intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Hoàn thiện phân tích hiệu quả hoạt động tại các doanh nghiệp đóng tàu trên địa bàn thành phố Hải Phòng

Chia sẻ: Bi Anh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:284

53
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hệ thống hóa lý thuyết về phân tích hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất; khảo sát thực trạng phân tích hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp đóng tàu trên địa bàn thành phố Hải Phòng (giai đoạn 2013-2017). Hoàn thiện phân tích hiệu quả hoạt động tại các doanh nghiệp đóng tàu trên địa bàn thành phố Hải Phòng, giúp cho các doanh nghiệp này phát triển bền vững trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Hoàn thiện phân tích hiệu quả hoạt động tại các doanh nghiệp đóng tàu trên địa bàn thành phố Hải Phòng

  1. Bô Giao duc va Đao tao ̣ ́ ̣ ̀ ̀ ̣                                                         Bô Tai chinh ̣ ̀ ́ HỌC VIỆN TÀI CHÍNH ­­­­­­­­ HOÀNG THỊ NGÀ HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH HIÊU QUA HOAT ĐÔNG T ̣ ̉ ̣ ̣ Ạ I  CÁC DOANH NGHIỆP ĐÓNG TÀU TRÊN ĐỊA BÀN  THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG                                 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
  2. HÀ NỘI ­ 2019
  3. Bô Giao duc va Đao tao ̣ ́ ̣ ̀ ̀ ̣                                                         Bô Tai chinh ̣ ̀ ́ HỌC VIỆN TÀI CHÍNH ­­­­­­­­ HOÀNG THỊ NGÀ HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH HIÊU QUA HOAT ĐÔNG ̣ ̉ ̣ ̣   TẠI CÁC DOANH NGHIỆP ĐÓNG TÀU TRÊN ĐỊA BÀN  THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG            Chuyên ngành: Kế toán           Mã số: 9.34.03.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ                              Người hướng dẫn khoa học:  1­ PGS,TS. Nguyễn Ngọc Quang 2­ TS. Nguyễn Văn Hậu
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của   riêng   tôi.   Các   số   liệu   nêu   trong   luân ̣   an ́   là   trung   thực.   Những kết luận khoa h ọc c ủa  luân an ̣ ́  chưa từng đượ c ai   công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Hoàng Thị Ngà
  5. MỤC LỤC Trang
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT  BHXH Bảo hiểm xã hội DN Doanh nghiệp  DNSX Doanh nghiệp sản xuất GTGT Giá trị gia tăng KH&CN Khoa học và công nghệ MTV Một thành viên NSNN Ngân sách Nhà nước QTDN Quản trị doanh nghiệp TNHH Trách nhiệm hữu hạn
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, HÌNH, SƠ ĐỒ  TT Số hiệu và tên gọi Trang 01 Bảng 1.1. Triên khai th ̉ ực hiên BSC trong DNSX ̣ 44 02 Bảng 1.2. Hê thông chi tiêu phân tich hi ̣ ́ ̉ ́ ệu quả hoạt động của DNSX 45 03 Bảng 2.1. Tương quan Pearson giữa quy mô DN và một số  đặc điểm   71 khác 04 Bảng 2.2. Mức độ quan tâm tới quy trình và vai trò phân tích hiệu quả  79 hoạt động 05 Bảng  2.3. Mức độ  thực hiện quy trình và vai trò phân tích hiệu quả  81 hoạt động 06 Bảng 2.4. Mức độ quan tâm tới nội dung phân tích hiệu quả hoạt động 85 07 Bảng 2.5. Mức độ thực hiện nội dung phân tích hiệu quả hoạt động 86 08 Bảng 2.6. Mức độ quan tâm tới chỉ tiêu phân tích hiệu quả hoạt động 89 09 Bảng 2.7. Mức độ sử dụng chỉ tiêu phân tích hiệu quả hoạt động 91 10 Bảng 2.8. Mức độ  quan tâm tới phương pháp phân tích hiệu quả  hoạt  95 động 11 Bảng 2.9. Mức độ sử dụng phương pháp phân tích hiệu quả hoạt động 96 12 Bảng 2.10. Mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới hiệu quả hoạt động 99 13 Bảng 3.1. Đề  xuất BSC của DN đóng tàu trên địa bàn thành phố  Hải  132 Phòng 14 Bảng 3.2. Phân tích tổng quan Công ty TNHH MTV 189 năm 2017 140 15 Bảng 3.3. Hiệu quả hoạt động về mặt kinh tế ở phương diện tài chính  143 của Công ty TNHH MTV 189 giai đoạn 2013­2017 16 Bảng 3.4. Lợi nhuận trước thuế  và lãi vay của Công ty TNHH MTV  148 189 giai đoạn 2013­2017 17 Bảng  3.5. Dữ  liệu đầu vào được sử  dụng để  minh họa về  phương  159 pháp DEA 18 Bảng 3.6. Kết quả tính năng suất tổng hợp Malmquist VRS O 160 19 Biểu 2.1. Đặc điểm ngành nghề kinh doanh 70 20 Biểu 2.2. Đặc điểm quy mô doanh nghiệp 70 21 Biểu 2.3. Đặc điểm số lượng lao động 72 22 Biểu 2.4. Đặc điểm thời gian hoạt động 72
  8. TT Số hiệu và tên gọi Trang 23 Biểu 2.5a. Đặc điểm loại hình DN 73 TT Số hiệu và tên gọi Trang 24 Biểu 2.5b. Đặc điểm tính chất sở hữu vốn 73 25 Biểu 2.6. Đặc điểm tổ chức bộ máy phân tích kinh tế  73 26 Biểu 3.1. Lợi nhuận của Công ty TNHH MTV 189 giai đoạn 2013­2017 144 27 Biểu 3.2.  Hiệu suất sử  dụng vốn của Công ty TNHH MTV 189 giai  144 đoạn 2013­2017 28 Biểu 3.3. Hiệu suất sử  dụng một số  loại vốn ngắn hạn của Công ty  145 TNHH MTV 189 giai đoạn 2013­2017 29 Biểu 3.4.  Khả  năng sinh lời của Công ty TNHH MTV 189 giai đoạn  145 2013­2017 30 Biểu 3.5.  Lợi nhuận trước thuế  và lãi vay  của Công ty TNHH MTV  148 189 giai đoạn 2013­2017 31 Biểu 3.6. Biến động ROE của công ty TNHH MTV 189 trong giai đoạn  152 2013­2017 32 Hình 1.1. Mô hình BSC 4 viễn cảnh 42 33 Hình 1.2. Cấu trúc BSC 43 34 Hình 1.3. Mô hình phân tích SWOT  52 35 Hình 1.4a. Đường PPF trong trường hợp tối đa hóa đầu ra 54 36 Hình 1.4b. Đường PPF trong trường hợp tối thiểu hóa đầu vào 54 37 Sơ đồ M.1. Thiết kế nghiên cứu 11 38 Sơ đồ M.2. Phương pháp nghiên cứu 13 39 Sơ đồ 1.1. Tông h ̉ ợp cac cach phân loai hi ́ ́ ̣ ệu quả hoạt động cua DNSX ̉ 21 40 Sơ đồ 1.2. Phân loai  ̣ hiệu quả hoạt động của DNSX sử dung trong luân ̣ ̣   22 ań 4 Sơ đồ 1.3. Kết hợp nội dung và phương pháp phân tích hiệu quả hoạt  57 1 động của doanh nghiệp sản xuất 4 Sơ đồ 2.1. Quy trình đóng tàu 74 2 43 Sơ đồ 2.2a. Quy trình đóng tàu khi hợp đồng chưa có hồ sơ thiết kế 75 44 Sơ đồ 2.2b. Quy trình đóng tàu khi hợp đồng đã có hồ sơ thiết kế 76 45 Sơ đồ 3.1. Các cấp độ hoàn thiện bộ máy phân tích 121
  9. TT Số hiệu và tên gọi Trang 46 Sơ đồ 3.2. Quy trình phân tích hiệu quả hoạt động 126 47 Sơ  đồ  3.3. Phân tích ROE của công ty TNHH MTV 189 theo mô hình  151 Dupont 3 bước
  10. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phân tích hiệu quả hoạt động của DN là cần thiết vì nó cung cấp thông tin  cho người sử dụng để  ra quyết định nhằm mục tiêu phát triển bền vững. Trong  thời gian qua, hiệu quả hoạt động của các DN đóng tàu Việt Nam nói chung và  trên địa bàn thành phố  Hải Phòng nói riêng có xu hướng sụt giảm mạnh. Điển  hình là sự  tan rã của Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) và  hàng loạt các doanh nghiệp lớn, nhỏ khác trong ngành rơi vào tình trạng: phá sản,   giải thể, ngừng hoạt động, hoạt động cầm chừng, sắp xếp lại,… Nguyên nhân   cơ bản là do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, do khủng hoảng chu kỳ của ngành  đóng tàu và biến động về nhu cầu của ngành vận tải biển, do hệ quả phát triển  quá nóng của ngành đóng tàu Việt Nam những năm trước đó. Mặc dù đang trải qua thời kỳ hết sức khó khăn nhưng công nghiệp đóng tàu   vẫn được xác định là một ngành kinh tế trọng điểm của quốc gia biển Việt Nam,   là ngành công nghiệp then chốt của thành phố  cảng Hải Phòng. Hiệu quả  hoạt   động của các DN đóng tàu trên địa bàn thành phố Hải Phòng luôn là mối quan tâm  hàng đầu của nhiều đối tượng sử  dụng thông tin. Song, thực tế  cho thấy, phân  tích hiệu quả hoạt động của các DN đóng tàu trên địa bàn thành phố  Hải Phòng  hiện nay tồn tại nhiều bất cập nên vai trò của công cụ  này còn mờ  nhạt. Hệ  thống lý thuyết về  phân tích hiệu quả  hoạt động của DNSX cũng đã khá phổ  biến, nhưng chưa được khảo sát và ứng dụng ở các DN đóng tàu tại địa phương  này.  Từ  tính cấp thiết của đề  tài, kết hợp với   định hướng của tập thể  cán bộ  hướng dẫn, tác giả  đã đề  xuất và nhận quyết định nghiên cứu đề  tài   “Hoàn   thiện phân tích hiệu quả  hoạt động tại các DN đóng tàu trên địa bàn thành   phố Hải Phòng” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình. 2. Tổng quan các công trình nghiên cứu Trong thời gian qua, tổng hợp tài liệu từ  nhiều nguồn khác nhau, tác giả  nhận thấy có nhiều công trình nghiên cứu về phân tích hiệu quả  hoạt động của 
  11. 2 các DN, song chưa có công trình nghiên cứu nào hoàn toàn trùng lặp với đề  tài  “Hoàn thiện phân tích hiệu quả hoạt động tại các DN đóng tàu trên địa bàn   thành phố  Hải Phòng”. Để  làm rõ khoảng trống trong nghiên cứu, tác giả  tiến   hành đánh giá tổng quan những nghiên cứu tiêu biểu và có một số  nhận xét cơ  bản như sau: Những nghiên cứu trước đây (gắn với nền kinh tế kế hoạch tập trung, tiếp   đó là giai đoạn đầu chuyển đổi sang kinh tế  thị  trường) chủ  yếu xem xét đến   hiệu quả kinh tế vĩ mô.  Trong nền kinh tế kế hoạch tập trung, hiệu quả hoạt động được đồng nhất   với việc hoàn thành kế  hoạch. Theo đó, Chính phủ  quyết định hàng hóa và dịch  vụ nào sẽ được sản xuất, số lượng và giá cả mà hàng hóa, dịch vụ sẽ được bán.   Trong thời kỳ  này, vấn đề  hiệu quả  hoạt động đã là mối quan tâm của các nhà  nghiên  cứu.   Điển   hình   là   nghiên  cứu   của   tác   giả  Ngô   Đình   Giao   trong   cuốn  “Những vấn đề cơ bản về hiệu quả kinh tế trong xí nghiệp công nghiệp” (1984)  [18], hay nghiên cứu của nhóm tác giả  Nguyễn Sĩ Thịnh, Lê Sĩ Thiệp, Nguyễn   Kế  Tuấn trong cuốn “Hiệu quả  kinh tế  trong xí nghiệp công nghiệp” (1985)  [24],... Những nghiên cứu này đã đề  cập khá chi tiết về  hiệu quả  hoạt động (ở  góc độ  là hiệu quả  kinh tế) với tiêu chuẩn để  đánh giá là việc “hoàn thành kế  hoạch”, còn vấn đề lợi nhuận và giá trị kinh tế gia tăng không được đề cập đến;  mặt khác, mặc dù đề  cập đến hiệu quả  trong các xí nghiệp công nghiệp nhưng   các xí nghiệp này đều được chỉ huy tập trung từ Trung Ương, nên thực chất đó là  hiệu quả  kinh tế  vĩ mô. Những sản phẩm khoa học này hoàn toàn phù hợp với   thời kỳ  kinh tế  kế  hoạch hóa tập trung, bao cấp, nhưng không còn đầy đủ  ý  nghĩa   thực   tiễn   trong   cơ   chế   thị   trường   hiện   nay.   Tiếp   đó,   trong   giai   đoạn  chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường , các nghiên cứu  liên quan thường  xem xét về  hiệu quả  nền kinh tế.  Trong cuốn “Kinh tế  học”  (1997), Paul Anthony Samuelson và William D. Nordhaus đã nêu rõ “Hiệu quả tức   là sử dụng một cách hữu hiệu nhất các nguồn lực của nền kinh tế để thỏa mãn   nhu cầu mong muốn của con người ” [37]. Hoặc trong nghiên cứu của A. Allan  Schmid “Economic Analysis and Efficiency in Public Expenditure” (2004), tác giả  đã sử  dụng phân tích chi phí – lợi ích (Cost­benefit analysis_CBA) để  phân tích  kinh tế  và hiệu quả  chi tiêu công [55]; theo đó, “hiệu quả  nghĩa là làm sao để   sản xuất được sản phẩm với chất lượng không đổi mà tiết kiệm chi phí”; tuy 
  12. 3 nhiên, đánh giá này đặt các công cụ  phân tích chi phí ­ lợi ích trong một khuôn  khổ  hiến pháp và thể  chế, nó không phải là một phân tích tài chính hay kinh tế  độc lập với vấn đề chính trị. Trong cuốn “Economic Efficiency in Transition : The  Case of Ukraine” (2006) của Anatoliy G. Goncharuk [56], tác giả đã phân tích về  hiệu quả  kinh tế  từ  việc chuyển đổi từ  nền kinh tế  kế hoạch sang nền kinh tế  thị  trường tại Ukraine; theo đó, “Hiệu quả  kinh tế  là có được lợi ích tối đa từ   việc sử  dụng tối thiểu  các  yếu tố  sản xuất đầu vào”, bao gồm “hiệu quả  kỹ   thuật” (phản ánh khả năng tạo ra một sản lượng tối đa từ  một tập hợp các yếu  tố  đầu vào giới hạn) và “hiệu quả  phân bổ” (phản ánh khả  năng sử  dụng các  nguồn lực trong sự kết hợp tối  ưu giữa chúng và công nghệ sản xuất được ứng  dụng); tuy nhiên, nghiên cứu của ông cũng chủ yếu đề cập tới hiệu quả kinh tế  vĩ mô “hiệu quả kinh tế được xác định là khi nhu cầu của tất cả các thành viên   trong xã hội được thỏa mãn đầy đủ  với nguồn lực hạn chế  nhất định”. Nhìn  chung, những nghiên cứu này có giá trị cao đối với quản lý vĩ mô, nhưng ít có giá   trị tham khảo đối với từng DN.  Khi thực hiện những nghiên cứu của mình, các tác giả  trước đây thường  thiên về  việc sử  dụng các phương pháp phân tích truyền thống, như: phương   pháp so sánh, phương pháp chi tiết, phương pháp loại trừ, phương pháp  liên hệ  đối chiếu, phương pháp Dupont,... Các phương pháp này có ưu điểm là đơn giản,  dễ thực hiện (có thể làm thủ công),... ; nhưng đó là những phân tích tĩnh nên chất  lượng thông tin cung cấp bị  hạn chế. Về  nội dung phân tích, các nghiên cứu  trước đây tập trung giải quyết vấn đề hiệu quả kinh tế vĩ mô được đưa ra trong   điều kiện nền kinh tế kế hoạch tập trung hoặc nền kinh tế thị trường chưa phát   triển toàn diện, kinh tế Nhà nước là thành phần kinh tế chủ yếu nên điểm chung   về hiệu quả ở các quan điểm trên là hiệu quả chung của nền kinh tế khi sử dụng  các nguồn lực xã hội để  đáp  ứng nhu cầu của xã hội loài người. Hay nói cách   khác, quan điểm này chú trọng đến hiệu quả hoạt động của kinh tế vĩ mô, chưa   chú trọng đến hiệu quả hoạt động của kinh tế vi mô, mà cụ thể là hoạt động của   các DN, trong khi DN là chủ thể đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Trong cơ  chế  thị  trường, các nghiên cứu mới về  hiệu quả  hoạt động  đã   được nhiều nhà nghiên cứu thực hiện. Sản phẩm của các nghiên cứu này phần   lớn được thể hiện dưới dạng giáo trình, tài liệu chuyên khảo, luận án, công trình   nghiên cứu khoa học các cấp, bài báo khoa học,... 
  13. 4 Về  giáo trình, phần lớn các nghiên cứu liên quan đến phân tích hiệu quả  hoạt động đều có điểm chung là đề cập đến ba vấn đề cơ bản của phân tích, đó  là tổ  chức phân tích, phương pháp phân tích và nội dung phân tích. Giữa các tài   liệu này, về cơ bản giải quyết khá giống nhau các vấn đề  về  tổ  chức phân tích   và phương pháp phân tích, còn về  nội dung phân tích có nhiều điểm riêng. Hầu  hết các tài liệu này xem xét về  hiệu quả hoạt động ở góc độ là hiệu quả kinh tế  của DN (hay là hiệu quả kinh doanh). Do đó, các chỉ tiêu biểu hiện nội dung phân   tích cũng chủ  yếu là hiệu quả  kinh tế, một số chỉ tiêu về  hiệu quả  xã hội cũng   được đề cập đến nhưng không chuyên sâu, tất cả các chỉ tiêu hiệu quả được đề  cập đến dù là hiệu quả kinh tế hay hiệu quả xã hội đều được xem xét ở góc độ  là hiệu quả  tài chính. Điển hình là các cuốn: “Giáo trình Phân tích hoạt động   kinh tế của DN” (2002) của tác giả Nguyễn Thế Khải [26]; “Giáo trình Phân tích   hoạt động kinh tế” (2012) của tác giả  Nguyễn Ngọc Quang [21]; “ Giáo trình   Phân tích hoạt động DN” (2011) của tác giả Nguyễn Tấn Bình [25]; “Giáo trình   Phân tích tài chính DN” (2015) của tác giả  Ngô Thế  Chi và Nguyễn Trọng Cơ  [19]; “Giáo trình Phân tích kinh doanh” (2015) của tác giả  Nguyễn Văn Công  [35];... Về  tài liệu chuyên khảo, cuốn “Financial statement analysis” (2008) thuộc  chương trình giảng dạy CFA của Viện CFA [57], đã trình bày cụ thể các vấn đề  thuộc phân tích tài chính (trong đó có phân tích hiệu quả tài chính), tuy nhiên phân  tích hiệu quả phi tài chính không thuộc phạm vi nghiên cứu của cuốn sách này. Về  luận án, có những luận án tập trung giải quyết một hoặc một số mặt   thuộc phân tích hiệu quả hoạt động, cũng có những luận án giải quyết các mặt   thuộc phân tích hiệu quả  hoạt động nói chung. Trong đó, xét về  công tác phân  tích, có những luận án tập trung nghiên cứu về   hệ  thống chỉ  tiêu phân tích;  có  những luận án tập trung nghiên cứu về  phương pháp phân tích tương  ứng với   nội dung phân tích; có những luận án nghiên cứu về  tổ chức phân tích, nội dung   phân tích và phương pháp phân tích. Xét về  phạm vi  hiệu quả  hoạt động, có  những luận án chỉ chú trọng vào một hoặc một số mặt hiệu quả hoạt động (chủ  yếu là hiệu quả  kinh tế  hoặc hiệu quả  kinh doanh), cũng có những luận án đề  cập đến mọi mặt hiệu quả  hoạt động (kể  cả  hiệu quả  kinh tế  và hiệu quả  xã  hội). Xét về tính chất hiệu quả hoạt động, phần lớn các luận án tập trung nghiên  cứu về  hiệu quả  tài chính, bên cạnh đó cũng có những luận án nghiên cứu về 
  14. 5 hiệu quả  phi tài chính bên cạnh hiệu quả  tài chính. Xét về  không gian nghiên   cứu, các luận án thường có không gian nghiên cứu là một nhóm DN có những đặc  trưng giống nhau (cùng ngành, cùng lĩnh vực, cùng quy mô, cùng địa bàn hoạt  động,...). Những luận án tập trung nghiên cứu về  hệ  thống chỉ  tiêu phân tích hiệu   quả  hoạt động  ở  góc độ  là hiệu quả  kinh tế  (hoặc hiệu quả  kinh doanh) điển   hình như: luận án “Hoàn thiện chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh   nghiệp Nhà nước”  (1999) của tác giả  Huỳnh Đức Lộng [15]; luận án  “Hoàn  thiện hệ  thống chỉ  tiêu phân tích tài chính trong doanh nghiệp cổ  phần phi tài   chính  ở  Việt  Nam”  (năm  1999)  của  tác  giả   Nguyễn  Trọng  Cơ  [33];   luận  án  “Hoàn thiện hệ  thống chỉ  tiêu phân tích tài chính trong các doanh nghiệp xây   dựng   của   Việt   Nam”   (2002)   của   tác   giả   Nguyễn   Ngọc   Quang   [20];   luận   án  “Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính trong doanh nghiệp thương mại   phục vụ quản trị kinh doanh” (2009) của tác giả Nguyễn Văn Hậu [36]; luận án  “Hoàn thiện hệ  thống chỉ  tiêu phân tích của các công ty tài chính  ở  Việt Nam ”  (2011) của tác giả  Hồ  Thị  Thu Hương [14]; luận án “Hoàn thiện hệ  thống chỉ  tiêu phân tích tài chính trong các Công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng   khoán Việt Nam” (2012) của tác giả  Nguyễn Thị  Quyên [28]; luận án “Hoàn  thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp xây   dựng công trình giao thông thuộc Bộ  Giao thông Vận tải”  (2013) của tác giả  Nguyễn Thị Thanh Hải [32];... Những nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào các   chỉ  tiêu tài chính, còn các chỉ  tiêu phi tài chính hầu như  chưa được đề  cập đến.   Gần đây, có những nghiên cứu mới về hệ thống chỉ tiêu phân tích hiệu quả hoạt   động của DN không chỉ  ở góc độ  tài chính, mà còn đưa ra những chỉ  tiêu phi tài  chính để  đánh giá hiệu quả  hoạt động (cả  về  hiệu quả  kinh tế  và hiệu quả  xã  hội). Điển hình là luận án “Nghiên cứu hệ thống chỉ tiêu phân tích hiệu quả hoạt   động tại các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh Bình Định”  (2015)  của tác giả Nguyễn Ngọc Tiến [23],... Những luận án không chỉ  tập trung vào việc xây dựng hệ  thống chỉ  tiêu  phân tích, mà còn tập trung giải quyết về phương pháp phân tích, điển hình như:  luận án “Vận dụng phương pháp phân tích hệ thống và mô hình hoá trong phân   tích   hoạt   động   kinh   tế”(2000)   của   tác   giả   Phạm   Đình   Phùng   [38];   luận   án   “Phương pháp phân tích hiệu quả  sử  dụng vốn và một số  giải pháp cơ  bản   nhằm  nâng cao hiệu quả   sử   dụng vốn  của  doanh  nghiệp  công  nghiệp  quốc  
  15. 6 phòng trong cơ  chế thị trường” (1995) của tác giả  Lê Quang Bính [16]; luận án  “Hoàn thiện nội dung và phương pháp phân tích tài chính trong các tập đoàn kinh   tế hoạt động theo mô hình công ty mẹ ­ công ty con ở Việt Nam” (2012) của tác  giả  Nguyễn Thị  Thanh [29];... Các luận án này, phần nhiều chú trọng đến việc   nghiên cứu và đề  xuất sử  dụng các phương pháp phân tích truyền thống như  phương pháp so sánh, phương pháp chi tiết, phương pháp loại trừ, phương pháp  Dupont,...  Những luận án bao hàm cả  tổ chức phân tích, chỉ tiêu phân tích và phương  pháp phân tích, điển hình như: luận án “Phân tích hiệu quả kinh doanh trong các   doanh nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam” (2008) của tác giả  Nguyễn Thị  Mai Hương [27]; luận án “Hoàn thiện phân tích hiệu quả  kinh doanh trong các   Công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” (2012) của tác  giả Trần Thị Thu Phong [45]; luận án “Hoàn thiện phân tích hiệu quả kinh doanh   trong các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu Khu vực Nam Trung bộ” (2013)  của tác giả  Đỗ  Huyền Trang [13];... Song, cac nghiên c ́ ưu đo ́ ́ giải quyết vấn đề  nghiên cưu đ ́ ể áp dụng phù hợp với những đặc thù khac v ́ ới phạm vi nghiên cưú   ̉ ́ ̉ cua tac gia.  Một số luận án, luận văn không cùng lĩnh vực chuyên môn nhưng có những   liên quan nhất định tới đề tài luận án tiến sĩ của tác giả, cần được đánh giá.  Tác  giả chia những tài liệu này thành hai nhóm. Một là, những luận án có giá trị tham   khảo tốt về  phương pháp phân tích, điển hình như: luận án “Phân tích đối thủ  cạnh tranh tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam ” (2011) của tác giả  Phạm Quốc Khánh [39] đã nghiên cứu và đề  xuất việc áp dụng phương pháp  SWOT để phân tích đối thủ cạnh tranh; luận án “Các yếu tố ảnh hưởng đến mức   độ chấp nhận của mô hình thẻ điểm cân bằng trong quản trị chiến lược tại các   DN Việt Nam” (2013) của tác giả Trần Quốc Việt [44] đã nghiên cứu và đề xuất   việc áp dụng phương pháp BSC trong quản trị chiến lược tại các DN Việt Nam;   luận án “Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều   kiện hội nhập kinh tế quốc tế” (2009) của tác giả  Vũ Hùng Phương [49] đã sử  dụng phương pháp DEA để ước lượng và phân tích hiệu quả kỹ thuật của ngành   giấy Việt Nam;... Hai là, các luận văn, luận án có giá trị  tham khảo cao về  sự  phát triển và đặc điểm ngành của các DN đóng tàu, điển hình như: luận văn thạc  sỹ  “Research on sustainable development strategy of Korean shipping companies”  (2010) của tác giả Duck Hee Won B.S., Seoul National University [59], được trình  bày tại viện Công nghệ  Massachusetts; luận án “Đẩy mạnh công tác tiêu chuẩn  
  16. 7 hóa  ở  các công ty đóng tàu Việt Nam trong tiến trình hội nhập ” (2016) của tác  giả Lê Thị Kim Chi [17],...  Các nghiên cứu là công trình khoa học các cấp  cũng đã phần nào giải quyết  vấn đề  nghiên cứu có liên quan đến đề  tài luận án của tác giả   ở  những góc độ  nhất định. Chẳng hạn như, đề  tài khoa học cấp thành phố  “Giải pháp chủ  yếu   nâng cao hiệu quả  hoạt động của các DNSX tại Hà Nội sau khủng hoảng tài   chính” (2014) của tác giả  Nguyễn Ngọc Quang [22] đã nghiên cứu và đề  xuất  những giải pháp chủ  yếu nâng  cao  hiệu quả  hoạt động của các DNSX tại Hà  Nội sau khủng hoảng tài chính; một số đề tài cấp Học viện: “Phân tích tài chính   tại Tập đoàn Dầu Khí Việt Nam. Thực trạng và giải pháp” (2012), “Phân tích tài  chính trong các Công ty Tài chính thuộc Tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam.   Thực trạng và giải pháp” (2013) của tác giả Nguyễn Thị Thanh [30], [31] đã xem  xét hiệu quả hoạt động của tổ chức ở góc độ tài chính một cách khá cụ thể; ... Các nghiên cứu là bài báo khoa học thường chú trọng làm rõ việc sử dụng  phương pháp nào để phân tích nội dung gì. Nội dung phân tích được đề cập đến   khá phong phú, đó có thể là hiệu quả của nền kinh tế, hiệu quả của ngành, hiệu  quả của DN được đặt trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển toàn diện  hơn; tuy nhiên, đa phần các nghiên cứu này vẫn tập trung vào hiệu quả kinh tế ở  phương diện tài chính; bên cạnh đó, những nghiên cứu có đề  cập đến hiệu quả  xã hội thường chỉ  tập trung vào các khía cạnh như: hiệu quả  môi trường, hiệu   quả  giải quyết  việc  làm  cho lao  động,… Các  phương pháp phân  tích truyền   thống vẫn tiếp tục được sử dụng trong các nghiên cứu gần đây. Bên cạnh đó, xu  hướng sử dụng các phương pháp phân tích hiện đại, như: phương pháp SWOT,  phương pháp DEA, phương pháp BSC,… có xu hướng gia tăng mạnh mẽ.  Trong  bài viết  “Balanced Scorecard: Myth And Reality” (2005) của GS.TS  IM  Pandey,  Ấn Độ  [61], tác giả  giới thiệu về  phương pháp BSC và việc  ứng  dụng nó ở một số công ty lớn trên thế giới, như:  Philips Electronics, Tata Steel.  BSC khi được kết nối với KPI1 giúp DN đẩy nhanh tốc độ  phát triển bền  vững  bằng việc quản lý và đo lường hiệu suất thông qua các chỉ tiêu định lượng, nhằm   phản ảnh hiệu quả hoạt động của từng bộ phận, cá nhân trong DN. Nghiên cứu   này có thể tham khảo trong việc xây dựng, lượng hóa và phân tích các chỉ tiêu với  những điều chỉnh phù hợp với ngành đóng tàu vào điều kiện cụ thể của các DN  đóng tàu thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.  KPI là viết tắt của “Key Performance Indicators” (Các chỉ tiêu hiệu quả chính) 1
  17. 8 Trong   bài   viết   “Improving   flow   to   achieve   lean   manufacturing   in   shipbuilding” (2010) của tác giả Richard Lee Storch & Sanggyu Lim đăng trên tạp  chí “Production Planning & Control” [62], nhóm tác giả đã sử dụng phương pháp  điều tra thực nghiệm để  đánh giá hiệu quả  môi trường trong công nghiệp đóng   tàu. Tuy nhiên, các phương pháp phân tích khác không được đề cập đến, và hiệu   quả được xem xét chỉ riêng ở góc độ là hiệu quả môi trường. Trong bài viết “Selection of construction enterprises management strategy   based   on   the   SWOT   and   multi­criteria   analysis”     (2011),   nhóm   tác   giả  E.K.Zavadskas, Z.Turskis, J.Tamosaitiene [60] đã sử  dụng phương pháp SWOT  để phân tích nhằm xây dựng chiến lược quản lý trong các DN xây dựng, qua đó   giúp cho các DN này hoạt động hiệu quả hơn. DN xây dựng có những đặc điểm   khá tương đồng với DN đóng tàu nên nghiên cứu này cũng có giá trị  tham khảo  tốt, bên cạnh đó các DN đóng tàu còn có nhiều đặc trưng khác cần nghiên cứu bổ  sung để hoàn thiện. Trong bài viết “Analysis of Chinese Shipbuilding Industry: Strategic Lessons   for India” (2011), tác giả  SN Krishnan [64], đã phân tích công nghiệp đóng tàu  Trung Quốc và đưa ra những bài học chiến lược cho Ấn Độ. Nghiên cứu này chủ  yếu sử  dụng phương pháp so sánh, phương pháp liên hệ  đối chiếu trong ngành   công nghiệp đóng tàu của Ấn Độ và Trung Quốc nhằm phát huy vai trò của Chính   phủ  trong hỗ  trợ  và cải cách các chính sách kinh tế. Do đó, nghiên cứu này chủ  yếu đóng góp về điều kiện thực hiện các giải pháp từ phía Nhà nước; mặt khác,  các phương pháp được sử  dụng trong nghiên cứu này có hạn chế  nhất định về  chất lượng thông tin cung cấp, vì vậy cần nghiên cứu bổ sung các phương pháp  phân tích hiện đại. Trong   bài   viết   “Measurement   and   Evaluation   Model   of   Shipbuilding   Production  Efficiency”   (2017)   của   nhóm   tác   giả   Shi   Guofu,   Liu   Xiaobing,   Xu   Yizhuang,   Yao   Nailong,   đăng   trên   tạp   chí   “International   Journal   of   Economic   Behavior and Organization” [63], nhóm tác giả phát biểu rằng, hiệu quả của nhà  máy đóng tàu bị   ảnh hưởng toàn diện bởi việc quản lý, các hoạt động kỹ  thuật   và sản phẩm cuối cùng; được đo bằng các chỉ tiêu hiệu quả tương ứng phản ánh  mức hiệu quả  hoặc năng suất thay đổi trên toàn hệ  thống sản xuất. Đây là một  cách tiếp cận phù hợp để  phân tích hiệu quả  của hệ thống đóng tàu tổng thành  trong việc tìm ra nguyên nhân bên trong của sự kém hiệu quả  và các biện pháp   thích hợp để  cải thiện.  Ưu điểm của nghiên cứu này là sử  dụng phương pháp 
  18. 9 DEA, một phương pháp phân tích động, cho phép dự đoán khá chính xác về  hiệu  quả  hoạt động. Tuy nhiên, các thuật toán trong phương pháp DEA khá phức tạp   để có thể hiểu và vận dụng  ở những DN mà điều kiện thực hiện công tác phân  tích chưa tốt.  Trong những năm gần đây, nhiều nghiên cứu đã phát triển mở rộng  mô hình  tích   hợp   nhiều   công   cụ   phân   tích   khác   nhau.   Chẳng   hạn:   trong   bài   viết  “Evaluating   and   Managing   Tramp   Shipping   Lines   Performances:   A   New   Methodology   Combining   Balanced   Scorecard   and   Network   DEA”   (2014),   của  nhóm   tác   giả   Ying­Chen   Hsu,   Cheng­Chi   Chung,   Hsuan­Shih   Lee,   H.   David   Sherman, đăng trên INFOR, Vol. 51, No. 3, ISSN 0315­5986| EISSN 1916­0615  [66]. Bài viết sử  dụng kết hợp DEA và BSC áp dụng cho một bộ  dữ  liệu hoạt   động hoàn chỉnh có tiềm năng hỗ  trợ các công ty vận tải cải thiện và nâng cao  hiệu suất hoạt động. Việc tích hợp các công cụ phân tích hiện đại làm tăng chất  lượng thông tin phân tích, tuy nhiên với điều kiện của các DN đóng tàu trên địa   bàn thành phố Hải Phòng hiện nay khó vận dụng ngay những kết quả nghiên cứu  đó.   Như vậy, tổng quan các công trình nghiên cứu cho thấy: Các nghiên cứu  có liên quan gần với đề tài luận án tiến sĩ của tác giả đã được các nhà khoa học  giải quyết ở nhiều góc độ khác nhau, mang lại những giá trị tham khảo nhất định   cho bản luận án này. Những nghiên cứu chỉ tập trung vào chỉ tiêu phân tích hoặc   nội dung phân tích hoặc phương pháp phân tích hoặc kết hợp một vài khía cạnh   nêu trên thường xem xét hiệu quả  hoạt động không chỉ   ở  phương diện kinh tế,   mà cả phương diện xã hội; không chỉ là hiệu quả tài chính mà cả hiệu quả phi tài  chính. Giải quyết vấn đề theo hướng này một mặt làm rõ khía cạnh được đề cập  đến, mặt khác hiệu quả  hoạt động được nhìn nhận  ở  nhiều phương diện nên  đảm bảo tính chỉnh thể  hơn trong việc nhìn nhận về  hiệu quả  hoạt động của   đơn vị. Tuy nhiên, do chỉ tập trung vào một hoặc một vài khía cạnh của phân tích   hiệu quả  hoạt động (như  đã nêu trên), nên các khía cạnh khác không được đề  cập đến hoặc có đề  cập nhưng không cụ  thể, không được giải quyết triệt để.  Một số nghiên cứu khác tập trung phát hiện và giải quyết hầu hết, thậm chí toàn   bộ các khía cạnh của phân tích nhưng hiệu quả được đề cập tới chủ yếu là hiệu  quả kinh doanh, hoặc hiệu quả tài chính. Giải quyết vấn đề theo hướng này cho   thấy tổng thể  về mặt kỹ thuật của phân tích hiệu quả  kinh doanh, hiệu quả tài 
  19. 10 chính, nhưng chưa cho thấy hiệu quả hoạt động theo các phương diện phi kinh  doanh, phi tài chính.  Tóm lại,  ở  góc độ  chuyên môn kế  toán, chưa có bất kỳ  công trình nghiên  cứu nào về  phân tích hiệu quả  hoạt động để   ứng dụng trong các DN đóng tàu   trên địa bàn thành phố  Hải Phòng. Đây là khoảng trống nghiên cứu cần được  hoàn thiện. 3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài * Mục tiêu tổng quát Mục tiêu tổng quát của luận án là nghiên cứu và đề  xuất các giải pháp  nhằm hoàn thiện phân tích hiệu quả hoạt động tại các DN thuộc phạm vi nghiên  cứu.  * Mục tiêu cụ thể Từ  mục tiêu tổng quát nêu trên, mục tiêu nghiên cứu cụ  thể  của luận án  được  xác định như sau: ­ Hệ thống hóa lý thuyết về phân tích hiệu quả hoạt động của các DNSX; ­ Khảo sát thực trạng phân tích hiệu quả  hoạt động của các DN đóng tàu   trên địa bàn thành phố Hải Phòng (giai đoạn 2013­2017);  ­ Hoàn thiện phân tích hiệu quả hoạt động tại các DN đóng tàu trên địa bàn   thành phố  Hải Phòng, giúp cho các DN này phát triển bền vững trong thời gian   tới.  4. Câu hỏi nghiên cứu của đề tài Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu, luận án hướng tới việc tập trung nghiên  cứu và giải quyết các câu hỏi nghiên cứu đặt ra trong quá trình nghiên cứu như  sau: * Câu hỏi tổng quát Các DN đóng tàu trên địa bàn thành phố  Hải Phòng nên phân tích hiệu quả  hoạt động như thế nào để phát triển bền vững trong thời gian tới? * Các câu hỏi cụ thể
  20. 11 ­ Bản chất phân tích hiệu quả hoạt động của DNSX là gì? Nó có vai trò như  thế nào đối với DNSX nhằm mục tiêu phát triển bền vững? ­ Hệ thống chỉ tiêu và phương pháp phù hợp với nội dung phân tích?  ­ Thực trạng công tác phân tích hiệu quả  hoạt động của các DN đóng tàu   trên địa bàn thành phố  Hải Phòng đã và đang diễn ra như  thế  nào (có những  ưu  điểm và hạn chế gì)? ­ Định hướng, quan điểm và nguyên tắc nào cho việc đề xuất các giải pháp  hoàn thiện phân tích hiệu quả  hoạt động tại các DN đóng tàu trên địa bàn thành  phố Hải Phòng? ­ Những giải pháp nào thích hợp để  hoàn thiện phân tích hiệu quả  hoạt   động tại các DN đóng tàu trên địa bàn thành phố Hải Phòng, giúp cho các DN này  phát triển bền vững trong thời gian tới?  Để  thực  hiện các giải pháp đó cần   những điều kiện gì? 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Để  thực hiện được mục tiêu nghiên cứu và giải quyết được các câu hỏi   nghiên cứu đặt ra, luận án xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu như sau: * Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là “Phân tích hiệu quả  hoạt động của   các DN đóng tàu”. * Phạm vi nghiên cứu ­ Luận án chú trọng vào “nội dung phân tích hiệu quả hoạt động”, làm rõ về  chỉ tiêu phân tích và phương pháp phân tích phù hợp với chỉ tiêu ở mỗi nội dung   phân tích; bộ máy, phương tiện, tài liệu, quy trình phân tích là một số vấn đề cần  xem xét thêm để đảm bảo tính toàn diện của công tác phân tích.  ­ Luận án tập trung tới hiệu quả hoạt động về mặt kinh tế ở phương diện   tài chính, đặt trong mối quan hệ chỉnh thể với các phương diện khác như phương   diện khách hàng, phương diện quy trình nội bộ, phương diện học hỏi và phát  triển; đồng thời xem xét hiệu quả hoạt động về mặt xã hội ở phương diện trách   nhiệm xã hội của DN (cả góc độ tài chính và phi tài chính). 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2