BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH NGUYỄN THỊ THANH ĐỨC PHONG CÁCH NGÔN NGỮ THƠ HÀN MẶC TỬ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGHỆ AN - 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH NGUYỄN THỊ THANH ĐỨC PHONG CÁCH NGÔN NGỮ THƠ HÀN MẶC TỬ
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 922 01 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. PHAN MẬU CẢNH 2. TS. ĐẶNG LƯU
NGHỆ AN - 2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi. Các công trình
nghiên cứu khác liên quan được trích dẫn trong Luận án đều có chú thích rõ ràng. Mọi
nhận định, kiến giải, kết luận là của bản thân, không sao chép từ bất kì một tài liệu
nào. Nếu có sai sót, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Nghệ An, tháng 3 năm 2021
Tác giả
Nguyễn Thị Thanh Đức
ii
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Phan Mậu Cảnh và
TS. Đặng Lưu - những người đã trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện đề tài nghiên cứu để
hoàn thành luận án này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban lãnh đạo Viện Sư phạm Xã hội,
các giảng viên bộ môn Ngôn ngữ của Viện Sư phạm Xã hội, Phòng Sau đại học,
Trường Đại học Vinh - các đơn vị đã giúp tôi hoàn thành các khâu thuộc nhiệm vụ
của một Nghiên cứu sinh.
Trong quá trình học tập, nghiên cứu, triển khai đề tài, tôi đã được lãnh đạo của
Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Nghệ An - nơi tôi công tác - tạo mọi điều kiện
thuận lợi. Cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc.
Qua đây, tôi xin thành tâm cảm tạ gia đình, bạn bè và đồ ng nghiệp đã luôn
động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án.
Nghệ An, tháng 3 năm 2021
Tác giả
iii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC BẢNG...................................................................................v
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ............................................................................vii
MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 3
5. Đóng góp của luận án.................................................................................. 5
6. Cấu trúc của luận án .................................................................................... 5
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
CỦA ĐỀ TÀI ......................................................................................................6
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu................................................................ 6
1.1.1. Tình hình nghiên cứu phong cách ngôn ngữ tác giả.................................... 6
1.1.2. Tình hình nghiên cứu phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử .................. 14
1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài .........................................................................24
1.2.1. Một số vấn đề lí thuyết về phong cách ngôn ngữ...................................... 24
1.2.2. Một số vấn đề liên quan đến phong cách ngôn ngữ cá nhân ..................... 34
1.2.3. Hàn Mặc Tử - cuộc đời và sự nghiệp thơ.................................................. 40
1.2.4. Quan niệm riêng về nhà thơ và sáng tạo thơ - yếu tố chi phối
phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử ............................................................. 43
1.3. Tiểu kết chương 1....................................................................................47
Chương 2. PHONG CÁCH NGÔN NGỮ THƠ HÀN MẶC TỬ THỂ HIỆN
Ở CÁCH SỬ DỤNG TỪ NGỮ ......................................................................... 48
2.1. Định hướng nghiên cứu và phạm vi khảo sát từ ngữ trong thơ Hàn Mặc Tử
để nhận diện phong cách ngôn ngữ của nhà thơ ...............................................48
2.2. Phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử biểu hiện qua một số trường từ vựng
tiêu biểu ........................................................................................................49
2.2.1. Dẫn nhập.................................................................................................. 49
iv
2.2.2. Một số trường từ vựng in đậm dấu ấn phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử...... 51
2.2.3. Dấu ấn phong cách Hàn Mặc Tử qua lựa chọn và kết hợp từ ngữ trong thơ....... 81
2.3. Tiểu kết chương 2....................................................................................95
Chương 3. PHONG CÁCH NGÔN NGỮ THƠ HÀN MẶC TỬ THỂ HIỆN
Ở CÁCH SỬ DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ ............................................... 97
3.1. Khái niệm tu từ và vai trò của tu từ trong việc thể hiện phong cách
ngôn ngữ tác giả ............................................................................................97
3.1.1. Khái niệm tu từ và vai trò của tu từ trong sáng tạo thơ ............................. 97
3.1.2. Tu từ với việc biểu hiện phong cách ngôn ngữ cá nhân trong thơ ........... 100
3.2. Một số biện pháp tu từ thể hiện dấu ấn phong cách cá nhân trong thơ
Hàn Mặc Tử.................................................................................................102
3.2.1. Biện pháp so sánh .................................................................................. 102
3.2.2. Biện pháp nhân hoá................................................................................ 113
3.2.3. Biện pháp điệp ngữ ................................................................................ 122
3.3. Tiểu kết chương 3..................................................................................130
KẾT LUẬN..................................................................................................... 131
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ ............... 134
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 135
NGUỒN NGỮ LIỆU....................................................................................... 150
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Thống kê các trường từ vựng trong thơ Hàn Mặc Tử ......................... 50
Bảng 2.2: Trường từ vựng tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân
Diệu và Nguyễn Bính ......................................................................... 52
Bảng 2.3: Tiểu trường từ vựng tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê,
Xuân Diệu và Nguyễn Bính phân theo loại tôn giáo .......................... 53
Bảng 2.4: Các tiểu trường trong trường từ vựng về đạo Thiên Chúa trong
thơ Hàn Mặc Tử............................................................................... 55
Bảng 2.5: Các tiểu trường trong trường từ vựng về đạo Phật trong thơ Hàn
Mặc Tử............................................................................................ 58
Bảng 2.6: Trường từ vựng tình yêu đôi lứa trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích
Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính.......................................................... 64
Bảng 2.7: Tiểu trường từ vựng tình yêu đôi lứa trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích
Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính...................................................... 65
Bảng 2.8: Từ chỉ thân xác con người trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê,
Xuân Diệu, Nguyễn Bính ................................................................. 73
Bảng 2.9: Tần suất sử dụng các từ chỉ đối tượng nghệ thuật trong thơ Hàn
Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính ................................ 82
Bảng 2.10: Thống kê các từ được lựa chọn để kết hợp với nắng, tơ trong thơ
Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính......................... 84
Bảng 2.11: Từ ngữ thuộc phương ngữ miền Trung trong thơ Hàn Mặc Tử ........... 86
Bảng 2.12: Từ chỉ mức độ cao trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu
và Nguyễn Bính ............................................................................... 89
Bảng 2.13: Một số từ có cách kết hợp lạ trong thơ Hàn Mặc Tử .......................... 93
Bảng 3.1: Biện pháp so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu
và Nguyễn Bính ............................................................................. 103
Bảng 3.2: Cấu trúc so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu và
Nguyễn Bính.................................................................................. 106
Bảng 3.3: Cấu trúc loại so sánh tu từ trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê,
Xuân Diệu và Nguyễn Bính............................................................ 108
vi
Bảng 3.4: Các đối tượng bị/ được so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê,
Xuân Diệu và Nguyễn Bính............................................................ 109
Bảng 3.5: Các đối tượng so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân
Diệu và Nguyễn Bính..................................................................... 111
Bảng 3.6: Biện pháp nhân hoá trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân
Diệu và Nguyễn Bính..................................................................... 114
Bảng 3.7: Các kiểu loại nhân hoá trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân
Diệu và Nguyễn Bính..................................................................... 117
Bảng 3.8: Các đối tượng nhân hoá trong thơ Hàn Mặc Tử ............................... 118
Bảng 3.9: Một số hình ảnh nhân hoá trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê,
Xuân Diệu và Nguyễn Bính............................................................ 121
Bảng 3.10: Biện pháp điệp trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu và
Nguyễn Bính.................................................................................. 122
Bảng 3.11: Các kiểu loại điệp trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu
và Nguyễn Bính ............................................................................. 128
vii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tần suất xuất hiện lượt từ vựng tôn giáo ở mỗi bài trong thơ
Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính ....................... 53
Biểu đồ 2.2: Tỉ lệ từ vựng tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân
Diệu và Nguyễn Bính phân theo loại tôn giáo.................................. 54
Biểu đồ 2.3: Tỉ lệ bài thơ sử dụng trường từ vựng tình yêu đôi lứa trong thơ
Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính ....................... 65
Biểu đồ 2.4: Tiểu trường từ vựng chỉ tình yêu đôi lứa trong thơ Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính ............................................ 66
Biểu đồ 3.1: Tỉ lệ bài sử dụng biện pháp so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích
Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính...................................................... 104
Biểu đồ 3.2: Cấu trúc so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu
và Nguyễn Bính ........................................................................... 106
Biểu đồ 3.3: Các đối tượng bị/ được so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích
Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính .................................................. 109
Biểu đồ 3.4: Các đối tượng so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân
Diệu và Nguyễn Bính ................................................................... 111
Biểu đồ 3.5: Biện pháp nhân hoá trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân
Diệu và Nguyễn Bính ................................................................... 115
Biểu đồ 3.6: Các kiểu loại nhân hoá trong thơ Hàn Mặc Tử............................... 117
Biểu đồ 3.7. Các đối tượng nhân hoá trong thơ Hàn Mặc Tử ............................. 119
Biểu đồ 3.8: Các kiểu loại điệp trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu
và Nguyễn Bính ........................................................................... 129
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nghiên cứu thơ từ góc nhìn ngôn ngữ là một hướng tiếp cận phổ biến bấy
lâu nay, đã thu được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Trong thơ, ngôn ngữ không chỉ
thể hiện nội dung thông tin thuần túy, mà bản thân nó còn có “tính tự trị”, “tự thuyết
minh về chính nó”. Nói cách khác, thông điệp nghệ thuật nằm chính trong hình thức
tổ chức ngôn ngữ có tính đặc thù. Một hình thức tổ chức ngôn ngữ bao giờ cũng gắn
với một nội dung tương ứng toát lên từ chính hình thức đó. Do vậy, nếu trong sáng
tác, sự độc đáo của hình thức ngôn ngữ thể hiện qua mỗi tác phẩm là đích phấn đấu
của nhà thơ, thì trong tiếp nhận và đánh giá, việc khám phá ra tính độc đáo của cách
tổ chức ngôn ngữ cũng là yếu tố quyết định để hiểu nội dung của thơ. Chỉ có như
vậy, các luận điểm được rút ra mới thực sự có giá trị khoa học.
1.2. “Ngôn ngữ thơ” là một khái niệm có nội hàm rất rộng. Thực tế, không có
một thứ ngôn ngữ thơ chung chung, mà chỉ tồn tại ngôn ngữ thơ thuộc từng hệ hình,
kiểu sáng tác, của mỗi tác giả nhất định mà thôi. Ngôn ngữ thơ cổ điển không giống
ngôn ngữ thơ hiện đại. Ngay trong thơ hiện đại, ngôn ngữ thơ lãng mạn cũng khác
ngôn ngữ thơ tượng trưng, siêu thực. Vì thế, khó có một chuẩn mực chung để đánh
giá ngôn ngữ của các loại hình thơ. Mỗi tác giả thường có vốn sống, quan điểm thẩm
mĩ, sở thích, sở trường, đời sống nội tâm, nhãn quan ngôn ngữ riêng, chúng góp phần
tạo nên những nét cá biệt của từng chủ thể sáng tạo. Mức cao nhất của sự kết tinh
những nét cá biệt chính là phong cách. Một tác giả không tạo nên được phong cách
của riêng mình thì chưa phải là tác giả lớn. Tạo nên phong cách, nghĩa là, người viết
đã đóng góp được một giá trị nào đó cho nền văn học chung. Sự góp mặt của nhiều
phong cách độc đáo sẽ làm nên tính phong phú, đa dạng của một nền văn học. Tìm
hiểu phong cách thơ của một tác giả từ góc độ ngôn ngữ học, do vậy, là một hướng
đi thật sự cần thiết nhằm đóng góp vào việc nghiên cứu phong cách ngôn ngữ nghệ
thuật, góp phần vào việc thực hành phân tích văn bản trong nhà trường hiện nay.
1.3. Hàn Mặc Tử là một gương mặt xuất sắc của nền thơ Việt Nam thế kỷ XX.
Mặc dù chỉ sống một cuộc đời ngắn ngủi, lại thêm bệnh tật hiểm nghèo, nhưng vượt
lên tất cả, ông đã nỗ lực sáng tạo và để lại cho thi ca Việt Nam một di sản thật sự có
giá trị. Trong giai đoạn 1932 - 1945, hiếm có nhà thơ nào, chỉ trong một thời gian
ngắn, đã làm một hành trình sáng tạo thơ từ cổ điển, qua lãng mạn, đến tượng trưng,
2
siêu thực như Hàn Mặc Tử. Xét về kiểu sáng tác, thơ ông rất đa dạng. Nhưng từ góc
nhìn khác, ta vẫn thấy ở ông có sự thống nhất về quan niệm thẩm mĩ, về tư duy thơ,
về nhãn quan ngôn ngữ. Nghĩa là, hoàn toàn có thể khẳng định phong cách ngôn ngữ
thơ Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên, từ đây, không ít câu hỏi được đặt ra, cần làm rõ: những
nhân tố nào góp phần tạo nên phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử? Phong cách ấy
biểu hiện cụ thể như thế nào ở các bình diện ngôn từ trong thơ ông? Phong cách ngôn
ngữ ấy có phải là hiện tượng “dĩ thành bất biến” hay là một hiện tượng “động”, và
nếu là hiện tượng động, nó được hình thành và phát triển như thế nào? Trả lời thỏa
đáng những câu hỏi trên đây, thực chất chúng ta đã góp phần vào việc giải mã tác
phẩm thơ của Hàn Mặc Tử, qua đó, thúc đẩy công việc nghiên cứu và giảng dạy thơ
ông từ bậc phổ thông đến bậc đại học. Hơn thế, từ những khái quát về phong cách
ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử, chúng ta có thêm kinh nghiệm, điều kiện để tiếp cận các
tác giả khác trong phong trào Thơ mới 1932 - 1945.
Đó là những lí do thôi thúc chúng tôi chọn đề tài Phong cách ngôn ngữ thơ
Hàn Mặc Tử để triển khai trong khuôn khổ một luận án tiến sĩ.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là ngôn ngữ trong thơ Hàn Mặc Tử. Với hướng
đã xác định từ tên đề tài, chúng tôi sẽ tập trung khảo sát, phân tích những nét riêng trong
các tập thơ tiêu biểu của Hàn Mặc Tử dưới ánh sáng của phong cách học.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Với một nhà thơ lớn, có tác phẩm và kiểu sáng tác đa dạng như Hàn Mặc Tử,
phong cách nghệ thuật dĩ nhiên được biểu hiện ở nhiều khía cạnh. Tuy nhiên, trong
luận án này, chúng tôi tập trung khảo sát, tìm hiểu phonng cách ngôn ngữ thơ của
Hàn Mặc Tử trên các bình diện: vốn từ, một số trường từ vựng - ngữ nghĩa tiêu biểu,
những lựa chọn, kết hợp từ độc đáo, một số biện pháp tu từ tiêu biểu. Theo cảm nhận
và suy nghĩ của chúng tôi, đó là những khía cạnh hết sức tiêu biểu.
Một số tập thơ của Hàn Mặc Tử như Thơ Hàn Mặc Tử (Chế Lan Viên), Hàn
Mặc Tử thơ và đời (Lữ Huy Nguyên), Hàn Mặc Tử một đời thơ (Thi Long), Thơ Hàn
Mặc Tử (Mạnh Linh). Ngoài ra, một số bài thơ của Hàn Mặc Tử trong tuyển tập Thơ
mới 1932 - 1945 tác giả và tác phẩm (Lại Nguyên Ân sưu tập và giới thiệu) hoặc
trong Hàn Mặc Tử - Tác phẩm, phê bình và tưởng niệm (Phan Cự Đệ) cũng được bổ
sung, đối chiếu trong quá trình khảo sát.
3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Từ việc khảo sát, phân tích một số trong thơ Hàn Mặc Tử, luận án khái quát
những điểm nổi bật về phong cách ngôn ngữ thơ của tác giả, từ đó, nhận diện những
giá trị cốt lõi và đánh giá những đóng góp của Hàn Mặc Tử cho thơ Việt Nam giai
đoạn 1932 - 1945.
- Tìm hiểu phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử một cách đầy đủ, có căn cứ
khoa học sẽ bổ sung thêm vào bức tranh nghiên cứu thơ Hàn Mặc Tử nói riêng, thơ
Việt Nam hiện đại nói chung, đồng thời góp phần nâng cao việc giảng dạy thơ Hàn
Mặc Tử từ bậc phổ thông đến bậc đại học.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng thuật các công trình lí thuyết nghiên cứu phong cách học, luận giải các
khái niệm làm tiền đề lí thuyết cho luận án. Tổng hợp kết quả vận dụng phong cách
học vào nghiên cứu ngôn ngữ thơ nói chung, nghiên cứu thơ Hàn Mặc Tử nói riêng.
- Khảo sát vốn từ, cách lựa chọn, kết hợp từ ngữ, trường từ vựng - ngữ nghĩa,
các biện pháp tu từ trong thơ Hàn Mặc Tử, làm rõ các đặc điểm về cách dùng từ ngữ
trong thơ ông với tư cách là một trong những cây bút tiêu biểu của Thơ mới 1932 -
1945 (có so sánh để thấy rõ sự khác biệt giữa Hàn Mặc Tử với ba nhà thơ cùng thời:
Bích Khê, Xuân Diệu, Nguyễn Bính).
- Phân tích ngữ liệu, thấy được ý thức lựa chọn ngôn từ nghệ thuật của Hàn
Mặc Tử trong sáng tạo thơ, từ đó đưa ra một số kết luận về phong cách ngôn ngữ thơ
Hàn Mặc Tử, xác lập căn cứ đáng tin cậy cho việc đánh giá những đóng góp của ông
trong cách tổ chức ngôn ngữ thơ nói riêng, hình thức biểu hiện nói chung.
4. Phương pháp nghiên cứu
Triển khai đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp và thủ pháp nghiên
cứu chủ yếu sau đây:
a. Phương pháp miêu tả
Phương pháp này nhằm miêu tả những phát hiện về đặc điểm ngôn ngữ thơ Hàn
Mặc Tử ở một số phương diện: hệ thống từ ngữ, biện pháp tu từ. Phương pháp này
không chỉ giúp làm rõ mặt định lượng, mà còn cả mặt định tính, tức là cung cấp cứ
liệu xác thực để nhận diện những nét đặc trưng của một phong cách ngôn ngữ.
4
b. Phương pháp so sánh
So sánh là phương pháp hữu hiệu trong nghiên cứu phong cách ngôn ngữ tác
giả. Cụ thể, để làm rõ những biểu hiện và sự khác biệt của phong cách ngôn ngữ thơ
Hàn Mặc Tử, luận án tiến hành so sánh đặc điểm lớp từ, các trường từ vựng - ngữ
nghĩa, các phép tu từ trong thơ ông với thơ của một số tác giả cùng thời. Có đối sánh
như vậy, những kết luận về phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử mới đáng tin cậy.
c. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Phương pháp phân tích được áp dụng không chỉ trong giới thuyết các khái niệm
công cụ, mà còn trong việc xử lí ngữ liệu đã thu thập. Từ kết quả phân tích, luận án sẽ
tiến hành tổng hợp để đi đến những kết luận khoa học cần thiết, ứng với từng nội dung
cụ thể của đề tài.
d. Thủ pháp thống kê
Muốn đi đến những kết luận định tính, luận án phải tiến hành mô tả định lượng,
tức là phải khảo sát tư liệu, thống kê, tính số lượng, tính tỉ lệ, tần số xuất hiện. Việc
thống kê các lớp từ xét về phong cách, các từ ngữ trong một trường từ vựng - ngữ
nghĩa, lượng hóa các yếu tố thuộc biện pháp tu từ trong thơ Hàn Mặc Tử… là căn cứ
để rút ra các luận điểm khái quát, có ý nghĩa khoa học. Nhờ các số liệu thống kê, việc
phân tích phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử tránh được những nhận xét thiếu sở cứ,
hoặc thiên về cảm thụ văn học.
e. Thủ pháp hệ thống hóa
Từ khối lượng lớn ngữ liệu đã thống kê, chúng tôi tiến hành phân loại theo các
tiêu chí. Chẳng hạn, vốn từ trong thơ Hàn Mặc Tử phải được phân loại thành các lớp
từ theo giá trị phong cách học. Tuy nhiên, mọi yếu tố được khảo sát, phân loại luôn
luôn đặt trong hệ thống, bởi bản thân văn bản nghệ thuật là một hệ thống hoàn chỉnh,
mọi ý nghĩa, giá trị đều toát lên từ hệ thống đó.
g. Thủ pháp phân tích tương quan
Mọi yếu tố ngôn từ được tách ra trong khảo sát, thống kê định lượng phải được
phân tích. Tuy nhiên, đó không phải là phân tích thành tố thuần túy, mà phải đặt thành
tố đó trong văn cảnh (câu thơ, đoạn thơ, bài thơ) để nắm bắt ý nghĩa, giá trị biểu hiện
của nó. Với văn bản nghệ thuật, việc bám văn bản trong phân tích thành tố ngôn ngữ
được xem như một nguyên tắc.
5
5. Đóng góp của luận án
Về lí thuyết, luận án luận giải khái niệm phong cách ngôn ngữ tác giả, phân biệt
phong cách ngôn ngữ tác giả với phong cách nghệ thuật tác giả, mối quan hệ giữa
chúng, những yếu tố góp phần hình thành phong cách ngôn ngữ tác giả.
Về thực tiễn, thông qua việc khảo sát, phân tích, nghiên cứu cách sử dụng từ
ngữ, các biện pháp tu từ trong thơ Hàn Mặc Tử, luận án khái quát những nét cơ bản về
phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử; từ đó, góp thêm một góc nhìn, một cách đánh
giá về thơ của tác giả trong bức tranh chung của phong trào Thơ mới 1932 - 1945.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung của luận án được
triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết của đề tài.
Chương 2: Phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử thể hiện ở cách sử dụng từ ngữ.
Chương 3: Phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử thể hiện ở cách sử dụng các
biện pháp tu từ.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu phong cách ngôn ngữ tác giả
Cho đến nay, các công trình nghiên cứu phong cách học khá thống nhất trong
việc xác định số lượng các phong cách chức năng cũng như đặc trưng riêng của chúng.
Đó là phong cách sinh hoạt, phong cách hành chính - công vụ, phong cách báo - công
luận, phong cách khoa học, phong cách chính luận, phong cách nghệ thuật.
Các phong cách chức năng được phân biệt như trên dầu sao vẫn chỉ dừng ở tính
loại, chủng. Nói rõ hơn, đó là kiểu loại sản phẩm ngôn ngữ. Sự phân biệt ấy tuyệt
nhiên chưa chạm tới yếu tố cá nhân chủ ngôn (người tạo lập văn bản). Do đó, phong
cách học cần tiến thêm một bước nữa: xác định phong cách ngôn ngữ của cá nhân.
Ở bình diện lí thuyết, những công trình tập trung nghiên cứu ngôn ngữ tác giả
chưa có tính hệ thống. Vấn đề này chủ yếu được các nhà nghiên cứu lồng ghép trong
những công trình đề cập đến phong cách học nói chung, phong cách ngôn ngữ văn
chương nói riêng, cả ở những công trình khảo sát phong cách của một tác giả cụ thể.
Phong cách ngôn ngữ là sản phẩm của sự lựa chọn mang tính sáng tạo cá nhân
trong một tập hợp các mô hình ngôn ngữ có thể lựa chọn của một tác giả cụ thể nhằm
thu hút người đọc. Đó là sự tổng hòa mọi thủ pháp sử dụng, lựa chọn và kết hợp các
phương tiện thông báo bằng lời, có ý thức về mặt xã hội, có định hướng về mặt chức
năng, tương ứng với những phương thức biểu đạt khác nhau, phục vụ cho những mục
đích khác nhau.
Có thể nói, cho tới nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam chưa có nhiều công
trình nghiên cứu phong cách ngôn ngữ nói chung và phong cách ngôn ngữ tác giả nói
riêng. Quan điểm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ nói chung và các nhà Việt ngữ học
về phong cách ngôn ngữ tác giả còn chưa có sự nhất trí, do vậy, hiện nay, vẫn chưa có
sự thống nhất về khái niệm phong cách ngôn ngữ tác giả.
Trong chương này, chúng tôi triển khai hai nội dung gồm tổng quan tình hình
nghiên cứu và xác lập cơ sở lí thuyết của đề tài. Tiến hành việc tổng thuật, luận án
trình bày khái quát những nghiên cứu về ngôn ngữ tác giả trên thế giới và ở Việt Nam;
7
về thơ và ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử. Xác lập cơ sở khoa học, luận án trình bày một số
khái niệm cơ bản và xác định những yếu tố chi phối sự hình thành phong cách ngôn ngữ
thơ Hàn Mặc Tử. Các công trình, bài viết chủ yếu là các sách chuyên khảo, luận văn
thạc sĩ hay bài báo, nhưng những vấn đề mà các tác giả là những gợi ý cho chúng tôi đi
vào tìm hiểu, phân tích các đặc điểm hình thành phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử.
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu phong cách ngôn ngữ tác giả trên thế giới
Sự phát triển của các trào lưu ngôn ngữ học ở cuối thế kỉ XIX, đặc biệt là trong
thế kỷ XX mà hệ quả của nó là sự tách rời Văn học và Ngôn ngữ học. Khái niệm phong
cách ngôn ngữ đã ra đời gắn với quan điểm của các trường phái ngôn ngữ: trường phái
F. de Saussure, trường phái ngôn ngữ học Đức, nhóm ngôn ngữ học Praha mà đại diện
tiêu biểu là R. Jakobson, các nhà Xã hội ngôn ngữ học Xô viết… Tất cả đều hướng đến
điểm chung nhất của phong cách ngôn ngữ đó là: “1) Thuộc tính của hoạt động ngôn
ngữ; 2) Lặp đi lặp lại trong biểu đạt ở một cá nhân, tập thể, hay cộng đồng; 3) Có khả
năng khu biệt với cá nhân khác, tập thể, hay cộng đồng khác” (Dẫn theo Nguyễn Thái
Hòa [82, tr. 177]).
Một trong những nhà khoa học tiên phong trong nghiên cứu phong cách học là
Ch. Bali - học trò xuất sắc của F.de Saussure. Có điều, Ch. Bali không xem lời nói
(trong đó có cả ngôn ngữ của tác phẩm văn học) là sự kiện phong cách học. Theo ông,
cá nhân có vai trò đặc biệt trong việc tạo nên phong cách và không để ý đến mối quan
hệ giữa cá nhân với xã hội, giữa những nét riêng, độc đáo của chủ ngôn với phong
cách ngôn ngữ chung. Ông chỉ chú tâm nghiên cứu phong cách trong phạm vi các
phương tiện ngôn ngữ biểu cảm mà thôi. Cuốn Tu từ học tiếng Pháp cho thấy hướng đi
riêng của Ch. Bali trong nghiên cứu phong cách học [4].
Khác với quan điểm của Bali, Leo Spitzer (một nhà ngôn ngữ học người Áo) lại
muốn khái quát phong cách cá nhân từ chính các dữ kiện của tác phẩm như: tư tưởng,
tình tiết, kết cấu, đặc biệt là ngôn ngữ. Phong cách, ấy là sự đi chệch ngôn ngữ. Tư
tưởng đó về phong cách cá nhân được Leo Spitzer thể hiện qua khảo sát sáng tác của
một số tác giả tiêu biểu trong văn học châu Âu như Cervantès, Phèdre, Diderot,
Claudel… (Dẫn theo Nguyễn Thái Hòa [81, tr. 38 - 40]).
Trong bài viết Mấy vấn đề về việc nghiên cứu phong cách ngôn ngữ cá nhân
(tổng thuật), tác giả Nguyễn Huy Cẩn đã giới thiệu các quan niệm khác nhau trong
nghiên cứu về phong cách ngôn ngữ của một số nhà khoa học trên thế giới. Từ góc độ
8
ngôn ngữ học, nghiên cứu phong cách ngôn ngữ cá nhân trước hết là nghiên cứu tính
độc đáo trong sự lựa chọn các phương tiện diễn đạt và tính hệ thống của các phương
tiện ngôn ngữ được tác giả sử dụng. Nguyễn Huy Cần cũng xác định: người đầu tiên
đưa ra khái niệm này là Ch. Bally. Ch. Bally xem phong cách này là sự thể hiện của cá
nhân. Các tác giả khác như R.A. Budagov, V.V. Vinogradov, D. E. Rozental,… đều
cho rằng phong cách ngôn ngữ cá nhân là đặc trưng của việc sử dụng ngôn ngữ, các
thủ pháp ngôn ngữ của cá nhân có quan hệ đến ngôn ngữ chung. Marouzeanu nhấn
mạnh: “Định nghĩa phong cách có nghĩa là thừa nhận thái độ của người nói hay người
viết đối với các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng” [12, tr. 45]. Nghiên cứu ngôn
ngữ của nhà văn tất yếu liên quan đến việc nghiên cứu chủ đề tư tưởng, thể loại tác
phẩm và ngày càng tách xa khuynh hướng hiện đại trong việc nghiên cứu phong cách.
Trong bài tổng thuật, Nguyễn Huy Cẩn dẫn thêm một số ý kiến của các nhà khoa học,
trong đó, đáng chú ý có quan điểm của P. I. Dameran. Theo tác giả này, để có thể miêu
tả khách quan phong cách ngôn ngữ tác giả, nhất thiết phải sử dụng phương pháp
thống kê. Xuất phát từ luận điểm coi phong cách ngôn ngữ cá nhân phải độc lập với
nội dung tác phẩm, nên theo ông, từ nào phụ thuộc vào nội dung sẽ không được tính
đến khi thống kê. Với cách làm đó, ta sẽ tìm ra một ý nghĩa lớn qua việc xét đặc điểm
của cách dùng những từ mà chính tác giả có thể “không ngờ” đến, tức là những đặc
điểm rất cá biệt trong việc “mã hóa từ vựng” các ý [12, tr. 46].
Những năm cuối của thế kỷ XX, phong cách ngôn ngữ cá nhân còn được
nghiên cứu dưới góc độ kí hiệu học. Người ta xem văn bản (tác phẩm) là một hệ thống
kí hiệu không tính đến mối quan hệ giữa người viết, người nói và người đọc, người
nghe. Một trong những người chủ trương hướng nghiên cứu này là E. Dragos. Tác giả
này cho rằng, vì tính chất kí hiệu của nó, kí hiệu thơ ca có hai hiện tượng đồng vị:
đồng vị của cái biểu đạt và đồng vị của cái được biểu đạt (hoặc nội dung). Đáng lưu ý
là cấp độ đồng vị của cái được biểu đạt, vì đây chính là yếu tố quan trọng nhất để làm
cho hiện tượng đa nghĩa của văn bản văn học có hiệu lực. Hiện tượng đồng vị chỉ xuất
có ảnh hưởng quyết định đến phong cách cá nhân [12, tr. 46].
Gần đây, do ảnh hưởng của chủ nghĩa cấu trúc, dựa trên cơ sở cho rằng thế giới
ngôn ngữ trong tác phẩm là có “giá trị tự thân”, cho nên, có nhà nghiên cứu đã xem xét
phong cách ngôn ngữ cá nhân quy về cách kết hợp, mang tới tổ chức và mối quan hệ
9
của các từ trong mỗi văn bản hoặc trong hàng loạt văn bản của một tác giả nào đó. Có
thể kể đến các tác giả đi theo hướng này là: R. Levin, S. Macus, P. Miclau, F. Guirand,…
Như vậy, có thể hiểu, phong cách ngôn ngữ cá nhân là một hệ thống (hay một tập
hợp) các phương tiện ngôn ngữ mà tác giả thường sử dụng hay lặp lại trong tác phẩm, kể
cả bài nói chuyện được ghi âm hay in lại. Hệ thống các phương tiện ngôn ngữ đó có
những “bản sắc riêng” để phân biệt phong cách của tác giả này với tác giả khác. Và dù
nghiên cứu phong cách ngôn ngữ cá nhân dưới góc độ nào, các nhà nghiên cứu đều cố
gắng đi tìm cái “bản sắc riêng” trong sản phẩm ngôn ngữ của người viết.
Về phong cách ngôn ngữ tác giả cụ thể, trên thế giới, đến nay đã có những công
trình nghiên cứu ngôn ngữ tác giả và sản phẩm là sự ra đời của các loại từ điển tác giả:
Từ điển Shakespeare, Từ điển Victo Hugo, Từ điển Puskin…
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu phong cách ngôn ngữ tác giả ở Việt Nam
Ở Việt Nam, phải đến những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI mới có một
số công trình nghiên cứu về phong cách tác giả. Từ điển Truyện Kiều do Đào Duy Anh
biên soạn cũng là một dạng từ điển về vốn từ trong tác phẩm của một tác giả. Qua thực
tế nghiên cứu, các nhà khoa học đã nhận diện phong cách ngôn ngữ Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Nguyễn Công Hoan,
Nam Cao, Nguyễn Tuân,… nhưng những “Từ điển Nguyễn Du”, “Từ điển Hồ Xuân
Hương”, “Từ điển Nguyễn Tuân”… vẫn còn là những dự án của tương lai.
Những công trình đã công bố, không thể không kể đến Nhà văn tư tưởng và
phong cách (Nguyễn Đăng Mạnh [132]), Nhà văn Việt Nam hiện đại chân dung và
phong cách (Nguyễn Đăng Mạnh [135]); Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong
Truyện Kiều (Phan Ngọc [145]); Chế Lan Viên với phong cách suy tưởng (Nguyễn Bá
Thành [188]); Văn chương tài năng và phong cách (Hà Minh Đức [56]); Phong cách
nghệ thuật Nguyễn Minh Châu (Tôn Phương Lan [111]); Phong cách thời đại nhìn từ
một thể loại văn học (Nguyễn Khắc Sính [172]); Phong cách văn xuôi nghệ thuật
Thạch Lam (Nguyễn Thành Thi [197]); Phong cách nghệ thuật Tô Hoài (Mai Thị
Nhung [153]; Đặc trưng nghệ thuật thơ Chế Lan Viên (Nguyễn Lâm Điền [49]); Nghệ
thuật thơ Chế Lan Viên (Đoàn Trọng Huy [90]),… Do định hướng nghiên cứu mà các
tác giả đi trước mới chỉ dừng lại ở việc phác thảo về chân dung, phong cách thông qua
các yếu tố nội dung - tư tưởng và hình thức (cấu trúc ngôn ngữ, hình tượng, tính cá thể
hóa, cụ thể hóa) mà chưa thực sự đi sâu cắt nghĩa phong cách ngôn ngữ tác giả.
10
Xét riêng về lĩnh vực thơ, có thể thấy, có nhiều công trình nghiên cứu và bài viết
khám phá các phương diện như: vần thơ, nhịp thơ, nhạc điệu, từ ngữ, phương thức biểu
đạt, cấu trúc ngôn ngữ,… Tuy nhiên, những phân tích, lí giải chủ yếu tập trung vào
khẳng định sức sáng tạo, nét độc đáo của từng thi phẩm, mà vẫn còn thiếu những nhận
định sâu về phong cách cá nhân. Thỉnh thoảng, nếu có thì việc nghiên cứu phong cách
ngôn ngữ cá nhân thường mới chỉ dừng lại ở sự phân tích ngôn ngữ (hoặc văn bản)
trong một số tác phẩm hoặc một số kiểu loại tác phẩm, chứ chưa có một sự phân tích
toàn bộ nguồn ngữ liệu trong suốt cả cuộc đời sáng tác của tác giả. Có lẽ, do sự lựa chọn
hướng khảo sát hoặc do chưa có sự tập trung đúng mức, cho nên, giới nghiên cứu mới
chỉ phát hiện ra những yếu tố riêng lẻ hơn là đưa ra những nhận định có tính khái quát
(chẳng hạn về các thủ pháp tu từ, thủ pháp cấu tạo văn bản… của mỗi tác giả).
Trong các tác giả có công trình đã nêu trên, chúng tôi nhận thấy Phan Ngọc là
người có ý thức rất sâu trong việc xây dựng khái niệm phong cách, những yếu tố chi
phối phong cách tác giả cũng như biểu hiện phong cách tác giả ở các phương diện của
tác phẩm. Trong cuốn Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du qua Truyện Kiều, Phan Ngọc ưu
tiên trước hết cho việc đánh giá tư tưởng của tác giả, vì theo nhà nghiên cứu, mọi sự lựa
chọn về mặt hình thức biểu đạt (và dĩ nhiên kéo theo đó là sự hình thành một phong
cách) phải xuất phát từ một tư tưởng độc sáng. Theo Phan Ngọc, trước hết phải tìm được
cái đặc trưng không thể thiếu của một hiện tượng mang tên phong cách. “Đặc trưng ấy
là tính thống nhất hữu cơ của các bộ phận trong một chỉnh thể, hay nói khác đi, tính cấu
trúc của nó [145, tr.31]. Nhất quán với quan điểm đó, tiến thêm một bước, Phan Ngọc
cho rằng, phong cách không phải là hiện tượng dĩ thành bất biến. Nó chịu tác động bởi
nhiều yếu tố, và có sự biến đổi theo thời gian. Từ những nét mới mẻ trong quan điểm về
phong cách như thế, Phan Ngọc đã tìm hiểu, phân tích đánh giá một cách khá thấu đáo
phong cách của Nguyễn Tuân biểu hiện ở những giai đoạn sáng tác khác nhau. Những
khái quát của Phan Ngọc về phong cách Nguyễn Tuân thực sự là những đóng góp quan
trọng cho việc nghiên cứu một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của văn học Việt
Nam hiện đại. [146, tr. 217 - 245].
Thực tế cho thấy, nghiên cứu phong cách học một cách bài bản, phải kể đến công
trình của các nhà ngôn ngữ học. Giáo trình phong cách học tiếng Việt của Đinh Trọng
Lạc (chủ biên) và Nguyễn Thái Hòa là một trong những cuốn sách đề cập một cách khá
toàn diện những nội dung của phong cách học. Khi giới thiệu về các loại phong cách học,
11
các tác giả đã dẫn ý kiến của U.D. Bôndaletôp; trong đó, nhà khoa học Nga lưu ý đến vấn
đề phong cách cá nhân [109, tr. 66]. Tán thành quan điểm đó, trong chương bàn về ngôn
ngữ nghệ thuật (do Đinh Trọng Lạc viết), tác giả đã xem cá thể hóa như một thuộc tính
bản chất của ngôn ngữ văn chương. Những kiến giải được minh họa bằng các dẫn chứng
cụ thể đã toát lên ý tưởng về phong cách ngôn ngữ cá nhân trong tác phẩm văn học, mặc
dù khái niệm này chưa được giới thuyết ở giáo trình [109, tr. 154 - 160].
Trong cuốn Dẫn luận phong cách học (1997), Nguyễn Thái Hòa đã dành một
chương (chương III) để nói về vấn đề phong cách cá nhân. Không đồng tình với Ch.
Bali, Nguyễn Thái Hòa ủng hộ quan điểm xem việc sử dụng ngôn ngữ của cá nhân
(trong đó có văn bản nghệ thuật) là sự kiện phong cách học. Theo đó, phong cách cá
nhân được xem xét từ hai phía: 1) Nghiên cứu ngôn ngữ gồm những yếu tố do thói
quen sử dụng được cá nhân thích dùng; 2) Nghiên cứu lời nói cá nhân trong những văn
cảnh và những hoàn cảnh nhất định [81, tr. 35]. Tác giả cũng đã giới thiệu tư tưởng
phong cách học của Leo Spitzer (nhà ngôn ngữ học người Áo) - người đã dày công
xây dựng những nguyên tắc phê bình phong cách học, trong đó, có nguyên tắc: nghiên
cứu phong cách học cá nhân phải xuất phát từ ngôn ngữ mà anh ta sử dụng trong tác
phẩm. Dù đó chưa phải là luận điểm cốt lõi trong nghiên cứu phong cách ngôn ngữ cá
nhân, nhưng tính định hướng của nó là rất rõ ràng.
Cuốn Từ điển Tu từ - Phong cách - Thi pháp học của Nguyễn Thái Hòa (2005)
có mục từ: Phong cách học lời nói. Hướng nghiên cứu này lấy lời nói làm đối tượng
nghiên cứu, trong đó có văn bản nói chung, văn bản nghệ thuật nói riêng [82, tr. 184].
Quan điểm này là hoàn toàn có cơ sở, bởi vì, bản thân ngôn ngữ trong tác phẩm văn
học là một dạng thức lời nói, do nhà văn, nhà thơ tạo ra. Xét về phong cách học nói
chung, sản phẩm ấy mang đầy đủ thuộc tính của ngôn ngữ nghệ thuật, và một khi nó in
đậm dấu ấn của người sáng tạo, tất yếu nó biểu hiện phong cách tác giả.
Công trình Phân tích phong cách ngôn ngữ trong tác phẩm văn học của Đỗ
Việt Hùng và Nguyễn Thị Ngân Hoa (2003) cũng thuộc số công trình nghiên cứu
phong cách chức năng của ngôn ngữ nghệ thuật, nhưng không đặt yêu cầu xem xét
phong cách cá nhân. Những luận điểm được tập trung luận giải chủ yếu nhằm làm rõ
đặc trưng của ngôn ngữ văn chương trong tương quan với các phong cách ngôn ngữ
khác. Tuy vậy, cuốn sách cũng gợi ra một số ý mà người nghiên cứu phong cách ngôn
ngữ tác giả cần quan tâm: “Khác với lời nói tự nhiên, trong ngôn ngữ nghệ thuật, mọi
12
chức năng của ngôn ngữ như: nhận thức, thông báo, tạo lâp quan hệ, bộc lộ… đều
không được thực hiện một cách trực tiếp mà chủ yếu thực hiện thông qua hình tượng
nghệ thuật, thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Vì thế, chức năng đầu tiên, có tính chất
quyết định của lời nói nghệ thuật là chức năng xây dựng hình tượng nghệ thuật. Đó là
chức năng thẩm mĩ của ngôn từ trong tác phẩm nghệ thuật” [89, tr. 26]. Theo các tác
giả, nghiên cứu phong cách không thể không dựa trên những “chuẩn” nhất định. Tuy
nhiên, đối với ngôn ngữ văn chương, “chuẩn” có tính đặc thù của nó: “Trong ngôn ngữ
nghệ thuật, sự vận dụng chuẩn mực ngôn ngữ và chuẩn mực phong cách của ngôn ngữ
tự nhiên đều chịu sự chi phối của chức năng thẩm mĩ, chức năng xây dựng hình tượng
nghệ thuật. Do đó, trong ngôn ngữ nghệ thuật luôn có hiện tượng lệch chuẩn so với
ngôn ngữ văn hóa nói chung” [89, tr. 57].
Năm 2010, Đặng Lưu với đề tài khoa học cấp Bộ Phong cách ngôn ngữ Nguyễn
Tuân đã đi sâu nghiên cứu phong cách ngôn ngữ của một nhà văn. Trên cơ sở tổng hợp
lí thuyết về phong cách ngôn ngữ cá nhân, tác giả đã khảo sát biểu hiện phong cách
ngôn ngữ của Nguyễn Tuân qua cách sử dụng từ ngữ, đặc điểm cú pháp, các phép tu
từ, giọng điệu,… Phương pháp thống kê ngôn ngữ học đã được áp dụng có hiệu quả
trong nghiên cứu và từ những số liệu đáng tin cậy, tác giả có cơ sở để khái quát những
nét chính yếu về phong cách ngôn ngữ của một nhà văn lớn [127].
Nguyễn Đức Chính với luận án tiến sĩ Phong cách ngôn ngữ thơ Bùi Giáng
(2018) đã đi sâu nghiên cứu đặc trưng tính nhạc, các mã hình tượng ngôn ngữ thơ và
cấu trúc văn bản thơ Bùi Giáng. Sử dụng các phương pháp và thủ pháp nghiên cứu phù
hợp, tác giả đã làm rõ những đặc điểm cá biệt trong phong cách ngôn ngữ thơ Bùi
Giáng, qua đó, định vị sự nghiệp thơ của vị “cuồng sĩ” này trong bức tranh toàn cảnh
thơ Việt Nam hiện đại [24].
Cũng cần phải kể thêm một số luận văn thạc sĩ đi theo hướng nghiên cứu này
như: Phong cách ngôn ngữ của Ma Văn Kháng (trên cứ liệu tiểu thuyết và truyện) (Lê
Thị Hồng Liên [121]), Đặc điểm phong cách ngôn ngữ trong ca từ của Trịnh Công
Sơn (Bùi Thị Minh Thùy [204]), Tìm hiểu phong cách ngôn ngữ Sơn Nam (Nguyễn
Thị Thương Thảo [189]), Ngôn ngữ trường thơ Loạn Bình Định (Nguyễn Văn Pháp
[158])… Dựa vào hệ thống lí thuyết và phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, các
luận văn vừa nêu đã tập trung tìm hiểu, chỉ ra những đặc trưng cơ bản của phong cách
ngôn ngữ các nhà thơ, nhà văn Việt Nam.
13
Trên các tạp chí và diễn đàn khoa học, có một số bài viết đáng chú ý, chẳng
hạn: Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong thơ Nôm (Đào
Thản [185]), Đặc điểm phong cách ngôn ngữ của thơ và ca dao: nhìn từ góc độ giao
tiếp ngôn ngữ (Hữu Đạt [40]),… Những bài báo này đã đi sâu lí giải một số khía cạnh
sử dụng từ ngữ, cú pháp… để làm nổi rõ những nét riêng đặc điểm ngôn ngữ của thơ
ca Việt Nam ở từng giai đoạn lịch sử.
Ở hải ngoại, Nguyễn Hưng Quốc và Thụy Khuê là những nhà phê bình viết khá
nhiều về thơ Việt. Cập nhật các lí thuyết phê bình văn học của phương Tây hiện đại,
hai tác giả này có điều kiện soi rọi thơ Việt từ những góc nhìn khác nhau, trong đó có
góc nhìn phong cách. Viết về Bùi Giáng, Nguyễn Hưng Quốc nhận định: “Đã đành,
làm thơ, ai cũng chú trọng đến ngôn ngữ. Song tôi có cảm tưởng ít có ai bị ám ảnh bởi
vấn đề ngôn ngữ một cách nặng nề, triền miên như Bùi Giáng. Chữ “ngôn ngữ”
thường xuyên xuất hiện trong thơ ông, đặc biệt trong hai tập thơ mới xuất bản ở hải
ngoại sau 1975, (200) ở đó, câu Đường qua ngôn ngữ tuyệt trù, hay Đường qua ngôn
ngữ điệp trùng và Đường qua ngôn ngữ cuối cùng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần
trong nhiều bài thơ khác nhau. Hãy để ý đến nhóm từ đường qua ngôn ngữ: với Bùi
Giáng, dường như công việc làm thơ chủ yếu là một cuộc hành trình vượt qua ngọn
đèo cheo leo của ngôn ngữ trước khi là bất cứ một cái gì khác”. [169, tr. 102]. Không
viết một chuyên luận về một nhà thơ Việt nào, nhưng trong các công trình phê bình
văn học của mình, Thụy Khuê rất có ý thức nhận diện những gương mặt nổi bật trong
thơ Việt hiện đại như Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Đặng Đình
Hưng… Những phác thảo về phong cách nghệ thuật của một số nhà thơ qua ngòi bút
Thụy Khuê không phải là không sắc nét [99], [100].
Nhìn lại, ta sẽ thấy việc nghiên cứu phong cách ngôn ngữ của một số nhà văn,
nhà thơ đã có được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, các bài viết, công trình chỉ mới
dừng lại ở việc nêu lên một số nét riêng trong sử dụng ngôn ngữ, chưa thấy có sự tổng
kết toàn bộ những vấn đề thuộc về phong cách ngôn ngữ cá nhân của tác giả được
nghiên cứu. Bởi vậy, trên hành trình nghiên cứu ngôn ngữ thơ, vấn đề phong cách
ngôn ngữ của từng tác giả cụ thể vẫn là địa hạt còn nhiều chỗ trống. Rất cần có những
công trình tiếp tục đi sâu tìm hiểu, phân tích, khám phá một cách đầy đủ, kĩ lưỡng hơn
vấn đề này.
14
1.1.2. Tình hình nghiên cứu phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử
Có thể nói, trong các nhà thơ của phong trào Thơ mới 1932 - 1945, Hàn Mặc
Tử là tác giả nhận được sự quan tâm đặc biệt của giới nghiên cứu. Sự quan tâm đặc
biệt này có nhiều lí do, song trên hết là bởi sáng tác của ông đa dạng, phong phú, hành
trình thơ của ông đã vắt một dải từ cổ điển, qua lãng mạn, đến tượng trưng và siêu
thực như nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định. Có lẽ, vẫn còn một lí do khác: thơ Hàn
Mặc Tử rất bí ẩn, kinh dị, vốn không dễ hiểu. Nó thách thức khả năng “giải mã” của
người tiếp nhận. Chính tác giả đã sớm nhận thấy: “Giải nghĩa thơ văn thật là một vấn
đề to lớn và phức tạp quá, và cứ theo như lối thơ tôi làm đó, thì phải giảng giải đến bao
nhiêu trang giấy, mà rốt cuộc chưa chắc người ta đã hiểu được tí gì” [45, tr. 163]. Tuy
nhiên, từ thái độ dè dặt ban đầu của một số nhà phê bình, càng ngày, những giá trị của
thơ Hàn Mặc Tử càng được khẳng định từ nhiều góc nhìn khác nhau.
Di sản thơ của Hàn Mặc Tử đã được soi rọi ở nhiều khía cạnh: từ kiểu sáng tác,
đặc điểm tư duy thơ, màu sắc tôn giáo, thế giới nghệ thuật, đặc trưng thi pháp, đặc sắc
về hình thức biểu hiện trong đó có cách sử dụng ngôn từ. Điều dễ nhận thấy, dù viết về
bất cứ khía cạnh nào, các nhà phê bình cũng đều ít nhiều nhận thơ Hàn Mặc Tử là
tiếng lòng của một nhà thơ có cách hành ngôn riêng, rất cá biệt, không lẫn với bất cứ
nhà thơ nào trong bức tranh chung của phong trào Thơ mới 1932 - 1945.
Hiện nay, những nghiên cứu về thơ Hàn Mặc Tử đã được tập hợp trong nhiều
công trình và đã công bố rộng rãi, vì thế, chúng ta có điều kiện đưa ra cái nhìn tổng
quát về những ý kiến đề cập đến đặc điểm ngôn từ trong thơ ông, để từ đó khẳng định:
việc khảo sát, nghiên cứu phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử là hoàn toàn có cơ sở
và hết sức cần thiết.
1.1.2.1. Các ý kiến về đặc điểm phong cách thơ Hàn Mặc Tử
Ngay khi thơ Hàn Mặc Tử vừa mới xuất hiện trên thi đàn, xung quanh ông,
những bạn tâm giao và một số nhà phê bình đã “biệt nhỡn” đối với các sáng tác mới mẻ,
lạ lùng của ông, trong đó có cách sử dụng ngôn từ. Đến năm 1940, khi Hàn Mặc Tử vừa
tạ thế, Trọng Miên đã dành những lời hết sức trân trọng để nói về thơ của bạn mình:
“Thi sĩ có những liên lạc thanh khiết với nhạc, hoa, trăng, gái, với một thế giới mộng ảo,
huyền diệu. Tinh lực của hồn, của máu Hàn Mặc Tử phát triển mãnh liệt trong thơ nên
cảm khích ta một cách dị thường. Đó là một thi sĩ mà ta phải rung cảm trước khi tìm
hiểu” [45, tr. 236]. Tác giả cũng đã dùng những từ ngữ rất đắc địa để định danh những
15
đặc điểm trong thế giới nghệ thuật cũng như ngôn từ thơ Hàn Mặc Tử: “Những vần thơ
nhịp nhàng Hương thơm, Mật đắng… Máu cuồng, Hồn điên, Xuân như ý, những lời
châu ngọc say sưa trong đau thương của Hàn Mặc Tử đã làm cho tôi khoái trá, ngây
ngất vì ý tứ say điên, rung động bồi hồi vì nhạc điệu đê mê, run rẩy, chóa ngợp vì màu
sắc sáng ngời, huyền diệu, rú lên vì kinh dị, lạ lùng” [45, tr. 237].
Một trong những nhà phê bình viết sớm nhất về thơ Hàn Mặc Tử là Trần Thanh
Mại. Trong Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) - một công trình vừa mang tính chất phê bình,
vừa có màu sắc biên khảo công bố vào năm 1941 - Trần Thanh Mại đã có những nhận
định bước đầu về ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử. Đánh giá cao tài nghệ của Hàn Mặc Tử
ngay ở những bài thơ Đường luật, Trần Thanh Mại nhận ra “lối thơ có giọng trầm
hùng bi đát rất kị với lối đoán số tướng theo khẩu khí của các bậc tiền nho” [130, tr.
33]. Với những bài thơ đã chuyển hẳn sang địa hạt Thơ mới trong Gái quê, theo nhà
phê bình, nhiều bài thơ vẫn chứa chan “một nhạc điệu mơ màng mà lối ngũ ngôn cổ
phong còn lưu chưa dứt khoát” [130, tr. 46]. Tác giả cũng chú ý đến những bài thơ chỉ
độc một vần (Tình quê) hay những bài thơ mà mỗi chữ đều có linh hồn, một nguồn
“hoạt động lực”, bắt tay nhau nhảy múa thành một bản khiêu vũ thần tiên. Trần Thanh
Mại cho rằng, với một cơ thể khổ bệnh, tinh thần tê điếng, Hàn Mặc Tử có một “nghệ
thuật yêu quái, một ảo thuật đích thị”, cho nên dưới ngòi bút của thi sĩ, những tư
tưởng, những chữ hóa thành linh động một cách dễ sợ. In trên tờ giấy trắng, người đọc
dường như nhìn thấy từng con chữ “quằn quại ngo ngoe, vắt mình qua bên này, qua
bên kia như những con lão trùng nào cứ nhô nhúc, đòi thêm ánh sáng không khí”. Tính
chất phóng túng của ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử cũng được Trần Thanh Mại cảm nhận
rất rõ. Chất nhạc trong thơ Hàn hòa quyện, mê đắm, làm cho những câu thơ nhiều
trường hợp không có vần, bỏ cả niêm luật, không cần câu nệ ngắn dài, không cần đến cả
ý tứ mạch lạc của thơ, mặc cho người đọc hiểu hay không… vẫn tạo nên những hiệu
ứng khoái trá, lí thú, khiêu khích người đọc. Theo nhà phê bình, Hàn Mặc Tử là người
đầu tiên tìm ra cái mà người ta gọi là quy luật cho lối thơ tám chữ, tìm ra được cái chỗ
ngắt hơi trong câu thơ tám chữ là sau chữ thứ ba. Qua cách lựa chọn từ ngữ, ở nhiều bài
thơ, ta thấy có nhiều bài, nhiều câu thơ phần nhiều là vần bằng và ăn vần với nhau theo
từng nhịp chặt chẽ. Trần Thanh Mại chỉ ra nhiều những danh từ, thành ngữ do Hàn Mặc
Tử tạo ra làm cho cách diễn tả văn chương phong phú hơn, linh động hơn [149, tr. 131 -
175], [130, tr. 201].
16
Đồng hành với các tác giả trong phong trào Thơ mới 1932 - 1945, Hoài Thanh
và Hoài Chân đã có những đánh giá bước đầu về thơ Hàn Mặc Tử; mặc dù về sau, một
số nhà phê bình nhận ra chính Hoài Thanh và Hoài Chân tỏ ra chưa cảm thụ được lối
thơ của thi tài đặc biệt này. Trong Thi nhân Việt Nam, chỉ có một vài nhận định khá dè
dặt về thơ Hàn Mặc Tử, trong đó, có vấn đề ngôn từ. Những cụm từ như vườn thơ
“rộng rinh không bờ bến”, “lời thơ dính máu” mà các tác giả Thi nhân Việt Nam sử
dụng để khái quát về sáng tạo thơ của Hàn Mặc Tử dù mới chỉ là cảm nhận thoáng
qua, nhưng không xa bản chất sáng tạo ngôn ngữ của nhà thơ [184, tr. 202 - 204].
Quách Tấn - người bạn thân thiết được Hàn Mặc Tử ủy thác toàn quyền định
đoạt số phận sự nghiệp thơ của mình - đã có những đánh giá rất xác đáng về thơ Hàn.
Trong bài Đôi nét về Hàn Mặc Tử (1967), Quách Tấn viết: “Thơ mới của Tử phần
nhiều mới ở tình tứ và hơi văn. Về hình thức thì Tử chối bỏ sự đối chọi và sự hạn câu
của luật Đường. Còn thể thơ và âm điệu thì vẫn giữ”. Theo tác giả Mùa cổ điển, nhiều
bài thơ của Hàn Mặc Tử ở thời kì đầu mặc dù đã rất mới, nhưng tính cách Á Đông và
cách dùng chữ vẫn còn ở trong khuôn khổ. Càng về sau, ở tập Thơ điên, thơ Hàn đã đi
từ lãng mạn sang tượng trưng, đặc biệt là từ các tập Xuân Như ý, Thượng thanh khí,
thơ Hàn Mặc Tử đã đi từ địa hạt tượng trưng sang địa hạt siêu thực, lời thơ tươi sáng
nhưng tứ thơ nhiều khi vượt ra ngoài thực tế quá xa, khiến người đọc khó lĩnh hội
được dễ dàng, thấu đáo. Có nhiều bài thơ đọc thấy hay, nhiều câu hết sức đẹp nhưng ít
ai có thể giải thích cho rành mạch, nhiều bài thơ chỉ hội ý chứ không thể ngôn truyền
[149, tr. 187 - 323].
Là một nhà thơ cùng thời, lại trong Trường thơ Loạn với Hàn Mặc Tử, Chế Lan
Viên đánh giá rất cao thi tài của Hàn. Hàn Mặc Tử anh là ai?, câu hỏi đó đã được Chế
Lan Viên nêu lên và ông đã tìm cách trả lời bằng góc nhìn, sự đánh giá riêng của mình.
Theo Chế Lan Viên, thơ Hàn Mặc Tử vượt lên trên hết thảy những gì mà các nhà thơ
cùng thời đã viết, và chắc chắn những vần thơ ấy sẽ sống mãi với thời gian. Cắt nghĩa
sự sáng tạo ngôn từ của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên cho rằng: “Phải có cơn bão máu,
trận hồng thủy tai ương, những động đất tâm hồn, những phun lửa tình yêu kinh khủng
về sau, thì các khả năng kia mới lên cái thế bình phương như ta thấy” [231, tr. 5].
Đặng Tiến nhận xét về kiến trúc tổng thể của thơ Hàn Mặc Tử: kiến trúc bởi một
hồn thơ thẫm nhiễm đức tin. Ông cho rằng, những kết luận Hàn Mặc Tử là một nhà thơ
Thiên Chúa giáo mà không cắt nghĩa tại sao ngoài việc chỉ trích dẫn những bài thơ
17
những câu thơ có âm vang tôn giáo, có hình thức tín ngưỡng như “Maria linh hồn
tôi…”… thì chưa đủ, vì một người không có đức tin cũng có thể kể rất nhiều tên Thánh,
làm thơ ca tụng đấng Tối Linh. Và theo Đặng Tiến, “chúng ta chỉ có thể nói đến một tín
lí trong một tác phẩm khi toàn bộ tác phẩm đó tiềm ẩn đức tin trong cơ cấu”. Từ đó, ông
khẳng định: “một đức tin Việt Nam ở Thiên Chúa, diễn đạt bằng một ngôn ngữ Việt
Nam: ngôn ngữ của thi ca” [213, tr. 85]. “Sự phân lượng e rằng khó chính xác - nhà phê
bình viết - nhưng vết tích Phật giáo, và ngay cả Khổng giáo, Lão giáo trong thơ Hàn
Mặc Tử đậm đà, từ trong rung cảm đến ngôn ngữ. Điều đó không có gì nghịch lí cả: hạt
mầm Thiên Chúa giáo khi nảy nở trên đất Việt Nam thì tự nhiên thích ứng với khí hậu,
phong thổ”. Tác phẩm của Hàn Mặc Tử còn nhiều vết tích của một nhân bản Việt Nam.
Tín ngưỡng Thiên Chúa đã nẩy mầm trên một nhân bản phiếm thần và đa giáo, thì hồn
thơ Hàn Mặc Tử không khỏi làm một lăng kính hội tụ rồi phát huy nhiều nguồn sáng
khác nhau, và tương hỗ lẫn nhau” [213, tr. 127]. Có thể nói, bài viết của Đặng Tiến là
một gợi ý thú vị, sâu sắc, từ đó, những ai muốn đề cập đến cảm xúc tôn giáo, ngôn ngữ
tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử phải cân nhắc, suy xét kĩ lưỡng hơn.
Đỗ Lai Thúy đã gọi Hàn Mặc Tử là “một tư duy thơ độc đáo”. Phần nào chịu
ảnh hưởng quan điểm của Đặng Tiến (qua tiểu luận Đức tin trong hồn thơ Hàn Mặc
Tử), Đỗ Lai Thúy cố gắng đi sâu hơn vào những biểu hiện phong cách của nhà thơ.
Theo ông, “trữ tình của Hàn Mặc Tử, trước hết, là gợi cảm chứ không phải truyền
cảm. Nhà thơ không truyền thẳng cảm xúc của mình tới độc giả nhờ phương tiện ngôn
ngữ, bằng bản thân ngôn ngữ, thức dậy thứ năng lượng đó vốn tiềm ẩn trong mỗi độc
giả, vì vậy mà cảm giác thẩm mĩ của người đọc no đủ hơn, sâu sắc hơn bởi như tránh
được một sự áp đặt từ bên ngoài” [206, tr. 215]. Cho rằng thơ Hàn Mặc Tử là sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa tư duy tôn giáo với chất trữ tình trên cơ sở của cái tôi cá nhân,
Đỗ Lai Thúy đã đi sâu lí giải hệ thống biểu tượng nổi bật trong thơ Hàn, tập trung nhất
ở bộ ba Trăng, Hồn, Máu. Ấy là “tam vị nhất thể” của một bản ngã - thân xác đau
thương. Từ bản ngã ấy, nghệ thuật kết tinh và đòi hỏi được biểu đạt bằng thứ ngôn ngữ
riêng của nó. Như vậy, phong cách ngôn ngữ của Hàn Mặc Tử có nguồn mạch rất kín,
rất sâu chứ không chỉ biểu hiện ở những yếu tố “lộ thiên”. Nghiên cứu phong cách
ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử, phải đặc biệt chú ý điều này.
Từ góc nhìn của một người sáng tác, Ngô Văn Phú đã không ngần ngại xem
Hàn Mặc Tử là “một hồn thơ dị biệt, hơn thế, “một chủ tướng trong cuộc đối mới thi
18
ca”… “Ông không khoa trương, không cần biết đến các chuyện khen chê. Ông chỉ viết
theo tâm hồn mình, trí não mình, cảm hứng thơ của mình đòi hỏi”. Đọc thơ Hàn Mặc
Tử, Ngô Văn Phú nhận thấy, đó là thứ thơ “tự nội tâm mà vọt ra, từ cái thế giới riêng
trong nhận thức của ông mà viết, do đó, tự ông có một phong cách, không giống bất cứ
nhà thơ nào” [164, tr. 568]. Phong cách ấy thấm nhuần vào mọi yếu tố trong sáng tạo
mà ngôn ngữ là một khía cạnh rất nổi bật.
Nghiên cứu giọng điệu trong thơ trữ tình, Nguyễn Đăng Điệp quan tâm đến
chất giọng riêng của “tứ bất tử” trong Thơ mới (gồm Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử,
Nguyễn Bính, Huy Cận). Theo Nguyễn Đăng Điệp, “sự gặp gỡ giữa chất giọng Thánh
kinh, nỗi khổ đau cùng tận và niềm tha thiết yêu sống đã đem đến một giọng điệu độc
đáo không thể gặp hai lần trong thơ Việt thế kỷ XX” - ấy là giọng điệu thơ của Hàn
Mặc Tử [50, tr. 313]. Giọng điệu là một phạm trù của thi pháp, là hiện tượng “siêu
ngôn ngữ”, nhưng phải được “chất thể hóa” bằng các yếu tố ngôn từ nghệ thuật. Từ
điểm nhìn đó, Nguyễn Đăng Điệp đã phân tích sự khác thường của Hàn Mặc Tử trong
cách sử dụng từ ngữ. Nào là những định ngữ nghệ thuật hiếm gặp trong thơ ca: máu
khô, thơ khô, chết yểu, thảm thương rền, trăng tự tử, gió hôn… nào là những động từ
ngữ khí mạnh: ôm, riết, ghì, cắn, đớp, mửa, trút, lìa, tan tành… Tự bản thân những từ
ngữ như thế đã là những dấu hiệu của một sự khác biệt, song sự khác biệt càng rõ nét
hơn khi chúng được sử dụng để làm nên một sự phối trộn giọng điệu rất đặc trưng của
Hàn Mặc Tử. Đó cũng chính là một biểu hiện của phong cách ngôn ngữ.
Từ việc phân tích một số cách sử dụng từ ngữ của Hàn Mặc Tử, nhà phê bình
Vương Trí Nhàn cho rằng, giọng thơ Hàn Mặc Tử là “giọng thơ độc đáo không chia sẻ
âm hưởng với ai hết”, nhà thơ phải “gào lên, rú lên” mới nói hết ý mình. Ông cũng
khẳng định, so với thi sĩ đương thời, Hàn Mặc Tử đã có những đóng góp cho việc mở
rộng biên giới thơ - điều không thể phủ nhận. Trong di sản thơ của Hàn Mặc Tử,
“nhiều câu thơ buột ra như là một sự dứt bỏ, tự giải phóng” [150, tr. 108].
Chu Văn Sơn đã định danh thế giới thơ của Hàn Mặc Tử là “Thi học của cái tột
cùng”. Tác giả cho rằng, “chinh phục cái tột cùng, tất nhiên cần phải có thơ ca của một
hình thức tột cùng”. Ấy là loại ngôn từ toát lên ý nghĩa ở mức độ cao nhất của cảm
giác, của tính chất, đặc điểm đối tượng [173, tr. 39 - 47]. Chu Văn Sơn đã thâu gộp các
cặp phạm trù đối lập được thể hiện trong thơ Hàn: “Có thể nói, bước vào Thơ điên là
bước vào cái thế giới quằn quại của tinh thần. Nó là biểu hiện của những giằng xé
19
quyết liệt giữa Bóng tối và Bệnh tật, Chết chóc, Ma quỷ với Ánh sáng của Tình yêu,
Sự sống, Thần thánh… giữa Cố chấp, Thù hận, Hẹp hòi với Khoan dung, Độ lượng,
Cao cả… Giữa Địa ngục hắc ám với Thiên đường quang minh… Tất cả những phản
trái nghịch lí của nó đều là ngôn ngữ của Đau thương” [173, tr. 41]. Đấy thực sự là
một loại hình thơ. Và dĩ nhiên “làm nên diện mạo một loại hình, không thể không có
vai trò của lớp từ riêng. Với Thơ điên, đó là lớp ngôn từ cực tả - hiểu theo nghĩa là lớp
từ có thiên hướng diễn tả ở mức độ cực điểm”. Nét nổi bật đó là gì nếu không phải là
một nhãn quan ngôn ngữ - yếu tố quan trọng giúp định hình phong cách Hàn Mặc Tử.
1.1.2.2. Các ý kiến về đặc điểm ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử
Năm 1942, trong bộ Nhà văn hiện đại, đề cập đến sáng tác của Hàn Mặc Tử,
Vũ Ngọc Phan đã nhận thấy một thứ ngôn ngữ thơ bị chi phối bởi tâm thế sáng tạo
khác thường. Nhà phê bình cho rằng: “Hàn Mặc Tử có những thi hứng rất dồi dào,
nhưng thơ ông lại phần nhiều khúc mắc, nhạc điệu trong thơ ông hình như không phải
là phần quan hệ, lời thơ ông nhiều khi rất thô. Bệnh ông lại làm cho ông có những ý
tưởng khác thường, nên nhiều bài thơ của ông chỉ là những bằng chứng rất lạ cho
những ai muốn khảo sát về một tâm trạng, một linh hồn đau khổ” [157, tr. 145].
Phan Cự Đệ đã nhận xét tổng quát: “Hàn Mặc Tử là một phong cách rất độc đáo
trong cảm thụ nghệ thuật, cho nên ngôn ngữ thơ cũng rất độc đáo, có lẽ không giống
ai” [45, tr. 35]. Cắt nghĩa những lí do làm nên phong cách ngôn ngữ dị biệt ấy của Hàn
Mặc Tử, Phan Cự Đệ cho rằng: “Hàn Mặc Tử đã cố gắng tổng hợp vào bản thân mình
những truyền thống văn học xưa và nay, dân gian và hiện đại, phương Đông và
phương Tây, Thiên Chúa giáo, Phật giáo và cả Khổng giáo, Lão giáo. Người ta cũng
nói đến một thứ ngôn ngữ có tính cách trưởng giả (noble), giàu âm nhạc, giàu hình ảnh
trong thơ Hàn Mặc Tử, trong đó phải tính đến những ảnh hưởng của các điệu Nam
bằng, Nam ai, kể cả nhạc điệu cung văn đồng bóng” [45, tr. 71].
Cảm nhận được sự phong phú của thế giới thơ Hàn Mặc Tử, Huỳnh Phan Anh
(1971) đề cập đến những hướng khám phá khác nhau về thơ của thi sĩ đặc biệt này. Về
đặc điểm ngôn từ của thơ Hàn Mặc Tử, ông nhận định: “Chính sự thức tỉnh trước thân
phận bàng hoàng, èo uột của kiếp người (có nhất thiết một người mệnh danh là Hàn
Mặc Tử?) đã đẩy thơ Hàn Mặc Tử tới những chân trời kì diệu của ngôn ngữ. Nó là
tiếng kêu hốt hoảng của tâm hồn. Nó là cơn gào thét của khoái cảm sắp tiêu ma. Nó là
một nỗi kích thích, sức dồn đẩy của da thịt, của thần kinh, của não bộ. Nó mặc khải
20
một vũ trụ, vũ trụ mà thi sĩ kêu đòi, vũ trụ trong đó thi sĩ chỉ có thể chiến thắng hư vô
bằng nhục cảm có thật đang kêu gào, chới với, ngất ngư” [1, tr. 62].
Võ Long Tê - một chuyên gia văn học Thiên Chúa giáo - có bài viết công phu
cắt nghĩa nhiều phương diện trong sáng tạo của Hàn Mặc Tử. Bài này viết bằng tiếng
Pháp, hoàn thành vào năm 1972. Theo yêu cầu của Phan Cự Đệ, năm 1990, tác giả tự
dịch sang tiếng Việt và được tập hợp trong cuốn Hàn Mặc Tử - về tác gia và tác phẩm
do Phan Cự Đệ và Nguyễn Toàn Thắng tuyển chọn và giới thiệu (2002). Vấn đề ngôn
ngữ thơ Hàn Mặc Tử cũng đã được Võ Long Tê quan tâm. Ông viết: “Ngôn ngữ thơ
do Hàn Mặc Tử đào luyện có vẻ đặc sắc vì sự lựa chọn tài tình các từ ngữ hòa điệu và
thú vị, vì ma thuật gợi tả những ảnh tượng dẫn khởi, vì tính đa dạng của những hình
thức vận - luật - học thích ứng với đà nhiệt tình cảm hứng, vì tài chế ngự thể thơ tám
chữ vốn là sự đóng góp thiết yếu của phong trào Thơ mới, nói tóm lại, vì những
phương thế vận dụng cách thiên tài của một nghệ thuật phong phú” [45, tr. 389]. “Hàn
Mặc Tử không chối bỏ những phương thế truyền thống của tiếng Việt, trái lại, đổi mới
những phương thế ấy theo yêu cầu của đức tin… Nhà thơ vui lòng sử dụng một số từ
ngữ của kinh điển Phật pháp đã đi vào ngôn ngữ thông dụng (ví dụ: phượng trì). “Hàn
Mặc Tử đã thành công trong việc thích ứng những khả năng của tiếng Việt với những
yêu cầu của cảm hứng Công giáo và việc sáng thế một ngôn ngữ thơ mang dấu ấn bất
hủ của một nhà thơ thiên tài” [45, tr. 392].
Lại Nguyên Ân, trong bài viết Khí chất người miền Trung và nhà thơ Hàn Mặc
Tử cũng đã có cái nhìn sắc sảo về một khía cạnh khác trong phong cách thơ Hàn, đó là
“tố chất vùng” bổ sung cho diện mạo nhân cách sáng tạo Hàn Mặc Tử. Trong thơ Hàn
Mặc Tử có nhiều trường hợp dùng chữ có “màu sắc miền Trung” tạo nên những đơn vị
từ giàu khả năng biểu cảm và những kiểu từ với nét nghĩa khó tìm thấy ở những vùng
phương ngữ khác. Nhà phê bình khái quát thêm rằng, ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử là
“ngôn ngữ vùng đất” với sắc thái “tối” và “đục” và khẳng định chính khí chất ngôn
ngữ vùng ấy đã có công đưa tiếng Việt, nghệ thuật ngôn từ người Việt đi vào những
vùng đất mới của sự khai thác cái đẹp - đó chính là sự khẳng định quá trình tìm tòi của
nhiều nghệ sĩ lớn ở thế kỷ XX trong đó có Hàn Mặc Tử [69, tr. 179 - 186].
Phan Huy Dũng đã tìm hiểu và lí giải một khía cạnh khá thú vị trong cách sử
dụng ngôn từ của Hàn Mặc Tử. Ông cho rằng “Mặc dù có rất nhiều độc giả hâm mộ đến
mức say mê, thơ Hàn Mặc Tử nói chung còn khó đọc với không ít người. Nếu chỉ tìm
21
nguyên nhân từ phía tác giả, có thể thấy sắc thái địa phương trong ngôn ngữ thơ ông đã
đóng vai trò nhất định” [34, tr. 243]. Màu sắc địa phương trong thơ Hàn Mặc Tử - theo
Phan Huy Dũng - không chỉ ở từ ngữ, mà còn ở cách nói, cách ví von so sánh, sử dụng
hình ảnh. Ông cũng cắt nghĩa lí do sự đậm đặc sắc màu địa phương trong thơ Hàn Mặc
Tử: “vấn đề là phải tìm hiểu xem tính quan niệm và hiệu quả của lối sử dụng ngôn ngữ
ấy trên cơ sở tuyệt đối tôn trọng chỉnh thể thơ Hàn Mặc Tử” [34, tr. 245]. “Thế giới thơ
Hàn Mặc Tử là thế giới của chiêm bao, mơ mộng hoang tưởng. Đó là kết quả tất yếu và
lô gic của một quan niệm về thơ, sứ mệnh thi sĩ mà ông từng bày tỏ nhiều lần… Phương
ngữ miền Trung với ấn tượng mà nó gây cho người đọc về một cái gì xa lạ, hoang dã, bí
hiểm quả đã giúp nhà thơ rất đắc lực trong công việc kiến tạo này” [34, tr. 246]… Đánh
giá về cách dùng ngôn ngữ đậm màu sắc địa phương của Hàn Mặc Tử, Phan Huy Dũng
viết: “Thực ra từ địa phương miền Trung tự nó không có màu sắc cụ tượng hơn từ vựng
các phương ngữ khác. Chẳng qua vì xuất hiện trên nền một thói quen tiếp nhận những gì
đã được gọt giũa, trau chuốt (kết quả của quá trình chuẩn hóa thành công ngôn ngữ văn
học dân tộc) nên nó đập mạnh vào tri giác, gây ấn tượng hơn, nổi bật hương sắc riêng
hơn mà thôi. Có thể thấy ở đây mối quan hệ tương hỗ đẹp đẽ giữa ngôn ngữ văn học đã
đạt tính thống nhất cao và thứ ngôn ngữ giàu sắc thái địa phương của thơ Hàn Mặc
Tử… Ở Hàn Mặc Tử, những yếu tố của phương ngữ miền Trung đã chiếm giữ một cực
giữa nhiều cực, một sắc thái giữa nhiều sắc thái cần thiết cho thế giới thống nhất của thơ
ông. Việc loại bỏ hay thay thế chúng không thể không làm phương hại đến sự chao liệng
chóng mặt nhưng ngoạn mục của thơ Hàn Mặc Tử giữa hai bề thô tháp trần trụi và tinh
tế, cao sang; âm u quằn quại và sáng láng, siêu thoát… Rõ ràng, Hàn Mặc Tử đã có
được cảm thức ngôn ngữ của một nghệ sĩ lớn. Sắc thái địa phương trong ngôn ngữ thơ
của ông đã không xuất hiện ngẫu nhiên. Nó không phải là yếu tố “ngoài da” dị biệt, vô
ích, mà là máu thịt của thơ Hàn Mặc Tử” [34, tr. 247]. Như vậy, tuy chỉ đề cập đến vấn
đề từ địa phương trong thơ Hàn Mặc Tử, nhưng bài viết của Phan Huy Dũng đã chạm
đến những nét riêng trong cách dụng ngôn của nhà thơ - yếu tố quan trọng tạo nên một
phong cách ngôn ngữ.
Nguyễn Quân nhận ra những yếu tố chi phối đặc điểm ngôn từ trong tác phẩm
của Hàn Mặc Tử, sự khác biệt, vượt trội của thơ Hàn so với tác phẩm của các tác giả
cùng bối cảnh văn học: “Cái tót vời của Hàn Mặc Tử là: tất cả những gì cục bộ là gào
kêu, động đậy, phát sáng, bốc mùi, tỏa hương, ấm mềm… (tức là sống vậy) ở mỗi chữ,
22
câu, mô típ, hay ý tứ đều được nhấn chìm trong tổng thể, trong một không gian êm,
lặng rộng và “bàng quan”. Cái bao bọc vũ trụ ấy nâng thơ ông tới tầng triết mĩ… Đó
cũng là lí do làm thơ ông vượt lên những người cùng thời đua nhau thở hít tế nhị và
động đậy hăng hái. Thơ phương Đông có tứ ẩn, càng vừa sâu vừa rõ càng tốt. Hàn
Mặc Tử có điều đó sau cái kì lạ về chữ, về nhạc, về vần vốn hấp dẫn người đọc và làm
thơ sành. Nhờ vậy, thơ ông như từ đâu bất ngờ tới, không chuẩn bị, như hơi thở tự ra
vào, như được “khạc” ra, “thổ” ra, thở hắt ra, trào ra chứ không phải được làm ra. Nó
sinh hoạt với ta bằng ngôn ngữ, nhưng sống với ta ở tầng tiền ngôn ngữ” [45, tr. 571].
Những nhận xét như vậy xuất phát từ mĩ cảm tinh tế, từ vốn hiểu biết sâu rộng về bản
chất của sáng tạo, về vai trò của ngôn ngữ trong thơ - điều hết sức cần thiết cho việc
khái quát về phong cách của một tác giả.
Bên cạnh bài viết của các nhà nghiên cứu, cũng cần kể thêm những luận văn,
luận án khảo sát một số khía cạnh ngôn ngữ thơ của Hàn Mặc Từ. Tìm hiểu nghệ thuật
thơ Hàn Mặc Tử (luận văn thạc sĩ của Lê Thị Hải, 1997) với những khảo sát bước đầu
về nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử, trong đó nêu một số cảm hứng chủ đạo, thời gian
không gian nghệ thuật và khai thác một số đặc trưng trong ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử
ở nét giản dị đời thường với việc sử dụng chất giọng miền Trung và giàu tính hình
tượng trong thơ ông [70]. Luận văn Đặc điểm từ ngữ trong thơ của Hàn Mặc Tử và
Nguyễn Bính (2011) của Chế Thị Hồng đã nghiên cứu ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử ở
một số cách dùng từ láy và một số lớp từ tiêu biểu (chỉ: không gian, cảm xúc tâm
trạng, người con gái đẹp) trong sự đối sánh với Nguyễn Bính để bước đầu tìm ra một
số đặc điểm về phong cách thơ Hàn Mặc Tử [85]. Luận văn Từ ngữ và biện pháp tu từ
trong thơ Hàn Mặc Tử (2014) của Phan Văn Bộ đặt nhiệm vụ tìm hiểu những lớp từ
ngữ nổi bật: thi ca, địa phương, điển tích, điển cố; và một số biện pháp tu từ tiêu biểu:
so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, tượng trưng. Tuy nhiên, việc xác định và đưa ra các nhận
định mới chỉ là những nhận định ban đầu, chưa có cái nhìn mang tính tầng bậc của hệ
thống từ ngữ và chưa có cái nhìn đối sánh để đưa ra những nhận định khác biệt [8].
Luận văn Đặc điểm ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử từ góc nhìn tín hiệu thẩm mĩ (2013)
của Lưu Văn Din đã nghiên cứu vẻ đẹp ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử thông qua các hình
thức ngôn ngữ và giá trị biểu đạt của chúng; qua đó, chỉ ra sự vận động trong ngôn ngữ
nghệ thuật của thơ Hàn Mặc Tử, mang đến cách tiếp cận mới về thơ ông [32]. Luận án
23
tiến sĩ Phong cách ngôn ngữ thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945: so sánh phương
thức ẩn dụ trong thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên (2005), trên
cơ sở lí thuyết về ngôn ngữ thơ và phương thức ẩn dụ tu từ, Nguyễn Văn Đức đã đi
sâu tìm hiểu các lớp từ ngữ ẩn dụ, so sánh bốn tác giả tiêu biểu, nhận diện từng phong
cách ngôn ngữ thơ; còn so sánh với giai đoạn trước và sau nó; từ đó, định hình phong
cách ngôn ngữ chung cho một giai đoạn văn thơ. Qua tài liệu này, Hàn Mặc Tử một
lần nữa được khẳng định về tư duy thơ độc đáo ở “vườn thơ rộng rinh”, “hồn thơ rộng
mở”… [60]. Năm 2018, với luận án tiến sĩ Đặc điểm ngôn ngữ thơ bảy chữ hiện đại
(trên tác phẩm của một số nhà thơ tiêu biểu), Đồng Hoàng Hưng từ việc làm rõ một số
khái niệm có liên quan, đã chỉ ra những đặc điểm ngôn ngữ về mặt cơ cấu/tổ chức ngữ
âm của thơ bảy chữ hiện đại trên cứ liệu các tập thơ cụ thể của 4 nhà thơ tiêu biểu. Hàn
Mặc Tử được lựa chọn và đã được nghiên cứu ở 3 phương diện: vần (thi vận), nhịp (thi
điệu), hài thanh (thi tiết); những đặc điểm về mặt cơ cấu/tổ chức ngữ âm của thơ bảy
chữ hiện đại; thấy được sự cách tân sáng tạo, sự biến đổi của ngôn ngữ thơ bảy chữ
hiện đại so với thơ thất ngôn Đường luật [91]…
Cũng không thể không kể đến những bài viết thẩm bình từng tác phẩm tiêu biểu
của Hàn Mặc Tử, nhất là khi một số bài thơ của ông có mặt trong chương trình Ngữ
văn phổ thông. Có những thi phẩm khiến nhiều nhà bình thơ, nhiều nhà giáo dạy văn
say mê, thi nhau giải mã mà dường như vẫn chưa có tiếng nói cuối cùng, chẳng hạn
Đây thôn Vỹ Dạ, Mùa xuân chín… Điều đáng nói là nhiều bài bình thơ đã đặc biệt chú
ý đến cách hành ngôn của Hàn Mặc Tử, do vậy, dù chỉ qua một vài bài, các tác giả ít
nhiều đều đã chạm tới những phẩm tính riêng biệt, độc đáo của một nhãn quan ngôn
ngữ, của cách xử lí chất liệu ngôn từ.
Di sản thơ của Hàn Mặc Tử đã được soi tỏ ở nhiều khía cạnh: từ màu sắc tôn
giáo, kiểu sáng tác, đặc điểm tư duy thơ, thế giới nghệ thuật, đặc trưng thi pháp, đặc
sắc về hình thức biểu hiện cho đến cách sử dụng ngôn từ. Điều dễ nhận thấy, dù viết
về bất cứ khía cạnh nào, các nhà phê bình cũng đều ít nhiều nhận ra ở thơ Hàn Mặc Tử
có một cách hành ngôn riêng, rất cá biệt, không lẫn với bất cứ nhà thơ nào trong bức
tranh chung của phong trào Thơ mới.
Những ý kiến đánh giá, phân tích ngôn ngữ thơ của các nhà nghiên cứu, các
nghiên cứu sinh và các học viên đã nêu về thơ Hàn Mặc Tử như đã tổng thuật trên đây
24
là những tư liệu cần thiết giúp chúng tôi tránh được những điểm trùng lặp và triển khai
tiếp những vấn đề còn bỏ ngỏ để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra trong
luận án này.
1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài
1.2.1. Một số vấn đề lí thuyết về phong cách ngôn ngữ
1.2.1.1. Phong cách và phong cách học
a. Phong cách
Phong cách là một thuật ngữ có hàm nghĩa rất phong phú. Từ nguyên của thuật
ngữ này là slitos - một từ của tiếng Hy Lạp cổ - có nghĩa là cái que một đầu nhọn, một
đầu tù (dụng cụ để viết khi chưa có giấy bút như ngày nay); đầu nhọn để viết lên sáp,
đầu tù để xóa những chữ viết sai [82, tr. 176]. Từ nghĩa gốc đó, trong suốt hơn 2500
năm, khái niệm phong cách đã được giải thích bằng nhiều cách khác nhau, tùy theo
việc xác định đối tượng và góc nhìn của người nghiên cứu.
Trong công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Phan
Ngọc đã tập trung làm rõ khái niệm phong cách cũng như các yếu tố chi phối phong
cách của một tác giả cụ thể. Ông viết: “Phong cách là một cấu trúc hữu cơ của tất cả
các kiểu lựa chọn tiêu biểu, hình thành một cách lịch sử, và chứa đựng một giá trị lịch
sử có thể cho phép ta nhận diện một thời đại, một thể loại, một tác phẩm hay một tác
giả” [145, tr. 31].
Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học (sơ thảo) của Diệp Quang Ban định nghĩa:
“Phong cách (style) trong văn học, ngôn ngữ học xã hội là tổng các đặc điểm hoặc các
đặc trưng giúp cho việc xếp một văn bản hay một diễn ngôn vào một thể loại, một
“ngôn vực”, một thời kì nào đó” [5, tr. 409]. Định nghĩa này bao quát đối tượng nghiên
cứu rất rộng, do vậy, có tính khái quát cao.
Nguyễn Thái Hòa đã xác định một cách hiểu về khái niệm này: “Phong cách là
những đặc trưng trong hoạt động lời nói được lặp đi lặp lại ở một người nào đó, ở một
môi trường ngôn ngữ hay một cộng đồng, có khả năng khu biệt với những kiểu biểu
đạt ngôn ngữ khác; nói cách khác, nó là tổng số của những dấu hiệu khu biệt của các
sự kiện lời nói trong giao tiếp, phản ánh một cấu trúc bên trong và một cơ chế hoạt
động ngôn ngữ” [81, tr. 172].
Trong cuốn 777 khái niệm ngôn ngữ học, Nguyễn Thiện Giáp giải thích khá kĩ
về khái niệm phong cách. Theo ông, “hình thế đặc biệt của những nét ngôn ngữ được
25
coi là đặc trưng cho một văn bản hoặc toàn thể các văn bản. Phong cách còn được hiểu
là hình thế đặc biệt của những nét ngôn ngữ được coi là có phẩm chất mĩ học, đặc
trưng cho một hoặc toàn thể các văn bản. Theo cách hiểu sau, thì chỉ những văn bản
nhất định có phong cách, còn những văn bản khác thì không. Phong cách, theo cả hai
nghĩa, của văn bản bắt nguồn từ những sự lựa chọn khác nhau của người nói trước
nhiều cách diễn đạt mà ngôn ngữ của nó cung cấp. Người ta thường định nghĩa phong
cách là dấu ấn cá nhân (về đạo đức hoặc tâm lí của người nói)” [66, tr. 150]. Phong
cách, như cách lí giải trên, có một phổ nghĩa rất rộng, do được quan sát từ nhiều góc
nhìn khác nhau. Trong thực tế, bất cứ một sản phẩm ngôn ngữ nào cũng đều thuộc về
một phong cách nhất định. Đó là nhìn từ góc độ phong cách chức năng. Tuy nhiên,
dưới góc nhìn phong cách cá nhân - vấn đề thuộc phạm trù chất - thì quả như quan
niệm của Nguyễn Thiện Giáp, không phải văn bản nào cũng mang những phẩm tính
của phong cách.
Là người từng vận dụng khá nhuần nhuyễn phương pháp phê bình phong cách
học để nghiên cứu một số tác gia tiêu biểu của phong trào Thơ mới 1932 - 1945, Đỗ
Lai Thúy quan niệm: “Phong cách là sự lệch chuẩn” [208, tr. 196]. Đối tượng khảo sát
của nhà phê bình này là các hiện tượng văn học gắn với tên tuổi tác giả cụ thể. Nội
hàm phong cách - theo cách hiểu của Đỗ Lai Thúy - là phong cách nghệ thuật của cá
nhân. Xét cho cùng, bản thân mỗi phong cách là một giá trị tự thân, không hề là biển
thể, không có độ lệch nhất định so với một cái chuẩn bất biến nào hết. Chưa kể, trong
văn học, đâu dễ xác định được thế nào là chuẩn.
Từ những quan niệm đã phân tích trên, chúng tôi rút ra những nét chính yếu
trong nội hàm của khái niệm phong cách: Thứ nhất, phong cách bao giờ cũng gắn với
một sản phẩm ngôn ngữ cụ thể. Dĩ nhiên, sản phẩm đó phải đạt đến một phẩm chất
nhất định thì mới thực sự là một phong cách. Thứ hai, muốn đạt đến phong cách, sản
phẩm ngôn ngữ phải có những nét riêng, những dấu hiệu đặc trưng, nhờ đó, nó không
lẫn vào những đối tượng khác cùng loại. Thứ ba, phong cách là kết quả của sự lựa
chọn đầy ý thức chứ hoàn toàn không phải là hiện tượng ngẫu nhiên. Sự lựa chọn ấy
phản ánh trình độ, nhãn quan ngôn ngữ, sở thích, sở trường, cá tính của chủ ngôn. Thứ
tư, khái niệm phong cách bao gồm trong nó các nội dung: phong cách thời đại, phong
cách chức năng, phong cách tác giả. Trong phong cách tác giả, có phong cách nghệ
thuật (biểu hiện ở mọi khía cạnh của tác phẩm) và phong cách ngôn ngữ (biểu hiện ở
26
các thành tố ngôn ngữ trong tác phẩm). Chúng là đối tượng nghiên cứu của các ngành
khác nhau (lí thuyết văn học hoặc ngôn ngữ học), và giữa những ngành đó luôn có sự
giao thoa. Thứ năm, phong cách không phải là hiện tượng tĩnh, được hình thành, đông
kết, bất biến theo thời gian, ngược lại, đó là hiện tượng động, có sự biến đổi trong quá
trình sáng tạo của tác giả, nhất là khi tác giả phải trải qua những thời kì có những biến
động lớn về ý thức xã hội.
b. Phong cách học
Trước khi phong cách học xuất hiện, hàng ngàn năm trước, ở cả phương Tây
và phương Đông, tu từ học đã có một bề dày truyền thống. Trong Dẫn luận phong
cách học, Nguyễn Thái Hòa đã có cái nhìn tổng quát về vấn đề này. Theo ông, ở
Trung Quốc, hai chữ “tu từ” đã được dùng như một thuật ngữ là từ thời Nguyên
(trong sách Tu từ giám hành của Vương Cấu). Còn ở Hy Lạp cổ đại, do sự phát triển
của các ngành khoa học nghệ thuật, do không khí tranh biện về chính trị và học thuật
mà Tu từ học đã có được mảnh đất màu mỡ để nảy nở. “Nghệ thuật diễn đạt, thuyết
phục và tranh biện được nâng thành quy tắc, sớm đem vào giảng dạy ở nhà trường và
được nhà tư tưởng vĩ đại Aristote (384 - 322 tr. CN) tổng kết trong cuốn Tu từ học”.
Những thành tựu bước đầu này được kế thừa và bồi đắp thêm bởi các học giả, các
nhà hùng biện, nghệ sĩ nổi tiếng ở La Mã cổ đại như Cicéron (106 - 43 tr. CN),
Quintilien (30 - 100 s.CN), Horace (65 - 8 tr. CN), Virgile (70 - 19 tr. CN),… Đến
thời Trung cổ, ở châu Âu, Tu từ học đã trở thành một trong ba môn bắt buộc, bên
cạnh Biện chứng pháp, Ngữ pháp. Thời Phục hưng về sau, tu từ học phát triển rực rỡ
bởi những nhà thơ, nhà văn danh tiếng như Dante (1265 - 1321), Shakespeare (1564 - 1616),
Boileau (1636 - 1711), V. Hugo (1806 - 1885)… [81, tr. 9 - 10]. Sau 25 thế kỉ phát
triển, mặc dù Tu từ học được xem là thành tựu văn hóa lớn lao của loài người, nhưng
dần dần nó bộc lộ những bất cập với tư cách là một khoa học về lời nói. Những hạn
chế này càng được nhận rõ hơn qua thời gian, là điều kiện để hình thành một ngành
khoa học vừa có tính kế thừa, vừa có tính đột phá: Phong cách học. Thực ra, những
hạt nhân của Phong cách học cũng đã manh nha từ các tư tưởng của Tu từ học, song
sự thay đổi căn bản bắt nguồn từ nhận thức mới, như tư tưởng của trào lưu Ngôn ngữ
học - lịch sử ở Đức với đại diện xuất sắc là Hugo Schuchardt (1842 - 1927). Nhóm
này tuyên bố: “Ngôn ngữ là một sự kiện phong cách và chính ngôn ngữ phải được
xem xét ở phương diện phong cách” (Dẫn theo Nguyễn Thái Hòa [81, tr. 22]).
27
Một trong những người tiên phong khởi xướng nghiên cứu phong cách học là
Ch. Baly. Đến đầu thế kỷ XX, ở châu Âu, môn Phong cách học đã chính thức thay thế
môn Tu từ học cổ điển già nua. Cũng từ đó, trong bức tranh nghiên cứu ngôn ngữ học,
Phong cách học có vị trí xứng đáng. Bộ môn này cũng không thể thiếu trong ngành
Ngôn ngữ học của các trường đại học. Nội hàm của khái niệm Phong cách học dần
dần được nhận thức một cách đầy đủ.
Ngay từ rất sớm, trong công trình Khảo luận về phong cách học tiếng Pháp
(1909), Ch. Baly định nghĩa: “Phong cách học nghiên cứu các sự kiện biểu đạt của
ngôn ngữ trên quan điểm nội dung biểu cảm của chúng, nghĩa là sự biểu đạt các sự
kiện tình cảm bằng ngôn ngữ và tác động của ngôn ngữ đối với tình cảm” (Dẫn theo
Nguyễn Thái Hòa [81, tr. 12]). Cần lưu ý rằng, Ch. Baly gạt bỏ mọi biểu hiện có tính
cá nhân trong diễn đạt ra khỏi đối tượng nghiên cứu. Ông chỉ quan tâm đến những biểu
đạt ngôn ngữ, đánh giá giá trị của các sự kiện và với phương pháp riêng - phương pháp
đẳng nhất các sự kiện ngôn ngữ. Mặc dù gạt bỏ lời nói cá nhân khỏi đối tượng ngôn
ngữ học cũng như gạt bỏ mọi biểu hiện có tính chất cá nhân trong diễn đạt khỏi đối
tượng tu từ học, song không vì thế mà đối tượng nghiên cứu phong cách học bị thu
hẹp. Định nghĩa về Phong cách học nêu trên của ông cho thấy điều đó.
Trong cuốn Từ vựng học tiếng Việt (1985), Nguyễn Thiện Giáp xác định:
Phong cách học là “bộ môn ngôn ngữ học có đối tượng nghiên cứu cơ bản là phong
cách trong tất cả các ý nghĩa ngôn ngữ của thuật ngữ này và có nhiệm vụ: a) nghiên
cứu các phong cách khác nhau bao gồm phong cách cá nhân và các loại phong cách
khác; b) nghiên cứu các đặc tính đánh giá, cảm xúc, biểu cảm của các phương tiện
ngôn ngữ khác nhau, tức là việc sử dụng các phương tiện ngôn ngữ trong các lĩnh vực
giao tiếp ngôn ngữ. Nói vắn tắt, phong cách học là khoa học nghiên cứu phong cách
trong ngôn ngữ”. Ở một chỗ khác, ông viết thêm: “Phong cách học nghiên cứu những
đặc điểm của việc lựa chọn và sử dụng các từ tùy theo từng loại ngữ cảnh” [63, tr. 22].
Sau này, trong cuốn Từ điển khái niệm ngôn ngữ học (2016), ông đã giải thích mục từ
Phong cách học một cách đầy đủ hơn, chẳng hạn, những dữ kiện phong cách luôn phải
gắn với giao tiếp, vai trò của các biện pháp tu từ trong việc tạo ra phong cách, hướng
vận dụng phong cách học vào nghiên cứu cách sử dụng có tính chất mĩ học của ngôn
ngữ, đặc biệt là trong ngôn ngữ văn chương [66, tr. 408].
28
Giáo trình Phong cách học tiếng Việt, (Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa)
định nghĩa ngắn gọn: “Trong những nét chung nhất, phong cách học được hiểu là khoa
học nghiên cứu sự vận dụng ngôn ngữ, nói khác đi, đó là khoa học về các quy luật nói
và viết có hiệu lực cao” [109, tr. 7]. Triển khai định nghĩa này, các tác giả đã phân biệt
phong cách học với tu từ học truyền thống, phạm vi nghiên cứu của phong cách học,
khả năng và hiệu lực của phong cách học khi vận dụng vào nghiên cứu các sản phẩm
ngôn ngữ,…
Trong mục từ Phong cách học (Từ điển Tu từ - Phong cách - Thi pháp học,
2005), Nguyễn Thái Hòa đã dựa trên thành quả nghiên cứu của Ch. Baly để tóm lược
những nội dung cơ bản của thuật ngữ này, đồng thời xác định rõ đối tượng và phương
pháp nghiên cứu. Ông cũng chỉ ra sự đối lập về hướng nghiên cứu phong cách học của
Baly (gạt bỏ yếu tố cá nhân trong phong cách) với hướng nghiên cứu của L. Spitzer
(nhận thức vai trò của yếu tố cá nhân trong phong cách). Theo Nguyễn Thái Hòa,
người có công trong việc thống nhất hai hướng nghiên cứu đối lập ấy là R. Jakobson
khi nhà khoa học này xây dựng lí thuyết cấu trúc - chức năng để nghiên cứu các dữ
kiện ngôn ngữ. Cũng trong mục từ nêu trên, Nguyễn Thái Hòa đã điểm qua hướng
nghiên cứu phong cách học của trường phái như Tâm lí - ngôn ngữ học, trường phái
Xã hội - ngôn ngữ học Mácxít và phi Mácxít,… Qua tổng thuật của ông, ta thấy, khái
niệm Phong cách học không hề đơn giản về nội hàm [82, tr. 179 - 182].
Từ những kiến giải trên đây, gạt bỏ những khác biệt nhất định trong cách diễn
đạt, ta có thể nêu ra một cách hiểu có tính thống nhất về khái niệm. Phong cách học là
một bộ phận của ngành ngôn ngữ học, nghiên cứu những đặc điểm phong cách của
sản phẩm ngôn ngữ qua ý thức lựa chọn của chủ ngôn, thể hiện ở mọi phương tiện
ngôn ngữ được sử dụng trong giao tiếp. Với sự khái quát như vậy, phong cách học có
nội hàm rất rộng, bao gồm cả phong cách chức năng lẫn phong cách cá nhân, bao gồm
mọi sản phẩm ngôn ngữ tồn tại dưới những dạng thức khác nhau. Nói tóm lại, mọi dữ
kiện ngôn ngữ, lời nói đều là đối tượng khảo sát của phong cách học.
1.2.1.2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật là khái niệm chỉ một phong cách nằm trong hệ
thống phong cách chức năng (gồm: phong cách sinh hoạt, phong cách nghệ thuật,
phong cách báo chí, phong cách chính luận, phong cách khoa học, phong cách hành
chính - công vụ). Cách hiểu khái niệm này, hiện nay vẫn có chỗ chưa thống nhất.
29
Ở nước ngoài, từ những năm 20 của thế kỷ trước, các nhà Hình thức Nga với
những tên tuổi lớn như V. Shclovski, B. Eikhenbaum, V. Tynianov, B. Tomasehvski,
O. Brik, V. Prrop, V. Vinogradov, R. Jakobson,… tuy chưa trực tiếp bàn về phong
cách nghệ thuật, nhưng những ý kiến của họ về bản chất của ngôn ngữ văn chương
thực chất đã chạm đến nội hàm của khái niệm này. Một trong những vấn đề mà trường
phái nghiên cứu này quan tâm là bản chất của ngôn ngữ thi ca (thuật ngữ được dùng để
chỉ ngôn ngữ trong tác phẩm văn học) trong sự khu biệt với ngôn ngữ sinh hoạt. Các
nhà Hình thức Nga thống nhất với nhau rằng: ngôn từ trong tác phẩm văn học là một
kiểu lời nói nghệ thuật do nhà văn sáng tạo nên trên cơ sở kho tàng ngôn ngữ toàn dân
mà ông ta tiếp thu được. Văn bản nghệ thuật cũng là một hệ thống kí hiệu, nhưng
không phải là những kí hiệu thuần túy có tính chất võ đoán, mà là những kí hiệu thẩm
mĩ. Như vậy, trong con mắt của các nhà Hình thức Nga, ngôn ngữ thi ca “là một hệ
thống ngôn ngữ có quy luật đặc thù và lấy đó làm xuất phát điểm để chế tác những
công cụ phân tích tác phẩm thơ và văn xuôi” [166, tr. 75]. Một số ý kiến của các nhà
Hình thức Nga thể hiện rõ tính tiên phong; sau này, phong cách học hiện đại đã chứng
nghiệm tính hợp lí của những quan niệm ấy. Tính tự trị của ngôn ngữ nghệ thuật là
điều được các nhà khoa học của trường phái này đồng thanh khẳng định, mặc dù mỗi
người có một cách diễn đạt khác nhau ý kiến của mình. Chẳng hạn, Tz. Todorov nêu ý
kiến: “Ngôn ngữ thực tiễn tìm thấy lẽ tồn tại và sự biện chính của nó ở bên ngoài
chính nó, trong sự truyền đạt tư tưởng hay sự giao tiếp giữa các cá nhân: nó là phương
tiện chứ không phải là mục đích. Còn ngôn ngữ thi ca tìm thấy giá trị và sự biện chính
của nó trong chính nó: nó là mục đích của bản thân nó mà không phải là phương tiện.
Vì vậy, ngôn ngữ thi ca độc lập và tự trị, thuật ngữ khoa học gọi là autotelic” [166, tr. 77].
B. Tomasehvski nhấn mạnh thêm: “Ngôn ngữ thi ca là một trong những hệ thống ngôn
ngữ mà chức năng giao tiếp bị chuyển ra hậu cảnh, và những cấu trúc ngôn từ mang
giá trị tự trị” [166. tr. 107]. Còn R. Jakobson thì khẳng định: ngôn ngữ nghệ thuật bao
giờ cũng hướng thông báo vào bản thân nó, tập trung chú ý vào thông báo vì bản thân
nó [162, tr. 117]. Trong tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, hình thức không phải là phương
tiện, mà là mục đích, hơn thế, mang tính tự trị - đó là điểm gặp gỡ của các nhà nghiên
cứu trong nhóm Hình thức Nga. Tính cực đoan của các ý kiến là điều có thể nhận thấy,
song không thể phủ nhận một điều: phong cách học hiện đại đã thừa hưởng hạt nhân
hợp lí trong quan niệm của họ về bản chất của ngôn ngữ nghệ thuật.
30
R. Wellek và A. Warren - hai tác giả của công trình Lí luận văn học ra đời cách
đây 60 năm ở Mĩ - cũng xác định, khi nghiên cứu văn học, cần vạch ra ranh giới sử
dụng giữa ngôn ngữ trong văn học với ngôn ngữ trong sinh hoạt và ngôn ngữ khoa
học. Theo các tác giả, sự phân định giữa ngôn ngữ văn học với ngôn ngữ khoa học
không khó. Tính chính xác, đơn nghĩa của ngôn ngữ khoa học khác biệt một cách hết
sức rõ rệt với tính đa nghĩa của ngôn ngữ văn học. Trong ngôn ngữ văn học, tính biểu
cảm cũng rất quan trọng - và đó là điều không được thể hiện trong ngôn ngữ khoa học.
Cuối cùng, theo họ, cần thấy sự chú ý đặc biệt đến bản thân kí hiệu, đến biểu tượng âm
thanh của từ - điều chỉ có ở ngôn ngữ văn học mà thôi [239, tr. 27].
Ở Việt Nam, Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa xem phong cách nghệ thuật
vừa biểu hiện ở ngôn ngữ trong tác phẩm văn học, vừa là cách sử dụng ngôn ngữ một
cách nghệ thuật ở các loại văn bản ngoài văn chương [81], [109]. Ngược lại, một số ý
kiến không chấp nhận điều đó. Với họ, chỉ có trong tác phẩm văn chương mới tồn tại
phong cách ngôn ngữ nghệ thuật [66], [94], [110]…
Nhà nghiên cứu Nguyễn Lai đặt vấn đề tìm hiểu cơ chế tạo nghĩa đối với thế
giới ngôn từ trong tác phẩm. Theo ông, một xuất phát điểm quan trọng chính là dấu
hiệu vật lí - tâm lí của tín hiệu ngôn ngữ. Nó sẽ giúp ta trả lời câu hỏi: Vì sao ngôn ngữ
lại có thể trở thành vật liệu của văn học? Dấu hiệu vật lí là điều kiện đầu tiên để ngôn
ngữ tồn tạo với tư cách là tín hiệu. Nhưng yếu tố tâm lí lại là “hạt nhân tạo ra tiềm
năng cơ động cho tín hiệu ngôn ngữ có vai trò vô cùng quan trọng đối với quá trình tạo
nghĩa trong sáng tạo nghệ thuật bằng ngôn ngữ” [110, tr. 24]. Quên đặc trưng bản chất
này thì ta khó mà nhận biết cơ chế nào của ngôn ngữ làm cho nó đủ sức “mềm dẻo” để
hoá thân thành nghệ thuật.
Trong công trình Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật, Đào Thản chú ý
phân biệt các phong cách chức năng, trên cơ sở đó chỉ ra nhiệm vụ nghiên cứu ngôn
ngữ nghệ thuật. Ông viết: “Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật nghiên cứu các phương
tiện ngôn ngữ đã được nhà văn nhà thơ sử dụng để xây dựng nên các văn bản nghệ
thuật. Cùng với việc tiến hành khảo sát các văn bản nghệ thuật, người ta còn căn cứ
vào đặc trưng hoạt động của ngôn ngữ và phong cách, dùng phương pháp đối lập so
sánh để nhằm xác định những đặc trưng chủ yếu của phong cách này” [186, tr. 7]. Ông
quan tâm đặc biệt mối quan hệ giữa ngôn ngữ nghệ thuật và ngôn ngữ tự nhiên. Chính
vì vậy, theo ông, khi nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật, cần phải thấy hết các tương
31
quan. “Sự nhận thức sâu sắc về đặc trưng cùng sự nhấn mạnh tính khác biệt đặc thù
của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật không có nghĩa là chỉ thấy mặt khác biệt và mặt
đặc thù. Các phong cách chức năng dù được phân định rõ ràng và dứt khoát đến đâu
chăng nữa, thì vẫn nằm trong hệ thống phong cách của một ngôn ngữ. Hàng loạt vấn
đề mà phong cách học thường xuyên phải đề cập và giải quyết như vấn đề “các
phương tiện từ ngữ đa phong cách”, “cái nền chung” của phong cách, vấn đề “sự xâm
nhập lẫn nhau giữa các phong cách” cùng chứng tỏ một thực tế là ngôn ngữ nghệ thuật
dù được coi là đỉnh cao của sự phát triển theo một hướng đặc thù vẫn bắt nguồn từ yếu
tố cơ bản của ngôn ngữ chung” [186, tr. 7].
Quan niệm phong cách nghệ thuật chỉ tồn tại trong ngôn ngữ tác phẩm do nghệ
sĩ sáng tạo, Nguyễn Thiện Giáp sử dụng thuật ngữ phong cách văn chương. Tác giả
viết: Phong cách văn chương (literarystyle) là “phong cách ngôn ngữ ở các tác phẩm
văn học như thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch,… Phong cách văn chương có chức
năng tiêu biểu là thẩm mĩ và tác động. Trong phong cách văn chương, người ta có thể
sử dụng các phương tiên ngôn ngữ của tất cả các phong cách chức năng khác” [66, tr.
409]. Trong định nghĩa trên đây, Nguyễn Thiện Giáp không hề xem việc sử dụng ngôn
ngữ một cách nghệ thuật (chẳng hạn có dùng các phép tu từ) cũng là biểu hiện của
phong cách nghệ thuật. Ông xác định, đối với phong cách nghệ thuật, chức năng thẩm
mĩ là quan trọng nhất. Đặc biệt, chỉ có văn bản của phong cách nghệ thuật mới có khả
năng thâu gộp vào bản thân nó các yếu tố của những phong cách chức năng khác.
Chẳng hạn, ở một cuốn tiểu thuyết, tác giả không khó khăn gì trong việc tạo nên
những đoạn đối thoại (phong cách sinh hoạt) hoặc sử dụng các loại văn bản như báo
chí, hành chính, khoa học, chính luận vào ở một tình tiết nào đó của tác phẩm (Tinh
thần thể dục của Nguyễn Công Hoan, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, Paris 11 tháng 8
của Thuận,... là những trường hợp như thế).
Đề cập đến ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương, Đinh Trọng Lạc, Nguyễn
Thái Hòa - tác giả của giáo trình Phong cách học tiếng Việt, cố gắng đối lập ngôn ngữ
nghệ thuật với ngôn ngữ phi nghệ thuật ở các bình diện: đặc điểm của hệ thống tín
hiệu, chức năng xã hội, tính hệ thống, bình diện ngữ nghĩa, sự có mặt của các phương
tiện ngôn ngữ, vai trò đối với ngôn ngữ dân tộc. Những kiến giải của tác giả về sự khu
biệt này có sức thuyết phục. Việc nghiên cứu phong cách ngôn ngữ cá nhân nhất thiết
phải bắt đầu từ điểm xuất phát này.
32
1.2.1.3. Phong cách ngôn ngữ cá nhân
Như đã nói trên, ngay từ khi mới ra đời, phong cách học đã có sự phân nhánh.
Nhánh thứ nhất do Ch. Baly chủ trương, với tư tưởng loại bỏ các yếu tố cá nhân trong
nghiên cứu phong cách, nghĩa là chỉ chấp nhận cái gọi là phong cách học ngôn ngữ,
không có chỗ cho phong cách học lời nói. Đối lập với quan niệm đó, L. Spitzer lại đề
cao yếu tố cá nhân trong sự hình thành phong cách, thậm chí xem phong cách cá nhân
với sản phẩm cụ thể là lời nói mới là đối tượng đích thực của phong cách học. Theo
thời gian, ta thấy, hai quan điểm đó không loại trừ nhau, mà chỉ là những hướng
nghiên cứu khác nhau mà thôi. Tổng hợp các thành tựu của hai nhánh đó, ta mới có
một hình dung đầy đủ về bức tranh phong cách học.
Thực ra, quan điểm phong cách cá nhân đã manh nha rất sớm, từ thời Hy Lạp
cổ đại. Triết gia duy tâm chủ quan Platon cho rằng: “Tính cách thế nào thì phong cách
thế ấy”. Sénèque nhấn mạnh: “Lời nói là diện mạo của tâm hồn”. Về sau, G. L. Buffon
cũng phát biểu một ý kiến có ảnh hưởng sâu rộng, lâu dài trong giới nghiên cứu phong
cách học: “Chỉ có tư tưởng tạo ra cái nền phong cách… và phong cách chỉ là trật tự và
sự vận động mà người ta đặt vào tư tưởng”, “Nhận thức của con người, những sự kiện,
những khám phá v.v. là ở ngoài con người, còn phong cách chính là bản thân con
người”. Quan niệm ấy của Buffon đã được hậu thế tóm lược thành một công thức ngắn
gọn như một định lí toán học: “Phong cách chính là người” (Dẫn theo Nguyễn Thái
Hòa [81, tr. 18 - 20]). Chỉ đến khi việc nghiên cứu phong cách đòi hỏi xuất phát từ văn
bản, gắn với thao tác khảo sát ngôn ngữ tác phẩm, thì quan điểm lấy con người tác giả
làm hệ quy chiếu để khái quát phong cách mới bị xem là ấu trĩ, lỗi thời. Không đồng
tình với Ch. Baly, Leó Spitzer cho rằng: “ngôn ngữ là sự sáng tạo cá nhân” (Dẫn theo
Nguyễn Thái Hòa [81, tr. 21]). Thu hút sự nghiên cứu phong cách của ông chính là lời
nói cá nhân. Mọi biểu hiện của sự sáng tạo, mọi thành tố cấu thành phong cách nhà
văn, theo ông, đều thể hiện ở đặc điểm ngôn ngữ riêng của anh ta. V.V. Vinogradov -
một nhà nghiên cứu thuộc Chủ nghĩa Hình thức Nga - cũng khẳng định: “Chiếm vị trí
trung tâm trong phong cách văn học là những quan sát và nghiên cứu trong lĩnh vực
các quy luật hình thành và phát triển của các hệ thống biểu hiện ngôn từ nghệ thuật -
đây là những hệ thống có tính chất cá nhân hoặc được cá thể hóa, tức là được hình
thành như những cấu trúc cố định và hoàn chỉnh” [104, tr. 282].
33
Phong cách cá nhân là “toàn bộ các yếu tố phong cách cơ bản có mặt ổn định
trong các tác phẩm của một tác giả nào đó, trong một giai đoạn sáng tạo nhất định hay
phổ biến ở tất cả quá trình sáng tạo nói chung của tác giả đó; đặc điểm các thủ pháp sử
dụng từ ngữ, các kết cấu v.v. đặc trưng cho ngôn ngữ nói hay viết của một cá nhân,
không phụ thuộc vào quan hệ của anh ta với hoạt động văn chương” [240, tr. 216].
Định nghĩa hiếm hoi này chỉ có ở cuốn Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học do Nguyễn
Như Ý chủ biên (1996), mà không hề gặp ở những từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học
khác hiện có ở Việt Nam. Nó cho chúng ta những ý niệm cơ bản về phong cách tác
giả, với những khía cạnh quan trọng. Thứ nhất, phong cách ngôn ngữ cá nhân phải
biểu hiện ở chính văn bản mà anh ta tạo ra chứ không phải ở bất cứ yếu tố ngoại tại
nào khác. Thứ hai, những yếu tố ngôn ngữ ấy phải toát ra những đặc điểm riêng, cá
biệt, độc đáo, có giá trị thẩm mĩ, tức là biểu hiện ở “chất” chứ không phải “lượng”.
Thứ ba, vì được biểu hiện ở trong toàn bộ quá trình sáng tạo, cho nên phong cách vừa
có sự ổn định, vừa có sự biến đổi, nói cách khác, đó là một hiện tượng động. Không có
phong cách ngôn ngữ cá nhân “dĩ thành bất biến”.
Quan sát tình hình nghiên cứu phong cách học trong những năm gần đây, dễ
nhận thấy: nghiên cứu phong cách cá nhân luôn luôn chiếm ưu thế. Mặt khác, biểu
hiện tập trung nhất của phong cách cá nhân là ở lĩnh vực sáng tạo văn học. Điều này
không có gì khó hiểu khi ta biết rằng, hiếm có loại sản phẩm ngôn ngữ nào mà tính cá
thể lại đòi hỏi được biểu hiện riết róng như ở văn bản nghệ thuật. Một nhà văn phi cá
tính là một người vô bản sắc, không thể viết được điều gì có giá trị. Mọi thành tựu văn
học cổ kim Đông Tây bao giờ cũng gắn với những cá tính sáng tạo mạnh mẽ, bản sắc
cá nhân đậm nét. Do vậy, bất cứ công trình nào nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật
cũng đều xem tính cá thể là thuộc tính hàng đầu của một phong cách. Trong Từ điển
Tu từ - Phong cách - Thi pháp học, Nguyễn Thái Hòa nhấn mạnh: “Ngôn ngữ của
nghệ sĩ phải đạt được một màu sắc riêng, một giọng riêng không bắt chước ai và người
khác không bắt chước được mình. Vì vậy, trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, ta
thấy xuất hiện những phong cách cá nhân” [82, tr. 187].
Cần lưu ý thêm: phong cách là một vấn đề thuộc phạm trù chất; nghĩa là, những
dấu hiệu về định lượng (qua các bảng biểu chứa số liệu thống kê, có tính tỉ lệ, tần số)
mới chỉ là một điều kiện cần, chưa hẳn đảm bảo cho sự nhận diện phong cách. Một
34
phong cách chỉ thực sự được xác nhận khi nó biểu hiện sự kết tinh của những giá trị
(trong văn học, đó là giá trị thẩm mĩ, tính độc đáo của cấu trúc, dấu ấn đậm nét của cá
thể,…). Chẳng hạn, kết quả thống kê, đối sánh cho thấy một nhà văn đã sử dụng từ
Hán Việt với mật độ dày đặc, có tỉ lệ cao hơn hẳn so với một số tác giả cùng thời, tuy
nhiên, chúng không thể hiện được giá trị nghệ thuật gì ngoài việc khiến cho lời văn trở
nên tăm tối kiểu “đặc Tàu”, “hũ nút”. Hoặc một tác giả nào đó tuy rất ưa dùng so sánh,
cường điệu, song các phép tu từ ấy chỉ là lớp sơn hào nhoáng bên ngoài, không biểu
hiện được nội dung tư tưởng gì đặc sắc. Những trường hợp như thế thực chất là nhược
điểm trong sử dụng ngôn từ chứ không phải là biểu hiện phong cách. Do vậy, từ phía
người sáng tạo, muốn có được phong cách, phải tạo nên cái riêng giàu tính thẩm mĩ.
Còn phía người nghiên cứu, muốn khái quát được phong cách ngôn ngữ của một tác
giả, phải vượt lên những định kiến có sẵn, hoặc nhận xét kiểu cảm tính, thiếu sở cứ để
thực hiện thao tác phân tích một cách vừa tinh tế, thấu đáo vừa khách quan, lí tính trên
tinh thần thực chứng, khoa học.
Mặt khác, phong cách là một hiện tượng động. Nó không phải ngưng kết một
lần rồi mãi mãi ổn định, mà có quá trình hình thành, biến đổi theo thời gian, phụ thuộc
vào ý đồ sáng tạo, những lựa chọn khác nhau của nhà văn về hình thức biểu đạt. Trong
hội họa, người ta nói đến sự thay đổi phong cách từ “thời kì toàn hồng” sang “thời kì
toàn lam” của Picasso. Ở văn học, sự chi phối của yếu tố thời đại, yếu tố tư tưởng, của
kiểu sáng tác cũng khiến cho phong cách nhà văn vừa có yếu tố hằng định, vừa có yếu
tố hằng biến. Phong cách của Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Tuân… biểu hiện ở thời
kì trước và sau cách mạng 1945 là những ví dụ tiêu biểu. Sáng tác thơ của Hàn Mặc
Tử mặc dù nằm trọn trong một giai đoạn lịch sử văn học, song phong cách ngôn ngữ
của ông cũng có những biến đổi tinh vi. Thực tế khảo sát và phân tích ở các chương
sau sẽ chứng minh điều này.
1.2.2. Một số vấn đề liên quan đến phong cách ngôn ngữ cá nhân
1.2.2.1. Biểu hiện phong cách cá nhân qua trường từ vựng - ngữ nghĩa trong
văn bản nghệ thuật
a. Khái niệm trường và việc nghiên cứu về trường
Trường từ vựng là khái niệm có mặt trong hầu hết các công trình từ vựng học.
Điều này là tất yếu, bởi lẽ, nghiên cứu từ vựng của một ngôn ngữ, người ta phải có cái
nhìn hệ thống. Dưới cái nhìn hệ thống, từ không hề tồn tại riêng rẽ, mà bao giờ cũng
35
thuộc về một tập hợp nào đó. Nói cách khác, nếu từ vựng là một hệ thống lớn, thì nó
bao hàm trong đó những phân hệ. Việc phân loại từ theo cấu tạo, nguồn gốc, tính chất
ngữ pháp… đều cho ta những phân hệ như thế.
Năm 1896, M.M.Pokrovxkij đã đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu từ vựng một cách hệ
thống. Ông viết: “Từ và ý nghĩa của chúng không tồn tại tách rời nhau mà liên kết với
nhau trong tư tưởng của chúng ta và độc lập với ý thức chúng ta thành những nhóm nhất
định. Cơ sở để tập hợp những nhóm như vậy là sự đồng nhất hay trái ngược trực tiếp giữa
chúng về ý nghĩa. Chúng ta đã biết một cách tiên nghiệm rằng các từ như vậy hoặc giống
nhau hoặc song hành với nhau trong sự biến đổi ý nghĩa và trong lịch sử của chúng, chúng
ảnh hưởng lẫn nhau. Chúng ta cũng biết rằng những từ này được dùng trong những tổ hợp
cú pháp giống nhau” (dẫn theo Đỗ Hữu Châu [20, tr. 873]).
Năm 1900, H. Osthoff viết: “Có những hệ thống nhất định ý nghĩa phụ thuộc
lẫn nhau và vị trí ngữ nghĩa của từng yếu tố chỉ có thể được hiểu rõ nhờ vào cấu trúc
của từng hệ thống đó” (dẫn theo Đỗ Hữu Châu [20, tr. 873]).
Nhưng nguyên lí của F. de Saussure mới là bước quyết định hình thành nên lí
thuyết về các trường. Trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, F. de Saussure đã chỉ
ra “Giá trị của bất cứ yếu tố nào cũng do những yếu tố xung quanh quy định” [171, tr.
224] và “Phải xuất phát từ cái toàn thể làm thành một khối để phân tích ra những yếu
tố chứa đựng” [171, tr. 220].
Người có công lao đưa lí thuyết trường vào ngôn ngữ học là hai nhà ngôn ngữ
học người Đức J.Trier và L.Weisgerber.
Trier cho rằng trong ngôn ngữ mỗi từ tồn tại trong một trường, giá trị của nó là
do quan hệ với các từ trong trường quyết định, rằng trường là những hiện thực ngôn
ngữ nằm giữa từ (riêng lẻ) với toàn bộ từ vựng, trường quan hệ với toàn bộ từ vựng cũng
như từ quan hệ với trường của mình. Theo Trier “Một từ chỉ có ý nghĩa khi nằm ở trong
trường, nhờ những quan hệ của nó với các từ khác cũng thuộc trường ấy. Trong hệ thống,
tất cả chỉ nhận được ý nghĩa qua cái toàn thể. Có nghĩa là từ của ngôn ngữ nào đó không
phải là đại diện tách biệt của ý nghĩa, ngược lại mỗi một từ có nghĩa chỉ là vì có các từ
khác liên hệ trực tiếp với nó” (dẫn theo Nguyễn Thiện Giáp, [67, tr. 110]).
Ở Việt Nam, giáo sư Đỗ Hữu Châu là người nghiên cứu sớm và có nhiều công
trình về lí thuyết trường. Định nghĩa trường của ông được rất nhiều người chấp nhận
và sử dụng phổ biến: “Trường từ vựng là một tập hợp các đơn vị từ vựng căn cứ vào
36
một nét đồng nhất nào đó về ngữ nghĩa” [18, tr. 110]. Vì là một tập hợp, nên có người
gọi đó là xêri từ vựng, dãy từ vựng.
Gần với định nghĩa của Đỗ Hữu Châu là cách giải thích của Nguyễn Thiện
Giáp: “Trường từ vựng của một trường nghĩa là tập hợp các từ ngữ có những đơn vị từ
vựng cơ sở cùng thuộc trường nghĩa này” [65, tr. 544].
Chẳng hạn, ta có một tập hợp từ: đầu, cổ, mắt, mũi, tai, vai, tay, lưng, hông,
bụng, rốn, mông, chân… chúng cùng có một nét nghĩa chung: đều là một bộ phận của
cơ thể (người hoặc động vật). Đó là một trường. Một ví dụ khác: buồn, vui, sướng,
giận, tủi, hờn, căm, ghét, yêu, nhớ, thương, mong, chờ, ngóng trông, hi vọng, thất
vọng, tuyệt vọng… cũng là một trường, vì tất cả những từ trong hệ thống đó đều chỉ
một trạng thái tâm lí con người.
Nhìn qua một vài dẫn chứng trên đây, ta có dễ dàng hiểu được khái niệm
trường. Tuy nhiên, trong hệ thống từ vựng, trường có biểu hiện tương đối đa dạng,
phức tạp. Do đó, Diệp Quang Ban lưu ý: “Trường từ vựng được hiểu rộng hẹp khác
nhau. Trong cách hiểu rộng, toàn bộ từ vựng của một ngôn ngữ làm thành một trường
lớn; trong cách hiểu hẹp, trường từ vựng có thể gồm trong một chủ đề cụ thể, như
trường từ ngữ về động vật, hay trường từ vựng liên quan đến một từ cụ thể” [5, tr.
299]. Các tác giả cuốn Ngôn ngữ học: khuynh hướng - lĩnh vực - khái niệm cho rằng:
“Các đơn vị từ của một hệ thống ngôn ngữ nào đó phủ kín lên khu vực khác niệm nhất
định và được cấu trúc hóa theo mối quan hệ về nghĩa tạo nên một trường từ vựng. Như
vậy, một đơn vị từ được coi như phủ kín một khu vực khái niệm nào đó và đến lượt
nó, cái khu vực này có thể được cấu trúc hóa thành một trường từ vựng với một tập
hợp từ khác” [154, tr. 305 - 306].
Một tập hợp từ có chung nét nghĩa được xem là một trường, nhưng bản thân
mỗi từ trong trường đó có thể đồng thời tham gia vào những trường khác. Sở dĩ như
vậy là bởi, từ thường có nhiều nét nghĩa, nét nghĩa thứ nhất giúp nó có mặt trong một
trường nào đó, nhưng nét nghĩa thứ hai, thứ, ba… lại là điều kiện để nó được “kết nạp”
vào những trường khác.
Bản thân từ ngữ trong một ngôn ngữ không bao giờ tự xếp thành trường. Do đó,
trường là kết quả nghiên cứu về từ vựng của các nhà khoa học. Trường, trong tư cách
là đối tượng của ngôn ngữ học chưa bao gồm vấn đề hành chức. Khi ngôn ngữ văn
chương trở thành đối tượng nghiên cứu, trường mới thực sự gắn với hành chức. Mỗi
37
trường từ vựng trong văn bản nghệ thuật là kết quả sự lựa chọn từ ngữ một cách sáng
tạo của nhà văn.
b. Trường từ vựng với vấn đề phong cách ngôn ngữ tác giả
Bản thân từ ngữ trong một ngôn ngữ không bao giờ tự xếp thành trường. Do đó,
trường là kết quả nghiên cứu về từ vựng của các nhà khoa học. Trường, trong tư cách là
đối tượng của ngôn ngữ học chưa bao gồm vấn đề hành chức. Khi ngôn ngữ văn chương
trở thành đối tượng nghiên cứu, trường mới thực sự gắn với hành chức. Trong hoạt động
ngôn ngữ, các từ mới thực sự bộc lộ những thuộc tính, đặc điểm vốn có của chúng trong
hệ thống ngôn ngữ và hiện thực hoá các bình diện của nó. Thậm chí, trong sử dụng, từ
có thể biến đổi và chuyển hoá những nét nghĩa vốn có để cho phù hợp với các nhân tố
cụ thể của từng hoạt động giao tiếp, để nhằm đạt được hiệu quả giao tiếp tốt nhất.
Khi từ đi vào hoạt động ngôn ngữ, nghĩa của nó được hiện thực hoá, cụ thể hoá
và được xác định. Khi đó, các thành phần nghĩa trong cơ cấu nghĩa của từ sẽ giảm dần
tính trừu tượng và khái quát đến mức tổi thiểu để đạt tới tính xác định, tính cụ thể ở
mức tối đa. Cũng trong hoạt động ngôn ngữ, đồng thời với sự giảm thiểu tính khái quát
thì từ lại có thể được gia tăng những sắc thái mới, nội dung mới do chính sự vật mà nó
biểu thị đem lại.
Các từ được kết hợp với nhau theo quy tắc ngữ pháp và ngữ nghĩa, nhưng hai loại
quy tắc này không phải lúc nào cũng sóng đôi với nhau. Có những câu hoàn toàn đúng về
mặt ngữ pháp, nhưng lại không được chấp nhận về mặt ngữ nghĩa hoặc logic (trong điều
kiện thông thường). Ngược lại, có những câu lại chứa những kết hợp từ được chấp nhận,
được hiểu về mặt ngữ nghĩa, nhưng lại có cái gì đó bất thường về ngữ pháp.
Từ trong sáng tạo nghệ thuật được sử dụng ra sao và mang lại hiệu quả như thế
nào còn tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố: đề tài, chủ đề của tác phẩm, năng lực ngôn
ngữ, vốn sống, phong cách viết của tác giả. Mỗi trường từ vựng trong văn bản nghệ
thuật là kết quả sự lựa chọn từ ngữ một cách sáng tạo của nhà văn. Nếu sử dụng các
trường từ vựng có sẵn trong ngôn ngữ tự nhiên, tác phẩm của nhà văn chỉ là một tập
hợp vô hồn, thiếu bản sắc.
Một sự phân biệt như trên để thấy rằng, nghiên cứu phong cách ngôn ngữ tác
giả, không thể bỏ qua các trường từ vựng in đậm dấu ấn riêng về bản sắc, cá tính, giá
trị nghệ thuật và công phu sáng tạo của người nghệ sĩ.
38
Xét riêng về từ ngữ, có thể thấy, giá trị của mỗi đơn vị luôn gắn với từng văn
cảnh cụ thể. Nghiên cứu về từ ngữ (đặc biệt là ở lĩnh vực thơ ca), không thể bỏ qua
thao tác lựa chọn và thao tác kết hợp (tức là trục ngang và trục dọc trong ngôn ngữ). Ở
trục ngang, các từ ngữ phải có những kết hợp lạ, tạo nên những “bất ngờ cú pháp”. Ở
trục dọc, từ ngữ được lựa chọn phải vừa chính xác, vừa độc đáo. Thành công của tác
giả thể hiện ở chỗ: mỗi từ ngữ được đặt vào vị trí cụ thể đã phát huy cao nhất hiệu quả
nghệ thuật của nó, không thể thay thế. Tuy nhiên, xét ở phạm vi rộng hơn, trường từ
vựng mới là chỗ bộc lộ rõ phong cách ngôn ngữ của nhà văn. Bởi vì, trường là tập hợp
những đơn vị có cùng một nội dung hay biểu đạt cùng một đối tượng, qua đó, có thể
thấy được vốn từ ngữ, cái nhìn nghệ thuật, cách sử dụng khác biệt của mỗi người viết.
Trường từ vựng - ngữ nghĩa không phải là độc quyền của bất cứ tác giả nào.
Nói cách khác, các nhà văn, nhà thơ khác nhau đều có thể có chung những trường từ
vựng - ngữ nghĩa. Chẳng hạn, trường mùa xuân, trường tình yêu, trường cô đơn không
chỉ có ở “ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu, mà còn rất phổ biến trong Thơ mới, xuất
hiện trong các sáng tác của Nguyễn Bính, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Bích Khê… Trường
xê dịch, trường ẩm thực đều có mặt ở các sáng tác trước cách mạng của Nguyễn Tuân,
Vũ Bằng, Thạch Lam… Nhưng đi vào khảo sát, phân tích cụ thể, ngay trong một
trường, cách sử dụng từ ngữ ở các tác giả là không giống nhau. Đó chính là chỗ biểu
hiện phong cách.
Triển khai một đề tài nghiên cứu, Đặng Lưu đã so sánh trường tôn giáo, trường
đồ vật, trường xê dịch, trường nghệ thuật trong tác phẩm của Nguyễn Tuân với tác
phẩm của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Thạch Lam và rút ra nhận
xét: các từ ngữ được tập hợp trong các trường nêu trên ở Nguyễn Tuân rất khác biệt, ít
thấy có nét chung với các tác giả cùng thời. Chẳng hạn, đề cập đến trường vận động,
sau khi phân tích các ngữ liệu được thu thập, tác giả viết: “Dễ nhận thấy, những từ ngữ
thông dụng nhằm biểu đạt sự di chuyển của con người trong không gian một cách thuần
túy xuất hiện với tần số rất thấp trong lời trần thuật của Nguyễn Tuân. Để nói về xê dịch,
Nguyễn Tuân chủ yếu dùng cụm từ. Nếu tách những từ chỉ sự vận động ra khỏi ngữ
cảnh cụ thể (ít nhất là trong khuôn khổ cụm từ), khó mà hiểu hết ý nghĩa những chuyến
đi của những khách giang hồ mà nhà văn nói đến một cách đầy cảm hứng. Với Nguyễn
Tuân, đi là một cứu cánh. Cho nên, cách thức, phương hướng, trạng thái vận động
không phải là điều quan trọng. Sự đi của các nhân vật trong truyện phần lớn là gắn với
39
một niềm sinh thú, một nỗi đam mê, thậm chí như một nghiệp dĩ. Tương ứng với điều
này, từ ngữ nói về sự xê dịch của họ cũng được tác giả lựa chọn để làm nổi bật một lối
sống, một kiểu hành xử, một tính cách, một lí tưởng. Đây là điều ít thấy trong tác phẩm
những nhà văn cùng thời” [127, tr. 65].
Những sự luận giải và dẫn chứng vừa nêu giúp chúng tôi củng cố quan niệm:
bản thân trường từ vựng có thể không khác biệt ở các nhà văn, nhà thơ, nhưng sự hành
chức của các từ được tập hợp trong trường của mỗi tác giả thì lại có những nét độc
đáo, khác biệt. Điều này tùy thuộc vào tư tưởng thẩm mĩ, nội dung tác phẩm, cách sử
dụng từ ngữ. Tóm lại, phân tích đặc điểm hành chức của từ ngữ trong trường, ta sẽ
nhận ra những nét phong cách của nhà văn.
Từ nhận thức đó, chúng tôi đi sâu khảo sát một số trường nổi bật ở thơ Hàn
Mặc Tử, với mục đích nhận diện những nét riêng biệt trong hành ngôn của ông - yếu
tố góp phần định hình một phong cách ngôn ngữ.
1.2.2.2. Biểu hiện phong cách ngôn ngữ cá nhân nhìn từ hai trục ngôn ngữ
a. Trục ngang trong ngôn ngữ và vấn đề kết hợp từ trong thơ
Trục ngang trong ngôn ngữ là trục thể hiện mối quan hệ kết nối các đơn vị ngôn
ngữ theo trật tự tuyến tính thành những đơn vị có cấu trúc lớn hơn để đi vào hoạt động
giao tiếp. Nhưng tuỳ theo ý đồ giao tiếp, người nghệ sĩ có thể sáng tạo ra các đơn vị
(từ, ngữ, câu) có cấu trúc “bất quy tắc”. Về cấu trúc cú pháp của câu thơ, Nguyễn Lai
đã nhận xét: “Cấu trúc cú pháp của câu thơ thường khó phân tích theo nguyên tắc lôgic
của ngữ pháp thông thường như trong văn xuôi” [110, tr. 129]. Đó là những câu “đi
chệch” ra khỏi quĩ đạo của trật tự tuyến tính thông thường như câu đảo ngữ, câu tỉnh
lược, câu tách biệt, câu trùng điệp, câu vắt dòng, câu có sự kết hợp bất thường về
nghĩa,... Ngoài ra, còn có cách liên kết từ mang tính“lạ hóa” tạo nên những tác động
mạnh mẽ và những gợi mở phong phú cho lời thơ. Việc sử dụng phổ biến các kết cấu
này không làm ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận ngữ nghĩa của văn bản thơ. Ngược
lại, chính điều đó đã đem lại những giá trị mới, ý nghĩa mới cho ngôn ngữ thơ ca, đem
đến cho ngôn ngữ thơ một khả năng vô tận trong việc chuyển tải những trạng thái tinh
tế, bí ẩn của thế giới và tâm hồn con người, làm nên sức ám ảnh của thơ.
Với ba đặc trưng về ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, ta thấy ngôn ngữ thơ ca là
ngôn ngữ nghệ thuật đặc thù, nó là sản phẩm thể hiện tài năng, sự sáng tạo mang
phong cách riêng của từng nhà thơ.
40
b. Trục dọc trong ngôn ngữ và vấn đề lựa chọn từ ngữ trong thơ
Sáng tác thơ là một hoạt động nghệ thuật. Với một lượng đơn vị ngôn ngữ hữu
hạn, thơ có khả năng biểu đạt cái vô hạn của cuộc sống, cái đa dạng, dồi dào của tâm
trạng, cảm xúc con người. Đó là vì thơ có cơ chế vận hành riêng của nó. Trong thơ,
việc nói cái gì không quan trọng bằng nói như thế nào. Cái tài của mỗi nhà thơ là biết
khai thác khả năng biểu hiện của các đơn vị ngôn ngữ thông qua thao tác chọn lựa từ
ngữ và sắp xếp, kết nối chúng lại với nhau. Roman Jakobson cho rằng hoạt động ngôn
ngữ được thực hiện dựa trên hai trục: trục lựa chọn (sélection) và kết hợp
(combinaison), tương ứng với quan hệ liên tưởng (rapports associatifs) và quan hệ ngữ
đoạn (rapports syntagmatiques) mà Ferdinand de Saussure đưa ra. Sau này, các nhà
ngữ học trong trường phái chức năng còn gọi là trục hệ hình (axe paradigmatique) và
trục tuyến hình (axe syntagmatique) [171, tr. 210].
Trong ngôn ngữ hàng ngày và trong văn xuôi, trục lựa chọn (trục dọc) và trục
kết hợp (trục ngang) có tầm quan trọng ngang nhau. Trong thơ, trục lựa chọn được quy
chiếu trên trục kết hợp. Jakobson đã có một phát hiện quan trọng, làm thay đổi các
hướng nghiên cứu ngôn ngữ thơ về sau: "chức năng của thi ca đem nguyên lí tương
đương của trục tuyển lựa chiếu trên trục kết hợp" [95, tr. 83].
Thơ là sản phẩm được kết tinh từ sự sáng tạo của nhà thơ trên chất liệu ngôn
ngữ. Mặc dù ngôn từ trong thơ bắt nguồn từ ngôn ngữ tự nhiên, song nó có những
điểm riêng, như: tính hình tượng, tính hàm súc, tính đa nghĩa,... Và những thuộc tính
đó chỉ có được nhờ khả năng lựa chọn của chủ thể sáng tạo. Trên trục dọc của ngôn
ngữ, ở một vị trí cụ thể, có rất nhiều từ có thể đặt vào đó để xác lập quan hệ với các
đơn vị khác trong trục ngang. Tuy nhiên, trong số đó, chỉ có một từ được xem là đắc
địa. Trong thơ xưa, những từ đắc địa (không thể thay thế) như vậy được gọi là “nhãn
tự” (mắt chữ). Việc lựa chọn yếu tố ngôn ngữ nào sẽ phản ánh ý thức nghệ thuật, khả
năng tư duy, trí tưởng tượng, phương thức cảm nhận và khám phá hiện thực đời sống,
nhãn quan ngôn ngữ của người viết. Đồng thời, nó cũng phần nào chịu áp lực của bối
cảnh chính trị xã hội, bối cảnh văn hóa thời đại, sở thích, sở trường, thói quen của cá
nhân người dụng ngôn. Vì thế, nghiên cứu hệ thống ngôn từ mà nhà thơ lựa chọn sẽ
giúp hiểu hơn về phong cách ngôn ngữ của chính nhà thơ.
1.2.3. Hàn Mặc Tử - cuộc đời và sự nghiệp thơ
Nói đến tác giả Thơ điên, người ta thường xem xét mối quan hệ giữa Nguyễn
Trọng Trí - một tín đồ Thiên Chúa giáo - với Hàn Mặc Tử - một thi nhân. Điều này có
41
nghĩa lí nhất định. Từ góc nhìn tiểu sử, trong thơ ca hiện đại Việt Nam, hiếm nhà thơ
nào có những trang đời đớn đau như Hàn Mặc Tử.
Hàn Mặc Tử (tên thật là Nguyễn Trọng Trí, 1912 - 1940) là một trong những
gương mặt tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới lãng mạn Việt Nam. Ông cũng là
người khởi xướng Trường thơ Loạn ở Bình Định, gồm bốn tác giả: Hàn Mặc Tử,
Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên.
Sinh ra trong một gia đình công giáo gốc ở Quảng Bình, Hàn Mặc Tử mang
thánh hiệu là Phanxicô. Ông là một con chiên rất ngoan đạo. Đức tin vững vàng, mạnh
mẽ đã chi phối đặc điểm tư duy thơ cũng như phong cách nghệ thuật của ông. Hàn
Mặc Tử vốn có thể trạng ốm yếu. Là người có lối sống giản dị, tinh thần hiếu học,
quảng giao, nhất là với những người bạn trong lĩnh vực văn chương. Do cha làm thông
ngôn, kí lục, cho nên Hàn Mặc Tử được đi nhiều nơi, theo học nhiều trường khác nhau
như Sa Kì (1920), Quy Nhơn, Bồng Sơn (1923 - 1924), Pellerin Huế (1928).
Hàn Mặc Tử phát lộ tài thơ khá sớm. 16 tuổi, ông đã có những sáng tác đầu tay.
Khi mới khởi nghiệp thơ, Hàn Mặc Tử đã sáng tác những bài thơ Đường, khiến Phan
Bội Châu - một chí sĩ lừng danh đương thời - cũng phải cảm phục. Hơn thế, ông đã
từng gặp, đàm đạo với ông già bến Ngự, được nhà chí sĩ giới thiệu thơ trên một tờ báo.
Hàn Mặc Tử đã thử thách công việc của một phóng viên, phụ trách trang thơ
cho tờ Công luận. Qua việc gửi thơ đăng báo, Mộng Cầm - một nữ sĩ - và Hàn Mặc Tử
bắt đầu làm quen với nhau, trao đổi nhau các sáng tác và thư từ. Ông đã ra Phan Thiết
để gặp Mộng Cầm. Một mối tình lãng mạn đã này nở giữa hai tâm hồn thi sĩ.
Khoảng đầu năm 1935, gia đình phát hiện những dấu hiệu của bệnh phong trên
cơ thể nhà thơ. Tuy nhiên, ông không quan tâm, vì xem đó là một chứng “phong ngứa”
bình thường, không biết là một bệnh nan y. Đến năm 1938 - 1939, bệnh phát tác dữ
dội, đến mức Hàn Mặc Tử phải vào trại phong Quy Hòa. Theo Nguyễn Bá Tín - em
ruột nhà thơ - “Da anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức
khỏe để kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc "găng"
tay bằng da thô. Toàn thân khô cứng” [215, tr. 134].
Ngày nay, y học khẳng định, bệnh phong không hề lây, nhưng vào thập niên 30,
40 của thế kỷ trước, những người bị bệnh phong chịu ảnh hưởng rất nặng nề của thành
kiến xã hội. Người ta cho rằng, phong là bệnh truyền nhiễm. Đặc biệt, người mắc bệnh
phong thường bị hoại tử, ngón chân ngón tay bị vi rút Hansen ăn dần đến lúc rơi rụng,
42
trông rất đáng sợ. Bệnh nhân phải sống cách li, thậm chí bị xa lánh, hắt hủi. Dân gian
có câu: “Tránh như tránh hủi” (hủi tức là phong). Hàn Mặc Tử cũng không là ngoại lệ.
Khi đến trại phong Quy Hòa - nơi có điều kiện chữa trị bệnh này tốt nhất lúc bấy
giờ - bệnh tình của Hàn Mặc Tử đã rất nặng, bởi trước đó, gia đình tìm mọi cách chạy
chữa cho ông bằng đủ loại thuốc dân gian của các thầy lang trong vùng. Chính cách
chữa trị theo kinh nghiệm cùng những loại thuốc nam ấy đã hủy hoại nội tạng của nhà
thơ, khiến ông cạn kiệt sức sống. Ông trút hơi thở cuối cùng vào lúc 5 giờ 45 phút rạng
sáng 11 tháng 11 năm 1940 tại Quy Hòa vì chứng bệnh kiết lị, khi tuổi đời mới sang 28.
Những ngày sống trong bệnh viện phong, Hàn Mặc Tử thấm thía nỗi đau đớn
cùng cực của một bệnh nhân mắc một trong “tứ chứng nan y”. Đau đớn thân xác vì
chứng bệnh gây ra đã đành, một phần còn đau đớn vì bị tách khỏi gia đình, bạn bè thân
hữu. Nhưng, là một tín đồ rất mộ đạo, Hàn Mặc Tử không rên rỉ, kêu ca, than trách số
phận. Ông phó thác linh hồn và thể xác của mình cho Thiên Chúa.
Không chỉ có nỗi đau thân bệnh, Hàn Mặc Tử còn thấm thía nỗi đau tâm bệnh.
Mang bản tính thi sĩ thiên bẩm, Hàn Mặc Tử cũng rất đa cảm, đa tình. Vì thế, tuy chỉ
sống một cuộc đời ngắn ngủi, nhưng trái tim ông đã thổn thức bởi nhiều hình bóng giai
nhân: Hoàng Cúc, Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy,
Mĩ Thiện. Có người ông đã gặp, có người ông giao tiếp qua thư từ, có người ông mới
biết tên, thậm chí có người chỉ là sản phẩm hư cấu của bạn bè, vì họ nghĩ, trong lúc
Hàn bị trọng bệnh, biết đâu chuyện tình ái sẽ là một thứ thần dược. Tình yêu của Hàn
Mặc Tử dành cho người đẹp nào cũng rất thiết tha, mãnh liệt, nhưng do nhiều nguyên
nhân khác nhau, kết cục đều là đắng cay. Những nhức nhối của tình duyên càng làm
trầm trọng thêm nỗi đau thân xác bệnh tật, và ngược lại. Hai nỗi đau ấy tạo nên những
cơn “dư chấn tâm hồn”, khiến Hàn Mặc Tử cất lên những tiếng gào thét bằng thơ -
điều hiếm gặp trong Thơ mới lúc bấy giờ:
Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Như mê man chết điếng cả làn da
Lấy tiểu sử làm xuất phát điểm để đi tìm hiểu phong cách ngôn ngữ tác giả ở
Hàn Mặc Tử là điều hoàn toàn có cơ sở. Trong các nhà thơ hiện đại Việt Nam, người
có những trang tiểu sử rớm máu như Hàn Mặc Tử hầu như hiếm thấy. Trên đời, không
43
ai muốn có những trải nghiệm đớn đau để sáng tạo thơ, dù hứa hẹn sẽ có những kiệt
tác. Nhưng một khi đã chịu lấy số phận oan nghiệt, thơ không thể không là tiếng kêu
đứt ruột xé lòng. Hàn Mặc Tử đã có hẳn một tập thơ nhan đề là Đau thương. Nhìn
rộng ra, trong suốt hành trình sáng tạo thơ của ông, cảm xúc đau thương, lời khẩn cầu
tha thiết, sự hướng thượng thành kính, sự cô đơn, nỗi tuyệt vọng… đã in dấu rất đậm
trong ngôn từ của ông. Tìm hiểu phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử không thể bỏ
qua những dấu hiệu đặc biệt này.
Với hơn chục năm cầm bút, qua những bút danh như Phong Trần, Lệ Thanh và
cuối cùng là Hàn Mặc Tử, nhà thơ đã để lại những tác phẩm: Lệ Thanh thi tập (gồm
toàn bộ các bài thơ Đường luật), Gái quê (1936, tập thơ duy nhất được xuất bản lúc tác
giả chưa qua đời), Thơ Điên (hay Đau Thương, thơ gồm ba tập: 1. Hương thơm; 2.
Mật đắng; 3. Máu cuồng và hồn điên - 1938), Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm
Châu Duyên (thơ), Duyên kì ngộ (kịch thơ - 1939), Quần tiên hội (kịch thơ, viết dở
dang - 1940), Chơi giữa mùa trăng (tập thơ - văn xuôi). Với chừng ấy tác phẩm, Hàn
Mặc Tử đã thể hiện rất rõ phong cách ngôn ngữ của mình, một phong cách vừa có tính
thống nhất, vừa có sự biến đổi qua từng loại thơ, từng kiểu sáng tác, từng giai đoạn.
1.2.4. Quan niệm riêng về nhà thơ và sáng tạo thơ - yếu tố chi phối phong
cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử
Hơn bất cứ thời đại nào trước đó, các nhà thơ lãng mạn 1932 - 1945 ý thức một
cách sâu sắc về vai trò của chủ thể trong sáng tác thơ. Hoài Thanh gọi đây là “thời đại
của cái Tôi”. Xét toàn diện, cái Tôi vừa là động lực, là nguồn cảm hứng, vừa là nội
dung trữ tình, nhưng trước hết, đó là một chủ thể quyền uy, quyết định mọi vấn đề liên
quan đến sáng tạo thơ. Trong Thơ mới nói chung và ở Hàn Mặc Tử nói riêng, cái Tôi
có ý nghĩa nhất là cái Tôi thi nhân. Trong Gái quê, Hàn Mặc Tử tự họa chân dung cái
tôi thi nhân của mình một cách kín đáo, tinh tế. Thảng hoặc, ông có nhắc đến cái danh
xưng thi sĩ - cũng có nghĩa ý thức được danh phận thi sĩ như là cái nghiệp của đời
mình: Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ [I, tr. 141]; (2) Bước đời thi sĩ nhiều cay nghiệt [I, tr.
141]..., Nhưng bàng bạc trong suốt tập thơ là hình ảnh một “trích tiên”, là “khách đa
tình” như tác giả tự nhận. Như vậy, với Hàn Mặc Tử, thi sĩ trước hết phải là một kẻ đa
tình. Kẻ đa tình thì đương nhiên là “lắm ước mơ”, nhiều mộng tưởng, không thèm phú
quí, chỉ (3) “Ngày đêm mơ ước điều xa xôi” [I, tr. 141]. Người đời bận bịu với sang
giàu, phù hoa, hư vinh, danh vọng, còn thi sĩ lại nặng lòng với những cái đẹp mong
44
manh hư ảo trong trời đất: “giơ tay níu ngàn mây” [I, tr. 142], khóc thương từng cánh
hoa tàn, hứng hương nồng trong vạt áo thiếu nữ, thầm yêu mùi hương ướp trong môi
hường,… Con mắt nhà thơ lãng mạn dĩ nhiên là chỉ lọc lấy những gì thật thơ mộng. Đó
là hình ảnh trăng khi thì nằm sóng soãi lả lơi, gợi tình trên cành liễu, khi thì (5) “trần
truồng tắm” [I, tr. 136], để (6) “lộ cả khuôn vàng dưới đáy khe” [I, tr. 136]; là xuân
trên má nõn, môi hồng thiếu nữ; là thiếu phụ thơ ngây, bẽn lẽn trước cả nụ hôn của gió
lúc nửa đêm,…
Cái Tôi thi nhân lãng mạn là hình tượng có tình phổ quát trong Thơ mới. Thật
không khác gì nhau hình ảnh một thi sĩ “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” (Xuân
Diệu), một “khách tình si/ Ham vẻ đẹp của muôn hình muôn thể”, “thi sĩ nâng niu bầu
cảm xúc/ Của trời mây đúc lại mấy lời hoa” (Thế Lữ) với “Tôi là thi sĩ của thương
yêu” (Nguyễn Bính)… Đó đều là những con người lấy cảm giác bảo chứng cho sự tồn
tại, lấy cảm xúc làm lẽ sống, lấy cái đẹp của đời sống trần thế làm mục đích truy cầu,
lấy sự lây lan tình cảm làm sợi dây buộc ràng giữa mình và tha nhân. Không phải vô
cớ, nhờ thơ lãng mạn mà đề tài thiên nhiên, tình yêu thực sự có được vị trí danh dự
nhất. Phan Huy Dũng nhận xét: “Tự nhận mình là thi sĩ, các nhà thơ mới không chỉ có
điều kiện bộc lộ thế giới bên trong của con người cá nhân (với chút ít cực đoan), mà
còn có điều kiện “nghệ thuật vị nghệ thuật” [36, tr. 27]. Tuy nhiên, trong các tác giả
Thơ mới, Hàn Mặc Tử, dù cuộc đời ngắn ngủi, lại là người có được chuyến hành trình
dài nhất, bắt đầu từ hơi hướng cổ điển, qua lãng mạn, đến bến bờ tượng trưng, siêu
thực. Ở giai đoạn sáng tác những bài thơ có tính chất tượng trưng, siêu thực, quan
niệm về nhà thơ của Hàn Mặc Tử có những đột phá lạ lùng.
Trong ý thức của Hàn Mặc Tử, thi nhân là những con người có những tố chất,
phẩm tính đặc biệt. Có lẽ không một tín đồ nào có quan niệm khác thường như Hàn
Mặc Tử khi ông cho rằng: Chúa Trời đã tạo ra hai loài cao trọng là thiên thần và con
người, Ngài lại còn tạo ra một loài thứ ba: loài thi sĩ. Chỉ có loài thi sĩ mới có khả
năng khác thường trong việc cảm nhận những vẻ đẹp của tạo vật và đấng tối cao, xứng
đáng cất cao lời ca ngợi khen quyền năng Thiên Chúa.
Chưa bao giờ Hàn Mặc Tử quan niệm thi sĩ là “yêu”, là “ma” như Chế Lan
Viên. Ông muốn tâm hồn nhà thơ phải luôn thanh sạch như đã gột rửa để chịu ơn
thiêng trong sáng tạo. Là một tín đồ, có lúc ông nhận mình là “thi sĩ của đội quân
thánh giá”, bản thân là (7) “thánh thể kết tinh” [I, tr. 196]. Những lời thơ ca ngợi Đức
45
mẹ đồng trinh Maria, những lời thơ dâng lên Mẹ dấu yêu… (Thánh nữ đồng trinh
Maria, Nguồn thơm, và nhiều bài thơ mang cảm hứng tôn giáo…) là một phần không
thể thiếu trong thơ Hàn Mặc Tử. Và ngay cả khi không làm thơ đạo, trong tư cách một
thi sĩ của đời, ông vẫn tự vẽ nên một hình ảnh thanh cao: (8) Người thơ phong vận như
thơ ấy [I, tr. 192].
Các nhà thơ lãng mạn thường không ngần ngại đưa ra tuyên ngôn. Ý thức về
nghệ thuật, về sứ mệnh nghệ sĩ đã thúc đẩy họ làm điều này. Hàn Mặc Tử cũng vậy.
Ông cho rằng, người làm thơ là người khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo, thi sĩ đã ngất
ngư trong khi nuốt hết khí vị thanh tao của mùa xuân ấm, của tất cả những lương thực
ngon ngọt mĩ vị làm bằng hương báu, làm bằng nhạc thiêng, làm bằng rượu say, làm
bằng châu lệ [147, tr. 218].
Dấn thân vào con đường nghệ thuật, chí hướng bao trùm của Hàn Mặc Tử là
nguyện suốt đời đi tìm sự lạ. Trước câu hỏi Nghệ thuật là gì? - tên một bài viết của
ông, Hàn Mặc Tử đã dò tìm trong tâm thức sáng tạo của mình để có câu trả lời. Theo
ông, nghệ thuật (thơ) là tiếng gọi ở chốn xa xăm, thiêng liêng và huyền bí làm rung
động cõi lòng. Chí hướng như một động lực ngầm ẩn khiến Hàn Mặc Tử suốt đời đi
theo, suốt đời cứ nhất định đòi hưởng Cái Thơ trên Cái Thơ khác nữa, nghĩa là tìm đến
thứ thơ cao siêu hơn hết thảy - thứ thơ tuyệt đối. Và suốt đời quyết đi đến cõi ước mơ
hoàn toàn.
Trong cuốn Hàn Mặc Tử, Trần Thanh Mại xem Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có
nguồn cảm thụ lực mạnh, thậm chí con người nhà thơ có thể rung động theo dây tơ để
rồi như chính ông có thể phát ra những âm thanh của điệu đàn. Còn Nguyễn Bá Tín -
em ruột Hàn Mặc Tử - thì kể lại: những lúc ngâm thơ, trạng thái Hàn Mặc Tử như xuất
thần, toàn thân run rẩy, buông thảo theo ý thơ để cảm thụ đến tận cùng [149, tr. 413].
Nhờ nguồn cảm thụ lực mạnh phát triển đến cực độ, Hàn Mặc Tử là nhà thơ đầu tiên
nghe ngóng được những lời âm thầm của tạo vật, nghe được cả hơi thở của cành lá, cả
va chạm của hai đường ánh sáng. Những năng lực có vẻ như thần bí ấy thực ra là một
thứ năng lượng dồi dào của một nhà thơ, biểu hiện qua những xuất thần của sáng tạo.
Trong quan niệm của Hàn Mặc Tử về thơ, ta ít nhiều đều bắt gặp nhãn quan ngôn
ngữ của ông - qua sáng tạo thơ. Lí giải cho lối dùng từ, lựa chọn thể thơ và địa hạt sáng
tác của mình, ông đã viết: “Vẫn biết nghệ thuật chuộng ở sự tiến bộ, ở sự hoàn toàn từ
tinh thần đến hình thức của một bài thơ. Song le, ta không nên quên rằng, thơ ta là thơ
46
quốc âm, ta phải giữ cái tinh thần Việt Nam của ta. Hơn nữa, cái tinh thần Đông phương
mà rung cảm tâm hồn người ta là nhờ ở cái đẹp kín đáo, cái tình sâu sắc, cái buồn thấm
thía… vì thế cho nên những sáo ngữ trăng, hoa, tuyết, gió hay là những danh từ đẩy đưa
trong khi hành văn (những danh từ rất thường dùng) đều là những luận đề bất tử cả. Mất
những danh từ ấy, những sáo ngữ ấy, nghĩa là mất hết tính thần phương Đông rồi, mất
cái điện lực, cái gắn chuyển tình cảm con người” [130, tr. 47 - 48].
Sau này, 1939, trong Quan niệm thơ, Hàn Mặc Tử đã liên tục hoàn chỉnh quan
niệm của mình về cả Thơ, Người thơ, và Việc làm thơ với nhiều khía cạnh khác lạ hoàn
toàn so với đương thời. Với ông, Thơ "là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc
trong trắng của một cõi trời cách biệt.", "thơ là một tiếng kêu rên thảm thiết của một linh
hồn thương nhớ, ước ao trở lại trời, là nơi đã sống ngàn kiếp vô thỉ vô chung, với những
hạnh phúc bất tuyệt"… [51, tr. 158 - 159]. Tiến thêm một bước, ông trần tình: "Tôi làm
thơ? - Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng".
"Tôi làm thơ? - Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi phản lại tất cả những gì mà
lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật. Và cũng nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát
điên” [147, tr. 151 - 152]. Hàn Mặc Tử đã nhận thấy rằng, thơ là một tiếng lòng bật ra tự
nhiên không kìm nén được: “Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào
tiếng rú. Có ai ngăn cản được tiếng lòng tôi!" [44, tr. 120].
Như vậy, cái lạ, cái siêu việt, cái tột cùng luôn là mục đích kiếm tìm và thể hiện
của Hàn Mặc Tử. Chính vì điều đó, Chế Lan Viên đã lưu ý độc giả: “Các nhà thơ khác,
ta có thể tìm hiểu họ, rồi làm quen, quen rồi đến thuộc nhập tâm, ta càng khám phá ra
yêu họ… Nhưng với Hàn Mặc Tử, có khi phải yêu Anh trước, thuộc Anh trước, như
thế là quen với những Kì, những Siêu, những Điên, những Dại, những tột đáy, những
tột trời và như thế là ta hiểu được Anh” [232, tr. 5].
Như vậy, chỉ qua một vài tiểu luận ít ỏi và qua một số bài thơ của Hàn Mặc Tử,
ta vẫn có thể nhận ra khá đầy đủ quan niệm của ông về nhà thơ, về công việc sáng tạo
thơ ca. Chính những quan niệm được rút từ chính tác phẩm, ta hoàn toàn có thể tin
tưởng về sự nhất quán trong tư tưởng của ông, và đặc biệt là khả năng chi phối của
những quan niệm đó đối với mọi khía cạnh công việc sáng tạo, trong đó có vấn đề lựa
chọn ngôn ngữ để tạo nên một phong cách riêng.
Từ những gì đã tổng thuật và luận giải trên đây, chúng tôi thấy rằng: việc
nghiên cứu phong cách ngôn ngữ tác giả nói chung, đặc điểm ngôn ngữ thơ Hàn Mặc
47
Tử nói riêng đã có những bước tiến lớn, đạt được những kết quả quan trọng. Tuy
nhiên, vẫn chưa có công trình nào đặt nhiệm vụ khảo sát, phân tích, khái quát đặc điểm
phong cách thơ của Hàn Mặc Tử một cách hệ thống. Với đề tài này, chúng tôi cố gắng
góp phần hoàn thiện bức tranh nghiên cứu về ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử - một trong
những tác giả tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới 1932 - 1945.
1.3. Tiểu kết chương 1
Ở chương 1, luận án triển khai hai nội dung lớn, gồm: tổng quan tình hình
nghiên cứu và cơ sở lí thuyết của đề tài. Luận án đã tổng thuật những nghiên cứu về
ngôn ngữ tác giả, về thơ và ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử. Thực tế cho thấy, các nghiên
cứu trong và ngoài nước về ngôn ngữ tác giả chủ yếu được lồng ghép trong những
công trình đề cập đến phong cách học nói chung, phong cách ngôn ngữ văn chương
nói riêng, kể cả những khảo sát về phong cách của một tác giả cụ thể. Điều này đúng
với thực tế nghiên cứu các thể loại, đặc biệt là thơ. Về ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử,
nhiều nhà nghiên cứu đã xem xét và đánh giá sức sáng tạo của tác giả ở biểu tượng,
hình ảnh thơ, ở cách dùng từ ngữ cũng như cách tổ chức lời thơ. Những kết luận rút
ra từ đó, dẫu chưa đặt dưới góc nhìn phong cách cá nhân, nhưng đều có tính gợi ý
cho việc khái quát phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử.
Để xác lập cơ sở khoa học, luận án trình bày một số khái niệm cơ bản: phong
cách, phong cách học, phong cách nghệ thuật, phong cách ngôn ngữ cá nhân. Một số
vấn đề có liên quan đến biểu hiện phong cách ngôn ngữ tác giả như vốn từ, trường từ
vựng, cách lựa chọn và kết hợp từ ngữ cũng được chúng tôi luận giải ở chương này
nhằm xây dựng một bộ công cụ cần thiết cho việc khảo sát và xử lí tư liệu ở các
chương sau.
Luận án cũng tính đến hai yếu tố chi phối rõ rệt phong cách ngôn ngữ thơ Hàn
Mặc Tử: sự trải nghiệm một cuộc sống đau thương và một quan niệm riêng về nhà thơ
và sáng tạo thơ. Từ đây, có thể thấy, phong cách ngôn ngữ hình thành một cách có quy
luật, trên một nhãn quan và thực tế sáng tác sinh động của tác giả.
48
Chương 2
PHONG CÁCH NGÔN NGỮ THƠ HÀN MẶC TỬ
THỂ HIỆN Ở CÁCH SỬ DỤNG TỪ NGỮ
2.1. Định hướng nghiên cứu và phạm vi khảo sát từ ngữ trong thơ Hàn
Mặc Tử để nhận diện phong cách ngôn ngữ của nhà thơ
Nghiên cứu từ ngữ của một tác giả, rất cần thống kê để nắm được trong toàn bộ
tác phẩm được viết ra, có bao nhiêu từ đã xuất hiện, chúng có mặt trong những tổ hợp
nào, với các kiểu quan hệ mang tính sáng tạo riêng của người viết cũng như nghĩa của
từ trong từng văn cảnh được sử dụng ra sao. Thao tác này giống một công đoạn của
công việc làm từ điển tác giả. Nhờ đó, ta sẽ có kết quả chính xác về số lượng từ và lượt
xuất hiện của từng từ trong toàn bộ các văn bản do tác giả để lại. Bên cạnh cách làm
công phu như trên, còn có những cách tiếp cận khác đối với vốn từ tác giả mà giới
nghiên cứu ngôn ngữ văn chương thường sử dụng. Đó là quan sát các lớp từ theo
trường từ vựng - ngữ nghĩa, hay tìm hiểu các lớp từ theo phong cách (từ khẩu ngữ, từ
thi ca, từ địa phương, từ nghề nghiệp, từ bản ngữ, từ vay mượn, từ láy, tục ngữ, thành
ngữ…), hoặc nhìn nhận tương quan về từ loại hoặc đặc điểm từ xét về cấu tạo… Dù
tiếp cận theo hướng nào thì thao tác thống kê ngôn ngữ học cũng đều phải được sử
dụng để đưa ra các số liệu cụ thể, chính xác. Những nhận xét về đặc điểm vốn từ tác
giả bao giờ cũng phải được khái quát trên cơ sở số liệu thống kê đáng tin cậy. Chúng
tôi sẽ vận dụng các thao tác này trong quá trình triển khai luận án.
Phong cách ngôn ngữ của tác giả biểu hiện ở các phương diện: ngữ âm, từ ngữ, cú
pháp, biện pháp tu từ, kết cấu văn bản. Nói cách khác, bất cứ bình diện ngôn ngữ nào có
mặt trong tác phẩm đều có khả năng góp phần biểu hiện phong cách. Ở bình diện ngữ âm,
đặc điểm của cách hiệp vần, ngắt nhịp, sử dụng âm đầu hoặc thanh điệu tạo hiệu quả đặc
biệt là những yếu tố được tính đến. Ở bình diện từ ngữ, những gì nổi bật, khác biệt đơn vị
được sử dụng (trên cả trục ngang và trục dọc) đều phải được xem xét để phát hiện dấu ấn
cá nhân. Về cú pháp, mặc dù cấu trúc câu bao giờ cũng tuân theo quy tắc chung dường
như đã mặc định, nhưng cá nhân người sử dụng ngôn ngữ vẫn có thể có những cách tạo
câu mang màu sắc thẩm mĩ riêng, và dĩ nhiên, đó cũng là dấu hiệu của phong cách. Câu
chuyện cũng tương tự như vậy đối với cách tổ chức văn bản.
Nhờ thủ pháp thống kê, người ta có thể đưa ra số liệu chính xác về vốn từ của
một cây bút. Sự giàu nghèo trong vốn từ của các nhà văn là hoàn toàn khác nhau, tùy
49
thuộc vào học vấn, trình độ văn hóa, sự am hiểu thực tế đời sống, khả năng tích lũy
ngôn ngữ,… của từng người. Từ vựng là vốn chung của một ngôn ngữ. Cho nên, cái
gọi là vốn từ của một người người sáng tác thực chất là ở chỗ: anh ta đã sử dụng được
bao nhiêu từ được lấy ra từ cái vốn từ ngữ chung của toàn dân. Sử dụng chứ không
phải “độc chiếm”, bởi vì, những từ mà anh ta dùng, thực tế cũng đã “qua tay” rất nhiều
người, và chúng sẽ còn tiếp tục xuất hiện trong vô số ngữ cảnh khác nhau.
Xét thế để thấy rằng, vốn từ của tác giả thể hiện trong toàn bộ tác phẩm văn học
được người viết sáng tạo nên cũng là dấu hiệu của phong cách. Tuy nhiên, để rút ra kết
luận có sức thuyết phục, cần phải dựa trên những số liệu thống kê về tần số xuất hiện,
đồng thời, điều quan trọng hơn là phải phân tích để làm rõ hiệu quả sử dụng. Chỉ khi được
sử dụng với hiệu quả nghệ thuật cao, thì vốn từ mới góp phần biểu hiện phong cách.
Để nhận diện đặc điểm phong cách ngôn ngữ của Hàn Mặc Tử qua việc sử dụng
từ ngữ, chúng tôi sẽ tiến hành các bước nghiên cứu cụ thể như sau:
Thứ nhất, đi sâu tìm hiểu các trường từ vựng ngữ nghĩa mà nhà thơ đã sử dụng
trong tác phẩm thơ, ở tất cả các giai đoạn sáng tác. Các trường từ vựng này sẽ được
nhận diện rõ nét qua việc khảo sát, phân tích, nhất là ở hiệu quả của việc sử dụng trong
thơ qua đối sánh với tác phẩm của một số nhà thơ trong cùng một bối cảnh văn học.
Thứ hai, cách thức kết hợp có tính độc đáo của Hàn Mặc Tử thể hiện qua trục
ngang của ngôn ngữ. Luận án sẽ đi từ việc khảo sát định lượng, có so sánh đối chiếu,
từ đó phân tích định tính để làm rõ những biểu hiện của một phong cách cá nhân.
Thứ ba, dựa vào trục dọc ngôn ngữ, luận án sẽ cố gắng miêu tả và phân tích
cách thức lựa chọn từ ngữ trong sáng tạo thơ của Hàn Mặc Tử. Đây là bước rất quan
trọng, vì ngôn ngữ thơ, sự lựa chọn bao giờ cũng biểu hiện rõ nét một lối tư duy thơ,
một cá tính sáng tạo - những khía cạnh quan trọng của phong cách cá nhân.
2.2. Phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử biểu hiện qua một số trường từ
vựng tiêu biểu
2.2.1. Dẫn nhập
Trong thơ Hàn Mặc Tử, có nhiều trường từ vựng mang dấu ấn của một cá tính
sáng tạo, mặc dù, đó là các trường tương đối phổ biến, có thể bắt gặp ở tác phẩm của
nhiều cây bút khác cùng thời, chẳng hạn: trường mùa xuân, trường tình yêu, trường tâm
trạng, trường quê hương, trường màu sắc, trường thân xác, trường mộng ảo, trường tôn
giáo - tâm linh… Chúng tôi đã tiến hành thống kê các trường từ vựng trong thơ Hàn
Mặc Tử trên tổng số 119 bài thơ được khảo sát. Kết quả thống kê cụ thể như sau:
50
Bảng 2.1: Thống kê các trường từ vựng trong thơ Hàn Mặc Tử
TT Trường từ vựng Tổng số bài sử dụng Tổng số lần sử dụng Tỉ lệ bài sử dụng (%)
1. Tình yêu 2. Thân xác 3. Tôn giáo - tâm linh 4. Mùa xuân 5. Mộng ảo 6. Tâm trạng 7. Màu sắc 8. Quê hương 98 87 67 51 65 66 53 48 587 307 320 261 302 301 279 165 82.4 73.1 56.3 42.8 54.6 55.5 44.5 40.3 Tần suất xuất hiện trong bài 4.9 2.6 2.7 2.2 2.5 2.5 2.3 1.4
Bảng 2.1 cho thấy, Hàn Mặc Tử sử dụng trong thơ từ ngữ thuộc nhiều trường từ
vựng - ngữ nghĩa khác nhau. Điều này không chỉ thể hiện khả năng khai thác tối đa
kho từ vựng tiếng Việt, hơn thế, có nhiều từ còn được sử dụng rất sáng tạo, mang tính
cá biệt, “độc sáng” trong thơ ca Việt Nam. Trong số các trường chúng tôi khảo sát,
trường tình yêu là trường từ vựng khá nổi bật về lượng. Có 98 bài thơ sử dụng từ chỉ
tình yêu đôi lứa, chiếm 82.4% trên tổng số 119 bài thơ được khảo sát. Với 587 lượt
dùng, trung bình, tần suất xuất hiện của từ chỉ tình yêu trong các bài thơ chiếm tỉ số
4.9 lần, cao nhất so với các trường từ vựng được khảo sát. Điều này không khó lí giải.
Với một số phận thương đau, nhưng nỗi khát khao thường trực được yêu trong con
người ông thể hiện qua từng trang thơ. Tiếp đến là trường thân xác: có 87/119 bài thơ
sử dụng từ chỉ thân xác con người, 307 lượt xuất hiện, 73.1% bài thơ sử dụng trường
từ vựng chỉ thân xác, tần suất xuất hiện 2.6 lần. Ở vị trí thứ ba là trường tôn giáo - tâm
linh. Đây cũng là trường từ vựng khá nổi bật, làm nên sự tò mò đối với người nghiên
cứu với số lượng bài sử dụng 67/119, chiếm tỉ lệ 56.3% bài thơ có sử dụng từ chỉ tôn
giáo; tần suất xuất hiện trong bài cũng khá cao, chiếm 2.7 lần. Với những con số này,
chứng tỏ Hàn Mặc Tử rất quan tâm đến thân xác, tôn giáo - tâm linh.
Các trường mùa xuân, trường tâm trạng, trường quê hương, trường màu sắc,
trường mộng ảo… cũng được Hàn Mặc Tử sử dụng khá nhiều, tạo nên những sắc thái
biểu hiện vô cùng phong phú trong thơ ông. Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy ở
một số nhà thơ như Xuân Diệu, Nguyễn Bính… những trường này cũng cũng thể hiện
rõ phong cách ngôn ngữ của họ. Hàn Mặc Tử không hề ưu trội hơn. Nói rộng ra, đây là
đặc điểm chung của thơ lãng mạn 1932 - 1945. Vì lẽ đó, chúng tôi sẽ đi sâu nghiên
51
cứu các trường tình yêu, thân xác, tôn giáo - tâm linh trong thơ Hàn Mặc Tử để nhận
diện những điểm nổi bật, nhằm chỉ ra sự đóng góp của các trường ấy vào việc tạo nên
một phong cách ngôn ngữ.
2.2.2. Một số trường từ vựng in đậm dấu ấn phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử
2.2.2.1. Trường tôn giáo - tâm linh
a. Dẫn nhập
Trong từ vựng của một ngôn ngữ, bên cạnh những lớp từ dùng để giao tiếp
chung cho mọi thành viên trong xã hội còn có những lớp từ chỉ được sử dụng trong các
lĩnh vực nhất định. Mỗi định chế xã hội hay thực thể tinh thần đều có một hệ thống từ
ngữ đặc trưng chuyên dụng. Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, thuộc kiến trúc
thượng tầng, phản ánh sự tồn tại xã hội, có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống tinh
thần của nhân loại. Là lĩnh vực xã hội - văn hóa - đạo đức phổ biến trên thế giới, tôn
giáo dĩ nhiên có một lớp từ mang tính đặc thù. Có thể hiểu lớp từ tôn giáo là những từ
thể hiện các chức danh tôn giáo, các hành vi tôn giáo, các sự vật, hiện tượng, tính
chất… gắn với tôn giáo. Nhưng quan trong hơn hết, hệ thống từ ngữ đó phải có giá trị
biểu đạt cao nhất tư tưởng, đức tin tôn giáo của nhà thơ, Phải “thăm dò” đến độ sâu ấy
mới mong khái quát được đặc điểm phong cách thể hiện qua trường này.
Với Hàn Mặc Tử, nhất là từ khi lâm trọng bệnh, thơ và đời sống là nhất thể, bất
khả phân. Qua thơ, dễ dàng nhận thấy tôn giáo hay Đức Tin là một miền trú ẩn thiết cốt
cho cõi linh hồn thống khổ triền miên; từ đó tạo nên một nguồn thơ sáng láng, tinh khiết.
Từ rất sớm, Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: “Có lẽ ông là người Việt Nam ca ngợi Thánh nữ
Đồng trinh Maria và Chúa Jesus bằng thơ trước nhất. Ông ca tụng đạo Gia tô rất chân
thành. Lần này cũng là lần đầu, thơ ca Việt Nam thấy được một nguồn hứng mới” [157, tr.
165]. Còn Hoài Thanh, qua trường hợp Hàn Mặc Tử đã nhận ra mối tương quan giữa tôn
giáo và dân tộc: “Thơ Hàn mặc Tử ra đời, điều ấy chứng tỏ đạo Thiên Chúa ở xứ này đã
tạo ra cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể
diễn ra thơ mới thật là những tình cảm đã thấm tận đáy hồn đoàn thể” [184, tr. 207]. Ý
kiến của Hoài Thanh có một ý nghĩa đặc biệt, rằng trong Ki tô giáo Việt Nam, niềm tin
Thiên Chúa đã trở thành một đức tin thuần túy Việt Nam. Điều đó được chứng thực qua
thơ Hàn Mặc Tử, tức là Đức Tin Thiên Chúa đã được diễn đạt bằng ngôn ngữ Việt Nam.
Còn theo Đặng Tiến, “một đề tài hệ trọng và bao quát trong thơ Hàn Mặc Tử là Đức Tin
Thiên Chúa giáo. Đề tài này không chỉ được thể hiện trong những câu thơ có hình thái
Thiên Chúa giáo như Maria, linh hồn tôi,… mà là kiến trúc toàn bộ thơ Hàn Mặc Tử đều
52
vang dội lời truyền giảng của Phúc âm” [213, tr. 6]. Cũng theo Hoài Thanh, ngoài Thiên
Chúa giáo, thơ Hàn Mặc Tử còn “một hai dấu tích Phật giáo còn sót lại” nhưng Quách
Tấn còn cực đoan hơn khi khẳng định: “Tôi nhận thấy vang bóng của đạo Phật có phần
đậm hơn đạo Thiên Chúa” [44, tr. 376]. Quả là, sự phân lượng về đề tài Đức Tin trong thơ
Hàn Mặc Tử khó mà chính xác; bởi lẽ, bên cạnh Thiên Chúa giáo, Phật giáo, còn có Lão
giáo, Khổng giáo - những tôn giáo này cũng đậm đà cả trong nguồn cảm xúc và ngôn từ.
Gia đình Hàn Mặc Tử theo Thiên Chúa giáo từ đời cố nội Phạm Bồi, vì liên quan đến
quốc sự nên phải dời sinh quán và đổi theo họ mẹ (Nguyễn). Không khí và truyền thống
giáo dục gia đình là mảnh đất màu mỡ cho sự hấp thụ đức tin. Qua tư liệu đã khảo sát,
theo chúng tôi, hạt mầm Thiên Chúa giáo mà Hàn Mặc Tử đã sớm gieo vào thơ ca Việt
Nam có sức sống rất dồi dào.
b. Đặc điểm trường từ vựng chỉ tôn giáo - tâm linh trong thơ Hàn Mặc Tử
b1. Khảo sát định lượng
Trong các sáng tác của Hàn Mặc Tử, từ vựng tôn giáo nằm rải rác ở 67/119 bài,
song các bài thuộc hai tập thơ hội tụ đậm nét màu sắc tôn giáo là Xuân như ý và
Thượng thanh khí. Qua khảo sát, chúng tôi thống kê được 320 lượt từ thuộc trường từ
vựng tôn giáo. Trong tương quan so sánh với các nhà thơ khác, thơ Hàn Mặc Tử có tần
số xuất hiện lượt từ tôn giáo cao nhất. Điều này thể hiện rõ qua kết quả thống kê đối
sánh ở bảng dưới đây:
Bảng 2.2: Trường từ vựng tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê,
Xuân Diệu và Nguyễn Bính
Tổng số Tổng số Tổng số Tỉ lệ bài Tần suất
Nhà thơ bài khảo bài sử sử dụng xuất hiện lần sử
sát dụng dụng (%) trong bài
119 67 320 56.3 2.7 Hàn Mặc Tử
82 27 84 32.9 1.0 Bích Khê
90 17 22 18.9 0.2 Xuân Diệu
88 19 52 21.6 0.6 Nguyễn Bính
Trong tương quan với ba nhà thơ Bích Khê, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, bảng 2.2
cho thấy, số lượng từ vựng chỉ tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử được sử dụng chiếm ưu
thế vượt trội. Hàn Mặc Tử có 67/119 bài thơ được khảo sát có sử dụng từ chỉ tôn giáo,
chiếm 56.3% trên tổng sự nghiệp thơ của ông. Trong khi đó, tỉ lệ này ở Bích Khê,
Nguyễn Bính, Xuân Diệu lần lượt là 32.9%, 21.6% và 18.9% - thấp hơn rất nhiều so
53
với Hàn Mặc Tử. Không phải bài thơ nào Hàn Mặc Tử cũng sử dụng từ chỉ tôn giáo,
song bảng trên cho thấy, trung bình mỗi bài thơ của Hàn Mặc Tử có khoảng 3 lượt từ
thuộc lớp từ vựng tôn giáo. Con số này cao hơn hẳn so với các nhà thơ: Bích Khê (1.0
lượt/ bài), Nguyễn Bính (0.6 lượt/ bài) và Xuân Diệu (0.2 lượt/ bài).
Biểu đồ 2.1: Tần suất xuất hiện lượt từ vựng tôn giáo ở mỗi bài
trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính
Căn cứ vào tôn giáo, chúng tôi tiếp tục chia vốn từ chỉ tôn giáo trong thơ của
bốn nhà thơ được chọn khảo sát thành hai nhóm: Thiên Chúa giáo và Phật giáo.
Bảng 2.3: Tiểu trường từ vựng tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê,
Xuân Diệu và Nguyễn Bính phân theo loại tôn giáo
HMT BK XD NB
Tôn giáo Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ
lượt (%) lượt (%) lượt (%) lượt (%)
Thiên Chúa giáo 189 59 34 40 11 50 5 10
Phật giáo 131 41 50 60 11 50 47 90
Tổng 320 100 84 100 22 100 52 100
Kết quả thống kê ở bảng 2.3 cho thấy, số lượng lượt dùng cả hai nhóm tiểu
trường chỉ tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử hoàn toàn khác biệt so với ba nhà thơ còn lại.
Cụ thể, Hàn Mặc Tử sử dụng nhóm từ chỉ Thiên Chúa giáo (59%) nhiều hơn so với
nhóm từ chỉ Phật giáo (41%). Trong khi đó, Bích Khê lại sử dụng nhóm từ chỉ Phật giáo
(60%) nhiều hơn so với nhóm từ chỉ Thiên Chúa giáo (40%). Tương tự, Nguyễn Bính
54
cũng có tỉ lệ chênh lệch rõ rệt khi sử dụng nhóm từ chỉ Phật giáo (90%) nhiều hơn hẳn
so với nhóm từ chỉ Thiên Chúa giáo (10%). Xuân Diệu là người sử dụng ít nhất các từ
chỉ tôn giáo (22 lượt sử dụng), tỉ lệ của hai nhóm này trong thơ ông là 50/50.
Biểu đồ 2.2: Tỉ lệ từ vựng tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê,
Xuân Diệu và Nguyễn Bính phân theo loại tôn giáo
Trong thơ Hàn Mặc Tử, số lượt từ thuộc Thiên Chúa giáo chiếm gần 60% trong số
toàn bộ số từ thuộc trường này. Mặc dù bản thân nhà thơ theo đạo Thiên Chúa và đạo này
có ảnh hưởng lớn đến đời sống cũng như các sáng tác thơ của Hàn Mặc Tử, nhưng nhà thơ vẫn sử dụng khá nhiều các từ ngữ, hình ảnh của Phật giáo trong thơ, với tỉ lệ trên 40%.
Đúng với những điều Hàn Mặc Tử từng nói “Tôi lợi dụng văn chương và triết lí nhà Phật để
mà làm thơ thôi, tôi dung hòa cả hai thể văn chương tôn giáo Thiên Chúa và nhà Phật. Đó là
chỉ muốn làm giàu cho nền văn chương chung” [130, tr. 168].
Trong thơ Hàn Mặc Tử, tỉ lệ từ ngữ chỉ đạo Thiên Chúa cao hơn hẳn so với từ ngữ chỉ đạo Phật, nhưng ở Bích Khê, Nguyễn Bính thì ngược lại. Riêng ở thơ Xuân Diệu, vốn từ thuộc hai loại tôn giáo này ngang nhau.
Mỗi nhóm từ vựng thuộc trường Thiên Chúa giáo và Phật giáo trong thơ Hàn Mặc Tử lại chia thành nhiều tiểu trường khác nhau: Tên gọi chức sắc và những người thuộc đạo; Nơi chốn; Vật dụng liên quan; Hành vi/ hoạt động; Đặc điểm tính
chất;… Cụ thể như sau:
55
(1) Trường từ vựng về đạo Thiên Chúa
Thiên Chúa giáo du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ XVI bởi các nhà truyền đạo
phương Tây. Là tôn giáo độc thần, hướng tới đề cao những giá trị đạo đức như lòng
nhân ái, giá trị nhân bản, lòng trung thực, tư tưởng công bình. Cùng với thời gian,
Thiên Chúa giáo trở thành một thành tố không thể tách rời của nền văn hóa dân tộc và
có ảnh hưởng khá sâu rộng trong đời sống tinh thần của nhân dân ta. Thiên Chúa giáo
cũng có một lớp từ mang tính đặc thù được dùng để định danh chức sắc, tín hữu, các
khái niệm trong giáo lí cũng như các sự vật, tính chất và việc hành đạo. Là một một trí
thức Thiên Chúa giáo, một tín đồ ngoan đạo, trong sáng tác thơ, Hàn Mặc Tử để lại
dấu ấn rất đậm ở trường từ vựng này là điều dễ hiểu.
Xét trường từ vựng về đạo Thiên Chúa trong thơ Hàn Mặc Tử, các tiểu trường
khác nhau có số lượt và tỉ lệ tương ứng khác nhau:
Bảng 2.4: Các tiểu trường trong trường từ vựng về đạo Thiên Chúa
trong thơ Hàn Mặc Tử
TT Tiểu trường Ví dụ Tỉ lệ Số lượt
1 85 45.0
Tiểu trường tên gọi về một số khái niệm thuộc đạo Thiên Chúa Tiểu trường tên gọi về các hành vi 2 47 24.9
3 34 18.0
4 11 5.8
5 7 3.7
linh hồn, hồn, hồn phách, xác thịt, lời nguyền, nhập, đức tin, đạo trời,… cầu nguyện, nguyện ước, tha thứ, tung hô cảm tạ, ca tụng, tấu lạy, xin ban ơn, yêu chuộng, ơn, chầu luỵ, quỳ,… Thượng Đế, Chúa, Ngôi Hai, Thánh Nữ, Tổng lãnh Thiên thần, Chín phẩm thiên thần, Maria, Mẹ,… mầu nhiệm, nhiệm mầu, phước lộc, nhân đức, thiêng liêng,… Thiên đường, cõi Thiên đàng, dưới thế, ba ngàn thế giới,… kinh, kinh Phúc âm, hương hoa,…
6 5 2.6
Tiểu trường tên gọi về chức sắc và những người thuộc đạo Thiên Chúa Tiểu trường tên gọi về đặc điểm tính chất Tiểu trường tên gọi về nơi chốn Tiểu trường tên gọi về các vật dụng liên quan đến đạo Thiên Chúa
Tổng 189 100
56
Bảng 2.4 cho thấy tiểu trường tên gọi chỉ một số khái niệm thuộc đạo Thiên
Chúa chiếm số lượt và tỉ lệ sử dụng cao nhất (45%). Tuy vậy, tiểu trường này có vốn
từ không đa dạng, chỉ bao gồm không quá 10 từ chỉ khái niệm, trong đó từ hồn, linh
hồn chiếm tỉ lệ áp đảo (xuất hiện 60/85 lượt trong tiểu trường chỉ khái niệm thuộc đạo
Thiên Chúa). Hai từ cùng chỉ một thực thể này được lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong
các bài thơ khác nhau, thậm chí trong cùng một bài thơ, gây ám ảnh cho người đọc:
hồn văng lên muôn trượng, hồn bay vùn vụt, hồn trơ vơ, hồn đau, hồn mê man, hồn
bùi ngùi, phiêu lạc, hồn thoát ly ngoài tâm tưởng, hồn mất xác, hồn nhắm tử thi, hồn
mê mỏi, hồn ớn lạnh, hồn man mác, hồn tan rã… rồi nhà thơ muốn níu hồn, thả hồn
bay, để (9) Hồn ta đây bất diệt với Hà Sa (Trường thọ) [I, tr. 204], (10) Để cho hồn đỡ
bớt nỗi bi thương (Hồn lìa khỏi xác) [I, tr. 185]. Nỗi đau tận cùng bệnh tật đã khiến
Hàn Mặc Tử có lúc như đứng giữa bờ vực của sự sống và cái chết. Hồn ở lại thì hồn
đau, hồn lìa khỏi xác thì hồn nghiêng ngả, vì thế, có lúc Hàn Mặc Tử muốn (11) Níu
thơ anh và níu cả hồn anh (Duyên kì ngộ) [III, tr. 134], song cũng có lúc lại muốn siêu
thoát: (12) Hồn hỡi hồn, lên nữa, quá thinh gian… Hồn hỡi hồn, bay ra ngoài kia
mức (Ngoài vũ trụ) [I, tr. 189],…
Chiếm tỉ lệ cao thứ hai là tiểu trường chỉ các hành vi, hoạt động, nghi thức diễn
ra trong đạo Thiên Chúa (25%). Số lượng các đơn vị từ vựng thuộc nhóm này cũng rất
phong phú. Trong thơ Hàn Mặc Tử, tiểu trường này có khi là hành động yêu chuộng,
tung hô, cảm tạ, ca tụng Chúa, có khi là chầu lạy, lạy, quỳ, cầu nguyện - hoạt động
này được nói đến nhiều nhất.
Tiểu trường về tên gọi các ngôi vị cao cả trong đạo Thiên Chúa chiếm tỉ lệ cao
thứ ba về lượt xuất hiện (chiếm 18%) và cũng đa dạng về vốn từ. Nhà thơ thường
xuyên nhắc đến (Đức) Mẹ/ Bà Maria, Chúa/ Thiên Chúa, Thánh Đức,…
Lớp từ chỉ đặc điểm tính chất (chiếm 5.8%), nơi chốn (chiếm 3.7%), vật dụng
(chiếm 2.6%) liên quan đến đạo Thiên Chúa ít được Hàn Mặc Tử nhắc đến. Tuy vậy,
lớp từ này cũng góp phần làm cho trường từ vựng chỉ tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử
trở nên đa dạng, phong phú hơn. Trong nhóm từ chỉ nơi chốn, Hàn Mặc Tử không
nhắc đến nơi hành lễ, sinh hoạt (ví dụ: nhà thờ, toà giám mục, thánh đường, trường
dòng,…), mà chỉ nhắc đến nơi chốn trừu tượng, cao xa, thiêng liêng như: Thiên Đường,
cõi Thiên Đàng, dưới thế, ba ngàn thế giới,…
57
Trong thơ, việc sử dụng từ ngữ thuộc trường nào đều phải hướng đến giá trị biểu
hiện. Với Hàn Mặc Tử, trường từ vựng Thiên Chúa giáo có mặt trong thơ nhằm một mục
đích cao nhất: thể hiện một đức tin thành kính, mạnh mẽ. Điều này khác biệt với việc sử
dụng một loạt từ ngữ liên quan đến đạo Thiên Chúa mà vẫn hoàn toàn là một kẻ vô tín
ngưỡng như trường hợp những câu thơ sau đây của Huy Cận:
Hỡi Thượng đế, xin cúi đầu trả lại
Linh hồn tôi đà một kiếp đi hoang
Sầu đã chính, xin người thôi hãy hái
Nhận tôi đi dù địa ngục, thiên đàng
(2) Trường từ vựng về đạo Phật
Đạo Phật là một tôn giáo lớn, du nhập vào Việt Nam theo đường biển bởi các
nhà sư Ấn Độ từ đầu Công nguyên. Với thuyết nhân quả nghiệp báo, thuyết luân hồi
Phật giáo dễ dung hợp với tín ngưỡng bản địa (Ông Trời trừng phạt kẻ ác, tái sinh sau
khi chết), hướng con người đến cái thiện, mang tính giáo dục cao. Vào Việt Nam, Phật
giáo không gặp phải bất cứ sự cản trở nào, do đó, nhanh chóng trở thành một tôn giáo
có số lượng tín đồ đông đảo nhất. Theo thời gian, các giá trị của giáo lí đạo Phật ngấm
sâu vào trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt. Trong điều kiện những giá trị tốt
đẹp của Phật giáo đã ngấm sâu, mặc dù gia đình theo đạo Thiên Chúa, nhưng ảnh
hưởng của đạo Phật đối với Hàn Mặc Tử là không nhỏ. Đây là lí do khiến cho lớp từ
thuộc tiểu trường Phật giáo vẫn có mặt trong thơ ông.
Trong thơ Hàn Mặc Tử, vốn từ vựng chỉ Phật giáo cũng được dùng để định
danh các đối tượng, khái niệm, cách hành đạo riêng. Tuy nhiên, qua khảo sát, chúng
tôi nhận thấy, có một số từ, nếu tách ra khó phân định chúng dùng để chỉ tôn giáo nào,
chẳng hạn: kinh, dâng, cầu xin, lạy, đạo,… Đối với những từ này, chúng tôi căn cứ vào
nội dung bài thơ để xác định xem nó thuộc về trường về đạo Thiên Chúa hay đạo Phật.
Với cách làm đó, chúng tôi đã lập bảng thống kê các tiểu trường của đạo Phật như sau.
58
Bảng 2.5: Các tiểu trường trong trường từ vựng về đạo Phật
trong thơ Hàn Mặc Tử
Tỉ lệ TT Tiểu trường Ví dụ Số lượt
Tên gọi về nơi chốn đền, chùa, đài điện, nhân gian,
1 35 26.7 mười phương, Bồng Lai, trần tục,
Đạo Ly, Đâu Suất,…
Tên gọi về một số khái đạo, cửu trùng, yêu ma, âm dương,
2 niệm thuộc đạo Phật 30 22.9 đạo hạnh, chánh quả, nhơn quả,
bản ngã, mùi tục, …
Tên gọi về các hành vi lạy, cầu xin, cầu khẩn, dâng, chấp 3 24 18.3 tay, tụng, tu luyện,…
Tên gọi về các vật dụng liên hương, trầm, tràng hạt, tràng
4 quan đến đạo Phật 23 17.6 chuỗi, kinh, Kinh Thi, pho sách
Kim Cương,…
Tên gọi về đặc điểm tính từ bi, phước lộc, thanh tịnh, bình 5 14 10.7 chất an, linh thiêng,…
ni cô, sư, Phật, nhà Phật,… Tên gọi về tên gọi chức sắc 6 5 3.8 và những người thuộc đạo Phật
Tổng: 131 100
Trong số các tiểu trường thuộc trường từ vựng Phật giáo ở bảng 2.5, trường từ
vựng chỉ nơi chốn chiếm tỉ lệ lớn nhất (35 lượt từ, chiếm 26.7%), tiếp đến là tiểu
trường gọi tên một số khái niệm thuộc đạo Phật (30 lượt từ, chiếm 22.9%). Trường từ
vựng chỉ hành vi và gọi tên các vật dụng liên quan đến đạo Phật có tỉ lệ tương đương
nhau (23 - 24 lượt từ, chiếm khoảng 18%). Các tiểu trường khác (chỉ chức sắc, đặc
điểm tính chất) chiếm tỉ lệ nhỏ hơn. Nhà thơ thường xuyên nhắc đến chốn linh thiêng,
thanh tịnh như đền, chùa, cảnh chùa,… hay chốn Bồng Lai tiên cảnh để có cảm giác
thanh sạch, giải thoát khỏi mùi tục, xa nơi trần tục: (13) Mùi tục chưa chi mà vội chán/
Cuộc đời mới thế đã lo xa/…/ Nhạt mùi son phấn say mùi đạo,/ Chán cảnh phiền ba
mến cảnh chùa (Gái ở chùa) [II, tr. 50 - 51]. Bên cạnh đó, Hàn Mặc Tử nhắc đến nhiều
khái niệm liên quan đến đạo Phật: Đạo, yêu ma, âm dương, đạo hạnh, chánh quả,
nhơn quả, bản ngã, mùi tục… minh chứng cho sự thấm nhuần các giá trị nhân văn cao
đẹp của Phật giáo vào ngôn ngữ thơ ông.
59
Thông thường, người theo đạo nào thì sẽ am hiểu sâu sắc về đạo đó. Với Hàn Mặc
Tử, dù theo đạo Thiên Chúa, nhưng nhà thơ vẫn có những hiểu biết khá tường tận về đạo
Phật. Chẳng hạn, ông nói đến: Đao Ly, Đâu Suất (các cõi tịnh độ của Bồ tát Di Lặc); cực
lạc (một cõi thế giới nơi Phật A-di-đà tiếp dẫn trong Phật giáo Đại thừa); vô lượng (chí
một phép thiền định, trong đó hành giả tạo điều kiện cho bốn tâm thứ cao thượng từ, bi,
hỉ, xả phát sinh); pho sách Kim Cương (chỉ cuốn Kinh Kim Cương - một văn bản của Phật
giáo Đại thừa ghi chép lại những lời giảng, giáo lí tôn giáo của Đức Phật);… Phải có vốn
sống phong phú và có sự cảm mến đạo Phật thì nhà thơ mới tìm hiểu và nắm được những
từ ngữ Phật giáo, điều không phải người ngoại đạo nào cũng đạt đến.
b2. Sự biểu hiện tín ngưỡng ở trường từ vựng tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử
Dẫu trong vốn từ của Hàn Mặc Tử có cả các từ thuộc Thiên Chúa giáo và các từ
thuộc Phât giáo, nhưng không ai có thể nghi ngờ về đức tin Thiên Chúa giáo của ông.
Vì thế, khi phân tích giá trị biểu hiện đưc tin của trường từ vựng chỉ tôn giáo, chúng
tôi chỉ chú ý tiểu trường liên quan đến Thiên Chúa giáo mà thôi.
Giá trị biểu hiện của các từ thuộc trường này có thể quy về một số tiêu điểm sau đây:
Thứ nhất, sự yêu kính Thiên Chúa và Đức Mẹ Maria từ tấm lòng của một con
chiên ngoan đạo
Sự tôn kính Thiên Chúa của Hàn Mặc Tử được thể hiện rõ trong cách sử dụng
từ ngữ: yêu chuộng, tung hô, cảm tạ, ca tụng, lạy, quỳ, chầu lạy,… trong thơ: (14)
Thiên địa đắm hoang mang/ - Là đương khi thờ lạy cả Thiên Đàng/ Bay những tiếng:
tung hô Thánh Đức/…/ Ôi thánh tai, thánh tai và thánh tai! (Ra đời) [I, tr. 190]; (15)
Và Tổng lãnh Thiên thần quỳ lạy Mẹ/ Tung hô câu đường hạ ngớp châu sa/…/Nhưng
lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến/ Lạy Bà là Đấng trinh tuyền thánh vẹn/ Cho tôi
dâng lời cảm tạ phò nguy/ Tấu lạy Bà, Bà rất nhiều phép lạ/ Để ca tụng - bằng hương
hoa sáng láng/…/ Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước/ Nguồn thiêng liêng yêu chuộng
Mẹ Sầu Bi (Ave Maria/ Thánh nữ đồng trinh Maria) [I, tr. 195 - 197];…
Thứ hai, nhu cầu giãi bày và ước nguyện giải thoát khỏi nỗi đau thực tại
Hàn Mặc Tử phải chịu cả nỗi đau về thể xác và nỗi khổ về tinh thần. Ông thiết
tha sống, nhưng căn bệnh hiểm nghèo khiến ông phải sống từng ngày trong trạng thái
thấp thỏm lo âu, rằng sự sống có thể bị tước đoạt bất cứ lúc nào. Ông yêu nhiều, yêu
mãnh liệt song nhận lại chỉ toàn là cô đơn và tuyệt vọng.
Trước nghịch cảnh tình duyên và sức khoẻ đều dần xa, Hàn Mặc Tử muốn được
60
ai đó quan tâm, chia sẻ và lắng nghe mình. Và ông tìm đến thơ để dễ giãi bày những
tâm trạng u uẩn, sâu xa của tâm hồn: (16) Vẻ đẹp xa hoa của một thời/ Đầy lệ, đầy
thương, đầy tuyệt vọng/ Ôi! Giờ hấp hối sắp chia phôi/ Ta trút linh hồn giữa lúc đây/
Gió sầu vô hạn nuối trong cây/- Còn em sao chẳng hay gì cả?/ Xin để tang anh đến
vạn ngày (Trút linh hồn) [I, tr. 183]. Ông trút vào thơ những trải nghiệm của tâm hồn,
những tra vấn về bản ngã, bản sắc của mình thông qua nghệ thuật siêu linh: (17) Ta là
ta hay không phải là ta?/…/ Hồn vội thoát ra khỏi bờ trí tuệ (Siêu thoát) [I, tr. 186];
(18) Tôi vẫn còn đây hay ở đâu? (Những giọt lệ) [I, tr. 166]; (19) Hồn là ai? Là ai?
Tôi chẳng biết/…/ Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm/ Cho trăng ngập trăng dồn
lên tới ngực (Hồn là ai) [I, tr. 175];… Với Hàn Mặc Tử “người tri kỉ của thi sĩ phải là
một bậc cao quý, toàn năng, một Đấng mà thi sĩ nhận lấy như là hết cả mọi sự - Đấng
ấy là Đức Chúa Trời, kể lể hết niềm thương đau với Người, dâng cho Người những bài
thơ sáng láng anh hoa, thế mới mãn nguyện” [147, tr. 154].
Hàn Mặc Tử đem tôn giáo vào thơ để xưng tội, cầu nguyện, xin tha thứ, và ban
ơn: (20) Ta chấp hai tay quỳ hoan hảo/ Ngửa trông cao, cầu nguyện trắng không
gian/ Để vừa dâng vừa hiệp bốn màu xuân/ Đương cầu xin ọc thơ ra dường sữa/ Tôi
van lơn, thầm nguyện chúa Giêssu/ Ban ơn xuống cho mùa xuân hôn phối/ Xin tha
thứ những câu thơ tội lỗi/ Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng (Đêm xuân cầu nguyện) [I,
tr. 192 - 193]; (21) Lạy Chúa tôi, vầng trăng cao giá lắm/ Xin ban ơn bằng cách sáng
thêm lên (Vầng trăng) [II, tr. 100]; (22) Van lạy không gian xoá những ngày/ Những
ngày đau khổ nhuộm buồn thiu/ Những ngày mây lam cuốn dạp dìu/ Những mảnh
nhạc vàng rơi lả tả/ Những niềm run rẩy của đêm yêu (Lưu luyến II) [I, tr. 165];…
Ngoài hành vi quỳ, lạy, thì hành vi cầu nguyện cũng được nhà thơ nhắc lại nhiều lần ở
nhiều bài thơ khác nhau: (23) Tiếng pháo đi: bao nhiêu kinh cầu nguyện/ Đều dâng
lên cho đến chín từng mây (Nguồn thơm) [III, tr. 95]; (24) Sao trời hỡi, không cho em
nguyền ước (Duyên kì ngộ) [II, tr. 113); (25) Tôi đang cầu nguyện cho trăng tôi
(Trăng vàng trăng ngọc) [II, tr. 89]; (26) Lạy chín phẩm thiên thần xin chứng giám/
Trong mây kinh và trong gió nguyện cầu (Trường thọ) [III, tr. 113];…
Thứ ba, tưởng tượng và hy vọng về tương lai tốt đẹp
Hàn Mặc Tử coi đạo như một lẽ sống, tìm đến tôn giáo như một chỗ dựa tinh
thần giữa chốn trần gian đầy đau khổ, phụ bạc. Tôn giáo là cứu cánh, là con đường dẫn
dắt nhà thơ tìm đến chân lí để giải thoát khỏi những khổ đau ràng buộc đó.
61
Hàn Mặc Tử tưởng tượng về sự phân li giữa hồn và xác: (27) Hồn là ai? Là ai!
tôi chẳng biết/ Dẫn hồn đi ròng rã một đêm nay/ Hồn mệt lả còn tôi thì chết giấc (Hồn
là ai) [I, tr. 175]; (28) Ôi ngông cuồng! Ôi rồ dại, rồ dại/ Ta cắm thuyền chính giữa
vũng hồn ta (Biển hồn ta) [I, tr. 177]; (29) Hồn anh theo dõi bóng em đi/ Hồn anh sẽ
nhập trong luồng gió/ Lưu luyến bên em chẳng nói gì (Lưu luyến II) [I, tr. 164]; (30)
Anh đã thoát hồn anh ngoài xác thịt/ Để chập chờn trong ánh sáng mông lung/ Để tìm
em đưa hai tay ràng rịt (Sáng láng) [I. tr. 177]; (31) Tôi nhập hồn tôi trong khúc hát/ Để
nhờ không khí đẩy trăng lên/…/ Và để thoát li ngoài thế giới/ Để cười, để trửng, để yêu
nhau (Chơi trên trăng) [I, tr. 181]; (32) Chúng tôi lại là người của ước mơ/ Không xác
thịt chỉ có linh hồn đang mộng (Rượt trăng) [I, tr. 180];… Nhờ thoát khỏi thể xác đau
đớn, hồn bay ra, nhập vào khúc hát, vào luồng gió, đi muôn nơi, theo dõi và vấn vít bên
người thương, thực hiện mộng ước mà cuộc sống hiện tại không thể mang lại.
Vì phải sống trong trạng thái đớn đau, rên xiết, buồn tủi, đơn độc, hoảng sợ, và
nỗi ám ảnh ghê gớm nên Hàn Mặc Tử gần như rơi vào trạng thái bế tắc cùng cực. Ông
chỉ có thể sống trong mộng ảo và tìm đến tôn giáo. Nhà thơ tin rằng có Đấng toàn
năng đang lắng nghe lời thỉnh cầu của mình và sẽ giúp hóa giải những bế tắc trong
cuộc sống. Ông chỉ biết gửi gắm niềm tin, niềm hi vọng mong manh vào Chúa, vào thế
giới tâm linh ảo huyền, nơi mà hình ảnh ma quái, chết chóc buông tha anh, nơi có ánh
sáng của Chúa chiếu soi, xoa dịu, khiến tâm hồn anh được an vui, thanh thản, chấp
nhận nỗi đau và đón nhận cái chết một cách nhẹ nhàng hơn: (33) Ôi phép lạ, ôi nhiệm
màu/ Vườn tiên sáng láng như lòng người thương/…/ Ta gặp nàng Trăng ở suối
Trăng/ Nỗi lòng ta mở lẹ như phăng/ Sáng trưng sáng cả vùng tiên động/ Ta ngắm hồn
ta dáng trẻ măng (Chơi trên trăng) [IV, tr. 246]; (34) Trời hôm nay bình an như nguyệt
bạch,/ Đường trăng xa, ánh sáng tuyệt vời bay/ Đây là hương quý trọng thấm trong
mây/ Ngời phép lạ của đức tin kiều diễm (Đêm xuân cầu nguyện) [I, tr. 192]; (35) Hồn
ta đây bất diệt với Hà Sa/ Trí ta sẽ cuồng lên trong khoái/ Cho đớp mắt, cho mê tình
bản ngã/ Hoan hô cao trường thọ đến vô biên/ Hoan hô cao vàng ngọc sẽ đoàn viên
(Trường thọ) [I, tr. 204];…
Thứ tư, hướng con người tới chân - thiện - mĩ
Theo tôn giáo, mọi chuyện xảy ra đều có lí do, từ việc hình thành vũ trụ, việc
chúng ta sinh ra và chết đi,… Mỗi tôn giáo có cách lí giải riêng về mọi sự vật, hiện
tượng. Thiên Chúa giáo cho rằng Chúa tạo ra vũ trụ và vạn vật, còn Phật giáo tin rằng
62
vũ trụ không có điểm khởi đầu và kết thúc, con người trải qua nhiều kiếp, sống mãi
trong thời gian muôn thuở và không gian muôn phương. Sau khi chết, theo Thiên Chúa
giáo, chúng ta sẽ lên Thiên đường hoặc xuống Địa ngục; còn Phật giáo thì có sáu cõi
luân hồi,... Đạo Thiên Chúa quan niệm con người có hai phần là phần xác và phần
hồn. Khi chết chỉ mất đi phần xác còn phần hồn là mãi mãi. Con người nếu ăn ở hiền
lành có đức thì sẽ được lên thiên đàng và thiên đàng mới là cuộc sống vĩnh viễn. Theo
quan niệm của Phật giáo, con người luôn phải sống hướng thiện phải tu theo bát chánh
đạo, cuộc đời này là kiếp sống có nhân quả. Con người phải có trách nhiệm về những
hành động của mình, chết đi không phải là chấm dứt mà đó chỉ là một sự luân chuyển
sang một hình thái khác tương ứng với nghiệp nhân mình đã làm trong quá khứ. Đạo
đức tôn giáo hướng con người đến những giá trị nhân bản, góp phần tích cực vào việc
hoàn thiện đạo đức cá nhân.
Chỉ con đường tự hoàn thiện bản thân để trở nên sáng suốt, hướng tâm linh đến
chỗ cao thượng với công bình, bác ái, từ bi; sống phù hợp với lẽ trời thì mới có thể có
được cuộc sống an lạc, đầy yêu thương. Nhận thức được điều ấy, con chim Phượng
Hoàng Hàn Mặc Tử đã tìm đến cõi tu, tu tại tâm: (36) Mỉa mai thay cho phượng hoàng
si dại/ Là ta đây đương ở kiếp muôn chim/ Trở lại trời tu luyện với muôn đêm/ Hớp
tinh khí lâu năm thành chánh quả (Phan Thiết! Phan Thiết!) [I, tr. 198]; (37) Nhạt mùi
son phấn say mùi đạo/ Chán cảnh phiền ba (phồn hoa) mến cảnh chùa (Gái ở chùa)
[II, tr. 51];... Khi phải đấu tranh giữa hai dòng thơ dâm loạn và trinh trắng, Hàn Mặc
chói lọi thì tình yêu phải ngợp/ Tiết trinh còn em phúc hậu hơn thơ/ Hoa nín lặng là
hoa giả đò mơ/ Tôi nín lặng là âu tôi mắc cỡ (Dấu tích) [I, tr. 172]; (39) Hồn tôi
mắc cỡ là vì/ Không quen thưởng thức cái gì ngất ngây/ Như là ánh sáng vàng lay/
Như thơ sắp sửa phô bày yêu đương (Say nắng) [I, tr. 160];…
Tử đã giữ được khoảng cách với thơ cuồng loạn, nhiều yếu tố tình dục: (38) Vườn
Như vậy, chính cảm hứng từ đạo, Kinh thánh, chuỗi tràng hạt, phút nguyện
cầu,… đã tạo cho thơ Hàn Mặc Tử một phong cách riêng, không trộn lẫn với bất cứ
nhà thơ nào cùng thời. Đọc những bài thơ sử dụng trường từ vựng tôn giáo, ta như cảm
nhận rõ hơn vũ trụ tâm linh đơn độc, thăm thẳm, ớn lạnh đến rợn người của Hàn Mặc
Tử; những cảm xúc thanh cao, trinh trắng cùng những nỗi đau, niềm khát khao hạnh
phúc của nhà thơ. Đạo, đời và thơ, ở Hàn Mặc Tử như hoà làm một, thành máu/ huyết,
thành hơi thở. Và rồi, con chim Phượng Hoàng Hàn Mặc Tử đã mãi bay vào Mùa
Xuân bất tận trong tiếng chuông nguyện thánh đường.
63
2.2.2.2. Trường tình yêu
a. Dẫn nhập
Tình yêu là chủ đề muôn thuở trong thơ ca. Tất cả các cung bậc ái, ố, hỉ, nộ với
những trạng thái, cấp độ khác nhau đều là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ xưa
nay. Với một con người có cảnh ngộ và trạng thái tâm lí đặc biệt như Hàn Mặc Tử thì
không có gì khó hiểu khi ta thấy ngay trong thơ ông, không có tình yêu êm đềm, bình
lặng, hạnh phúc mà nó luôn ở trạng thái cực cấp của khát khao, đau thương, giằng xé,
quằn quại, tuyệt vọng… Chu Văn Sơn nhận xét: “Sang Gái quê thì cái tôi Cổ điển đã
nhường chỗ cho cái tôi Lãng mạn. Nó hiện ra trong hình ảnh một chàng trai khí huyết
mà khao khát yêu đương thường cháy bỏng, thậm chí luôn rạo rực dục tình. Thiên nhiên
- giang sơn, cũng nhường chỗ cho thiên nhiên - vườn tình, mỗi một lùm cây, bãi cỏ,
dòng nước, triền đồi, khóm nhà... đều hiện ra như những tiểu cảnh Đào nguyên, nơi nảy
nở duyên tình và hẹn hò tình tự” [175, tr. 119].
Biết bao hình bóng giai nhân, như Mộng Cầm, Hoàng Cúc, Mai Đình, Thương
Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy, Mĩ Thiên,… đã đi vào thơ Hàn Mặc Tử. “Mỗi cái
tên ấy là một nguồn tình, một nguồn thơ nhưng cũng là một nguồn đau” [175, tr. 120].
Có những người chưa từng gặp mặt cũng khiến nhà thơ đem lòng thương nhớ và để lại
dấu ấn sâu sắc, xuất hiện trở đi trở lại trong thơ, chẳng hạn như nàng Thương Thương:
(40) Tôi lại gần bên, ồ! Lạ Thường!/ Nường trăng, ô! Chính là Thương Thương (Tiêu
sầu) [III, tr. 119], (41) Chiều nay tàn tạ hồn hoa/ Nhớ Thương Thương quá xót xa tâm
bào (Nỗi buồn vô duyên) [II, tr. 106], (42) Em là Trần Thương Thương/ Ngụ ở bến
Tầm Dương/…/ Thương Thương em trời cho ta kì ngộ/…/ Hỡi Thương Thương người
ngọc của lòng anh (Duyên kì ngộ) [II, tr. 111 - 113]; hay cô gái đồng trinh Mĩ Thiện:
(43) Đêm qua trăng vướng trên cành trúc/ Cô láng giềng bên chết thiệt rồi/ Trinh tiết
vẫn còn nguyên vẹn mới/ Chưa hề âu yếm ở đầu môi/ Xác cô thơm quá thơm hơn ngọc/
Cả một mùa xuân đã hiện hình (Cô gái đồng trinh) [I, tr. 188]; hay người bạn văn
chương Mai Đình: (44) Chửa gặp nhau mà đã biệt li/ Hồn anh theo dõi bóng em đi/
Hồn anh sẽ nhập trong luồng gió/ Lưu luyến bên em chẳng nói gì (Lưu luyến) [I, tr.
164], (45) Lạnh quá ánh trăng không sáng mấy/ Cho nên muôn dặm ở ngoài kia/ Em
đang mong mỏi, em đang nhớ/ Bứt rứt lòng em muốn trở về (Thao thức) [I, tr. 167];…
“Hình ảnh các Giai nhân ngự trị trong cõi thơ Tử từ Gái quê cho đến Đau
Thương, Thượng Thanh Khí, Cẩm châu duyên, Duyên kì ngộ, Quần tiên hội... dù đó là
64
những cô gái quê trong đời hay những người trong mộng, dù là những người ngọc
trong sách hay tiên nữ, thánh nữ ở cõi tiên cõi trời... ai cũng phải mang chung một vẻ
đẹp: Trinh khiết Xuân tình” [175, tr. 123]. Chính họ đã đem đến nguồn cảm hứng lãng
mạn bất tận cho thơ Hàn Mặc Tử. Trường từ vựng tình yêu ở Hàn Mặc Tử có nét đặc
sắc riêng, trở thành một yếu tố cấu thành phong cách ngôn ngữ của thơ ông là vì
những lẽ trên đây.
b. Đặc điểm trường từ vựng chỉ tình yêu đôi lứa trong thơ Hàn Mặc Tử
b1. Khảo sát định lượng
Trong 119 bài thơ của Hàn Mặc Tử được chúng tôi khảo sát, đến 98 bài thơ có
sử dụng từ thuộc trường từ vựng tình yêu (chiếm trên 82%), với 587 lượt sử dụng
(trung bình sử dụng gần 5 lượt/ bài).
Trong thơ thời ấy, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Bích Khê đều là những nhà thơ
viết nhiều và để lại dấu ấn riêng ở mảng thơ tình yêu. Vậy, trường từ vựng chỉ tình yêu
đôi lứa trong thơ Hàn Mặc Tử có nét gì khác biệt so với các nhà thơ trên? Để trả lời
cho câu hỏi này, trước hết, luận án tiến hành khảo sát về mặt định lượng:
Bảng 2.6: Trường từ vựng tình yêu đôi lứa trong thơ Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính
Tổng số Tổng số Tỉ lệ bài Tần suất Tổng số bài Nhà thơ lần sử sử dụng xuất hiện bài sử khảo sát dụng dụng (%) trong bài
Hàn Mặc Tử 119 98 587 82.4 4.9
Bích Khê 82 59 268 72.0 3.3
Xuân Diệu 90 82 630 91.1 7.0
Nguyễn Bính 88 64 543 72.7 6.2
Ở bảng 2.6, chúng tôi nhận thấy, tỉ lệ bài sử dụng trong thơ Hàn Mặc Tử cao
hơn thơ Nguyễn Bính và thơ Bích Khê, chỉ thấp hơn thơ của “ông hoàng thơ tình”
Xuân Diệu mà thôi. Nếu xét bình quân số lần xuất hiện ở mỗi bài thì con số này ở thơ
Hàn Mặc Tử chỉ cao hơn Bích Khê. Mặc dù vậy, trung bình xuất hiện 5 lượt từ vựng
tình yêu trên một bài thơ cũng phản ánh mức độ sử dụng khá cao trường này trong thơ
Hàn Mặc Tử.
65
Biểu đồ 2.3: Tỉ lệ bài thơ sử dụng trường từ vựng tình yêu đôi lứa
trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính
Căn cứ vào nghĩa, có thể phân loại trường từ vựng chỉ tình yêu trong thơ thành
3 tiểu trường nhỏ hơn: tiểu trường chỉ tâm trạng, hành động; tiểu trường chỉ tính chất,
trạng thái; tiểu trường chỉ tình cảm; người, sự vật. Tỉ lệ sử dụng các tiểu trường này ở
mỗi nhà thơ mỗi khác:
Bảng 2.7: Tiểu trường từ vựng tình yêu đôi lứa trong thơ Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính
HMT BK XD NB
SL
SL
SL
SL
TL (%)
TL (%)
TL (%)
TL (%)
Tiểu trường
295 50.3 136 50.7 349 55.4 317 58.4 Tiểu trường chỉ tâm trạng, hành động
161 27.4 92 34.3 169 26.8 117 21.5 Tiểu trường chỉ tính chất, trạng thái
131 22.3 40 14.9 112 17.8 109 20.1 Tiểu trường chỉ tình cảm; người, sự vật
Tổng 587 100 268 100 630 100 543 100
Bảng 2.7 cho thấy, trong các tiểu trường tình yêu, tiểu trường chỉ tâm trạng,
hành động liên quan đến tình yêu trong thơ Hàn Mặc Tử có số lượng lớn nhất (295/
66
587 từ, chiếm 50.3%). Tiểu trường này ở các nhà thơ Bích Khê, Xuân Diệu, Nguyễn
Bính có tỉ lệ cao tương tự. So sánh bốn nhà thơ với nhau, Bích Khê, Xuân Diệu,
Nguyễn Bính có tỉ lệ cao hơn nhưng không đáng kể so với Hàn Mặc Tử (lần lượt là
50.7%, 55.4%, 58.4%). Tiểu trường chỉ tính chất, trạng thái trong tình yêu có tỉ lệ cao
thứ hai, chiếm 27.4%; các nhà thơ khác trong bảng so sánh cũng có tỉ lệ tương tự (cao
thứ hai trong tổng số trường từ chỉ tình yêu của mỗi tác giả). Tiểu trường chỉ tình cảm,
con người, sự vật trong thơ Hàn Mặc Tử chiếm số lượng ít nhất trong thơ ông (22.3%),
song, lại chiếm số lượng cao nhất so với ba nhà thơ còn lại trong bảng so sánh: Bích
Khê 14.9%, Xuân Diệu 17.8% và Nguyễn Bính 20.1%.
Biểu đồ 2.4: Tiểu trường từ vựng chỉ tình yêu đôi lứa trong thơ Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính
(1) Tiểu trường chỉ tâm trạng, hành động trong tình yêu
Tiểu trường chỉ tâm trạng, hành động ở cả bốn nhà thơ đều chiếm tỉ lệ cao nhất,
đều trên 50%. Khảo sát thơ Hàn Mặc Tử, chúng tôi nhận thấy có 295 lượt từ thể hiện
các hành động và tâm trạng trong tình yêu, chiếm 50.3% - thấp nhất so với các nhà thơ
còn lại. Các từ thuộc nhóm này có thể chia làm hai nhóm nhỏ hơn: a/ Nhóm từ thể hiện
tâm trạng: nhớ, nhớ mong, chờ mong, mong mỏi, buồn lo, giận, hờn, tương tư, tơ
tưởng, yêu, yêu thương, khát khao, băn khoăn, xao xuyến, hồ nghi, nao nức, quyến
luyến, rung động, làm thinh, quên, hận, oán hận, hối hận, mắc cỡ, say, say mê, si, mơ
ước, ước ao,… b/ Nhóm từ thể hiện hành động: ôm, hôn, ghen, tìm, níu, van lạy, đợi,
đón, gặp, làm quen, gặp gỡ, hẹn hò, rủ rê, theo dõi, trông thấy, giả vờ, kiêu, thổ lộ,
67
giãi bày, mường tượng, năn nỉ, nũng nịu, làm duyên, quấn quýt, khóc, trách, âu yếm,
hẹn, thề, kết duyên, lấy (chồng), hứa, hiểu, cầm (tay), trêu, phụ rẫy,… Có thể thấy,
thông qua tiểu trường (1), nhà thơ đã thể hiện toàn bộ cung bậc của tâm trạng, hành
động của người đang yêu, bộc lộ sự khát khao một cách đầy đủ nhất trong tình yêu.
(2) Tiểu trường chỉ tính chất, trạng thái trong tình yêu
Trong 587 lượt từ vựng chỉ tình yêu đôi lứa, Hàn Mặc Tử sử dụng 161 lượt tính
từ chỉ tính chất, trạng thái, chiếm 27.4%. Tỉ lệ này thấp hơn Bích Khê nhưng cao hơn
Xuân Diệu và Nguyễn Bính. Lớp từ thuộc tiểu trường trên thể hiện rõ các cung bậc
cảm xúc khác nhau trong tình yêu: có tích cực, có tiêu cực và có cả trạng thái bâng
khuâng, mơ hồ. Khi vui, nhà thơ sử dụng các từ ngữ: hạnh phúc, sướng, vui, mừng, đê
mê, tê mê, say mê, mê sướng, rào rạt, rộn rã, đắm đuối, ngất ngây, tha thiết, đắm say,
mê mẩn, khoan khoái, khoái lạc,… để diễn tả tâm trạng hạnh phúc, ngất ngây khi yêu
và được yêu. Ngược lại, nhà thơ dùng những từ mang ý nghĩa tiêu cực hoặc lớp từ cực
tả để giãi bày nỗi buồn bã, thất vọng tột độ khi bị người yêu phụ bạc, khi tấm chân tình
trao đi mà không được nhận lại: hờ hững, hững hờ, lạnh lùng, lạnh nhạt, vô tâm, buồn,
buồn buồn, buồn bã, buồn thiu, đau khổ, não nề, sầu, sầu thảm, sầu bi, sầu u, sầu
muộn, bi thiết, rầu rầu, bời bời, cô đơn, bơ vơ, u uất, tức tối, chán chường, chê chán,
héo hon, tê tái,… Ngoài ra, còn có các từ chỉ những trạng thái khác nhau của người
đang yêu buổi ban đầu hay đang đắm say, mê mải trong tình yêu: hồi hộp, ngẩn ngơ,
ngây tình, bẽn lẽn, thẹn, thẹn thò, ngượng nghịu, thơ thẩn, ngây dại, dại khờ, khờ dại,
bối rối, thấp thỏm, cuồng dại, điên cuồng, thổn thức, chơi vơi, nao nao, vấn vương,
sượng sùng, man mác,…
(3) Tiểu trường chỉ tình cảm, con người, sự vật trong tình yêu
So với tiểu trường chỉ hoạt động và tiểu trường chỉ tính chất, trạng thái trong tình
yêu thì tiểu trường chỉ tình cảm, cảm xúc, con người, sự vật trong tình yêu ở thơ của bốn
tác giả mà chúng tôi khảo sát đều chiếm tỉ lệ thấp nhất. Tiểu trường này bao gồm những
từ chỉ tình cảm, cảm xúc; chỉ người, sự vật mang tính biểu trưng hướng đến tính yêu.
Trong thơ Hàn Mặc Tử, tiểu trường này chiếm 22.3% trên tổng số từ thuộc trường tình
yêu. So với ba nhà thơ khác mà chúng tôi đối sánh, tỉ lệ này cao hơn hẳn.
Các từ thuộc tiểu trường ở mục (3) trên có thể kể đến: a. Nhóm từ chỉ tình cảm
con người: tình, tình yêu, tình duyên, tình thương, tình si, tình ái, ái tình, mối tình,
mộng tình, mộng tân hôn, mộng biệt li, duyên, duyên nợ, duyên tơ, tơ duyên, mối lương
duyên, trần duyên, đường duyên, mối sầu, niềm thương, niềm hận, niềm li hận, niềm
68
mong, nỗi bẽ bàng, nỗi yêu thương, nỗi thầm thương, nỗi ai bi,… Trong số đó, tình,
tình ái/ ái tình, duyên được lặp lại nhiều lần nhất.
Tiểu trường (3) còn bao gồm các từ chỉ người - nhân vật trữ tình: người thương,
người yêu, uyên ương, tình nương,… Ngoài ra, tiểu trường (3) này cũng bao gồm các
sự vật hiện thực, mang tính biểu trưng cho tình yêu như: cau, trầu, cau trầu, pháo đỏ,
rượu hồng,… Các sự vật này ít khi thể hiện cái kết có hậu của một mối tình đẹp, mà
thường khép lại một cuộc tình, khơi dậy nỗi đau, sự thất vọng trong tâm hồn thi sĩ.
Qua khảo sát thơ của bốn tác giả: Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu và
Nguyễn Bính, có thể cảm nhận được rất rõ sự khác biệt về quan điểm trong tình yêu
của mỗi nhà thơ. Chính sự khác biệt này đã làm nên những phong cách thể hiện, lối
diễn đạt, miêu tả về tình yêu không giống nhau giữa các nhà thơ. Tình yêu trong thơ
Nguyễn Bính chân chất, mộc mạc, e ấp, với nhiều tương tư, chờ đợi, buồn phân li vì
người yêu đi lấy chồng: nhớ, thương, sầu, cô đơn, đợi, lỡ,... Khác với Nguyễn Bính,
tình yêu trong thơ Xuân Diệu đắm say, tha thiết, cuống quýt với một nguồn sống dạt
dào, khát khao tận hưởng cuộc đời đầy thanh sắc nhưng ngắn ngủi; cho nên, thơ Xuân
Diệu xuất hiện nhiều các từ: yêu, nhớ, thương, hôn, vui, hạnh phúc,… Đôi khi, vì quá
nồng nhiệt, quá vội vàng trong tình yêu mà thơ Xuân Diệu đi vào chỗ “quá đà”, không
dừng ở những vần thơ trong sáng, hiền lành mà đã ngả sang nhục cảm. Riêng về việc
thể hiện tình yêu gắn với sự gần gũi về thể xác thì không ai có thể bằng Bích Khê. Thơ
Bích Khê ngập tràn những “cảnh nóng”, phô bày “da thịt”… Những từ từ như: khoái
lạc, ôm, buồn, sầu, khóc, lệ,… xuất hiện với tần số cao. Trong khi đó, thơ Hàn Mặc Tử
là sự dung hoà nhiều màu sắc: có những dòng thơ nhẹ nhàng, mộc mạc kiểu Nguyễn
Bính; có những câu nồng nàn, cuống quýt kiểu Xuân Diệu, có kiểu khát khao yêu của
Bích Khê. Mặc dù cùng thuộc trường phái thơ loạn, thơ điên với Bích Khê nhưng Hàn
Mặc Tử có sự đấu tranh giữa thơ “trinh bạch” và thơ nhuốm mùi nhục dục. Rốt cuộc,
ông không sa đà vào nhu cầu thể hiện xác thịt kiểu Bích Khê. Như chúng tôi đã lí giải
ở trường tôn giáo, có lẽ, trong tư cách một tín đồ sốt sắng, những ràng buộc của giáo lí
về đạo đức đã khiến ông phải tiết chế bản thân và dĩ nhiên tiết chế cả việc thể hiện
trong thơ.
b2. Những giá trị biểu hiện
Thứ nhất, từ khao khát yêu và được yêu đến yêu say đắm
Khi phải đối mặt với ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết, Hàn Mặc
Tử càng khao khát sống, khao khát được yêu hơn bao giờ hết. Bởi thế, trong trái tim
69
nhà thơ, lúc nào cũng rào rạt và đầy ắp những ước mơ: (46) Lòng ta rào rạt như làn
sóng/…/ Ta đang khao khát tình yêu thương (Tiếng vang) [I, tr. 135], (47) Mộng
uyên ương đang khi tim rào rạt (Khói hương tan) [I, tr. 170],…
Hàn Mặc Tử yêu trong thầm kín, khao khát yêu nhưng nhiều khi lại không dám
tỏ bày, vì mắc cỡ, sợ thời gian, sợ hi vọng lắm rồi lại thất vọng nhiều: (48) Say mơ
vướng phải mùi hương ướp/ Yêu cái môi hường chẳng nói ra (Âm thầm) [I, tr. 143],
(49) Tôi không muốn gặp người tôi yêu/ Có lẽ vì tôi mắc cỡ nhiều/ Sắc đẹp nõn nà hay
quyến luyến/ Làm tôi hoa mắt nói không đều (Tôi không muốn gặp) [I, tr. 137], (50)
Hoa nín lặng là hoa giả đò mơ/ Tôi nín lặng là âu tôi mắc cỡ (Dấu tích) [I, tr. 172],…
Và rồi, ông chỉ dám trộm nhìn: (51) Hé nhìn dáng điệu của người yêu (Tôi không
muốn gặp) [I, tr. 137] và yêu một cách âm thầm, lặng lẽ,…
Ở một đối cực khác, thơ Hàn Mặc Tử thể hiện rõ sự mãnh liệt, tha thiết của nhà
thơ trong tình yêu. Những câu thơ thể hiện nội dung này rất gần với những câu thơ thể
hiện sự vội vàng, cuống quýt trong tình yêu của Xuân Diệu. Hàn Mặc Tử yêu nhiều,
yêu đến si dại, đê mê: (52) Nhớ lắm lúc như si như dại/ Nhớ làm sao bải hoải tay
chân/ Nhớ hàm răng, nhớ hàm răng/Mà ngày nào đó vẫn khăng khít nhiều/ Dẫu đau
đớn vì lời phụ rẫy/ Nhưng mà ta không lấy làm điều/ Trăm năm vẫn một lòng yêu/ Và
còn yêu nữa rất nhiều em ơi… (Muôn năm sầu thảm) [I, tr. 172], (53) Cứ nhắm mắt và
yêu nhau như chết/ Cứ sảng sốt, tê mê và rũ liệt (Đôi ta) [I, tr. 170], (54) Với đôi tay
này trút hết đê mê (Đàn ngọc) [I, tr. 162], (55) Tình tôi ghen hết thú vô biên (Ghen) [I, tr.
164], (56) Chỉ có em, lòng anh yêu tha thiết/ Yêu điên cuồng không một phút nào hơn
(Duyên kì ngộ) [II, tr. 113],…
Hàn Mặc Tử chủ yếu chỉ nói đến niềm hạnh phúc, đắm say ở thời điểm hiện tại:
(57) Bây giờ đây quấn quít, hiện bây giờ/ Chỉ biết có đôi ta là đang sống/ Đang cho
nhau ngọt ngào và đang mộng/ Cố làm lơ không biết đến thời gian (Đôi ta) [I, tr. 170].
Quá khứ thì đau buồn, tương lai thì vô định, mờ mịt, vì thế, nhà thơ chỉ biết sống hết
mình với hiện tại bây giờ.
Thứ hai, tình yêu với nhiều buồn đau và chia li
Trong các bài thơ của Hàn Mặc Tử, có rất ít bài viết về tình yêu mà vui tươi,
rộn rã. Qua khảo sát, chúng tôi chỉ thống kê được 12 câu viết về tình yêu trong trạng
thái vui tươi: (58) Hơi nắng dịu dàng đầy nũng nịu/…/ Tình thay! Một vẻ ngọt và
ngon/…/ Lòng ta rộn rã nỗi yêu thương (Nắng tươi) [III, tr. 21], (59) Sột soạt gió trêu
tà áo biếc (Mùa xuân chín) [I, tr. 156],… Đôi khi, chỉ trong mộng ảo, nhà thơ mới tìm
70
được tình yêu đằm thắm, sáng láng tựa ánh trăng: (60) Anh đã đón tình em bay phất
phới/ Như hương trăng đằm thắm cõi không gian/…/ Và tình ta sáng láng như trăng
thanh (Sáng láng) [I, tr. 177]. Nhà thơ đắm mình trong không gian mơ hồ, bay bổng,
đầy ánh sáng đó.
Đọc thơ Hàn Mặc Tử, ta cảm nhận được rõ nỗi buồn hơn niềm vui. Tình yêu đem
đến cho ông niềm vui sống, nhưng tình yêu cũng đem lại nhiều khổ đau. Chính vì yêu say
đắm, nồng nàn, mãnh liệt, nên khi không được đáp lại, nhà thơ không khỏi rơi vào trạng
thái buồn bã, đau đớn và tuyệt vọng. Trước tình đời nhạt nhẽo, lòng người phụ rẫy, người
yêu đi lấy chồng, Hàn Mặc Tử chỉ biết buông lời than thở: (61) Mình ơi, ta vốn khách đa
tình/ Nhưng mối tình ta toàn nhạt cả (Một đêm nói chuyện với gái quê) [I, tr. 142], (62)
Em lấy chồng rồi hết ước mơ (Em lấy chồng) [I, tr. 141];… Mộng vỡ, tình tan, Hàn Mặc
Tử không chỉ xót xa về thể xác mà còn đau đớn về tinh thần: (63) Dẫu đau đớn vì lời phụ
rẫy (Muôn năm sầu thảm) [I, tr. 172], (64) Một hồn đau rã lần theo hương khói (Trường
tương tư) [I, tr. 175], (65) Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh (Rướm máu) [I, tr.
182], (66) Ta ngất đi trong khoái lạc của hồn đau (Đêm xuân cầu nguyện) [I, tr. 193],
(67) Cả đau thương dồn dập xót tâm bào (Duyên kì ngộ) [II, tr. 114], (68) Lòng ta sầu
thảm hơn mùa lạnh/ Hơn hết u buồn của nước mây (Sầu vạn cổ) [I, tr. 171], (69) Rầu rầu
nước mắt bời bời ruột gan (Muôn năm sầu thảm) [I, tr. 171], (70) Bao giọng buồn
thương gió đã thề/ Bao lời oán hận của si mê (Trăng tự tử) [I, tr. 180],…
Ngay cả khi chưa gặp người yêu, nhà thơ đã nghĩ đến li biệt: (71) Chửa gặp nhau
mà đã biệt li (Lưu luyến II) [I, tr. 164], (72) Anh biết trước: sẽ có ngày cách biệt (Trường
tương tư) [I, tr. 174]. Ý này cũng từng xuất hiện trong thơ Xuân Diệu: Trong gặp gỡ đã có
mầm li biệt (Giục giã). Cảm thấy chia li xảy ra ngay giữa phút giây hội ngộ là nét đồng
điệu trong tâm hồn của các thi sĩ lãng mạn thời đó. Ở trường hợp Hàn Mặc Tử, do có quá
nhiều bóng hồng đến rồi lại đi, để lại những dư ảnh trong tâm hồn ông, nên biệt li đã trở
thành một điệp khúc buồn: (73) Cứ biệt li rồi lại biệt li thôi (Tình hoa) [III, tr. 105], (74)
Sao thơ anh nhuộm toàn màu li biệt/ Rên không thôi và nức nở cả ban đêm/…/ Than ơi
đời biệt li chan chứa (Duyên kì ngộ) [II, tr. 112-114], (75) Cứ khóc đi cho hoàn mộng biệt
li (Nói tiên tri) [III, tr. 112],…
Thứ ba, tình yêu thường được đề cập song hành với cái chết
Vì mắc căn bệnh quái ác nên Hàn Mặc Tử luôn linh cảm và đoán định trước một ngày mình ra đi: (76) Ta trút linh hồn giữa lúc đây/ Gió sầu vô hạn nuối trong cây/ Còn em
sao chẳng hay gì cả/ Xin để tang anh đến vạn ngày (Trút linh hồn) [I, tr. 183], (77) Thưa tôi
71
không dám say mê/ Một mai tôi chết bên khe ngọc tuyền (Một miệng trăng) [I, tr. 182],…
Trong tình yêu, ông cũng không nguôi quên đi cái chết đang rình rập để cướp đi sinh mệnh,
cướp đi hạnh phúc đương thì của mình: (78) Tình ta chết yểu tự bao giờ (Trút linh hồn) [I,
tr. 183], (79) Một mai kia ở bên khe nước ngọc/ Với sao sương anh nằm chết như trăng/
Không tìm thấy Nàng Tiên mô đến khóc/ Đến hôn anh và rửa vết thương tâm (Duyên kì ngộ) [II, tr. 114 - 115], (80) Ta đến nơi Nường ấy vắng lâu rồi/ Nghĩa là chết từ muôn trăng
thế kỷ (Phan Thiết! Phan Thiết) [I, tr. 198], (81) Cô láng giềng bên chết thiệt rồi (Cô gái
đồng trinh) [I, tr. 188], (82) E chết khôi nguyên ở Phượng Trì (Nói tiên tri) [III, tr. 111], (83)
Cô nường gái đẹp đương nằm chết (Người ngọc) [I, tr. 188], (84) Không ai trang điểm má đào/ Cho ta say chết đêm nào đêm nay (Say chết đêm nay) [I, tr. 202],…
Vậy nên, với Hàn Mặc Tử, tình yêu chỉ toàn là (85) Những ngày đau khổ
nhuộm buồn thiu (Lưu luyến II) [I, tr. 165]. Buồn đau, chán nản đến mức nhà thơ phải
thốt lên: (86) Thôi em chán quá, em buồn quá (Thao thức) [I, tr. 168]. Đôi khi Hàn
Mặc Tử tự vỗ về bản thân mình rằng, tình yêu chỉ thú vị khi có hương thơm và mật
đắng: (87) Lòng thi sĩ chứa đầy trang vĩnh biệt/ Mộng có thành là mộng ở đầu hôm/
Hương không ngọt, xuân sớm lẽ nào thơm/ Mật không đắng ân tình không thú vị (Dấu
tích) [I, tr. 173], song có lúc nhà thơ chỉ biết gào thét trong đau đớn: (88) Trời hỡi, bao
giờ tôi chết đi?/ Bao giờ tôi hết được yêu vì/ Bao giờ mặt nhật tan thành máu/ Và khối
lòng tôi cứng tợ si? (Những giọt lệ) [I, tr. 166].
Tóm lại, mặc dù tình yêu trong thơ Hàn Mặc Tử thường không đến được bến bờ
hạnh phúc, song cũng đủ cho nhà thơ trải nghiệm những cảm xúc khác nhau mà nó
mang lại: khi thì dịu nhẹ, mơ hồ, bâng khuâng; khi lại nồng nàn, đê mê, cuồng nhiệt;
và có khi lại cay đắng, đớn đau, tuyệt vọng… Bằng việc lựa chọn vốn từ chỉ tình yêu
đôi lứa và cách tổ chức ngôn từ này trong thơ, Hàn Mặc Tử đã tạo ra những vần thơ
xót xa như chảy ra từ tâm can, từ xương tuỷ của một tâm hồn quá ư sầu khổ. Chúng
đầy ma lực và gợi lên sự đối lập giữa thế giới thực tại đau thương và thế giới mộng ảo
mông lung, đầy ánh sáng lạ kì.
2.2.2.3. Trường thân xác con người a. Thân xác con người - một vấn đề chứa đựng những quan niệm triết lí Để hiểu được nét riêng trong cách sử dụng từ ngữ chỉ thân xác con người trong thơ Hàn Mặc Tử, thiết tưởng cũng cần điểm qua những quan niệm khác nhau về vấn đề này.
Jean Chevalier và Alain Gheerbrant - hai tác giả của Từ điển biểu tượng văn
hóa thế giới - đã lí giải sự biến đổi ý nghĩa của từ “xác thịt” qua các thời đại. Theo họ,
xem xác thịt như một phạm trù biểu thị sự cám dỗ là quan niệm tương đối phổ biến.
72
Trong Cựu ước, xác thịt, đối lập với tinh thần, mang tính chất mong manh và tạm thời.
Trong Tân ước, xác thịt là bản tính con người, không những không có ý nghĩa hấp thụ
những giá trị tinh thần, mà còn dễ rơi vào tội lỗi. Thánh Paul quả quyết: xác thịt làm
tôi tớ cho tội lỗi, hiến mình cho xác thịt là đưa vào trong mình mầm mống của sự hủ
bại. Nhiều quan niệm được Jean Chevalier và Alain Gheerbrant dẫn ra đều giống nhau
ở một điểm: xem xác thịt là nguyên cớ “nảy sinh nhiều tội lỗi”, thậm chí, xác thịt được
đồng nhất với quỷ dữ, là “kẻ thù số một của linh hồn”, không thể chế ngự và luôn nổi
loạn, là thứ “khốn khổ, vô cảm, mù quáng, dối trá và điên rồ tuyệt đối”, “là một thứ
bùn nhơ dễ dính”. Do đó, chỉ khi con người đè nén được nó thì họ mới giống các thiên
thần, hoàn toàn thuộc về thế giới thánh thần [96, tr. 1013 - 1014].
Ở phía khác - theo các tác giả Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới - xác thịt có
khả năng hưng thịnh lại, ấy là khi tinh thần cải hóa mình theo hình ảnh Chúa Trời. Và
như vậy, thân xác biểu thị một yếu tố sâu kín nhất của nhân cách con người, nó là nơi
trú ngụ của trái tim (tức là những cảm xúc thiện lương nhất). Kitô giáo mặc dù xem
xác thịt và tinh thần có sự đối nghịch, song vẫn hứa hẹn “một sự phục sinh trong xác
thịt” và con người lại trở về toàn vẹn với sự sống [96, tr. 1014].
Trong cuốn Ca tụng thân xác, sau khi phê phán những quan điểm khắc kỷ, xem
thường, thậm chí miệt thị con người, Nguyễn Văn Trung quả quyết: “Thân xác là
nguồn gốc của mọi khả năng, mọi sáng tạo, kể cả sáng tạo tinh thần. Không có thân
xác, không thể có tinh thần” [223, tr. 26, 27].
Văn chương xưa nay luôn lấy con người làm trung tâm. Dù kín đáo đến đâu, nhà
văn cũng không bao giờ giấu được cái nhìn của mình về con người, mà thân xác là một
vấn đề trong vô số các vấn đề được văn chương đề cập. Tuy vậy, đối với sáng tạo văn học
nghệ thuật, thân xác con người như “con dao hai lưỡi”, đầy thách thức. Nếu khai thác
thành công, tác phẩm sẽ có sức hấp dẫn lớn, ngược lại, sẽ rơi vào hạ cấp, tầm thường.
Trong văn học trung đại Việt Nam, ở những tác giả mà việc lập ngôn nhằm “tỏ
chí”, “tải đạo” thì vấn đề thân xác con người thường bị né tránh. Ngay cả ở những tác
giả được xem là “táo bạo”, có cái nhìn nhân bản sâu sắc, vượt thời đại, vẻ đẹp thân thể
con người (đặc biệt là phụ nữ) vẫn chỉ thấp thoáng đằng sau lớp “voan” ngôn từ ước
lệ: “Rõ ràng trong ngọc trắng ngà/ Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên” (Truyện
Kiều - Nguyễn Du). Nhiều trường hợp được ngụy trang bằng các ẩn dụ kín đáo: “Cửa
son đỏ loét tùm hum nóc/ Hòn đá xanh rì lún phún rêu”; “Đôi gò bồng đảo sương còn
ngậm/ Một lạch đào nguyên suối chửa thông” (Hồ Xuân Hương)...
73
Thơ mới, với việc miêu tả vẻ đẹp thể chất của con người, đã “giải thiêng” cho
những lối nói ước lệ, dè dặt về con người cá nhân cá thể trong văn học, thậm chí là
miệt thị cơ thể trước đó của văn học truyền thống. Bằng cảm quan trẻ trung, mới mẻ,
các nhà thơ đã hồn nhiên xây lại một hệ thống trật tự thế giới mới đầy sức sống, tạo
nên một cuộc “cách mạng” biến đổi từ thế giới của “chúng ta” thành thế giới của “chính tôi”. Họ đòi lại sự công bằng, giá trị tương đương giữa thể xác và tinh thần
trong một chỉnh thể con người.
Với việc mô tả thân xác, Thơ mới đã đánh tan một số mặc cảm của thơ xưa
cùng những thủ pháp miêu tả ước lệ của nó, tạo nên nguồn cảm hứng trữ tình, kích thích gián tiếp sự hình thành những phong cách độc đáo [96, tr. 153, 163, 164]. Thân
xác trở thành không gian biểu đạt, là phương tiện giao tiếp để nhà thơ chiếm lĩnh thế
giới, là điều kiện để hình thành nên thế giới đa sắc diện và vô cùng ý nghĩa của con
người. Với sự xác lập không gian cá nhân, ý thức cá tính cùng với một nhãn quan ngôn
ngữ mới mẻ, thơ lãng mạn 1932 - 1945 đã thể hiện vấn đề thân xác con người một
cách thành thực nhất, kể từ trước cho đến thời điểm đó.
b. Đặc điểm trường từ vựng chỉ thân xác con người trong thơ Hàn Mặc Tử
b1. Khảo sát định lượng
Có thể thấy, trường từ vựng chỉ thân xác trong thơ Hàn Mặc Tử rất phong phú
không thua kém bất kì một nhà thơ nào khác trong phong trào Thơ mới. Dường như tất
cả các từ chỉ các bộ phân thân xác con người đều hiện diện trong tác phẩm của ông với
những cách dùng khác nhau. Để làm rõ điều đó, chúng tôi đã khảo sát từ ngữ chỉ thân
xác con người ở thơ Hàn Mặc Tử trong sự đối sánh với thơ Nguyễn Bính, Xuân Diệu
và Bích Khê. Sở dĩ chúng tôi chọn các tác giả này, vì trong Thơ mới, các nhà thơ ấy
đều là những đỉnh cao. Thơ viết về thân xác của họ đều rất độc đáo, đặc sắc, có phong
cách riêng. Kết quả khảo sát thu được như sau:
Bảng 2.8: Từ chỉ thân xác con người trong thơ Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Xuân Diệu, Nguyễn Bính
Nhà thơ
Tổng số bài khảo sát 119 82 90 88 Tổng số bài sử dụng 87 59 74 53 Tổng số lần sử dụng 307 339 306 248 Tỉ lệ bài sử dụng (%) 73.1 72.0 82.2 60.2 Tần suất xuất hiện trong bài 2.6 4.1 3.4 2.8 Hàn Mặc Tử Bích Khê Xuân Diệu Nguyễn Bính
74
Trong bốn nhà thơ, Xuân Diệu, Bích Khê, Nguyễn Bính đều có tần suất sử dụng
trong bài cao hơn so với Hàn Mặc Tử: Bích Khê cao nhất: 4.1 lần/bài, Xuân Diệu: 3.4
lần, Nguyễn Bính: 2.8 lần, trong khi đó Hàn Mặc Tử là: 2.6 lần. Tuy nhiên, xét về tỉ lệ
bài sử dụng thì Nguyễn Bính là tác giả dùng từ chỉ thân xác với số lượng ít nhất
(60.2%). Hàn Mặc Tử cao thứ hai (73.1%), chỉ ít hơn Xuân Diệu - một nhà thơ nói
nhiều đến khát khao nhục cảm (82.2%). Chưa xét về mặt sử dụng, những con số ở
bảng thông kê trên phần nào hé lộ việc lựa chọn lớp từ ngữ chỉ thân xác con người
trong sáng tác của bốn cây bút tiêu biểu trong Thơ mới.
b2. Những giá trị biểu hiện
Trong trường từ vựng chỉ thân xác con người, có những từ vốn được xếp vào
lớp từ ngữ thi ca, được các nhà thơ xưa sử dụng khá thường xuyên, chẳng hạn: lệ
(Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng - Truyện Kiều - Nguyễn Du; Tuổi già hạt lệ
như sương - Khóc Dương Khuê - Nguyễn Khuyến; Tóc buồn buông xuống, lệ ngàn
hàng - Đây mùa thu tới - Xuân Diệu…), thân (Thân em như hạt mưa sa - Ca dao;
Thân em vừa trắng lại vừa tròn - Bánh trôi nước - Hồ Xuân Hương; Biết thân đến
bước lạc loài - Truyện Kiều - Nguyễn Du)… Bên cạnh đó, có những từ hầu như không
có cơ hội hiện diện trong thơ, bởi chúng thuộc lớp từ thông dụng, dường như chỉ có
chức năng định danh trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày, ví dụ: xương, thịt, ngực, đầu
gối, cánh tay… Đến thơ hiện đại, từ ngữ không còn thứ bậc sang - hèn, thanh - tục,
cao - thấp. Nói như Phan Ngọc, không có từ hay, từ dở, chỉ có từ được dùng đắc địa
hay không mà thôi. Những từ thông dụng chỉ bộ phận cơ thể người, có vẻ rất “thô”
trong thơ Hàn Mặc Tử là một minh chứng rõ rệt: (89) Mây vốn hơi sương mà đọng lại/
Mau bay vào cuống họng của ta đây (Tiếng vang) [I, tr. 135], (90) Anh đã thoát hồn
anh ngoài xác thịt/ Để chập chờn trong ánh sáng mông lung (Sáng láng) [I, tr. 177],
(91) Ống quần vo xắn lên đầu gối,/ Da thịt, trời ơi! Trắng rợn mình! (Nụ cười) [I, tr.
133]… Có hiện tượng này là bởi, trong quan niệm của Hàn Mặc Tử, con người là tạo
vật của Thiên Chúa, không có bộ phận nào là xấu xa, thấp hèn.
Khảo sát và phân tích trường từ vựng chỉ thân xác con người trong thơ Hàn
Mặc Tử, chúng tôi rút ra những giá trị biểu hiện cơ bản sau đây:
Thứ nhất, thân xác thanh khiết, đẹp đẽ
Niềm xác tín vững vàng đã giúp Hàn Mặc Tử rộng đường trong việc sử dụng
lớp từ ngữ chỉ thân xác để ca ngợi vẻ đẹp thanh khiết của con người. Ở chỗ này, có
một sự khác biệt rất rõ giữa Hàn Mặc Tử và Bích Khê, dù hai người rất gần gũi và mến
75
trọng tài thơ của nhau. Trong Thơ mới, Bích Khê là nhà thơ bộc lộ khát khao nhục
cảm mãnh liệt vào bậc nhất, thể hiện ở việc sử dụng những từ ngữ chỉ thân xác con
người hết sức gợi tình: Ô, cặp mắt đa tình ngời sắc kiếm/ Một bàn chân ve vuốt một
bàn chân/ Mát làm sao! Mát rợi cả châu thân/ Máu ứ lại, máu dồn lên giữa ngực/
Ôi! Thớ thịt có đàn lên cung bực/ Hồn tôi ôm gót ngọc lắng âm thanh (Bàn chân); Ồ
hai tay rơi chén ngọc lưu li/ Ồ hai chân nở màu sen ẻo lả… Mắt ngời châu rung ánh
sóng nghê thường/ Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc/ Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc/
Và chút trăng say đọng ở làn môi/ Hai vú nàng! hai vú nàng/ chao ôi… (Tranh lõa thể).
Một nhà thơ khác cũng bạo liệt không kém khi diễn tả những khát khao gắn bó xác thịt
trong tình yêu, ấy là Xuân Diệu. Ông hoàng thơ tình thời đó đã không ngần ngại bộc lộ
những khát thèm nhục cảm vô cùng táo bạo: Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực/ Hãy trộn
nhau đôi mái tóc ngắn dài/ Những cánh tay! Hãy quất riết đôi vai/ Hãy dâng cả tình yêu
lên sóng mắt/ Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt/ Cho anh nghe đôi hàm ngọc của
răng (Xa cách)…
Nếu sự gợi tình ở Bích Khê được thể hiện bằng những định ngữ nghệ thuật có
giá trị điểm tô cho vẻ quyến rũ của làn da, đôi mắt, đôi môi, tấm thân ngà ngọc của
thiếu nữ, thì niềm khao khát của Xuân Diệu lại được bộc lộ qua những động từ chỉ
hành động ái ân: ôm, riết, quấn, trộn, say sưa, khăng khít…
Về điều này, Hàn Mặc Tử rất khác biệt. Là một tín đồ Thiên Chúa giáo, ông
không thể phóng túng buông thả cảm xúc của mình như một người “ngoại đạo” để
đắm đuối vẻ gợi dục của con người. Ông khá tiết chế, chừng mực trong việc mô tả vẻ
đẹp thân xác phụ nữ. Trong thơ ông, nhục cảm, nếu có, cũng hết sức kín đáo: (92) Vô
tình để gió hôn lên má/ Bẽn lẽn làm sao lúc nửa đêm/ Em sợ lang quân em biết được/
Nghi ngờ đến cái tiết trinh em (Bẽn lẽn) [I, tr. 136].
Trong nhãn quan thơ của Hàn Mặc Tử, vẻ đẹp con người phải gắn với sự thanh
khiết, thánh thiện. Ấy là cái đẹp tự thân, được tạo tác bởi quyền năng của Đấng tối
cao, nó hồn nhiên, trong trẻo và rất đỗi linh thiêng. Trước cái đẹp đó, nhân vật trữ tình
không vồ vập chiếm lĩnh, thụ hưởng mà chỉ nhìn, chiêm ngưỡng, có khoảng cách: (93)
Để ý xem nước da cô thắm dậy/ Và đôi môi biểu lộ hết xuân tình (Quần tiên hội) [II,
tr. 117]; (94) Hai tay chàng thử vốc vào nước nọ/ Mát tê đi như da thịt nàng
dâu (Duyên kì ngộ) [II, tr. 107]; (95) Má ơi, má núng đồng tiền/ Môi sao ướt đỏ ta
thèm biết bao/ Nắng ơi, nắng có lên cao/ Làm sao da thịt hồng hào thế kia? (Duyên kì
ngộ) [II, tr. 112].
76
Dù có nói đến “xuân tình”, “thèm khát” thì những lời thơ ấy vẫn phảng phất âm
điệu của Nhã ca trong Thánh kinh cựu ước. Đức tin trong hồn thơ Hàn Mặc Tử có lẽ
thấm nhiễm ở cả những vần thơ mà thân xác con người là đối tượng trung tâm. Vẻ
thanh khiết ấy không khác gì trạng huống của con người sau khi được thanh tẩy bởi bí
tích rửa tội và giải tội - một trong những tín điều quan trọng nhất của Thiên Chúa
giáo. Do vậy, có những câu thơ có chiều hướng khơi gợi nhục cảm khá táo bạo, nhưng
chưa thể “gây hậu quả” về những “suy nghĩ tội lỗi”: (96) Làn môi mong mỏng tươi
như máu/ Đã khiến môi tôi mấp máy thèm (Gái quê) [I, tr. 134]; (97) Cứ nhắm mắt,
cứ yêu nhau như chết! (Đôi ta) [I, tr. 170].
Nhiều câu thơ dùng từ ngữ chỉ thân xác với cảm xúc trắng trong, trinh khiết và
vô tội như bản thể sinh ra, cần được khơi gợi, đánh thức: (97) Không dám sờ tay sợ
lấm hương (Hồn cúc) [II, tr. 47], (98) Con tim non nớt tặng nàng đây? (Vội vàng chi
lắm) [II, tr. 48], (99) Trong veo làn nước soi đôi mặt (Chuyến đò ngang) [II, tr. 51],
(100) Bao nhiêu mơ ước trong tim ấy/ Chưa hề âu yếm ở đầu môi (Cô gái đồng trinh)
[I, tr. 188], (101) Yêu cái môi hường chẳng nói ra (Âm thầm) [I, tr. 143], (102) Xin
đừng vẩy bàn chân trong suối ngọc (Duyên kì ngộ) [II, tr. 115]…
Vẻ đẹp bao giờ cũng khơi dậy những mê đắm, ước ao. Ở thơ Hàn Mặc Tử, chủ
yếu ta nhìn thấy rõ một thân xác đầy khát khao, dồn nén đến mức tuyệt vọng, đau khổ:
(103) Với đôi tay này trút hết đê mê/.../ Hãy khoan tay cầm lại trí tương tư (Đàn ngọc)
[I, tr. 162 - 163], (104) Đôi tay vốc uống quên lạnh lùng (Ngủ với trăng) [I, tr. 178],
(105) Mà anh hay em trong tim đều rạn (Đôi ta) [I, tr. 170], (106) Uống đi cho đỡ khô
hầu/ Uống đi cho bớt cái sầu miên man (Uống trăng) [II, tr. 57]… Bên cạnh cái ngập
ngừng là ao ước trút xả, nhưng thực chất đó chỉ là một thi cảm, được tạo nên bằng
những tưởng tượng phóng túng hơn là hiện thực. Về điều này, Hàn Mặc Tử khác xa
Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương, Bích Khê - những nhà thơ đã tận hưởng hương
thơm của da thịt của đàn bà, không chỉ trong thơ mà cả trong đời thực.
Vượt qua những cám dỗ của nhục cảm, Hàn Mặc Tử đã “thiêng hóa” xác
thân bằng mối giao cảm thiêng liêng với Thiên Chúa, với Mẹ Maria. Hai tay không
“mơn trớn” xác thịt như Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, mà tạo nên một động thái
hướng thượng rất thành kính: (107) Chấp tay tôi lạy cả miền không gian (Một
miệng trăng) [I, tr. 181], (108) Ta chấp hai tay quỳ hoan hảo/… Của bàn tay thi sĩ
kẻ lên trăng (Đêm xuân cầu nguyện) [I, tr. 192], (109) Tôi cảm động rưng rưng hai
hàng lệ/ Và trong miệng ngậm câu ca huyền bí/ Và trong tay nắm một nạm hoà
77
quang (Ave Maria) [I, tr. 196], (110) Mẹ dấu yêu liền vội đến tay nâng... (Nguồn
thơm) [III, tr. 96]…
Có thể thấy, ở cả ba nhà thơ: Xuân Diệu, Bích Khê, Hàn Mặc Tử, thân thể
người phụ nữ hiện lên với vẻ đẹp nguyên sơ, bản năng nữ tính, có sức hút mạnh mẽ,
đặc biệt là với người khác phái. Với Xuân Diệu và Bích Khê, cái đẹp của thân xác phụ
nữ gắn liền với khao khát tính giao. Nhưng, với Hàn Mặc Tử, đó là sự cảm nhận về vẻ
đẹp vô cùng trinh khiết, dường như không dám chạm tay. Nếu Xuân Diệu “vuốt ve”,
“mơn trớn”, còn Bích Khê đôi khi không kìm nổi cảm giác thác loạn, thì cách thể hiện
của Hàn Mặc Tử hết sức chừng mực, dè dặt. Nhà thơ không dám thể hiện gì nhiều hơn
ngoài việc mô tả vẻ đẹp trong sáng, ngây thơ và thánh thiện của thân thể phụ nữ. Có
lẽ, chính cảm quan tôn giáo, sự thành kính trọn vẹn dành cho Đấng tối cao đã giúp nhà
thơ điều hòa, giữ thăng bằng giữa thần trí và cảm xúc, ngay cả trong trạng thái ngất
ngây, mãnh liệt nhất của sự sáng tạo.
Thứ hai, thân xác đớn đau
Nếu vẻ đẹp thanh khiết của con người (chủ yếu là phái nữ) là đối tượng bên
ngoài, được Hàn Mặc Tử thể hiện bằng sự quan sát và cảm nhận, thì ngược lại, thân
xác đớn đau - khía cạnh đối nghịch - lại hoàn toàn là sự tự nghiệm của chính nhà thơ.
Hẳn nhiều người cho rằng, điều này bắt nguồn từ trọng bệnh (cả thân bệnh và tâm
bệnh) mà ông đã phải chịu đựng trong suốt những năm tháng tuổi trẻ đầy hoài bão,
khát khao. Điều đó không sai, có điều, phải hiểu sâu hơn căn nguyên này để tránh tình
trạng cắt nghĩa hành động sáng tạo thơ của tác giả một cách dễ dãi. Căn bệnh nan y
cùng những thất bại trong trường tình đã trở thành một hợp lực đọa đày thể xác và tinh
thần nhà thơ, khiến ông nhiều lúc cảm thấy bị đẩy đến tận cùng của sự chịu đựng.
Song, là một con chiên ngoan đạo, ông không oán thán, trách móc số phận, ngược lại,
những đớn đau đó đã trở thành một động lực của sự sáng tạo. Không phải ngẫu nhiên,
trong thơ Hàn Mặc Tử, các từ nước mắt (với nhiều cách dùng từ đồng nghĩa khác
nhau, xuất hiện đến 34 lần); máu, huyết (29 lần). Đó là một tần số rất cao so với
những từ ngữ chỉ các bộ phận thân thể khác của con người. Dù được dùng với nghĩa
nào, nước mắt và máu bao giờ cũng là dấu hiệu của những xót xa, đau đớn cùng cực
mà con người phải nếm trải: (111) Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy/ Sáng dậy điên
cuồng mửa máu ra (Say trăng) [I, tr. 179]; (112) Máu tim ta tuôn ra làm bể cả…/ Ôi
ta đã mửa ra từng búng huyết/ Trong lòng và đang tắm máu sông ta… (Biển hồn ta)
[II, tr. 80], (113) Anh cắn lời thơ để máu trào…/ Lời thơ ngậm cứng, không rền rĩ/ Mà
78
máu tim anh vọt láng lai (Lưu luyến) [I, tr. 165]; (114) Máu tim ta tuôn ra làm bể cả/
Mà sóng lòng rần rật như mây trôi (Biển hồn ta) [I, tr. 176]; (115) Đầy lệ, đầy thương,
đầy tuyệt vọng/ Ôi! Giờ hấp hối sắp chia phôi! (Trút linh hồn) [I, tr. 183]; (116) Trời
xanh ôi! Cả người em tê tái/ Anh đâu rồi?/ Nước mắt đã hầu tuôn (Duyên kì ngộ) [III,
tr. 135]… Ngôn ngữ thể hiện thân xác - máu - là một thứ ẩn sâu bên trong, được lộ ra
một cách không bình thường cho chúng ta thấy nỗi đau của Hàn thật dữ dội, buốt nhói
đến tận cùng; đau đớn đến điên dại, ngất ngư cả trong thực tại cũng như trong mộng
ảo. Dưới con mắt của nhà thơ, mọi thứ đều hóa thành máu, vật chất cũng là máu, tinh
thần cũng là máu, người đầy máu và thơ cũng đầy máu: (117) Làn môi mong mỏng
tươi như máu (Gái quê) [I, tr. 134], (118) Sao bông phượng nở trong màu
huyết/…Bao giờ mặt nhật tan thành máu (Những giọt lệ) [I, tr. 166], (119) Giấy trắng
tinh khôi tuôn huyết mạch (Bút thần khai) [II, tr. 99], (120) Và ai gánh máu đi trên
tuyết (Cuối thu) [I, tr. 167]… Làn môi thiếu nữ, bông phượng rực rỡ, mặt trời, giấy
trắng tinh khôi, giọt nước mắt tự đáy lòng, bản thân nhà thơ… cũng là máu. Cả niềm
yêu, ý nhớ… cũng đều là máu. Đi vào giấc ngủ nhà thơ cũng là máu. Không gian, thời
gian xung quanh ông cũng nhuộm máu.
Bên cạnh những từ xuất hiện với tần số cao như thế, trong thơ Hàn Mặc Tử, hầu
như từ chỉ bộ phận nào của thân xác cũng đều góp phần biểu đạt nỗi đau; hơn thế,
chúng cùng hội tụ để diễn tả cảm giác đau đớn đến đến tê dại của chủ thể trữ tình:
(121) Mà đêm nghe tiếng khóc ở đáy lòng/ Ở trong phổi, trong tim, trong hồn nữa
(Trường tương tư) [I, tr. 174]; (122) Bằng tiếng kêu gào say chếnh choáng/ Bằng tim,
bằng phổi nóng như sôi (Sầu vạn cổ) [I, tr. 171]; (123) Nghệ hỡi Nghệ, muôn năm sầu
thảm/ Nhớ thương còn một nắm xương thôi/ Thân tàn ma dại đi rồi/ Rầu rầu nước
mắt bời bời ruột gan (Muôn năm sầu thảm) [I, 171]; (124) Ta muốn hồn trào ra đầu
ngọn bút/ Mỗi lời thơ đều dính não cân ta/ Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt/ Như
mê man chết điếng cả làn da (Rướm máu) [I, tr. 182].
Thậm chí, cả khi nhà thơ reo lên với một niềm vui hiếm hoi nào đó, ta vẫn nghe
trong tiếng hoan hỉ kia âm điệu của một nỗi đau âm thầm tự bên trong: (125) Hôm nay
vui quá, anh Phùng ơi!/ Buồn xa không đến, lệ không rơi/ Buồn không thắt ruột, tình
không lại/ Cười nói làm sao cho hả hơi (Thư gửi Anh) [II, tr. 85].
Trong Thơ mới, thú đau thương cũng là một nguồn cảm hứng sáng tạo. Bên
cạnh cái buồn đẹp, nhiều lúc nỗi đau cũng ánh lên sắc thái thẩm mĩ riêng. Không ai
muốn đau đớn để làm thơ, đã đành, nhưng trong đau đớn, không phải ai cũng có thể
79
bật ra tiếng thơ. Chỉ những nhà thơ nào có trải nghiệm sâu sắc, sống hết mình với con
người cá nhân, mới khiến đau thương trở thành một nội dung trữ tình trong thơ.
Trong tương quan với các thi sĩ cùng thời, Hàn Mặc Tử là một trường hợp đặc
biệt. Từ ngữ chỉ thân xác không chỉ được dùng đắc địa nhằm nói lên thấm thía nhất
những đớn đau nhục thể và tinh thần, nó còn được kết hợp với các động từ mạnh hoặc
các tính từ chỉ trạng thái cực cấp (mửa, vọt, trào, dâng, tuôn, thắt, ứa, hộc, quay cuồng,
mê man, chết điếng, bời bời, rần rật, sượng sần, gào say, chếnh choáng, điên cuồng…).
Những từ ngữ ấy hoàn toàn không xuất hiện ngẫu nhiên, ngược lại, có lí do, có hệ thống.
Chúng tạo nên một trường đặc biệt, biểu hiện kiểu “thi pháp của cái tột cùng”.
Thứ ba, thân xác khát khao sự sống.
Càng bị dồn đẩy vào đau thương tuyệt vọng, con người càng khát khao sự sống.
Hơn ai hết, Hàn Mặc Tử là nhà thơ thấm thía điều này. Mỗi tế bào trong cơ thể bệnh
tật luôn nỗ lực chống chọi với sự chết, từng bộ phân thân xác đối mặt với sự hủy diệt,
hư vô, thi nhân càng thấy trân quý và khát thèm sự sống. Bản năng và khát vọng sống
mãnh liệt của nhà thơ hóa thân thành cảm hứng sáng tạo thi ca, vượt lên cái dục vọng
tham sinh úy tử thường tình.
Trong mắt các nhà thơ, sự sống luôn hiện ra với vẻ thanh tân, trẻ trung, quyến
rũ của thiếu nữ. Khát khao sự sống trước hết là ước ao được thỏa mãn cảm xúc về cái
đẹp do tạo hóa ban tặng, hiện diện trên má, trên môi người con gái đương độ xuân thì:
(126) Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sự/ Tôi đều nhận thấy trên môi em/ Làn môi mong
mỏng tươi như máu/ Đã khiến môi tôi mấp máy thèm (Gái quê) [I, tr. 134]; (127) Môi
tươi thiếu nữ vừa trang điểm/ Nắng mới âm thầm ước kết hôn/ Đưa má hồng đào cho
nắng nhuộm/ Tình thay! Một vẻ ngọt và ngon (Nắng tươi) [III, tr. 21]… Từ ngữ chỉ
thân xác được dùng rất đắc địa, gợi lên trong người đọc sự đồng cảm sâu sắc.
Niềm khát sống trong Hàn Mặc Tử còn thể hiện ở sự tự thức nhận sự tồn tại của
bản thân, cả linh hồn và xác thịt. Với người có đức tin, linh hồn dĩ nhiên là cao quý,
thiêng liêng, nhưng bao giờ cũng ngụ trong thể phách. Thể phách ấy không hề hư vô.
(128) “Có lẽ nào! Tôi thấy thực như đã thấy sự sống của tôi. Những phút giây trong
sáng đây không phải là phút giây mê sảng nữa. Có nhận thấy hai hàng nước mắt rưng
rưng của tôi không?” (Chiêm bao với sự thực) [II, tr. 125]. Niềm tin về sự tồn tại của
một lình hồn không ngăn nhà thơ ý thức sự tương giao hồn - xác trong chính bản thể
của mình: (129) Hồn ta đây bất diệt với Hà Sa/ Trí ta sẽ cuồng lên trong khoái lả/ Cho
đớp mắt, cho mê tình bản ngã (Trường thọ) [I, tr. 204]. Cho nên, khi muốn níu hồn ai
80
(nhớ thương, luyến ái) thì cũng phải níu bằng tấm lòng, bằng máu thịt của mình. Nghĩa
là, bất cứ một trạng thái nào của tình cảm vô hình cũng phải được biểu hiện qua rung
động của xác thân, hoàn toàn có thể tự cảm nhận: (130) Nhớ lắm lúc như si như dại/
Nhớ làm sao bải hoải tay chân/ Nhớ hàm răng, nhớ hàm răng/ Mà ngày nào đó vẫn
khăng khít nhiều (Muôn năm sầu thảm) [I, tr. 172].
Hơn thế, ao ước chiếm lĩnh tình cảm của ai đó, không thể không gắn với những
cảm nhận về vẻ đẹp của thân xác: (131) Ta muốn vớt ai ngoài sóng điện/ Để nhìn xem
sắc mặt với làn da (Biển hồn ta) [I, tr. 176]; (132) Anh đã thoát hồn anh ngoài xác
thịt/ Để chập chớn trong ánh sáng mông lung/ Để tìm em đưa hai tay ràng rịt/ Mảnh
tình thiêng ngả ngớn giữa không trung (Sáng láng) [I, tr. 177]…
Các nhà thơ thường rất nhạy cảm với bước đi vô hình mà nghiệt ngã của thời
gian. Với một người có hoàn cảnh đặc biệt như Hàn Mặc Tử, cảm thức về thời gian
càng rõ rệt, trở thành nỗi ám ảnh khôn nguôi. Khát khao sự sống bao nhiêu, nhà thơ
càng muốn giữ riết thời gian trong “nắm tay” của mình bấy nhiêu: (133) Tôi khát vô
cùng/ Tôi riết thời gian trong nắm tay/ Tôi vo mến tiếc như vo lụa/ Cất tiếng cười ròn
xao động vùng mây (Chơi trên trăng) [I, tr. 181].
Khát sống, con người bao giờ cũng ước ao hội ngộ và rất sợ chia li. Bởi vì, một
cuộc sống đủ đẩy, đúng nghĩa phải là sống với mọi người - những đối tượng mà mình
dành trọn yêu thương và ước ao được nhận thật nhiều tình thương mến. Với nhà thơ đa
tình, đa cảm, nhu cầu đó lại càng bức xúc. Xuân Diệu có lúc tự vấn: Làm sao sống
được mà không yêu/ Không nhớ, không thương một kẻ nào (Bài thơ tuổi nhỏ). Ở điểm
này, Xuân Diệu có thể tìm thấy sự đồng điệu ở Hàn Mặc Tử: (134) Họ đã xa rồi khôn
níu lại/ Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa/ Người đi một nửa hồn tôi mất/ Một nửa
hồn tôi hóa dại khờ (Những giọt lệ) [I, tr. 166]; (135) Và được tin ai sắp bỏ đi/ Chẳng
thèm trở lại với Tình Si/ Ta lau nước mắt, mắt không ráo/ Ta lẫy tình nương, rủa biệt
li (Tình thu) [I, tr. 145]. Thậm chí, nhà thơ tưởng tượng: trong phút lâm chung, sợi dây
của tình thương mến giữa mình với mọi người không thể nào dứt: (136) Ta còn trìu
mến biết bao người/ Vẻ đẹp xa hoa của một thời/ Đầy lệ, đầy thương, đầy tuyệt vọng/
Ôi! Giờ hấp hối sắp chia phôi (Trút linh hồn) [I, tr. 183].
Trong Thơ mới, Xuân Diệu là nhà thơ biểu hiện khát khao cuộc sống vô cùng
mãnh liệt. Khát khao ấy được thâu tóm một cách đầy đủ trong cặp từ vô biên và tuyệt
đích. Bằng ngôn ngữ thân xác, ông thường xuyên có những tuyên ngôn rất hùng hồn
và phát biểu quan niệm sống hết sức mạnh mẽ: Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời/ Kẻ đựng
81
trái tim trìu máu đất/ Hai tay chín móng bám vào đời (Hư vô); Ta ôm bó, cánh tay ta
làm rắn/ Làm dây đa quấn quýt cả mình xuân/ Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần/
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất (Thanh niên). Đến đây, ta nhận ra sự khác biệt giữa
Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử. Nếu Xuân Diệu khát thèm tận hưởng cuộc sống đủ đầy
thanh sắc, cho no nê giác quan, thì Hàn Mặc Tử ao ước sự sống hài hòa hồn - xác,
trong những biểu hiện đẹp đẽ, nên thơ nhất của nó.
Trong thơ ca, ngôn ngữ thân xác là vấn đề có tính lịch sử. Ở mỗi thời đại, cách
sử dụng ngôn ngữ thân xác trong thơ có những nét riêng biệt. Nghiên cứu một hiện
tượng thơ nào, phải chú ý đúng mức tính loại hình lịch sử của nó.
Đối với các nhà thơ trong phong trào Thơ mới nói chung, Hàn Mặc Tử nói
riêng, thân xác con người đã trở thành một đối tượng thẩm mĩ, hiện diện trong tư cách
một thứ ngôn ngữ. Chính cảm quan tôn giáo đã mang lại những cái nhìn mới mẻ, giúp
nhà thơ có những khám phá độc đáo so với các tác giả cùng thời. Trong thơ Hàn Mặc
Tử, thân xác là một giá trị. Cái giá trị ấy được chưng cất từ sự nhận thức của quy luật
về đời người, về thời gian, về luật sinh, thành, trụ, hoại, diệt của thân xác. Cái giá trị
ấy dù được đề cập một cách dè dặt, nhưng nó biểu hiện cho sự khao khát tình yêu tột
cùng. Khám phá thân xác đã trở thành một hành trình đi tìm khoái cảm của đời sống
tinh thần, kiếm tìm tình yêu, hạnh phúc.
Hàn Mặc Tử sử dụng ngôn ngữ thân xác để khẳng định sự hiện diện của mình
trong thế giới thực tại. Thân xác, dưới con mắt nhà thơ là một thực thể có thể nhìn,
ngắm, cảm nhận. Nó tác động mạnh mẽ đến các giác quan người đọc, giúp họ thâu
nhận các giá trị, vẻ đẹp thân xác của con người, từ đó, biết cảm thông nỗi thống khổ,
đớn đau và đồng điệu với niềm khát khao sự sống của chủ thể trữ tình.
2.2.3. Dấu ấn phong cách Hàn Mặc Tử qua lựa chọn và kết hợp từ ngữ trong thơ
2.2.3.1. Lựa chọn từ ngữ thể hiện cái nhìn mĩ hóa đối tượng
Khi một nhà văn, nhà thơ lựa chọn sử dụng một đơn vị ngôn ngữ trong hàng loạt
các đơn vị tương đương khác hay thường xuyên sử dụng một số đơn vị nhất định thì có
thể những đơn vị này có mối liên quan hoặc thể hiện phong cách cá nhân của tác giả. Vì
thế, để đi tìm dấu ấn riêng của Hàn Mặc Tử, chúng tôi lựa chọn ra 30 từ mà nhà thơ
thường sử dụng lặp đi lặp lại nhiều lần trong một bài hay trong các bài khác nhau để khảo
sát số lần xuất hiện; đồng thời so sánh tần suất sử dụng các từ đó ở Hàn Mặc Tử với ba
nhà thơ khác: Bích Khê, Xuân Diệu, Nguyễn Bính. Kết quả thu được như sau:
82
Bảng 2.9: Tần suất sử dụng các từ chỉ đối tượng nghệ thuật
trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính
Số lần xuất hiện Tần suất xuất hiện
Đối tượng
HMT BK XD NB HMT (119 bài) BK (82 bài) XD (90 bài) NB (88 bài)
95 47 106 51 35 117 104 92 44 44 57 43 40 37 11 34 32 10 12 25 59 12 49 10 6 25 16 39 4 21 Trăng/ nguyệt/ chị Hằng Hồn Tình Xuân Thơ Lòng Gió Trời Nước Vàng Hoa Hương Mây Buồn Cười Mộng Nắng Máu/ huyết Tơ Mơ Nhớ Ánh sáng Sương Trắng Niềm Sầu Lệ Chiều Không gian Nỗi 269 102 97 91 91 89 85 76 68 58 55 54 51 46 42 39 39 34 33 31 28 26 26 23 22 21 17 16 16 15 85 92 62 66 70 47 28 55 31 61 72 70 39 34 20 82 8 17 18 41 11 5 25 33 4 45 33 7 16 2 22 35 85 53 72 75 65 49 51 45 85 37 11 49 23 23 21 10 33 27 67 0 28 34 2 24 14 52 0 11 2.26 1.04 1.06 0.25 0.86 1.12 0.52 0.40 0.82 0.76 1.18 0.97 0.76 0.80 0.57 0.60 0.76 0.85 0.39 0.82 0.75 0.57 1.30 0.85 0.71 0.34 1.16 0.74 0.64 0.67 1.02 0.56 0.57 0.38 0.49 0.58 0.49 0.74 0.49 0.51 0.46 0.88 0.63 0.97 0.45 0.85 0.48 0.42 0.43 0.48 0.44 0.13 0.39 0.41 0.41 0.56 0.35 0.24 0.12 0.26 0.33 1.00 0.38 0.26 0.33 0.10 0.36 0.24 0.29 0.21 0.11 0.11 0.28 0.22 0.13 0.38 0.26 0.50 0.28 0.31 0.24 0.13 0.66 0.76 0.22 0.06 0.13 0.00 0.22 0.30 0.54 0.32 0.19 0.40 0.11 0.39 0.18 0.05 0.07 0.02 0.18 0.55 0.28 0.27 0.14 0.40 0.18 0.16 0.13 0.09 0.43 0.59 0.13 0.20 0.04 0.00 0.13 0.02 0.23 0.13
83
Bảng thống kê trên cho thấy:
Thứ nhất, đa số các từ trong 30 từ được liệt kê ở trên đều được các nhà Thơ mới
Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu, và Nguyễn Bính lựa chọn làm hình tượng nghệ
thuật trong thơ của mình. Tuy nhiên, có sự khác biệt về mức độ ưu tiên các từ được lựa
chọn ở mỗi nhà thơ. Xét riêng Hàn Mặc Tử, trên tổng số 119 bài thơ khảo sát, 10 từ
được lặp lại nhiều lần là: trăng (269), hồn (102), tình (97), thơ (91), xuân (91), lòng
(89), trời (76), gió (85), nước (68), vàng (58). Ở Bích Khê, trên tổng số 82 bài khảo
sát, 10 từ được lặp lại thường xuyên: hồn (92), trăng (85), mộng (82), hoa (72), hương
(70), thơ (70), xuân (66), tình (62), vàng (61), nhớ (59). Với Xuân Diệu, trong 90 bài
thơ khảo sát, 10 từ được lặp lại thường xuyên là: lòng (117), tình (106), gió (104),
trăng (95), nhớ (59), hoa (57), xuân (51), sương (49), hồn (47), nước (44). Còn trong
thơ Nguyễn Bính, 10 từ được lặp lại thường xuyên trên tổng số 88 bài khảo sát là: tình
(85), hoa (85), lòng (75), thơ (72), nhớ (67), gió (65), xuân (53), chiều (52), nước (51),
buồn (49).
Thứ hai, nhìn chung trên trục lựa chọn, thơ Hàn Mặc Tử không có nhiều đổi
mới trong việc sử dụng các từ chỉ hình tượng nghệ thuật để truyền tải nỗi niềm, cảm
xúc, chủ yếu vẫn là những sự vật, hiện tượng vốn được sử dụng trong thơ ca truyền
thống: phong, hoa, tuyết, nguyệt,… Xét về mức độ sử dụng các từ này trên tổng số bài
khảo sát ở các nhà thơ thì Hàn Mặc Tử chỉ hơn các nhà thơ khác về tần suất sử dụng
các từ: trăng, cười, máu/ huyết, niềm, nỗi.
2.2.3.2. Lựa chọn các từ ngữ làm định ngữ nghệ thuật
Cùng chỉ một đối tượng, tuy nhiên, việc hình dung, miêu tả nó như thế nào lại
thường phụ thuộc vào phong cách cá nhân của mỗi nhà thơ. Để làm sáng tỏ nhận định
này, luận án thống kê các kết hợp đi kèm với 30 từ/ 30 đối tượng được liệt kê ở mục a.
(x. Bảng 2.8). Dưới đây, chúng tôi chỉ minh hoạ bằng các định ngữ nghệ thuật tiêu
biểu của hai từ nắng và tơ:
84
Bảng 2.10: Thống kê các từ được lựa chọn để kết hợp với nắng, tơ
trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính
Hàn Mặc Tử Bích Khê Xuân Diệu Nguyễn Bính
nắng vàng nắng đào nắng mới nắng mai
nắng giàn nắng nhạt nắng vàng nắng thơ
nắng thơm nắng thiêu nắng sớm nắng tươi
nắng thơm nắng hạ nắng chang chang
nắng lao xao nắng chiều nắng tàn
nắng dịu nắng vàng nắng đỏ
nắng vàng nắng cháy nắng héo
nắng mới nắng to nắng cũ nắng nắng ửng nắng chiều nắng mới
nắng cao nắng nhỏ
nắng chang chang nắng pha lê
nắng hồng đào nắng xưa
nắng hàng cau
nắng hường
nắng đời xưa
ánh nắng vạn đời
tơ trăng tơ đêm tơ lưu luyến tơ duyên
tơ nắng tơ trăng tơ đàn
tơ huyền tơ đồng tơ hồng tơ tơ vàng tơ duyên/ duyên tơ tơ hồng
tơ đồng
tơ vàng
a. Những kết hợp với nắng
Trong thơ Hàn Mặc Tử, nắng hiện lên lung linh là với đủ các trạng thái, sắc màu,
dáng vẻ, hình hài,... Đó là nhờ việc ông biết lựa chọn các từ/ ngữ có giá trị biểu cảm cao
để kết hợp với nắng. Vốn từ mà ông dùng để kết hợp với nắng vô cùng phong phú. Nắng
kết hợp với danh từ, có: nắng thơ, nắng rượu, nắng đời xưa,… Nắng kết hợp với tính từ,
có: nắng ửng, nắng hường, nắng tươi, nắng hồng đào, nắng thơm,… Với cùng một đối
tượng, Hàn Mặc Tử có khả năng liên tưởng đến hàng loạt các đơn vị có khả năng thay thế
trên trục dọc nên ông không thiên về sử dụng một kết hợp nào đó với nắng.
85
Trong tương quan so sánh với các nhà thơ được khảo sát, thơ Xuân Diệu có tần suất
sử dụng nắng cao hơn cả và cũng có những kết hợp gây ấn tượng mạnh, như: nắng pha lê,
nắng nhỏ,… Các từ được lựa chọn để kết hợp với nắng cũng tương đối đa dạng, thế nhưng
mức độ phong phú vẫn không bằng các kết hợp trong thơ Hàn Mặc Tử.
Mặc dù tần suất sử dụng nắng trong thơ Nguyễn Bính cũng khá cao, song ông
cũng chỉ hay lựa chọn các từ chiều, mới, vàng để kết hợp với nắng: nắng chiều, nắng
mới, nắng vàng hoặc sử dụng riêng nắng đứng độc lập, không có từ kết hợp bổ nghĩa.
Bích Khê không hay sử dụng từ nắng trong thơ. Nắng xuất hiện thường trong
kết hợp với tính từ vàng: nắng vàng. Ngoài ra, ông sử dụng các từ kết hợp với nắng
khác như thơm, giàn, để có nắng thơm, nắng giàn.
b. Những kết hợp với tơ
Tơ có bốn nghĩa thường được các nhà Thơ mới sử dụng: 1- Sợi mảnh, mượt, do
tằm, nhện nhả ra; 2- Sợi mảnh, mượt như tơ tằm; 2- Dây đàn; và 3- Đối tượng còn
non, mới lớn lên hoặc thanh niên mới lớn chưa lấy vợ, lấy chồng.
Từ vàng, hồng thường được lựa chọn để kết hợp với tơ: tơ vàng, tơ hồng. Sáng
tạo nghệ thuật nếu chỉ bằng lòng và dừng lại ở những từ, những kết hợp từ thông dụng,
quen thuộc thì sẽ trở thành sáo mòn, khó tạo được điểm nhấn và không gây ấn tượng ở
độc giả. Chính vì vậy, mỗi nhà thơ thường lựa chọn cho mình những từ thật “đắt”, thật
“giá trị” để tạo nên những kết hợp mang dấu ấn cá nhân. Nếu như Hàn Mặc Tử thường
hay nói đến tơ trăng, tơ liễu với nghĩa thứ nhất, thì Bích Khê lại chỉ nói đến tơ đêm, tơ
hồng, Xuân Diệu dùng tơ chỉ tình cảm: tơ lưu luyến; còn Nguyễn Bính thì trung thành
với những nét nghĩa và cách kết hợp truyền thống, ông hay sử dụng tơ vàng (tơ của
con tằm nhả ra).
Bên cạnh những khác biệt kể trên có thể thấy rằng giữa các nhà thơ cũng có sự
lựa chọn trùng với nhau về từ ngữ kết hợp, đó là những kết hợp từ phản ánh tên gọi
của sự vật, hiện tượng trong thực tế đời sống, như: tơ vàng; trăng vàng, hoa vàng, lá
vàng, sao vàng; nắng vàng, nắng chang chang, nắng mai,…
2.2.3.3. Lựa chọn từ phương ngữ miền Trung thay cho ngôn ngữ toàn dân
Trong thơ Hàn Mặc Tử, bên cạnh những bài thơ trau chuốt từng câu chữ, sử
dụng những từ ngữ “đắt” và “quái”, ta vẫn bắt gặp khá nhiều những câu thơ bình dị,
mộc mạc, gắn với ngôn ngữ đời thường của chính ông. Cái làm nên một phong cách
khác - một phong cách đời thường ấy, có thể nói phần lớn là nhờ cách ông đưa vào thơ
các từ ngữ thuộc phương ngữ miền Trung.
86
Bảng 2.11: Từ ngữ thuộc phương ngữ miền Trung trong thơ Hàn Mặc Tử
TT Từ địa phương
Từ phổ thông
TT Từ địa phương
Từ phổ thông
không có phương hướng
1 bạt vi lô
40 mi
mày
(dạt khắp nơi)
chúng mày
41 mô
2 bay
nào
đạo hiếu, tình cảm
bằng
42 nghì
3 bì
vấn/ búi tóc
43 ngó
4 bỏ
nhìn
5 bởi chưng
bởi vì
44 nhơn quả
nhân quả
gợn (bẩn)
45 ni
6 bợn
này
hoa
46 nư
7 bông
thôi, nguôi
chán, ngán, đủ
47 núng (đồng tiền)
núm/lúm (đồng tiền)
8 bưa
9 bụm (nước)
ngụm (nước)
48 nường
nàng
10 chắc
một mình
49 núp
trốn, ẩn
11 chận (đường)
chặn đường
50 ơn phước
Ân đức
12 chấp (hai tay)
chắp hai tay
51 phiền
buồn
gì
52 phụ phàng
phũ phàng
13 chi
đứt, ngay (nhanh,
chứ, này, thế
53 phứt
14 chơ
dứt khoát)
thấy, gặp
rán sức
cố hết sức
54
15 chộ
16 chửa (gặp)
chưa (gặp)
55
ráo
khô
17 chừng mô
khi nào
56
rọi
soi
57
rứa
khổ
18 cực
thế
58
rúng
dù
19 dầu
rúng động
59
sá gì
ngọn
20 đọt
quản gì
60
sanh
quá
21 dữ
sinh
61
sao cam
đang
22 đương
sao đành
62
sao đang
ngẫm
23 gẫm
sao đành
63
sớt
giả vờ
24 giả đò
chia, san
64
sựng/sững
giật
25 giựt
đờ, trơ
65
thày mẹ
gửi
26 gởi
bố mẹ
gần như (gần là như thế),
66
thiệt
27 hầu
thật
chực
liếc (mắt) (với thái độ
67
thối
cho, trả
28 háy
không bằng lòng)
87
29 hổ
xấu hổ
68
thỡn
bẫng
30 hổ
hổ thẹn
69
tợ
tựa, như
31 hộc (từ bi)
ngăn đựng
70
tớt
hết cỡ
32
la thang
lang thang
71
trớt
hết, sạch trơn
33
lịnh
lệnh
72
trửng
nựng
34
lỗi
sai, quên
73 ưng
thích, mê
35
long
lung lay
74
van lơn
cầu xin
36 mắc cỡ
xấu hổ
75
vây lút
vây kín
37 nhựt
nhật
76
vô
vào
38 mầu nhiệm
màu nhiệm
77
vời
mời, sai
39 mền
chăn
78
vồng
cầu vồng (luống đất)
Bảng 2.11 cho thấy Hàn Mặc Tử rất ưa sử dụng các từ địa phương. Trong 78 từ
chúng tôi thống kê được, có những từ Hàn Mặc Tử sử dụng đi, sử dụng lại nhiều lần,
như: chi (16 lần), nường (13 lần), ngó (10 lần), van (9 lần), dầu (7 lần), vô (6 lần), bưa
(4 lần), chấp (4 lần), chửa (4 lần), ưng (4 lần), mi (4 lần), mắc cỡ (4 lần), chắc (3 lần),
đọt (3 lần), hộc (3 lần), nư (3 lần), rọi (3 lần), mô (2 lần), rứa (2 lần)… Có nhiều từ
được Hàn Mặc Tử sử dụng như một sự ý thức, khiến thơ ông mang đậm màu sắc địa
phương; tưởng thô ráp nhưng hết sức gọt giũa, tinh tế trong cách sử dụng. Thông qua
lớp từ này, chúng ta càng nhận ra sự tự ý thức rất cao của tác giả về việc nâng tầm
ngôn ngữ dân tộc, tạo nên những ấn tượng nổi bật riêng có trong thơ Hàn Mặc Tử.
Nếu như Xuân Diệu và Bích Khê ưa sử dụng lớp từ toàn dân, Nguyễn Bính
thích chêm vào thơ những từ bình dân, mang tính khẩu ngữ của vùng quê Bắc Bộ (giời
(trời), giầu (trầu), thầy mẹ/ thầy u (bố mẹ), chửa (chưa),… ) thì Hàn Mặc Tử lại điểm
xuyết vào thơ ông những từ thuộc phương ngữ Trung Bộ. Hàng loạt các từ: chi (gì),
mô (đâu), mi (mày), tợ (tựa, như), bì (bằng), vô (vào), lịnh (lệnh), chận (chặn), sanh
(sinh), mền (chăn), gởi (gửi), giả đò (giả vờ), mắc cỡ (xấu hổ), long (long lay), bưa
(vừa, chán),… được đưa vào thơ ông một cách rất tự nhiên, mang bóng dáng và lời ăn
tiếng nói của những con người miền Trung chân chất, gần gũi, thân thương: (137)
Rừng thiền thấp thoáng dạng quần thoa/ Khuê các trâm anh cũng rứa à? (Gái ở chùa)
[II, tr. 50]; (138) Hỏi chơ mấy tuổi? Đáp mười lăm/ Non nước từng phen nổi tiếng
tăm! (Đàn nguyệt) [III, tr. 13]; (139) Không, Không, Không! Tôi chẳng bán hồn (hòn)
Trăng/ Tôi giả đò chơi, anh tưởng rằng/ Tôi nói thiệt, là anh dại quá/ Trăng Vàng
Trăng Ngọc bán sao đang (Trăng vàng trăng ngọc) [II, tr. 89].
88
Có những từ như nường (17 lần), chi (17 lần), đương (22 lần),… được ông sử
dụng lặp lại nhiều lần ở nhiều bài thơ khác nhau: (140) Hao hao như nường nguyệt
cõi Đào Nguyên (Phan Thiết! Phan Thiết!) [I, tr. 198]; (141) Bóng Nường chưa mất
hút (Tài hoa) [III, tr. 116]; (142) Nhịp nhàng nường đi theo nhịp đàn (Tiêu sầu) [III,
tr. 118]; (143) Đã nhìn tận mặt còn chi nữa (Quả dưa) [I, tr. 139]; (144) Ai gieo chi thương tiếc giữa đường tơ (Đàn ngọc) [I, tr. 162]; (145) Ta hiểu chi ánh gió nhiệm
mầu? (Siêu thoát) [I, tr. 186]; (146) Phải người chăng, đồi cao đương hoảng hốt (Thi
sĩ Chàm) [I, tr. 157]; (147) Ta muốn níu hồn ai đương hiển hiện (Biển hồn ta) [I, tr.
176]; (148) Anh đã gặp hồn em đương chới với (Sáng láng) [I, tr. 177],…
Đáng lưu ý là những trường hợp mà phương ngữ lại là phương tiện biểu đạt khá
đắc lực, giúp cho Hàn Mặc Tử lột tả tận cùng tâm tư thầm kín, tâm trạng đau đớn, nỗi
khát khao yêu và được yêu của chính nhà thơ: (149) Thích trồng hoa cúc để xem chơi/
Cúc ngó đơn sơ, lắm mặn mòi (Trồng hoa cúc) [II, tr. 47]; (150) Họ đã ra rồi khôn níu
lại/ Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa (Những giọt lệ) [I, tr. 166]; (151) Hỡi ơi
người tục khác tình/ Đến đây nhìn sững cho mình thêm ghen (Duyên kì ngộ) [II, tr.
112]; (152) Đàn cung bực! Gió dồn lên âm điệu/ Sững lòng chưa? Say chấp cả thanh
bài (Đừng cho lòng bay xa) [I, tr. 203].
2.2.3.4. Lựa chọn các từ ngữ chỉ mức độ cao
Để diễn tả cái vô cùng của không gian và thời gian, Hàn Mặc Tử thường lựa chọn
các tính từ, phụ từ hay số đếm chỉ mức độ cao, chẳng hạn như:
1) vô biên, vô cùng (rộng lớn/ nhiều đến mức như không còn có giới hạn, không
có chỗ tận cùng)
2) vô số (nhiều không đếm, không kể hết được)
3) muôn (chỉ số lượng lớn hoặc với nghĩa bao quát toàn bộ)
4) vạn, hằng hà sa số (số lượng lớn, không xác định hết được)
5) đầy (trạng thái nhiều, không chứa thêm được nữa, thêm là tràn)
6) tràn trề (nhiều không chứa hết mà phải để tràn ra ngoài); 7) bao la, bát ngát, mênh mông (rộng lớn đến mức như trùm lên tất cả, tầm mắt
không bao quát hết, như không có giới hạn),…
So sánh với một số nhà thơ cùng thời về số lượng bài sử dụng từ chỉ cấp độ cao được lựa chọn khảo sát: vô cùng, vô biên, vô số, muôn, vạn, đầy, kết quả cho thấy: cả Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu đều có tỉ lệ các bài sử dụng từ chỉ mức độ cao/ cực cấp chiếm trên 60%; riêng Nguyễn Bính chỉ có gần 50% các bài sử dụng các từ trên. So với Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính thì Hàn Mặc Tử là người có số bài thơ
89
sử dụng từ vô cùng, vô biên, vô số nhiều hơn cả. Còn tỉ lệ số bài sử dụng muôn, vạn,
đầy ở thơ Hàn Mặc Tử đều thấp hơn Bích Khê và Xuân Diệu, chỉ cao hơn Nguyễn
Bính ở tỉ lệ sử dụng từ muôn.
Bảng 2.12: Từ chỉ mức độ cao trong thơ Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính
HMT BK XD NB
Từ chỉ mức độ
Số bài 29 18 8 7 7 4
Tỉ lệ (%) 24.4 15.1 6.7 5.9 5.9 3.4
Số bài 29 13 8 0 1 0
Tỉ lệ (%) 35 15.9 9.8 0 1.2 0
Số bài 23 17 10 3 4 0
Tỉ lệ (%) 25.6 18.9 11.1 3.3 4.4 0.0
Số bài 12 21 7 1 0 1
Tỉ lệ (%) 13.6 23.9 8.0 1.1 0.0 1.1
muôn đầy vạn vô cùng vô biên vô số
Tổng số bài 119 100 82 100 90 100 88 100
Qua bảng 2.12, ta thấy, Hàn Mặc Tử thường sử dụng các từ chỉ mức độ cao,
thậm chí cao đến cực cấp. Các từ này cũng được các nhà thơ cùng thời như Bích Khê,
Xuân Diệu, Nguyễn Bính sử dụng. Tỉ lệ sử dụng các từ chỉ mức độ cao như: muôn,
đầy, vạn ở Hàn Mặc Tử ít hơn ba nhà thơ được so sánh; nhưng, số lượng và tỉ lệ sử
dụng của các từ như: vô cùng, vô biên, vô số lại cao hơn các nhà thơ khác. Thậm chí,
có những từ, ba nhà thơ còn lại chưa từng dùng: Bích Khê không dùng vô cùng, vô số;
Xuân Diệu không dùng vô số; Nguyễn Bính chưa từng dùng vô biên. Hàn Mặc Tử lại
dùng tất cả. Điều này, thể hiện sự dụng ngôn vô cùng phong phú trong thơ ông và
cũng thể hiện cái tột cùng mà thi sĩ luôn hướng tới.
Nhìn tổng thể, có thể đánh giá rằng Hàn Mặc Tử có nhiều đóng góp trong việc
cách tân thơ, đặc biệt là về mặt hình thức diễn đạt. Trên trục lựa chọn, ông đã tạo nên một hệ từ ngữ có tính chất siêu thực, trừu tượng, vượt ra ngoài cách nói thông thường. Nhiều câu chữ, ta phải đặt chúng trong bối cảnh khách quan và chủ quan mà Hàn Mặc Tử sống thì mới có thể hiểu tường tận.
2.2.3.5. Đảo trật tự từ tạo ra những “bất ngờ ngữ pháp”
Như chúng ta đã biết, tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn lập điển hình, bên cạnh hư từ và ngữ điệu, trật tự từ đóng một vai trò quan trọng trong việc biểu thị quan hệ cú pháp và ý nghĩa ngữ pháp. Trật tự từ là trật tự sắp xếp các từ/ thành tố cấu tạo từ trong
câu/ ngữ, nó là hệ quả của nguyên lí về tính hình tuyến của cái biểu hiện trong ngôn
90
ngữ. Chính vì vai trò quan trọng của trật tự từ trong diễn đạt ý nghĩa ngữ pháp nên nó
không chỉ được các nhà ngôn ngữ học đặc biệt chú ý mà còn được các nhà thơ
quan tâm khai thác.
Trong ngôn ngữ thông thường, có hai kiểu trật tự từ chủ yếu được dùng làm
thông số loại hình học là: trật tự các thành phần câu/ cú (chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ,… ) và trật tự các thành tố của ngữ (gồm thành tố trung tâm và các thành tố phụ). Theo trật
tự thông thường, chủ ngữ thường đứng trước vị ngữ; tính từ định ngữ thường đi sau
danh từ; bổ ngữ thường đi sau động từ vị ngữ. Nếu các thành phần được sắp xếp
ngược lại thì trật tự đó được coi là bị đánh dấu và nó kéo theo những thay đổi tinh tế về nghĩa liên quan đến ý định của người nói.
Trong ngôn ngữ nghệ thuật, vì mục đích nhấn mạnh và để thể hiện tốt dụng ý
của nhà thơ mà trật tự từ có thể bị đảo. Trong thơ Hàn Mặc Tử, nhà thơ sử dụng cả
hình thức đảo trật tự thành phần trong câu và thành tố trong cụm từ. Ví dụ:
Đảo trật tự thành phần câu:
Đảo thành phần câu Trật tự thông thường Bài
Chơi trên trăng Hồn lìa khỏi xác
Đêm xuân cầu nguyện
Xứ yêu bát ngát tôi lìa Ngấm vào trong cơ thể những hương hoa Dường sống lại muôn ngàn hoa phẩm tiết Tôi lìa xứ yêu bát ngát Những hương hoa ngấm vào trong cơ thể Muôn ngàn hoa phẩm tiết dường sống lại
Đảo trật tự cú pháp:
Đảo trật tự cú Câu thơ chứa Bài Trật tự thông thường
vèo bay bay vèo Tiếng lá vèo bay ta ngỡ là... Mơ
Buồn thu
vội vàng cánh nhạn cánh nhạn vội vàng Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt
lấm tấm vàng vàng lấm tấm Áo xiêm lấm tấm vàng Mùa xuân chín
vàng sao sao vàng
các tục tình các tình tục Đừng cho lòng bay xa Ngoài vũ trụ
Duyên kì ngộ
chàng tài hoa thi sĩ chàng thi sĩ tài hoa Sao! Vàng sao rơi đầy trên sóng nước Ôi say sưa trên hết các tục tình Xin mời chàng tài hoa thi sĩ đó
91
Cả hai hình thức đảo trật tự nói trên, không phải chỉ riêng Hàn Mặc Tử sử dụng
thành công mà nhiều nhà thơ khác cũng sử dụng và đem lại hiệu quả cao trong diễn
đạt. Tuy nhiên, có một điểm độc đáo ở Hàn Mặc Tử là ngay cả trong bản thân từ thì
các yếu tố cấu tạo từ cũng được ông tách ra và đảo trật tự lại. Chẳng hạn, xét trường
hợp sử dụng từ láng lai dưới đây: (153) Lời thơ ngậm cứng, không rền rĩ/ Mà máu tim anh vọt láng lai (Lưu luyến II) [I, tr. 165]; (154) Gió lùa ánh sáng vô trong bãi/ Trăng
ngậm đầy sông, chảy láng lai (Cô liêu) [I, tr. 186].
Hơn một lần nhà thơ sử dụng láng lai thay cho lai láng. Nếu ta đem đổi trật tự
láng và lai để chúng trở về với gốc ban đầu thì có thể thấy mặc dù ý nghĩa chảy nhiều, ngập tràn khắp chốn vẫn được hiểu đúng, song câu thơ sẽ không có gì nổi bật và thể
hiện phong cách độc lạ của thi sĩ họ Hàn. Từ láng lai cũng có phần làm giảm đi tính
chất thực sự của từ lai láng trong diễn tả hình ảnh máu vọt, trăng ngậm đầy sông
chảy… Đồng thời, việc đảo này làm cho câu thơ “thuận miệng” và “thơ” hơn trong kết
hợp với câu trước đó.
Tương tự, có thể bắt gặp các trường hợp khác trong thơ Hàn Mặc Tử, như: dùng
tiết trinh thay cho trinh tiết ((155) Nghi ngờ tới cái tiết trinh em [I, tr. 136]), dùng nhơ
nhởn thay cho nhởn nhơ ((156) Nhơ nhởn đồi thông lúc xế chiều [I, tr. 137]), tấp tới
thay cho tới tấp ((157) Tấp tới đến ở ngoài kia vũ trụ [I, tr. 189]), thĩ thầm thay cho
thầm thĩ ((158) Nép mặt trong hoa nói thĩ thầm [II, tr. 48]), hờn căm thay cho căm
hờn ((159) Người khóc đi, khóc đi cho hả nỗi hờn căm [I, tr. 157]), vá may thay cho
may vá ((160) Em tập thêu thùa, tập vá may [I, tr. 138]),…
2.2.3.6. Mở rộng phổ kết hợp
Mở rộng phổ kết hợp là hình thức lựa chọn những từ có sự gần gũi về mặt nghĩa
để thay thế cho những từ vốn quen được sử dụng trong cách kết hợp thông thường
nhằm mục đích tăng sức biểu cảm, gợi hình và gây ấn tượng mạnh.
Nếu ai đã từng đọc thơ Hàn Mặc Tử thì sẽ không khỏi băn khoăn, suy ngẫm,
rồi đi đến thích thú, “gật gù” với cách kết hợp từ rất “quái dị” nhưng cũng rất tinh tế của ông. Ông như chơi với con chữ, ông chọn, ông xoay, ông lật, ông xếp đặt lại theo lối không giống ai. Có lẽ chính biện pháp này đã giúp ông truyền tải sống động những tư tưởng lạ, những ham muốn tột đích. Trong nội dung này, chúng tôi phân thành hai loại kết hợp: cách kết hợp tạo từ/ ngữ mới và cách kết hợp tạo sự bất thường về nghĩa.
Thứ nhất, với cách kết hợp tạo từ/ ngữ mới, Hàn Mặc Tử thay thế một trong các
yếu tố của từ ghép hoặc ngữ có cách kết hợp thông thường bằng một yếu tố khác. Chẳng
92
hạn, vũng là một danh từ mang nghĩa chỉ chỗ trũng nhỏ, có chất lỏng đọng lại. Các kết
hợp bình thường với vũng là: vũng nước, vũng máu, vũng bùn,… nhưng sẽ là bất thường
với những kết hợp kiểu như: vũng cô liêu, vũng hồn, vũng trăng, vũng chiêm bao,…:
(167) Chao ôi! Ghê quá trong tư tưởng/ Một vũng cô liêu cũ vạn đời! (Cô liêu) [I, tr.
187]; (168) Ôi ngông cuồng, ôi rồ dại, rồ dại/ Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta
(Biển hồn ta) [I, tr. 177]; (169) Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy/ Sáng dậy điên cuồng
mửa máu ra (Say trăng) [I, tr. 179]; (170) Ta lôi đình thấy trăng sao liền mổ/ Sao tan
tành rơi xuống vũng chiêm bao (Phan Thiết! Phan Thiết!) [I, tr. 198].
Một số kết hợp tạo ra ý nghĩa và cách hình dung mới về sự vật, hiện tượng xung
quanh mà chỉ riêng Hàn Mặc Tử mới có cách viết vậy, chẳng hạn như:
Tấm cát trong (171) Tấm cát phẳng lờ như lụa (Chơi giữa mùa trăng) [I, tr.
149]: tấm gợi liên tưởng đến một bãi cát được trải mỏng, dài, thành một mặt phẳng; có
sự khác biệt tinh tế với đống cát (cát gom lại để chồng chất lên nhau ở một chỗ) hay
bãi cát (khoảng đất rộng nổi lên, chất đầy cát, không phải nơi nào cũng bằng phẳng).
Mớ chữ trong (172) Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết/ Cả lòng ta trong mớ
chữ rung rinh (Rướm máu) [I, tr. 182]: mớ gợi đến một tập hợp các chữ lộn xộn được
gom nhặt lại thành một đơn vị dùng để đo đếm, kiểu như mớ rau, mớ cá; khác với việc
sử dụng con chữ.
Khối lòng trong (173) Bao giờ mặt nhật tan thành máu/ Và khối lòng tôi cứng
tựa (tợ) si? (Những giọt lệ) [I, tr. 166]: so với tấm lòng thì khối chỉ lượng lớn hơn,
nhiều hơn được liên kết thành một thể thống nhất, không có hình thù nhất định.
Mảnh nhạc trong (174) Những mảnh nhạc vàng rơi lả tả/ Những niềm run rẩy
của đêm yêu (Lưu luyến II) [I, tr. 165]: trong trí tưởng tượng của nhà thơ, nhạc có hình
khối là một tấm mỏng và ở đây mảnh là một phần nhỏ được chia tách ra từ tấm đó. So
với bản nhạc, khúc nhạc thì mảnh nhạc có sức gợi hình hơn nhiều.
Có lẽ, đặc biệt và ấn tượng hơn cả là những kết hợp với trăng. Trăng kết hợp
với từ chỉ loại vốn thường dùng nhiều cho động vật con, thành con trăng. Trăng kết
hợp danh từ, ta có: vải trăng, thơ trăng, lá trăng, bông trăng, xác trăng, mùa trăng,
màu trăng,… Trăng kết hợp với tính từ, thành: trăng xanh, trăng vàng. Trăng kết hợp
với động từ, thành: trăng nằm, trăng quì, trăng chạy, trăng rơi, trăng mơ,…
Dưới đây, chúng tôi tập hợp lại một số từ có cách kết hợp lạ trong thơ Hàn
Mặc Tử:
93
Bảng 2.13: Một số từ có cách kết hợp lạ trong thơ Hàn Mặc Tử
Từ được Kết hợp thông thường Kết hợp lạ trong thơ HMT kết hợp
rất cảm động, không cảm cảm động sơ Cảm động động,…
bãi cát, đống cát,… tấm cát Cát
con chữ, bảng chữ cái mớ chữ Chữ
điệu cười, tiếng cười,... miếng cười, nhịp cười, khoé cười,… Cười
làn gió, cơn gió,… áng gió, nếp gió,… Gió
tâm hồn, linh hồn,… tấm hồn Hồn
tấm lòng khối lòng Lòng
đám mây vùng mây Mây
cái miệng lỗ miệng Miệng
nắng tắt, nắng lên,… nắng ngừng, nắng chảy,… Nắng
bản nhạc, khúc nhạc,… mảnh nhạc, ý nhạc Nhạc
niềm trăng, niềm gió, niềm say, niềm
niềm vui, niềm hi vọng,… Niềm phu phụ, niềm mong, niềm ý, niềm run
rẩy, niềm yêu,…
nở bung, nở xoè,… nở ngọt Nở
hàm răng khớp răng Răng
không còn say mê bớt say mê Say mê
sương sa, sương rơi,.. ứa sương Sương
Làm thơ, ra tập thơ, đề ọc thơ, thơ phép tắc, ướp lời thơ, ngậm Thơ thơ,.. kín thơ đầy miệng,…
Ông trăng, ánh trăng, trăng Con trăng, vũng trăng, áo trăng, vải Trăng thanh, trăng sáng, trăng tỏ, trăng, thơ trăng, tơ trăng, mùa trăng,
94
trăng rằm, trăng soi, trăng hương trăng, lá trăng, bông trăng, màu
lên, trăng vàng, trăng trăng, mùi trăng, xác trăng, niềm trăng,
sao,… trăng nằm, trăng quì, trăng chạy, trăng
choáng váng, trăng rơi, trăng mơ, trăng
xanh, trăng cổ độ,…
Trời xanh, trời trong, ráng Trời nguyệt bạch, váng trời,… Trời trời,…
Vũng nước, vũng bùn, vũng Vũng chiêm bao, vũng hồn, vũng trăng, Vũng máu... vũng cô liêu, vũng sông Hằng,…
Xuân đến, xuân về, xuân Mùa xuân chín, xuân trẻ, xuân non,
Xuân sang, xuân phơi phới, xuân xuân lịch sự, mảnh xuân, đám xuân
ấm áp,... xanh, mùa xuân đã hiện hình,...
Thứ hai là những kết hợp tạo sự bất thường về nghĩa (chúng tôi gọi là những
kết hợp lạ), tạo liên tưởng mới về đối tượng. Những trường hợp này không tạo ra một
từ ghép hay cụm từ liền nhau hoàn chỉnh (như kiểu loại trên) mà chúng cùng xuất hiện
trong một câu hoặc đoạn thơ để miêu tả về hành động, trạng thái của sự vật, hiện
tượng được lấy làm hình tượng nghệ thuật, mang tâm trạng, suy nghĩ của chính nhà
thơ. Đối với trường hợp này, ta không thể dùng logic thông thường để đánh giá tính
đúng sai bởi đây là ngôn ngữ nghệ thuật. Những kết hợp “lạ hoá” trong thơ ca lại được
chấp nhận như một cách diễn đạt có tính sáng tạo, gây ấn tượng mạnh.
Đọc thơ Hàn Mặc Tử có thể gặp vô cùng nhiều các kết hợp từ đặc biệt như nói
ở trên. Nó tạo ra sự bất thường về nghĩa, thể hiện khát vọng không tưởng của nhà thơ:
mặc vải trăng, ăn gió trăng (Lang thang); tay ngoắc đám mây dừng ngay lại (Tiếng
vang); giơ tay níu ngàn mây, đi lại lang thang trên ngọn cây (Nói chuyện với gái quê);
uống mây trôi, bọc trăng trong áo (Thi sĩ Chàm), chôn những mảnh xuân tàn (Mơ
hoa); hớp ánh (váng) trời, đớp miếng cười (Say nắng), cầm lại trí tương tư (Đàn
ngọc), chở trăng (Đây thôn Vỹ Dạ), ném mình đi theo gió trăng (Ghen), cắn lời thơ
(Lưu luyến II), thoát hồn ngoài xác thịt (Sáng láng), đi bắt nắng ngừng, nắng reo, nắng
chảy (Ngủ với trăng); khạc hồn ra khỏi miệng, đưa tay choàng trăng, lượm tơ trăng rơi
(Say trăng); kê đầu trên khối sao băng, soi chuyện bằng hơi thở (Rượt trăng); vớt xác
trăng (Trăng tự tử); tìm con trăng lạc, gò mây lại, kìm sao bay, riết thời gian trong nắm
95
tay, vo tiếc mến như vo lụa, cười xao động vùng mây, thoát li ngoài thế giới (Chơi trên
trăng); thét chòm sao hoảng rơi vào đáy giếng (Rớm máu); đo từ ngọn cỏ tới cung
trăng, tìm ánh nắng vạn đời vương (Ước ao); đi lẳng lặng trên làn nước (Cô liêu); đi
góp nhặt từng tia sáng (Người ngọc); mua trăng, bán trăng (Trăng vàng trăng ngọc);…
Việc tạo ra những kết hợp bất thường về nghĩa nói trên phản ánh một cách tri
nhận mới về cuộc sống, đồng thời thể hiện những rung cảm mạnh, những khát khao tột
độ, những cảm xúc như “điên”, như “loạn” của Hàn Mặc Tử. Ta cũng bắt gặp những
kết hợp “lạ” này trong thơ Bích Khê: Người cho ta một thanh gươm rất sắc?/ Ô vung
lên… cắt mạch nguyệt vàng xanh!/ Xẻ mạch trời, - mây xô sao, răng rắc!/ Phăng mạch
đêm, - hương vỡ, ứa ngầm tinh! (Mộng cầm ca) hay như thơ Xuân Diệu Tôi muốn tắt
nắng đi/ Cho màu đừng nhạt mất/ Tôi muốn buộc gió lại/ Cho hương đừng bay đi (Vội
vàng),… Nguyễn Bính thì hầu như không dùng những kết hợp kiểu vậy. Mặc dù Bích
Khê (cùng trường thơ loạn với Hàn Mặc Tử) hay Xuân Diệu “nhà thơ mới nhất trong
các nhà thơ mới” (theo nhận định của Hoài Thanh, Hoài Chân) cũng đều có những kết
hợp tạo nghĩa bất thường, nhưng không có thơ ai xuất hiện nhiều những kết hợp “kì
dị” như Hàn Mặc Tử.
Tóm lại, thơ Hàn Mặc Tử có những yếu tố hết ức độc đáo, có khi, gây khó hiểu
cho người tiếp nhận (vừa “lạ” vừa “quen”). Người đọc thường ghi nhớ và ấn tượng sâu
sắc bởi cách lựa chọn và kết hợp từ độc đáo, giàu khả năng biểu đạt trong thơ ông.
Khảo sát thơ ông, ta càng cảm nhận rõ hơn chiều sâu của niềm đau đớn về thể xác và
tinh thần, sự ham muốn sống, niềm khát khao yêu,… ẩn giấu bên trong lớp vỏ ngôn từ.
2.3. Tiểu kết chương 2
Một phong cách ngôn ngữ không thể không biểu hiện qua cách sử dụng từ ngữ
của tác giả. Cách sử dụng đó phát huy hiệu quả nghệ thuật ở từng trường hợp, gắn với
ngữ cảnh cụ thể. Nhưng ở phạm vi rộng (toàn bộ tác phẩm của tác giả), ta hoàn toàn có
thể nói đến những nét riêng, độc đáo trong cách sử dụng các từ ngữ thuộc những
trường khác nhau.
Với Hàn Mặc Tử, có thể nhận thấy: các từ ngữ trong thơ ông có ba trường
nghĩa tiêu biểu, đó là trường tôn giáo - tâm linh, trường tình yêu và trường thân xác
con người. Các kết quả phân tích định lượng và định tính ở từng trường vừa nêu đều
cho thấy, cách dùng của Hàn Mặc Tử có những nét khác biệt với ba tác giả được đối
sánh (Xuân Diệu, Bích Khê, Nguyễn Bính). Điều đáng nói, đó là những khác biệt rất
có giá trị, giàu tính thẩm mĩ.
96
Cùng với dùng từ trong các trường nghĩa, việc lựa chọn từ ngữ độc đáo theo
cách của nhà thơ như lựa chọn từ để thể hiện cái nhìn mĩ hóa đối tượng, dùng các từ
đặc hữu của phương ngữ miền Trung, lựa chọn những từ ngữ chỉ cấp độ và những từ ở
mức độ cao, thâm chí cao đến cực cấp đã đem lại cho thơ một hình thức diễn đạt đậm
dấu ấn cá nhân: vừa thực tại, vừa mơ hồ, siêu thực, vừa sâu kín và trào lộng. Hàn Mặc
Tử thường dùng những cách kết hợp từ mới lạ, đi chênh ra ngoài quy phạm tiếng Việt
như đảo trật tự, mở rộng phổ kết hợp đã đem đến cho ngôn ngữ thơ một khả năng vô
tận trong việc chuyển tải những cảm xúc tinh tế, những tâm trạng bí ẩn, những tình
cảm bi thương của thế giới tâm hồn con người. Tóm lại, những câu thơ đầy ma lực, ám
ảnh tâm can người đọc của Hàn Mặc Tử một phần được tạo nên từ những từ ngữ được
nhà thơ lựa chọn và sử dụng theo một cách diễn đạt riêng, một cách biểu đạt ngữ nghĩa
riêng; qua đó, thể hiện khá rõ dấu ấn phong cách ngôn ngữ tác giả Hàn Mặc Tử.
97
Chương 3
PHONG CÁCH NGÔN NGỮ THƠ HÀN MẶC TỬ
THỂ HIỆN Ở CÁCH SỬ DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ
3.1. Khái niệm tu từ và vai trò của tu từ trong việc thể hiện phong cách
ngôn ngữ tác giả
3.1.1. Khái niệm tu từ và vai trò của tu từ trong sáng tạo thơ 3.1.1.1. Khái niệm tu từ Tên gọi tu từ có nguồn gốc từ tiếng Latinh là figura, có nghĩa là bóng bẩy, có
sức hấp dẫn, lôi cuốn. Figura được nhiều nhà nghiên cứu ngữ văn Việt Nam dịch ra
thành nhiều thuật ngữ khác nhau như: mĩ từ pháp, phép mĩ từ, biện pháp tu từ… Với tư
cách là thuật ngữ khoa học, figura được quan niệm là những cách thức, những hình
thức diễn đạt bóng bẩy, gợi cảm, có sức lôi cuốn khi trình bày. Thời cổ đại, Hy Lạp coi
tu từ là công cụ riêng của nghệ thuật viết văn và nghệ thuật hùng biện, sau này, người
ta gắn nó với ngôn ngữ văn chương. Cho đến nay, về cơ bản, quan niệm truyền thống
này vẫn được các nhà nghiên cứu ngữ văn thế giới chấp nhận. Nó là hình thức diễn đạt
chung của mọi phong cách làm cho sản phẩm ngôn ngữ trở nên đẹp hơn, hay hơn, giàu
tính biểu cảm hơn.
Khái niệm tu từ được dùng để chỉ đối tượng nghiên cứu thuộc bộ môn Tu từ học.
Trong thực tế sử dụng, thuật ngữ tu từ được thể hiện bằng các khái niệm khác như: màu
sắc tu từ, phương tiện tu từ và biện pháp tu từ. Màu sắc tu từ chính là phần ý nghĩa bổ
sung, yếu tố tạo nên sự đối lập giữa các phương tiện trung hòa của ngôn ngữ với các
phương tiện tu từ của ngôn ngữ. Biện pháp tu từ là những cách phối hợp sử dụng các
đơn vị lời nói trong giới hạn của một đơn vị thuộc bậc cao hơn; ý nghĩa của nó nảy sinh
từ ngữ cảnh của đơn vị lời nói, bị quy định bởi những quan hệ cú đoạn giữa các đơn vị
của một bậc hoặc các bậc khác nhau. Phương tiện tu từ là yếu tố thuộc cấp độ khác
nhau, được đánh dấu về tu từ học trong giới hạn của một cấp độ nào đó của ngôn ngữ; ý nghĩa tu từ học của nó được củng cố ở ngay trong phương tiện đó, ngoài ý nghĩa cơ bản còn có ý nghĩa bổ sung gồm biểu cảm, bình giá và phong cách chức năng.
Trong ngôn ngữ văn chương, đặc biệt là ngôn ngữ thơ, tu từ sẽ mang lại những ý nghĩa bổ sung, biểu cảm nhằm khơi gợi tình cảm, hoặc nhấn mạnh, hoặc làm nổi bật nội dung trữ tình… do sự tác động qua lại của các yếu tố ngôn ngữ. Ngoài ra, nếu sử
dụng nó một cách thường xuyên, lặp đi lặp lại, sẽ tạo ra hình thức diễn đạt riêng biệt,
hình thành phong cách của nhà văn, nhà thơ.
98
3.1.1.2. Vai trò của tu từ trong sáng tạo thơ
Lịch sử phát triển của thơ ca bằng chính chiều dài của lịch sử phát triển văn học
nhân loại. Khi con người nhận thức được mối liên hệ giữa mình với thực tại và có nhu
cầu tự biểu hiện thì thơ ca xuất hiện. Trong cuốn Từ điển Thuật ngữ văn học, nhóm tác
giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi định nghĩa: "Thơ là hình thức sáng
tác văn học phản ánh cuộc sống thể hiện tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ, bằng
ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và có nhịp điệu" [71, tr. 210]. Từ định nghĩa này,
chúng ta thấy, thơ với đầy đủ các tiêu chí về cả nội dung và hình thức nghệ thuật,
mang đặc trưng cơ bản, riêng biệt của ngôn ngữ thơ để khu biệt với ngôn ngữ trong
các thể loại văn học khác.
Cách sáng tạo và thưởng thức một tác phẩm văn chương chính là tư duy trên
chất liệu ngôn ngữ. Thơ là một thể loại văn học, chính vì vậy, ngôn ngữ thơ trước hết
phải là ngôn ngữ văn học, là “ngôn ngữ nghệ thuật được dùng trong văn học” [71, tr.
185]. Thơ ca có cơ chế vận hành “bộ máy ngôn ngữ” rất độc đáo. Với một số lượng
đơn vị ngôn ngữ hữu hạn, thơ có khả năng biểu đạt cái vô hạn của cuộc sống, cái
phong phú, đa dạng vô cùng trong xúc cảm của con người.
Trong sáng tạo thơ, tu từ đóng một vai trò hết sức quan trọng. Cái làm nên sự kì
diệu của ngôn ngữ, đặc biệt là của văn bản thơ chính là các phương tiện và biện pháp tu
từ. Là thế giới nghệ thuật ngôn từ, văn học khi sử dụng các phương tiện và biện pháp tu
từ đã biến ngôn ngữ giao tiếp tự nhiên thành ngôn ngữ nghệ thuật và những tín hiệu
thẩm mĩ, có khả năng truyền đạt tư tưởng, tình cảm phong phú, phức tạp, tinh tế. Bằng
trải nghiệm của một đời sáng tạo thơ, Lê Đạt đúc kết: “Thời trang là thuật của phái đẹp,
tu từ là thuật của nhà thơ, một phái đẹp khác” [43, tr. 135]. Nếu Lê Đạt đề cao vai trò
của tu từ trong thơ, thì một nhà thơ được xem là thủ lính của cách tân - Trần Dần - lại
phủ nhận tu từ quyết liệt: “Nắm lấy tu từ vặn ngoẹo cổ/ Viết như khạc nhổ mọi tu từ”
[30, tr. 382]. Quyết liệt là thế, nhưng bản thân Trần Dần có rũ bỏ được tu từ trong sáng
tạo thơ đâu. Khi ông viết: Nhân loại/ Tôi không chơi với các anh nữa/ Ván nào anh cũng
ăn gian”, thì cái hình ảnh ván bài - cuộc đời chẳng phải được tạo nên bằng phép ẩn dụ
đó sao? Nhìn rộng ra, không một bài thơ nào của Trần Dần vắng bóng tu từ.
Với một văn bản nghệ thuật, người ta có thể sử dụng một hoặc nhiều biện pháp
tu từ khác nhau và thậm chí có thể khai thác tối đa sức mạnh nghệ thuật của một vài
biện pháp tu từ nào đó, tạo ra những hình ảnh cụ thể, sinh động, gợi cảm, làm cho ý
nghĩa của văn bản trở nên sâu xa hơn và dễ làm rung động lòng người hơn.
99
Chẳng hạn, trong cách nói hằng ngày, người Việt Nam thường dùng so sánh ví
von: Đẹp như tiên, hôi như cú, vui như tết, xấu như ma… khiến lời nói vừa có hình
ảnh vừa thấm thía. Còn trong văn bản nghệ thuật, khi sử dụng biện pháp tu từ so sánh,
với thế mạnh đặc biệt khi gợi hình gợi cảm, khi bất ngờ thú vị, có khi góp phần cụ thể
hóa được những gì hết sức trừu tượng, khó cân đong đo đếm. Bích Khê, Hàn Mặc Tử
đã có những câu thơ so sánh bất ngờ thú vị như vậy: Hồn say sưa đương cố lột cho
trần/ Cả sắc đẹp ngời ra như lưỡi kiếm/ Lưỡi lăng líu mất rồi! - tôi đã liếm/ Gì tinh
ba trắng rợn sóng làn môi (Một cõi trời - Bích Khê); (175) Cả trời bỗng diêu diêu
như báu vỡ/ Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm/ Thiên hạ bình, và trời tuôn ơn
phước/ Như triều thiên vờn lượn khắp không gian (Nguồn thơm - Hàn Mặc Tử) [III,
tr. 95]… Hay, những cung bậc âm thanh khác nhau trong bản đàn của Thúy Kiều
được Nguyễn Du miêu tả rất cụ thể qua những so sánh mang tính phát hiện mới mẻ,
cụ thể nhưng rất trừu tượng, khó cân đong đo đếm: Trong như tiếng hạc bay qua/
Đục như tiếng suối mới xa nửa vời/ Tiếng khoan như gió thoảng ngoài/ Tiếng mau
sầm sập như trời đổ mưa (Truyện Kiều). Thế mạnh của biện pháp so sánh là góp
phần gợi ra trong trí tưởng tượng của người đọc những hình ảnh cụ thể, những liên
tưởng thú vị được nói đến.
Căn cứ ngữ cảnh giao tiếp, việc sử dụng các phương tiện và biện pháp phù hợp sẽ
tạo ra những hiệu quả tu từ đặc biệt. Câu ca dao sau là một ví dụ: Đôi ta là bạn thong
dong/ Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng/ Bởi chưng thầy mẹ nói ngang/ Cho nên
đũa ngọc mâm vàng xa nhau. Đũa ngọc, mâm vàng ở dòng thứ hai là so sánh, ở dòng
thứ tư là ẩn dụ. Cùng là một từ ngữ nhưng đũa ngọc, mâm vàng ở câu sau gợi liên tưởng
sâu sắc hơn, gợi cảm hơn về một sự ngang trái, trớ trêu lẽ ra không nên có.
Trong trường hợp khác, các câu với trật tự bình thường nhưng có thể đảo vị trí
trước sau của chủ ngữ, làm thay đổi tiết tấu câu thơ, gây ấn tượng biểu cảm nhờ vào
việc đưa nội dung cần nhấn mạnh lên đầu câu. Đây chính là biện pháp đảo ngữ - một
biện pháp tu từ cú pháp được sử dụng nhiều trong văn học. Bà Huyện Thanh Quan là
một trong những nhà thơ cổ điển Việt Nam đã khai thác rất thành công thế mạnh của
biện pháp tu từ này trong thi phẩm của mình, và đặc điểm này làm cho thơ bà được coi
là mẫu mực của thể thơ Đường luật: Nhớ nước đau lòng con quốc quốc/ Thương nhà
mỏi miệng cái gia gia (Qua đèo Ngang); Gác mái ngư ông về viễn phố/ Gõ sừng mục
tử lại cô thôn (Chiều hôm nhớ nhà)… Cách kết hợp từ ngữ không theo trật tự bình
thường đòi hỏi việc phân tích câu thơ không theo nguyên tắc logic của ngữ pháp thông
100
thường. Nhà thơ, với những ý đồ nghệ thuật riêng của mình, đã sáng tạo và sử dụng
các kiểu câu có cấu trúc đầy biến hóa. Đó là những câu “chệch” ra khỏi quĩ đạo của
trật tự tuyến tính thông thường mà các đơn vị ngôn ngữ luôn phải tuân thủ, tạo nên
những tác động mạnh mẽ và những gợi mở phong phú cho lời thơ. Mà nếu, nhà thơ
vẫn sử dụng ngôn ngữ và cách diễn đạt thông thường, sẽ khó đem lại những giá trị
mới, ý nghĩa mới cho ngôn ngữ thơ ca.
3.1.2. Tu từ với việc biểu hiện phong cách ngôn ngữ cá nhân trong thơ
Thơ là lĩnh vực tình cảm tinh tế, là cách khám phá thế giới bằng xúc cảm, là sự
giao hòa kín đáo giữa đối tượng và chủ thể. Từ cổ đến kim, trong thơ, tu từ đóng một
vai trò hết sức quan trọng. Có thể nói, nếu không có các biện pháp tu từ, thơ ca sẽ có
được giá trị tạo hình, sức truyền cảm mạnh mẽ. Chính các biện pháp tu từ đã góp phần
tạo nên dấu ấn cá nhân độc đáo trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong thơ. Màu sắc
tu từ cũng như hiệu quả tu từ được gợi lên từ các phương tiện ngôn ngữ và các biện
pháp thể hiện khẳng định tài năng của nhà văn, sự giàu đẹp của tiếng Việt và giúp cho
văn học thực hiện được chức năng giao tiếp thẩm mĩ của mình.
Quá trình sử dụng cũng như quá trình tiếp nhận các cách tu từ luôn là một quá
trình suy nghĩ, liên tưởng, đi sâu phát hiện những đặc điểm nào đó của đối tượng
được miêu tả. Tu từ vì thế, là công cụ của tư duy thơ, của khơi gợi, bồi đắp tình cảm
và giúp con người có thêm các chiều liên tưởng để phát triển trí tuệ. Chính trong quá
trình sử dụng và tiếp nhận các phương thức tu từ, con người tự bồi đắp tình cảm, tự
làm giàu khả năng hiểu biết sâu rộng về thế giới tự nhiên, xã hội và đời sống tình
cảm của con người.
Chẳng hạn, trong bài thơ Lòng anh làm bến thu, Chế Lan Viên viết: Buổi sáng
em xa chi/ Cho chiều, mùa thu đến/ Để lòng anh hóa bến/ Nghe thuyền em ra đi! Trong
bài thơ trên, thuyền và bến đưa ta đến khái niệm khác hẳn với quan niệm xưa cũ, sáo
mòn kiểu Thuyền đi để bến đợi chờ/ Tình đi nghĩa ở bao giờ quên nhau/ Chẳng nên tình trước nghĩa sau/ Bến này dãi bóng trăng thâu đợi thuyền (Ca dao dân ca Việt Nam) được mặc định bất biến thuyền - anh, bến - em trong tiềm thức người Việt. Thuyền của Chế Lan Viên để chỉ người em, người vợ đi công tác, đi học tập… xa nhà. Quan niệm người phụ nữ chỉ ru rú, quanh quẩn trong nhà với thân phận lệ thuộc, bị động đã trở nên
lạc hậu, lỗi thời. Bến có thể là người con trai, có thể là người chồng. Đâu phải chỉ đấng mày râu mới gieo thương nhớ cho người ở lại mà lại không có lúc quay quắt vì mong
nhớ, trống trải vì cô đơn khi mình chính là người ở lại, chờ đợi người phụ nữ xa xứ của
101
mình. Cũng những hình ảnh ẩn dụ - nhân hóa, cũng nỗi nhớ da diết sâu nặng mang hơi
thở truyền thống ấy, nhưng khi thay đổi trật tự nhân xưng, lập tức câu thơ làm thay đổi
nhận thức tưởng như đã mặc định. Bài thơ với nét đẹp hiện đại, đã mang đến những
mênh mang xúc cảm, dồi dào suy tưởng về vẻ đẹp, sự mới mẻ của cuộc sống.
Chính cái khác lạ ấy đã khiến ta thay đổi quan niệm trong nhìn nhận, cảm xúc vấn đề, qua đó còn thấy được cái mới, cái ưu việt của chế độ mới: vì sự tiến bộ của
phụ nữ, bình đẳng nam nữ và cảm nhận được tình yêu chung thủy, sự sẻ chia, vị tha ở
người đàn ông.
Một tính cách đạt đến độ ổn định cao, không lặp lại và trở thành dấu hiệu để phân biệt hệ thống công trình sáng tạo này với hệ thống công trình sáng tạo khác thì
gọi là phong cách. Không phải công trình nghệ thuật nào cũng có phong cách mà chỉ
có những công trình đạt đến một trình độ nghệ thuật điển hình mới được gọi là tác
phẩm có phong cách. Phong cách tác giả là kết tinh những tinh hoa nghệ thuật trong
trong những khuynh hướng, trào lưu gắn liền với tên tuổi của cá nhân. Nó được hình
thành từ sự sáng tạo, tức là tác giả bao giờ cũng phải đứng trên những tinh hoa nghệ
thuật của thời đại để sáng tạo ra một sản phẩm nghệ thuật ở trình độ cao hơn. Tuy
nhiên, dù đứng trên bất cứ sự sáng tạo nào, phong cách ngôn ngữ tác giả cũng phụ
thuộc vào hai nhân tố: nhân tố ngoài ngôn ngữ (yếu tố tâm lí, xã hội, văn hóa…) và
nhân tố ngôn ngữ (các phương tiện cấu thành ngôn ngữ như: ngữ âm, từ vựng, ngữ
pháp…). Các yếu tố này đan chéo nhau tạo thành các phương tiện biểu hiện. Phong
cách luôn mang tính đặc trưng riêng cho từng tác giả, trường phái, thời đại…
Trong bài Sắc đẹp, Bích Khê viết: Hồn đê mê, trong khi lòng giận dữ/ Và tạo ra
một thứ sáng hào quang/ Những mặt trời, nhan sắc đẹp như trăng/ Và sắc lẻm như
thanh gươm vấy máu/ Những đôi mắt, kho tàng muôn châu báu/ Có những hàng đũa
ngọc gắp hương yêu. Khác với cách miêu tả bình thường về mặt trời khi xuất hiện: rực
rỡ, ấm nóng, sáng chói… tượng trưng cho sự vươn tới, phát triển; mặt trời (ban ngày)
của Bích Khê xuất hiện mang vẻ đẹp dịu, hết sức gần gũi như vật đối lập trong chu trình vận động thời gian của nó - mặt trăng (đêm); thậm chí, còn hết sức phi logic khi so sánh với thanh gươm vấy máu trong tưởng tượng. Chính cái lạ ấy đã khiến cho chúng ta thay đổi trong cách nhìn nhận sự vật, về giới hạn suy tưởng của con người.
Bên cạnh đó, biện pháp tu từ là chung, cùng một biện pháp, nhà thơ, nhà văn cùng sử dụng; tuy nhiên, ta có thể nhận ra được phong cách của tác giả này hay tác giả kia bởi họ đã sáng tạo văn chương theo năng lực, tài nghệ, sở trường riêng có; vì vậy, đã tạo ra những nét riêng khó có thể trộn lẫn. Chẳng hạn, Xuân Diệu, nhà thơ lãng mạn
102
luôn được gợi hứng về câu chuyện tình yêu đôi lứa từ chính những hình ảnh thiên
nhiên thân thuộc: Anh không xứng là biển xanh/ Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng
(Biển). Trong khi đó, Huy Cận, nhà thơ trữ tình nhân bản mang cảm xúc vũ trụ lại đưa
thành phần vũ trụ, cội nguồn con người vào vế so sánh khi nói về cuộc sống: Đêm thu/
Vỏ cây thơm/ Như da người thơm nắng (Hương đêm thu).
Với tư cách là một công cụ biểu đạt, tu từ cũng là một loại biện pháp nghệ
thuật, là tài sản chung của toàn xã hội như những phương tiện ngôn ngữ khác. Tuy
nhiên, mỗi người, mỗi nhà văn, nhà thơ, khi sử dụng, sẽ có những sự biểu đạt riêng
khác nhau, có khi là cách nói tỉa tót, hoa mĩ, có khi rất bình thường, dung dị… được lặp đi lặp lại sẽ tạo nên phong cách riêng biệt, độc đáo riêng có.
Trên đây là tiền đề lí thuyết quan trọng giúp cho người nghiên cứu có cơ sở để
khảo sát phong cách ngôn ngữ của một tác giả cụ thể. Ở luận án này, chúng tôi sẽ cố
gắng vận dụng tối đa những nội dung lí thuyết đã diễn giải để khảo sát biểu hiện phong
cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử.
3.2. Một số biện pháp tu từ thể hiện dấu ấn phong cách cá nhân trong thơ
Hàn Mặc Tử
Trong ngành Việt ngữ học, có nhiều tên gọi khác nhau về các cách tu từ. Chẳng
hạn: Cách tu từ (Cù Đình Tú), Phương thức tu từ (Lê Anh Hiền), Phép tu từ (Nguyễn
Thái Hòa), Nghệ thuật tu từ (Nguyễn Thế Lịch)… Còn Đinh Trọng Lạc phân xuất chi tiết
và gọi cụ thể bằng khái niệm: phương tiện và biện pháp tu từ. Với cách gọi này, ông đồng
thời cũng xây dựng hệ thống nghiên cứu những đặc điểm tu từ của tiếng Việt trên các cấp
độ: từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp, văn bản, ngữ âm - văn tự. Ở cấp độ nào của ngôn ngữ,
các biện pháp tu từ cũng cần được phân biệt với các phương tiện tu từ ở những đặc trưng
nhất định, trong đó diễn giải thêm về ý nghĩa của các cách tu từ: Ý nghĩa tu từ của biện
pháp tu từ nảy sinh ra trong ngữ cảnh của một đơn vị lời nói nào đó. Còn ý nghĩa tu từ
học của phương tiện tu từ được củng cố ngay ở phương tiện đó [107, tr. 4-10].
Chúng tôi thống nhất sử dụng tên gọi phương tiện và biện pháp tu từ của Đinh Trọng Lạc và cách phân xuất của ông để thuận tiện trong việc phân tích cấu tạo và ngữ nghĩa của đối tượng lựa chọn nghiên cứu mang lại.
3.2.1. Biện pháp so sánh 3.2.1.1. Khái niệm Về biện pháp so sánh tu từ, qua tham khảo từ điển, sách, giáo trình của các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi [71], Nguyễn Thái Hòa [81, 82], Đinh Trọng Lạc [107, 108], Nguyễn Thế Lịch [117, 118, 119], Đặng Lưu [127], Đỗ
103
Lai Thúy [208], Cù Đình Tú [228], Hữu Đạt [42]…, chúng tôi rút ra những đặc trưng cơ
bản của biện pháp so sánh tu từ và áp dụng vào khảo sát, phân tích giá trị biểu hiện phong
cách cửa nó trong thơ Hàn Mặc Tử.
Đề cập đến nội hàm thuật ngữ so sánh, trong 99 phương tiện và biện pháp tu từ
tiếng Việt, Đinh Trọng Lạc viết: “So sánh (còn gọi là so sánh hình ảnh, so sánh tu từ) là
một biện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng khác loại của
thực tế khách quan không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có một nét giống nhau
nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng” [108, tr. 154].
Về mục đích, biện pháp so sánh được hình thành dựa trên quy luật đối chiếu nét liên
tưởng tương đồng của hai hay nhiều đối tượng không đồng loại, không cùng phạm trù
chung ở một đơn vị ngôn ngữ (về từ, câu, văn bản) trong một ngữ cảnh nhất định. Mục
đích của so sánh là gợi ra những hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mĩ, ấn tượng sâu
sắc trong nhận thức của người đọc và người nghe về một hình ảnh, một cảm xúc, một
câu chuyện trong tác phẩm. Nói cách khác, so sánh là một biện pháp tu từ được sử dụng
nhằm tạo nên những giá trị đặc biệt trong biểu đạt nội dung và thể hiện cảm xúc. Đó
cũng là dấu hiệu không thể bỏ qua khi khái quát phong cách ngôn ngữ cá nhân, đặc biệt
là ở thể loại thơ. Chúng tôi sẽ làm rõ điều này qua việc thông kê, phân loại, phân tích
ngữ liệu từ thơ của Hàn Mặc Tử, trong sự đối sánh với một số tác giả cùng thời.
3.2.1.2. Số liệu thống kê Để tìm ra các đặc điểm của biện pháp so sánh tu từ trong thơ Hàn Mặc Tử,
chúng tôi tiến hành thống kê, phân loại cụ thể thơ Hàn Mặc Tử trong sự đối sánh với
các nhà thơ cùng thời: Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Bích Khê. Dưới đây là bảng tổng
hợp kết quả thống kê về số lượng bài sử dụng và số lượt xuất hiện biện pháp so sánh:
Bảng 3.1: Biện pháp so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê,
Xuân Diệu và Nguyễn Bính
Tổng số Tổng số Tổng số Tần suất Tỉ lệ bài sử Nhà thơ bài khảo bài sử lần sử xuất hiện dụng (%) dụng dụng trong bài sát
Hàn Mặc Tử 119 74 218 62.2 1.83
Bích Khê 82 49 170 59.8 2.07
Xuân Diệu 90 63 189 70.0 2.10
Nguyễn Bính 88 51 101 58.0 1.15
104
Biểu đồ 3.1: Tỉ lệ bài sử dụng biện pháp so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính
Qua bảng, biểu trên có thể thấy rằng tỉ lệ bài sử dụng biện pháp so sánh trong
thơ Hàn Mặc Tử khá cao: có 74 trên tổng số 119 bài khảo sát sử dụng biện pháp này,
chiếm 62.2%. So với Xuân Diệu thì tỉ lệ này thấp hơn, còn so với Bích Khê và Nguyễn
Bính thì tỉ lệ này cao hơn 3-4%.
Vì số lượng câu thơ trong mỗi bài thơ ở mỗi tác giả khác nhau, biện pháp so
sánh có thể sử dụng lặp lại nhiều lần trong một bài nên ở đây chúng tôi tính tần suất
xuất hiện trung bình trong mỗi bài ở các nhà thơ được chọn khảo sát. Trung bình biện
pháp so sánh được Hàn Mặc Tử sử dụng 1.8 lần trên một bài thơ, tần suất này thấp hơn
Xuân Diệu, Bích Khê nhưng cao hơn Nguyễn Bính. Điều này không khó lí giải. Thực
tế, không có cách nào làm cho người đọc, người nghe dễ hiểu, dễ nắm bắt điều được
tiếp nhận tốt hơn bằng một sự so sánh cụ thể. Biện pháp so sánh tu từ tạo ra những
hình ảnh cụ thể sinh động, là công cụ giúp ta nhận thức sâu sắc những phương diện
nào đó của sự vật hiện tượng. Đồng thời, so sánh tu từ cũng là phương tiện biểu cảm,
giúp cho câu văn hàm súc, gợi trí tưởng tượng, giúp ta thấy được thái độ yêu ghét,
khen chê, khẳng định hay phủ định của người so sánh. Chính vì thế mà không riêng
Hàn Mặc Tử, các nhà thơ khác cũng ưa dùng biện pháp tu từ này.
3.2.1.3. Các đặc điểm của biện pháp so sánh
Các đặc điểm của biện pháp so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử được luận án xem
xét ở 4 phương diện: (a) Đặc điểm của cấu trúc so sánh; (b) Đặc điểm của từ so sánh;
105
(c) Đặc điểm của yếu tố bị/ được so sánh (yếu tố A); và (d) Đặc điểm của yếu tố so
sánh/ hình ảnh so sánh (yếu tố B).
a. Đặc điểm của cấu trúc so sánh
Một cấu trúc so sánh hoàn chỉnh gồm bốn yếu tố: (1) Đối tượng cần so sánh:
tức là yếu tố bị hay được so sánh (Vế bị/ được so sánh - kí hiệu là vế A); (2) Nội dung
so sánh: yếu tố biểu thị thuộc tính, phương diện so sánh (Cơ sở so sánh); (3) Phương
tiện thể hiện so sánh: yếu tố thể hiện quan hệ so sánh (Từ so sánh); và (4) Đối tượng/
vật chuẩn so sánh: chuẩn mực về tiêu chí so sánh (Vế so sánh - kí hiệu là vế B). Có thể
tóm tắt cấu trúc so sánh đầy đủ như sau:
Đối tượng Yếu tố Yếu tố Đối tượng
bị/được so sánh phương diện so sánh quan hệ so sánh chuẩn so sánh
(2) (3) (4) (1)
tươi như hoa Mặt
Cấu tạo của so sánh tu từ nhất thiết phải có hai vế: Vế được so sánh (kí hiệu là
A) và vế so sánh (kí hiệu là B, hoặc khác A). Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, mô
hình này có thể bị lược bớt hoặc đảo vị trí các yếu tố tạo ra những kiểu biến thể khác
nhau: A - từ so sánh - B; A/B (khuyết từ so sánh); Từ so sánh - B/A; B - từ so sánh A;
A - từ so sánh - A’. Đối với biến thể A/B, về mặt hình thức, từ so sánh không xuất hiện
mà biểu hiện bằng ngữ điệu khi nói hoặc dấu hiệu ngắt câu bằng các phương tiện hình
thức như dấu hai chấm (:), dấu phẩy (,), dấu gạch nối (-) khi viết. Theo Đào Thản,
trong một số trường hợp nhằm làm nổi bật ý so sánh, làm cho ý khẳng định xuất hiện
như là một điều tất yếu nên không dùng từ so sánh [186, tr. 41]. Đinh Trọng Lạc gọi
loại này là so sánh đối chọi [108, tr. 239].
Trong các sáng tác của mình, Hàn Mặc Tử sử dụng 3 kiểu loại cấu trúc: (i) đủ 4
yếu tố, (ii) vắng yếu tố 2, và (iii) vắng yếu tố 2 và 3. Nhà thơ thường sử dụng nhất là
cấu trúc so sánh đầy đủ. Xét trên tổng số lần sử dụng biện pháp so sánh, loại cấu trúc
đầy đủ (bao gồm 4 yếu tố) trong thơ Hàn Mặc Tử chiếm 64.2%; tiếp đến là cấu trúc
vắng yếu tố 2 (tức không xuất hiện cơ sở so sánh); chiếm tỉ lệ ít nhất là loại vắng yếu
tố 2 và 3 (tức vắng cơ sở so sánh và từ so sánh).
106
Bảng 3.2: Cấu trúc so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê,
Xuân Diệu và Nguyễn Bính
HMT BK XD NB
Các kiểu loại cấu trúc Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ
lượng (%) lượng (%) lượng (%) lượng (%)
Đủ 4 yếu tố 140 64.2 91 53.5 93 49.2 49 48.5
Vắng yếu tố 2 76 34.9 79 46.5 83 43.9 48 47.5
Vắng yếu tố 2 và 3 2 0.9 0 0.0 13 6.9 4 4.0
Tổng 218 100 170 100 189 100 101 100
So với Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính thì thơ Hàn Mặc Tử có tỉ lệ sử
dụng cấu trúc đầy đủ cao vượt trội. Ở Bích Khê, tỉ lệ cấu trúc này chiếm trên 50%, còn
ở Xuân Diệu và Nguyễn Bính thì tỉ lệ này chỉ chiếm gần 50%. Có thể quan sát trực
quan qua biểu đồ dưới đây:
Biểu đồ 3.2: Cấu trúc so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê,
Xuân Diệu và Nguyễn Bính
b. Đặc điểm của từ so sánh
Về cấp độ, so sánh tu từ có 4 cấp độ: ngang bằng, không ngang bằng, bậc
nhất và khác biệt, được thể hiện bằng các dạng ý nghĩa tiêu biểu. Mỗi cấp độ, dạng ý
nghĩa này lại có những từ so sánh đặc trưng riêng:
- So sánh mang tính giả định: dùng từ so sánh tiêu biểu: như;
107
- So sánh mang tính khẳng định: dùng từ so sánh tiêu biểu: là;
- So sánh biểu thị quan hệ tương liên: dùng ngữ so sánh: bao nhiêu... bấy nhiêu;
- So sánh biểu thị sự chuyển biến: dùng từ so sánh tiêu biểu: thành/hóa;
- So sánh thể hiện sự tuyệt đối: dùng từ so sánh tiêu biểu: nhất;
- So sánh thể hiện sự chênh lệch: dùng từ so sánh tiêu biểu: hơn/kém;
- So sánh mang tính phủ định: dùng từ so sánh tiêu biểu: không là;
- So sánh thể hiện sự khác biệt: dùng từ so sánh tiêu biểu: khác;
Có thể sơ đồ hóa mô hình cấu trúc so sánh tu từ như sau:
SO SÁNH TU TỪ
Có từ so sánh
Không có từ so sánh
Từ so sánh-B-A
A/B
B-Từ so sánh-A
A-Từ so sánh-A’
A-Từ so sánh-B
So sánh ngang bằng
So sánh bậc nhất
So sánh khác biệt
So sánh không ngang bằng
Phát triển: thành, hóa...
Phủ định: không là, chẳng bằng...
Giả định: như, tựa, dường, y...
Chênh lệch: hơn, kém, thua, không bằng, quá...
Khẳng định: là, bằng, làm, cũng, không khác gì...
Tương liên: bao nhiêu... bấy nhiêu
Tuyệt đối: nhất, là nhất, hơn hẳn, thua hẳn...
Khác biệt: khác, chẳng giống, không như...
Qua khảo sát việc sử dụng các từ so sánh ở bốn nhà thơ Hàn Mặc Tử, Bích
Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính, kết quả cho thấy: các nhà thơ chủ yếu sử dụng so
sánh ngang bằng với ý nghĩa giả định. Ngoài những từ mang tính phổ biến cao trong
khi sử dụng biện pháp so sánh, như: như, là, tựa, hơn, nhất,… thì các nhà thơ còn sử
dụng các từ so sánh ít phổ biến khác. Độ phong phú và mức độ sử dụng từ so sánh ở
mỗi nhà thơ không giống nhau.
108
Bảng 3.3: Cấu trúc loại so sánh tu từ trong thơ Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính
NB như, là, như thể
Loại so sánh So sánh ngang bằng
BK là, như, thành, tợ, tựa
XD như, là, thành, tựa, bằng, cũng là, cũng tựa, dường như, tưởng
HMT như, bằng, chừng như, giống, cũng giống, cũng như, dường, in như, là, như là, ngỡ, như là, như thể, tợ, tựa, tựa hồ như, tưởng chừng như
cũng chưa bằng, hơn
hơn
hơn
So sánh không ngang bằng
hơn hết
So sánh bậc nhất
có khác gì
So sánh khác biệt
khác chi, không khác, không như
Trong cấu trúc so sánh, Hàn Mặc Tử sử dụng rất đa dạng các từ so sánh, đặc biệt là ở cấp độ so sánh ngang bằng: có từ có sánh dùng trong cấu trúc mang ý nghĩa giả định: như, tựa, tợ, dường, như thể, tựa hồ như,...; có từ so sánh dùng trong cấu trúc mang ý nghĩa khẳng định: là, bằng, cũng, cũng như, in như,…; có từ so sánh dùng trong cấu trúc mang ý nghĩa chênh lệch: cũng chưa bằng, hơn; có từ so sánh dùng trong cấu trúc mang ý nghĩa tuyệt đối: hơn hết; có từ so sánh dùng trong cấu trúc chỉ sự khác biệt: khác chi, không khác, không như.
Xét về độ phong phú, đa dạng trong việc sử dụng từ so sánh thì Hàn Mặc Tử hơn hẳn ba nhà thơ còn lại. Ngay cả Xuân Diệu, nhà thơ có số lượng bài và tần suất sử dụng biện pháp so sánh cao cũng không xuất hiện nhiều từ so sánh khác nhau đến vậy. Trong cấu trúc so sánh, Bích Khê và Nguyễn Bính đều không cầu kì, trau chuốt trong việc lựa chọn nhiều kiểu dạng từ so sánh khác nhau để diễn đạt, vì thế vốn từ so sánh của các nhà thơ này đều rất “khiêm tốn”.
c. Đặc điểm của yếu tố bị/ được so sánh (yếu tố A) Vế bị/ được so sánh nêu ra các đối tượng dùng để so sánh với một đối tượng so sánh được nêu ra ở vế so sánh. Trong thơ Hàn Mặc Tử, đối tượng bị/ được so sánh rất đa dạng, song có thể quy thành 7 nhóm: yếu tố chỉ người bao gồm cả các bộ phận cơ thể (tôi, ta, nàng, anh, em, mắt, môi, tay, lòng,…); yếu tố chỉ ái tính/ tình yêu (tình yêu, tình ái, yêu, hôn, nhớ,…); yếu tố chỉ thơ, nhạc (tiếng ca, nhạc vàng, âm nhạc, thơ,…); yếu tố chỉ thời gian (đêm hôm ấy, mùa xuân, đông,…); yếu tố chỉ hiện tượng tự nhiên (nắng, gió, mưa, trăng, sao, biển, sóng,…); yếu tố chỉ đồ vật (bút, xiêm áo, lược,…);
109
và nhóm các yếu tố lẻ tẻ khác mà chúng tôi gộp chung thành nhóm Khác (yếu tố chỉ thực vật; yếu tố chỉ tính chất, cảm xúc; yếu tố trừu tượng;…).
Lấy các nhóm đối tượng bị/ được so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử làm trục chính, luận án đi vào khảo sát các nhóm này trong thơ Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính. Kết quả thu được như sau:
Bảng 3.4: Các đối tượng bị/ được so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính
HMT BK XD NB
Yếu tố A
Người Ái tình Thơ, nhạc Thời gian Hiện tượng tự nhiên Đồ vật Khác Tổng Số lượng 75 11 19 15 35 12 51 218 Tỉ lệ (%) 34.4 5.0 8.7 6.9 16.1 5.5 23.4 100 Số lượng 88 11 13 5 14 5 34 170 Tỉ lệ (%) 51.8 6.5 7.6 2.9 8.2 2.9 20.0 100 Số lượng 73 13 7 11 41 5 39 189 Tỉ lệ (%) 38.6 6.9 3.7 5.8 21.7 2.6 20.6 100 Số lượng 45 14 0 2 7 7 26 101 Tỉ lệ (%) 44.6 13.9 0.0 2.0 6.9 6.9 25.7 100
Biểu đồ 3.3: Các đối tượng bị/ được so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính
110
Từ kết quả khảo sát các đối tượng bị/ được so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử trong
tương quan so sánh với các nhà thơ khác: Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính,
chúng tôi rút ra một vài nhận xét:
Thứ nhất, nhóm các đối tượng chỉ Người ở Hàn Mặc Tử chiếm tỉ lệ cao nhất
(34.4%) so với 6 nhóm đối tượng còn lại. Ở Bích Khê, Xuân Diệu, Nguyễn Bính cũng
diễn ra tình hình tương tự. Như vậy có thể thấy rằng các nhà Thơ mới đều lấy con
người làm trung tâm, là nguồn cảm hứng để diễn tả các cung bậc cảm xúc khác nhau
của mình trong thơ. So sánh với các nhà thơ khác thì tỉ lệ đối tượng bị/ được so sánh
trong thơ Hàn Mặc Tử thấp hơn.
Thứ hai, ở các nhóm đối tượng còn lại, trừ nhóm đối tượng chỉ Ái tình, các
nhóm Thơ, nhạc; nhóm Thời gian trong thơ Hàn Mặc Tử đều chiếm tỉ lệ cao hơn các
nhà thơ khác; tỉ lệ sử dụng nhóm Hiện tượng tự nhiên chỉ thấp hơn Xuân Diệu, tỉ lệ
nhóm Đồ vật chỉ kém Nguyễn Bính. Đối với Hàn Mặc Tử, tình yêu cũng là thứ mà nhà
thơ khát khao nhưng rốt cuộc chỉ toàn đem lại buồn đau. Hàn Mặc Tử bầu bạn với thơ,
nhạc - đó là phương tiện, là người bạn tri kỷ để nhà thơ giãi bày cho vơi tâm sự, nỗi
niềm. Thời gian cũng là nỗi ám ảnh trở đi trở lại trong tâm trí nhà thơ, vì thế, nó thể
hiện ra qua ngòi bút một cách hết sức tự nhiên, không cần cố ép, không cần cầu kì
chọn lựa… Có lẽ vậy, nhóm đối tượng chỉ Thơ, nhạc và nhóm đối tượng chỉ Thời gian
trong thơ Hàn Mặc Tử lại chiếm vị trí ưu tiên như thế.
Thứ ba, ngoài các nhóm trên, thơ Hàn Mặc Tử cũng sử dụng đa dạng các đối
tượng bị/ được so sánh khác: im lặng, vườn tiên, vườn ai, lời nguyền, tiếc mến, mơ
ước, trái cây, mùi cỏ lạ, lá xuân, mùi xiêm, nghĩa lí, đức tin, danh chàng, thinh không,
hư thực, khói, hoài niệm, ngoài vũ trụ, bước đường thi sĩ,… Các từ này chiếm một tỉ lệ
khá cao trong cấu trúc so sánh, chiếm tỉ lệ 23.4%; chỉ thấp hơn Nguyễn Bính (25.7%).
d. Đặc điểm của yếu tố so sánh/ hình ảnh so sánh (yếu tố B).
Xuống dưới, luận án đi vào tìm hiểu đặc điểm của các đối tượng được chọn làm
hình ảnh so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử, và cũng đặt trong sự đối sánh với các nhà thơ
khác. Căn cứ vào tính phổ biến, lặp đi lặp lại của các từ ngữ được lấy làm đối tượng so
sánh trong thơ Hàn Mặc Tử, có thể chia thành 7 nhóm, tuy nhiên, các nhóm này không
hoàn toàn trùng khít với các nhóm đối tượng bị/ được so sánh. Chẳng hạn, các đối
tượng so sánh không có nhóm Ái tình; Thơ, nhạc như nhóm đối tượng bị/ được so
sánh; nhưng lại có nhóm Động vật và Thực vật. Tỉ lệ các đối tượng so sánh trong tổng
số bài thơ khảo sát ở bốn nhà thơ được tổng hợp trong bảng dưới đây:
111
Bảng 3.5: Các đối tượng so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính
HMT BK XD NB
Yếu tố B Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ
lượng (%) lượng (%) lượng (%) lượng (%)
Người 28 12.8 14 8.2 32 17.1 23 22.8
Đồ vật 33 15.1 53 31.2 31 16.6 20 19.8
Thực vật 11 5.0 9 5.3 12 6.4 9 8.9
Động vật 2 0.9 6 3.5 9 4.8 0 0.0
Thời gian 12 5.5 4 2.4 16 8.6 12 11.9
Hiện tượng tự nhiên 35 16.1 25 14.7 33 17.6 7 6.9
Khác 97 44.5 59 34.7 54 29.6 30 29.7
Tổng 218 100 170 100 100 100 189 101
Biểu đồ 3.4: Các đối tượng so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính
Qua bảng và biểu trên có thể thấy đối tượng so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử rất
đa dạng, vì thế, số lượng đối tượng được liệt kê trong nhóm Khác chiếm tỉ lệ cao
(44.5%). Nhóm này, bao gồm các từ ngữ chỉ tính chất, chỉ hoạt động, chỉ đấng siêu
112
hình, chốn hư ảo, thực thể trừu tượng, chẳng hạn như: đê mê, mai mỉa, ngây dại, si,
dại, điên, say, sôi, reo, khoái cảm, chất rượu, linh hồn đang mộng, cõi lòng, Thượng
Đế, ma, tuồng, âm thanh, lời yêu, màu vĩnh viễn,… Chiếm tỉ lệ cao thứ hai là nhóm từ
chỉ Hiện tượng thiên nhiên (16.1%), như: trăng, trời, mây, nguyệt, sấm, sao sa, bóng
nắng,.. Tiếp đến là nhóm từ chỉ Đồ vật (15.1%) và Người (12.8%); các nhóm còn lại
chiếm tỉ lệ thấp hơn.
Khác với Hàn Mặc Tử, các nhà thơ khác thường tập trung vào một vài nhóm
đối tượng để lấy làm hình ảnh so sánh: Bích Khê ưa so sánh với Đồ vật (như: ngọc,
châu, châu báu, đàn, thanh gươm, lưỡi kiếm, đỉnh hương,…), Xuân Diệu thiên về Hiện
tượng, sự vật tự nhiên (như: suối mát, mặt hồ nước, trăng đẹp bình yên, sao rỉ rả,
nguồn sương, ngọn nước trôi xuôi, bông tuyết, biển xanh, bờ cát trắng, cơn mưa, sa
mạc,…); còn Nguyễn Bính thì chủ yếu so sánh với từ ngữ chỉ Người (như: em, môi em,
lòng em, người xưa, người chửa biết yêu, kẻ hàng thần, lũ tàn quân, kẻ sa lầy, Chúa
Chổm, tên lính ở biên cương,…).
Thơ Hàn Mặc Tử lạ, chứ không quen như Nguyễn Bính, không mới như Xuân
Diệu, và cũng khác với cái quái đản của Bích Khê. Trong cấu trúc so sánh của Nguyễn
Bính, ta bắt gặp nhiều hình ảnh và lối so sánh quen thuộc, dân dã, ví dụ: Đôi dây như
thể đôi đường (Một con sông lạnh), Tình nghĩa đổi thay như cơm bữa (Xóm Ngự Viên), Cầu mong cho chị vui như Tết (Xuân tha hương), Nhà ta chữ quý hơn vàng
(Con nhà nho cũ), Đường rừng sỏi đỏ như son (Giữa đường), Đêm dài như thừa trống
canh (Lời kĩ nữ),… Ở Xuân Diệu, các hình ảnh so sánh thường gắn với thiên nhiên êm
dịu, trong sáng, như: Lá liễu dài như một nét mi (Nhị hồ), Cuộc đời đìu hiu như dặm
khách (Chỉ ở lòng ta), Thờ thẫn cây đa trên bến cũ/ Đêm đêm như nhớ chị đò xưa
(Buổi chiều), Lá như con mắt cụm mây nhìn/ Trái tựa hình tim, chim hót xin (Lưu học
sinh),… Bích Khê thì rất hay sử dụng các hình ảnh châu, châu báu, ngọc, đàn làm đối
tượng so sánh: Đâu đôi mắt mùa thu xanh tợ ngọc? (Mộng cầm ca), Múi trắng sao như ngọc! (Quả măng cụt), Cười thơm như ngọc đội hương (Sầu lãng tử), Ôi! Cặp mắt của người xanh tợ ngọc (Cặp mắt), Ở trong cặp mắt như châu ấy, Em đã là châu lệ cũng châu, Giờ đôi mắt hiện xanh như ngọc, Tôi chết rồi! Tiếng nói như châu, Cho em thờ phụng như châu báu (Châu III); Đây tân hôn ngào ngạt vị như đàn, Trên tay tôi, êm ái
tợ đàn tơ? (Trái tim), Miệng như đàn nói ra thành điệu (Một cõi trời),… Còn Hàn Mặc Tử đem đến những lối liên tưởng rất lạ và bất ngờ: (176) (Trăng) thơm như tình ái của ni cô (Huyền ảo) [I, tr. 155], (177) (Xuân trên má nường thơ) Ngon như tình mới cắn
(Cao hứng) [I, tr. 161], (178) Tiết trinh còn, em phúc hậu hơn thơ (Dấu tích) [I, tr.
113
172], (179) Người thơ phong vận như thơ ấy (Xuân đầu tiên) [I, tr. 191], (180) Nở một
lượt giàu sang hơn Thượng Đế (Đêm xuân cầu nguyện) [I, tr. 192], (181) (Ân tình)
mong manh như lời nhớ thương hàng triệu, Thinh không tan như bào ảnh hư vô (Sao,
vàng sao/ Đừng cho lòng bay xa) [I, tr. 202], (182) Mùi thơm anh nồng hơn chất rượu
nóng/…/ Người trai tơ thuỳ mị như tình duyên (Duyên kì ngộ) [III, tr. 129], (183) Người tôi rung động như âm thanh (Tiêu sầu) [III, tr. 119],… Hàn Mặc Tử còn thường
sử dụng cấu trúc so sánh vắt dòng, nghĩa là vế bị/ được so sánh nằm ở dòng trước, còn
vế so sánh nằm ở dòng tiếp theo, và một yếu tố A được so sánh với liên tiếp các yếu tố
B khác nhau, như: (184) Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh!/ Run như run thần tử thấy long nhan/ Run như run hơi thở chạm tơ vàng, Thơ cầu nguyện là thơ quân tử ý/ Là Nguồn
Trăng yêu mến nữ Đồng Trinh/ Là Nguồn Đau chầu luỵ Nữ Đồng Trinh (Ave Maria)
[I, tr. 195 - 196]; ta còn bắt gặp cả hiện tượng đảo trật tự các yếu tố hay đảo vế trong
cấu trúc so sánh thông thường tạo các biến thể cấu trúc lạ, chẳng hạn: (185) Thơ anh
sẽ như trầm hương ngào ngạt (Duyên kì ngộ) [II, tr. 112], (186) Trời tuy xa lòng thiếu
nữ xa hơn (Dấu tích) [I, tr. 172], (187) Ta có như ai thèm phú quý (Một đêm nói
chuyện với gái quê) [I, tr. 141],…
Tóm lại, biện pháp so sánh là biện pháp tu từ được Hàn Mặc Tử sử dụng nhiều
trong các sáng tác thơ của mình. Nhà thơ thường sử dụng cấu trúc so sánh gồm đầy đủ
4 yếu tố; sử dụng từ so sánh đa dạng; yếu tố bị/ được so sánh thường thuộc nhóm đối
tượng chỉ thời gian, thơ và nhạc; còn yếu tố so sánh thì rất phong phú, thuộc nhiều đối
tượng khác nhau. Trong thơ Hàn Mặc Tử, ta thấy có sự khác biệt bất ngờ giữa yếu tố
bị/ được so sánh với yếu tố so sánh, điều này tạo nên cái phi lí tính của cấu trúc so
sánh tu từ. Chính nhờ đó mà hiệu quả diễn đạt, hiệu quả thẩm mĩ được nảy sinh. Một
so sánh tu từ “đúng chuẩn” phải thỏa mãn hai điều kiện: (i) Các đối tượng được đưa ra
so sánh là khác loại; (ii) Nêu ra đúng nét giống nhau giữa hai đối tượng. Tài nghệ của
Hàn Mặc Tử chính là ở chỗ phát hiện chính xác những nét tương đồng bất ngờ giữa
hai đối tượng khác loại, điều mà người khác không để ý hoặc không nhận thấy để đưa vào cấu trúc so sánh. Những đặc điểm sử dụng biện pháp so sánh nói trên đã làm nên nét đặc trưng trong phong cách Hàn Mặc Tử.
3.2.2. Biện pháp nhân hoá 3.2.2.1. Khái niệm
“Nhân hoá (còn gọi: nhân cách hoá) là một biến thể của ẩn dụ, trong đó người
ta lấy những từ ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của con người để biểu thị thuộc tính,
dấu hiệu của đối tượng không phải là con người, nhằm làm cho đối tượng được miêu
114
tả trở nên gần gũi dễ hiểu hơn, đồng thời làm cho người nói có khả năng bày tỏ kín
đáo tâm tư, thái độ của mình” [108, tr. 63]. Còn theo cách hiểu phổ biến hiện nay thì
nhân hoá là cách gọi những đồ vật, con vật, cây cối, hiện tượng diễn ra xung quanh
bằng những từ ngữ vốn dùng để chỉ con người, mang tính chất của con người. Để làm
nổi rõ dấu ấn phong cách cá nhân thể hiện trong thơ Hàn Mặc Tử, chúng tôi xem xét
việc sử dụng biện pháp nhân hoá ở 3 phương diện: số lượng bài sử dụng và số lượt
xuất hiện; các kiểu loại nhân hoá; và hình ảnh nhân hoá.
3.2.2.2. Số liệu thống kê
Trong thơ ca, biện pháp nhân hoá được nhiều nhà thơ ưa dùng. Tuỳ thuộc vào
kiểu lựa chọn của mỗi nhà thơ mà biện pháp này có thể được sử dụng nhiều hay ít.
Nhận thấy thơ Hàn Mặc Tử đan xen khá nhiều hình ảnh nhân hoá, chúng tôi đi vào
thống kê số lượt sử dụng nhân hoá và số bài sử dụng trên tổng số bài khảo sát. Đồng
thời, để khách quan trong việc nhận định và đánh giá, luận án còn tiến hành thống kê
thơ của ba nhà thơ được chọn khảo sát là Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính. Kết
quả được tổng hợp lại trong bảng sau:
Bảng 3.6: Biện pháp nhân hoá trong thơ Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính
Tổng số Tổng số Tổng số Tỉ lệ bài Tần suất
Tác giả bài khảo bài sử lần sử sử dụng xuất hiện
dụng dụng trong bài sát (%)
119 75 199 63.0 1.7 Hàn Mặc Tử
82 37 114 45.1 1.4 Bích Khê
90 60 242 66.7 2.7 Xuân Diệu
88 12 17 13.6 0.2 Nguyễn Bính
Từ bảng kết quả trên có thể thấy:
Tỉ lệ bài sử dụng biện pháp nhân hoá trong thơ Hàn Mặc Tử (63%) cao hơn
nhiều so với Bích Khê (45.1%) và Nguyễn Bính (13.6%); và gần tương đương với
Xuân Diệu (66.7%). Biểu đồ dưới đây thể hiện cụ thể hơn tương quan so sánh này:
115
Biểu đồ 3.5: Biện pháp nhân hoá trong thơ Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính
Trong một bài thơ, các nhà thơ có thể sử dụng lặp lại nhiều lần biện pháp nhân
hoá. Vì thế, nếu xét trung bình tổng số lần sử dụng trên tổng số bài khảo sát thì mỗi bài
thơ của mỗi nhà thơ đều sử dụng hơn một lần biện pháp nhân hoá, ngoại trừ thơ Nguyễn
Bính. Thơ Hàn Mặc Tử có tần suất xuất hiện hình ảnh nhân hoá là 1.7 lần/ bài, hay nói
cách khác, trung bình mỗi bài sử dụng khoảng 2 lần biện pháp này. Tần suất xuất hiện
hình ảnh nhân hoá trong thơ Hàn Mặc Tử thấp hơn so với Xuân Diệu (2.7 lần/ bài) nhưng
cao hơn Bích Khê (1.4 lần/ bài) và cao hơn nhiều so với Nguyễn Bính (0.2 lần/ bài).
3.2.2.3. Các kiểu loại nhân hoá
Nhân hoá có thể chia làm 3 kiểu loại: (1) Sử dụng các từ ngữ chỉ tính chất, hoạt động
của con người để chỉ hoạt động, tính chất của vật; (2) Sử dụng các từ ngữ thường gọi con
người dùng để gọi vật; và (3) Dùng các từ ngữ xưng hô với vật như với con người.
(1) Sử dụng các từ ngữ chỉ tính chất, hoạt động của con người để chỉ hoạt động,
tính chất của vật
Đây là hình thức dùng hành động, tính chất của người để miêu tả sự vật, thường
tạo cho câu nhiều tầng nghĩa, gợi hình, gợi ảnh và khiến cho tác phẩm trở nên sinh
động hơn. Hình thức nhân hóa này mang lại hiệu quả nghệ thuật khá cao, khiến các sự
vật trở nên sống động hơn và lời văn, ý thơ tạo được ấn tượng mạnh.
116
Hàn Mặc Tử thường xuyên sử dụng các từ ngữ chỉ hoạt động, tính chất của
người gán cho sự vật, hiện tượng xung quanh để gửi gắm tâm sự của mình. Chẳng hạn:
(188) Trăng đang nằm trên sóng cỏ/ Cỏ đưa trăng đến bên ao/ Trăng lại đẫm mình
xuống nước/ Trăng nước đều lặng nhìn nhau.../ Đôi ta bắt chước thì sao? (Bắt chước)
[II, tr. 71]. Ở ví dụ này, trăng, cỏ, nước đều được Hàn Mặc Tử nhân cách hoá, hành
động như con người: trăng nằm, cỏ đưa trăng, trăng đẫm mình, trăng nước lặng nhìn
nhau. Bằng con mắt của một trái tim yêu, Hàn Mặc Tử nhìn vạn vật xung quanh cũng
như đang tình tứ. Từ cảnh, ngẫm mình, nhà thơ tế nhị bày tỏ khát khao yêu bằng câu
ướm hỏi: Đôi ta bắt chước thì sao?...
(2) Gọi sự vật bằng những từ chỉ người
Hình thức gọi sự vật bằng những từ chỉ người khá phổ biến trong văn xuôi,
truyện, thơ cho thiếu nhi. Trong nhiều bài văn, các con vật thường được gọi bằng
những đại từ chỉ người như: chú, chị, ông,.. Cách gọi này khiến cho sự vật trở nên gần
gũi, thân thuộc hơn. Trong thơ, Hàn Mặc Tử không dùng nhiều các từ chỉ người để gọi
cho vật, mà chỉ thường xuyên sử dụng từ nàng và nường để gọi trăng. Cách gọi ấy
chứa đầy sự yêu thương, trân trọng. Trăng đã trở thành đối tượng để nhà thơ giãi bày
nỗi niềm, tình cảm với người trong mộng: (189) Ta gặp nàng Trăng ở suối Trăng/ Nỗi
lòng ta mở lẹ như phăng (Chơi trên trăng) [IV, tr. 246].
(3) Xưng hô với vật như với con người
Đây là một trong những hình thức của biện pháp nhân hóa thường được áp
dụng khi nhân vật đang độc thoại nội tâm, bằng cách dùng các từ ơi, hỡi,… Cách xưng
hô với vật như với con người được Hàn Mặc Tử sử dụng khá nhiều với các đối tượng
như: gió, trăng,… Ông gọi các sự vật đó trìu mến, thiết tha như gọi cố nhân, gọi người
yêu, tri kỷ, bè bạn,… Chẳng hạn: (190) Tôi ưng quá! Tôi ưng nàng/ Nàng xa xa lắm,
ơi nàng Trăng ơi! (Ưng trăng) [III, tr. 105]; (191) Gió ơi lại đấy mà ngừa/ Tôi đứng xa
lắm xin chừa tôi đi (Say nắng) [I, tr. 160].
Về mặt định lượng, qua thống kê biện pháp nhân hoá trong thơ Hàn Mặc Tử,
chúng tôi nhận thấy nhà thơ ưa sử dụng kiểu loại (1), tiếp đến là kiểu loại (2) và cuối
cùng là kiểu loại (3) (x. Biểu đồ 4.6). Cũng như Hàn Mặc Tử, các nhà thơ Xuân Diệu,
Bích Khê và Nguyễn Bính cũng sử dụng chủ yếu kiểu loại (1), với tỉ lệ trên 90%;
ngược lại, kiểu loại (3) được sử dụng ít nhất, chiếm không quá 2%.
117
Biểu đồ 3.6: Các kiểu loại nhân hoá trong thơ Hàn Mặc Tử
Tỉ lệ sử dụng các kiểu loại nhân hoá giữa các nhà thơ được thể hiện cụ thể trong
bảng dưới đây:
Bảng 3.7: Các kiểu loại nhân hoá trong thơ Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính
Nhà thơ HMT BK XD NB
Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Kiểu loại nhân hoá lượng (%) lượng (%) lượng (%) lượng (%)
Sử dụng các từ ngữ chỉ tính
chất, hoạt động của con 190 95.5 109 95.6 218 90.1 16 94.1 người để chỉ hoạt động, tính
chất của vật
Sử dụng các từ ngữ thường 6 3.0 4 3.5 20 8.3 1 5.9 gọi con người dùng để gọi vật
Dùng các từ ngữ xưng hô 3 1.5 1 0.9 4 1.7 0 0.0 với vật như với con người
Bảng trên cho thấy Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính đều chỉ
Tổng 199 100 114 100 242 100 17 100
hay sử dụng các từ ngữ chỉ tính chất, hoạt động của con người để tả vật (1), còn ít sử
dụng các từ ngữ thường gọi con người để gọi vật (2) và cũng ít dùng các từ ngữ xưng
118
hô với vật như với con người (3). Hàn Mặc Tử và Bích Khê có tỉ lệ sử dụng kiểu loại
nhân hoá (1) xấp xỉ nhau: (96%); Xuân Diệu (90%); và Nguyễn Bính (94%). Điều này
cũng phản ánh một thực tế: thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê và Nguyễn Bính chỉ tập trung sử
dụng kiểu loại (1). Riêng Xuân Diệu sử dụng kiểu loại (2) và (3) với số lượng nhiều nên tỉ
lệ sử dụng chúng cũng cao hơn so với ba nhà thơ còn lại, kéo theo đó tỉ lệ kiểu loại (1)
thấp hơn, mặc dù xét về số lượng bài sử dụng và tần suất sử dụng thì thơ ông vẫn dẫn đầu
trong sử dụng biện pháp nhân hoá.
3.2.2.4. Hình ảnh nhân hoá
Hình ảnh nhân hoá bao gồm việc lựa chọn đối tượng nhân hoá và chọn từ kết
hợp với đối tượng được chọn để nhân hoá. Trong thơ, Hàn Mặc Tử sử dụng đa dạng
các đối tượng nhân hoá, song chủ yếu vẫn là các sự vật, hiện tượng thiên nhiên, như
trăng, gió, mây, trời, nước,… hay cỏ, cây, hoa, lá. Bảng thống kê các đối tượng nhân
hoá trong thơ Hàn Mặc Tử cho thấy ngoài các đối tượng có tần số xuất hiện thấp (được
gộp trong mục Khác), thì trăng có tỉ lệ xuất hiện cao nhất (chiếm 19.2%); tiếp đến là
gió (14%), xuân (7.6%),… Các đối tượng này thường xuyên được Hàn Mặc Tử sử dụng
để diễn tả tâm trạng, gửi gắm nỗi niềm tâm sự của chính nhà thơ.
Bảng 3.8: Các đối tượng nhân hoá trong thơ Hàn Mặc Tử
Đối tượng nhân hoá Số lần xuất hiện Tỉ lệ (%)
Trăng 33 19.2
Gió 24 14.0
Xuân 13 7.6
Trời 10 5.8
Hoa 10 5.8
Mây 8 4.7
Nước 7 4.1
Khác (cát, nắng, cây, cỏ,
hương, trầm, dưa, đồi,… ) 67 39.0
Tổng số 172 100
119
Biểu đồ 3.7. Các đối tượng nhân hoá trong thơ Hàn Mặc Tử
Xét về đối tượng nhân hoá, về cơ bản, Hàn Mặc Tử không có nhiều đổi mới so
với các nhà thơ khác trong phong trào Thơ mới. Nếu như Hàn Mặc Tử sử dụng trăng,
gió, xuân, trời, hoa, mây, nước,… thì Bích Khê, Xuân Diệu cũng hay lấy đó làm đối
tượng nhân hoá trong thơ mình. Nguyễn Bính ít sử dụng nhân hoá, đối tượng nhân hoá
phân tán, không tập trung vào một vài sự vật, hiện tượng như các nhà thơ còn lại.
Chỉ có một số đối tượng có thể coi là chỉ riêng biệt ở nhà thơ này mà không
xuất hiện ở nhà thơ khác, chẳng hạn như: Hàn Mặc Tử lấy đối tượng: tiếng ca, lau,
dưa, dạ lan, tiếng vang, thương nhớ, khí hậu, xác thịt, tháp, khói trầm, mộng, giấy,
chiêm bao,… Đây đều là những sự vật, sự việc, hiện tượng ít xuất hiện trong vai trò là
đối tượng nhân hoá. Thơ Bích Khê cũng xuất hiện những đối tượng nhân hoá ít sử
dụng trong thơ của các nhà thơ khác: tương tư, hồn, tiếng ngọc, máu, oanh, bóng thời
gian, gương, châu báu, thanh khí, con quạ,… Xuân Diệu, có: hương đêm, tình yêu,
vườn, phù dung, hơi mát, bông hường, tháng giêng, sợi, tơ… Còn Nguyễn Bính: vũng
nước, chuông, cúc, trúc, bướm, lệ,…
Xét từ dùng để kết hợp với các từ chỉ đối tượng nhân hoá mới thấy hết sự đa
dạng về sử dụng ngôn từ của Hàn Mặc Tử. Các từ ngữ chỉ hành động, tâm trạng, tính
cách, ngoại hình,… vốn được dùng cho con người, nay Hàn Mặc Tử lựa chọn để gán
120
cho vật. Các động từ chỉ hoạt động, như: lang thang, phiêu bạt, giật mình, cảm động,
nhớ nhung, lờ, choáng váng, vội vàng, kêu rên, rên rỉ, rên siết, than, đợi, hôn, tắm,
giỡn, say, rên, reo, gọi, cợt, nấc, quì, ôm, ghì, cấu, cào, nhai, mớm, liếm,… Các tính từ
chỉ trạng thái, dáng vẻ như: lơi lả - lả lơi, lả lướt, hờ hững - hững hờ, bẽn lẽn, nghẹn
ngào, bùi ngùi, bâng khuâng, hổn hển, não nề, chán chường, buồn buồn, buồn thiu, bơ
vơ, yếu đuối, xanh xao, hoi hóp, rã rời, mệt lả, sầu, hoảng hốt, loạn,… Những từ này
được sử dụng để lột tả các trạng thái cảm xúc của Hàn Mặc Tử: nỗi khao khát nhớ,
khao khát yêu; nỗi cô đơn, chán chường, thất vọng; nỗi đau đớn rã rời vì bệnh tật; sự
giật mình hoảng hốt trước sự trôi chảy của thời gian, rồi thôi buồn, thôi hờ hững, biết
tiếc nuối và sống vội vàng, gấp gáp hơn,…
Cũng là một nhà thơ thuộc Trường thơ Loạn như Hàn Mặc Tử, nhưng hệ thống
vốn từ mà Bích Khê lựa chọn để gán cho sự vật, hiện tượng lại mang đậm màu sắc của
cuồng say, nhục dục: đi lạc, xô, pha màu, phơi màu, khóc mướt, chảy lệ, rớt lệ, mở
màn trinh, nghẹn tiếng, say nghiền, hỏi, tìm, cười, khen, thở, ngủ, lay, đùa, nhổm, nằm,
lột, tắm, ghen; cuồng run, tê ngời, đê mê, giận dữ, căm hờn, ảo não, vật vờ, hơ hớ,
lặng, im im, run, ốm, câm,… Ngôn từ trong thơ Bích Khê không khô cứng với một lớp
ý nghĩa, nó dẫn dụ người đọc đến một trường liên tưởng trong tư duy. Còn vốn từ mà
Xuân Diệu dùng để kết hợp với đối tượng nhân hoá phần lớn thể hiện các cung bậc
cảm xúc và trạng thái của tình yêu: âu yếm, nhớ thương, than thầm, hờn ghen, giận tủi,
trách móc, thẫn thờ, ngẩn ngơ, mơ màng, van vỉ, lặng yên, khóc, cười, múa, hát, reo,
ôm; rộn ràng, dịu dàng, ngơ ngác, buồn, run rẩy, u uất, tê tái, lạnh lùng… Cũng gửi
gắm nhiều nồi niềm yêu vào thơ, nhưng Nguyễn Bính không ồn ào, không cuồng nộ.
Nhà thơ diễn tả nỗi đợi chờ, sự hao mòn, trông ngóng tình yêu qua các từ dùng để kết
hợp với đối tượng nhân hoá: yêu, đợi, chờ, nhắn, trả, cưới, đau, sụt sùi ngồi khóc, thở
dài, mỉm miệng cười,…
Để cụ thể hoá những điều diễn đạt ở trên, có thể xem các hình ảnh nhân hoá
(hay các kết hợp đối tượng nhân hoá với từ dùng để nhân hoá) được đưa ra làm ví dụ
trong bảng sau:
121
Bảng 3.9: Một số hình ảnh nhân hoá trong thơ Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính
HMT
BK
XD
NB
Kiểu loại
nhân hoá
Sử dụng các từ
Hoa sợ,
Hoa cười,
Hoa tủi,
Hoa đợi,
ngữ
chỉ
tính
Trăng ngã ngửa,
Trăng quấn
Trăng lặng lẽ,
Bướm dạy thêu
chất, hoạt động
Gió phăng
quýt
Chim nhớ,
Cây đàn sum
của con người
phăng
Chim vô tình,
Cành thương,
họp,
Chữ say
để
chỉ
hoạt
Gió rên,
Gió lưu lạc,
Gió thở dài,
động, tính chất
Hồn đau rã
Lá vật vờ,
Ánh sáng reo,
Chim nhắn,
của vật
Xuân bối rối,
Đêm rớt lệ,
Tháng giêng
Trúc gầy,
Sóng triều rên rỉ,
Sao nằm,
cười,
Cúc mỉm cười,
Cây run cầm
Hồn say
Núi đứng
Chuông đau,…
cập,.
nghiền,..
nghĩ,…
Sử dụng các từ
Nàng trăng,
Nàng thơ,
Nàng trăng,
Vợ chồng con
ngữ thường gọi
Nường trăng
Nường trăng
Ngươi (trăng,
Bướm
xuân),
con người dùng
Người (gió),
để gọi vật
Cô (trăng),
Lũ mây,…
Dùng các từ
Hỡi trăng,
Ngươi (gương
Hỡi (xuân, gió,
ngữ xưng hô
Ơi (trăng),…
thuỷ tinh)
trăng)
với vật như với
con người
Có thể nói, cùng mang những nỗi buồn của thời đại, song mỗi nhà thơ lại mang
cả những nỗi niềm riêng, bởi thế, việc tỏ bày hiển hiện qua ngôn từ cũng mang đậm
dấu ấn và phong cách cá nhân. Với Hàn Mặc Tử, có lẽ do căn bệnh hiểm nghèo và do
trải nghiệm nhiều nỗi thất vọng chán chường trong tình yêu nên vốn từ mà ông dùng
để chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật, hiện tượng xung quanh thường đượm màu
buồn hơn vui. Hàn Mặc Tử mượn từ chỉ người để gán cho vật, nhưng rồi cuối cùng
những hình ảnh mà ông tạo ra lại quay lại chỉ tâm trạng của chính bản thân mình.
122
3.2.3. Biện pháp điệp ngữ
3.2.3.1. Khái niệm
Điệp ngữ là một trong những biện pháp tu từ được sử dụng khá phổ biến trong
thơ. “Điệp ngữ (còn gọi: lặp) là lặp lại có ý thức những từ ngữ nhằm mục đích nhấn
mạnh ý, mở rộng ý, gây ấn tượng mạnh hoặc gợi ra những xúc cảm trong lòng người
đọc, người nghe. Điệp ngữ có cơ sở quy luật tâm lí: một vật kích thích xuất hiện nhiều
lần sẽ làm người ta chú ý [108, tr. 93]. Và “Với nhiều hình thức phong phú, điệp ngữ
có khả năng tạo hình, mô phỏng âm thanh, diễn tả nhiều sắc thái khác nhau của tình
cảm: vui mừng, cảm động, thiết tha, trìu mến, đau thương, thâm trầm, miên man, mỉa
mai, châm biếm” [108, tr. 96].
3.2.3.2. Số liệu thống kê
Trong các sáng tác thơ của mình, Hàn Mặc Tử thường xuyên sử dụng biện pháp
điệp ngữ để gia tăng giá trị biểu cảm. Nếu thơ ca trung đại do chịu sự ràng buộc của
những quy định về niêm, luật, đối nên việc lặp lại một từ, ngữ trong một dòng, một
câu hay nhiều khổ thơ là hết sức hạn chế thì các nhà Thơ mới có sự cách tân về thi
pháp, thế là, điệp mới trở thành một biện pháp tu từ nghệ thuật quan trọng và được sử
dụng rộng rãi. Trước sự phổ biến của biện pháp này thì cái gì, cách thức nào làm nên
phong cách riêng của từng tác giả, trong đó có Hàn Mặc Tử - đối tượng mà luận án
hướng đến? Để trả lời cho câu hỏi này, chúng tôi tiến hành khảo sát số bài sử dụng và
số lượt sử dụng điệp trong thơ Hàn Mặc Tử, đồng thời so sánh với thơ Bích Khê, Xuân
Diệu, và Nguyễn Bính. Kết quả thống kê được thể hiện ở bảng dưới đây.
Bảng 3.10: Biện pháp điệp trong thơ Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính
Tổng số Tổng số Tổng số Tỉ lệ bài Tần suất
Tác giả bài khảo bài sử sử dụng xuất hiện lần sử
sát dụng dụng (%) trong bài
119 77 215 64.7 1.81 Hàn Mặc Tử
82 60 266 73.2 3.24 Bích Khê
90 61 137 67.8 1.52 Xuân Diệu
Kết quả thống kê chỉ ra rằng, cả bốn nhà Thơ mới đều coi điệp như một biện
88 58 163 65.9 1.85 Nguyễn Bính
pháp tu từ quan trọng, do đó, điệp xuất hiện phổ biến trong nhiều sáng tác của các thi
123
sĩ. Trên tổng số bài khảo sát, số lượng bài sử dụng điệp đều chiếm từ 65% trở lên; cao
nhất là thơ Bích Khê, có số bài sử dụng trên 73%. Bích Khê cũng là người sử dụng
nhiều lần biện pháp điệp trong một bài thơ nhất, trung bình 3.2 lần/ bài. Nếu xét số bài
sử dụng thì thơ Hàn Mặc Tử có tỉ lệ thấp hơn cả so với ba nhà thơ còn lại, nhưng xét về
tần suất xuất hiện trong mỗi bài thì Hàn Mặc Tử chỉ cao hơn Xuân Diệu. Như vậy, điệp là
một biện pháp được Hàn Mặc Tử sử dụng nhiều trong các sáng tác thơ của mình, song
xét trong mối tương quan so sánh với ba nhà thơ Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn
Bính thì thơ Hàn Mặc Tử không nổi trội về mặt định lượng.
3.2.3.3. Các kiểu loại điệp a. Căn cứ vào tính chất của tổ chức cấu trúc, Đinh Trọng Lạc chia điệp ngữ
thành 3 dạng: điệp ngữ nối tiếp, điệp ngữ cách quãng và điệp ngữ vòng tròn (điệp ngữ
chuyển tiếp) [108, tr. 93]. Khảo sát thơ Hàn Mặc Tử, chúng tôi cũng dựa trên cách
phân loại này.
(1) Điệp ngữ nối tiếp, theo Đinh Trọng Lạc: “Điệp ngữ nối tiếp là dạng điệp
ngữ trong đó những từ ngữ được lặp lại trực tiếp đứng bên nhau nhằm tạo nên ấn
tượng mới mẻ có tính chất tăng tiến” [108, tr. 93 - 94]. Trong thơ Hàn Mặc Tử, các
đơn vị ứng với các cấp độ ngôn ngữ khác nhau (từ, ngữ, câu) đều có thể được xếp cạnh
nhau theo kiểu điệp nối tiếp.
- Điệp nối tiếp từ
Trong bài thơ Trăng vàng trăng ngọc, Hàn Mặc Tử sử dụng lặp lại nhiều lần
biện pháp điệp nối tiếp: (192) Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng Trăng!/ Ai
mua trăng tôi bán trăng cho… Không, Không, Không! Tôi chẳng bán hồn (hòn)
Trăng/ Tôi giả đò chơi, anh tưởng rằng… Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng,
Trăng!/ Trăng sáng trăng sáng khắp mọi nơi… Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng,
Trăng, Trăng! (Trăng vàng trăng ngọc) [II, tr. 89].
Trăng xuất hiện nối tiếp ba lần liên tục, rồi sau đó cách bởi từ là, và tiếp tục lặp
ba lần nữa, tạo thành một câu mà xuất hiện tới sáu từ Trăng. Bản thân câu này cũng
lặp lại theo lối cách quãng ở ba vị trí trong bài thơ: mở đầu, đoạn giữa và kết thúc bài
thơ, và ở mỗi vị trí, nó lại đem đến một hiệu ứng và ý nghĩa nghệ thuật khác nhau. Đây
là cách sử dụng hiếm gặp ở các nhà thơ khác, ngay cả Bích Khê - một nhà thơ có tỉ lệ
bài sử dụng điệp và tần suất sử dụng biện pháp điệp rất cao. Ở vị trí mở đầu bài thơ, từ
trăng lặp đi lặp lại tạo ấn tượng về một lời rao, chẳng khác nào lời rao của mấy bà hàng
sáo, hàng rong. Quả đúng như vậy, Hàn Mặc Tử rao bán Trăng! Ở đầu khổ tiếp theo, từ
124
Không được điệp nối tiếp ba lần, để nhấn mạnh ý phủ định: tôi chẳng bán trăng đâu, Tôi
giả đò chơi thôi, anh đừng dại mà tin. Lời phủ định Không, Không, Không khiến ta hình
dung ra cả cử chỉ phi lời xua tay rối rít khi ai đó hỏi mua trăng vàng, trăng ngọc. Ở khổ
thứ ba, Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng! lại lặp lại nhưng không phải là
tiếng rao bán, mà đó như là tiếng reo vui ngỡ ngàng trước ánh sáng rạng ngời tràn mọi
nẻo của trăng. Đến khi kết thúc bài thơ, câu này vẫn tiếp tục lặp lại lần nữa, lúc này,
trăng thực đã trở thành trăng mộng ảo, trăng trong tiềm thức, dù có trăng hay không có
trăng trước mặt thì tâm trí nhà thơ vẫn bị choáng ngợp bởi trăng.
Với loại điệp nối tiếp từ như ví dụ trên, trong thơ Hàn Mặc Tử còn bắt gặp
những câu thơ khác lặp tương tự, như: (193) Phượng Trì, Phượng Trì, Phượng Trì,
Phượng Trì (Thánh nữ đồng trinh Maria) [I, tr. 197]; (194) Ôi trời ôi! là Phan Thiết!
Phan Thiết/…/ Hỡi Phan Thiết! Phan Thiết! (Phan Thiết! Phan Thiết!) [I, tr. 198 -
199]; (195) Anh cắn cắn cắn cắn (Anh điên) [I, tr. 200]; (196) A! A! A! (Ra đời) [I, tr.
190]; (197) Mi! Mi! Mi! Có nghe trong gió thẳm (Quần tiên hội) [II, tr. 117]; (198)
Rủ rê, rủ rê hai đứa tôi vào rừng hoang/…/ Trăng! Trăng! Trăng! Trăng! (Rượt
trăng) [IV, tr. 243];… Các từ được lặp lại khi thì như tiếng reo, khi thì như lời gọi hối
thúc, khi diễn tả hành động được lặp nhiều lần,… Tất cả đều thể hiện sự vội vàng, gấp
gáp, cuống quít trước sự trôi chảy của thời gian.
- Điệp nối tiếp ngữ
Loại điệp này có tác dụng khẳng định hay nhấn mạnh thông tin, đôi khi, gợi sự
chì chiết, dằn vặt. Ví dụ: (199) Người khóc đi, khóc đi cho hả nỗi hờn căm! (Thi sĩ
Chàm) [I, tr. 157]; (200) Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước (Thánh nữ đồng trinh Maria)
[I, tr. 197]; (201) Như bông trăng nở, bông trăng nở (Ước ao) [I, tr. 184]; (202) Tứ thời
xuân! Tứ thời xuân non nước! (Nguồn thơm) [III, tr. 95]; (203) Tôi ngâm thơ trăng thơ
trăng (Ưng trăng) [III, tr. 105]; (204) Hay thua xa, thua xa màu vĩnh viễn (Tình hoa)
[III, tr. 106];… Đối với loại điệp này, ngữ được lặp lại lần thứ hai thường hay đi kèm
với một từ hay một cụm từ mở rộng, chẳng hạn, xét câu: (205) Một chiều xanh, - một
chiều xanh huyền hoặc (Ra đời) [I, tr. 190], một chiều xanh lặp lại lần hai được bổ sung
thêm thông tin mới hạn định, cụ thể hoá nghĩa (xanh) huyền hoặc,…
- Điệp nối tiếp câu
Điệp nối tiếp câu ít xuất hiện hơn hai loại điệp nối tiếp trên, gợi ấn tượng về
hành động lặp lại hay tiếng hô gọi, thúc giục hành động khẩn trương, gấp gáp. Ví dụ:
(206) Ta bay lên! Ta bay lên! (Chơi trên trăng) [IV, tr. 246]; (207) Hô hô! Ta đuổi
125
theo trăng! Ta đuổi theo trăng! (Rượt trăng) [IV, tr. 243]; (208) Hứng lấy sao băng!/
Hứng lấy sao băng! (Chuỗi cười) [III, tr. 53]; (209) Sang chơi thôi, sang chơi thôi,
mà ai? (Đừng cho lòng bay xa) [I, tr. 203]; (210) Loạn rồi! Loạn rồi, ôi giếng loạn
(Trăng tự tử) [I, tr. 180]; (211) Biết rồi, biết rồi! Thôi biết cả (Cô gái đồng trinh) [I, tr.
188]; (212) Trường Xuyên ơi! Trường Xuyên ơi! (Nhớ Trường Xuyên) [II, tr. 49]…
Câu gốc và câu lặp có thể là câu tỉnh lược thành phần, gần với lối nói khẩu ngữ; và
chúng có thể nằm trên cùng một dòng thơ hoặc nằm ở các dòng khác nhau. Vì câu
thường có cấu tạo lớn hơn từ/ ngữ và vì tính cô đọng, hàm súc của thơ nên trong phạm
vi một dòng thơ chỉ hay xuất hiện từ một đến hai lần lặp, một khổ thơ thường xuất hiện
không quá ba lần lặp dòng.
(2). Điệp ngữ cách quãng là dạng điệp ngữ trong đó những từ ngữ được lặp lại
đứng cách nhau nhằm gây một ấn tượng nổi bật và có tác dụng âm nhạc rất cao [106, tr.
93]. Thơ Hàn Mặc Tử sử dụng phổ biến điệp cách quãng. Từ ngữ lặp lại có thể đứng cách
từ ngữ gốc bởi một từ, một cụm từ, một câu, một khổ, hoặc nhiều khổ thơ. Cụ thể:
- Cách bởi một từ
Đối với loại này, giữa các từ ngữ điệp ngăn cách nhau bởi một từ. Một dòng thơ
thường có hai lần lặp lại từ gốc, tạo cảm giác tăng tiến về mức độ hoặc biểu hiện đa
dạng các trạng thái cảm xúc và dáng vẻ của chủ thể, sự vật, hiện tượng. Ví dụ: (213) Vì
trăng ghen, trăng ngã, trăng rụng xuống mình hai tôi (Rượt trăng) [I, tr. 180]; (214)
Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sự (Gái quê) [I, tr. 134]; (215) Ta đi bắt nắng ngừng,
nắng reo, nắng chảy,/ Trên sóng cành, sóng áo cô gì má đỏ hây hây (Ngủ với trăng)
[I, tr. 178]; (216) Ở trong phổi, trong tim, trong hồn nữa… (Trường tương tư) [I, tr.
174]; (217) Cởi thơ, cởi mộng, cởi niềm yêu đương… (Ngủ với trăng) [II, tr. 78]; (218)
Ta hoảng hồn, hoảng vía, ta hoảng thiên (Trăng tự tử) [I, tr. 180]; (219) Để cười, để
trửng, để yêu nhau (Chơi trên trăng) [I, tr. 181]; (220) Đầy lệ, đầy thương, đầy tuyệt
vọng (Trút linh hồn) [I, tr. 183],…
- Cách bởi một/ nhiều cụm từ
Từ điệp lại có khi chia câu thơ làm hai nửa, tạo tính đối ứng, nhịp nhàng. Ví dụ:
(221) Em đang mong mỏi, em đang nhớ/…/ Thôi em chán quá, em buồn quá (Thao
thức) [I, tr. 167 - 168]; (222) Hồn mất xác, hồn sẽ nghiêng ngả (Hồn lìa khỏi xác) [I,
tr. 185]; (223) Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi (Thánh nữ đồng trinh Maria) [I, tr.
195]; (224) Trong nắng thơm, trong tiếng nhạc thần bay/ Trong mây kinh và trong
126
gió nguyện cầu/ Nào trân châu, nào thanh sắc cho mau/ Cho đớp mắt, cho mê tình
bản ngã (Trường thọ) [I, tr. 204];… Nếu như điệp cách quãng bởi một từ tạo cho câu
thơ nhịp ngắt ngắn, nhanh, dồn dập thì loại điệp cách quãng bởi cụm từ tạo ra nhịp dài
3/4 hoặc 4/3, phù hợp với việc diễn tả tậm trạng buồn rầu, não nề, rã rời.
Có khi, từ lặp lại như một sợi dây xuyên suốt, nhấn mạnh một chủ đề chung của
toàn bài. Ví dụ: (225) Đêm xuân lạnh, bóng xuân tàn/ Hoa xuân mơn trớn can tràng
thuyền quyên./ Trời xuân vắng vẻ hương nguyền,/ Sông xuân lặng lẽ con thuyền xa
xa./ Xuân đi đi khắp sơn hà,/ Tuổi xuân chất mãi tóc da đổi màu./ Ngày xuân như gió
thoảng mau,/ Tình xuân một khối ai sầu hơn ai?/ Mưa xuân như nhắc chuyện đời,/
Rượu xuân như gợi những lời nước non/ Thề xuân dù chẳng vuông tròn,/ Khoá buồng
xuân lại vẫn còn sầu xuân. (Sầu xuân) [III, tr. 15 - 16];… Cả một bài thơ được xâu
chuỗi bởi một từ xuân, xuân phủ muôn nơi vạn nẻo, đất trời, cảnh vật, con người, tình
đời: đêm xuân, hoa xuân, trời xuân, sông xuân, tuổi xuân, ngày xuân, tình xuân, mưa
xuân, rượu xuân, thề xuân, khoá buồng cũng xuân. Cách điệp như vậy, khó có nhà thơ
nào tinh tế, tài tình như Hàn Mặc Tử.
Trong trường hợp khác, từ điệp được lặp lại ở vị trí đầu của mỗi dòng thơ; mặc
dù, nó vẫn không hề làm mòn nhạt sự rung cảm của người đọc, trái lại, khắc sâu thêm
cảm xúc dồn nén, mãnh liệt của Hàn Mặc Tử. Ví dụ: (226) Em xé toang trong hơi gió/
Em bóp nát tơ trăng/ Em túm muôn trời lại/ Em cắn vỡ hương ngàn/ Em cười thì sao
rụng/ Em khóc thì đá bay/ Em nhớ chàng quá trí (Em điên) [I, tr. 201]; (227) Tôi gò
mây lại,/ Tôi kìm sao bay,/…/ Tôi doạ không gian, rủa tới cùng./ Tôi khát vô cùng,/
Tôi riết thời gian trong nắm tay/ Tôi vo tiếc mến như vo lụa (Chơi trên trăng) [I, tr.
181]; (228) Chúng tôi kê đầu trên khối sao băng/ Chúng tôi nói chuyện bằng hơi thở
(Rượt trăng) [I, tr. 180]; (229) Đừng nói buồn mà không khí nao nao/ Để chơi vơi này
bông trăng lá gió/ Để phiêu phiêu này tờ thơ vàng vọ/ Để dầm dề hạt lệ đôi ta (Đừng
cho lòng bay xa) [I, tr. 203];… Khi đã nhận ra sự lặp đi lặp lại của từ cũ, người đọc sẽ
bắt đầu quan tâm đến cái khác lạ. Hàn Mặc Tử đã tạo được dấu ấn độc đáo riêng với
những động từ, tính từ chỉ hành động, trạng thái, mang chứa lượng thông tin mới: Em
xé/ bóp/ túm/ cắn/ cười/ khóc/ nhớ; Tôi gò/ kìm/ doạ/ khát/ riết/ vo; Chúng tôi kê
đầu/ soi chuyện; Để chơi vơi/ phiêu diêu/ dầm dề;…
- Cách bởi một/ nhiều câu
Từ điệp lặp đi lặp lại khiến bài thơ trở nên sâu lắng, dạt dào cảm xúc hơn. Nó
127
diễn đạt nỗi niềm băn khoăn, trăn trở, day dứt khôn nguôi, luôn chế ngự toàn trí toàn
hồn của nhà thơ. Ví dụ: (230) Dầu ai không mong đợi/ Dầu ai không lắng nghe/ Tiếng
buồn trong sương đục/ Tiếng hờn trong luỹ tre/ Dưới trời thu man mác/ Bàng bạc
khắp sơn khê/ Dầu ai trên bờ liễu/ Dầu ai dưới cành lê (Tình quê) [I, tr. 135 - 136];…
- Cách một/ một vài khổ
Thông thường, dòng điệp được lặp lại ở đầu các khổ tiếp, ví dụ: (231) Từ ấy
anh ra đi,/ Ngoài song không gió thoảng/…// Từ ấy anh ra đi,/ Bóng trăng vàng giải
cát/…// Từ ấy anh ra đi,/ Tiếng dương cầm vắng bặt/…// Từ ấy anh ra đi,/ Em gầy
hơn vóc liễu/… (Nhớ nhung) [I, tr. 140]. Đó là cách mà nhiều nhà thơ, trong đó có Hàn
Mặc Tử thường hay sử dụng để gây ấn tượng và tạo sự liên kết giữa các khổ trong bài.
Tuy nhiên, thơ Hàn Mặc Tử không đơn điệu một kiểu dạng nào, cũng sử dụng biện
pháp điệp đấy, nhưng nhà thơ cách tân, linh hoạt sáng tạo, đem lại cảm giác mới mẻ,
bất ngờ qua từng dòng, từng khổ; ví dụ: (232) Tôi hằng muốn thấy người tôi yêu/ Nhơ
nhởn đồi thông lúc xế chiều/…// Tôi thích nép mình trong cánh cửa/ Hé nhìn dáng
điệu của người yêu/…// Có lần trông thấy người tôi yêu/ Đôi má đỏ bừng, tôi chạy
theo/…// Có lần trông thấy người tôi yêu/ Tôi lại giả vờ lên mặt kiêu/…// Tôi cũng
trông thấy người tôi yêu/ Ngồi cạnh suối trong cởi yếm đào/…// Tôi không muốn gặp
người tôi yêu/ Có lẽ vì tôi mắc cỡ nhiều/… (Tôi không muốn gặp) [I, tr. 137]. Hai
nhân vật chính của câu chuyện tình đơn phương được điệp lại nhiều lần, từ khổ này
sang khổ khác. Mỗi khổ thơ như một câu chuyện về người tôi yêu với những diễn biến
tâm lí thay đổi liên tục của chủ thể tôi. Ban đầu, chàng trai muốn thấy người yêu (Tôi
hằng muốn thấy người tôi yêu), sau nó lén (nép) nhìn, rồi không hiểu vô tình hay cố ý
lại nhìn thấy người ấy một vài lần nữa (Có lần trông thấy người yêu tôi được lặp lại
hai lần), có lần cũng nhìn thấy cùng lúc với một ai đó (Tôi cũng trông thấy người tôi
yêu), và cuối cùng vì xấu hổ, ngại ngùng phận mình trước sắc đẹp của nàng mà có cảm
giác không muốn gặp người tôi yêu nữa. Cũng là diễn tả hành động quan sát bằng mắt
nhưng khi thì nhà thơ dùng thấy, khi dùng nhìn, khi dùng trông, khi lại dùng gặp. Có
thể thấy rằng những rung cảm của nhân vật tôi được thể hiện tinh tế qua các động từ
(muốn, thích, nép,…), phụ từ cũng (trông thấy - cũng trông thấy), không (muốn -
không muốn), danh từ (người tôi yêu - người yêu)…
Ngoài sử dụng cách thức trên, Hàn Mặc Tử còn linh hoạt chuyển vị trí của từ
ngữ điệp: có khi từ ngữ điệp đứng ở dòng đầu của khổ thơ, rồi đến đoạn sau lại “chạy”
128
xuống dòng cuối của khổ thơ tiếp, ví dụ: (233) Mai sáng mai, trời cao rộng quá/ Gió
căng hơi và nhạc lên mây/ Đôi lòng cũng ấm như xuân ấm/ Chỉ có ao xuân trắng trẻo
thay!// Mai này thiên địa mới tinh khôi/ Gió căng hơi và nhạc lên trời/ Chim khuyên
hót tiếng đầu tiên hết/ Hoa lá hồ nghi sự lạ đời.// Trái cây bằng ngọc vỏ bằng gấm/ Còn
mặt trời kia tợ khối vàng/ Có người trai mới in như nguyệt/ Gió căng hơi và nhạc lên
ngàn. (Xuân đầu tiên) [I, tr. 191].
(3). Điệp ngữ vòng tròn (chuyển tiếp) là một dạng điệp ngữ có tác dụng tu từ
lớn. Chữ cuối của câu trước được láy lại thành chữ đầu câu sau và cứ thế, làm cho câu
văn, câu thơ liền nhau như đợt sóng [106, tr. 94].
Hàn Mặc Tử ít sử dụng kiểu điệp chuyển tiếp/ vòng tròn này. Chúng tôi chỉ tìm
thấy hai trường hợp dưới đây: (234) Lặng nhìn trong mộng miệng em cười/ Em cười
anh cũng cười theo nữa (Lưu luyến (II) [I, tr. 165]; (235) Bao lời oán hận của si mê/
Mà trai gái tự tình bên (trên) miệng giếng/ Miệng giếng há ra/ Nuốt ực bao la (Trăng
tự tử) [I, tr. 180].
Loại điệp này diễn tả sự liên tục, gắn kết, nối buộc câu trên với câu dưới, tạo sự
liền mạch, gây ấn tượng về sự lê thê, triền miên, không ngớt; kiểu mà nhiều bài đồng
dao trẻ con hay sử dụng: Sáo sậu là cậu sáo đen/ Sáo đen là em tu hú/ Tu hu là chú bồ
các/ Bồ các là bác chim ri/ Chim ri là dì sáo sậu/ Sáo sậu là cậu sáo đen/…
b. Cũng tương tự như đối biện pháp nhân hoá, với biện pháp tu từ điệp, chúng
tôi cũng thống kê và phân loại toàn bộ các kiểu loại điệp ở bốn nhà thơ về số lượng và
so sánh tỉ lệ phần trăm của mỗi kiểu loại trên tổng số lần sử dụng biện pháp điệp.
Bảng 3.11: Các kiểu loại điệp trong thơ Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính
HMT BK XD NB
Các loại điệp Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ
lượng (%) lượng (%) lượng (%) lượng (%)
Cách quãng 171 79.5 220 82.7 122 89.1 141 86.5
Chuyển tiếp 2 0.9 6 2.3 3 2.2 4 2.5
Nối tiếp 42 19.5 40 15 12 8.8 18 11
Tổng 215 100 266 100 137 100 163 100
129
Biểu đồ 3.8: Các kiểu loại điệp trong thơ Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính
Từ bảng và biểu trên, có thể rút ra một vài nhận xét sau:
Cả Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính hầu hết đều sử dụng
biện pháp điệp cách quãng, xếp vị trí thứ hai là loại điệp nối tiếp và cuối cùng là loại
điệp chuyển tiếp. Lí giải cho vấn đề này, chúng tôi cho rằng, đó là vì tính đặc trưng
của bản thân mỗi kiểu loại. Điệp chuyển tiếp (điệp ngữ vòng tròn) là một loại điệp
không dễ sử dụng bởi nó đòi hỏi từ ngữ cuối của câu trước phải lặp lại ở đầu câu thơ
tiếp theo sao cho thật khéo léo, tinh tế, đạt được dụng ý nghệ thuật. Điệp nối tiếp là
các từ điệp đứng cạnh nhau trong cùng một dòng thơ thường nhằm diễn đạt sự tăng
tiến về mức độ, với hình thức và ý nghĩa như vậy, nếu sử dụng điệp nối tiếp quá nhiều
sẽ gây ấn tượng nhàm chán và không phải khi nào nhà thơ cũng muốn thể hiện dụng ý
nghệ thuật mà điệp nối tiếp mang lại. Điệp cách quãng dễ sử dụng hơn cả (có thể các
từ ngữ điệp xuất hiện cách nhau một đến một vài từ trong cùng một dòng thơ, hoặc
xuất hiện cách nhau vài dòng, hoặc xuất hiện ở các khổ thơ khác nhau), đồng thời, nó
không chỉ tạo tính nhạc, gây ấn tượng, mà còn tạo tính liên kết cho bài thơ. Kiểu loại
này chiếm ưu thế vượt trội so với loại điệp chuyển tiếp và nối tiếp. Tóm lại, Hàn Mặc
Tử không phải là nhà thơ sử dụng biện pháp điệp nhiều nhất, với tấn số sử dụng cao
nhất, nhưng cách mà ông vận dụng biện pháp điệp vào trong các sáng tác của mình
130
thì khó trộn lẫn với ai. Đó là cái tài của một con người luôn có ý thức cao trong
việc cách tân và đổi mới hình thức thi ca.
3.3. Tiểu kết chương 3
Nói đến ngôn ngữ thơ, là nói đến tu từ. Hơn bất cứ một thể loại văn học nào
khác, tu từ được xem là dấu hiệu đặc trưng của ngôn ngữ thơ. Với tác phẩm thơ, tu từ
góp phần quan trọng trong việc biểu đạt nội dung trữ tình, tạo nên sức mạnh tác động
đặc thù của thơ.
Trong chương 3, luận án đã tập trung khảo sát một số phương tiện và biện pháp
tu từ trong thơ Hàn Mặc Tử, đối sánh với các nhà thơ cùng thời là Nguyễn Bính, Xuân
Diệu và Bích Khê. Kết quả, mỗi biện pháp tu từ được khảo sát đều dễ dàng nhận ra
những cách sử dụng riêng biệt, độc đáo, sáng tạo và cách tân của Hàn Mặc Tử. Trước
hết, biện pháp so sánh, xét về cấu trúc, Hàn Mặc Tử chủ yếu sử dụng ba kiểu cấu trúc
so sánh: kiểu đủ bốn yếu tố, kiểu vắng yếu tố hai (không có cơ sở so sánh) và kiểu
vắng yếu tố hai và ba (vắng cơ sở so sánh và từ so sánh); trong đó, sử dụng nhiều nhất
kiểu đủ bốn yếu tố. Biện pháp so sánh của Hàn Mặc Tử đem lại những liên tưởng mới
lạ, độc đáo và bất ngờ. Ở biện pháp nhân hoá, Hàn Mặc Tử sử dụng những kiểu loại
khác nhau. Các hình ảnh nhân hoá của Hàn Mặc Tử không cuồng si, nhục dục như
Bích Khê, cũng không có màu sắc xác thịt như Xuân Diệu mà hướng đến biểu đạt nỗi
buồn thương, xót xa, khắc khoải như cứa vào tâm can người đọc. Điệp ngữ cũng là
biện pháp tu từ đáng chú ý ở thơ Hàn Mặc Tử. Ở phép tu từ này, tác giả chủ yếu dùng
ba kiểu loại điệp gồm điệp nối tiếp, điệp cách quãng và điệp vòng tròn; trong đó, kiểu
điệp cách quãng xuất hiện nhiều hơn cả. Cách tổ chức cấu trúc điệp ngữ trong thơ Hàn
Mặc Tử có nhiều nét độc đáo, riêng biệt, giàu nhạc tính, đem lại sự cách tân hình thức
diễn đạt của ngôn ngữ thi ca, khơi gợi nhiều tầng nghĩa sâu sắc, đem đến cho người
đọc những khoái cảm thẩm mĩ và giá trị nhận thức cao. Qua các biện pháp tu từ như
điệp ngữ, nhân hoá và so sánh tu từ, Hàn Mặc Tử đã kiến tạo được cõi thơ cho riêng
mình với một ngôn ngữ thơ giàu màu sắc cá biệt hóa.
131
KẾT LUẬN
Thực hiện các nhiệm vụ đặt ra ở đề tài Phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc
Tử, chúng tôi rút ra một số kết luận chính sau đây:
1. Trong nên thơ Việt thế kỷ XX, Hàn Mặc Tử là một nhà thơ lớn. Nhiều bình
diện tác phẩm của ông, trong đó có ngôn ngữ đã được khảo sát, nghiên cứu từ nhiều
góc độ khác nhau. Tuy nhiên, đây là công trình đầu tiên đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu
phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử.
Cho đến nay, những vấn đề lí thuyết về phong cách ngôn ngữ tác giả chưa phải
đã được minh định một cách rõ ràng. Do đó, để có cơ sở lí luận thực hiện đề tài, ở
chương 1 của luận án, chúng tôi dựa vào những ý kiến riêng lẻ xuất hiện ở nhiều công
trình phong cách học trong và ngoài nước, cố gắng tổng thuật, phân tích, nhận xét và
tổng hợp để rút ra một hệ thống luận điểm có giá trị thao tác. Những vấn đề mà chúng
tôi luận giải được tập hợp theo một trật tự có tầng bậc, có mối quan hệ chặt chẽ, thể
hiện qua hệ thống khái niệm: phong cách, phong cách học, phong cách nghệ thuật,
phong cách ngôn ngữ cá nhân. Với tư cách là một khái niệm then chốt, phong cách
ngôn ngữ cá nhân được luận án soi tỏ từ nhiều phía, trên nhiều tương quan. Theo đó,
phong cách ngôn ngữ cá nhân thể hiện ở màu sắc riêng, giọng điệu riêng và cách thức
riêng trong sử dụng ngôn từ. Đó là một vấn đề thuộc phạm trù chất, nghĩa là, những
dấu hiệu về định lượng (qua các số liệu thống kê, có tính tỉ lệ, tần số) phải toát ra
những ý nghĩa có thể nhận biết thực chứng và phân tích được. Một phong cách cá nhân
chỉ thực sự được xác nhận khi nó biểu hiện sự kết tinh của những giá trị (giá trị thẩm
mĩ, tính độc đáo của cấu trúc, dấu ấn đậm nét của cá thể,…). Hơn nữa, phong cách cá
nhân là một hiện tượng động, có quá trình hình thành, biến đổi theo thời gian, phụ
thuộc vào ý đồ sáng tạo, những lựa chọn khác nhau của nhà văn về hình thức biểu đạt.
Từ góc nhìn đó, chúng tôi nhận thấy, Hàn Mặc Tử thực sự thể hiện phong cách ngôn
ngữ cá nhân rõ nét trong thơ, rất đáng được khảo sát nghiên cứu kĩ lưỡng.
2. Để làm nổi rõ những điểm cơ bản về phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử,
luận án khảo sát trên tư liệu gồm 119 bài thơ được tham chiếu từ nhiều nguồn hiện có.
Luận án sử dụng nhiều phương pháp và thủ pháp nghiên cứu hiện đại, trong đó,
phương pháp miêu tả và phương pháp so sánh đối chiếu cùng với các thủ pháp thống
kê, phân loại và hệ thống, phân tích văn cảnh được sử dụng xuyên suốt các chương. Ở
132
mỗi nét phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử, ngoài việc miêu tả, phân tích và lí giải tư
liệu thống kê các đơn vị ngôn từ trong thơ Hàn Mặc Tử một cách hệ thống, luận án
còn đối sánh với các tác giả cùng thời là Nguyễn Bính, Xuân Diệu và Bích Khê. Để
khái quát nên phong cách ngôn ngữ tác giả Hàn Mặc Tử - một phong cách ngôn ngữ
thuộc phạm trù nghệ thuật - chúng tôi đã cố gắng kết hợp giữa phân tích ngôn ngữ học
và đánh giá giá trị thẩm mĩ thông qua sự cảm nhận của cá nhân. Mặc dầu vậy, chúng
tôi luôn triệt để tuân thủ các nguyên tắc nghiên cứu ngôn ngữ học để những kết luận
được rút ra có được tính khách quan, khoa học.
3. Thơ Hàn Mặc Tử là nỗi niềm nhân thế khúc xạ qua nỗi đau riêng của nhà thơ.
Ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử vừa dung dị, tinh tế, vừa phức điệu, siêu thực, siêu linh “kinh
dị”. Với một phạm vi nghiên cứu được xác định, luận án đã làm rõ phong cách ngôn ngữ
cá nhân Hàn Mặc Tử biểu hiện ở cách dùng từ ngữ và các biện pháp tu từ tiêu biểu.
3.1. “Dấu vân tay” của Hàn Mặc Tử thể hiện trước hết ở cách sử dụng từ ngữ
trong một số trường nghĩa. Có ba trường nghĩa xuất hiện như những tín hiệu thẩm mĩ
là trường tôn giáo - tâm linh, trường tình yêu và trường thân xác con người. Mỗi
trường đều là kết quả của sự lựa chọn và sử dụng từ ngữ một cách sáng tạo, toát lên
giá trị nghệ thuật cao, in đậm cá tính sáng tạo của Hàn Mặc Tử. Các từ trong trường
nghĩa tôn giáo thể hiện miền trú ẩn thiết cốt cho cõi linh hồn thống khổ triền miên của
nhà thơ, từ đó tạo nên một nguồn thơ tinh khôi, thanh khiết và sáng láng. Còn các từ
trong trường tình yêu và trường thân xác bộc lộ niềm khao khát yêu đương say đắm,
đê mê và một lòng khát sống mãnh liệt. Với Hàn Mặc Tử, không chỉ các từ biểu hiện
các cung bậc tình yêu mà ngay cả cái thân xác đau đớn, rã rời cũng là một loại tín hiệu
thẩm mĩ. Bản năng và khát vọng sống hoá thân thành cảm hứng sáng tạo thi ca, với
Hàn Mặc Tử, hồn - xác có sự hài hoà đẹp đẽ nhất, nên thơ nhất. Bên cạnh những
trường nghĩa nổi bật, in đậm cá tính sáng tạo, việc lựa chọn từ ngữ độc đáo để tạo nên
các hình tượng có màu sắc siêu thực, dùng các từ đặc hữu của phương ngữ miền
Trung, lựa chọn những từ ngữ chỉ cực cấp… đã đem lại cho thơ một hình thức biểu đạt
đậm dấu ấn cá nhân: vừa cụ thể, cảm tính, vừa mơ hồ, siêu thực. Mặt khác, Hàn Mặc
Tử thường dùng những cách kết hợp từ mới lạ, tạo ra hiện tượng lệch chuẩn như đảo
trật tự, mở rộng phổ kết hợp đã đem đến cho ngôn ngữ thơ một khả năng vô tận trong
việc chuyển tải những cảm xúc tinh tế, những tâm trạng bí ẩn, những tình cảm bi
thương của thế giới tâm hồn con người.
133
3.2. Trong thơ, Hàn Mặc Tử đã để lại dấu ấn phong cách ngôn ngữ qua các biện
pháp tu từ so sánh, nhân hoá và điệp ngữ. Ở biện pháp so sánh, Hàn Mặc Tử chủ yếu sử
dụng ba kiểu cấu trúc so sánh: kiểu đủ bốn yếu tố, kiểu vắng yếu tố cơ sở so sánh và
kiểu vắng cả cơ sở so sánh và từ so sánh; trong đó, sử dụng nhiều nhất kiểu đủ bốn yếu
tố. Biện pháp so sánh của Hàn Mặc Tử đem lại những liên tưởng mới lạ, đặc dị và bất
ngờ. Qua phép so sánh, Hàn Mặc Tử đã phát hiện chính xác đến bất ngờ những nét
tương đồng giữa các đối tượng không đồng loại, tạo thành những thi ảnh mới lạ, ám gợi
người đọc bởi những liên tưởng vừa chính xác, vừa mơ hồ. Biện pháp nhân hoá trong
thơ Hàn Mặc Tử chủ yếu có ba kiểu loại: (1) Dùng các từ ngữ chỉ tính chất, hoạt động
của con người để chỉ hoạt động, tính chất của vật; (2) Gọi sự vật bằng những từ chỉ
người; (3) Xưng hô với vật như con người; trong đó, kiểu loại (1) xuất hiện nhiều hơn
cả. Hàn Mặc Tử chủ yếu sử dụng các sự vật trăng, gió, xuân làm hình ảnh nhân hoá
nhằm diễn tả tâm trạng rã rời, gửi gắm niềm tâm sự bi ai, ảo não của mình. Các hình ảnh
nhân hoá của Hàn Mặc Tử hướng đến biểu đạt nỗi buồn thương, xót xa, khắc khoải như
cứa vào tâm can người đọc. Biện pháp điệp tuy không được Hàn Mặc Tử sử dụng nhiều,
nhưng vẫn có tác dụng làm nổi rõ cá tính ngôn ngữ thơ của tác giả. Hàn Mặc Tử chủ yếu
dùng ba kiểu điệp gồm điệp nối tiếp, điệp cách quãng và điệp vòng tròn; trong đó, kiểu
điệp cách quãng xuất hiện nhiều hơn cả. Cách tổ chức cấu trúc điệp ngữ trong thơ Hàn
Mặc Tử có nhiều nét độc đáo, riêng biệt, giàu nhạc tính, đem lại sự cách tân hình thức
diễn đạt của ngôn ngữ thi ca, khơi gợi nhiều tầng nghĩa sâu sắc.
4. Việc xác định các đặc điểm phong cách ngôn ngữ tác giả đã góp phần vào
việc giải mã tác phẩm thơ của Hàn Mặc Tử, qua đó, thúc đẩy công việc nghiên cứu và
giảng dạy thơ ông từ bậc phổ thông đến bậc đại học. Hơn thế, từ những khái quát về
phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử, chúng ta có thêm kinh nghiệm, điều kiện để
tiếp cận ngôn ngữ thơ của các tác giả khác trong phong trào Thơ mới 1932 - 1945 nói
riêng, các nhà thơ đương đại nói chung. Dĩ nhiên, phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc
Tử vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu theo hướng sâu hơn, rộng hơn từ các bình diện
ngữ âm và ngữ pháp. Chúng tôi sẽ tiếp tục công việc này trong một chuyên luận khi
điều kiện cho phép.
134
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
1. Nguyễn Thị Thanh Đức (2008), “Nhóm tính từ biểu thị không gian trong thơ
Hàn Mặc Tử”, Kỷ yếu Hội thảo Ngữ học trẻ, H.
2. Nguyễn Thị Thanh Đức (2015), “Lí giải một số từ ngữ chỉ không gian trong thơ
Hàn Mặc Tử”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 7, H.
3. Đặng Lưu, Nguyễn Thị Thanh Đức (2017), “Trường từ vựng với vấn đề phong
cách ngôn ngữ tác giả”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Ngôn ngữ ở Việt Nam - hội
nhập và phát triển, H.
4. Nguyễn Thị Thanh Đức (2019), “Trường từ vựng chỉ thân xác trong thơ Hàn
Mặc Tử”, Kỷ yếu Hội thảo Ngữ học toàn quốc, Nxb Dân trí, H.
5. Nguyễn Thị Thanh Đức (2020), “Biện pháp so sánh tu từ trong thơ Hàn Mặc
Tử”, Tạp chí khoa học Đại học Vinh, số 2B/2020, Nghệ An.
6. Nguyễn Thị Thanh Đức (2020), “Dấu ấn phong cách Hàn Mặc Tử qua cách sử
dụng điệp ngữ trong thơ”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 10, H.
7. Nguyễn Thị Thanh Đức (2020), “Hệ thống từ ngữ thuộc trường tôn giáo trong
thơ Hàn Mặc Tử”, Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư, số 6, H.
135
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TIẾNG VIỆT
1. Huỳnh Phan Anh (1971), “Hàn Mặc Tử hay là hiện hữu của thơ”, Bán nguyệt san
Văn, số 179, Sài Gòn, tr.55 - 64.
2. Lê Thị Anh (2007), Thơ mới với thơ Đường, Nxb Văn học, H.
3. Lại Nguyên Ân (1991), “Khí chất người miền Trung và nhà thơ Hàn Mặc Tử”,
Tạp chí Văn học, số 1, 1991, in lại trong Hàn Mặc Tử về tác gia và tác phẩm,
Phan Cự Đệ - Nguyễn Toàn Thắng sưu tầm và tuyển chọn, Nxb Giáo dục, H,
tr.543 - 546.
4. Ch. Bali (1951), Tu từ học tiếng Pháp, Bản dịch tiếng Việt của Trường Đại học
Sư phạm Vinh, in ronéo, 1972.
5. Diệp Quang Ban (2010), Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục Việt
Nam, H.
6. Nguyễn Nhã Bản (2004), Cơ sở ngôn ngữ học, Nxb Nghệ An.
7. Bùi Xuân Bào (1974), “Thi ảnh khẩu cảm trong thơ Hàn Mặc Tử”, Tập san Khoa
học xã hội và nhân văn, tập II, Sài Gòn, tr.163 - 172, in lại trong Hàn Mặc Tử về
tác gia và tác phẩm, Phan Cự Đệ - Nguyễn Toàn Thắng tuyển chọn và giới thiệu,
Nxb Giáo dục, H, tr.429 - 438.
8. Phan Văn Bộ (2014), Từ ngữ và biện pháp tu từ trong thơ Hàn Mặc Tử, Luận văn
thạc sĩ, Trường Đại học Vinh.
9. R. A. Budagov, Tính thẩm mĩ của ngôn ngữ, Tài liệu đánh máy, Thư viện Trường
Đại học Vinh.
10. Hoàng Trọng Canh (2011), Ngữ nghĩa học từ vựng tiếng Việt, Chuyên đề Cao
học chuyên ngành Ngôn ngữ học, Trường Đại học Vinh.
11. Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ, Nxb Đại học và trung học chuyên
nghiệp, H.
12. Nguyễn Huy Cẩn (1982), “Mấy vấn đề về việc nghiên cứu phong cách ngôn ngữ
cá nhân (tổng thuật)”, Thông tin khoa học, Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn,
Đại học Quốc gia TP. HCM, số 9, tr.45 - 50.
13. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt (Tiếng - Từ ghép - Đoản ngữ), Nxb
Đại học &Trung học chuyên nghiệp, H.
136
14. Nguyễn Tài Cẩn (1998), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
15. Huy Cận, Hà Minh Đức (chủ biên - 1993), Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi
ca, Nxb Giáo dục, H.
16. Đỗ Hữu Châu (1990), “Những luận điểm về cách tiếp cận ngôn ngữ học các sự
kiện văn học”, Ngôn ngữ, số 2, tr.8 - 11.
17. Đỗ Hữu Châu (1996), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, H.
18. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Giáo dục, H.
19. Đỗ Hữu Châu (1988), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
20. Đỗ Hữu Châu (2005), Đỗ Hữu Châu tuyển tập (T1, T2), Nxb Giáo dục, H.
21. Phạm Thị Xuân Châu (2011), Đặc trưng phong cách ngôn ngữ thơ Lý Hạ, Luận
án tiến sĩ, LA 11.0077.1, H.
22. Vũ Thị Sao Chi (2014), “Về khái niệm “Phong cách ngôn ngữ””, Ngôn ngữ, số 4,
tr.13 - 23.
23. Vũ Thị Sao Chi (2014), “Về sự phân loại phong cách ngôn ngữ”, Ngôn ngữ, số 5,
tr.21 - 30.
24. Nguyễn Đức Chính (2018), Phong cách ngôn ngữ thơ Bùi Giáng, Luận án tiến sĩ
Ngôn ngữ học, Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn TP. HCM.
25. Nguyễn Hữu Chính (2007), “Vài nét về phong cách ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm”,
Ngôn ngữ, số 3, tr.52 - 59.
26. Mai Ngọc Chừ (1991), Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng ngôn ngữ học, Nxb Đại
học và giáo dục chuyên nghiệp, H.
27. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2002), Cơ sở ngôn ngữ học
và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
28. Nguyễn Kim Chương (1974), “Hàn Mặc Tử, đau thương và sáng tạo”, Văn học
Sài Gòn, số 20, tháng 12/1974.
29. J. Cohen (1998), “Thơ và nghiên cứu thơ”, Đỗ Lai Thúy dịch, tạp chí Văn học
nước ngoài, số 4, tr.206-211.
30. Trần Dần (2007), Thơ, Nxb Đà Nẵng.
31. Xuân Diệu (1981), “Từ ngữ trong sáng tác thơ”, Ngôn ngữ, số 5, tr.49 - 59.
32. Lưu Văn Din (2013), Đặc điểm ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử từ góc nhìn tín hiệu
thẩm mĩ, Luận văn thạc sĩ, Đại học Đà Nẵng.
137
33. Phan Huy Dũng (1999), Kết cấu thơ trữ tình (nhìn từ góc độ loại hình), Luận án
tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
34. Phan Huy Dũng (1999), “Sắc thái địa phương trong ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử”,
Ngôn ngữ và Đời sống, số 5.
35. Phan Huy Dũng (2008), “Một số đặc điểm thi pháp của thơ trữ tình thuộc phong
trào Thơ mới”, Thơ mới trong trường phổ thông, Nxb Giáo dục, H, tr.13 - 20.
36. Phan Huy Dũng (2008), “Cái tôi thi nhân trong Thơ mới”, Thơ mới trong trường
phổ thông, Nxb Giáo dục, H, tr.21 - 30.
37. Phan Huy Dũng (2008), “Thơ mới và việc mô tả vẻ đẹp thể chất của con người”,
Thơ mới trong trường phổ thông, Nxb Giáo dục, H, tr.31 - 38.
38. Lê Tiến Dũng (1994), “Loại hình câu thơ của Thơ mới”, Tạp chí Văn học, số 1,
tr.12 - 16.
39. Đặng Anh Đào (1997), “Cụm từ bền vững và sự biến thái của nó trong thơ Việt
Nam thế kỷ XX”, Tạp chí Văn học, số 3, tr.28 - 35.
40. Hữu Đạt (1996), “Đặc điểm phong cách ngôn ngữ của thơ và ca dao: nhìn từ góc
độ giao tiếp ngôn ngữ”, Ngôn ngữ, số 4, tr.58 - 63.
41. Hữu Đạt (1998), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.
42. Hữu Đạt (1999), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, H.
43. Lê Đạt (2009), Đường chữ, Nxb Hội nhà văn, H.
44. Phan Cự Đệ (1997), Hàn Mặc Tử tác phẩm phê bình và tưởng niệm, Nxb Giáo
dục, H.
45. Phan Cự Đệ - Nguyễn Toàn Thắng (2002), Hàn Mặc Tử - Về tác gia và tác phẩm,
Nxb Giáo dục, H.
46. Phan Cự Đệ (2002), “Hàn Mặc Tử - Những vấn đề đang tranh luận”, Tạp chí Nhà
văn, số 3, tr.5 - 32.
47. Phan Cự Đệ biên soạn (2007), Về một cuộc cách mạng trong thi ca: phong trào
Thơ mới, Nxb Giáo dục, H.
48. Biện Minh Điền (2008), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, H.
49. Nguyễn Lâm Điền (2010), Đặc trưng nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Nxb Văn
học, H.
50. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, H.
138
51. Nguyễn Đăng Điệp (2009), “Hàn Mặc Tử và mĩ học của khát vọng”, Nghiên cứu
văn học, số 9, tr.40 - 51.
52. Nguyễn Đăng Điệp (giới thiệu và tuyển chọn - 2009), Hàn Mặc Tử tác phẩm
chọn lọc, Nxb Giáo dục Việt Nam, H.
53. Nguyễn Đăng Điệp (2014), Thơ Việt hiện đại - tiến trình & hiện tượng, Nxb Văn
học, H.
54. Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa
học xã hội, H.
55. Hà Minh Đức (1997), “Hàn Mặc Tử một hồn thơ rất lạ và rất quen”, in trong
Một thời đại trong thi ca, Nxb Khoa học xã hội, H.
56. Hà Minh Đức (2001), Văn chương tài năng và phong cách, Nxb Khoa học xã hội, H.
57. Đinh Văn Đức (1985), “Về một kiểu ý nghĩa ngữ pháp gặp ở thực từ tiếng Việt”,
Ngôn ngữ (4), tr. 11-12.
58. Đinh Văn Đức (2010), Ngữ pháp tiếng Việt - Từ loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
59. Hà Văn Đức (1992), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, Luận án tiến sĩ, Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, LA92.0099.1
60. Nguyễn Văn Đức (2007), Phong cách ngôn ngữ thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930
- 1945: so sánh phương thức ẩn dụ trong thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử
và Chế Lan Viên, Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. HCM.
61. Nguyễn Thị Thanh Đức (2002), Các từ ngữ chỉ không gian trong thơ Hàn Mặc
Tử, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.
62. I. R. Galperin (1987), Văn bản với tư cách là đối tượng của ngôn ngữ học
(Hoàng Lộc dịch), Nxb Khoa học xã hội, H.
63. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
64. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
65. Nguyễn Thiện Giáp (2010), Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, Nxb Giáo
dục Việt Nam, H.
66. Nguyễn Thiện Giáp (2016), Từ điển khái niệm ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
139
67. Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết (2006), Dẫn luận
ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, H.
68. Mak Halyliday (2004), Dẫn luận ngữ pháp chức năng, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
69. Bích Hà (tuyển chọn và giới thiệu) (2006), Hàn Mặc Tử một cá tính sáng tạo độc
đáo, Nxb Hội Nhà văn, H.
70. Lê Thị Hải (1997), Tìm hiểu nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử, Luận văn thạc sĩ,
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Quốc gia TP.HCM.
71. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
72. Lê Bá Hán (chủ biên), Lê Quang Hưng, Chu Văn Sơn (2003), Tinh hoa Thơ mới -
thẩm bình và suy ngẫm, Nxb Giáo dục, H.
73. Hoàng Văn Hành (1991), Từ ngữ tiếng Việt trên đường hiểu biết và khám phá,
Nxb Khoa học xã hội, H.
74. Hoàng Văn Hành (Chủ biên), Hà Quang Năng, Nguyễn Văn Khang (1998), Từ
tiếng Việt: Hình thái - cấu trúc - từ láy - từ ghép - chuyển loại, Nxb Khoa học xã
hội, TP.HCM.
75. Cao Xuân Hạo (2003), Tiếng Việt - Văn Việt - Người Việt, Nxb Trẻ, TP.HCM.
76. Hoàng Ngọc Hiến (1990), “Tiếp nhận cái Siêu trong thơ Hàn Mặc Tử”, Lao động
chủ nhật, 9/12/1990.
77. Nguyễn Văn Hiệp (2008), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, Nxb Giáo dục, H.
78. Đỗ Đức Hiểu (1994), Thi pháp học hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, H.
79. Mai Văn Hoan (1999), Cảm nhận thơ Hàn Mặc Tử, Nxb Thuận Hóa, Huế.
80. Nguyễn Thái Hòa (1996), “Đi tìm cái mới trong biểu đạt thơ Việt Nam hơn nửa
thế kỷ qua”, Tạp chí Văn học, số 7, tr.16 - 20.
81. Nguyễn Thái Hòa (1997), Dẫn luận phong cách học, Nxb Giáo dục, H.
82. Nguyễn Thái Hòa (2005), Từ điển tu từ - Phong cách - Thi pháp học, Nxb Giáo
dục, H.
83. Nguyễn Xuân Hoàng (1967), “Nỗi khắc khoải siêu hình trong thơ Hàn Mặc Tử”,
Văn, Sài Gòn số 7, tháng 1/1967.
84. Nguyễn Quang Hồng, Phan Diễm Phương (2017), Âm tiết tiếng Việt và ngôn từ
thi ca, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
85. Chế Thị Hồng (2011), Đặc điểm từ ngữ trong thơ của Hàn Mặc Tử và Nguyễn
Bính, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Vinh.
140
86. Bùi Công Hùng (1983), Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca, Nxb Khoa học xã
hội, H.
87. Bùi Công Hùng (1988), Quá trình sáng tạo thơ, Nxb Khoa học xã hội, H.
88. Nguyễn Thanh Hùng (1995), “Hàn Mặc Tử - một quan niệm, một kiểu tư duy
thơ”, Thông báo khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, số 4/1995, in lại trong Hàn
Mặc Tử về tác gia và tác phẩm, Phan Cự Đệ - Nguyễn Quang Thắng sưu tầm và
tuyển chọn, Nxb Giáo dục, H, 2002, tr.457 - 461.
89. Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa (2003), Phân tích phong cách ngôn ngữ
trong tác phẩm văn học, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
90. Đoàn Trọng Huy (2006), Nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Nxb Đại học Sư phạm
Hà Nội.
91. Đồng Hoàng Hưng (2018), Đặc điểm ngôn ngữ thơ bảy chữ hiện đại (trên tác
phẩm của một số nhà thơ tiêu biểu), Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội,
Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam, H.
92. Đoàn Thị Đặng Hương (2000), “Con mắt tâm linh văn hóa phương Đông trong
thơ Hàn Mặc Tử”, Tạp chí Văn học, số 11.
93. R. Jakobson (2001), Ngôn ngữ học và thi học, Trần Duy Châu biên khảo, Nxb
Văn học - Trung tâm nghiên cứu Quốc học, H.
94. R. Jakobson (1996), “Thơ là gì”, Trịnh Bá Đĩnh dịch, Tạp chí Văn học nước
ngoài, số 12, tr.70 - 74.
95. R. Jakobson, Ngôn ngữ và thi ca, Cao Xuân Hạo dịch, bản vi tính.
96. Jean Chevalier, Alair Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới,
Nxb Đà Nẵng.
97. Phan Khôi (1952), Việt ngữ nghiên cứu, Văn nghệ, H.
98. Thụy Khuê (1996), Cấu trúc thơ, Văn nghệ, California, Hoa Kì.
99. Thụy Khuê (1998), Sóng từ trường I, II, Văn nghệ, California, Hoa Kì.
100. Thụy Khuê (2018), Phê bình văn học thế kỷ XX, Nxb Hội nhà văn, H.
101. Nguyễn Hoành Khung (1984), Mục từ Hàn Mặc Tử trong Từ điển văn học, Nxb
Khoa học xã hội, H.
102. M. B. Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn
học, Lê Sơn, Nguyễn Minh dịch, Nxb Tác phẩm mới, H.
141
103. M. B. Khrapchenko (2002), Những vấn đề lí luận và phương pháp luận nghiên
cứu văn học, (nhiều người dịch) Trần Đình Sử tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
104. Thái Văn Kiểm (1967), “Một thi hào Việt Nam: Hàn Mặc Tử”, in lại trong Hàn
Mặc Tử về tác gia và tác phẩm, Phan Cự Đệ - Nguyễn Toàn Thắng tuyển chọn và
giới thiệu, Nxb Giáo dục, H, 2002, tr.291 - 306.
105. Lê Đình Kỵ (1993), Thơ mới - những bước thăng trầm, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
106. Robert Lado (Hoàng Văn Vân dịch, 2003), Ngôn ngữ học qua các nền văn hóa xã
hội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
107. Đinh Trọng Lạc (1994), Phong cách học văn bản, Nxb Giáo dục, H.
108. Đinh Trọng Lạc (1995), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo
dục, H.
109. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hoà (1995), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo
dục, H.
110. Nguyễn Lai (1996), Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học, Nxb Giáo dục, H.
111. Tôn Phương Lan (2002), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb Khoa
học xã hội, H.
112. Yến Lan (1997), “Đạo và đời trong thơ Hàn Mặc Tử”, in trong sách Hàn Mặc Tử
- Hương thơm và Mật đắng, Nxb Hội nhà văn, H.
113. Mã Giang Lân (2000), Thơ Hàn Mặc Tử và những lời bình, Nxb Văn hoá thông
tin, Hà Nội.
114. Mã Giang Lân (2001), Thơ Hàn Mặc Tử, Nxb Văn hóa thông tin, H.
115. Mã Giang Lân (2011), Những cấu trúc thơ, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
116. Nguyễn Thế Lịch (1989), “Từ ngữ có sắc thái văn chương”, Ngôn ngữ, số phụ
san, tr.38 - 55.
117. Nguyễn Thế Lịch (1991), “Từ so sánh đến ẩn dụ”, Ngôn ngữ, số 3, tr.19 - 31.
118. Nguyễn Thế Lịch (1998), “Về các tính chất của ngôn ngữ nghệ thuật”, Ngôn ngữ,
số 4, tr.22 - 33.
119. Nguyễn Thế Lịch (2004), “Yếu tố chuẩn trong cấu trúc so sánh nghệ thuật”,
Nghiên cứu văn học, số 4, tr.29 - 48.
120. Đỗ Thị Kim Liên (1999), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
142
121. Lê Thị Hồng Liên (2013), Phong cách ngôn ngữ của Ma Văn Kháng (trên cứ liệu
tiểu thuyết và truyện), Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. HCM.
122. Chí Linh (2004), Năm cô gái với cuộc đời thơ Hàn Mặc Tử, Truyện kí, Nxb Văn
nghệ TP. HCM.
123. Nguyễn Tấn Long (1969), “Hàn Mặc Tử”, in trong Việt Nam thi nhân tiền chiến
(quyển hạ), Sống Mới xuất bản, Sài Gòn.
124. Thi Long (2000), Hàn Mặc Tử một đời thơ, Nxb Đà Nẵng.
125. Đặng Lưu (2009), “Vấn đề nghiên cứu phong cách ngôn ngữ tác giả”, sách Một
số vấn đề văn học và ngôn ngữ trong nhà trường, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
tr.273 - 281.
126. Đặng Lưu (2009), “Tu từ cú pháp trong câu văn Nguyễn Tuân”, Ngôn ngữ, số 12,
tr.16 - 24.
127. Đặng Lưu (2010), Phong cách ngôn ngữ Nguyễn Tuân, Đề tài NCKH cấp Bộ,
Trường Đại học Vinh.
128. Đặng Lưu (2016), “Định ngữ nghệ thuật hay hình ảnh thế giới trong mắt người
thơ tình lơi lả”, Xuân Diệu - tác gia và di sản văn học, Nxb Đại học Vinh, tr.267 - 276.
129. Lyons J. (2006), Ngữ nghĩa học dẫn luận, bản dịch của Nguyễn Văn Hiệp, Nxb
Giáo dục, H.
130. Trần Thanh Mại (1941), Hàn Mặc Tử (1912 - 1940), Nxb Tân Việt.
131. Trần Thanh Mại (1970), Hàn Mặc Tử - Thân thế và thi văn, (tái bản lần thứ 5),
Sài Gòn.
132. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Văn học, H.
133. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), “Kế thừa truyền thống dân tộc trong đổi mới thi ca
qua kinh nghiệm lịch sử của phong trào Thơ mới”, Tạp chí Văn học, số 11, tr.23 - 26.
134. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
Nxb Giáo dục, H.
135. Nguyễn Đăng Mạnh (2003), Nhà văn Việt Nam hiện đại - chân dung và phong
cách, Nxb Văn học, H.
136. Tôn Thảo Miên (tuyển chọn - 2007), Hàn Mặc Tử tác phẩm và lời bình, Nxb Văn
học, H.
137. Tôn Thảo Miên (tuyển chọn) (2002), Hàn Mặc Tử tác phẩm và dư luận, Nxb Văn
học, H.
143
138. Trọng Miên (1939), “Một thiên tài xuất hiện trong làng thơ”, Văn học Sài Gòn, số
đặc biệt Trăng và Thượng đế, 12/1974.
139. Trọng Miên (1940), “Thơ Hàn Mặc Tử”, Người mới, số 23, tháng 11/1940, in lại
trong Hàn Mặc Tử tác phẩm phê bình và tưởng niệm, Phan Cự Đệ biên soạn, tái
bản lần thứ nhất, Nxb Giáo dục, H, tr.329 - 330.
140. O.L. Mukarovsky, Ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ thi ca, Tài liệu đánh máy, Thư
viện Trường Đại học Vinh.
141. Nguyễn Xuân Nam (1985), Thơ, tìm hiểu và thưởng thức, Nxb Tác phẩm mới, H.
142. Hà Quang Năng (1981), “Một số suy nghĩ về hiện tượng chuyển loại trong tiếng
Việt”, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ, T.2, tr. 48-56.
143. Hà Quang Năng (2010), Sự phát triển của từ vựng tiếng Việt nửa sau thế kỷ XX,
Nxb Khoa học xã hội, H.
144. Phan Ngọc (1995), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb Trẻ, TP.
HCM.
145. Phan Ngọc (1995), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb
Khoa học xã hội, H.
146. Phan Ngọc (1995), “Nguyễn Tuân và quá trình chuyển biến của một phong
cách”, in trong Thử giải thích văn hóa văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb Thanh
niên, H.
147. Lữ Huy Nguyên (sưu tầm, tuyển chọn - 1993), Hàn Mặc Tử thơ và đời, Nxb Văn
học, H.
148. Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức (1968), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại,
Nxb Khoa học xã hội, H.
149. Vương Trí Nhàn (1996), Hàn Mặc Tử hôm qua và hôm nay, Nxb Hội nhà văn, H.
150. Vương Trí Nhàn (1993), “Vẻ đẹp kỳ dị”, in trong sách Những kiếp hoa dại, Nxb
Hội nhà văn, H.
151. Phùng Quý Nhâm (1990), “Đặc trưng của hồn thơ Hàn Mặc Tử”, Kiến thức ngày
nay, số 47.
152. Nhiều tác giả (2006), Hàn Mặc Tử - thơ và văn, Nxb Hội Nhà văn, H.
153. Mai Thị Nhung (2006), Phong cách nghệ thuật Tô Hoài, Nxb Giáo dục, H.
154. Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang, Vương Toàn (1986), Ngôn
ngữ học: khuynh hướng, lĩnh vực, khái niệm, tập 1, 2, Nxb Khoa học xã hội, H.
144
155. Phạm Thị Ninh (2014), Phong cách ngôn ngữ hành chính, LATS Ngôn ngữ học,
Viện Ngôn ngữ, H.
156. Octavio Paz (1993), “Ngôn ngữ và trừu tượng”, Văn nghệ, số 21, 22.
157. Vũ Ngọc Phan (1942), “Hàn Mặc Tử”, in trong Nhà văn hiện đại (tập hai, tái bản,
1998), Nxb Văn học, H.
158. Nguyễn Văn Pháp (2013), Ngôn ngữ trường thơ Loạn Bình Định, Luận văn thạc
sĩ, Đại học Đà Nẵng.
159. Hoàng Phê (1975), “Phân tích ngữ nghĩa”, Ngôn ngữ (2), tr.17.
160. Hoàng Phê (1980), “Chuẩn hóa tiếng Việt về mặt từ vựng”, Ngôn ngữ (1), tr.27-40.
161. Hoàng Phê (2003), Lôgíc - Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
162. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt: Câu, Nxb Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, H.
163. Thế Phong (2004), Hàn Mặc Tử nhà thơ siêu thoát, Nxb Đồng Nai.
164. Ngô Văn Phú tuyển chọn (1996), “Hàn Mặc Tử, một hồn thơ dị biệt”, in trong
sách Hàn Mặc Tử về tác gia và tác phẩm, Phan Cự Đệ - Nguyễn Toàn Thắng
tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo dục, H, tr.566 - 568.
165. Đào Trường Phúc (1971), “Hàn Mặc Tử: trăng và thơ”, Bán nguyệt san Văn, Sài
Gòn, 4/1971, in lại trong Hàn Mặc Tử về tác gia và tác phẩm, Phan Cự Đệ -
Nguyễn Toàn Thắng sưu tầm và tuyển chọn, Nxb Giáo dục, H, tr.507 - 523.
166. Huỳnh Như Phương (2007), Trường phái hình thức Nga, Nxb Đại học Quốc gia
TP. HCM.
167. Nguyễn Thị Thu Phương (2012), Phong cách ngôn ngữ thơ từ Tô Đông Pha,
Luận án tiến sĩ, LA 04.0499.1; 04.0499.2
168. Nguyễn Quân (2002), “Tôi vẫn còn đây”, in trong sách Hàn Mặc Tử về tác gia và
tác phẩm, Phan Cự Đệ - Nguyễn Toàn Thắng tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo
dục, H, tr.569 - 572.
169. Nguyễn Hưng Quốc (1996), Thơ v.v… và v.v… Văn nghệ California, Hoa Kì.
170. Trương Vũ Quỳnh (1997), Thế giới tôn giáo trong ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử,
Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.
171. F.de Saussure (1978), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Cao Xuân Hạo dịch
(tái bản 2017), Nxb Khoa học xã hội, H.
172. Nguyễn Khắc Sính (2006), Phong cách thời đại nhìn từ một thể loại văn học,
Nxb Văn học, H.
145
173. Chu Văn Sơn (2000), “Thơ điên Hàn Mặc Tử - thi học của cái tột cùng”, Tạp chí
Văn học, số 11/2000, tr. 39 - 47.
174. Chu Văn Sơn (2001), Thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử, Luận án tiến sĩ Ngữ
văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, H.
175. Chu Văn Sơn (2007), Ba đỉnh cao Thơ mới (Xuân Diệu - Nguyễn Bính - Hàn Mặc
Tử), Nxb Giáo dục, H.
176. Chu Văn Sơn (biên soạn, 2004), Hàn Mặc Tử một hành trình sáng tạo, Nxb Trẻ,
TP. HCM.
177. Chu Văn Sơn (2007), Thơ, điệu hồn và cấu trúc, Nxb Giáo dục, H.
178. Trần Đình Sử (1995), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Giáo dục, H.
179. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, H.
180. Trần Đình Sử (2001), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
181. Quách Tấn (1961), “Ảnh hưởng đạo Phật trong thơ Hàn Mặc Tử”, in trong Hàn
Mặc Tử - Hương thơm và Mật đắng, Nxb Hội nhà văn, H, 1997.
182. Quách Tấn (1967), “Đôi nét về thơ Hàn Mặc Tử”, Sài Gòn, 7/1/1967.
183. Võ Long Tê (1972), “Kinh nghiệm thơ và hành trình tinh thần của Hàn Mặc Tử”
(bằng tiếng Pháp, năm 1990, tác giả dịch và gửi cho Phan Cự Đệ, in trong Hàn
Mặc Tử tác phẩm phê bình và tưởng niệm, Nxb Giáo dục, H, 1997, tr.418 - 437).
184. Hoài Thanh, Hoài Chân (2015), “Hàn Mặc Tử”, in trong Thi nhân Việt Nam 1932
- 1941 (tái bản), Nxb Văn học, H.
185. Đào Thản (1986), “Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật Nguyễn Bỉnh Khiêm trong
thơ Nôm”, Ngôn ngữ, số 1, tr.50 - 55.
186. Đào Thản (1998), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật, In lần thứ hai, có
sửa chữa, bổ sung, Nxb Khoa học xã hội, H.
187. Nguyễn Kim Thản (1963), Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, tập 1, Nxb Khoa học
xã hội, H.
188. Nguyễn Bá Thành (1999), Thơ Chế Lan Viên với phong cách suy tưởng, Nxb
Giáo dục, H.
189. Nguyễn Thị Thương Thảo (2011), Tìm hiểu phong cách ngôn ngữ Sơn Nam,
Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
gia TP. HCM.
190. Nguyễn Tất Thắng (2007), Hàn Mặc Tử và nhóm thơ Bình Định, Nxb Giáo dục, H.
146
191. Nguyễn Tất Thắng (2008), “Thị giác trong ngôn ngữ”, Ngôn ngữ, số 9, tr.1 - 7.
192. Nguyễn Toàn Thắng (2001), “Hàn Mặc Tử trong phê bình trước 1945” Tạp chí
Văn học, số 4.
193. Nguyễn Toàn Thắng (2001), “Hàn Mặc Tử và cuộc “nổi loạn” của ngôn từ thơ”,
tạp chí Giáo dục, số 11.
194. Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận từ lý thuyết đến thực tiễn tiếng
Việt, Nxb Khoa học xã hội, H.
195. Lý Toàn Thắng (2001), “Bản sắc văn hoá: Thử nhìn từ góc độ tâm lý - ngôn
ngữ”, Ngôn ngữ, số 15, tr.1-6.
196. Lý Toàn Thắng (1999), “Giới thiệu giả thuyết "Tính tương đối ngôn ngữ" của
Sapir - Whorf”, Ngôn ngữ, số 4, tr.23-31.
197. Nguyễn Thành Thi (2006), Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam, Nxb
Khoa học xã hội, H.
198. Lê Quang Thiêm (1988), Về vai trò của những nhân tố ngữ pháp trong sự phân
định các biến thể từ vựng - ngữ nghĩa, Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt, NXB
Khoa học xã hội, H.
199. Lê Quang Thiêm (2003), Lịch sử từ vựng tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, H.
200. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghĩa học, Nxb Giáo dục, H.
201. Lê Quang Thiêm (2014), Sự phát triển nghĩa từ vựng tiếng Việt từ 1945 đến
2005, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
202. Bích Thu (2000), “Hàn Mặc Tử - một hiện tượng độc đáo của thi ca Việt Nam thế
kỷ XX”, Tạp chí Văn học, số 1/2000.
203. Trần Hữu Thục (2017), Ẩn dụ, cuộc phiêu lưu của chữ, Văn Việt.
204. Bùi Thị Minh Thùy (2007), Đặc điểm phong cách ngôn ngữ trong ca từ của
Trịnh Công Sơn, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia TP. HCM.
205. Đỗ Lai Thuý (1995), “Dấu vân tay hằn lên từng con chữ - Về phong cách ngôn
ngữ thơ Hồ Xuân Hương”, Ngôn ngữ, số 3, tr.57 - 62.
206. Đỗ Lai Thuý (2000), “Hàn Mặc Tử - một tư duy thơ độc đáo”, in trong Mắt thơ,
Nxb Lao động, H.
207. Đỗ Lai Thúy (2005), “Phong cách như là sự chuyển đổi hệ hình nghiên cứu”, Văn
hóa nghệ thuật, số 6, tr.7 - 15.
147
208. Đỗ Lai Thuý (2005), “Phong cách học và phê bình văn học”, Văn học nước
ngoài, số 1 (55), tr.124 - 134.
209. Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên), Nguyễn Văn Hiệp (2004), Thành phần câu
tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
210. Cao Xuân Thử (2000), “Cõi mộng - cõi ảo trong quan niệm của Hàn Mặc Tử về
thi ca”, in trong sách Phân tích - bình giảng văn học chọn lọc, Nxb Văn học, H.
211. Cao Xuân Thử (2000), “Hàn Mặc Tử một lối thơ riêng”, in trong sách Phân tích -
bình giảng văn học chọn lọc, Nxb Văn học, H.
212. Đào Trọng Thức (1994), “Một số dấu hiệu ảnh hưởng thơ Pháp trong thơ Hàn
Mặc Tử”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, H.
213. Đặng Tiến (1974), “Đức tin trong hồn thơ Hàn Mặc Tử”, in trong Vũ trụ thơ,
Giao điểm xuất bản, Sài Gòn.
214. Đặng Tiến (2009), Thơ, thi pháp & chân dung, Nxb Phụ nữ, H.
215. Nguyễn Bá Tín (1991), Hàn Mặc Tử anh tôi, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
216. Phạm Văn Tình (2004), Tiếng Việt từ chữ đến nghĩa, Nxb Từ điển bách khoa, H.
217. Bùi Đức Tịnh (1999), Ngôn ngữ học và văn học, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ
Chí Minh.
218. Phan Cao Toại (2003), Quy Hòa với Hàn Mặc Tử: Tập thơ truyện, Nxb Văn nghệ
TP. Hồ Chí Minh.
219. Bùi Minh Toán (1999), Từ trong hoạt động giao tiếp, Nxb Giáo dục, H.
220. Bùi Minh Toán (2015), Ngôn ngữ với văn chương, Nxb Đại học Sư phạm H.
221. Nguyễn Đức Tồn (2007), “Bản chất của ẩn dụ”, Ngôn ngữ, số 10 + 11), tr.1 - 9.
222. Nguyễn Đức Tồn (2008), “Bản chất của hoán dụ trong mối quan hệ với ẩn dụ”,
Ngôn ngữ, số 3, tr.1 - 6.
223. Trần Thị Huyền Trang (1997), Hàn Mặc Tử - Hương thơm và Mật đắng, Nxb Hội
nhà văn, H.
224. Nguyễn Văn Trung (2006), Ca tụng thân xác, Nxb Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
225. Xuân Tùng (2001), Thơ và văn xuôi Hàn Mặc Tử, Nxb Văn hóa Thông tin, H.
226. Cù Đình Tú, Lê Anh Hiền, Võ Bình, Nguyễn Thái Hoà (1982), Phong cách học
tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
227. Cù Đình Tú (1982), Khảo sát từ vựng tiếng Việt theo bình diện phong cách ngôn
ngữ, Nxb Khoa học xã hội, H.
148
228. Cù Đình Tú (2001), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
229. Nguyễn Quốc Túy (1994), Thơ mới - bình minh của thơ Việt Nam hiện đại, Nxb
Văn học, H.
230. Phạm Xuân Tuyển (1997), Đi tìm chân dung Hàn Mặc Tử, Nxb Văn học, H.
231. Chế Lan Viên (1987), “Hàn Mặc Tử anh là ai?”, in trong Thơ Hàn Mặc Tử, Sở
Văn hóa - Thông tin Nghĩa Bình xuất bản.
232. Chế Lan Viên (2002), Hàn Mặc Tử tác giả, tác phẩm, Nxb Đồng Nai.
233. Viện chính trị học Liên Xô (1986), Từ điển Triết học, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
234. Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ
điển học, H.
235. Viện Văn học (2002), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Chính trị Quốc
gia, H.
236. Hoài Việt (biên soạn - 1992), Nguyễn Bính thi sĩ của yêu thương, Nxb Hội nhà
văn, H.
237. Vũ Thanh Việt (2000), Thơ tình Nguyễn Bính, Nxb Văn hoá Thông tin, H.
238. V.V. Vinôgratđôp, Phong cách học. Lý thuyết về lời nói có tính chất thơ. Thi học,
Tài liệu đánh máy. Thư viện Đại học Sư phạm Hà Nội.
239. R. Wellek - A. Warren (2009), Lý luận văn học, Nguyễn Mạnh Cường dịch, Nxb
Văn học, H.
240. Nguyễn Như Ý (chủ biên - 1997), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học,
Nxb Giáo dục, H.
II. TIẾNG NƯỚC NGOÀI
241. Abrams, M.H (1993), A glossary of literary terms (sixth edition), Harcourt Brace
Jovanovich College Publishers, The United States of America.
242. Boliger, P (1968), Aspects of language, N. Y. Harcourt, Brace and World.
243. Brown G - Yule G. (1989), Discourse Analysis, Cambridge University Press.
244. Difloth R. I (1994), big, a: small. In: I. Hinton, J. Nicols & J.J. Ohala (eds).
“Sound Symbolism”. Cambridge Unniversity Press.
245. Jonathan Culler (2001), The Pursuit of Signs, Cornell University Press, USA,
tr.191.
246. Umberto Eco (1984), Semiotics & the Philosophy of Language, Indiana
University Press.
149
247. Cicero (1970), On oratory and Orators, J. S.Watson dịch, Southern Illinois
University Press.
248. Mark Johnson (1981), Philosophical Perspectives on Metaphor, University of
Minnesota.
249. John Locke (1978), An Essay Concerning Human Understanding, dẫn lại theo
Paul de Man, The Epistemology of Methaphor, Critical Inquiry, Volum 5,
Number 1.
250. Benjamin Westley (1995), Kant, Davidson And The Value Of Metaphor.
251. Monroe Beardsley (1985), The Metaphor Twist, trong Mark Johnson.
252. Boliger, P (1968), Aspects of language, N. Y. Harcourt, Brace and World.
253. Donald N. McCloskey (1995), Metaphors economists live by, Social Research,
Summer.
254. Robert R. Hoffman (1980), Metaphor in Science, University of Minnesota.
255. Hatman R.R.K and Stork (1985), Dictianary of Langgue and linguistics, London.
150
NGUỒN NGỮ LIỆU
I. Thơ Hàn Mặc Tử, gồm các tập: Gái quê, Chơi giữa mùa trăng, Đau thương
(Thơ điên), Xuân như ý in trong tập Thơ mới 1932 - 1945 tác giả và tác phẩm,
Lại Nguyên Ân tập hợp và biên tập (1998), Nxb Hội Nhà văn, H. tr.133 - 204.
II. Thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên tuyển chọn và giới thiệu (1992), Nxb Văn học, H.
III. Hàn Mặc Tử thơ và đời, Lữ Huy Nguyên sưu tầm và tuyển chọn (1993), Nxb
Văn học, H.
IV. Hàn Mặc Tử, tác phẩm, phê bình và tưởng niệm, Phan Cự Đệ biên soạn (1998),
Nxb Giáo dục, H.
V. Thơ Hàn Mặc Tử, Mạnh Linh (sưu tầm, tuyển chọn) (2014), Nxb Văn học, H.
VI. Thơ Hàn Mặc Tử, Phạm Du Yên tập hợp và giới thiệu (2005), Nxb Đồng Nai.
VII. Tuyển tập Hàn Mặc Tử (1987), Nxb Văn học, H.
VIII. Hàn Mặc Tử, tác phẩm chọn lọc, Nguyễn Đăng Điệp giới thiệu và tuyển chọn với
sự cộng tác của Lê Hương Thủy (2009), NXB Giáo dục Việt Nam, H.
IX. Thơ Hàn Mặc Tử, Hà Minh Đức (1994), Nxb Giáo dục, H.
X. Hàn Mặc Tử - thơ và văn, Hội Nhà văn (2006), Nxb Hội Nhà văn, H.
XI. Thơ Hàn Mặc Tử, Vân Long tuyển chọn (2006), Nxb Văn hóa Thông tin, H.
XII. Hàn Mặc Tử thơ và kịch, Hà Đình Cẩn, Ngô Thế Ngọc (2006), Nxb Sân khấu, H.
XIII. Thơ Hàn Mặc Tử - Gái quê, Công ty Văn hóa Phương Nam (2012), Nxb Hội
Nhà văn, H.
XIV. Hàn Mặc Tử - một đời thơ, Thi Long (2000), Nxb Đà Nẵng.