Luận án tiến sĩ Kinh tế: Nhân tố cản trở tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam
lượt xem 16
download
Mục tiêu nghiên cứu chung của luận án "Nhân tố cản trở tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam" là nhằm đánh giá các nhân tố gây trở ngại tới sự tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp Việt Nam trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Kinh tế: Nhân tố cản trở tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Luận án Những năm gần đây, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra sâu, rộng và trải khắp mọi lĩnh vực kể từ khi Việt Nam kết thúc đàm phán và tiến hành triển khai nhiều hiệp định thương mại tự do quan trọng với Hàn Quốc; Liên minh Châu Âu (EU); liên minh thuế quan Nga - Bêlarut - Kazắctan; Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)... Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới được kỳ vọng sẽ mang lại rất nhiều lợi ích đối với thương mại Việt Nam: tác động tích cực đến việc tăng thêm khối lượng trao đổi thương mại với các nước trong khu vực; thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu theo chiều hướng tích cực, nâng cao cả về chất lượng và giá trị; gia tăng năng lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu; tác động tích cực đến việc mở rộng thị phần của hàng hóa Việt Nam trên các thị trường có liên quan, thể hiện rõ nhất là tại các nước ASEAN thành viên, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội mang lại thì việc tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới cũng đặt ra không ít thách thức đối với Việt Nam như việc các doanh nghiệp Việt Nam dễ bị thua thiệt trong kinh doanh, Việt Nam trở nên lệ thuộc vào các nước phát triển về thị trường, thiết bị máy móc và công nghệ. Trong khi đó, ngành công nghiệp chế biến và chế tạo được cho rằng là một trong các trụ cột phát triển của cả nền kinh tế. Phát triển ngành công nghiệp chế biến và chế tạo sẽ giúp các quốc gia phát triển bền vững trong tương lai. Công nghiệp chế biến và chế tạo phát triển sẽ giúp quốc gia tăng trưởng sản xuất, xuất khẩu hàng hóa, tăng trưởng GDP, tăng cường phát triển kinh tế nhờ tăng trưởng thặng dư thương mại, giúp các quốc gia thực hiện quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nhanh và mạnh hơn. Tính chung cả năm 2017, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 9,4% so với năm 2016, cao hơn nhiều so với mức tăng 7,4% của năm 2016. Trong các ngành công nghiệp, ngành chế biến và chế tạo tăng 14,5% (mức tăng trưởng cao nhất trong 6 năm trở lại đây), đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng chung toàn ngành công nghiệp với 10,2 điểm phần trăm. Trong thời gian qua, mặc dù ngành công nghiệp chế biến và chế tạo Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ kể trên nhưng thực tế chúng ta vẫn chỉ đảm nhận những khâu công việc đơn giản, chủ yếu sử dụng lao động có tay nghề thấp nên lợi nhuận không cao, bị lệ thuộc nhiều vào bên ngoài. Theo số liệu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), sự tham gia của các doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu còn thấp so với các nền kinh tế có quy mô tương tự trong khu vực Đông Nam Á. Cụ thể, mới chỉ 36% doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào 1
- mạng lưới sản xuất, bao gồm cả xuất khẩu trực tiếp và gián tiếp, trong khi tỷ lệ này ở Malaysia, Thái Lan là khoảng 60%. Thực trạng trên cho thấy chuỗi cung ứng ở nền kinh tế Việt Nam bị phân tán và ít khả năng được hưởng lợi từ hiệu ứng lan tỏa vốn đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và nâng cao năng suất. Theo VCCI, nguyên nhân chính của thực trạng trên là do Việt Nam chỉ có khoảng 4% doanh nghiệp lớn và vừa trong tổng số doanh nghiệp nên năng lực cạnh tranh, tham gia vào chuỗi cung ứng thấp và chỉ hướng vào thị trường trong nước. Bên cạnh đó, rất nhiều doanh nghiệp FDI lớn hiện đang đổ vốn đầu tư lớn vào các nhà máy sản xuất tại Việt Nam và tiến hành tìm kiếm các nhà cung ứng nội địa nhằm mục đích cắt giảm chi phí sản xuất, giảm thời gian lưu kho và tăng tỉ lệ nội địa hóa của sản phẩm để hạ giá thành, tăng cường khả năng cạnh tranh và tận dụng lợi thế của các hiệp định thương mại tự do (CPTPP, AEC,…). Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất đối với các tập đoàn này vẫn là việc tìm được đơn vị cung ứng trong nước đủ năng lực về sản lượng, chất lượng cũng như tiến độ để trở thành nhà cung ứng cấp một cho các tập đoàn nước ngoài này. Một ví dụ điển hình là trường hợp của công ty Fuji Xerox Hải Phòng đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất máy in, máy in màu và máy in phức hợp tại Khu công nghiệp Việt Nam - Singapore tại Hải Phòng với số vốn 9 tỷ Yên cho rằng không thể có cách nào tìm được một nhà cung ứng nội địa đạt tiêu chuẩn. Hay một trường hợp khác là Tập đoàn hàng đầu thế giới về lĩnh vực điện tử Samsung tìm kiếm doanh nghiệp Việt Nam sản xuất vỏ điện thoại, ốc vít, xạc điện thoại - những bộ phận rất cơ bản của sản phẩm - cho hai nhà máy lắp ráp điện thoại nhưng hầu hết các doanh nghiệp nội địa đều thừa nhận chưa thể đáp ứng đầy đủ các điều kiện cung cấp khắt khe do tập đoàn đặt ra, vì vậy Samsung đang có kế hoạch đưa thêm 200 nhà cung ứng nước ngoài vào Việt Nam để hỗ trợ cho công ty này. Trong khi đó, theo nhận định của nhiều chuyên gia thì Việt Nam đang được xem là có triển vọng cao trong việc trở thành trung tâm chế biến, chế tạo mới của thế giới. Nhận định này xuất phát từ các lý do sau: Thứ nhất, Việt Nam nằm trên trục giao thương quốc tế, thuận lợi để phục vụ sản xuất và xuất khẩu hàng hóa quy mô lớn. Thứ hai, Việt Nam đã và đang tích cực, chủ động hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới và khu vực. Thứ ba, hoạt động sản xuất công nghiệp của Việt Nam luôn tăng trưởng ổn định so với các trung tâm chế tạo khác trong khu vực. Thứ tư, hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng trưởng rất khả quan. Thứ năm, Việt Nam đang ở ngưỡng dân số vàng với một lực lượng lao động dồi dào, trẻ và chi phí thấp trong mối tương quan với các nước trong khu vực. Cuối cùng, dòng vốn đầu tư 2
- quốc tế đang có sự dịch chuyển từ Trung Quốc sang các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Song, cho tới nay, mặc dù ở Việt Nam đã có nhiều các nghiên cứu về chuỗi cung ứng như Huỳnh Thị Thu Sương (2013) tìm hiểu về những yếu tố tác động đến việc phối hợp trong chuỗi đồ gỗ ở vùng Đông Nam Bộ; Đoàn Thị Hồng Vân và cộng sự (2011) đi sâu vào chuỗi cung ứng của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực (đồ gỗ, cà phê, dệt may); Đỗ Thị Đông (2011) phân tích chuỗi giá trị và tổ chức quan hệ liên kết của các doanh nghiệp may xuất khẩu ở Việt Nam; Nguyễn Thành Hiếu và cộng sự (2015) nghiên cứu sự hợp tác của các bộ phận cung ứng nội bộ nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp… nhưng chưa có một nghiên cứu nào đánh giá mức độ tác động của những nhân tố cản trở sự tham gia của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến và chế tạo Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu, để trên cơ sở đó sẽ giúp các cơ quan nhà nước có cái nhìn thấu đáo hơn và có những định hướng, quyết sách thuận lợi hơn nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng; cũng như giúp các doanh nghiệp Việt Nam trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo nhìn nhận lại được chính bản thân mình, nhận ra và khắc phục được những thiếu sót, hạn chế mà mình đang mắc phải và tăng cường những lợi thế mình đang có nhằm mục tiêu giành được thế chủ động trong kinh doanh, tham gia được vào chuỗi cung ứng toàn cầu, thu được lợi nhuận cao, giúp cho ngành công nghiệp chế biến và chế tạo Việt Nam phát triển bền vững, góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên thương trường quốc tế… Góp phần giải quyết vấn đề này, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nhân tố cản trở tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam” để nghiên cứu. 2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trên thế giới, có rất nhiều công trình nghiên cứu đã làm rõ lý luận về những nhân tố ảnh hưởng đến việc tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, đồng thời cũng đã minh chứng cho các luận giải đó bằng các nghiên cứu thực nghiệm cho nhiều trường hợp của nhiều nước khác nhau. Khi nghiên cứu về các yếu tố tác động đến việc tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp trên quốc tế nói chung và Việt Nam nói riêng, đa phần các tác giả đều có tiếp cận xem xét các yếu tố này trên cả 2 mặt (thuận và nghịch) bao gồm mặt thúc đẩy và mặt cản trở. Từ đó xem xét tác động tích cực của mặt thúc đẩy và tác động tiêu cực của mặt cản trở. Tuy nhiên, dù một yếu tố nào đó có thể được xem xét ở cả hai mặt nhưng rõ ràng ở mỗi một yếu tố đó sẽ có một khía cạnh ảnh hưởng mang tính thúc đẩy hoặc mang tính cản trở nổi trội hơn khía cạnh còn lại. 3
- Nhiều nghiên cứu và thực tiễn ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển đã chỉ ra có rất nhiều những nhân tố cản trở đối với doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh nói chung. Đi sâu vào phân tích thị trường Đông Á, Harvie (2010) đã tổng hợp từ các nghiên cứu trước đó và đưa ra danh sách các nhân tố gây nhiều cản trở đến hoạt động sản xuất và kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp đó là: Khả năng tiếp cận đất đai; Khả năng tiếp cận vốn; Chi phí theo quy định; Khuôn khổ pháp lý; Khả năng tiếp cận công nghệ, thông tin, thị trường và các dịch vụ trợ giúp doanh nghiệp; Cạnh tranh quốc tế; Chi phí vận chuyển tương đối cao; Chi phí kiểm định; Thất bại của thị trường; Các vấn đề liên quan đến thuế của công ty tư nhân; Nguồn nhân lực trình độ cao; Huấn luyện và đào tạo cấp độ công ty; Quan điểm của xã hội; Cơ sở hạ tầng; Chi phí của việc trở thành chính thức chứ không còn là duy trì không chính thức; Sự phân biệt. Tập trung vào phân tích sự tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp, nhiều nhà nghiên cứu trong thời gian qua dành nhiều thời gian và công sức trong việc phân tích và nhận định các nhân tố tác động. Tuy nhiên, theo Kamal và Irani (2014) thì tính đến nay, dường như chưa có sự thống nhất về việc khẳng định những nhân tố tác động (tích cực và tiêu cực) đến sự tham gia vào chuỗi cung ứng bởi sự không đồng nhất của các nền kinh tế. Alfalla – Luque và cộng sự (2013) đã đưa ra một khung khái niệm dựa trên việc tổng quan lý thuyết các nghiên cứu về sự tham gia chuỗi cung ứng và đã hỗ trợ cho các nhà nghiên cứu chuỗi cung ứng hiểu rõ hơn các biến số và nhân tố khác nhau của chuỗi cung ứng thông qua các nghiên cứu định lượng. Tuy nhiên, các biến số và phạm vi trong khung nghiên cứu của họ đã được nghiên cứu bởi rất nhiều tác giả trước đấy (Swink và cộng sự, 2007) và có hạn chế là có ít biến số tích cực. Phân tích của Kamal và Irani (2014) đã phân chia các nhân tố tác động thành bảy nhóm đó là Chiến lược, Quản lý, Tổ chức, Điều hành; Kỹ thuật; Tài chính và Môi trường kinh doanh. Trong khi đó, theo quan điểm và nghiên cứu của Kamal và Irani (2014), bốn nhân tố gây cản trở nhiều đến sự tham gia chuỗi cung ứng có thể là Hạn chế về hạ tầng công nghệ thông tin; Hạn chế về nguồn lực kỹ thuật, kỹ năng và kiến thức; Ngại thay đổi; Thiếu hụt về nguồn nhân lực có kinh nghiệm. Nhiều nhà khoa học đã tập trung vào việc xác định và phân tích các nhân tố tác động đến sự tham gia chuỗi cung ứng của doanh nghiệp, ví dụ: quy mô doanh nghiệp (Pagell, 2004), đối tác chiến lược (Ramanathana và Gunasekaran, 2012), sự phụ thuộc lẫn nhau trong chuỗi cung ứng (Vachon và Klassen, 2006), sự phối hợp và liên lạc hiệu quả (Paulraj và cộng sự, 2008). Tuy nhiên có rất ít nghiên cứu liệt kê được một danh sách hoàn chỉnh những nhân tố. Một trong số rất ít các nghiên cứu hiện có đó là của Bernon và cộng sự (2013) đã đưa ra một danh sách các lợi ích tập trung xoay quanh mối 4
- liên hệ giữa việc tham gia chuỗi cung ứng và hiệu quả trong quá trình sản xuất – kinh doanh của đơn vị tham gia chuỗi, ví dụ: cho phép các bên tham gia chuỗi nâng cao quy trình liên kết sản xuất, tiết kiệm thời gian, giảm lượng hàng tồn kho, nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng, đầu ra của sản phẩm và tăng cường thông tin. Sau đấy, Pagell (2004) cung cấp và làm rõ hơn những nhân tố gây ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến sự tham gia chuỗi cung ứng (trong hoạt động vận hành, mua sắm, hậu cần), ví dụ như hiệu quả hoạt động được cải thiện, sự hỗ trợ của ban quản lý cấp cao, phát triển sản phẩm và thông tin liên lạc được nâng cao. Một số nghiên cứu đã làm rõ các nhân tố khác nhau thúc đẩy tham gia chuỗi cung ứng. Chen và cộng sự (2013) khẳng định rằng trong số rất nhiều những nhân tố đã được chỉ ra thì nổi bật lên là ba nhân tố: trình độ công nghệ thông tin (IT), sự trao đổi kiến thức và niềm tin giữa các thành viên trong chuỗi cung ứng. Hầu hết các nghiên cứu đều tập trung vào nghiên cứu các nhân tố tác động tích cực đến việc tham gia vào chuỗi cung ứng, cũng có một số nghiên cứu tập trung vào những nhân tố gây trở ngại đến sự tham gia chuỗi cung ứng, chẳng hạn như sự thiếu vắng cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin thống nhất (Khare và cộng sự, 2012), hiệu ứng bullwhip1 (Vanpoucke và cộng sự, 2009) và trở ngại sự thay đổi (Hertz, 2006). Những nhân tố gây ảnh hưởng tích cực nhất đến sự tham gia chuỗi cung ứng đó là hiệu suất doanh nghiệp cải thiện, chia sẻ thông tin, lợi thế cạnh tranh, sự nâng cao giao tiếp và sự thuận tiện và hiệu quả của các nguồn lực. Có rất ít các công trình nghiên cứu khai thác một cách trực diện vào mối liên hệ giữa các doanh nghiệp và chuỗi cung ứng toàn cầu (Harvie và cộng sự, 2010; Rasiah và cộng sự, 2010). Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các điểm đặc trưng của doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp chế biến và chế tạo khác nhau là rất không giống nhau. Những doanh nghiệp liên quan đến xuất khẩu hay mạng lưới sản xuất thường lớn hơn, hiệu quả hơn và có các kĩ năng khác tốt hơn so với các doanh nghiệp khác. Những nghiên cứu liên quan sẽ được thảo luận dưới đây nhằm hình thành nên các giả thuyết cho luận án. Ở trong nước, đã có nhiều nghiên cứu về chuỗi cung ứng của nhiều mặt hàng, lĩnh vực, ngành nghề khác nhau như chuỗi dệt may, chuỗi cá ba sa, chuỗi cung ứng điện tử, chuỗi cung ứng cà phê, chuỗi cung ứng đồ gỗ… (Huỳnh Thị Thu Sương, 2013; Đoàn Thị Hồng Vân và cộng sự, 2011; Đỗ Thị Đông, 2011; Nguyễn Thành Hiếu và cộng sự, 2015;…). Các nghiên cứu này đã làm sâu sắc thêm lý luận và thực tiễn về chuỗi cung 1 Hiện tượng này xuất hiện trong quá trình dự đoán nhu cầu của các kênh phân phối trong Chuỗi cung ứng. Biểu hiện cụ thể là thông tin về nhu cầu thị trường cho một sản phẩm bị bóp méo hay khuếch đại lên qua các khâu. Điều này dẫn đến sự dư thừa tồn kho, ảnh hưởng đến chính sách giá và tạo ra các phản ánh không chính xác trong nhu cầu thị trường. 5
- ứng cũng như sự tham gia của doanh nghiệp vào chuỗi cung ứng trên nhiều khía cạnh. Nghiên cứu về chuỗi cung ứng như Huỳnh Thị Thu Sương (2013) tìm hiểu về những yếu tố tác động đến việc phối hợp trong chuỗi đồ gỗ ở vùng Đông Nam Bộ. Đoàn Thị Hồng Vân và cộng sự (2011) đi sâu vào chuỗi cung ứng của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực (đồ gỗ, cà phê, dệt may). Đỗ Thị Đông (2011) phân tích chuỗi giá trị và tổ chức quan hệ liên kết của các doanh nghiệp may xuất khẩu ở Việt Nam. Nguyễn Thành Hiếu và cộng sự (2015) nghiên cứu sự hợp tác của các bộ phận cung ứng nội bộ nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tác giả đã nghiên cứu mối quan hệ phức tạp giữa quản trị chuỗi cung ứng nội bộ, tiền đề và kết quả của quản trị chuỗi cung ứng nội bộ. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế như hiện nay, có thể thấy bức tranh chung là các doanh nghiệp của Việt Nam đang rất khó khăn trong tiếp cận các chuỗi cung ứng quốc tế cũng như năng lực đáp ứng được những yêu cầu đặt ra của doanh nghiệp dẫn dắt chuỗi cung ứng (tỷ lệ doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng thấp, chỉ khoảng trên dưới 20%). Vì vậy, trong nghiên cứu này tác giả chỉ xem xét các yếu tố tác động đến việc tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp chế biến và chế tạo của Việt Nam trên phương diện cản trở của hai nhóm nhân tố bao gồm nhóm nhân tố bên trong và nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. Tác giả đã so sánh, đối chiếu các mô hình nghiên cứu về các nhân tố tác động đến việc tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của doanh nghiệp Việt Nam ở một số ngành nghề kinh doanh để phân tích, chọn lựa các yếu tố tác động chủ yếu để đưa vào mô hình nghiên cứu của luận án này để đáp ứng mục tiêu nghiên cứu và tính thực tiễn của vấn đề này ở Việt Nam. Sau quá trình phỏng vấn sâu các chuyên gia, thảo luận nhóm, phân tích ý kiến trả lời trong các câu hỏi mở, nghiên cứu tư liệu (phân tích, tổng hợp các tài liệu)…, tác giả đã phát hiện ra các đặc trưng (chỉ báo) biểu thị cho các nhân tố đưa ra xem xét. Bên cạnh đó, sự hạn chế tham gia chuỗi cần thiết phải xem xét ở cả hai nhóm: nhóm doanh nghiệp chưa tham gia và nhóm doanh nghiệp đang tham gia chuỗi bởi vì cần phải đánh giá được mức độ khó khăn trong tiếp cận tham gia chuỗi của các doanh nghiệp chưa tham gia còn đối với các doanh nghiệp đang tham gia thì cần đánh giá mức độ khó khăn, bất lợi của họ khi hoạt động trong chuỗi, vì mức độ này càng lớn thì càng nhiều khả năng các doanh nghiệp sẽ cân nhắc rút lui khỏi chuỗi để tránh rủi ro, bất lợi. Như vậy, có thể khẳng định các nghiên cứu ngoài nước và trong nước về tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu là khá nhiều và khá đa dạng. Tuy nhiên, vẫn chưa có nghiên cứu tập trung vào phân tích, đánh giá và ước lượng sâu sắc, toàn diện các yếu tố cản trở việc tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp chế biến và chế tạo của Việt Nam trên phương diện cản trở, đặc biệt là chưa làm rõ đầy đủ các cơ chế hay các 6
- kênh tác động cản trở cũng như chi tiết về các thành tốt cấu thành nên các nhân tố gây tác động cản trở. Chính vì vậy, cách tiếp cận trong nghiên cứu này sẽ phù hợp hơn trong bối cảnh Việt Nam hiện nay khi mà các doanh nghiệp của chúng ta đang đứng trước nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những thách thức trước cánh cửa hội nhập. Và với cách tiếp cận này, nghiên cứu sẽ giúp chính phủ, các cơ quan quản lý có liên quan và các doanh nghiệp nhận diện chính xác và đánh giá lại một cách toàn diện những khía cạnh rào cản đang thực sự kìm hãm sự tham gia của doanh nghiệp chế biến và chế tạo của Việt Nam vào chuỗi cung ứng quốc tế. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu chung của Luận án là nhằm đánh giá các nhân tố gây trở ngại tới sự tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp Việt Nam trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo. Cụ thể, Luận án xem xét tác động của các yếu tố Hạn chế nguồn nhân lực có tay nghề, Hạn chế về công nghệ, Hạn chế về vốn, Hạn chế, bất cập các chính sách hỗ trợ của Chính phủ, Hạn chế, bất cập chính sách và văn hoá quốc tế, Hạn chế từ phía doanh nghiệp chủ chuỗi cung ứng đối với sự tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp Việt Nam trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo trên phương diện cản trở. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất các giải pháp và đưa ra các kiến nghị nhằm giúp các doanh nghiệp trong ngành tham khảo và ứng dụng trong thực tiễn sản xuất kinh doanh để tự mình khắc phục các trở ngại và vững vàng tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của ngành công nghiệp chế biến và chế tạo. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu, Luận án thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau: - Tổng quan các nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý luận và mô hình nghiên cứu về các nhân tố cản trở đến sự tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. - Phân tích thực trạng chuỗi cung ứng ngành công nghiệp chế biến và chế tạo Việt Nam. - Nghiên cứu các nhân tố gây cản trở đến sự tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam. - Lập luận và đưa ra các giải pháp phù hợp với thực tiễn nhằm giúp các doanh nghiệp trong ngành tham khảo và ứng dụng trong thực tiễn sản xuất kinh doanh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu 7
- Đối tượng nghiên cứu của Luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn về các nhân tố gây cản trở đến sự tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam, bao gồm doanh nghiệp chưa tham gia chuỗi và doanh nghiệp đang tham gia chuỗi. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến và chế tạo thuộc cả 3 khu vực kinh tế (Nhà nước, tư nhân, nước ngoài) đa dạng về ngành nghề, quy mô, loại hình doanh nghiệp… - Phạm vi không gian: Mô hình phân tích các nhân tố cản trở sự tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của Luận án được thực hiện dựa trên bộ số liệu khảo sát trực tiếp đối với các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo trên toàn quốc, bao gồm 7 nhóm ngành chính và các nhóm ngành còn lại theo phân ngành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ (Xem Phụ lục 1). - Phạm vi thời gian: Trong giai đoạn 2015-2018. 5. Phương pháp nghiên cứu Nhằm thực hiện mục đích nghiên cứu, Luận án sử dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu khoa học, bao gồm: - Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: Được sử dụng để thu thập dữ liệu thứ cấp từ các nguồn như: sách báo; niên giám thống kê; tạp chí chuyên ngành; kỷ yếu hội thảo khoa học; các báo cáo của các tổ chức nghiên cứu; số liệu trên các trang website của các doanh nghiệp, các bộ, ban, ngành, các cơ quan báo chí trong và ngoài nước. - Phương pháp phân tích và tổng hợp: Từ việc phân tích thực trạng cản trở tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam, Luận án đánh giá khái quát các kết quả nghiên cứu đạt được. Trên cơ sở đó, Luận án đề xuất các giải pháp nhằm giúp doanh nghiệp vượt qua cản trở, tăng cường sự tham gia chuỗi cung ứng trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam. - Phương pháp nghiên cứu định lượng: Trên cơ sở hệ thống hóa lý thuyết và tổng quan nghiên cứu các mô hình đánh giá tác động trước đó, Luận án xây dựng mô hình kinh tế lượng nhằm ước lượng và kiểm định tác động cản trở đến sự tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam. Các phương pháp phân tích nhân tố, phân tích hồi quy – tương quan, phân tích ANOVA… đều được sử dụng trong Luận án. 8
- - Phương pháp nghiên cứu định tính: Tham vấn ý kiến của các chuyên gia, thựuc hiện thảo luận, phỏng vấn sâu đối với các đối tượng trong lĩnh vực chuyên môn, các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý trong lĩnh vực công nghiệp chế biến và chế tạo từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương và một số trường đại học như Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Ngoại thương, Đại học Thương mại và một số doanh nghiệp, tập đoàn lớn của Việt Nam. - Phương pháp điều tra thống kê: Các số liệu sơ cấp được thu thập dựa trên khảo sát đối với 594 doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam. 6. Đóng góp mới của Luận án Nghiên cứu này đóng góp thêm về mặt lý thuyết, giúp hiểu hơn mối quan hệ cản trở phức tạp giữa “Hạn chế về nguồn nhân lực có tay nghề”, “Hạn chế về công nghệ”, “Hạn chế về vốn”, “Hạn chế, bất cập các chính sách hỗ trợ của Chính phủ”, “Hạn chế, bất cập chính sách và văn hoá quốc tế”, “Hạn chế từ phía doanh nghiệp chủ chuỗi” và “Sự hạn chế tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam”. Nghiên cứu ủng hộ mối quan hệ giữa biến “Hạn chế về nguồn nhân lực có tay nghề” và “Hạn chế, bất cập các chính sách hỗ trợ của Chính phủ” đến “Sự hạn chế tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam”. Trong khi đó các nhân tố khác có tác động cản trở dưới những góc nhìn khác nhau. Đặc biệt, nhân tố “Hạn chế từ phía doanh nghiệp chủ chuỗi” dường như không có tác động cản trở đối với doanh nghiệp chưa tham gia chuỗi nhưng lại có tác động cản trở tương đối lớn đối với doanh nghiệp đang tham gia chuỗi dưới góc độ thách thức. 7. Kết cấu của Luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận án được chia làm 5 chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về chuỗi cung ứng và các nhân tố cản trở sự tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu Chương 2: Thực trạng tham gia vào chuỗi cung ứng và những nhân tố cản trở tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và mô hình phân tích những nhân tố cản trở tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam Chương 4: Kết quả phân tích những nhân tố cản trở tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam Chương 5: Đánh giá kết quả nghiên cứu và một số kiến nghị, đề xuất 9
- CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUỖI CUNG ỨNG VÀ CÁC NHÂN TỐ CẢN TRỞ SỰ THAM GIA CHUỖI CUNG ỨNG TOÀN CẦU 1.1. Tổng quan về chuỗi cung ứng 1.1.1. Chuỗi cung ứng Thuật ngữ “chuỗi cung ứng” xuất hiện cuối những năm 80 và trở nên phổ biến trong những năm 90. Có rất nhiều nhà khoa học đã dành thời gian nghiên cứu và định nghĩa chuỗi cung ứng. Khái niệm chuỗi cung ứng được phát triển dựa trên nhiều lĩnh vực khác nhau (Paulraj và cộng sự, 2008) như quản trị nguyên vật liệu và logistics (Carter và Price, 1993), quản trị mạng lưới và kết nối các thị trường (Ford, 1990)… Do đó có nhiều khái niệm tương tự khái niệm chuỗi cung ứng như “chuỗi cầu”, “chuỗi giá trị” và “chuỗi hỗ trợ”. Theo Akkermans và cộng sự (2003), có thể xem chuỗi cung ứng như là một mạng lưới đồng nhất với ba thành tố cơ bản là cấp thực hiện (bao gồm dòng vốn (giải quyết các hoạt động như kế hoạch thanh toán, điều khoản tín dụng và các thỏa thuận quyền sở hữu doanh nghiệp), dòng thông tin (bao gồm theo dõi đặt hàng; truyền lệnh đặt hàng, và sự phối hợp với dòng nguyên vật liệu) và dòng nguyên vật liệu (quá trình hàng dịch chuyển từ người bán đến người mua và ngược lại như đổi trả hàng, dịch vụ và tái chế)); thành viên (đơn vị cung ứng, đơn vị sản xuất, đơn vị phân phối và người tiêu dùng) và các trụ cột hỗ trợ: quy trình gắn các năng lực của công ty vào trong quản lý tri thức, hậu cần và phát triển sản phẩm mới; cấu trúc tổ chức bao gồm phương pháp quản lý và đo lường hiệu suất; công nghệ để tự động hóa các quy trình kinh doanh và để thúc đẩy dòng chảy thông tin giữa các đơn vị thuộc mạng lưới. Chuỗi cung ứng có thể được xem như một hệ thống các chi nhánh lựa chọn cách thức phân phối để tiến hành việc thu mua và biến đổi nguyên vật liệu thành sản phẩm và phân phối đến nơi tiêu thụ (Ganesham và cộng sự, 1995). Ganesham và cộng sự (1995) nhìn nhận chuỗi cung ứng dưới góc độ các liên kết giữa các đơn vị trong luồng xuôi và ngược chiều của sản phẩm từ nguyên vật liệu đầu vào tới người dùng cuối. Nagurney (2006) định nghĩa chuỗi cung ứng là một tập hợp các đơn vị, nhân lực, kỹ thuật, các nguồn lực tham gia vào việc phân phối sản phẩm từ đơn vị cung ứng tới khách hàng. Chuỗi cung ứng làm biến đổi nguồn lực tự nhiên hoặc các bán thành phẩm thành sản phẩm để phân phối tới khách hàng. Theo quan điểm phát triển bền vững, việc tái chế sản phẩm đã được chính thức coi như một giai đoạn của các chuỗi cung ứng và được 10
- quán triệt ngày càng triệt để trong thực tế, nhất là ở các quốc gia công nghiệp phát triển châu Âu. Tương tự, Lambert và Stock (1993) cũng định nghĩa chuỗi cung ứng là việc các doanh nghiệp phối hợp với nhau để cung ứng sản phẩm và dịch vụ đến tay người tiêu dùng. Hay chuỗi cung ứng cũng có thể hiểu là mạng lưới liên kết các tổ chức, gồm liên kết ngược và liên kết xuôi, thông qua các công đoạn tạo dựng giá trị cho các sản phẩm cung cấp trên thị trường. Theo La Londe và Masters (1994), chuỗi cung ứng được xem là hệ thống các thành viên trong một chuỗi từ nhà cung cấp đầu vào đến nhà sản xuất sản phẩm và phân phối sản phẩm ra thị trường. Như vậy, trong nghiên cứu này, chuỗi cung ứng có thể được hiểu là một hệ thống các mối liên kết giữa các đơn vị thành viên, gồm liên kết thuận và liên kết ngược, thông qua các hoạt động để tạo ra các giá trị cho sản phẩm và dịch vụ cung ứng trên thị trường. Đã có rất nhiều nghiên cứu về vai trò của doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng toàn cầu tại khu vực Châu Á. Harvie và cộng sự (2010) đã nghiên cứu về vai trò của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng trong mạng lưới sản xuất ở một số nước Đông Á trong một số lĩnh vực. Rasiah (2004) nghiên cứu về vai trò của các doanh nghiệp trong mạng lưới sản xuất của một lĩnh vực tại các quốc gia Đông Á. Rasiah và cộng sự (2010) nghiên cứu về các doanh nghiệp trong các lĩnh vực điện, điện tử, dệt may, gỗ, oto trong mạng lưới sản xuất của Malaysia. Hay Wignaraja (2013) nghiên cứu khái quát toàn bộ 5 nền kinh tế ASEAN bao gồm Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philipin và Việt Nam) bao phủ những lĩnh vực công nghiệp lớn. Ở trong nước, các nghiên cứu về chuỗi cung ứng hầu như mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu kỹ hơn cấu trúc của chuỗi, sự phối hợp và cộng tác của các bộ phận trong chuỗi nhằm đưa ra giải pháp để hoàn thiện chuỗi của một số ngành nhất định. Chẳng hạn Huỳnh Thị Thu Sương (2013) tìm hiểu về những nhân tố tác động đến việc phối hợp trong chuỗi đồ gỗ ở vùng Đông Nam Bộ; Đoàn Thị Hồng Vân và cộng sự (2011) đi sâu vào chuỗi cung ứng của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực (đồ gỗ, cà phê, dệt may); Đỗ Thị Đông (2011) phân tích chuỗi giá trị và tổ chức quan hệ liên kết của các doanh nghiệp may xuất khẩu ở Việt Nam; Nguyễn Thành Hiếu và cộng sự (2015) nghiên cứu sự hợp tác của các bộ phận cung ứng nội bộ nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp… Hầu hết các công trình và bài viết của những nhà nghiên cứu trong nước chủ yếu đi sâu vào việc tìm cách hoàn thiện và quản trị chuỗi cung ứng hiện hữu với mục tiêu cắt giảm chi phí ở một số khâu nhất định trong chuỗi như logistics hay tăng giá bán sản phẩm đầu ra... 11
- 1.1.2. Chuỗi cung ứng toàn cầu Từ khi chiến tranh lạnh chấm dứt và sự phát triển thần kỳ của cách mạng công nghệ thông tin đã mang lại rất nhiều lợi ích cho hoạt động sản xuất và kinh doanh trên bình diện quốc tế. Việc tiến hành sản xuất và kinh doanh ngày càng thuận lợi, thông suốt, việc sản xuất chi tiết này và lắp ghép với chi tiết khác ở những địa điểm khác nhau, cách xa cả ngàn cây số trở nên linh hoạt. Các tập đoàn lớn xuyên quốc gia tăng cường sắp xếp lại tổ chức và hoạt động nhằm mục đích tối ưu hóa hoạt động sản xuất - kinh doanh nhằm tìm cách tiến vào các thị trường khác. Mọi quốc gia bị cuốn hút vào guồng quay của toàn cầu hóa kinh tế. Vì tối ưu hóa trên quy mô quốc gia không thể mang lại nhiều lợi ích bằng tối ưu hóa trên bình diện quốc tế, nên việc tái cơ cấu toàn diện các hoạt động sản xuất - kinh doanh trên thị trường toàn cầu diễn ra là một điều tất yếu. Trong thế giới phẳng, các chuỗi cung ứng được tái tổ chức song hành cùng với công nghệ thông tin và với những cơ chế, định chế mới cho kinh doanh quốc tế, đánh dấu sự ra đời của các chuỗi cung ứng toàn cầu. Như vậy, khác với các chuỗi cung ứng nội địa, các chuỗi cung ứng toàn cầu được xem xét trong nghiên cứu này là chuỗi cung ứng trải rộng trên phạm vi toàn cầu không phân biệt địa giới hành chính (Đoàn Thị Hồng Vân và cộng sự, 2011). Việc các chuỗi cung ứng toàn cầu mở rộng phần lớn là theo chiều ngang, không phát sinh quy trình mới trong chuỗi giá trị mà tập trung vào việc xâm nhập thị trường mới, sử dụng các đơn vị sản xuất mới, tăng cường đơn vị cung ứng, bổ sung thêm các cơ sở sản xuất nhằm tối đa hoá nguồn thu và lợi nhuận, trên nguyên tắc người nào có khả năng đáp ứng đầy đủ và tốt các yêu cầu của chuỗi cung ứng thì người đó sẽ được tham gia vào chuỗi cung ứng. Ngày nay, các quốc gia cạnh tranh với nhau thông qua việc cạnh tranh giữa các chuỗi cung ứng, chính vì vậy, chúng ta cần thay đổi tư duy từ việc tự sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh sang hướng tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, bắt đầu từ những công đoạn, chi tiết giản đơn nhưng đảm bảo chất lượng với giá cả hợp lý và càng về sau càng nâng cao dần về sự phức tạp. Nhiều nhà nghiên cứu khác đã cố gắng phát triển các mô hình toán học để xác định sự phối hợp trong chuỗi cung ứng. Nhiều mô hình đã cố gắng để giảm thiểu tối đa hàng tồn kho trong chuỗi cung ứng. Tuy nhiên, các phân tích này chỉ kiểm định sự tương tác của chỉ hai thành viên trong chuỗi là nhà cung cấp và người mua. Vì vậy tổng thể chuỗi cung ứng như các khái niệm trước đã đưa ra chưa được mô hình hóa thông qua các phương pháp phân tích trên. Thêm vào đó, hàng tồn kho không phải chỉ là động lực duy nhất thúc đẩy sự phối hợp trong chuỗi cung ứng. Thomas và Giffin (1996) đã khái quát tổng quan các công trình sử dụng mô hình toán học để xác định vấn đề phối hợp trong chuỗi cung ứng. Một số tác giả đã đề xuất một số khung lý thuyết cho việc thiết kế và kiểm soát chuỗi 12
- cung ứng (Sengupta và Turnbull 1996). Tuy nhiên phần lớn các đề xuất này thiên về nhà quản lý và chưa nêu ra được các nhân tố cản trở đến sự tham gia chuỗi cung ứng. 1.1.3. Các mô hình chuỗi cung ứng Mô hình chuỗi cung ứng đơn giản Đây là mô hình cơ bản nhất, với ba nhân tố cấu thành bao gồm: nhà cung cấp đầu vào, doanh nghiệp và khách hàng. Sự liên kết trong chuỗi cung ứng ở mô hình này chỉ dừng lại ở mức độ hai bên. Mô hình quản lý chuỗi cung ứng này thường được sử dụng cho các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Hình 1.1: Mô hình chuỗi cung ứng đơn giản Nguồn: Michael, 2011 Mô hình chuỗi cung ứng mở rộng Bên cạnh ba nhân tố của chuỗi cung ứng đơn giản, đối với mô hình chuỗi cung ứng mở rộng sẽ bổ sung thêm các thành phần như nhà cung cấp của nhà cung cấp, khách hàng của khách hàng, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hậu cần, dịch vụ tài chính, tiếp thị và công nghệ thông tin… Hình 1.2: Mô hình chuỗi cung ứng mở rộng Nguồn: Michael, 2011 Mô hình chuỗi cung ứng điển hình Theo Joe và cộng sự (2009), đối với mô hình chuỗi cung ứng điển hình, nguyên vật liệu đầu vào của quá trình sản xuất được cung ứng từ một hoặc nhiều nhà cung cấp, các bộ phận được sản xuất ở một hoặc nhiều nhà máy, sau đó được chuyển đến công ty sản xuất. Thành phẩm sau đó được phân phối đến các nhà phân phối, nhà bán lẻ và đến tay người dùng cuối. Các mối liên hệ này được liên kết với nhau thành một mạng lưới. Các luồng sản phẩm, thông tin và dịch vụ được lưu chuyển liên tục trong toàn bộ chuỗi cung ứng. 13
- Hình 1.3: Mô hình chuỗi cung ứng điển hình Nguồn: Joe và cộng sự, 2009 1.1.4. Các thành phần tham gia chuỗi cung ứng Theo Hakanson và Snehota (1989), Huỳnh (2012)… có thể xem chuỗi cung ứng bao gồm các thành phần tham gia như sau: Nhà cung cấp, Nhà sản xuất, Nhà phân phối, Nhà bán lẻ, Khách hàng/người tiêu dùng và Nhà cung cấp dịch vụ. Cụ thể: - Nhà cung cấp: Nhà cung cấp được xem như là một thành viên bên ngoài chuỗi cung ứng, có năng lực sản xuất không giới hạn. Nhà cung cấp có thể là doanh nghiệp nội địa hoặc doanh nghiệp nước ngoài được nhà sản xuất lựa chọn để mua nguyên vật liệu phục vụ quá trình sản xuất, việc lựa chọn tùy thuộc vào năng lực và kinh nghiệm cung ứng của họ. - Nhà sản xuất: Nhà sản xuất là các tổ chức sản xuất ra sản phẩm. Bao gồm các nàh chế biên nguyên liệu ra thành phẩm, sử dụng nguyên liệu và các sản phẩm gia công của các nhà sản xuất khác để tạo ra thành phẩm. Trong luận án nghiên cứu này, nhà sản xuất chính là các doanh nghiệp nhỏ và vừa và các doanh nghiệp là khách hàng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa này. - Nhà phân phối: Nhà phân phối là những công ty tồn trữ hàng với số lượng lớn từ nhà sản xuất và phân phối sản phẩm đến khách hàng. Nhà phân phối cũng được xem là nhà bán sỉ. Nhà phân phối bán sản phẩm cho những nhà kinh doanh khác với số lượng lớn hơn so với khách hàng mua lẻ. Do sự biến động nhu cầu về sản phẩm, nhà phân phối tồn trữ hàng hóa, thực hiện việc bán hàng và phục vụ khách hàng. Một nhà phân phối điển hình là một tổ chức sở hữu nhiều sản phẩm tồn kho mua từ nhà sản xuất và bán lại cho người tiêu dùng. Ngoài khuyến mãi sản phẩm và bán hàng, có những chức năng khác mà nhà phân phối phải thực hiện là quản lý tồn kho, vận hành cửa hàng, vận chuyển sản phẩm cũng như chăm sóc khách hàng. Nhà phân phối cũng là một tổ chức chỉ đại diện bán hàng giữa nhà sản xuất và khách hàng, không bao giờ sở hữu sản phẩm đó. Loại nhà phân phối này thực hiện chức năng chính yếu là khuyến mãi và bán sản phẩm. 14
- - Nhà bán lẻ: Nhà bán lẻ là những người chuyên trữ hàng và bán với số lượng nhỏ hơn đến khách hàng. Họ luôn theo dõi nhu cầu và ý kiến của khách hàng. Do nỗ lực chính là thu hút khách hàng đối với những sản phẩm mà mình bán nên nhà bán lẻ thường quảng cáo, sử dụng một số kỹ thuật kết hợp về giá cả, sự lựa chọn và sự tiện dụng của sản phẩm. Trong nghiên cứu này, họ là các cửa hàng bán lẻ, hệ thống siêu thị, các cửa hàng giới thiệu sản phẩm… - Khách hàng/người tiêu dùng: Khách hàng/người tiêu dùng là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào mua và sử dụng sản phẩm. Khách hàng là tổ chức có thể mua một sản phẩm để kết hợp với sản phẩm khác rồi bán chúng cho khách hàng là người sử dụng sản phẩm sau/mua sản phẩm về tiêu dùng. - Nhà cung cấp dịch vụ: Nhà cung cấp dịch vụ là những tổ chức cung cấp dịch vụ cho nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ và khách hàng. Nhà cung cấp dịch vụ có những chuyên môn và kỹ năng đặc biệt ở một hoạt động riêng biệt trong chuỗi cung ứng. Chính vì thế, họ có thể thực hiện những dịch vụ này hiệu quả hơn và với mức giá tốt hơn so với chính các nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ hay người tiêu dùng làm điều này. 1.1.5. Lợi ích của việc tham gia vào chuỗi cung ứng Đối với nền kinh tế quốc dân: Chuỗi cung ứng là công cụ quan trọng giúp các nền kinh tế phát triển bền vững và hiệu quả. Trong chuỗi cung ứng, các doanh nghiệp liên kết với nhau theo những tiêu chuẩn nhất định, có sự cân đối cung-cầu giữa các mắt xích của chuỗi từ đầu vào nguyên thủy đến đầu ra cuối cùng và ngược lại, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của mỗi chuỗi. Khi các chuỗi phát triển đến một mức độ nhất định, thì cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia, các doanh nghiệp sẽ chuyển thành cuộc cạnh tranh giữa các chuỗi, vì đầu mối cạnh tranh ít hơn, nên có thể điều phối, tích hợp hoạt động của các chuỗi, đảm bảo cho nền kinh tế của các quốc gia và toàn cầu phát triển bền vững. Bên cạnh đó, trong mỗi chuỗi cung ứng bằng hoạt động logistics, hoạt động tối ưu hóa người ta sẽ không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của chuỗi, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển hiệu quả. Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hóa và nền kinh tế số, chuỗi cung ứng ngày càng khẳng định rõ hơn vai trò trọng yếu của mình. Giờ đây, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, hầu như không còn một sản phẩm công nghiệp nào được sản xuất hoàn toàn chỉ trong một quốc gia. Chuỗi cung ứng được thiết kế để có thể chia ra các công đoạn nhỏ và chuyển đến thực hiện ở những nơi có chi phí thấp nhất. Các sản phẩm không còn liên quan nhiều đến quốc gia, mà liên quan đến chuỗi cung ứng trải khắp toàn cầu. Chính vì vậy, các doanh nghiệp cần liên kết lại, xây dựng các chuỗi cung 15
- ứng nội địa và chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để tham gia các chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu. Đối với doanh nghiệp: Tham gia vào chuỗi cung ứng có vị trí rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất - kinh doanh và đầu tư của các doanh nghiệp. Các hoạt động của chuỗi cung ứng quyết định sự thành bại của các doanh nghiệp bởi nó giúp đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp là chủ chuỗi cung ứng, việc phân tích hoạt động của chuỗi giúp đánh giá được chỗ tốt, chỗ chưa tốt, trên cơ sở đó tìm ra giải pháp hoàn thiện. Đồng thời so sánh chuỗi cung ứng của mình với chuỗi cung ứng của đối thủ cạnh tranh, để tim ra giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh. Đối với doanh nghiệp là thành viên của chuỗi, phân tích chuỗi giúp thấy được vị thế, tương quan lực lượng với các thành viên trong chuỗi, từ đó có hướng vươn lên vị trí tốt hơn. Đối với doanh nghiệp ngoài chuỗi, phân tích chuỗi giúp doanh nghiệp thấy được tác động của chuỗi, trên cơ sở đó tim ra quyết định đúng đắn cho mình. Tham gia vào chuỗi cung ứng giúp các doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh (Monczka và cộng sự, 1998). Việc tham gia vào chuỗi cung ứng sẽ làm tăng mức dịch vụ khách hàng (tăng sự sẵn có của sản phẩm, giao hàng nhanh hơn, chất lượng đảm bảo hơn với giá thành thấp) từ đó làm tăng mức thỏa mãn của khách hàng, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh và lợi nhuận của doanh nghiệp (La Londe và cộng sự, 1994). Tham gia chuỗi cung ứng để cải thiện lợi nhuận, lợi thế cạnh tranh, sự thỏa mãn của khách hàng được đề xuất bởi nhiều tác giả. Ví dụ, mục tiêu cơ bản của quản lý chuỗi cung ứng là làm giảm chi phí để đáp ứng mức dịch vụ cho một thị phần cụ thể. Mục tiêu cơ bản khác là cải thiện dịch vụ khách hàng qua việc tăng sự sẵn có của hàng tồn kho và giảm chu kỳ đơn hàng (Cooper và Ellram, 1993). Cuối cùng, chi phí thấp và sự khác biệt về dịch vụ khách hàng sẽ làm tăng lợi thế cạnh tranh cho toàn bộ chuỗi cung ứng (Cooper và Ellram, 1993). Như vậy, quản lý chuỗi cung ứng hiệu quả sẽ làm tăng kết quả (ví dụ, giảm chi phí) và hiệu quả kinh doanh (ví dụ, tăng mức dịch vụ khách hàng), dẫn đến tăng sự thỏa mãn của khách hàng và lợi thế cạnh tranh, cuối cùng làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. 1.2. Các nhân tố cản trở sự tham gia của doanh nghiệp vào chuỗi cung ứng toàn cầu Sự tham gia có thể được xem như là việc góp phần hoạt động của mình vào một hoạt động, một tổ chức chung nào đó. Đối với các doanh nghiệp, việc tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được thể hiện thông qua việc trở thành một mắt xích trong dây chuyền cung ứng các sản phẩm phụ tùng thay thế, dịch vụ lắp ráp gia công hay là các sản phẩm đối với các doanh nghiệp trong cùng chuỗi. Mỗi một chuỗi cung ứng bao gồm các tổ chức độc lập, nhưng lại có liên đới đến các 16
- dòng chu chuyển về hàng hóa, dịch vụ và thông tin liên quan cũng như dòng chảy về tài chính từ điểm xuất phát đến khách hàng cuối cùng. Các thành viên tham gia vào chuỗi cung ứng thường liên hệ với nhau trong hoạt động quản lý chuỗi cung ứng để liên kết kế hoạch, thực hiện và kiểm soát các dòng chu chuyển hàng hoá, dịch vụ một cách hiệu quả nhất để đáp ứng nhu cầu khách hàng nhanh chóng nhất. Sự tham gia và hợp tác trong chuỗi là rất cần thiết bởi vì tham gia chuỗi cung ứng không những giải quyết được vấn đề các thành viên trong chuỗi chia sẻ trách nhiệm và thu được những lợi ích tối đa từ việc cải thiện dòng luân chuyển hàng hoá, mà còn giải quyết được tính kém linh hoạt trong quản lý. Việc tham gia và hợp tác chặt chẽ giúp các thành viên chuỗi cung ứng sẽ cân đối cung cầu một cách hiệu quả và gia tăng lợi ích chung cho toàn bộ chuỗi. Tuy nhiên các thành viên trong chuỗi, do xuất phát từ các tổ chức độc lập khác nhau và hoạt động trước tiên vì lợi ích bản thân, nên luôn tồn tại mâu thuẫn trong chuỗi. Chính vì vậy khi tham gia vào các chuỗi cung ứng cần phải quan tâm giải quyết các mâu thuẫn này thì lúc đó mới đem lại được nhiều lợi ích cho doanh nghiệp như: giảm tồn kho, cải tiến dịch vụ khách hàng, sử dụng nhân sự hiệu quả hơn, phân phối tốt hơn bằng cách giảm số lần chu trình, tăng tốc thị trường sản phẩm mới nhanh hơn, tập trung mạnh hơn vào các năng lực cốt lõi và cải tiến hình ảnh chung... Để tham gia các chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu cần cân nhắc lựa chọn chuỗi một cách kỹ lưỡng và vị trí/công đoạn thực sự phù hợp trong chuỗi để tham gia. Nếu đủ khả năng, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ lựa chọn các chuỗi của các nền kinh tế phát triển cao như Mỹ, Nhật hay Châu Âu để tham gia, nhưng nếu chưa đủ khả năng thì các doanh nghiệp cũng nên cân nhắc lựa chọn những chuỗi của các quốc gia đang phát triển như Trung Quốc. Sẽ là có lợi khi chuyển từ thế cạnh tranh sang hợp tác, chấp nhận tham gia vào các chuỗi cung ứng của Trung Quốc hoặc cùng tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu. Bằng cách này có thể cải thiện được tình trạng nhập siêu, thay đổi vị thế của Việt Nam từ thị trường tiêu thụ hàng hoá chất lượng thấp của Trung Quốc thành mắt xích trong chuỗi cung ứng của Trung Quốc và thế giới. Có như thế Việt Nam mới tái cấu trúc lại được cả mặt hàng lẫn thị trường xuất nhập khẩu. Hiện nay, tỷ lệ tham gia vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp trong ngành chế biến, chế tạo vẫn còn thấp và tồn tại nhiều bất cập. Do đó, việc xác định xem những nhân tố nào đang kìm hãm hay gây trở ngại đối với các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng là rất cần thiết. Nhiều nghiên cứu và thực tiễn ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển đã chỉ ra có rất nhiều những nhân tố cản trở đối với doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh. Đi sâu vào phân tích thị trường Đông Á, Harvie (2010) đã tổng hợp từ các nghiên cứu trước đó và đưa ra danh sách các 17
- nhân tố gây nhiều cản trở đến hoạt động sản xuất và kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp đó là: Khả năng tiếp cận đất đai; Khả năng tiếp cận vốn; Chi phí theo quy định; Khuôn khổ pháp lý; Khả năng tiếp cận công nghệ, thông tin, thị trường và các dịch vụ trợ giúp doanh nghiệp; Cạnh tranh quốc tế; Chi phí vận chuyển tương đối cao; Chi phí kiểm định; Thất bại của thị trường; Các vấn đề liên quan đến thuế của công ty tư nhân; Nguồn nhân lực trình độ cao; Huấn luyện và đào tạo cấp độ công ty; Quan điểm của xã hội; Cơ sở hạ tầng; Chi phí của việc trở thành chính thức chứ không còn là duy trì không chính thức; Sự phân biệt. Tập trung vào phân tích sự tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu trong thời gian qua dành nhiều thời gian và công sức trong việc phân tích và nhận định các nhân tố tác động. Tuy nhiên, theo Kamal và Irani (2014) thì tính đến nay, dường như chưa có sự thống nhất về việc khẳng định những nhân tố tác động (tích cực và tiêu cực) đến sự tham gia vào chuỗi cung ứng bởi sự không đồng nhất của các nền kinh tế, ngoại trừ Pagell (2004), Bernon và cộng sự (2013) và Chen và cộng sự (2013) đã chỉ ra một số lợi ích bao gồm biến số tích cực và tiêu cực nhưng những nghiên cứu này vẫn còn chưa mang tính toàn diện và khái quát. Alfalla – Luque và cộng sự (2013) đã đưa ra một khung khái niệm dựa trên việc tổng quan lý thuyết các nghiên cứu về sự tham gia chuỗi cung ứng và đã hỗ trợ cho các nhà nghiên cứu chuỗi cung ứng hiểu rõ hơn các biến số và nhân tố khác nhau của chuỗi cung ứng thông qua các nghiên cứu định lượng. Tuy nhiên, các biến số và phạm vi trong khung nghiên cứu của họ đã được nghiên cứu bởi rất nhiều tác giả trước đấy (Swink và cộng sự, 2007) và có hạn chế là có ít biến số tích cực. Kamal và Irani (2014) đã nhóm các nhân tố tác động thành bảy nhóm đó là Chiến lược, Quản lý, Tổ chức, Điều hành; Kỹ thuật; Tài chính và Môi trường kinh doanh. Theo Kamal và Irani (2014), bốn nhân tố gây cản trở nhất đến sự tham gia chuỗi cung ứng có thể là Hạn chế về hạ tầng công nghệ thông tin; Hạn chế về nguồn lực kỹ thuật, kỹ năng và kiến thức; Ngại thay đổi; Thiếu hụt về nguồn nhân lực có kinh nghiệm. Nhiều nhà khoa học đã tập trung vào việc xác định và phân tích các nhân tố tác động đến sự tham gia chuỗi cung ứng của doanh nghiệp, ví dụ: quy mô doanh nghiệp (Pagell, 2004), đối tác chiến lược (Ramanathana và Gunasekaran, 2012), sự phụ thuộc lẫn nhau trong chuỗi cung ứng (Vachon và Klassen, 2006), sự phối hợp và liên lạc hiệu quả (Paulraj và cộng sự, 2008). Tuy nhiên có rất ít nghiên cứu liệt kê được một danh sách hoàn chỉnh những nhân tố. Một trong số rất ít các nghiên cứu hiện có đó là của Bernon và cộng sự (2013) đã đưa ra một danh sách các lợi ích tập trung xoay quanh mối liên hệ giữa việc tham gia chuỗi cung ứng và hiệu quả trong quá trình sản xuất – kinh 18
- doanh của đơn vị tham gia chuỗi, ví dụ: cho phép các bên tham gia chuỗi nâng cao quy trình liên kết sản xuất, tiết kiệm thời gian, giảm lượng hàng tồn kho, nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng, đầu ra của sản phẩm và tăng cường thông tin. Sau đấy, Pagell (2004) cung cấp và làm rõ hơn những nhân tố gây ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến sự tham gia chuỗi cung ứng (trong hoạt động vận hành, mua sắm, hậu cần), ví dụ như hiệu quả hoạt động được cải thiện, sự hỗ trợ của ban quản lý cấp cao, phát triển sản phẩm và thông tin liên lạc được nâng cao. Một số nghiên cứu đã làm rõ các nhân tố khác nhau thúc đẩy tham gia chuỗi cung ứng. Chen và cộng sự (2013) khẳng định rằng trong số rất nhiều những nhân tố đã được chỉ ra thì nổi bật lên là ba nhân tố: trình độ công nghệ thông tin (IT), sự trao đổi kiến thức và niềm tin giữa các thành viên trong chuỗi cung ứng. Hầu hết các nghiên cứu đều tập trung vào nghiên cứu các nhân tố tác động tích cực đến việc tham gia vào chuỗi cung ứng, cũng có một số nghiên cứu tập trung vào những nhân tố gây trở ngại đến sự tham gia chuỗi cung ứng, chẳng hạn như sự thiếu vắng cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin thống nhất (Khare và cộng sự, 2012), hiệu ứng bullwhip2 (Vanpoucke và cộng sự, 2009) và trở ngại sự thay đổi (Hertz, 2006). Những nhân tố gây ảnh hưởng tích cực nhất đến sự tham gia chuỗi cung ứng đó là hiệu suất doanh nghiệp cải thiện, chia sẻ thông tin, lợi thế cạnh tranh, sự nâng cao giao tiếp và sự thuận tiện và hiệu quả của các nguồn lực. Có nhiều trường phái lý thuyết có thể sử dụng để lý giải cho mối quan hệ giữa hoạt động thương mại và sự tham gia vào chuỗi cung ứng của doanh nghiệp. Mô hình của Hecksher Ohlin và lý thuyết về vòng đời sản phẩm của Vernon là nền tảng cho những nghiên cứu nhấn mạnh về tầm quan trọng của các lợi thế về kỹ năng, công nghệ và nhận biết thị hiếu mà đơn vị sản xuất – kinh doanh có thể có trong hoạt động của các nhân tố quyết định đến lợi thế so sánh trong ngành công nghiệp. Phương pháp tiếp cận về “Sự phân mảnh sản xuất” đã được đề cập trong công trình nghiên cứu của Jones và Kierzkowski (1990). Phương pháp này đã trở thành chuẩn mực chung cho các nhà kinh tế học quốc tế nghiên cứu về chuỗi cung ứng. Phương pháp chỉ ra cách thức mà việc gia tăng lợi nhuận và những lợi thế của việc chuyên môn hóa các nhân tố trong các doanh nghiệp đã gây ảnh hưởng có lợi đến vị trí của các công đoạn khác nhau của quá trình sản xuất xuyên không gian địa lý, kết nối với nhau bởi các dịch vụ liên kết. Sản phẩm giao dịch giữa các doanh nghiệp ở những quốc gia khác nhau là những bộ phận hơn là các sản phẩm cuối cùng. 2 Hiện tượng này xuất hiện trong quá trình dự đoán nhu cầu của các kênh phân phối trong Chuỗi cung ứng. Biểu hiện cụ thể là thông tin về nhu cầu thị trường cho một sản phẩm bị bóp méo hay khuếch đại lên qua các khâu. Điều này dẫn đến sự dư thừa tồn kho, ảnh hưởng đến chính sách giá và tạo ra các phản ánh không chính xác trong nhu cầu thị trường. 19
- Phương pháp cạnh tranh được sử dụng để định lượng mức độ phân mảnh thương mại. Một số nhà nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu thương mại quốc gia từ hệ thống báo cáo dữ liệu thương mại Liên hợp quốc để xác định/đánh giá thương mại trong các bộ phận và thành phần sản phẩm (ví dụ: Athukorala, 2011), những thứ thường đại diện cho chuỗi cung ứng. Nó chỉ ra rằng thương mại ở các quốc gia Đông Á đang tăng trưởng nhờ vào việc tham gia chuỗi cung ứng, cho thấy tầm quan trọng của chuỗi cung ứng toàn cầu ngày càng tăng ở châu Á. Trên góc độ của các nền kinh tế Đông Á, Trung Quốc đã và đang trở thành động lực chính nhưng các nền kinh tế khu vực Đông Nam Á có tốc độ tăng trưởng cao trong mối tương quan với trung bình của khu vực. Những nền kinh tế công nghiệp phát triển như Thái Lan, Malaysia tham gia vào chuỗi cung ứng nhiều hơn so với các quốc gia ASEAN còn lại. Một phương pháp khác là phương pháp đổi mới sáng tạo, dựa vào bảng đầu vào - đầu ra để theo dõi giá trị gia tăng trong mạng lưới sản xuất. Phương pháp này gợi ý rằng giá trị gia tăng dường như là là một thước đo chuẩn xác hơn trong việc theo dõi hoạt động chuỗi cung ứng ở Châu Á hơn là dữ liệu về thương mại (Koopman và cộng sự, 2010). Các phương pháp đều được sử dụng rộng rãi theo dõi xu hướng phát triển của chuỗi cung ứng, nhưng các kết quả đòi hỏi phải được phân tích cẩn thận. Tuy nhiên, chưa có phương pháp nào làm nổi bật lên những nhân tố tác động đến việc doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng. Các nghiên cứu tình huống chỉ ra những nhân tố ở mức độ vi mô là có ảnh hưởng nhất định trong chuỗi cung ứng. Nghiên cứu tình huống gợi ý rằng những công ty xuyên quốc gia thường tận dụng khu vực như một cơ sở sản xuất quốc tế, thúc đẩy quá trình phân mảnh sản xuất (Kuroiwa và Heng, 2008). Ngoài ra, cách tiếp cận thương mại “mới mới” của Melitz (2003) đã nhấn mạnh đến sự không đồng nhất giữa các doanh nghiệp trong trao đổi thương mại quốc tế. Các doanh nghiệp thường khác nhau về tính hiệu quả, chi phí cố định và chi phí biến đổi. Theo đó, chỉ có một số doanh nghiệp có hiệu quả và năng suất cao mới có khả năng xuất khẩu sản phẩm và đầu tư ra nước ngoài bởi vì những doanh nghiệp này có khả năng tạo ra đủ lợi nhuận để trang trải các chi phí thương mại rất cao thường phát sinh trong quá trình hoạt động ở nước ngoài. Cách tiếp cận về trình độ khoa học công nghệ và hệ thống đổi mới quốc gia cho thấy một khía cạnh khác mà qua đó hành vi của doanh nghiệp ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động xuất khẩu. Tập trung vào quá trình học hỏi và đổi mới ở những nền kinh tế mới nổi, nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh đến việc chuyển giao, mua bản quyền công nghệ đóng một vai trò quyết định trong việc gây dựng lợi thế xuất khẩu ở cấp độ doanh nghiệp (Bell và Pavitt, 1993; Lall, 1992). Lý thuyết tiến hóa cơ bản của thay đổi kỹ thuật nhấn mạnh 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng tới sự lựa chọn điểm đến của người dân Hà Nội: Nghiên cứu trường hợp điểm đến Huế, Đà Nẵng
0 p | 491 | 38
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của chính sách tiền tệ lên các yếu tố kinh tế vĩ mô
145 p | 293 | 31
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Kinh nghiệm điều hành chính sách tiền tệ của Thái Lan, Indonesia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
193 p | 104 | 27
-
Luận án Tiễn sĩ Kinh tế: Chiến lược kinh tế của Trung Quốc đối với khu vực Đông Á ba thập niên đầu thế kỷ XXI
173 p | 171 | 24
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hiệu quả kinh tế khai thác mỏ dầu khí cận biên tại Việt Nam
178 p | 228 | 20
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp tỉnh Long An
253 p | 63 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p | 210 | 17
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế chính trị: Vai trò Nhà nước trong thu hút đầu tư phát triển kinh tế biển ở thành phố Hải Phòng
229 p | 16 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế phát triển: Phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân ở Việt Nam
217 p | 11 | 10
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ trên địa bàn thành phố Hà Nội
216 p | 15 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hữu hiệu của kiểm soát nội bộ tại các doanh nghiệp kinh doanh lưu trú du lịch các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam
265 p | 15 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại các doanh nghiệp khai thác than thuộc Tập đoàn công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam
232 p | 14 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu tác động của thay đổi công nghệ đến chuyển dịch cơ cấu lao động trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo ở Việt Nam
217 p | 10 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế học: Bất bình đẳng trong sử dụng dịch vụ y tế ở người cao tuổi
217 p | 5 | 4
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế quốc tế: Ứng dụng thương mại điện tử trên nền tảng di động tại doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
217 p | 9 | 4
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế chính trị: Vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với liên kết du lịch - Nghiên cứu tại vùng Nam Đồng bằng sông Hồng
224 p | 12 | 3
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế học: Tác động của đa dạng hóa xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế - Bằng chứng thực nghiệm từ các nước đang phát triển
173 p | 13 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn