to

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

-----------------------------

NGUYỄN THỊ NGỌC TRĂM

NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP VÀ BIẾN TÍNH BỀ MẶT NANO SILICA CẤU TRÚC RỖNG ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG MANG THUỐC CHỐNG UNG THƯ

LUẬN ÁN TIẾN SỸ KHOA HỌC VẬT LIỆU

Hà Nội – Năm 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

-----------------------------

NGUYỄN THỊ NGỌC TRĂM

NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP VÀ BIẾN TÍNH BỀ MẶT NANO SILICA CẤU TRÚC RỖNG ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG MANG THUỐC CHỐNG UNG THƯ

Chuyên ngành: Vật liệu cao phân tử và tổ hợp Mã số chuyên ngành: 62440125

LUẬN ÁN TIẾN SỸ KHOA HỌC VẬT LIỆU

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 1. PGS.TS. Nguyễn Đại Hải 2. GS.TSKH. Nguyễn Công Hào

Hà Nội – Năm 2021

i

LỜI CAM ĐOAN

Công trình được thực hiện tại phòng Vật liệu Y sinh - Viện Khoa học Vật liệu Ứng

dụng - Viện Hàn Lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi và được sự hướng dẫn khoa

học của PGS.TS. Nguyễn Đại Hải và GS.TSKH. Nguyễn Công Hào. Các nội dung

nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực, được hoàn thành dựa trên các kết

quả nghiên cứu của tôi và các kết quả của nghiên cứu này chưa được dùng cho bất cứ

luận án cùng cấp nào khác.

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Ngọc Trăm

ii

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Đại Hải và

GS.TSKH. Nguyễn Công Hào, những người Thầy đã dành cho tôi sự động viên giúp

đỡ tận tình và những định hướng khoa học hiệu quả trong suốt quá trình thực hiện

luận án này.

Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của Viện Khoa học Vật liệu ứng

dụng đối với tôi trong quá trình thực hiện luận án.

Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của Học viện Khoa học và công

nghệ đối với tôi trong quá trình thực hiện luận án.

Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của trường Đại học Trà Vinh

đối với tôi trong quá trình thực hiện luận án.

Luận án này được hỗ trợ kinh phí của đề tài nghiên cứu cơ bản của Quỹ Phát triển

khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED), mã số 104.03-2018.46.

Sau cùng, tôi xin cảm ơn và thực sự không thể quên được sự giúp đỡ tận tình của các

thầy cô, bạn bè và sự động viên, tạo điều kiện của những người thân trong gia đình

trong suốt quá trình tôi hoàn thành luận án này.

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Ngọc Trăm

iii

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN ..................................................................................... 4

1.1. NANO SILICA ................................................................................................ 4

1.1.1. Giới thiệu về silica .................................................................................... 4

1.1.2. Keo silica và độ bền của hệ keo ................................................................ 4

1.1.3. Cấu trúc của nano silica ............................................................................ 5

1.1.4. Tính chất của nano silica ........................................................................... 6

1.1.5. Phương pháp tổng hợp .............................................................................. 6

1.1.6. Cấu tạo của nano silica cấu trúc rỗng ..................................................... 14

1.1.7. Tính chất và ứng dụng của nano silica cấu trúc rỗng .............................. 14

1.1.8. Phương pháp tổng hợp nano silica cấu trúc rỗng .................................... 15

1.1.9. Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng .............................................. 18

1.2. THUỐC TRỊ UNG THƯ DOXORUBICIN .................................................. 21

1.2.1. Giới thiệu thuốc Doxorubicin ................................................................. 21

1.2.2. Tác dụng phụ ........................................................................................... 22

1.3. MỘT SỐ POLYMER ĐƯỢC SỬ DỤNG BIẾN TÍNH BỀ MẶT NANO

SILICA CẤU TRÚC RỖNG ................................................................................ 23

1.3.1. Poly ethylene glycol ................................................................................ 23

1.3.2. Pluronic ................................................................................................... 24

1.4. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC 25

1.4.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ........................................................... 25

1.4.2. Tình hình nghiên cứu trong nước ............................................................ 40

CHƯƠNG 2. THỰC NGHIỆM ............................................................................. 42

2.1. Phương tiện nghiên cứu ................................................................................. 42

2.1.1. Hóa chất .................................................................................................. 42

iv

2.1.2. Thiết bị .................................................................................................... 43

2.2. Phương pháp xác định tính chất đặc trưng của vật liệu ................................. 43

2.3. Phương pháp thực nghiệm ............................................................................. 44

2.3.1. Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến kích thước hạt nano silica rắn ........ 44

2.3.2. Tổng hợp hạt nano silica rắn bằng phương pháp đáp ứng bề mặt .......... 48

2.3.3. Tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ (SSN@CTAB-SSN) ............ 52

2.3.4. Tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng (HMSN) .................................... 54

2.3.5. Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với nhóm amin .................... 57

2.3.6. Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với mPEG ............................ 59

2.3.7. Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với Pluronic (F127) ............. 62

2.3.8. Nghiên cứu hiệu quả nang hóa thuốc chống ung thư Doxorubicin (Dox)

của các chất mang nano HMSN, HMSN-NH2, HMSN-mPEG, HMSN-F127 . 64

2.3.9. Khảo sát tốc độ phóng thích thuốc Doxorubicin của hệ HMSN/Dox,

HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox .............................. 65

2.3.10. Nghiên cứu độc tính tế bào đối với các hệ chất mang nano HMSN,

HMSN-NH2, HMSN-PEG, HMSN-F127, HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox,

HMSN-mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox ............................................................ 67

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ - THẢO LUẬN .............................................................. 69

3.1. Kết quả khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến kích thước hạt nano silica rắn .. 69

3.1.1. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nồng độ TEOS .................................... 69

3.1.2. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nồng độ ammonia ............................... 70

3.1.3. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của ethanol ................................................ 72

3.1.4. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của thời gian phản ứng .............................. 73

3.1.5. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ ............................................... 75

3.1.6. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của tốc độ thêm dung dịch ammonia ........ 76

3.2. Kết quả tổng hợp hạt nano silica rắn bằng phương pháp đáp ứng bề mặt ..... 76

3.2.1. Kết quả tổng hợp hạt nano silica rắn SSN .............................................. 76

v

3.2.2. Đánh giá hình thái cấu trúc hạt nano silica rắn SSN ............................... 80

3.3. Kết quả tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ ......................................... 84

3.3.1. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nồng độ TEOS đến kích thước lớp vỏ 84

3.3.2. Mô tả quá trình phủ lớp vỏ silica lên lõi SSN ......................................... 86

3.3.3. Kết quả tổng hợp hạt SSN-SSN .............................................................. 87

3.3.4. Đánh giá hình thái cấu trúc hạt nano silica SSN@CTAB-SSN/2 .......... 88

3.4. Kết quả tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng .............................................. 92

3.4.1. Từ hạt SSN@CTAB-SSN ....................................................................... 92

3.4.2. Từ hạt SSN-SSN ..................................................................................... 94

3.4.3. Đánh giá hình thái cấu trúc hạt nano silica cấu trúc rỗng ....................... 94

3.5. Kết quả biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với nhóm amin ............ 100

3.6. Kết quả biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với monomethoxyl

polyethylene glycol (mPEG) ............................................................................... 107

3.6.1. Hoạt hóa monomethoxyl polyethylene glycol (mPEG) bằng 4-Nitrophenyl

chloroformate (NPC) ....................................................................................... 108

3.6.2. Kết quả biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với mPEG ............. 109

3.7. Kết quả biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với Pluronic ................. 113

3.7.1. Kết quả hoạt hóa Pluronic (F127) bằng 4-Nitrophenyl chloroformate . 113

3.7.2. Kết quả biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với Pluronic .......... 114

3.8. Hiệu quả nang hóa thuốc chống ung thư Doxorubicin (Dox) của các chất mang

nano HMSN, HMSN-NH2, HMSN-mPEG, HMSN-F127 .................................. 118

3.9. Kết quả khảo sát tốc độ phóng thích thuốc Doxorubicin của hệ chất mang/thuốc

HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox .......... 119

3.10. Kết quả độc tính tế bào của chất mang nano dẫn truyền thuốc Dox .......... 122

CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ ........................................................... 125

4.1. Kết luận ........................................................................................................ 125

4.2. Kiến nghị ...................................................................................................... 126

vi

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ ........................................... 128

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 129

PHỤ LỤC ............................................................................................................. 1

vii

DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Từ viết đầy đủ

HMSN Hollow mesoporous silica nanoparticles

MSN Mesoporous silica nanoparticles

SSN Solid silica nanoparticles

MCM-41 Mobil Composition of Materials no. 41

SBA-15

Santa Barbara Amorphous Polyethylene glycol PEG

Cetytrimethylammonium bromide CTAB

NPC p-nitrophenyl chloroformate

APTES (3-aminopropyl)-triethoxysilane

TEOS Tetraethoxysilane

EPR Enhanced Permeability Resonance

1HNMR

CMC Critical Micell Concentration

Proton Nuclear Magnetic Resonance

FTIR

Fourier Transform Infrared Spectroscopy Thermal Gravimetry Analysis TGA

DOX Doxorubicin

SEM Scanning Electron Microscopy

TEM Tranmission Electron Microscopy

XRD X-ray Diffraction

DLS Dynamic Light Scattering

PDI Polydispersity Index

XPS X-ray photoelectron spectroscopy

BET Brunauer-Emmet-Teller

UV-Vis Ultraviolet Visible Spectroscopy

RSM Response Surface Methodology

BBD Box–Behnken designs

viii

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Các loại PEG liên hợp và ứng dụng ......................................................... 23

Bảng 1.2. Kết quả tổng hợp và biến tính bề mặt của hạt nano silica cấu trúc rỗng .. 27

Bảng 2.1. Danh sách hóa chất sử dụng trong nghiên cứu ......................................... 42

Bảng 2.2. Danh sách thiết bị sử dụng trong nghiên cứu ........................................... 43

Bảng 2.3. Thông số thí nghiệm được dùng trong nghiên cứu ................................... 47

Bảng 2.4. Các thông số phản ứng được khảo sát ...................................................... 50

Bảng 2.5. Giá trị thực nghiệm bởi phần mềm Minitab 16 ........................................ 51

Bảng 3.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến kích thước hạt ............................................. 75

Bảng 3.2. Giá trị kết quả thực nghiệm và dự đoán bởi Minitab 16 .......................... 77

Bảng 3.3. Phân tích ANOVA cho các mô hình hồi quy ........................................... 78

Bảng 3.4. Bảng kết quả kích thước hạt sử dụng điều kiện mong muốn ................... 80

Bảng 3.5. Kết quả kích thước hạt SSN@CTAB-SSN tại các ................................... 85

Bảng 3.6. Kích thước hạt và thế zeta của SSN, SSN@CTAB-SSN và HMSN..... 100

Bảng 3.7. Kích thước hạt của mẫu HMSN-NH2 tại các tỉ lệ APTES ..................... 102

Bảng 3.8. Hiệu suất và khả năng mang thuốc Dox (DLE và DLC) ........................ 118

ix

DANH MỤC ĐỒ THỊ

Đồ thị 3.1. Ảnh hưởng của nồng độ TEOS đến kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố

định của NH3 (0,41 mol/l) và H2O (7,23 mol/l) ........................................................ 69

Đồ thị 3.2. Ảnh hưởng của nồng độ TEOS đến sự phân bố kích thước hạt tại nồng độ

ban đầu cố định của NH3 (0,41 mol/l) và H2O (7,23 mol/l) ..................................... 70

Đồ thị 3.3. Ảnh hưởng của nồng độ ammonia đến kích thước hạt tại nồng độ ban đầu

cố định của TEOS (0,36 mol/l) và H2O (6,90 mol/l) ................................................ 71

Đồ thị 3.4. Ảnh hưởng của nồng độ amonia đến sự phân bố kích thước hạt tại nồng

độ ban đầu cố định của TEOS (0,36 mol/l) và H2O (6,90 mol/l) ............................. 71

Đồ thị 3.5. Ảnh hưởng của nồng độ ethanol đến kích thước hạt tại nồng độ ban đầu

cố định của TEOS (1,49 mol/l) và H2O (28,90 mol/l) .............................................. 72

Đồ thị 3.6. Ảnh hưởng của nồng độ ethanol đến sự phân bố kích thước hạt tại nồng

độ ban đầu cố định của TEOS (1,49 mol/l) và H2O (28,90 mol/l) ........................... 73

Đồ thị 3.7. Ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến kích thước hạt tại nồng độ ban đầu

cố định của TEOS (0,22 mol/l) và H2O (6,87 mol/l) ................................................ 73

Đồ thị 3.8. Ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến sự phân bố kích thước hạt tại nồng

độ ban đầu cố định của TEOS (0,22 mol/l) và H2O (6,87 mol/l) ............................. 74

Đồ thị 3.9. Biểu đồ đáp ứng bề mặt (X1: CTEOS, X2: CNH3, X3: CEtOH, X4: Nhiệt độ)

................................................................................................................................... 79

Đồ thị 3.10. Biểu đồ phân bố kích thước hạt nano silica rắn được tính toán từ dữ liệu

DLS ........................................................................................................................... 80

Đồ thị 3.11. Thế zeta của hạt nano silica rắn SSN .................................................... 81

Đồ thị 3.12. Thế zeta của hạt SSN trong dung dịch theo thời gian ........................... 82

Đồ thị 3.13. Giản đồ phân tích nhiệt của SSN .......................................................... 83

Đồ thị 3.14. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của SSN ........................ 83

Đồ thị 3.15. Biểu đồ phân bố kích thước hạt SSN@CTAB-SSN/2 .......................... 88

Đồ thị 3.16.Thế zeta của hạt nano silica cấu trúc lõi –vỏ SSN@CTAB-SSN/2 ....... 90

Đồ thị 3.17. Thế zeta của hạt SSN@CTAB-SSN/2 trong dung dịch........................ 90

Đồ thị 3.18. Giản đồ phân tích nhiệt của SSN@CTAB-SSN/2 ................................ 91

Đồ thị 3.19. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của SSN@CTAB-SSN . 92

Đồ thị 3.20. Sự phân bố kích thước hạt được tính toán từ dữ liệu DLS ................... 96

Đồ thị 3.21. Thế zeta của HMSN .............................................................................. 96

x

Đồ thị 3.22. Thế zeta của hạt HMSN trong dung dịch theo thời gian ...................... 97

Đồ thị 3.23. Giản đồ phân tích nhiệt của HMSN ...................................................... 98

Đồ thị 3.24. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của HMSN .................. 100

Đồ thị 3.25. Tổng lượng nhóm amin (µg/100mg hạt HMSN-NH2) tại các tỉ lệ khác

nhau của APTES ..................................................................................................... 103

Đồ thị 3.26. Thế zeta của HMSN và HMSN-NH2 tại các tỉ lệ khác nhau của APTES

................................................................................................................................. 104

Đồ thị 3.27. Giản đồ phân tích nhiệt của HMSN và HMSN-NH2 tại các tỉ lệ khác

nhau của APTES ..................................................................................................... 104

Đồ thị 3.28. Đường đẳng nhiệt hấp phụ-khử hấp phụ N2 của HMSN và HMSN-NH2

tại các tỉ lệ khác nhau của APTES .......................................................................... 105

Đồ thị 3.29. Diện tích bề mặt (B) của HMSN và HMSN-NH2 tại các tỉ lệ khác nhau

của APTES .............................................................................................................. 106

Đồ thị 3.30.Thế zeta của HMSN và HMSN-mPEG ............................................... 112

Đồ thị 3.31. Giản đồ nhiệt trọng trường của mẫu HMSN, mPEG và HMSN-mPEG

................................................................................................................................. 112

Đồ thị 3.32. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của HMSN-mPEG ...... 113

Đồ thị 3.33. Thế zeta của HMSN và HMSN-F127 ................................................. 116

Đồ thị 3.34. Giản đồ nhiệt trọng trường của F127 và HMSN-F127 ....................... 117

Đồ thị 3.35. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của HMSN-F127......... 117

Đồ thị 3.36. Cửa sổ điều trị của các loại thuốc được sử dụng ................................ 120

Đồ thị 3.37. Biểu đồ phóng thích thuốc của Doxorubicine theo thời gian ............. 121

Đồ thị 3.38. Biểu đồ phóng thích thuốc của các hệ chất mang/Dox gồm HMSN/Dox,

HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox và HMSN-F127/Dox theo thời gian ........ 122

Đồ thị 3.39. Đường cong độ độc tế bào HCC J5 của các hệ chất mang ................. 123

Đồ thị 3.40. Đường cong độ độc tế bào HCC J5 của các hệ chất mang – thuốc .... 123

xi

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1.1. Sơ đồ tổng hợp theo quá trình sol – gel .................................................. 10

Sơ đồ 1.2. Sơ đồ (a) của các loại chất bề mặt hoạt động khác nhau và cấu trúc (b)

của một số chất hoạt động phổ biến được sử dụng trong tổng hợp .......................... 12

Sơ đồ 1.3. Sơ đồ cấu trúc của micell thường và micell đảo ...................................... 13

Sơ đồ 1.4. Sơ đồ biến tính bề mặt nano silica với phân tử hữu cơ bằng phương pháp

đồng ngưng tụ............................................................................................................ 19

Sơ đồ 1.5. Sơ đồ biến tính bề mặt nano silica với phântử hữu cơ bằng .................... 20

Sơ đồ 1.6. Sơ đồ tổng hợp HMSN-W ...................................................................... 32

Sơ đồ 1.7. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng chứa lõi nano sắt từ

Fe3O4@void@mSiO2 ................................................................................................ 33

Sơ đồ 1.8. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng, ứng dụng mang và phóng

thích thuốc Dox ......................................................................................................... 33

Sơ đồ 1.9. Sơ đồ biến tính PEG trên bề mặt vật liệu HMSN .................................... 34

Sơ đồ 1.10. Sơ đồ biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với PEG .................... 35

Sơ đồ 1.11. Sơ đồ biến tính chitosan trên bề mặt vật liệu HNPs .............................. 36

Sơ đồ 1.12. Sơ đồ tổng hợp HMSS-NH2/Dox@Pd .................................................. 36

Sơ đồ 1.13. Sơ đồ tổng hợp hệ chất mang HMSN/ZnO QDs ................................... 37

Sơ đồ 1.14. Sơ đồ tổng hợp hệ chất mang HMSN-SS-CDPEI@HA .......................... 38

Sơ đồ 1.15. Sơ đồ tổng hợp HMSN-acetylate CMC ................................................. 39

Sơ đồ 1.16. Sơ đồ tổng hợp HMSNs-PDA-PEG@QD ............................................. 39

Sơ đồ 1.17. Sơ đồ tổng hợp PNS-SS-A@CD-HPEG ............................................... 40

Sơ đồ 2.1. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica rắn ........................................................... 46

Sơ đồ 2.2. Sơ đồ minh họa thiết kế thí nghiệm phức hợp trung tâm BBD ............... 50

Sơ đồ 2.3. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN@CTAB/SSN ...... 53

Sơ đồ 2.4. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica rỗng ........................................................ 54

Sơ đồ 2.5. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN .............................. 56

Sơ đồ 2.6. Sơ đồ biến tính bề mặt HMSN với nhóm amin ....................................... 57

Sơ đồ 2.7. Sơ đồ biến tính biến bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với nhóm amin ... 58

Sơ đồ 2.8. Sơ đồ hoạt hóa mPEG bằng p-nitrophenyl chloroformate ...................... 60

Sơ đồ 2.9. Sơ đồ tổng hợp HMSN-mPEG ................................................................ 61

Sơ đồ 2.10. Sơ đồ phản ứng tổng hợp NPC-F127-OH ............................................. 62

xii

Sơ đồ 2.11. Sơ đồ hoạt hóa F127 bằng p-nitrophenyl chloroformate ....................... 63

Sơ đồ 2.12. Sơ đồ nang hóa thuốc Doxorubicine của hệ chất mang ......................... 65

Sơ đồ 2.13. Sơ đồ phóng thích thuốc của hệ chất mang – thuốc .............................. 66

Sơ đồ 3.1. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ ...................................... 87

Sơ đồ 3.2. Sơ đồ của CTAB mono- và bilayer trên bề mặt silica/nước .................... 90

xiii

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Hình 1.1. Cấu trúc tứ diện của nano silica .................................................................. 4

Hình 1.2. Cấu trúc tinh thể (a) và vô định hình (b) của nano silica ............................ 4

Hình 1.3. Cấu trúc của nano silica với nhóm silanol, nhóm siloxane trên bề mặt (a)

và bên trong (b) ........................................................................................................... 5

Hình 1.4. Loại nhóm silianol trên bề mặt nano silica ................................................. 6

Hình 1.5. Phương pháp vật lý và phương pháp hóa học tổng hợp vật liệu nano ........ 7

Hình 1.6. Mô hình cấu trúc bên trong của hạt nano silica hình cầu ............................ 8

Hình 1.7. Mô hình tăng trưởng hạt trong quá trình tăng trưởng đa lớp bằng cách thủy

phân TEOS trong môi trường alcohol – nước – ammonia .......................................... 9

Hình 1.8. Phản ứng thủy phân và ngưng tụ của TEOS ............................................. 10

Hình 1.9. Mô hình cấu trúc nano silica rỗng (a) và cấu trúc lớp vỏ (b) .................... 14

Hình 1.10. Quy trình tổng hợp hợp hạt nano hình cầu bằng ..................................... 16

Hình 1.11. Phương trình phản ứng theo phương pháp đồng ngưng tụ ..................... 19

Hình 1.12. Phương trình phản ứng theo phương pháp grafting ................................ 20

Hình 1.13. Phản ứng hoạt hóa mPEG bằng p-nitrophenyl chloroformate ................ 20

Hình 1.14. Trung tâm thân điện tử trên nhóm carbonyl ........................................... 21

Hình 1.15. Phản ứng biến tính mPEG đã hoạt hóa lên bề mặt HMSN ..................... 21

Hình 1.16. (1) Cấu trúc hóa học và (2) ảnh hưởng của doxorubicin ........................ 22

Hình 1.17. Cấu trúc phân tử Pluronic ....................................................................... 25

Hình 1.18. Ảnh TEM của PbS@mSiO2 dạng khối (A) và hạt rỗng tạo thành (C),

tương ứng với ảnh TEM với độ phóng đại lớn hơn (B, D) ....................................... 32

Hình 1.19. Ảnh SEM (a) và TEM (b) của HMS ....................................................... 35

Hình 1.20. Ảnh SEM (a,c) và TEM (b,d) của các hạt HMSS (a,b) .......................... 37

Hình 1.21. Ảnh TEM của các hạt (A) HMSN và (B) HMSN-SS-CDPEI@HA ......... 38

Hình 1.22. Ảnh TEM của SiO2 rắn (a), HMSN (b) và CLS@HMSNs-Cs (c) ......... 40

Hình 1.23. Ảnh TEM của PNS (a) và PNS-SS-A@CD-HPEG (b) .......................... 41

Hình 2.1. Thiết kế phức hợp trung tâm BBD cho quá trình tối ưu ba yếu tố ........... 49

Hình 2.2. Phản ứng giữa ninhydrin và amino axit tạo thành phức màu tím ............. 58

Hình 3.1. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai nồng độ của TEOS: (A) 0,07

mol/l and (B) 1,20 mol/l tại điều kiện cố định .......................................................... 70

xiv

Hình 3.2. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai nồng độ của NH3: (A) 0,17

mol/l and (B) 2,90 mol/l tại điều kiện cố định. ......................................................... 72

Hình 3.3. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai nồng độ của ethanol: (A) 8.68

mol/l và (B) 15.19 mol/l tại điều kiện cố định. ......................................................... 73

Hình 3.4. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai thời gian phản ứng: (A) 0,5

giờ và (B) 5 giờ tại điều kiện cố định. ..................................................................... 74

Hình 3.5. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai nhiệt độ: (A) 350C và (B) 650C

tại điều kiện cố định .................................................................................................. 75

Hình 3.6. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với tốc độ nhỏ của NH3: (A) nhanh và

(B) 100μl/phút tại điều kiện cố định. ........................................................................ 76

Hình 3.7. Ảnh TEM và thống kê kích thước hạt từ ảnh TEM của SiO2 (a, a’) ........ 80

Hình 3.8. Cấu trúc và điện tích bề mặt hạt nano silica rắn SSN ............................... 81

Hình 3.9. Ảnh TEM và sự phân bố kích thước hạt thống kê từ ảnh TEM tại nồng độ

TEOS khảo sát 0,07 mol/l (a,a’), 0,27 mol/l (b,b’), 0,45 mol/l (c,c’), 0,61 mol/l (d,d’),

0,72 mol/l (e,e’) và ảnh phóng đại một hạt (f) ......................................................... 85

Hình 3.10. Ảnh TEM (a) và sự phân bố kích thước hạt được tính toán từ dữ liệu DLS

(b) của hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN-SSN ................................................... 88

Hình 3.11. Ảnh TEM mẫu SSN@CTAB-SSN/2 trước và sau khi thẩm tách bằng

màng cellulose với nước cất (a,b) ............................................................................. 89

Hình 3.12. Ảnh TEM của HMSN tại thời gian ăn mòn 1giờ, 3 giờ, 6 giờ, 9 giờ và 12

giờ tương ứng với hình a, b, c, d, e tại thang đo 200 nm; và phóng đại một hạt HMSN

(hình f) ....................................................................................................................... 93

Hình 3.13. Ảnh TEM (a) và sự phân bố kích thước hạt được tính toán từ dữ liệu DLS

(b) của hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN-SSN ................................................... 94

Hình 3.14. Ảnh SEM của hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN ............................... 95

Hình 3.15. Ảnh TEM và thống kê kích thước hạt từ ảnh TEM của hạt HMSN ....... 95

Hình 3.16. Phổ FTIR của HMSN .............................................................................. 97

Hình 3.17. Phổ XPS của HMSN khi quét tổng quát và độ phân giải cao của O 1s, Si

2s, Si 2p ..................................................................................................................... 98

Hình 3.18. Phổ XRD góc rộng của HMSN ............................................................... 99

xv

Hình 3.19. Ảnh TEM và sự phân bố kích thước hạt của HMSN-NH2 từ thống kê ảnh

TEM tại các tỉ lệ khác nhau của APTES (µl )50 (a/a’), 100 (b/b’), 250 (c/c’), 500

(d/d’), và 800 (e/e’) ................................................................................................ 102

Hình 3.20. Phổ hồng ngoại của HMSN a) và HMSN- NH2-50 b) .......................... 106

Hình 3.21. Phổ XPS của HMSN-NH2-500 khi quét tổng quát và độ phân giải cao của

O 1s, N 1s, Si 2s và Si 2p ........................................................................................ 107

Hình 3.22. Phổ hồng ngoại của mPEG-NPC .......................................................... 108

Hình 3.23. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân của mPEG-NPC ...................................... 108

Hình 3.24. Ảnh SEM (a), TEM (b)(c – nhuộm) và phân bố kích thước hạt (b’) .... 109

Hình 3.25. Giản đồ nhiễu xạ tia X góc rộng của HMSN (a), APTES (b), HMSN-NH2

(c), and HMSN-mPEG (d) ...................................................................................... 110

Hình 3.26. Phổ hấp thụ hồng ngoại của (a) HMSN-mPEG, (b)mPEG và (c) HMSN

................................................................................................................................. 111

Hình 3.27. Phổ XPS của HMSN-mPEG ................................................................. 111

Hình 3.28. Phổ FTIR của NPC-F127-OH ............................................................... 113

Hình 3.29. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân của F127-NPC......................................... 114

Hình 3.30. Ảnh SEM (a) và TEM (b) và phân bố kích thước hạt (b’) .................... 115

Hình 3.31. Giản đồ nhiễu xạ tia X góc rộng của HMSN (a), HMSN-F127 (b) ...... 115

Hình 3.32. Phổ hấp thụ hồng ngoại của (a) HMSN, (b) F127 và (c) HMSN-F127 116

Hình 3.33. Tế bào HCC J5 được xử lý bởi HMSN, HMSN-NH2, HMSN-mPEG,

HMSN-F127 tại các nồng độ khác nhau; Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox,

HMSN-F127/Dox tại các nồng độ Dox khác nhau ................................................. 124

1

MỞ ĐẦU

Từ năm 2000, nano silica cấu trúc mao quản (mesoporous silica nanoparticles

– MSN) là vật liệu được nghiên cứu rộng rãi cho các ứng dụng y sinh [1]. So với các

hạt nano polymer, micell và liposome, thì MSN được biết đến như là chất mang nano

đầy hứa hẹn do có diện tích bề mặt cao, thể tích lỗ xốp lớn, có thể điều chỉnh kích

thước lỗ xốp, tính tương hợp sinh cao và dễ biến tính bề mặt [2],[3]. Gần đây, vật liệu

nano silica cấu trúc rỗng (hollow mesoporous silica nano particles – HMSN) đang

thu hút sự chú ý của rất nhiều nhà khoa học. HMSN có lớp vỏ cấu trúc mao quản

tương tự như MSN và lỗ rỗng bên trong nên có khả năng chứa được nhiều phân tử

thuốc hơn, giảm thiểu khả năng tích lũy vật liệu lạ trong cơ thể do đó hứa hẹn tiềm

năng thay thế vật liệu MSN trong tương lai.

HMSN có thể được tổng hợp bằng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó

hard – template là phương pháp phổ biến hiện nay vì có thể kiểm soát quá trình tạo

hạt và kích thước hạt [4]. Các nghiên cứu hiện nay chỉ tập trung vào quá trình tổng

hợp, biến tính bề mặt vật liệu tạo thành và ứng dụng vào các lĩnh vực khác nhau.

Trong khi đó quá trình xử lý lõi rắn và kiểm soát hình thái, giai đoạn phủ lớp vỏ, kích

thước hạt HMSN chưa được nghiên cứu một cách hoàn chỉnh và giải thích rõ ràng.

Mặt khác, trong cấu trúc lớp vỏ của hạt HMSN có các ống mao quản nối trực tiếp với

lỗ rỗng bên trong nên thuốc dễ bị rò rỉ trong quá trình vận chuyển. Do đó, vấn đề đặt

ra là cần phải che chắn các lỗ mao quản này bằng cách biến tính bề mặt các hạt HMSN

với các phân tử hữu cơ hay các polymer giữ vai trò như là “ nắp” đậy các lỗ mao quản

để tăng hiệu quả mang thuốc và kiểm soát phóng thích thuốc [2].

Trong nghiên cứu này, với mục tiêu tạo ra hệ chất mang ứng dụng trong dẫn

truyền thuốc, đề tài tập trung tổng hợp hạt HMSN hình cầu với kích thước mong

muốn nhỏ hơn 200 nm. Hình thái, kích thước của hạt HMSN sẽ được kiểm soát thông

qua việc kiểm soát hình thái, kích thước của các hạt nano silica được tạo thành trong

từng giai đoạn tổng hợp: hình thái và kích thước lõi nano silica rắn ban đầu, quá trình

phủ lớp vỏ có cấu trúc mao quản và xử lý lõi rắn được nghiên cứu. Ngoài ra, PEG

(poly (ethylene glycol)) và Pluronic (F127) sẽ được sử dụng để biến tính trên bề mặt

các hạt HMSN nhằm giữ lượng thuốc đã được nang hóa nên khả năng mang thuốc

của vật kiệu sau khi biến tính sẽ cao hơn các hạt HMSN ban đầu. Từ những phân tích

trên cho thấy, đề tài “Nghiên cứu tổng hợp và biến tính bề mặt nano silica cấu trúc

2

rỗng định hướng ứng dụng mang thuốc chống ung thư” sẽ góp phần hoàn thiện hệ

chất mang thuốc trên nền tảng vật liệu nano silica cấu trúc rỗng HMSN.

Mục tiêu của luận án

Nghiên cứu tổng hợp chất mang thuốc nano silica cấu trúc rỗng và kiểm soát

kích thước hạt tạo thành. Đồng thời, khảo sát khả năng mang và phóng thích của hệ

chất mang trên cơ sở biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với nhóm chức hữu

cơ và các polymer.

Nội dung nghiên cứu luận án bao gồm các nội dung sau và được thể hiện qua Sơ

đồ 1.1

1. Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến kích thước hạt nano silica rắn (SSN)

2. Tổng hợp hạt nano silica rắn (SSN) bằng phương pháp đáp ứng bề mặt

(RSM)

3. Nghiên cứu tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ (SSN@CTAB-SSN)

4. Nghiên cứu tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng (HMSN)

5. Nghiên cứu biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng bằng nhóm amin với

các tỉ lệ mol HMSN/nhóm -NH2 khác nhau (HMSN-NH2).

6. Nghiên cứu biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng bằng Polyethylene

glycol 5000 (PEG5k) (HMSN-mPEG).

7. Nghiên cứu biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng bằng Pluronic F127

(HMSN-F127).

8. Nghiên cứu hiệu quả nang hóa thuốc chống ung thư Doxorubicin (Dox) của

các chất mang nano HMSN, HMSN-NH2, HMSN-mPEG, HMSN-F127.

9. Khảo sát tốc độ phóng thích thuốc Doxorubicin của hệ HMSN/Dox, HMSN-

NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox.

10. Nghiên cứu độc tính tế bào ung thư đối với các hệ chất mang nano HMSN,

HMSN-NH2, HMSN-PEG, HMSN-F127, HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-

mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox.

3

Sơ đồ 1. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu của đề tài

4

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN

1.1. NANO SILICA

1.1.1. Giới thiệu về silica

Silicon dioxide (hay silica) là thành phần chính của lớp vỏ trái đất, kết hợp với

các oxide của magie, canxi và sắt tạo thành các khoáng chất silicate trong đá và đất.

Qua hàng triệu năm silicon dioxide đã được tách ra khỏi đá silicate ban đầu do tác

động của nước dẫn đến sự tạo thành thạch anh hay opal. Silica có thể là tự nhiên hoặc

tổng hợp, tinh thể hoặc vô định hình. Với mục đích nghiên cứu các ứng dụng trong

lĩnh vực Y-Sinh, luận án đề cập đến silica tổng hợp có cấu trúc vô định hình [5].

Silica có cấu trúc tứ diện SiO4, gồm bốn nguyên tử oxy tại bốn góc và một ion

silicon tại tâm của tứ diện. Tuy nhiên, bốn ion oxy lớn hơn nhiều so với ion Si4+ nên

bốn ion oxy của một đơn vị [SiO4]4- có thể tiếp xúc lẫn nhau (Hình 1.1). Silica chứa

liên kết Si – O, là liên kết bền nhất trong tất cả các liên kết nguyên tố Si-X với chiều

dài liên kết Si – O là 0,162 nm [5].

Hình 1.1. Cấu trúc tứ diện của nano silica

Trái ngược với silica tinh thể, silica vô định hình có sự sắp xếp ngẫu nhiên các

đơn vị [SiO4]4- tạo thành một cấu trúc không tuần hoàn (nonperiodic) (Hình 1.2). Kết

quả này dẫn đến sự khác nhau về khối lượng riêng của các loại silica, trong đó silica

cấu trúc vô định hình có khối lượng riêng nhỏ nhất là 2,20 g/ml tại 273K [5].

Hình 1.2. Cấu trúc tinh thể (a) và vô định hình (b) của nano silica

1.1.2. Keo silica và độ bền của hệ keo

“Keo silica” hay “sol” được tạo thành do sự phân tán bền các hạt silica vô

định hình kích thước từ 1 đến 1000 nm trong dung dịch. Bền trong trường hợp này

5

có nghĩa là các hạt nano silica không kết tụ lại với nhau với một tốc độ đáng kể. Độ

bền của hệ keo gồm ba loại: Độ bền pha tương tự như độ bền pha của các dung dịch

thông thường, độ bền của các thành phần phân tán nghĩa là liên quan đến sự thay đổi

độ phân tán (còn gọi là sự phân bố kích thước hạt), độ bền tập hợp là đặc trưng nhất

cho hệ keo được giải thích dựa trên lực van der Waals, lực hấp dẫn, lực tĩnh điện và

đặc biệt là thuyết DLVO (Derjaguin – Landau – Verwey – Overbeek). Theo thuyết

này, độ bền thấp dự đoán tại pH khoảng 2 – 3, sau đó tăng ở khoảng pH giữa 3 – 6

và ổn định nhất vào khoảng pH từ 7 – 10 [5].

1.1.3. Cấu trúc của nano silica

Cấu trúc bề mặt hay bên trong của các hạt nano silica bao gồm nhóm silanol

(Si – OH) và nhóm siloxane (Si – O – Si) (Hình 1.3). Các nhóm silianol trên bề mặt

(có thể là đơn (isolated hay hydrogen bonded) hoặc gemini (hai nhóm hydroxyl trên

một nguyên tử silic)), tuy nhiên phổ biến nhất là isolated silianol (nhóm silanol tự do)

và gemini silanol tương ứng Hình 1.4.a và b [6]. Các nhóm silanol được hình thành

trong quá trình tổng hợp thông qua phản ứng ngưng tụ và polyme hóa của Si(OH)4

hoặc là kết quả của quá trình hydrat hóa. Các nhóm silanol này có thể được phân loại

theo tính chất, loại liên kết. Một nhóm silanol tự do bao gồm một nhóm OH tại vị trí

có khoảng cách đủ xa với các nhóm hydroxyl bên cạnh để ngăn chặn tạo thành liên

kết hydro. Nhóm silanol này cho một dải tín hiệu tại số sóng 3750 cm-1 trong phổ

hồng ngoại. Các nhóm OH bề mặt silica là trung tâm hấp phụ chính của các phân tử

nước. Nước có thể được liên kết bởi các liên kết hydro với bất kỳ loại silanol bề mặt

nào và đôi khi với các nhóm silanol bên trong cấu trúc. Đối với các cầu siloxane được

tạo thành bởi sự ngưng tụ các nhóm silanol bề mặt hay bên trong cấu trúc được thực

hiện ở nhiệt độ khoảng 500oC [5, 6].

.

Hình 1.3. Cấu trúc của nano silica với nhóm silanol, nhóm siloxane trên bề mặt (a) và bên trong (b)

6

Hình 1.4. Loại nhóm silianol trên bề mặt nano silica

1.1.4. Tính chất của nano silica

Nano silica là một loại bột trắng vô định hình, độ tinh khiết cao, không độc

hại, không mùi và thân thiện với môi trường. Đặc biệt, diện tích bề mặt và thể tích lỗ

xốp lớn, khối lượng riêng thấp và phân tán tốt. Hơn nữa, nano silica có độ bền cao kể

cả bền cơ học, hóa học và nhiệt [7].

Nano silica được sử dụng như một chất mang, thích hợp cho việc mang thuốc

vì chúng có độ chọn lọc và tính bền vững cao khi kết hợp với thuốc. Các chất mà

nano silica có thể mang được là thuốc, ADN, các hormone,… Đặc biệt, tính phân hủy

sinh học của nano silica là quan trọng đối với việc sử dụng trong việc phân phối thuốc,

nano silica có trọng lượng phân tử thích hợp có thể được đào thải qua thận trong cơ

thể và tính tương hợp sinh học cao. Đây được xem là một ưu điểm vượt trội của nano

silica [3].

Ngoài ra với tính chất dễ biến tính bề mặt, nhờ vào các dẫn xuất của silane như

(3-aminopropyl) trimethoxysilane,… mà các hạt silica có thể gắn được hầu hết các

vật liệu lên bề mặt một cách dễ dàng nên nano silica được ứng dụng rộng rãi trong

nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực y sinh [3].

1.1.5. Phương pháp tổng hợp

Sự tiến bộ trong công nghệ nano dẫn đến việc sản xuất nano silica được sử

dụng rộng rãi trong kỹ thuật và trong đời sống. Tuy nhiên, các hạt nano silica được

chiết xuất từ thiên nhiên chứa tạp chất kim loại và do đó không thuận lợi cho các ứng

dụng khoa học và công nghệ tiên tiến, đặc biệt là trong lĩnh vực y sinh. Do đó, việc

tập trung tổng hợp silica (keo silica, silica gel, pyrogenic silica) với độ tinh khiết cao,

chủ yếu ở dạng bột vô định hình giữ vai trò quan trọng. Hiện nay, các phương pháp

khác nhau đã được sử dụng để tổng hợp các hạt nano silica, có thể được phân loại

thành hai phương pháp chính: từ trên xuống và từ dưới lên (Hình 1.5) [8, 9]. Cách

7

tiếp cận từ trên xuống được đặc trưng bằng cách giảm kích thước ban đầu bằng cách

sử dụng các kỹ thuật đặc biệt (phương pháp vật lý). Cách tiếp cận từ dưới lên (hay

gọi là phương pháp hóa học) là phương pháp phổ biến được sử dụng để tổng hợp hạt

nano. Một số phương pháp được sử dụng để tổng hợp nano silica là phương pháp

Stober, quá trình sol – gel và vi nhũ tương đảo [8].

Hình 1.5. Phương pháp vật lý và phương pháp hóa học tổng hợp vật liệu nano

Phương pháp Stober

Phương pháp Stober được chính nhà khoa học cùng tên Stober và Arthur Fink

công bố vào năm 1968. Theo đó, một hệ phản ứng hóa học được phát triển cho phép

sự tăng trưởng có kiểm soát của các hạt nano silica hình cầu có kích thước đồng đều

thông qua phản ứng thủy phân của alkyl silicate và sự ngưng tụ của silicic axit trong

alcohol. Ammonia được dùng như là chất một chất xúc tác hình thái. Các hạt nano

tạo thành có dạng hình cầu, đơn phân tán và có kích thước từ nhỏ hơn 0,05 µm đến 2

µm [10].

Thông qua các chất tham gia phản ứng gồm nước, alkyl silicate, alcohol và

ammonia có thể kiểm soát được kích thước hạt. Đối với các loại alcohol khác nhau,

kích thước hạt nhỏ nhất được tìm thấy trong methanol và lớn nhất trong n-butanol

trong cùng điều kiện so sánh. Ngoài ra, có sự phân bố kích thước hạt với dải rộng đối

với các alcohol bậc cao hơn. Kết quả so sánh với các alkyl silicate cho thấy phản ứng

xảy ra nhanh nhất, kích thước hạt nhỏ nhất (nhỏ hơn 0,2 µm) được tạo thành với

8

tetramethyl ester, trong khi với tetrapentyl ester phản ứng xảy ra chậm (mất 24 giờ

cho phản ứng ngưng tụ và kích thước hạt tạo thành lớn [10].

Có hai mô hình chính giải thích quá trình tạo thành hạt SiO2 theo phương pháp

Stober. Thứ nhất: mô hình tăng trưởng bổ sung monomer (monomer addition), liên

quan đến sự tạo mầm khi vượt quá giới hạn siêu bão hòa và phát triển mầm bằng cách

ngưng tụ các monomer silicic axit trên bề mặt của các hạt hiện có (mầm) [11, 12].

Kết quả của cơ chế tăng trưởng này dẫn đến sự hình thành cấu trúc bên trong của các

hạt tương ứng với mô hình I trong Hình 1.6. Mô hình thứ hai (II) liên quan đến cơ

chế kiểm soát sự kết tụ của các hạt phụ, kích thước vài nano (mô hình tăng trưởng

tập hợp) [12, 13]. Theo mô hình này, sự tạo thành các hạt silicon dioxide trong

phương pháp Stober là do sự kết tụ các hạt sơ cấp của phân tử silica kích thước (d) từ

5 đến 10 nm được tạo thành do phản ứng thủy phân TEOS (tetraethyl orthosilicate).

Tuy nhiên, khi kích thước giới hạn của hạt (D) đạt khoảng 350 nm thì sự kết tụ sẽ kết

thúc. Khi đạt đến một tỷ lệ tới hạn nhất định d/D, các hạt sơ cấp không thể vượt qua

hàng rào lực đẩy tĩnh điện của khí quyển ion (ion atmosphere) xung quanh các hạt

đang tăng trưởng và chúng bắt đầu tạo thành các hạt mới với đường kính nhỏ hơn.

Đặc biệt, mô hình thứ ba (III) gồm một lõi trung tâm được tạo thành từ các hạt sơ cấp

(mô hình II) và lớp vỏ được tạo thành từ các hạt thứ cấp có kích thước nhỏ hơn 100

nm [14].

Hình 1.6. Mô hình cấu trúc bên trong của hạt nano silica hình cầu

Ngoài ra, cơ chế tạo thành hạt được đề xuất bằng phương pháp SFB (Stober –

Fink- Bohn) đa lớp. Cơ chế mô tả được xác định bởi tính tuần hoàn của sự tăng trưởng

các hạt đa lớp khi những hạt nano tạo thành giai đoạn trước đó được sử dụng như là

“mầm” cho giai đoạn tiếp theo (Hình 1.7) [14].

9

Hình 1.7. Mô hình tăng trưởng hạt trong quá trình tăng trưởng đa lớp bằng cách thủy phân TEOS trong môi trường alcohol – nước – ammonia

Quá trình sol – gel

Quá trình sol – gel được sử dụng rộng rãi để tạo ra các hạt silica tinh khiết do

có thể kiểm soát kích thước hạt, sự phân bố kích thước hạt và hình thái thông qua

việc kiểm soát một cách hệ thống các thông số phản ứng và được thực hiện ở nhiệt

độ thấp [8, 15]. Đặc biệt quá trình này còn có khả năng kiểm soát cấu trúc và bề mặt

của vật liệu [5]. Quá trình này bao gồm các giai đoạn: sự thủy phân và ngưng tụ của

các alkoxide kim loại (Si(OR)4) như TEOS hay muối vô cơ như Na2SiO3 (natri

silicate) trong axit hay bazơ như là chất xúc tác tạo thành keo silica. Tiếp theo là giai

đoạn già hóa keo và làm khô gel ướt để loại bỏ các chất lỏng còn lại hay nhiệt xử lý

gel khô để loại bỏ các chất hữu cơ, kết quả tạo thành xerogel hay aerogel tùy thuộc

vào cách làm khô mẫu hay khi đông khô sẽ tạo cryogel [5, 16]. Sơ đồ tổng quát cho

quá trình sol – gel kết quả tạo thành silica khi dùng tiền chất chứa silicon là alkoxide

(Si(OR)4) thể hiện trong Sơ đồ 1.1 [8].

10

Sơ đồ 1.1. Sơ đồ tổng hợp theo quá trình sol – gel

Phản ứng tổng quát của TEOS dẫn đến sự hình thành các hạt nano silica trong

quá trình sol - gel được thể hiện trong Hình 1.8 [13].

Hình 1.8. Phản ứng thủy phân và ngưng tụ của TEOS

Sự thủy phân của các phân tử TEOS tạo thành các nhóm silanol. Sự ngưng tụ/

trùng hợp giữa những nhóm silanol hoặc giữa những nhóm silanol và nhóm epoxy

tạo ra các cầu siloxane (Si – O – Si) để hình thành toàn bộ cấu trúc silica. Sự tạo thành

các hạt silica có thể được chia thành hai giai đoạn: tạo mầm và phát triển mầm. Quá

trình sol – gel cũng sử dụng hai mô hình được đề xuất trên để mô tả cơ chế tăng

trưởng silica [17].

Nhiều nhà nghiên cứu đã nỗ lực để xác định kích thước của các hạt sơ cấp

bằng các kỹ thuật khác nhau. Thông qua kỹ thuật SAXS (Small Angle X-ray

scattering), Green và cộng sự cho thấy kích thước hạt sơ cấp là 10,3 nm (trong

11

methanol) hoặc 20,7 nm (trong ethanol). Sau đó, Rahman và cộng sự tạo ra hạt nano

silica đồng nhất và ổn định với kích thước trung bình 7,1 ± 1,9 nm (trong ethanol)

[8].

Như vậy, các hạt nano silica hình cầu, đơn phân tán được báo cáo lần đầu tiên

bởi Stober và cộng sự. Các hạt silica kích thước khoảng từ 5 nm đến 2000 nm từ dung

dịch cồn của alkoxide với sự có mặt của ammonia làm chất xúc tác (điều kiện cơ bản).

Theo đó, nhiều công trình nghiên cứu về tổng hợp nano silica tiếp theo đều dựa trên

nền tảng phương pháp Stober, chẳng hạn như quá trình sol – gel. Và ưu điểm chính

của phương pháp Stober là khả năng hình thành các hạt nano silica hình cầu, đơn

phân tán so với các hệ phản ứng dùng xúc tác axit thường có thể tạo thành cấu trúc

gel [5, 8].

Phương pháp vi nhũ tương

Phương pháp vi nhũ tương trong tổng hợp các hạt nano được công bố đầu tiên

bởi Boutonnet và cộng sự vào năm 1980. Boutonnet đã tổng hợp một số keo của các

kim loại quý [18]. Phương pháp vi nhũ tương có một số tính chất hữu ích như độ bền

cao, kích thước hạt nhỏ (cấu trúc bên trong). Ngoài ra, kích thước và hình dạng có

thể được kiểm soát bằng cách thay đổi thành phần [19]. Vi nhũ tương có thể được mô

tả như là một hệ bền nhiệt động của hai chất lỏng không hòa tan. Pha phân tán có thể

tích thấp hơn sẽ tạo thành các giọt trong vi nhũ tương [20]. Các dung dịch phân tán

có thể được phân loại là dầu trong nước (O/W), tại đó các giọt dầu tồn tại trong nước

hoặc ngược lại nước trong dầu (W/O), trong đó các giọt nước phân tán trong dầu.

Ngoài ra còn có hệ dầu trong dầu (O/O), tại đó hai loại dầu (phân cực và không phân

cực) trộn với nhau [21]. Hệ vi nhũ tương gồm ít nhất ba thành phần là phân cực, pha

không phân cực và chất hoạt động bề mặt.

Các chất hoạt động bề mặt trong hệ nhũ tương hoạt động như chất nhũ hóa.

Các phân tử amphiphilic được phân loại (dựa vào điện tích của các nhóm đầu) như

chất hoạt động bề mặt không ion, anionic, cation và zwitterionic (mang cả hai nhóm

điện tích âm và dương). Một số chất hoạt động bề mặt phổ biến đã được sử dụng để

tổng hợp các hạt nano bằng phương pháp vi nhũ tương như Cetyl trimethyl

ammonium bromide (CTAB) là chất hoạt động bề mặt cation, dioctylsulfosuccine

natri (AOT) là anion, phosphatidylcholine (PC) là zwitterionic và Triton X-100 là

không ion thể hiện trong Sơ đồ 1.2 [22].

12

Sơ đồ 1.2. Sơ đồ (a) của các loại chất bề mặt hoạt động khác nhau và cấu trúc (b) của một số chất hoạt động phổ biến được sử dụng trong tổng hợp vi nhũ tương của các hạt nano

Các phân tử chất hoạt động bề mặt này hấp phụ tại các bề mặt (ranh giới giữa

hai pha không tan vào nhau) và được dùng để làm bền các vi nhũ tương bằng cách

giảm sức căng bề mặt và năng lượng tự do [23]. Một đặc tính khác của chất hoạt động

bề mặt là xu hướng kết tụ lại tạo thành micell tại một nồng độ cụ thể, gọi là nồng độ

micell tới hạn (the critical micell concentration – CMC). Trong vi nhũ tương O/W,

đầu ưa nước của chất hoạt động bề mặt hướng ra ngoài từ micell (để tiếp xúc với

nước) và kị nước liên kết trong lõi (trong các giọt dầu) gọi là “micell thường”. Ngược

lại, trong vi nhũ tương W/O sẽ tạo thành “micell đảo” (Sơ đồ 1.3). Lõi của các vi nhũ

tương đảo (micell đảo) có thể đóng vai trò quan trọng và hiệu quả đối với quá trình

tổng hợp các hạt nano [22].

13

Sơ đồ 1.3. Sơ đồ cấu trúc của micell thường và micell đảo

Phương pháp vi nhũ tương được sử dụng để tổng hợp hạt nano silica được báo

cáo bởi Tan và cộng sự [24]. Theo đó, chất hoạt động bề mặt được hòa tan trong dung

môi hữu cơ để tạo thành các hạt micell hình cầu, trong sự có mặt của nước thì các

đầu phân cực tự co cụm lại với nhau tạo thành lỗ mao quản chứa nước thường được

gọi là micell đảo.

Các hạt nano silica đơn phân tán có kích thước từ 30 nm đến 70 nm được tổng

hợp bằng cách thủy phân TEOS trong vi nhũ tương đảo được tạo thành từ

polyoxyetylen(5)nonylphenyl ether (NP-5)/cyclohexane/ammonia [25, 26]. Kích

thước hạt phụ thuộc vào tỷ lệ mol nước - chất hoạt động bề mặt (Wo) và vào nồng

độ của dung dịch ammonia. Đặc biệt, mối tương quan giữa cấu trúc mao quản của vi

nhũ tương và tính chất của vật liệu tạo thành rất phức tạp, có khả năng bị ảnh hưởng

bởi các sản phẩm phụ do chúng có thể làm thay đổi cấu trúc vi nhũ tương. Chẳng hạn

như ethanol được tạo ra trong quá trình thủy phân TEOS trong nhũ tương W/O

(CTAB/pentanol/hexane/nước) làm thay đổi cấu trúc từ các micell đảo nhỏ riêng lẻ

thành micell lớn hơn [27, 28]. Ngoài ra, trong quá trình tổng hợp các hạt nano silica,

các hạt nano có thể được phát triển bên trong các lỗ mao quản bằng cách kiểm soát

cẩn thận việc bổ sung silicon alkoxide và xúc tác vào môi trường chứa các micell đảo.

Phương pháp vi nhũ tương đảo có nhược điểm chính là chi phí cao và khó khăn trong

việc loại bỏ các chất hoạt động bề mặt trong các sản phẩm cuối cùng. Tuy nhiên,

phương pháp này đã được áp dụng thành công cho việc phủ các hạt nano với các

nhóm chức khác nhau [8].

14

1.1.6. Cấu tạo của nano silica cấu trúc rỗng

Nano silica cấu trúc rỗng là một loại đặc biệt của vật liệu nano silica cơ bản

với cấu tạo đặc biệt gồm hai phần. Đầu tiên là khoảng trống bên trong, nhờ vào

khoảng trống này HMSN có thể mang một lượng thuốc lớn hơn nhiều so với MSN

(Hình 1.9a). Để tạo khoảng trống bên trong, các nhà khoa học sử dụng các loại hạt

như hạt nano carbon, nano polystyren, nano sắt từ, nano silica,… để định hình trước

khi sử dụng các phương pháp hóa học hay vật lý để loại bỏ chúng [29]. Thứ hai là

lớp vỏ mao quản bên ngoài (Hình 1.9b), lớp vỏ này được tạo thành từ hai thành phần

là chất tiền thân silica và chất hoạt động bề mặt. Chất tiền thân silica thường được sử

dụng là TEOS, chất hoạt động bề mặt là Cetyltrimethylamnonium bromide (CTAB)

hoặc Octadecyltrimethoxysilane (C18TMS) [30, 31]. Trong khi CTAB là chất rắn màu

trắng dạng bột thì C18TMS là dung dịch trong suốt, tùy vào quy trình tổng hợp mà

các nhà khoa học chọn sử dụng CTAB hay C18TMS. Sau khi phủ lớp vỏ bằng chất

hoạt động bề mặt và chất tiền thân silica, sẽ tiến hành nung tại 550oC hoặc thẩm tách

bằng ethanol/axit acetic để loại bỏ chất hoạt động bề mặt tạo thành lớp vỏ mao quản

[32-34].

Hình 1.9. Mô hình cấu trúc nano silica rỗng (a) và cấu trúc lớp vỏ (b)

1.1.7. Tính chất và ứng dụng của nano silica cấu trúc rỗng

Các hạt nano silica cấu trúc rỗng thể hiện các đặc điểm cấu trúc độc đáo được

ứng dụng trong nhiều lĩnh vực. Thứ nhất, sự kết hợp lỗ rỗng bên trong và lớp vỏ mao

quản trong cấu trúc làm cho các hạt HMSN có khối lượng riêng thấp và có tính thấm

cao [29, 35]. Thứ hai, khoảng trống bên trong hạt HMSN có thể được dùng như nơi

chứa để tải các chất xúc tác trong phản ứng xúc tác hay làm chất mang nano để lưu

trữ và phân phối thuốc cho các ứng dụng y sinh sau khi được biến tính làm bền bề

mặt. Thứ ba, lớp vỏ với độ dày kích thước nano rất thuận lợi để chuyển lượng chất

phản ứng và sản phẩm ra/ vào lỗ rỗng, chủ yếu cho các pha lỏng, hay mang và phóng

15

thích thuốc hoặc vận chuyển các phân tử khác. Mặt khác, khi ống mao quản trên lớp

vỏ ngắn hơn nhiều thì sự khuếch tán trở nên ít quan trọng, bề mặt bên trong lớp vỏ

được sử dụng hiệu quả hơn khi các hạt HMSN được dùng như chất hỗ trợ xúc tác

[36]. Ngoài ra, HMSN dễ dàng biến tính bề mặt thông qua các liên kết Si – OH. Do

đó, HMSN đã chứng minh được tiềm năng lớn trong lĩnh vực đóng gói

(encapsulation), kiểm soát mang và phóng thích thuốc, lĩnh vực xúc tác, lĩnh vực hấp

phụ và tách [37].

1.1.8. Phương pháp tổng hợp nano silica cấu trúc rỗng

Các phương pháp tổng hợp các hạt nano silica cấu trúc rỗng đã được các nhà

khoa học tập trung nghiên cứu. Theo loại khuôn (template) để tạo ra lỗ rỗng bên trong

có thể chia thành phương pháp soft-template (khuôn mềm), hard-template (khuôn

cứng) và phương pháp self-template (tự tạo khuôn). Trong đó, phương pháp soft-

template liên quan đến việc trực tiếp tạo ra cả lỗ rỗng và vỏ thông qua việc tự lắp ráp

giữa các phân tử tiền chất và khuôn chất hoạt động bề mặt hữu cơ/các chất hữu cơ

khác. Ở đây, các khuôn (hay lõi) thường là các giọt của các phân tử tiền chất, chất

hoạt động bề mặt sẽ được loại bỏ sau quá trình tạo thành hạt rỗng. Đối với phương

pháp hard-template, một số hạt rắn cứng được chuẩn bị làm lõi và sẽ được xử lý sau

khi tạo lớp vỏ cấu trúc mao quản trên lõi, trong đó lớp vỏ được tạo ra bởi sự tự lắp

ráp giữa các tiền chất và micell chất hoạt động bề mặt [38, 39].

Phương pháp hard- template

Phương pháp hard- template gồm ba giai đoạn cơ bản: chuẩn bị các hạt nano

để sử dụng làm lõi cứng, tạo lớp vỏ ít bị ăn mòn và có kích thước nano trên lõi và

cuối cùng là xử lý lõi một cách có chọn lọc tạo thành lỗ trống bên trong lớp vỏ (Hình

1.10). Trong đó, giai đoạn phủ lớp vỏ trên lõi, đòi hỏi sự tương thích giữa vật liệu lõi

và vỏ. Do đó, trước khi phủ lớp vỏ thì bề mặt lõi được biến tính để tạo ra các tương

tác vật lý và hóa học với tiền chất tạo lớp vỏ. Cơ chế của phương pháp này là dựa

trên sự khác biệt tính chất giữa phần lõi và phần vỏ, từ đó sử dụng chất ăn mòn thích

hợp để loại bỏ phần lõi bên trong mà không ảnh hưởng đến phần vỏ bên ngoài. Thực

tế thì phương pháp này được cải tiến từ phương pháp soft – template nhằm khắc phục

hai khuyết điểm là khó kiểm soát quá trình tạo hạt và kích thước hạt. Thay vì sử dụng

các vật liệu mềm, phương pháp này sử dụng các vật liệu cứng thường là các hạt rắn

để tạo cấu trúc lõi bên trong nên có tên gọi khác là hard – template. Các vật liệu cứng

16

này chỉ bị loại bỏ ở điều kiện thích hợp, các vật liệu cứng thường được sử dụng làm

lõi trong phương pháp này là polymer latex, hạt carbon rắn và hạt silica rắn [36, 40].

Hình 1.10. Quy trình tổng hợp hợp hạt nano hình cầu bằng

phương pháp hard – template

a) Lõi poly latex

Điểm nổi bật của polymer latex so với các vật liệu mềm là các hạt có kích

thước cụ thể và có thể điều chỉnh được, các lõi poly latex hình cầu thường được dùng

để tạo thành lỗ rỗng [41]. Xia và các cộng sự đã sử dụng lõi latex để chế tạo thành

công hạt silica rỗng, tuy nhiên phần vỏ của hạt có cấu trúc vi mao quản. Với phương

pháp này, đường kính lỗ rỗng có thể được điều chỉnh dễ dàng bằng cách chọn các lõi

poly latex có kích thước khác nhau, trong khi độ dày lớp vỏ điều chỉnh bằng cách

thay đổi tỉ lệ giữa silica/ latex trong quá trình tổng hợp [42, 43].

Năm 2008 Haiqing Li sử dụng lõi polystyrene (PS) hình cầu trong tổng hợp

hạt nano silica cấu trúc rỗng [44]. Hay năm 2011, Qiu và cộng sự cũng sử dụng hạt

keo polystyrene (PS) mang điện âm để hỗ trợ quá trình tự lắp ghép (self-assembly)

giữa silica vô cơ và micell chất hoạt động bề mặt trong môi trường pH > 12. Trong

đó, chất bề mặt định hướng sắp xếp vỏ có cấu trúc mao quản, PS giữ vai trò lõi. Sau

đó loại bỏ lõi và chất hoạt động bề mặt bằng cách nung ở nhiệt độ cao tạo thành các

hạt nano silica rỗng hình cầu [45].

b) Lõi hạt carbon rắn

Các nhà khoa học cũng sử dụng các hạt carbon rắn đơn phân tán để định hình

phần lõi bên trong, các hạt này được tổng hợp từ glucose dưới điều kiện thủy nhiệt

tại 160 – 180oC [46]. Sau đó lõi carbon rắn có thể được xử lý khi nung tại nhiệt độ

550oC trong 6 giờ và khử trong 5% H2/95% Ar tại 400oC trong 2 giờ [47].

c) Lõi nano silica hình cầu

Cùng với latex và hạt carbon rắn, một vật liệu cứng thường được sử dụng để

định hình cấu trúc lõi là hạt silica rắn, được tổng hợp từ chính tiền chất chứa silica.

Ưu điểm của SiO2 chính là độ tinh khiết của sản phẩm so với những vật liệu khác và

17

không cần phải chức hóa bề mặt trước khi thực hiện phủ vỏ. Ngoài ra, phương pháp

Stober để tạo nên nano silica rắn đã có từ năm 1968, được các nhà khoa học hoàn

thiện dần theo thời gian và cho thấy sự hiệu quả đến ngày nay. Bằng cách kết hợp với

phương pháp Stober, quá trình tăng trưởng Giesche và phương pháp Kaise đã tạo nên

hạt nano silica hình cầu đơn phân tán có cấu trúc lõi – vỏ gồm lõi là SiO2 rắn và lớp

vỏ silica cấu trúc mao quản. Trong đó, lớp vỏ được tạo thành bởi quá trình sol – gel

TEOS và octadecyltrimethoxysilane (C18TMS), sau đó loại bỏ các chất hữu cơ tạo

thành cấu trúc mao quản và loại bỏ lõi rắn để tạo thành lỗ rỗng. Điểm khác biệt duy

nhất là SiO2 có thể được loại bỏ bằng môi trường bazơ thay vì phải dùng nhiệt như

hai phương pháp trên có thể ảnh hưởng đến cấu trúc HMSN tạo thành [48].

d) Một số lõi rắn khác

Ngoài các lõi rắn được đề cập ở trên, một vài oxide vô cơ hoặc oxide kim loại

cũng có thể được sử dụng làm lõi rắn, chẳng hạn như α-Fe2O3 [49]. Ngoài ra, bằng

cách sử dụng các hạt nano hydroxyapatite (HA) như là lõi rắn, có thể được loại bỏ

bằng cách ăn mòn, đã tạo nên hạt nano silica rỗng. Hình thái và kích thước của HMSN

có thể được kiểm soát tốt và điều chỉnh theo tính chất của lõi HA [50] hay lõi là

CaCO3 hình cầu [51].

Phương pháp soft– template

Trong phương pháp soft– template, các hạt nano silica cấu trúc rỗng được tổng

hợp từ các khuôn mềm như micell, các giọt nhũ tương trong một chất lỏng hai pha

[52], tập hợp nhiều polymer [53], bong bóng khí [54],… để tạo cấu trúc lõi bên trong,

bên ngoài được phủ một lớp vỏ mao quản là sự kết hợp giữa chất hoạt động bề mặt

và tiền chất. Sau đó các khuôn mềm sẽ bị loại bỏ để tạo nên khoảng trống bên trong

và HMSN được hình thành. Điểm chung của các vật liệu mềm này là rất dễ loại bỏ

thậm chí ở điều kiện thường và đó cũng là nguyên nhân mà phương pháp soft –

template không được sử dụng nhiều. Việc các vật liệu mềm dễ bị loại bỏ dẫn đến khó

khăn cho các nhà khoa học trong việc kiểm soát quá trình tạo hạt. Nguyên nhân thứ

hai là các vật liệu mềm này có kích thước nhỏ và khả năng mở rộng không cao nên

phạm vi ứng dụng hẹp, không thể mang các phân tử có kích thước lớn [40].

Các hạt micell được cấu tạo từ các chất hoạt động bề mặt là vật liệu mềm

thường được sử dụng nhất trong phương pháp soft – template vì nó có độ bền cao.

Cơ chế của phương pháp này dựa trên hệ nhũ tương dầu trong nước (O/W). Hệ này

18

bao gồm 4 thành phần chính là nước, dầu, chất hoạt động bề mặt và dung dịch kiềm.

Đầu tiên nước, chất hoạt động bề mặt được hòa chung với nhau và ở một nồng độ

nhất định chất hoạt động bề mặt sẽ tạo thành cấu trúc micell. Tiếp đó, tiền chất silia

(pha dầu) được nhỏ giọt vào dung dịch trên, vì có tính chất kị nước nên tiền chất silica

sẽ nằm bên trong cấu trúc micell. Tuy nhiên, dung dịch kiềm sẽ thủy phân chậm tiền

chất silica làm chúng trở nên ưa nước và ngưng tụ lại trên bề mặt các micell. Cuối

cùng, các chất hoạt động bề mặt bị loại bỏ và tạo thành HMSN [35, 55].

Phương pháp self – template

Phương pháp self – template được báo cáo gần đây, gồm hai giai đoạn: (i)

Tổng hợp các hạt nano giữ vai trò là “khuôn”, (ii) Chuyển những khuôn này thành

cấu trúc rỗng. Không giống như các phương pháp tạo khuôn thông thường, các khuôn

theo phương pháp này không chỉ cung cấp khuôn để tạo thành cấu trúc rỗng mà còn

trực tiếp tham gia vào sự hình thành lớp vỏ. Các khuôn có cùng thành phần với vật

liệu vỏ hoặc cuối cùng sẽ biến đổi hóa học thành vật liệu vỏ. Phương pháp này dự

kiến sẽ cung cấp một quy trình đơn giản và hiệu quả hơn về chi phí sản xuất vật liệu

rỗng. Tuy nhiên cũng có những thách thức đặt ra như độ ổn định của hạt, độ phân tán

[56, 57].

1.1.9. Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng

Các phương pháp biến tính bề mặt nano silica

Bề mặt nano silica với các nhóm silanol trên bề mặt nên cần được biến tính

với các nhóm chức hoạt động, là tiền đề cho các phản ứng biến tính bề mặt với các

phân tử hữu cơ khác. Các phương pháp biến tính bề mặt nano silica bao gồm phương

pháp đồng ngưng tụ “co-condensation” và phương pháp grafting [58].

a) Phương pháp đồng ngưng tụ (tổng hợp trực tiếp)

Phương pháp này lần đầu tiên được đề xuất bởi Burkett và cộng sự. Quá trình

tổng hợp được thực hiện bằng cách đồng ngưng tụ tetraalkoxysilanes có thể là TEOS

và trialkoxyorganosilanes chẳng hạn như APTES thể hiện qua Sơ đồ 1.4 và Hình 1.11

[59, 60].

19

Sơ đồ 1.4. Sơ đồ biến tính bề mặt nano silica với phân tử hữu cơ bằng phương pháp đồng ngưng tụ

Hình 1.11. Phương trình phản ứng theo phương pháp đồng ngưng tụ

b) Phương pháp grafting

Grafting là một phương pháp được sử dụng phổ biến nhất vì tổng hợp tương

đối đơn giản. Sự hiện diện của silanol trên bề mặt với nồng độ cao là một tiêu chí

quan trọng trong phương pháp này [61]. Quá trình biến tính bề mặt mặt với các nhóm

hữu cơ bằng cách grafting thường được thực hiện bằng cách silylation, được thực

hiện bằng một trong ba phương trình thể hiện trong Sơ đồ 1.5 và Hình 1.12 [59, 62].

20

Sơ đồ 1.5. Sơ đồ biến tính bề mặt nano silica với phântử hữu cơ bằng

phương pháp grafting

Hình 1.12. Phương trình phản ứng theo phương pháp grafting

Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với methoxy ethyleneglycol

(mPEG)

a) Hoạt hóa mPEG bằng p-nitrophenyl chloroformate

Phản ứng thế thân hạch trên carbon của nhóm carbonyl diễn ra thuận lợi ở

nhiệt độ 60 - 65ºC.

Hình 1.13. Phản ứng hoạt hóa mPEG bằng p-nitrophenyl chloroformate

Phản ứng xảy ra theo cơ chế tương tự như phản ứng ester hóa. Trong cấu trúc

của tác chất p-nitrophenyl chloroformate (NPC), liên kết C=O có tính chất không no

và bị phân cực mạnh về phía oxy, làm xuất hiện một phần điện tích dương trên nguyên

tử carbon, tạo ra một trung tâm thân điện tử.

21

Hình 1.14. Trung tâm thân điện tử trên nhóm carbonyl

Trong khi đó, trên nguyên tử oxy của nhóm –OH của phân tử mPEG còn hai

đôi điện tử tự do, nên nguyên tử oxy có vai trò như tác nhân ái nhân. Trung tâm thân

điện tử trên nguyên tử carbon của phân tử NPC gặp tác nhân ái nhân trên phân tử

mPEG sẽ tương tác với nhau và tạo thành sản phẩm mPEG-NPC.

Điều đáng chú ý là tác nhân NPC có hoạt tính rất mạnh, dễ bị thủy phân trong

môi trường có nước. Do đó, để đạt được hiệu suất phản ứng tốt nhất, phản ứng phải

được thực hiện trong môi trường khan nước và trong môi trường nitơ khô, tất cả các

dung môi phải được làm khan trước khi dùng.

b) Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với mPEG

Do tác động của hiệu ứng hút điện tử từ nhóm nitrophenyl lên liên kết ester

trong phân tử mPEG-NPC, làm cho liên kết carbonyl bị phân cực mạnh, kết quả làm

carbon trên nhóm carbonyl trở nên dương điện hơn. Khi có mặt của tác nhân thân

hạch như nhóm amino trên bề mặt các hạt silica cấu trúc rỗng, nitơ trên nhóm amino

còn dư một cặp electron chưa liên kết nên có khả năng gắn lên carbon dương điện,

đồng thời đẩy nhóm nitrophenolate để hình thành sản phẩm nano silica cấu trúc rỗng

đã phủ polyethylene glycol và sản phẩm phụ p-nitrophenol.

Hình 1.15. Phản ứng biến tính mPEG đã hoạt hóa lên bề mặt HMSN

1.2. THUỐC TRỊ UNG THƯ DOXORUBICIN

1.2.1.Giới thiệu thuốc Doxorubicin

Doxorubicin được bán dưới tên thương mại Adriamycin cùng với một số

những tên khác, là một loại thuốc hóa trị liệu được sử dụng để điều trị ung thư.

Doxorubicin được tiêm vào tĩnh mạch. Đây là một loại kháng sinh gây độc tế bào

thuộc nhóm anthracyclin, bao gồm một đơn vị đường amino là daunosamin liên kết

22

với một aglycone bốn vòng thông qua liên kết glycoside. Cấu trúc hóa học của

doxorubicin được thể hiện trong Hình 1.16. Doxorubicin hoạt động bằng cách liên

kết với các enzym liên kết DNA, có thể đan xen các cặp bazơ của chuỗi xoắn kép

của DNA. Bằng cách liên kết với nhiều phân tử mục tiêu như enzym topoisomerase

I và II, một loạt các hiệu ứng gây độc tế bào xảy ra cùng với phản ứng tăng sinh, do

đó đẫn đến tổn thương DNA. Ngoài ra, doxorubicin cũng được biết là tự đan xen vào

DNA, với sự ức chế cả DNA và RNA, kết quả là ngừng sao chép DNA và phiên mã

RNA [63-65].

Hình 1.16. (1) Cấu trúc hóa học và (2) ảnh hưởng của doxorubicin đến sự chết tế bào

Doxorubicin được chấp thuận cho sử dụng y tế tại Hoa Kỳ vào năm 1974. Nó

nằm trong danh sách các thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới, tức là nhóm các

loại thuốc hiệu quả và an toàn nhất cần thiết trong một hệ thống y tế [66]. Doxorubicin

được sử dụng để điều trị bệnh ung thư vú, ung thư bàng quang, sarcoma Kaposi, ung

thư hạch và ung thư bạch cầu lympho cấp tính.

1.2.2. Tác dụng phụ

Doxorubicin là một chất hóa trị liệu hiệu quả giúp tăng khả năng sống sót của

bệnh nhân ung thư, nhưng việc sử dụng nó bị cản trở do độc tính trên tim. Độc tính

trên tim, một tác dụng phụ rõ ràng của doxorubicin, có thể xuất hiện hai mươi năm

sau khi điều trị như một tác dụng phụ cấp tính hoặc mãn tính. Tác dụng phụ này đặc

biệt đáng kể đối với trẻ em đã được điều trị bằng doxorubicin. Ngoài ra, rụng tóc

cũng là tác dụng phụ thường gặp hay buồn nôn, các vấn đề về đường tiêu hóa và rối

loạn hệ thần kinh (thường gây ra ảo giác và choáng váng) [63, 65].

23

Để tăng hiệu quả điều trị và giảm các tác dụng phụ của thuốc doxorubicin như

đã nêu trên, phương pháp đưa thuốc vào hệ chất mang nano để tạo thành hệ phân phối

thuốc hướng đích được sự quan tâm của các nhà khoa học.

1.3. MỘT SỐ POLYMER ĐƯỢC SỬ DỤNG BIẾN TÍNH BỀ MẶT NANO

SILICA CẤU TRÚC RỖNG

1.3.1. Poly ethylene glycol

Poly ethylene glycol

Poly (ethylene glycol) (PEG) hay gọi là poly (ethylene oxide) (PEO). Poly

ethylene glycol (PEG) là một polymer tương thích sinh học, không độc, tan trong

nước và là polymer được dùng nhiều nhất trong vật liệu sinh học, công nghệ sinh học

và thuốc được FDA (Food and Drug Administration) phê duyệt sử dụng. Trong lĩnh

vực dẫn truyền thuốc, hệ PEG – thuốc để tăng cường khả năng hòa tan, kéo dài thời

gian lưu thông trong cơ thể, giảm sự đào thải qua thận, giảm độ độc và thay đổi sự

phân bố sinh học [67].

Ứng dụng của các loại PEG trong y sinh

Bảng 1.1. Các loại PEG liên hợp và ứng dụng

24

PEG liên hợp được trình bày đầu tiên trong những năm 1970 bởi Davies và

Abuchowsky trong việc biến tính bề mặt albumin và enzyme catalaza (enzyme xúc

tác sự phân hủy hydroperoxit thành oxy phân tử và nước). Đây là một dấu mốc rất

quan trọng, bởi vì thời gian này vẫn chưa có ai nghĩ rằng có thể biến tính một enzyme

mà vẫn giữ được nguyên hoạt tính của nó [68, 69].

Về mặt dược học, gắn PEG vào bề mặt giúp giảm một số quá trình không mong

muốn. Trong ứng dụng thay thế gần đây đó là tạo liên kết PEG-liposome làm kéo dài

thời gian lưu thông của hệ chất mang trong cơ thể. Như vậy PEG gắn trên bề mặt

lipid nói riêng cũng như gắn lên bề mặt thuốc nói chung giúp tránh đi sự đào thải của

hệ miễn dịch [70].

Tính tan của PEG trong môi trường nước là chìa khóa quan trọng trong ứng

dụng sinh học và y sinh. Dung dịch PEG trong nước hoạt động rất mạnh. Trong các

nghiên cứu về polymer mạch thẳng và sắc ký gel cho thấy PEG và các dẫn xuất của

nó như mPEG tan trong nước nhiều hơn các phân tử khác (như protein,…) có cùng

khối lượng phân tử, vì thế ứng dụng của tính chất này là PEG có thể đẩy các polymer

khác và hình thành 2 pha nếu nồng độ PEG đủ cao [70] .

Trong sinh học, PEG phân tách giữa môi trường nước và màng tế bào do người

ta nhận thấy rằng PEG có khả năng dung hợp tế bào, ứng dụng này rất quan trọng

trong việc tạo ra các kháng thể. Độ tan của PEG và sự phân tách có khả năng thay đổi

bằng cách gắn thêm các đuôi kỵ nước, điều này có thể được sử dụng trong việc điều

khiển sự phân chia pha của PEG trong hệ hai pha, như benzen và nước, khi thêm các

đuôi kỵ nước sẽ làm cho PEG phân bố nhiều hơn trong pha hữu cơ. PEG có tính chất

rất thú vị khi tạo ra được mối liên kết hay cầu nối từ phân tử có hoạt tính đến bề mặt,

điều này giúp giải quyết được vấn đề hấp phụ chọn lọc protein trên bề mặt. Thêm vào

đó, các phân tử được gắn vào bề mặt cho thấy hoạt tính cao hơn phân tử tự do [71].

1.3.2. Pluronic

Pluronic (F127) được FDA phê duyệt và liệt kê trong Dược điển của Hoa Kỳ

và châu Âu, còn được gọi là Poloxamer 407, đã được nghiên cứu và ứng dụng rộng

rãi trong dẫn truyền thuốc do tính tương hợp sinh học cao và đặc biệt là nhạy nhiệt

[72, 73]. Giá trị LCST (lower critical solution temperatures) của F127 có thể thay đổi

từ 25 - 37oC bằng cách điều chỉnh nồng độ, điều này có nghĩa là F127 là có dạng

chuỗi ở nhiệt độ phòng và co cụm tại nhiệt độ cơ thể [74, 75]. Dựa vào các ưu điểm

25

này, F127 là vật liệu phổ biến để tổng hợp nano nhạy nhiệt để phóng thích thuốc có

kiểm soát [75-77]. Gần đây, poloxamer này đã được nghiên cứu biến tính trên bề mặt

các chất mang nano như dendrimer, MSN nhằm cải thiện tốc độ phóng thích thuốc

trong điều trị bệnh ung thư. Đặc biệt, đối với hệ chất mang có cấu trúc mao quản,

F127 giữ vai trò như là các nắp đậy để giữ thuốc bên trong các lỗ mao quản sau khi

được nang hóa và ngăn chặn sự phóng thích thuốc nhanh chóng khi sử dụng [78, 79].

Theo nhóm nghiên cứu, trong thời điểm này chưa có công bố về hệ chất mang HMSN-

F127 như là hệ dẫn truyền thuốc điều trị bệnh ung thư do đó tiến hành tổng hợp và

đánh giá khả năng mang – phóng thích thuốc của hệ HMSN-F127.

Hình 1.17. Cấu trúc phân tử Pluronic

1.4.TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC

1.4.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Các hạt nano silica cấu trúc rỗng có thể được tổng hợp bằng các phương pháp

khác nhau. Trong đó hard – template là phương pháp phổ biến hiện nay vì có thể kiểm

soát quá trình tạo hạt và kích thước hạt một cách dễ dàng. Nhiều công trình nghiên

cứu tổng hợp và biến tính bề mặt hạt nano silica cấu trúc rỗng đã được công bố thể

hiện qua Bảng 1.2.

27

Bảng 1.2. Kết quả tổng hợp và biến tính bề mặt của hạt nano silica cấu trúc rỗng

A: Hình thái, B: kích thước, C: Diện tích bề mặt

STT Năm Tác giả Tài liệu Chất HĐBM Phương pháp loại bỏ chất HĐBM GĐ 1: Lõi rắn Biến tính bề mặt hạt nano rỗng với

tại 500oC 2005 Không [80] 1 Shi và cộng sự Nung trong 10 giờ PVP và CTAB

tại 600oC 2008 Không [81] 2 B.Kadali và cộng sự PHA Nung trong 6 giờ

và 2009 Nung tại 300oC PEG [82] 3 Yang cộng sự PVA A: PVP hình cầu B: (-) C: (-) A: PHA B: (-) C: (-) A: Fe3O4 hình cầu B: 10 nm C: (-) GĐ 2: Hạt nano lõi – vỏ A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: 80,9 nm C: (-) GĐ 3: Hạt nano rỗng A: Hình cầu B:300-400 nm C: 1210 m2/g A: Hình cầu B: 2,1 µm C: 227 m2/g A: Hình cầu B: 83,1 nm C: (-)

và loại bỏ 2009 PVP Không [83] 4 Zhang cộng sự Không PVP A: SiO2 hình cầu B: 200 nm C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: >250 nm C: 177,46 m2/g

loại bỏ 2010 PVP Không [84] 5 HongTao và cộng sự Không PVP A: SiO2 hình cầu B: 200 nm C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: >250 nm C: 177,46 m2/g

tại 550oC 2011 PEG [85] C18TMS 6 Zhu và cộng sự Nung trong 6 giờ A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: 100 nm C: 688 m2/g

và 2011 CTAB Không [30] 7 Fang cộng sự A: Lõi carbon hình cầu B: (-) C: (-) A: SiO2 hình cầu B: 245 nm A: Hình cầu B: (-) A: Hình cầu B: 260 nm tại 550oC Nung hoặc chiết bằng

28

C: (-) C: (-) C: 937 m2/g

cách đun hoàn lưu trong acetone tại 80oC trong 48 giờ,sản phẩm rửa với nước khử ion

và tại 600oC Không CTAB Không [86] 2011 Không 8 Guo cộng sự Nung trong 6 giờ

và trong 2011 CTAB [87] 9 Wang cộng sự HNO3 ethanol RITC và PEG A: Dạng khối B: (-) C: (-)

và 2011 PVP (-) Chitosan [88] 10 Deng cộng sự A: PbS dạng khối B: chiều dài cạnh 44 nm C: (-) A: PS dạng cầu B: 216 nm C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: 200 nm C: 880 m2/g A: Dạng khối B: chiều dài cạnh 58 nm C: 137 m2/g A: Hình cầu B: 236 nm C: 210,25 m2/g

và 2012 CTAB [89] 11 Fang cộng sự A: SiO2 hình cầu B: 245 nm C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: 170 nm C: 1002,1 m2/g Tấm nano Pd Khuấy với dung dịch NH4NO3 trong ethanol tại 45oC trong 6 giờ

2014 CTAB Không [90] 12 Yildirim và cộng sự A: Hình que B: (-) C: (-) Nung tại 550oC để loại bỏ CTAB và RB A: SiO2 hình que B: Chiều dài 75 nm, chiều rộng 45 nm C: (-) A: Hình que B: Lớp vỏ dày 8 nm C: 598 m2/g

và tại 550oC 2014 CTAB Không [91] 13 Fang cộng sự Nung trong 6 giờ A: SiO2 hình cầu B: 180 nm C: (-) A: Hình cầu B: >200 nm C: 589,5 m2/g A: Hình cầu B: lớp vỏ dày 33 nm C: (-)

29

2015 CTAB Không [92] 14 Qiu và cộng sự A: Fe3O4 hình cầu B: 130 nm C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) Khuấy với dung NH4NO3 dịch trong ethanol

và tại 550oC 2015 CTAB PEG [93] 15 Teng cộng sự Nung trong 6 giờ

2015 CTAB [2] 16 Wu và cộng sự DTPA A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: Lỗ rỗng 30 nm C: 406,1 m2/g A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: 247 nm C: 1029 m2/g Hoàn lưu trong dịch dung methanol và HCl

và tại 600oC 2016 CTAB [94] 17 Geng cộng sự Nung trong 5 giờ Cy5.5 A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: 1100 nm C: 1419 m2/g A: SiO2 hình cầu B: 89 nm C: (-) A: SiO2 hình cầu B: (-) C: (-) A: Nhựa phenolic hình cầu B: (-) C: (-)

lưu

2016 CTAB [95] 18 Liu và cộng sự -β-CD/Ada- PEG A: SiO2 hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: 120 nm C: 881,54 m2/g Đun hoàn trong methanol/HCl tại 80oC trong 24 giờ

và tại 450oC 2017 CTAB Không [96] 19 Geng cộng sự Nung trong 10 giờ A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: 200 nm C: 731 m2/g

và tại 550oC 2017 CTAB [97] 20 Zhao cộng sự Nung trong 5 giờ -S-S- CDPEI@HA

và 2017 CTAB (-) [98] 21 Zhang cộng sự β-CD-Ad- dye-PEG A: Nano Au hình cầu B: 50 nm C: (-) A: SiO2 hình cầu B: (-) C: (-) A: (-) B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: (-) B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: 230 nm C: 1034 m2/g A: Hình cầu B: (-) C: (-)

30

và CTAB (-) -S-S-HA [99] 2018 22 Huang cộng sự A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: SiO2 hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-)

lưu

CTAB Ac-CMC [100] 2018 23 Nejabat và cộng sự A: Hình cầu B: 150 nm C: (-) A: SiO2 hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) Đun hoàn trong methanol/HCl tại 80oC trong 24 giờ

tại 550oC và CTAB PDA-PEG [101] 2019 24 Nung trong 5 giờ Shao cộng sự A: SiO2 hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-)

34,3-66,1 tại 500oC CTAB [102] 2019 25 Nung trong 12 giờ Chitosan và Alginate Esmaeili và cộng sự A: PLM hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-)

và CTAB Cyanine 5.5 [103] trong tại 2020 26 Peng cộng sự Chiết HCl/ethanol 60oC trong 3 giờ

CTAB HCl/ethanol Chitosan [104] 2020 27 Jin và cộng sự

tại 50oC và CTAB Chitosan [105] 2020 28 Nung trong 4 giờ Diacon cộng sự A: Hình cầu B: 250 nm C: 123,93 m2/g A: Hình cầu B: nm C: (-) A: Hình cầu B: 98 nm C: 266 m2/g A: Hình cầu B: 260 nm C: 1006,8 m2/g A: Hình cầu B: (-) C: 482 m2/g A: SiO2 hình cầu B: (-) C: (-) A: SiO2 hình cầu B: (-) C: (-) A: PS hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-) A: Hình cầu B: (-) C: (-)

(-): Chưa trình bày trong nghiên cứu tham khảo

31

Tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng

Các nghiên cứu đã công bố về tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng theo

phương pháp hard-template cho thấy quá trình tổng hợp gồm ba giai đoạn: (i) Tổng

hợp hạt nano silica rắn giữ vai trò là lõi, (ii) phủ lớp vỏ cấu trúc mao quản, (iii) Ăn

mòn lõi rắn để tạo thành cấu trúc rỗng. Trong đó, giai đoạn thứ nhất lõi rắn có thể là

các vật liệu khác nhau như hạt nano sắt từ Fe3O4, nano vàng, carbon, PbS và thường

là lõi nano silica. Hình dạng lõi rắn sẽ quyết định hình dạng của hạt nano silica cấu

trúc rỗng tạo thành. Tương tự, giai đoạn phủ lớp vỏ cấu trúc mao quản có thể sử dụng

tiền chất chứa silica là TEOS hay muối silicate, riêng chất hoạt động bề mặt chủ yếu

là CTAB, ngoài ra còn có C18TMS hay PVP và được loại bỏ theo nhiều cách khác

nhau như nung, hoàn lưu hay chiết. Giai đoạn ăn mòn lõi rắn có thể sử dụng môi

trường axit (đối với lõi nano sắt từ Fe3O4, PbS), kiềm (đối với lõi nano silica) hay

nung mẫu (đối với lõi polystyrene) phụ thuộc vào tính chất của lõi rắn ban đầu.

Trên cơ sở ba giai đoạn chính trong tổng hợp theo phương pháp hard-template,

đối với các nghiên cứu khác nhau thì các giai đoạn tổng hợp có thể giống hoặc khác

nhau về các thông số phản ứng như: thời gian, nhiệt độ, thành phần và tỉ lệ các chất

tham gia phản ứng, hay thêm các giai đoạn trung gian…kết quả tạo thành các hạt

nano khác nhau. Chẳng hạn như năm 2011, Fang và các cộng sự đã tổng hợp nano

silica cấu trúc rỗng bằng phương pháp hard – template. Quá trình tổng hợp thể hiện

qua Sơ đồ 1.6, gồm năm giai đoạn: (1) Tổng hợp lõi rắn theo phương pháp Stober (kí

hiệu sSiO2), (2) Phủ lớp vỏ lần thứ nhất để tạo các lỗ mao quản giống nhau bởi chất

hoạt động bề mặt CTAB (kí hiệu HMSS-W): Phân tán hạt rắn sSiO2 trong nước bằng

cách dùng siêu âm khoảng 15 phút, sau đó thêm CTAB vào, tiếp đến là dung dịch

Na2CO3. Phản ứng được thực hiện tại 35oC trong 24 giờ, sau đó ly tâm rửa thu được

sản phẩm, (3) Phủ lớp vỏ lần thứ hai, đó là lớp vỏ nano silica cấu trúc mao quản (kí

hiệu sSiO2@CTAB/SiO2): Phân tán mẫu HMSS-W trong nước, huyền phù thu được

cho vào dung dịch gồm ethanol, NH3, CTAB và cuối cùng thêm tiền chất TEOS. Tiến

hành khuấy hỗn hợp huấy 6 giờ tại nhiệt độ phòng, (4) Ăn mòn lõi rắn tạo thành cấu

trúc rỗng (kí hiệu HMSS-O): Phân tán mẫu sSiO2@CTAB/SiO2 trong nước, sau đó

sử dụng dung dịch Na2CO3 để ăn mòn lõi rắn sSiO2 tại 50oC trong 10 giờ. Sản phẩm

được ly tâm và rửa bằng ethanol, nước, (5) Loại bỏ chất hoạt động bề mặt CTAB (kí

hiệu sSiO2@mSiO2): Mẫu HMSS-O được loại bỏ chất hoạt động bề mặt CTAB bằng

32

cách nung tại 550oC trong 6 giờ hoặc chiết trong acetone và hoàn lưu tại 80oC trong

48 giờ [30].

Sơ đồ 1.6. Sơ đồ tổng hợp HMSN-W

Hay năm 2011 nhóm nghiên cứu của Wang sử dụng tiền chất là Pb(Ac)2 để

tổng hợp hạt nano PbS dạng khối, giữ vai trò là lõi rắn và dùng dung dịch axit HNO3

ăn mòn lõi để tạo thành cấu trúc rỗng, kết quả hạt nano tạo thành cũng có dạng khối

với kích thước nhỏ hơn 100 nm thể hiện qua Hình 1.18 [87].

Hình 1.18. Ảnh TEM của PbS@mSiO2 dạng khối (A) và hạt rỗng tạo thành (C), tương ứng với ảnh TEM với độ phóng đại lớn hơn (B, D)

33

Năm 2015 Qui và cộng sự tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng bằng cách sử

dụng lõi là nano sắt từ Fe3O4, sau đó phủ lớp vỏ silica rắn và cuối cùng phủ lớp vỏ

cấu trúc mao quản thông qua tiền chất TEOS và chất hoạt động bề mặt CTAB thể

hiện qua Sơ đồ 1.7. Kết quả tạo thành hạt nano silica cấu trúc rỗng chứa lõi nano sắt

từ bên trong [92].

Sơ đồ 1.7. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng chứa lõi nano sắt từ Fe3O4@void@mSiO2

Năm 2017, Yanhua sử dụng các hạt nano vàng làm lõi, sau đó tiến hành phủ

lớp vỏ cấu trúc mao quản thông qua quá trình sol-gel. Hạt nano silca cấu trúc rỗng

được tạo thành sau khi xử lý lõi nano vàng (Sơ đồ 1.8) [96].

Sơ đồ 1.8. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng, ứng dụng mang và phóng thích thuốc Dox

Mặt khác, quan sát Bảng 1.3 nhận thấy các nghiên cứu đã công bố về tổng hợp

hạt nano silica cấu trúc rỗng theo phương pháp hard-template, các hạt nano tạo thành

34

ở các giai đoạn đầu bao gồm lõi rắn, hạt nano cấu trúc lõi-vỏ chưa được đánh giá tính

chất một cách đầy đủ như kích thước, diện tích bề mặt,.. Đặc biệt, giai đoạn phủ lớp

vỏ cấu trúc mao quản thì vai trò của chất hoạt động bề mặt CTAB trong quá trình phủ

lớp vỏ chưa được nghiên cứu một cách hoàn chỉnh, chẳng hạn như hình thái các hạt

nano cấu trúc lõi-vỏ khi có hay không có chất hoạt động bề mặt. Tương tự giai đoạn

xử lý lõi rắn để tạo thành cấu trúc rỗng, cơ chế quá trình ăn mòn lõi cũng chưa được

trình bày một cách cụ thể.

Biến tính bề mặt hạt nano silica cấu trúc rỗng

Nano silica cấu trúc rỗng là vật liệu tiềm năng cho các ứng dụng y sinh, tuy

nhiên lượng thuốc dễ bị rò rỉ trong quá trình vận chuyển hay độ phân tán của các hạt

nano là những khó khăn ảnh hưởng đáng kể đến ứng dụng của hạt nano. Do đó nhiều

nghiên cứu về việc biến tính bề mặt các hạt nano silica cấu trúc rỗng đã được công

bố. Quan sát Bảng 1.3 nhận thấy năm 2008, nhóm nghiên cứu của Yang và cộng sự

biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với PEG (6 KDa) bằng cách: trước tiên bề

mặt hạt nano silica cấu trúc rỗng được biến tính với nhóm amin thông qua phản ứng

đồng ngưng tụ với APTES, riêng PEG được hoạt hóa bằng succinic anhydride tạo

thành PEG-diCOOH. Sau đó thực hiện phản ứng giữa HMSN-NH2 và PEG-diCOOH

với sự có mặt của EDC/NHS thể hiện qua Sơ đồ 1.9 và Dox được sử dụng cho quá

trình thử nghiệm mang và phóng thích thuốc [82].

Sơ đồ 1.9. Sơ đồ biến tính PEG trên bề mặt vật liệu HMSN

Tương tự năm 2011, Zhu và cộng sự tiến hành biến tính bề mặt hạt nano silica

cấu trúc rỗng với PEG (2 KDa), quy trình tổng hợp gồm giai đoạn biến tính bề mặt

35

hạt nano silica rỗng với nhóm amin như công bố của Yang. Đối với PEG thì nhóm

nghiên cứu sử dụng poly(oxyethylene)bis(amin) (PEG2000-NH2). Cuối cùng HMS-

PEG được tạo thành bằng cách grafting PEG2000-NH2 trên HMS-NH2 với p-

phenylene diisothiocyanate (DITC) (Sơ đồ 1.10). Kết quả tổng hợp hạt HMS thể hiện

qua Hình 1.19 cho thấy các hạt có dạnh hình cầu. Tuy nhiên, quan sát ảnh SEM không

cho thấy cấu trúc lõi – vỏ, ảnh TEM cho thấy độ dày lớp vỏ trên cùng một hạt thì

không đều [85].

Sơ đồ 1.10. Sơ đồ biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với PEG

Hình 1.19. Ảnh SEM (a) và TEM (b) của HMS

Hay cũng trong năm 2011, Deng và cộng sự đã sử dụng chitosan để biến tính

bề mặt hạt nano silica cấu trúc rỗng tạo thành hệ chất mang thuốc hướng đích (tác

nhân nhạy pH) thể hiện qua Sơ đồ 1.11. Kết quả các hạt nano tạo thành sau khi biến

tính với chitosan có dạng hình cầu và kích thước là 345,6 ± 4,8 nm [88].

36

Sơ đồ 1.11. Sơ đồ biến tính chitosan trên bề mặt vật liệu HNPs

Năm 2012, Zheng và các cộng sự đã nghiên cứu tổng hợp hạt nano silica cấu

trúc rỗng hình cầu. Sau khi biến tính bề mặt với nhóm amin, các hạt được nạp thuốc

Dox và cuối cùng là gắn các tấm nano Paladium (Sơ đồ 1.12). Hệ chất mang tạo thành

là sự kết hợp của phương pháp hóa trị và phương pháp quang nhiệt trong việc tiêu

diệt tế bào ung thư. So với phương pháp hóa trị hoặc quang nhiệt riêng lẻ, sự kết hợp

của hai phương pháp này có thể cải thiện đáng kể hiệu quả điều trị. Kết quả các hạt

tạo thành thể hiện qua Hình 1.20 [99].

Sơ đồ 1.12. Sơ đồ tổng hợp HMSS-NH2/Dox@Pd

37

Hình 1.20. Ảnh SEM (a,c) và TEM (b,d) của các hạt HMSS (a,b)

và HMSS-NH2@Pd

Năm 2015, Wu và cộng sự đã tổng hợp thành công hệ chất mang thuốc hướng

đích trên nền tảng nano silica cấu trúc rỗng (nhạy pH và nhạy oxi hóa – khử). Trước

tiên biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng HMSS lần lượt với APTMS, DTPA

thành HMSS-S-S-COOH. Sau đó, Dox được nang hóa vào hệ chất mang và được giữ

bởi ZnO QDs như là nắp đậy (Sơ đồ 1.13). Hệ chất mang/thuốc được khảo sát sự

phóng thích thuốc theo pH và chất khử liên kết disulfide (GSH hay DTT). Kết quả

nghiên cứu cho thấy khi vai trò là nắp đậy của ZnO QDs, lượng thuốc được phóng

thích có thể kiểm soát tùy theo sự điều chỉnh pH [2].

Sơ đồ 1.13. Sơ đồ tổng hợp hệ chất mang HMSN/ZnO QDs

38

Năm 2016, nhóm nghiên cứu của Geng đã tổng hợp hệ chất mang nano silica

cấu trúc rỗng/ Cy5.5 thông qua phản ứng ngưng tụ giữa nhóm hydrazide của Cy5.5

và nhóm carboxyl của HMSN-COOH. Hai loại thuốc kém tan trong nước là

carvedilol và fenofibrate (Car and Fen) được nang hóa trong hệ chất mang nhằm mục

đích điều chỉnh sự phóng thích thuốc [94]. Hay năm 2016, Liu và cộng sự tổng hợp

hệ chất mang nhạy pH để kiểm soát sự phóng thích thuốc đó là HMSNs-β-CD/Ada-

PEG [95].

Năm 2017, Zhao và cộng sự tiến hành tổng hợp hệ chất mang HMSN-SS-

CDPEI@HA (Sơ đồ 1.14). Trong đó, các hạt carbon dot (CD) đóng vai trò như là nắp

đậy để giữ thuốc trong các lỗ rỗng và HA nhằm kiểm soát sự phóng thích thuốc và

cải thiện độ tan. Dox được chọn cho quá trình khảo sát phóng thích thuốc. Kết quả

tạo thành các hạt có dạng hình cầu thể hiện qua Hình 1.21 [97].

Sơ đồ 1.14. Sơ đồ tổng hợp hệ chất mang HMSN-SS-CDPEI@HA

Hình 1.21. Ảnh TEM của các hạt (A) HMSN và (B) HMSN-SS-CDPEI@HA

Năm 2018, Huang và cộng sự đã chứng minh rằng hệ chất mang HMSNs-SS-

HA (nhạy oxi hóa – khử) là hệ chất mang tiềm năng và hiệu quả trong điều trị bệnh

ung thư [99]. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu của Nejabat và cộng sự tiến hành kiểm soát

sự phóng thích thuốc Dox bằng cách: Sau khi thuốc được nang hóa vào hạt nano silica

cấu trúc rỗng, bề mặt vật liệu được phủ bởi acetyl hóa carboxymethyl cellulose (Ac-

CMC), sau đó liên kết cộng hóa trị với aptamer AS1411 để phân phối thuốc hướng

đích đến các tế bào ung thư (Sơ đồ 1.15). Các nghiên cứu cho thấy rằng aptamer

AS1411 đặc biệt nhắm mục tiêu nucleolin MCF-7 và tế bào C26 [100].

39

Sơ đồ 1.15. Sơ đồ tổng hợp HMSN-acetylate CMC

Năm 2019, Shao và cộng sự phủ hệ methoxypolyetylen glycol amin (mPEG-

NH2) chức năng hóa polydopamin (PDA) lên các hạt nano silica rỗng tạo thành hệ

chất mang nhạy pH. Sau đó nang hóa Dox và quercetin (QUR) để khắc phục tình

trạng kháng đa thuốc (multidrug sesistance - MDR) và cải thiện hiệu quả điều trị bệnh

ung thư. Các đánh giá sinh học đã chứng minh rằng HMSNs-PDA-PEG@QD thể

hiện khả năng vượt trội về kháng đa thuốc so với DOX tự do và HMSNsPDA-

PEG@DOX. Những kết quả này cho thấy HMSNs-PDA-PEG@QD thích hợp là một

hệ thống nano phân phối thuốc tiềm năng và hiệu quả để khắc phục kháng đa thuốc

[101].

Sơ đồ 1.16. Sơ đồ tổng hợp HMSNs-PDA-PEG@QD

Năm 2020, nhóm nghiên cứu của Jin tiến hành nang hóa celastrol (CSL) vào

các hạt nano silica cấu trúc rỗng, sau đó bề mặt vật liệu được biến tính bề mặt với

40

chitosan như là tác nhân nhạy pH nhằm kiểm soát khả năng phóng thích lượng CSL

(CLS@HMSNs-Cs) trong điều trị bệnh viêm khớp. Tuy nhiên, kết quả tạo thành các

hạt có dạng hình cầu với kích thước khá lớn (Hình 1.22) [104].

Hình 1.22. Ảnh TEM của SiO2 rắn (a), HMSN (b) và CLS@HMSNs-Cs (c)

1.4.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

Nhóm nghiên cứu của Nguyễn Đại Hải tại Viện Khoa học vật liệu ứng dụng -

Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về nano silica

cấu trúc mao quản ứng dụng mang thuốc như: Tổng hợp nano silica xốp cho hệ dẫn

truyền thuốc, điều chế và xác định đặc tính của hạt nano silica phủ gelatin [106], nano

silica biến tính với Hydrazin (hệ - nhạy pH) [107], Heparin-PEG (hệ chất mang nhạy

oxi hóa – khử) cho hệ dẫn truyền thuốc có kiểm soát thể hiện qua Sơ đồ 1.17, kết quả

các hạt nano tạo thành thể hiện qua Hình 1.23 [108]… Theo hiểu biết hạn chế của

nhóm thì hiện nay trong nước chưa có công trình nghiên cứu về vật liệu nano silica

cấu trúc rỗng.

Sơ đồ 1.17. Sơ đồ tổng hợp PNS-SS-A@CD-HPEG

41

Hình 1.23. Ảnh TEM của PNS (a) và PNS-SS-A@CD-HPEG (b)

42

CHƯƠNG 2. THỰC NGHIỆM

2.1. Phương tiện nghiên cứu

2.1.1. Hóa chất

Các hóa chất được sử dụng trong nghiên cứu đều là các hóa chất dùng trong

phân tích với độ tinh khiết cao. Danh sách các hóa chất được liệt kê trong Bảng 2.1.

Bảng 2.1. Danh sách hóa chất sử dụng trong nghiên cứu

STT Tên hóa chất Xuất xứ

Merck 1 Ammonia solution (25%)

Merck 2 Cetyltrimethylammonium bromide (CTAB)

Sigma 3 Doxorubicin (Dox)

Ethanol tinh khiết Sharlau 4

Ethanol tuyệt đối Việt Nam 5

Việt Nam 6 Nước khử ion

Sodium carbonate Merck 7

Tetraethyl orthosilicate (TEOS) Sigma 8

Fisher 9 Axit Acetic

(3-aminopropyl)triethoxysilane (APTES) Sigma 10

Sigma 11 Ninhydrin

p-nitrophenyl chloroformate (NPC) Sigma 12

Sigma 13 Methoxy polyethylene glycol 5000 Da (MPEG)

Fisher 14 Tetra hydrofuran (THF)

Sigma 15 Pluronic F127

3-amino-1-propanol – Acros organics Sigma 16

Fisher 17 Diethyl ether

Fisher 18 Dimetyl sunfoxide (DMSO)

43

2.1.2. Thiết bị

Bảng 2.2. Danh sách thiết bị sử dụng trong nghiên cứu

STT Tên thiết bị Xuất xứ

Đức 1 Máy ly tâm lạnh Hermle

2 Máy đông khô FDU-1200 Eyela Nhật Bản

3 Máy đo kích thước hạt DLS Horiba SZ-100 Horiba Nhật Bản

Kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM) 4 JEOL Nhật Bản JEM-1400

Hitachi Kính hiển vi điện tử quét (SEM) 5 Nhật FE SEM S-4800

Đức 6 Máy cộng hưởng từ hạt nhân Bruker

Đức 7 Máy đo nhiễu xạ tia X D8, advance, Bruker

8 Máy đo phổ hồng ngoại FT-IR/NIR Frotier PerkinElmer Mỹ

Máy phân tích nhiệt trọng trường Mettler Toledo Mettler Toledo 9 TGA-DSC 3+

Mỹ 10 Máy đo diện tích bề mặt và hấp phụ-giải hấp Trista micromeritics 3000

11 Máy đo phổ hấp thu tử ngoại khả kiến UV-Vis 1800 Shimadzu Nhật

Anh 12 Máy phổ quang tia X Thermo VG Multilab 2000

2.2. Phương pháp xác định tính chất đặc trưng của vật liệu

Hình thái và bề mặt vật liệu được kiểm tra bằng bằng kính hiển vi điện tử quét

(Scanning Electron Microscope, SEM) sử dụng nguồn điện áp (15kV) tại phòng thí

nghiệm Nano – Trung tâm nghiên cứu triển khai Khu Công nghệ cao TP.HCM và

kính hiển vi điện tử truyền qua (Tranmission Electron Microscope, TEM), điện thế

gia tốc 100kV tại Phòng thí nghiệm trọng điểm polyme và compozit – Đại học Bách

khoa TP.HCM.

Kích thước hạt và sự phân bố kích thước hạt, thế zeta được đánh giá thông qua

phương pháp tán xạ ánh sáng động học bằng thiết bị đo kích thước hạt Horiba Nano

44

SZ100 tại Trung tâm phân tích Sinh – Hóa – Lý tại Viện Khoa học vật liệu ứng dụng

TP.HCM. Ngoài ra, dựa vào ảnh TEM và sử dụng phần mềm ImageJ để thống kê

kích thước các hạt, kết hợp với phần mềm Origin có thể tính được kích thước hạt

trung bình và cho thấy biểu đồ phân bố kích thước hạt.

Phân tích cấu trúc, đặc trưng nhóm không gian của vật liệu bằng phổ nhiễu xạ

tia X (X-ray Diffraction, XRD) tại Chi Cục kiểm định Hải quan 3. Phân tích nhóm

chức, định danh các hợp chất hữu cơ và nghiên cứu cấu trúc bằng phương pháp phổ

hồng ngoại (Fourier transform infrared spectroscopy , FTIR) tại Trung tâm phân tích

Sinh – Hóa – Lý tại Viện Khoa học vật liệu ứng dụng TP.HCM.

Phân tích thành phần cơ bản, trạng thái hóa học, trạng thái điện tử của các

nguyên tố trên bề mặt vật liệu bằng phương pháp phổ quang điện tử tia X (XPS) sử

dụng bức xạ AlKα tại trường đại học Pukyong, Hàn Quốc.

Phổ 1H-NMR đo trên máy cộng hưởng từ hạt nhân Bruker Avance 500, được

thực hiện bằng cách sử dụng D2O làm dung môi và methanol là đồng dung môi ở

tần số 500 MHz, Viện Khoa học Vật liệu Hà Nội.

Đánh giá diện tích bề mặt và thể tích lỗ xốp bằng phương pháp hấp phụ - khử

hấp phụ khí N2 tại nhiệt độ 77K bằng máy Trista Micromeritics 3000 tại trường Đại

học Sư phạm Hà Nội.

Định tính – định lượng dung dịch bằng phương pháp phổ hấp thu tử ngoại khả

kiến UV-Vis tại Trung tâm phân tích Sinh – Hóa – Lý tại Viện Khoa học vật liệu

ứng dụng TP.HCM.

Đánh giá độc tính tế bào ung thư gan đo tại phòng tế bào Viện Khoa học vật

liệu ứng dụng TP.HCM.

2.3. Phương pháp thực nghiệm

2.3.1. Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến kích thước hạt nano silica rắn

Phương pháp nghiên cứu

Hạt nano silica rắn được tổng hợp theo phương pháp Stober gồm các chất phản

ứng alkyl silicate, alcohol, nước và ammonia. Đối với các loại alkyl silicate (các nhóm

alky gồm methyl, ethyl, n-propyl, n-butyl, n-pentyl) cho thấy phản ứng xảy ra nhanh

nhất và kích thước hạt nhỏ nhất (nhỏ hơn 0,2 µ) được tạo thành với tetramethyl ester,

trong khi với tetrapentyl ester phản ứng xảy ra chậm (mất 24 giờ cho phản ứng ngưng

tụ và kích thước hạt tạo thành lớn), ngoài ra đường phân bố kích thước hạt rộng hơn.

45

Kết quả tương tự đối với dung môi là các alcohol từ methanol đếnn n-butanol [10].

Như vậy, với xu hướng Hóa học xanh là thay thế dung môi ít độc hại hơn, do đó quá

trình tổng hợp sẽ sử dụng dung môi ethanol mặc dù methanol cho kết quả kích thước

hạt nhỏ hơn. Và để đồng nhất về nhóm alkyl nên alkyl silicate được chọn là tetraethyl

orthosilicate (TEOS). Ngoài ra việc sử dụng TEOS thay vì dùng TMOS do rất khó để

kiểm soát được tốc độ thủy phân nhanh của TMOS, thường dẫn đến sự tạo thành các

hạt nano silica tự do với với cấu lỗ xốp bên trong [109].

Với mục đích kiểm soát kích thước hạt và sự phân bố kích thước hạt, nhiều

nghiên cứu về ảnh hưởng của các thông số phản ứng trong quá trình tổng hợp hạt

nano silica rắn đã được công bố gồm ảnh hưởng của nồng độ TEOS, ammonia - nước,

ethanol, nhiệt độ. Ngoài ra, còn có các yếu tố như tốc độ nhỏ dung dịch ammonia,

quá trình tổng hợp bởi siêu âm hay khuấy từ [12, 110]. Kết quả cho thấy, mỗi yếu tố

ảnh hưởng có quy luật tương đối giống nhau giữa các nghiên cứu được công bố, tuy

nhiên cũng có những quy luật trái ngược nhau. Chẳng hạn theo Matsoukas và cộng

sự, các hạt lớn hơn được tạo thành khi tăng nồng độ ammonia [11] trong khi theo Rao

thì với sự tăng nồng độ của ammonia thì kích thước hạt giảm [111]. Hay cũng trong

công bố của Matsoukas kích thước hạt nhỏ hơn khi tăng nồng độ nước, ngược lại

Park và cộng sự tạo thành hạt lớn hơn [112].

Như vậy, để tổng hợp hạt nano silica rắn với kích thước mong muốn, cần tiến

hành khảo sát các thông số phản ứng cơ bản gồm thể tích của TEOS, ethanol,

ammonia, nhiệt độ dựa trên một bộ bốn các thông số đã được công bố [91, 113] và

tốc độ nhỏ dung dịch ammonia, riêng hàm lượng nước sẽ được cố định trong tất cả

các phản ứng. Ngoài ra, đối với mỗi quy trình được công bố thì thời gian phản ứng là

khác nhau. Do đó, yếu tố thời gian phản ứng cũng được khảo sát trong nghiên cứu.

Khuấy từ được sử dụng cho tất cả các phản ứng khảo sát.

Quy trình tổng hợp

Hạt nano silica rắn được tổng hợp theo phương pháp Stober, thể hiện qua Sơ

đồ 2.1 với các thông số thí nghiệm trong Bảng 2.1. Đối với các chất tham gia phản

ứng TEOS, NH3 và ethanol, mỗi yếu tố lựa chọn 5 điểm nồng độ để khảo sát. Tương

tự thời gian phản ứng được lựa chọn tại 5 mốc thời gian. Riêng nhiệt độ được khảo

sát tại 3 điểm nhiệt độ khác nhau gồm 35, 50 và 65oC. Ngoài ra, tốc độ nhỏ dung dịch

NH3 được thực hiện bằng hai cách cho nhanh một lượt lượng NH3 vào hỗn hợp và

46

nhỏ 200ul/phút lượng NH3 bằng micropipet. Tất cả nồng độ các chất được tính toán

dựa trên tổng thể tích của các chất ban đầu tham gia phản ứng, riêng đối với chất đang

được khảo sát thì sẽ thêm lượng chất khảo sát vào tổng thể tích trên.

Cho hỗn hợp chứa lượng ethanol khảo sát và nước (được cố định thể tích) vào

bình cầu 250 ml, đậy nắp cẩn thận. Đặt bình cầu lên bếp khuấy tại toC trong 10 phút.

Sau đó, thêm nhanh TEOS vào hỗn hợp và tiếp tục khuấy tại nhiệt độ này thêm 10

phút. Cuối cùng, cho dung dịch NH3 28% (NH3 đặc) vào dung dịch. Tiếp tục khuấy

và gia nhiệt bình cầu đến thời gian x giờ thì kết thúc phản ứng. Dung dịch thu được

cho vào màng 12-14KDa thẩm tách với nước cất trong ống đong dung tích 2 lít, thời

gian thẩm tách là 4 ngày, thay nước thẩm tách 4 lần/ ngày. Sau đó, sản phẩm thu được

đem đông khô tạo thành hạt nano silica rắn SSN.

Sơ đồ 2.1. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica rắn

47

Bảng 2.3. Thông số thí nghiệm được dùng trong nghiên cứu

Thời gian phản Nhiệt độ Tốc độ thêm CTEOS CNH3 CEtOH STT (mol/l) (mol/l) (mol/l) ứng (giờ) (oC) NH3

0,07 1

0,22 2

0,61 0,41 14,18 50 Nhanh 3 3

0,93 4

1,20 5

0,17 6

0,78 7

0,36 1,46 13,54 50 Nhanh 8 3

2,24 9

2,90 10

8,68 11

12,29 12

1,49 1,64 13,72 50 Nhanh 13 3

14,67 14

15,19 15

0,5 16

2 17

3 0,22 0,38 13,48 50 Nhanh 18

4 19

5 20

3 0,22 0,38 13,48 35 Nhanh 21

48

50 22

65 23

Nhanh 24 50 0,22 0,38 13,48 3

200ul/phút 25

Phương pháp đánh giá

Đánh giá kích thước hạt và sự phân bố kích thước hạt tạo thành bởi từng thông

số khảo sát.

Chuẩn bị mẫu: Mẫu sau khi đông khô (các thông số cài đặt như sau: nhiệt độ

-38,1oC, áp suất 29,5 Pa) trong 3 ngày thì được phân tán lại trong nước khử ion đã

được lọc qua màng 0,45µm với nồng độ 1000 ppm. Đối với mẫu chụp hình TEM, sau

khi dung dịch được siêu âm thì tráng ngay lên bề mặt lưới đồng và làm khô. Riêng

đối với mẫu đo kích thước hạt thì dung dịch được để ổn định khoảng 1 giờ sau khi

siêu âm.

2.3.2. Tổng hợp hạt nano silica rắn bằng phương pháp đáp ứng bề mặt

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp đáp ứng bề mặt (Respone Surface Methodology - RSM) được

phát triển từ những năm 50 của thế kỷ trước bởi Box và cộng sự [114, 115]. RSM

bao gồm một nhóm các kỹ thuật toán học và thống kê dựa trên sự phù hợp của các

mô hình thực nghiệm với dữ liệu thử nghiệm thu được liên quan đến thiết kế thử

nghiệm. Theo hướng mục tiêu này, các hàm đa thức bậc hai hay bậc nhất được sử

dụng để mô tả hệ nghiên cứu đó và khảo sát các điều kiện thực nghiệm để tìm ra được

sự tối ưu. Một số giai đoạn trong việc áp dụng RSM như một kỹ thuật tối ưu hóa như

sau [116]:

- Lựa chọn các biến độc lập ảnh hưởng lớn đến hệ thống thông qua các nghiên

cứu sàng lọc và phân định vùng thực nghiệm, theo mục tiêu nghiên cứu và kinh

nghiệm của nhà nghiên cứu.

- Lựa chọn thiết kế thí nghiệm và thực hiện các thí nghiệm theo ma trận thí

nghiệm đã chọn.

- Xử lý thống kê toán học của dữ liệu thí nghiệm thu được thông qua sự phù hợp

của hàm đa thức.

49

- Đánh giá tính tương thích của mô hình.

- Xác minh sự cần thiết và khả năng thực hiện một sự dịch chuyển đến khu vực

tối ưu.

- Tiến hành thí nghiệm dựa trên kết quả tối ưu của từng biến.

Thiết kế thí nghiệm phức hợp trung tâm Box–Behnken designs (BBD) như

sau: Box và Behnken đã đề xuất cách chọn điểm từ cách sắp xếp giai thừa ba cấp,

cho phép ước tính hiệu quả các hệ số bậc nhất và bậc hai của mô hình toán học. Theo

cách này, các thiết kế này hiệu quả và kinh tế hơn các thiết kế 3k tương ứng của chúng,

chủ yếu cho một số lượng lớn các biến [116]. Trong thiết kế BBD, các điểm thử

nghiệm nằm trên một đường thẳng tương đương từ điểm trung tâm (Hình 1.9). Đặc

điểm chính của nó là:

- Yêu cầu số thí nghiệm theo N = 2k (k - 1) + cp, trong đó k là số lượng các yếu

tố và (cp) là số lượng điểm trung tâm.

- Tất cả các cấp độ yếu tố chỉ được điều chỉnh ở ba cấp độ (−1, 0,+1) với các

khoảng cách đều nhau giữa các cấp độ này.

Hình 2.1. Thiết kế phức hợp trung tâm BBD cho quá trình tối ưu ba yếu tố

Để tổng hợp được nano có kích thước mong muốn, tiến hành tổng hợp hạt

bằng phương pháp đáp ứng bề mặt với thiết kế thí nghiệm phức hợp trung tâm Box–

Behnken designs hay còn gọi là mô hình BBD [116]. Theo mô hình này, từ kết quả

khảo sát đơn yếu tố sẽ thực hiện chọn lọc các yếu tố chính sẽ ảnh hưởng đến kích

thước hạt, cố định các yếu tố ít ảnh hưởng và khó kiểm soát. Như vậy có 4 yếu tố

chính cần được khảo sát: thể tích dung dịch TEOS, NH3, EtOH và nhiệt độ phản ứng.

Trong đó, thời gian phản ứng được chọn cố định là 3 giờ và sẽ cho nhanh dung dịch

NH3 vào hỗn hợp. Tiến hành thiết kế BBD, các điểm thử nghiệm nằm trên một đường

thẳng tương đương từ điểm trung tâm (0), cấp độ −1, 0, +1 sử dụng phần mềm Minitab

16.

50

Quy trình tổng hợp

Hạt nano silica rắn SSN mong muốn có kích thước vào khoảng 130 nm. Dựa

vào biểu đồ tương quan giữa kích thước hạt và các thông số khảo sát, dễ dàng tìm

thấy được thể tích (hay nhiệt độ) của từng thông số tương ứng với kích thước hạt cần

đạt được (biến trung tâm) và hai tiệm cận, thể hiện qua Sơ đồ 2.2 và Bảng 2.4.

Sơ đồ 2.2. Sơ đồ minh họa thiết kế thí nghiệm phức hợp trung tâm BBD

Bảng 2.4. Các thông số phản ứng được khảo sát

Biến số STT Thông số Kí hiệu 0 -1 +1

X1 3 1 5 Thể tích TEOS (ml) 1

X2 1,2 0,6 1,8 Thể tích NH3 (ml) 2

Thể tích EtOH (ml) X3 30 10 50 3

X4 50 30 70 4 Nhiệt độ (oC)

Bằng cách sử dụng phần mềm Minitab 16, bảng số liệu các thông số thí nghiệm

được thể hiện trong Bảng 2.5. Tiến hành tổng hợp các hạt nano silica rắn SSN với 25

thí nghiệm khác nhau tương tự như quy trình tổng hợp ở Sơ đồ 2.1, trong đó thời gian

phản ứng được chọn cố định là 3 giờ và sẽ cho nhanh dung dịch NH3 vào hỗn hợp.

Kết quả kích thước hạt của 25 mẫu sẽ được xử lý tiếp theo thông qua phần mềm

Minitab 16 để đánh giá mô hình được đề xuất, mô hình được coi là có ý nghĩa thống

kê khi độ tin cậy P ≥ 95 % và hệ số tương quan R2 ≥ 0,9.

Để kiểm tra độ chính xác và độ tin cậy của mô hình thu được, một thử nghiệm

xác nhận đã được thực hiện trong điều kiện tối ưu hóa này bằng cách tổng hợp hạt

SSN theo điều kiện tối ưu. Sau đó so sánh kết quả kích thước hạt này với giá trị dự

51

đoán (kích thước hạt mong muốn vào khoảng 130 nm), nếu sai số ≤ 5% thì mô hình

được đề xuất đáng tin cậy. Và hạt SSN được tổng hợp ở điều kiện tối ưu này sẽ được

đánh giá hình thái, cấu trúc,…và được dùng làm lõi rắn cho giai đoạn phản ứng tiếp

theo.

Bảng 2.5. Giá trị thực nghiệm bởi phần mềm Minitab 16

STT V TEOS (ml) V NH3 (ml) V EtOH (ml) Nhiệt độ (oC)

5 1,2 30 30 1

3 1,8 30 30 2

3 1,2 50 30 3

1 1,2 50 50 4

3 0,6 30 70 5

3 1,8 10 50 6

5 1,2 10 50 7

3 0,6 30 30 8

1 1,2 10 50 9

3 0,6 10 50 10

1 1,8 30 50 11

5 0,6 30 50 12

5 1,2 50 50 13

3 1,2 50 70 14

5 1,2 30 70 15

3 1,2 10 30 16

3 1,2 10 70 17

3 1,8 50 50 18

3 0,6 50 50 19

3 1,2 30 50 20

5 1,8 30 50 21

1 1,2 30 30 22

1 1,2 30 70 23

3 1,8 30 70 24

1 0,6 30 50 25

52

Phương pháp đánh giá

Các hạt SSN được tổng hợp theo các thông số ở Bảng 2.5 được đo kích thước

hạt. Riêng đối với hạt SSN tổng hợp ở điều kiện tối ưu sẽ được đánh giá kích thước

hạt, sự phân bố kích thước hạt, thế zeta và độ bền theo thời gian, đánh giá hình thái

qua ảnh SEM, TEM. Ngoài ra, tiến hành đánh giá diện tích bề mặt, phân tích nhiệt

khối lượng TGA.

Chuẩn bị mẫu: Mẫu sau khi đông khô (các thông số cài đặt như sau: nhiệt độ

-38,1oC, áp suất 29,5 Pa) trong 3 ngày thì được phân tán lại trong nước khử ion đã

được lọc qua màng 0,45 µm với nồng độ 1000 ppm. Đối với mẫu chụp hình TEM,

sau khi dung dịch được siêu âm thì tráng ngay lên bề mặt lưới đồng và làm khô. Riêng

đối với mẫu đo kích thước hạt, thế zeta thì dung dịch được để ổn định khoảng 1 giờ

sau khi siêu âm. Mẫu đo diện tích bề mặt và kích thước lỗ xốp chuẩn bị ở dạng rắn.

2.3.3. Tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ (SSN@CTAB-SSN)

Phương pháp nghiên cứu

Hạt nano silica rắn với kích thước mong muốn được sử dụng làm lõi rắn trong

tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN@CTAB-SSN. Quá trình phủ lớp vỏ

lên SSN được thực hiện theo phương pháp sol-gel từ TEOS là tiền chất của silica và

CTAB là chất tạo ra các lỗ xốp [117]. Đây là phương pháp tổng hợp phổ biến được

sử dụng để hợp các hạt nano silica cấu trúc mao quản chẳng hạn như M41S, MCM-

41, MCM-48,…do đó lớp vỏ tạo thành sẽ có cấu trúc mao quản. Ngoài ra, CTAB là

chất hoạt động bề mặt cation được sử dụng rộng rãi trong tổng hợp loại vật liệu này

[118-120].

Hầu hết các nghiên cứu đều sử dụng phương pháp sol – gel và chất hoạt động

bề mặt CTAB để phủ lớp vỏ lên hạt nano silica rắn, các chất phản ứng gồm TEOS,

CTAB, ethanol, nước, NH3 và CTAB. Mỗi nghiên cứu này sử dụng lõi nano silica

rắn với kích thước khác nhau, do đó các thông số thực hiện phản ứng phủ vỏ cũng

khác nhau [31, 89, 121, 122].

Như vậy, để phủ được lớp vỏ nano silica cấu trúc mao quản lên hạt SSN, tỉ lệ

các chất tham gia phản ứng dựa trên quy trình tổng hợp hạt nano silica cấu trúc mao

quản của nhóm đã được công bố [108, 123, 124] và được điều chỉnh cho phù hợp với

lượng nano silica rắn SSN được sử dụng. Mặt khác, để kiểm soát kích thước lớp vỏ,

dựa vào các quy luật được khảo sát ở mục 2.3.1 tiền chất TEOS được ưu tiên chọn để

53

khảo sát kích thước lớp vỏ. Đặc biệt một quá trình phủ vỏ nhưng không sử dụng

CTAB được thực hiện để so sánh hình thái các hạt tạo thành.

Quy trình tổng hợp

a) Tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ

Sơ đồ 2.3. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN@CTAB/SSN

Phân tán các hạt nano silica rắn SSN vào nước khử ion và tiến hành đánh siêu

âm 15 phút gọi là dung dịch A. Cân chất hoạt động bề mặt CTAB và hoà tan vào

nước khử ion, khuấy 15 phút tại nhiệt độ thường gọi là dung dịch B. Cho cả hai dung

dịch A và B vào bình cầu, đậy nắp cẩn thận. Đặt bình cầu lên bếp đã được gia nhiệt

tại 50oC, khuấy dung dịch trong 30 phút. Sau đó lần lượt cho dung dịch ethanol, NH3

vào hỗn hợp và TEOS có nồng độ a (M) được thêm vào sau cùng. Nồng độ TEOS

được khảo sát lần lượt tại các nồng độ a = 0,07; 0,27; 0,45; 0,61; 0,72 (M) tương ứng

với các mẫu được kí hiệu SSN@CTAB-SSN/1 đến SSN@CTAB-SSN/5. Tiếp tục

khuấy trong 6 giờ tại 50oC thì dừng lại. Sản phẩm thu được đem thẩm tách bằng màng

12-14 KDa trong nước cất, thời gian là 4 ngày, nước được thay 4 lần/ngày, sau đó

được đông khô. Sơ đồ tổng hợp được thể hiện trong Sơ đồ 2.3.

b) Tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ (SSN – SSN)

Thực hiện phủ vỏ đối với hạt rắn theo quy trình phủ vỏ đối với hạt

SSN@CTAB-SSN được thể hiện trong Sơ đồ 2.3 nhưng không dùng chất hoạt động

54

bề mặt CTAB. Và nồng độ TEOS sử dụng là nồng độ tối ưu được lựa chọn trong quy

trình khảo sát trên.

Phương pháp đánh giá

Các hạt SSN@CTAB/SSN trong quá trình khảo sát và SSN - SSN được đánh

giá hình thái qua ảnh TEM, đánh giá kích thước hạt. Ngoài ra, mẫu SSN@CTAB/SSN

có kích thước nhỏ nhất và bền sẽ được đánh giá thế zeta và độ bền thế theo thời gian,

diện tích bề mặt, phân tích nhiệt khối lượng TGA.

Chuẩn bị mẫu: Mẫu sau khi đông khô (các thông số cài đặt như sau: nhiệt độ

-38,1oC, áp suất 29,5 Pa) trong 3 ngày thì được phân tán lại trong nước khử ion đã

được lọc qua màng 0,45µm với nồng độ 1000 ppm. Đối với mẫu chụp hình TEM, sau

khi dung dịch được siêu âm thì tráng ngay lên bề mặt lưới đồng và làm khô. Riêng

đối với mẫu đo kích thước hạt, thế zeta thì dung dịch được để ổn định khoảng 1 giờ

sau khi siêu âm. Mẫu đo diện tích bề mặt và kích thước lỗ xốp, TGA được chuẩn bị

ở dạng rắn.

2.3.4. Tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng (HMSN)

Phương pháp nghiên cứu

Hạt nano silica cấu trúc rỗng được tổng hợp bằng phương pháp hard –

template. Đây là phương pháp phổ biến hiện nay vì có thể kiểm soát quá trình tạo hạt

và kích thước hạt. Quá trình tổng hợp gồm 3 giai đoạn: (i) Tổng hợp lõi nano silica

rắn, (ii) phủ lớp vỏ mao quản tạo thành cấu trúc lõi – vỏ SSN@CTAB/SSN) và (iii)

ăn mòn lõi tạo thành nano silica rỗng thể hiện trong Sơ đồ 2.4.

Sơ đồ 2.4. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica rỗng

Quan sát Sơ đồ 2.4 nhận thấy, để kiểm soát kích thước hạt nano silica cấu trúc

rỗng, vấn đề đặt ra là phải kiểm soát kích thước hạt nano silica được tạo thành trong

từng giai đoạn, đặc biệt là kích thước lõi nano silica rắn ban đầu. Báo cáo của Chen

55

và cộng sự cũng khẳng định kích thước của SiO2 là rất cần thiết trong việc ảnh hưởng

đến kích thước của lỗ rỗng. Các cấu trúc rỗng khác nhau có thể thu được bằng cách

kiểm soát kích thước và hình thái SiO2 thông qua thay đổi tỷ lệ các chất tham gia

phản ứng trong quá trình tạo lõi [36].

Các hạt nano silica với kích thước từ 20 - 200 nm được dùng như hệ dẫn truyền

thuốc trong cả in vitro, in vivo và kích thước hạt nhỏ thì hiệu quả của hệ dẫn truyền

thuốc tốt hơn [125-128]. Tuy nhiên, các hạt nano có kích thước nhỏ hơn 100 nm

thường có cấu trúc mao quản sắp xếp kém [129]. Hầu hết các hạt nano dẫn truyền

thuốc được FDA cho phép nghiên cứu lâm sàng hoặc tiền lâm sàng có kích thước trên

100 nm [126]. Do đó, với mục tiêu tạo ra hệ chất mang ứng dụng trong dẫn truyền

thuốc, đề tài tập trung tổng hợp hạt HMSN hình cầu với kích thước mong muốn nhỏ

hơn 200 nm.

Như vậy, lõi nano silica rắn với mong muốn sẽ có kích thước vào khoảng

100nm theo thống kê kích thước từ ảnh TEM bằng phần mềm ImageJ, như vậy kích

thước theo phương pháp tán xạ ánh sáng động học do bị bao phủ bởi lớp hydrate nên

kích thước khoảng 130nm được thực hiện ở mục 2.3.3. Lõi nano silica rắn được phủ

lớp vỏ bền (hạt SSN@CTAB/SSN được tổng hợp ở mục 2.2.2. Giai đoạn cuối cùng

trong tổng hợp nano silica cấu trúc rỗng HSMS là quá trình xử lý lõi SSN trong cấu

trúc lõi – vỏ SSN@CTAB/SSN. Lõi SSN có thể được ăn mòn bằng dung dịch KMnO4

[130], môi trường axit (như HF) hoặc bazơ (như Na2CO3) [131]. Trong đó lõi chủ

yếu được xử lý trong môi trường bazơ yếu bằng cách sử dụng dung dịch Na2CO3

nhằm mục đích kiểm soát phản ứng ăn mòn được diễn ra từ từ [30, 31]. Do đó yếu tố

chính được khảo sát là thời gian phản ứng để xác định tại thời gian nào thì lõi được

ăn mòn hoàn toàn. Cũng trong phản ứng ăn mòn này, yếu tố nhiệt độ cũng được sử

dụng để tăng tốc độ phản ứng. Giai đoạn cuối cùng, chất hoạt động bề mặt sẽ được

loại bỏ bằng cách nung ở nhiệt độ cao, chiết với dung dịch NaCl trong methanol, HCl

và ethanol tại 60oC [4] hoặc thẩm tách trong dung dịch acetic axit và ethanol tại nhiệt

độ phòng để tạo thành lớp vỏ có cấu trúc mao quản.

Đặc biệt trong quá trình ăn mòn lõi silica bên trong, chất hoạt bề mặt CTAB

giữ vai trò quan trọng trong việc tạo cấu trúc mao quản trên lớp vỏ và thúc đẩy quá

trình ăn mòn [30, 132]. Do đó, để khẳng định vai trò này của CTAB, ngoài phản ứng

56

ăn mòn hạt SSN@CTAB-SSN, một thử nghiệm so sánh được thực hiện đó là tiến

hành ăn mòn hạt SSN – SSN (không có sử dụng CTAB trong quá trình phủ lớp vỏ).

Quy trình tổng hợp

a) Từ hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN@CTAB-SSN

Phân tán các hạt nano silica rắn SSN@CTAB/SSN vào nước khử ion và tiến

hành đánh siêu âm 15 phút. Cho dung dịch vào bình cầu và đặt lên bếp đã được gia

nhiệt tại 50oC, khuấy dung dịch trong 30 phút. Sau đó cho dung dịch Na2CO3 0,2 M

vào dung dịch. Thực hiện phản ứng tại các điểm thời gian lần lượt T = 1; 3; 6; 9; và

12 (giờ) thì dừng lại, kí hiệu tương ứng các mẫu như sau HMSN-1, HMSN-3, HMSN-

6, HMSN-9, HMSN-12. Sản phẩm thu được đem thẩm tách bằng màng 12-14KDa

trong dung dịch CH3COOH 2M và ethanol theo tỷ lệ 1:1 về thể tích, thời gian là 4

ngày, dịch thẩm tách được thay 4 lần/ngày, sau đó được thẩm tách lại bằng nước cất

trong 2 ngày, nước được thay 4 lần/ngày và đông khô thu được hạt. Sơ đồ tổng hợp

được thể hiện trong Sơ đồ 2.5.

Sơ đồ 2.5. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN

b) Từ hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN – SSN

Quy trình tổng hợp được thực hiện theo Sơ đồ 2.5, theo quy trình tổng hợp từ

các hạt SSN@CTAB/SSN. Sản phẩm tạo thành được kí hiệu HMSN-K.

57

Phương pháp đánh giá

Các hạt HMSN, HMSN-K được đánh giá hình thái qua ảnh TEM. Ngoài ra,

hạt HMSN được đánh giá kích thước hạt và thế zeta, ảnh SEM, đánh giá diện tích bề

mặt, FTIR, XRD, XPS.

Chuẩn bị mẫu: Mẫu sau khi đông khô (các thông số cài đặt như sau: nhiệt độ

-38,1oC, áp suất 29,5 Pa) trong 3 ngày thì được phân tán lại trong nước khử ion đã

được lọc qua màng 0,45µm với nồng độ 1000 ppm. Đối với mẫu chụp hình TEM, sau

khi dung dịch được siêu âm thì tráng ngay lên bề mặt lưới đồng và làm khô. Riêng

đối với mẫu đo kích thước hạt, thế zeta thì dung dịch được để ổn định khoảng 1 giờ

sau khi siêu âm. Đối với các chỉ tiêu còn lại, mẫu được chuẩn bị ở dạng rắn.

2.3.5. Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với nhóm amin

Phương pháp nghiên cứu

Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với nhóm amin bằng phương pháp

đồng ngưng - tụ “co-condensation” thông qua tiền chất silicon chứa nhóm amin có

thể là 3-aminopropyltriethoxysilane (APTES) hay 3-aminopropyltrimethoxysilane

(APTMS) (Sơ đồ 2.6) [95, 133].

Sơ đồ 2.6. Sơ đồ biến tính bề mặt HMSN với nhóm amin

Phản ứng có thể được thực hiện trong dung môi toluen hoặc enthanol, tại nhiệt

độ thường hay nhiệt độ cao từ 60 - 80oC [2, 32, 94, 134]. Như vậy, trong quy trình

tổng hợp chọn các chất tham gia phản ứng gồm ethanol, APTES và tiến hành khảo

sát lượng amin được biến tính trên bề mặt. Tất cả các phản ứng được thực hiện tại

nhiệt độ phòng.

Ngoài ra nhóm amin được biến tính trên bề mặt hạt nano silica cấu trúc rỗng

được định lượng bằng thử nghiệm ninhydrin với APTES được sử dụng làm chất chuẩn

[135-139]. Khi ninhydrin phản ứng với nhóm amin sẽ tạo thành phức màu hồng đặc

trưng của ninhydrin – amino (Hình 2.2) [140]. Phương pháp phổ UV – Vis được dùng

để định lượng nhóm amin tại bước sóng 570 nm [141].

58

Hình 2.2. Phản ứng giữa ninhydrin và amino axit tạo thành phức màu tím

Quy trình tổng hợp

a) Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với nhóm amin (HMSN-NH2)

Sơ đồ 2.7. Sơ đồ biến tính biến bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với nhóm amin

Phân tán 200mg hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN vào ethanol và tiến hành

đánh siêu âm 15 phút. Cho dung dịch vào bình cầu và khuấy 15 phút tại nhiệt độ

thường. Sau đó nhỏ từ từ APTES vào hỗn hợp, thực hiện phản ứng tại các thể tích

của APTES lần lượt là: 50; 100; 250; 500 và 800 (µl) tương ứng các mẫu tạo thành

được kí hiệu HMSN-NH2-50, HMSN-NH2-100, HMSN-NH2-250, HMSN-NH2-500,

HMSN-NH2-800. Sau đó tiếp tục khuấy 24 giờ tại nhiệt độ phòng thì dừng phản ứng.

Sản phẩm được ly tâm rửa với ethanol, nước trong 10 phút với tốc độ 10000 rpm và

mẫu được đông khô. Quy trình tổng hợp thể hiện trong Sơ đồ 2.7.

59

b) Định lượng nhóm amin trên bề mặt hạt nano silica cấu trúc rỗng

Pha 1 lít dung dịch đệm acetate pH 5,5 gồm: Hòa tan 544 g natri acetate trong

400 ml nước cất, sau đó thêm 100 ml dung dịch acetic axit, định mức đến vạch 1 lít

bằng nước cất, điều chỉnh pH cần thiết bằng dung dịch NaOH.

Pha thuốc thử Ninhydrin: Hòa tan 2 g ninhydrin vào 75 ml DMSO, sau đó

thêm 25 ml đệm acetate. Dung dịch được chứa trong chai màu nâu.

Các hạt nano silica HMSN-NH2 được phân tán trong nước khử ion, đánh siêu

âm 15 phút.

Quy trình định lượng: Cho 2 ml dung dịch HMSN-NH2 vào lọ thủy tinh, thêm

tiếp 2 ml thuốc thử ninhydrin, lắc đều và sau đó đặt lên bếp được gia nhiệt tại 80oC

trong 20 phút. Lấy lọ thủy tinh ra làm nguội, tiến hành ly tâm trong 5 phút với tốc

độ 10000 rpm, lấy dung dịch bên trên pha loãng với 10 ml dung dịch ethanol/H2O (tỷ

lệ 1:1 v/v). Đo độ hấp phụ của dung dịch bằng phổ UV/Vis tại bước sóng 570 nm.

Phương pháp đánh giá

Các hạt HMSN-NH2-50, HMSN-NH2-100, HMSN-NH2-250, HMSN-NH2-

500, HMSN-NH2-800 được đánh giá hình thái qua ảnh TEM. Đánh giá kích thước

hạt và thế zeta, đánh giá diện tích bề mặt và thể tích lỗ xốp. Ngoài ra, mẫu chứa lượng

nhóm amin cao nhất được phân tích bằng FTIR, XRD, XPS, TGA.

Chuẩn bị mẫu: Mẫu sau khi đông khô (các thông số cài đặt như sau: nhiệt độ

-38,1oC, áp suất 29,5 Pa) trong 3 ngày thì được phân tán lại trong nước khử ion đã

được lọc qua màng 0,45µm với nồng độ 1000 ppm. Đối với mẫu chụp hình TEM, sau

khi dung dịch được siêu âm thì tráng ngay lên bề mặt lưới đồng và làm khô. Riêng

đối với mẫu đo kích thước hạt, thế zeta thì dung dịch được để ổn định khoảng 1 giờ

sau khi siêu âm. Đối với các chỉ tiêu còn lại, mẫu được chuẩn bị ở dạng rắn.

2.3.6. Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với mPEG

Phương pháp nghiên cứu

Poly (ethylene glycol) (PEG) được coi là một trong những polymer được dùng

để biến tính bề mặt phù hợp nhất vì những tính chất độc đáo bao gồm độ hòa tan trong

cả nước và dung môi hữu cơ, độc tính thấp, tính tương thích sinh học và khả năng

phân hủy sinh học tốt. Trước khi biến tính, PEG cần được “hoạt hóa” tức là những

nhóm OH ở vị trí cuối cần được chuyển thành những nhóm hoạt động như halogen,

aldehyde [93, 142]. Trong nghiên cứu, monomethoxyl polyethylene glycol (mPEG,

60

MW 5 KDa) được hoạt hóa bởi 4-Nitrophenyl chloroformate (NPC) sản phẩm tạo

thành mPEG-NPC. Do NPC dễ dàng phản ứng với nhóm amin trong nước nên để

biến tính bề mặt nano silica với mPEG (sản phẩm kí hiệu HMSN-mPEG) sẽ sử dụng

mẫu silica trên bề mặt có chứa nhóm amin cao nhất trong các tỉ lệ khảo sát thể tích

của APTES thực hiện ở nội dung 2.3.5.

Quy trình tổng hợp

a) Hoạt hóa mPEG bằng 4-Nitrophenyl chloroformate (NPC)

Sơ đồ 2.8. Sơ đồ hoạt hóa mPEG bằng p-nitrophenyl chloroformate

Cân 50 gam (0,01mol) mPEG cho vào bình cầu 250 ml, làm nóng chảy ở nhiệt

độ 65oC trong môi trường chân không khoảng 2 giờ. Sau đó cho 2,42 g (0,012 mol)

NPC vào bình cầu, khuấy ở nhiệt độ 65oC, môi trường khí N2 trong 5 giờ với tốc độ

350 rpm. Giảm nhiệt độ xuống 40oC, cho 50 ml THF vào khuấy ở nhiệt độ phòng

trong vòng 16 giờ. Hỗn hợp thu được đem kết tủa trong 500 ml diethyl ether và lọc

hút chân không để thu sản phẩm. Tiến hành cô quay chân không 30 phút nhằm loại

bỏ hoàn toàn dung môi còn sót lại đến khối lượng không đổi. Sản phẩm thu được ở

dạng bột, màu trắng mịn.

61

b) Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với mPEG

Phân tán 50mg HMSN-NH2 (mẫu chứa lượng amin cao nhất) trong 10ml nước

khử ion, đánh siêu âm trong 15 phút và cho vào bình cầu, gọi là dung dịch A. Hòa

tan mPEG-NPC trong nước khử ion, khuấy đến tan, gọi là dung dịch B. Nhỏ từ từ

dung dịch B vào dung dịch A, tiếp tục khuấy trong vòng 2 giờ với tốc độ 350 rpm.

Sản phẩm thu được thẩm tách với nước cất bằng màng 12×14 KDa trong 2 ngày, thay

nước 4 lần/ngày, sau đó đông khô thu được mẫu HMSN-mPEG dạng bột màu trắng.

Sơ đồ 2.9. Sơ đồ tổng hợp HMSN-mPEG

Phương pháp đánh giá

Mẫu mPEG-NPC, HMSN-mPEG được phân tích bằng FTIR. Ngoài ra mẫu

HMSN-mPEG được đánh giá hình thái qua ảnh SEM, TEM. Đánh giá kích thước hạt

và thế zeta, đánh giá diện tích bề mặt - thể tích lỗ xốp, XRD, XPS và TGA.

Chuẩn bị mẫu: Mẫu sau khi đông khô (các thông số cài đặt như sau: nhiệt độ

-38,1oC, áp suất 29,5 Pa) trong 3 ngày thì được phân tán lại trong nước khử ion đã

được lọc qua màng 0,45µm với nồng độ 1000 ppm. Đối với mẫu chụp hình TEM, sau

khi dung dịch được siêu âm thì tráng ngay lên bề mặt lưới đồng và làm khô. Riêng

đối với mẫu đo kích thước hạt, thế zeta thì dung dịch được để ổn định khoảng 1 giờ

sau khi siêu âm. Đối với các chỉ tiêu còn lại, mẫu được chuẩn bị ở dạng rắn.

62

2.3.7. Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với Pluronic (F127)

Phương pháp nghiên cứu

Tương tự như mPEG, đối với Pluronic cũng cần được hoạt hóa với 4-

Nitrophenyl chloroformate. Tuy nhiên, trong cấu trúc của Pluronic có hai nhóm –OH

ở hai đầu, nên sau khi cả hai đầu được hoạt hóa với NPC thì tiếp tục cho phản ứng

với 3-amino-1-propanol để tạo thành một nhóm –OH ở một đầu, sản phẩm tạo thành

kí hiệu NPC-F127-OH. Tiếp theo, để biến tính bề mặt nano silica với Pluronic

(HMSN-F127), sử dụng mẫu silica trên bề mặt có chứa nhóm amin phản ứng với

Pluronic đã hoạt hóa để tạo thành HMSN-F127.

Sơ đồ 2.10. Sơ đồ phản ứng tổng hợp NPC-F127-OH

Quy trình tổng hợp

a) Hoạt hóa Pluronic (F127) bằng 4-Nitrophenyl chloroformate (NPC)

Cân 5 gam F127 cho vào bình cầu 250 mL làm nóng chảy ở nhiệt độ 65oC

trong môi trường chân không khoảng 1 giờ 30 phút để F127 tan chảy hoàn toàn và

đồng thời không có độ ẩm trong mẫu. Sau đó 0,18 g NPC cho vào bình cầu, khuấy ở

nhiệt độ 65oC, môi trường khí N2 trong 5 giờ. Giảm nhiệt độ xuống 40oC, cho 10 ml

THF vào khuấy ở nhiệt độ trong vòng 16 giờ. Cho 0,03 ml 3-amino-1-propanol (1,2

mmol và d = 0,982 gam/l) pha loãng bằng 10 ml THF, nhỏ giọt từ từ vào bình cầu,

khuấy từ trong 5 giờ ở nhiệt độ phòng. Dung dịch thu được đem đi tủa trong 250 ml

63

diethyl ether. Sau đó, hỗn hợp được lọc hút chân không, sản phẩm được đem đi cô

quay để loại hoàn toàn dung môi còn sót lại đến khối lượng không đổi. Sản phẩm thu

được có màu trắng mịn.

Sơ đồ 2.11. Sơ đồ hoạt hóa F127 bằng p-nitrophenyl chloroformate

b) Biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với Pluronic

Phân tán 50 mg HMSN-NH2 (mẫu chứa lượng amin cao nhất) trong 10ml nước

khử ion, đánh siêu âm trong 15 phút và cho vào bình cầu, gọi là dung dịch A. Hòa

tan NPC-F127-OH trong nước khử ion, khuấy đến tan, gọi là dung dịch B. Nhỏ từ từ

dung dịch B vào dung dịch A, tiếp tục khuấy trong vòng 2 giờ với tốc độ 350 rpm.

Sản phẩm thu được thẩm tách với nước cất bằng màng 12×14 KDa trong 2 ngày, thay

nước 4 lần/ngày, sau đó đông khô thu được mẫu HMSN-F127 dạng bột màu trắng.

Phương pháp đánh giá

Mẫu NPC-F127-OH, HMSN-F127 được phân tích bằng FTIR. Ngoài ra mẫu

HMSN-F127 được đánh giá hình thái qua ảnh SEM, TEM. Đánh giá kích thước hạt

và thế zeta, đánh giá diện tích bề mặt - thể tích lỗ xốp, XRD, XPS và TGA.

64

Chuẩn bị mẫu: Mẫu sau khi đông khô (các thông số cài đặt như sau: nhiệt độ

-38,1oC, áp suất 29,5 Pa) trong 3 ngày thì được phân tán lại trong nước khử ion đã

được lọc qua màng 0,45µm với nồng độ 1000 ppm. Đối với mẫu chụp hình TEM, sau

khi dung dịch được siêu âm thì tráng ngay lên bề mặt lưới đồng và làm khô. Riêng

đối với mẫu đo kích thước hạt, thế zeta thì dung dịch được để ổn định khoảng 1 giờ

sau khi siêu âm. Đối với các chỉ tiêu còn lại, mẫu được chuẩn bị ở dạng rắn.

2.3.8. Nghiên cứu hiệu quả nang hóa thuốc chống ung thư Doxorubicin (Dox)

của các chất mang nano HMSN, HMSN-NH2, HMSN-mPEG, HMSN-F127

Để đánh giá khả năng nang hóa thuốc của nano silica rỗng và mẫu chức hóa

bề mặt, phương pháp khuếch tán qua màng được sử dụng. Theo phương pháp này hệ

chất mang – thuốc được khuấy tại nhiệt độ phòng, sau đó cho vào màng thẩm tách và

đặt vào môi trường trường thích hợp để loại thuốc tự do. Thuốc tự do được định lượng

bằng phương pháp trắc quang UV-Vis.

Khả năng mang thuốc của vật liệu được đánh giá qua thông số: Hiệu suất tải

thuốc – DLE (Drug loading efficency) và khả năng mang thuốc – DLC [95, 143]:

Lượng thuốc chứa trong mẫu

Hiệu suất tải thuốc

Tổng lượng thuốc ban đầu

DLE (%) = x 100%

Lượng thuốc chứa trong mẫu

Khả năng mang thuốc của hạt

Tổng lượng mẫu và lượng thuốc ban đầu

DLC (%) = x 100%

Quy trình thực hiện: Phân tán 20 mg mỗi chất mang trong 8 ml nước khử

ion, đánh siêu âm 15 phút, cho vào lọ thủy tinh màu nâu. Tiếp theo thêm dung dịch

Doxorubicin 1000 ppm vào và khuấy hỗn hợp trong 24 giờ tại nhiệt độ phòng (riêng

đối với chất mang HMSN-F127 thì khuấy tại 20oC do đây là polymer nhạy nhiệt),

mẫu được đặt trong bóng tối. Sau đó chia thành 3 phần, tương ứng với ba nghiệm

thức. Cho mỗi phần vào một túi màng cellulose 6×8 KDa, thẩm tách trong 10 ml nước

khử ion trong 6 giờ. Thay nước bên ngoài màng 3 lần, mỗi lần cách nhau 2 giờ. Nước

cất ngoài màng ứng với mỗi lần thay được đem đi đo UV-Vis để xác định hàm lượng

Dox tự do tương ứng. Sau khi loại thuốc dư, dung dịch bên trong màng ngay lập tức

được đông khô để mang đánh giá khả năng phóng thích thuốc. Kí hiệu hệ chất mang

– thuốc gồm HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox.

65

Sơ đồ 2.12. Sơ đồ nang hóa thuốc Doxorubicine của hệ chất mang

2.3.9. Khảo sát tốc độ phóng thích thuốc Doxorubicin của hệ HMSN/Dox,

HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox

Đệm PBS là một dung dịch đẳng trương có pH 7,4 giống với pH trong cơ thể

người, pH 5,5 là pH của tế bào ung thư, đây là dung dịch điển hình để thẩm tách các

chất tương hợp sinh học. Phương pháp màng thẩm tách được sử dụng để khảo sát sự

nhả chậm thuốc Dox từ hệ. Túi thẩm tách có khối lượng phân tử 3.5 KDa chứa mẫu

được treo lơ lửng trong dung dịch phosphate-buffered saline (PBS) có pH 7,4 và pH

5,5 được đặt trong bể điều nhiệt và khuấy ở 37 ± 10C. Ở mỗi khoảng thời gian khác

nhau một lượng mẫu được rút ra, đồng thời thêm vào một lượng tương ứng dung dịch

PBS được rút ra để đảm bảo thể tích dung dịch đệm không đổi. Hàm lượng Dox được

giải phóng ra được xác định bằng phương pháp quang phổ tử ngoại khả kiến UV-Vis.

Thí nghiệm nhả chậm Dox được làm lặp lại 3 lần với khoảng tin cậy lớn hơn 95%.

n−1

Phần trăm Dox giải phóng ra được tính bằng công thức (Wendy H. Chern).

i=1

Q = CnVs + Vt ∑ Cn−1

Trong đó:

Q: lượng Dox được giải phóng từ chất mang nano

Cn: nồng độ ở thời điểm t.

66

Vs: thể tích của PBS

Vt: thể tích mẫu.

n−1 i=1

∑ : nồng độ của Dox được giải phóng theo thời gian. Cn−1

Quy trình thực hiện: Phân tán một lượng xác định hệ chất mang – thuốc gồm

HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox vào 1 ml

nước cất. Chuyển các mẫu thử vào màng cellulose 6×8 KDa riêng biệt. Đặt các màng

thẩm tách vào 20 ml dung dịch đệm photsphate (PBS) có pH lần lượt 7,4 và 5,5. Tiến

hành khuấy dung dịch tại nhiệt độ sinh lý 37oC với tốc độ 100 rpm. Tại các thời điểm

định trước gồm 1, 3, 6, 9, 12, 24, 36, 48 và 72 giờ thì 2 ml dung dịch bên ngoài màng

được lấy ra và 2ml đệm được thêm vào. Đo độ hấp thụ của các dung dịch ngoài màng

bằng phương pháp trắc quang UV-Vis, sau đó vẽ biểu đồ phóng thích thuốc của các

mẫu tương ứng.

Sơ đồ 2.13. Sơ đồ phóng thích thuốc của hệ chất mang – thuốc

67

2.3.10. Nghiên cứu độc tính tế bào đối với các hệ chất mang nano HMSN, HMSN-

NH2, HMSN-PEG, HMSN-F127, HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-

mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox

Sử dụng các phương pháp MTT để đánh giá độ độc tế bào của hệ mang thuốc

và hiệu quả diệt tế bào ung thư của hệ chất mang khi mang thuốc chống ung thư. Các

tế bào ung thư dự kiến sử dụng là tế bào ung thư gan HCC J5 và được thực hiện tại

Viện Khoa học vật liệu ứng dụng thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyên tắc

MTT là phương pháp phản ánh số lượng tế bào thông qua các sản phẩm trao

đổi chất của chúng. Cụ thể, các enzyme oxidoreductase phụ thuộc NADPH (NADPH-

dependent oxidoreductase) phản ánh số lượng tế bào sống hiện diện. Những enzyme

này có khả năng khử muối 3-(4,5-dimethylthiazol-2-yl)-2,5-diphenyltetrazolium

bromide (viết tắt là MTT, thuộc loại muối tetrazolium) tạo thành tinh thể formazan

không tan, có màu tím. Sau đó, formazan được hòa tan bằng dung dịch isopropanol

đã được axit hóa trước bằng HCl 0,01N tạo thành dung dịch màu tím. Dung dịch này

được định lượng (xác định nồng độ formazan) bằng cách đo mật độ quang (optical

density, hay OD) của nó, sử dụng máy đo quang phổ ở bước sóng 500 – 600 nm. Từ

giá trị này, tính toán ngược lại số lượng tế bào sống, từ đó đánh giá hoạt tính của đối

tượng đã thử nghiệm.

Nuôi cấy tế bào

Dòng tế bào ung thư gan (HCC J5) được nuôi cấy trong môi trường DMEM

có bổ sung L-glutamin (2 mM), 1,5 g/L NaHCO3, penicillin (100 U/mL),

streptomycin (100 μg/mL), 10% (v/v) huyết thanh bào thai bò FBS và ủ ở 37oC,

5% CO2.

Quy trình khảo sát hoạt tính gây độc bằng phương pháp MTT

Tế bào đơn được cấy trên những đĩa nuôi cấy 96 giếng với mật độ là 5×104

tế bào/giếng. Sau 24 giờ nuôi cấy, quần thể tế bào được ủ với chất khảo sát lần

lượt Dox, HMSN, HMSN-NH2, HMSN-mPEG, HMSN-F127, HMSN/Dox,

HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox và HMSN-F127/Dox ở các nồng độ khác

nhau trong 48 giờ. Sau đó, 20 µl dung dịch MTT (5 mg/mL) được thêm vào mỗi

giếng và ủ 4 giờ ở 37oC. Môi trường nuôi cấy được loại bỏ, 100 µl dung dịch

DMSO được thêm vào mỗi giếng và khuấy nhẹ trong 2 phút. Các đĩa sau đó được

68

đo độ hấp thụ quang tại bước sóng 570 nm. Các thí nghiệm được lặp lại ba lần và

kết quả được trình bày dưới dạng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn.

Xử lý kết quả

Sau khi có giá trị mật độ quang ở bước sóng 570nm (ký hiệu là OD570 )

- Tính OD570 = ODtb - ODblank

- Tính tỉ lệ (%) gây độc tế bào theo công thức:

Với

- ODtb: giá trị OD của giếng có chứa tế bào - ODblank: giá trị OD của giếng blank (không có tế bào) - ODTN: giá trị OD của mẫu thử - ODC: giá trị OD của mẫu chứng (control) Dữ liệu được tính toán dựa trên giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn và đánh giá

thống kê thực hiện bằng Microsolf Excell.

69

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ - THẢO LUẬN

3.1. Kết quả khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến kích thước hạt nano silica rắn

3.1.1. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nồng độ TEOS

Theo báo cáo của Stober và cộng sự, lượng TEOS không ảnh hưởng đến kích

thước hạt [10]. Ngược lại, Bogush và cộng sự cho rằng kích thước hạt lớn hơn do

tăng nồng độ của TEOS [12] và trong khi Van Helden và cộng sự thì cho rằng kích

thước hạt giảm [144].

Đồ thị 3.1. Ảnh hưởng của nồng độ TEOS đến kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của NH3 (0,41 mol/l) và H2O (7,23 mol/l)

Quan sát Đồ thị 3.1 nhận thấy tại nồng độ của dung dịch NH3 0,41 mol/l và

nồng độ H2O 7,23 mol/l, kích thước hạt tăng khi tăng nồng độ của TEOS cho đến khi

nồng độ TEOS 0,61 mol/l thì kích thước hạt ổn định khoảng 239,63 ± 3,50 nm. Cơ

chế tạo thành các hạt gồm hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất (giai đoạn tạo mầm) tại

dung dịch quá bão hòa ban đầu, sự tạo thành các hạt mầm diễn ra để hình thành các

hạt sơ cấp. Giai đoạn thứ hai (giai đoạn phát triển mầm) là sự kết tụ các hạt sơ cấp

tạo thành các hạt thứ cấp bền hơn [12, 145]. Trong giai đoạn tạo mầm, nồng độ của

TEOS sẽ quy định lượng mầm/ hạt sơ cấp. Do đó khi tăng nồng độ của TEOS thì

nồng độ của hạt sơ cấp tại giai đoạn tạo mầm (tạo thành do phản ứng thủy phân) cũng

tăng lên, kết quả là hạt sẽ tăng kích thước nhanh chóng ở giai đoạn phát triển mầm.

Tuy nhiên, khi nồng độ TEOS lớn hơn 0,6 mol/l thì kích thước hạt giảm do nồng độ

TEOS quá cao thì vai trò xúc tác của NH3 trong phản ứng thủy phân và phản ứng

trùng ngưng không hiệu quả nên kích thước hạt giảm. Kết quả này phù hợp với nghiên

cứu của Rahman và cộng sự [110].

70

Đồ thị 3.2. Ảnh hưởng của nồng độ TEOS đến sự phân bố kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của NH3 (0,41 mol/l) và H2O (7,23 mol/l)

Sự phân bố kích thước kích thước hạt (SD) thể hiện trong Đồ thị 3.2, tại tất cả

các nồng độ đường cong phân bố khá rộng và có hình dạng giống nhau thuộc kiểu

hình chuông. Tuy nhiên, khi nồng độ TEOS lớn hơn 0,22 mol/l thì đường SD rộng

hơn. Điều này do khi nồng độ TEOS tăng thì sự tạo thành các hạt sơ cấp tại giai đoạn

quá bão hòa cao hơn tốc độ tiêu thụ (consumption) các hạt này (do nồng độ chất xúc

tác giảm) theo cơ chế Ostwald [146, 147]. Do đó, các hạt sơ cấp này kết hợp với nhau

một cách tự nhiên để tạo thành các hạt thứ cấp bền hơn, kết quả là sẽ tồn tại nhiều

kích thước hạt [148]. Ngoài ra, kết quả ảnh TEM Hình 3.1 cho thấy các hạt nano silica

tạo thành tại nồng độ TEOS cao nhất 1,2 mol/l có sự kết tụ và kích thước hạt không

đều.

Hình 3.1. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai nồng độ của TEOS: (A) 0,07 mol/l and (B) 1,20 mol/l tại điều kiện cố định

3.1.2. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nồng độ ammonia

Nhìn chung phản ứng thủy phân diễn ra rất chậm, mặc dù axit hoặc bazơ được

dùng như là chất xúc tác. Ammonia được dùng làm chất xúc tác cho phản ứng thủy

71

phân và ngưng tụ của TEOS trong ethanol. Nếu không có ammonia thì silica tạo thành

có hình dạng hạt không đều và không có dạng hình cầu khi quan sát dưới kính hiển

vi. Do đó, ammonia ảnh hưởng đến hình thái của các hạt và tạo thành các hạt có dạng

hình cầu. Khi tăng nồng độ ammonia thì kích thước hạt sẽ tăng và hạt hình cầu lớn

nhất được tạo thành khi hỗn hợp phản ứng bão hòa với ammonia [10].

Đồ thị 3.3. Ảnh hưởng của nồng độ ammonia đến kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của TEOS (0,36 mol/l) và H2O (6,90 mol/l)

Đồ thị 3.4. Ảnh hưởng của nồng độ amonia đến sự phân bố kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của TEOS (0,36 mol/l) và H2O (6,90 mol/l)

Quan sát Đồ thị 3.3 và 3.4 nhận thấy khuynh hướng chung về kích thước hạt

và sự phân bố kích thước hạt (SD) khi tăng nồng độ của ammonia. Sự có mặt của

ammonia làm tăng tốc độ phản ứng thủy phân TEOS cũng như tốc độ phản ứng trùng

ngưng các monomer, kết quả làm tăng kích thước hạt. Kết luận này tương tự như

công bố của Matsoukas và Gulari [11, 17, 149], nhưng theo nghiên cứu của Rao thì

cho kết quả ngược lại tức là kích thước hạt giảm [111]. Tuy nhiên, tại nồng độ NH3

72

thấp 0,17 mol/l thì sự phân bố kích thước hạt tương đối hẹp so với các nồng độ còn

lại. Và khi quan sát ảnh TEM thì bề mặt các hạt nano silica tạo thành tương đối nhẵn

hơn so với nồng độ cao nhất 2,90 mol/l (Hình 3.2).

Hình 3.2. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai nồng độ của NH3: (A) 0,17 mol/l and (B) 2,90 mol/l tại điều kiện cố định.

3.1.3. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của ethanol

Vì khả năng hòa tan giữa orthosilicate và nước thấp nên một dung môi được

dùng để trộn lẫn hai chất phản ứng này trong quá trình phản ứng như ethanol đã được

sử dụng [11, 113]. Ngoài ra, ethanol còn ảnh hưởng đến độ phân tán và kích thước

hạt nano silica [111]. Quan sát Đồ thị 3.5 nhận thấy ảnh hưởng của nồng độ ethanol

đến kích thước hạt, khi nồng độ ethanol tăng thì kích thước hạt giảm. Tại nồng độ

ethanol khảo sát cao nhất là 15,19 mol/l thì sự phân bố kích thước hạt (SD) hẹp hơn

thể hiện qua Đồ thị 3.6. Tuy nhiên quan sát ảnh TEM trong Hình 3.3 cho thấy hạt

không đều, hình dạng hạt không phải dạng hình cầu. Điều này có thể do khi nồng độ

ethanol cao thì vai trò xúc tác của NH3 trong phản ứng thủy phân và phản ứng trùng

ngưng không hiệu quả nên kích thước hạt giảm [110].

Đồ thị 3.5. Ảnh hưởng của nồng độ ethanol đến kích thước hạt tại nồng độ

ban đầu cố định của TEOS (1,49 mol/l) và H2O (28,90 mol/l)

73

Đồ thị 3.6. Ảnh hưởng của nồng độ ethanol đến sự phân bố kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của TEOS (1,49 mol/l) và H2O (28,90 mol/l)

Hình 3.3. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai nồng độ của ethanol: (A) 8.68 mol/l và (B) 15.19 mol/l tại điều kiện cố định.

3.1.4. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của thời gian phản ứng

Ảnh hưởng của thời gian phản ứng từ 0,5 giờ đến 5 giờ được thực hiện tại

nồng độ các chất tham gia phản ứng TEOS 0,22 mol/l, NH3 0,39 mol/l và ethanol

13,48 mol/l.

Đồ thị 3.7. Ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của TEOS (0,22 mol/l) và H2O (6,87 mol/l)

74

Đồ thị 3.8. Ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến sự phân bố kích thước hạt tại nồng độ ban đầu cố định của TEOS (0,22 mol/l) và H2O (6,87 mol/l)

Hình 3.4. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai thời gian phản ứng: (A) 0,5 giờ và (B) 5 giờ tại điều kiện cố định.

Trong quá trình thực hiện phản ứng nhận thấy màu của dung dịch trong bình

cầu chuyển sang hơi đục sau 15 phút thêm dung dịch TEOS. Điều này có thể do sau

khi phản ứng thủy phân TEOS tạo thành silicic axit, sau đó là sự ngưng tụ của silicic

axit ở trạng thái siêu bão hòa nên dung dịch trở nên có màu đục hơn so với ban đầu

[10]. Sau hơn 1 giờ tiếp theo thì dung dịch có màu trắng đục và không nhận thấy sự

thay đổi màu cho đến kết thúc phản ứng. Điều này phù hợp với kết quả kích thước

hạt tăng khi thời gian phản ứng tăng thể hiện trong Đồ thị 3.7 và phù hợp với nghiên

cứu đã công bố của Li và cộng sự [150]. Đồ thị 3.8 cho thấy sự phân bố kích thước

hạt thu được khi phản ứng từ 3 ÷ 5 giờ là tương đối giống nhau với đường phân bố

khá rộng so với của hạt thu được khi phản ứng 2 giờ. Tuy nhiên, quan sát ảnh TEM

Hình 3.4 nhận thấy, tại thời gian phản ứng 0,5 giờ (hình A), sau hai phản ứng thủy

phân và trùng ngưng thì các hạt sơ cấp chưa đủ thời gian ngưng tụ và hình thành các

hạt nano có dạng hình cầu như tại thời gian phản ứng 5 giờ (hình B).

75

3.1.5. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ

Kết quả nghiên cứu của Bogush và cộng sự về ảnh hưởng của nhiệt độ từ 9oC-

55oC đến kích thước hạt cho thấy kích thước hạt giảm khi nhiệt độ phản ứng tăng.

Đặc biệt tại nhiệt độ thấp nhất thì các hạt đơn phân tán không được tạo thành [12].

Dựa vào Bảng 3.1 nhận thấy kích thước hạt giảm khi nhiệt độ tăng tại nồng độ

các chất tham gia phản ứng TEOS 0,22 mol/lít, NH3 0,39 mol/l và ethanol 13,48

mol/l, kích thước hạt thể hiện rõ trong hình TEM (Hình 3.5), kết quả này tương ứng

với nghiên cứu của Rahman và cộng sự [110]. Tại nhiệt độ 50oC và 65oC thì kích

thước hạt thay đổi không đáng kể. Theo Kota Sreenivasa Rao và cộng sự thì ảnh

hưởng của nhiệt độ liên quan đến nồng độ bão hòa của dung dịch NH3, nồng độ của

NH3 giảm khi nhiệt độ tăng ảnh nên ảnh hưởng đến tốc độ phản ứng thủy phân và

ngưng tụ [111].

Bảng 3.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến kích thước hạt

Hình 3.5. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với hai nhiệt độ: (A) 350C và (B) 650C tại điều kiện cố định

76

3.1.6. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của tốc độ thêm dung dịch ammonia

Hình 3.6. Ảnh TEM của nano silica tương ứng với tốc độ nhỏ của NH3: (A) nhanh và (B) 100μl/phút tại điều kiện cố định.

Để kiểm soát kích thước hạt tạo thành, hầu hết các công bố nghiên cứu tốc độ

thêm dung dịch TEOS vào hỗn hợp H2O, NH3 và ethanol trong quá trình tổng hợp

nano silica [112, 151]. Tuy nhiên, tốc độ thêm dung dịch NH3 vào hỗn hợp phản ứng

cũng ảnh hưởng đáng kể đến kích thước hạt. Dựa vào Hình 3.6 nhận thấy khi cho

nhanh dung dịch NH3 đặc vào hỗn hợp ethanol, nước, TEOS thì tốc độ phản ứng thủy

phân, kết quả tạo nồng độ các hạt sơ cấp tăng nhanh. Đồng thời, tốc độ phản ứng

cũng tăng nhanh tương tự nên các hạt sơ cấp sẽ ngưng tụ nhanh chóng, do đó kích

thước hạt tăng nhanh [110].

Như vậy các yếu tố ảnh hưởng đến kích thước hạt gồm nồng độ TEOS, NH3,

ethanol và nhiệt độ đều có những quy luật riêng nên không thể cố định các yếu tố này

để tạo thành một bộ số liệu cho tổng hợp hạt nano theo kích thước đã dự định. Các

yếu tố này sẽ được tối ưu theo mô hình BBD.

Dựa vào Đồ thị 3.7 nhận thấy tại thời gian phản ứng nhỏ hơn 2 giờ thì hạt nano

được tạo thành. Do đó, để rút ngắn thời gian phản ứng sẽ cố định thời gian phản ứng

là 3 giờ cho các thí nghiệm trong mô hình BBD. Tương tự, theo Hình 3.6, khi thêm

nhanh dung dịch NH3 thì hạt tương đối đồng đều và bề mặt nhẵn hơn, như vậy sẽ

chọn thêm nhanh dung dịch NH3 cho các thí nghiệm sau.

3.2. Kết quả tổng hợp hạt nano silica rắn bằng phương pháp đáp ứng bề mặt

3.2.1. Kết quả tổng hợp hạt nano silica rắn SSN

Dựa vào kết quả của Bảng 3.2, ta thấy yếu tố đáp ứng kích thước hạt phụ thuộc

chặt chẽ vào các biến số độc lập (nồng độ TEOS, NH3, EtOH và nhiệt độ). Kích thước

hạt lớn nhất là 250.8 nm và kích thước hạt nhỏ nhất là 43.5 nm.

77

Bảng 3.2. Giá trị kết quả thực nghiệm và dự đoán bởi Minitab 16

STT V TEOS (ml) V NH3 (ml) V EtOH (ml) Nhiệt độ (oC)

Kích thước dự đoán (nm) 253,6135 Kích thước thực nghiệm (nm) 250,83 5 1,2 30 30 1

3 1,8 30 30 231,9468 241,00 2

3 1,2 50 30 166,0427 159,77 3

1 1,2 50 50 50,0464 59,10 4

3 0,6 30 70 25,70153 * 5

3 1,8 10 50 104,5917 104,73 6

5 1,2 10 50 103,8501 * 7

3 0,6 30 30 146,5376 166,77 8

1 1,2 10 50 114,8275 130,50 9

3 0,6 10 50 76,01796 74,97 10

1 1,8 30 50 112,2645 10763 11

5 0,6 30 50 119,769 118,13 12

5 1,2 50 50 205,1202 198,50 13

3 1,2 50 70 83,43824 91,93 14

5 1,2 30 70 93,28543 95,97 15

3 1,2 10 30 206,8953 192,13 16

3 1,2 10 70 6,096676 * 17

3 1,8 50 50 158,8062 157,07 18

3 0,6 50 50 58,29248 55,37 19

3 1,2 30 50 150,3308 150,33 20

5 1,8 30 50 194,7477 203,10 21

1 1,2 30 30 162,9388 157,47 22

1 1,2 30 70 39,8638 * 23

3 1,8 30 70 69,37979 58,20 24

1 0,6 30 50 58,15579 43,53 25

Phân tích ANOVA cho thấy mô hình đề xuất có ý nghĩa thống kê ở mức tin

cậy 95%. Đặc biệt, hệ số tương quan R2=0,9775 cho thấy rằng một tỉ lệ đáng kể

97,75% của tổng biến thể có thể được giải thích bằng mô hình thực nghiệm.

78

Bảng 3.3. Phân tích ANOVA cho các mô hình hồi quy

Source DF Seq SS Adj SS Adj MS F P

Regression 14 73057,2 73057,2 5218,4 18,61 0,001 R2=0,9775

Linear 61687,3 31169,5 7792,4 27,79 0,001 4

13564,5 10183,7 10183,7 36,31 0,001 1 X1

7097,8 9805,5 9805,5 34,97 0,001 1 X2

714,4 620,7 620,7 2,21 0,187 1 X3

40310,5 24095,2 24095,2 85,92 0 1 X4

Square 3773,2 3324 831 2,96 0,114 4

916,3 65,2 65,2 0,23 0,647 1 X12

2274,6 1510,6 1510,6 5,39 0,059 1 X22

381,3 1768,7 1768,7 6,31 0,046 1 X32

201 128,1 128,1 0,46 0,524 1 X42

Interaction 7596,7 7596,7 1266,1 4,51 0,045 6

108,9 108,9 108,9 0,39 0,556 1 X1*X2

3406,9 4121,7 412,7 14,7 0,009 1 X1*X3

341,9 191,5 191,5 0,68 0,44 1 X1*X4

1293,8 1293.8 1293,8 4,61 0,075 1 X2*X3

550,7 238,7 238,7 0,85 0,392 1 X2*X4

1894,5 1894,5 1894,5 6,76 0,041 1 X3*X4

1682,6 1682,6 280,4 6 Residual Error

Sơ đồ đường viền của mô hình bậc hai được hiển thị trong Đồ thị 3.9. Những

biểu đồ này minh hoạ tác động của hai biến số trong phạm vi -1 đến +1 và một biến

số ở cấp trung tâm (0), các ô đường viền hiển thị rõ ràng các vùng tối ưu. Do đó, có

thể khẳng định rằng các mô hình đề xuất có thể được sử dụng để tìm ra các điều kiện

cho kích thước hạt mong muốn.

79

Đồ thị 3.9. Biểu đồ đáp ứng bề mặt (X1: CTEOS, X2: CNH3, X3: CEtOH, X4: Nhiệt độ)

Bằng cách áp dụng RSM, kích thước hạt mong muốn khoảng 130 nm được

thiết lập theo các điều kiện được tóm tắt trong Bảng 3.4. Để kiểm tra độ chính xác và

độ tin cậy của mô hình thu được, một thử nghiệm xác nhận đã được thực hiện trong

điều kiện tối ưu. Kết quả hạt nano silica SSN thu được có kích thước 132,2 ± 1,7 nm,

theo phương pháp tán xạ ánh sáng động học (Đồ thị 3.10). Như vậy, kết quả phù hợp

tốt với giá trị dự đoán cho thấy độ tin cậy của mô hình được đề xuất.

80

Bảng 3.4. Bảng kết quả kích thước hạt sử dụng điều kiện mong muốn

bằng minitab 16

Gái trị % Khác nhau Điều kiện

Đơn yếu tố VEtOH ml VNH3 ml VTEOS ml Nhiệt độ oC Dự đoán

5 1,8 10 45 130 1,7 Y (kích thước) Thực nghiệm 132,2 ± 1,7

Đồ thị 3.10. Biểu đồ phân bố kích thước hạt nano silica rắn được tính toán từ dữ liệu DLS

3.2.2. Đánh giá hình thái cấu trúc hạt nano silica rắn SSN

Theo phương pháp Stober các hạt nano silica rắn tạo thành có cấu trúc vô định

hình [152]. Hạt SSN có kích thước 132,2 ± 1,7 nm và sự phân bố kích thước hạt hẹp

với PDI là 0,087 theo phương pháp tán xạ ánh sáng động học DLS (Đồ thị 3.10). Mặt

khác, hạt SSN được quan sát bằng kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM) để kiểm tra

hình thái và kích thước được thể hiện qua Hình 3.7. Kết quả cho thấy các hạt nano

có dạng hình cầu và độ đồng nhất khá cao. Theo thống kê kích thước từ ảnh TEM,

hạt SSN có kích thước 104,0 ± 0,7nm. Kích thước hạt quan sát bằng kính hiển vi điện

tử thường nhỏ hơn đường kính thủy động lực học được đo bằng DLS do mất lớp

hydrate khi mẫu được làm khô [153].

Hình 3.7. Ảnh TEM và thống kê kích thước hạt từ ảnh TEM của SiO2 (a, a’)

81

Thế zeta xuất hiện do điện tích tồn tại trên bề mặt của các hạt và cho thấy độ

bền của hệ keo tạo thành [117]. Khi thế zeta (âm hoặc dương) lớn thì lực đẩy tĩnh

điện giữa các hạt càng tăng, kết quả là giảm sự kết tụ giữa các hạt và cải thiện độ bền,

độ phân tán của hạt trong nước. Ngược lại, khi thế zeta thấp thì không đủ lực đẩy để

ngăn cản các hạt kết tụ lại với nhau. Giá trị tuyệt đối của thế zeta từ 30 mV hay lớn

hơn thì các hạt được xem là ổn định [154]. Ngoài ra, thế zeta còn được sử dụng để

giải thích cơ chế hấp phụ của thuốc và phối tử sinh học trên bề mặt hạt nano [155].

Giá trị pzc (point of zero charge) của nano silica được tạo thành theo phương

pháp Stober là 2,1 nên khi pH của dung dịch cao hơn giá trị pzc thì bề mặt các hạt

nano silica sẽ mang điện tích âm và ngược lại [156, 157]. Các hạt SSN được phân tán

trong nước do đó bề mặt hạt SSN sẽ mang điện tích âm, phù hợp với kết quả thế zeta

trong đồ thị Đồ thị 3.11. Thế zeta có giá trị -43,3 ± 0,87 mV, các hạt nano SSN mang

điện tích âm do sự phân ly nhóm silanol (Si–OH) trên bề mặt thể hiện qua Hình 3.8

[158].

Đồ thị 3.11. Thế zeta của hạt nano silica rắn SSN

Hình 3.8. Cấu trúc và điện tích bề mặt hạt nano silica rắn SSN

82

Các hạt nano silica SSN với giá trị thế zeta cao nên hệ bền, điều này thể hiện

qua đồ thị thế zeta trong dung dịch theo thời gian từ 0 giờ đến 48 giờ (Đồ thị 3.12).

Kết quả cho thấy trong 6 giờ đầu thì giá trị tuyệt đối thế zeta giảm nhanh, sau đó thì

thế zeta thay đổi không đáng kể nhưng giá trị vẫn lớn 30 mV, chứng tỏ hệ bền.

Đồ thị 3.12. Thế zeta của hạt SSN trong dung dịch theo thời gian

Đường cong TGA của SSN được thể hiện trong Đồ thị 3.13. Quá trình nung

mẫu HMSN được thực hiện từ 30oC - 800oC với tốc độ là 10oC/phút, độ giảm khối

lượng của mẫu phân tích tăng cùng với tăng nhiệt độ xử lý. Tại nhiệt độ < 170oC, độ

giảm khối lượng tương ứng khoảng 11% do sự bay hơi của nước bị hấp phụ vật lý và

sự khử hydrat (dehydroxylation) một phần các nhóm silanol trên bề mặt vật liệu. Sau

đó khối lượng giảm khoảng 5% tại nhiệt độ từ 170oC đến 500oC và tiếp tục giảm khi

nhiệt độ càng tăng, do các tạp chất hữu cơ từ vật liệu ban đầu bị mất đi, sự bay hơi

của nước liên kết vật lý hoặc do một phần sự khử hydrat các nhóm silanol bên trong

cấu trúc vật liệu. Tại nhiệt độ > 500oC, liên quan đến sự khử hydrat các nhóm silanol

bên trong cấu trúc, độ giảm khối lượng giảm nhẹ. Quá trình nung đến nhiệt độ 800oC

cho thấy cũng không hoàn toàn mất nhóm silanol [110].

83

Đồ thị 3.13. Giản đồ phân tích nhiệt của SSN

Diện tích bề mặt của SSN được xác định bằng phương pháp hấp phụ - khử hấp

phụ khí N2 (dùng phương trình BET), diện tích bề mặt của hạt SSN là 97 m2/g. Theo

công bố của Li và cộng sự khi nghiên cứu về diện tích bề mặt của các hạt nano silica

được tổng hợp theo phương pháp Stober cho rằng hình dạng đường đẳng nhiệt hấp

phụ - khử hấp phụ có thể thuộc loại I hay loại II tùy thuộc vào quá trình tổng hợp

[150, 159]. Dựa vào Đồ thị 3.14 nhận thấy dạng đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp

phụ của hạt SSN thuộc loại II theo phân loại của IUPAC, hạt SSN không có cấu trúc

mao quản [160]. Ngoài ra, dựa vào đồ thị cho thấy một vòng trễ khá rộng trong nhánh

khử hấp phụ, điều này có thể do các khe tạo thành tại bề mặt giữa các hạt nano hình

cầu [161].

Đồ thị 3.14. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của SSN

84

3.3. Kết quả tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ

3.3.1. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nồng độ TEOS đến kích thước lớp vỏ

Sự tổng hợp các vật liệu có cấu trúc mao quản được thực hiện bằng cách tự lắp

ghép “self-assembly” và cấu tạo kết hợp giữa các dạng vô vơ, hữu cơ trong môi

trường nước. Nhìn chung, quá trình các khuôn mẫu trực tiếp được tạo thành do tương

tác giữa các oligomer vô cơ và micell chất hoạt động bề mặt [162, 163]. Hạt nano

silica cấu trúc mao quản MSN được tổng hợp thành công bằng cách sử dụng phương

pháp sol – gel và chất hoạt động bề mặt CTAB của nhóm nghiên cứu đã được công

bố [108, 123, 124]. Do đó, quy trình tổng hợp hạt MSN được sử dụng để thực hiện

phủ lớp vỏ cấu trúc mao quản lên hạt nano silica rắn SSN. Theo quy trình này, các

chất tham gia phản ứng bao gồm TEOS, CTAB, ethanol, nước và NH3. Trong đó kết

quả khảo sát ảnh hưởng của nồng độ các chất như ethanol, NH3 và nước đến kích

thước hạt có những quy luật riêng có thể tăng hoặc giảm kích thước hạt, riêng ảnh

hưởng của TEOS cho kết quả kích thước hạt tương đối giống nhau giữa các công bố

[10, 12, 110-112]. Do đó để kiểm soát kích thước lớp vỏ, nồng độ TEOS được sử

dụng để khảo sát ảnh hưởng đến kích thước lớp vỏ và các yếu tố còn lại được cố định

tương tự quy trình tổng hợp hạt nano silica cấu trúc mao quản.

85

Hình 3.9. Ảnh TEM và sự phân bố kích thước hạt thống kê từ ảnh TEM tại nồng độ TEOS khảo sát 0,07 mol/l (a,a’), 0,27 mol/l (b,b’), 0,45 mol/l (c,c’), 0,61 mol/l (d,d’), 0,72 mol/l (e,e’) và ảnh phóng đại một hạt (f)

Quan sát ảnh TEM Hình 3.9 nhận thấy: Sau khi phủ lớp vỏ thì các hạt nano

silica tạo thành có dạng hình cầu như lõi nano silica rắn SSN ban đầu. Như vậy, có

thể khẳng định hình dạng của hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ sẽ phụ thuộc vào hình

dạng của lõi được sử dụng, chẳng hạn như các hạt có dạng hình lập phương, hình

que,… [87]. Đặc biệt, cấu trúc lõi – vỏ được thể hiện rõ qua hình cắt một hạt nano

silica với độ phóng đại lớn (hình f), tương ứng với phần có màu đen đậm bên trong

là lõi và phần có màu đen nhạt hơn là lớp vỏ [122]. Như vậy, tại nồng độ TEOS thấp

nhất 0,07 mol/l đa số các hạt nano quan sát không có cấu trúc lõi – vỏ nên có thể kết

luận không phủ được lớp vỏ trên lõi nano silica rắn ban đầu. Điều này có thể do lượng

TEOS quá ít hay với nồng độ này thì còn hạn chế về thời gian phản ứng nên các hạt

sơ cấp tạo thành chưa đủ để ngưng tụ hoàn toàn trên bề mặt hạt nano silica rắn, kết

quả là không phủ được lớp vỏ trên bề mặt của lõi. Quan sát ảnh TEM tại các nồng độ

còn lại cho thấy lõi SSN được phủ lớp vỏ hoàn toàn.

Bảng 3.5. Kết quả kích thước hạt SSN@CTAB-SSN tại các

nồng độ TEOS khác nhau

STT Mẫu

SSN@CTAB-SSN/1 Nồng độ TEOS, mol/l 0,07 Kích thước hạt, nm 108,6 ±1,6 1

SSN@CTAB-SSN/2 0,27 167,3± 0,5 2

SSN@CTAB-SSN/3 0,45 228,0± 0,7 3

SSN@CTAB-SSN/4 0,61 253,4± 0,7 4

SSN@CTAB-SSN/5 0,72 247,9± 2,6 5

86

Ngoài ra, dựa vào Bảng 3.5 nhận thấy xu hướng khi nồng độ TEOS tăng thì

kích thước hạt tăng. Tại nồng độ TEOS thấp nhất 0,07 mol/l, khi không phủ được lớp

vỏ thì hạt SSN@CTAB-SSN/1 có kích thước thay đổi không đáng kể so với lõi SSN

ban đầu. Tại nồng độ cao nhất 0,72 mol/l thì kích thước hạt giảm nhẹ có thể do khi

lượng TEOS quá lớn sẽ ngăn cản vai trò xúc tác của NH3 dẫn đến các phản ứng thủy

phân và trùng ngưng xảy ra chậm dẫn đến sự ngưng tụ các hạt chậm, điều này tương

tự như trong trường hợp khảo sát lõi silica rắn SSN. Mặt khác, tại nồng độ TEOS là

0,27 mol/l thì hạt SSN@CTAB-SSN/2 có lớp vỏ được phủ hoàn toàn và kết quả kích

thước hạt nhỏ nhất, do đó lớp vỏ sẽ có kích thước nhỏ nhất. Đây là nồng độ được

chọn trong quá trình phủ lớp vỏ lên hạt rắn SSN và mẫu này được chọn để thực hiện

phản ứng trong giai đoạn tiếp theo.

3.3.2. Mô tả quá trình phủ lớp vỏ silica lên lõi SSN

Quá trình phủ lớp vỏ được mô tả tương tự cơ chế tổng hợp các hạt nano silica

cấu trúc mao quản họ MCM-41. Các nghiên cứu về tổng hợp hạt nano silica cấu trúc

mao quản kết luận rằng có hai cơ chế khác nhau: (i) Thứ nhất, chất hoạt động bề mặt

tại nồng độ cao sẽ tự lắp ghép thành pha tinh thể lyotropic “lyotropic crystalline

phase” (hay gọi là micell) và các micell này kết tụ lại với nhau tạo thành các khuôn

mẫu micell. Sau đó là sự ngưng tụ của silica xung quanh các khuôn micell. (ii) Cơ

chế thứ hai cũng có thể tạo thành các micell nhưng tại nồng độ chất hoạt động bề mặt

thấp hơn; sự tự kết tụ của chất hoạt động bề mặt và silica được định hình bởi dung

dịch tiền chất chứa silica (có thể là TEOS) để tạo thành pha tinh thể lỏng có dạng

hình lục giác, hình khối hay dạng bản [164]. Chất hoạt động bề mặt CTAB có chuỗi

alkyl dài kị nước nên các chuỗi alkyl này sẽ kết tụ lại với nhau để giảm năng lượng

tương tác của đầu alkyl không phân cực với các phân tử dung môi nước phân cực

mạnh. Kết quả hình thành nên các micell, như vậy micell có lõi kị nước chứa các

chuỗi alkyl dài và một bề mặt ưa nước do đặc tính ion của những nhóm ammonium

với đầu mang điện tích dương CTA+. Hầu hết micell tạo thành có dạng hình cầu vì

trong dạng hình học này thì năng lượng bề mặt được giảm một cách hiệu quả nhất.

Hơn nữa, ở dạng hình cầu cho phép tạo nên nhiều micell hơn từ một lượng chất ban

đầu nhất định. Tuy nhiên, hình dạng micell tạo thành phụ thuộc vào nồng độ chất

hoạt động bề mặt. Do đó, các micell hình cầu ban đầu từ từ chuyển sang dạng ống dài

và sau đó các ống giống nhau kết tụ lại tạo thành cấu trúc lục giác theo cơ chế 1 (Sơ

87

đồ 3.1. a) hay cũng tạo thành khuôn micell hình lục giác theo cơ chế 2, đây là khuôn

cho cấu trúc của vật liệu MCM-41 [165, 166]. Những micell này bị hấp phụ trên bề

mặt lõi nano silica rắn SSN bằng tương tác tĩnh điện giữa đầu CTA+ và bề mặt mang

điện tích âm của lõi rắn SSN [167, 168] thể hiện qua Sơ đồ 3.1.b. Cuối cùng là quá

trình thủy phân tiền chất TEOS được thêm vào tạo thành silicic axit, ở trạng thái quá

bão hòa bề mặt mang điện tích âm của silicic axit sẽ ngưng tụ trên bề mặt xung quanh

lõi – khuôn micell để hình thành nên lớp vỏ silica thể hiện qua Sơ đồ 3.1.c.

Sơ đồ 3.1. Sơ đồ tổng hợp hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ

3.3.3. Kết quả tổng hợp hạt SSN-SSN

Thí nghiệm tương tự quy trình phủ vỏ trên nhưng không sử dụng CTAB được

thực hiện, kết quả ảnh TEM ở Hình 3.10 cho thấy các hạt tạo thành cũng có dạng

hình cầu tuy nhiên không có cấu trúc lõi – vỏ. Như vậy, khi không có mặt của chất

hoạt động bề mặt CTAB thì quá trình phủ lớp vỏ xảy ra tương tự cơ chế theo phương

pháp Stober gồm phản ứng thủy phân và ngưng tụ TEOS trên hạt rắn SSN. Hạt SSN-

SSN có kích thước 173,7 ± 1,3 nm lớn hơn hạt SSN ban đầu nhưng nhỏ hơn hạt

SSN@CTAB-SSN/2 205,8 ± 5,9 nm khi sử dụng cùng lượng TEOS trong quá trình

phủ vỏ do sự có mặt của CTAB. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Wei Wang

và cộng sự, đặc biệt kích thước hạt sẽ tăng khi tăng nồng độ CTAB [169]. Như vậy,

CTAB giữ vai trò quan trọng để phủ thành công lớp vỏ, định hướng hình dạng và cấu

trúc lớp vỏ.

88

Hình 3.10. Ảnh TEM (a) và sự phân bố kích thước hạt được tính toán từ dữ liệu

DLS (b) của hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN-SSN

3.3.4. Đánh giá hình thái cấu trúc hạt nano silica SSN@CTAB-SSN/2

Theo thống kê kích thước từ ảnh TEM thể hiện trong Bảng 3.5 và Hình 3.9

nhận thấy, lõi SSN có kích thước 104,0 ± 0,7nm. Sau đó, lớp vỏ silica trên lõi được

tạo thành bằng phản ứng thủy phân và ngưng tụ tiền chất TEOS với sự có mặt của

CTAB như là chất hoạt động bề mặt, kích thước hạt SSN@CTAB-SSN/2 vào khoảng

167,0 ± 0,7nm (Hình 3.9. b,b’), như vậy lớp vỏ sẽ có kích thước vào khoảng 63 nm.

Tương tự như lõi SSN theo dữ liệu DLS thì hạt SSN@CTAB-SSN/2 lớn hơn kích

thước hạt theo thống kê từ ảnh TEM, hạt có kích thước 205,8 ± 5,9 nm với độ đa phân

tán tốt PDI 0,091 (Đồ thị 3.15).

Đồ thị 3.15. Biểu đồ phân bố kích thước hạt SSN@CTAB-SSN/2 được tính toán từ dữ liệu DLS Theo các nghiên cứu đã công bố nồng độ micell tới hạn (Critical

micellconcentration - CMC) của CTAB là 1mM theo K. Eskilsson [170]; 0,89 mM

89

bởi A. Modaressi [171], trong khi Gao và cộng sự kết luận 0,92 mM [172] hay 0,8

mM theo Maiti [173]. Khi nồng độ CTAB sử dụng lớn hơn nhiều so với giá trị CMC

thì sẽ tạo thành các micell tự do. Khi các hạt nano tiến lại gần nhau với sự có mặt của

các micell tự do, thì chuỗi hydrocarbon trong micell sẽ để lại các khoảng trống tạo ra

một vùng chứa dung môi. Khi các hạt càng đến gần nhau thì dung môi giữa các hạt

khuếch tán ra ngoài để giảm gradient nồng độ tạo ra áp suất thẩm thấu làm cho các

hạt kết tụ lại với nhau [174, 175]. Quá trình phủ lớp vỏ với mục đích tạo được micell

hoàn toàn nên nồng độ CTAB đã được sử dụng là 50mM, lớn hơn nhiều so với giá trị

CMC của CTAB. Do đó quan sát Hình 3.11 nhận thấy các hạt SSN@CTAB-SSN/2

kết tụ lại với nhau (Hình 3.11.a) và sau khi được thẩm tách bằng màng cellulose với

nước cất để loại bỏ CTAB dư thì các hạt đã không còn hiện tượng kết tụ (Hình 3.11.b).

Hình 3.11. Ảnh TEM mẫu SSN@CTAB-SSN/2 trước và sau khi thẩm tách bằng

màng cellulose với nước cất (a,b)

Điện tích bề mặt của hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ có giá trị dương 32,5 ±

0,66 mV cho thấy có sự đảo ngược điện tích trên bề mặt so với hạt nano silica rắn

SSN (Đồ thị 3.16). Điều này do điện tích bề mặt được che chắn hoàn toàn bởi sự hấp

phụ CTAB với nhóm mang điện tích dương CTA+ , kết quả làm đổi dấu điện thế bề

mặt [167, 176]. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu trước đây về tương tác bề

mặt của keo silica SiO2 với việc thêm chất hoạt động bề mặt cation [177, 178]. Các

hạt nano silica SSN@CTAB-SSN/2 với giá trị thế zeta lớn hơn 30 mV cho thấy sự

tạo thành một lớp kép (bilayer) của các phân tử CTAB tại bề mặt silica thể hiện qua

Sơ đồ 3.2 [179, 180] . Như vậy, thông qua sự thay đổi giá trị thế zeta chứng tỏ đã phủ

thành công lớp vỏ lên lõi rắn SSN.

90

Đồ thị 3.16.Thế zeta của hạt nano silica cấu trúc lõi –vỏ SSN@CTAB-SSN/2

Sơ đồ 3.2. Sơ đồ của CTAB mono- và bilayer trên bề mặt silica/nước

Giá trị thế zeta trong dung dịch theo thời gian từ 0 giờ đến 48 giờ có khuynh

hướng giảm trong 6 giờ đầu, sau đó thì thế zeta thay đổi không đáng kể chứng tỏ hệ

bền. Ngoài ra, quan sát thực tế thì dung dịch tại 48 giờ vẫn có màu trắng đục, chưa

có sự tách lớp các hạt SSN@CTAB-SSN/2 và có một số ít các hạt ở đáy bình chứa

dung dịch thể hiện qua Đồ thị 3.17.

Đồ thị 3.17. Thế zeta của hạt SSN@CTAB-SSN/2 trong dung dịch theo thời gian

91

Ngoài ra, để xác định lượng CTAB chứa trong mẫu SSN@CTAB-SSN/2,

phương pháp phân tích nhiệt khối lượng sẽ được sử dụng [181]. Đường cong TGA

của hạt SSN@CTAB-SSN/2 được thể hiện trong Đồ thị 3.18. Quá trình nung mẫu

được thực hiện từ 25oC - 800oC với tốc độ là 10oC/phút, độ giảm khối lượng của mẫu

phân tích tăng cùng với tăng nhiệt độ xử lý, tương tự kết quả phân tích nhiệt đối với

mẫu SSN.

Đồ thị 3.18. Giản đồ phân tích nhiệt của SSN@CTAB-SSN/2

Tại nhiệt độ < 170oC, độ giảm khối lượng tương ứng khoảng 9% do sự bay hơi

của nước bị hấp phụ vật lý và sự khử hydrat (dehydroxylation) một phần các nhóm

silanol trên bề mặt vật liệu. Tại nhiệt độ từ 200oC - 300oC, nhận thấy độ giảm khối

lượng là 10%. Trong đó có 3% khối lượng do sự bay hơi của nước liên kết vật lý và

một phần sự khử hydrat các nhóm silanol bên trong cấu trúc vật liệu, các tạp chất hữu

cơ từ vật liệu ban đầu tương tự như hạt SSN. Như vậy, có khoảng 7% lượng CTAB

chứa trong mẫu SSN@CTAB-SSN/2.

Diện tích bề mặt của hạt SSN@CTAB-SSN/2 được xác định bằng phương

pháp hấp phụ - khử hấp phụ khí N2 (dùng phương trình BET) có diện tích bề mặt 46,6

m2/g, dạng đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ thuộc loại II theo phân loại của

IUPAC, vật liệu không có cấu trúc mao quản [160]. Như vậy sau quá trình phủ lớp

thì hạt SSN@CTAB-SSN/2 có diện tích bề mặt giảm đáng kể so với hạt SSN ban

đầu.

92

Đồ thị 3.19. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của SSN@CTAB-SSN

3.4. Kết quả tổng hợp hạt nano silica cấu trúc rỗng

3.4.1. Từ hạt SSN@CTAB-SSN

Hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN@CTAB-SSN/2 được chọn để xử lý lõi

bằng dung dịch Na2CO3 0,2 M tạo thành hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN. Thời

gian phản ứng ăn mòn được thực hiện lần lượt tại thời gian T là 1; 3; 6; 9 và 12 giờ,

kết quả thể hiện trong Hình 3.12. Quan sát ảnh TEM nhận thấy quá trình ăn mòn

trong thời gian 1 giờ (Hình 3.12.a) thì lõi nano silica rắn SSN hình cầu vẫn còn

nguyên, sau thời gian 3 giờ phản ứng tiếp theo thì bề mặt lõi SSN ở một số hạt

SSN@CTAB-SSN bắt đầu bị ăn mòn (Hình 3.12.b). Tại thời gian ăn mòn 6 giờ thì

lõi nano silica rắn SSN bị ăn mòn nhiều hơn, có thể nhận thấy khuynh hướng ăn mòn

là từ bề mặt lõi rắn vào tâm (Hình 3.12.c). Với thời gian 9 giờ và 12 giờ (Hình 3.12.d,

e) thì lõi rắn bị ăn mòn hoàn toàn, tuy nhiên lớp vỏ vẫn được giữ nguyên, quan sát lỗ

rỗng tạo thành trong hai khoảng thời gian tương đối bằng nhau. Do đó, chọn thời gian

phản ứng là 9 giờ để thực hiện phản ứng ăn mòn và hạt nano silica cấu trúc rỗng tạo

thành tại thời gian này được sử dụng cho các giai đoạn tiếp theo. Như vậy, hạt nano

silica cấu trúc rỗng HMSN-9 có lỗ rỗng nằm ở tâm hình cầu có màu đen nhạt và lớp

vỏ xung quanh được giữ nguyên có màu đen đậm hơn thể hiện ở hình f) [2, 30].

93

Hình 3.12. Ảnh TEM của HMSN tại thời gian ăn mòn 1giờ, 3 giờ, 6 giờ, 9 giờ và 12 giờ tương ứng với hình a, b, c, d, e tại thang đo 200 nm; và phóng đại một hạt HMSN (hình f)

Cơ chế tạo thành hạt nano silica rỗng từ quá trình ăn mòn lõi silica rắn SSN

gồm hai giai đoạn quan trọng: (i) sự hòa tan chậm lõi nano silica rắn SSN trong môi

trường bazơ để tạo thành dạng silicate hòa tan (ion silicate) và (ii) sự đồng lắp ghép

“co-assembly” của CTAB và silicate hòa tan để tạo thành lớp vỏ cấu trúc mao quản,

trong đó chất hoạt động bề mặt giữ vai trò quyết định trong cơ chế ăn mòn – ngưng

tụ lại. Trong môi trường bazơ yếu tạo bởi dung dịch Na2CO3 và CTAB trong cấu trúc

lớp vỏ thì sự ăn mòn chọn lọc silica từ lõi rắn được bắt đầu. Do ion silicate được tạo

ra từ quá trình ăn mòn lõi rắn mang điện tích âm nên sẽ kết hợp với phần điện tích

dương CTA+ bằng lực hút tĩnh điện, kết quả là nồng độ các ion silicate tăng trên bề

mặt micell. Ngoài ra, giữa các ion silicate còn có tương tác đẩy nên để giảm tương

tác này thì các ion silicate tự ngưng tụ lại với nhau tạo thành đơn lớp silica trên các

micell. Tại giai đoạn này, các micell được phủ bởi silica có thể bắt đầu tụ lại với nhau

bằng phản ứng ngưng tụ giữa các lớp silica của từng micell riêng lẻ tạo nên khung

cấu trúc MCM-41. Kết quả của các quá trình này là vỏ silica xung quanh các lỗ mao

quản có dạng vô định hình và độ dày chỉ có 2 đến 3 đơn lớp silica. Mặt khác, quá

trình ngưng tụ lại silicate như vậy sẽ làm giảm lượng silicate được tạo ra và do đó về

mặt động học sẽ thúc đẩy phản ứng hòa tan hạt nano silica rắn SSN xảy ra nhanh hơn.

94

Cuối cùng, các micell (khuôn) sẽ được loại bỏ để tạo thành lớp vỏ có cấu trúc mao

quản [83, 182-187].

3.4.2. Từ hạt SSN-SSN

Hình 3.13. Ảnh TEM (a) và sự phân bố kích thước hạt được tính toán từ dữ liệu DLS (b) của hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN-SSN

Thực hiện quy trình ăn mòn hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ SSN-SSN với các

điều kiện phản ứng tương tự như hạt SSN@CTAB-SSN, kết quả thể hiện trong Hình

3.13. Kết quả cho thấy các hạt có dạng hình cầu và không bị ăn mòn mặc dù bề mặt

hạt SSN-SSN trở nên xù xì hơn. Đặc biệt kích thước hạt HMSN-K tạo thành sau quá

trình ăn mòn thay đổi không đáng kể so với hạt SSN-SSN ban đầu, hạt HMSN-K sau

quá trình ăn mòn có kích thước 198,5±5,1 nm với độ đa phân tán PDI 0,238. Kết quả

này phù hợp với nghiên cứu của Fang và cộng sự, ngoài ra nghiên cứu cũng chỉ ra

rằng quá trình ăn mòn tăng nhanh đáng kể khi nồng độ CTAB càng cao [30]. Như

vậy, trong quá trình chuyển từ lõi nano silica rắn thành hạt nano silica cấu trúc rỗng

thì chất hoạt động bề mặt CTAB giữ vai trò rất quan trọng: (i) chất hoạt động bề mặt

CTAB là khuôn mềm để trực tiếp tạo thành lớp vỏ silica cấu trúc mao quản bằng cách

đồng lắp ghép với các dạng silicate hòa tan, (ii) thúc đẩy sự hòa tan lõi nano silica

rắn và do đó quá trình ăn mòn sẽ tăng [4, 30, 83, 122]. Ngoài ra, theo nghiên cứu của

Zhong Luo và cộng sự thì chất hoạt động bề mặt CTAB giữ vai trò bảo vệ lớp vỏ

silica trong quá trình ăn mòn [121].

3.4.3. Đánh giá hình thái cấu trúc hạt nano silica cấu trúc rỗng

Các hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN được kiểm tra hình thái bằng kính

hiển vi điện tử quét (SEM) thể hiện qua Hình 3.14, không quan sát thấy cấu trúc lỗ

rỗng – vỏ được tạo thành, kết quả tương tự các nghiên cứu đã được công bố [80, 188].

95

Hình 3.14. Ảnh SEM của hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN

Tuy nhiên, khi quan sát qua ảnh TEM cho thấy lõi rắn được ăn mòn thành công

tạo thành nano silica cấu trúc rỗng HMSN dạng hình cầu với độ đồng nhất khá cao

(Hình 3.15). Hạt HMSN có kích thước 134,0 ± 0,3 nm với lớp vỏ có độ dày khoảng

35 nm. Khi kiểm tra bằng phương pháp DLS thì kích thước hạt HMSN là 161,6 ± 1,2

nm với độ đa phân tán PDI 0,113 (Đồ thị 3.20). Lõi SSN có kích thước 104 nm, sau

khi được ăn mòn trong môi trường bazơ thì kích thước lỗ rỗng tạo thành khoảng 99

nm, nhỏ hơn so với lõi rắn ban đầu tương tự kết quả nghiên cứu của Fang và cộng sự

[30]. Ngoài ra, kích thước hạt nano rỗng tạo thành HMSN nhỏ hơn so với hạt cấu trúc

lõi – vỏ SSN@CTAB-SSN/2 ban đầu. Như vậy, trong quá trình ăn mòn, đầu tiên lõi

rắn SSN bị hòa tan, sau đó ngưng tụ lại trên khuôn micell tạo thành lớp vỏ mới, kích

thước lỗ rỗng ở giữa giảm do sự thu hẹp không gian của các micell. Cuối cùng, các

micell chất hoạt động bề mặt được loại bỏ để tạo thành lớp vỏ có cấu trúc mao quản.

Các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng các hạt nano với kích thước nhỏ hơn 200 nm có

thể được đào thải khỏi cơ thể trong mô hình thử nghiệm động vật in vivo [189]. Do

đó, hạt nano silica rỗng hứa hẹn là hệ dẫn truyền thuốc đầy tiềm năng.

Hình 3.15. Ảnh TEM và thống kê kích thước hạt từ ảnh TEM của hạt HMSN

96

Đồ thị 3.20. Sự phân bố kích thước hạt được tính toán từ dữ liệu DLS

của hạt HMSN

Đồ thị 3.21. Thế zeta của HMSN

Mặt khác, kết quả đánh giá điện tích bề mặt của hạt HMSN thể hiện qua Đồ

thị 3.21. Tương tự như lõi rắn SSN, bề mặt hạt HMSN với nhóm hydroxyl trên bề

mặt nên mang điện tích âm, giá trị thế zeta tương ứng là -25,53 ± 0,15 mV. Ngoài

ra, giá trị thế zeta âm cho thấy CTAB được loại bỏ hoàn toàn bằng cách thẩm tách

trong dung dịch CH3COOH 2M và ethanol.

Độ bền của hạt HMSN trong dung dịch được khảo sát theo thời gian (Đồ thị

3.22), kết quả cho thấy trong 6 giờ đầu thế zeta tăng và các khoảng thời gian sau đó

thì ổn định. Như vậy, so với hạt nano silica rắn SSN, hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ

thì hạt HMSN có giá trị tuyệt đối thế zeta thấp hơn. Điều này có thể do bề mặt các

hạt HMSN được tạo thành do silicate hòa tan được tạo ra từ lõi, sau đó ngưng tụ lại

trên CTA+ nên các hạt khá dính nhau.

97

Đồ thị 3.22. Thế zeta của hạt HMSN trong dung dịch theo thời gian

Kết quả phân tích phổ hồng ngoại của HMSN thể hiện trong Hình 3.16, xuất

hiện dải hấp phụ rộng từ 3300 - 3500 cm-1 do nhóm –OH trên bề mặt nano silica

[190], tại số sóng 1089 cm-1 là tín hiệu của Si-O-Si, Si-OH (973 cm-1) và Si-O (836

cm-1), H2O (1640 cm-1). Đặc biệt, trong phổ hồng ngoại của hạt nano silica cấu trúc

rỗng không có sự xuất hiện các tín hiệu của CH2 (3000 - 2800 cm-1) và tín hiệu CH3-

(N+) (1500-1450 cm-1), đây là các tín hiệu đặc trưng của CTAB [191]. Như vậy thông

qua phổ hồng ngoại có thể kết luận rằng chất hoạt động bề mặt CTAB đã được loại

bỏ để tạo thành lớp vỏ cấu trúc mao quản.

Hình 3.16. Phổ FTIR của HMSN

Bằng phương pháp phân tích nhiệt khối lượng, qua đường cong TGA của

HMSN được thể hiện trong Đồ thị 3.23 nhận thấy quá trình nung mẫu HMSN được

thực hiện từ 30oC - 800oC với tốc độ là 10oC/phút, kết quả tương tự như giản đồ phân

tích nhiệt của hạt rắn SSN. Độ giảm khối lượng của mẫu phân tích tăng cùng với tăng

nhiệt độ xử lý bao gồm độ giảm khối lượng do sự bay hơi của nước bị hấp phụ vật lý

và sự khử hydrat (dehydroxylation) một phần các nhóm silanol trên bề mặt vật liệu,

do các tạp chất hữu cơ từ vật liệu ban đầu bị mất đi, sự bay hơi của nước liên kết vật

98

lý và một phần sự khử hydrat các nhóm silanol bên trong cấu trúc vật liệu. Đặc biệt,

không có độ giảm khối lượng mạnh từ 200 - 300oC do chất hoạt động bề mặt CTAB

thể hiện qua Đồ thị 3.18, như vậy có thể kết luận lượng CTAB không còn trong mẫu

HMSN [166].

Đồ thị 3.23. Giản đồ phân tích nhiệt của HMSN

Đặc biệt, quan sát phổ XPS của HMSN Hình 3.17, kết quả quét tổng quát

(survey) cho thấy sự có mặt của các nguyên tố Si, O, C trong mẫu. Kết quả quét độ

phân giải cao (high - resolution) Si 2s, Si 2p và O 1s cho thấy các peak tại 103,43 eV

tương ứng với Si - O, và 154,53 eV tương ứng với Si 2s. Ngoài ra, peak tại 532,71

tương ứng của O. Thông qua kết quả quét tổng quát cho thấy không có mặt của

nguyên tố N trong chất hoạt động bề mặt CTAB, do đó có thể kết luận lượng CTAB

được loại bỏ hoàn toàn khỏi hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN [32].

Hình 3.17. Phổ XPS của HMSN khi quét tổng quát và độ phân giải cao của O 1s, Si 2s, Si 2p

99

Quan sát Hình 3.18, HMSN có đỉnh nhiễu xạ XRD rộng (2θ = 23o) cho thấy

hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN có cấu trúc vô định hình tương tự như lõi nano

silica rắn ban đầu được tổng hợp theo phương pháp Stober [156].

Hình 3.18. Phổ XRD góc rộng của HMSN

Diện tích bề mặt của HMSN được xác định bằng phương pháp hấp phụ – khử

hấp phụ khí N2, diện tích bề mặt vật liệu là 983,7 m2/g lớn hơn rất nhiều so với hạt

nano silica cấu mao quản trong nghiên cứu đã công bố [192]. Từ Đồ thị 3.24 nhận

thấy hình dạng đường đẳng nhiệt hấp phụ – khử hấp phụ của HMSN thuộc loại IV,

kiểu H4 được đặc trưng bởi dạng vòng trễ (theo phân loại của IUPAC); ngưng tụ mao

quản tại áp suất tương đối 0,42 chứng tỏ lớp vỏ của HMSN có cấu trúc mao quản nhỏ

và trung bình [193]. Quá trình phủ lớp vỏ nano silica lên lõi rắn SSN sử dụng phương

pháp sol – gel và chất hoạt động bề mặt CTAB tương tự như tổng hợp hạt nano silica

cấu trúc mao quản họ MCM-41. Như vậy, lớp vỏ của hạt nano silica cấu trúc rỗng

HMSN có cấu trúc mao quản hình lục giác 2D với các lỗ mao quản hình trụ thuộc

nhóm không gian (6pmm) như vật liệu MCM-41 [194, 195]. Mặt khác, chất hoạt động

bề mặt CTAB được sử dụng làm khuôn tạo cấu trúc mao quản trong lớp vỏ với chuỗi

alkyl chứa 16 nhóm – CH2 – nên sau khi được loại bỏ thì các lỗ mao quản có kích

thước 2,7 nm. Do đó, bằng cách dùng chất hoạt động bề mặt có chuỗi alkyl dài hơn

hay ngắn hơn có thể kiểm soát được kích thước lỗ mao quản [196].

100

Đồ thị 3.24. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của HMSN

Như vậy bằng phương pháp hard – template hạt nano silica cấu trúc rỗng

HMSN đã được tổng hợp thành công. Quy trình tổng hợp theo phương pháp này gồm

ba giai đoạn bao gồm tổng hạt nano silica rắn SSN, hạt nano silica cấu trúc lõi – vỏ

SSN@CTAB-SSN và quá trình ăn mòn để tạo thành cấu trúc rỗng HMSN. Hình dạng

và kích thước của hạt HMSN có thể được kiểm soát chặt chẽ thông qua kiểm soát

hình dạng và kích thước lõi nano silica rắn. Ngoài ra, kiểm soát độ dày lớp vỏ cũng

góp phần kiểm soát được kích thước hạt HMSN tạo thành. Quá trình chuyển từ hạt

SSN tạo thành hạt HMSN với sự thay đổi về kích thước hạt, thế zeta, diện tích bề mặt

và bản chất của các hạt được thể hiện qua Bảng 3.6.

Bảng 3.6. Kích thước hạt và thế zeta của SSN, SSN@CTAB-SSN và HMSN

Bản chất STT Mẫu Kích thước hạt, nm Thế zeta, mV

Diện tích bề mặt, m2/g 97,2 SSN 104,0 ± 0,7 -43,3 ± 0,87 1

46,6 167,0 ± 0,7 32,5 ± 0,66 2 SSN@CT AB-SSN

983, 7 HMSN 134,0 ± 0,3 -25,53 ± 0,15 3 Vô định hình Vô định hình Vô định hình

3.5. Kết quả biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với nhóm amin

Vật liệu nano silica thiếu các nhóm hoạt động trên bề mặt nên bị hạn chế ứng

dụng. Do đó, để sử dụng các tính chất độc đáo của vật liệu này thì bề mặt nano silica

cần được biến tính với các nhóm chức hữu cơ hoạt động. Sự kết hợp các thành phần

101

hữu cơ lên bề mặt các hạt nano silica tạo thành các vật liệu lai vô cơ – hữu cơ. Như

vậy vật liệu lai này sẽ có các ưu điểm của silica như bền nhiệt, bền cơ học, bền cấu

trúc và đặc tính dễ biến tính bề mặt cho các ứng dụng cụ thể của các nhóm hữu cơ

[197]. Trước tiên, bề mặt hạt nano silica cấu rỗng được biến tính bề mặt với nhóm

amin hữu cơ theo phương pháp đồng ngưng tụ “co-condensation” của tiền chất chứa

silica là TEOS và trialkoxyorganosilane APTES, đây là phương pháp tổng hợp được

sử dụng phổ biến vì các nhóm chức được phân bố đồng nhất trên bề mặt hạt nano

silica so với các phương pháp khác chẳng hạn như quá trình grafting [198]. Đối với

các hạt nano silica cấu trúc rỗng, việc biến tính bề mặt với nhóm amin nhằm mục

đích là cầu nối (nhóm chức hoạt động) cho các phản ứng biến tính bề mặt tiếp theo

của hạt HMSN [199] và thông qua nhóm amin có thể dễ dàng ghép các phân tử hữu

cơ khác với các hạt nano silica, quy trình tổng hợp đơn giản được mô tả lần đầu tiên

bởi Philipse and Vrij [200, 201]. Ngoài ra, nhóm amin còn có tác dụng như là các

nắp đậy hạn chế quá trình rò rỉ thuốc trong quá trình vận chuyển thuốc trong cơ thể

cho các ứng dụng y sinh [122]. Khả năng giữ thuốc của vật liệu mới được tạo thành

bị ảnh hưởng bởi lượng nhóm amin trên bề mặt. Do đó lượng nhóm amin trên bề mặt

HMSN được khảo sát qua các thể tích khác nhau của APTES bao gồm 50, 100, 250,

500 và 800 µl.

Quan sát ảnh TEM được thể hiện qua Hình 3.19, kết quả cho thấy sau khi biến

tính bề mặt với nhóm amin các hạt nano tạo thành có dạng hình cầu, độ đồng nhất

cao và phân bố kích thước hạt hẹp. Đặc biệt, so với các hạt HMSN (Hình 3.15) thì

+, giữa các nhóm mang điện tích

các hạt HMSN-NH2 không có hiện tượng kết tụ giữa các hạt. Điều này có thể do các

nhóm –NH2 trên bề mặt bị proton hóa thành NH3

dương tương tác với nhau bằng lực đẩy nhau bằng lực đẩy tĩnh điện và lực đẩy này

lớn hơn lực hút giữa các hạt nên hạn chế xảy ra sự kết tụ của các hạt (vì theo thuyết

DLVO, các hạt có khuynh hướng kết tụ lại với nhau để giảm năng lượng bề mặt tạo

thành các hệ phân tán bền) [202]. Ngoài ra, phản ứng được thực hiện trong môi trường

ethanol tuyệt đối, các ethanol này giữ vai trò như là co-solvent có tác dụng giảm lực

hút phân tử van der Waals của các hạt [167]. Mặt khác, sau khi biến tính bề mặt, các

hạt HMSN-NH2 tạo thành có kích thước lớn hơn hạt HMSN ban đầu và có xu hướng

tăng theo chiều tăng lượng APTES tham gia phản ứng, kết quả này phù hợp với

nghiên cứu của Seong Huh và cộng sự [198]. Cụ thể, kích thước hạt tăng từ 138,0 ±

102

0,4 nm đối với mẫu HMSN-NH2-50 (mẫu chứa lượng APTES tham gia phản ứng thấp

nhất) đến kích thước 154,0 ± 0,9 nm đối với mẫu HMSN-NH2-500 (thể tích APTES

là 500 µl). Tuy nhiên, sau đó thì kích thước hạt giảm với mẫu HMSN-NH2-800 chứa

lượng amin cao nhất thể hiện qua Bảng 3.7.

Hình 3.19. Ảnh TEM và sự phân bố kích thước hạt của HMSN-NH2 từ thống kê ảnh TEM tại các tỉ lệ khác nhau của APTES (µl )50 (a/a’), 100 (b/b’), 250 (c/c’), 500 (d/d’), và 800 (e/e’)

Bảng 3.7. Kích thước hạt của mẫu HMSN-NH2 tại các tỉ lệ APTES

STT Mẫu Thể tích APTES Kích thước hạt

(µl) (nm)

1 50 138,0 ± 0,4 HMSN-NH2-50

2 100 144,0 ± 0,5 HMSN-NH2-100

103

3 250 148,0 ± 0,4 HMSN-NH2-250

4 500 154,0 ± 0,9 HMSN-NH2-500

5 800 151,0 ± 1,0 HMSN-NH2-800

Nano silica cấu trúc rỗng ban đầu (HMSN) được biến tính bề mặt với nhóm

amin thông qua phản ứng với (3-aminopropyl)-triethoxysilane. Lượng nhóm amin

trên bề mặt hạt HMSN-NH2 được xác định bằng cách dùng ninhydrin phản ứng với

nhóm –NH2 tạo thành phức màu hồng đặc trưng. Sau đó tiến hành dùng quang phổ

UV-Vis để định lượng nhóm –NH2 trên bề mặt. Dựa vào Đồ thị 3.25 cho thấy lượng

nhóm amin tăng theo chiều tăng thể tích của APTES và tại thể tích APTES là 500 µl

thì lượng nhóm amin được gắn nhiều nhất 50 µmol/gram hạt HMSN-NH2-500.

Đồ thị 3.25. Tổng lượng nhóm amin (µg/100mg hạt HMSN-NH2) tại các tỉ lệ khác nhau của APTES

Điện tích bề mặt của tất cả các hạt nano silica cấu trúc rỗng và biến tính được

thể hiện bằng thế zeta trong Đồ thị 3.26. Khi thế zeta lớn thì lực đẩy tĩnh điện giữa

các hạt càng tăng, kết quả là giảm sự kết tụ giữa các hạt và cải thiện độ bền, độ phân

+ mang điện

tán của hạt. Thế zeta của HMSN âm do điện tích âm của nhóm hydroxyl trên bề mặt.

Đối với các mẫu HMSN-NH2 do các nhóm amin bị proton hóa thành NH3

tích dương nên sẽ làm bớt điện tích âm trên bề mặt silica và tăng đến dương điện theo

chiều tăng thể tích của APTES, tương ứng với sự tăng lượng nhóm amin được biến

tính trên bề mặt. Điện tích dương cao nhất được tìm thấy tại thể tích APTES là 500

µl tương ứng với thế zeta là +7,27 mV, điều này phù hợp với kết quả xác định lượng

104

nhóm NH2 trên bề mặt và có thể khẳng định nhóm amin được biến tính thành công

[203]. Mặt khác như đã giải thích khi quan sát ảnh TEM thể hiện trong hình 3.20,

giữa các hạt không có hiện tượng kết tụ mặc dù giá trị tuyệt đối thế zeta các hạt

HMSN-NH2 rất thấp so với thế trị thế zeta để hệ bền |30 mV|. Ngoài ra, các hạt nano

silica có bề mặt được biến tính với các nhóm amin sẽ làm tăng giá trị PZC của hạt

tăng từ 2,1 lên đến 5,1; 6,5 và 7,2 tùy vào lượng nhóm amin [156].

Đồ thị 3.26. Thế zeta của HMSN và HMSN-NH2 tại các tỉ lệ khác nhau của APTES

Nhóm –NH2 cũng được đánh giá thông qua phân tích nhiệt khối lượng thể

hiện qua Đồ thị 3.27. So với HMSN thì các mẫu được biến tính bề mặt có độ giảm

khối lượng cao hơn do sự phân hủy các nhóm chức được biến tính trên bề mặt. Cụ

thể đối với HMSN, độ giảm khối lượng tương ứng là 17,38 % trong khi HMSN-NH2-

500 được biến tính với lượng APTES cao nhất là 23,75 %, như vậy độ giảm 5,37 %

là khối lượng nhóm NH2 bị phân hủy.

Đồ thị 3.27. Giản đồ phân tích nhiệt của HMSN và HMSN-NH2 tại các tỉ lệ khác nhau của APTES

105

Đồ thị 3.28. Đường đẳng nhiệt hấp phụ-khử hấp phụ N2 của HMSN và HMSN-NH2 tại các tỉ lệ khác nhau của APTES

Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của APTES được chức hóa lên

bề mặt HMSN được thể hiện trong Đồ thị 3.28. Đối với mẫu HMSN, HMSN-NH2-

50 và HMSN-NH2-100 tức là hạt nano silica cấu trúc rỗng ban đầu và hai mẫu được

biến tính với lượng APTES thấp thì đường đẳng nhiệt thuộc loại IV, đường trễ kiểu

H4 (theo phân loại của IUPAC) [193]. Cả ba loại đều có hiện tượng ngưng tụ mao

quản sớm hơn (tại áp suất tương đối khoảng 0,42) so với các mẫu còn lại, điều này

chứng tỏ vật liệu tạo thành có cấu trúc mao quản. Đối với ba mẫu còn lại thì đường

đẳng nhiệt thuộc loại I, tuy nhiên hình dạng vòng trễ thể hiện không rõ lắm, có thể là

loại H2 [204], phân tích t-plot cho thấy ba mẫu HMSN-NH2 này cũng có cấu trúc

mao quản [205]. Như vậy có thể kết luận rằng sau khi biến tính bề mặt với nhóm

amin, các hạt nano HMSN-NH2 tạo thành với các lượng thể tích APTES khác nhau

vẫn giữ cấu trúc mao quản như các vật liệu nano silica rỗng HMSN ban đầu. Ngoài

ra, các mẫu được biến tính bề mặt với nhóm NH2 có diện tích bề mặt thấp hơn so với

mẫu HMSN ban đầu. Theo chiều tăng thể tích của APTES tức lượng nhóm NH2 trên

bề mặt càng tăng thì diện tích bề mặt các mẫu đều tăng, kết quả này phù hợp với

nghiên cứu của Oliveira và cộng sự [156]. Điều này có thể giải thích khi sử dụng

phương pháp hấp phụ - khử hấp phụ khí N2, lượng khí N2 không những bị hấp phụ

vào các lỗ rỗng bên trong cấu trúc, các lỗ mao quản trên lớp vỏ mà còn hấp phụ vật

lý trên bề mặt các nhóm amin bằng lực hút van der Waals dẫn đến lượng khí hấp phụ

106

tăng, kết quả diện tích bề mặt tăng. Ngoài ra dựa vào Đồ thị 3.29 nhận thấy mẫu

HMSN-NH2-500 có diện tích bề mặt lớn nhất so với các mẫu biến tính với nhóm amin

còn lại.

Đồ thị 3.29. Diện tích bề mặt (B) của HMSN và HMSN-NH2 tại các tỉ lệ khác nhau của APTES

Mặt khác, phương pháp phổ hồng ngoại được sử dụng để đánh giá cấu trúc của

các hạt HMSN-NH2 tạo thành, tiến hành đo phổ hồng ngoại mẫu có hàm lượng nhóm

amin thấp nhất HMSN-NH2-50. Quan sát Hình 3.20 nhận thấy cả hai mẫu có xuất

hiện dải hấp phụ từ 3300 - 3500 cm-1 do nhóm –OH, tại 1100 cm-1 là tín hiệu của Si-

O-Si, H2O (1640 cm-1) và Si-OH (973 cm-1), điều này chứng tỏ sự có mặt của silicon.

Ngoài ra, xuất hiện các peak hấp phụ mới tại số sóng 2910, 2850 và 1470 cm-1 là tín

hiệu dao động kép và dao động uốn C-H của nhóm aminopropyl, nhóm amin cũng

được xác định thông qua peak hấp phụ yếu tại 1542 cm-1, thuộc loại dao động uốn

của nhóm NH2. Kết quả FTIR chứng minh được đã biến tính thành công NH2 trên bề

mặt silica [206-208].

Hình 3.20. Phổ hồng ngoại của HMSN a) và HMSN- NH2-50 b)

107

Đặc biệt, để có thể khẳng định một cách chính xác đã biến tính nhóm amin

trên bề mặt HMSN thành công, tiến hành đo phổ XPS với mẫu có hàm lượng nhóm

amin thấp nhất HMSN-NH2-50. Kết quả được thể hiện trong Hình 3.21, so với phổ

XPS của HMSN khi được quét tổng quát thì có xuất hiện thêm nguyên tử N (400 eV).

Khi được quét với độ phân giải cao C 1s (bên trái) có hai peak tương ứng với liên kết

+) tại 401,3 eV [209,

C-C và C-N tại 284,6 eV và 286,1 eV. Riêng đối với peak N 1s cũng có 2 thành phần

đó là nhóm amin (-NH2) tại 399,5 eV và nhóm ammonium (NH4

210]. Như vậy có thể khẳng định rằng đã chức hóa thành công nhóm amin trên bề

mặt HMSN.

Hình 3.21. Phổ XPS của HMSN-NH2-500 khi quét tổng quát và độ phân giải cao của O 1s, N 1s, Si 2s và Si 2p

3.6. Kết quả biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với monomethoxyl

polyethylene glycol (mPEG)

Vật liệu nano sau khi vào trong cơ thể, do sự hấp phụ protein không đặc hiệu

và sự hấp thu tế bào dẫn đến sự giải phóng nhanh các vật liệu này khỏi cơ thể. Các

nghiên cứu trước đây đã khẳng định rằng các chất mang nano được biến tính với poly

(ethylene glycol) sẽ hình thành các lớp nước trên bề mặt chất mang nano, ngăn chặn

sự hấp phụ và nhận biết protein do đó kéo dài thời gian lưu thông của các chất mang

nano trong cơ thể và sau đó là hướng đích thụ động thông qua hiệu ứng tăng tính

thấm và duy trì (EPR) [211, 212]. Do đó, tạo nên hệ chất mang hiệu quả, tiến hành

biến tính bề mặt hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN với polymer poly (ethylene

108

glycol). Đặc biệt, các polymer này giữ vai trò quan trọng trong việc như là các nắp

đậy các lỗ mao quản để hạn chế thuốc bị rò rỉ từ lỗ rỗng lớn bên trong cấu trúc hạt

HMSN [213] .

3.6.1. Hoạt hóa monomethoxyl polyethylene glycol (mPEG) bằng 4-Nitrophenyl

chloroformate (NPC)

Kết quả phân tích phổ hấp thụ hồng ngoại của mẫu mPEG sau khi biến tính

bằng tác nhân p-nitrophenyl chloroformate (Hình 3.22) cho thấy, phổ hấp thu có tín

hiệu hấp thu tại 2888 cm-1, 1469 cm-1 và 1111 cm-1 tương ứng với dao động đặc trưng

của -OCH2-CH2-, -NO2, và C-O trên phân tử mPEG [214].

Hình 3.22. Phổ hồng ngoại của mPEG-NPC

Hình 3.23. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân của mPEG-NPC

Kết quả phân tích phổ cộng hưởng từ hạt nhân 1H-NMR của mẫu mPEG-NPC

(Hình 3.23) cho thấy có tín hiệu độ dịch chuyển hóa học tại δH = 3,34 ppm của H3C-

O- (a), δH = 3,80 – 3,35 ppm của –O-CH2-CH2-OCH2- (b), δH = 3,83 – 3,82 ppm

của -O-CH2-CH2-OCOO- (c), δH = 4,46 – 4,44 ppm của -O-CH2-CH2-OCOO- (d),

109

δH = 7,47 – 7,45 ppm (e), và δH = 8,33 – 8,31 ppm (f), tất cả các tín hiệu này phù

hợp với cấu trúc của mPEG-NPC theo lý thuyết, chứng tỏ phản ứng biến tính mPEG

bằng NPC diễn ra thành công [215, 216].

3.6.2. Kết quả biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với mPEG

Quan sát ảnh SEM và TEM thể hiện qua Hình 3.24.a,b cho thấy kích thước

hình thái của các hạt thu được. Cả HMSN và HMSN-mPEG đều có hình dạng hình

cầu và không có sự thay đổi lớn về kích thước. Đặc biệt, khác với hạt HMSN khi

được phủ lớp polymer mPEG thì kết quả FE-SEM cho thấy cấu trúc rỗng của hạt.

Kích thước hạt của HMSN là 134,0 ± 0,3 nm, trong khi của HMSN-mPEG là 149,3

± 0,9 nm. Tuy nhiên, lớp vỏ của các hạt được phủ PEG tương đối dày hơn so với các

hạt rỗng ban đầu. Ngoài ra, để chứng minh sự liên hợp của các phân tử mPEG trên

các hạt HMSN, mẫu được nhuộm với dung dịch phosphotungstic axit, kết quả ảnh

TEM cho thấy lớp vỏ dày hơn trên bề mặt hạt HMSN thể hiện qua Hình 3.24.c [93,

217, 218].

Hình 3.24. Ảnh SEM (a), TEM (b)(c – nhuộm) và phân bố kích thước hạt (b’) của HMSN-mPEG.

Để xác định cấu trúc tinh thể của vật liệu, phương pháp nhiễu xạ tia X được

sử dụng, kết quả được trình bày trong Hình 3.25 cho thấy tính chất vô định hình của

các hạt silica, ngay cả sau khi đã biến tính bề mặt với mPEG. Giản đồ c và d, tín hiệu

110

đặc trưng của APTES xuất hiện tại giá trị khoảng 2θ = 14o có thể được quan sát rõ

ràng trong các nhiễu xạ của HMSN-NH2 và HMSN-mPEG, do sự biến tính của

HMSN với APTES. Đỉnh silica với cường độ thấp hơn nhiều được chồng lên với một

đỉnh APTES đặc trưng khác cũng được quan sát thấy. Hiện tượng này là hoàn toàn

phù hợp với tài liệu báo cáo trước đó [219]. Sau khi được biến tính bề mặt, phổ XRD

của HMSN-mPEG không có sự khác biệt đáng kể so với HMSN-NH2, cho thấy khi

biến tính với mPEG không có tác động đến cấu trúc của silica, các mẫu cũng được

chuẩn bị với độ tinh khiết cao, được biểu thị bằng việc không xuất hiện các đỉnh khác.

Hình 3.25. Giản đồ nhiễu xạ tia X góc rộng của HMSN (a), APTES (b), HMSN-NH2 (c), and HMSN-mPEG (d)

Hình 3.26 cho thấy phổ FT-IR của (a) HMSN-mPEG, (b) mPEG và (c) HMSN.

Sự kết hợp thành công của mPEG vào HMSN được biểu thị bằng sự hiện diện của

các peak đặc trưng của cả mPEG và HMSN trong sản phẩm cuối cùng. Các peak biểu

thị các dao động kéo dài của Si-O-Si (1089 cm-1), uốn cong và kéo dài không đối

xứng của Si-OH (973 cm-1 và 836 cm-1) được quan sát trong phổ của HMSN, mặc dù

trong phổ HMSN-mPEG, các đỉnh được chồng lấp với các tín hiệu từ lớp phủ mPEG.

Ngoài ra, một đỉnh được cho là do sự kéo dài OH của nước có trong HMSN ở 1640

cm-1 và một dải rộng khoảng 3400 cm-1 được cho là sự kéo dài OH của nhóm silanol

được quan sát thấy trong cả hai phổ [124]. Về mặt mPEG, các peak được thể hiện rõ

111

ràng: C-H kéo dài ở 2884 cm-1 và uốn cong ở 1468 cm-1. Do đó, đã biến tính thành

công mPEG lên bề mặt HMSN.

Hình 3.26. Phổ hấp thụ hồng ngoại của (a) HMSN-mPEG, (b)mPEG và (c) HMSN

Phổ XPS của HMSN-mPEG được thể hiện trong Hình 3.27: Kết quả quét tổng

quát cho thấy sự có mặt của các nguyên tố Si, O, C, N trong mẫu. Kết quả quét độ

phân giải cao (high-resolution) C 1s cho thấy: các peak tại 284,6 eV tương ứng với

liên kết C-H, và 286,1 eV tương ứng với C-OH, C-O trong (-CH2CH2-O-)n trong

mPEG [209].

Hình 3.27. Phổ XPS của HMSN-mPEG

Sự thay đổi điện tích bề mặt của HMSN sau khi biến tính với mPEG được thể

hiện trong Đồ thị 3.30. Các phân tử mPEG với các nhóm ethylene oxide có thể đóng

112

góp điện tích dương hơn cho các hạt nano [220]. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự thay

đổi thế zeta HMSN ban đầu có bề mặt mang điện tích âm -26,8 mV do Si-OH và sau

khi biến tính với mPEG thì bề mặt càng bớt âm và trở nên dương điện, giá trị thế zeta

tương ứng là 6,8 mV [82].

Đồ thị 3.30.Thế zeta của HMSN và HMSN-mPEG

Đồ thị 3.31. Giản đồ nhiệt trọng trường của mẫu HMSN, mPEG và HMSN-mPEG

Đồ thị 3.31 thể hiện các đường cong TGA của mPEG, HMSN và HMSN-

mPEG. Sự giảm khối lượng ở nhiệt độ dưới 100oC trong cả hai mẫu HMSN và

HMSN-mPEG có thể do sự bay hơi nước từ phản ứng thủy phân trong quá trình tổng

hợp. Trong khoảng nhiệt độ 100 - 800oC, độ giảm khối lượng của HMSN-mPEG là

21,2%, cao hơn nhiều so với HMSN (9,1%). Sự khác nhau về độ giảm khối lượng

này là do lượng mPEG biến tính trên bề mặt (khoảng 12,1%). Mẫu được biến tính

cũng có độ ổn định tốt hơn polymer mPEG ban đầu, phân hủy hoàn toàn khoảng

600oC. Cùng với FT-IR và Zeta, dữ liệu từ TGA đã chứng minh đươc sự phủ thành

công của mPEG lên bề mặt HMSN.

113

Từ đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của mẫu HMSN-mPEG (Đồ

thị 3.32) cho thấy: đường đẳng nhiệt hấp phụ khử hấp phụ thuộc loại IV, đường trễ

kiểu H4. Dạng đường này đặc trưng cho vật liệu có cấu trúc xốp, như vậy ngay cả

sau khi phủ mPEG, các hạt nano silica vẫn giữ được bản chất xốp của chúng. Diện

tích bề mặt của HMSN-mPEG là 527,6 m2/g, thấp hơn so với HMSN 983,7 m2/g do

mPEG có thể đã che chắn lỗ mao quản [221].

Đồ thị 3.32. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của HMSN-mPEG

3.7. Kết quả biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với Pluronic

3.7.1.Kết quả hoạt hóa Pluronic (F127) bằng 4-Nitrophenyl chloroformate

Phổ hồng ngoại của NPC-F127-OH cho kết quả tương tự như mPEG-NPC.

1 và 1111 cm-1 tương ứng với dao động đặc trưng của -OCH2-CH2-, -NO2, và C-O

Dựa vào Hình 3.28 nhận thấy phổ hấp thu có tín hiệu hấp thu tại 2888 cm-1, 1469 cm-

chứng tỏ đã tổng hợp thành công NPC-F127-OH [214].

Hình 3.28. Phổ FTIR của NPC-F127-OH

114

Hình 3.29. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân của F127-NPC

Kết quả phân tích thành phần, cấu trúc của NPC-F127-OH được thể hiện qua

phổ cộng hưởng từ hạt nhân 1H-NMR (Hình 3.29). Phổ đồ có tín hiệu độ dịch chuyển

hóa học tại δH = 3,34 ppm của HC-O- (d), δH = 3,80 – 3,35 ppm của –O-CH2-CH-

(OCH2-)(CH3) (e), δH = 3,83 – 3,82 ppm của -O-CH2-CH2-OCOO- (c), δH = 4,46 –

4,44 ppm của -O-CH2-CH2-OCOO- (c’, c”), δH = 7,47 – 7,45 ppm của (b), và δH

= 8,33 – 8,31 ppm (a), tất cả các tín hiệu này phù hợp với cấu trúc của F127-NPC

theo lý thuyết, chứng tỏ phản ứng biến tính F127 bằng NPC thành công [222, 223].

3.7.2. Kết quả biến tính bề mặt nano silica cấu trúc rỗng với Pluronic

Hình 3.30 cho thấy hình thái và kích thước hạt HMSN-F127. Các hạt HMSN-

F127 vẫn có dạng hình cầu, kết quả FE-SEM cũng cho thấy cấu trúc với một lỗ rỗng

lớn bên trong như khi phủ mPEG. Kích thước trung bình của HMSN là 134,8 ± 0,3

nm, trong khi đó HMSN được phủ F127 là 152,9 ± 0,9 nm, kích thước này tương tự

như khi phủ mPEG. Do đó có thể khẳng định kích thước hạt thay đổi không đáng kể

khi biến tính bề mặt HMSN với mPEG hay F127 với cùng một khối lượng đem phản

ứng [82]. Kết quả mẫu nhuộm với dung dịch phosphotungstic axit cho thấy lớp vỏ

dày hơn trên bề mặt hạt tương tự như HMSN-mPEG.

115

Hình 3.30. Ảnh SEM (a) và TEM (b) và phân bố kích thước hạt (b’) của HMSN-F127

Các cấu trúc tinh thể của HMSN-F127 được xác định và so sánh bằng cách sử

dụng nhiễu xạ tia X (Hình 3.31). Quan sát hình giản đồ b nhận thấy các đỉnh không

sắc nhọn đặc trưng cho tính chất vô định hình của các hạt silica. Trong nghiên cứu

trước đây về biến tính bề mặt của HMSN với mPEG đã chỉ ra phổ XRD của HMSN-

NH2 [224]. Không có sự khác biệt đáng kể giữa các mẫu XRD của HMSN và HMSN-

F127, chỉ ra rằng F127 được biến tính không ảnh hưởng đến cấu trúc của HMSN. Các

kết quả XRD cũng chỉ ra rằng các mẫu được chuẩn bị với độ tinh khiết cao do không

xuất hiện các đỉnh khác.

Hình 3.31. Giản đồ nhiễu xạ tia X góc rộng của HMSN (a), HMSN-F127 (b)

Các hạt HMSN được phủ bề mặt với F127 đã được đo phổ hồng ngoại và kết

quả được thể hiện trong Hình 3.32. FTIR của HMSN-F127 (đường c) xuất hiện tín

hiệu hấp thụ của cả hạt HMSN bởi nhóm amin (đường a) và F127 ban đầu (đường b).

Phổ FTIR của HMSN-F127 có tín hiệu tại số sóng 3300 - 3500 cm-1 và 10890 cm-1

tương ứng với các nhóm -OH và Si-O-Si trên HMSN, ngoài ra có các tín hiệu tại

116

2888 cm-1 và 1111 cm-1, tương ứng với nhóm -OCH2-CH2- trên [225, 226]. Kết quả

của phổ hồng ngoại đã chứng minh bề mặt của các hạt HMSN được bao phủ bởi

F127. Kết quả FTIR cùng với phân tích hình ảnh TEM cho thấy các hạt HMSN-F127

đã được tổng hợp thành công.

Hình 3.32. Phổ hấp thụ hồng ngoại của (a) HMSN, (b) F127 và (c) HMSN-F127

Xác định tính chất bề mặt của các hạt thuốc nano là rất quan trọng vì nó ảnh

hưởng đến tương tác của chúng với môi trường, điều này phụ thuộc vào sự kết hợp

giữa kích thước và tính chất bề mặt, cũng như độ hòa tan, độ ổn định và mức độ đào

thải của cơ thể. Điện tích bề mặt của HMSN và HMSN-F127 thể hiện trong Đồ thị

3.33, giá trị zeta lần lượt là -26,8 mV và + 6,5 mV.

Đồ thị 3.33. Thế zeta của HMSN và HMSN-F127

Sử dụng phương pháp phân tích nhiệt khối lượng TGA để xác định thành phần

tỷ lệ các chất cấu thành vật liệu thể hiện qua Đồ thị 3.34. Kết quả cho thấy lượng

117

F127 đã phủ lên bề mặt hạt nano silica cấu trúc rỗng là khoảng 20%, cao hơn so với

lượng mPEG.

Đồ thị 3.34. Giản đồ nhiệt trọng trường của F127 và HMSN-F127

Dựa vào Đồ thị 3.35 có thể thấy rằng đường đẳng nhiệt của HMSN-F127 vẫn

giữ được các đặc tính của HMSN gốc với diện tích bề mặt là 168,4 m2/g, theo phân

loại của IUPAC, các đường đẳng nhiệt thuộc loại IV và vòng trễ kiểu H2. Ngưng tụ

mao quản của HMSN-F127 ở áp suất tương đối sớm 0,42, điều này cho thấy vật liệu

có cấu trúc mao quản nhỏ đến trung bình [193]. Như vậy, F127 với khối lượng phân

tử vào khoảng 12 KDa nên có các mạch polymer dài hơn trên bề mặt HMSN, do đó

diện tích bề mặt nhỏ hơn HMSN và HMSN-mPEG.

Đồ thị 3.35. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của HMSN-F127

118

3.8. Hiệu quả nang hóa thuốc chống ung thư Doxorubicin (Dox) của các chất

mang nano HMSN, HMSN-NH2, HMSN-mPEG, HMSN-F127

Hàm lượng Dox chứa trong hệ chất mang nano được xác định bằng phương

pháp quang phổ tử ngoại khả kiến UV-Vis với bước sóng hấp thu lớn nhất ở 570 nm.

Dox tinh khiết được hòa tan trong nước khử ion với các nồng độ từ 0 - 5 µg/ml và 5

đến 50 để dựng đường chuẩn. Đồ thị biểu diễn tỉ lệ giữa nồng độ curcumin và độ hấp

thụ sẽ cho kết quả là một phương trình đường thẳng dạng y = ax + b, trong đó y là độ

hấp thụ còn x là nồng độ.

Bảng 3.8. Hiệu suất và khả năng mang thuốc Dox (DLE và DLC)

của các hệ chất mang

Hiệu suất mang Khả năng mang STT Loại chất mang thuốc Dox, DLE (%) thuốc Dox, DLC (%)

HMSN 22,70 ± 0,77 5,40 ± 0,17 1

96,86 ± 1,98 19,59 ± 0,32 HMSN-NH2-500 2

HMSN-mPEG 65,43 ± 0,74 10,40 ± 0,11 3

HMSN-F127 72,08 ± 0,09 11,09 ± 0,01 4

Hiệu suất và khả năng mang thuốc (DLE và DLC) được coi là hai yếu tố quan

trọng trong bất kỳ hệ dẫn truyền thuốc nào, vì chúng đóng vai trò trực tiếp trong hoạt

động điều trị [227]. Các hạt nano silica được tổ chức FDA cho phép ứng dụng trong

lĩnh vực y sinh do đó khả năng mang thuốc cao của HMSN là yếu tố được mong đợi

Dựa vào Bảng 3.8 nhận thấy HMSN khi mang tải thuốc Doxorubixin (Dox) có giá trị

DLE và DLC tương ứng 22,70 ± 0,77 (%) và 5,40 ± 0,17 (%). Kết quả cho thấy, hiệu

suất và khả năng mang thuốc Dox của HMSN thấp hơn so với khi mang tải dược chất

Rhodamin B (Rh), tuy nhiên vẫn cao hơn khả năng mang thuốc của hạt nano silica

xốp (PNS), điều này được thể hiện trong nghiên cứu đã được công bố [124]. Do đó,

có thể khẳng định rằng hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN với lớp vỏ cấu trúc mao

quản và đặc biệt là lỗ rỗng bên trong lớn nên đã cải thiện khả năng mang thuốc của

các hạt nano silica cấu trúc mao quản MSN.

Các mẫu nano silica cấu trúc rỗng HMSN được biến tính bề mặt với nhóm

amin, mPEG và F127, kết quả nang hóa thuốc của hệ chất mang này cho thấy hiệu

suất và khả năng mang thuốc cao hơn hạt nano silica cấu trúc rỗng ban đầu HMSN.

119

Đối với hệ chất mang HMSN-mPEG và HMSN-F127 có thể do lượng thuốc không

chỉ được chứa trong cấu trúc của hạt HMSN mà còn được chứa trong các khe được

tạo thành bởi các polymer trên bề mặt và đặc biệt các polymer này như là các nắp đậy

để hạn chế thuốc bị rò rỉ trong quá trình vận chuyển nên dẫn đến khả năng mang

thuốc cao hơn. Ngoài ra, F127 là polymer nhạy nhiệt nên quá trình nang hóa thuốc

được thực hiện ở nhiệt độ thấp (200C), tại nhiệt độ này thì các polymer F127 duỗi ra,

thuốc dễ dàng được đẩy vào bên trong lỗ rỗng bằng cách khuấy từ. Khi tăng nhiệt độ

các polymer này sẽ co cụm lại để giữ thuốc bên trong cấu trúc và trong các bề mặt

polymer do đó khả năng mang thuốc của hệ chất mang HMSN-F127 cao hơn HMSN-

mPEG, tuy nhiên thì giá trị nào cao hơn không đáng kể. Hệ chất mang HMSN-NH2

có hiệu suất và khả năng mang thuốc cao nhất (96,86 ± 1,98 % đối với DLE và 19,59

± 0,32 % đối với DLC). Sự nhảy vọt khả năng mang thuốc này có thể được giải thích

như sau: (i) thuốc được tải vào bên trong cấu trúc hạt rỗng tương tự như HMSN, (ii)

các nhóm amin giữ vai trò khóa các lỗ mao quản để hạn chế thuốc bị rò rỉ trong quá

trình vận chuyển và (iii) thuốc Dox được hấp phụ vật lý lên bề mặt các nhóm amin

bằng lực hút Van der val . Điều này đã chứng minh được vai trò như những nắp đậy

hiệu quả của F127 trên bề mặt HMSN. Hơn nữa, DLE và DLC của HMSN-mPEG đã

được thể hiện trong nội dung trước, điều đáng chú ý là cả hai giá trị DLE và DLC của

HMSN-F127 đều cao hơn HMSN-mPEG một cách rõ ràng. Như vậy có thể khẳng

định rằng các hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN có khả năng nang hóa thuốc cao

hơn các hạt nano silica cấu trúc mao quản MSN. Và đặc biệt khi được biến tính bề

mặt thì cải thiện hiệu quả khả năng tải thuốc của hạt rỗng ban đầu.

3.9. Kết quả khảo sát tốc độ phóng thích thuốc Doxorubicin của hệ chất

mang/thuốc HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox, HMSN-

F127/Dox

Đồ thị 3.36 cho thấy trong điều trị phải dùng thuốc sao cho liều dùng nằm

trong khung cửa sổ điều trị có nghĩa là lượng thuốc đưa vào phải đạt tới nồng độ cho

tác dụng dược lý nhưng không được phép gây độc hay cho tác dụng không mong

muốn. Đồ thị cũng cho thấy đường động học của thuốc tự do thể hiện sự thay đổi cao

về nồng độ thuốc hiện có từ mức độ dưới hiệu quả điều trị đến mức độ gây độc.

Ngược lại, đối với hệ dẫn truyền thuốc thì nồng độ thuốc được phóng thích nằm trong

120

phạm vi điều trị, do đó các hệ chất mang nano/thuốc hứa hẹn có hiệu quả đáng kể

[228, 229].

Đồ thị 3.36. Cửa sổ điều trị của các loại thuốc được sử dụng

Khả năng phóng thích thuốc của thuốc tự do và hệ chất mang/thuốc được khảo

sát theo thời gian tại các thời điểm 1, 3, 6, 9, 12, 24, 36, 48, 72 và 96 giờ tại pH 7,4

(mô phỏng môi trường sinh lý trong cơ thể) và ở pH axit 5,5 (để mô phỏng môi trường

khối u). Dựa vào Đồ thị 3.37 và 3.38 nhận thấy thuốc Dox được kiểm soát tốt bởi các

hệ chất mang. Điều này được thể hiện rõ tại thời gian 1 giờ đầu tiên thì có gần 40%

thuốc Dox tự do được phóng thích ra môi trường tại cả hai giá trị pH, cao hơn tất cả

lượng thuốc Dox được phóng thích ra môi trường bởi các hệ chất mang. Cụ thể đến

12 giờ thì có khoảng 40% lượng thuốc Dox được phóng thích bởi hệ chất mang/thuốc

HMSN/Dox trong môi trường pH 5,5. Riêng tại pH 7,4 thì lượng thuốc Dox được

phóng thích ra môi trường bởi hệ chất mang này thấp hơn do thuốc Dox tan tốt hơn

trong môi trường axit. Như vậy, đối với mỗi hệ chất mang/thuốc thì lượng thuốc Dox

được phóng thích tại giá trị pH 5,5 sẽ cao hơn giá trị pH 7,4.

Ngoài ra, dựa vào Đồ thị 3.38 cho thấy lượng thuốc được phóng thích từ hệ

chất mang/thuốc được tạo bởi hạt nano silica cấu trúc rỗng chưa biến tính bề mặt

HMSN luôn cao hơn các hệ chất mang được biến tính bề mặt. Điều này có thể được

giải thích do HMSN với cấu trúc lỗ rỗng bên trong lớn và lớp vỏ cấu trúc mao quản

nên lượng thuốc bị rò rỉ ra ngoài trong quá trình phóng thích thuốc. Như vậy, có thể

kết luận rằng so với các hạt HMSN ban đầu, các hệ chất mang được biến tính bề mặt

kiểm soát phóng thích thuốc tốt hơn, lượng thuốc Dox được phóng thích từ từ tra môi

trường.

121

Khảo sát khả năng phóng thích thuốc đối với hệ chất mang/thuốc HMSN-

NH2/Dox. Kết quả trong 12h đầu có khoảng 20% lượng Dox được phóng thích trong

môi trường pH 5,5 do Dox được hấp phụ trên bề mặt HMSN-NH2. Sau đó, do Dox

dễ tan trong môi trường axit nên lượng Dox được chứa sâu bên trong lỗ rỗng và lớp

vỏ cấu trúc mao quản sẽ lần lượt được phóng thích trong khoảng thời gian tiếp theo.

Tuy nhiên, nhìn chung hệ chất mang/thuốc HMSN-NH2/Dox phóng thích thuốc chậm

nhất trong môi trường pH 5,5 là do tương tác ion giữa nhóm carboxyl trong phân tử

Dox và nhóm amin trên bề mặt HMSN [230]. Hay đối với hệ chất mang/thuốc

HMSN-mPEG/Dox, lượng thuốc Dox được phóng thích một cách có kiểm soát với

20% và 33% thuốc được phóng thích tại cùng một thời điểm (lần lượt là 3 giờ và 12

giờ).

Đánh giá khả năng phóng thích thuốc của hệ phân phối thuốc HMSN-

F127/Dox,). Kết quả cho thấy, so với HMSN và mPEG thì hệ HMSN-F127 phóng

thích thuốc chậm hơn tại cùng một thời điểm. Điều này có thể được giải thích do

F127 với mạch polymer dài nên che phủ các lỗ mao quản chặt chẽ hơn. Đặc biệt,

F127 là polymer có tính nhạy nhiệt, do dó khi thực hiện thí nghiệm phóng thích thuốc

tại nhiệt độ cơ thể (37oC) thì các mạch polymer này co cụm lại trên bề mặt vật liệu

nên lượng thuốc bên trong được khuếch tán từ từ ra môi trường.

Đồ thị 3.37. Biểu đồ phóng thích thuốc của Doxorubicine theo thời gian

122

Đồ thị 3.38. Biểu đồ phóng thích thuốc của các hệ chất mang/Dox gồm HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox và HMSN-F127/Dox theo thời gian

3.10. Kết quả độc tính tế bào của chất mang nano dẫn truyền thuốc Dox

Nghiên cứu độ độc của chất mang nano là cần thiết cho một hệ dẫn truyền

thuốc. Các công bố trước đây chứng mình rằng nano silica cấu trúc mao quản và

polymer PEG, F127 có tính tương hợp sinh học và phù hợp cho dẫn truyền thuốc.

Tuy nhiên, quá trình biến tính các polymer này trên bề mặt các hạt HMSN trong

nghiên cứu sử dụng các dung môi hữu cơ do đó độ độc của hệ chất mang được đánh

giá trên cơ sở thử nghiệm hoạt tính gây độc lên tế bào ung thư gan HCC J5, kết quả

thể hiện trong Đồ thị 3.39, 3.40 và Hình 3.33. Quan sát Đồ thị 3.39 nhận thấy kết quả

sau 48 giờ tại các nồng độ từ 0 - 250 µg/L các hệ chất mang nano không độc đối với

tế bào HCC J5. Các thử nghiệm khả năng sống của tế bào khẳng định hiệu quả điều

trị bệnh ung thư của thuốc Dox với 100 % tế bào HCC J5 chết ở nồng độ 10 µg/L thể

hiện qua Đồ thị 3.40 [231]. Đặc biệt, khi thuốc Dox được nang hóa trong các chất

mang nano HMSN/Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN-mPEG/Dox và HMSN-F127/Dox

thì có độ độc giảm so với thuốc Dox đối chứng.

123

Đồ thị 3.39. Đường cong độ độc tế bào HCC J5 của các hệ chất mang

Đồ thị 3.40. Đường cong độ độc tế bào HCC J5 của các hệ chất mang – thuốc

124

Hình 3.33. Tế bào HCC J5 được xử lý bởi HMSN, HMSN-NH2, HMSN-mPEG, HMSN-F127 tại các nồng độ khác nhau; Dox, HMSN-NH2/Dox, HMSN- mPEG/Dox, HMSN-F127/Dox tại các nồng độ Dox khác nhau

125

CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ

4.1. Kết luận

Hạt nano silica cấu trúc rỗng được tổng hợp thành công trải qua ba giai đoạn:

(i) tổng hợp nano silica rắn giữ vai trò là lõi, (ii) phủ lớp vỏ có cấu trúc mao quản lên

lõi rắn và (iii) xử lý lõi để tạo thành cấu trúc rỗng. Để kiểm soát kích thước hạt rỗng

đã tiến hành kiểm soát kích thước lõi, quá trình phủ vỏ và xử lý lõi. Các hạt nano tạo

thành có dạng hình cầu và có độ đồng nhất cao. Hạt HMSN có diện tích bề mặt

983,7m2/g, hiệu suất và khả năng mang thuốc có DLE và DLC tương ứng 22,70 ±

0,77 (%) và 5,40 ± 0,17 (%).

Đã biến tính thành công bề mặt hạt nano silica cấu trúc rỗng bằng nhóm amin

thông qua việc khảo sát với lượng khác nhau của APTES. Phổ XPS được sử dụng để

chứng minh việc biến tính bề mặt HMSN với nhóm amin thành công. Lượng amin

được biến tính trên bề mặt tương ứng với mẫu HMSN-NH2-500 có hiệu suất và khả

năng mang thuốc cao nhất, giá trị DLE và DLC tương ứng 96,86 ± 1,98 % và 19,59

± 0,32 %. Kết quả phóng thích thuốc của hệ chất mang/thuốc HMSN-NH2-500/Dox

chậm hơn so với HMSN/Dox.

Các kết quả phân tích cho thấy tổng hợp thành công hệ chất mang HMSN-

mPEG. Hạt tạo thành có độ đồng nhất khá cao với kích thước hạt bằng 149,3 ± 0,9

nm. Đặc biệt, sau khi được phủ mPEG trên bề mặt thì kết quả FE-SEM cho thấy lỗ

rỗng – vỏ của HMSN-mPEG. Hệ chất mang HMSN-mPEG có hiệu suất và khả năng

mang thuốc cao hơn HMSN nhưng thấp hơn so với hệ HMSN-NH2, giá trị DLE và

DLC tương ứng 65,43 ± 0,74 % và 10,40 ± 0,11 %.

Hệ chất mang HMSN-F127 được tổng hợp thành công với kích thước 152,9 ±

0,9 nm: Tương tự như HMSN-mPEG, qua kết quả FE-SEM cũng thấy được lỗ rỗng

bên trong vật liệu. Hiệu suất và khả năng mang thuốc cao hơn cả HMSN, HMSN-

mPEG nhưng vẫn thấp hơn so với HMSN-NH2, giá trị DLE và DLC tương ứng 72,08

± 0,09 % và 11,09 ± 0,01 %. Hệ chất mang có diện tích bề mặt thấp hơn các hệ còn

lại 168,4 m2/g. Lượng polymer phủ được nhiều hơn trên bề mặt HMSN (20% về khối

lượng). Đặc biệt, so với HMSN và mPEG thì hệ HMSN-F127 phóng thích thuốc

chậm hơn tại cùng một thời điểm, điều đó cho thấy khả năng phóng thích thuốc có

kiểm soát của hệ.

126

Từ các kết quả phân tích trên đã cho thấy đề tài đã hoàn thành đầy đủ các mục

tiêu đề ra: Tổng hợp thành công hạt nano silica cấu trúc rỗng HMSN với kích thước

được kiểm soát. HMSN có hiệu suất và khả năng mang thuốc cao hơn so với nano

silica cấu trúc mao quản. Nhằm hạn chế thuốc bị rò rỉ, tăng khả năng mang thuốc,

HMSN được biến tính bề mặt với nhóm amin. Để tăng tính tương hợp sinh học và

khả năng mang thuốc HMSN được biến tính bề mặt với các polymer mPEG và F127.

4.2. Kiến nghị

Do hạn chế về thời gian và một số yếu tố khác, do đó đề nghị một số nội dung

sẽ thực hiện trong giai đoạn tiếp theo:

- Tổng hợp các hạt nano silica cấu trúc rỗng với các kích thước khác nhau, kích

thước nhỏ hơn 134 nm, tiến hành đánh giá hiệu suất và khả năng mang thuốc.

- Biến tính bề mặt với các loại polymer có khối lượng phân tử khác nhau, tiến

hành đánh giá hiệu suất và khả năng mang thuốc.

- Đánh giá trên cấp độ in vivo để thấy được hiệu quả trong điều trị ung thư của

các hệ mang thuốc

127

NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN

Quá trình tổng hợp hạt HMSN gồm ba giai đoạn, tại mỗi giai đoạn thực hiện

đánh giá hình thái, kích thước, cấu trúc và diện tích bề mặt các sản phẩm tạo thành.

Kích thước hạt nano silica rắn được kiểm soát bằng cách khảo sát các yếu tố

ảnh hưởng đến kích thước hạt. Đặc biệt, lõi rắn với kích thước mong muốn được tổng

hợp bằng phương pháp đáp ứng bề mặt.

Thử nghiệm chứng minh vai trò của CTAB trong việc làm bền và định hướng

cấu trúc lớp vỏ. Giải thích cơ chế tạo thành lớp vỏ và cơ chế ăn mòn lõi rắn để tạo

thành hạt nano cấu trúc rỗng.

Các hạt HMSN được được biến tính bề mặt với nhóm amin với sự khảo sát

các lượng APTES khác nhau, kết quả ảnh TEM cho thấy giảm sự kết tụ các hạt.

Trong nghiên cứu này đã xác định được lượng amin được biến tính trên bề mặt, tương

ứng với mẫu HMSN-NH2-500 có hiệu suất và khả năng mang thuốc cao nhất.

PEG và F127 đã được biến tính thành công trên bề mặt của hệ nano silica cấu

trúc rỗng. Sau khi biến tính hệ chất mang có hiệu quả mang thuốc Dox tăng lên (5%)

và có khả năng kiểm soát phóng thích thuốc. Theo hiểu biết của nhóm thì cho đến

nay chưa có nghiên cứu về tổng hợp hệ chất mang HMSN-F127.

128

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

1. Thi Ngoc Tram Nguyen, Diem Huong Nguyen Tran, Long Giang Bach,

Tran Hoang Du Truong, Ngoc Thuy Trang Le, Dai Hai Nguyen, “Surface

PEGylation of hollow mesoporous silica nanoparticles via aminated intermediate”,

Progress in Natural Science: Materials International Vol 29 (6), 2019, pp 612-616,

Tạp chí quốc tế (ISI).

2. Ngoc Tram Nguyen Thi, Linh Phuong Pham Tran, Ngoc Thuy Trang Le,

Minh Tri Cao, The Nam Tran, Ngoc Tung Nguyen, Cong Hao Nguyen, Dai Hai

Nguyen, Van Thai Than, Quang Tri Le and Nguyen Quang Trung, “The Engineering

of Porous Silica and Hollow Silica Nanoparticles to Enhance Drug-loading

Capacity”, Processes, Vol 7(11), 2019, Tạp chí quốc tế (ISI).

3. Thi Ngoc Tram Nguyen, Ngoc Thuy Trang Le, Ngoc Hoi Nguyen, Bui Thi

Kim Ly, Trinh Duy Nguyen, Dai-Hai Nguyen, “Aminated hollow mesoporous silica

nanoparticles as an enhanced loading and sustained releasing carrier for doxorubicin

delivery”, Microporous and Mesoporous Materials, Vol 309 (2020), Tạp chí quốc tế.

4. Ngoc Tram Nguyen Thi, Dai Hai Nguyen, “Hollow mesoporous silica

nanoparticles fabrication for anticancer drug delivery”, Vietnam Journal of Science

and Technology Vol 58 (2020), pp 152-158, Tạp chí trong nước.

5. Ngoc Tram Nguyen Thi, Ngoc Hoang Le, Uyen Vy Vo, Cuu Khoa Nguyen

and Dai Hai Nguyen, “Engineering of hollow mesoporous silica nanoparticles

enhancing drug-loading capacity”, The 7th International Conference in Viet Nam on

the Development of Biomedical Engineering (BME7), pp 197-201, Hội nghị quốc tế.

129

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] F. Chen, H. Hong, S. Shi, S. Goel, H.F. Valdovinos, R. Hernandez, C.P. Theuer,

T.E. Barnhart, W. Cai, Engineering of hollow mesoporous silica nanoparticles for

remarkably enhanced tumor active targeting efficacy, Scientific Reports, 4 (2014) 1-

10.

[2] S. Wu, X. Huang, X. Du, pH-and redox-triggered synergistic controlled release

of a ZnO-gated hollow mesoporous silica drug delivery system, Journal of Materials

Chemistry B, 3 (2015) 1426-1432.

[3] K.K. Cotí, M.E. Belowich, M. Liong, M.W. Ambrogio, Y.A. Lau, H.A. Khatib,

J.I. Zink, N.M. Khashab, J.F. Stoddart, Mechanised nanoparticles for drug delivery,

Nanoscale, 1 (2009) 16-39.

[4] S. Shi, F. Chen, W. Cai, Biomedical applications of functionalized hollow

mesoporous silica nanoparticles: focusing on molecular imaging, Nanomedicine, 8

(2013) 2027-2039.

[5] W.O. Roberts, H. Bergna, Colloidal silica: fundamentals and applications, CRC

Taylor and Francis, Boca Raton, (2006).

[6] P.K. Jal, S. Patel, B.K. Mishra, Chemical modification of silica surface by

immobilization of functional groups for extractive concentration of metal ions,

Talanta, 62 (2004) 1005-1028.

[7] H. Gao, J. Yang, Nanoscale silicon dioxide prepared by sol-gel process, Modern

Applied Science, 4 (2010) 152.

[8] I.A. Rahman, V. Padavettan, Synthesis of silica nanoparticles by sol-gel: size-

dependent properties, surface modification, and applications in silica-polymer

nanocomposites—a review, Journal of Nanomaterials, 2012 (2012).

[9] K.J. Klabunde, R.M. Richards, Nanoscale materials in chemistry, John Wiley &

Sons, (2009).

[10] W. Stöber, A. Fink, E. Bohn, Controlled growth of monodisperse silica spheres

in the micron size range, Journal of Colloid and Interface Science, 26 (1968) 62-69.

[11] T. Matsoukas, E. Gulari, Dynamics of growth of silica particles from ammonia-

catalyzed hydrolysis of tetra-ethyl-orthosilicate, Journal of Colloid and Interface

Science, 124 (1988) 252-261.

130

[12] G. Bogush, M. Tracy, C. Zukoski Iv, Preparation of monodisperse silica

particles: control of size and mass fraction, Journal of Non-crystalline Solids, 104

(1988) 95-106.

[13] G. Bogush, C. Zukoski Iv, Studies of the kinetics of the precipitation of uniform

silica particles through the hydrolysis and condensation of silicon alkoxides, Journal

of Colloid and Interface Science, 142 (1991) 1-18.

[14] V. Masalov, N. Sukhinina, E. Kudrenko, G. Emelchenko, Mechanism of

formation and nanostructure of Stöber silica particles, Nanotechnology, 22 (2011)

275718.

[15] Y.A. Attia, Sol-gel processing and applications, Springer Science & Business

Media, (2012).

[16] D. Ficai, A.M. Grumezescu, Nanostructures for novel therapy: synthesis,

characterization and applications, Elsevier, (2017).

[17] T. Matsoukas, E. Gulari, Monomer-addition growth with a slow initiation step:

a growth model for silica particles from alkoxides, Journal of Colloid and Interface

Science, 132 (1989) 13-21.

[18] M. Boutonnet, J. Kizling, P. Stenius, G. Maire, The preparation of monodisperse

colloidal metal particles from microemulsions, Colloids and Surfaces, 5 (1982) 209-

225.

[19] M.A. Malik, M.Y. Wani, M.A. Hashim, Microemulsion method: A novel route

to synthesize organic and inorganic nanomaterials: 1st Nano Update, Arabian

journal of Chemistry, 5 (2012) 397-417.

[20] M. Sharma, D. Shah, Introduction to macro-and microemulsions, ACS

Publications, (1985).

[21] T.F. Tadros, Emulsion science and technology: a general introduction, Emulsion

science and technology, 1 (2009) 1-55.

[22] M. Soleimani Zohr Shiri, W. Henderson, M.R. Mucalo, A Review of The Lesser-

Studied Microemulsion-Based Synthesis Methodologies Used for Preparing

Nanoparticle Systems of The Noble Metals, Os, Re, Ir and Rh, Materials, 12 (2019)

1896.

[23] T. Hussain, R. Batool, Microemulsion route for the synthesis of nano-structured

catalytic materials, Properties and Uses of Microemulsions, 13 (2017).

131

[24] T. Tan, S. Liu, Y. Zhang, M.-Y. Han, S. Selvan, Microemulsion preparative

methods (overview), (2011).

[25] K. Osseo-Asare, F. Arriagada, Preparation of SiO2 nanoparticles in a non-ionic

reverse micellar system, Colloids and Surfaces, 50 (1990) 321-339.

[26] F. Arriagada, K. Osseo-Asare, Synthesis of nanosize silica in a nonionic water-

in-oil microemulsion: effects of the water/surfactant molar ratio and ammonia

concentration, Journal of Colloid and Interface Science, 211 (1999) 210-220.

[27] S.-J. Park, Y.-J. Kim, S.-J. Park, Size-dependent shape evolution of silica

nanoparticles into hollow structures, Langmuir, 24 (2008) 12134-12137.

[28] F. Venditti, R. Angelico, G. Palazzo, G. Colafemmina, A. Ceglie, F. Lopez,

Preparation of nanosize silica in reverse micelles: Ethanol produced during TEOS

hydrolysis affects the microemulsion structure, Langmuir, 23 (2007) 10063-10068.

[29] Y. Chen, H.-R. Chen, J.-L. Shi, Construction of homogenous/heterogeneous

hollow mesoporous silica nanostructures by silica-etching chemistry: principles,

synthesis, and applications, Accounts of chemical research, 47 (2014) 125-137.

[30] X. Fang, C. Chen, Z. Liu, P. Liu, N. Zheng, A cationic surfactant assisted

selective etching strategy to hollow mesoporous silica spheres, Nanoscale, 3 (2011)

1632-1639.

[31] Y. Chen, H. Chen, L. Guo, Q. He, F. Chen, J. Zhou, J. Feng, J. Shi, Hollow/rattle-

type mesoporous nanostructures by a structural difference-based selective etching

strategy, ACS nano, 4 (2010) 529-539.

[32] D. Mahony, A. Cavallaro, K. Mody, L. Xiong, T. Mahony, S. Qiao, N. Mitter,

In vivo delivery of bovine viral diahorrea virus, E2 protein using hollow mesoporous

silica nanoparticles, Nanoscale, 6 (2014) 6617-6626.

[33] Y. Zhang, C.Y. Ang, M. Li, S.Y. Tan, Q. Qu, Z. Luo, Y. Zhao, Polymer-coated

hollow mesoporous silica nanoparticles for triple-responsive drug delivery, ACS

applied materials & interfaces, 7 (2015) 18179-18187.

[34] Y. Feng, N. Panwar, D.J.H. Tng, S.C. Tjin, K. Wang, K.-T. Yong, The

application of mesoporous silica nanoparticle family in cancer theranostics,

Coordination Chemistry Reviews, 319 (2016) 86-109.

[35] S.-H. Wu, C.-Y. Mou, H.-P. Lin, Synthesis of mesoporous silica nanoparticles,

Chemical Society Reviews, 42 (2013) 3862-3875.

132

[36] Y. Li, J. Shi, Hollow‐structured mesoporous materials: chemical synthesis,

functionalization and applications, Advanced Materials, 26 (2014) 3176-3205.

[37] J. Dou, H.C. Zeng, Targeted synthesis of silicomolybdic acid (keggin acid) inside

mesoporous silica hollow spheres for Friedel–Crafts alkylation, Journal of the

American Chemical Society, 134 (2012) 16235-16246.

[38] J. Shi, On the synergetic catalytic effect in heterogeneous nanocomposite

catalysts, Chemical Reviews, 113 (2013) 2139-2181.

[39] J. Hu, M. Chen, X. Fang, L. Wu, Fabrication and application of inorganic

hollow spheres, Chemical Society Reviews, 40 (2011) 5472-5491.

[40] J. Lee, S.M. Kim, I.S. Lee, Functionalization of hollow nanoparticles for

nanoreactor applications, Nano Today, 9 (2014) 631-667.

[41] B.T. Holland, C.F. Blanford, A. Stein, Synthesis of macroporous minerals with

highly ordered three-dimensional arrays of spheroidal voids, Science, 281 (1998)

538-540.

[42] Y. Lu, J. McLellan, Y. Xia, Synthesis and crystallization of hybrid spherical

colloids composed of polystyrene cores and silica shells, Langmuir, 20 (2004) 3464-

3470.

[43] B. Tan, S.E. Rankin, Dual latex/surfactant templating of hollow spherical silica

particles with ordered mesoporous shells, Langmuir, 21 (2005) 8180-8187.

[44] H. Li, C.-S. Ha, I. Kim, Facile fabrication of hollow silica and titania

microspheres using plasma-treated polystyrene spheres as sacrificial templates,

Langmuir, 24 (2008) 10552-10556.

[45] G. Zhu, S. Qiu, O. Terasaki, Y. Wei, Polystyrene bead-assisted self-assembly of

microstructured silica hollow spheres in highly alkaline media, Journal of the

American Chemical Society, 123 (2001) 7723-7724.

[46] X. Sun, Y. Li, Colloidal carbon spheres and their core/shell structures with

noble‐metal nanoparticles, Angewandte Chemie International Edition, 43 (2004)

597-601.

[47] Y. Zhu, Y. Fang, S. Kaskel, Folate-conjugated Fe3O4@ SiO2 hollow

mesoporous spheres for targeted anticancer drug delivery, The Journal of Physical

Chemistry C, 114 (2010) 16382-16388.

133

[48] G. Büchel, K.K. Unger, A. Matsumoto, K. Tsutsumi, A novel pathway for

synthesis of submicrometer‐size solid core/mesoporous shell silica spheres,

Advanced Materials, 10 (1998) 1036-1038.

[49] W. Zhao, M. Lang, Y. Li, L. Li, J. Shi, Fabrication of uniform hollow

mesoporous silica spheres and ellipsoids of tunable size through a facile hard-

templating route, Journal of Materials Chemistry, 19 (2009) 2778-2783.

[50] P.A. Williamson, P.J. Blower, M.A. Green, Synthesis of porous hollow silica

nanostructures using hydroxyapatite nanoparticle templates, Chemical

Communications, 47 (2011) 1568-1570.

[51] W. Liu, X. Huang, H. Wei, K. Chen, J. Gao, X. Tang, Facile preparation of

hollow crosslinked polyphosphazene submicrospheres with mesoporous shells,

Journal of Materials Chemistry, 21 (2011) 12964-12968.

[52] M. Fujiwara, K. Shiokawa, Y. Tanaka, Y. Nakahara, Preparation and formation

mechanism of silica microcapsules (hollow sphere) by water/oil/water interfacial

reaction, Chemistry of Materials, 16 (2004) 5420-5426.

[53] D. Niu, Z. Ma, Y. Li, J. Shi, Synthesis of core− shell structured dual-mesoporous

silica spheres with tunable pore size and controllable shell thickness, Journal of the

American Chemical Society, 132 (2010) 15144-15147.

[54] L. Guo, F. Liang, X. Wen, S. Yang, L. He, W. Zheng, C. Chen, Q. Zhong,

Uniform magnetic chains of hollow cobalt mesospheres from one‐pot synthesis and

their assembly in solution, Advanced Functional Materials, 17 (2007) 425-430.

[55] X.W. Lou, L.A. Archer, Z. Yang, Hollow micro‐/nanostructures: Synthesis and

applications, Advanced Materials, 20 (2008) 3987-4019.

[56] Q. Zhang, W. Wang, J. Goebl, Y. Yin, Self-templated synthesis of hollow

nanostructures, Nano Today, 4 (2009) 494-507.

[57] M. Pérez‐Lorenzo, B. Vaz, V. Salgueirino, M.A. Correa‐Duarte, Hollow‐Shelled

Nanoreactors Endowed with High Catalytic Activity, Chemistry–A European

Journal, 19 (2013) 12196-12211.

[58] N. Mizoshita, T. Tani, S. Inagaki, Syntheses, properties and applications of

periodic mesoporous organosilicas prepared from bridged organosilane precursors,

Chemical Society Reviews, 40 (2011) 789-800.

134

[59] S.L. Burkett, S.D. Sims, S. Mann, Synthesis of hybrid inorganic–organic

mesoporous silica by co-condensation of siloxane and organosiloxane precursors,

Chemical Communications, (1996) 1367-1368.

[60] M. Roca, A.J. Haes, Silica− void− gold nanoparticles: Temporally stable

surface-enhanced raman scattering substrates, Journal of The American Chemical

Society, 130 (2008) 14273-14279.

[61] S.M. Alahmadi, S. Mohamad, M. Jamil Maah, Preparation of organic-inorganic

hybrid materials based on MCM-41 and its applications, Advances in Materials

Science and Engineering, 2013 (2013).

[62] T. Kimura, S. Saeki, Y. Sugahara, K. Kuroda, Organic modification of FSM-

type mesoporous silicas derived from kanemite by silylation, Langmuir, 15 (1999)

2794-2798.

[63] O. Tacar, P. Sriamornsak, C.R. Dass, Doxorubicin: an update on anticancer

molecular action, toxicity and novel drug delivery systems, Journal of Pharmacy and

Pharmacology, 65 (2013) 157-170.

[64] M.L. Tan, P.F. Choong, C.R. Dass, Review: doxorubicin delivery systems based

on chitosan for cancer therapy, The Journal of Pharmacy and Pharmacology, 61

(2009) 131-142.

[65] M. Mobaraki, A. Faraji, M. Zare, P. Dolati, M. Ataei, H.D. Manshadi, Molecular

mechanisms of cardiotoxicity: a review on major side-effect of doxorubicin, Indian

Journal of Pharmaceutical Sciences, 79 (2017) 335-344.

[66] W.H. Organization, WHO model list of essential medicines: 17th list, March

2011, (2011).

[67] X. Zhao, M. Harris, Novel degradable poly (ethylene glycol) esters for drug

delivery, ACS Publications, (1997).

[68] S. Zalipsky, J.M. Harris, Introduction to chemistry and biological applications

of poly (ethylene glycol), ACS Publications, (1997).

[69] F.M. Veronese, G. Pasut, PEGylation, successful approach to drug delivery,

Drug discovery today, 10 (2005) 1451-1458.

[70] G. Karlström, O. Engkvist, Theory of poly (ethylene glycol) in solution, ACS

Publications, (1997).

135

[71] M.D. Bentley, M.J. Roberts, J.M. Harris, Reductive amination using poly

(ethylene glycol) acetaldehyde hydrate generated in situ: applications to chitosan

and lysozyme, Journal of Pharmaceutical Sciences, 87 (1998) 1446-1449.

[72] L. Yang, P. Alexandridis, Physicochemical aspects of drug delivery and release

from polymer-based colloids, Current Opinion In Colloid & Interface Science, 5

(2000) 132-143.

[73] E. Russo, C. Villa, Poloxamer Hydrogels for Biomedical Applications,

Pharmaceutics, 11 (2019) 671.

[74] E. Ruel-Gariepy, J.-C. Leroux, In situ-forming hydrogels—review of

temperature-sensitive systems, European Journal of Pharmaceutics and

Biopharmaceutics, 58 (2004) 409-426.

[75] A. Teotia, H. Sami, A. Kumar, Thermo-responsive polymers: structure and

design of smart materials, Switchable and responsive surfaces and materials for

biomedical applications, Elsevier, (2015), pp. 3-43.

[76] W. Zhang, K. Gilstrap, L. Wu, R.B. KC, M.A. Moss, Q. Wang, X. Lu, X. He,

Synthesis and characterization of thermally responsive pluronic F127− chitosan

nanocapsules for controlled release and intracellular delivery of small molecules,

ACS Nano, 4 (2010) 6747-6759.

[77] Z. Zeng, Z. Peng, L. Chen, Y. Chen, Facile fabrication of thermally responsive

Pluronic F127-based nanocapsules for controlled release of doxorubicin

hydrochloride, Colloid and Polymer Science, 292 (2014) 1521-1530.

[78] T.T.C. Nguyen, C.K. Nguyen, T.H. Nguyen, N.Q. Tran, Highly lipophilic

pluronics-conjugated polyamidoamine dendrimer nanocarriers as potential delivery

system for hydrophobic drugs, Materials Science and Engineering: C, 70 (2017) 992-

999.

[79] J.D. Kim, Y.J. Jung, C.H. Woo, Y.C. Choi, J.S. Choi, Y.W. Cho, Thermo-

responsive human α-elastin self-assembled nanoparticles for protein delivery,

Colloids and Surfaces B: Biointerfaces, 149 (2017) 122-129.

[80] Y. Zhu, J. Shi, H. Chen, W. Shen, X. Dong, A facile method to synthesize novel

hollow mesoporous silica spheres and advanced storage property, Microporous and

Mesoporous Materials, 84 (2005) 218-222.

136

[81] S.B. Kadali, N. Soultanidis, M.S. Wong, Assembling colloidal silica into porous

hollow microspheres, Topics in Catalysis, 49 (2008) 251-258.

[82] J. Yang, J. Lee, J. Kang, K. Lee, J.-S. Suh, H.-G. Yoon, Y.-M. Huh, S. Haam,

Hollow silica nanocontainers as drug delivery vehicles, Langmuir, 24 (2008) 3417-

3421.

[83] Q. Zhang, J. Ge, J. Goebl, Y. Hu, Z. Lu, Y. Yin, Rattle-type silica colloidal

particles prepared by a surface-protected etching process, Nano Research, 2 (2009)

583-591.

[84] A. Esmaeili, F. Pourkhodabakhshi, Loading Metformin/Nettle Extract Lamium

album L. subsp. Crinitum in Porous Hollow Silica Nanoparticle Coated by the Layer-

by-Layer Method, Silicon, 12 (2020) 521-534.

[85] Y. Zhu, Y. Fang, L. Borchardt, S. Kaskel, PEGylated hollow mesoporous silica

nanoparticles as potential drug delivery vehicles, Microporous and Mesoporous

Materials, 141 (2011) 199-206.

[86] H. Guo, H. Qian, S. Sun, D. Sun, H. Yin, X. Cai, Z. Liu, J. Wu, T. Jiang, X. Liu,

Hollow mesoporous silica nanoparticles for intracellular delivery of fluorescent dye,

Chemistry Central Journal, 5 (2011) 1.

[87] T. Wang, F. Chai, Q. Fu, L. Zhang, H. Liu, L. Li, Y. Liao, Z. Su, C. Wang, B.

Duan, Uniform hollow mesoporous silica nanocages for drug delivery in vitro and in

vivo for liver cancer therapy, Journal of Materials Chemistry, 21 (2011) 5299-5306.

[88] Z. Deng, Z. Zhen, X. Hu, S. Wu, Z. Xu, P.K. Chu, Hollow chitosan–silica

nanospheres as pH-sensitive targeted delivery carriers in breast cancer therapy,

Biomaterials, 32 (2011) 4976-4986.

[89] W. Fang, S. Tang, P. Liu, X. Fang, J. Gong, N. Zheng, Pd nanosheet‐covered

hollow mesoporous silica nanoparticles as a platform for the chemo‐photothermal

treatment of cancer cells, Small, 8 (2012) 3816-3822.

[90] A. Yildirim, M. Bayindir, A porosity difference based selective dissolution

strategy to prepare shape-tailored hollow mesoporous silica nanoparticles, Journal

of Materials Chemistry A, 3 (2015) 3839-3846.

[91] W. Fang, L. Ma, J. Zheng, C. Chen, Fabrication of silver-loaded hollow

mesoporous aluminosilica nanoparticles and their antibacterial activity, Journal of

Materials Science, 49 (2014) 3407-3413.

137

[92] P. Qiu, K. Kang, K. Kim, W. Li, M. Cui, J. Khim, Facile synthesis of uniform

yolk–shell structured magnetic mesoporous silica as an advanced photo-Fenton-like

catalyst for degrading rhodamine B, RSC Advances, 5 (2015) 96201-96204.

[93] X. Teng, S. Cheng, R. Meng, S. Zheng, L. Yang, Q. Ma, W. Jiang, J. He, A facile

way for fabricating PEGylated hollow mesoporous silica nanoparticles and their

drug delivery application, Journal of Nanoscience and Nanotechnology, 15 (2015)

3773-3779.

[94] H. Geng, Y. Zhao, J. Liu, Y. Cui, Y. Wang, Q. Zhao, S. Wang, Hollow

mesoporous silica as a high drug loading carrier for regulation insoluble drug

release, International Journal of Pharmaceutics, 510 (2016) 184-194.

[95] J. Liu, Z. Luo, J. Zhang, T. Luo, J. Zhou, X. Zhao, K. Cai, Hollow mesoporous

silica nanoparticles facilitated drug delivery via cascade pH stimuli in tumor

microenvironment for tumor therapy, Biomaterials, 83 (2016) 51-65.

[96] Y. Li, N. Li, W. Pan, Z. Yu, L. Yang, B. Tang, Hollow mesoporous silica

nanoparticles with tunable structures for controlled drug delivery, ACS Applied

Materials & Interfaces, 9 (2017) 2123-2129.

[97] Q. Zhao, S. Wang, Y. Yang, X. Li, D. Di, C. Zhang, T. Jiang, S. Wang,

Hyaluronic acid and carbon dots-gated hollow mesoporous silica for redox and

enzyme-triggered targeted drug delivery and bioimaging, Materials Science and

Engineering: C, 78 (2017) 475-484.

[98] Y. Zhang, Q. Qu, X. Cao, Y. Zhao, NIR-absorbing dye functionalized hollow

mesoporous silica nanoparticles for combined photothermal–chemotherapy,

Chemical Communications, 53 (2017) 12032-12035.

[99] L. Huang, J. Liu, F. Gao, Q. Cheng, B. Lu, H. Zheng, H. Xu, P. Xu, X. Zhang,

X. Zeng, A dual-responsive, hyaluronic acid targeted drug delivery system based on

hollow mesoporous silica nanoparticles for cancer therapy, Journal of Materials

Chemistry B, 6 (2018) 4618-4629.

[100] M. Nejabat, M. Mohammadi, K. Abnous, S.M. Taghdisi, M. Ramezani, M.

Alibolandi, Fabrication of acetylated carboxymethylcellulose coated hollow

mesoporous silica hybrid nanoparticles for nucleolin targeted delivery to colon

adenocarcinoma, Carbohydrate Polymers, 197 (2018) 157-166.

138

[101] M. Shao, C. Chang, Z. Liu, K. Chen, Y. Zhou, G. Zheng, Z. Huang, H. Xu, P.

Xu, B. Lu, Polydopamine coated hollow mesoporous silica nanoparticles as pH-

sensitive nanocarriers for overcoming multidrug resistance, Colloids and Surfaces

B: Biointerfaces, 183 (2019) 110427.

[102] J. Wang, W. Zhao, Z. Li, K. Ding, Z. Jin, Investigation on into the adsorption

of Cu (II), Pb (II) and Cr (VI) on hollow mesoporous silica using microcalorimetry,

Journal of Thermal Analysis and Calorimetry, 137 (2019) 1443-1450.

[103] X. Peng, Q. Wang, H. Zhang, X. Su, J. Tao, Z. Feng, W. Shi, Z. Teng, Small-

sized deformable hollow mesoporous organosilica nanocapsules with improved

cellular uptake, Journal of Porous Materials, (2020) 1-7.

[104] T. Jin, D. Wu, X.-M. Liu, J.-T. Xu, B.-J. Ma, Y. Ji, Y.-Y. Jin, S.-Y. Wu, T. Wu,

K. Ma, Intra-articular delivery of celastrol by hollow mesoporous silica

nanoparticles for pH-sensitive anti-inflammatory therapy against knee osteoarthritis,

Journal of nanobiotechnology, 18 (2020) 1-15.

[105] A. Diacon, E. Rusen, A. Trifan, R. Șomoghi, O. Tutunaru, G. Crăciun, C.

Busuioc, G. Voicu, Preparation of metal and metal oxide doped silica hollow spheres

and the evaluation of their catalytic performance, Colloid and Polymer Science,

(2020) 1-10.

[106] U.V. Vo, V.C. Nguyen, X.V.D. Vo, M.K.T. Vo, H.A. Le Pham, T.T.N. Tran,

D.H. Nguyen, C.K. Nguyen, Synthesize and survey the drug loading efficiency of the

porous nano silica modified by gelatin, Advances in Natural Sciences: Nanoscience

and Nanotechnology, 10 (2019) 035017.

[107] D.H.N. et.al., Effective pH-responsive Hydrazine-Modified Silica for

Doxorubicin Delivery, Asian Journal of Medicine and Health, 4 (2017).

[108] T.T.N. Thi, T.V. Tran, N.Q. Tran, C.K. Nguyen, D.H. Nguyen, Hierarchical

self-assembly of heparin-PEG end-capped porous silica as a redox sensitive

nanocarrier for doxorubicin delivery, Materials Science and Engineering: C, 70

(2017) 947-954.

[109] L. Ernawati, R. Balgis, T. Ogi, K. Okuyama, Tunable synthesis of mesoporous

silica particles with unique radially oriented pore structures from tetramethyl

orthosilicate via oil–water emulsion process, Langmuir, 33 (2017) 783-790.

139

[110] I. Rahman, P. Vejayakumaran, C. Sipaut, J. Ismail, M.A. Bakar, R. Adnan, C.

Chee, An optimized sol–gel synthesis of stable primary equivalent silica particles,

Colloids and Surfaces A: Physicochemical and Engineering Aspects, 294 (2007) 102-

110.

[111] K.S. Rao, K. El-Hami, T. Kodaki, K. Matsushige, K. Makino, A novel method

for synthesis of silica nanoparticles, Journal of colloid and interface science, 289

(2005) 125-131.

[112] S.K. Park, K. Do Kim, H.T. Kim, Preparation of silica nanoparticles:

determination of the optimal synthesis conditions for small and uniform particles,

Colloids and Surfaces A: Physicochemical and Engineering Aspects, 197 (2002) 7-

17.

[113] Y. Chen, P. Xu, H. Chen, Y. Li, W. Bu, Z. Shu, Y. Li, J. Zhang, L. Zhang, L.

Pan, Colloidal HPMO nanoparticles: silica‐etching chemistry tailoring, topological

transformation, and nano‐biomedical applications, Advanced Materials, 25 (2013)

3100-3105.

[114] S.G. Gilmour, Response surface designs for experiments in bioprocessing,

Biometrics, 62 (2006) 323-331.

[115] R.E. Bruns, I.S. Scarminio, B. de Barros Neto, Statistical design-chemometrics,

Elsevier, (2006).

[116] M.A. Bezerra, R.E. Santelli, E.P. Oliveira, L.S. Villar, L.A. Escaleira, Response

surface methodology (RSM) as a tool for optimization in analytical chemistry,

Talanta, 76 (2008) 965-977.

[117] N.I. Vazquez, Z. Gonzalez, B. Ferrari, Y. Castro, Synthesis of mesoporous

silica nanoparticles by sol–gel as nanocontainer for future drug delivery

applications, Boletín de la Sociedad Española de Cerámica y Vidrio, 56 (2017) 139-

145.

[118] C. Argyo, V. Weiss, C. Bräuchle, T. Bein, Multifunctional mesoporous silica

nanoparticles as a universal platform for drug delivery, Chemistry of Materials, 26

(2014) 435-451.

[119] F. Tang, L. Li, D. Chen, Mesoporous silica nanoparticles: synthesis,

biocompatibility and drug delivery, Advanced Materials, 24 (2012) 1504-1534.

140

[120] I.I. Slowing, J.L. Vivero-Escoto, C.-W. Wu, V.S.-Y. Lin, Mesoporous silica

nanoparticles as controlled release drug delivery and gene transfection carriers,

Advanced Drug Delivery Reviews, 60 (2008) 1278-1288.

[121] Z. Luo, Y. Hu, K. Cai, X. Ding, Q. Zhang, M. Li, X. Ma, B. Zhang, Y. Zeng,

P. Li, Intracellular redox-activated anticancer drug delivery by functionalized hollow

mesoporous silica nanoreservoirs with tumor specificity, Biomaterials, 35 (2014)

7951-7962.

[122] F. Chen, H. Hong, S. Shi, S. Goel, H.F. Valdovinos, R. Hernandez, C.P. Theuer,

T.E. Barnhart, W. Cai, Engineering of hollow mesoporous silica nanoparticles for

remarkably enhanced tumor active targeting efficacy, Scientific Reports, 4 (2014)

5080.

[123] U.V. Vo, T.V. Tran, C.K. Nguyen, N.T.N. Thi, D.H. Nguyen, Effective pH-

responsive hydrazine-modified silica for doxorubicin delivery, Asian Journal of

Medicine and Health, (2017) 1-7.

[124] N.-T. Nguyen-Thi, P. Tran, L. Phuong, N.T.T. Le, M.-T. Cao, N.T. Nguyen,

C.H. Nguyen, D.-H. Nguyen, V.T. Than, Q.T. Le, The Engineering of Porous Silica

and Hollow Silica Nanoparticles to Enhance Drug-loading Capacity, Processes, 7

(2019) 805.

[125] M. Colilla, B. González, M. Vallet-Regí, Mesoporous silica nanoparticles for

the design of smart delivery nanodevices, Biomaterials Science, 1 (2013) 114-134.

[126] L. Tang, T.M. Fan, L.B. Borst, J. Cheng, Synthesis and biological response of

size-specific, monodisperse drug–silica nanoconjugates, ACS Nano, 6 (2012) 3954-

3966.

[127] K. Cho, X. Wang, S. Nie, D.M. Shin, Therapeutic nanoparticles for drug

delivery in cancer, Clinical Cancer Research, 14 (2008) 1310-1316.

[128] P. Kumari, B. Ghosh, S. Biswas, Nanocarriers for cancer-targeted drug

delivery, Journal of Drug Targeting, 24 (2016) 179-191.

[129] F. Lu, S.H. Wu, Y. Hung, C.Y. Mou, Size effect on cell uptake in well‐

suspended, uniform mesoporous silica nanoparticles, Small, 5 (2009) 1408-1413.

[130] Q. Yu, J. Hui, P. Wang, X. Wang, Anion-exchange-driven disassembly of a

SiO2/CTAB composite mesophase: the formation of hollow mesoporous silica

spheres, Inorganic chemistry, 51 (2012) 9539-9543.

141

[131] L. Tan, T. Liu, L. Li, H. Liu, X. Wu, F. Gao, X. He, X. Meng, D. Chen, F.

Tang, Uniform double-shelled silica hollow spheres: acid/base selective-etching

synthesis and their drug delivery application, RSC Advances, 3 (2013) 5649-5655.

[132] X. Liu, Z. Jiao, T. Song, M. Wu, H. Zhang, Surfactant-assisted selective etching

strategy for generation of rattle-like mesoporous silica nanoparticles, Journal of

Colloid and Interface Science, 490 (2017) 497-504.

[133] Z. Luo, K. Cai, Y. Hu, L. Zhao, P. Liu, L. Duan, W. Yang, Mesoporous silica

nanoparticles end‐capped with collagen: redox‐responsive nanoreservoirs for

targeted drug delivery, Angewandte Chemie International Edition, 50 (2011) 640-

643.

[134] L. Han, C. Gao, X. Wu, Q. Chen, P. Shu, Z. Ding, S. Che, Anionic surfactants

templating route for synthesizing silica hollow spheres with different shell porosity,

Solid State Sciences, 13 (2011) 721-728.

[135] S. Prochazkova, K.M. Vårum, K. Ostgaard, Quantitative determination of

chitosans by ninhydrin, Carbohydrate Polymers, 38 (1999) 115-122.

[136] S. Moore, Amino acid analysis: aqueous dimethyl sulfoxide as solvent for the

ninhydrin reaction, Journal of Biological Chemistry, 243 (1968) 6281-6283.

[137] S. Moore, W.H. Stein, A modified ninhydrin reagent for the photometric

determination of amino acids and related compounds, Journal of Biological

Chemistry, 211 (1954) 907-913.

[138] E. Kaiser, R. Colescott, C. Bossinger, P. Cook, Color test for detection of free

terminal amino groups in the solid-phase synthesis of peptides, Analytical

Biochemistry, 34 (1970) 595-598.

[139] L.F.d. Oliveira, K. Bouchmella, A.S. Picco, L.B. Capeletti, K.A. Gonçalves,

J.H.Z.d. Santos, J. Kobarg, M.B. Cardoso, Tailored silica nanoparticles surface to

increase drug load and enhance bactericidal response, Journal of the Brazilian

Chemical Society, 28 (2017) 1715-1724.

[140] M. Friedman, Applications of the ninhydrin reaction for analysis of amino

acids, peptides, and proteins to agricultural and biomedical sciences, Journal of

Agricultural and Food Chemistry, 52 (2004) 385-406.

142

[141] V.K. Sarin, S.B. Kent, J.P. Tam, R.B. Merrifield, Quantitative monitoring of

solid-phase peptide synthesis by the ninhydrin reaction, Analytical Biochemistry, 117

(1981) 147-157.

[142] N. Gorochovceva, R. Kulbokaite, R. Juskenas, R. Makuska, Synthesis and study

of chitosan and poly (ethylene glycol) graft copolymers containing triazine moiety,

Chemija, 15 (2004) 22-27.

[143] Y. Chen, H. Chen, L. Guo, Q. He, F. Chen, J. Zhou, J. Feng, J. Shi,

Hollow/rattle-type mesoporous nanostructures by a structural difference-based

selective etching strategy, ACS Nano, 4 (2009) 529-539.

[144] A. Van Helden, J. Jansen, A. Vrij, Preparation and characterization of

spherical monodisperse silica dispersions in nonaqueous solvents, Journal of Colloid

and Interface Science, 81 (1981) 354-368.

[145] G. Bogush, C. Zukoski Iv, Uniform silica particle precipitation: An

aggregative growth model, Journal of Colloid and Interface Science, 142 (1991) 19-

34.

[146] P.W. Voorhees, The theory of Ostwald ripening, Journal of Statistical Physics,

38 (1985) 231-252.

[147] W. Qin-bo, R. Finsy, X. Hai-bo, L. Xi, On the critical radius in generalized

Ostwald ripening, Journal of Zhejiang University Science B, 6 (2005) 705-707.

[148] S.-L. Chen, P. Dong, G.-H. Yang, The size dependence of growth rate of

monodisperse silica particles from tetraalkoxysilane, Journal of Colloid and Interface

Science, 189 (1997) 268-272.

[149] D. Green, S. Jayasundara, Y.-F. Lam, M. Harris, Chemical reaction kinetics

leading to the first Stober silica nanoparticles–NMR and SAXS investigation, Journal

of Non-crystalline Solids, 315 (2003) 166-179.

[150] S. Li, Q. Wan, Z. Qin, Y. Fu, Y. Gu, Understanding Stöber silica’s pore

characteristics measured by gas adsorption, Langmuir, 31 (2015) 824-832.

[151] H. Giesche, Synthesis of monodispersed silica powders II. Controlled growth

reaction and continuous production process, Journal of the European Ceramic

Society, 14 (1994) 205-214.

143

[152] A. De Keizer, E. Van der Ent, L. Koopal, Surface and volume charge densities

of monodisperse porous silicas, Colloids and Surfaces A: Physicochemical and

Engineering Aspects, 142 (1998) 303-313.

[153] J. Kobler, K. Möller, T. Bein, Colloidal suspensions of functionalized

mesoporous silica nanoparticles, Acs Nano, 2 (2008) 791-799.

[154] M. Larsson, A. Hill, J. Duffy, Suspension stability; why particle size, zeta

potential and rheology are important, Annual Transactions of The Nordic Rheology

Society, 20 (2012) 6.

[155] E. Blanco, H. Shen, M. Ferrari, Principles of nanoparticle design for

overcoming biological barriers to drug delivery, Nature Biotechnology, 33 (2015)

941.

[156] A. Penkova, J.M. Blanes, S. Cruz, M. Centeno, K. Hadjiivanov, J. Odriozola,

Gold nanoparticles on silica monospheres modified by amino groups, Microporous

and Mesoporous Materials, 117 (2009) 530-534.

[157] M. Kosmulski, pH-dependent surface charging and points of zero charge. IV.

Update and new approach, Journal of Colloid and Interface Science, 337 (2009) 439-

448.

[158] T. Hiemstra, W. Van Riemsdijk, G. Bolt, Multisite proton adsorption modeling

at the solid/solution interface of (hydr) oxides: A new approach: I. Model description

and evaluation of intrinsic reaction constants, Journal of Colloid and Interface

Science, 133 (1989) 91-104.

[159] M. Szekeres, J. Tóth, I. Dékány, Specific surface area of Stoeber silica

determined by various experimental methods, Langmuir, 18 (2002) 2678-2685.

[160] K.S. Sing, D.H. Everett, R. Haul, L. Moscou, R.A. Pierotti, J. Rouquerol, T.

Siemieniewska, Reporting physisorption data for gas/solid systems with special

reference to the determination of surface area and porosity (Provisional), Pure and

Applied Chemistry, 54.11 (1982) 2201-2218.

[161] R.I. Nooney, D. Thirunavukkarasu, Y. Chen, R. Josephs, A.E. Ostafin,

Synthesis of nanoscale mesoporous silica spheres with controlled particle size,

Chemistry of Materials, 14 (2002) 4721-4728.

144

[162] Q. Huo, D.I. Margolese, G.D. Stucky, Surfactant control of phases in the

synthesis of mesoporous silica-based materials, Chemistry of Materials, 8 (1996)

1147-1160.

[163] S.H. Tolbert, C.C. Landry, G.D. Stucky, B.F. Chmelka, P. Norby, J.C. Hanson,

A. Monnier, Phase transitions in mesostructured silica/surfactant composites:

Surfactant packing and the role of charge density matching, Chemistry of Materials,

13 (2001) 2247-2256.

[164] A.I. Akinjokun, T.V. Ojumu, A.O. Ogunfowokan, Biomass, Abundant

Resources for Synthesis of Mesoporous Silica Material, Microporous and

Mesoporous Materials, (2016) 105-117.

[165] D. Rath, S. Rana, K. Parida, Organic amine-functionalized silica-based

mesoporous materials: an update of syntheses and catalytic applications, RSC

advances, 4 (2014) 57111-57124.

[166] S. Sadasivan, C.E. Fowler, D. Khushalani, S. Mann, Nucleation of MCM‐41

Nanoparticles by Internal Reorganization of Disordered and Nematic‐Like Silica–

Surfactant Clusters, Angewandte Chemie International Edition, 41 (2002) 2151-

2153.

[167] G. Lelong, S. Bhattacharyya, S. Kline, T. Cacciaguerra, M.A. Gonzalez, M.-L.

Saboungi, Effect of surfactant concentration on the morphology and texture of MCM-

41 materials, The Journal of Physical Chemistry C, 112 (2008) 10674-10680.

[168] H.B. Chan, P.M. Budd, T.d. Naylor, Control of mesostructured silica particle

morphology, Journal of Materials Chemistry, 11 (2001) 951-957.

[169] W. Wang, B. Gu, L. Liang, W.A. Hamilton, Adsorption and structural

arrangement of cetyltrimethylammonium cations at the silica nanoparticle− water

interface, The Journal of Physical Chemistry B, 108 (2004) 17477-17483.

[170] K. Eskilsson, V. Yaminsky, Deposition of Monolayers by Retraction from

Solution: Ellipsometric Study of Cetyltrimethylammonium Bromide Adsorption at

Silica− Air and Silica− Water Interfaces, Langmuir, 14 (1998) 2444-2450.

[171] A. Modaressi, H. Sifaoui, B. Grzesiak, R. Solimando, U. Domanska, M.

Rogalski, CTAB aggregation in aqueous solutions of ammonium based ionic liquids;

conductimetric studies, Colloids and Surfaces A: Physicochemical and Engineering

Aspects, 296 (2007) 104-108.

145

[172] H. Gao, R. Zhu, X. Yang, S. Mao, S. Zhao, J. Yu, Y. Du, Properties of

polyethylene glycol (23) lauryl ether with cetyltrimethylammonium bromide in mixed

aqueous solutions studied by self-diffusion coefficient NMR, Journal of Colloid and

Interface Science, 273 (2004) 626-631.

[173] P.K. Maiti, K. Kremer, O. Flimm, D. Chowdhury, D. Stauffer, Cross-linking of

micelles by gemini surfactants, Langmuir, 16 (2000) 3784-3790.

[174] K. Furusawa, A. Sato, J. Shirai, T. Nashima, Depletion flocculation of latex

dispersion in ionic micellar systems, Journal of Colloid and Interface Science, 253

(2002) 273-278.

[175] J. Shi, Steric stabilization, Croup Inorganic Materials Science–Literature

review, The Ohio State University. Columbus, USA, (2002).

[176] B. Fuglestad, K. Gupta, A.J. Wand, K.A. Sharp, Characterization of

cetyltrimethylammonium bromide/hexanol reverse micelles by experimentally

benchmarked molecular dynamics simulations, Langmuir, 32 (2016) 1674-1684.

[177] K. Esumi, Interactions between surfactants and particles: dispersion, surface

modification, and adsolubilization, Journal of Colloid and Interface Science, 241

(2001) 1-17.

[178] T.P. Goloub, L.K. Koopal, B.H. Bijsterbosch, M.P. Sidorova, Adsorption of

cationic surfactants on silica. Surface charge effects, Langmuir, 12 (1996) 3188-

3194.

[179] Y. Liu, M. Tourbin, S. Lachaize, P. Guiraud, Silica nanoparticles separation

from water: Aggregation by cetyltrimethylammonium bromide (CTAB),

Chemosphere, 92 (2013) 681-687.

[180] E.Y. Bryleva, N. Vodolazkaya, N. Mchedlov-Petrossyan, L. Samokhina, N.

Matveevskaya, A. Tolmachev, Interfacial properties of cetyltrimethylammonium-

coated SiO2 nanoparticles in aqueous media as studied by using different indicator

dyes, Journal of colloid and interface science, 316 (2007) 712-722.

[181] S. Sadasivan, C.E. Fowler, D. Khushalani, S. Mann, Nucleation of MCM‐41

Nanoparticles by Internal Reorganization of Disordered and Nematic‐Like Silica–

Surfactant Clusters, Angewandte Chemie, 114 (2002) 2255-2257.

146

[182] T. Zhang, J. Ge, Y. Hu, Q. Zhang, S. Aloni, Y. Yin, Formation of hollow silica

colloids through a spontaneous dissolution–regrowth process, Angewandte Chemie,

120 (2008) 5890-5895.

[183] T. Zhang, Q. Zhang, J. Ge, J. Goebl, M. Sun, Y. Yan, Y.-s. Liu, C. Chang, J.

Guo, Y. Yin, A self-templated route to hollow silica microspheres, The Journal of

Physical Chemistry C, 113 (2009) 3168-3175.

[184] Y. Chen, H. Chen, D. Zeng, Y. Tian, F. Chen, J. Feng, J. Shi, Core/shell

structured hollow mesoporous nanocapsules: a potential platform for simultaneous

cell imaging and anticancer drug delivery, ACS Nano, 4 (2010) 6001-6013.

[185] Q. Zhang, T. Zhang, J. Ge, Y. Yin, Permeable silica shell through surface-

protected etching, Nano Letters, 8 (2008) 2867-2871.

[186] R. Mokaya, W. Jones, Z. Luan, M.D. Alba, J. Klinowski, Acidity and catalytic

activity of the mesoporous aluminosilicate molecular sieve MCM-41, Catalysis

Letters, 37 (1996) 113-120.

[187] K. Lin, Z. Sun, S. Lin, D. Jiang, F.-S. Xiao, Ordered mesoporous titanosilicates

with better catalytically active titanium sites assembled from preformed titanosilicate

precursors with zeolite building units in alkaline media, Microporous and

Mesoporous Materials, 72 (2004) 193-201.

[188] Y. Zhang, S. Xiang, Y. Zhou, Y. Xu, Z. Zhang, X. Sheng, Q. Wang, C. Zhang,

Enhanced catalytic activity with high thermal stability based on multiple Au cores in

the interior of mesoporous Si–Al shells, RSC Advances, 5 (2015) 48187-48193.

[189] J. Lu, M. Liong, J.I. Zink, F. Tamanoi, Mesoporous silica nanoparticles as a

delivery system for hydrophobic anticancer drugs, Small, 3 (2007) 1341-1346.

[190] C.M. Koretsky, D.A. Sverjensky, J.W. Salisbury, D.M. D'Aria, Detection of

surface hydroxyl species on quartz, γ-alumina, and feldspars using diffuse reflectance

infrared spectroscopy, Geochimica et Cosmochimica Acta, 61 (1997) 2193-2210.

[191] W. Wang, L. Li, S. Xi, A Fourier transform infrared study of the coagel to

micelle transition of cetyltrimethylammonium bromide, Journal of Colloid and

Interface Science, 155 (1993) 369-373.

[192] N.-T. Nguyen-Thi, L.P. Pham Tran, N.T.T. Le, M.-T. Cao, N.T. Nguyen, C.H.

Nguyen, D.-H. Nguyen, V.T. Than, Q.T. Le, N.Q. Trung, The Engineering of Porous

147

Silica and Hollow Silica Nanoparticles to Enhance Drug-loading Capacity,

Processes, 7 (2019) 805.

[193] K.S. Sing, Reporting physisorption data for gas/solid systems with special

reference to the determination of surface area and porosity (Recommendations

1984), Pure and Applied Chemistry, 57 (1985) 603-619.

[194] F. Farjadian, A. Roointan, S. Mohammadi-Samani, M. Hosseini, Mesoporous

silica nanoparticles: synthesis, pharmaceutical applications, biodistribution, and

biosafety assessment, Chemical Engineering Journal, 359 (2019) 684-705.

[195] C.-S. Ha, S.S. Park, General Synthesis and Physico-chemical Properties of

Mesoporous Materials, Periodic Mesoporous Organosilicas, Springer, (2019), pp.

15-85.

[196] L. Martins, T.J. Bonagamba, E.R. de Azevedo, P. Bargiela, D. Cardoso,

Surfactant containing Si-MCM-41: An efficient basic catalyst for the Knoevenagel

condensation, Applied Catalysis A: General, 312 (2006) 77-85.

[197] A. Tuel, Modification of mesoporous silicas by incorporation of heteroelements

in the framework, Microporous and Mesoporous Materials, 27 (1999) 151-169.

[198] S. Huh, J.W. Wiench, J.-C. Yoo, M. Pruski, V.S.-Y. Lin, Organic

functionalization and morphology control of mesoporous silicas via a co-

condensation synthesis method, Chemistry of Materials, 15 (2003) 4247-4256.

[199] P.G. Pape, E.P. Plueddemann, Methods for improving the performance of silane

coupling agents, Journal of Adhesion Science and Technology, 5 (1991) 831-842.

[200] A. Philipse, A. Vrij, Preparation and properties of nonaqueous model

dispersions of chemically modified, charged silica spheres, Journal of Colloid and

Interface Science, 128 (1989) 121-136.

[201] R.D. Badley, W.T. Ford, F.J. McEnroe, R.A. Assink, Surface modification of

colloidal silica, Langmuir, 6 (1990) 792-801.

[202] E.J.W. Verwey, J.T.G. Overbeek, K. Van Nes, Theory of the stability of

lyophobic colloids: the interaction of sol particles having an electric double layer,

Elsevier Publishing Company, (1948).

[203] L. Yuan, Q. Tang, D. Yang, J.Z. Zhang, F. Zhang, J. Hu, Preparation of pH-

responsive mesoporous silica nanoparticles and their application in controlled drug

delivery, The Journal of Physical Chemistry C, 115 (2011) 9926-9932.

148

[204] G.D. Leirose, M.B. Cardoso, Silica–maltose composites: Obtaining drug

carrier systems through tailored ultrastructural nanoparticles, Journal of

Pharmaceutical Sciences, 100 (2011) 2826-2834.

[205] M. Szekeres, I. Dékány, A. De Keizer, Adsorption of dodecyl pyridinium

chloride on monodisperse porous silica, Colloids and Surfaces A: Physicochemical

and Engineering Aspects, 141 (1998) 327-336.

[206] H. Wei, L. Han, J. Ren, L. Jia, Anticoagulant surface coating using composite

polysaccharides with embedded heparin-releasing mesoporous silica, ACS Applied

Materials & Interfaces, 5 (2013) 12571-12578.

[207] L. Potgieter, M. McCracken, F. Hopkins, R. Walker, J. Guy, Experimental

production of bovine respiratory tract disease with bovine viral diarrhea virus,

American Journal of Veterinary Research, 45 (1984) 1582-1585.

[208] E. Dietrich, H. Oudadesse, A. Lucas-Girot, Y. Le Gal, S. Jeanne, G.

Cathelineau, Effects of Mg and Zn on the surface of doped melt-derived glass for

biomaterials applications, Applied Surface Science, 255 (2008) 391-395.

[209] A. Maria Chong, X. Zhao, Functionalization of SBA-15 with APTES and

characterization of functionalized materials, The Journal of Physical Chemistry B,

107 (2003) 12650-12657.

[210] K. Barquist, S.C. Larsen, Chromate adsorption on bifunctional, magnetic

zeolite composites, Microporous and Mesoporous Materials, 130 (2010) 197-202.

[211] Y. Wang, N. Han, Q. Zhao, L. Bai, J. Li, T. Jiang, S. Wang, Redox-responsive

mesoporous silica as carriers for controlled drug delivery: a comparative study

based on silica and PEG gatekeepers, European Journal of Pharmaceutical Sciences,

72 (2015) 12-20.

[212] L. Feng, K. Li, X. Shi, M. Gao, J. Liu, Z. Liu, Smart pH‐responsive

nanocarriers based on nano‐graphene oxide for combined chemo‐and photothermal

therapy overcoming drug resistance, Advanced Healthcare Materials, 3 (2014) 1261-

1271.

[213] C.-Y. Lai, B.G. Trewyn, D.M. Jeftinija, K. Jeftinija, S. Xu, S. Jeftinija, V.S.-

Y. Lin, A mesoporous silica nanosphere-based carrier system with chemically

removable CdS nanoparticle caps for stimuli-responsive controlled release of

149

neurotransmitters and drug molecules, Journal of The American Chemical Society,

125 (2003) 4451-4459.

[214] P. Kalsi, Organic reactions stereochemistry and mechanism (Through Solved

Problems), New Age International2007.

[215] P. Liu, C. Yue, B. Shi, G. Gao, M. Li, B. Wang, Y. Ma, L. Cai, Dextran based

sensitive theranostic nanoparticles for near-infrared imaging and photothermal

therapy in vitro, Chemical Communications, 49 (2013) 6143-6145.

[216] A. Kawamura, C. Kojima, M. Iijima, A. Harada, K. Kono, Polyion complex

micelles formed from glucose oxidase and comb‐type polyelectrolyte with poly

(ethylene glycol) grafts, Journal of Polymer Science Part A: Polymer Chemistry, 46

(2008) 3842-3852.

[217] S. Mahmood, M. Taher, U.K. Mandal, Experimental design and optimization

of raloxifene hydrochloride loaded nanotransfersomes for transdermal application,

International Journal of Nanomedicine, 9 (2014) 4331.

[218] R.W. Smith, V. Bryg, Staining polymers for microscopical examination,

Rubber Chemistry and Technology, 79 (2006) 520-540.

[219] H. Behniafar, M. Yazdi, S. Farshad, K. Malekshahinezhad, Poly (4, 4′-

oxydiphenylene-pyromellitimide) loaded by NH2-functionalized silica: Optical and

thermal behavior of new polyimide-based nanocomposites, High Performance

Polymers, 28 (2016) 1228-1234.

[220] O. Garbuzenko, S. Zalipsky, M. Qazen, Y. Barenholz, Electrostatics of

PEGylated micelles and liposomes containing charged and neutral lipopolymers,

Langmuir, 21 (2005) 2560-2568.

[221] K.S. Sing, R.T. Williams, Physisorption hysteresis loops and the

characterization of nanoporous materials, Adsorption Science & Technology, 22

(2004) 773-782.

[222] P. Kerativitayanan, J.K. Carrow, A.K. Gaharwar, Nanomaterials for

engineering stem cell responses, Advanced Healthcare Materials, 4 (2015) 1600-

1627.

[223] D.H. Guston, Encyclopedia of nanoscience and society, Sage, (2010).

150

[224] T.N.T. Nguyen, D.-H. Nguyen-Tran, L.G. Bach, T.H. Du Truong, N.T.T. Le,

D.H. Nguyen, Surface PEGylation of hollow mesoporous silica nanoparticles via

aminated intermediate, Progress in Natural Science: Materials International, (2019).

[225] D. Peer, J.M. Karp, S. Hong, O.C. Farokhzad, R. Margalit, R. Langer,

Nanocarriers as an emerging platform for cancer therapy, Nature Nanotechnology,

2 (2007) 751-760.

[226] M.E. Davis, Z. Chen, D.M. Shin, Nanoparticle therapeutics: an emerging

treatment modality for cancer, Nanoscience and Technology: A Collection of

Reviews From Nature Journals, (2010) 239-250.

[227] S. Shen, Y. Wu, Y. Liu, D. Wu, High drug-loading nanomedicines: progress,

current status, and prospects, International Journal of Nanomedicine, 12 (2017)

4085.

[228] M. Janssen, G. Mihov, T. Welting, J. Thies, P. Emans, Drugs and polymers for

delivery systems in OA joints: clinical needs and opportunities, Polymers, 6 (2014)

799-819.

[229] K. Watanabe, S. Kuramitsu, A.D. Posey Jr, C.H. June, Expanding the

therapeutic window for CAR T cell therapy in solid tumors: the knowns and unknowns

of CAR T cell biology, Frontiers In Immunology, 9 (2018) 2486.

[230] J. Kim, J.E. Lee, J. Lee, J.H. Yu, B.C. Kim, K. An, Y. Hwang, C.-H. Shin, J.-

G. Park, J. Kim, Magnetic fluorescent delivery vehicle using uniform mesoporous

silica spheres embedded with monodisperse magnetic and semiconductor

nanocrystals, Journal of the American Chemical Society, 128 (2006) 688-689.

[231] T. Matvienko, V. Sokolova, S. Prylutska, Y. Harahuts, N. Kutsevol, V.

Kostjukov, M. Evstigneev, Y. Prylutskyy, M. Epple, U. Ritter, In vitro study of the

anticancer activity of various doxorubicin-containing dispersions, BioImpacts: BI, 9

(2019) 57.

- 1 -

Phụ lục 1. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 1/Lần 1

- 2 -

Phụ lục 2. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 1/Lần 2

- 3 -

Phụ lục 3. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 1/Lần 3

- 4 -

Phụ lục 4. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 2/Lần 1

- 5 -

Phụ lục 5. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 2/Lần 2

- 6 -

Phụ lục 6. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 2/Lần 3

- 7 -

Phụ lục 7. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 3/Lần 1

- 8 -

Phụ lục 8. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 3/Lần 2

- 9 -

Phụ lục 9. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 3/Lần 3

- 10 -

Phụ lục 10. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 4/Lần 1

- 11 -

Phụ lục 11. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 4/Lần 2

- 12 -

Phụ lục 12. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 4/Lần 3

- 13 -

Phụ lục 13. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 5/Lần 1

- 14 -

Phụ lục 14. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 5/Lần 2

- 15 -

Phụ lục 15. Kết quả kích thước hạt theo DLS – Mẫu TEOS 5/Lần 3

- 16 -

Phụ lục 16. Kết quả thế zeta – Mẫu SSN/Lần 1

- 17 -

Phụ lục 17. Kết quả thế zeta – Mẫu SSN/Lần 2

- 18 -

Phụ lục 18. Kết quả thế zeta – Mẫu SSN/Lần 3

- 19 -

Phụ lục 19. Kết quả phân tích nhiệt khối lượng TGA – Mẫu SSN

- 20 -

Phụ lục 20. Kết quả diện tích bề mặt theo phương pháp hấp phụ-khử hấp phụ

khí N2– Mẫu SSN

- 21 -

Phụ lục 21. Kết quả thế zeta – Mẫu SSN@CTAB-SSN/Lần 1

- 22 -

Phụ lục 22. Kết quả thế zeta – Mẫu SSN@CTAB-SSN/Lần 2

- 23 -

Phụ lục 23. Kết quả thế zeta – Mẫu SSN@CTAB-SSN/Lần 3

- 24 -

Phụ lục 24. Kết quả phân tích nhiệt khối lượng TGA – Mẫu SSN@CTAB-SSN

- 25 -

Phụ lục 25. Kết quả phân tích nhiệt khối lượng TGA – CTAB

- 26 -

Phụ lục 26. Kết quả diện tích bề mặt theo phương pháp hấp phụ-khử hấp phụ

khí N2– Mẫu SSN@CTAB-SSN

- 27 -

Phụ lục 27. Kết quả thế zeta – Mẫu HMSN/Lần 1

- 28 -

Phụ lục 28. Kết quả thế zeta – Mẫu HMSN/Lần 2

- 29 -

Phụ lục 29. Kết quả thế zeta – Mẫu HMSN/Lần 3

- 30 -

Phụ lục 30. Kết quả phân tích nhiệt khối lượng TGA – Mẫu HMSN

- 31 -

Phụ lục 31. Kết quả phổ hồng ngoại FTIR– Mẫu HMSN

- 32 -

Phụ lục 32. Kết quả diện tích bề mặt theo phương pháp hấp phụ-khử hấp phụ

khí N2– Mẫu HMSN

- 33 -

Phụ lục 33. Kết quả phổ nhiễu xạ tia X (XRD)– Mẫu HMSN

- 34 -

Phụ lục 34. Kết quả đường chuẩn Doxorubicine (0-5 ppm)

- 35 -

Phụ lục 35. Kết quả đường chuẩn Doxorubicine (5-50 ppm)

- 36 -

Phụ lục 36. Kết quả định lượng nồng độ Dox bằng UV-Vis – Mẫu HMSN/Dox

(Tại thời gian phóng thích thuốc 1 giờ)

- 37 -

Phụ lục 37. Kết quả định lượng nồng độ Dox bằng UV-Vis – Mẫu HMSN/Dox

(Tại thời gian phóng thích thuốc 3 giờ)

- 38 -

Phụ lục 38. Kết quả định lượng nồng độ Dox bằng UV-Vis – Mẫu HMSN/Dox

(Tại thời gian phóng thích thuốc 6 giờ)

- 39 -

Phụ lục 39. Kết quả định lượng nồng độ Dox bằng UV-Vis – Mẫu HMSN/Dox

(Tại thời gian phóng thích thuốc 9 giờ)

- 40 -

Phụ lục 40. Kết quả định lượng nồng độ Dox bằng UV-Vis – Mẫu HMSN/Dox

(Tại thời gian phóng thích thuốc 12 giờ)

- 41 -

Phụ lục 41. Kết quả diện tích bề mặt theo phương pháp hấp phụ - khử hấp phụ

khí N2 – Mẫu HMSN-NH2-50

- 42 -

Phụ lục 42. Kết quả diện tích bề mặt theo phương pháp hấp phụ - khử hấp phụ

khí N2 – Mẫu HMSN-NH2-100

- 43 -

Phụ lục 43. Kết quả diện tích bề mặt theo phương pháp hấp phụ - khử hấp phụ

khí N2 – Mẫu HMSN-NH2-250

- 44 -

Phụ lục 44. Kết quả diện tích bề mặt theo phương pháp hấp phụ - khử hấp phụ

khí N2 – Mẫu HMSN-NH2-500

- 45 -

Phụ lục 45. Kết quả diện tích bề mặt theo phương pháp hấp phụ - khử hấp phụ

khí N2 – Mẫu HMSN-NH2-800

- 46 -

Phụ lục 46. Kết quả diện tích bề mặt theo phương pháp hấp phụ - khử hấp phụ

khí N2 – Mẫu HMSN-mPEG

- 47 -

Phụ lục 47. Kết quả diện tích bề mặt theo phương pháp hấp phụ - khử hấp phụ

khí N2 – Mẫu HMSN-F127

- 48 -

Phụ lục 48. Kết quả phổ hồng ngoại FTIR – Mẫu mPEG

- 49 -

Phụ lục 49. Kết quả phổ hồng ngoại FTIR – Mẫu HMSN-mPEG

- 50 -

Phụ lục 50. Kết quả phổ hồng ngoại FTIR – F127

- 51 -

Phụ lục 51. Kết quả phổ hồng ngoại FTIR – HMSN-F127

- 52 -

Phụ lục 52. Kết quả phân tích nhiệt khối lượng TGA – Mẫu mPEG

- 53 -

Phụ lục 53. Kết quả phân tích nhiệt khối lượng TGA – Mẫu HMSN-mPEG