intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ: Đổi mới nội dung và hình thức hoạt động thể thao ngoại khóa cho học sinh một số trường THCS tỉnh Tây Ninh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:161

4
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án Tiến sĩ "Đổi mới nội dung và hình thức hoạt động thể thao ngoại khóa cho học sinh một số trường THCS tỉnh Tây Ninh" trình bày các nội dung chính sau: Đánh giá thực trạng nội dung và hình thức hoạt động thể thao ngoại khóa của học sinh một số trường THCS Tỉnh Tây Ninh; Đổi mới nội dung và hình thức hoạt động thể thao ngoại khóa cho học sinh một số trường THCS Tỉnh Tây Ninh; Đánh giá hiệu quả nội dung và hình thức hoạt động thể thao ngoại khóa đổi mới cho học sinh một số trường THCS tỉnh Tây Ninh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ: Đổi mới nội dung và hình thức hoạt động thể thao ngoại khóa cho học sinh một số trường THCS tỉnh Tây Ninh

  1. 1 PHẦN MỞ ĐẦU ❖ Lý do chọn đề tài: Thể thao ngoại khóa là hoạt động thể dục thể thao (TDTT) tự nguyện là chính, diễn ra theo hình thức tổ chức có người hướng dẫn hoặc tự tập, thường được tiến hành ngoài giờ học nội khóa, phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khỏe của học sinh. Thể thao ngoại khóa còn là môi trường thuận lợi, đầy tiềm năng để phát hiện và bồi dưỡng nhân tài thể thao cho trường, tỉnh và quốc gia. Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu như hiện nay, thể thao ngoại khóa càng có ý nghĩa tích cực về mặt cộng đồng, hướng thế hệ trẻ vào các sinh hoạt thể thao lành mạnh, tránh xa tệ nạn xã hội. Theo tinh thần Nghị quyết 29-NQ/TW về “Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo“ đã được hội nghị trung ương 8 (khóa XI) thông qua; Mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động TDTT quần chúng là một trong những nhiệm vụ và giải pháp đầu tiên mà Nghị quyết 8-NQ/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục, thể thao đến năm 2020" đã đưa ra nhằm: “Nâng cao chất lượng phong trào Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại, vận động và thu hút đông đảo nhân dân tham gia tập luyện thể dục, thể thao, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đa dạng các hình thức tổ chức tập luyện thể dục thể thao ở cơ sở...." [2]. Cùng với giờ học giáo dục thể chất (GDTC) nội khóa, thể thao ngoại khóa có vai trò quan trọng trong việc nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo dục phẩm chất ý chí, nhân cách cho học sinh. Thể thao ngoại khóa còn là môi trường thuận lợi, đầy tiềm năng để phát hiện và bồi dưỡng nhân tài thể thao cho quốc gia. Trong bối cảnh toàn ngành đang tiến hành đổi mới căn bản giáo dục và đào tạo theo tinh thần nghị quyết 29-NQ/TW [2] và nghị quyết 8-NQ/TW [3] về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục, thể thao đến năm 2020 như hiện nay. Xây dựng các loại hình câu lạc bộ thể dục, thể thao trường học; khuyến khích học sinh dành thời gian từ 2 – 3 giờ/tuần để tham gia hoạt động thể thao ngoại khóa trong các câu lạc bộ, các lớp năng khiếu thể thao. Củng cố và phát triển hệ thống thi đấu thể dục, thể thao giải trí thích hợp với các nhà trường [57].
  2. 2 Quyết định Số: 06/2013/NQ-HĐND Về quy hoạch phát triển sự nghiệp thể dục thể thao tỉnh Tây Ninh đến năm 2020 là quy hoạch phát triển sự nghiệp thể dục thể thao tỉnh Tây Ninh đến năm 2020 là cơ sở xây dựng và phát triển nền thể dục thể thao tỉnh nhà, nhằm nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Tây Ninh phát triển toàn diện về trí tuệ và thể chất, nâng cao vị thế, thành tích thể thao của tỉnh ở khu vực, trong nước và quốc tế, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [30]. Để hoạt động thể thao ngoại khóa được tổ chức có hiệu quả, ngoài nhiều việc phải làm như đẩy mạnh công tác tuyên truyền về lợi ích của tập luyện, chú trọng đầu tư về cơ sở vật chất TDTT, tăng cường sự chỉ đạo của lãnh đạo trường, các bộ môn GDTC…thì vấn đề quan trọng đặc biệt cần quan tâm là phải có nội dung và hình thức phù hợp nhằm lôi cuốn được đông đảo học sinh tham gia. Vấn đề này được ít người nghiên cứu, đặc biệt tại tỉnh Tây Ninh, chưa có công trình nghiên cứu nào. Để thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, ngành Giáo dục - Đào tạo thiết kế chương trình học tập theo hướng tăng cường tính chủ động của người học. Chủ trương giảm tải (bằng cách cắt bớt hoặc chuyển sang đọc thêm một số bài học) được áp dụng 3 năm gần đây, dù không thể nói là đã hiệu quả nhưng cũng không thể phủ nhận là trong chừng mực nào đó nó không gây áp lực lên thầy và trò. Song song đó, ngành giáo dục cũng lưu ý gắn hoạt động dạy học với các hoạt động ngoại khoá để góp phần hình thành các kỹ năng sống tích cực cho học sinh. Tổ chức các hoạt động ngoại khoá cho học sinh còn phải kể đến vai trò của các tổ bộ môn, đặc biệt là trong việc hình thành các câu lạc bộ, đội, nhóm. Nhiều trường học có đội, nhóm văn nghệ nhưng ít có đội, nhóm, câu lạc bộ chuyên về hoạt động khám phá, chia sẻ tri thức, hoạt động thể dục thể thao. Nếu các câu lạc bộ này được hình thành học sinh sẽ có cơ hội để gặp gỡ, sinh hoạt, trao đổi kiến thức… thay vì chạy theo những trò vui vô bổ, hay sa đà vào những thứ tệ nạn đang đe doạ chốn học đường. Do đó với chương trình hoạt động thể dục thể thao ngoại khóa cho học sinh THCS tỉnh Tây Ninh phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tiễn cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên của nhà trường là một đòi hỏi cấp thiết và có ý nghĩa rất quan trọng
  3. 3 trong giai đoạn hiện nay. Với tầm quan trọng trên, bản thân là giáo viên thể dục nồng cốt ở tỉnh Tây Ninh, với mong muốn góp một phần công sức của mình nâng cao hiệu quả hoạt động TDTT trong các trường THCS cho tỉnh nhà tôi chọn hướng nghiên cứu với đề tài: “Đổi mới nội dung và hình thức hoạt động thể thao ngoại khóa cho học sinh một số trường THCS tỉnh Tây Ninh”. ❖ Mục đích nghiên cứu: Nhằm đánh giá thực trạng qua đó đổi mới nội dung và hình thức hoạt động thể thao ngoại khóa cho học sinh một số trường THCS tỉnh Tây Ninh. Qua kết quả nghiên cứu nhằm dể làm tài liệu tham khảo cho các chuyên gia, nhà chuyên môn; góp phần nâng cao chất lượng công tác giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trong nhà trường tại tỉnh Tây Ninh. ❖ Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng nội dung và hình thức hoạt động thể thao ngoại khóa của học sinh một số trường THCS Tỉnh Tây Ninh. - Xác định các tiêu chí đánh giá nội dung và hình thức hoạt động thể thao ngoại khóa cho học sinh một số trường THCS tỉnh Tây Ninh. - Thực trạng nội dung và hình thức hoạt động thể thao ngoại khóa cho học sinh một số trường THCS Tỉnh Tây Ninh. - Thực trạng các điều kiện đảm bảo thực hiện nội dung và hình thức hoạt động thể thao ngoại khóa cho học sinh một số trường THCS Tỉnh Tây Ninh (cơ sở vật chất, đội ngũ, chương trình ...). - Thực trạng thể chất học sinh một số trường THCS Tỉnh Tây Ninh. Mục tiêu 2: Đổi mới nội dung và hình thức hoạt động thể thao ngoại khóa cho học sinh một số trường THCS Tỉnh Tây Ninh. - Cơ sở pháp lý đổi mới nội dung và hình thức hoạt động thể thao ngoại khóa cho học sinh một số trường THCS Tỉnh Tây Ninh. - Cơ sở thực tiễn đổi mới nội dung và hình thức hoạt động thể thao ngoại khóa cho học sinh một số trường THCS tỉnh Tây Ninh. - Nguyên tắt đổi mới nội dung và hình thức hoạt động thể thao ngoại khóa cho học sinh một số trường THCS Tỉnh Tây Ninh.
  4. 4 - Đổi mới nội dung và hình thức hoạt động thể thao ngoại khóa cho học sinh một số trường THCS tỉnh Tây Ninh. - Phỏng vấn các chuyên gia, nhà chuyên môn, giáo viên, học sinh. Mục tiêu 3: Đánh giá hiệu quả nội dung và hình thức hoạt động thể thao ngoại khóa đổi mới cho học sinh một số trường THCS tỉnh Tây Ninh. - Xây dựng chương trình, kế hoạch thực nghiệm - Tiến hành thực nghiệm và đánh giá hiệu quả nội dung và hình thức hoạt động thể thao ngoại khóa cho học sinh một số trường THCS tỉnh Tây Ninh. ❖ Giả thuyết nghiên cứu: Nội dung và hình thức hoạt động thể thao ngoại khóa cho học sinh một số trường THCS tỉnh Tây Ninh được đổi mới cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của nhà trường và xã hội hóa kết hợp sử dụng cơ sở vật chất, sân bãi tại các CLB, Trung tâm TDTT sẽ có tác dụng tốt giúp HS có nhiều lựa chọn khi tham gia hoạt động thể thao ngoại khóa; qua đó phát triển thể lực, nâng cao sức khỏe góp phần giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ cho học sinh.
  5. 5 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN 1.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC THỂ CHẤT VÀ THỂ DỤC THỂ THAO TRƯỜNG HỌC Thể dục thể thao trong nhà trường bao gồm hoạt động GDTC bắt buộc và hoạt động TDTT tự nguyện của HS, SV trong trường học các cấp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, là bộ phận cơ bản và quan trọng của nền TDTT nước ta. Hiến pháp Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992 tại Điều 41 đã quy định: "Nhà nước và xã hội phát triển nền thể dục, thể thao dân tộc, khoa học và nhân dân. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển thể dục, thể thao; quy định chế độ GDTC bắt buộc trong trường học; khuyến khích và giúp đỡ phát triển các hình thức tổ chức thể dục, thể thao tự nguyện của nhân dân, tạo các điều kiện cần thiết để không ngừng mở rộng các hoạt động thể dục, thể thao quần chúng, chú trong hoạt động thể thao chuyên nghiệp, bồi dưỡng các tài năng thể thao” [47]; Trong Hiến pháp Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam sửa đổi năm 2013 tại Điều 37 đã quy định: "Thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân; đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc" [48]. Các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, XII của Đảng đã xác định những quan điểm cơ bản và chủ trương lớn trong công tác TDTT của thời kỳ đổi mới. Chăm sóc sức khỏe, tăng cường thể chất của nhân dân luôn được coi là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi nhân dân ta phải có sức khỏe dồi dào, thể chất cường 8 tráng, tinh thần phấn khởi. Vận động TDTT là một biện pháp hiệu quả để tăng cường lực lượng sản xuất và lực lượng quốc phòng của nước nhà. Đó chính là những quan điểm của Đảng ta về phát triển sự nghiệp TDTT ở Việt Nam. [6], [7], [8]. Chăm sóc sức khỏe, tăng cường thể chất của nhân dân được coi là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Chính Phủ. Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc đòi hỏi nhân dân phải có đủ sức khỏe, thể chất cường tráng. Nghị Quyết 08-NQ/TW ngày 01 tháng 12 năm 2011 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng tạo bước phát triển mạnh mẽ về TDTT
  6. 6 đến năm 2020, phần quan điểm đã nêu rõ “Phát triển thể dục, thể thao là một yêu cầu khách quan của xã hội, nhằm góp phần nâng cao sức khoẻ, thể lực và chất lượng cuộc sống của nhân dân, chất lượng nguồn nhân lực; giáo dục ý chí, đạo đức, xây dựng lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế; đồng thời, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội và của mỗi người dân. Các cấp ủy đảng có trách nhiệm thường xuyên lãnh đạo công tác thể dục, thể thao, bảo đảm cho sự nghiệp thể dục, thể thao ngày càng phát triển. Gìn giữ, tôn vinh những giá trị thể dục, thể thao dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, phát triển nền thể dục, thể thao nước ta mang tính dân tộc, khoa học, nhân dân và văn minh.” [3]; Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 01/12/2011 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục, thể thao đến năm 2020 (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 16/NQ-CP ngày 14/01/2013 của Chính phủ) đã khẳng định: “Đổi mới chương trình và phương pháp GDTC, gắn GDTC với giáo dục ý chí, đạo đức, giáo dục quốc phòng, giáo dục sức khỏe và kỹ năng sống của HS, SV. Mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động TDTT quần chúng: Nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”, vận động và thu hút đông đảo nhân dân tham gia tập luyện thể dục, thể thao…; Các cấp uỷ Đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cần quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng về công tác thể dục, thể thao” [61]. Hoạt động TDTT lần đầu tiên được luật hóa thông qua pháp lệnh TDTT số 28/2000/PL – UBTVQH 10, ngày 9/10/2000, điều 14 đã xác định: “TDTT trường học bao gồm giáo dục thể chất và hoạt động thể thao ngoại khoá cho người học, GDTC là chế độ giáo dục bắt buộc nhằm tăng cường sức khoẻ, phát triển thể chất, góp phần bồi dưỡng và phát triển nhân cách đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện cho người học. Nhà nước khuyến khích thể thao ngoại khoá trong nhà trường” [49]. Sau một thời gian dài chuẩn bị, năm 2006 Luật TDTT được Quốc hội thông qua, ghi dấu ấn mới cho sự phát triển TDTT của nước nhà. Luật TDTT đã dành riêng một mục gồm 6 điều để quy định về công tác GDTC và hoạt động thể thao trong nhà trường,
  7. 7 đây là cơ sở pháp lý để tăng cường trách nhiệm đối với công tác TDTT nói chung, công tác TDTT trong trường học nói riêng [45]. Theo Luật Thể dục, Thể thao được ban hành ngày 14 tháng 06 năm 2018 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Giáo dục thể chât và thể thao trong nhà trường bao gồm 2 nội dung chính: “GDTC là môn học chính khoá thuộc chương trình giáo dục nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản cho người học thông qua các bài tập và trò chơi vận động, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện”, đây còn được gọi là Thể dục nội khóa; “Hoạt động thể thao trong nhà trường là hoạt động tự nguyện của người học được tổ chức theo phương thức ngoại khoá phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người học thực hiện quyền vui chơi, giải trí, phát triển năng khiếu thể thao”, còn được gọi là thể dục, thể thao ngoại khóa [46]. Thủ Tướng chính phủ Ban hành các văn bảng chỉ đạo công tác GDTC và thể thao trường học như: Nghị định số 11/2015/NĐ-CP ngày 31/01/2015 của Thủ tướng Chính phủ “Quy định về GDTC và hoạt động thể thao trong nhà trường”: “GDTC trong nhà trường là nội dung giáo dục, môn học bắt buộc, thuộc chương trình giáo dục của các cấp học và trình độ đào tạo, nhằm trang bị cho trẻ em, HS, SV các kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản, hình thành thói quen luyện tập thể dục, thể thao để nâng cao sức khỏe, phát triển thể lực, tầm vóc, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện” [55]. Tháng 12/2010, Thủ tưởng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển Thể dục thể thao Việt Nam đến năm 2020 đã dành riêng một phần quan trọng cho GDTC và hoạt động thể thao trường học. Đề cập đến những yếu kém, tồn tại của công tác GDTC, Chiến lược đã nêu: “Công tác GDTC trong nhà trường và các hoạt động thể thao ngoại khóa của HS, SV chưa được coi trọng, chưa đáp ứng yêu cầu duy trì và nâng cao sức khỏe cho HS, là một trong số các nguyên nhân khiến cho thể lực và tầm vóc người Việt Nam thua kém rõ rệt so với một số nước trong khu vực… Chương trình chính khóa cũng như nội dung hoạt động ngoại khóa còn nghèo nàn, chưa hợp lý, không hấp dẫn HS tham gia các hoạt động thể thao ngoại khóa” [57, tr.5].
  8. 8 Ngày 28/4/2011 Thủ Tướng chính phủ ban hành quyết định số 641/QĐ-TTg, Về việc phê duyệt đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011 – 2030. Mục tiêu tổng quát "Phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam trong 20 năm tới để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; từng bước nâng cao chất lượng giống nòi và tăng tuổi thọ khỏe mạnh của người Việt Nam"; Cụ thể "Đối với nam 18 tuổi: Năm 2020 chiều cao trung bình 167 cm; năm 2030 chiều cao trung bình 168,5 cm. Đối với nữ 18 tuổi: Năm 2020 chiều cao trung bình 156 cm; năm 2030 chiều cao trung bình 157,5 cm" ngoài ra các tố chất thể lực đều phát triển theo định mức qui định cho các test lực bóp tay và chạy 5 phút tùy sức [60, tr.162]. Ngày 17 tháng 6 năm 2016 Thủ tướng chính phủ ban hành quyết định số 1076/QĐ- TTg phê duyệt “Đề án tổng thể phát triển giáo dục Thể chất và thể thao trường học giai đoạn 2016 – 2020 và định hướng đến năm 2025”. Quyết định có quan điểm: "(1) Giáo dục thể chất và thể thao trường học là bộ phận quan trọng, nền tảng của nền thể dục, thể thao nước nhà; góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện cho trẻ em, học sinh, sinh viên. (2) Phát triển giáo dục thể chất và thể thao trường học là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội, các nhà trường và cộng đồng. (3) Phát triển giáo dục thể chất và thể thao trường học bảo đảm tính khoa học và thực tiễn, có lộ trình triển khai phù hợp với từng vùng, miền, địa phương trong cả nước. (4) Nhà nước quan tâm đầu tư, đồng thời khuyến khích, đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư; phát huy mạnh mẽ sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước trong việc phát triển giáo dục thể chất và thể thao trường học" [58]. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về Giáo dục Thể chất trường học đã khẳng định vị trí và vai trò của GDTC trong đào tạo thế hệ trẻ - lực lượng lao động mới quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước; khẳng định sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển TDTT trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, Giáo dục Thể chất và Thể thao trường học có một vị trí vô cùng to lớn trong giáo dục và đào tạo.
  9. 9 1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THỂ THAO NGOẠI KHÓA 1.2.1. Một số khái niệm ❖ Tính mới Theo Từ điển tiếng Việt “mới" là “vừa được làm ra hay là chưa dùng hoặc dùng chưa lâu" hoặc "vừa có, vừa xuất hiện" [66]. Theo nghĩa tuyệt đối, “mới” nghĩa là lần đầu xuất hiện, không trùng lặp với những cái đã và đang tồn tại. Bản chất của nghiên cứu khoa học là thâm nhập vào thế giới những sự vật, hiện tượng mà con người chưa biết. Tuy nhiên, cần hiểu tính mới theo nghĩa rộng nghĩa là những vấn đề “cũ” nhưng được nghiên cứu theo cách tiếp cận “mới”, bằng phương pháp mới nhờ vậy mà phát hiện ra những tính chất, thông tin mới do đó cũng được coi là “mới”. Về bản chất, sự sáng tạo ra cái mới là sự vén mở, lựa chọn, sắp xếp lại, phối hợp, tổng hợp những sự việc, năng lực kỹ năng sẵn có [71, tr.12]. Luận án tiếp cận “đổi mới” theo hướng là những vấn đề “cũ” nhưng được nghiên cứu theo cách tiếp cận “mới”, bằng phương pháp mới nhờ vậy mà phát hiện ra những tính chất, thông tin mới do đó cũng được coi là “mới”. ❖ Hoạt động TDTT ngoại khóa Hoạt động TDTT ngoại khóa là hoạt động TDTT tự nguyện có tổ chức được tiến hành ngoài giờ học chính khóa “Phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khoẻ của HSSV” [38], [54, tr.179]. Theo Luật Thể dục, Thể thao điều 20 ghi rõ “Hoạt động thể thao trong nhà trường là hoạt động tự nguyện của người học được tổ chức theo phương thức ngoại khóa phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho người học thực hiện quyền vui chơi, giải trí, phát triển năng khiếu thể thao” [46]. Như vậy, có thể hiểu hoạt động TDTT NK, còn gọi là TDTT NK là hoạt động tập luyện TDTT tự nguyện của người học được nhà trường, cơ quan tổ chức theo phương thức ngoại khoá (ngoài giờ học) phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người học thực hiện quyền vui chơi, giải trí, phát triển năng khiếu thể thao.
  10. 10 ❖ Nội dung hoạt động thể thao ngoại khóa Nội dung hoạt động TTNK bao gồm các môn thể thao theo sở thích của từng cá nhân như: các bài thể dục, thể dục nhịp điệu, khiêu vũ thể thao, điền kinh, thể dục, các môn bóng, cầu lông, đá cầu, cờ, võ, vật, bơi lội, …, các môn thể thao có trong chương trình thi đấu của Đại hội thể thao SV và các chương trình hoạt động GDTC của ngành giáo dục. Ngoài ra, cần tổ chức cho HSSV tập luyện các môn thể thao dân tộc, TCVĐ theo điều kiện của từng địa phương [9, tr.2]. ❖ Hình thức tổ chức hoạt động TDTT ngoại khóa Hình thức hoạt động TTNK rất đa dạng nói chung có những hình thức cơ bản như thể dục sáng, thể dục giữa giờ, TDTT theo lớp, theo khóa. Ngày TDTT, thi đấu thể thao, TDTT ngoài trường, TDTT gia đình, đội đại biểu thể thao, lớp nghiệp dư thể thao, CLB thể thao, trung tâm đào VĐV, kiểm tra tiêu chuẩn RLTT v.v... Các trường học cần xây dựng quy hoạch hoạt động TTNK, các khóa và các lớp cũng cần có kế hoạch cụ thể của đơn vị mình làm cho hoạt động TTNK trở thành một mạng lưới sâu rộng, có tổ chức chặt chẽ [38, tr.195], [54, tr.181]. 1.2.2. Vị trí, vai trò, ý nghĩa của hoạt động thể thao ngoại khóa Hoạt động Thể thao ngoại khóa là hoạt động TDTT tự nguyện có tổ chức được tiến hành ngoài giờ chính khóa, phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khỏe của học sinh, sinh viên. Hoạt động Thể thao ngoại khóa rất đa dạng bao gồm hoạt động TDTT được quy định trong giờ giải lao, huấn luyện đội tuyển của trường phổ thông, tập luyện trong các CLB TDTT, các hoạt động thi đấu thể thao [38], [54]. Vị trí của hoạt động Thể thao ngoại khóa Hoạt động Thể thao ngoại khóa có vị trí đáng kể trong giáo dục và TDTT trường học. Các hoạt động ngoại khóa cùng với các hoạt động dạy học cấu thành một cấu trúc giáo dục trường học hoàn chỉnh, góp phần hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục. Vì thế hoạt động Thể thao ngoại khóa là một bộ phận cấu thành quan trọng của TDTT trường học, là con đường trọng yếu để thực hiện mục đích, nhiệm vụ TDTT trường học. Do đó không có Thể thao ngoại khóa thì TDTT trường học cũng không hoàn chỉnh. Ý nghĩa của hoạt động Thể thao ngoại khóa
  11. 11 - Có thể thỏa mãn nhu cầu tham gia hoạt động TDTT của thanh thiếu niên, thúc đẩy sự sinh trưởng phát dục có hiệu quả, có lợi cho phát triển thể chất của học sinh, sinh viên. Nghiên cứu ở nhiều nước cho thấy rằng: học sinh, sinh viên mỗi ngày tham gia hoạt động TDTT từ một giờ trở lên là phù hợp, nếu mỗi tuần chỉ tập hai tiết là chưa thỏa mãn nhu cầu. Biện pháp hữu hiệu duy nhất là phát triển rộng rãi hoạt động Thể thao ngoại khóa. - Hình thành chế độ lao động – nghỉ ngơi khoa học có lợi cho tính hiếu động của học sinh, phát triển toàn diện đức, trí, thể, mĩ. - Làm phong phú sinh hoạt nghiệp dư của học sinh, sinh viên, giúp bồi dưỡng phẩm chất tư tưởng, tình cảm cao thượng và tính tổ chức kỉ luật, năng lực giao tiếp, tập quán văn minh... - Góp phần bồi dưỡng hứng thú và năng lực của học sinh, sinh viên về mặt TDTT. - Góp phần bồi dưỡng cán bộ nòng cốt TDTT và nhân tài thể thao [38, tr.10, 24, 188 - 200], [62, tr.408 - 415]. Vai trò của Thể thao ngoại khóa Công tác TDTT ngoại khóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo dục phẩm chất ý chí, nhân cách cho học sinh, sinh viên. Thể dục thể thao ngoại khóa còn là môi trường thuận lợi để phát hiện và bồi dưỡng nhân tài thể thao cho quốc gia. Ngoài ra, TDTT ngoại khóa còn có ý nghĩa quan trọng về mặt cộng đồng, hướng thế hệ trẻ vào các hoạt động thể thao lành mạnh, tránh xa tệ nạn xã hội [52, trang 26-27]. Việc tổ chức hoạt động thể thao ngoại khóa nhằm động viên, khuyến khích học sinh, sinh viên tự giác tập luyện thể thao, hình thành thói quen rèn luyện thân thể thường xuyên. Tổ chức hoạt động ngoại khóa phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản: Phù hợp với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, điều kiện cụ thể của từng địa phương, trường học, tránh lãng phí, hình thức. Người tham gia phải tự nguyện, tự giác, phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khỏe. Có chương trình, kế hoạch và có thể được lồng ghép với hoạt động có ý nghĩa của nhà trường [53, 42-48].
  12. 12 1.2.3. Đặc điểm của hoạt động ngoại khoá Hoạt động ngoại khoá là một trong những hoạt động ngoài giờ lên lớp có tổ chức, có kế hoạch, có phương hướng được HS tiến hành theo nguyên tắc tự nguyện ở ngoài giờ nội khóa có hoặc không có sự chỉ đạo hay hướng dẫn của giáo viên nhằm gây hứng thú và phát triển tư duy, rèn luyện kỹ năng, bổ sung và mở rộng kiến thức cho HS. Hoạt động ngoại khoá là một hình thức tổ chức dạy học có đặc điểm: - Hoạt động ngoại khoá được thực hiện ngoài giờ học, nó không mang tính bắt buộc mà tùy thuộc vào hứng thú, sở thích, nguyện vọng của mỗi HS trong khuôn khổ khả năng và điều kiện tổ chức có được của nhà trường. - Hoạt động ngoại khoá có thể được tổ chức dưới nhiều dạng: dạng tập thể cả lớp, dạng nhóm theo năng kiếu, dạng học tập, dạng vui chơi, dạng thường kì, dạng đột xuất nhân những dịp kỉ niệm hay lễ hội. - Hoạt động ngoại khoá có thể được tổ chức theo những hình thức như: tổ ngoại khóa, câu lạc bộ khoa học, dạ hội nghệ thuật, câu lạc bộ TDTT, câu lạc bộ văn học… - Nội dung ngoại khóa rất đa dạng, bao gồm cả mặt văn hóa, khoa học công nghệ, TDTT, kĩ thuật…nhằm giúp HS mở rộng, đào sâu, làm phong phú thêm những điều đã được học trong các giờ nội khóa của môn học tương ứng. - Ngoại khóa do giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm khoa tổ bộ môn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh…và học sinh của một lớp, một số lớp hay học sinh toàn trường thực hiện. Hoạt động Thể thao ngoại khóa rất đa dạng bao gồm hoạt động TDTT được quy định trong giờ giải lao, huấn luyện đội tuyển, tập luyện ở câu lạc bộ, thi đấu thể thao...Các hoạt động này có đặc điểm: Về tính chất hoạt động: Đó là hoạt động thể hiện sự phối hợp giữa tham gia bắt buộc và tham gia tự nguyện, trong đó tự nguyện là chủ yếu. Hoạt động TDTT trong giờ giải lao bắt buộc học sinh phải tham gia, còn hoạt động TDTT ngoài giờ thì tự nguyện. Về nội dung hoạt động: Nội dung hoạt động ngoại khóa rất phong phú, vượt ra ngoài những nội dung quy định trong chương trình TDTT chính khoá, không bị
  13. 13 chương trình hạn chế. Hoạt động Thể thao ngoại khóa có thể tiến hành trong trường và cũng có thể tổ chức ngoài trường, nên không gian hoạt động so với TDTT nội khóa là rộng lớn hơn nhiều. Về hình thức hoạt động: Hình thức hoạt động Thể thao ngoại khóa rất đa dạng, phương pháp thì linh hoạt có thể tiến hành dưới dạng toàn trường, toàn khóa, toàn lớp hoặc theo nhóm, theo cá nhân, nên có thể thỏa mãn yêu cầu khác nhau của HS. Thời gian hoạt động cũng không yêu cầu gay gắt như giờ học TDTT chính khoá, có thể tiến hành bất kỳ khi nào, miễn là phù hợp với điều kiện cho phép của HS. Về vai trò của giáo viên và học sinh: Trong hoạt động ngoại khóa giáo viên đóng vai trò chủ đạo, tư vấn; còn HS thì phát huy được vai trò chủ thể của mình, như vậy sẽ có lợi cho việc phát huy năng lực của học sinh, phát huy đầy đủ tính tích cực, chủ động, sáng tạo của bản thân HS, qua đó bồi dưỡng lòng hăng say, hứng thú TDTT và nhiều phẩm chất quý báo khác. Về quy mô hoạt động: Số học sinh tham gia không những nhiều, người tham gia tổ chức cũng đông. Ở đây có sự tham gia của giáo viên, cán bộ TDTT, cán bộ Đoàn, Đội,... Về quan hệ phổ cập và nâng cao: Hoạt động TDTT ngoại khoá có đặc điểm là kết hợp mật thiết giữa phổ cập và nâng cao. Với tất cả HS thì nó có tính phổ cập, còn với đội tuyển thể thao thì mang tính nâng cao. Tất nhiên ở đây chỉ là tương đối. Vừa có tính bổ sung vừa có tính độc lập: Do bị hạn chế về thời gian và nội dung, giờ học thể dục không thể thoả mãn mọi yêu cầu đối với vận động, yêu cầu điều tiết thăng bằng tâm lý của học sinh, nên hoạt động ngoại khoá có tính bổ sung cho giờ học nội khoá. Nhưng TDTT ngoại khoá lại có tính độc lập riêng, nó không phải là sự kéo dài của TDTT nội khoá [38], [54], [63]. Theo Lê Văn Lẫm và Phạm Xuân Thành, [38] khi tổ chức hoạt động thể thao ngoại khóa cần lưu ý đến các mặt: Tính chất hoạt động mềm hóa giữa bắt buộc và tự nguyện; Nội dung phong phú, linh hoạt không bị hạn chế; Không gian địa điểm tiến hành rộng lớn (trong trường hoặc ngoài trường); Hình thức đa dạng có thể tiến hành theo cá nhân, nhóm, khóa, trường;
  14. 14 Thời gian hoạt động có thể tiến hành bất kỳ lúc nào trong ngày tùy theo điều kiện thời gian của học sinh, sinh viên; Cán bộ, giáo viên đóng vai trò hướng dẫn, tư vấn, định hướng; còn học sinh, sinh viên phát huy vai trò chủ thể, tích cực chủ động phát huy lòng đam mê, hứng thú TDTT năng khiếu, năng lực sáng tạo của mình; Quy mô hoạt động thể thao ngoại khóa thể hiện qua số lượng học sinh, sinh viên, cán bộ - giáo viên GDTC, cán bộ Đoàn, Công đoàn, phụ huynh học sinh, sinh viên cùng tham gia. Số môn thể thao tổ chức được cho học sinh, sinh viên tập luyện, số giải thi đấu tham gia các cấp trong năm; Với đa số học sinh, sinh viên thể thao ngoại khóa có tính phổ cập, chủ yếu biết chơi một môn thể thao nào đó để rèn luyện sức khỏe là đã tốt rồi. Nhưng trong số hàng ngàn đến hàng vạn học sinh, sinh viên (tùy theo trường), sẽ có những em có năng khiếu đặc biệt nổi trội thì đây chính là những nhân tố tích cực để hình thành nên các đội tuyển, đội tiêu biểu thể thao của trường. Đối tượng này cần có chế độ tập luyện chuyên biệt để nâng cao trình độ chuyên môn, sẵn sàng tham gia thi đấu các giải ngoài trường. Đây cũng là lực lượng hướng dẫn viên tích cực mà giáo viên GDTC cần phải chú tâm lựa chọn, đào tạo để hỗ trợ hướng dẫn cho nhóm HS ở trình độ phổ cập; Thể thao ngoại khóa vừa bổ sung kiến thức thực hành cho giờ nội khóa nhưng nó cũng có những đặc thù riêng mà GDTC nội khóa không có được. Thể thao ngoại khóa cùng với GDTC nội khóa hình thành nên một thể thống nhất của TDTT trường học; Có thể khái quát đặc điểm hoạt động thể thao ngoại khóa theo sơ đồ 1.1 [38]
  15. 15 Sơ đồ 1.1. Đặc điểm hoạt động thể thao ngoại khóa 1.3. CÁC YẾU TỐ ĐẢM BẢO ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG THỂ THAO NGOẠI KHÓA CỦA HỌC SINH 1.3.1. Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến hoạt động thể thao ngoại khóa của học sinh ❖ Nhu cầu: Khái niệm: Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người; là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển. Tùy theo trình độ nhận thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những nhu cầu khác nhau [118]. Cho tới nay chưa có một định nghĩa chung nhất cho khái niệm nhu cầu. Các sách giáo khoa chuyên ngành hay các công trình nghiên cứu khoa học thường có những định nghĩa mang tính riêng biệt. Trong phạm vi nhận thức hiện tại có thể định nghĩa nhu cầu là tính chất của cơ thể sống, biểu hiện trạng thái thiếu hụt của chính cá thể đó và do đó phân biệt nó với môi trường sống. Nhu cầu tối thiểu, hay còn gọi là nhu yếu tuyệt đối, đã được lập trình qua quá trình rất lâu dài tồn tại, phát triển và tiến hóa [76]; [77], [115].
  16. 16 Nhu cầu học tập là đòi hỏi của con người đối với sự lĩnh hội nội dung kiến thức, phương pháp học tập, nhằm làm giàu vốn kinh nghiệm, phát triển và hoàn thiện nhân cách của bản thân; là trạng thái thiếu hụt về kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo mới được phản ánh trong não của người học. Nhu cầu học tập là thành phần cơ bản của động cơ học tập, thúc đẩy tính tích cực và có ảnh hưởng quyết định tới kết quả học tập [39]. Phân loại nhu cầu: Aristotle đã cho rằng con người có hai loại nhu cầu chính: thể xác và linh hồn [75]. Sự phân loại này mang tính ước lệ lớn nhưng nó ảnh hưởng đến tận thời nay và người ta quen với việc phân nhu cầu thành "nhu cầu vật chất" và "nhu cầu tinh thần". Nhu cầu vật chất có liên quan trực tiếp đến sự tồn tại của cơ thể con người, có cội nguồn sâu xa từ bên trong cơ thể như nhu cầu về thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo mặc...Chính những nhu cầu này thúc đẩy con người hoạt động lao động và sáng tạo để làm ra của cải vật chất, tạo ra cơ sở của toàn bộ lịch sử tồn tại của loài người. Nhu cầu tinh thần có liên quan trực tiếp với những đòi hỏi về cái đẹp, đối xử với nhau cho hợp đạo lý, hợp tình người… có cội nguồn sâu xa từ trong nền văn minh, cái làm nên lực lượng bản chất người. Chẳng hạn như nhu cầu về nghệ thuật, nhu cầu về khoa học, nhu cầu học tập vươn lên nắm bắt, lĩnh hội tri thức khoa học, nhu cầu hoạt động TDTT… Theo Manfred Max-Neef (1991), các nhu cầu cơ bản của con người được xem là mang tính bản thể, có số lượng ít, có hạn và có thể phân loại được (khác với thuật ngữ kinh tế “nhu cầu” là vô hạn và không thể thỏa mãn hết). Theo lý thuyết động cơ, nhu cầu là một động lực bên trong mỗi cá nhân, có thể được xem như một trạng thái tìm kiếm sự thỏa mãn hoặc giai đoạn tâm lý không hoàn hảo dẫn đến tìm kiếm trạng thái hoàn hảo [93]. Theo một cách nhìn đơn giản theo Morgan & King (2001) nhu cầu con người là điều gì đó thiếu hụt, được định nghĩa là “bất cứ sự thiếu hụt gì đó trong mỗi người nảy sinh do tự ý hoặc tâm lý” [87]. Nhu cầu thường được nhắc đến ám chỉ một động cơ hoặc trạng thái nội tâm hướng đến một động cơ, ví dụ như khi buồn ngủ thì con người có nhu cầu ngủ. Đây là phương pháp tiếp cận của Abraham
  17. 17 Maslow [91], người phân tích về “nhu cầu cơ bản” nổi tiếng trên toàn thế giới. Maslow phát triển học thuyết về động cơ của con người, trong đó ông đề cập đến một số nhu cầu quan trọng và sắp xếp theo một hệ thống cấp bậc. Có mỗi một bậc nhu cầu được đáp ứng, con người lại tìm cách thỏa mãn bậc nhu cầu tiếp theo. Các cấp bậc bao gồm: Nhu cầu sinh lý, an toàn, xã hội, được tôn trọng và khẳng định bản thân. Vui chơi và giải trí cũng là thành tố quan trọng thỏa mãn ít nhất là 3 bậc cao nhất trong hệ thống nhu cầu của Maslow [88]. Theo Maslow về căn bản, nhu cầu của con người được chia làm hai nhóm chính: nhu cầu cơ bản (basic needs) và nhu cầu bậc cao (meta needs) Nhu cầu cơ bản liên quan đến các yếu tố thể lý của con người như mong muốn có đủ thức ăn, nước uống, được ngủ nghỉ... Những nhu cầu cơ bản này đều là các nhu cầu không thể thiếu hụt vì nếu con người không được đáp ứng đủ những nhu cầu này, họ sẽ không tồn tại được nên họ sẽ đấu tranh để có được và tồn tại trong cuộc sống hàng ngày. Các nhu cầu cao hơn nhu cầu cơ bản trên được gọi là nhu cầu bậc cao. Những nhu cầu này bao gồm nhiều nhân tố tinh thần như sự đòi hỏi công bằng, an tâm, vui vẻ, địa vị xã hội, sự tôn trọng, vinh danh với một cá nhân v.v. Các nhu cầu cơ bản thường được ưu tiên chú ý trước so với những nhu cầu bậc cao này. Với một người bất kỳ, nếu thiếu ăn, thiếu uống... họ sẽ không quan tâm đến các nhu cầu về vẻ đẹp, sự tôn trọng... nhu cầu của con người có thể ra thành 5 nhóm cơ bản như sau: Hình 1.2. Tháp nhu cầu Maslow [92] Theo lý thuyết Maslow, mỗi cá nhân sẽ cần được thỏa mãn những nhu cầu theo các cấp độ từ 1 tới 5. Khi đã đạt được 1 nấc nhu cầu căn bản, cá nhân sẽ mong muốn được thỏa mãn nấc nhu cầu cao hơn.
  18. 18 Mức 1 - Nhu cầu sinh tồn cơ bản. Đây là các nhu cầu cơ bản nhất để con người có thể tồn tại được trong xã hội như: ăn, uống, thở - hoạt động, đi lại - ngủ, nghỉ ngơi - suy nghĩ. Mức 2 - Nhu cầu về an toàn cá nhân. Đây là nấc nhu cầu thứ 2 của con người, là các điều kiện cần thiết để duy trì sự an toàn của cá nhân trong xã hội như: nhà ở - giày dép, quần áo - phương tiện đi lại - công việc (thu nhập) - các kiến thức nền tảng (đọc, viết). Mức 3 - Nhu cầu được chấp nhận và yêu thương. Hầu hết các xúc cảm tốt được tạo ra từ những mối quan hệ tương tác giữa người với người, do vậy cá nhân luôn có nhu cầu được thuộc về một tập thể lớn để được chia sẻ, được yêu thương, được đóng góp. Mỗi cá nhân cùng lúc có thể tham gia vào nhiều tập thể khác nhau. Tùy theo các đặc thù riêng về chủng tộc, giới tính, địa phương, ngành nghề, tôn giáo mà cá nhân sẽ chọn cho mình những tập thể phù hợp. Mức 4 - Nhu cầu được tôn trọng. Khi cá nhân đã là thành viên trong tập thể, nấc nhu cầu kế tiếp là “được tôn trọng” - nói cách khác là “Địa vị xã hội”. Địa vị xã hội cao sẽ cho phép cá nhân được tác động, sai khiến người khác làm công việc thay cho họ, tuân phục họ, ca ngợi họ. Theo tư tưởng phong kiến của Châu Á thì loại nhu cầu này được coi như nấc cuối cùng của xã hội. Mức 5 - Nhu cầu hiện thực hóa bản thân. Nhu cầu này chính là nấc nhu cầu cao nhất của con người - Được làm “những điều vĩ đại - có ý nghĩa lớn lao - tác động đến xã hội” - Được xã hội ghi nhận. Trong xã hội Phương Tây, nhu cầu này đặc biệt được coi trọng và được khuyến khích. Đây cũng chính là lý do tuy ra đời chậm hơn nền văn minh Châu Á, nhưng xã hội Phương Tây đã có những bước phát triển vượt bậc và vượt lên dẫn đầu trong vòng chỉ vài thế kỷ. Sau đó, vào những năm 1970 và 1990, sự phân cấp này đã được Maslow hiệu chỉnh thành 7 bậc và cuối cùng là 8 bậc, đó là: - Nhu cầu cơ bản: thức ăn, nước uống, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết, thở, nghỉ ngơi. - Nhu cầu về an toàn: cảm giác yên tâm về an toàn thân thể, việc làm, gia đình, sức khỏe, tài sản được đảm bảo.
  19. 19 - Nhu cầu về xã hội: giao lưu tình cảm và được trực thuộc muốn được trong một nhóm cộng đồng nào đó, muốn có gia đình yên ấm, bạn bè thân hữu tin cậy. - Nhu cầu về được quý trọng: được quý trọng, kính mến, có cảm giác được tôn trọng, kinh mến, được tin tưởng. - Nhu cầu về nhận thức, hiểu biết: hiểu biết, góp phần vào kiến thức chung của bản thân. - Nhu cầu về thẩm mỹ: có sự yên bình, ham muốn hiểu biết về những gì thuộc nội tại. - Nhu cầu được thể hiện mình: muốn sáng tạo, được thể hiện khả năng, thể hiện bản thân, trình diễn mình, có được và được công nhận là thành đạt. - Nhu cầu về tự tôn bản ngã: một trạng thái siêu vị kỷ hướng đến trực giác siêu nhiên, lòng vị tha, hòa hợp bác ái. Maslow cho rằng con người muốn và luôn đấu tranh để thoả mãn những nhu cầu khác nhau. Xuất phát từ việc những mức nhu cầu bậc thấp bao giờ cũng cấp thiết và quan trọng hơn, nên chúng sẽ đóng vai trò như nguồn và định hướng của một mục tiêu cá nhân nếu những nhu cầu này không được thoả mãn. Sau khi những nhu cầu bậc thấp được thoả mãn, những nhu cầu cao hơn sẽ là động cơ hành động. Những nhu cầu chưa được thỏa mãn ở bậc dưới sẽ lấn át những nhu cầu chưa được thỏa mãn ở bậc cao hơn, và chúng cần được thỏa mãn trước khi một cá nhân tiến lên các bậc cao hơn của tháp nhu cầu. Và theo Maslow, nhu cầu của con người phải dần hình thành và phát triển thông qua từng cấp độ, không thể có sự “nhảy vọt” và bỏ qua một mức nhu cầu trước khi sang một mức nhu cầu cao hơn. Mặt khác các loại nhu cầu trên đây thực tế chỉ là bề nổi, là mặt bên ngoài, thể hiện các loại ham muốn của con người để có được các cảm xúc tốt. Trên thực tế, rất khó để tính hết được các loại nhu cầu cụ thể của con người. Năm nhóm nhu cầu theo phân loại của Maslow giúp chúng ta thấy được những nhóm mục đích chính dẫn dắt các hành vi con người để hướng tới sự thoả mãn theo các tiêu chí do xã hội đặt ra. Có một số vấn đề nảy sinh khi áp dụng học thuyết của Maslow vì nhu cầu không cần thiết phải được phân cấp hay phân nhóm, thường trùng lắp và xảy ra
  20. 20 đồng thời. Tuy nhiên, học thuyết cũng giúp các nhà nghiên cứu nhận định và phân loại các kiểu nhu cầu cá nhân khác nhau [112]. Manfred Max-Neef (1991) trước đó có đề nghị “cần hiểu nhu cầu con người là một hệ thống, chúng có tương quan và tác động lẫn nhau. Trong hệ thống này không có cấp bậc (ngoại trừ các nhu cầu sống cơ bản), hơn nữa, sự bổ sung và đánh đổi là các đặc điểm của quá trình thỏa mãn nhu cầu” [93]. Do đó, chơi thể thao nhằm mục đích tăng cường sức khỏe, thư giãn tinh thần, kết bạn, … được xem trọng trong cuộc sống con người. Nhu cầu về sức khỏe, tinh thần và sự phát triển xã hội được giải thích rõ trong lý thuyết về tháp nhu cầu của Maslow và được áp dụng trong việc xây dựng phiếu điều tra khảo sát. Nhu cầu hoạt động thể dục thể thao: Nhu cầu vận động là một trong những nhu cầu cần thiết của con người, ngay từ ngày đầu tiên trong cuộc đời nhu cầu vận động của một đứa trẻ đã được thỏa mãn thông qua hoạt động vận động. Trong quá trình hoạt động thể thao nhu cầu vận động không những được thỏa mãn mà còn nảy sinh một nghiên cứu mới là nhu cầu căng thẳng thể chất lớn (lượng vận động lớn) phù hợp với cường độ, thời gian và tính chất của hoạt động vận động. Tích tích cực của người tập TDTT phụ thuộc vào nhu cầu của người đó do vậy, nhu cầu của người tập TDTT là thuộc tính cá nhân do đó nó khác với các hình thức của nhu cầu về vật chất và tinh thần. Các tầng lớp xã hội (trong đó có học sinh) đến với TDTT được coi như là một hành động xã hội. Hành động xã hội bao giờ cũng có yêu cầu, mục đích. Thể dục thể thao được mọi người sử dụng như phương tiện để tăng cường sức khoẻ là chủ yếu, nhưng cũng có những nhu cầu về tinh thần. Xã hội học TDTT nghiên cứu mối quan hệ của con người đối với TDTT không thể không đề cập đến các động cơ, nhu cầu có thời gian rỗi như điều kiện cơ bản để thực hiện nhu cầu. Có nhu cầu nhưng không có thời gian cũng không dễ hoà nhập vào phong trào TDTT.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2