to
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
-----------------------------
NGUYỄN THỊ NGỌC TRĂM
NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP VÀ BIẾN TÍNH BỀ MẶT NANO SILICA CẤU TRÚC RỖNG ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG MANG THUỐC CHỐNG UNG THƯ
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KHOA HỌC VẬT LIỆU
Hà Nội – Năm 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
-----------------------------
NGUYỄN THỊ NGỌC TRĂM
NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP VÀ BIẾN TÍNH BỀ MẶT NANO SILICA CẤU TRÚC RỖNG ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG MANG THUỐC CHỐNG UNG THƯ
Chuyên ngành: Vật liệu cao phân tử và tổ hợp Mã số chuyên ngành: 62440125
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KHOA HỌC VẬT LIỆU
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 1. PGS.TS. Nguyễn Đại Hải 2. GS.TSKH. Nguyễn Công Hào
Hà Nội – Năm 2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Công trình được thực hiện tại phòng Vật liệu Y sinh - Viện Khoa học Vật liệu Ứng
dụng - Viện Hàn Lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi và được sự hướng dẫn khoa
học của PGS.TS. Nguyễn Đại Hải và GS.TSKH. Nguyễn Công Hào. Các nội dung
nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực, được hoàn thành dựa trên các kết
quả nghiên cứu của tôi và các kết quả của nghiên cứu này chưa được dùng cho bất cứ
luận án cùng cấp nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Ngọc Trăm
ii
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Đại Hải và
GS.TSKH. Nguyễn Công Hào, những người Thầy đã dành cho tôi sự động viên giúp
đỡ tận tình và những định hướng khoa học hiệu quả trong suốt quá trình thực hiện
luận án này.
Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của Viện Khoa học Vật liệu ứng
dụng đối với tôi trong quá trình thực hiện luận án.
Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của Học viện Khoa học và công
nghệ đối với tôi trong quá trình thực hiện luận án.
Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của trường Đại học Trà Vinh
đối với tôi trong quá trình thực hiện luận án.
Luận án này được hỗ trợ kinh phí của đề tài nghiên cứu cơ bản của Quỹ Phát triển
khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED), mã số 104.03-2018.46.
Sau cùng, tôi xin cảm ơn và thực sự không thể quên được sự giúp đỡ tận tình của các
thầy cô, bạn bè và sự động viên, tạo điều kiện của những người thân trong gia đình
trong suốt quá trình tôi hoàn thành luận án này.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Ngọc Trăm
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN ..................................................................................... 4
1.1. NANO SILICA ................................................................................................ 4
1.1.1. Giới thiệu về silica .................................................................................... 4
1.1.2. Keo silica và độ bền của hệ keo ................................................................ 4
1.1.3. Cấu trúc của nano silica ............................................................................ 5
1.1.4. Tính chất của nano silica ........................................................................... 6
1.1.5. Phương pháp tổng hợp .............................................................................. 6
1.1.6. Cấu tạo của nano silica cấu trúc rỗng ..................................................... 14
1.1.7. Tính chất và ứng dụng của nano silica cấu trúc rỗng .............................. 14
1.1.8. Phương pháp tổng hợp nano silica cấu trúc rỗng .................................... 15
1.1.9. Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng .............................................. 18
1.2. THUỐC TRỊ UNG THƯ DOXORUBICIN .................................................. 21
1.2.1. Giới thiệu thuốc Doxorubicin ................................................................. 21
1.2.2. Tác dụng phụ ........................................................................................... 22
1.3. MỘT SỐ POLYMER ĐƯỢC SỬ DỤNG BIẾN TÍNH BỀ MẶT NANO
SILICA CẤU TRÚC RỖNG ................................................................................ 23
1.3.1. Poly ethylene glycol ................................................................................ 23
1.3.2. Pluronic ................................................................................................... 24
1.4. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC 25
1.4.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ........................................................... 25
1.4.2. Tình hình nghiên cứu trong nước ............................................................ 40
CHƯƠNG 2. THỰC NGHIỆM ............................................................................. 42
2.1. Phương tiện nghiên cứu ................................................................................. 42
2.1.1. Hóa chất .................................................................................................. 42
iv
2.1.2. Thiết bị .................................................................................................... 43
2.2. Phương pháp xác định tính chất đặc trưng của vật liệu ................................. 43
2.3. Phương pháp thực nghiệm ............................................................................. 44
2.3.1. Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến kích thước hạt nano silica rắn ........ 44
2.3.2. Tổng hợp hạt nano silica rắn bằng phương pháp đáp ứng bề mặt .......... 48
2.3.3. Tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ (SSN@CTAB-SSN) ............ 52
2.3.4. Tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng (HMSN) .................................... 54
2.3.5. Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với nhóm amin .................... 57
2.3.6. Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với mPEG ............................ 59
2.3.7. Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với Pluronic (F127) ............. 62
2.3.8. Nghiên cứu hiệu quả nang hóa thuốc chống ung thư Doxorubicin (Dox)
của các chất mang nano HMSN, HMSN-NH2, HMSN-mPEG, HMSN-F127 . 64
2.3.9. Khảo sát tốc độ phóng thích thuốc Doxorubicin của hệ HMSN/Dox,
HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox .............................. 65
2.3.10. Nghiên cứu độc tính tế bào đối với các hệ chất mang nano HMSN,
HMSN-NH2, HMSN-PEG, HMSN-F127, HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox,
HMSN-mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox ............................................................ 67
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ - THẢO LUẬN .............................................................. 69
3.1. Kết quả khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến kích thước hạt nano silica rắn .. 69
3.1.1. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nồng độ TEOS .................................... 69
3.1.2. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nồng độ ammonia ............................... 70
3.1.3. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của ethanol ................................................ 72
3.1.4. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của thời gian phản ứng .............................. 73
3.1.5. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ ............................................... 75
3.1.6. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của tốc độ thêm dung dịch ammonia ........ 76
3.2. Kết quả tổng hợp hạt nano silica rắn bằng phương pháp đáp ứng bề mặt ..... 76
3.2.1. Kết quả tổng hợp hạt nano silica rắn SSN .............................................. 76
v
3.2.2. Đánh giá hình thái cấu trúc hạt nano silica rắn SSN ............................... 80
3.3. Kết quả tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ ......................................... 84
3.3.1. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nồng độ TEOS đến kích thước lớp vỏ 84
3.3.2. Mô tả quá trình phủ lớp vỏ silica lên lõi SSN ......................................... 86
3.3.3. Kết quả tổng hợp hạt SSN-SSN .............................................................. 87
3.3.4. Đánh giá hình thái cấu trúc hạt nano silica SSN@CTAB-SSN/2 .......... 88
3.4. Kết quả tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng .............................................. 92
3.4.1. Từ hạt SSN@CTAB-SSN ....................................................................... 92
3.4.2. Từ hạt SSN-SSN ..................................................................................... 94
3.4.3. Đánh giá hình thái cấu trúc hạt nano silica cấu trúc rỗng ....................... 94
3.5. Kết quả biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với nhóm amin ............ 100
3.6. Kết quả biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với monomethoxyl
polyethylene glycol (mPEG) ............................................................................... 107
3.6.1. Hoạt hóa monomethoxyl polyethylene glycol (mPEG) bằng 4-Nitrophenyl
chloroformate (NPC) ....................................................................................... 108
3.6.2. Kết quả biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với mPEG ............. 109
3.7. Kết quả biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với Pluronic ................. 113
3.7.1. Kết quả hoạt hóa Pluronic (F127) bằng 4-Nitrophenyl chloroformate . 113
3.7.2. Kết quả biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với Pluronic .......... 114
3.8. Hiệu quả nang hóa thuốc chống ung thư Doxorubicin (Dox) của các chất mang
nano HMSN, HMSN-NH2, HMSN-mPEG, HMSN-F127 .................................. 118
3.9. Kết quả khảo sát tốc độ phóng thích thuốc Doxorubicin của hệ chất mang/thuốc
HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox .......... 119
3.10. Kết quả độc tính tế bào của chất mang nano dẫn truyền thuốc Dox .......... 122
CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ ........................................................... 125
4.1. Kết luận ........................................................................................................ 125
4.2. Kiến nghị ...................................................................................................... 126
vi
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ ........................................... 128
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 129
PHỤ LỤC ............................................................................................................. 1
vii
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Từ viết đầy đủ
HMSN Hollow mesoporous silica nanoparticles
MSN Mesoporous silica nanoparticles
SSN Solid silica nanoparticles
MCM-41 Mobil Composition of Materials no. 41
SBA-15
Santa Barbara Amorphous Polyethylene glycol PEG
Cetytrimethylammonium bromide CTAB
NPC p-nitrophenyl chloroformate
APTES (3-aminopropyl)-triethoxysilane
TEOS Tetraethoxysilane
EPR Enhanced Permeability Resonance
1HNMR
CMC Critical Micell Concentration
Proton Nuclear Magnetic Resonance
FTIR
Fourier Transform Infrared Spectroscopy Thermal Gravimetry Analysis TGA
DOX Doxorubicin
SEM Scanning Electron Microscopy
TEM Tranmission Electron Microscopy
XRD X-ray Diffraction
DLS Dynamic Light Scattering
PDI Polydispersity Index
XPS X-ray photoelectron spectroscopy
BET Brunauer-Emmet-Teller
UV-Vis Ultraviolet Visible Spectroscopy
RSM Response Surface Methodology
BBD Box–Behnken designs
viii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Các loại PEG liên hợp và ứng dụng ......................................................... 23
Bảng 1.2. Kết quả tổng hợp và biến tính bề mặt của hạt nano silica cấu trúc rỗng .. 27
Bảng 2.1. Danh sách hóa chất sử dụng trong nghiên cứu ......................................... 42
Bảng 2.2. Danh sách thiết bị sử dụng trong nghiên cứu ........................................... 43
Bảng 2.3. Thông số thí nghiệm được dùng trong nghiên cứu ................................... 47
Bảng 2.4. Các thông số phản ứng được khảo sát ...................................................... 50
Bảng 2.5. Giá trị thực nghiệm bởi phần mềm Minitab 16 ........................................ 51
Bảng 3.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến kích thước hạt ............................................. 75
Bảng 3.2. Giá trị kết quả thực nghiệm và dự đoán bởi Minitab 16 .......................... 77
Bảng 3.3. Phân tích ANOVA cho các mô hình hồi quy ........................................... 78
Bảng 3.4. Bảng kết quả kích thước hạt sử dụng điều kiện mong muốn ................... 80
Bảng 3.5. Kết quả kích thước hạt SSN@CTAB-SSN tại các ................................... 85
Bảng 3.6. Kích thước hạt và thế zeta của SSN, SSN@CTAB-SSN và HMSN..... 100
Bảng 3.7. Kích thước hạt của mẫu HMSN-NH2 tại các tỉ lệ APTES ..................... 102
Bảng 3.8. Hiệu suất và khả năng mang thuốc Dox (DLE và DLC) ........................ 118
ix
DANH MỤC ĐỒ THỊ
Đồ thị 3.1. Ảnh hưởng của nồng độ TEOS đến kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố
định của NH3 (0,41 mol/l) và H2O (7,23 mol/l) ........................................................ 69
Đồ thị 3.2. Ảnh hưởng của nồng độ TEOS đến sự phân bố kích thước hạt tại nồng độ
ban đầu cố định của NH3 (0,41 mol/l) và H2O (7,23 mol/l) ..................................... 70
Đồ thị 3.3. Ảnh hưởng của nồng độ ammonia đến kích thước hạt tại nồng độ ban đầu
cố định của TEOS (0,36 mol/l) và H2O (6,90 mol/l) ................................................ 71
Đồ thị 3.4. Ảnh hưởng của nồng độ amonia đến sự phân bố kích thước hạt tại nồng
độ ban đầu cố định của TEOS (0,36 mol/l) và H2O (6,90 mol/l) ............................. 71
Đồ thị 3.5. Ảnh hưởng của nồng độ ethanol đến kích thước hạt tại nồng độ ban đầu
cố định của TEOS (1,49 mol/l) và H2O (28,90 mol/l) .............................................. 72
Đồ thị 3.6. Ảnh hưởng của nồng độ ethanol đến sự phân bố kích thước hạt tại nồng
độ ban đầu cố định của TEOS (1,49 mol/l) và H2O (28,90 mol/l) ........................... 73
Đồ thị 3.7. Ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến kích thước hạt tại nồng độ ban đầu
cố định của TEOS (0,22 mol/l) và H2O (6,87 mol/l) ................................................ 73
Đồ thị 3.8. Ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến sự phân bố kích thước hạt tại nồng
độ ban đầu cố định của TEOS (0,22 mol/l) và H2O (6,87 mol/l) ............................. 74
Đồ thị 3.9. Biểu đồ đáp ứng bề mặt (X1: CTEOS, X2: CNH3, X3: CEtOH, X4: Nhiệt độ)
................................................................................................................................... 79
Đồ thị 3.10. Biểu đồ phân bố kích thước hạt nano silica rắn được tính toán từ dữ liệu
DLS ........................................................................................................................... 80
Đồ thị 3.11. Thế zeta của hạt nano silica rắn SSN .................................................... 81
Đồ thị 3.12. Thế zeta của hạt SSN trong dung dịch theo thời gian ........................... 82
Đồ thị 3.13. Giản đồ phân tích nhiệt của SSN .......................................................... 83
Đồ thị 3.14. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của SSN ........................ 83
Đồ thị 3.15. Biểu đồ phân bố kích thước hạt SSN@CTAB-SSN/2 .......................... 88
Đồ thị 3.16.Thế zeta của hạt nano silica cấu trúc lõi –vỏ SSN@CTAB-SSN/2 ....... 90
Đồ thị 3.17. Thế zeta của hạt SSN@CTAB-SSN/2 trong dung dịch........................ 90
Đồ thị 3.18. Giản đồ phân tích nhiệt của SSN@CTAB-SSN/2 ................................ 91
Đồ thị 3.19. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của SSN@CTAB-SSN . 92
Đồ thị 3.20. Sự phân bố kích thước hạt được tính toán từ dữ liệu DLS ................... 96
Đồ thị 3.21. Thế zeta của HMSN .............................................................................. 96
x
Đồ thị 3.22. Thế zeta của hạt HMSN trong dung dịch theo thời gian ...................... 97
Đồ thị 3.23. Giản đồ phân tích nhiệt của HMSN ...................................................... 98
Đồ thị 3.24. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của HMSN .................. 100
Đồ thị 3.25. Tổng lượng nhóm amin (µg/100mg hạt HMSN-NH2) tại các tỉ lệ khác
nhau của APTES ..................................................................................................... 103
Đồ thị 3.26. Thế zeta của HMSN và HMSN-NH2 tại các tỉ lệ khác nhau của APTES
................................................................................................................................. 104
Đồ thị 3.27. Giản đồ phân tích nhiệt của HMSN và HMSN-NH2 tại các tỉ lệ khác
nhau của APTES ..................................................................................................... 104
Đồ thị 3.28. Đường đẳng nhiệt hấp phụ-khử hấp phụ N2 của HMSN và HMSN-NH2
tại các tỉ lệ khác nhau của APTES .......................................................................... 105
Đồ thị 3.29. Diện tích bề mặt (B) của HMSN và HMSN-NH2 tại các tỉ lệ khác nhau
của APTES .............................................................................................................. 106
Đồ thị 3.30.Thế zeta của HMSN và HMSN-mPEG ............................................... 112
Đồ thị 3.31. Giản đồ nhiệt trọng trường của mẫu HMSN, mPEG và HMSN-mPEG
................................................................................................................................. 112
Đồ thị 3.32. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của HMSN-mPEG ...... 113
Đồ thị 3.33. Thế zeta của HMSN và HMSN-F127 ................................................. 116
Đồ thị 3.34. Giản đồ nhiệt trọng trường của F127 và HMSN-F127 ....................... 117
Đồ thị 3.35. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của HMSN-F127......... 117
Đồ thị 3.36. Cửa sổ điều trị của các loại thuốc được sử dụng ................................ 120
Đồ thị 3.37. Biểu đồ phóng thích thuốc của Doxorubicine theo thời gian ............. 121
Đồ thị 3.38. Biểu đồ phóng thích thuốc của các hệ chất mang/Dox gồm HMSN/Dox,
HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox và HMSN-F127/Dox theo thời gian ........ 122
Đồ thị 3.39. Đường cong độ độc tế bào HCC J5 của các hệ chất mang ................. 123
Đồ thị 3.40. Đường cong độ độc tế bào HCC J5 của các hệ chất mang – thuốc .... 123
xi
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1. Sơ đồ tổng hợp theo quá trình sol – gel .................................................. 10
Sơ đồ 1.2. Sơ đồ (a) của các loại chất bề mặt hoạt động khác nhau và cấu trúc (b)
của một số chất hoạt động phổ biến được sử dụng trong tổng hợp .......................... 12
Sơ đồ 1.3. Sơ đồ cấu trúc của micell thường và micell đảo ...................................... 13
Sơ đồ 1.4. Sơ đồ biến tính bề mặt nano silica với phân tử hữu cơ bằng phương pháp
đồng ngưng tụ............................................................................................................ 19
Sơ đồ 1.5. Sơ đồ biến tính bề mặt nano silica với phântử hữu cơ bằng .................... 20
Sơ đồ 1.6. Sơ đồ tổng hợp HMSN-W ...................................................................... 32
Sơ đồ 1.7. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng chứa lõi nano sắt từ
Fe3O4@void@mSiO2 ................................................................................................ 33
Sơ đồ 1.8. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng, ứng dụng mang và phóng
thích thuốc Dox ......................................................................................................... 33
Sơ đồ 1.9. Sơ đồ biến tính PEG trên bề mặt vật liệu HMSN .................................... 34
Sơ đồ 1.10. Sơ đồ biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với PEG .................... 35
Sơ đồ 1.11. Sơ đồ biến tính chitosan trên bề mặt vật liệu HNPs .............................. 36
Sơ đồ 1.12. Sơ đồ tổng hợp HMSS-NH2/Dox@Pd .................................................. 36
Sơ đồ 1.13. Sơ đồ tổng hợp hệ chất mang HMSN/ZnO QDs ................................... 37
Sơ đồ 1.14. Sơ đồ tổng hợp hệ chất mang HMSN-SS-CDPEI@HA .......................... 38
Sơ đồ 1.15. Sơ đồ tổng hợp HMSN-acetylate CMC ................................................. 39
Sơ đồ 1.16. Sơ đồ tổng hợp HMSNs-PDA-PEG@QD ............................................. 39
Sơ đồ 1.17. Sơ đồ tổng hợp PNS-SS-A@CD-HPEG ............................................... 40
Sơ đồ 2.1. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica rắn ........................................................... 46
Sơ đồ 2.2. Sơ đồ minh họa thiết kế thí nghiệm phức hợp trung tâm BBD ............... 50
Sơ đồ 2.3. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN@CTAB/SSN ...... 53
Sơ đồ 2.4. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica rỗng ........................................................ 54
Sơ đồ 2.5. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN .............................. 56
Sơ đồ 2.6. Sơ đồ biến tính bề mặt HMSN với nhóm amin ....................................... 57
Sơ đồ 2.7. Sơ đồ biến tính biến bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với nhóm amin ... 58
Sơ đồ 2.8. Sơ đồ hoạt hóa mPEG bằng p-nitrophenyl chloroformate ...................... 60
Sơ đồ 2.9. Sơ đồ tổng hợp HMSN-mPEG ................................................................ 61
Sơ đồ 2.10. Sơ đồ phản ứng tổng hợp NPC-F127-OH ............................................. 62
xii
Sơ đồ 2.11. Sơ đồ hoạt hóa F127 bằng p-nitrophenyl chloroformate ....................... 63
Sơ đồ 2.12. Sơ đồ nang hóa thuốc Doxorubicine của hệ chất mang ......................... 65
Sơ đồ 2.13. Sơ đồ phóng thích thuốc của hệ chất mang – thuốc .............................. 66
Sơ đồ 3.1. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ ...................................... 87
Sơ đồ 3.2. Sơ đồ của CTAB mono- và bilayer trên bề mặt silica/nước .................... 90
xiii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 1.1. Cấu trúc tứ diện của nano silica .................................................................. 4
Hình 1.2. Cấu trúc tinh thể (a) và vô định hình (b) của nano silica ............................ 4
Hình 1.3. Cấu trúc của nano silica với nhóm silanol, nhóm siloxane trên bề mặt (a)
và bên trong (b) ........................................................................................................... 5
Hình 1.4. Loại nhóm silianol trên bề mặt nano silica ................................................. 6
Hình 1.5. Phương pháp vật lý và phương pháp hóa học tổng hợp vật liệu nano ........ 7
Hình 1.6. Mô hình cấu trúc bên trong của hạt nano silica hình cầu ............................ 8
Hình 1.7. Mô hình tăng trưởng hạt trong quá trình tăng trưởng đa lớp bằng cách thủy
phân TEOS trong môi trường alcohol – nước – ammonia .......................................... 9
Hình 1.8. Phản ứng thủy phân và ngưng tụ của TEOS ............................................. 10
Hình 1.9. Mô hình cấu trúc nano silica rỗng (a) và cấu trúc lớp vỏ (b) .................... 14
Hình 1.10. Quy trình tổng hợp hợp hạt nano hình cầu bằng ..................................... 16
Hình 1.11. Phương trình phản ứng theo phương pháp đồng ngưng tụ ..................... 19
Hình 1.12. Phương trình phản ứng theo phương pháp grafting ................................ 20
Hình 1.13. Phản ứng hoạt hóa mPEG bằng p-nitrophenyl chloroformate ................ 20
Hình 1.14. Trung tâm thân điện tử trên nhóm carbonyl ........................................... 21
Hình 1.15. Phản ứng biến tính mPEG đã hoạt hóa lên bề mặt HMSN ..................... 21
Hình 1.16. (1) Cấu trúc hóa học và (2) ảnh hưởng của doxorubicin ........................ 22
Hình 1.17. Cấu trúc phân tử Pluronic ....................................................................... 25
Hình 1.18. Ảnh TEM của PbS@mSiO2 dạng khối (A) và hạt rỗng tạo thành (C),
tương ứng với ảnh TEM với độ phóng đại lớn hơn (B, D) ....................................... 32
Hình 1.19. Ảnh SEM (a) và TEM (b) của HMS ....................................................... 35
Hình 1.20. Ảnh SEM (a,c) và TEM (b,d) của các hạt HMSS (a,b) .......................... 37
Hình 1.21. Ảnh TEM của các hạt (A) HMSN và (B) HMSN-SS-CDPEI@HA ......... 38
Hình 1.22. Ảnh TEM của SiO2 rắn (a), HMSN (b) và CLS@HMSNs-Cs (c) ......... 40
Hình 1.23. Ảnh TEM của PNS (a) và PNS-SS-A@CD-HPEG (b) .......................... 41
Hình 2.1. Thiết kế phức hợp trung tâm BBD cho quá trình tối ưu ba yếu tố ........... 49
Hình 2.2. Phản ứng giữa ninhydrin và amino axit tạo thành phức màu tím ............. 58
Hình 3.1. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai nồng độ của TEOS: (A) 0,07
mol/l and (B) 1,20 mol/l tại điều kiện cố định .......................................................... 70
xiv
Hình 3.2. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai nồng độ của NH3: (A) 0,17
mol/l and (B) 2,90 mol/l tại điều kiện cố định. ......................................................... 72
Hình 3.3. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai nồng độ của ethanol: (A) 8.68
mol/l và (B) 15.19 mol/l tại điều kiện cố định. ......................................................... 73
Hình 3.4. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai thời gian phản ứng: (A) 0,5
giờ và (B) 5 giờ tại điều kiện cố định. ..................................................................... 74
Hình 3.5. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai nhiệt độ: (A) 350C và (B) 650C
tại điều kiện cố định .................................................................................................. 75
Hình 3.6. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với tốc độ nhỏ của NH3: (A) nhanh và
(B) 100μl/phút tại điều kiện cố định. ........................................................................ 76
Hình 3.7. Ảnh TEM và thống kê kích thước hạt từ ảnh TEM của SiO2 (a, a’) ........ 80
Hình 3.8. Cấu trúc và điện tích bề mặt hạt nano silica rắn SSN ............................... 81
Hình 3.9. Ảnh TEM và sự phân bố kích thước hạt thống kê từ ảnh TEM tại nồng độ
TEOS khảo sát 0,07 mol/l (a,a’), 0,27 mol/l (b,b’), 0,45 mol/l (c,c’), 0,61 mol/l (d,d’),
0,72 mol/l (e,e’) và ảnh phóng đại một hạt (f) ......................................................... 85
Hình 3.10. Ảnh TEM (a) và sự phân bố kích thước hạt được tính toán từ dữ liệu DLS
(b) của hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN-SSN ................................................... 88
Hình 3.11. Ảnh TEM mẫu SSN@CTAB-SSN/2 trước và sau khi thẩm tách bằng
màng cellulose với nước cất (a,b) ............................................................................. 89
Hình 3.12. Ảnh TEM của HMSN tại thời gian ăn mòn 1giờ, 3 giờ, 6 giờ, 9 giờ và 12
giờ tương ứng với hình a, b, c, d, e tại thang đo 200 nm; và phóng đại một hạt HMSN
(hình f) ....................................................................................................................... 93
Hình 3.13. Ảnh TEM (a) và sự phân bố kích thước hạt được tính toán từ dữ liệu DLS
(b) của hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN-SSN ................................................... 94
Hình 3.14. Ảnh SEM của hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN ............................... 95
Hình 3.15. Ảnh TEM và thống kê kích thước hạt từ ảnh TEM của hạt HMSN ....... 95
Hình 3.16. Phổ FTIR của HMSN .............................................................................. 97
Hình 3.17. Phổ XPS của HMSN khi quét tổng quát và độ phân giải cao của O 1s, Si
2s, Si 2p ..................................................................................................................... 98
Hình 3.18. Phổ XRD góc rộng của HMSN ............................................................... 99
xv
Hình 3.19. Ảnh TEM và sự phân bố kích thước hạt của HMSN-NH2 từ thống kê ảnh
TEM tại các tỉ lệ khác nhau của APTES (µl )50 (a/a’), 100 (b/b’), 250 (c/c’), 500
(d/d’), và 800 (e/e’) ................................................................................................ 102
Hình 3.20. Phổ hồng ngoại của HMSN a) và HMSN- NH2-50 b) .......................... 106
Hình 3.21. Phổ XPS của HMSN-NH2-500 khi quét tổng quát và độ phân giải cao của
O 1s, N 1s, Si 2s và Si 2p ........................................................................................ 107
Hình 3.22. Phổ hồng ngoại của mPEG-NPC .......................................................... 108
Hình 3.23. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân của mPEG-NPC ...................................... 108
Hình 3.24. Ảnh SEM (a), TEM (b)(c – nhuộm) và phân bố kích thước hạt (b’) .... 109
Hình 3.25. Giản đồ nhiễu xạ tia X góc rộng của HMSN (a), APTES (b), HMSN-NH2
(c), and HMSN-mPEG (d) ...................................................................................... 110
Hình 3.26. Phổ hấp thụ hồng ngoại của (a) HMSN-mPEG, (b)mPEG và (c) HMSN
................................................................................................................................. 111
Hình 3.27. Phổ XPS của HMSN-mPEG ................................................................. 111
Hình 3.28. Phổ FTIR của NPC-F127-OH ............................................................... 113
Hình 3.29. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân của F127-NPC......................................... 114
Hình 3.30. Ảnh SEM (a) và TEM (b) và phân bố kích thước hạt (b’) .................... 115
Hình 3.31. Giản đồ nhiễu xạ tia X góc rộng của HMSN (a), HMSN-F127 (b) ...... 115
Hình 3.32. Phổ hấp thụ hồng ngoại của (a) HMSN, (b) F127 và (c) HMSN-F127 116
Hình 3.33. Tế bào HCC J5 được xử lý bởi HMSN, HMSN-NH2, HMSN-mPEG,
HMSN-F127 tại các nồng độ khác nhau; Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox,
HMSN-F127/Dox tại các nồng độ Dox khác nhau ................................................. 124
1
MỞ ĐẦU
Từ năm 2000, nano silica cấu trúc mao quản (mesoporous silica nanoparticles
– MSN) là vật liệu được nghiên cứu rộng rãi cho các ứng dụng y sinh [1]. So với các
hạt nano polymer, micell và liposome, thì MSN được biết đến như là chất mang nano
đầy hứa hẹn do có diện tích bề mặt cao, thể tích lỗ xốp lớn, có thể điều chỉnh kích
thước lỗ xốp, tính tương hợp sinh cao và dễ biến tính bề mặt [2],[3]. Gần đây, vật liệu
nano silica cấu trúc rỗng (hollow mesoporous silica nano particles – HMSN) đang
thu hút sự chú ý của rất nhiều nhà khoa học. HMSN có lớp vỏ cấu trúc mao quản
tương tự như MSN và lỗ rỗng bên trong nên có khả năng chứa được nhiều phân tử
thuốc hơn, giảm thiểu khả năng tích lũy vật liệu lạ trong cơ thể do đó hứa hẹn tiềm
năng thay thế vật liệu MSN trong tương lai.
HMSN có thể được tổng hợp bằng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó
hard – template là phương pháp phổ biến hiện nay vì có thể kiểm soát quá trình tạo
hạt và kích thước hạt [4]. Các nghiên cứu hiện nay chỉ tập trung vào quá trình tổng
hợp, biến tính bề mặt vật liệu tạo thành và ứng dụng vào các lĩnh vực khác nhau.
Trong khi đó quá trình xử lý lõi rắn và kiểm soát hình thái, giai đoạn phủ lớp vỏ, kích
thước hạt HMSN chưa được nghiên cứu một cách hoàn chỉnh và giải thích rõ ràng.
Mặt khác, trong cấu trúc lớp vỏ của hạt HMSN có các ống mao quản nối trực tiếp với
lỗ rỗng bên trong nên thuốc dễ bị rò rỉ trong quá trình vận chuyển. Do đó, vấn đề đặt
ra là cần phải che chắn các lỗ mao quản này bằng cách biến tính bề mặt các hạt HMSN
với các phân tử hữu cơ hay các polymer giữ vai trò như là “ nắp” đậy các lỗ mao quản
để tăng hiệu quả mang thuốc và kiểm soát phóng thích thuốc [2].
Trong nghiên cứu này, với mục tiêu tạo ra hệ chất mang ứng dụng trong dẫn
truyền thuốc, đề tài tập trung tổng hợp hạt HMSN hình cầu với kích thước mong
muốn nhỏ hơn 200 nm. Hình thái, kích thước của hạt HMSN sẽ được kiểm soát thông
qua việc kiểm soát hình thái, kích thước của các hạt nano silica được tạo thành trong
từng giai đoạn tổng hợp: hình thái và kích thước lõi nano silica rắn ban đầu, quá trình
phủ lớp vỏ có cấu trúc mao quản và xử lý lõi rắn được nghiên cứu. Ngoài ra, PEG
(poly (ethylene glycol)) và Pluronic (F127) sẽ được sử dụng để biến tính trên bề mặt
các hạt HMSN nhằm giữ lượng thuốc đã được nang hóa nên khả năng mang thuốc
của vật kiệu sau khi biến tính sẽ cao hơn các hạt HMSN ban đầu. Từ những phân tích
trên cho thấy, đề tài “Nghiên cứu tổng hợp và biến tính bề mặt nano silica cấu trúc
2
rỗng định hướng ứng dụng mang thuốc chống ung thư” sẽ góp phần hoàn thiện hệ
chất mang thuốc trên nền tảng vật liệu nano silica cấu trúc rỗng HMSN.
Mục tiêu của luận án
Nghiên cứu tổng hợp chất mang thuốc nano silica cấu trúc rỗng và kiểm soát
kích thước hạt tạo thành. Đồng thời, khảo sát khả năng mang và phóng thích của hệ
chất mang trên cơ sở biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với nhóm chức hữu
cơ và các polymer.
Nội dung nghiên cứu luận án bao gồm các nội dung sau và được thể hiện qua Sơ
đồ 1.1
1. Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến kích thước hạt nano silica rắn (SSN)
2. Tổng hợp hạt nano silica rắn (SSN) bằng phương pháp đáp ứng bề mặt
(RSM)
3. Nghiên cứu tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ (SSN@CTAB-SSN)
4. Nghiên cứu tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng (HMSN)
5. Nghiên cứu biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng bằng nhóm amin với
các tỉ lệ mol HMSN/nhóm -NH2 khác nhau (HMSN-NH2).
6. Nghiên cứu biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng bằng Polyethylene
glycol 5000 (PEG5k) (HMSN-mPEG).
7. Nghiên cứu biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng bằng Pluronic F127
(HMSN-F127).
8. Nghiên cứu hiệu quả nang hóa thuốc chống ung thư Doxorubicin (Dox) của
các chất mang nano HMSN, HMSN-NH2, HMSN-mPEG, HMSN-F127.
9. Khảo sát tốc độ phóng thích thuốc Doxorubicin của hệ HMSN/Dox, HMSN-
NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox.
10. Nghiên cứu độc tính tế bào ung thư đối với các hệ chất mang nano HMSN,
HMSN-NH2, HMSN-PEG, HMSN-F127, HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-
mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox.
3
Sơ đồ 1. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu của đề tài
4
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. NANO SILICA
1.1.1. Giới thiệu về silica
Silicon dioxide (hay silica) là thành phần chính của lớp vỏ trái đất, kết hợp với
các oxide của magie, canxi và sắt tạo thành các khoáng chất silicate trong đá và đất.
Qua hàng triệu năm silicon dioxide đã được tách ra khỏi đá silicate ban đầu do tác
động của nước dẫn đến sự tạo thành thạch anh hay opal. Silica có thể là tự nhiên hoặc
tổng hợp, tinh thể hoặc vô định hình. Với mục đích nghiên cứu các ứng dụng trong
lĩnh vực Y-Sinh, luận án đề cập đến silica tổng hợp có cấu trúc vô định hình [5].
Silica có cấu trúc tứ diện SiO4, gồm bốn nguyên tử oxy tại bốn góc và một ion
silicon tại tâm của tứ diện. Tuy nhiên, bốn ion oxy lớn hơn nhiều so với ion Si4+ nên
bốn ion oxy của một đơn vị [SiO4]4- có thể tiếp xúc lẫn nhau (Hình 1.1). Silica chứa
liên kết Si – O, là liên kết bền nhất trong tất cả các liên kết nguyên tố Si-X với chiều
dài liên kết Si – O là 0,162 nm [5].
Hình 1.1. Cấu trúc tứ diện của nano silica
Trái ngược với silica tinh thể, silica vô định hình có sự sắp xếp ngẫu nhiên các
đơn vị [SiO4]4- tạo thành một cấu trúc không tuần hoàn (nonperiodic) (Hình 1.2). Kết
quả này dẫn đến sự khác nhau về khối lượng riêng của các loại silica, trong đó silica
cấu trúc vô định hình có khối lượng riêng nhỏ nhất là 2,20 g/ml tại 273K [5].
Hình 1.2. Cấu trúc tinh thể (a) và vô định hình (b) của nano silica
1.1.2. Keo silica và độ bền của hệ keo
“Keo silica” hay “sol” được tạo thành do sự phân tán bền các hạt silica vô
định hình kích thước từ 1 đến 1000 nm trong dung dịch. Bền trong trường hợp này
5
có nghĩa là các hạt nano silica không kết tụ lại với nhau với một tốc độ đáng kể. Độ
bền của hệ keo gồm ba loại: Độ bền pha tương tự như độ bền pha của các dung dịch
thông thường, độ bền của các thành phần phân tán nghĩa là liên quan đến sự thay đổi
độ phân tán (còn gọi là sự phân bố kích thước hạt), độ bền tập hợp là đặc trưng nhất
cho hệ keo được giải thích dựa trên lực van der Waals, lực hấp dẫn, lực tĩnh điện và
đặc biệt là thuyết DLVO (Derjaguin – Landau – Verwey – Overbeek). Theo thuyết
này, độ bền thấp dự đoán tại pH khoảng 2 – 3, sau đó tăng ở khoảng pH giữa 3 – 6
và ổn định nhất vào khoảng pH từ 7 – 10 [5].
1.1.3. Cấu trúc của nano silica
Cấu trúc bề mặt hay bên trong của các hạt nano silica bao gồm nhóm silanol
(Si – OH) và nhóm siloxane (Si – O – Si) (Hình 1.3). Các nhóm silianol trên bề mặt
(có thể là đơn (isolated hay hydrogen bonded) hoặc gemini (hai nhóm hydroxyl trên
một nguyên tử silic)), tuy nhiên phổ biến nhất là isolated silianol (nhóm silanol tự do)
và gemini silanol tương ứng Hình 1.4.a và b [6]. Các nhóm silanol được hình thành
trong quá trình tổng hợp thông qua phản ứng ngưng tụ và polyme hóa của Si(OH)4
hoặc là kết quả của quá trình hydrat hóa. Các nhóm silanol này có thể được phân loại
theo tính chất, loại liên kết. Một nhóm silanol tự do bao gồm một nhóm OH tại vị trí
có khoảng cách đủ xa với các nhóm hydroxyl bên cạnh để ngăn chặn tạo thành liên
kết hydro. Nhóm silanol này cho một dải tín hiệu tại số sóng 3750 cm-1 trong phổ
hồng ngoại. Các nhóm OH bề mặt silica là trung tâm hấp phụ chính của các phân tử
nước. Nước có thể được liên kết bởi các liên kết hydro với bất kỳ loại silanol bề mặt
nào và đôi khi với các nhóm silanol bên trong cấu trúc. Đối với các cầu siloxane được
tạo thành bởi sự ngưng tụ các nhóm silanol bề mặt hay bên trong cấu trúc được thực
hiện ở nhiệt độ khoảng 500oC [5, 6].
.
Hình 1.3. Cấu trúc của nano silica với nhóm silanol, nhóm siloxane trên bề mặt (a) và bên trong (b)
6
Hình 1.4. Loại nhóm silianol trên bề mặt nano silica
1.1.4. Tính chất của nano silica
Nano silica là một loại bột trắng vô định hình, độ tinh khiết cao, không độc
hại, không mùi và thân thiện với môi trường. Đặc biệt, diện tích bề mặt và thể tích lỗ
xốp lớn, khối lượng riêng thấp và phân tán tốt. Hơn nữa, nano silica có độ bền cao kể
cả bền cơ học, hóa học và nhiệt [7].
Nano silica được sử dụng như một chất mang, thích hợp cho việc mang thuốc
vì chúng có độ chọn lọc và tính bền vững cao khi kết hợp với thuốc. Các chất mà
nano silica có thể mang được là thuốc, ADN, các hormone,… Đặc biệt, tính phân hủy
sinh học của nano silica là quan trọng đối với việc sử dụng trong việc phân phối thuốc,
nano silica có trọng lượng phân tử thích hợp có thể được đào thải qua thận trong cơ
thể và tính tương hợp sinh học cao. Đây được xem là một ưu điểm vượt trội của nano
silica [3].
Ngoài ra với tính chất dễ biến tính bề mặt, nhờ vào các dẫn xuất của silane như
(3-aminopropyl) trimethoxysilane,… mà các hạt silica có thể gắn được hầu hết các
vật liệu lên bề mặt một cách dễ dàng nên nano silica được ứng dụng rộng rãi trong
nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực y sinh [3].
1.1.5. Phương pháp tổng hợp
Sự tiến bộ trong công nghệ nano dẫn đến việc sản xuất nano silica được sử
dụng rộng rãi trong kỹ thuật và trong đời sống. Tuy nhiên, các hạt nano silica được
chiết xuất từ thiên nhiên chứa tạp chất kim loại và do đó không thuận lợi cho các ứng
dụng khoa học và công nghệ tiên tiến, đặc biệt là trong lĩnh vực y sinh. Do đó, việc
tập trung tổng hợp silica (keo silica, silica gel, pyrogenic silica) với độ tinh khiết cao,
chủ yếu ở dạng bột vô định hình giữ vai trò quan trọng. Hiện nay, các phương pháp
khác nhau đã được sử dụng để tổng hợp các hạt nano silica, có thể được phân loại
thành hai phương pháp chính: từ trên xuống và từ dưới lên (Hình 1.5) [8, 9]. Cách
7
tiếp cận từ trên xuống được đặc trưng bằng cách giảm kích thước ban đầu bằng cách
sử dụng các kỹ thuật đặc biệt (phương pháp vật lý). Cách tiếp cận từ dưới lên (hay
gọi là phương pháp hóa học) là phương pháp phổ biến được sử dụng để tổng hợp hạt
nano. Một số phương pháp được sử dụng để tổng hợp nano silica là phương pháp
Stober, quá trình sol – gel và vi nhũ tương đảo [8].
Hình 1.5. Phương pháp vật lý và phương pháp hóa học tổng hợp vật liệu nano
Phương pháp Stober
Phương pháp Stober được chính nhà khoa học cùng tên Stober và Arthur Fink
công bố vào năm 1968. Theo đó, một hệ phản ứng hóa học được phát triển cho phép
sự tăng trưởng có kiểm soát của các hạt nano silica hình cầu có kích thước đồng đều
thông qua phản ứng thủy phân của alkyl silicate và sự ngưng tụ của silicic axit trong
alcohol. Ammonia được dùng như là chất một chất xúc tác hình thái. Các hạt nano
tạo thành có dạng hình cầu, đơn phân tán và có kích thước từ nhỏ hơn 0,05 µm đến 2
µm [10].
Thông qua các chất tham gia phản ứng gồm nước, alkyl silicate, alcohol và
ammonia có thể kiểm soát được kích thước hạt. Đối với các loại alcohol khác nhau,
kích thước hạt nhỏ nhất được tìm thấy trong methanol và lớn nhất trong n-butanol
trong cùng điều kiện so sánh. Ngoài ra, có sự phân bố kích thước hạt với dải rộng đối
với các alcohol bậc cao hơn. Kết quả so sánh với các alkyl silicate cho thấy phản ứng
xảy ra nhanh nhất, kích thước hạt nhỏ nhất (nhỏ hơn 0,2 µm) được tạo thành với
8
tetramethyl ester, trong khi với tetrapentyl ester phản ứng xảy ra chậm (mất 24 giờ
cho phản ứng ngưng tụ và kích thước hạt tạo thành lớn [10].
Có hai mô hình chính giải thích quá trình tạo thành hạt SiO2 theo phương pháp
Stober. Thứ nhất: mô hình tăng trưởng bổ sung monomer (monomer addition), liên
quan đến sự tạo mầm khi vượt quá giới hạn siêu bão hòa và phát triển mầm bằng cách
ngưng tụ các monomer silicic axit trên bề mặt của các hạt hiện có (mầm) [11, 12].
Kết quả của cơ chế tăng trưởng này dẫn đến sự hình thành cấu trúc bên trong của các
hạt tương ứng với mô hình I trong Hình 1.6. Mô hình thứ hai (II) liên quan đến cơ
chế kiểm soát sự kết tụ của các hạt phụ, kích thước vài nano (mô hình tăng trưởng
tập hợp) [12, 13]. Theo mô hình này, sự tạo thành các hạt silicon dioxide trong
phương pháp Stober là do sự kết tụ các hạt sơ cấp của phân tử silica kích thước (d) từ
5 đến 10 nm được tạo thành do phản ứng thủy phân TEOS (tetraethyl orthosilicate).
Tuy nhiên, khi kích thước giới hạn của hạt (D) đạt khoảng 350 nm thì sự kết tụ sẽ kết
thúc. Khi đạt đến một tỷ lệ tới hạn nhất định d/D, các hạt sơ cấp không thể vượt qua
hàng rào lực đẩy tĩnh điện của khí quyển ion (ion atmosphere) xung quanh các hạt
đang tăng trưởng và chúng bắt đầu tạo thành các hạt mới với đường kính nhỏ hơn.
Đặc biệt, mô hình thứ ba (III) gồm một lõi trung tâm được tạo thành từ các hạt sơ cấp
(mô hình II) và lớp vỏ được tạo thành từ các hạt thứ cấp có kích thước nhỏ hơn 100
nm [14].
Hình 1.6. Mô hình cấu trúc bên trong của hạt nano silica hình cầu
Ngoài ra, cơ chế tạo thành hạt được đề xuất bằng phương pháp SFB (Stober –
Fink- Bohn) đa lớp. Cơ chế mô tả được xác định bởi tính tuần hoàn của sự tăng trưởng
các hạt đa lớp khi những hạt nano tạo thành giai đoạn trước đó được sử dụng như là
“mầm” cho giai đoạn tiếp theo (Hình 1.7) [14].
9
Hình 1.7. Mô hình tăng trưởng hạt trong quá trình tăng trưởng đa lớp bằng cách thủy phân TEOS trong môi trường alcohol – nước – ammonia
Quá trình sol – gel
Quá trình sol – gel được sử dụng rộng rãi để tạo ra các hạt silica tinh khiết do
có thể kiểm soát kích thước hạt, sự phân bố kích thước hạt và hình thái thông qua
việc kiểm soát một cách hệ thống các thông số phản ứng và được thực hiện ở nhiệt
độ thấp [8, 15]. Đặc biệt quá trình này còn có khả năng kiểm soát cấu trúc và bề mặt
của vật liệu [5]. Quá trình này bao gồm các giai đoạn: sự thủy phân và ngưng tụ của
các alkoxide kim loại (Si(OR)4) như TEOS hay muối vô cơ như Na2SiO3 (natri
silicate) trong axit hay bazơ như là chất xúc tác tạo thành keo silica. Tiếp theo là giai
đoạn già hóa keo và làm khô gel ướt để loại bỏ các chất lỏng còn lại hay nhiệt xử lý
gel khô để loại bỏ các chất hữu cơ, kết quả tạo thành xerogel hay aerogel tùy thuộc
vào cách làm khô mẫu hay khi đông khô sẽ tạo cryogel [5, 16]. Sơ đồ tổng quát cho
quá trình sol – gel kết quả tạo thành silica khi dùng tiền chất chứa silicon là alkoxide
(Si(OR)4) thể hiện trong Sơ đồ 1.1 [8].
10
Sơ đồ 1.1. Sơ đồ tổng hợp theo quá trình sol – gel
Phản ứng tổng quát của TEOS dẫn đến sự hình thành các hạt nano silica trong
quá trình sol - gel được thể hiện trong Hình 1.8 [13].
Hình 1.8. Phản ứng thủy phân và ngưng tụ của TEOS
Sự thủy phân của các phân tử TEOS tạo thành các nhóm silanol. Sự ngưng tụ/
trùng hợp giữa những nhóm silanol hoặc giữa những nhóm silanol và nhóm epoxy
tạo ra các cầu siloxane (Si – O – Si) để hình thành toàn bộ cấu trúc silica. Sự tạo thành
các hạt silica có thể được chia thành hai giai đoạn: tạo mầm và phát triển mầm. Quá
trình sol – gel cũng sử dụng hai mô hình được đề xuất trên để mô tả cơ chế tăng
trưởng silica [17].
Nhiều nhà nghiên cứu đã nỗ lực để xác định kích thước của các hạt sơ cấp
bằng các kỹ thuật khác nhau. Thông qua kỹ thuật SAXS (Small Angle X-ray
scattering), Green và cộng sự cho thấy kích thước hạt sơ cấp là 10,3 nm (trong
11
methanol) hoặc 20,7 nm (trong ethanol). Sau đó, Rahman và cộng sự tạo ra hạt nano
silica đồng nhất và ổn định với kích thước trung bình 7,1 ± 1,9 nm (trong ethanol)
[8].
Như vậy, các hạt nano silica hình cầu, đơn phân tán được báo cáo lần đầu tiên
bởi Stober và cộng sự. Các hạt silica kích thước khoảng từ 5 nm đến 2000 nm từ dung
dịch cồn của alkoxide với sự có mặt của ammonia làm chất xúc tác (điều kiện cơ bản).
Theo đó, nhiều công trình nghiên cứu về tổng hợp nano silica tiếp theo đều dựa trên
nền tảng phương pháp Stober, chẳng hạn như quá trình sol – gel. Và ưu điểm chính
của phương pháp Stober là khả năng hình thành các hạt nano silica hình cầu, đơn
phân tán so với các hệ phản ứng dùng xúc tác axit thường có thể tạo thành cấu trúc
gel [5, 8].
Phương pháp vi nhũ tương
Phương pháp vi nhũ tương trong tổng hợp các hạt nano được công bố đầu tiên
bởi Boutonnet và cộng sự vào năm 1980. Boutonnet đã tổng hợp một số keo của các
kim loại quý [18]. Phương pháp vi nhũ tương có một số tính chất hữu ích như độ bền
cao, kích thước hạt nhỏ (cấu trúc bên trong). Ngoài ra, kích thước và hình dạng có
thể được kiểm soát bằng cách thay đổi thành phần [19]. Vi nhũ tương có thể được mô
tả như là một hệ bền nhiệt động của hai chất lỏng không hòa tan. Pha phân tán có thể
tích thấp hơn sẽ tạo thành các giọt trong vi nhũ tương [20]. Các dung dịch phân tán
có thể được phân loại là dầu trong nước (O/W), tại đó các giọt dầu tồn tại trong nước
hoặc ngược lại nước trong dầu (W/O), trong đó các giọt nước phân tán trong dầu.
Ngoài ra còn có hệ dầu trong dầu (O/O), tại đó hai loại dầu (phân cực và không phân
cực) trộn với nhau [21]. Hệ vi nhũ tương gồm ít nhất ba thành phần là phân cực, pha
không phân cực và chất hoạt động bề mặt.
Các chất hoạt động bề mặt trong hệ nhũ tương hoạt động như chất nhũ hóa.
Các phân tử amphiphilic được phân loại (dựa vào điện tích của các nhóm đầu) như
chất hoạt động bề mặt không ion, anionic, cation và zwitterionic (mang cả hai nhóm
điện tích âm và dương). Một số chất hoạt động bề mặt phổ biến đã được sử dụng để
tổng hợp các hạt nano bằng phương pháp vi nhũ tương như Cetyl trimethyl
ammonium bromide (CTAB) là chất hoạt động bề mặt cation, dioctylsulfosuccine
natri (AOT) là anion, phosphatidylcholine (PC) là zwitterionic và Triton X-100 là
không ion thể hiện trong Sơ đồ 1.2 [22].
12
Sơ đồ 1.2. Sơ đồ (a) của các loại chất bề mặt hoạt động khác nhau và cấu trúc (b) của một số chất hoạt động phổ biến được sử dụng trong tổng hợp vi nhũ tương của các hạt nano
Các phân tử chất hoạt động bề mặt này hấp phụ tại các bề mặt (ranh giới giữa
hai pha không tan vào nhau) và được dùng để làm bền các vi nhũ tương bằng cách
giảm sức căng bề mặt và năng lượng tự do [23]. Một đặc tính khác của chất hoạt động
bề mặt là xu hướng kết tụ lại tạo thành micell tại một nồng độ cụ thể, gọi là nồng độ
micell tới hạn (the critical micell concentration – CMC). Trong vi nhũ tương O/W,
đầu ưa nước của chất hoạt động bề mặt hướng ra ngoài từ micell (để tiếp xúc với
nước) và kị nước liên kết trong lõi (trong các giọt dầu) gọi là “micell thường”. Ngược
lại, trong vi nhũ tương W/O sẽ tạo thành “micell đảo” (Sơ đồ 1.3). Lõi của các vi nhũ
tương đảo (micell đảo) có thể đóng vai trò quan trọng và hiệu quả đối với quá trình
tổng hợp các hạt nano [22].
13
Sơ đồ 1.3. Sơ đồ cấu trúc của micell thường và micell đảo
Phương pháp vi nhũ tương được sử dụng để tổng hợp hạt nano silica được báo
cáo bởi Tan và cộng sự [24]. Theo đó, chất hoạt động bề mặt được hòa tan trong dung
môi hữu cơ để tạo thành các hạt micell hình cầu, trong sự có mặt của nước thì các
đầu phân cực tự co cụm lại với nhau tạo thành lỗ mao quản chứa nước thường được
gọi là micell đảo.
Các hạt nano silica đơn phân tán có kích thước từ 30 nm đến 70 nm được tổng
hợp bằng cách thủy phân TEOS trong vi nhũ tương đảo được tạo thành từ
polyoxyetylen(5)nonylphenyl ether (NP-5)/cyclohexane/ammonia [25, 26]. Kích
thước hạt phụ thuộc vào tỷ lệ mol nước - chất hoạt động bề mặt (Wo) và vào nồng
độ của dung dịch ammonia. Đặc biệt, mối tương quan giữa cấu trúc mao quản của vi
nhũ tương và tính chất của vật liệu tạo thành rất phức tạp, có khả năng bị ảnh hưởng
bởi các sản phẩm phụ do chúng có thể làm thay đổi cấu trúc vi nhũ tương. Chẳng hạn
như ethanol được tạo ra trong quá trình thủy phân TEOS trong nhũ tương W/O
(CTAB/pentanol/hexane/nước) làm thay đổi cấu trúc từ các micell đảo nhỏ riêng lẻ
thành micell lớn hơn [27, 28]. Ngoài ra, trong quá trình tổng hợp các hạt nano silica,
các hạt nano có thể được phát triển bên trong các lỗ mao quản bằng cách kiểm soát
cẩn thận việc bổ sung silicon alkoxide và xúc tác vào môi trường chứa các micell đảo.
Phương pháp vi nhũ tương đảo có nhược điểm chính là chi phí cao và khó khăn trong
việc loại bỏ các chất hoạt động bề mặt trong các sản phẩm cuối cùng. Tuy nhiên,
phương pháp này đã được áp dụng thành công cho việc phủ các hạt nano với các
nhóm chức khác nhau [8].
14
1.1.6. Cấu tạo của nano silica cấu trúc rỗng
Nano silica cấu trúc rỗng là một loại đặc biệt của vật liệu nano silica cơ bản
với cấu tạo đặc biệt gồm hai phần. Đầu tiên là khoảng trống bên trong, nhờ vào
khoảng trống này HMSN có thể mang một lượng thuốc lớn hơn nhiều so với MSN
(Hình 1.9a). Để tạo khoảng trống bên trong, các nhà khoa học sử dụng các loại hạt
như hạt nano carbon, nano polystyren, nano sắt từ, nano silica,… để định hình trước
khi sử dụng các phương pháp hóa học hay vật lý để loại bỏ chúng [29]. Thứ hai là
lớp vỏ mao quản bên ngoài (Hình 1.9b), lớp vỏ này được tạo thành từ hai thành phần
là chất tiền thân silica và chất hoạt động bề mặt. Chất tiền thân silica thường được sử
dụng là TEOS, chất hoạt động bề mặt là Cetyltrimethylamnonium bromide (CTAB)
hoặc Octadecyltrimethoxysilane (C18TMS) [30, 31]. Trong khi CTAB là chất rắn màu
trắng dạng bột thì C18TMS là dung dịch trong suốt, tùy vào quy trình tổng hợp mà
các nhà khoa học chọn sử dụng CTAB hay C18TMS. Sau khi phủ lớp vỏ bằng chất
hoạt động bề mặt và chất tiền thân silica, sẽ tiến hành nung tại 550oC hoặc thẩm tách
bằng ethanol/axit acetic để loại bỏ chất hoạt động bề mặt tạo thành lớp vỏ mao quản
[32-34].
Hình 1.9. Mô hình cấu trúc nano silica rỗng (a) và cấu trúc lớp vỏ (b)
1.1.7. Tính chất và ứng dụng của nano silica cấu trúc rỗng
Các hạt nano silica cấu trúc rỗng thể hiện các đặc điểm cấu trúc độc đáo được
ứng dụng trong nhiều lĩnh vực. Thứ nhất, sự kết hợp lỗ rỗng bên trong và lớp vỏ mao
quản trong cấu trúc làm cho các hạt HMSN có khối lượng riêng thấp và có tính thấm
cao [29, 35]. Thứ hai, khoảng trống bên trong hạt HMSN có thể được dùng như nơi
chứa để tải các chất xúc tác trong phản ứng xúc tác hay làm chất mang nano để lưu
trữ và phân phối thuốc cho các ứng dụng y sinh sau khi được biến tính làm bền bề
mặt. Thứ ba, lớp vỏ với độ dày kích thước nano rất thuận lợi để chuyển lượng chất
phản ứng và sản phẩm ra/ vào lỗ rỗng, chủ yếu cho các pha lỏng, hay mang và phóng
15
thích thuốc hoặc vận chuyển các phân tử khác. Mặt khác, khi ống mao quản trên lớp
vỏ ngắn hơn nhiều thì sự khuếch tán trở nên ít quan trọng, bề mặt bên trong lớp vỏ
được sử dụng hiệu quả hơn khi các hạt HMSN được dùng như chất hỗ trợ xúc tác
[36]. Ngoài ra, HMSN dễ dàng biến tính bề mặt thông qua các liên kết Si – OH. Do
đó, HMSN đã chứng minh được tiềm năng lớn trong lĩnh vực đóng gói
(encapsulation), kiểm soát mang và phóng thích thuốc, lĩnh vực xúc tác, lĩnh vực hấp
phụ và tách [37].
1.1.8. Phương pháp tổng hợp nano silica cấu trúc rỗng
Các phương pháp tổng hợp các hạt nano silica cấu trúc rỗng đã được các nhà
khoa học tập trung nghiên cứu. Theo loại khuôn (template) để tạo ra lỗ rỗng bên trong
có thể chia thành phương pháp soft-template (khuôn mềm), hard-template (khuôn
cứng) và phương pháp self-template (tự tạo khuôn). Trong đó, phương pháp soft-
template liên quan đến việc trực tiếp tạo ra cả lỗ rỗng và vỏ thông qua việc tự lắp ráp
giữa các phân tử tiền chất và khuôn chất hoạt động bề mặt hữu cơ/các chất hữu cơ
khác. Ở đây, các khuôn (hay lõi) thường là các giọt của các phân tử tiền chất, chất
hoạt động bề mặt sẽ được loại bỏ sau quá trình tạo thành hạt rỗng. Đối với phương
pháp hard-template, một số hạt rắn cứng được chuẩn bị làm lõi và sẽ được xử lý sau
khi tạo lớp vỏ cấu trúc mao quản trên lõi, trong đó lớp vỏ được tạo ra bởi sự tự lắp
ráp giữa các tiền chất và micell chất hoạt động bề mặt [38, 39].
Phương pháp hard- template
Phương pháp hard- template gồm ba giai đoạn cơ bản: chuẩn bị các hạt nano
để sử dụng làm lõi cứng, tạo lớp vỏ ít bị ăn mòn và có kích thước nano trên lõi và
cuối cùng là xử lý lõi một cách có chọn lọc tạo thành lỗ trống bên trong lớp vỏ (Hình
1.10). Trong đó, giai đoạn phủ lớp vỏ trên lõi, đòi hỏi sự tương thích giữa vật liệu lõi
và vỏ. Do đó, trước khi phủ lớp vỏ thì bề mặt lõi được biến tính để tạo ra các tương
tác vật lý và hóa học với tiền chất tạo lớp vỏ. Cơ chế của phương pháp này là dựa
trên sự khác biệt tính chất giữa phần lõi và phần vỏ, từ đó sử dụng chất ăn mòn thích
hợp để loại bỏ phần lõi bên trong mà không ảnh hưởng đến phần vỏ bên ngoài. Thực
tế thì phương pháp này được cải tiến từ phương pháp soft – template nhằm khắc phục
hai khuyết điểm là khó kiểm soát quá trình tạo hạt và kích thước hạt. Thay vì sử dụng
các vật liệu mềm, phương pháp này sử dụng các vật liệu cứng thường là các hạt rắn
để tạo cấu trúc lõi bên trong nên có tên gọi khác là hard – template. Các vật liệu cứng
16
này chỉ bị loại bỏ ở điều kiện thích hợp, các vật liệu cứng thường được sử dụng làm
lõi trong phương pháp này là polymer latex, hạt carbon rắn và hạt silica rắn [36, 40].
Hình 1.10. Quy trình tổng hợp hợp hạt nano hình cầu bằng
phương pháp hard – template
a) Lõi poly latex
Điểm nổi bật của polymer latex so với các vật liệu mềm là các hạt có kích
thước cụ thể và có thể điều chỉnh được, các lõi poly latex hình cầu thường được dùng
để tạo thành lỗ rỗng [41]. Xia và các cộng sự đã sử dụng lõi latex để chế tạo thành
công hạt silica rỗng, tuy nhiên phần vỏ của hạt có cấu trúc vi mao quản. Với phương
pháp này, đường kính lỗ rỗng có thể được điều chỉnh dễ dàng bằng cách chọn các lõi
poly latex có kích thước khác nhau, trong khi độ dày lớp vỏ điều chỉnh bằng cách
thay đổi tỉ lệ giữa silica/ latex trong quá trình tổng hợp [42, 43].
Năm 2008 Haiqing Li sử dụng lõi polystyrene (PS) hình cầu trong tổng hợp
hạt nano silica cấu trúc rỗng [44]. Hay năm 2011, Qiu và cộng sự cũng sử dụng hạt
keo polystyrene (PS) mang điện âm để hỗ trợ quá trình tự lắp ghép (self-assembly)
giữa silica vô cơ và micell chất hoạt động bề mặt trong môi trường pH > 12. Trong
đó, chất bề mặt định hướng sắp xếp vỏ có cấu trúc mao quản, PS giữ vai trò lõi. Sau
đó loại bỏ lõi và chất hoạt động bề mặt bằng cách nung ở nhiệt độ cao tạo thành các
hạt nano silica rỗng hình cầu [45].
b) Lõi hạt carbon rắn
Các nhà khoa học cũng sử dụng các hạt carbon rắn đơn phân tán để định hình
phần lõi bên trong, các hạt này được tổng hợp từ glucose dưới điều kiện thủy nhiệt
tại 160 – 180oC [46]. Sau đó lõi carbon rắn có thể được xử lý khi nung tại nhiệt độ
550oC trong 6 giờ và khử trong 5% H2/95% Ar tại 400oC trong 2 giờ [47].
c) Lõi nano silica hình cầu
Cùng với latex và hạt carbon rắn, một vật liệu cứng thường được sử dụng để
định hình cấu trúc lõi là hạt silica rắn, được tổng hợp từ chính tiền chất chứa silica.
Ưu điểm của SiO2 chính là độ tinh khiết của sản phẩm so với những vật liệu khác và
17
không cần phải chức hóa bề mặt trước khi thực hiện phủ vỏ. Ngoài ra, phương pháp
Stober để tạo nên nano silica rắn đã có từ năm 1968, được các nhà khoa học hoàn
thiện dần theo thời gian và cho thấy sự hiệu quả đến ngày nay. Bằng cách kết hợp với
phương pháp Stober, quá trình tăng trưởng Giesche và phương pháp Kaise đã tạo nên
hạt nano silica hình cầu đơn phân tán có cấu trúc lõi – vỏ gồm lõi là SiO2 rắn và lớp
vỏ silica cấu trúc mao quản. Trong đó, lớp vỏ được tạo thành bởi quá trình sol – gel
TEOS và octadecyltrimethoxysilane (C18TMS), sau đó loại bỏ các chất hữu cơ tạo
thành cấu trúc mao quản và loại bỏ lõi rắn để tạo thành lỗ rỗng. Điểm khác biệt duy
nhất là SiO2 có thể được loại bỏ bằng môi trường bazơ thay vì phải dùng nhiệt như
hai phương pháp trên có thể ảnh hưởng đến cấu trúc HMSN tạo thành [48].
d) Một số lõi rắn khác
Ngoài các lõi rắn được đề cập ở trên, một vài oxide vô cơ hoặc oxide kim loại
cũng có thể được sử dụng làm lõi rắn, chẳng hạn như α-Fe2O3 [49]. Ngoài ra, bằng
cách sử dụng các hạt nano hydroxyapatite (HA) như là lõi rắn, có thể được loại bỏ
bằng cách ăn mòn, đã tạo nên hạt nano silica rỗng. Hình thái và kích thước của HMSN
có thể được kiểm soát tốt và điều chỉnh theo tính chất của lõi HA [50] hay lõi là
CaCO3 hình cầu [51].
Phương pháp soft– template
Trong phương pháp soft– template, các hạt nano silica cấu trúc rỗng được tổng
hợp từ các khuôn mềm như micell, các giọt nhũ tương trong một chất lỏng hai pha
[52], tập hợp nhiều polymer [53], bong bóng khí [54],… để tạo cấu trúc lõi bên trong,
bên ngoài được phủ một lớp vỏ mao quản là sự kết hợp giữa chất hoạt động bề mặt
và tiền chất. Sau đó các khuôn mềm sẽ bị loại bỏ để tạo nên khoảng trống bên trong
và HMSN được hình thành. Điểm chung của các vật liệu mềm này là rất dễ loại bỏ
thậm chí ở điều kiện thường và đó cũng là nguyên nhân mà phương pháp soft –
template không được sử dụng nhiều. Việc các vật liệu mềm dễ bị loại bỏ dẫn đến khó
khăn cho các nhà khoa học trong việc kiểm soát quá trình tạo hạt. Nguyên nhân thứ
hai là các vật liệu mềm này có kích thước nhỏ và khả năng mở rộng không cao nên
phạm vi ứng dụng hẹp, không thể mang các phân tử có kích thước lớn [40].
Các hạt micell được cấu tạo từ các chất hoạt động bề mặt là vật liệu mềm
thường được sử dụng nhất trong phương pháp soft – template vì nó có độ bền cao.
Cơ chế của phương pháp này dựa trên hệ nhũ tương dầu trong nước (O/W). Hệ này
18
bao gồm 4 thành phần chính là nước, dầu, chất hoạt động bề mặt và dung dịch kiềm.
Đầu tiên nước, chất hoạt động bề mặt được hòa chung với nhau và ở một nồng độ
nhất định chất hoạt động bề mặt sẽ tạo thành cấu trúc micell. Tiếp đó, tiền chất silia
(pha dầu) được nhỏ giọt vào dung dịch trên, vì có tính chất kị nước nên tiền chất silica
sẽ nằm bên trong cấu trúc micell. Tuy nhiên, dung dịch kiềm sẽ thủy phân chậm tiền
chất silica làm chúng trở nên ưa nước và ngưng tụ lại trên bề mặt các micell. Cuối
cùng, các chất hoạt động bề mặt bị loại bỏ và tạo thành HMSN [35, 55].
Phương pháp self – template
Phương pháp self – template được báo cáo gần đây, gồm hai giai đoạn: (i)
Tổng hợp các hạt nano giữ vai trò là “khuôn”, (ii) Chuyển những khuôn này thành
cấu trúc rỗng. Không giống như các phương pháp tạo khuôn thông thường, các khuôn
theo phương pháp này không chỉ cung cấp khuôn để tạo thành cấu trúc rỗng mà còn
trực tiếp tham gia vào sự hình thành lớp vỏ. Các khuôn có cùng thành phần với vật
liệu vỏ hoặc cuối cùng sẽ biến đổi hóa học thành vật liệu vỏ. Phương pháp này dự
kiến sẽ cung cấp một quy trình đơn giản và hiệu quả hơn về chi phí sản xuất vật liệu
rỗng. Tuy nhiên cũng có những thách thức đặt ra như độ ổn định của hạt, độ phân tán
[56, 57].
1.1.9. Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng
Các phương pháp biến tính bề mặt nano silica
Bề mặt nano silica với các nhóm silanol trên bề mặt nên cần được biến tính
với các nhóm chức hoạt động, là tiền đề cho các phản ứng biến tính bề mặt với các
phân tử hữu cơ khác. Các phương pháp biến tính bề mặt nano silica bao gồm phương
pháp đồng ngưng tụ “co-condensation” và phương pháp grafting [58].
a) Phương pháp đồng ngưng tụ (tổng hợp trực tiếp)
Phương pháp này lần đầu tiên được đề xuất bởi Burkett và cộng sự. Quá trình
tổng hợp được thực hiện bằng cách đồng ngưng tụ tetraalkoxysilanes có thể là TEOS
và trialkoxyorganosilanes chẳng hạn như APTES thể hiện qua Sơ đồ 1.4 và Hình 1.11
[59, 60].
19
Sơ đồ 1.4. Sơ đồ biến tính bề mặt nano silica với phân tử hữu cơ bằng phương pháp đồng ngưng tụ
Hình 1.11. Phương trình phản ứng theo phương pháp đồng ngưng tụ
b) Phương pháp grafting
Grafting là một phương pháp được sử dụng phổ biến nhất vì tổng hợp tương
đối đơn giản. Sự hiện diện của silanol trên bề mặt với nồng độ cao là một tiêu chí
quan trọng trong phương pháp này [61]. Quá trình biến tính bề mặt mặt với các nhóm
hữu cơ bằng cách grafting thường được thực hiện bằng cách silylation, được thực
hiện bằng một trong ba phương trình thể hiện trong Sơ đồ 1.5 và Hình 1.12 [59, 62].
20
Sơ đồ 1.5. Sơ đồ biến tính bề mặt nano silica với phântử hữu cơ bằng
phương pháp grafting
Hình 1.12. Phương trình phản ứng theo phương pháp grafting
Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với methoxy ethyleneglycol
(mPEG)
a) Hoạt hóa mPEG bằng p-nitrophenyl chloroformate
Phản ứng thế thân hạch trên carbon của nhóm carbonyl diễn ra thuận lợi ở
nhiệt độ 60 - 65ºC.
Hình 1.13. Phản ứng hoạt hóa mPEG bằng p-nitrophenyl chloroformate
Phản ứng xảy ra theo cơ chế tương tự như phản ứng ester hóa. Trong cấu trúc
của tác chất p-nitrophenyl chloroformate (NPC), liên kết C=O có tính chất không no
và bị phân cực mạnh về phía oxy, làm xuất hiện một phần điện tích dương trên nguyên
tử carbon, tạo ra một trung tâm thân điện tử.
21
Hình 1.14. Trung tâm thân điện tử trên nhóm carbonyl
Trong khi đó, trên nguyên tử oxy của nhóm –OH của phân tử mPEG còn hai
đôi điện tử tự do, nên nguyên tử oxy có vai trò như tác nhân ái nhân. Trung tâm thân
điện tử trên nguyên tử carbon của phân tử NPC gặp tác nhân ái nhân trên phân tử
mPEG sẽ tương tác với nhau và tạo thành sản phẩm mPEG-NPC.
Điều đáng chú ý là tác nhân NPC có hoạt tính rất mạnh, dễ bị thủy phân trong
môi trường có nước. Do đó, để đạt được hiệu suất phản ứng tốt nhất, phản ứng phải
được thực hiện trong môi trường khan nước và trong môi trường nitơ khô, tất cả các
dung môi phải được làm khan trước khi dùng.
b) Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với mPEG
Do tác động của hiệu ứng hút điện tử từ nhóm nitrophenyl lên liên kết ester
trong phân tử mPEG-NPC, làm cho liên kết carbonyl bị phân cực mạnh, kết quả làm
carbon trên nhóm carbonyl trở nên dương điện hơn. Khi có mặt của tác nhân thân
hạch như nhóm amino trên bề mặt các hạt silica cấu trúc rỗng, nitơ trên nhóm amino
còn dư một cặp electron chưa liên kết nên có khả năng gắn lên carbon dương điện,
đồng thời đẩy nhóm nitrophenolate để hình thành sản phẩm nano silica cấu trúc rỗng
đã phủ polyethylene glycol và sản phẩm phụ p-nitrophenol.
Hình 1.15. Phản ứng biến tính mPEG đã hoạt hóa lên bề mặt HMSN
1.2. THUỐC TRỊ UNG THƯ DOXORUBICIN
1.2.1.Giới thiệu thuốc Doxorubicin
Doxorubicin được bán dưới tên thương mại Adriamycin cùng với một số
những tên khác, là một loại thuốc hóa trị liệu được sử dụng để điều trị ung thư.
Doxorubicin được tiêm vào tĩnh mạch. Đây là một loại kháng sinh gây độc tế bào
thuộc nhóm anthracyclin, bao gồm một đơn vị đường amino là daunosamin liên kết
22
với một aglycone bốn vòng thông qua liên kết glycoside. Cấu trúc hóa học của
doxorubicin được thể hiện trong Hình 1.16. Doxorubicin hoạt động bằng cách liên
kết với các enzym liên kết DNA, có thể đan xen các cặp bazơ của chuỗi xoắn kép
của DNA. Bằng cách liên kết với nhiều phân tử mục tiêu như enzym topoisomerase
I và II, một loạt các hiệu ứng gây độc tế bào xảy ra cùng với phản ứng tăng sinh, do
đó đẫn đến tổn thương DNA. Ngoài ra, doxorubicin cũng được biết là tự đan xen vào
DNA, với sự ức chế cả DNA và RNA, kết quả là ngừng sao chép DNA và phiên mã
RNA [63-65].
Hình 1.16. (1) Cấu trúc hóa học và (2) ảnh hưởng của doxorubicin đến sự chết tế bào
Doxorubicin được chấp thuận cho sử dụng y tế tại Hoa Kỳ vào năm 1974. Nó
nằm trong danh sách các thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới, tức là nhóm các
loại thuốc hiệu quả và an toàn nhất cần thiết trong một hệ thống y tế [66]. Doxorubicin
được sử dụng để điều trị bệnh ung thư vú, ung thư bàng quang, sarcoma Kaposi, ung
thư hạch và ung thư bạch cầu lympho cấp tính.
1.2.2. Tác dụng phụ
Doxorubicin là một chất hóa trị liệu hiệu quả giúp tăng khả năng sống sót của
bệnh nhân ung thư, nhưng việc sử dụng nó bị cản trở do độc tính trên tim. Độc tính
trên tim, một tác dụng phụ rõ ràng của doxorubicin, có thể xuất hiện hai mươi năm
sau khi điều trị như một tác dụng phụ cấp tính hoặc mãn tính. Tác dụng phụ này đặc
biệt đáng kể đối với trẻ em đã được điều trị bằng doxorubicin. Ngoài ra, rụng tóc
cũng là tác dụng phụ thường gặp hay buồn nôn, các vấn đề về đường tiêu hóa và rối
loạn hệ thần kinh (thường gây ra ảo giác và choáng váng) [63, 65].
23
Để tăng hiệu quả điều trị và giảm các tác dụng phụ của thuốc doxorubicin như
đã nêu trên, phương pháp đưa thuốc vào hệ chất mang nano để tạo thành hệ phân phối
thuốc hướng đích được sự quan tâm của các nhà khoa học.
1.3. MỘT SỐ POLYMER ĐƯỢC SỬ DỤNG BIẾN TÍNH BỀ MẶT NANO
SILICA CẤU TRÚC RỖNG
1.3.1. Poly ethylene glycol
Poly ethylene glycol
Poly (ethylene glycol) (PEG) hay gọi là poly (ethylene oxide) (PEO). Poly
ethylene glycol (PEG) là một polymer tương thích sinh học, không độc, tan trong
nước và là polymer được dùng nhiều nhất trong vật liệu sinh học, công nghệ sinh học
và thuốc được FDA (Food and Drug Administration) phê duyệt sử dụng. Trong lĩnh
vực dẫn truyền thuốc, hệ PEG – thuốc để tăng cường khả năng hòa tan, kéo dài thời
gian lưu thông trong cơ thể, giảm sự đào thải qua thận, giảm độ độc và thay đổi sự
phân bố sinh học [67].
Ứng dụng của các loại PEG trong y sinh
Bảng 1.1. Các loại PEG liên hợp và ứng dụng
24
PEG liên hợp được trình bày đầu tiên trong những năm 1970 bởi Davies và
Abuchowsky trong việc biến tính bề mặt albumin và enzyme catalaza (enzyme xúc
tác sự phân hủy hydroperoxit thành oxy phân tử và nước). Đây là một dấu mốc rất
quan trọng, bởi vì thời gian này vẫn chưa có ai nghĩ rằng có thể biến tính một enzyme
mà vẫn giữ được nguyên hoạt tính của nó [68, 69].
Về mặt dược học, gắn PEG vào bề mặt giúp giảm một số quá trình không mong
muốn. Trong ứng dụng thay thế gần đây đó là tạo liên kết PEG-liposome làm kéo dài
thời gian lưu thông của hệ chất mang trong cơ thể. Như vậy PEG gắn trên bề mặt
lipid nói riêng cũng như gắn lên bề mặt thuốc nói chung giúp tránh đi sự đào thải của
hệ miễn dịch [70].
Tính tan của PEG trong môi trường nước là chìa khóa quan trọng trong ứng
dụng sinh học và y sinh. Dung dịch PEG trong nước hoạt động rất mạnh. Trong các
nghiên cứu về polymer mạch thẳng và sắc ký gel cho thấy PEG và các dẫn xuất của
nó như mPEG tan trong nước nhiều hơn các phân tử khác (như protein,…) có cùng
khối lượng phân tử, vì thế ứng dụng của tính chất này là PEG có thể đẩy các polymer
khác và hình thành 2 pha nếu nồng độ PEG đủ cao [70] .
Trong sinh học, PEG phân tách giữa môi trường nước và màng tế bào do người
ta nhận thấy rằng PEG có khả năng dung hợp tế bào, ứng dụng này rất quan trọng
trong việc tạo ra các kháng thể. Độ tan của PEG và sự phân tách có khả năng thay đổi
bằng cách gắn thêm các đuôi kỵ nước, điều này có thể được sử dụng trong việc điều
khiển sự phân chia pha của PEG trong hệ hai pha, như benzen và nước, khi thêm các
đuôi kỵ nước sẽ làm cho PEG phân bố nhiều hơn trong pha hữu cơ. PEG có tính chất
rất thú vị khi tạo ra được mối liên kết hay cầu nối từ phân tử có hoạt tính đến bề mặt,
điều này giúp giải quyết được vấn đề hấp phụ chọn lọc protein trên bề mặt. Thêm vào
đó, các phân tử được gắn vào bề mặt cho thấy hoạt tính cao hơn phân tử tự do [71].
1.3.2. Pluronic
Pluronic (F127) được FDA phê duyệt và liệt kê trong Dược điển của Hoa Kỳ
và châu Âu, còn được gọi là Poloxamer 407, đã được nghiên cứu và ứng dụng rộng
rãi trong dẫn truyền thuốc do tính tương hợp sinh học cao và đặc biệt là nhạy nhiệt
[72, 73]. Giá trị LCST (lower critical solution temperatures) của F127 có thể thay đổi
từ 25 - 37oC bằng cách điều chỉnh nồng độ, điều này có nghĩa là F127 là có dạng
chuỗi ở nhiệt độ phòng và co cụm tại nhiệt độ cơ thể [74, 75]. Dựa vào các ưu điểm
25
này, F127 là vật liệu phổ biến để tổng hợp nano nhạy nhiệt để phóng thích thuốc có
kiểm soát [75-77]. Gần đây, poloxamer này đã được nghiên cứu biến tính trên bề mặt
các chất mang nano như dendrimer, MSN nhằm cải thiện tốc độ phóng thích thuốc
trong điều trị bệnh ung thư. Đặc biệt, đối với hệ chất mang có cấu trúc mao quản,
F127 giữ vai trò như là các nắp đậy để giữ thuốc bên trong các lỗ mao quản sau khi
được nang hóa và ngăn chặn sự phóng thích thuốc nhanh chóng khi sử dụng [78, 79].
Theo nhóm nghiên cứu, trong thời điểm này chưa có công bố về hệ chất mang HMSN-
F127 như là hệ dẫn truyền thuốc điều trị bệnh ung thư do đó tiến hành tổng hợp và
đánh giá khả năng mang – phóng thích thuốc của hệ HMSN-F127.
Hình 1.17. Cấu trúc phân tử Pluronic
1.4.TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
1.4.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Các hạt nano silica cấu trúc rỗng có thể được tổng hợp bằng các phương pháp
khác nhau. Trong đó hard – template là phương pháp phổ biến hiện nay vì có thể kiểm
soát quá trình tạo hạt và kích thước hạt một cách dễ dàng. Nhiều công trình nghiên
cứu tổng hợp và biến tính bề mặt hạt nano silica cấu trúc rỗng đã được công bố thể
hiện qua Bảng 1.2.
27
Bảng 1.2. Kết quả tổng hợp và biến tính bề mặt của hạt nano silica cấu trúc rỗng
A: Hình thái, B: kích thước, C: Diện tích bề mặt
STT Năm Tác giả Tài liệu Chất HĐBM Phương pháp loại bỏ chất HĐBM GĐ 1: Lõi rắn Biến tính bề mặt hạt nano rỗng với
tại 500oC 2005 Không [80] 1 Shi và cộng sự Nung trong 10 giờ PVP và CTAB
tại 600oC 2008 Không [81] 2 B.Kadali và cộng sự PHA Nung trong 6 giờ
và 2009 Nung tại 300oC PEG [82] 3 Yang cộng sự PVA A: PVP hình cầu B: (-) C: (-) A: PHA B: (-) C: (-) A: Fe3O4 hình cầu B: 10 nm C: (-) GĐ 2: Hạt nano lõi – vỏ A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: 80,9 nm C: (-) GĐ 3: Hạt nano rỗng A: Hình cầu B:300-400 nm C: 1210 m2/g A: Hình cầu B: 2,1 µm C: 227 m2/g A: Hình cầu B: 83,1 nm C: (-)
và loại bỏ 2009 PVP Không [83] 4 Zhang cộng sự Không PVP A: SiO2 hình cầu B: 200 nm C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: >250 nm C: 177,46 m2/g
loại bỏ 2010 PVP Không [84] 5 HongTao và cộng sự Không PVP A: SiO2 hình cầu B: 200 nm C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: >250 nm C: 177,46 m2/g
tại 550oC 2011 PEG [85] C18TMS 6 Zhu và cộng sự Nung trong 6 giờ A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: 100 nm C: 688 m2/g
và 2011 CTAB Không [30] 7 Fang cộng sự A: Lõi carbon hình cầu B: (-) C: (-) A: SiO2 hình cầu B: 245 nm A: Hình cầu B: (-) A: Hình cầu B: 260 nm tại 550oC Nung hoặc chiết bằng
28
C: (-) C: (-) C: 937 m2/g
cách đun hoàn lưu trong acetone tại 80oC trong 48 giờ,sản phẩm rửa với nước khử ion
và tại 600oC Không CTAB Không [86] 2011 Không 8 Guo cộng sự Nung trong 6 giờ
và trong 2011 CTAB [87] 9 Wang cộng sự HNO3 ethanol RITC và PEG A: Dạng khối B: (-) C: (-)
và 2011 PVP (-) Chitosan [88] 10 Deng cộng sự A: PbS dạng khối B: chiều dài cạnh 44 nm C: (-) A: PS dạng cầu B: 216 nm C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: 200 nm C: 880 m2/g A: Dạng khối B: chiều dài cạnh 58 nm C: 137 m2/g A: Hình cầu B: 236 nm C: 210,25 m2/g
và 2012 CTAB [89] 11 Fang cộng sự A: SiO2 hình cầu B: 245 nm C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: 170 nm C: 1002,1 m2/g Tấm nano Pd Khuấy với dung dịch NH4NO3 trong ethanol tại 45oC trong 6 giờ
2014 CTAB Không [90] 12 Yildirim và cộng sự A: Hình que B: (-) C: (-) Nung tại 550oC để loại bỏ CTAB và RB A: SiO2 hình que B: Chiều dài 75 nm, chiều rộng 45 nm C: (-) A: Hình que B: Lớp vỏ dày 8 nm C: 598 m2/g
và tại 550oC 2014 CTAB Không [91] 13 Fang cộng sự Nung trong 6 giờ A: SiO2 hình cầu B: 180 nm C: (-) A: Hình cầu B: >200 nm C: 589,5 m2/g A: Hình cầu B: lớp vỏ dày 33 nm C: (-)
29
2015 CTAB Không [92] 14 Qiu và cộng sự A: Fe3O4 hình cầu B: 130 nm C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) Khuấy với dung NH4NO3 dịch trong ethanol
và tại 550oC 2015 CTAB PEG [93] 15 Teng cộng sự Nung trong 6 giờ
2015 CTAB [2] 16 Wu và cộng sự DTPA A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: Lỗ rỗng 30 nm C: 406,1 m2/g A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: 247 nm C: 1029 m2/g Hoàn lưu trong dịch dung methanol và HCl
và tại 600oC 2016 CTAB [94] 17 Geng cộng sự Nung trong 5 giờ Cy5.5 A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: 1100 nm C: 1419 m2/g A: SiO2 hình cầu B: 89 nm C: (-) A: SiO2 hình cầu B: (-) C: (-) A: Nhựa phenolic hình cầu B: (-) C: (-)
lưu
2016 CTAB [95] 18 Liu và cộng sự -β-CD/Ada- PEG A: SiO2 hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: 120 nm C: 881,54 m2/g Đun hoàn trong methanol/HCl tại 80oC trong 24 giờ
và tại 450oC 2017 CTAB Không [96] 19 Geng cộng sự Nung trong 10 giờ A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: 200 nm C: 731 m2/g
và tại 550oC 2017 CTAB [97] 20 Zhao cộng sự Nung trong 5 giờ -S-S- CDPEI@HA
và 2017 CTAB (-) [98] 21 Zhang cộng sự β-CD-Ad- dye-PEG A: Nano Au hình cầu B: 50 nm C: (-) A: SiO2 hình cầu B: (-) C: (-) A: (-) B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: (-) B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: 230 nm C: 1034 m2/g A: Hình cầu B: (-) C: (-)
30
và CTAB (-) -S-S-HA [99] 2018 22 Huang cộng sự A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: SiO2 hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-)
lưu
CTAB Ac-CMC [100] 2018 23 Nejabat và cộng sự A: Hình cầu B: 150 nm C: (-) A: SiO2 hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) Đun hoàn trong methanol/HCl tại 80oC trong 24 giờ
tại 550oC và CTAB PDA-PEG [101] 2019 24 Nung trong 5 giờ Shao cộng sự A: SiO2 hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-)
34,3-66,1 tại 500oC CTAB [102] 2019 25 Nung trong 12 giờ Chitosan và Alginate Esmaeili và cộng sự A: PLM hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-)
và CTAB Cyanine 5.5 [103] trong tại 2020 26 Peng cộng sự Chiết HCl/ethanol 60oC trong 3 giờ
CTAB HCl/ethanol Chitosan [104] 2020 27 Jin và cộng sự
tại 50oC và CTAB Chitosan [105] 2020 28 Nung trong 4 giờ Diacon cộng sự A: Hình cầu B: 250 nm C: 123,93 m2/g A: Hình cầu B: nm C: (-) A: Hình cầu B: 98 nm C: 266 m2/g A: Hình cầu B: 260 nm C: 1006,8 m2/g A: Hình cầu B: (-) C: 482 m2/g A: SiO2 hình cầu B: (-) C: (-) A: SiO2 hình cầu B: (-) C: (-) A: PS hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-)
(-): Chưa trình bày trong nghiên cứu tham khảo
31
Tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng
Các nghiên cứu đã công bố về tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng theo
phương pháp hard-template cho thấy quá trình tổng hợp gồm ba giai đoạn: (i) Tổng
hợp hạt nano silica rắn giữ vai trò là lõi, (ii) phủ lớp vỏ cấu trúc mao quản, (iii) Ăn
mòn lõi rắn để tạo thành cấu trúc rỗng. Trong đó, giai đoạn thứ nhất lõi rắn có thể là
các vật liệu khác nhau như hạt nano sắt từ Fe3O4, nano vàng, carbon, PbS và thường
là lõi nano silica. Hình dạng lõi rắn sẽ quyết định hình dạng của hạt nano silica cấu
trúc rỗng tạo thành. Tương tự, giai đoạn phủ lớp vỏ cấu trúc mao quản có thể sử dụng
tiền chất chứa silica là TEOS hay muối silicate, riêng chất hoạt động bề mặt chủ yếu
là CTAB, ngoài ra còn có C18TMS hay PVP và được loại bỏ theo nhiều cách khác
nhau như nung, hoàn lưu hay chiết. Giai đoạn ăn mòn lõi rắn có thể sử dụng môi
trường axit (đối với lõi nano sắt từ Fe3O4, PbS), kiềm (đối với lõi nano silica) hay
nung mẫu (đối với lõi polystyrene) phụ thuộc vào tính chất của lõi rắn ban đầu.
Trên cơ sở ba giai đoạn chính trong tổng hợp theo phương pháp hard-template,
đối với các nghiên cứu khác nhau thì các giai đoạn tổng hợp có thể giống hoặc khác
nhau về các thông số phản ứng như: thời gian, nhiệt độ, thành phần và tỉ lệ các chất
tham gia phản ứng, hay thêm các giai đoạn trung gian…kết quả tạo thành các hạt
nano khác nhau. Chẳng hạn như năm 2011, Fang và các cộng sự đã tổng hợp nano
silica cấu trúc rỗng bằng phương pháp hard – template. Quá trình tổng hợp thể hiện
qua Sơ đồ 1.6, gồm năm giai đoạn: (1) Tổng hợp lõi rắn theo phương pháp Stober (kí
hiệu sSiO2), (2) Phủ lớp vỏ lần thứ nhất để tạo các lỗ mao quản giống nhau bởi chất
hoạt động bề mặt CTAB (kí hiệu HMSS-W): Phân tán hạt rắn sSiO2 trong nước bằng
cách dùng siêu âm khoảng 15 phút, sau đó thêm CTAB vào, tiếp đến là dung dịch
Na2CO3. Phản ứng được thực hiện tại 35oC trong 24 giờ, sau đó ly tâm rửa thu được
sản phẩm, (3) Phủ lớp vỏ lần thứ hai, đó là lớp vỏ nano silica cấu trúc mao quản (kí
hiệu sSiO2@CTAB/SiO2): Phân tán mẫu HMSS-W trong nước, huyền phù thu được
cho vào dung dịch gồm ethanol, NH3, CTAB và cuối cùng thêm tiền chất TEOS. Tiến
hành khuấy hỗn hợp huấy 6 giờ tại nhiệt độ phòng, (4) Ăn mòn lõi rắn tạo thành cấu
trúc rỗng (kí hiệu HMSS-O): Phân tán mẫu sSiO2@CTAB/SiO2 trong nước, sau đó
sử dụng dung dịch Na2CO3 để ăn mòn lõi rắn sSiO2 tại 50oC trong 10 giờ. Sản phẩm
được ly tâm và rửa bằng ethanol, nước, (5) Loại bỏ chất hoạt động bề mặt CTAB (kí
hiệu sSiO2@mSiO2): Mẫu HMSS-O được loại bỏ chất hoạt động bề mặt CTAB bằng
32
cách nung tại 550oC trong 6 giờ hoặc chiết trong acetone và hoàn lưu tại 80oC trong
48 giờ [30].
Sơ đồ 1.6. Sơ đồ tổng hợp HMSN-W
Hay năm 2011 nhóm nghiên cứu của Wang sử dụng tiền chất là Pb(Ac)2 để
tổng hợp hạt nano PbS dạng khối, giữ vai trò là lõi rắn và dùng dung dịch axit HNO3
ăn mòn lõi để tạo thành cấu trúc rỗng, kết quả hạt nano tạo thành cũng có dạng khối
với kích thước nhỏ hơn 100 nm thể hiện qua Hình 1.18 [87].
Hình 1.18. Ảnh TEM của PbS@mSiO2 dạng khối (A) và hạt rỗng tạo thành (C), tương ứng với ảnh TEM với độ phóng đại lớn hơn (B, D)
33
Năm 2015 Qui và cộng sự tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng bằng cách sử
dụng lõi là nano sắt từ Fe3O4, sau đó phủ lớp vỏ silica rắn và cuối cùng phủ lớp vỏ
cấu trúc mao quản thông qua tiền chất TEOS và chất hoạt động bề mặt CTAB thể
hiện qua Sơ đồ 1.7. Kết quả tạo thành hạt nano silica cấu trúc rỗng chứa lõi nano sắt
từ bên trong [92].
Sơ đồ 1.7. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng chứa lõi nano sắt từ Fe3O4@void@mSiO2
Năm 2017, Yanhua sử dụng các hạt nano vàng làm lõi, sau đó tiến hành phủ
lớp vỏ cấu trúc mao quản thông qua quá trình sol-gel. Hạt nano silca cấu trúc rỗng
được tạo thành sau khi xử lý lõi nano vàng (Sơ đồ 1.8) [96].
Sơ đồ 1.8. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng, ứng dụng mang và phóng thích thuốc Dox
Mặt khác, quan sát Bảng 1.3 nhận thấy các nghiên cứu đã công bố về tổng hợp
hạt nano silica cấu trúc rỗng theo phương pháp hard-template, các hạt nano tạo thành
34
ở các giai đoạn đầu bao gồm lõi rắn, hạt nano cấu trúc lõi-vỏ chưa được đánh giá tính
chất một cách đầy đủ như kích thước, diện tích bề mặt,.. Đặc biệt, giai đoạn phủ lớp
vỏ cấu trúc mao quản thì vai trò của chất hoạt động bề mặt CTAB trong quá trình phủ
lớp vỏ chưa được nghiên cứu một cách hoàn chỉnh, chẳng hạn như hình thái các hạt
nano cấu trúc lõi-vỏ khi có hay không có chất hoạt động bề mặt. Tương tự giai đoạn
xử lý lõi rắn để tạo thành cấu trúc rỗng, cơ chế quá trình ăn mòn lõi cũng chưa được
trình bày một cách cụ thể.
Biến tính bề mặt hạt nano silica cấu trúc rỗng
Nano silica cấu trúc rỗng là vật liệu tiềm năng cho các ứng dụng y sinh, tuy
nhiên lượng thuốc dễ bị rò rỉ trong quá trình vận chuyển hay độ phân tán của các hạt
nano là những khó khăn ảnh hưởng đáng kể đến ứng dụng của hạt nano. Do đó nhiều
nghiên cứu về việc biến tính bề mặt các hạt nano silica cấu trúc rỗng đã được công
bố. Quan sát Bảng 1.3 nhận thấy năm 2008, nhóm nghiên cứu của Yang và cộng sự
biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với PEG (6 KDa) bằng cách: trước tiên bề
mặt hạt nano silica cấu trúc rỗng được biến tính với nhóm amin thông qua phản ứng
đồng ngưng tụ với APTES, riêng PEG được hoạt hóa bằng succinic anhydride tạo
thành PEG-diCOOH. Sau đó thực hiện phản ứng giữa HMSN-NH2 và PEG-diCOOH
với sự có mặt của EDC/NHS thể hiện qua Sơ đồ 1.9 và Dox được sử dụng cho quá
trình thử nghiệm mang và phóng thích thuốc [82].
Sơ đồ 1.9. Sơ đồ biến tính PEG trên bề mặt vật liệu HMSN
Tương tự năm 2011, Zhu và cộng sự tiến hành biến tính bề mặt hạt nano silica
cấu trúc rỗng với PEG (2 KDa), quy trình tổng hợp gồm giai đoạn biến tính bề mặt
35
hạt nano silica rỗng với nhóm amin như công bố của Yang. Đối với PEG thì nhóm
nghiên cứu sử dụng poly(oxyethylene)bis(amin) (PEG2000-NH2). Cuối cùng HMS-
PEG được tạo thành bằng cách grafting PEG2000-NH2 trên HMS-NH2 với p-
phenylene diisothiocyanate (DITC) (Sơ đồ 1.10). Kết quả tổng hợp hạt HMS thể hiện
qua Hình 1.19 cho thấy các hạt có dạnh hình cầu. Tuy nhiên, quan sát ảnh SEM không
cho thấy cấu trúc lõi – vỏ, ảnh TEM cho thấy độ dày lớp vỏ trên cùng một hạt thì
không đều [85].
Sơ đồ 1.10. Sơ đồ biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với PEG
Hình 1.19. Ảnh SEM (a) và TEM (b) của HMS
Hay cũng trong năm 2011, Deng và cộng sự đã sử dụng chitosan để biến tính
bề mặt hạt nano silica cấu trúc rỗng tạo thành hệ chất mang thuốc hướng đích (tác
nhân nhạy pH) thể hiện qua Sơ đồ 1.11. Kết quả các hạt nano tạo thành sau khi biến
tính với chitosan có dạng hình cầu và kích thước là 345,6 ± 4,8 nm [88].
36
Sơ đồ 1.11. Sơ đồ biến tính chitosan trên bề mặt vật liệu HNPs
Năm 2012, Zheng và các cộng sự đã nghiên cứu tổng hợp hạt nano silica cấu
trúc rỗng hình cầu. Sau khi biến tính bề mặt với nhóm amin, các hạt được nạp thuốc
Dox và cuối cùng là gắn các tấm nano Paladium (Sơ đồ 1.12). Hệ chất mang tạo thành
là sự kết hợp của phương pháp hóa trị và phương pháp quang nhiệt trong việc tiêu
diệt tế bào ung thư. So với phương pháp hóa trị hoặc quang nhiệt riêng lẻ, sự kết hợp
của hai phương pháp này có thể cải thiện đáng kể hiệu quả điều trị. Kết quả các hạt
tạo thành thể hiện qua Hình 1.20 [99].
Sơ đồ 1.12. Sơ đồ tổng hợp HMSS-NH2/Dox@Pd
37
Hình 1.20. Ảnh SEM (a,c) và TEM (b,d) của các hạt HMSS (a,b)
và HMSS-NH2@Pd
Năm 2015, Wu và cộng sự đã tổng hợp thành công hệ chất mang thuốc hướng
đích trên nền tảng nano silica cấu trúc rỗng (nhạy pH và nhạy oxi hóa – khử). Trước
tiên biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng HMSS lần lượt với APTMS, DTPA
thành HMSS-S-S-COOH. Sau đó, Dox được nang hóa vào hệ chất mang và được giữ
bởi ZnO QDs như là nắp đậy (Sơ đồ 1.13). Hệ chất mang/thuốc được khảo sát sự
phóng thích thuốc theo pH và chất khử liên kết disulfide (GSH hay DTT). Kết quả
nghiên cứu cho thấy khi vai trò là nắp đậy của ZnO QDs, lượng thuốc được phóng
thích có thể kiểm soát tùy theo sự điều chỉnh pH [2].
Sơ đồ 1.13. Sơ đồ tổng hợp hệ chất mang HMSN/ZnO QDs
38
Năm 2016, nhóm nghiên cứu của Geng đã tổng hợp hệ chất mang nano silica
cấu trúc rỗng/ Cy5.5 thông qua phản ứng ngưng tụ giữa nhóm hydrazide của Cy5.5
và nhóm carboxyl của HMSN-COOH. Hai loại thuốc kém tan trong nước là
carvedilol và fenofibrate (Car and Fen) được nang hóa trong hệ chất mang nhằm mục
đích điều chỉnh sự phóng thích thuốc [94]. Hay năm 2016, Liu và cộng sự tổng hợp
hệ chất mang nhạy pH để kiểm soát sự phóng thích thuốc đó là HMSNs-β-CD/Ada-
PEG [95].
Năm 2017, Zhao và cộng sự tiến hành tổng hợp hệ chất mang HMSN-SS-
CDPEI@HA (Sơ đồ 1.14). Trong đó, các hạt carbon dot (CD) đóng vai trò như là nắp
đậy để giữ thuốc trong các lỗ rỗng và HA nhằm kiểm soát sự phóng thích thuốc và
cải thiện độ tan. Dox được chọn cho quá trình khảo sát phóng thích thuốc. Kết quả
tạo thành các hạt có dạng hình cầu thể hiện qua Hình 1.21 [97].
Sơ đồ 1.14. Sơ đồ tổng hợp hệ chất mang HMSN-SS-CDPEI@HA
Hình 1.21. Ảnh TEM của các hạt (A) HMSN và (B) HMSN-SS-CDPEI@HA
Năm 2018, Huang và cộng sự đã chứng minh rằng hệ chất mang HMSNs-SS-
HA (nhạy oxi hóa – khử) là hệ chất mang tiềm năng và hiệu quả trong điều trị bệnh
ung thư [99]. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu của Nejabat và cộng sự tiến hành kiểm soát
sự phóng thích thuốc Dox bằng cách: Sau khi thuốc được nang hóa vào hạt nano silica
cấu trúc rỗng, bề mặt vật liệu được phủ bởi acetyl hóa carboxymethyl cellulose (Ac-
CMC), sau đó liên kết cộng hóa trị với aptamer AS1411 để phân phối thuốc hướng
đích đến các tế bào ung thư (Sơ đồ 1.15). Các nghiên cứu cho thấy rằng aptamer
AS1411 đặc biệt nhắm mục tiêu nucleolin MCF-7 và tế bào C26 [100].
39
Sơ đồ 1.15. Sơ đồ tổng hợp HMSN-acetylate CMC
Năm 2019, Shao và cộng sự phủ hệ methoxypolyetylen glycol amin (mPEG-
NH2) chức năng hóa polydopamin (PDA) lên các hạt nano silica rỗng tạo thành hệ
chất mang nhạy pH. Sau đó nang hóa Dox và quercetin (QUR) để khắc phục tình
trạng kháng đa thuốc (multidrug sesistance - MDR) và cải thiện hiệu quả điều trị bệnh
ung thư. Các đánh giá sinh học đã chứng minh rằng HMSNs-PDA-PEG@QD thể
hiện khả năng vượt trội về kháng đa thuốc so với DOX tự do và HMSNsPDA-
PEG@DOX. Những kết quả này cho thấy HMSNs-PDA-PEG@QD thích hợp là một
hệ thống nano phân phối thuốc tiềm năng và hiệu quả để khắc phục kháng đa thuốc
[101].
Sơ đồ 1.16. Sơ đồ tổng hợp HMSNs-PDA-PEG@QD
Năm 2020, nhóm nghiên cứu của Jin tiến hành nang hóa celastrol (CSL) vào
các hạt nano silica cấu trúc rỗng, sau đó bề mặt vật liệu được biến tính bề mặt với
40
chitosan như là tác nhân nhạy pH nhằm kiểm soát khả năng phóng thích lượng CSL
(CLS@HMSNs-Cs) trong điều trị bệnh viêm khớp. Tuy nhiên, kết quả tạo thành các
hạt có dạng hình cầu với kích thước khá lớn (Hình 1.22) [104].
Hình 1.22. Ảnh TEM của SiO2 rắn (a), HMSN (b) và CLS@HMSNs-Cs (c)
1.4.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Nhóm nghiên cứu của Nguyễn Đại Hải tại Viện Khoa học vật liệu ứng dụng -
Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về nano silica
cấu trúc mao quản ứng dụng mang thuốc như: Tổng hợp nano silica xốp cho hệ dẫn
truyền thuốc, điều chế và xác định đặc tính của hạt nano silica phủ gelatin [106], nano
silica biến tính với Hydrazin (hệ - nhạy pH) [107], Heparin-PEG (hệ chất mang nhạy
oxi hóa – khử) cho hệ dẫn truyền thuốc có kiểm soát thể hiện qua Sơ đồ 1.17, kết quả
các hạt nano tạo thành thể hiện qua Hình 1.23 [108]… Theo hiểu biết hạn chế của
nhóm thì hiện nay trong nước chưa có công trình nghiên cứu về vật liệu nano silica
cấu trúc rỗng.
Sơ đồ 1.17. Sơ đồ tổng hợp PNS-SS-A@CD-HPEG
41
Hình 1.23. Ảnh TEM của PNS (a) và PNS-SS-A@CD-HPEG (b)
42
CHƯƠNG 2. THỰC NGHIỆM
2.1. Phương tiện nghiên cứu
2.1.1. Hóa chất
Các hóa chất được sử dụng trong nghiên cứu đều là các hóa chất dùng trong
phân tích với độ tinh khiết cao. Danh sách các hóa chất được liệt kê trong Bảng 2.1.
Bảng 2.1. Danh sách hóa chất sử dụng trong nghiên cứu
STT Tên hóa chất Xuất xứ
Merck 1 Ammonia solution (25%)
Merck 2 Cetyltrimethylammonium bromide (CTAB)
Sigma 3 Doxorubicin (Dox)
Ethanol tinh khiết Sharlau 4
Ethanol tuyệt đối Việt Nam 5
Việt Nam 6 Nước khử ion
Sodium carbonate Merck 7
Tetraethyl orthosilicate (TEOS) Sigma 8
Fisher 9 Axit Acetic
(3-aminopropyl)triethoxysilane (APTES) Sigma 10
Sigma 11 Ninhydrin
p-nitrophenyl chloroformate (NPC) Sigma 12
Sigma 13 Methoxy polyethylene glycol 5000 Da (MPEG)
Fisher 14 Tetra hydrofuran (THF)
Sigma 15 Pluronic F127
3-amino-1-propanol – Acros organics Sigma 16
Fisher 17 Diethyl ether
Fisher 18 Dimetyl sunfoxide (DMSO)
43
2.1.2. Thiết bị
Bảng 2.2. Danh sách thiết bị sử dụng trong nghiên cứu
STT Tên thiết bị Xuất xứ
Đức 1 Máy ly tâm lạnh Hermle
2 Máy đông khô FDU-1200 Eyela Nhật Bản
3 Máy đo kích thước hạt DLS Horiba SZ-100 Horiba Nhật Bản
Kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM) 4 JEOL Nhật Bản JEM-1400
Hitachi Kính hiển vi điện tử quét (SEM) 5 Nhật FE SEM S-4800
Đức 6 Máy cộng hưởng từ hạt nhân Bruker
Đức 7 Máy đo nhiễu xạ tia X D8, advance, Bruker
8 Máy đo phổ hồng ngoại FT-IR/NIR Frotier PerkinElmer Mỹ
Máy phân tích nhiệt trọng trường Mettler Toledo Mettler Toledo 9 TGA-DSC 3+
Mỹ 10 Máy đo diện tích bề mặt và hấp phụ-giải hấp Trista micromeritics 3000
11 Máy đo phổ hấp thu tử ngoại khả kiến UV-Vis 1800 Shimadzu Nhật
Anh 12 Máy phổ quang tia X Thermo VG Multilab 2000
2.2. Phương pháp xác định tính chất đặc trưng của vật liệu
Hình thái và bề mặt vật liệu được kiểm tra bằng bằng kính hiển vi điện tử quét
(Scanning Electron Microscope, SEM) sử dụng nguồn điện áp (15kV) tại phòng thí
nghiệm Nano – Trung tâm nghiên cứu triển khai Khu Công nghệ cao TP.HCM và
kính hiển vi điện tử truyền qua (Tranmission Electron Microscope, TEM), điện thế
gia tốc 100kV tại Phòng thí nghiệm trọng điểm polyme và compozit – Đại học Bách
khoa TP.HCM.
Kích thước hạt và sự phân bố kích thước hạt, thế zeta được đánh giá thông qua
phương pháp tán xạ ánh sáng động học bằng thiết bị đo kích thước hạt Horiba Nano
44
SZ100 tại Trung tâm phân tích Sinh – Hóa – Lý tại Viện Khoa học vật liệu ứng dụng
TP.HCM. Ngoài ra, dựa vào ảnh TEM và sử dụng phần mềm ImageJ để thống kê
kích thước các hạt, kết hợp với phần mềm Origin có thể tính được kích thước hạt
trung bình và cho thấy biểu đồ phân bố kích thước hạt.
Phân tích cấu trúc, đặc trưng nhóm không gian của vật liệu bằng phổ nhiễu xạ
tia X (X-ray Diffraction, XRD) tại Chi Cục kiểm định Hải quan 3. Phân tích nhóm
chức, định danh các hợp chất hữu cơ và nghiên cứu cấu trúc bằng phương pháp phổ
hồng ngoại (Fourier transform infrared spectroscopy , FTIR) tại Trung tâm phân tích
Sinh – Hóa – Lý tại Viện Khoa học vật liệu ứng dụng TP.HCM.
Phân tích thành phần cơ bản, trạng thái hóa học, trạng thái điện tử của các
nguyên tố trên bề mặt vật liệu bằng phương pháp phổ quang điện tử tia X (XPS) sử
dụng bức xạ AlKα tại trường đại học Pukyong, Hàn Quốc.
Phổ 1H-NMR đo trên máy cộng hưởng từ hạt nhân Bruker Avance 500, được
thực hiện bằng cách sử dụng D2O làm dung môi và methanol là đồng dung môi ở
tần số 500 MHz, Viện Khoa học Vật liệu Hà Nội.
Đánh giá diện tích bề mặt và thể tích lỗ xốp bằng phương pháp hấp phụ - khử
hấp phụ khí N2 tại nhiệt độ 77K bằng máy Trista Micromeritics 3000 tại trường Đại
học Sư phạm Hà Nội.
Định tính – định lượng dung dịch bằng phương pháp phổ hấp thu tử ngoại khả
kiến UV-Vis tại Trung tâm phân tích Sinh – Hóa – Lý tại Viện Khoa học vật liệu
ứng dụng TP.HCM.
Đánh giá độc tính tế bào ung thư gan đo tại phòng tế bào Viện Khoa học vật
liệu ứng dụng TP.HCM.
2.3. Phương pháp thực nghiệm
2.3.1. Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến kích thước hạt nano silica rắn
Phương pháp nghiên cứu
Hạt nano silica rắn được tổng hợp theo phương pháp Stober gồm các chất phản
ứng alkyl silicate, alcohol, nước và ammonia. Đối với các loại alkyl silicate (các nhóm
alky gồm methyl, ethyl, n-propyl, n-butyl, n-pentyl) cho thấy phản ứng xảy ra nhanh
nhất và kích thước hạt nhỏ nhất (nhỏ hơn 0,2 µ) được tạo thành với tetramethyl ester,
trong khi với tetrapentyl ester phản ứng xảy ra chậm (mất 24 giờ cho phản ứng ngưng
tụ và kích thước hạt tạo thành lớn), ngoài ra đường phân bố kích thước hạt rộng hơn.
45
Kết quả tương tự đối với dung môi là các alcohol từ methanol đếnn n-butanol [10].
Như vậy, với xu hướng Hóa học xanh là thay thế dung môi ít độc hại hơn, do đó quá
trình tổng hợp sẽ sử dụng dung môi ethanol mặc dù methanol cho kết quả kích thước
hạt nhỏ hơn. Và để đồng nhất về nhóm alkyl nên alkyl silicate được chọn là tetraethyl
orthosilicate (TEOS). Ngoài ra việc sử dụng TEOS thay vì dùng TMOS do rất khó để
kiểm soát được tốc độ thủy phân nhanh của TMOS, thường dẫn đến sự tạo thành các
hạt nano silica tự do với với cấu lỗ xốp bên trong [109].
Với mục đích kiểm soát kích thước hạt và sự phân bố kích thước hạt, nhiều
nghiên cứu về ảnh hưởng của các thông số phản ứng trong quá trình tổng hợp hạt
nano silica rắn đã được công bố gồm ảnh hưởng của nồng độ TEOS, ammonia - nước,
ethanol, nhiệt độ. Ngoài ra, còn có các yếu tố như tốc độ nhỏ dung dịch ammonia,
quá trình tổng hợp bởi siêu âm hay khuấy từ [12, 110]. Kết quả cho thấy, mỗi yếu tố
ảnh hưởng có quy luật tương đối giống nhau giữa các nghiên cứu được công bố, tuy
nhiên cũng có những quy luật trái ngược nhau. Chẳng hạn theo Matsoukas và cộng
sự, các hạt lớn hơn được tạo thành khi tăng nồng độ ammonia [11] trong khi theo Rao
thì với sự tăng nồng độ của ammonia thì kích thước hạt giảm [111]. Hay cũng trong
công bố của Matsoukas kích thước hạt nhỏ hơn khi tăng nồng độ nước, ngược lại
Park và cộng sự tạo thành hạt lớn hơn [112].
Như vậy, để tổng hợp hạt nano silica rắn với kích thước mong muốn, cần tiến
hành khảo sát các thông số phản ứng cơ bản gồm thể tích của TEOS, ethanol,
ammonia, nhiệt độ dựa trên một bộ bốn các thông số đã được công bố [91, 113] và
tốc độ nhỏ dung dịch ammonia, riêng hàm lượng nước sẽ được cố định trong tất cả
các phản ứng. Ngoài ra, đối với mỗi quy trình được công bố thì thời gian phản ứng là
khác nhau. Do đó, yếu tố thời gian phản ứng cũng được khảo sát trong nghiên cứu.
Khuấy từ được sử dụng cho tất cả các phản ứng khảo sát.
Quy trình tổng hợp
Hạt nano silica rắn được tổng hợp theo phương pháp Stober, thể hiện qua Sơ
đồ 2.1 với các thông số thí nghiệm trong Bảng 2.1. Đối với các chất tham gia phản
ứng TEOS, NH3 và ethanol, mỗi yếu tố lựa chọn 5 điểm nồng độ để khảo sát. Tương
tự thời gian phản ứng được lựa chọn tại 5 mốc thời gian. Riêng nhiệt độ được khảo
sát tại 3 điểm nhiệt độ khác nhau gồm 35, 50 và 65oC. Ngoài ra, tốc độ nhỏ dung dịch
NH3 được thực hiện bằng hai cách cho nhanh một lượt lượng NH3 vào hỗn hợp và
46
nhỏ 200ul/phút lượng NH3 bằng micropipet. Tất cả nồng độ các chất được tính toán
dựa trên tổng thể tích của các chất ban đầu tham gia phản ứng, riêng đối với chất đang
được khảo sát thì sẽ thêm lượng chất khảo sát vào tổng thể tích trên.
Cho hỗn hợp chứa lượng ethanol khảo sát và nước (được cố định thể tích) vào
bình cầu 250 ml, đậy nắp cẩn thận. Đặt bình cầu lên bếp khuấy tại toC trong 10 phút.
Sau đó, thêm nhanh TEOS vào hỗn hợp và tiếp tục khuấy tại nhiệt độ này thêm 10
phút. Cuối cùng, cho dung dịch NH3 28% (NH3 đặc) vào dung dịch. Tiếp tục khuấy
và gia nhiệt bình cầu đến thời gian x giờ thì kết thúc phản ứng. Dung dịch thu được
cho vào màng 12-14KDa thẩm tách với nước cất trong ống đong dung tích 2 lít, thời
gian thẩm tách là 4 ngày, thay nước thẩm tách 4 lần/ ngày. Sau đó, sản phẩm thu được
đem đông khô tạo thành hạt nano silica rắn SSN.
Sơ đồ 2.1. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica rắn
47
Bảng 2.3. Thông số thí nghiệm được dùng trong nghiên cứu
Thời gian phản Nhiệt độ Tốc độ thêm CTEOS CNH3 CEtOH STT (mol/l) (mol/l) (mol/l) ứng (giờ) (oC) NH3
0,07 1
0,22 2
0,61 0,41 14,18 50 Nhanh 3 3
0,93 4
1,20 5
0,17 6
0,78 7
0,36 1,46 13,54 50 Nhanh 8 3
2,24 9
2,90 10
8,68 11
12,29 12
1,49 1,64 13,72 50 Nhanh 13 3
14,67 14
15,19 15
0,5 16
2 17
3 0,22 0,38 13,48 50 Nhanh 18
4 19
5 20
3 0,22 0,38 13,48 35 Nhanh 21
48
50 22
65 23
Nhanh 24 50 0,22 0,38 13,48 3
200ul/phút 25
Phương pháp đánh giá
Đánh giá kích thước hạt và sự phân bố kích thước hạt tạo thành bởi từng thông
số khảo sát.
Chuẩn bị mẫu: Mẫu sau khi đông khô (các thông số cài đặt như sau: nhiệt độ
-38,1oC, áp suất 29,5 Pa) trong 3 ngày thì được phân tán lại trong nước khử ion đã
được lọc qua màng 0,45µm với nồng độ 1000 ppm. Đối với mẫu chụp hình TEM, sau
khi dung dịch được siêu âm thì tráng ngay lên bề mặt lưới đồng và làm khô. Riêng
đối với mẫu đo kích thước hạt thì dung dịch được để ổn định khoảng 1 giờ sau khi
siêu âm.
2.3.2. Tổng hợp hạt nano silica rắn bằng phương pháp đáp ứng bề mặt
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp đáp ứng bề mặt (Respone Surface Methodology - RSM) được
phát triển từ những năm 50 của thế kỷ trước bởi Box và cộng sự [114, 115]. RSM
bao gồm một nhóm các kỹ thuật toán học và thống kê dựa trên sự phù hợp của các
mô hình thực nghiệm với dữ liệu thử nghiệm thu được liên quan đến thiết kế thử
nghiệm. Theo hướng mục tiêu này, các hàm đa thức bậc hai hay bậc nhất được sử
dụng để mô tả hệ nghiên cứu đó và khảo sát các điều kiện thực nghiệm để tìm ra được
sự tối ưu. Một số giai đoạn trong việc áp dụng RSM như một kỹ thuật tối ưu hóa như
sau [116]:
- Lựa chọn các biến độc lập ảnh hưởng lớn đến hệ thống thông qua các nghiên
cứu sàng lọc và phân định vùng thực nghiệm, theo mục tiêu nghiên cứu và kinh
nghiệm của nhà nghiên cứu.
- Lựa chọn thiết kế thí nghiệm và thực hiện các thí nghiệm theo ma trận thí
nghiệm đã chọn.
- Xử lý thống kê toán học của dữ liệu thí nghiệm thu được thông qua sự phù hợp
của hàm đa thức.
49
- Đánh giá tính tương thích của mô hình.
- Xác minh sự cần thiết và khả năng thực hiện một sự dịch chuyển đến khu vực
tối ưu.
- Tiến hành thí nghiệm dựa trên kết quả tối ưu của từng biến.
Thiết kế thí nghiệm phức hợp trung tâm Box–Behnken designs (BBD) như
sau: Box và Behnken đã đề xuất cách chọn điểm từ cách sắp xếp giai thừa ba cấp,
cho phép ước tính hiệu quả các hệ số bậc nhất và bậc hai của mô hình toán học. Theo
cách này, các thiết kế này hiệu quả và kinh tế hơn các thiết kế 3k tương ứng của chúng,
chủ yếu cho một số lượng lớn các biến [116]. Trong thiết kế BBD, các điểm thử
nghiệm nằm trên một đường thẳng tương đương từ điểm trung tâm (Hình 1.9). Đặc
điểm chính của nó là:
- Yêu cầu số thí nghiệm theo N = 2k (k - 1) + cp, trong đó k là số lượng các yếu
tố và (cp) là số lượng điểm trung tâm.
- Tất cả các cấp độ yếu tố chỉ được điều chỉnh ở ba cấp độ (−1, 0,+1) với các
khoảng cách đều nhau giữa các cấp độ này.
Hình 2.1. Thiết kế phức hợp trung tâm BBD cho quá trình tối ưu ba yếu tố
Để tổng hợp được nano có kích thước mong muốn, tiến hành tổng hợp hạt
bằng phương pháp đáp ứng bề mặt với thiết kế thí nghiệm phức hợp trung tâm Box–
Behnken designs hay còn gọi là mô hình BBD [116]. Theo mô hình này, từ kết quả
khảo sát đơn yếu tố sẽ thực hiện chọn lọc các yếu tố chính sẽ ảnh hưởng đến kích
thước hạt, cố định các yếu tố ít ảnh hưởng và khó kiểm soát. Như vậy có 4 yếu tố
chính cần được khảo sát: thể tích dung dịch TEOS, NH3, EtOH và nhiệt độ phản ứng.
Trong đó, thời gian phản ứng được chọn cố định là 3 giờ và sẽ cho nhanh dung dịch
NH3 vào hỗn hợp. Tiến hành thiết kế BBD, các điểm thử nghiệm nằm trên một đường
thẳng tương đương từ điểm trung tâm (0), cấp độ −1, 0, +1 sử dụng phần mềm Minitab
16.
50
Quy trình tổng hợp
Hạt nano silica rắn SSN mong muốn có kích thước vào khoảng 130 nm. Dựa
vào biểu đồ tương quan giữa kích thước hạt và các thông số khảo sát, dễ dàng tìm
thấy được thể tích (hay nhiệt độ) của từng thông số tương ứng với kích thước hạt cần
đạt được (biến trung tâm) và hai tiệm cận, thể hiện qua Sơ đồ 2.2 và Bảng 2.4.
Sơ đồ 2.2. Sơ đồ minh họa thiết kế thí nghiệm phức hợp trung tâm BBD
Bảng 2.4. Các thông số phản ứng được khảo sát
Biến số STT Thông số Kí hiệu 0 -1 +1
X1 3 1 5 Thể tích TEOS (ml) 1
X2 1,2 0,6 1,8 Thể tích NH3 (ml) 2
Thể tích EtOH (ml) X3 30 10 50 3
X4 50 30 70 4 Nhiệt độ (oC)
Bằng cách sử dụng phần mềm Minitab 16, bảng số liệu các thông số thí nghiệm
được thể hiện trong Bảng 2.5. Tiến hành tổng hợp các hạt nano silica rắn SSN với 25
thí nghiệm khác nhau tương tự như quy trình tổng hợp ở Sơ đồ 2.1, trong đó thời gian
phản ứng được chọn cố định là 3 giờ và sẽ cho nhanh dung dịch NH3 vào hỗn hợp.
Kết quả kích thước hạt của 25 mẫu sẽ được xử lý tiếp theo thông qua phần mềm
Minitab 16 để đánh giá mô hình được đề xuất, mô hình được coi là có ý nghĩa thống
kê khi độ tin cậy P ≥ 95 % và hệ số tương quan R2 ≥ 0,9.
Để kiểm tra độ chính xác và độ tin cậy của mô hình thu được, một thử nghiệm
xác nhận đã được thực hiện trong điều kiện tối ưu hóa này bằng cách tổng hợp hạt
SSN theo điều kiện tối ưu. Sau đó so sánh kết quả kích thước hạt này với giá trị dự
51
đoán (kích thước hạt mong muốn vào khoảng 130 nm), nếu sai số ≤ 5% thì mô hình
được đề xuất đáng tin cậy. Và hạt SSN được tổng hợp ở điều kiện tối ưu này sẽ được
đánh giá hình thái, cấu trúc,…và được dùng làm lõi rắn cho giai đoạn phản ứng tiếp
theo.
Bảng 2.5. Giá trị thực nghiệm bởi phần mềm Minitab 16
STT V TEOS (ml) V NH3 (ml) V EtOH (ml) Nhiệt độ (oC)
5 1,2 30 30 1
3 1,8 30 30 2
3 1,2 50 30 3
1 1,2 50 50 4
3 0,6 30 70 5
3 1,8 10 50 6
5 1,2 10 50 7
3 0,6 30 30 8
1 1,2 10 50 9
3 0,6 10 50 10
1 1,8 30 50 11
5 0,6 30 50 12
5 1,2 50 50 13
3 1,2 50 70 14
5 1,2 30 70 15
3 1,2 10 30 16
3 1,2 10 70 17
3 1,8 50 50 18
3 0,6 50 50 19
3 1,2 30 50 20
5 1,8 30 50 21
1 1,2 30 30 22
1 1,2 30 70 23
3 1,8 30 70 24
1 0,6 30 50 25
52
Phương pháp đánh giá
Các hạt SSN được tổng hợp theo các thông số ở Bảng 2.5 được đo kích thước
hạt. Riêng đối với hạt SSN tổng hợp ở điều kiện tối ưu sẽ được đánh giá kích thước
hạt, sự phân bố kích thước hạt, thế zeta và độ bền theo thời gian, đánh giá hình thái
qua ảnh SEM, TEM. Ngoài ra, tiến hành đánh giá diện tích bề mặt, phân tích nhiệt
khối lượng TGA.
Chuẩn bị mẫu: Mẫu sau khi đông khô (các thông số cài đặt như sau: nhiệt độ
-38,1oC, áp suất 29,5 Pa) trong 3 ngày thì được phân tán lại trong nước khử ion đã
được lọc qua màng 0,45 µm với nồng độ 1000 ppm. Đối với mẫu chụp hình TEM,
sau khi dung dịch được siêu âm thì tráng ngay lên bề mặt lưới đồng và làm khô. Riêng
đối với mẫu đo kích thước hạt, thế zeta thì dung dịch được để ổn định khoảng 1 giờ
sau khi siêu âm. Mẫu đo diện tích bề mặt và kích thước lỗ xốp chuẩn bị ở dạng rắn.
2.3.3. Tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ (SSN@CTAB-SSN)
Phương pháp nghiên cứu
Hạt nano silica rắn với kích thước mong muốn được sử dụng làm lõi rắn trong
tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN@CTAB-SSN. Quá trình phủ lớp vỏ
lên SSN được thực hiện theo phương pháp sol-gel từ TEOS là tiền chất của silica và
CTAB là chất tạo ra các lỗ xốp [117]. Đây là phương pháp tổng hợp phổ biến được
sử dụng để hợp các hạt nano silica cấu trúc mao quản chẳng hạn như M41S, MCM-
41, MCM-48,…do đó lớp vỏ tạo thành sẽ có cấu trúc mao quản. Ngoài ra, CTAB là
chất hoạt động bề mặt cation được sử dụng rộng rãi trong tổng hợp loại vật liệu này
[118-120].
Hầu hết các nghiên cứu đều sử dụng phương pháp sol – gel và chất hoạt động
bề mặt CTAB để phủ lớp vỏ lên hạt nano silica rắn, các chất phản ứng gồm TEOS,
CTAB, ethanol, nước, NH3 và CTAB. Mỗi nghiên cứu này sử dụng lõi nano silica
rắn với kích thước khác nhau, do đó các thông số thực hiện phản ứng phủ vỏ cũng
khác nhau [31, 89, 121, 122].
Như vậy, để phủ được lớp vỏ nano silica cấu trúc mao quản lên hạt SSN, tỉ lệ
các chất tham gia phản ứng dựa trên quy trình tổng hợp hạt nano silica cấu trúc mao
quản của nhóm đã được công bố [108, 123, 124] và được điều chỉnh cho phù hợp với
lượng nano silica rắn SSN được sử dụng. Mặt khác, để kiểm soát kích thước lớp vỏ,
dựa vào các quy luật được khảo sát ở mục 2.3.1 tiền chất TEOS được ưu tiên chọn để
53
khảo sát kích thước lớp vỏ. Đặc biệt một quá trình phủ vỏ nhưng không sử dụng
CTAB được thực hiện để so sánh hình thái các hạt tạo thành.
Quy trình tổng hợp
a) Tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ
Sơ đồ 2.3. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN@CTAB/SSN
Phân tán các hạt nano silica rắn SSN vào nước khử ion và tiến hành đánh siêu
âm 15 phút gọi là dung dịch A. Cân chất hoạt động bề mặt CTAB và hoà tan vào
nước khử ion, khuấy 15 phút tại nhiệt độ thường gọi là dung dịch B. Cho cả hai dung
dịch A và B vào bình cầu, đậy nắp cẩn thận. Đặt bình cầu lên bếp đã được gia nhiệt
tại 50oC, khuấy dung dịch trong 30 phút. Sau đó lần lượt cho dung dịch ethanol, NH3
vào hỗn hợp và TEOS có nồng độ a (M) được thêm vào sau cùng. Nồng độ TEOS
được khảo sát lần lượt tại các nồng độ a = 0,07; 0,27; 0,45; 0,61; 0,72 (M) tương ứng
với các mẫu được kí hiệu SSN@CTAB-SSN/1 đến SSN@CTAB-SSN/5. Tiếp tục
khuấy trong 6 giờ tại 50oC thì dừng lại. Sản phẩm thu được đem thẩm tách bằng màng
12-14 KDa trong nước cất, thời gian là 4 ngày, nước được thay 4 lần/ngày, sau đó
được đông khô. Sơ đồ tổng hợp được thể hiện trong Sơ đồ 2.3.
b) Tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ (SSN – SSN)
Thực hiện phủ vỏ đối với hạt rắn theo quy trình phủ vỏ đối với hạt
SSN@CTAB-SSN được thể hiện trong Sơ đồ 2.3 nhưng không dùng chất hoạt động
54
bề mặt CTAB. Và nồng độ TEOS sử dụng là nồng độ tối ưu được lựa chọn trong quy
trình khảo sát trên.
Phương pháp đánh giá
Các hạt SSN@CTAB/SSN trong quá trình khảo sát và SSN - SSN được đánh
giá hình thái qua ảnh TEM, đánh giá kích thước hạt. Ngoài ra, mẫu SSN@CTAB/SSN
có kích thước nhỏ nhất và bền sẽ được đánh giá thế zeta và độ bền thế theo thời gian,
diện tích bề mặt, phân tích nhiệt khối lượng TGA.
Chuẩn bị mẫu: Mẫu sau khi đông khô (các thông số cài đặt như sau: nhiệt độ
-38,1oC, áp suất 29,5 Pa) trong 3 ngày thì được phân tán lại trong nước khử ion đã
được lọc qua màng 0,45µm với nồng độ 1000 ppm. Đối với mẫu chụp hình TEM, sau
khi dung dịch được siêu âm thì tráng ngay lên bề mặt lưới đồng và làm khô. Riêng
đối với mẫu đo kích thước hạt, thế zeta thì dung dịch được để ổn định khoảng 1 giờ
sau khi siêu âm. Mẫu đo diện tích bề mặt và kích thước lỗ xốp, TGA được chuẩn bị
ở dạng rắn.
2.3.4. Tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng (HMSN)
Phương pháp nghiên cứu
Hạt nano silica cấu trúc rỗng được tổng hợp bằng phương pháp hard –
template. Đây là phương pháp phổ biến hiện nay vì có thể kiểm soát quá trình tạo hạt
và kích thước hạt. Quá trình tổng hợp gồm 3 giai đoạn: (i) Tổng hợp lõi nano silica
rắn, (ii) phủ lớp vỏ mao quản tạo thành cấu trúc lõi – vỏ SSN@CTAB/SSN) và (iii)
ăn mòn lõi tạo thành nano silica rỗng thể hiện trong Sơ đồ 2.4.
Sơ đồ 2.4. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica rỗng
Quan sát Sơ đồ 2.4 nhận thấy, để kiểm soát kích thước hạt nano silica cấu trúc
rỗng, vấn đề đặt ra là phải kiểm soát kích thước hạt nano silica được tạo thành trong
từng giai đoạn, đặc biệt là kích thước lõi nano silica rắn ban đầu. Báo cáo của Chen
55
và cộng sự cũng khẳng định kích thước của SiO2 là rất cần thiết trong việc ảnh hưởng
đến kích thước của lỗ rỗng. Các cấu trúc rỗng khác nhau có thể thu được bằng cách
kiểm soát kích thước và hình thái SiO2 thông qua thay đổi tỷ lệ các chất tham gia
phản ứng trong quá trình tạo lõi [36].
Các hạt nano silica với kích thước từ 20 - 200 nm được dùng như hệ dẫn truyền
thuốc trong cả in vitro, in vivo và kích thước hạt nhỏ thì hiệu quả của hệ dẫn truyền
thuốc tốt hơn [125-128]. Tuy nhiên, các hạt nano có kích thước nhỏ hơn 100 nm
thường có cấu trúc mao quản sắp xếp kém [129]. Hầu hết các hạt nano dẫn truyền
thuốc được FDA cho phép nghiên cứu lâm sàng hoặc tiền lâm sàng có kích thước trên
100 nm [126]. Do đó, với mục tiêu tạo ra hệ chất mang ứng dụng trong dẫn truyền
thuốc, đề tài tập trung tổng hợp hạt HMSN hình cầu với kích thước mong muốn nhỏ
hơn 200 nm.
Như vậy, lõi nano silica rắn với mong muốn sẽ có kích thước vào khoảng
100nm theo thống kê kích thước từ ảnh TEM bằng phần mềm ImageJ, như vậy kích
thước theo phương pháp tán xạ ánh sáng động học do bị bao phủ bởi lớp hydrate nên
kích thước khoảng 130nm được thực hiện ở mục 2.3.3. Lõi nano silica rắn được phủ
lớp vỏ bền (hạt SSN@CTAB/SSN được tổng hợp ở mục 2.2.2. Giai đoạn cuối cùng
trong tổng hợp nano silica cấu trúc rỗng HSMS là quá trình xử lý lõi SSN trong cấu
trúc lõi – vỏ SSN@CTAB/SSN. Lõi SSN có thể được ăn mòn bằng dung dịch KMnO4
[130], môi trường axit (như HF) hoặc bazơ (như Na2CO3) [131]. Trong đó lõi chủ
yếu được xử lý trong môi trường bazơ yếu bằng cách sử dụng dung dịch Na2CO3
nhằm mục đích kiểm soát phản ứng ăn mòn được diễn ra từ từ [30, 31]. Do đó yếu tố
chính được khảo sát là thời gian phản ứng để xác định tại thời gian nào thì lõi được
ăn mòn hoàn toàn. Cũng trong phản ứng ăn mòn này, yếu tố nhiệt độ cũng được sử
dụng để tăng tốc độ phản ứng. Giai đoạn cuối cùng, chất hoạt động bề mặt sẽ được
loại bỏ bằng cách nung ở nhiệt độ cao, chiết với dung dịch NaCl trong methanol, HCl
và ethanol tại 60oC [4] hoặc thẩm tách trong dung dịch acetic axit và ethanol tại nhiệt
độ phòng để tạo thành lớp vỏ có cấu trúc mao quản.
Đặc biệt trong quá trình ăn mòn lõi silica bên trong, chất hoạt bề mặt CTAB
giữ vai trò quan trọng trong việc tạo cấu trúc mao quản trên lớp vỏ và thúc đẩy quá
trình ăn mòn [30, 132]. Do đó, để khẳng định vai trò này của CTAB, ngoài phản ứng
56
ăn mòn hạt SSN@CTAB-SSN, một thử nghiệm so sánh được thực hiện đó là tiến
hành ăn mòn hạt SSN – SSN (không có sử dụng CTAB trong quá trình phủ lớp vỏ).
Quy trình tổng hợp
a) Từ hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN@CTAB-SSN
Phân tán các hạt nano silica rắn SSN@CTAB/SSN vào nước khử ion và tiến
hành đánh siêu âm 15 phút. Cho dung dịch vào bình cầu và đặt lên bếp đã được gia
nhiệt tại 50oC, khuấy dung dịch trong 30 phút. Sau đó cho dung dịch Na2CO3 0,2 M
vào dung dịch. Thực hiện phản ứng tại các điểm thời gian lần lượt T = 1; 3; 6; 9; và
12 (giờ) thì dừng lại, kí hiệu tương ứng các mẫu như sau HMSN-1, HMSN-3, HMSN-
6, HMSN-9, HMSN-12. Sản phẩm thu được đem thẩm tách bằng màng 12-14KDa
trong dung dịch CH3COOH 2M và ethanol theo tỷ lệ 1:1 về thể tích, thời gian là 4
ngày, dịch thẩm tách được thay 4 lần/ngày, sau đó được thẩm tách lại bằng nước cất
trong 2 ngày, nước được thay 4 lần/ngày và đông khô thu được hạt. Sơ đồ tổng hợp
được thể hiện trong Sơ đồ 2.5.
Sơ đồ 2.5. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN
b) Từ hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN – SSN
Quy trình tổng hợp được thực hiện theo Sơ đồ 2.5, theo quy trình tổng hợp từ
các hạt SSN@CTAB/SSN. Sản phẩm tạo thành được kí hiệu HMSN-K.
57
Phương pháp đánh giá
Các hạt HMSN, HMSN-K được đánh giá hình thái qua ảnh TEM. Ngoài ra,
hạt HMSN được đánh giá kích thước hạt và thế zeta, ảnh SEM, đánh giá diện tích bề
mặt, FTIR, XRD, XPS.
Chuẩn bị mẫu: Mẫu sau khi đông khô (các thông số cài đặt như sau: nhiệt độ
-38,1oC, áp suất 29,5 Pa) trong 3 ngày thì được phân tán lại trong nước khử ion đã
được lọc qua màng 0,45µm với nồng độ 1000 ppm. Đối với mẫu chụp hình TEM, sau
khi dung dịch được siêu âm thì tráng ngay lên bề mặt lưới đồng và làm khô. Riêng
đối với mẫu đo kích thước hạt, thế zeta thì dung dịch được để ổn định khoảng 1 giờ
sau khi siêu âm. Đối với các chỉ tiêu còn lại, mẫu được chuẩn bị ở dạng rắn.
2.3.5. Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với nhóm amin
Phương pháp nghiên cứu
Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với nhóm amin bằng phương pháp
đồng ngưng - tụ “co-condensation” thông qua tiền chất silicon chứa nhóm amin có
thể là 3-aminopropyltriethoxysilane (APTES) hay 3-aminopropyltrimethoxysilane
(APTMS) (Sơ đồ 2.6) [95, 133].
Sơ đồ 2.6. Sơ đồ biến tính bề mặt HMSN với nhóm amin
Phản ứng có thể được thực hiện trong dung môi toluen hoặc enthanol, tại nhiệt
độ thường hay nhiệt độ cao từ 60 - 80oC [2, 32, 94, 134]. Như vậy, trong quy trình
tổng hợp chọn các chất tham gia phản ứng gồm ethanol, APTES và tiến hành khảo
sát lượng amin được biến tính trên bề mặt. Tất cả các phản ứng được thực hiện tại
nhiệt độ phòng.
Ngoài ra nhóm amin được biến tính trên bề mặt hạt nano silica cấu trúc rỗng
được định lượng bằng thử nghiệm ninhydrin với APTES được sử dụng làm chất chuẩn
[135-139]. Khi ninhydrin phản ứng với nhóm amin sẽ tạo thành phức màu hồng đặc
trưng của ninhydrin – amino (Hình 2.2) [140]. Phương pháp phổ UV – Vis được dùng
để định lượng nhóm amin tại bước sóng 570 nm [141].
58
Hình 2.2. Phản ứng giữa ninhydrin và amino axit tạo thành phức màu tím
Quy trình tổng hợp
a) Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với nhóm amin (HMSN-NH2)
Sơ đồ 2.7. Sơ đồ biến tính biến bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với nhóm amin
Phân tán 200mg hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN vào ethanol và tiến hành
đánh siêu âm 15 phút. Cho dung dịch vào bình cầu và khuấy 15 phút tại nhiệt độ
thường. Sau đó nhỏ từ từ APTES vào hỗn hợp, thực hiện phản ứng tại các thể tích
của APTES lần lượt là: 50; 100; 250; 500 và 800 (µl) tương ứng các mẫu tạo thành
được kí hiệu HMSN-NH2-50, HMSN-NH2-100, HMSN-NH2-250, HMSN-NH2-500,
HMSN-NH2-800. Sau đó tiếp tục khuấy 24 giờ tại nhiệt độ phòng thì dừng phản ứng.
Sản phẩm được ly tâm rửa với ethanol, nước trong 10 phút với tốc độ 10000 rpm và
mẫu được đông khô. Quy trình tổng hợp thể hiện trong Sơ đồ 2.7.
59
b) Định lượng nhóm amin trên bề mặt hạt nano silica cấu trúc rỗng
Pha 1 lít dung dịch đệm acetate pH 5,5 gồm: Hòa tan 544 g natri acetate trong
400 ml nước cất, sau đó thêm 100 ml dung dịch acetic axit, định mức đến vạch 1 lít
bằng nước cất, điều chỉnh pH cần thiết bằng dung dịch NaOH.
Pha thuốc thử Ninhydrin: Hòa tan 2 g ninhydrin vào 75 ml DMSO, sau đó
thêm 25 ml đệm acetate. Dung dịch được chứa trong chai màu nâu.
Các hạt nano silica HMSN-NH2 được phân tán trong nước khử ion, đánh siêu
âm 15 phút.
Quy trình định lượng: Cho 2 ml dung dịch HMSN-NH2 vào lọ thủy tinh, thêm
tiếp 2 ml thuốc thử ninhydrin, lắc đều và sau đó đặt lên bếp được gia nhiệt tại 80oC
trong 20 phút. Lấy lọ thủy tinh ra làm nguội, tiến hành ly tâm trong 5 phút với tốc
độ 10000 rpm, lấy dung dịch bên trên pha loãng với 10 ml dung dịch ethanol/H2O (tỷ
lệ 1:1 v/v). Đo độ hấp phụ của dung dịch bằng phổ UV/Vis tại bước sóng 570 nm.
Phương pháp đánh giá
Các hạt HMSN-NH2-50, HMSN-NH2-100, HMSN-NH2-250, HMSN-NH2-
500, HMSN-NH2-800 được đánh giá hình thái qua ảnh TEM. Đánh giá kích thước
hạt và thế zeta, đánh giá diện tích bề mặt và thể tích lỗ xốp. Ngoài ra, mẫu chứa lượng
nhóm amin cao nhất được phân tích bằng FTIR, XRD, XPS, TGA.
Chuẩn bị mẫu: Mẫu sau khi đông khô (các thông số cài đặt như sau: nhiệt độ
-38,1oC, áp suất 29,5 Pa) trong 3 ngày thì được phân tán lại trong nước khử ion đã
được lọc qua màng 0,45µm với nồng độ 1000 ppm. Đối với mẫu chụp hình TEM, sau
khi dung dịch được siêu âm thì tráng ngay lên bề mặt lưới đồng và làm khô. Riêng
đối với mẫu đo kích thước hạt, thế zeta thì dung dịch được để ổn định khoảng 1 giờ
sau khi siêu âm. Đối với các chỉ tiêu còn lại, mẫu được chuẩn bị ở dạng rắn.
2.3.6. Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với mPEG
Phương pháp nghiên cứu
Poly (ethylene glycol) (PEG) được coi là một trong những polymer được dùng
để biến tính bề mặt phù hợp nhất vì những tính chất độc đáo bao gồm độ hòa tan trong
cả nước và dung môi hữu cơ, độc tính thấp, tính tương thích sinh học và khả năng
phân hủy sinh học tốt. Trước khi biến tính, PEG cần được “hoạt hóa” tức là những
nhóm OH ở vị trí cuối cần được chuyển thành những nhóm hoạt động như halogen,
aldehyde [93, 142]. Trong nghiên cứu, monomethoxyl polyethylene glycol (mPEG,
60
MW 5 KDa) được hoạt hóa bởi 4-Nitrophenyl chloroformate (NPC) sản phẩm tạo
thành mPEG-NPC. Do NPC dễ dàng phản ứng với nhóm amin trong nước nên để
biến tính bề mặt nano silica với mPEG (sản phẩm kí hiệu HMSN-mPEG) sẽ sử dụng
mẫu silica trên bề mặt có chứa nhóm amin cao nhất trong các tỉ lệ khảo sát thể tích
của APTES thực hiện ở nội dung 2.3.5.
Quy trình tổng hợp
a) Hoạt hóa mPEG bằng 4-Nitrophenyl chloroformate (NPC)
Sơ đồ 2.8. Sơ đồ hoạt hóa mPEG bằng p-nitrophenyl chloroformate
Cân 50 gam (0,01mol) mPEG cho vào bình cầu 250 ml, làm nóng chảy ở nhiệt
độ 65oC trong môi trường chân không khoảng 2 giờ. Sau đó cho 2,42 g (0,012 mol)
NPC vào bình cầu, khuấy ở nhiệt độ 65oC, môi trường khí N2 trong 5 giờ với tốc độ
350 rpm. Giảm nhiệt độ xuống 40oC, cho 50 ml THF vào khuấy ở nhiệt độ phòng
trong vòng 16 giờ. Hỗn hợp thu được đem kết tủa trong 500 ml diethyl ether và lọc
hút chân không để thu sản phẩm. Tiến hành cô quay chân không 30 phút nhằm loại
bỏ hoàn toàn dung môi còn sót lại đến khối lượng không đổi. Sản phẩm thu được ở
dạng bột, màu trắng mịn.
61
b) Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với mPEG
Phân tán 50mg HMSN-NH2 (mẫu chứa lượng amin cao nhất) trong 10ml nước
khử ion, đánh siêu âm trong 15 phút và cho vào bình cầu, gọi là dung dịch A. Hòa
tan mPEG-NPC trong nước khử ion, khuấy đến tan, gọi là dung dịch B. Nhỏ từ từ
dung dịch B vào dung dịch A, tiếp tục khuấy trong vòng 2 giờ với tốc độ 350 rpm.
Sản phẩm thu được thẩm tách với nước cất bằng màng 12×14 KDa trong 2 ngày, thay
nước 4 lần/ngày, sau đó đông khô thu được mẫu HMSN-mPEG dạng bột màu trắng.
Sơ đồ 2.9. Sơ đồ tổng hợp HMSN-mPEG
Phương pháp đánh giá
Mẫu mPEG-NPC, HMSN-mPEG được phân tích bằng FTIR. Ngoài ra mẫu
HMSN-mPEG được đánh giá hình thái qua ảnh SEM, TEM. Đánh giá kích thước hạt
và thế zeta, đánh giá diện tích bề mặt - thể tích lỗ xốp, XRD, XPS và TGA.
Chuẩn bị mẫu: Mẫu sau khi đông khô (các thông số cài đặt như sau: nhiệt độ
-38,1oC, áp suất 29,5 Pa) trong 3 ngày thì được phân tán lại trong nước khử ion đã
được lọc qua màng 0,45µm với nồng độ 1000 ppm. Đối với mẫu chụp hình TEM, sau
khi dung dịch được siêu âm thì tráng ngay lên bề mặt lưới đồng và làm khô. Riêng
đối với mẫu đo kích thước hạt, thế zeta thì dung dịch được để ổn định khoảng 1 giờ
sau khi siêu âm. Đối với các chỉ tiêu còn lại, mẫu được chuẩn bị ở dạng rắn.
62
2.3.7. Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với Pluronic (F127)
Phương pháp nghiên cứu
Tương tự như mPEG, đối với Pluronic cũng cần được hoạt hóa với 4-
Nitrophenyl chloroformate. Tuy nhiên, trong cấu trúc của Pluronic có hai nhóm –OH
ở hai đầu, nên sau khi cả hai đầu được hoạt hóa với NPC thì tiếp tục cho phản ứng
với 3-amino-1-propanol để tạo thành một nhóm –OH ở một đầu, sản phẩm tạo thành
kí hiệu NPC-F127-OH. Tiếp theo, để biến tính bề mặt nano silica với Pluronic
(HMSN-F127), sử dụng mẫu silica trên bề mặt có chứa nhóm amin phản ứng với
Pluronic đã hoạt hóa để tạo thành HMSN-F127.
Sơ đồ 2.10. Sơ đồ phản ứng tổng hợp NPC-F127-OH
Quy trình tổng hợp
a) Hoạt hóa Pluronic (F127) bằng 4-Nitrophenyl chloroformate (NPC)
Cân 5 gam F127 cho vào bình cầu 250 mL làm nóng chảy ở nhiệt độ 65oC
trong môi trường chân không khoảng 1 giờ 30 phút để F127 tan chảy hoàn toàn và
đồng thời không có độ ẩm trong mẫu. Sau đó 0,18 g NPC cho vào bình cầu, khuấy ở
nhiệt độ 65oC, môi trường khí N2 trong 5 giờ. Giảm nhiệt độ xuống 40oC, cho 10 ml
THF vào khuấy ở nhiệt độ trong vòng 16 giờ. Cho 0,03 ml 3-amino-1-propanol (1,2
mmol và d = 0,982 gam/l) pha loãng bằng 10 ml THF, nhỏ giọt từ từ vào bình cầu,
khuấy từ trong 5 giờ ở nhiệt độ phòng. Dung dịch thu được đem đi tủa trong 250 ml
63
diethyl ether. Sau đó, hỗn hợp được lọc hút chân không, sản phẩm được đem đi cô
quay để loại hoàn toàn dung môi còn sót lại đến khối lượng không đổi. Sản phẩm thu
được có màu trắng mịn.
Sơ đồ 2.11. Sơ đồ hoạt hóa F127 bằng p-nitrophenyl chloroformate
b) Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với Pluronic
Phân tán 50 mg HMSN-NH2 (mẫu chứa lượng amin cao nhất) trong 10ml nước
khử ion, đánh siêu âm trong 15 phút và cho vào bình cầu, gọi là dung dịch A. Hòa
tan NPC-F127-OH trong nước khử ion, khuấy đến tan, gọi là dung dịch B. Nhỏ từ từ
dung dịch B vào dung dịch A, tiếp tục khuấy trong vòng 2 giờ với tốc độ 350 rpm.
Sản phẩm thu được thẩm tách với nước cất bằng màng 12×14 KDa trong 2 ngày, thay
nước 4 lần/ngày, sau đó đông khô thu được mẫu HMSN-F127 dạng bột màu trắng.
Phương pháp đánh giá
Mẫu NPC-F127-OH, HMSN-F127 được phân tích bằng FTIR. Ngoài ra mẫu
HMSN-F127 được đánh giá hình thái qua ảnh SEM, TEM. Đánh giá kích thước hạt
và thế zeta, đánh giá diện tích bề mặt - thể tích lỗ xốp, XRD, XPS và TGA.
64
Chuẩn bị mẫu: Mẫu sau khi đông khô (các thông số cài đặt như sau: nhiệt độ
-38,1oC, áp suất 29,5 Pa) trong 3 ngày thì được phân tán lại trong nước khử ion đã
được lọc qua màng 0,45µm với nồng độ 1000 ppm. Đối với mẫu chụp hình TEM, sau
khi dung dịch được siêu âm thì tráng ngay lên bề mặt lưới đồng và làm khô. Riêng
đối với mẫu đo kích thước hạt, thế zeta thì dung dịch được để ổn định khoảng 1 giờ
sau khi siêu âm. Đối với các chỉ tiêu còn lại, mẫu được chuẩn bị ở dạng rắn.
2.3.8. Nghiên cứu hiệu quả nang hóa thuốc chống ung thư Doxorubicin (Dox)
của các chất mang nano HMSN, HMSN-NH2, HMSN-mPEG, HMSN-F127
Để đánh giá khả năng nang hóa thuốc của nano silica rỗng và mẫu chức hóa
bề mặt, phương pháp khuếch tán qua màng được sử dụng. Theo phương pháp này hệ
chất mang – thuốc được khuấy tại nhiệt độ phòng, sau đó cho vào màng thẩm tách và
đặt vào môi trường trường thích hợp để loại thuốc tự do. Thuốc tự do được định lượng
bằng phương pháp trắc quang UV-Vis.
Khả năng mang thuốc của vật liệu được đánh giá qua thông số: Hiệu suất tải
thuốc – DLE (Drug loading efficency) và khả năng mang thuốc – DLC [95, 143]:
Lượng thuốc chứa trong mẫu
Hiệu suất tải thuốc
Tổng lượng thuốc ban đầu
DLE (%) = x 100%
Lượng thuốc chứa trong mẫu
Khả năng mang thuốc của hạt
Tổng lượng mẫu và lượng thuốc ban đầu
DLC (%) = x 100%
Quy trình thực hiện: Phân tán 20 mg mỗi chất mang trong 8 ml nước khử
ion, đánh siêu âm 15 phút, cho vào lọ thủy tinh màu nâu. Tiếp theo thêm dung dịch
Doxorubicin 1000 ppm vào và khuấy hỗn hợp trong 24 giờ tại nhiệt độ phòng (riêng
đối với chất mang HMSN-F127 thì khuấy tại 20oC do đây là polymer nhạy nhiệt),
mẫu được đặt trong bóng tối. Sau đó chia thành 3 phần, tương ứng với ba nghiệm
thức. Cho mỗi phần vào một túi màng cellulose 6×8 KDa, thẩm tách trong 10 ml nước
khử ion trong 6 giờ. Thay nước bên ngoài màng 3 lần, mỗi lần cách nhau 2 giờ. Nước
cất ngoài màng ứng với mỗi lần thay được đem đi đo UV-Vis để xác định hàm lượng
Dox tự do tương ứng. Sau khi loại thuốc dư, dung dịch bên trong màng ngay lập tức
được đông khô để mang đánh giá khả năng phóng thích thuốc. Kí hiệu hệ chất mang
– thuốc gồm HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox.
65
Sơ đồ 2.12. Sơ đồ nang hóa thuốc Doxorubicine của hệ chất mang
2.3.9. Khảo sát tốc độ phóng thích thuốc Doxorubicin của hệ HMSN/Dox,
HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox
Đệm PBS là một dung dịch đẳng trương có pH 7,4 giống với pH trong cơ thể
người, pH 5,5 là pH của tế bào ung thư, đây là dung dịch điển hình để thẩm tách các
chất tương hợp sinh học. Phương pháp màng thẩm tách được sử dụng để khảo sát sự
nhả chậm thuốc Dox từ hệ. Túi thẩm tách có khối lượng phân tử 3.5 KDa chứa mẫu
được treo lơ lửng trong dung dịch phosphate-buffered saline (PBS) có pH 7,4 và pH
5,5 được đặt trong bể điều nhiệt và khuấy ở 37 ± 10C. Ở mỗi khoảng thời gian khác
nhau một lượng mẫu được rút ra, đồng thời thêm vào một lượng tương ứng dung dịch
PBS được rút ra để đảm bảo thể tích dung dịch đệm không đổi. Hàm lượng Dox được
giải phóng ra được xác định bằng phương pháp quang phổ tử ngoại khả kiến UV-Vis.
Thí nghiệm nhả chậm Dox được làm lặp lại 3 lần với khoảng tin cậy lớn hơn 95%.
n−1
Phần trăm Dox giải phóng ra được tính bằng công thức (Wendy H. Chern).
i=1
Q = CnVs + Vt ∑ Cn−1
Trong đó:
Q: lượng Dox được giải phóng từ chất mang nano
Cn: nồng độ ở thời điểm t.
66
Vs: thể tích của PBS
Vt: thể tích mẫu.
n−1 i=1
∑ : nồng độ của Dox được giải phóng theo thời gian. Cn−1
Quy trình thực hiện: Phân tán một lượng xác định hệ chất mang – thuốc gồm
HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox vào 1 ml
nước cất. Chuyển các mẫu thử vào màng cellulose 6×8 KDa riêng biệt. Đặt các màng
thẩm tách vào 20 ml dung dịch đệm photsphate (PBS) có pH lần lượt 7,4 và 5,5. Tiến
hành khuấy dung dịch tại nhiệt độ sinh lý 37oC với tốc độ 100 rpm. Tại các thời điểm
định trước gồm 1, 3, 6, 9, 12, 24, 36, 48 và 72 giờ thì 2 ml dung dịch bên ngoài màng
được lấy ra và 2ml đệm được thêm vào. Đo độ hấp thụ của các dung dịch ngoài màng
bằng phương pháp trắc quang UV-Vis, sau đó vẽ biểu đồ phóng thích thuốc của các
mẫu tương ứng.
Sơ đồ 2.13. Sơ đồ phóng thích thuốc của hệ chất mang – thuốc
67
2.3.10. Nghiên cứu độc tính tế bào đối với các hệ chất mang nano HMSN, HMSN-
NH2, HMSN-PEG, HMSN-F127, HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-
mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox
Sử dụng các phương pháp MTT để đánh giá độ độc tế bào của hệ mang thuốc
và hiệu quả diệt tế bào ung thư của hệ chất mang khi mang thuốc chống ung thư. Các
tế bào ung thư dự kiến sử dụng là tế bào ung thư gan HCC J5 và được thực hiện tại
Viện Khoa học vật liệu ứng dụng thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyên tắc
MTT là phương pháp phản ánh số lượng tế bào thông qua các sản phẩm trao
đổi chất của chúng. Cụ thể, các enzyme oxidoreductase phụ thuộc NADPH (NADPH-
dependent oxidoreductase) phản ánh số lượng tế bào sống hiện diện. Những enzyme
này có khả năng khử muối 3-(4,5-dimethylthiazol-2-yl)-2,5-diphenyltetrazolium
bromide (viết tắt là MTT, thuộc loại muối tetrazolium) tạo thành tinh thể formazan
không tan, có màu tím. Sau đó, formazan được hòa tan bằng dung dịch isopropanol
đã được axit hóa trước bằng HCl 0,01N tạo thành dung dịch màu tím. Dung dịch này
được định lượng (xác định nồng độ formazan) bằng cách đo mật độ quang (optical
density, hay OD) của nó, sử dụng máy đo quang phổ ở bước sóng 500 – 600 nm. Từ
giá trị này, tính toán ngược lại số lượng tế bào sống, từ đó đánh giá hoạt tính của đối
tượng đã thử nghiệm.
Nuôi cấy tế bào
Dòng tế bào ung thư gan (HCC J5) được nuôi cấy trong môi trường DMEM
có bổ sung L-glutamin (2 mM), 1,5 g/L NaHCO3, penicillin (100 U/mL),
streptomycin (100 μg/mL), 10% (v/v) huyết thanh bào thai bò FBS và ủ ở 37oC,
5% CO2.
Quy trình khảo sát hoạt tính gây độc bằng phương pháp MTT
Tế bào đơn được cấy trên những đĩa nuôi cấy 96 giếng với mật độ là 5×104
tế bào/giếng. Sau 24 giờ nuôi cấy, quần thể tế bào được ủ với chất khảo sát lần
lượt Dox, HMSN, HMSN-NH2, HMSN-mPEG, HMSN-F127, HMSN/Dox,
HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox và HMSN-F127/Dox ở các nồng độ khác
nhau trong 48 giờ. Sau đó, 20 µl dung dịch MTT (5 mg/mL) được thêm vào mỗi
giếng và ủ 4 giờ ở 37oC. Môi trường nuôi cấy được loại bỏ, 100 µl dung dịch
DMSO được thêm vào mỗi giếng và khuấy nhẹ trong 2 phút. Các đĩa sau đó được
68
đo độ hấp thụ quang tại bước sóng 570 nm. Các thí nghiệm được lặp lại ba lần và
kết quả được trình bày dưới dạng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn.
Xử lý kết quả
Sau khi có giá trị mật độ quang ở bước sóng 570nm (ký hiệu là OD570 )
- Tính OD570 = ODtb - ODblank
- Tính tỉ lệ (%) gây độc tế bào theo công thức:
Với
- ODtb: giá trị OD của giếng có chứa tế bào - ODblank: giá trị OD của giếng blank (không có tế bào) - ODTN: giá trị OD của mẫu thử - ODC: giá trị OD của mẫu chứng (control) Dữ liệu được tính toán dựa trên giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn và đánh giá
thống kê thực hiện bằng Microsolf Excell.
69
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ - THẢO LUẬN
3.1. Kết quả khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến kích thước hạt nano silica rắn
3.1.1. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nồng độ TEOS
Theo báo cáo của Stober và cộng sự, lượng TEOS không ảnh hưởng đến kích
thước hạt [10]. Ngược lại, Bogush và cộng sự cho rằng kích thước hạt lớn hơn do
tăng nồng độ của TEOS [12] và trong khi Van Helden và cộng sự thì cho rằng kích
thước hạt giảm [144].
Đồ thị 3.1. Ảnh hưởng của nồng độ TEOS đến kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của NH3 (0,41 mol/l) và H2O (7,23 mol/l)
Quan sát Đồ thị 3.1 nhận thấy tại nồng độ của dung dịch NH3 0,41 mol/l và
nồng độ H2O 7,23 mol/l, kích thước hạt tăng khi tăng nồng độ của TEOS cho đến khi
nồng độ TEOS 0,61 mol/l thì kích thước hạt ổn định khoảng 239,63 ± 3,50 nm. Cơ
chế tạo thành các hạt gồm hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất (giai đoạn tạo mầm) tại
dung dịch quá bão hòa ban đầu, sự tạo thành các hạt mầm diễn ra để hình thành các
hạt sơ cấp. Giai đoạn thứ hai (giai đoạn phát triển mầm) là sự kết tụ các hạt sơ cấp
tạo thành các hạt thứ cấp bền hơn [12, 145]. Trong giai đoạn tạo mầm, nồng độ của
TEOS sẽ quy định lượng mầm/ hạt sơ cấp. Do đó khi tăng nồng độ của TEOS thì
nồng độ của hạt sơ cấp tại giai đoạn tạo mầm (tạo thành do phản ứng thủy phân) cũng
tăng lên, kết quả là hạt sẽ tăng kích thước nhanh chóng ở giai đoạn phát triển mầm.
Tuy nhiên, khi nồng độ TEOS lớn hơn 0,6 mol/l thì kích thước hạt giảm do nồng độ
TEOS quá cao thì vai trò xúc tác của NH3 trong phản ứng thủy phân và phản ứng
trùng ngưng không hiệu quả nên kích thước hạt giảm. Kết quả này phù hợp với nghiên
cứu của Rahman và cộng sự [110].
70
Đồ thị 3.2. Ảnh hưởng của nồng độ TEOS đến sự phân bố kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của NH3 (0,41 mol/l) và H2O (7,23 mol/l)
Sự phân bố kích thước kích thước hạt (SD) thể hiện trong Đồ thị 3.2, tại tất cả
các nồng độ đường cong phân bố khá rộng và có hình dạng giống nhau thuộc kiểu
hình chuông. Tuy nhiên, khi nồng độ TEOS lớn hơn 0,22 mol/l thì đường SD rộng
hơn. Điều này do khi nồng độ TEOS tăng thì sự tạo thành các hạt sơ cấp tại giai đoạn
quá bão hòa cao hơn tốc độ tiêu thụ (consumption) các hạt này (do nồng độ chất xúc
tác giảm) theo cơ chế Ostwald [146, 147]. Do đó, các hạt sơ cấp này kết hợp với nhau
một cách tự nhiên để tạo thành các hạt thứ cấp bền hơn, kết quả là sẽ tồn tại nhiều
kích thước hạt [148]. Ngoài ra, kết quả ảnh TEM Hình 3.1 cho thấy các hạt nano silica
tạo thành tại nồng độ TEOS cao nhất 1,2 mol/l có sự kết tụ và kích thước hạt không
đều.
Hình 3.1. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai nồng độ của TEOS: (A) 0,07 mol/l and (B) 1,20 mol/l tại điều kiện cố định
3.1.2. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nồng độ ammonia
Nhìn chung phản ứng thủy phân diễn ra rất chậm, mặc dù axit hoặc bazơ được
dùng như là chất xúc tác. Ammonia được dùng làm chất xúc tác cho phản ứng thủy
71
phân và ngưng tụ của TEOS trong ethanol. Nếu không có ammonia thì silica tạo thành
có hình dạng hạt không đều và không có dạng hình cầu khi quan sát dưới kính hiển
vi. Do đó, ammonia ảnh hưởng đến hình thái của các hạt và tạo thành các hạt có dạng
hình cầu. Khi tăng nồng độ ammonia thì kích thước hạt sẽ tăng và hạt hình cầu lớn
nhất được tạo thành khi hỗn hợp phản ứng bão hòa với ammonia [10].
Đồ thị 3.3. Ảnh hưởng của nồng độ ammonia đến kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của TEOS (0,36 mol/l) và H2O (6,90 mol/l)
Đồ thị 3.4. Ảnh hưởng của nồng độ amonia đến sự phân bố kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của TEOS (0,36 mol/l) và H2O (6,90 mol/l)
Quan sát Đồ thị 3.3 và 3.4 nhận thấy khuynh hướng chung về kích thước hạt
và sự phân bố kích thước hạt (SD) khi tăng nồng độ của ammonia. Sự có mặt của
ammonia làm tăng tốc độ phản ứng thủy phân TEOS cũng như tốc độ phản ứng trùng
ngưng các monomer, kết quả làm tăng kích thước hạt. Kết luận này tương tự như
công bố của Matsoukas và Gulari [11, 17, 149], nhưng theo nghiên cứu của Rao thì
cho kết quả ngược lại tức là kích thước hạt giảm [111]. Tuy nhiên, tại nồng độ NH3
72
thấp 0,17 mol/l thì sự phân bố kích thước hạt tương đối hẹp so với các nồng độ còn
lại. Và khi quan sát ảnh TEM thì bề mặt các hạt nano silica tạo thành tương đối nhẵn
hơn so với nồng độ cao nhất 2,90 mol/l (Hình 3.2).
Hình 3.2. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai nồng độ của NH3: (A) 0,17 mol/l and (B) 2,90 mol/l tại điều kiện cố định.
3.1.3. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của ethanol
Vì khả năng hòa tan giữa orthosilicate và nước thấp nên một dung môi được
dùng để trộn lẫn hai chất phản ứng này trong quá trình phản ứng như ethanol đã được
sử dụng [11, 113]. Ngoài ra, ethanol còn ảnh hưởng đến độ phân tán và kích thước
hạt nano silica [111]. Quan sát Đồ thị 3.5 nhận thấy ảnh hưởng của nồng độ ethanol
đến kích thước hạt, khi nồng độ ethanol tăng thì kích thước hạt giảm. Tại nồng độ
ethanol khảo sát cao nhất là 15,19 mol/l thì sự phân bố kích thước hạt (SD) hẹp hơn
thể hiện qua Đồ thị 3.6. Tuy nhiên quan sát ảnh TEM trong Hình 3.3 cho thấy hạt
không đều, hình dạng hạt không phải dạng hình cầu. Điều này có thể do khi nồng độ
ethanol cao thì vai trò xúc tác của NH3 trong phản ứng thủy phân và phản ứng trùng
ngưng không hiệu quả nên kích thước hạt giảm [110].
Đồ thị 3.5. Ảnh hưởng của nồng độ ethanol đến kích thước hạt tại nồng độ
ban đầu cố định của TEOS (1,49 mol/l) và H2O (28,90 mol/l)
73
Đồ thị 3.6. Ảnh hưởng của nồng độ ethanol đến sự phân bố kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của TEOS (1,49 mol/l) và H2O (28,90 mol/l)
Hình 3.3. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai nồng độ của ethanol: (A) 8.68 mol/l và (B) 15.19 mol/l tại điều kiện cố định.
3.1.4. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của thời gian phản ứng
Ảnh hưởng của thời gian phản ứng từ 0,5 giờ đến 5 giờ được thực hiện tại
nồng độ các chất tham gia phản ứng TEOS 0,22 mol/l, NH3 0,39 mol/l và ethanol
13,48 mol/l.
Đồ thị 3.7. Ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của TEOS (0,22 mol/l) và H2O (6,87 mol/l)
74
Đồ thị 3.8. Ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến sự phân bố kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của TEOS (0,22 mol/l) và H2O (6,87 mol/l)
Hình 3.4. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai thời gian phản ứng: (A) 0,5 giờ và (B) 5 giờ tại điều kiện cố định.
Trong quá trình thực hiện phản ứng nhận thấy màu của dung dịch trong bình
cầu chuyển sang hơi đục sau 15 phút thêm dung dịch TEOS. Điều này có thể do sau
khi phản ứng thủy phân TEOS tạo thành silicic axit, sau đó là sự ngưng tụ của silicic
axit ở trạng thái siêu bão hòa nên dung dịch trở nên có màu đục hơn so với ban đầu
[10]. Sau hơn 1 giờ tiếp theo thì dung dịch có màu trắng đục và không nhận thấy sự
thay đổi màu cho đến kết thúc phản ứng. Điều này phù hợp với kết quả kích thước
hạt tăng khi thời gian phản ứng tăng thể hiện trong Đồ thị 3.7 và phù hợp với nghiên
cứu đã công bố của Li và cộng sự [150]. Đồ thị 3.8 cho thấy sự phân bố kích thước
hạt thu được khi phản ứng từ 3 ÷ 5 giờ là tương đối giống nhau với đường phân bố
khá rộng so với của hạt thu được khi phản ứng 2 giờ. Tuy nhiên, quan sát ảnh TEM
Hình 3.4 nhận thấy, tại thời gian phản ứng 0,5 giờ (hình A), sau hai phản ứng thủy
phân và trùng ngưng thì các hạt sơ cấp chưa đủ thời gian ngưng tụ và hình thành các
hạt nano có dạng hình cầu như tại thời gian phản ứng 5 giờ (hình B).
75
3.1.5. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ
Kết quả nghiên cứu của Bogush và cộng sự về ảnh hưởng của nhiệt độ từ 9oC-
55oC đến kích thước hạt cho thấy kích thước hạt giảm khi nhiệt độ phản ứng tăng.
Đặc biệt tại nhiệt độ thấp nhất thì các hạt đơn phân tán không được tạo thành [12].
Dựa vào Bảng 3.1 nhận thấy kích thước hạt giảm khi nhiệt độ tăng tại nồng độ
các chất tham gia phản ứng TEOS 0,22 mol/lít, NH3 0,39 mol/l và ethanol 13,48
mol/l, kích thước hạt thể hiện rõ trong hình TEM (Hình 3.5), kết quả này tương ứng
với nghiên cứu của Rahman và cộng sự [110]. Tại nhiệt độ 50oC và 65oC thì kích
thước hạt thay đổi không đáng kể. Theo Kota Sreenivasa Rao và cộng sự thì ảnh
hưởng của nhiệt độ liên quan đến nồng độ bão hòa của dung dịch NH3, nồng độ của
NH3 giảm khi nhiệt độ tăng ảnh nên ảnh hưởng đến tốc độ phản ứng thủy phân và
ngưng tụ [111].
Bảng 3.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến kích thước hạt
Hình 3.5. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai nhiệt độ: (A) 350C và (B) 650C tại điều kiện cố định
76
3.1.6. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của tốc độ thêm dung dịch ammonia
Hình 3.6. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với tốc độ nhỏ của NH3: (A) nhanh và (B) 100μl/phút tại điều kiện cố định.
Để kiểm soát kích thước hạt tạo thành, hầu hết các công bố nghiên cứu tốc độ
thêm dung dịch TEOS vào hỗn hợp H2O, NH3 và ethanol trong quá trình tổng hợp
nano silica [112, 151]. Tuy nhiên, tốc độ thêm dung dịch NH3 vào hỗn hợp phản ứng
cũng ảnh hưởng đáng kể đến kích thước hạt. Dựa vào Hình 3.6 nhận thấy khi cho
nhanh dung dịch NH3 đặc vào hỗn hợp ethanol, nước, TEOS thì tốc độ phản ứng thủy
phân, kết quả tạo nồng độ các hạt sơ cấp tăng nhanh. Đồng thời, tốc độ phản ứng
cũng tăng nhanh tương tự nên các hạt sơ cấp sẽ ngưng tụ nhanh chóng, do đó kích
thước hạt tăng nhanh [110].
Như vậy các yếu tố ảnh hưởng đến kích thước hạt gồm nồng độ TEOS, NH3,
ethanol và nhiệt độ đều có những quy luật riêng nên không thể cố định các yếu tố này
để tạo thành một bộ số liệu cho tổng hợp hạt nano theo kích thước đã dự định. Các
yếu tố này sẽ được tối ưu theo mô hình BBD.
Dựa vào Đồ thị 3.7 nhận thấy tại thời gian phản ứng nhỏ hơn 2 giờ thì hạt nano
được tạo thành. Do đó, để rút ngắn thời gian phản ứng sẽ cố định thời gian phản ứng
là 3 giờ cho các thí nghiệm trong mô hình BBD. Tương tự, theo Hình 3.6, khi thêm
nhanh dung dịch NH3 thì hạt tương đối đồng đều và bề mặt nhẵn hơn, như vậy sẽ
chọn thêm nhanh dung dịch NH3 cho các thí nghiệm sau.
3.2. Kết quả tổng hợp hạt nano silica rắn bằng phương pháp đáp ứng bề mặt
3.2.1. Kết quả tổng hợp hạt nano silica rắn SSN
Dựa vào kết quả của Bảng 3.2, ta thấy yếu tố đáp ứng kích thước hạt phụ thuộc
chặt chẽ vào các biến số độc lập (nồng độ TEOS, NH3, EtOH và nhiệt độ). Kích thước
hạt lớn nhất là 250.8 nm và kích thước hạt nhỏ nhất là 43.5 nm.
77
Bảng 3.2. Giá trị kết quả thực nghiệm và dự đoán bởi Minitab 16
STT V TEOS (ml) V NH3 (ml) V EtOH (ml) Nhiệt độ (oC)
Kích thước dự đoán (nm) 253,6135 Kích thước thực nghiệm (nm) 250,83 5 1,2 30 30 1
3 1,8 30 30 231,9468 241,00 2
3 1,2 50 30 166,0427 159,77 3
1 1,2 50 50 50,0464 59,10 4
3 0,6 30 70 25,70153 * 5
3 1,8 10 50 104,5917 104,73 6
5 1,2 10 50 103,8501 * 7
3 0,6 30 30 146,5376 166,77 8
1 1,2 10 50 114,8275 130,50 9
3 0,6 10 50 76,01796 74,97 10
1 1,8 30 50 112,2645 10763 11
5 0,6 30 50 119,769 118,13 12
5 1,2 50 50 205,1202 198,50 13
3 1,2 50 70 83,43824 91,93 14
5 1,2 30 70 93,28543 95,97 15
3 1,2 10 30 206,8953 192,13 16
3 1,2 10 70 6,096676 * 17
3 1,8 50 50 158,8062 157,07 18
3 0,6 50 50 58,29248 55,37 19
3 1,2 30 50 150,3308 150,33 20
5 1,8 30 50 194,7477 203,10 21
1 1,2 30 30 162,9388 157,47 22
1 1,2 30 70 39,8638 * 23
3 1,8 30 70 69,37979 58,20 24
1 0,6 30 50 58,15579 43,53 25
Phân tích ANOVA cho thấy mô hình đề xuất có ý nghĩa thống kê ở mức tin
cậy 95%. Đặc biệt, hệ số tương quan R2=0,9775 cho thấy rằng một tỉ lệ đáng kể
97,75% của tổng biến thể có thể được giải thích bằng mô hình thực nghiệm.
78
Bảng 3.3. Phân tích ANOVA cho các mô hình hồi quy
Source DF Seq SS Adj SS Adj MS F P
Regression 14 73057,2 73057,2 5218,4 18,61 0,001 R2=0,9775
Linear 61687,3 31169,5 7792,4 27,79 0,001 4
13564,5 10183,7 10183,7 36,31 0,001 1 X1
7097,8 9805,5 9805,5 34,97 0,001 1 X2
714,4 620,7 620,7 2,21 0,187 1 X3
40310,5 24095,2 24095,2 85,92 0 1 X4
Square 3773,2 3324 831 2,96 0,114 4
916,3 65,2 65,2 0,23 0,647 1 X12
2274,6 1510,6 1510,6 5,39 0,059 1 X22
381,3 1768,7 1768,7 6,31 0,046 1 X32
201 128,1 128,1 0,46 0,524 1 X42
Interaction 7596,7 7596,7 1266,1 4,51 0,045 6
108,9 108,9 108,9 0,39 0,556 1 X1*X2
3406,9 4121,7 412,7 14,7 0,009 1 X1*X3
341,9 191,5 191,5 0,68 0,44 1 X1*X4
1293,8 1293.8 1293,8 4,61 0,075 1 X2*X3
550,7 238,7 238,7 0,85 0,392 1 X2*X4
1894,5 1894,5 1894,5 6,76 0,041 1 X3*X4
1682,6 1682,6 280,4 6 Residual Error
Sơ đồ đường viền của mô hình bậc hai được hiển thị trong Đồ thị 3.9. Những
biểu đồ này minh hoạ tác động của hai biến số trong phạm vi -1 đến +1 và một biến
số ở cấp trung tâm (0), các ô đường viền hiển thị rõ ràng các vùng tối ưu. Do đó, có
thể khẳng định rằng các mô hình đề xuất có thể được sử dụng để tìm ra các điều kiện
cho kích thước hạt mong muốn.
79
Đồ thị 3.9. Biểu đồ đáp ứng bề mặt (X1: CTEOS, X2: CNH3, X3: CEtOH, X4: Nhiệt độ)
Bằng cách áp dụng RSM, kích thước hạt mong muốn khoảng 130 nm được
thiết lập theo các điều kiện được tóm tắt trong Bảng 3.4. Để kiểm tra độ chính xác và
độ tin cậy của mô hình thu được, một thử nghiệm xác nhận đã được thực hiện trong
điều kiện tối ưu. Kết quả hạt nano silica SSN thu được có kích thước 132,2 ± 1,7 nm,
theo phương pháp tán xạ ánh sáng động học (Đồ thị 3.10). Như vậy, kết quả phù hợp
tốt với giá trị dự đoán cho thấy độ tin cậy của mô hình được đề xuất.
80
Bảng 3.4. Bảng kết quả kích thước hạt sử dụng điều kiện mong muốn
bằng minitab 16
Gái trị % Khác nhau Điều kiện
Đơn yếu tố VEtOH ml VNH3 ml VTEOS ml Nhiệt độ oC Dự đoán
5 1,8 10 45 130 1,7 Y (kích thước) Thực nghiệm 132,2 ± 1,7
Đồ thị 3.10. Biểu đồ phân bố kích thước hạt nano silica rắn được tính toán từ dữ liệu DLS
3.2.2. Đánh giá hình thái cấu trúc hạt nano silica rắn SSN
Theo phương pháp Stober các hạt nano silica rắn tạo thành có cấu trúc vô định
hình [152]. Hạt SSN có kích thước 132,2 ± 1,7 nm và sự phân bố kích thước hạt hẹp
với PDI là 0,087 theo phương pháp tán xạ ánh sáng động học DLS (Đồ thị 3.10). Mặt
khác, hạt SSN được quan sát bằng kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM) để kiểm tra
hình thái và kích thước được thể hiện qua Hình 3.7. Kết quả cho thấy các hạt nano
có dạng hình cầu và độ đồng nhất khá cao. Theo thống kê kích thước từ ảnh TEM,
hạt SSN có kích thước 104,0 ± 0,7nm. Kích thước hạt quan sát bằng kính hiển vi điện
tử thường nhỏ hơn đường kính thủy động lực học được đo bằng DLS do mất lớp
hydrate khi mẫu được làm khô [153].
Hình 3.7. Ảnh TEM và thống kê kích thước hạt từ ảnh TEM của SiO2 (a, a’)
81
Thế zeta xuất hiện do điện tích tồn tại trên bề mặt của các hạt và cho thấy độ
bền của hệ keo tạo thành [117]. Khi thế zeta (âm hoặc dương) lớn thì lực đẩy tĩnh
điện giữa các hạt càng tăng, kết quả là giảm sự kết tụ giữa các hạt và cải thiện độ bền,
độ phân tán của hạt trong nước. Ngược lại, khi thế zeta thấp thì không đủ lực đẩy để
ngăn cản các hạt kết tụ lại với nhau. Giá trị tuyệt đối của thế zeta từ 30 mV hay lớn
hơn thì các hạt được xem là ổn định [154]. Ngoài ra, thế zeta còn được sử dụng để
giải thích cơ chế hấp phụ của thuốc và phối tử sinh học trên bề mặt hạt nano [155].
Giá trị pzc (point of zero charge) của nano silica được tạo thành theo phương
pháp Stober là 2,1 nên khi pH của dung dịch cao hơn giá trị pzc thì bề mặt các hạt
nano silica sẽ mang điện tích âm và ngược lại [156, 157]. Các hạt SSN được phân tán
trong nước do đó bề mặt hạt SSN sẽ mang điện tích âm, phù hợp với kết quả thế zeta
trong đồ thị Đồ thị 3.11. Thế zeta có giá trị -43,3 ± 0,87 mV, các hạt nano SSN mang
điện tích âm do sự phân ly nhóm silanol (Si–OH) trên bề mặt thể hiện qua Hình 3.8
[158].
Đồ thị 3.11. Thế zeta của hạt nano silica rắn SSN
Hình 3.8. Cấu trúc và điện tích bề mặt hạt nano silica rắn SSN
82
Các hạt nano silica SSN với giá trị thế zeta cao nên hệ bền, điều này thể hiện
qua đồ thị thế zeta trong dung dịch theo thời gian từ 0 giờ đến 48 giờ (Đồ thị 3.12).
Kết quả cho thấy trong 6 giờ đầu thì giá trị tuyệt đối thế zeta giảm nhanh, sau đó thì
thế zeta thay đổi không đáng kể nhưng giá trị vẫn lớn 30 mV, chứng tỏ hệ bền.
Đồ thị 3.12. Thế zeta của hạt SSN trong dung dịch theo thời gian
Đường cong TGA của SSN được thể hiện trong Đồ thị 3.13. Quá trình nung
mẫu HMSN được thực hiện từ 30oC - 800oC với tốc độ là 10oC/phút, độ giảm khối
lượng của mẫu phân tích tăng cùng với tăng nhiệt độ xử lý. Tại nhiệt độ < 170oC, độ
giảm khối lượng tương ứng khoảng 11% do sự bay hơi của nước bị hấp phụ vật lý và
sự khử hydrat (dehydroxylation) một phần các nhóm silanol trên bề mặt vật liệu. Sau
đó khối lượng giảm khoảng 5% tại nhiệt độ từ 170oC đến 500oC và tiếp tục giảm khi
nhiệt độ càng tăng, do các tạp chất hữu cơ từ vật liệu ban đầu bị mất đi, sự bay hơi
của nước liên kết vật lý hoặc do một phần sự khử hydrat các nhóm silanol bên trong
cấu trúc vật liệu. Tại nhiệt độ > 500oC, liên quan đến sự khử hydrat các nhóm silanol
bên trong cấu trúc, độ giảm khối lượng giảm nhẹ. Quá trình nung đến nhiệt độ 800oC
cho thấy cũng không hoàn toàn mất nhóm silanol [110].
83
Đồ thị 3.13. Giản đồ phân tích nhiệt của SSN
Diện tích bề mặt của SSN được xác định bằng phương pháp hấp phụ - khử hấp
phụ khí N2 (dùng phương trình BET), diện tích bề mặt của hạt SSN là 97 m2/g. Theo
công bố của Li và cộng sự khi nghiên cứu về diện tích bề mặt của các hạt nano silica
được tổng hợp theo phương pháp Stober cho rằng hình dạng đường đẳng nhiệt hấp
phụ - khử hấp phụ có thể thuộc loại I hay loại II tùy thuộc vào quá trình tổng hợp
[150, 159]. Dựa vào Đồ thị 3.14 nhận thấy dạng đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp
phụ của hạt SSN thuộc loại II theo phân loại của IUPAC, hạt SSN không có cấu trúc
mao quản [160]. Ngoài ra, dựa vào đồ thị cho thấy một vòng trễ khá rộng trong nhánh
khử hấp phụ, điều này có thể do các khe tạo thành tại bề mặt giữa các hạt nano hình
cầu [161].
Đồ thị 3.14. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của SSN
84
3.3. Kết quả tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ
3.3.1. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nồng độ TEOS đến kích thước lớp vỏ
Sự tổng hợp các vật liệu có cấu trúc mao quản được thực hiện bằng cách tự lắp
ghép “self-assembly” và cấu tạo kết hợp giữa các dạng vô vơ, hữu cơ trong môi
trường nước. Nhìn chung, quá trình các khuôn mẫu trực tiếp được tạo thành do tương
tác giữa các oligomer vô cơ và micell chất hoạt động bề mặt [162, 163]. Hạt nano
silica cấu trúc mao quản MSN được tổng hợp thành công bằng cách sử dụng phương
pháp sol – gel và chất hoạt động bề mặt CTAB của nhóm nghiên cứu đã được công
bố [108, 123, 124]. Do đó, quy trình tổng hợp hạt MSN được sử dụng để thực hiện
phủ lớp vỏ cấu trúc mao quản lên hạt nano silica rắn SSN. Theo quy trình này, các
chất tham gia phản ứng bao gồm TEOS, CTAB, ethanol, nước và NH3. Trong đó kết
quả khảo sát ảnh hưởng của nồng độ các chất như ethanol, NH3 và nước đến kích
thước hạt có những quy luật riêng có thể tăng hoặc giảm kích thước hạt, riêng ảnh
hưởng của TEOS cho kết quả kích thước hạt tương đối giống nhau giữa các công bố
[10, 12, 110-112]. Do đó để kiểm soát kích thước lớp vỏ, nồng độ TEOS được sử
dụng để khảo sát ảnh hưởng đến kích thước lớp vỏ và các yếu tố còn lại được cố định
tương tự quy trình tổng hợp hạt nano silica cấu trúc mao quản.
85
Hình 3.9. Ảnh TEM và sự phân bố kích thước hạt thống kê từ ảnh TEM tại nồng độ TEOS khảo sát 0,07 mol/l (a,a’), 0,27 mol/l (b,b’), 0,45 mol/l (c,c’), 0,61 mol/l (d,d’), 0,72 mol/l (e,e’) và ảnh phóng đại một hạt (f)
Quan sát ảnh TEM Hình 3.9 nhận thấy: Sau khi phủ lớp vỏ thì các hạt nano
silica tạo thành có dạng hình cầu như lõi nano silica rắn SSN ban đầu. Như vậy, có
thể khẳng định hình dạng của hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ sẽ phụ thuộc vào hình
dạng của lõi được sử dụng, chẳng hạn như các hạt có dạng hình lập phương, hình
que,… [87]. Đặc biệt, cấu trúc lõi – vỏ được thể hiện rõ qua hình cắt một hạt nano
silica với độ phóng đại lớn (hình f), tương ứng với phần có màu đen đậm bên trong
là lõi và phần có màu đen nhạt hơn là lớp vỏ [122]. Như vậy, tại nồng độ TEOS thấp
nhất 0,07 mol/l đa số các hạt nano quan sát không có cấu trúc lõi – vỏ nên có thể kết
luận không phủ được lớp vỏ trên lõi nano silica rắn ban đầu. Điều này có thể do lượng
TEOS quá ít hay với nồng độ này thì còn hạn chế về thời gian phản ứng nên các hạt
sơ cấp tạo thành chưa đủ để ngưng tụ hoàn toàn trên bề mặt hạt nano silica rắn, kết
quả là không phủ được lớp vỏ trên bề mặt của lõi. Quan sát ảnh TEM tại các nồng độ
còn lại cho thấy lõi SSN được phủ lớp vỏ hoàn toàn.
Bảng 3.5. Kết quả kích thước hạt SSN@CTAB-SSN tại các
nồng độ TEOS khác nhau
STT Mẫu
SSN@CTAB-SSN/1 Nồng độ TEOS, mol/l 0,07 Kích thước hạt, nm 108,6 ±1,6 1
SSN@CTAB-SSN/2 0,27 167,3± 0,5 2
SSN@CTAB-SSN/3 0,45 228,0± 0,7 3
SSN@CTAB-SSN/4 0,61 253,4± 0,7 4
SSN@CTAB-SSN/5 0,72 247,9± 2,6 5
86
Ngoài ra, dựa vào Bảng 3.5 nhận thấy xu hướng khi nồng độ TEOS tăng thì
kích thước hạt tăng. Tại nồng độ TEOS thấp nhất 0,07 mol/l, khi không phủ được lớp
vỏ thì hạt SSN@CTAB-SSN/1 có kích thước thay đổi không đáng kể so với lõi SSN
ban đầu. Tại nồng độ cao nhất 0,72 mol/l thì kích thước hạt giảm nhẹ có thể do khi
lượng TEOS quá lớn sẽ ngăn cản vai trò xúc tác của NH3 dẫn đến các phản ứng thủy
phân và trùng ngưng xảy ra chậm dẫn đến sự ngưng tụ các hạt chậm, điều này tương
tự như trong trường hợp khảo sát lõi silica rắn SSN. Mặt khác, tại nồng độ TEOS là
0,27 mol/l thì hạt SSN@CTAB-SSN/2 có lớp vỏ được phủ hoàn toàn và kết quả kích
thước hạt nhỏ nhất, do đó lớp vỏ sẽ có kích thước nhỏ nhất. Đây là nồng độ được
chọn trong quá trình phủ lớp vỏ lên hạt rắn SSN và mẫu này được chọn để thực hiện
phản ứng trong giai đoạn tiếp theo.
3.3.2. Mô tả quá trình phủ lớp vỏ silica lên lõi SSN
Quá trình phủ lớp vỏ được mô tả tương tự cơ chế tổng hợp các hạt nano silica
cấu trúc mao quản họ MCM-41. Các nghiên cứu về tổng hợp hạt nano silica cấu trúc
mao quản kết luận rằng có hai cơ chế khác nhau: (i) Thứ nhất, chất hoạt động bề mặt
tại nồng độ cao sẽ tự lắp ghép thành pha tinh thể lyotropic “lyotropic crystalline
phase” (hay gọi là micell) và các micell này kết tụ lại với nhau tạo thành các khuôn
mẫu micell. Sau đó là sự ngưng tụ của silica xung quanh các khuôn micell. (ii) Cơ
chế thứ hai cũng có thể tạo thành các micell nhưng tại nồng độ chất hoạt động bề mặt
thấp hơn; sự tự kết tụ của chất hoạt động bề mặt và silica được định hình bởi dung
dịch tiền chất chứa silica (có thể là TEOS) để tạo thành pha tinh thể lỏng có dạng
hình lục giác, hình khối hay dạng bản [164]. Chất hoạt động bề mặt CTAB có chuỗi
alkyl dài kị nước nên các chuỗi alkyl này sẽ kết tụ lại với nhau để giảm năng lượng
tương tác của đầu alkyl không phân cực với các phân tử dung môi nước phân cực
mạnh. Kết quả hình thành nên các micell, như vậy micell có lõi kị nước chứa các
chuỗi alkyl dài và một bề mặt ưa nước do đặc tính ion của những nhóm ammonium
với đầu mang điện tích dương CTA+. Hầu hết micell tạo thành có dạng hình cầu vì
trong dạng hình học này thì năng lượng bề mặt được giảm một cách hiệu quả nhất.
Hơn nữa, ở dạng hình cầu cho phép tạo nên nhiều micell hơn từ một lượng chất ban
đầu nhất định. Tuy nhiên, hình dạng micell tạo thành phụ thuộc vào nồng độ chất
hoạt động bề mặt. Do đó, các micell hình cầu ban đầu từ từ chuyển sang dạng ống dài
và sau đó các ống giống nhau kết tụ lại tạo thành cấu trúc lục giác theo cơ chế 1 (Sơ
87
đồ 3.1. a) hay cũng tạo thành khuôn micell hình lục giác theo cơ chế 2, đây là khuôn
cho cấu trúc của vật liệu MCM-41 [165, 166]. Những micell này bị hấp phụ trên bề
mặt lõi nano silica rắn SSN bằng tương tác tĩnh điện giữa đầu CTA+ và bề mặt mang
điện tích âm của lõi rắn SSN [167, 168] thể hiện qua Sơ đồ 3.1.b. Cuối cùng là quá
trình thủy phân tiền chất TEOS được thêm vào tạo thành silicic axit, ở trạng thái quá
bão hòa bề mặt mang điện tích âm của silicic axit sẽ ngưng tụ trên bề mặt xung quanh
lõi – khuôn micell để hình thành nên lớp vỏ silica thể hiện qua Sơ đồ 3.1.c.
Sơ đồ 3.1. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ
3.3.3. Kết quả tổng hợp hạt SSN-SSN
Thí nghiệm tương tự quy trình phủ vỏ trên nhưng không sử dụng CTAB được
thực hiện, kết quả ảnh TEM ở Hình 3.10 cho thấy các hạt tạo thành cũng có dạng
hình cầu tuy nhiên không có cấu trúc lõi – vỏ. Như vậy, khi không có mặt của chất
hoạt động bề mặt CTAB thì quá trình phủ lớp vỏ xảy ra tương tự cơ chế theo phương
pháp Stober gồm phản ứng thủy phân và ngưng tụ TEOS trên hạt rắn SSN. Hạt SSN-
SSN có kích thước 173,7 ± 1,3 nm lớn hơn hạt SSN ban đầu nhưng nhỏ hơn hạt
SSN@CTAB-SSN/2 205,8 ± 5,9 nm khi sử dụng cùng lượng TEOS trong quá trình
phủ vỏ do sự có mặt của CTAB. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Wei Wang
và cộng sự, đặc biệt kích thước hạt sẽ tăng khi tăng nồng độ CTAB [169]. Như vậy,
CTAB giữ vai trò quan trọng để phủ thành công lớp vỏ, định hướng hình dạng và cấu
trúc lớp vỏ.
88
Hình 3.10. Ảnh TEM (a) và sự phân bố kích thước hạt được tính toán từ dữ liệu
DLS (b) của hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN-SSN
3.3.4. Đánh giá hình thái cấu trúc hạt nano silica SSN@CTAB-SSN/2
Theo thống kê kích thước từ ảnh TEM thể hiện trong Bảng 3.5 và Hình 3.9
nhận thấy, lõi SSN có kích thước 104,0 ± 0,7nm. Sau đó, lớp vỏ silica trên lõi được
tạo thành bằng phản ứng thủy phân và ngưng tụ tiền chất TEOS với sự có mặt của
CTAB như là chất hoạt động bề mặt, kích thước hạt SSN@CTAB-SSN/2 vào khoảng
167,0 ± 0,7nm (Hình 3.9. b,b’), như vậy lớp vỏ sẽ có kích thước vào khoảng 63 nm.
Tương tự như lõi SSN theo dữ liệu DLS thì hạt SSN@CTAB-SSN/2 lớn hơn kích
thước hạt theo thống kê từ ảnh TEM, hạt có kích thước 205,8 ± 5,9 nm với độ đa phân
tán tốt PDI 0,091 (Đồ thị 3.15).
Đồ thị 3.15. Biểu đồ phân bố kích thước hạt SSN@CTAB-SSN/2 được tính toán từ dữ liệu DLS Theo các nghiên cứu đã công bố nồng độ micell tới hạn (Critical
micellconcentration - CMC) của CTAB là 1mM theo K. Eskilsson [170]; 0,89 mM
89
bởi A. Modaressi [171], trong khi Gao và cộng sự kết luận 0,92 mM [172] hay 0,8
mM theo Maiti [173]. Khi nồng độ CTAB sử dụng lớn hơn nhiều so với giá trị CMC
thì sẽ tạo thành các micell tự do. Khi các hạt nano tiến lại gần nhau với sự có mặt của
các micell tự do, thì chuỗi hydrocarbon trong micell sẽ để lại các khoảng trống tạo ra
một vùng chứa dung môi. Khi các hạt càng đến gần nhau thì dung môi giữa các hạt
khuếch tán ra ngoài để giảm gradient nồng độ tạo ra áp suất thẩm thấu làm cho các
hạt kết tụ lại với nhau [174, 175]. Quá trình phủ lớp vỏ với mục đích tạo được micell
hoàn toàn nên nồng độ CTAB đã được sử dụng là 50mM, lớn hơn nhiều so với giá trị
CMC của CTAB. Do đó quan sát Hình 3.11 nhận thấy các hạt SSN@CTAB-SSN/2
kết tụ lại với nhau (Hình 3.11.a) và sau khi được thẩm tách bằng màng cellulose với
nước cất để loại bỏ CTAB dư thì các hạt đã không còn hiện tượng kết tụ (Hình 3.11.b).
Hình 3.11. Ảnh TEM mẫu SSN@CTAB-SSN/2 trước và sau khi thẩm tách bằng
màng cellulose với nước cất (a,b)
Điện tích bề mặt của hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ có giá trị dương 32,5 ±
0,66 mV cho thấy có sự đảo ngược điện tích trên bề mặt so với hạt nano silica rắn
SSN (Đồ thị 3.16). Điều này do điện tích bề mặt được che chắn hoàn toàn bởi sự hấp
phụ CTAB với nhóm mang điện tích dương CTA+ , kết quả làm đổi dấu điện thế bề
mặt [167, 176]. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu trước đây về tương tác bề
mặt của keo silica SiO2 với việc thêm chất hoạt động bề mặt cation [177, 178]. Các
hạt nano silica SSN@CTAB-SSN/2 với giá trị thế zeta lớn hơn 30 mV cho thấy sự
tạo thành một lớp kép (bilayer) của các phân tử CTAB tại bề mặt silica thể hiện qua
Sơ đồ 3.2 [179, 180] . Như vậy, thông qua sự thay đổi giá trị thế zeta chứng tỏ đã phủ
thành công lớp vỏ lên lõi rắn SSN.
90
Đồ thị 3.16.Thế zeta của hạt nano silica cấu trúc lõi –vỏ SSN@CTAB-SSN/2
Sơ đồ 3.2. Sơ đồ của CTAB mono- và bilayer trên bề mặt silica/nước
Giá trị thế zeta trong dung dịch theo thời gian từ 0 giờ đến 48 giờ có khuynh
hướng giảm trong 6 giờ đầu, sau đó thì thế zeta thay đổi không đáng kể chứng tỏ hệ
bền. Ngoài ra, quan sát thực tế thì dung dịch tại 48 giờ vẫn có màu trắng đục, chưa
có sự tách lớp các hạt SSN@CTAB-SSN/2 và có một số ít các hạt ở đáy bình chứa
dung dịch thể hiện qua Đồ thị 3.17.
Đồ thị 3.17. Thế zeta của hạt SSN@CTAB-SSN/2 trong dung dịch theo thời gian
91
Ngoài ra, để xác định lượng CTAB chứa trong mẫu SSN@CTAB-SSN/2,
phương pháp phân tích nhiệt khối lượng sẽ được sử dụng [181]. Đường cong TGA
của hạt SSN@CTAB-SSN/2 được thể hiện trong Đồ thị 3.18. Quá trình nung mẫu
được thực hiện từ 25oC - 800oC với tốc độ là 10oC/phút, độ giảm khối lượng của mẫu
phân tích tăng cùng với tăng nhiệt độ xử lý, tương tự kết quả phân tích nhiệt đối với
mẫu SSN.
Đồ thị 3.18. Giản đồ phân tích nhiệt của SSN@CTAB-SSN/2
Tại nhiệt độ < 170oC, độ giảm khối lượng tương ứng khoảng 9% do sự bay hơi
của nước bị hấp phụ vật lý và sự khử hydrat (dehydroxylation) một phần các nhóm
silanol trên bề mặt vật liệu. Tại nhiệt độ từ 200oC - 300oC, nhận thấy độ giảm khối
lượng là 10%. Trong đó có 3% khối lượng do sự bay hơi của nước liên kết vật lý và
một phần sự khử hydrat các nhóm silanol bên trong cấu trúc vật liệu, các tạp chất hữu
cơ từ vật liệu ban đầu tương tự như hạt SSN. Như vậy, có khoảng 7% lượng CTAB
chứa trong mẫu SSN@CTAB-SSN/2.
Diện tích bề mặt của hạt SSN@CTAB-SSN/2 được xác định bằng phương
pháp hấp phụ - khử hấp phụ khí N2 (dùng phương trình BET) có diện tích bề mặt 46,6
m2/g, dạng đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ thuộc loại II theo phân loại của
IUPAC, vật liệu không có cấu trúc mao quản [160]. Như vậy sau quá trình phủ lớp
thì hạt SSN@CTAB-SSN/2 có diện tích bề mặt giảm đáng kể so với hạt SSN ban
đầu.
92
Đồ thị 3.19. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của SSN@CTAB-SSN
3.4. Kết quả tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng
3.4.1. Từ hạt SSN@CTAB-SSN
Hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN@CTAB-SSN/2 được chọn để xử lý lõi
bằng dung dịch Na2CO3 0,2 M tạo thành hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN. Thời
gian phản ứng ăn mòn được thực hiện lần lượt tại thời gian T là 1; 3; 6; 9 và 12 giờ,
kết quả thể hiện trong Hình 3.12. Quan sát ảnh TEM nhận thấy quá trình ăn mòn
trong thời gian 1 giờ (Hình 3.12.a) thì lõi nano silica rắn SSN hình cầu vẫn còn
nguyên, sau thời gian 3 giờ phản ứng tiếp theo thì bề mặt lõi SSN ở một số hạt
SSN@CTAB-SSN bắt đầu bị ăn mòn (Hình 3.12.b). Tại thời gian ăn mòn 6 giờ thì
lõi nano silica rắn SSN bị ăn mòn nhiều hơn, có thể nhận thấy khuynh hướng ăn mòn
là từ bề mặt lõi rắn vào tâm (Hình 3.12.c). Với thời gian 9 giờ và 12 giờ (Hình 3.12.d,
e) thì lõi rắn bị ăn mòn hoàn toàn, tuy nhiên lớp vỏ vẫn được giữ nguyên, quan sát lỗ
rỗng tạo thành trong hai khoảng thời gian tương đối bằng nhau. Do đó, chọn thời gian
phản ứng là 9 giờ để thực hiện phản ứng ăn mòn và hạt nano silica cấu trúc rỗng tạo
thành tại thời gian này được sử dụng cho các giai đoạn tiếp theo. Như vậy, hạt nano
silica cấu trúc rỗng HMSN-9 có lỗ rỗng nằm ở tâm hình cầu có màu đen nhạt và lớp
vỏ xung quanh được giữ nguyên có màu đen đậm hơn thể hiện ở hình f) [2, 30].
93
Hình 3.12. Ảnh TEM của HMSN tại thời gian ăn mòn 1giờ, 3 giờ, 6 giờ, 9 giờ và 12 giờ tương ứng với hình a, b, c, d, e tại thang đo 200 nm; và phóng đại một hạt HMSN (hình f)
Cơ chế tạo thành hạt nano silica rỗng từ quá trình ăn mòn lõi silica rắn SSN
gồm hai giai đoạn quan trọng: (i) sự hòa tan chậm lõi nano silica rắn SSN trong môi
trường bazơ để tạo thành dạng silicate hòa tan (ion silicate) và (ii) sự đồng lắp ghép
“co-assembly” của CTAB và silicate hòa tan để tạo thành lớp vỏ cấu trúc mao quản,
trong đó chất hoạt động bề mặt giữ vai trò quyết định trong cơ chế ăn mòn – ngưng
tụ lại. Trong môi trường bazơ yếu tạo bởi dung dịch Na2CO3 và CTAB trong cấu trúc
lớp vỏ thì sự ăn mòn chọn lọc silica từ lõi rắn được bắt đầu. Do ion silicate được tạo
ra từ quá trình ăn mòn lõi rắn mang điện tích âm nên sẽ kết hợp với phần điện tích
dương CTA+ bằng lực hút tĩnh điện, kết quả là nồng độ các ion silicate tăng trên bề
mặt micell. Ngoài ra, giữa các ion silicate còn có tương tác đẩy nên để giảm tương
tác này thì các ion silicate tự ngưng tụ lại với nhau tạo thành đơn lớp silica trên các
micell. Tại giai đoạn này, các micell được phủ bởi silica có thể bắt đầu tụ lại với nhau
bằng phản ứng ngưng tụ giữa các lớp silica của từng micell riêng lẻ tạo nên khung
cấu trúc MCM-41. Kết quả của các quá trình này là vỏ silica xung quanh các lỗ mao
quản có dạng vô định hình và độ dày chỉ có 2 đến 3 đơn lớp silica. Mặt khác, quá
trình ngưng tụ lại silicate như vậy sẽ làm giảm lượng silicate được tạo ra và do đó về
mặt động học sẽ thúc đẩy phản ứng hòa tan hạt nano silica rắn SSN xảy ra nhanh hơn.
94
Cuối cùng, các micell (khuôn) sẽ được loại bỏ để tạo thành lớp vỏ có cấu trúc mao
quản [83, 182-187].
3.4.2. Từ hạt SSN-SSN
Hình 3.13. Ảnh TEM (a) và sự phân bố kích thước hạt được tính toán từ dữ liệu DLS (b) của hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN-SSN
Thực hiện quy trình ăn mòn hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN-SSN với các
điều kiện phản ứng tương tự như hạt SSN@CTAB-SSN, kết quả thể hiện trong Hình
3.13. Kết quả cho thấy các hạt có dạng hình cầu và không bị ăn mòn mặc dù bề mặt
hạt SSN-SSN trở nên xù xì hơn. Đặc biệt kích thước hạt HMSN-K tạo thành sau quá
trình ăn mòn thay đổi không đáng kể so với hạt SSN-SSN ban đầu, hạt HMSN-K sau
quá trình ăn mòn có kích thước 198,5±5,1 nm với độ đa phân tán PDI 0,238. Kết quả
này phù hợp với nghiên cứu của Fang và cộng sự, ngoài ra nghiên cứu cũng chỉ ra
rằng quá trình ăn mòn tăng nhanh đáng kể khi nồng độ CTAB càng cao [30]. Như
vậy, trong quá trình chuyển từ lõi nano silica rắn thành hạt nano silica cấu trúc rỗng
thì chất hoạt động bề mặt CTAB giữ vai trò rất quan trọng: (i) chất hoạt động bề mặt
CTAB là khuôn mềm để trực tiếp tạo thành lớp vỏ silica cấu trúc mao quản bằng cách
đồng lắp ghép với các dạng silicate hòa tan, (ii) thúc đẩy sự hòa tan lõi nano silica
rắn và do đó quá trình ăn mòn sẽ tăng [4, 30, 83, 122]. Ngoài ra, theo nghiên cứu của
Zhong Luo và cộng sự thì chất hoạt động bề mặt CTAB giữ vai trò bảo vệ lớp vỏ
silica trong quá trình ăn mòn [121].
3.4.3. Đánh giá hình thái cấu trúc hạt nano silica cấu trúc rỗng
Các hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN được kiểm tra hình thái bằng kính
hiển vi điện tử quét (SEM) thể hiện qua Hình 3.14, không quan sát thấy cấu trúc lỗ
rỗng – vỏ được tạo thành, kết quả tương tự các nghiên cứu đã được công bố [80, 188].
95
Hình 3.14. Ảnh SEM của hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN
Tuy nhiên, khi quan sát qua ảnh TEM cho thấy lõi rắn được ăn mòn thành công
tạo thành nano silica cấu trúc rỗng HMSN dạng hình cầu với độ đồng nhất khá cao
(Hình 3.15). Hạt HMSN có kích thước 134,0 ± 0,3 nm với lớp vỏ có độ dày khoảng
35 nm. Khi kiểm tra bằng phương pháp DLS thì kích thước hạt HMSN là 161,6 ± 1,2
nm với độ đa phân tán PDI 0,113 (Đồ thị 3.20). Lõi SSN có kích thước 104 nm, sau
khi được ăn mòn trong môi trường bazơ thì kích thước lỗ rỗng tạo thành khoảng 99
nm, nhỏ hơn so với lõi rắn ban đầu tương tự kết quả nghiên cứu của Fang và cộng sự
[30]. Ngoài ra, kích thước hạt nano rỗng tạo thành HMSN nhỏ hơn so với hạt cấu trúc
lõi – vỏ SSN@CTAB-SSN/2 ban đầu. Như vậy, trong quá trình ăn mòn, đầu tiên lõi
rắn SSN bị hòa tan, sau đó ngưng tụ lại trên khuôn micell tạo thành lớp vỏ mới, kích
thước lỗ rỗng ở giữa giảm do sự thu hẹp không gian của các micell. Cuối cùng, các
micell chất hoạt động bề mặt được loại bỏ để tạo thành lớp vỏ có cấu trúc mao quản.
Các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng các hạt nano với kích thước nhỏ hơn 200 nm có
thể được đào thải khỏi cơ thể trong mô hình thử nghiệm động vật in vivo [189]. Do
đó, hạt nano silica rỗng hứa hẹn là hệ dẫn truyền thuốc đầy tiềm năng.
Hình 3.15. Ảnh TEM và thống kê kích thước hạt từ ảnh TEM của hạt HMSN
96
Đồ thị 3.20. Sự phân bố kích thước hạt được tính toán từ dữ liệu DLS
của hạt HMSN
Đồ thị 3.21. Thế zeta của HMSN
Mặt khác, kết quả đánh giá điện tích bề mặt của hạt HMSN thể hiện qua Đồ
thị 3.21. Tương tự như lõi rắn SSN, bề mặt hạt HMSN với nhóm hydroxyl trên bề
mặt nên mang điện tích âm, giá trị thế zeta tương ứng là -25,53 ± 0,15 mV. Ngoài
ra, giá trị thế zeta âm cho thấy CTAB được loại bỏ hoàn toàn bằng cách thẩm tách
trong dung dịch CH3COOH 2M và ethanol.
Độ bền của hạt HMSN trong dung dịch được khảo sát theo thời gian (Đồ thị
3.22), kết quả cho thấy trong 6 giờ đầu thế zeta tăng và các khoảng thời gian sau đó
thì ổn định. Như vậy, so với hạt nano silica rắn SSN, hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ
thì hạt HMSN có giá trị tuyệt đối thế zeta thấp hơn. Điều này có thể do bề mặt các
hạt HMSN được tạo thành do silicate hòa tan được tạo ra từ lõi, sau đó ngưng tụ lại
trên CTA+ nên các hạt khá dính nhau.
97
Đồ thị 3.22. Thế zeta của hạt HMSN trong dung dịch theo thời gian
Kết quả phân tích phổ hồng ngoại của HMSN thể hiện trong Hình 3.16, xuất
hiện dải hấp phụ rộng từ 3300 - 3500 cm-1 do nhóm –OH trên bề mặt nano silica
[190], tại số sóng 1089 cm-1 là tín hiệu của Si-O-Si, Si-OH (973 cm-1) và Si-O (836
cm-1), H2O (1640 cm-1). Đặc biệt, trong phổ hồng ngoại của hạt nano silica cấu trúc
rỗng không có sự xuất hiện các tín hiệu của CH2 (3000 - 2800 cm-1) và tín hiệu CH3-
(N+) (1500-1450 cm-1), đây là các tín hiệu đặc trưng của CTAB [191]. Như vậy thông
qua phổ hồng ngoại có thể kết luận rằng chất hoạt động bề mặt CTAB đã được loại
bỏ để tạo thành lớp vỏ cấu trúc mao quản.
Hình 3.16. Phổ FTIR của HMSN
Bằng phương pháp phân tích nhiệt khối lượng, qua đường cong TGA của
HMSN được thể hiện trong Đồ thị 3.23 nhận thấy quá trình nung mẫu HMSN được
thực hiện từ 30oC - 800oC với tốc độ là 10oC/phút, kết quả tương tự như giản đồ phân
tích nhiệt của hạt rắn SSN. Độ giảm khối lượng của mẫu phân tích tăng cùng với tăng
nhiệt độ xử lý bao gồm độ giảm khối lượng do sự bay hơi của nước bị hấp phụ vật lý
và sự khử hydrat (dehydroxylation) một phần các nhóm silanol trên bề mặt vật liệu,
do các tạp chất hữu cơ từ vật liệu ban đầu bị mất đi, sự bay hơi của nước liên kết vật
98
lý và một phần sự khử hydrat các nhóm silanol bên trong cấu trúc vật liệu. Đặc biệt,
không có độ giảm khối lượng mạnh từ 200 - 300oC do chất hoạt động bề mặt CTAB
thể hiện qua Đồ thị 3.18, như vậy có thể kết luận lượng CTAB không còn trong mẫu
HMSN [166].
Đồ thị 3.23. Giản đồ phân tích nhiệt của HMSN
Đặc biệt, quan sát phổ XPS của HMSN Hình 3.17, kết quả quét tổng quát
(survey) cho thấy sự có mặt của các nguyên tố Si, O, C trong mẫu. Kết quả quét độ
phân giải cao (high - resolution) Si 2s, Si 2p và O 1s cho thấy các peak tại 103,43 eV
tương ứng với Si - O, và 154,53 eV tương ứng với Si 2s. Ngoài ra, peak tại 532,71
tương ứng của O. Thông qua kết quả quét tổng quát cho thấy không có mặt của
nguyên tố N trong chất hoạt động bề mặt CTAB, do đó có thể kết luận lượng CTAB
được loại bỏ hoàn toàn khỏi hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN [32].
Hình 3.17. Phổ XPS của HMSN khi quét tổng quát và độ phân giải cao của O 1s, Si 2s, Si 2p
99
Quan sát Hình 3.18, HMSN có đỉnh nhiễu xạ XRD rộng (2θ = 23o) cho thấy
hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN có cấu trúc vô định hình tương tự như lõi nano
silica rắn ban đầu được tổng hợp theo phương pháp Stober [156].
Hình 3.18. Phổ XRD góc rộng của HMSN
Diện tích bề mặt của HMSN được xác định bằng phương pháp hấp phụ – khử
hấp phụ khí N2, diện tích bề mặt vật liệu là 983,7 m2/g lớn hơn rất nhiều so với hạt
nano silica cấu mao quản trong nghiên cứu đã công bố [192]. Từ Đồ thị 3.24 nhận
thấy hình dạng đường đẳng nhiệt hấp phụ – khử hấp phụ của HMSN thuộc loại IV,
kiểu H4 được đặc trưng bởi dạng vòng trễ (theo phân loại của IUPAC); ngưng tụ mao
quản tại áp suất tương đối 0,42 chứng tỏ lớp vỏ của HMSN có cấu trúc mao quản nhỏ
và trung bình [193]. Quá trình phủ lớp vỏ nano silica lên lõi rắn SSN sử dụng phương
pháp sol – gel và chất hoạt động bề mặt CTAB tương tự như tổng hợp hạt nano silica
cấu trúc mao quản họ MCM-41. Như vậy, lớp vỏ của hạt nano silica cấu trúc rỗng
HMSN có cấu trúc mao quản hình lục giác 2D với các lỗ mao quản hình trụ thuộc
nhóm không gian (6pmm) như vật liệu MCM-41 [194, 195]. Mặt khác, chất hoạt động
bề mặt CTAB được sử dụng làm khuôn tạo cấu trúc mao quản trong lớp vỏ với chuỗi
alkyl chứa 16 nhóm – CH2 – nên sau khi được loại bỏ thì các lỗ mao quản có kích
thước 2,7 nm. Do đó, bằng cách dùng chất hoạt động bề mặt có chuỗi alkyl dài hơn
hay ngắn hơn có thể kiểm soát được kích thước lỗ mao quản [196].
100
Đồ thị 3.24. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của HMSN
Như vậy bằng phương pháp hard – template hạt nano silica cấu trúc rỗng
HMSN đã được tổng hợp thành công. Quy trình tổng hợp theo phương pháp này gồm
ba giai đoạn bao gồm tổng hạt nano silica rắn SSN, hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ
SSN@CTAB-SSN và quá trình ăn mòn để tạo thành cấu trúc rỗng HMSN. Hình dạng
và kích thước của hạt HMSN có thể được kiểm soát chặt chẽ thông qua kiểm soát
hình dạng và kích thước lõi nano silica rắn. Ngoài ra, kiểm soát độ dày lớp vỏ cũng
góp phần kiểm soát được kích thước hạt HMSN tạo thành. Quá trình chuyển từ hạt
SSN tạo thành hạt HMSN với sự thay đổi về kích thước hạt, thế zeta, diện tích bề mặt
và bản chất của các hạt được thể hiện qua Bảng 3.6.
Bảng 3.6. Kích thước hạt và thế zeta của SSN, SSN@CTAB-SSN và HMSN
Bản chất STT Mẫu Kích thước hạt, nm Thế zeta, mV
Diện tích bề mặt, m2/g 97,2 SSN 104,0 ± 0,7 -43,3 ± 0,87 1
46,6 167,0 ± 0,7 32,5 ± 0,66 2 SSN@CT AB-SSN
983, 7 HMSN 134,0 ± 0,3 -25,53 ± 0,15 3 Vô định hình Vô định hình Vô định hình
3.5. Kết quả biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với nhóm amin
Vật liệu nano silica thiếu các nhóm hoạt động trên bề mặt nên bị hạn chế ứng
dụng. Do đó, để sử dụng các tính chất độc đáo của vật liệu này thì bề mặt nano silica
cần được biến tính với các nhóm chức hữu cơ hoạt động. Sự kết hợp các thành phần
101
hữu cơ lên bề mặt các hạt nano silica tạo thành các vật liệu lai vô cơ – hữu cơ. Như
vậy vật liệu lai này sẽ có các ưu điểm của silica như bền nhiệt, bền cơ học, bền cấu
trúc và đặc tính dễ biến tính bề mặt cho các ứng dụng cụ thể của các nhóm hữu cơ
[197]. Trước tiên, bề mặt hạt nano silica cấu rỗng được biến tính bề mặt với nhóm
amin hữu cơ theo phương pháp đồng ngưng tụ “co-condensation” của tiền chất chứa
silica là TEOS và trialkoxyorganosilane APTES, đây là phương pháp tổng hợp được
sử dụng phổ biến vì các nhóm chức được phân bố đồng nhất trên bề mặt hạt nano
silica so với các phương pháp khác chẳng hạn như quá trình grafting [198]. Đối với
các hạt nano silica cấu trúc rỗng, việc biến tính bề mặt với nhóm amin nhằm mục
đích là cầu nối (nhóm chức hoạt động) cho các phản ứng biến tính bề mặt tiếp theo
của hạt HMSN [199] và thông qua nhóm amin có thể dễ dàng ghép các phân tử hữu
cơ khác với các hạt nano silica, quy trình tổng hợp đơn giản được mô tả lần đầu tiên
bởi Philipse and Vrij [200, 201]. Ngoài ra, nhóm amin còn có tác dụng như là các
nắp đậy hạn chế quá trình rò rỉ thuốc trong quá trình vận chuyển thuốc trong cơ thể
cho các ứng dụng y sinh [122]. Khả năng giữ thuốc của vật liệu mới được tạo thành
bị ảnh hưởng bởi lượng nhóm amin trên bề mặt. Do đó lượng nhóm amin trên bề mặt
HMSN được khảo sát qua các thể tích khác nhau của APTES bao gồm 50, 100, 250,
500 và 800 µl.
Quan sát ảnh TEM được thể hiện qua Hình 3.19, kết quả cho thấy sau khi biến
tính bề mặt với nhóm amin các hạt nano tạo thành có dạng hình cầu, độ đồng nhất
cao và phân bố kích thước hạt hẹp. Đặc biệt, so với các hạt HMSN (Hình 3.15) thì
+, giữa các nhóm mang điện tích
các hạt HMSN-NH2 không có hiện tượng kết tụ giữa các hạt. Điều này có thể do các
nhóm –NH2 trên bề mặt bị proton hóa thành NH3
dương tương tác với nhau bằng lực đẩy nhau bằng lực đẩy tĩnh điện và lực đẩy này
lớn hơn lực hút giữa các hạt nên hạn chế xảy ra sự kết tụ của các hạt (vì theo thuyết
DLVO, các hạt có khuynh hướng kết tụ lại với nhau để giảm năng lượng bề mặt tạo
thành các hệ phân tán bền) [202]. Ngoài ra, phản ứng được thực hiện trong môi trường
ethanol tuyệt đối, các ethanol này giữ vai trò như là co-solvent có tác dụng giảm lực
hút phân tử van der Waals của các hạt [167]. Mặt khác, sau khi biến tính bề mặt, các
hạt HMSN-NH2 tạo thành có kích thước lớn hơn hạt HMSN ban đầu và có xu hướng
tăng theo chiều tăng lượng APTES tham gia phản ứng, kết quả này phù hợp với
nghiên cứu của Seong Huh và cộng sự [198]. Cụ thể, kích thước hạt tăng từ 138,0 ±
102
0,4 nm đối với mẫu HMSN-NH2-50 (mẫu chứa lượng APTES tham gia phản ứng thấp
nhất) đến kích thước 154,0 ± 0,9 nm đối với mẫu HMSN-NH2-500 (thể tích APTES
là 500 µl). Tuy nhiên, sau đó thì kích thước hạt giảm với mẫu HMSN-NH2-800 chứa
lượng amin cao nhất thể hiện qua Bảng 3.7.
Hình 3.19. Ảnh TEM và sự phân bố kích thước hạt của HMSN-NH2 từ thống kê ảnh TEM tại các tỉ lệ khác nhau của APTES (µl )50 (a/a’), 100 (b/b’), 250 (c/c’), 500 (d/d’), và 800 (e/e’)
Bảng 3.7. Kích thước hạt của mẫu HMSN-NH2 tại các tỉ lệ APTES
STT Mẫu Thể tích APTES Kích thước hạt
(µl) (nm)
1 50 138,0 ± 0,4 HMSN-NH2-50
2 100 144,0 ± 0,5 HMSN-NH2-100
103
3 250 148,0 ± 0,4 HMSN-NH2-250
4 500 154,0 ± 0,9 HMSN-NH2-500
5 800 151,0 ± 1,0 HMSN-NH2-800
Nano silica cấu trúc rỗng ban đầu (HMSN) được biến tính bề mặt với nhóm
amin thông qua phản ứng với (3-aminopropyl)-triethoxysilane. Lượng nhóm amin
trên bề mặt hạt HMSN-NH2 được xác định bằng cách dùng ninhydrin phản ứng với
nhóm –NH2 tạo thành phức màu hồng đặc trưng. Sau đó tiến hành dùng quang phổ
UV-Vis để định lượng nhóm –NH2 trên bề mặt. Dựa vào Đồ thị 3.25 cho thấy lượng
nhóm amin tăng theo chiều tăng thể tích của APTES và tại thể tích APTES là 500 µl
thì lượng nhóm amin được gắn nhiều nhất 50 µmol/gram hạt HMSN-NH2-500.
Đồ thị 3.25. Tổng lượng nhóm amin (µg/100mg hạt HMSN-NH2) tại các tỉ lệ khác nhau của APTES
Điện tích bề mặt của tất cả các hạt nano silica cấu trúc rỗng và biến tính được
thể hiện bằng thế zeta trong Đồ thị 3.26. Khi thế zeta lớn thì lực đẩy tĩnh điện giữa
các hạt càng tăng, kết quả là giảm sự kết tụ giữa các hạt và cải thiện độ bền, độ phân
+ mang điện
tán của hạt. Thế zeta của HMSN âm do điện tích âm của nhóm hydroxyl trên bề mặt.
Đối với các mẫu HMSN-NH2 do các nhóm amin bị proton hóa thành NH3
tích dương nên sẽ làm bớt điện tích âm trên bề mặt silica và tăng đến dương điện theo
chiều tăng thể tích của APTES, tương ứng với sự tăng lượng nhóm amin được biến
tính trên bề mặt. Điện tích dương cao nhất được tìm thấy tại thể tích APTES là 500
µl tương ứng với thế zeta là +7,27 mV, điều này phù hợp với kết quả xác định lượng
104
nhóm NH2 trên bề mặt và có thể khẳng định nhóm amin được biến tính thành công
[203]. Mặt khác như đã giải thích khi quan sát ảnh TEM thể hiện trong hình 3.20,
giữa các hạt không có hiện tượng kết tụ mặc dù giá trị tuyệt đối thế zeta các hạt
HMSN-NH2 rất thấp so với thế trị thế zeta để hệ bền |30 mV|. Ngoài ra, các hạt nano
silica có bề mặt được biến tính với các nhóm amin sẽ làm tăng giá trị PZC của hạt
tăng từ 2,1 lên đến 5,1; 6,5 và 7,2 tùy vào lượng nhóm amin [156].
Đồ thị 3.26. Thế zeta của HMSN và HMSN-NH2 tại các tỉ lệ khác nhau của APTES
Nhóm –NH2 cũng được đánh giá thông qua phân tích nhiệt khối lượng thể
hiện qua Đồ thị 3.27. So với HMSN thì các mẫu được biến tính bề mặt có độ giảm
khối lượng cao hơn do sự phân hủy các nhóm chức được biến tính trên bề mặt. Cụ
thể đối với HMSN, độ giảm khối lượng tương ứng là 17,38 % trong khi HMSN-NH2-
500 được biến tính với lượng APTES cao nhất là 23,75 %, như vậy độ giảm 5,37 %
là khối lượng nhóm NH2 bị phân hủy.
Đồ thị 3.27. Giản đồ phân tích nhiệt của HMSN và HMSN-NH2 tại các tỉ lệ khác nhau của APTES
105
Đồ thị 3.28. Đường đẳng nhiệt hấp phụ-khử hấp phụ N2 của HMSN và HMSN-NH2 tại các tỉ lệ khác nhau của APTES
Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của APTES được chức hóa lên
bề mặt HMSN được thể hiện trong Đồ thị 3.28. Đối với mẫu HMSN, HMSN-NH2-
50 và HMSN-NH2-100 tức là hạt nano silica cấu trúc rỗng ban đầu và hai mẫu được
biến tính với lượng APTES thấp thì đường đẳng nhiệt thuộc loại IV, đường trễ kiểu
H4 (theo phân loại của IUPAC) [193]. Cả ba loại đều có hiện tượng ngưng tụ mao
quản sớm hơn (tại áp suất tương đối khoảng 0,42) so với các mẫu còn lại, điều này
chứng tỏ vật liệu tạo thành có cấu trúc mao quản. Đối với ba mẫu còn lại thì đường
đẳng nhiệt thuộc loại I, tuy nhiên hình dạng vòng trễ thể hiện không rõ lắm, có thể là
loại H2 [204], phân tích t-plot cho thấy ba mẫu HMSN-NH2 này cũng có cấu trúc
mao quản [205]. Như vậy có thể kết luận rằng sau khi biến tính bề mặt với nhóm
amin, các hạt nano HMSN-NH2 tạo thành với các lượng thể tích APTES khác nhau
vẫn giữ cấu trúc mao quản như các vật liệu nano silica rỗng HMSN ban đầu. Ngoài
ra, các mẫu được biến tính bề mặt với nhóm NH2 có diện tích bề mặt thấp hơn so với
mẫu HMSN ban đầu. Theo chiều tăng thể tích của APTES tức lượng nhóm NH2 trên
bề mặt càng tăng thì diện tích bề mặt các mẫu đều tăng, kết quả này phù hợp với
nghiên cứu của Oliveira và cộng sự [156]. Điều này có thể giải thích khi sử dụng
phương pháp hấp phụ - khử hấp phụ khí N2, lượng khí N2 không những bị hấp phụ
vào các lỗ rỗng bên trong cấu trúc, các lỗ mao quản trên lớp vỏ mà còn hấp phụ vật
lý trên bề mặt các nhóm amin bằng lực hút van der Waals dẫn đến lượng khí hấp phụ
106
tăng, kết quả diện tích bề mặt tăng. Ngoài ra dựa vào Đồ thị 3.29 nhận thấy mẫu
HMSN-NH2-500 có diện tích bề mặt lớn nhất so với các mẫu biến tính với nhóm amin
còn lại.
Đồ thị 3.29. Diện tích bề mặt (B) của HMSN và HMSN-NH2 tại các tỉ lệ khác nhau của APTES
Mặt khác, phương pháp phổ hồng ngoại được sử dụng để đánh giá cấu trúc của
các hạt HMSN-NH2 tạo thành, tiến hành đo phổ hồng ngoại mẫu có hàm lượng nhóm
amin thấp nhất HMSN-NH2-50. Quan sát Hình 3.20 nhận thấy cả hai mẫu có xuất
hiện dải hấp phụ từ 3300 - 3500 cm-1 do nhóm –OH, tại 1100 cm-1 là tín hiệu của Si-
O-Si, H2O (1640 cm-1) và Si-OH (973 cm-1), điều này chứng tỏ sự có mặt của silicon.
Ngoài ra, xuất hiện các peak hấp phụ mới tại số sóng 2910, 2850 và 1470 cm-1 là tín
hiệu dao động kép và dao động uốn C-H của nhóm aminopropyl, nhóm amin cũng
được xác định thông qua peak hấp phụ yếu tại 1542 cm-1, thuộc loại dao động uốn
của nhóm NH2. Kết quả FTIR chứng minh được đã biến tính thành công NH2 trên bề
mặt silica [206-208].
Hình 3.20. Phổ hồng ngoại của HMSN a) và HMSN- NH2-50 b)
107
Đặc biệt, để có thể khẳng định một cách chính xác đã biến tính nhóm amin
trên bề mặt HMSN thành công, tiến hành đo phổ XPS với mẫu có hàm lượng nhóm
amin thấp nhất HMSN-NH2-50. Kết quả được thể hiện trong Hình 3.21, so với phổ
XPS của HMSN khi được quét tổng quát thì có xuất hiện thêm nguyên tử N (400 eV).
Khi được quét với độ phân giải cao C 1s (bên trái) có hai peak tương ứng với liên kết
+) tại 401,3 eV [209,
C-C và C-N tại 284,6 eV và 286,1 eV. Riêng đối với peak N 1s cũng có 2 thành phần
đó là nhóm amin (-NH2) tại 399,5 eV và nhóm ammonium (NH4
210]. Như vậy có thể khẳng định rằng đã chức hóa thành công nhóm amin trên bề
mặt HMSN.
Hình 3.21. Phổ XPS của HMSN-NH2-500 khi quét tổng quát và độ phân giải cao của O 1s, N 1s, Si 2s và Si 2p
3.6. Kết quả biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với monomethoxyl
polyethylene glycol (mPEG)
Vật liệu nano sau khi vào trong cơ thể, do sự hấp phụ protein không đặc hiệu
và sự hấp thu tế bào dẫn đến sự giải phóng nhanh các vật liệu này khỏi cơ thể. Các
nghiên cứu trước đây đã khẳng định rằng các chất mang nano được biến tính với poly
(ethylene glycol) sẽ hình thành các lớp nước trên bề mặt chất mang nano, ngăn chặn
sự hấp phụ và nhận biết protein do đó kéo dài thời gian lưu thông của các chất mang
nano trong cơ thể và sau đó là hướng đích thụ động thông qua hiệu ứng tăng tính
thấm và duy trì (EPR) [211, 212]. Do đó, tạo nên hệ chất mang hiệu quả, tiến hành
biến tính bề mặt hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN với polymer poly (ethylene
108
glycol). Đặc biệt, các polymer này giữ vai trò quan trọng trong việc như là các nắp
đậy các lỗ mao quản để hạn chế thuốc bị rò rỉ từ lỗ rỗng lớn bên trong cấu trúc hạt
HMSN [213] .
3.6.1. Hoạt hóa monomethoxyl polyethylene glycol (mPEG) bằng 4-Nitrophenyl
chloroformate (NPC)
Kết quả phân tích phổ hấp thụ hồng ngoại của mẫu mPEG sau khi biến tính
bằng tác nhân p-nitrophenyl chloroformate (Hình 3.22) cho thấy, phổ hấp thu có tín
hiệu hấp thu tại 2888 cm-1, 1469 cm-1 và 1111 cm-1 tương ứng với dao động đặc trưng
của -OCH2-CH2-, -NO2, và C-O trên phân tử mPEG [214].
Hình 3.22. Phổ hồng ngoại của mPEG-NPC
Hình 3.23. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân của mPEG-NPC
Kết quả phân tích phổ cộng hưởng từ hạt nhân 1H-NMR của mẫu mPEG-NPC
(Hình 3.23) cho thấy có tín hiệu độ dịch chuyển hóa học tại δH = 3,34 ppm của H3C-
O- (a), δH = 3,80 – 3,35 ppm của –O-CH2-CH2-OCH2- (b), δH = 3,83 – 3,82 ppm
của -O-CH2-CH2-OCOO- (c), δH = 4,46 – 4,44 ppm của -O-CH2-CH2-OCOO- (d),
109
δH = 7,47 – 7,45 ppm (e), và δH = 8,33 – 8,31 ppm (f), tất cả các tín hiệu này phù
hợp với cấu trúc của mPEG-NPC theo lý thuyết, chứng tỏ phản ứng biến tính mPEG
bằng NPC diễn ra thành công [215, 216].
3.6.2. Kết quả biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với mPEG
Quan sát ảnh SEM và TEM thể hiện qua Hình 3.24.a,b cho thấy kích thước
hình thái của các hạt thu được. Cả HMSN và HMSN-mPEG đều có hình dạng hình
cầu và không có sự thay đổi lớn về kích thước. Đặc biệt, khác với hạt HMSN khi
được phủ lớp polymer mPEG thì kết quả FE-SEM cho thấy cấu trúc rỗng của hạt.
Kích thước hạt của HMSN là 134,0 ± 0,3 nm, trong khi của HMSN-mPEG là 149,3
± 0,9 nm. Tuy nhiên, lớp vỏ của các hạt được phủ PEG tương đối dày hơn so với các
hạt rỗng ban đầu. Ngoài ra, để chứng minh sự liên hợp của các phân tử mPEG trên
các hạt HMSN, mẫu được nhuộm với dung dịch phosphotungstic axit, kết quả ảnh
TEM cho thấy lớp vỏ dày hơn trên bề mặt hạt HMSN thể hiện qua Hình 3.24.c [93,
217, 218].
Hình 3.24. Ảnh SEM (a), TEM (b)(c – nhuộm) và phân bố kích thước hạt (b’) của HMSN-mPEG.
Để xác định cấu trúc tinh thể của vật liệu, phương pháp nhiễu xạ tia X được
sử dụng, kết quả được trình bày trong Hình 3.25 cho thấy tính chất vô định hình của
các hạt silica, ngay cả sau khi đã biến tính bề mặt với mPEG. Giản đồ c và d, tín hiệu
110
đặc trưng của APTES xuất hiện tại giá trị khoảng 2θ = 14o có thể được quan sát rõ
ràng trong các nhiễu xạ của HMSN-NH2 và HMSN-mPEG, do sự biến tính của
HMSN với APTES. Đỉnh silica với cường độ thấp hơn nhiều được chồng lên với một
đỉnh APTES đặc trưng khác cũng được quan sát thấy. Hiện tượng này là hoàn toàn
phù hợp với tài liệu báo cáo trước đó [219]. Sau khi được biến tính bề mặt, phổ XRD
của HMSN-mPEG không có sự khác biệt đáng kể so với HMSN-NH2, cho thấy khi
biến tính với mPEG không có tác động đến cấu trúc của silica, các mẫu cũng được
chuẩn bị với độ tinh khiết cao, được biểu thị bằng việc không xuất hiện các đỉnh khác.
Hình 3.25. Giản đồ nhiễu xạ tia X góc rộng của HMSN (a), APTES (b), HMSN-NH2 (c), and HMSN-mPEG (d)
Hình 3.26 cho thấy phổ FT-IR của (a) HMSN-mPEG, (b) mPEG và (c) HMSN.
Sự kết hợp thành công của mPEG vào HMSN được biểu thị bằng sự hiện diện của
các peak đặc trưng của cả mPEG và HMSN trong sản phẩm cuối cùng. Các peak biểu
thị các dao động kéo dài của Si-O-Si (1089 cm-1), uốn cong và kéo dài không đối
xứng của Si-OH (973 cm-1 và 836 cm-1) được quan sát trong phổ của HMSN, mặc dù
trong phổ HMSN-mPEG, các đỉnh được chồng lấp với các tín hiệu từ lớp phủ mPEG.
Ngoài ra, một đỉnh được cho là do sự kéo dài OH của nước có trong HMSN ở 1640
cm-1 và một dải rộng khoảng 3400 cm-1 được cho là sự kéo dài OH của nhóm silanol
được quan sát thấy trong cả hai phổ [124]. Về mặt mPEG, các peak được thể hiện rõ
111
ràng: C-H kéo dài ở 2884 cm-1 và uốn cong ở 1468 cm-1. Do đó, đã biến tính thành
công mPEG lên bề mặt HMSN.
Hình 3.26. Phổ hấp thụ hồng ngoại của (a) HMSN-mPEG, (b)mPEG và (c) HMSN
Phổ XPS của HMSN-mPEG được thể hiện trong Hình 3.27: Kết quả quét tổng
quát cho thấy sự có mặt của các nguyên tố Si, O, C, N trong mẫu. Kết quả quét độ
phân giải cao (high-resolution) C 1s cho thấy: các peak tại 284,6 eV tương ứng với
liên kết C-H, và 286,1 eV tương ứng với C-OH, C-O trong (-CH2CH2-O-)n trong
mPEG [209].
Hình 3.27. Phổ XPS của HMSN-mPEG
Sự thay đổi điện tích bề mặt của HMSN sau khi biến tính với mPEG được thể
hiện trong Đồ thị 3.30. Các phân tử mPEG với các nhóm ethylene oxide có thể đóng
112
góp điện tích dương hơn cho các hạt nano [220]. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự thay
đổi thế zeta HMSN ban đầu có bề mặt mang điện tích âm -26,8 mV do Si-OH và sau
khi biến tính với mPEG thì bề mặt càng bớt âm và trở nên dương điện, giá trị thế zeta
tương ứng là 6,8 mV [82].
Đồ thị 3.30.Thế zeta của HMSN và HMSN-mPEG
Đồ thị 3.31. Giản đồ nhiệt trọng trường của mẫu HMSN, mPEG và HMSN-mPEG
Đồ thị 3.31 thể hiện các đường cong TGA của mPEG, HMSN và HMSN-
mPEG. Sự giảm khối lượng ở nhiệt độ dưới 100oC trong cả hai mẫu HMSN và
HMSN-mPEG có thể do sự bay hơi nước từ phản ứng thủy phân trong quá trình tổng
hợp. Trong khoảng nhiệt độ 100 - 800oC, độ giảm khối lượng của HMSN-mPEG là
21,2%, cao hơn nhiều so với HMSN (9,1%). Sự khác nhau về độ giảm khối lượng
này là do lượng mPEG biến tính trên bề mặt (khoảng 12,1%). Mẫu được biến tính
cũng có độ ổn định tốt hơn polymer mPEG ban đầu, phân hủy hoàn toàn khoảng
600oC. Cùng với FT-IR và Zeta, dữ liệu từ TGA đã chứng minh đươc sự phủ thành
công của mPEG lên bề mặt HMSN.
113
Từ đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của mẫu HMSN-mPEG (Đồ
thị 3.32) cho thấy: đường đẳng nhiệt hấp phụ khử hấp phụ thuộc loại IV, đường trễ
kiểu H4. Dạng đường này đặc trưng cho vật liệu có cấu trúc xốp, như vậy ngay cả
sau khi phủ mPEG, các hạt nano silica vẫn giữ được bản chất xốp của chúng. Diện
tích bề mặt của HMSN-mPEG là 527,6 m2/g, thấp hơn so với HMSN 983,7 m2/g do
mPEG có thể đã che chắn lỗ mao quản [221].
Đồ thị 3.32. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của HMSN-mPEG
3.7. Kết quả biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với Pluronic
3.7.1.Kết quả hoạt hóa Pluronic (F127) bằng 4-Nitrophenyl chloroformate
Phổ hồng ngoại của NPC-F127-OH cho kết quả tương tự như mPEG-NPC.
1 và 1111 cm-1 tương ứng với dao động đặc trưng của -OCH2-CH2-, -NO2, và C-O
Dựa vào Hình 3.28 nhận thấy phổ hấp thu có tín hiệu hấp thu tại 2888 cm-1, 1469 cm-
chứng tỏ đã tổng hợp thành công NPC-F127-OH [214].
Hình 3.28. Phổ FTIR của NPC-F127-OH
114
Hình 3.29. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân của F127-NPC
Kết quả phân tích thành phần, cấu trúc của NPC-F127-OH được thể hiện qua
phổ cộng hưởng từ hạt nhân 1H-NMR (Hình 3.29). Phổ đồ có tín hiệu độ dịch chuyển
hóa học tại δH = 3,34 ppm của HC-O- (d), δH = 3,80 – 3,35 ppm của –O-CH2-CH-
(OCH2-)(CH3) (e), δH = 3,83 – 3,82 ppm của -O-CH2-CH2-OCOO- (c), δH = 4,46 –
4,44 ppm của -O-CH2-CH2-OCOO- (c’, c”), δH = 7,47 – 7,45 ppm của (b), và δH
= 8,33 – 8,31 ppm (a), tất cả các tín hiệu này phù hợp với cấu trúc của F127-NPC
theo lý thuyết, chứng tỏ phản ứng biến tính F127 bằng NPC thành công [222, 223].
3.7.2. Kết quả biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với Pluronic
Hình 3.30 cho thấy hình thái và kích thước hạt HMSN-F127. Các hạt HMSN-
F127 vẫn có dạng hình cầu, kết quả FE-SEM cũng cho thấy cấu trúc với một lỗ rỗng
lớn bên trong như khi phủ mPEG. Kích thước trung bình của HMSN là 134,8 ± 0,3
nm, trong khi đó HMSN được phủ F127 là 152,9 ± 0,9 nm, kích thước này tương tự
như khi phủ mPEG. Do đó có thể khẳng định kích thước hạt thay đổi không đáng kể
khi biến tính bề mặt HMSN với mPEG hay F127 với cùng một khối lượng đem phản
ứng [82]. Kết quả mẫu nhuộm với dung dịch phosphotungstic axit cho thấy lớp vỏ
dày hơn trên bề mặt hạt tương tự như HMSN-mPEG.
115
Hình 3.30. Ảnh SEM (a) và TEM (b) và phân bố kích thước hạt (b’) của HMSN-F127
Các cấu trúc tinh thể của HMSN-F127 được xác định và so sánh bằng cách sử
dụng nhiễu xạ tia X (Hình 3.31). Quan sát hình giản đồ b nhận thấy các đỉnh không
sắc nhọn đặc trưng cho tính chất vô định hình của các hạt silica. Trong nghiên cứu
trước đây về biến tính bề mặt của HMSN với mPEG đã chỉ ra phổ XRD của HMSN-
NH2 [224]. Không có sự khác biệt đáng kể giữa các mẫu XRD của HMSN và HMSN-
F127, chỉ ra rằng F127 được biến tính không ảnh hưởng đến cấu trúc của HMSN. Các
kết quả XRD cũng chỉ ra rằng các mẫu được chuẩn bị với độ tinh khiết cao do không
xuất hiện các đỉnh khác.
Hình 3.31. Giản đồ nhiễu xạ tia X góc rộng của HMSN (a), HMSN-F127 (b)
Các hạt HMSN được phủ bề mặt với F127 đã được đo phổ hồng ngoại và kết
quả được thể hiện trong Hình 3.32. FTIR của HMSN-F127 (đường c) xuất hiện tín
hiệu hấp thụ của cả hạt HMSN bởi nhóm amin (đường a) và F127 ban đầu (đường b).
Phổ FTIR của HMSN-F127 có tín hiệu tại số sóng 3300 - 3500 cm-1 và 10890 cm-1
tương ứng với các nhóm -OH và Si-O-Si trên HMSN, ngoài ra có các tín hiệu tại
116
2888 cm-1 và 1111 cm-1, tương ứng với nhóm -OCH2-CH2- trên [225, 226]. Kết quả
của phổ hồng ngoại đã chứng minh bề mặt của các hạt HMSN được bao phủ bởi
F127. Kết quả FTIR cùng với phân tích hình ảnh TEM cho thấy các hạt HMSN-F127
đã được tổng hợp thành công.
Hình 3.32. Phổ hấp thụ hồng ngoại của (a) HMSN, (b) F127 và (c) HMSN-F127
Xác định tính chất bề mặt của các hạt thuốc nano là rất quan trọng vì nó ảnh
hưởng đến tương tác của chúng với môi trường, điều này phụ thuộc vào sự kết hợp
giữa kích thước và tính chất bề mặt, cũng như độ hòa tan, độ ổn định và mức độ đào
thải của cơ thể. Điện tích bề mặt của HMSN và HMSN-F127 thể hiện trong Đồ thị
3.33, giá trị zeta lần lượt là -26,8 mV và + 6,5 mV.
Đồ thị 3.33. Thế zeta của HMSN và HMSN-F127
Sử dụng phương pháp phân tích nhiệt khối lượng TGA để xác định thành phần
tỷ lệ các chất cấu thành vật liệu thể hiện qua Đồ thị 3.34. Kết quả cho thấy lượng
117
F127 đã phủ lên bề mặt hạt nano silica cấu trúc rỗng là khoảng 20%, cao hơn so với
lượng mPEG.
Đồ thị 3.34. Giản đồ nhiệt trọng trường của F127 và HMSN-F127
Dựa vào Đồ thị 3.35 có thể thấy rằng đường đẳng nhiệt của HMSN-F127 vẫn
giữ được các đặc tính của HMSN gốc với diện tích bề mặt là 168,4 m2/g, theo phân
loại của IUPAC, các đường đẳng nhiệt thuộc loại IV và vòng trễ kiểu H2. Ngưng tụ
mao quản của HMSN-F127 ở áp suất tương đối sớm 0,42, điều này cho thấy vật liệu
có cấu trúc mao quản nhỏ đến trung bình [193]. Như vậy, F127 với khối lượng phân
tử vào khoảng 12 KDa nên có các mạch polymer dài hơn trên bề mặt HMSN, do đó
diện tích bề mặt nhỏ hơn HMSN và HMSN-mPEG.
Đồ thị 3.35. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của HMSN-F127
118
3.8. Hiệu quả nang hóa thuốc chống ung thư Doxorubicin (Dox) của các chất
mang nano HMSN, HMSN-NH2, HMSN-mPEG, HMSN-F127
Hàm lượng Dox chứa trong hệ chất mang nano được xác định bằng phương
pháp quang phổ tử ngoại khả kiến UV-Vis với bước sóng hấp thu lớn nhất ở 570 nm.
Dox tinh khiết được hòa tan trong nước khử ion với các nồng độ từ 0 - 5 µg/ml và 5
đến 50 để dựng đường chuẩn. Đồ thị biểu diễn tỉ lệ giữa nồng độ curcumin và độ hấp
thụ sẽ cho kết quả là một phương trình đường thẳng dạng y = ax + b, trong đó y là độ
hấp thụ còn x là nồng độ.
Bảng 3.8. Hiệu suất và khả năng mang thuốc Dox (DLE và DLC)
của các hệ chất mang
Hiệu suất mang Khả năng mang STT Loại chất mang thuốc Dox, DLE (%) thuốc Dox, DLC (%)
HMSN 22,70 ± 0,77 5,40 ± 0,17 1
96,86 ± 1,98 19,59 ± 0,32 HMSN-NH2-500 2
HMSN-mPEG 65,43 ± 0,74 10,40 ± 0,11 3
HMSN-F127 72,08 ± 0,09 11,09 ± 0,01 4
Hiệu suất và khả năng mang thuốc (DLE và DLC) được coi là hai yếu tố quan
trọng trong bất kỳ hệ dẫn truyền thuốc nào, vì chúng đóng vai trò trực tiếp trong hoạt
động điều trị [227]. Các hạt nano silica được tổ chức FDA cho phép ứng dụng trong
lĩnh vực y sinh do đó khả năng mang thuốc cao của HMSN là yếu tố được mong đợi
Dựa vào Bảng 3.8 nhận thấy HMSN khi mang tải thuốc Doxorubixin (Dox) có giá trị
DLE và DLC tương ứng 22,70 ± 0,77 (%) và 5,40 ± 0,17 (%). Kết quả cho thấy, hiệu
suất và khả năng mang thuốc Dox của HMSN thấp hơn so với khi mang tải dược chất
Rhodamin B (Rh), tuy nhiên vẫn cao hơn khả năng mang thuốc của hạt nano silica
xốp (PNS), điều này được thể hiện trong nghiên cứu đã được công bố [124]. Do đó,
có thể khẳng định rằng hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN với lớp vỏ cấu trúc mao
quản và đặc biệt là lỗ rỗng bên trong lớn nên đã cải thiện khả năng mang thuốc của
các hạt nano silica cấu trúc mao quản MSN.
Các mẫu nano silica cấu trúc rỗng HMSN được biến tính bề mặt với nhóm
amin, mPEG và F127, kết quả nang hóa thuốc của hệ chất mang này cho thấy hiệu
suất và khả năng mang thuốc cao hơn hạt nano silica cấu trúc rỗng ban đầu HMSN.
119
Đối với hệ chất mang HMSN-mPEG và HMSN-F127 có thể do lượng thuốc không
chỉ được chứa trong cấu trúc của hạt HMSN mà còn được chứa trong các khe được
tạo thành bởi các polymer trên bề mặt và đặc biệt các polymer này như là các nắp đậy
để hạn chế thuốc bị rò rỉ trong quá trình vận chuyển nên dẫn đến khả năng mang
thuốc cao hơn. Ngoài ra, F127 là polymer nhạy nhiệt nên quá trình nang hóa thuốc
được thực hiện ở nhiệt độ thấp (200C), tại nhiệt độ này thì các polymer F127 duỗi ra,
thuốc dễ dàng được đẩy vào bên trong lỗ rỗng bằng cách khuấy từ. Khi tăng nhiệt độ
các polymer này sẽ co cụm lại để giữ thuốc bên trong cấu trúc và trong các bề mặt
polymer do đó khả năng mang thuốc của hệ chất mang HMSN-F127 cao hơn HMSN-
mPEG, tuy nhiên thì giá trị nào cao hơn không đáng kể. Hệ chất mang HMSN-NH2
có hiệu suất và khả năng mang thuốc cao nhất (96,86 ± 1,98 % đối với DLE và 19,59
± 0,32 % đối với DLC). Sự nhảy vọt khả năng mang thuốc này có thể được giải thích
như sau: (i) thuốc được tải vào bên trong cấu trúc hạt rỗng tương tự như HMSN, (ii)
các nhóm amin giữ vai trò khóa các lỗ mao quản để hạn chế thuốc bị rò rỉ trong quá
trình vận chuyển và (iii) thuốc Dox được hấp phụ vật lý lên bề mặt các nhóm amin
bằng lực hút Van der val . Điều này đã chứng minh được vai trò như những nắp đậy
hiệu quả của F127 trên bề mặt HMSN. Hơn nữa, DLE và DLC của HMSN-mPEG đã
được thể hiện trong nội dung trước, điều đáng chú ý là cả hai giá trị DLE và DLC của
HMSN-F127 đều cao hơn HMSN-mPEG một cách rõ ràng. Như vậy có thể khẳng
định rằng các hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN có khả năng nang hóa thuốc cao
hơn các hạt nano silica cấu trúc mao quản MSN. Và đặc biệt khi được biến tính bề
mặt thì cải thiện hiệu quả khả năng tải thuốc của hạt rỗng ban đầu.
3.9. Kết quả khảo sát tốc độ phóng thích thuốc Doxorubicin của hệ chất
mang/thuốc HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox, HMSN-
F127/Dox
Đồ thị 3.36 cho thấy trong điều trị phải dùng thuốc sao cho liều dùng nằm
trong khung cửa sổ điều trị có nghĩa là lượng thuốc đưa vào phải đạt tới nồng độ cho
tác dụng dược lý nhưng không được phép gây độc hay cho tác dụng không mong
muốn. Đồ thị cũng cho thấy đường động học của thuốc tự do thể hiện sự thay đổi cao
về nồng độ thuốc hiện có từ mức độ dưới hiệu quả điều trị đến mức độ gây độc.
Ngược lại, đối với hệ dẫn truyền thuốc thì nồng độ thuốc được phóng thích nằm trong
120
phạm vi điều trị, do đó các hệ chất mang nano/thuốc hứa hẹn có hiệu quả đáng kể
[228, 229].
Đồ thị 3.36. Cửa sổ điều trị của các loại thuốc được sử dụng
Khả năng phóng thích thuốc của thuốc tự do và hệ chất mang/thuốc được khảo
sát theo thời gian tại các thời điểm 1, 3, 6, 9, 12, 24, 36, 48, 72 và 96 giờ tại pH 7,4
(mô phỏng môi trường sinh lý trong cơ thể) và ở pH axit 5,5 (để mô phỏng môi trường
khối u). Dựa vào Đồ thị 3.37 và 3.38 nhận thấy thuốc Dox được kiểm soát tốt bởi các
hệ chất mang. Điều này được thể hiện rõ tại thời gian 1 giờ đầu tiên thì có gần 40%
thuốc Dox tự do được phóng thích ra môi trường tại cả hai giá trị pH, cao hơn tất cả
lượng thuốc Dox được phóng thích ra môi trường bởi các hệ chất mang. Cụ thể đến
12 giờ thì có khoảng 40% lượng thuốc Dox được phóng thích bởi hệ chất mang/thuốc
HMSN/Dox trong môi trường pH 5,5. Riêng tại pH 7,4 thì lượng thuốc Dox được
phóng thích ra môi trường bởi hệ chất mang này thấp hơn do thuốc Dox tan tốt hơn
trong môi trường axit. Như vậy, đối với mỗi hệ chất mang/thuốc thì lượng thuốc Dox
được phóng thích tại giá trị pH 5,5 sẽ cao hơn giá trị pH 7,4.
Ngoài ra, dựa vào Đồ thị 3.38 cho thấy lượng thuốc được phóng thích từ hệ
chất mang/thuốc được tạo bởi hạt nano silica cấu trúc rỗng chưa biến tính bề mặt
HMSN luôn cao hơn các hệ chất mang được biến tính bề mặt. Điều này có thể được
giải thích do HMSN với cấu trúc lỗ rỗng bên trong lớn và lớp vỏ cấu trúc mao quản
nên lượng thuốc bị rò rỉ ra ngoài trong quá trình phóng thích thuốc. Như vậy, có thể
kết luận rằng so với các hạt HMSN ban đầu, các hệ chất mang được biến tính bề mặt
kiểm soát phóng thích thuốc tốt hơn, lượng thuốc Dox được phóng thích từ từ tra môi
trường.
121
Khảo sát khả năng phóng thích thuốc đối với hệ chất mang/thuốc HMSN-
NH2/Dox. Kết quả trong 12h đầu có khoảng 20% lượng Dox được phóng thích trong
môi trường pH 5,5 do Dox được hấp phụ trên bề mặt HMSN-NH2. Sau đó, do Dox
dễ tan trong môi trường axit nên lượng Dox được chứa sâu bên trong lỗ rỗng và lớp
vỏ cấu trúc mao quản sẽ lần lượt được phóng thích trong khoảng thời gian tiếp theo.
Tuy nhiên, nhìn chung hệ chất mang/thuốc HMSN-NH2/Dox phóng thích thuốc chậm
nhất trong môi trường pH 5,5 là do tương tác ion giữa nhóm carboxyl trong phân tử
Dox và nhóm amin trên bề mặt HMSN [230]. Hay đối với hệ chất mang/thuốc
HMSN-mPEG/Dox, lượng thuốc Dox được phóng thích một cách có kiểm soát với
20% và 33% thuốc được phóng thích tại cùng một thời điểm (lần lượt là 3 giờ và 12
giờ).
Đánh giá khả năng phóng thích thuốc của hệ phân phối thuốc HMSN-
F127/Dox,). Kết quả cho thấy, so với HMSN và mPEG thì hệ HMSN-F127 phóng
thích thuốc chậm hơn tại cùng một thời điểm. Điều này có thể được giải thích do
F127 với mạch polymer dài nên che phủ các lỗ mao quản chặt chẽ hơn. Đặc biệt,
F127 là polymer có tính nhạy nhiệt, do dó khi thực hiện thí nghiệm phóng thích thuốc
tại nhiệt độ cơ thể (37oC) thì các mạch polymer này co cụm lại trên bề mặt vật liệu
nên lượng thuốc bên trong được khuếch tán từ từ ra môi trường.
Đồ thị 3.37. Biểu đồ phóng thích thuốc của Doxorubicine theo thời gian
122
Đồ thị 3.38. Biểu đồ phóng thích thuốc của các hệ chất mang/Dox gồm HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox và HMSN-F127/Dox theo thời gian
3.10. Kết quả độc tính tế bào của chất mang nano dẫn truyền thuốc Dox
Nghiên cứu độ độc của chất mang nano là cần thiết cho một hệ dẫn truyền
thuốc. Các công bố trước đây chứng mình rằng nano silica cấu trúc mao quản và
polymer PEG, F127 có tính tương hợp sinh học và phù hợp cho dẫn truyền thuốc.
Tuy nhiên, quá trình biến tính các polymer này trên bề mặt các hạt HMSN trong
nghiên cứu sử dụng các dung môi hữu cơ do đó độ độc của hệ chất mang được đánh
giá trên cơ sở thử nghiệm hoạt tính gây độc lên tế bào ung thư gan HCC J5, kết quả
thể hiện trong Đồ thị 3.39, 3.40 và Hình 3.33. Quan sát Đồ thị 3.39 nhận thấy kết quả
sau 48 giờ tại các nồng độ từ 0 - 250 µg/L các hệ chất mang nano không độc đối với
tế bào HCC J5. Các thử nghiệm khả năng sống của tế bào khẳng định hiệu quả điều
trị bệnh ung thư của thuốc Dox với 100 % tế bào HCC J5 chết ở nồng độ 10 µg/L thể
hiện qua Đồ thị 3.40 [231]. Đặc biệt, khi thuốc Dox được nang hóa trong các chất
mang nano HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox và HMSN-F127/Dox
thì có độ độc giảm so với thuốc Dox đối chứng.
123
Đồ thị 3.39. Đường cong độ độc tế bào HCC J5 của các hệ chất mang
Đồ thị 3.40. Đường cong độ độc tế bào HCC J5 của các hệ chất mang – thuốc
124
Hình 3.33. Tế bào HCC J5 được xử lý bởi HMSN, HMSN-NH2, HMSN-mPEG, HMSN-F127 tại các nồng độ khác nhau; Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN- mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox tại các nồng độ Dox khác nhau
125
CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
4.1. Kết luận
Hạt nano silica cấu trúc rỗng được tổng hợp thành công trải qua ba giai đoạn:
(i) tổng hợp nano silica rắn giữ vai trò là lõi, (ii) phủ lớp vỏ có cấu trúc mao quản lên
lõi rắn và (iii) xử lý lõi để tạo thành cấu trúc rỗng. Để kiểm soát kích thước hạt rỗng
đã tiến hành kiểm soát kích thước lõi, quá trình phủ vỏ và xử lý lõi. Các hạt nano tạo
thành có dạng hình cầu và có độ đồng nhất cao. Hạt HMSN có diện tích bề mặt
983,7m2/g, hiệu suất và khả năng mang thuốc có DLE và DLC tương ứng 22,70 ±
0,77 (%) và 5,40 ± 0,17 (%).
Đã biến tính thành công bề mặt hạt nano silica cấu trúc rỗng bằng nhóm amin
thông qua việc khảo sát với lượng khác nhau của APTES. Phổ XPS được sử dụng để
chứng minh việc biến tính bề mặt HMSN với nhóm amin thành công. Lượng amin
được biến tính trên bề mặt tương ứng với mẫu HMSN-NH2-500 có hiệu suất và khả
năng mang thuốc cao nhất, giá trị DLE và DLC tương ứng 96,86 ± 1,98 % và 19,59
± 0,32 %. Kết quả phóng thích thuốc của hệ chất mang/thuốc HMSN-NH2-500/Dox
chậm hơn so với HMSN/Dox.
Các kết quả phân tích cho thấy tổng hợp thành công hệ chất mang HMSN-
mPEG. Hạt tạo thành có độ đồng nhất khá cao với kích thước hạt bằng 149,3 ± 0,9
nm. Đặc biệt, sau khi được phủ mPEG trên bề mặt thì kết quả FE-SEM cho thấy lỗ
rỗng – vỏ của HMSN-mPEG. Hệ chất mang HMSN-mPEG có hiệu suất và khả năng
mang thuốc cao hơn HMSN nhưng thấp hơn so với hệ HMSN-NH2, giá trị DLE và
DLC tương ứng 65,43 ± 0,74 % và 10,40 ± 0,11 %.
Hệ chất mang HMSN-F127 được tổng hợp thành công với kích thước 152,9 ±
0,9 nm: Tương tự như HMSN-mPEG, qua kết quả FE-SEM cũng thấy được lỗ rỗng
bên trong vật liệu. Hiệu suất và khả năng mang thuốc cao hơn cả HMSN, HMSN-
mPEG nhưng vẫn thấp hơn so với HMSN-NH2, giá trị DLE và DLC tương ứng 72,08
± 0,09 % và 11,09 ± 0,01 %. Hệ chất mang có diện tích bề mặt thấp hơn các hệ còn
lại 168,4 m2/g. Lượng polymer phủ được nhiều hơn trên bề mặt HMSN (20% về khối
lượng). Đặc biệt, so với HMSN và mPEG thì hệ HMSN-F127 phóng thích thuốc
chậm hơn tại cùng một thời điểm, điều đó cho thấy khả năng phóng thích thuốc có
kiểm soát của hệ.
126
Từ các kết quả phân tích trên đã cho thấy đề tài đã hoàn thành đầy đủ các mục
tiêu đề ra: Tổng hợp thành công hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN với kích thước
được kiểm soát. HMSN có hiệu suất và khả năng mang thuốc cao hơn so với nano
silica cấu trúc mao quản. Nhằm hạn chế thuốc bị rò rỉ, tăng khả năng mang thuốc,
HMSN được biến tính bề mặt với nhóm amin. Để tăng tính tương hợp sinh học và
khả năng mang thuốc HMSN được biến tính bề mặt với các polymer mPEG và F127.
4.2. Kiến nghị
Do hạn chế về thời gian và một số yếu tố khác, do đó đề nghị một số nội dung
sẽ thực hiện trong giai đoạn tiếp theo:
- Tổng hợp các hạt nano silica cấu trúc rỗng với các kích thước khác nhau, kích
thước nhỏ hơn 134 nm, tiến hành đánh giá hiệu suất và khả năng mang thuốc.
- Biến tính bề mặt với các loại polymer có khối lượng phân tử khác nhau, tiến
hành đánh giá hiệu suất và khả năng mang thuốc.
- Đánh giá trên cấp độ in vivo để thấy được hiệu quả trong điều trị ung thư của
các hệ mang thuốc
127
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Quá trình tổng hợp hạt HMSN gồm ba giai đoạn, tại mỗi giai đoạn thực hiện
đánh giá hình thái, kích thước, cấu trúc và diện tích bề mặt các sản phẩm tạo thành.
Kích thước hạt nano silica rắn được kiểm soát bằng cách khảo sát các yếu tố
ảnh hưởng đến kích thước hạt. Đặc biệt, lõi rắn với kích thước mong muốn được tổng
hợp bằng phương pháp đáp ứng bề mặt.
Thử nghiệm chứng minh vai trò của CTAB trong việc làm bền và định hướng
cấu trúc lớp vỏ. Giải thích cơ chế tạo thành lớp vỏ và cơ chế ăn mòn lõi rắn để tạo
thành hạt nano cấu trúc rỗng.
Các hạt HMSN được được biến tính bề mặt với nhóm amin với sự khảo sát
các lượng APTES khác nhau, kết quả ảnh TEM cho thấy giảm sự kết tụ các hạt.
Trong nghiên cứu này đã xác định được lượng amin được biến tính trên bề mặt, tương
ứng với mẫu HMSN-NH2-500 có hiệu suất và khả năng mang thuốc cao nhất.
PEG và F127 đã được biến tính thành công trên bề mặt của hệ nano silica cấu
trúc rỗng. Sau khi biến tính hệ chất mang có hiệu quả mang thuốc Dox tăng lên (5%)
và có khả năng kiểm soát phóng thích thuốc. Theo hiểu biết của nhóm thì cho đến
nay chưa có nghiên cứu về tổng hợp hệ chất mang HMSN-F127.
128
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Thi Ngoc Tram Nguyen, Diem Huong Nguyen Tran, Long Giang Bach,
Tran Hoang Du Truong, Ngoc Thuy Trang Le, Dai Hai Nguyen, “Surface
PEGylation of hollow mesoporous silica nanoparticles via aminated intermediate”,
Progress in Natural Science: Materials International Vol 29 (6), 2019, pp 612-616,
Tạp chí quốc tế (ISI).
2. Ngoc Tram Nguyen Thi, Linh Phuong Pham Tran, Ngoc Thuy Trang Le,
Minh Tri Cao, The Nam Tran, Ngoc Tung Nguyen, Cong Hao Nguyen, Dai Hai
Nguyen, Van Thai Than, Quang Tri Le and Nguyen Quang Trung, “The Engineering
of Porous Silica and Hollow Silica Nanoparticles to Enhance Drug-loading
Capacity”, Processes, Vol 7(11), 2019, Tạp chí quốc tế (ISI).
3. Thi Ngoc Tram Nguyen, Ngoc Thuy Trang Le, Ngoc Hoi Nguyen, Bui Thi
Kim Ly, Trinh Duy Nguyen, Dai-Hai Nguyen, “Aminated hollow mesoporous silica
nanoparticles as an enhanced loading and sustained releasing carrier for doxorubicin
delivery”, Microporous and Mesoporous Materials, Vol 309 (2020), Tạp chí quốc tế.
4. Ngoc Tram Nguyen Thi, Dai Hai Nguyen, “Hollow mesoporous silica
nanoparticles fabrication for anticancer drug delivery”, Vietnam Journal of Science
and Technology Vol 58 (2020), pp 152-158, Tạp chí trong nước.
5. Ngoc Tram Nguyen Thi, Ngoc Hoang Le, Uyen Vy Vo, Cuu Khoa Nguyen
and Dai Hai Nguyen, “Engineering of hollow mesoporous silica nanoparticles
enhancing drug-loading capacity”, The 7th International Conference in Viet Nam on
the Development of Biomedical Engineering (BME7), pp 197-201, Hội nghị quốc tế.
129
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] F. Chen, H. Hong, S. Shi, S. Goel, H.F. Valdovinos, R. Hernandez, C.P. Theuer,
T.E. Barnhart, W. Cai, Engineering of hollow mesoporous silica nanoparticles for
remarkably enhanced tumor active targeting efficacy, Scientific Reports, 4 (2014) 1-
10.
[2] S. Wu, X. Huang, X. Du, pH-and redox-triggered synergistic controlled release
of a ZnO-gated hollow mesoporous silica drug delivery system, Journal of Materials
Chemistry B, 3 (2015) 1426-1432.
[3] K.K. Cotí, M.E. Belowich, M. Liong, M.W. Ambrogio, Y.A. Lau, H.A. Khatib,
J.I. Zink, N.M. Khashab, J.F. Stoddart, Mechanised nanoparticles for drug delivery,
Nanoscale, 1 (2009) 16-39.
[4] S. Shi, F. Chen, W. Cai, Biomedical applications of functionalized hollow
mesoporous silica nanoparticles: focusing on molecular imaging, Nanomedicine, 8
(2013) 2027-2039.
[5] W.O. Roberts, H. Bergna, Colloidal silica: fundamentals and applications, CRC
Taylor and Francis, Boca Raton, (2006).
[6] P.K. Jal, S. Patel, B.K. Mishra, Chemical modification of silica surface by
immobilization of functional groups for extractive concentration of metal ions,
Talanta, 62 (2004) 1005-1028.
[7] H. Gao, J. Yang, Nanoscale silicon dioxide prepared by sol-gel process, Modern
Applied Science, 4 (2010) 152.
[8] I.A. Rahman, V. Padavettan, Synthesis of silica nanoparticles by sol-gel: size-
dependent properties, surface modification, and applications in silica-polymer
nanocomposites—a review, Journal of Nanomaterials, 2012 (2012).
[9] K.J. Klabunde, R.M. Richards, Nanoscale materials in chemistry, John Wiley &
Sons, (2009).
[10] W. Stöber, A. Fink, E. Bohn, Controlled growth of monodisperse silica spheres
in the micron size range, Journal of Colloid and Interface Science, 26 (1968) 62-69.
[11] T. Matsoukas, E. Gulari, Dynamics of growth of silica particles from ammonia-
catalyzed hydrolysis of tetra-ethyl-orthosilicate, Journal of Colloid and Interface
Science, 124 (1988) 252-261.
130
[12] G. Bogush, M. Tracy, C. Zukoski Iv, Preparation of monodisperse silica
particles: control of size and mass fraction, Journal of Non-crystalline Solids, 104
(1988) 95-106.
[13] G. Bogush, C. Zukoski Iv, Studies of the kinetics of the precipitation of uniform
silica particles through the hydrolysis and condensation of silicon alkoxides, Journal
of Colloid and Interface Science, 142 (1991) 1-18.
[14] V. Masalov, N. Sukhinina, E. Kudrenko, G. Emelchenko, Mechanism of
formation and nanostructure of Stöber silica particles, Nanotechnology, 22 (2011)
275718.
[15] Y.A. Attia, Sol-gel processing and applications, Springer Science & Business
Media, (2012).
[16] D. Ficai, A.M. Grumezescu, Nanostructures for novel therapy: synthesis,
characterization and applications, Elsevier, (2017).
[17] T. Matsoukas, E. Gulari, Monomer-addition growth with a slow initiation step:
a growth model for silica particles from alkoxides, Journal of Colloid and Interface
Science, 132 (1989) 13-21.
[18] M. Boutonnet, J. Kizling, P. Stenius, G. Maire, The preparation of monodisperse
colloidal metal particles from microemulsions, Colloids and Surfaces, 5 (1982) 209-
225.
[19] M.A. Malik, M.Y. Wani, M.A. Hashim, Microemulsion method: A novel route
to synthesize organic and inorganic nanomaterials: 1st Nano Update, Arabian
journal of Chemistry, 5 (2012) 397-417.
[20] M. Sharma, D. Shah, Introduction to macro-and microemulsions, ACS
Publications, (1985).
[21] T.F. Tadros, Emulsion science and technology: a general introduction, Emulsion
science and technology, 1 (2009) 1-55.
[22] M. Soleimani Zohr Shiri, W. Henderson, M.R. Mucalo, A Review of The Lesser-
Studied Microemulsion-Based Synthesis Methodologies Used for Preparing
Nanoparticle Systems of The Noble Metals, Os, Re, Ir and Rh, Materials, 12 (2019)
1896.
[23] T. Hussain, R. Batool, Microemulsion route for the synthesis of nano-structured
catalytic materials, Properties and Uses of Microemulsions, 13 (2017).
131
[24] T. Tan, S. Liu, Y. Zhang, M.-Y. Han, S. Selvan, Microemulsion preparative
methods (overview), (2011).
[25] K. Osseo-Asare, F. Arriagada, Preparation of SiO2 nanoparticles in a non-ionic
reverse micellar system, Colloids and Surfaces, 50 (1990) 321-339.
[26] F. Arriagada, K. Osseo-Asare, Synthesis of nanosize silica in a nonionic water-
in-oil microemulsion: effects of the water/surfactant molar ratio and ammonia
concentration, Journal of Colloid and Interface Science, 211 (1999) 210-220.
[27] S.-J. Park, Y.-J. Kim, S.-J. Park, Size-dependent shape evolution of silica
nanoparticles into hollow structures, Langmuir, 24 (2008) 12134-12137.
[28] F. Venditti, R. Angelico, G. Palazzo, G. Colafemmina, A. Ceglie, F. Lopez,
Preparation of nanosize silica in reverse micelles: Ethanol produced during TEOS
hydrolysis affects the microemulsion structure, Langmuir, 23 (2007) 10063-10068.
[29] Y. Chen, H.-R. Chen, J.-L. Shi, Construction of homogenous/heterogeneous
hollow mesoporous silica nanostructures by silica-etching chemistry: principles,
synthesis, and applications, Accounts of chemical research, 47 (2014) 125-137.
[30] X. Fang, C. Chen, Z. Liu, P. Liu, N. Zheng, A cationic surfactant assisted
selective etching strategy to hollow mesoporous silica spheres, Nanoscale, 3 (2011)
1632-1639.
[31] Y. Chen, H. Chen, L. Guo, Q. He, F. Chen, J. Zhou, J. Feng, J. Shi, Hollow/rattle-
type mesoporous nanostructures by a structural difference-based selective etching
strategy, ACS nano, 4 (2010) 529-539.
[32] D. Mahony, A. Cavallaro, K. Mody, L. Xiong, T. Mahony, S. Qiao, N. Mitter,
In vivo delivery of bovine viral diahorrea virus, E2 protein using hollow mesoporous
silica nanoparticles, Nanoscale, 6 (2014) 6617-6626.
[33] Y. Zhang, C.Y. Ang, M. Li, S.Y. Tan, Q. Qu, Z. Luo, Y. Zhao, Polymer-coated
hollow mesoporous silica nanoparticles for triple-responsive drug delivery, ACS
applied materials & interfaces, 7 (2015) 18179-18187.
[34] Y. Feng, N. Panwar, D.J.H. Tng, S.C. Tjin, K. Wang, K.-T. Yong, The
application of mesoporous silica nanoparticle family in cancer theranostics,
Coordination Chemistry Reviews, 319 (2016) 86-109.
[35] S.-H. Wu, C.-Y. Mou, H.-P. Lin, Synthesis of mesoporous silica nanoparticles,
Chemical Society Reviews, 42 (2013) 3862-3875.
132
[36] Y. Li, J. Shi, Hollow‐structured mesoporous materials: chemical synthesis,
functionalization and applications, Advanced Materials, 26 (2014) 3176-3205.
[37] J. Dou, H.C. Zeng, Targeted synthesis of silicomolybdic acid (keggin acid) inside
mesoporous silica hollow spheres for Friedel–Crafts alkylation, Journal of the
American Chemical Society, 134 (2012) 16235-16246.
[38] J. Shi, On the synergetic catalytic effect in heterogeneous nanocomposite
catalysts, Chemical Reviews, 113 (2013) 2139-2181.
[39] J. Hu, M. Chen, X. Fang, L. Wu, Fabrication and application of inorganic
hollow spheres, Chemical Society Reviews, 40 (2011) 5472-5491.
[40] J. Lee, S.M. Kim, I.S. Lee, Functionalization of hollow nanoparticles for
nanoreactor applications, Nano Today, 9 (2014) 631-667.
[41] B.T. Holland, C.F. Blanford, A. Stein, Synthesis of macroporous minerals with
highly ordered three-dimensional arrays of spheroidal voids, Science, 281 (1998)
538-540.
[42] Y. Lu, J. McLellan, Y. Xia, Synthesis and crystallization of hybrid spherical
colloids composed of polystyrene cores and silica shells, Langmuir, 20 (2004) 3464-
3470.
[43] B. Tan, S.E. Rankin, Dual latex/surfactant templating of hollow spherical silica
particles with ordered mesoporous shells, Langmuir, 21 (2005) 8180-8187.
[44] H. Li, C.-S. Ha, I. Kim, Facile fabrication of hollow silica and titania
microspheres using plasma-treated polystyrene spheres as sacrificial templates,
Langmuir, 24 (2008) 10552-10556.
[45] G. Zhu, S. Qiu, O. Terasaki, Y. Wei, Polystyrene bead-assisted self-assembly of
microstructured silica hollow spheres in highly alkaline media, Journal of the
American Chemical Society, 123 (2001) 7723-7724.
[46] X. Sun, Y. Li, Colloidal carbon spheres and their core/shell structures with
noble‐metal nanoparticles, Angewandte Chemie International Edition, 43 (2004)
597-601.
[47] Y. Zhu, Y. Fang, S. Kaskel, Folate-conjugated Fe3O4@ SiO2 hollow
mesoporous spheres for targeted anticancer drug delivery, The Journal of Physical
Chemistry C, 114 (2010) 16382-16388.
133
[48] G. Büchel, K.K. Unger, A. Matsumoto, K. Tsutsumi, A novel pathway for
synthesis of submicrometer‐size solid core/mesoporous shell silica spheres,
Advanced Materials, 10 (1998) 1036-1038.
[49] W. Zhao, M. Lang, Y. Li, L. Li, J. Shi, Fabrication of uniform hollow
mesoporous silica spheres and ellipsoids of tunable size through a facile hard-
templating route, Journal of Materials Chemistry, 19 (2009) 2778-2783.
[50] P.A. Williamson, P.J. Blower, M.A. Green, Synthesis of porous hollow silica
nanostructures using hydroxyapatite nanoparticle templates, Chemical
Communications, 47 (2011) 1568-1570.
[51] W. Liu, X. Huang, H. Wei, K. Chen, J. Gao, X. Tang, Facile preparation of
hollow crosslinked polyphosphazene submicrospheres with mesoporous shells,
Journal of Materials Chemistry, 21 (2011) 12964-12968.
[52] M. Fujiwara, K. Shiokawa, Y. Tanaka, Y. Nakahara, Preparation and formation
mechanism of silica microcapsules (hollow sphere) by water/oil/water interfacial
reaction, Chemistry of Materials, 16 (2004) 5420-5426.
[53] D. Niu, Z. Ma, Y. Li, J. Shi, Synthesis of core− shell structured dual-mesoporous
silica spheres with tunable pore size and controllable shell thickness, Journal of the
American Chemical Society, 132 (2010) 15144-15147.
[54] L. Guo, F. Liang, X. Wen, S. Yang, L. He, W. Zheng, C. Chen, Q. Zhong,
Uniform magnetic chains of hollow cobalt mesospheres from one‐pot synthesis and
their assembly in solution, Advanced Functional Materials, 17 (2007) 425-430.
[55] X.W. Lou, L.A. Archer, Z. Yang, Hollow micro‐/nanostructures: Synthesis and
applications, Advanced Materials, 20 (2008) 3987-4019.
[56] Q. Zhang, W. Wang, J. Goebl, Y. Yin, Self-templated synthesis of hollow
nanostructures, Nano Today, 4 (2009) 494-507.
[57] M. Pérez‐Lorenzo, B. Vaz, V. Salgueirino, M.A. Correa‐Duarte, Hollow‐Shelled
Nanoreactors Endowed with High Catalytic Activity, Chemistry–A European
Journal, 19 (2013) 12196-12211.
[58] N. Mizoshita, T. Tani, S. Inagaki, Syntheses, properties and applications of
periodic mesoporous organosilicas prepared from bridged organosilane precursors,
Chemical Society Reviews, 40 (2011) 789-800.
134
[59] S.L. Burkett, S.D. Sims, S. Mann, Synthesis of hybrid inorganic–organic
mesoporous silica by co-condensation of siloxane and organosiloxane precursors,
Chemical Communications, (1996) 1367-1368.
[60] M. Roca, A.J. Haes, Silica− void− gold nanoparticles: Temporally stable
surface-enhanced raman scattering substrates, Journal of The American Chemical
Society, 130 (2008) 14273-14279.
[61] S.M. Alahmadi, S. Mohamad, M. Jamil Maah, Preparation of organic-inorganic
hybrid materials based on MCM-41 and its applications, Advances in Materials
Science and Engineering, 2013 (2013).
[62] T. Kimura, S. Saeki, Y. Sugahara, K. Kuroda, Organic modification of FSM-
type mesoporous silicas derived from kanemite by silylation, Langmuir, 15 (1999)
2794-2798.
[63] O. Tacar, P. Sriamornsak, C.R. Dass, Doxorubicin: an update on anticancer
molecular action, toxicity and novel drug delivery systems, Journal of Pharmacy and
Pharmacology, 65 (2013) 157-170.
[64] M.L. Tan, P.F. Choong, C.R. Dass, Review: doxorubicin delivery systems based
on chitosan for cancer therapy, The Journal of Pharmacy and Pharmacology, 61
(2009) 131-142.
[65] M. Mobaraki, A. Faraji, M. Zare, P. Dolati, M. Ataei, H.D. Manshadi, Molecular
mechanisms of cardiotoxicity: a review on major side-effect of doxorubicin, Indian
Journal of Pharmaceutical Sciences, 79 (2017) 335-344.
[66] W.H. Organization, WHO model list of essential medicines: 17th list, March
2011, (2011).
[67] X. Zhao, M. Harris, Novel degradable poly (ethylene glycol) esters for drug
delivery, ACS Publications, (1997).
[68] S. Zalipsky, J.M. Harris, Introduction to chemistry and biological applications
of poly (ethylene glycol), ACS Publications, (1997).
[69] F.M. Veronese, G. Pasut, PEGylation, successful approach to drug delivery,
Drug discovery today, 10 (2005) 1451-1458.
[70] G. Karlström, O. Engkvist, Theory of poly (ethylene glycol) in solution, ACS
Publications, (1997).
135
[71] M.D. Bentley, M.J. Roberts, J.M. Harris, Reductive amination using poly
(ethylene glycol) acetaldehyde hydrate generated in situ: applications to chitosan
and lysozyme, Journal of Pharmaceutical Sciences, 87 (1998) 1446-1449.
[72] L. Yang, P. Alexandridis, Physicochemical aspects of drug delivery and release
from polymer-based colloids, Current Opinion In Colloid & Interface Science, 5
(2000) 132-143.
[73] E. Russo, C. Villa, Poloxamer Hydrogels for Biomedical Applications,
Pharmaceutics, 11 (2019) 671.
[74] E. Ruel-Gariepy, J.-C. Leroux, In situ-forming hydrogels—review of
temperature-sensitive systems, European Journal of Pharmaceutics and
Biopharmaceutics, 58 (2004) 409-426.
[75] A. Teotia, H. Sami, A. Kumar, Thermo-responsive polymers: structure and
design of smart materials, Switchable and responsive surfaces and materials for
biomedical applications, Elsevier, (2015), pp. 3-43.
[76] W. Zhang, K. Gilstrap, L. Wu, R.B. KC, M.A. Moss, Q. Wang, X. Lu, X. He,
Synthesis and characterization of thermally responsive pluronic F127− chitosan
nanocapsules for controlled release and intracellular delivery of small molecules,
ACS Nano, 4 (2010) 6747-6759.
[77] Z. Zeng, Z. Peng, L. Chen, Y. Chen, Facile fabrication of thermally responsive
Pluronic F127-based nanocapsules for controlled release of doxorubicin
hydrochloride, Colloid and Polymer Science, 292 (2014) 1521-1530.
[78] T.T.C. Nguyen, C.K. Nguyen, T.H. Nguyen, N.Q. Tran, Highly lipophilic
pluronics-conjugated polyamidoamine dendrimer nanocarriers as potential delivery
system for hydrophobic drugs, Materials Science and Engineering: C, 70 (2017) 992-
999.
[79] J.D. Kim, Y.J. Jung, C.H. Woo, Y.C. Choi, J.S. Choi, Y.W. Cho, Thermo-
responsive human α-elastin self-assembled nanoparticles for protein delivery,
Colloids and Surfaces B: Biointerfaces, 149 (2017) 122-129.
[80] Y. Zhu, J. Shi, H. Chen, W. Shen, X. Dong, A facile method to synthesize novel
hollow mesoporous silica spheres and advanced storage property, Microporous and
Mesoporous Materials, 84 (2005) 218-222.
136
[81] S.B. Kadali, N. Soultanidis, M.S. Wong, Assembling colloidal silica into porous
hollow microspheres, Topics in Catalysis, 49 (2008) 251-258.
[82] J. Yang, J. Lee, J. Kang, K. Lee, J.-S. Suh, H.-G. Yoon, Y.-M. Huh, S. Haam,
Hollow silica nanocontainers as drug delivery vehicles, Langmuir, 24 (2008) 3417-
3421.
[83] Q. Zhang, J. Ge, J. Goebl, Y. Hu, Z. Lu, Y. Yin, Rattle-type silica colloidal
particles prepared by a surface-protected etching process, Nano Research, 2 (2009)
583-591.
[84] A. Esmaeili, F. Pourkhodabakhshi, Loading Metformin/Nettle Extract Lamium
album L. subsp. Crinitum in Porous Hollow Silica Nanoparticle Coated by the Layer-
by-Layer Method, Silicon, 12 (2020) 521-534.
[85] Y. Zhu, Y. Fang, L. Borchardt, S. Kaskel, PEGylated hollow mesoporous silica
nanoparticles as potential drug delivery vehicles, Microporous and Mesoporous
Materials, 141 (2011) 199-206.
[86] H. Guo, H. Qian, S. Sun, D. Sun, H. Yin, X. Cai, Z. Liu, J. Wu, T. Jiang, X. Liu,
Hollow mesoporous silica nanoparticles for intracellular delivery of fluorescent dye,
Chemistry Central Journal, 5 (2011) 1.
[87] T. Wang, F. Chai, Q. Fu, L. Zhang, H. Liu, L. Li, Y. Liao, Z. Su, C. Wang, B.
Duan, Uniform hollow mesoporous silica nanocages for drug delivery in vitro and in
vivo for liver cancer therapy, Journal of Materials Chemistry, 21 (2011) 5299-5306.
[88] Z. Deng, Z. Zhen, X. Hu, S. Wu, Z. Xu, P.K. Chu, Hollow chitosan–silica
nanospheres as pH-sensitive targeted delivery carriers in breast cancer therapy,
Biomaterials, 32 (2011) 4976-4986.
[89] W. Fang, S. Tang, P. Liu, X. Fang, J. Gong, N. Zheng, Pd nanosheet‐covered
hollow mesoporous silica nanoparticles as a platform for the chemo‐photothermal
treatment of cancer cells, Small, 8 (2012) 3816-3822.
[90] A. Yildirim, M. Bayindir, A porosity difference based selective dissolution
strategy to prepare shape-tailored hollow mesoporous silica nanoparticles, Journal
of Materials Chemistry A, 3 (2015) 3839-3846.
[91] W. Fang, L. Ma, J. Zheng, C. Chen, Fabrication of silver-loaded hollow
mesoporous aluminosilica nanoparticles and their antibacterial activity, Journal of
Materials Science, 49 (2014) 3407-3413.
137
[92] P. Qiu, K. Kang, K. Kim, W. Li, M. Cui, J. Khim, Facile synthesis of uniform
yolk–shell structured magnetic mesoporous silica as an advanced photo-Fenton-like
catalyst for degrading rhodamine B, RSC Advances, 5 (2015) 96201-96204.
[93] X. Teng, S. Cheng, R. Meng, S. Zheng, L. Yang, Q. Ma, W. Jiang, J. He, A facile
way for fabricating PEGylated hollow mesoporous silica nanoparticles and their
drug delivery application, Journal of Nanoscience and Nanotechnology, 15 (2015)
3773-3779.
[94] H. Geng, Y. Zhao, J. Liu, Y. Cui, Y. Wang, Q. Zhao, S. Wang, Hollow
mesoporous silica as a high drug loading carrier for regulation insoluble drug
release, International Journal of Pharmaceutics, 510 (2016) 184-194.
[95] J. Liu, Z. Luo, J. Zhang, T. Luo, J. Zhou, X. Zhao, K. Cai, Hollow mesoporous
silica nanoparticles facilitated drug delivery via cascade pH stimuli in tumor
microenvironment for tumor therapy, Biomaterials, 83 (2016) 51-65.
[96] Y. Li, N. Li, W. Pan, Z. Yu, L. Yang, B. Tang, Hollow mesoporous silica
nanoparticles with tunable structures for controlled drug delivery, ACS Applied
Materials & Interfaces, 9 (2017) 2123-2129.
[97] Q. Zhao, S. Wang, Y. Yang, X. Li, D. Di, C. Zhang, T. Jiang, S. Wang,
Hyaluronic acid and carbon dots-gated hollow mesoporous silica for redox and
enzyme-triggered targeted drug delivery and bioimaging, Materials Science and
Engineering: C, 78 (2017) 475-484.
[98] Y. Zhang, Q. Qu, X. Cao, Y. Zhao, NIR-absorbing dye functionalized hollow
mesoporous silica nanoparticles for combined photothermal–chemotherapy,
Chemical Communications, 53 (2017) 12032-12035.
[99] L. Huang, J. Liu, F. Gao, Q. Cheng, B. Lu, H. Zheng, H. Xu, P. Xu, X. Zhang,
X. Zeng, A dual-responsive, hyaluronic acid targeted drug delivery system based on
hollow mesoporous silica nanoparticles for cancer therapy, Journal of Materials
Chemistry B, 6 (2018) 4618-4629.
[100] M. Nejabat, M. Mohammadi, K. Abnous, S.M. Taghdisi, M. Ramezani, M.
Alibolandi, Fabrication of acetylated carboxymethylcellulose coated hollow
mesoporous silica hybrid nanoparticles for nucleolin targeted delivery to colon
adenocarcinoma, Carbohydrate Polymers, 197 (2018) 157-166.
138
[101] M. Shao, C. Chang, Z. Liu, K. Chen, Y. Zhou, G. Zheng, Z. Huang, H. Xu, P.
Xu, B. Lu, Polydopamine coated hollow mesoporous silica nanoparticles as pH-
sensitive nanocarriers for overcoming multidrug resistance, Colloids and Surfaces
B: Biointerfaces, 183 (2019) 110427.
[102] J. Wang, W. Zhao, Z. Li, K. Ding, Z. Jin, Investigation on into the adsorption
of Cu (II), Pb (II) and Cr (VI) on hollow mesoporous silica using microcalorimetry,
Journal of Thermal Analysis and Calorimetry, 137 (2019) 1443-1450.
[103] X. Peng, Q. Wang, H. Zhang, X. Su, J. Tao, Z. Feng, W. Shi, Z. Teng, Small-
sized deformable hollow mesoporous organosilica nanocapsules with improved
cellular uptake, Journal of Porous Materials, (2020) 1-7.
[104] T. Jin, D. Wu, X.-M. Liu, J.-T. Xu, B.-J. Ma, Y. Ji, Y.-Y. Jin, S.-Y. Wu, T. Wu,
K. Ma, Intra-articular delivery of celastrol by hollow mesoporous silica
nanoparticles for pH-sensitive anti-inflammatory therapy against knee osteoarthritis,
Journal of nanobiotechnology, 18 (2020) 1-15.
[105] A. Diacon, E. Rusen, A. Trifan, R. Șomoghi, O. Tutunaru, G. Crăciun, C.
Busuioc, G. Voicu, Preparation of metal and metal oxide doped silica hollow spheres
and the evaluation of their catalytic performance, Colloid and Polymer Science,
(2020) 1-10.
[106] U.V. Vo, V.C. Nguyen, X.V.D. Vo, M.K.T. Vo, H.A. Le Pham, T.T.N. Tran,
D.H. Nguyen, C.K. Nguyen, Synthesize and survey the drug loading efficiency of the
porous nano silica modified by gelatin, Advances in Natural Sciences: Nanoscience
and Nanotechnology, 10 (2019) 035017.
[107] D.H.N. et.al., Effective pH-responsive Hydrazine-Modified Silica for
Doxorubicin Delivery, Asian Journal of Medicine and Health, 4 (2017).
[108] T.T.N. Thi, T.V. Tran, N.Q. Tran, C.K. Nguyen, D.H. Nguyen, Hierarchical
self-assembly of heparin-PEG end-capped porous silica as a redox sensitive
nanocarrier for doxorubicin delivery, Materials Science and Engineering: C, 70
(2017) 947-954.
[109] L. Ernawati, R. Balgis, T. Ogi, K. Okuyama, Tunable synthesis of mesoporous
silica particles with unique radially oriented pore structures from tetramethyl
orthosilicate via oil–water emulsion process, Langmuir, 33 (2017) 783-790.
139
[110] I. Rahman, P. Vejayakumaran, C. Sipaut, J. Ismail, M.A. Bakar, R. Adnan, C.
Chee, An optimized sol–gel synthesis of stable primary equivalent silica particles,
Colloids and Surfaces A: Physicochemical and Engineering Aspects, 294 (2007) 102-
110.
[111] K.S. Rao, K. El-Hami, T. Kodaki, K. Matsushige, K. Makino, A novel method
for synthesis of silica nanoparticles, Journal of colloid and interface science, 289
(2005) 125-131.
[112] S.K. Park, K. Do Kim, H.T. Kim, Preparation of silica nanoparticles:
determination of the optimal synthesis conditions for small and uniform particles,
Colloids and Surfaces A: Physicochemical and Engineering Aspects, 197 (2002) 7-
17.
[113] Y. Chen, P. Xu, H. Chen, Y. Li, W. Bu, Z. Shu, Y. Li, J. Zhang, L. Zhang, L.
Pan, Colloidal HPMO nanoparticles: silica‐etching chemistry tailoring, topological
transformation, and nano‐biomedical applications, Advanced Materials, 25 (2013)
3100-3105.
[114] S.G. Gilmour, Response surface designs for experiments in bioprocessing,
Biometrics, 62 (2006) 323-331.
[115] R.E. Bruns, I.S. Scarminio, B. de Barros Neto, Statistical design-chemometrics,
Elsevier, (2006).
[116] M.A. Bezerra, R.E. Santelli, E.P. Oliveira, L.S. Villar, L.A. Escaleira, Response
surface methodology (RSM) as a tool for optimization in analytical chemistry,
Talanta, 76 (2008) 965-977.
[117] N.I. Vazquez, Z. Gonzalez, B. Ferrari, Y. Castro, Synthesis of mesoporous
silica nanoparticles by sol–gel as nanocontainer for future drug delivery
applications, Boletín de la Sociedad Española de Cerámica y Vidrio, 56 (2017) 139-
145.
[118] C. Argyo, V. Weiss, C. Bräuchle, T. Bein, Multifunctional mesoporous silica
nanoparticles as a universal platform for drug delivery, Chemistry of Materials, 26
(2014) 435-451.
[119] F. Tang, L. Li, D. Chen, Mesoporous silica nanoparticles: synthesis,
biocompatibility and drug delivery, Advanced Materials, 24 (2012) 1504-1534.
140
[120] I.I. Slowing, J.L. Vivero-Escoto, C.-W. Wu, V.S.-Y. Lin, Mesoporous silica
nanoparticles as controlled release drug delivery and gene transfection carriers,
Advanced Drug Delivery Reviews, 60 (2008) 1278-1288.
[121] Z. Luo, Y. Hu, K. Cai, X. Ding, Q. Zhang, M. Li, X. Ma, B. Zhang, Y. Zeng,
P. Li, Intracellular redox-activated anticancer drug delivery by functionalized hollow
mesoporous silica nanoreservoirs with tumor specificity, Biomaterials, 35 (2014)
7951-7962.
[122] F. Chen, H. Hong, S. Shi, S. Goel, H.F. Valdovinos, R. Hernandez, C.P. Theuer,
T.E. Barnhart, W. Cai, Engineering of hollow mesoporous silica nanoparticles for
remarkably enhanced tumor active targeting efficacy, Scientific Reports, 4 (2014)
5080.
[123] U.V. Vo, T.V. Tran, C.K. Nguyen, N.T.N. Thi, D.H. Nguyen, Effective pH-
responsive hydrazine-modified silica for doxorubicin delivery, Asian Journal of
Medicine and Health, (2017) 1-7.
[124] N.-T. Nguyen-Thi, P. Tran, L. Phuong, N.T.T. Le, M.-T. Cao, N.T. Nguyen,
C.H. Nguyen, D.-H. Nguyen, V.T. Than, Q.T. Le, The Engineering of Porous Silica
and Hollow Silica Nanoparticles to Enhance Drug-loading Capacity, Processes, 7
(2019) 805.
[125] M. Colilla, B. González, M. Vallet-Regí, Mesoporous silica nanoparticles for
the design of smart delivery nanodevices, Biomaterials Science, 1 (2013) 114-134.
[126] L. Tang, T.M. Fan, L.B. Borst, J. Cheng, Synthesis and biological response of
size-specific, monodisperse drug–silica nanoconjugates, ACS Nano, 6 (2012) 3954-
3966.
[127] K. Cho, X. Wang, S. Nie, D.M. Shin, Therapeutic nanoparticles for drug
delivery in cancer, Clinical Cancer Research, 14 (2008) 1310-1316.
[128] P. Kumari, B. Ghosh, S. Biswas, Nanocarriers for cancer-targeted drug
delivery, Journal of Drug Targeting, 24 (2016) 179-191.
[129] F. Lu, S.H. Wu, Y. Hung, C.Y. Mou, Size effect on cell uptake in well‐
suspended, uniform mesoporous silica nanoparticles, Small, 5 (2009) 1408-1413.
[130] Q. Yu, J. Hui, P. Wang, X. Wang, Anion-exchange-driven disassembly of a
SiO2/CTAB composite mesophase: the formation of hollow mesoporous silica
spheres, Inorganic chemistry, 51 (2012) 9539-9543.
141
[131] L. Tan, T. Liu, L. Li, H. Liu, X. Wu, F. Gao, X. He, X. Meng, D. Chen, F.
Tang, Uniform double-shelled silica hollow spheres: acid/base selective-etching
synthesis and their drug delivery application, RSC Advances, 3 (2013) 5649-5655.
[132] X. Liu, Z. Jiao, T. Song, M. Wu, H. Zhang, Surfactant-assisted selective etching
strategy for generation of rattle-like mesoporous silica nanoparticles, Journal of
Colloid and Interface Science, 490 (2017) 497-504.
[133] Z. Luo, K. Cai, Y. Hu, L. Zhao, P. Liu, L. Duan, W. Yang, Mesoporous silica
nanoparticles end‐capped with collagen: redox‐responsive nanoreservoirs for
targeted drug delivery, Angewandte Chemie International Edition, 50 (2011) 640-
643.
[134] L. Han, C. Gao, X. Wu, Q. Chen, P. Shu, Z. Ding, S. Che, Anionic surfactants
templating route for synthesizing silica hollow spheres with different shell porosity,
Solid State Sciences, 13 (2011) 721-728.
[135] S. Prochazkova, K.M. Vårum, K. Ostgaard, Quantitative determination of
chitosans by ninhydrin, Carbohydrate Polymers, 38 (1999) 115-122.
[136] S. Moore, Amino acid analysis: aqueous dimethyl sulfoxide as solvent for the
ninhydrin reaction, Journal of Biological Chemistry, 243 (1968) 6281-6283.
[137] S. Moore, W.H. Stein, A modified ninhydrin reagent for the photometric
determination of amino acids and related compounds, Journal of Biological
Chemistry, 211 (1954) 907-913.
[138] E. Kaiser, R. Colescott, C. Bossinger, P. Cook, Color test for detection of free
terminal amino groups in the solid-phase synthesis of peptides, Analytical
Biochemistry, 34 (1970) 595-598.
[139] L.F.d. Oliveira, K. Bouchmella, A.S. Picco, L.B. Capeletti, K.A. Gonçalves,
J.H.Z.d. Santos, J. Kobarg, M.B. Cardoso, Tailored silica nanoparticles surface to
increase drug load and enhance bactericidal response, Journal of the Brazilian
Chemical Society, 28 (2017) 1715-1724.
[140] M. Friedman, Applications of the ninhydrin reaction for analysis of amino
acids, peptides, and proteins to agricultural and biomedical sciences, Journal of
Agricultural and Food Chemistry, 52 (2004) 385-406.
142
[141] V.K. Sarin, S.B. Kent, J.P. Tam, R.B. Merrifield, Quantitative monitoring of
solid-phase peptide synthesis by the ninhydrin reaction, Analytical Biochemistry, 117
(1981) 147-157.
[142] N. Gorochovceva, R. Kulbokaite, R. Juskenas, R. Makuska, Synthesis and study
of chitosan and poly (ethylene glycol) graft copolymers containing triazine moiety,
Chemija, 15 (2004) 22-27.
[143] Y. Chen, H. Chen, L. Guo, Q. He, F. Chen, J. Zhou, J. Feng, J. Shi,
Hollow/rattle-type mesoporous nanostructures by a structural difference-based
selective etching strategy, ACS Nano, 4 (2009) 529-539.
[144] A. Van Helden, J. Jansen, A. Vrij, Preparation and characterization of
spherical monodisperse silica dispersions in nonaqueous solvents, Journal of Colloid
and Interface Science, 81 (1981) 354-368.
[145] G. Bogush, C. Zukoski Iv, Uniform silica particle precipitation: An
aggregative growth model, Journal of Colloid and Interface Science, 142 (1991) 19-
34.
[146] P.W. Voorhees, The theory of Ostwald ripening, Journal of Statistical Physics,
38 (1985) 231-252.
[147] W. Qin-bo, R. Finsy, X. Hai-bo, L. Xi, On the critical radius in generalized
Ostwald ripening, Journal of Zhejiang University Science B, 6 (2005) 705-707.
[148] S.-L. Chen, P. Dong, G.-H. Yang, The size dependence of growth rate of
monodisperse silica particles from tetraalkoxysilane, Journal of Colloid and Interface
Science, 189 (1997) 268-272.
[149] D. Green, S. Jayasundara, Y.-F. Lam, M. Harris, Chemical reaction kinetics
leading to the first Stober silica nanoparticles–NMR and SAXS investigation, Journal
of Non-crystalline Solids, 315 (2003) 166-179.
[150] S. Li, Q. Wan, Z. Qin, Y. Fu, Y. Gu, Understanding Stöber silica’s pore
characteristics measured by gas adsorption, Langmuir, 31 (2015) 824-832.
[151] H. Giesche, Synthesis of monodispersed silica powders II. Controlled growth
reaction and continuous production process, Journal of the European Ceramic
Society, 14 (1994) 205-214.
143
[152] A. De Keizer, E. Van der Ent, L. Koopal, Surface and volume charge densities
of monodisperse porous silicas, Colloids and Surfaces A: Physicochemical and
Engineering Aspects, 142 (1998) 303-313.
[153] J. Kobler, K. Möller, T. Bein, Colloidal suspensions of functionalized
mesoporous silica nanoparticles, Acs Nano, 2 (2008) 791-799.
[154] M. Larsson, A. Hill, J. Duffy, Suspension stability; why particle size, zeta
potential and rheology are important, Annual Transactions of The Nordic Rheology
Society, 20 (2012) 6.
[155] E. Blanco, H. Shen, M. Ferrari, Principles of nanoparticle design for
overcoming biological barriers to drug delivery, Nature Biotechnology, 33 (2015)
941.
[156] A. Penkova, J.M. Blanes, S. Cruz, M. Centeno, K. Hadjiivanov, J. Odriozola,
Gold nanoparticles on silica monospheres modified by amino groups, Microporous
and Mesoporous Materials, 117 (2009) 530-534.
[157] M. Kosmulski, pH-dependent surface charging and points of zero charge. IV.
Update and new approach, Journal of Colloid and Interface Science, 337 (2009) 439-
448.
[158] T. Hiemstra, W. Van Riemsdijk, G. Bolt, Multisite proton adsorption modeling
at the solid/solution interface of (hydr) oxides: A new approach: I. Model description
and evaluation of intrinsic reaction constants, Journal of Colloid and Interface
Science, 133 (1989) 91-104.
[159] M. Szekeres, J. Tóth, I. Dékány, Specific surface area of Stoeber silica
determined by various experimental methods, Langmuir, 18 (2002) 2678-2685.
[160] K.S. Sing, D.H. Everett, R. Haul, L. Moscou, R.A. Pierotti, J. Rouquerol, T.
Siemieniewska, Reporting physisorption data for gas/solid systems with special
reference to the determination of surface area and porosity (Provisional), Pure and
Applied Chemistry, 54.11 (1982) 2201-2218.
[161] R.I. Nooney, D. Thirunavukkarasu, Y. Chen, R. Josephs, A.E. Ostafin,
Synthesis of nanoscale mesoporous silica spheres with controlled particle size,
Chemistry of Materials, 14 (2002) 4721-4728.
144
[162] Q. Huo, D.I. Margolese, G.D. Stucky, Surfactant control of phases in the
synthesis of mesoporous silica-based materials, Chemistry of Materials, 8 (1996)
1147-1160.
[163] S.H. Tolbert, C.C. Landry, G.D. Stucky, B.F. Chmelka, P. Norby, J.C. Hanson,
A. Monnier, Phase transitions in mesostructured silica/surfactant composites:
Surfactant packing and the role of charge density matching, Chemistry of Materials,
13 (2001) 2247-2256.
[164] A.I. Akinjokun, T.V. Ojumu, A.O. Ogunfowokan, Biomass, Abundant
Resources for Synthesis of Mesoporous Silica Material, Microporous and
Mesoporous Materials, (2016) 105-117.
[165] D. Rath, S. Rana, K. Parida, Organic amine-functionalized silica-based
mesoporous materials: an update of syntheses and catalytic applications, RSC
advances, 4 (2014) 57111-57124.
[166] S. Sadasivan, C.E. Fowler, D. Khushalani, S. Mann, Nucleation of MCM‐41
Nanoparticles by Internal Reorganization of Disordered and Nematic‐Like Silica–
Surfactant Clusters, Angewandte Chemie International Edition, 41 (2002) 2151-
2153.
[167] G. Lelong, S. Bhattacharyya, S. Kline, T. Cacciaguerra, M.A. Gonzalez, M.-L.
Saboungi, Effect of surfactant concentration on the morphology and texture of MCM-
41 materials, The Journal of Physical Chemistry C, 112 (2008) 10674-10680.
[168] H.B. Chan, P.M. Budd, T.d. Naylor, Control of mesostructured silica particle
morphology, Journal of Materials Chemistry, 11 (2001) 951-957.
[169] W. Wang, B. Gu, L. Liang, W.A. Hamilton, Adsorption and structural
arrangement of cetyltrimethylammonium cations at the silica nanoparticle− water
interface, The Journal of Physical Chemistry B, 108 (2004) 17477-17483.
[170] K. Eskilsson, V. Yaminsky, Deposition of Monolayers by Retraction from
Solution: Ellipsometric Study of Cetyltrimethylammonium Bromide Adsorption at
Silica− Air and Silica− Water Interfaces, Langmuir, 14 (1998) 2444-2450.
[171] A. Modaressi, H. Sifaoui, B. Grzesiak, R. Solimando, U. Domanska, M.
Rogalski, CTAB aggregation in aqueous solutions of ammonium based ionic liquids;
conductimetric studies, Colloids and Surfaces A: Physicochemical and Engineering
Aspects, 296 (2007) 104-108.
145
[172] H. Gao, R. Zhu, X. Yang, S. Mao, S. Zhao, J. Yu, Y. Du, Properties of
polyethylene glycol (23) lauryl ether with cetyltrimethylammonium bromide in mixed
aqueous solutions studied by self-diffusion coefficient NMR, Journal of Colloid and
Interface Science, 273 (2004) 626-631.
[173] P.K. Maiti, K. Kremer, O. Flimm, D. Chowdhury, D. Stauffer, Cross-linking of
micelles by gemini surfactants, Langmuir, 16 (2000) 3784-3790.
[174] K. Furusawa, A. Sato, J. Shirai, T. Nashima, Depletion flocculation of latex
dispersion in ionic micellar systems, Journal of Colloid and Interface Science, 253
(2002) 273-278.
[175] J. Shi, Steric stabilization, Croup Inorganic Materials Science–Literature
review, The Ohio State University. Columbus, USA, (2002).
[176] B. Fuglestad, K. Gupta, A.J. Wand, K.A. Sharp, Characterization of
cetyltrimethylammonium bromide/hexanol reverse micelles by experimentally
benchmarked molecular dynamics simulations, Langmuir, 32 (2016) 1674-1684.
[177] K. Esumi, Interactions between surfactants and particles: dispersion, surface
modification, and adsolubilization, Journal of Colloid and Interface Science, 241
(2001) 1-17.
[178] T.P. Goloub, L.K. Koopal, B.H. Bijsterbosch, M.P. Sidorova, Adsorption of
cationic surfactants on silica. Surface charge effects, Langmuir, 12 (1996) 3188-
3194.
[179] Y. Liu, M. Tourbin, S. Lachaize, P. Guiraud, Silica nanoparticles separation
from water: Aggregation by cetyltrimethylammonium bromide (CTAB),
Chemosphere, 92 (2013) 681-687.
[180] E.Y. Bryleva, N. Vodolazkaya, N. Mchedlov-Petrossyan, L. Samokhina, N.
Matveevskaya, A. Tolmachev, Interfacial properties of cetyltrimethylammonium-
coated SiO2 nanoparticles in aqueous media as studied by using different indicator
dyes, Journal of colloid and interface science, 316 (2007) 712-722.
[181] S. Sadasivan, C.E. Fowler, D. Khushalani, S. Mann, Nucleation of MCM‐41
Nanoparticles by Internal Reorganization of Disordered and Nematic‐Like Silica–
Surfactant Clusters, Angewandte Chemie, 114 (2002) 2255-2257.
146
[182] T. Zhang, J. Ge, Y. Hu, Q. Zhang, S. Aloni, Y. Yin, Formation of hollow silica
colloids through a spontaneous dissolution–regrowth process, Angewandte Chemie,
120 (2008) 5890-5895.
[183] T. Zhang, Q. Zhang, J. Ge, J. Goebl, M. Sun, Y. Yan, Y.-s. Liu, C. Chang, J.
Guo, Y. Yin, A self-templated route to hollow silica microspheres, The Journal of
Physical Chemistry C, 113 (2009) 3168-3175.
[184] Y. Chen, H. Chen, D. Zeng, Y. Tian, F. Chen, J. Feng, J. Shi, Core/shell
structured hollow mesoporous nanocapsules: a potential platform for simultaneous
cell imaging and anticancer drug delivery, ACS Nano, 4 (2010) 6001-6013.
[185] Q. Zhang, T. Zhang, J. Ge, Y. Yin, Permeable silica shell through surface-
protected etching, Nano Letters, 8 (2008) 2867-2871.
[186] R. Mokaya, W. Jones, Z. Luan, M.D. Alba, J. Klinowski, Acidity and catalytic
activity of the mesoporous aluminosilicate molecular sieve MCM-41, Catalysis
Letters, 37 (1996) 113-120.
[187] K. Lin, Z. Sun, S. Lin, D. Jiang, F.-S. Xiao, Ordered mesoporous titanosilicates
with better catalytically active titanium sites assembled from preformed titanosilicate
precursors with zeolite building units in alkaline media, Microporous and
Mesoporous Materials, 72 (2004) 193-201.
[188] Y. Zhang, S. Xiang, Y. Zhou, Y. Xu, Z. Zhang, X. Sheng, Q. Wang, C. Zhang,
Enhanced catalytic activity with high thermal stability based on multiple Au cores in
the interior of mesoporous Si–Al shells, RSC Advances, 5 (2015) 48187-48193.
[189] J. Lu, M. Liong, J.I. Zink, F. Tamanoi, Mesoporous silica nanoparticles as a
delivery system for hydrophobic anticancer drugs, Small, 3 (2007) 1341-1346.
[190] C.M. Koretsky, D.A. Sverjensky, J.W. Salisbury, D.M. D'Aria, Detection of
surface hydroxyl species on quartz, γ-alumina, and feldspars using diffuse reflectance
infrared spectroscopy, Geochimica et Cosmochimica Acta, 61 (1997) 2193-2210.
[191] W. Wang, L. Li, S. Xi, A Fourier transform infrared study of the coagel to
micelle transition of cetyltrimethylammonium bromide, Journal of Colloid and
Interface Science, 155 (1993) 369-373.
[192] N.-T. Nguyen-Thi, L.P. Pham Tran, N.T.T. Le, M.-T. Cao, N.T. Nguyen, C.H.
Nguyen, D.-H. Nguyen, V.T. Than, Q.T. Le, N.Q. Trung, The Engineering of Porous
147
Silica and Hollow Silica Nanoparticles to Enhance Drug-loading Capacity,
Processes, 7 (2019) 805.
[193] K.S. Sing, Reporting physisorption data for gas/solid systems with special
reference to the determination of surface area and porosity (Recommendations
1984), Pure and Applied Chemistry, 57 (1985) 603-619.
[194] F. Farjadian, A. Roointan, S. Mohammadi-Samani, M. Hosseini, Mesoporous
silica nanoparticles: synthesis, pharmaceutical applications, biodistribution, and
biosafety assessment, Chemical Engineering Journal, 359 (2019) 684-705.
[195] C.-S. Ha, S.S. Park, General Synthesis and Physico-chemical Properties of
Mesoporous Materials, Periodic Mesoporous Organosilicas, Springer, (2019), pp.
15-85.
[196] L. Martins, T.J. Bonagamba, E.R. de Azevedo, P. Bargiela, D. Cardoso,
Surfactant containing Si-MCM-41: An efficient basic catalyst for the Knoevenagel
condensation, Applied Catalysis A: General, 312 (2006) 77-85.
[197] A. Tuel, Modification of mesoporous silicas by incorporation of heteroelements
in the framework, Microporous and Mesoporous Materials, 27 (1999) 151-169.
[198] S. Huh, J.W. Wiench, J.-C. Yoo, M. Pruski, V.S.-Y. Lin, Organic
functionalization and morphology control of mesoporous silicas via a co-
condensation synthesis method, Chemistry of Materials, 15 (2003) 4247-4256.
[199] P.G. Pape, E.P. Plueddemann, Methods for improving the performance of silane
coupling agents, Journal of Adhesion Science and Technology, 5 (1991) 831-842.
[200] A. Philipse, A. Vrij, Preparation and properties of nonaqueous model
dispersions of chemically modified, charged silica spheres, Journal of Colloid and
Interface Science, 128 (1989) 121-136.
[201] R.D. Badley, W.T. Ford, F.J. McEnroe, R.A. Assink, Surface modification of
colloidal silica, Langmuir, 6 (1990) 792-801.
[202] E.J.W. Verwey, J.T.G. Overbeek, K. Van Nes, Theory of the stability of
lyophobic colloids: the interaction of sol particles having an electric double layer,
Elsevier Publishing Company, (1948).
[203] L. Yuan, Q. Tang, D. Yang, J.Z. Zhang, F. Zhang, J. Hu, Preparation of pH-
responsive mesoporous silica nanoparticles and their application in controlled drug
delivery, The Journal of Physical Chemistry C, 115 (2011) 9926-9932.
148
[204] G.D. Leirose, M.B. Cardoso, Silica–maltose composites: Obtaining drug
carrier systems through tailored ultrastructural nanoparticles, Journal of
Pharmaceutical Sciences, 100 (2011) 2826-2834.
[205] M. Szekeres, I. Dékány, A. De Keizer, Adsorption of dodecyl pyridinium
chloride on monodisperse porous silica, Colloids and Surfaces A: Physicochemical
and Engineering Aspects, 141 (1998) 327-336.
[206] H. Wei, L. Han, J. Ren, L. Jia, Anticoagulant surface coating using composite
polysaccharides with embedded heparin-releasing mesoporous silica, ACS Applied
Materials & Interfaces, 5 (2013) 12571-12578.
[207] L. Potgieter, M. McCracken, F. Hopkins, R. Walker, J. Guy, Experimental
production of bovine respiratory tract disease with bovine viral diarrhea virus,
American Journal of Veterinary Research, 45 (1984) 1582-1585.
[208] E. Dietrich, H. Oudadesse, A. Lucas-Girot, Y. Le Gal, S. Jeanne, G.
Cathelineau, Effects of Mg and Zn on the surface of doped melt-derived glass for
biomaterials applications, Applied Surface Science, 255 (2008) 391-395.
[209] A. Maria Chong, X. Zhao, Functionalization of SBA-15 with APTES and
characterization of functionalized materials, The Journal of Physical Chemistry B,
107 (2003) 12650-12657.
[210] K. Barquist, S.C. Larsen, Chromate adsorption on bifunctional, magnetic
zeolite composites, Microporous and Mesoporous Materials, 130 (2010) 197-202.
[211] Y. Wang, N. Han, Q. Zhao, L. Bai, J. Li, T. Jiang, S. Wang, Redox-responsive
mesoporous silica as carriers for controlled drug delivery: a comparative study
based on silica and PEG gatekeepers, European Journal of Pharmaceutical Sciences,
72 (2015) 12-20.
[212] L. Feng, K. Li, X. Shi, M. Gao, J. Liu, Z. Liu, Smart pH‐responsive
nanocarriers based on nano‐graphene oxide for combined chemo‐and photothermal
therapy overcoming drug resistance, Advanced Healthcare Materials, 3 (2014) 1261-
1271.
[213] C.-Y. Lai, B.G. Trewyn, D.M. Jeftinija, K. Jeftinija, S. Xu, S. Jeftinija, V.S.-
Y. Lin, A mesoporous silica nanosphere-based carrier system with chemically
removable CdS nanoparticle caps for stimuli-responsive controlled release of
149
neurotransmitters and drug molecules, Journal of The American Chemical Society,
125 (2003) 4451-4459.
[214] P. Kalsi, Organic reactions stereochemistry and mechanism (Through Solved
Problems), New Age International2007.
[215] P. Liu, C. Yue, B. Shi, G. Gao, M. Li, B. Wang, Y. Ma, L. Cai, Dextran based
sensitive theranostic nanoparticles for near-infrared imaging and photothermal
therapy in vitro, Chemical Communications, 49 (2013) 6143-6145.
[216] A. Kawamura, C. Kojima, M. Iijima, A. Harada, K. Kono, Polyion complex
micelles formed from glucose oxidase and comb‐type polyelectrolyte with poly
(ethylene glycol) grafts, Journal of Polymer Science Part A: Polymer Chemistry, 46
(2008) 3842-3852.
[217] S. Mahmood, M. Taher, U.K. Mandal, Experimental design and optimization
of raloxifene hydrochloride loaded nanotransfersomes for transdermal application,
International Journal of Nanomedicine, 9 (2014) 4331.
[218] R.W. Smith, V. Bryg, Staining polymers for microscopical examination,
Rubber Chemistry and Technology, 79 (2006) 520-540.
[219] H. Behniafar, M. Yazdi, S. Farshad, K. Malekshahinezhad, Poly (4, 4′-
oxydiphenylene-pyromellitimide) loaded by NH2-functionalized silica: Optical and
thermal behavior of new polyimide-based nanocomposites, High Performance
Polymers, 28 (2016) 1228-1234.
[220] O. Garbuzenko, S. Zalipsky, M. Qazen, Y. Barenholz, Electrostatics of
PEGylated micelles and liposomes containing charged and neutral lipopolymers,
Langmuir, 21 (2005) 2560-2568.
[221] K.S. Sing, R.T. Williams, Physisorption hysteresis loops and the
characterization of nanoporous materials, Adsorption Science & Technology, 22
(2004) 773-782.
[222] P. Kerativitayanan, J.K. Carrow, A.K. Gaharwar, Nanomaterials for
engineering stem cell responses, Advanced Healthcare Materials, 4 (2015) 1600-
1627.
[223] D.H. Guston, Encyclopedia of nanoscience and society, Sage, (2010).
150
[224] T.N.T. Nguyen, D.-H. Nguyen-Tran, L.G. Bach, T.H. Du Truong, N.T.T. Le,
D.H. Nguyen, Surface PEGylation of hollow mesoporous silica nanoparticles via
aminated intermediate, Progress in Natural Science: Materials International, (2019).
[225] D. Peer, J.M. Karp, S. Hong, O.C. Farokhzad, R. Margalit, R. Langer,
Nanocarriers as an emerging platform for cancer therapy, Nature Nanotechnology,
2 (2007) 751-760.
[226] M.E. Davis, Z. Chen, D.M. Shin, Nanoparticle therapeutics: an emerging
treatment modality for cancer, Nanoscience and Technology: A Collection of
Reviews From Nature Journals, (2010) 239-250.
[227] S. Shen, Y. Wu, Y. Liu, D. Wu, High drug-loading nanomedicines: progress,
current status, and prospects, International Journal of Nanomedicine, 12 (2017)
4085.
[228] M. Janssen, G. Mihov, T. Welting, J. Thies, P. Emans, Drugs and polymers for
delivery systems in OA joints: clinical needs and opportunities, Polymers, 6 (2014)
799-819.
[229] K. Watanabe, S. Kuramitsu, A.D. Posey Jr, C.H. June, Expanding the
therapeutic window for CAR T cell therapy in solid tumors: the knowns and unknowns
of CAR T cell biology, Frontiers In Immunology, 9 (2018) 2486.
[230] J. Kim, J.E. Lee, J. Lee, J.H. Yu, B.C. Kim, K. An, Y. Hwang, C.-H. Shin, J.-
G. Park, J. Kim, Magnetic fluorescent delivery vehicle using uniform mesoporous
silica spheres embedded with monodisperse magnetic and semiconductor
nanocrystals, Journal of the American Chemical Society, 128 (2006) 688-689.
[231] T. Matvienko, V. Sokolova, S. Prylutska, Y. Harahuts, N. Kutsevol, V.
Kostjukov, M. Evstigneev, Y. Prylutskyy, M. Epple, U. Ritter, In vitro study of the
anticancer activity of various doxorubicin-containing dispersions, BioImpacts: BI, 9
(2019) 57.
- 1 -
Phụ lục 1. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 1/Lần 1
- 2 -
Phụ lục 2. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 1/Lần 2
- 3 -
Phụ lục 3. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 1/Lần 3
- 4 -
Phụ lục 4. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 2/Lần 1
- 5 -
Phụ lục 5. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 2/Lần 2
- 6 -
Phụ lục 6. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 2/Lần 3
- 7 -
Phụ lục 7. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 3/Lần 1
- 8 -
Phụ lục 8. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 3/Lần 2
- 9 -
Phụ lục 9. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 3/Lần 3
- 10 -
Phụ lục 10. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 4/Lần 1
- 11 -
Phụ lục 11. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 4/Lần 2
- 12 -
Phụ lục 12. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 4/Lần 3
- 13 -
Phụ lục 13. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 5/Lần 1
- 14 -
Phụ lục 14. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 5/Lần 2
- 15 -
Phụ lục 15. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 5/Lần 3
- 16 -
Phụ lục 16. Kết quả thế zeta – Mẫu SSN/Lần 1
- 17 -
Phụ lục 17. Kết quả thế zeta – Mẫu SSN/Lần 2
- 18 -
Phụ lục 18. Kết quả thế zeta – Mẫu SSN/Lần 3
- 19 -
Phụ lục 19. Kết quả phân tích nhiệt khối lượng TGA – Mẫu SSN
- 20 -
Phụ lục 20. Kết quả diện tích bề mặt theo phương pháp hấp phụ-khử hấp phụ
khí N2– Mẫu SSN
- 21 -
Phụ lục 21. Kết quả thế zeta – Mẫu SSN@CTAB-SSN/Lần 1
- 22 -
Phụ lục 22. Kết quả thế zeta – Mẫu SSN@CTAB-SSN/Lần 2
- 23 -
Phụ lục 23. Kết quả thế zeta – Mẫu SSN@CTAB-SSN/Lần 3
- 24 -
Phụ lục 24. Kết quả phân tích nhiệt khối lượng TGA – Mẫu SSN@CTAB-SSN
- 25 -
Phụ lục 25. Kết quả phân tích nhiệt khối lượng TGA – CTAB
- 26 -
Phụ lục 26. Kết quả diện tích bề mặt theo phương pháp hấp phụ-khử hấp phụ
khí N2– Mẫu SSN@CTAB-SSN
- 27 -
Phụ lục 27. Kết quả thế zeta – Mẫu HMSN/Lần 1
- 28 -
Phụ lục 28. Kết quả thế zeta – Mẫu HMSN/Lần 2
- 29 -
Phụ lục 29. Kết quả thế zeta – Mẫu HMSN/Lần 3
- 30 -
Phụ lục 30. Kết quả phân tích nhiệt khối lượng TGA – Mẫu HMSN
- 31 -
Phụ lục 31. Kết quả phổ hồng ngoại FTIR– Mẫu HMSN
- 32 -
Phụ lục 32. Kết quả diện tích bề mặt theo phương pháp hấp phụ-khử hấp phụ
khí N2– Mẫu HMSN
- 33 -
Phụ lục 33. Kết quả phổ nhiễu xạ tia X (XRD)– Mẫu HMSN
- 34 -
Phụ lục 34. Kết quả đường chuẩn Doxorubicine (0-5 ppm)
- 35 -
Phụ lục 35. Kết quả đường chuẩn Doxorubicine (5-50 ppm)
- 36 -
Phụ lục 36. Kết quả định lượng nồng độ Dox bằng UV-Vis – Mẫu HMSN/Dox
(Tại thời gian phóng thích thuốc 1 giờ)
- 37 -
Phụ lục 37. Kết quả định lượng nồng độ Dox bằng UV-Vis – Mẫu HMSN/Dox
(Tại thời gian phóng thích thuốc 3 giờ)
- 38 -
Phụ lục 38. Kết quả định lượng nồng độ Dox bằng UV-Vis – Mẫu HMSN/Dox
(Tại thời gian phóng thích thuốc 6 giờ)
- 39 -
Phụ lục 39. Kết quả định lượng nồng độ Dox bằng UV-Vis – Mẫu HMSN/Dox
(Tại thời gian phóng thích thuốc 9 giờ)
- 40 -
Phụ lục 40. Kết quả định lượng nồng độ Dox bằng UV-Vis – Mẫu HMSN/Dox
(Tại thời gian phóng thích thuốc 12 giờ)
- 41 -
Phụ lục 41. Kết quả diện tích bề mặt theo phương pháp hấp phụ - khử hấp phụ
khí N2 – Mẫu HMSN-NH2-50
- 42 -
Phụ lục 42. Kết quả diện tích bề mặt theo phương pháp hấp phụ - khử hấp phụ
khí N2 – Mẫu HMSN-NH2-100
- 43 -
Phụ lục 43. Kết quả diện tích bề mặt theo phương pháp hấp phụ - khử hấp phụ
khí N2 – Mẫu HMSN-NH2-250
- 44 -
Phụ lục 44. Kết quả diện tích bề mặt theo phương pháp hấp phụ - khử hấp phụ
khí N2 – Mẫu HMSN-NH2-500
- 45 -
Phụ lục 45. Kết quả diện tích bề mặt theo phương pháp hấp phụ - khử hấp phụ
khí N2 – Mẫu HMSN-NH2-800
- 46 -
Phụ lục 46. Kết quả diện tích bề mặt theo phương pháp hấp phụ - khử hấp phụ
khí N2 – Mẫu HMSN-mPEG
- 47 -
Phụ lục 47. Kết quả diện tích bề mặt theo phương pháp hấp phụ - khử hấp phụ
khí N2 – Mẫu HMSN-F127
- 48 -
Phụ lục 48. Kết quả phổ hồng ngoại FTIR – Mẫu mPEG
- 49 -
Phụ lục 49. Kết quả phổ hồng ngoại FTIR – Mẫu HMSN-mPEG
- 50 -
Phụ lục 50. Kết quả phổ hồng ngoại FTIR – F127
- 51 -
Phụ lục 51. Kết quả phổ hồng ngoại FTIR – HMSN-F127
- 52 -
Phụ lục 52. Kết quả phân tích nhiệt khối lượng TGA – Mẫu mPEG
- 53 -
Phụ lục 53. Kết quả phân tích nhiệt khối lượng TGA – Mẫu HMSN-mPEG