Luận án Tiến sĩ Luật học: Vai trò của hương ước đối với quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam hiện nay
lượt xem 9
download
Mục tiêu nghiên cứu của luận án là Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về vai trò của hương ước đối với quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ, xây dựng cơ sở cho việc đánh giá thực trạng vai trò của hương ước đối với quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Luật học: Vai trò của hương ước đối với quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam hiện nay
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI LẠI THỊ PHƯƠNG THẢO VAI TRÒ CỦA HƯƠNG ƯỚC ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC TẠI THÔN, LÀNG VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2022
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI LẠI THỊ PHƯƠNG THẢO VAI TRÒ CỦA HƯƠNG ƯỚC ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC TẠI THÔN, LÀNG VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 9380106 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Minh Đoan HÀ NỘI - 2022
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Lại Thị Phương Thảo
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 7 1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài 7 1.2. Đánh giá về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 27 1.3. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu 29 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA HƯƠNG ƯỚC ĐỐI VỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TẠI THÔN, LÀNG VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ VIỆT NAM 32 2.1. Hương ước trong đời sống thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam 32 2.2. Quản lý nhà nước tại thôn, làng và vai trò của hương ước đối với quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam 43 2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của hương ước đối với quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam 79 Chương 3: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA HƯƠNG ƯỚC ĐỐI VỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TẠI THÔN, LÀNG VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ VIỆT NAM HIỆN NAY 87 3.1. Khái quát về tình hình hương ước ở thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam hiện nay 88 3.2. Thực trạng các phương diện thể hiện vai trò của hương ước đối với quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam hiện nay 99 3.3. Nguyên nhân thực trạng vai trò của hương ước đối với quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam hiện nay 135
- Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA HƯƠNG ƯỚC ĐỐI VỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TẠI THÔN, LÀNG VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ VIỆT NAM HIỆN NAY 144 4.1. Quan điểm về phát huy vai trò của hương ước đối với quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam hiện nay 144 4.2. Giải pháp phát huy vai trò của hương ước đối với việc quản lý nhà nước tại thôn, làng ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam hiện nay 151 KẾT LUẬN 183 CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 186 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 187
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Điểm nổi bật của dân tộc Việt Nam là yếu tố cộng đồng - một giá trị được tạo lập, củng cố và duy trì qua nhiều thế hệ. Đó là sức mạnh truyền thống, vừa có tính quốc gia, lại vừa có tính địa phương được sản sinh từ làng xã. Chiếu của vua Gia Long năm 1804 nêu rõ: “nước là họp các làng mà thành. Từ làng mà đến nước, dạy dân nên tục, vương chính lấy làng làm trước”. Ngay cả thực dân Pháp khi tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, cũng phải rút ra kết luận: “Làng Việt Nam là cái chìa khóa để giải mã bí mật Việt Nam, thần kỳ Việt Nam” (P.Mus - học giả, sĩ quan quân đội Pháp đầu thế kỷ XX). Những quan niệm như thế đã xác nhận một thực tế hiển nhiên: làng Việt Nam từ xưa đến nay luôn giữ một vị trí hết sức quan trọng trong tất cả các vương triều, nhà nước, trong việc hoạch định các chiến lược cai quản, xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, với đặc thù vốn có là tính tự quản rất cao của thôn, làng theo tập tục “phép vua thua lệ làng” lại là một trở ngại lớn trong việc nhà nước muốn can thiệp, nắm bắt và quản lý đời sống xã hội ở thôn, làng. Về mặt chính quyền, nhà nước thông qua xã để quản lý dân làng, nhưng xã khó có thể làm tốt chức năng quản lý hành chính của mình nếu như không thông qua một cấp trung gian khác là thôn. Do đó, ngày 11 tháng 5 năm 1998 Chính phủ đã đề ra Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, khẳng định: “Thôn, làng, bản, ấp không phải là một cấp chính quyền nhưng là nơi sinh sống của cộng đồng dân cư, là nơi thực hiện dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi nhằm giải quyết các công việc trong nội bộ cộng đồng dân cư, bảo đảm đoàn kết, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và vệ sinh môi trường, xây dựng cuộc sống mới, tương trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất và đời sống; giữ gìn, phát huy truyền thống tốt đẹp và thuần phong mỹ tục của cộng đồng nhằm thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ của công dân và nhiệm vụ cấp trên giao” [21, Điều 13]. Như vậy, Quy chế thực hiện dân chủ ở xã cũng đã thể hiện rõ tinh thần nhà nước muốn thực hiện sự quản lý của mình đến cấp cơ sở nhỏ nhất trong cộng đồng dân cư thì trước tiên phải tiến hành thông qua việc nắm lấy thôn, làng.
- 2 Để làm được điều đó, song song với quá trình tái lập cấp thôn, nhà nước cần phải có hướng phục hồi các yếu tố truyền thống, đặc biệt là sự xuất hiện trở lại của hàng loạt các thiết chế phi quan phương ở thôn, làng. Các thiết chế phi quan phương này chính là nơi lưu giữ những giá trị và chuẩn mực của cộng đồng, điều chỉnh những hành vi ứng xử của con người. Sức sống của hương ước vẫn còn di tồn tới ngày nay, ngay cả trong khung cảnh xã hội nông thôn đang chuyển mình từ cổ truyền tới hiện đại. Bởi hương ước là một di sản văn hóa lớn, có giá trị nhiều mặt, trong đó nổi bật nhất là vai trò quản lý xã hội nông thôn. Sẽ là phiến diện và không công bằng nếu cho rằng, ngày nay, sự biến đổi mạnh mẽ của đời sống nông thôn Việt Nam, vấn đề hương ước chỉ còn là câu chuyện lịch sử. Nhìn vào thực tế của kinh tế thị trường, đô thị hóa, công nghiệp hóa, nhiều người hoài nghi cho rằng hương ước tự nó sẽ mất giá trị. Tuy nhiên, hương ước vẫn có cơ sở tồn tại và sẽ vẫn còn tồn tại. Khi cơ sở hạ tầng (kinh tế) thay đổi thì kiến trúc thượng tầng (trong đó có nhà nước, pháp luật,… và kể cả hương ước) cũng sẽ thay đổi theo - đó là quy luật. Song thay đổi - điều đó không có nghĩa là biến mất, hoặc mất đi hoàn toàn. Việc mất đi có chăng chỉ là những hủ tục lạc hậu, những tàn dư cũ cổ hủ, lỗi thời (thậm chí kể cả tên gọi “hương ước” đi chăng nữa). Hương ước nếu được tích hợp, bổ sung những nội dung mới, nó vẫn còn nguyên giá trị đúng với bản chất của nó là công cụ tự quản, chứa đựng những quy định không trái luật và hỗ trợ cho luật; thực hiện chức năng giữ gìn và phát huy những giá trị vật chất và tinh thần của làng xã trong thời hiện đại. Hiện nay Việt Nam đang xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, đề cao vị thế của pháp luật, song không phải vì thế mà xem nhẹ các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác, trong đó có hương ước. Thực tế, nếu biết kế thừa, khai thác trên tinh thần “gạn đục khơi trong”, phát huy những mặt tích cực, hợp lý và loại bỏ những yếu tố lạc hậu của hương ước cũ, chúng ta có thể sử dụng hương ước như một phương tiện hỗ trợ có hiệu quả trong việc quản lý kinh tế - xã hội, đưa nông thôn Việt Nam vào quỹ đạo phát triển lành mạnh: dân chủ và pháp quyền, đoàn kết, hợp tác trong sự đồng thuận của cộng đồng. Đây là nhân tố cơ bản đảm bảo sự ổn định chính trị tích cực, lành mạnh, phát huy được quyền tự chủ, sáng tạo của từng địa phương, là tiền đề và điều kiện của phát triển bền vững. Xét từ góc độ pháp lý và văn hóa pháp lý, việc xây dựng và thực hiện hương ước mới ở thôn, làng là việc làm quan trọng. Đây vừa
- 3 là công cụ hỗ trợ cho quản lý nhà nước, có tác dụng tích cực tới quản lý hành chính, đồng thời phát huy được khả năng tự quản, tự điều chỉnh của cộng đồng dân cư. Với những phân tích nêu trên, việc lựa chọn đề tài “Vai trò của hương ước đối với quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam hiện nay” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về vai trò của hương ước đối với quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ, - Xây dựng cơ sở cho việc đánh giá thực trạng vai trò của hương ước đối với quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện nay, - Đề xuất các quan điểm, giải pháp để phát huy vai trò của vai trò của hương ước đối với quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích những phương diện thể hiện vai trò của hương ước trên cơ sở phạm vi nội dung quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ, - Phân tích những yếu tố tác động đến vai trò của hương ước đối với quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ, - Nghiên cứu thực trạng vai trò của hương ước đối với quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện nay, chỉ rõ cả những bất cập còn tồn tại, cũng như nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, - Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm phát huy hiệu quả vai trò của hương ước đối với quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là hương ước ở các thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ, vai trò của hương ước đối với hoạt động quản lý nhà nước tại thôn, làng ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian: Môi trường của làng Việt truyền thống mỗi miền Bắc - Trung - Nam khác nhau. Có làng trung du, có làng đồng bằng và ven biển, có làng
- 4 cụm lại trên giải đất cao giữa vùng chiêm trũng, có làng ở Nam Bộ (thường được gọi là ấp). Trong đó, ở nông thôn Nam Bộ và một số nơi khác, theo nhiều nhà quản lý, không nhất thiết phải có hương ước. Hương ước chỉ tồn tại phổ biến ở khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Do đó, đề tài giới hạn ở việc nghiên cứu vai trò của hương ước vùng đồng bằng Bắc Bộ - nơi làng xã cổ truyền hình thành sớm, có kết cấu xã hội bền chặt, đồng thời cũng là nơi hương ước được soạn thảo và sử dụng nhiều nhất trong cả lịch sử và hiện tại. Nguồn tư liệu chính của luận án là các bản hương ước mới được soạn thảo từ năm 2000 đến nay của các thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. Đồng thời luận án sử dụng một số bản hương ước cổ thời phong kiến để có sự so sánh với hương ước ngày nay. Luận án cũng kế thừa những thành quả nghiên cứu về làng Việt cổ truyền, nông thôn thời đại mới, về quản lý nhà nước, về hương ước, pháp luật trong mối quan hệ với hương ước đã được công bố từ trước đến nay. Phạm vi thời gian: Luận án chủ yếu nghiên cứu giai đoạn từ năm 2000 trở lại đây. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận án nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chiến lược xây dựng nông thôn mới, về hoàn thiện pháp luật đảm bảo cho quá trình phát huy dân chủ ở cơ sở, xây dựng chính quyền ở cơ sở, cộng đồng làng xã ở Việt nam hiện nay. Đặc biệt là các quan điểm về văn hóa, quản lý nhà nước và tự quản cộng đồng, về thực hiện dân chủ cơ sở, quan hệ giữa pháp luật với hương ước, phong tục, tập quán. + Phương pháp phân tích và khái quát hoá: được sử dụng để phân tích, đánh giá các phương diện thể hiện vai trò, giá trị của hương ước đối với hoạt động quản lý nhà nước tại thôn, làng ở Việt Nam hiện nay. + Phương pháp so sánh: được sử dụng để so sánh và đánh giá những giá trị của pháp luật và hương ước - những giá quy phạm xã hội có tác dụng to lớn trong đời sống xã hội nói chung và đời sống thôn, làng nói riêng.
- 5 + Phương pháp nghiên cứu liên ngành: để nghiên cứu về bản chất, nội dung, vai trò của hương ước trong đời sống thôn, làng, luận án sử dụng phối kết hợp nhiều ngành khoa học khác nhau như: luật học, triết học, sử học, xã hội học. + Phương pháp thống kê, mô tả, tổng hợp, khảo sát xã hội học: được sử dụng để thống kê, đánh giá thực trạng vai trò của hương ước trong đời sống thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam hiện nay. 5. Đóng góp mới của luận án - Luận án đã nghiên cứu một cách hệ thống và khoa học lý luận về sự tự quản của thôn, làng, về nhu cầu quản lý nhà nước tại thôn, làng; xây dựng được lý thuyết về vai trò, các khía cạnh thể hiện vai trò của hương ước đối với hoạt động quản lý nhà nước tại thôn, làng. - Luận án đi sâu tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân vai trò của hương ước đối với quản lý nhà nước tại thôn, làng. - Luận án đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị của hương ước cũng như khắc phục những mặt hạn chế còn tồn tại của hương ước trong quản lý nhà nước tại thôn, làng ở Việt Nam hiện nay.. Kết quả nghiên cứu của đề tài luận án là bổ sung quan trọng vào lý luận nhận thức về việc quản lý nhà nước tại thôn, làng, góp phần làm phong phú thêm nhận thức về vai trò của hương ước đến thực tế quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Luận án là công trình tham khảo cần thiết cho các nhà quản lý, các cán bộ làm công tác nghiên cứu và giảng dạy khoa học pháp lý, các nghiên cứu sinh, học viên cao học luật và sinh viên các trường luật. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa khoa học Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung, hoàn thiện và làm sâu sắc những vấn đề lý luận về vai trò của hương ước đối với quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Qua đó, góp phần phát triển, hoàn thiện những tri thức lý luận về luật học nói chung và về quản lý nhà nước tại thôn, làng, về vai trò của hương ước trong đời sống thôn, làng nói riêng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- 6 - Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu và giảng dạy khoa học pháp lý, cũng như các nhà hoạt động thực tiễn, - Các giải pháp mà luận án đề xuất góp phần hoàn thiện chính sách về việc khai thác vai trò của hương ước trong quản lý thôn, làng ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam trong điều kiện hiện nay, - Các giải pháp luận án đưa ra có giá trị tham khảo đối với các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về vấn đề xây dựng và thực hiện hương ước, - Kết quả của luận án là tài liệu tham khảo giúp cho chính quyền cơ sở và bộ máy tự quản ở thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ có thêm định hướng trong công tác quản lý xã hội của địa phương mình, giúp cho các thôn, làng có giải pháp kết hợp đồng bộ giữa pháp luật và hương ước trong việc xây dựng nông thôn mới, thực hiện tốt Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, nội dung của luận án gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài. Chương 2: Cơ sở lý luận về vai trò của hương ước trong việc quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Chương 3: Thực trạng vai trò của hương ước đối với quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam hiện nay. Chương 4: Quan điểm và giải pháp phát huy vai trò của hương ước đối với quản lý nhà nước tại thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam hiện nay.
- 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài Là đề tài hấp dẫn cả về khoa học, lý luận và thực tiễn, hương ước từ lâu đã là đề tài thu hút sự chú ý nghiên cứu của nhiều giới, nhiều thế hệ nghiên cứu trong và ngoài nước với nhiều cấp độ nghiên cứu: sách chuyên khảo, bài báo khoa học, đề tài nghiên cứu các cấp, xuất phát từ những quan điểm khác nhau, nhằm những mục đích khác nhau và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng có giá trị. Để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài luận án, tác giả thấy rằng cần tổng quan tình hình nghiên cứu ba nhóm công trình sau đây: Nhóm một: Các công trình nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với thôn, làng; Nhóm hai: Các công trình nghiên cứu về vai trò của hương ước đối với việc tự quản của thôn, làng; và Nhóm ba: các công trình nghiên cứu về vai trò của hương ước trong việc quản lý nhà nước đối với thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. 1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với thôn, làng a) Nhóm các công trình nghiên cứu về thôn, làng Để nghiên cứu về việc quản lý nhà nước đối với thôn, làng, trước hết cần phải có cái nhìn tổng quát về thôn, làng với những nội dung cơ bản: tổ chức và cơ cấu xã hội của thôn, làng, vị trí, vai trò của thôn, làng trong đời sống quản lý xã hội của Nhà nước; sau đó tìm hiểu đến sự chuyển mình thay đổi của thôn, làng trong thời kỳ mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa chung của đất nước. Thứ nhất, để vẽ lên bức tranh khái quát về thôn, làng, không thể không nhắc đến những đề tài nghiên cứu của các nhà sử học, dân tộc học, cụ thể: - Viện Sử học (1977-1978), “Nông thôn Việt Nam trong lịch sử” (tập 1-2), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Hai tập sách là kết quả cuộc hai cuộc hội thảo lớn về làng xã, là một bước tiến vượt bậc so với hầu hết các công trình nghiên cứu về nông thôn trước đó, vì đã cung cấp nhiều tư liệu mới, quan điểm mới về nông thôn Việt Nam. Với 47 luận văn khoa học, hai tập “Nông thôn Việt Nam trong lịch sử” đã đem lại một cách đánh giá đúng về vai trò của làng xã, của nông dân trong lịch sử
- 8 tiến hóa của cách mạng Việt Nam, tiếp cận làng xã Việt Nam về tất cả các mặt: hạ tầng và thượng tầng, kinh tế và chính trị, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. - Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Tác giả đã cho thấy bức tranh sống động về làng xã, về cơ cấu tổ chức của làng xã Bắc Bộ theo nhiều chiều cạnh khác nhau. Đặc biệt, tác giả phân tích kỹ tính hai mặt, có thể coi là “bộ luật riêng”, và có thể “đứng độc lập” của hương ước trong tổng thể đời sống xã hội của làng xã Việt Nam. - Khoa Lịch sử, Trường Khoa học xã hội và nhân văn (2006), “Làng Việt Nam, đa nguyên và chặt”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Cuốn sách là tập hợp các bài viết của GS. Phan Đại Doãn, PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, TS. Vũ Văn Quân, PGS.TS Nguyễn Quang Ngọc, TS. Vũ Duy Mền v.v... với những nghiên cứu sâu về kết cấu xã hội làng Việt cổ truyền ở đồng bằng Bắc Bộ, về chức năng và đặc điểm của gia đình truyền thống Việt, qua đó các tác giả đã phủ nhận đi quan điểm: làng Việt Nam chỉ là tổng số giản đơn của những gia đình cá thể, chỉ là khu vực cộng cư của những người tiểu nông làm lúa nước. Bản thân trong kết cấu xã hội của làng xã cổ truyền ở đồng bằng Bắc Bộ, tác giả cũng đã phân tích và chứng minh rằng “trong làng quê vốn tồn tại hai loại quan hệ huyết thống và địa vực (láng giềng). Tuy nhiên hai loại quan hệ này trong làng xã vùng châu thổ sông Hồng không phải là tách biệt nhau mà thường là hòa nhập với nhau” [88, tr. 61]. Nhưng “trong hai yếu tố cơ bản tạo thành làng thì nhìn chung yếu tố địa vực vẫn có vai trò quan trọng nổi trội hơn huyết thống” [88, tr. 64]. Nhưng cũng chính từ sự hòa hợp của hai yếu tố huyết thống và địa vực, cùng với nhiều quan hệ chồng xếp lên nhau, hòa quyện vào nhau khiến cho “tính cộng đồng làng Việt ở châu thổ sông Hồng rất chặt chẽ và vững mạnh; trong làng, vị trí của cá nhân thấp bé” [88, tr. 66], điều này tạo nên nét truyền thống của làng quê đồng bằng sông Hồng. - Nguyễn Quang Ngọc (2009), Một số vấn đề làng xã Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Cuốn sách đã khái lược lại sự ra đời và những biến đổi của làng xã Việt Nam trong tiến trình lịch sử, sự trở lại vị trí của thôn, làng truyền thống trong nông thôn hiện nay; phân tích về kết cấu kinh tế - xã hội của làng Việt cổ truyền cũng như những văn hóa xóm làng, tín ngưỡng, tôn giáo, diện mạo vật chất của một làng quê.
- 9 Ngoài ra, liên quan đến vấn đề lý giải về các thuật ngữ “xã”, “thôn”, “làng”, còn có các bài nghiên cứu của các học giả nước ngoài khác như: Sogabe Shizuo (1963), The change of the village types in ancient China and Japan, Tokyo; Shui Ching Chu (Thủy kinh chú) (1988), Taipei, Shijie shuju; Lesonard aurousseaus (1932), An Nam chí nguyên,avec une estude par Emile Gaspardone, Hanoi: Ecole Francaise de extreeme-oirent; Sakurai Yumio (1975), The change in the number of Xa village in medieval Vietnam (chữ Nhật), Tonan ajia, 5, November; Sakurai Yumio (1982), The Cultivation of the Red River delta during the Ly dynastry 1010- 1225, Tonan ajia Kenkyu, 26-3; Chen Ching Ho (1987), Đại Việt sử lược, Tokyo; Monoki Shiro (1985), A student on a Lo system during Vietnam Tran dynastry (chữ Nhật), Shi Rin 65-5 v.v... Thứ hai, không nên chỉ nhìn nhận thôn, làng cận đại, hiện đại ngày nay với bản tính của làng quê cổ truyền và coi đó như là một chỉnh thể, mà cần phải lưu ý đến sự biến đổi của thôn, làng qua thời gian. Để tìm hiểu về sự đổi thay của thôn, làng trong thời kỳ mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có những công trình nghiên cứu sau: - Tác giả Tô Duy Hợp là chủ biên của cuốn sách “Định hướng phát triển làng - xã đồng bằng sông Hồng ngày nay”, Nxb Khoa học xã hội, năm 2003. Cuốn sách là kết quả phân tích và tổng hợp dựa trên nền số liệu của các nghiên cứu đã tiến hành trước đó, có chọn lọc và lựa chọn theo quan điểm riêng của tác giả để đưa ra định hướng xây dựng mô hình phát triển làng - xã ở đồng bằng sông Hồng. Trong cuốn sách, tác giả đã làm sáng tỏ các đặc điểm truyền thống của lịch sử, mô tả tình trạng thực tế của làng - xã đồng bằng sông Hồng hiện nay, chỉ rõ được nguyên nhân và thấy được xu hướng biến đổi tất yếu của nó. Từ đó, tác giả đúc kết thành mô hình phát triển cho hai loại làng xã phổ biến của nông thôn đồng bằng sông Hồng, đó là: loại hình làng - xã hỗn hợp trọng nông nghiệp (thường được gọi là làng nông nghiệp) và loại hình làng - xã hỗn hợp trọng phi nông nghiệp (còn được gọi là làng nghề hay làng buôn). Việc đưa ra mô hình định hướng phát triển làng - xã đồng bằng sông Hồng này nhằm làm sáng tỏ quan điểm “làng xã đồng bằng sông Hồng nói chung không ưa chuộng mô hình chuyển hóa cực đoan - không tự động chuyển sang xã hội đô thị - công nghiệp hoàn toàn - nhưng chấp nhận quá trình đẩy mạnh đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn với mức độ, nhịp độ khác nhau” [74, tr. 14].
- 10 - Cũng về mảng đề tài làng quê trong thời đại mới, GS. Phan Đại Doãn với cuốn sách “Làng xã Việt Nam, một số vấn đề kinh tế văn hóa xã hội”, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội ấn bản lần thứ ba năm 2010. Cuốn sách không đi vào nghiên cứu về tổ chức, cơ cấu xã hội làng xã như nhiều công trình nghiên cứu khác, mà tác giả chỉ tập trung phân tích từ kết cấu kinh tế đến kết cấu văn hóa, xã hội của làng xã, từ truyền thống đến hiện đại; đưa đến một cái nhìn tổng thể về các quan hệ kinh tế - xã hội, cái kinh tế và phi kinh tế, cái quyền lực và siêu quyền lực, cái tâm linh và mê tín dị đoan cứ đan chéo, chuyển hóa lẫn nhau. Thông qua cuốn sách, tác giả đã lột tả rõ bản chất của làng Việt trong một giai đoạn thử thách quyết liệt: truyền thống và đổi mới, dân tộc và hiện đại, quốc gia và quốc tế, cung cấp những kiến thức tham khảo bổ ích cho việc nghiên cứu hoạch định chính sách về nông dân và nông thôn. - Cuốn sách”Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn từ lý luận đến thực tiễn ở Việt Nam hiện nay” của TS. Phạm Ngọc Dũng và các cộng sự (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2011). Công trình tập trung đánh giá thực trạng và đưa ra các giải pháp khả thi, sát thực tiễn trong quá trình xây dựng nông thôn nước ta thời gian tới. Cũng thuộc đề tài trên, và được đánh giá là công trình vừa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, có tính thời sự trong điều kiện cả nước đang tập trung xây dựng nông thôn mới, đó là cuốn “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vấn đề và giải pháp”, sách được chủ biên bởi PGS.TS Lê Quốc Lý (Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012). Công trình đã lý giải những vấn đề lý luận, thực tiễn và yêu cầu xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời gian tới với những giải pháp sát thực, khả thi. Về công trình nước ngoài: nông thôn và nông dân Việt Nam cũng là chủ đề luôn được các nhà nghiên cứu ngoài nước quan tâm. Đặc biệt là những đổi thay của xã hội nông thôn miền Bắc Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay, lại càng thu hút sự chú ý của nhiều học giả châu Âu và Bắc Mỹ. Trong đó, đầu tiên phải kể đến chương trình nghiên cứu dài hơi về “Làng xã đồng bằng Bắc Bộ” (được thực hiện và hoàn thiện trong bốn năm: từ năm 1996 đến năm 1999 do Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội, hợp tác với Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia, do cố GS. Lê Bá Thảo và TS. Philippe Papin chủ trì, đã tập hợp nhiều nhà nghiên cứu đầu ngành của Việt Nam như Đào Thế Tuấn, Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn). Kết quả chương trình này đã cho ra mắt cuốn sách “Le village en
- 11 questions” (Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: vấn đề còn bỏ ngỏ) của tác giả Philippe Pain và Oliver Tessire (chủ biên), do Nxb lao động xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 2002. Đây là một chương trình nghiên cứu về làng xã rất thành công; bởi với mảng đề tài không có gì là mới mẻ ở Việt Nam, nhưng lần đầu tiên được tiến hành nghiên cứu liên ngành với sự đối thoại, hợp tác, chia sẻ những hiểu biết và kinh nghiệm của các chuyên gia thuộc các lĩnh vực khác nhau: các nhà nông học, sử học, các nhà địa lý và xã hội học, các nhà kinh tế học và các chuyên gia nghiên cứu tôn giáo. Với những kết quả mà tập thể tác giả đã thu được trong quá trình nghiên cứu được đúc kết trong cuốn sách “Le village en questions” đã vẽ lên một bức tranh sống động đa chiều về làng xã hiện nay - là một tư liệu rất có giá trị tham khảo trong việc tìm hiểu về những biến đổi của làng xã đồng bằng sông Hồng hiện nay. - Năm 1999, Viện nghiên cứu Đông Nam Á đã cho xuất bản cuốn sách “Facing the future, reviving the past” (Làng Việt - đối diện tương lai, hồi sinh quá khứ) của nhà nhân học Hà Lan John Kleinen. Bằng phương pháp điều tra nhân học trên thực địa, tác giả đã làm sáng tỏ những yếu tố bất biến và những yếu tố khả biến trong đời sống làng xã, góp phần làm thay đổi quan niệm cố hữu về làng Việt Nam như một cộng đồng người khép kín, mà “từ khi mở cửa chuyển sang nền kinh tế thị trường, người dân làng quê đã hòa nhập hơn với bối cảnh rộng lớn xung quanh, theo một cách nào đó mà việc có đất hay các tài nguyên nông nghiệp khác không phải là động lực chính để có một vị trí kinh tế xã hội” [86, tr. 20]. Cùng với tình thế của công cuộc đổi mới, tác giả đã phân tích sự chuyển đổi vị trí của các tầng lớp “tinh hoa” trong làng, sự khôi phục của đời sống nghi lễ và những vấn đề liên quan đến đời sống tôn giáo với nhiều thay đổi và biến thể; tính cố kết và tính tự trị của làng trong mối quan hệ giữa Nhà nước và làng với nhiều cởi mở và phóng khoáng hơn… Thay vì chỉ nhìn nông thôn trong trạng thái tĩnh với sự nhận diện cấu trúc làng xã, cuốn sách “Facing the future, diviving the past” đã góp một cái nhìn động vào xã hội nông thôn Việt Nam ngày nay, đem đến một cái nhìn rõ nét về những đổi thay của làng quê Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên đường hội nhập với thế giới. b) Nhóm công trình nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với thôn, làng - Cuốn sách “Kinh nghiệm tổ chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử” do GS. Phan Đại Doãn và Phó tiến sĩ Nguyễn Quang Ngọc chủ biên, được Nhà
- 12 xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 1994, đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh nghiệm tổ chức quản lý nông thôn trong lịch sử nước ta, chủ yếu về các phương diện hành chính, dân sự, các thiết chế làng, ấp, bản, buôn trên các miền đất nước. Cuốn sách đã cung cấp một cái nhìn khái quát về lịch sử quản lý nông thôn, với những phân tích hết sức chi tiết về các thiết chế chính trị xã hội nông thôn Việt Nam theo thứ tự thời gian từ thời kỳ phong kiến qua thời kỳ thực dân (cả dưới ách thống trị của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ), đến thời kỳ xây dựng nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, sự nghiên cứu về việc quản lý nông thôn ở Việt Nam trong cuốn sách chỉ dừng lại ở thời điểm cách đây hai mươi sáu năm. Sự thay đổi diện mạo mới của nông thôn ngày nay với những thiết chế chính trị xã hội mới, phương thức quản lý nông thôn mới đã khác nhiều so với những kiến thức được cập nhật trong cuốn sách này. - PGS.TS Nguyễn Quang Ngọc có bài nghiên cứu “Cấp thôn trong thiết chế chính trị - xã hội nông thôn Việt Nam (Qua tư liệu vùng châu thổ sông Hồng)” được biên tập trong cuốn sách “Làng Việt Nam đa nguyên và chặt”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006, (trang 236-258), đã trình bày về quá trình ra đời của cấp thôn, sự trở lại vị trí của thôn, làng truyền thống trong nông thôn Việt Nam hiện nay. Trong đó, tác giả đã khẳng định “chủ trương trao quyền tự quản cho thôn là một chủ trương đúng và trên cơ bản đã phát huy tốt được tính tự chủ, năng động của các thôn, làng… Tuy nhiên giao quyền tự quản cho thôn đến mức độ nào để thôn, làng có thể khai thác hết tiềm năng vốn có mà không biến thành một cấp chính quyền riêng là một vấn đề cần phải tiếp tục được nghiên cứu” [88, tr. 257]. - Giáo sư, tiến sĩ Hoàng Chí Bảo (chủ biên) (2005) với công trình “Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Đây là kết quả của đề tài Nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở, trong sự nghiệp đổi mới và phát triển của nước ta hiện nay. Cuốn sách nhằm làm sáng tỏ tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa IX) về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”. Ngoài ra, tác giả Hoàng Chí Bảo có công trình (đã xuất bản lần thứ hai) “Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình đổi mới” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010). Nội dung cuốn sách nêu bật tầm quan trọng của dân chủ cơ sở, đặc biệt là dân chủ cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay, những hạn chế trong thực hiện dân
- 13 chủ ở cơ sở thời gian qua, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện dân chủ trong đời sống xã hội ngày nay. - Năm 1995, tác giả Phan Đại Doãn có bài viết trên Tạp chí xã hội học, số 3 “Nhà nước và xã hội - từ thực tế nông thôn Việt Nam hiện nay”. Bài viết của tác giả đã giúp người đọc hình dung được mối quan hệ không thể tách rời giữa Nhà nước và xã hội nông thôn. Theo đó, Nhà nước được duy trì là nhờ vào xã hội nông thôn; và ngược lại, xã hội nông thôn muốn ổn định phải nhờ vào sự quản lý của Nhà nước. - Ngoài những công trình nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ ở Việt Nam, còn có những công trình nghiên cứu về kinh nghiệm tổ chức quản lý nông thôn ở các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Điển hình như cuốn sách “Tìm hiểu kinh nghiệm tổ chức quản lý nông thôn ở một số khu vực Đông Á và Đông - Nam Á” do GS. Phan Đại Doãn và PGS.PTS Nguyễn Trí Đĩnh chủ biên, được Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 1995. Qua cuốn sách, tập thể tác giả đã vẽ lên bức tranh khái quát về công cuộc quản lý nông thôn ở các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan, Indonexia; theo hướng phân tích đi từ sự thay đổi thiết chế chính trị - xã hội nông thôn trong lịch sử dẫn đến sự thay đổi các tổ chức hành chính cơ sở ở nông thôn; từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về cách thức tổ chức và quản lý nông thôn ở những nước có nền kinh tế nông nghiệp truyền thống đã thay đổi để phát triển nhanh, mạnh và trở thành những “con rồng” châu Á. - Cuốn sách “Vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung Quốc”, do Đỗ Tiến Sâm chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005. Công trình đã trình bày và phân tích tương đối toàn diện về tổ chức chính quyền ở nông thôn, đặc biệt đã đề cập khá sâu vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung Quốc, đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam tham khảo. - Bùi Bích Vân (2006) với bài viết “Những quy định trong quản lý làng xã Nhật Bản thời cận thế” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 10(70), trang 58-63. Bài nghiên cứu đặt trong bối cảnh Nhật Bản thời cận thế, khi đất nước được thống nhất sau những cuộc nội chiến kéo dài, trong bối cảnh đó, “làng xã Nhật Bản là phần không thể tách rời, nếu như không muốn nói là “mảnh ghép” quan trọng bậc nhất trong bức tranh toàn cảnh của xã hội đương thời, (...) Và những quy định trong quản lý làng xã là một trong những tác nhân thúc đẩy sự phát triển của
- 14 làng xã dưới chế độ phong kiến đương thời” [171, tr. 58]. Tác giả đã chỉ ra rằng, mặc dù “chính quyền và lãnh chúa phong kiến chi phối làng xã bằng hệ thống tổ chức hành chính nhất quán, song về cơ bản những quy định đó cũng đã có được vị trí vững chắc ở nông thôn. Vì thế tính tự trị của làng xã không mất đi, mà trái lại sự quản lý làng xã vẫn được vận hành bởi sự dung hòa, kết hợp uyển chuyển với chính sách của các lãnh chúa phong kiến mà thôi” [171, tr. 63]. - ThS. Phùng Đức Hiệp (2011) có bài “Tăng cường quản lý nhà nước trong xây dựng nông thôn mới” đăng trên Tạp chí Quản lý nhà nước, số 1(180), trang 27-31. Tác giả đã đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn nước ta trong hơn hai mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới, nông nghiệp, nông thôn, ghi nhận những thành tựu cũng như chỉ ra những điểm hạn chế, yếu kém. Từ đó, tác giả rút ra bốn bài học kinh nghiệm trong việc quản lý nhà nước về nông nghiệp, nông thôn, nông dân, với phương châm chính là “phát huy cao độ tinh thần sáng tạo của người dân nông thôn tại từng cộng đồng. Người dân tự bàn bạc lựa chọn công việc ưu tiên, tự triển khai thực hiện và hưởng lợi. Nhà nước hỗ trợ về tổ chức, về kỹ thuật và nguồn lực” [70, tr. 30]. - Bên cạnh đó, trong lĩnh vực nghiên cứu về mối quan hệ giữa Nhà nước và xã hội nói chung và làng xã nói riêng còn có các công trình như: Branty Womack (Spring 1992), Reform in Vietnam: Backwards Toward the Future, Government and Opposition, 27; Carlyle Thayer (1992), Political Renovation in Vietnam: Doi moi and the Emergence of Civil Society, 111-12 trong Robert F. Miller, ed., The Development of Civil Society in Communist System (Sydney: Allen and Unwin); Gareth Poter (1993), Vietnam: Politics of Bureaucratic Socialism, Ithaca: Cornell University Press; Thrif, Nigel and Dean Forbes (1986), The Price of War: Urbanization in Vietnam 1954-1985, London: Allen and Unwin; Insun Yu (1994), Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII, (bản dịch), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về vai trò của hương ước đối với việc tự quản của thôn, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam Các công trình nghiên cứu về vấn đề tự quản của thôn, làng - Bùi Xuân Đức (2007), “Tự quản địa phương: vấn đề nhận thức và vận dụng ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1, tr. 11-16. Bài viết của tác giả nhằm phủ nhận đi quan điểm “với việc xây dựng nền sản xuất lớn xã hội
- 15 chủ nghĩa trước đây và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, kết cấu xã hội tiểu nông sẽ bị phá vỡ và cơ sở để tồn tại chế độ tự quản sẽ không còn nữa” [58, tr. 11]. Mà trái lại, “các thể chế quản lý của Nhà nước hiện nay không đủ và cũng không thể đủ để điều chỉnh các quan hệ trong một cộng đồng vốn rất đa dạng và phong phú hơn thời bao cấp. Các công cụ mới như trưởng thôn, hương ước - những hình thức hỗ trợ cho bộ máy quản lý làng xã và bổ sung cho pháp luật, đáp ứng nhu cầu và cách thức quản lý mới ở thôn, bản - được phục hồi trở lại và phát huy tác dụng” [58, tr. 11]. - Nguyễn Thị Thiện Trí (2014), “Những luận điểm cho việc tiếp nhận, áp dụng mô hình tự quản địa phương ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12, tr. 3 - 9, 24. Bài viết tập trung giới thiệu về mô hình tự quản địa phương hiện đang được áp dụng phổ biến ở các nước trên thế giới và chỉ ra những cơ sở cho kết luận rằng: Việt Nam cần đổi mới chính quyền địa phương theo mô hình tự quản. Cụ thể, tác giả khẳng định “tự quản địa phương là hình thức phân quyền triệt để nhất từ trung ương xuống địa phương, tự quản địa phương không phải là sự thoát ly khỏi Nhà nước, bất cứ tổ chức nào cũng đều nằm trong sự tác động thống nhất của quyền lực Nhà nước” [156, tr. 4]. Và ở Việt Nam, thực tiễn lịch sử và hiện tại đã cho thấy những cơ sở cho việc tiếp nhận và áp dụng mô hình tự quản địa phương trên thế giới. Bởi, Việt Nam có truyền thống tự quản làng xã, đã từng được áp dụng một thời gian dài. “Các triều đại phong kiến nước ta nhìn chung không chối bỏ chế độ xã thôn tự trị, mà còn khai thác những thế mạnh của chế độ này để nâng cao hiệu quả quản lý ở nông thôn. (…) Vì những lý do khác nhau mà chúng ta đã không tiếp tục duy trì chế độ tự trị này, nay đã đến lúc cần xem xét lại” [156, tr. 7]. - Về vấn đề tự quản của làng xã, năm 1998, tác giả Lê Ngọc Bình đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ với đề đề tài “Xu hướng tăng vai trò tự quản của cộng đồng làng xã đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đổi mới” do PGS.TS Tô Duy Hợp hướng dẫn nghiên cứu. Luận văn đã lý giải được cơ sở để cho làng xã trở thành hạt nhân tự quản; các nội dung tự quản của làng xã; vai trò tự quản của cộng đồng làng xã trong lịch sử từ thời Pháp thuộc đến giai đoạn đổi mới, chỉ ra được thực trạng của hoạt động tự quản ở cộng đồng làng xã và xu hướng tăng vai trò tự quản của cộng đồng làng xã trong chiến lược phát triển nông thôn mới. Dưới góc độ chuyên ngành xã hội học, luận văn đã cung cấp những kiến thức khá sâu về nội hàm “tự
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân ở Việt Nam hiện nay
185 p | 635 | 179
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam
178 p | 479 | 162
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
190 p | 399 | 114
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay
27 p | 247 | 41
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Giao dịch dân sự có điều kiện theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam
304 p | 157 | 40
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Bảo vệ quyền tác giả qua thực tiễn xét xử của tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay
208 p | 80 | 36
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay
182 p | 84 | 33
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Pháp luật lao động và bảo hiểm xã hội dưới góc độ bảo vệ quyền làm mẹ của lao động nữ
134 p | 197 | 30
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Nghĩa vụ con người trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
305 p | 134 | 21
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân bằng tòa án theo pháp luật Việt Nam hiện nay
174 p | 59 | 20
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý tài sản phá sản theo pháp luật về phá sản ở Việt Nam hiện nay
204 p | 64 | 18
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay
179 p | 66 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 266 | 17
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Pháp luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam
205 p | 26 | 17
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Hoàn thiện pháp luật về giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
197 p | 63 | 15
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao trong các dự án về giao thông đường bộ theo pháp luật Việt Nam
163 p | 38 | 9
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Pháp luật về sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam
27 p | 55 | 7
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Pháp luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam
23 p | 16 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn