VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TRUNG KIÊN GIÁM ĐỐC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TRUNG KIÊN GIÁM ĐỐC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số : 9380104

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Huyên

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu nêu

trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chƣa từng đƣợc

công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận án Nguyễn Trung Kiên

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1 9 22 27 30

Chương 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc ........................................................................ 1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nƣớc ....................................................................... 1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án và những vấn đề tập trung nghiên cứu trong luận án ................................................................................... 1.4. Câu hỏi và giải thuyết nghiên cứu ....................................................................... Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM ĐỐC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2.1. Khái niệm giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự ................................................ 2.2. Ý nghĩa của thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự .................................. 2.3. Các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự ................................................................................................................ 2.4. Các yếu tố tác động đến thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự................ 2.5. Mô hình giám đốc thẩm trong các thiết chế tƣ pháp hình sự quốc tế và tố tụng hình sự của một số quốc gia trên thế giới ...................................................................

32 44 46 48 50

65 96

116 117 120 Chương 3 NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ GIÁM ĐỐC THẨM VÀ THỰC TRẠNG GIÁM ĐỐC THẨM 3.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về giám đốc thẩm ....................................... 3.2. Thực trạng giám đốc thẩm ................................................................................... Chương 4 CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁM ĐỐC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 4.1. Phƣơng hƣớng đổi mới, hoàn thiện, nâng cao hiệu quả giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự ................................................................................................................ 4.2. Yêu cầu đổi mới, hoàn thiện, nâng cao hiệu quả giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự ........................................................................................................................ 4.3. Những giải pháp nâng cao chất lƣợng giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự ......

149 151 152

KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Bộ luật tố tụng hình sự Bộ luật hình sự Hiệu lực pháp luật Viện kiểm sát nhân dân tối cao Tòa án nhân dân tối cao Viện kiểm sát nhân dân Tòa án nhân dân Tòa án quân sự Hội đồng giám đốc thẩm Tòa án nhân dân cấp cao Viện kiểm sát nhân dân cấp cao

BLTTHS BLHS HLPL VKSNDTC TANDTC VKSND TAND TAQS HĐGĐT TANDCC VKSNDCC

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn trung tâm, quan trọng nhất của hoạt động

TTHS. Trong giai đoạn này, Tòa án nhân danh quyền lực Nhà nƣớc, trên cơ sở pháp luật, kiểm tra tính có căn cứ, hợp pháp của toàn bộ các quyết định đã đƣợc các cơ quan

tiến hành tố tụng ban hành trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố; thông qua hoạt

động điều tra trực tiếp tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa sẽ đánh giá một cách khách quan, đầy đủ chứng cứ và các tình tiết trong vụ án với mục đích cuối cùng

là tuyên một bản án, quyết định công minh, có căn cứ, đúng pháp luật, bảo đảm không

làm oan ngƣời vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Vì vậy, chất lƣợng xét xử, tính chính xác,

hợp pháp trong các bản án, quyết định của Tòa án phản ánh chất lƣợng của hoạt động tƣ pháp, uy tín của Nhà nƣớc.

Tòa án đƣợc coi là tƣợng trƣng cho công lý. Tòa án nhân danh công lý và dựa

vào công lý nên phải hoạt động “nhƣ một ngƣời đứng giữa, trung lập, không phụ thuộc

vào bên nào” [111, tr.43] và chỉ tuân theo pháp luật. Tuy nhiên, hoạt động xét xử của

Tòa án “có tính đặc thù, đó là hoạt động tƣ duy của thẩm phán trong việc áp dụng pháp luật” [111, tr.43]. Thẩm phán cũng là con ngƣời nên không thể tránh đƣợc sai lầm

trong nhận thức hoặc bị ảnh hƣởng bởi các yếu tố bên ngoài nhƣ chính trị, dƣ luận, các

vấn đề tôn giáo, chính trị, xã hội, những tác động, cám dỗ vật chất và tinh thần từ phía

những ngƣời có liên quan đến vụ án... Trong TTHS, Tòa án có quyền quyết định các

vấn đề liên quan đến tài sản, tự do, danh dự, thậm chí tính mạng của con ngƣời. Vì

vậy, những sai lầm trong quyết định, bản án của Tòa án có thể dẫn đến những hậu quả

rất nghiêm trọng, ảnh hƣởng không chỉ đến quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân,

pháp nhân mà còn làm suy giảm uy tín của Nhà nƣớc.

Giám đốc thẩm trong TTHS là thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có HLPL

của Tòa án bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, nhằm đảm

bảo pháp luật đƣợc áp dụng đúng đắn và thống nhất, kịp thời khắc phục những sai lầm,

vi phạm. Đây là thủ tục tố tụng quan trọng đảm bảo tính chính xác, công minh của các bản án, quyết định của Tòa án, bảo đảm quyền con ngƣời, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, bảo vệ công lý, sự nghiêm minh của pháp luật và uy tín của Nhà nƣớc. Việc lựa chọn đề tài “Giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam” cho

luận án tiến sỹ vì các lý do sau:

1

Thứ nhất, thể chế hóa chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020: “Từng bƣớc hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hƣớng quy định

chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của ngƣời ra kháng nghị

đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL; khắc phục tình trạng kháng nghị

tràn lan, thiếu căn cứ.” Bên cạnh nhiệm vụ phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện

nhanh chóng, chính xác, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, ngƣời phạm tội, việc hoàn thiện thủ tục TTHS còn phải đảm bảo quyền

con ngƣời, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nƣớc, cá nhân, pháp

nhân, không làm oan ngƣời vô tội. Trƣờng hợp xảy ra việc oan, sai cần phải đƣợc phát

hiện, giải quyết nhanh nhất để khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của

ngƣời bị oan, kịp thời bồi thƣờng vật chất, tinh thần một cách thỏa đáng. Vì vậy, phải

có một thủ tục đặc biệt để xem xét lại một cách đầy đủ, khách quan toàn bộ quá trình

giải quyết vụ án, kịp thời phát hiện và khắc phục những vi phạm, sai lầm của các cơ

quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng, đảm bảo bản án, quyết định có HLPL của Tòa án chính xác, công minh, khách quan, đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật,

không làm oan ngƣời vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Để thực hiện đƣợc mục tiêu cải

cách tƣ pháp và hội nhập quốc tế nhƣ Nghị quyết đã đặt ra, cần có những nghiên cứu

về mô hình tố tụng, tổ chức hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, trình tự, thủ

tục giải quyết vụ án hình sự, thủ tục xem xét, phát hiện và xử lý những vi phạm, sai

lầm trong bản án, quyết định có HLPL của Tòa án.

Thứ hai, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật tố tụng hình

sự năm 2015 đã đƣợc Quốc hội thông qua với nhiều quy định mới đƣợc bổ sung, thay

đổi, trong đó có các quy định về thủ tục giám đốc thẩm. Vì vậy đòi hỏi phải có nghiên

cứu đầy đủ, toàn diện các quy định về giám đốc thẩm trong BLTTHS và phân tích,

đánh giá thực tiễn thi hành các quy định này. Việc nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về thủ

tục giám đốc thẩm sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHS nói chung, nâng

cao chất lƣợng, hiệu quả việc giải quyết các vụ án hình sự nói riêng, phù hợp với yêu

cầu, đòi hỏi của lý luận và thực tiễn giai đoạn hiện nay.

Thứ ba, giám đốc thẩm trong TTHS có ý nghĩa chính trị, xã hội và pháp lý to

lớn. Khi ra bản án, quyết định, Tòa án nhân danh Nhà nƣớc quyết định những vấn đề liên quan đến tính mạng, tự do, danh dự, tài sản của cá nhân; uy tín, hoạt động và sự tồn tại của pháp nhân. Vì vậy, bản án, quyết định của Tòa án có chính xác thì công lý mới đƣợc thực thi, tạo niềm tin của xã hội vào pháp luật và thể chế chính trị, nâng cao

2

ý thức tôn trọng pháp luật của mỗi cá nhân, tổ chức. Thủ tục giám đốc thẩm trƣớc hết sẽ đảm bảo bản án, quyết định có HLPL của Tòa án khách quan, đúng pháp luật, hạn chế và kịp thời khắc phục sai lầm, vi phạm. Bên cạnh đó, thủ tục giám đốc thẩm giải quyết đƣợc những khó khăn, vƣớng mắc trong việc áp dụng pháp luật của Tòa án cấp dƣới, để những sai lầm tƣơng tự sẽ không lặp lại, là cơ sở để xây dựng án lệ, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự và TTHS.

Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng, thủ tục giám đốc

thẩm góp phần nâng cao trách nhiệm, năng lực của các chủ thể tiến hành tố tụng. Việc

xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL theo thủ tục giám đốc thẩm

đảm bảo các chủ thể tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án phải thu thập, nghiên cứu, đánh giá đầy đủ, chính xác, khách quan, toàn diện tất cả các chứng cứ, tài liệu để xác

định sự thật khách quan của vụ án; tinh thông, am hiểu pháp luật; chủ động, thận trọng

trong mỗi quyết định tố tụng.

Thứ tư, về lý luận, là một thủ tục đặc biệt trong TTHS, giám đốc thẩm nhận

đƣợc nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học trong và ngoài nƣớc. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, chƣa hoàn toàn thống nhất về bản chất của

thủ tục giám đốc thẩm; chƣa làm rõ đƣợc căn cứ, thẩm quyền, hậu quả giám đốc thẩm;

chƣa xác định rõ ràng sự khác biệt giữa thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm; sự

cần thiết phải quy định hai thủ tục độc lập để xem xét lại bản án, quyết định có HLPL của Tòa án. Vì vậy, nghiên cứu lý luận về giám đốc thẩm là rất cần thiết để bổ sung,

phát triển tri thức khoa học pháp lý, thống nhất về quan điểm và định hƣớng xây dựng,

hoàn thiện pháp luật.

Thứ năm, quá trình xây dựng, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về giám đốc thẩm

trong BLTTHS năm 2015, các nhà làm luật vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, chƣa

thực sự đúng với bản chất của thủ tục giám đốc thẩm. Hậu quả là một số quy định về

các thủ tục khác nhau còn chồng chéo, “lấn sân” của nhau, chƣa thể hiện đƣợc rõ ràng

bản chất của thủ tục giám đốc thẩm, để phân biệt thủ tục giám đốc thẩm với các thủ

tục tố tụng khác, đặc biệt là thủ tục tái thẩm; căn cứ kháng nghị vẫn còn gây tranh cãi

trong việc áp dụng, thiếu sự giải thích, hƣớng dẫn rõ ràng.

Thứ sáu, tổng kết công tác kiểm sát và kết quả xét xử hàng năm của ngành

Kiểm sát và Tòa án cho thấy số lƣợng bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án bị

hủy, sửa không hề nhỏ; một số vi phạm rất nghiêm trọng, xâm hại đến quyền con

ngƣời, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, ảnh hƣởng

đến uy tín của Nhà nƣớc, pháp luật. Bên cạnh đó, chất lƣợng kháng nghị giám đốc thẩm, quyết định giám đốc thẩm chƣa cao, một số trƣờng hợp kháng nghị không đƣợc chấp nhận hoặc phải rút kháng nghị; một số trƣờng hợp quyết định giám đốc thẩm của Tòa án cấp dƣới tiếp tục bị kháng nghị giám đốc thẩm; nghiêm trọng hơn, một số

quyết định giám đốc thẩm chƣa thực sự “tâm phục, khẩu phục”. Vì vậy, nghiên về thủ tục giám đốc thẩm là rất cần thiết, góp phần nâng cao chất lƣợng giám đốc thẩm trong thực tiễn thi hành.

Ngoài ra, không thể phủ nhận một thực tế là thông qua thủ tục giám đốc thẩm,

nhiều bản án, quyết định có HLPL của Tòa án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng đã

3

kịp thời đƣợc khắc phục, tạo lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án

nói riêng và đảm bảo uy tín của hệ thống tƣ pháp nói chung. Các quyết định giám đốc

thẩm đã và đang đƣợc lựa chọn để phát triển án lệ, góp phần xây dựng, hoàn thiện

pháp luật hình sự và TTHS. Do đó, thủ tục này cần phải đƣợc nghiên cứu một cách

đầy đủ, toàn diện về lý luận và thực tiễn để góp phần xây dựng, hoàn thiện pháp luật, nâng tầm chất lƣợng của các quyết định giám đốc thẩm trở thành mẫu mực và là nguồn

luật đáng tin cậy.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của Luận án là xây dựng cơ sở lý luận khoa học về giám

đốc thẩm trong TTHS, nghiên cứu những quy định của pháp luật về giám đốc thẩm

trong TTHS và thực tiễn thi hành, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám

đốc thẩm trong TTHS; nâng cao chất lƣợng giám đốc thẩm trong TTHS.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục đích nêu trên, Luận án có các nhiệm vụ sau đây: (1) làm sáng

tỏ những vấn đề lý luận về giám đốc thẩm trong TTHS gồm khái niệm, đặc điểm, ý

nghĩa, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện các quy định về giám đốc thẩm trong

TTHS và các yếu tố tác động đến giám đốc thẩm trong TTHS; (2) nghiên cứu mô hình

giám đốc thẩm trong các thiết chế tƣ pháp hình sự quốc tế và TTHS của một số quốc gia trên thế giới; (3) phân tích các quy định của pháp luật thực định và đánh giá thực

tiễn thi hành pháp luật về giám đốc thẩm trong TTHS ở Việt Nam hiện nay; (4) nghiên

cứu các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám đốc thẩm trong TTHS Việt Nam và

nâng cao chất lƣợng giám đốc thẩm trong TTHS.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Những vấn đề lý luận về giám đốc thẩm trong TTHS gồm: khái niệm, đặc

điểm, ý nghĩa, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện và các yếu tố tác động đến thủ tục

giám đốc thẩm trong TTHS.

- Mô hình giám đốc thẩm trong các thiết chế tƣ pháp hình sự quốc tế và TTHS

của một số quốc gia trên thế giới.

- Lịch sử hình thành, phát triển các quy định về thủ tục giám đốc thẩm trong

pháp luật TTHS Việt Nam.

- Những quy định về giám đốc thẩm trong pháp luật TTHS, đặc biệt là

BLTTHS năm 2015.

4

- Số liệu và thực trạng thi hành các quy định về giám đốc thẩm trong TTHS.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung, trƣớc hết, luận án phân tích những vấn đề lý luận về giám đốc

thẩm trong khoa học luật TTHS; nghiên cứu mô hình giám đốc thẩm trong thiết chế tƣ

pháp hình sự quốc tế và TTHS của một số quốc gia trên thế giới. Sau đó, luận án phân tích các quy phạm pháp luật về giám đốc thẩm và đánh giá thực tiễn thi hành. Trên cơ

sở những kết quả nghiên cứu từ lý luận và thực tiễn, luận án đề xuất các giải pháp

hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lƣợng giám đốc thẩm trong TTHS, đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền.

Về thời gian, Luận án tập trung nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2015 về giám đốc thẩm, so sánh với các quy định trong BLTTHS năm 1988 và 2003;

thực tiễn thi hành pháp về giám đốc thẩm trong TTHS từ năm 2010 đến 2019 bao gồm

tình hình giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, thông báo vi phạm trong

các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án; số lƣợng, chất lƣợng kháng nghị giám đốc thẩm và các quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng giám đốc thẩm của Tòa án

nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân tối cao.

Về không gian, Luận án nghiên cứu thực trạng thi hành các quy định về giám

đốc thẩm trong TTHS trên phạm vi cả nƣớc.

4. Phương pháp luận nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp luận nghiên cứu

Luận án nghiên cứu giám đốc thẩm trong TTHS theo cách tiếp cận đa ngành,

liên ngành khoa học xã hội và đa ngành, liên ngành luật học. Cụ thể:

Luận án đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận biện chứng duy vật

của chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đƣờng lối của Đảng

Cộng sản Việt Nam, Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đƣờng lối đổi mới đất nƣớc, tinh thần cải cách tƣ pháp, chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật, hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm làm kim chỉ nam cho toàn bộ

cấu trúc nghiên cứu của luận án.

Tiếp cận hệ thống: luận án nghiên cứu từ những vấn đề lý luận, phân tích các quy định của pháp luật hiện hành và thực trạng thi hành pháp luật TTHS về giám đốc thẩm. Sau đó, trên cơ sở đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc, đồng thời so sánh, tiếp thu những điểm tiến bộ của pháp luật quốc tế để đề xuất các

giải pháp hoàn thiện pháp luật.

5

Tiếp cận đa ngành, liên ngành: giám đốc thẩm trong TTHS không chỉ giới hạn trong TTHS mà còn liên quan đến việc áp dụng BLHS, Bộ luật dân sự, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và các văn bản pháp luật có liên quan. Ngoài ra, quyết định kháng nghị và quyết định giám đốc thẩm còn tác động

đến việc thi hành án, giải quyết các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Vì vậy, Luận án

sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu này để đƣa ra các giải pháp đồng bộ, toàn diện nhất.

Tiếp cận lịch sử: các quốc gia có truyền thống pháp luật giống nhau, có những

điểm tƣơng đồng về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội vẫn có những điểm khác biệt nhất định trong hoạt động lập pháp. Điều này xuất phát từ yếu tố lịch sử, hoàn cảnh

khách quan tại những thời điểm nhất định. Do đó, khi nghiên cứu, luận án sử dụng

phƣơng pháp này để đánh giá và phân tích các quy định của pháp luật về giám đốc

thẩm trong TTHS một cách khách quan và phù hợp.

Trong quá trình nghiên cứu, luận án còn sử dụng các phƣơng pháp luận,

phƣơng pháp nghiên cứu, lý luận về triết học pháp luật; các phƣơng pháp luận, phƣơng

pháp nghiên cứu, lý luận về luật TTHS, luật hình sự thực định để làm cơ sở pháp lý

cho những phân tích về giám đốc thẩm trong TTHS.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, Luận án sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau:

- Phƣơng pháp tổng hợp và thống kê: phƣơng pháp này đƣợc sử dụng chủ yếu

trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu và phần thực trạng thi hành pháp luật TTHS về giám đốc thẩm nhằm tổng hợp một cách có hệ thống các công trình khoa học

nghiên cứu về lĩnh vực giám đốc thẩm trong TTHS và thống kê các số liệu cụ thể liên

quan đến đánh giá chất lƣợng giám đốc thẩm trong TTHS ở Việt Nam.

- Phƣơng pháp phân tích: là phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử dụng trong toàn

bộ cấu trúc, nội dung của luận án. Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng nhằm luận giải, làm

sáng tỏ toàn bộ các vấn đề lý luận, phân tích các quy định về giám đốc thẩm trong

TTHS và thực trạng thi hành pháp luật để từ đó đƣa ra những nhận định, đánh giá về

ƣu điểm, hạn chế, vƣớng mắc và đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật, bảo đảm

hiệu quả, chất lƣợng giám đốc thẩm trong TTHS.

- Phƣơng pháp so sánh: đƣợc sử dụng để so sánh những thay đổi trong các quy

định pháp luật về giám đốc thẩm trong TTHS ở từng giai đoạn lịch sử; so sánh pháp luật của Việt Nam với quy chế của các thiết chế tƣ pháp hình sự quốc tế và pháp luật của các quốc gia trên thế giới về giám đốc thẩm.

- Phƣơng pháp tổng kết thực tiễn: đƣợc sử dụng để nghiên cứu tổng kết, đánh giá kết quả, hạn chế từ thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về giám đốc thẩm

trong TTHS.

- Phƣơng pháp điều tra điển hình: đƣợc sử dụng để thu thập thông tin đối với

6

một số vụ án điển hình nhằm đánh giá chất lƣợng giám đốc thẩm trong TTHS.

- Phƣơng pháp xin ý kiến chuyên gia: đƣợc sử dụng để tổng hợp các quan điểm,

ý kiến khác nhau của các chuyên gia, kiểm sát viên, thẩm phán trong quá trình nghiên

cứu, áp dụng pháp luật.

5. Đóng góp mới về khoa học của Luận án

Thứ nhất, trên cơ sở kết quả của các nghiên cứu trƣớc đây, luận án bổ sung,

hoàn thiện, phân tích, đánh giá đầy đủ, toàn diện những vấn đề lý luận về giám đốc

thẩm trong TTHS, các yếu tố tác động và các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của

thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS.

Thứ hai, luận án bổ sung các kết quả nghiên cứu về mô hình giám đốc thẩm trong các thiết chế tƣ pháp hình sự quốc tế và pháp luật TTHS của một số quốc gia trên thế giới để có cơ sở đánh giá chính xác, tổng quát về thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS.

Thứ ba, phân tích đầy đủ, cụ thể những quy định của BLTTHS và những văn

bản liên quan về giám đốc thẩm; so sánh với quy định trong các BLTTHS trƣớc đây;

đánh giá ƣu điểm, hạn chế của pháp luật hiện hành.

Thứ tư, đánh giá thực tiễn thi hành các quy định về giám đốc thẩm trong TTHS Việt Nam thời gian qua, so sánh hiệu quả trong việc thi hành các quy định về giám đốc

thẩm trong BLTTHS năm 2015 và các BLTTHS trƣớc đây.

Thứ năm, đề ra phƣơng hƣớng, yêu cầu trong việc hoàn thiện pháp luật và nâng

cao chất lƣợng giám đốc thẩm trong TTHS. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn thi hành

pháp luật, luận án nghiên cứu, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và đảm bảo

hiệu quả của thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án

- Ý nghĩa lý luận của luận án: Kết quả nghiên cứu của Luận án bổ sung những

vấn đề lý luận về giám đốc thẩm trong TTHS, góp phần thống nhất về nhận thức, làm

rõ khái niệm, đặc điểm, bản chất và vai trò của giám đốc thẩm trong TTHS. Đồng thời, trên cơ sở nghiên cứu về thủ tục giám đốc thẩm trong mô hình TTHS của các thiết chế tƣ pháp hình sự quốc tế và một số quốc gia trên thế giới, các yếu tố tác động đến giám đốc thẩm trong TTHS và các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS, luận án bổ sung, hoàn thiện lý luận khoa học luật TTHS về giám đốc thẩm.

7

- Ý nghĩa thực tiễn của luận án: Luận án phân tích, đánh giá ƣu điểm, hạn chế của những quy định về giám đốc thẩm; đƣa ra những luận cứ khoa học góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lƣợng giám đốc thẩm trong TTHS, đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp, xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Luận án cung cấp các luận cứ khoa học, kinh nghiệm trong thực tiễn thi hành,

áp dụng pháp luật, góp phần lấp đầy những “khoảng trống” trong các quy định về

giám đốc thẩm trong TTHS; nâng cao trình độ, năng lực của Thẩm phán, Kiểm sát

viên, Thẩm tra viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên, những ngƣời trực tiếp công tác giám đốc thẩm nói riêng và cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL nói

chung trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và phát hiện những vi phạm

trong bản án, quyết định của Tòa án.

7. Cơ cấu của Luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận

án gồm có 4 chƣơng, cụ thể nhƣ sau:

Chƣơng 1: Tổng quan nghiên cứu liên quan đến luận án

Chƣơng 2: Những vấn đề lý luận về giám đốc thẩm trong TTHS.

Chƣơng 3: Những quy định của BLTTHS Việt Nam về giám đốc thẩm và thực

trạng giám đốc thẩm.

8

Chƣơng 4: Các giải pháp nâng cao hiệu quả giám đốc thẩm trong TTHS.

Chương 1

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước

1.1.1. Các nghiên cứu chung về lý luận liên quan đến giám đốc thẩm.

Các nghiên cứu về giám đốc thẩm trƣớc hết phải kể đến các công trình có tính

chất định hƣớng lý luận, các nguyên tắc chung về xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền, bảo

vệ quyền con ngƣời nhƣ: Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi

mới, Nxb. Chính trị quốc gia năm 1997 [169] và Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp

ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội năm 2003 [170] của GS.TSKH Đào Trí Úc; Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong bối cảnh xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa [44] của tác giả Nguyễn Minh Đoan, Nxb. Chính trị quốc gia năm 2011; đề tài KX.04.06 Cải cách cơ quan tư pháp, hoàn thiện

hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân của Bộ Tƣ pháp năm

2006 [76] do Uông Chu Lƣu làm chủ nhiệm. Các nghiên cứu này tập trung vào các

vấn đề về lý luận Nhà nƣớc và pháp luật; quan điểm, định hƣớng của Đảng trong hoạt

động xây dựng Nhà nƣớc và pháp luật; vai trò, vị trí của hệ thống tƣ pháp trong bộ

máy Nhà nƣớc; các nguyên tắc, yêu cầu trong việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật và

tổ chức bộ máy Nhà nƣớc, tạo nền tảng để hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung,

pháp luật về giám đốc thẩm trong TTHS nói riêng.

Giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt đƣợc quy định không chỉ trong TTHS mà còn trong tố tụng hành chính, tố tụng dân sự. Các nghiên cứu về giám đốc thẩm trong tố

tụng hành chính, tố tụng dân sự có thể tìm thấy ở nhiều công trình với các cấp độ khác

nhau nhƣ sách chuyên khảo, luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, giáo trình, các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành. Trong số này, một số công trình nghiên cứu khá đầy đủ và toàn diện nhƣ các luận văn thạc sỹ Hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự của Hà Hoàng Hiệp [53]; Căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam và vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm vụ việc dân sự của Phạm Hoàng Diệu Linh [71]; Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự của Hà Thị Thúy Hà [47]; Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật

hiện hành của Chu Thị Hồng Nhung [96]; Giám đốc thẩm, tái thẩm trong giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa án của Ninh Thị Khánh Tân [113]. Các công trình này đều

xây dựng đƣợc khái niệm, phân tích những đặc điểm của thủ tục giám đốc thẩm; làm rõ đƣợc cơ sở khoa học, ý nghĩa và sự cần thiết của thủ tục giám đốc thẩm; nghiên cứu

9

thực tiễn thi hành pháp luật và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lƣợng giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính và tố tụng dân sự.

Ở phạm vi hẹp hơn, các bài viết Thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự

của Khuất Văn Nga, Tạp chí Kiểm sát số 12/2003 [92]; Chế định giám đốc thẩm dân

sự của tác giả Nguyễn Bình, Tạp chí Luật học số 4/2004 [35]; Chế định giám đốc

thẩm, tái thẩm và những vấn đề đặt ra trong việc thi hành của Trần Anh Tuấn, Tạp chí Luật học (đặc san) năm 2004 [117] chủ yếu nghiên cứu thủ tục giám đốc thẩm dƣới

góc độ phân tích một số trong Bộ luật tố tụng dân sự, từ đó đánh giá những điểm phù

hợp, vƣớng mắc và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật. Một số cuốn sách và

bài viết nhƣ Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách

tư pháp của Khuất Văn Nga, Nxb.Tƣ pháp năm 2008 [93]; Về nhiệm vụ của Kiểm sát

viên khi tham gia xét xử giám đốc thẩm các vụ án hành chính - kinh tế - lao động của

Nguyễn Huy Miện, Tạp chí Kiểm sát số 2/2001 [87]; Nâng cao chất lượng kháng nghị

giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định dân sự ở VKSNDTC của Phƣơng Hữu Oanh, Tạp chí Kiểm sát số 9/2002 [98] chỉ nghiên cứu về một chủ thể có thẩm quyền

kháng nghị giám đốc thẩm là Viện kiểm sát để khẳng định vị trí, vai trò của Viện kiểm

sát đối với thủ tục giám đốc thẩm và đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lƣợng,

hiệu quả trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chủ thể này.

Giám đốc thẩm cũng đƣợc đề cập đến trong một số nghiên cứu về thủ tục tái

thẩm nhƣ luận văn thạc sỹ Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam của Mai Hồng

Anh, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2017 [29] và luận án tiến sỹ Tái thẩm

trong TTHS Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn [95] của Nguyễn Hải Ninh,

Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2016. Trong các luận án, luận văn này, giám

đốc thẩm không phải là đối tƣợng nghiên cứu chính nhƣng trên cơ sở phân tích khái

niệm, các đặc điểm, ý nghĩa của thủ tục tái thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm đã đƣợc

so sánh những điểm giống và khác nhau, từ đó khẳng định sự cần thiết phải quy định

hai thủ tục độc lập trong TTHS.

Một số công trình nghiên cứu về thủ tục giám đốc thẩm trên cơ sở nghiên cứu

về việc giám đốc việc xét xử của Tòa án nhƣ luận văn thạc sỹ Những vấn đề lý luận và

thực tiễn về giám đốc việc xét xử của TAND của Nguyễn Văn Huy, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2008 [62] và Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật TTHS Việt Nam của Dƣơng Thị Ánh, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015 [32]. Giám đốc việc xét xử là hoạt động đặc thù của Tòa án cấp trên đối với cấp dƣới, vừa

10

kiểm tra, giám sát, tổng kết thực tiễn, vừa đảm bảo tính chính xác, đúng pháp luật của hoạt động xét xử. Giám đốc thẩm là hình thức kiểm tra, giám đốc xét xử đặc biệt của Tòa án cấp trên, xem xét lại các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án cấp dƣới, hủy bỏ bản án, quyết định vi phạm nghiêm trọng pháp luật. Các luận văn đã phân tích lý luận và thực tiễn của nguyên tắc giám đốc việc xét xử, trong đó có thủ tục giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL.

1.1.2. Các nghiên cứu về giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự.

- Các nghiên cứu về BLTTHS: là một thủ tục tố tụng đƣợc quy định trong

BLTTHS, giám đốc thẩm đã đƣợc nghiên cứu trong một số cuốn sách có tính chất giới

thiệu, bình luận các quy định của BLTTHS nhƣ Bình luận khoa học BLTTHS của GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb.Công an nhân dân năm 2004 [167]; Bình luận

khoa học BLTTHS 2003 về xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm

[110] của Đinh Văn Quế; Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015 của PGS.TS Nguyễn Ngọc Anh và Phan Trung Hoài đồng chủ biên, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật năm

2018 [31]; Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015 do TS. Phạm Mạnh Hùng chủ biên,

Nxb.Lao động năm 2018 [60]; Giáo trình Luật TTHS của trƣờng Đại học Luật Hà Nội,

Nxb.Công an nhân dân năm 2018 [75], Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của khoa Luật

– Trƣờng Đại học Quốc Gia, do PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí và Lê Lan Chi đồng chủ biên, Nxb. Đại học quốc gia năm 2018 [37] và của một số cơ sở đào tạo khác. Những

công trình này chỉ có tính chất đại cƣơng, giới thiệu về các quy định của BLTTHS,

trong đó có các quy định về giám đốc thẩm, không nghiên cứu chuyên sâu về lý luận,

thực tiễn và giải pháp.

Bên cạnh đó là một số công trình nghiên cứu có tính chất tổng kết thực tiễn thi

hành BLTTHS năm 2003 và đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định của pháp

luật trong đó có thủ tục giám đốc thẩm nhƣ cuốn sách Những vấn đề lý luận và thực

tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp do các

tác giả Lê Hữu Thể, Đỗ Văn Đƣơng, Nguyễn Thị Thủy đồng chủ biên, Nxb. Chính trị

quốc gia năm 2013 [122]; đề tài cấp bộ Các giai đoạn của tố tụng hình sự Việt Nam,

những vấn đề lý luận và thực tiễn của VKSNDTC do Lê Hữu Thể chủ biên của

VKSNDTC năm 2010 [123]; đề tài khoa học cấp trƣờng năm 2009 của trƣờng Đại học

Luật Hà Nội Hoàn thiện pháp luật TTHS nhằm nâng cao hiệu quả xét xử theo tinh

thần cải cách tư pháp do tác giả Hoàng Thị Minh Sơn làm chủ nhiệm đề tài [112]; đề

tài khoa học cấp bộ của Viện nghiên cứu Lập pháp thuộc Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội

Hoàn thiện quy định của pháp luật để bảo đảm cho các cơ quan Nhà nước thực hiện tốt hơn chức năng điều tra, truy tố, xét xử trong TTHS do Trần Thị Quốc Khánh chủ biên năm 2014 [64]; Báo cáo tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003 của VKSNDTC [148]. Nội dung chính trong các công trình này là tổng kết thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 trên cơ sở phân tích các chƣơng, điều luật cụ thể, đánh

11

giá những ƣu điểm, hạn chế, bất cập trong quá trình thi hành, chứng minh bằng các số liệu thống kê, từ đó đề xuất các giải pháp sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật. Phạm vi nghiên cứu của các công trình này rất rộng, bao trùm hầu hết các giai đoạn, thủ tục tố tụng trong đó có giám đốc thẩm; các giải pháp đƣợc đƣa ra cũng mang tính toàn diện, tổng thể mà không chỉ riêng đối với thủ tục giám đốc thẩm.

- Nghiên cứu về lịch sử hình thành, phát triển của giám đốc thẩm trong TTHS:

Lịch sử hình thành, phát triển của thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS Việt Nam là chủ

đề trong một số công trình nghiên cứu nhƣ cuốn sách Lịch sử luật TTHS Việt Nam của

tác giả Trần Quang Tiệp, Nxb.Chính trị quốc gia năm 2003 [125], các bài viết Sự hình thành, phát triển và hoàn thiện của pháp luật Việt Nam quy định thủ tục xét lại bản án,

quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật từ năm 1945 đến nay của tác giả Nguyễn

Văn Hiện, Tạp chí Tòa án nhân dân số 6/1997 [49]; Khái quát về chế định giám đốc

thẩm trong TTHS từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay của tác giả Phan Thị Thanh

Mai, Tạp chí Luật học số 3/2005 [82]. Các công trình này ngoài việc liệt kê các mốc

thời gian hình thành, phát triển của thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS, còn nghiên

cứu điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của việc thay đổi; phân tích nguyên nhân, lý do hình

thành, thay đổi các quy định về thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS. Bên cạnh đó, một số cuốn sách chỉ tổng hợp, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về tố hình sự, tố

tụng hình sự qua các thời kỳ lịch sử nhƣ Luật về tư pháp [136], Tập hệ thống hóa luật

lệ về TTHS [137] [138] các tập của TANDTC.

Nhiều nghiên cứu chỉ có tính chất so sánh giữa BLTTHS cũ và BLTTHS mới đƣợc ban hành. So sánh giữa BLTTHS năm 1988 và BLTTHS năm 2003 là các bài viết Những sửa đổi, bổ sung cơ bản về giám đốc thẩm trong BLTTHS năm 2003 của Phan Thị Thanh Mai, Tạp chí Luật học số đặc san năm 2004 [81]; Những điểm mới

trong BLTTHS sửa đổi về phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm của Nguyễn Đức

Mai, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, Viện Nhà nƣớc và pháp luật số 5/2004 [79] và Những quy định mới của BLTTHS năm 2003 về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của Đinh Văn Quế, Tạp chí Tòa án nhân dân số 22/2004 [103]. Sau khi BLTTHS năm

2015 đƣợc Quốc hội thông qua, một số bài viết, nghiên cứu tập trung giới thiệu, đánh

giá những nội dung mới của BLTTHS năm 2015 nhƣ bài viết Giám đốc thẩm, tái thẩm

bản án, quyết định đã có HLPL của PGS.TS Trần Văn Độ trong sách chuyên khảo

Những nội dung mới trong BLTTHS năm 2015 do PGS.TS Nguyễn Hòa Bình chủ biên,

Nxb. Chính trị quốc gia năm 2016 [36]; bài viết Điểm mới về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm trong BLTTHS năm 2015 của Phạm Văn An, Tạp chí Kiểm sát số 19/2016 [28]; Quy định mới về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong BLTTHS năm 2015 của Nguyễn Văn Thuân, Tạp chí kiểm sát số 7/2016 [128]. Nội dung chính của các bài viết này là so sánh các quy định về giám đốc thẩm giữa BLTTHS mới và cũ; phân tích, đánh giá tính cần thiết, sự phù hợp của những quy định mới đƣợc sửa đổi, bổ sung.

Phần lớn các bài viết có tính chất giới thiệu những quy định mới thƣờng có nhận xét

tích cực mà chƣa đánh giá đầy đủ, toàn diện về lý luận và thực tế áp dụng, thi hành.

12

- Các nghiên cứu toàn diện về giám đốc thẩm trong TTHS: các công trình nghiên cứu toàn diện, đầy đủ về lý luận và thực tiễn có thể kể đến luận văn thạc sỹ

Giám đốc thẩm trong TTHS [132] của Nguyễn Văn Trƣợng; luận văn thạc sỹ Giám

đốc thẩm – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Quản Thị Ngọc Thảo, Khoa luật Đại

học quốc gia Hà Nội năm 2007 [121] và luận án tiến sỹ Giám đốc thẩm trong TTHS

Việt Nam của tác giả Phan Thị Thanh Mai, Đại học Luật Hà Nội năm 2008 [85]. Các tác giả đều đã xây dựng đƣợc khái niệm về giám đốc thẩm trong TTHS; phân tích các

đặc điểm của thủ tục giám đốc thẩm; khái quát lịch sử hình thành, phát triển các quy

phạm pháp luật; phân tích các quy định về giám đốc thẩm trong BLTTHS năm 1988

(luận văn thạc sỹ của Nguyễn Văn Trƣợng), năm 2003 (luận văn thạc sỹ của Quản Thị

Ngọc Thảo và luận án tiến sỹ của tác giả Phan Thị Thanh Mai) đánh giá thực tiễn thi

hành các quy định của BLTTHS năm 1988 và 2003 và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

về giám đốc thẩm. Mặc dù nhiều nội dung trong phần thực trạng và các giải pháp đã

không còn phù hợp trong giai đoạn hiện nay nhƣng một số kết quả nghiên cứu về lý luận vẫn có giá trị để tiếp tục kế thừa, xây dựng và phát triển.

Nghiên cứu về thủ tục giám đốc thẩm trong BLTTHS năm 2015 có thể kể đến

Luận văn thạc sỹ Giám đốc thẩm theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn TAND

cấp cao tại Hà Nội của Cao Phƣơng Ly, Học viện khoa học xã hội, Viện hàn lâm khoa

học xã hội Việt Nam năm 2019 [77]. Ngoài việc phân tích khái niệm và các đặc điểm

của thủ tục giám đốc thẩm, tác giả đã nghiên cứu các quy định về giám đốc thẩm trong

BLTTHS năm 2015. Tuy nhiên, phạm vi đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật chỉ giới

hạn ở TAND cấp cao tại Hà Nội. Luận văn cũng đã đề xuất một số giải pháp hoàn thiện

các quy định trong BLTTHS năm 2015 và nâng cao chất lƣợng giám đốc thẩm.

- Các nghiên cứu về thực tiễn thi hành pháp luật: nhiều công trình mang tính chất ứng dụng, không nghiên cứu về lý luận mà tập trung phân tích các quy định cụ thể

về giám đốc thẩm trong BLTTHS; sử dụng các bản án, quyết định đã có HLPL của

Tòa án làm ví dụ để minh họa, mục đích để đáp ứng nhu cầu trong việc tổng kết thực

tiễn áp dụng, thi hành pháp luật.

Cuốn sách Giám đốc thẩm, tái thẩm về hình sự - Những vấn đề lý luận và thực

tiễn của Đinh Văn Quế, Nxb. Chính trị quốc gia năm 1997 [101] có thể coi là tác phẩm đầu tiên nghiên cứu thực tiễn thi hành quy định của pháp luật TTHS về giám đốc thẩm một cách đầy đủ và toàn diện. Tác giả phân tích những quy định của BLTTHS năm 1988 trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn công tác giám đốc việc xét xử, các luận điểm đƣợc chứng minh bằng các ví dụ cụ thể. Ngoài ra, tác giả còn dành một phần thời lƣợng để nghiên cứu về tái thẩm trong TTHS.

Trong cuốn sách Bình luận án và một số vấn đề thực tiễn áp dụng trong BLHS

13

và BLTTHS, Nxb.Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh năm 2007 [108], tác giả Đinh Văn Quế nghiên cứu ở phạm vi rộng hơn, gồm một số tội phạm và thủ tục xét xử, thẩm quyền của Tòa án từ giai đoạn xét xử sơ thẩm đến giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên,

phần lớn ví dụ minh họa đƣợc sử dụng là các quyết định giám đốc thẩm. Trên cơ sở

phân tích những bản án, quyết định của Tòa án có HLPL bị hủy để điều tra hoặc xét xử

lại vì có vi phạm nghiêm trọng, tác giả bình luận một số quy định của BLHS năm 1999,

BLTTHS năm 2003 và đƣa ra quan điểm trong việc áp dụng, thi hành trên thực tế.

Với phƣơng pháp nghiên cứu và cách tiếp cận tƣơng tự, tác phẩm Luật tố tụng

hình sự trong thực tế giám đốc thẩm, tái thẩm của TANDTC do các tác giả Mai Thanh

Hiếu và Nguyễn Chí Công đồng chủ biên, Nxb. Công an nhân dân năm 2008 [55] cũng

sử dụng các quyết định giám đốc thẩm và tái thẩm của TANDTC để phân tích các quy

định pháp luật về giám đốc thẩm, tái thẩm trong BLTTHS năm 2003; so sánh điểm giống và khác nhau giữa hai thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; tổng hợp các trƣờng hợp

có căn cứ giống nhau nhƣng lại áp dụng thủ tục khác nhau để giải quyết.

- Các nghiên cứu về chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm: Một số công trình chỉ tập trung phân tích các quy định pháp luật về vị trí, chức năng của Viện

kiểm sát và Tòa án, là hai chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm và đánh giá kết quả công tác của hai chủ thể này.

Các nghiên cứu về Viện kiểm sát có thể kể đến là đề tài khoa học cấp bộ năm

1999 của VKSNDTC Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát hình sự trong

giai đoạn giám đốc thẩm do tác giả Nguyễn Thị Bắc chủ biên [33]. Các tác giả đã

phân tích quy định của BLTTHS năm 1988 về giám đốc thẩm liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát; đánh giá thực trạng công tác thực hành quyền công tố và

kiểm sát xét xử giám đốc thẩm hình sự. Từ đó khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của

Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm, đảm bảo các bản án, quyết định có HLPL

của Tòa án chính xác, khách quan, đúng pháp luật và cung cấp một số giải pháp nâng

cao hiệu quả trong việc kiểm tra, phát hiện những bản án, quyết định của Tòa án đã có

HLPL nhƣng có vi phạm nghiêm trọng, cần phải kháng nghị giám đốc thẩm. Ngoài ra,

đề tài còn nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát

và Tòa án trong xét xử hình sự.

Cuốn sách Tổng kết 50 năm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự của Viện kiểm sát nhân dân (1960-2010) [147] của VKSNDTC tổng kết công tác xét xử của ngành kiểm sát trong thời gian 50 năm kể từ ngày thành lập, trong đó có công tác giám đốc thẩm. Công trình này không nghiên cứu các vấn đề lý luận và phân tích quy định pháp luật mà chỉ tập trung đánh giá, tổng kết công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự, trong đó có giám đốc thẩm của Viện kiểm

sát các cấp trong từng giai đoạn lịch sử; đánh giá các kết quả đạt đƣợc; phân tích các

nguyên nhân chủ quan, khách quan dẫn tới thành tựu và hạn chế; bài học kinh nghiệm

14

rút ra để nâng cao chất lƣợng công tác của ngành, đáp ứng đƣợc những yêu cầu, nhiệm

vụ mà Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân giao phó. Giám đốc thẩm chỉ là một nội dung

đƣợc tổng kết, đánh giá trong tổng thể các kết quả đạt đƣợc.

Cuốn sách Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự

theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm do Dƣơng Thanh Biểu chủ biên, Nxb.Tƣ pháp năm 2010 [34] đã nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2003 về giám đốc thẩm,

tái thẩm; giới thiệu và so sánh các quy định về giám đốc thẩm, tái thẩm trong

BLTTHS của Cộng hòa Pháp, Liên bang Nga và Trung Quốc với pháp luật Việt Nam.

Ngoài ra, các tác giả dành phần lớn dung lƣợng để giới thiệu các kỹ năng phát hiện vi

phạm trong bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và xác minh các căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trên cơ sở tổng hợp

kinh nghiệm từ thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử giám

đốc thẩm, tái thẩm hình sự.

Trong luận văn thạc sỹ Vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm

các vụ án hình sự của Trần Thị Hồng Nhung, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội năm 2012 [97], tác giả đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận về vị trí, vai trò, nhiệm vụ và

thẩm quyền của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm. Luận văn cũng đã so sánh

pháp luật của một số quốc gia trên thế giới với pháp luật Việt Nam về vai trò của Viện

kiểm sát và đề xuất một số giải pháp khắc phục hạn chế, nâng cao chất lƣợng, số lƣợng

quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tăng cƣờng trách nhiệm của Viện kiểm sát

trong công tác giám đốc thẩm hình sự.

Đề tài cấp bộ năm 2006 của VKSNDTC Căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc

thẩm và vai trò, trách nhiệm của VKSND trong thủ tục giám đốc thẩm do Trần Văn

Trung chủ biên [131] đã mở rộng phạm vi nghiên cứu về chức năng, nhiệm vụ của

Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm, bao gồm cả TTHS và tố tụng dân sự. Mặc

dù là một đề tài khoa học cấp bộ, mang tính ứng dụng nhƣng các tác giả đã xây dựng

khái niệm về giám đốc thẩm; so sánh quy định của một số quốc gia trên thế giới về

chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát/Viện Công tố trong thủ tục giám đốc thẩm.

Tuy nhiên, đề tài chỉ nghiên cứu về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm đƣợc quy định trong BLTTHS năm 2003 trên cơ sở phân tích các quy định pháp luật và minh họa bằng các vụ án cụ thể, các kiến nghị cũng mới dừng lại ở việc giải thích pháp luật.

Các bài viết Công tác kiểm sát các bản án và quyết định về hình sự đã có HLPL của Tòa án – Thực trạng và kiến nghị của Nguyễn Quốc Công trong đề tài cấp bộ Nâng cao hiệu quả công tác giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự năm 2005 của

TANDTC [38] (nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 1988) và Những khó khăn,

vướng mắc trong việc thụ lý, giải quyết các trường hợp đề nghị kháng nghị giám đốc

thẩm, tái thẩm vụ án hình sự ở VKSNDTC của Phạm Văn An, Tạp chí kiểm sát số

15

3/2012 [27] (nghiên cứu các quy định trong BLTTHS năm 2003) đều có phạm vi nghiên

cứu rất hẹp, chỉ tập trung vào một chức năng, nhiệm vụ của VKSNDTC là giải quyết

đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và kiểm sát bản án, quyết định đã có

HLPL của Tòa án. Các bài viết này không nghiên cứu lý luận và phân tích các quy

định của pháp luật mà chỉ đánh giá thực trạng công tác này ở VKSNDTC, từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lƣợng giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc

thẩm và kiểm sát bản án.

Ngoài ra còn có một số đề tài cấp cơ sở cũng nghiên cứu, đánh giá về thực trạng

công tác kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm của Viện kiểm sát nhƣ Nâng cao chất

lượng kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, công tác kiểm tra giám đốc thẩm hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay năm 2006 [150] và Nâng cao chất lượng kháng

nghị giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án hình theo quy định của luật tổ chức Viện kiểm sát

năm 2014 năm 2016 [151] của Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự

VKSNDTC.

Các nghiên cứu về vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Tòa án trong thủ tục giám đốc thẩm có thể kể đến đề tài khoa học cấp bộ năm 2005 của TANDTC Nâng cao hiệu

quả công tác giám đốc xét xử các vụ án hình sự do tác giả Đinh Văn Quế chủ biên

[107]. Nội dung chính của đề tài là phân tích quy định của BLTTHS năm 1988 về thủ

tục giám đốc thẩm; đánh giá thực trạng công tác giám đốc việc xét xử các vụ án hình

sự ở Tòa án các cấp và đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác này.

Đây là đề tài mang tính ứng dụng nên các tác giả không nghiên cứu về lý luận mà chỉ tổng

kết thực tiễn công tác giám đốc việc xét xử của Tòa án, đối chiếu với các quy định của

pháp luật để tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả công tác này. Một số vấn đề về kháng

nghị giám đốc thẩm và phiên tòa giám đốc thẩm có nội dung tƣơng tự nhƣ trong cuốn

sách Giám đốc thẩm, tái thẩm về hình sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn [101].

Đề tài khoa học cấp bộ năm 2012 của TANDTC Thực trạng giải quyết đơn đề

nghị giám đốc thẩm, tái thẩm tại TANDTC – Những vướng mắc và kiến nghị do Nguyễn Huy Du chủ biên [45] và bài viết Việc xem xét lại quyết định, bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân các cấp trong những năm qua - Thực trạng và giải pháp của Trƣơng Công Lý, Tạp chí dân chủ và pháp luật năm 2016 [78] đều tập trung phân tích quy định về thẩm quyền của Tòa án trong việc tiếp nhận, giải quyết và trả lời đơn, đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL. Trên cơ sở phân tích số liệu về số lƣợng đơn, tỷ lệ giải quyết, những vƣớng mắc trong việc áp dụng, thi hành pháp luật, khó khăn trong tổ

chức bộ máy, hạn chế về nhân lực, các nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp để hoàn

thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác này. Đề tài và bài viết đều có tính ứng

16

dụng, phạm vi nghiên cứu và các đề xuất chỉ tập trung vào TANDTC.

- Nghiên cứu các quy định của BLTTHS về giám đốc thẩm:

Một số nghiên cứu chủ yếu phân tích các quy định của BLTTHS về giám đốc

thẩm, đề cập một số vƣớng mắc cần khắc phục, trên cơ sở đó kiến nghị hoàn thiện

pháp luật. Nghiên cứu về BLTTHS năm 1988 có thể kể đến bài viết Một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao một bước hiệu quả công tác giám đốc thẩm và tái thẩm của

Đặng Văn Doãn, Tạp chí Tòa án nhân dân số 7/1997 [39]. Dƣới góc nhìn của một luật

sƣ, khi nghiên cứu các quy định về giám đốc thẩm, tác giả đã lập luận và kiến nghị các

nội dung nhƣ: chỉ trao quyền giám đốc thẩm cho cấp trung ƣơng; trong một số trƣờng

hợp, đề nghị kháng nghị phải nộp phí; kéo dài thời hạn kháng nghị trong trƣờng hợp kháng nghị bất lợi cho ngƣời bị kết án; mở rộng quyền cho luật sƣ và những ngƣời có

liên quan trong việc tiếp cận hồ sơ vụ án và tham gia phiên tòa giám đốc thẩm.

Bài viết Hoàn thiện một số quy định về giám đốc thẩm trong BLTTHS năm 2003 của Vũ Gia Lâm, Tạp chí Luật học số 7/2008 [70] đã phân tích một số vấn đề cụ

thể trong BLTTHS năm 2003 về giám đốc thẩm bao gồm việc sử dụng thuật ngữ chƣa phù hợp với bản chất của thủ tục giám đốc thẩm; các căn cứ kháng nghị giám đốc

thẩm chƣa cụ thể, rõ ràng, khó áp dụng; quy định về số lƣợng thành viên Hội đồng

giám đốc thẩm chƣa hợp lý. Trên cơ sở đánh giá những bất cập, thiếu hợp lý, tác giả đã đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật.

Bài viết Một số ý kiến về những điểm mới trong quy định của BLTTHS năm 2015 về giám đốc thẩm của tác giả Phan Thị Thanh Mai, Tạp chí nghề luật số 4/2017

[87] phân tích bảy điểm mới trong BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS năm 2003 từ

căn cứ kháng nghị đến thủ tục giám đốc thẩm. Bên cạnh nội dung giới thiệu các điểm

mới, tác giả đã phân tích, đánh giá tính phù hợp, xem xét những quy định chƣa hợp lý

và tiếp tục kiến nghị hoàn thiện, giải thích pháp luật.

- Một số công trình nghiên cứu một dấu hiệu đặc trƣng của thủ tục giám đốc

thẩm nhƣ cơ sở phát sinh, thẩm quyền, thủ tục giải quyết.

a. Kháng nghị giám đốc thẩm

Luận văn thạc sỹ Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam của Nguyễn Nhƣ Thắng, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội năm 2014 [120] đã nghiên cứu khá đầy đủ các đặc điểm chính của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm là chủ thể có thẩm quyền kháng nghị, căn cứ và thời hạn kháng nghị. Tác giả đã cung

17

cấp các khái niệm về kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm; giới thiệu sơ lƣợc về lịch sử kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong pháp luật TTHS Việt Nam; phân tích các quy định của BLTTHS năm 2003, đánh giá thực tiễn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Với yêu cầu, đòi hỏi của một luận án thạc sỹ, phạm vi nghiên cứu rộng gồm cả thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm trong TTHS nên những phân tích, đánh giá về giám

đốc thẩm mới dừng ở mức độ giới thiệu, liệt kê kèm theo ví dụ minh họa mà chƣa phân

tích sâu các đặc điểm và quy định của BLTTHS về kháng nghị giám đốc thẩm.

Về chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, khi nghiên cứu lý luận về

chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm vẫn còn có những quan điểm khác nhau nhƣ: nên quy định chủ thể nào có quyền kháng nghị, có nên trao quyền kháng

cáo giám đốc thẩm cho các chủ thể khác hay không. BLTTHS Việt Nam qua các lần

sửa đổi, bổ sung đều trao quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Tòa án và

Viện kiểm sát. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về BLTTHS năm 1988 và 2003, các tác giả

Mai Anh trong bài viết Thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và thẩm quyền giám đốc thẩm về hình sự của Tòa án, Tạp chí Luật học số 8/1999 [30] và Phan

Thị Thanh Mai trong bài viết Một số ý kiến về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm, Tạp chí Luật học số 11/2006 [84] lại cho rằng chỉ nên trao quyền

kháng nghị giám đốc thẩm cho Viện kiểm sát bởi vì chức năng của Tòa án là xét xử, chỉ giải quyết vụ việc khi có cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền yêu cầu mà không

đƣợc chủ động phát động giải quyết vụ án. Việc Chánh án kháng nghị bản án, quyết

định có HLPL của Tòa án cấp dƣới là không có ý nghĩa chế ƣớc trong tố tụng hình sự.

Trƣờng hợp Tòa án cấp trên phát hiện phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án

hoặc quyết định đã có HLPL của Tòa án cấp dƣới thì thông báo cho Viện kiểm sát để

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Bài viết của tác giả Phan Thị Thanh Mai còn

sử dụng số liệu để so sánh về số lƣợng các vụ án đƣợc thụ lý, tỷ lệ giải quyết và tỷ lệ

kháng nghị giám đốc thẩm giữa ngành Tòa án và Viện kiểm sát để chứng minh.

Ngƣợc lại, trong cuốn sách Mô hình lý luận BLTTHS Việt Nam, Nxb. Công an

nhân dân năm 2003 [48], tác giả Phạm Hồng Hải khi nghiên cứu về thủ tục giám đốc

thẩm lại cho rằng không nên quy định Viện kiểm sát có quyền kháng nghị giám đốc

thẩm vì xu hƣớng trong tƣơng lai, Viện kiểm sát chỉ thực hiện chức năng công tố mà không thực hiện chức năng kiểm sát nên không có điều kiện phát hiện vi phạm pháp

luật trong việc giải quyết vụ án.

Theo pháp luật của các quốc gia trên thế giới nhƣ Cộng hòa Pháp [9, Điều 621], Liên bang Nga [5, Điều 402] và Cộng hòa liên bang Đức [8, Điều 296-301], chủ thể có thẩm quyền kháng cáo/kháng nghị giám đốc thẩm đƣợc quy định ở phạm vi rộng hơn, ngoài Cơ quan công tố có quyền kháng nghị, bị cáo, ngƣời bào chữa của bị cáo, ngƣời

18

có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng có quyền kháng cáo theo trình tự giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án đã có HLPL. Bài viết Nên quy định quyền yêu cầu người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm của đương sự trong tố tụng dân sự, Tạp chí Luật học số 7/1997 [130] của Nguyễn Tiến Trung mặc dù nghiên cứu về giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự nhƣng cũng cho rằng pháp luật Việt Nam cần quy định quyền kháng cáo giám đốc thẩm cho những ngƣời có liên quan

trong vụ án. Tuy nhiên, tác giả lại giới hạn quyền của những ngƣời này khi đề xuất

việc thực hiện kháng cáo giám đốc thẩm phải thông qua luật sƣ, là những ngƣời am

hiểu pháp luật, để thực hiện quyền của mình.

Trong bài viết Những dấu hiệu đặc trưng của giám đốc thẩm trong TTHS Việt Nam, Tạp chí Luật học số 9/2006 [83], tác giả Phan Thị Thanh Mai đã tập trung phân

tích các dấu hiệu đặc trƣng của thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS Việt Nam. Khi

nghiên cứu về quyền kháng cáo giám đốc thẩm của bị cáo, ngƣời bào chữa của bị cáo

và những ngƣời tham gia tố tụng khác, tác giả lại cho rằng quy định quyền kháng cáo

giám đốc thẩm ở Việt Nam vào thời điểm hiện tại là chƣa phù hợp vì ý thức pháp luật của ngƣời dân chƣa cao nên xảy ra tình trạng sử dụng quyền kháng cáo một cách tối

đa, kể cả trong trƣờng hợp kháng cáo mang tính chất cầu may, dẫn đến việc vƣợt quá

khả năng giải quyết của Tòa án và Viện kiểm sát cấp giám đốc thẩm. Quan điểm này

cũng đƣợc tác giả thể hiện trong luận án Giám đốc thẩm trong TTHS Việt Nam [85].

Về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm: giống nhƣ các pháp luật của các quốc gia khác, BLTTHS Việt Nam cũng quy định căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm là vi phạm

pháp luật trong việc xử lý vụ án. Tuy nhiên, so với BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm

2003 và 2015 quy định cụ thể hơn là “vi phạm pháp luật nghiêm trọng”. Trong bài viết

Những dấu hiệu đặc trưng của giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam Tạp chí

Luật học số 9/2006 [83], tác giả Phan Thị Thanh Mai khi nghiên cứu về căn cứ kháng

nghị giám đốc thẩm đã lý giải về sự thay đổi này nhƣ sau: về lý luận, để đảm bảo tính

ổn định của bản án và quyết định đã có HLPL của Tòa án, thủ tục giám đốc thẩm chỉ

đƣợc tiến hành trong những trƣờng hợp mà các vi phạm ở mức độ ảnh hƣởng lớn đến

tính thống nhất của pháp luật và gây ra những hậu quả lớn đối với lợi ích của Nhà

nƣớc và công dân; về thực tiễn, Tòa án cấp giám đốc thẩm không có khả năng giải

quyết tất cả vi phạm pháp luật trong các bản án và quyết định có HLPL của Tòa án.

Nghiên cứu cụ thể quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm trong

BLTTHS năm 2003, các bài viết Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm theo BLTTHS năm

2003, Tạp chí Tòa án số 22/2004 [105], Vấn đề kháng nghị giám đốc thẩm về “dân sự” trong vụ án hình sự, Tạp chí Tòa án số 9/2005 [106] và Thấy gì qua một số vụ án bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, Tạp chí Tòa án số 8/2008 [109] của Đinh Văn Quế đã phân tích các căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm quy định tại Điều 273 và

19

những vi phạm nghiêm trọng trong bản án, quyết định của Tòa án có HLPL đến mức phải kháng nghị giám đốc thẩm. Tác giả chủ yếu tập trung phân tích quy định pháp luật và thực tiễn thi hành mà không nghiên cứu về lý luận và các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lƣợng kháng nghị giám đốc thẩm.

b. Thẩm quyền và thủ tục giám đốc thẩm

Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm và thủ tục giám đốc thẩm là đối

tƣợng nghiên cứu của nhiều bài viết ngay từ khi BLTTHS năm 1988 đƣợc ban hành.

Nghiên cứu về thẩm quyền giám đốc thẩm có thể kể đến bài viết Thẩm quyền của Tòa án cấp giám đốc thẩm, Tạp chí Tòa án nhân dân số 11/1994 [79] của Nguyễn Đức Mai

và Cần thực hiện đúng quy định của pháp luật về Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm ở

Tòa án cấp tỉnh của Đỗ Văn Chỉnh đều phân tích quy định của BLTTHS về thẩm

quyền của Hội đồng giám đốc thẩm, đánh giá thực tiễn thi hành các quy định này. Một

số nghiên cứu có phạm vi rộng hơn, nghiên cứu về thẩm quyền xét xử nói chung mà không chỉ giới hạn ở thẩm quyền giám đốc thẩm nhƣ các bài viết Vấn đề thực tiễn, lý

luận và yêu cầu hoàn thiện thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm các vụ án hình sự của

Tòa án các cấp, Tạp chí Tòa án nhân dân số 4/1997 của Nguyễn Văn Hiện [50], Một

số vấn đề hoàn thiện thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp, Tạp chí Tòa án nhân số 6/2001 [41] của Trần Văn Độ đều chỉ ra những bất cập trên thực tế, đòi hỏi phải có

những thay đổi, bổ sung về thẩm quyền giám đốc thẩm; đề xuất một số giải pháp hoàn

thiện pháp luật theo hƣớng giảm bớt cấp có thẩm quyền giám đốc thẩm và nâng cao sự

chuyên môn hóa trong việc giải quyết các vụ án hình sự theo thủ tục giám đốc thẩm.

Các bài viết của tác giả Nguyễn Văn Hiện nhƣ Tiếp tục hoàn thiện các quy định về giám đốc thẩm, tái thẩm, góp phần nâng cao hiệu quả công tác xét xử của Tòa án, Tạp

chí Dân chủ và pháp luật số 4/1998 [51] và Một số vấn đề quan trọng cần nghiên cứu, sửa

đổi, bổ sung thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm, Sổ tay công tác kiểm sát hình sự tại Việt

Nam [52] đã đƣa ra nhiều đề xuất sửa đổi, hoàn thiện các quy định của BLTTHS năm

1988 về giám đốc thẩm nhƣ thu hẹp cấp có thẩm quyền giám đốc thẩm, duy trì thẩm

quyền xét xử giám đốc thẩm của các Tòa chuyên trách, các kiến nghị về thẩm quyền của

Hội đồng giám đốc thẩm theo hƣớng giảm cấp giám đốc thẩm và tăng tính chuyên môn

hóa đối với Thẩm phán Hội đồng giám đốc thẩm. Trong số các kiến nghị này, một số đã

đƣợc sửa đổi, bổ sung trong các BLTTHS sau này nhƣng phần lớn vẫn còn giá trị lý luận

và thực tiễn trong tình hình hiện nay.

Nghiên cứu về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm quy định trong BLTTHS năm 2003 có thể kể đến bài viết Về chủ thể có thẩm quyền giám đốc thẩm, Tạp chí Luật học số 12/2008 của Phan Thị Thanh Mai [84]. Trên cơ sở phân tích lý

luận và một số vấn đề thực tiễn, tác giả cho rằng nên tập trung thẩm quyền giám đốc thẩm vào cấp tòa án cao nhất là TANDTC và thành lập Hội đồng Thẩm phán chuyên ngành gồm năm hoặc bảy thành viên do Chánh án TANDTC quyết định phân công

20

cho từng vụ án cụ thể để đảm bảo tính chuyên ngành, linh hoạt của Hội đồng giám đốc thẩm. Bài viết Một số ý kiến về phạm vi giám đốc thẩm theo quy định tại Điều 284 BLTTHS, Tạp chí luật học số 7/2008 [86], tác giả Phan Thị Thanh Mai đã phân tích

những bất cập trong quy định của điều luật về phạm vi giám đốc thẩm của Hội đồng

giám đốc thẩm và đề xuất thu hẹp thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm theo

hƣớng Hội đồng giám đốc thẩm chỉ xét lại những vấn đề đƣợc nêu trong kháng nghị.

Bài viết Những trường hợp Hội đồng giám đốc thẩm hủy Bản án hoặc Quyết định đã có HLPL theo BLTTHS năm 2003, Tạp chí Tòa án nhân dân số 20/2004 của

tác giả Đinh Văn Quế [104] đã phân tích cụ thể quy định tại Điều 285 BLTTHS năm

2003 về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm, trong đó tập trung vào hai thẩm

quyền là hủy bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có HLPL để đình chỉ vụ án, để

điều tra lại hoặc xét xử lại. Tác giả chỉ nghiên cứu về thực tiễn thi hành, trƣờng hợp nào Hội đồng giám đốc thẩm quyết định đình chỉ vụ án, trƣờng hợp nào quyết định

điều tra lại hoặc xét xử lại; vƣớng mắc trên thực tế và đề xuất một số giải pháp hoàn

thiện pháp luật.

Bài viết Hoàn thiện thẩm quyền của hội đồng giám đốc thẩm theo tinh thần cải

cách tư pháp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật năm 2013 [134] của Nguyễn Văn Trƣợng nghiên cứu khá đầy đủ về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm. Tác giả đã giới

thiệu sơ lƣợc lịch sử hình thành, phát triển các quy định về thẩm quyền giám đốc thẩm

trong pháp luật Việt Nam, đƣa ra các quan điểm khác nhau về thẩm quyền của Hội

đồng giám đốc thẩm; phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về thẩm quyền giám đốc

thẩm để từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật.

Về những ngƣời tham gia phiên tòa giám đốc thẩm: các bài viết Cần một cách

nhìn mới về thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS, Tạp chí Kiểm sát số 20/2007 của Nguyễn Ngọc Khánh [63] và Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc thực thi các quy định của pháp luật nhằm bảo đảm quyền của luật sư trong quá trình tham gia tố

tụng hình sự, dân sự, Tạp chí Kiểm sát số 4/2007 của Phan Trung Hoài [58] đều cho

rằng cần phải triệu tập, tạo thuận lợi, trao nhiều quyền hơn cho luật sƣ và những ngƣời tham gia tố tụng khác khi tham gia phiên tòa giám đốc thẩm. Ngƣợc lại, tác giả

Nguyễn Văn Trƣợng trong các bài viết Thực trạng thi hành các quy định của Bộ luật

tố tụng hình sự về những người tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm và hướng hoàn thiện, Tạp chí Tòa án nhân dân số 20/2010 [133] và Hoàn thiện quy định của BLTTHS về phiên tòa giám đốc thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật năm 2013 [134], khi nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm

2003 về những ngƣời tham gia phiên tòa giám đốc thẩm và thực tiễn thi hành lại cho rằng nên hạn chế những ngƣời tham gia phiên tòa giám đốc thẩm và quy định nhƣ trong BLTTHS năm 2003 là phù hợp.

21

Ngoài ra, còn có một số bài viết nghiên cứu về thủ tục giám đốc thẩm theo quy định của BLTTHS năm 2003 trên các khía cạnh khác nhƣ quan điểm chỉ đạo của Đảng trong quá trình cải cách tƣ pháp trong bài viết Thay đổi quan điểm chỉ đạo của Đảng

về tổ chức xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hình sự, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp

số 16/2011 của Phạm Văn An [26] hay yêu những cầu về hình thức và nội dung của

quyết định giám đốc thẩm trong bài viết Một số ý kiến về bản án sơ thẩm, phúc thẩm

và quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm, Tạp chí Tòa án nhân dân số 1/2003 [78] của Nguyễn Đức Mai.

Bên cạnh các nghiên cứu về giám đốc thẩm trong TTHS Việt Nam, một số

nghiên cứu về pháp luật quốc tế đã cung cấp những thông tin cơ bản về giám đốc thẩm

trong TTHS của các quốc gia trên thế giới nhƣ Thông tin khoa học kiểm sát của Viện

khoa học Kiểm sát VKSNDTC năm 2015 Số chuyên đề về mô hình TTHS một số nước trên thế giới (số 1+2) [165] và Số chuyên đề nghiên cứu pháp luật TTHS một số nước

trên thế giới (số 5+6) [166] giới thiệu mô hình TTHS của các quốc gia Trung Quốc,

Liên bang Nga, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa liên bang Đức, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Italia,

Vƣơng quốc Anh; Báo cáo tham khảo pháp luật TTHS của một số nước trên thế giới (Pháp, Đức, Anh, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc) của VKSNDTC năm 2015 [149]; Lý luận và thực tiễn về án lệ trong hệ thống pháp luật của các nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức và những kiến nghị đối với Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6/2011 của Nguyễn Văn Nam [91]. Các nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu mô hình TTHS hoặc quy định trong BLTTHS của một số quốc gia trên thế giới

mà không phân tích từng nội dung cụ thể trong pháp luật TTHS của các quốc gia này.

Bài viết Một số vấn đề về thủ tục giám đốc thẩm trong BLTTHS Việt Nam, nhìn

dưới góc độ pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới, Tạp chí Cảnh sát

nhân dân năm 2014 của Đặng Văn Thực [115] có những so sánh cụ thể hơn, tập trung

vào thủ tục giám đốc thẩm trong pháp luật TTHS Việt Nam với một số quốc gia khác

trên thế giới nhƣ Nga, Pháp, Canada, Thái Lan. Bài viết Điều kiện kháng nghị theo thủ

tục giám đốc thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam và Cộng hòa Pháp, Tạp chí

Luật học số 4/2006 của Mai Thanh Hiếu [54] tập trung nghiên cứu về những điều kiện

để một bản án, quyết định của Tòa án có HLPL bị kháng nghị giám đốc thẩm. Tác giả

đã phân tích và so sánh các căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS Cộng hòa Pháp và Việt Nam. Trên cơ sở đó tổng hợp kinh nghiệm lập pháp và đƣa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giám đốc thẩm trong TTHS Việt Nam.

1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

Các nghiên cứu về giám đốc thẩm ngoài nƣớc trƣớc hết phải kể đến một số

22

nghiên cứu đã đƣợc dịch sang Tiếng Việt nhƣ cuốn sách Những mô hình TTHS điển hình trên thế giới, Nxb Hồng Đức năm 2012 do tác giả Tô Văn Hòa chủ biên [57], tổng hợp các bài viết của GS. Byung-Sun Cho, GS.Liling Yue, GS.William Burnham, TS.Marco Fabri, GS.Richard S.Shine, Jean-Philippe Rivaud nghiên cứu về các mô hình TTHS điển hình trên thế giới là Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Italia, Liên bang Nga, Cộng

hòa Pháp và Trung Quốc và Luật 101, mọi điều bạn cần biết về pháp luật Hoa Kỳ của Jay M.Feiman do Nguyễn Hồng Tâm, Trần Quang Hồng, Nguyễn Thị Thanh dịch, Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao hiệu đính, Nxb. Hồng Đức năm 2014 [46]; Tố tụng hình sự và vai trò của cơ quan công tố trong TTHS [89] và Pháp luật tố tụng dân sự của Nhà pháp luật Việt – Pháp [90]. Các công trình này nghiên cứu về nhiều nội

dung khác nhau nhƣ mô hình TTHS, giới thiệu pháp luật TTHS của một số quốc gia

trên thế giới, vai trò của Viện công tố trong TTHS. Liên quan đến thủ tục giám đốc

thẩm trong TTHS, có một điểm chung nhất đó là pháp luật TTHS của hầu hết các quốc

gia đều quy định một thủ tục xem xét lại các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án, tƣơng tự nhƣ thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS Việt Nam.

Paul Laguerre (1931), L'effet dévolutif en matière répressive des voies de

recours exercées par l'inculpé seul. (Hiệu lực của các loại kháng cáo trong lĩnh vực hình sự do bị cáo thực hiện, Luận án tiến sĩ luật học, Paul Laguerre, Toulouse, năm

1931) [175]. Tác giả nghiên cứu về hiệu lực của các loại kháng cáo trong TTHS Cộng hòa Pháp trong đó có kháng cáo giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có HLPL

của Tòa án. Chủ thể có quyền kháng cáo theo thủ tục giám đốc thẩm là các đƣơng sự

có lợi ích để thực hiện việc kháng cáo bao gồm ngƣời bị kết án, bị hại, bị đơn dân sự,

ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc luật sƣ đại diện cho những chủ

thể đó trao quyền. Những chủ thể này đều phải là các bên trong vụ án. Để đảm bảo

việc thi hành bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án, thời hạn kháng cáo giám đốc

thẩm rất ngắn. Ngoài ra, không phải mọi kháng cáo giám đốc thẩm đều dẫn đến việc

mở phiên tòa. Trƣớc khi xét xử, Tòa phá án sẽ xem xét tính hợp lệ của đơn kháng cáo.

Nếu cho rằng kháng cáo không hợp lệ thì tùy từng trƣờng hợp, Tòa phá án sẽ ra quyết

định không chấp nhận đơn kháng cáo hoặc truất quyền kháng cáo. Tòa Phá án quyết

định đình chỉ xét xử nếu đối tƣợng của việc kháng cáo không còn nữa. Nếu kháng cáo đƣợc chấp nhận nhƣng không có căn cứ thì Tòa Phá án ra quyết định bác kháng cáo.

Etienne Vergès (2007), Procédure pénale, 2e éd., Litec, Paris. (Etienne Vergès (2007), Tố tụng hình sự, Nxb. Litec, Paris) [172]. Cuốn sách giới thiệu khá đầy đủ các quy định trong BLTTHS Cộng hòa Pháp. Đối với các quy định về việc xét lại các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án, tác giả đã phân tích và chỉ ra những điểm khác nhau giữa thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm trong TTHS Cộng hoà Pháp. Căn cứ duy

23

nhất để xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm là sự vi phạm pháp luật và nhấn mạnh Toà án giám đốc thẩm không phải Toà án xem xét lại về sự việc mà chỉ là Toà án xem xét lại việc áp dụng pháp luật. Toà án giám đốc thẩm là Toà án bảo đảm việc áp dụng đúng pháp luật của các Toà án xét xử nội dung vụ án. Bản án có HLPL bị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm khi có kháng cáo bản án vi phạm pháp luật của đƣơng sự hoặc kháng nghị của Viện Công tố. Mục đích của kháng nghị là để Toà án giám đốc thẩm

công khai khắc phục sự áp dụng không đúng pháp luật, tránh lặp lại sai lầm. Vì vậy,

Tòa án giám đốc thẩm có thể xem xét một kháng nghị ngay cả khi ngƣời phạm tội đã

đƣợc Tòa án tuyên không phạm tội, đƣợc ân xá hoặc đƣợc miễn trách nhiệm hình sự.

Trong khi đó, kháng cáo tái thẩm là thủ tục đặc biệt để xem xét lại bản án kết tội đã có HLPL khi có căn cứ cho rằng kết luận của bản án, quyết định của Tòa án dựa

trên các căn cứ sai lầm. Kháng cáo, kháng nghị tái thẩm chỉ đƣợc thực hiện trong

trƣờng hợp có lợi cho ngƣời bị kết án. Các bản án tuyên bị cáo không phạm tội không

phải là đối tƣợng của thủ tục tái thẩm. Việc Tòa phá án quyết định hủy bản án đã có

HLPL có thể là sự bắt đầu thủ tục tố tụng của một vụ án khác.

David Graham (1855), A treatise on the law of New Trials, in case Civil and

Criminal, 2nd Edition, New York Banks, Gould & Co. (Sách chuyên khảo về pháp

luật đối với những trƣờng hợp xét xử lại các vụ án dân sự và hình sự, tái bản lần thứ 2, Gould & Co) [183]. Cuốn sách giới thiệu những quy định trong pháp luật Hoa Kỳ và

án lệ về việc mở phiên tòa mới đối với cùng một vụ án. Tác giả đã phân tích những trƣờng hợp phải mở phiên tòa để xét xử lại đối với cả các vụ án dân sự và hình sự. Các

vụ án cụ thể (án lệ) cũng đƣợc bình luận, đánh giá. Pháp luật của Hoa Kỳ không phân

biệt rõ ràng hai thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm mà sử dụng một thủ tục chung để

xét lại các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án. Trong số các vụ án phải mở

phiên tòa để xét xử lại có những trƣờng mang tính chất của thủ tục giám đốc thẩm, có

những trƣờng hợp mang tính chất của tái thẩm. Các căn cứ để mở lại phiên tòa mang

tính chất của thủ tục giám đốc thẩm gồm có: ra bản án trái pháp luật, kết luận của bản

án không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án, không sử dụng chứng cứ để

chứng minh tại phiên tòa, thẩm phán có sai lầm trong xét xử, có vi phạm thủ tục tố tụng.

Doris Jonas Freeds (1957), Aspects of French Criminal Procedure, Louisiana

Law Review, volume 17, number 4, 1957 (Những đặc điểm của thủ tục TTHS Pháp,

Doris Jonas Freeds, Nghiên cứu pháp luật Louisana, tập 17, số 4, năm 1957) [177].

Tác giả phân tích các quy định về thủ tục trong TTHS của Cộng hòa Pháp từ giai đoạn

từ điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đến giám đốc thẩm và tái thẩm. Bài viết đã so sánh sự khác nhau, giống nhau về thời hạn, kháng cáo, kháng nghị; chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị; thời hạn, thẩm quyền xem xét kháng cáo kháng nghị của hai thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm. Về thủ tục giám đốc thẩm, tác giả nhấn mạnh

24

bản án, quyết định của Tòa án có HLPL chỉ đƣợc xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm khi phát hiện ra những sai lầm trong việc áp dụng pháp luật mà cần phải khắc phục ngay. Tuy nhiên, trong trƣờng hợp Tòa án đã tuyên bị cáo vô tội thì Tòa phá án không đƣợc kết án bị cáo dù phát hiện ra sai lầm của Tòa án cấp dƣới. Đây là nguyên tắc có lợi cho ngƣời bị kết án trong TTHS.

P. E. Herzog (1967), Civil Procedure in France, Springer Science + Business

Media Dordrecht (P.E. Herzog, Thủ tục tố tụng dân sự của Pháp, Tạp chí Khoa học,

kinh doanh, truyền thông Dordrecht, 1967) [179]. Tác giả dành Chƣơng 9 để nghiên

cứu về các thủ tục tại Tòa phá án nhƣ thẩm quyền của Tòa phá án, điều kiện để một bản án bị xem xét lại, cách thức, phƣơng pháp đề nghị xem xét lại bản án, quyết định

đã có HLPL của Tòa án, các thủ tục trƣớc khi mở phiên tòa; tác động của quyết định

của Tòa phá án; vai trò của Tòa phá án trong việc phát triển luật pháp. Mặc dù tác

phẩm chủ yếu nghiên cứu các thủ tục tố tụng dân sự nhƣng thủ tục giám đốc thẩm

trong TTHS và tố tụng dân sự Cộng hòa Pháp có một số nét tƣơng đồng nhƣ thẩm

quyền của Tòa phá án, căn cứ kháng cáo/ kháng nghị. Ngoài ra, khi giải quyết vụ án

hình sự, liên quan đến vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng

cũng phải áp dụng một số quy định của tố tụng dân sự để giải quyết.

James H. McCord, Sandra I. McCord (2005), Criminal Law and Procedure for the Paralegal - A systems approach, 3rd Edition, 2005. (Luật hình sự và TTHS dành

cho trợ lý luật sư – Cách tiếp cận hệ thống, James H. McCord và Sandra I. McCord)

[176]. Đây là sách chuyên khảo tập trung nghiên cứu, phân tích cả pháp luật hình sự và

TTHS của Hòa Kỳ. Trong phiên tòa hình sự, sau khi bản án đƣợc tuyên, những yêu

cầu quan trọng sau đó, bao gồm yêu cầu sau phiên tòa và thủ tục phúc thẩm mới bắt

đầu. Tác giả nhấn mạnh mục đích của yêu cầu sau phiên tòa trong TTHS Hoa Kỳ. Yêu

cầu sau phiên tòa có tính chất quan trọng vì giúp cho Tòa án có cơ hội cuối cùng để

khắc phục những sai sót. Yêu cầu mở phiên tòa mới dựa trên cơ sở phát hiện những sai

lầm trong việc áp dụng pháp luật hoặc chứng cứ mới đủ căn cứ để khẳng định những

kết luận trong bản án hoặc quyết định của Tòa án là không đúng. Thời hạn yêu cầu

phiên toà mới do áp dụng sai pháp luật là 14 ngày, thời hạn yêu cầu phiên toà mới dựa

trên sự xuất hiện của chứng cứ mới là 03 năm. Nếu nhƣ yêu cầu đƣợc chấp nhận, thẩm

phán có thể hủy bỏ bản án kết tội trƣớc đó.

John N. Fedico, Henry F. Fradella, Christopher D. Totten (2005), Criminal

Procedure for the Criminal Justice Professional, 10th Edition, 2008. (TTHS dành cho các chuyên gia về tư pháp hình sự, nhóm tác giả John N. Fedico, Henry F. Fradella, Christopher D. Totten, tái bản lần thứ 10, năm 2008) [173]. Các tác giả tập trung phân tích các quy định trong TTHS của Hoa Kỳ chủ yếu trên cơ sở các án lệ. Trong pháp

25

luật hình sự của Hoa Kỳ, thủ tục tố tụng đƣợc chia làm ba giai đoạn: trƣớc phiên tòa, trong phiên tòa và sau phiên tòa. Phần thủ tục sau phiên tòa có các quy định về đề nghị mở phiên tòa mới. Pháp luật của Hoa Kỳ không phân biệt rõ ràng giữa thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm. Chỉ có một thủ tục duy nhất là xét lại bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có HLPL. Tòa án chấp nhận mở phiên tòa mới khi có những phát hiện mới về chứng cứ, có thể là tình tiết mới hoặc đánh giá chứng cứ không phù hợp

với sự thật khách quan (mang bản chất của cả thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm trong

pháp luật hình sự Việt Nam). Thủ tục này là một trong ba phƣơng thức để cứu bị cáo

khỏi bản án kết tội đã có HLPL. Bị cáo có trách nhiệm chứng minh và cung cấp các

chứng cứ mới. Chứng cứ mà bị cáo đƣa ra phải thỏa mãn các điều kiện nhƣ: chứng cứ mới đƣợc phát hiện sau khi đã có bản án hoặc quyết định có HLPL của Tòa án, chứng

cứ này không thể phát hiện trƣớc khi xét xử. Pháp luật Hoa Kỳ không khuyến khích

việc xem xét lại các bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL. Vì vậy, những trƣờng

hợp đƣợc xem xét lại là rất ít.

J.A. Jolowicz (2009), Appeal, cassation, amparo and all that: what and why? Cambridge University Press, 2009 (Phúc thẩm, giám đốc thẩm, xem xét lại quyết định

tư pháp, thủ tục nào và tại sao? Nxb. Đại học Cambridge, 2009) [178]. Tác giả đã đƣa

ra khái niệm về phúc thẩm, giám đốc thẩm và thủ tục xem xét lại quyết định tƣ pháp

của Tòa án, phân tích nguồn gốc của các thuật ngữ “phúc thẩm”, “giám đốc thẩm”, nguồn gốc của thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm trong hai hệ thống pháp luật Common

Law và Civil Law. Tác phẩm phân tích, so sánh thủ tục phúc thẩm và giám đốc thẩm

trong mỗi hệ thống pháp luật; so sánh lịch sử hình thành, thay đổi, phát triển cũng nhƣ

mục đích của hai thủ tục trên giữa một số quốc gia điển hình trong hệ thống Common

Law nhƣ Anh, Mỹ và Civil Law nhƣ Đức, Pháp. Về cơ bản, những điểm giống và khác

nhau giữa thủ tục giám đốc thẩm và phúc thẩm trong pháp luật của các quốc gia trên

đều có nét tƣơng đồng với pháp luật TTHS Việt Nam.

Yulin Fu (2017), The Chinese Supreme People’s Court in transition, Springer,

2017 (Yulin Fu, Sự thay đổi của TANDTC Trung Quốc, Nxb Springer, 2017) [180].

Tác phẩm giới thiệu vị trí hiến định của TANDTC trong hệ thống các cơ quan nhà

nƣớc Trung Quốc, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này; hệ thống tổ chức và chức

năng nhiệm vụ của các ủy ban, các ban, của Thẩm phán trong TANDTC. Liên quan đến giám đốc thẩm, tác giả đƣa ra các căn cứ để xét xử lại vụ án nhƣ: có chứng cứ mới

xác định các tình tiết trong bản án hoặc quyết định của Tòa án là sai, chứng cứ không

đầy đủ, không đáng tin cậy hoặc có mâu thuẫn với nhau, việc áp dụng pháp luật là sai hoặc thẩm phán khi xét xử vụ án đã có hành vi trái pháp luật.

R.R. Verkerk and C.H. (Remco) van Rhee (2017), The Supreme Cassation Court of the Netherlands: Efficient Engineer for the Unity and Development of the

26

Law, Springer, 2017 (R.R. Verkerk và C.H. (Remco) van Rhee, Tòa giám đốc tối cao của Hà Lan, xây dựng sự thống nhất và phát triển pháp luật) [182]. Tòa án tối cao của Hà Lan là tòa phá án, có thẩm quyền trong các vấn đề dân sự, hình sự và thuế. Ngoài lãnh thổ của Hà Lan, Tòa án tối cao Hà Lan còn có thẩm quyền đối với các kháng cáo giám đốc thẩm đối với các phán quyết của Tòa án của Aruba, Curaçao, Sint Maarten and Bonaire, Saba and Sint Eustatius trong các vấn đề hình sự và dân sự. Tác giả giới

thiệu sơ lƣợc về lịch sử hình thành, phát triển của Tòa án tối cao và các chức năng,

thẩm quyền của Tòa. Về việc giải quyết các vụ án giám đốc thẩm, tác phẩm đã tập

trung phân tích, đánh giá những thách thức mà Tòa án tối cao Hà Lan đang phải đối

mặt nhƣ quá tải về công việc (4000 vụ án hình sự mỗi năm, mỗi vụ mất khoảng 459 ngày để giải quyết, sự phức tạp của các vụ án ngày càng tăng lên) và những thay đổi

để nâng cao chất lƣợng giải quyết công việc.

1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và những vấn đề tập

trung nghiên cứu trong luận án

1.3.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu

Các nghiên cứu trong và ngoài nƣớc đều làm rõ đƣợc các vấn đề sau:

Thứ nhất, về lý luận: phần lớn các công trình nghiên cứu trên cơ sở phân tích về

khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của giám đốc thẩm nói chung và giám đốc thẩm trong TTHS nói riêng đều khẳng định vị trí, vai trò quan trọng thủ tục giám đốc thẩm trong

việc phát hiện, khắc phục những vi phạm trong các bản án, quyết định của Tòa án đã

có HLPL, bảo vệ công lý, quyền con ngƣời, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp

pháp cá nhân, tổ chức, uy tín của Nhà nƣớc; đảm bảo tính thống nhất trong việc áp

dụng pháp luật. Ngoài ra, nghiên cứu về bản chất của giám đốc thẩm, tất cả công trình

nghiên cứu đều kết luận giám đốc thẩm nói chung và giám đốc thẩm trong TTHS nói

riêng xuất hiện khi phát hiện những vi phạm (nghiêm trọng) trong các bản án, quyết

định có HLPL của Tòa án xâm phạm đến quyền và lợi ích của những ngƣời có quyền,

lợi ích liên quan, ảnh hƣởng đến tính thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Những

kết quả nghiên cứu này là cơ sở quan trọng để tác giả có nhận thức và định hƣớng

đúng đắn về cơ sở lý luận về giám đốc thẩm trong TTHS, từ đó tiếp tục nghiên cứu sâu

sắc và đầy đủ hơn, làm nền tảng cho việc đánh giá các vấn đề thực trạng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện.

Thứ hai, về thực trạng giám đốc thẩm trong TTHS: các công trình nghiên cứu

đã phân tích, tổng kết khá đầy đủ các quy định về giám đốc thẩm trong BLTTHS năm

1988 và 2003; đánh giá cụ thể kết quả, hạn chế, vƣớng mắc trong việc thi hành các quy định này trên thực tế; xác định chính xác nguyên nhân làm phát sinh những tồn tại, khó khăn trên thực tế.

Các nghiên cứu cũng nhấn mạnh về tính đặc biệt của thủ tục giám đốc thẩm.

Việc xem xét lại các bản án hoặc quyết định đã có HLPL của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm chỉ đƣợc tiến hành trên cơ sở các quy định chặt chẽ trong BLTTHS. Ngoài ra, các nghiên cứu trong nƣớc đã giới thiệu lịch sử hình thành, phát triển của các quy định về giám đốc thẩm trong TTHS Việt Nam đến trƣớc năm 2003. Một số nghiên cứu đã giới thiệu sơ lƣợc về giám đốc thẩm trong TTHS của một số quốc gia trên thế giới.

27

Kết quả nghiên cứu về thực tiễn thi hành các quy định về giám đốc thẩm là tiền đề

quan trọng để tác giả có cái nhìn toàn diện, tổng quát hơn về lịch sử phát triển của

pháp luật, thực trạng giám đốc thẩm trong TTHS Việt Nam giai đoạn trƣớc đây, mạnh

dạn hơn trong việc đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất

lƣợng, hiệu quả giám đốc thẩm.

Thứ ba, về giải pháp: giải pháp đƣợc đề xuất trong các công trình nghiên cứu

phần lớn tập trung vào việc hoàn thiện các quy định pháp luật về giám đốc thẩm trong

BLTTHS năm 1988 và 2003. Tuy nhiên, một số kiến nghị vẫn còn giá trị tham khảo

trong tình hình hiện nay. Các nghiên cứu về giám đốc thẩm trong TTHS của một số

quốc gia trên thế giới mặc dù mới chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu, so sánh các quy định pháp luật nhƣng cũng là nguồn thông tin có giá trị để tham khảo, đề xuất các kiến

nghị phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện, tình hình mới.

Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề các nghiên cứu chƣa làm rõ, một số vấn đề

chƣa đƣợc nghiên cứu, cụ thể nhƣ sau:

Thứ nhất, về lý luận: mặc dù không phải là vấn đề mới nhƣng hiện nay vẫn còn

nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm giám đốc thẩm trong TTHS, đòi hỏi phải

nghiên cứu và đƣa ra một khái niệm đầy đủ, chính xác để từ đó xác định đúng bản chất

của giám đốc thẩm, làm nền tảng cho việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Ngoài ra,

các quy định về giám đốc thẩm trong BLTTHS hiện nay còn có những điểm chƣa phù

hợp với lý luận mà các nghiên cứu chƣa lý giải đẩy đủ; có những nghiên cứu đánh giá chƣa chính xác về vị trí, vai trò, ý nghĩa của giám đốc thẩm đã làm mờ nhạt sự khác biệt giữa thủ tục giám đốc thẩm với một số thủ tục tố tụng khác.

Thứ hai, về thực trạng: hầu hết các nghiên cứu về giám đốc thẩm trong TTHS

Việt Nam chủ yếu tập trung vào các quy định về giám đốc thẩm trong BLTTHS năm

1988 và năm 2003; chƣa có nghiên cứu toàn diện, đầy đủ, cụ thể các quy định về giám

đốc thẩm trong BLTTHS năm 2015 và đánh giá về thực tiễn thi hành các quy định

này.

BLTTHS Việt Nam qua nhiều lần sửa đổi nhƣng các quy định về giám đốc thẩm vẫn thiếu cụ thể, rõ ràng, đặc biệt là các quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm. Trong khi đó, các văn bản hƣớng dẫn chƣa đƣợc xây dựng, ban hành; các nghiên cứu trƣớc đây cũng chƣa phân tích đầy đủ các quy định của BLTTHS về giám đốc thẩm. Vì vậy, cần phải có sự nghiên cứu, phân tích toàn diện, đầy đủ các quy định của

BLTTHS, so sánh, đối chiếu với lý luận, đánh giá mức độ hoàn thiện, tính khả thi trên thực tế để từ đó có những đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật chính xác, phù hợp.

28

Tổ chức bộ máy của TAND và VKSND đã có sự thay đổi với sự xuất hiện một cấp mới là các TAND cấp cao và VKSND cấp cao cùng với những thay đổi về thẩm quyền giám đốc thẩm. Do đó, cần có sự đánh giá về hiệu quả, tính phù hợp của các quy định mới cũng nhƣ hoạt động giám đốc thẩm của các chủ thể này.

Số lƣợng đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm ngày càng tăng nhƣng

tỷ lệ giải quyết các đơn khiếu nại, đề nghị này vẫn chƣa đạt yêu cầu. Vì vậy, cần có

những giải pháp để nâng cao chất lƣợng, số lƣợng giải quyết.

Thứ ba, về giải pháp: các nghiên cứu chủ yếu đƣa ra các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về giám đốc thẩm trong BLTTHS. Tuy nhiên, chất lƣợng giám

đốc thẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó hoàn thiện pháp luật chỉ một trong

những yếu tố quan trọng. Do đó, song song với các đề xuất hoàn thiện pháp luật, cần

có những giải pháp khác mới đáp ứng đƣợc yêu cầu.

1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích lý luận, thực trạng và giải pháp của các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án, bên cạnh việc kế thừa các kết quả nghiên cứu khoa học, luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu các vấn đề sau:

Thứ nhất, về lý luận, cần nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận về giám đốc

thẩm trong TTHS nhƣ khái niệm, đặc điểm của giám đốc thẩm trong TTHS; so sánh,

phân biệt giám đốc thẩm với các thủ tục tố tụng khác nhƣ phúc thẩm, tái thẩm; xác

định vai trò, vị trí, ý nghĩa của thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS.

Thứ hai, trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, nghiên cứu về mô hình giám

đốc thẩm trong TTHS của các thiết chế tƣ pháp hình sự quốc tế và pháp luật TTHS của

một số quốc gia trên thế giới là rất cần thiết để từ đó so sánh, đánh giá và tổng kết kinh

nghiệm lập pháp cho Việt Nam.

Thứ ba, chất lƣợng giám đốc thẩm bị ảnh hƣởng bởi nhiều yếu tố nhƣ hệ thống

pháp luật, trình độ, kinh nghiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng và các chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, thẩm quyền giám đốc

thẩm. Vì vậy, việc nghiên cứu những tác động này là rất cần thiết để từ đó xác định, đề

xuất những giải pháp phù hợp.

Thứ tư, về quy định của pháp luật: phân tích những quy định pháp luật về giám

đốc thẩm trong BLTTHS năm 2015; so sánh với các quy định của các BLTTHS trƣớc

đây để làm rõ những thay đổi, đánh giá những điểm phù hợp, hạn chế và vƣớng mắc.

Thứ năm, về thực tiễn: tổng hợp số liệu, đánh giá tình hình thi hành pháp luật về giám đốc thẩm trong thời gian qua. Nghiên cứu, so sánh kết quả công tác giữa cấp giám đốc thẩm mới đƣợc thành lập là TAND cấp cao và VKSND cấp cao với cấp giám

đốc thẩm trƣớc đây là TAND và VKSND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng.

Thứ sáu, về giải pháp: xác định phƣơng hƣớng, yêu cầu đối với các giải pháp

nâng cao chất lƣợng giám đốc thẩm trong TTHS và những đề xuất cụ thể về hoàn thiện

pháp luật, nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực và các giải pháp khác, đảm bảo tính

29

khả thi, lâu dài, phù hợp với lý luận và thực tiễn thi hành.

1.4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu

Giả thuyết tổng quát: giám đốc thẩm trong TTHS có thể tác động một cách tiêu

cực hoặc tích cực đến việc bảo đảm tính đúng đắn của các bản án, quyết định đã có

HLPL của Tòa án. Pháp luật về giám đốc thẩm trong TTHS trên cơ sở lý luận, thực tiễn thi hành, so sánh và tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm lập pháp của pháp luật quốc tế

phù hợp với điều kiện văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội, truyền thống pháp luật quốc

gia

sẽ góp phần đảm bảo công bằng xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào hệ

thống tƣ pháp nói chung và hoạt động xét xử của Tòa án nói riêng.

Luận án đƣợc triển khai với các câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu sau:

Câu hỏi 1: bản chất của giám đốc thẩm trong TTHS là gì?

Giả thuyết: hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau về giám đốc thẩm trong

TTHS nhƣ xác định đây là một giai đoạn tố tụng hay một thủ tục tố tụng; vi phạm nghiêm trọng chỉ giới hạn trong giai đoạn xét xử hay trong cả quá trình giải quyết vụ

án; những vi phạm nào đƣợc xác định là nghiêm trọng... Xác định đúng bản chất của

giám đốc thẩm trong TTHS sẽ giúp xây dựng chính xác khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa cũng nhƣ những yếu tố tác động đến chất lƣợng giám đốc thẩm trong TTHS.

Câu hỏi 2: giám đốc thẩm trong mô hình của các thiết chế tư pháp hình sự quốc

tế và pháp luật TTHS của một số quốc gia trên thế giới như thế nào?

Giả thuyết: các quốc gia trên thế giới có truyền thống pháp luật khác nhau, điều

kiện lịch sự, kinh tế, chinh trị, xã hội, con ngƣời khác nhau nên các quy định pháp luật

nói chung cũng có sự khác biệt. Việc nghiên cứu giám đốc thẩm trong mô hình các thiết chế tƣ pháp hình sự quốc tế và pháp luật TTHS của một số quốc gia điển hình là

rất cần thiết để vừa có sự so sánh, đánh giá vị trí, vai trò, tầm quan trọng của thủ tục

giám đốc thẩm, vừa tổng kết kinh nghiệm, kế thừa, học hỏi một cách có chọn lọc, phù

hợp với Việt Nam.

Câu hỏi 3: quy định về giám đốc thẩm trong BLTTHS Việt Nam hiện nay và

thực tiễn thi hành pháp luật như thế nào?

Giả thuyết: các nghiên cứu, phân thích về quy định của BLTTHS năm 2015 còn ít, chƣa đầy đủ; các văn bản hƣớng dẫn thi hành pháp luật còn thiếu, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu thực tế. Vì vậy, ngoài việc phân tích, đánh giá các quy định của pháp

30

luật, cần tổng kết thực tiễn để bổ sung kịp thời những quy định chƣa đƣợc hƣớng dẫn cụ thể. Đồng thời, việc nghiên cứu thực tiễn thi hành cũng rất cần thiết để đánh giá chất lƣợng, hiệu quả của các quy định pháp luật, tổ chức bộ máy các cơ quan tƣ pháp; năng lực, trình độ, kinh nghiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng, các chủ thể có thẩm kháng nghị giám đốc thẩm, thẩm quyền giám đốc thẩm.

Câu hỏi 4: Những giải pháp đảm bảo chất lượng giám đốc thẩm trong TTHS

Việt Nam hiện nay?

Vị trí, vai trò của giám đốc thẩm trong TTHS đang ngày càng trở nên quan

trọng vì các quyết định giám đốc thẩm đã trở thành nguồn phát triển án lệ, định hƣớng trong việc áp dụng thống nhất pháp luật. Tuy nhiên, chất lƣợng của thủ tục giám đốc

thẩm nói chung, các quyết định giám đốc thẩm nói riêng vẫn chƣa đạt yêu cầu. Thực tế

này không chỉ xuất phát từ những quy định của pháp luật mà cần có những giải pháp

tổng thể, đồng bộ, không chỉ giới hạn trong các quy định về giám đốc thẩm, mà phải

bao gồm các quy định cả về nội dung và hình thức trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; tổ chức bộ máy và con ngƣời.

KẾT LUẬN CHƢƠNG I

1. Nghiên cứu về giám đốc thẩm nói chung và giám đốc thẩm trong TTHS nói

riêng còn nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm, vai trò, vị trí và các đặc điểm nhƣ

chủ thể có quyền kháng cáo/ kháng nghị, căn cứ giám đốc thẩm và thẩm quyền giám

đốc thẩm.

2. Các công trình nghiên cứu trong nƣớc chủ yếu nghiên cứu về các quy định

của BLTTHS năm 1988 và 2003 và thực tiễn thi hành các quy định này. Từ khi cơ cấu tổ chức bộ máy của ngành Tòa án, Viện kiểm sát thay đổi với sự xuất hiện của một cấp

mới và BLTTHS năm 2015 đƣợc ban hành, chƣa có nghiên cứu cụ thể, đầy đủ để đánh

giá toàn bộ các quy định về giám đốc thẩm trong TTHS.

3. Các công trình nghiên cứu ngoài nƣớc về giám đốc thẩm chủ yếu đề cập

trong phạm vi pháp luật TTHS của mỗi quốc gia. Các công trình nghiên cứu đều

khẳng định sự cần thiết phải có một thủ tục tố tụng để xem xét lại các bản án, quyết

định của Tòa án đã có HLPL. Việc xét lại bản án, quyết định có HLPL không chỉ tồn

tại trong pháp luật của các nƣớc theo hệ thống pháp luật thành văn mà cả các nƣớc theo hệ thống án lệ và các thiết chế tƣ pháp hình sự quốc tế.

4. Những vấn đề tập trung nghiên cứu trong luận án bao gồm: cơ sở lý luận của việc xây dựng thủ tục giám đốc thẩm; làm rõ đặc điểm của thủ tục giám đốc thẩm để phân biệt với các thủ tục khác; mô hình giám đốc thẩm trong các thiết chế tƣ pháp

hình sự quốc tế và pháp luật TTHS của một số quốc gia trên thế giới; thực trạng thi hành các quy định pháp luật về giám đốc thẩm trong TTHS ở Việt Nam; đánh giá nguyên nhân của các hạn chế và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lƣợng giám đốc

31

thẩm.

Chương 2

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM ĐỐC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

2.1. Khái niệm giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự

Pháp luật của bất kỳ quốc gia nào cũng có những quy định để đảm bảo tính

chính xác, hợp pháp đối với các bản án, quyết định của Tòa án. Đa số các quốc gia lựa

chọn nguyên tắc xét xử hai cấp để đảm bảo tính chính xác trong hoạt động xét xử hình

sự, vừa đáp ứng đƣợc yêu cầu giải quyết vụ án một cách nhanh chóng. Công ƣớc quốc

tế của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966 quy định: “Bất

cứ ngƣời nào bị kết án là phạm tội đều có quyền yêu cầu toà án cấp cao hơn xem xét

lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp luật.” [13, khoản 5 Điều 14]. Theo nguyên tắc này, bản án hoặc quyết định sơ thẩm chƣa có HLPL nếu có

kháng cáo, kháng nghị sẽ đƣợc xem xét lại ở Tòa án cấp phúc thẩm cả nội dung vụ án

và tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án. Đây là một hình thức giám đốc xét xử của

Tòa án cấp trên đối với cấp dƣới. Trong trƣờng hợp này, bản án phúc thẩm là bản án

có HLPL. Tuy nhiên, có những trƣờng hợp sau khi xét xử sơ thẩm không có kháng

cáo, kháng nghị, chỉ khi bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có HLPL mới

phát hiện có vi phạm, sai lầm. Thực tế cũng cho thấy bản án hoặc quyết định phúc

thẩm vẫn có những sai lầm, cần phải khắc phục. Điều này đặt ra yêu cầu cần phải có

cơ chế xét lại các bản án hoặc quyết định đã có HLPL của Tòa án để khắc phục sai lầm

trong hoạt động xét xử. Tùy thuộc vào hệ thống pháp luật, truyền thống pháp luật, mô hình tƣ pháp hình sự, chế định xét lại bản án, quyết định có HLPL của Tòa án ở mỗi

quốc gia, mỗi thời kỳ đều có sự khác biệt. Có những quốc gia không quy định việc xét

lại bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án, có những quốc gia chỉ có một thủ tục

chung duy nhất để xét lại bản án, quyết định đã có HLPL, có quốc gia tách thủ tục xét

lại thành hai thủ tục độc lập là giám đốc thẩm để sửa chữa sai lầm về áp dụng pháp

luật và tái thẩm để sửa chữa sai lầm về sự việc [95, tr. 30].

Từ điển Tiếng Việt xuất bản trong những năm 80, 90 đều không có phần giải nghĩa từ “giám đốc thẩm” mà chỉ có từ “giám đốc” với nghĩa là “giám sát và đôn đốc” và “thẩm” có nghĩa là “xét kỹ” [145, tr.374, 890]. Theo từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, “giám đốc thẩm” đƣợc giải thích là “Tòa án có thẩm quyền xét lại các

bản án hoặc quyết định đã có HLPL của tòa án cấp dƣới khi bị kháng nghị trên cơ sở phát hiện có sai lầm trong điều tra, xét xử vụ án” [146, tr. 324]. Theo Từ điển luật học của Trƣờng đại học Luật Hà Nội, “giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có

HLPL của Tòa án nhƣng bị kháng nghị vì phát hiện vi phạm pháp luật trong việc xử lý

32

vụ án” [74, tr. 235]. Từ điển ngôn ngữ và từ điển pháp lý Việt Nam đều lựa chọn cách

giải thích tƣơng tự nhau về thuật ngữ “giám đốc thẩm” trên góc độ bản chất pháp lý của

một thủ tục tƣ pháp mà không làm rõ đƣợc định nghĩa trên phƣơng diện ngôn ngữ học.

Trong từ điển tiếng Anh, có nhiều thuật ngữ có nghĩa là xem xét lại, kiểm tra lại

nhƣ “review” có nghĩa là xem xét lại, sự kiểm tra lại; “revision” có nghĩa là sự xem lại, sự xét lại, sự duyệt lại; “cassation” có nghĩa là sự hủy bỏ. Quy chế của các thiết chế tƣ

pháp hình sự quốc tế sử dụng thuật ngữ “review proceedings” để chỉ hoạt động xem

xét lại bản án, quyết định của Tòa án. Các thuật ngữ này đều có nghĩa chung là “xem

xét lại” nhƣng không thể hiện đƣợc bản chất của hoạt động xét lại.

Trong khoa học pháp lý, khái niệm về “giám đốc thẩm” còn có nhiều ý kiến

khác nhau nhƣng về cơ bản có ba nhóm quan điểm chính là: (1) Giám đốc thẩm là một

giai đoạn TTHS trong đó Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại vụ án mà bản án đã có HLPL

về vụ án đó bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án nhằm khắc phục sai lầm của Tòa án cấp dƣới, bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật, bảo

vệ lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời bị kết án, những ngƣời tham gia tố tụng và của công dân [131, tr.23]. (2) Giám đốc thẩm là một hình thức đặc thù để

kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của các bản án, quyết định của Tòa án [169, tr.734]

hoặc một trình tự đặc biệt để xét lại những bản án, quyết định đã có HLPL bị kháng

nghị vì có vi phạm pháp luật nghiêm trọng [92, tr.14]. (3) Giám đốc thẩm trong TTHS

là thủ tục Tòa án có thẩm quyền xét lại những bản án hoặc quyết định hình sự đã có

HLPL bị ngƣời có thẩm quyền kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm

trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án, nhằm đảm bảo pháp luật đƣợc áp dụng đúng

đắn và thống nhất [85, tr.35].

Các quan điểm nêu trên ở những mức độ khác nhau, cách đánh giá, phƣơng

diện nhìn nhận khác nhau nhƣng đều khẳng định giám đốc thẩm không phải là một cấp

xét xử trong TTHS và đối tƣợng của giám đốc thẩm là các bản án, quyết định của Tòa

án đã có HLPL. Ngoài ra, một số quan điểm đã đƣa ra cơ sở phát sinh giám đốc thẩm

là kháng nghị giám đốc thẩm và mục đích của giám đốc thẩm là để bảo đảm việc áp

dụng pháp luật một cách đúng đắn, thống nhất.

Chúng tôi đồng ý với quan điểm giám đốc thẩm không phải là một giai đoạn tố tụng, hình thức đặc thù hay trình tự đặc biệt mà là một thủ tục tố tụng đặc biệt. Giống nhƣ tái thẩm, giám đốc thẩm không phải là giai đoạn tố tụng vì thời điểm bắt đầu của giám đốc thẩm không phải là thời điểm kết thúc của một giai đoạn tố tụng trƣớc đó [43, tr.10]. Giám đốc thẩm có thể tiến hành vào bất kỳ thời điểm nào sau khi bản án

hoặc quyết định của Tòa án có HLPL. Thời điểm đó có thể là sau khi bản án sơ thẩm

có HLPL, sau khi có bản án phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm/tái thẩm, khi ngƣời

bị kết án đang chấp hành hình phạt, cũng có thể khi ngƣời bị kết án đã thi hành án

33

xong hình phạt hoặc thậm chí đã chết.

Tuy nhiên, các quan điểm nêu trên cho rằng về căn cứ kháng nghị giám đốc

thẩm là có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án và nhằm

khắc phục sai lầm của Tòa án cấp dƣới theo chúng tôi là chƣa hoàn toàn chính xác.

Bởi vì, quá trình xác định sự thật của một vụ án bắt đầu từ giai đoạn khởi tố đến xét xử. Kết thúc quá trình xét xử, trƣớc khi kết án bị cáo bằng bản án, quyết định, Tòa án

phải làm sáng tỏ những tình tiết của sự việc phạm tội trên cơ sở xem xét tất cả các

chứng cứ, tài liệu cần thiết cho việc chứng minh đƣợc thu thập trong quá trình điều tra,

truy tố, xét xử và đánh giá mức độ tin cậy của các chứng cứ, tài liệu này. Pháp luật

TTHS đảm bảo tính chính xác, khách quan của những chứng cứ, tài liệu đƣợc thu thập

trong quá trình xác định sự thật của vụ án. Vi phạm pháp luật trong quá trình xác định

sự thật vụ án, dù ở bất kỳ giai đoạn nào cũng ảnh hƣởng đến sự thật khách quan đƣợc

thể hiện trong bản án, quyết định của Tòa án. Vì vậy, căn cứ giám đốc thẩm không chỉ là sai lầm nghiêm trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án mà là toàn bộ quá trình xác

định sự thật của vụ án. Giám đốc thẩm cũng không chỉ nhằm khắc phục sai lầm của

Tòa án mà quan trọng hơn là đảm bảo việc áp dụng pháp luật đúng đắn, thống nhất.

Để xác định chính xác khái niệm giám đốc thẩm trong TTHS, chúng tôi nghiên

cứu các dấu hiệu đặc trƣng của thủ tục giám đốc thẩm, để phân biệt với các thủ tục

khác bao gồm: mục đích, đối tƣợng, cơ sở phát sinh, thẩm quyền và thủ tục giải quyết.

2.1.1. Mục đích của giám đốc thẩm

Thứ nhất, mục đích của giám đốc thẩm là kiểm tra lại tính hợp pháp của bản án,

quyết định đã có HLPL của Tòa án và bảo đảm hoạt động xét xử của Tòa án đúng

pháp luật. Hoạt động xét xử của Tòa án đƣợc kiểm tra, giám sát chặt chẽ bởi các hình

thức khác nhau. Trong một vụ án hình sự nói chung và trong hoạt động xét xử của Tòa

án nói riêng, pháp luật TTHS Việt Nam trao quyền kiểm sát các hoạt động tƣ pháp cho

Viện kiểm sát; quyền kháng cáo của bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự

và những ngƣời có quyền, nghĩa vụ liên quan đối với bản án, quyết định của Tòa án

cấp sơ thẩm; quyền giám sát của các cơ quan dân cử nhƣ Quốc hội, Hội đồng nhân

dân... Trong cơ cấu tổ chức của ngành Tòa án, Tòa án cấp trên có nhiệm vụ giám đốc xét xử đối với cấp dƣới. Tuy nhiên, các hình thức kiểm tra, giám sát nêu trên mới dừng lại ở việc phát hiện các bản án, quyết định có vi phạm. Giám đốc thẩm vừa kiểm tra, phát hiện các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án có sai phạm, vừa đảm bảo

các bản án, quyết định này phải bị hủy bỏ. Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm không xem xét lại vụ án, mà chỉ xem xét lại tính hợp pháp của bản án, quyết định đã có HLPL và việc áp dụng pháp luật của Tòa án cấp dƣới trong bản án, quyết định đó.

Thứ hai, giám đốc thẩm có mục đích bảo đảm sự thống nhất trong việc áp dụng

pháp luật. Ở các nƣớc theo hệ thống án lệ (Common Law), thẩm phán sáng tạo pháp

34

luật. Quyết định của thẩm phán trong một vụ án dựa trên vấn đề pháp luật có thể tạo ra

một án lệ cho các vụ việc xảy ra trong tƣơng lai [91, tr.88]. Nếu một bản án, quyết

định của Tòa án có sai lầm mà không bị phát hiện và khắc phục thì hậu quả sẽ là một

quy định phi công lý có thể bị áp dụng và duy trì mãi mãi. Giám đốc thẩm kiểm tra các

bản án, quyết định của Tòa án để đảm bảo pháp luật do các thẩm phán “sáng tạo” ra phải chính xác, phù hợp với những nguyên tắc chung của hiến pháp, pháp luật hình sự

và TTHS. Những bản án có vi phạm bị hủy bỏ dẫn đến sự thay đổi pháp luật.

Ở các quốc gia theo hệ thống luật dân sự (Civil Law), luật thành văn là cơ sở

chính để Tòa án áp dụng khi xét xử. Bên cạnh những ƣu việt mà pháp điển hóa đem lại

nhƣ tính thống nhất, bao quát, dễ tiếp cận, luật thành văn còn có hạn chế cố hữu nhƣ tính không khả thi do các quy định mang tính chung chung, không rõ; tính lạc hậu do

không đƣợc cập nhật [181, tr.37-40]. Trong thực tiễn pháp lý, khi chƣa đƣợc sửa đổi,

bổ sung, luật thành văn đứng yên trong khi đời sống xã hội của con ngƣời luôn thay

đổi, vì lý do đó mà không ai có thể quy định tất cả mọi vấn đề có thể phát sinh [174, tr.26]. Vì vậy, đối với những khái niệm, hiện tƣợng mới phát sinh, chƣa đƣợc pháp

luật quy định, các thẩm phán khi xét xử có thể hiểu và áp dụng pháp luật một cách

khác nhau. Điều này dẫn đến trƣờng hợp hiểu và áp dụng pháp luật không đúng, ra bản

án, quyết định sai. Giám đốc thẩm không chỉ dừng lại ở việc phát hiện ra những sai sót

trong bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án cấp dƣới để kịp thời khắc phục mà

thông qua các quyết định giám đốc thẩm, Tòa án giám đốc thẩm đã giải thích pháp

luật, đảm bảo pháp luật đƣợc hiểu và áp dụng một cách thống nhất. Các quyết định này

trở thành án lệ để áp dụng cho các trƣờng hợp tƣơng tự xảy ra trong tƣơng lai.

2.1.2. Đối tượng của giám đốc thẩm

Đối tƣợng của giám đốc thẩm là những bản án hoặc quyết định của Tòa án đã

có HLPL bị kháng nghị vì có vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Đây là dấu hiệu quan

trọng để phân biệt giữa thủ tục giám đốc thẩm và xét xử phúc thẩm.

Thứ nhất, đối tƣợng của giám đốc thẩm là bản án, quyết định của Tòa án đã có

HLPL. Về nguyên tắc, các bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL đƣợc pháp luật

bảo vệ, có tính bắt buộc chung phải đƣợc thi hành. Pháp luật các quốc gia đều có quy định để đảm bảo hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án. Những hành vi không thi hành, cản trở đều có thể bị xử phạt, thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, bất kỳ nền tƣ pháp nào trên thế giới, dù có ƣu việt đến đâu đi nữa, cũng không

thể tránh đƣợc những sai sót [46, tr.491]. Việc bản án, quyết định của Tòa án có sai lầm nhƣng vẫn đƣợc đảm bảo thi hành sẽ ảnh hƣởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích

hợp pháp của công dân, tổ chức, Nhà nƣớc, không thực thi đƣợc công lý. Các bản án,

quyết định này cần phải đƣợc kiểm tra để xác định vi phạm (nếu có), kịp thời sửa

35

chữa, bổ sung, thay đổi hoặc hủy bỏ.

Giám đốc thẩm và phúc thẩm đều là hoạt động kiểm tra lại tính hợp pháp trong

hoạt động xét xử của Tòa án cấp dƣới khi có kháng cáo, kháng nghị với mục đích bảo

đảm bản án, quyết định của Tòa án có sự chính xác cao, các sai lầm đƣợc hạn chế ở

mức thấp nhất trƣớc khi có HLPL. Tuy nhiên, ở giai đoạn xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm mở phiên tòa để xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và

bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chƣa có HLPL nhƣng có kháng cáo hoặc bị

kháng nghị. Đối tƣợng của xét xử phúc thẩm bao gồm cả vụ án và bản án, quyết định

của Tòa án cấp sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại cả nội dung vụ án và việc áp

dụng pháp luật của Tòa án cấp dƣới.

Khác với xét xử phúc thẩm, Tòa án giám đốc thẩm “không xét xử con ngƣời mà

xét xử các bản án... kiểm tra các thẩm phán có vận dụng đúng pháp luật trong khi xét

xử” [89, tr.36]. Đối tƣợng của giám đốc thẩm là những bản án, quyết định của Tòa án

giải quyết vụ án chứ không phải chính vụ án; đồng thời, các bản án, quyết định này đã có HLPL. Một vụ án có thể có nhiều hơn một bản án hoặc quyết định có HLPL bị xem

xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm. Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án có thể bị kháng cáo,

kháng nghị một phần hoặc toàn bộ. Phần bản án không bị kháng cáo, kháng nghị sẽ có

HLPL khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc

thẩm sẽ có HLPL đối với phần bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Tùy theo từng loại vi

phạm, Tòa án giám đốc thẩm có thể quyết định hủy toàn bộ hai bản án sơ thẩm và

phúc thẩm, cũng có thể chỉ hủy một trong hai bản án hình sự sơ thẩm hoặc phúc thẩm,

cũng có thể chỉ hủy một phần của các bản án nêu trên.

Thứ hai, không phải mọi bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL đều là đối

tƣợng của giám đốc thẩm. Theo pháp luật Việt Nam và một số quốc gia nhƣ Công hòa

Pháp, Liên bang Nga, Trung Quốc,... những bản án, quyết định này còn có thể là đối

tƣợng của thủ tục tái thẩm. Đặc điểm để phân biệt thủ tục giám đốc thẩm với tái thẩm là trong thủ tục giám đốc thẩm, bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL phải có vi

phạm pháp luật nghiêm trọng và bị các chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc

thẩm; còn thủ tục tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án nhƣng bị kháng nghị vì có tình tiết mới đƣợc phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết đƣợc khi ra bản án, quyết định đó.

2.1.3. Cơ sở phát sinh

Cơ sở phát sinh thủ tục giám đốc thẩm là kháng nghị giám đốc thẩm. Ở một số quốc gia, bị cáo, bị hại và những ngƣời liên quan đến bản án, quyết định của Tòa án đã

có HLPL có quyền kháng cáo giám đốc thẩm. Tuy nhiên, không phải tất cả kháng cáo,

kháng nghị giám đốc thẩm đều dẫn đến thủ tục giám đốc thẩm. Thủ tục giám đốc thẩm

chỉ đƣợc tiến hành khi các kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm đã đƣợc xem xét và

36

chấp nhận theo một thủ tục “tiền giám đốc thẩm”. Ví dụ, theo Điều 406 BLTTHS Liên

bang Nga, thẩm phán có thẩm quyền giải quyết kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm

trong thời hạn 30 ngày kể từ khi nhận đƣợc kháng cáo, kháng nghị. Sau khi nghiên

cứu, thẩm phán có thể ra một trong các quyết định sau: (1) không chấp nhận kháng

cáo, kháng nghị giám đốc thẩm; (2) chấp nhận giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm và chuyển kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm cùng hồ sơ vụ án đến Tòa án có thẩm

quyền để giải quyết.

Về bản chất, kháng cáo, kháng nghị đều là sự phản kháng của một trong các

bên tham gia tố tụng đối với bản án, quyết định của Tòa án. Luật TTHS của một số

quốc gia không có sự phân biệt giữa kháng cáo, kháng nghị và sử dụng một thuật ngữ chung để thể hiện thái độ “phản kháng” đối với bản án, quyết định của Tòa án, trong

tiếng Pháp là “appel”, tiếng Anh là “appeal”. Điều này thể hiện địa vị pháp lý bình

đẳng, ngang nhau của các bên trƣớc Tòa án. Trong TTHS Việt Nam, sự phân biệt giữa

thuật ngữ “kháng nghị” và “kháng cáo” xuất hiện từ sau khi Luật tổ chức TAND năm 1960 đƣợc ban hành để phân biệt địa vị pháp lý giữa chủ thể có quyền kháng cáo và

chủ thể có quyền kháng nghị.

Pháp luật Việt Nam không quy định về kháng cáo giám đốc thẩm nhƣng lại

không hạn chế các chủ thể có quyền phát hiện vi phạm pháp luật trong các bản án,

quyết định có HLPL của Tòa án và thông báo, đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm. Chủ

thể có thẩm quyền khi nhận đƣợc đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm phải nghiên cứu

giải quyết, nếu có căn cứ thì quyết định kháng nghị, nếu không có căn cứ thì trả lời

bằng văn bản cho ngƣời có đề nghị biết. Thủ tục này về bản chất không khác với thủ

tục xem xét kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm trong TTHS của các quốc gia khác.

Theo pháp luật TTHS Việt Nam, kháng nghị là quyết định của chủ thể có thẩm

quyền đối với một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án. Trong thủ tục

giám đốc thẩm, mọi kháng nghị đều dẫn đến thủ tục giám đốc thẩm. Khi có kháng

nghị thì Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm phải xem xét kháng nghị đó, cho dù kết

quả có thể là không chấp nhận kháng nghị.

Tuy nhiên, kháng nghị không phải là khái niệm duy nhất chỉ có trong thủ tục giám đốc thẩm mà còn là căn cứ để xét xử phúc thẩm và là cơ sở phát sinh thủ tục tái thẩm. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, cơ sở phát sinh có cả tính quyền lực Nhà nƣớc và ý chí của những ngƣời tham gia tố tụng, gồm kháng nghị phúc thẩm và kháng cáo của các chủ thể có quyền kháng cáo nhƣ bị cáo, bị hại,…

Cơ sở phát sinh thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm đều là kháng nghị. Hai thủ tục này có nhiều điểm chung về đối tƣợng, cơ sở phát sinh và thủ tục giải quyết. Điểm

37

khác nhau quan trọng giữa giám đốc thẩm và tái thẩm là căn cứ kháng nghị. Khi nghiên cứu về thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm, có hai quan điểm trái ngƣợc nhau về

việc nên quy định hai thủ tục độc lập là giám đốc thẩm và tái thẩm hay chỉ quy định

một thủ chung là xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL.

Những ngƣời ủng hộ quan điểm cần phải quy định hai thủ tục độc lập cho rằng:

nếu sai lầm trong việc giải quyết vụ án do yếu tố chủ quan thì kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, nếu do yếu tố khách quan thì kháng nghị theo thủ tục tái thẩm [51,

tr.4]. Tình tiết đƣa ra làm căn cứ kháng nghị tái thẩm là tình tiết chƣa đƣợc xác minh,

điều tra, chƣa có trong hồ sơ vụ án nên Tòa án chƣa biết và vì thế không đƣợc cân

nhắc, đánh giá khi ra bản án, quyết định. Tình tiết đƣợc đƣa ra làm căn cứ kháng nghị

giám đốc thẩm là tình tiết đã có trong hồ sơ, đƣợc xác minh, điều tra theo quy định pháp luật nhƣng Tòa án đánh giá sai ý nghĩa của nó hoặc đánh giá qua loa, đại khái

dẫn đến việc ra bản án, quyết định sai [40, tr.3].

Ngƣợc lại, một số ý kiến khác lại cho rằng mặc dù khi tuyên án bằng bản án hoặc quyết định Tòa án không biết đƣợc tình tiết mới làm thay đổi bản chất vụ án

nhƣng hậu quả của việc không biết này vẫn là sai lầm trong giải quyết vụ án [43, tr.10]. Về bản chất, căn cứ giám đốc thẩm và tái thẩm đều là vi phạm pháp luật nghiêm

trọng trong việc xử lý vụ án [122, tr.459].

Chúng tôi ủng hộ quan điểm cần thiết phải duy trì hai thủ tục độc lập là giám

đốc thẩm và tái thẩm trong TTHS vì các lý do sau:

Thứ nhất, trong quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án, các cơ quan

tiến hành tố tụng phải thu thập chứng cứ, là tất cả những gì có thật và liên quan đến vụ

án, đƣợc thu thập theo trình tự luật định, để làm căn cứ xác định tội phạm, ngƣời phạm

tội và các tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án. Các chứng cứ này

đƣợc thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, thỏa mãn ba thuộc tính là tính khách quan,

tính liên quan và tính hợp pháp. Trƣớc khi tuyên án bằng bản án hoặc quyết định, Tòa

án phải đánh giá tính hợp pháp và mức độ tin cậy của các chứng cứ, tài liệu đã đƣợc

thu thập trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử một cách khách quan, toàn

diện và đầy đủ, sau đó áp dụng các quy định của pháp luật hình sự hiện hành để xác

định có hay không hành vi phạm tội, ai là ngƣời thực hiện hành vi phạm tội, quyết định về tội danh, hình phạt tƣơng xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và các vấn đề liên quan đến vụ án. Kết quả của quá trình chứng minh, xác định sự thật của vụ án thể hiện tập trung nhất thông qua bản án, quyết định có HLPL của Tòa án. Khi một bản án hoặc quyết định có HLPL của Tòa án không phản ánh đƣợc sự thật khách quan, nó sẽ trở thành đối tƣợng của thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Tuy

nhiên, nếu nhƣ căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm là vi phạm pháp luật nghiêm

trọng thì căn cứ kháng nghị tái thẩm là tình tiết mới làm thay đổi bản chất của vụ án

mà Tòa án không biết đƣợc. Căn cứ để kháng nghị tái thẩm không liên quan đến việc

38

vi phạm pháp luật, tức là quá trình xác định sự thật của vụ án đƣợc thực hiện đúng, đầy

đủ các quy định của pháp luật nhƣng vì yếu tố khách quan nên các cơ quan tiến hành

tố tụng xác định sai sự thật của vụ án. Tình tiết mới phải là tình tiết làm thay đổi cơ

bản nội dung của bản án, quyết định có HLPL của Tòa án nhƣ xác định ngƣời thực

hiện hành vi phạm tội, tội danh và khung hình phạt. Các tình tiết chỉ làm thay đổi về đƣờng lối xử lý đối với hành vi phạm tội nhƣ các tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự không đƣợc coi là căn cứ để kháng nghị tái thẩm.

Vi phạm pháp luật nghiêm trọng có thể là không thực hiện hoặc thực hiện

không đúng các quy định của pháp luật. Vi phạm pháp luật trong quá trình chứng minh

tội phạm có thể không làm thay đổi sự thật của vụ án đã đƣợc thể hiện trong bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án. Nhƣng những vi phạm nghiêm trọng pháp luật

(luật hình thức hoặc nội dung) trong quá trình xác định sự thật của vụ án đã làm cho

những kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không còn khách quan, chính xác

và đầy đủ. Chẳng hạn, việc giám định lại không do ngƣời giám định khác thực hiện là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, là căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm. Sau khi

khắc phục vi phạm trên (giám định lại do ngƣời khác thực hiện), kết quả giám định có

thể không khác so với kết quả giám định trƣớc đó. Tuy nhiên, nếu nhƣ không kháng

nghị giám đốc thẩm để khắc phục vi phạm thì không thể biết đƣợc kết luận giám định

trƣớc đó là đúng hay sai, có khách quan hay không.

Thứ hai, sự việc phạm tội luôn tồn tại khách quan và không bao giờ mất đi tính

khách quan. Trƣờng hợp có sự thay đổi trong quy định của pháp luật hình sự (có thể

xóa bỏ, tăng nặng hay giảm nhẹ đối với hành vi phạm tội) thì sự thật của vụ án vẫn

không mất đi tính khách quan mà chỉ là việc đánh giá những tình tiết đó theo tiêu chí

mới về chính trị - xã hội và pháp luật hình sự [126, tr.2]. Việc thu thập chứng cứ, tài

liệu chứng minh sự thật của vụ án không khách quan, đầy đủ hoặc đánh giá tình tiết,

sự việc dƣới góc độ pháp luật hình sự sai đều vi phạm pháp luật. Mục đích của giám đốc thẩm là để khắc phục vi phạm pháp luật, xóa bỏ án lệ sai (đối với các nƣớc theo hệ

thống án lệ), tránh tiền lệ sai (đối với các nƣớc theo hệ thống pháp luật thành văn) [95,

tr.36], còn mục đích của tái thẩm là để khắc phục những sai lầm trong nhận thức về sự việc phạm tội, không đảm bảo tính có căn cứ.

Trong TTHS, ngoài kháng nghị giám đốc thẩm còn có kháng nghị phúc thẩm và kháng nghị tái thẩm. Kháng nghị giám đốc thẩm phân biệt với kháng nghị phúc thẩm

và kháng nghị tái thẩm ở các đặc điểm sau:

2.1.3.1. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm phải thỏa mãn hai điều kiện sau:

Thứ nhất, bản án, quyết định của Tòa án phải có vi phạm pháp luật. Các vi phạm có thể là vi phạm pháp luật nội dung và vi phạm pháp luật hình thức. Vi phạm thủ tục tố tụng là việc cơ quan, ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình 39

khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không

đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định. Vi phạm pháp luật nội dung là sai

lầm trong việc áp dụng pháp luật trong việc quyết định những vấn đề quan trọng liên

quan đến nội dung của vụ án nhƣ kết án ngƣời không có hành vi phạm tội, kết án ngƣời có hành vi không cấu thành tội phạm, bỏ lọt tội phạm, định tội danh sai, hình

phạt không tƣơng xứng với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội; trách

nhiệm hoàn trả, bồi thƣờng thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra…

Thứ hai, các vi phạm pháp luật phải ở mức độ “nghiêm trọng”. Các bản án,

quyết định đã có HLPL của Tòa án nhân danh Nhà nƣớc, đại diện cho công lý, phải đƣợc tôn trọng và thi hành. Pháp luật của các quốc gia đều có quy định về việc bảo vệ

hiệu lực của các bản án, quyết định. Vì vậy, không phải mọi trƣờng hợp phát hiện có

vi phạm trong việc giải quyết vụ án đều phát sinh kháng nghị. Giám đốc thẩm chỉ tiến

hành trong những trƣờng hợp vi phạm pháp luật nghiêm trọng, ảnh hƣởng lớn đến tính thống nhất của pháp luật và gây ra những hậu quả to lớn đối với lợi ích của Nhà nƣớc

và lợi ích hợp pháp của ngƣời tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hƣởng đến việc xác định

sự thật khách quan, toàn diện của vụ án. Những trƣờng hợp khác, mặc dù phát hiện có

vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án nhƣng những vi phạm này không

làm thay đổi bản chất của sự kiện phạm tội, không ảnh hƣởng tới quyền và lợi ích hợp

pháp của những ngƣời liên quan thì không kháng nghị để đảm bảo tính ổn định của

bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL. Theo quy định của pháp luật Việt Nam,

trong những trƣờng hợp này, các chủ thể có thẩm quyền có thể kiến nghị hoặc rút kinh

nghiệm để tránh lặp lại vi phạm.

2.1.3.2. Chủ thể kháng nghị

Chủ thể kháng nghị cũng là một điểm phân biệt giữa thủ tục giám đốc thẩm với

xét xử phúc thẩm và thủ tục tái thẩm. Phúc thẩm là một cấp xét xử. Xét xử phúc thẩm

phát sinh hay không phụ thuộc vào ý chí của cơ quan công tố, bị cáo, bị hại, nguyên

đơn dân sự, bị đơn dân sự và những ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Trong pháp luật Việt Nam, giám đốc thẩm và tái thẩm phát sinh hay không phụ thuộc vào các chủ thể đại diện cho ý chí của Nhà nƣớc là Tòa án và Viện kiểm sát.

Tham gia tố tụng với tƣ cách là bên buộc tội, pháp luật hình sự của các quốc gia đều quy định Viện công tố hay Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm. Đây vừa là quyền vừa là trách nhiệm của cơ quan công tố. Mặc dù kháng nghị giám đốc thẩm không hoàn toàn là hoạt động buộc tội nhƣng để bảo vệ lợi ích của Nhà

nƣớc, xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những ngƣời tham gia tố tụng, đảm

bảo pháp luật đƣợc áp dụng một cách thống nhất, Viện kiểm sát thay mặt Nhà nƣớc

yêu cầu Tòa án giám đốc thẩm xét lại những bản án, quyết định có HLPL có vi phạm

40

nghiêm trọng.

Theo quy định của pháp luật TTHS của Việt Nam và Trung Quốc, giám đốc

thẩm còn có sự tham gia của Tòa án trong việc “phản kháng” đối với quyết định, bản

án có HLPL của Tòa án cấp dƣới. Đây là thủ tục duy nhất mà Tòa án có quyền kháng

nghị. Quy định này xuất phát từ hoạt động giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với cấp dƣới và nhiệm vụ đảm bảo thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Trong hệ

thống hai cấp xét xử, vụ án có đƣợc xét xử lại hay không chỉ phụ thuộc vào ý chí của

các bên tham gia tố tụng. Mặt khác, tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, Tòa án có chức

năng xét xử nên không thể đồng thời là chủ thể yêu cầu xét xử lại vụ án. Đối với thủ

tục tái thẩm, căn cứ kháng nghị tái thẩm là những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ

bản nội dung của vụ án mà Tòa án không biết đƣợc khi ra bản án hoặc quyết định. Bản

thân các “tình tiết mới” này khi mới phát hiện chƣa đƣợc coi là chứng cứ của vụ án mà

cần phải kiểm tra, thu thập theo đúng trình tự, thủ tục tố tụng, trên cơ sở các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền mà Tòa án không thể thực hiện thông qua

hoạt động giám đốc kiểm tra và hồ sơ vụ án (vì những tình tiết này không có trong hồ

sơ vụ án). Việc điều tra, thu thập, xác minh các “tình tiết mới”, chuyển hóa thành

chứng cứ của vụ án hình sự là quyền và trách nhiệm của cơ quan công tố. Vì vậy, chủ

thể kháng nghị tái thẩm chỉ có thể là Viện kiểm sát. Tuy nhiên, theo chúng tôi về lý

luận, quy định Tòa án có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm không phù hợp với

vai trò, vị trí của Tòa án trong hệ thống tƣ pháp, không hoàn toàn đảm bảo đƣợc tính khách quan đối với quyết định kháng nghị và quyết định giám đốc thẩm, không đảm

bảo tính chế ƣớc trong TTHS.

2.1.3.3. Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm

Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm là một bộ phận của thời hạn TTHS. Thời

hạn này phải là thời hạn hợp lý bởi vì nếu quá ngắn thì các chủ thể có thẩm quyền có

thể thực hiện việc kháng cáo, kháng nghị một cách vội vàng, thiếu cân nhắc, gây quá tải cho Tòa án; nhƣng nếu quá dài thì có thể dẫn đến tình trạng kéo dài quá trình tố

tụng, không đáp ứng đƣợc yêu cầu của TTHS là giải quyết nhanh chóng vụ án.

Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm có sự khác biệt với thời hạn kháng nghị, kháng cáo phúc thẩm. Về bản chất, phúc thẩm là một cấp xét xử nên thời hạn kháng cáo, kháng nghị không có sự phân biệt theo hƣớng có lợi hay bất lợi cho ngƣời bị kết án mà chỉ thể hiện sự không đồng ý của các bên có quyền, nghĩa vụ trong vụ án đối

với bản án, quyết định của Tòa án chƣa có HLPL. Thời hạn này thƣờng là ngắn, đủ để các chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị đƣợc thực hiện quyền của mình một cách nhanh chóng nhƣng thận trọng.

Do tính chất đặc biệt nên thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm dài hơn

kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Phụ thuộc vào tính chất của từng kháng nghị, thời

41

hạn kháng nghị giám đốc thẩm có hai loại thời hạn: có thời hạn đối với kháng nghị

theo hƣớng bất lợi cho ngƣời bị kết án và không có thời hạn đối với kháng nghị có lợi

cho ngƣời bị kết án. Tuy nhiên, cách xác định thời hạn có sự khác biệt. Nếu nhƣ thời

hạn kháng nghị tái thẩm đƣợc tính từ khi phát hiện tình tiết mới thì thời hạn giám đốc

thẩm đƣợc tính từ khi bản án, quyết định của Tòa án có HLPL.

Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm đảm bảo sự ổn định của các bản án, quyết

định đã có HLPL. Đối với những phán quyết không có lợi cho ngƣời bị kết án, thời

hạn kháng nghị phải đƣợc giới hạn trong một khoảng thời gian nhất định, ngắn nhất có

thể. Điều này xuất phát từ nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc có lợi cho ngƣời

bị kết án. Ngoài ra, trách nhiệm chứng minh thuộc các cơ quan tiến hành tố tụng. Các cơ quan này nhân danh Nhà nƣớc, đƣợc Nhà nƣớc giao nhiệm vụ và trao cho những

quyền hạn cần thiết để thực thi nhiệm vụ, giải quyết vụ án hình sự, đảm bảo xử lý

đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan ngƣời vô tội, không bỏ lọt tội

phạm, ngƣời phạm tội. Nếu sai lầm thuộc về Tòa án hay các cơ quan tiến hành tố tụng thì Nhà nƣớc phải chịu thiệt hại mà không thể buộc ngƣời bị kết án phải chịu hậu quả

của việc giải quyết sai do lỗi của các cơ quan đại diện cho Nhà nƣớc. Đây là nguyên

tắc chung trong TTHS đƣợc hầu hết các quốc gia trên thế giới công nhận. Ngƣợc lại,

để bảo vệ quyền con ngƣời, quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời bị kết án, việc kháng

nghị theo hƣớng có lợi cho ngƣời bị kết án có thể đƣợc tiến hành bất kỳ lúc nào, kể cả

trƣờng hợp ngƣời bị kết án đã chết, cần minh oan cho họ.

2.1.4. Thẩm quyền giám đốc thẩm

Giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt, đối tƣợng là bản án, quyết định đã có HLPL

của Tòa án. Việc một bản án, quyết định đƣợc Tòa án tuyên nhân danh Nhà nƣớc, đã

có HLPL bị kháng nghị để xem xét lại ảnh hƣởng không nhỏ đến uy tín của Nhà nƣớc

nói chung và của Tòa án nói riêng. Những bản án, quyết định bị hủy vì có vi phạm

nghiêm trọng hậu quả còn lớn hơn nữa. Việc xem xét cũng không đƣợc kéo dài, xét đi

xét lại nhiều lần, qua nhiều cấp, làm ảnh hƣởng đến hiệu lực của bản án, quyết định đã

có HLPL. Vì vậy, thẩm quyền giám đốc thẩm phải rất hạn chế.

Trong xét xử, về nguyên tắc, quyết định của Tòa án cấp cao hơn sẽ có giá trị ràng buộc đối với việc xét xử của Tòa án cấp dƣới. Tòa án cấp trên cũng có thẩm quyền sửa, hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp dƣới. Tuy nhiên, việc quyết định “số phận pháp lý” của một bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, đƣợc pháp luật

TTHS bảo vệ, là rất hệ trọng, đòi hỏi chủ thể có thẩm quyền phải giữ ngạch bậc cao trong hệ thống tổ chức Tòa án, có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn cao. Do đó, đa

số các quốc gia quy định chỉ một cấp Tòa án có quyền giám đốc thẩm là Tòa án tối cao

hoặc Tòa phá án. Quy định này thể hiện tính quyền lực tối cao, thống nhất của Tòa án,

phù hợp với đối tƣợng đặc biệt của thủ tục giám đốc thẩm là các bản án, quyết định đã

42

có HLPL của Tòa án, tránh việc giám đốc thẩm nhiều lần trong một vụ án.

2.1.5. Phạm vi giám đốc thẩm

Hiện nay có hai quan điểm về phạm vi giám đốc thẩm. Quan điểm thứ nhất cho

rằng HĐGĐT có quyền xem xét toàn bộ vụ án, không bị hạn chế bởi nội dung kháng

nghị [132, tr.84] [101, tr.69]. Ý kiến khác lại cho rằng phạm vi giám đốc thẩm chỉ nên giới hạn trong phạm vi kháng nghị để đảm bảo nguyên tắc phối hợp, chế ƣớc trong

TTHS; nếu khi giám đốc thẩm phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng chƣa có

kháng nghị thì HĐGĐT thông báo cho ngƣời có thẩm quyền kháng nghị để kháng nghị [85, tr.173]. Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất bởi vì: theo pháp luật TTHS

của phần lớn các quốc gia trên thế giới, giám đốc thẩm là thủ tục cuối cùng để xem xét

lại một bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL nhƣng có vi phạm nghiêm trọng.

Quyết định của HĐGĐT Tòa án tối cao có giá trị chung thẩm. Giám đốc thẩm phải

đảm bảo các vi phạm nghiêm trọng trong bản án, quyết định có HLPL của Tòa án đƣợc phát hiện chính xác, đầy đủ, đồng thời nhanh chóng có giải pháp khắc phục,

không kéo dài thủ tục tố tụng. Việc xem xét lại toàn bộ quá trình giải quyết vụ án vừa

là quyền nhƣng cũng là nghĩa vụ của HĐGĐT. Do đó, phạm vi giám đốc thẩm phải là

toàn bộ vụ án mới tránh đƣợc tình trạng một bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa

án bị kháng nghị, xem xét nhiều lần.

Tuy nhiên, để đảm bảo vị trí, vai trò của Tòa án là ngƣời đứng giữa, trung lập,

không phụ thuộc vào bên nào, HĐGĐT không đƣợc chủ động phát động việc xét lại

bản án, quyết định đã có HLPL tức là không đƣợc quyết định những nội dung ngoài

kháng nghị. Khi có kháng cáo/ kháng nghị, trƣớc hết, HĐGĐT xét tính có căn cứ, hợp

pháp và quyết định các nội dung trong kháng nghị. Đối với những nội dung ngoài

kháng nghị, nếu phát hiện có vi phạm, HĐGĐT yêu cầu chủ thể có thẩm quyền kháng

nghị bổ sung kháng nghị. Điều này cũng phù hợp với thẩm quyền “bổ sung kháng

nghị” của chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm.

So với phạm vi giám đốc thẩm, phạm vi xét xử phúc thẩm phụ thuộc vào nội

dung của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm đƣợc thiết lập chỉ

khi các chủ thể có quyền lợi, nghĩa vụ trong vụ án không thỏa mãn với bản án sơ thẩm yêu cầu xét xử lại một phần hoặc toàn bộ vụ án. Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét và quyết định trong phạm vi kháng cáo, kháng nghị. Khác với đối tƣợng của giám đốc thẩm là các bản án, quyết định đã có HLPL, Tòa án cấp phúc

43

thẩm chỉ xem xét các bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có HLPL. Chính vì vậy, những nội dung không bị kháng cáo, kháng nghị đã có HLPL không thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm. Ngoài ra, phạm vi xét xử phúc thẩm còn phải phù hợp với các nguyên tắc của TTHS nhƣ tranh tụng, hai cấp xét xử và bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án.

2.1.6. Thủ tục giám đốc thẩm

Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, Tòa án vẫn trong quá trình xác định

sự thật của vụ án, đối tƣợng xét xử là vụ án hình sự. Trong quá trình xét xử, Tòa án

phải đảm bảo thực hiện đúng các nguyên tắc của TTHS nói chung và hoạt động xét xử nói riêng nhƣ nguyên tắc xét xử công khai, trực tiếp, bằng lời nói, bảo đảm quyền bào

chữa…, phải xem xét công khai tại phiên tòa tất cả chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án

và những chứng cứ, tài liệu, đồ vật mới xuất hiện trƣớc khi ra bản án, quyết định.

Khác với xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm

(tái thẩm) không xét xử vụ án mà xem xét tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL. Do đó, khi tiến hành thủ tục giám đốc thẩm (tái

thẩm), Tòa án có thẩm quyền không chịu sự điều chỉnh của các nguyên tắc xét xử.

Ngoài ra, với tính chất đặc biệt của đối tƣợng bị xem xét lại, Tòa án có thẩm quyền

phải là Tòa án cấp cao hơn thậm chí là cấp cao nhất trong hệ thống Tòa án. Tuy nhiên, nếu nhƣ thủ tục tái thẩm xem xét và đánh giá giá trị pháp lý của tình tiết mới phát hiện

với nội dung vụ án đã đƣợc thể hiện trong bản án, quyết định có HLPL thì Tòa án có

thẩm quyền giám đốc thẩm chủ yếu đánh giá, xem xét việc áp dụng pháp luật của Tòa án đã ban hành bản án, quyết định có HLPL trên cơ sở những chứng cứ, tài liệu có

trong hồ sơ vụ án.

Thủ tục giám đốc thẩm cũng là một hình thức giám đốc việc xét xử của Tòa án

cấp trên đối với Tòa án cấp dƣới nhằm đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật và thống

nhất. Tuy nhiên, hoạt động giám đốc việc xét xử chủ yếu là công tác quản lý hành

chính, không phải là thủ tục tố tụng, không thuộc phạm vi điều chỉnh của BLTTHS mà

theo các quy định về tổ chức, hoạt động của ngành Tòa án. Hoạt động này chỉ dừng lại

ở việc phát hiện ra những vi phạm trong bản án, quyết định có HLPL của Tòa án cấp

dƣới mà không khắc phục đƣợc những vi phạm này. Trong khi đó, thủ tục giám đốc

thẩm tạo điều kiện pháp lý để khởi động lại trình tự tố tụng để giải quyết lại vụ án.

Từ những phân tích về dấu hiệu đặc trƣng của giám đốc thẩm, phân biệt thủ tục

giám đốc thẩm với xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và thủ tục tái thẩm, giám đốc thẩm có thể đƣợc định nghĩa nhƣ sau: Giám đốc thẩm trong TTHS là thủ tục tố tụng mà Tòa án có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án nhưng bị kháng nghị vì phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án nhằm

khắc phục vi phạm, bảo đảm việc áp dụng pháp luật một cách đúng đắn và thống nhất.

2.2. Ý nghĩa của thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự

2.2.1. Ý nghĩa chính trị - xã hội

Pháp luật đảm bảo cho sự tồn tại của mỗi quốc gia. Không quốc gia nào tồn tại

mà không có pháp luật, không sử dụng pháp luật để thiết lập và duy trì ổn định chính

44

trị, kinh tế, xã hội. Chủ thể đƣợc giao nhiệm vụ để đảm bảo pháp luật đƣợc thực thi,

chấp hành một cách nghiêm chỉnh là các cơ quan tƣ pháp. Kết quả, chất lƣợng hoạt

động của các cơ quan tƣ pháp phần lớn thể hiện qua bản án, quyết định có HLPL của

Tòa án. Tòa án là hiện thân của công lý. Bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án

nhƣng có vi phạm, sai lầm nghiêm trọng tất yếu sẽ dẫn đến kết quả giải quyết vụ án không khách quan, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham

gia tố tụng, ảnh hƣởng nghiêm trọng đến việc thực thi pháp luật, không bảo vệ đƣợc

công lý. Giám đốc thẩm hạn chế những vi phạm trong những bản án, quyết định đã có

HLPL của Tòa án, đảm bảo pháp luật đƣợc áp dụng đúng đắn, thống nhất.

“Quyết định chính xác của Tòa án bảo đảm sự tín nhiệm của xã hội đối với việc xét xử.” [171, tr.187]. Khi ra bản án, quyết định, Tòa án nhân danh Nhà nƣớc. Vì vậy,

bản án, quyết định của Tòa án có chính xác thì công lý mới đƣợc thực thi và tạo niềm

tin của xã hội vào thể chế chính trị, nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của mỗi công

dân. Việc kết án ngƣời không có hành vi phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm, quyết định hình phạt quá nặng, không tƣơng xứng với tính chất, mức độ của

hành vi phạm tội sẽ hình thành tâm lý bất mãn, chống đối, không tâm phục, khẩu phục.

Ngƣợc lại, việc bỏ lọt tội phạm hay xử phạt quá nhẹ lại tạo thái độ coi thƣờng pháp

luật, coi thƣờng Nhà nƣớc.

2.2.2. Ý nghĩa pháp lý

Thứ nhất, giám đốc thẩm đảm bảo bản án, quyết định có HLPL của Tòa án

chính xác, công bằng, đúng pháp luật. Thông qua thủ tục giám đốc thẩm, các bản án,

quyết định đúng sẽ khẳng định đƣợc tính có căn cứ, đúng pháp luật, tăng cƣờng đƣợc

uy tín, hiệu lực pháp luật. Ngƣợc lại, những bản án, quyết định có vi phạm, sai lầm

nghiêm trọng sẽ bị hủy bỏ để giải quyết lại, đảm bảo khách quan, đúng ngƣời, đúng

tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, ngƣời phạm tội, bảo vệ công lý, quyền con

ngƣời, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, uy tín của Nhà

nƣớc.

Thứ hai, giám đốc thẩm đảm bảo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật.

Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm độc lập, chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc quan trọng nhất trong xét xử. Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng phải tuân thủ nghiêm những quy phạm về thủ tục tố tụng; Tòa án phải công tâm, khách quan trong việc giải quyết vụ án, lựa chọn đúng quy phạm pháp

luật về nội dung. Trên thực tế, một số trƣờng hợp, sai lầm xuất phát từ yếu tố chủ

quan, do lỗi của những ngƣời “cầm cân nảy mực” nhƣng cũng có nhiều trƣờng hợp, sai lầm trong bản án, quyết định của Tòa án có nguyên nhân từ nhận thức về pháp luật không đúng, không thống nhất, không phù hợp với bản chất của quy phạm pháp luật. Thông qua giám đốc thẩm, những vƣớng mắc này sẽ đƣợc giải quyết, đảm bảo không

45

lặp lại vi phạm trong những trƣờng hợp tƣơng tự xảy ra trong tƣơng lai.

Thứ ba, giám đốc thẩm nâng cao chất lƣợng của các chủ thể tiến hành tố tụng.

Thủ tục giám đốc thẩm là một hình thức giám đốc việc xét xử. Việc xét lại bản án,

quyết định đã có HLPL đảm bảo các chủ thể tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án phải

nghiên cứu, đánh giá đầy đủ, khách quan tất cả các chứng cứ của vụ án; áp dụng pháp luật linh hoạt, chủ động; thận trọng trong mỗi quyết định tố tụng. Thông qua giám đốc

thẩm, Tòa án cấp trên có thể phát hiện những sai sót, yếu kém của cấp dƣới để kịp thời

uốn nắn, có kế hoạch đào tạo.

Thứ tư, giám đốc thẩm đang trở thành nguồn luật cơ bản, bổ sung, lấp đầy

những khoảng trống, kẽ hở của pháp luật thành văn. Trên cơ sở tổng hợp những sai

lầm, vƣớng mắc trong việc áp dụng pháp luật; mâu thuẫn giữa các quy phạm pháp luật,

Tòa án có quyền đề xuất, kiến nghị để sửa đổi, hủy bỏ các quy phạm pháp luật đó;

tổng kết thực tiễn để ban hành hƣớng dẫn áp dụng pháp luật; giải thích pháp luật; bổ sung pháp luật. Quyết định giám đốc thẩm không chỉ dừng lại ở việc khắc phục vi

phạm của các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án mà còn hủy bỏ, thay thế

những án lệ sai, trở thành án lệ mới có tính chuẩn mực, hƣớng dẫn áp dụng pháp luật.

2.3. Các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS

2.3.1. Tính thống nhất, đồng bộ

Tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật nói chung và các quy định về

giám đốc thẩm trong TTHS nói riêng đƣợc hiểu là sự phù hợp, không mâu thuẫn, trùng

lặp, chồng chéo giữa các thành tố cấu tạo nên hệ thống pháp luật và các quy định về

giám đốc thẩm; giữa các quy định về giám đốc thẩm với các nguyên tắc hiến định, các

nguyên tắc của TTHS và các quy định pháp luật liên quan. Bất kỳ quy phạm nào cũng

phải đảm bảo tính hợp pháp và hợp hiến. Tính thống nhất bao trùm cả tính hợp pháp

và hợp hiến. Khi một quy định pháp luật về giám đốc thẩm đảm bảo đƣợc tính thống

nhất thì đã đảm bảo đƣợc tính hợp pháp và hợp hiến. Tính thống nhất, đồng bộ thể

hiện cụ thể ở những điểm sau:

Thứ nhất, các quy định về giám đốc thẩm trƣớc hết phải phù hợp với Hiến

pháp. Sự phù hợp này phải đƣợc đánh giá, xem xét trên cơ sở tinh thần của Hiến pháp đối với các nguyên tắc về chế độ chính trị, quyền con ngƣời, quyền công dân; chức năng, thẩm quyền của Tòa án, Viện kiểm sát; việc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nƣớc nói chung và các cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng. Bên cạnh đó, để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất trong các quy định về giám đốc thẩm, đòi hỏi quá trình xây dựng pháp luật phải xác định đƣợc đúng bản chất của giám đốc thẩm, có quan điểm tổng quát về cơ cấu các chế định, dự kiến chính xác các tình huống, hoàn

cảnh, điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể, từ đó đề ra các quy phạm phù hợp.

46

Thứ hai, các quy định về giám đốc thẩm do cơ quan cấp dƣới ban hành phải phù hợp với các quy phạm do cơ quan cấp trên ban hành. Thủ tục giám đốc thẩm là xét

lại các bản án, quyết định có HLPL của Tòa án, tuyên nhân danh Nhà nƣớc, đƣợc Hiến

pháp và pháp luật TTHS bảo vệ nên việc chi tiết hóa các quy định của BLTTHS chỉ

nên giao cho cơ quan xét xử cao nhất là Tòa án tối cao. Các quy định này phải dựa trên

cơ sở và không trái với các quy định của BLTTHS về giám đốc thẩm.

Thứ ba, các quy định về giám đốc thẩm do một cơ quan ban hành phải thống nhất với nhau. Các quy định ban hành sau phải phù hợp với các quy định ban hành

trƣớc. Trƣờng hợp có sự khác nhau thì quy phạm trƣớc đó phải đƣợc sửa đổi hoặc bãi bỏ. Mặt khác, các quy định về giám đốc thẩm trong TTHS trong cùng một văn bản

phải thống nhất với nhau.

2.3.2. Tính minh bạch

Tính minh bạch là sự rõ ràng, thông suốt, đúng đắn của cả hệ thống pháp luật

nói chung và những quy định về giám đốc thẩm trong TTHS nói riêng. Các quy định của pháp luật, các văn bản pháp luật về giám đốc thẩm phải đƣợc công bố công khai

để cá nhân, pháp nhân, các cơ quan, tổ chức nắm rõ thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các

chủ thể có thẩm quyền kháng nghị, chủ thể có quyền giám đốc thẩm, quyền của những

ngƣời có liên quan đến đến bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án, liên quan đến

kháng nghị giám đốc thẩm. Tính minh bạch thể hiện ở các điểm sau:

- Quy định về giám đốc thẩm phải trên cơ sở thực tiễn đời sống kinh tế, chính

trị, xã hội; phải mang tính hệ thống, chặt chẽ, nhất quán, không mâu thuẫn, trùng lặp.

- Các quy định về giám đốc thẩm phải bình đẳng đối với tất cả các chủ thể khi

họ hội tụ đầy đủ các điều kiện luật định để tham gia thủ tục giám đốc thẩm.

- Việc truyền đạt các nội dung về thủ tục giám đốc thẩm đến các cơ quan, tổ

chức, cá nhân, pháp nhân phải công khai, nhanh chóng.

- Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành thủ tục giám đốc thẩm phải đƣợc tổ

chức một cách khoa học, độc lập, đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.

- Các quyết định giám đốc thẩm của Tòa án phải đƣợc công khai, tạo đƣợc niềm

tin trong xã hội.

2.3.3. Tính phù hợp

Tính phù hợp của hệ thống pháp luật nói chung và các quy định về giám đốc thẩm nói riêng phải phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế, xã hội, không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó. Khi nhận thức về pháp luật của đại bộ phận

ngƣời dân chƣa cao, nhận thức về giám đốc thẩm còn hạn chế thì các quy định về giám đốc thẩm phải đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong việc kiểm tra,

giám sát, phát hiện vi phạm trong các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án nói

chung và những ngƣời có liên quan đến bản án, quyết định này nói riêng. Tuy nhiên,

pháp luật về giám đốc thẩm cũng phải hạn chế việc kháng nghị tràn lan, không có căn

47

cứ hoặc căn cứ không vững chắc, đảm bảo tính ổn định đối với các bản án, quyết định

của Tòa án đã có HLPL. Ngoài ra, các quy định về giám đốc thẩm phải có tính ổn định

tƣơng đối bởi vì không thể thƣờng xuyên đảo lộn các quan hệ xã hội bằng việc thay

đổi pháp luật [65, tr.12]. Tính ổn định này thể hiện sự phù hợp giữa những quy định về

giám đốc thẩm trong TTHS với các quan hệ mà nó điều chỉnh.

2.3.4. Tính hiệu quả

Tính hiệu quả của pháp luật về giám đốc thẩm trong TTHS thể hiện ở những lợi

ích mà nó mang lại cho xã hội. Những kết quả này phải do tác động của pháp luật về

giám đốc thẩm mang lại. Chẳng hạn, tác động của thủ tục giám đốc thẩm đối với Tòa

án cấp dƣới trong việc áp dụng pháp luật một cách chính xác, thống nhất hay đảm bảo tính hợp pháp của các bản án, quyết định có HLPL của Tòa án. Tính hiệu quả đƣợc

đánh giá trên cơ sở so sánh trạng thái ban đầu về tính hợp pháp của các bản án, quyết

định của Tòa án đã có HLPL với các tác động sau khi các quy định về giám đốc thẩm

trong TTHS xuất hiện; kết quả mà các quy định này mang lại.

2.3.5. Được xây dựng ở trình độ kỹ thuật pháp lý cao

Một hệ thống pháp luật hoàn thiện phải là hệ thống đƣợc xây dựng với trình độ

kỹ thuật lập pháp cao. Trình độ pháp lý cao thể hiện ở quy trình ban hành văn bản

pháp luật một cách khoa học, cách thức biểu đạt chuẩn xác, ngôn ngữ diễn đạt rõ ràng,

dễ hiểu, đơn nghĩa, logic, dễ thực hiện. Giám đốc thẩm quyết định đến giá trị pháp lý

của bản án, quyết định đã có HLPL mà Tòa án đã tuyên nhân danh Nhà nƣớc nên thủ

tục giám đốc thẩm phải đƣợc xây dựng một cách chặt chẽ, nghiêm ngặt, các căn cứ

giám đốc thẩm, thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, thẩm quyền giám đốc thẩm

phải rõ ràng, cụ thể, dễ áp dụng. Việc xây dựng các quy định về giám đốc thẩm phải

xác định đúng bản chất của giám đốc thẩm và “những nguyên tắc của hoạt động xây

dựng pháp luật, những trình tự thủ tục tối ƣu… nhằm tạo ra đƣợc những văn bản quy

phạm pháp luật tốt nhất, phù hợp với những quy định đã có và cơ chế thực thi pháp

luật,… phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nƣớc” [44, tr.34].

2.4. Các yếu tố tác động đến thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự

2.4.1. Pháp luật về giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự

Cơ sở để pháp luật nói chung và thủ tục giám đốc thẩm nói riêng đạt hiệu quả trên thực tế trƣớc hết là phải có hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, minh bạch, phù hợp, hiệu quả, đƣợc xây dựng ở trình độ pháp lý cao. Nếu pháp luật không đạt

đƣợc các tiêu chí trên, trƣớc hết các quy định về giám đốc thẩm sẽ không thể hiện hết đƣợc bản chất của thủ tục tố tụng này, không phân biệt đƣợc thủ tục này với các thủ

tục tố tụng khác. Hậu quả là giám đốc thẩm sẽ không còn là một thủ tục TTHS mà trở thành một cấp xét xử. Việc kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm tràn lan vừa không

48

đảm bảo đƣợc tính ổn định của các bản án, quyết định có HLPL của Tòa án đƣợc pháp

luật bảo vệ, không đạt đƣợc mục đích của pháp luật TTHS, vừa tạo áp lực lớn lên các

cơ quan tố tụng có thẩm quyền.

Các quy định về giám đốc thẩm càng hoàn thiện, phù hợp, rõ ràng thì việc áp

dụng càng dễ dàng, hiệu quả, chính xác. Từ đó sẽ không có tình trạng đề nghị xem xét lại bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm với tƣ

tƣởng, tâm lý cầu may. Chất lƣợng, hiệu quả trong công tác phát hiện và quyết định

kháng nghị, quyết định giám đốc thẩm của các chủ thể có thẩm quyền sẽ tăng lên. Việc

xem xét các bản án, quyết định có HLPL của Tòa án đƣợc thực hiện theo một trình tự

nghiêm ngặt, kịp thời, chính xác, đúng mục đích của giám đốc thẩm. Mỗi quyết định giám đốc thẩm sẽ kịp thời khắc phục những vi phạm nghiêm trọng trong các bản án,

quyết định của Tòa án đã có HLPL, tạo tiền lệ cho những trƣờng hợp phát sinh trong

tƣơng lai, đảm bảo sự thống nhất, đúng đắn trong áp dụng pháp luật.

2.4.2. Tổ chức bộ máy tư pháp

Các cơ quan tƣ pháp phải đƣợc tổ chức một cách khoa học, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền. Chức năng chung của các cơ quan tƣ pháp là ngăn chặn

tội phạm, không bỏ lọt tội phạm, kẻ phạm tội, không làm oan ngƣời vô tội, bảo vệ

công lý, bảo vệ quyền con ngƣời, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp

pháp của tổ chức, cá nhân và giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, vai trò, vị trí của mỗi cơ

quan là khác nhau nên để thực hiện đƣợc chức năng chung, cần phải phân định thẩm

quyền một cách hợp lý, có sự kiểm tra, giám sát, đối trọng lẫn nhau trong hoạt động,

không lạm quyền, nhƣng đồng thời cũng phải đảm bảo tính chủ động, độc lập, sáng tạo

của mỗi cơ quan.

Giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt ảnh hƣởng đến giá trị pháp lý của các bản án,

quyết định của Tòa án đã có HLPL tuyên nhân danh Nhà nƣớc, đƣợc pháp luật bảo vệ,

đảm bảo thi hành. Vì vậy, thẩm quyền tiến hành thủ tục này cần phải tập trung vào cơ

quan xét xử cao nhất để đảm bảo các quyết định giám đốc thẩm đƣợc ban hành vừa

khắc phục đƣợc vi phạm, vừa có tính chuẩn mực, hƣớng dẫn áp dụng pháp luật và

không bị hủy, sửa. Tòa án với vị trí nhƣ một ngƣời đứng giữa, trung gian, độc lập, chỉ tuân theo pháp luật nên việc khởi động thủ tục giám đốc thẩm cần trao cho các chủ thể tham gia tố tụng, những ngƣời liên quan đến vụ án, đặc biệt là cơ quan công tố để đảm bảo tính khách quan trong quyết định giám đốc thẩm và phù hợp với chức năng của

từng cơ quan trong thủ tục giám đốc thẩm. Bên cạnh đó, tổ chức bộ máy trong mỗi cơ quan tƣ pháp cũng phải đảm bảo khoa học, phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ.

2.4.3. Công tác tổ chức cán bộ và năng lực cán bộ

49

Các quy phạm pháp luật muốn đƣợc áp dụng đúng, đầy đủ, hiệu quả trên thực tế cần phải có các chủ thể thực hiện. Trình độ của những ngƣời thực hiện pháp luật càng cao thì hoạt động áp dụng pháp luật nói chung, giám đốc thẩm nói riêng càng đúng đắn

và hiệu quả. Đối tƣợng của giám đốc thẩm rất đặc biệt vì vậy, thẩm phán, Kiểm sát

viên/Công tố viên, cán bộ làm việc tại những cơ quan có thẩm quyền kháng nghị giám

đốc thẩm, có thẩm quyền thẩm tra các yêu cầu, đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm

phải là những ngƣời có năng lực, trình độ chuyên môn sâu về hình sự và TTHS, có kinh nghiệm trong công tác giám đốc thẩm. Những ngƣời này mặc dù không có quyền

quyết định số phận pháp lý của một bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án nhƣng

đóng vai trò rất quan trọng trong việc nghiên cứu các đề nghị kháng nghị giám đốc

thẩm, chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, phát hiện vi phạm và xem xét, đánh giá

các vi phạm này trên phƣơng diện pháp luật. Thành viên HĐGĐT đóng vai trò quan

trọng nhất, phải là những ngƣời giữ ngạch Thẩm phán ở mức cao, có thể là cao nhất

trong ngạch Thẩm phán, có đạo đức nghề nghiệp, chuyên môn sâu, am hiểu pháp luật

để đảm bảo phán quyết về số phận pháp lý của các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án cấp dƣới bị kháng nghị giám đốc thẩm chính xác, đúng pháp luật.

2.5. Mô hình giám đốc thẩm trong các thiết chế tư pháp hình sự quốc tế và tố

tụng hình sự của một số quốc gia trên thế giới

2.5.1. Giám đốc thẩm trong các thiết chế tư pháp hình sự quốc tế

Các thiết chế Tòa án hình sự quốc tế đƣợc thành lập trên cơ sở thỏa thuận của

các quốc gia thành viên với mục đích duy trì ổn định an ninh quốc tế. Các Tòa án này

có quy định về trình tự, thủ tục tố tụng riêng để xét xử các cá nhân đã thực hiện những

tội ác quốc tế đặc biệt nghiêm trọng. Quá trình hình thành và phát triển, các thiết chế

Tƣ pháp quốc tế đã đƣợc thành lập gồm có: TAQS quốc tế Nuremberg hoạt động theo

Điều lệ của TAQS quốc tế và TAQS quốc tế cho vùng Viễn Đông (Tokyo); Tòa án

hình sự quốc tế theo vụ việc (ad-hoc) gồm Tòa hình sự quốc tế về Nam Tƣ (cũ) và Tòa

hình sự quốc tế về Ruanda; các Tòa hỗn hợp gồm Tòa án Xiera Leon, Campuchia,

Libang và Irac.

Ngoài TAQS Nuremberg và TAQS quốc tế cho vùng Viễn Đông (Tokyo), các

Tòa án hình sự quốc tế đều thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử và có quy định về việc

xem xét lại bản án đã có HLPL của Tòa án (sơ thẩm hoặc phúc thẩm). Giống nhƣ pháp luật TTHS của các quốc gia, quyền kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm đƣợc trao cho cả ngƣời bị kết án và công tố viên khi có những căn cứ cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm có sai sót dẫn đến xét xử oan sai [186, Điều 20] [191, Điều 25] [190, Điều 26].

Đối với việc xem xét lại bản án đã có HLPL, các Tòa án hình sự quốc tế quy

định một thủ tục đƣợc gọi là “review procedings”. Căn cứ xem xét lại các bản án này ghi nhận trong Quy chế của Tòa án hình sự quốc tế về Nam Tƣ cũ và Quy chế của Tòa

án quốc tế về Rwanda cơ bản giống căn cứ kháng nghị tái thẩm trong pháp luật TTHS

50

Việt Nam, “nếu phát hiện tình tiết mới chƣa từng đƣợc biết tới vào thời điểm xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm trong khi tình tiết đó lại có ý nghĩa quyết định thì ngƣời bị kết án

hoặc Công tố viên có quyền yêu cầu Tòa phúc thẩm xét lại bản án” [191, Điều 25]

[190, Điều 26]. Tuy nhiên, quy chế hoạt động của các Tòa án này chƣa quy định cụ thể

về trình tự, thẩm quyền giải quyết và hậu quả pháp lý của việc xem xét lại các bản án

đã có HLPL mà mới chỉ dừng lại ở giai đoạn kháng cáo, kháng nghị. Theo thời gian, các quy định về việc xem xét lại bản án có HLPL của Tòa án hình sự quốc tế ngày

càng phát triển và hoàn thiện. Quy chế Rome về Tòa án hình sự quốc tế đã quy định

đầy đủ, cụ thể về chủ thể có quyền đề nghị xem xét lại, căn cứ và thời hạn tố tụng

trong việc xem xét lại. Về chủ thể có quyền đề nghị xem xét lại bản án, quyết định kết

tội đã có HLPL, chủ thể này không chỉ là ngƣời bị kết án mà còn có thể là vợ, chồng,

con, cha mẹ hoặc một ngƣời đang sống vào thời điểm bị cáo chết và đƣợc bị cáo chỉ

dẫn rõ bằng văn bản về việc đệ đơn khiếu nại; hoặc Trƣởng Công tố thay mặt ngƣời

đó, có thể đề nghị Hội đồng Phúc thẩm xét lại phán quyết cuối cùng về việc kết tội [13, khoản 1 Điều 84].

Căn cứ đề nghị xem xét lại bản án đã có HLPL gồm có: (i) có chứng cứ mới

đƣợc phát hiện mà chứng cứ đó không có tại thời điểm xét xử và việc không có chứng

cứ đó không hoàn toàn hay có phần do lỗi của bên có đơn đề nghị và chứng cứ đó

quan trọng tới mức nếu đƣợc chứng minh khi xét xử, sẽ có khả năng dẫn đến một bản

án khác; (ii) phát hiện chứng cứ có tính chất quyết định đƣợc xem xét khi xét xử và

làm cơ sở kết tội là sai, bị giả mạo hoặc xuyên tạc; (iii) một hoặc nhiều thẩm phán đã

tham dự việc kết tội hoặc xác nhận lời buộc tội trong vụ án đó, đã có hành vi sai trái

nghiêm trọng hoặc vi phạm nghiêm trọng trách nhiệm đến mức đủ để bãi nhiệm họ

theo Điều 46 Quy chế [13, khoản 2 Điều 84]. Khoản 1 Điều 46 quy định: thẩm phán có

thể bị bãi nhiệm nếu (i) bị phát hiện có hành vi sai trái nghiêm trọng hoặc vi phạm

nghiêm trọng trách nhiệm của mình theo Quy chế này nhƣ đã đƣợc quy định trong

Quy tắc về Thủ tục và Chứng cứ; (ii) không thể thực hiện các chức năng đƣợc yêu cầu

theo Quy chế này.

Hành vi sai trái nghiêm trọng và vi phạm nghiêm trọng trách nhiệm của thẩm

phán đƣợc giải thích trong Quy tắc về thủ tục và chứng cứ nhƣ sau:

- Hành vi sai trái nghiêm trọng là những hành vi sau:

(a) Nếu xảy ra trong quá trình thực thi công vụ, những hành vi này không phù hợp với quy định về chức năng của thẩm phán và là nguyên nhân hoặc có khả năng gây tổn hại nghiêm trọng đến việc thực thi công lý đúng đắn trƣớc Tòa án hoặc hoạt động nội bộ đúng đắn của Tòa án, nhƣ: (i) Tiết lộ thông tin có đƣợc trong quá trình

thực hiện nhiệm vụ của mình hoặc vấn đề đang chờ xét xử mà việc tiết lộ này ảnh

hƣởng nghiêm trọng đến quá trình tố tụng hoặc bất kỳ ngƣời nào; (ii) Che giấu thông

51

tin có tính chất đủ nghiêm trọng ảnh hƣởng đến việc tiếp tục giữ chức vụ thẩm phán;

(iii) Lạm dụng văn phòng tƣ pháp để có đƣợc sự đối xử thuận lợi không đáng có từ bất

kỳ cơ quan chức năng, quan chức hoặc chuyên gia nào;

(b) Nếu không xảy ra trong quá trình làm nhiệm vụ chính thức, hành vi này gây

ra hoặc có khả năng gây tổn hại nghiêm trọng đến uy tín của Tòa án.

- Hành vi vi phạm nghiêm trọng là khi một ngƣời thực hiện nhiệm vụ của mình một cách cẩu thả hoặc cố tình làm trái với những nghĩa vụ đó, cụ thể là: không thực

hiện đúng nhiệm vụ đƣợc yêu cầu mặc dù biết rõ cần phải làm nhƣ thế hoặc liên tục gây ra sự chậm trễ không có căn cứ trong việc khởi tố, truy tố, xét xử các vụ án hoặc

trong việc thực thi các quyền tƣ pháp [14 Điều 24].

Nhƣ vậy, căn cứ kháng cáo/kháng nghị bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa

án trong Quy chế Rome vừa có những điểm giống thủ tục tái thẩm vừa có những điểm

giống thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS Việt Nam.

Về thẩm quyền, Hội đồng Phúc thẩm sẽ bác bỏ đơn đề nghị nếu cho rằng không có cơ sở. Nếu Hội đồng Phúc thẩm xác định rằng đơn đề nghị là thích đáng thì có thể

(i) triệu tập lại Hội đồng sơ thẩm ban đầu; (ii) thành lập một Hội đồng sơ thẩm mới;

hoặc (iii) giữ thẩm quyền xét xử đối với vấn đề đó, nhằm mục đích, sau khi nghe các

bên trình bày theo cách thức đƣợc quy định tại Quy tắc về tố tụng và chứng cứ, xác

định liệu có cần xét lại phán quyết hay không [13, khoản 2 Điều 84].

Về thời hạn, Quy chế Rome chỉ quy định việc xem xét lại bản án đã có HLPL

của Tòa án trong trƣờng hợp có lợi cho ngƣời bị kết án và không hạn chế về thời gian.

Việc quy định thủ tục xem xét lại bản án của Tòa án đã có HLPL trong các thiết

chế tƣ pháp hình sự quốc tế, đặc biệt là quy chế Tòa án hình sự quốc tế đã thể hiện tính

tất yếu của thủ tục này nhằm khắc phục những sai lầm trong quá trình điều tra, truy tố,

xét xử, đảm bảo kết án đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật.

2.5.2. Giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự của một số quốc gia trên thế giới

2.5.2.1. Các nước theo hệ thống án lệ (Common Law)

Hệ thống pháp luật án lệ (Common Law) có nguồn gốc từ Vƣơng quốc Anh. Trong quá trình mở rộng lãnh thổ, xâm chiếm thuộc địa, ngƣời Anh mang tƣ duy lập pháp và hệ thống pháp luật của mình đến áp dụng tại các thuộc địa. Sau khi giành độc lập, các quốc gia thuộc địa dần tách ra khỏi hệ thống pháp luật của Anh, phát triển pháp luật với những đặc điểm riêng nhƣng vẫn dựa trên cơ sở án lệ.

Một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực ngay sau khi ban hành, kể cả bản án hay quyết định sơ thẩm. Hiệu lực thi hành các bản án, quyết định này sẽ bị hoãn lại

nếu có kháng cáo hoặc kháng nghị. Có nhều căn cứ khác nhau để kháng cáo, kháng

nghị nhƣ: xem xét về thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp dƣới; việc áp dụng pháp luật

52

từ các bản án trƣớc đó; có lỗi của bồi thẩm đoàn khi đánh giá các tình tiết thực tế; xét

lại bản án sơ thẩm dựa trên các tình tiết của vụ án và cách áp dụng pháp luật; xét lại

bản án sơ thẩm với các chứng cứ mới [130, tr.31]. Pháp luật TTHS của các nƣớc theo

hệ thống Common Law không phân biệt rõ ràng giữa xét xử phúc thẩm và thủ tục xem

xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL (giám đốc thẩm, tái thẩm). Thuật ngữ “appeal” đƣợc sử dụng cho cả xét xử phúc thẩm và thủ tục xem xét lại bản án của

Tòa án đã có HLPL.

- Giám đốc thẩm trong TTHS Vƣơng quốc Anh

Pháp luật TTHS của Vƣơng quốc Anh không có sự tách biệt giữa thủ tục giám

đốc thẩm và tái thẩm mà chỉ có một thủ tục chung là xem xét lại bản án, quyết định

của Tòa án đã có HLPL. Những năm đầu của thế kỷ 14, các Tòa án tại Vƣơng quốc

Anh áp dụng thủ tục có tên gọi là “venire de novo” cho phép triệu tập bồi thẩm đoàn

mới để xem xét lại những vụ án có vi phạm của bồi thẩm viên. Theo các tài liệu còn lƣu giữ thì lần đầu tiên một vụ án bị xem xét lại là vào khoảng những năm 1351, Tòa

án đã xem xét lại vụ án khi phát hiện ra những hành vi trái pháp luật của bồi thẩm đoàn. Trƣờng hợp thứ hai đƣợc ghi nhận là vào năm 1410 trong một vụ án mà bên

thắng kiện đã bị phát hiện có hành hối lộ bồi thẩm đoàn [183, tr.2]. Mặc dù tên gọi

khác nhau nhƣng thủ tục này về cơ bản giống với thủ tục giám đốc thẩm. Ngày nay,

theo quy định của Đạo luật Thẩm phán năm 1980, Tòa án sẽ tự động mở phiên tòa để

xét xử lại vụ án trong một số trƣờng hợp cụ thể là: bỏ qua một giai đoạn trong phiên

tòa; không tuyên án đối với bị cáo vắng mặt hoặc bất kỳ sự trì hoãn nào dẫn đến thay

đổi trong việc kết án.

Trong TTHS Vƣơng quốc Anh, các vụ án đơn giản mà tội danh có mức hình

phạt dƣới 2 năm tù đƣợc xét xử ở tòa án sơ cấp (Magistrates’ Courts). Các vụ án phức

tạp hơn đƣợc xét xử ở tòa án Hoàng gia (Crown Courts). Tòa phúc thẩm (Court of

Appeal) xét xử phúc thẩm tất cả các vụ án. Thủ tục xem xét lại bản án, quyết định đã

có HLPL của Tòa án về cơ bản giống nhƣ thủ tục phúc thẩm.

Đối với các bản án của Tòa án sơ cấp (Magistrates’ Courts), bất kỳ ngƣời nào

đã tham gia tố tụng hoặc những ngƣời có quyền lợi liên quan đến quyết định của Tòa án đều có quyền kháng cáo lên Tòa án Hoàng gia (Crown Courts). Kháng cáo không bị hạn chế về vấn đề áp dụng pháp luật hay tình tiết thực tế của vụ án. Ngƣời kháng cáo có quyền viện dẫn một bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp cao hơn về vấn đề liên quan đến nội dung kháng cáo để làm cơ sở cho kháng cáo của mình.

Đối với những vụ án đã xét xử, bản án đã có HLPL nhƣng bị dƣ luận nghi ngờ về tính đúng đắn thì Bộ trƣởng Bộ Nội vụ có thể kiến nghị với Tòa phúc thẩm (Court

53

of Appeal) để xem xét lại. Việc kiến nghị này không có thời hạn, có thể tiến hành vào bất kỳ thời điểm nào. Khi có kiến nghị, Tòa án phúc thẩm sẽ giải quyết giống nhƣ trƣờng hợp kháng cáo, kháng nghị sơ thẩm [16, Điều 17].

Đối với các bản án của Tòa Hoàng gia, trƣờng hợp bị cáo đƣợc tuyên không

phạm tội, cơ quan công tố không có thẩm quyền kháng nghị lên Tòa phúc thẩm (Court

of Appeal). Trong trƣờng hợp này, Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp có quyền kiến nghị Tòa

phúc thẩm giải thích các vấn đề về áp dụng pháp luật trong vụ án để tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan Công tố khi truy tố các trƣờng hợp tƣơng tự. Cơ quan công tố

có quyền kháng nghị đối với các trƣờng hợp mà xét thấy hình phạt Tòa án đã quyết

định là quá nhẹ [131, tr.35].

Bị cáo có thể kháng cáo lên Tòa phúc thẩm (Court of Appeal) nhƣng chỉ đƣợc

chấp thuận nếu Tòa phúc thẩm chấp nhận kháng cáo hoặc thẩm phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm chấp nhận kháng cáo này bằng văn bản. Đạo luật phúc thẩm năm 1995 đã hạn

chế bớt những trƣờng hợp đƣợc kháng cáo để giảm số lƣợng kháng cáo lên Tòa phúc

thẩm. Việc xét xử tại Tòa phúc thẩm đƣợc tiến hành bởi một hội đồng gồm 3 thẩm

phán. Hội đồng xét xử sẽ nghe lập luận của bên buộc tội và bên gỡ tội. Thông thƣờng, Tòa án không triệu tập nhân chứng trừ trƣờng hợp xét thấy cần thiết. Hội đồng xét xử

có thể chấp nhận kháng cáo, hủy bản án đã có HLPL bị kháng cáo nếu thấy việc kết tội

không có căn cứ hoặc không chấp nhận kháng cáo [16, Điều 2]. Thủ tục này có những

điểm giống với phiên tòa giám đốc thẩm trong TTHS Việt Nam.

Ngƣời bị kết án cũng có thể kháng cáo về hình phạt khi có một trong các căn cứ

sau: (i) hình phạt không đúng luật; (ii) hình phạt mà Tòa án quyết định dựa trên những

chứng cứ không có thật; (iii) có chứng cứ mới ảnh hƣởng tới việc quyết định hình

phạt; (iv) hình phạt quá nặng.

Sau khi xét xử tại Tòa phúc thẩm (Court of Appeal), cơ quan công tố và luật sƣ

của bị cáo có quyền kiến nghị lên Thƣợng viện (The House of Lords) về những quyết

định của Tòa án. Để đƣợc xem xét tại Thƣợng viện, các kiến nghị này phải thuộc một

trong các trƣờng hợp sau: (i) Tòa phúc thẩm đồng ý với kiến nghị vì đây là vấn đề

pháp luật có liên quan đến lợi ích công; (ii) Thƣợng viện hoặc Tòa phúc thẩm cho rằng

vấn đề này cần phải đƣợc xem xét tại Thƣợng viện. Sau khi đƣợc chấp nhận xem xét,

một ủy ban của Thƣợng viện gồm các thành viên chuyên trách sẽ xem xét kiến nghị và đƣa ra quyết định cuối cùng.

- Giám đốc thẩm trong TTHS Hoa Kỳ.

Hệ thống TTHS của Hoa Kỳ đƣợc chia thành cấp độ bang và liên bang, tổ chức

và hoạt động do Hiến pháp quy định. Hai hệ thống này hoạt động gần nhƣ độc lập và tách rời nhau nhƣng có cùng một cơ chế xét xử. Tòa án tối cao liên bang có quyền xem xét lại các bản án, quyết định đã đƣợc xét xử tại Tòa án tối cao của các bang. Phán

quyết của Tòa án tối cao liên bang có hiệu lực chung thẩm [131, tr.37].

Hệ thống Tòa án liên bang có ba cấp là Tòa án cấp quận (US Federal District Court), Tòa án phúc thẩm (US Court of Appeal) và Tòa án tối cao liên bang (US 54

Supreme Court), trong đó, Tòa án tối cao liên bang của Hoa Kỳ là Tòa án cấp cao

nhất. Tòa án này gồm 9 Thẩm phán và không có bồi thẩm đoàn. Tòa án tối cao liên

bang thƣờng chỉ xét lại các bản án của Tòa phúc thẩm liên bang và bản án của các Tòa

án tối cao tiểu bang. Tòa án tối cao liên bang không xem xét nội dung cụ thể của vụ án mà chỉ xem xét lại về đƣờng lối giải quyết vụ án và việc áp dụng pháp luật [165, tr.85].

Các bên tham gia tố tụng không có quyền đề nghị Tòa án tối cao liên bang xem

xét lại bản án, quyết định của Tòa phúc thẩm liên bang hoặc Tòa án tối cao tiểu bang.

Thay vào đó, để Tòa án tối cao liên bang xét lại các bản án, quyết định này, các bên

tham gia tố tụng phải đệ trình một văn bản giải thích lý do tại sao các vấn đề về pháp luật trong vụ án của họ có ý nghĩa quan trọng đến mức cần phải đƣợc xem xét lại tại

Tòa án tối cao liên bang. Ngƣời đề nghị phải nộp một khoản tiền nhất định để văn bản

này đƣợc chấp nhận. Một số trƣờng hợp đƣợc miễn trừ lệ phí này là ngƣời nghèo hoặc

tù nhân [131, tr.40]. Sau khi nhận đƣợc đơn đề nghị, bộ phận Thƣ ký của Tòa án tối cao liên bang gồm các chuyên gia pháp luật hoặc luật sƣ sẽ tiếp nhận và nghiên cứu,

tổng hợp, sau đó đề xuất với các Thẩm phán. Thời hạn của quá trình xem xét này trên

thực tế thƣờng là 02 tháng kể từ khi nhận đƣợc đơn đề nghị [166, tr.153].

Theo Quy định số 33, Chƣơng VII thủ tục sau khi kết án (post-conviction

procedure) trong Luật TTHS Liên bang Hoa Kỳ năm 2016 (thủ tục đề nghị mở phiên

tòa mới), theo đề nghị của bị cáo và đòi hỏi của việc bảo đảm công lý, Tòa án có thể

bãi bỏ một bản án và chấp thuận mở một phiên tòa mới. Phiên tòa này không có bồi

thẩm đoàn. Tòa án có thể thẩm vấn bổ sung và ban hành một bản án mới [192]. Nếu

4/9 Thẩm phán chấp nhận việc xem xét lại thì Tòa án tối cao liên bang sẽ ra quyết định

yêu cầu Tòa án cấp dƣới chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án đến Tòa án tối cao liên bang để

nghiên cứu xét xử lại [166, tr.153]. Yêu cầu phiên tòa mới của bị cáo chỉ đƣợc chấp

nhận khi bản án đã có HLPL. “Đề nghị mở một phiên tòa mới dựa trên các chứng cứ mới phải đƣợc đệ trình trong thời hạn 03 năm kể từ khi có bản án hoặc phán quyết có

tội. Nếu đang trong quá trình xét xử phúc thẩm, Tòa án không chấp nhận đề nghị cho

tới khi Tòa phúc thẩm có quyết định về vụ án. Các đề nghị mở một phiên tòa mới trên cơ sở các căn cứ khác mà không phải là chứng cứ mới phải đƣợc đệ trình trong thời hạn 14 ngày sau khi bản án hoặc phán quyết có tội” [192].

Nhƣ vậy, căn cứ xét lại bản án, quyết định có HLPL của Tòa án trong TTHS

55

Hoa Kỳ vừa có điểm giống với thủ tục tái thẩm, vừa có điểm giống thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS Việt Nam. Vụ án điển hình phải xét lại bản án đã có HLPL vì vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án là vụ công dân Miranda khởi kiện bang Arizona [193]. Vụ án này đƣợc xét xử sơ thẩm tại Tòa án cấp quận (US Federal District Court). Sau khi có kháng cáo, Tòa tối cao bang Arizona xét xử phúc thẩm, giữ nguyên án sơ thẩm. Khi bản án đã có HLPL, bị cáo kiến nghị Tòa án tối cao liên bang

xem xét lại với lý do các cơ quan tiến hành tố tụng đã vi hiến trong quá trình buộc tội

bị cáo. Tòa án tối cao liên bang đã xét lại vụ án này và nhận định trong quá điều tra,

trƣớc khi lấy lời khai, việc cơ quan tiến hành tố tụng không thông báo đầy đủ các

quyền hiến định cho bị can, bị cáo là vi hiến. Ngƣời bị buộc tội không có nghĩa vụ chứng minh tội phạm (không buộc tội chính mình). Vì vậy, lời khai của ngƣời bị buộc

tội mà bên buộc tội thu thập đƣợc trong quá trình điều tra không có giá trị chứng minh.

Tòa án tối cao liên bang đã hủy bản án phúc thẩm có HLPL. Sau đó, Miranda bị xét xử

lại. Trong phiên tòa mới, lời thú tội của Miranda không đƣợc sử dụng là chứng cứ

buộc tội. Tuy nhiên, Miranda vẫn bị xác định là có tội và bị kết án 20-30 năm tù [193].

2.5.2.2. Các nước theo hệ thống luật dân sự (Civil Law)

- Cộng hòa Pháp

Giám đốc thẩm trong TTHS Cộng hòa Pháp là thủ tục đặc biệt để Tòa án tối cao (Tòa phá án) xét lại một bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL nhƣng bị

kháng cáo, kháng nghị vì có vi phạm pháp luật nghiêm trọng.

Chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là tất cả

các bên bị ảnh hƣởng tiêu cực từ bản án. Pháp luật TTHS Cộng hòa Pháp quy định hai

loại kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm sau:

+ Kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm vì lợi ích của đƣơng sự.

Đối tƣợng của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong trƣờng hợp này là bản án, quyết định tƣ pháp của Tòa án xét xử và Tòa án điều tra đã có

HLPL (bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời là chung thẩm hoặc bản án, quyết định

phúc thẩm) [9, Điều 567]. Những quyết định hành chính – tƣ pháp của Tòa án trong

quá trình giải quyết vụ án hình sự không đƣợc coi là đối tƣợng của giám đốc thẩm. Ví

dụ: quyết định về việc bốc thăm hội thẩm hoặc việc hội thẩm từ chối tiến hành tố tụng

[166, tr.72]. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp, bản án, quyết định của Tòa án không

bị kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm hoặc bị hạn chế kháng cáo, kháng nghị giám

đốc thẩm. Một là, bản án của Tòa án công lý (xem xét trách nhiệm hình sự của các

thành viên chính phủ) không thể bị kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm. Hai là, bản án của Tòa đại hình tuyên bị cáo vô tội chỉ có thể bị kháng nghị vì lợi ích pháp luật (để đảm bảo việc áp dụng thống nhất pháp luật và các thẩm phán không mắc phải những sai lầm tƣơng tự đối với những vụ án khác xảy ra trong tƣơng lai) và không gây thiệt

hại cho ngƣời đƣợc tuyên vô tội [9, Điều 572].

Chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm vì lợi ích của đƣơng sự

là viện công tố và các đƣơng sự. Tuy nhiên, không phải đƣơng sự nào cũng có quyền

kháng cáo mà phải là các đƣơng sự có lợi ích để thực hiện việc kháng cáo bao gồm

ngƣời bị kết án, ngƣời bị hại, bị đơn dân sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

đến vụ án. Các chủ thể này còn phải là các bên trong vụ án. Thời hạn kháng cáo, 56

kháng nghị vì lợi ích của các bên trong vụ án hình sự rất ngắn, Cơ quan công tố có 10

ngày để xem xét kháng nghị, những ngƣời tham giá tố tụng có 5 ngày kể từ ngày bản

án, quyết định đƣợc ban hành và 3 ngày đối với quyết định của phòng điều tra.

Kháng cáo giám đốc thẩm phải đƣợc lập thành văn bản và nộp tại phòng thƣ ký của Tòa án đã ra bản án, quyết định bị kháng cáo. Đối với bị cáo đang bị tạm giam thì

giám thị trại giam sẽ chuyển kháng cáo này cho thƣ ký Tòa án. Các căn cứ kháng cáo

giám đốc thẩm có thể đƣợc thể hiện ngay trong kháng cáo giám đốc thẩm hoặc đƣợc

nêu trong một văn bản riêng biệt. Văn bản này có thể nộp sau kháng cáo giám đốc

thẩm, trong thời hạn 10 ngày. Văn bản nêu các căn cứ đề nghị giám đốc thẩm chỉ đƣợc liệt kê, phân tích các vi phạm trong việc áp dụng pháp luật của Tòa án, không đƣợc

đƣa ra các căn cứ mới về nội dung mà các căn cứ này chƣa từng đƣợc đƣa ra xem xét

trong quá trình xét xử tại các tòa án, trừ những vi phạm trật tự công nhƣ vi phạm thẩm

quyền, hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự [54, tr.7].

+ Kháng nghị vì lợi ích của pháp luật.

Đối tƣợng của kháng nghị giám đốc thẩm trong trƣờng hợp này là bán án, quyết

định của Tòa án đã có hiệu lực quyết tụng. Hiệu lực quyết tụng là tình trạng pháp lý

trong đó một ngƣời đã bị xét xử một cách dứt điểm về một tội phạm, không thể bị truy

cứu trách nhiệm hình sự một lần nữa đối với các hành vi phạm tội đó, dù là theo tội

danh khác [166, tr.72]. Đó là bản án, quyết định có HLPL của Tòa án đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm hoặc không phải đối tƣợng của kháng nghị,

kháng cáo giám đốc thẩm nhƣ bản án của Tòa đại hình tuyên bị cáo vô tội.

Trong trƣờng hợp vì lợi ích của pháp luật, chủ thể có quyền đề nghị xét lại bản

án, quyết định đã có HLPL của Tòa án là Viện trƣởng Viện công tố cùng cấp với Tòa

án giám đốc thẩm hoặc Viện trƣởng Viện Công tố cùng cấp với Tòa phúc thẩm.

Những chủ thể này có thể tự mình thực hiện quyền đề nghị hoặc theo yêu cầu của Bộ

trƣởng Bộ tƣ pháp. Mục đích của kháng nghị giám đốc thẩm vì lợi ích của pháp luật là

bảo đảm sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Kháng nghị này không ảnh

hƣởng đến tình trạng pháp lý của các đƣơng sự trong vụ án. Kháng nghị theo yêu cầu của Bộ trƣởng Bộ tƣ pháp có phạm vi tác động rất lớn, không chỉ đối với các bản án, quyết định tƣ pháp, gồm cả các bản án đã có hiệu lực hoặc chƣa có HLPL, mà còn đối với cả những quyết định hành chính – tƣ pháp của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhƣ quyết định về rút thăm hội thẩm, quyết định về việc hội thẩm từ chối tiến hành tố tụng. Những kháng nghị vì lợi ích của pháp luật là kháng nghị vô thời hạn

và có thể tiến hành bất kỳ lúc nào [9, Điều 621].

57

Về căn cứ kháng cáo, kháng nghị, pháp luật TTHS của Cộng hòa Pháp không quy định các căn cứ kháng nghị, kháng cáo giám đốc thẩm mà quy định cụ thể các căn

cứ để phá án. Căn cứ phá án là các vi phạm nghiêm trọng luật hình sự và TTHS [9,

Điều 591-600], cụ thể nhƣ sau:

+ Số lƣợng thẩm phán trong hội đồng xét xử không đúng quy định; thẩm phán

không tham gia tất cả các phiên xét xử; Tòa án ra quyết định mà không nghe Viện công tố trình bày buộc tội; Quyết định của Tòa án không đƣợc đƣa ra tại phiên tòa

công khai hoặc việc xét hỏi, tranh luận không đƣợc tiến hành công khai tại phiên tòa,

trừ trƣờng hợp pháp luật có quy định khác.

+ Quyết định, bản án không có căn cứ hoặc không đủ căn cứ; bỏ sót hoặc không

giải quyết yêu cầu của Viện công tố hoặc các bên tham gia tố tụng.

+ Bị cáo phạm trọng tội nhƣng hình phạt mà Tòa án quyết định không phải là

hình phạt đƣợc quy định để áp dụng đối với trọng tội.

+ Bị cáo đƣợc tuyên vô tội không có căn cứ pháp luật. Trƣờng hợp này Công tố

viên có quyền kháng nghị.

+ Bản án trích dẫn sai các quy định pháp luật.

Trƣờng hợp có thể khắc phục những vi phạm pháp luật của Tòa án bằng những

thủ tục khác nhƣng ngƣời tham gia tố tụng không thực hiện thì không còn là căn cứ để

đề nghị giám đốc thẩm. Ví dụ: căn cứ để kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm là

những căn cứ mà ngƣời tham gia tố tụng đã không đƣa ra tại phiên tòa phúc thẩm hoặc

tòa án phúc thẩm đã xem xét kháng cáo, trừ trƣờng hợp họ không biết đƣợc những căn

cứ này [9, Điều 599]. Những vi phạm pháp luật trong điều tra và truy tố không phải là

đối tƣợng xem xét của Tòa phá án [9, Điều 600].

Về trình tự tố tụng, đối với kháng cáo giám đốc thẩm, đơn kháng cáo giám đốc

thẩm phải nộp tại Phòng lục sự của Tòa án và trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày có

đơn, ngƣời kháng cáo phải thông báo việc kháng cáo cho Viện công tố và các bên liên

quan. Sau khi hoàn tất hồ sơ, Phòng lục sự chuyển hồ sơ cho cơ quan Công tố cùng

cấp với Tòa phá án. Cơ quan công tố nghiên cứu rồi chuyển lại hồ sơ cho Phòng Lục

sự của Tòa phá án. Chánh án Tòa phá án sẽ ủy quyền cho một Thẩm phán làm báo cáo

để trình bày trƣớc HĐGĐT. Ngƣời kháng cáo giám đốc thẩm phải nộp một văn bản nêu rõ lý do kháng cáo, những điều luật bị vi phạm trong quá trình xét xử của Tòa án. Bản tƣờng trình này phải nộp trƣớc khi Thẩm phán đƣợc giao nhiệm vụ báo cáo vụ án với Chánh án Tòa phá án. Tại phiên họp xét lại bản án, quyết định đã có HLPL của

Tòa án, chủ tọa chỉ định một ngƣời trình bày báo cáo và văn bản của ngƣời kháng cáo giám đốc thẩm. Sau đó, Công tố viên trình bày các yêu cầu của Cơ quan Công tố. Kết thúc phần trình bày này, Hội đồng tiến hành nghị án. Các thành viên của Hội đồng đều phải nêu ý kiến của mình.

Tòa phá án là Tòa án cấp cao nhất trong hệ thống Tòa án của Cộng hòa Pháp.

58

Tòa pháp án có nhiệm vụ kiểm tra việc áp dụng pháp luật của các Tòa án cấp dƣới.

Đối với những bản án, quyết định đã có HLPL, nếu có kháng cáo, kháng nghị, Tòa phá

án sẽ kiểm tra lại bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị. Trƣờng hợp phát hiện

có vi phạm pháp luật, Tòa phá án có thể tuyên hủy bản án, quyết định đó và giao vụ án

cho một tòa án khác cùng cấp để xét xử lại. Tòa phá án chỉ xem xét việc áp dụng pháp luật mà không xem xét về nội dung vụ án. Tòa án không có thẩm quyền kháng nghị

giám đốc thẩm [166, tr.72].

Trong pháp luật của Cộng hòa Pháp, Tòa phá án là cơ quan duy nhất có thẩm

quyền giám đốc thẩm, tái thẩm. Sau phần nghị án, Hội đồng giám đốc thẩm có quyền

ra một trong các quyết định: không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm; đình chỉ việc xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm trong trƣờng hợp các bên rút kháng

cáo, kháng nghị, trừ khi Tòa phá án có quyết định khác; hủy bản án, quyết định có

HLPL của Tòa án và chuyển vụ án cho Tòa án, phòng điều tra có thẩm quyền để điều

tra hoặc xét xử lại; hủy quyết định của phòng điều tra, chuyển vụ án cho phòng điều tra có thẩm quyền để tiếp tục tiến hành các hoạt động tố tụng [9, Điều 605-610]. Trong

mọi trƣờng hợp vì lợi ích công hoặc lợi ích pháp luật, Tòa phá án có thể quyết định

hủy bỏ bản án có HLPL và quyết định này có hiệu lực đối với cả những ngƣời không

kháng cáo giám đốc thẩm. Tuy nhiên, khi xét xử lại, những ngƣời không kháng cáo

giám đốc thẩm mà liên quan đến quyết định của Tòa phá án có thể không bị áp dụng

hình phạt nặng hơn hình phạt đã đƣợc quyết định trong bản án bị hủy bỏ [9, Điều 612-

1].

Đối với việc lựa chọn Tòa án để xét xử lại, Tòa phá án có thể lựa chọn một Tòa

án phúc thẩm hoặc sơ thẩm để xét xử lại vụ án mà bản án đã bị hủy. Quyết định lựa

chọn này phải đƣợc đƣa ra ngay khi nghị án. Kết quả của việc lựa chọn Tòa án để xét

xử lại phải đƣợc nêu rõ trong quyết định giám đốc thẩm [9, Điều 613].

- Liên bang Nga

Chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm trong TTHS của Liên

bang Nga gồm: bị cáo hoặc ngƣời đại diện hợp pháp; Viện kiểm sát; nguyên đơn dân

sự, bị đơn dân sự hoặc ngƣời đại diện hợp pháp của họ (kháng cáo giám đốc thẩm đối với những vấn đề liên quan đến phần dân sự trong vụ án) [5, Điều 402]. Mặc dù BLTTHS Liên bang Nga quy định chủ thể có quyền kháng cáo giám đốc thẩm, nhƣng các kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm phải trải qua thủ tục “tiền giám đốc thẩm”. Giai đoạn này có thời hạn 30 ngày kể từ ngày Tòa án có thẩm quyền nhận đƣợc kháng cáo, kháng nghị. Đơn kháng cáo phải đƣợc gửi kèm theo bản sao bản án bị kháng cáo

hoặc kháng nghị phúc thẩm, bản sao của bản án phúc thẩm hoặc quyết định giám đốc

thẩm; các tài liệu tố tụng khác nếu cần thiết để chứng minh cho các lập luận trong đơn

kháng cáo [5, Điều 404]. Tòa án sau khi xem xét kháng cáo, kháng nghị có thể ra một

59

trong các quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị giám

đốc thẩm. Trƣờng hợp chấp nhận, Tòa án sẽ chuyển kháng cáo, kháng nghị cùng hồ sơ

vụ án đến Tòa án có thẩm quyền để xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL.

Chánh án Tòa án tối cao, Chánh án Tòa án khu vực hoặc vùng, Chánh án thành phố

trực thuộc liên bang, Chánh án Tòa án vùng hoặc khu tự trị có quyền hủy bỏ quyết định không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và ra quyết định chấp nhận kháng cáo,

kháng nghị để giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm [5, Điều 406].

Về căn cứ giám đốc thẩm, giống nhƣ pháp luật của Cộng hòa Pháp, luật TTHS

Liên bang Nga không quy định căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm mà quy định căn cứ

giám đốc thẩm. Các căn cứ cụ thể nhƣ sau:

+ Kết luận đƣợc nêu trong bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL không

phù hợp với những tình tiết thực tế của vụ án.

+ Tòa án đã vi phạm các quy định của luật TTHS trong xét xử nhƣ: tƣớc bỏ, hạn chế quyền của những ngƣời tham gia tố tụng; không đình chỉ vụ án khi có căn cứ

pháp luật; xét xử không có mặt bị cáo trừ trƣờng hợp pháp luật quy định; xét xử mà không có ngƣời bào chữa đối với những trƣờng hợp bắt buộc phải có ngƣời bào chữa;

không có phiên dịch; không cho bị cáo tranh luận; không cho bị cáo nói lời sau cùng;

làm lộ nội dung thảo luận của Bồi thẩm đoàn hoặc của Thẩm phán khi ra bản án;

không có biên bản phiên tòa.

+ Vi phạm các quy định của BLHS.

+ Không đảm bảo tính công bằng của bản án.

Thẩm quyền giám đốc thẩm đƣợc trao cho Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao nƣớc cộng hòa, Tòa án vùng hoặc khu vực, Tòa án thành phố trực thuộc liên bang, Tòa

án vùng hoặc khu vực tự trị; Ủy ban thẩm phán hình sự Tòa án tối cao liên bang; Hội

đồng Thẩm phán TAQS cấp vùng (hạm đội); Ủy ban thẩm phán quân sự Tòa án tối

cao liên bang; Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao Liên bang [5, Điều 403]. HĐGĐT

có quyền xem xét lại toàn bộ vụ án, không bị hạn chế trong nội dung kháng cáo, kháng

nghị nhƣng quyết định của HĐGĐT không đƣợc làm xấu đi tình trạng của ngƣời bị kết

án [5, Điều 430].

Tại phiên họp xét lại bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án, một thành viên trong HĐGĐT báo cáo nội dung vụ án, kháng cáo, kháng nghị, căn cứ chấp nhận kháng cáo, kháng nghị để giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm. Sau đó, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về kháng cáo, kháng nghị. Trƣờng hợp bị cáo hoặc ngƣời đại diện hợp pháp tham gia phiên tòa thì sau khi Kiểm sát viên phát biểu, những ngƣời này

có quyền trình bày quan điểm của mình [5, Điều 407]. Kết thúc phần phát biểu, Kiểm

sát viên và những ngƣời tham gia tố tụng rời khỏi phòng họp. HĐGĐT thảo luận và

đƣa ra một trong các quyết định: không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị giám đốc

60

thẩm và giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL; hủy bản án, quyết

định đã có HLPL và đình chỉ vụ án; hủy bán án, quyết định đã có HLPL để xét xử lại;

hủy bản án phúc thẩm để xét xử phúc thẩm lại; sửa bản án, quyết định đã có HLPL [5,

Điều 401.6]. Hội đồng giám đốc thẩm quyết định theo phƣơng thức bỏ phiếu. Quyết

định hủy hoặc sửa bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL phải đƣợc đa số thành viên thông qua, trƣờng hợp số phiếu tán thành và phản đối bằng nhau thì đƣợc coi là

không thông qua, trừ trƣờng hợp giảm hình phạt cho ngƣời bị kết án [5, Điều 407].

Căn cứ hủy bỏ hoặc sửa bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án theo thủ tục

giám đốc thẩm là những vi phạm nghiêm trọng TTHS và/hoặc luật hình sự, có ảnh

hƣởng đến kết quả giải quyết vụ án. Quyết định sửa bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL không đƣợc làm xấu đi tình trạng ban đầu của ngƣời bị kết án [5, Điều 408].

- Trung Quốc

Chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm trong pháp luật TTHS của Trung Quốc đƣợc chia làm 03 nhóm: (i) Đƣơng sự, ngƣời đại diện, ngƣời thân

thích của đƣơng sự có quyền kháng cáo giám đốc thẩm [6, Điều 241]; (ii) Viện kiểm

sát cấp trên có quyền kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án

cấp dƣới; VKSNDTC có quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án

các cấp [6, Điều 243]; (iii) Chánh án Tòa án các cấp nếu phát hiện bản án, quyết định

đã có HLPL của Tòa án mình đang phụ trách phải yêu cầu Ủy ban thẩm phán giải quyết;

Tòa án tối cao và Tòa án cấp trên có quyền xét xử lại hoặc yêu cầu Tòa án cấp dƣới xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp dƣới có vi phạm [6, Điều 243].

Về căn cứ xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL theo thủ tục giám

đốc thẩm, BTTHS Trung Quốc quy định nhƣ sau: có chứng cứ mới chứng minh sự

việc phạm tội theo nhận định của bản án, quyết định cũ là sai, ảnh hƣởng đến việc định

tội và hình phạt; chứng cứ buộc tội, quyết định hình phạt không chính xác, không đầy

đủ, phải bị loại trừ theo quy định của pháp luật, hoặc có sự mâu thuẫn giữa các chứng

cứ chính đƣợc sử dụng để chứng minh sự thật của vụ án; áp dụng sai pháp luật; vi

phạm thủ tục tố tụng, ảnh hƣởng đến việc xét xử công bằng; thẩm phán trong quá trình

thụ lý, xét xử vụ án có các hành vi tham nhũng, nhận hối lộ, thiếu trách nhiệm, ra phán quyết không dựa trên sự thật và quy định của pháp luật [6, Điều 242].

Đối với những bản án, quyết định có HLPL của Tòa án bị Viện kiểm sát kháng nghị, Tòa án tiếp nhận kháng nghị phải thành lập hội đồng để xem xét lại vụ án; nếu

trong bản án cũ, nhận định và phán quyết của Tòa án không rõ ràng hoặc không đủ chứng cứ thì Tòa án cấp trên có thể chỉ đạo Tòa án cấp dƣới xét xử lại [6, Điều 243].

61

Khi Tòa án cấp trên yêu cầu Tòa án cấp dƣới xét xử lại thì phải chỉ định một Tòa án khác với Tòa án đã ban hành bản án bị kháng nghị [6, Điều 244]. Trƣờng hợp Tòa án đã xét xử và ban hành hành bản án bị kháng nghị xét xử lại thì phải thành lập Hội đồng xét xử khác [6, Điều 245].

Đối với kháng cáo giám đốc thẩm, Tòa án phải thẩm tra kháng cáo, sau đó

quyết định xét xử lại (nếu có căn cứ) hoặc không chấp nhận kháng cáo (nếu không có

căn cứ). Quyết định này có thể bị khiếu nại lên Tòa án cấp trên. Trƣờng hợp hai cấp

Tòa án đã giải quyết kháng cáo giám đốc thẩm mà ngƣời kháng cáo vẫn tiếp tục đề nghị xem xét lại bản án, quyết định đã có HLPL nhƣng không đƣa ra đƣợc căn cứ mới

thì Tòa án không tiếp nhập, giải quyết yêu cầu mới này [34, tr.17].

Khi xét lại bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án, các chủ thể có thẩm

quyền giám đốc thẩm có thể ra một trong các quyết định: không chấp nhận kháng cáo

hoặc kháng nghị; sửa bản án, quyết định đã có HLPL trong trƣờng hợp bản án, quyết định xác định đúng sự thật khách quan của vụ án nhƣng việc áp dụng pháp luật chƣa

chính xác, hình phạt không tƣơng xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội;

hủy bản án, quyết định đã có HLPL để xét xử lại nếu xét thấy chứng cứ không rõ ràng,

đầy đủ; tuyên bị cáo không phạm tội. [34, tr.19]

Khi xem xét lại một bản án, quyết định có HLPL theo thủ tục giám đốc thẩm thì trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày rút hồ sơ vụ án của Tòa án cấp dƣới, Tòa án có

thẩm quyền giám đốc thẩm phải hoàn tất việc xem xét lại hoặc quyết định mở phiên

tòa mới để xét xử lại vụ án. Trƣờng hợp cần thiết cũng không đƣợc quá 06 tháng.

Tòa án tiếp nhận kháng nghị phải tiến hành việc xem xét lại bản án, quyết định

đã có HLPL theo thủ tục giám đốc thẩm trong thời hạn nhƣ trên. Trƣờng hợp Tòa án cấp trên chỉ thị cho Tòa án cấp dƣới tiến hành việc xem xét lại thì trong thời hạn 01

tháng kể từ khi nhận đƣợc kháng nghị, Tòa án cấp trên phải ra quyết định. Thời hạn

Tòa án cấp dƣới tiến hành việc xem xét lại bản án, quyết định bị kháng nghị theo thủ

tục giám đốc thẩm trong thời hạn nhƣ trên [6, Điều 247].

2.5.3. Kinh nghiệm lập pháp đối với Việt Nam

Mô hình giám đốc thẩm trong các thiết chế tƣ pháp hình sự quốc tế và tố tụng

hình sự của các quốc gia trên thế giới cơ bản đều có những điểm chung sau:

Thứ nhất, mặc dù truyền thống pháp luật khác nhau, cách thức xây dựng pháp

luật và sử dụng thuật ngữ khác nhau nhƣng các thiết chế tƣ pháp hình sự quốc tế và pháp luật TTHS của đa số các quốc gia trên thế giới đều quy định thủ tục xét lại các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án.

Thứ hai, khác với các quốc gia theo truyền thống pháp luật án lệ (Common

Law) chỉ có một thủ tục duy nhất để xét lại các bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, các quốc gia theo truyền thống luật dân sự (Civil Law) quy định hai thủ tục độc lập là giám đốc thẩm và tái thẩm. Hai thủ tục này tồn tại độc lập với nhau; căn cứ và thủ tục thi hành khác nhau.

Thứ ba, về kháng cáo/kháng nghị giám đốc thẩm, các thiết chế tƣ pháp hình sự quốc tế và đa số các quốc gia đều quy định ngoài cơ quan công tố có quyền kháng 62

nghị, ngƣời bị kết án, bị hại hoặc những ngƣời có quyền, nghĩa vụ liên quan đến bản

án, quyết định đã có HLPL của Tòa án có đều quyền kháng cáo giám đốc thẩm. Tuy

nhiên, phạm vi của kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm hẹp hơn so với kháng cáo/

kháng nghị phúc thẩm, chỉ đƣợc đề nghị Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm xem xét lại việc áp dụng pháp luật của Tòa án đã ban hành bản án, quyết định đã có HLPL.

Ngoài ra, không phải tất cả các kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm đều tự động dẫn

đến phiên họp của HĐGĐT. Các kháng cáo, kháng nghị này sẽ đƣợc tiếp nhận, nghiên

cứu theo một thủ tục “tiền giám đốc thẩm” trƣớc khi chuyển đến Tòa án có thẩm

quyền giám đốc thẩm. Những kháng cáo/ kháng nghị không đƣợc chấp nhận sẽ không

đƣợc Tòa án giám đốc thẩm xem xét. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm

liên quan đến lợi ích của các bên trong vụ án hình sự rất ngắn (trong pháp luật Cộng

hòa Pháp là 05 ngày, Liên bang Nga là 30 ngày kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có HLPL). Một số quốc gia thậm chí còn buộc ngƣời kháng cáo giám đốc thẩm

phải nộp một khoản phí khi tiếp nhận đơn kháng cáo (Hoa Kỳ).

Thứ tư, các thiết chế tƣ pháp hình sự quốc tế và pháp luật của đa số các quốc

gia đều không trao quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm cho Tòa án. Tòa án

có thẩm quyền giám đốc thẩm chỉ xét lại bản án, quyết định đã có HLPL khi có kháng

nghị của cơ quan công tố hoặc kháng cáo của ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Thứ năm, về căn cứ giám đốc thẩm (hoặc căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm), là các vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa

án. Vi phạm này bao gồm cả hình thức (các quy định của pháp luật TTHS) và nội dung

(các quy định của pháp luật hình sự).

Thứ sáu, về thẩm quyền giám đốc thẩm, do đối tƣợng đặc biệt của thủ tục giám

đốc thẩm là các bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, đƣợc pháp luật bảo vệ,

đảm bảo thi hành nên các đa số các quốc gia đều quy định thẩm quyền giám đốc thẩm

thuộc về Tòa án cấp cao nhất.

Đây là những kinh nghiệm quan trọng, có ý nghĩa đối với hoạt động xây dựng

và hoàn thiện các quy định pháp luật về giám đốc thẩm trong TTHS Việt Nam, cụ thể nhƣ sau: (1) tiếp tục khẳng định sự tồn tại tất yếu, khách quan của thủ tục giám đốc thẩm; (2) cần thiết phải quy định hai thủ tục độc lập để xem xét lại các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án là giám đốc thẩm và tái thẩm; (3) các căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm phải là các vi phạm nghiêm trọng; (4) nghiên cứu về việc thay đổi

63

các chủ thể có thẩm quyền kháng nghị/ kháng cáo giám đốc thẩm theo hƣớng trao quyền kháng cáo giám đốc thẩm cho những ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án và bỏ quyền kháng nghị giám đốc thẩm của Tòa án; (5) tập trung thẩm quyền giám đốc thẩm tại Tòa án tối cao; (6) kéo dài thời hạn giám đốc thẩm đối với các trƣờng hợp bảo vệ công lý hoặc vì lợi ích của pháp luật

(không làm bất lợi cho ngƣời bị kết án nhƣng đảm bảo pháp luật đƣợc áp dụng đúng

và thống nhất).

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Thông qua việc phân tích các quan điểm về giám đốc thẩm, những dấu hiệu đặc

trƣng của thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS gồm đối tƣợng, mục đích, cơ sở phát sinh, thẩm quyền và thủ tục giám đốc thẩm; so sánh thủ tục này với các thủ tục tố tụng

khác, có thể định nghĩa: Giám đốc thẩm trong TTHS là thủ tục tố tụng mà Tòa án có

thẩm quyền xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL nhƣng bị kháng nghị vì

phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án nhằm bảo đảm áp dụng pháp luật một cách đúng đắn và thống nhất.

Giám đốc thẩm trong TTHS có ý nghĩa to lớn trong việc đảm bảo pháp luật

đƣợc áp dụng đúng đắn, thống nhất; phát hiện và khắc phục những vi phạm pháp luật

nghiêm trọng trong bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án, góp phần bảo đảm

công bằng xã hội, pháp chế xã hội chủ nghĩa, củng cố niềm tin của nhân dân vào hoạt

động của các cơ quan tƣ pháp, tăng cƣờng uy tín của Nhà nƣớc. Cũng giống nhƣ các

thủ tục tố tụng khác, giám đốc thẩm trong TTHS có nhiều tiêu chí để đánh giá mức độ

hoàn thiện trong các quy định pháp luật. Bên cạnh đó, chất lƣợng của thủ tục giám đốc

thẩm cũng bị tác động bởi nhiều yếu tố nhƣ hệ thống pháp luật, tổ chức các cơ quan tƣ

pháp và trình độ, năng lực của các chủ thể có thẩm quyền giám đốc thẩm.

Thủ tục xem xét lại bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án đƣợc áp dụng

trong các mô hình tƣ pháp hình sự quốc tế và TTHS nhiều quốc gia trên thế giới. Tùy

thuộc vào truyền thống pháp pháp luật (Common Law hoặc Civil Law), điều kiện của

mỗi quốc gia mà các quy định về giám đốc thẩm trong TTHS có những điểm khác

nhau nhất định nhƣ: có những quốc gia chỉ có một thủ tục chung là xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, ngƣợc lại có những quốc gia phân chia thành hai thủ tục riêng biệt là giám đốc thẩm và tái thẩm. Về cơ bản, pháp luật TTHS của các quốc gia theo truyền thống luật dân sự (Civil Law), trong đó có Việt Nam có nhiều

64

điểm tƣơng đồng khi quy định về thủ tục giám đốc thẩm.

Chương 3

NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ GIÁM ĐỐC THẨM VÀ THỰC TRẠNG GIÁM ĐỐC THẨM

3.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về giám đốc thẩm

3.1.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về giám đốc thẩm từ năm 1945 đến trước

khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

3.1.1.1. Thời kỳ trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988

- Từ năm 1945 đến năm 1975:

Sau khi giành đƣợc độc lập, Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành

một số sắc lệnh quy định về tổ chức, hoạt động của các cơ quan tƣ pháp nhƣ: Sắc lệnh

số 33/SL ngày 13/9/1945 về thành lập TAQS; Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về

tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán; Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền của các Tòa án và sự phân công công việc trong Tòa án; Sắc lệnh số

85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tƣ pháp và luật tố tụng. Đặc điểm chung của các quy phạm này là mang tính cấp bách, phù hợp với hoàn cảnh thời chiến, chống kẻ

thù, bảo vệ chính quyền cách mạng nên các nguyên tắc dân chủ còn hạn chế [85,

tr.46]. Vì vậy, những văn bản pháp luật này đều không quy định việc xét lại các quyết

định hình sự đã có HLPL.

Năm 1953, trƣớc yêu cầu của cuộc kháng chiến và những lý do chính trị, ngoại

giao khác, Đảng và Nhà nƣớc đã thực hiện cải cách ruộng đất trong kháng chiến [127,

tr.147-149]. Ngày 12/4/1953, Tòa án đặc biệt đƣợc thành lập. Ngày 11/5/1953, Chính

phủ ban hành Nghị định số 264/TTg hƣớng dẫn về việc luận tội, hình phạt và về tổ

chức Tòa án đặc biệt ở cấp huyện. Tòa án đặc biệt gồm một Chánh án và sáu đến mƣời

Thẩm phán, với đa số thành phần bần cố nông tham gia. Tòa án này có quyền tuyên

phạt đến tù chung thân và xử tử hình [169, tr.50]. Trƣờng hợp chống án chỉ ở cấp Ủy

ban kháng chiến hành chính liên khu hoặc Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh. Các quy định thủ tục pháp lý quá đơn giản trong xét xử, thi hành án là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc kết án oan, sai. Hậu quả là có rất nhiều đơn yêu cầu, khiếu nại xin minh xét những điều oan ức trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức.

Để khắc phục, sửa chữa sai lầm, Đảng và Nhà nƣớc đã ban hành các Chỉ thị số

43/CT-TƢ tháng 7/1956 và Chỉ thị số 46/CT-TƢ ngày 02/9/1956 về việc trả tự do cho

các cán bộ, Đảng viên và tất cả những ngƣời ngoài Đảng bị xử lý oan trong phát động quần chúng giảm tô, cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức [17, tr.15]. Tuy nhiên,

trên thực tế “kết quả sửa sai còn hạn chế, công tác trả tự do kéo dài và chƣa chu đáo,

65

còn lầm lẫn giữa trả tự do và khoan hồng, ân xá. Khi đƣa đƣợc ngƣời trả tự do về xã, nhiều nơi không làm đúng thủ tục minh oan vì vậy có ngƣời tuy đƣợc trả tự do nhƣng

vẫn bị thành kiến, thậm chí có ngƣời phải chết đói” [18, tr.14] do các bản án vẫn còn

HLPL. Trƣớc tình hình đó, Chính phủ đã giao cho Bộ Tƣ pháp nghiên cứu và ban

hành Thông tƣ số 312 ngày 12/02/1958 yêu cầu các cấp Tòa án phải xem xét giải

quyết khiếu nại, có kế hoạch khắc phục sai lầm trong bản án đã xét xử [51, tr.15].

Tại Hội nghị tƣ pháp toàn quốc tháng 11/1958, các đại biểu Tòa án các cấp đã

nêu ra nhiều vụ án xét xử sai, kết án oan ngƣời vô tội và đề ra yêu cầu phải có biện

pháp, thủ tục để sửa chữa, khắc phục. Sau hội nghị, Bộ Tƣ pháp và TANDTC đã thống

nhất ban hành thông tƣ số 002-TT ngày 13/01/1959 về thủ tục xử lại và Thông tƣ số

04-TT ngày 03/02/1959 về thủ tục xét lại những vụ án hình sự đã có HLPL, nay thấy xử không đúng, can phạm hiện còn đang bị giam. Đây là những quy định đầu tiên về

việc xét lại các bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL. Tuy nhiên, đối tƣợng của

các Thông tƣ này còn rất hạn chế, chỉ bao gồm các trƣờng hợp xử oan mà can phạm

vẫn đang bị giam; tội nhẹ xử nặng và tội nặng xử nhẹ [136, tr.711]. Thẩm quyền xét lại các vụ án đã có hiệu lực pháp luật chỉ tập trung vào TANDTC. Khi xét lại, TANDTC

có thể giữ nguyên bản án, tiêu án đối với từng phần hoặc toàn bộ vụ án để xét xử lại.

Quy định về việc xét lại các bản án, quyết định đã có HLPL thời kỳ này không có sự

phân biệt giám đốc thẩm và tái thẩm. Các căn cứ để xét lại cũng rất hạn chế, không

phân biệt sai lầm về luật nội dung hay hình thức. Thủ tục xét lại cũng rất đơn giản, có

những thủ tục còn mang tính hành chính.

Ngày 31/12/1959, Quốc hội thông qua Hiến pháp mới, trong đó hệ thống tổ

chức của Viện kiểm sát và Tòa án có sự thay đổi, độc lập với Hội đồng Chính phủ và

chịu trách nhiệm báo cáo trƣớc cơ quan quyền lực nhà nƣớc. Quốc hội cũng thông qua

Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức VKSND, tiếp tục ghi nhận thủ tục xét lại các bản

án, quyết định của Tòa án đã có HLPL nhƣng phát hiện có sai lầm; quy định cụ thể về

thẩm quyền kháng nghị và thẩm quyền xét lại. Trên cơ sở các đạo luật trên, TANDTC cũng đã ban hành một số văn bản pháp luật nhằm hƣớng dẫn, thống nhất thực hiện

việc xét lại các bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL nhƣng phát hiện có sai lầm

nhƣ: Thông tƣ Thông tƣ số 2397-TC ngày 22/01/1961 hƣớng dẫn thi hành những quy định của Luật tổ chức TAND năm 1960 và Pháp lệnh ngày 23/6/1961 về tổ chức nội bộ của các TAND địa phƣơng; Thông tƣ số 06 ngày 23/7/1964 giải thích thêm về trình tự giám đốc thẩm; Thông tƣ số 146 ngày 08/3/1968 quy định việc TAND các cấp gửi

các quyết định và bản án có HLPL lên TANDTC; Công văn 1644-NCPL ngày 02/10/1963 về thủ tục giam giữ can phạm trong trƣờng hợp án bị tiêu và thông tƣ số 6- TC ngày 23/7/1964 của TANDTC giải thích thêm về trình tự giám đốc xét xử [137, tr.12].

- Thời kỳ từ năm 1976 đến trƣớc khi ban hành BLTTHS năm 1988:

Sau khi giải phóng miền Nam, thể chế chính trị và tổ chức hành chính giữa hai

66

miền vẫn chƣa đƣợc thống nhất. Tại miền Nam, hệ thống Tòa án, Viện kiểm sát đƣợc

tổ chức riêng theo Sắc lệnh số 01-SL-76 ngày 15/3/1976. Quy định về xem xét lại các

bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL đƣợc quy định cụ thể nhƣ sau: TAND phúc

thẩm có quyền xét xử lại các bản án, quyết định đã có HLPL nhƣng phát hiện có vi

phạm. Khi xét xử lại các bản án và quyết định đã có HLPL nhƣng phát hiện có sai lầm, Hội đồng xử án của TAND phúc thẩm gồm 3 hoặc 5 thẩm phán [138, tr.7-9].

Việc áp dụng thống nhất pháp luật trong cả nƣớc đƣợc thực hiện trên cơ sở

Nghị quyết ngày 02/7/1976 của Quốc hội khóa VI, kỳ họp thứ nhất: những văn bản

pháp luật hiện hành ở cả hai miền đều đƣợc áp dụng chung trong cả nƣớc vì đều xuất

phát từ đƣờng lối chính sách của Đảng nhƣng phải xem xét vận dụng vào tình hình đặc điểm của từng miền cho phù hợp [138, tr.5]. Từ thời điểm này, việc xét lại bản án và

quyết định có HLPL áp dụng một thủ tục chung duy nhất là giám đốc thẩm.

Ngày 18/12/1980, Hiến pháp năm 1980 đƣợc ban hành. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, ngày 03/7/1980 và ngày 04/7/1980, Quốc hội đã thông qua Luật tổ

chức TAND và Luật tổ chức VKSND. Ngày 01/02/1982, TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tƣ pháp đã ban hành Thông tƣ số 01/TT-LB hƣớng dẫn thủ tục giám đốc thẩm ở

TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng. Các quy định về thẩm quyền và thủ

tục tố tụng đã phát triển thêm một bƣớc, hoàn thiện hơn để phù hợp với điều kiện và

hoàn cảnh mới. Những thay đổi, bổ sung cơ bản về thủ tục giám đốc thẩm trong thời

kỳ này là: (1) lần đầu tiên có sự phân biệt giữa thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái

thẩm; (2) thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm và thẩm quyền giám đốc thẩm đã

đƣợc mở rộng thêm TAND cấp tỉnh, VKSND cấp tỉnh, TAQS cấp quân khu và VKS

quân sự cấp quân khu.

3.1.1.2. Thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đến trước khi

ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

Đại hội Đảng lần thứ VI tháng 12/1986 đã đánh dấu một bƣớc phát triển mới về

kinh tế, xã hội. Bên cạnh những thành tự đã đạt đƣợc là sự xuất hiện của những quan

hệ pháp luật mới, tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, còn nhiều vi phạm pháp luật

trong TTHS dẫn đến tình trạng oan sai, vi phạm quyền và lợi ích của ngƣời dân trong điều tra, truy tố, xét xử [125, tr.146]. Trong khi đó, những văn bản pháp luật TTHS hiện hành thiếu tính toàn diện, đồng bộ và không đáp ứng đƣợc yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Ngoài ra, BLHS đƣợc ban hành năm 1985 đòi hỏi phải có một hệ thống quy phạm pháp luật TTHS đầy đủ, thống nhất, tƣơng xứng nhằm thực hiện tốt các quy định của BLHS.

BLTTHS năm 1988 đã đánh dấu sự phát triển lớn của pháp luật TTHS, lần đầu

67

tiên các quy phạm pháp luật về giám đốc thẩm đƣợc pháp điển hóa và quy định chi tiết từ Điều 241 đến Điều 259, cơ bản đáp ứng đƣợc yêu cầu thực tiễn trong thời kỳ mới. Ngoài việc kế thừa kinh nghiệm lập pháp, giữ nguyên một số quy định cơ bản về giám

đốc thẩm nhƣ tính chất của giám đốc thẩm, phân biệt hai thủ tục giám đốc thẩm và tái

thẩm, thẩm quyền kháng nghị, thẩm quyền giám đốc thẩm, BLTTHS năm 1988 còn bổ

sung một số nội dung nhƣ căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm; việc phát hiện bản án,

quyết định đã có HLPL của Tòa án cần phải xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm; thủ tục và thời hạn kháng nghị; phạm vi giám đốc thẩm; các loại quyết định của

HĐGĐT và hiệu lực của quyết định giám đốc thẩm.

Ngày 30/6/1990, BLTTHS năm 1988 đƣợc sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất đã bổ

sung quy định về kháng nghị phần dân sự trong vụ án hình sự, triệu tập những ngƣời

có liên quan đến kháng nghị tham gia phiên tòa giám đốc thẩm. Ngày 22/12/1992, BLTTHS năm 1988 sửa đổi bổ sung lần thứ 2 bổ sung quy định về tạm giam bị cáo

trong trƣờng hợp hủy bản án, quyết định bị kháng nghị để điều tra, xét xử lại mà xét

thấy việc tiếp tục tạm giam bị cáo là cần thiết. Ngày 09/6/2000, BLTTHS sửa đổi lần

thứ 3 đã sửa các quy định về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, thẩm quyền giám đốc thẩm và thành phần HĐGĐT để phù hợp với Luật tổ chức TAND, Luật tổ chức

VKSND, pháp lệnh tổ chức TAQS và Pháp lệnh tổ chức VKS quân sự.

3.1.1.3. Thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đến trước khi

ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

BLTTHS năm 1988 đƣợc xây dựng từ năm 1974 nên không thể tránh khỏi ảnh

hƣởng của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, có nhiều điểm không phù hợp với điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu đấu

tranh phòng chống tội phạm trong thời kỳ mới [125, tr.203]. Để thể chế hóa chủ

trƣơng của Đảng về cải cái tƣ pháp, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các văn bản

pháp luật mới đƣợc ban hành, Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ tƣ đã thông qua BLTTHS

năm 2003, trong đó thủ tục giám đốc thẩm đƣợc quy định gồm 18 điều, từ Điều 272 đến

Điều 289. So với BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 chỉ giữ nguyên 4 điều, bỏ

một điều, các điều luật còn lại đều đƣợc sửa đổi, bổ sung [81, tr.53].

Tổng kết thực tiễn thi hành đã khẳng định vai trò quan trọng của BLTTHS năm

2003 trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trƣờng ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 cũng bộc lộ những vƣớng mắc, bất cập, trong đó các quy định về thủ tục giám đốc thẩm đƣợc đánh giá nhƣ sau: căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm thiếu chặt chẽ đang là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến kháng nghị giám đốc thẩm

còn nhiều nhƣ hiện nay [153, tr.2].

68

Yêu cầu cải cách tƣ pháp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm đƣợc Đảng và Nhà nƣớc đặt ra, thông qua Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận số

79-KL/TW ngày 28/7/2010, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị;

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần X, XI của Đảng.

Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng ta về tôn trọng,

bảo vệ, bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân, bổ sung nhiều nguyên tắc tƣ pháp tiến bộ, bổ sung và làm rõ hơn nhiệm vụ của Tòa án và Viện kiểm sát khi thực hiện

chức năng Hiến định. Ngoài ra, Quốc hội đã ban hành nhiều đạo luật liên quan đến

TTHS nhƣ: Luật tổ chức VKSND, Luật tổ chức TAND, Luật Luật sƣ, Luật Trợ giúp

pháp lý, Luật thi hành án hình sự... Đồng thời, trong quan hệ hợp tác song phƣơng với

các quốc gia, nhiều Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp về hình sự, dẫn độ, chuyển giao ngƣời đang chấp hành hình phạt tù với các nƣớc trên thế giới đã đƣợc đàm phán và ký kết.

Trong khi đó, nhiều quy định của BLTTHS mới dừng ở những quy định chung.

Trƣớc đòi hỏi của việc thực tiễn, yêu cầu thể chế hóa những quan điểm, chỉ đạo của Đảng về cải cách tƣ pháp, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 và phù

hợp với các Luật, Hiệp định quốc tế, tại kỳ họp thứ 10 ngày 27/11/2015, Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLTTHS năm 2015. Trong đó, thủ tục giám đốc thẩm đƣợc quy định

tại Chƣơng XXV gồm 27 điều, từ Điều 270 đến Điều 296.

3.1.2. Những quy định về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong Bộ luật tố

tụng hình sự năm 2015

3.1.2.1. Đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm

Đối tƣợng của kháng nghị giám đốc thẩm đƣợc xác định tại Điều 370 BLTTHS

năm 2015 quy định về tính chất của giám đốc thẩm là “xét lại bản án, quyết định của Tòa

án đã có HLPL nhƣng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong

việc giải quyết vụ án”. Các bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL bao gồm:

- Bản án, quyết định và những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án

không bị kháng cáo, kháng nghị (Điều 343 BLTTHS năm 2015);

- Toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị nhƣng ngƣời

kháng cáo và Viện kiểm sát kháng nghị rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị và Toà án

cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm [23, điểm a tiểu mục 7.2 Mục 7]; - Trong trƣờng hợp ngƣời kháng cáo rút một phần trong kháng cáo của mình hoặc có nhiều ngƣời kháng cáo, nhƣng có ngƣời rút kháng cáo, có ngƣời không rút kháng cáo, Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị trong kháng nghị của mình, nếu

Toà án cấp phúc thẩm không xem xét các phần có kháng cáo, kháng nghị đã bị rút; thì những phần của bản án, quyết định sơ thẩm có HLPL kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị [23, điểm a tiểu mục 7.2 Mục 7];

- Bản án phúc thẩm, quyết định phúc thẩm có HLPL kể từ ngày tuyên án, ra

69

quyết định (Khoản 2 Điều 355; khoản 2 Điều 361 BLTTHS năm 2015);

- Quyết định tạm đình chỉ vụ án, Quyết định đình chỉ vụ án của Thẩm phán chủ

tọa phiên tòa; Quyết định áp dụng, đình chỉ biện pháp bắt buộc chữa bệnh của Chánh

án, Phó Chánh án Tòa án nếu không bị kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm (khoản 2

Điều 330 và khoản 2 Điều 453 BLTTHS năm 2015).

Tuy nhiên, không phải tất cả các quyết định của Tòa án có HLPL đều trở thành

đối tƣợng của giám đốc thẩm. Theo pháp luật TTHS Việt Nam, quyết định của Hội

đồng Thẩm phán TANDTC không bị kháng nghị giám đốc thẩm. BLTTHS năm 2015

mặc dù không quy định nhƣng đối tƣợng của kháng nghị giám đốc thẩm lại bị giới hạn

bởi Luật tổ chức TAND. Khoản 4 Điều 22 Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định: “quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC là quyết định

cao nhất, không bị kháng nghị.”

3.1.2.2. Phát hiện bản án, quyết định có HLPL của Tòa án cần phải xem xét lại

theo thủ tục giám đốc thẩm

Kế thừa quy định từ các BLTTHS trƣớc đây, BLTTHS năm 2015 cũng không

hạn chế các chủ thể có quyền phát hiện vi phạm pháp luật trong các bản án, quyết định

của Tòa án và thông báo cho những ngƣời có thẩm quyền nhằm đảm bảo việc kiểm tra,

giám sát cao nhất, rộng nhất, đầy đủ các thành phần xã hội đối với hoạt động của các

cơ quan tƣ pháp nói chung và hoạt động xét xử của Tòa án nói riêng. Khoản 1 Điều

372 BLTTHS năm 2015 quy định: “ngƣời bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân có quyền phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL

và thông báo cho ngƣời có thẩm quyền kháng nghị”.

Việc phát hiện bản án, quyết định có HLPL của Tòa án cần phải xem xét lại

theo thủ tục giám đốc thẩm có những điểm tƣơng đồng với hoạt động khiếu nại, tố cáo

trong TTHS. Hai hoạt động này phát sinh khi cá nhân, tổ chức không đồng tình với

quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, hành vi của ngƣời tiến hành tố tụng trên

cơ sở cho rằng quyết định, hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố

tụng là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời khiếu nại hoặc

của ngƣời khác. Tuy nhiên, nếu nhƣ đối tƣợng của khiếu nại, tố cáo trong TTHS có thể là các quyết định do cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng ban hành, áp dụng hoặc các hành vi tố tụng nhƣ hỏi cung, lấy lời khai, khám nhà, khám ngƣời... thì đối tƣợng của việc phát hiện vi phạm trong các bản án, quyết định của Tòa án và đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm có phạm vi hẹp hơn, chỉ là các bản án, quyết định có HLPL của Tòa án. Ngƣợc lại, nếu nhƣ chủ thể có quyền khiếu nại chỉ là cá nhân, tổ

chức có quyền và lợi ích hợp pháp bị tác động bởi quyết định, hành vi của cơ quan tiến

hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng; chủ thể có quyền tố cáo chỉ là cá nhân thì chủ

thể có quyền phát hiện bản án, quyết định có HLPL của Tòa án có vi phạm pháp luật

70

rộng hơn rất nhiều, có thể là bất kỳ ai, bất kỳ cơ quan, tổ chức nào.

Hình thức thông báo cho ngƣời có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm cũng

rất đa dạng và phong phú. Điều 374 BLTTHS năm 2015 quy định: “khi phát hiện vi

phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL thì ngƣời bị kết án,

cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo bằng văn bản hoặc trình bày trực tiếp với ngƣời có thẩm quyền kháng nghị hoặc với Tòa án, Viện kiểm sát nơi gần nhất kèm theo

chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có)”. Ngoài thông báo bằng văn bản và trình bày trực

tiếp, trên thực tế còn có những hình thức khác nhƣ: thông qua các phƣơng tiện thông

tin đại chúng (báo, đài, truyền hình...), thông qua các cơ quan Đảng, Nhà nƣớc khác…

So với các BLTTHS trƣớc đây, BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể về nội dung và hình thức của văn bản đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm. Theo đó, văn bản

này gồm các nội dung chính là: ngày, tháng, năm; tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá

nhân thông báo; bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL bị phát hiện có vi phạm

pháp luật; nội dung vi phạm pháp luật đƣợc phát hiện; kiến nghị ngƣời có thẩm quyền xem xét kháng nghị. Ngƣời thông báo là cá nhân thì phải ký tên hoặc điểm chỉ; trƣờng

hợp là cơ quan, tổ chức thì ngƣời đại diện phải ký tên và đóng dấu. Thực tiễn công tác

giải quyết đề nghị, yêu cầu kháng nghị giám đốc thẩm cho thấy, có nhiều trƣờng hợp

các văn bản này không có những thông tin cơ bản nhƣ số bản án, quyết định của Tòa

án đã có HLPL, dẫn đến việc cơ quan có thẩm quyền giải quyết không có căn cứ để

yêu cầu chuyển hồ sơ vụ án, phải thông báo, đề nghị cung cấp thêm thông tin để xem

xét giải quyết. Quá trình tiếp nhận, nghiên cứu văn bản đề nghị, thông báo qua lại tốn

nhiều thời gian mà hiệu quả đạt đƣợc lại rất thấp.

BLTTHS năm 2015 cũng quy định cụ thể hơn nhiệm vụ của Tòa án và Viện

kiểm sát trong việc kiểm tra các bản án, quyết định của Tòa án cấp dƣới, kịp thời phát

hiện vi phạm để thông báo cho ngƣời có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm. Quy

định này nhằm “làm rõ trách nhiệm của Tòa án, Viện kiểm sát trong công tác giám đốc, kiểm sát việc xét xử” [141, tr.27]. Đây vừa là quyền, vừa là nhiệm vụ của Tòa án

và Viện kiểm sát. Tòa án cấp trên phát hiện vi phạm trong các bản án, quyết định của

cấp dƣới thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo. Viện kiểm sát phát hiện vi phạm thông qua chức năng kiểm sát các hoạt động tƣ pháp và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Thực tiễn cho thấy hoạt động phát hiện vi phạm trong các bản án, quyết định có HLPL của Tòa án dƣới hình thức thông báo của cá

nhân, các cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức xã hội “hiệu quả không cao bằng hoạt động phát hiện của chính Tòa án và Viện kiểm sát” [92, tr.14], “hình thức trực tiếp kiểm tra để phát hiện vi phạm pháp luật tỏ ra khá hiệu quả” [37, tr.337].

71

Ngoài ra, vi phạm trong bản án, quyết định có HLPL của Tòa án còn có thể đƣợc phát hiện thông qua thủ tục xem xét bản án tử hình trƣớc khi thi hành. Vì liên quan đến tính mạng của ngƣời bị kết án nên thủ tục xem xét lại các bản án, quyết định

này là rất chặt chẽ, thận trọng. Ngay sau khi bản án tử hình có HLPL, hồ sơ vụ án phải

đƣợc gửi ngay cho TANDTC và bản án phải đƣợc gửi ngay cho VKSNDTC. Sau khi

TANDTC quyết định kháng nghị hoặc không kháng nghị, hồ sơ vụ án phải chuyển cho

VKSNDTC. Khác với việc thanh tra, kiểm tra trong ngành Tòa án, hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát hay đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm của cá nhân, tổ chức, thủ tục

xem xét bản án tử hình trƣớc khi thi hành là nhiệm vụ của TANDTC và VKSNDTC.

Việc gửi bản án, hồ sơ vụ án đến các cơ quan này là bắt buộc, không cần yêu cầu rút

hồ sơ. Kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án phải đƣợc thể hiện bằng quyết định tố tụng là

quyết định không kháng nghị hoặc kháng nghị giám đốc thẩm (hoặc tái thẩm). Thực

tiễn công tác xem xét bản án tử hình trƣớc khi thi hành cho thấy, đã có trƣờng hợp

Chánh án TANDTC quyết định kháng nghị giám đốc thẩm [Phụ lục 14], có trƣờng hợp

sau khi Chánh án TANDTC ban hành quyết định không kháng nghị, Viện trƣởng VKSNDTC lại quyết định kháng nghị giám đốc thẩm. Có trƣờng hợp, sau khi Chủ tịch

nƣớc quyết định bác đơn xin ân giảm hình phạt tử hình của ngƣời bị kết án, Viện

trƣởng VKSNDTC lại đề nghị Chủ tịch nƣớc tạm hoãn việc thi hành án và quyết định

kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án tử hình [Phụ lục 17].

3.1.2.3. Căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

So với các BLTTHS trƣớc đây, số lƣợng căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám

đốc thẩm quy định tại Điều 371 BLTTHS năm 2015 đã đƣợc rút gọn và hoàn thiện

hơn. Tuy nhiên, cũng giống nhƣ các BLTTHS trƣớc, các căn cứ này vẫn chƣa đƣợc

giải thích, hƣớng dẫn cụ thể. Các bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL bị kháng

nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong ba căn cứ sau:

Thứ nhất, kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với

những tình tiết khách quan của vụ án.

BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể chủ thể của các bản án, quyết định bị

kháng nghị giám đốc thẩm là Tòa án. Quy định mới không làm thay đổi nội dung của

căn cứ nhƣng là cần thiết để xác định cụ thể đối tƣợng của kháng nghị giám đốc thẩm

phải là các bản án, quyết định của Tòa án.

Sự kiện phạm tội và các tình tiết của vụ án tồn tại khách quan và không bao giờ mất đi tính khách quan, độc lập với ý thức chủ quan của con ngƣời. Quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án, nếu các cơ quan tiến hành tố tụng nhận thức đúng, đầy

đủ sự việc thì nhận thức đó mang tính khách quan. Trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu đã đƣợc thu thập trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Tòa án sẽ xem xét, đánh giá tính hợp pháp của các chứng cứ này dƣới góc độ pháp lý TTHS và áp dụng pháp

72

luật hình sự để xác định có hay không hành vi phạm tội, ai là ngƣời thực hiện hành vi phạm tội; quyết định tội danh, mức hình phạt mức hình phạt tƣơng xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và giải quyết các nội dung khác liên quan đến vụ án.

Trƣờng hợp pháp luật có sự thay đổi (có thể là xóa bỏ, tăng nặng hay giảm nhẹ) thì sự

thật của vụ án vẫn không mất đi tính khách quan mà chỉ là việc đánh giá những tình

tiết đó theo tiêu chí mới về chính trị - xã hội và pháp luật hình sự [118, tr.1-9]. Trong

TTHS, nếu nhƣ coi quá trình xác định sự thật của vụ án là quá trình nhận thức thì chân lý đƣợc phản ánh đầy đủ trong bản án, quyết định của Tòa án.

“Kết luận trong bản án hoặc quyết định của Tòa án không phù hợp với những

tình tiết khách quan của vụ án” là trƣờng hợp Hội đồng xét xử đƣa ra những kết luận

không đúng với những gì có thật đã xảy ra, không phù hợp với các chứng cứ, tài liệu

có trong hồ sơ vụ án đã đƣợc kiểm tra tại phiên tòa. Kết luận của Tòa án đƣợc thể hiện trong bản án, quyết định có HLPL bao gồm: nội dung vụ án; các chứng cứ, tài liệu

đƣợc sử dụng để chứng minh tội phạm; quan điểm, nhận định, đánh giá về hành vi

phạm tội, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân ngƣời phạm tội; quyết định về tội

danh, hình phạt, trách nhiệm dân sự, án phí… Trong một bản án, sự thật khách quan của vụ án đƣợc Tòa án tóm tắt một cách đầy đủ, chính xác, khách quan thể hiện trong

phần nội dung vụ án. Phần nhận định thể hiện quan điểm, thái độ của Hội đồng xét xử

đối với tội phạm, ngƣời phạm tội và các vấn đề khác nhƣ xử lý vật chứng, trách nhiệm

bồi thƣờng, các nội dung trong kháng cáo, kháng nghị (trong bản án phúc thẩm)…

Đây là phần quan trọng nhất của một bản án, đƣợc xây dựng trên cơ sở nội dung vụ án,

căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đƣợc tranh tụng tại phiên tòa. Trong phần

này, trƣớc hết Tòa án xem xét, đánh giá về tính khách quan, tính liên quan và tính hợp

pháp của tất cả các chứng cứ, tài liệu đƣợc thu thập trong toàn bộ quá trình giải quyết

vụ án; phân loại chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định không có tội; sử dụng

các chứng cứ tài liệu để chứng minh có hay không hành vi phạm tội, nếu bị cáo có tội

thì là tội gì, theo điểm, khoản, điều nào của BLHS; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự; phân tích lý do chấp nhận hay không chấp nhận các chứng cứ

buộc tội, chứng cứ gỡ tội, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo và những ngƣời

tham gia tố tụng khác; phân tích tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của

Điều tra viên, Kiểm sát viên, ngƣời bào chữa (nếu có) trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; căn cứ để chấp nhận hay không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị (trong bản án phúc thẩm). Kết luận cuối cùng của bản án là phần quyết định. Tòa án căn cứ vào những nhận định đã nêu để quyết định từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án.

73

Các kết luận của Tòa án phải căn cứ vào chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã đƣợc kiểm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng. “Kết luận trong bản án hoặc quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án” có thể xuất phát từ lỗi của Hội đồng xét xử. Đó là trƣờng hợp mặc dù các chứng cứ xác định bị cáo có tội đã đầy đủ, hợp pháp nhƣng Hội đồng xét xử đánh giá không đúng, dẫn đến xác định sai tội danh, khung hình phạt... Ví dụ, có đủ căn cứ để kết luận bị cáo phạm

tội “Giết ngƣời” theo khoản 1 Điều 123 BLHS nhƣng Tòa án lại áp dụng khoản 2 để

quyết định hình phạt đối với bị cáo. Ngoài ra, trƣờng hợp Hội đồng xét xử trích dẫn,

sử dụng chứng cứ là các kết luận không phải của Tòa án để giải quyết vụ án, nếu các

kết luận này không hợp pháp thì vẫn phải coi là kết luận của Tòa án không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án. Ví dụ trong vụ án xâm phạm về tài sản, ngƣời

định giá tài sản là ngƣời thân thích của bị hại/ bị hại. Khi xét xử, Tòa án không phát

hiện ra và sử dụng kết luận này để quyết định trách nhiệm hình sự và trách nhiệm bồi

thƣờng thiệt hại là không phù hợp với các tình tiết khách quan.

Xét về bản chất, kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với tình tiết khách quan là những sai lầm về nội dung trong đó, các cơ quan tiến hành

tố tụng đã vi phạm pháp luật trong hoạt động chứng minh tội phạm; quá trình giải

quyết vụ án không đảm bảo tính hợp pháp, bị tác động bởi yếu tố chủ quan dẫn đến

bản án, quyết định của Tòa án có sai lầm trong việc xác định sự thật của vụ án.

Thứ hai, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử

dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.

BLTTHS năm 2015 đã đƣa căn cứ “việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện

hoặc không đầy đủ” quy định tại khoản 1 Điều 273 BLTTHS năm 2003 vào một trong

các vi phạm về thủ tục tố tụng mà không tách thành một căn cứ độc lập. Thay đổi này

là hợp lý bởi vì về bản chất, điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong xét xử. Ngoài ra, theo quy định mới,

những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng phải “dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong

việc giải quyết vụ án”, nhấn mạnh về hậu quả của các vi phạm trong quá trình giải

quyết vụ án. Sự thay đổi này đƣợc đánh giá là “đã giải quyết đƣợc tranh luận thế nào

là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; đồng thời loại trừ đƣợc tình trạng kháng nghị

tràn lan trong thực tiễn, ảnh hƣởng đến tính ổn định của bản án, quyết định của Tòa án

đã có HLPL” [37, tr. 336].

Theo điểm o khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015, “vi phạm nghiêm trọng thủ

tục tố tụng là việc cơ quan, ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hƣởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án.” Đây là lần đầu tiên BLTTHS giải thích thuật ngữ “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng”. Tuy nhiên, quy định này chƣa đủ rõ ràng

vì thuật ngữ “vi phạm nghiêm trọng” đƣợc giải thích bằng cách sử dụng một thuật ngữ

tƣơng tự khác là “xâm hại nghiêm trọng”.

74

“Xâm hại nghiêm trọng” đƣợc giải thích là: “làm ảnh hƣởng trực tiếp đến quyền và lợi ích chính đáng của ngƣời tham gia tố tụng, có thể gây ra cho họ thiệt hại về vật

chất, tinh thần” [25, khoản 1 Điều 2]. Cách giải thích này trong một số trƣờng hợp chỉ

phù hợp với việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Ví dụ, trƣờng hợp lệnh, quyết định của

Cơ quan điều tra phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, nhƣng không có phê chuẩn

hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền (điểm a khoản 1 Điều 6) là căn cứ để Viện kiểm sát, Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhƣng vi phạm này

không phải là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có nhiều loại vi phạm thủ tục TTHS

khác nhau, tính chất, mức độ của các vi phạm cũng không giống nhau. Trong số này,

có những vi phạm xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời tham gia tố tụng nhƣng không phải là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Chẳng hạn những vi phạm nhƣ quá hạn tạm giữ, tạm giam, quá hạn điều tra, truy tố,

xét xử… rõ ràng là “nghiêm trọng” và có thể phát hiện trong hồ sơ vụ án. Tuy nhiên,

những vi phạm này dù có bị giám đốc thẩm cũng không có khả năng khắc phục. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm ngoài việc thỏa mãn điều kiện phải là “vi

phạm nghiêm trọng thủ tục TTHS” còn phải có khả năng khắc phục sau khi bị giám

đốc thẩm. Ngoài ra, những “vi phạm nghiêm trọng” trong quá trình khởi tố, điều tra,

truy tố sẽ không trở thành căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm nếu nhƣ trƣớc khi Tòa

án ban hành bản án, quyết định có HLPL đƣợc phát hiện và khắc phục. Chỉ khi những

“vi phạm nghiêm trọng” không bị phát hiện hoặc phát hiện ra nhƣng không khắc phục

mà lại đƣợc Tòa án sử dụng để ra bản án, quyết định có HLPL thì những “vi phạm

nghiêm trọng” này mới trở thành căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm. Thực tiễn công

tác giám đốc thẩm cho thấy việc đánh giá thế nào là “vi phạm nghiêm trọng” phụ

thuộc rất nhiều vào trình độ, kinh nghiệm, đạo đức nghề nghiệp của chủ thể có thẩm

quyền kháng nghị và chủ thể có thẩm quyền giám đốc thẩm. Những vi phạm thủ tục tố

tụng là căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm chủ yếu thuộc các trƣờng hợp sau:

a. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra

Những thiếu sót, vi phạm trong quá trình khởi tố, điều tra có nhiều “cơ hội” để

khắc phục trong giai đoạn truy tố, xét xử, thông qua việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc quyết định hủy bản án sơ thẩm chƣa có HLPL để điều tra lại. Vi phạm nghiêm trọng trong giai đoạn này chủ yếu thuộc các trƣờng hợp: khởi tố vụ án không có căn cứ (chủ yếu thuộc trƣờng hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại hoặc ngƣời

75

đại diện của bị hại); vi phạm quy định về nhập, tách vụ án hình sự để điều tra; không chỉ định ngƣời bào chữa trong các trƣờng hợp phải chỉ định ngƣời bào chữa; vi phạm quy định về giám định lại; vi phạm thủ tục tố tụng trong điều tra nhƣ mớm cung, bức cung, nhục hình; không thu thập hoặc thu thập không đầy đủ chứng cứ, tài liệu; không lƣu giữ chứng cứ, không trƣng cầu giám định… [68, tr.15].

Trong các vi phạm nêu trên, việc xác định Điều tra viên ép cung, mớm cung,

nhục hình là rất khó vì cần phải có chứng cứ để chứng minh. Phần lớn các trƣờng hợp

ngƣời bị kết án thay đổi lời khai với lý do bị ép cung, mớm cung, nhục hình xuất hiện

trong giai đoạn xét xử và sau khi bản án, quyết định có HLPL. Tuy nhiên, để kết luận có vi phạm trong việc lấy lời khai không thể chỉ dựa vào lời khai của ngƣời bị kết án.

Nếu nhƣ trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát

không phát hiện đƣợc những vi phạm này thì khi xem xét bản án, quyết định của Tòa

án theo thủ tục giám đốc thẩm, thông qua hồ sơ, các chủ thể có thẩm quyền cũng khó

có thể phát hiện. Ví dụ trong vụ án Tƣởng Đăng Thế bị kết án về tội “Giết ngƣời”,

“Hiếp dâm” ở tỉnh Đắk Lắk, việc bức cung, nhục hình đƣợc xác định trên cơ sở lời

khai của cán bộ quản lý buồng giam, qua kiểm tra thân thể đã phát hiện Thế bị đánh

đập khi đi lấy cung về và kiến nghị của Viện kiểm sát đối với Cơ quan điều tra về việc Điều tra viên vi phạm quy định tố tụng trong việc giải quyết vụ án [Phụ lục 9].

b. Trong giai đoạn truy tố

So với giai đoạn điều tra và xét xử, rất ít vi phạm trong giai đoạn truy tố là căn

cứ để kháng nghị giám đốc thẩm. Theo quy định của BLTTHS năm 2015, vi phạm

nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong truy tố là căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm,

nhƣng trƣờng hợp kháng nghị đƣợc chấp nhận, HĐGĐT không có thẩm quyền quyết

định hủy bản án, quyết định đã có HLPL để truy tố lại mà chỉ có thể quyết định điều

tra lại hoặc xét xử lại. Trên thực tế các vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong truy

tố bị giám đốc thẩm là: truy tố sai thẩm quyền; nhập, tách vụ án trong giai đoạn truy tố

không đúng quy định, không giao cáo trạng cho bị can,… [68, tr.16]

c. Trong giai đoạn xét xử

Giai đoạn xét xử bao gồm thủ tục trƣớc, trong và sau phiên tòa. Bản án, quyết

định của Tòa án là đối tƣợng của giám đốc thẩm nên những vi phạm thủ tục tố tụng là

căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm chủ yếu xảy ra tại giai đoạn xét xử. Các vi phạm

nghiêm trọng trong giai đoạn này phần lớn thuộc các trƣờng hợp: xét xử sai thẩm

quyền; thành phần Hội đồng xét xử không đúng quy định; bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng nhƣng Tòa án vẫn xét xử vắng mặt; không giao quyết định đƣa vụ án ra xét xử cho bị cáo và những ngƣời liên quan; vi phạm quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm và phạm vi xét xử phúc thẩm; quyết định của bản án không đúng với biên bản nghị án (ví dụ: trong biên bản nghị án, Hội đồng xét xử sau khi biểu quyết thống nhất xử phạt bị cáo 2 năm tù, nhƣng phần quyết định của bản án lại xử phạt bị cáo 2 năm tù nhƣng

cho hƣởng án treo); không đảm bảo nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa (nhƣ hạn chế

thời gian đối đáp, tranh luận tại phiên tòa); không cho bị cáo nói lời sau cùng; không

làm rõ các tình tiết có mâu thuẫn; xét hỏi sơ sài, phiến diện (ví dụ: chỉ hỏi, điều hành

76

việc xét hỏi, tranh luận tập trung vào những tình tiết, chứng cứ gỡ tội cho bị cáo để

tuyên bị cáo không phạm tội [Phụ lục 10], quyết định tội danh và hình phạt nhẹ hoặc

ngƣợc lại chỉ tập trung vào các tình tiết, chứng cứ buộc tội, bất lợi cho bị cáo để quyết

định tội danh và hình phạt nặng).

Thứ ba, có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

Việc áp dụng sai pháp luật có thể xuất phát từ yếu tố chủ quan hoặc khách quan. Trƣờng hợp sai lầm xuất phát từ những nguyên nhân khách quan, dẫn đến đánh

giá không đúng về các tình tiết của vụ án, sai lầm trong việc xác định sự thật của vụ án là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Trong khi đó, căn cứ kháng nghị giám

đốc thẩm là sai lầm do vi phạm pháp luật trong việc lựa chọn các quy phạm pháp luật

để áp dụng, xuất phát từ yếu tố chủ quan. Trƣờng hợp này, lỗi thuộc về các cơ quan

tiến hành tố tụng nhƣng Tòa án phải chịu trách nhiệm chính. “Sai lầm nghiêm trọng

trong việc áp dụng pháp luật” trên thực tế chủ yếu thuộc các trƣờng hợp sau:

- Kết án ngƣời không có hành vi phạm tội: đây là những trƣờng hợp làm oan

ngƣời vô tội. Vi phạm này có thể xuất phát từ việc các cơ quan tiến hành tố tụng

không phân biệt đƣợc giữa tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác, hình sự

hóa các quan hệ kinh tế, dân sự; hoặc vi phạm pháp luật trong hoạt động chứng minh

tội phạm nhƣ bức cung, nhục hình.

- Kết án ngƣời mà hành vi của họ không cấu thành tội phạm: là các trƣờng hợp

ngƣời bị kết án đã có hành vi gây thiệt hại cho các quan hệ đƣợc BLHS bảo vệ nhƣng chƣa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, ví dụ: thiệt hại do hành vi vi phạm pháp

luật chƣa đến mức xử lý hình sự; chuẩn bị phạm tội; những trƣờng hợp phải có yêu cầu

của bị hại; ngƣời thực hiện hành vi vi phạm pháp luật phải có tiền án, tiền sự về cũng loại

tội. Hành vi không cấu thành tội phạm còn có thể thuộc trƣờng hợp đƣợc loại trừ trách

nhiệm hình sự nhƣ sự kiện bất ngờ, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết.

- Kết án ngƣời chƣa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự: trong trƣờng hợp này,

ngƣời thực hiện hành vi chƣa đến tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của

BLHS [Phụ lục 11]. Sai lầm này xuất phát từ hai lý do chính: (1) Tài liệu chứng minh

tuổi thật của ngƣời phạm tội không đƣợc thu thập đầy đủ hoặc các tài liệu chứng minh tuổi thật của ngƣời phạm tội có mâu thuẫn nhƣng không trƣng cầu giám định tuổi thật. (2) Sai lầm trong nhận thức cấu thành tội phạm và phân loại tội phạm nhƣ kết án ngƣời dƣới 18 tuổi thực hiện hành vi dâm ô đối với ngƣời dƣới 16 tuổi.

77

- Kết án sai tội danh: định tội danh có ý nghĩa rất quan trọng vì tội danh thể hiện mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và liên quan trực tiếp đến việc quyết định hình phạt đối với bị cáo. Có trƣờng hợp định tội sai dẫn đến việc áp dụng hình phạt nhẹ. Ví dụ: hành vi của bị cáo cấu thành tội “Giết ngƣời” với tình tiết định khung là “giết ngƣời đang thi hành công vụ” nhƣng lại bị kết án về tội “Chống ngƣời thi hành công vụ” [Phụ lục 12]. Ngƣợc lại, có trƣờng hợp định tội sai dẫn đến hình phạt nặng.

Ví dụ: hành vi của các bị cáo chỉ cấu thành tội “Giết ngƣời trong trạng thái tinh thần bị

kích động mạnh” nhƣng Tòa án lại kết án bị cáo về tội “Giết ngƣời” [20].

Trƣớc đây, trong giới hạn xét xử, Tòa án không đƣợc xét xử bị cáo về tội nặng

hơn tội mà Viện kiểm sát truy tố. Vì vậy, có những trƣờng hợp, mặc dù Tòa án phát hiện việc truy tố sai tội danh nhƣng không thể xác định lại tội danh mà chỉ có thể xét

xử sau đó báo cáo cấp giám đốc thẩm để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm. BLTTHS năm 2015 (khoản 3 Điều 298) đã khắc phục đƣợc vấn đề này bằng

việc quy định mở rộng giới hạn xét xử của Tòa án. Đây cũng là một trong những yếu

tố đảm bảo hạn chế sai lầm không đang có trong các bản án đã có HLPL của Tòa án.

- Áp dụng sai khung hình phạt: vi phạm này dẫn tới việc xử phạt bị cáo quá

nặng hoặc quá nhẹ hoặc truy tố, xét xử sai thẩm quyền. Ví dụ: bị cáo phạm tội “Tham

ô tài sản” thuộc trƣờng hợp quy định tại khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự nhƣng Tòa án chỉ áp dụng khoản 2 Điều 278 để quyết định hình phạt [22].

- Áp dụng sai hình phạt: là việc Tòa án đánh giá không đúng tính chất, mức độ

hành vi phạm tội của bị cáo, vận dụng không đúng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự, dẫn đến quyết định hình phạt không tƣơng xứng với tính chất,

hậu quả của hành vi phạm tội, không có tác dụng giáo dục, đấu tranh phòng ngừa tội

phạm. Nhiều trƣờng hợp, Tòa án quá chú ý đến nhân thân ngƣời phạm tội, tình tiết

khắc phục hậu quả, đã bồi thƣờng thiệt hại hoặc ngƣời bị hại xin giảm nhẹ cho bị cáo để giảm nhẹ hình phạt, thậm chí cho bị cáo hƣởng án treo không đúng pháp luật [Phụ

lục 13]. Việc cho bị cáo đƣợc hƣởng án treo không đúng quy định là vi phạm bị kháng

nghị giám đốc thẩm nhiều nhất trong số các vi phạm về áp dụng sai hình phạt.

- Bỏ lọt tội phạm, ngƣời làm tội: là trƣờng hợp các cơ quan tiến hành tố tụng bỏ

lọt hành vi phạm tội hoặc ngƣời thực hiện hành vi phạm tội. Chẳng hạn bị cáo tham ô

471.432.700 đồng nhƣng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự 251.000.000 đồng [22]

hoặc trong vụ án còn có đồng phạm khác nhƣng không bị xử lý [Phụ lục 14]. Vi phạm

này chủ yếu là do việc thu thập chứng cứ không đầy đủ hoặc đánh giá không đúng các

chứng cứ, dẫn đến vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, giải quyết vụ án không triệt để, toàn diện, đầy đủ.

- Vấn đề dân sự trong vụ án hình sự: theo quy định tại Điều 30 BLTTHS năm 2015, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự đƣợc tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trƣờng hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thƣờng

78

thiệt hại, bồi hoàn mà chƣa có điều kiện chứng minh và không ảnh hƣởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Theo Công văn số 121/2003/KHXX ngày 19/9/2003 của TANDTC về việc giải quyết vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thƣờng thiệt hại trong vụ án hình sự thì phần dân sự trong vụ án hình sự bao gồm: việc đòi trả lại tài sản bị chiếm đoạt, đòi bồi

thƣờng giá trị tài sản do bị can, bị cáo chiếm đoạt nhƣng bị mất hoặc bị hủy hoại, buộc

phải sửa chữa tài sản bị hƣ hỏng, đòi bồi thƣờng thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc

sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại do tài sản

bị chiếm đoạt, bị hủy hoại hoặc bị hƣ hỏng; đòi bồi thƣờng thiệt hại do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại.

Mặc dù BLTTHS năm 2003 không quy định cụ thể nhƣng trên thực thế, vi

phạm nghiêm trọng các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự từ lâu đã là một trong những

căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Vì vậy, BLTTHS năm 2015 không giới

hạn phạm vi sai lầm “trong việc áp dụng BLHS” nhƣ BLTTHS năm 2003 mà mở rộng thành “sai lầm trong việc áp dụng pháp luật”. Kháng nghị giám đốc thẩm đối với loại

vi phạm này chủ yếu thuộc các trƣờng hợp: không xem xét lỗi của bị hại khi quyết

định bồi thƣờng; không xem xét việc cấp dƣỡng; không xem xét đầy đủ về tính pháp

lý, tính hợp lý của các hóa đơn, chứng từ mà ngƣời bị hại xuất trình để yêu cầu bị cáo bồi thƣờng; xác định sai tƣ cách của ngƣời tham gia tố tụng. Tất cả những sai lầm này

đều ảnh hƣởng trực tiếp đến lợi ích hợp pháp của ngƣời đƣợc bồi thƣờng, của bị cáo

và những ngƣời có quyền lợi liên quan [Phụ lục 16].

- Xử lý vật chứng không đúng quy định theo quy định, làm ảnh hƣởng nghiêm

trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo, bị hại, ngƣời có quyền lợi nghĩa vụ liên

quan, chẳng hạn trƣờng hợp Tòa án không quyết định trả lại tài sản (là vật chứng của

vụ án) cho chủ sở hữu [Phụ lục 15].

3.1.2.4. Chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm

So với BLTTHS năm 2003, các chủ thể có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm quy định tại Điều 273 BLTTHS năm 2015 có hai điểm mới là: (i) Bỏ

thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm TAND và VKSND cấp tỉnh;

TAQS cấp quân khu và Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu. (ii) Trao quyền kháng

nghị giám đốc thẩm cho một cấp mới là TANDCC và VKSNDCC. Sự thay đổi về

thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm trƣớc hết xuất phát từ thay đổi về cơ cấu tổ

chức của Tòa án và Viện kiểm sát. Theo Luật tổ chức TAND và VKSND năm 2014, ngoài cơ cấu tổ chức ba cấp nhƣ trƣớc đây, TANDCC và VKSNDCC là một cấp mới, có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có HLPL của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ. Đánh giá về sự thay đổi này, có ý kiến cho rằng việc trao quyền kháng nghị giám đốc thẩm cho

TANDCC và VKSNDCC sẽ “đảm bảo việc áp dụng thống nhất pháp luật trong phạm

vi rộng, khắc phục tình trạng nhiều tỉnh hàng năm không thực hiện việc kháng nghị

theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nhƣng vẫn tồn tại tổ chức, bộ máy để thực hiện

79

nhiệm vụ này dẫn đến tốn kém, lãng phí không cần thiết” [36, tr.338].

Trong pháp luật TTHS Việt Nam, khác với chủ thể có thẩm quyền tái thẩm chỉ

có Viện kiểm sát, chủ thể có thẩm quyền giám đốc thẩm rộng hơn, gồm cả Viện kiểm

sát và Tòa án. Đối với thủ tục tái thẩm, kháng nghị đi liền với việc điều tra, xác minh

tình tiết mới. Từ góc độ tố tụng, trong các chủ thể có thẩm quyền kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án, chỉ có Viện kiểm sát mới có thẩm quyền quyết định

việc điều tra, xác minh. Tòa án không thể vừa điều tra, xác minh rồi sau đó lại xét xử,

đánh giá các tình tiết đó [43, tr.14-15].

3.1.2.5. Hiệu lực của kháng nghị giám đốc thẩm

Không giống nhƣ kháng nghị hay kháng cáo phúc thẩm, phần bản án bị kháng

cáo, kháng nghị sẽ chƣa đƣợc thi hành, kháng nghị giám đốc thẩm không làm mất hiệu

lực thi hành của bản án, quyết định bị kháng nghị. Tuy nhiên, ngƣời ra quyết định

kháng nghị giám đốc thẩm có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định có HLPL của Tòa án. Về cơ bản, quy định về việc này trong BLTTHS năm 2015

không khác so BLTTHS năm 1988 và năm 2003.

Hƣớng dẫn về việc tạm đình chỉ thi hành đối với bản án, quyết định của Tòa án

bị kháng nghị giám đốc thẩm hiện nay chỉ có quy định trong Thông tƣ liên tịch số 01-

TANDTC-VKSNDTC/TTLT ngày 08/12/1988 giữa TANDTC và VKSNDTC hƣớng

dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS năm 1988. Nội dung cụ thể nhƣ sau:

“... đối với bản án hoặc quyết định đã có HLPL đang đƣợc thi hành, nếu thấy

trong thời gian chờ xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm việc tiếp tục thi hành bản

án hoặc quyết định đó có thể gây thiệt hại cho ngƣời phải thi hành, thì ngƣời đã

kháng nghị có quyền quyết định tạm đình chỉ việc thi hành đó. Đối với các

trƣờng hợp đang chấp hành hình phạt tù thì chỉ nên tạm đình chỉ thi hành án khi

đã có kháng nghị theo các hƣớng sau đây: đình chỉ vụ án; tuyên bố không phạm

tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt; cho hƣởng án treo hoặc áp dụng

hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù. Chỉ có thể quyết định việc tạm đình chỉ thi hành

án ngay trong bản kháng nghị hoặc sau khi đã kháng nghị, chứ không đƣợc ra

quyết định tạm đình chỉ thi hành án trƣớc khi kháng nghị.”

Các trƣờng hợp tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định bị kháng nghị giám đốc thẩm đều thuộc các trƣờng hợp có lợi cho ngƣời bị kết án theo hƣớng không tƣớc bỏ quyền tự do của ngƣời bị kết án. Mặc dù kháng nghị giám đốc thẩm có thể không đƣợc

chấp nhận nhƣng việc tạm đình chỉ là cần thiết để đảm bảo những bản án, quyết định có vi phạm pháp luật của Tòa án không làm xấu đi tình trạng của ngƣời bị kết án, không tƣớc bỏ những quyền hợp pháp, chính đáng của công dân đƣợc pháp luật bảo vệ.

Có ý kiến cho rằng BLTTHS cần phải quy định cho phép ngƣời có quyền kháng nghị đƣợc áp dụng các biện pháp ngăn chặn bởi vì trong nhiều trƣờng hợp, khi nhận đƣợc kháng nghị, ngƣời bị kết án bỏ trốn, tẩu tán tài sản dẫn đến việc sau khi có quyết 80

định giám đốc thẩm thì các cơ quan tiến hành tố tụng không tiến hành đƣợc thủ tục tố

tụng theo quy định của pháp luật [101, tr.43]. Quá trình nghiên cứu, chúng tôi thấy

việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn ở thủ tục giám đốc thẩm là không phù hợp bởi vì:

Thứ nhất, bản chất của biện pháp ngăn chặn là biện pháp cƣỡng chế Nhà nƣớc mang tính phòng ngừa áp dụng đối với bị can, bị cáo, ngƣời liên quan đến tội phạm

chƣa bị khởi tố, khi có căn cứ áp dụng, nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho hoạt

động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự [100, tr.37]. Đối với bản án, quyết

định của Tòa án đã có HLPL thì ngƣời bị kết án đang trong giai đoạn thi hành án.

Thứ hai, đối tƣợng của các biện pháp ngăn chặn là bị can, bị cáo, ngƣời liên

quan đến tội phạm chƣa bị khởi tố. Đây là những ngƣời chƣa bị kết án bởi một bản án

hoặc quyết định có HLPL của Tòa án. Trong khi đó, trong thủ tục giám đốc thẩm, ngƣời

bị kết án đã bị xét xử và kết án bởi một bản án, quyết định có HLPL của Tòa án.

Thứ ba, đề xuất về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn hƣớng đến các trƣờng

hợp kháng nghị giám đốc thẩm theo hƣớng bất lợi cho ngƣời bị kết án (ví dụ: ngƣời bị

kết án đƣợc hƣởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ nhƣng kháng nghị lại đề nghị

không cho hƣởng án treo hoặc áp dụng hình phạt tù) hoặc kháng nghị trong trƣờng hợp

bỏ lọt tội phạm, ngƣời phạm tội. Tuy nhiên, kháng nghị giám đốc thẩm có thể không

đƣợc chấp nhận, đồng nghĩa với việc biện pháp ngăn chặn mà chủ thể có quyền kháng

nghị đã quyết định là sai, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của những ngƣời bị áp dụng. Hậu quả là ngƣời bị kết án vừa phải thi hành án đối với bản án có liệu lực

pháp luật, vừa bị áp dụng biện pháp ngăn chặn hoặc chủ thể đã ban hành quyết định áp

dụng biện pháp ngăn chặn phải thực hiện việc bồi thƣờng.

Thứ tư, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn là không phù hợp với mục đích của

của giám đốc thẩm. Mục đích của thủ tục giám đốc thẩm là khắc phục vi phạm pháp

luật và đảm bảo pháp luật đƣợc áp dụng đúng và thống nhất. Quá trình giải quyết vụ

án trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành

tố tụng đƣợc pháp luật trao quyền để thực hiện các biện pháp cần thiết, kể cả hạn chế

tự do của bị can, bị cáo, ngƣời liên quan đến tội phạm chƣa bị khởi tố nhằm xác định đúng sự thật của vụ án, kết án đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật. Những sai lầm của cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng không thể là căn cứ để tiếp tục áp dụng những biện pháp hạn chế quyền của công dân.

3.1.2.6. Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm

Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đƣợc quy định tại Điều 379

BLTTHS năm 2015 cơ bản không khác BLTTHS năm 2003, cụ thể nhƣ sau:

- Việc kháng nghị theo hƣớng không có lợi cho ngƣời bị kết án chỉ đƣợc tiến

81

hành trong thời hạn một năm, kể từ ngày bản án hoặc quyết định có HLPL.

- Việc kháng nghị theo hƣớng có lợi cho ngƣời bị kết án có thể đƣợc tiến hành

bất cứ lúc nào, kể cả trƣờng hợp ngƣời bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ.

- Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với đƣơng sự sẽ đƣợc tiến

hành theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

Kháng nghị theo hƣớng có lợi cho ngƣời bị kết án là những trƣờng hợp kháng

nghị giám đốc thẩm theo hƣớng ngƣời bị kết án không phạm tội; miễn trách nhiệm

hình sự, miễn hình phạt; cho hƣởng án treo đối với ngƣời bị kết án bị xử phạt tù; áp

dụng điều khoản của BLHS về tội nhẹ hơn; chuyển khung hình phạt nhẹ hơn; giảm

hình phạt; giảm mức bồi thƣờng thiệt hại; bỏ hình phạt bổ sung và các biện pháp tƣ pháp;… Kháng nghị theo hƣớng bất lợi cho ngƣời bị kết án là những trƣờng hợp

kháng nghị theo hƣớng ngƣời bị kết án phạm một tội nặng hơn, chuyển loại hình phạt

nặng hơn; chuyển khung hình phạt nặng hơn; không cho hƣởng án treo; buộc ngƣời bị

kết án phải chịu hình phạt đối với trƣờng hợp đƣợc miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt; áp dụng thêm hình phạt bổ sung, biện pháp tƣ pháp; tăng mức bồi

thƣờng thiệt hại;…

Về thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm theo hƣớng không có lợi cho ngƣời bị

kết án còn có nhiều ý kiến khác nhau. Một số ý kiến cho rằng thời hạn một năm là

chƣa phù hợp bởi vì theo BLHS căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội

của hành vi phạm tội, tội phạm đƣợc phân thành bốn loại với thời hạn tố tụng cho mỗi

loại tội là khác nhau. Do đó, BLTTHS chỉ quy định chung một thời hạn cho tất cả các

loại tội phạm là chƣa phù hợp, cần quy định thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm đối với các tội ít nghiêm trọng là 2 năm và đối với các tội nghiêm trọng là 3 năm

kết từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có HLPL [101, tr.40].

Ý kiến khác lại cho rằng, thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm theo hƣớng không

có lợi cho ngƣời bị kết án cần thống nhất là 01 năm nhƣng trong thời gian này, nếu có

đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm thì thời hạn nói trên cần phải chấm dứt [39, tr.10].

Tuy nhiên, trên cơ sở nghiên cứu và thực tiễn giám đốc thẩm chúng tôi cho rằng

thời hạn một năm là hợp lý vì các lý do sau:

Thứ nhất, thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm chỉ đặt ra đối với các trƣờng hợp kháng nghị theo hƣớng bất lợi cho ngƣời bị kết án. Quy định này xuất phát từ nguyên tắc có lợi cho ngƣời bị kết án. Việc bản án, quyết định của Tòa án có sai lầm, vi phạm

hoàn toàn do lỗi của các cơ quan tiến hành tố tụng. Các cơ quan này nhân danh Nhà nƣớc, đƣợc Nhà nƣớc giao nhiệm vụ và trao cho những quyền hạn cần thiết để thực thi nhiệm vụ, giải quyết vụ án, đảm bảo xử lý đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật,

82

không làm oan ngƣời vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Nếu sai lầm theo hƣớng có lợi cho ngƣời bị kết án thì Nhà nƣớc phải chịu thiệt hại mà không thể buộc ngƣời bị kết án phải chịu hậu quả của việc giải quyết sai do lỗi của các cơ quan đại diện cho Nhà

nƣớc. Do đó, việc kéo dài thời hạn kháng nghị theo hƣớng bất lợi cho ngƣời bị kết án

vừa kéo dài thời hạn tố tụng, vừa không đảm bảo đƣợc các nguyên tắc TTHS và không

đảm bảo tính nhân đạo, tôn trọng lợi ích của ngƣời bị kết án.

Thứ hai, thời hạn tố tụng là thời gian cần thiết để giải quyết một vụ án hình sự. Đối với mỗi loại tội phạm do tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội là khác nhau nên thời gian cần thiết để chứng minh tội phạm cũng khác nhau.

Những tội phạm đơn giản, ít nghiêm trọng thì thời gian cần thiết để giải quyết vụ án

phải ngắn hơn các tội phạm nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, thời hạn

điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử đối với các loại tội khác nhau cũng phải khác nhau để

đảm bảo việc chứng minh, xử lý tội phạm vừa đầy đủ, khách quan, thận trọng, đúng

ngƣời, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan ngƣời vô tội nhƣng phải nhanh

chóng, kịp thời khôi phục những thiệt hại do tội phạm gây ra, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Trong khi đó, giám đốc thẩm không phải là thủ tục giải

quyết vụ án. Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm (theo hƣớng bất lợi cho ngƣời bị kết

án) là thời hạn để phát hiện những sai lầm, vi phạm trong bản án, quyết định của Tòa

án đã có HLPL. Bản chất của hai loại thời hạn này không giống nhau. Vì vậy, việc

phân loại thời hạn kháng nghị theo loại tội phạm là không phù hợp, kéo dài thời gian

tố tụng, không đúng với mục đích của TTHS.

Thứ ba, việc phát hiện vi phạm pháp luật, đánh giá vi phạm đó có nghiêm trọng hay không phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, trình độ, kinh nghiệm các chủ thể có

thẩm quyền kháng nghị. Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm 01 năm là hợp lý, đủ để

các cơ quan có thẩm quyền xem xét và quyết định có kháng nghị hay không; đồng thời

nhanh chóng, kịp thời thể hiện thái độ của Nhà nƣớc, xã hội đối với tội phạm, ngƣời

phạm tội; đồng thời không kéo dài quá trình giải quyết vụ án.

Về thời hạn kháng nghị theo hƣớng có lợi cho ngƣời bị kết án, quy định của

BLTTHS từ trƣớc đến nay đều thống nhất là không có thời hạn. Điều này phù hợp với

các nguyên tắc của pháp luật hình sự, đảm bảo lợi ích hợp pháp cho ngƣời bị kết án.

Tuy nhiên, kháng nghị trong trƣờng hợp này phải có ý nghĩa trên thực tế. Ví dụ, một ngƣời bị Tòa án xử phạt hình phạt tù. Sau khi chấp hành xong hình phạt, ngƣời này có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc đề nghị đƣợc hƣởng án treo. Mặc dù xét thấy hình phạt đƣợc quyết định trong bản án, quyết định có HLPL là nặng, có căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm, nhƣng trƣờng hợp này cũng không kháng nghị vì việc

giảm nhẹ hình phạt hay cho hƣởng án treo trong những trƣờng hợp này là vô nghĩa.

83

Đối với thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm về việc dân sự trong vụ án hình sự, quy định trong BLTTHS năm 2015 đã có sự thay đổi xuất phát từ việc sửa đổi BLTTDS năm 2015. Theo đó, thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm đối với việc dân sự trong vụ án hình sự đƣợc quy định nhƣ sau:

- Ngƣời có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có quyền kháng

nghị trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có HLPL.

- Thời hạn kháng nghị đƣợc kéo dài thêm 02 năm kể từ ngày hết thời hạn kháng

nghị nếu có các điều kiện sau: (i) đƣơng sự đã có đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL theo thủ tục giám đốc thẩm theo đúng quy định pháp luật

và sau khi hết thời hạn kháng nghị 03 năm đƣơng sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị; (ii)

bản án, quyết định có căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm xâm

phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, của ngƣời thứ ba, xâm

phạm lợi ích của cộng đồng, lợi ích của Nhà nƣớc và phải kháng nghị để khắc phục sai

lầm trong bản án, quyết định đã có HLPL đó (Điều 334 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015).

3.1.2.7. Thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm

BLTTHS năm 2015 quy định một nội dung mới trong thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm là việc chuyển hồ sơ vụ án để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm: trƣờng hợp cần thiết phải nghiên cứu hồ sơ vụ án để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì Tòa án, Viện kiểm sát có thẩm quyền yêu cầu bằng văn bản

để Tòa án đang quản lý hồ sơ chuyển hồ sơ vụ án. Khi nhận đƣợc yêu cầu chuyển hồ sơ

vụ án, trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận đƣợc văn bản yêu cầu, Tòa án đang quản

lý hồ sơ phải chuyển hồ sơ đến cơ quan đã yêu cầu. Trƣờng hợp hồ sơ đã đƣợc chuyển

cho cơ quan có yêu cầu trƣớc thì phải thông báo cho cơ quan có yêu cầu sau biết.

Trong trƣờng hợp này, các cơ quan yêu cầu chuyển hồ sơ phải có sự phối hợp trong

việc tổ chức nghiên cứu hồ sơ để đều có thời gian xem xét việc kháng nghị hay không

kháng nghị đƣợc chính xác, kịp thời, đúng thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm. Nếu cơ

quan đƣợc nhận hồ sơ trƣớc không kháng nghị, nếu thấy có căn cứ, cơ quan nhận đƣợc

hồ sơ sau có thể xem xét kháng nghị theo thẩm quyền. TANDTC và VKSNDTC có

quyền yêu cầu chuyển hồ sơ để nghiên cứu kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với những vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TANDCC và VKSNDCC. Quy định

này là cần thiết bởi vì để kết luận một bản án, quyết định của Tòa án có HLPL vi phạm

nghiêm trọng không thể chỉ dựa trên văn bản đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm mà cần phải có hồ sơ vụ án để nghiên cứu, kiểm tra, đối chiếu những nội dung, nhận định, kết luận trong bản án, quyết định với chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ.

Trƣờng hợp có căn cứ kháng nghị, các chủ thể có thẩm quyền ban hành quyết

định kháng nghị giám đốc thẩm. Những nội dung của kháng nghị giám đốc thẩm đƣợc quy định tại Điều 378. Đây là quy định mới của BLTTHS năm 2015 nhằm khắc phục tình trạng một số quyết định kháng nghị giám đốc thẩm chỉ nêu vi phạm một cách chung chung hoặc không nêu đƣợc những lý do xác đáng.

Về kết cấu của một quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, ngoài phần ghi họ

84

tên, lý lịch của ngƣời bị kết án bị kháng nghị (nếu ngƣời bị kết án là cá nhân thì ghi

đầy đủ họ tên của cá nhân đó, nếu là pháp nhân thƣơng mại thì ghi tên pháp nhân

thƣơng mại đó và tên ngƣời đại diện theo pháp luật), họ tên, địa chỉ của ngƣời bị hại

và các đƣơng sự, ngƣời liên quan khác. Trong phần nội dung, khác với bản án sơ thẩm

và phúc thẩm, tùy theo nội dung cần kháng nghị, ví dụ kháng nghị một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định có HLPL, để nêu tóm tắt nội dung vụ án liên quan đến kháng

nghị và quyết định của các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết vụ án.

Phần đánh giá của kháng nghị phải nêu đƣợc nhận xét và phân tích những vi phạm

pháp luật, sai lầm của bản án (quyết định) bị kháng nghị; các vi phạm, sai lầm phải ghi

rõ căn cứ vào điểm, khoản, điều nào của BLHS, BLTTHS và các quy định của pháp

luật khác có liên quan để kháng nghị. Phần quyết định của kháng nghị phải nêu rõ đề

nghị HĐGĐT sửa hay hủy toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án đã có

HLPL đối với ai (họ tên của cá nhân hoặc tên pháp nhân và họ tên ngƣời đại diện theo pháp luật). Ví dụ: bản án hình sự phúc thẩm số 01/2018/HSPT ngày 01/01/2018 của

Tòa án A về phần trách nhiệm hình sự đối với Trần Văn B. Tùy thuộc vào vi phạm để

xác định mục đích của kháng nghị là để sửa bản án, quyết định đã có HLPL, điều tra

lại, để xét xử sơ thẩm lại, để xét xử phúc thẩm lại hay để đình chỉ vụ án.

Sau khi ban hành, kháng nghị giám đốc thẩm phải gửi ngay cho Tòa án đã ra

bản án, quyết định đã có HLPL bị kháng nghị, ngƣời bị kết án, cơ quan thi hành án

hình sự, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền và những ngƣời khác có quyền và

nghĩa vụ liên quan đến nội dung kháng nghị. Nếu Chánh án quyết định kháng nghị thì

quyết định kháng nghị giám đốc thẩm và hồ sơ vụ án phải gửi đến Tòa án có thẩm

quyền giám đốc thẩm; Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm phải gửi quyết định

kháng nghị giám đốc thẩm và hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp. Trong thời hạn

30 ngày kể từ ngày nhận đƣợc hồ sơ, Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ cho Tòa án. Nếu

Viện trƣởng VKSND có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm thì quyết định kháng

nghị giám đốc thẩm và hồ sơ vụ án phải gửi cho Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm

(Điều 380 BLTTHS năm 2015). Quy định cụ thể về việc chuyển hồ sơ và quyết định

kháng nghị giám đốc thẩm cho Viện kiểm sát cùng cấp trong trƣờng hợp Tòa án kháng nghị là hợp lý, phù hợp với chức năng kiểm sát hoạt động tƣ pháp của Viện kiểm sát.

Trƣờng hợp không có căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm, ngƣời có thẩm quyền kháng nghị phải trả lời bằng văn bản cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã kiến nghị

85

biết rõ lý do của việc không kháng nghị. Quy định này có một điểm mới so với BLTTHS năm 2003 là việc trả lời không nhất thiết phải trƣớc khi hết thời hạn kháng nghị. Sự thay đổi này phần nào gỡ bỏ áp lực về tiến độ giải quyết các đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm nhƣng lại không phù hợp với nguyên tắc các hoạt động TTHS phải có thời hạn, trừ trƣờng hợp bảo đảm quyền hợp pháp của ngƣời tham gia tố tụng. Mặt khác, việc khiếu nại, đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm kéo dài, số lƣợng đơn, đề

nghị tăng một phần cũng vì ngƣời, cơ quan, tổ chức đề nghị không nhận đƣợc trả lời từ

phía các cơ quan có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm.

3.1.2.8. Bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị

Theo quy định tại Điều 381 BLTTHS năm 2015, trƣớc khi bắt đầu phiên tòa

hoặc tại phiên tòa giám đốc thẩm, ngƣời kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung hoặc rút kháng nghị nếu chƣa hết thời hạn kháng nghị. Khác với kháng nghị phúc thẩm,

việc thay đổi, bổ sung kháng nghị giám đốc thẩm không có giới hạn, có thể theo hƣớng giảm nhẹ hoặc tăng nặng. Tuy nhiên, việc thay đổi, bổ sung kháng nghị theo

hƣớng bất lợi cho ngƣời bị kết án phải thỏa mãn điều kiện về thời hạn kháng nghị.

Chẳng hạn, Viện kiểm sát kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án của Tòa án đã có

HLPL đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho A. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, nếu có căn cứ

và chƣa hết thời hạn, đại diện Viện kiểm sát có thể bổ sung kháng nghị, đề nghị chuyển tội danh nặng hơn đối với B bị kết án trong cùng bản án với A. Ngoài ra, các

chủ thể khác nhau có thể kháng nghị giám đốc thẩm về những vấn đề, nội dung khác nhau đối với cùng một bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL. Ví dụ: Viện trƣởng

VKSNDTC kháng nghị giám đốc thẩm về trách nhiệm hình sự của A. Sau khi chuyển

hồ sơ sang Tòa án, nếu có căn cứ, Chánh án TANDTC có thể kháng nghị về phần

trách nhiệm dân sự đối với A. Kháng nghị của Chánh án TANDTC là độc lập với

kháng nghị của Viện trƣởng VKSNDTC. Trƣớc khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên

tòa giám đốc thẩm, cả hai chủ thể này đều có quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị.

Trƣờng hợp Viện kiểm sát kháng nghị, trƣớc khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa

giám đốc thẩm, nếu có chứng cứ, tài liệu, đồ vật hoặc căn cứ khác dẫn đến phải thay

đổi, bổ sung, rút kháng nghị của Viện kiểm sát thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét

xử hoãn phiên tòa; nếu HĐGĐT không chấp nhận thì Kiểm sát viên tiếp tục tham gia

phiên tòa và thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.

3.1.3. Những quy định về thủ tục giám đốc thẩm

3.1.3.1. Những quy định chung về thủ tục giám đốc thẩm

a. Thẩm quyền giám đốc thẩm

Thẩm quyền giám đốc thẩm đƣợc quy định tại Điều 382 BLTTHS năm 2015. Xuất phát từ thay đổi về chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, so với BLTTHS năm 2003, thẩm quyền giám đốc thẩm đƣợc quy định trong BLTTHS năm

2015 cũng đƣợc rút gọn xuống còn hai cấp là TANDTC và một cấp mới đƣợc thành lập là TANDCC; thẩm quyền giám đốc thẩm của TAND cấp tỉnh và Tòa hình sự

TANDTC đã đƣợc bãi bỏ. Sự thay đổi này cũng xuất phát từ thực tế hoạt động giám

đốc thẩm chỉ tập trung tại một số tỉnh, thành phố lớn; một số tỉnh hầu nhƣ không giám

đốc thẩm hình sự vụ án nào nhƣng vẫn phải duy trì tổ chức bộ máy hoạt động; chất

lƣợng giám đốc thẩm ở Tòa án cấp tỉnh chƣa cao. Quy định mới cũng nhằm đảm bảo 86

việc áp dụng thống nhất pháp luật trong phạm vi rộng hơn, giảm tình trạng mỗi địa

phƣơng hiểu và áp dụng pháp luật một cách khác nhau.

b. Những ngƣời tham gia phiên tòa giám đốc thẩm

Theo quy định tại Điều 383 BLTTHS năm 2015, Kiểm sát viên Viện kiểm sát

cùng cấp phải tham gia phiên tòa. Về cơ bản, quy định này không khác với các BLTTHS trƣớc đây nhƣng đã cụ thể hơn về chức danh tƣ pháp. Trên thực tế, trƣớc khi

BLTTHS năm 2015 có hiệu lực, đại diện Viện kiểm sát tham dự phiên tòa giám đốc thẩm đã là Viện trƣởng hoặc Kiểm sát viên đƣợc Viện trƣởng ủy quyền (gần nhƣ toàn

bộ các phiên tòa giám đốc thẩm do Kiểm sát viên đƣợc ủy quyền tham dự). Kiểm sát

viên tham gia phiên tòa giám đốc thẩm có hai nhiệm vụ chính là bảo vệ kháng nghị

(trƣờng hợp Viện kiểm sát kháng nghị) hoặc phát biểu quan điểm về kháng nghị

(trƣờng hợp Tòa án kháng nghị) và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những ngƣời tham gia phiên tòa giám đốc thẩm.

Trƣờng hợp xét thấy cần thiết hoặc có căn cứ sửa một phần bản án, quyết định

đã có HLPL, Tòa án phải triệu tập ngƣời bị kết án, ngƣời bào chữa và những ngƣời có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị giam gia phiên tòa giám đốc thẩm;

nếu vắng họ thì phiên tòa giám đốc thẩm vẫn đƣợc tiến hành. Pháp luật TTHS không

quy định thế nào là “trƣờng hợp xét thấy cần thiết” hoặc những trƣờng hợp cụ thể phải

triệu tập những chủ thể nêu trên. Vì vậy, đây là quy định mang tính tùy nghi, phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm.

c. Thời hạn mở phiên tòa giám đốc thẩm

Thời hạn mởi phiên tòa giám đốc thẩm đƣợc quy định tại Điều 385 BLTTHS

năm 2015: trong thời hạn 04 tháng kể từ ngày nhận đƣợc quyết định kháng nghị kèm

theo hồ sơ vụ án, Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm phải mở phiên tòa. Nhƣ vậy,

thời hạn mở phiên tòa sẽ là 04 tháng trong trƣờng hợp Viện kiểm sát kháng nghị và sẽ là 05 tháng trong trƣờng hợp Tòa án kháng nghị.

So với BLTTHS năm 2003, điều luật đã quy định cụ thể thời điểm bắt đầu tính

thời hạn là khi Tòa án nhận đƣợc hồ sơ vụ án kèm kháng nghị giám đốc thẩm. Sự bổ sung này là cần thiết bởi vì trƣờng hợp Tòa án kháng nghị giám đốc thẩm, quyết định kháng nghị và hồ sơ vụ án phải gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu. Khi Viện kiểm sát chuyển lại hồ sơ cho Tòa án mới có thể tiến hành xét xử.

3.1.3.2. Chuẩn bị phiên tòa và phiên tòa giám đốc thẩm

a. Chuẩn bị phiên tòa

87

Quy định về thủ tục chuẩn bị phiên tòa trong BLTTHS năm 2015 đã đƣợc tách thành một điều độc lập. Điều luật quy định cụ thể hơn về Thẩm phán đƣợc Chánh án phân công làm bản thuyết trình phải là thành viên HĐGĐT. Bản thuyết trình tóm tắt

nội dung vụ án và các bản án, quyết định của các cấp Tòa án, nội dung của kháng nghị.

Bản thuyết trình và các tài liệu có liên quan phải gửi cho các thành viên HĐGĐT chậm

nhất là 07 ngày trƣớc ngày mở phiên tòa giám đốc thẩm.

b. Thành phần Hội đồng giám đốc thẩm

Theo Điều 382 BLTTHS năm 2015, thành phần HĐGĐT đƣợc quy định nhƣ sau: (i) Ủy ban Thẩm phán TANDCC gồm ba Thẩm phán; trƣờng hợp phức tạp hoặc

Hội đồng ba Thẩm phán không thống nhất khi biểu quyết thông qua quyết định về việc giải quyết vụ án thì HĐGĐT sẽ gồm toàn thể Ủy ban Thẩm phán TANDCC. (ii) Ủy

ban Thẩm phán TAQS trung ƣơng (iii) Hội đồng Thẩm phán TANDTC gồm năm

Thẩm phán; trƣờng hợp phức tạp hoặc Hội đồng năm Thẩm phán không thống nhất khi

biểu quyết thông qua quyết định về việc giải quyết vụ án thì HĐGĐT sẽ gồm toàn thể

Thẩm phán TANDTC. Khi xét xử giám đốc thẩm bằng Hội đồng toàn thể Ủy ban Thẩm phán TANDCC, Ủy ban Thẩm phán TAQS trung ƣơng, Hội đồng Thẩm phán

TANDTC thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia, do Chánh án Tòa án xét xử giám đốc thẩm làm chủ tọa phiên tòa. Quyết định phải đƣợc quá nửa tổng số

thành viên biểu quyết tán thành; nếu không đƣợc quá nửa số thành viên tán thành thì

phải hoãn phiên tòa. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa

thì Hội đồng toàn thể Ủy ban Thẩm phán TANDCC, Ủy ban Thẩm phán TAQS trung

ƣơng, Hội đồng Thẩm phán TANDTC phải mở phiên tòa xét xử lại vụ án.

Theo Luật tổ chức TAND, Hội đồng Thẩm phán TANDTC có số lƣợng không

dƣới 13 ngƣời và không quá 17 ngƣời gồm: Chánh án, các Phó Chánh án là Thẩm

phán TANDTC và các Thẩm phán TANDTC. Ủy ban Thẩm phán TANDCC gồm

Chánh án, các Phó Chánh án là Thẩm phán cao cấp và một số Thẩm phán cao cấp do

Chánh án TANDTC quyết định theo đề nghị của Chánh án TANDCC. Số lƣợng thành

viên Ủy ban Thẩm phán TANDCC không dƣới 11 ngƣời và không quá 13 ngƣời. Ủy

ban Thẩm phán TAQS trung ƣơng gồm Chánh án, Phó Chánh án là Thẩm phán cao

cấp và một số Thẩm phán cao cấp do Chánh án TANDTC quyết định theo đề nghị của

Chánh án TAQS trung ƣơng. Tổng số thành viên Ủy ban Thẩm phán TAQS trung ƣơng không quá 07 ngƣời.

Quy định về thành phần HĐGĐT trong BLTTHS năm 2015 cụ thể hơn so với các BLTTHS trƣớc. Tuy nhiên, giống nhƣ các BLTTHS trƣớc đây, BLTTHS năm 2015 cũng không quy định vấn đề thay đổi và vắng mặt Thẩm phán tại phiên Tòa giám đốc thẩm. Ngoài ra, nếu nhƣ thủ tục phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm có các quy định

về hoãn phiên tòa trong trƣờng hợp vắng mặt Kiểm sát viên hoặc thành viên Hội đồng

xét xử thì giám đốc thẩm không có quy định về vấn đề này. Mặc dù trên thực tế những

trƣờng hợp này hầu nhƣ chƣa bao giờ xảy ra nhƣng trên cơ sở kỹ thuật lập pháp, cần

88

nghiên cứu bổ sung quy định này để hoàn thiện pháp luật.

c. Phiên tòa giám đốc thẩm

Thủ tục tại phiên tòa giám đốc thẩm đƣợc quy định tại Điều 368 BLTTHS năm

2015, cụ thể nhƣ sau:

- Sau khi chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa, một thành viên HĐGĐT trình

bày bản thuyết trình về vụ án. Các thành viên khác của HĐGĐT hỏi thêm Thẩm phán thuyết trình về những điểm chƣa rõ trƣớc khi thảo luận và phát biểu ý kiến của mình

về việc giải quyết vụ án. Trƣờng hợp Viện kiểm sát kháng nghị thì Kiểm sát viên trình bày kháng nghị. Trƣờng hợp ngƣời bị kết án, ngƣời bào chữa, ngƣời có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan đến kháng nghị có mặt tại phiên tòa thì những ngƣời này đƣợc trình

bày ý kiến về những vấn đề mà HĐGĐT yêu cầu.

- Trong trƣờng hợp Chánh án Tòa án kháng nghị giám đốc thẩm, Kiểm sát viên

đƣợc phân công tham dự phiên tòa phải phát biểu ý kiến nêu rõ lý do nhất trí, không nhất trí với một phần hoặc toàn bộ kháng nghị; việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị

của Chánh án và việc giải quyết vụ án. Ngoài ra, Kiểm sát viên còn phải kiểm sát việc

tuân theo pháp luật của Tòa án và những ngƣời tham gia tố tụng nhƣ: thời hạn xét xử;

việc triệu tập và xét hỏi ngƣời bị kết án, ngƣời bào chữa, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ

liên quan đến việc kháng nghị (nếu có); thành phần HĐGĐT; việc tạm đình chỉ thi

hành án và các hoạt động khác của Tòa án. Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp

luật tại phiên tòa giám đốc thẩm của Kiểm sát viên rất mờ nhạt bởi vì trên thực tế phiên tòa giám đốc thẩm có hình thức giống nhƣ phiên họp của HĐGĐT với sự tham

gia của Kiểm sát viên cùng cấp, vi phạm về thủ tục tại phiên tòa hiếm khi xuất hiện.

- Kiểm sát viên, ngƣời tham gia tố tụng tại phiên tòa giám đốc thẩm tranh tụng

về những vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ án. Đây là quy định mới trong

BLTTHS năm 2015 xuất phát từ nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử đƣợc bảo đảm”.

Theo đó, Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh

tụng tại phiên tòa để ban hành các bản án, quyết định.

- Các thành viên HĐGĐT phát biểu ý kiến của mình và thảo luận. HĐGĐT biểu

quyết về việc giải quyết vụ án và công bố quyết định về việc giải quyết vụ án.

BLTTHS không quy định về chủ tọa phiên tòa giám đốc thẩm nhƣng thực tế chủ tọa phiên tòa thƣờng là Chánh án hoặc một Phó Chánh án đƣợc Chánh án ủy quyền trong trƣờng hợp Chánh án vắng mặt. Ngoài ra, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có

89

bản án, quyết định bị kháng nghị giám đốc thẩm phải gửi một bản giải trình đến Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm trƣớc khi mở phiên tòa. Tại phiên tòa, Thẩm phán đƣợc phân công sau khi thuyết trình về vụ án hoặc sau khi Kiểm sát viên trình bày kháng nghị (trƣờng hợp Viện kiểm sát kháng nghị) sẽ đọc bản giải trình này để HĐGĐT và những ngƣời tham dự cùng biết.

3.1.3.3. Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm

a. Phạm vi giám đốc thẩm (Điều 387)

HĐGĐT phải xem xét toàn bộ vụ án mà không chỉ hạn chế trong nội dung của

kháng nghị. Khác với phúc thẩm, phạm vi giám đốc thẩm rất rộng. Quy định này

không thay đổi gì so với BLTTHS năm 2003. Việc xem xét toàn bộ vụ án không chỉ là thẩm quyền mà còn là trách nhiệm của HĐGĐT. Nghiên cứu các quyết định giám đốc

thẩm đƣợc ban hành trƣớc năm 2017, không có trƣờng hợp nào HĐGĐT áp dụng quy định này để quyết định các nội dung ngoài kháng nghị. Trên thực tế, khi HĐGĐT phát

hiện những nội dung mới cần phải kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chƣa đƣợc

đề cập trong kháng nghị thì quyết định hoãn phiên tòa để chủ thể kháng nghị bổ sung

kháng nghị. Tuy nhiên, sau khi BLTTHS năm 2015 có HLPL, trong một số trƣờng

hợp, HĐGĐT đã quyết định những nội dung ngoài kháng nghị [Phụ lục 16].

b. Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm.

Theo quy định của BLTTHS năm 2015, thẩm quyền của HĐGĐT đã đƣợc mở

rộng hơn, ngoài các quyền: không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết

định đã có HLPL bị kháng nghị; hủy bản án, quyết định đã có HLPL để điều tra lại

hoặc xét xử lại; hủy bản án, quyết định đã có HLPL và đình chỉ vụ án, HĐGĐT còn có

quyền hủy bản án, quyết định đã có HLPL và giữ nguyên bản án, quyết định đúng

pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm bị hủy, sửa không đúng

pháp luật; sửa bản án, quyết định đã có HLPL và đình chỉ xét xử giám đốc thẩm.

- Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có HLPL

bị kháng nghị (Điều 389)

HĐGĐT không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có

HLPL bị kháng nghị khi xét thấy bản án, quyết định đó có căn cứ và đúng pháp luật.

Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực

bị kháng nghị có nghĩa là bản án, quyết định đã có HLPL không có vi phạm pháp luật

hoặc có vi phạm nhƣng không nghiêm trọng. Trong trƣờng hợp này, HĐGĐT không

chấp nhận toàn bộ kháng nghị và cũng không đƣa ra những quyết định ngoài kháng nghị [101, tr.74]. “Không chấp nhận kháng nghị” và “giữ nguyên bản án, quyết định đã có HLPL bị kháng nghị” là hai nội dung cần và đủ để phân biệt hậu quả pháp lý có thể xảy ra khi HĐGĐT xem xét kháng nghị. Trƣờng hợp này ít khi xảy ra bởi vì chủ

90

thể kháng nghị có quyền rút kháng nghị trƣớc hoặc ngay tại phiên tòa giám đốc thẩm. Tại phiên tòa, các chủ thể này ngoài việc đƣa ra các chứng cứ, tài liệu để bảo vệ kháng nghị còn đƣợc nghe HĐGĐT thảo luận, từ đó có thể tự đánh giá khả năng kháng nghị đƣợc chấp nhận hay không đƣợc chấp nhận để quyết định việc rút kháng nghị.

- Hủy bản án, quyết định đã có HLPL để điều tra lại hoặc xét xử lại (Điều 391).

HĐGĐT hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có HLPL để điều tra

lại hoặc xét xử lại nếu có một trong các căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm quy định

tại Điều 371 BLTTHS năm 2015.

Trƣờng hợp để điều tra lại, HĐGĐT quyết định hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL khi có một trong các căn cứ: “có vi phạm

nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố” và “có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật”. Những vi phạm và sai lầm nghiêm trọng này không thể khắc

phục trong quá trình xét xử nên phải điều tra lại theo thủ tục chung.

Nếu hủy bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án để xét xử lại thì tùy trƣờng

hợp, HĐGĐT có thể quyết định xét xử lại từ cấp sơ thẩm hoặc cấp phúc thẩm. Xét xử

sơ thẩm lại thuộc các trƣờng hợp sau:

+ Bản án hoặc quyết định có HLPL là bản án hoặc quyết định sơ thẩm; + Bản án hoặc quyết định có HLPL là bản án hoặc quyết định phúc thẩm nhƣng bị

kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm theo hƣớng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. HĐGĐT xét

thấy cần phải quyết định theo hƣớng tăng nặng đối với ngƣời bị kết án;

+ Bản án hình sự sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng nhƣng Tòa án cấp phúc

thẩm không phát hiện ra và quyết định y án sơ thẩm.

Đối với trƣờng hợp hủy bản án, quyết định có HLPL để xét xử phúc thẩm lại,

HĐGĐT ngoài việc xem xét những vi phạm trong bản án phúc thẩm còn phải căn cứ

vào các quy định của pháp luật TTHS về xét xử phúc thẩm, xem Tòa án cấp phúc thẩm

có thể xét xử lại đƣợc không để quyết định. Ví dụ: sau khi xét xử sơ thẩm, chỉ có

kháng cáo, kháng nghị đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tòa án cấp phúc thẩm

chấp nhận giảm hình phạt cho bị cáo. Khi xem xét bản án phúc thẩm, HĐGĐT nhận

thấy cần phải áp dụng điều khoản của BLHS về tội nặng hơn đối với ngƣời bị kết án. Trƣờng hợp này không thể hủy bản án phúc thẩm để xét xử phúc thẩm lại. Ngƣợc lại,

nếu kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm đề nghị tăng nặng đối với bị cáo, Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận mà giữ nguyên quyết định về tội danh và hình phạt của bản án sơ thẩm đối với bị cáo. Bản án phúc thẩm bị kháng nghị giám đốc thẩm theo hƣớng tăng nặng. Nếu HĐGĐT xét thấy kháng nghị là đúng thì chỉ cần hủy bản án có HLPL để xét xử phúc thẩm lại. Trƣờng hợp thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo thì

HĐGĐT ra quyết định tạm giam cho đến khi Viện kiểm sát hoặc Tòa án thụ lý lại vụ án.

- Hủy bản án, quyết định đã có HLPL và đình chỉ vụ án (Điều 392).

HĐGĐT hủy bản án, quyết định đã có HLPL và đình chỉ vụ án nếu có một

trong các căn cứ: không có sự việc phạm tội; hành vi không cấu thành tội phạm; ngƣời

thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chƣa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; ngƣời

mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có HLPL; đã 91

hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm đã đƣợc đại xá; ngƣời thực hiện

hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết; khởi tố theo yêu cầu của bị hại mà bị hại hoặc

ngƣời đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố. HĐGĐT có thể hủy một phần hoặc

toàn bộ bản án, quyết định có HLPL của Tòa án và đình chỉ đối với một hoặc tất cả những ngƣời bị kết án. Các căn cứ trên chính là các căn cứ không khởi tố vụ án hình

sự, đình chỉ vụ án, đình chỉ điều tra trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử.

Trong số những căn cứ này, một số xuất hiện từ trƣớc khi khởi tố vụ án nhƣng

cơ quan tiến hành tố tụng không phát hiện ra đƣợc, dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong

việc giải quyết vụ án (ví dụ: hành vi không cấu thành tội phạm; ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chƣa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự…), một số có thể xuất

hiện ở bất kỳ giai đoạn tố tụng nào, kể cả khi bản án, quyết định của Tòa án đã có

HLPL nhƣ quyết định đại xá hoặc ngƣời bị kết án chết. Trên thực tế, trƣờng hợp

HĐGĐT hủy bản án, quyết định có HLPL của Tòa án và đình chỉ vụ án vì ngƣời mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có HLPL và đã

hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự ít khi xảy ra. Những vi phạm này hầu hết đã

đƣợc khắc phục trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và phúc thẩm.

Đối với trƣờng hợp tội phạm đã đƣợc đại xá và ngƣời thực hiện hành vi nguy

hiểm cho xã hội đã chết, nếu những căn cứ này có trƣớc khi khởi tố vụ án nhƣng các

cơ quan tiến hành tố tụng vẫn điều tra, truy tố, xét xử và kết án bị cáo bằng một bản án

có HLPL thì đây là căn cứ để xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án có HLPL theo

thủ tục giám đốc thẩm. Thực tiễn xét xử hầu nhƣ không có trƣờng hợp nào một tội

phạm đã đƣợc đại xá mà ngƣời phạm tội lại vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự nên

loại sai lầm này chƣa thấy xảy ra [101, tr.87]. Tuy nhiên, nếu những căn cứ này xuất

hiện sau khi bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL thì chỉ là căn cứ để HĐGĐT

quyết định đình chỉ vụ án khi xem xét kháng nghị giám đốc thẩm. Các căn cứ này lúc đó không phải là căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm. Việc ngƣời bị kết án đƣợc đại

xá hay chết sau khi bản án có HLPL không phải do các cơ quan tiến hành tố tụng vi

phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.

- Hủy bản án, quyết định đã có HLPL và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm bị hủy, sửa không đúng pháp luật (Điều 390).

Đây là thẩm quyền mới của HĐGĐT. Theo đó, HĐGĐT có thể hủy bản án phúc thẩm có vi phạm pháp luật để giữ nguyên bản án sơ thẩm hoặc hủy quyết định giám

đốc thẩm để giữ nguyên bản án sơ thẩm hoặc phúc thẩm có HLPL. Lúc này, bản án đã

bị giám đốc thẩm hoặc phúc thẩm hủy, sửa trƣớc trở thành bản án có HLPL. Ví dụ:

Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội “Giết ngƣời trong trạng thái tinh thần bị kích

92

động mạnh”. Tòa án cấp phúc thẩm lại kết án bị cáo về tội “Giết ngƣời”. Bản án hình

sự phúc thẩm bị kháng nghị giám đốc thẩm và HĐGĐT đã quyết định hủy bản án hình

sự phúc thẩm, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm về tội danh đối với bị cáo [20].

- Sửa bản án, quyết định đã có HLPL (Điều 393)

Trƣớc đây, BLTTHS năm 1988 đã quy định HĐGĐT có quyền sửa bản án,

quyết định của Tòa án đã có HLPL. Tuy nhiên, thẩm quyền này đã bị bãi bỏ trong BLTTHS năm 2003 và HĐGĐT chỉ có quyền hủy bản án hoặc quyết định đã có HLPL

để điều tra lại hoặc xét xử lại hoặc đình chỉ vụ án. Thực tiễn thi hành cho thấy có những trƣờng hợp HĐGĐT quyết định hủy bản án, quyết định đã có HLPL để điều tra

lại hoặc xét xử lại, nhƣng do tính chất độc lập của mỗi cấp xét xử nên sau đó, các cấp

xét xử lại vẫn giữ nguyên các nội dung đã tuyên trong bản án, quyết định bị hủy trƣớc

đó; hoặc có trƣờng hợp chứng cứ đã rõ ràng, có thể khắc phục ngay mà không nhất

thiết hủy án để điều tra lại [152, tr.28], làm quá trình giải quyết vụ án bị kéo dài, không đáp ứng đƣợc yêu cầu giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời.

Vì vậy, để khắc phục tình trạng trên, BLTTHS năm 2015 đƣa thẩm quyền này

trở lại với nhiều điều kiện hơn, cụ thể và chặt chẽ hơn so với BLTTHS năm 1988.

Điều kiện để HĐGĐT sửa bản án, quyết định đã có HLPL là: (i) các tài liệu, chứng cứ

trong hồ sơ vụ án đã rõ ràng, đầy đủ; (ii) việc sửa bản án, quyết định không làm thay

đổi bản chất của vụ án, không làm xấu đi tình trạng của ngƣời bị kết án, không gây bất

lợi cho bị hại, đƣơng sự. Ngoài ra, nếu nhƣ quy định của BLTTHS năm 1988 chỉ cho phép HĐGĐT sửa hình phạt và áp dụng điều, khoản BLHS về tội nhẹ hơn thì

BLTTHS năm 2015 cho phép HĐGĐT đƣợc sửa bản án, quyết định đã có HLPL trong

phạm vi rộng hơn, có thể là giảm hình phạt bổ sung cho ngƣời bị kết án; thay đổi các

biện pháp tƣ pháp nhƣ tịch thu vật, tiền mà xét thấy có căn cứ cho rằng vật, tiền đó

không trực tiếp liên quan đến vụ án… HĐGĐT còn có quyền sửa hình phạt và áp dụng

điều khoản của BLHS về tội nhẹ, khung hình phạt thấp hơn đối với cả những ngƣời

không bị kháng nghị. Tuy nhiên, việc sửa bản án, quyết định này phải đồng thời đảm

bảo không làm bất lợi cho những ngƣời khác có liên quan.

Việc BLTTHS năm 2015 trao quyền sửa bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án cho HĐGĐT có thể rút ngắn thời gian giải quyết vụ án trong một số trƣờng hợp. Tuy nhiên, theo chúng tôi, thẩm quyền này không phù hợp với bản chất của giám đốc thẩm, cần phải nghiên cứu sửa đổi.

- Đình chỉ xét xử giám đốc thẩm

93

Trƣờng hợp HĐGĐT đình chỉ xét xử giám đốc thẩm là khi tại phiên tòa chủ thể đã kháng nghị rút toàn bộ kháng nghị giám đốc thẩm. Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định, Tòa án gửi quyết định đình chỉ xét xử giám đốc thẩm cho Tòa án đã ra bản án, quyết định đã có HLPL bị kháng nghị giám đốc thẩm, ngƣời bị kết án, cơ

quan thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án dân sự và những ngƣời có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan đến nội dung kháng nghị và Viện kiểm sát cùng cấp.

3.1.3.4. Hiệu lực của quyết định giám đốc thẩm

Quyết định của HĐGĐT có hiệu lực kể từ ngày ra quyết định. Quyết định giám

đốc thẩm của TANDCC có thể bị giám đốc thẩm bởi Hội đồng Thẩm phán TANDTC. Theo quy định của các BLTTHS trƣớc đây và khoản 4 Điều 22 Luật tổ chức TAND

năm 2014: Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC là quyết định cao nhất, không bị kháng nghị.

Tuy nhiên, trên thực tế, qua hoạt động giám sát của Quốc hội đã phát hiện có

trƣờng hợp quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC vẫn có vi phạm pháp luật

nghiêm trọng, làm ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá

nhân, cần phải đƣợc xem xét lại” [152, tr.29]. Ngoài ra, để bảo đảm đồng bộ với Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung một

chƣơng mới quy định về việc xem xét lại quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng

thẩm phán TANDTC. Theo đó, khi phát hiện ra một trong hai căn cứ (1) có căn cứ xác

định có vi phạm pháp luật nghiêm trọng; (2) phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể

làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán TANDTC không

biết đƣợc khi ra quyết định đó, nếu Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội yêu cầu, Ủy ban tƣ

pháp của Quốc hội, Viện trƣởng VKSNDTC kiến nghị và Chánh án TANDTC đề nghị thì Hội đồng Thẩm phán TANDTC phải mở phiên họp để xem xét lại quyết định đó.

Trƣờng hợp yêu cầu, kiến nghị và đề nghị đƣợc chấp nhận, quyết định giám đốc thẩm

của Hội đồng Thẩm phán TANDTC có thể bị hủy để điều tra lại hoặc xét xử lại.

3.1.4. Đánh giá các quy định của pháp luật về giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành và kế thừa thành tựu của các BLTTHS

trƣớc đây, các quy định về thủ tục giám đốc thẩm trong BLTTHS năm 2015 đã hoàn

thiện, rõ ràng, cụ thể hơn, đảm bảo hiệu quả trong việc thi hành, cụ thể nhƣ sau:

Thứ nhất, các căn cứ kháng nghị đã đƣợc thu gọn, đảm bảo phù hợp với bản

chất của các loại vi phạm (vi phạm về hình thức, nội dung) và thực tiễn giám đốc thẩm, không trùng lặp giữa các căn cứ. Phạm vi xem xét các vi phạm trong việc áp dụng pháp luật cũng đƣợc mở rộng mà không chỉ giới hạn trong việc áp dụng quy định của BLHS. Quy định các vi phạm nghiêm trọng phải gắn liền với hậu quả có thể phần

nào hạn chế đƣợc việc kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ.

Thứ hai, BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ trách nhiệm của các Tòa án cấp

trên trong việc kiểm tra bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án cấp dƣới. Quy định

này nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của các Tòa án cấp dƣới trong hoạt động xét xử

và ban hành các bản án, đồng thời đảm bảo những vi phạm trong các bản án, quyết

định có HLPL của Tòa án cấp dƣới đƣợc phát hiện kịp thời và nhanh chóng khắc phục. 94

Thứ ba, quy định về thủ tục thông báo, tiếp nhận thông báo bản án, quyết định

đã có HLPL của Tòa án cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đã đƣợc bổ sung đầy

đủ, chi tiết, đảm bảo quyền kiểm tra, giám sát của mọi thành phần xã hội; các thông

báo phải đƣợc tiếp nhận đầy đủ, phân loại ngay từ khi mới tiếp nhận và chuyển đến đúng các chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm. Ngoài ra, các nội dung

trong văn bản thông báo cũng đã đƣợc quy định cụ thể, tạo điều kiện để các chủ thể có

thẩm quyền kháng nghị có căn cứ yêu cầu chuyển hồ sơ vụ án để xem xét kháng nghị,

tiết kiệm thời gian, nâng cao hiệu quả giám đốc thẩm.

Thứ tư, quy định về thời hạn chuyển hồ sơ vụ án để xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm là rất cần thiết và phù hợp với thực tiễn để các chủ thể có thẩm quyền kháng

nghị có thời gian nghiên cứu, đối chiếu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án với

bản án, quyết định cần xét lại, đánh giá chính xác các vi phạm (nếu có), kịp thời quyết

định kháng nghị, nhanh chóng khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân; đảm bảo pháp luật đƣợc áp dụng đúng đắn, thống nhất, các bản án, quyết định

có HLPL đƣợc Tòa án tuyên nhân danh Nhà nƣớc chính xác, hợp pháp.

Thứ năm, các quy định về thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm và thay đổi bổ

sung kháng nghị đã đầy đủ, phù hợp với các nguyên tắc của TTHS, thẩm quyền của

các chủ thể có thẩm quyền kháng nghị.

Thứ sáu, thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm và thẩm quyền giám đốc thẩm đã thay đổi để phù hợp với cơ cấu tổ chức bộ máy ngành Tòa án và Kiểm sát. Sự thay

đổi này còn có ý nghĩa quan trọng để đảm bảo việc hƣớng dẫn, thống nhất áp dụng

pháp luật ở phạm vi rộng; hạn chế việc một bản án, quyết định bị xem xét theo thủ tục

giám đốc thẩm nhiều lần, kéo dài quá trình giải quyết vụ án.

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có những quy định còn hạn chế, bất cập, thậm chí

không phù hợp với bản chất của thủ tục giám đốc thẩm, cụ thể nhƣ sau:

Thứ nhất, giống nhƣ các BLTTHS trƣớc đây, BLTTHS năm 2015 vẫn chƣa làm

rõ đối tƣợng của thủ tục giám đốc thẩm. Các quy định về bản án có HLPL nằm ở các điều luật khác nhau, trong khi số lƣợng các quyết định có HLPL của Tòa án quá nhiều, không phân biệt đƣợc quyết định nào là đối tƣợng của hoạt động hành chính – tố tụng, quyết định nào là đối tƣợng của giám đốc thẩm. Ngoài ra, trong một số trƣờng hợp, đối tƣợng của giám đốc thẩm lại thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm.

95

Thứ hai, BLTTHS không quy định cụ thể những trƣờng hợp đƣợc coi là “vi phạm nghiêm trọng”, dẫn đến tình trạng trong nhiều trƣờng hợp, việc đánh giá vi phạm còn chủ quan, thiếu thiết phục. Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm coi trọng hậu quả của các vi phạm và có xu hƣớng xem nhẹ yêu cầu phải thi hành đúng, đầy đủ các quy định của BLTTHS trong quá trình giải quyết vụ án. Ngoài ra, phạm vi xem xét, đánh giá vi phạm trong việc áp dụng pháp luật nội dung lại quá rộng, chung chung.

Thứ ba, chủ thể có quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm quá nhiều, bao

gồm cả các cá nhân, tổ chức không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến bản án, quyết

định của Tòa án đã có HLPL, thậm chí không biết gì về vụ án. Các chủ thể này có

quyền đề nghị kháng nghị nhƣng không phải chịu trách nhiệm về đề nghị của mình.

Thứ tư, quy định chủ thể có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

là Tòa án không thực sự phù hợp với chức năng, vị trí của Tòa án trong TTHS.

Thứ năm, một số quy định về thủ tục giám đốc thẩm không phù hợp với các nguyên tắc của TTHS; một số thẩm quyền của HĐGĐT còn thiếu sót, chƣa đầy đủ,

một số khác thậm chí không phù hợp với bản chất của giám đốc thẩm.

Thứ sáu, quy định về việc xem xét lại quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng

Thẩm phán TANDTC là không phù hợp cả về lý luận và thực tiễn.

3.2. Thực trạng giám đốc thẩm

3.2.1. Thực tiễn thi hành các quy định về thủ tục kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

3.2.1.1. Số lượng bản án, quyết định của Tòa án bị kháng nghị giám đốc thẩm

chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án.

Tổng số bản án, quyết định có HLPL của Tòa án; số lƣợng bản án, quyết định

của Tòa án bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đƣợc thể hiện trong Bảng 1 [Phụ

lục 1]. Số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án

bị kháng nghị giám đốc thẩm là rất nhỏ. Trong thời gian 10 năm từ 2010 đến 2019,

tổng số các bản án, quyết định của Tòa án bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

chỉ chiếm 0,36% tổng số các bản án, quyết định có HLPL của Tòa án. Tỷ lệ này hàng

năm cũng thấp hơn 1%, thậm chí có những năm chỉ hơn 0,1%.

Tỷ lệ bản án, quyết định đã có HLPL bị kháng nghị giám đốc thẩm thấp phần

nào thể hiện mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật hình sự,

TTHS nói riêng và chất lƣợng trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự của các cơ

quan tiến hành tố tụng.

Trƣớc hết, việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật đã tạo điều kiện cho các cơ quan

tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng hiểu và áp dụng đúng pháp luật, hạn chế khó khăn, vƣớng mắc trong quá trình giải quyết vụ án, đảm bảo việc giải quyết vụ án đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, ngƣời phạm tội. Trong những năm qua, Quốc hội đã sửa đổi, hoàn thiện Hiến pháp và nhiều đạo luật quan trọng nhƣ

96

BLHS, BLTTHS, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, tạo nền móng vững chắc cho các hoạt động tố tụng, trong đó có giải quyết vụ án hình sự. Ngoài ra, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng tăng cƣờng công tác phối hợp, tổng kết thực tiễn, thống nhất hƣớng dẫn áp dụng pháp luật trong khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; việc xây dựng và phát triển án lệ đƣợc quan tâm, đổi mới, dần trở thành nguồn luật quan trọng. Số lƣợng văn

bản hƣớng dẫn áp dụng pháp luật và án lệ đƣợc TANDTC ban hành tăng hơn nhiều so

với trƣớc (đến ngày 15/01/2019, TANDTC đã ban hành 18 Nghị quyết của Hội đồng

Thẩm phán, 19 Thông tƣ liên tịch, 07 Thông tƣ của Chánh án, 26 án lệ và 05 tập giải

đáp nghiệp vụ). Nhiều vƣớng mắc trong áp dụng pháp luật đã đƣợc tháo gỡ, góp phần nâng cao chất lƣợng xét xử của các Toà án [141, tr.3].

Trên cơ sở quy định mới về tổ chức, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố

tụng, tổ chức bộ máy của ngành Tòa án và Viện kiểm sát đã có sự thay đổi với việc

thành lập các Tòa án và Viện kiểm sát cấp cao đƣợc tổ chức, hoạt động độc lập và tập

trung vào hoạt động xét xử. So với các Tòa phúc thẩm và Viện phúc thẩm trƣớc đây, nguồn nhân lực của các Tòa án và Viện kiểm sát cấp cao tham gia vào hoạt động xét

xử phúc thẩm đã tăng lên rất nhiều, tạo điều kiện thuận lợi trong việc phát hiện và

khắc phục những sai lầm, vi phạm trong các bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ

thẩm chƣa có HLPL. Bên cạnh đó, việc phân cấp, phân quyền đƣợc thực hiện theo hƣớng bỏ thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm và thẩm quyền giám đốc thẩm của

Viện kiểm sát, Tòa án cấp tỉnh đã tạo điều kiện để Viện kiểm sát và Tòa án cấp tỉnh

làm tốt nhiệm vụ của mình trong việc giải quyết vụ án hình sự, hạn chế tối đa vi phạm

trong các bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL. Trong hoạt động thực hành

quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp, Viện kiểm sát tập trung vào các hoạt

động chứng minh tội phạm, đảm bảo truy tố đúng ngƣời, đúng tội; kiểm sát chặt chẽ

hoạt động xét xử sơ thẩm của Tòa án cùng cấp và cấp dƣới, kịp thời kháng nghị phúc

thẩm hoặc đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm. Trong xét xử, Tòa án cấp tỉnh kịp thời

phát hiện và trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi chƣa đủ chứng cứ, tài

liệu để kết tội bị cáo hoặc phát hiện có vi phạm trong điều tra, truy tố, cần phải khắc

phục; đồng thời trong xét xử phúc thẩm đã khắc phục phần lớn sai lầm, vi phạm trong

xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm, góp phần hạn chế những bản án, quyết định đã có

HLPL bị kháng nghị giám đốc thẩm.

Chất lƣợng giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng nói

chung và chất lƣợng xét xử của Tòa án nói riêng ngày càng tốt, đảm bảo đúng pháp luật, hạn chế vi phạm nghiêm trọng. Việc tranh tụng tại các phiên tòa đƣợc thực thi nghiêm túc [142, tr.2]. Chất lƣợng tranh tụng tại phiên tòa ngày càng cao, trách nhiệm công tố của Kiểm sát viên tại các phiên tòa đƣợc tăng cƣờng, Kiểm sát viên tích cực,

97

chủ động xét hỏi, tranh tụng làm rõ nội dung vụ án [162, tr.10]. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác nghiệp vụ, phục vụ tốt cho hoạt động nghiên cứu hồ sơ, xét hỏi, công bố chứng cứ, tranh tụng tại phiên tòa [162, tr.10]. Chất lƣợng các quyết định giám đốc thẩm đã đƣợc nâng cao, nội dung rõ ràng, chỉ ra những sai sót nghiêm trọng của cấp dƣới và những vấn đề phải làm rõ khi giải quyết lại [142, tr.2]. Hoạt động phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng cũng đƣợc chú trọng, đảm bảo đúng

quy định của pháp luật, thống nhất trong việc áp dụng pháp luật, nâng cao hiệu quả, rút

ngắn thời gian giải quyết vụ án, hạn chế sai lầm.

Tuy nhiên, số lƣợng bản án, quyết định có HLPL của Tòa án bị kháng nghị

giám đốc thẩm chiếm tỷ lệ nhỏ cũng phần nào chứng tỏ công tác giám đốc thẩm còn có những hạn chế. Theo số liệu thống kê, từ khi BLTTHS năm 2015 ra đời, số lƣợng

bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

tăng lên đáng kể. Trƣớc tháng 6/2015 (thời điểm thành lập các Tòa án và Viện kiểm

sát cấp cao), tỷ lệ bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL bị kháng nghị giám đốc

thẩm trung bình chiếm 0,24% tổng số các bản án, quyết định đã có HLPL. Tỷ lệ này đã tăng lên 0,57%, hơn 2 lần so với khoảng thời gian 05 năm trƣớc đó. Điều này một

mặt chứng tỏ hiệu quả trong hoạt động kiểm tra, phát hiện vi phạm vi phạm pháp luật

trong các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án nhƣng mặt khác cũng cho thấy

trên thực tế có thể nhiều bản án, quyết định trƣớc đây đã không đƣợc kiểm tra hoặc đã kiểm tra nhƣng không phát hiện đƣợc những vi phạm nghiêm trọng; cũng có thể chất

lƣợng giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng trong thời gian gần

đây có dấu hiệu suy giảm, nhiều vi phạm nghiêm trọng đến mức phải kháng nghị giám

đốc thẩm. Thực tế này xuất phát từ một số nguyên nhân sau:

Thứ nhất, các quy định pháp luật, hƣớng dẫn thi hành vẫn chƣa đầy đủ, kịp

thời. Mặc dù tốc độ ban hành các nghị quyết, án lệ, thông tƣ liên tịch hƣớng dẫn thi

hành BLHS, BLTTHS đã tăng nhƣng chƣa đáp ứng đƣợc đòi hỏi của thực tiễn công

tác giải quyết các vụ án hình sự. Các quy định mới của các đạo luật về tƣ pháp đã có

hiệu lực thi hành nhƣng một số vƣớng mắc nghiệp vụ chƣa đƣợc hƣớng dẫn kịp thời,

dẫn đến việc nhận thức giữa các cơ quan tiến hành tố tụng còn chƣa thống nhất [141,

tr.7]. Một số quy định mới thậm chí đã bộc lộ những hạn chế, bất cập cần đƣợc sửa

đổi, bổ sung. Riêng đối với thủ tục giám đốc thẩm, đến nay vẫn chƣa có quy định hoặc hƣớng dẫn cụ thể thế nào là “vi phạm nghiêm trọng”.

Thứ hai, việc phát hiện vi phạm trong các bản án, quyết định có HLPL của Tòa

án phụ thuộc vào trình độ, năng lực nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác của cán bộ, Kiểm sát viên, Thẩm phán, những ngƣời trực tiếp nghiên cứu bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Sau đó, việc nhận thức, đánh giá thế nào là sai lầm, vi phạm nghiêm trọng đến mức phải kháng nghị lại phụ thuộc

98

vào những ngƣời có thẩm quyền kháng nghị và HĐGĐT… Trong khi đó, theo đánh giá của TANDTC, đội ngũ Thẩm phán còn thiếu kinh nghiệm giải quyết những vấn đề mới phát sinh trong điều kiện hội nhập quốc tế, sự phát triển của công nghệ và kinh tế số [142, tr.7]. Đối với ngành kiểm sát, trách nhiệm của ngƣời đứng đầu ở một số nơi, một số đơn vị có biểu hiện buông lỏng trong quản lý, chỉ đạo, điều hành; năng lực,

trình độ của đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên chƣa đồng đều, một số cán bộ chƣa thực

hiện nghiêm những quy định của pháp luật liên quan đến chức năng [161, tr.28].

3.2.1.2. Hoạt động kiểm tra các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án có

nhiều chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn hạn chế nhất định.

Công tác kiểm tra bản án, quyết định có HLPL của Tòa án giữ vai trò quan trọng việc phát hiện vi phạm. Việc phát hiện vi phạm pháp luật trong các bản án, quyết định

đã có HLPL của Tòa án là không có giới hạn. Bất kỳ cá nhân, tổ chức nào cũng có quyền kiểm tra các bản án có HLPL của Tòa án, trƣờng hợp phát hiện vi phạm có

quyền thông báo đến các cơ quan có thẩm quyền kháng nghị. Mục đích của quy định

này nhằm đảm bảo việc kiểm tra, giám sát cao nhất, rộng nhất đối với hoạt động giải

quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và hoạt động xét xử của Tòa

án nói riêng; tăng tính minh bạch trong hoạt động xét xử và nâng cao chất lƣợng của các bản án, quyết định có HLPL của Tòa án.

Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của việc kiểm tra các bản án, quyết định đã có

HLPL của Tòa án, ngày 16/3/2017, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã ban hành Nghị

quyết số 03/2017/NQ-HĐTP về việc công bố bản án, quyết định trên cổng thông tin

điện tử của Tòa án. Theo đó, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày bản án, quyết định có

HLPL, các bản án không thuộc các trƣờng hợp sau đây phải đƣợc phải đƣợc công bố

trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án: (1) Có chứa đựng nội dung thuộc danh mục bí mật nhà nƣớc theo quy định của Chính phủ hoặc chứa đựng những nội dung mà Nhà

nƣớc chƣa công bố và nếu bị tiết lộ thì gây nguy hại cho Nhà nƣớc; (2) Có chứa đựng

thông tin về hoạt động đầu tƣ tài chính, bí quyết nghề nghiệp, công nghệ chƣa đƣợc

bộc lộ, có thể đƣợc sử dụng và tạo lợi thế trong kinh doanh mà trong quá trình Tòa án

xét xử, giải quyết vụ việc, ngƣời tham gia tố tụng đã có yêu cầu đƣợc giữ bí mật; (3)

Có chứa đựng nội dung ảnh hƣởng xấu đến truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán

tốt đẹp đƣợc thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng

dân cƣ; (4) Có ngƣời tham gia tố tụng là ngƣời dƣới 18 tuổi; (5) Có chứa đựng nội

dung liên quan đến bí mật cá nhân, bí mật gia đình mà chƣa đƣợc mã hóa theo quy định của Nghị quyết này.

Thực hiện Nghị quyết trên, các Toà án đã triển khai đăng tải bản án, quyết định đã có HLPL trên Cổng thông tin điện tử. Đến tháng 6/2018, đã có 210.000 bản án, quyết định đã có HLPL đƣợc công bố, thu hút đƣợc sự quan tâm rộng rãi của công chúng với gần 9 triệu lƣợt truy cập và nhận đƣợc nhận xét tích cực. Hầu hết các Thẩm

phán và tất cả các Tòa án trong toàn quốc đều đã có bản án đƣợc công bố theo quy

định [142, tr.2].

99

Hoạt động thanh tra, kiểm tra trong hệ thống Toà án đƣợc tăng cƣờng và tiến hành thƣờng xuyên. Đây là hoạt động nghiệp vụ của Tòa án cấp trên, nhằm phát hiện

vi phạm, khó khăn, vƣớng mắc hoạt động giải quyết vụ án của Tòa án cấp dƣới, kịp

thời khắc phục, chấn chỉnh, hƣớng dẫn. Hàng năm, Chánh án TANDTC đều ban hành

quy định và thƣờng kỳ triển khai công tác kiểm tra trong toàn hệ thống Tòa án. Từ

năm 2016 đến 2018, TANDTC đã tổ chức nhiều đoàn kiểm tra công tác chuyên môn, trong đó 09 đoàn kiểm tra đối với các TANDCC; 81 đoàn kiểm tra đối với các TAND

cấp tỉnh và 186 đoàn kiểm tra đối với các TAND cấp huyện. Các TAND cấp tỉnh cũng

duy trì thƣờng xuyên việc kiểm tra hoạt động nghiệp vụ tại các Tòa án thuộc quyền

quản lý [142, tr.5].

Bên cạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra trong ngành Tòa án, các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án cũng đƣợc kiểm sát bởi các Viện kiểm sát. Thông qua

hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử, Viện kiểm sát có điều kiện để

phát hiện nhanh chóng, chính xác các vi phạm trong quá trình xét xử và bản án, quyết

định của Tòa án, kịp thời đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm (đối với các Viện kiểm sát cấp dƣới) hoặc quyết định kháng nghị giám đốc thẩm (đối với các Viện kiểm sát có

thẩm quyền). Theo thống kê của VKSNDTC, hàng năm số lƣợng kháng nghị giám đốc

thẩm trên cơ sở đề nghị của các Viện kiểm sát cấp dƣới chiếm khoảng 17% tổng số

báo cáo, đề nghị kháng nghị.

Thực tiễn cho thấy công tác thanh tra, kiểm tra trong ngành Tòa án và hoạt

động kiểm sát của Viện kiểm sát có hiệu quả hơn so với việc phát hiện dƣới hình thức

đơn đề nghị của công dân hoặc các cơ quan, tổ chức xã hội. Bởi vì, đơn đề nghị giám

đốc thẩm phần lớn chỉ nêu những tình tiết có lợi cho ngƣời đƣợc đề nghị kháng nghị,

không đầy đủ, khách quan. Bên cạnh đó, trình độ, nhận thức pháp luật của ngƣời dân

còn chƣa cao, chƣa phát hiện đƣợc các vi phạm hoặc phát hiện đƣợc nhƣng đánh giá

không chính xác các vi phạm. Trong khi đó, hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm sát

của Tòa án và Viện kiểm sát đƣợc tiến hành một cách toàn diện bởi các chủ thể có năng lực chuyên môn, có trình độ pháp luật, trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án để đánh

giá tính đúng đắn, hợp pháp của các bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL.

Tuy nhiên, hoạt động kiểm tra các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án

vẫn còn những hạn chế sau:

- Việc giao, gửi bản án của Tòa án chƣa thực hiện đúng quy định tại Điều 262 BLTTHS năm 2015. Việc giao bản án cho bị cáo, bị hại, Viện kiểm sát cùng cấp phải đƣợc tiến hành trong 10 ngày kể từ ngày Tòa án tuyên án hoặc ra quyết định để đảm bảo quyền của các chủ thể này trong việc kiểm tra, phát hiện những sai lầm trong các

bản án, quyết định có HLPL của Tòa án, kịp thời kháng cáo, kháng nghị hoặc đề nghị

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên, theo báo cáo của

VKSNDTC, trong năm 2017 đã có 2.651 bản án, quyết định và năm 2018 là 2.388 bản

100

án, quyết định của Tòa án vi phạm thời hạn gửi cho Viện kiểm sát (chiếm 3,87% và

3,57% số lƣợng các bản án, quyết định có HLPL) và 684 bản án vi phạm trong việc

ban hành [152, tr.10]. TANDTC trong báo cáo tổng kết hàng năm cũng thẳng thắn

nhận định: vẫn còn tình trạng chậm gửi bản án, quyết định cho các cơ quan liên quan

hoặc chậm tống đạt văn bản tố tụng cho bị cáo, ngƣời tham gia tố tụng [132, tr.20].

- Việc rút hồ sơ ở Tòa án để nghiên cứu, xem xét giải quyết đơn đề nghị kháng

nghị giám đốc thẩm, tái thẩm còn gặp nhiều khó khăn, nhiều trƣờng hợp phải yêu cầu

nhiều lần dẫn đến việc phát hiện vi phạm không kịp thời [152, tr.33]. Mặc dù BLTTHS

năm 2015 đã quy định thời gian cụ thể trong việc chuyển hồ sơ để xem xét theo thủ tục

giám đốc thẩm là 07 ngày nhƣng một số trƣờng hợp yêu cầu chuyển hồ sơ của Viện kiểm sát, Tòa án cấp trên để xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm không đƣợc chấp

hành nghiêm chỉnh, quá thời hạn luật định, ảnh hƣởng đến thời hạn kháng nghị và giải

quyết đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm [Phụ lục 19].

- Số lƣợng các bản án, quyết định có HLPL của Tòa án là rất lớn nhƣng số

lƣợng cán bộ, Kiểm sát viên, Thẩm phán công tác giám đốc thẩm còn ít, “thiếu biên chế, lại phải tập trung giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm và nhiều việc khác” [107,

tr.46]. Vì vậy, để kiểm tra đƣợc tất cả các bản án, quyết định có HLPL của Tòa án là

không thể thực hiện đƣợc. Việc kiểm tra chủ yếu thông qua thủ tục xem xét bản án tử

hình trƣớc khi thi hành; giải quyết đơn yêu cầu, đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm của

cá nhân, tổ chức, các cơ quan Đảng, Nhà nƣớc. Rất ít bản án, quyết định đã có HLPL

của Tòa án đƣợc kiểm tra trực tiếp, sau đó yêu cầu Tòa án đang lƣu giữ chuyển hồ sơ

vụ án để nghiên cứu, xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm.

3.2.1.3 Hoạt động giải quyết đơn đề nghị, kiến nghị, thông báo vi phạm trong

các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án còn hạn chế.

Số lƣợng đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, thông báo vi phạm trong các

bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL và kết quả giải quyết đƣợc thể hiện cụ thể

trong Bảng 2 [Phụ lục 2]. Số liệu thống kê cho thấy, trung bình hàng năm có khoảng

gần 4.000 đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm gửi đến các cơ quan có thẩm quyền.

Số lƣợng đơn đề nghị, kiến nghị và thông báo vi phạm trong bản án, quyết định của Tòa án có HLPL gửi đến các cơ quan có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm ngày càng tăng, nhiều trƣờng hợp gay gắt, kéo dài [148, tr.12]. Tuy nhiên, trong số các đơn gửi đến Tòa án và Viện kiểm sát, nhiều đơn có nội dung trùng nhau dẫn đến số lƣợng đơn thƣờng cao hơn rất nhiều số bản án, quyết định của Tòa án có HLPL cần xem xét lại. Nhiều trƣờng hợp, những ngƣời đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm không chỉ gửi

đơn đến Tòa án, Viện kiểm sát mà còn gửi đến nhiều cơ quan Đảng, Nhà nƣớc. Các cơ

quan này lại chuyển đơn đến các cơ quan có thẩm quyền kháng nghị để giải quyết.

101

Nhiều trƣờng hợp một đơn đƣợc sao chép thành nhiều bản giống hệt nhau, gửi nhiều

lần đến cùng một cơ quan; một số trƣờng hợp nhiều ngƣời cùng đề nghị kháng nghị

cho một ngƣời bị kết án dẫn đến tình trạng số lƣợng đơn ngày càng tăng.

Trong thời gian từ 2010 đến 2019, số lƣợng đơn thông báo vi phạm, đề nghị

kháng nghị giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án tăng đột biến trong năm 2016 (hơn 20% so với các năm khác). Theo báo cáo Quốc hội của

VKSNDTC, cũng trong năm này, số lƣợt tiếp công dân tăng 14% so với năm 2015.

Nếu nhƣ trƣớc đây, đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm chủ yếu trong lĩnh vực dân

sự, hôn nhân và gia đình thì năm 2016 tăng nhiều ở lĩnh vực hình sự, nhất là từ sau khi

có một số trƣờng hợp đƣợc minh oan, dƣ luận quan tâm (nhƣ vụ ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang, vụ ông Huỳnh Văn Nén ở Bình Thuận) [164, tr.1].

Số lƣợng đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có xu hƣớng tăng

phần nào chứng tỏ niềm tin của ngƣời dân vào chất lƣợng giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan tƣ pháp nói chung, chất lƣợng xét xử của Tòa án nói riêng có dấu hiệu suy

giảm. Trên thực tế, có một số vụ án chất lƣợng xét xử của Tòa án chƣa tốt, trình độ nghiệp vụ cũng nhƣ đạo đức của một số cán bộ, Thẩm phán còn yếu kém. Một số vụ

án đƣợc giải quyết chƣa đúng pháp luật, kéo dài, chƣa khắc phục triệt để việc bản án

tuyên không rõ ràng, còn để xảy ra trƣờng hợp cán bộ, công chức Tòa án vi phạm kỷ

luật, thậm chí bị xử lý hình sự [141, tr.7]; nhiều bản án, quyết định đã có HLPL của

Tòa án bị hủy, sửa, có trƣờng hợp làm oan ngƣời vô tội.

Tuy nhiên, trong số các đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm không phải

trƣờng hợp nào cũng có căn cứ. Thực tế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trƣớc hết

trình độ, hiểu biết pháp luật của ngƣời dân còn hạn chế, không phát hiện đƣợc vi

phạm, sai lầm trong bản án, quyết định của Tòa án; không đánh giá đúng mức độ sai

lầm, vi phạm; không nắm đƣợc các căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; nội

dung đơn chủ yếu chỉ phản ánh một phần của bản án, quyết định, tập trung vào những

tình tiết có lợi cho mình và những ngƣời liên quan. Một số trƣờng hợp ý thức pháp luật

thấp, vì nể nang hoặc vì mục đích khác sẵn sàng viết và ký vào các đơn đề nghị kháng

nghị giám đốc thẩm đã đƣợc chuẩn bị sẵn hoặc xác nhận một số tình tiết trong vụ án làm căn cứ để đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm. Bên cạnh đó, tâm lý “phản kháng” đã tồn tại từ rất lâu trong xã hội nên ngƣời bị kết án hoặc những ngƣời bị quyết định bất lợi thƣờng có xu hƣớng đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm ngay sau khi bản án,

quyết định của Tòa án có HLPL. Quan trọng hơn, ngƣời đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm hoặc thông báo vi phạm trong bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL không phải chịu trách nhiệm đối với các nội dung trong đơn, không bị thiệt hại nên việc đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dƣờng nhƣ là điều hiển nhiên, không cần phải cân nhắc.

Trong quá trình xem xét, kiểm tra các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa

102

án theo thủ tục giám đốc thẩm, TANDTC và VKSNDTC nhận đƣợc rất nhiều đơn đề

nghị kháng nghị giám đốc thẩm của những ngƣời bị kết án tử hình, gia đình, ngƣời

thân quen của ngƣời bị kết án. Sau khi nghiên cứu nội dung đơn và kiểm tra các chứng

cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án, mặc dù các cơ quan có thẩm quyền đã trả lời không có

căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nhƣng số lƣợng đơn gửi đến vẫn rất nhiều, nội dung không có gì mới, chủ yếu với mục đích để xin giảm hình phạt cho các

bị cáo. Chỉ đến khi Chủ tịch nƣớc xem xét, quyết định ân giảm hình phạt tử hình thì

những ngƣời này mới dừng gửi đơn.

Ngoài ra, số lƣợng đơn không đồng ý với việc trả lời không có căn cứ kháng

nghị giám đốc thẩm của Tòa án và Viện kiểm sát cũng ngày một tăng, dẫn đến việc đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm kéo dài. Có những vụ việc đã đƣợc TANDTC và

VKSNDTC trả lời nhiều lần với cùng nội dung không có căn cứ kháng nghị theo thủ

tục giám đốc thẩm nhƣng ngƣời đề nghị vẫn không đồng ý với kết quả giải quyết và

tiếp tục đề nghị kháng nghị. Có vụ án xảy ra đã lâu, qua nhiều lần xét xử, thậm chí TANDTC và VKSNDTC đã ban hành Quyết định không kháng nghị, Chủ tịch nƣớc

quyết định bác đơn xin ân giảm hình phạt tử hình nhƣng phải hoãn thi hành án để xem

xét lại một lần nữa theo thủ tục giám đốc thẩm vì bị đề nghị xem xét lại theo thủ tục

giám đốc thẩm [Phụ lục 17].

Trên thực tế, quá trình thụ lý, phân loại giải quyết đơn đề nghị, kiến nghị, thông

báo vi phạm pháp luật trong các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án có sự ƣu

tiên nhất định đối với công văn của các cơ quan Đảng, Nhà nƣớc. Trong số này, có

những công văn chỉ đơn giản là chuyển đơn để giải quyết theo thẩm quyền nhƣng cũng

có những cơ quan, tổ chức ngoài việc chuyển đơn còn yêu cầu Tòa án, Viện kiểm sát

có thẩm quyền phải báo cáo hoặc thông báo kết quả giải quyết. Điều này tạo tâm lý

“muốn đƣợc giải quyết nhanh phải gửi đơn đến tất cả lãnh đạo các cơ quan Đảng, Nhà

nƣớc” cho những ngƣời gửi đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm. Vì vậy, thời gian gần đây, số lƣợng đơn đề nghị giám đốc thẩm mà Tòa án, Viện kiểm sát nhận đƣợc từ

các cơ quan Đảng, Nhà nƣớc, đại biểu Quốc hội có xu hƣớng tăng.

- Về tỷ lệ giải quyết đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm: trong những năm qua, các cơ quan có thẩm quyền đã đẩy nhanh việc giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, thông báo vi phạm trong bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án. Số lƣợng đơn đƣợc giải quyết trong những năm gần đây đều tăng so với

trƣớc, đã đạt 50% tổng số đơn. Quá trình giải quyết, các cơ quan, chủ thể có thẩm quyền đã tập trung rà soát, phân loại để xem xét, giải quyết các đơn sắp hết thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, đảm bảo không để các vụ việc quá thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật [142, tr.7].

Việc quản lý, theo dõi, giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, thông

103

báo vi phạm trong các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án đã đƣợc các cơ quan

có thẩm quyền giải quyết quan tâm hơn. Ngành Tòa án và Kiểm sát đã xây dựng phần

mềm quản lý, theo dõi việc tiếp nhận, thụ lý và giải quyết đơn đề nghị kháng nghị theo

thủ tục giám đốc thẩm. Chánh án TANDTC và Viện trƣởng VKSNDTC đã ban hành

quy trình về việc giải quyết các loại đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, thông báo vi phạm trong các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án. Theo đó, việc thụ lý,

giải quyết các đơn này đƣợc tiến hành rất thận trọng, trải qua nhiều cấp thẩm định

trƣớc khi quyết định kháng nghị hay trả lời không có căn cứ kháng nghị. Chẳng hạn,

tại TANDTC, sau khi nhận đƣợc hồ sơ vụ án, cán bộ, thẩm tra viên phải nghiên cứu,

báo cáo với lãnh đạo vụ, rồi báo cáo Thẩm phán TANDTC. Trƣờng hợp khác quan

điểm, vụ án phải đƣợc đƣa ra tổ Thẩm phán TANDTC thảo luận, cho ý kiến trƣớc khi

báo cáo Chánh án quyết định. Tại VKSNDTC, quy trình cũng gần nhƣ tƣơng tự khi

trình tự báo cáo, thẩm định buộc phải qua nhiều cấp trƣớc khi quyết định kháng nghị giám đốc thẩm hay trả lời ngƣời gửi đơn về việc không có căn cứ kháng nghị. Về cơ

bản, việc giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm đã khắc phục đƣợc tình trạng ban đầu

trả lời cho ngƣời gửi đơn là không có căn cứ kháng nghị nhƣng sau đó lại phát hiện

bản án, quyết định đã có HLPL có sai lầm nghiêm trọng và phải kháng nghị để giải

quyết vụ án theo trình tự giám đốc thẩm [141, tr.7].

Do số lƣợng đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm là rất lớn và để tránh tình

trạng quá tải đối với chủ thể có thẩm quyền kháng nghị nên trên thực tế việc trả lời lần

đầu thƣờng do cấp dƣới của chủ thể có thẩm quyền kháng nghị thực hiện theo quy

định về ủy quyền và phân công. Ví dụ theo Quy chế công tác thực hành quyền công tố,

kiểm sát xét xử vụ án hình sự: thẩm quyền ký văn bản thông báo không kháng nghị

theo thủ tục giám đốc thẩm gồm có (i) Viện trƣởng VKSNDTC, Phó Viện trƣởng

VKSNDTC đƣợc Viện trƣởng ủy quyền, Thủ trƣởng đơn vị nghiệp vụ thuộc

VKSNDTC hoặc Kiểm sát viên VKSNDTC đƣợc Viện trƣởng phân công; (ii) Viện

trƣởng VKSNDCC, Phó Viện trƣởng VKSNDCC đƣợc Viện trƣởng ủy quyền hoặc

Kiểm sát viên cao cấp đƣợc Viện trƣởng phân công. Theo Quy chế giải quyết đơn đề

nghị, kiến nghị, thông báo đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại TAND: Chánh án TANDTC ủy quyền cho Thẩm phán TANDTC; Chánh án TANDCC ủy quyền cho Thẩm phán TANDCC ký thông báo về việc không kháng nghị…

104

Tuy nhiên, số liệu giải quyết đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm cho thấy tiến độ giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm chƣa đạt yêu cầu, trong khi số lƣợng đơn thụ lý chƣa giải quyết còn nhiều [162, tr.10]; tỷ lệ giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm còn thấp [141, tr.7]. Trong 10 năm qua, tỷ lệ giải quyết đơn giám đốc thẩm cao nhất cũng chỉ đạt 51,8%. Số lƣợng các đơn còn tồn lại hàng năm đều trên 1.000 đơn, thậm chí có năm tồn hơn 2.500 đơn. Tình trạng

trên trƣớc hết do số lƣợng cán bộ, Kiểm sát viên, Thẩm phán công tác giám đốc thẩm

không tƣơng xứng với khối lƣợng công việc cần giải quyết. Từ những thay đổi về

thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm trong BLTTHS năm 2015 và cơ cấu tổ chức bộ

máy ngành Tòa án, Kiểm sát, toàn bộ công tác giám đốc thẩm đƣợc tập trung vào TANDTC, VKSNDTC và các Tòa án, Viện kiểm sát cấp cao. Theo quy định hiện nay,

các Tòa án và Viện kiểm sát cấp cao có thẩm quyền xem xét, giải quyết phần lớn số

đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong ngành Tòa án, Kiểm sát. Tuy nhiên số

lƣợng Thẩm phán, Thẩm tra viên, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên để bố trí cho các đơn

vị này còn thiếu so với nhu cầu công việc. Đây là nguyên nhân chính làm cho tỷ lệ giải

quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của ngành Tòa án, Kiểm sát nói chung và

các Tòa án, Viện kiểm sát cấp cao nói riêng đạt tỷ lệ thấp so với yêu cầu đặt ra [142,

tr.22]. Trong khi đó, chủ trƣơng chung của Nhà nƣớc là tinh giảm biên chế, giảm tuyển dụng mới nên việc bố trí nhân sự cho các Tòa án và Viện kiểm sát cấp cao gặp

nhiều khó khăn.

Bên cạnh đó, một số đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với các bản án,

quyết định của Tòa án đã có HLPL cách đây hàng chục năm, hồ sơ vụ án đã bị hủy

theo quy định của pháp luật, những gì còn lại chỉ là các quyết định tố tụng nên việc

giải quyết rất khó khăn. Để giải quyết loại đơn này, các cơ quan có thẩm quyền kháng

nghị giám đốc thẩm phải tìm tài liệu, xác minh lại các tình tiết, chứng cứ của vụ án dẫn

đến thời gian giải quyết kéo dài.

Ngoài các yếu tố khách quan nêu trên, việc giải quyết đơn đề nghị kháng nghị

giám đốc thẩm trong một thời gian dài không đƣợc lãnh đạo ngành Tòa án và Kiểm sát

quan tâm đúng mức. Việc xây dựng quy trình, giải quyết vƣớng mắc trong việc tiếp

nhận, phân loại, giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm cũng không phải là nhiệm vụ

trọng tâm hàng năm. Trong các năm từ 2013 đến 2015, tỷ lệ giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm là rất thấp, cao nhất chỉ đạt 31% (năm 2014).

- Về chất lƣợng các đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, thông báo vi phạm

trong các bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL: thực tiễn giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm cho thấy trong những năm qua, tỷ lệ số bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án bị kháng nghị trên cơ sở xem xét giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm là rất ít, trong khi đó số lƣợng đơn và số lƣợng bản án, quyết định của Tòa án

105

bị đề nghị giám đốc thẩm thì có xu hƣớng tăng. Theo số liệu của VKSNDTC, tỷ lệ cao nhất trong 10 năm qua là 26% vào năm 2014 và thấp nhất là 6% vào năm 2010, các năm còn lại khoảng 10%. Tỷ lệ này chứng tỏ chất lƣợng phát hiện vi phạm pháp luật trong các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án và đánh giá mức độ nghiêm trọng các vi phạm này của cá nhân, cơ quan, tổ chức còn yếu.

Việc tăng cƣờng công bố các bản án, quyết định của Tòa án đến tất cả các thành

phần trong xã hội là cần thiết để tăng tính công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử

của Tòa án nói riêng, hoạt động chứng minh tội phạm nói chung, nâng cao chất lƣợng

của các bản án, quyết định của Tòa án, đảm bảo mọi vi phạm đều phải đƣợc phát hiện để kịp thời khắc phục. Nhƣng với chất lƣợng phát hiện vi phạm nhƣ hiện nay, việc

công khai và trao quyền đề nghị giám đốc thẩm cho tất cả mọi cá nhân, tổ chức có thể

tạo ra áp lực rất lớn cho các cơ quan có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm.

3.2.1.4. Việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong một số trường hợp

còn gây ra tranh cãi.

Trong số các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án cần phải xem xét lại,

phần lớn bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các

căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm vẫn có trƣờng hợp gây tranh cãi. Ví dụ: trong vụ án Nguyễn Thanh Chấn bị Tòa án các cấp kết án về các tội “Giết ngƣời”,

“Cƣớp tài sản” ở tỉnh Bắc Giang. Sau khi bản án có HLPL, ông Nguyễn Thanh Chấn và gia đình đã có đơn đề nghị xem xét lại bản án hình sự phúc thẩm vì cho rằng ông bị

oan. Tuy nhiên, phải đến khi Lý Nguyễn Chung đầu thú (sau khi vụ án xảy ra hơn 10

năm), khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, Viện trƣởng VKSNDTC mới căn cứ vào

việc này để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án của Tòa án đã có HLPL.

Hội đồng thẩm phán TANDTC đã chấp nhận kháng nghị tái thẩm của Viện trƣởng

VKSNDTC, hủy bản án hình sự sơ thẩm và phúc thẩm để điều tra lại theo thủ tục

chung. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử lại đã xác định Lý Nguyễn Chung mới là

ngƣời thực hiện hành vi phạm tội và việc kết án đối với ông Nguyễn Thanh Chấn là

oan. Trong vụ án này, các nhà nghiên cứu khoa học có nhiều ý kiến khác nhau về việc

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hay thủ tục tái thẩm vì có nhiều dấu hiệu vi

phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc chứng minh tội phạm đối với ông Chấn. Thậm chí có ý kiến cho rằng việc kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là “các cơ quan tố

tụng đang cố tình lấp liếm cái sai của mình trƣớc đó, dễ bề phủi trách nhiệm đã gây

oan cho ông Chấn” [66]. Theo Quyết định kháng nghị tái thẩm số 02/QĐ-VKSTC-V3 ngày 02/11/2013 của Viện trƣởng VKSNDTC [Phụ lục 18], trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án có rất nhiều vi phạm nhƣ: nhiều dấu vết chân, vết tay tại hiện trƣờng không đƣợc giám định khoa học; biên bản ghi lời khai của

106

Nguyễn Thanh Chấn và các nhân chứng, ngƣời liên quan... nhiều chỗ bị tẩy xóa; vi phạm trong hoạt động nhận dạng; không điều tra làm rõ nhiều tình tiết trong vụ án. Đây là những thiếu sót, vi phạm nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án và hoàn toàn có thể phát hiện khi kiểm tra các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án để quyết định kháng nghị giám đốc thẩm nhƣng các chủ thể có thẩm quyền kháng nghị không kịp thời phát hiện để khắc phục.

3.2.1.5. Chất lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chưa bảo đảm, một

số quyết định kháng nghị giám đốc thẩm vẫn bị Hội đồng giám đốc thẩm không chấp

nhận hoặc người kháng nghị phải rút kháng nghị.

Chất lƣợng kháng nghị giám đốc thẩm đƣợc thể hiện tại Bảng 3 [Phụ lục 3]. Nhìn chung các Tòa án và Viện kiểm sát có thẩm quyền đã thực hiện tốt việc kháng

nghị giám đốc thẩm. Tuy nhiên, trong 10 năm từ năm 2010 đến năm 2019, đã có 244

trƣờng hợp không đƣợc HĐGĐT chấp nhận kháng nghị và 185 trƣờng hợp phải rút

kháng nghị giám đốc thẩm, chiếm 10,2% tổng số các trƣờng hợp đã xét xử giám đốc

thẩm. Tỷ lệ các trƣờng hợp HĐGĐT không chấp nhận kháng nghị hoặc phải rút kháng nghị trên tổng số kháng nghị giám đốc thẩm vẫn còn cao vì nhiều lý do.

Về chủ quan, chủ thể có thẩm quyền kháng nghị chƣa nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ

án, không đánh giá đầy đủ các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ và đã đƣợc thẩm tra trong quá trình xét xử, không nắm chắc các quy định của BLHS và BLTTHS, dẫn đến

việc đánh giá các vi phạm trong bản án, quyết định của Tòa án, vi phạm trong quá trình tiến hành tố tụng không chính xác, không phân định đƣợc vi phạm nào là nghiêm

trọng đến mức phải kháng nghị, vi phạm nào chỉ dừng lại ở việc kiến nghị, rút kinh

nghiệm. Ngoài ra, trƣớc khi xét xử giám đốc thẩm, chủ thể kháng nghị không chuẩn bị

kỹ các căn cứ để đề nghị giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có HLPL của

Tòa án. Tại phiên tòa, ngƣời kháng nghị không bảo vệ đƣợc kháng nghị, không thuyết

phục đƣợc HĐGĐT chấp nhận kháng nghị. Một số trƣờng hợp, mặc dù xác định có vi

phạm thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử, nhƣng HĐGĐT lại cho rằng vi

phạm không làm thay đổi bản chất của vụ án nên cũng không chấp nhận kháng nghị.

Về khách quan, BLTTHS và các văn bản pháp luật chƣa giải thích và hƣớng

dẫn cụ thể những trƣờng hợp nào bị coi là “vi phạm nghiêm trọng”; nhiều quy định

của pháp luật còn chung chung, chƣa rõ ràng, đầy đủ, cụ thể, một số trƣờng hợp còn

gây tranh cãi, chƣa thống nhất trong nhận thức và áp dụng. Vì vậy, việc đánh giá

những vi phạm trong bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án còn có sự khác nhau

giữa các chủ thể có thẩm quyền kháng nghị và HĐGĐT. Đánh giá này còn mang tính chủ quan, phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, năng lực và kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động áp dụng pháp luật. Trong một số trƣờng hợp, sau khi nghe HĐGĐT thảo luận, ngƣời có thẩm quyền kháng nghị nhận thấy kháng nghị khó có thể đƣợc chấp

107

nhận nên đã rút kháng nghị. Cũng có một số trƣờng hợp ngƣời có thẩm quyền kháng nghị cho rằng kháng nghị của mình là đúng nên HĐGĐT không chấp nhận kháng nghị, giữ nguyên bản án có HLPL. Tuy nhiên, số lƣợng kháng nghị giám đốc thẩm bị rút hoặc không đƣợc chấp nhận có chiều hƣớng giảm, đặc biệt năm 2017 tỷ lệ này chỉ chiếm 1,92% tổng số các trƣờng hợp đã đƣợc xét xử giám đốc thẩm. Điều này chứng tỏ chất lƣợng kháng nghị đang tăng lên. BLTTHS năm 2015 đƣợc ban hành cùng với

những thay đổi về cơ cấu, tổ chức bộ máy, thẩm quyền trong ngành Tòa án và Kiểm

sát đã tạo ra những chuyển biến tích cực đối với công tác giám đốc thẩm trong TTHS.

3.2.2. Thực tiễn thi hành các quy định về thủ tục giám đốc thẩm

3.2.2.1. Tòa án có thẩm quyền chưa giải quyết kịp thời các vụ án đã thụ lý, số

vụ án tồn đọng còn nhiều, phần lớn quá hạn luật định.

Số bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án bị kháng nghị đã xét xử giám đốc

thẩm và còn tồn hàng năm đƣợc thể hiện tại Bảng 4 [Phụ lục 4]. Theo đó, trung bình

hàng năm, HĐGĐT Tòa án các cấp phải giải quyết khoảng 290 vụ án theo thủ tục

giám đốc thẩm. Số lƣợng này có xu hƣớng tăng và đột biến vào năm 2017 (tăng hơn 200% so với năm 2016 và hơn 480% so với năm 2015). Mặc dù số vụ án cần phải xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm đã giảm trong năm 2018 nhƣng so với giai đoạn từ 2010 đến 2015 số lƣợng này vẫn rất lớn. Tốc độ xét xử đã đƣợc đẩy nhanh nhƣng số

lƣợng quyết định kháng nghị giám đốc thẩm chƣa đƣợc HĐGĐT xem xét vẫn còn rất

lớn, hàng năm tồn khoảng 71 kháng nghị (chiếm khoảng 37% tổng số vụ án đã thụ lý để giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm). Năm 2016, số lƣợng này cao đột biến, gấp

hơn hai lần so với trung bình bảy năm trƣớc và chiếm 45,7% tổng số vụ án cần phải xét

xử theo thủ tục giám đốc thẩm.

Nguyên nhân của tình trạng tồn đọng chủ yếu là do số lƣợng các bản án, quyết

định có HLPL của Tòa án phải xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm có xu hƣớng

tăng lên, đặc biệt từ khi thành lập các Tòa án và Viện kiểm sát cấp cao. Ngƣợc lại, số

lƣợng Thẩm phán tại các Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm lại không đƣợc bổ

sung kịp thời, thiếu biên chế, không đáp ứng đƣợc yêu cầu công việc, “số lƣợng Thẩm phán, Thẩm tra viên để bố trí cho các TANDCC còn thiếu so với nhu cầu công việc”

[142, tr.22]. Thực tiễn công tác xét xử nói chung và giám đốc thẩm nói riêng, cùng với

chủ trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc về tinh giảm biên chế đòi hỏi ngành Tòa án phải có

những biện pháp về tổ chức cán bộ để khắc phục tình trạng này.

Đối với việc thực hiện quy định về thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án theo khoản

2 Điều 380 và thời hạn mở phiên tòa giám đốc thẩm theo Điều 385 BLTTHS, không có thống kê về việc thi hành các quy định này. Tuy nhiên, theo báo cáo số 896/BC- UBTP13 ngày 11/10/2012 của Ủy ban Tƣ pháp của Quốc hội về kết quả giám sát việc chấp hành pháp luật tố tụng hình sự trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, từ ngày

01/01/2011 đến ngày 31/7/2012, ở Tòa án nhân dân tối cao còn 290 vụ/1143 bị cáo để

108

quá thời hạn xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Ngoài ra, qua nghiên cứu 218 quyết định giám đốc thẩm, có tới 32 trƣờng hợp (chiếm 15%) HĐGĐT các cấp vi phạm về thời hạn mở phiên tòa giám đốc thẩm, quá thời hạn 04 tháng kể từ ngày nhận đƣợc quyết định kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án. Bên cạnh lý do thiếu nhân sự nhƣ đã nêu ở trên, quan hệ phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát còn nhiều hạn chế cũng là một

trong những nguyên nhân chính của tình trạng này. Trong nhiều trƣờng hợp, sau khi

Tòa án quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, bản kháng nghị và hồ sơ vụ án đƣợc

chuyển đến Viện kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu nhƣng quá trình chuyển hồ sơ qua,

lại giữa Tòa án và Viện kiểm sát chậm đƣợc thực hiện, thời gian xem xét kháng nghị của Chánh án và kiểm tra các chứng cứ, tài liệu ở Viện kiểm sát kéo dài, có những

trƣờng hợp tới gần 1 năm, dẫn đến quá hạn luật định.

3.2.2.2. Việc triệu tập người bị kết án, người bào chữa, người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị hầu như không thực hiện.

BLTTHS qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, đều quy định những ngƣời tham gia

phiên tòa giám đốc thẩm gồm có đại diện Viện kiểm sát cùng cấp và một số ngƣời

khác khi xét thấy cần thiết. Tuy nhiên, quá trình thi hành BLTTHS năm 1988 và 2003,

“chỉ xảy ra một vài trƣờng hợp Tòa án xét xử giám đốc thẩm triệu tập ngƣời bị kết án, ngƣời bào chữa đến phiên tòa, còn những ngƣời khác thì chƣa có” [102, tr.53]. Thậm

chí, trong nhiều năm qua, quy định trên chƣa đƣợc thực hiện [38, tr.206], hầu nhƣ chƣa bao giờ các đƣơng sự hoặc ngƣời bảo vệ quyền lợi của họ đƣợc triệu tập đến các

phiên tòa giám đốc thẩm [39, tr.10]. Bên cạnh đó, ngoài những ngƣời tham dự phiên

tòa nhƣ quy định, trên thực tế còn có thƣ ký phiên tòa là ngƣời ghi biên bản về diễn

biến phiên tòa và ý kiến của những ngƣời tham gia phiên tòa; chuyên viên, thẩm tra

viên, kiểm tra viên là những ngƣời trực tiếp nghiên cứu hồ sơ vụ án giúp việc cho

HĐGĐT và đại diện Viện kiểm sát.

Sau khi BLTTHS năm 2015 có HLPL, trong một số vụ án, Hội đồng Thẩm

phán TANDTC đã mời một số ngƣời tham dự phiên tòa giám đốc thẩm. Điển hình

nhất trong số này là phiên tòa giám đốc thẩm xem xét quyết định kháng nghị giám đốc

thẩm của Viện trƣởng VKSNDTC vụ án Hồ Duy Hải bị Tòa án các cấp kết án về các

tội “Giết ngƣời”, “Cƣớp tài sản” xảy ra tại tỉnh Long An [Phụ lục 17]. Đây là phiên tòa

giám đốc thẩm có số lƣợng ngƣời tham dự nhiều nhất từ trƣớc đến nay gồm luật sƣ

bào chữa cho Hồ Duy Hải và đầy đủ những ngƣời tiến hành tố tụng từ quá trình điều

tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm (tiến hành xác minh giám đốc thẩm).

Quy định về những ngƣời tham gia phiên tòa giám đốc thẩm đến nay vẫn có nhiều quan điểm khác nhau. Một số ý kiến ủng hộ thì cho rằng, phiên tòa giám đốc thẩm luôn cần phải có những ngƣời tham gia tố tụng [63, tr.20], quy định của BLTTHS đã hạn chế quyền của các luật sƣ tham gia vào quá trình xét lại bản án, quyết

định của Tòa án đã có HLPL theo trình tự giám đốc thẩm [58, tr.7]. Cũng có những ý

kiến cho rằng quy định nhƣ hiện nay là phù hợp với thực tiễn giám đốc thẩm, tái thẩm

109

ở Việt Nam nhƣng cần thay đổi cho thống nhất trong quá trình áp dụng [133, tr.1].

3.2.2.3. Chất lượng các quyết định giám đốc thẩm chưa đạt yêu cầu, còn có

trường hợp quyết định giám đốc thẩm của Tòa án cấp dưới bị kháng nghị và xét xử giám

đốc thẩm.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 22 Luật tổ chức TAND, quyết định giám đốc thẩm (và tái thẩm) của Hội đồng Thẩm phán TANDTC là quyết định cao nhất, không

bị kháng nghị. Do đó, quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC

không bị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm (hoặc tái thẩm). Trên thực tế, Trƣớc

khi BLTTHS năm 2015 đƣợc ban hành, vấn đề xem xét lại quyết định giám đốc thẩm

(tái thẩm) của Hội đồng Thẩm phán TANDTC chƣa bao giờ đƣợc đặt ra nên rất khó để đánh giá một cách khách quan, chính xác chất lƣợng các quyết định này. Tuy nhiên,

“qua hoạt động giám sát của Quốc hội đã phát hiện có trƣờng hợp quyết định của Hội

đồng Thẩm phán TANDTC vẫn có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, làm ảnh hƣởng

đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, cần phải đƣợc xem xét lại” [52,tr.27]. Ngoài ra, một số trƣờng hợp mặc dù đã có quyết định của Hội đồng

Thẩm phán TANDTC nhƣng đơn khiếu nại, đề nghị xem xét lại quyết định này vẫn rất

nhiều. Từ thực tế đó, BLTTHS năm 2015 đã quy định một chƣơng mới quy định thủ

tục xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.

Đối với các quyết định giám đốc thẩm của TAND cấp tỉnh (trƣớc khi thành lập

TANDCC) và của TANDCC, từ năm 2010 đến 2019, có 46 trƣờng hợp bị kháng nghị

theo thủ tục giám đốc thẩm (chiếm 1,06%) và Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã xét

xử giám đốc thẩm, tuyên hủy các quyết định này để điều tra, xét xử lại hoặc giữ

nguyên bản án, quyết định sơ thẩm (phúc thẩm) đã có HLPL. Tỷ lệ này mặc dù nhỏ

nhƣng rất khó chấp nhận vì Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm có quyền xem xét,

đánh giá hoạt động xét xử của Tòa án cấp dƣới. Những quyết định giám đốc thẩm một

mặt khắc phục những vi phạm nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án, mặt khác còn mang tính đƣờng lối, hƣớng dẫn đối với hoạt động xét xử và áp dụng pháp luật của

Tòa án cấp dƣới. Những quyết định này phải có tính chuẩn mực cao, không sai sót và

đặc biệt không thể bị giám đốc thẩm vì “vi phạm nghiêm trọng”.

3.2.2.4. Hội đồng giám đốc thẩm chủ yếu quyết định hủy bản án, quyết định có

HLPL của Tòa án để điều tra lại hoặc xét xử lại.

Các quyết định của HĐGĐT chủ yếu là hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực để điều tra hoặc xét xử lại. Thống kê trong 10 năm từ 2010 đến 2019, có 2.330 trƣờng hợp HĐGĐT quyết định hủy bản án, quyết định đã có HLPL để điều tra lại hoặc xét

xử lại trên tổng số 4.314 trƣờng hợp đã đƣợc xét xử giám đốc thẩm, chiếm 54%.

110

Số lƣợng các bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL bị hủy để điều tra lại hoặc xét xử lại chiếm đa số trong tổng số các loại quyết định của HĐGĐT là phù hợp với bản chất của giám đốc thẩm là cấp “phá án”. Tỷ lệ này cao một phần xuất phát từ

quy định của BLTTHS năm 2003 về thẩm quyền của HĐGĐT, chỉ giới hạn trong ba

quyền: không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có

HLPL; hủy bản án hoặc quyết định đã có HLPL và đình chỉ vụ án và hủy bản án hoặc

quyết định đã có HLPL để điều tra lại hoặc xét xử lại. Khi BLTTHS năm 2015 đƣợc ban hành, thẩm quyền của HĐGĐT đƣợc mở rộng thì số lƣợng các trƣờng hợp bị hủy

để điều tra lại hoặc xét xử lại đã giảm (năm 2017 là 23,3% và năm 2018 là 22,6%).

3.2.2.5. Từ khi BLTTHS năm 2015 được ban hành, số lượng các trường hợp

HĐGĐT quyết định sửa bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL tăng nhanh.

BLTTHS năm 2015 đƣợc Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 27/11/2015 nhƣng

sau đó quyết định lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật từ ngày 1/7/2016 đến ngày Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của BLHS có hiệu lực thi hành, trừ một số quy định có lợi

cho ngƣời phạm tội. Vì vậy, trong một số trƣờng hợp xét thấy có lợi cho ngƣời bị kết án, HĐGĐT vẫn quyết định sửa bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL. Theo

thống kê của TANDTC, trong năm 2017 có 781/1044 (chiếm 74,8%) trƣờng hợp HĐGĐT quyết định sửa bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL. Sau khi BLTTHS

năm 2015 có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2018, số lƣợng này đã giảm trong năm 2018

(341/705 chiếm 48,3%) và 2019 (61/209 chiếm 29,1%). Các trƣờng hợp HĐGĐT

quyết định sửa bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL phần lớn là các trƣờng hợp

giảm hình phạt hoặc cho ngƣời bị kết án đƣợc hƣởng án treo.

3.2.2.6. Căn cứ để Hội đồng giám đốc thẩm quyết định hủy bản án, quyết định đã

có HLPL của Tòa án.

Nghiên cứu các quyết định giám đốc thẩm từ năm 2010 đến năm 2019, trên cơ

sở kết quả tổng kết 50 năm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình

sự của VKSNDTC (1960-2010) cho thấy, các “vi phạm nghiêm trọng” phổ biến trong

các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án là căn cứ để HĐGĐT quyết định hủy,

sửa theo thủ tục giám đốc thẩm gồm: vi phạm giới hạn xét xử, xác định sai tội danh,

chứng cứ kết tội còn thiếu hoặc có mâu thuẫn, bỏ lọt tội phạm, xử phạt quá nặng hoặc

quá nhé, cho hƣởng án treo không đúng quy định, quyết định tổng hợp hình phạt không chính xác, áp dụng hình phạt khi pháp luật đã thay đổi làm bất lợi cho ngƣời bị kết án, xác định sai tƣ cách tham gia tố tụng, xác định sai trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng không đúng quy định. Những vi phạm này có một phần nguyên nhân từ việc thiếu quy định, hƣớng dẫn pháp luật đầy đủ, cụ thể; một số hành vi vi phạm pháp luật mới xuất hiện, chƣa đƣợc pháp luật điều chỉnh, gây khó khăn cho các cơ quan tiến

hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng nói chung và Tòa án nói riêng.

111

Về chủ quan, việc áp dụng pháp luật còn thiếu thống nhất, cùng một hành vi phạm tội, nơi này xử quá nặng, nơi kia xử quá nhẹ, “có biểu hiện xử nặng với dân, xử nặng đối với quan” [147, tr.111]. Tình trạng truy tố sai tội danh, thiếu căn cứ và áp

dụng không đúng pháp luật, hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế xảy ra trong nhiều vụ

án. Ngƣợc lại, còn có tình trạng áp dụng hình phạt nhẹ, cho hƣởng án treo không đúng

quy định. Tại kỳ họp Quốc hội tháng 11/2009, các đại biểu Quốc hội đã nêu số liệu

Tòa án xử phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ và hình phạt tù nhƣng cho hƣởng án treo chiếm 50% số bị cáo bị xét xử về các tội về tham nhũng. Chánh án TANDTC tại

kỳ họp này đã báo cáo: Tòa án cấp tỉnh đã tự kiểm tra và phát hiện gần 300 bị cáo

đƣợc Tòa án cho hƣởng án treo không đúng pháp luật, chiếm khoảng 1% tổng số bị

cáo đƣợc hƣởng án treo [147, tr.111,112]. Ngoài ra, trong các trƣờng hợp cụ thể, các

cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, đánh giá không đúng, không đầy đủ các chứng cứ,

tài liệu có trong hồ sơ vụ án, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu

quả để xác định ngƣời phạm tội, tội danh, khung hình phạt, dẫn đến việc quyết định

hình phạt không tƣơng xứng, phải kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Số lƣợng các bản án kết án bị cáo về các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, “Mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép

chất ma túy” và “Giết ngƣời” bị giám đốc thẩm nhiều hơn so với các tội khác. Nguyên

nhân của tình trạng trên vì các tội này chiếm tỷ lệ cao trong số các loại án. Quan trọng

hơn, đây là những loại tội danh mà khung hình phạt cao nhất là tù chung thân, tử hình,

nhiều vụ án khó, các tình tiết phức tạp, trong một vụ án có nhiều bị cáo bị kết án các

tội khác nhau; nhiều đồng phạm hoặc thuộc trƣờng hợp phạm tội có tổ chức; khối

lƣợng chứng cứ, tài liệu thu thập trong quá trình giải quyết vụ án là rất lớn, thời gian

giải quyết thƣờng phải kéo dài, nhiều vụ phải điều tra, xét xử lại nhiều lần. Trong khi

đó số lƣợng ngƣời tiến hành tố tụng ít, thời hạn tố tụng có giới hạn. Điều này ảnh

hƣởng rất lớn đến chất lƣợng của các bản án, quyết định có HLPL của Tòa án.

3.2.2.7. Thực trạng giám đốc thẩm tại TAND cấp tỉnh và TAND cấp cao.

Chất lƣợng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm của các TAND và VKSND

cấp tỉnh đƣợc thể hiện trong Bảng 6 [Phụ lục 6]. Theo số liệu thống kê, số lƣợng

kháng nghị giám đốc thẩm của các TAND và VKSND cấp tỉnh nhìn chung là ít. Trung

bình hàng năm, một tỉnh chỉ giải quyết chƣa đến 2 vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm. Trên thực tế, số lƣợng các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án bị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm tập trung nhiều ở những thành phố lớn nhƣ thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, là những nơi có số lƣợng án lớn, nhiều vụ án phức tạp. Từ

112

năm 2009 đến ngày 01/6/2015 (trƣớc khi thành lập các Tòa án và Viện kiểm sát cấp cao), có 196 trƣờng hợp phải rút kháng nghị hoặc không đƣợc HĐGĐT chấp nhận (chiếm 13,7%) trong đó, tỷ lệ kháng nghị không đƣợc chấp nhận chiếm 8,3%, tỷ lệ rút kháng nghị chiếm 5,4% tổng số trƣờng hợp kháng nghị. Điều này chứng tỏ chất lƣợng kháng nghị giám đốc thẩm của các Tòa án và Viện kiểm sát cấp tỉnh còn hạn chế, nhiều trƣờng hợp không đƣợc chấp nhận hoặc phải rút kháng nghị (tỷ lệ này cao hơn

so với tỷ lệ trung bình là 10,2%). Thực tế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác

nhau. Trƣớc hết, số lƣợng cán bộ, Kiểm sát viên, Thẩm phán đƣợc giao nhiệm vụ giám

đốc các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án cấp dƣới là rất ít so với các khâu

công tác khác, không thể kiểm tra toàn bộ các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dƣới. Công tác xét xử sơ thẩm và phúc thẩm (trong ngành tòa án),

kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử (trong ngành kiểm sát) chiếm phần lớn công việc,

nhiều vụ án thậm chí còn quá thời hạn nên Tòa án, Viện kiểm sát các tỉnh cũng không

có điều kiện quan tâm đúng mức đến công tác giám đốc thẩm. Các quyết định giám

đốc thẩm của Tòa án cấp tỉnh chủ yếu là hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có

HLPL để điều tra, xét xử lại theo quy định pháp luật (chiếm 81,7%). Lý do chính là vì

BLTTHS năm 2003 không quy định thẩm quyền “sửa bản án, quyết định của Tòa án

đã có HLPL” nhƣ BLTTHS năm 1988 và 2015.

Năm 2015, các Tòa án và Viện kiểm sát cấp cao đƣợc thành lập với chức năng xét xử phúc thẩm và xem xét các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án cấp dƣới

theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Đây là một cấp mới trong tổ chức bộ máy ngành

Tòa án và Viện kiểm sát. Chất lƣợng thực hiện chức năng giám đốc thẩm của các Tòa

án và Viện kiểm sát cấp cao đƣợc thể hiện trong Bảng 7 [Phụ lục 7] và Bảng 8 [Phụ lục

8]. Số liệu thống kê cho thấy so với cấp tỉnh, số lƣợng quyết định kháng nghị giám đốc

thẩm của các Viện kiểm sát và Tòa án cấp cao có xu hƣớng tăng. Đặc biệt, năm 2017,

số lƣợng kháng nghị giám đốc thẩm đã tăng gần 4 lần so với năm 2016. Năm 2018 số

lƣợng này có giảm chút ít, khoảng 6.6% so với năm 2017. Số lƣợng quyết định kháng

nghị giám đốc thẩm lớn đã kéo theo số lƣợng quyết định giám đốc thẩm của các

TANDCC cũng tăng nhanh. Từ năm 2016 đến năm 2017, số lƣợng này tăng lên gần 10

lần, năm 2018 có giảm nhƣng cũng gấp 5 lần so với năm 2016. Một trong những lý do

chính khiến số lƣợng quyết định giám đốc thẩm của các TANDCC tăng đột biến so với

thời gian trƣớc khi thành lập xuất phát từ việc thay đổi luật. BLHS năm 2015 sau khi

đƣợc công bố đã phải lùi hiệu lực thi hành và đƣợc bổ sung, sửa đổi một số điều luật.

Trong thời gian sửa đổi, bổ sung, mặc dù BLHS năm 2015 chƣa có hiệu lực thi hành nhƣng những điều luật có lợi cho ngƣời phạm tội vẫn đƣợc áp dụng. Theo danh mục một số quy định có lợi cho ngƣời phạm tội trong BLHS năm 2015 (Ban hành kèm theo Công văn số 276/TANDTC-PC ngày 13/9/2016 của TANDTC), có tất cả 195 quy định có lợi cho ngƣời phạm tội. Các quy định có lợi cho ngƣời phạm tội chủ yếu là nâng

mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (mà không có những yếu tố khác về nhân thân) hoặc giảm khung hình phạt đối với một số tội, chẳng hạn, tội đánh bạc, số

tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc tối thiểu của từng lần đánh bạc trái phép đã tăng từ

2.000.000 đồng lên 5.000.000 đồng. Trong một khoảng thời gian ngắn, BLHS nhiều

113

lần sửa đổi, việc áp dụng đồng thời quy định mới và quy định cũ dẫn đến tình trạng

nhầm lẫn, không thống nhất. Mặt khác, một số vụ án đã xét xử trƣớc khi các Nghị

quyết của Quốc hội về việc lùi thời hạn thi hành của BLHS, sau khi Nghị quyết đƣợc

ban hành thì các bản án, quyết định này mới có HLPL. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và

phúc thẩm không thể khắc phục đƣợc sai lầm này mà phải đề nghị Tòa án, Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để khắc phục.

Mặc dù số lƣợng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm ở các Viện kiểm sát và

Tòa án cấp cao đã tăng đáng kể nhƣng chất lƣợng kháng nghị giám đốc thẩm lại có xu

hƣớng giảm khi số lƣợng kháng nghị bị rút hoặc không đƣợc HĐGĐT chấp nhận tăng

nhanh. Nếu nhƣ năm 2016, chỉ có 02 kháng nghị không đƣợc chấp nhận, không có trƣờng hợp nào phải rút kháng nghị (chiếm 2,17% tổng số kháng nghị), năm 2017 có

tổng số 05 kháng nghị bị rút và không đƣợc HĐGĐT chấp nhận (chiếm 1,38%) thì

năm 2018, 2019 tỷ lệ này đã tăng lên hơn 9% tổng số kháng nghị.

Khác với Tòa án cấp tỉnh, Hội đồng giám đốc thẩm TANDCC chủ yếu thực

hiện quyền “sửa bản án, quyết định đã có HLPL”, chiếm 52,9% tổng số các trƣờng hợp đã giải quyết, trong khi đó quyết định hủy bản án, quyết định đã có HLPL để điều

tra lại hoặc xét xử lại chỉ chiếm 28%. Việc can thiệp vào nội dung vụ án với tỷ lệ sửa

bản án, quyết định đã có HLPL phần nào đã biến giám đốc thẩm thành một cấp xét xử,

giống xét xử phúc thẩm hơn là thể hiện bản chất “phá án” của giám đốc thẩm.

Chất lƣợng các quyết định giám đốc thẩm của TANDCC chƣa cao. Trong thời gian 10 năm từ 2010 đến 2019, có tất cả 46 quyết định giám đốc thẩm của Tòa án cấp

dƣới bị Hội đồng Thẩm phán TANDTC xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm thì

trong 4 năm từ 2016 đến 2019 đã có 19 quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm

TANDCC (chiếm 41,3%).

Là một cấp xét xử mới đƣợc thành lập trên cơ sở các Viện phúc thẩm

VKSNDTC và Tòa phúc thẩm TANDTC, mặc dù biên chế, số lƣợng cán bộ, Thẩm

phán, Kiểm sát viên tăng lên nhiều lần so với các Viện phúc thẩm, Tòa phúc thẩm

nhƣng do chức năng giám đốc thẩm là một chức năng mới nên kinh nghiệm trong việc

114

kháng nghị và xét xử giám đốc thẩm còn hạn chế. Bên cạnh đó, so với biên chế đƣợc giao thì số lƣợng cán bộ, Kiểm sát viên, Thẩm phán hiện đang công tác tại các đơn vị này vẫn còn thiếu nhiều. “Số lƣợng Thẩm phán, Thẩm tra viên để bố trí cho các TANDCC còn thiếu so với nhu cầu công việc” [142, tr.22].

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

Những quy định về giám đốc thẩm trong BLTTHS năm 2015 trên cơ sở kế thừa

những chế định tiến bộ của các BLTTHS trƣớc, phù hợp với lý luận và thực tiễn, tiếp

thu có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia trên thế giới, đã có những sửa đổi, bổ sung, khắc phục đƣợc phần nào bất cập, thiếu sót của các bộ luật trƣớc.

Tuy nhiên, một số quy định vẫn chƣa thực sự rõ ràng, cụ thể dẫn đến nhận thức

và áp dụng có sự khác nhau, thiếu thống nhất; một số quy định còn bất cập, không phù

hợp với lý luận và thực tiễn, cần sửa đổi, thậm chí hủy bỏ; một số quy định cần bổ

sung để có căn cứ thi hành.

Thực tiễn thi hành các quy định của BLTTHS cho thấy, số lƣợng kháng nghị

giám đốc thẩm chiếm số ít so với tổng số bản án, quyết định có HLPL của Tòa án. Số

lƣợng đơn đề nghị, kiến nghị kháng nghị giám đốc thẩm, thông báo vi phạm trong các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án không có xu hƣớng giảm nhƣng tốc độ giải

quyết của các cơ quan có thẩm quyền còn chậm, số lƣợng đơn tồn đọng còn lớn. Căn

cứ kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm trong một số trƣờng hợp còn chƣa rõ ràng,

gây tranh cãi.

Từ khi các TANDCC và VKSNDCC đƣợc thành lập, số lƣợng kháng nghị tăng

đột biến, tỷ lệ giải quyết đơn giám đốc thẩm cũng tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, chất

lƣợng kháng nghị giám đốc thẩm có xu hƣớng giảm, số lƣợng kháng nghị bị rút, không

đƣợc chấp nhận tăng nhanh.

Tốc độ xem xét kháng nghị giám đốc thẩm của HĐGĐT còn chậm, số lƣợng

kháng nghị giám đốc thẩm tồn đọng hàng năm vẫn lớn. Từ khi BLTTHS năm 2015 có

hiệu lực, số lƣợng các bản án có hiệu lực pháp pháp luật của Tòa án bị sửa nhiều, có

chiều hƣớng tăng.

115

Chương 4

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁM ĐỐC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

4.1. Phương hướng đổi mới, hoàn thiện, nâng cao hiệu quả giám đốc thẩm trong

tố tụng hình sự

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về giám đốc thẩm, thực tiễn giám đốc thẩm và

truyền thống pháp luật Việt Nam, đồng thời tham khảo mô hình giám đốc thẩm trong

các thiết chế tƣ pháp hình sự quốc tế và TTHS của một số quốc gia trên thế giới, có thể

nhận thấy mục tiêu và xu hƣớng phát triển của thủ tục giám đốc thẩm là:

- Hạn chế việc kháng nghị giám đốc thẩm tràn lan, thiếu căn cứ đối với các bản

án, quyết định đã có HLPL của Tòa án;

- Giám đốc thẩm không xem xét nội dung vụ án cụ thể mà chỉ xem xét, đánh giá

việc áp dụng pháp luật;

- Thẩm quyền giám đốc thẩm tập trung ở Tòa án cấp cao nhất;

- Đảm bảo nguyên tắc có lợi cho ngƣời bị kết án.

Xu hƣớng này cũng phù hợp với chiến lƣợc cải cách tƣ pháp của Bộ Chính trị,

đó là: nâng cao chất lƣợng hoạt động của các cơ quan tƣ pháp mà trọng tâm là hoạt

động xét xử, hoàn thiện tổ chức Tòa án theo cấp xét xử, phát huy quyền làm chủ của

công dân trong TTHS, tăng cƣờng và nâng cao hiệu lực giám sát việc chấp hành pháp

luật của các cơ quan tƣ pháp… Từ những căn cứ trên, phƣơng hƣớng nâng cao chất

lƣợng giám đốc thẩm trong TTHS cụ thể nhƣ sau:

Thứ nhất, toàn bộ các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án phải đƣợc

kiểm tra, giám sát một cách đầy đủ, toàn diện, đảm bảo những phán quyết của Tòa án

nhân danh Nhà nƣớc đúng đắn, khách quan, đầy đủ, đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp

luật, không bỏ lọt tội phạm, ngƣời phạm tội, không làm oan ngƣời vô tội. Trƣờng hợp

phát hiện vi phạm trong các bản án, quyết định đã có HLLP của Tòa án, cần phân loại,

đánh giá chính xác những vi phạm này nhƣ vi phạm nào có thể đính chính, vi phạm

nào cần phải kiến nghị, rút kinh nghiệm, vi phạm nào cần phải kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Hạn chế tối đa việc kháng nghị giám đốc thẩm tràn làn, thiếu căn cứ để đảm bảo tính ổn định của các bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL.

Thứ hai, việc tác động tới HLPL của một bản án, quyết định đƣợc Tòa án tuyên

nhân danh Nhà nƣớc là rất hệ trọng. Vì vậy, cần tập trung thống nhất về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và thẩm quyền giám đốc thẩm để giám đốc thẩm vừa là công cụ để giám sát, phát hiện và khắc phục những vi phạm của Tòa án cấp dƣới, các quyết định giám đốc thẩm vừa trở thành hƣớng dẫn trong việc áp dụng,

thi hành pháp luật. Các quyết định giám đốc thẩm phải có tính chuẩn mực, có giá trị

116

chung thẩm, không bị xem xét lại.

Thứ ba, hạn chế tối đa những ảnh hƣởng bất lợi mà giám đốc thẩm có thể mang

đến cho ngƣời bị kết án. Những vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án là những

sai lầm chủ quan của cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng. Do đó, để

đảm bảo quyền con ngƣời, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, việc phát hiện và khắc phục những sai lầm trong bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án phải theo

hƣớng có lợi cho ngƣời bị kết án.

Thứ tư, nâng cao chất lƣợng khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và phúc

thẩm, đảm bảo mỗi bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL phải tƣợng trƣng cho

công lý, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền và lợi ích chính đáng của Nhà nƣớc, công

dân, tạo tâm lý “tâm phục, khẩu phục” đối với những ngƣời tham gia tố tụng và dƣ

luận xã hội. Pháp luật hình sự và TTHS nói chung, các quy định về thủ tục giám đốc

thẩm nói riêng phải ngày càng hoàn thiện, xác định rõ phạm vi giám đốc thẩm; quy định rõ ràng, chặt chẽ, khoa học các căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, thẩm quyền

kháng nghị giám đốc thẩm và thẩm quyền giám đốc thẩm.

4.2. Yêu cầu đổi mới, hoàn thiện, nâng cao hiệu quả giám đốc thẩm trong TTHS

4.2.1. Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp được thể hiện trong các văn kiện, nghị

quyết của Đảng.

Quan điểm cải cách tƣ pháp của Đảng đƣợc thể hiện trong nhiều nghị quyết, kết

luận của Bộ Chính trị nhƣ: Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/9/2005 của Bộ Chính trị

về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày

24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật

Việt Nam đến năm 2010, định hƣớng 2020; Kết luận số 79-KL/TW ngày 27/8/2010

của Bộ Chính trị, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 về việc tiếp tục thực hiện

nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị. Đối với hệ thống pháp

luật, mục tiêu là phải xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công

khai, minh bạch; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội,

giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nƣớc

trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con ngƣời, quyền tự do, dân chủ của công dân. Đối với giám đốc thẩm, phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật nhƣ sau: “từng bƣớc hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm theo hƣớng quy định chặt chẽ với những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của ngƣời ra kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có HLPL; khắc phục tình trạng kháng nghị tràn làn, thiếu căn cứ.”

Trên cơ sở tƣ tƣởng, phƣơng hƣớng xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung, các quy định về giám đốc thẩm nói riêng, các Nghị quyết, Kết luận của Bộ chính trị cũng xác định vị trí, vai trò của TANDTC là tập trung cho nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hƣớng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử

117

giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định của TAND cấp dƣới. Các Kết luận của

Bộ Chính trị cũng từng bƣớc cụ thể hóa các Nghị quyết của Đảng về vị trí, vai trò,

nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa án và Viện kiểm sát trong các giai đoạn tố tụng, trong

đó có thủ tục giám đốc thẩm.

4.2.2. Đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Việc hoàn thiện pháp luật về giám đốc thẩm phải đáp ứng đƣợc yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo vệ pháp chế, bảo đảm các quyền và

lợi ích hợp pháp của công dân, tăng cƣờng trách nhiệm của Nhà nƣớc đối với công dân. Với mục đích nhằm khắc phục vi phạm nghiêm trọng các trong bản án, quyết

định đã có HLPL của Tòa án tuyên nhân danh Nhà nƣớc và đảm bảo việc áp dụng

pháp luật đƣợc đúng đắn, nhất quán, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, đặc

biệt là quyền và lợi ích hợp pháp của những ngƣời có liên quan đến bản án, quyết định

đã có HLPL của Tòa án, các quy định về giám đốc thẩm phải phù hợp với tinh thần của Hiến pháp, kế thừa đƣợc pháp luật truyền thống của Việt Nam, vừa đảm bảo việc

phát hiện và khắc phục các vi phạm nghiêm trọng trong bản án, quyết định đã có HLPL nhanh chóng, kịp thời, chính xác vừa hạn chế việc kháng nghị giám đốc thẩm

tràn lan, thiếu căn cứ. Ngoài ra, do đối tƣợng đặc biệt của giám đốc thẩm là các bản

án, quyết định của Tòa án đã có HLPL đƣợc Hiến pháp và pháp luật hình sự đảm bảo

thi hành nên việc xét xử giám đốc thẩm phải là khuôn mẫu trong hoạt động xét xử; các

quyết định giám đốc thẩm phải khắc phục các “vi phạm nghiêm trọng”, giải quyết các

vấn đề có tính chất định hƣớng, hƣớng dẫn áp dụng, thi hành pháp luật hình sự và

TTHS, là nguồn phát triển án lệ.

4.2.3. Đảm bảo tính phù hợp với Hiến pháp và các văn bản pháp luật đã ban hành

Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 nhƣ bảo đảm quyền khiếu

nại, tố cáo (Điều 13), bảo đảm bản án, quyết định có HLPL của Tòa án đƣợc tôn trọng,

nghiêm chỉnh chấp hành (Điều 106); TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền

con ngƣời, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà

nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (Điều 102); VKSND có nhiệm

vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất (Điều 107) nhằm xây dựng các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám đốc thẩm, nâng cao chất lƣợng giám đốc thẩm trong TTHS. Việc hoàn thiện các quy định về giám đốc thẩm phải đảm bảo đƣợc tính đồng bộ, thống nhất với các chế định khác của luật

TTHS và không mâu thuẫn với hệ thống pháp luật nói chung.

118

Việc nâng cao hiệu quả giám đốc thẩm trong TTHS phải nhằm nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án, góp phần thực hiện mục đích của TTHS là giải quyết vụ án kịp thời, chính xác, khách quan, đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan

ngƣời vô tội, không bỏ lọt tội phạm, ngƣời phạm tội. Mục đích chính của thủ tục giám

đốc thẩm không chỉ dừng lại ở việc phát hiện và khắc phục những sai lầm trong bản

án, quyết định đã có HLPL của Tòa án mà còn để đảm bảo việc áp dụng pháp luật

đƣợc chính xác, thống nhất. Vì vậy, các giải pháp cũng phải đảm bảo bản chất của giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt, chỉ thực hiện khi phát hiện có sai lầm nghiêm trọng

trong bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án; phát huy hiệu lực, hiệu quả của

nguyên tắc hai cấp xét xử, bảo đảm tính ổn định của các bản án, quyết định của Tòa án

đã có HLPL.

4.2.4. Phù hợp với yêu cầu của thực tiễn

Các giải pháp nâng cao hiệu quả giám đốc thẩm trong TTHS phải trên cơ sở

yêu cầu của thực tiễn. Trong những năm qua, tình hình tội phạm có xu hƣớng tăng,

tính chất vụ việc ngày càng phức tạp, cùng với áp lực phải giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án hình sự nên khả năng để xảy ra sai sót trong quá trình chứng minh tội

phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng tăng lên. Số lƣợng đơn thƣ khiếu nại, kiến nghị, thông báo vi phạm pháp luật, đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm không có

dấu hiệu giảm nhƣng việc giải quyết chậm, tỷ lệ giải quyết thấp dẫn đến tâm lý bức

xúc kéo dài, phần nào làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với hệ thống tƣ pháp.

Việc nâng cao chất lƣợng giám đốc thẩm là cần thiết để phát hiện, khắc phục các sai

lầm trong bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án, bảo đảm quyền và lợi ích chính

đáng của công dân. Tuy nhiên, các giải pháp này phải trên cơ sở kế thừa những thành

tựu về xây dựng pháp luật TTHS, khắc phục những bất cập, hạn chế trên thực tế; có

tính khả thi, tiết kiệm thời gian, công sức, chi phí cho Nhà nƣớc, có khả năng thực

hiện trong điều kiện hiện tại và phù hợp với xu thế phát triển của pháp luật Việt Nam

nói chung và pháp luật về giám đốc thẩm trong TTHS nói riêng.

4.2.5. Đảm bảo tính kế thừa pháp luật truyền thống của Việt Nam, đồng thời

tiếp thu có chọn lọc những quy định của pháp luật nước ngoài

Đảm bảo tính kế thừa có chọn lọc truyền thống, kinh nghiệm lập pháp đã trở

thành nguyên tắc định hƣớng quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật từ xa xƣa. Tuy nhiên, “kế thừa pháp luật không có nghĩa là sự sao chép, ghi lại máy móc những quy định cũ mà theo nghĩa tích cực, nâng cao, phát triển, đƣa lại cho các quy định tƣởng nhƣ cũ đó một cách thể hiện mới, trong sáng, chính xác, hoàn chỉnh hơn” [72, tr.1]. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật giám đốc thẩm phải kế thừa pháp luật truyền thống của Việt Nam, những thành tựu về xây dựng pháp luật hình sự và

TTHS, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội trong giai đoạn hiện nay.

119

Đồng thời, việc nghiên cứu các giải pháp cần tiếp thu có chọn lọc những quy định của pháp luật nƣớc ngoài phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đảm bảo các quy định về thủ tục giám đốc thẩm có tính tƣơng thích cao, đáp ứng đƣợc yêu cầu hội nhập quốc

tế, tuân thủ các nguyên tắc pháp luật quốc tế, các điều ƣớc mà Việt Nam đã ký kết

hoặc gia nhập, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Hiện nay, “trong

thế giới toàn cầu hóa, khi mà các hệ thống chính trị, kinh tế và kể cả văn hóa luôn có

xu hƣớng xích lại gần nhau thì mỗi hệ thống pháp luật không thể tồn tại một cách xa lạ nhau, khác biệt nhau, thậm chí đối lập nhau” [99, tr.53]. Do đó, nghiên cứu mô hình hệ

thống tƣ pháp hình sự quốc tế, pháp luật TTHS của các quốc gia trên thế giới, so sánh

với pháp luật Việt Nam, từ đó chọn lọc, áp dụng là một trong những giải pháp tốt nhất

nhằm tiết kiệm chi phí cho hoạt động lập pháp, đồng thời “có thể mang lại những hiệu

quả nhất định trong việc tạo ra một văn bản quy phạm pháp luật có tính khả thi và có

hiệu quả” [59, tr.11].

4.3. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về giám đốc thẩm 4.3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm trong TTHS. 4.3.1.1. Về đối tượng kháng nghị giám đốc thẩm

Đối tƣợng của giám đốc thẩm là vấn đề quan trọng vì chỉ khi nào xác định đúng

đối tƣợng thì hoạt động giám đốc thẩm mới chính xác, hiệu quả và có giá trị. BLTTHS

không quy định cụ thể về đối tƣợng của thủ tục giám đốc thẩm mà chỉ quy định chung

về tính chất của giám đốc thẩm. Điều 370 BLTTHS năm 2015 quy định: “giám đốc

thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL...” Quy định này là chƣa rõ

ràng, cụ thể bởi vì đối với các “quyết định của Tòa án đã có HLPL”, pháp luật TTHS

Việt Nam chƣa có quy định cụ thể những quyết định có HLPL nào của Tòa án là đối

tƣợng của thủ tục giám đốc thẩm. Thực tiễn thi hành BLTTHS cũng đã xuất hiện

những quan điểm khác nhau trong việc xác định quyết định nào là đối tƣợng của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, từ thời điểm nhận hồ sơ vụ án, bản

cáo trạng và thụ lý vụ án Tòa án ra nhiều quyết định tố tụng khác nhau, chẳng hạn,

trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là các quyết định phân công hoặc thay đổi Thẩm phán,

Hội thẩm, Thẩm tra viên, Thƣ ký; quyết định tạm giam; quyết định bắt, tạm giam;

quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn; quyết định áp dụng, đình chỉ biện pháp bắt buộc chữa bệnh; quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, quyết định trƣng cầu giám định; quyết định đƣa vụ án ra xét xử sơ thẩm, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết định trả hồ sơ vụ án (để truy tố theo thẩm quyền); quyết định đình chỉ vụ án; quyết

định phục hồi vụ án; quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, trong quá trình xét

xử sơ thẩm, phúc thẩm là quyết định hoãn phiên tòa; quyết định đƣa vụ án ra xét xử phúc thẩm; quyết định tạm đình chỉ vụ án; quyết định đình chỉ vụ án; quyết định phục

hồi vụ án; quyết định hoãn phiên tòa; quyết định giải quyết việc kháng cáo, kháng nghị

đối với quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án; quyết định về việc giải quyết

120

kháng cáo quá hạn;... sau khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm, Tòa án có thể ra quyết

định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm. Những

quyết định này do nhiều chủ thể khác nhau ban hành, có thể là Thẩm phán, Phó Chánh

án, Chánh án, Hội đồng xét xử... nhƣng đều là những quyết định có HLPL. Vì vậy,

trong thực tiễn công tác giám đốc thẩm, có nhiều ý kiến cho rằng tất cả các quyết định có HLPL do Tòa án ban hành đều là đối tƣợng của thủ tục giám đốc thẩm.

Việc coi tất cả các quyết định của Tòa án đều là đối tƣợng của giám đốc thẩm

có thể dẫn đến tình trạng kháng nghị tràn lan, không phù hợp với bản chất và mục đích

của thủ tục giám đốc thẩm, không phù hợp với phƣơng hƣớng, yêu cầu đổi mới, hoàn

thiện và nâng cao hiệu quả thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS. Bởi vì, trong quá trình

giải quyết vụ án hình sự, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan

tiến hành tố tụng gồm cả Tòa án ban hành nhiều quyết định tố tụng khác nhau để xác

định sự thật vụ án. Có những quyết định mà tính chất, hiệu lực không khác gì nhau mặc dù đƣợc ban hành bởi các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau, chẳng hạn các

quyết định phân công, quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn...

Các quyết định này nếu đứng riêng lẻ thì bản thân từng quyết định không thể giải

quyết triệt để vụ án mà chỉ có ý nghĩa trong việc đảm bảo hoạt động chứng minh của

các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng đúng pháp luật, khách quan,

toàn diện, đầy đủ và xác định tội phạm, xử lý ngƣời phạm tội, pháp nhân phạm tội.

Các quyết định này mang tính chất hành chính – tƣ pháp, chỉ là đối tƣợng của hoạt động kiến nghị, khiếu nại mà không phải là đối tƣợng kháng cáo, kháng nghị trong

hoạt động xét xử. Điều kiện cần để một quyết định đã có HLPL của Tòa án trở thành

đối tƣợng của giám đốc thẩm là: quyết định đó phải giải quyết thực chất vụ án.

Một số loại “quyết định của Tòa án đã có HLPL” thỏa mãn điều kiện trên, có

tính chất giải quyết thực chất vụ án (tạm thời hoặc dứt điểm) nhƣng cũng không thể

coi là đối tƣợng của thủ tục giám đốc thẩm. Đó là quyết định tạm đình chỉ vụ án, quyết

định đình chỉ vụ án của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa; quyết định áp dụng, đình chỉ

biện pháp bắt buộc chữa bệnh của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án.

Theo Khoản 2 Điều 330 BLTTHS năm 2015, các quyết định tạm đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ vụ án của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa (Điều 281, 282 BLTTHS năm 2015) là đối tƣợng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Theo quy định tại khoản 2 Điều 453 BLTTHS năm 2015, việc kháng cáo, kháng nghị quyết định của Tòa án về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đƣợc thực hiện nhƣ đối với

121

quyết định sơ thẩm. Nhƣ vậy, các quyết định này, nếu không bị kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm thì sẽ trở thành quyết định của Tòa án có HLPL và trở thành đối tƣợng của thủ tục giám đốc thẩm. Tuy nhiên, về bản chất, các quyết định này của Tòa án giống quyết định tạm đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định bắt buộc chữa bệnh của Viện kiểm sát hay quyết định tạm đình chỉ điều tra và đình chỉ điều tra của

Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Điểm khác biệt duy nhất là tƣ

cách pháp lý của đối tƣợng chịu tác động. Trong trƣờng hợp chƣa có quyết định đƣa

vụ án ra xét xử, đối tƣợng của các quyết định này đều là bị can. Tuy nhiên, nếu nhƣ

các quyết định của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không bị kháng cáo, kháng nghị mà chỉ là đối tƣợng của khiếu nại thì quyết định của Tòa án lại bị kháng cáo, kháng

nghị. Điều này mâu thuẫn với quy định về quyền của bị can quy định tại khoản 2 Điều

60 BLTTHS năm 2015, không đảm bảo tính thống nhất trong các quy định của

BLTTHS, không phù hợp với các nguyên tắc của TTHS.

Vì vậy, theo chúng tôi, các quyết định là đối tƣợng của thủ tục giám đốc thẩm

phải thỏa mãn tất cả các điều kiện sau: (1) Phải đƣợc quyết định bởi Hội đồng xét xử

sơ thẩm, phúc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm; (2) Các quyết định này phải

giải quyết nội dung thực chất của vụ án; (3) Phải là quyết định có tính chất kết luận, dứt điểm đối với vụ án đó; (4) Phát sinh HLPL.

Từ các phân tích trên, chúng tôi đề xuất bổ sung một điều luật cụ thể trong

BLTTHS quy định về đối tƣợng của thủ tục giám đốc thẩm, cụ thể nhƣ sau:

- Bản án của Tòa án đã có HLPL bao gồm:

+ Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;

+ Bản án phúc thẩm.

- Quyết định đã có HLPL bao gồm:

+ Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm;

+ Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm;

4.3.1.2. Về phát hiện vi phạm trong bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án.

Kế thừa quy định từ các BLTTHS trƣớc đây, Điều 372 BLTTHS năm 2015

cũng không hạn chế các chủ thể có quyền phát hiện vi phạm pháp luật trong các bản

án, quyết định của Tòa án và thông báo cho những ngƣời có thẩm quyền nhằm đảm bảo việc kiểm tra, giám sát cao nhất, rộng nhất, đầy đủ các thành phần xã hội đối với

hoạt động của các cơ quan tƣ pháp nói chung và hoạt động xét xử của Tòa án nói

riêng. Việc đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án vì phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng có những điểm tƣơng đồng với hoạt động khiếu nại, tố cáo trong TTHS. Hai hoạt động này phát sinh khi cá nhân, tổ chức không đồng tình với quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, hành

vi của ngƣời tiến hành tố tụng trên cơ sở cho rằng quyết định, hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời khiếu nại hoặc của ngƣời khác.

122

Tuy nhiên, nếu nhƣ hoạt động khiếu nại, tố cáo có mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ của cả ngƣời khiếu nại, tố cáo và ngƣời bị khiếu nại, tố cáo thì việc phát hiện vi phạm trong bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án và đề nghị kháng nghị giám

đốc thẩm, tất cả nghĩa vụ thuộc về ngƣời có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm

(trả lời không có căn cứ kháng nghị, kháng nghị giám đốc thẩm, giải quyết việc bồi

thƣờng trong trƣờng hợp oan sai, xác định trách nhiệm của những ngƣời tiến hành tố

tụng vi phạm pháp luật trong việc để xảy ra oan, sai…). Những ngƣời có quyền phát hiện vi phạm trong bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án và đề nghị, kiến nghị

kháng nghị giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định này không có nghĩa vụ phải

chứng minh những đề nghị của mình là có căn cứ. Đây là một trong những lý do dẫn

đến tình trạng số lƣợng đơn đề nghị, kiến nghị kháng nghị giám đốc thẩm, đơn khiếu

nại thông báo không có căn cứ kháng nghị, thậm chí đơn khiếu nại quyết định kháng

nghị giám đốc thẩm, khiếu nại quyết định giám đốc thẩm tăng lên hàng năm, tạo áp

lực rất lớn lên các cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

Thực tiễn giải quyết các đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm cho thấy hoạt động phát hiện vi phạm pháp luật trong các bản án, quyết định có HLPL của Tòa án

dƣới hình thức đơn đề nghị, kiến nghị, thông báo của cá nhân, tổ chức có hiệu quả

không cao. Số lƣợng những bản án, quyết định bị kháng nghị giám đốc thẩm xuất phát

từ việc giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm hoặc thông báo vi phạm pháp luật trong

các bản án, quyết định của Tòa án là rất ít so với tổng số đơn đã giải quyết, trung bình

hàng năm khoảng 10% [Phụ lục 2]. Nhiều đơn gửi đến các cơ quan Nhà nƣớc, các cơ

quan có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm với tính chất cầu may.

Bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án đƣợc tuyên nhân danh Nhà nƣớc,

mang tính quyền lực Nhà nƣớc sâu sắc, thể hiện thái độ của Nhà nƣớc đối với tội

phạm và ngƣời phạm tội. Vì vậy, Điều 106 Hiến pháp năm 2013 và Điều 28 BLTTHS

năm 2015 quy định: “bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật

phải đƣợc cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan

phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Việc đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm hoặc thông

báo vi phạm trong các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án không có căn cứ,

thậm chí một số trƣờng hợp tạo dựng chứng cứ, tài liệu không có thật là trái với

nguyên tắc Hiến định và quy định của BLTTHS. Do đó, cần phải có quy định nhằm xác định rõ mối quan hệ qua lại giữa Nhà nƣớc và cá nhân, pháp nhân trong hoạt động này để tránh việc lạm dụng, kiến nghị, đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tràn lan, không có căn cứ, thiếu trách nhiệm.

Có ý kiến cho rằng, việc hạn chế đề nghị, kiến nghị kháng nghị giám đốc thẩm

123

sẽ ảnh hƣởng đến quyền dân chủ của công dân. Tuy nhiên, việc quy định nghĩa vụ của những ngƣời có quyền phát hiện vi phạm trong bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án và kiến nghị, đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm không phải là biện pháp để hạn chế quyền đối với cá nhân, tổ chức trong hoạt động này mà buộc họ phải thực hiện quyền của mình trên cơ sở sự thật khách quan và trong khuôn khổ pháp luật. Điều này

cũng không trái với Hiến pháp và Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự, chính trị mà

Việt Nam đã gia nhập. Pháp luật TTHS của một số quốc gia trên thế giới thậm chí còn

quy định việc xử phạt đối với những hành vi lạm dụng quyền kháng cáo. Ví dụ, trong

pháp luật TTHS của Cộng hòa Pháp, ngƣời kháng cáo giám đốc thẩm có thể bị phạt tiền [89, tr.57]. Pháp luật TTHS của Hoa Kỳ thậm chí còn tạm giam đối với những

ngƣời lạm dụng quyền khiếu nại. Trƣờng hợp này không bị coi là vi phạm quyền tự do

dân chủ vì họ đã vi phạm quyền khiếu nại [193, tr.1301]. Tòa án Châu Âu về quyền

con ngƣời cũng cho rằng: việc hạn chế quyền khiếu nại phá án hoàn toàn không vi

phạm đến quyền của công dân đƣợc tiếp cận với Tòa án [89, tr.53].

Vì vậy, Điều 372 BLTTHS cần phải bổ sung nhƣ sau:

Người bị kết án, cơ quan, tổ chức và cá nhân phải chịu trách nhiệm trước pháp

luật về những nội dung thông báo vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án mà biết rõ là không có căn cứ, không đúng sự thật.

Bên cạnh đó, cũng cần bổ sung quy định giới hạn số lần trả lời các yêu cầu, đề

nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Trên thực tế, nhiều trƣờng hợp cá nhân,

cơ quan, tổ chức đề nghị kháng nghị bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án theo

thủ tục giám đốc thẩm không đồng ý với văn bản trả lời không có căn cứ kháng nghị

của các chủ thể có thẩm quyền nên khiếu nại văn bản này và tiếp tục đề nghị kháng

nghị giám đốc thẩm với nội dung không có gì mới. Đây là một lý do khiến cho số lƣợng đơn đề nghị giám đốc thẩm không có dấu hiệu giảm. Theo chúng tôi, để đảm

bảo khách quan, thận trọng, chính xác, đối với những đơn đề nghị kháng nghị theo thủ

tục giám đốc thẩm hoặc khiếu nại kết quả giải quyết không có nội dung, tình tiết mới,

nếu Chánh án TANDTC và Viện trƣởng VKSNDTC đã trả lời thì kết quả trả lời này là

cuối cùng, trƣờng hợp tiếp tục có đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm thì không

tiếp tục thụ lý, giải quyết.

4.3.1.3. Về chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm.

Trong pháp luật TTHS Việt Nam, khác với chủ thể có thẩm quyền tái thẩm chỉ

có Viện kiểm sát, chủ thể có thẩm quyền giám đốc thẩm rộng hơn, gồm cả Viện kiểm sát và Tòa án. Đối với thủ tục tái thẩm, kháng nghị đi liền với việc điều tra, xác minh tình tiết mới. Sau khi bản án, quyết định của Tòa án có HLPL, chỉ có Viện kiểm sát mới có thẩm quyền quyết định việc điều tra, xác minh. Tòa án không thể là ngƣời điều tra, xác minh rồi sau đó lại xét xử, đánh giá các tình tiết đó [42, tr.14].

124

Nghiên cứu về thẩm quyền giám đốc thẩm, có ý kiến cho rằng, Tòa án thực hiện quyền kháng nghị giám đốc thẩm chính là tiến hành một hình thức đặc thù trong các hoạt động giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên với hoạt động xét xử của Tòa án cấp dƣới [83, tr.80]. Khoản 2 Điều 104 Hiến pháp 2013, khoản 2 Điều 20 Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định: TANDTC giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác, trừ

trƣờng hợp do luật định. Việc quy định Tòa án có thẩm quyền kháng nghị giám đốc

thẩm mà không có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm vì để kháng nghị tái thẩm phải

đánh giá đƣợc giá trị pháp lý của tình tiết mới phát hiện đối với vụ án, trong khi đó,

giám đốc thẩm trên cơ sở các căn cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án để xác định bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án có vi phạm hay không.

Về vấn đề này, chúng tôi đồng tình với các ý kiến cho rằng quy định Tòa án có

quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm không phù hợp về mặt lý luận và chức

năng của Tòa án về các lý do sau:

Thứ nhất, về chức năng, Tòa án nhân danh công lý và dựa vào công lý, hoạt

động “nhƣ một ngƣời đứng giữa, trung lập, không phụ thuộc vào bên nào” [110, tr.43]

và chỉ tuân theo pháp luật. Nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

đã trở thành nguyên tắc chung trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia và đƣợc thừa nhận bởi các công ƣớc quốc tế. Vì Tòa án độc lập xét xử, không phụ thuộc bất cứ cơ

quan nào nên Tòa án không đƣợc ôm đồm tất cả, không đƣợc chủ động phát động giải

quyết vụ án mà chỉ giải quyết vụ việc khi có cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền yêu

cầu [30, tr.39]. “Việc Tòa án có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án

cấp dƣới theo bất kỳ thủ tục nào đều là bất hợp lý, bởi lẽ trong trƣờng hợp này không

còn ý nghĩa thể hiện sự chế ƣớc trong TTHS nữa” [48, tr.205].

Thứ hai, mặc dù giám đốc thẩm là một hình thức giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dƣới, nhƣng thủ tục giám đốc thẩm đƣợc tiến hành theo

thủ tục TTHS còn giám đốc xét xử mang tính chất hành chính trong ngành Tòa án.

Hơn nữa, giám đốc việc xét xử chỉ dừng lại ở việc phát hiện các vi phạm của Tòa án

cấp dƣới, không có sự phân biệt giữa “vi phạm” và “vi phạm nghiêm trọng”, cũng

không khắc phục đƣợc những vi phạm này.

Thứ ba, theo quy định của Chánh án TANDTC về việc giải quyết đơn đề nghị,

kiến nghị, thông báo đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL theo thủ tục

giám đốc thẩm, tái thẩm tại TAND: Vụ giám đốc kiểm tra của TANDTC, Phòng giám

đốc kiểm tra của TAND cấp cao có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ việc, xây dựng tờ trình, lập tiểu hồ sơ báo cáo Thẩm phán (Hội đồng Thẩm phán TANDTC hoặc Ủy ban kiểm sát TAND cấp cao, TAQS trung ƣơng). Trƣờng hợp xét thấy bản án, quyết định bị đề nghị giám đốc thẩm có căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì báo cáo Phó chánh án phụ trách quyết định. Trƣờng hợp xét thấy bản án, quyết định bị đề nghị

125

giám đốc thẩm, tái thẩm có căn cứ kháng nghị và ý kiến thống nhất với ý kiến Thẩm phán TANDTC thì Phó Chánh án quyết định kháng nghị; trƣờng hợp ý kiến của Phó Chánh án phụ trách khác với ý kiến của Thẩm phán TANDTC thì đƣa ra Tổ Thẩm phán; trƣờng hợp vụ việc phức tạp thì đề nghị Tổ thẩm phán xem xét, quyết định. Nhƣ vậy, trƣờng hợp Tòa án kháng nghị giám đốc thẩm, trong HĐGĐT đã có ít nhất 02

ngƣời nhất trí với kháng nghị của Chánh án là Thẩm phán đƣợc phân công giải quyết

và Phó Chánh án. Trƣờng hợp vụ án phức tạp, số lƣợng thành viên của HĐGĐT nhất

trí với kháng nghị có thể nhiều hơn (theo số lƣợng đồng ý kháng nghị trong tổ Thẩm

phán). Do đó, việc Tòa án cấp giám đốc thẩm kháng nghị rồi tự mình xét lại các vụ án không đảm bảo đƣợc tính khách quan.

Thứ tư, về vai trò của Viện kiểm sát trong trƣờng hợp Tòa án kháng nghị giám

đốc thẩm: chủ thể kháng nghị giám đốc thẩm phải có trách nhiệm bảo vệ kháng nghị

trƣớc HĐGĐT. Đối với bản án, quyết định bị Chánh án kháng nghị, Tòa án có trách

nhiệm bảo vệ kháng nghị. Viện kiểm sát chỉ có ý kiến nhất trí toàn bộ, nhất trí một

phần hoặc không nhất trí với kháng nghị. Việc kháng nghị, rút kháng nghị, chấp nhận

kháng nghị hay không chấp kháng nghị giám đốc thẩm trở thành “chuyện trong nhà”

của Tòa án. Thứ năm, số liệu kháng nghị giám đốc thẩm trong 10 năm từ 2010 đến 2019

cho thấy, tổng số kháng nghị giám đốc thẩm của Viện kiểm sát tƣơng đƣơng với số

lƣợng kháng nghị của Tòa án, có những năm số lƣợng kháng nghị của Viện kiểm sát

cao hơn của Tòa án. Điều này chứng tỏ Viện kiểm sát hoàn toàn có thể hoàn thành tốt

việc kháng nghị giám đốc thẩm nếu có đủ cơ sở vật chất, con ngƣời. Quy định chỉ có

Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị cũng sẽ tạo điều kiện cho ngành Tòa án tập

trung chuyên sâu hơn trong hoạt động xét xử. Tuy nhiên, vấn đề này đã đƣợc đặt ra trong quá trình nghiên cứu, sửa đổi

BLTTHS năm 2003. BLTTHS năm 2015 mới ban hành và có HLPL vẫn quy định

Chánh án TAND cấp cao và Chánh án TANDTC có thẩm quyền kháng nghị theo thủ

tục giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án. Mặt khác,

thực tiễn cho thấy Tòa án vẫn đang thực hiện tốt thẩm quyền kháng nghị giám đốc

thẩm, kịp thời phát hiện những vi phạm trong bản án, quyết định có HLPL của cấp

dƣới. Ngoài ra, việc thay đổi chức năng cũng kéo theo thay đổi về cơ cấu tổ chức,

không đảm bảo sự ổn định trong hoạt động của các cơ quan tƣ pháp.

Bên cạnh thay đổi quy định về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, cần bổ sung quy định về mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát để vừa đảm bảo hoạt động giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với cấp dƣới, vừa đảm bảo việc quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm của Viện kiểm sát chính xác, kịp thời. Theo quy định của BLTTHS Việt Nam từ trƣớc đến nay, quyền quyết định kháng nghị giám

126

đốc thẩm hay không kháng nghị trong ngành Kiểm sát thuộc về Viện trƣởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị. Điều này xuất phát từ nguyên tắc “thủ trƣởng chế” trong ngành Kiểm sát. Tuy nhiên, nếu trao toàn bộ quyền quyết định việc kháng nghị giám đốc thẩm cho Viện kiểm sát, cần phải có cơ chế kiểm soát quyền lực, đảm bảo khách quan, chính xác, thận trọng. Chẳng hạn, trƣờng hợp Tòa án phát hiện bản

án, quyết định có vi phạm pháp luật và thông báo cho Viện kiểm sát để xem xét kháng

nghị giám đốc thẩm, Viện kiểm sát sau khi nghiên cứu phải thành lập hội đồng để xem

xét việc kháng nghị với sự tham gia của đại diện Tòa án cùng cấp. Quyết định việc

kháng nghị phải quá nửa thành viên biểu quyết tán thành, trƣờng hợp số lƣợng biểu quyết là ngang nhau thì theo ý kiến của Viện trƣởng.

Từ những phân tích trên, chúng tôi đề xuất thay đổi các quy định pháp luật theo

hƣớng thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm chỉ thuộc về Viện kiểm sát. Quá trình

nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung pháp luật TTHS, quy định về thẩm quyền kháng nghị

giám đốc thẩm cần sửa đổi nhƣ sau: Viện trưởng VKSND kháng nghị các bản án,

quyết định đã có HLPL của Tòa án theo thẩm quyền. Trường hợp Tòa án cấp trên phát

hiện vi phạm trong bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới thông qua hoạt động giám

đốc việc xét xử thì thông báo ngay cho Viện kiểm sát có thẩm quyền để xem xét kháng nghị giám đốc thẩm.

4.3.1.4. Về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm

Thứ nhất, kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với

những tình tiết khách quan của vụ án.

Kết luận trong bản án hoặc quyết định của Tòa án “không phù hợp với những

tình tiết khách quan” của vụ án là trƣờng hợp Hội đồng xét xử đƣa ra những kết luận

không đúng với những gì có thật đã xảy ra, bao gồm nội dung vụ án, quan điểm của Hội đồng xét xử, quyết định về trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, xử lý vật

chứng, quyền kháng cáo, kháng nghị, án phí... Tất cả kết luận này đƣợc thể hiện trong

bản án, quyết định có HLPL của Tòa án.

Kết luận không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án có thể do lỗi

chủ quan hoặc khách quan. Trƣờng hợp trong quá trình xác định sự thật của vụ án, các

cơ quan tiến hành tố tụng có vi phạm pháp luật trong việc thu thập chứng cứ để chứng

minh tội phạm thì những kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án sẽ không “phù

hợp với các tình tiết khách quan” của vụ án vì các căn cứ để đƣa ra kết luận đã bị tác

động bởi ý thức chủ quan của cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng. Đây là căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm. Tuy nhiên, nếu nhƣ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử không biết đƣợc các “tình tiết khách quan” trong quá trình chứng minh tội phạm dẫn đến kết luận không đúng sự thật khách quan của vụ án thì lại là căn cứ để kháng nghị tái thẩm (khoản 2 Điều 398 BLTTHS).

127

Kháng nghị giám đốc thẩm phát sinh khi chủ thể có thẩm quyền phát hiện những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án. Việc Tòa án đƣa ra kết luận mà không đủ chứng cứ hoặc trên cơ sở sử dụng những căn cứ không bảo đảm tính hợp pháp, không đƣợc thu thập theo trình tự, thủ tục đƣợc quy định trong luật TTHS mới là căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm. Pháp luật

TTHS Việt Nam không quy định, hƣớng dẫn cụ thể thế nào là “không phù hợp với tình

tiết khách quan”. Việc đánh giá các vi phạm thuộc căn cứ này để quyết định kháng

nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chủ yếu phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các chủ thể

có thẩm quyền, thiếu sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật.

Vì vậy, để thể hiện rõ bản chất của giám đốc thẩm, phân biệt với căn cứ kháng

nghị tái thẩm và cụ thể hóa các trƣờng hợp phải kháng nghị, căn cứ kháng nghị giám

đốc thẩm này nên sửa đổi nhƣ sau:

Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với chứng cứ của

vụ án,cụ thể như sau:

- Kết luận của Tòa án không được khẳng định bằng các chứng cứ được xem xét

tại phiên tòa;

- Tòa án đã không xem xét đến những chứng cứ có ảnh hưởng cơ bản đến kết

luận của Tòa án;

- Còn tồn tại những chứng cứ đối lập nhau có ý nghĩa quan trọng trong việc ra

phán quyết nhưng Tòa án đã chấp nhận một trong các chứng cứ đối lập mà không nêu

ra những căn cứ của việc chấp nhận những chứng cứ này và bác bỏ chứng cứ khác;

- Kết luận đã được nêu trong bản án có những mâu thuẫn cơ bản và đã ảnh

hưởng hoặc có thể ảnh hưởng đến việc giải quyết vấn đề có tội hoặc không có tội của

người bị kết án hoặc người được tuyên vô tội, ảnh hưởng đến việc áp dụng đúng pháp luật hình sự hoặc quyết định mức hình phạt.

Thứ hai, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử

dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.

Theo Từ điển Tiếng Việt, thủ tục là “những việc cụ thể phải làm theo một trật

tự quy định để tiến hành một công việc có tính chính thức” [145, tr.570]. Việc sử dụng

thuật ngữ “thủ tục tố tụng” không bao hàm hết những vi phạm pháp luật TTHS trong

quá trình chứng minh tội phạm bởi vì ngoài “những việc cụ thể phải làm theo một trật

tự quy định”, luật TTHS còn có những quy định khác nhƣ các nguyên tắc của TTHS,

những quy định chung, những quy định về thẩm quyền, nhiệm vụ của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng, quyền của ngƣời tham gia tố tụng. Nếu vi phạm nghiêm trọng các quy định này cũng có thể bị kháng nghị giám đốc thẩm, chẳng hạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sai thẩm quyền; khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với ngƣời mà hành vi của họ đã có bản án của Tòa án đã có HLPL (nguyên

tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm)…

128

Ngoài ra, căn cứ này chỉ giới hạn trong việc điều tra, truy tố, xét xử là không đầy đủ. Hoạt động khởi tố vụ án hình sự nếu có vi phạm cũng có thể bị kháng nghị giám đốc thẩm, chẳng hạn: khởi tố vụ án không có căn cứ; khởi tố vụ án hình sự trong trƣờng hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại hoặc ngƣời đại diện của bị

hại quy định tại Điều 155 BLTTHS. Trƣờng hợp này mặc dù Cơ quan điều tra khởi tố

không đúng nhƣng Viện kiểm sát và Tòa án không phát hiện ra nên vẫn truy tố, xét xử;

vi phạm các quy định của BLTTHS trong hoạt động chứng minh tội phạm…

BLTTHS năm 2015 quy định thêm một điều kiện để kháng nghị giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định có HLPL của Tòa án có “vi phạm nghiêm trọng thủ tục

tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử” là những vi phạm này “phải dẫn đến sai lầm

nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án”. Chúng tôi cho rằng quy định này là không

hợp lý, không đúng với bản chất, ý nghĩa và mục đích của thủ tục giám đốc thẩm.

Thứ nhất, quá trình xác định sự thật của vụ án hình sự là quá trình tiếp cận chân

lý. Trên cơ sở quy định pháp luật, các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố

tụng tiến hành những biện pháp cần thiết để chứng minh tội phạm. Khi xác định đƣợc

sự thật, chân lý sẽ thể hiện trong bản án, quyết định có HLPL của Tòa án. Trƣớc khi tuyên án bằng bản án, Tòa án phải giải quyết đƣợc hai vấn đề chính: (1) làm sáng tỏ

những tình tiết của sự việc phạm tội trên cơ sở xem xét tất cả các chứng cứ, tài liệu cần

thiết cho việc chứng minh, đánh giá mức độ tin cậy của các chứng cứ, tài liệu này và

(2) đối chiếu những tình tiết khách quan đã đƣợc làm sáng tỏ với các quy định của

pháp luật để đƣa ra phán quyết về trách nhiệm của bị cáo. Những bản án, quyết định

đã có HLPL của Tòa án có sai lầm nghiêm trọng đều không tiếp cận đƣợc chân lý,

không đảm bảo đƣợc công lý. “Sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án” có thể do cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng vi phạm các quy định pháp

luật trong quá trình giải quyết vụ án, cũng có thể họ không thể biết đƣợc những tình

tiết, chứng cứ có ý nghĩa quan trọng để xác định sự thật của vụ án mặc dù đã áp dụng

đúng và đầy đủ quy định pháp luật trong hoạt động chứng minh. Tuy nhiên, nếu nhƣ

căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá

trình giải quyết vụ án, mang tính chủ quan, thì căn cứ để kháng nghị tái thẩm lại là

những tình tiết mới có thể làm thay đổi bản chất vụ án mà Tòa án không thể biết đƣợc

khi ra bản án, quyết định, lại mang tính khách quan. Đây là sự khác nhau cơ bản để

phân biệt giữa thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm. Việc quy định điều kiện “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử” phải dẫn đến “sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án” mới bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đã không đảm bảo đƣợc một trong các mục đích của thủ tục giám đốc thẩm là khắc phục vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án, đồng thời làm mờ nhạt sự khác

biệt giữa thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm.

129

Quan điểm cho rằng có vi phạm thủ tục tố tụng nhƣng nếu vi phạm đó không làm ảnh hƣởng đến kết quả giải quyết vụ án thì việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm cũng không cần thiết là đã có sự nhầm lẫn giữa mục đích của giám đốc thẩm và mục đích của tái thẩm. Mục đích của thủ tục giám đốc thẩm là kiểm tra tính hợp pháp

trong quá trình giải quyết vụ án, phát hiện những vi phạm pháp luật để khắc phục, bảo

đảm tính hợp pháp của các bản án, quyết định có HLPL của Tòa án, nhằm tạo ra sự

thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Trong khi đó, thủ tục tái thẩm đánh giá lại vụ

việc thực tế để xác định lại sự thật và kết quả giải quyết vụ án.

Thứ hai, trong thủ tục tái thẩm, “các tình tiết mới” xuất hiện sau khi bản án,

quyết định của Tòa án có HLPL không tự nhiên trở thành chứng cứ, tài liệu của vụ án

mà phải đƣợc điều tra, xác minh theo thủ tục tái thẩm, đƣợc tiến hành bởi Viện kiểm

sát có thẩm quyền. Sau đó, trên cơ sở đánh giá tác động của các chứng cứ, tài liệu mới

này đối với sự thật khách quan của vụ án, Viện kiểm sát mới quyết định việc kháng

nghị. Trong khi đó, đối với thủ tục giám đốc thẩm, chứng cứ, tài liệu đƣợc thu thập

trên cơ sở những vi phạm thủ tục tố tụng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đã

không đảm bảo tính khách quan, không đảm bảo tin cậy. Việc Tòa án sử dụng các chứng cứ, tài liệu này để ra bản án, quyết định là không bảo đảm tính khách quan,

đúng pháp luật. Hơn nữa, quy định căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm phải

đảm bảo vừa có “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử”

vừa “phải dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án” trong nhiều

trƣờng hợp là không khả thi. Bởi vì bản thân những chứng cứ, tài liệu đƣợc thu thập

trên cơ sở vi phạm thủ tục tố tụng là những chứng cứ, tài liệu bị nghi ngờ về tính đúng

đắn. Do đó, nếu chỉ có chứng cứ, tài liệu này mà không có gì khác để so sánh thì không thể đánh giá đƣợc tác động của những vi phạm đến việc giải quyết vụ án. Chỉ

khi nào việc thu thập chứng cứ, tài liệu đƣợc thực hiện lại theo đúng pháp luật, đảm

bảo tính đúng đắn, khách quan mới có căn cứ so sánh giữa chứng cứ tài liệu mới và

chứng cứ, tài liệu cũ để từ đó kết luận “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong

điều tra, truy tố, xét xử” có “dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án”

hay không. Ví dụ: việc giám định lại không do ngƣời giám định khác tiến hành. Mục

đích của giám định lại là để đánh giá, so sánh kết quả giám định trƣớc và kết quả giám

định sau. Nếu giám định và giám giám định lại đƣợc thực hiện bởi cùng một ngƣời thì

hai kết quả giám định này không còn đảm bảo tính khách quan, không có giá trị so sánh, đánh giá bởi vì khi có nghi ngờ về kết quả giám định trƣớc mới yêu cầu giám định lại. Việc cho rằng kết quả giám định lại vẫn phản ánh đúng thực tế là không có căn cứ. Cũng có thể sau khi điều tra lại, việc giám định lại lần 2 đƣợc tiến hành bởi một ngƣời khác, kết quả cũng không có gì thay đổi nhƣng nếu không kháng nghị giám

đốc thẩm thì cũng không thể xác định đƣợc kết luận giám định chính xác để giải quyết vụ án.

130

Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng, nếu không quy định hậu quả của những sai lầm, vi phạm là dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án có thể xảy ra tình trạng kháng nghị tràn lan. Tuy nhiên, nếu chỉ quan tâm đến hậu quả của những vi

phạm sẽ bỏ qua rất nhiều những vi phạm nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án

mà có những vi phạm xâm phạm các quyền con ngƣời cơ bản đƣợc Hiến pháp, pháp

luật hình sự, TTHS bảo vệ nhƣ hành vi bức cung, nhục hình. Ngoài ra, nếu tiếp tục

quy định nhƣ trên, mục đích giải quyết vụ án sẽ đƣợc đặt lên trên việc tuân thủ pháp luật, pháp luật sẽ không đƣợc tôn trọng, chỉ tồn tại hình thức.

Vụ án Hồ Duy Hải bị Tòa án các cấp xử phạt tử hình về các tội “Giết ngƣời”,

“Cƣớp tài sản” là một ví dụ điển hình [Phụ lục 17]. Trong Quyết định giám đốc thẩm,

Hội đồng Thẩm phán TANDTC nhận định: Trong quá trình điều tra, thu thập chứng

cứ, Cơ quan điều tra có một số vi phạm, thiếu sót trong việc khám nghiệm hiện trƣờng,

thu giữ vật chứng, giám định pháp y và nhận dạng nhƣ: không thu giữ các vật chứng

gây án khi khám nghiệm hiện trƣờng (con dao, chiếc thớt, chiếc ghế inox); ghi nhận

không chính xác về hung khí gây án: biên bản khám nghiệm hiện trƣờng ghi mã số tem đảm bảo chất lƣợng của ghế là HNP2 447052, biên bản thu giữ chiếc ghế ghi

HPM3 44705 đều không chính xác vì ảnh chụp hiện trƣờng thể hiện rõ chiếc ghế xếp

khung inox có số tem đảm bảo chất lƣợng là HPM2 447052; không trƣng cầu giám

định ngay dấu vết máu thu đƣợc khi khám nghiệm hiện trƣờng mà để hơn 04 tháng sau

mới trƣng cầu giám định dẫn đến máu bị phân hủy, không giám định đƣợc; không ra

quyết định trƣng cầu để xác định thời điểm chết của nạn nhân.

Biên bản nhận dạng của anh Đinh Vũ Thƣờng, anh Nguyễn Mi Sol không có ngƣời chứng kiến; Biên bản ghi lời khai của chị Lê Thị Thu Hiếu có sửa chữa nhƣng

không có chữ ký xác nhận của ngƣời khai (nội dung sửa chữa là sửa lỗi chính tả);

Không đƣa vào hồ sơ vụ án một số tài liệu nhƣ: các biên bản ghi lời khai ngƣời làm

chứng Đinh Vũ Thƣờng, Nguyễn Mi Sol trƣớc ngày phát hiện ra Hồ Duy Hải; lời khai

của các anh Phùng Phụng Hiếu, Nguyễn Mi Sol, Nguyễn Văn Nghị và lời khai của Hồ

Duy Hải (04 bản cung, 23 bản tƣờng trình, bản tự khai, sơ đồ do Hải vẽ, viết, trong đó

có lời khai ngày 20/3/2008). Kháng nghị của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối

cao về những vấn đề nêu trên là đúng.

Tuy nhiên, vì cho rằng những vi phạm, thiếu sót này không làm ảnh hƣởng đến việc xác định bản chất của vụ án nên không chấp nhận kháng nghị của Viện trƣởng VKSNDTC và chỉ kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Long An tổ chức kiểm điểm nghiêm túc về những vi phạm, sai sót trên.

Trong vụ án này, Hồ Duy Hải bị kết án mức án cao nhất là tử hình. Phán quyết

131

của Tòa án không những liên quan đến tự do, danh dự, nhân phẩm mà còn quyết định cả tính mạng của ngƣời bị kết án. Việc đánh giá “có vi phạm, thiếu sót nhƣng không ảnh hƣởng đến bản chất của vụ án” chƣa đảm bảo tính khách quan, thận trọng khi quyết định.

Vì vậy, căn cứ này cần sửa đổi nhƣ sau: có vi phạm nghiêm trọng các quy định

của BLTTHS trong khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.

Thứ ba, có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật.

Căn cứ “có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật” trong BLTTHS năm 2015 đã khắc phục đƣợc những hạn chế của BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên,

phạm vi của căn cứ này là quá rộng vì “quy định của pháp luật” đã bao hàm tất cả các

quy định trong các bộ luật, các luật, thông tƣ, hƣớng dẫn... khác nhau, bao hàm cả hai

căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm nêu trên và các căn cứ kháng nghị tái thẩm. “Căn cứ

này bao gồm tất cả những sai lầm trong việc xác định đúng sự việc thực tế đã xảy ra;

sai lầm trong việc lựa chọn quy phạm pháp luật trong trƣờng hợp cụ thể; sai lầm trong

việc ra văn bản áp dụng pháp luật; sai lầm trong việc tổ chức thực hiện văn bản áp

dụng pháp luật cả về nội dung và hình thức, thủ tục tố tụng” [86, tr.45].

Đối với một vụ án hình sự, khi giải quyết các vấn đề liên quan đến nội dung của

vụ án, căn cứ để Tòa án ra quyết định về tội danh, hình phạt, xử lý vật chứng, bồi

thƣờng thiệt hại, công nhận thỏa thuận hay mức cấp dƣỡng, thời hạn cấp dƣỡng chỉ tập

trung trong BLHS và Bộ luật dân sự. Vì vậy, căn cứ này cần sửa đổi theo hƣớng hạn

chế phạm vi điều chỉnh, cụ thể nhƣ sau: có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng

các quy định của BLHS và Bộ luật dân sự.

4.3.1.5. Về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm BLTTHS Việt Nam từ khi ra đời, qua nhiều lần thay đổi vẫn giữ nguyên quy

định “thời hạn kháng nghị theo hƣớng không có lợi cho ngƣời bị kết án chỉ đƣợc tiến

hành trong thời hạn một năm, kể từ ngày Bản án hoặc quyết định có HLPL”. Nhƣ đã

phân tích trong Chƣơng 3, thời hạn này là phù hợp với các nguyên tắc TTHS. Điều

này cũng có nghĩa những bản án, quyết định của Tòa án mặc dù vi phạm nghiêm trọng

quy định của BLTTHS, BLHS nhƣng vì bất lợi cho ngƣời bị kết án và đã hết thời hạn

một năm kết từ ngày bản án, quyết định có HLPL nên vẫn tồn tại, không thể bị hủy bỏ

hoặc sửa đổi. Việc giới hạn “cứng” đối với những bản án, quyết định có vi phạm này

có thể sẽ ảnh hƣởng đến lợi ích của Nhà nƣớc, lợi ích chung của xã hội tạo tiền lệ không tốt, tác động tiêu cực đến uy tín của Tòa án nói riêng và các cơ quan tƣ pháp nói chung. Quy định này cũng không đáp ứng đƣợc đầy đủ mục đích của thủ tục giám đốc thẩm là đảm bảo pháp luật đƣợc áp dụng đúng đắn, thống nhất.

Nguyên tắc có lợi cho ngƣời bị kết án là nguyên tắc chung trong pháp luật hình

132

sự của các quốc gia trên thế giới. Một số nƣớc thậm chí không cho phép kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm theo hƣớng bất lợi cho ngƣời bị kết án trong trƣờng hợp bị cáo đƣợc Tòa án tuyên bố không phạm tội (pháp luật TTHS Cộng hòa Pháp). Tuy nhiên, Bản án, quyết định có HLPL của Tòa án có vi phạm vẫn bị kháng nghị để đảm bảo pháp luật đƣợc áp dụng thống nhất và các Thẩm phán không mắc sai lầm tƣơng tự

đối với những vụ án xảy ra trong tƣơng lai. Quy định này vừa phù hợp với nguyên tắc

có lợi cho ngƣời bị kết án vừa đảm bảo những bản án, quyết định có HLPL của Tòa án

có vi phạm pháp luật nghiêm trọng phải bị hủy bỏ, sửa đổi. Vì vậy, Điều 379 BLTTHS

năm 2015 quy định về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm cần bổ sung nhƣ sau:

“1. Việc kháng nghị theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được tiến

hành trong thời hạn một năm, kể từ ngày Bản án hoặc quyết định có HLPL.

Hết thời hạn này, việc kháng nghị chỉ được tiến hành để khắc phục những vi

phạm trong bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án, đảm bảo việc áp dụng thống

nhất pháp luật mà không được gây bất lợi cho người bị kết án.”

4.3.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS

4.3.2.1. Về thuật ngữ đƣợc sử dụng trong các quy định về giám đốc thẩm Giống nhƣ các BLTTHS trƣớc đây, BLTTHS năm 2015 tiếp tục sử dụng thuật

ngữ “phiên tòa giám đốc thẩm” và “xét xử” để quy định về thủ tục giám đốc thẩm tại

Tòa án. Theo q\uan điểm của chúng tôi, việc sử dụng hai thuật ngữ trên là không hợp

lý bởi vì, bản thân hai thuật ngữ này đã mâu thuẫn với tên phần thứ sáu trong BLTTHS

là “xét lại bản án và quyết định đã có HLPL”. Đối tƣợng “xét xử” tại các “phiên tòa”

là cá nhân/ pháp nhân bị truy tố, còn đối tƣợng của giám đốc thẩm là các bản án, quyết

định của Tòa án có HLPL bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Mặt khác, trên thực tế, thủ tục giám đốc thẩm (hay tái thẩm) đƣợc tiến hành giống nhƣ một phiên họp

của HĐGĐT (Ủy ban thẩm phán TAND cấp cao, Ủy ban thẩm phán TAQS trung ƣơng

hoặc Hội đồng thẩm phán TANDTC) với sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát

cùng cấp. Hoạt động này đƣợc tiến hành theo thủ tục “bút lục” mà đối tƣợng của nó

chính là hồ sơ vụ án [70, tr.31]. Vì vậy, cần thiết phải thay thế thuật ngữ “xét xử” và

“phiên tòa” bằng các thuật ngữ khác nhƣ “giám đốc thẩm” và “phiên họp của HĐGĐT”

để phù hợp và thể hiện đúng bản chất của giám đốc thẩm.

4.3.2.1. Những người tham gia phiên tòa giám đốc thẩm

- Sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp và thƣ ký phiên tòa. Kiểm sát viên tham gia các phiên tòa để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp của Viện kiểm sát. Tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm, trƣờng hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa (Điều 290, Điều 350 BLTTHS). Việc tham gia của Kiểm sát viên là bắt buộc. Trên thực tế,

133

trƣờng hợp Kiểm sát viên vắng mặt tại phiên tòa giám đốc thẩm, HĐGĐT phải hoãn phiên tòa. Ngoài ra, cũng giống nhƣ tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, tất cả các phiên tòa giám đốc thẩm đều có sự tham gia của thƣ ký phiên tòa là ngƣời có nhiệm vụ ghi biên bản về thành phần tham gia phiên tòa, diễn biến và ý kiến của những ngƣời

tham gia phiên tòa. Vì vậy, để thống nhất về kỹ thuật lập pháp, phù hợp với thực tế áp

dụng các quy định về thủ tục giám đốc thẩm, Điều 383 BLTTHS cần bổ sung nhƣ sau:

“1. Phiên họp của HĐGĐT chỉ được tiến hành khi có đủ thành viên Hội đồng

và Thư ký.

2. Phiên họp giám đốc thẩm phải có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm

sát cùng cấp. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa.”

- Việc triệu tập ngƣời bị kết án, ngƣời bào chữa và những ngƣời có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị giam gia phiên tòa giám đốc thẩm.

Quy định về việc triệu tập những ngƣời liên quan đến kháng nghị giám đốc

thẩm đến phiên tòa đƣợc quy định từ BLTTHS năm 2003 nhƣng đến nay pháp luật

TTHS vẫn chƣa có hƣớng dẫn, giải thích thế nào là “trƣờng hợp xét thấy cần thiết”

hoặc quy định những trƣờng hợp cụ thể phải triệu tập những chủ thể nêu trên. Thẩm quyền triệu tập là tùy nghi, phụ thuộc vào việc đánh giá của HĐGĐT. Trên thực tế,

“chỉ xảy ra một vài trƣờng hợp Tòa án xét xử giám đốc thẩm triệu tập ngƣời bị kết án,

ngƣời bào chữa đến phiên tòa, còn những ngƣời khác thì chƣa có [100, tr.53]. Thậm

chí, trong nhiều năm qua, quy định trên chƣa đƣợc thực hiện [38, tr.190], hầu nhƣ

chƣa bao giờ các đƣơng sự hoặc ngƣời bảo vệ quyền lợi của họ đƣợc triệu tập đến các

phiên tòa giám đốc thẩm [39, tr.10]. Nghiên cứu các quyết định giám đốc thẩm từ năm

2009 đến năm 2018, chƣa có phiên tòa nào HĐGĐT triệu tập những chủ thể nêu trên để tham dự phiên tòa.

Vấn đề này đến nay vẫn có nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể nhƣ sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng không cần thiết phải quy định việc triệu tập ngƣời

bị kết án, ngƣời bào chữa và những ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến quyết

định kháng nghị tham gia phiên tòa giám đốc thẩm [85, tr.166]

Quan điểm thứ hai cho rằng nên hạn chế những ngƣời tham gia phiên tòa giám

đốc thẩm và quy định nhƣ trong BLTTHS năm 2003 là phù hợp [133], [134]

Quan điểm thứ ba cho rằng phải triệu tập, tạo thuận lợi, trao nhiều quyền hơn

cho luật sƣ và những ngƣời tham gia tố tụng khác khi tham gia phiên tòa giám đốc thẩm [63], [58].

Chúng tôi cho rằng, phiên họp của HĐGĐT không nên giới hạn những ngƣời tham dự chỉ có HĐGĐT và Kiểm sát viên cùng cấp mà nên mở rộng nhiều đối tƣợng đƣợc phép tham dự phiên họp giám đốc thẩm.

134

Trƣớc hết, mục đích của TTHS nói chung, giám đốc thẩm nói riêng là bảo đảm hoạt động giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng đúng pháp luật, đảm bảo tính hợp pháp của các bản án, quyết định có HLPL của Tòa án. Những bản án vi phạm nghiêm trọng pháp luật dù có lợi hay bất lợi cho bất kỳ ai, nếu trong thời hạn luật định, cũng đều phải bị hủy bỏ để đảm bảo công lý. Trƣớc khi

một bản án, quyết định của Tòa án có HLPL, để xác định sự thật của vụ án, quá trình

giải quyết phải trải qua nhiều khâu, nhiều giai đoạn, thủ tục tố tụng khác nhau, từ khởi

tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, thậm chí giám đốc thẩm, tái thẩm.

Ngoài ra, bản án, quyết định của Tòa án còn phải đáp ứng các quy định về hình thức. Việc xác định vi phạm trong các bản án, quyết định của Tòa án là không đơn giản,

việc đánh giá vi phạm nào là nghiêm trọng cần phải kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm lại càng khó khăn hơn. Vì vậy, càng có nhiều thông tin, nhiều quan điểm, đánh

giá khác nhau về những sai lầm, vi phạm trong bản án, quyết định của Tòa án đã có

HLPL sẽ càng tạo điều kiện để HĐGĐT cân nhắc, xem xét một cách thấu đáo, khách

quan trƣớc khi quyết định số phận pháp lý của các bản án, quyết định này.

Thứ hai, đối tƣợng của giám đốc thẩm là các bản án, quyết định đã có HLPL,

đƣợc Tòa án tuyên nhân danh Nhà nƣớc. Các bản án, quyết định này đƣợc Hiến pháp, pháp luật hình sự và TTHS bảo vệ, đảm bảo thi hành. Do đó, việc kháng nghị và quyết

định giám đốc thẩm cần phải hết sức thận trọng. HĐGĐT khi xem xét, đánh giá vi

phạm trong bản án, quyết định của Tòa án có HLPL chỉ căn cứ vào các chứng cứ, tài

liệu đã có trong hồ sơ vụ án mà không trực tiếp thực hiện các hoạt động chứng minh.

Trên thực tế, trong vụ án có nhiều chứng cứ, tài liệu khác nhau, có những tài liệu thuộc

nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, không thuộc chuyên môn của HĐGĐT nhƣ y học,

kinh tế học, tài chính kế toán, xây dựng,… Vì vậy, trong một số trƣờng hợp, cần phải mời ngƣời giám định hoặc những ngƣời có chuyên môn trong các lĩnh vực khoa học

đến phiên họp để giải thích, làm rõ kết luận khoa học; triệu tập những ngƣời tiến hành

tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử để trả lời những vấn đề về việc thu thập

chứng cứ, tài liệu, thực hiện các hoạt động điều tra. Chẳng hạn trong vụ án Hồ Duy

Hải, kháng nghị giám đốc thẩm của VKSNDTC cho rằng: khám nghiệm tử thi ghi

nhận “Bụng… dạ dày có chứa thức ăn đã nhuyễn, lƣợng ít…” nhƣng Cơ quan điều tra

không giám định thời điểm chết của các nạn nhân là thiếu sót. Tuy nhiên, theo trình

bày của Giám định viên đƣợc triệu tập đến phiên tòa giám đốc thẩm thì trong trƣờng

hợp trên chỉ giám định xác định đƣợc nạn nhân chết trong khoảng thời gian bao lâu kể từ bữa ăn cuối mà không giám định đƣợc thời điểm chết của nạn nhân. Do đó, trong vụ án này, việc không xác định đƣợc chính xác thời điểm chết của nạn nhân là vấn đề khoa học mà không phải là lỗi của các cơ quan tiến hành tố tụng.

Thứ ba, pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều quy định việc tham gia

135

phiên họp giám đốc thẩm của ngƣời có kháng cáo giám đốc thẩm (đại diện hợp pháp của họ) và những ngƣời có liên quan đến kháng cáo/kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Đây là quyền hợp pháp của những ngƣời có liên quan đến kháng cáo/kháng nghị giám đốc thẩm. Đặc biệt, trong trƣờng hợp kháng nghị theo hƣớng bất lợi, ngƣời bị kết án hoặc những ngƣời có liên quan cần thiết phải có mặt để bảo vệ quyền, lợi ích của

chính mình. Thực tiễn thi hành các quy định của BLTTHS Việt Nam, trong một thời

gian dài, nếu bản án, quyết định của Tòa án có HLPL bị kháng nghị theo thủ tục giám

đốc thẩm, những ngƣời liên quan đến kháng nghị chỉ nhận đƣợc quyết định kháng nghị

giám đốc thẩm và sau đó là quyết định của HĐGĐT hoặc quyết định rút kháng nghị của chủ thể đã ban hành kháng nghị mà không biết đƣợc diễn biến của phiên họp nhƣ

thế nào, ý kiến của những ngƣời tham gia phiên họp ra sao, không đƣợc trình bày quan

điểm của mình về quyết định kháng nghị. Dù kháng nghị có lợi hay bất lợi, những

ngƣời có liên quan đến kháng nghị luôn bị đặt trong trạng thái bị động, những trƣờng

hợp bất lợi thƣờng tạo ra tâm lý không “tâm phục, khẩu phục”. Ngoài ra, việc hạn chế

thành phần tham gia chỉ gồm có HĐGĐT và đại diện Viện kiểm sát cùng cấp có thể

tạo những nghi ngờ không đáng có cho những ngƣời liên quan đến kháng nghị và dƣ

luận xã hội. Vì vậy, trừ trƣờng hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nƣớc, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ ngƣời dƣới 18 tuổi hoặc bảo vệ bí mật đời tƣ theo yêu cầu của

những ngƣời liên quan đến kháng nghị, phiên họp của HĐGĐT cần công khai để đảm

bảo tính khách quan, minh bạch, phù hợp với nguyên tắc TTHS.

Tuy nhiên, do tính chất đặc biệt của thủ tục giám đốc thẩm, theo chúng tôi nên

bổ sung quy định về việc trƣớc khi mở phiên họp, những ngƣời có liên quan đến kháng

nghị giám đốc thẩm có quyền gửi đến Tòa án giám đốc thẩm văn bản nêu rõ ý kiến về

những nội dung trong kháng nghị liên quan đến quyền, lợi ích của họ. Ngoài ra, tại phiên họp, những ngƣời này đƣợc phép phát biểu một lần không quá 15 phút về các

nội dung liên quan đến kháng nghị hoặc những vi phạm trong bản án, quyết định của

Tòa án đã có HLPL, trừ trƣờng hợp chủ tọa cho phép.

Vì vậy, quy định về những ngƣời tham gia phiên họp của HĐGĐT nên thay đổi

nhƣ sau:

Những người liên quan đến kháng nghị giám đốc thẩm được tham dự phiên

họp. Trường hợp những người này vắng mặt, phiên họp vẫn được tiến hành. Trước khi

mở phiên họp, những người liên quan đến kháng nghị có quyền gửi đến Tòa án văn

bản nêu rõ những vi phạm trong Bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL.

Trường hợp xét thấy cần thiết, Tòa án có thể triệu tập những người khác đến

phiên họp để làm rõ những nội dung trong vụ án.

Những người tham dự phiên họp phải tuân theo sự điều hành của chủ tọa phiên họp, chỉ phát biểu về những vi phạm trong bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL

hoặc những nội dung được HĐGĐT hỏi.

136

4.3.2.3. Thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm Theo quy định tại khoản 2 Điều 386 BLTTHS, ngƣời bị kết án, ngƣời bào chữa, ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến kháng nghị có quyền tranh luận với Kiểm sát viên tại phiên tòa giám đốc thẩm. Đây là quy định mới trong BLTTHS năm

2015. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, quy định việc tranh luận tại phiên tòa giám đốc

thẩm là không hợp lý bởi vì các lý do sau:

Thứ nhất, tranh luận tại phiên tòa trong TTHS là “cuộc đấu” giữa bên buộc tội

là cơ quan công tố/Viện kiểm sát và bên gỡ tội là bị cáo hoặc ngƣời bào chữa, ngƣời đại diện cho bị cáo… để xác định sự thật khách quan của vụ án, làm rõ các chứng cứ

trong vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, nhân

thân của bị cáo, trách nhiệm dân sự, quy trình, thủ tục thu thập chứng cứ, tài liệu

chứng minh tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng,… Do đó, tranh luận là quy

định bắt buộc tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm hình sự. Tòa án trên cơ sở xem xét

các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã đƣợc kiểm chứng công khai tại phiên

tòa để ra phán quyết. Đối tƣợng chính của hoạt động tranh luận này là các chứng cứ,

tài liệu đã đƣợc thu thập trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, sử dụng để chứng minh tội phạm và giải quyết các vấn đề trong vụ án.

Khác với phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, giám đốc thẩm không có hoạt động

buộc tội và gỡ tội, đối tƣợng của giám đốc thẩm là bản án, quyết định của Tòa án đã có

HLPL. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, chỉ có xác định các bản án, quyết định của Tòa

án đã có HLPL có vi phạm hay không; vi phạm, mức độ vi phạm nhƣ thế nào và giải

pháp khắc phục các vi phạm đó. Vì vậy, quy định việc tranh luận ở phiên tòa giám đốc

thẩm vừa không đúng bản chất của tranh luận trong TTHS, vừa không đúng bản chất của giám đốc thẩm.

Thứ hai, kháng nghị giám đốc thẩm có trƣờng hợp bất lợi cho ngƣời bị kết án

nhƣ tăng hình phạt, thay đổi tội danh nặng hơn, không cho hƣởng án treo, hoặc bất lợi

cho những ngƣời liên quan đến kháng nghị nhƣ giảm mức bồi thƣờng thiệt hại, giảm

thời gian, mức cấp dƣỡng… nhƣng cũng có trƣờng hợp có lợi cho ngƣời bị kết án hoặc

những ngƣời có liên quan đến kháng nghị. Đối với trƣờng hợp bất lợi, việc tranh luận

tại phiên tòa có thể xảy ra nhƣng với trƣờng hợp kháng nghị theo hƣớng có lợi, những

ngƣời đƣợc hƣởng lợi từ kháng nghị không thể tranh luận theo hƣớng bất lợi cho bản

thân mình đƣợc. Ví dụ, ngƣời bị kết án tù chung thân trong vụ án “Vận chuyển trái phép chất ma túy” đƣợc kháng nghị theo hƣớng giảm hình phạt xuống tù có thời hạn. Ngƣời bị kết án hoặc ngƣời bào chữa nếu có mặt tại phiên tòa giám đốc thẩm không thể tranh luận theo hƣớng giữ nguyên hình phạt hoặc tăng hình phạt.

Thứ ba, BLTTHS năm 2015 vẫn quy định Tòa án có thẩm quyền kháng nghị

137

theo thủ tục giám đốc thẩm. Trƣờng hợp Tòa án kháng nghị, nếu kháng nghị ảnh hƣởng bất lợi đến ngƣời bị kết án hoặc một cá nhân, pháp nhân liên quan đến kháng nghị thì đại diện của Tòa án với trách nhiệm bảo vệ kháng nghị phải tranh luận với những ngƣời liên quan đƣợc triệu tập đến phiên tòa giám đốc thẩm. Trong trƣờng hợp này, Kiểm sát viên tham dự phiên tòa chỉ phát biểu quan điểm về kháng nghị của

Chánh án mà không có trách nhiệm phải tranh luận để bảo vệ kháng nghị. Điều này

không phù hợp với lý luận về tranh tụng tại phiên tòa, không phù hợp với chức năng,

vị trí, vai trò của Tòa án.

4.3.2.4. Thẩm quyền giám đốc thẩm Theo quy định tại Điều 382 BLTTHS năm 2015, thẩm quyền giám đốc thẩm

chỉ còn hai cấp là Ủy ban thẩm phán TAND cấp cao/ Ủy ban Thẩm phán TAQS trung

ƣơng và Hội đồng thẩm phán TANDTC. Mặc dù, so với BLTTHS năm 2003, thẩm

quyền giám đốc thẩm đã đƣợc thu gọn nhƣng chúng tôi cho rằng, thẩm quyền giám

đốc thẩm chỉ nên giao cho một cơ quan là TANDTC vì các lý do sau:

Thứ nhất, đối tƣợng của giám đốc thẩm là các bản án, quyết định của Tòa án đã

có HLPL, tuyên nhân danh Nhà nƣớc. Hiệu lực thi hành của các bản án, quyết định

này đƣợc pháp luật bảo vệ. Ở một số quốc gia trên thế giới, việc xem xét lại các bản án, quyết định đã có HLPL không đƣợc khuyến khích, thậm chí hạn chế tối đa. Thủ

tục giám đốc thẩm ảnh hƣởng, thậm chí làm mất HLPL của các bản án, quyết định đã

có HLPL của Tòa án nên việc xét lại phải hết sức thận trọng, đảm bảo phát hiện vi

phạm chính xác, phân loại, đánh giá vi phạm phù hợp, đúng pháp luật, để từ đó đƣa ra

quyết định mang tính chuẩn mực. Do đó, giám đốc thẩm phải đƣợc tiến hành bởi cơ

quan có thẩm quyền xét xử cao nhất là TANDTC, nơi tập trung những Thẩm phán giữ

ngạch bậc cao nhất trong hệ thống Tòa án, có năng lực, trình độ chuyên môn cao, chuyên sâu, nhiều kinh nghiệm.

Thứ hai, mục đích của giám đốc thẩm là đảm bảo pháp luật đƣợc áp dụng đúng

đắn, thống nhất. Chỉ có Hội đồng Thẩm phán TANDTC với nhiệm vụ, quyền hạn ban

hành nghị quyết hƣớng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật; lựa chọn bản án,

quyết định của Tòa án các cấp để tổng kết phát triển thành án lệ mới đảm bảo các

quyết định giám đốc thẩm phát huy hết vai trò của mình.

Thứ ba, trên thực tế đã có những trƣờng hợp quyết định giám đốc thẩm của Ủy

ban Thẩm phán TAND cấp cao bị Hội đồng Thẩm phán TANDTC giám đốc thẩm, hủy

và giữ nguyên bản án hình sự phúc thẩm. Điều này dẫn đến tình trạng một bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có HLPL có thể phải trải qua hai lần giám đốc thẩm. Hậu quả là quá trình tố tụng bị kéo dài, tốn kém về kinh tế, ảnh hƣởng đến uy tín của HĐGĐT. Mặt khác, việc giám đốc thẩm hai lần chứng tỏ quan điểm của các Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm không thống nhất về cùng một vấn đề, việc đánh giá vi

phạm trong bản án, quyết định của Tòa án cấp dƣới khác nhau, quyết định giám đốc thẩm không có giá trị hƣớng dẫn áp dụng pháp luật.

138

Tuy nhiên, quy định về thẩm quyền giám đốc thẩm chỉ tập trung ở TANDTC cần đi kèm các giải pháp nâng cao chất lƣợng khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm

và phúc thẩm, đảm bảo hạn chế tối đa các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án

có vi phạm pháp luật nghiêm trọng.

4.3.2.5. Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm

- Hủy bản án, quyết định đã có HLPL để điều tra lại hoặc xét xử lại. Theo quan điểm của chúng tôi, không quy định việc hủy bản án, quyết định có

HLPL của Tòa án để truy tố lại là chƣa đầy đủ và phù hợp. Có ý kiến cho rằng truy tố

là phần kết thúc của giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự nên quy định hủy bản án,

quyết định có HLPL để điều tra lại đã bao gồm cả truy tố lại. Tuy nhiên, truy tố là một

giai đoạn độc lập trong TTHS. Về bản chất, quá trình điều tra để phục vụ cho việc truy

tố đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật. Giai đoạn này vừa kiểm tra, đánh giá tính

đúng đắn, hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu thu thập đƣợc trong quá trình điều tra,

vừa quyết định có truy tố bị can ra trƣớc Tòa án hay không. Vụ án chỉ đƣợc đƣa ra xét xử khi Viện kiểm sát quyết định truy tố. Cáo trạng hay quyết định truy tố bị can là cơ

sở để Tòa án đƣa vụ án ra xét xử và ban hành bản án, quyết định có liệu lực pháp luật.

Trên thực tế, có những trƣờng hợp, kháng nghị giám đốc thẩm là do vi phạm pháp luật

nghiêm trọng trong giai đoạn truy tố nhƣ truy tố sai thẩm quyền nhƣng Tòa án không

phát hiện ra, vẫn xét xử và ra bản án, quyết định. Trƣờng hợp này mặc dù quyết định

hủy bản án, quyết định của Tòa án để điều tra lại cũng có thể dẫn đến việc truy tố lại

(trừ trƣờng hợp đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án) nhƣng việc quyết định điều tra lại không xác định chính xác giai đoạn có vi phạm, sai lầm nghiêm trọng. Mặt khác,

thời hạn điều tra luôn dài hơn thời hạn truy tố. Nếu sai lầm ở giai đoạn truy tố mà phải

điều tra lại sẽ dẫn đến việc kéo dài thời gian giải quyết vụ án, cơ quan điều tra phải

thực hiện lại những việc đáng lẽ không cần phải làm.

Vì vậy, quy định trên cần phải sửa đổi nhƣ sau: Hội đồng giám đốc thẩm có

quyền “hủy bản án, quyết định đã có HLPL để điều tra lại, truy tố lại hoặc xét xử lại”.

- Sửa bản án, quyết định đã có HLPL.

Chúng tôi cho rằng, quy định HĐGĐT có thẩm quyền sửa bản án, quyết định

của Tòa án đã có HLPL là không hợp lý, không đúng với bản chất “phá án” của giám đốc thẩm. Bởi vì giám đốc thẩm không phải một cấp xét xử. Đối tƣợng của giám đốc thẩm là các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án. Khi có kháng nghị, HĐGĐT sẽ xem xét, đánh giá các bản án, quyết định này có vi phạm pháp luật hay không, mức độ vi phạm nhƣ thế nào để đƣa ra cách thức giải quyết. Việc khắc phục vi phạm trong

139

bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án cấp dƣới không phải là mục đích chính của giám đốc thẩm bởi vì có những trƣờng hợp sai lầm của Tòa án cấp dƣới là không thể khắc phục vì hết thời hiệu. Chẳng hạn, trong bản án phúc thẩm của Tòa án có HLPL, bị cáo bị xử phạt quá nhẹ và cho hƣởng án treo không đúng quy định. Hết thời hạn 01 năm, những vi phạm này mới bị phát hiện. Trƣờng hợp này, vi phạm về áp dụng hình

phạt của Tòa án là không thể khắc phục. Với việc quy định HĐGĐT có thể sửa bản án,

quyết định đã có HLPL, Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm không chỉ kiểm tra tính

hợp pháp của các bán án, quyết định của Tòa án cấp dƣới mà còn trực tiếp xét xử về

nội dung vụ án, biến giám đốc thẩm thành một cấp xét xử thứ ba, có những đặc điểm gần giống nhƣ xét xử phúc thẩm. Báo cáo đánh giá tác động của dự thảo BLTTHS sửa

đổi của VKSNDTC cũng đánh giá quy định này “không phù hợp với nguyên tắc chế

độ hai cấp xét xử; thậm chí, có thể sẽ làm cho HĐGĐT trở thành cấp xét xử thứ ba.

Nhƣ vậy là không phù hợp với tính chất của xét xử giám đốc thẩm” [153, tr.19].

Mặt khác, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm bởi vì khi xét xử

phúc thẩm, bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị nên chƣa có HLPL. Các bản án,

quyết định của Tòa án đƣợc xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm là các bản án,

quyết định của Tòa án đã có HLPL. Các bản án, quyết định này mang tính quyền lực Nhà nƣớc sâu sắc, thể hiện trực tiếp thái độ của Nhà nƣớc đối với tội phạm và ngƣời

phạm tội. Bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL có tính bắt buộc đối với các bên

có liên quan và với mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội. Các hành vi cố ý

không thi hành án hay cản trở việc thi hành án có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Việc quy định HĐGĐT có quyền sửa bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL là

trái với các nguyên tắc của BLTTHS về bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định

của Tòa án, trái nguyên tắc nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.

Do đó, chúng tôi đề nghị bỏ quy định HĐGĐT có quyền “sửa bản án, quyết

định đã có HLPL”.

4.3.2.6. Việc xem xét lại quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán

TANDTC

Xem xét lại quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC là

thủ tục mới trong BLTTHS năm 2015 nhƣng theo chúng tôi, thủ tục này không phù

hợp cả về lý luận và thực tiễn của TTHS, bởi vì các lý do sau:

Thứ nhất, về bản chất, thủ tục xem xét lại quyết định giám đốc thẩm (tái thẩm)

của Hội đồng Thẩm phán TANDTC và thủ tục giám đốc thẩm (tái thẩm) không có sự khác biệt về đối tƣợng, mục đích, thủ tục, thẩm quyết xem xét và hậu quả pháp lý. Căn cứ phát sinh thủ tục này chỉ là sự tổng hợp các căn cứ kháng nghị của thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm và có những điểm giống với thủ tục xem xét lại bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa trong TTHS (review proceedings) của một số quốc gia theo hệ

140

thống pháp luật án lệ (Common Law). Nhƣ vậy, pháp luật TTHS Việt Nam đang tồn tại hai thủ tục độc lập để xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL vì phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án có bản chất giống nhau, thủ tục sau kiểm tra tính hợp pháp của thủ tục trƣớc. Điều này không thể hiện đƣợc sự tiến bộ, phát triển trong kỹ thuật lập pháp.

Thứ hai, thủ tục xem xét lại quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm

phán TANDTC có thể kéo dài quá trình tố tụng. Một vụ án sau khi trải qua các giai

đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm đến thủ tục

giám đốc thẩm (tái thẩm) vẫn có thể bị xem xét lại một lần nữa. Hậu quả là một vụ án có thể phải điều tra, xét xử lại nhiều lần; việc giải quyết vụ án không có điểm dừng,

công lý chậm đƣợc thực thi, các quan hệ xã hội bị xâm phạm không đƣợc phục hồi kịp

thời, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân không đƣợc giải quyết nhanh chóng.

Điều này đi ngƣợc lại yêu cầu giải quyết nhanh chóng vụ án đƣợc đặt ra trong TTHS,

nhƣ quan điểm pháp lý của Beccaria: “… sự nhanh chóng của phản ứng xã hội là quan

trọng hàng đầu đối với hiệu quả của sự trừng phạt” [54, tr.26]. Ngoài ra, trƣờng hợp

quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC lại bị hủy, đồng nghĩa với việc trong

một vụ án nhƣng có ít nhất hai bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL bị hủy, sửa, ảnh hƣởng nghiêm trọng đến tính ổn định của các bản án, quyết định đã có HLPL của

Tòa án.

Thứ ba, các quy định về thủ tục xem xét lại quyết định giám đốc thẩm (tái

thẩm) của Hội đồng Thẩm phán TANDTC quá chung chung, mang tính chất hành

chính, thể hiện quyền kiểm sát các hoạt động tƣ pháp của Viện kiểm sát, quyền giám

sát tối cao của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của Tòa án nhiều hơn là thủ tục tố

tụng. Trong TTHS, một giai đoạn hoặc một thủ tục tố tụng đƣợc phát sinh và kết thúc bằng quyết định tố tụng của chủ thể có thẩm quyền. Tuy nhiên, cơ sở phát sinh thủ tục

đặc biệt này chỉ là “kiến nghị, đề nghị, yêu cầu”, mang hình thức của các văn bản hành

chính là không phù hợp với các nguyên tắc về trình tự, thủ tục trong TTHS.

Đối với chủ thể có quyền yêu cầu, kiến nghị là Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội và

Ủy ban Tƣ pháp, đây là hai cơ quan của Quốc hội, không thực hiện quyền tƣ pháp,

không phải là chủ thể tham gia tố tụng hoặc tiến hành tố tụng. Do đó, khi tiến hành thủ

xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, không thể xác định tƣ

cách tham gia tố tụng của các cơ quan này.

Về mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp và cơ quan tƣ pháp, mặc dù Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, có quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của Tòa án nhƣng không phải là cơ quan cấp trên về chuyên môn của TANDTC. Trong khi đó, theo pháp luật TTHS Việt Nam, Hội đồng Thẩm phán TANDTC lại là cơ quan xét xử cao nhất gồm những ngƣời có chuyên môn nghiệp vụ cao và có ngạch bậc ở mức cao

141

nhất trong ngạch thẩm phán. Vì vậy, việc cơ quan lập pháp cho rằng “có sai sót nghiêm trọng” trong quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC khi không trực tiếp giải quyết vụ án, không nghiên cứu hồ sơ vụ án là đánh giá chủ quan, duy ý chí và thiếu căn cứ. Ngoài ra, thành viên Hội đồng Thẩm phán TANDTC là các Thẩm phán TANDTC do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm. Việc quy định

các cơ quan của Quốc hội có quyền can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án vừa

không đúng với bản chất trong quan hệ giữa cơ quan lập pháp và tƣ pháp, vừa ảnh

hƣởng nghiêm trọng đến nguyên tắc hiến định: Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập

và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.

Thứ tư, thủ tục xem xét lại quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán

TANDTC mang nặng mục đích phát hiện và khắc phục vi phạm, sai lầm mà không

đảm bảo đƣợc nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Khác với giám đốc thẩm và tái

thẩm, thời hạn tiến hành việc yêu cầu, kiến nghị, đề nghị không đƣợc quy định cụ thể,

có thể tiến hành bất kỳ lúc nào sau khi Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành quyết

định giám đốc thẩm/tái thẩm, đồng thời không phụ thuộc vào hậu quả của việc xem xét

lại sẽ gây bất lợi hay có lợi cho ngƣời bị kết án. Vì vậy, trƣờng hợp quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC bị phát hiện có vi phạm nghiêm trọng, ngƣời bị kết án

trong quyết định đó bất kỳ lúc nào cũng có thể bị xem xét về tội nặng hơn, hình phạt

nặng hơn hoặc gánh chịu những hậu quả bất lợi, kể cả khi đã chấp hành xong hình

phạt, thậm chí đã chết.

Thứ năm, việc quy định xem xét lại các quyết định của Hội đồng Thẩm phán

TANDTC có thể làm suy giảm niềm tin vào Nhà nƣớc. Quá trình xác định sự thật của

vụ án hình sự phải trải qua nhiều giai đoạn, thủ tục tố tụng, trong đó các cơ quan tiến hành tố tụng nhân danh Nhà nƣớc, sử dụng quyền lực Nhà nƣớc, trên cơ sở các quy

định của pháp luật tiến hành hoạt động chứng minh, đảm bảo xử lý đúng ngƣời, đúng

tội, không làm oan ngƣời vô tội, không bỏ lọt tội phạm, ngƣời phạm tội. Các quyết

định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng đƣợc kiểm

tra, giám sát chặt chẽ bởi nhiều chủ thể với các hình thức khác nhau gồm: quyền giám

sát của các cơ quan dân cử nhƣ Quốc hội, Hội đồng nhân dân; quyền kiểm sát các hoạt

động tƣ pháp của Viện kiểm sát; quyền khiếu nại, tố cáo của bị cáo, bị hại, ngƣời có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; quyền kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định

của Tòa án cấp sơ thẩm; quyền phát hiện những vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL để thông báo cho ngƣời có thẩm quyền kháng nghị của mọi thành phần xã hội... Ngoài ra, trong cơ cấu tổ chức hành chính của các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan cấp trên có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đối với cấp dƣới. Ngoài các hình thức kiểm tra, giám sát nêu trên để phát hiện thiếu sót, sai lầm trong

142

các bản án, quyết định của Tòa án, pháp luật TTHS Việt Nam còn quy định thủ tục giám đốc thẩm để vừa kiểm tra, phát hiện, hủy bỏ các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án có sai phạm, vừa bảo đảm sự thống nhất của pháp luật. Vì vậy, một vụ án đã trải qua tất cả các giai đoạn, thủ tục tố tụng, bị kiểm tra, giám sát chặt chẽ, bởi đầy đủ các thành phần xã hội, đƣợc xem xét, quyết định bởi cơ quan xét xử cao nhất mà

quyết định này còn có vi phạm nghiêm trọng chứng tỏ hệ thống pháp luật về hình sự,

TTHS, chất lƣợng của các cơ quan tiến hành tố tụng thực sự có vấn đề, không tạo

đƣợc niềm tin vào công lý; trình độ của các thẩm phán, uy tín của hệ thống tòa án nói

riêng, của hệ thống tƣ pháp nói chung bị nghi ngờ, không bảo đảm đƣợc tính thống nhất, ổn định của pháp luật, không đáp ứng đƣợc đòi hỏi của Nhà nƣớc pháp quyền xã

hội chủ nghĩa.

Từ các phân tích nêu trên, chúng tôi đề nghị bỏ thủ tục xem xét lại quyết định

của Hội đồng Thẩm phán TANDTC quy định tại Chƣơng XXVII BLTTHS năm 2015.

4.3.2.7. Sửa đổi một số quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm và thẩm quyền

của Hội đồng xét xử phúc thẩm.

Điều 330 BLTTHS năm 2015 quy định về tính chất của xét xử phúc thẩm nhƣ

sau: “xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chƣa có hiệu lực

pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.” Đối tƣợng của xét xử phúc thẩm vừa là vụ

án vừa là bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm chƣa có HLPL. Những bản án, quyết

định hoặc những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo,

kháng nghị có HLPL kể từ ngày hết kháng cáo, kháng nghị và là đối tƣợng của thủ tục

giám đốc thẩm (tái thẩm).

Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 345 BLTTHS năm 2015, “Tòa án cấp phúc thẩm… nếu xét thấy cần thiết, có thể xem xét các phần khác của bản án, quyết định

không bị kháng cáo, kháng nghị”. Nhƣ vậy, các phần của bản án, quyết định của Tòa

án sơ thẩm đã có HLPL cũng có thể bị xem xét nếu Tòa án cấp phúc thẩm “xét thấy

cần thiết”. Quy định này là không phù hợp với tính chất xét xử phúc thẩm, “lấn sân”

sang thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

Ngoài ra, về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm, khoản 3 Điều 357

BLTTHS quy định: “trƣờng hợp có căn cứ, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể sửa bản

án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều này cho những bị cáo không kháng cáo

hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị”. Quy định này đã cho phép Tòa án cấp phúc thẩm can thiệp vào các bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, vi phạm Hiến pháp và nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án trong TTHS.

Vì vậy, để phù hợp với Hiến pháp, các nguyên tắc của TTHS, đảm bảo đúng bản chất của xét xử phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm, các quy định này cần phải đƣợc

143

hủy bỏ. Đối với những bản án, quyết định hoặc những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án sơ thẩm đã có HLPL, trƣờng hợp phát hiện ra vi phạm, cần phải thông báo ngay đến Tòa án hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền để xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm.

4.4. Một số giải pháp khác 4.4.1. Nâng cao chất lượng xây dựng, hướng dẫn pháp luật

Điều kiện quan trọng nhất để các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố

tụng không vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, chứng minh tội

phạm là các quy định pháp luật phải đầy đủ, rõ ràng và cụ thể. Trong những năm qua, một trong những nguyên nhân các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án vẫn bị

giám đốc thẩm là nhiều quy định của pháp luật chƣa quy định rõ ràng, cụ thể. Nhiều

quy định mới của các đạo luật về tƣ pháp đã có hiệu lực thi hành nhƣng chƣa đƣợc

hƣớng dẫn kịp thời, dẫn đến việc nhận thức giữa các cơ quan tiến hành tố tụng còn chƣa thống nhất [162, tr.24]. Việc rà soát các quy định của pháp luật cũng nhƣ tổng kết thực tiễn xét xử và hƣớng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật tuy đã đạt đƣợc những kết quả quan trọng nhƣng ở một số lĩnh vực còn chậm, chƣa kịp thời tháo gỡ những

vƣớng mắc về áp dụng trong thực tiễn công tác xét xử [141, tr.20]. Vì vậy, việc xây

dựng pháp luật phải song song với việc hƣớng dẫn, giải thích pháp luật để các cơ quan

tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng áp dụng và thi hành đúng đắn, thống nhất

pháp luật, hạn chế những vi phạm nghiêm trọng đến mức bản án, quyết định có HLPL của

Tòa án bị giám đốc thẩm.

Việc hƣớng dẫn, giải thích pháp luật là trách nhiệm chung của Quốc hội và các

cơ quan tƣ pháp nhƣng nhiệm vụ chính thuộc về TANDTC. Hội đồng Thẩm phán

TANDTC phải có trách nhiệm trong việc tổng hợp, phân loại các vƣớng mắc, bất cập

trong thực tiễn xét xử để kịp thời ban hành các nghị quyết hoặc hƣớng dẫn giải đáp

nghiệp vụ. Mặt khác, phải nâng chất lƣợng, số lƣợng án lệ; phát triển án lệ từ các

quyết định giám đốc thẩm hoặc phát hiện bản án của các Tòa án mang tính chuẩn mực

trong áp dụng pháp luật để giải quyết các tình huống thực tế phức tạp, hiện còn có

những vƣớng mắc hoặc cách hiểu khác nhau để đề xuất phát triển làm án lệ. Bên cạnh

đó, giữa các cơ quan tƣ pháp phải xây dựng các thông tƣ liên tịch để phối hợp thực

hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.

4.4.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp Giám đốc thẩm với tính chất đặc biệt của mình đòi hỏi đội ngũ cán bộ tƣ pháp phải có năng lực, trình độ và đạo đức nghề nghiệp. Để nâng cao chất lƣợng giám đốc thẩm, cần có những biện pháp tổng thể đối với đội ngũ cán bộ tƣ pháp theo hƣớng:

Trƣớc hết, cần có sự thay đổi về thái độ của Lãnh đạo ngành Tòa án và Viện

kiểm sát về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS. Từ đó đƣa ra các giải pháp về tổ chức, bố trí những cán bộ có năng lực, trình độ trong khâu công tác này; quan tâm, chỉ đạo kịp thời về đƣờng lối giải quyết, việc áp dụng pháp luật, tháo gỡ những vƣớng mắc trong thực tiễn để nâng cao chất lƣợng giải quyết

144

các vụ án hình sự nói chung và công tác giám đốc thẩm nói riêng.

Về số lƣợng cán bộ tƣ pháp: khối lƣợng công việc lớn nhƣng số lƣợng cán bộ ít

thì không thể đáp ứng đƣợc đòi hỏi về chất lƣợng giải quyết công việc. Do đó, cần

phải rà soát, đánh giá khối lƣợng công việc của từng cơ quan, từng đơn vị theo từng

giai đoạn, đối chiếu với số lƣợng cán bộ hiện có để kịp thời điều chỉnh biên chế của từng cơ quan, từng đơn vị cho phù hợp.

Về đào tạo: việc bồi dƣỡng nghiệp vụ đối với cán bộ, kiểm tra viên, Kiểm sát

viên, thẩm tra viên, Thẩm pháp công tác giám đốc thẩm là vô cùng cần thiết và cấp

bách. Nội dung, phƣơng pháp đào tạo phải thƣờng xuyên đổi mới, liên tục cập nhật các

kiến thức về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội. Việc đào tạo có thể tiến hành dƣới hai

hình thức: mở những lớp tập huấn theo từng chuyên đề hoặc bồi dƣỡng thƣờng xuyên

thông qua công việc. Việc bồi dƣỡng theo chuyên đề cần kết hợp cả lý luận và thực

tiễn, tập trung vào các kỹ năng pháp hiện vi phạm trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng, chẳng hạn:

phƣơng pháp nghiên cứu hồ sơ, những vấn đề chuyên sâu về thủ tục tố tụng, phân biệt

giữa các tội phạm trong BLHS; xác định các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự, việc áp dụng trong mỗi trƣờng hợp cụ thể. Việc bồi dƣỡng thƣờng xuyên

đƣợc thực hiện thông qua việc báo cáo án. Lãnh đạo Tòa án, Viện kiểm sát phải dành

thời gian trực tiếp nghe cán bộ, kiểm tra viên, kiểm sát viên, thẩm tra viên, thẩm phán

báo cáo án vừa để kiểm tra việc thực hiện đúng các thao tác nghiệp vụ vừa phát hiện ƣu điểm, hạn chế từ đó có cách thức, biện pháp phát huy hết khả năng, bồi dƣỡng,

khắc phục khuyết điểm phù hợp với từng ngƣời.

Về việc bổ nhiệm: các chức danh tƣ pháp là chức danh nghề nghiệp, không phải

là chức vụ nên cần có cơ chế để tuyển chọn đƣợc những ngƣời thực sự có trình độ,

năng lực đáp ứng nhu cầu công tác. Nghiên cứu, tổ chức việc thi tuyển, bổ nhiệm các

chức danh tƣ pháp, mở rộng nguồn tuyển chọn để đảm bảo hiệu quả công việc. Hiện

nay, việc thi tuyển, bổ nhiệm các chức danh tƣ pháp chỉ trong nội bộ từng ngành. Bên

cạnh đó, nhiều cán bộ giữ các chức danh tƣ pháp không có nghiệp vụ, không công tác

nghiệm vụ mà làm các công việc văn phòng, tài chính, thống kê,… nhƣng vì chế độ tiền lƣơng nên vẫn đƣợc tạo cơ hội để đƣợc bổ nhiệm. Điều này ảnh hƣởng không nhỏ đến chất lƣợng hoạt động tƣ pháp nói chung và công tác giám đốc thẩm nói riêng. Vì vậy, cần phải xây dựng lại ngạch, bậc Kiểm sát viên, Thẩm phán theo hƣớng tăng thời hạn hoặc không có thời hạn bổ nhiệm để đảm bảo tính độc lập, chỉ tuân theo pháp luật,

145

nếu không đáp ứng đƣợc yêu cầu của công việc thì miễn nhiễm, trƣờng hợp có vi phạm pháp luật thì xử lý bằng các hình thức tƣơng ứng. Tiêu chuẩn hóa về trình độ chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm và kiến thức xã hội. Chế độ tiền lƣơng, khen thƣởng: chế độ chính sách, tiền lƣơng còn thấp, chƣa tƣơng xứng với công việc, trách nhiệm của Thẩm phán và các chức danh tƣ pháp khác

[141, tr.6]. Thực trạng này đòi hỏi cần phải đổi mới chế độ tiền lƣơng phù hợp, hài hòa

giữa những ngƣời công tác chuyên môn và những ngƣời không làm nghiệp vụ; khen

thƣởng kịp thời. Xác định chế độ đãi ngộ thỏa đáng, cơ chế thu hút, tuyển chọn khách

quan, công bằng đối với những ngƣời có năng lực, trình độ, tâm huyết, có đức, có tài.

4.4.3. Nâng cao chất lượng khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử

Chất lƣợng của hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét là yếu tố quyết định ảnh

hƣởng đến thủ tục giám đốc thẩm. Số lƣợng bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa

án bị giám đốc thẩm tỷ lệ nghịch với chất lƣợng khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Vì

vậy, nâng cao chất lƣợng khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự điều kiện để

nâng cao chất lƣợng giám đốc thẩm.

Để thực hiện đƣợc điều kiện này, trong quá trình giải quyết vụ án, trƣớc hết các

cơ quan tố tụng phải chủ động thực hiện tốt nhiệm vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật, giai đoạn trƣớc là tiền đề cho giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra giai

đoạn trƣớc để phát hiện và kịp thời khắc phục vi phạm. Trong các giai đoạn này, xét

xử là trung tâm để kiểm tra lại tất cả các chứng cứ, tài liệu thu thập đƣợc trong các giai

đoạn trƣớc, có điều kiện để khắc phục vi phạm của các giai đoạn trƣớc. Trên thực tế,

nếu vi phạm xuất hiện trƣớc khi xét xử nhƣng Tòa án không phát hiện ra thì lỗi vẫn

thuộc về Tòa án đã ra bản án, quyết định có HLPL. Do đó, Tòa án phải đảm bảo

nguyên tắc độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, đảm bảo tính công khai, minh mạch và tạo điều kiện cho các bên tranh luận trong các phiên xét xử; phải tuân thủ đầy đủ trình tự,

thủ tục tố tụng, khách quan, thận trọng. Viện kiểm sát với vai trò thực hành quyền

công tố và kiểm sát xét xử hình sự phải nâng cao vai trò của mình tại phiên tòa xét xử,

chủ động xét hỏi, tranh luận với bị cáo, ngƣời bào chữa, bị hại và những ngƣời liên

quan, phải nắm vững các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án để đối đáp, phản bác

lại những quan điểm sai, không có căn cứ, chú ý các chứng cứ mới, các tình tiết mới

phát sinh tại phiên tòa để kịp thời giải quyết theo quy định của pháp luật. Chất lƣợng

tranh tụng là cơ sở để Hội đồng xét xử đánh giá, kiểm tra lại tất cả các chứng cứ, tài

liệu có trong hồ sơ vụ án một cách khách quan, công khai, xác định chính xác sự thật của vụ án để từ đó đƣa ra những phán quyết đúng đắn. Ngoài ra, tranh tụng còn là cơ hội để ngƣời bị kết án và những ngƣời liên quan đƣợc trình bày tất cả những ý kiến, quan điểm của mình về vụ án. Nếu những ý kiến này đƣợc đối đáp có lý, có tình, có căn cứ sẽ tạo tâm lý tâm phục, khẩu phục đối với bản án, quyết định của Tòa án, hạn

chế đƣợc tình trạng kiến nghị, khiếu nại, đề nghị giám đốc thẩm nhƣ hiện nay.

4.4.4. Tăng cường công tác kiểm tra và phát hiện vi phạm trong các bản án,

quyết định đã có HLPL của Tòa án.

146

Hoạt động của các cơ quan tƣ pháp nói chung và của Tòa án nói riêng đƣợc giám sát, kiểm tra bằng nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, biện pháp có hiệu quả

nhất vẫn là việc kiểm tra của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dƣới và hoạt động

kiểm sát các hoạt động tƣ pháp của Viện kiểm sát. Đối với hoạt động giám đốc việc

xét xử trong ngành Tòa án, có thể tiến hành kiểm tra thành từng đợt hoặc kiểm tra đột

xuất, có thể kiểm tra toàn diện hoặc kiểm tra theo từng chuyên đề để kịp thời phát hiện và có giải pháp khắc phục những sai lầm, vi phạm của Toà án cấp dƣới, bảo đảm việc

áp dụng thống nhất pháp luật. Để thực hiện tốt công việc này cần củng cố, kiện toàn

Ban thanh tra và Vụ giám đốc kiểm tra TANDTC. Viện kiểm sát thông qua thực hành

quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự phải kịp thời phát hiện những vi phạm trong

hoạt động xét xử của Tòa án các cấp, kịp thời kháng nghị phúc thẩm hoặc đề nghị

kháng nghị giám đốc thẩm.

4.4.5. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật của người dân.

Thủ tục giám đốc thẩm đƣợc tiến hành sau khi bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, có tính chất đặc biệt nên không phải ai cũng hiểu đƣợc bản chất và nắm rõ

những quy định về giám đốc thẩm. Nhiều ngƣời vẫn nghĩ giám đốc thẩm là một cấp

xét xử nên đòi hỏi, chờ đợi kết quả giải quyết, trả lời của cơ quan có thẩm quyền xét

xử cao nhất. Bên cạnh đó, việc phát hiện vi phạm pháp, đánh giá vi phạm trong các

bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án đòi hỏi phải có trình độ nghiệp vụ, kinh

nghiệm, những yếu tố mà không phải ngƣời dân nào cũng có. Vì vậy, việc tăng cƣờng

tuyên truyền, phổ biến pháp luật, tƣ vấn, trợ giúp pháp lý cho ngƣời dân, giúp họ nâng cao hiểu biết pháp luật, chấp hành tốt các bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án,

bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, hạn chế kháng cáo có tính chất “cầu may”, khiếu

nại nhiều lần, nhiều cấp, kéo dài, gây quá tải, tồn đọng đơn đề nghị kháng nghị giám

147

đốc thẩm, ảnh hƣởng đến chất lƣợng việc phát hiện vi phạm.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 4

Yêu cầu, đòi hỏi của việc nâng cao chất lƣợng giám đốc thẩm là cần thiết và

khách quan. Các giải pháp nâng cao chất lƣợng giám đốc thẩm phải đảm bảo quan điểm, đƣờng lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nƣớc về xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền,

đảm bảo phù hợp với Hiến pháp và các quy định pháp luật liên quan; kế thừa và tiếp

thu có chọn lọc những quy định của pháp luật quốc tế, phù hợp với điều kiện của Việt

Nam.

Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám đốc thẩm phải xác định rõ bản chất của giám đốc thẩm, các căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm, thẩm quyền kháng nghị

và thẩm quyền giám đốc thẩm. Các quy định phải đảm bảo rõ ràng, cụ thể, dễ áp dụng

trên thực tiễn để tránh nhầm lẫn với các thủ tục khác.

Các giải pháp hoàn thiện pháp luật phải đƣợc tiến hành đồng thời với các giải

pháp khác mới có thể đảm bảo đƣợc chất lƣợng của thủ tục giám đốc thẩm. Đó là các giải pháp về xây dựng pháp luật, con ngƣời, mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố

tụng, đặc biệt là phải nâng cao chất lƣợng trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố và

xét xử; tăng cƣờng vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động kháng nghị

phúc thẩm và tranh tụng tại phiên tòa, nâng cao nhận thức pháp luật của ngƣời dân.

Hoàn thiện các quy định về giám đốc thẩm cũng chính là hoàn thiện pháp luật TTHS,

148

góp phần xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền.

KẾT LUẬN

1. Việc xét lại bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án khi phát hiện vi phạm

nghiêm trọng là thủ tục quan trọng đƣợc ghi nhận trong Quy chế hoạt động các thiết chế tƣ pháp hình sự quốc tế và pháp luật TTHS của nhiều quốc gia trên thế giới. Mặc

dù tên gọi của thủ tục này có sự khác nhau phụ thuộc vào truyền thống pháp luật và

mô hình tƣ pháp hình sự nhƣng phần lớn các quốc gia đều sử dụng tên gọi “giám đốc

thẩm” cho thủ tục này.

2. Thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS có những đặc điểm riêng, phân biệt với

xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm và thủ tục tái thẩm. Trong luận án này, giám đốc

thẩm trong TTHS đƣợc xác định là là thủ tục tố tụng mà Tòa án có thẩm quyền xét lại

bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL nhƣng bị kháng nghị vì phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án nhằm bảo đảm áp dụng pháp luật

một cách đúng đắn và thống nhất.

3. Giám đốc thẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo tính chính xác, hợp

pháp của các bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL. Thông qua thủ tục giám đốc

thẩm, các bản án, quyết định đúng sẽ càng khẳng định đƣợc tính có căn cứ, đúng pháp

luật, càng tăng cƣờng đƣợc uy tín, HLPL. Ngƣợc lại, những bản án, quyết định có vi

phạm sẽ bị hủy bỏ để giải quyết lại, đảm bảo khách quan, đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật.

4. Quy định về giám đốc thẩm trong BLTTHS năm 2015 trên nền tảng các quy

định của BLTTHS năm 1988 và 2003, vừa kế thừa những quy định khoa học, vừa có

sự bổ sung, đổi mới, tiếp cận với pháp luật quốc tế. Về cơ bản, các quy định về giám

đốc thẩm trong BLTTHS năm 2015 đã đáp ứng đƣợc yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn

trong hình hình hiện nay. Tuy nhiên, vẫn có một số điều luật cần phải sửa đổi, bổ sung

để hoàn thiện hơn nữa.

5. Thực tiễn giám đốc thẩm cho thấy, số lƣợng các bản án, quyết định của Tòa

án đã có HLPL chiếm tỷ lệ thấp so với tổng số bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL. Tuy nhiên, tỷ lệ này có xu hƣớng tăng trong thời gian gần đây. Chất lƣợng hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm chƣa cao, nhiều kháng nghị phải rút hoặc không đƣợc Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận. Một số quyết định giám đốc thẩm của Tòa án cấp

dƣới thậm chí còn bị hủy để điều tra lại hoặc xét xử lại.

149

6. Nguyên nhân của những hạn chế, vƣớng mắc trong thực tiễn do nhiều nguyên nhân. Về khách quan, pháp luật TTHS về giám đốc thẩm vẫn còn thiếu sót, nhiều quy định chƣa rõ ràng, đầy đủ. Về khách quan, trình độ chuyên môn của cán bộ, kiểm sát viên, thẩm phán công tác giám đốc thẩm còn có hạn chế, chƣa đƣợc lãnh đạo các ngành quan tâm đúng mức. Việc tìm hiểu rõ nguyên nhân của những hạn chế là rất

cần thiết để có cơ sở xác định chính xác các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám

đốc thẩm trong TTHS.

7. Những giải pháp nâng cao chất lƣợng, hiệu quả giám đốc thẩm trong tố tụng

hình sự là một trong các nhiệm vụ cải cách tƣ pháp đƣợc đặt ra trong các văn kiện của Đảng. Các giải pháp này phải đảm bảo tính đồng bộ, khả thi, đáp ứng đƣợc yêu cầu

xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, đảm bảo tiếp thu, chọn lọc pháp luật quốc tế phù hợp

150

với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Nguyễn Trung Kiên, (2019), Về thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng

Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí

Nhân lực khoa học xã hội, Số 01 năm 2019.

2. Nguyễn Trung Kiên, (2019), Căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, Số 7 năm

2019.

3. Nguyễn Trung Kiên (2019), Hoàn thiện quy định về thủ tục giám đốc thẩm

151

trong pháp luật tố tụng hình sự, Tạp chí lập pháp (16), kỳ 2 – tháng 8/2019.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC TIẾNG VIỆT

1. Hiến pháp năm 2013

2. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, 2003, 2015.

3. Bộ luật hình sự năm 1999, 2015.

4. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

5. Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga.

6. Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa.

7. Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang Đức.

8. Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp.

9. Luật tố tụng hình sự liên bang Hoa Kỳ năm 2016.

10. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981, 1992, 2002, 2014.

11. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981, 1992, 2002, 2014.

12. Công ƣớc quốc tế về quyền dân sự và chính trị.

13. Quy chế Rome.

14. Quy tắc thủ tục và chứng cứ.

15. Đạo luật về phúc thẩm hình sự Vƣơng quốc Anh năm 1995.

16. Đạo luật Thẩm phán Vƣơng quốc Anh năm 1980.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, năm 1956, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 17.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập năm 1958, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 19.

19. Án lệ số 01/2016/AL ngày 06/4/2016 về vụ án Giết ngƣời.

20. Án lệ 28/2019/AL về tội “Giết ngƣời trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”.

21. Án lệ 17/2018/AL về tình tiết “có tính chất côn đồ” trong tội “Giết ngƣời” có đồng

phạm;

152

22. Án lệ số 19/2018/AL về xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt trong tội “Tham ô tài sản” ngày 17/10/2018.

23. Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hƣớng dẫn thi hành một số quy định trong phần “xét xử phúc thẩm” của BLTTHS.

24. Nghị quyết Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hƣớng dẫn thi hành một số quy định trong phần “xét xử sơ thẩm” của BLTTHS năm 2003.

25. Thông tƣ liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 giữa VKSNDTC, TANDTC, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định việc

phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của

BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

26. Phạm Văn An (2011), Thay đổi trong quan điểm chỉ đạo của Đảng về tổ chức xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hình sự, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Hà Nội.

27. Phạm Văn An (2012), Những khó khăn, vướng mắc trong việc thụ lý, giải quyết các trường hợp đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tạp chí Kiểm sát (3), Hà Nội.

28. Phạm Văn An (2016), Điểm mới về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm trong BLTTHS năm 2015, Tạp chí Kiểm sát số 19/2016.

29. Mai Hồng Anh (2017), Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam" của Mai Hồng Anh, Luận văn thạc sỹ, Khoa luật Đại học quốc gia.

30. Mai Anh (1999), Thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và thẩm quyền giám đốc thẩm về hình sự của Tòa án, Tạp chí Luật học, Hà Nội.

31. PGS.TS Nguyễn Ngọc Anh, Phan Trung Hoài đồng chủ biên (2018), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

32. Dƣơng Thị Ánh (2015), Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật Đại học Quốc gia, Hà Nội

33. Nguyễn Thị Bắc chủ biên (1999), Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát hình sự trong giai đoạn giám đốc thẩm, Đề tài khoa học cấp bộ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.

34. Dƣơng Thanh Biểu chủ biên (2010), Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội.

35. Nguyễn Bình (2004), Chế định giám đốc thẩm dân sự, Tạp chí Luật học (4).

153

36. Nguyễn Hòa Bình chủ biên (2016), Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Nguyễn Ngọc Chí và Lê Lan Chi đồng chủ biên (2018), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc Gia, Hà Nội.

38. Nguyễn Quốc Công (2005), Công tác kiểm sát các bản án và quyết định về hình sự đã có HLPL của Tòa án – Thực trạng và kiến nghị. Nâng cao hiệu quả công tác

giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự, Đề tài cấp bộ, TAND tối cao.

39. Đặng Văn Doãn (1997), Một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao một bước hiệu quả công tác giám đốc thẩm và tái thẩm, Tạp chí Tòa án nhân dân (7).

40. Trần Văn Độ (1995) Một số vấn đề về tái thẩm, Tạp chí Luật học, (3).

41. Trần Văn Độ (2001), Một số vấn đề về hoàn thiện thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp, Tòa án nhân dân (6).

42. Trần Văn Độ (2007), Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc áp dụng nguyên tắc đó vào việc tổ chức Tòa án các cấp, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật (5).

43. Trần Văn Độ, Nguyễn Mai Bộ (2010), Khái niệm giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hình sự, Tạp chí Toà án nhân dân (15).

44. Nguyễn Minh Đoan (2011), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

45. Nguyễn Huy Du chủ biên (2012), Thực trạng giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao – Những vướng mắc và kiến nghị, Đề tài khoa học cấp bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội

46. Jay M.Feiman (2014), Luật 101, mọi điều bạn cần biết về pháp luật Hoa Kỳ, do Nguyễn Hồng Tâm, Trần Quang Hồng, Nguyễn Thị Thanh dịch, Nguyễn Đăng Dung,

Vũ Công Giao hiệu đính, Nxb. Hồng Đức.

47. Hà Thị Thúy Hà (2014), Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật trƣờng Đại học Quốc gia, Hà Nội

48. Phạm Hồng Hải (2003), Mô hình lý luận Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

49. Nguyễn Văn Hiện (1997), Sự hình thành, phát triển và hoàn thiện pháp luật của Việt Nam quy định thủ tục xét lại bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật từ năm 1945 đến nay, Tạp chí Tòa án nhân dân (6).

154

50. Nguyễn Văn Hiện (1997), Vấn đề thực tiễn, lý luận và yêu cầu hoàn thiện thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm các vụ án hình sự của Tòa án các cấp, Tạp chí Tòa án nhân dân (4).

51. Nguyễn Văn Hiện (1998), Tiếp tục hoàn thiện các quy định về giám đốc thẩm, tái thẩm, góp phần nâng cao hiệu quả công tác xét xử của Tòa án, Dân chủ và pháp luật, (4).

52. Nguyễn Văn Hiện (2000), Một số vấn đề quan trọng cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm, Một số khuyến nghị về xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi, sổ tay công tác kiểm sát hình sự tại Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội

53. Hà Hoàng Hiệp (2007), Hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật trƣờng Đại học Quốc gia, Hà Nội.

54. Mai Thanh Hiếu (2006), Điều kiện kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam và Cộng hòa Pháp, Tạp chí Luật học.

55. Mai Thanh Hiếu, Nguyễn Chí Công (2008), Luật TTHS trong thực tế giám đốc thẩm, tái thẩm của TANDTC, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

56. Mai Thanh Hiếu (2012), Thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học (10).

57. Tô Văn Hòa chủ biên (2012), Những mô hình tố tụng hình sự điển hình trên thế giới, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.

58. Phan Trung Hoài (2007), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc thực thi các quy định của pháp luật nhằm bảo đảm quyền của luật sư trong quá trình tham gia

tố tụng hình sự, dân sự, Tạp chí Kiểm sát (4).

59. Nguyễn Quốc Hoàn (2007), Sử dụng trực tiếp luật so sánh trong hoạt động lập pháp, Tạp chí luật học (4).

60. Phạm Mạnh Hùng (2018), Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015, Nxb. Lao động, Hà Nội.

61. Nguyễn Thị Thu Hƣơng (2009), Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

62. Nguyễn Văn Huy (2008), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về giám đốc việc xét xử của TAND, Luận văn Thạc sỹ, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội.

63. Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Cần một cách nhìn mới về thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát (20).

155

64. Trần Thị Quốc Khánh chủ biên (2014), Hoàn thiện quy định của pháp luật để bảo đảm cho các cơ quan Nhà nước thực hiện tốt hơn chức năng điều tra, truy tố, xét xử trong tố tụng hình sự, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện nghiên cứu Lập pháp thuộc Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội, Hà Nội.

65. Vũ Đức Khiển (chủ nhiệm đề tài) (2005), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,

vì dân, Báo cáo phúc trình đề tài KX04.05 thuộc chƣơng trình KX-04, Hà Nội.

66. Vũ Đức Khiển (nguyên Chủ nhiệm ủy ban pháp luật của Quốc hội) (2013), Vụ Nguyễn Thanh Chấn: “kháng nghị, xét xử tái thẩm là sai”, Báo ngƣời đƣa tin

sai-a113013.html>

67. Nguyễn Trung Kiên, (2019), Về thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí

Nhân lực khoa học xã hội, Số 01 năm 2019. 68. Nguyễn Trung Kiên, (2019), Căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, Số 7 năm 2019. 69. Nguyễn Trung Kiên (2019), Hoàn thiện quy định về thủ tục giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 16 năm 2019.

70. Vũ Gia Lâm (2008), Hoàn thiện một số quy định về giám đốc thẩm trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Tạp chí Luật học (7).

71. Phạm Hoàng Diệu Linh (2009), Căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam và vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm vụ việc dân sự, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật trƣờng Đại học Quốc gia, Hà Nội.

72. Nguyễn Đình Lộc (2000), Bộ luật hình sự mới (1999) và một số vấn đề cần quan tâm, Số chuyên đề: Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam

(1999), Hà Nội.

73. Phạm Văn Lợi chủ biên (2004), Chế định thẩm phán – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản tƣ pháp, Hà Nội.

74. Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

75. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

156

76. Uông Chu Lƣu chủ nhiệm (2006), Đề tài KX.04.06 Cải cách cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án trong Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.

77. Cao Hƣơng Ly (2019), Giám đốc thẩm theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, Luận văn thạc sỹ, Học viện khoa học xã hội

Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.

78. Trƣơng Công Lý (2016), Việc xem xét lại quyết định, bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân các cấp trong những năm qua - Thực trạng và giải pháp,

Tạp chí dân chủ và pháp luật.

79. Nguyễn Đức Mai (1994), Thẩm quyền của Tòa án cấp giám đốc thẩm, Tạp chí Tòa án nhân dân (11).

80. Nguyễn Đức Mai (2004), Những điểm mới trong BLTTHS sửa đổi về phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, Viện Nhà nƣớc và pháp luật (5).

81. Phan Thị Thanh Mai (2004), Những sửa đổi, bổ sung cơ bản về giám đốc thẩm trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Tạp chí Luật học (Đặc san về BLTTHS năm 2003).

82. Phan Thị Thanh Mai (2005), Khái quát về chế định giám đốc thẩm trong TTHS từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay, Tạp chí Luật học (3).

83. Phan Thị Thanh Mai (2006), Những dấu hiệu đặc trưng của giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí luật học (9).

84. Phan Thị Thanh Mai (2006), Một số ý kiến về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, Tạp chí Luật học (11).

85. Phan Thị Thanh Mai (2007), Giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự, Luận án tiến sỹ, Đại học Luật Hà Nội.

86. Phan Thị Thanh Mai (2008), Một số ý kiến về phạm vi giám đốc thẩm theo quy định tại Điều 284 Bộ luật tố tụng hình sự, Tạp chí Luật học.

87. Phan Thị Thanh Mai (2017), Một số ý kiến về những điểm mới trong quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về giám đốc thẩm, Tạp chí nghề luật (4), Hà Nội.

88. Nguyễn Huy Miện (2001), Về nhiệm vụ của Kiểm sát viên khi tham gia xét xử giám đốc thẩm các vụ án hành chính - kinh tế - lao động, Tạp chí kiểm sát (2).

89. Nhà pháp luật Việt Pháp (1997), Tố tụng hình sự và vai trò của cơ quan công tố trong TTHS, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

157

90. Nhà pháp luật Việt – Pháp (2000), Pháp luật tố tụng dân sự, Hà Nội.

91. Nguyễn Văn Nam (2012), Lý luận và thực tiễn về án lệ trong hệ thống pháp luật của các nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức và những kiến nghị đối với Việt Nam, Nxb. Công an

nhân dân, Hà Nội.

92. Khuất Văn Nga (2003), Thủ tục giám đốc thẩm trong Bộ luật tố tụng dân sự, Tạp chí Kiểm sát (12).

93. Khuất Văn Nga (2008), Vị trí, vai trò Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội.

94. Nguyễn Hải Ninh (2014), Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về phạm vi và thẩm quyền của Hội đồng tái thẩm, Tạp chí Luật học.

95. Nguyễn Hải Ninh (2016), Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sỹ, Khoa Luật Đại học Quốc gia, Hà Nội.

96. Chu Thị Hồng Nhung (2015), Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật hiện hành, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật trƣờng Đại học Quốc gia, Hà Nội

97. Trần Thị Hồng Nhung (2012), Vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm các vụ án hình sự, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật Đại học Quốc gia, Hà Nội.

98. Phƣơng Hữu Oanh (2002), Nâng cao chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định dân sự ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tạp chí kiểm sát (9).

99. Nguyễn Nhƣ Phát (2000), Hệ thống pháp luật Việt Nam từ góc nhìn luật so sánh: Mấy vấn đề phương pháp luận, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật (2).

100. Nguyễn Trọng Phúc (2010), Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội.

101. Đinh Văn Quế (1997), Giám đốc thẩm, tái thẩm về hình sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

102. Đinh Văn Quế (1997), Kháng nghị giám đốc thẩm về dân sự trong vụ án hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân (8).

103. Đinh Văn Quế (2004), Những quy định mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, Tạp chí Tòa án nhân dân (22).

104. Đinh Văn Quế (2004), Những trường hợp Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Tạp chí Tòa án nhân dân (20).

158

105. Đinh Văn Quế (2004), Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Tạp chí Tòa án nhân dân (22).

106. Đinh Văn Quế (2005), Vấn đề kháng nghị giám đốc thẩm về "dân sự '' trong vụ án hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, (9).

107. Đinh Văn Quế chủ biên (2005), Nâng cao hiệu quả công tác giám đốc xét xử các vụ án hình sự, Đề tài khoa học cấp bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội.

108. Đinh Văn Quế (2007), Bình luận án và một số vấn đề thực tiễn áp dụng trong Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, thành

phố Hồ Chí Minh.

109. Đinh Văn Quế (2008), Thấy gì qua một số vụ án bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, Tạp chí Tòa án nhân dân (20).

110. Đinh Văn Quế (2008), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự 2003 về xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí

Minh, thành phố Hồ Chí Minh.

111. Bùi Ngọc Sơn (2003), Sự độc lập của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền, Tạp chí nghiên cứu lập pháp (4).

112. Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên (2009), Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nhằm nâng cao hiệu quả xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp, đề tài cấp trƣờng của

Trƣờng đại học Luật Hà Nội.

113. Ninh Thị Khánh Tân (2015), Giám đốc thẩm, tái thẩm trong giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa án, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật trƣờng Đại học Quốc gia, Hà Nội.

114. Lê Xuân Thân (1999), Bàn về hiệu lực của bản án hình sự, Tạp chí Toà án nhân dân (10).

115. Đặng Văn Thực (2014), Một số vấn đề về thủ tục giám đốc thẩm trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, nhìn dưới góc độ pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên

thế giới, Tạp chí Cảnh sát nhân dân

doi/384/Mot-so-van-de-ve-thu-tuc-giam-doc-tham-trong-Bo-luat-to-tung-hinh-su-Viet- Nam-nhin-duoi-goc-do-phap-luat-to-tung-hinh-su-mot-so-nuoc-tren-the-gioi>.

116. Trần Quang Tiệp (2003), Lịch sử luật TTHS Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

117. Trần Anh Tuấn (2007), Chế định giám đốc thẩm, tái thẩm và những vấn đề đặt ra trong việc thi hành, Tạp chí Luật học .

159

118. Trần Anh Tuấn (2017), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội.

119. Đào Xuân Tiến (2009), Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trong tố tụng kinh tế, dân sự ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, Viện

Nhà nƣớc và Pháp luật, Hà Nội.

120. Nguyễn Nhƣ Thắng (2014), Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội.

121. Quản Thị Ngọc Thảo (2007), Giám đốc thẩm – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật Đại học Quốc gia, Hà Nội.

122. Lê Hữu Thể, Đỗ Văn Đƣơng, Nguyễn Thị Thủy (2013), Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

123. Lê Hữu Thể chủ biên (2010), Các giai đoạn của tố tụng hình sự Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Đề tài khoa học cấp bộ, VKSNDTC, Hà Nội.

124. Lê Hữu Thể chủ biên (2015), Hoàn thiện quy định về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hình sự qua thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, VKSNDTC, Hà Nội.

125. Trần Quang Tiệp (2003), Lịch sử luật TTHS Việt Nam, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.

126. Trần Quang Tiệp (2009), Một số vấn đề về chân lý trong tố tụng hình sự, Tạp chí Toà án nhân dân (14).

127. Chu Đức Tính (2001), Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc giải quyết các vấn đề dân tộc dân chủ trong cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

128. Nguyễn Văn Thuân (2016), Quy định mới về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí kiểm sát (7)

129. Kim Sơn Trúc (2015), Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội.

130. Nguyễn Tiến Trung, Nên quy định quyền yêu cầu người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm của đương sự trong tố tụng dân sự, Tạp chí luật học.

131. Trần Văn Trung (2006), Căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm và vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong thủ tục giám đốc thẩm, Đề tài cấp bộ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.

160

132. Nguyễn Văn Trƣợng (1996), Giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự, Luận văn thạc sỹ, Đại học Luật Hà Nội.

133. Nguyễn Văn Trƣợng (2010), Thực trạng thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về những người tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm và hướng

hoàn thiện, Tạp chí Toà án nhân dân (20).

134. Nguyễn Văn Trƣợng (2013), Hoàn thiện thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm theo tinh thần cải cách tư pháp, Tạp chí dân chủ và pháp luật.

135. Nguyễn Văn Trƣợng (2013), Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về phiên tòa giám đốc thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí dân chủ và pháp luật.

136. Tòa án nhân dân tối cao (1962), Luật về tƣ pháp. 137. Tòa án nhân dân tối cao (1976), Tập hệ thống hóa luật lệ về tố tụng hình sự, tập 1. 138. Tòa án nhân dân tối cao (1979), Hệ thống hóa luật lệ về tố tụng hình sự (1974- 1978), tập 2. 139. Tòa án nhân dân tối cao (2014), Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về hình sự năm 2010-2012. 140. Tòa án nhân dân tối cao (2016), Báo cáo tóm tắt của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác của các Tòa án trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII.

141. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Báo cáo tóm tắt công tác Tòa án từ đầu nhiệm kỳ đến nay và năm 2018, nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới.

142. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Báo cáo công tác ngành Tòa án năm 2018 và phương hướng nhiệm vụ công tác Tòa án năm 2019.

143. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Báo cáo tóm tắt sơ kết 03 năm thi hành Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và các văn bản triển khai thi hành.

144. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ tƣ pháp (1992), Bình luận khoa học BLTTHS, Hà Nội.

145. Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam, Viện ngôn ngữ học (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng

146. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

147. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Tổng kết 50 năm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự của Viện kiểm sát nhân dân, (1960 – 2010), Hà Nội.

148. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Báo cáo tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

161

149. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Báo cáo tham khảo pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới (Pháp, Đức, Anh, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc).

150. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự (2006), Nâng cao chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, công tác

kiểm tra giám đốc thẩm hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay, Đề tài cấp

cơ sở, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.

151. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự (2016), Nâng cao chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án

hình theo quy định của luật tổ chức Viện kiểm sát năm 2014, Đề tài cấp cơ sở, Viện

kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.

152. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Bản thuyết minh chi tiết về Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi).

153. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Tờ trình về dự án Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi).

154. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2010.

155. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2011), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2011.

156. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2012), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2012.

157. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2013.

158. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2014), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2014.

159. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2015.

160. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2016.

161. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2017.

162. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2018), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2018.

162

163. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2019), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2019.

164. VKSND tối cao (2016), Báo cáo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tƣ pháp.

165. Viện khoa học kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), số chuyên đề về mô hình tố tụng hình sự một số nước trên thế giới, Thông tin khoa học kiểm sát số 1+2

166. Viện khoa học kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016), số chuyên đề về mô hình tố tụng hình sự một số nước trên thế giới, Thông tin khoa học kiểm sát số

5+6.

167. Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

168. I. A. Zovkin và tập thể tác giả (1987), Thuật ngữ pháp lý phổ thông, bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Quốc Việt, Đinh Thế Công, Nguyễn Bình, Nxb Pháp lý.

169. Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia.

170. Đào Trí Úc (chủ biên) (2003), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

DANH MỤC TIẾNG NƯỚC NGOÀI

171. A. Ia Vƣ-sin-xky (1967), Lý luận về chứng cứ tư pháp trong pháp luật Xô Viết, bản dịch tiếng Việt, Phòng tuyên truyền tập san, Toà án nhân dân tối cao.

172. Etienne Vergès (2007), Procédure pénale, 2e éd., Litec, Paris. (Etienne Vergès (2007), Tố tụng hình sự, Nxb. Litec, Paris).

173. John N. Fedico, Henry F. Fradella, Christopher D. Totten (2008), Criminal Procedure for the Criminal Justice Professional, , 10th Edition, 2008. (nhóm tác giả

John N. Fedico, Henry F. Fradella, Christopher D. Totten, Tố tụng hình sự dành cho

các chuyên gia về tư pháp hình sự, tái bản lần thứ 10, năm 2008).

174. John Bell, Sophie Boyron and Whittaker (with contributing authors Andrew Bell, Mark Freeland and Helen Stalford) (2008), Priciples of French Law, second edition, Oxford University Press. (John Bell, Sophie Boyron và Whittaker, cùng với các tác giả Andrew Bell, Mark Freeland và Helen Stalford (2008), Các nguyên tắc trong pháp luật

Cộng hòa Pháp, tái bản lần thứ 2, Nxb. Đại học Oxford).

163

175. Paul Laguerre (1931), L'effet dévolutif en matière répressive des voies de recours exercées par l'inculpé seul,. (Hiệu lực của các loại kháng cáo trong lĩnh vực hình sự do bị cáo thực hiện, Luận án tiến sĩ luật học, Paul Laguerre, Toulouse, năm 1931).

176. James H. McCord, Sandra I. McCord (2005), Criminal Law and Procedure for the Paralegal - A systems approach, 3rd Edition, Cengage Learning. . (James H.

McCord và Sandra I. McCord (2005), Luật hình sự và tố tụng hình sự dành cho trợ lý

luật sư - Từ góc nhìn hệ thống, tái bản lần thứ 3, Nxb. Cengage Learning ).

177. Doris Jonas Freeds (1957), “Aspects of French Criminal Procedure”, Louisiana Law Review, volume 17, number 4, 1957 (Doris Jonas Freeds, Những đặc điểm của

thủ tục tố tụng hình sự Pháp, Nghiên cứu pháp luật Louisana, tập 17, số 4, năm 1957).

178. J.A. Jolowicz (2009), Appeal, cassation, amparo and all that: what and why?Cambridge University Press, 2009 (J.A. Jolowicz , Phúc thẩm, giám đốc thẩm,

xem xét lại quyết định tư pháp, thủ tục nào và tại sao? Nxb Đại học Cambridge, 2009).

179. P. E. Herzog (1967), Civil Procedure in France, Springer Science+Business Media Dordrecht (P.E. Herzog, Thủ tục tố tụng dân sự của Pháp, Tạp chí Khoa học, kinh doanh, truyền thông Dordrecht, 1967).

180. Yulin Fu (2017), The Chinese Supreme People’s Court in transition, Springer (Yulin Fu, Sự thay đổi của Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc, Nxb Springer, 2017)

181. Steiner, Eva (2002), French Legal Method, Oxford University Press, (Steiner và Eva (2002), Phƣơng pháp pháp luật Cộng hòa Pháp, Nxb Đại học Oxford)

182. R.R. Verkerk and C.H. (Remco) van Rhee (2017), The Supreme Cassation Court of the Netherlands: Efficient Engineer for the Unity and Development of the Law, Springer (R.R. Verkerk và C.H. (Remco) van Rhee, Tòa giám đốc tối cao của Hà Lan,

xây dựng sự thống nhất và phát triển pháp luật, Nxb. Springer.)

183. David Graham (1855), A treatise on the law of New Trials, in case Civil and Criminal, 2nd Edition, New York Banks, Gould & Co (David Graham (1855), Sách

chuyên khảo về pháp luật đối với những trƣờng hợp xét xử lại các vụ án dân sự và

hình sự, tái bản lần thứ 2, Nxb. New York Banks, Gould & Co).

184. Charter of the international military tribunal (Điều lệ tòa án quân sự quốc tế)

185. International military tribunal for the far east (Quy chế Tòa án quân sự cho vùng viên đông)

164

186. Statue of the special court for sierra leone (Quy chế Tòa án đặc biệt cho Sierra Leon)

187. Law on the establishment of extraordinary chambers in the courts of Cambodia for the prosecution of crimes committed during the period of democratic Kampuchea.

(Luật thành lập các Tòa án đặc biệt để truy tố các tội ác đã gây ra trong thời kỳ

Kampuchea). documents/KR_Law_as_amended_27_Oct_2004_Eng.pdf>

188. Statute of the special tribunal for Lebanon (Quy chế Tòa án đặc biệt cho Lebanon)

the-special-tribunal-for-lebanon>

189. The statute of the Iraqi special tribunal (Quy chế Tòa án đặc biệt cho Irac)

190. The statute of the international tribunal for rwanda

191. Statute of the international criminal tribunal for the former Yugoslavia

192. Rules 33, Federal rules of criminal procedure 2016 (Luật số 33, Bộ luật tố tụng hình sự liên bang Hoa Kỳ)

criminal-procedure.pdf>

193. Miranda v. Arizona (vụ Miranda và bang Arizona), 384 U.S. 436 (1966)

165

194. Wayne R. LaFave, Jerold H. Israel, Nancy J. King, Orin S. Kerr (2000), Criminal Procedure, fifth edition, West Publishing Co, United States of America.

PHỤ LỤC 1

Số lượng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án

và số lượng các bản án, quyết định bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Tỷ lệ %

Năm

Tổng số bản án có HLPL

Số lượng bản án bị kháng nghị giám đốc thẩm

Số lượng kháng nghị giám đốc thẩm của VKS

Số lượng kháng nghị giám đốc thẩm của Tòa án

2010

63.340

209

102

107

0,32

2011

71.189

220

131

89

0,3

2012

77.431

112

68

44

0,14

2013

94.357

209

98

111

0,22

2014

92.881

199

121

78

0,21

2015

71.804

220

114

106

0,3

2016

71.291

213

72

141

0,29

2017

68.362

519

107

412

0,75

2018

66.994

425

116

309

0,63

2019

67.497

419

209

210

0.62

0,36

Tổng

745.146

2.745

1.138

1.607

160

(nguồn: Cục thống kê và công nghệ thông tin Viện kiểm sát nhân dân tối cao)

PHỤ LỤC 2

Kết quả giải quyết đơn đề nghị, kiến nghị, thông báo vi phạm trong các bản án,

quyết định đã có HLPL của Tòa án

Năm

Số lượng đơn đã giải quyết/số vụ

Tổng số việc (vụ án) có đơn đề nghị GĐT

Tỷ lệ % giải quyết (việc)

Tỷ lệ kháng nghị/số việc đã giải quyết

Số lượng bản án bị kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm

Tổng số đơn đề nghị GĐT

2010

3.035

670

1.859/316

47,1

19

6

2011

2.552

1.040

1.136/455

43,7

71

15,6

2012

3.177

1.195

1.468/416

34,8

104

25

2013

3.405

1.346

1.571/384

28,5

78

20,3

2014

3.602

1.431

1.603/445

31

116

26

2015

4.330

1.653

1.614/433

26,2

82

18,9

2016

5.251

2.108

2.474/830

39,3

61

7,3

2017

4.433

1.852

2.632/960

51,8

94

9,7

2018

3.876

1.699

2.285/849

49,9

98

11,5

2019

3.419

1.715

1.704/883

51.4

85

9.6

13,8

Tổng

37.537

14.693

18.927/5.937

40.4

821

161

(nguồn: Cục thống kê và công nghệ thông tin Viện kiểm sát nhân dân tối cao)

PHỤ LỤC 3

Các trường hợp không được Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận kháng nghị hoặc phải rút kháng nghị

Rút kháng nghị

Tỷ lệ %

Năm

Không chấp nhận kháng nghị

Số lượng các trường hợp đã xét xử giám đốc thẩm

6

12,4

2010

330

35

20

18,6

2011

316

39

13

13,6

2012

249

21

30

10,3

2013

425

14

18

14,7

2014

346

33

21

16,4

2015

225

16

30

17,8

2016

190

4

17

1,92

2017

1.092

4

19

7,5

2018

705

34

48

32,7

2019

436

95

11,2

Tổng

4.583

295

222

162

(nguồn: Tòa án nhân dân tối cao)

PHỤ LỤC 4

Tình hình xét xử giám đốc thẩm

Năm

Số vụ phải giải quyết

Số vụ đã giải quyết

Còn tồn

2010

240

172

68

2011

237

187

50

2012

216

158

58

2013

299

236

63

2014

275

220

55

2015

117

70

47

2016

223

121

102

2017

563

428

135

2018

461

390

71

2019

295

209

86

Tổng

735

2.926

2.191

163

(nguồn: cục thống kê và công nghệ thông tin VKSNDTC)

PHỤ LỤC 5

Quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm

Năm

Tổng

Hủy bản án, quyết định đã có HLPL và đình chỉ vụ án

Hủy bản án, quyết định sơ thẩm để điều tra, xét xử lại

Hủy quyết định phúc thẩm để điều tra lại, xét xử lại

Hủy quyết định giám đốc thẩm để điều tra lại, xét xử lại

2010

330

152

1

36

100

2011

316

157

0

7

93

2012

249

193

0

8

14

2013

425

282

20

3

76

2014

346

178

4

5

95

2015

225

102

2

7

77

2016

190

79

9

1

67

2017

1.092

139

6

11

116

2018

705

87

2

28

71

2019

436

122

2

0

84

Tổng

4.314

1.491

46

106

793

164

(nguồn: Tòa án nhân dân tối cao)

PHỤ LỤC 6

Tình hình xét xử giám đốc thẩm tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh (đến ngày 01/6/2015)

Năm

Tổng số vụ

Tổng số bị cáo

Hủy và đình chỉ vụ án (bị cáo)

Rút kháng nghị (bị cáo)

Không chấp nhận kháng nghị (bị cáo)

Hủy bản án, quyết định sơ thẩm để điều tra, xét xử lại (bị cáo)

2009

140

209

20

177

3

9

2010

122

205

29

144

29

3

2011

113

195

32

148

2

13

2012

125

207

9

185

6

7

2013

179

312

3

265

3

22

2014

106

169

15

145

1

8

2015

90

130

10

103

1

16

78

Tổng

875

1.427

118

1.167

45

165

(nguồn: Cục thống kê và công nghệ thông tin Viện kiểm sát nhân dân tối cao)

PHỤ LỤC 7

Tình hình kháng nghị giám theo thủ tục đốc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân cấp cao (từ ngày 01/6/2015)

Năm

Tòa án kháng nghị

Viện kiểm sát kháng nghị

Số kháng nghị bị rút

Tổng số kháng nghị GĐT

Số kháng nghị không được chấp nhận

2015

12

8

4

0

0

2016

92

39

53

0

1

2017

361

280

81

4

1

2018

337

226

111

12

19

2019

197

101

96

6

13

Tổng

999

654

345

22

34

166

(nguồn: Cục thống kê và công nghệ thông tin VKSNDTC)

PHỤ LỤC 8

Quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm Tòa án nhân dân cấp cao

Năm

Sửa bản án, quyết định đã có HLPL

Tổng số trường hợp đã giải quyết

Hủy quyết định phúc thẩm để điều tra lại, xét xử lại

Hủy bản án, quyết định đã có HLPL và đình chỉ vụ án

Hủy bản án đã có HLPL và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật

Hủy bản án, quyết định sơ thẩm để điều tra, xét xử lại

2016

120

31

0

0

0

78

2017

1.044

72

10

0

781

139

2018

665

42

28

16

338

87

2019

396

75

0

19

60

101

Tổng

2.225

220

38

35

1.179

405

167

(nguồn: Cục thống kê và công nghệ thông tin VKSNDTC)

PHỤ LỤC 9

Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 03/QĐ-VKSTC-V7 ngày 26/6/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

TỐI CAO

Số: 03/QĐ - VKSTC-V7

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Hà Nội, ngày 26 tháng 6 năm 2018

KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM VIỆN TRƢỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

Căn cứ Điều 41, 371, 373 và 378 Bộ luật Tố tụng hình sự; Xét Bản án hình sự phúc thẩm số 56/2008/HSPT ngày 26/11/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng ( nay là Tòa án cấp cao tại Đà Nẵng) đã xét xử Tưởng Đăng Thế (tên gọi khác là Thế Tùng), sinh năm: 1977; đăng ký hộ khẩu thƣờng trú tại: thôn Tân Trung, xã Ea Kênh, huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hoá: 7/12 ; con ông Tƣởng Đăng Khởi và bà Phạm Thị Tùng; tiền án tiền sự: năm 1999, Tòa án nhân dân huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 06 tháng tù nhƣng cho hƣởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị bắt giam ngày 26/01/2006, hiện đang thi hành án tại Phân trại số 1, Trại giam Thủ Đức, huyện Hàm tân, tỉnh Bình Thuận về tội “Giết ngƣời” qui định tại các điểm c, n khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình sự.

NHẬN THẤY

168

Theo bản án hình sự sơ thẩm, nội dung vụ án nhƣ sau: Khoảng 11 giờ ngày 18/1/2006, Tƣởng Đăng Thế cùng các anh Trần Đình Cát, Trần Đình Liệu, Trần Đình Tính, Nguyễn Bá Quang và Bạch Viếng uống rƣợu ở nhà anh Trần Đình Lƣơng ở thôn Tân Nam, xã Ea Kênh, huyện Krông Păk. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, Thế đi xe Honda 67 chở anh Trần Đình Cát về và ngủ tại nhà anh Cát. Khoảng 14 giờ, Thế tỉnh dậy, nghĩ nhà anh Trần Phi Hùng (cùng thôn với anh Cát) mới bán bắp và cà phê chắc có tiền, nên Thế nảy sinh ý định đến nhà anh Hùng để trộm tiền. Thế đi bộ đến cổng nhà anh Hùng, thấy cháu Giang (con gái chị Hƣờng) ở đối diện nhà anh Hùng đang ngồi ở sân nhặt cà phê; Thế vào cửa chính không mở, nên đi cửa bên hông vào nhà, nhìn thấy cháu Trần Thị Kim Hồng, sinh 17/2/1993 (là con gái anh Hùng) đang nhặt củi cà phê gần bể nƣớc. Cháu Hồng nhìn thấy Thế không đi cửa chính vào nên nghi ngờ hỏi “Sao chú vào nhà lại đi cửa sau? để làm chi đó?”, “Cháu sẽ về mách bố mẹ, chú vào lấy trộm”. Sợ bị lộ, Thế đến kéo tay cháu Hồng lôi ra sau nhà, cháu Hồng la “buông tay ra”; sợ mọi ngƣời nghe thấy Thế lấy tay bịt miệng cháu Hồng, còn tay kia kéo cháu Hồng ra vƣờn cà phê. Cháu Hồng hoảng sợ vùng vẫy, nắm cành

cà phê; Thế nhặt cành cây cà phê đánh vào hai mu bàn tay cháu Hồng, còn tay kia kẹp cổ kéo cháu Hồng ra sau vƣờn cà phê cách nhà khoảng 50m, kéo cháu ngã xuống đất; tay trái bịt miệng, tay phải bóp cổ cháu Hồng đến khi cháu Hồng nằm im. Thấy cháu Hồng cựa quậy, Thế đến bờ ranh cách chỗ Hồng nằm 3 mét, lấy cục đá kích thƣớc 25cm x 24cm x 13cm đập vào vùng đầu cháu Hồng, thấy máu chảy nhiều nghĩ cháu Hồng đã chết, Thế lột quần cháu Hồng vứt bên cạnh nhằm đánh lạc hƣớng cơ quan điều tra. Sau đó, Thế về nhà anh Cát khoảng 14 giờ 30 và lên giƣờng ngủ tiếp.

Khoảng 15 giờ cùng ngày, chị Liên (mẹ cháu Hồng) về không thấy cháu Hồng đã đi tìm và phát hiện cháu Hồng nằm bất tỉnh trong vƣờn cà phê; chị đã bế cháu lên, nhƣng do hoảng loạn không bế đƣợc, chị xốc nách từ phía sau lƣng, quàng tay qua ngực kéo cháu đi giật lùi vào trong nhà, sau đó lấy quần mặc cho cháu Hồng rồi đƣa cháu đi cấp cứu. Do vết thƣơng quá nặng cháu Hồng đã tử vong lúc 23 giờ 10 phút cùng ngày.

Bản án hình sự sơ thẩm số 101/2008/HSST ngày 03 và 04/7/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk áp dụng điểm c, n khoản 1 Điều 93; điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 46; điểm e khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự xử phạt Tƣởng Đăng Thế tù chung thân về tội “Giết ngƣời”; về trách nhiệm dân sự buộc bị cáo phải bồi thƣờng cho gia đình bị hại 36.886.000 đồng.

Ngày 14/7/2008, bị cáo Tƣởng Đăng Thế kháng cáo kêu oan. Ngày 14/7/2008, gia đình bị hại kháng cáo đề nghị tăng hình phạt tử hình và

tăng mức bồi thƣờng đối với Tƣởng Đăng Thế.

Bản án hình sự phúc thẩm số 56/2008/HSPT ngày 26/11/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng quyết định giữ nguyên mức hình phạt, mức bồi thƣờng của án sơ thẩm đối với Tƣởng Đăng Thế.

Từ ngày 04/5/2015, Tƣởng Đăng Thế và ông Tƣởng Đăng Khởi (bố bị cáo) có rất nhiều đơn gửi Viện kiểm sát nhân dân tối cao kêu oan. Hiện nay, ông Tƣởng Đăng Khởi đã mất; bị cáo Thế vẫn tiếp tục kêu oan. Viện kiểm sát nhân dân tối cao xét thấy: Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ cũng nhƣ kết quả xác minh theo thủ tục giám đốc thẩm cho thấy: Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm xét xử Tƣởng Đăng Thế về tội “Giết ngƣời” có nhiều mâu thuẫn cụ thể nhƣ sau:

169

+ Tại cơ quan điều tra Tƣởng Đăng Thế nhận: Khoảng 14 giờ, Thế ngủ tại nhà anh Cát, khi tỉnh dậy nghĩ anh Trần Phi Hùng (nhà ở cùng thôn với anh Cát) mới bán bắp và cà phê chắc có tiền, nên Thế nảy sinh ý định đến nhà anh Hùng để trộm tiền. Thế đến cổng nhà anh Hùng, thấy cháu gái ở nhà đối diện nhà anh Hùng đang ngồi ở sân nhặt cà phê (là cháu Giang con gái chị Hƣờng). Thế vào cửa chính không mở, nên đi cửa bên hông vào nhà, nhìn thấy cháu Trần Thị Kim Hồng đang nhặt củi cà phê gần bể nƣớc. Cháu Hồng hỏi “Sao chú vào nhà lại đi cửa sau?, “Cháu sẽ về mách bố mẹ, chú vào lấy trộm”. Sợ bị lộ, Thế đến kéo tay cháu Hồng lôi ra sau vƣờn cà phê cách nhà khoảng 50m, kéo cháu ngã xuống đất; tay trái bịt miệng, tay phải bóp cổ cháu Hồng đến khi cháu Hồng nằm im. Thấy cháu Hồng cựa quậy, Thế đến bờ ranh

cách chỗ Hồng nằm 3 mét, lấy cục đá kích thƣớc 25cm x 24cm x 13cm đập vào vùng đầu cháu Hồng, thấy máu chảy nhiều nghĩ cháu Hồng đã chết, Thế lột quần cháu Hồng vứt bên cạnh nhằm đánh lạc hƣớng cơ quan điều tra. Sau đó, Thế về nhà anh Cát khoảng 14 giờ 30 và lên giƣờng ngủ tiếp.

+ Lời khai của bà Nguyễn Thị Loan là nhân chứng trực tiếp chứng kiến hành động Thế đánh cháu Hồng trong suốt quá trình điều tra, tuy tố, xét xử còn nhiều mâu thuẫn. Ban đầu bà Loan khai: “Khoảng 14 giờ 30 phút bà đi lƣợm cà phê thấy Thế đi phía trƣớc, khi đi vào sau nhà cô Liên tôi nghe tiếng bé Hồng hét toáng lên. Sau đó tôi nhìn thấy Thế kéo tay bé Hồng ra sau vườn (lúc bà Loan khai Thế kẹp cổ cháu Hồng), tôi sợ quá leo lên cành cây cà phê thấy Thế dùng cây và cục đá đánh cháu Hồng, sau đó lột quần của cháu Hồng ra rồi bỏ chạy.

Sau khi xác minh, bà Loan vẫn khẳng định bà nhìn thấy rõ mặt Thế đang cầm chân cháu Hồng kéo từ trong nhà ra rẫy cà phê phía sau nhà anh Hùng, sợ quá nên bà trèo lên cây cà phê, bà nhìn thấy Thế cầm hòn đá đập vào đầu cháu Hồng một cái, tôi thấy cháu Hồng nằm dƣới đất, tôi sợ quá tụt xuống đất đi về nhà. Sau đó tôi không nhìn thấy gì, không nghe thấy gì nữa.

Lời khai của bà Loan với biên bản khám nghiệm hiện trƣờng bà Loan khai bà nhìn thấy Thế đánh cháu Hồng bà trèo lên cây cà phê ở hàng thứ 6, thứ 7 đề quan sát, thì kết quả thực nghiệm điều tra ngày 20/8/2007, do điều tra viên Bình cho bà Loan thực nghiệm việc quan sát việc Thế đánh cháu Hồng và chỗ Thế đánh cháu Hồng , kết quả thực nghiêmh bà Loan không xác định cây cà phê nơi bà trèo và cũng không xác định đƣợc chỗ cháu Hồng bị đánh. (BL 42)

Quá trình xác minh, chúng tôi đã mời đồng chí Hồng Anh, Phó trƣởng công an xã Ea-Kênh trèo lên cây nhƣ lời bà Loan tả, nhƣng không thể nhìn thấy đƣợc mặt đất nhƣ ngƣời nhƣ lời bà Loan khai “thấy cháu Hồng nằm dƣới đất” và cũng không thể thấy đƣợc Thế kéo cháu Hồng. Điều này chứng tỏ lời khai của bà Loan trƣớc và sau xác minh không thống nhất, phù hợp với kết quả thực nghiệm điều tra ngày 20/8/2007.

Lời khai của bà Loan về khoảng thời gian và địa điểm xảy ra vụ án với lời khai các nhân chứng mâu thuẫn. Bà Loan có 4 lời khai đi lƣợm cà phê từ 14 giờ đến 14 giờ 30 đến cổng nhà anh Cung thấy Thế (BL 36, 96); trong khi các nhân chứng là cháu Giang, ông Quý, cháu Ngọc, anh Tùng đều khai khoảng hơn 14 giờ đến 15 giờ kém tại cổng nhà anh Cung, cạnh nhà anh Hùng các nhân chứng gặp Tuấn. (BL 52, 165, 176,177)

+ Về thời gian, địa điểm xảy ra vụ án và các nhân chứng: Lời khai của các nhân chứng gồm anh Nam, chị Hà, chị Hòa, chị Hồng, chị Chi và chị Liệu là những ngƣời gửi xe tại nhà cháu Hồng cho thấy: thời điểm trƣớc 14 giờ đều khai nhận “đến lấy xe khoảng 13 giờ 40 đến 14 giờ gặp Hồng trả vé và đưa tiền gửi xe cho Hồng, khi lấy xe còn lại 6-7 xe đạp dựng ở trong sân nhà Hồng” (BL 36, 38, 40, 42, 44, 45).

170

Lời khai của các nhân chứng gồm chị Yến, chị Nguyệt, chị Thu, chị Phấn, chị Thục và anh Quân là những ngƣời lấy xe sau 14 giờ đều khai nhận: “từ 14 giờ 20 đến

15 giờ kém 25 (theo đồng hồ của chị Nguyệt) khi họ đến lấy xe không thấy Hồng, họ ngồi nghỉ uống nước ở hiên nhà Hồng một lúc rồi dắt xe ra về và gửi vé xe và tiền cho cháu bé nhà hàng xóm đối diện (là cháu Giang)” (BL 46, 48, 52, 54, 56, 58, 97). Đặc biệt lời khai của Nguyệt khi ngồi uống nƣớc ở hiên nhà cháu Hồng, chị có nghe tiếng heo hộc hơi mấy tiếng nên nghĩ là heo cắn nhau (BL 48).

Điều đó cho thấy khoảng thời gian cháu Hồng bị giết trong khoảng từ 14 giờ đến

14 giờ 30 ngày 18/01/2006.

+ Những đối tƣợng xuất hiện tại hiện trƣờng trong khoảng thời gian xảy ra vụ án: Lời khai của Thế tại Cơ quan điều tra đều khai “Khoảng 14 giờ Thế ngủ dậy từ nhà đi bộ đến nhà anh Hùng để trộm… khi cổng nhà anh Hùng nhìn thấy cháu gái khoảng 13 đến 14 tuổi (cháu Giang) ở nhà đối diện nhà anh Hùng (bố cháu Hồng) đang ngồi ở sân”.

Lời khai nhân chứng trực tiếp duy nhất là bà Loan khai nhận “đi lượm cà phê

từ 14 giờ đến 14 giờ 30 đến cổng nhà anh Cung thấy Thế”.

Lời khai cháu Giang khai nhận “khoảng hơn 14 giờ cháu ngồi nhặt cà phê ở sân thấy Tuấn đến cổng nhà chú Hùng… trước khi 5 người đàn bà đến lấy xe khoảng 3 đến 6 phút”. (BL 52, 163);

Lời khai của các nhân chứng là anh Quý, cháu Ngọc, anh Tùng đều khai “đi chăn bò khoảng 14 giờ đến 15 giờ, từ khi cho bò ăn dọc theo đường từ kênh Furo về lô cà phê Đội 1/5 đến cổng nhà anh Cung qua nhà anh Hùng (bố cháu Hồng) gặp Tuấn con nhà chú Bình, lúc đó trong sân vẫn có khoảng 5 cái xe đạp”. (BL 165, 176, 177);

Lời khai của anh Phƣớc (bạn của bố Tuấn) khai nhận: “khoảng hơn 14 giờ đến nhà Tuấn trả bạt thấy cửa không khép tôi đẩy vào một lúc thấy Tuấn ở ngoài cổng chạy vào trong sân, tôi không biết hướng nào (nhà tôi cách nhà Tuấn 2,5 km tôi đi xe máy) tôi thấy Tuấn mặc áo thun xám cộc tay, quần tôi không để ý”. (BL 167);

Lời khai của của Tuấn tại bút lục 161 khai nhận “khoảng hơn 14giờ Tuấn đi tìm dê thấy Hồng ngồi trong sân”. Trong khi đó tại bút lục 171 Tuấn khai dê nhà Tuấn thƣờng ăn cỏ đến 16 giờ hoặc 17 giờ dê tự về. Đặc biệt lời khai của Tuấn sau khi đi tìm dê gặp cháu Hồng, sau đó Tuấn về nhà đi tắm rồi thay quần áo rồi đi chợ. Cơ quan điều tra chƣa điều tra làm rõ tại sao Tuấn phải thay quần áo, (trƣớc đó cơ quan điều tra không thu giữ bộ quần áo cũ của Tuấn khi mặc đi tìm dê gặp cháu Hồng (áo thun xanh ngắn tay).

Như vậy, trong khoảng thời gian từ 14 giờ đến 15 giờ kém tại nơi xảy ra vụ án

ngoài đối tượng Tưởng Đăng Thế còn có sự xuất hiện đối tượng Lê Nam Tuấn.

+Lời khai Lê Nam Tuấn về thời gian có mặt tại địa điểm xảy ra vụ án có nhiều

mâu thuẫn cần phải điều tra làm rõ, cụ thể là:

171

Lời khai ban đầu trong hồ sơ Tuấn khai: Khoảng hơn 14h Tuấn đi tìm dê gặp cháu Hồng; phù hợp lời khai của cháu Giang khai khoảng thời gian trên nhìn thấy anh Tuấn đến cửa nhà chú Hùng (BL 52); sau khi đi tìm dê về nhà Tuấn gặp anh Phƣớc

đến nhà Tuấn; sau đó Tuấn đi tắm rồi thay quần áo rồi đi chợ, trên đƣờng đến chợ Tuấn ghé qua nhà bà nội Tuấn (bà Chính), gặp bố đẻ Tuấn là anh Bình (phù hợp với lời khai của bà Chính và anh Bình khoảng 15 giờ thấy Tuấn ở nhà bà Chính BL 166, 169); tiếp đó Tuấn qua nhà bạn gần chợ chơi một lúc rồi rủ bạn đến chợ mua giầy. Trên đƣờng về nhà Tuấn đi qua trƣờng bán công gặp Tùng tan học chở Tùng về, đến xẩm tối Tuấn về nhà nghe mẹ kể chuyện Hồng và dặn Tuấn phải cẩn thận…sau đó Tuấn bỏ trốn khỏi địa phƣơng. (BL 173)

Khi xác minh giám đốc thẩm Tuấn khai: Khoảng 13 giờ ngủ dậy đi tìm dê gặp cháu Giang và cháu Hồng, sau đó Tuấn đi về nhà đến khoảng 13 giờ 15 phút, Tuấn đi tắm rửa thay quần áo, đến khoảng 13 giờ 30, Tuấn đạp xe đạp đi chợ trên đƣờng đi đoạn qua nhà anh Cung, anh Hùng (nhà cháu Hồng), Tuấn gặp anh Quý và anh Tâm say rƣợu và gặp Hiệp (Bi). Khoảng 14 giờ kém 15 phút Tuấn đạp xe đến nhà bạn tên Trung ở gần chợ thị trấn Phƣớc An chơi một lúc rồi Tuấn và Trung vào chợ mua một đôi giầy. Đến khoảng 16 giờ, Tuấn đạp xe về nhà, trên đƣờng qua trƣờng bán công Tuấn gặp Tú tan học nên Tuấn chở Tú về nhà Tú. Sau đó Tuấn đạp xe về nhà lúc đó trời chập choạng tối, nghe bố mẹ Tuấn nói chuyện Hồng bị đánh chết và nói Tuấn trông em để bố mẹ Tuấn sang nhà Hồng.(BL 23)

Việc tiêu thụ thời gian trong lời khai ban đầu của Tuấn so với khi xác minh đã không thống nhất, mâu thuẫn với lời khai các nhân chứng gồm: lời khai của anh Phƣớc (bạn của bố Tuấn) khai khoảng hơn 14 giờ đến nhà Tuấn thấy Tuấn ở ngoài cổng chạy vào trong sân (BL 167); cháu Giang khai hơn 14 giờ gặp Tuấn; phù hợp với lời khai ông Quý và cháu Tùng. (BL 33, 35 tập xác minh GĐT) và lời khai của nhóm lấy xe trƣớc 14 giờ gồm anh Nam và các chị Hà, Hòa, Hồng, Chi và Liệu đều khai nhận tại các BL 36, 38, 40, 42, 44, 45 khoảng trƣớc 14 giờ đến lấy xe vẫn có cháu Hồng.

Việc Lê Nam Tuấn thay đổi thời gian, đặc biệt sau khi đi tìm dê gặp cháu Hồng, Tuấn về nhà đi tắm rồi thay quần áo rồi đi chợ; sau khi xảy ra sự việc cháu Hồng bị chết Tuấn cũng bị Công an đƣa lên Trụ sở xã lấy lời khai, sáng hôm sau đƣa lên Công an huyện lấy lời khai đến 17 giờ chiều cùng ngày Tuấn đƣợc thả về; sau đó sáng hôm sau Tuấn đi học rồi bỏ trốn về Nghệ An đến qua tết; khi nghe anh Bình (bố đẻ nói đã bắt đƣợc ngƣời giết Hồng) thì Tuấn mới về (BL 23). Trong khi đó, tại bút lục 171, Tuấn khai dê nhà Tuấn thƣờng ăn cỏ đến 16 giờ hoặc 17 giờ dê tự về. Những nghi vấn và dấu hiệu bất thƣờng nêu trên trong hồ sơ không đƣợc cơ quan điều tra làm rõ động cơ, mục đích.

+Quá trình điều tra vụ án, cơ quan điều tra và điều tra viên có nhiều vi phạm

về thủ tục tố tụng nhƣ đã phân tích ở trên.

172

Tòa án đã căn cứ vào các lời khai nhận tội của bị can Thế trong giai đoạn điều tra do điều tra viên Dƣơng Thế Bình lấy lời khai (tại các BL 73, 75, 77, 79, 83, 87, 94) để kết tội, trong khi những lời khai này đƣợc xác định có dấu hiệu bức cung, nhục hình. Quá trình xét xử, bị cáo Thế kêu oan cho rằng trong quá trình điều tra ban đầu đã bị điều tra viên Điều tra viên Bình trong quá trình lấy lời khai đã còng tay Thế vào

bàn, dùng dùi cui bằng cao su đánh từ chân lên đến lƣng ép Thế phải nhận tội. Điều tra viên Bình vừa đánh vừa nói “mày tưởng nó trốn mà mày thoát à, mày khỏi phải chối”, lúc đó Thế hỏi anh Bình ai trốn thì anh Bình nói là Tuấn trốn.

Bản tƣờng trình của anh Đoàn Quyết Thắng, cán bộ quản lý buồng giam Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lăk ngày 20/4/2006 (BL 65 tập 6) xác nhận Tƣởng Đăng Thế bị đánh đập khi đi lấy cung về; (2) Công văn số 1243 ngày 15/5/2008, Viện KSND tỉnh kiến nghị Thủ trƣởng Cơ quan điều tra Công an tỉnh Đăk Lăk có biện pháp xử lý, kiểm điểm kỷ luật nghiêm túc đối với điều tra viên trực tiếp điều tra vụ án đã vi phạm các Điều 102, 131 và 132 Bộ luật TTHS (BL 66 tập 6); (3) Công văn của Văn phòng Luật sƣ Hàn Lâm xác nhận ba (03) lần chứng kiến điều tra viên Dƣơng Thế Bình lấy cung thì cả ba lần Thế đều không nhận tội. Điều tra viên đề nghị Luật sƣ ký biên bản hỏi cung, Luật sƣ ghi “bị can không nhận tội” nhƣng Điều tra viên Bình không đồng ý nên Luật sƣ không ký biên bản. (BL 119)

Lời khai của các nhân chứng Phạm Văn Thêu, Y’Phƣớc B’Krông và Nguyễn Phƣớc Long nhận là phạm nhân cùng buồng giam ban đầu với Thế tất cả đều do điều tra viên Bình lấy lời khai cho rằng: trong buồng giam Thế có kể hoặc nghe Thế nói “vào nhà lấy trộm, thấy con chủ nhà phát hiện nên đã đánh chết cháu gái” (BL 07, 08, 10, 100). Tuy nhiên, Y’Phƣớc B’Krông, Nguyễn Phƣớc Long không phải là 1 trong 5 đối tƣợng giam chung buồng với Thế, nhất là phạm nhân Long là đối tƣợng trong vụ án giết ngƣời khác do điều tra viên Dƣơng Thế Bình đang thụ lý điều tra nhƣ lời khai của phạm nhân Thêu (BL103). Lời khai của các phạm nhân trên không đảm bảo tính khách quan, trung thực theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Việc phát động quần chúng nhân dân tố cáo, khi nhận đƣợc đơn nặc danh tố cáo Thế đánh cháu Hồng, Cơ quan Điều tra dựa vào căn cứ nào để lấy đúng một mẫu chữ viết của bà Nguyễn Thị Loan đƣa đi giám định và kết luận mẫu chữ của bà Loan và chữ trong đơn nặc danh là do cùng một ngƣời viết ra.

173

+ Hiện trƣờng và chứng cứ còn có nhiều mâu thuẫn Tại Biên bản khám nghiệm tử thi cháu Trần Thị Kim Hồng hồi 0 giờ 15 phút ngày 19/01/2006, cho thấy: Đầu tóc rối dính máu, đất và rác lá cây cà phê; hai mắt sƣng nề bầm tím; trên lông mày phải, trái vết thƣơng 4cm x 0,8cm và 0,7cm x 0,3cm sâu tới sọ, bờ mép nham nhở máu chảy; hai môi dập; cổ và xƣơng đòn bầm tím xây xát có nhiều vết xƣớc; mặt trƣớc trong hai đùi dính dấu vết máu quệt; hai mu bàn tay sƣng nề bầm tím, cẳng tay phải bầm tím xây xát …. cách hõm nách bên phải 16cm đường nách giữa thấy dính dịch khô bóng màu trắng đục kích thước 12cm x 8cm; âm hộ chảy dịch nhày màu trắng đục, hai bên dính dịch khô màu trắng đục, xung quanh âm hộ không tụ máu; mặt trƣớc trong hai đùi dính dấu vết máu quệt; hai mu bàn tay sƣng nề bầm tím, cẳng tay phải bầm tím xây xát...” (BL 18). Các dấu vết này Cơ quan điều tra không lấy mẫu giám định để làm rõ dịch khô bóng màu trắng đục ở hõm nách là gì? của ai? Có phải của cháu Hồng không? Thực tế, dịch khô bóng dính trên tận hõm nách kích thƣớc lớn nhƣ vậy không thể là của cháu Hồng đƣợc.

Kết quả khám nghiệm cho thấy khi vụ việc xảy ra giữa đối tƣợng với cháu Hồng đã có sự giằng co quyết liệt. Nhƣng Cơ quan điều tra không xem các dấu vết trên thân thể cũng nhƣ quần áo của đối tƣợng Thế có phù hợp với hiện trƣờng vụ án nhƣ quần áo có bị rách, giằng xé, có dính máu không; trên cơ thể đối tƣợng có bị xƣớc sát trong quá trình giằng co giữa đối tƣợng với bị hại không. Trong khi đó nhiều nhân chứng xác nhận ngày hôm xảy ra vụ án Thế vẫn mặc nguyên bộ quần áo thun đen ngắn tay, quần kaki màu xám nhiều túi từ sáng đến 16 giờ chiều ngủ dậy ở nhà bà Mai (BL 10, 14, 15, 54).

Các nhân chứng nhƣ anh Tình, bà Mai, anh Thuật cho rằng tại thời điểm từ 14h đến 14h30 Thế đang ngủ tại nhà anh Cát đều khẳng định tầm từ 14 giờ đến khoảng 14 giờ 30 ngày hôm đó, khi các anh đến nhà bà Mai thấy Thế nằm ngủ trên giƣờng nhà bà Mai. Khi Thế uống rƣợu ở nhà anh Lƣơng, đến khi Thế ngủ dậy và sau khi xảy ra việc cháu Hồng bị đánh đƣa đi bệnh viện, gặp Thế cùng một số ngƣời đứng trƣớc cửa nhà anh Thành Cúc, Thế vẫn mặc bộ quần áo đó. (BL 54,140, 139, 63 và BL 29, 31 tập xác minh GĐT). Ngoài một số chứng cứ nêu trên, việc xác định động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo Thế chƣa rõ ràng, thiếu logic, có nhiều nghi vấn không phù hợp với thực tế. Từ khi có ý đồ trộm cắp tài sản nhƣng chƣa lấy đƣợc gì cho đến khi thực hiện hành vi giết cháu Hồng; lý do gì bị cáo lại tạo giả hiện trƣờng hiếp dâm để phạm thêm tội và tội lại nặng hơn.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH Kháng nghị Bản án hình sự sơ thẩm số 101/2008/HSST ngày 3 và 4/7/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk và Bản án hình sự phúc thẩm số 56/2008/HSPT ngày 26/11/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đối với bị cáo Tƣởng Đăng Thế. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy toàn bộ các bản án trên để điều tra, xét xử lại đối với bị cáo Tƣởng Đăng Thế theo đúng quY định của pháp luật./.

Nơi nhận:

- Vụ 1 -TATC (2b + kèm HS); - Lãnh đạo Viện; - TAND + VKSND tỉnh Đăk Lăk - VKSNDcấp cao và TAND cấp cao tại Đà Nẵng; - Bị cáo (theo địa chỉ); - Lƣu VT (1b), V7 (3b).

KT. VIỆN TRƯỞNG PHÓ VIỆN TRƯỞNG THƯỜNG TRỰC Nguyễn Hải Phong

174

PHỤ LỤC 10

Quyết định Giám đốc thẩm số 11/2016/HS-GĐT ngày 04/8/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

TOÀ ÁN NHẢN DÂN TỐI CAO HỘI ĐÔNG THẨM PHÁN Quyết định giám đốc thẩm Số: 11/2016/HS-GĐT Ngày 04/8/2016

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Với Hội đồng giám đốc thẩm gồm mƣời sáu thành viên tham gia xét xử, do

ông Nguyễn Hòa Bình, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao làm Chủ tọa phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị

Yến, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Thƣ ký ghi biên bản phiên tòa: Bà Trần Thị Lƣơng, Thẩm tra viên Tòa án nhân

dân tối cao.

Ngày 4 tháng 8 năm 2016, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa

giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

Nguyễn Quang Phức sinh năm 1974; trú tại tổ dân phố 1, thị trấn Đăk Hà, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: khi phạm tội là Trƣởng Công an xã Đăk Hring (cán bộ Công an huyện Đăk Hà tăng cƣờng); con ông Nguyễn Quang PHố và bà Nguyễn Thị Vê, có vợ và 02 con; bị bắt giam từ ngày 28/5/2013, tại phiên tòa phúc thẩm ngày 25/3/2015 đƣợc trả tự do.

Trong vụ án còn có các bị cáo Ngô Quốc Trƣởng và Lê Trần Quốc Đạt bị kết

án về tội “Tràng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả”.

NHẬN THẤY

175

Theo Bản án phúc thẩm nội dung vụ án nhƣ sau: Vào nằm 2003, trong một lần lên thị trấn Đăk Hà, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum tìm mua đá cảnh, Lê Trần Quốc Đạt quen Nguyễn Quang Phức (lúc này Phúc đang là cán bộ điều tra Công an huyện Đăk Hà). Kể từ đó, khi đi ngang qua địa phận Đăk Hà, có việc gì cần nhƣ bị Cảnh sát giao thông thổi phạt, Đạt đều điện thoại nhờ Phức giúp. Có lần Đạt đƣa một số mẫu đá cảnh cho Phức tìm mua, Phức đã vài lần gửi mẫu đá xuống cho Đạt nhƣng vì đá có giá trị thấp nên Đạt không mua. Trong

176

khoảng thời gian từ tháng 02 đến tháng 3/2012, Đạt có hai lần vào Công an xã Đăk Hring thăm Phức (lúc này Phức là Trƣởng công an xã Đăk Hring). Vào lúc 07 giờ 36 phúc 23 giây ngày 01/5/2012, Nguyễn Quang Phức dùng số điện thoại 0983407927 gọi vào số di động 0939572322 cho Đạt nói Đạt tìm những ngƣời mua gian, bán lận, lừa đảo, nhiều tiền dẫn lên Kon Tum “ký quỹ” để cho Phức bắt. Đạt trả lời “Để tôi thử xem”. Ngày 03/5/2012, Đạt điện thoại cho Ngô Quốc Trƣởng theo số 0935789280 (Trƣởng ở Gia Lai, quen biết từ trƣớc với Đạt, làm nghề môi giới buôn bán tự do) để hỏi ai có ký quỹ mua lƣ hƣơng bằng đồng đổi màu thì nói cho Đạt. Chiều ngày 09/5/2012, Trƣởng gọi cho ông Mùi Cẩm (ở thành phố Hồ Chí Minh, số điện thoại 0919052223) cũng làm nghề môi giới, buôn bán tự do hỏi có ai mua bát hƣơng bằng đồng đổi màu với giá 05 tỷ. Ông Cẩm đồng ý tìm đối tác mua. Sau đó, ông Cẩm và Trƣởng thống nhất việc “ký quỹ” để chứng minh về khả năng mua và bán của hai bên, cụ thể: bên Trƣởng sẽ bỏ ra 100.000.000 đồng và bên mua của ông Cẩm sẽ bỏ ra 01 tỷ đồng để “ký quỹ”, nếu bên Trƣởng không có hàng để bán thì bị mất 100.000.000 đồng đã “ký quỹ”, còn có hàng mà bên phía ông Cẩm không mua hoặc không đủ tiền mua thì bị mất 01 tỷ đồng đã “ký quỹ”. Sau khi tìm đƣợc đối tác “ký quỹ” mua lƣ hƣơng bằng đồng đổi màu, ông Cẩm gọi điện thoại báo cho Trƣởng biết và hẹn ngày 14/5/2012 sẽ lên thành phố Kon Tum gặp Trƣởng trƣớc để bàn bạc cụ thể. Nghe vậy, Trƣởng gọi điện cho Đạt biết. Tối ngày 11/5/2012, Đạt từ thành phố Hồ Chí Minh gọi điện thoai jcho Nguyễn Quang Phức và nói “tối nay đi lên Kon Tum”, Phức bảo Đạt khi lên đến nơi thì đến thẳng cơ quan Phức. Do hết vé đi Kon Tum nên Đạt đi xe lên Gia Lai. Lúc 05 giờ 34 phút 23 giây ngày 12/5/2012, Đạt gọi điện thoại cho Trƣởng đến đón, sau đó Trƣởng dùng xe mô tô của gia đình chở Đạt lên Kon Tum. Trên đƣờng đi, Đạt gọi điện cho Phức biết. Khi đến thành phố Kon Tum, Đạt chỉ cho Trƣởng đi đến khách sạn Phƣợng Hồng và lấy phòng số 304 (đây là khách sạn Đạt thƣờng nghỉ lại mỗi khi lên Kon Tum). Cất đồ xong, Trƣởng tiếp tục sử dụng xe mô tô của mình chở Đạt lên trụ sở Công an xã Đăk Hring để gặp Phức. Trên đƣờng đi, do chạy quá tốc độ nên Trƣởng bị Tổ tuần tra thuộc Phòng cảnh sát giao thông xử phạt 150.000 đồng. Đạt gọi điện thoại cho Phức 02 lần nhờ Phức xin, nhƣng Phức bảo nộp tiền phạt luôn, nên Trƣởng chở Đạt đi nộp tiền tại kho bạc, sau đó, quay lại lấy bằng lái rồi tiếp tục đi lên gặp Phức. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, Trƣởng và Đạt đến Ủy ban nhân dân xã Đăk Hring, thấy cổng Ủy ban nhân dân xã đóng nên Đạt chỉ cho Trƣởng điều khiển xe chạy theo đƣờng tắt bên hông để vào phòng làm việc của Phức tại Công an xã Đăk Hring. Khi vào trụ sở Công an xã Đăk Hring thì gặp Phức, Phức dẫn Đạt, Trƣởng vào phòng và đóng cửa lại. Đạt giới thiệu Trƣởng với Phức rồi hỏi Phức về số tiền dùng để “ký quỹ” thì Phức nói: “Tiền ký quỹ không phải lo, cứ mang nó lên đây”, sau đó Phức đi tới chiếc tủ gỗ bên trong gần giƣờng ngủ của Phức lấy ra một bọc tiền ra giữa bàn cho Đạt và Trƣởng xem rồi nói: “Tiền đây, tiền em mới bắt đƣợc về dùng để ký quỹ”. Đạt và Trƣởng nhìn thấy có 06 cục tiền pôlyme, loại mệnh giá 200.000 đồng.

177

Lúc này, Đạt nói chọc Phức: “Thế chú định bắt bọn nó ở đây à”. Phức trả lời: “Anh bị điên à, tý nữa đi ăn cơm rồi em dẫn đi xem luôn chỗ em bố trí”. Sau đó, Phức hỏi Trƣởng “đối tác khi nào lên”. Trƣởng trả lời: “Ngƣời ta nói cuối tuần Ngân hàng không làm việc, đầu tuần ngƣời ta lại lên”. Nói chuyện đƣợc một lúc thì Phức mời Đạt và Trƣởng đi ăn cơm, tiện thể đi xem chỗ Phức bố trí bắt. Phức chạy xe mô tô của Phức đi trƣớc dẫn đƣờng, còn Trƣởng chở Đạt đi theo sau. Khi đến một bãi đất trống ven đƣờng liên xã Đăk Hring và Đăk Pờxi, cách đƣờng Quốc lộ 14 khoảng 02 km, cách ngã ba thôn 1, xã Đăk Hring khoảng 20met có một đƣờng đi vào xã Đăk Pờxi, một đƣờng cấp phối đi vào thôn 3 xã Đăk Hring. Đến đây Phức dừng xe lại và nói với Trƣởng: “Mày dẫn đối tác tới đây rồi đi bộ vào con đƣờng này (Phức vừa nói vừa chỉ tay vào con đƣờng cấp phối đi vào thôn 3 xã Đăk Hring) mày đi một đoạn sẽ có ngƣời đón. Việc của mày chỉ có vậy thôi”, còn sau đó thì Phức sẽ lo. Nói xong Phức dẫn Đạt và Trƣởng đi ăn. Khoảng 15 giờ cùng ngày , Trƣởng chở đạt về khách sạn Phƣợng Hồng. Vào lúc 16 giờ 39 phút 21 giây ngày 13/5/2012, Đạt gọi cho Phức, Phúc hỏi số phòng rồi lên phòng Đạt ở chơi. Khi vào phòng, Phức lấy gói thuốc lá ra hút thì hết thuốc. Thấy vậy, Đạt nói Trƣởng xuống lễ tân của khách sạn mua thuốc lá cho Phức hút. Trong lúc Trƣởng đi mua thuốc lá thì Phức hỏi khi nào đối tác lên. Đạt trả lời đối tác đang lên, khi nào đến nói Đạt sẽ gọi cho Phức. Khi Trƣởng mang thuốc lá lên thì Phức mở ra lấy 01 điếu, hút xong điếu thuốc thì Phức về. Buổi tối hôm đó, Đạt còn gọi cho Phức 03 cuộc nữa để bàn chuyện “ký quỹ”. Vào lúc 08 giờ 54 phút 50 giây ngày 14/5/2012, Mùi Cẩm gọi điện cho Trƣởng biết đã lên Kon Tum và hẹn Trƣởng đến phòng 202 khách sạn Hoàng Thịnh để bàn chuyện “ký quỹ”. Tại đây, Trƣởng, Mùi Cẩm và Vòng Kín (đi cùng Cẩm) đã thống nhất việc mua bán chiếc lƣ hƣờng bằng đồng đổi màu với giá 04 tỷ đồng và để chứng minh khả năng mua, bán thì bên bán bỏ ra 100.000.000 đồng, bên mua bỏ ra 01 tỷ đồng để tiến hành “ký quỹ”, hai bên đồng ý. Mùi Cẩm nói ngày mai những ngƣời ở thành phố Hồ Chí Minh sẽ lên mua hàng và nói Trƣởng chuẩn bị tiền. Trƣởng trả lời ở đây ngƣời ta cũng có tiền rồi. Khoảng 11 giờ cùng ngày thì Trƣởng quay về khách sạn Phƣợng Hồng. Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 14/5/2012, Phức đi cùng Hoàng Công Viễn (Phó trƣởng Công an xã Đăk Hring) đến phòng 304 khách sạn Phƣợng Hồng. Khi vào phòng, Phức lấy trong túi áo khoác ra một bọc tiền, ném ra giƣờng nằm của Đạt và nói: “Tiền em mang xuống để ký quỹ”. Đạt và Trƣởng mở bọc tiền ra xem thì thấy toàn bộ số tiền đều bị ƣớt. Trƣởng lấy chiếc khăn ở giƣờng để trải tiền lên lau cho khô (lúc này Viễn đang nằm ở giƣờng của Trƣởng, mặt quay vào tƣờng và không nói gì). Trƣởng lau 01 cục tiền thì phát hiện thấy màu tiền hơi lạ nên hỏi Phức: “Tiền này giống tiền giả”, sau đó Trƣởng cầm một nắm tiền vò vò rồi thả ra giƣờng thì thấy tiền không bung thẳng ra, cho nên Trƣởng biết chắc chắn là tiền giả. Trong lúc đang lau tiền thì Đạt cũng nói: “Ôi tiền rởm”. Thấy vậy, Phức nói: “Tiền này không xài đƣợc đâu, chỉ cầm nhá cho ngƣời ta xem thôi, không đƣợc ký giấy tờ gì với bọn nó”. Lua

178

tiền xong, Trƣởng đến đƣợc 06 cục tiền polyme loại mệnh giá 200.000 đồng thì biết có tổng cộng 120.000.000 đồng. Lúc này có anh Jơn (là ngƣời quen của Trƣởng đƣợc Trƣởng dẫn lên Kon Tum để mua bán đất, tối 13/5/2012 anh Jơn ngủ chung với Đạt tại phòng 304) gõ cửa phòng. Trƣởng ở trong phòng nói ra là đang có khách, anh đi chơi đi, tý nữa lên. Lúc này ở trong phòng Phức tiếp tục dặn Trƣởng chỉ đƣợc nhá tiền, rồi Trƣởng cất bọc tiền vào tủ tivi tai phòng 304. Khoảng 13 giờ cùng ngày, Phức và Viễn ra về, lúc ra đến cửa phòng Phức còn nói với Đạt: “Khi nào Trƣởng gửi biển số xe của đối tác thì anh nhắn biển số xe ô tô cho em”. Vào lúc 8 giờ 59 phút 29 giây ngày 15/5/2012, Trƣởng gọi điện cho Mùi Cẩm thì Mùi Cẩm bảo Trƣởng qua khách sạn Hoàng Thịnh uống cà phê rồi chờ đối tác lên. Khi gặp Mùi Cẩm, Trƣờng hỏi: “Tiền bạc sao rồi?”. Mùi Cẩm nói: “11 giờ mới có ngƣời mang tiền ra”. Khoảng gần trƣa ngày 15/5/2012 thì những ngƣời “ký quỹ” trong nhóm của Mùi Cẩm từ thành phố Hồ Chí Minh đi trên 01 chiếc xe Inova 7 chỗ tới thành phố Kon Tum. Lúc 11 giờ 32 phút 45 giây cùng ngày, sau khi thấy những ngƣời “ký quỹ” trong nhóm của Mùi cẩm, Trƣởng đã nhắn tin số xe của đối tác về cho Đạt, tin nhắn có nội dung: “soxe 51A-16196”. Sau khi ăn cơm trƣa với Mùi Cẩm, Trƣởng về khách sạn Phƣợng Hồng lấy tiền. Lúc này, Đạt đang đi ăn cơm, Trƣởng gọi điện cho Đạt về mở cửa phòng lấy tiền đƣa cho Trƣởng để đi gặp đối tác. Đạt đƣa tiền cho Trƣởng thì Trƣởng hỏi Đạt có đi luôn không. Đạt trả lời: “Tí nữa tôi lên sau”. Trƣởng hỏi: “Cầm hết số tiền 120.000.000 à?”. Đạt trả lời: “Cứ cầm hết đi”. Sau đó, Đạt lấy xe mô tô của Trƣởng chở Trƣởng mang theo 120.000.000 đồng tiền giả đi từ khách sạn Phƣợng Hồng đến ngã ba Trần Phú – Nguyễn Huệ, thành phố Kon Tum thì Trƣởng xuống xe và đi bộ đến chỗ đối tác đang đứng gần xe ô tô đậu trƣớc khách sạn Hoàng Thịnh; còn Đạt chạy xe về khách sạn Phƣợng Hồng. Sau khi nhận đƣợc tin nhắn của Trƣởng, Đạt gọi điện thoại cho Phức và nói: “Em lấy bút ra ghi số xe của bọn đi buôn này”. Phức trả lời: “Tý nữa, em đang chạy xe, anh nhắn tin qua cho em đi.” Một lúc sau, vào lúc 11 giờ 46 phút 16 giây, Đạt đã sử dụng nguyên văn tin nhắn của Trƣởng có nội dung: “soxe 51A-16196” để nhắn tin chuyển tiếp tới máy di động của Phức và Phức nhận đƣợc tin nhắn này. Còn Trƣởng sau khi lấy 120.000.000 đồng tiền giả đã lên xe ô tô của đối tác và cùng các đối tác lên huyện Đăk Hà. Trên xe lúc này có 07 ngƣời của phía Mùi Cẩm. Khi mọi ngƣời đã lên xe, nhớ lời Phức dặn, Trƣởng lấy bọc tiền ra nhá cho Mùi Cẩm xem. Sau khi xem xong, Mùi Cẩm nói: “Thôi cất đi đã”. Khi xe ô tô chạy đến trƣớc Ngân hàng Sacombank tại số 70A Phan Đình Phùng, thành phố Kon Tum thì dừng lại để đón thêm 02 ngƣời phía Mùi Cẩm lên xe (02 ngƣời này đi rút tiền). Vì xe ô tô Inova chỉ chở tối đa 07 ngƣời nên Mùi Cẩm đã gọi thêm chiếc xe taxi của hàng Mai Linh. Mùi Cẩm nói với Trƣởng: “Cháu đi xe này với chú Năm để chú đi xe taxi Mai Linh”. Khi xe tiếp tục chạy đƣợc một đoạn thì ngƣời đàn ông tên Năm hỏi Trƣờng: “Tiền đâu cháu”; lúc này Trƣởng đƣa gói tiền ra

179

nhá cho ông Năm biết là Trƣởng có tiền nhƣng khi vừa đƣa bọc tiền ra nhá thì ngƣời đàn ông tên Nam đã chụp luôn lấy bọc tiền, rồi đƣa cho một ngƣời ngồi phía trƣớ bỏ vào hộc xe. Khi xe chạy qua ngã ba Trung Tín (trên quốc lộ 14), đƣợc khoảng 01km thì ông Năm nhận thấy có điều gì nghi vấn là tại sao thỏa thuận “ký quỹ” chỉ có 100.000.000 đồng mà Trƣởng lại đƣa tới 120.000.000 đồng, nên ông Năm đã lấy bọc tiền ra kiểm tra xem thì thấy có nhiều tờ tiền có số seri trùng nhau nên đã phát hiện ra toàn bộ số tiền 120.000.000 đồng mà Trƣởng đã đƣa dùng để giao dịch “ký quỹ” đều là tiền giả. Vì vậy, ông Nâm hô mọi ngƣời trên xe bắt giữ Trƣởng và cho xe quay lại thành phố Kon Tum. Khi đến Ngân hàng Sacombank thì dừng lại để một số ngƣời xuống xe gửi số tiền 01 tỷ đồng vừa mới rút vào tài khoản trong ngân hàng; sau đó giao nộp Ngô Quốc Trƣởng cùng 120.000.000 đồng tiền giả cho Phòng PC81 và Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh Kon Tum lập biên bản bắt ngƣời phạm tội quả tang. Trong thời gian này, do chờ lâu không thấy Trƣởng dẫn đối tác đến nên Nguyễn Quang Phức liên tục gọi điện thoại cho Đạt và hỏi: “Thằng Trƣởng đi đến đâu rồi? Em đón ở ngoài đƣờng mà không thấy”. Đạt trả lời: “Coi đó, anh ở khách sạn không biết, anh điện nó cũng không nghe máy”. Sau khi bị bắt, Ngô Quốc Trƣởng đã khai ra Lê Trần Quốc Đạt là đồng phạm, ngay sau đó Cơ quan an ninh điều tra đã bắt Đạt. Vì không biết Đạt đã bị bắt nên Nguyễn Quang Phức gọi liên tục 03 lần vào điện thoại di động của Đạt để hỏi tình hình đối tác “ký quỹ” nhƣng vì Đạt đã bị bắt nên không nghe máy đƣợc. Vào lúc 15 giờ 04 phút 30 giây cùng ngày, Phức tiếp tục gọi cuộc thứ 4 cho Đạt thì đồng chí Nguyễn Thanh Nhàn – Trƣởng phòng an ninh điều tra Công an tỉnh Kon Tum đã bấm máy lên nghe và nói: “Tôi là Nhàn, Trƣởng phòng an ninh điều tra Công an tỉnh Kon Tum; chủ thuê bao anh gọi tới đã bị bắt, anh có mối quan hệ với ngƣời này nhƣ thế nào?” thì Phức trả lời: “Tôi là Phức, Trƣởng Công an xã Đăk Hring, tôi có quen biết với anh Tuấn chủ thuê bao này, lý do làm sao mà anh ấy bị bắt”. Anh Nhàn trả lời: “Việc này là của chúng tôi”. Nói đến đây anh Nhàn tắt máy. Kể từ đó Phức không gọi vào số máy của Đạt nữa. Toàn bộ 600 tờ tiền polyme, loại mệnh giá 200.000 đồng mà Nguyễn Quang Phức đã đƣa cho Đạt và Trƣởng sử dụng vào việc giao dịch “ký quỹ” bị thu giữ ngày 15/5/2012 đã đƣợc giám định là “không phải do Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam phát hành”. Quá trình điều tra xác định từ ngày 01/5/2012 đến chiều ngày 15/5/2012: Phức đã gọi cho Đạt 26 cuộc điện thoại, Đạt gọi cho Phức 53 cuộc điện thoại, Đạt gọi cho Trƣởng 51 cuộc điện thoại. Trƣởng gọi cho Đạt 28 cuộc điện thoại. Ngoài ra, giữa Phức, Đạt, Trƣởng còn nhiều lần nhắn tin trao đổi với nhau về việc thực hiện kế hoạch “ký quỹ”. Trong quá trình điều tra cũng xác định: thực tế không có chiếc lƣ hƣơng bằng đồng đổi màu nặng 3kg, trị giá 4-5 tỷ đồng. Đây chỉ là thủ đoạn gian dối do Phức,

Ngày 11/6/2013, Nguyễn Quang Phức kháng cáo với nội dung kêu oan, Lê

180

Đạt, Trƣởng bịa đặt ra để câu nhử, lừa những ngƣời phía đối tác do ông Mùi Cẩm môi giới mang theo 01 tỷ đồng tiền mặt “ký quỹ” để Phức bắt. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2013/HSST ngày 07/6/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum áp dụng khoản 3 Điều 180; điểm g khoản 1, khoản 2 Điều 46 (áp dụng thêm điểm p khoản 1 Điều 46 và Điều 47 đối với Ngô Quốc Trƣởng) Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Quang Phức 12 năm tù, Lê Trần Quốc Đạt 11 năm tù, Ngô Quốc Trƣởng 06 năm tù đều về tội “Tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả”. Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo luật định. Trần Quốc Đạt kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt. Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 288/2013/HSPT ngày 22/8/2013, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng căn cứ các điểm a, c khoản 2 Điều 248 và Điều 250 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của Lê Trần Quốc Đạt, giữ nguyên Bản án sơ thẩm về hình phạt đối với Đạt; hủy phần bản án sơ thẩm đã xét xử đối với Nguyễn Quang Phức để điều tra lại theo thủ tục chung. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 60/2014/HSST ngày 02/10/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum áp dụng khoản 3 Điều 180; điểm g khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Quang Phức 10 năm tù về tội “Tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả”. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo theo luật định. Ngày 06/10/2014, Nguyễn Quang Phức kháng cáo với nội dung kêu oan. Tại Quyết định số 72/QDDKNPT-VKS ngày 14/10/2014, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kon Tum kháng nghị phúc thẩm Bản án số 60/2014/HSST ngày 02/10/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum và đề nghị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xét xử lại theo hƣớng tăng mức hình phạt tù đối với bị cáo Phức. Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 93/2015/HSPT ngày 25/3/2015, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng căn cứ điểm d khoản 2 Điều 248 và Điều 251 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Quang Phức, bác kháng nghị của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kon Tum, hủy bản án hình sự sơ thẩm, tuyên bố Nguyễn Quang Phức không phạm tội “Tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả” và đình chỉ vụ án. Tại Kháng nghị số 44/KN-HS ngày 30/11/2015, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị đối với Bản án hình sự phúc thẩm số 93/2015/HSPT ngày 25/3/2015 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng (nay là Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng) và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án hình sự phúc thẩm nêu trên đối với Nguyễn Quang Phức để xét xử phúc thẩm lại.

XÉT THẤY

181

Căn cứ lời khai của Ngô Quang Trƣởng, Lê Trần Quốc Đạt và lời khai của các nhân chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác, Tòa án cấp sơ thẩm kết án Nguyễn Quang Phức về tội “Tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả” với vai trò là ngƣời chủ mƣu, chỉ đạo việc thực hiện tội phạm. Sau khi xét xử sơ thẩm, Phức kháng cáo với nội dung kêu oan. Tuy nhiên, khi xét xử, Tòa án cấp phúc thẩm không triệu tập Lê Trần Quốc Đạt, Ngô Quốc Trƣởng (là đồng phạm với Nguyễn Quang Phức) và các nhân chứng đến phiên tòa để trình bày, đối chất làm rõ hành vi phạm tội của Phức là thiếu sót nghiêm trọng. Đây là vụ án phức tạp về đánh giá chứng cứ, có kháng cáo kêu oan của bị cáo và kháng nghị tăng hình phạt của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kon Tum, nhƣng trình tự xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm diễn ra sơ sài, phiến diện, không tập trung làm rõ những tình tiết có mâu thuẫn và đã tuyên Nguyễn Quang Phức không phạm tội và đình chỉ vụ án là chƣa đủ cơ sở. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử Nguyễn Quang Phức không thừa nhận hành vi phạm tội, nên căn cứ xác định hành vi phạm tội của Nguyễn Quang Phức chủ yếu dựa vào lời khai của Lê Trần Quốc Đạt, Ngô Quốc Trƣởng và các nhân chứng nhƣ anh Phạm Ngọc Điệp, anh Hoàng Văn Huy, anh Jơn, ông Nguyễn Văn Hậu, ông Phạm Hữu Hán có phù hợp với các chứng cứ khác nhƣ Bản chi tiết dữ liệu online, Kết luận giám định… Đặc biệt lời khai của Trƣởng và Đạt là căn cứ rất quan trọng để xem xét kết tội Phức. Mặc dù, cơ bản lời khai của Trƣởng và Đạt là thống nhất về nội dung sự việc, nhƣng về chi tiết sự việc, sự vật có sự khác nhau nhƣ lời khai về thời điểm Đạt và Trƣởng nhìn thấy tiền ở phòng làm việc của Phức (hình dáng bọc tiền, bọc tiền mở hay buộc túm lại, tại sao là có 06 cọc tiền…), thời điểm Phức mang tiền đến khách sạn Phƣợng Hồng cho Trƣởng và Đạt (thời gian, Phức đƣa bọc tiền cho ai, ai mở bọc tiền cho ai, ai mở bọc tiền ra, tại sao trong bọc mà lại bị ƣớt, cách lau tiền…). Do vậy, tại phiên tòa phúc thẩm phải triệu tập đầy đủ các nhân chứng, đặc biệt là Đạt và Trƣởng để đối chất làm rõ các tình tiết trong vụ án. Ngoải ra, việc xác định nguồn tiền giả từ đâu (trƣớc thời gian sự việc xảy ra có vụ bắt tiền giả nào không), khoảng cách từ trụ sở Công an xã Đăk Hring đến khách sạn Phƣợng Hồng là bao nhiêu, thời gian đi, về giữa hai điểm này là bao lâu, cũng là cơ sở xác định hành vi phạm tội của Nguyễn Quang Phức. Vì các lẽ trên, căn cứ

khoản 3 Điều 285 và Điều 284 Bộ luật tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

Hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 92/2015/HSPT ngày 25/3/2015 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật./.

Nơi nhận:

TM. HỘI ĐỒNG THẢM PHÁN CHÁNH ÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA Nguyễn Hòa Bình

- VKSNDTC-Vụ 7; - TANDCC tại Đà Nẵng (kèm HSVA); - TAND tỉnh Kon Tum; - VKSND tỉnh Kon Tum; - Công an tỉnh Kon Tum; - Cục THADS tỉnh Kon Tum; - UBND thị trấn Đăk Hà, Đăk Hà, Kon Tum; - Nguyễn Quang Phức (theo đ/c); - Lƣu Vụ GĐKT1 (3b), VP, Hồ sơ vụ án.

182

PHỤ LỤC 11

Quyết định giám đốc thẩm số 14/2016/HS-GĐT ngày 09/5/2017

của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN Quyết định giám đốc thẩm Số: 14/2016/HS-GĐT Ngày 09/5/2017

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Với Hội đồng giám đốc thẩm gồm 13 thành viên tham gia xét xử, do ông

Nguyễn Sơn, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao làm Chủ tọa phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị

Yến, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Thƣ ký Toà án ghi biên bản phiên toà là bà Nguyễn Thị Hoa Mai Thẩm tra

viên Toà án nhân dân tối cao.

Ngày 09 tháng 5 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa

giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

Phạm Thế Khảng sinh ngày 08/10/1995; nơi đăng ký hộ khẩu thƣờng trú: tổ 3 khu 10 phƣờng Thanh Sơn, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 7/12; con ông Phạm Thế Lâm và bà Lý Thị Hồng; tiền án, tiền sự: không; bị bắt truy nã ngày 08/02/2012 về tội “Cƣớp tài sản” và tội “Trộm cắp tài sản”.

NHẬN THẤY

183

Trong khoảng thời gian từ tháng 5/2011 đến ngày 14/7/2011, trên tuyến Quốc lộ 18A, 10A thuộc địa bàn tỉnh Quảng Ninh, từ huyện Đông Triều đến phƣờng Bãi Cháy, Phạm Thế Khảng đã cùng đồng bọn câu kết với nhau, sử dụng xe mô tô, dao quắm gây ra 11 vụ cƣớp, chiếm đoạt tài sản của các bị hại trị giá 77.540.000 đồng và 01 vụ trộm cắp xe máy Honda Wave BKS: 17M6 – 8965 trị giá 14.000.000 đồng của anh Trần Bình Trọng vào ngày 01/6/2011.

Ngày 14/7/2011, Khảng cùng đồng bọn đi 02 xe mô tô để cƣớp tài sản, đến khu vực xã Hồng Thái Tây, huyện Đông Triều thì bị Công an huyện Đông Triều truy đuổi, bắt giữ, riêng Khảng chạy thoát. Đến ngày 08/02/2012, Phạm Thế Khảng bị bắt truy nã.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2012/HSST ngày 28/6/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh áp dụng điểm a, d, e khoản 2 Điều 133; khoản 1 Điều 138; Điều 50; Điều 69; Điều 74; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt Phạm Thế Khảng 10 năm tù về tội “Cƣớp tài sản” và 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là 10 năm 6 tháng tù.

Ngày 09/7/2012, ông Đinh Đức Trung là ngƣời bào chữa cho bị cáo Phạm Thế Khảng, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt đối với tội “Cƣớp tài sản” cho Phạm Thế Khảng.

Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 589/2012/HSPT ngày 31/10/2012, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã áp dụng điểm a, d, e khoản 2 Điều 133; khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 50; Điều 69; khoản 2 Điều 74; Điều 75 Bộ luật hình sự xử phạt Phạm Thế Khảng 07 năm tù về tội “Cƣớp tài sản”, 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là 07 năm 06 tháng tù.

Tại Bản kháng nghị số 04/QĐ-VKSTC-V7 ngày 07-3-2017, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định: kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm số 589/2012/HSPT ngày 31/10/2012 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội về phần tội danh “Trộm cắp tài sản” đối với Phạm Thế Khảng. Đề nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, áp dụng Điều 286 Bộ luật tố tụng hình sự, hủy phần Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và phần tội danh “Trộm cắp tài sản” của Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2012/HSST ngày 28/6/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, đình chỉ vụ án về phần tội danh “Trộm cắp tài sản” của Phạm Thế Khảng.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao vẫn giữ

nguyên quan điểm kháng nghị của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

184

Tại Bản kết luận điều tra số 67/KLĐT-PC54 ngày 09/4/2012, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh đã kết luận: trong khoảng thời gian từ tháng 5/2011 đến ngày 14/7/2011, trên tuyến Quốc lộ 18A, 10A thuộc địa bàn tỉnh Quảng Ninh, từ huyện Đông Triều đến phƣờng Bãi Cháy, Phạm Thế Khảng đã cùng đồng bọn gây ra 11 vụ cƣớp, chiếm đoạt tài sản của các bị hại trị giá 77.540.000 đồng và 01 vụ trộm cắp xe máy Honda Wave BKS: 17M6 – 8965 trị giá 14.000.000 đồng của anh Trần Bình Trọng vào ngày 01/6/2011. Theo Lý lịch bị can của Phạm Thế Khảng thì Khảng sinh vào ngày 08/10/1995. Nhƣ vậy, khi phạm tội Phạm Thế Khảng chƣa đủ 16 tuổi, các vụ án gây ra đều trong độ tuổi từ 15 đến dƣới 16 tuổi.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự: “Ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên, nhƣng chƣa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”

Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 589/2012/HSPT ngày 31/10/2012, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã áp dụng điểm a, d, e khoản 2 Điều 133; Điều 69; khoản 2 Điều 74 Bộ luật hình sự xử phạt Phạm Thế Khảng 07 năm tù về tội “Cƣớp tài sản” là có căn cứ pháp luật. Tội “Trộm cắp tài sản” thì thấy rằng:

Tại Bản Cáo trạng số 53/KSĐT-KSXXST-HS ngày 23/4/2012, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh truy tố Phạm Thế Khảng về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Theo khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự thì khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là tội phạm ít nghiêm trọng. Do đó, Phạm Thế Khảng không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 138 xử phạt Khảng 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” là vi phạm quy định của Bộ luật hình sự về tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 279 và khoản 2 Điều 285 Bộ luật tố tụng

hình sự

QUYẾT ĐỊNH

1. Huỷ Bản án hình sự phúc thẩm số 589/2012/HSPT ngày 31/10/2012 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2012/HSST ngày 28/6/2012 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh về phần tội danh “Trộm cắp tài sản” đối với Phạm Thế Khảng;

2. Đình chỉ vụ án về phần tội danh “Trộm cắp tài sản" của Phạm Thế Khảng;

3. Phạm Thế Khảng tiếp tục chấp hành hình phạt 07 (bảy) năm tù về tội “Cƣóp

tài sản”.

Nơi nhận:

TM. HỘI ĐỒNG THẢM PHÁN PHÓ CHÁNH ÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA Nguyễn Sơn

- VKSNDTC-Vụ 7 (2 bản, kèm hồ sơ vụ án); - TANDCC tại Hà Nội; - TAND tỉnh Quảng Ninh; - VKSND tỉnh Quảng Ninh; - Công an tỉnh Quảng Ninh; - Trại giam Hoàng Tiến thuộc Tổng cục VIII Bộ Công an (02 bản để giao cho Phạm Thế Khảng 01 bản); - Lƣu: HS, Vụ PC&QLKH, Vụ I (3b), VP.

185

PHỤ LỤC 12 Quyết định giám đốc thẩm số 16/201/HS-GĐT ngày 25/9/2018

của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN Quyết định giám đốc thẩm Số: 16/2018/HS-GĐT Ngày 25 tháng 9 năm 2018

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Với Hội đồng giám đốc thẩm gồm có 12 thành viên tham gia xét xử, do ông

Nguyễn Hòa Bình – Chánh án Tòa án nhân dân tối cao làm chủ tọa phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị

Yến, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Thƣ ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: ông Hà Hồng Sơn.

Ngày 20/5/2016, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc

thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

1. Trần Văn Duy sinh năm: 1985; trú tại: thôn Tây Hà 5, xã Cƣ Bao, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; nghề nghiệp: làm nông; trình độ văn hóa: 9/12; con ông Trần Văn Bắc và bà Dƣơng Thị Thành; có vợ là Trần Thị Huệ; bị bắt giam ngày 28/10/2009, đƣợc trả tự do ngày 01/4/2015.

2. Trần Xuân Minh sinh năm 1979; trú tại: thôn 9A xã Cƣ Bao, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; nghề nghiệp: làm nông; trình độ văn hóa: 01/12; con ông Trần Xuân Hàn và bà Dƣơng Thị Tịnh; có vợ là Trần Thị Tú và 02 con; bị bắt giam từ ngày 28/10/2009 đến ngày 12/12/2009 đƣợc áp dụng biện pháp bảo lĩnh, tại ngoại.

186

3. Nguyễn Hoàng sinh năm 1980; trú tại thôn Nam Hồng I, phƣờng Bình Tân, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; nghề nghiệp: làm nông; trình độ văn hóa: 2/12; con ông Nguyễn Châu và bà Hoàng Thị Quế; bị bắt giam từ ngày 10/11/2009 đến ngày 05/02/2010 đƣợc áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Ngày 30/6/2010 bị bắt giam lại, đến ngày 24/6/2011 đƣợc áp dụng biện pháp bảo lĩnh, tại ngoại.

4. Phạm Đức Dũng sinh năm 1970; trú tại thôn Nam Hồng I, phƣờng Bình Tân, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; nghề nghiệp: làm nông; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: làm nông; con ông Phạm Đình Trung và bà Trƣơng Thị Nghị; vợ là Hoàng Thị Tuyết Ánh và có 03 con; bị bắt giam từ ngày 28/10/2009 đến ngày 05/02/2010 đƣợc áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Ngày 30/6/2010 bị bắt giam lại, đến ngày 24/6/2011 đƣợc áp dụng biện pháp bảo lĩnh, tại ngoại.

Nhân thân:

Ngày 05/7/2007, bị Hạt Kiểm lâm huyện Krông Búk xử phạt hành chính về

hành vi cất giấu lâm sản trái phép;

Ngày 07/5/2007, bị Hạt Kiểm lâm huyện Cƣ M’gar xử phạt hành chính về

hành vi vận chuyển và mua bán lâm sản trái phép.

Tại bản án số 50/2011/HSPT ngày 14/12/2011, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xử phạt 02 năm tù về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.

* Những ngƣời bị hại và ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị hại:

1. Anh Phan Quốc Tán sinh năm 1965 (đã chết); ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị hại: ông Phan Quốc Nhạ sinh năm 1929 (là bố anh Tán) và chị Phạm Thị Chữ sinh năm 1967 (là vợ anh Tán) đều ủy quyền cho anh Phan Quốc Tấn, sinh năm 1969 (là em ruột của anh Tán) trú tại 32/3 đƣờng Giải Phóng, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk.

2. Anh Nguyễn Dƣơng Lệ, sinh năm 1965; trú tại thôn 6 xã Ea Kiết, huyện Cƣ

M’gar, tỉnh Đăk Lăk.

3. Anh Lê Xuân Nguyên, sinh năm 1973; trú tại thôn 05 xã Ea Kiết, huyện Cƣ

M’gar, tỉnh Đăk Lăk.

NHẬN THẤY

Ngày 26/10/2009, Phạm Đức Dũng thuê Trần Văn Duy, Trần Xuân Minh, Nguyễn Hoàng, Trần Văn Phúc, Đoàn Văn Hải vào rừng để khai thác lâm sản trái phép. Khoảng 13 giờ cùng ngày, Duy điều khiển xe cày tay của Dũng chở Minh, Hoàng, Phúc, Hải cùng các dụng cụ nhƣ: dây neo cột và máy cƣa Culôk vào tiểu khu 544 Lâm trƣờng Buôn JaWầm, thuộc địa bàn xã Ea Kiết, huyện Cƣ M’gar để khai thác gỗ trái phép.

Khoảng 21 giờ cùng ngày, khi Duy cùng Minh, Hoàng đang xẻ hộp 13 lóng gỗ Cămxe (2,349m2) thì bị tổ công tác của Lâm trƣờng (gồm 12 đồng chí) phát hiện và bắt giữ. Lúc này, Hải và Phúc đang bắt cua dƣới suối nên không bị phát hiện. Do đêm khuya nên tổ công tác yêu cầu Duy, Minh, Hoàng đƣa phƣơng tiện về Lâm trƣờng để giải quyết. Trần Văn Duy trực tiếp điều khiển máy cày tay, Trần Xuân Minh và Nguyễn Hoàng ngồi phía sau thùng xe.

187

Trên đƣờng áp giải xe cày cùng ba đối tƣợng về Lâm trƣờng thì cán bộ Lâm trƣờng thay nhau ngồi cùng trên xe cày. Đến dốc 3 tầng, cách Lâm trƣờng khoảng

3km thì Tổ công tác phát hiện có 02 xe bò đang chở gỗ nên Tổ công tác chia thành hai nhó. Năm đồng chí Lê Xuân Nguyên, Nguyễn Dƣơng Lệ, Nguyễn Thành Lộc, Nguyễn Công Thắng và Phan Quốc Tán tiếp tục áp giải xe cày về Lâm trƣờng. Những ngƣời còn lại ở lại xử lý, giải quyết 02 xe bò trên. Anh Tán ngồi phía trƣớc thùng xe cày để áp giải. Anh Nguyên chở anh Lệ, anh Lộc và anh Thắng mỗi ngƣời điều khiển một xe môtô, chạy áp giải phía trƣớc và sau xe cày.

Khi về đến cổng Lâm trƣờng, anh Thắng xuống xe mở cổng, anh Lộc dựng xe mô tô phía trƣớc, ở giữa đƣờng và đứng chặn một bên yêu cầu Duy điều khiển xe cày chạy vào trong Lâm trƣờng, còn anh Nguyên và anh Lê chạy xe sát phía sau xe cày. Thấy vậy, Duy không dừng lại mà tăng ga lái xe đâm thẳng về phía anh Lộc để bỏ chạy, anh Lộc nhảy tránh sang bên đƣờng. Thấy Duy lái xe bỏ chạy, anh Tán ngồi ở thùng xe cày cầm đèn pin đi lên sát đầu xe, nơi Duy đang ngồi điều khiển hô lên “dừng lại, dừng lại”, đồng thời dùng đèn pin đánh Duy. Thấy anh Tán đánh Duy, Minh ngồi ở phía sau thùng xe cày bƣớc lên dùng tay kéo quần anh Tán lôi lại và đấm 03 cái vào mặt, ngực anh Tán rồi nhảy xuống xe (vị trí cách cổng Lâm trƣờng khoảng 20 – 30 mét) bỏ chạy, sau đó điện thoại báo cho Dũng việc bị Lâm trƣờng Buôn JaWầm bắt giữ. Duy tiếp tục lái xe bỏ chạy, anh Nguyên điều khiển xe mô tô chở anh Lệ đuổi theo. Thấy cán bộ lâm trƣờng đuổi theo, Duy điều khiển xe chạy lấn sang bên trái đƣờng (cùng chiều) để không cho xe mô tô của anh Nguyên vƣợt lên. Khi xe mô tô của anh Nguyên vƣợt đƣợc ngang đầu xe cày thì Duy đánh tay lái cho xe cày va vào xe mô tô, làm anh Nguyên và anh Lệ ngã vào lề đƣờng (vị trí anh Nguyên, anh Lệ ngã cách cổng Lâm trƣờng khoảng 120m). Do xe cày va vào bánh trƣớc của xe mô tô nên bị vỡ buli đầu cáp tời gắn ở đầu xe và văng vành ngoài xuống đƣờng. Thấy vậy, anh Tán tiếp tục đánh Duy và yêu cầu dừng xe nhƣng Duy không dừng mà tiếp tục điều khiển xe với tốc độ cao hơn (khoảng 40 – 50 km/h), lạng lách, đánh võng làm cho anh Tán bị mất thăng bằng, ngã xuống đƣờng bên phải theo chiều xe cày chạy (ví trí anh Tán ngã cách nơi anh Nguyên, anh Lệ ngã khoảng 30m và cách cổng Lâm trƣờng khoảng 150m). Khi anh Thắng và anh Lộc đuổi theo kịp xe cày thì Duy lái xe cày lạng lách, đánh võng, không cho xe của anh Thắng, anh Lộc vƣợt. Anh Thắng và Lộc tiếp tục dùng xe mô tô rƣợt đuổi theo xe cày của Duy đƣợc gần 5km nhƣng không bắt giữ đƣợc nên quay về Lâm trƣờng.

188

Sau khi điều khiển xe cày chạy thoát đến địa bàn xã Ea Tar, Duy giấu xe cày vào rãy cà phê ở bên đƣờng nhằm tránh sự phát hiện và gọi điện thoại cho Dũng. Dũng đi xe mô tô đến đón Duy về thị xã Buôn Hồ để băng vết thƣơng ở đầu rồi quay lại Cƣ M’gar gọi điện thoại cho Hoàng nói Hoàng tháo đầu tời Buli ra cất giấu. Sau đó, Dũng chạy xe đi đón Minh, Hải, Phúc về chỗ giấu xe cày. Phúc điều khiển xe cày chạy về Buôn Hồ. Sau đó, Dũng sai Hoàng đem đầu Buli bị vỡ cất giấu và rửa xe cày sạch sẽ, xóa dấu vết và nói với đồng bọn là “nếu Công an hỏi thì nói không biết, không đi rừng mà đi làm rẫy cà phê cho Dũng” nhằm che giấu hành vi phạm tội của Duy.

Các anh Phan Quốc Tán, Nguyễn Dƣơng Lệ, Lê Xuân Nguyên, sau khi bị máy cày đâm và bị ngã đã đƣợc mọi ngƣời đƣa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đăk Lăk, nhƣng anh Tán đã chết do vết thƣơng quá nặng.

Tại Bản kết luận giám định pháp y số 313/PY ngày 10/11/2009, Trung tâm pháp y tỉnh Đăk Lăk kết luận: nguyên nhân anh Phan Quốc Tán chết do hôn mê, suy hô hấp không hồi phục do chấn thƣơng sọ não, tụ máu nội sọ, vật tác động cứng, tày diện rộng.

Tại Công văn số 26/CV-PY ngày 09/12/2009, Trung tâm pháp y tỉnh Đăk Lăk giải thích: gậy tre tròn có đƣờng kính 05cm có khả năng gây thƣơng tích xây xát và tụ máu dƣới da đầu nhƣng không thể gây tổn thƣơng nứt vỡ sọ và tụ máu lan tỏa nội sọ cho nạn nhân Phan Quốc Tán. Mặt, lề đƣờng nhựa đá có khả năng gây ra tổn thƣơng cho nạn nhân nhƣng phải có lực tác động rất mạnh.

Tại Bản kết luận pháp y số 1111/PY ngày 30/11/3009, Trung tâm pháp y tỉnh Đăk Lăk kết luận: anh Nguyễn Dƣơng Lệ bị đa thƣơng phần mềm, rách cơ đầu dƣới đùi phải; tỷ lệ thƣơng tích là 18% tạm thời.

Tại Bản kết luận pháp y số 1112/PY ngày 30/11/2009, Trung tâm pháp y tỉnh Đăk Lăk kết luận: anh Lê Xuân Nguyên bị chấn thƣơng ngực, vai trái, hạn chế nâng vai; tỷ lệ thƣơng tích 10% tạm thời.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 30/2012/HSST ngày 13/9/2012, Tòa án nhân

dân tỉnh Đăk Lắk quyết định:

Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 93; khoản 2 Điều 104; khoản 1 Điều 257; điểm b, p (điểm p áp dụng đối với tội Cố ý gây thương tích) khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 50 Bộ luật hình sự xử phạt Trần Văn Duy 13 năm tù về tội “Giết người”, 02 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” và 01 năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ”; tổng hợp hình phạt buộc Duy phải chấp hành hình phạt chung cho cả ba tội là 16 năm 06 tháng tù.

Áp dụng khoản 2 Điều 257; điểm b, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt

Trần Xuân Minh 03 năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ”.

Áp dụng khoản 1 Điều 313; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 50 Bộ luật hình sự xử phạt Phạm Đức Dũng 02 năm 06 tháng tù về tộ “Che giấu tội phạm”; tổng hợp với hình phạt 02 năm tù tại Bản án số 50/2011/HSPT ngày 14/12/2011 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng, buộc Dũng phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 04 năm 06 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 313, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt

Nguyễn Hoàng 02 năm tù về tội “Che giấu tội phạm”.

189

Ngày 24/9/2012, Trần Văn Duy kháng cáo xin xem xét lại Bản án sơ thẩm về tội “Giết ngƣời” và xin ân giảm hình phạt; Phạm Đức Dũng và Nguyễn Hoàng kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 26/9/2012, Trần Xuân Minh kháng cáo xin giảm hình phạt và xin hƣởng án treo.

Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 87/2013/HSPT ngày 10/01/2013, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng quyết định hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2012/HSST ngày 13/9/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk để điều tra lại.

Tại Kháng nghị số 19/2014/HS-KN ngày 25/3/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị đối với Bản án hình sự phúc thẩm số 87/2013/HSPT ngày 10/01/2013 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng để xét xử lại theo đúng quy định pháp luật.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 12/2014/HS-GĐT ngày 08/7/2014, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 87/2013/HSPT ngày 10/01/2013 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng; giao hồ sơ cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 129/2015/HSPT ngày 21/4/2015, Tòa phúc

thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng quyết định:

Áp dụng khoản 2 Điều 107 và Điều 251 Bộ luật tố tụng hình sự, hủy án sơ thẩm, đình chỉ vụ án phần quyết định của Bản án sơ thẩm về phần tội danh “Che giấu tội phạm” đối với các bị cáo Phạm Đức Dũng và Nguyễn Hoàng. Tuyên bố các bị cáo Phạm Đức Dũng, Nguyễn Hoàng không phạm tội “Che giấu tội phạm” theo khoản 1 Điều 313 Bộ luật hình sự.

Áp dụng khoản 2 Điều 104; điểm d khoản 2 Điều 257; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 50 Bộ luật hình sự xử phạt Trần Văn Duy 02 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, 06 năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ”; tổng hợp hình phạt buộc Trần Văn Duy phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 08 năm 06 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giam (từ 28/10/2009 đến ngày 01/4/2015).

Áp dụng khoản 2 Điều 257, điểm b, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt Trần Xuân Minh 03 năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ”; thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giam (từ 28/10/2009 đến ngày 12/12/2011).

Tại Kháng nghị số 42/KN-HS ngày 21/9/2015, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm số 129/2015/HSPT ngày 21/4/2015 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, hủy bản án hình sự phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng để xét xử phúc thẩm lại.

190

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy bản án hình sự phúc thẩm nêu trên để xét xử phúc thẩm lại.

XÉT THẤY

Hành vi chống ngƣời thi hành công vụ của Trần Văn Duy đã hoàn thành từ khi Duy không chấp hành lệnh cho xe vào Lâm trƣờng và đâm thẳng về phía anh Lộc để bỏ chạy. Trong quá trình bỏ chạy, Duy điều khiển xe cày đâm vào xe mô tô do anh Lê Xuân Nguyên điều khiển chở anh Nguyễn Dƣơng Lệ làm anh Nguyên bị thƣơng tích 10%, anh Lệ bị thƣơng tích 18%, là đã cấu thành tội “cố ý gây thƣơng tích”. Khi anh Phan Quốc Tán yêu cầu Duy dừng xe thì Trần Xuân Minh kéo ngƣời và đánh anh Tán, ngăn cản việc anh Tán thi hành công vụ, hành vi của Minh đủ yếu tố cấu thành tội “chống ngƣời thi hành công vụ”. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm kết án Trần Văn Duy về các tội “cố ý gây thƣơng tích”, “chống ngƣời thi hành công vụ”; kết án Trần Văn Minh về tội “chống ngƣời thi hành công vụ” là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với cái chết của anh Phan Quốc Tán: các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án xác định, khi xe cày đƣợc áp giải về đến cổng Lâm trƣờng, anh Thắng mở cổng, anh Lộc dựng xe mô tô phía trƣớc ở giữa đƣờng và đứng chặn một bên yêu cầu Duy điều khiển xe cày chạy vào trong Lâm trƣờng thì Duy không chấp hành mà lái xe tăng ga đâm thẳng về phía anh Lộc, anh Lộc phải nhảy tránh sang một bên. Duy lái xe bỏ chạy, anh Tán ngồi ở thùng xe cày cầm đèn pin đi lên sát đầu xe, nơi Duy đang điều khiển hô lên “dừng lại, dừng lại”, đồng thời dùng đèn pin đánh Duy, nhƣng Duy không dừng lại mà tiếp tục lái xe bỏ chạy. Khi bị cán bộ Lâm trƣờng đuổi theo, Duy đã điều khiển xe cày chạy lạng lách, đánh võng để không cho xe đuổi theo vƣợt lên. Khi xe mô tô do anh Nguyên điều khiển (chở anh Lệ) vƣợt lên ngang đầu xe cày thì anh Duy đánh tay lái cho xe cày tông vào xe mô tô hất văng xe mô tô xuống rãnh thoát nƣớc bên trái đƣờng, làm anh Nguyên và anh Lệ ngã văng vào lề đƣờng và bị chấn thƣơng (gây thƣơng tích cho anh Lệ là 18%, anh Nguyên là 10%). Thấy vậy, anh Tán tiếp tục đánh Duy và yêu cầu dừng xe, nhƣng Duy không dừng mà tiếp tục điều khiển xe với tốc độ cao (khoảng 40 đến 50km/h), lạng lách, đánh võng làm cho anh Tán bị mất thăng bằng, ngã xuống đƣờng và hậu quả là anh Tán đã chết. Anh Thắng và anh Lộc tiếp tục đuổi theo thì Duy lái xe cày lạng lách, đánh võng, không cho xe anh Thắng, anh Lộc vƣợt và Duy đã lái xe chạy thoát.

191

Trong quá trình giải quyết vụ án, sau khi nhận đƣợc kết luận điều tra Duy cho rằng việc anh Tán ngã khỏi xe là do Hoàng đạp, nhƣng lời khai của Duy không có căn cứ chứng minh, vì: tại thời điểm anh Tán ngã thì trên xe chỉ có Duy là ngƣời lái xe, Hoàng bị thƣơng ở chân do cây đè nên ngồi ở góc bên trái thùng xe, còn anh Tán đứng phía bên phải thùng xe gần chỗ Duy. Hoàng không thừa nhận việc đạp anh Tán ngã. Duy khai nghe Hoàng kể lại việc Hoàng đạp anh Tán ngã tại rẫy cà phê nhà Dũng, lúc đó có Phúc và Minh nhƣng không rõ Phúc và Minh có nghe thấy không; tuy nhiên, Minh không khai gì về việc này, còn Phúc khai Hoàng kể cho Phúc nghe Hoàng không đánh đập gì anh Tán cả và khi trốn tại vƣờn cà phê nhà Dũng không có Minh, không ai nói chuyện gì với nhau. Do đó, chƣa có cơ sở khẳng định Hoàng đã đạp anh Tán ngã xuống đƣờng nhƣ lời khai thay đổi của Duy.

Mặc dù, Duy khai không có ý thức giết ngƣời, nhƣng với hành vi nhƣ: lái xe cày tăng ga đâm thẳng vào anh Lộc để bỏ chạy; khi thấy xe mô tô (anh Nguyên chở anh Lệ) phía sau đuổi theo vƣợt ngang đầu xe thì đánh lái tông vào xe mô tô hất văng xe mô tô xuống rãnh thoát nƣớc; khi thấy anh Tán đứng trên thùng xe, một tay bám vào thành xe, một tay đánh Duy và yêu cầu dừng xe thì Duy tăng ga điều khiển xe với tốc độ cao (khoảng 40 đến 50km/h), lạng lách, đánh võng… buộc Duy phải biết hành vi trên là cực kỳ nguy hiểm, có thể xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của ngƣời thi hành công vụ, nhƣng Duy vẫn cố tình thực hiện và thực tế là hậu quả đã xảy ra làm anh Nguyên, anh Lệ bị thƣơng tích, còn anh Tán bị mất thăng bằng đã ngã khỏi xe xuống đƣờng và bị tử vong. Tòa án cấp sơ thẩm kết án Trần Văn Duy về tội giết ngƣời theo điểm d khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự là có căn cứ. Bản án hình sự phúc thẩm số 129/2015/HSPT ngày 21/4/2015 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng cho rằng Trần Văn Duy không có ý thức giết chết anh Tán để xác định hành vi của Duy không cấu thành tội giết ngƣời và tuyên Phạm Đức Dũng, Nguyễn Hoàng không phạm tội che giấu tội phạm là không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án. Mặt khác, việc bản án phúc thẩm xác định hậu quả anh Tán chết là tình tiết định khung tăng nặng (gây hậu quả nghiêm trọng) để kết án Trần Văn Duy về tội chống ngƣời thi hành công vụ theo điểm d khoản 2 Điều 257 Bộ luật hình sự cũng là không đúng.

Vì các lẽ trên, căn cứ Điều 279; khoản 3 Điuề 285; Điều 287 Bộ luật tố tụng

hình sự;

QUYẾT ĐỊNH

TM. HỘI ĐỒNG THẢM PHÁN CHÁNH ÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA Nguyễn Hòa Bình

192

Hủy bản án hình sự phúc thẩm số 129/2015/HSPT ngày 21/4/2015 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Nơi nhận: - Chánh án Tòa án nhân dân tối cao - VKSNDTC (Vụ 7); - TANDCC tại Đà Nẵng (02 bản kèm hồ sơ vụ án); - TAND tỉnh Đắk Lắk; - VKSND tỉnh Đắk Lắk; - Công an tỉnh Đắk Lắk; - THADS tỉnh Đắk Lắk; - Các bị cáo Trần Văn Duy, Trần Xuân Minh, Nguyễn Hoàng, Phạm Đức Dũng (theo địa chỉ); - Ngƣời đại diện hợp pháp của anh Phan Quốc Tán (theo đ/c); - Các anh Nguyễn Dƣơng Lệ và Lê Xuân Nguyên (theo địa chỉ); - Lƣu: VGDDKT1 (03 bản), HS, THS, VPTANDTC.

PHỤ LỤC 13 Quyết định giám đốc thẩm số 16/2018/HS-GĐT ngày 03/8/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN Quyết định giám đốc thẩm Số: 16/2018/HS-GĐT Ngày 03-8-2016

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Với Hội đồng giám đốc thẩm gồm có 16 thành viên tham gia xét xử, do ông

Nguyễn Hòa Bình – Chánh án Tòa án nhân dân tối cao làm chủ tọa phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị

Thƣ ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: bà Trần Thị Quỳnh – Thẩm tra viên Tòa

Yến, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. án nhân dân tối cao.

Ngày 03/8/2016, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc

thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

1. Đoàn Thị Thu An sinh năm: 1966; trú tại: số 84/9 Giải Phóng, phƣờng Tân Thành, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: khi phạm tội là thủ quỹ phòng giao dịch Tân Lợi, thuộc ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Đắk Lắk; con ông Đoàn Tứ và bà Nguyễn Thị Phƣớc (đều đã chết); có chồng là Nguyễn Khánh sinh năm 1963 và 02 con; bị bắt giam từ ngày 08/7/2011 đến ngày 20/6/2012 đƣợc tại ngoại.

193

2. Bùi Thị Hồng Sen sinh năm: 1980; trú tại: thôn Phƣớc Thạch 2, xã Eaphê, huyện Krông Păc, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: khi phạm tôi là cán bộ tƣ pháp Ủy ban nhân dân xã Hòa Thắng, thành phố Buôn Ma Thuột; con ông Bùi Văn Hiệp và bà Trần Thị Phƣơng Thảo; có chồng là Lƣơng Ngọc Tùng sinh năm 1981 và 03 con; bị cáo tại ngoại. Ngoài ra trong vụ án này còn có các bị cáo: Nguyễn Thị Hoa kết án về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Nguyễn Văn Nhân, Trần Dũng bị kết án về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”; Nguyễn Công An bị kết án về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”; Trần

* Ngƣời bị hại: 60 ngƣời bị hại * Ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: 27 ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ

Văn Lâm, Phan Văn Thịnh bị kết án về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. liên quan.

NHẬN THẤY

194

Nguyễn Thị Hoa làm nghề mua bán nông sản, đến năm 2005 thì Hoa bắt đầu làm dịch vụ đáo hạn ngân hàng. Trong quá trình kinh doanh, Hoa vay tiền của nhiều ngƣời và trả lãi suất cao, mua nhiều nhà đất, xe ô tô. Đến cuối năm 2008, Hoa biết số nợ âm khoảng gần 8 tỷ đồng, tài sản của Hoa không đảm bảo cho việc thanh toán, nhƣng Hoa vẫn tiếp tục vay tiền của ngƣời khác để trả nợ gốc và lãi cho các khoản vay trƣớc đó hoặc trả lãi cho chính khoản vay này. Bằng thủ đoạn vay trả tiền lãi cao, vay ké trong hợp đồng tín dụng của ngƣời bị hại, để ngƣời bị hại vay tiền ngân hàng rồi cho Hoa vay lại và đƣợc Hoa trả lãi suất cao... làm nhiều ngƣời tin tƣởng giao tiền cho Hoa vay hoặc có ngƣời bị hại do cả nể (vì nhiều năm nhờ Hoa làm thủ tục vay tiền ngân hàng...) nên cho Hoa vay. Trong quá trình làm hồ sơ vay vốn ngân hàng, nhiều ngƣời bị hại tin tƣởng nên đã làm theo chỉ dẫn của Hoa, ký vào hợp đồng thế chấp, hợp đồng tín dụng, bảng kê chi nhận tiền... sau khi ký nhận tiền do thủ quỹ ngân hàng (Phòng giao dịch Tân Lợi thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Đắk Lắk) đa số các bị hại không nhận đƣợc tiền vay mà để cho Hoa nhận và trừ các chi phí nhƣ tiền vay đáo hạn, tiền lãi, tiền hoa hồng..., có trƣờng hợp ngƣời bị hại đến lấy tiền vay thì Hoa khất lần không đƣa và buộc ngƣời bị hại phải ký giấy cho Hoa vay lại... Với nhiều thủ đoạn khác nhau, từ cuối năm 2008 đến cuối năm 2009, Hoa đã lừa đảo chiếm đoạt đƣợc của nhiều ngƣời với tổng số tiền là 28.370.198.310 đồng, trong đó chiếm đoạt 8.921.050.000 của ngƣời bị hại vay tiền từ ngân hàng. Đối với Đoàn Thị Thu An, là thủ quỹ, thủ kho phòng giao dịch Tân Lợi, thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Đắk Lắk đã 06 lần giao giấy tờ tài sản thế chấp cho cán bộ tín dụng là Nguyễn Văn Nhân, Trần Dũng sai quy định, cụ thể nhƣ sau: Đoàn Thị Thu An đã giao cho Trần Dũng nhận 05 trƣờng hợp: Trần Thị Yến, Đinh Thị Thanh Mai, Nguyễn Thị Sa, Trần Thị Huệ, Bùi Văn Nghị; Đoàn Thị Thu An đã giao cho Nguyễn Văn Nhân 01 trƣờng hợp là Quách Vinh. Ngoài ra Đoàng Thị Thu An còn chi tiền vay cho khách hàng không đúng quy định trong hoạt động tín dụng; cụ thể là An biết Nguyễn Thị Hoa là ngƣời làm dịch vụ vay, đáo hạn ngân hàng, không phải là ngƣời vay tiền, nhƣng để Hòa hoặc ngƣời làm cho Hoa đi cùng viết chữ số vào bảng kê chi tiền của ngân hàng thay ngƣời bị hại ngƣời bị hại chỉ ký vào bảng kê để nhận tiền) nên không biết đƣợc số tiền vay và chiếm đoạt (trƣờng hợp bà Đinh Thị Phƣợng, Hoa chiếm đoạt 2.500.000.000 đồng). Nhƣ vậy, hành vi của An đã tạo điều kiện để cho Hoa lừa vay ké” bị hại và chiếm đoạt số tiền 1.717.000.000 đồng trong tổng số tiền An có trách nhiệm chi cho các bị hại vay là 19.500.000.000 đồng.

Đối với Bùi Thị Hồng Sen, là cán bộ tƣ pháp Ủy ban nhân dân xã Hòa Thắng, do nể nang đã nhiều lần làm trái công vụ tham mƣu, trình lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã Hòa Thắng ký chứng thực hợp đồng thế chấp tài sản, hồ sơ vay vốn không đúng quy định, gây thiệt hại cho lợi ích hợp pháp của công dân. Cụ thể nhƣ sau: một số trƣờng hợp Sen trình ký chứng thực hồ sơ vay vốn không có mặt ngƣời vay nên để Hoa lợi dụng viết số tiền vay cao số tiền ngƣời vay muốn vay, hồ sơ chƣa đƣợc xóa thế chấp nhƣng vẫn chứng thực thế chấp. Trong đó có 06 hồ sơ một bên đồng sở hữu bị giả chữ ký để ngân hàng cho vay 2.850.000.000 đồng; hậu quả bị Nguyễn Thị Hoa lừa đảo của các bị hại (vay ké) với số tiền là 621.750.000 đồng; bị Nguyễn Thị Hoa lừa đảo chiếm đoạt tiền của các ngƣời bị hại vay số tiền 755.000.000 đồng. Tổng cộng là 1.376.750.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 19/2014/HSST ngày 03/4/2014, Tòa án nhân

dân tỉnh Đắk Lắk quyết định:

Áp dụng khoản 3 Điều 179; điểm p khoản, khoản 2 Điều 46; Điều 47; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự xử phạt Đoàn Thị Thu An 07 năm tù về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong các hoạt động của tổ chức tín dụng”;

Áp dụng khoản 3 Điều 281; điểm l, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự xử phạt Bùi Thị Hồng Sen 06 năm tù về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với các bị

cáo khác và phần trách nhiệm dân sự của các bị cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định Đoàn Thị Thu An kháng cáo xin xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm đối với bị cáo; Bùi Thị Hồng Sen kháng cáo kêu oan.

Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 340/2014/HSPT ngày 19/9/2014, Tòa phúc

thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng quyết định:

Áp dụng khoản 3 Điều 179; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự xử phạt Đoàn Thị Thu An 03 năm tù nhƣng cho hƣởng án treo về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong các hoạt động của tổ chức tín dụng”, thời gian thử thách là 5 năm; giao bị cáo Đoàn Thị Thu An cho Ủy ban nhân dân phƣờng Tân Thành, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Áp dụng khoản 3 Điều 281; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 60 Bộ luật hình sự xử phạt Bùi Thị Hồng Sen 02 năm tù nhƣng cho hƣởng án treo về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, thời gian thử thách là 4 năm; giao bị cáo Bùi Thị Hồng Sen cho Ủy ban nhân dân xã Eaphê, huyện Krông Păc, tỉnh Đắk Lắk giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Ngoài ra, Bản án phúc thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với các

195

bị cáo khác và phần trách nhiệm dân sự.

Tại Quyết định 39/KN-HS ngày 16/9/2015, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm số 340/2014/HSPT ngày 19/9/2014 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng về phần trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Đoàn Thị Thu An và Bùi Thị Hồng Sen; đề nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên về phần trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Đoàn Thị Thu An và Bùi Thị Hồng Sen; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí và đề nghị Hội đồng Thẩm phán chấp nhận Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

196

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm kết án Đoàn Thị Thu An về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” theo khoản 3 Điều 179 Bộ luật hình sự; kết án Bùi Thị Hồng Sen về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo khoản 3 Điều 281 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, trong quá trình xét xử Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm có một số sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nhƣ sau: Đối với Đoàn Thị Thu An: Chỉ đƣợc hƣởng một tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 (điểm p) và 01 tình tiết giảm nhẹ ở khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, nhƣng Tòa án cấp sơ thẩm vẫn áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự để xử phạt Đoàn Thị Thu An 07 năm tù (dƣới mức khởi điểm của khung hình phạt) là áp dụng không đúng quy định của Bộ luật hình sự và đã là xem xét, khoan hồng đối với bị cáo. Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện và chỉ ra sai sót của Tòa án cấp sơ thẩm, mà còn quá nhấn mạnh đến việc bị cáo bị khối u đang điều trị để giảm hình phạt cho An xuống 03 năm tù (dƣới mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề) và cho bị cáo đƣợc hƣởng án treo là sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật hình sự; đồng thời không đúng với quy định tại điểm d mục 1 Điều 2 và điểm b mục 3 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hƣớng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo (Tòa án cấp phúc thẩm cũng không áp dụng Điều 60 Bộ luật hình sự đối với An). Đối với Bùi Thị Hồng Sen: Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các điểm p, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự xử phạt Bùi Thị Hồng Sen 06 năm tù (dƣới mức khởi điểm của khung hình phạt) là đã xem xét, khoan hồng đối với bị cáo. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định thêm bị cáo đang nuôi con nhỏ, chồng không quan tâm chăm sóc các con và tai phiên tòa các bị hại đều đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để giảm hình phạt cho bị cáo Sen còn 02 năm tù và cho hƣởng án treo là không đúng quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự và quy định tại điểm d khoản 1 và điểm b mục 3 Điều 2 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hƣớng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật

hình sự về án treo; không đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng cân nhắc để có hình phạt phù hợp đối với hoàn cảnh của bị cáo. Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

TM. HỘI ĐỒNG THẢM PHÁN CHÁNH ÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA Nguyễn Hòa Bình

197

Hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 340/2014/HSPT ngày 19/9/2014 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng về phần trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Đoàn Thị Thu An và Bùi Thị Hồng Sen; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật./. Nơi nhận: - TANDCC tại Đà Nẵng (02 bản kèm hồ sơ vụ án); - Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (để b/c); - TAND tỉnh Đắk Lắk; - UBND phƣờng Tân Thành, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk (để biết); - UBND thôn Phƣớc Trạch 2, xã Ea Phê, huyện Krông Păc, tỉnh Đắk Lắk (để biết); - Bị cáo Đoàn Thị Thu An (theo địa chỉ); - Bị cáo Bùi Thị Hồng Sen (theo địa chỉ); - Bị hại trong vụ án: có 28 bị hại (theo địa chỉ); - Lƣu: VGDDKT1, HS, VP.

PHỤ LỤC 14 Quyết định giám đốc thẩm số 07/2016/HS-GĐT ngày 05/7/2016

của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

TOÀ ÁN NHẢN DÂN TỐI CAO HỘI ĐÔNG THẨM PHÁN Quyết định giám đốc thẩm Số: 07/2016/HS-GĐT Ngày 05/7/2016

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Với Hội đồng giám đốc thẩm gồm 12 thành viên tham gia xét xử, do ông Bùi

Ngọc Hòa, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao làm Chủ tọa phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị

Yến, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Thƣ ký ghi biên bản phiên tòa: Bà Trần Thị Quỳnh, Thẩm tra viên. Ngày 5 tháng 7 năm 2016, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa

giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

Hoàng Văn Ban sinh năm 1991; đăng ký hộ khẩu thƣòng trú tại thôn 9, xã Thống Nhất, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phƣớc; chỗ ở: thôn 3, xã Thống Nhất, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phƣớc; nghề nghiệp: làm rẫy; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Tày; con ông Hoàng Văn Nam và bà Hà Thị Biên; tiền án: ngày 31/01/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phƣớc xử phạt 09 tháng tù về tội “Cố ý làm hƣ hỏng tài sản”; tiền sự: không; bị bắt ngày 10/02/2014.

Những ngƣời bị hại: 1. Anh Trần Lê Nam sinh năm 1984, đã chết. Ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị hại Trần Lê Nam, gồm: Bà Trương Thị Mến (mẹ của ngƣời bị hại) sinh năm 1957; trú tại: xã Vĩnh

Hải, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Chị Lê Thị Cát Tiên (vợ của ngƣời bị hại) sinh năm 1984; đăng ký hộ khẩu

198

thƣờng trú tại: thôn 2, xã Nâm N’ Jang, huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông.

2. Anh Lê Đức Thọ sinh năm 1982; trú tại: khu 6, thị trấn Đồng Nai, huyện

Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng.

NHẬN THẤY

Theo bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm, nội dung vụ án nhƣ sau: Khoảng 15 giờ ngày 30/01/2014, Hoàng Văn Ban đang điều khiển xe mô tô đi từ ngã ba Tám Láo thuộc thôn 9, xà Thống Nhất, huyện Bù Đăng về ngã tƣ Thống Nhất thì gặp xe ô tô khách hiệu Tiến Lộc do anh Lê Đức Thọ điều khiển chạy ngƣợc chiều. Trên xe Tiến Lộc có chủ xe là anh Thọ, hai phụ xe là anh Trần Lê Nam và anh Nguyễn Ngọc Tuấn, chị Lê Thị Cát Tiên (vợ của anh Trần Lê Nam) và một số hành khách.

Cho rằng xe Tiên Lộc ép mình rơi xuống ổ gà nên Ban quay xe đuổi theo. Trên đƣờng, Ban gặp và kể cho Nguyễn Đồng Đức nahe sự việc rồi cả hai đuổi theo xe Tiến Lộc. Khi đuổi kịp, Ban chặn ngang đƣờng buộc xe Tiến Lộc phải dừng lại; Nguyễn Đồng Đức lái xe chạy vòng quanh xe Tiến Lộc; Ban đứng chửi bới và ném đá làm vỡ kính chắn gió phía trƣớc của xe Tiến Lộc, rồi cả hai cùng lái xe chạy về hƣớng ngã ba Tám Láo. Anh Thọ điều khiển xe Tiến Lộc đuổi theo Ban. Khi đuổi kịp, Nam xuống xe dùng gậy cao su đập 01 cái vào gáy Ban, 01 cái vào vai Nguvễn Đồng Đức làm cho Ban và Nguyễn Đồng Đức ngã xuống đƣờng, rồi lên xe đi tiếp.

Sau đó, Ban và Nguyễn Đồng Đức đến nhà Hoàng Minh Đức (trong bản án sơ thâm và bản án phúc thẩm viết là Nguyễn Minh Đức) ở cùng thôn. Tại đây, Ban và Nguyễn Đồng Đức gặp Hoàng Minh Đức, Nguyễn Văn An và Nguyễn Thành Trung. Ban và Nguyễn Đồng Đức kể lại sự việc Ban bị ép xe, rồi rủ tất cả đuổi theo xe Tiến Lộc để trả thù. Tất cả đồng ý. Khi đi, Hoàng Minh Đức cầm búa ngồi sau xe do Ban điều khiển, Nguyễn Đồng Đức và Trung ngồi sau xe do An điều khiển.

Khi thấy có xe đuổi theo, anh Thọ điều khiển xe Tiến Lộc chạy vào khu vực nhà ông Trần Xuân Ngữ (ở thôn 9, xã Thống Nhất, huyện Bù Đăng). Cả nhóm của Ban chạy đến trƣớc nhà ông Ngữ. Thấy Hoàng Minh Đức cầm búa, nên Nam và Tuấn nhặt đá ném nhóm của Ban. Nhóm của Ban cũng nhặt đá ném lại nhƣng không có ai bị thƣơng tích. Thấy có nhiều ngƣời đến nên Nam và Tuấn chạy ra vƣờn điều phía sau nhà, còn Thọ trốn trong phòng ngủ. Ban, Hoàng Minh Đức cầm búa và Nguyễn Đồng Đức cầm gậy đứng trƣớc nhà ông Ngữ yêu cầu đƣa Nam và Tuấn ra nhƣng ông Ngữ và bà Chính can ngăn nên tất cả bỏ đi về nhà Hoàng Minh Đức.

199

Ban chở Nguyễn Đồng Đức (trong Cáo trạng viết: Ban chở Hoàng Minh Đức) đi về nhà rồi chạy xe quay lại tìm Nam. Khi đến nhà ông Lục Văn Hai (cách nhà ông Ngữ khoảng 6 căn nhà), Ban lấy của nhà Hai một con dao dài 56,8 cm (có cán bằng gỗ dài 15cm; lƣời bằng sắt dài 41,8cm; lƣỡi bản rộng nhất 6,5cm, hẹp nhất là 3,5cm) để trên gác ba ga xe và chạy ra phía sau nhà ông Hai thì thấy Nam. Biết Nam là một trong hai ngƣời đã đánh mình nên Ban cầm dao chạy bộ đuổi theo Nam. Nam bỏ chạy và bị Ban chém nhiều nhát từ phía sau vào ngƣời Nam. Nam bị chết trên đƣờng đi cấp cứu. Sau đó, Ban bỏ trốn và đến ngày 10/2/2014 ra đầu thú.

Tại Kết luận giám định số 43/2014/GĐPY ngày 31/01/2014, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phƣớc kết luận: Trần Lê Nam bị vật sắc tác động mạnh vào vùng lƣng gây đứt đa xƣơng sƣờn, đứt phổi phải, suy hô hấp cấp dẫn đến tử vong.

Tại Kết luận định giá tài sản số 799/2014 ngày 01/4/2014, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Bình Phƣớc kết luận: Giá trị tấm kính xe ô tô Tiến Lộc là 1.100.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2014/HSST ngày 27/5/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phƣớc áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93, khoản 1 Điều 143, điểm g khoản 1 Điều 48, điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 và Điều 50 Bộ luật hình sự, xử phạt Hoàng Văn Ban tử hình về tội “Giết ngƣời”; 01 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý làm hƣ hỏng tài sản”; tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội là tử hình. Về phân dân sự, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định: Buộc bị cáo Hoàng Văn Ban phải bồi thƣờng cho ngƣời đại diện hợp pháp của bị hại Trần Lê Nam (bà Trƣơng Thị Mến và chị Lê Thị Cát Tiên) 138.000.000 đồng, bồi thƣờng cho anh Lê Đức Thọ 1.100.000 đồng; tách yêu cầu của chị Lê Thị Cát Tiên về việc cấp dƣỡng nuôi con thành một vụ kiện dân sự khác khi có yêu cầu. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên về quyền kháng cáo.

Ngày 02/6/2014, bị cáo Hoàng Văn Ban kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 05/6/2014, chị Lê Thị Cát Tiên và anh Lê Đức Thọ đều có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 514/2014/HSSP ngày 25/8/2014. Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hô Chí Minh quyết định không chấp nhận các kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Hoàng Văn Ban.

Sau khi xét xử phúc thẩm, Hoàng Văn Ban có đơn xin ân giảm án tử hình, có nhiều đơn kêu oan. Trong các đơn này, Hoàng Văn Ban thừa nhận hành vi chặn xe và ném đá làm vỡ kính chắn gió của xe Tiến Lộc (do Lục Văn Long gọi điện thoại bảo bị cáo làm); Ban không thừa nhận hành vi chém anh Nam mà khai rằng Hoàng Minh Đức chém anh Nam bằng búa. Về hành vi chém anh Nam, Ban khai: “... Nhà xe bỏ chạy vào nhà ông Ngữ đế trốn và hai ngƣời chạy ra đằng sau nhà, bị cáo (Ban) và Hoàng Minh Đức đuổi theo. Khi đuổi kịp, Đức dùng búa chém vào ngƣời của bị hại Trần Lê Nam”. Ban cũng khai, nguyên nhân khiến Ban nhận hết mọi tội cho những ngƣời khác là do ngƣời nhà của Lục Văn Long và Hoàng Minh Đức dụ dỗ và đe dọa, yêu cầu Ban nhận tội thì sẽ đƣợc giảm nhẹ, chỉ đi tù khoảng 10 năm và họ sẽ lo cho Ban và mẹ của Ban.

Tại Kháng nghị số 03/KN-HS ngày 07/3/2016, Chánh án

200

Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm số 514/2014/HSPT ngày 25/8/2014 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy Bản án hình sự phúc thẩm này và Bản án

hình sự sơ thẩm số 16/2014/HSST ngày 27/5/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phƣớc để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Đây là vụ án đặc biệt nghiêm trọng, bị cáo Hoàng Văn Ban bị kết án tử hình về tội “Giết ngƣời” và “Cố ý làm hƣ hỏng tài sản”. Tuy nhiên, các tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện trong quá trình giải quyết vụ án có các vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, việc điều tra không đầy đủ và có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, cụ thể:

- Khi Hoàng Văn Ban đến đầu thú tại Công an tỉnh Bình Phƣớc (Phòng PC45) và giao nộp con dao đƣợc cho là hung khí gây án. Cơ quan công an đã không lập Biên bản tạm giữ đồ vật, không mô tả thực trạng của con dao (có dính máu hay không...) và không chụp ảnh để đƣa vào hồ sơ vụ án theo quy định của pháp luật;

- Cái búa bổ củi đƣợc thu giữ và nhập kho vật chứng nhƣng không đƣợc các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét, đánh giá nhƣ vật chứng của vụ án; không có giám định dấu vết trên búa; Cơ quan điều tra không xem xét, tổ chức giám định liệu cái búa này có thể gây các vết thƣơng trên ngƣời nạn nhân hay không?

- Các lời khai của Hoàng Văn Ban có nhiều điểm không phù hợp với dấu vết hình thành trên ngƣời nạn nhân, nhƣng Cơ quan điều tra không tổ chức thực nghiệm điều tra, dựng lại hiện trƣờng, và giải thích cụ thể về cơ chế hình thành vết thƣơng trên ngƣời nạn nhân;

- Có nhiều mâu thuẫn trong lời khai của Hoàng Văn Ban và của những ngƣời

khác nhƣng không đƣợc các cơ quan tiến hành tô tụng tổ chức đối chất, làm rõ;

- Có dấu hiệu của việc có đồng phạm xúi giục và cùng Hoàng Văn Ban thực

hiện tội phạm nhƣng chƣa đƣợc điều tra làm rõ.

201

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc căn cứ chủ yếu vào lời khai nhận tội của Hoàng Văn Ban (trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm) và các tài liệu do Cơ quan điều tra thu thập để kêt luận và buộc một mình bị cáo Ban phải chịu toàn bộ trách nhiệm (hình sự và bồi thƣờng) về các hành vi phạm tội, gồm ném đá làm vỡ kính xe ô tô của anh Lê Đức Thọ và dùng dao chém chết anh Trần Lê Nam. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, Ban đã khai bị cáo thực hiện hiện hành vi phạm tội là do Lục Văn Long xúi giục. Trong các đơn kêu oan và xin ân giảm án tử hình viết sau khi xét xử phúc thẩm, Ban khai: Lục Văn Long là ngƣời xúi giục Ban đuổi đánh ngƣời của xe Tiến Lộc; Ban không phải là ngƣời gây ra cái chết của anh Nam; Hoàng Minh Đức là ngƣời cầm búa chém anh Nam; Ban nhận tội giết anh Nam là do bị ngƣời nhà của Lục Văn Long và Hoàng Minh Đức dụ dỗ và đe dọa. Đây là những tình tiết quan trọng, cần đƣợc làm sáng tỏ để xác định đúng trách nhiệm của những ngƣời liên quan và bao đảm quyền lợi chính đáng của những ngƣời bị hại trong vụ án này.

Để có thể giải quyết vụ án một cách đúng đắn và toàn diện, cần tiến hành điều tra lại khắc phục những thiếu sót nêu trên và làm sáng tỏ các tình tiết liên quan, trong đó bao gồm các vấn đề sau:

1. Về thu thập và xác định vật chứng của vụ án Cần lập biên bản về việc thu giữ và chụp ảnh con dao đƣợc coi là vật chứng của vụ án; xác định đặc điểm (có dấu vết máu hay không) của các vật chứng (con dao mà Ban giao nộp và cái búa mà gia đình Hoàng Minh Đức giao nộp) tại thời điểm thu giữ;

Làm rõ con dao mà bị cáo dùng làm công cụ phạm tội đƣợc lấy từ đâu và cất giữ nhƣ thế nào. Theo các lời khai của Ban, Ban lấy con dao từ nhà ông Hai; sau khi gây án, Ban để con dao cạnh chuồng gà nhà ông Hai và trốn lên rẫy. Vậy con dao này đƣợc phát hiện và bảo quản nhƣ thế nào trong thời gian 10 ngày, từ khi xảy ra vụ án đến khi Ban đầu thú và bằng cách nào Ban có đƣợc con dao đó để nộp cho cơ quan Công an khi đầu thú.

Cần tổ chức để những ngƣời là chủ sở hữu nhận dạng các vật chứng của vụ án. 2. Về thực nghiệm điều tra và giám định Theo Kết luận giám định và các bản ảnh, trên ngƣời bị hại Trần Lê Nam có 03 nhát chém: 01 nhát ở vùng lƣng bên phải; 01 nhát ở nếp mông bên trái; 01 nhát ở bàn chân trái. Đây là những vết chém mạnh, có các đặc điểm đáng chú ý sau: i) Nhát chém ở bàn chân trái: chém đứt xuyên thấu giày da, tất và xƣơng chân; vết thƣơng cắt đứt một phần phía trong ngón 2 và hoàn toàn khe bàn giữa ngón 1 và 2; gây đứt da, cơ và xƣơng; ii) Vùng lƣng bên phải có vết thƣơng hình khe, nằm dọc thân, cắt đứt da, cơ và xƣơng sƣờn; “tổ chức da, cơ và xƣơng sƣờn số 9 đến số 12 bị cắt đứt sắc gọn, cùng mức độ và có độ vát sang phải..., vết thƣơng thông vào khoang màng phổi và khoang ổ bụng; thùy dƣới phổi phải có vết thƣơng hình khe bờ mép sắc gọn...”; iii) Nếp mông trái có vết thƣơng hình khe, nằm ngang, dài 6,5 cm..., tổn thƣơng sâu đến lớp cơ mông”. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm, Hoàng Văn Ban chỉ khai nhận dùng dao chém anh Nam 02 nhát (01 nhát vào chân và 01 nhát vào lƣng) khi anh Nam chạy trƣớc, Ban đuổi theo sau; vết chém ở mông bị hại và cơ chế hình thành các vết thƣơng trên ngƣời nạn nhân chƣa đƣợc làm rõ. Trong đơn xin ân giảm án tử hình và các đơn kêu oan, Ban khai Hoàng Minh Đức là ngƣời dùng búa chém anh Nam.

Vì vậy, cần điều tra, tổ chức thực nghiệm và giám định để làm rõ hành vi chém, công cụ phạm tội (con dao, cái búa hay một vật khác) và giải thích về cơ chế hình thành các vết thƣơng trên ngƣời nạn nhân; mối tƣơng quan giữa hành vi của bị cáo với từng vết thƣơng trên ngƣời nạn nhân trong hoàn cảnh cụ thể của vụ án. Khi tổ chức giám định và giải thích cơ chế hình thành vết thƣơng cần xem xét cả con dao và cái búa để xác định khả năng gây ra các vết thƣơng của các vật chứng này trên cơ thể nạn nhân.

202

3. Xác định đồng phạm, người giúp sức, người che giấu tội phạm

Tại phiên tòa phúc thẩm, trong đơn xin ân giảm án tử hình và các đơn kêu oan, Hoàng Văn Ban đều khai Lục Văn Long là ngƣời xúi giục Ban đi đánh ngƣời của xe Tiến Lộc, việc gọi điện trao đổi giữa Long và Ban có chị Triệu Huyền Trang biết; sau khi xảy ra vụ án, ngƣời nhà Long khóc lóc, dọa dẫm yêu cầu Ban nhận hết mọi tội nên Ban nghe theo (BL 290-292). Những nội dung này cần phải điều tra, đối chất làm rõ.

Nhiều tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện Hoàng Minh Đức là ngƣời cầm búa ngồi sau xe Ban, cùng cả nhóm (có Đồng Đức, An và Trung) đuổi theo xe Tiến Lộc đến trƣớc nhà ông Ngữ yêu câu đƣa anh Tuấn và Nam ra; sau đó, Ban cũng là ngƣời chở Hoàng Minh Đức quay về nhà Hoàng Minh Đức. Tuy nhiên, các lời khai của Hoàng Minh Đức rất mâu thuẫn nhau. Hoàng Minh Đức có các lời khai vào trong ngày 30/01/2014, 31/01/2014 và 26/3/2014 (BL 84-94), nhƣng nội dung các lời khai về những vấn đề liên quan (bao gồm: có ngƣời can ngăn, có ngƣời giật cái búa từ tay Đức lúc ở nhà ông Ngữ, Nguyễn Đồng Đức là ngƣời chở Hoàng Minh Đức về, sự tham gia của An và Trung) luôn thay đổi, thể hiện thái độ cố ý khai báo không đúng sự thật. Ví dụ, trong các lời khai vào ngày 30/01/2014 và 31/01/2014, Hoàng Minh Đức đều khai Nguyền Đồng Đức là ngƣời chở Hoàng Minh Đức về nhà (BL 89, 91, 94); nhƣng ngày 26/3/2014, Hoàng Minh Đức khai Ban là ngƣời chở Hoàng Minh Đức về và giải thích trƣớc đây khai là không đúng (BL 85); khi đƣợc hỏi “Tại sao lời khai ngày 30/01/2014 anh khai rằng có ngƣời phụ nữ lạ giật lấy búa từ tay của anh ở nhà ông Chín Ngừ?". Hoàng Minh Đức trả lời: “Do khi mới lên làm việc, tôi sợ chịu tội nặng nên tôi cố tình khai giấu diếm để thoát tội...” (BL 89). Trong đơn xin ân giảm án tử hình và các đơn kêu oan, Hoàng Văn Ban khai Hoàng Minh Đức là ngƣời dùng búa chém bị hại Trần Lê Nam và trong thời gian Ban bỏ trốn, ngƣời nhà của Long và Đức yêu cầu Ban nhận hết tội và họ sẽ lo cho Ban và mẹ Ban... Vì vậy, cần điều tra làm rõ nhừng mâu thuẫn trong các lời khai trên, xác định trách nhiệm Lục Văn Long, Hoàng Minh Đức và những ngƣời liên quan trong vụ án này; cần làm sáng tỏ các tình tiết: Ban đã trốn ở đâu, ai là ngƣời giúp sức, che giấu Ban trong thời gian Ban bỏ trốn và lý do Ban ra đầu thú.

4. Điều tra, làm rõ các tình tiết liên quan Trong hồ sơ vụ án, có nhiều tình tiết quan trọng nhƣng chƣa đƣợc làm rõ, hoặc những lời khai liên quan có nhiều mâu thuẫn cần phải đƣợc điều tra, đối chất làm sáng tỏ, trong đó bao gồm:

- Những lời khai của Nguyễn Đồng Đức về các nội dung: i) Hành vi của Ban và Hoàng Minh Đức, ngƣời chở Hoàng Minh Đức đến nhà ông Ngữ và quay về; ii) Nội dung cuộc điện thoại giữa Nguyễn Đồng Đức và ngƣời bạn tên Sang thông báo ngƣời nhà xe Tiến Lộc bị thƣơng, sắp chết; iii) Nội dung cuộc điện thoại Nguyễn Đồng Đức thông tin cho Ban về việc ngƣời của xe Tiến Lộc bị chết và Ban trả lời: Ban là ngƣời chém, chém bằng dao thái chuối... (BL 100-103);

203

- Các lời khai của nhân chứng Nguyễn Ngọc Tuấn, của anh Lê Đức Thọ, của Nguyền Đồng Đức, và Nguyễn Thành Trung về đặc điểm của chiếc áo mà Hoàng

Văn Ban mặc không giống nhau, không phù hợp với đặc điểm của chiếc áo mà Cơ quan điều tra thu giữ của Ban. Vì vậy, cần làm sáng tỏ đặc điểm chiếc áo mà Hoàng Văn Ban và Hoàng Minh Đức mặc khi xảy ra vụ án.

- Ngoài những nội dung nêu trên, việc xác định thời điểm anh Nam bị chém cũng cần đƣợc điều tra làm rõ, đánh giá mối tƣơng quan về khoảng thời gian để Ban đi từ nhà ông Ngữ về nhà Hoàng Minh Đức, rồi về nhà ông Hai, nói chuyện với ông Hai và hành khách của xe Tiến Lộc tại nhà ông Hai, lấy dao ở nhà ông Hai để đi chặt chuối, rồi gặp vả đuổi chém Nam với khoảng thời gian theo các cuộc điện thoại giữa anh Nam và vợ (chị Tiên), anh Thọ, anh Tuấn và lời khai của bà Lê Thị Chính về khoảng thời gian nhóm của Ban tụ tập trƣớc nhà bà và thời điểm chị Tiên nghe điện thoại rồi kêu lên về việc chồng chị (anh Nam) bị đánh ở phía sau nhà (BL 118, 135, 138, 142).

Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 285, Điều 287 và Điều 289 Bộ luật tố tụng

hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

Hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 514/2014/HSPT ngày 25/8/2014 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2014/HSST ngày 27/5/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phƣớc; chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra lại theo thủ tục chung.

Tiếp tục tạm giam Hoàng Văn Ban cho đến khi Viện kiểm sát nhân dân tối cao

thụ lý lại hồ sơ vụ án./.

Nơi nhận:

TM. HỘI ĐỒNG THẢM PHÁN PHÓ CHÁNH ÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA Bùi Ngọc Hòa

- VKSNDTC-Vụ 7 (2 bản, kèm hồ sơ vụ án); - Chánh án TANDTC (để báo cáo); - TANDCC tại thành phố Hồ Chí Minh; - VKSNDCC tại thành phố Hồ Chí Minh; - TAND tỉnh Bình Phƣớc; - VKSND tỉnh Bình Phƣớc; - Công an tỉnh Bình Phƣớc; - Trại tạm giam Công an tinh Bình Phƣớc (02 bản, gồm 1 bản để giao cho bị cáo); - Anh Lê Đức Thọ (theo địa chỉ); - Bà Trƣơng Thị Mến và chị Lê Thị Cát Tiên (theo địa chỉ); - Lƣu Vụ GĐKT1 (3b), VP, Hồ sơ vụ án.

204

PHỤ LỤC 15 Quyết định giám đốc thẩm số 02/2017/HS-GĐT ngày 27/02/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN Quyết định giám đốc thẩm Số: 02/2017/HS-GĐT Ngày 27-02-2017

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Với Hội đồng giám đốc thẩm gồm có mƣời bốn thành viên tham gia xét xử, do

ông Nguyễn Hòa Bình, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao làm chủ tọa phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị

Thƣ ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: bà Bùi Thị Tú Uyên, Thẩm tra viên

Yến, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. chính Tòa án nhân dân tối cao.

Ngày 27 tháng 02 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên

tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

Võ Thị Hồng Điệp sinh năm 1966; trú tại: số nhà 236/18 Phan Chu Trinh, phƣờng Tân Lợi, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: trƣớc khi phạm tội là cán bộ tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Tân Lập, tỉnh Đắk Lắk; con ông Võ Minh Hảo và bà Bạch Thị Trịnh; bị bắt giam ngày 18/3/2010.

Ngƣời bị hại: 1. Bà Nguyễn Thị Thành, sinh năm 1959; trú tại 16A Phan Đình Phùng,

2. Bà Vũ Thị Phúc Ân, sinh năm 1070; trú tại số 08A đƣờng Nguyễn Thiếp,

205

Nguyên đơn dân sự: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam; ngƣời đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Văn Vinh – Giám đốc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Tân Lập (địa chỉ: km 4, quốc lộ 14, phƣờng Tân An, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk). phƣờng Tân Tiến, thành phố Buôn Ma Thuột; tỉnh Đắk Lắk; phƣợng Tự An, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk;

3. Bà Trần Thị Oanh sinh năm 1968; trú tại số nhà 117/15 đƣờng Amakhê,

4. Bà Nguyễn Thị Hiền sinh năm 1967; trú tại số nhà 198 Nguyễn Tất Thành,

5. Ông Nguyễn Phi Hải sinh năm 1971, trú tại số 54 đƣờng Trần Phú, phƣờng

6. Bà Trần Thị Bạch Yến sinh năm 1973; trú tại số 77 đƣờng Trần Hƣng Đạo,

7. Bà Đỗ Thị Hòa sinh năm 1959; trú tại số 188 Nơ Trang Gƣh, phƣờng Thành

8. Bà Nguyễn Thị Hồng Liên sinh năm 1976; trú tại số 233/13/33 đƣờng Xô

9. Bà Nguyễn Thị Thanh Thủy sinh năm 1968; trú tại số 154 đƣờng Ngô

10. Bà Ngô Thị Liên sinh năm 1961, sinh năm 1961; trú tại số 200 đƣờng

11. Bà Bùi Thị Thu Hằng, sinh năm 1970; trú tại số 221 đƣờng Ngô Quyền,

12. Bà Hoàng Thị Khánh, sinh năm 1970; trú tại số 106/13 đƣờng Nguyễn

Trong vụ án còn có bị cáo Lƣơng Ngọc Hoàng bị xử phạt 03 năm tù về tội

phƣờng Tân Lập, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; phƣờng Tân Lập, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; Thắng Lợi, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; phƣờng Tự An, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; Thất, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; Viết Nghệ Tĩnh, phƣờng Thành Công, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; Quyền, phƣờng Tân An, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; Nguyễn Văn Cừ, phƣờng Tân Lập, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; phƣờng Tân An, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; Lƣơng Bằng, phƣờng Tân Lập, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”.

NHẬN THẤY

Trong thời gian từ tháng 11/2009 đến tháng 02/2010, Võ Thị Hồng Điệp là cán bộ tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Tân Lập, tỉnh Đắk Lắk đã chiếm đoạt tài sản của Ngân hàng và các cá nhân nhƣ sau:

1. Hành vi chiếm đoạt 920.000.000 đồng của Ngân hàng Nông nghiệp và

phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Tân Lập tại tỉnh Đắk Lắk.

206

Trong khoảng thời gian cuối năm 2009, đầu năm 2010 các khách hàng đến hạn trả nợ ngân hàng gồm ông Lê Nguyễn Quang Huy, ông Nguyễn Xuân Lâm, bà Nguyễn Thị Lan và bà Vũ Thị Út nhờ Võ Thị Hồng Điệp giúp đáo hạn ngân hàng. Điệp đã giới thiệu cho các cá nhân này vay của ông Nguyễn Phi Hải (là ngƣời quen của Võ Thị Hồng Điệp) 920.000.000 đồng; sau đó, những khách hàng này đƣa tiền cho Điệp nhờ thanh toán hộ khoản vay đến hạn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Tân Lập và làm thủ tục vay mới. Sau khi nhận đƣợc số tiền 920.000.000 đồng, Điệp không nộp tiền thanh toán nợ đến hạn cho các khách hàng mà lấy lý do kiểm tra hồ sơ vay vốn khách hàng, đề nghị Trƣởng phòng tín dụng Lƣơng Ngọc Hoàng và Phó Giám đốc Hoàng Văn Nguyên ký duyệt cho mƣợn hồ sơ vay vốn có tài sản thế chấp của các khách hàng trên ra khỏi kho, rồi Điệp

làm chứng từ xóa thế chấp cho hồ sơ của các khách hàng Lê Nguyễn Quang Huy, Nguyễn Xuân Lâm, Vũ Thị Út, còn hồ sơ của bà Nguyễn Thị Lan thì làm phụ lục hợp đồng và nói dối với ông Hoàng Văn Nguyên là các khách hàng đã trả hết nợ, đề nghị ông Nguyên ký xóa đăng ký thế chấp tài sản và phụ lục hợp đồng thế chấp tài sản. Ông Nguyên tƣởng thật nên đã ký xóa đăng ký thế chấp tài sản. Sau đó, Điệp hƣớng dẫn các khách hàng làm hồ sơ vay vốn và Điệp đã lấy tài sản thế chấp (Giấy CNQSDĐ) ở hồ sơ cũ, đƣa vào hồ sơ xin vay mới đứng tên đồng chủ sở hữu. Hồ sơ vay vốn mới đƣợc duyệt cho vay, các khách hàng đƣợc giải ngân có tiền trả cho ông Nguyễn Phi Hải, còn Điệp chiếm đoạt 920.000.000 đồng.

207

Tại Cơ quan điều tra, Lƣơng Ngọc Hoàng tự nguyện nộp 243.825.000 đồng, Hoàng Văn Nguyên nộp 48.717.726 đồng để khắc phục một phần thiệt hại trong số tiền 920.000.000 đồng mà Điệp chiếm đoạt của ngân hàng. Đối với Hoàng Văn Nguyên, Cơ quan điều tra đã xử lý hành chính về hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. 2. Hành vi chiếm đoạt 23.200.875 đồng của 12 cá nhân: - Chiếm đoạt 6.090.000.000 đồng bằng việc thế chấp 07 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong hồ sơ vay vốn của khách hàng đang thế chấp tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Tân Lập. Do đến hạn trả nợ, không còn khả năng thanh toán các khoản vay cho chủ nợ, nên Điệp đã lấy 07 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong hồ sơ vay vốn của các khách hàng do Điệp quản lý, mang thế chấp cho các ông, bà sau: 1. Bà Trần Thị Bạch Yến: ngày 03/02/2010, Điệp mang 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ ông Hoàng Văn Hùng và bà Trƣơng Thị Ngâu, 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ bà Dƣơng Thị Kim Hoa và ông Phạm Thế Vinh, thế chấp cho bà Yến để đảm bảo đối với khoản vay 1.540.000.000 đồng, lãi suất 3%/ tháng mà Điệp đã vay từ năm 2009. Hai bên viết giấy giao nhận tiền nhƣng không viết giấy giao nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. 2. Bà Trần Thị Oanh: ngày 26/01/2010, Điệp mang 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ bà Nguyễn Thị Xuân và ông Phạm Duy Quýnh, thế chấp cho bà Oanh để đảm bảo đối với khoản vay 1.550.000.000 đồng mà Điệp đã vay từ năm 2009. Hai bên viết giấy giao nhận tiền và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. 3. Bà Nguyễn Thị Thành: do tháng 11/2009, Điệp vay của bà Vũ Thị Phúc Ân 3.500.000.000 đồng, bà Ân đòi nhiều lần nhƣng Điệp không có tiền trả nên ngày 22/01/2010, Điệp mang 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Phạm Văn Hùng và bà Vũ Thị Thu Hà (doanh nghiệp TN&TM Hoàng Anh), thế chấp cho bà Ân. Bà Ân không nhận thế chấp và đƣa Điệp đến gặp bà Nguyễn Thị Thành (là em dâu bà Ân) để vay tiền. Bà Thành cho Điệp vay 2.000.000.000 đồng và nhận thế chấp các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên, hai bên viết giấy nhận vay tiền và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó, bà Thành giao lại 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên cho bà Ân giữ. Số tiền vay của bà Thành, Điệp trả cho bà Ân 1.500.000.000 đồng, giữ lại 500.000.000 đồng để chi tiêu cá nhân.

4. Ông Nguyễn Phi Hải: để có tiền trả nợ cho các chủ nợ khác, ngày 05/02/2010, Điệp thế chấp 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ ông Võ Minh Hảo và bà Bạch Thị Thịnh (là bố, mẹ của Điệp) cho ông Hải để vay 1.000.000.000 đồng. Hai bên viết giấy biên nhận vay tiền và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Tại Công văn số 305/NHNN-ĐAL2 ngày 01/6/2010 của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam – Chi nhánh tỉnh Đắk Lắk xác định thiệt hại do hành vi cầm cố, thế chấp 07 giáy chứng nhận quyền sử dụng đất trong hồ sơ vay vốn của khách hàng của Điệp gây hậu quả: dƣ nợ cho vay của 07 hồ sơ bị thất thoát tài sản thế chấp có thể không thu hồi đƣợc, trong trƣờng hợp không thu hồi đƣợc tài sản thế chấp thì thiệt hại tƣơng ứng với dƣ nợ cho vay và chịu trách nhiệm thuộc về Lƣơng Ngọc Hoàng, Hoàng Văn Nguyên và Võ Thị Hồng Điệp đối với khoản vay của khách hàng tại ngân hàng. Các ông, bà Trần Thị Bạch Yến, Trần Thị Oanh, Vũ Thị Phúc Ân và Nguyễn Phi Hải đều thừa nhận có giữ các giấy chứng nhận quyền sử dung đất mà Điệp thế chấp.

Ngoài ra, bằng thủ đoạn lừa dối vay đáo hạn hộ, vay kinh doanh, huy động vốn cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Tân Lập, Điệp còn chiếm đoạt 17.110.875.000 đồng của 08 ngƣời bị hại khác gồm các bà: Đỗ Thị Hòa 8.160.000.000 đồng, Nguyễn Thị Hiền 3.300.000.000 đồng, Vũ Thị Phúc Ân 2.000.000.000 đồng, Nguyễn Thị Hồng Liên 1.000.875.000 đồng, Bùi Thị Thu Hằng 250.000.000, Hoàng Thị Khánh 200.000.000 đồng.

Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2011/HSST ngày 19/5/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139; điểm c, g, i khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt Võ Thị Hồng Điệp tù chung thân về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù đƣợc tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 18/3/2010.

Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự, Điều 608 Bộ luật dân sự, buộc bị cáo Võ Thị Hồng Điệp bồi thƣờng cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Tân Lập 627.457.274 đồng. Buộc bị cáo Võ Thị Hồng Điệp bồi thƣờng cho: Bà Trần Thị Bạch Yến: 1.540.000.000 đồng; bà Trần Thị Oanh: 1.550.000.000 đồng; bà Nguyễn Thị Thành: 2.000.000.000 đồng; ông Nguyễn Phi Hải: 1.000.000.000 đồng; bà Đỗ Thị Hòa: 8.160.000.000 đồng; bà Nguyễn Thị Hiền: 3.300.000.000 đồng; bà Vũ Thị Phúc Ân: 2.000.000.000 đồng; bà Nguyễn Thị Hồng Liên: 1.100.000.000 đồng; bà Nguyễn Thị Thanh Thủy: 1.100.000.000 đồng; bà Ngô Thị Liên: 1.000.875.000 đồng; bà Bùi Thị Thu Hằng: 250.000.000 đồng; bà Hoàng Thị Khánh: 200.000.000 đồng.

208

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định xử phạt Lƣơng Ngọc Hoàng 03 năm tù về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” nhƣng cho hƣởng án treo và trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại; quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 01/6/2011, nguyên đơn dân sự là Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Tân Lập kháng cáo với nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm không tuyên việc trả lại các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị Võ Thị Hồng Điệp lấy mang đi cầm cố bên ngoài, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết thu hồi các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này.

Ngày 01/6/2011, ngƣời bị hại là bà Trần Thị Bạch Yến kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo Võ Thị Hồng Điệp và Lƣơng Ngọc Hoàng; xử lý đối với Hoàng Văn Nguyên, yêu cầu Lƣơng Ngọc Hoàng và Hoàng Văn Nguyên phải liên đới bồi thƣờng cho bà Yến.

Ngoài ra, các bị hại kháng cáo đề nghị tăng hình phạt với Võ Thị Hồng Điệp và Lƣơng Ngọc Hoàng, xem xét xử lý đối với Hoàng Văn Nguyên, yêu cầu Hoàng và Nguyên phải liên đới bồi thƣờng và đề nghị Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Tân Lập phải bồi thƣờng toàn bộ số tiền mà các bị cáo đã bị chiếm đoạt.

Bản án hình sự phúc thẩm số 325/2011/HSPT ngày 26/9/2011, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn dân sự và các bị hại, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

Tại Quyết định kháng nghị số 08/2016/KN-HS ngày 18-7-2016, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm số 325/2011/HSPT ngày 26/9/2011 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng (nay là Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng) và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2011/HSST ngày 19/5/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về phần xử lý vật chứng để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đố thẩm, đại điện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí

với Quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

209

Võ Thị Hồng Điệp là cán bộ tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – Chi nhánh Tân Lập. Điệp đƣợc giao nhiệm vụ trực tiếp nhận các hồ sơ thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn của các khách hàng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 58 và khoản 2 Điều 82 Quy định thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay ban hành kèm theo Quyết định số 1300/QĐ-HĐQT-TDHo ngày 03/12/2007 của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam thì "các giấy tờ bảo đảm tiền vay của khách hàng phải đƣợc lƣu giữ tại kho". Tuy nhiên, sau khi khách hàng đƣợc duyệt cho vay vốn thì Điệp không nộp hết vào kho quỹ mà lấy 07 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong các hồ sơ thế chấp vay tiền của các hộ ông Hoàng Văn Hùng và bà Trƣơng Thị Ngâu (02 giấy), ông Phạm Thế Vinh và bà Dƣơng Thị Kim Hoa, ông Phạm Duy Quýnh và bà Nguyễn Thị Xuân, ông Nguyễn Văn Thỉnh và bà Phan Thị Diệu, ông Phạm Văn Hùng và bà Vũ Thị Thu Hà (doanh nghiệp TN&TM Hoàng Anh), ông Võ Minh Hảo và bà Bạch Thị Trịnh để sử dụng cho mục đích cá nhân. Điệp dùng 07 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này thế chấp cho các ông, bà

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật tố tụng hình

210

Trần Thị Bạch Yến, Vũ Thị Phúc Ân, Trần Thị Oanh và Nguyễn Phi Hải để đảm bảo cho các khoản vay trƣớc đó và vay mới của Điệp, từ đó chiếm đoạt của các, ông bà này 6.069.000.000 đồng. Tại giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành lấy lời khai của các ngƣời bị hại và yêu cầu các ngƣời bị hại giao nộp các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang giữ, nhƣng bà Trần Thị Bạch Yến và ông Nguyễn Phi Hải không giao nộp, còn bà Trần Thị Oanh và bà Vũ Thị Phúc Ân thì khai đã thế chấp tiếp cho ngƣời khác để bảo đảm cho các khoản nợ và cung cấp tên, địa chỉ của những ngƣời đang giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong vụ án này, các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là phƣơng tiện để Điệp thực hiện hành vi phạm tội, là vật chứng của vụ án. Các giao dịch thế chấp các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giữa Điệp và các ngƣời bị hại là giao dịch trái pháp luật và các giao dịch này bị vô hiệu ngay từ thời điểm xác lập giao dịch (ngƣời bị hại biết rõ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thuộc sở hữu của Điệp, không có sự ủy quyền của chủ sở hữu về tài sản cho Điệp, nhƣng vẫn thực hiện giao dịch với Điệp và bảo đảm bằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ngƣời khác). Việc các ngƣời bị hại không giao trả lại các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chiếm giữ bất hợp pháp. Tòa án cấp sơ thẩm không tuyên buộc các ngƣời bị hại phải trả lại các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Tân Lập là không đúng và làm ảnh hƣởng đến quyền lợi của chủ sở hữu hợp pháp (là những ngƣời thế chấp vay vốn ngân hàng), làm ảnh hƣởng đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. Sau khi xét xử sơ thẩm, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Tân Lập có đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm buộc các ngƣời bị hại phải trả lại các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhƣng Tòa án cấp phúc thẩm nhận định do Tòa án cấp sơ thẩm không đề cập về vấn đề này nên không có căn cứ để giải quyết và hƣớng dẫn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn VIệt Nam – Chi nhánh Tân Lập làm đơn khởi kiện bằng một vụ án dân sự khác. Việc hƣớng dẫn này của Tòa án cấp phúc thẩm là không đúng, vì các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo và các giấy chứng nhận này không phải là tài sản nên không thể tách ra để giải quyết bằng một vụ án dân sự khác. Do đó, để bảo đảm quyền lợi của các chủ sở hữu 07 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hoạt động tín dụng của ngân hàng, cần phải hủy Bản án hình sự phúc thẩm và Bản án hình sự sơ thẩm về phần xử lý vật chứng để xét xử sơ thẩm lại theo hƣớng buộc những ngƣời bị hại đang giữ 07 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải trả lại cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Tân Lập. sự,

QUYẾT ĐỊNH

Hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 325/2011/HSPT ngày 26/9/2011 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng (nay là Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng) và Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2011/HSST ngày 19/5/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về phần xử lý vật chứng; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Nơi nhận:

TM. HỘI ĐỒNG THẢM PHÁN CHÁNH ÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA Nguyễn Hòa Bình

- VKSNDTC (Vụ 7 để báo cáo Viện trƣởng); - TANDCC tại Đà Nẵng; - VKSNDCC tại Đà Nẵng; - TAND tỉnh Đắk Lắk (kèm hồ sơ vụ án); - VKSND tỉnh Đắk Lắk; - Công an tỉnh Đắk Lắk; - THADS tỉnh Đắk Lắk; - Trại giam Gia Trung (ở tỉnh Gia Lai) thuộc Bộ Công an; - Bị cáo Điệp (qua trại giam); - Nguyên đơn dân sự (theo đ/c); - Các bị hại (theo đ/c); - Lƣu: VGDDKT1 (03 bản), HS, VP.

211

212

PHỤ LỤC 16 Quyết định giám đốc thẩm số 10/2018/HS-GĐT ngày 13/4/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO Quyết định số: 10/2018/HS-GĐT Ngày 13 tháng 4 năm 2018

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

- Thành phần Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao gồm có: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: ông Bùi Ngọc Hòa Các thành viên Hội đồng giám đốc thẩm: ông Trần Văn Cò, ông Lê Văn Minh,

ông Nguyễn Văn Tiến và bà Lƣơng Ngọc Trâm.

- Thƣ ký phiên tòa: bà Vũ Hoài Thanh – Thẩm tra viên Tòa án nhân dân tối

cao

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị

Yến, Kiểm sát viên.

Ngày 14 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa

giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

Nguyễn Công Bảo, sinh ngày 28/5/2000, trú tại số 311 Lô A, Chung cƣ Hùng Vƣơng, đƣờng Đặng Thái Thân, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: học sinh; con ông Nguyễn Công Vinh và bà Vũ Thị Tuyết Nhung (đều đã chết); tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giam ngày 28/01/2015.

Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Trần Hà Bảo Toàn bị kết án về tội "Cƣớp

tài sản".

Ngƣời giám hộ của bị cáo Nguyễn Công Bảo (theo xác định của Bản án phúc thẩm): bà Nguyễn Thị Tám, sinh năm 1964; trú tại số 311 Lô A, Chung cƣ Hùng Vƣơng, đƣờng Đặng Thái Thân, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngƣời bị hại: Anh Bùi Công Trình, sinh năm 1972 (đã chết). Ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị hại: Bà Bùi Thị Kim Châu, sinh năm 1965; trú tại số 139 Quốc lộ 1A, khu phố Thanh Xuân, phƣờng 5, thành phố Tân An, tỉnh Long An (chị ruột của ngƣời bị hại), đƣợc ông Bùi Công Danh (cha ruột) ủy quyền tham gia tố tụng.

213

Ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Trần Bảo Phƣớc, sinh năm 14/10/2001; trú tại phòng 412, Chung cƣ Hàm

Tử, phƣờng 5, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Lê Minh Thiện, sinh ngày 07/4/1996; trú tại số 90/14 Dƣơng Bá Trạc,

Phƣờng 2, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Đặng Văn Vũ, sinh ngày 11/11/1999; trú tại số 654 Hùng Vƣơng, Phƣờng 4,

Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 396/2015/HSST ngày 13/11/2015, Tòa án nhân

214

Từ năm 2013, Nguyễn Công Bảo (sinh ngày 28/5/2000) quen biết và có quan hệ tình dục đồng giới với anh Bùi Công Trình. Ngày 25/01/2015, anh Trình gọi điện rủ Bảo đi chơi. Bảo đã kể lại việc đã từng quan hệ tình dục đồng giới với anh Trình cho bạn của Bảo là Trần Hà Bảo Toàn và em trai của Toàn là Trần Bảo Phƣớc nghe. Sau đó, Bảo, Toàn và Phƣớc thống nhất hẹn anh Trình đến công viên Bắc Giang, khu Trung Sơn, huyện Bình Chánh để dùng dao tấn công cƣớp tài sản của anh Trình. Tuy nhiên, tối ngày 25/01/2015, anh Trình đến nơi không thấy Bảo nên bỏ về. Đến khoảng 17 giờ ngày 26/01/2015, Nguyễn Công Bảo bàn với Trần Hà Bảo Toàn và Trần Bảo Phƣớc tìm 01 con dao để Bảo mang theo, một mình đi gặp anh Trình. Sau đó, Phƣớc chở Bảo đến khu Trung Sơn, huyện Bình Chánh gặp Lê Minh Thiện (bạn của Phƣớc) hỏi mƣợn dao. Thiện lấy 01 con dao xếp bằng kim loại (dài 19,5cm, lƣời dao màu trắng dài 09cm, mũi nhọn, bản lƣỡi chỗ rộng nhất 1,7cm) đƣa cho Bảo. Đến 18 giờ 30 phút ngày 26/01/2015, Phƣớc chở Bảo đến cầu Kênh Xáng (khu Trung Sơn, huyện Bình Chánh) để gặp anh Trình. Khoản 19 giờ cùng ngày, anh Trình chở Bảo về nhà trọ của anh Trình tại ngõ 39, đƣờng Hƣng Phú, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi quan hệ tình dục, lợi dụng lúc anh Trình vào nhà vệ sinh, Bảo lấy dao đâm 01 nhát vào vùng vai phải của anh Trình, anh Trình xoay ngƣời lại, cả hai giằng co vật lộn ngã từ trên cầu thang tầng 2 xuống tầng 1. Lúc này, anh Trình cầm đƣợc dao, Bảo liên xông đến giật lại dao nên bị đứt các ngón tay phải. Khi lấy đƣợc dao, Bảo đâm liên tiếp nhiều nhát vào vùng đầu, cổ, vai, ngực, bụng và tay anh Trình. Anh Trình dùng chân đạp vào cửa kêu cứu. Thấy mọi ngƣời chạy đến, Bảo bỏ dao lại chạy lên tầng thƣợng, bám theo ống nƣớc xuống đất rồi gọi điện thoại cho Toàn đến đón. Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 198-15/KLGĐ-PY ngày 27/02/2015 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Bùi Công Trình chết do sốc mất máu cấp bởi đa vết thƣơng đâm thủng tĩnh mạch cảnh phải và phổi phải. dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 93; khoản 1 Điều 133; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 68; Điều 69; khoản 2 Điều 74; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt Nguyễn Công Bảo 10 năm tù về tội "Giết ngƣời" và 02 năm tù về tội "Cƣớp tài sản"; tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 12 (mƣời hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/01/2015.

Ngày 20/11/2015, bà Nguyễn Thị Tám (ngƣời đại diện hợp pháp của Nguyễn

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí

Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999: Buộc bà Nguyễn Thị Tám (ngƣời đại diện hợp pháp của Nguyễn Công Bảo) bồi thƣờng tiền mai táng cho gia đình ngƣời bị hại có đại diện là bà Bùi Thị Kim Châu số tiền 126.000.000 đồng (Một tram hai mƣơi sáu triệu đồng), đƣợc khấu trừ 4.000.000 đồng đã nộp trƣớc đó tại cơ quan thi hành án. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Trần Hà Bảo Toàn, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Công Bảo) kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho Bảo. Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 149/2016/HSPT ngày 23/3/2016, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Tám; giữ nguyên các quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm. Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Nguyễn Thị Tám có đơn đề nghị giám đốc thẩm (bà Tám cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm buộc bà Tám phải bồi thƣờng cho đại diện ngƣời bị hại là không đúng). Tại Quyết định kháng nghị số 24/KN-HS ngày 21/11/2017, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm số 149/2016/HSPT ngày 23/3/2016 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và Bản án hình sự sơ thẩm số 396/2015/HSST ngày 13/11/2015 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về phần trách nhiệm dân sự để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật. với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

215

[1] Mặc dù kháng nghị chỉ đề nghị "Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và Bản án hình sự sơ thẩm số 396/2015/HSST ngày 13/11/2015 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về phần trách nhiệm dân sự để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật". Nhƣng theo quy định tại Điều 387 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì Hội đồng giám đốc thẩm phải xem xét toàn bộ nội dung vụ án mà không chỉ hạn chế trong nội dung của kháng nghị. [2] Về tố tụng: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thấy rằng: Nguyễn Công Bảo sinh ngày 28/5/2000, khi phạm tội là 14 tuổi 09 tháng. Tại thời điểm phạm tội, cha mẹ của Nguyễn Công Bảo đã chết, Bảo sống cùng bà Nguyễn Thị Tám (là em ruột của ông nội Nguyễn Công Bảo) và đƣợc bà Tám nuôi dƣỡng, chăm sóc. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 61 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì "Ngƣời giám hộ đƣơng nhiên của ngƣời chƣa thành niên mà không còn cả cha và mẹ… đƣợc xác định nhƣ sau: …(1) trong trƣờng hợp anh ruột, chị ruột không có thỏa thuận khác thì anh cả hoặc chị cả là ngƣời giám hộ… (2) Trong trƣờng hợp không có anh ruột, chị ruột…

Vì các lẽ trên,

216

thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là ngƣời giám hộ; nếu không có ai trong số những ngƣời thân thích này có đủ điều kiện làm ngƣời giám hộ thì bác, chú, cô, cậu, dì là ngƣời giám hộ". Do đó, chƣa đủ căn cứ để xác định bà Nguyễn Thị Tám là ngƣời giám hộ của Nguyễn Công Bảo. Thực tế, Nguyễn Công Bảo không có anh, chị ruột, nhƣng Cơ quan điều tra chƣa điều tra, làm rõ ông bà nội, ông bà ngoại của Bảo còn sống hay đã chết và nếu còn sống thì hiện nay họ đang sống ở đâu, có đủ điều kiện làm ngƣời giám hộ cho Bảo theo quy định pháp luật hay không? Cơ quan điều tra cũng chƣa điều tra, làm rõ Bảo có còn ai là bác, chú, cậu, cô, dì của Bảo còn sống hay không? Những ngƣời này có đủ điều kiện là ngƣời giám hộ cho Bảo theo quy định của pháp luật hay không? Trƣờng hợp không có ngƣời giám hộ đƣơng nhiên cho Bảo thì cơ quan có thẩm quyền đã cử ngƣời giám hộ cho Bảo theo quy định của pháp luật?... Trong khi những vấn đề trên chƣa đƣợc điều tra làm rõ thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định bà Nguyễn Thị Tám là ngƣời giám hộ của Nguyễn Công Bảo là chƣa đủ căn cứ, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. [3] Về phần trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng chƣa điều tra làm rõ tƣ cách ngƣời giám hộ cho Nguyễn Công Bảo trong quá trình tham gia tố tụng nhƣ trên đã phân tích. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm buộc bà Nguyễn Thị Tám phải có trách nhiệm bồi thƣờng tiền mai táng phí cho gia đình ngƣời bị hại (có đại diện là bà Bùi Thị Kim Châu) là không đúng; đồng thời, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào yêu cầu của ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị hại và buộc bà Tám phải bồi thƣờng chi phí mai táng (số tiền 126.000.000 đồng), nhƣng không nêu rõ các khoản chi phí cụ thể để làm căn cứ bồi thƣờng là không đúng quy định tại Điều 610 Bộ luật dân sự năm 2005 và mục 2 phần II Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hƣớng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 382; Điều 387; khoản 3 Điều 388 và Điều 391 Bộ luật tố

2. Chuyển toàn bộ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra lại

tụng hình sự năm 2015, 1. Hủy toàn bộ Bản án hình sự phúc thẩm số 149/2016/HSPT ngày 23/3/2016 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 396/2015/HSST ngày 13/11/2015 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về phần trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự đối với bị cáo Nguyễn Công Bảo. theo thủ tục chung.

Nơi nhận:

TM. HỘI ĐỒNG THẢM PHÁN THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA Bùi Ngọc Hòa

- VKSNDTC-Vụ 7 (2 bản, kèm hồ sơ vụ án); - Chánh án TANDTC (để báo cáo); - TANDCC tại thành phố Hồ Chí Minh; - VKSNDCC tại thành phố Hồ Chí Minh; - TAND Thành phố Hồ Chí Minh; - VKSND Thành phố Hồ Chí Minh; - Công an Thành phố Hồ Chí Minh; - Trại tạm giam Công an Thành phố Hồ Chí Minh (02 bản, gồm 1 bản để giao cho bị cáo); - Bà Nguyễn Thị Tám (theo địa chỉ); - Bà Bùi Thị Kim Châu (theo địa chỉ); - Lƣu Vụ GĐKT1 (3b), VP, Hồ sơ vụ án.

217

PHỤ LỤC 17

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO Quyết định số: 05/2020/HS-GĐT Ngày 08 tháng 5 năm 2020

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Quyết định giám đốc thẩm số 05/2020/HS-GĐT ngày 08/5/2020 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÕA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

- Thành phần Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao gồm có: - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Hòa Bình – Chánh án Tòa án nhân dân tối

cao.

Các thành viên Hội đồng giám đốc thẩm gồm có các ông (bà): Lê Hồng Quang, Nguyễn Trí Tuệ, Nguyễn Văn Du, Nguyễn Thúy Hiền, Dƣơng Văn Thăng, Bùi Ngọc Hòa, Nguyễn Văn Thuân, Tống Anh Hào, Đặng Xuân Đào, Chu Xuân Minh, Trần Văn Cò, Lê Văn Minh, Nguyễn Văn Tiến, Lƣơng Ngọc Trâm, Nguyễn Thị Hoàng Anh và Đào Thị Xuân Lan.

- Thƣ ký phiên tòa: bà Đỗ Thị Thu Hằng và bà Đinh Thị Vân Anh – Thẩm tra

viên.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Huy Tiến – Phó Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Ông Hồ Đức Anh – Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Ông Nguyễn Văn Nông – Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Trong các ngày từ ngày 06 đến ngày 08 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với bị cáo: Hồ Duy Hải, sinh năm 1985; đăng ký hộ khẩu thƣờng trú tại số 129/39 đƣờng Nguyễn Trãi, Phƣờng 2, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở (tạm trú) ấp 1, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: lớp 12/12; con ông Hồ Sỹ Trung và bà Nguyễn Thị Loan; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giam ngày 21/3/2008 (không triệu tập).

Ngƣời bị hại: Chị Nguyễn Thị Ánh Hồng, sinh năm 1985 (đã chết). Ngƣời đại diện hợp pháp của bị hại: ông Nguyễn Văn Mừng, sinh năm 1962; trú tại khu phố Nhơn Cầu, phƣờng Tân Khánh, thị xã Tân An, tỉnh Long An (không triệu tập).

218

Chị Nguyễn Thị Thu Vân, sinh năm 1987 (đã chết). Ngƣời đại diện hợp pháp của bị hại: ông Nguyễn Văn Hộ, sinh năm 1956; trú tại ấp Cầu, phƣờng Tân Khánh, thị xã Tân An, tỉnh Long An (không triệu tập).

Nguyên đơn dân sự: Chi nhánh Bƣu cục Cầu Voi, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An. Ngƣời đại diện: ông Đinh Phú Hùng, sinh năm 1952; trú tại khu 1, ô 1, thị trấn Thủ Thừa, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An (không triệu tập).

Ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (không triệu tập): Bà Nguyễn Thị Loan, sinh năm 1963; trú tại ấp 1, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An; Bà Nguyễn Thị Rƣởi, sinh năm 1957; trú tại ấp 1, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An.

Những ngƣời đƣợc mời tham gia phiên toà giám đốc thẩm: Công an tỉnh Long An: – Ông Phạm Thanh Tâm – Thủ trƣởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Long An (có mặt). Ông Lê Thành Trung – Điều tra viên đƣợc phân công điều tra vụ án (có mặt); Ông Nguyễn Văn Minh – Điều tra viên đƣợc phân công điều tra vụ án (có mặt); – Ông Nguyễn Thanh Phong – Cán bộ điều tra, ngƣời lập biên bản về việc bắt ngƣời theo Lệnh bắt khẩn cấp của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Long An đối với Hồ Duy Hải (có mặt).

Cán bộ giám định: – Ông Dƣơng Thành Thận – Cán bộ Phòng kỹ thuật hình sự khám nghiệm hiện trƣờng, bác sỹ pháp y khám nghiệm tử thi (có mặt); – Ông Lê Hoàng Anh – Cán bộ Phòng kỹ thuật hình sự khám nghiệm hiện trƣờng, bác sỹ pháp y khám nghiệm tử thi (có mặt).

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An: – Ông Nguyễn Công Pha – Phó Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An (có mặt); – Ông Lê Ái Dân – Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự (vắng mặt).

Tòa án nhân dân tỉnh Long An: – Ông Lê Quốc Dũng – Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Long An (có mặt); – Ông Lê Quang Hùng – nguyên Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Long An, Chủ toạ phiên toà sơ thẩm (có mặt).

Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh: – Ông Nguyễn Đình Trung – Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt); – Ông Lê Thành Dƣơng – nguyên Viện trƣởng Viện Thực hành quyền công tố và Kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao) (vắng mặt).

Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh: Ông Quản Đức Tuyên –

Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

Luật sƣ: – Ông Nguyễn Văn Đạt, Luật sƣ thuộc Đoàn Luật sƣ Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt); – Ông Nguyễn Văn Hoà, Luật sƣ thuộc Đoàn Luật sƣ Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt);

219

Đoàn liên ngành Trung ƣơng: – Ông Lê Hữu Thể – Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nguyên Phó Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Trƣởng Đoàn liên ngành (vắng mặt); Ông Lê Văn Tân, Phó Chánh Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an (có mặt); – Ông Nguyễn Đức Tuấn – Điều tra viên Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an (có mặt); – Ông Lê Thành Văn – Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

Ông Trần Hồng Phong – Ngƣời có đơn đề nghị giám đốc thẩm và yêu

cầu đƣợc cung cấp chứng cứ liên quan đến vụ án (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án hình sự sơ thẩm và Bản án hình sự phúc thẩm, nội dung vụ

án đƣợc tóm tắt nhƣ sau:

Tháng 10/2007, Hồ Duy Hải quen chị Nguyễn Thị Thu Vân, là nhân viên Bƣu điện Cầu Voi đặt tại xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An. Qua tìm hiểu, Hải biết số điện thoại của Bƣu điện Cầu Voi, Hải dùng điện thoại di động có số là 0909015712 điện vào số máy 592008 của Bƣu điện Cầu Voi để đặt mua báo thể thao với chị Vân. Sau đó, các lần đến nhận báo, Hải quen chị Nguyễn Thị Ánh Hồng cũng là nhân viên Bƣu điện Cầu Voi.

Khoảng 19 giờ ngày 13/01/2008, Hồ Duy Hải điều khiển xe mô tô Wave biển kiểm soát 62F4-3040 của bà Nguyễn Thị Len (là dì ruột của Hải) đến hiệu cầm đồ của chị Nguyễn Thị Tuyết Trinh tại khu A, thị trấn Thủ Thừa cầm cố điện thoại di động để vay 1.500.000 đồng. Sau đó, Hải về trả xe cho bà Len và lấy xe mô tô Dream biển kiểm soát 62F5-0842 của bà Nguyễn Thị Rƣởi (là dì ruột của Hải) điều khiển đến quán cà phê Bảy Thanh tại ấp 1, xã Nhị Thành để đƣa cho anh Võ Lộc Đang 1.350.000 đồng do Hải thua cá độ bóng đá.

Khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, Hồ Duy Hải đến Bƣu điện Cầu Voi. Hải đậu xe phía trong cổng rào rồi vào phòng giao dịch thì gặp chị Vân đang ngồi trực, Hải vào phòng trong ngồi ở ghế salon, chị Hồng từ phía sau nhà đi lên ngồi nói chuyện với Hải và mời Hải uống nƣớc. Khoảng 10 phút sau, Hải mƣợn điện thoại di động hiệu Nokia 1100 của Bƣu điện (dùng để nạp card cho khách hàng), bấm phím xem các chức năng của máy rồi để trên bàn.

Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, Bƣu điện nghỉ làm việc, chị Vân vào phòng trong nơi Hải và chị Hồng đang ngồi, Hải đƣa tiền cho chị Vân đi mua trái cây. Khi chị Vân đi, Hải nảy sinh ý định quan hệ tình dục với chị Hồng, Hải nắm tay kéo chị Hồng vào buồng, đẩy chị Hồng nằm ngửa xuống đi văng. Hải nắm hai tay chị Hồng, chị Hồng dùng chân đạp vào bụng Hải, Hải buông chị Hồng ra, chị Hồng dậy chạy về phía sau cầu thang (khu vực bếp nấu ăn), Hải đuổi theo, kéo tay chị Hồng xô đẩy vào góc tƣờng gần chân cầu thang, chị Hồng kêu lên a a… Do sợ bị phát hiện, Hải dùng tay đánh vào mặt, bóp cổ và đẩy chị Hồng ngã xuống sàn nhà rồi lấy thớt tròn đập vào vùng mặt, vùng đầu làm chị Hồng bất tỉnh. Sau đó, Hải lấy con dao inox dài 30cmx3cm, lƣỡi dao dài khoảng 20cm để trên bàn bếp.

Hải ngồi lên ngƣời chị Hồng đang nằm ngửa, tay phải cầm dao, tay trái nắm tóc chị Hồng, cắt qua lại 02 cái vào cổ chị Hồng rồi Hải vào phòng vệ sinh rửa dao và tay.

220

Hải dắt dao vào lƣng quần phía trƣớc bụng đi vào nhà, đến cầu thang thì thấy chị Vân đi mua trái cây về. Chị Vân kéo cửa sắt xuống, đóng cửa, đi vào nhà đặt túi trái cây trên bàn salon. Lúc này, Hải cầm sẵn ghế xếp inox, chị Vân vừa xuống phòng sau, nhìn thấy xác chị Hồng, chị Vân sợ chạy ngƣợc trở lại phòng

khách, Hải cầm ghế xếp đuổi theo, dùng ghế đánh vào đầu làm chị Vân ngã xuống sàn bất tỉnh. Hải dùng tay xốc nách chị Vân, kéo đến chỗ xác chị Hồng, đặt đầu chị Vân nằm trên bụng chị Hồng và lấy con dao inox đang giắt ở thắt lƣng cắt vào cổ chị Vân 02 – 03 cái.

Khi cắt cổ chị Vân, máu bắn vào tay và quần áo nên Hải đi vào nhà vệ sinh rửa tay, rửa dao và quẹt sạch các vết máu trên quần áo rồi đi lên nhà giắt dao vào sau tấm bảng ở sát vách tƣờng gần cầu thang. Hải lên phòng giao dịch mở tủ lấy khoảng 1.400.000 đồng; khoảng 40-50 sim, card điện thoại, đến bàn salon lấy điện thoại Nokia 1100 bỏ vào túi quần. Hải đi lại chỗ xác chị Vân lấy 01 dây chuyền vàng không mặt, 01 vòng đeo tay bằng vàng và 01 nhẫn vàng; lấy ở xác chị Hồng 01 đôi hoa tai vàng, 01 sợi dây chuyền vàng mặt bông hoa, 01 lắc đeo tay vàng và 02 nhẫn vàng. Hải bỏ số nữ trang lấy đƣợc vào túi quần và đi ra cửa sắt phía sau, kéo cửa lại rồi leo qua hàng rào ngăn giữa sân phía sau và sân trƣớc, lấy xe mô tô để ở sân Bƣu điện chạy về nhà của Hải ở ấp 1, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa. Về đến nhà, Hải tắm, giặt quần áo và lấy số nữ trang rửa sạch, bỏ vào bịch nilon, cất vào thùng đựng đồ dùng học tập rồi đi ngủ.

Khoảng 07 giờ ngày 14/01/2008, anh Phùng Phụng Hiếu, là nhân viên đƣa báo của Bƣu điện huyện Thủ Thừa đến Bƣu điện Cầu Voi, phát hiện vụ việc nên đã trình báo Cơ quan Công an.

Hồ Duy Hải khai, ngày 18/01/2008 Hải mang số nữ trang, điện thoại, sim card lấy của chị Hồng, chị Vân lên Thành phố Hồ Chí Minh bán. Hải bán điện thoại Nokia 1100 cho cửa hàng điện thoại di động Thiện Mỹ số 124 Hùng Vƣơng, Phƣờng 2, Quận 5 đƣợc 200.000 đồng; bán nữ trang tại quầy số 2 Cửa hàng vàng bạc đá quý chợ An Đông số 50 An Dƣơng Vƣơng, Phƣờng 9, Quận 5 đƣợc 3.500.000 đồng. Riêng số sim card, Hải bỏ vào bọc rác phi tang ở gần nhà số 111/2 Trần Bình Trọng, Quận 5. Sau khi gây án khoảng 01 tuần, do sợ bị phát hiện, Hải đã mang toàn bộ quần áo, dây thắt lƣng mặc hôm gây án đốt ở phía sau vƣờn nhà bà Len cạnh nhà Hải.

Tại Bản giám định pháp y số 21/PY.08 ngày 17/01/2008, Phòng giám định pháp y Bệnh viện đa khoa Long An kết luận: “Nạn nhân Nguyễn Thị Ánh Hồng, sinh năm 1985, tử vong do bị vết thƣơng hở làm đứt ngang vùng cổ phía trƣớc gây choáng chấn thƣơng, mất máu cấp. Tổn thƣơng kèm theo: máu tụ dƣới da đầu và vùng cổ có thể dẫn đến choáng cho nạn nhân”.

Tại Bản giám định pháp y số 22/PY.08 ngày 17/01/2008, Phòng giám định pháp y Bệnh viện đa khoa Long An kết luận: “Nạn nhân Nguyễn Thị Thu Vân, sinh năm 1987, tử vong do bị vết thƣơng hở làm đứt ngang vùng cổ phía trƣớc gây choáng chấn thƣơng, mất máu cấp”.

Ngoài ra, Hồ Duy Hải còn có hành vi đánh bạc, Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án hình sự về hành vi đánh bạc, sau đó tách hành vi đánh bạc để giải quyết bằng một vụ án khác.

221

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 97/2008/HSST ngày 28/11-01/12/2008, Tòa án nhân dân tỉnh Long An áp dụng các điểm a và e khoản 1 Điều 93; khoản 1 Điều 133;

các điểm b và p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; xử phạt Hồ Duy Hải tử hình về tội “Giết ngƣời”, 05 năm tù về tội “Cƣớp tài sản”; tổng hợp hình phạt buộc Hồ Duy Hải phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là tử hình.

Ngày 05/12/2008, Hồ Duy Hải có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 281/2009/HSPT ngày 28/4/2009, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định giữ nguyên các quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm đối với Hồ Duy Hải.

Ngày 04/5/2009, Hồ Duy Hải làm đơn gửi Chủ tịch nƣớc xin ân giảm

hình phạt tử hình.

Tại Quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án số 05/2010/QĐ/TA- HS ngày 09/6/2010, Chánh án Toà án nhân dân tối cao tổng hợp hình phạt 02 năm tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2009/HSST ngày 01/12/2009 của Toà án nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An với hình phạt tử hình tại Bản án hình sự phúc thẩm số 281/2009/HSPT ngày 28/4/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đối với Hồ Duy Hải, buộc Hồ Duy Hải phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là tử hình.

Ngày 24/5/2011, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có Quyết định không kháng nghị số 65/QĐ-TANDTC-TK không kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm đối với Hồ Duy Hải; Quyết định không kháng nghị số 66/QĐ-TANDTC-TK không kháng nghị Quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đối với Hồ Duy Hải và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có Tờ trình số 47/TTr-TANDTC-TK đề nghị Chủ tịch nƣớc bác đơn xin ân giảm hình phạt tử hình của Hồ Duy Hải.

Ngày 24/10/2011, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Quyết định không kháng nghị số 131/QĐ-VKSTC-V3 không kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm đối với Hồ Duy Hải; Quyết định không kháng nghị số 132/QĐ- VKSTC-V3 không kháng nghị Quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đối với Hồ Duy Hải và Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Tờ trình số 110/TTr-VKSTC- V3 đề nghị Chủ tịch nƣớc bác đơn xin ân giảm hình phạt tử hình của Hồ Duy Hải.

Tại Quyết định số 639/QĐ-CTN ngày 17/5/2012, Chủ tịch nƣớc bác đơn xin

ân giảm hình phạt tử hình của Hồ Duy Hải.

Ngày 04/12/2014, Văn phòng Chủ tịch nƣớc có Công văn số 1639/TB- VPCTN-m, thông báo ý kiến của Chủ tịch nƣớc về việc tạm dừng thi hành án tử hình đối với Hồ Duy Hải và yêu cầu Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ đạo xem xét, làm rõ trƣờng hợp Hồ Duy Hải có bị kết án oan, sai hay không và báo cáo Chủ tịch nƣớc.

Ngày 04/12/2014, Hội đồng thi hành án tử hình tỉnh Long An ra Quyết định số

02/QĐ-HĐTHATH hoãn thi hành án tử hình đối với Hồ Duy Hải.

222

Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 15/QĐ-VKSTC-V7 ngày 22/11/2019, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định kháng nghị Bản án hình sự sơ thẩm số 97/2008/HSST ngày 28/11-01/12/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An và Bản án hình sự phúc thẩm số 281/2009/HSPT ngày 28/4/2009 của

Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm và Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật. Tạm đình chỉ thi hành Bản án hình sự phúc thẩm số 281/2009/HSPT ngày 28/4/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đối với Hồ Duy Hải, với lý do (tóm tắt):

Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm của Tòa án hai cấp có nhiều nhận định và kết luận chƣa phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; việc thu thập, đánh giá các chứng cứ, tài liệu chƣa đầy đủ; nhiều nội dung cần chứng minh của vụ án còn mâu thuẫn nhƣng chƣa đƣợc làm rõ…

Các cơ quan tiến hành tố tụng có nhiều vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nhƣ: bỏ sót những chứng cứ vụ án, không trƣng cầu giám định vết máu; không đƣa một số lời khai của Hồ Duy Hải và ngƣời làm chứng vào hồ sơ vụ án dẫn đến sai lầm trong việc giải quyết vụ án…

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao không khẳng định bị cáo Hồ Duy Hải bị kết án oan nhƣng vẫn đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao vì còn nhiều mâu thuẫn trong lời khai của bị cáo, mâu thuẫn giữa lời khai của bị cáo với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; có nhiều vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; có hay không hành vi hiếp dâm chị Nguyễn Thị Ánh Hồng cần đƣợc làm rõ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÕA ÁN

[1] Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, bản án kết luận Hồ Duy Hải có mặt tại hiện trường là không có căn cứ, không có chứng cứ nào khẳng định được Hải có mặt tại hiện trường.

Nhận thấy, theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nhƣ lời khai của những ngƣời làm chứng là anh Hồ Văn Bình (Bl 256-257), anh Đinh Vũ Thƣờng (Bl 250- 251), ông Nguyễn Văn Thu (Bl 265-267), bà Nguyễn Thị Rƣởi (Bl 263-264), chị Nguyễn Thị Bích Ngân (Bl 260) và lời khai nhận tội của Hồ Duy Hải thể hiện:

223

Về phƣơng tiện (xe mô tô Dream) Hải sử dụng: Hải khai nhận, đi xe mô tô Dream màu nho đã cũ, có gƣơng chiếu hậu bên trái, xe của bà Rƣởi (khi về nhà lấy xe thì có sẵn chìa khóa cắm trên xe), khi vào Bƣu điện Cầu Voi, Hải dựng xe ở bên phải, đầu xe hƣớng vào phía bƣu điện. Theo lời khai của anh Đinh Vũ Thƣờng, khi vào bƣu điện anh dựng xe máy “kế 01 chiếc xe loại Dream đã cũ màu nho, bên trái xe có kính chiếu hậu màu đen loại theo xe nhƣng gọn kính bị cắt cụt hơn kính theo xe mô tô” (Bl 250); lời khai của ông Nguyễn Văn Thu (Bl 266) và bà Nguyễn Thị Rƣởi (Bl 263) thể hiện, thƣờng ngày cũng nhƣ ngày 06/12/2007 âm lịch (tức ngày 13/01/2008 dƣơng lịch) là ngày thôi nôi cháu nội, ông bà có để xe mô tô Dream biển kiểm soát 62F5-0842 màu nâu cũ ngoài sân, cắm sẵn chìa khóa. Nhƣ vậy, lời khai của Hải về việc sử dụng xe máy có đặc điểm nêu trên và địa điểm để xe máy khi đến Bƣu điện Cầu Voi là phù hợp với lời khai của những ngƣời làm chứng.

Về tóc của Hải: theo lời khai của ông Nguyễn Văn Thu (Bl 266) thì Hải để “tóc hai mái tém gọn, hơi dài, nhƣng không dài lắm… khoảng hơn nửa tháng … thì thấy Hải hớt tóc đầu đinh”; bà Nguyễn Thị Rƣởi (là dì ruột của Hải) khai “Hải để tóc hai mái chẻ 6/4 hoặc 7/3” (Bl 264). Anh Hồ Văn Bình mô tả đặc điểm của ngƣời thanh niên là “tóc cắt ngắn phía trƣớc tóc chảy làn” (Bl 257); anh Đinh Vũ Thƣờng khai “01 thanh niên ngồi giữa trên ghế salon dài 03 cái liền nhau, mặt hƣớng ra ngoài trƣớc nhƣng lúc đó đang cúi đầu xuống bấm cái gì đó tôi không thấy nhƣng tôi thấy có ánh đèn màu sáng… tôi đoán là đang bấm điện thoại.

Ngƣời thanh niên tóc 02 mái, khi cúi xuống tóc che khỏi mí mắt… không nhìn lên nên tôi không nhìn rõ khuôn mặt của ngƣời thanh niên đó, tôi không thể nhận dạng chính xác ngƣời thanh niên đó qua khuôn mặt đƣợc” (Bl 250-251). Theo lời khai của Hải thì “trƣớc khi gây án… tóc tôi để dài chẻ 6/4 còn đuôi tóc dài phủ gáy. Sau khi gây án khoảng 1 tháng… tôi hớt ngắn 1 phân” (Bl 94). Nhƣ vậy, lời khai của Hải phù hợp với lời khai của những ngƣời làm chứng về việc mô tả đặc điểm tóc của Hải.

Về mô tả quần, áo: theo lời khai của anh Đinh Vũ Thƣờng, tối ngày 13/01/2008, khi anh đến Bƣu điện Cầu Voi gọi điện thoại thì thấy “Ngƣời thanh niên… mặc áo thun ngắn tay màu xám đen hoặc xanh đen có sọc trắng xen kẽ” (Bl 250). Hồ Duy Hải khai nhận mặc áo thun xanh lá cây hoặc xanh rêu trƣớc ngực có mấy chữ màu trắng (Bl 85, Bl 108). Theo Bản tự khai của Hải thì do quần áo lúc gây án bị dính máu và sợ bị phát hiện nên sau khi gây án Hải đã đem đốt quần áo trên ở ngoài vƣờn sau nhà (Bl 108). Cơ quan điều tra đã khám xét và thu giữ đống tàn tro. Căn cứ Biên bản mở niêm phong (Bl 325) và Biên bản xác định đồ vật (Bl 133) về các đồ vật thu giữ tại đống tàn tro, Cơ quan điều tra cho Hải nhận dạng và Hải xác nhận mảnh vải màu đen đã bị than hóa là vải của áo thun xanh đậm mặc khi gây án, mảnh vải nhỏ màu trắng ngà là vải áo thun mặc khi gây án nhƣng ở vị trí ngực có hàng chữ màu trắng. Nhƣ vậy, lời khai của Hải phù hợp lời khai của ngƣời làm chứng, kết quả khám xét, Biên bản mở niêm phong và Biên bản xác định đồ vật nêu trên.

Lời khai của Hải còn phù hợp với lời khai của chị Nguyễn Thị Bích Ngân, cụ thể: theo Bản tự khai ngày 05/7/2008 (Bl 112) và lời khai ngày 27/6/2008 (Bl 97), Hải khai nhận đƣa tiền cho chị Vân đi mua trái cây về ăn (không nhớ rõ số tiền). Theo lời khai của chị Nguyễn Thị Bích Ngân, tối ngày 13/01/2008 “có một cô gái… đi bộ lại chỗ tôi mua trái cây. Tôi biết cô gái này làm ở Bƣu điện Cầu Voi… cô gái nói với tôi là có ngƣời đƣa tiền em kêu em mua nên em mua nhiều… cô gái có nói với tôi là ở nơi làm có khách” (Bl 260). Kết quả khám nghiệm hiện trƣờng có 02 túi trái cây trên bàn salon là phù hợp với lời khai của Hải và lời khai của chị Ngân.

224

Ngoài ra, Hải còn có nhiều lời khai về việc mô tả cụ thể, chi tiết các phòng và đồ vật có trong Bƣu điện Cầu Voi, phù hợp với kết quả khám nghiệm hiện trƣờng về vị trí, đặc điểm các đồ vật trong bƣu điện. Trong số những đồ vật mà Hải mô tả tại các lời khai có những đồ vật có đặc điểm, màu sắc, vị trí mà chỉ ngƣời có mặt tại hiện

trƣờng tiếp cận trực tiếp với đồ vật đó mới có thể mô tả đƣợc cụ thể, chính xác nhƣ: con gấu bông màu vàng xám, chiếc ly nƣớc bằng thủy tinh, tấm nệm ga màu hồng đỏ trên giƣờng ngủ, bịch trái cây. Tổng hợp các tình tiết trên, có đủ cơ sở xác định Hải có mặt tại hiện trƣờng vụ án.

Do đó, kháng nghị của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, không có nhân chứng và chứng cứ nào khẳng định và kết luận Hải có mặt tại hiện trƣờng là không đúng.

[2] Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nêu: bản án kết luận Hải có mặt tại hiện trường vào khoảng 19 giờ 30 là không có căn cứ và Hải không thể có mặt tại Bưu điện Cầu Voi trước 19 giờ 39 phút 22 giây.

Theo lời khai của anh Hồ Văn Bình thì anh đến Bƣu điện Cầu Voi gửi xe “lúc đó đã hơn 19 giờ”, thấy một thanh niên ngồi trên ghế salon nói chuyện với chị Hồng, khoảng ngoài 19 giờ 30 phút, anh Bình đến lấy xe vẫn thấy chị Hồng và ngƣời thanh niên đó ngồi nói chuyện (Bl 256). Anh Đinh Vũ Thƣờng khai, anh đến Bƣu điện Cầu Voi gọi điện thoại “lúc đó khoảng 20 giờ trở lại”, nhìn thấy một thanh niên ngồi phía trong bƣu điện (Bl 250); kết quả kiểm tra list điện thoại Bƣu điện Cầu Voi cho thấy anh Thƣờng thực hiện cuộc gọi điện thoại vào lúc 19 giờ 39 phút 22 giây. Căn cứ Biên bản kiểm tra thời gian ngày 14/7/2008 (Bl 131) có sự tham gia của Kiểm sát viên và ngƣời chứng kiến là ông Nguyễn Văn Thu thì đoạn đƣờng từ tiệm cầm đồ Kim Hƣng đến Bƣu điện Cầu Voi (theo cung đƣờng Hải khai) là 7,5km và đi hết thời gian là 15 phút.

Do đó, nếu tính thời gian từ lúc 19 giờ 13 phút 39 giây, Hải nhận đƣợc điện thoại của anh Võ Lộc Đang (Hải khai nói chuyện với anh Đang khoảng 30 giây – Bl 94) với thời gian làm thủ tục cầm đồ (Hải khai làm thủ tục cầm đồ khoảng 05 phút – Bl 94, Bl 95B) và thời gian từ hiệu cầm đồ qua các cung đƣờng nhƣ Hải mô tả hết 15 phút thì thời gian Hải có mặt tại Bƣu điện Cầu Voi khoảng 19 giờ 34 phút 09 giây. Điều này phù hợp với lời khai của Hải khai, khi đến bƣu điện khoảng trên 19 giờ 30 phút (Bl 97) và phù hợp với lời khai của anh Bình và anh Thƣờng là nhìn thấy 01 thanh niên ngồi trên ghế salon ở Bƣu điện Cầu Voi. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng trả lời, việc xác định thời gian Hải có mặt tại hiện trƣờng (nhƣ cách tính trong kháng nghị) chỉ mang tính ƣớc lƣợng chứ không có căn cứ khoa học. Vì vậy, các cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm, phúc thẩm kết luận Hồ Duy Hải có mặt tại Bƣu điện Cầu Voi khoảng 19 giờ 30 phút là có cơ sở. Kháng nghị của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, Hồ Duy Hải không thể có mặt tại Bƣu Điện Cầu Voi trƣớc 19 giờ 39 phút 22 giây là không có căn cứ.

[3] Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nêu: nội dung lời khai của Hồ Duy Hải mâu thuẫn với nhau và mâu thuẫn với kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi nhưng chưa được điều tra, thẩm vấn làm rõ tại phiên toà, cụ thể:

225

Mâu thuẫn về hành vi tấn công nạn nhân: các lời khai ban đầu Hải khai, “lấy dao ở kệ gần cửa chạy theo Hồng, dùng tay phải nắm đầu Hồng đập mạnh vùng mặt vào lavabo rửa mặt khoảng 3 cái, dùng dao để cắt đứt cổ” (Bl 82); có lời khai “sau khi đập đầu Hồng vào lavabo, Hải đi vào nhà lấy con dao ở bàn quay lại nhà tắm, cắt cổ chị Hồng” (Bl 86); sau đó lại khai “Hải đập phần mặt và trán chị Hồng vào lavabo, Hải kéo chị Hồng vào chân cầu thang lấy cái thớt đập mạnh vào vùng đầu rồi dùng dao cắt cổ chị Hồng” (Bl 88, 93, 99); các lời khai sau “Hải đuổi theo xô chị Hồng ngã ngửa dƣới nền gầm cầu thang, dùng tay phải đánh vào mặt Hồng nhiều cái, lấy cái thớt cầm hai tay đập lên vùng đầu, mặt của Hồng hai cái, lấy con dao cắt cổ Hồng qua lại 2 cái”(Bl 100, 116)… Mâu thuẫn về hành vi hiếp dâm chị Hồng: ban đầu Hải khai, “định quan hệ tình dục nhƣng chị Hồng phản ứng, bỏ xuống nhà vệ sinh” (Bl 82); nhiều lời sau khai “Hải khống chế chị Hồng, dùng hai tay bóp cổ chị Hồng, cởi hết quần áo của Hồng, giao cấu với Hồng xong Hải xuất tinh vào vạt áo của mình, cả hai mặc lại quần áo” (Bl 89); sau đó lại khai “khống chế chị Hồng chƣa làm đƣợc gì thì bị chị Hồng đạp vào bụng bật ra, Hồng bật dậy chạy ra ngoài” (Bl 101)…

Xét thấy, trong quá trình điều tra, Hồ Duy Hải có một số lời khai có nội dung mâu thuẫn nhƣ viện dẫn của kháng nghị giám đốc thẩm, điều này phù hợp diễn biến tâm lý tội phạm trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thể hiện các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm không mớm cung, ép cung đối với bị cáo. Tại các bản tự khai ngày 05/7/2008 (Bl 112-114) và ngày 14/8/2008 (Bl 102- 103); các biên bản hỏi cung ngày 07/7/2008 (Bl 100-101) và ngày 11/7/2008 (Bl 116- 121) đều có sự tham gia của Kiểm sát viên và Luật sƣ, Hồ Duy Hải khai: “tôi là thủ phạm gây ra cái chết cho nạn nhân Hồng và Vân, nhƣng quá trình khai báo do tƣ tƣởng chƣa ổn định thấy mức án cao sợ bị xử sớm không còn thời gian sống lâu gặp gia đình nên cố tình khai thiếu một số tình tiết và khai thêm một số tình tiết để kéo dài điều tra, cụ thể là: tôi khai thêm đập đầu nạn nhân Hồng ngoài labô nƣớc nhà vệ sinh còn thực tế đúng là tôi đập bằng thớt trong chân cầu thang; khai thêm hiếp dâm Hồng trong phòng ngủ rồi cho xuất tinh ra ngoài, sự thật là tôi không hiếp dâm; khai thêm đập đầu Vân tại chân cầu thang mà đập trên phòng khách là đúng…; thật ra tôi không có hành vi hiếp dâm mà chỉ có ý định quan hệ với Hồng khi ngồi nói chuyện sờ sẩm qua lại Hồng không phản ứng nên tôi điều Vân đi mua trái cây để quan hệ với Hồng. Hồng không cho nên tôi nóng tấn công Hồng và giết Hồng, ban đầu thỏa mãn tức giận dục vọng, sau đó mới nảy sinh ý định cƣớp, còn Vân tôi giết là vì sợ Vân phát hiện tố giác”. Các lời khai sau đó, Hải vẫn thừa nhận dùng dao cắt cổ chị Hồng, chị Vân; dùng thớt đập đầu chị Hồng, dùng ghế đập đầu chị Vân làm chị Hồng, chị Vân bị chết và không có hành vi hiếp dâm chị Hồng.

226

Lời khai của Hải phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trƣờng, Bản ảnh hiện trƣờng, kết quả giám định nhƣ: Hải khai dùng thớt đập vào đầu chị Hồng thì tại Bản ảnh hiện trƣờng có chiếc thớt để cạnh đầu chị Hồng, cái thớt có dính máu; Hải khai không đập đầu chị Hồng vào lavabo tại nhà vệ sinh là phù hợp với kết quả khám nghiệm không thể hiện các dấu vết của việc đập đầu trên lavabo; Hải

khai không có hành vi hiếp dâm chị Hồng, phù hợp với Biên bản giám định pháp y về dịch trong âm hộ chị Hồng không có tinh trùng; Hải khai có ý định quan hệ với chị Hồng khi ngồi nói chuyện, sờ sẩm qua lại chị Hồng, chị Hồng không phản ứng, phù hợp với Biên bản giám định pháp y đối với chị Hồng “có ít dịch nhầy trong âm đạo”. Những tình tiết này chỉ có những ngƣời trực tiếp thực hiện hành vi mới biết, Cơ quan điều tra không thể biết đƣợc. Điều này, một lần nữa khẳng định Hải có mặt tại hiện trƣờng.

Mặc dù, Hải có một số lời khai mâu thuẫn trên nhƣng những mâu thuẫn này đã đƣợc Hải lý giải cụ thể, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và các cơ quan tiến hành tố tụng đã làm rõ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nên không cần thiết phải hủy bản án để điều tra lại.

[4] Nội dung kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nêu: có sự mâu thuẫn rất lớn giữa kết quả khám nghiệm hiện trường với lời khai nhận tội của bị cáo về các vấn đề

Đêm ngày 13/01/2008, Bƣu điện Cầu Voi có nƣớc hay không; Hải có nhiều lời khai về việc đập đầu, mặt chị Hồng vào lavabo nhƣng kết quả khám nghiệm hiện trƣờng không thể hiện các dấu vết ở lavabo. Xem xét vấn đề này thì thấy:

– Về việc đêm ngày 13/01/2008, Bƣu điện Cầu Voi có nƣớc hay không? Theo lời khai của chị Lê Thị Thu Hiếu thì “Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 13/01/2008, tôi ghé Bƣu cục Cầu Voi chơi với Hồng, Vân, 17 giờ thì về; nấu cơm trƣa ăn, ăn xong tôi mang chén, bát đũa xoong nấu canh ra nhà vệ sinh rửa sạch sẽ và úp chén gọn gàng vào một cái thau để cạnh cầu thang” (Bl 201-202); “gần 17 giờ dậy rửa mặt xong ra về” (Bl 197). Chị Huỳnh Thị Kim Tuyền khai “tôi biết là trong nhà vệ sinh có nƣớc sinh hoạt… tôi nghĩ là không có bị cúp nƣớc ở bên bƣu cục vì bƣu cục có riêng giếng nƣớc và ngày 13/01/2008 không có cúp điện” (Bl 258-259). Hồ Duy Hải có nhiều lời khai thể hiện, Hải nắm tóc hai nạn nhân ghì, nhất là đối với Vân nên đứt nhiều tóc dính do mồ hôi tay; sau khi cắt cổ các nạn nhân, Hải đi ra nhà tắm mở vòi nƣớc rửa tay, rửa dao và gột áo cho sạch máu (Bl 83, 99, 101, 103, 118). Theo Biên bản khám nghiệm hiện trƣờng (Bl 44-47) thì có một số sợi tóc dính trong lọc rác của lavabo trong nhà vệ sinh. Những tài liệu nêu trên phù hợp với lời khai của Hải về việc sau khi giết chị Hồng, chị Vân, Hải ra nhà vệ sinh rửa dao, rửa tay và gột quần áo, phù hợp với kết quả khám nghiệm hiện trƣờng, nền nhà vệ sinh có một giọt máu và theo Kết luận giám định số 3705/C21B ngày 05/6/2008 (Bl 68) thì máu trên nền nhà vệ sinh là máu ngƣời. Nhƣ vậy, có cơ sở kết luận, tối ngày 13/01/2008, Bƣu điện Cầu Voi không mất nƣớc. Việc khám nghiệm hiện trƣờng thể hiện 08 giờ 10 phút ngày 14/01/2008 “khi mở vòi trên lavabo không thấy có nƣớc chảy” không có ý nghĩa chứng minh tối ngày 13/01/2008 Bƣu điện Cầu Voi không có nƣớc.

227

– Về dấu vết để lại ở lavabo trong nhà vệ sinh Kháng nghị của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận định, Hải có lời khai đập đầu chị Hồng vào lavabo nhƣng khám nghiệm hiện trƣờng không thu đƣợc dấu vết này ở lavabo là mâu thuẫn. Đây là nhận định trái với nguyên tắc chứng

minh tội phạm nếu lời khai không phù hợp với dấu vết tại hiện trƣờng thì đó là lời khai sai, chứ không phải nhƣ suy diễn của kháng nghị.

Mặc dù, trƣớc ngày 05/7/2008, Hải có một số lời khai về việc đập đầu, mặt chị Hồng vào lavabo, nhƣng tại các lời khai nhận tội sau đó: Bản tự khai ngày 05/7/2008 (Bl 112-113) và các biên bản hỏi cung ngày 07/7/2008 (Bl 100 – 101), ngày 11/7/2008 (Bl 116-117) đều có sự tham gia của Luật sƣ và Kiểm sát viên, Hải khẳng định không đập đầu, mặt chị Hồng vào lavabo. Kết luận điều tra, Cáo trạng, Bản án hình sự sơ thẩm và Bản án hình sự phúc thẩm cũng không kết luận Hồ Duy Hải đập đầu, mặt chị Hồng vào lavabo. Do đó, việc không thu đƣợc dấu vết của việc đập đầu ở lavabo là phù hợp với lời khai của Hải nên không cần thiết phải điều tra lại vấn đề này.

[5] Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, diễn biến lời khai của bị cáo không phù hợp với thực tế khách quan, với hiện trường vụ án về vị trí và dấu vết trên ghế.

Theo lời khai của Hải tại các bản cung ngày 07/7/2008 (Bl 100-101) và ngày 11/7/2008 (Bl 116-117), sau khi dùng ghế đập đầu chị Vân trên phòng khách, Hải đem ghế để ở khu vực chân cầu thang, cạnh xác chị Hồng. Lời khai của Hải phù hợp với Bản ảnh hiện trƣờng và Biên bản khám nghiệm hiện trƣờng thể hiện chiếc ghế nằm dƣới nền nhà và nạn nhân Vân gác chân lên ghế (Bl 44-47). Những tài liệu này đều phản ánh đầy đủ trong hồ sơ vụ án, do vậy không cần thiết hủy án để điều tra lại làm rõ nội dung này.

Lời khai của Hải thể hiện, sau khi giết chị Hồng, chị Vân, Hải đi lên phòng giao dịch lấy tiền, sim card, điện thoại sau đó Hải đi dép vào rồi mới đến khu vực cầu thang chỗ chị Hồng, chị Vân chết để lấy các đồ trang sức của chị Hồng, chị Vân.

Biên bản khám nghiệm hiện trƣờng (Bl 44-47) và Bản ảnh hiện trƣờng thể hiện: nền nhà có các hạt cơm, chiếc ghế xếp đƣợc nằm ngay sát vũng máu; Hải mô tả về đôi dép Hải đi đến chỗ xác nạn nhân để lấy tài sản là đôi dép xốp màu trắng, đế dép có rãnh đƣờng gấp khúc chống ma sát (Bl 117-118). Nhƣ vậy, căn cứ lời khai của Hải, Biên bản khám nghiệm hiện trƣờng, Bản ảnh hiện trƣờng thể hiện có dấu vết dép trên ghế nên có cơ sở để nhận định, các dấu vết để lại trên mặt ghế là do Hải gây ra trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Mặc dù, Cơ quan điều tra không kết luận về những vết máu quệt, vết đế dép, hạt cơm khô có trên chiếc ghế là do đâu mà có nhƣng xét thấy vấn đề này không có ý nghĩa quyết định trong việc khẳng định Hồ Duy Hải có phạm tội hay không, nên không cần thiết phải điều tra lại để làm rõ hơn về tình tiết này.

[6] Về việc không có dấu vết máu trên cổng sau của Bưu điện Cầu Voi Kháng nghị giám đốc thẩm cho rằng, khi cắt cổ chị Hồng, chị Vân máu bắn rất nhiều lên ngƣời bị cáo; sau khi gây án, bị cáo trèo cổng sau để đi ra cổng trƣớc nhƣng theo Biên bản khám nghiệm hiện trƣờng thì trên cánh cổng sau không có bất kỳ dấu vết máu nào để lại.

228

Nhận thấy, theo lời khai của Hải, sau khi cắt cổ chị Hồng và chị Vân, máu bắn rất nhiều lên ngƣời Hải nhƣng sau đó Hải đã vào nhà vệ sinh rửa dao, rửa tay và gột quần áo (Bl 99, Bl 117). Lời khai của Hải phù hợp với kết quả khám nghiệm hiện trƣờng không có dấu vết máu để lại trên cổng sau nên không phải là tình tiết mâu thuẫn nhƣ kháng nghị giám đốc thẩm đã nêu. Do đó, không cần thiết phải điều tra lại và hiện nay cũng không thể điều tra làm rõ đƣợc về vấn đề này.

[7] Về dấu vân tay thu được tại hiện trường Kháng nghị của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, dấu vân tay thu đƣợc ở hiện trƣờng (cửa kính, vòi nƣớc ở lavabo) không phải của Hồ Duy Hải, dấu vân tay của ai cũng chƣa đƣợc làm rõ.

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và trình bày của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Long An tại phiên tòa giám đốc thẩm thể hiện, trong quá trình khám nghiệm hiện trƣờng, Cơ quan điều tra phát hiện và thu giữ một số dấu vết đƣờng vân ở mặt trong cửa kính trên cánh cửa sau và trên tay nắm mở vòi nƣớc ở lavabo. Cơ quan điều tra đã thu thập vân tay của khoảng 144 ngƣời nghi có liên quan để truy nguyên với các dấu vết đƣờng vân thu tại hiện trƣờng, nhƣng không có kết quả trùng khớp. Bản kết luận giám định số 158/KL-P21 ngày 11/4/2008 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An kết luận: các dấu vết vân tay thu đƣợc tại hiện trƣờng vụ án không phát hiện trùng với điểm chỉ 10 ngón in trên chỉ bản của Hồ Duy Hải (Bl 53). Nhƣ vậy, Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra truy nguyên dấu vấn tay thu giữ tại hiện trƣờng. Việc không trùng khớp dấu vân tay thu đƣợc tại hiện trƣờng với dấu vân tay của Hồ Duy Hải không phải là tình tiết chứng minh yếu tố ngoại phạm của Hồ Duy Hải. Mặc dù, không phát hiện dấu vân tay thu đƣợc tại hiện trƣờng trùng với dấu vân tay của Hải, nhƣng căn cứ vào các lời khai nhận tội của Hải phù hợp với bản ảnh hiện trƣờng, biên bản khám nghiệm hiện trƣờng, Biên bản giám định pháp y, kết quả thực nghiệm điều tra, lời khai của ngƣời làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ căn cứ xác định Hồ Duy Hải là ngƣời thực hiện hành vi phạm tội. [8] Về cơ chế hình thành vết thương

Kháng nghị của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, việc Hải dùng tay đánh vào mặt của chị Hồng thì không thể tạo ra các vết thƣơng “rách da bờ mép sắc gọn ở trên vùng mặt và trên cằm”; các vết thƣơng của chị Vân ở “vùng thái dƣơng phải có hai vết trầy sƣớc da 1×0,5cm, 1×0,3cm nằm cách nhau 2cm”, các dấu vết trên do vật gì gây ra, cơ chế hình thành nhƣ thế nào chƣa đƣợc làm rõ.

Về vấn đề này, hồ sơ vụ án thể hiện: tại Biên bản khám nghiệm tử thi hồi 11 giờ 40 phút ngày 14/01/2008, xác định nạn nhân Vân có “01 vết thƣơng tụ máu ở trên đầu (vùng đỉnh), 02 vết trầy xƣớc da vùng thái dƣơng, 01 vết thƣơng hở, sâu bờ mép sắc gọn ở cổ” (Bl 55-56).

229

Tại Biên bản khám nghiệm tử thi hồi 12 giờ 10 phút ngày 14/01/2008, xác định nạn nhân Hồng có “04 vết thƣơng bầm tụ máu ở trên đầu, 04 vết thƣơng hở rách da trên mặt (trong đó có hai vết rách có bờ mép sắc gọn ở vùng lông

mày trái), 01 vết rách da, bờ mép sắc gọn ở cằm bên trái, 01 vết thƣơng hở, sâu bờ mép sắc gọn ở cổ” (Bl 56-57).

Tại Bản giám định pháp y số 21/PY.08 ngày 17/01/2008, Phòng giám định pháp y Bệnh viện đa khoa Long An kết luận: “Nạn nhân Nguyễn Thị Ánh Hồng, sinh năm 1985, tử vong do bị vết thƣơng hở làm đứt ngang vùng cổ phía trƣớc gây choáng chấn thƣơng, mất máu cấp. Tổn thƣơng kèm theo: máu tụ dƣới da đầu và vùng cổ có thể dẫn đến choáng cho nạn nhân”.

Tại Bản giám định pháp y số 22/PY.08 ngày 17/01/2008, Phòng giám định pháp y Bệnh viện đa khoa Long An kết luận: “Nạn nhân Nguyễn Thị Thu Vân, sinh năm 1987, tử vong do bị vết thƣơng hở làm đứt ngang vùng cổ phía trƣớc gây choáng chấn thƣơng, mất máu cấp”.

Tại Công văn số 37/GĐ.PY.08 ngày 07/4/2008, Phòng giám định pháp y Bệnh viện đa khoa Long An, trả lời giải trình dấu vết trên cơ thể các nạn nhân nhƣ sau: “1. Nạn nhân Nguyễn Thị Ánh Hồng: vùng đầu, mặt có nhiều vết bầm tụ máu diện rộng, đồng thời có những vết rách da bờ mép sắc gọn (mô tả trong bản Giám định pháp y – xem ảnh trong bản ảnh). Điều đó chứng tỏ: vùng đầu, mặt của nạn nhân đã bị va đập vào những vật vừa có bờ mép hình thù cứng, trơn nhẵn, đồng thời ở đó cũng có các vật cứng sắc gọn và bị va đập nhiều lần. 2. Nạn nhân Nguyễn Thị Thu Vân: da đầu không bị rách, chỉ bị tụ máu dƣới da đầu vùng đỉnh, kích thƣớc khá rộng (6cmx3cm) xƣơng hộp sọ nguyên vẹn. Điều đó chứng tỏ: đỉnh đầu của nạn nhân bị va đập vào một vật có bề mặt lớn và vật đó không quá cứng (chỉ tổn thƣơng ở mức độ nhẹ) còn nếu vật đó cứng thì lực tác động phải nhẹ, mới không gây rách da đầu và vỡ xƣơng hộp sọ. 3. Cả 2 nạn nhân đều bị vết thƣơng hở, có bờ mép sắc gọn làm cắt đứt phần cổ trƣớc. Động tác, cơ chế hình thành vết thƣơng, cách thực hiện hành động, hung khí gây án, kích thƣớc, độ sâu vết thƣơng… tƣơng đối giống nhau. Tất cả những điều đó làm cho chúng ta suy nghĩ là vật sắc bén”

Kháng nghị của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, việc bị cáo dùng tay đánh vào mặt của chị Hồng thì không thể tạo ra các vết thƣơng “rách da bờ mép sắc gọn ở trên vùng mặt và trên cằm” là nhận định chủ quan và loại trừ các cơ chế hình thành vết thƣơng do dùng dao cắt, dùng thớt và ghế đập.

230

Nhƣ vậy, kết luận giám định và giải thích kết luận giám định đã cơ bản kết luận, giải thích rõ nguyên nhân dẫn đến cái chết của chị Hồng và chị Vân là do vật sắc bén cắt cổ. Các vết thƣơng còn lại chứng tỏ vùng đầu, mặt của nạn nhân Hồng bị va đập vào những vật vừa có bờ mép hình thù cứng, trơn nhẵn, đồng thời ở đó cũng có các vật cứng sắc gọn và bị va đập nhiều lần; nạn nhân Vân đỉnh đầu bị va đập vào một vật có bề mặt lớn và vật đó không quá cứng, còn nếu vật đó cứng thì lực tác động phải nhẹ, mới không gây rách da đầu và vỡ xƣơng hộp sọ. Các kết luận giám định và giải thích của Cơ quan giám định phù hợp với lời khai của Hải là dùng tay đấm vào mặt, dùng hung khí thớt, ghế để đập, xô đẩy nạn nhân vào tƣờng, dùng dao cắt cổ các nạn nhân; phù hợp với Bản ảnh hiện trƣờng, Biên bản khám nghiệm tử thi, nên có đủ cơ sở kết luận nguyên nhân chết của chị Hồng

và chị Vân là do Hải dùng dao cứa cổ. Việc điều tra lại làm rõ các tình tiết trên là không cần thiết.

[9] Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng mẫu

tàn tro được thu giữ không có giá trị chứng minh trong vụ án.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Cơ quan điều tra giải trình: việc tiến hành khám xét nhà Hải và lấy lời khai của Hải đƣợc tiến hành bởi hai Điều tra viên khác nhau; khi Hải khai về việc đốt quần áo mặc khi gây án thì Điều tra viên ghi lời khai Hải đã thông tin cho Điều tra viên chủ trì khám xét tiến hành khám xét mở rộng, phát hiện, thu giữ 02 đống tro trên.

Hồ sơ vụ án thể hiện, Biên bản ghi lời khai của Hồ Duy Hải lần đầu tiên bắt đầu từ 19 giờ 30 phút, kết thúc hồi 20 giờ 30 phút ngày 21/3/2008 do Điều tra viên Nguyễn Văn Minh tiến hành, Hải khai đốt quần áo, thắt lƣng mặc khi gây án… ở vƣờn sau nhà của Hải và nhà của dì út Len (Bl 83). Căn cứ Biên bản khám xét nhà Hải ngày 21/3/2008 do Điều tra viên Lê Thành Trung thực hiện, bắt đầu hồi 18 giờ 30 phút, kết thúc hồi 21 giờ 30 phút, thể hiện có việc khám xét mở rộng ở nền đất phía sau nhà bà Nguyễn Thị Loan (mẹ của Hải) và nhà bà Nguyễn Thị Len (dì của Hải), phát hiện phía sau nhà bà Nguyễn Thị Len có hai đống tro bị đốt cháy còn nằm kết dính trên nền đất, Cơ quan điều tra đã tiến hành thu hai đống tro này, cho vào hộp niêm phong (Bl 323-324).

Nhƣ vậy, có căn cứ kết luận sau khi Hải khai về tình tiết này, Cơ quan điều tra mới tiến hành khám xét mở rộng vì việc đốt quần áo ở một hiện trƣờng khác, hiện trƣờng này không thuộc phạm vi khám xét ban đầu, nếu không có lời khai của Hải thì Cơ quan điều tra không thể phát hiện đƣợc.

Theo Biên bản mở niêm phong ngày 05/4/2008 (Bl 325) và Biên bản xác định đồ vật ngày 15/8/2008 (Bl 133), Hải xác định đoạn dây da cháy là đoạn thắt lung của Hải đốt sau khi gây án; mảnh vải cháy dở màu đen sọc nhiễn là vải của quần vải màu đen đã khai trƣớc đây gây án; mảnh vải màu đen đã bị than hóa là vải của áo thun xanh đậm mặc gây án; mảnh vải nhỏ màu trắng ngà là vải áo thun mặc khi gây án nhƣng ở vị trí ngực có hàng chữ màu trắng.

Tại Kết luận giám định số 3200/C21B ngày 08/5/2008, Phân viện khoa học kỹ thuật hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: trong mẫu tàn than tro có thành phần vải và nhựa polyster.

Lời khai của Hải về việc đốt quần áo mặc khi gây án (Hải không khai về nguyên liệu làm thắt lƣng, quần áo) phù hợp với việc thu giữ 02 đống tro, phù hợp với việc xác định các đồ vật của Hải nêu trên, phù hợp với kết luận giám định về việc mẫu tàn tro có thành phần vải và nhựa polyster nên có giá trị chứng minh Hải có mặt tại hiện trƣờng và thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, kháng nghị của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng mẫu tàn tro đƣợc thu giữ không có giá trị chứng minh trong vụ án là không đúng.

[10] Kháng nghị giám đốc thẩm cho rằng có mâu thuẫn về việc tiêu thụ tài sản.

231

Lúc đầu Hải khai, bán điện thoại cho một thanh niên lạ mặt đƣợc 200 ngàn đồng, bán nữ trang đƣợc 3 triệu không nhớ tiệm cùng ở Thành phố Hồ Chí Minh (Bl 82); sau đó Hải khai: bán điện thoại cho một thanh niên lạ mặt đƣợc 200.000 đồng, bán nữ trang cho một thanh niên lạ mặt khác đƣợc 3 triệu đồng (Bl 120); rồi lại khai: bán điện thoại cho một cô gái trên đƣờng Hùng Vƣơng đƣợc 200.000 đồng, bán nữ trang cho một cô gái ở tiệm thứ 2 đƣợc 3,5 triệu đồng (Bl 120, 113); Cơ quan điều tra không làm rõ đƣợc địa điểm, ngƣời tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có theo lời khai của bị cáo.

Nhận thấy, quá trình điều tra, Hải có nhiều lời khai nhận, sau khi giết chị Hồng, chị Vân, Hải lên phòng giao dịch mở tủ lấy khoảng 1.400.000 đồng; khoảng 40-50 sim, card điện thoại, lấy điện thoại Nokia 1100 bỏ vào túi quần. Sau đó, Hải đến chỗ xác chị Vân lấy 01 dây chuyền vàng không có mặt, 01 vòng đeo tay bằng vàng và 01 nhẫn vàng; lấy ở xác chị Hồng 01 đôi hoa tai vàng, 01 sợi dây chuyền vàng mặt bông hoa, 01 lắc đeo tay vàng và 02 nhẫn vàng. Lời khai của Hải về chiếm đoạt những tài sản trên phù hợp với lời khai của ông Nguyễn Văn Mừng là bố đẻ của chị Hồng về tài sản bị mất của chị Hồng (Bl 158); phù hợp lời khai của ông Nguyễn Văn Hộ là bố đẻ của chị Vân về các tài sản bị mất của chị Vân (Bl 160), ngoài ra ông Hộ còn khai “…tôi nhận xác (Vân) kiểm tra lại thì còn… một mặt dây chuyền rơi lại trên ngƣời của Vân do công an giao trả” (Bl 162); phù hợp lời khai của chị Lê Thị Thu Hiếu và lời khai của anh Nguyễn Mi Sol (là bạn của chị Hồng, chị Vân); phù hợp lời khai của ông Đinh Phú Hùng là Giám đốc Trung tâm Bƣu điện huyện Thủ Thừa (Bl 223) về các tài sản của Bƣu điện Cầu Voi bị mất. Cơ quan điều tra đã cho Hải nhận dạng các tài sản có đặc điểm tƣơng tự tài sản mà Hải chiếm đoạt (theo mô tả của Hải và những ngƣời làm chứng), tại các biên bản nhận dạng (Bl 136, Bl 150-157), Hải đều xác định những tài sản do Hải chiếm đoạt phù hợp với lời khai của những ngƣời làm chứng nêu trên. Do đó, có cơ sở xác định, Hải đã chiếm đoạt những tài sản trên của các bị hại.

Những mâu thuẫn trong lời khai về việc tiêu thụ tài sản nhƣ kháng nghị nêu đã đƣợc Hải xác định và nêu lý do khai không thống nhất tại Bản tự khai ngày 05/7/2008 (Bl 112-113), Biên bản hỏi cung ngày 07/7/2008 và ngày 11/7/2008 (Bl 100-101, 116-121). Tại Bản tự khai ngày 05/7/2008, Hải khai chi tiết và vẽ sơ đồ về vị trí Hải đã bán nữ trang (vàng), điện thoại và nơi vứt sim, card điện thoại. Trên cơ sở đó, Cơ quan điều tra tiến hành xác minh, làm rõ, cụ thể:

232

Về địa điểm bán vàng: theo lời khai của Hải và sơ đồ do Hải vẽ thì Hải bán vàng tại quầy số 2 Cửa hàng bán vàng bạc số 50 An Dƣơng Vƣơng, Phƣờng 9, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Xác minh tại Cửa hàng số 50 An Dƣơng Vƣơng thì chị Nguyễn Kim Chi là nhân viên cửa hàng khai: quầy hàng của tôi đứng thuộc cửa số 2… tôi đứng ở tủ hàng phía bên trái tính theo hƣớng từ ngoài đƣờng An Dƣơng Vƣơng nhìn vào cửa hàng… (Bl 169); bà Đặng Thị Liên là chủ cửa hàng khai: nếu vàng của cửa hàng mua vào thì không có hóa đơn, còn vàng không phải cửa hàng thì khi mua vào sẽ có hóa đơn tính tiền cho khách hàng (Bl 171); lời

khai của Hải phù hợp với lời khai của ngƣời làm chứng về địa điểm bán vàng và việc sau khi đồng ý bán vàng, Hải nhận tiền, giấy biên nhận.

Về địa điểm bán điện thoại: tại biên bản lấy lời khai ngày 15/7/2008, chị Nguyễn Thị Huệ là chủ cửa hàng mua bán điện thoại di động tại số 124 Hùng Vƣơng, Phƣờng 2, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh khai: thời điểm tháng 1/2008 có mua điện thoại loại Nokia 1100 với giá 200.000 đồng (Bl 178), phù hợp với lời khai của Hải về địa điểm bán, giá bán loại điện thoại này, lời khai ông Đinh Phú Hùng về việc Bƣu điện Cầu Voi bị mất điện thoại Nokia 1100 (Bl 223-224) và phù hợp với kết quả xác minh ngày 15/7/2008 của Công an Phƣờng 2, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (Bl 174).

Về địa điểm vứt sim card: bản tự khai ngày 05/7/2008 của Hải kèm sơ đồ do Hải vẽ, lời khai của Hải ngày 11/7/2008 (Bl 120) thể hiện, Hải vứt bỏ sim card vào bọc rác (do ngƣời dân để) trong hẻm trên đƣờng Trần Bình Trọng, đối diện đầu hẻm này có nhà thờ. Kết quả xác minh ngày 07/7/2008 của Công an Phƣờng 2, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh (Bl 175) phù hợp với lời khai trên của Hải.

Từ những nhận định trên cho thấy, chỉ ngƣời đi bán tài sản mới biết đƣợc những cụ thể địa điểm bán tài sản. Những nội dung này đã đƣợc xác minh, làm rõ nên không cần thiết phải điều tra lại.

[11] Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, Hải lần đầu vào phía trong của Bưu điện Cầu Voi với thời gian rất ngắn nhưng lại khai rất chi tiết các đồ vật có trong từng căn phòng.

Việc Hồ Duy Hải mô tả đƣợc chi tiết các phòng và các đồ vật trong Bƣu điện

233

Cầu Voi đã đƣợc phân tích tại phần nhận định nêu trên [mục 1]. Trƣớc khi ban hành Cáo trạng, Viện kiểm sát lấy lời khai của Hải và tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm, Hải khai sở dĩ biết đƣợc các chi tiết nhƣ trên là do anh Nguyễn Thanh Hải – Công an viên của xã Nhị Thành kể lại. Nhƣng cũng tại bản cung này, khi Kiểm sát viên hỏi Hải cho điều tra xác minh, đối chất với anh Nguyễn Thanh Hải thì Hải lại khai “không cần, sự kiện trên là không có thật do tôi sợ xử nên tôi kéo dài thời gian xét xử”. Mặc dù vậy, để làm rõ hơn nội dung này, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An đã xác minh, lấy lời khai của anh Nguyễn Thanh Hải vào ngày 20/11/2008 thể hiện, khi Cơ quan điều tra khám nghiệm hiện trƣờng, anh Nguyễn Thanh Hải giữ trật tự bên ngoài bƣu điện, sau khi vụ án xảy ra anh cũng không gặp Hồ Duy Hải và không kể gì về vụ án cho Hải nghe. Lời khai của anh Nguyễn Thanh Hải phù hợp Biên bản khám nghiệm hiện trƣờng thể hiện không có anh Nguyễn Thanh Hải tham gia. Vì thế, lời khai của Hải về việc nghe anh Nguyễn Thanh Hải kể lại chi tiết các phòng, đồ vật có trong Bƣu điện Cầu Voi là không có cơ sở. Mặt khác, Hải có mặt tại hiện trƣờng từ khoảng 19 giờ 30 phút đến khoảng 21 giờ 30 phút ngày 13/01/2008, khoảng thời gian này không phải là quá ngắn; với diện tích phòng khách của Bƣu điện Cầu Voi có kích thƣớc 4,6m x 5,6m không lớn và trong điều kiện có ánh sáng điện. Do đó, việc Hải khai chi tiết các đồ vật có trong hiện trƣờng vụ án là có căn cứ nên không cần thiết phải điều tra lại vấn đề này.

[12] Việc Hồ Duy Hải về nhà sau khi gây án Kháng nghị của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, có sự mâu thuẫn về thời gian sau khi gây án: lúc đầu Hải khai, về nhà cửa không khóa, vào nhà ngủ không ai biết (Bl 82); sau đó Hải khai: tự lấy chìa khóa mở cửa vào nhà (Bl 84); rồi lại khai: khi về nhà cửa còn mở, tôi tự dẫn xe vào rồi kêu Nguyễn con dì Út đóng cửa dùm (Bl 87).

Xét thấy, tình tiết này không phải là mâu thuẫn về thời gian nhƣ kháng nghị nêu mà là lời khai của Hải về hành vi ở hiện trƣờng khác và ở thời điểm sau khi vụ án xảy ra, nên không có ý nghĩa chứng minh hành vi phạm tội của Hải, việc điều tra lại vấn đề này là không cần thiết.

[13] Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, hai

bản án xác định chiếc ghế được thu giữ là công cụ phạm tội

Thực tế chiếc ghế đó không liên quan đến vụ án; hai đồ vật là con dao và cái thớt thu giữ đƣợc (do anh Nguyễn Văn Thu và chị Lê Thị Thu Hiếu cung cấp) không có giá trị chứng minh về công cụ gây án của ngƣời phạm tội.

Về vấn đề này, qua nghiên cứu Bản án hình sự sơ

thẩm số 97/2008/HSST ngày 01/12/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An và Bản án hình sự phúc thẩm số 281/2009/HSPT ngày 28/4/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử không xác định chiếc ghế thu đƣợc là công cụ phạm tội. Do đó, nhận định trên của kháng nghị là không đúng với bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm. Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã thừa nhận sai sót này và đề nghị đƣợc đính chính kháng nghị về nội dung này.

Kết quả khám nghiệm hiện trƣờng vụ án thể hiện có chiếc thớt dính máu để ở gần nạn nhân Hồng và chiếc ghế xếp mà nạn nhân Vân gác chân lên, không phát hiện con dao đƣợc nhét vào sau tấm bảng treo đối diện cầu thang. Khi khám nghiệm hiện trƣờng, Cơ quan điều tra chƣa thể biết đƣợc hung thủ dùng thớt, ghế để gây án cho đến khi Hồ Duy Hải khai chính Hải khai đã dùng thớt, ghế, dao làm công cụ gây án. Lời khai của Hải phù hợp với kết quả khám nghiệm hiện trƣờng, phù hợp với vị trí con dao khi các anh Nguyễn Văn Thu, Võ Văn Hùng, Nguyễn Văn Vàng và Nguyễn Tuấn Ngọc phát hiện đƣợc trong lúc dọn dẹp hiện trƣờng vào ngày 14/01/2008.

234

Mặc dù, Hải có lời khai mô tả đặc điểm chiếc thớt không thống nhất về bề dày, kích thƣớc, nhƣng căn cứ vào bản ảnh hiện trƣờng có chiếc thớt; lời khai của chị Lê Thị Thu Hiếu (là bạn của chị Hồng và chị Vân) đã nhìn thấy và sử dụng chiếc thớt này; lời khai của anh Nguyễn Mi Sol (là bạn của chị Hồng); lời khai của các anh Nguyễn Văn Thu, Võ Văn Hùng, Nguyễn Văn Vàng, Nguyễn Tuấn Ngọc là những ngƣời phát hiện ra con dao, Cơ quan điều tra đã yêu cầu chị Hiếu mua chiếc thớt tƣơng tự nhƣ chiếc thớt chị Hiếu và anh Sol đã nhìn thấy và có ở hiện trƣờng; yêu cầu anh Thu mua 01 con dao có đặc điểm tƣơng tự nhƣ những ngƣời làm chứng trên và Hải mô tả. Tại Biên bản nhận dạng (Bl 134), Hải nhận dạng đƣợc chiếc thớt này có đặc điểm tƣơng tự nhƣ chiếc thớt Hải dùng để gây án, phù hợp với mô tả đặc điểm

chiếc thớt của chị Hiếu, anh Sol và bản ảnh hiện trƣờng vụ án. Tại Biên bản nhận dạng (Bl 144), Hải nhận dạng đƣợc con dao có đặc điểm, kích thƣớc tƣơng tự con dao mà Hải dùng để gây án, phù hợp với việc mô tả đặc điểm con dao mà các ngƣời làm chứng phát hiện đƣợc tại hiện trƣờng vụ án. Điều đó có ý nghĩa chứng minh lời khai của Hải đã dùng dao và thớt để gây án là có cơ sở. Việc mua dao, thớt là có thật nhƣng để phục vụ cho nhận dạng vật tƣơng tự và thực nghiệm điều tra, các cơ quan tiến hành tố tụng không xác định những đồ vật này là vật chứng của vụ án.

[14] Về việc xác định thời điểm chết của các nạn nhân Khám nghiệm tử thi ghi nhận “Bụng… dạ dày có chứa thức ăn đã nhuyễn, lƣợng ít…” (Bl 60), nhƣng Cơ quan điều tra không giám định thời điểm chết của các nạn nhân là thiếu sót nhƣ Kháng nghị của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nêu. Tuy nhiên, theo trình bày của Giám định viên tại phiên tòa giám đốc thẩm thì trong trƣờng hợp trên chỉ giám định xác định đƣợc nạn nhân chết trong khoảng thời gian bao lâu kể từ bữa ăn cuối mà không giám định đƣợc thời điểm chết của nạn nhân. Mặt khác, căn cứ lời khai nhận tội của Hải, Biên bản khám nghiệm hiện trƣờng, Biên bản khám nghiệm tử thi, lời khai của các nhân chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án thì đủ cơ sở khẳng định Hải là ngƣời thực hiện hành vi giết chị Hồng và chị Vân. Thiếu sót nêu trên không thay đổi bản chất vụ án nên không cần thiết phải điều tra lại.

[15] Về thủ tục khám nghiệm hiện trường và khám nghiệm tử thi Kháng nghị giám đốc thẩm cho rằng, khám nghiệm hiện trƣờng kết thúc hồi 13 giờ 10 phút ngày 14/01/2008; khám nghiệm tử thi Vân bắt đầu hồi 11 giờ 40 phút, khám nghiệm tử thi Hồng bắt đầu hồi 12 giờ 10 phút, đều do Điều tra viên Lê Thành Trung thực hiện là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng vì cùng một ngƣời, cùng một lúc vừa thực hiện khám nghiệm hiện trƣờng vừa thực hiện khám nghiệm hai tử thi.

Về vấn đề này, tại phiên tòa giám đốc thẩm, Cơ quan điều tra đã trình bày, việc khám nghiệm hiện trƣờng và khám nghiệm tử thi là cùng địa điểm tại Bƣu điện Cầu Voi; khi khám nghiệm tử thi Hồng và tử thi Vân thì ngoài Điều tra viên Lê Thành Trung còn có Điều tra viên Nguyễn Văn Minh tham gia.

235

Tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng thể hiện: khám nghiệm hiện trƣờng bắt đầu hồi 08 giờ 10 phút, kết thúc hồi 13 giờ 10 phút ngày 14/01/2008, thành phần tham gia khám nghiệm ngoài Điều tra viên Lê Thành Trung còn có các cán bộ khác của Phòng kỹ thuật hình sự; khám nghiệm tử thi Vân bắt đầu hồi 11 giờ 40 phút, kết thúc hồi 12 giờ 10 phút ngày 14/01/2008; khám nghiệm tử thi Hồng bắt đầu hồi 12 giờ 10 phút, kết thúc hồi 13 giờ ngày 14/01/2008, đều đƣợc tiến hành tại Bƣu điện Cầu Voi. Về thành phần khám nghiệm tử thi thì ngoài hai Điều tra viên Lê Thành Trung, Nguyễn Văn Minh còn có các bác sỹ pháp y của Phòng giám định pháp y Long An thực hiện. Nhƣ vậy, việc khám nghiệm hiện trƣờng, khám nghiệm tử thi Vân và Hồng đều cùng một địa điểm, đúng thành phần, nên đây không phải vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nhƣ kháng nghị của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nêu.

[16] Về lời khai ngày 20/3/2008 của Hồ Duy Hải, lời khai của người làm chứng Phùng Phụng Hiếu và lời khai của các đối tượng tình nghi Nguyễn Văn Nghị, Nguyễn Mi Sol.

Theo trình bày của Cơ quan điều tra tại phiên tòa giám đốc thẩm: tại lời khai đầu tiên của Hồ Duy Hải ngày 20/3/2008, Hải trình bày về việc sử dụng thời gian ngày 13/01/2008. Kết quả xác minh, Hải khai không đúng sự thật nên Cơ quan điều tra không đƣa vào hồ sơ xét xử vụ án, nhƣng đƣợc lƣu trong hồ sơ nghiệp vụ của Cơ quan Công an. Quá trình xác minh, Cơ quan điều tra đã xác minh nhiều đối tƣợng nghi vấn, trong đó có Nguyễn Văn Nghị và Nguyễn Mi Sol, nhƣng đã làm rõ những đối tƣợng này không liên quan đến vụ án, nên Cơ quan điều tra không đƣa vào hồ sơ vụ án mà đƣợc lƣu trong hồ sơ nghiệp vụ của Cơ quan Công an. Cơ quan điều tra cũng đã lấy lời khai của anh Phùng Phụng Hiếu (là ngƣời đầu tiên phát hiện ra vụ án) nhƣng không lƣu trong hồ sơ vụ án mà đƣợc lƣu trong hồ sơ hồ sơ nghiệp vụ của Cơ quan Công an. Việc không lƣu các lời khai này trong hồ sơ vụ án là thiếu sót của Cơ quan điều tra. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Cơ quan điều tra đã công bố những tài liệu này cho Hội đồng giám đốc thẩm. Qua xem xét những tài liệu nêu trên, tuy không đƣợc lƣu trong hồ sơ vụ án theo quy định của pháp luật nhƣng nội dung của những tài liệu này không làm ảnh hƣởng đến bản chất vụ án nên không cần thiết điều tra lại.

[17] Đối với nội dung kháng nghị giám đốc thẩm cho rằng, một số biên bản nhận dạng không có ngƣời chứng kiến (Bl 133, 144, 211, 213-222, 232, 238, 244, 253); một số biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung có sửa chữa, nhƣng không có chữ ký xác nhận của ngƣời khai (Bl 85, 97, 250). Qua kiểm tra hồ sơ vụ án và thẩm tra công khai tại phiên tòa giám đốc thẩm thì thấy đây là các sai sót, vi phạm thủ tục tố tụng của Cơ quan điều tra. Tuy nhiên, tại các biên bản hỏi cung ngày 07/7/2008 và ngày 11/7/2008 (Hải khai nhận cụ thể hành vi phạm tội của mình) không có các vi phạm nêu trên. Mặt khác, tại Bản án hình sự sơ thẩm và Bản án hình sự phúc thẩm cũng không viện dẫn, trích các bút lục có vi phạm để làm chứng cứ kết tội bị cáo. Do đó, những vi phạm, sai sót nêu trên không phải vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và không làm thay đổi bản chất vụ án nên không cần thiết phải điều tra lại.

[18] Từ những nhận định nêu trên, xét thấy: Trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ, Cơ quan điều tra có một số vi phạm, thiếu sót trong việc khám nghiệm hiện trƣờng, thu giữ vật chứng, giám định pháp y và nhận dạng nhƣ:

236

Không thu giữ các vật chứng gây án khi khám nghiệm hiện trƣờng (con dao, chiếc thớt, chiếc ghế inox); Ghi nhận không chính xác về hung khí gây án: Biên bản khám nghiệm hiện trƣờng ghi mã số tem đảm bảo chất lƣợng của ghế là HNP2 447052, biên bản thu giữ chiếc ghế ghi HPM3 44705 đều không chính xác vì ảnh chụp hiện trƣờng thể hiện rõ chiếc ghế xếp khung inox có số tem đảm bảo chất lƣợng là HPM2 447052; không trƣng cầu giám định ngay dấu vết máu thu đƣợc khi khám

nghiệm hiện trƣờng mà để hơn 04 tháng sau mới trƣng cầu giám định dẫn đến máu bị phân hủy, không giám định đƣợc; không ra quyết định trƣng cầu để xác định thời điểm chết của nạn nhân.

Biên bản nhận dạng của anh Đinh Vũ Thƣờng, anh Nguyễn Mi Sol không có ngƣời chứng kiến; Biên bản ghi lời khai của chị Lê Thị Thu Hiếu có sửa chữa nhƣng không có chữ ký xác nhận của ngƣời khai (nội dung sửa chữa là sửa lỗi chính tả); Không đƣa vào hồ sơ vụ án một số tài liệu nhƣ: các biên bản ghi lời khai ngƣời làm chứng Đinh Vũ Thƣờng, Nguyễn Mi Sol trƣớc ngày phát hiện ra Hồ Duy Hải; lời khai của các anh Phùng Phụng Hiếu, Nguyễn Mi Sol, Nguyễn Văn Nghị và lời khai của Hồ Duy Hải (04 bản cung, 23 bản tƣờng trình, bản tự khai, sơ đồ do Hải vẽ, viết, trong đó có lời khai ngày 20/3/2008).

Kháng nghị của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về những vấn đề nêu trên là đúng. Tuy nhiên, những vi phạm, thiếu sót này không làm ảnh hƣởng đến việc xác định bản chất của vụ án. Kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Long An tổ chức kiểm điểm nghiêm túc về những vi phạm, sai sót trên.

Một số nội dung Kháng nghị của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là không chính xác, một số nội dung kháng nghị cho rằng có những mâu thuẫn chƣa đƣợc làm rõ thì đã đƣợc thu thập đầy đủ trong quá trình điều tra nên không cần thiết phải điều tra lại; một số nội dung kháng nghị yêu cầu điều tra lại không có ý nghĩa trong việc chứng minh tội phạm nhƣ đã phân tích ở các phần trên.

[19] Trên cơ sở xem xét, đánh giá một cách thận trọng, khách quan và toàn diện các chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội; căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra, xét xử ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm nhận thấy: trong quá trình điều tra, Hải có 25 lời khai, trong đó có 03 lời khai do Viện kiểm sát nhân dân tiến hành ở giai đoạn truy tố, 03 lời khai có Kiểm sát viên và Luật sƣ bào chữa tham gia, Hải đều khai nhận giết chị Nguyễn Thị Ánh Hồng và chị Nguyễn Thị Thu Vân, sau đó lấy tài sản của chị Hồng, chị Vân và một số tài sản của Bƣu điện Cầu Voi.

Ngay khi nhận Quyết định khởi tố bị can (Bl 17), Hải đồng ý các nội dung trong Quyết định; khi nhận Kết luận điều tra (Bl 381) Hải đồng ý với nội dung trong Bản kết luận điều tra; khi nhận Cáo trạng (Bl 525) Hải tự đọc Cáo trạng và khẳng định nội dung trong Cáo trạng là đúng nhƣ Hải đã làm. Tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thẩm vấn thì bị cáo nhận tội; khi Luật sƣ và đại diện Viện kiểm sát hỏi, Hải lại khai không có hành vi giết chị Hồng, chị Vân và không chiếm đoạt tài sản nhƣ Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố, nhƣng không lý giải đƣợc lý do chối tội. Sau khi xét xử sơ thẩm, Hải có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, có lúc Hải nhận tội, có lúc không nhận tội.

237

Sau khi xét xử phúc thẩm, Hải có đơn xin ân giảm hình phạt tử hình, không kêu oan (Đơn xin tha tội chết đề ngày 04/5/2009). Trƣớc khi trình Chủ tịch nƣớc bác đơn xin ân giảm hình phạt tử hình, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tiến hành xác minh, lấy lời khai của Hồ Duy Hải trong trại tạm giam, Hải nhận tội và tỏ ra ân

hận về hành vi tội lỗi của mình. Nhƣ vậy, trong những thời điểm quan trọng thì Hải đều thừa nhận hành vi phạm tội và mong muốn đƣợc giảm hình phạt.

[20] Quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm không có việc mớm cung, bức cung, ép cung, nhục hình đối với Hải, không có cơ sở chứng minh Hải ngoại phạm. Nhiều tình tiết thể hiện chỉ ngƣời thực hiện hành vi phạm tội mới có thể đƣa ra đƣợc lời khai phù hợp với hiện trƣờng vụ án, diễn biến sự việc và kết quả giám định. Những vấn đề kháng nghị giám đốc thẩm nêu ra sau khi đƣợc phân tích, lý giải càng làm rõ hơn hành vi phạm tội của Hải. Với những lý do đã nêu trên, đủ cơ sở để khẳng định:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 13/01/2008, Hồ Duy Hải đến Bƣu điện Cầu Voi bằng chiếc xe Dream biển kiểm soát 62F5-0842, Hải đậu xe phía trong cổng rào và đi vào phòng giao dịch gặp chị Nguyễn Thị Thu Vân đang ngồi trực. Sau đó vào phòng trong ngồi giữa ghế salon, chị Nguyễn Thị Ánh Hồng (nhân viên bƣu điện) lên ngồi nói chuyện với Hải và mời Hải uống nƣớc. Quá trình ngồi nói chuyện với chị Hồng, Hải mƣợn điện thoại Nokia 1100 của Bƣu điện dùng để nạp Card cho khách hàng để bấm các chức năng máy một lúc rồi bỏ trên bàn.

Đến khoảng 20 giờ 30 phút, Bƣu điện nghỉ, chị Vân vào phòng trong nơi Hải và chị Hồng đang ngồi, do nảy sinh ý định quan hệ tình dục với chị Hồng nên Hải đã đƣa tiền cho chị Vân đi mua trái cây. Khi chị Vân đi, Hải nắm tay kéo chị Hồng vào buồng, Hải đẩy chị Hồng nằm ngửa xuống đi văng loại xếp. Hải dùng hai tay nắm hai tay chị Hồng, chị Hồng phản ứng dùng chân đạp vào bụng Hải, Hải buông chị Hồng ra, chị Hồng ngồi dậy chạy về phía sau cầu thang (khu vực bếp nấu ăn), Hải đuổi theo, kéo tay chị Hồng xô vào góc tƣờng gần chân cầu thang, chị Hồng kêu lên, Hải sợ bị phát hiện nên Hải dùng tay đánh vào mặt, bóp cổ và đẩy chị Hồng ngã xuống sàn gạch rồi dùng thớt tròn đập vào vùng mặt và vùng đầu làm chị Hồng bị ngất. Sau đó, Hải lấy con dao inox dài 30cmx3cm trên mặt bàn nấu ăn, tay phải cầm dao, tay trái nắm tóc chị Hồng rồi cắt qua lại 02 cái vào cổ chị Hồng. Thấy chị Hồng nằm im, Hải đi vòng ra phía sau nhà vệ sinh rửa dao và tay cho sạch máu. Hải dắt dao vào lƣng quần phía trƣớc bụng đi vào nhà, đến cầu thang thì thấy chị Vân đi mua trái cây về. Chị Vân kéo cửa sắt xuống đóng cửa, đi vào nhà đặt túi trái cây trên bàn salon. Lúc này, Hải nảy sinh ý định giết chị Vân để bịt đầu mối. Hải cầm ghế xếp inox thủ sẵn, khi chị Vân vừa xuống phòng sau thấy chị Hồng bị cắt cổ chết, chị Vân sợ chạy ngƣợc trở lại phòng khách, Hải đuổi theo, dùng ghế đánh vào đầu làm chị Vân ngã xuống nền gạch. Hải đem ghế để tại chân cầu thang nơi để xác chị Hồng, rồi quay ra dùng tay xốc nách chị Vân, kéo đến chỗ xác chị Hồng, Hải đặt đầu chị Vân nằm trên ngƣời chị Hồng và lấy con dao inox đang dắt ở lƣng quần phía trƣớc bụng cắt vào cổ chị Vân 02-03 cái. Khi cắt cổ chị Vân, máu bắn vào quần áo nên Hải đi vào phòng vệ sinh rửa tay, rửa dao và quẹt sạch các vết máu trên quần áo rồi nhét dao vào phía sau tấm bảng ở sát vách tƣờng gần cầu thang.

238

Sau khi thực hiện hành vi giết chị Hồng và chị Vân, Hải lên phòng giao dịch mở tủ lấy khoảng 1.400.000 đồng; khoảng 40-50 sim, card điện thoại, đến

bàn salon lấy điện thoại Nokia 1100 bỏ vào túi quần. Hải đi dép vào và đến gầm cầu thang chỗ xác chị Vân lấy 01 dây chuyền vàng không có mặt, 01 vòng đeo tay bằng vàng và 01 nhẫn vàng; lấy ở xác chị Hồng 01 đôi hoa tai vàng, 01 sợi dây chuyền vàng mặt bông hoa, 01 lắc đeo tay vàng và 02 nhẫn vàng kiểu. Hải leo qua hàng rào ngăn giữa sân phía sau và sân trƣớc, lấy xe rồi chạy về hƣớng nhà dì ruột Nguyễn Thị Len. Sau đó, Hải tắm, giặt quần áo, lấy số nữ trang rửa sạch rồi bọc nilon cất. Ngày 18/01/2008, Hải mang số nữ trang, điện thoại, sim card lấy của chị Hồng, chị Vân lên Thành phố Hồ Chí Minh bán. Hải bán điện thoại đƣợc 200.000 đồng; bán nữ trang đƣợc 3.500.000 đồng; riêng số sim card, Hải bỏ vào bọc rác phi tang. Sau khi gây án một tuần, Hải sợ bị phát hiện nên lấy quần áo mặc hôm gây án và dây lƣng ra đốt ở vƣờn sau nhà bà Len.

[21] Nhƣ vậy, các lời nhận tội của bị cáo và những chứng cứ tài liệu thu thập đƣợc đã đƣợc các cơ quan tiến hành tố tụng từ cấp sơ thẩm, phúc thẩm và Đoàn liên ngành Trung ƣơng thẩm định, đánh giá và khẳng định: do không đáp ứng đƣợc mục đích quan hệ tình dục với chị Hồng, bị chị Hồng phản ứng và đạp mạnh vào bụng của Hải, Hải bực tức và sợ bị phát hiện nên đã giết chị Hồng. Khi chị Vân đi mua trái cây về, phát hiện thấy xác chị Hồng, Hải đã giết chị Vân để bịt đầu mối. Sau đó, Hải đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm kết án Hồ Duy Hải về tội “Giết ngƣời” và “Cƣớp tài sản” là có căn cứ, không oan; xử phạt Hồ Duy Hải tử hình về tội “Giết ngƣời” và 05 năm tù về tội “Cƣớp tài sản”, tổng hợp hình phạt chung của hai tội là tử hình, là đúng pháp luật.

Mặc dù, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử có những thiếu sót, vi phạm nhƣng những thiếu sót, vi phạm này không phải là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và không làm thay đổi bản chất của vụ án. Do vậy, không cần thiết phải huỷ bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm để điều tra lại theo kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

239

[22] Về thủ tục tố tụng của Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm Sau khi xét xử phúc thẩm, Hồ Duy Hải không có đơn đề nghị xem xét Bản án hình sự phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm, chỉ có đơn gửi Chủ tịch nƣớc xin ân giảm hình phạt tử hình. Theo quy định tại khoản 2 Điều 258 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (nay là điểm e khoản 1 Điều 367 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) thì “Bản án tử hình đƣợc thi hành nếu Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm và ngƣời bị kết án không có đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nƣớc”; “Trƣờng hợp ngƣời bị kết án có đơn xin ân giảm hình phạt tử hình thì bản án tử hình đƣợc thi hành sau khi Chủ tịch nƣớc bác đơn xin ân giảm”. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có Quyết định không kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên đối với Hồ Duy Hải và Tờ trình đề nghị Chủ tịch nƣớc bác đơn xin ân giảm án tử hình của Hồ Duy Hải. Trên cơ sở đó, Chủ tịch nƣớc đã có Quyết định số 639/QĐ-CTN ngày 17/5/2012 bác đơn xin ân giảm án tử hình của Hồ Duy Hải. Ngày 24/7/2019, Văn phòng Chủ tịch nƣớc có Công văn số 688/VPCTN-

PL-m, thông báo ý kiến của Chủ tịch nƣớc, đề nghị Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét, quyết định theo thẩm quyền, bảo đảm đúng quy định của pháp luật đối với vụ án Hồ Duy Hải. Pháp luật tố tụng hình sự quy định, các quyết định tố tụng hình sự chỉ đƣợc thay thế, hủy bỏ bằng một quyết định tố tụng hình sự khác của cấp có thẩm quyền, chứ không thể thay thế bằng một văn bản hành chính.

Trong khi Quyết định của Chủ tịch nƣớc bác đơn xin ân giảm án tử hình của Hồ Duy Hải đang có hiệu lực thi hành nhƣng Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao lại có quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án hình sự sơ thẩm và Bản án hình sự phúc thẩm là vi phạm pháp luật tố tụng hình sự, không đúng thẩm quyền, không đúng với nội dung thông báo yêu cầu của Chủ tịch nƣớc “bảo đảm đúng quy định của pháp luật” tại Công văn nói trên. Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định về thủ tục tố tụng trong trƣờng hợp Chủ tịch nƣớc đã có quyết định bác đơn xin ân giảm hình phạt tử hình nên các cơ quan tố tụng không đƣợc phép thực hiện các hành vi tố tụng khác, trừ các quyết định về thi hành án. Do đó, không có cơ sở chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Bản án hình sự phúc thẩm số 281/2009/HSPT ngày 28/4/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã có hiệu lực pháp luật từ ngày 28/4/2009.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 5 Điều 382, khoản 1 Điều 388 và Điều 389 Bộ luật Tố tụng

hình sự;

Không chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 15/QĐ-VKSTC-

TM. HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN CHÁNH ÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA Nguyễn Hòa Bình

Nơi nhận: - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Bị cáo Hồ Duy Hải; - Trại tạm giam Công an tỉnh Long An; - Viện KSND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh; - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An; - Tòa án ND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh; - Tòa án nhân dân tỉnh Long An; - Lƣu: hồ sơ vụ án, VP.

240

V7 ngày 22/11/2019 của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao./.

PHỤ LỤC 18 Quyết định kháng nghị tái thẩm số 02/QĐ-VKSTC-V3 ngày 02/11/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO Số: 02/QĐ-VKSTC-V3

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập –Tự do – Hạnh phúc Hà Nội, ngày 02 tháng 11 năm 2013

KHÁNG NGHỊ TÁI THẨM VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

Căn cứ Điều 291, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; Xét bản án hình sự phúc thẩm số 1241/PTHS ngày 27/7/2004 của Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã xét xử bị cáo Nguyễn Thanh Chấn sinh năm 1961; đăng ký nhân khẩu thƣờng trú tại thôn Me, xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp làm ruộng; con ông Nguyễn Hữu Phấn (Liệt sỹ) và bà Phạm Thị Vì sinh năm 1942; có vợ là chị Nguyễn Thị Chiến sinh năm 1965 và có 04 con; tiền án, tiền sự: không, về tội “Giết ngƣời” ở tỉnh Bắc Giang.

NHẬN THẤY

241

Theo bản án hình sự phúc thẩm, nội dung vụ án nhƣ sau: Gia đình Nguyễn Thanh Chấn có một quán bán hàng ở gần sân bóng thôn Me, xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Chiều ngày 15/8/2003, địa phƣơng có tổ chức đá bóng. Khoảng gần 19 giờ, sau khi tan bóng đá vợ Chấn là chị Nguyễn Thị Chiến có bảo Chấn đi xin nƣớc về phục vụ bán hàng. Chấn dùng xe đạp thồ hai thùng nhựa màu trắng để đi xin nƣớc. Trên đƣờng đi qua quán nhà chị Nguyễn Thị Hoan, Chấn có nhìn thấy mẹ con chị Hoan ở trong nhà, Chấn đạp xe đến quán nhà anh Minh thấy tắt điện, cửa khóa không có ai, Chấn đi về phía sau giếng, lúc này Chấn nảy sinh ý định sang nhà chị Hoan gạ gẫm để giao cấu. Chấn dựng chiếc xe đạp ở thành giếng và bỏ đôi dép lê ở sân giếng nhà anh Minh rồi đi bộ tắt qua vƣờn khoai lang và ớt vòng về phía sau vào sân giếng nhà chị Hoan. Chấn nhìn thấy con chị Hoan nằm ở trên giƣờng, chị Hoan đang lúi húi trƣớc tủ quần áo, Chấn vào nói "Hoan cho anh một cái" (ý nói chị Hoan cho giao cấu) nhƣng chị Hoan không đồng ý và nói "anh đừng lằng nhằng, vớ vẩn". Chấn lao vào ôm chị Hoan từ phía sau lƣng, hai tay vòng lên ngực, sờ vào vú chị Hoan, chị Hoan chằn lên, chằn xuống chống cự lại đồng thời chị Hoan cúi xuống lấy vỏ chai bia Habađa gần đó đập thẳng vào Chấn, Chấn dùng tay đỡ và giằng đƣợc vỏ chai bia. Sau đó, Chấn dùng chai bia đập vào gáy chị Hoan, chai bia trơn tuột khỏi tay Chấn rơi xuống nền nhà bị vỡ, lập tức Chấn ôm ngang ngƣời và vật ngã chị Hoan xuống nền nhà, tay trái đè giữ tay chị Hoan, đầu gối

đè tỳ vào sƣờn chị Hoan, còn tay phải Chấn rút một con dao bấm trong túi quần soóc, bấm lƣỡi dao thò ra rồi đâm liên tiếp nhiều nhát vào bụng, mặt và sƣờn chị Hoan, khi bị đâm chị Hoan có giơ tay trái lên đỡ. Trong khi đâm chị Hoan thì lƣỡi dao bị gãy nên Chấn không đâm nữa mà đút chuôi dao vào túi quần soóc, sau đó Chấn cúi xuống dùng hai tay bê hai bên bả vai nâng đầu chị Hoan lên khỏi nền nhà rồi đập xuống hai đến ba lần, thấy mặt chị Hoan chảy nhiều máu Chấn đứng dậy lấy chiếc gối trên giƣờng đậy vào mặt chị Hoan rồi khép cửa nách, cài chốt rồi tắt điện trong nhà đi ra bằng cửa chính, khép cửa lại ra giếng nhà anh Minh lấy dép, xe đạp để xuống nhà chị Hoàng Thị Viễn xin nƣớc. Sau khi mang nƣớc về quán cho vợ, Chấn về nhà ở phía trong làng tắm giặt, cất giấu chuôi dao vào trong cốp tủ chèn ba quả sứ lên cho kín rồi đi ăn cơm, đến khoảng 21h cùng ngày Chấn ra quán trông hàng cho vợ về ăn cơm. Khoảng 22h bà Hoàng Thị Hội (là mẹ đẻ chị Nguyễn Thị Hoan) kêu gào mọi ngƣời đến cứu chị Hoan, Chấn có dậy nhƣng không đến khu vực nhà chị Hoan.

Sau khi vụ án xẩy ra, qua công tác khám nghiệm hiện trƣờng, tử thi thấy: Về hiện trƣờng: Nhà của gia đình chị Nguyễn Thị Hoan cửa hƣớng Nam nhìn ra đƣờng liên xã tiếp là sân bóng thôn Me. Nhà chị Hoan đƣợc chia làm hai ngăn, ngăn ngoài có kích thƣớc 4,4m x 3m, phía ngoài có cửa gỗ khép ván, ngăn trong có kích thƣớc 8,4 m x 4,5 m, ngăn này phía sau có cửa nách ra phía công trình phụ, một cánh gỗ gép mở vào trong có then cài, kích thƣớc 1,9m x 0,8 m, dƣới nền nhà lát gạch có nhiều máu, mảnh vỏ chai vỡ và nhiều dấu vết chân, mép trong cánh cửa hậu có vết in hình 4 ngón tay (nghi máu). Tại nền nhà thu giữ đƣợc một lƣỡi dao nhọn màu trắng kích thƣớc 10cm x 2 cm. Nạn nhân Nguyễn Thị Hoan nằm ngửa, cách cửa hậu 40 cm, toàn thân nằm trên vũng máu, cạnh có một gối vải thấm máu, đầu tóc rối bám dính máu, trên ngƣời nạn nhân có nhiều vết thƣơng.

Kết quả giám định pháp y số 553/PY ngày 20/8/2003 của Tổ chức giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: các vết thƣơng trên cơ thể nạn nhân là do ngoại lực tác động; vật tác động là vật tày, vật sắc gọn và vật nhọn, lƣỡi sắc, chị Nguyễn Thị Hoan chết do chấn thƣơng đầu, mặt, vết thƣơng ở bụng làm đứt động mạch mạc treo, chảy máu và mất máu dẫn đến sốc trụy tim mạch cấp, chết sau bữa ăn cuối cùng khoảng 30 phút đến 2 giờ đồng hồ.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 45/HSST ngày 26/3/2004, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93; điểm o khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 34 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Thanh Chấn tù chung thân về tội “Giết ngƣời”.

Về trách nhiệm dân sự: áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự; Điều 614 Bộ luật dân sự buộc Nguyễn Thanh Chấn phải bồi thƣờng cho đại diện hợp pháp của ngƣời bị hại là bà Hoàng Thị Hội số tiền là 35.000.000 đồng.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn xử lý tang vật, quyết định án phí và tuyên quyền

kháng cáo theo luật định.

Ngày 29/3/2004, Nguyễn Thanh Chấn kháng cáo kêu oan. Ngày 31/3/2004, đại diện hợp pháp của ngƣời bị hại là bà Hoàng Thị Hội

242

kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt và tăng mức bồi thƣờng.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 1241/PTHS ngày 27/7/2004, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93; điểm o khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 42 Bộ luật hình sự; Điều 614 Bộ luật dân sự xử phạt Nguyễn Thanh Chấn tù chung thân về tội “Giết ngƣời”.

Về trách nhiệm dân sự: buộc Nguyễn Thanh Chấn phải bồi thƣờng cho gia

đình ngƣời bị hại do bà Hoàng Thị Hội đại diện tổng cộng là 20.000.000 đồng.

Hủy phần quyết định của bản án hình sự số 45/HSST ngày 26/3/2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang về khoản cấp dƣỡng nuôi con nạn nhân để điều tra, xét xử lại theo thủ tục chung.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 145/HSST ngày 30/9/2004, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự và Điều 614 Bộ luật dân sự buộc Nguyễn Thanh Chấn phải cấp dƣỡng cho cháu Nguyễn Văn Đức sinh ngày 24/4/2004 do bà Hoàng Thị Hội (là bà ngoại) đại diện mỗi tháng là 120.000 đồng kể từ tháng 9/2003 đến khi cháu Đức tròn 18 tuổi.

Ngày 08/10/2004, Nguyễn Thanh Chấn kháng cáo với nội dung không nhất trí

bồi thƣờng.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 166/HSPT ngày 02/3/2005, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội không chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Thanh Chấn, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 145/HSST ngày 30/9/2004 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang; căn cứ Điều 42 Bộ luật hình sự và khoản 3 Điều 614 Bộ luật dân sự buộc Nguyễn Thanh Chấn phải cấp dƣỡng cho cháu Nguyễn Văn Đức sinh ngày 24/4/2004 do bà Hoàng Thị Hội (là bà ngoại) đại diện mỗi tháng là 120.000 đồng kể từ tháng 9/2003 đến khi cháu Đức tròn 18 tuổi.

XÉT THẤY

Quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đối với Nguyễn Thanh

Chấn có rất nhiều vi phạm pháp luật, cụ thể nhƣ sau: 1.Vi phạm trong quá trình điều tra Về công tác khám nghiệm hiện trƣờng: Tại hiện trƣờng vụ án còn nhiều dấu vết chân dƣới sàn nhà, dấu vết tay có máu trên cửa, thanh sắt cài cửa hậu, dấu vết trên công tắc điện. Những dấu vết này trên hiện trƣờng so với dấu vết vân tay, vết chân của Nguyễn Thanh Chấn không đƣợc giám định khoa học để đánh giá, kết luận làm chứng cứ xác định hành vi phạm tội.

Về việc lấy lời khai đối với Nguyễn Thanh Chấn, lời khai các nhân chứng, những ngƣời có liên quan…nhiều chỗ bị tẩy xóa dẫn đến việc đánh giá các tình tiết, nội dung vụ án không còn khách quan (Bút lục 141, tập 1/3)…

243

Về hung khí gây án là con dao bấm mà hung thủ dùng để đâm nạn nhân thu đƣợc tại hiện trƣờng, nhƣng phần chuôi dao thì cơ quan điều tra không thu giữ đƣợc và việc tiến hành nhận dạng khi đƣa ra 04 lƣỡi dao nhƣng chỉ có lƣỡi dao thu đƣợc tại hiện trƣờng đƣợc xếp ở vị trí cao nhất, còn 03 lƣỡi dao đƣa vào để nhận dạng lại đều xếp ở vị trí thấp hơn là không đúng quy định.

Về những đồ dùng nhƣ xe đạp, thùng nhựa đựng nƣớc, dép nhựa thì đều không phải thu đƣợc tại hiện trƣờng; quần áo của Chấn thu đƣợc là do chị Nguyễn Thị Chiến (vợ Chấn) nộp cho cơ quan điều tra, những đồ vật này đều đƣợc coi là vật chứng là không đủ cơ sở.

Về những tài sản nhƣ nhẫn vàng, tiền của nạn nhân đƣợc ngƣời trong gia đình và nhân chứng Phạm Văn Liễu cung cấp thông tin nhƣng quá trình điều tra không tiến hành điều tra làm rõ những tình tiết này là thiếu sót, bỏ lọt dấu hiệu tội phạm.

Về thực nghiệm điều tra, cơ quan điều tra chỉ tiến hành thực nghiệm các động tác thực hiện hành vi phạm tội của Nguyễn Thanh Chấn ở tại hiện trƣờng mà không tiến hành thực nghiệm việc tiêu thụ thời gian của Chấn cũng là thiếu sót.

2. Vi phạm trong giai đoạn xét xử Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào lời khai các nhân chứng “Nguyễn Thị Liên, anh Đồng, anh Thân Văn Bảo và của chị Hoàng Thị Viễn khẳng định vào lúc 19h30 phút Nguyễn Thanh Chấn vẫn còn đang múc nƣớc tại giếng nhà chị Hoàng Thị Viễn; khoảng thời gian hơn 20 phút từ 19 giờ đến khoảng 19 giờ 25 phút Nguyễn Thanh Chấn đi đâu, làm gì với ai thì bị cáo hoàn toàn không chứng minh đƣợc”…và Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào các lời khai của Nguyễn Thanh Chấn từ ngày 28/9/2003 đến 29/9/2003 (Bút lục 151-158); bản tự khai, tƣờng trình từ ngày 11/10/2003 (Bút lục 43-44); các bản cung từ ngày 29/9/2003 đến 17/11/2003 (Bút lục 159-190), đây là các lời khai nhận tội của Nguyễn Thanh Chấn và cho rằng phù hợp với tính lôgíc của sự kiện cũng nhƣ diễn biến về mặt chủ quan và khách quan của tội phạm, phù hợp với thời gian, không gian và những tình tiết có liên quan đến vụ án, phù hợp kết quả khám nghiệm hiện trƣờng và thông qua kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy tính chất cơ học và lý học của các thƣơng tích để lại trên thi thể nạn nhân phù hợp với đặc trƣng của hung khí mà hung thủ đã sử dụng gây án cũng nhƣ tƣ thế hành vi tác động lên đối tƣợng, nạn nhân… Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn nhận định khi so sánh và đối chứng với kết quả xác định dấu chân của Nguyễn Thanh Chấn về kích thƣớc cơ học của hai dấu bàn chân bên phải và bên trái gần đúng kích thƣớc những dấu vết để lại tại hiện trƣờng của vụ án mạng đêm 15/8/2003 và một số tình tiết khác để làm căn cứ kết tội đối với Nguyễn Thanh Chấn là chƣa đủ cơ sở.

244

Bởi lẽ, tại các biên bản ghi lời khai ban đầu từ ngày 30/8/2003 đến ngày 27/9/2003 (Bút lục 137- 150), (đây là thời điểm chƣa có quyết định khởi tố bị can) và tại các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, sau khi xét xử phúc thẩm Nguyễn Thanh Chấn đều không nhận tội, kêu oan. Các lời khai không nhận tội của Nguyễn Thanh Chấn phù hợp với lời khai của các nhân chứng nhƣ bà Phạm Thị Nhâm và anh Nguyễn Văn Thực. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phúc thẩm bà Phạm Thị Nhâm đều xác nhận khoảng 19 giờ 20 phút tối hôm đó bà ra quán anh Chấn mua kẹo thì gặp anh Nguyễn Văn Thực vào gọi điện thoại ở quán, anh Chấn là ngƣời bấm máy cho anh Thực gọi, lúc đó ông Quyền mua mắm cũng biết. Anh Nguyễn Văn Thực cũng xác nhận khoảng 19 giờ 30 phút ngày 15/8/2003 anh gọi điện tại quán nhà Chấn, anh Chấn bấm máy cho anh gọi số máy 566095 (Bút lục 396, 399, 432, 433). Ngoài ra,

theo nhân chứng Hoàng Thị Viễn, Thân Văn Bảo xác nhận việc Nguyễn Thanh Chấn đến xin nƣớc vào khoảng từ 19 giờ 15 phút đễn 19 giờ 20 phút… Căn cứ vào lời khai anh Nguyễn Văn An, Lê Văn Giới thì thời điểm các nhân chứng này đi qua nhà chị Hoan vào khoảng 19 giờ 30 phút thì thấy có xô sát phía trong nhà, đây là khoảng thời gian xẩy ra vụ án. Nhƣ vậy, có chứng cứ ngoại phạm đối với Nguyễn Thanh Chấn nhƣng không đƣợc Tòa án cấp phúc thẩm làm rõ mà lại cho rằng: “cho dù tính khách quan và khoa học của “Bảng kê điện tử…” kể trên không ai có thể phản bác hoặc phủ nhận về cuộc đàm thoại đã đƣợc ghi nhận, tuy nhiên tài liệu này không thể là bằng chứng khẳng định vào thời điểm thực hiện cuộc gọi Nguyễn Thanh Chấn là ngƣời “bấm máy”. Còn lời khai của bà Nhâm, ông Thực cũng không có tài liệu nào khác hơn để kiểm chứng”, đây là nhận xét hoàn toàn thiếu khách quan của Tòa án cấp phúc thẩm, bởi tại Bảng kê điện tử, tự động thanh toán tiền điện thoại của Tổng đài Bƣu điện huyện Việt Yên xác định từ số máy thuê bao nhà Nguyễn Thanh Chấn có cuộc gọi đi số 566095 từ 19h 19 phút 51 đến 19h 20 phút 31. Tòa án cấp phúc thẩm còn cho rằng cho dù tình toán thời gian xin nƣớc cả đi lẫn về trên đoạn đƣờng khoảng 100 m bằng phƣơng tiện xe đạp, giả định có đi chậm nhƣ ngƣời đi bộ hành cũng chỉ dao động ở mức 10-15 phút thì Chấn còn dƣ thừa từ 5-10 phút để làm những việc bất minh khác, đây chỉ là sự suy diễn không có cơ sở khoa học.

245

3. Về tình tiết mới của vụ án Căn cứ vào kết quả điều tra, xác minh theo thủ tục tái thẩm xác định đƣợc nội dung nhƣ sau: ngày 25/10/2013, đối tƣợng Lý Nguyễn Chung sinh năm 1988 là con trai ông Lý Văn Chúc trú tại thông Me, xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang sau khi đƣợc vận động đã ra đầu thú và khai nhận hành vi giết chị Nguyễn Thị Hoan, cụ thể: khoảng 19 giờ 30 phút ngày 15/8/2003, Lý Nguyễn Chung đi bộ đến nhà chị Hoan để mua dầu gội đầu, khi đi mặc quần đùi màu đỏ, áo ngắn tay và mang theo con dao nhọn trong ngƣời. Khi đến quán nhà chị Hoan thì Chung nhìn thấy trong tủ hàng của nhà chị Hoan có tiền để trong chiếc hộp sắt nhỏ, không có nắp. Chung nảy sinh ý định giết chị Hoan để cƣớp tài sản. Chung rút dao trong ngƣời ra đâm chị Hoan 01 nhát vào phía trƣớc, trúng bụng chị Hoan. Bị đâm, chị Hoan chửi: “Đ mẹ thằng Chung Thổ con nhà Lành” rồi quay ngƣời bỏ chạy. Chung đuổi theo dùng tay trái ôm ghì chị Hoan từ phía sau, tay phải cầm dao đâm liên tiếp nhiều nhát vào ngƣời chị Hoan. Trong đó có hai nhát đâm trúng gây thƣơng tích ở tay trái của Chung (hiện nay tay trái của Chung vẫn để lại hai vết sẹo). Chị Hoan tiếp tục bỏ chạy vào phía trong nhà, bị ngã gần cửa hậu, Chung đuổi theo dùng tay túm tóc, đập đầu chị Hoan vào tƣờng gần cánh cửa, dùng chân đá, đạp vào mặt chị Hoan, sau đó lấy gối đè lên mặt chị Hoan. Nhìn thấy nhẫn trên tay chị Hoan, Chung đã tháo lấy hai chiếc nhẫn, lấy tiền trong hộp để trong tủ bán hàng, tắt điện, khép cửa ra vào, chạy ra ngoài. Khi chạy đến mƣơng nƣớc trƣớc cửa nhà ông Vui thì vứt bỏ cán dao rồi đi về nhà thay quần áo, tắm xong rồi lên giƣờng đi ngủ. Sau khi giết chị Hoan thì Chung đi chân đất dẫm lên máu chị Hoan tại nhà chị Hoan nên ở chân và tay còn dính nhiều máu và trên quần áo Chung cũng dính nhiều máu của chị Hoan. Khoảng 4 giờ sáng hôm sau, bà

Nguyễn Thị Lành (mẹ kế của Chung) dậy giặt quần áo thấy nƣớc trong chậu quần áo của Chung có màu hồng nên đã gọi Chung dậy hỏi: “Có phải hôm qua mày làm chuyện đó không”, Chung nói: “phải”. Bà Lành và ông Chúc nói với Chung: “Mày về Lạng Sơn ngay”. Chung về Lạng Sơn kể lại sự việc và đƣa hai chiếc nhẫn cho anh trai là Lý Văn Phúc, số tiền sau đó đếm đƣợc 59.000 đồng Chung sử dụng ăn tiêu hết. Đây là tình tiết mới làm thay đổi toàn bộ bản chất của vụ án, cần phải đƣợc

giải quyết theo thủ tục tái thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH Kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 1241/PTHS ngày 27/7/2004 của Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Đề nghị Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục tái thẩm huỷ các quyết định của bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và bản án hình sự sơ thẩm số 45/HSST ngày 26/3/2004, bản án hình sự sơ thẩm số 145/HSST ngày 30/9/2004 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang, bản án hình sự phúc thẩm số 166/HSPT ngày 02/3/2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội để điều tra lại vụ án theo quy định của pháp luật./.

VIỆN TRƯỞNG

Nơi nhận: - Toà án nhân dân tối cao (2b + hồ sơ); - Lãnh đạo VKSND tối cao; - Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội; - Viện KSND, TAND tỉnh Bắc Giang; - Bị án Nguyễn Thanh Chấn; - Lƣu VT (1b), Vụ 3(3b).

Nguyễn Hòa Bình

246

PHỤ LỤC 19

CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc

Hà Nội, ngày tháng 10 năm 2019

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO Số: /VKSTC-V7 V/v kiến nghị khắc phục vi phạm Bộ luật Tố tụng hình sự

Kính gửi: Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh

Qua công tác phối hợp chuyển giao hồ sơ vụ án hình sự giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua về cơ bản đƣợc thực hiện đúng quy định. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế trong công tác này, đặc biệt là việc Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã yêu cầu chuyển nhiều hồ sơ vụ án, nhƣng Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh không chuyển cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao và cũng không nêu lý do của việc không chuyển, điển hình là: 1. Vụ án Bảo Huy (Nam) phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” tại Bản án hình sự phúc thẩm số 625/2018/HSPT ngày 13/11/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh (Yêu cầu chuyển hồ sơ ngày 25/6/2019 và ngày 28/5/2019).

2. Vụ án Lê Hoàng Vũ phạm tội “Tổ chức đánh bạc” tại Bản án hình sự phúc thẩm số 18/2019/HSPT ngày 19/6/2019 của tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (Yêu cầu chuyển hồ sơ ngày 10/7/2019 và ngày 12/8/2019).

3. Vụ án Trần Phƣơng Bình cùng đồng phạm phạm tội “Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản” và tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nƣớc về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” tại Bản án hình sự phúc thẩm ngày 07/6/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh (Yêu cầu chuyển hồ sơ ngày 10/7/2019 và ngày 12/8/2019).

TL. VIỆN TRƯỞNG

KT. VỤ TRƯỞNG VỤ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ HÌNH SỰ PHÓ VỤ TRƯỞNG

Viện kiểm sát nhân dân tối kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh khắc phục vi phạm nêu trên và thực hiện nghiêm quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự./. Nơi nhận: - Nhƣ kính gửi; - Đ/c Nguyễn Văn Quảng, Phó Viện trƣởng, Viện KSND tối cao (để b/c); - Tòa án nhân dân tối cao; - Đ/c Vụ trƣởng Vụ 7; - Lƣu: VT (1b), Vụ 7 (3b).

Phạm Văn An

247