HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HÀ TIẾN THĂNG
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Ở TỈNH THÁI BÌNH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2019
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HÀ TIẾN THĂNG
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Ở TỈNH THÁI BÌNH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số: 62 31 01 02
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐOÀN XUÂN THỦY
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích
dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án
Hà Tiến Thăng
MỤC LỤC
Trang 1
8 MỞ ĐẦU Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Các công trình nước ngoài liên quan đến chuyển dịch cơ cấu lao
động trong xây dựng nông thôn mới 8
1.2. Các công trình trong nước liên quan đến chuyển dịch cơ cấu lao
động trong xây dựng nông thôn mới 12
1.3. Khái quát những kết quả nghiên cứu khoa học liên quan đến chuyển dịch cơ cấu lao động trong qua trình xây dựng nông thôn mới và những vấn đề đặt ra 26
29 Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CƠ CẤU LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
2.1. Đặc điểm và vai trò của chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây
dựng nông thôn mới 29
2.2. Nội dung, tiêu chí đánh giá chuyển dịch cơ cấu lao động trong
xây dựng nông thôn mới và các nhân tố ảnh hưởng 42
2.3. Kinh nghiệm quốc tế và trong nước về chuyển dịch cơ cấu lao
động trong xây dựng nông thôn mới 49
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CƠ CẤU LAO ĐỘNG TRONG 65
QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH THÁI BÌNH
3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và quá trình xây dựng nông
thôn mới ở Thái Bình 65
3.2. Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động trong quá trình xây dựng
nông thôn mới ở Thái Bình 79
3.3. Đánh giá chung về thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động của
Thái Bình trong quá trình xây dựng nông thôn mới 103
115
Chƣơng 4: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GÓP PHẦN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở THÁI BÌNH 4.1. Dự báo bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến chuyển dịch
cơ cấu lao động trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình 115
4.2. Định hướng chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trong quá
trình xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình đến năm 2025 118
4.3. Các giải pháp chủ yếu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động
trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình đến năm 2025
KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
120 144 146 147
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BOT : Xây dựng - vận hành - chuyển giao
CDCCKT : Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
CDCCLĐ : Chuyển dịch cơ cấu lao động
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
GRDP : Tổng sản phẩm trên địa bàn
KT-XH : Kinh tế - xã hội
VHLSS : Điều tra mức sống hộ gia đình
DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Dân số trung bình phân theo giới tính và thành thị, nông thôn
67 giai đoạn 2011-2017
Bảng 3.2: Dân số trung bình nông thôn tỉnh Thái Bình phân theo các
68 huyện giai đoạn
Bảng 3.3. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo giới tính và
69 phân theo thành thị, nông thôn
Bảng 3.4: Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm
1/7 hàng năm trên địa bàn tỉnh Thái Bình đã qua đào tạo giai
70 đoạn 2011-2017
71 Bảng 3.5: GRDP của tỉnh Thái Bình giai đoạn 2012-2017
Bảng 3.6: Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trên địa bàn tỉnh Thái
Bình phân theo thành thị và nông thôn giai đoạn 2011-2017 80
Bảng 3.7: Cơ cấu phân theo hoạt động chính của số người trong độ tuổi
lao động có khả năng lao động ở nông thôn năm 2011 và 2016 81
Bảng 3.8: Tình hình chuyển dịch ngành nghề của hộ nông thôn trên địa
85 bàn tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2016
Bảng 3.9: Tình hình chuyển dịch ngành nghề của hộ nông thôn trên địa
88 bàn thành phố Thái Bình giai đoạn 2011-2016
Bảng 3.10: Tình hình chuyển dịch ngành nghề của hộ nông thôn trên địa
bàn huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2016 90
Bảng 3.11: Tình hình chuyển dịch ngành nghề của hộ nông thôn trên địa
bàn huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2016 91
Bảng 3.12: Tình hình chuyển dịch ngành nghề của hộ nông thôn trên địa
bàn huyện Đông Hưng tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2016 92
Bảng 3.13: Tình hình chuyển dịch ngành nghề của hộ nông thôn trên địa
bàn huyện Thái Thuỵ tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2016 94
Bảng 3.14: Tình hình chuyển dịch ngành nghề của hộ nông thôn trên địa
95 bàn huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2016
Bảng 3.15: Tình hình chuyển dịch ngành nghề của hộ nông thôn trên địa
97 bàn huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2016
Bảng 3.16: Tình hình chuyển dịch ngành nghề của hộ nông thôn trên địa
98 bàn huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2016
Bảng 3.17: Số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động ở nông
thôn phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật năm 2011 và 2016 100
Bảng 3.18: Tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo giai đoạn 2011-2017 102
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chuyển dịch cơ cấu lao động (CDCCLĐ) là tiền đề đặc biệt quan trọng
để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CDCCKT). Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế trong quá trình công nghiệp hoá (CNH) cần phải có nguồn nhân lực không
những phù hợp về số lượng, chất lượng mà đặc biệt là về cơ cấu. Cơ cấu lao
động phù hợp được coi là tiền đề để phát triển các ngành, các lĩnh vực trên
từng địa bàn cụ thể, do đó Chuyển dịch cơ cấu lao động có thể được coi là
tiền đề cần thiết cho CDCCKT nói riêng và thúc đẩy CNH nói chung. Tuy
nhiên, trong quá trình CDCCLĐ có thể xuất hiện các mâu thuẫn giữa yêu cầu
và khả năng sử dụng nguồn lao động hiện có; giữa yêu cầu giải quyết việc
làm cho người lao động với đòi hỏi về nguồn nhân lực cho phát triển KT-XH
(KT-XH), đặc biệt trong quá trình xây dựng và phát triển nông thôn mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thái Bình là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, là địa phương có
nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển KT-XH, đặc biệt cho phát triển nông
nghiệp và kinh tế biển. Trong những năm qua, Thái Bình đã đạt được những
thành tựu rất lớn trong phát triển KT-XH, CCKT đã từng bước chuyển dịch
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH). Tỷ trọng của ngành
Nông, Lâm, Thuỷ sản đã giảm từ 57,6% trong GRDP năm 2001 xuống còn
25,82% vào năm 2018; tỷ trọng của ngành công nghiệp - xây dựng trong GDP
tăng từ 15,2% lên 38,24%; dịch vụ từ 27,2% lên 35,94%[101]. Một trong
những nguyên nhân của kết quả trên là CCLĐ của tỉnh đã có sự thay đổi theo
hướng phù hợp với CDCCKT: tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm dần từ
75,12% trong tổng số lao động của tỉnh năm 2001 xuống còn 40,2% vào năm
2017; lao động công nghiệp - xây dựng tăng từ 13,0% lên 25,7%; lao động
dịch vụ tăng từ 11,9% lên 34,1%[13, tr.137].
2
Để thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 trên địa bàn tỉnh Thái Bình; Tỉnh uỷ ban
hành Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 28/4/2011 về việc xây dựng nông thôn
mới giai đoạn 2011 - 2015 định hướng đến năm 2020. Trong quá trình thực
hiện xây dựng nông thôn mới những năm qua ở Thái Bình cơ cấu ngành, nghề
và cơ cấu lao động ở nông thôn đã có bước chuyển dịch theo hướng tích cực,
góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động kinh tế của các chủ thể kinh
doanh ở nông thôn, thúc đẩy giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động
nông thôn.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình cũng
đang đứng trước sức ép lớn về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn:
Quá trình CDCCKT nông nghiệp, nông thôn trong xây dựng nông thôn mới
làm một bộ phận lao động nông nghiệp trở thành dôi dư, gây sức ép lớn đối
với giải quyết việc làm. Cho đến nay vẫn còn một bộ phận lao động nông thôn
chưa kịp chuyển đổi theo hướng phù hợp với sự gia tăng nhanh chóng của sản
xuất công nghiệp và yêu cầu của phát triển kinh tế nông thôn theo hướng văn
minh, hiện đại. Đây là vấn đề KT-XH nóng bỏng đã nảy sinh trong quá trình
xây dựng nông thôn mới và cần được nghiên cứu giải quyết.
Hơn thế nữa, để đẩy nhanh và nâng cao hiệu quả của quá trình xây
dựng nông thôn mới tỉnh Thái Bình hơn bao giờ hết phải có cơ cấu lao động
phù hợp về số lượng, chất lượng và cơ cấu và về cơ bản phải tìm ra giải pháp
hữu hiệu để CDCCLĐ hiện có thành CCLĐ phù hợp với xây dựng nông thôn
mới trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nói chung và CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn nói riêng.
Với lý do trên, tác giả lựa chọn chủ đề "Chuyển dịch cơ cấu lao động
trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình" làm luận án tiến sĩ với mong
muốn góp phần làm rõ hơn mối quan hệ biện chứng giữa biến đổi cơ cấu lao
động với phát triển kinh tế nông thôn; đề xuất giải pháp để giải quyết mối
quan hệ này trên địa bàn tỉnh Thái Bình trong bối cảnh mới.
3
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn căn bản về chuyển dịch
cơ cấu lao động trong xây dựng nông thôn mới, phân tích đánh giá thực trạng
chuyển dịch cơ cấu lao động lao động trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở
Thái Bình thời gian qua, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm
đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với quá trình xây dựng nông
thôn mới ở Thái Bình thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Tổng quan kết quả nghiên cứu trong các công trình khoa học đã công
bố có liên quan đến đề tài luận án, từ đó xác định những khoảng trống và vấn
đề khoa học cần được tập trung nghiên cứu trong luận án
- Làm rõ cơ sở lý thuyết của chuyển dịch cơ cấu lao động lao động
trong quá trình xây dựng nông thôn mới, bao gồm khái niệm, đặc điểm, vai
trò, nội dung, tiêu chí đánh giá, nhân tố ảnh hưởng.
- Nghiên cứu kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu lao động lao động trong
quá trình xây dựng nông thôn mới một số địa phương, đúc rút những bài học
cho tỉnh Thái Bình có thể tham khảo vận dụng trong CDCCLĐ trong xây
dựng nông thôn mới.
- Đánh giá, phân tích thực trạng việc chuyển dịch cơ cấu lao động lao
động trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thái Bình giai đoạn 2011 -
2015, rút ra những thành tựu, hạn chế chủ yếu và nguyên nhân của các thành
tựu hạn chế đó.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp thúc đẩy CDCCLĐ trong xây
dựng nông thôn mới ở Thái Bình giai đoạn đến năm 2025 và tầm nhìn đến
năm 2035.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là sự chuyển dịch cơ cấu lao động với
4
tư cách là sự thay đổi của cơ cấu lao động trong quá trình tái sản xuất dựa trên
hoạt động của các quy luật khách quan.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Chuyển dịch cơ cấu lao động lao
động diễn ra trên phạm vi toàn xã hội và từng địa phương trong suốt quá trình
phát triển kinh tế -xã hội. Trong luận án chỉ tập trung nghiên cứu về chuyển
dịch cơ cấu lao động đặt trong phạm vi quá trình xây dựng nông thôn mới ở
địa phương cấp tỉnh.
- Phạm vi nghiên cứu về không gian: Trong luận án chỉ tập trung
nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu lao động trong quá trình xây dựng nông
thôn mới trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ
cấu lao động lao động trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái
Bình chủ yếu trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2017, đề xuất phương
hướng và giải pháp đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2035.
4. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
4.1. Cơ sở lý luận và phương pháp luận của luận án
- Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế, đồng thời chắt lọc, kế thừa
có phê phán các kết quả nghiên cứu trong các công trình khoa học đã được
công bố.
- Phương pháp luận của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Trong luận án sử dụng các phương pháp như trừu tượng hoá khoa học;
cách tiếp cận hệ thống, phương pháp kết hợp tổng hợp với phân tích, phương
pháp thống kê so sánh,… để làm rõ những đặc điểm và tính quy luật của đối
tượng nghiên cứu. Đề tài sử dụng phương pháp kinh tế học trong khảo sát,
5
đánh giá, phân tích, tổng hợp và xử lý số liệu, các báo cáo tổng kết, số liệu
thống kê của các cơ quan, sở, ban, ngành ở Thái Bình; các công trình đã được
công bố liên quan đến nội dung đề tài; kết quả điều tra khảo sát nghiên cứu
thực tế có liên quan đến đề tài.
Chương 1: Sử dụng phương pháp kết hợp phân tích với tổng hợp,
phương pháp trừu tượng hóa khoa học nhằm làm rõ các phạm trù cơ bản đã
được bàn tới trong các công trình khoa học mà luận án sẽ sử dụng như cơ cấu
lao động, chuyển dịch cơ cấu lao động, việc làm, thất nghiệp. Trên cơ sở đánh
giá các kết quả nghiên cứu đã công bố để tìm ra các vấn đề có thể kế thừa, các
vấn đề cần phải bổ sung và hoàn thiện, tập trung vào những khoảng trống
trong nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng nông thôn
mới ở Thái Bình.
Chương 2: Phương pháp trừu tượng hoá khoa học sử dụng để làm rõ
những khái niệm, những nội dung lý luận cơ bản về CDCCLĐ và các nhân tố
ảnh hưởng đến CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới; sử dụng phương
pháp đánh giá kinh nghiệm thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu lao động của một
số quốc gia và địa phương trong nước, trên cơ sở đó rút ra những bài học mà
Thái Bình có thể tham khảo, vận dụng.
Chương 3: Luận án sử dụng các phương pháp phân tích kết hợp với
tổng hợp; phương pháp so sánh, phương pháp thống kê; logic kết hợp với lịch
sử nhằm đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp trong
quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thái Bình. Các số liệu thứ cấp được sử
dụng trong phân tích để làm rõ xu hướng quá trình chuyển dịch cơ cấu lao
động nông nghiệp ở Thái Bình trong xây dựng nông thôn mới.
Chương 4: Luận án sử dụng phương pháp dự báo, dựa trên khái quát
hoá kết quả nghiên cứu ở chương 3, đề xuất định hướng và giải pháp có tính
khả thi thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động trong quá trình xây dựng nông
thôn mới ở Thái Bình đến năm 2025, định hướng 2035.
6
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Luận án đã bổ sung làm rõ thêm vai trò của chuyển dịch cơ cấu lao
động hợp lý với tư cách là phương thức phát huy hiệu quả nhân tố con người
trong xây dựng nông thôn mới, tuy nhiên thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao
động trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn từng địa phương không được
cưỡng ép, máy móc, dập khuôn, mà phải căn cứ vào những đặc điểm cụ thể
của địa phương; phải chú trọng nâng cao chất lượng lao động nông thôn cần
chuyển từ lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp và dịch vụ; phải
hướng tới tập trung vào tạo việc tại chỗ.
Những hạn chế chủ yếu của chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng
nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình bao gồm: tỷ trọng của lao động nông nghiệp
theo nghĩa hẹp ở mức rất cao; mức độ chuyên nghiệp của lao động theo ngành
nghề, chất lượng lao động tính theo trình độ chuyên môn kỹ thuật vẫn ở mức
rất thấp. Nguyên nhân là do sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ
chưa thu hút được nhiều lao động được giải phóng từ nông nghiệp, chất lượng
nguồn lao động nông thôn thấp và sự hạn hẹp về nguồn tài chính.
Để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng nông thôn
mới trên địa bàn tỉnh thời gian tới cần tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải
pháp: tiếp tục hợp lý hóa sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa
tập trung quy mô lớn phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương trên
địa bàn tỉnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn nhằm
thu hút lao động dôi dư từ sản xuất nông nghiệp, đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá
trên các địa bàn nông thôn; giải pháp về nguồn nhân lực, về huy động và nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, về đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ công nghệ
trong phát triển nông thôn trên địa bàn tỉnh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận, kết quả nghiên cứu trong luận án làm rõ thêm nhận thức
về khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung của chuyển dịch cơ cấu lao động
7
trong xây dựng nông thôn mới, tạo cơ sở khoa học cho những nghiên cứu tiếp
theo về phát triển kinh tế trong xây dựng nông thôn mới, có thể sử dụng làm
tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, đào tạo các lĩnh vực liên quan đến
chuyển dịch cơ cấu lao động trong quá trình xây dựng nông thôn mới.
Là đóng góp bổ sung căn cứ lý luận và thực tiễn cho xây dựng chủ
trương, chính sách chuyển dịch cơ cấu lao động trong quá trình xây dựng
nông thôn mới ở Thái Bình.
- Về thực tiễn, những kết quả phân tích đánh giá về thực trạng chuyển
dịch cơ cấu lao động trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình đã góp
phần nhận thức rõ hơn những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những
hạn chế của chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng nông thôn mới; các
giải pháp đã đề xuất của luận án có thể là tài liệu tham khảo cho hoạch định
và thực thi cơ chế, chính sách xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình và
các địa phương cấp tỉnh khác ở Việt Nam có điều kiện tương đồng.
7. Kết cấu của luận án
Luận án có kết cấu gồm phần mở đầu, 4 chương với 12 tiết, kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.
8
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động đã nhận được quan tâm lớn trên
nhiều góc độ trong nghiên cứu kinh tế trên thế giới và đặc biệt trong các
nghiên cứu về xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam. Liên quan đến chủ đề
luận án, có một số công trình nổi bật sau đây:
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NƢỚC NGOÀI LIÊN QUAN ĐẾN CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU LAO ĐỘNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
- Nolwen Heraff - Jean Yves Martin trong tác phẩm "Lao động, việc
làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam sau 15 năm đổi mới" đã phân tích và khái
quát được tình hình lao động, giải quyết vấn đề việc làm và nguồn nhân lực
Việt Nam giai đoạn 1986-2000. Tác phẩm chỉ rõ rằng, khi bắt đầu sự nghiệp
đổi mới, Việt Nam có ưu thế lớn về sự dồi dào của nguồn nhân lực, khả năng
lớn về mở rộng việc làm trong quá trình đổi mới và phát triển nền kinh tế thị
trường, tuy nhiên chất lượng nguồn nhân lực thấp là yếu tố cản trở chuyển
dịch lao động đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nói chung và nông thôn nói
riêng [36].
- Trong cuốn Lao động nông thôn di cư, đặc điểm và mô hình việc làm
- Nghiên cứu dựa trên điều tra nông nghiệp Trung Quốc, các tác giả Tuan
Francis, Somwaru Agapi, Diao Xinshen đã đề cập đến khả năng công nghiệp
hoá diễn ra mạnh mẽ ở Trung Quốc và sự gia tăng năng suất trong nông
nghiệp chỉ ra xu hướng những lao động nông thôn sẽ được thu hút vào các
hoạt động sản xuất phi nông nghiệp. Kết quả là họ sẽ có nhiều cơ hội để tăng
thu nhập phi nông nghiệp. Tác phẩm đã tập trung nghiên cứu cơ cấu và đặc
điểm của lao động nông thôn, từ đó đánh giá tiềm năng di cư lao động nông
9
thôn vào các lĩnh vực phi nông nghiệp. Tác phẩm này đã làm rõ khả năng
chuyển dịch cơ cấu của lao động nông thôn phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong xây dựng nông
thôn mới [34].
- Ren Mu, Dominique van de Walle trong cuốn Left Behind to Farm? -
Women’s Labor Re-Allocation in Rural China đã luận giải nguyên nhân của
sự chuyển đổi công việc và di cư lao động trong quá trình phát triển kinh tế
nhanh chóng của Trung Quốc, chỉ ra tồn tại trong sự phân bổ lại lao động
nông nghiệp truyền thống đối với nhóm lao động phụ nữ nông thôn. Tác
phẩm đã đưa ra khuyến nghị quan tâm nhiều hơn đến lao động nông nghiệp
nữ tại nông thôn bằng chính sách tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho phụ
nữ ở nông thôn Trung Quốc. Nội dung nghiên cứu của công trình sẽ giúp cho
chúng ta có cái nhìn thực tế, Việt Nam [67].
- Li Luping trong báo cáo Biến đổi thu nhập hộ gia đình ở nông thôn
Trung Quốc đã chứng minh rằng, yếu tố quan trọng đối với thay đổi thu nhập
của hộ gia đình là giáo dục là yếu tố chủ yếu tác động đến tăng trưởng thu
nhập của các hộ gia đình. Trình độ giáo dục của người dân cao là một trong
những nguyên nhân chính của gia tăng thu nhập bình quân đầu người của họ.
Đồng thời, đẩy mạnh công nghiệp hoá sẽ thu hút nhiều việc làm phi nông
nghiệp, đô thị hoá mở rộng mức độ hấp thụ lao động nông thôn cho phát triển
dịch vụ. Như vậy, công nghiệp hoá và đô thị hoá nông thôn tạo điều kiện thúc
đẩy CDCCLĐ nông thôn, mở đã cơ hội cho người nghèo tăng thu nhập và
thoát nghèo. Tuy nhiên để tận dụng được cơ hội này người nông dân phải có
đủ tính năng động để tranh thủ những cơ hội thoát nghèo [47].
- Arnab K. Basu trong Impact of Rural Employment Guarantee
Schemes on Seasonal Labor Markets: Optimum Compensation and Workers'
Welfare (2013) bàn về tác động của việc ban hành Đạo luật quốc gia về Bảo
lãnh việc làm nông thôn ở Ấn Độ đến mạng lưới an sinh xã hội góp phần tăng
10
thu nhập, ổn định sản xuất nông nghiệp cho người nghèo nông thôn, làm giảm
tốc độ di cư từ nông thôn ra đô thị. Jonna Estudillo và các cộng sự trong
Labor markets, occupational choice, and rural poverty in four Asian
countries đã khám phá những yếu tố cơ bản trong thị trường lao động nông
thôn có tác động tăng thu nhập và giảm nghèo ở nông thôn một số nước như
Philippines, Bangladesh, SriLanka… Việc gia tăng thu nhập từ các ngành phi
nông nghiệp, trong đó tăng thu nhập từ việc làm chính thức là động lực quan
trọng của tăng trưởng thu nhập và giảm nghèo. Do đó, để giảm nghèo ở nông
thôn, Chính phủ phải thực hiện các chính sách tạo nhiều việc làm chính thức
cho lao động nông thôn[3]
- Công trình nghiên cứu của Guglielmo Meardi (2013) về "Labour
movements and labour unions Emergence, institutionalization, crisis and
revitalization of a social movement" (Di chuyển lao động và Hiệp hội lao
động: Sự xuất hiện, thể chế hóa, khủng hoảng và hồi sinh một phong trào xã
hội) đã hệ thống hóa các lý thuyết cổ điển về di chuyển lao động dựa trên các
cách tiếp cận khác nhau như chủ nghĩa thể chế, chủ nghĩa Mác, phong trào xã
hội, chủ nghĩa tập đoàn, lý thuyết lựa chọn. Tác giả cũng đã khái quát kết quả
nghiên cứu thực địa cũng như phát triển các nghiên cứu trong tương lai có
liên quan đến vấn đề này. Tuy nhiên, bài báo chủ yếu tổng hợp các nghiên
cứu theo hướng xã hội học nên vẫn còn thiếu các công trình theo cách tiếp cận
khác như kinh tế học, quốc tế học…[35]
- Công trình nghiên cứu "Labor Unionism In American Agriculture"
(Liên hiệp lao động trong nông nghiệp Hoa Kỳ) của Bộ lao động Hoa Kỳ
(1945) đã chỉ rõ những vấn đề về lao động của nền nông nghiệp Hoa Kỳ trong
đó có chuyển dịch lao động nông nghiệp (Chương 3). Theo đó, chênh lệch về
tiền lương, thời gian và điều kiện làm việc chung giữa nông nghiệp và công
nghiệp từ lâu là nguyên nhân chính cho xu hướng di cư nông thôn - thành thị lâu
dài. Tuy nhiên, phong trào này đã bị đảo ngược khi nguồn nhân lực trong ngành
11
công nghiệp tại thành thị dư thừa với lượng người thất nghiệp cao. Cùng sự hỗ
trợ của chính phủ và phát triển khoa học công nghệ, những trang trại lớn phát
triển và thu hút lượng lao động thấy nghiệp từ thành thị về nông thôn. Do đó, di
chuyển lao động trở lại với nông nghiệp tăng lên đáng kể và những giai đoạn sau
nguồn lao động trong nông nghiệp nông thôn và công nghiệp thành thị được cân
bằng. Mặc dù nghiên cứu đã chỉ rõ nguyên nhân của việc di chuyển lao động
trong nông nghiệp với trường hợp cụ thể của Hoa Kỳ song. do công trình đã
công bố cách đây khá lâu nên chưa đặt các bối cảnh mới trong thời kỳ toàn cầu
hóa và khoa học kỹ thuật phát triển như hiện nay[86].
Công trình "The Rise of Rural-to-Rural Labor Markets in China,
California Agricultural Experiment Station Giannini Foundation for
Agricultural Economics" (Sự tăng lên của thị trường lao động từ nông thôn
đến nông thôn ở Trung Quốc) của nhóm tác giả Bryan Lohmar, Scott D.
Rozelle, Changbao Zhao (2000). Công trình tập trung phân tích và chỉ ra các
đặc điểm của phong trào lao động từ nông thôn đến nông thôn của Trung
Quốc và những ngôi làng nơi những người lao động này làm việc. Các kết
quả chỉ ra rằng, trong giai đoạn 1995-1998 sự dịch chuyển lao động trong nội
bộ nông thôn nhanh hơn từ nông thôn lên thành thị hoặc trong khu vực phi
nông nghiệp. Sự tăng lên nhanh chóng của việc di cư nông thôn đến nông
thôn hay di cư trong khu vực nông nghiệp có nhiều tác động tích cực và
không làm ảnh hưởng đến tiền lương của người lao động tại nơi tiếp nhận.
Đặc biệt, việc di cư từ nông thôn đến nông thôn giúp thúc đẩy nền nông
nghiệp phát triển và giảm áp lực lao động tại thành thị, là điều kiện để phát
triển nền kinh tế Trung Quốc[50].
- Công trình "China’s Labor Transition and the Future of China’s
Rural Wages and Employment" (Dịch chuyển lao động Trung Quốc và tương
lai của tiền lương và việc làm nông thôn) của hai tác giả Scott Rozelle, Jikun
Huan (2013) đã nghiên cứu các vấn đề liên quan đến dịch chuyển lao động
12
nông nghiệp sang phi nông nghiệp, từ nông thôn sang thành thị tại Trung
Quốc. Theo đó, một trong những đặc điểm nổi bật của sự thay đổi mô hình
việc làm của Trung Quốc là các nhóm tuổi dưới 30 gần như hoàn toàn chuyển
trọng tâm việc làm của họ sang khu vực phi nông nghiệp. Ngoài ra, tác động
tích cực của việc di chuyển lao động này là đầu tư vào nhà ở nông thôn và
tiêu dùng của người nghèo. Tuy nhiên, việc di chuyển lao động này lại có tác
động tiêu cực đến giáo dục khi lượng thanh niên bỏ học từ bậc trung học cơ
sở để kiếm việc làm ngày càng tăng[68].
- Công trình "China’s Labor Transition and the Future of China’s
Rural Wages and Employment" (Chuyển đổi lao động Trung Quốc và tương
lai của Tiền lương và việc làm ở nông thôn Trung Quốc) của nhóm tác giả
Qiang Li, Jikun Huang, Renfu Luo, Chengfang Liub (2013) đã phân tích,
đánh giá khá sâu sắc thị trường lao động nông thôn Trung Quốc. Dựa theo dữ
liệu cụ thể, nhóm tác giả đưa ra kết luận rằng: sự chuyển dịch lao động từ
ngành nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp cho các phân khúc chính
của lực lượng lao động Trung Quốc sắp hoàn thành. Mặc dù một phần lớn lực
lượng lao động nông thôn của Trung Quốc làm việc trong ngành nông nghiệp
song hầu hết đều là người lớn tuổi. Do các yếu tố liên quan với chính sách
một con và các lực lượng chuyển đổi nhân khẩu học khác mà lực lượng lao
động trẻ đang giảm khiến cho Trung Quốc phải đối mặt với các vấn đề liên
quan đến tiền lương và nhu cầu lao động trong cả lĩnh vực nông nghiệp và phi
nông nghiệp[46].
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH TRONG NƢỚC LIÊN QUAN ĐẾN CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU LAO ĐỘNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Trong cuốn Toàn cầu hoá và tác động đối với sự hội nhập của Việt
Nam, theo Trần Ngọc Hiên, sức mạnh hội tụ của cách mạng khoa học công
nghệ mới và cách mạng công nghiệp lần thứ ba đã chuyển nền kinh tế công
nghiệp lên nền kinh tế tri thức và từ đó chuyển quá trình quốc tế hoá lên toàn
13
cầu hoá. Tác giả cũng phân tích kinh tế tri thức và toàn cầu hoá đang làm biến
đổi tận gốc nền kinh tế và chế độ quản lý, làm biến đổi cơ cấu xã hội, dân cư
và đặc biệt là cơ cấu lao động… những sự kiện đó có căn nguyên từ những
thành tựu khoa học và công nghệ và thành tựu kinh tế [38].
Liên quan đến đề tài luận án của tác giả, trong cuốn Các nhân tố ảnh
hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá
ở Việt Nam [71] do tác giả Bùi Tất Thắng làm chủ biên. Nhóm tác giả đã phân
tích sự CDCCKT ngành có sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau như:
điều kiện tự nhiên, mức độ chuyển dịch cơ cấu lao động, đầu tư của nước
ngoài, vấn đề thị trường, thể chế của nhà nước. Tuy nhiên, đáng tiếc là vai trò
của nhân tố KH-CN chưa được coi trọng đúng mức, tác động của KH-CN đến
chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành thể hiện còn chưa đậm nét; KH-CN ở
đây chỉ được đề cập như là một khía cạnh của chuyển biến cơ cấu lao động.
Cuốn sách Chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và cách mạng
công nghệ của Viện Nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa học và công
nghệ, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường do Đặng Ngọc Dinh làm chủ
biên và Nguyễn Văn Hường là chủ nhiệm chương trình cùng nhóm tác giả [20].
Công trình này chủ yếu xuất phát từ góc độ KH-CN để đề cập khá toàn diện
đến các điều kiện cần thiết cho quá trình CNH, mặt khác còn nêu lên những
vấn đề cần giải quyết khác như: môi trường, cơ cấu vùng, năng lực nội sinh;
đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của cách mạng công nghệ đến cơ cấu lao động
và sự lựa chọn loại hình công nghệ phù hợp với đất nước để tiến hành CNH.
- Cuốn Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong những năm đầu thế
kỷ XXI do Nguyễn Trần Quế làm chủ biên [62], với cách phân tích từ thực
trạng của cơ cấu kinh tế Việt Nam để đề ra hệ thống giải pháp khá phong phú
cho CDCCKT ngành, cơ cấu thành phần kinh tế cũng như cơ cấu vùng lãnh
thổ. Các giải pháp chủ yếu nhấn mạnh về vấn đề như: Chủ động hội nhập
quốc tế, huy động vốn và hợp lý hoá cơ cấu đầu tư, cơ cấu lao động, về thể
14
chế luật pháp của Nhà nước và các thủ tục hành chính… Tuy nhiên, nhân tố
về chuyển dịch cơ cấu lao động chưa coi trọng đúng mức ở nông thôn.
- Trong công trình Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam thực trạng và
giải pháp của tác giả Phan Xuân Dũng [24], đã đánh giá tình hình chuyển
giao công nghệ của một số nước trên thế giới, đánh giá những kết quả ứng
dụng KH-CN vào sản xuất ở Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2003, từ đó đề
ra những giải pháp cho chuyển giao công nghệ vào nước ta. Đáng chú ý là tác
giả đưa ra hệ thống giải pháp về chuyển dịch cơ cấu lao động và nâng cao khả
năng tiếp cận chuyển giao công nghệ, lựa chọn tính chất "phù hợp" của công
nghệ chuyển giao vào Việt Nam.
- Trung tâm Thông tin Tư liệu thuộc Bộ Khoa học Công Nghệ và Môi
trường có công trình Khoa học và Công nghệ thế giới kinh nghiệm và định
hướng chiến lược do tác giả Tạ Bá Hưng làm chủ biên cùng nhóm tác giả
[41], đã khái quát sự phát triển của KH-CN, phân tích sâu những đặc trưng và
xu thế vận động mới của cuộc cách mạng KH-CN hiện đại, đồng thời dự báo
những tiến bộ của KH-CN trong thế kỷ XXI. Gần với luồng nghiên cứu trên,
tác giả Hoàng Đình Phu có hai công trình: Lịch sử kỹ thuật và cách mạng
công nghệ đương đại [57]; Khoa học và công nghệ với các giá trị văn hoá
[58]. Với cách tiếp cận theo chiều lịch sử phát triển của kỹ thuật và cuộc cách
mạng công nghệ đương đại, tác giả đã tìm hiểu sự hình thành và phát triển các
hệ thống kỹ thuật của các thời kỳ nối tiếp nhau, mối quan hệ với kinh tế và
đời sống văn hoá -xã hội. Một cách đề cập mới là KH-CN làm xuất hiện các
vấn đề đạo đức mới, các giá trị đạo đức mới. Khoa học - công nghệ góp phần
xây dựng nền văn hoá phát triển, góp phần xây dựng chuẩn mực đạo đức mới.
Mặc dù đã đi sâu phân tích vai trò của những thành tựu công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học; song tác giả chưa đi sâu phân tích tác động của KH-CN
đến chuyển dịch cơ cấu lao động.
- Trần Quang Lâm với công trình Cách mạng khoa học - công nghệ và
15
những tác động của nó tới nền KT-XH của thế giới trong cuốn đề cương bài
giảng về CNTB hiện đại của khoa Kinh tế Chính trị - Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, tác giả đi sâu phân tích tác động của cách mạng KH-CN đến
lực lượng sản xuất xã hội, trong đó có việc tác động đến vấn đề sở hữu, đến quá
trình tổ chức sản xuất, kinh doanh và chuyển dịch cơ cấu lao động [45].
- Một số công trình đăng báo: Đặng Hữu trong bài "Động lực cho kinh
tế tri thức" [42], đã nhận định về bản chất của nền kinh tế tri thức hiện nay là
quá trình chuyển từ nền kinh tế dựa vào tài nguyên và máy móc sang nền kinh
tế dựa chủ yếu vào trí lực con người. Tác giả nêu đặc trưng quan trọng của
kinh tế tri thức là độ tự do hoá thương mại, là sự phát triển của các ý tưởng
mới, các doanh nghiệp mới, là những chính sách kinh tế vĩ mô mới phù hợp…
từ đó có tác động đến chuyển dịch cơ cấu lao động.
- Hoàng Xuân Long cũng có công trình về "Bí quyết thành công trong
sự bắt chước công nghệ của Nhật Bản" [48], nêu về con đường tìm kiếm, săn
lùng và du nhập những công nghệ trên thế giới. Nhờ nỗ lực, sáng tạo trong sử
dụng công nghệ nhập ngoại và chuyển dịch cơ cấu lao động mà Nhật Bản đã
vươn lên trở thành cường quốc công nghệ trên thế giới, là tấm gương cho các
quốc gia học tập.
- Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Trần Thanh Phương với đề tài Tác
động của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ đối với nền kinh tế các nước
tư bản phát triển- một số gợi mở về thời cơ và thách thức đối với Việt Nam
[61]. Với hệ thống số liệu khá phong phú, tác giả phân tích vai trò của các
cuộc cách mạng công nghiệp và cuộc cách mạng KH-CN hiện đại làm thay
đổi tận cội rễ những yếu tố của lực lượng sản xuất và chuyển dịch cơ cấu lao
động trong thế giới tư bản hiện đại, đồng thời đưa ra những dự báo về nguy
cơ, thách thức thời gian tới trong việc ứng dụng KH-CN đối với các quốc gia
đang phát triển cũng như đối với Việt Nam. Tuy vậy, do yếu tố thời gian, hệ
thống số liệu ở đây đã trở nên lạc hậu, một số xu hướng mới của KH-CN đã
16
xuất hiện như: công nghệ tự động hoá, công nghệ hàng không vũ trụ, năng
lượng mới, công nghệ bảo vệ môi trường, …
- Luận án Tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Đăng Bằng về CDCCKT nông thôn
Bắc Trung Bộ theo hướng CNH, HĐH [4]; Luận án Tiến sĩ kinh tế của Phạm
Ngọc Dũng về Sự CDCCKT ngành công- nông nghiệp ở vùng lãnh thổ Đồng
bằng Sông Hồng: thực trạng và giải pháp [25]. Hai luận án đi sâu phân tích và
luận giải những căn cứ lý luận và thực tiễn, những nhân tố ảnh hưởng đến
CDCCKT và từ thực trạng cụ thể đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy
CDCCKT trên một vùng lãnh thổ nhất định, trong đó có đề cập tới giải pháp
chuyển dịch cơ cấu lao động. Luận án của Phạm Ngọc Dũng đã đề cập đến nhân
tố tiến bộ kỹ thuật với tư cách là yếu tố cốt lõi thúc đẩy CDCCKT công nông
nghiệp. Tuy nhiên, cả hai luận án trên đây chưa đi sâu phân tích về tác động của
KH-CN đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động.
- Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Tô Quang Thu Tác động của ứng
dụng khoa học- công nghệ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc [72], đã nhấn mạnh vai trò của ứng dụng khoa học - công nghệ
trong chuyển dịch cơ cấu lao động nói chung và ở nông thôn nói riêng theo
hướng CNH, HĐH, đồng thời khẳng định rằng để thúc đẩy CDCCKT nông
thôn trong bối cảnh cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phải đổi mới
giáo dục đào tạo phù hợp với xu thế phát triển kinh tế thông qua chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế.
- Đề tài KX.04 do Nguyễn Hữu Dũng làm chủ nhiệm Luận cứ khoa học
cho việc xây dựng chính sách giải quyết việc làm ở nước ta khi chuyển sang
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã làm rõ những luận cứ khoa học cho
hoạch định chính sách giải quyết việc làm trong chuyển đổi cấu trúc nền kinh
tế, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam; đã đề xuất một số chính sách
việc làm; mô hình tổng quát và hệ thống biện pháp đảm bảo thực hiện chính
sách quốc gia xúc tiến việc làm [22].
17
- Đề tài cấp Bộ Một số vấn đề phát triển xã hội nông thôn năm 2009
(Lao động và việc làm nông thôn) do Bùi Quang Dũng làm chủ nhiệm [21],
đã bàn về tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, về đào tạo nghề cho lao
động, tình trạng di dân đô thị và nghèo đói của người lao động ở nông thôn
Việt Nam,... đề tài khẳng định rằng, chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị
và nông thôn, thất nghiệp mùa vụ ở nông thôn là những nguyên nhân cơ
bản dẫn đến di dân và chuyển dịch lao động của người nông dân. Đô thị trở
thành điểm thu hút lao động nông thôn và ngày càng phải đối mặt với sức
ép ngày càng lớn về giải quyết việc làm, cung ứng các dịch vụ y tế, giáo
dục, ổn định xã hội,...
- Bài viết ''Phương hướng cơ bản giải quyết việc làm ở nước ta hiện
nay'' của tác giả Trần Đình Hoan, đã nêu lên những quan điểm và phương
hướng cơ bản của Đảng ta trong việc chuyển dịch cơ cấu lao động và giải
quyết vấn đề việc làm trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa [40].
- Bài viết ''Một số vấn đề về chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt
Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa'' của tác hoá Võ Hồng Phúc
[59]. Tác giả đã đã khẳng định: Nguồn nhân lực là mục tiêu của phát triển,
được thụ hưởng những thành quả của sự phát triển, có vai trò đặc biệt trong
sự phát triển của mỗi quốc gia và là tiền đề vững chắc và là nhân tố quyết
định tốc độ phát triển KT-XH và tăng năng suất lao động. Nếu quốc gia có
nguồn nhân lực có trình độ cao là sự đảm bảo chắc chắn trong việc đưa ra
những quyết định sáng suốt, đúng đắn đối với đường lối, chủ trương, chính
sách và phương thức thực hiện các quyết sách về phát triển và hưng thịnh.
Nguồn nhân lực có trình độ cao cũng góp phần quyết định đến sự hoàn thiện
của hệ thống pháp luật và tạo điều kiện thuận lợi cho sự thành công của việc
xây dựng và phát triển nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tác giả cung
khẳng định nguồn nhân lực có trình độ cao đã thực sự trở thành nền tảng vững
18
chắc đảm bảo cho việc chuyển dịch cơ cấu lao động cho hội nhập kinh tế
quốc tế và hợp tác quốc tế, là điều kiện quan trọng để thực hiện hiệu quả các
nhiệm vụ giữ trật tự an ninh xã hội, góp phần tăng cường củng cố sức mạnh
quốc phòng, an ninh và bảo vệ vững chắc chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ
của đất nước.
- Bài viết ''Tổng quan nông nghiệp nông thôn Việt Nam sau 25 năm
thực hiện Nghị quyết 10 của bộ chính trị (Khoá VI)'' của tác giả Nguyễn Sinh
Cúc [9]. Tác giả đi sâu đánh giá những thành tựu và hạn chế về sản xuất nông
nghiệp và đời sống ở nông thôn Việt Nam sau 25 năm thực hiện Nghị quyết
10. Đây là những tư liệu quan trọng để luận án đánh giá hiện trạng về chuyển
dịch cơ cấu lao động trong phát triển nông nghiệp nông thôn trước khi có
chương trình xây dựng nông thôn mới.
- Tác giả Nguyễn Thị Tố Quyên, Nông nghiệp, nông dân, nông thôn
trong mô hình tăng trưởng kinh tế mới giai đoạn 2011 - 2020 [65]. Trên cơ sở
phân tích về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tác giả đã chỉ ra một số điểm
trọng tâm nổi bật về thực trạng nông nghiệp, nông dân, nông thôn từ năm
2000 đến 2011; chỉ ra những cơ hội và thách thức mới đặt ra cho nông nghiệp,
nông dân, nông thôn, trong mô hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011 -
2020. Từ đó, tác giả đề xuất một số chính sách nhằm giải quyết những vấn đề
tồn tại đang đặt ra trong nông nghiệp, nông dân và nông thôn, trong đó có vấn
đề chuyển dịch cơ cấu lao động, đó là: Phân bổ nguồn lực trong nông nghiệp,
nông dân, nông thôn (với hai nguồn lực cơ bản là lao động và đất đai); quy
hoạch vùng, quy hoạch nông thôn - đô thị; Chuyển đổi hạ tầng cho nông
nghiệp, nông thôn sang nông nghiệp kinh doanh hàng hoá và nông thôn hiện
đại; Nâng cao thu nhập cho người nông dân;Thay đổi tư duy, cách thức thực
hiện khuyến nông; Chính sách xã hội đối với nông dân; nâng cao năng lực của
hệ thống chính quyền nông thôn - phát triển dân chủ và xã hội pháp quyền ở
nông thôn.
19
- Tác giả Vũ Văn Phúc với Xây dựng nông thôn mới - những vấn đề và
thực tiễn [60]. Tác giả đã tổng hợp các bài viết của các nhà khoa học về vấn
đề xây dựng nông thôn mới, với nội dung gồm những vấn đề lý luận chung và
kinh nghiệm quốc tế về xây dựng nông thôn mới; với thực trạng xây dựng
nông thôn mới ở Việt Nam. Một số tác giả, trong bài viết của mình, đã đề cập
những vấn đề liên quan tới chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn, như:
vấn đề an sinh xã hội đối với dân cư nông thôn (tác giả Nguyễn Trọng Đàm);
thực trạng về phụ nữ nông dân, nông thôn (của Nguyễn Linh Khiếu), vv....
- Tác giả Nguyễn Xuân Khoát với Lao động ở nông thôn nước ta hiện nay
và những giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng hợp lý nguồn lao động đó [43]. Tác
giả hệ thống hoá những quan điểm khác nhau về vấn đề sử dụng nguồn lao động
tiềm tàng ở nông thôn trên cơ sở phân tích vai trò của nguồn lao động trong phát
triển KT-XH và sự cần thiết khách quan của việc sử dụng hợp lý nguồn lao động
đó ở nông thôn nước ta. Đồng thời, tác giả cũng đã phân tích thực trạng chuyển
dịch cơ cấu lao động và sử dụng nguồn lao động ở nông thôn nước ta giai đoạn
1976 - 1996. Từ đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thu hút và
sử dụng hợp lý nguồn lao động ở nông thôn; phát triển toàn diện nền nông
nghiệp hàng hoá; phát triển mạnh mẽ các ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn;
phân bổ lại lao động và dân cư các vùng, tiến hành hợp tác lao động quốc tế; đẩy
mạnh các hình thức đạo tạo nghề; giải quyết các vấn đề xã hội.
- Tác giả Phạm Ngọc Dũng với đề tài Những vấn đề KT-XH nảy sinh
trong thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Việt
Nam hiện nay [26]. Trong đề tài, có một số nội dung liên quan đến nhân lực
nông thôn. Các tác giả đã nêu ra một số đặc điểm của lao động nông nghiệp,
như: ý thức kỷ luật, thời gian lao yếu; chất lượng nguồn lao động nông thôn
thấp; khả năng tự tạo việc làm còn hạn chế. Đồng thời, một số giải pháp mở
rộng cầu lao động và tăng chất lượng cung lao động ở nông thôn đã được đề
xuất để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động. Các giải pháp cơ bản để mở
20
rộng cầu lao động là: hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên canh;
phát triển công nghiệp; tiểu thủ công nghiệp; xây dựng hạ tầng cơ sở; phát
triển các ngành dịch vụ ở nông thôn. Để nâng cao chất lượng cung lao động ở
nông thôn trong hội nhập WTO, đề tài đưa ra các giải pháp:
Một là, Chính phủ cần có phương án mang tính chất cơ bản, lâu dài với
một chiến lược nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hoàn chỉnh với nông dân.
Hai là, tăng cường hơn nữa chính sách hỗ trợ đào tạo, nghiên cứu khoa
học, dịch vụ kiểm tra giám sát dịch và sâu bệnh.
Ba là, đào tạo nhân lực để rút khỏi sản xuất nông nghiệp.
Bốn là, đáp ứng yêu cầu: chính sách đào tạo nguồn nhân lực, tạo việc là
về thực chất là ngày càng phải làm tốt hơn việc giải phóng con người.
Năm là, nguồn nhân lực ở nông thôn phải được nhìn nhận là bao gồm
tất cả mọi người thuộc mọi tầng lớp xã hội, mọi nghề nghiệp khác nhau...
Trong tổng thể cộng đồng xã hội nông thôn. Tất cả phải được đào tạo, phát
triển và chịu sự sàng lọc của cuộc sống.
Sáu là, nguồn nhân lực trong bộ máy công quyền ở nông thôn phải đặt
thành ưu tiên.
Bảy là, chính sách đào tạo nguồn nhân lực, phát huy và sử dụng con
người phải gắn liền với việc đổi mới trên nhiều phương diện - về lâu dài là đổi
mới toàn diện cả thể chế và xã hội.
- Cuốn sách Phát triển nguồn nhân lực trẻ ở nông thôn để công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông thôn, nông nghiệp nước ta của tác giả Nguyễn Văn
Trung [85]. Trong cuốn sách, tác giả đã đưa ra một số mô hình, kinh nghiệm
và chính sách phát triển thanh niên nông thôn trên cơ sở phân tích vị trí của
nông thôn và vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng như cũng như phân tích
tình hình nghề nghiệp; việc làm của thanh niên nông thôn và vai trò của họ
trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ cấu lao động xây dựng nông
thôn mới.
21
- Bài ''Vấn đề thừa lao động ở nông thôn Việt Nam hiện nay'' của tác
giả Nguyễn Bá Ngọc [55, tr.56-58, tr.61]. Theo tác giả, năm 2005, tỉ lệ nghèo
ở nông thôn nước ta còn rất cao, chiếm trên 90% tổng số người nghèo cả
nước, chênh lệch mức sống nông thôn và thành thị lên đến 5 - 7 lần. Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến nghèo nông thôn nhưng nguyên nhân chính vẫn là
không có việc làm và thiếu việc làm, tình trạng thừa lao động ở nông thôn là
khá nghiêm trọng. Nếu như trong các nước có nền kinh tế phát triển, tình
trạng thừa lao động chỉ xảy ra theo chu kỳ sản xuất và khi có sự thay nhu cầu
tiêu dùng hàng hoá trong xã hội thì ở nước ta, thừa lao động nông thôn lại do
hàng loạt nguyên nhân. Đặc biệt, tác giả đã đưa ra 3 mô hình tăng việc làm
nông thôn cùng với kinh nghiệm của các nước và định hướng giải pháp tăng
việc làm cho lao động nông thôn trong dài hạn.
- Đề tài cấp Bộ Một số vấn đề phát triển xã hội nông thôn (Lao động và
việc làm) của tác giả Bùi Quang Dũng làm chủ nhiệm [20]. Đề tài cho thấy,
trong quá trình phát triển xã hội nông thôn, có một số vấn đề nảy sinh cần giải
quyết như: tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, đào tạo nghề cho lao động,
tình trạng di dân ra đô thị, đặc biệt là sự chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị
và nông thôn,... Do đó, các tác giả đã phân tích sự tác động của các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tới các vấn đề trên như: Các chính
sách giảm nghèo, hỗ trợ sản xuất và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản,
chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn... Đồng thời, đề tài cũng đã chỉ ra
những bất cập trong xây dựng và thực hiện chính sách của Nhà nước.
- Tác giả Nguyễn Xuân Khoát với Lao động, việc làm và phát triển
kinh tế và xã hội nông thôn Việt Nam [44]. Đây là tuyển tập các công trình
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Xuân Khoát về vấn đề cấp thiết của việc phát
triển KT-XH ở nông thôn Việt Nam trong các giai đoạn phát triển. Đối với
mỗi vấn đề đặt ra, tác giả đã cố gắng nêu được vai trò, ý nghĩa, thực trạng và
phương hướng, biện pháp giải quyết. Đồng thời, cuốn sách cũng đã góp phần
22
làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng hợp lý người lao động,
chuyển dịch cơ cấu lao động và phát triển KT-XH nông thôn nước ta.
- Tác giả Tăng Minh Lộc với bài ''Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
nông thôn'' [49]. Trong bài viết này tác giả khẳng định, nông nghiệp, nông
thôn còn nhiều mảng yếu. Trong quá trình tác động của nông nghiệp hoá, hiện
đại hoá trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, những mảng
yếu đó càng bộc lộ rõ hơn và trong những mảng yếu đó là chất lượng nguồn
nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Từ đó tác giả phân tích
nguyên nhân và đưa ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực và chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn.
Báo cáo phát triển Việt Nam của Ngân hàng thế giới năm 2014 đã
khẳng định rằng, Nền kinh tế Việt Nam đã trải qua những thay đổi cấu trúc
mang tính chất nền tảng trong vòng 25 năm qua cùng với sự dịch chuyển của
lao động từ ngành nông nghiệp sang lao động hưởng lương trong các ngành
sản xuất, xây dựng và dịch vụ. Từ khi bắt đầu công cuộc Đổi mới vào cuối
những năm 1980, Việt Nam đã đạt được thành công về tốc độ tăng trưởng
kinh tế rất ấn tượng, giúp đất nước gia nhập hàng ngũ các quốc gia có thu
nhập trung bình vào năm 2010 và đóng góp làm giảm nghèo nhanh chóng.
Điều kỳ diệu về kinh tế này có được trước tiên là nhờ tăng năng suất lao động
đáng kể - thể hiện qua GDP bình quân tính theo đầu người tăng gấp đôi trong
giai đoạn 1990-2000 - và nhờ vào hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp tăng lên
và việc dịch chuyển việc làm chuyển từ lĩnh vực nông nghiệp năng suất thấp
sang các công việc phi nông nghiệp có năng suất cao hơn. Báo cáo cũng nhấn
mạnh yếu tố quan trọng tác động đến chuyển dịch cơ cấu lao động nói chung
và ở nông thôn Việt Nam nói riêng là giáo dục đào tạo. Giáo dục đã đóng góp
một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ và thúc đẩy thay đổi cơ cấu. Người dân
Việt Nam ngày càng có học vấn tốt hơn. Tỷ lệ dân số có trình độ dưới bậc tiểu
học đã giảm mạnh theo thời gian, và những người sinh trong giai đoạn sau Đổi
23
mới có trình độ học vấn cao hơn bất kỳ thế hệ nào trước đây trong lịch sử Việt
Nam. Những nỗ lực kiên trì của Việt nam để đảm bảo khả năng tiếp cận đến
giáo dục tiểu học đã giúp cho một bộ phận dân cư ngày càng lớn có thể nắm
bắt được những cơ hội kinh tế tốt hơn. Tuy nhiên, mức gia tăng về trình độ học
vấn không đồng đều trên cả nước. Trong khi ngày càng có nhiều thanh niên trẻ
tốt nghiệp tiểu học, chúng ta lại quan sát được nhiều bất bình đẳng trong tiếp
cận và trình độ học vấn ở bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông, đặc biệt
là đối với con em các gia đình dân tộc thiểu số hoặc trẻ em sống ở vùng sâu
vùng xa. Việc mở rộng giáo dục trung học cần thực hiện thông qua tăng số
lượng nhập học của học sinh có điều kiện khó khăn hơn.
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế và việc tái bố trí công ăn việc làm
chuyển bớt từ khu vực nông nghiệp sang các ngành khác đã chậm lại trong
những năm gần đây. Tốc độ chậm lại có nguyên nhân đến từ những bất ổn về
kinh tế vĩ mô, các vấn đề mang tính cấu trúc trong hệ thống doanh nghiệp và
sự yếu kém của ngành ngân hàng. Điều này cũng ảnh hưởng đến thị trường
lao động, thể hiện qua dấu hiệu phân đôi liên quan tới trình độ giáo dục.
Những người lao động có trình độ giáo dục cao thì tận dụng được nhiều cơ
hội mới trong khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là ở khu vực đô thị, còn
những người lao động có trình độ thấp hơn, đặc biệt ở nông thôn lại đang
gặp phải nhiều khó khăn hơn. Những người lao động trình độ thấp và thanh
niên ở khu vực nông thôn gặp khó khăn khi chuyển đổi sang khu vực kinh tế
tư nhân đang mở rộng, và thường bị rớt lại trong ngành nông nghiệp hoặc
khu vực kinh tế phi chính thức. Báo cáo cho rằng, việc trang bị cho người
lao động những kỹ năng cần thiết sẽ là một phần quan trọng trong nỗ lực của
Việt Nam để tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế và tiếp tục quá trình cải cách
kinh tế. Dựa trên kinh nghiệm của các nước láng giềng phát triển hơn như
Hàn Quốc, Việt Nam cần chuẩn bị cho sự thay đổi của cầu đối với lao động,
với nhu cầu sẽ dịch chuyển từ các công việc chủ yếu là thủ công và đơn giản
24
ngày hôm nay sang các công việc phi thủ công và đòi hỏi nhiều kỹ năng
hơn, sự dịch chuyển từ các công việc chủ yếu là các thao tác, nhiệm vụ
thường quy sang các nhiệm vụ không thường quy và từ các công việc truyền
thống sang các công việc hiện đại[53].
Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2016 của Ngân hàng thế giới khẳng
định rằng, tại Việt Nam, sự thay đổi rõ nhất là sự giảm khá nhanh của tỷ trọng
lao động nông nghiệp trong tổng việc làm. Trong giai đoạn từ năm 2000 đến
năm 2012 tỷ trọng này đã giảm từ 65% xuống còn 47%. Tuy nhiên, để tiếp
tục duy trì tốc độ giảm lao động nông nghiệp, cần phải đảm bảo mức độ tăng
trưởng cao của ngành dịch vụ, các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động.
Có thể học hỏi quan tham khảo kinh nghiệm của các nước khác như: Trung
Quốc (tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm từ 47% năm 2004 xuống còn 35% vào
năm 2011; Phi-lip-pin (tỷ lệ lao động nông nghiệp từ 1993 đến 2012 giảm từ
46% xuống 32%); Thái Lan (từ 2001 đến 2012 lao động nông nghiệp giảm từ
46% xuống 40%); Thổ Nhĩ Kỳ (trong giai đoạn 1990-2010, lao động nông
nghiệp giảm từ 47% xuống còn 24%).
Tuy nhiên, đóng góp của nông nghiệp trong GDP và đối với thương mại
của Việt Nam từ giữa những năm 2000 là khá ổn định kể. Nông nghiệp đóng
góp 19% cho GDP trong giai đoạn 2005-2006; đóng góp 19,4% cho GDP trong
giai đoạn 2011-2013. Những nguyên nhân ổn định đóng góp của nông nghiệp
vào GDP gồm diễn biến thuận lợi của giá nông sản trên thị trường quốc tế, sự
thay đổi của nhu cầu nội địa... Tuy nhiên, nguyên nhân không nhỏ không phải
từ những thành tựu của nông nghiệp mà lại là từ những thách thức gây cản trở
đối với phát triển công nghiệp và dịch vụ.
Có mối quan hệ giữa chuyển đổi việc làm và thu nhập nông thôn với xu
hướng giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp. Chuyển đổi lao động trong phạm vi
hộ gia đình từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp biểu hiện qua biến động của
cơ cấu thu nhập. Trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2012, thu nhập của hộ
25
gia đình từ lĩnh vực nông nghiệp giảm từ 28,6% xuống còn 19,9%. Nếu tính
riêng cho các các hộ nông thôn, thù thu nhập từ kinh doanh nông nghiệp trong
giai đoạn này giảm từ 43,4% xuống còn 31,8%, chứng tỏ lao động tham gia
trực tiếp vào kinh doanh nông nghiệp có xu hướng giảm.
Phân tích so sánh đã chỉ ra rằng, mức độ thay đổi cơ cấu thu nhập là rất
khác nhau tại mỗi vùng. Đồng bằng sông Hồng là vùng có mức giảm thu nhập
từ nông nghiệp nhanh nhất. Mức độ thay đổi chậm hơn diễn ra trong các
vùng khác. Nông nghiệp vẫn là ngành tạo ra nguồn thu nhập chính ở đồng
bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên trên cả các địa bàn nông thôn và địa bàn
đô thị. Có mối quan hệ giữa sự thay đổi cơ cấu thu nhập trong các hộ gia đình
nông thôn ở mỗi địa phương với những đặc thù về quy mô đất canh tác, ví trí
địa lý và trình độ giáo dục.
Sự gia tăng tỷ lệ thu nhập của các hộ nông dân từ các hoạt động phi
nông nghiệp diễn ra song hành với xu hướng giảm lao động nông nghiệp trực
tiếp, tăng việc làm trong các lĩnh vực phi nông nghiệp thông qua đa dạng hoá
các hoạt động kinh doanh của hộ nông thôn.
Báo cáo cũng chỉ ra rằng, năng suất lao động trong nông nghiệp ở Việt
Nam tăng chậm, thâm chí còn sụt giảm về mức tăng trưởng năng suất làm cho
khoảng cách giữa Việt Nam và các nước về năng suất lao động tăng lên. Mức
tăng chậm của năng suất nông nghiệp do nhiều nguyên nhân như những hạn
chế về đầu tư, về ứng dụng công nghệ tiên tiến.
Từ đó, Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm từ các nước khác về phát
triển công nghiệp hỗ trợ nông nghiệp, các ngành dịch vụ phân phối nông sản.
Dự báo nông nghiệp sơ cấp, bao gồm cả thủy sản và lâm nghiệp, sẽ là
nguồn sinh kế trực tiếp và tạo việc làm cho khoảng 25%-30% dân số (giảm từ
mức 47% hiện nay) nếu dựa theo kinh nghiệm vào cuối thập kỷ trước của Thổ
Nhĩ Kỳ với mức độ rút lao động nông nghiệp nhanh và Trung Quốc với mức
độ rút lao động nông nghiệp chậm hơn. Tỷ trọng việc làm ngành công nghiệp
26
và dịch vụ phục vụ nông nghiệp sẽ thấp hơn tỷ trọng của nó trong GDP một
chút. Vì vậy, tỷ trọng việc làm ngành kinh doanh nông nghiệp nói chung sẽ
vẫn chiếm tối thiếu 35% việc làm đầu thập kỷ 2030 [54, tr.58].
1.3. KHÁI QUÁT NHỮNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC LIÊN
QUAN ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG TRONG QUA TRÌNH XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
1.3.1. Những kết quả nghiên cứu có thể kế thừa trong của luận án
Các công trình nghiên cứu ở các quốc gia có đặc điểm tương đồng về
kinh tế - xã hội với Việt Nam bàn về việc làm và các chính sách giải quyết
việc làm ở nông thôn cung cấp những tiền đề khoa học nhất định có tính cơ sở
cho xây dựng giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn
trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam nói chung và Thái Bình
nói riêng.
Nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước liên quan đến
vấn đề việc làm đã góp phần hình thành những khái niệm cơ bản, nội dung
CDCCLĐ trong quá trình xây dựng nông thôn mới, tạo cơ sở khoa học nhất
định cho nghiên cứu CDCCLĐ nông nghiệp ở Thái Bình thuận lợi hơn.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra quan hệ giữa giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn với hoàn thiện chính sách đào tạo, tăng cường kỹ năng cho
người lao động; hỗ trợ cho lao động nông thôn khả năng tự tạo việc làm và
thu nhập thông qua tăng cường tín dụng nông thôn, vừa góp phần giảm dòng
lao động nông thôn di cư ra đô thị, vừa góp phần đảm bảo thu nhập cũng như
chất lượng cuộc sống cho lao động nông thôn. Trong việc nâng cao tính
năng động, tự chủ của người lao động nông thôn để tự giải quyết việc làm
nhà nước có vị trí, vị thế vai trò quan trọng. Ảnh hưởng của quá trình công
nghiệp hoá, đô thị hoá trên địa bàn nông thôn đến CDCCLĐ nông thôn là
tăng việc làm cho lao động nông thôn trong ngành nghề phi nông nghiệp với
thu nhập tốt hơn.
27
1.3.2. Một số vấn đề đặt ra cần đƣợc tập trung nghiên cứu trong
luận án
Để CDCCLĐ nông thôn trong xây dựng nông thôn mới cần phải có
những giải pháp hữu hiệu. Trên cơ sở phân tích thị trường lao động nông
thôn và tình hình thực hiện chính sách tạo việc làm cho lao động nông
thôn, đã hình thành khuyến nghị chính sách và tạo lập và phát triển thị
trường tín dụng cho lao động nông nghiệp; CDCCKT trong phát triển KT-
XH tại nông thôn. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn đang thiếu công trình khoa
học nghiên cứu toàn diện về chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng
nông thôn mới nói chung và ở tỉnh Thái Bình nói riêng. Các nghiên cứu lý
luận đã có nhìn chung mới chỉ dừng lại ở mức gợi ý mang tính chủ trương
và do đó chưa đề cập sâu đến CDCCLĐ nông nghiệp gắn với xây dựng
nông thôn mới ở Thái Bình.
Về lý luận: Cần phải xây dựng khung lý luận chung về chuyển dịch cơ
cấu lao động nông nghiệp, nông thôn trong mối liên hệ tác động qua lại với
xây dựng nông thôn mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam nói chung, tạo cơ sở khoa học cho phân tích ở từng địa
phương như tỉnh Thái Bình nói riêng. Phân tích và làm rõ đặc thù của lao
động nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu lao động trong quá trình xây dựng
nông thôn mới ở Thái Bình. Đánh giá tác động của xây dựng nông thôn mới ở
Thái Bình đến chuyển dịch cơ cấu lao động trong quá trình xây dựng nông
thôn mới ở các huyện của tỉnh Thái Bình.
- Về thực tiễn: Cần phải thực hiện đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ
cấu lao động trong quá trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2017.
Làm rõ kết quả xây dựng nông thôn mới tác động tới chuyển dịch cơ cấu lao
động trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thái Bình. Qua đó, đề xuất
phương hướng và giải pháp CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới ở Thái
Bình đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2035.
28
Tóm lại, phát triển nông nghiệp và nông thôn là nhiệm vụ có tầm quan
trọng, vị trí đặc biệt, trọng yếu trong phát triển KT-XH nông thôn của mỗi
quốc gia. Trên địa bàn quốc gia nói chung và từng địa phương cấp tỉnh nói
riêng trong quá trình phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới cần
tập trung CDCCLĐ phù hợp. Việt Nam nói chung và tỉnh Thái Bình nói
riêng đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập quốc tế. Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, phát triển kinh tế
nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn mới đã trở thành vấn đề quan
tâm hàng đầu. Bởi vì nông thôn ở Việt Nam nói chung và đặc biệt tại tỉnh
Thái Bình nói riêng là khu vực rộng lớn và đông dân nhất, đa dạng về thành
phần kinh tế, về văn hoá, là nơi bảo tồn, lưu giữ các phong tục, tập quán của
cộng đồng. Vì vậy, để phát huy, khai thác những tiềm năng sẵn có một cách
hợp lý cho phát triển nông thôn bền vững và hiệu quả, bên cạnh những chủ
trương, chính sách chung của Đảng và Nhà nước, tỉnh Thái Bình rất cần
những quyết sách phát triển nông thôn phù hợp trên cơ sở khoa học và sát
thực tế từng địa phương. Trên cơ sở bước đầu tiếp cận các công trình nghiên
cứu trên, luận án đã hệ thống hoá, phân tích, luận giải và đánh giá khái quát
những kết quả nghiên cứu đã rõ. Từ đó, thấy được những vấn đề đã được làm
sáng rõ, những vấn đề còn trống cả về lý luận và thực tiễn cũng như hướng
nghiên cứu, tiếp cận dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị về chuyển dịch cơ
cấu lao động trong qua trình xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình.
29
Chƣơng 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CƠ CẤU LAO ĐỘNG
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
2.1. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
2.1.1. Những khái niệm cơ bản
Khái niệm cơ cấu lao động
Lao động là hoạt động đặc trưng của con người, trước hết là hoạt động
có mục đích, có ý thức của con người nhằm chuyển đổi những vật thể của tự
nhiên thành những sản phẩm có khả năng thoả mãn nhu cầu của con người.
Với tư cách là hoạt động sản xuất, lao động là sự kết hợp các yếu tố của quá
trình sản xuất bao gồm đối tượng lao động, tư liệu lao động và sức lao động,
trong đó sức lao động là yếu tố có tính chủ động sáng tạo.
Theo C.Mác, "sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những
năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người
đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị
sử dụng nào đó" [51, tr.251].
Trong quá trình phát triển sản xuất của xã hội trên cơ sở phát triển phân
công lao động, sức lao động được phân bố vào từng khâu của quá trình sản
xuất trong phạm vi từng đơn vị kinh tế, từng địa phương cũng như trong phạm
vi toàn xã hội, tạo ra những quan hệ tỷ lệ tương quan giữa các nhóm sức lao
động được phân bổ cho sử dụng hiệu quả ở từng phạm vi tổ chức sản xuất
kinh doanh. Phân công lao động trong nội bộ từng đơn vị sản xuất kinh doanh
là sự phân công lao động không chỉ đơn giản hoá và đa dạng hoá những khí
quan khác nhau về chất của người lao động tổng thể,
mà còn tạo ra những tỷ lệ toán học cố định cho những quy mô về
lượng của các khí quan đó, nghĩa là cho con số tương đối những
30
công nhân hay những đại lượng tương đối của các nhóm công nhân
trong mỗi chức năng đặc biệt. Cùng với việc phân chia về chất, sự
phân công lao động đó còn phát triển những tiêu chuẩn về lượng và
tính tỷ lệ của quá trình lao động xã hội [51, tr.502],
do đó để thực hiện phân công lao động hiệu quả trong từng đơn vị sản
xuất kinh doanh đòi hỏi phải có sự tích tụ những tư liệu sản xuất vào trong tay
một chủ thể kinh tế nhất định. Dưới chủ nghĩa tư bản, hình thái đặc thù của
phân công lao động trong từng đơn vị sản xuất kinh doanh là phân công trong
công trường thủ công, trong đó "cái quy luật thép về tỷ số hay tỷ lệ buộc phân
phối những khối lượng công nhân nhất định cho những chức năng nhất định"
[51, tr.516-517].
Dưới tác động của phân công lao động xã hội, đã diễn ra quá trình hình
thành các ngành và nhóm ngành kinh tế, tạo ra cơ sở cho sự phân bổ sức lao
động của xã hội không những theo lãnh thổ mà còn theo ngành sản xuất, từ đó
hình thành những cơ cấu lao động nhất định của từng ngành, từng lãnh thổ và
toàn xã hội. Từ đó, có thể hiểu cơ cấu lao động của xã hội là cấu trúc của
nguồn lao động, bao gồm các bộ phận hợp thành nguồn lao động trong mối
quan hệ tương quan, tương tác lẫn nhau, phù hợp với yêu cầu của quá trình
tái sản xuất trên phạm vi từng ngành, lãnh thổ, đơn vị kinh tế trong những
điều kiện lịch sử nhất định dựa trên sự phát triển của lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Cơ cấu lao động thường được tiếp cận theo các phương
diện và cấp độ khác nhau như theo ngành, tiểu ngành, vùng, trình độ chuyên
môn… Từ đó phân biệt cơ cấu lao động theo ngành, nghề; cơ cấu lao động
theo trình độ chuyên môn; giới tính; vùng, miền; thành thị, nông thôn…
Khái niệm nông thôn mới và xây dựng nông thôn mới:
Nông thôn là khái niệm thường được dùng dùng để chỉ những vùng
lãnh thổ, trong đó hoạt động sản xuất chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, là nơi
sinh sống chủ yếu của nông dân, do đó nông thôn là địa bàn lãnh thổ gắn liền
31
với nông nghiệp và nông dân. Ở Việt Nam, trong suốt tiến trình cách mạng
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nông dân luôn là nền tảng
của vấn đề dân tộc, cách mạng dân chủ, đồng minh của giai cấp công nhân, do
đó những thành quả của cách mạng cuối cùng phải được thể hiện thông qua
việc thực hiện những quyền lợi kinh tế và chính trị của nông dân, trong đó
phải tạo ra một nông thôn mới phù hợp với lợi ích của nông dân.
Từ đó, có thể hiểu nông thôn mới là trình độ phát triển cao của nông
thôn với tư cách là những điều kiện mới thuận lợi cho các hoạt động sản xuất
kinh doanh và đảm bảo không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của dân cư nông thôn dựa trên sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự hoàn
thiện của quan hệ sản xuất cũng như kiến trúc thượng tầng ở nông thôn.
Nông thôn mới phải là nông thôn có những điều kiện thuận lợi hơn trước hết
của hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu ở nông thôn là sản xuất nông
nghiệp, đồng thời tạo thuận lợi cho sự phát triển phân công lao động xã hội
nông thôn theo hướng không ngừng nâng cao năng suất lao động nông
nghiệp, tạo cơ sở cho giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp và phát triển các
ngành nghề khác. Đồng thời, nông thôn mới phải là những điều kiện mới
ngày càng đầy đủ, thuận lợi cho không ngừng nâng cao đời sống của dân cư
nông thôn mà trước hết là nông dân.
Từ những đặc điểm của nông thôn mới như đã kể trên, có thể hiểu xây
dựng nông thôn mới là quá trình sử dụng các nguồn lực hiện có để tạo ra một
trình độ mới của nông thôn đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh
và nâng cao đời sống của dân cư trên địa bàn nông thôn. Xây dựng nông
thôn mới bao gồm nhiều nội dung cần phải thực hiện trên địa bàn nông thôn
như xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH hiện đại; xác lập cơ cấu kinh tế và các
hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, tạo lập có sự gắn kết chặt chẽ giữa các
nhóm ngành sản xuất kinh doanh nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; thực
hiện phát triển nông thôn gắn với phát triển đô thị. Đó cũng là quá trình xây
32
dựng xã hội nông thôn theo hướng dân chủ, ổn định, đậm đà bản sắc văn hoá
dân tộc; bảo vệ môi trường sinh thái được; giữ vững an ninh trật tự được;
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Xây
dựng nông thôn mới là xu thế phát triển tất yếu của nông thôn trong quá trình
phát triển KT-XH ngày nay nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Xây dựng
nông thôn mới là hoạt động chủ quan của các chủ thể kinh tế ở nông thôn dựa
trên những quy luật khách quan của phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện
quan hệ sản xuất, đồng thời đó là quá trình không ngừng hoàn thiện thể chế
phát triển nông thêm trên cơ sở đàm bảo hài hoà lợi ích của các chủ thể ở nông
thôn. Xét theo phương diện kinh tế, xây dựng nông thôn mới đồng thời là quá
trình phát triển kinh tế nông thôn theo hướng thực hiện quá trình tái sản xuất
mở rộng theo chiều sâu, do đó, trước hết phải có những nguồn lực cần thiết đủ
về số lượng, đảm bảo về chất lượng và cơ cấu. Trong số các nguồn lực của xây
dựng nông thôn mới, nguồn lao động là yếu tố có vai trò quyết định, bởi lẽ con
người là yếu tố duy nhất có tính chủ động, sáng tạo trong quá trình sản xuất và
tái sản xuất, hoạt động của con người quyết định mức độ hiệu quả sử dụng các
nguồn lực khác trong xây dựng nông thôn mới. Do đó, xây dựng nông thôn
mới đồng thời là quá trình phát triển, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lao
động của nông thôn với cơ cấu lao động nhất định phù hợp với quá trình tái sản
xuất mở rộng theo chiều sâu trong xây dựng nông thôn mới.
Khái niệm chuyển dịch cơ cấu lao động:
Để thực hiện quá trình sản xuất và tái sản xuất ở phạm vi từng chủ thể
kinh tế với từng cấp độ như đơn vị sản xuất kinh doanh, ngành sản xuất, địa
phương, vùng, miền, nền kinh tế quốc gia cần phải có cơ cấu lao động nhất
định phù hợp trước hết với trình độ phân công lao động trong từng cấp độ cá
biệt, cụ thể cũng như trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Sự phân công lao động
trong từng đơn vị kinh tế riêng biệt và phân công lao động xã hội có sự gắn kết
với nhau. Khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản C.Mác cho rằng
33
sự phân công lao động trong công trường thủ công đòi hỏi phải có
một sự phân công lao động đã phát triển đến một trình độ nào đó
trong xã hội. Trái lại, bằng cách tác động ngược trở lại, sự phân công
lao động trong công trường thủ công lại phát triển và nhân sự phân
công lao động trong xã hội lên" [51, tr.512].
Sự phân công lao động ở cấp độ đơn vị sản xuất kinh doanh cá biệt ban
đầu được thực hiện một cách tự phát, song được dần dần trở thành hình thái tự
giác, có kế hoạch mà cơ sở của quá trình này "là do kết quả của một cuộc
cách mạng trong công cụ lao động" [51, tr.528]. C.Mác cho rằng, ban đầu lực
lượng sản xuất trong từng đơn vị sản xuất kinh doanh cá biệt dựa vào các
công cụ thủ công. Sự hình thành tổ chức kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường theo kiểu tư bản chủ nghĩa dựa trên lao động tập thể sẽ tạo điều kiện
cho sự phân tích hoạt động của các nghề thủ công, từ đó tạo ra những điều
kiện cho chuyên môn hoá công cụ lao động. Để sử dụng hiệu quả những công
cụ lao động đã chuyên môn hoá cần phải đào tạo các công nhân bộ phận theo
hướng chia nhóm và kết hợp họ vào trong một tổng cơ cấu, từ đó sự phân
công lao động trong công trường thủ công đã tạo ra một sự phân chia về chất
lượng và một tỷ lệ về số lượng của những quá trình sản xuất xã hội, tạo ra một
tổ chức lao động xã hội nhất định và cơ cấu lao động mới phù hợp với hình
thái tổ chức lao động xã hội mới đó. Do đó, "nó là một sự kiện tiến bộ lịch sử
và là một yếu tố tất yếu trong sự phát triển kinh tế của xã hội" [51, tr.529].
Với sự phát triển của lao động có phân công và việc từng bước sử dụng
máy móc thay thế cho lao động thủ công, cơ cấu lao động trong từng đơn vị
sản xuất kinh doanh đã dần khắc phục được tính chủ quan trong việc xác lập
do "toàn bộ quá trình đã được xem xét một cách khách quan tự ngay trong
bản thân nó, được phân tích các giai đoạn cấu thành của nó" [51, tr.548]. Nếu
như phân công lao động dựa trên kỹ thuật thủ công, sự hiệp tác trực tiếp giữa
các công nhân bộ phận tạo ra những tỷ lệ số lượng nhất định giữa các nhóm
34
công nhân đặc thù, thì trong hệ thống máy móc gồm nhiều bộ phận cũng vậy,
muốn cho những máy bộ phận này không ngừng đem lại công việc cho các
máy bộ phận khác, cần phải tạo ra một tỷ lệ nhất định giữa số lượng, kích
thước và tốc độ hoạt động của những máy đó" [51, tr.549].
Sự áp dụng ngày càng phổ biến máy móc vào quá trình sản xuất sẽ dẫn
đến sự thay đổi nhu cầu về sức lao động để thực hiện quá trình sản xuất.
Khi máy công tác đã đảm nhiệm được tất cả những chuyển động
cần thiết để chế biến nguyên liệu mà không cần đến sự trợ lực của
con người nữa và chỉ cần đến con người để kiểm tra công việc thì
lúc đó chúng ta có một hệ thống máy móc tự động, tuy nhiên, nó
cũng vẫn có thể được cải tiến thường xuyên về chi tiết" [51, tr.550].
Sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế diễn ra trong mối quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau, do đó việc thay thế lao động thủ công bằng lao động sử
dụng máy móc không những diễn ra trong một ngành, mà sẽ kéo theo cả các
ngành khác. C.Mác nhấn mạnh: "Cuộc cách mạng trong phương thức sản xuất
của một lĩnh vực công nghiệp này gây ra cuộc cách mạng trong các lĩnh vực
khác" [51, tr.553], "cuộc cách mạng trong phương thức sản xuất công nghiệp
và nông nghiệp cũng đòi hỏi một cuộc cách mạng trong những điều kiện
chung của quá trình sản xuất xã hội, tức là trong phương tiện giao thông và
vận tải" [51, tr.554]. Với sự phát triển của tư liệu lao động và sự áp dụng vào
sản xuất năng suất lao động có xu hướng không ngừng tăng lên trong từng
đơn vị sản xuất kinh doanh cũng như ngành, vùng và toàn bộ nền kinh tế và
biểu hiện cụ thể sẽ là sự giảm bớt không ngừng khối lượng lao động so với
khối lượng tư liệu sản xuất mà lao động đó làm cho hoạt động. Do đó, cơ cấu
lao động sẽ thay đổi không những ở cấp độ từng đơn vị sản xuất kinh doanh,
ngành, vùng mà cỏa ở phạm vi toàn xã hội.
Như vậy, dưới tác động của phân công lao động và sự hoàn thiện
không ngừng của các yếu tố sản xuất cũng như các hình thái xã hội của sản
35
xuất, cơ cấu lao động cũng không ngừng được tái sản xuất. Những thay đổi
của cơ cấu lao động trong quá trình tái sản xuất là biểu hiện của CDCCLĐ.
Từ đây, có thể hiểu chuyển dịch cơ cấu lao động là sự thay đổi cơ cấu lao
động trong quá trình tái sản xuất. Kết quả của chuyển dịch cơ cấu lao động là
một cơ cấu lao động mới, biểu hiện ra mối quan hệ tương quan mới giữa các
bộ phận của nguồn lao động được sử dụng vào sản xuất kinh doanh.
Chuyển dịch cơ cấu lao động là quá trình xuất phát từ những yêu cầu
khách quan của phát triển lực lượng sản xuất trên cơ sở phát triển phân công
lao động và hoàn thiện phát triển không ngừng của tư liệu sản xuất. Tuy
nhiên, đó cũng là quá trình chủ quan, được thực hiện bởi các hoạt động dựa
trên sự nhận thức của các chủ thể tham gia vào quá trình tái sản xuất, do đó
CDCCLĐ có nội hàm thể hiện hoạt động có chủ đích của xã hội nhằm thay
đổi cấu trúc của nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH trong
những điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Chuyển dịch CCLĐ là hoạt động
chủ quan dựa trên cơ sở các quy luật khách quan, trước hết là dựa trên cơ sở
những tính quy luật của chuyển dịch cơ cấu lao động với tư cách là quá trình
khách quan trong quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội.
2.1.2. Đặc điểm của chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng
nông thôn mới
Chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng nông thôn mới là sự thay
đổi cơ cấu lao động trong quá trình thực hiện xây dựng nông thôn mới, phản
ánh sự thay đổi quan hệ tương quan giữa các bộ phận hợp thành của nguồn
lao động nông thôn được sử dụng vào sản xuất kinh doanh trên địa bàn nông
thôn trong xây dựng nông thôn mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây
dựng nông thôn mới có những đặc điểm chung của chuyển dịch cơ cấu lao
động trong quá trình phát triển của sản xuất xã hội, bao gồm:
Thứ nhất, tỷ trọng lao động nông nghiệp có hướng giảm dần, trong khi
đó, tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ có xu hướng tăng dần. Đặc điểm
36
này xuất phát từ sự phát triển của sản xuất nói chung với tư cách là hoạt động
lao động sản xuất ra của cải đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của xã
hội. Sản xuất xã hội với tư cách là cơ sở của đời sống xã hội trước hết phải
nhằm tới đáp ứng những nhu cầu tồn tại của xã hội với tư cách là tổng hoà
những cá nhân thành viên là những con người, do đó trước hết phải sản xuất
đủ lương thực thực phẩm cho nuôi sống xã hội. Theo phương diện logic và
lịch sử, nông nghiệp đã trở thành ngành kinh tế đầu tiên của nhân loại và
trong giai đoạn bình minh ban đầu của nhân loại thì toàn bộ nguồn lao động
của xã hội đều được sử dụng tập trung cho sản xuất nông nghiệp. Với sự phát
triển của sản xuất nông nghiệp trên cơ sở phân công lao động và hoàn thiện tư
liệu sản xuất, năng suất lao động nông nghiệp tăng dần, làm cho khối lượng
sản phẩm thặng dư cũng tăng dần, từ đó người sản xuất không những chỉ nuôi
được bản thân và giá đình mình mà còn có thể nuôi được những người khác.
Do vậy, chính năng suất lao động nông nghiệp và khối lượng lao động thặng
dư lại trở thành yếu tố thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển một bộ
phần lao động nông nghiệp sang phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ mà
trước hết là dịch vụ thương mại, làm cho cơ cấu lao động chuyển dịch theo
hướng phân tách nguồn lao động thành ba bộ phận: lao động nông nghiệp, lao
động công nghiệp, lao động dịch vụ và tạo ra xu hướng không ngừng giảm lao
động nông nghiệp, tăng lao động công nghiệp và dịch vụ. Với sự ngày càng
hoàn thiện của tư liệu sản xuất trong nông nghiệp, quá trình chuyển dịch cơ
cấu lao động theo xu hướng này sẽ ngày càng được đẩy mạnh.
Thứ hai, cùng với quá trình phát triển của phân công lao động, mức độ
chuyên môn hoá tăng dần, làm cho trình độ chuyên môn của những người
tham gia vào quá trình sản xuất cũng tăng dần. Sự gia tăng không đều về trình
độ chuyên môn giữa người lao động đã làm xuất hiện bộ phận người lao động
có trình độ chuyên môn cao hay còn gọi là nguồn nhân lực chất lượng cao. Từ
đó, cơ cấu lao động nói chung và cơ cấu lao động nông thôn nói riêng có xu
37
hướng không những gia tăng trình độ chuyên môn nói chung mà còn có sự
tăng nhanh của bộ phận chất lượng cao của nguồn lao động. Bộ phận nguồn
lao động chất lượng cao được phân bổ không những giữa những người tham
gia lao động trong quá trình sản xuất trực tiếp, mà còn có thể phân tách thành
các nhóm lao động lãnh đạo điều hành, hỗ trợ sản xuất như lao động lãnh đạo
quản lý, lao động nghiên cứu khoa học phục vụ sản xuất, lao động hỗ trợ kỹ
thuật, dịch vụ sản xuất…
Thứ ba, cùng với xu hướng phát triển chung của sản xuất xã hội, sản
xuất phân bố theo vùng cũng phát triển. Tuy nhiên, thông thường ban đầu
trên địa bàn của từng lãnh thổ địa phương cấp tỉnh, cũng như cấp quốc gia,
sự phát triển của sản xuất có xu hướng tập trung vào những địa điểm cụ thể,
những địa bàn có những điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sản xuất kinh
doanh, mà trước hết thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, và do đó biểu hiện
ra là sự phát triển sản xuất không đều theo không gian lãnh thổ. Do đó, cơ
cấu lao động xét theo phương diện phân bố theo lãnh thổ được chuyển dịch
theo hướng tập trung vào một số nơi và giảm xuống ở những nơi khác. Vì
quá trình phát triển sản xuất của nhân loại diễn ra theo hướng công nghiệp
hoá, do đó, nếu như ban đầu nguồn lao động được tập trung chủ yếu ở những
địa bàn lãnh thổ có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp,
thì về sau những nơi tập trung sản xuất công nghiệp và phát triển dịch vụ sẽ
trở thành những điểm thu hút lao động, còn những nơi tập trung sản xuất
nông nghiệp truyền thống có sự giảm sút về số lượng của nguồn lao động.
Bên cạnh những đặc điểm kể trên, sự chuyển dịch cơ cấu lao động
trong quá trình xây dựng nông thôn mới còn có những đặc điểm xuất phát từ
tính đặc thù của sản xuất nông nghiệp, của chủ thể chủ yếu là nông dân và địa
bàn nông thôn cùng những yêu cầu của quá trình xây dựng nông thôn mới.
Những đặc điểm đó bao gồm:
Một là, sản xuất nông nghiệp với tư cách là hoạt động lao động của yếu
38
ở nông thôn có đặc thù là gắn liền với những điều kiện tự nhiên hiện có, phụ
thuộc rất lớn vào những thay đổi của điều kiện tự nhiên do có đối tượng lao
động đặc thù là những cơ thể sống - cây trồng, vật nuôi và những tư liệu sản
xuất đặc thù phù hợp với quá trình sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi. Từ đặc
thù này, lao động nông nghiệp không chịu tác động của phân công lao động
trong nội bộ từng đơn vị sản xuất kinh doanh một cách trực tiếp, chặt chẽ
trong mối quan hệ so sánh với lao động trong những ngành khác. Nói một
cách khác, mức độ chuyên môn hoá của lao động nông nghiệp thường thấp
hơn so với trong công nghiệp và dịch vụ. Một người lao động trong nông
nghiệp không những có thể mà cần phải đảm nhận được nhiều khâu của quá
trình sản xuất. Đây cũng là một đặc thù của sản xuất nông nghiệp làm cho cơ
cấu lao động nông nghiệp chuyển dịch không hoàn toàn theo hướng chuyên
môn hoá mà trong những chừng mực nhất định lại chuyển dịch theo hướng
kết hợp những chuyên môn nghề nghiệp khác nhau. Do đó trong cơ cấu lao
động nông thôn có những bộ phận lao động vừa tham gia sản xuất nông
nghiệp vừa tham gia hoạt động trong các ngành nghề khác ở nông thôn, làm
cho việc xác định cơ cấu lao động theo ngành trên thực tế vô cùng khó khăn.
Đồng thời, đặc điểm này cũng đặt ra yêu cầu đối với CDCCLĐ trong xây
dựng nông thôn mới trên địa bàn từng địa phương không được thực hiện một
cách cưỡng ép, máy móc, dập khuôn, mà phải căn cứ vào những đặc điểm cụ
thể của địa phương về lao động cũng như điều kiện sản xuất kinh doanh.
Hai là, bản thân nông dân với tư cách là chủ thể lao động chủ yếu ở
nông thôn đã quen với sản xuất nông nghiệp từ ngàn đời với những phương
thức sản xuất truyền thống không hoàn toàn giống như lao động trong công
nghiệp phải tuân thủ chặt chẽ những quy trình chặt chẽ của việc sử dụng hệ
thống tư liệu sản xuất. Do đó xét theo phương diện chuyển dịch cơ cấu lao
động theo ngành ở nông thôn thì việc chuyển dịch lao động từ sản xuất nông
nghiệp sang lao động công nghiệp và dịch vụ cũng là quá trình khó khăn, đặc
39
biệt đối với đội ngũ những người lao động có tuổi tác khá cao và đã làm việc
lâu trong sản xuất nông nghiệp. Sự chuyển dịch lao động sang ngành khác đối
với những người lao động này không những gặp phải những khó khăn về tâm
lý, tập quán mà còn gặp nhiều cản trở từ trình độ chuyên môn nghề nghiệp.
Do đó, phát triển nguồn lao động cho CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn
mới phải được thực hiện không những bằng các biện pháp phù hợp với đặc
điểm về cơ cấu lao động nông thôn theo lứa tuổi, mà còn phải tính đến các
biện pháp hình thành kỷ luật, tác phong lao động công nghiệp đối với bộ phận
nguồn lao động nông thôn cần chuyển sang lao động công nghiệp và dịch vụ.
Ba là, dân cư nông thôn nói chung và lao động nông thôn nói riêng
mang nặng tính đặc thù của những truyền thống, tập quán, thói quen của cộng
đồng nông thôn gắn bó chặt chẽ, hữu cơ với địa bàn sinh sống, do đó so với
lao động thành thị thì người lao động nông thôn, đặc biệt bộ phận đã có tuổi,
thường không muốn di chuyển đến các nơi xa để lao động, từ đó thị trường
lao động nông thôn kém năng động hơn so với thị trường lao động thành thị
xét theo phương diện thay đổi địa bàn lao động. Đặc điểm này đòi hỏi việc
CDCCLĐ nông thôn trong xây dựng nông thôn mới cần phải hướng tới tập
trung vào tạo việc làm cùng các điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh
tại chỗ, thay vì di chuyển lao động tới các địa bàn khác.
2.1.3. Vai trò của chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng nông
thôn mới
Với tư cách là yếu tố chủ động, sáng tạo của quá trình sản xuất và tái
sản xuất trong xây dựng nông thôn mới, nguồn lao động có cơ cấu phù hợp là
điều kiện thuận lợi cho xây dựng nông thôn mới. Nguồn lao động có cơ cấu
phù hợp cho xây dựng nông thôn mới được tạo lập thông qua sự chuyển dịch
hợp lý của cơ cấu lao động, do đó chuyển dịch cơ cấu lao động hợp lý có vai
trò đặc biệt quan trọng, là phương thức phát huy hiệu quả nhân tố con người
trong xây dựng nông thôn mới. Vai trò đó được biểu hiện cụ thể như sau:
40
Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu lao động hợp lý tạo lập nguồn nhân lực
phù hợp về số lượng, chất lượng và cơ cấu làm tiền đề để phát triển nhanh
từng ngành, địa bàn của kinh tế nông thôn. Mỗi ngành kinh tế ở nông thôn
đều phát triển dựa trên những điều kiện hiện có và sự gia tăng, hoàn thiện của
các yếu tố của quá trình tái sản xuất. Nguồn lao động đủ về số lượng, đảm bảo
về chất lượng và có cơ cấu hợp lý luôn là điều kiện để thực hiện hiệu quả quá
trình tái sản xuất. Cơ cấu lao động hợp lý là kết quả của quá trình chuyển dịch
cơ cấu lao động. Do đó, để phát triển từng ngành nghề ở nông thôn trong quá
trình xây dựng nông thôn mới phải có những tiền đề phù hợp về nguồn lao
động thông qua quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động.
Thực tế cho thấy khi nguồn lao động phù hợp với các yêu cầu của ứng
dụng công nghệ mới trong ngành nông nghiệp thì những công nghệ mới đó từ
chọn, lai tạo giống, đến ứng dụng các thiết bị kỹ thuật công nghệ hiện đại vào
quá trình sản xuất, bảo quản và chế biến nông sản, thì hiệu quả sản xuất của
ngành nông nghiệp sẽ tăng lên trên cơ sở không ngừng nâng cao năng suất lao
động. Nguồn lao động như vậy không những cần phải đủ về số lượng, mà đặc
biệt phải có chất lượng cao, do đó cơ cấu lao động, trong đó bộ phận lao động
chất lượng cao có xu hướng ngày càng tăng lên, là điều kiện để phát triển
nhanh từng ngành và tiểu ngành trong kinh tế nông thôn trong quá trình xây
dựng nông thôn mới. Từ đó CDCCLĐ trở thành một trong số những yếu tố
quyết định của phát triển kinh tế của từng ngành nghề nông thôn, gia tăng sự
đóng góp vào sản xuất giá trị gia tăng của từng ngành và toàn bộ kinh tế nông
thôn trong xây dựng nông thôn mới.
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu lao động hợp lý không những là yếu tố
quyết định nội dung, tốc độ, chất lượng phát triển của từng ngành kinh tế
nông thôn, mà còn góp phần đặc biệt quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu lao
động hợp lý tạo lập nguồn nhân lực phù hợp về số lượng, chất lượng và cơ
cấu làm tiền đề cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý trong quá trình xây
41
dựng nông thôn mới. Mục tiêu của xây dựng nông thôn mới trước hết phải
hướng tới phát triển kinh tế nông thôn thông qua phát triển lực lượng sản xuất
theo ngành và theo lãnh thổ. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động hợp lý thể hiện
việc cung cấp cho quá trình tái sản xuất trong từng ngành, địa bàn ở nông
thôn lực lượng lao động đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và phù hợp về
cơ cấu để khai thác hiệu quả những tiềm năng hiện có về điều kiện tự nhiên,
con người, công nghệ thúc đẩy CDCCKT theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
Thông thường, trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn, nguồn lao động trong nông nghiệp có số
lượng lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng số lao động nông thôn. Tuy nhiên,
sự phát triển của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp có tác
động không ngừng làm tăng năng suất lao động của sản xuất nông nghiệp,
đồng thời tạo ra xu hướng giải phóng lao động nông nghiệp, do đó nguồn lao
động trong nông nghiệp sẽ từng bước vận động theo xu hướng giảm xuống
cả về tương đối và tuyệt đối. Sự giảm sút tương đối của tỷ trọng lao động
nông nghiệp trong cơ cấu lao động nông thôn được phản ánh trước hết trong
thời kỳ đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hoá.
Lợi ích kinh tế của các chủ thể sản xuất nông nghiệp trước hết được
thực hiện trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thông qua sử dụng
hiệu quả các nguồn lực hiện có, kể cả nguồn lao động, do đó mặc dù năng
suất lao động nông nghiệp dần tăng lên song hành với tiết kiệm và giải phóng
lao động và nguồn lao động nông nghiệp được giải phóng dần trở nên dư thừa
và tạo nguồn cho các ngành khác thu hút, sử dụng, tuy nhiên số lượng tuyệt
đối của lao động nông nghiệp có thể chưa giảm ngay do thường xuyên được
bổ sung bằng nguồn lao động mới từ mức tăng dân số tự nhiên tương đối cao
ở nông thôn.
42
Khi nền kinh tế đã phát triển ở trình độ cao hơn với sự phát triển mạnh
mẽ của các ngành công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn làm tăng nhanh cầu về lao
động cho các ngành này, đồng thời năng suất lao động trong nông nghiệp cũng
tăng nhanh hơn làm cho tốc độ giải phóng lao động nhanh hơn và với xu hướng
tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ở nông thôn giảm thì số lượng lao động nông nghiệp
trong cơ cấu lao động nông thôn sẽ giảm cả về tuyệt đối và tương đối, số lượng
lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng tuyệt đối và tương đối, từ
đó đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và đồng thời thúc đẩy quá trình xây dựng nông thôn mới.
Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu lao động hợp lý trong xây dựng nông thôn
mới là quá trình tạo ra những việc làm mới cho lao động nông thôn với mức
thu nhập ngày càng cao, do đó không những thúc đẩy phát triển kinh tế nông
thôn mà còn tạo điều kiện góp phần giải quyết hiệu quả những vấn đề xã hội
cơ bản ở nông thôn trong xây dựng nông thôn mới.
2.2. NỘI DUNG, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG
2.2.1. Nội dung chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng nông
thôn mới
Chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng nông thôn mới là quá
trình tạo lập nguồn lao động phù hợp với xây dựng nông thôn mới về kinh tế,
do đó có những nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu lao động trong từng ngành và tiểu ngành
theo hướng tạo thuận lợi cho quá trình tái sản xuất trong xây dựng nông thôn
mới trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ ngày càng tiên tiến, hiện
đại vào sản xuất kinh doanh. Thực hiện nội dung này có nghĩa là cần phân bổ
lại lao động nông thôn theo ngành.
Theo xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn trong xây dựng
nông thôn mới, cơ cấu lao động nông thôn phải được chuyển dịch theo hướng
43
giảm dần tỷ trọng của lao động nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng của lao động
công nghiệp và dịch vụ. Thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn
theo ngành trong xây dựng nông thôn mới cần dựa trên căn cứ phân tích, đánh
giá và dự báo về xu hướng chuyển dịch của cơ cấu kinh tế nông thôn và dự báo
nhu cầu về nguồn lao động cho phát triển từng ngành và tiểu ngành, đồng thời
cần thực hiện sự định hướng và khuyến khích đối với sự chuyển dịch cơ cấu
lao động thông qua công tác xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch phát
triển KT-XH nông thôn và các chính sách, cơ chế khuyến khích các chủ thể
kinh tế, những người lao động nông thôn tích cực tham gia vào quá trình này.
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu lao động theo từng địa bàn lãnh thổ trong
xây dựng nông thôn mới. Quá trình xây dựng nông thôn mới đồng thời là quá
trình cơ cấu lại lực lượng sản xuất ở nông thôn theo địa bàn lãnh thổ trên cơ
sở phát huy lợi thế so sánh của từng địa bàn, do đó chuyển dịch cơ cấu lao
động không những được thực hiện theo ngành mà còn theo lãnh thổ. Trong
xây dựng nông thôn mới văn minh hiện đại, sự phát triển của kinh tế đồng
thời gắn với việc cơ cấu lại sản xuất kinh doanh và đời sống của dân cư nông
thôn theo hướng phát triển các đô thị nông thôn. Do đó, quy hoạch phát triển
nông thôn trong xây dựng nông thôn mới không những phải trở thành định
hướng cho phát triển kinh tế, mà còn là định hướng cho phát triển về xã hội
và bảo vệ môi trường nông thôn.
Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn trong
xây dựng nông thôn mới. Cơ cấu lao động trong xây dựng nông thôn mới vận
động theo hướng tăng tỷ trọng lao động trình độ cao, giảm tỷ trọng lao động
trình độ thấp và không ngừng nâng cao trình độ lao động trong từng ngành
phù hợp với yêu cầu ứng dụng công nghệ hiện đại. Theo xu thế của cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại và xu thế ứng dụng công nghệ mới vào
sản xuất kinh doanh nói chung và trên địa bàn nông thôn nói riêng, cơ cấu lao
động trong từng ngành nghề nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn
44
mới phải được chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng của nguồn lao động
trình độ cao, có khả năng nhận thức và ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản
xuất kinh doanh, giảm dần và tiến tới xoá bỏ lao động trình độ thấp. Để tăng
dần số lượng và tỷ trọng lao động trình độ cao trong các ngành kinh tế nông
thôn trong xây dựng nông thôn mới cần đặc biệt chú trọng công tác đào tạo,
bồi dưỡng và phát triển nhân lực nông thôn, thực hiện các chính sách cơ chế
và biện pháp khuyến khích quá trình đào tạo và tự đào tạo đối với người lao
động, đồng thời khuyến khích các chủ thể kinh tế nông thôn ứng dụng công
nghệ mới như phát triển nông nghiệp công nghệ cao, ứng dụng công nghệ bảo
quản hiện đại sau thu hoạch, phát triển công nghiệp chế biến nông sản với sử
dụng những công nghệ chế biến sâu, hiện đại cùng những dịch vụ cho sản
xuất và đời sống ở nông thôn trong xây dựng nông thôn mới.
2.2.2. Tiêu chí đánh giá chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây
dựng nông thôn mới
Xuất phát từ những nội dung cơ bản của chuyển dịch cơ cấu lao động
trong xây dựng nông thôn mới, các tiêu chí đánh giá chuyển dịch cơ cấu lao
động trong xây dựng nông thôn mới bao gồm các tiêu chí về sự thay đổi của
cơ cấu lao động nông thôn và các tiêu chí đánh giá tác động của chuyển dịch
cơ cấu lao động tới những kết quả của quá trình xây dựng nông thôn mới.
Những tiêu chí đánh giá sự thay đổi của cơ cấu lao động trong xây
dựng nông thôn mới bao gồm:
Thứ nhất, sự thay đổi về tỷ trọng lao động nông thôn theo ngành, bao
gồm sự thay đổi về tỷ trọng của lao động nông nghiệp, công nghiệp và dịch
vụ. Kết quả CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới trước kết phản ánh xu
hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp và tăng tỷ trọng của lao động công
nghiệp, dịch vụ ở nông thôn. Bên cạnh đó, có thể sử dụng các tiêu chí đánh
giá sự thay đổi của cơ cấu lao động nông thôn trong nội bộ từng tiểu ngành
của các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Ví dụ như: sự thay đổi
45
về tỷ trọng của lao động nông nghiệp theo nghĩa hẹp (lao động trồng trọt,
chăn nuôi), lao động lâm nghiệp, lao động thủy sản, lao động diêm nghiệp
trong tổng số lao động nông nghiệp theo nghĩa rộng ở nông thôn.
Thứ hai, mức độ thay đổi của cơ cấu lao động nông thôn trong xây
dựng nông thôn mới trong quan hệ so sánh với mức độ thay đổi cơ cấu lao
động của từng địa phương và toàn bộ nền kinh tế quốc gia theo phương diện
ngành và theo phương diện trình độ chuyên môn.
Thứ ba, sự thay đổi của tỷ trọng lao động theo trình độ chuyên môn
trong xây dựng nông thôn mới theo hướng tăng tỷ trọng lao động trình độ cao,
giảm tỷ trọng lao động trình độ thấp. Trên thực tế, việc xác định và phân biệt
lao động trình độ cao hay thấp là việc vô cùng khó khăn, do đó, cho đến nay
việc phân biệt trình độ lao động chủ yếu căn cứ vào các tiêu chí như tỷ lệ
phần trăm của số lượng lao động đã qua đào tạo, lao động chưa qua đào tạo;
lao động đã qua đào tạo với các mức độ: có văn bằng chứng chỉ, chưa có văn
bằng chứng chỉ; trình độ từ cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ… trong tổng số
lao động nông thôn.
Những tiêu chí đánh giá tác động của chuyển dịch cơ cấu lao động
nông thôn tới kết quả xây dựng nông thôn mới biểu hiện thông qua nhiều chỉ
tiêu tuỳ theo cách tiếp cận. Thông thường có thể sử dụng các tiêu chí đánh giá
tác động của chuyển dịch cơ cấu lao động đến phát triển nông thôn theo hướng
bền vững, bao trùm theo các phương diện về kinh tế, xã hội, môi trường.
Về kinh tế, tiêu chí đánh giá tác động của chuyển dịch cơ cấu lao động
nông thôn tới kết quả xây dựng nông thôn mới biểu hiện tăng trưởng của từng
ngành, vùng lãnh thổ và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong xây dựng nông thôn
mới, đồng thời có thể sử dụng bổ sung các chỉ tiêu như kết quả thu hút đầu tư
vào phát triển nông thôn, sự gia tăng kim ngạch xuất, nhập khẩu, đóng góp
ngân sách của ngành nghề, địa phương dưới tác động chuyển dịch cơ cấu lao
động nông thôn…
46
Về xã hội, tiêu chí đánh giá tác động của chuyển dịch cơ cấu lao động
nông thôn tới kết quả xây dựng nông thôn mới biểu hiện thông qua những chỉ
tiêu về tạo việc làm, gia tăng thu nhập cho lao động nông thôn, giảm nghèo
bền vững…
Về môi trường, tiêu chí đánh giá tác động của chuyển dịch cơ cấu lao
động nông thôn tới kết quả xây dựng nông thôn mới biểu hiện thông qua
các kết quả bảo vệ môi trường sinh thái về không khí, nguồn nước, xử lý
chất thải…
2.2.3. Các nhân tố ảnh hƣởng đến chuyển dịch cơ cấu lao động
trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn địa phƣơng cấp tỉnh
Có nhiều những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu lao động
trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn địa phương cấp tỉnh, bao gồm điều
kiện tự nhiên; trình độ phát triển KT-XH nông thôn thể hiện thông qua tốc độ
tăng trưởng kinh tế, kết cấu hạ tầng, thu nhập, việc làm, truyền thống văn
hoá…; số lượng, chất lượng nguồn nhân lực nông thôn phản ánh quy mô, chất
lượng dân số và lực lượng lao động; trình độ phát triển của giáo dục đào tạo;
xu hướng ứng dụng khoa học công nghệ và phân công lại lao động trong xây
dựng nông thôn mới, cơ chế chính sách của địa phương đối với CDCCLĐ
trong xây dựng nông thôn mới…
Thứ nhất, điều kiện tự nhiên. Mặc dù nông thôn là địa bàn lãnh thổ
khác biệt so với thành thị, song điều kiện tự nhiên ở từng địa bàn nông thôn
thường rất khác nhau biểu hiện ở sự khác nhau về vị trí địa lý, địa hình, khí
hậu, tài nguyên đất đai và các tài nguyên thiên nhiên khác. Những khác biệt
về điều kiện tự nhiên của các địa bàn nông thôn khác nhau tạo ra những
điều kiện sản xuất kinh doanh khác nhau đối với từng ngành trên từng địa
bàn lãnh thổ. Những địa bàn lãnh thổ có lợi thế so sánh về đất đai để sản
xuất nông nghiệp theo hướng tập trung quy mô lớn sẽ tác động tích cực tới
chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tập trung cho lao động sản xuất
47
nông nghiệp quy mô lớn, đồng thời tạo thuận lợi cho nâng cao trình độ lao
động, ngược lại những nơi địa hình phức tạp, điều kiện tự nhiên về khí hậu,
nguồn nước khắc nghiệt sẽ đòi hỏi phải có cơ cấu kinh tế khác và cơ cấu lao
động khác phù hợp…
Thứ hai, trình độ phát triển KT-XH nông thôn thể hiện thông qua tốc độ
tăng trưởng kinh tế, kết cấu hạ tầng, thu nhập, việc làm, truyền thống văn
hoá… Những địa bàn nông thôn có trình độ phát triển kinh tế cao hơn sẽ có
nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn theo
hướng hợp lý bởi lẽ vừa có điều kiện về nguồn lực tài chính cho quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động, vừa có những thuận lợi về kết cấu hạ tầng để
thu hút đầu tư phát triển ngành nghề, phát triển nhân lực, thu hút lao động…
từ đó tạo ra thuận lợi lớn hơn cho chuyển dịch cơ cấu lao động.
Thứ ba, số lượng, chất lượng nguồn nhân lực nông thôn phản ánh quy
mô, chất lượng dân số và lực lượng lao động; trình độ phát triển của giáo dục
đào tạo; xu hướng ứng dụng khoa học công nghệ và phân công lại lao động
trong xây dựng nông thôn mới… có tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu
lao động nông thôn. Những địa bàn tập trung đông về dân số và nguồn lao
động sẽ có thuận lợi hơn trong phân bổ lại lao động và thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu lao động so với những địa bàn nông thôn có mật độ dân cư và lao động
thấp. Minh chứng là thông thường các vùng nông thôn đồng bằng tập trung
đông dân cư và nguồn lao động có cơ cấu lao động hợp lý hơn và chuyển dịch
nhanh hơn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng nông
thôn mới so với những vùng sâu, vùng xa vùng hẻo lánh, nơi có mật độ dân
cư và lao động thấp. Trình độ phát triển của giáo dục đào tạo có tác động trực
tiếp đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn và theo
ngành. Điều kiện để sức lao động có thể tự do di chuyển từ ngành này sang
ngành khác trước hết là trình độ của người lao động phải đạt mức có thể thực
hiện hoạt động lao động trong nhiều ngành nghề khác nhau. Do đó, đối với
48
nguồn lao động nông nghiệp chưa có kỹ năng lao động công nghiệp và dịch
vụ thì rất khó có thể chuyển đổi lao động và góp phần tích cực vào chuyển
dịch cơ cấu lao động nông thôn trong xây dựng nông thôn mới…
Thứ tư, cơ chế chính sách đúng đắn của địa phương đối với CDCCLĐ
trong xây dựng nông thôn mới có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo động
lực đẩy nhanh quá trình CDCCLĐ ở nông thôn theo hướng hợp lý. Quá trình
CDCCLĐ nông thôn được thực hiện trực tiếp trước hết bởi các chủ thể sản xuất
kinh doanh ở nông thôn từ cấp độ từng người lao động đến các hộ gia đình,
doanh nghiệp… Đối với từng chủ thể kể trên, động lực chủ yếu để tham gia tích
cực vào CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới là lợi ích, đặc biệt là lợi ích
kinh tế. Những lợi ích đó không những gắn với từng chủ thể sản xuất kinh doanh
mà còn được thực hiện trong mối quan hệ giữa các chủ thể với nhau dựa trên sự
phát triển của phân công lao động trong nền kinh tế thị trường.
Đối với từng người lao động nông thôn, việc chuyển đổi việc làm, nâng
cao trình độ chuyên môn phải mang lại lợi ích thiết thực là nâng cao thu nhập,
mức sống, đồng thời phải có các điều kiện thuận lợi để thực hiện những hoạt
động đó. Chính quyền địa phương cấp tỉnh là nhân tố đặc biệt quan trọng
trong tạo ra những điều kiện cho CDCCLĐ theo hướng hợp lý, tiến bộ thông
qua hoạt động quản lý nhà nước bao gồm đảm bảo sự ổn định về kinh tế,
chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng trên địa bàn Tỉnh thông qua thực thi các
thể chế cần thiết cho hoạt động của các chủ thể trực tiếp thực hiện CDCCLĐ
trong xây dựng nông thôn mới; định hướng hoạt động CDCCLĐ thông qua
công tác xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội nông thôn và các cơ chế chính sách tạo lập, phân bổ nguồn lực cho
xây dựng nông thôn mới; kiểm tra đánh giá kết quả CDCCLĐ trong xây
dựng nông thôn mới… Những cơ chế chính sách của địa phương về xây dựng
nông mới tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc làm mới với thu nhập cao,
đồng thời hỗ trợ đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn gắn với
49
việc làm mới thì sẽ có tác động khuyến khích mạnh mẽ từng cá nhân người
lao động nông thôn tự chuyển đổi việc làm, hướng tới lựa chọn những ngành
nghề phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn, hoặc tăng cường chuyên môn hóa,
ứng dụng tiễn bộ công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, việc làm
mới có thể được tạo ra bởi hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp mới ở nông
thôn, do đó những cơ chế chính sách của địa phương tạo thuận lợi cho thu hút
đầu tư vào sản xuất kinh doanh ở nông thôn không những mang lại cho các
doanh nghiệp lợi ích kinh tế mà còn cho người lao động nông thôn, từ đó sẽ
thúc đẩy CDCCLĐ theo hướng hợp lý trong xây dựng nông thôn mới.
Để khuyến khích đầu tư vào phát triển nông thôn, chính quyền địa phương
cần có quy hoạch rõ ràng minh bạch về phát triển kinh tế - xã hội nông thôn,
phát triển ngành nghề, sử dụng đất… các cơ chế chính sách đối với doanh
nghiệp như hỗ trợ tập trung ruộng đất cho sản xuất quy mô lớn, hỗ trợ đào tạo,
bổi dưỡng nhân lực, hỗ trợ giải quyết việc làm cho những người dân, hộ giá đình
nông thôn bị thu hồi đất… đơn giản hóa, minh bạch hóa thủ tục hành chính về
đăng ký đầu tư, sản xuất kinh doanh… cung cấp đầy đủ thông tin và giảm thiểu
chi phí giao dịch cho các chủ đầu tư vào phát triển kinh tế - xã hội nông thôn…
2.3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ TRONG NƢỚC VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ
CẤU LAO ĐỘNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
2.3.1. Kinh nghiệm của nƣớc ngoài
2.3.1.1. Kinh nghiệm của Thái Lan
Thái Lan là nước đi lên từ nông nghiệp, là quốc gia có điều kiện phát
triển khá tương đồng với Việt Nam. Trong những năm gần đây, Thái Lan đã
chú trọng phát triển bền vững, quan tâm phát triển nông thôn cả về nông
nghiệp và các ngành phi nông nghiệp. Việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao
động và cơ cấu kinh tế nông thôn như vậy là nhằm giảm tác động tiêu cực của
sự di dân và lao động từ nông thôn ra thành thị, tạo thuận lợi cho xây dựng
nông thôn và đô thị theo hướng hiện đại, bền vững. Trong những năm qua
50
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Lan đạt mức bình quân hàng năm là
khoảng 5,5 - 6,5%, khu vực nông nghiệp luôn chiếm tỷ trọng trong cơ cấu
GDP ở mức 8,2 - 9%, cơ cấu lao động đã chuyển dịch từng bước theo hướng
giảm dần tỷ trọng lao động nông nghiệp: từ 62,1% năm 1990, giảm xuống còn
31,8% vào năm 2015[8] .
Để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động trong phát triển nông thôn
Thái Lan đã khuyến khích phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông
thôn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho tạo việc làm tại chỗ, chuyển đổi lao
động nông nghiệp sang lao động phi nông nghiệp tại địa phương, từ đó góp
phần hạn chế lao động di cư tự do từ nông thôn ra thành thị, góp phần giảm
sức ép về dân số và các vấn đề xã hội tại các đô thị lớn như thủ đô Bankok và
các thành phố lớn.
Để khuyến khích phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp ở địa bàn
các vùng nông thôn, Thái Lan đã tích cực triển khai thực hiện các chính sách
như hỗ trợ đào tạo chuyển nghề và nâng cao trình độ chuyên môn, hỗ trợ tín
dụng cho những nông dân mở mang các ngành nghề mới; tập trung nguồn lực
đẩy mạnh phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa nông thôn góp phần thu hút
lao động tại chỗ ở khu vực nông thôn; khuyến khích phong trào thanh niên
nông thôn khởi nghiệp, tham gia các khoá đào tạo nghề và tích cực tìm kiếm
việc làm tại địa phương nông thôn.
Bên cạnh đó, Thái Lan còn triển khai chính sách đưa công nghiệp về
nông thôn với mục tiêu giải quyết việc làm cho lao động dôi dư ở nông
nghiệp thôn. Để khuyến khích các nhà đầu tư tham gia tích cực vào phát triển
công nghiệp nông thôn Chính phủ đã thực hiện các chính sách ưu đãi, tăng
cường hỗ trợ về thủ tục đầy tư, phát triển kết cấu hạ tầng, giảm thuế cho các
dự án đầu tư vào công nghiệp nông thôn. Nhờ đó, nhiều nhà máy thuộc các
ngành công nghiệp chế biến nông sản sử dụng nhiều lao động và công nghiệp
phục vụ nông nghiệp, nông thôn đã được thành lập và đi vào hoạt động trên
51
địa bàn nông thôn, trong đó có cả các vùng sâu, vùng xa, góp phần chuyển
dịch cơ cấu lao động nông thôn theo hướng hợp lý.
2.3.1.2. Kinh nghiệm của Malaysia
Mặc dù trong thời gian gần đây, Malaysia đã trở thành một trong những
nền kinh tế ở khu vực Đông Nam Á có công nghiệp phát triển. Vào năm
2017, nông nghiệp chỉ còn chiếm tỷ trọng là 8,8% GDP, lao động nông
nghiệp chiếm khoảng 11% trong cơ cấu lao động nông thôn [8]. Tuy nhiên
Malaysia vẫn quan tâm CDCCLĐ nông thôn theo hướng gia tăng việc làm phi
nông nghiệp tại chỗ nhằm giảm áp lực gia tăng cơ học dân số đô thị.
Để thúc đẩy tạo việc làm phi nông nghiệp tại chỗ cần phải chuyển đổi
lao động nông nghiệp sang lao động phi nông nghiệp ở nông thôn. Để khuyến
khích và thúc đẩy quá trình này, Chính phủ Malaysia đã tổ chức các dịch vụ
đào tạo chuyên môn và dạy nghề cho người đến tuổi lao động ở nông thôn.
Đối tượng đào tạo và dạy nghề bao gồm cả những nông dân thiếu việc nhằm
tạo thuận lợi cho họ có thể tìm được việc làm trong các doanh nghiệp công
nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng tích cực triển
khai thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất cho các nông dân vay vốn để phát
triển kinh tế hộ gia đình, phát triển công nghiệp chế biến nông sản, tham gia
cung cấp dịch vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn.
Cũng như Thái Lan, Chính phủ Malaysia cũng triển khai thực hiện các
chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn thông
qua biện pháp hỗ trợ thương mại, bồi dưỡng kiến thức về quản lý và đào tạo
lao động có chuyên môn cho các doanh nghiệp; cung cấp tín dụng ưu đãi cho
phát triển các doanh nghiệp công nghiệp sử dụng nhiều lao động ở nông thôn,
khuyến khích phép tư nhân tham gia sản xuất và xuất khẩu nông sản; thu hút
các dự án đầu tư nước ngoài vào phát triển kinh tế nông thôn thông qua các
biện pháp giảm thuế, hỗ trợ đầu tư hạ tầng phục vụ nhà máy sản xuất.
Đồng thời để khuyến khích thu hút đầu tư thúc đẩy phát triển sản xuất
52
và CDCCLĐ nông thôn Chính phủ Maylaysia đã thường xuyên chú trọng đầu
tư phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn.
2.3.1.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc bắt đầu tiến hành công cuộc cải cách, mở cửa nền kinh tế
bắt đầu từ năm 1978 với chiến lược công nghiệp hoá toàn diện. Trong những
thập kỷ 1980, 1900 (thế kỷ XX), Trung Quốc lựa chọn mô hình phát triển phi
cân đối, đặt trọng tâm phát triển là khu vực công nghiệp, đặc biệt là các ngành
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước với
quy mô dân số lớn nhất thế giới, phục vụ xuất khẩu và giải quyết việc làm cho
lực lượng lao động trong độ tuổi hàng năm tăng thêm hàng chục triệu người.
Tập trung phát triển công nghiệp và đô thị ở các vùng ven biển phía Đông để
thu hút lao động từ khu vực nông nghiệp, nông thôn ở các vùng trong nội địa.
Nhờ thực hiện mô hình này, Trung Quốc đã đạt được tốc độ tăng
trưởng rất cao 9 - 10% trong nhiều năm, tỷ lệ dân số đô thị tăng lên nhanh từ
18% (1978) tăng lên hơn 44% (2007), tỷ lệ lao động nông nghiệp từ chỗ
chiếm hơn 65% (1980) giảm xuống còn 27,7% (2017), tỷ trọng khu vực nông
nghiệp trong cơ cấu GDP hiện nay chỉ còn khoảng 7,9% [8]. Tuy nhiên, do
phát triển tập trung vào khu vực công nghiệp và đô thị, nên Trung Quốc phải
đối mặt với tình trạng khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa khu vực
nông thôn và đô thị, giữa các vùng phía Tây và phía Đông trong nước tăng lên
nhanh chóng. Các vùng phía Tây phần lớn chậm phát triển, tỷ lệ nghèo cao
trong khi một số vùng ven biển phía Đông phát triển quá nóng, ô nhiễm môi
trường kể cả ô nhiễm môi trường đô thị do sản xuất công nghiệp tập trung
ngày càng gia tăng làm quá trình phát triển và CDCCLĐ thiếu tính bền vững.
Những năm gần đây, để giảm bớt mức độ chênh lệch về phát triển giữa
các vùng trong nước, giữa khu vực nông thôn và đô thị, Trung Quốc đẩy
mạnh phát triển nông nghiệp và nông thôn, đưa ra khẩu hiệu tiến về phía Tây,
phát triển các vùng sâu trong nội địa để phân bố lại lực lượng sản xuất, kết
hợp hài hoà phát triển giữa các vùng.
53
Để tạo việc làm tại chỗ cho lao động ở nông thôn, đáng chú ý, từ đầu
những năm 1980, Trung Quốc phát triển mô hình xí nghiệp hương trấn, mở ra
con đường phát triển công nghiệp nông thôn mang màu sắc Trung Quốc. Xí
nghiệp hương trấn là tên gọi chung các xí nghiệp công thương nghiệp và xây
dựng, hoạt động ở khu vực làng xã, thị trấn ở nông thôn, về cơ bản xí nghiệp
hương trấn là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Mô hình xí nghiệp hương
trấn đã giải quyết việc làm cho một bộ phận không nhỏ lao động ở khu vực
nông nghiệp, nông thôn của Trung Quốc trong những thập kỷ 1980, 1990.
Tuy nhiên, sau một thời gian phát triển ồ ạt, thiếu quản lý chặt chẽ của nhà
nước, đến những năm cuối của thập kỷ 1990, mô hình phát triển xí nghiệp hương
trấn ở Trung Quốc dần bộc lộ một số hạn chế như sản phẩm làm ra có giá thành
cao, chất lượng thấp, thiếu sức cạnh tranh nên khó tiêu thụ trên thị trường.
2.3.1.4. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Nhật Bản là nước đầu tiên thực hiện công nghiệp hoá ở châu Á, bắt đầu
từ cuối thế kỷ XIX và được đẩy mạnh trong nửa đầu của thế kỷ XX. Nhật Bản
tiến hành CNH, HĐH từ một nền nông nghiệp cổ truyền, tự túc, tự cấp, sản
xuất manh mún với những hộ nông dân sản xuất quy mô nhỏ (bình quân 0,5ha)
và nhanh chóng trở thành cường quốc kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới với một
nền nông nghiệp và công nghiệp tiên tiến, kinh tế thành thị và nông thôn phát
triển. Đến năm 2017, tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong cơ cấu GDP của Nhật
Bản chiếm còn khoảng 1,1%, tỷ lệ lao động nông nghiệp còn 2,9% [8].
Để tạo việc làm, thu hút lao động từ nông nghiệp sang các hoạt động
phi nông nghiệp, Nhật Bản đẩy mạnh phát triển khu vực công nghiệp, bắt đầu
từ phát triển công nghiệp cơ khí để phục vụ sản xuất nông nghiệp. Từ ngành
cơ khí chế tạo các loại máy nông nghiệp có công suất 4 - 10 sức ngựa, Nhật
Bản phát triển mở rộng thêm các ngành công nghiệp cơ khí khác, nổi bật là
công nghiệp phục vụ sản xuất ô tô, máy kéo thu hút nhiều lao động từ khu
vực nông nghiệp, nông thôn.
54
Mô hình tổ chức phát triển các cơ sở công nghiệp để tạo việc làm cho
lao động ở khu vực nông thôn của Nhật Bản rất đáng chú ý. Mô hình được
tổ chức theo 3 cấp trong sự gắn kết chặt chẽ với nhau, bao gồm các nhà
máy lớn nằm ở các đô thị và khu công nghiệp, các xí nghiệp vừa và nhỏ
được xây dựng phân tán ở các thị trấn thuộc các vùng nông thôn, các cơ sở
công nghiệp quy mô hộ gia đình, tổ sản xuất ở nông thôn ký hợp đồng với
các xí nghiệp cấp 1 và 2 đẻ gia công một số chi tiết máy đơn giản, yêu cầu
về kỹ thuật không cao. Thông qua mô hình này, Nhật Bản đã giải quyết
việc làm cho rất nhiều lao động ở khu vực nông nghiệp, nông thôn trong
những thập kỷ 1950, 1960.
2.3.2. Kinh nghiệm trong nƣớc về chuyển dịch cơ cấu lao động
trong xây dựng nông thôn mới
2.3.2.1. Kinh nghiệm của tỉnh Hà Nam về chuyển dịch cơ cấu lao động
Hà Nam là tỉnh có điểm xuất phát từ thuần nông, hoạt động kinh tế chủ
yếu là sản xuất nông nghiệp, năng suất lao động thấp. Hà Nam đã chú trọng
đẩy nhanh quy mô và tốc độ CDCCKT gắn với CDCCLĐ. Kinh tế của Hà
Nam đã khởi sắc và phát triển nhanh. Tỷ trọng công nghiệp, xây dựng tăng
trong cơ cấu ngành, trong khi tỷ trọng nông nghiệp không ngừng giảm. Cụ
thể, nếu trong cơ cấu GDP của tỉnh năm 2000 tỷ trọng nông nghiệp là 39,3%;
công nghiệp-xây dựng - 28,8%; dịch vụ - 31,9% thì đến năm 2018 tương ứng
là 9,5%; 60%; 30,5%; trong cơ cấu lao động của tỉnh năm 2018, tỷ lệ lao động
nông nghiệp còn 35%; lao động công nghiệp - và dịch vụ - 65% [87; 88].
Những thành tựu trong CDCCLĐ của Hà Nam là kết quả thực hiện các
giải pháp tích cực thúc đẩy CDCCLĐ:
- Nâng cao chất lượng nguồn lao động:
Các cơ quan, ban ngành các cấp trong Tỉnh đã phối hợp chặt chẽ trong
thực hiện chương trình kế hoạch hoá gia đình, tuyên truyền xoá bỏ định kiến,
hủ tục trọng nam khinh nữ, kết hôn sớm. Hà Nam rất chú trọng cơ cấu lại lao
55
động theo hướng phân bố cách hợp lý và hiệu quả phù hợp với quá trình phát
triển KT-XH từng vùng, ngành, giữa các vùng và giữa các ngành kinh tế trên
địa bàn tỉnh. Thực hiện quản lý và giám sát chặt chẽ các dòng di dân nội tỉnh.
Hà Nam rất chú trọng đào tạo nguồn nhân lực bằng các biện pháp cụ
thể như: Tạo điều kiện thuận lợi tham gia các khoá học nghề cho những lao
động có nhu cầu, triển khai các hình thức đào tạo đa dạng như liên thông, chú
trọng các hình thức đào tạo nâng cao và đào tạo lại;
Thực hiện hỗ trợ vật chất và đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với
người nghèo, nông dân tham gia học nghề là; Nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên dạy nghề theo hướng từng bước chuẩn hoá; Hoàn thiện quy hoạch
hệ thống mạng lưới cơ sở dạy nghề...
- Tạo việc làm mới thông qua thúc đẩy đầu tư phát triển KT-XH; Hoàn
thiện và phát triển thị trường lao động; Phát triển KH-CN và các lĩnh vực khác…
Nhờ quan tâm khai thác các nguồn vốn đầu tư từ mọi tầng lớp dân cư,
từ mọi thành phần kinh tế, từ các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài; thu hút nguồn vốn ODA, nguồn vốn trái phiếu Chính
phủ …Lượng vốn đầu tư phát triển hàng năm của Hà Nam đạt khoảng 6 nghìn
tỷ đồng.
Nững biện pháp hoàn thiện chính sách đầu tư vào khu công nghiệp
Đồng Văn I, II, phát triển các khu đô thị mới, đã tạo ra môi trường hấp dẫn,
khuyến khích đầu tư vào tỉnh Hà Nam; đặc biệt tỉnh đã hoàn thiện công tác
chuẩn bị và xúc tiến đầu tư, bao gồm cả các dự án FDI và ODA. Chú trọng
huy động và khai thác các nguồn vốn từ quỹ đất, thu hút các dự án đầu tư theo
phương thức BT hoặc BOT…
Vấn đề giải quyết việc làm ổn định cho lao động nông thôn theo hướng
đảm bảo sản xuất có lãi được thực hiện thông qua các biện pháp tích cực đưa
giống cây, con có giá trị gia tăng cao vào sản xuất; góp phần giảm chi phí,
nâng cao hiệu quả kinh doanh, hỗ trợ phát triển mô hình sản xuất kinh doanh
56
nông nghiệp mới hiệu quả cao. Tăng cường ứng dụng công nghệ mới tiên tiến
như công nghệ sinh học vào sản xuất nông, lâm, thuỷ sản. Đẩy mạnh phát
triển công nghiệp chế biến nông sản nhằm tạo nhiều việc làm mới, mở rộng
thị trường, gia tăng thu nhập cho nông dân, thông qua đó góp phần ổn định xã
hội ở nông thôn.
Chú trọng phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và ngành
công nghiệp nhẹ nhằm thu hút lực lượng lao động ở nông thôn, đặc biệt là lực
lượng lao động nữ. Hỗ trợ các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động địa
phương, an toàn môi trường.
2.3.2.2. Kinh nghiệm của tỉnh Vĩnh Phúc về chuyển dịch cơ cấu lao động
Vĩnh Phúc là tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn so với tốc độ
tăng trung bình cả nước, theo đó cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển
dịch nhanh theo hướng tích cực. Nếu như vào năm 2008, về cơ cấu các ngành
trong GRDP của tỉnh là: nông nghiệp chiếm 14,38%, công nghiệp - 56,16%,
dịch vụ - 29,46% thì năm 2016 tương ứng là 7,14%; 44,89%; 23,4%. Năm
2008, lao động nông nghiệp chiếm 58,82%; lao động công nghiệp - xây dựng
chiếm 21,98% và lao động dịch vụ chiếm 26,20% tổng số lao động của tỉnh,
thì năm 2016 tương ứng là 33%; 32% và 35% [19].
Có được kết quả trên, trong giai đoạn kể từ sau khi tái lập tỉnh năm
1997, Vĩnh Phúc đã thực hiện các giải pháp như:
- Tăng cường CDCCKT theo ngành gắn liền với CDCCLĐ theo hướng
CNH, HĐH.
+ Vĩnh Phúc khi tái lập tỉnh đãc đặc biệt coi trọng công tác quy hoạch
phát triển các khu công nghiệp tập trung, coi đó là nền tảng cho tăng trưởng
kinh tế cao, thực hiện đẩy nhanh CNH, HĐH. Sự phát triển mạnh của công
nghiệp (đặc biệt là các khu công nghiệp, cụm công nghiệp) do đó đã thu hút
hàng vạn lao động từ khu vực nông nghiệp sang làm việc tại các ngành công
nghiệp, dịch vụ.
57
+ Những năm qua Vĩnh Phúc rất coi trọng chính sách ưu đãi đầu tư, do
đó số doanh nghiệp của tỉnh tăng nhanh, nếu như năm 2010 số lượng doanh
nghiệp hoạt động trên địa bàn tỉnh là 3.513 doanh nghiệp, giá trị vốn sản xuất
kinh doanh là 15.544 tỷ đồng, doanh nghiệp FDI là 116 doanh nghiệp, giá trị
vốn sản xuất kinh doanh là 25.813 tỷ đồng, thì đến năm 2016 số lượng doanh
nghiệp hoạt động trên địa bàn tỉnh đã tăng lên thành 3.731 doanh nghiệp, giá
trị vốn sản xuất kinh doanh đạt trên 160.264 tỷ đồng, doanh nghiệp FDI là
173 doanh nghiệp, giá trị vốn sản xuất kinh doanh là 95.607 tỷ đồng. Tại Vĩnh
Phúc đã hình thành được một số ngành công nghiệp quan trọng mũi nhọn
như: Điện tử công nghệ cao, cơ khí, lắp ráp ô tô, lắp ráp xe máy, sản xuất vật
liệu xây dựng, giầy da, dệt may,… do đó thu hút số lao động tăng từ 75.351
người năm 2010 lên 159.405 người năm 2016, chiếm khoảng 25,5% số lao
động làm việc ở tỉnh [19].
+ Song song với việc đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp
công nghệ hiện đại, tỉnh đặc biệt chú trọng phát triển tiểu thủ công nghiệp
và làng nghề, quy hoạch tổng thể các làng nghề truyền thống tiểu thủ công
nghiệp trên địa bàn các huyện như phát triển nuôi bò ở Vĩnh Tường, Yên
Lạc; trồng hoa ở Mê Linh, phát triển cây ăn quả ở Lập Thạch, Tam Dương.
Việc đưa các giống cây, con có giá trị gia tăng cao vào sản xuất đã tạo ra
nhiều việc làm mới và việc làm thêm cho lao động nông nghiệp, góp phần
tích cực vào giải quyết việc làm, nhờ đó đã thành công bước đầu trong
CDCCLĐ từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp tại chỗ, trên địa bàn nông
thôn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Tỉnh rất coi trọng các hình thức dạy nghề gắn với giải quyết việc làm,
đặc biệt là cho lao động tại vùng thu hồi đất nông nghiệp. Nhờ sự quan tâm
đối với đào tạo nghề cho lao động của Tỉnh, đã xây dựng và đưa vào hoạt
động 78 cơ sở đào tạo: 03 trường đại học, 13 trường trung cấp chuyên nghiệp,
55 cơ sở dạy nghề. Tỉnh đã quan tâm dạy nghề cho lao động nông thôn với
58
nhiều ngành nghề phong phú, đa dạng. Do đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo của
Vĩnh Phúc đã đạt mức 51,2%, nhờ đó tạo ra điều kiện tthuận lợi thúc đẩy
CDCCLĐ theo ngành và trong từng ngành. Nhìn chung, hệ thống cơ sở đào
tạo nghề trên địa bàn đã và đang liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp trong
và ngoài địa phương, kịp thời nắm bắt thông tin để gắn đào tạo nghề với giải
quyết việc làm. Nhờ các biện pháp hiệu quả kể trên, đã có hơn 30.000 lao
động thuộc diện những hộ bị thu hồi đất đã tìm được việc làm trong các doanh
nghiệp, góp phần thúc đẩy CDCCLĐ phù hợp với CDCCKT ngành.
- Vĩnh Phúc đã ban hành, thực hiện các chính sách, biện pháp về việc
làm, tổ chức phát triển kinh tế, gắn với CDCCLĐ và tạo việc làm.
Điểm mới của tỉnh Vĩnh Phúc so với các địa phương khác là thực hiện
linh hoạt các chính sách đối với người lao động như: Hỗ trợ kinh phí cho lao
động đi làm việc ở nước ngoài thông qua học ngoại ngữ, giáo dục định
hướng, hỗ trợ học nghề 350.000 đồng/ người, có chính sách riêng hỗ trợ 1
triệu đồng/ người đối với lao động thuộc hộ bị thu hồi đất. Đặc biệt, hỗ trợ
vay vốn ngân hàng chính sách xã hội đối với hộ nghèo với mức 10 triệu đồng
cho năm đầu và với lãi suất ưu đãi là 0,25%/tháng. Bên cạnh đó, Vĩnh Phúc
còn cung cấp đầy đủ các thông tin về những hợp đồng mà đơn vị xuất khẩu
lao động thực hiện như: Đặc điểm quốc gia, nơi lao động xuất khẩu sẽ làm
việc, nội dung cụ thể của công việc, điều kiện làm việc, mức thu nhập thường
xuyên và điều kiện đời sống khi ở nước ngoài, các khoản phí phải nộp, những
quy định đảm bảo thực hiện hợp đồng …
Vĩnh Phúc luôn luôn khuyến khích sự liên kết phối hợp giữa các cơ sở
đào tạo nghề với các doanh nghiệp nhằm đảm bảo việc làm cho người lao
động, thực hiện quy định của Tỉnh về giao đất cho cá nhân, hộ gia đình bị thu
hồi đất làm dịch vụ, nhằm khuyến khích giải quyết việc làm tại chỗ cho lao
động lớn tuổi mất đất. Đây là biện pháp khá hiệu quả thúc đẩy CDCCLĐ từ
nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, góp phần ổn định đời sống dân cư.
59
2.3.2.3. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu lao động của tỉnh Ninh Bình
Ninh Bình là một tỉnh nằm ở miền Bắc Việt Nam, thuộc khu vực đồng
bằng sông Hồng vừa có lợi thế để phát triển nông nghiệp toàn diện, vừa có lợi
thế sản xuất, khai thác vật liệu xây dựng và dịch vụ du lịch. Trong những năm
qua, CCLĐ trên địa bàn tỉnh đã chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ
trọng lao động công nghiệp, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng lao động nông
nghiệp. Nếu như vào năm 2001, lao động nông nghiệp chiếm 74,9% tổng số
lao động của tỉnh thì đến năm 2011 đã giảm xuống còn là 52,7 %; lao động
công nghiệp từ 14,1% lên 30,5% và dịch vụ từ 11% lên 16,8% [91; 92].
Trong giai đoạn tới Ninh Bình chủ trương tiếp tục thực hiện các biện
- Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên.
pháp thúc đẩy CDCCLĐ, bao gồm:
Ninh Bình là đọa phương có tốc độ tăng dân số tự nhiên trong những
năm qua là khá cao, cho nên cần thiết phải tiếp tục thực hiện các biện pháp
giảm tỷ lệ tăng dân số, kiểm soát được số lượng lực lượng lao động nhằm nâng
cao chất lượng lao động của Ninh Bình, góp phần cơ cấu lại lao động theo
hướng hợp lý hiệu quả, góp phần giảm sức ép về việc làm và tạo việc làm mới.
- Thúc đẩy CDCCKT tạo điều kiện CDCCLĐ. CDCCKT theo hướng
CNH, HDDH tạo ra cầu mới về lao động trong các ngành phi nông nghiệp, do
đó thúc đẩy CDCCLĐ. Trong những năm qua Tỉnh đã triển khai thực hiện:
+ Đẩy mạnh phát triển sản xuất công nghiệp.
Công nghiệp phát triển tạo ra nhiều chỗ làm việc mới phi nông nghiệp,
thu hút lao động từ nông nghiệp, nông thôn, góp phần đẩy nhanh quá trình
CDCCLĐ từ nông, lâm, ngư nghiệp sang công nghiệp. Do vậy, Ninh Bình đã
đẩy mạnh hoàn thiện môi trường đầu tư bằng cách nâng cấp hệ thống kết cấu hạ
tầng KT-XH phù hợp với yêu cầu phát triển công nghiệp mũi nhọn; tăng cường
thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào phát triển các khu công nghiệp tập trung
thông, phát triển công nghiệp hỗ trợ phục vụ công nghiệp mũi nhọn…
60
+ Thúc đẩy phát triển nhanh nhóm ngành thương mại, dịch vụ.
Ninh Bình đã tập trung phát triển kết cấu hạ tầng cho phát triển du lịch
tại các đô thị lớn của tỉnh gồm thành phố các thị xã; Đầu tư xây dựng và hoàn
thiện hạ tầng du lịch tại các khu, vùng du lịch trọng điểm, phát triển các hình
thức liên doanh, liên kết sản xuất và cung cấp sản phẩm du lịch cao cấp.
Phát triển mạnh các dịch vụ du lịch, vận tải, viễn thông, tài chính, điện,
nước... Củng cố thương hiệu hàng hoá công nghiệp như xi măng, thép, phân
đạm...), thương hiệu nông sản như tôm, dứa hộp, gạo,...). Tiếp tục tăng cường
hoàn thiện môi trường đầu tư phát triển các ngành dịch vụ cao cấp; đẩy mạnh
xúc tiến thị trường, quảng bá sản phẩm, sản vật du lịch trong và ngoài nước; chú
trọng phát triển các ngành sản xuất hàng xuất khẩu sử dụng nhiều lao động.
+ Trong cơ cấu nông nghiệp, Ninh Bình đã chú trọng giảm tỷ trọng
nông nghiệp theo nghĩa hẹp, tăng tỷ trọng lâm nghiệp và thuỷ sản; Trong
nông nghiệp theo nghĩa hẹp thúc dfdaayr giảm trồng trọt và tăng chăn nuôi.
Ninh Bình là một tỉnh nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện thuộc
vùng đồng bằng sông Hồng, có hơn 75% lao động nông thôn với 45% lao động
làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Các biện pháp phát triển nông nghiệp
theo hướng sản xuất hàng hoá, phát triển hợp lý kinh tế vùng, tăng cường thực
hiện hỗ trợ giống vật nuôi, cây trồng mới... đã được triển khai tích cực, đã phát
huy tác dụng. Trong ngành chăn nuôi đã hình thành mô hình chăn nuôi trang
trại theo hướng sản xuất hàng hoá. Hình thành các mô hình nuôi các loại con
đặc sản như hươu, ba ba, nhím, cá sấu... với hiệu quả kinh tế khá cao.
- Nâng cao chất lượng nhân lực thông qua các biện pháp:
+ Chú trọng đào tạo nhân lực quản lý nhà nước và quản lý doanh
nghiệp. Xác định nhiệm vụ quan trọng là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
viên chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu đổi mới phát triển KT-XH.
Thường xuyên thực hiện bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, cập
nhật kiến thức mới về quản lý nhà nước mới và tăng cường kỹ năng sử dụng công
61
nghệ thông tin, năng lực sử dụng ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức quản lý Nhà nước, ưu tiên đối tượng cán bộ cấp tỉnh và cấp cơ sở. Việc đào
tao, bồi dưỡng cán bộ được thực hiện cả ở trong nước và ở nước ngoài.
Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các khu công nghiệp, cụm công
nghiệp cũng như làng nghề, Ninh Bình đã có chương trình đào tạo và đào tạo
người lao động. Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo nghề với
doanh nghiệp; Đặc biệt với các đối tượng như: Các chủ trang trại hay hộ gia
đình, chú trọng đào tạo và tập huấn về kỹ thuật, tăng cường khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư nghiệp, trang bị kiến thức quản lý cho các chủ trang
trại và chủ hộ gia đình trở thành một tế bào kinh tế vững mạnh.
+ Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nguồn lao động có chuyên môn kỹ
thuật cao
Phát huy năng lực Đại học Hoa Lư trong đào tạo nhân lực chất lượng
cao. Phối hợp chặt chẽ với các trường Cao đẳng như LILAMA, Cao đẳng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các trường dạy nghề trên địa bàn tỉnh
để phát triển nhân lực kỹ năng cao.
Quan tâm mở rộng các loại hình, hình thức đào tạo nghề, nâng cao hiệu
quả công tác hướng nghiệp; tập trung đào tạo nhân lực cho các nghề sản xuất
xi măng, cơ khí và sửa chữa tàu thuyền, xây dựng, lắp máy, điện tử viễn
thông, chế biến nông, lâm, thuỷ sản và đặc biệt là dịch vụ nhằm đáp ứng nhu
cầu thị trường lao động trong tỉnh, thị trường vùng đồng bằng sông Hồng và
thị trường nước ngoài.
2.3.3. Bài học về chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng nông
thôn mới cho tỉnh Thái Bình
Qua nghiên cứu CDCCLĐ của một số địa phương ở trên, có thể rút ra
bài học cho CDCCLĐ ở tỉnh Thái Bình như sau:
Thứ nhất, cần thực hiện các giải pháp đồng bộ để thúc đẩy CDCCLĐ
theo ngành gắn với giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh.
62
Từ việc nghiên cứu những kinh nghiệm thực tiễn về CDCCLĐ tỉnh Hà
Nam, Ninh Bình, Vĩnh Phúc ở trên, để tìm được hướng đi có hiệu quả trong quá
trình CDCCLĐ, Thái Bình cần coi trọng đẩy mạnh CDCCLĐ theo hướng tăng
tỷ trọng và giá trị sản xuất của các ngành công nghiệp, dịch vụ. Đặc biệt, quá
trình CDCCKT ngành phải gắn với tạo việc làm và CDCCLĐ, để đáp ứng nhu
cầu về nhân lực cho phát triển của mỗi ngành.
Tỉnh Thái Bình cần tiếp tục hoàn thiện môi trường đầu tư để thu hút
vốn cho phát triển công nghiệp, dịch vụ, trong đó cần tập trung hoàn thiện kết
cấu hạ tầng kinh tế kỹ - thuật trong và ngoài các khu, cụm công nghiệp tập
trung, Khu kinh tế ven biển đã được tỉnh phê duyệt. Đồng thời, có những biện
pháp tạo thêm nhiều việc làm phi nông nghiệp, góp phần lao động, tăng thu
nhập cho lao động nông thôn, đặc biệt đối với những đối tượng thuộc diện bị
thu hồi đất, góp phần ổn định xã hội nông thôn.
Quá trình CDCCLĐ phải gắn với thực hiện giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn. Khuyến khích các hộ nông nghiệp chuyển sang hoạt động
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, thương mại - dịch vụ. Trong
CDCCLĐ cần đặc biệt chú trọng bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền
thống để thu hút và giải quyết việc làm. Giảm lao động nông nghiệp cùng với
tăng hiệu quả sử dụng thông qua chuyển đổi lao động thuần nông, năng suất
thấp sang các ngành nghề có năng suất và giá trị kinh tế cao.
Thứ hai, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghề, gắn với quy
hoạch phát triển ngành trong xây dựng nông thôn mới
Đào tạo nghề phải thực sự hướng tới nâng cao trình độ chuyên môn cho
lao động nông thôn. Kinh nghiệm thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu lao động
trong xây dựng nông thôn mới tại các địa phương nói trên cho thấy, trong quy
hoạch các khu đô thị, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, cần tổ chức hướng
dẫn chuyển đổi nghề, đào tạo và đào tạo lại nghề cho lao động bị thu hồi đất.
Cần khuyến khích các doanh nghiệp thu hút nguồn lao động tại chỗ. Tăng
63
cường cung cấp thông tin tuyển dụng việc làm cho người lao động, tạo thuận
lợi cho họ có thể chủ động lựa chọn ngành nghề cần được đào tạo, nâng cao
khả năng tự chuyển đổi nghề tại chỗ hoặc chuyển sang làm việc tại các ngành,
các địa phương khác.
Thứ ba, tăng cường thúc đẩy thu hút đầu tư vào phát triển nông
nghiệp, nông thôn.
Kinh nghiệm thực tiễn của tỉnh Vĩnh Phúc cho thấy hiệu quả không nhỏ
của thu hút đầu tư vào phát triển nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là thu hút
đầu tư phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn nông thôn
của tỉnh. Do đó, Thái Bình cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, đồng thời
chú trọng tổ chức đào tạo phát triển nguồn lao động đón đầu dự án để tăng
cường khả năng tạo việc làm mới cho người lao động. Để thực hiện hiệu quả
biện pháp này cần phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin dự báo về
đầu tư, dự báo về lao động, về việc làm theo hướng kết nối chặt chẽ với nhau
để tạo thuận lợi cho các chủ thể liên quan thuận lợi phối hợp trong đào tạo.
Thứ tư, chú trọng vận dụng linh hoạt các chính sách liên quan đến
chuyển dịch CCLĐ theo hướng phù hợp với đặc thù của từng địa phương.
Những nội dung chủ yếu bao gồm: Chú trọng giải quyết việc làm cho lao
động bị thu hồi đất trong quá trình xây dựng các khu, cụm công nghiệp thông
qua cam kết của các doanh nghiệp có dự án đầu tư tại địa phương về thu hút
lao động vào làm việc tại doanh nghiệp. Hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp
nhỏ và vừa, các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động tại chỗ, tạo thuận lợi cho
giải quyết việc làm đối với lao động dư thừa trong nông, lâm nghiệp. Cung
cấp những thông tin cần thiết về lao động, việc làm cho các hộ dân mất đất.
Thứ năm, đảm bảo CDCCLĐ góp phần thúc đẩy phát triển KT-XH;
nâng cao năng suất lao động xã hội, giải phóng sức lao động và đảm bảo việc
làm đầy đủ cho lực lượng lao động trong độ tuổi trong quá trình xây dựng
nông thôn mới. CDCCLĐ phải được thực hiện phù hợp với CDCCKT ngành
64
trên địa bàn nông thôn trên cơ sở khai thác những tiềm năng về phát triển
ngành thuỷ sản và công nghiệp chế biến nông sản, tận dụng nguồn nhân lực dồi
dào tại địa phương. Knh nghiệm của tỉnh Hà Nam về CDCCLĐ trong quá trình
xây dựng nông thôn mới, cho thấy kết quả CDCCLĐ phải góp phần đảm bảo
thực hiện an sinh xã hội, ổn định và nâng cao thu nhập cho người lao động.
Từ thực tế xây dựng nông thôn mới và chuyển dịch cơ cấu lao động
trong xây dựng nông thôn mới tại các quốc gia và địa phương trong nước có
thể học hỏi nhiều bài học kinh nghiệm quý như: chuyển dịch cơ cấu lao động
trong xây dựng nông thôn mới thực chất là sự cụ thể hoá thực hiện nội dung
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Do đó, phải gắn
chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng nông thôn mới với tái cơ cấu
nông nghiệp và thực hiện các kế hoạch phát triển KT-XH của địa phương.
Phải thực sự phát huy vai trò làm chủ thể của người dân. Việc tuyên
truyền, vận động phải làm cho dân hiểu, dân tin, làm cho nhân dân, đặc biệt là
nông hưởng ứng, tích cực thu hút sự tham gia bàn bạc, hiến kế về cách thức,
đóng góp các nguồn lực và chủ động giám sát thực hiện các nhiệm vụ của xây
dựng nông thôn mới.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ, vai trò quản lý nhà nước của
chính quyền, sự tham gia tích cực của các ban, ngành, đoàn thể.
65
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Ở TỈNH THÁI BÌNH
3.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ QUÁ TRÌNH XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở THÁI BÌNH
3.1.1. Những đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hƣởng đến
chuyển dịch cơ cấu lao động ở tỉnh Thái Bình
3.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
- Về vị trí địa lý: Thái Bình là tỉnh ven biển, thuộc đồng bằng châu thổ
sông Hồng, nằm trong vùng ảnh hưởng của tam giác tăng trưởng kinh tế Hà
Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Phía Bắc của tỉnh giáp với tỉnh Hưng Yên,
Hải Dương và Hải Phòng; phía Tây và Tây Nam giáp với tỉnh Nam Định và
Hà Nam; phía Đông giáp với vịnh Bắc Bộ. Nhìn chung vị trí địa lý của tỉnh
trong kết nối vùng đã tạo ra những thuận lợi nhất định cho phát triển KT-XH
nói chung và chuyển dịch cơ cấu lao động trong phát triển kinh tế, xây dựng
nông thôn mới nói riêng.
Về tài nguyên đất đai và nguồn nước: Thái Bình có tổng diện tích đất
năm 2013 là 157.079ha và đến năm 2017 tăng lên đến 158.635ha, trong đó
đất sản xuất nông nghiệp là 108.635ha (chiếm 68,13%); đất phi nông nghiệp -
50.078ha (chiếm 31,57%) và đất chưa sử dụng - 479ha (chiếm 0.3%) [133,
tr.18, 21]. Đất đai của Thái Bình chủ yếu là đất phù sa do hệ thống sông Hồng
bồi đắp, do đó có độ màu mỡ cao. Với hệ thống sông khá dày đặc, Thái Bình
có nguồn nước dồi dào, đáp ứng cho sản xuất và đời sống. Như vậy, những
điều kiện về đất đai và nguồn nước là rất thuận lợi để phát triển nền nông
- Về tài nguyên biển: Thái Bình có hơn 50 km bờ biển, 5 cửa sông lớn
nghiệp đa dạng.
66
là Thái Bình, Diêm Điền, Trà Lý, Lân, Ba Lạt, có nhiều bãi ngang rộng và hàng chục ngàn km2 vùng lãnh hải. Đó là những điều kiện thuận lợi cho Thái
Bình phát triển kinh tế biển với các ngành thuỷ sản nước ngọt, nước lợ và
nước mặn. Với 6.500ha ao, hồ trên địa bàn tỉnh nằm xen kẽ trong đất thổ cư,
ven làng và diện tích lớn mặt nước của 4 sông lớn chảy qua là điều kiện thuận
lợi để phát triển nghề nuôi cá lồng. Khu vực cửa sông và ven bờ là điều kiện
thuận lợi để nuôi trồng thuỷ sản như tôm, cua, sò, nghêu, cá... Vùng ven biển
- Về tài nguyên khoáng sản: Thái Bình có nguồn tài nguyên khoáng sản
có điều kiện để sản xuất muối.
phong phú như: Mỏ nước khoáng thiên nhiên, mỏ khí đốt hàm Rồng - Tiền Hải cho phép khai thác sản lượng bình quân mỗi năm đến hàng chục triệu m3
khí thiên nhiên để phát triển các loại hình sản xuất công nghiệp như: Đồ sứ,
thuỷ tinh, gạch ốp lát, xi măng trắng… Qua khảo sát, thăm dò, Thái Bình còn
có than nâu, thuộc bể than nâu vùng đồng bằng sông Hồng, được các nhà
- Tài nguyên du lịch: Thái Bình có nhiều cảnh quan thiên nhiên tích
khoa học đánh giá có trữ lượng rất lớn (trên 50 tỷ tấn).
hợp cho phát triển du lịch biển như các cồn đảo ven biển gồm Cồn Vành, Cồn
thủ, Cồn Đen…; có nhiều loài chim quý, rừng ngập mặn với phong cảnh
hoang dã,... Thái Bình cũng có nhiều di tích, gắn với lễ hội truyền thống,
nhiều công trình văn hoá đã được xếp hạng, làng nghề, xã nghề truyền
thống... Đó là những điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch sinh thái cộng
đồng và văn hoá.
3.1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Về dân số và nguồn lao động:
Thái Bình là tỉnh có nguồn dân số và lao động khá dồi dào. Tình hình
cụ thể được phản ánh qua các số liệu của bảng 3.1 dưới đây:
67
Bảng 3.1: Dân số trung bình phân theo giới tính và thành thị,
nông thôn giai đoạn 2011-2017
ĐVT: Nghìn người
Tổng số
Nam
Nữ
Thành thị Nông thôn
Năm
1785,90
863,40
922,50
178,60
1607,30
2011
1787,45
865,20
922,24
178,73
1608,72
2012
1788,13
865,21
922,92
178,84
1609,30
2013
1788,75
865,10
923,65
179,04
1609,71
2014
1789,16
864,89
924,27
187,51
1601,65
2015
1789,94
865,16
924,78
187,86
1602,08
2016
1791,51
866,14
925,37
188,22
1603,29
Sơ bộ 2017
Năm 2017 so với
100.31
100.32
100.31
105.38
99.75
năm 2011 (%)
Nguồn: [12, tr.38; 13, tr.48].
Những số liệu trên cho thấy, dân số của tỉnh không ngừng tăng lên qua
các năm. Trong giai đoạn 2011 - 2017, tổng dân số của tỉnh tăng 0,31%.
Trong cơ cấu dân số của tỉnh, dân số thành thị chiếm tỷ trọng không nhiều
song có xu hướng tăng lên cả về số lượng tuyệt đối và về tỷ trọng: Về số
lượng tuyệt đối dân số thành thị năm 2012 tăng lên so với năm 2011 là
0,07%; năm 2013 - 0,06%; năm 2014 - 0,11%; năm 2015 - 4,74%; năm 2016
- 0,19%; năm 2017 - 0,51%. Tính cả giai đoạn 2011 - 2017 dân số thành thị
trên địa bàn tỉnh tăng 5,38%. Về tỷ trọng từ năm 2011 đến năm 2013 dân số
thành thị chiếm 10% tổng dân số; năm 2014 - 10,01%; năm 2015 - 10,48%;
năm 2016 - 10,5%; năm 2017 - 10,51%.
Dân số nông thôn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng dân số. Trong giai
đoạn 2011 - 2013 số lượng dân số nông thôn tăng dần và đạt đỉnh vào năm
2014; năm 2015 giảm 0,5%; năm 2016 tăng 0,03%; năm 2017 tăng 0,08%.
Nếu xét theo tỷ trọng trong cơ cấu dân số toàn tỉnh, dân số nông thôn đang có
xu hướng giảm dần trong những năm gần đây, xét cả giai đoạn 2011 - 2017
dân số nông thôn giảm 0,25%.
68
Tình hình biến động cụ thể của dân số nông thôn theo địa bàn lãnh thổ
các huyện trong Tỉnh được phản ánh qua các số liệu của bảng 3.2 dưới đây:
Bảng 3.2: Dân số trung bình nông thôn tỉnh Thái Bình
phân theo các huyện giai đoạn
ĐVT: Nghìn người
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
SB
2017/2011
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
(%)
1607,30 1608,72 1609,30 1609,71 1601,65 1602,08 1603,29
99,75
Tổng số
Thành phố
76,40
77,31
77,34
77,35
70,69
70,70
71,47
93,55
Thái Bình
Huyện
218,70 218,61 218,68 218,70 218,40 218,48 218,58
99,95
Quỳnh Phụ
Huyện Hưng
226,10 226,29 226,40 226,44 226,28 226,32 226,22
100,05
Hà
Huyện Đông
229,10 229,10 229,20 229,31 229,26 229,29 229,21
100,05
Hưng
Huyện Thái
236,80 236,90 236,99 237,07 236,90 237,05 237,75
100,40
Thuỵ
Huyện Tiền
203,20 203,39 203,48 203,48 203,02 203,14 203,11
99,96
Hải
Huyện Kiến
203,00 203,00 203,13 203,21 202,94 202,94 202,84
99,92
Xương
Huyện Vũ
214,00 214,12 214,09 214,16 214,16 214,16 214,11
100,05
Thư
Nguồn: [12, tr.41; 13, tr.51].
Những số liệu trên cho thấy khác với xu hướng chung của toàn tỉnh,
dân số nông thôn có sự biến động không đều giữa các huyện trong tỉnh. Trong
giai đoạn 2011-2017 dân số nông thôn của các địa phương như Thành phố Thái
Bình, Huyện Quỳnh Phụ, Huyện Tiền Hải, Huyện Kiến Xương có xu hướng
giảm, trong đó dân số nông thôn của Thành phố Thái Bình giảm nhiều nhất - 6,
45%. Trong khi đó, tại các địa phương khác như Huyện Hưng Hà, Huyện Đông
69
Hưng, Huyện Thái Thuỵ, Huyện Vũ Thư dân số nông thôn lại có xu hướng vẫn
tăng lên, trong đó Huyện Thái Thuỵ có mức tăng cao nhất - 0,4%.
Cùng với những biến động về dân số, tình hình lực lượng lao động của
tỉnh cũng có những thay đổi nhất định, cụ thể biểu hiện thông qua các số liệu
của bảng 3.3 dưới đây:
Bảng 3.3: Lực lƣợng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo giới tính
và phân theo thành thị, nông thôn
ĐVT: Nghìn người
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
SB 2017
2011
2012
2013
2014
2015
2016
Tổng số
1395,00
1113,10 1103,60 1115,30 1110,80 1104,70
1104,70
- Nam
651,00
539,71
537,50
533,60
528,00
526,00
534,40
- Nữ
744,00
573,39
566,10
581,70
582,80
578,70
570,30
- Thành thị
137,00
99,04
95,80
93,40
95,10
99,20
104,00
- Nông thôn
1258,00
1014,06 1007,80 1021,90 1015,70 1005,50
1000,70
Nguồn: [11 , tr.43; 12, tr.53].
Các số liệu trên cho thấy lực lượng lao động của tỉnh luôn chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng dân số, thể hiện tiềm năng lao động rất cao. Cụ thể: năm
2011 chiếm 78,11%; năm 2012 -62,27%; năm 2013 - 61,72%; năm 2014 -
62,35%; năm 2015 - 62,09%; năm 2016 - 61,72%; năm 2017 - 61,66%. Tuy
nhiên, về tỷ trọng của lực lượng lao động trong tổng dân số đang có xu hướng
giảm xuống.
Trong cơ cấu lực lượng lao động của tỉnh, lao động nữ chiếm tỷ trọng
lớn hơn, tuy nhiên đang có xu hướng giảm xuống: từ 53,33% năm 2011
xuống còn 51,62% năm 2017. Tỷ trọng lao động nông thôn trong dân số nông
thôn của tỉnh luôn ở mức cao hơn mức trung bình chung của lực lượng lao
động trong tổng dân số: Cụ thể: năm 2011 lao động nông thôn chiếm 78,27%
dân số nông thôn; năm 2012 - 63,04%; năm 2013 - 62,62%; năm 2014 -
63,48%; năm 2015 - 63,42%; năm 2016 - 62,76%; năm 2017 - 62,42%%.
70
Tỷ trọng lao động nông thôn trong lực lượng lao động của tỉnh cũng
luôn ở mức cao và có xu hướng tăng lên hàng năm: Cụ thể: năm 2011 chiếm
90,18%; năm 2012 - 91,10%; năm 2013 - 91,32%; năm 2014 - 91,63%; năm
2015 - 91,44%; năm 2016 - 91,02%; năm 2017 - 90,59%.
Tình hình chất lượng lực lượng lao động của tỉnh cũng có những thay
đổi nhất định, cụ thể biểu hiện thông qua các số liệu của bảng 3.4 dưới đây:
Bảng 3.4: Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm 1/7
hàng năm trên địa bàn tỉnh Thái Bình đã qua đào tạo giai đoạn 2011-2017
Tổng số
Nam
Nữ
Thành thị
Nông thôn
2011
14,64
16,88
12,76
42,05
11,65
2012
14,10
15,70
12,60
41,70
11,50
2013
13,10
14,20
12,10
41,00
10,60
2014
15,00
17,30
12,90
46,00
12,30
2015
12,70
16,20
9,70
35,40
10,50
2016
13,50
15,80
11,40
34,30
11,50
Sơ bộ 2017
15,40
18,80
12,20
33,10
13,60
ĐVT: %
Nguồn: [12, tr.48; 13, tr.57].
Theo các số liệu của Cục Thống kê tỉnh Thái Bình kể trên, trong giai
đoạn 2011-2017 tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo trong tổng số lao
động đang làm việc trên địa bàn tỉnh luôn ở mức cao hơn mức trung bình
chung của toàn quốc (năm 2011 - 9,0%; năm 2012 - 10,1%; năm 2013, 2014 -
11,2%; năm 2015 - 12,6%; năm 2016 - 12,8%; năm 2017 - 13,7% [12, tr.48;
13, tr.57; 50, tr.142].
Trong giai đoạn này tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo trong
tổng số lao động đang làm việc trên địa bàn tỉnh có sự biến động không nhiều.
Mức đạt được cao nhất là năm 2017 - 15,40%. Tỷ lệ lao động nam đang làm
việc đã qua đào tạo cao hơn khá nhiều so với tỷ lệ lao động nữ đang làm việc
đã qua đào tạo; tỷ lệ lao động đang làm việc ở thành thị đã qua đào tạo cao
hơn khá nhiều so với tỷ lệ lao động đang làm việc ở nông thôn đã qua đào tạo.
71
Về tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Trong những năm qua tỉnh Thái Bình có mức tăng trưởng kinh tế khá
cao. Tình hình cụ thể được phản ánh qua các số liệu của bảng 3.5 dưới đây:
Bảng 3.5: GRDP của tỉnh Thái Bình giai đoạn 2012-2017
ĐVT: Tỷ đồng
Tính theo giá
Tính theo giá hiện hành
so sánh 2010
Năm
Công
Thuế sản
Nông
Dịch
Tổng số
nghiệp,
phẩm trừ trợ
Tổng số
nghiệp
vụ
xây dựng
cấp sản phẩm
39.705
15.386
10.072 12.896
1.351
33.216
2012
38.783
12.353
10.646 14.041
1.743
32.106
2013
43.353
13.639
12.353 15.366
1.995
34.502
2014
47.976
14.446
13.936 16.920
2.674
37.559
2015
53.518
15.332
15.527 18.981
3.678
40.975
2016
4.020
45.481
Sơ bộ 2017
58.871
15.147
18.428 21.276
Nguồn: [12, tr.63-64;13, tr.87-88].
Tính toán từ các số liệu trên cho thấy, năm 2012 tốc độ tăng trưởng
kinh tế (GRDP) của tỉnh đạt mức 6,61%; năm 2013 - 7,24%; năm 2014 -
7,55%; năm 2015 - 8,25%; năm 2016 - 9,9%; năm 2017 - 11% [12, tr.64; 13,
tr.88] cao hơn so với tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước (năm 2012 -
5,25%; năm 2013 - 5,42%; năm 2014 - 5,98%; năm 2015 - 6,68%; năm 2016
- 6,21%; năm 2017 - 6,81%) [82, tr.173].
Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực: tỷ trọng nông nghiệp
trong GRDP của tỉnh giảm từ 39,44% năm 2012 xuống còn 25,3% năm 2017;
tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GRDP của tỉnh tăng từ 25,8% năm
2012 lên 31,3% năm 2017; tỷ trọng dịch vụ trong GRDP của tỉnh tăng từ
32,12% năm 2012 lên 36,14 năm 2017 [12, tr.63; 13, tr.87].
+ Về phát triển các ngành nghề truyền thống: Thái Bình có nhiều làng
nghề và làng nghề truyền thống lâu đời như làng chạm bạc Đồng Xâm, làng
72
thêu Minh Lãng, làng dệt Phương La, làng dệt đũi Nam Cao, làng Nguyễn
làm bánh cáy... [14, tr.11]. Tính đến năm 2017 trên địa bàn toàn tỉnh có 245
làng nghề, giải quyết việc làm cho trên 67 nghìn lao động [14, tr.13].
Nhìn chung, tỉnh Thái Bình có nhiều thuận lợi cho phát triển KT-XH
nói chung và CDCCLĐ nói riêng như đã kể trên, song cũng còn tồn tại không
ít khó khăn. Những khó khăn chủ yếu bao gồm:
Thứ nhất, Thái Bình là tỉnh có điểm xuất phát thấp về kinh tế. Mặc dù
tăng trưởng kinh tế trong những năm qua khá cao so với mức trung bình của
cả nước, song nhìn chung trình độ phát triển kinh tế vẫn ở mức chưa cao, thu
nhập bình quân đầu người mặc dù không ngừng tăng lên qua các năm song
vẫn đang thấp hơn nhiều so với mức trung bình chung của cả nước: năm 2014
thu nhập bình quân đầu người đạt 24,24 triệu đồng/người (mức chung cả nước
là 43,402 triệu đồng/người); năm 2015 - 26,81 triệu đồng (mức chung cả nước
là 45,719 triệu đồng); năm 2016 - 29,90 triệu đồng (mức chung cả nước là
48,577 triệu đồng); năm 2017 - 32,88 triệu đồng (mức chung cả nước là
53,442 triệu đồng) [13, tr.97; 82, tr.171]. Kim ngạch xuất nhập khẩu thấp,
chưa có mặt hàng xuất khẩu chủ lực, sức cạnh tranh của sản phẩm thấp. Giá
trị xuất khẩu hàng hoá năm 2017 ước đạt 1.391 triệu USD, tăng 6,75% so với
năm 2016, song chỉ chiếm 0,65% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Mặt
hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng may mặc, ước đạt 956,3 triệu USD, tuy nhiên
phần lớn hàng may mặc là hàng gia công. Trị giá nhập khẩu hàng hoá năm
2017 ước đạt 1.234,7 triệu USD, tăng 4,8% so với năm 2016, song chỉ chiếm
0,58% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu
là nguyên liệu may để phục vụ cho sản xuất [13, tr.413-414; 83].
Thái Bình vẫn chưa cân đối được ngân sách cho phát triển kinh tế - xã
hội. Thu cân đối ngân sách Nhà nước của tỉnh năm 2013 chỉ đạt mức 31,84%
tổng thu ngân sách Nhà nước của tỉnh; năm 2014 - 34,58%; năm 2015 -
36,34%; năm 2016 - 68,37%; năm 2017 - 64,89% [13, tr.100].
73
Thứ hai, phần lớn dân số Thái Bình sinh sống trên địa bàn nông thôn, phân
bố không đều giữa các địa phương trong Tỉnh. Lao động sống bằng nghề nông
truyền thống là chủ yếu, trong điều kiện diện tích đất nông nghiệp hạn hẹp gây
tình trạng thiếu việc cho nông dân. Trình độ lao động nông thôn thấp là rào cản
không nhỏ đến chuyển đổi nghề nghiệp và việc làm đối với dân cư nông thôn
Thứ ba, mặc dù Thái Bình có di tích lịch sử, văn hoá với hơn 550 di
tích, trong đó chủ yếu là những đình, đền, chùa đã được xếp hạng, nhiều lễ
hội truyền thống gồm Hội chùa Keo, Hội đền Tiên La, Hội đền Đồng Bằng,
Hội đền Đông Sâm…, Có nhiều loại hình nghệ thuật dân gian gồm múa rối
nước, hát chèo, có nhiều làng nghề truyền thống với tư cách là tiềm năng phát
triển du lịch, song khả năng khai thác để phát triển du lịch của Thái Bình còn
rất hạn chế do khó kết nối các loại hình du lịch đa dạng với nhau. Những yếu
tố đó đã và đang đặt ra thách thức đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao
động trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình.
3.1.2. Khái quát quá trình xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình
3.1.2.1. Các chủ trương, biện pháp thực hiện xây dựng nông thôn
mới ở Thái Bình
Trong những năm qua Thái Bình đã tích cực triển khai thực hiện
chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh. Trên cơ sở Nghị
quyết số 26-NQ/TW và các Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII,
XVIII và XIX, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã ban
hành và tích cực chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương đẩy mạnh phát triển nông
nghiệp gắn với phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 28
tháng 4 năm 2011 về "xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 - 2015, định
hướng đến năm 2020". Theo đó Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã
ban hành nhiều nghị quyết, triển khai thực hiện các đề án như dồn điền, đổi
thửa đất nông nghiệp; thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; quy
hoạch và xây dựng các vùng lúa chất lượng cao, vùng cây màu, cây vụ đông;
74
phát triển cây đậu tương, cây ngô, cây khoai tây và rau quả xuất khẩu; xây
dựng cánh đồng mẫu; phát triển chăn nuôi trang trại quy mô lớn; tăng cường
năng lực hệ thống khuyến nông, bảo vệ thực vật và thú y; đẩy mạnh cơ giới hoá
trong nông nghiệp; quy hoạch vùng nuôi ngao; phát triển các phương tiện đánh
bắt xa bờ gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường biển...
Xây dựng và thực hiện đề án sản xuất gắn với cơ chế, chính sách hỗ trợ nhằm
tăng năng suất, chất lượng và nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp gắn với
liên kết tiêu thụ. Đồng thời, tỉnh đã ban hành các nghị quyết, quyết định về cơ
chế, chính sách hỗ trợ và quản lý đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng
nông thôn mới giai đoạn 2011 - 2015; hỗ trợ mua máy nông nghiệp; hỗ trợ
trồng cây vụ đông; phát triển nuôi ngao vùng ven biển; tăng cường chủ động
kiểm soát dịch bệnh trong chăn nuôi; các chính sách khuyến nông, khuyến
công; khuyến khích phát triển doanh nghiệp ở nông thôn; hỗ trợ phát triển nghề
làng nghề, xây dựng cụm công nghiệp, hạ tầng thương mại, dịch vụ...
Trong quá trình thực hiện, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã định kỳ thường
xuyên rà soát, kịp thời sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách hỗ trợ và quản lý
đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng nông thôn mới; chú trọng thúc
đẩy, phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo của các địa phương; huy
động, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn và đẩy nhanh tiến độ xây dựng các
công trình kết cấu hạ tầng nông thôn mới. Các huyện và thành phố đã chủ
động xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp với khả năng và tình hình thực tế
của địa phương. Nhìn chung các cơ chế, chính sách hỗ trợ của tỉnh, huyện đã
phát huy được vai trò đòn bẩy kinh tế, góp phần đẩy mạnh phát triển sản xuất,
hoàn thiện xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, nâng cao thu nhập và không
ngừng cải thiện đời sống của nông dân [78].
3.1.2.2. Những kết quả chủ yếu của xây dựng nông thôn mới
Tính đến năm 2018 toàn tỉnh đã có 264/267 xã triển khai xây dựng
nông thôn mới. Trong thời gian qua đã có 3 xã là Tân Bình, Phú Xuân, Đông
75
Hoà thuộc thành phố Thái Bình được xây dựng trở thành phường. Đã có 262
xã hoàn thành lập quy hoạch chung, đề án xây dựng nông thôn mới, quy
hoạch chi tiết giao thông thuỷ lợi nội đồng, quy hoạch chi tiết khu trung tâm
xã. Một số xã như xã Thăng Long, huyện Đông Hưng và xã Vũ Quý, huyện
Kiến Xương đang thực hiện bổ sung xây dựng quy hoạch nông thôn mới.
Quá trình xây dựng nông thôn mới đã góp phần phát triển và nâng cấp
hệ thống kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Tính đến hết năm 2018 đã hoàn thành
cứng hoá 1.162km kênh mương cấp 1 loại 3 (đạt 63%) và nạo vét hàng nghìn
km sông ngòi; xây dựng và nâng cấp: 3.656km đường giao thông nội đồng
(đạt 76,4%); 1.057,97km đường trục xã (đạt 78,33%); 1.890,83km đường trục
thôn (đạt 85,67%); 3.162,75km đường nhánh cấp 1 trục thôn (đạt 96,7%);
2.215km đường ngõ xóm; 29 trạm bơm, 248 cống đập; đầu tư mới 23 trạm
cấp nước sạch, nâng cấp và mở rộng phạm vi cấp nước cho 34 trạm cấp nước
sạch; 151 trường trung học cơ sở, tiểu học và mầm non; 38 nhà văn hoá xã;
02 trụ sở xã; 927 nhà văn hoá thôn; 179 trạm y tế; 126 chợ; 210 khu xử lý rác
thải và lò đốt rác; 67 sân thể thao xã; 88 sân thể thao thôn; hỗ trợ xây dựng,
nâng cấp trên 5.500 nhà ở cho người có công, người nghèo [100].
Kết quả thực hiện chương trình hỗ trợ xi măng cho các xã để đầu tư xây
dựng công trình hạ tầng đạt mức 1.281.854 tấn, tương ứng với số tiền là
1.536.767,8 triệu đồng. Từ tháng 01/2018 đến ngày 10/11/2018 đã cấp hỗ trợ
cho các địa phương trong tỉnh được 33.836,2 tấn; dự kiến còn cấp tiếp
200.312,95 tấn [100].
Về kinh tế và tổ chức sản xuất: Trong sản xuất nông nghiệp, đã hình
thành và phát triển nhiều vùng sản xuất hàng hoá tập trung với cùng loại sản
phẩm. Năm 2018, toàn tỉnh có 128 xã triển khai được 185 cánh đồng lớn với
tổng diện tích 15.312ha; nhiều giống cây trồng mới có năng suất, chất lượng
sản phẩm cao được nghiên cứu, khảo nghiệm, đưa nhanh vào sản xuất. Cơ
giới hoá, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất được đẩy mạnh.
76
Lĩnh vực chăn nuôi đã có một số trang trại chăn nuôi quy mô lớn, công nghệ
cao đầu tư vào sản xuất. Nuôi trồng thuỷ sản đã quan tâm phát triển một số
đối tượng chủ lực như ngao, cá vược, cá song, tôm sú, tôm thẻ chân trắng;
đang triển khai nuôi tôm công nghệ cao ở 02 huyện ven biển. 100% các Hợp
tác xã nông nghiệp đã thực hiện chuyển đổi theo Luật Hợp tác xã năm 2012
và từng bước ổn định, nâng cao chất lượng hoạt động các dịch vụ; hình thành
các liên kết với doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm cho các hộ thành viên đem
lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Nghề và làng nghề được duy trì và phát triển,
hiện có 247 làng nghề. Thương mại, dịch vụ phát triển, cơ bản đáp ứng nhu
cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân [100].
Về giảm nghèo và an sinh xã hội: Năm 2017, bình quân thu nhập chung
khu vực nông thôn đạt 37 triệu đồng/khẩu/năm, tăng 3,88 lần so với năm
2008; đến 30/6/2018, có 100% số xã trong tỉnh được cấp nước sạch, 94,2% hộ
dân khu vực nông thôn đã đấu nối sử dụng nước sạch; 100% hộ dân sử dụng
điện và hệ thống bưu chính viễn thông [100].
Các chính sách về giảm nghèo đã mang lại hiệu quả thiết thực. Người
nghèo từng bước được hỗ trợ, cải thiện về đời sống, tiếp cận tốt hơn các chính
sách và nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước, giúp họ tự nỗ lực vươn lên, thoát
nghèo bền vững. Tỷ lệ hộ nghèo dự kiến năm 2018 còn khoảng 3,5%.
Về văn hoá xã hội: Cơ sở vật chất trường lớp được đầu tư theo hướng
chuẩn hoá. Kết quả phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở
được giữ vững; từ năm 2013, đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho
trẻ 5 tuổi. Đào tạo nghề cho lao động nông thôn được quan tâm hỗ trợ. Hàng
năm, tuyển sinh dạy nghề cho trên 30.000 người, trong đó hỗ trợ cho khoảng
6.000 lao động nông thôn học nghề; tạo việc làm mới cho khoảng 33.000
người [100]. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế cao và đã triển khai
khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế cho nhân dân tại trạm y tế xã. Chương trình
nước sạch nông thôn đã hoàn thành việc phủ kín các địa phương trong tỉnh; tỷ
lệ người dân được sử dụng nước sạch đạt 100%.
77
Các thiết chế văn hoá cơ sở được quan tâm đầu tư, gắn với giữ gìn bản
sắc văn hoá truyền thống. Phong trào xây dựng xã, thôn, làng, gia đình văn
hoá, các phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao quần chúng phát
triển sôi nổi, rộng khắp ở các xã, thôn. Hạ tầng thông tin truyền thông trên địa
bàn tỉnh cơ bản đáp ứng các hoạt động, chỉ đạo điều hành và cung cấp các
dịch vụ công trực tuyến phục vụ cho người dân và doanh nghiệp, tạo điều
kiện thuận lợi để triển khai chính quyền điện tử tỉnh.
Về hệ thống chính trị: Hệ thống tổ chức chính trị ở cơ sở được củng cố;
cán bộ cấp xã chuẩn hoá tăng nhanh. Công tác quản lý, điều hành được đổi
mới theo hướng nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động và kỷ luật, kỷ cương
của bộ máy hành chính. Các cấp chính quyền đã chủ động, sáng tạo, quyết liệt
trong chỉ đạo thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế -
xã hội, quốc phòng, an ninh; tăng cường cải cách hành chính; tích cực cải
thiện môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh, phục vụ tốt hơn cho doanh
nghiệp và người dân. Tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được
giữ vững, tội phạm giảm; công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân được thực hiện nền nếp và có chuyển biến tích cực; đã cơ bản giải
quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng, phức tạp, kéo dài, góp phần bảo đảm ổn
định tình hình trên địa bàn; phong trào "Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc"
gắn với Phong trào xây dựng nông thôn mới được tăng cường hơn. Các tổ
chức quần chúng tự quản, tự phòng, tự bảo vệ, tự hoà giải thường xuyên được
kiện toàn, nhân rộng, hoạt động có hiệu quả, nâng cao ý thức và phát huy sức
mạnh toàn dân trong công tác phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội.
Kết quả xây dựng huyện nông thôn mới: Huyện Đông Hưng: Đạt 5/9
tiêu chí (Tiêu chí 3 Thủy lợi; Tiêu chí 4 Điện; Tiêu chí 5 Y tế - Văn hóa -
Giáo dục; Tiêu chí 8 An ninh trật tự; Tiêu chí 9 Chỉ đạo xây dựng nông thôn
mới). Huyện Quỳnh Phụ: Đạt 5/9 tiêu chí (Tiêu chí 3 Thủy lợi, Tiêu chí 4
Điện, Tiêu chí 6 sản xuất, Tiêu chí 8 An ninh trật tự, Tiêu chí 9 Chỉ đạo xây
dựng nông thôn mới). Huyện Thái Thụy: Đạt 4/9 tiêu chí (Tiêu chí 4 Điện, Tiêu
78
chí 6 Sản xuất, Tiêu chí 8 An ninh trật tự xã hội, Tiêu chí 9 Chỉ đạo xây dưng
nông thôn mới). Huyện Kiến Xương: Đạt 5/9 tiêu chí (Tiêu chí 3 Thủy lợi; Tiêu
chí 4 Điện; Tiêu chí 6 Sản xuất; Tiêu chí 8 An ninh trật tự; Tiêu chí 9 Chỉ đạo
xây dựng nông thôn mới). Huyện Vũ Thư: Đạt 5/9 tiêu chí (Tiêu chí 3 Thủy lợi;
Tiêu chí 4 Điện; Tiêu chí 6 Sản xuất; Tiêu chí 8 An ninh trật tự; Tiêu chí 9 Chỉ
đạo xây dựng nông thôn mới). Huyện Tiền Hải: Đạt 5/9 tiêu chí (Tiêu chí 3
Thủy lợi; Tiêu chí 4 Điện; Tiêu chí 6 Sản xuất; Tiêu chí 8 An ninh trật tự; Tiêu
chí 9 Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới). Thành phố Thái Bình: Còn 01 xã (Vũ
Đông) chưa về đích, 03 xã: Tân Bình, Phú Xuân, Đông Hòa [100].
Kết quả xây dựng nông thôn mới cấp xã: Đến nay, toàn tỉnh có 200 xã,
chiếm 76,04% tổng số xã toàn tỉnh đã được công nhận đạt chuẩn; số tiêu chí
đạt bình quân là 17,72 tiêu chí/xã, tăng trên 12 tiêu chí/xã so với năm 2010,
vượt bình quân chung trong cả nước 04 tiêu chí/xã; 01 huyện Hưng Hà được
công nhận đạt chuẩn nông thôn mới [100].
- 64 xã chưa về đích nông thôn mới, dự kiến sẽ hoàn thành nông thôn
mới trong năm 2019 [100].
+ Đến hết tháng 11/2018: Có 08 xã đã cơ bản hoàn thành 19 tiêu chí và
đang hoàn thiện hồ sơ đề nghị thẩm định (Bắc Sơn, huyện Hưng Hà; Đông
Hải, Quỳnh Bảo, An Dục, huyện Quỳnh Phụ; Hợp Tiến, Đông Dương, Đông
Kinh, huyện Đông Hưng; Minh Tân, huyện Kiến Xương) [100].
+ Các xã còn lại đang khẩn trương hoàn thiện các hạng mục của tiêu chí chưa
hoàn thành, đồng thời hoàn thiện hồ sơ đề nghị huyện thẩm tra theo quy định.
Kết quả huy động nguồn lực: Tổng nguồn lực huy động (bằng tiền,
ngày công, xi măng tỉnh hỗ trợ 1.281.854 tấn, hiến đất, tài sản,…) luỹ kế đến
hết năm 2018, ước khoảng 17.702,287 tỷ đồng. Trong đó: Nguồn ngân sách
Trung ương hỗ trợ 1.100,805 tỷ đồng (chiếm 6,22%); nguồn ngân sách tỉnh
3.724,648 tỷ đồng (chiếm 21,04%); nguồn ngân sách huyện, thành phố là
1.311,643 tỷ đồng (chiếm 7,4%); nguồn ngân sách xã 3.503,686 tỷ đồng
(chiếm 19,8%); nguồn vốn lồng ghép từ các dự án khác 2.525,757 tỷ đồng
79
(chiếm 14,28%); nguồn vốn huy động từ các doanh nghiệp, tổ chức 1.059,358
tỷ đồng (chiếm 5,98%); nguồn vốn tín dụng là 935,643 tỷ đồng (chiếm
5,28%); nguồn con em xa quê đóng góp là 171,2 tỷ đồng (chiếm 0,97%);
nguồn huy động nhân dân đóng góp là 3.369,547 tỷ đồng, chiếm 19,03% (tiền
mặt, ngày công đóng góp, hiến đất,...) [100].
Những kết quả xây dựng nông thôn mới kể trên trên địa bàn tỉnh đã tạo
ra những thuận lợi đáng kể thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động
nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, trong xây
dựng nông thôn mới vẫn còn những khó khăn về nhận thức chưa đầy đủ của
một bộ phận cán bộ, nhân dân về vị trí, cách làm và vai trò chủ thể của người
dân, của cộng đồng trong xây dựng nông thôn mới; vẫn còn tồn tại tư tưởng
trông chờ, ỷ lại, thụ động hoặc nóng vội. Năng lực, trình độ của một bộ phận
cán bộ lãnh đạo xã, thôn còn hạn chế, chưa thực hiện tốt các công việc, nhiệm
vụ đã phân cấp trong xây dựng nông thôn mới. Đầu tư từ ngân sách và sự
đóng góp của nhân dân hạn hẹp, trong khi nhu cầu vốn cho xây dựng nông
thôn mới rất lớn. Những cản trở về tâm lý, tư tưởng đối với quá trình tích tụ
ruộng đất cùng những rủi ro của sản xuất nông nghiệp đang gây khó cho thu
hút doanh nghiệp về đầu tư sản xuất nông nghiệp. Những khó khăn đó đồng
thời có ảnh hưởng nhất định đến chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng
nông thôn mới trên địa bàn tỉnh.
3.2. TÌNH HÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG TRONG QUÁ
TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở THÁI BÌNH
Song song với quá trình xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế
nông thôn, cơ cấu lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh đã có sự chuyển dịch
theo ngành và theo lãnh thổ, từng bước tạo thuận lợi đẩy nhanh phát triển
kinh tế nông thôn trong xây dựng nông thôn mới
3.2.1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động theo phƣơng diện
ngành và tiểu ngành trong quá trình xây dựng nông thôn mới
Chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng nông thôn mới trước hết
80
biểu hiện thông qua sự biến động của số lượng lao động đang làm việc ở nông
thôn trong tổng lực lượng lao động của tỉnh. Tình hình cụ thể được phản ánh
qua các số liệu của bảng 3.6 dưới đây:
Bảng 3.6: Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trên địa bàn
tỉnh Thái Bình phân theo thành thị và nông thôn giai đoạn 2011-2017
ĐVT: Nghìn người
Tổng số
Thành thị
Nông thôn
2011
1006,00
99,00
907,00
2012
1098,30
92,30
1006,00
2013
89,10
996,10
1085,20
2014
87,90
1009,30
1097,20
2015
94,60
1004,80
1099,40
2016
95,40
989,70
1085,10
Sơ bộ 2017
100,70
990,70
1091,40
Nguồn: [12, tr.45; 13, tr.55].
Phân tích so sánh những số liệu trên với những số liệu về lực lượng lao
động của tỉnh cho thấy, trong giai đoạn 2011-2017, tỷ trọng lao động đang
làm việc trong lực lượng lao động, ngoại trừ năm 2011 đạt mức thấp là
72,11%, từ năm 2012 đến năm 2017 đều đạt mức trên 98%, trong đó năm
2015 đạt mức cao nhất là 98,97%. Các số liệu trên cũng cho thấy tỷ trọng lao
động đang làm việc trong lực lượng lao động ở thành thị và nông thôn trên địa
bàn tỉnh có sự khác nhau. Nếu như vào năm 2011 và năm 2015, tỷ trọng lao
động đang làm việc trong lực lượng lao động ở thành thị cao hơn so với nông
thôn, thì trong các năm khác, tỷ trọng lao động đang làm việc trong lực lượng
lao động ở nông thôn luôn ở mức cao hơn so với thành thị. Cụ thể mức chênh
lệch giữa tỷ trọng lao động đang làm việc trong lực lượng lao động ở nông
thôn so với thành thị như sau: Năm 2011 tỷ trọng lao động đang làm việc
trong lực lượng lao động ở nông thôn so với thành thị thấp hơn là 0,16%; năm
2012 - cao hơn 6,01%; năm 2013 - cao hơn 5,83%; năm 2014 - cao hơn
81
4,66%; năm 2015 - thấp hơn 0,55%; năm 2016 - cao hơn 2,26%; năm 2017 -
cao hơn 2,17% [12, tr.45; 13, tr.55].
Nếu xét theo ngành thì lao động trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ
sản luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm
việc trên địa bàn tỉnh. Tình hình cụ thể như sau: năm 2012 số lao động làm
việc trong ngành Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản là 603,2 nghìn người
(chiếm 54,92% tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trên địa bàn
tỉnh); năm 2013 - 597,44 nghìn người (chiếm 55,05%); năm 2014 - 589,24
nghìn người (chiếm 53,70%); năm 2015 - 570,39 nghìn người (chiếm
51,88%); năm 2016 - 551,08 nghìn người (chiếm 50,79%); năm 2017 - 450,1
nghìn người (chiếm 41,24%) [12, tr.46; 13, tr.56] .
Trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2016 cùng với sự tích cực triển
khai xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh, tình hình cơ cấu lao động theo
ngành ở nông thôn đã có sự chuyển dịch, tình hình cụ thể được thể hiện qua
các số liệu của bảng 3.7 dưới đây:
Bảng 3.7: Cơ cấu phân theo hoạt động chính của số ngƣời trong độ tuổi
lao động có khả năng lao động ở nông thôn năm 2011 và 2016
Tăng,
Tăng,
Tăng,
Đơn vị tính: %
2011
2016
2011
2016
2011
2016
giảm
giảm
giảm
Nông nghiệp
55,22 46,97
-8,25
40,67
29,3
-11,37 46,68
31,43
-15,25
Lâm nghiệp
0,44
0,83
0,39
0,11
0,15
0,04
0,02
0,02
0,00
Thuỷ sản
3,93
3,59
-0,34
1,85
1,8
-0,05
1,08
1,75
0,67
Diêm nghiệp
0,11
0,07
-0,04
0,12
0,05
-0,07
0,07
0,01
-0,06
Công nghiệp
12,36 17,22
4,86
20,78 29,53
8,75 18,31
28,68
10,37
Xây dựng
5,93
6,89
0,96
10,36 10,47
0,11 12,57
14,11
1,54
Thương nghiệp
8,35
8,07
-0,28
10,94 10,96
0,02
8,95
10,06
1,11
Vận tải
1,76
2,7
0,94
2,74
3,8
1,06
1,92
2,96
1,04
Dịch vụ khác
10,42 10,85
0,43
11,5 12,38
0,88
8,88
9,8
0,92
Hộ khác
1,49
2,81
1,32
0,92
1,56
0,64
0,85
1,18
0,33
Nguồn: [80, tr.251, 254; 81, tr.141,143].
82
Phân tích các số liệu trên cho thấy, trong giai đoạn 2011-2016 trên địa
bàn nông thôn của tỉnh Thái Bình, số lượng lao động nông nghiệp theo nghĩa
hẹp đã giảm 37,41%, nhanh hơn so với mức giảm 17,54% của cả nước và
31,26% của Đồng bằng sông Hồng. Đồng thời, tỷ trọng lao động nông nghiệp
theo nghĩa hẹp trong tổng số lao động nông thôn cũng giảm 15,25%, từ
46,68% năm 2011 xuống còn 31,43% vào năm 2016, nhanh hơn so với mức
giảm chung của cả nước (8,25%) và mức giảm của Đồng bằng sông Hồng
(11,37%). Đến năm 2016, tỷ trọng lao động nông nghiệp theo nghĩa hẹp trong
tổng số lao động nông thôn của tỉnh Thái Bình ở mức thấp hơn so với mức
trung bình chung của cả nước, những vẫn cao hơn so với mức trung bình của
Đồng bằng sông Hồng.
Lao động trong ngành lâm nghiệp do đặc thù là tỉnh đồng bằng, điều
kiện để phát triển lâm nghiệp không nhiều, đã tiếp tục giảm về số lượng, năm
2016 so với năm 2011 đã giảm 7,04%, trái ngược so với mức tăng mạnh của
cả nước (tăng 83,15%) và đồng bằng sông Hồng (tăng 25,6%).
Lao động thuỷ sản có mức tăng mạnh là 51,34%, trái ngược so với xu
hướng giảm số lượng lao động thuỷ sản của cả nước: giảm 11,44% và đồng
bằng sông Hồng giảm 6,94%. Kết quả là tỷ trọng lao động thuỷ sản trong tổng
lao động nông thôn của tỉnh tăng từ 1,08% năm 2011 lên 1,75% năm 2016.
Mặc dù có mức tăng cao song so với cả nước và đồng bằng sông Hồng thì tỷ
trong lao động thuỷ sản trong tổng số lao động nông thôn vẫn đang ở mức
thấp hơn. Tình hình đó cho thấy trong nội bộ ngành nông nghiệp, vẫn còn dư
địa để chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng lao động thuỷ sản.
Cũng như tình hình chung của cả nước và Đồng bằng sông Hồng, lao
động trong ngành diêm nghiệp ở nông thôn tỉnh Thái Bình có xu hướng giảm
nhiều cả về số lượng tuyệt đối và tương đối. Số lượng lao động diêm nghiệp
năm 2016 giảm 86,72% so với năm 2011, nhanh hơn so với mức giảm trung
bình cả nước (giảm 38,31%) và mức giảm của đồng bằng sông Hồng (giảm
60,24%). Tỷ trọng lao động diêm nghiệp trong tổng số lao động nông thôn
giảm từ 0,07% năm 2011 xuống còn 0,01% năm 2016. Nguyên nhân chủ yếu
là do công nghệ thấp, giá thành cao, sản xuất kinh doanh hiệu quả thấp.
83
Lao động trong ngành công nghiệp ở nông thôn có sự gia tăng mạnh
mẽ theo xu hướng chung của nông thôn cả nước. Xây dựng nông thôn mới
trên địa bàn tỉnh Thái Bình những năm qua đồng thời là quá trình thúc đẩy
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Lao động công nghiệp
năm 2016 tăng 45,62% so với năm 2011, cao hơn mức tăng trung bình của cả
nước (35,6%) và đồng bằng sông Hồng (35,6%). Mức gia tăng tỷ trọng lao
động công nghiệp là 10,37%, cao hơn so với mức tăng chung của cả nước
(4,86%) và mức giảm của Đồng bằng sông Hồng (8,75%). Sự gia tăng mạnh
mẽ về số lượng lao động công nghiệp trong xây dựng nông thôn mới đã nâng
tỷ trọng lao động công nghiệp trong tổng số lao động nông thôn trên địa bàn
tỉnh từ 18,31% năm 2011 lên 28,68% năm 2016. Tỷ lệ này cao hơn so với
mức trung bình cả nước (17,22%), những vẫn thấp hơn một chút so với mức
trung bình của đồng bằng sông Hồng (29,53%).
Lao động trong ngành xây dựng cũng không ngừng tăng lên mặc dù
chậm hơn so với mức tăng của lao động công nghiệp. Số lượng lao động xây
dựng năm 2016 tăng 4,35% so với năm 2011, thấp hơn so với mức trung bình
cả nước (tăng 12,66%) nhưng cao hơn so với đồng bằng sông Hồng (giảm
3,6%). Sự gia tăng số lượng lao động xây dựng trong xây dựng nông thôn mới
đã nâng tỷ trọng lao động xây dựng trong tổng số lao động nông thôn trên địa
bàn tỉnh từ 12,57% năm 2011 lên 14,11% năm 2016. Tỷ lệ này cao hơn so với
mức trung bình cả nước (6,89%) và đồng bằng sông Hồng (10,47%).
Lao động trong ngành dịch vụ ở nông thôn có xu hướng tăng. Mức gia
tăng tỷ trọng lao động dịch vụ là 3,07%, cao hơn so với mức tăng chung của cả
nước (1,09%) và mức giảm của Đồng bằng sông Hồng (1,96%). Lao động trong
ngành thương nghiệp có sự gia tăng về số lượng. Năm 2016 số lượng lao động
thương nghiệp tăng 4,49% so với năm 2011, trái ngược với xu hướng giảm của
cả nước (giảm 6,29%) và đồng bằng sông Hồng (giảm 4,41%). Sự gia tăng số
lượng thương nghiệp xây dựng trong xây dựng nông thôn mới đã nâng tỷ trọng
lao động thương nghiệp trong tổng số lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh từ
9,85% năm 2011 lên 10,06% năm 2016. Tỷ lệ này cao hơn so với mức trung
bình cả nước (8,07%) và đồng bằng sông Hồng (10,96%).
84
Lao động trong ngành vận tải tăng mạnh về số lượng. Số lượng lao
động trong ngành dịch vụ vận tải năm 2016 tăng 43,32% so với năm 2011,
thấp hơn mức tăng trung bình của cả nước (tăng 48,97%), cao hơn mức trung
bình của đồng bằng sông Hồng (32,46%). Đến năm 2016 tỷ trọng lao động
vận tải trong tổng số lao động nông thôn của tỉnh là 2,96%, có hơn so với năm
2011 (1,92%) và cao hơn tỷ lệ trung bình của cả nước (2,7%), nhưng thấp hơn
so với tỷ lệ trung bình của đồng bằng sông Hồng (3,8%). Lao động trong các
ngành dịch vụ khác năm 2016 tăng 2,6% so với năm 2011, cao hơn mức tăng
chung của cả nước (0,9%) và thấp hơn mức tăng của Đồng bằng sông Hồng.
Tỷ trọng loại lao động này trong tổng số lao động nông thôn của tỉnh tăng đã
từ 8,88% năm 2011 lên 9,8% năm 2016 song vẫn thấp hơn múc trung bình cả
nước (10,85%) và đồng bằng sông Hồng (12,38).
Nếu tính tổng thể theo các nhóm ngành, số lượng lao động nông lâm
nghiệp và thuỷ sản giai đoạn 2011-2016 giảm 30,98% (lao động công nghiệp
và xây dựng tăng 37,35%; lao động dịch vụ tăng 14,76%. Nhờ đó cơ cấu lao
động nông thôn trong xây dựng nông thôn mới đã có sự chuyển dịch rõ rệt
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá: tỷ trọng lao động nông nghiệp
giảm từ 47,78% năm 2011 xuống còn 33,20% năm 2019; tỷ trọng lao động
công nghiệp tăng từ 30,95% lên 42,80%; lao động dịch vụ tăng từ 17,95% lên
22,82%. Đến năm 2016, trong cơ cấu lao động nông thôn tỉnh Thái Bình, tỷ
trọng lao động nông nghiệp trong tổng số lao động nông thôn ở mức thấp hơn
so với cả nước (51,39%) song cao hơn so với đồng bằng sông Hồng
(31,25%); tỷ trọng lao động công nghiệp cao hơn so với cả nước (24,18%) và
đồng bằng sông Hồng (40,05%); tỷ trọng lao động dịch vụ cao hơn so với cả
nước (21,62%) song thấp hơn so với đồng bằng sông Hồng (27,14%).
Sự chuyển dịch của cơ cấu lao động nông thôn trong xây dựng nông
thôn mới vừa là tiền đề, vừa là kết quả của sự chuyển dịch ngành nghề kinh
doanh của các hộ sản xuất kinh doanh ở nông thôn. Tình hình chuyển dịch cơ
cấu ngành nghề của các hộ nông thôn được phản ánh cụ thể qua các số liệu
của bảng 3.8 dưới đây:
85
Bảng 3.8: Tình hình chuyển dịch ngành nghề của hộ nông thôn
trên địa bàn tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2016
Số hộ
Cơ cấu (%)
2011
2016
2011
2016 Tăng, giảm
Hộ nông nghiệp
271.49
205.377
52,81
38,55
-14,26
Hộ Lâm nghiệp
46
5
0,01
0,00
-0,01
Hộ thuỷ sản
7.972
8.955
1,55
1,68
0,13
Hộ diêm nghiệp
308
44
0,06
0,01
-0,05
Hộ công nghiệp
58.47
98.642
11,37
18,52
7,15
Hộ xây dựng
44.362
58.378
8,63
10,96
2,33
Hộ thương nghiệp
37.067
43.551
7,21
8,17
0,96
Hộ vận tải
7866
14.007
1,53
2,63
1,10
Hộ dịch vụ khác
34.74
36.821
6,76
6,91
0,15
Hộ khác
51.786
66.979
10,07
12,57
2,50
40,23
-14,14
Hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
279.508
214.337
54,37
29,48
9,42
Hộ công nghiệp và xây dựng
103.14
157.064
20,06
Hộ dịch vụ
79.673
94.379
15,50
17,72
2,22
Tổng số
514.107
532.759
100
100
0,00
Nguồn: [2].
Rõ ràng là, để hộ nông thôn có thể thực hiện hoạt động sản xuất kinh
doanh cần có số lượng lao động nhất định, sự biến đổi của số hộ đồng thời
cũng phản ánh sự biến đổi nhất định của số lao động, do đó, để nghiên cứu về
chuyển dịch lao động có thể sử dụng kết quả chuyển dịch ngành nghề sản xuất
kinh doanh của hộ nông thôn. Những số liệu của Tổng điều tra nông thôn,
nông nghiệp và thuỷ sản tỉnh Thái Bình các năm 2011 và 2016 cũng khẳng
định rằng, trong quá trình xây dựng nông thôn mới đã có sự chuyển dịch đáng
kể cơ cấu lao động cùng với sự biến động của cơ cấu hộ nông thôn.
Tổng số hộ nông thôn trong giai đoạn này tăng 3,63% phù hợp với xu
hướng tăng của lao động từ 15 tuổi trở lên làm việc ở nông thôn của cả giai
đoạn (9,1%) [12, tr.45; 13, tr.55]. Mức tăng của số hộ thấp hơn mức tăng của
số lao động từ 15 tuổi trở lên làm việc ở nông thôn có thể phản ánh sự gia
tăng về quy mô lao động của một số hộ nông thôn.
86
Kết quả điều tra cho thấy, năm 2016 số lượng hộ sản xuất kinh
doanh nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trên địa bàn nông thôn của tỉnh đã
giảm 23,32% so với năm 2011 (nhanh hơn so với mức giảm trung bình
của cả nước: 10,03% và mức giảm trung bình của vùng Đồng bằng sông
Hồng: 21,92%). Cụ thể là số hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp theo nghĩa
hẹp giảm 24,35% (cả nước: giảm 11,64%; vùng Đồng bằng sông Hồng: giảm
22,97%); số hộ sản xuất kinh doanh lâm nghiệp giảm 89,13% (cả nước: tăng
111,52%; vùng Đồng bằng sông Hồng: tăng 29,58%); trong khi đó số hộ sản
xuất kinh doanh thuỷ sản tăng 12,33% so với năm 2011 (cả nước: tăng 2,91%;
vùng Đồng bằng sông Hồng: tăng 1,95%) [81, tr.128]. Như vậy, kết quả phân
tích sự biến động cơ cấu hộ sản xuất kinh doanh trong ngành nông nghiệp và
chuyển dịch cơ cấu lao động trong nội bộ ngành nông nghiệp đều cho thấy rõ
rằng, đã có sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao
động nông nghiệp theo nghĩa hẹp và lao động lâm nghiệp, tăng tỷ trọng của
lao động thuỷ sản. Xu hướng này phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong ngành nông nghiệp của tỉnh Thái Bình: mặc dù trong giai đoạn
2012-2017 giá trị sản xuất ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp tăng 12,19%
song tỷ trọng trong tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp giảm từ 80,76%
xuống còn 75,71%; giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp giảm 1,94%, tỷ trọng
trong tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp giảm từ 0,08% xuống còn
0,06%; giá trị sản xuất ngành thuỷ sản tăng 52,96%, tỷ trọng trong tổng giá trị
sản xuất ngành nông nghiệp tăng từ 19,17% lên 24,43% [12, tr.225, 264, 275;
13, tr.304, 343, 356].
Trong giai đoạn 2011-2016, số lượng các hộ sản xuất kinh doanh công
nghiệp và xây dựng tăng 52,28% (cả nước: tăng 41,79%; vùng Đồng bằng
sông Hồng: tăng 39,58%), trong đó số hộ sản xuất kinh doanh công nghiệp
tăng 68,71% (cả nước: tăng 50,74%; vùng Đồng bằng sông Hồng: tăng
55,14%); số hộ sản xuất kinh doanh xây dựng tăng 31,59% (cả nước: tăng
24,38%; vùng Đồng bằng sông Hồng: tăng 9,8%). Số hộ kinh doanh dịch vụ
87
tăng 18,46% (cả nước: tăng 10,7%; vùng Đồng bằng sông Hồng: tăng
10,16%), trong đó số hộ kinh doanh thương nghiệp tăng 17,49%(cả nước:
tăng 1,17%; vùng Đồng bằng sông Hồng: tăng 3,14%); số hộ kinh doanh vận
tải tăng 78,07%(cả nước: tăng 59,75%; vùng Đồng bằng sông Hồng: tăng
54,7%). Các loại hộ khác tăng 29,34%(cả nước: tăng 49,03%; vùng đồng
bằng sông Hồng: tăng 40,49%) [81, tr.128].
Những phân tích trên cho thấy, trong quá trình xây dựng nông thôn mới
ở tỉnh Thái Bình từ 2011 đến nay, cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn đã
có bước chuyển dịch tích cực theo ngành: tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm
nhanh kéo theo sự giảm xuống của tỷ trọng số hộ sản xuất kinh doanh nông,
lâm nghiệp, thuỷ sản trong tổng số hộ nông thôn giảm từ 54,37% xuống còn
40,23% (cả nước giảm từ 62,15% xuống còn 53,66%; vùng Đồng bằng sông
Hồng: giảm từ 47,44% xuống còn 35,55%); tỷ trọng lao động công nghiệp
tăng kéo theo sự gia tăng của tỷ trọng hộ sản xuất kinh doanh công nghiệp và
xây dựng trong tổng số hộ nông thôn tăng từ 20,06 lên 29,48% (cả nước tăng
từ 15,03% lên 20,45%; vùng Đồng bằng sông Hồng: tăng từ 23,48% lên
31,46%); sự tăng lên của số lượng lao động dịch vụ song hành với sự gia tăng
của tỷ trọng hộ kinh doanh dịch vụ trong tổng số hộ nông thôn từ 15,50% lên
17,72% (cả nước tăng từ 18,41% lên 19,58%; vùng Đồng bằng sông Hồng:
tăng từ 21,37% lên 22,59%) [81, tr.128].
Trong nội bộ ngành nông nghiệp, tỷ trọng số hộ sản xuất kinh doanh
nông nghiệp theo nghĩa hẹp trong tổng số hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp
giảm từ 97,13% năm 2011 xuống còn 95,82% năm 2016 (cả nước giảm từ
92,98% xuống còn 91,32%; vùng Đồng bằng sông Hồng: giảm từ 95,99%
xuống còn 94,71%); tỷ trọng số hộ sản xuất kinh doanh lâm nghiệp giảm từ
0,016% xuống còn 0,002% (cả nước tăng từ 0,54% lên 1,28%; vùng Đồng
bằng sông Hồng: tăng từ 0,17% lên 0,28%); tỷ trọng số hộ sản xuất kinh
doanh thuỷ sản tăng từ 2,85% lên 4,18% (cả nước tăng từ 6,47% lên 7,40%;
vùng Đồng bằng sông Hồng: tăng từ 3,84% lên 5,01%) [81, tr.128].
88
Những kết quả phân tích ở trên cho phép có thể khẳng định rằng, trong
quá trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Thái Bình, cơ cấu lao
động nói chung và đặc biệt là cơ cấu lao động nông thôn đã có sự chuyển dịch
đáng kể theo ngành phù hợp với yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trên địa
bàn tỉnh nói riêng.
3.2.2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động trên địa bàn các
huyện ở tỉnh Thái Bình
Trong quá trình xây dựng nông thôn mới, cơ cấu lao động nông thôn
trên địa bàn tỉnh không những đã chuyển dịch theo ngành mà còn chuyển dịch
theo địa bàn lãnh thổ địa phương các huyện trong Tỉnh. Tình hình chuyển
dịch cơ cấu lao động trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn từng địa
phương trong Tỉnh được phản ánh qua các số liệu và phân tích dưới đây:
Bảng 3.9: Tình hình chuyển dịch ngành nghề của hộ nông thôn
trên địa bàn thành phố Thái Bình giai đoạn 2011-2016
Số lƣợng (hộ)
Cơ cấu (%)
2011
2016
2011
2016
Tăng, giảm
13869
9020
50,55
31,37
-19,18
Hộ nông nghiệp
0,00
0,00
0,00
Hộ Lâm nghiệp
247
124
0,90
0,43
-0,47
Hộ thuỷ sản
0,00
0,00
0,00
Hộ diêm nghiệp
3853
6789
14,04
23,61
9,57
Hộ công nghiệp
2800
3173
10,21
11,03
0,82
Hộ xây dựng
2097
2789
7,64
9,70
2,06
Hộ thương nghiệp
587
1082
2,14
3,76
1,62
Hộ vận tải
2537
2977
9,25
10,35
1,10
Hộ dịch vụ khác
1445
2800
5,27
9,74
4,47
Hộ khác
14116
9144
2,75
1,72
-1,03
Hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
6653
9962
1,29
1,87
0,58
Hộ công nghiệp và xây dựng
5221
6848
1,02
1,29
0,27
Hộ dịch vụ
27435
28754
100
100
0,00
Tổng số
Nguồn: [2].
89
Những số liệu trên cho thấy trên địa bàn nông thôn của Thành phố Thái
Bình trong giai đoạn 2011-2016 đã có sự chuyển dịch cơ cấu lao động thông
qua chuyển dịch cơ cấu hộ sản xuất kinh doanh nông thôn theo loại hình hoạt
động sản xuất kinh doanh. Cụ thể là: đã diễn ra sự giảm xuống về số lượng
đối với một số nhóm hộ sản xuất kinh doanh như: nông nghiệp theo nghĩa hẹp
giảm 34,96%; thuỷ sản giảm 49,8%, làm cho số lượng hộ kinh doanh nông,
lâm nghiệp, thuỷ sản giảm 35,42%. Các loại hộ sản xuất kinh doanh có sự gia
tăng về số lượng bao gồm Hộ công nghiệp, Hộ xây dựng, Hộ thương nghiệp,
Hộ vận tải, Hộ dịch vụ khác, Hộ khác, trong đó mức tăng nhiều nhất là số hộ
khác (tăng 93,77%), tiếp đó là hộ vận tải (tăng 84,33%) và hộ công nghiệp
(tăng 76,20%)… mức tăng thấp nhất về số lượng là các hộ xây dựng (tăng
13,32%), nhờ đó số lượng các hộ công nghiệp và xây dựng tăng 49,74%; số
lượng các hộ dịch vụ tăng 31,16%.
Nếu xét về cơ cấu thì trong giai đoạn 2011-2016 tỷ trọng hộ kinh doanh
nông, lâm nghiệp, thuỷ sản trong tổng số hộ sản xuất kinh doanh ở nông thôn
của thành phố Thái Bình giảm 19,65%; tỷ trọng hộ kinh doanh công nghiệp
và xây dựng tăng 10,4%; tỷ trọng hộ kinh doanh dịch vụ tăng 4,79%. Đến
năm 2016, cơ cấu hộ sản xuất kinh doanh theo nhóm ngành của thành phố
Thái Bình là hộ kinh doanh nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 31,80%, thấp
hơn so với mức chung của toàn tỉnh (40,23%); hộ kinh doanh công nghiệp và
xây dựng chiếm 34,65%, cao hơn so với mức chung của toàn tỉnh (29,48%);
hộ kinh doanh dịch vụ chiếm 23,82%, cao hơn so với mức chung của toàn
tỉnh (17,72%).
Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động thông qua sự chuyển dịch cơ
cấu hộ sản xuất kinh doanh của huyện Quỳnh Phụ được phản ánh qua các số
liệu của bảng 3.10 dưới đây:
90
Bảng 3.10: Tình hình chuyển dịch ngành nghề của hộ nông thôn
trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2016
Số lƣợng (hộ)
Cơ cấu (%)
2011
2016
2011
2016
Tăng, giảm
44877
27395
62,90
38,06
-24,84
Hộ nông nghiệp
0,00
0,00
0,00
Hộ Lâm nghiệp
628
652
0,88
0,91
0,03
Hộ thuỷ sản
0,00
0,00
0,00
Hộ diêm nghiệp
6204
12757
8,70
17,72
9,02
Hộ công nghiệp
4621
9416
6,48
13,08
6,60
Hộ xây dựng
4222
5437
5,92
7,55
1,63
Hộ thương nghiệp
806
1993
1,13
2,77
1,64
Hộ vận tải
3789
4615
5,31
6,41
1,10
Hộ dịch vụ khác
6194
9722
8,68
13,51
4,83
Hộ khác
63,79
38,96
-24,83
45505
28047
Hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
15,17
30,80
15,63
10825
22173
Hộ công nghiệp và xây dựng
12,36
16,73
4,37
8817
12045
Hộ dịch vụ
100
0,00
71341
71987
100
Tổng số
Nguồn: [2].
Những số liệu trên cho thấy chuyển dịch cơ cấu hộ sản xuất kinh doanh
nông thôn theo loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn nông
thôn của huyện Quỳnh Phụ trong giai đoạn 2011-2016 cụ thể như sau: chỉ có
số lượng hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp theo nghĩa hẹp là giảm (giảm
38,96%), các loại hộ sản xuất kinh doanh khác đều tăng về số lượng, trong đó
mức tăng nhiều nhất thuộc về các hộ vận tải (tăng 147,27%), hộ công nghiệp
(tăng 105,63%), hộ xây dựng (tăng 103,77%). Theo đó, số lượng hộ kinh
doanh nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm 38,37%; số lượng các hộ công nghiệp
và xây dựng tăng 104,83%; số lượng các hộ dịch vụ tăng 36,61%.
Nếu xét về cơ cấu thì trong giai đoạn 2011-2016 tỷ trọng hộ kinh
doanh nông, lâm nghiệp, thuỷ sản trong tổng số hộ sản xuất kinh doanh ở nông
thôn của huyện Quỳnh Phụ giảm 24,82%; tỷ trọng hộ kinh doanh công nghiệp
và xây dựng tăng 15,63%; tỷ trọng hộ kinh doanh dịch vụ tăng 4,37%. Đến năm
91
2016, cơ cấu hộ sản xuất kinh doanh theo nhóm ngành của huyện Quỳnh Phụ là
hộ kinh doanh nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 38,96%, thấp hơn so với mức
chung của toàn tỉnh (40,23%); hộ kinh doanh công nghiệp và xây dựng chiếm
30,80%, cao hơn so với mức chung của toàn tỉnh (29,48%); hộ kinh doanh dịch
vụ chiếm 16,73%, thấp hơn so với mức chung của toàn tỉnh (17,72%).
Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động thông qua sự chuyển dịch cơ
cấu hộ sản xuất kinh doanh của huyện Hưng Hà được phản ánh qua các số
liệu của bảng 3.11 dưới đây:
Bảng 3.11: Tình hình chuyển dịch ngành nghề của hộ nông thôn
trên địa bàn huyện Hƣng Hà tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2016
Số lƣợng (hộ)
Cơ cấu (%)
Tăng, giảm
2011
2016
2011
2016
29723
24851
41,04
32,57
-8,47
Hộ nông nghiệp
23
1
0,03
0,00
-0,03
Hộ Lâm nghiệp
487
462
0,67
0,61
-0,06
Hộ thuỷ sản
0,00
0,00
0,00
Hộ diêm nghiệp
14580
19271
20,13
25,26
5,13
Hộ công nghiệp
9024
11157
12,46
14,62
2,16
Hộ xây dựng
6323
6660
8,73
8,73
0,00
Hộ thương nghiệp
1127
1831
1,56
2,40
0,84
Hộ vận tải
4362
4987
6,02
6,54
0,52
Hộ dịch vụ khác
6784
7078
9,37
9,28
-0,09
Hộ khác
33,18
-8,56
30233
25314
41,74
Hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
39,88
7,29
23604
30428
32,59
Hộ công nghiệp và xây dựng
11812
13478
16,31
17,66
1,35
Hộ dịch vụ
72433
76298
100
100
0,00
Tổng số
Nguồn: [2].
Trên địa bàn nông thôn của huyện Hưng Hà trong giai đoạn 2011-2016,
số lượng hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp theo nghĩa hẹp giảm 16,39%, số
lượng hộ lâm nghiệp giảm 95,65%; số lượng hộ thuỷ sản giảm 5,13%. Xu
hướng tăng về số lượng thuộc các nhóm hộ sản xuất kinh doanh khác, trong
đó mức tăng nhiều nhất thuộc về các hộ vận tải (tăng 62,47%), hộ công
92
nghiệp (tăng 32,17%), hộ xây dựng (tăng 23,64%). Theo đó, số lượng hộ kinh
doanh nông, lâm nghiệp, thuỷ sản giảm 16,27%; số lượng các hộ công nghiệp
và xây dựng tăng 28,91%; số lượng các hộ dịch vụ tăng 14,10%.
Nếu xét về cơ cấu thì trong giai đoạn 2011-2016 tỷ trọng hộ kinh
doanh nông, lâm nghiệp, thuỷ sản trong tổng số hộ sản xuất kinh doanh ở
nông thôn của Hưng Hà giảm 8,56%; tỷ trọng hộ kinh doanh công nghiệp và
xây dựng tăng 7,29%; tỷ trọng hộ kinh doanh dịch vụ tăng 1,36%. Đến năm
2016, cơ cấu hộ sản xuất kinh doanh theo nhóm ngành của Hưng Hà là hộ
kinh doanh nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 33,18%, thấp hơn so với mức
chung của toàn tỉnh (40,23%); hộ kinh doanh công nghiệp và xây dựng chiếm
39,88%, cao hơn so với mức chung của toàn tỉnh (29,48%); hộ kinh doanh
dịch vụ chiếm 17,66%, thấp hơn so với mức chung của toàn tỉnh (17,72%).
Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động thông qua sự chuyển dịch cơ
cấu hộ sản xuất kinh doanh của huyện Đông Hưng được phản ánh qua các số
liệu của bảng 3.12 dưới đây:
Bảng 3.12: Tình hình chuyển dịch ngành nghề của hộ nông thôn
trên địa bàn huyện Đông Hƣng tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2016
Cơ cấu (%)
2016 Tăng, giảm -0,39 36,15
Số lƣợng (hộ) 2011 27056
2016 27674
2011 36,54
6
0,01
0,00
-0,01
302
275
0,41
0,36
-0,05
0,00
0,00
0,00
10111
14540
13,65
19,00
5,35
10780
8439
14,56
11,02
-3,54
8272
7745
11,17
10,12
-1,05
1715
2284
2,32
2,98
0,66
6524
5131
8,81
6,70
-2,11
9281
10458
12,53
13,66
1,13
27364
27949
36,95
36,51
-0,44
20891
22979
28,21
30,02
1,81
16511
15160
22,30
19,81
-2,49
76546
100
100
0,00
Hộ nông nghiệp Hộ Lâm nghiệp Hộ thuỷ sản Hộ diêm nghiệp Hộ công nghiệp Hộ xây dựng Hộ thương nghiệp Hộ vận tải Hộ dịch vụ khác Hộ khác Hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản Hộ công nghiệp và xây dựng Hộ dịch vụ Tổng số
74047 Nguồn: [2].
93
Trên địa bàn nông thôn của huyện Đông Hưng trong giai đoạn
2011-2016, các nhóm hộ sản xuất kinh doanh có số lượng giảm bao gồm
hộ lâm nghiệp, hộ thuỷ sản, hộ xây dựng, hộ thương nghiệp, hộ dịch vụ
khác, trong đó giảm nhiều nhất là các hộ lâm nghiệp. Xu hướng tăng về số
lượng thuộc các nhóm hộ sản xuất kinh doanh khác, trong đó mức tăng
nhiều nhất thuộc về các hộ công nghiệp (tăng 43,8%), hộ vận tải (tăng
33,18. Theo đó, số lượng hộ kinh doanh nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng
2,14%; số lượng các hộ công nghiệp và xây dựng tăng 9,99%; số lượng
các hộ dịch vụ giảm 8,18%.
Nếu xét về cơ cấu thì trong giai đoạn 2011-2016 tỷ trọng hộ kinh
doanh nông, lâm nghiệp, thủy sản trong tổng số hộ sản xuất kinh doanh ở
nông thôn của Đông Hưng giảm 0,44%; tỷ trọng hộ kinh doanh công
nghiệp và xây dựng tăng 1,81%; tỷ trọng hộ kinh doanh dịch vụ giảm
2,49%. Đến năm 2016, cơ cấu hộ sản xuất kinh doanh theo nhóm ngành
của Đông Hưng là hộ kinh doanh nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm
36,51%, thấp hơn so với mức chung của toàn tỉnh (40,23%); hộ kinh doanh
công nghiệp và xây dựng chiếm 30,02%, cao hơn so với mức chung của
toàn tỉnh (29,48%); hộ kinh doanh dịch vụ chiếm 19,81%, cao hơn so với
mức chung của toàn tỉnh (17,72%).
Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động thông qua sự chuyển dịch cơ
cấu hộ sản xuất kinh doanh của huyện Thái Thuỵ được phản ánh qua các số
liệu của bảng 3.13 dưới đây:
94
Bảng 3.13: Tình hình chuyển dịch ngành nghề của hộ nông thôn
trên địa bàn huyện Thái Thuỵ tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2016
Số lƣợng (hộ)
Cơ cấu (%)
2011
2016
2011
2016 Tăng, giảm
49664
36480
67,46
48,47
-18,99
Hộ nông nghiệp
6
2
0,01
0,00
-0,01
Hộ Lâm nghiệp
2340
3106
3,18
4,13
0,95
Hộ thuỷ sản
308
38
0,42
0,05
-0,37
Hộ diêm nghiệp
2614
6075
3,55
8,07
4,52
Hộ công nghiệp
2763
6201
3,75
8,24
4,49
Hộ xây dựng
3475
5194
4,72
6,90
2,18
Hộ thương nghiệp
1110
2075
1,51
2,76
1,25
Hộ vận tải
4009
5195
5,45
6,90
1,45
Hộ dịch vụ khác
7332
9,96
10901
14,48
4,52
Hộ khác
52010
39588
70,65
52,60
-18,05
Hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
5685
8,64
12314
7,72
16,36
Hộ công nghiệp và xây dựng
8594
4,89
12464
11,67
16,56
Hộ dịch vụ
0,00
73621
75267
100
100
Tổng số
Nguồn: [2].
Theo các số liệu trên, trên địa bàn nông thôn của huyện Thái Thuỵ
trong giai đoạn 2011-2016, các nhóm hộ sản xuất kinh doanh có số lượng
giảm bao gồm hộ nông nghiệp (giảm 26,55%), lâm nghiệp (giảm 66,67%), hộ
diêm nghiệp (giảm 87,66%). Số lượng thuộc các nhóm hộ sản xuất kinh
doanh khác đều có xu hướng tăng, trong đó mức tăng nhiều nhất thuộc về các
hộ công nghiệp (tăng 132,40%), hộ xây dựng (tăng 124,43%), hộ vận tải (tăng
86,94%), hộ thương nghiệp (tăng 49,47%). Theo đó, số lượng hộ kinh doanh
nông, lâm nghiệp, thuỷ sản giảm 23,88%%; số lượng các hộ công nghiệp và
xây dựng tăng 116,61%; số lượng các hộ dịch vụ tăng 45,03%.
Nếu xét về cơ cấu thì trong giai đoạn 2011-2016 tỷ trọng hộ kinh
doanh nông, lâm nghiệp, thuỷ sản trong tổng số hộ sản xuất kinh doanh ở
95
nông thôn của huyện Thái Thuỵ giảm 18,05%; tỷ trọng hộ kinh doanh công
nghiệp và xây dựng tăng 8,64%; tỷ trọng hộ kinh doanh dịch vụ tăng
4,89%%. Đến năm 2016, cơ cấu hộ sản xuất kinh doanh theo nhóm ngành của
huyện Thái Thuỵ là hộ kinh doanh nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 52,60%,
cao hơn so với mức chung của toàn tỉnh (40,23%); hộ kinh doanh công
nghiệp và xây dựng chiếm 16,36%, thấp hơn so với mức chung của toàn tỉnh
(29,48%); hộ kinh doanh dịch vụ chiếm 16,56%, thấp hơn so với mức chung
của toàn tỉnh (17,72%).
Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động thông qua sự chuyển dịch cơ
cấu hộ sản xuất kinh doanh của huyện Tiền Hải được phản ánh qua các số liệu
của bảng 3.14 dưới đây:
Bảng 3.14: Tình hình chuyển dịch ngành nghề của hộ nông thôn
trên địa bàn huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2016
Số lƣợng (hộ)
Cơ cấu (%)
2011
2016
2011
2016 Tăng, giảm
33821
27419
54,30
41,81
-12,49
Hộ nông nghiệp
2
0,00
0,00
2
0,00
Hộ Lâm nghiệp
3168
3300
5,09
5,03
-0,06
Hộ thuỷ sản
6
0,00
0,01
0,01
Hộ diêm nghiệp
10547
9,43
16,08
5871
6,65
Hộ công nghiệp
5876
6,49
8,96
4042
2,47
Hộ xây dựng
4766
6,10
7,27
3799
1,17
Hộ thương nghiệp
1611
1,49
2,46
931
0,97
Hộ vận tải
4340
5,98
6,62
3727
0,64
Hộ dịch vụ khác
7711
11,13
11,76
6930
0,63
Hộ khác
36991
30721
59,38
46,85
-12,53
Hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
9913
9,14
16429
15,91
25,05
Hộ công nghiệp và xây dựng
8457
10717
13,58
16,34
2,76
Hộ dịch vụ
62291
65578
100
100
0,00
Tổng số
Nguồn: [2].
96
Trong giai đoạn 2011-2016, trên địa bàn nông thôn của huyện Tiền
Hải, số hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp giảm 18,93%. Số lượng các
nhóm hộ sản xuất kinh doanh khác đều có xu hướng tăng, trong đó mức tăng
nhiều nhất thuộc về các hộ công nghiệp (tăng 79,65%), hộ vận tải (tăng
73,04%), hộ xây dựng (tăng 45,37%), hộ thương nghiệp (tăng 25,45%).
Theo đó, số lượng hộ kinh doanh nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm 16,95%;
số lượng các hộ công nghiệp và xây dựng tăng 65,73%; số lượng các hộ dịch
vụ tăng 26,72%.
Nếu xét về cơ cấu thì trong giai đoạn 2011-2016 tỷ trọng hộ kinh
doanh nông, lâm nghiệp, thủy sản trong tổng số hộ sản xuất kinh doanh ở
nông thôn của huyện Tiền Hải giảm 12,54%; tỷ trọng hộ kinh doanh công
nghiệp và xây dựng tăng 9,14%; tỷ trọng hộ kinh doanh dịch vụ tăng
2,77%%. Đến năm 2016, cơ cấu hộ sản xuất kinh doanh theo nhóm ngành của
huyện Tiền Hải là hộ kinh doanh nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 46,85%,
cao hơn so với mức chung của toàn tỉnh (40,23%); hộ kinh doanh công
nghiệp và xây dựng chiếm 25,05%, thấp hơn so với mức chung của toàn tỉnh
(29,48%); hộ kinh doanh dịch vụ chiếm 16,34%, thấp hơn so với mức chung
của toàn tỉnh (17,72%).
Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động thông qua sự chuyển dịch cơ
cấu hộ sản xuất kinh doanh của huyện Kiến Xương được phản ánh qua các số
liệu của bảng 3.15 dưới đây:
97
Bảng 3.15: Tình hình chuyển dịch ngành nghề của hộ nông thôn
trên địa bàn huyện Kiến Xƣơng tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2016
Số lƣợng (hộ)
Cơ cấu (%)
2011
2016
2011
2016 Tăng, giảm
36892
22717
53,51
32,67
-20,84
Hộ nông nghiệp
0,00
0,00
0,00
Hộ Lâm nghiệp
338
470
0,49
0,68
0,19
Hộ thuỷ sản
0,00
0,00
0,00
Hộ diêm nghiệp
6341
12362
9,20
17,78
8,58
Hộ công nghiệp
6062
10162
8,79
14,62
5,83
Hộ xây dựng
4222
5642
6,12
8,11
1,99
Hộ thương nghiệp
952
2029
1,38
2,92
1,54
Hộ vận tải
6153
5997
8,93
8,63
-0,30
Hộ dịch vụ khác
7980
10148
11,58
14,60
3,02
Hộ khác
-20,65
37230
23187
54,00
33,35
Hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
14,41
12403
22524
17,99
32,40
Hộ công nghiệp và xây dựng
11327
13668
18,18
20,84
2,66
Hộ dịch vụ
68940
69527
100
100
0,00
Tổng số
Nguồn: [2].
Trong giai đoạn 2011-2016, trên địa bàn nông thôn của huyện Kiến
Xương, số hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp giảm 38,42%, hộ dịch vụ khác
giảm 2,54%. Số lượng hộ vận tải tăng 113,13%, hộ công nghiệp tăng 94,95%,
hộ xây dựng tăng 67,73%, thuỷ sản tăng 39,05%; hộ thương nghiệp tăng
33,63%. Năm 2016 so với năm 2011, số lượng hộ kinh doanh nông, lâm
nghiệp giảm 37,72%, số lượng các hộ công nghiệp và xây dựng tăng 81,60%;
số lượng các hộ dịch vụ tăng 20,67%.
Nếu xét về cơ cấu thì trong giai đoạn 2011-2016 tỷ trọng hộ kinh
doanh nông, lâm nghiệp, thuỷ sản trong tổng số hộ sản xuất kinh doanh ở
nông thôn của huyện Kiến Xương giảm 20,65%; tỷ trọng hộ kinh doanh công
nghiệp và xây dựng tăng 14,41%; tỷ trọng hộ kinh doanh dịch vụ tăng
2,66%%. Đến năm 2016, cơ cấu hộ sản xuất kinh doanh theo nhóm ngành của
huyện Kiến Xương là hộ kinh doanh nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm
98
33,35%, thấp hơn so với mức chung của toàn tỉnh (40,23%); hộ kinh doanh
công nghiệp và xây dựng chiếm 32,40%, cao hơn so với mức chung của toàn
tỉnh (29,48%); hộ kinh doanh dịch vụ chiếm 20,08%, cao hơn so với mức
chung của toàn tỉnh (17,72%).
Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động thông qua sự chuyển dịch cơ
cấu hộ sản xuất kinh doanh của huyện Vũ Thư được phản ánh qua các số liệu
của bảng 3.16 dưới đây:
Bảng 3.16: Tình hình chuyển dịch ngành nghề của hộ nông thôn
trên địa bàn huyện Vũ Thƣ tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2016
Số lƣợng (hộ)
Cơ cấu (%)
Tăng,
2011
2016
2016
giảm
2011
35588
29821
43,34
-12,22
55,56
Hộ nông nghiệp
9
0,00
-0,01
0,01
Hộ Lâm nghiệp
462
566
0,82
0,10
0,72
Hộ thuỷ sản
0,00
0,00
0,00
Hộ diêm nghiệp
16301
13,89
23,69
8896
9,80
Hộ công nghiệp
4270
3954
5,75
-0,92
6,67
Hộ xây dựng
4657
5318
7,73
0,46
7,27
Hộ thương nghiệp
638
1102
1,60
0,60
1,00
Hộ vận tải
3693
3579
5,20
-0,57
5,77
Hộ dịch vụ khác
5840
8161
11,86
2,74
9,12
Hộ khác
Hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ
36059
30387
56,30
44,17
-12,13
sản
29,44
8,89
20,55
13166
20255
Hộ công nghiệp và xây dựng
8988
9999
14,53
0,50
14,03
Hộ dịch vụ
64053
68802
100
0,00
100
Tổng số
Nguồn: [2].
Trong giai đoạn 2011-2016, trên địa bàn nông thôn của huyện Vũ Thư,
số hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp giảm 16,20%, hộ lâm nghiệp giảm
100%, hộ xây dựng giảm 7,4%. Số lượng hộ công nghiệp tăng 83,24%, hộ
vận tải tăng 72,73%, hộ thuỷ sản tăng 22,51%; hộ thương nghiệp tăng
99
14,19%. Năm 2016 so với năm 2011, số lượng hộ kinh doanh nông, lâm
nghiệp giảm 15,73%, số lượng các hộ công nghiệp và xây dựng tăng 53,84%;
số lượng các hộ dịch vụ tăng 11,25%.
Nếu xét về cơ cấu thì trong giai đoạn 2011-2016 tỷ trọng hộ kinh doanh
nông, lâm nghiệp, thuỷ sản trong tổng số hộ sản xuất kinh doanh ở nông thôn
của huyện Vũ Thư giảm 12,13%; tỷ trọng hộ kinh doanh công nghiệp và xây
dựng tăng 8,88%; tỷ trọng hộ kinh doanh dịch vụ tăng 0,50%. Đến năm 2016,
cơ cấu hộ sản xuất kinh doanh theo nhóm ngành của huyện Vũ Thư là hộ kinh
doanh nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 44,17%, cao hơn so với mức chung
của toàn tỉnh (40,23%); hộ kinh doanh công nghiệp và xây dựng chiếm
29,44%, thấp hơn so với mức chung của toàn tỉnh (29,48%); hộ kinh doanh
dịch vụ chiếm 14,53%, thấp hơn so với mức chung của toàn tỉnh (17,72%).
Những trình bày và phân tích ở trên cho thấy, các địa phương cấp
huyện trong tỉnh Thái Bình đều diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động
trong xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, sự chuyển dịch đó diễn ra không đều,
trước hết do điểm xuất phát về cơ cấu lao động và các điều kiện tự nhiên và KT-
XH của các địa phương cấp huyện là không giống nhau. Tỷ trọng lao động nông
lâm nghiệp và thuỷ sản trong lao động nông thôn đều giảm ở tất cả các địa
phương cấp huyện song mức độ giảm rất khác nhau: mức giảm nhiều nhất đã
diễn ra tại các địa phương như huyện Quỳnh Phụ (giảm 24,82%), huyện Kiến
Xương (giảm 20,65%), thành phố Thái Bình (giảm 19,65%) mức giảm nhiều
thấp nhất đã diễn ra tại các địa phương như huyện Hưng Hà, huyện Đông Hưng
(giảm 8,56%). Tỷ trọng lao động công nghiệp và xây dựng, lao động dịch vụ
trong lao động nông thôn đều tăng ở tất cả các địa phương cấp huyện song mức
độ tăng cũng rất khác nhau. Mức tăng cao nhất của tỷ trọng lao động công
nghiệp và xây dựng trong lao động nông thôn thuộc về huyện Quỳnh Phụ (tăng
15,63%), huyện Kiến Xương (tăng 14,41%). Mức tăng thấp nhất thuộc về huyện
Hưng Hà và Đông Hưng (cùng tăng 7,29%). Mức tăng cao nhất của tỷ trọng lao
động dịch vụ trong lao động nông thôn thuộc về thành phố Thái Bình (tăng
4,79%), thấp nhất thuộc về huyện Vũ Thư - tăng 0,5%.
100
3.2.3. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động theo trình độ chuyên
môn trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình
Song song với sự thay đổi của cơ cấu lao động theo ngành, tiểu ngành
và theo các địa phương, đội ngũ lao động trong xây dựng nông thôn mới cũng
không ngừng có sự chuyển dịch về trình độ chuyên môn. Tình hình chuyển
dịch cơ cấu lao động nông thôn theo trình độ chuyên môn được phản ánh qua
các số liệu của bảng 3.17 dưới đây:
Bảng 3.17: Số ngƣời trong độ tuổi lao động có khả năng lao động
ở nông thôn phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật năm 2011 và 2016
Cả nƣớc
Đồng bằng sông
Tỉnh Thái
Đơn
Hồng
Bình
vị tính
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
2016
2011
2016
2011
2016
2011
Nghìn
31.996 31.017
7.018
6.697
779
724
người
Tổng số
%
100,00 100,00
100,00 100,00 100,00 100,00
- Chưa qua đào tạo
%
65,86
47,69
46,81
88,84
82,51
84,96
- Đã qua đào tạo nhưng
%
18,27
28,98
31,19
không có bằng, chứng chỉ
- Sơ cấp
%
4,74
2,81
7,36
8,45
5,04
4,77
- Trung cấp
%
3,85
4,25
5,33
4,56
5,32
6,48
- Cao đẳng
%
3,26
1,93
5,38
5,53
3,09
3,18
- ĐH
%
3,96
2,17
5,23
3,43
1,59
3,06
- Khác
%
0,06
0,03
0,03
Nguồn: [80, tr.244; 81, tr.141,143].
Các số liệu trên cho thấy, trong giai đoạn 2011-2016 số lượng lao động
trong độ tuổi ở nông thôn tỉnh Thái Bình đã qua đào tạo tăng mạnh, tỷ lệ lao
động trong độ tuổi ở nông thôn đã qua đào tạo đã tăng từ 15,04% năm 2011 lên
53,19% năm 2016, trong khi tỷ lệ lao động trong độ tuổi ở nông thôn đã qua đào
tạo tính trung bình cho cả nước tăng từ 11,16% lên 34,14%, đồng bằng sông
Hồng tăng từ 17,49% lên 52,31%. Như vậy, trong giai đoạn 2011-2016, mức
tăng 38,15% của tỷ lệ lao động trong độ tuổi ở nông thôn đã qua đào tạo so với
101
tổng số lao động trong độ tuổi ở nông thôn tỉnh Thái Bình là cao hơn so với mức
tăng trung bình của cả nước (22,98%) và đồng bằng sông Hồng (34,82%).
Tình hình thay đổi cụ thể của từng trình độ lao động nông thôn đã qua
đào tạo trong giai đoạn 2011-2016 như sau:
Tỷ lệ lao động nông thôn có trình độ sơ cấp trên tổng số lao động nông
thôn tăng từ 5,04% năm 2011 lên 8,45% năm 2016, tăng 3,41%, trong khi đối
với cả nước tỷ lệ này tăng từ 2,81% lên 4,74% (tăng 1,93%); đồng bằng sông
Hồng từ 4,77% lên 7,36% (tăng 2,59%).
Tỷ lệ lao động nông thôn có trình độ trung cấp trên tổng số lao động nông
thôn giảm từ 5,32% năm 2011 xuống còn 4,56% năm 2016, giảm 0,76%, trong
khi đối với cả nước tỷ lệ này giảm từ 4,25% xuống còn 3,85% (giảm 0,40%);
đồng bằng sông Hồng từ 6,48% xuống còn 5,33% (giảm 1,15%).
Tỷ lệ lao động nông thôn có trình độ cao đẳng trên tổng số lao động
nông thôn tăng từ 3,09% năm 2011 lên 5,53% năm 2016, tăng 2,44%, trong
khi đối với cả nước tỷ lệ này tăng từ 1,93% lên 3,26% (tăng 1,33%); đồng
bằng sông Hồng từ 3,18% lên 5,38% (tăng 2,2%).
Tỷ lệ lao động nông thôn có trình độ đại học trở lên trên tổng số lao
động nông thôn tăng từ 1,59% năm 2011 lên 3,43% năm 2016, tăng 1,84%,
trong khi đối với cả nước tỷ lệ này tăng từ 2,17% lên 3,96% (tăng 0,06%);
đồng bằng sông Hồng từ 3,06% lên 5,23% (tăng 2,27%).
Những phân tích trên cho thấy, sự gia tăng của đội ngũ lao động trong
độ tuổi đã qua đào tạo ở nông thôn tỉnh Thái Bình chủ yếu do đã có sự tách
bạch trong số liệu điều tra giữa các nhóm lao động chưa qua đào tạo và đã qua
đào tạo nhưng không có bằng, chứng chỉ: Đối với tỉnh Thái Bình tỷ lệ lao
động trong độ tuổi đã qua đào tạo ở nông thôn năm 2016 chiếm 31,19%, cả
nước - 18,27%, đồng bằng sông Hồng - 28,98%. Đóng góp thực sự vào sự gia
tăng trình độ lao động nông thôn là sự gia tăng của các nhóm lao động có
trình độ sơ cấp, cao đẳng và từ đại học trở lên. Tuy nhiên, có thể khẳng định là
sự đóng góp đó còn rất thấp: Mức tăng của tỷ lệ lao động các nhóm này trong
102
giai đoạn 2011-2016 chỉ là 5,88%; cả nước - 3,32%; đồng bằng sông Hồng -
4,82%. Hơn thế nữa, trong số 3 nhóm lao động nông thôn phân theo trình độ
chuyên môn kể trên thì đóng góp nhiều nhất vào chuyển dịch cơ cấu lao động
theo trình độ chuyên môn lại thuộc về nhóm lao động trình độ sơ cấp.
Tình hình trên đây cho thấy, mặc dù trong quá trình xây dựng nông
thôn mới cơ cấu lao động nông thôn theo trình độ chuyên môn ở tỉnh Thái
Bình đã có sự chuyển dịch tích cực, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo với các trình
độ sơ cấp, cao đẳng và từ đại học trở lên tăng nhanh hơn so với tỷ lệ trung
bình của cả nước và Đồng bằng sông Hồng, tuy nhiên nhìn chung phần lớn
lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh vẫn ở trình độ chuyên môn thấp.
Kết quả phân tích kể trên về cơ bản cũng tương đồng với phân tích các
số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê và Cục Thống kê tỉnh Thái Bình giai
đoạn 2011-2017, thể hiện qua bảng 3.15 dưới đây:
Bảng 3.18: Tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo giai đoạn 2011-2017
Tỉnh Thái Bình
Cả nước
Tổng số
Thành thị Nông thôn
Tổng số Thành thị Nông thôn
2011
14,64
42,05
11,65
15,4
30,9
9,0
2012
14,10
41,70
11,50
16,6
31,7
10,1
2013
13,10
41,00
10,60
17,9
33,7
11,2
2014
15,00
46,00
12,30
18,2
34,3
11,2
2015
12,70
35,40
10,50
19,9
36,3
12,6
2016
13,50
34,30
11,50
20,6
37,2
12,8
Sơ bộ 2017
15,40
33,10
13,60
24,0
37,9
13,7
ĐVT: %
Nguồn: [12, tr.48; 13, tr.57; 82, tr.142].
Theo các số liệu kể trên, trong giai đoạn 2011-2017 tỷ lệ đã qua đào tạo
của lao động đang làm việc ở nông thôn trên địa bàn tỉnh có sự thay đổi
không đáng kể và nhìn chung luôn ở mức thấp: cao nhất là năm 2017 đạt mức
13,6%, thấp nhất là năm 2015 - 10,05%. Trong suốt giai đoạn trên tỷ lệ đã qua
đào tạo của lao động đang làm việc ở nông thôn luôn thấp hơn tỷ lệ đã qua
103
đào tạo của lao động đang làm việc trên địa bàn tỉnh và đặc biệt là thấp hơn
nhiều so với tỷ lệ đã qua đào tạo của lao động đang làm việc ở thành thị trên
địa bàn tỉnh: Năm 2011 thấp hơn so với thành thị là 30,4%; năm 2012 -
30,2%; năm 2013 -30,4%; năm 2014 - 33,7%; năm 2015 - 24,9%; năm 2016 -
22,8%; năm 2017 - 19,5%. Mặc dù các số liệu trên cũng cho thấy xu hướng
ngày càng giảm chênh lệch giữa các số liệu về tỷ lệ đã qua đào tạo của lao
động đang làm việc ở thành thị so với ở nông thôn trên địa bàn tỉnh từ năm
2014 đến năm 2017, tuy nhiên nguyên nhân của sự giảm mức chênh lệch
không hoàn toàn do sự gia tăng của tỷ lệ đã qua đào tạo của lao động đang
làm việc ở nông thôn, mà xuất phát cả từ nguyên nhân giảm sút của tỷ lệ đã
qua đào tạo của lao động đang làm việc ở thành thị trong những năm đó.
Nếu so sánh với tình hình chung của cả nước thì tỷ lệ lao động đã qua
đào tạo của lao động đang làm việc ở nông thôn trên địa bàn tỉnh khá tương
đồng với tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của lao động đang làm việc ở nông
thôn nói chung trên phạm vi cả nước. Trong các năm 2011, năm 2012, năm
2014 tỉnh Thái Bình có mức tỷ lệ cao hơn so với tỷ lệ lao động đã qua đào tạo
của lao động đang làm việc ở nông thôn cả nước, mức cao hơn nhiều nhất là
2,65% vào năm 2011. Trong các năm 2013, năm 2015, năm 2016, năm 2017
Tỉnh có mức tỷ lệ thấp hơn so với tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của lao động
đang làm việc ở nông thôn cả nước, trong đó thấp nhất là năm 2015 - thấp
hơn mức trung bình của cả nước là 2,1%.
3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO
ĐỘNG CỦA THÁI BÌNH TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn trong xây
dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2016 cho
thấy nhiều kết quả tích cực, song đồng thời vẫn còn những khó khăn hạn chế
nhất định cần được nghiên cứu khắc phục để thúc đẩy quá trình xây dựng
nông thôn mới nói riêng và phát triển KT-XH của tỉnh nói chung.
104
3.3.1. Những thành tựu cơ bản về chuyển dịch cơ cấu lao động
trong xây dựng nông thôn mới
Thứ nhất, theo phương diện ngành sản xuất kinh doanh, cơ cấu lao
động nông thôn trên địa bàn đã có bước chuyển dịch tích cực theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung và công nghiệp hoá hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Những trình bày và phân tích trong tiết
3.2.1 ở trên cho thấy, trong những năm qua, đặc biệt kể từ khi Tỉnh triển khai
thực hiện chủ trương xây dựng nông thôn mới, mặc dù lao động nông, lâm
nghiệp, thuỷ sản vẫn chiếm phần lớn trong tổng số lao động nông thôn, lao
động trong ngành thuỷ sản tăng lên, song tổng số lao động nông, lâm nghiệp,
thuỷ sản đang có xu hướng giảm mạnh cả về số lượng tuyệt đối và tỷ trọng
tổng số lao động nông thôn. Lao động công nghiệp và xây dựng có xu hướng
tăng nhanh cả về số lượng tuyệt đối và tỷ trọng tổng số lao động nông thôn.
Lao động dịch vụ có xu hướng tăng cả về số lượng tuyệt đối và tỷ trọng tổng
số lao động nông thôn. Nếu như năm 2011 cơ cấu lao động theo ngành ở nông
thôn của tỉnh là: lao động nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 47,78%, lao động
công nghiệp, xây dựng - 30,95%; lao động dịch vụ - 17,95%; thì đến năm
2016 đã đạt mức: lao động nông, lâm nghiệp, thuỷ sản - 33,20%, lao động
công nghiệp, xây dựng - 42,80%; lao động dịch vụ - 22,82%.
Xu hướng chuyển dịch lao động kể trên của toàn tỉnh cũng thể hiện tỷ
lệ nhóm hộ có nguồn thu nhập lớn nhất từ các ngành công nghiệp, xây dựng
và dịch vụ đều tăng, trong khi đối với hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản thì xu
hướng ngược lại, điều đó chứng tỏ sự đa dạng về hoạt động kinh tế trong mỗi
hộ và hiệu quả sản xuất của các ngành nghề công nghiệp - xây dựng và dịch
vụ cao hơn hẳn so với các hoạt động nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. Đây là
nguyên nhân làm cho số hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm nhanh, đồng
thời số hộ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng nhanh tương ứng, đồng thời
dẫn đến xu hướng giảm nhanh số hộ có kinh tế thuần nông. Điều đó có nghĩa
105
là, ngoài ngành sản xuất chính, các hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản ở nông
thôn đã tích cực khai thác các nguồn vốn và sử dụng số lao động dôi dư, thời
gian nông nhàn để tổ chức thêm các hoạt động kinh tế phi nông, lâm nghiệp
và thuỷ sản; dần dần các ngành này trở thành ngành sản xuất chính của hộ.
Đây là xu hướng khá phổ biến trong nông thôn - còn gọi là xu hướng "ly nông
bất ly hương", góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách tích cực, tăng
thu nhập, cải thiện đời sống dân cư nông thôn [15, tr.22-25].
Thứ hai, lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh đã có xu hướng phân bổ
hợp lý hơn theo địa bàn lãnh thổ, tạo thuận lợi cho khai thác những tiềm năng
thế mạnh của từng địa phương cho phát triển KT-XH của từng địa phương cấp
huyện, góp phần thúc đẩy phát triển KT-XH của tỉnh. Trong thời gian qua quá
trình xây dựng nông thôn mới tại các địa phương cấp huyện đã tạo ra thuận lợi
về các điều kiện KT-XH và đặc biệt là kết cấu hạ tầng, chính sách hỗ trợ sản
xuất kinh doanh, từ đó lao động của các địa bàn có thuận lợi về vị trí địa lý gần
đô thị lớn và có các trục đường giao thông đã tập trung phân bổ cho phát triển
công nghiệp, xây dựng, vận tải…, các địa phương có thế mạnh về phát triển
thuỷ sản cũng có sự chuyển dịch lao động sang phát triển ngành này.
Thứ ba, trong quá trình xây dựng nông thôn mới trình độ lao động nông
thôn không ngừng tăng lên, cơ cấu lao động nông thôn của tỉnh chuyển dịch
theo hướng gia tăng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, giảm dần tỷ lệ lao động
chưa qua đào tạo.
Những kết quả tích cực trong chuyển đổi lao động đã có tác động tới
tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho dân cư và có đóng góp đáng kể vào thúc
đẩy quá trình xây dựng nông thôn mới cũng như phát triển KT-XH của tỉnh.
Sự chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn theo hướng công nghiệp hoá hiện
đại hoá đã tạo thuận lợi cho chuyển dịch hoạt động kinh doanh của các hộ
nông thôn.
Theo đó số hộ nông thôn sản xuất kinh doanh nông nghiệp có xu hướng
106
giảm. Cơ cấu hộ trong nội bộ các tiểu ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản có
thay đổi lớn theo hướng giảm tỷ lệ hộ thuộc ngành nông, lâm nghiệp và tăng
tỷ lệ hộ thuộc ngành thuỷ sản. Số hộ tham gia sản xuất kinh doanh công
nghiệp và xây dựng, dịch vụ ngày càng tăng, tạo nhiều việc làm và tăng thu
nhập cho lao động nông thôn trong các ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng
thời thúc đẩy những ngành này phát triển. Nhờ chuyển dịch tích cực cơ cấu
lao động nông thôn trong xây dựng nông thôn mới, tăng trưởng kinh tế của
tỉnh Thái Bình luôn đạt mức cao hơn so với tốc độ tăng trưởng chung của cả
nước, đồng thời thúc đẩy cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hợp lý: tỷ
trọng nông nghiệp trong GRDP của tỉnh giảm nhanh, tỷ trọng công nghiệp,
xây dựng, dịch vụ trong GRDP của tỉnh tăng nhanh.
Những thành tựu về chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn và tác
động của sự chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn tới phát triển KT-XH
trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Thái Bình những năm qua là
kết quả của sự nỗ lực chung của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân toàn Tỉnh,
đặc biệt là dân cư khu vực nông thôn. Nhờ sự chủ động, tích cực triển khai
chủ trương xây dựng nông thôn mới của Đảng bộ, chính quyền Tỉnh, các
chính sách, cơ chế thuận lợi cho phát triển nông thôn đã được ban hành sớm
và nhanh chóng được triển khai thực hiện, đã tạo ra những thuận lợi rất lớn về
môi trường đầu tư và điều kiện sản xuất kinh doanh. Nhờ đó, sản xuất nông
nghiệp từng bước được cơ giới hoá, từ khâu làm đất phục vụ gieo trồng cây
hàng năm đến khâu vận chuyển vật tư phân bón ra đồng ruộng, và vận chuyển
nông sản phẩm thu hoạch. Khoa học, kỹ thuật ngày càng được ứng dụng
nhiều hơn trong sản xuất. Những cánh đồng mẫu lớn bước đầu áp dụng khoa
học, kỹ thuật như mỗi cánh đồng chỉ thực hiện gieo trồng một loại giống mới,
giống cho sản phẩm chất lượng và năng suất cao để có thể ứng dụng nông
nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái; ứng dụng sản xuất theo tiêu
chuẩn VietGap, GlobalGap; thực hiện hợp tác liên kết theo chuỗi giá trị…
107
Hiệu quả sản xuất không ngừng tăng lên… Chuyển dịch cơ cấu lao động nông
thôn đã góp phần tích cực vào định hướng và thúc đẩy quá trình chuyển dịch
cơ cấu lao động nông thôn.
3.3.2. Những hạn chế trong chuyển dịch cơ cấu lao động của Thái Bình
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được như đã kể trên, quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn trong xây dựng nông thôn mới vẫn
còn những hạn chế nhất định. Cụ thể là:
Thứ nhất, mặc dù tỷ trọng lao động nông lâm nghiệp và thuỷ sản trong
tổng số lao động nông thôn đã giảm mạnh trong thời gian qua, song tỷ trọng
của lao động nông nghiệp theo nghĩa hẹp vẫn còn quá cao, tỷ trọng lao động
thuỷ sản trong tổng số lao động nông thôn mặc dù tăng song vẫn còn ở mức
rất thấp, từ đó tỷ trọng của sản xuất nông nghiệp theo nghĩa hẹp trong tổng
giá trị sản xuất của ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản vẫn ở mức rất cao
(năm 2017 chiếm 75,1%); sản xuất thuỷ sản vẫn chiếm tỷ trọng thấp (năm
2017 chiếm 24,3%) [13, tr.304, 343, 356].
Thứ hai, mặc dù trong cơ cấu lao động nông thôn của tỉnh, tỷ trọng lao
động nông lâm nghiệp và thuỷ sản giảm mạnh, tỷ trọng lao động công nghiệp,
dịch vụ trong tăng nhanh, song mức độ chuyên nghiệp của lao động theo
ngành nghề chưa cao. Tình hình này được phản ánh rõ nét trong chuyển dịch
cơ cấu hộ theo nguồn thu nhập chính. Trong những năm qua, trong cơ cấu các
loại hộ có nguồn thu nhập chính từ các nhóm ngành chủ yếu có sự chuyển
dịch rõ nét theo xu hướng giảm số lượng và tỷ trọng nhóm hộ có nguồn thu
nhập chính từ nông, lâm nghiệp, thuỷ sản; tăng số lượng và tỷ trọng nhóm hộ
có thu nhập chính từ ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ. Tuy nhiên, tỷ lệ
số hộ theo hoạt động sản xuất kinh doanh chính và tỷ lệ số hộ có nguồn thu
nhập lớn nhất từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính không có sự tương
thích. Mặc dù vào năm 2016 tỷ lệ hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm đến
40,5% tổng số hộ khu vực nông thôn, nhưng chỉ có 30,9% số hộ có nguồn thu
108
nhập lớn nhất từ hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. Như vậy,
sẽ có 9,6% số hộ thuộc ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản nhưng nguồn thu
nhập lớn nhất lại từ các ngành phi nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. Ngược lại, tỷ
trọng hộ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ chiếm 46,2%, nhưng lại có 52,5%
số hộ có nguồn thu nhập lớn nhất từ các hoạt động công nghiệp, xây dựng và
dịch vụ. Điều đó, không những cho thấy rằng hiệu quả của hoạt động sản xuất
phi nông, lâm nghiệp và thuỷ sản mang lại thu nhập cao hơn hoạt động sản
xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, mà còn phản ánh tình trạng chưa chuyên
nghiệp theo ngành của lực lượng lao động nông thôn [15, tr.21-22].
Thứ ba, mặc dù trong cơ cấu lao động nông thôn của tỉnh, tỷ lệ lao
động đã qua đào tạo tăng nhanh, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo giảm nhanh,
song chất lượng lao động tính theo trình độ chuyên môn kỹ thuật vẫn ở mức rất
thấp. Các số liệu của Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản năm
2016 cho thấy, trong tổng số lao động thuộc các ngành nghề khu vực nông thôn
Thái Bình thì số lao động chưa qua đào tạo chiếm tới 46,81%. Trong số lao động
đã qua đào tạo thì lao động không có bằng, chứng chỉ chiếm phần lớn: tỷ lệ lao
động đã qua đào tạo nhưng không có bằng, chứng chỉ chiếm đến 31,19% tổng số
lao động nông thôn. Lao động có trình độ từ trung cấp nghề, trung cấp chuyên
nghiệp trở lên chỉ chiếm 13,52%. Như vậy, lực lượng lao động nông thôn chủ
yếu là lao động chưa qua đào tạo và lao động mới chỉ được đào tạo ở mức giản
đơn đang làm việc tại khu vực nông thôn tỉnh Thái Bình, đây là một hạn chế
không hề nhỏ, là thách thức mà các nhà quản lý cần có chính sách phù hợp để
nâng cao chất lượng lao động một yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt trong các
giải pháp phát triển KT-XH nói chung và tăng năng suất lao động nói riêng. Bên
cạnh đó, chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vẫn còn hạn chế, năm 2016
số cán bộ chủ chốt chưa được đào tạo về trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm
1,8%; chưa qua lớp đào tạo về chính trị chiếm 0,5%; chưa qua lớp đào tạo về
quản lý nhà nước chiếm gần 27% [15, tr.28-29].
109
Nếu xét theo ngành sản xuất kinh doanh thì chất lượng lao động trong
nông nghiệp và thuỷ sản tỉnh Thái Bình đang ở trình độ thấp. Theo số liệu của
Cục Thống kê tỉnh Thái Bình, trong tổng số lao động trong độ tuổi và trên độ
tuổi hiện đang làm việc ngành trong nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, số lao
động chưa qua đào tạo gì về chuyên môn kỹ thuật chiếm đến 92%; số người
có qua đào tạo nhưng không có chứng chỉ chiếm 3%, còn lại 5% tổng số
người làm việc trong ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản là đã qua đào tạo có
chứng chỉ, và có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp trở lên. Như vậy, hầu
hết lực lượng lao động làm việc trong các hoạt động sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp và thuỷ sản không được đào tạo, chủ yếu vẫn là những lao động
thủ công, đơn giản, làm theo kinh nghiệm và kiến thức tự học tập lẫn nhau, và
tự tích luỹ nên năng suất và chất lượng hiệu quả lao động rất thấp. Đây là hạn
chế có tính phổ biến của một yếu tố quan trọng trong lực lượng sản xuất là
con người đối với sản xuất ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tại Thái Bình;
hạn chế này nếu không được khắc phục thì khó có thể đẩy nhanh tốc độ phát
triển sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản của Thái Bình nói riêng và góp
phần tăng trưởng kinh tế của Thái Bình nói chung [15, tr.37].
3.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Những hạn chế nêu trên là do nhiều nguyên nhân, cụ thể như sau:
Thứ nhất, sản xuất nông nghiệp là hoạt động truyền thống lâu đời của
dân cư nông thôn, trong khi mức độ phát triển của công nghiệp, dịch vụ và
mức độ đô thị hoá còn chưa đủ sức tạo động lực chuyển đổi lao động nông
nghiệp sang lao động phi nông nghiệp. Đặc thù về điều kiện tự nhiên và KT-
XH của tỉnh Thái Bình vẫn đang thuận lợi cho kinh doanh nông nghiệp. Với
diện tích đất nông nghiệp chiếm gần 70% diện tích tự nhiên, trong đó đất sản
xuất nông nghiệp chiếm gần 60%, đất trồng lúa - trên 50%, Thái Bình là địa
phương có truyền thống sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trồng lúa nước lâu
đời, dân cư nông thôn chủ yếu quen với các hoạt động sản xuất kinh doanh
110
nông nghiệp, khi vẫn còn đủ ăn thì chưa nhất thiết phải chuyển đổi ngành
nghề. Cho đến năm 2010, trong cơ cấu kinh tế của tỉnh nông nghiệp chiếm
44.59%; công nghiệp - 35.87%; dịch vụ - 23.01%. Dân số nông thôn trong cơ
cấu lao động chiếm 90% [11]. Mặc dù trong những năm gần đây, trong phát
triển KT-XH của địa phương đã đạt được nhiều kết quả tích cực, cơ cấu kinh
tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây
dựng nông thôn mới đã được chú trọng, nhưng cho đến nay việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, tái cơ cấu ngành kinh tế nông nghiệp chưa nhanh, lao động
thời vụ ở địa phương vẫn đảm bảo duy trì cuộc sống. Sự thu hút lao động của
các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn tỉnh nói chung và đặc biệt là
trên địa bàn nông thôn của tỉnh nói riêng vẫn chưa cao, chưa đáp ứng được
yêu cầu tạo việc làm có thu nhập cao cho lao động nông nghiệp được giải
phóng ở nông thôn trên địa bàn tỉnh.
Thứ hai, chất lượng lao động nông thôn chưa cao trong khi công tác
đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn còn nhiều bất cập.
Trong những năm qua, công tác đào tạo nghề đã từng bước được chú
trọng trên địa bàn tỉnh. Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành các văn bản tạo cơ chế
thuận lợi cho công tác đào tạo nghề như Quyết định số 619/QĐ-UBND ngày
28/03/2012 về việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Đề án dạy nghề cho
LĐNT giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2020, tỉnh Thái Bình ban hành kèm
theo Quyết định số 1721/QĐ-UBND ngày 05/7/2009 của Uỷ ban nhân dân
tỉnh; Quyết định số 265/QĐ-UBND ngày 29/1/2013 của Uỷ ban nhân dân tỉnh
Thái Bình về việc quy định mức hỗ trợ chi phí đào tạo nghề cho lao động
nông thôn thuộc đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020;
Quyết định số 3044/QĐ-UBND ngày 08/12/2015 của Uỷ ban nhân dân tỉnh
về việc phê duyệt danh mục nghề, mức chi phí đào tạo từng nghề, mức hỗ trợ
từng nhóm đối tượng theo quy định tại Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg ngày
28/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh Thái Bình; Kế hoạch số
111
73/KH-UBND ngày 08/12/2015 của Uỷ ban nhân dân tỉnh về Hỗ trợ đào tạo
trình độ sơ cấp và đào tạo dưới 03 tháng cho người lao động theo quy định tại
Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg ngày 28/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ;
Chỉ thị số 20/CT-UBND, ngày 29/9/2016 của Uỷ ban nhân dân tỉnh về việc
tăng cường nâng cao trách nhiệm và chất lượng trong công tác đào tạo nghề
trên địa bàn tỉnh, nhằm nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, Uỷ ban
nhân dân các huyện, thành phố, các cơ sở dạy nghề trong việc nâng cao chất
lượng đào tạo nghề cho người lao động…
Theo đó, mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã từng bước hình
thành và phát triển theo quy hoạch; quy mô, cơ cấu các ngành nghề đào tạo cơ
bản phù hợp với quy hoạch phát triển KT-XH của địa phương, phù hợp với
điều kiện học tập của người lao động. Số lượng người lao động được tuyển
sinh đào tạo, dạy nghề ở các cấp trình độ ngày một tăng. Các ngành nghề đào
tạo ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu học nghề của người lao động và nhu
cầu sử dụng lao động của các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong và ngoài tỉnh
cũng như phục vụ tốt quy hoạch phát triển KT-XH của địa phương. Việc điều
tra nhu cầu học nghề của lao động nông thôn và nhu cầu sử dụng lao động qua
đào tạo của các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ đã tạo cơ hội cho các
doanh nghiệp tuyển dụng được lao động qua đào tạo và qua đó người lao
động có thể lựa chọn nghề phù hợp để tham gia học nghề. Tỷ lệ lao động qua
đào tạo nghề không ngừng tăng qua các năm (bình quân 2,5%/năm), góp phần
tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo chung của tỉnh.
Tuy nhiên, công tác đào tạo nghề gắn với tạo việc làm, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực vẫn còn nhiều hạn chế bất cập, chưa thực sự gắn kết với nhu cầu
sử dụng và yêu cầu phát triển KT-XH trên địa bàn nông thôn của tỉnh. Hầu hết các
cơ sở đào tạo nghề ở tỉnh còn thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề trình độ
cao. Trong khi đó, nhận thức của một bộ phận cấp uỷ, chính quyền các cấp (đặc
biệt là cấp xã) và người dân về tầm quan trọng của học nghề còn hạn chế. Tâm lý
112
xã hội vẫn còn chú trọng việc học đại học; coi việc học nghề chưa phải là chỗ dựa
vững chắc đối với việc lập nghiệp, tìm việc làm và tự tạo việc làm ổn định lâu dài
của người lao động. Hệ thống tổ chức, quản lý nhà nước về công tác giáo dục
nghề nghiệp còn nhiều bất cập, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của công tác đào
tạo nghề nghiệp; chưa có cán bộ quản lý, giám sát chuyên trách về giáo dục nghề
nghiệp ở cấp huyện và xã nên việc phối hợp để thực hiện nhiệm vụ hiệu quả chưa
cao. Ban chỉ đạo ở cấp xã hiện chưa đáp ứng được yêu cầu về triển khai và giám
sát công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn. Kinh phí của Trung
ương hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm thiết bị cho cơ sở giáo dục nghề
nghiệp còn hạn chế, trong khi đó nguồn kinh phí địa phương dành để đầu tư cho
lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp chưa nhiều. Việc giám sát, đánh giá các hoạt động
đào tạo nghề nghiệp chưa được thường xuyên; chưa có chế tài cụ thể để gắn kết
chặt chẽ giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp với các doanh nghiệp trong việc tổ
chức đào tạo có địa chỉ và thực hiện tốt việc giải quyết việc làm sau đào tạo; chưa
thực sự khuyến khích, huy động được nguồn lực từ các tổ chức, doanh nghiệp và
cá nhân tham gia hoạt động đào tạo nghề nghiệp. Việc đầu tư cơ sở vật chất, thiết
bị dạy nghề còn dàn trải, chưa tập trung nên hiệu quả chưa cao, chưa tập trung ưu
tiên đầu tư vào các nghề mũi nhọn, trọng điểm phục vụ quy hoạch phát triển KT-
XH của địa phương. Máy móc, thiết bị được đầu tư phục vụ đào tạo chưa phát huy
hết hiệu quả. Chưa nhận được nhiều sự tham gia của đội ngũ các nghệ nhân, cán
bộ kỹ thuật, kỹ sư, người lao động có tay nghề cao tại các doanh nghiệp và cơ sở
sản xuất kinh doanh, các trung tâm khuyến nông - lâm - ngư, nông dân sản xuất
giỏi .. vào việc tham gia giảng dạy cũng như xây dựng chương trình, giáo trình và
học liệu dạy nghề.
Trong thực hiện chính sách việc làm, một số chính quyền cơ sở do chưa
nhận thức đầy đủ trách nhiệm về chính sách việc làm, chưa quan tâm đầy đủ
chính sách tạo việc làm cho người dân, chưa coi đây là giải pháp đảm bảo
chính sách an sinh xã hội ở địa phương. Hoạt động của hệ thống thông tin thị
113
trường lao động chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển xã hội, thiếu thông
tin và việc kết nối thông tin giữa các bên (cung - cầu) trên thị trường lao động
chưa đồng bộ, vai trò phối hợp giữa các bên (cung - cầu) trên thị trường lao
động chưa gắn kết chặt chẽ, dự báo nhu cầu lao động còn hạn chế; thị trường
lao động nước ngoài khắt khe, thu hẹp, người dân chưa quan tâm nhiều đến
thị trường lao động. Việc tổ chức đưa người lao động đi làm việc có thời hạn
ở nước ngoài (xuất khẩu lao động) đã được các cấp, các ngành quan tâm chỉ
đạo nhưng số lao động tham gia còn hạn chế.
Thứ ba, hệ thống kết cấu hạ tầng ở nông thôn của một số địa phương
vẫn yếu kém ở từng mặt, chưa thực sự tạo thuận lợi cho chuyển dịch cơ cấu
lao động nông thôn. Mặc dù đến nay, toàn tỉnh đã có 92% số xã có đường trục
xã đạt chuẩn nông thôn mới và được rải nhựa, bê tông 100%, song tỷ lệ chiều
dài đường trục xã chưa đạt chuẩn nông thôn mới vẫn chiếm 13% tổng chiều
dài đường trục xã; tỷ lệ chiều dài đường trục thôn chưa đạt chuẩn nông thôn
mới là 6,3%; tỷ lệ chiều dài đường ngõ, xóm chưa đạt chuẩn nông thôn mới là
14%; tỷ lệ đường trục chính nội đồng chưa đạt chuẩn nông thôn mới là 30%.
Đánh giá kết quả xây dựng nông thôn mới theo địa bàn các huyện cho
thấy tính đến hết năm 2018 còn nhiều huyện vẫn chưa đạt đầy đủ các thiêu
chí. Cụ thể là: Huyện Quỳnh Phụ chưa đạt tiêu chí về Quy hoạch và về Giao
thông. Về Quy hoạch huyện vẫn đang lựa chọn nhà thầu để thực hiện lập quy
hoạch theo quy định. Về Giao thông: Huyện còn phải triển khai thực hiện
nâng cấp, tu sửa 5 hạng mục bao gồm 02 hạng mục đang triển khai thi công;
01 hạng mục đang đấu thầu lựa chọn nhà thầu thi công; 01 hạng mục đang
thẩm định kế hoạch đầu thầu; 01 hạng mục phải lập Báo cáo chủ trương đầu
tư. Huyện Tiền Hải cũng chưa đạt tiêu chí về Quy hoạch. Về Giao thông cần
phải duy tu, sửa chữa 26,7km đường huyện; xây dựng mới 5km đường; tiếp
tục thi công tuyến đường đê 6 chiều dài 3,2 km.
Thứ tư, sự hạn hẹp các nguồn lực như nguồn vốn, khoa học công nghệ:
114
- Về nguồn vốn. Với tư cách là tỉnh nghèo, chưa cân đối được thu, chi
ngân sách, nên nguồn vốn vẫn phải dựa vào sự phân bổ của Trung ương. Thái
Bình là tỉnh có mật độ dân số cao, quy mô tổng giá trị gia tăng chưa lớn, gây
khó khăn cho tích luỹ của doanh nghiệp và dân cư cho đầu tư mở rộng sản
xuất, kinh doanh. Các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh chủ yếu có quy mô nhỏ
và vừa, hạn chế về năng lực sản xuất, hiệu quả hoạt động. Do đó, cùng với
những yếu kém của thị trường vốn chính thức trên địa bàn Tỉnh, nguồn vốn
huy động cho sản xuất kinh doanh ngoài nguồn tín dụng của các chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thì chủ yếu từ người thân,
thậm chí từ tín dụng cho vay nặng lãi...
- Về khoa học - công nghệ
Thiếu vốn kéo theo hạn về nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công
nghệ, đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp. Việc ứng dụng công nghệ nhân
giống các loại cây con chưa hiệu quả, do đó tỉnh chưa xây dựng có những
thương hiệu mạnh về nông sản để cạnh tranh hiệu quả về nông sản cùng loại
với các địa phương khác trên thị trường trong nước và quốc tế. Trong xử lý ô
nhiễm, bảo vệ môi trường làng nghề, khu, cụm công nghiệp, xử lý rác thải ở
nông thôn chưa ứng dụng được công nghệ mới hiệu quả, các biện pháp bảo vệ
đa dạng sinh học và môi trường sinh thái và ở các vùng ngập mặn, các vùng
cửa sông ven biển chưa được chú trọng. Nguyên nhân của những yếu kém
trong nghiên cứu, ứng dụng công nghệ còn do sự thiếu hụt về số lượng và
chưa đáp ứng về chất lượng nhân lực quản lý cũng như nhân lực chuyên môn
về khoa học, công nghệ trên địa bàn tỉnh.
115
Chƣơng 4
ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GÓP PHẦN
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG TRONG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở THÁI BÌNH
4.1. DỰ BÁO BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƢỚC TÁC ĐỘNG ĐẾN
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở
THÁI BÌNH
4.1.1. Dự báo bối cảnh quốc tế
Trong những năm gần đây kinh tế thế giới về đã phục hồi, mặc dù có
những thăng trầm song quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế vẫn tiếp tục
phát triển. Tình hình kinh tế thế giới nhìn chung đang diễn biến nhanh, phức
tạp và khó lường, cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt với sự trỗi dậy của
chủ nghĩa bảo hộ kiểu mới và sự tranh chấp các vùng ảnh hưởng, vùng giàu
tài nguyên.. của các nước lớn.
Những điều chỉnh của các nước lớn và các thể chế kinh tế quốc tế vẫn
đang tiếp tục gia tăng và tác động đến phát triển kinh tế của từng khu vực
cũng như đối với toàn thế giới. Dự báo trong thời gian tới, tăng trưởng kinh tế
của hầu hết các nền kinh tế lớn như Mỹ, EU, Trung Quốc đều có xu hướng
giảm và có tác động đáng kể tới phát triển kinh tế, trong đó có phát triển nông
nghiệp đối với các nước.
Dự báo trong những năm tới, sản xuất nông nghiệp của thế giới tiếp tục
phát triển. Các nước ASEAN sẽ tiếp tục có nhiều tiến bộ trong cải thiện năng
suất và sản lượng cùng những thay đổi về cơ cấu kinh tế nói chung, trong sản
xuất nông nghiệp nói riêng theo hướng: tỷ trọng của sản xuất nông nghiệp
trong GDP giảm; trong GDP ngành nông nghiệp: tỷ trọng ngành trồng trọt
giảm, nhiều nước sẽ có xu hướng tập trung vào sản xuất thịt, hoa quả và các
mặt hàng rau. Từ đó cơ cấu lao động tiếp tục chuyển dịch theo hướng giảm
lao động nông nghiệp.
116
Dự báo triển vọng về phát triển nông nghiệp trong những năm tới vẫn
tiếp tục dựa trên cơ sở tăng năng suất và được tập trung chủ yếu tới các nước
đang phát triển. Tại các nước ASEAN sẽ diễn ra sự thay đổi về chất và lượng
của các yếu tố sản xuất nông nghiệp như vốn, lao động, phân bón, nước tưới
trong xu thế ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp. Từ đó, dự
kiến là sản lượng một số mặt hàng nông sản sẽ tăng khá nhanh như đường, gia
cầm, dầu thực vật…
Như vậy, những biến đổi khó lường trong mối quan hệ giữa Mỹ và
Trung Quốc, sự biến đổi của yếu tố địa kinh tế, địa chính trị và giai đoạn mới
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại vừa mở ra những cơ hội
mới cho Việt Nam nói chung, từng địa phương, trong đó có tỉnh Thái Bình
nói riêng những cơ hội để phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động
trong xây dựng nông thôn mới theo hướng tích cực, đồng thời cũng tạo ra
những thách thức ngày càng lớn đối với quá trình này, đòi hỏi phải xác định
đúng đắn vị thế đất nước và từng địa phương trong sự phát triển chung và xu
hướng cụ thể của chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng nông thôn mới
nói riêng.
4.1.2. Dự báo bối cảnh trong nƣớc
Trong những năm gần đây kinh tế Việt Nam về cơ bản đã khởi sắc,
tăng trưởng kinh tế chuyển biến theo chiều hướng tích cực với mức khá cao.
Năm 2018 tăng trưởng GDP đặt mức 7,08%, vượt mức 6,7% của chỉ tiêu đã
đặt ra [84].Trong những năm tới, việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đại biểu toàn quốc của Đảng đi vào giai đoạn trọng yếu, Chính phủ vẫn tiếp
tục thực hiện các giải pháp để nâng cao khả năng chống chịu, tính thích ứng
của nền kinh tế, từng bước cải thiện năng lực cạnh tranh trên cơ sở tiếp tục
đổi mới mô hình tăng trưởng, chú trọng năng suất, chất lượng tăng trưởng
trên cơ sở ứng dụng công nghệ hiện đại, tăng cường đổi mới sáng tạo, từng
bước tham gia vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tận dụng những
117
thành quả của cuộc cách mạng này để phát triển kinh tế nói chung, nông
nghiệp, nông thôn nói riêng.
Hội nhập quốc tế về kinh tế có xu hướng tiếp tục phát triển theo hướng
ngày càng sâu và rộng trên cơ sở đảm bảo giữ vững độc lập, chủ quyền lãnh
thổ, ổn định chính trị, kinh tế, xã hội, thu hút và khai thác tối đa, có hiệu quả
các nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế nói chung và nông
nghiệp, nông thôn nói riêng.
Ở tỉnh Thái Bình trong những năm qua đã đảm bảo được sự ổn định về
kinh tế, chính trị và xã hội; kết cấu hạ tầng KT-XH từng bước được hoàn thiện,
nâng cấp và bổ sung theo hướng đồng bộ, nhờ đó từng bước cải thiện điều kiện
kinh doanh nói chung và đối với nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Trong
những năm qua sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh đã đạt được những
thành tựu đáng kể về tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong đó tỷ
trọng ngành thuỷ sản trong GRDP có xu hướng tăng nhanh hơn chăn nuôi,
chăn nuôi tăng nhanh hơn trồng trọt. Phong trào xây dựng nông thôn mới đã
được triển khai quyết liệt với sự chủ động tích cực của Đảng bộ, chính quyền,
nhân dân trong tỉnh cùng sự ủng hộ, hỗ trợ thường xuyên của các bộ, ngành cơ
quan Trung ương. Tính đến hết năm 2018 đã có 237 xã đạt chuẩn trong số 264
xã [100], đã triển khai thực hiện xây dựng nông thôn mới. Trong những năm
tới tỉnh chủ trương tiếp tục xây dựng các xã nông thôn mới nâng cao
Tuy nhiên, cho đến nay Thái Bình vẫn đang là tỉnh có trình độ phát
triển kinh tế chưa cao, quy mô sản xuất nông nghiệp chủ yếu vẫn là nhỏ lẻ, ,
thiếu sự gắn kết giữa sản xuất với chế biến và thị trường tiêu thụ, CCKT của
tỉnh đang chuyển dịch theo hướng hợp lý song tỷ trọng của nông nghiệp vẫn ở
mức cao, chiếm khoảng 25%, cao hơn khá nhiều so với mức trung bình của cả
nước là 14,57% [13], hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn chưa đồng
bộ, thu nhập của lao động nông thôn tăng chậm, nguồn vốn cho đầu tư phát
triển kinh tế nói chung, nông nghiệp, nông thôn nói riêng vẫn đang thiếu hụt,
118
tái cơ cấu nông nghiệp… Cùng với đó, nhận thức của bộ phận cán bộ, nhân
dân chưa đầy đủ, sáng tạo, cán bộ xã vẫn có tư tưởng trông chờ cấp trên; công
tác phân công chưa rõ ràng; chưa hợp lý…
Trong thời gian tới Tỉnh chủ trương sẽ tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền
nâng cao nhận thức của toàn bộ hệ thống chính trị và nhân dân về mục tiêu,
các nội dung cụ thể và giải pháp thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh phát triển sản xuất, tích cực áp
dụng công nghệ cao để nâng cao năng suất lao động, chất lượng nông sản và
thu nhập cho người lao động nông thôn, tích cực chủ động xây dựng, triển
khai thực hiện liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị theo hướng bền vững, nhất
là đối với những sản phẩm nông sản chủ lực, tích cực giải quyết khó khăn,
vướng mắc, xử lý hiệu quả nợ đọng xây dựng cơ bản trong xây dựng nông
thôn mới, nhân rộng các mô hình tiên tiến, phát huy những sáng kiến và kinh
nghiệm hay về thực hiện xây dựng nông thôn mới.
4.2. ĐỊNH HƢỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO NGÀNH
TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH THÁI BÌNH ĐẾN NĂM 2025
Định hướng CDCCLĐ theo ngành của Thái Bình đến năm 2025 cần
được đặt trong tổng thể định hướng CDCCKT của tỉnh đến năm 2025. Quá
trình CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới trước hết phải phù hợp với
CDCCKT ngành, cũng như phát triển KT-XH của toàn tỉnh.
+ Phương hướng chung của CDCCKT của Tỉnh là đến năm 2025 tỷ
trọng nông nghiệp, bao gồm nông nghiệp theo nghĩa hẹp, lâm nghiệp và thuỷ
sản chiếm khoảng 20%; công nghiệp - xây dựng chiếm khoảng 45% và dịch
vụ chiếm khoảng 35%.
+ Phương hướng cụ thể:
Đối với ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng: Chú trọng phát triển các
tiểu ngành trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản gắn với phát triển công nghiệp chế
119
biến và mở rộng thị trường. Trong ngành trồng trọt mặc dù cây lúa vẫn là cây
trồng chủ yếu, song cần lựa chọn phát triển các loại cây trồng khác có giá trị
kinh tế cao như hoa mầu, cây công nghiệp ngắn ngày theo hướng sản xuất
hàng hoá tập trung quy mô lớn, đảm bảo cung cấp nguyên liệu cho phát triển
công nghiệp chế biến.
Cần tiếp tục tập trung phát triển chăn nuôi theo phương thức công
nghiệp với mô hình trang trại quy mô lớn, đặc biệt đối với chăn nuôi lợn và
gia cầm gắn với phát triển công nghiệp chế biến sản phẩm chăn nuôi.
Đối với thuỷ sản cần tiếp tục chú trọng cả nuôi trồng và đánh bắt gắn
với phát triển công nghiệp chế biến thuỷ sản và dịch vụ thuỷ sản. Cần đầu tư
phát triển nuôi trồng theo hướng kết hợp thâm canh với bán thâm canh, chú
trọng cả nuôi thuỷ sản nước ngọt và nuôi nước lợ phù hợp với điều kiện từng
địa phương trên địa bàn tỉnh.
Phấn đấu CDCCLĐ đáp ứng tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất toàn
ngành nông nghiệp trong giai đoạn 2020-2025 đạt mức bình quân hàng năm
khoảng 3,4%, trong đó gia tăng số lượng và nâng cao chất lượng lao động
ngành thuỷ sản tăng đảm bảo mức tăng trưởng hàng năm khoảng 9,8%; trong
giai đoạn 2021- 2025: CDCCLĐ đảm bảo cho nông nghiệp tăng trưởng hàng
năm khoảng 2,6%, thuỷ sản - 6,5%.
Chuyển dịch trong ngành công nghiệp ở nông thôn: theo hướng chú
trọng phát triển các ngành công nghệ cao, các ngành phục vụ trực tiếp sản xuất
nông nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản với trình độ chế biến
sâu. Chú trọng phát triển mở rộng các nghề và củng cố, phát triển làng nghề
truyền thống, đa dạng hoá ngành nghề bằng cách du nhập thêm các nghề mới để
tạo thêm việc làm mới tại chỗ với thu nhập cao cho lao động nông thôn.
Chuyển dịch trong ngành dịch vụ nông thôn: Bên cạnh các loại hình
dịch vụ đời sống đã hình thành như các loại hình dịch vụ về y tế, dịch vụ về
giáo dục, dịch vụ về thể thao,…cần mở rộng và phát triển thêm các loại hình
120
dịch vụ mới phục vụ sản xuất ở nông thôn như dịch vụ khoa học công nghệ,
dịch vụ tư vấn pháp luật, dịch vụ tin học… Tiếp tục phát triển mở rộng mạng
lưới các chi nhánh cung cấp dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ tín dụng
cho phát triển nông nghiệp nông thôn và các dịch vụ ngân hàng bán lẻ phục
vụ dân cư nông thôn.
+ Phấn đấu đến năm 2025 trong CCLĐ nông thôn tỷ trọng lao động
nông nghiệp chiếm khoảng 38%, lao động công nghiệp - 40%, lao động dịch
vụ - 22%. Để giảm lao động nông nghiệp cần không ngừng nâng cao năng
suất lao động trong sản xuất nông nghiệp, tăng cường đào tạo bồi dưỡng
chuyển đổi nghề cho lao động nông nghiệp dôi dư trong khu vực nông thôn
sang lao động công nghiệp và dịch vụ, đồng thời tăng tỷ lệ lao động có đào
tạo, đặc biệt là lao động trình độ cao và tiếp tục chú trọng xuất khẩu lao động
nông thôn.
4.3. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THÚC ĐẨY CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
LAO ĐỘNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH THÁI BÌNH ĐẾN
NĂM 2025
4.3.1. Nhóm giải pháp đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá và hội nhập quốc tế
Chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng nông thôn mới theo
hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động công
nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn trước hết phải dựa trên cơ sở vừa
thúc đẩy giải phóng lao động nông nghiệp vừa thu hút lao động công nghiệp
và dịch vụ, do đó cần phải thực hiện các biện pháp thúc đẩy quá trình hợp lý
hóa, nâng cao năng suất lao động của sản xuất nông nghiệp, đồng thời đẩy
mạnh phát triển các cơ sở sản xuất kinh doanh công nghiệp và dịch vụ trên địa
bàn nông thôn. Xuất phát từ kết quả phân tích thực trạng CDCCLĐ trong xây
dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình tại chương 3, dự báo bối cảnh quốc tế
và trong nước, trong tỉnh cũng như định hướng CDCCLĐ tại tiết 4.2 cần thực
121
hiện đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế nông thôn nhằm mục tiêu cơ cấu lại lao động
theo hướng nâng cao năng suất lao động nông nghiệp, tạo ra những việc làm
mới phi nông nghiệp thu nhập cao.
Những nội dung cần thực hiện để đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế trong xây
dựng nông thôn mới nhằm CDCCLĐ nông thôn trên địa bàn Tỉnh thời gian
tới bao gồm tiếp tục hợp lý hóa sản xuất nông nghiệp và đẩy mạnh phát triển
các ngành công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn nông thôn, thúc đẩy quá trình đô
thị hóa nông thôn.
4.3.1.1. Giải pháp tiếp tục hợp lý hóa sản xuất nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn phù hợp với điều kiện cụ
thể của từng địa phương trên địa bàn tỉnh
Để thúc đẩy quá trình CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh
Thái Bình theo hướng giảm lao động nông nghiệp trước hết phải phát triển
sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn trên cơ sở ứng dụng tiến
bộ khoa học và công nghệ hiện đại bởi lẽ chỉ có tăng năng suất lao động của
sản xuất nông nghiệp thì mới có thể giải phóng lao động từ sản xuất nông
nghiệp cho sự phát triển của các ngành khác. Để phát triển sản xuất nông
nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn cần phải có điều kiện tiên quyết về đất
đai với tư cách là tư liệu sản xuất chủ yếu của sản xuất nông nghiệp. Xét theo
điều kiện tự nhiên hiện có của Tỉnh về phát triển nông nghiệp và định hướng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành nông nghiệp theo địa bàn các
địa phương trong Tỉnh, cần phải nhanh chóng hoàn thiện quy hoạch phát triển
nông nghiệp theo ngành và theo địa bàn, trong đó cần quy hoạch rõ các vùng
chuyên canh cho sản xuất nông sản hàng hóa tập trung quy mô lớn.
Thứ nhất, đối với các địa phương ven biển (với 20 xã) phải tập trung
phát triển thủy sản, đặc biệt là nuôi trồng thủy sản nước lợ và nước mặn với
những giống thủy sản phù hợp với điều kiện tự nhiên hiện có của từng địa
phương. Trong phát triển thủy sản cần thực hiện các biện pháp cụ thể:
122
Một là, quy hoạch phát triển thủy sản phải được xây dựng trên cơ sở
đánh giá phân tích khoa học về tiềm năng của từng địa phương và xu thế của
thị trường thủy sản trong nước, khu vực và thế giới, gắn quy hoạch nuôi trồng
thủy sản với quy hoạch phát triển công nghiệp chế biến thủy sản và dự báo về
thị trường tiêu thụ sản phẩm. Trong xây dựng quy hoạch cần thu hút sự tham
gia góp ý rộng rãi không những từ các chuyên gia, mà cả từ các chủ thể sản
xuất kinh doanh thủy sản và dân cư trong vùng quy hoạch
Hai là, để đảm bảo thực hiện quy hoạch phát triển thủy sản cần phải
thực thi các chính sách hỗ trợ hợp lý đối với các chủ thể sản xuất kinh doanh
thủy sản đúng quy hoạch, đặc biệt là các hỗ trợ về thủ tục pháp lý, nguồn vốn,
khoa học công nghệ, nhân lực, thị trường…
Ba là, khuyến khích phát triển các mô hình trang trại nuôi trồng thủy
sản hiệu quả và hỗ trợ phát triển các mối quan hệ liên kết sản xuất kinh doanh
theo chuỗi giá trị giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh thủy sản
Bốn là, thực hiện các biện pháp hỗ trợ đầu tư phát triển phương tiện
đánh bắt hải sản công suất lớn.
Năm là, khuyến khích liên kết phát triển sản xuất kinh doanh thủy sản
với phát triển du lịch biển tại những địa phương có điều kiện thuận lợi như
Cồn Vành, Cồn Đen… kết hợp với du lịch tâm linh chùa Keo, đền Trần…
Thứ Hai, đối với các địa phương khác cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển
sản xuất nông sản hàng hóa tập trung quy mô lớn trong các ngành trồng trọt
và chăn nuôi.
Đối với ngành trồng trọt, phải tiếp tục hoàn thiện quy hoạch sản xuất
lúa và các loại cây trồng khác có tiềm năng như ngô, rau, củ, quả theo hướng
sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn. Để thúc đẩy phát triển ngành trồng
trọt theo hướng sản xuất lớn cần phải tiếp tục thực hiện các biện pháp thúc
đẩy tập trung ruộng đất không những thông qua dồn điền, đổi thửa mà còn
phải thúc đẩy phát triển thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp ở nông
123
thôn, đồng thời hỗ trợ hình thành những chuỗi giá trị cơ bản trong phát triển
những sản phẩm chủ yếu của ngành trồng trọt, mà trước hết là xây dựng thương
hiệu cho các sản phẩm gạo của tỉnh Thái Bình. Chủ thể của quá trình phát triển
sản xuất hàng hóa lớn trong ngành trồng trọt phải là các trang trại lớn, các hợp tác
xã và các doanh nghiệp, do đó cần có biện pháp khuyến khích các hộ nông dân
kinh doanh kém hiệu quả trong ngành trồng trọt chuyển đổi nghề nghiệp, giải
phóng quy đất nông nghiệp cho các chủ thể kinh doanh hiệu quả.
Đối với ngành chăn nuôi cần tiếp tục phát triển các ngành có lợi thế đã
được kiểm chứng như chăn nuôi lợn. Cần tiếp tục khuyến khích phát triển
chăn nuôi lợn theo mô hình trang trại quy mô lớn đảm bảo các tiêu chuẩn của
VietGAHP gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ quốc tế.
4.3.1.2. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ nhằm thu hút
lao động dôi dư từ sản xuất nông nghiệp ở nông thôn
Sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn có tác động tăng cầu về lao động và tác
động tích cực mạnh mẽ đến CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới. Để tạo
ra và gia tăng cầu về lao động công nghiệp trong xây dựng nông thôn mới ở
tỉnh Thái Bình cần thực hiện các nội dung:
Thứ nhất, chú trọng đẩy mạnh phát triển công nghiệp trên cơ sở đánh
giá đúng và khai thác triệt để những tiềm năng, lợi thế của từng địa phương
nông thôn. Tập trung phát triển các ngành công nghiệp, nhất là các ngành
công nghệ cao phục vụ nông nghiệp, các ngành chế biến nông sản, các ngành
thực phẩm, đồ uống,… Cần lựa chọn ưu tiên phát triển các ngành thu hút
nhiều lao động, các ngành công nghiệp chế biến nông sản. Cần hoàn thiện và
thực hiện tốt công tác quy hoạch các khu, cụm công nghiệp, làng nghề ở nông
thôn để thu hút đầu tư thúc đẩy phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
theo hướng tập trung và tạo việc làm phi nông nghiệp cho lao động tại chỗ ở
nông thôn gắn với khả năng củng cố và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
vàtạo điều kiện thuận lợi hơn cho công tác bảo vệ môi trường sinh thái.
124
Để phát triển công nghiệp thúc đẩy CDCCLĐ trong xây dựng nông
thôn mới cần tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng của các khu, cụm
công nghiệp đã được quy hoạch chi tiết. Tăng cường thu hút đầu tư từ các chủ
thể là doanh nghiệp vào phát triển kết cấu hạ tầng các khu, cụm công nghiệp
đã được quy hoạch. Thúc đẩy liên doanh liên kết trong cung cấp điện, nước,
xử lý môi trường, xây dựng nhà ở cho công nhân theo các hình thức như
BOT, BO. Tăng cường thu hút các dự án đầu tư với công nghệ tiên tiến, công
nghệ bảo vệ môi trường và có hiệu quả kinh tế cao.
Để có vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá thúc đẩy CDCCLĐ trong
xây dựng nông thôn mới cần tiếp tục tăng cường công tác thu hút vốn đầu tư
thông qua các biện pháp xúc tiến đầu tư, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư ở
nông thôn trên địa bàn tỉnh theo hướng thuận lợi, thông thoáng và hấp dẫn
cho đầu tư phát triển công nghiệp, chú trọng thu hút những dự án lớn công
nghệ hiện đại từ các nhà đầu tư nước ngoài, từ các các Tập đoàn kinh tế, Tổng
công ty, các nhà đầu tư lớn trong nước. Cần khẩn trương hoàn thành những
dự án kết cấu hạ tầng trọng điểm của tỉnh phục vụ sản xuất và đời sống bao
gồm dự án Trung tâm điện lực Thái Bình, dự án khai thác và cung cấp nhiên
liệu khí, dự án nhiên liệu than hoá khí phục vụ sản xuất công nghiệp. Đẩy
mạnh thu hút đầu tư lấp đầy các khu công nghiệp trọng điểm bao gồm khu
công nghiệp thành phố Thái Bình, khu công nghiệp Tiền Hải, khu công
nghiệp Cầu Nghìn. Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cho phát triển khu kinh tế
biển quốc gia ở Thái Bình.
Để có quỹ đất phát triển công nghiệp, trong thời gian tới, trên cơ sở
Luật Đất đai 2013... và phân tích đánh giá đặc thù thực tế tại địa phương nông
thôn, tỉnh Thái Bình cần hoàn thiện cơ chế bồi thường trong thu hồi đất đai,
thực hiện hỗ trợ chuyển đổi nghề, giải quyết việc làm theo hướng:
Một là, cần phân biệt rõ đặc thù của bồi thường cho người dân ở nông
thôn các huyện so với bồi thường nhà ở cho người dân ở thành phố Thái Bình
125
trên cơ sởi nhận thức rõ sự khác nhau về hình thức sở hữu đất đai tại thành thị
và ở nông thôn. Nếu như bồi thường nhà ở của người dân thành phố được
thực hiện bằng tiền là chính, dựa trên mức giá của thị trường bất động sản, thì
ở nông thôn chính sách bồi thường phải được thực hiện với những hình thức
linh hoạt tuỳ theo đối tượng. Ngoài các hình thức bồi thường bằng tiền cần
chú trọng hình thức bồi bằng đất để giúp lao động nông thôn có thể tái định
cư và chuyển đổi hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hai là, việc bồi thường và hỗ trợ tái định cư phải được thực hiện
nghiêm túc theo các quy định của pháp luật có tính đến những biến động về
giá cả quyền sử dụng đất trong thời điểm thu hồi và bồi thường.
Ba là, không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn và tính trách nhiệm
của đội ngũ cán bộ thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, công khai
và minh bạch hoá các thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định của
pháp luật, đặc biệt trong các công tác kiểm kê, lập phương án đền bù.
Bốn là, để thực hiện hiệu quả chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cần
có kế hoạch chi tiết có tầm nhìn dài hạn và đảm bảo nguồn tài chính để thực hiện..
Năm là, đảm bảo tuân thủ tính nhất quán và thống nhất trong thực hiện
chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư.
Thứ hai, tiếp tục chú trọng phát triển các nghề truyền thống và các làng
nghề trên địa bàn tỉnh mà trước hết quan tâm duy trì hoạt động của 229 làng
nghề hiện có. Cần thực hiện phân tích đánh giá đúng và đầy đủ những khó
khăn mà các làng nghề truyền thống như các làng nghề mây, tre, đan, làng
nghề nghề đúc đồng, làng nghề chạm bạc… đang phải đối mặt với sự giảm
sút sản xuất để có cơ chế chính sách hỗ trợ thích hợp. Cần tăng cường mở
rộng các nghề mới gắn với phát triển công nghiệp chế biến nông sản, tập
trung sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thay thế hàng nhập khẩu, chú trọng
khuyến khích mở rộng sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường và
hàng xuất khẩu như gốm sứ thuỷ tinh, đồ gỗ mỹ nghệ, thảm…
126
Thứ ba, trong những năm tới cần chú trọng phát triển thị trường nông
thôn, hoàn thành xây dựng hệ thống mạng lưới thương mại của toàn Tỉnh,
trong đó có các siêu thị, trung tâm thương mại và cả chợ đầu mối để thu mua
nông sản nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh và không
ngừng nâng cao đời sống của dân cư nông thôn. Đẩy mạnh phát triển các
ngành dịch vụ thu hút nhiều lao động thúc đẩy CDCCLĐ trong xây dựng
nông thôn mới, tập trung các khâu hỗ trợ nông dân tiêu thụ nông sản, hỗ trợ
doanh nghiệp phát triển thị trường, xây dựng và quảng bá thương hiệu trên
các thị trường trong nước và xuất khẩu. Tiếp tục khai thác hiệu quả các tiềm
năng du lịch đặc biệt là tiềm năng du lịch văn hoá - lịch sử, tiềm năng du lịch
sinh thái để phát triển loại hình dịch vụ du lịch tạo nhiều việc làm mới và
không ngừng nâng cao đời sống của dân cư nông thôn trong xây dựng nông
thôn mới. Để phát triển du lịch dịch vụ tác động tích cực đến thúc đẩy
CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới cần tăng cường tập trung đầu tư
hoàn thiện kết cấu hạ tầng tại các khu, cụm du lịch trọng điểm như Cồn
Vành, khu du lịch Cồn Đen, phố biển Đồng Châu, khu du lịch đền thờ các
vua Trần, chùa Keo…, tiếp tục nâng cấp các cơ sở lưu trú và dịch vụ ăn
uống bao gồm các khách sạn, nhà hàng, các điểm vui chơi, giải trí…. xây
dựng các tour tuyến du lịch liên kết giữa tỉnh với các địa phương khác trong
nước và quốc tế.
Để phát triển sản xuất kinh doanh thúc đẩy CDCCLĐ trong xây dựng
nông thôn mới cần tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ
thống ngân hàng thương mại, đủ sức phục vụ các nhu cầu sản xuất và đời
sống của nhân dân trong xây dựng nông thôn mới. Để phát huy tác động của
phát triển hệ thống ngân hàng thương mại đến thúc đẩy CDCCLĐ trong xây
dựng nông thôn mới cần thực hiện các biện pháp tăng cường tín dụng cho
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tín dụng phát triển nghề và làng nghề,
tăng cường hỗ trợ các hộ nghèo, những học sinh khó khăn….
127
4.3.1.3. Đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá trên các địa bàn nông thôn của tỉnh
Đô thị hoá có tác động đáng kể đến thúc đẩy CDCCLĐ trong xây dựng
nông thôn mới, bởi lẽ tạo cơ hội và áp lực đối với chuyển đổi việc làm của cư
dân nông thôn.
Về đô thị hóa nông thôn tỉnh cần phấn đấu đạt tỷ lệ đô thị hoá khoảng
45% vào năm 2025. Để phát triển đô thị ở nông thôn trên địa bàn tỉnh cần tiếp
tục hoàn thiện quy hoạch sử dụng đất theo hướng tích cực khai thác tiềm năng
đất đai phục vụ cho phát triển KT-XH trên địa bàn tỉnh. Kế hoạch sử dụng đất
đến năm 2025 cần đạt được mục tiêu là đất đô thị với diện tích khoảng 3.340
ha, đất dành cho phát triển công nghiệp khoảng 3.200 ha; đất ở tại nông thôn
khoảng 11.200 ha; đất giao thông với diện tích khoảng 10.700 ha; đất cho hệ
thống công trình thuỷ lợi có diện tích khoảng 12.200 ha.
Trong những năm tới thành phố Thái Bình cần phát triển mở rộng thêm
khoảng 1,5 - 2,0 nghìn ha. Các khu đô thị mới đã được quy hoạch phát triển
và cần thực hiện trong thời gian tới bao gồm cực trung tâm thuộc các phường
Trần Lãm, Kỳ Bá, Quang Trung thuộc thành phố Thái Bình với diện tích
khoảng 230 ha; cực Đông Bắc thuộc địa phận phường Hoàng Diệu với diện
tích khoảng 100 ha; cực phía Đông gồm xã Vũ Đông, Vũ Lạc huyện Kiến
Xương với diện tích khoảng 300 ha; cực phía Nam gồm xã Vũ Phúc huyện
Vũ Thư, xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình với diện tích khoảng 210 ha; cực
phía Tây Bắc gồm các xã Tân Bình, Phú Xuân huyện Vũ Thư với diện tích
khoảng 230 ha. Việc giao đất và cho thuê đất trong quá trình phát triển đô thị
nông thôn cần được thực hiện chủ yếu theo phương thức đấu giá quyền sử
dụng đất hoặc theo phương thức đấu thầu công trình có sử dụng đất, đồng thời
đẩy mạnh phát triển thị trường bất động sản.
Song song với quá trình đô thị hoá trên địa bàn nông thôn cần phát triển
một số tuyến trục kinh tế, trong đó tăng cường tính kết nối giữa các đô thị với
các địa bàn nông thôn. Nâng cấp và đẩy mạnh khai thác năng lực của tuyến
quốc lộ 10, tỉnh lộ 39B, tuyến đô thị 454, đô thị 454.
128
4.3.2. Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu lao động nông thôn theo ngành
Để thúc đẩy quá trình CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới theo
hướng CNH, HĐH, đô thị hoá phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế, cần phải
chuẩn bị được nguồn nhân lực cần thiết cho quá trình tái sản xuất mở rộng
theo chiều sâu ở nông thôn. Phải coi việc phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao là khâu đột phá có vai trò tạo ra động lực cho chuyển đổi lao động
trong xây dựng nông thôn mới của tỉnh. Do đó, cần thực hiện nhóm giải pháp
về nguồn nhân lực nhằm mục tiêu tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo
thuận lợi cho xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh.
Để có nguồn nhân lực chất lượng cao cho CDCCLĐ trong xây dựng
nông thôn mới trước hết cần xây dựng quy hoạch phát triển nguồn nhân lực
với các nội dung cụ thể về số lượng, chất lượng và cơ cấu đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Việc quy hoạch phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao phải được cụ thể hoá đối với từng ngành, từng địa bàn
nông thôn trên cơ sở đánh giá đầy đủ về những tiềm năng thế mạnh của từng
địa phương về phát triển ngành nghề, xu hướng biến động của thị trường nông
sản trong tỉnh, trong nước và ngoài nước.
Việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cần được
thực hiện nghiêm túc theo quy hoạch. Để tăng cường phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao cho CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới cần tiếp tục
thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hoàn thiện và
thực hiện cơ chế thu hút, sử dụng nhân lực chất lượng cao, tiếp tục hoàn
thiện cơ chế đánh giá lao động dựa trên năng lực, kiến thức, kỹ năng, thái độ
và đặc biệt là kết quả hoàn thành công việc và có cơ chế đãi ngộ tương
xứng, đồng thời phát triển thị trường lao động và thúc đẩy xuất khẩu lao
động nông thôn.
129
4.3.2.1. Tiếp tục nâng cao chất lượng nhân lực, phát triển thị trường
lao động phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng nông thôn mới đòi hỏi
phải có nguồn lao động phù hợp về trình độ chuyên môn và kỹ năng tay nghề,
do đó nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng chuyên môn của lao động nông
thôn là điều kiện quan trọng để chuyển bền vững lao động nông nghiệp sang
lao động phi nông nghiệp ở nông thôn. Trình độ chuyên môn và kỹ năng tay
nghề cao của lao động nông thôn sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho tạo việc
làm tại chỗ cũng như phân bổ lại lao động từ ngành này sang ngành khác, từ
vùng này sang vùng khác. Đồng thời chất lượng lao động cao cũng là điều
kiện thuận lợi để nâng cao sức cạnh tranh của nguồn lao động và thúc đẩy
việc xuất khẩu lao động.
Để có nguồn lao động nông thôn có trình độ chuyên môn và kỹ năng tay
nghề cao trước hết cần trang bị trình độ học vấn thông qua giáo dục đào tạo từ
tiểu học đến trung học cơ sở và trung học phổ thông. Đối với giáo dục tiểu học
cần tiếp tục thực hiện chủ trương phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, duy trì và không
ngừng nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học, thực hiện xã hội hoá giáo dục tiểu
học bằng các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển mô hình các trường tư
thục chất lượng cao từ cấp tiểu học. Trên địa bàn tỉnh đến năm 2025 cần có tối
thiểu là 7 trường tư thục chất lượng cao. Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, tăng
cường hỗ trợ, vận động và tạo điều kiện thuận lợi cho những học sinh có hoàn
cảnh khó khăn, những học sinh là con em ngư dân, trẻ khuyết tật tích cực học tập
với các hình thức thích hợp.
Đối với giáo dục trung học cấp cơ sở cần phải tiếp tục triển khai xây
dựng các trường Trung học cơ sở có tính liên xã, phù hợp với quy hoạch phát
triển KT-XH nông thôn trong xây dựng nông thôn mới. Phấn đấu hoàn thành
mục tiêu 200 trường trường trung học cơ sở công lập đến năm học 2024-2025.
Cần tiếp tục thực hiện xã hội hoá trong phát triển giáo dục trung học cơ sở,
130
tiếp tục khuyến khích hình thành những trường trung học cơ sở tư thục có
chất lượng cao, không những phục vụ các thành phố, thị trấn mà cả địa bàn
nông thôn. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục trung học
cơ sở theo các yêu cầu, tiêu chuẩn của trường chuẩn Quốc gia.
Đối với giáo dục trung học phổ thông cần phối hợp phát triển các
trường công lập và tư thực. Trong thời gian tới cần giữ nguyên 29 trường
công lập hiện có, tiếp tục chuyển đổi mô hình 6 trường bán công sang tư thục.
Đối với các vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn cần chuyển trường
bán công sang trường công lập. Trong quá trình chuyển đổi các trường trung
học phổ thông từ loại hình này sang loại hình khác cần đảm bảo nguyên tắc
ổn định của toàn hệ thống trường Trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh.
Song song với giáo dục phổ thông đối với người lao động đến 35 tuổi
cần phải tiếp tục củng cố kết quả xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, đồng
thời tích cực xoá mù chữ cho đối tượng ngoài 35 tuổi, đối với thanh niên đến
25 tuổi phải đảm bảo phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Phát huy vai trò của
các trung tâm học tập cộng đồng trong việc tạo điều kiện cho lao động nông
thôn có thêm cơ hội học tập, nâng cao trình độ nhận thức và kỹ năng lao
động, từ đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo bồi dưỡng nguồn
nhân lực, góp phần hình thành xã hội học tập ở nông thôn.
Để CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới cần không ngừng nâng
cao trình độ chuyên môn của lao động nông thôn bằng cách phát triển và đa
dạng hóa các hình thức đào tạo nghề. Trình độ chuyên môn vững là điều kiện
cơ bản để nâng cao chất lượng cung lao động, tạo và mở rộng thêm cơ hội
việc làm cho lao động nông thôn. Trong những năm tới tỉnh cần tiếp tục quan
tâm phát triển hệ thống cơ sở đào tạo nghề như các trường, trung tâm đào tạo
nghề trên địa bàn nông thôn thuộc tất cả các địa phương cấp huyện trong tỉnh.
Về nội dung dạy nghề cần gắn với phát triển ngành nghề nông thôn, đặc biệt
là phát huy hình thức đào tạo tại chỗ làm việc trong làng nghề, doanh nghiệp
131
trong khu công nghiệp để tạo lập nguồn lao động phù hợp cho phát triển các
làng nghề, doanh nghiệp tại chỗ.
Trong thời gian tới cần tiếp tục hoàn thiện quy hoạch hệ thống cơ sở
dạy nghề. Để nâng cao hiệu quả công tác dạy nghề cho người lao động nông
thôn cần tiếp tục chú trọng nâng cấp các trường trung cấp gồm Trường Trung
cấp nghề Thái Bình và trường Trung cấp nghề cho người khuyết tật lên thành
các trường cao đẳng nghề, đảm bảo số lượng các cơ sở đào tạo và dạy nghề
trên địa bàn tỉnh đạt số lượng tối thiểu là 46 cơ sở, với cơ cấu gồm 3 trường
cao đẳng, 7 trường trung cấp, 17 trung tâm dạy nghề, 19 cơ sở dạy nghề để có
thể phục vụ quy mô tuyển sinh khoảng 27.000 học sinh/năm.
Vai trò quan trọng trong nâng cao trình độ lao động nông thôn, thúc
đẩy CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới thuộc về các trung tâm khuyến
nông, trung tâm khuyến ngư và các trung tâm học tập cộng đồng trên địa bàn
các xã. Các trung tâm này góp phần tích cực, trực tiếp vào thực hiện chuyển
giao công nghệ cho sản xuất nông nghiệp. Để phát huy vai trò của các cơ sở
này cần chú trọng đảm bảo chất lượng đội ngũ giáo viên bằng cách tăng
cường đào tạo bồi dưỡng. Cần tập trung đào tạo bồi dưỡng đối ngũ giáo viên
chất lượng cao cho các nghề như may thời trang, nghề điện dân dụng và điện
công nghiệp, vận hành, sửa chữa các loại máy công cụ, các nghề chăn nuôi và
trồng trọt những cây con có thế mạnh của tỉnh, đặc biệt là các nghề nuôi trồng
thuỷ sản, dịch vụ thú y, chế biến nông sản.
Tiếp tục tập trung tăng cường đầu tư hoàn thiện, nâng cấp cơ sở vật
chất, đổi mới trang thiết bị cho các cơ sở dạy nghề, tạo thuận lợi cho nâng cao
hiệu quả dạy nghề cho lao động nông thôn. Đội ngũ giáo viên dạy nghề cần
được phát triển theo hướng đảm bảo chuẩn hoá. Đối với đội ngũ giáo viên đang
dạy các nghề trọng điểm cần áp dụng các yêu cầu tiêu chuẩn cấp độ quốc gia về
trình độ, kỹ năng sư phạm dạy nghề. Nghiên cứu thực hiện thu hút các nhà khoa
học, các chuyên gia giỏi, nghệ nhân, nông dân có kinh nghiệm sản xuất giỏi
132
cùng tham gia đào tạo và bồi dưỡng nghề cho lao động nông thôn. Tại trường
cao đẳng nghề của tỉnh cần sớm thành lập khoa sư phạm dạy nghề nhằm mục
tiêu đào tạo giáo viên dạy nghề có nghiệp vụ sư phạm và kỹ năng dạy nghề...
Để đào tạo nghề góp phần tích cực vào CDCCLĐ trong xây dựng nông
thôn mới cần tiếp tục đổi mới nội dung chương trình đào tạo và tài liệu học
tập theo tiêu chuẩn nghề quốc gia, đồng thời tích cực nghiên cứu tiếp thu
những nội dung phù hợp với lao động nông thôn của tỉnh từ các chương trình,
tài liệu dạy nghề của các nước tiên tiến trong khu vực và quốc tế.
Để nâng cao chất lượng dạy nghề phục vụ CDCCLĐ trong xây dựng
nông thôn mới cần có nguồn kinh phí đảm bảo. Nhu cầu về kinh phí hỗ trợ
dạy nghề cho các cơ sở sản xuất dạy nghề cho lao động tại chỗ, bình quân
hàng năm cần khoảng 30 tỷ đồng cho đầu tư mở rộng và nâng cấp các điều
kiện kết cấu hạ tầng cho dạy nghề như nhà xưởng và các công trình phụ trợ,
đồng thời hiện đại hoá thiết bị dạy nghề, hỗ trợ chi phí cho người học nghề.
Ngoài ra cần hỗ trợ bổ sung về lãi suất vay để phát triển sản xuất, giải quyết
việc làm cho những nông dân trong diện bị thu hồi trên 30% đất sản xuất
nông nghiệp.
4.3.2.2. Tiếp tục phát triển thị trường lao động
Thị trường lao động là điều kiện quan trọng để CDCCLĐ nói chung và
CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình nói riêng. Thị
trường lao động có vai trò kết nối cung cầu về lao động, giúp cho người lao
động lựa chọn việc làm trong những ngành, nghề mới, do đó trong điều kiện
thị trường lao động phát triển, những lao động dôi dư trong xây dựng nông
thôn mới ở tỉnh Thái Bình có cơ hội nhiều hơn để chuyển đổi lao động và có
thu nhập cao hơn. Tuy nhiên, cho đến nay, thị trường lao động ở Thái Bình
vẫn đang chưa phát triển, do đó, từ phía chính quyền Tỉnh tỉnh cần thực hiện
các giải pháp:
+ Một là, tạo nguồn cung cho thị trường lao động thông qua nâng cao
133
chất lượng nhân lực với tư cách hàng hóa cho thị trường. Để nâng chất lượng
nhân lực phù hợp với xu thế CDCCLĐ hợp lý Tỉnh phải định hướng, hỗ trợ
phát triển các cơ sở đào tạo và các cơ quan tổ chức hướng nghiệp trên địa bàn
tỉnh Tỉnh theo hướng xã hội hóa, đa dạng hóa, kết hợp phát triển các loại hình
đào tạo công lập với các loại hình đào tạo khác, quản lý nội dung đào tạo đảm
bảo chất lượng nhân lực phù hợp với yêu cầu CDCCLĐ theo hướng giảm lao
động nông nghiệp, tăng lao động trong các ngành công nghiệp, dịch vụ ngay
trên địa bàn nông thôn
+ Hai là, Tỉnh cần tổ chức các sàn giao dịch của thị trường lao động,
hoàn thiện hệ thống dịch vụ việc làm ở các địa phương nông thôn trên địa bàn
tỉnh thường xuyên, liên tục, tuân thủ các nguyên tắc công khai, minh bạch, lành
mạnh. Để người lao động dễ tiếp cận với các dịch vụ giới thiệu việc làm cần phát
triển theo hướng đa dạng hoá loại hình cơ sở giới thiệu việc làm bao gồm cả các
tổ chức công lập và các tổ chức tư nhân cung cấp dịch vụ hỗ trợ, giới thiệu việc
làm. Cần phân bố các cơ sở giới thiệu việc làm rộng khắp trên địa bàn toàn tỉnh,
bao gồm cả các địa bàn nông thôn. Tăng cường công tác thông tin, quảng cáo về
việc làm trên các phương tiện thông tin đại chúng, thiết kế các trang webside tìm
việc, tổ chức các hội chợ việc làm..., nhằm tạo thuận lợi cho người lao động và
người sử dụng lao động có thêm điều kiện thực hiện giao dịch trực tiếp.
+ Ba là, Tăng cường công tác thông tin việc làm thúc đẩy CDCCLĐ
trong xây dựng nông thôn mới. Chính quyền tỉnh cùng các cơ quan hữu quan
cần tích cực tham gia xây dựng, nâng cấp và phát triển hệ thống thông tin về
lao động, việc làm. Những thông tin về việc làm không những giúp cho các
cơ quan nhà nước cấp tỉnh sử dụng để xây dựng các kế hoạch đào tạo, phát
triển và sử dụng nhân lực, mà còn giúp cho lao động nông thôn có thêm căn
cứ và thông tin để chuyển đổi lao động, đặc biệt từ lao động nông nghiệp sang
lao động phi nông nghiệp. Các cơ quan tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh
cần thực hiện công tác dự báo về cung - cầu nhân lực với các tầm nhìn ngắn,
134
trung và dài hạn, từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo và sử dụng nhân lực hợp lý,
nhất là nguồn nhân lực đã qua đào tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao. Cần tiếp
tục hoàn thiện thể chế thị trường lao động tạo thuận lợi hơn cho sự kết nối các
đơn vị sử dụng lao động với đội ngũ người lao động trên địa bàn tỉnh.
+ Để đảm bảo thúc đẩy CDCCLĐ hợp lý trong xây dựng nông thôn
mới, phải tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thanh, kiểm tra và giám
sát sự tuân thủ luật pháp, việc thực hiện chính sách lao động, việc làm, đặc
biệt đối với lao động trong các doanh nghiệp, trong các làng nghề, các khu,
cụm công nghiệp.
4.3.2.3. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động
Một trong tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo
hướng hợp lý trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình thuộc
về xuất khẩu lao động nông thôn. Xuất khẩu lao động trước hết giúp cho giải
quyết vẫn đề lao động dôi dư dưới tác động của phân công lại lao động trên
cơ sở nâng cao năng suất lao động, từ đó làm giảm lao động trong ngành nông
nghiệp, tăng lao động trong các ngành công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn trong
xây dựng nông thôn mới.
Đồng thời, những lao động nông thôn đã đi lao động xuất khẩu, khi kết
thúc lao động ở nước ngoài trở về thường tích luỹ được lượng vốn nhất định
cùng các kỹ năng chuyên môn nghề nghiệp mới, do đó có thể tham gia lao
động trong các ngành phi nông nghiệp tại địa phương nông thôn dưới các
hình thức tự tạo việc làm hoặc làm việc trong các doanh nghiệp.
Với những tác động cụ thể nêu trên, xuất khẩu lao động cần được coi là
nhiệm vụ chính trị quan trọng để giải quyết việc làm và CDCCLĐ ở tỉnh Thái
Bình. Thực hiện tốt chính sách xuất khẩu lao động góp phần nâng cao trình độ
chuyên môn nghề nghiệp cũng như thu nhập cho người lao động nông thôn và
gia đình, góp phần đẩy nhanh giảm nghèo ở từng địa phương nông thôn.
Trong những năm tới cần phát triển thị trường xuất khẩu lao động của tỉnh
135
theo hướng duy trì và củng cố các thị trường truyền thống, mở rộng và khai
thác các thị trường mới có tiềm năng. Để thúc đẩy và nâng cao hiệu quả công
tác xuất khẩu lao động tỉnh cần phải có chủ trương, kế hoạch cụ thể, thực hiện
lãnh đạo, chỉ đạt sát sao các cơ quan liên quan trong thực hiện, chú trọng công
tác đăng ký và tuyển chọn lao động, nâng cao chất lượng thẩm định hồ sơ. Ngân
hàng chính sách xã hội cần thực hiện hỗ trợ vốn ban đầu cho những người lao
động nông thôn đang gặp khó khăn về kinh phí để chuẩn bị tham gia xuất khẩu
lao động trong các việc như học tập ngoại ngữ, tìm hiểu phong tục, tập quán
những dân tộc, nơi họ sẽ đến làm việc. Cần tăng cường sự phối hợp hoạt động
giữa các doanh nghiệp cung ứng lao động xuất khẩu và đối tác nước ngoài, đồng
thời tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với lao động xuất khẩu.
4.3.3. Tăng cƣờng thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu
tƣ cho phát triển kinh tế - xã hội góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
lao động trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh
Chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái
Bình đòi hỏi phải có nguồn vốn để thực hiện, do đó cần thực hiện giải pháp
tăng cường thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư từ mọi tầng lớp
dfaan cư, thành phần kinh tế cho phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Mục
tiêu của giải pháp là đáp ứng nguồn vốn và đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn
cho chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn
Tỉnh. Về thu hút nguồn vốn cần thực hiện các giải pháp sau:
- Tích cực khơi dậy và thu hút các nguồn vốn trong nước:
+ Để thúc đẩy CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới rất cần nguồn
vốn đầu tư, trong đó có nguồn vốn ngân sách nhà nước. Trong giai đoạn
2020-2025 nhu cầu về nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm khoảng
19-21% tổng nhu cầu về vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh, trong đó phần
đáng kể cần được sử dụng chủ yếu trong phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng
KT-XH nông thôn trên địa bàn tỉnh.
136
Để tăng cường nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho phát triển
KT-XH nông thôn nói chung và CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới nói
riêng, cần tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế vì chỉ có như vậy mới có
nguồn để từng bước gia tăng tỷ lệ tích luỹ từ nội bộ tỉnh. Đồng thời cần đẩy
mạnh phát triển mở rộng các nguồn thu ngân sách, phấn đấu để thu nội bộ
trên địa bàn toàn tỉnh hàng năm tăng bình quân khoảng 15%.
Trong nguồn thu ngân sách nhà nước sử dụng cho phát triển nông thôn
và CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới trước mắt cần chú trọng huy
động nguồn thu từ quỹ đất, đồng thời phải tiếp tục tăng cường quản lý và sử
dụng hiệu quả các nguồn vốn từ ngân sách, hình thàn dựa tree4m các nguồn
thu khác như thu từ sử dụng tài nguyên, thu từ sử dụng công sản, các loại phí,
lệ phí và các khoản đóng góp khác của các tổ chức, cá nhân theo quy định. Để
tăng cường nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cần thực hiện tiết kiệm trong
chi tiêu ngân sách địa phương, đồng thời, tranh thủ sự hỗ trợ đầu tư của các
Bộ, ngành, cơ quan Trung ương đối với xây dựng các công trình kết cấu hạ
tầng KT-XH quy mô lớn như mạng lưới giao thông, hệ thống cung cấp điện,
hệ thống thuỷ lợi, hệ thống y tế, giáo dục, văn hoá, thể thao trên địa bàn tỉnh.
Để phát huy vai trò của đầu tư vốn nhà nước cho CDCCLĐ trong xây dựng
nông thôn mới không những cần tăng cường nguồn vốn, mà còn phải chú
trọng thực hiện các biện pháp quản lý để không ngừng nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn, chống sử dụng lãng phí và khắc phục tình trạng thất thoát vốn.
+ Huy động nguồn vốn từ doanh nghiệp và dân cư
Nguồn vốn ngân sách nhà nước được giới hạn bởi nguồn thu ngân sách
khó tăng cao, do đó để CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới cần thu hút
sử dụng các nguồn vốn đầu tư khác từ các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư
thuộc mọi thành phần kinh tế. Để thu hút các nguồn vốn đầu tư ngoài ngân
sách cho CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới cần có môi trường đầu tư
hấp dẫn, từ đó Tỉnh phải chủ động tích cực xây dựng và củng cố môi trường
đầu tư theo hướng ngày càng thông thoáng, hấp dẫn.
137
Cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách khuyến khích ứng dụng công
nghệ sinh học, công nghệ nhân và lai tạo giống mới, công nghệ bảo quản tiên
tiến, công nghệ chế biến nông sản, công nghệ tưới tiêu vào sản xuất, kinh
doanh, thúc đẩy đầu tư phát triển nông nghiệp theo hướng tái sản xuất mở
rộng theo chiều sâu, đặc biệt là đối với các địa phương cấp huyện đang trong
tình trạng kém phát triển.
Hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng của các
làng nghề, các khu, cụm công nghiệp đã được quy hoạch, đặc biệt tại các khu
vực nông thôn trên địa bàn tỉnh. Sự thông thoáng hấp dẫn của chính sách thu
hút đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng của các làng nghề, các khu, cụm công
nghiệp sẽ cho phép nhanh chóng tạo lập những điều kiện thuận lợi cho thu hút
đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp, phát triển làng nghề, từ đó gia tăng cầu
về lao động trong công nghiệp và dịch vụ, thúc đẩy CDCCLĐ theo hướng tích
cực trong xây dựng nông thôn mới.
Cần khuyến khích phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong những
ngành thu hút nhiều lao động để thúc đẩy CDCCLĐ trong xây dựng nông
thôn mới bằng các biện pháp hỗ trợ tiếp cận các nguồn vốn với lãi suất ưu đãi,
Tăng cường công tác tư vấn và hướng dẫn cho các doanh nghiệp nhóm này về
các điều kiện và thủ tục tiếp cận và sử dụng nguồn vốn ưu đãi.
Để hoàn thiện nâng cấp kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn thúc đẩy
CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới cần tiếp tục hoàn thiện chính sách
thu hút vốn đầu tư vào xây dựng kết cấu hạ tầng đối với mọi chủ thể trong và
ngoài Tỉnh. Để đổi mới cơ chế đầu tư trong lĩnh vực này của tỉnh cần thực
hiện theo hướng tăng cường quan hệ hợp tác, chia sẻ trách nhiệm, gắn với lợi
ích của các chủ thể xây dựng, duy tu bảo dưỡng và các chủ thể sử dụng các
công trình này ở từng địa phương nông thôn. Chú trọng hợp tác với các tổ
chức phi chính phủ trong công tác đào tạo, tập huấn đội ngũ lao động vận
hành hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn theo hướng tạo lập đội ngũ lao động
138
và quản lý chuyên nghiệp để phát huy vai trò mở đường thức sự của hệ thống
kết cấu hạ tầng đối với CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới.
Để thúc đẩy sản xuất công nghiệp và dịch vụ nông thôn trong thời gian
tới Tỉnh cần tập trung thu hút đầu tư vào một số ngành bao gồm chế tạo các
thiết bị cơ khí chính xác; sản xuất linh kiện điện tử; phát triển các ngành công
nghiệp hỗ trợ; các ngành chế biến nông sản thực phẩm.
Để cải thiện môi trường đầu tư cần phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách
hành chính, đặc biệt trong thủ tục đăng ký đầu tư nhằm tiếp tục đơn giản hóa
thủ tục và thuận tiện co doanh nghiệp. Trong giải quyết các thủ tục liên quan
đến đầu tư cần tiếp tục thực hiện hiệu quả cơ chế một cửa liên thông nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư, đồng thời các cơ quan đăng ký và
quản lý đầu tư cần chủ động hơn trong việc nắm bắt và tháo gỡ những khó
khăn, vướng mắc của các nhà đầu tư về mặt bằng kinh doanh, vốn đầu tư....
Để tạo thuận lợi cho tiếp cận nguồn vốn ngân hàng đối với lực lượng
lao động chuyển đổi việc làm và các doanh nghiệp phi nông nghiệp tạo nhiều
việc làm cần có những biện pháp cải tiến và nâng cao chất lượng hoạt động
của các chi nhánh ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách xã hội trên
địa bàn tỉnh. Cần tiếp tục tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp được bình đẳng
về cơ hội tiếp cận kênh cung cấp nguồn vốn tín dụng ưu đãi, đặc biệt đối với
các chủ thể phát triển sản xuất các mặt hàng chủ lực. Thực hiện các biện pháp
khuyến khích các ngân hàng thương mại, các công ty đầu tư tài chính, các quỹ
đầu tư tham gia vào thực hiện các dự án phát triển KT-XH nói chung và xây
dựng nông thôn mới nói riêng trên địa bàn nông thôn trong tỉnh.
- Đối với nguồn vốn nước ngoài:
Với xu hướng tích luỹ và vận động của các nguồn vốn đầu tư quốc tế
trong bối cảnh ngày nay, thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước
ngoài để phát triển kinh tế nói chung và phát triển nông thôn, CDCCLĐ trong
xây dựng nông thôn mới là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy,
139
nông nghiệp, nông thôn là những lĩnh vực, địa bàn chưa nhiều rủi ro kinh
doanh do đó rất khó thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy
nhiên, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn
với sự hình thành các ngành nghề phi nông nghiệp và sự phát triển công
nghiệp, dịch vụ ở nông thôn đã từng bước hình thành những điều kiện mới
hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhất là trong lĩnh vực
công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu và dịch vụ du lịch nghỉ dưỡng, vui chơi,
giải trí. Để thu hút được đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển những
ngành, lĩnh vực này từ đó thúc đẩy CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới,
tỉnh Thái Bình cần cơ chế chính sách rõ ràng, minh bạch, phù hợp thông lệ
quốc tế, mà trước hết là đảm bảo đầy đủ, đồng bộ về nội dung, đồng thời đảm
bảo tính công khai, minh bạch trong quy trình thực hiện thủ tục hành chính do
các cơ quan chức năng của tỉnh thực hiện.
Bên cạnh đó để tạo điều kiện giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài thuận
lợi hơn trong tìm hiểu, nắm bắt các thông tin để đầu tư vào tỉnh cần phải tăng
cường hoạt động quảng bá và xúc tiến đầu tư ở nước ngoài, đặc biệt là tại
Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc... là những quốc gia và vùng
lãnh thổ có nhiều nhà đầu tư quan tâm tới cơ hội đầu tư vào tỉnh Thái Bình.
Công tác quảng bá cần giới thiệu được với các nhà đầu tư nước ngoài những
tiềm năng, lợi thế đầu tư chủ yếu tại tỉnh Thái Bình.
Quan tâm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển
kinh tế - xã hội, phát triển nông thôn và CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn
mới ở tỉnh Thái Bình thời gian tới tiếp tục phải được thực hiện cùng với nghiên
cứu cơ hội thu hút sử dụng các nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức. Để thu
hút được nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức cho phát triển nông thôn và
CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới tỉnh cần xây dựng phương án thu hút
và sử dụng vốn phù hợp với quy hoạch và kế hoạch phát triển KT-XH nông
thôn trên địa bàn tỉnh Cần tích cực, chủ động trao đổi trực tiếp với các nhà tài
140
trợ để tìm hiểu nắm rõ các chính sách, định hướng ưu tiên. Hoàn thiện công tác
cung cấp thông tin giúp cho các nhà tài trợ có đủ thông tin cần thiết để nghiên
cứu và ra quyết định tài trợ.
Nguồn vốn tín dụng có vai trò vô cùng quan trọng đối với CDCCLĐ
trong xây dựng nông thôn mới. Khả năng tiếp cận các nguồn vốn bổ sung đối
vơi người lao động nông thôn là điều kiện quan trọng để người lao động nông
thôn có kinh phí hoặc bổ sung kinh phí để học nghề mới tạo cơ sở vững chắc cho
chuyển đổi nghề nghiệp, từ đó mở thêm cơ hội cho lao động nông thôn trong
tiếp cận với việc làm mới hoặc giúp họ và gia đình tự tạo ra những việc làm mới.
Hiện tại, hạn mức cho người lao động nông thôn vay của hầu hết các tổ chức tín
dụng ở nông thôn đang ở mức từ 9 -12 triệu đồng/hộ. Đó là mức kinh phí mới
chỉ đáp ứng khoảng 30-50% nhu cầu về kinh phí để tạo ra một việc làm mới cho
người lao động nông thôn. Rõ ràng hạn mức tín dụng này đang gây khó khăn
cho những hộ thiếu hoặc không có vốn tự có trong tạo việc làm mới hoặc đổi
chỗ lao động từ nông nghiệp sang các lĩnh vực khác. Do đó, rất cần thiết xây
dựng trên địa bàn tỉnh kênh "tín dụng chuyển đổi nghề" để giúp người lao động
nông thôn ở Thái Bình chuyển đổi nghề nghiệp từ lao động nông nghiệp sang lao
động phi nông nghiệp. Hình thức tín dụng này cần được thực hiện bằng các biện
pháp tăng cường thực hiện giải ngân nguồn vốn từ quỹ quốc gia hỗ trợ giải quyết
việc làm, thực hiện các dự án hỗ trợ đối với tạo việc làm mới cho người lao động
nông thôn. Đây là nguồn vốn quan trọng đối với chuyển đổi việc làm cho lao
động nông nghiệp sang lao động phi nông nghiệp và CDCCLĐ trong xây dựng
nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình thời gian tới.
Để có thêm nguồn vốn tạo việc làm cho lao động nông thôn chuyển đổi
nghề nghiệp, cần phải thu hút thêm các nguồn vốn khác, kể cả những nguồn vốn
từ ngân sách của tỉnh. Bên cạnh đó, cần ưu tiên các dự án tạo nhiều việc làm cho
lao động, nhanh thu hồi vốn và có tính khả thi cao khi thẩm định, phê duyệt các
dự án vay vốn. Cần ưu tiên đối với những địa bàn nông thôn khó khăn.
141
4.3.4. Tăng cƣờng ứng dụng công nghệ mới vào phát triển kinh tế -
xã hội nông thôn trên địa bàn tỉnh
Ứng dụng công nghệ mới có tác động rất lớn đến CDCCKT trong xây
dựng nông thôn mới theo hướng CNH, HĐH bởi lẽ sẽ tạo ra sự giải phóng lao
động do tăng năng suất lao động ở ngành này và tạo ra cầu mới với sự hình
thành, phát triển các ngành kinh tế mới. Để thúc đẩy hợp lý CDCCLĐ trong
xây dựng nông thôn mới cần thực hiện giải pháp tăng cường ứng dụng công
nghệ mới vào phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu của giải pháp là tạo ra điều
kiện thuận lợi để nâng cao năng suất lao động, giải phóng lao động nông
nghiệp, đồng thời tạo việc làm mới thu nhập cao, góp phần thu hút lao động
nông nghiệp được giải phóng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động
trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
Nội dung giải pháp bao gồm các biện pháp:
- Tiếp tục tăng cường khuyến nông, lâm, ngư và phát triển các dịch vụ
kỹ thuật nông nghiệp để đưa công nghệ, kỹ thuật mới tiên tiến bộ, trong đó chú
trọng ứng dụng công nghệ sinh học tạo ra những giống cây trồng, vật nuôi có
khả năng thích nghi và có năng suất cao vào sản xuất, kinh doanh; tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện cơ khí hoá các khâu sản xuất nhằm tiết kiệm lao động, nâng
cao năng suất, chất lượng nông sản hàng hoá, tạo thuận lợi cho giải phóng lao
động từ lĩnh vực sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh sang lao động trong
các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ.
- Tăng cường ững dụng công nghệ mới vào phát triển công nghiệp chế
biến, đặc biệt là chế biện các sản phẩm của các ngành chăn nuôi, ngành thuỷ
sản và chế biến rau quả trên địa bàn nông thôn của tỉnh. Cần khuyến khích
các đơn vị kinh tế thuộc thành phần kinh tế tư nhân đầu tư ứng dụng khoa học
và công nghệ vào phát triển công nghệ sau thu hoạch để giảm bớt thất thoát
sau thu hoạch, hoàn thiện khâu đóng gói, tăng cường chế biến sâu để tăng
thêm giá trị gia tăng của hàng hoá nông sản.
142
- Kết hợp hợp lý công nghệ nhiều trình độ thông qua cải tiến những
công nghệ sử dụng nhiều lao động để thu hút nguồn lao động nông nghiệp dôi
dư, đồng thời tranh thủ phát triển công nghiệp công nghệ cao phù hợp với khả
năng của tỉnh.
- Trong giai đoạn cách mạng công nghiệp lần thứ Tư đang diễn ra mạnh
mẽ cần tiếp tục tăng cường đầu tư phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin,
hoàn thiện phương thức tổ chức và quản lý khoa học sự phát triển của các
ngành dịch vụ tài chính, dịch vụ tín dụng, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ du lịch
để vừa phục vụ quá trình phát triển kinh tế nông thôn vừa tạo ra nhiều việc
làm trong lĩnh vực dịch vụ thúc đẩy CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới
ở tỉnh Thái Bình.
Cần chú trọng tích cực ứng dụng công nghệ mới hiện đại vào sản xuất
nông nghiệp, nhờ đó không ngừng nâng cao năng suất lao động nông nghiệp.
Phải coi việc tích cực ứng dụng công nghệ mới hiện đại vào sản xuất nông
nghiệp là các giải pháp quan trọng để giải phóng sức lao động nông nghiệp
cho phát triển các ngành khác và đẩy nhanh chuyển dịch lao động trong xây
dựng nông thôn mới. Những biện pháp cụ thể để nâng cao năng suất nông
nghiệp bao gồm:
+ Tiếp tục tăng cường ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất nông
nghiệp. Với các địa bàn trọng điểm của tỉnh về sản xuất nông nghiệp như các
huyện gồm huyện Đông Hưng, huyện Vũ Thư, huyện Hưng Hà phải đẩy
mạnh ứng dụng giống cây trồng mới như các giống lúa, giống ngô có năng
suất, chất lượng cao vào sản xuất, đồng thời đẩy mạnh phát triển chăn nuôi
theo hướng phục vụ thị trường.
+ Đẩy mạnh quá trình cơ khí hoá lao động vào các khâu sản xuất nông
nghiệp ở những địa bàn nông thôn trọng điểm về nông nghiệp của tỉnh.
+ Tăng cường ứng dụng tại các cơ sở sản xuất của tỉnh những công
nghệ bảo quản tiên tiến vào các khâu bảo quản sau thu hoạch nhằm giảm mức
độ thất thoát, đảm bảo chất lượng và tăng giá trị nông sản.
143
Những nhiệm vụ cụ thể cần thực hiện đến 2025 bao gồm:
+ Đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ mới trong lĩnh vực công nghệ
thông tin, truyền thông, điện tử, tự động hoá, vật liệu mới và công nghệ sinh
học vào sản xuất kinh doanh theo phương châm "đi tắt, đón đầu", đẩy nhanh đổi
mới công nghệ để CDCCKT theo hướng phát triển nhanh hơn các ngành công
nghiệp và dịch vụ, từ đó đẩy mạnh CDCCLĐ theo ngành.
+ Trong xây dựng nông thôn mới để ứng dụng khoa học công nghệ gia
tăng tác động đẩy nhanh CDCCLĐ nông thôn cần rút ngắn thời gian chuyển
giao công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Vì ứng dụng công
nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp chỉ đạt hiệu quả khi có quy mô sản xuất
phù hợp, đòi hỏi diện tích đất phù hợp với tư cách là tư liệu sản xuất chủ yếu,
do cần nghiên cứu áp dụng mô hình cánh đồng lớn đối với ngành trồng trọt
đồng thời tập trung phát triển các vùng, khu nông nghiệp công nghệ cao dựa
trên sử dụng những thành tựu mới về công nghệ sinh học, công nghệ an toàn
vệ sinh thực phẩm theo các tiêu chuẩn VietGAP, AseanGAP... Để hạn chế rủi
ro cho sản xuất nông nghiệp cần áp dụng những kỹ thuật thú y hiện đại, kịp
thời phòng, chống và ứng phó với dịch bệnh trong chăn nuôi và thuỷ hải sản.
+ Một hướng quan trọng của ứng dụng khoa học công nghệ vào phát
triển nông thôn tạo thuận lợi cho CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới là
nâng cao chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ cư dân
nông thôn, đồng thời chú trọng ứng dụng công nghệ tiên tiến trong bảo vệ
môi trường sinh thái và đa dạng sinh học, đặc biệt tại các có vùng biển, vùng
rừng ngập mặn. Ngoài ra, ứng dụng khoa học công nghệ vào phát triển nông
thôn phải tập trung ô nhiễm môi trường trong các làng nghề, khu, cụm công
nghiệp và xử lý rác thải nông thôn.
144
KẾT LUẬN
Chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng nông thôn mới là phương
thức đặc biệt quan trọng trong phát huy yếu tố con người trong xây dựng
nông thôn mới, do đó phải được coi trọng trong toàn bộ quá trình xây dựng
nông thôn mới ở Việt Nam trên phạm vi cả nước cũng như tại từng địa
phương, trong đó có tỉnh Thái Bình. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù của quá
trình xây dựng nông thôn mới, CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới trên
địa bàn từng địa phương không được thực hiện một cách cưỡng ép, máy móc,
dập khuôn, mà phải căn cứ vào những đặc điểm cụ thể của địa phương về lao
động cũng như điều kiện sản xuất kinh doanh; phải tính đến các biện pháp
hình thành kỷ luật, tác phong lao động công nghiệp đối với bộ phận nguồn lao
động nông thôn cần chuyển từ lao động trong nông nghiệp sang lao động
trong công nghiệp và dịch vụ; phải hướng tới tập trung vào tạo việc làm cùng
các điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh tại chỗ, thay vì di chuyển lao
động tới các địa bàn khác.
Phân tích thực trạng CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh
Thái Bình trong những năm qua cho thấy, Tỉnh đã có nhiều nỗ lực chuyển
dịch cơ cấu lao động trong xây dựng nông thôn mới. Mặc dù đã đạt được
những kết quả rất tích cực, tuy nhiên chuyển dịch cơ cấu lao động ở khu vực
nông thôn tỉnh Thái Bình vẫn còn chậm và còn cách xa so với yêu cầu quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông
thôn mới, tỷ trọng lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp giảm chậm,
trong tổng số người trong độ tuổi lao động có tham gia hoạt động nông nghiệp
thì lao động chuyên nông nghiệp (thuần nông) vẫn còn chiếm tỷ lệ lớn; tỷ lệ
lao động nông nghiệp kiêm ngành nghề khác và lao động phi nông nghiệp có
hoạt động phụ nông nghiệp còn thấp, trình độ chuyên môn của lao động nông
thôn vẫn còn rất thấp trước yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sản xuất
hàng hoá trong nền kinh tế thị trường.
145
Có nhiều yếu tố cản trở quá trình CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn
mới trên địa bàn tỉnh như yếu tố truyền thống, tập quán, mức độ phát triển của
các ngành kinh tế, chất lượng nguồn lao động, sự hạn hẹp về nguồn tài
chính… Từ nghiên cứu cơ sở lý luận, kinh nghiệm thực tiễn và đánh giá thực
trạng CDCCLĐ trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình, để đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh
thời gian tới cần tiếp tục thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trong sự gắn kết
hữu cơ với nhau: nhóm giải pháp đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế nông thôn bao
gồm tiếp tục hợp lý hóa sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa
tập trung quy mô lớn phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương trên
địa bàn tỉnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn nhằm
thu hút lao động dôi dư từ sản xuất nông nghiệp, đẩy nhanh đô thị hoá trên
các địa bàn nông thôn; nhóm giải pháp về nguồn nhân lực, thu hút và sử dụng
hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, tăng cường ứng dụng công nghệ vào phát
triển kinh tế - xã hội nông thôn trên địa bàn tỉnh.
Chuyển dịch cơ cấu lao động trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái
Bình là vấn đề thực tiễn vô cùng phức tạp. Trong luận án mới chỉ sử dụng
cách tiếp cận kinh tế chính trị để phân tích đánh giá và đề xuất các giải pháp
chủ yếu về cơ chế, chính sách kinh tế nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao
động đảm bảo thực hiện hiệu quả quá trình xây dựng nông thôn mới. Trên cơ
sở kết quả của luận án, có thể tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu về chuyển dịch
cơ cấu lao động trong từng ngành, từng địa phương trong tỉnh, giải quyết mối
quan hệ lợi ích giữa các chủ thể của quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động
trong xây dựng nông thôn mới.
.
146
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Hà Tiến Thăng (2015), "Chuyển dịch cơ cấu lao động trong quá trình
xây dựng nông thôn mới ở Thái Bình", Tạp chí Tri thức phát triển, (46),
tr.39-40.
2. Hà Tiến Thăng (2014), "Kết quả và kinh nghiệm bước đầu về xây dựng
nông thôn mới ở Thái Bình", Tạp chí Nông thôn mới, (364), tr.14-17.
3. Hà Tiến Thăng (2014) "Hệ thống ngân hàng tỉnh Thái Bình góp phần
tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn", Tạp chí Ngân
hàng, (08), tr.53-57.
4. Hà Tiến Thăng (2015), "Xã Phùng Chí Kiên xây dựng nông thôn mới từ
nội lực", Tạp chí Nông thôn mới, (396), tr.21.
5. Hà Tiến Thăng (2017-2018), Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc
đánh giá mức độ hài lòng của tổ chức, công dân và đề xuất giải pháp
nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công tại Trung tâm hành chính
công tỉnh Thái Bình, Chủ nhiệm Đề tài khoa học cấp tỉnh.
6. Hà Tiến Thăng (2018), Nghiên cứu đề xuất giải pháp nâng cao chất
lượng xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh
Thái Bình theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
Thư ký Đề tài khoa học cấp tỉnh.
7. Hà Tiến Thăng (2018-2019), ''Tạo lập nguồn nhân lực thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu lao động nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn mới
ở tỉnh Thái Bình'', Tạp chí Việt Nam hội nhập - ISSN 2525 - 250X, (82).
8. Hà Tiến Thăng (2018-2019), ''Thúc đẩy nhu cầu chuyển dịch cơ cấu lao
động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa và hội nhập
quốc tế để xây dựng nông thôn mới ở Thái Bình'', Tạp chí Việt Nam hội
nhập - ISSN 2525 - 250X, (82).
147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình (2011), Nghị quyết số 02-NQ/TU,
ngày 28 tháng 4 năm 2011 về "xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 -
2015, định hướng đến năm 2020", Thái Bình.
2. Ban Chỉ đạo Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản tỉnh Thái
Bình (2017), Báo cáo chính thức kết quả Tổng điều tra nông thôn, nông
nghiệp và thủy sản năm 2016, Thái Bình.
3. Arnab K. Basu (2013), Impact of Rural Employment Guarantee Schemes
on Seasonal Labor Markets: Optimum Compensation and Workers'
Welfare. https://link.springer.com/article/10.1007/s10888-011-9179-y,
[accessed on 01/01/2019].
4. Nguyễn Đăng Bằng (2001), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn Bắc
Trung Bộ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ kinh tế.
5. Phạm Đức Chính (2010), Hoàn thiện chính sách sử dụng nguồn nhân lực
sau xuất khẩu lao động ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ quản lý Hành chính
công, Học viện Hành chính, Hà Nội.
6. Chính phủ (2008), Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Của Ban chấp hành Trung ương Khóa X về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Hà Nội.
7. Chính phủ (2009), Quyết định phê duyệt Đề án đào tạo nghề cho lao động
nông thôn đến năm 2020, Hà Nội.
8. Central Intelligence Agency (2019), 'The world factbook, on page
https://www.cia.gov/library/publications/resources/the-world-
factbook/geos/ch.html, [accessed on 01/01/2019].
9. Nguyễn Sinh Cúc (2013), ''Tổng quan nông nghiệp nông thôn Việt Nam
sau 25 năm thực hiện Nghị quyết 10 của bộ chính trị (Khóa VI)'', Tạp chí
Kinh tế và Quản lý, (6).
10. Cục Thống kê tỉnh Thái Bình (2012), Niên giám thống kê tỉnh Thái Bình
năm 2011, Nxb Thống kê, Hà Nội.
148
11. Cục Thống kê tỉnh Thái Bình (2014), Niên giám thống kê tỉnh Thái Bình
năm 2013, Nxb Thống kê, Hà Nội.
12. Cục Thống kê tỉnh Thái Bình (2017), Niên giám thống kê tỉnh Thái Bình
năm 2016, Nxb Thống kê, Hà Nội.
13. Cục Thống kê tỉnh Thái Bình (2018), Niên giám thống kê tỉnh Thái Bình
năm 2017, Nxb Thống kê, Hà Nội.
14. Cục Thống kê tỉnh Thái Bình (2017), Thực trạng làng nghề tỉnh Thái
Bình năm 2017, Nxb Thống kê, Hà Nội.
15. Cục Thống kê tỉnh Thái Bình (2017), Thực trạng nông nghiệp, nông thôn
tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2016, Nxb Thống kê, Hà Nội
16. Cục Thống kê tỉnh Thái Bình (2017), Thực trạng và tiềm năng kinh tế
biển Thái Bình - góc nhìn từ Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và
thủy sản năm 2016, Nxb Thống kê, Hà Nội.
17. Cục Thống kê tỉnh Thái Bình (2017), Thực trạng và tiềm năng kinh tế
trang trại tỉnh Thái Bình - Góc nhìn từ Tổng điều tra nông thôn, nông
nghiệp và thủy sản năm 2016, Nxb Thống kê, Hà Nội.
18. Cục Thống kê tỉnh Thái Bình (2019), Thực trạng phát triển hoạt động sản
xuất thủy sản tỉnh Thái Bình giai đoạn 2015-2018, Nxb Thống kê, Hà Nội.
19. Cục Thống kê Vĩnh Phúc (2018), Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc, tại
trang https://vinhphuc.gov.vn/ngthongke/2003/bia_ng.htm, [truy cập ngày
05/12/2018].
20. Đặng Ngọc Dinh (Chủ biên, 1996), Chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước và cách mạng công nghệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Bùi Quang Dũng (2010), Một số vấn đề phát triển xã hội nông thôn (Lao động
và việc làm), Đề tài cấp Bộ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
22. Nguyễn Hữu Dũng (1994-1995), Luận cứ khoa học cho việc xây dựng
chính sách giải quyết việc làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, Đề tài KX.04, Viện Khoa học xã hội Việt
Nam, Hà Nội.
149
23. Nguyễn Hữu Dũng (2008), "Phát triển khu công nghiệp với vấn đề lao
động việc làm", Tạp chí Cộng sản, (5/149).
24. Phan Xuân Dũng (2004), Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam thực trạng
và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Phạm Ngọc Dũng (2002), Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công -
nông nghiệp ở vùng lãnh thổ Đồng bằng Sông Hồng: thực trạng và giải
pháp, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
26. Phạm Ngọc Dũng (2009), Những vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam hiện
nay, Chủ nhiệm đề tài, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010, Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá
IX), Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày
05/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
(khoá X), về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Hà Nội.
30. Đinh Đặng Định (Chủ biên, 2004), Một số vấn đề lao động, việc làm và đời
sống người lao động ở Việt Nam hiện nay, Nxb Lao động, Hà Nội.
31. Francesco Caselli (1996), "Thị trường lao động và tín dụng nông thôn",
Tạp chí Phát triển kinh tế, Mỹ, (4).
32. Jennifer Cheung (2012), "China's Inland Growth Gives Rural Laborers
More Opportunities Near Home", Forbes (8).
33. Jonna Estudillo và các cộng sự. (2013), "Labor markets, occupational
choice, and rural poverty in four Asian countries", Tạp chí Kinh tế
Philippines, (6).
150
34. Tuan Francis, Somwaru Agapi và Diao Xinshen (2000), Lao động nông
thôn di cư, đặc điểm và mô hình việc làm - Nghiên cứu dựa trên điều tra
nông nghiệp Trung Quốc, The International Food Policy Research
Institute (IFPRI).
35. Guglielmo Meardi (2013), Labour movements and labour unions
Emergence, institutionalization, crisis and revitalization of a social
movement, Editorial Arrangement of sociopedia.isa
36. Nolwen Heraff và Jean Yves Martin (2001), Lao động, việc làm và nguồn
nhân lực ở Việt Nam sau 15 năm đổi mới, Nxb Thế giới mới, Hà Nội.
37. Trần Thị Bích Hạnh (2004), Sử dụng có hiệu quả nguồn lao động ở các
tình vùng kinh tế trọng điểm miền Trung trong giai đoạn công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
38. Trần Ngọc Hiên (2003), Toàn cầu hoá và tác động đối với sự hội nhập
của Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
39. Lê Thu Hoa (2003), ''Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam'',
Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (72).
40. Trần Đình Hoan (1996), "Phương hướng cơ bản giải quyết việc làm ở
nước ta hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (1).
41. Tạ Bá Hưng (Chủ biên, 2002), Khoa học và Công nghệ thế giới kinh
nghiệm và định hướng chiến lược, Trung tâm Thông tin Tư liệu thuộc Bộ
Khoa học Công Nghệ và Môi trường, Hà Nội.
42. Đặng Hữu (2003), "Động lực cho kinh tế tri thức", Tạp chí Lý luận chính
trị, (6).
43. Nguyễn Xuân Khoát (1996), Lao động ở nông thôn nước ta hiệnnay và
những giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng hợp lý nguồn lao động đó, Luận
án Phó tiến sĩ khoa học kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
151
44. Nguyễn Xuân Khoát (2007), Lao động, việc làm và phát triển kinh tế - xã
hội nông thôn Việt Nam, Nxb Đại học Huế, Huế
45. Trần Quang Lâm, Cách mạng khoa học - công nghệ và những tác động
của nó tới nền kinh tế - xã hội của thế giới trong cuốn đề cương bài giảng
về Chủ nghĩa tư bản hiện đại của khoa Kinh tế Chính trị - Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
46. Qiang Li, Jikun Huang, Renfu Luo, Chengfang Liub (2013), "China’s
Labor Transition and the Future of China’s Rural Wages and
Employment", China & World Economy, 4-24, Vol. 21, No. 3, 2013
47. Li Luping (2009), Biến đổi thu nhập hộ gia đình ở nông thôn Trung Quốc.
48. Hoàng Xuân Long (2001), "Bí quyết thành công trong sự bắt chước công
nghệ của Nhật Bản", Tạp chí Cộng sản, (18).
49. Tăng Minh Lộc (2008), "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông
thôn", (19).
50. Bryan Lohmar, Scott Rozelle and Changbao Zhao (2016), The Rise of
Rural-to-Rural Labor Markets in China, California Agricultural
Experiment Station Giannini Foundation for Agricultural Economics,
Working Paper No. 00-020
51. C.Mác và Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
52. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 24, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
53. Ngân hàng Thế giới (2014), Báo cáo Phát triển Việt Nam 2014 Phát
triển kỹ năng: Xây dựng lực lượng lao động cho một nền kinh tế thị
trường hiện đại ở Việt Nam. Báo cáo tổng quan, Trung tâm Thông tin
phát triển Việt Nam, Hà Nội.
54. Ngân hàng Thế giới (2016), Báo cáo Phát triển Việt Nam 2016 Chuyển
đổi Nông nghiệp Việt Nam: tăng giá trị, giảm đầu vào, Nxb Hồng Đức,
Hà Nội.
152
55. Nguyễn Bá Ngọc (2007), ''Vấn đề thừa lao động ở nông thôn Việt Nam
hiện nay'', Tạp chí lao động và Xã hội, (314, 315), [tr.56-58, tr.61].
56. Nguyễn Văn Phúc (2004), Công nghiệp nông thôn Việt Nam thực trạng
và giải pháp phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Hoàng Đình Phu (1997), Lịch sử kỹ thuật và cách mạng công nghệ đương
đại, Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.
58. Hoàng Đình Phu (1998), Khoa học và công nghệ với các giá trị văn hoá,
Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.
59. Võ Hồng Phúc, ''Một số vấn đề về chiến lược phát triển nguồn nhân lực
Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa''.
60. Vũ Văn Phúc (Chủ biên, 2012), Xây dựng nông thôn mới - những vấn đề
và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
61. Trần Thanh Phương (1997), Tác động của cuộc cách mạng khoa học-
công nghệ đối với nền kinh tế các nước tư bản phát triển- một số gợi mở
về thời cơ và thách thức đối với Việt Nam", Luận án tiến sĩ kinh tế, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
62. Nguyễn Trần Quế (2004), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong
những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
63. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1994), Bộ luật lao
động của Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 23/06/1994, Hà
Nội.
64. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Đất đai
số 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013, Hà Nội.
65. Nguyễn Thị Tố Quyên (Chủ biên, 2012), Nông nghiệp, nông dân, nông
thôn trong mô hình tăng trưởng kinh tế mới giai đoạn 2011 - 2020, Nxb
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
66. Nguyễn Hữu Quỳnh (Chủ biên, 1998), Đại Từ điển kinh tế thị trường,
Viện Nghiên cứu và phát triển kiến thức Bách Khoa, Hà Nội.
153
67. Ren Mu và Dominique van de Walle (2006), Left Behind to Farm? -
Women’s Labor Re-Allocation in Rural China, World Bank.
68. Scott Rozelle, Jikun Huan (2013), China’s Labor Transition and the
Future of China’s Rural Wages and Employment, Background paper for
the world development report 2013
69. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thái Bình (2012), Báo cáo Kết quả
thực hiện thu thập thông tin cung, cầu lao động trên địa bàn tỉnh năm
2011, Thái Bình.
70. Đỗ Tiến Sâm, chủ biên (2007), Vấn đề tam nông ở Trung Quốc: Thực
trạng và giải pháp, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
71. Bùi Tất Thắng (Chủ biên, 1997), Các nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá ở Việt Nam ,
Viện kinh tế học, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
72. Tô Quang Thu (2008), Tác động của ứng dụng khoa học- công nghệ đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, Luận án tiến sĩ
kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
73. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010
của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc
gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020, Hà Nội.
74. Nguyễn Tiệp (2008), "Việc làm cho người lao động trong quá trình
chuyển đổi mục đích sử dụng đất", Tạp chí Cộng sản, (7/151).
75. Tỉnh ủy Thái Bình (2000), Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần
thứ XVI, nhiệm kỳ 2000-2005, Thái Bình.
76. Tỉnh ủy Thái Bình (2005), Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần
thứ XVII, nhiệm kỳ 2005-2010, Thái Bình.
77. Tỉnh ủy Thái Bình (2010), Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần
thứ XVIII, nhiệm kỳ 2010-2015, Thái Bình.
154
78. Tỉnh ủy Thái Bình (2018), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết
Trung ương 7 khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Thái Bình.
79. Tỉnh ủy Thái Bình (2018), Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh
về tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới gắn với cơ cấu lại ngành
nông nghiệp giai đoạn 2018 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030 , Thái Bình.
80. Tổng cục Thống kê (2012), Kết quả Tổng điều tra nông thôn, nông
nghiệp và thủy sản năm 2011, Nxb Thống kê, Hà Nội.
81. Tổng cục Thống kê (2017), Kết quả Tổng điều tra nông thôn, nông
nghiệp và thủy sản năm 2016, Nxb Thống kê, Hà Nội.
82. Tổng cục Thống kê (2018), Niên giám thông kê 2017, Nxb Thống kê, Hà Nội.
83. Tổng cục Thống kê (2018),''Số liệu thống kê - Danh sách, tại trang
https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=720, [truy cập ngày
05/8/2018].
84. Tổng cục thống kê (2019), Tình hình kinh tế - xã hội năm 2018, tại trang
https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=19037, [truy
cập ngày 05/01/2019].
85. Nguyễn Văn Trung (Chủ biên, 1998), Phát triển nguồn nhân lực trẻ ở
nông thôn để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, nông nghiệp nước
ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
86. United states department of labor (1945), Labor Unionism In American
Agriculture, Bulletin No. 836
87. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam (2010), Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội
tỉnh Hà Nam đến năm 2020, Hà Nam.
88. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam (2011), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2011-2015 tỉnh Hà Nam, Hà Nam.
89. Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định (2008), Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã
hội tỉnh Nam Định đến năm 2020, Nam Định.
90. Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định (2011), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2011-2015 tỉnh Nam Định, Nam Định.
155
91. Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình (2011), Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã
hội tỉnh Ninh Bình đến năm 2020, Ninh Bình.
92. Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình (2011), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2011-2015 tỉnh Ninh Bình, Ninh Bình.
93. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2005), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội năm 2001-2005 tỉnh Thái Bình, Thái Bình.
94. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2010), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2011-2015 tỉnh Thái Bình, Thái Bình.
95. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2010), Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã
hội tỉnh Thái Bình đến năm 2020, Thái Bình.
96. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2013), Quyết định số 265/QĐ-UBND
ngày 29/1/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình về việc quy định
mức hỗ trợ chi phí đào tạo nghề cho lao động nông thôn thuộc đề án Đào
tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020, Thái Bình.
97. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2015), Quyết định số 3044/QĐ-UBND
ngày 08/12/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc phê duyệt danh mục
nghề, mức chi phí đào tạo từng nghề, mức hỗ trợ từng nhóm đối tượng
theo quy định tại Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg ngày 28/9/2015 của Thủ
tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh Thái Bình, Thái Bình.
98. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2015), Kế hoạch số 73/KH-UBND ngày
08/12/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh về Hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp và
đào tạo dưới 03 tháng cho người lao động theo quy định tại Quyết định số
46/2015/QĐ-TTg ngày 28/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ, Thái Bình.
99. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2016), Chỉ thị số 20/CT-UBND ngày
29/9/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc tăng cường nâng cao trách
nhiệm và chất lượng trong công tác đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh, nhằm
nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, Ủy ban nhân dân các
huyện, thành phố, các cơ sở dạy nghề trong việc nâng cao chất lượng đào
tạo nghề cho người lao động, Thái Bình.
156
100. Ủy ban Nhân dân tỉnh Thái Bình (2018), Báo cáo Kết quả thực hiện
Chương trình mục tiêu Quốc gia Xây dựng nông thôn mới đến tháng 12
năm 2018, Thái Bình.
101. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2018), Báo cáo Tình hình kinh tế - xã
hội năm 2018, mục tiêu và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu năm 2019 tỉnh
Thái Bình, tại trang https://thaibinh.gov.vn/danh-muc/bao-cao-thong-
ke/kinh-te-xa-hoi/tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-nam-2018-muc-tieu-va-
nhung-nhiem-vu.html, [truy cập ngày 06/11/2018].
102. Viện Kinh tế nông nghiệp (1996), Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn vùng sinh thái bán sơn địa - trung du phía bắc, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội.