thành di chuyển ra…

Chức năng chính của khu vực là trung tâm công nghiệp, ưu tiên các ngành

công nghiệp có hàm lượng KHCN cao, giá trị gia tăng lớn; các ngành công nghiệp

thu hút nhiều lao động, gây ô nhiễm môi trường sẽ chuyển dịch dần ra khu vực

153

ngoại thành và các tỉnh thành lân cận. Ngoài ra, còn có chức năng là trung tâm dịch

vụ, KHCN, giáo dục, y tế, thể dục – thể thao, ...

 Khu vực ngoại thành

Dân số khoảng 2,7 - 3 triệu người, trong đó dân nông thôn 0,5 triệu người, với

tổng diện tích là 160.200 ha. Sẽ xây dựng nhiều KCN tập trung, diện tích khoảng

7.000 ha, thu hút 20% lực lượng lao động, ưu tiên công nghệ hàm lượng khoa học

kĩ thuật cao, ít ô nhiễm môi trường (hiện trạng đã xây dựng 2.000 ha). Hình thành

vùng nông nghiệp kết hợp vành đai sinh thái được phát triển tại các huyện Củ Chi,

Hóc Môn, Bình Chánh, Cần Giờ. Các khu dân cư nông thôn được phát triển tại

huyện Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh, Cần Giờ, Nhà Bè.

 Hướng phát triển không gian đô thị

Quy hoạch phát triển không gian đô thị TP. HCM thì khu đô thị trung tâm của

thành phố là khu vực nội đô, khu đô thị mới Thủ Thiêm và mở rộng phát triển theo

bốn hướng, trong đó hai hướng chính là hướng Đông (hành lang phát triển là tuyến

cao tốc TP HCM - Long Thành - Dầu Giây và dọc tuyến xa lộ Hà Nội) và Nam (ra

biển với hành lang phát triển là tuyến Nguyễn Hữu Thọ), hai hướng phụ là Bắc, Tây

Bắc (hành lang phát triển là tuyến Quốc lộ 22 (Xa lộ Xuyên Á) và Tây, Tây Nam

(hành lang phát triển là tuyến Nguyễn Văn Linh).

Hướng Đông và Nam là hai hướng phát triển chính, nhưng trong thời gian qua,

hai hướng phụ Bắc, Tây Bắc và Tây, Tây Nam lại phát triển mạnh, trở thành hai

hướng có tốc độ ĐTH cao hơn, tốc độ tăng dân số và lao động nhanh nhất (phân

tích ở mục 2.3.3.2). Trong thời gian tới, hai hướng này tiếp tục có sự gia tăng lao

động nhanh chóng do quỹ đất nông nghiệp còn lớn, có khả năng chuyển đổi sang

mục đích phi nông nghiệp; các KCN được mở rộng và xây dựng mới đều tập trung

ở hai hướng này (Củ Chi, Bình Chánh); mạng lưới CSHT đã và đang được xây

dựng; hình thành nhiều khu đô thị mới (Bình Chánh, Bình Tân, Củ Chi, Hóc Môn).

Phía Đông – Đông Bắc (Q.2, 9, Thủ Đức) được xác định là hướng chính của

thành phố với hệ thống CSHT được đầu tư xây dựng mới, hiện đại như đại lộ Đông

– Tây nối liền cao tốc TP. HCM – Long Thành – Dầu Giây, tuyến Metro Bến Thành

– Suối Tiên, mở rộng xa lộ Hà Nội,… Hạt nhân của khu vực là Khu công nghệ cao

154

Q.9 gắn với việc hình thành và phát triển khu đô thị KHCN (làng đại học ở Thủ

Đức, Quận 9) cùng với các KCN – KCX đang hoạt động tạo thành cực tăng trưởng

mạnh, xu hướng phát triển không gian đô thị sẽ vượt ra khỏi ranh giới thành phố,

kết nối với các tỉnh thành lân cận. Trước hết là kết nối với các đô thị mới như Long

Thành, Nhơn Trạch, Dĩ An – Thuận An và các đô thị Biên Hòa, Thủ Dầu Một.

Hướng Nam – Đông Nam tiến ra biển được xác định là hướng chính thứ hai

trong phát triển đô thị của TP. HCM. Đây là hướng có tốc độ phát triển nhanh do lợi

thế gần trung tâm thành phố, có hạ tầng tốt, gần biển … Tuy nhiên, khó khăn lớn

đối với khu vực này là nền địa chất yếu, gây khó khăn tốn kém trong xây dựng công

trình, khả năng thoát nước kém, vấn đề môi trường khi dân cư tập trung quá đông

và nguy cơ chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.

Tóm lại, quá trình ĐTH phát triển theo hình thức lan tỏa và mở rộng, diện tích

đất nông nghiệp bị thu hẹp, khu vực nội đô lao động tiếp tục giảm tỉ trọng, gắn với

các hoạt động thương mại, dịch vụ, nhất là các loại hình dịch vụ chất lượng cao; tỉ

trọng lao động tăng chậm ở khu vực vùng ven, là vùng phát triển công nghiệp công

nghệ cao và các hoạt động dịch vụ; lao động tăng nhanh ở khu vực ngoại thành, là

vùng phát triển công nghiệp và nông nghiệp chất lượng cao; hai hướng Bắc, Tây

Bắc và Tây, Tây Nam tiếp tục là hai hướng có tốc độ ĐTH tăng nhanh, khả năng

thu hút lao động cao nhất.

3.1.3.3. Định hướng về chuyển dịch cơ cấu lao động của TP. HCM

Quá trình CNH – ĐTH ở TP. HCM sẽ tác động đến quá trình chuyển dịch

CCLĐ và làm cho CCLĐ chuyển dịch phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế:

giảm tỉ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp và công nghiệp, tăng tỉ trọng lao

động trong khu vực dịch vụ. Cơ cấu lao động của thành phố là dịch vụ - công

nghiệp - nông nghiệp. Lao động khu vực dịch vụ tăng nhanh nhất và chiếm tỉ trọng

cao nhất trong tổng lao động TP. HCM. Dự báo đến năm 2020 và 2025, cơ cấu lao

động TP. HCM lần lượt là: dịch vụ (56,3% - 59,8%); công nghiệp - xây dựng

(42,3% - 39,6%) và nông nghiệp (1,4% - 0,6%).

155

Bảng 3.3: Dự báo cơ cấu lao động theo ngành kinh tế TP. HCM đến năm 2025

Đơn vị 2013 2020 2025*

Tổng Người 4.024.000 5.676.733 6.218.000

Người 84.504 77.196 37.600 Nông nghiệp % 2,1 1,4 0,6

Người 1.766.536 2.403.456 2.460.000 Công nghiệp % 43,9 42,3 39,6

Nguồn: [91], *[51]

Người 2.172.960 3.196.081 3.720.400 Dịch vụ % 54,0 56,3 59,8

Định hướng phát triển công nghiệp TP. HCM đến năm 2025 ưu tiên phát triển

các ngành công nghệ cao, công nghiệp chế tạo dựa trên nền tảng công nghệ và thiết

bị hiện đại với yêu cầu lao động không nhiều nhưng đòi hỏi lao động phải có trình

độ CMKT nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và tăng tính cạnh tranh

với các tỉnh thành lân cận. Tuy nhiên, quá trình này không chỉ đòi hỏi đội ngũ lao

động có tay nghề mà còn đòi hỏi về vốn, máy móc và KHCN, CSHT hiện đại… Vì

vậy, quá trình chuyển dịch lao động từ ngành công nghiệp truyền thống sang các

ngành công nghệ cao sẽ diễn ra chậm, lao động trong các ngành thâm dụng lao

động, các ngành công nghiệp truyền thống vẫn còn cao.

Nhu cầu lao động có trình độ CMKT sẽ tăng cao để đáp ứng cho quá trình

CNH – HĐH của thành phố; trong đó tập trung vào các ngành, nhóm ngành đặc

biệt, có vai trò thúc đẩy và tạo sự đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội của TP.

HCM. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo tăng đạt 85% năm 2020 và năm 2025 đạt 90%.

Theo quy hoạch phát triển nhân lực TP. HCM mục tiêu đến năm 2020 lao động qua

đào tạo làm việc trong các lĩnh vực công nghệ, dịch vụ trình độ cao và trong các

ngành trọng điểm phát triển của thành phố (điện tử - CNTT, cơ khí tự động, hóa

chất, chế biến thực phẩm, tài chính – tín dụng – ngân hàng, du lịch – khách sạn –

nhà hàng) đạt trên 90% qua đào tạo.

156

Đối với lao động nhập cư, giai đoạn trước năm 2009 lao động di cư bùng nổ ở

TP. HCM do hàng loạt các KCN – KCX và các nhà máy, xí nghiệp được xây dựng

và đi vào hoạt động, thu hút lao động từ các tỉnh thành khác. Tuy nhiên, giai đoạn

tới, có sự điều chỉnh trong việc xây dựng các KCN và lựa chọn ngành nghề phát

triển cho phù hợp với lợi thế so sánh của các địa phương. Vì vậy, xu hướng lao

động di cư sẽ tập trung vào nhóm lao động có trình độ kĩ thuật trong ngành dịch vụ

và công nghiệp, đặc biệt là lao động có kĩ thuật cao trong các ngành mũi nhọn của

Thành phố, lao động có khả năng cạnh tranh với một số ngành trong khu vực

(CNTT, CN vật liệu mới, tài chính, ngân hàng, GTVT…).

Chuyển dịch CCLĐ giữa các quận huyện, xu hướng lao động di cư từ nội

thành ra ngoại thành thông qua việc di dời, phát triển và mở rộng các KCN ở ngoại

thành. Lao động công nghiệp tập trung tại các quận ven và huyện ngoại thành nơi

tập trung nhiều KCN – KCX như Bình Tân, Bình Chánh, Củ Chi, Hóc Môn, Quận

12, Thủ Đức. Lao động nông nghiệp giảm xuống mức thấp và tập trung tại các

huyện như Cần Giờ, Củ Chi, Bình Chánh. Khu vực trung tâm thành phố vẫn là lao

động dịch vụ chiếm ưu thế, tập trung vào các ngành dịch vụ công nghệ cao (tài

chính, ngân hàng, du lịch, GD – ĐT, truyền thông, nghiên cứu khoa học…).

3.2. Các giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động ở TP. HCM trong quá

trình đô thị hóa đến năm 2025

3.2.1. Giải pháp về cơ chế, chính sách thúc đẩy chuyển dịch CCLĐ

- Chính sách cải cách thủ tục hành chính

Đẩy mạnh chương trình cải cách và đơn giản hóa thủ tục hành chính; nâng cao

năng lực điều hành quản lí Nhà nước ở các cấp chính quyền thành phố.

Nâng cao chất lượng dịch vụ công, tạo môi trường pháp lí minh bạch, thủ tục,

quy định rõ ràng, áp dụng chính sách một cửa, hạn chế qua nhiều khâu, nhiều cửa để

tránh tình trạng tham nhũng, gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp, nhà đầu tư.

Có chính sách hợp lý về ngân sách và thời gian nâng cao trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhằm đảm

bảo thực hiện nhiệm vụ. Ngăn chặn kịp thời những hành vi nhũng nhiễu gây khó

khăn cho doanh nghiệp của một bộ phận đội ngũ cán bộ công chức.

157

Hiện đại hóa cơ sở vật chất và ứng dụng CNTT để xây dựng chính quyền điện

tử nhằm cung cấp cho nhân dân, tổ chức, doanh nghiệp các dịch vụ trực tuyến “một

cửa” tiện ích, dễ dàng truy cập mọi lúc mọi nơi qua mạng, từng bước công khai,

minh bạch các hoạt động của chính quyền thành phố thông qua Internet.

- Chính sách thu hút đầu tư

Hoàn thiện về cơ chế, chính sách thu hút đầu tư. Đơn giản và công khai quy

trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài. Ban hành các văn bản hướng

dẫn cụ thể cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư về các thủ tục đầu tư, thủ tục cấp

phép, các luật kinh doanh ở Việt Nam để các nhà đầu tư hiểu rõ.

Cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao hiệu quả đầu tư thông qua việc hoàn

thiện về CSHT, hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, cải cách thủ tục hải quan, thuế

nhằm giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp, cải thiện khả năng tiếp cận vốn

cho các doanh nghiệp.

Áp dụng chính sách thu hút đầu tư của nhiều thành phần kinh tế vào các lĩnh

vực KT – XH, tăng cường thu hút vào các ngành có hàm lượng tri thức và công

nghệ cao, giá trị gia tăng lớn. Đặc biệt khuyến khích khu vực đầu tư tư nhân, đầu tư

nước ngoài FDI, hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân trong các ngành, lĩnh vực cần

ưu tiên như CSHT, an sinh xã hội, cải tạo môi trường, lĩnh vực kĩ thuật cao…

- Chính sách phát triển nguồn nhân lực

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao được coi là khâu đột phá, là động lực

cho phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Do vậy, trong những năm tới TP.

HCM cần thực hiện có hiệu quả “Quy hoạch phát triển nhân lực TP. HCM giai đoạn

2011 – 2020”, nhằm phát triển nguồn nhân lực đủ về số lượng, hợp lí về cơ cấu,

chất lượng ngày càng nâng cao đáp ứng yêu cầu CNH – HĐH.

Thành phố cần có cơ chế, chính sách cụ thể về thu hút nhân tài, nhân lực chất

lượng cao về làm việc. Chính sách thu hút không chỉ ưu đãi bằng vật chất mà cần

phải bao gồm cả điều kiện làm việc, cơ hội phát triển thăng tiến trong nghề nghiệp.

Ngoài cơ chế chính sách thu hút trực tiếp đối với lao động giỏi, có trình độ cao, cần

có các chính sách ưu tiên nhất định đối với người thân trong gia đình di chuyển

cùng để lao động yên tâm công tác.

158

Thành phố cần ưu tiên các chính sách về vốn cho đầu tư phát triển nguồn lao

động, nâng cao nhận thức về vai trò của phát triển nguồn lao động đối với phát triển

kinh tế - xã hội, từ đó đẩy mạnh các hoạt động xã hội hóa tăng cường đầu tư cho

giáo dục – đào tạo, đào tạo nghề cho người lao động.

3.2.2. Giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lí để thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu lao động đạt hiệu quả

Quá trình CNH – ĐTH ở TP. HCM cũng chính là quá trình chuyển đổi mô

hình tăng trưởng kinh tế từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu,

đẩy nhanh việc CDCCKT theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Theo

quyết định số 2631/QĐ-TTg về “Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển KT- XH

TP. HCM đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025”, thành phố đã xác định ưu tiên

phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao,

trong đó tập trung phát triển 9 nhóm ngành dịch vụ trọng yếu và 4 nhóm ngành

công nghiệp trọng điểm phù hợp với vị trí, vai trò và tiềm năng của thành phố. Để

thực hiện quá trình CDCCKT theo đúng định hướng và đạt hiệu quả cao, góp phần

đẩy nhanh quá trình CDCCLĐ, TP. HCM cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

- Đối với ngành công nghiệp

Tập trung đầu tư vào các ngành có hàm lượng khoa học công nghệ cao như

công nghệ phần mềm, công nghiệp cơ khí, điện tử, hóa chất... bằng cách quy hoạch

và phát triển các khu công nghệ cao hiện có như Khu công nghệ cao Quận 9, Công

viên phần mềm Quang Trung; đồng thời hình thành một số KCN phục vụ các ngành

công nghệ cao của TP. HCM. Phát triển công nghiệp phụ trợ và tăng cường sản xuất

các sản phẩm thay thế nhập khẩu, thực hiện mục tiêu nội địa hóa sản phẩm và tăng

năng lực cạnh tranh hàng hóa trên thị trường trong nước và quốc tế. Cần phân bổ

nguồn lực hợp lí, có trọng tâm, trọng điểm, không đầu tư dàn trải, kém hiệu quả.

Bên cạnh tập trung phát triển các ngành công nghiệp cao, vẫn duy trì phát triển

các ngành dệt may, da giày, chế biến gỗ… nhằm phục vụ nhu cầu trong nước và

xuất khẩu. Tuy nhiên, trong nội bộ các ngành này phải nâng cấp đầu tư, đổi mới

công nghệ, cải tiến thiết bị dây chuyển sản xuất hiện đại, nâng cao tay nghề và ổn

định việc làm cho người lao động. Hạn chế mở rộng và tiếp nhận các dự án mới liên

159

quan đến các ngành thâm dụng lao động, gây ô nhiễm môi trường… Sử dụng nguồn

lao động hợp lí cùng với việc khai thác tiềm năng và ứng dụng tiến bộ KHCN theo

chiều hướng: công nghệ tầng cao, mũi nhọn cần nhiều vốn đầu tư nhưng thu hút lao

động có chất lượng cao với số lượng ít. Đồng thời, phát triển công nghệ tầng thấp

để phát triển công nghiệp truyền thống, dịch vụ cần ít vốn nhưng có hệ số việc làm

cao, tạo nên sự chuyển dịch mạnh mẽ CCKT và CCLĐ theo ngành phù hợp với xu

hướng phát triển.

Tiếp tục đầu tư phát triển các KCN – KCX, các cơ sở công nghiệp tập trung ở

ngoại thành, dần di dời hết các cơ sở công nghiệp ở nội thành ra ngoại thành. Xây

dựng một số KCN chuyên ngành như KCN cơ khí chế tạo, KCN hóa chất, KCN cao

nhằm tạo điều kiện thuận lợi ứng dụng các công nghệ cao vào sản xuất. Đối với các

KCN đã và đang xây dựng, cần rà soát và quy hoạch lại nhằm củng cố, lấp đầy, sử

dụng hiệu quả diện tích đã được cấp và đảm bảo an toàn vệ sinh môi trường sinh

thái trong và ngoài khu công nghiệp. Tập trung đầu tư phát triển hạ tầng cho các

khu công nghiệp và kết nối với bên ngoài, đảm bảo hệ thống giao thông, thông tin

liên lạc, năng lượng một cách tốt nhất phục vụ sản xuất và thu hút đầu tư.

- Đối với ngành nông nghiệp

Tập trung tạo ra những nông sản chủ lực của TP. HCM phù hợp với điều kiện

của đô thị đang có diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp. Có thể tập trung nuôi trồng

một số sản phẩm vừa cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, vừa khai thác

để phục vụ cho phát triển du lịch như hoa lan, cây kiểng, cá sấu…Đẩy mạnh cơ giới

hóa nông nghiệp, hỗ trợ nông dân chuyển đổi mô hình kinh tế và phát triển nông

nghiệp đô thị. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn (hệ thống giao thông, thông

tin liên lạc, điện, nước…) đang là yêu cầu cấp bách nhằm phát triển nông thôn.

Nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp phù hợp với đặc thù của từng

huyện, chú trọng phát triển mô hình nông nghiệp đô thị. Ưu tiên hình thành và phát

triển các đơn vị sản xuất cây giống, con giống chất lượng cao, trở thành thị trường

cung cấp cây, con giống chất lượng cao cho khu vực phía Nam.

160

- Đối với ngành dịch vụ

Cần có những chiến lược phát triển riêng của từng ngành dịch vụ. Trong đó,

đặt trọng tâm vào các ngành, các lĩnh vực dịch vụ then chốt như thương mại, tài

chính – ngân hàng – bảo hiểm, bưu chính viễn thông, thông tin và truyền thông…

Đối với ngành du lịch: Quy hoạch đầu tư, hợp tác phát triển và đa dạng hóa

các sản phẩm du lịch, tuyến điểm du lịch. Tạo ra các sản phẩm du lịch độc đáo, đặc

trưng của thành phố để thu hút đầu tư. Thành phố cũng cần tăng cường hợp tác phát

triển du lịch theo hướng liên kết vùng, đặc biệt tạo thành các tuyến điểm du lịch với

các tỉnh như Bà Rịa - Vũng Tàu, Lâm Đồng, Bình Thuận…

Trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo: xem đây là một trong những lĩnh vực quan

trọng của thành phố, vừa tạo ra nguồn lao động có chất lượng cao vừa là hoạt động

kinh tế đem lại nguồn thu lớn, tạo nên lợi thế cạnh tranh cho thành phố.

- Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài

Tăng cường các hoạt động đối ngoại, quảng bá hình ảnh của TP. HCM, mở

rộng các hoạt động giao lưu học hỏi kinh nghiệm nhằm tìm kiếm cơ hội hợp tác,

đầu tư từ bên ngoài. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư, mở

rộng thị trường, các doanh nghiệp của TP. HCM phải am hiểu về thị trường, luật

pháp quốc tế.

Khu vực FDI tạo ra khá nhiều việc làm cho người lao động, đẩy nhanh việc

chuyển dịch CCLĐ của TP. HCM nhưng điều đáng nói là chủ yếu tập trung vào

khai thác lợi thế lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, nguồn tài nguyên có

sẵn, thị trường tiêu thụ rộng lớn để lắp ráp, gia công sản phẩm tiêu thụ nội địa và

xuất khẩu, thâm dụng lao động với năng suất lao động thấp, trình độ lao động

không cao (như dệt may, da giày, chế biến thực phẩm, lắp ráp điện tử…). Vì vậy

thành phố cần lựa chọn nhà đầu tư và các dự án đầu tư phù hợp với thế mạnh và

theo đúng định hướng chuyển dịch CCKT của TP. HCM.

Tập trung ưu tiên các dự án đầu tư có quy mô lớn thuộc các ngành công

nghiệp có hàm lượng tri thức và công nghệ cao, tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng

lớn, sử dụng lao động có trình độ (điện, điện tử - viễn thông, cơ khí chế tạo, hóa

dược…) và các nhóm ngành dịch vụ chủ lực của thành phố. Ưu tiên các nhà đầu tư

161

có tiềm lực về vốn và công nghệ hiện đại đến từ các nước phát triển châu Âu, Hoa

Kì, Nhật Bản…

Tăng cường các hoạt động xúc tiến kêu gọi đầu tư, phối hợp giữa các cơ quan

xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch thành phố. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các

nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào thành phố. Tăng cường cung cấp thông

tin, quảng bá môi trường đầu tư, hỏi đáp và đối thoại với các nhà đầu tư.

- Phát triển khoa học công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động

Như phân tích ở mục 2.3.2 các doanh nghiệp của TP. HCM, đặc biệt là các

doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước phần lớn là doanh nghiệp có quy mô vốn

nhỏ, phát triển trong các ngành nghề có chuyên môn kĩ thuật không cao, năng suất

lao động thấp… nên nhu cầu về vốn cho mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh

cũng như đầu tư máy móc, công nghệ hiện đại để thay thế lao động phổ thông là

yêu cầu cấp thiết nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch CCLĐ theo hướng chất

lượng. Vì vậy cần hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, phát triển khoa học công

nghệ trong các doanh nghiệp, xí nghiệp bằng một số giải pháp sau:

Hoàn thiện cơ chế chính sách về quản lí và phát triển KHCN. Nhà nước và

chính quyền thành phố cho phép thành lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ, hỗ

trợ vốn ban đầu để hoạt động, có chính sách và cơ chế tài chính khuyến khích doanh

nghiệp đầu tư vào phát triển khoa học, công nghệ.

Huy động nguồn vốn đầu tư cho phát triển KHCN. Thực hiện chính sách hỗ

trợ vốn, KHKT cho các doanh nghiệp thực hiện việc đổi mới dây chuyền công nghệ

tiên tiến thay thế cho những dây chuyền công nghệ cũ, hình thức sản xuất lạc hậu

trước đây. Cần đẩy mạnh hình thức xã hội hóa trong lĩnh vực KHCN, ngoài nguồn

vốn hỗ trợ từ nhà nước, có thể vay từ ngân hàng, huy động vốn đầu tư từ trong dân

và từ các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục đào tạo và KHCN.

Tăng cường hội nhập quốc tế về KHCN, thu hút vốn đầu tư vào các ngành có

hàm lượng KHCN cao, các ngành công nghệ mới; học hỏi và chuyển giao các thành

tựu khoa học mới của các nước phát triển. Hoàn thiện và xây dựng mới các công

trình khu công nghệ cao, trung tâm công nghệ nghiên cứu và ứng dụng nhằm thu

162

hút nguồn vốn và các dự án đầu tư vào sản xuất kinh doanh của nước ngoài cũng

như các doanh nghiệp trong nước

Triển khai những ứng dụng KHCN vào đời sống, sản xuất, phát triển các

ngành mũi nhọn, phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Tăng cường đầu tư đổi mới

trang thiết bị cho các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh để nâng cao năng

suất lao động, sử dụng lao động hợp lí trong các ngành nghề

3.2.3. Giải pháp đẩy nhanh quá trình đô thị hóa theo hƣớng chất lƣợng

 Phát triển đô thị và các khu dân cư của TP. HCM

Việc đầu tư cơ sở hạ tầng kĩ thuật đô thị đặc biệt là hệ thống các công trình

công cộng, công trình văn hóa, giáo dục, GTVT… tại các quận mới và các huyện

chưa được coi trọng đúng mức. Chính sự tập trung các khu nhà ở, đường sá, công

viên, trường học, chợ, siêu thị… vào khu vực nội thành một cách quá mức so với

các khu vực khác làm cho quá trình giãn dân và hạn chế lao động nhập cư vào khu

vực này gặp nhiều khó khăn. Để phân bố lực lượng lao động phù hợp với định

hướng phát triển, TP. HCM cần thực hiện:

Nhanh chóng phát triển các đô thị mới và khu dân cư tại các quận vùng ven và

huyện ngoại thành theo quy hoạch phát triển không gian của thành phố đến năm

2025 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Giải pháp này nhằm giãn dân từ nội

thành cũ ra các vùng đô thị mới, “giữ dân” ở các vùng ngoại thành, các khu vực ven

đô nhằm giảm áp lực dân số tại khu vực nội thành.

Cần có sự phát triển đồng bộ giữa quy hoạch khu dân cư với việc xây dựng hệ

thống cơ sở hạ tầng trong khu dân cư, các dịch vụ thiết yếu phục vụ cho cuộc sống

của người dân tại nơi ở mới (nhà ở, giao thông, điện nước, xử lí rác thải, trường

học, bệnh viện, chợ…).

Bố trí hợp lí các khu vực công nghiệp, vành đai nông nghiệp, khu vực dân cư

ở các quận mới và khu vực ngoại thành. Thành phố nên áp dụng các chính sách ưu

đãi về thuế đất, xây dựng đối với các vùng công nghiệp và dân cư mới ở ngoại

thành nhằm thu hút các nhà đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất và cư trú ở khu vực

ngoại thành.

163

Tập trung đầu tư xây dựng nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp dưới dạng

bán trả góp với giá ưu đãi hoặc cho thuê ở các khu công nghiệp ngoại thành; xây

dựng nhà tập thể cho công nhân thuê, nhà thuê phải đảm bảo vệ sinh môi trường và

các tiện nghi sinh hoạt tối thiểu.

 Hoàn thiện và công khai quy hoạch sử dụng đất đai

Cần phải có những dự báo chính xác về cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng

kinh tế, quá trình đô thị hóa và cơ cấu sử dụng đất để thành phố có những định

hướng trong công tác sử dụng và quy hoạch đất đai đô thị trong điều kiện diện tích

đất chưa sử dụng không còn nhiều.

Khắc phục tình trạng “quy hoạch treo”, rà soát các dự án triển khai chậm tiến

độ, có biện pháp xử lí phù hợp. Thành phố có những giải pháp thu hồi lại diện tích

đất sử dụng sai mục đích, những dự án “treo” gây lãng phí diện tích đất. Ngay từ

năm 2003, thành phố đã có dự án đầu tiên bị thu hồi đất do tiến độ quá chậm của

chủ đầu tư, trong đó các dự án liên quan đến nhà ở chiếm phần lớn. Từ năm 2003

đến năm 2010 đã có tới 87 dự án bị thu hồi với quy mô diện tích lên đến 1.150 ha.

Đối với diện tích đất bị chuyển đổi sang mục đích phi nông nghiệp, chính

quyền TP. HCM cần có chính sách bồi thường thích hợp và thỏa đáng cho người

dân mất đất, có chính sách hỗ trợ cho người dân sau khi bị thu hồi đất như hỗ trợ

tìm kiếm việc làm, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, cơ cấu cây trồng, hỗ trợ đào tạo

nghề… để họ yên tâm sản xuất và ổn định cuộc sống.

Đối với đất đai phục vụ cho các dự án đầu tư nước ngoài, cần nhanh chóng

hoàn thành thống kê đánh giá, phân loại đất đai trên địa bàn để lập quy hoạch sử

dụng đất tạo hoàn chỉnh cho các lĩnh vực sử dụng.

Thực hiện chính sách phân cấp quản lý, quyền hạn giao đất cho các đối tượng

đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi nhất để các nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ triển khai

hoạt động các dự án. Đặc biệt quan tâm theo dõi, quản lí các hoạt động của các nhà

đầu tư sau cấp phép về tình hình triển khai thực hiện dự án.

- Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đô thị

Bên cạnh việc tập trung đầu tư xây dựng các khu dân cư, khu công nghiệp và

các khu chức năng khác, thành phố cần tập trung đầu tư vào hệ thống giao thông đô

164

thị. Mở rộng đường, nút giao thông, phát triển các tuyến giao thông công cộng, các

tuyến giao thông hiện đại (đường sắt nội đô, tàu điện ngầm, metro), các tuyến

đường nội đô, các tuyến đường vành đai nối với các đô thị vệ tinh... Phát triển hệ

thống giao thông này không chỉ giải quyết tình trạng ùn tắc giao thông đô thị hiện

nay, thuận tiện đi lại và vận chuyển hàng hóa giữa nội và ngoại thành, mà còn kết

nối với các tỉnh thành khác, góp phần phân bố lại dân cư lao động một cách nhanh

chóng và hiệu quả nhất, giúp giãn dân ra khu vực ngoại thành, các khu vực xa trung

tâm, xa nơi làm việc, tránh tình trạng tập trung mật độ quá cao ở khu vực nội thành.

Phát triển các tuyến đường giao thông hiện đại với thời gian vận chuyển

nhanh, khối lượng vận chuyển lớn như đường sắt nội đô, metro. Theo quy hoạch,

TP. HCM sẽ phát triển 6 tuyến metro kết nối các quận, huyện của thành phố. Hiện

tại, thành phố đang triển khai xây dựng tuyến metro đầu tiên kết nối Bến Thành –

Suối Tiên. Trong thời gian tới, thành phố cần đẩy nhanh hơn nữa công tác giải

phóng mặt bằng để nhanh chóng triển khai các dự án còn lại nhằm thúc đẩy phát

triển kinh tế TP. HCM theo hướng hiện đại.

Xây dựng chương trình tổng thể về thoát nước và chống ngập trên địa bàn

thành phố gắn với các địa phương trong vùng KTTĐPN. Nghiên cứu nguyên nhân

gây ngập và có giải pháp thích hợp gắn với quy hoạch phát triển các khu dân cư,

quy hoạch phát triển đô thị để giải quyết triệt để tình trạng ngập của thành phố.

3.2.4. Giải pháp về thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, giải

quyết việc làm cho lao động

- Giải pháp về thu hút và sử dụng hợp lí lao động

Thực hiện chế độ đãi ngộ thích đáng đối với những người có trình độ cao, các

nhà quản lí giỏi, các cán bộ, chuyên gia đầu ngành, công nhân kĩ thuật có trình độ

tay nghề bằng nhiều chính sách ưu đãi về chính sách đào tạo, chế độ lương bổng,

điều kiện làm việc như mua nhà với giá ưu đãi hoặc cho vay với lãi suất thấp, tạo

môi trường làm việc thuận lợi với những trang thiết bị và công nghệ tốt nhất, cơ hội

phát triển, thăng tiến trong nghề nghiệp. Để cạnh tranh với các địa phương lân cận

trong việc thu hút lao động chất lượng cao, thành phố ngoài chính sách ưu đãi đối

165

với người lao động còn là các chính sách hỗ trợ cho gia đình họ (nhà ở, việc làm,

học hành của con cái…) để người lao động yên tâm làm việc.

Huy động sự đóng góp của đội ngũ trí thức Việt kiều, các chuyên gia, nhà

khoa học nước ngoài bằng cách thực hiện việc thuê, hợp tác, tư vấn đối với các

chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực công nghệ cao; khuyến khích tham gia

nghiên cứu các công trình khoa học mang tính thực tiễn; đóng góp ý kiến về những

vấn đề trong phát triển KT – XH của thành phố; giải quyết nhanh chóng thủ tục cấp

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nhà ở khi họ mua đất và xây nhà tại thành

phố; có chế độ chính sách ưu đãi và lương bổng thích hợp khi họ về nước làm việc.

Tăng cường sử dụng nguồn lao động trẻ, được đào tạo cơ bản, đặc biệt là các

du học sinh, tạo điều kiện cho lao động trẻ được phát huy năng lực của mình, có cơ

hội thăng tiến vào các chức vụ lãnh đạo, quản lí, có cơ hội được học tập nâng cao

trình độ ở nước ngoài…

Các chính sách đối với lao động nhập cư tại thành phố: số lượng lao động

nhập cư chiếm một tỉ lệ không nhỏ trong cơ cấu lao động của thành phố, vì vậy,

thành phố cần phải có chính sách đối với lao động nhập cư. Cần phối hợp chặt chẽ

giữa các cơ quan chức năng và phối hợp với các đơn vị, doanh nghiệp tuyển dụng

lao động để tổ chức quản lí và giúp đỡ người nhập cư hội nhập nhanh vào cuộc sống

mới. Cho phép người nhập cư tạm trú dài hạn nhập hộ khẩu thành phố khi có đủ các

điều kiện như công ăn việc làm ổn định, nhà ở giấy tờ hợp pháp. Cần xây nhà tập

thể cho công nhân thuê, nhà thuê phải đảm bảo vệ sinh môi trường và các tiện nghi

sinh hoạt tối thiểu. Các chủ thuê mướn lao động nhập cư phải mua các loại phí bảo

hiểm cho lao động để đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ của người nhập cư. Các trung

tâm hướng nghiệp tăng cường hoạt động, mở rộng đào tạo nghề, tăng khả năng dạy

nghề cả về số lượng và chất lượng, giáo dục luật lao động cho người nhập cư.

Hiện nay dân nhập cư di chuyển vào TP. HCM theo hai hướng: nông thôn –

TP. HCM và đô thị khác - TP. HCM. Thành phần di chuyển dân cư nông thôn – TP.

HCM thường chịu tác động lớn hơn của “lực đẩy”, ngược lại di dân đô thị khác –

TP. HCM thường chịu tác động lớn hơn của “lực hút”. Như vậy để giải quyết tình

trạng di dân đến TP. HCM cần phải tổ chức không gian đô thị hợp lí, thống nhất,

166

xây dựng hệ thống các “đô thị vệ tinh”, hình thành “cụm đô thị” xung quanh các đô

thị cực lớn nhằm giảm áp lực tăng dân số cơ học đến các vùng đô thị lớn. Cần có sự

phối hợp đồng bộ với các tỉnh thành trong việc giải quyết vấn đề việc làm và nâng

cao chất lượng lao động tại địa phương, hạn chế dòng di cư của lao động không có

trình độ.

- Giải pháp giải quyết việc làm cho lao động

Để hạn chế lao động tập trung đông vào khu vực nội thành, cần thực hiện tốt

vấn đề quy hoạch theo hướng chuyển các KCN – KCX, các trường đại học, cao

đẳng ra khỏi trung tâm thành phố, phát triển các khu đô thị mới, khu dân cư đồng

thời với việc xây dựng CSHT hoàn chỉnh và đồng bộ ở khu vực ngoại thành, để dãn

dân từ khu vực nội thành ra ngoại thành, thu hút lao động nhập cư đến ngoại thành,

từ đó giảm áp lực gia tăng dân số và lao động cho khu vực nội thành TP. HCM.

Bố trí lại các cơ sở sản xuất kinh doanh từ nội thành ra ngoại thành, phát triển

mạng lưới thương mại, dịch vụ đa dạng phù hợp với quy mô và tính chất của từng

quận huyện nhằm phân bố và chuyển dịch lao động nhanh và hiệu quả hơn. Có thể

phát triển thêm các ngành dịch vụ, thương mại tại các trung tâm công nghiệp đang

phát triển ở phía tây bắc thành phố (Củ Chi, Hóc Môn) và phía tây nam (Bình

Chánh, Bình Tân).

Trong thời gian tới, quá trình ĐTH của TP. HCM tiếp tục diễn ra mạnh mẽ,

diện tích đất nông nghiệp chuyển đổi thành đất phi nông nghiệp nhiều, số lao động

nông nghiệp chuyển dịch sang các ngành nghề phi nông nghiệp diễn ra nhanh. Tuy

nhiên, như phân tích ở mục 2.3.4 thì lực lượng lao động nông thôn chủ yếu là lao

động phổ thông, trình độ văn hóa và CMKT còn khá thấp. Để nâng cao tay nghề và

tạo việc làm cho lao động khu vực nông thôn này, thành phố cần đẩy mạnh thực

hiện một số giải pháp sau:

Cần thực hiện thường xuyên công tác rà soát, quản lí lao động nông thôn, lao

động thuộc diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất sản xuất chưa qua đào tạo nghề ở địa

phương để có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề miễn phí cho lao động thuộc diện di

dời, giải tỏa, thu hồi đất sản xuất. Tích cực thực hiện công tác tuyên truyền vận

động học nghề để chuyển đổi ngành nghề và giải quyết việc làm.

167

Nâng cao chất lượng lao động nông thôn bằng việc phát triển mạng lưới

trường THCS, THPT, tăng cường phổ cập, bổ túc văn hóa cho lao động nông thôn,

lao động chưa có việc làm tạo điều kiện cho người lao động có đủ trình độ văn hoá

để học nghề; Xây dựng kế hoạch phân luồng sau THCS, THPT để thu hút số học

sinh sau khi tốt nghiệp đi vào học nghề, có chính sách hỗ trợ cho những sinh viên

trường nghề như giảm học phí, hỗ trợ đào tạo, cho vay tiền…nhằm khuyến khích

học sinh lựa chọn trường nghề sau khi tốt nghiệp.

Các trường cũng cần làm tốt công tác hướng nghiệp cho học sinh khi các em

lựa chọn ngành nghề tương lai của mình. Tổ chức các hoạt động tư vấn nghề nghiệp

tại cơ sở đào tạo, dạy nghề và tại doanh nghiệp cho sinh viên, học viên, người lao

động lựa chọn ngành nghề phù hợp ngay trước khi nhập trường và chuẩn bị tốt

nghiệp ra trường. Coi đây là công việc thường xuyên của doanh nghiệp, các cơ sở

đào tạo, tư vấn…

Phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề, khuyến khích thành lập các cơ sở đào

tạo, dạy nghề cho lao động ở nông thôn trên các ngành nghề, lĩnh vực và tạo điều

kiện nơi làm việc sau khi học nghề xong. Tập trung đầu tư trang thiết bị hiện đại

cho các trường dạy nghề chính quy có quy mô lớn ở ngoại thành theo hướng đào tạo

chuyên sâu, hiện đại một số ngành chủ lực đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, cơ

sở sản xuất trên địa bàn. Đa dạng hóa ngành nghề, phát triển các làng nghề truyền

thống, phát triển mô hình kinh tế trang trại, bố trí lại các cơ sở sản xuất hợp lí…

3.2.5. Giải pháp về nâng cao chất lƣợng nguồn lao động và đào tạo nguồn

lao động chất lƣợng cao

Từ nay đến năm 2025, thành phố đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo

hướng giảm dần các ngành thâm dụng lao động sang phát triển mạnh các ngành

công nghiệp kĩ thuật cao (điện tử, công nghệ thông tin, sản xuất vật liệu mới, công

nghệ sinh học…) với khu công nghệ cao ở Quận 9 và các ngành dịch vụ cao cấp

(bảo hiểm, tư vấn, nghiên cứu và phát triển các công trình khoa học, ngân hàng…).

Do đó, sử dụng lao động trong các doanh nghiệp, xí nghiệp của TP. HCM có xu

hướng giảm dần lao động phổ thông, thay vào đó là đội ngũ lao động có trình độ

chuyên môn, tay nghề. Theo phân tích mục 2.3.4 Thành phố đang hướng đến các

168

ngành kĩ thuật cao nhưng nguồn lao động kĩ thuật cao lại đang thiếu; phân bố nguồn

lao động chất lượng cao không đều giữa các ngành kinh tế và giữa các khu vực đô

thị hóa; sự kết hợp giữa các doanh nghiệp và cơ sở đào tạo để tạo nguồn lao động

phù hợp chưa tốt. Vì vậy, thành phố cần có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực có

trình độ chuyên môn kĩ thuật, trình độ tay nghề cao với một số giải pháp:

- Quy hoạch lại hệ thống đào tạo

Quy hoạch lại hệ thống đào tạo nguồn lao động có trình độ chuyên môn giỏi

và cơ cấu ngành nghề phù hợp với phát triển KT - XH thành phố. Trong đó, tập

trung xây dựng đội ngũ cán bộ KHKT, cán bộ quản lý các ngành, lĩnh vực theo yêu

cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế thành phố.

Đẩy mạnh hình thức đào tạo nghề, công nhân kĩ thuật để phù hợp cơ cấu lao

động kĩ thuật theo trình độ đào tạo và kĩ năng lành nghề tương ứng với nhu cầu của

thị trường sức lao động. Chú trọng đào tạo nghề, trung cấp chuyên nghiệp cho thanh

niên nông thôn tại khu vực ĐTH, không còn đất sản xuất nông nghiệp. Tổ chức đào

tạo các nghề truyền thống tại các làng nghề, xây dựng trường đào tạo nghề mới ở

các huyện chưa có trường dạy nghề, nâng cấp mở rộng quy mô đào tạo của các cơ

sở dạy nghề.

Đối với đào tạo cao đẳng, đại học: ưu tiên đầu tư cho các dự án xây dựng và

phát triển các khu đô thị đại học mới để hình thành và phân bố hợp lí mạng lưới các

trường đại học trên địa bàn thành phố.

- Đổi mới nội dung, chương trình, nâng cao chất lượng đào tạo

Duy trì và nâng cao chất lượng của giáo dục phổ thông trong việc thực hiện

chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thành phố; chất lượng giáo dục ở

bậc học phổ thông có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng đào tạo nghề nghiệp ở

các trình độ (Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp, Dạy nghề).

Đổi mới nội dung chương trình và phương pháp đào tạo, gắn nội dung đào tạo

trong nhà trường với hoạt động thực tiễn của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và

các lĩnh vực khác. Xây dựng danh mục các ngành đào tạo, xây dựng khung chương

trình khối ngành, chuẩn đào tạo, chuẩn đánh giá sinh viên; tổ chức biên soạn giáo

trình dùng chung cho các môn học, cho khối ngành… Trong đó, chú trọng gắn nội

169

dung đào tạo trong nhà trường với yêu cầu của thị trường lao động về kiến thức, kỹ

năng… của vị trí công việc, gắn đào tạo với hoạt động thực tiễn của các doanh

nghiệp, cơ sở sản xuất, tham khảo các chương trình, giáo trình tương tự của các

trường tiên tiến ở nước ngoài. Cần chú trọng nâng cao trình độ ngoại ngữ, công

nghệ thông tin cho người lao động để họ chủ động hơn trong quá trình hội nhập.

Xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục và dạy nghề có trình độ

chuyên môn cao. Thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực

nghiên cứu khoa học cho đội ngũ giáo viên và quản lý giáo dục, đặc biệt là đổi mới

phương pháp giảng dạy; tạo điều kiện để giáo viên tích cực thâm nhập thực tế, tìm

hiểu thực tiễn sản xuất và nhu cầu các doanh nghiệp. Từ đó giúp cho giáo viên nâng

cao năng lực tổ chức hướng dẫn sinh viên phương pháp tự học thông qua nghiên

cứu, khảo sát thực tế trong quá trình học tập ở nhà trường.

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế để phát triển nguồn lao động: Thực hiện các

chương trình, đề án đào tạo lao động chất lượng cao, đặc biệt là các chương trình

đào tạo đại học và sau đại học tại nước ngoài, tập trung vào các ngành, các lĩnh vực

mũi nhọn theo định hướng phát triển của thành phố; trao đổi cán bộ, sinh viên với

các trường đại học có uy tín; mở rộng các chương trình đào tạo liên kết với các

trường có uy tín chất lượng trên thế giới, mời các giáo sư nước ngoài tham gia

giảng dạy một số môn hoặc tổ chức các hội thảo quốc tế…

Tuyển chọn LĐ có trình độ chuyên môn tay nghề gửi ra nước ngoài để học tập

kinh nghiệm, bồi dưỡng nâng cao trình độ về chuyên môn, quản lí, điều hành nhằm

hình thành đội ngũ lao động chất lượng cao, có thể thay thế cho các chuyên gia

nước ngoài. Trước mắt tập trung vào một số lĩnh vực quan trọng như quản lí hành

chính, giáo dục – đào tạo, nghiên cứu khoa học, tài chính – ngân hàng…

- Tăng cường hợp tác, liên kết trong đào tạo

Tăng cường hợp tác, liên kết giữa cơ sở đào tạo và nhà sản xuất, gắn đào tạo với

nhu cầu của thị trường lao động. Xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa các cơ quan,

đơn vị sử dụng lao động với các cơ sở đào tạo lao động (giữa doanh nghiệp với các

trường cao đẳng, đại học, THCN, dạy nghề), với các cơ quan ban ngành có liên

quan để có sự thống nhất giữa cung và cầu lao động trong mỗi giai đoạn, hạn chế

170

đến mức thấp nhất sự lãng phí trong đào tạo phát triển nguồn lao động. Thành phố

xây dựng cơ chế, chính sách gắn kết, phối hợp đào tạo giữa các trường đại học, cao

đẳng với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trên địa bàn thành phố trong các lĩnh vực

xây dựng chương trình; tổ chức thực hành, thực tập, giải quyết việc làm cho sinh

viên; kết hợp nghiên cứu khoa học và sản xuất nhằm nâng cao chất lượng đào tạo

sát với nhu cầu thực tế;

Xây dựng các khối liên kết giữa các trường có cùng khối ngành đào tạo nhằm

mở rộng, tăng cường hoạt động hợp tác và liên kết. Qua đó, chia sẻ các nguồn lực

giữa các trường thực hiện thống nhất, liên thông chương trình đào tạo, công nhận

tín chỉ của nhau, tổ chức nghiên cứu khoa học, bồi dưỡng giáo viên để không ngừng

nâng cao chất lượng hiệu quả đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội;

Xây dựng chiến lược hợp tác quốc tế của các trường đại học theo các lĩnh vực

ngành nghề trọng điểm bằng các mô hình, phương thức hợp tác như: chuyển giao

công nghệ, công nhận chương trình, liên kết đào tạo, bồi dưỡng giảng viên, nghiên

cứu khoa học, thực tập sinh viên, phát triển cơ sở vật chất và đổi mới phương pháp

giảng dạy. Chủ động phối hợp tìm kiếm đối tác có uy tín ở nước ngoài để giới thiệu

với thành phố hỗ trợ cho chương trình hợp tác của đơn vị trong điều kiện và phạm

vi của thành phố.

Các doanh nghiệp cần chủ động hợp tác với cơ sở đào tạo để nâng cao chất

lượng lao động, đáp ứng các yêu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp bằng cách:

doanh nghiệp “đặt hàng” với cơ sở đào tạo với số lượng, trình độ và ngành nghề cụ

thể. Từ đó nhà trường đưa ra nội dung chương trình và có kế hoạch đào tạo cụ thể

phù hợp với yêu cầu sử dụng. Ngược lại, các cơ sở đào tạo liên hệ với các doanh

nghiệp hỗ trợ nhà trường để đưa sinh viên thực tập trong môi trường sản xuất, gắn lí

thuyết với thực hành. Để sinh viên khi ra trường không còn bỡ ngỡ khi bắt đầu tham

gia hoạt động sản xuất và doanh nghiệp cũng không mất thời gian để đào tạo lại.

Khuyến khích và tạo điều kiện cho người lao động thường xuyên học tập nâng

cao kĩ năng và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình bằng cách công đoàn cơ sở

phối hợp cùng xí nghiệp tổ chức các khóa bồi dưỡng kiến thức, các lớp học nâng

cao trình độ cho lãnh đạo và người lao động tại cơ quan, xí nghiệp; mở rộng hệ

171

thống các trường dạy nghề, các trung tâm dạy nghề để người lao động dễ dàng đăng

kí tham gia học tập; Tăng cường phối hợp giữa doanh nghiệp với cơ sở đào tạo,

trung tâm dạy nghề mở các lớp đào tạo nâng cao trình độ cho lao động.

- Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho đào tạo

Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước: Thành phố cần quan tâm, tăng mức

chi ngân sách dành cho ngành giáo dục đào tạo, KHCN và phát triển nguồn nhân

lực. Để nâng cao quy mô vốn đầu tư, thành phố cần tăng tỉ lệ tích lũy từ nội bộ nền

kinh tế, duy trì tốc độ tăng trưởng cao và khuyến khích tiết kiệm cho đầu tư phát

triển.

Thực hiện chính sách xã hội hóa giáo dục: đẩy mạnh các hoạt động xã hội hóa

hoạt động giáo dục để huy động vốn trong dân, khuyến khích các thành phần kinh tế

tham gia đào tạo, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và mở các trường đại học, cao

đẳng và dạy nghề ngoài công lập. Thành phố cần tăng cường quản lí các hoạt động

đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đào tạo từ các thành phần kinh tế khác để đảm bảo

chất lượng đào tạo.

Tăng cường và khuyến khích mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế đầu tư

cho giáo dục – đào tạo, chủ động thu hút các cơ sở đào tạo, các trường đại học có uy

tín về các ngành kĩ thuật và quản lí tham gia tổ chức đào tạo tại thành phố thông qua

việc liên kết với những trường đại học của TP. HCM.

Khuyến khích các tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi để các trường ngoài

công lập vay vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đổi mới trang thiết bị dạy học và

nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt là nguồn vốn ưu đãi đầu tư vào phát triển

ngành giáo dục đào tạo trên địa bàn thành phố.

Tóm lại, để TP. HCM trở thành trung tâm giáo dục - đào tạo ngang tầm khu

vực, cung cấp nguồn lao động chất lượng cao không chỉ cho TP. HCM cũng như

khu vực phía Nam, mà còn một bộ phận lao động nhất định đủ sức tham gia vào thị

trường lao động quốc tế, thành phố cần:

 Cải cách toàn diện, căn bản và sâu rộng hệ thống giáo dục đào tạo cả về chương

trình, nội dung, phương pháp, đánh giá, quản lí… phù hợp với yêu cầu của thị

trường lao động, với xu thế phát triển của thế giới.

172

 Mở cửa, liên thông với giáo dục đại học Quốc tế, thực hiện liên kết về đào tạo,

giảng dạy, trao đổi sinh viên… với các trường đại học có chất lượng, trước hết

là các trường trong khu vực. Xây dựng môi trường học tập đảm bảo chất lượng

về chương trình đào tạo, giảng viên đứng lớp, cơ sở vật chất, trang thiết bị học

tập… nhằm thu hút sinh viên từ các nước đến nghiên cứu, học tập.

 Xây dựng hệ thống các trường đại học Quốc tế, đầu tư nâng cấp một số trường

trọng điểm quốc gia tiến tới đạt chuẩn quốc tế và khu vực với quy mô và cơ cấu

ngành nghề phù hợp với nhu cầu của TP. HCM và các tỉnh phía Nam. Đưa

những trường này trở thành trường trọng điểm đào tạo nguồn lao động chất

lượng cao cho TP. HCM trong thời gian tới như ĐH Quốc gia TP. HCM, ĐH

Bách Khoa TP. HCM, ĐH Y Dược TP. HCM…

3.2.6. Giải pháp về tăng cƣờng hợp tác giữa TP. HCM với các địa

phƣơng trong và ngoài Vùng KTTĐPN

Liên kết Vùng trong chính sách phát triển kinh tế nói chung và quá trình đô thị

hóa nói riêng là yêu cầu cấp bách của TP. HCM với các địa phương trong và ngoài

Vùng KTTĐPN hiện nay. Trong quá trình đô thị hóa, do đất đai có hạn, xu hướng

phát triển không gian đô thị của TP. HCM đã vượt khỏi ranh giới hành chính, mở

rộng ra đến các tỉnh thành lân cận. Như phân tích ở mục 2.2.2.2, lao động nhập cư

của thành phố chủ yếu đến từ các tỉnh thành lân cận thuộc vùng Đông Nam Bộ và

ĐBSCL, chủ yếu là lực lượng lao động phổ thông đến từ các vùng nông thôn và

hoạt động kinh tế là nông nghiệp nên trình độ chuyên môn và tay nghề thấp. Trong

bối cảnh TP. HCM đang có sự điều chỉnh về mô hình tăng trưởng kinh tế sang chiều

sâu thì việc tăng cường hợp tác liên kết Vùng sẽ giúp thực hiện việc phân công lao

động xã hội hợp lí nhằm phát huy được tiềm năng, thế mạnh của mỗi địa phương

trong phát triển kinh tế - xã hội.

TP. HCM: có thế mạnh về đội ngũ cán bộ quản lí và cán bộ kĩ thuật có trình

độ chuyên môn cao, hệ thống CSHT (giao thông, điện nước, TTLL…) tương đối

hoàn chỉnh và đồng bộ, các KCN – KCX đã và đang hoạt động nhằm góp phần giải

quyết việc làm cho lao động địa phương và các tỉnh làm nền tảng để phát triển công

nghiệp và dịch vụ cho toàn vùng KTTĐPN.

173

Các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Long An, Bà Rịa – Vũng Tàu: nơi tập trung

hàng loạt các KCN với quy mô lớn về diện tích và lao động đang làm việc sẽ góp

phần rất lớn trong quá trình phát triển các ngành công nghiệp của Vùng, đặc biệt là

các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động (chế biến thực phẩm, dệt may, giày

da…). Do đó, các tỉnh này sẽ góp phần giảm số lượng rất lớn lao động nhập cư từ

các tỉnh, thành trong cả nước đổ về TP. HCM sống và làm việc.

Tỉnh Tây Ninh, Bình Phước, Tiền Giang: có thế mạnh về các sản phẩm nông

nghiệp thích hợp cho phát triển các ngành công nghiệp chế biến, phát triển các KCN

nhằm tận dụng nguồn nguyên liệu và lao động tại chỗ.

Đối với các tỉnh thành ngoài vùng KTTĐPN có lợi thế rất lớn về cung cấp

nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp thành phố (Tây Nguyên với sản

phẩm cây công nghiệp, lâm nghiệp; ĐBSCL sản phẩm từ nông nghiệp, thủy sản…).

Đây cũng là những vùng cung cấp lực lượng lao động nhập cư lớn cho TP. HCM

phát triển mạnh các ngành công nghiệp, dịch vụ sử dụng nhiều LĐ thời gian qua.

Một số giải pháp được đặt ra là:

 Xây dựng cơ chế liên kết, hợp tác lãnh thổ trong Vùng

Trước tiên, cần phải ban hành một cơ chế liên kết Vùng có giá trị pháp lí rõ

ràng, thiết lập một bộ phận chuyên trách chịu trách nhiệm nghiên cứu, điều phối và

lập quy hoạch xây dựng định hướng cụ thể trong việc hợp tác trên các lĩnh vực,

trong đó cần xác định một số lĩnh vực ưu tiên như quy hoạch phát triển các ngành

kinh tế, quy hoạch hạ tầng đô thị, đào tạo nguồn nhân lực, hợp tác thu hút đầu tư và

bảo vệ môi trường.

Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành và các địa phương trong

Vùng. Xây dựng mục tiêu và chương trình hành động cụ thể cho từng lĩnh vực hợp

tác, đảm bảo sự thống nhất trên phạm vi lãnh thổ Vùng và phân công trách nhiệm rõ

ràng, đảm bảo trách nhiệm và quyền lợi giữa các địa phương trong Vùng.

Thường xuyên đánh giá kết quả trong quá trình phối hợp thực hiện quy hoạch,

kịp thời có những điều chỉnh và giải pháp cụ thể trong việc tháo gỡ những khó khăn

trong quá trình liên kết. Vấn đề khó khăn lớn nhất hiện nay là các địa phương phải

thực hiện nghiêm túc, nhất quán các quy hoạch của Vùng và địa phương, tránh tình

174

trạng chồng chéo, lãng phí trong nội dung quy hoạch giữa quy hoạch địa phương

với quy hoạch Vùng hay quy hoạch giữa các địa phương với nhau.

 Thúc đẩy hợp tác lãnh thổ, lựa chọn lĩnh vực phát triển

Nghiên cứu, đánh giá đúng tiềm năng, thế mạnh của các tỉnh và tập trung vào

phát triển những lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh, tạo ra các sản phẩm chủ lực, tránh

tình trạng phát triển trùng lặp dẫn đến cạnh tranh nhau về thị trường, vốn đầu tư,

lao động. Tập trung phát triển theo hướng: TP. HCM trở thành trung tâm dịch vụ,

KHCN cao của khu vực, tập trung vào phát triển các ngành dịch vụ chất lượng cao

(tài chính, thương mại, ngân hàng, GTVT, du lịch, …), các ngành công nghiệp hiện

đại, giá trị gia tăng lớn (điện tử, tin học, cơ khí, hóa chất…); các tỉnh Đồng Nai,

Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu trở thành trung tâm công nghiệp với một số ngành

công nghiệp kĩ thuật cao, phát triển dịch vụ đồng bộ phục vụ cho các ngành công

nghiệp mũi nhọn. Các tỉnh còn lại của Vùng đón đầu quá trình chuyển dịch công

nghiệp từ các địa phương khác và phát triển thế mạnh của mình (kinh tế cửa khẩu,

vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả…).

Quy hoạch xây dựng hành lang công nghiệp của Vùng gắn với trung tâm dịch

vụ TP. HCM. Trước mắt cũng như trong dài hạn, VKTTĐPN vẫn là một trung tâm

công nghiệp chủ lực của cả nước, tập trung vào các sản phẩm có giá trị gia tăng

cao, sức cạnh tranh lớn, phục vụ xuất khẩu. Do đó, cần điều chỉnh lại hướng phân

bố công nghiệp trên địa bàn toàn Vùng theo hướng tạo một hành lang công nghiệp

hướng từ Đông Nam đến Tây Bắc thành phố (qua một phần các tỉnh, thành phố

gồm Long An – Tây Ninh – TP. HCM – Bình Phước – Bình Dương – Đồng Nai –

BRVT). Với vị trí vai trò của mình, TP. HCM sẽ thúc đẩy phát triển các ngành dịch

vụ, trước hết là dịch vụ phục vụ cho phát triển công nghiệp của Vùng (dịch vụ cảng

- kho bãi, tài chính – tín dụng – ngân hàng, KHCN, các dịch vụ phục vụ xuất

khẩu…).

Đẩy nhanh đầu tư xây dựng mạng lưới hạ tầng kết nối, tạo điều kiện mở rộng

không gian vùng đô thị, tăng cường mối liên kết chặt chẽ giữa các tỉnh thành trong

Vùng, trước mắt tập trung xây dựng hệ thống đường cao tốc liên vùng phía Nam.

Hiện nay, TP. HCM đã xây dựng nhiều tuyến đường kết nối với các tỉnh thành lân

175

cận thúc đẩy sự giao lưu, trao đổi hàng hóa kết nối các khu đô thị mới, các đô thị vệ

tinh, các khu công nghiệp như đường cao tốc TP. HCM – Long Thành – Dầu Giây

kết nối với Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, đường cao tốc TP. HCM – Trung Lương

kết nối với các tỉnh miền Tây, xa lộ Xuyên Á kết nối với Tây Ninh và Campuchia…

Ngoài ra, TP. HCM cũng đã phối hợp với các tỉnh trong vùng hoàn chỉnh mạng lưới

một số tuyến đường giao thông huyết mạch như quốc lộ 1, 51, 13… để kết nối hạ

tầng kĩ thuật trong và ngoài vùng KTTĐPN. Đây là điều kiện giúp thành phố và các

tỉnh hỗ trợ nhau phát triển đồng bộ, khai thác tốt nhất thế mạnh KT - XH tổng hợp

của toàn Vùng.

Đối với việc thu hút nguồn vốn và các dự án đầu tư vào các KCN – KCX, cần

lựa chọn những chính sách và ưu đãi riêng đối với từng địa phương. Trong quá

trình xúc tiến thu hút đầu tư và triển khai các dự án cần có sự hợp tác với các tỉnh

thành lân cận trong vùng, dựa trên lợi thế của mỗi tỉnh mà đưa ra những lĩnh vực

phù hợp, tránh tình trạng quy hoạch giống nhau rồi từ đó tìm cách lôi kéo, tranh

giành nhà đầu tư. TP. HCM không có lợi thế về giá đất và giá nhân công rẻ, vì vậy

cần tập trung vào phát triển CSHT, nguồn lao động chất lượng cao, cải cách thủ tục

hành chính, ưu tiên đặc biệt đối với những ngành, lĩnh vực trọng điểm, mũi nhọn.

 Tăng cường hợp tác về vấn đề lao động và giải quyết việc làm

Lao động của TP. HCM chủ yếu là lao động nhập cư, đặc biệt là lao động di

cư từ các tỉnh thành lân cận. Vì vậy, để ổn định nguồn lao động của mình, thành

phố cần phải có những giải pháp trong việc hợp tác với các địa phương khác trong

phát triển kinh tế cũng như giải quyết việc làm cho người lao động. Một số giải

pháp chính là:

Phát triển các khu công nghiệp của thành phố phù hợp với chiến lược phân

công lao động giữa các địa phương trong vùng, tránh tình trạng thiếu hụt lao động

do cạnh tranh với nhau. Hướng đi của thành phố là tập trung vào chiều sâu và chất

lượng, vì vậy tập trung thu hút nhu cầu lao động có trình độ CMKT. Di chuyển các

ngành sử dụng nhiều lao động, ô nhiễm môi trường (dệt may, da giày, chế biến thực

phẩm…) về các địa phương lân cận.

176

Hạn chế tình trạng di cư của lao động phổ thông bằng nhiều giải pháp đồng

bộ tại ngay địa bàn di cư như: Hỗ trợ công tác đào tạo nghề cho người lao động tại

các địa phương để nâng cao chất lượng lao động; hỗ trợ giống cây con, phát triển

công nghiệp, dịch vụ nông nghiệp, đầu tư về vốn cho các địa phương để có thể

chuyển đổi cơ cấu kinh tế hợp lí, nâng cao chất lượng cuộc sống, hạn chế tình trạng

di cư của lao động phổ thông từ nông thôn vào thành phố; hỗ trợ về chuyên gia và

công nghệ kĩ thuật cao để các tỉnh lân cận đánh giá đúng và tập trung phát triển

những lĩnh vực phù hợp với lợi thế của mình; có chính sách đền bù và tạo việc làm

mới cho người dân bị mất đất trong quá trình CNH – ĐTH; có chính sách quản lí

chặt chẽ để hạn chế lao động nhập cư trình độ thấp, di chuyển theo mùa, di cư con

lắc vào TP. HCM…

Đối với lao động trình độ cao, các chuyên gia đầu ngành từ các tỉnh trong

Vùng di cư đến cần phải có chính sách đãi ngộ thích hợp như nhập hộ khẩu, chính

sách mua nhà, về lương và phụ cấp, về phương tiện đi lại… Tuy nhiên, giải pháp

lâu dài là TP. HCM phải tự đào tạo nguồn lao động chất lượng cao bằng cách gửi

lao động đi đào tạo ở nước ngoài, nâng cao chất lượng giảng dạy, thường xuyên tổ

chức các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ cho người lao động…, hạn chế việc thu

hút từ các địa phương khác để tránh tình trạng “chảy máu chất xám” tại các tỉnh.

Đồng thời, TP. HCM không chỉ đào tạo cung cấp nguồn lao động chất lượng cao

cho thành phố mà còn cung cấp cho các địa phương trong Vùng và cả nước.

Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ nhu cầu

CNH – HĐH của Vùng. Cần làm tốt việc dự báo nhu cầu nguồn nhân lực, đầu tư

xây dựng các trung tâm đào tạo cần quan tâm đào tạo chuyên gia khoa học đầu đàn

cho cả Vùng. Hình thành các chi nhánh giáo dục tại các tỉnh nhằm giảm tình trạng

quá tải ở TP. HCM. Khuyến khích các cơ sở đào tạo có uy tín của thành phố mở

thêm chi nhánh tại các tỉnh trong Vùng để phục vụ người dân tại chỗ, nâng cao tay

nghề cho người lao động.

Trong những năm qua, công tác đào tạo nguồn lao động chất lượng cao đã

được thực hiện với hàng ngàn cán bộ quản lí và công nhân kĩ thuật của các tỉnh

trong Vùng được đào tạo ngắn hạn hoặc dài hạn tại các trường Đại học hoặc các

177

doanh nghiệp của TP. HCM. Đội ngũ lao động này sẽ là lực lượng nòng cốt phục

vụ quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh Vùng KTTĐPN, đẩy nhanh quá

trình chuyển dịch CCKT và CCLĐ của TP. HCM nói riêng và toàn Vùng nói

chung.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3

Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH vùng KTTĐPN đến năm

2025, quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH TP. HCM và quy hoạch chung xây

dựng TP. HCM đến năm 2025 cùng Nghị quyết của Đảng bộ, Ủy ban Nhân dân TP.

HCM đã đưa ra hệ thống chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội và phát triển không gian

đô thị TP. HCM, phấn đấu trở thành trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại,

KHCN hàng đầu cả nước và khu vực Đông Nam Á.

Về định hướng CDCCLĐ của thành phố đến năm 2025, TP. HCM tiếp tục

chuyển dịch gắn với mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, với quá

trình công nghiệp hóa và đô thị hóa của thành phố. Trong đó, tập trung ưu tiên vào

việc nâng cao tỉ lệ lao động có trình độ CMKT để đáp ứng cho việc phát triển 9

nhóm ngành dịch vụ và 4 nhóm ngành công nghiệp trọng yếu của TP. HCM.

Để đảm bảo quá trình CDCCLĐ diễn ra mạnh mẽ và đạt hiệu quả cao, TP.

HCM cần tiến hành đồng thời các giải pháp sau: Giải pháp về cơ chế, chính sách

thúc đẩy chuyển dịch CCLĐ; Giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lí

để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động đạt hiệu quả; Giải pháp đẩy nhanh quá

trình đô thị hóa theo hướng chất lượng; Giải pháp về thu hút và sử dụng có hiệu quả

nguồn lao động, giải quyết việc làm cho lao động; Giải pháp về nâng cao chất lượng

nguồn lao động và đào tạo nguồn lao động chất lượng cao; Giải pháp về tăng cường

hợp tác giữa TP. HCM với các địa phương trong và ngoài Vùng KTTĐPN.

178

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

Đề tài luận án “Chuyển dịch cơ cấu lao động ở TP. HCM trong quá trình đô

thị hóa” tác giả đã bước đầu nghiên cứu, làm rõ thêm một số vấn đề lí luận và thực

tiễn về chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM. Qua đó tác giả rút ra một số kết quả

nghiên cứu của luận án như sau:

1. Chuyển dịch CCLĐ là quá trình thay đổi tỉ trọng của từng bộ phận trong tổng số

lao động theo một không gian và thời gian nào đó. Thực chất, chuyển dịch CCLĐ

là quá trình phân công lại lao động trong nền kinh tế theo hướng tiến bộ, nhằm

mục đích sử dụng lao động có hiệu quả, đem lại hiệu quả kinh tế cao.

2. Chuyển dịch CCLĐ được nghiên cứu theo các nội dung: chuyển dịch CCLĐ theo

nhóm ngành và ngành kinh tế, theo thành phần kinh tế, theo lãnh thổ, theo trình độ

CMKT và theo tuổi, giới tính. Được đánh giá thông qua các tiêu chí: quy mô và cơ

cấu lao động, tỉ trọng và tốc độ CDCCLĐ, sự thay đổi CCLĐ gắn với CCKT và

NSLĐ, sự thay đổi xét về trình độ CMKT, sự thay đổi dựa theo thương số vị trí.

3. Chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM chịu ảnh hưởng của các nhóm nhân tố chính sau:

(i) Vị trí địa lí và phạm vi lãnh thổ; (2) Nhân tố kinh tế - xã hội gồm: quy mô và

tốc độ tăng trưởng kinh tế, CCKT và chuyển dịch CCKT, dân số, phân bố dân cư

và nguồn lao động, CNH – ĐTH, cơ sở hạ tầng, đường lối chính sách, trình độ học

vấn, KHCN, đầu tư nước ngoài, thị trường lao động và liên kết Vùng trong sử dụng

lao động; (iii) Nhân tố tự nhiên gồm địa hình, khí hậu, đất đai, nguồn nước.

4. Nghiên cứu quá trình chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM trong quá trình ĐTH cho

thấy thành phố đã đạt được một số kết quả sau: (i) CCLĐ theo ngành và thành

phần kinh tế có sự chuyển dịch phù hợp với chuyển dịch CCKT và đúng định

hướng phát triển kinh tế - xã hội của thành phố trong quá trình CNH – ĐTH. (ii)

Gia tăng tỉ lệ đóng góp lao động vào các ngành có NSLĐ cao, trình độ và công

nghệ cao, giảm tỉ lệ lao động ở các ngành thâm dụng lao động, NSLĐ thấp. (iii)

Chất lượng lao động ngày càng được nâng cao, tỉ lệ lao động có CMKT tăng ở các

ngành kinh tế, thành phần kinh tế và ở các vùng ĐTH. (iv) Lao động có sự chuyển

179

dịch về mặt lãnh thổ theo hướng từ khu vực nội đô ra khu vực vùng ven và ngoại

thành, CCLĐ có sự khác biệt giữa ba khu vực.

5. Đánh giá hạn chế trong chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM cho thấy (i) Tốc độ chuyển

dịch CCLĐ còn chậm, sự chuyển dịch từ các ngành thâm dụng lao động với NSLĐ

thấp sang các ngành công nghệ cao, thâm dụng vốn và NSLĐ cao còn chậm; (ii)

Lao động đã qua đào tạo mặc dù có tăng nhưng chậm, tỉ lệ lao động không có trình

độ CMKT còn cao và phân bố không hợp lí giữa các ngành kinh tế, thành phần

kinh tế và theo vùng lãnh thổ; (iii) Chuyển dịch CCLĐ chưa mang lại hiệu quả cao

về NSLĐ, tốc độ chuyển dịch diễn ra chậm hơn so với chuyển dịch CCKT, chưa

khai thác hết được tiềm năng và thế mạnh của thành phố.

6. Để thúc đẩy chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM trong quá trình ĐTH đến năm 2025,

cần thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp lớn với nhiều giải pháp cụ thể như (i)

Giải pháp về cơ chế, chính sách thúc đẩy chuyển dịch CCLĐ; (ii) Giải pháp đẩy

mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lí để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động

đạt hiệu quả; (iii) Giải pháp đẩy nhanh quá trình đô thị hóa theo hướng chất lượng;

(iv) Giải pháp về thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, giải quyết việc

làm cho lao động; (v) Giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn lao động và đào tạo

nguồn lao động chất lượng cao; (vi) Giải pháp về tăng cường hợp tác giữa TP.

HCM với các địa phương trong và ngoài Vùng KTTĐPN.

2. Kiến nghị

Từ kết quả nghiên cứu và xuất phát từ những hạn chế trong quá trình chuyển

dịch CCLĐ của TP. HCM trong quá trình ĐTH giai đoạn 1999 – 2013, chúng tôi có

một số kiến nghị sau đây:

 Đối với Chính quyền TP. HCM

- Nhanh chóng ban hành, triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách và quy

định pháp lí về quy hoạch xây dựng và phát triển đô thị, chính sách về thu hút

đầu tư, chính sách về lao động, việc làm…

- Tập trung ưu tiên đầu tư phát triển các nhóm ngành chủ lực của Thành phố để

tạo hiệu quả kinh tế cao, nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang chiều

sâu, chuyển dịch lao động sang các ngành có NSLĐ cao.

180

- Để thúc đẩy mối quan hệ hợp tác liên Vùng, các địa phương trong VKTTĐPN

cần phối hợp với nhau trong việc triển khai thực hiện quy hoạch phát triển các

ngành kinh tế nhằm phát huy tối đa lợi thế so sánh trong từng địa phương

trong Vùng.

 Đối với các Sở, Ban ngành của TP. HCM

- Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn lao động có trình độ CMKT cao để đáp ứng

được yêu cầu CNH – HĐH đất nước.

- Triển khai việc quy hoạch, xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng kĩ

thuật và xã hội, đặc biệt là hệ thống giao thông đô thị.

181

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

1. Phạm Thị Xuân Thọ, Phạm Thị Bạch Tuyết (2011), Biến động dân số TP.HCM

giai đoạn 1999 - 2009: hiện trạng, nguyên nhân và các giải pháp, Tạp chí Khoa

học trường Đại học Sư phạm TP HCM, Số 12/2011.

2. Phạm Xuân Hậu, Phạm Thị Bạch Tuyết (2013), Thực trạng và giải pháp thu hút

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội TP HCM, Tạp

chí Khoa học trường Đại học Sư phạm TP HCM, Số 11/2013.

3. Phạm Thị Bạch Tuyết (2013), đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường: Nghiên

cứu quy mô và cơ cấu lao động tại TP. HCM giai đoạn 1990 – 2012, MS:

CS2013-18.

4. Trịnh Duy Oánh, Phạm Thị Bạch Tuyết (2014), Thực trạng và giải pháp trong

quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế TP.HCM theo hướng CNH - HĐH, Kỷ yếu

hội nghị khoa học Địa lý toàn quốc lần 8, NXB ĐH Sư phạm TPHCM.

5. Phạm Thị Xuân Thọ, Phạm Thị Bạch Tuyết (2014), Tìm hiểu thực trạng quy mô

và cơ cấu lao động của TP. HCM, Kỷ yếu hội nghị khoa học Địa lý toàn quốc

lần 8, NXB ĐH Sư phạm TP.HCM.

6. Phạm Thị Bạch Tuyết (2014), Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với lao

động ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học trường Đại học Sư phạm TP

HCM, Số 07/2014.

7. Phạm Thị Bạch Tuyết (2015), Tác động của đô thị hóa đến phát triển kinh tế -

xã hội ở TP. HCM, Tạp chí khoa học Đại học Sài Gòn, số 1 (26), tháng 1/2015.

182

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Đặng Nguyên Anh (2007), Xã hội học dân số, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

2. Lê Xuân Bá (chủ nhiệm đề tài) (2006), Các yếu tố tác động đến quá trình

chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn Việt Nam, Viện Nghiên cứu quản lý

kinh tế Trung ương, Hà Nội.

3. Ban quản lí các KCX và KCN TP. HCM (2011), Hội nghị tổng kết 20 năm xây

dựng và phát triển KCX – KCN TP. HCM, TP. HCM.

4. Bạch Văn Bảy (chủ nhiệm đề tài) (1996), Một số vấn đề biến đổi và phát triển

dân số và nguồn lao động trên địa bàn TP. HCM, Viện Kinh tế TP. HCM.

5. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2001), Số liệu thống kê lao động – việc

làm ở Việt Nam 1996 - 2000, NXB Thống kê, Hà Nội.

6. Nguyễn Thị Cành (2001), Điều tra nguồn nhân lực trên địa bàn TP. HCM,

Viện Kinh tế TP. HCM.

7. Nguyễn Thị Cành (2001), Thị trường lao động TP. HCM trong quá trình

chuyển đổi nền kinh tế và kết quả điều tra doanh nghiệp về nhu cầu lao động,

NXB Thống kê, TP. HCM.

8. Trần Xuân Cầu, Mai Quốc Chánh (chủ biên) (2009), Giáo trình kinh tế nguồn

nhân lực, NXB trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

9. Phạm Đức Chính (2005), Thị trường lao động – cơ sở lí luận và thực tiễn ở Việt

Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Chính phủ, Quyết định số 02/NQ – CP về Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020

và kế hoạch sử dụng đất năm năm đầu kì (2011 – 2015) của TP. HCM.

11. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (2002), Công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

12. Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (2010), Lao động và tiếp cận việc làm:

Báo cáo thị trường lao động, việc làm và đô thị hoá ở Việt Nam đến năm 2020,

học hỏi từ kinh nghiệm quốc tế, Hà Nội.

13. Cục thống kê TP. HCM, Niên giám thống kê TP. HCM các năm từ 1999 - 2014,

NXB Thống kê, TP. HCM.

183

14. Cục thống kê TP. HCM, Tổng điều tra dân số và nhà ở TP. HCM năm 1999 và

2009, NXB Thống kê, TP. HCM.

15. Cục thống kê TP. HCM, Doanh nghiệp TP. HCM qua kết quả điều tra 2001 -

2011, NXB Thống kê, TP. HCM.

16. Cục thống kê TP. HCM, Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp, thủy

sản TP. HCM năm 2011, NXB Thống kê, TP. HCM.

17. Lương Minh Cừ, Đào Duy Huân, Phạm Đức Hải (2013), Chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế TP HCM và Việt Nam theo hướng cạnh

tranh đến năm 2020, NXB Tổng hợp TP HCM.

18. Võ Kim Cương, Không gian đô thị TP HCM và áp lực phát triển tự phát, Hội

thảo "Phát triển không gian đô thị Sài Gòn - TP. HCM”, Viện Nghiên cứu phát

triển TP HCM.

19. Hoàng Công Dũng (2013), Các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp của TP.

HCM, luận án Tiến sĩ Địa lí, trường ĐH Sư phạm TP. HCM.

20. Đàm Nguyễn Thuỳ Dương (2004), Nguồn lao động và sử dụng nguồn lao động

ở TP. HCM, luận án Tiến sĩ Địa lí, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội.

21. Nguyễn Trần Dương (2006), Hiện trạng cung – cầu nguồn lao động kỹ thuật

thành phố Hồ Chí Minh và định hướng giải pháp đào tạo, sử dụng cho giai

đoạn tới 2010, Viện Kinh tế TP. HCM.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành

Trung ương khóa VII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

23. Trần Thọ Đạt (2010), Tăng trưởng kinh tế thời kì đổi mới ở Việt Nam, NXB Đại

học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

24. Nguyễn Đình Đầu, Sơn Nam, Huỳnh Phú Sang (1998), “Sài Gòn - TP. HCM

300 năm địa chính”, Sở Địa chính TP. HCM.

25. Võ Văn Đức, Đinh Ngọc Giang (2012), Một số vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh

trong quá trình công nghiệp hoá - đô thị hoá ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc

gia - sự thật, Hà Nội.

26. Tống Văn Đường, Nguyễn Nam Phương (2007), Giáo trình dân số và phát

triển, NXB ĐH Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

184

27. Phí Thị Hằng (2014), Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành ở Thái Bình

trong giai đoạn hiện nay, luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

28. Hà Thị Hằng (2013), Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn

với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên - Huế hiện nay, Luận án Tiến sĩ

kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia TP. HCM, Hà Nội.

29. Đỗ Hậu (chủ biên) (2012), Xã hội học đô thị, NXB Xây dựng, Hà Nội.

30. Đỗ Thị Thanh Hoa (1999), Di cư tự do trong quá trình đô thị hóa và tác động

của nó tới môi trường xã hội TP. Hà Nội, luận án Tiến sĩ Địa lí, ĐH Sư phạm

Hà Nội.

31. Vương Phương Hoa (2014), CNH – HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở

thành phố Đà Nẵng, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh.

32. Nguyễn Minh Hòa (2005), Vùng đô thị Châu Á và TP. HCM, NXB Tổng hợp

TP. HCM.

33. Dương Anh Hoàng (2008), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH – HĐH Đà

Nẵng, luận án Tiến sĩ Triết học, Viện Phát triển Bền vững vùng Nam Bộ, TP.

HCM.

34. Nguyễn Kim Hồng (1994), Sự phát triển dân số và mối quan hệ phát triển với

kinh tế - xã hội ở TP. HCM, luận án Tiến sĩ Địa lí, Trường ĐH Sư phạm Hà

Nội, Hà Nội.

35. Hội đồng Nhân dân TP. HCM, Nghị quyết số 03/2013/NQ-HĐND ngày

13/05/2013 khóa XIII, kì họp thứ 9 về việc thông qua “Quy hoạch tổng thể phát

triển kinh tế - xã hội TP. HCM đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025” .

36. Trần Hùng (2001), Dân số học đô thị, NXB Xây Dựng, Hà Nội.

37. Đinh Sơn Hùng, Trương Thị Hiền (2009), Những vấn đề cơ bản của các lý

thuyết kinh tế, NXB Tổng hợp TP. HCM, TP. HCM.

38. Nhiêu Hội Lâm (2004), Kinh tế học đô thị, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Phạm Ngọc Linh, Nguyễn Thị Kim Dung (2011), Giáo trình kinh tế phát triển,

NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

185

40. Lê Văn Nam (chủ biên) (2005), Nông dân ngoại thành TP. HCM trong tiến

trình đô thị hóa, NXB Tổng hợp TP. HCM.

41. Ngân hàng thế giới (2011), Đánh giá đô thị hóa ở Việt Nam, Báo cáo hỗ trợ kĩ

thuật, Ngân hàng Thế giới, Hà Nội.

42. Cao Minh Nghĩa (2007) (chủ nhiệm đề tài), Phân tích các mối quan hệ giữa

biến động dân số và tăng trưởng kinh tế trên địa bàn TP. HCM, Viện Kinh tế

TP. HCM.

43. Cao Minh Nghĩa (2008) (chủ nhiệm đề tài), Những giải pháp nhằm đẩy mạnh

quá trình hợp tác kinh tế giữa TP. HCM và các tỉnh trong vùng KTTĐPN, Viện

Kinh tế TP. HCM, TP. HCM.

44. Đặng Văn Phan, Nguyễn Kim Hồng (2006), Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam

thời kì hội nhập, NXB Giáo dục, Hà Nội

45. Nguyễn Văn Phúc, Mai Thị Thu (chủ biên) (2012), Khai thác và phát triển tài

nguyên nhân lực Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

46. Trần Hữu Quang (chủ nhiệm đề tài) (2010), Cư dân đô thị và không gian đô thị

trong tiến trình đô thị hóa ở TP. HCM: thực trạng và dự báo, Viện Nghiên cứu

Phát triển TP. HCM, TP. HCM.

47. Trương Thị Minh Sâm (chủ biên) (2000), Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành ở TP HCM trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

48. Trần Hồi Sinh (chủ nhiệm đề tài) (2006), Chuyển dịch cơ cấu lao động 5 huyện

ngoại thành TP HCM trong quá trình đô thị hoá – thực trạng và giải pháp,

Viện Kinh tế TP. HCM, TP. HCM.

49. Trần Cao Sơn (1995), Dân số và tiến trình đô thị hóa - động thái phát triển và

triển vọng, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

50. Sở Lao động Thương binh và Xã hội TP. HCM (2015), Tổng hợp số liệu về dân

số, lao động và việc làm TP. HCM, Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và

Thông tin thị trường lao động TP. HCM.

51. Sở Lao động Thương binh và Xã hội TP. HCM (2015), Thực trạng thị trường

lao động năm 2010 – 2014 và dự báo nhu cầu nhân lực giai đoạn 2015 – 2020

186

đến năm 2025 tại TP. HCM, Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin

thị trường lao động TP. HCM.

52. Trương Quang Thao (2001), Đô thị học – Những khái niệm mở đầu, NXB Xây

dựng, Hà Nội.

53. Nguyễn Tiến Thành (2006), Giải pháp quy hoạch tổ chức không gian đô thị cực

lớn theo hướng phát triển bền vững lấy TP. HCM làm ví dụ, luận án Tiến sĩ,

trường ĐH Kiến trúc TP HCM.

54. Vũ Ngọc Thành, Ranh giới hành chính đô thị Sài Gòn - TP HCM thể hiện qua

các bản đồ (giai đoạn 1859 - 2005), Hội thảo "Phát triển không gian đô thị Sài

Gòn - TP. HCM”, Viện Nghiên cứu phát triển TP HCM.

55. Nguyễn Hữu Thảo (chủ biên) (2001), Lịch sử các học thuyết kinh tế, trường ĐH

Kinh tế TP. HCM, NXB Thống kê, TP. HCM.

56. Vũ Bá Thể (2005), Phát huy nguồn lực con người để CNH - HĐH: kinh nghiệm

quốc tế và thực tiễn Việt Nam, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội.

57. Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức (2002), Giáo trình địa lý kinh tế - xã hội

Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

58. Phạm Thị Xuân Thọ (2001), Di dân ở TP. HCM và tác động của nó đối với sự

phát triển kinh tế - xã hội, Luận án Tiến sĩ Địa lí, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội.

59. Phạm Thị Xuân Thọ (2008), Địa lý đô thị, NXB Giáo dục, TP. HCM.

60. Phạm Quý Thọ (2006), Chuyển dịch cơ cấu lao động trong xu hướng hội nhập

quốc tế, NXB Lao động – Xã hội, Hà Hội.

61. Nguyễn Thị Thơm, Phí Thị Hằng (2009), Giải quyết việc làm cho lao động

nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

62. Thủ tướng chính phủ (2010), Quyết định số 24/QĐ-TTg Về việc phê duyệt điều

chỉnh Quy hoạch chung xây dựng TP. Hồ Chí Minh đến năm 2025.

63. Thủ tướng Chính phủ (1999), Nghị định số 42/2009/NĐ-CP Hà Nội về việc

phân loại đô thị.

64. Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 123/QĐ-TTg về việc Phê duyệt

Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội TP. HCM đến năm 2010.

187

65. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 24/QĐ-TTg về việc Phê duyệt điều

chỉnh Quy hoạch chung xây dựng TP. HCM đến năm 2025.

66. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 252/QĐ-TTg ngày 13/02/2014 về

“Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng KTTĐPN đến

năm 2020, định hướng đến năm 2030”.

67. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 2631/QĐ-TTg ngày 31/12/2013 về

“Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội TP. HCM đến năm

2020, tầm nhìn đến năm 2025”.

68. Đỗ Phú Trần Tình (2010), Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội – lí thuyết

và thực tiễn ở TP. HCM, NXB Lao động, TP. HCM.

69. Tổng cục Thống kê, Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 1989, 1999

và 2009: các kết quả chủ yếu, NXB Thống kê, Hà Nội.

70. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê Việt Nam các năm, NXB Thống kê, Hà

Nội.

71. Tổng cục Thống kê (2010), Di cư và đô thị hóa ở Việt Nam, NXB Thống kê.

72. Tổng cục Thống kê (2012), Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình

năm 2012 – các kết quả chủ yếu, NXB Thống kê, Hà Nội.

73. Tổng cục Thống kê (2012), Điều tra lao động – việc làm ở Việt Nam 2012,

NXB Thống kê, Hà Nội.

74. Tổng cục Thống kê (2013), Điều tra lao động – việc làm ở Việt Nam 2013,

NXB Thống kê, Hà Nội.

75. Tô Thị Thùy Trang (chủ nhiệm đề tài) (2013), Định hướng phát triển kinh tế -

xã hội vùng nông thôn TP. HCM đến năm 2020, Viện Nghiên cứu phát triển TP.

HCM, TP. HCM.

76. Phạm Đỗ Văn Trung (2014), Nghiên cứu quá trình đô thị hóa và ảnh hưởng của

nó đến sự phát triển kinh tế - xã hội thành phố Cần Thơ, luận án Tiến sĩ Địa lí,

trường ĐH Sư phạm TP.HCM.

77. Trung tâm Nghiên cứu đô thị và Phát triển, trường Đại học KHXN và NV

(2014), Kỉ yếu hội thảo khoa học “20 năm đô thị hóa Nam Bộ - lí luận và thực

tiễn”, Bình Dương.

188

78. Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á (1996), Đô thị hóa tại Việt Nam và Đông

Nam Á, NXB TP. HCM.

79. Trường ĐH KHXN và NV, Trung tâm Nghiên cứu phát triển đô thị và cộng

đồng (2005), Những vấn đề của phát triển không gian đô thị, NXB Đại học

Quốc gia TP. HCM, TP. HCM.

80. Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên) (2007), Địa lí kinh tế - xã hội đại cương, NXB

Đại học Sư phạm, Hà Nội.

81. Trương Văn Tuấn (2012), Di cư và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế

- xã hội ở vùng Đông Nam Bộ, luận án Tiến sĩ Địa lí, trường ĐH Sư phạm TP.

HCM.

82. Nguyễn Thị Hải Vân (2013), Đô thị hóa và việc làm lao động ngoại thành Hà

Nội, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

83. Ngô Doãn Vịnh (2013), Giải thích thuật ngữ trong nghiên cứu phát triển, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

84. Viện Kinh tế TP. HCM (2006), Nghiên cứu cơ chế chính sách thúc đẩy chuyển

dịch cơ cấu lao động và nâng cao mức sống dân cư ở khu vực nông thôn ngoại

thành TP. HCM, TP. HCM.

85. Viện Kinh tế TP. HCM (2006), Hội thảo dân số với phát triển kinh tế - xã hội

TP HCM, TP. HCM.

86. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2013), Xu hướng lao động và xã hội Việt

Nam 2013, Hà Nội.

87. Viện Năng suất Việt Nam (2014), Báo cáo năng suất Việt Nam 2014, Hà Nội.

88. Viện Nghiên cứu Phát triển (2010), TP. HCM 35 năm xây dựng và phát triển

(1975 – 2010), NXB Tổng hợp TP. HCM, TP. HCM.

89. Đức Vượng (2008), Thực trạng và giải pháp về phát triển nhân lực Việt Nam,

Báo cáo khoa học tại Hội nghị "Quốc tế Việt Nam học lần thứ 3", Viện Khoa

học nghiên cứu nhân tài, nhân lực, Hà Nội.

90. Ủy ban Nhân dân TP. HCM, Quyết định số 1335/QĐ – UBND về Phê duyệt

quy hoạch phát triển nhân lực TP. HCM giai đoạn 2011 – 2020.

189

91. Ủy ban Nhân dân TP. HCM, Quyết định số 2425/2007/QĐ-UBND ngày

1/6/2007 về phê duyệt Chương trình chuyển dịch cơ cấu công nghiệp – phát

triển công nghiệp hiệu quả cao trên địa bàn TP. HCM giai đoạn 2006 – 2010.

92. Ủy ban Nhân dân TP. HCM, Quyết định số 24/2011/QĐ – UBND về ban hành

kế hoạch thực hiện nghị quyết đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IX về Chương

trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế

thành phố giai đoạn 2011 – 2015.

93. Ủy ban Nhân dân TP. HCM, Quyết định số 36/2011/QĐ-UBND ngày

10/6/2011 của Ủy ban nhân dân TP. HCM về Chính sách khuyến khích chuyển

dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị trên địa bàn thành phố

giai đoạn 2011 – 2015.

94. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2009), Luật quy hoạch đô thị (luật số

30/2009/QH12).

95. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Luật số 10/2012/QH13 - Bộ luật Lao

động.

Tiếng Anh

96. Coulhart, A.N.Quang, and H. Sharp (2006), Urban Development Strategy:

Meeting the Challenges of Rapid Urbanization and the Transition to market

oriented Economy, Hanoi, World Bank office in Vietnam.

97. Michael Spence, Patricia Clarke, Annez và Robert M. Buckley đồng chủ biên

(2010), Đô thị hóa và tăng trưởng, NXB Dân trí, Hà Nội.

98. Ian Coxhead, Diệp Phan cùng các cộng sự (2009), Báo cáo thị trường lao động,

việc làm và đô thị hóa ở Việt Nam đến năm 2020: học hỏi từ kinh nghiệm quốc

tế,

99. UN, Department of Economicand Social Affairs (2012), World Urbanization

Prospects – The 2011 Revision: Highlights.

100. Urban Solutions (2011), “Urban Evolution”, Vietnam Urbanization Review

background papers, World Bank.

190

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Thƣơng số vị trí theo ngành kinh tế, chia theo loại đô thị của

0,32

0,27 0,54

1,28

1,75

1,83

0,77

2,01

các ĐT đặc biệt

2,53

1,26

các ĐT loại 1

1,01

1,16

1,36

1,13

các ĐT loại 2

0,98

1,05

1,06

0,93

1,01

1,71

các ĐT loại 3

0,95

0,92

0,95

0,92

các ĐT loại 4

1,14

1,18

0,89

0,78

0,76

0,73

khai thác mỏ sản xuất công

xây dựng

nông, lâm, ngư nghiệp

thương mại, dịch vụ

công nghiệp, xây dựng

nghiệp

Việt Nam năm 2009

Nguồn: [41, tr.30]

Phụ lục 2: Cơ cấu dân số chia theo thành thị và nông thôn của

100%

TP. HCM giai đoạn 1999 - 2013 (%)

16.6

14.8

16.2

16.8 16.8

17.6

90%

80%

70%

60%

50%

Nông thôn

83.4

85.2

83.2 83.2

82.4

40%

83.8

Thành thị

30%

20%

10%

0% 1999 2000 2005 2009 2010 2013

Nguồn: [13]

191

Phụ lục 3: Sự thay đổi tỉ trọng dân cƣ theo 4 hƣớng phát triển của TP. HCM

giai đoạn 2005 – 2013

Dân số

Dân số

Thay

Tốc độ

Tỉ trọng

Tỉ trọng

Hƣớng phát triển

năm 2005

năm 2013

đổi tỉ

tăng dân

%

%

(ngƣời)

(ngƣời)

trọng %

số %/năm

Nội

thành

hiện

hữu

(Q.1,3,4,5,6,8,10,11, TB,

3.693.850

59,2

4.075.961

51,3

-7,9

1,24

TP, PN, GV, B.Thạnh)

Hướng Bắc – Tây Bắc

847.150

13,6

1.282.175

16,1

+2,6

5,32

(Q.12, Hóc Môn, Củ Chi)

Hướng Đông – Đông Bắc

680.109

10,9

932.559

11,7

+0,8

4,02

(Q.2, 9, Thủ Đức)

Hướng Tây – Tây Nam

715.345

11,5

1.169.486

14,7

+3,3

6,34

(Bình Tân, Bình Chánh)

Hướng Nam – Đông Nam

303.484

4,9

479.581

6,0

+1,2

5,89

(Q7, Nhà Bè, Cần Giờ)

Tổng cộng

6.239.938

100

7.937.762

100

0,0

3,06

Nguồn: tính toán từ [13]

Phụ lục 4: Hiện trạng sử dụng đất tại TP. HCM giai đoạn 1999 – 2013 (ha)

Năm

1999

2005

2010

2013

Diện tích đất tự nhiên

209.502

209.554

209.554

209.555

- Đất nông nghiệp

130.720

123.517

118.052

116.917,4

Đất sản xuất nông nghiệp

91.139,2

77.955

72.143

71.171,9

Đất lâm nghiệp

33.472

33.858

34.116

33.987,2

Đất nuôi trồng thủy sản

4.149

9.765

9.441

9.368,3

- Đất phi nông nghiệp

74.294

83.774

90.868

92.178,9

Đất ở

16.686

20.521

23.666

24.311,3

Đất chuyên dùng

24.025

28.535

18.953

33.550,1

- Đất chưa sử dụng

4.488

2.264

635

458,7

Nguồn: [13]

192

Phụ lục 5: Hiện trạng cơ cấu sử dụng đất phân theo quận, huyện TP. HCM

năm 2014

Quận

Cơ cấu sử dụng đất (%)

Tổng số

Đất nông nghiệp

(Ha)

Đất phi nông nghiệp

Đất chƣa sử dụng

Toàn thành

209.555

55,8

44,0

0,2

772,62

0

100

0

Quận 1

492,88

0

100

0

Quận 3

417,08

0

100

0

Quận 4

426,84

0

100

0

Quận 5

714,46

0

100

0

Quận 6

1917,48

13,9

86,1

0

Quận 8

571,8

0

100

0

Quận 10

513,94

0,1

99,9

0

Quận 11

486,34

0

100

0

Quận PHÚ NHUẬN

1975,85

7,4

92,6

0

Quận GÒ VẤP

2239,02

0

100

0

Quận TÂN BÌNH

1600,97

2,6

97,4

0

Quận TÂN PHÚ

2070,66

10,5

89,5

0

Quận BÌNH THẠNH

5018,06

15,0

85,0

0

Quận 2

3546,77

7,5

92,5

0

Quận 7

11389,6

36,0

63,6

0,4

Quận 9

5274,9

31,8

68,2

0

Quận 12

5188,4

36,2

63,8

0

Quận BÌNH TÂN

4764.88

21,8

78,2

0

Quận THỦ ĐỨC

10055,58

46,5

53,1

0,4

HUYỆN NHÀ BÈ

25255,29

67,3

32,7

0

HUYỆN BÌNH CHÁNH

10943,37

60,8

38,8

0,4

HUYỆN HÓC MÔN

43496,59

74,4

24,9

0,7

HUYỆN CỦ CHI

70421,58

65,1

34,9

0

HUYỆN CẦN GiỜ

193

Phụ lục 6: Lao động và mật độ lao động của từng quận, huyện so với tổng lực

lƣợng lao động toàn TP. HCM năm 1999 và 2009

Quận

1999

2009

Lao động

Lao động

Lao động/km2 1.025

Lao động/km2 1.755

Toàn thành

2.145.964

3.676.206

12.232

10.210

Quận 1

92.965

78.922

19.054

17.766

Quận 3

91.460

87.409

21.060

20.785

84.238

86.881

Quận 4

20.483

18.182

83.982

77.639

Quận 5

15.463

16.706

108.238

120.116

Quận 6

7.501

10.296

Quận 8

141.011

197.483

17.117

17.886

97.566

102.308

Quận 10

20.074

20.743

100.371

106.621

Quận 11

15.217

16.324

77.608

79.661

Quận PHÚ NHUẬN

7.113

12.908

136.564

254.803

Quận GÒ VẤP

6.540

9.267

251.798

207.397

Quận TÂN BÌNH

13.452

216.039

Quận TÂN PHÚ

8.181

9.983

Quận BÌNH THẠNH

167.718

207.256

825

1.428

Quận 2

41.426

71.036

1.262

3.782

Quận 7

45.316

134.969

576

1.129

Quận 9

65.113

128.673

1.480

4.169

Quận 12

77.717

220.024

6.768

Quận BÌNH TÂN

351.181

1.959

5.355

Quận THỦ ĐỨC

94.012

255.759

237

461

23.300

46.336

HUYỆN NHÀ BÈ

482

993

146.223

250.914

HUYỆN BÌNH CHÁNH

834

1.631

91.276

178.086

HUYỆN HÓC MÔN

244

429

104.718

186.244

HUYỆN CỦ CHI

33

43

23.344

30.382

HUYỆN CẦN GiỜ

194

Phụ lục 7: Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế của từng quận, huyện TP. HCM

năm 1999 và 2009

Quận

Năm 1999

Năm 2009

CN-XD

DV

DV

N-L-NN CN- XD

N-L- NN

Toàn thành

6.6

41.5

51.9

2.8

43.5

53.7

0.4

24.6

75

0.2

17.7

82.2

Quận 1

0.5

31

68.5

0.2

20.2

79.6

Quận 3

0.4

37.3

62.3

0.1

30.1

69.8

Quận 4

0.6

33.1

66.3

0.2

22.5

77.3

Quận 5

0.5

43.1

56.4

0.1

36.0

63.9

Quận 6

1.9

41.4

56.7

0.4

35.6

64.0

Quận 8

0.6

34.4

65

0.1

23.4

76.5

Quận 10

0.4

44.7

54.9

0.2

33.9

66.0

Quận 11

0.5

39.8

59.7

0.2

24.5

75.3

Quận PHÚ NHUẬN

3.1

48.4

48.5

0.3

40.6

59.1

Quận GÒ VẤP

0.8

37.6

61.6

0.3

34.1

65.6

Quận TÂN BÌNH

0.1

45.8

54.1

Quận TÂN PHÚ

0.5

35.8

63.7

0.4

28.4

71.3

Quận BÌNH THẠNH

8.3

39

52.7

1.1

34.8

64.1

Quận 2

1.6

45

53.4

0.2

43.2

56.5

Quận 7

11

51.9

37.1

2.8

52.0

45.3

Quận 9

13.6

51

35.4

3.8

56.5

39.8

Quận 12

1.4

63.2

35.4

Quận BÌNH TÂN

5

48.5

46.5

1.3

60.7

38.1

Quận THỦ ĐỨC

24.6

34.2

41.2

3.8

49.4

46.8

HUYỆN NHÀ BÈ

18.7

42.9

38.4

5.7

57.3

37.0

HUYỆN BÌNH CHÁNH

16.9

42.5

40.6

7.0

47.8

45.3

HUYỆN HÓC MÔN

44.3

29.5

26.2

20.4

47.9

31.7

HUYỆN CỦ CHI

57.3

14.2

28.5

32.3

25.4

42.3

HUYỆN CẦN GiỜ

Nguồn: [14]

195

Phụ lục 10: Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế của từng quận, huyện

TP. HCM năm 1999 và 2009

Quận

Năm 1999

Năm 2009

KTNN KTNNN KVĐTNN KTNN KTNNN KVĐTNN

15.9

76.0

8.1

Toàn thành

72.2

25.0

2.8

64.9

33.1

2

23.0

70.7

6.3

Quận 1

62.1

35.7

2.2

24.9

69.7

5.4

Quận 3

71.1

26.7

2.2

18.3

75.9

5.8

Quận 4

71.1

27.7

1.2

17.4

77.8

4.8

Quận 5

85.3

13.6

1.1

11.6

84.9

3.5

Quận 6

80.6

18

1.4

11.8

84.8

3.3

Quận 8

70.6

27.6

1.8

20.5

75.5

4.0

Quận 10

85

13

2

12.6

83.2

4.2

Quận 11

64.5

33

2.5

24.6

68.4

7.0

Quận PHÚ NHUẬN

74.8

22.2

3

18.7

75.7

5.6

Quận GÒ VẤP

75.1

23.1

1.8

19.0

76.4

4.5

Quận TÂN BÌNH

12.7

84.0

3.3

Quận TÂN PHÚ

66.3

31.8

1.9

22.2

72.3

5.4

Quận BÌNH THẠNH

72

26.3

1.7

20.8

71.9

7.3

Quận 2

63

28.7

8.3

16.2

60.4

23.5

Quận 7

67.7

27

5.3

18.1

69.3

12.5

Quận 9

80.9

16.7

2.4

10.7

79.9

9.4

Quận 12

5.8

70.1

24.1

Quận BÌNH TÂN

66.7

27.3

6

12.2

56.5

31.3

Quận THỦ ĐỨC

66.2

24.5

9.3

13.6

73.1

13.3

HUYỆN NHÀ BÈ

82.5

14.2

3.3

6.3

84.3

9.4

HUYỆN BÌNH CHÁNH

80.9

17.3

1.8

11.0

82.7

6.2

HUYỆN HÓC MÔN

79

12

9

9.3

68.0

22.7

HUYỆN CỦ CHI

85.6

13.4

1

14.7

83.1

2.2

HUYỆN CẦN GiỜ

Nguồn: [14]

196

Phụ lục 11: Cơ cấu lao động theo trình độ CMKT của từng quận, huyện

TP. HCM năm 1999 và 2009

Quận

Năm 1999

Năm 2009

Không có CMKT

Có CMKT

Không có CMKT

Có CMKT

Toàn thành

83.04

16.96

74.35

25.65

71.99

28.01

55.48

44.52

Quận 1

69.59

30.41

57.57

42.43

Quận 3

86.49

13.51

78.00

22.00

Quận 4

79.75

20.25

72.46

27.54

Quận 5

88.53

11.47

80.23

19.77

Quận 6

89.00

11.00

81.66

18.34

Quận 8

75.22

24.78

63.00

37.00

Quận 10

86.91

13.09

75.66

24.33

Quận 11

72.06

27.94

55.01

44.99

Quận PHÚ NHUẬN

81.86

18.14

63.55

33.45

Quận GÒ VẤP

81.26

18.74

60.84

39.16

Quận TÂN BÌNH

74.17

25.83

Quận TÂN PHÚ

74.24

25.76

63.00

37.00

Quận BÌNH THẠNH

85.40

14.60

65.44

34.56

Quận 2

84.03

15.97

58.55

41.45

Quận 7

84.03

15.97

74.81

25.19

Quận 9

89.69

10.31

80.31

19.69

Quận 12

87.71

12.29

Quận BÌNH TÂN

85.52

14.48

76.50

23.50

Quận THỦ ĐỨC

90.50

9.50

85.22

14.78

HUYỆN NHÀ BÈ

91.41

8.59

86.83

13.17

HUYỆN BÌNH CHÁNH

90.03

9.97

83.00

17.00

HUYỆN HÓC MÔN

91.41

8.59

84.20

15.80

HUYỆN CỦ CHI

94.11

5.89

87.60

12.40

HUYỆN CẦN GiỜ

Nguồn: [14]