intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án tiến sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu xác định mô hình vận động viên thể dục dụng cụ nữ cấp cao Việt Nam

Chia sẻ: Phong Tỉ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:218

43
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm nghiên cứu xác định mô hình VĐV TDDC nữ cấp cao qua các giá trị sinh học về hình thái, thể lực, kỹ thuật, chức năng, tâm lý làm cơ sở khoa học phục vụ công tác tuyển chọn, HL và đào tạo VĐV TDDC nữ cấp cao đạt được thành tích tốt hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu xác định mô hình vận động viên thể dục dụng cụ nữ cấp cao Việt Nam

  1. ` BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH   BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO TP HỒ CHÍ MINH  ­­­­­  ­­­­­  NGUYỄN THỊ LÝ NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH MÔ HÌNH VẬN ĐỘNG VIÊN  THỂ DỤC DỤNG CỤ NỮ CẤP CAO VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC
  2. 2 TP. HỒ CHÍ MINH, 2018 BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH  BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO TP HỒ CHÍ MINH ­­­­­  ­­­­­  NGUYỄN THỊ LÝ NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH MÔ HÌNH VẬN ĐỘNG VIÊN  THỂ DỤC DỤNG CỤ NỮ CẤP CAO VIỆT NAM Ngành: Giáo dục học Mã số: 9140101 LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC 2
  3. ` Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Kim Lan TS. Nguyễn Thành Ngọc TP.HỒ CHÍ MINH, 2018
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi. Các số  liệu,   kết quả  trình bày trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố  trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào. Tác giả luận án Nguyễn Thị Lý
  5. MỤC LỤC
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN TỪ VIẾT TẮT THUẬT NGỮ TIẾNG VIỆT HL Huấn luyện HLV Huấn luyện viên LVĐ Lượng vận động TDDC Thể dục dụng cụ TĐTL Trình độ tập luyện TDTT Thể dục thể thao TTTT Thành tích thể thao VĐV Vận động viên VN Việt Nam DANH MỤC CÁC BẢNG BẢNG NỘI DUNG TRANG Bảng 2.1 Tiêu chuẩn chấm điểm vân da tổng hợp của VĐV Bảng 3.1 Bảng tổng hợp các chỉ số và các chỉ số về hình thái Bảng 3.2 Bảng tổng hợp các test về thể lực và kỹ thuật Bảng 3.3 Bảng tổng hợp các test về chức năng Bảng 3.4 Bảng tổng hợp các test về tâm lý Bảng 3.5 Mức độ quan trọng của các nội dung cấu thành thành tích thể thao. Mức độ quan trọng của các chỉ số hình thái, các test kiểm tra thể lực, kỹ Bảng 3.6 thuật, chức năng, tâm lý của VĐV TDDC cấp cao.(n=8) Kết quả phỏng vấn lựa chọn các chỉ số hình thái xác định mô hình VĐV Bảng 3.7 về hình thái của VĐV TDDC nữ cấp cao VN (n=24) Kết quả phỏng vấn lựa chọn test đánh giá thể lực cho VĐV TDDC nữ (n Bảng 3.8 = 24) Kết quả phỏng vấn lựa chọn test đánh giá kỹ thuật cho nữ VĐV TDDC Bảng 3.9 (n = 24) Kết quả phỏng vấn lựa chọn test kiểm tra đánh giá chức năng cho VĐV Bảng 3.10 TDDC nữ (n =24) Kết quả phỏng vấn lựa chọn test kiểm tra tâm lý cho VĐV TDDC nữ cấp Bảng 3.11 cao (n = 24) Tỉ lệ lượng cơ và lượng mỡ giữa 2 chi trên, dưới và thân của VĐV Bảng 3.12 TDDC nữ cấp caoVN. Chiều cao, cân nặng và chỉ số khối BMI của VĐV cấp cao VN và thế Bảng 3.13 giới So sánh các chỉ số hình thái của VĐV TDDC nữ cấp cao VN và Trung Bảng 3.14 Quốc Bảng 3.15 Cấu trúc somatotype của VĐV cấp cao VN và thế giới Bảng so sánh lượng mỡ giữa VĐV TDDC nữ cấp cao VN và các nước Bảng 3.16 trên thế giới
  7. Bảng 3.17 Kết quả tổng hợp sinh trắc vân da của VĐV TDDC nữ cấp cao VN Bảng 3.18 Kết quả kiểm tra thể lực của nữ VĐV TDDC cấp cao VN So sánh kết quả kiểm tra thể lực giữa VĐV TDDC nữ VN với mô hình Bảng 3.19 HL thể lực VĐV TDDC nữ tham dự Olympic của Nga Kết quả đánh giá lực cơ gập-duỗi gối của VĐV TDDC nữ cấp cao VN Bảng 3.20 trên hệ thống Biodex Bảng 3.21 Kết quả kiểm tra kỹ thuật của VĐV TDDC nữ cấp cao VN Bảng 3.22 Giai đoạn chạy đà Bảng 3.23 Giai đoạn giậm nhẩy Bảng 3.24 Giai đoạn bay trên không Bảng 3.25 Giai đoạn tiếp đất Bảng 3.26 Chỉ số VO2max và Mạch tối đa của VĐV TDDC nữ Công suất yếm khí (Anaerobic Wingate test) của VĐV TDDC nữ cấp cao Bảng 3.27 VN Kết quả kiểm tra tâm lý VĐV thể dục dụng cụ VN qua các test phản xạ Bảng 3.28 (ms) Kết quả kiểm tra loại hình thần kinh của nữ VĐV TDDC cấp cao VN theo Bảng 3.29 biểu 808 Bảng 3.30 Phân loại loại hình thần kinh theo Phùng Vĩ Quyền Tỉ lệ lượng cơ và lượng mỡ giữa 2 chi trên, dưới và thân của VĐV Bảng 3.31 TDDC nữ cấp cao VN DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH, BIỂU ĐỒ HÌNH ẢNH NỘI DUNG TRANG BIỂU ĐỒ Hình 1.1 Quá trình huấn luyện động tác TDDC Hình 1.2 Các dạng (chủng) vân tay Hình 1.3 (a) Vân hình cung (vân sóng), (b) Vân hình sao ki (vân móc) Hình 1.4 Vân xoáy Hình 1.5 Cách đếm số đường chỉ tay Hình 1.6 Đại ngư tế và Tiểu ngư tế Hình 1.7 Khu vực giữa các ngón tay Hình 1.8 Tam giác tay Hình 1.9 Góc atd Hình 1.10 Nếp gấp bàn tay Hình 1.11 Một số dạng biến dị của nếp gấp bàn tay (thông quán) Hình 3.1 Mạng lưới mở rộng Heath-Carter
  8. Hình 3.2 Hình thể somatotype của nữ VĐV TDDC cấp cao VN Hình 3.3 Hình ảnh góc atd của VĐV TDDC nữ cấp cao VN Hình 3.4 (a) Vân móc hai đầu; (b) Vân hình cung (hình sóng) Hình 3.5 Vân10 đầu ngón tay của nữ VĐV cấp cao VN Hình 3.6 Minh họa nếp gấp bàn tay bình thường Hình 3.7 Khu vực Đại ngư tế Hình 3.8 Khu vực Tiểu ngư tế Hình 3.9 Hình ảnh 3 nếp gấp bàn tay bình thường Hình 3.10 Tam giác tay Cấu trúc hình thể Somatotype trung bình của VĐV một số môn Hình 3.11 thể thao Thành phần cơ thể và chuyển hóa cơ bản của VĐV TDDC nữ Hình 3.12 cấp cao VN Hình 3.13 động tác Urchenko Hình 3.14 Quy trình huấn luyện đồng bộ Biểu đồ 3.1 Tỷ lệ % các chuyên gia được khảo sát
  9. 9 ĐẶT VẤN ĐỀ Thể  dục thể  thao (TDTT ) là một bộ  phận của nền văn hoá xã hội,  trong đó thể  thao thành tích cao là nhân tố  cấu thành nền TDTT xã hội.  Mục đích của thể  thao thành tích cao là vươn tới những kỷ  lục. Quá trình   phát triển TDTT song hành cùng sự tiến triển của con người và xã hội. Thể  thao thành tích cao là môi trường thể  thao chuyên nghiệp mang tính cạnh   tranh lớn. Kỷ lục mà các vận động viên (VĐV) đạt được qua các kỳ thi đấu  đỉnh cao (các cuộc thi vô địch thế giới, Olympic v.v..) gần như đạt tới giới  hạn thể chất của con người, vì vậy VĐV cấp cao là những nhân tài của đất  nước. Cùng môi trường tập luyện, điều kiện thi đấu nhưng chỉ  có những   VĐV có thể  chất thật tốt mới đạt được thành tích vượt trội. Tính cạnh  tranh khốc liệt vì thành tích sẽ  đào thải những VĐV không thích hợp với  môi trường thể  thao thành tích cao, chọn lọc những VĐV với những đặc   điểm hình thái, chức năng, thể  lực...mang tính nổi trội phù hợp từng môn   thể thao. Thể dục dụng cụ (TDDC) là môn thi đấu Olympic. TDDC cũng là môn   thể thao nằm trong hệ thống giáo dục thể chất của nền giáo dục Việt Nam   (VN). TDDC có vị trí và vai trò quan trọng rất đặc biệt, nó đảm bảo cho con   người sự phát triển toàn diện về mặt thể chất, củng cố và nâng cao sức khoẻ,  năng động trong cuộc sống, học tâp và bảo vệ  tổ  quốc với hiệu quả  cao.   TDDC có một bề dày về lịch sử phát triển trên thế giới cũng như ở Việt Nam.   TDDC đỉnh cao vừa mang tính thi đấu và biểu diễn. Năm 1954 dưới sự giúp  đỡ  của Trung Quốc và Liên Xô (cũ) TDDC mang tính thi đấu chính thức có  mặt ở Việt Nam. Năm 1963 đội tuyển TDDC Việt Nam đã tham dự cuộc thi  đấu quốc tế tại Ganefo (Indonexia). Tại cuộc thi này, tuy còn non trẻ song các 
  10. 10 VĐV Việt Nam đã thi đấu xuất sắc, đạt hạng 3 và 4 cá nhân, huy chương   đồng đội nam và nữ, chỉ xếp sau Trung Quốc và Triều Tiên. Trải qua chặng   đường phát triển theo sự  thăng trầm của đất nước TDDC luôn là lá cờ  đầu   trong phong trào tập luyện thể thao với các VĐV tên tuổi như: Trần Đức Tài,  Nguyễn Đức Lâm, Nguyễn Thị  Kiều Khanh, Nguyễn Thị  Bích v.v…và đặc  biệt VĐV Lê Thuý Liễu vinh dự  được biểu diễn cho Bác Hồ  xem nhân dịp  Bác đến thăm trung tâm huấn luyện quốc gia tại Nhổn. Trong chiến lược phát triển TDTT VN đã được Thủ  tướng ban hành  theo quyết định số 2198/QĐTTG. Nội dung quan trọng của quyết định trên là  nâng tầm mục tiêu của thể thao Việt Nam trên đấu trường quốc tế, phát triển   thể thao thành tích cao, thể thao chuyên nghiệp theo hướng bền vững và phù   hợp với tầm vóc, hình thể  và trình độ  phát triển của kinh tế  ­ xã hội, con   người Việt Nam, nâng cao thành tích thể  thao trong các kỳ  đại hội thể  thao  Châu Á, hướng tới giành được huy chương trên đấu trường Olympic. Trong  quyết định này TDDC là môn thể thao trọng điểm được ưu tiên đầu tư và phát  triển. Đây là một vinh dự , là niềm tự  hào, nhưng cũng đầy trọng trách của   những người làm công tác đào tạo và huấn luyện (HL) thể thao thành tích cao   môn TDDC. Thành tích vang dội của các VĐV đội tuyển TDDC quốc gia với các tên  tuổi hiện nay như  Ngân Thương, Hà Thanh, Vân Anh, Thu Huyền, Phước  Hưng, Thanh Tùng v.v…đã khẳng định vị thế của môn TDDC Việt Nam trên  đấu trường quốc tế,  ở những giải thi đấu lớn. Chúng ta có VĐV đạt chuẩn  cấp cao thế  giới như  Phan Thị  Hà Thanh, Phạm Phước Hưng đã 2 lần đạt   chuẩn tham dự Olympic 2012, 2016 và đã giành được rất nhiều thành tích cao  ở  các giải thi đấu khác (nổi bật nhất là huy chương vàng (HCV) môn nhẩy   chống ở cúp thế giới 2011 của Phan Thị Hà Thanh). Đây là những hình mẫu 
  11. 11 đại diện của môn TDDC. Tuy nhiên số lượng VĐV cấp cao như Phan Thị Hà  Thanh còn quá ít. Hơn nữa mục tiêu lớn của chúng ta là phải có được tấm huy  chương trên đấu trường Olympic. Do đó vấn đề đặt ra là dựa trên các khuôn  mẫu điển hình này xác định được mô hình VĐV TDDC nữ  cấp cao VN của   môn TDDC nói riêng và thể thao VN nói chung. Tác giả Nguyễn Xuân Sinh và cs [28] cho rằng: việc xem xét thành tích   thi đấu của những VĐV đoạt vị trí cao trong giải vô địch thế giới và Olympic  là mốc phân tích kết quả tổng hợp của các cuộc thi lớn nhất, để có thể  xác   định chiều hướng phát triển của thể  dục, dự đoán thành tích trong thời gian  tới. Trên cơ  sở  những số liệu đó có thể  xây dựng “mẫu người tập thể  dục   tương lai”. Các ngưỡng thành tích hiện tại có tác dụng quan trọng đến việc  chuẩn bị đào tạo VĐV thể dục cấp thấp. Như vậy, có thể xem thành tích của   VĐV nổi tiếng thế giới, các bài tập của họ cũng như các chỉ số khác biểu thị  trình độ thể lực, trạng thái chức năng, tâm lý…là tiêu chuẩn để xác định mẫu  VĐV thể dục   Xác định mô hình trình độ  VĐV đẳng cấp cao để  định hướng trong   công tác tuyển chọn, HL đã được nhiều chuyên gia trên thế  giới và Việt  Nam nghiên cứu như: Colovieva E.B (1985) [66], Zorin I., Ganhiukin A.   (1986)     [56]   Gaverdovxki   IU.K.   [50],   Phạm   Ngọc   Viễn   (1990)[40],   Lê  Nguyệt Nga (2003) [22], Huỳnh Thúc Phong (2016) [26]. Xác định mô hình VĐV TDDC nữ cấp cao thông qua các thông số về  hình thái, chức năng, thể  lực, kỹ  thuật, tâm lý giúp định hướng công tác   tuyển chọn các cấp độ, điều chỉnh kế hoạch HL nhất là với VĐV đang có  thành tích là việc làm vô cùng cần thiết. Tuy nhiên hiện nay chưa có đề tài  nào nghiên cứu vấn đề này. Với những lý do nêu trên, để tránh lãng phí hay  
  12. 12 bỏ sót nhân tài của đất nước tôi chọn đề tài: "Nghiên cứu xác định mô hình  vận động viên thể dục dụng cụ nữ cấp cao Việt Nam". Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu xác định mô hình VĐV TDDC nữ cấp cao qua các giá trị  sinh học về hình thái, thể lực, kỹ thuật, chức năng, tâm lý làm cơ  sở  khoa   học phục vụ  công tác tuyển chọn, HL và đào tạoVĐV TDDC nữ  cấp cao   đạt được thành tích tốt hơn. Để đạt được mục đích nghiên cứu trên luận án xác định các mục tiêu  nghiên cứu sau: Mục tiêu nghiên cứu    Mục tiêu nghiên cứu 1: Nghiên cứu xác định nội dung mô hình VĐV  TDDC nữ cấp cao Việt Nam  Mục tiêu cụ thể:              1.1. Tổng hợp các chỉ số, các test xác định nội dung mô hình VĐV  TDDC nữ cấp cao                1.2. Phỏng vấn các chuyên gia lựa chọn các test              1.3. Lựa chọn các chỉ  số, các test xác định mô hình VĐV nữ  cấp  cao.         Mục tiêu nghiên cứu 2: Xác định mô hình VĐV TDDC nữ cấp cao VN Mục tiêu cụ thể:           1. Hình thái 2. Thể lực  3. Kỹ thuật 4. Chức năng,  5. Tâm lý   6. Mô hình tổng hợp VĐV TDDC nữ cấp cao Việt Nam.
  13. 13 Giả thuyết khoa học của đề tài Giả thiết khoa học của đề tài là: Xác định được mô hình VĐV TDDC   nữ cấp cao VN (về hình thái, chức năng, thể lực, kỹ thuật, tâm lý) giúp cho   công tác tuyển chọn đào tạo thể  thao thành tích cao hiệu quả  hơn, hợp lý  hơn. Dựa trên cơ  sở  đó giúp cho các nhà chuyên môn, các huấn luyện viên  (HLV) trong công tác tuyển chọn, HL, đào tạo, dự báo chính xác tiềm năng   phát triển thành tích của các VĐV. Chương 1 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Khái lược về lịch sử phát triển môn TDDC 1.1.1. Lịch sử  phát triển môn thể  dục và môn TDDC trên thế  giới Lịch sử  phát triển môn TDDC song hành cùng sự  phát triển của loài  người từ xa xưa. Ở các quốc gia cổ đại khu vực Châu Á như: Trung Quốc,  Ấn Độ, Ai Cập... Các dân tộc da đỏ ở Châu Mỹ, các dân tộc vùng Trung Á   sử dụng các bài tập nhào lộn như những phương tiện bổ trợ cho dạy võ và  vật. Ở Ấn Độ từ xa xưa đã biết luyện khí công. Ở Trung Quốc hình thành  hệ  thống thể  dục chữa bệnh.  Ở Ai Cập có loại thể  dục gắn liền với các   nghi lễ  của đạo Hồi. Lần đầu tiên thuật ngữ  "Thể  dục" xuất hiện  ở  Hy   lạp vào thế  kỷ  VIII trước công nguyên vào giai đoạn hưng thịnh của nền  văn hoá cổ Hy Lạp. Thời kỳ này có các trường chuyên để dạy giờ học thể  dục gọi là trường thể  dục. Sau Hy Lạp cổ  đại người La Mã đã sử  dụng   rộng rãi các bài tập nhào lộn khác nhau. Ngay từ thời kỳ này đã hình thành  những nét đặc trưng của thể  dục hiện đại. Như  vậy thời kỳ  cổ  đại các 
  14. 14 phương tiện của thể dục đã khá phong phú và đa dạng, được sử  dụng với   nhiều mục đích khác nhau.  Đến giữa thế kỷ XIX đã hình thành ba hệ  thống thể dục khác nhau:   hệ  thống Thể  dục Đức (thể  dục thể  hình hay thể  dục lực sỹ) là phương   tiện để  phát triển các tố  chất vận động, gồm nhiều các bài tập thể  dục  phức tạp, trong đó có các bài tập trên dụng cụ  thể  dục. Nhà sư  phạm có   công sáng lập trường phái Đức là F. Lan (1778­1852) đã khẳng định các bài  tập thể dục trên dụng cụ  có tác dụng tốt hơn so với các bài tập tay không  và với dụng cụ. Hệ  thống Thể  dục Thuỵ  Điển (thể  dục vệ  sinh) như  là  phương hướng và phương tiện quan trọng để  củng cố  sức khoẻ  và phát   triển năng lực thể chất của con người. Phương pháp tập luyện của trường   phái Thể dục Thuỵ Điển dựa trên cơ sở dấu hiệu về mặt giải phẫu học và   hình thái học, có nghĩa các bài tập được soạn thảo để  phát triển từng bộ  phận riêng biệt của cơ  thể, ví dụ  các nhóm cơ  riêng biệt: tay, chân, lưng,   bụng... Trường phái Thể  dục Pháp là Thể  dục thực dụng, là phương tiện  để  dạy người người lính biết khắc phục các chướng ngại vật khác nhau,   thường gặp trong chiến đấu.  Theo các tác giả  Gaverdovxki IU.K.[54]; Nguyễn Xuân Sinh và cs  [27]: vào những năm 60 của thế kỷ XIX  ở Châu âu còn hình thành một hệ  thống thể  dục có tầm quan trọng và mang ý nghĩa giáo dục xã hội và phát  triển nền thể dục thao thế giới là hệ thống Thể dục "Chim ưng" của Tiệp   Khắc. Đặc điểm chính của hệ thống thể dục này: các bài tập thể dục tự do  hay thể dục dụng cụ phải chú ý đến vẻ đẹp hình thể khi tạo hình động tác,   các ngón tay, mũi chân phải được duỗi thẳng, các động tác nhẩy, các bài   liên hợp thể dục tự do và thể dục dụng cụ phải được thực hiện chính xác  và đẹp. Trong hệ  thống thể  dục "Chim  ưng" lần đầu tiên xuất hiện thể 
  15. 15 dục đồng diễn quần chúng và các cuộc thi đấu về  thể  dục. Cuối thế  kỷ  XIX hệ thống Thể dục dựa trên các luận điểm khoa học lần đầu tiên xuất   hiện. Ở nước Nga có hệ thống Thể dục P. Létgap, ở Pháp có hệ thống Thể  dục của G. Đêmenhi. Năm 1881, Liên Đoàn Thể  Dục Thế  Giới (gọi tắt là  FIG) đã ra đời để tổ chức và lãnh đạo các cuộc thi đấu quốc tế. Thể dục đã  được đưa vào chương trình thi đấu ngay từ  Đại hội Olympic Quốc tế  lần  thứ nhất ở Aten (Hy lạp). Thể dục được chính thức công nhận là một trong  nhiều môn thi đấu chính của Đại hội Olympic Mùa Hè. Sự  ra đời của Liên Đoàn Thể  Dục Thế  Giới đã đóng vai trò quan  trọng trong việc phát triển thể dục nói chung và môn thể  dục dụng cụ  nói  riêng. Cuộc thi vô địch đầu tiên của môn TDDC diễn ra tại Bỉ  vào năm   1903. Thời kỳ đó các cuộc thi chỉ dành cho nam giới, cứ 2 năm một lần, cho   đến lúc Đại chiến thế giới lần thứ nhất bùng nổ (1914­1918). Từ năm 1922  các cuộc thi vô địch thế giới được quy định lại cứ 4 năm một lần xen giữa  các kỳ thi đấu Olympic. Lần đầu tiên các VĐV nữ  môn TDDC được tham   gia thi đấu trên đấu trường Olympic vào năm 1928 và cuộc thi vô địch thế  giới vào năm 1938. Các VĐV nữ thi các môn giống như  VĐV nam với các   dụng cụ như xà đơn thấp, vòng treo động, thể dục tự do đồng đội với dụng  cụ. Năm 1952 tại Olympic mùa hè diễn ra ở Hanxinhki (Phần Lan) cuộc thi   TDDC chỉ  dành cho các VĐV TDDC nam. Năm 1958 tại giải thi đấu quán  quân thế  giới chương trình thi đấu   gồm 6 môn cho nam (thể  dục tự  do,  ngựa vòng, vòng treo, nhẩy chống, xà kép và xà đơn) và 4 môn cho nữ (thể  dục tự do, nhẩy chống, xà lệch và cầu thăng bằng), đây cũng là năm thành  tích được xác định ở vòng chung kết đơn môn của nam và nữ. Năm 1972 bổ  sung thêm chung kết xác định vô địch toàn năng các môn hỗn hợp. Tại các  cuộc thi đấu lớn thành tích luôn thuộc về  VĐV các nước khu vực châu 
  16. 16 Âu( Liên xô, Tiệp khắc, Đức…). Sau những năm 1990 VĐV các nước như  Trung quốc, Rumani, Mỹ… là những đối thủ ngang tài, ngang sức. Từ  đó đến nay dưới sự  lãnh đạo của Liên đoàn Thể  dục thế  giới,  môn Thể  dục nói chung và TDDC nói riêng liên tục đi lên, phát triển bền   vững và rộng khắp các châu lục, nhất là các nước như  Liên Xô (cũ), Đức,  Rumani, Nhật Bản, Pháp, Ý, Mỹ… Với các tên tuổi như Khorkina Svetlana,  Turiseva Ludmila, Susunova Elena, Nemov Aleksei, Takashi, Ohno, Akinori  Nakayama,... Ngân Thương, Trương Minh Sang, Hà Thanh, Phạm Phước  Hưng, Lê Thanh Tùng là những tên tuổi của VĐV TDDC VN được xướng   lên với niềm tự hào dân tộc trên đấu trường quốc tế. Năm 2016 VĐV Phạm  Phước Hưng vinh dự có động tác mang tên mình.  1.1.2. Lịch sử phát triển môn TDDC tại Việt Nam Trước thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta, các bài tập thể  dục  được phát triển trong khuôn khổ  các hoạt động thể  thao dân tộc truyền  thống, chưa trở  thành môn tập luyện và thi đấu độc lập. Thực dân Pháp  trong thời kỳ cai trị nước ta có đưa vào một số môn như đội hình, đội ngũ,  xà đơn, xà kép, nhưng cũng chỉ  phục vụ  cho chính quyền Pháp, không có  một cuộc thi đấu chính thức nào. Sau Cách mạng tháng Tám, Chủ  tịch Hồ  Chí Minh ra lời kêu gọi toàn dân tập thể dục. Sau thập kỷ 60 thể dục đồng  diễn với quy mô khác nhau được đưa vào chương trình hoạt động các ngày  lễ  lớn, các đại hội thể  dục thể  thao. So với các môn thể  dục khác thì  TDDC phát triển nhanh và rộng hơn cả. Theo tác giả Nguyễn Xuân Sinh và   cộng sự [27] có thể phân chia thành bốn giai đoạn phát triển sau:  ­ Giai đoạn I từ năm 1955 đến năm 1970: Giai đoạn này bắt đầu hình  thành phong trào tập luyện môn TDDC tại một số thành phố, tỉnh thành lớn   như: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định. Nhờ  sự  giúp đỡ  về  mọi mặt của các 
  17. 17 chuyên gia Liên Xô các HLV, giáo viên, cán bộ và lực lượng VĐV nòng cốt   đã được đào tạo bài bản. Cuộc thi đấu đầu tiên về  thể  dục đã được tổ  chức vào năm 1967 tại Hà Nội. Từ đó đội tuyển quốc gia về TDDC ra đời  đã tham gia tập huấn và thi đấu  ở  nhiều giải nước ngoài như   ở  Đại hội   TDTT thế  giới tại Inđônêxia năm 1963, năm 1966 tại Campuchia. TDDC  thời kỳ này tuy còn rất non trẻ song cũng xuất hiện nhiều gương mặt VĐV  điển hình như  Trần Đức Tài, Lê Thuý Liễu, Nguyễn Thị  Kiều Khanh… Lớp VĐV kế  tiếp như  : Phan Thanh Lan , Phan Thanh Liên, Phạm Thuý   Lan, Ngô Thanh Hảo v.v... ­ Giai đoạn II từ  năm 1970 đến 1979: Chiến tranh phá hoại của đế  quốc Mỹ, phong trào tập luyện TDTT chuyển hướng sang phục vụ cho sản   xuất và chiến đấu. Các cán bộ  và VĐV được đưa đi Trung quốc tập huấn   để  chuẩn bị  cho thời kỳ  sau chiến tranh. Sau khi tổ  quốc thống nhất các  thành phố lớn đã khôi phục lại và củng cố mạnh mẽ phong trào tập luyện   TDTT, bộ  môn Thể  dục của Tổng Cục TDTT tổ  chức thường xuyên các   cuộc thi các cấp độ khác nhau làm tiền đề cho các giải vô địch sau này. ­ Giai đoạn III từ  năm 1979 đến năm 1994: Giai đoạn này sự  kiện   quan trọng nhất là thể  dục Việt Nam gia nhập Liên đoàn Thể  dục Thế  giới, đồng thời trở thành thành viên của phong trào Olympic Quốc tế. Năm  1987 Việt Nam đã áp dụng luật thi đấu và bài thi theo quy định của quốc tế,  đánh dấu một sự  trưởng thành về  chất khẳng định trình độ  đẳng cấp của   các VĐV Việt Nam trên đấu trường quốc tế. Giai đoạn này thiên hướng  chủ yếu đào tạo các VĐV TDDC nữ (Nguyễn Kim Lan , Kim Xuân, Thanh  Xuân…) VĐV TDDC nam phát triển chậm và chưa rộng khắp cả  nước.   Năm 1988 TDDC tham gia Đại hội TDTT Đông Nam Á (SEA Games) và  Đại hội Thể thao Châu Á.  
  18. 18 ­ Giai đoạn IV từ 1995 đến nay: TDDC đã có những bước tiến mạnh,  vững chắc và toàn diện  ở  cả  nam và nữ, đã xuất hiện nhiều tên tuổi nổi   bật trong các cuộc thi đấu quốc tế  như  Hoàng Tố  Lynh, Trương Minh   Sang, đặc biệt VĐV Phan Thị  Hà Thanh, Phạm Phước Hưng, Lê Thanh  Tùng đã ghi tên trong bảng vàng danh dự của môn TDDC không chỉ ở Việt   Nam, rạng danh trên đấu trường quốc tế. Hà Thanh đã giành được huy  chương  đồng vô  địch thế  giới  ở  môn nhảy chống, giành xuất tham dự  Olympic 2012, 2016.  1.2. Một số đặc điểm môn TDDC 1.2.1. Đặc điểm môn TDDC  TDDC ­ là một trong các môn thi đấu Olympic có từ  rất sớm trong  lịch sử  phát triển thể  thao thế  giới. Trải qua hơn trăm năm FIG không  ngừng lớn mạnh và phát triển đến bây giờ. TDDC ­ cùng với sự phát triển  của xã hội từng bước chinh phục các đỉnh cao, hoàn thiện trong mọi lĩnh  vực giáo dục và huấn luyện, cơ sở vật chất, nghiên cứu khoa học... Chiều  dài lịch sử đó gắn liền với sự thay đổi mạnh mẽ  về  độ  khó của động tác,   chất lượng và cường độ tập luyện. Kỹ thuật động tác, các cấu trúc tổ hợp  động tác phong phú khác nhau làm nền cho sự  bảo toàn và phát triển môn  TDDC. Đặc điểm kỹ  thuật và các chuyển động tương phản là nét đặc  trưng môn TDDC hiện đại.  Tác giả Gaverdovxki IU.K. và cs [50] cho rằng: so sánh với các môn   thể thao khác, các chuyển động của TDDC có tính chất đơn giản, chỉ là các  chuyển động gập duỗi các khớp như  khớp bả  vai, khớp hông...Chuyển  động gập duỗi hết biên độ dao động. Tuy nhiên các chuyển động đơn giản   này phải đảm bảo độ chính xác tuyệt đối trong mối liên hệ giữa không gian  
  19. 19 và thời gian. Các chuyển động này phải thực hiện  ở  các tư  thế  phức tạp   khác nhau ở một thời điểm nhất định.  Theo tác giả  Bùi Nguyệt Nga và cs [21]: phần lớn các chuyển động  trong môn TDDC thực hiện ở điều kiện phức tạp, đòi hỏi khắt khe về thời   gian và sự chuyển đổi hướng liên tục. Mỗi động tác chuẩn phải đảm bảo   tính kỹ thuật điêu luyện, phân định được cảm giác không gian ­ thời gian và   các chỉ số  sức mạnh, nghệ thuật cao và tính nhịp điệu. Để  làm được điều   này đòi hỏi sự  đáp  ứng của cơ  thể  VĐV về  mặt thể  lực, các xung động  thần kinh cơ  tối đa, công suất phát lực cực đại, sự  khéo léo và cảm giác   thăng bằng chuẩn. TDDC hiện đại rất đa dạng và phong phú về  cấu trúc,  năng lượng sinh cơ học, VĐV cấp cao cần có trình độ về kỹ thuật, thể lực,   chức năng cơ thể và tâm sinh lý phù hợp, lòng say mê để đáp ứng được yêu  cầu, mục đích của mỗi cuộc thi. Theo tác giả  Arcaeb L.IA.,Xutrin H.G. [49]: khi thực hiện các động  tác trong TDDC không phải là sức mạnh tuyệt đối mà là sức mạnh tương  đối do đó phải tính toán đến từng kg cân nặng của VĐV. Cùng với sự phát   triển nhanh về  độ  phức tạp của động tác trong TDDC hiện đại đòi hỏi  VĐV phải đáp  ứng được tố  chất đặc trưng quan trọng về  thể  lực là sức  mạnh tốc độ. Sự  phát triển và hoàn thiện các nhóm cơ  lưng bụng có liên  quan mật thiết tới chất lượng thực hiện các động tác . Đặc trưng cơ bản của TDDC là các bài tập trên dụng cụ: xà đơn, xà  kép, ngựa vòng, vòng treo  đối với nam, xà lệch, cầu thăng bằng, nhẩy  chống, tự do đối với nữ. Trải qua nhiều năm phát triển, dụng cụ tập luyện   môn TDDC có nhiều thay đổi để  đáp  ứng được yêu cầu nâng cao chất   lượng động tác, ví dụ: xà lệch, lúc đầu cả nam và nữ đều sử dụng xà giống  nhau, sau đó cải tiến cho phù hợp với nữ theo tiêu chuẩn của FIG quy định.  
  20. 20 Dụng cụ tập luyện phải đảm bảo tính đàn hồi tốt nhằm mục đích bảo toàn  năng lượng cho động tác và tránh nguy hiểm cho người tập.  Theo tác giả Nguyễn Xuân Sinh và cs [27]: khi thực hiện toàn bộ nội  dung thi đấu, ở mỗi một dụng cụ các động tác mang nét đặc trưng riêng về  tư  thế  vận động.  Ở  ngựa vòng và cầu thăng bằng chủ  yếu các tư  thế  có  điểm tỳ  và điểm tựa,  ở  xà lệch và xà kép gồm các tư  thế  treo, điểm tựa.  Nhẩy chống, tự do là các tư thế chống, tỳ. Các tác giả Arcaeb L.IA., Xutrilin H.G.[49] cho rằng; về góc độ  sinh  lý hoạt động chuyển động của các động tác trong TDDC liên quan đến  công suất phát lực  ở mức độ  vừa và lớn. Phần lớn các động tác thực hiện  trong điều kiện yếm khí hoặc trong điều kiện  ưa ­ yếm khí, việc nín thở  khi làm động tác xảy ra thường xuyên. Năng lượng đảm bảo cho quá trình  sinh lực của cơ xảy ra trong cơ thể VĐV TDDC hình thành không bằng con   đường hấp thu oxy của phổi từ môi trường xung quanh và dự  trữ trong cơ  khi thực hiện động tác, mà bằng con đường từ các phản ứng hoá học trong  cơ thể, các phản ứng này xảy ra ở cơ. Vì vậy chế độ sinh lực của các hoạt   động này về hình thức có thể coi là hoạt động yếm khí.  Tác giả Catraev V.I. [60] trong nghiên cứu của mình đã cho thấy: tần   số  mạch đập hay tần số  co bóp của tim trong quá trình tập luyện  ở  các  VĐV đẳng cấp cao môn TDDC dao động từ  120­200 lần/phút. Độ  khó bài  thi ngày càng được nâng cao cùng với lượng vận động (LVĐ) tăng lên để  hoàn thiện kỹ năng, kỹ  xảo vận động. Ở một số  nước có nền TDDC phát  triển VĐV phải tập 3 lần/ngày, phần lớn LVĐ trong tập luyện và thi đấu  thực hiện trong điều kiện yếm khí. Ngay sau khi kết thúc bài tự  do, mạch   đo được 200 lần/phút, quãng nghỉ giữa các lần di chuyển dụng cụ mạch đo  được 120 lần/phút. Trước mỗi bài thi  ở  dụng cụ  mạch đo được  ở  VĐV 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2