VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN LAN ANH
NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ THỜI LÝ-TRẦN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
1
HÀ NỘI - 2016
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Nguyễn Lan Anh
NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG
CỦA NÓ ĐẾN TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ THỜI LÝ-TRẦN
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 62 22 03 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS HOÀNG THỊ THƠ
HÀ NỘI-2016
2
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
luận nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và chưa từng được ai
công bố trong bất cứ một công trình khoa
học nào.
Người cam đoan
Nguyễn Lan Anh
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………..………………………………..........................
1
NỘI DUNG…………………………………………………………........................
7
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ……………………...……......…............................
7
1.1. Nhóm tài liệu và công trình về nhân sinh quan Phật giáo, nhân sinh quan
Phật giáo Lý-Trần ……………………….…..….................…...............................
7
1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về tư tưởng chính trị thời Lý-Trần…............
15
1.3. Nhóm tư liệu, công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của nhân sinh quan
Phật giáo đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần……………….............................
21
1.4. Những vấn đề được kế thừa và phát triển mới trong luận án…...…............
26
Chương 2: NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO VÀ NHÂN SINH QUAN PHẬT
GIÁO THỜI LÝ-TRẦN …………………………….......….....................................
30
2.1. Nhân sinh quan Phật giáo……....…...….............……...……….….................
30
2.2. Nhân sinh quan Phật giáo thời Lý – Trần…….....…………….....................
48
Chương 3: TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ THỜI LÝ-TRẦN VÀ CÁC NHÂN TỐ
ẢNH HƯỞNG……………………………................................................................
71
3.1. Tư tưởng chính trị thời Lý – Trần ………………………………..…............
71
3.2. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần….....
92
Chương 4: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN TƯ
TƯỞNG CHÍNH TRỊ THỜI LÝ-TRẦN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ VỚI VĂN
HÓA CHÍNH TRỊ VIỆT NAM HIỆN NAY………......….......................................
110
4.1. Một số ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư tưởng chính trị
thời Lý-Trần…………………………………………..……....…….......................
111
4.2. Đánh giá về những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư
tưởng chính trị thời Lý-Trần và ý nghĩ của nó trong việc xây dựng văn hóa
chính trị ở Việt Nam hiện nay………………………………………………...…..
135
KẾT LUẬN……..………..…………………………………....…............................
152
DANH M C CÁC C NG TR NH ĐÃ C NG Ố …..………………...................
155
DANH M C TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………..........
156
PH L C………………………………………………………..………….............
166
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo ở hai triều đại Lý-Trần không thuần tuý chỉ là một bộ phận
của ý thức xã hội, nó không đứng độc lập bên ngoài chính trị, mà qua tinh
thần khoan dung, nhân đạo nó tác động không nhỏ đến nhiều chủ trương,
chính sách của triều đình và hoạt động xã hội của các nhà chính trị. Phật giáo
thực sự đã góp phần tạo nên một nền chính trị từ bi, nhân văn của thời Lý-
Trần. Có lẽ chính điều này đã khởi nguồn cho chính sách thân dân, dân chủ,
mà qua đó triều đình có thể tập hợp được sức người, sức của toàn dân phục
vụ cho công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Lập nên những
chiến công vang dội và mở ra một thời đại vàng son trong lịch sử. Vì vậy, dù
không phải là một học thuyết chính trị, nhưng vượt qua cả Nho giáo – hệ tư
tưởng chuyên bàn về chính trị-xã hội, nhân sinh quan Phật giáo ở thời Lý-
Trần đã phát huy được những ưu điểm và lợi thế của mình để trở thành sức
mạnh tinh thần hỗ trợ tích cựcđối với nền chính trị.
Có thể nói, việc chọn lựa tư tưởng nào làm chủ đạo ở mỗi thời kỳ đều
có nguyên do nhất định, mà nguyên nhân đầu tiên và cơ bản nhất phải kể đến
là do yêu cầu của thực tiễn chính trị, xã hội. Ở Việt Nam giai đoạn thế kỷ X
đến XIV, dù Nho giáo đã xuất hiện và bắt đầu được tạo điều kiện phát triển,
nhưng nhiều vị vua trị vì thời kỳ này vẫnđề cao Phật giáo, trên cơ sở kết hợp
với Nho giáo nhằm nâng cao hiệu quả trị quốc của bộ máy nhà nước trung
ương tập quyềntronggiai đoạn lịch sử lúc đó.Tuy nhiên, có nhiều ý kiến cho
rằng, thành tích vĩ đại của thời Lý-Trần không phải là của Phật giáo mà là
của Nho giáo, bởi trong những hệ tư tưởng xuất hiện ở thời Lý-Trần(Nho-
Đạo-Phật) thì Nho giáo mới thực sự là hệ tư tưởng chuyên bàn về chính trị-
xã hội. Song lại có kiến khác cho rằng, trong “thời kỳ Đại Việt thứ nhất –
thời kỳ Lý-Trần – là thời kỳ tam giáo với tính trội thuộc về Phật giáo, tuy
5
Phật giáo không phải là quốc giáo”[35,9]. Như vậy, cần phải làm r hơn mối
quan hệ giữa nhân sinh quan Phật giáo và tư tưởng chính trị, từ đó chỉ ra vai
trò của Phật giáo với chính trị ở thời Lý-Trần.
Giống như các triều đại phong kiến khác, xã hội thời Lý-Trần cũng có
sự phân tầng tương đối rõ nét, tầng lớp cao quý nhất đồng thời nắm giữ
quyền lực chính trị, kinh tế, tôn giáo là vua chúa và quý tộc; tầng lớp thứ hai
là địa chủ, quan liêu – họ cũng giữ một số chức vụ nhất định trong bộ máy
chính quyền; tầng lớp thứ ba là người lao động bình dân và nô tỳ, họ bị coi
là tầng lớp thấp hèn nhất trong xã hội. Nhưng khi đất nước bị ngoại xâm đe
dọacác tầng lớp trong xã hội đều chung sức một lòng đánh giặc, giữ nước.
Phải chăng, do ảnh hưởng của nhân sinh quan Thiền Phật giáo, đã tạo ra một
xã hội thuận hòa, đoàn kết nhưng rất dũng mãnh, kiên cường xông pha trận
mạc, không nao núng ngay cả quân giặc rất mạnh. Bởi thế đã lần lượt chiến
đấu và chiến thắng bao kẻ thù hùng mạnh. Đây là bài học về nghệ thuật phát
huy sức mạnh tinh thần nhằm liên kết nhân tâm, thống nhất lực lượng, mà
đến nay vẫn còn giá trị đối với nền chính trị Việt Nam.
Phật giáo là một tư tưởng phổ biến trong thời Lý-Trần, từ nơi đô thành
đến chốn thôn quê, nơi đâu cũng tôn sùng và thực hành theo giáo lý từ bi, hỷ
xả, bình đẳng, vị tha của nhân sinh Phật giáo. Giai cấp thống trị cũng yêu
mến và tôn sùng tư tưởng mà nhân dân yêu mến, họ không chỉ tận dụng sức
mạnh của giáo lý Phật giáo trong việc trị nước, mà bản thân họ đã thực hành
đạo lý này và trở thành những phật tử thuần thành. Điều này đã tạo nên lối
sống nhân nghĩa, thuần từ, vị tha của vua – quan, hoàng tộc trong triều đình.
Triết lý nhân sinh Phật giáo, đã góp phần tạo nên những nhà chính trị lý
tưởng, được tôn vinh là Phật, Bồ Tát hay Thượng Sỹ… khiến nhân dân hết
lòng yêu mến, ngưỡng mộ.Đây là một bài học qu giá để các nhà chính trị,
nhà quản lý xã hội đương thời tham khảo, để thấy được vai trò của việc tu
dưỡng đạo đức, nhân cách trong việc tạo nên uy tín chính trị trong dân, từ
đó, họ sẽ hết lòng ủng hộ các quyết sách của nhà nước, điều này chính là
6
ngọn nguồn cho mọi thắng lợi của nền chính trị và của cả đất nước.
Có thể nói, nền chính trị thời Lý-Trần đã kế thừa tư tưởng từ bi, hỷ xả,
bác ái, vị tha của Phật giáovà triển khai trong các chủ trương, đường lối
chính trị cụ thể của triều đại. Nhân sinh quan Phật giáo đã góp phần xây
dựng một nền văn hóa chính trị tích cực trong triều đại Lý-Trần, khiến nhân
dân tin tưởng và yêu mến. Đó là l do mà thời Lý-Trần, từ vua chúa, quý tộc
đến tầng lớp bình dân đều say mê đạo Phật, nhưng dân tộc đánh giặc vẫn rất
giỏi, chính trị vẫn ổn định, kinh tế vẫn phát triển. Đây là bài học có giá trị
thực tiễn cho việc xây dựng một nền văn hóa chính trị ở Việt Nam hiện nay
và định hướng đúng đắn cho sự phát triển của Phật giáo Việt Nam trong
tương lai. Bài học đó cho đến nay vẫn có giá trị lý luận và thực tiễn, nhưng
vấn đề này chưa có công trình phân tích chuyên sâu, điều này cũng sẽ cần
được luận giải cụ thể.
Luận án chọn nghiên cứu cả hai triều đại Lý và Trần, bởi: Thứ nhất,
triều Lý và Trần đều là hai triều đại phát triển cực thịnh trong lịch sử phong
kiến Việt Nam. Đây cũng là thời đại hào hùng của lịch sử với nhiều lần đánh
bại những đội quân xâm lược hùng mạnh nhất; Thứ hai, Tuy có sự chuyển
giao quyền lực giữa hai triều đại này, song cũng nhờ đóng góp tích cực của
Phật giáo mà nó được thực hiện trong hòa bình và không gây ra nhiều biến
động trong xã hội. Cũng vì vậy, chính sách cai trị ở hai triều đại này cũng
không có nhiều sự khác biệt; Thứ ba, Phật giáo ở cả hai triều đại này đều
được tôn sùng và thực sự có tiếng nói trên vũ đài tư tưởng và có ảnh hưởng
lớn trong đời sống chính trị. Chính vì có nhiều điểm tương đồng như vậy,
nên trên nhiều phương diện hai triều đại Lý-Trần đều có những điểm chung,
đặc biệt là trong các chủ trương, chính sách trị nước cũng có sự kế thừa và
thống nhất của triều đại sau với triều đại trước.
Ngày nay, Phật giáo vẫn được người Việt yêu mến và vẫn đồng hành
với tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Vậy, đứng trước những cơ hội
và thử thách của thời kỳ mới - thời kỳ phát triển kinh tế thị trường và toàn
7
cầu hóa ngày càng mạnh mẽ, nhân sinh quan Phật giáo có thể đóng góp gì
cho nền chính trị trong kỷ nguyên mới? Luận án tiếp cận vấn đề từ việc
nghiên cứu những nội dung nhân sinh quan Phật giáo có ảnh hưởng đến tư
tưởng của các nhà chính trị thời Lý-Trần, từ đó rút ra nghĩa của nó cho
công cuộc xây dựng văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay. Với những lý do
mang tính lý luận và thực tiễn trên, tác giả đã chọn đề tài Nhân sinh quan
Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trầnlàm
luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2. . c đ ch
Luận án làm rõ nội dung của nhân sinh quan Phật giáothời Lý-Trần,
sự phát triển của tư tưởng chính trị thời kỳ này và ảnh hưởng của nhân sinh
quan Phật giáo đến tư tưởng chính trị Việt Nam thời Lý-Trần.
2. . Nhi m v
- Làm r nội dung nhân sinh quan Phật giáo và nhân sinh quan Phật
giáo Lý-Trần.
- Phân tích sự phát triển của tư tưởng chính trị thời L -Trần và các
nhân tố ảnh hưởng đến tư tưởng chính trị, từ đó chỉ rõ thời kỳ này, nhân sinh
quan Phật giáo là tư tưởng có ảnh hưởng hơn cả đến chính trị .
- Làm r ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư tưởng chính
trị thời Lý-Trần và nghĩa nó đối với nền chính trị Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam thời Lý-Trần và ảnh hưởng của
nó đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: trong khuôn khổ của luận án,đề tài chỉ xin tập trung
làm r nhân sinh quan Phật giáo ở thời Lý-Trần, qua một số nội dung: quan
điểm về con người, đời người; quan điểm về giải thoát; quan điểm về đạo
8
đức, được thể hiện qua tư tưởng của thiền sư, phật tử thời Lý-Trần, mà theo
tác giả có ảnh hưởng đến tư tưởng chính trị (Đường lối xây dựng thể chế
chính trị, ổn định xã hội; Đường lối bảo vệ thống nhất và toàn vẹn xã hội;
Đường lối trấn áp các thế lực chống đối, phát triển đất nước, giải quyết các
vấn đề xã hội) của thời Lý-Trần.
- Về tư liệu: luận án chủ yếu sử dụng các tư liệu lịch sử, công trình
nghiên cứu, sách, bài viết trên các tạp chí khoa học được dịch ra tiếng Việt
và đã được công bố rộng rãi.
- Về không gian và thời gian: nghiên cứu đời sống chính trị-xã hội
Việt Nam thời Lý-Trần, từ năm 1009 đến năm 1400.
4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
4. . Cơ sở lý thuyết
Luận án thực hiện trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về
tôn giáo, văn hóa, chính trị, đồng thời kế thừa thành tựu của các công trình đi
trước về nhân sinh quan, nhân sinh quan Phật giáo, tư tưởng chính trị, lịch sử tư
tưởng và lịch sử Phật giáo Việt Nam.
4. . Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của triết
học Mác-Lênin kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khác như phân
tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa và kết hợp sử dụng
phương pháp nghiên cứu liên ngành như: triết học, sử học, văn học, văn hóa
học, chính trị học.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Đóng góp mới của đề tài là tìm ra được những ảnh hưởng của nhân
sinh quan Phật giáo đến tư tưởng của các nhà chính trị thời Lý-Trần, nhằm
góp thêm một góc nhìn nhận, đánh giá khách quan về một thực tiễn lịch sử
đã từng diễn ra trong xã hội phong kiến Việt Nam, thế kỷ XI-XIV.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
9
6. . Ý nghĩa lý luận
Trên cơ sở phân tích một số nội dung cơ bản và rút ra đặc điểm của
nhân sinh quan Phật giáo thời Lý-Trần,luận án đã l giải nguyên nhân Phật
giáo có mối quan hệ với chính trị, và từ việc phân tích tình hình kinh tế-xã
hội, văn hóa-tư tưởng của thời Lý-Trần luận án khẳng định, trong bối cảnh
và điều kiện ấy, nhân sinh quan Phật giáo chính là tư tưởng phù hợp hơn cả
cho nền chính trị của triều đại. Từ đó, tác giả đưa ra nhiều lập luận, dẫn
chứng để chứng minh rằng những tư tưởng chính trị cơ bản của thời kỳ này
(xây dựng thể chế chính trị, ổn định xã hội; bảo vệ độc lập dân tộc và toàn
vẹn lãnh thổ; trấn áp các thế lực chống đối, phát triển đất nước và giải quyết
các vấn đề xã hội) đều có ảnh hưởng của tư tưởng từ bi, hỷ xả, nhân ái, vị
tha… của nhân sinh quan Phật giáo. Bởi vậy, Phật giáo thực sự đã xây dựng
một nền văn hóa chính trị tích cực cho triều đại Lý-Trần. Từ bài học này,
luận án đã khẳng định nghĩa của nhân sinh quan Phật giáo trong việc xây
dựng văn hóa chính trị ở Việt Nam và đưa ra một số kiến nghị nhằm kế thừa
những giá trị tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh
quan Phật giáo với việc xây dựng văn hóa chính trị thời đại mới.
6. . Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và
giảng dạy về triết học, tôn giáo nói chung; lịch sử triết học, Phật giáo, nhân
sinh quan Phật giáo nói riêng; cho việc hoạch định chính sách đối với tôn
giáo của Đảng và Nhà nước.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh
mục công trình đã công bố và Phụ lục, Nội dung chính của Luận án gồm 4
10
chương, 10 tiết.
NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Dựa trên cơ sở xác định đối tượng, mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
“Nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng chính trị thời
Lý-Trần”, tác giả đã tham khảo các công trình nghiên cứu có liên quan của
các nhà khoa học đi trước, kế thừa những thành tựu nghiên cứu từ nhiều tài
liệu, tư liệu về chủ đề nhân sinh quan Phật giáo nói chung, nhân sinh quan
Phật giáo thời L -Trần nói riêng và tài liệu, tư liệu nghiên cứu về lịch sử,
văn hóa, xã hội Việt Nam thời L -Trần… trong đó đặc biệt là sự phát triển
của tư tưởng chính trị thời L -Trần, để đưa ra những dẫn chứng và phân tích
cụ thể về những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư tưởng chính
trị thời L -Trần như thế nào. Vậy xin được tổng quan thành một số nhóm
vấn đề như sau:
1.1. Nhóm tài liệu và công trình về nhân sinh quan Phật giáo, nhân sinh
quan Phật giáo Lý-Trần
Nhóm tư liệu về khái niệm nhân sinh quanvà các khái niệm liên quan:
Theo Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (chủ biên, 1999), Nxb. văn
hóa thông tin, Hà Nội, quan niệm: Nhân sinh quan là quan niệm về cuộc
đời, thành hệ thống bao gồm l tưởng, lẽ sống… Trong Từ điển Bách khoa
Việt Namdo Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển ách khoa Việt
Nam(1995), Nxb. Trung tâm iên soạn Từ điển ách khoa Việt Nam, Hà
Nội, thì định nghĩa đầy đủ hơn:Nhân sinh quan là bộ phận của thế giới quan
(hiểu theo nghĩa rộng), gồm những quan niệm về cuộc sống của con người:
lẽ sống của con người là gì? mục đích, nghĩa, giá trị của cuộc sống con
người ra sao và sống như thế nào cho xứng đáng? trả lời những câu hỏi đó là
11
vấn đề nhân sinh quan.
Đó là những định nghĩa khá cụ thể về nhân sinh quan, tác giả coi đây
là những khái niệm công cụ làm nền tảng, trên cơ sở đó có thể xây dựng
quan điểm nhân sinh quan riêng của bản thân và triển khai chi tiết hơn về nội
dung của nhân sinh quan Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo
Lý-Trần nói riêng.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu nhân sinh quan nói chung và nhân sinh
quan Phật giáo nói riêng cần phân biệt sự khác nhau giữa quan niệm của triết
học Châu Á và Châu Âu. Trong bài viết Bí ẩn Châu Á trong tấm gương triết
học Châu Á (2007), của Hồ Sĩ Qu trên trang web vanhoahoc.net, tác giả đã
chứng minh có một nền triết học Châu Á rất khác với triết học của Châu Âu.
Để luận giải cho vấn đề đó, tác giả có đề cập đến khái niệm nhân sinh quan
và cho rằng điểm khác biệt cơ bản của hai hệ thống triết học này là quan
điểm về nhân sinh. Triết học Châu Âu thường không nói nhiều về nhân sinh,
mà thường đặt nó trong thế giới quan hay bản thể luận, còn trọng tâm của
triết học Châu Á là quan điểm về nhân sinh, như Nho giáo, Phật giáo và Lão
giáo. Từ đó tác giả phân tích khá rõ khái niệm về nhân sinh quan và các nội
dung chủ yếu của nhân sinh quan trong triết học Châu Á.
Các tài liệu đi sâu nghiên cứu về Phật giáo thời Lý-Trần gồm có Kỷ
yếu Hội thảo khoa học về Tuệ Trung Thượng sĩ với thiền tông Việt Nam,
Nguyễn Thị Thanh Xuân (chủ biên, 1993) do trung tâm nghiên cứu Hán
Nôm biên soạn và xuất bản; tác phẩm Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1 của
Nguyễn Lang(1994), Nxb. Văn học, Hà Nội; cuốn Lược khảo tư tưởng Thiền
Trúc Lâm Việt Nam của tác giả Nguyễn Hùng Hậu (1997), Nxb. Khoa học
xã hội; Tư tưởng thiền Trúc Lâm Việt Nam của Trương Văn Chung (1998),
Nxb. Chính trị Quốc gia; Lịch sử đạo Phật Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh
(1999), Nxb Tôn giáo và Nxb Từ điển Bắc Khoa; Luận án Tiến sĩ ngữ văn
của Nguyễn Công Lý (2000)về Văn học Phật giáo thời Lý-Trần, diện mạo
và đặc điểm, Đại học Sư phạm Hà Nội; Lịch sử Phật giáo Việt Nam (2 tập)
12
của Lê Mạnh Thát (2001), Nxb T.p Hồ Chí Minh…
Trước hết phải kể đến tác phẩm Việt Nam Phật giáo sử luận của
Nguyễn Lang (1994)đã kết hợp giữa viết sử và bình luận lịch sử, trên cơ sở
những đại diện tiêu biểu và các trường phái Phật giáo chính yếu xuất hiện
trong lịch sử, các mốc lịch sử quan trọng của Phật giáo Việt Nam. Tác phẩm
đã đưa ra những dữ liệu giá trị về thiên hướng phát triển của Phật giáo qua
các thời kỳ tương đối toàn vẹn và đầy đủ. Trong đó, tác giả đã giành nhiều
thời lượng để phân tích, làm r đặc điểm cơ bản của Phật giáo thời Lý và
Trần hay sự tồn tại và phát triển của các thiền phái giai đoạn nay như thế nào
và ảnh hưởng của nó đến các lĩnh vực của đời sống ra sao qua các nhà tư
tưởng tiêu biểu.
Tác phẩm Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát (2001), dựa
trên những cứ liệu lịch sử phong phú, tác giả đã hệ thống về tiến trình hình
thành và phát triển của Phật giáo Việt Nam. Đặc biệt, tác giả đã đề cập khá
đậm nét về giai đoạn phát triển của Phật giáo Lý-Trần, đồng thời só sánh nó
với thời kỳ Phật giáo chấn hưng ở thế kỷ XX.
Kỷ yếu Tuệ Trung Thượng sĩ với thiền tông Việt Nam (1993), là tập
hợp các bài viết nghiên cứu hành trạng và tư tưởng của Tuệ Trung Thượng sĩ
– đại diện tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách sống của Thiền sư Đại Việt
thời Trần, của Thiền Tông Việt Nam. Các bài viết trong đó đều tập trung
phân tích tầm ảnh hưởng quan trọng của tư tưởng Phật giáo đến đời sống xã
hội thời Trần, đến các tầng lớp thống trị, tướng sĩ và nhân dân. Chình nhờ
ảnh hưởng đó mà tạo nên sức mạnh giúp Đại Việt 3 lần chiến thắng quân
Nguyên-Mông. Một số bài viết cũng chỉ ra hướng phát triển của Phật giáo
Việt Nam hiện nay và đóng góp của nó trong thời đại mới.
Cuốn Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam của Nguyễn
Hùng Hậu (1997) đã phân tích khía cạnh bản thể luận,nhân sinh quan của
các thiền sư, phật tử thời Trần như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ
Trung Thượng sĩ, Pháp Loa, Huyền Quang. Họ là những đại diện tư tưởng
13
Phật giáo ở giai đoạn phát triển đỉnh cao của Phật giáo ở thời kỳ Nhà Trần.
Công trình này đã mang lại cái nhìn khái quát về nội dung nhân sinh quan
của Phật giáo thời Trần, làm cơ sở quan trọng để tác giả Luận án đưa ra
những nhận định, so sánh về tư tưởng nhân sinh của Phật giáo thời Lý và
Trần, qua đó rút ra những ảnh hưởng tích cực của Phật giáo đối với chính trị.
Tác phẩm Tư tưởng triết học của thiền phái Trúc Lâm đời Trần của
Trương Văn Chung (năm 1998) tập trung nghiên cứu những tiền đề về xã
hội, tôn giáo và tư tưởng ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của
Thiền phái Trúc Lâm. Trong đó tập trung phân tích ảnh hưởng tư tưởng của
Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ đến sự ra đời của phái thiền Trúc
Lâm mà sau này vua Trần Nhân Tông, là người sáng lập. Nội dung cơ bản
của thiền phái Trúc Lâm được khảo sát qua tư tưởng của tam tổ là: Trần
Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang. Tác phẩm cũng nêu lên những đặc
trưng cơ bản của phái Thiền này, trong đó nhấn mạnh tính chất nhập thế
nhằm mục đích chính trị và phụng sự dân tộc, bảo vệ quyền lợi quốc gia của
Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử thời Trần.
Đề tài của Nguyễn Công Lý (2000) về Văn học Phật giáo thời Lý-
Trần, diện mạo và đặc điểm, dù nghiên cứu ở góc độ văn học nhưng công
trình đã có những phân tích khá chính xác về ảnh hưởng của tư tưởng Phật
giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng của thời đại Lý-Trần
tới các sáng tác văn học, tư duy nghệ thuật và cả đời sống văn hóa xã hội
thời kỳ này. Đề tài cũng đã khái quát được những đặc trưng của thời đại Lý-
Trần, từ đó phân tích sự tương tác giữa Phật giáo với con người Việt Nam
trong bối cảnh đất nước đang xây dựng và bảo vệ nền độc lập và hình thành
bản sắc văn hóa dân tộc đặc thù. Đề tài phân tích rất chi tiết về ảnh hưởng
của tư tưởng Phật giáo đến ý thức, tinh thần xã hội qua các tác phẩm văn
học. Đây là những nội dung quan trọng được luận án này đánh giá cao và
tiếp tục kế thừa, phát triển.
Nhóm công trình có liên quan tới vấn đề nhân sinh quan Phật giáo
14
nói chung và nhân sinh quan Phật giáo – Thiền, đây là loại hình Phật giáo
phổ biến ở Đại Việt thời Lý-Trần, gồm các công trình sau: Thiền học Việt
Nam của Nguyễn Đăng Thục (1966), Nxb. Thuận Hóa; Tìm hiểu nhân sinh
quan Phật giáo của Thích Tâm Thiện(1995), Nxb. Tp Hồ Chí Minh, Tp Hồ
Chí Minh; Nền tảng của đạo Phật của Peter D. Santina viết năm 1996, Thích
Tâm Quang dịch, đăng trên trang budsas.org; Đại cương triết học Phật giáo
Việt Nam, Tập 1: Từ khởi nguyên đến thế kỷ XIV, của Nguyễn Hùng
Hậu(2002), Nxb. Khoa học xã hội; Nhân sinh của Phật giáo trích từ cuốn
Thế giới tái sinh Duy Nguyễn dịch(1999), Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội;
Nhân sinh quan Phật giáo của Hòa thượng Thích Thanh Từ đăng trên trang
web: thuongchieu.net; Nhân sinh quan Phật giáo của Thích Thiện Hoa đăng
trên trangweb: tangthuphathoc.net; bài nghiên của Nguyễn Thị Thúy Hằng
(2014) Một số đặc trưng của nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam đăng trên
tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 2 (128), tr 25-34.
Tác phẩmThiền học Việt Nam của Nguyễn Đăng Thục (1966), trình
bày tư tưởng của một số Thiền sư Việt Nam từ thời Bắc thuộc đến thế kỷ XV
thông qua các tác phẩm tiêu biểu của họ. Trong đó có giành nhiều nội dung
phân tích sự tương tác giữa chính trị và tư tưởng thiền Phật giáo ở Việt Nam
thời kỳ này. Qua việc phân tích những nội dung cơ bản trong triết lý nhân sinh
của thiền tác giả đã chỉ ra chính nhờ tính thực tiễn của nó đã làm cho tư tưởng
Phật giáo Việt Nam dễ hòa vào các triết l đương thời và có thể tìm thấy ở cả
tư tưởng chính trị.
Tác phẩm Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo của Thích Tâm Thiện
(1995) đã chỉ ra nguồn gốc của nhân sinh quan Phật giáo, và trình bày thuyết
Duyên sinh - Vô ngã qua các bộ kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng già.
Đồng thời, dưới góc độ nghiên cứu của triết học, tác giả khái quát những chỉ
dẫn của Phật giáo để trở thành con người l tưởng, hạnh phúc ngay trong cõi
đời này.
Trong cuốn Nền tảng của đạo Phật, tác giả trình bày 12 bài giảng về
15
lịch sử ra đời của đạo Phật và những phần giáo l căn bản nhất của đạo Phật
như: tứ diệu đế, l nhân duyên, nghiệp, ngũ uẩn...Tác phẩm đã mang lại
những góc nhìn mới,xuất phát từ quan niệm của một Phật tử ở phương Tây
và đã cố gắng làm r từng nội dung trong quan niệm nhân sinh của đạo Phật
nguyên thủy.
Nhân sinh Phật giáo trích từ cuốn Thế giới tái sinh của Chu Sở(1999)
đã chứng minh cho tính đúng đắn của các luận đề về nhân sinh của Phật giáo
như: thuyết luân hồi, thuyết định mệnh, thuyết nhân-quả, quan niệm về hạnh
phúc thực sự của loài người… trên cơ sở so sánh, đối chiếu với các học
thuyết, các triết lý của các nhà khoa học hay các học giả lỗi lạc trên thế giới
như Anhxtanh, Galilê, Côpecnich, Khổng Tử, Tôn Trung Sơn.
Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1: Từ khởi nguyên đến
thế kỷ XIV của Nguyễn Hùng Hậu (2002) đã khái quát lịch sử Phật giáo Việt
Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XIV (thời Lý-Trần), đồng thời đi vào những
vấn đề cơ bản của Phật giáo nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng.
Trong đó, nội dung nhân sinh quan Phật giáo được tác giả khảo sát qua tư
tưởng của các thiền phái và các đại diện tiêu biểu của Phật giáo Việt Nam
trong mỗi triều đại.
Bài viết Một số đặc trưng của nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam của
tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng (2014), sau khi trình bày khái quát quan
niệm nhân sinh Phật giáo về con người và so sánh sự khác nhau giữa nhân
sinh quan Phật giáo Việt Nam với Trung Quốc và Ấn Độ, tác giả đã đưa ra
ba đặc trưng của nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam là: 1. Nhân sinh quan
Phật giáo Việt Nam có sự hòa quyện với văn hóa và các hình thức thờ cúng
bản địa; 2. Sự tương đồng giữa nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam với quan
niệm nhân sinh của con người Việt Nam; 3. Tinh thần nhập thế của Phật giáo
Việt Nam. Đây là những đánh giá tương đối chính xác góp phần làm một
trong những tham khảo có giá trị cho tác giả luận án. Luận án đã có sự kế
thừa và phát triển từ những nội dung đã kể trên và đưa ra những đặc điểm cơ
16
bản của nhân sinh quan Phật giáo Lý-Trần, từ đó đi đến khẳng định, nhờ
những đặc điểm này mà nhân sinh quan Phật giáo đã có mối liên hệ chặt chẽ
với chính trị.
Nhóm công trình có liên quan đến những chiều cạnh cụ thể của nhân
sinh quan Phật giáo gồm: Bài Giá trị của triết học Phật giáo trong xã hội
hiện đại của Phương Lập Thiên (2004) đăng trên Tạp chítiếng Trung Các
trào lưu tư tưởng đương đại, số 4/2004 do Nguyễn Hải Hoành dịch trên
trang web khaidoan.com; Cuốn Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người
Việt Nam của Đặng Thị Lan (2006), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội; Luận án
Tiến sĩ triết học với đề tài Giải thoát luận Phật giáo của Nguyễn Thị Toan
(2010), trường Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân văn Hà Nội; Lý thuyết
nhân quả trong triết học Phật giáo và trong học thuyết siêu nghiệm của Kant
của Thái Kim Lan đăng trên trang web daophatngaynay.com; Bài nghiên
cứu của Hoàng Thị Thơ (2000) Vấn đề con người trong đạo Phật đăng trên
Tạp chí Triết học, số 6/2000, trang 41-44; Bài nghiên cứu Từ bi của Phật
giáo và đạo đức nhân loại của tác giả Hà Thúc Minh (2014) trên Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo, số 2 (128), 2014, trang 116-125.
Trong đó, có thể kể đến những tài liệu, những vấn đề liên quan trực
tiếp đến đề tài của tác giả luận án, như:
Cuốn Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam của Đặng
Thị Lan (2006) đã nghiên cứu và đi vào phân tích một số nội dung cơ bản
của đạo đức Phật giáo như từ bi, ngũ giới, nhân quả, nghiệp báo, luân hồi và
ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến lối sống của con người Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay, bao gồm cả những tích cực và hạn chế. Từ đó, tác
giả đã đưa ra các giải pháp để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những
tiêu cực của đạo đức Phật giáo.
Luận án tiến sĩ Triết học Giải thoát luận Phật giáo của Nguyễn Thị
Toan (2010), trên cơ sở khái quát logic phát triển quan niệm về giải thoát
của Phật giáo qua các thời kỳ, đã khảo sát lịch sử quan niệm về giải thoát
17
trong lịch sử Phật giáo trong tư tưởng Việt Nam và đi sâu phân tích một số
biến đổi trong quan niệm giải thoát. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp
nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của
quan niệm này đối với đời sống Việt Nam hiện nay.
Bài Giá trị của triết học Phật giáo trong xã hội hiện đại (2004) của
Phương Lập Thiên, bàn nhiều về giá trị nhân sinh của Phật giáo. Xuất phát
trên nền tảng những xung đột, mâu thuẫn cơ bản của xã hội loài người để nói
lên sự cần thiết phải quay trở lại với các triết l nhân sinh cơ bản của Phật
giáo như: thuyết duyên khởi, thuyết nhân – quả, trung đạo, bình đẳng, từ bi,
giải thoát và phân tích cụ thể ảnh hưởng tích cực của các triết lý này trong
việc giải quyết những vấn đề phức tạp của xã hội hiện đại.
Bài Vấn đề con người trong đạo Phật của tác giả Hoàng Thị Thơ
(2010) khẳng định cốt l i trong tư tưởng Phật giáo là nhân sinh quan, thể
hiện ngay trong bản thể luận, vũ trụ luận và nhận thức luận, bởi vì mục đích
cuối cùng của đạo Phật là “diệt khổ” giải thoát lên c i “niết bàn” của con
người. Bài viết đã phân tích nền tảng triết lý nhân sinh cơ bản của Phật giáo
và mục đích l tưởng của nó là “giải thoát”, đồng thời đưa ra những đánh giá
về những ưu điểm và hạn chế trong triết lý nhân sinh Phật giáo.
Bài viết Từ bi của Phật giáo và đạo đức nhân loại của tác giả Hà
Thúc Minh (2014 ), trên cơ sở trình bày khái niệm “từ bi”, “từ” và “bi” trong
các kinh điển của Phật giáo, tác giả đã đưa ra quan niệm của mình về từ bi
và các giá trị liên quan để có được từ bi, như hỷ xả, vô ngã, nhân ái, bố thí,
trí… Đồng thời, tác giả cũng phân tích điểm giống và khác nhau giữa từ bi
của Phật giáo với nhân ái của Nho giáo hay bác ái của Kitô giáo. Tác giả cho
rằng điểm giống nhau là đều hướng đến cuộc sống nhân văn, nhân đạo,
nhưng với Nho giáo đó là cuộc sống của con người nói chung – thiên nhân
hợp nhất, còn Kitô giáo với quan niệm “con người sinh ra để cai quản muôn
loài”, còn Phật giáo quan niệm đó phải là lòng nhân ái cho chúng sinh, muôn
loài. Tác giả luận án cũng thống nhất với quan điểm này và triển khai nó
18
trong nhiều nội dung của đề tài.
1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về tư tưởng chính trị thời Lý-Trần
Nhóm công trình bàn về các khái niệm tư tưởng chính trị và các khái
niệm liên quan: Theo cuốn Lịch sử tư tưởng chính trị do Dương Xuân Ngọc
(chủ biên, 2001, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội) khái niệmchính trịđược
tiếp cận từ hai giác độ chủ yếu: thứ nhất, căn cứ vào những hình thức biểu
hiện của chính trị, những tư tưởng, học thuyết, cương lĩnh, đường lối của
chính đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, người ta xem chính trị là sản
phẩm trực tiếp của tư duy, là sự phản ánh của những quan hệ xã hội. Do đó
chính trị thuộc về kiến trúc thượng tầng; thứ hai, về nội dung, chính trị được
xem là dạng hoạt động vật chất đặc biệt của chủ thể chính trị nhằm theo đuổi
và thỏa mãn lợi ích, mà trước hết là lợi ích kinh tế. Đó là những hoạt động
nhằm giành, giữ, tổ chức, thực thi quyền lực nhà nước, hoạt động kiến tạo hệ
thống chính trị, nhằm duy trì sự thống trị của giai cấp thống trị. Đồng thời,
với những hoạt động đó, những quan hệ chính trị cũng nảy sinh và phát triển
giữa các chủ thể chính trị.
Còn khái niệm Tư tưởng chính trị được tác giả trình bày: là một hình
thức của ý thức xã hội, thuộc thượng tầng kiến trúc - là hệ thống những quan
niệm, quan điểm, học thuyết, phản ánh các mối quan hệ chính trị - xã hội đặc
biệt giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia - dân tộc xoay quanh vấn
đề giành, giữ, tổ chức và thực thi quyền lực chính trị diễn ra trong lịch sử,
cũng như thái độ của giai cấp, các dân tộc đối với quyền lực chính trị mà tập
trung ở quyền lực nhà nước qua các thời đại lịch sử.
Luận án đã kế thừa trực tiếp các quan điểm này, trên cơ sở đó triển
khai, phân tích tư tưởng chính trị (ý thức, hệ tư tưởng) của giai cấp thống trị
thời Lý-Trần như thế nào. Mặt khác phân tích ý thức, thái độ của giai cấp bị
trị (quần chúng nhân dân) đối với các vấn đề chính trị đương thời, qua đó
bằng ý thức, hành động ủng hộ hoặc phản đối, họ tương tác trở lại đối với
19
chủ trương, chính sách, đường lối giai cấp thống trị.
Nhóm tư liệu, tài liệu nghiên cứu về tư tưởng Việt Nam thời Lý-
Trần, tư tưởng chính trị thời Lý-Trần: Cuốn Lịch sử tư tưởng chính trị -
xã hội Việt Nam từ Bắc thuộc đến thời kỳ Lý-Trần của Lê Văn Quán
(2008), Nxb. Chính trị Quốc gia; Cuốn Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
tập 1, do Nguyễn Trọng Chuẩn (chủ biên, 2006), Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội; Tư tưởng Việt Nam thời Lý-Trần do hai tác giả Trương Văn Chung và
Doãn Chính đồng chủ biên(2008), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Cuốn Lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Việt Nam từ Bắc thuộc đến
thời kỳ Lý-Trần của tác giả Lê Văn Quán (2008) trình bày tư tưởng chính trị
- xã hội ở nước ta theo từng giai đoạn, từng triều đại trên cơ sở khái quát các
đặc điểm nổi bật, đặc trưng của tư tưởng chính trị - xã hội ở mỗi triều đại,
mỗi thời đoạn lịch sử. Trên cơ sở phân tích và so sánh, tác giả luận án đi đến
khẳng định sự thịnh trị của nền chính trị ở thời Lý-Trần, chính là nhờ sự kế
thừa và phát triển những tư tưởng chính trị-xã hội đã xuất hiện trong lịch sử
và sự tiếp nối những thành tựu của sự phát triển trong tư tưởng chính trị từ
thời tiền L , Ngô, Đinh, tiền Lê. Có thế nói, công trình của tác giả Lê Văn
Quán đã cung cấp một nguồn tài liệu phong phú về lịch sử tư tưởng chính trị
- xã hội của Việt Nam từ thời kỳ đầu đến Lý-Trần. Đó là cơ sở để luận án
nghiên cứu và tìm hiểu về tiến trình phát triển của lịch sử tư tưởng chính trị
Việt Nam trước và trong thời Lý-Trần. Tuy nhiên, cách tiếp cận, trình bày
của tác giả là nghiên cứu về tư tưởng chính trị - xã hội, trong khi đề tài của
Luận án chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu tư tưởng chính trị, nên Luận án sẽ
chọn lọc kế thừa một số tư tưởng và thông tin giá trị cho luận án của mình.
Cuốn Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam (2006) tập 1 là công trình
nghiên cứu của nhiều tác giả, trình bày, dẫn dụ khá chi tiết quá trình hình
thành và phát triển hệ tư tưởng có tính triết học xuất hiện ở Việt Nam (trên
cơ sở tiếp thu, kế thừa và phát triển các hệ tư tưởng du nhập từ bên ngoài) từ
khởi nguyên cho đến thời Hồ. Công trình gồm 3 chương, mỗi chương đều là
20
những nghiên cứu khá chuyên sâu về sự hình thành và phát triển của tư
tưởng triết học Việt Nam: thế kỷ II TCN đến nửa đầu thế kỷ X (chương 1);
từ khi thoát khỏi ách đô hộ của phương ắc đến hết thời L (chương 2); thời
Trần và Hồ (chương 3). Ở mỗi giai đoạn, các tác giả đều đi phân tích bối
cảnh lịch sử và những yếu tố tinh thần, tư tưởng và những đòi hỏi của thực
tiễn đời sống xã hội có ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng triết học
đương thời, qua đó khái quát những nội dung tư tưởng triết học cơ bản và có
phân tích tư tưởng của một số đại diện tiêu biểu hay trường phái tư tưởng cơ
bản của thời kỳ ấy. Dù không tập trung phân tích về nhân sinh quan, nhưng
công trình cũng đã có những nội dung khái quát về tư tưởng nhân sinh quan
của người Việt qua các thời kỳ từ thế kỷ II đến thời Hồ và phân tích những
ảnh hưởng của ba đạo (Nho, Phật, Lão) đến đời sống chính trị xã hội phong
kiến Việt Nam nói chung và thời Lý và Trần nói riêng. Đây là một tài liệu
qu giá để tác giả tham khảo, bổ sung vào luận án của mình.
Tác phẩm Tư tưởng Việt Nam thời Lý-Trần do hai tác giả Trương Văn
Chung và Doãn Chính đồng chủ biên (2008) là công trình nghiên cứu xoay
quanh chủ đề tư tưởng thời Lý và Trần, trong đó tập trung trình bày về: tư
tưởng chính trị, nhà nước và pháp luật, quân sự. Trong đó có phân tích đóng
góp của một số nhà tư tưởng tiêu biểu thời kỳ này như: Trần Thủ Độ, Trần
Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung, Trần Quốc Tuấn… Song tư
tưởng cơ bản được các tác giả trình bày xuyên suốt qua công trình nghiên
cứu này đó là tinh thần độc lập dân tộc, lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết
chống giặc ngoại xâm của nhà nước phong kiến và nhân dân đại Việt thời kỳ
này. Chính những tư tưởng nền tảng này đã trở thành yếu tố cơ bản tạo nên
sức mạnh, khiến cho thời Lý-Trần đã trở thành thời đại hào hùng nhất trong
xã hội phong kiến Việt Nam bởi những thành tựu trong những trận chiến
trước quân xâm lược.
Nhóm tài liệu (sử k , trước tác, thơ văn) của các nhà tư tưởng, nhân
vật lãnh đạo điển hình thời Lý-Trần, có thể kể đến các công trình sau: Đại
21
Việt sử ký toàn thư (trọn bộ, tái bản 2011), Nxb. Thời Đại, Hà Nội; Tác
phẩm Khóa hư lục của Trần Thái Tông (1974), do Đào Duy Anh dịch, Nxb.
Khoa học xã hội; Thơ vănLý -Trần, (sưu tầm từ 1977 đến 1989) Tập 1, tập 2
và tập 3 của Ủy ban Khoa học Xã hội - Viện Văn học, Nxb. Khoa học Xã
hội, Hà Nội; Thiền sư Việt Nam của hòa thượng Thích Thanh Từ, xuất bản
năm 1972, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội; Thiền uyển tập anh (1990) của Viện
Nghiên cứu Phật học, Nxb. Văn học, Hà Nội; Tam tổ thực lục, Thích Phước
Sơn dịch và trú, Nxb. Khoa học Xã hội in năm 1995.
Cuốn Đại Việt sử ký toàn thư là nguồn sử liệu quan trọng để nghiên
cứu tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam từ khởi nguyên đến thời hậu Lê nói
chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng. Trong đó, tác phẩm đã liệt kê nhiều
sự kiện nói lên vai trò của các Thiền sư trong triều chính cũng như trong đời
sống xã hội thời Lý-Trần. Như tư liệu về vai trò của thiền sư Vạn Hạnh trong
việc đưa L Công Uẩn lên ngôi vua, công lao của quốc sư Khuông Việt, Từ
Đạo Hạnh, Quốc sư Trúc Lâm đối với những chuyển biến chính trị lớn và
ảnh hưởng của họ đến những quyết định chính trị quan trọng của một số vua
thời Lý-Trần… Ngoài ra, tác phẩm cũng ghi lại nhiều sự kiện, lời nói, chính
sách, chủ trương của các nhà chính trị, qua đó có thể coi đây là tư liệu gốc
cho việc nghiên cứu tư tưởng chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, quân sự
và tôn giáo không chỉ của các triều đại phong kiến Việt Nam nói chung mà
cả thời Lý-Trần nói riêng.
Cuốn Khóa hư lục, do Đào Duy Anh dịch năm 1974, được Trần Thái
Tông viết khi đã nhường lại ngôi vua lên núi tu hành. Cuốn sách trình bày
những tư tưởng triết l đại thừa Phật giáo nhằm mục đích đúc kết kinh
nghiệm và lý thuyết cũng như hướng dẫn sự tự thức tỉnh cho phật tử, đồng
thời có tính cách giáo dục quần chúng.
Tác phẩm Tam Tổ thực lục do Thích Phước Sơn dịch và chú giải, đây
được coi là tuyển tập khá công phu, trình bày về hành trạng và tư tưởng của
ba vị Tổ của Thiền phái Trúc lâm đời Trần là Trần Nhân Tông, Pháp Loa và
22
Huyền Quang.
Tác phẩm Thiền sư Việt Nam của hòa thượng Thích Thanh Từ hệ
thống lại các nguồn sử liệu về cuộc đời, tư tưởng và một số tác phẩm tiêu
biểu của các Thiền sư Việt Nam (trong đó chủ yếu là các thiền sư xuất hiện
trong thời Lý và Trần). Về mặt tư liệu tuy không có gì mới, nhưng điều đáng
lưu ở đây là tác giả đã dịch một số tài liệu chữ Hán sang chữ Quốc ngữ và
đưa ra những kiến giải mới về hành trạng của các Thiền sư mà trước đó chưa
ai đề cập.
Cuốn sách Thiền uyển tập anh , tập hợp hành trạng của những bậc
chân tu, thiền sư của Phật giáo đã vận dụng thứ trí tuệ do tu chứng để giúp
cho đạo pháp và dân tộc từ cuối thời Bắc thuộc cho đến thời cho đến thời
Lý-Trần từ góc độ văn học sử. Đây còn là cuốn truyện ký có giá trị về mặt
văn học, triết học, văn hóa dân gian, đặc biệt chủ đề Phật giáo được phản
ánh rất phong phú trong cuốn sách. Theo kiến của các chuyên gia, Thiền
uyển tập anh được biên soạn triều L và hoàn thành vào triều Trần. Trải qua
một thời gian khá dài, bộ sách này đã bị thất tán và cũ nát, nên đến thời hậu
Lê nhà sư Thích Như Trí cùng các đệ tử đã tổ chức in lại vào năm Vĩnh
Thịnh thứ 11 (1715). Đến đầu thế kỷ XX, một bậc Danh tăng uyên bác là
Phúc Điền lại một lần nữa hiệu chỉnh và cho khắc in lại dưới tựa đề “Trùng
khắc Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục”. Trong lần hiệu chỉnh này,
hòa thượng Phúc Điền đã viết lại truyện của thiền sư Không Lộ, còn các
phần khác thì hầu như không sửa chữa thêm gì.
Cuốn Thơ văn Lý-Trần tập 1, 2 và 3 (1977, 1978), được coi là nguồn
tham khảo giá trị cho đề tài khi tìm hiểu cụ thể tư tưởng của các nhà chính
trị, nhà tư tưởng, các thiền sư thời kỳ này. Ba cuốn sách này đã tập hợp hầu
hết các các bài thơ, kệ, chiếu biểu của các nhà sư, nhà chính trị tiêu biểu thời
Lý-Trần (Lý Thái Tông, Thiền sư Vạn Hạnh, Lý Thánh Tông, Lý Nhân
Tông, Thái Hậu Ỷ Lan, L Thường Kiệt, Trần Thái Tông, Tuệ Trung
23
Thượng Sĩ, Trần Nhân Tông, Trần Quốc Tuấn…). Các bản dịch cũng được
đánh giá là phản ánh tương đối đầy đủ, đúng đắn tinh thần tư tưởng của các
tác giả.
Nhóm các tư liệu, công trình nghiên cứu về chính sách, đường lối, tư
tưởng của các nhà chính trị thời Lý-Trần:Lý Thường Kiệt – lịch sử ngoại
giao và tôn giáo triều Lý của tác giả Hoàng Xuân Hãn (1941), Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội; Kế sách giữ nước thời Lý-Trần (1994), Nxb. Chính trị
Quốc gia; Ngoại giao Đại Việt của Lưu Văn Lợi (2000), Nxb. Công an Nhân
dân; tác phẩmViệt Nam văn minh sử cương -Văn minh Đại Việt, của Lê Văn
Siêu(2004), Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
Cuốn Lý Thường Kiệt – Lịch sử ngoại giao và tôn giáo triều Lý (1941)
là một tác phẩm có giá trị cao về mặt học thuật chính trị học và Phật học với
nhiều tư liệu quý lần đầu được công bố. Tuy tác phẩm tập trung nghiên cứu
về đường lối ngoại giao và tôn giáo triều Lý với L Thường Kiệt là nhân vật
trung tâm nhưng toàn bộ xã hội thời Lý và cuộc kháng chiến chống Tống đã
được tác giả tái hiện một cách chân thực và sinh động.
Cuốn Kế sách giữ nước thời Lý-Trần (1994) gồm sáu chương phân
tích tương đối toàn diện về các chính sách đối nội và đối ngoại của triều đình
Lý-Trần, từ đó phân tích các chính sách trị quốc của triều đình như: xây
dựng chính quyền, chính sách kinh tế, chiến lược xây dựng quân đội, chiến
lược khoan thư sức dân, cuối cùng là chiến lược đối ngoại khôn khéo, làm rõ
được nền tảng tư tưởng của sự thịnh trị đáng tự hào trong công cuộc chống
ngoại xâm, bảo vệ bờ cõi của triều đại Lý-Trần.
Cuốn Ngoại giao Đại Việt (2000) nghiên cứu một cách có hệ thống
lịch sử ngoại giao của nước ta từ thời Bắc thuộc đến thời Tây Sơn. Đây là
một công trình khá đồ sộ, phân tích cụ thể các chính sách ngoại giao của các
nhà vua Đại Việt theo tiến trình lịch sử của Đại Việt, từ thời Bắc thuộc đến
thời vua Quang Trung với nhiều nước như Trung Quốc, Mông Cổ, Chiêm
Thành Chân Lạp, Ai Lao, Xiêm trong khu vực. Cuối cùng tác giả đưa ra
24
những nhận định, đánh giá về các chủ trương, kế sách ngoại giao trong từng
thời kỳ và đưa ra những bài học cho các chính sách ngoại giao của Việt Nam
hiện nay trước diễn biến phức tạp của thời đại mới. Qua đường lối đối ngoại,
khôn khéo cởi mở của nhà Lý-Trần, phần nào thấy được ảnh hưởng của Phật
giáo trong các kế sách giữ nước, ổn định chính trị của triều đại Lý-Trần.
Cuốn Văn minh Đại Việt, là tập 1 của bộ sách Việt Nam văn minh sử
cương của tác giả Lê Văn Siêu (2004). Bộ sách đã giới thiệu tiến trình văn
minh chung của dân tộc Việt, ở cuốn này ngoài phần khái quát về chính sự
Trung Hoa, những chiến thắng vang dội trước quân giặc, tác giả đã tập trung
phân tích bối cảnh văn hóa, chính trị và xã hội trước khi nhà Lý và sau này
là nhà Trần lên nắm quyền, để qua đó làm nổi bật những thành tựu mà nhà
Lý và Trần đạt được. Trong đó phải kể đến là các thành tựu về quân sự,
trong Việc nội trị và các chính sách ngoại giao, sự phát triển của các tín
ngưỡng tôn giáo, công cuộc mở rộng lãnh thổ về phương Nam... Cùng với
việc phân tích nguyên nhân khách quan để Đại Việt thời Lý-Trần, đạt được
những thành tựu trên, tác giả cũng không quên chỉ ra nguyên nhân chủ quan,
nằm ở tài năng và bản lĩnh của con người – cụ thể là các nhà chính trị ở thời
kỳ này.
Trên đây là những tài liệu quan trọng có thể làm nguồn trích dẫn,
chứng minh khi phân tích tư tưởng nhân sinh của các thiền sư, các nhà chính
trị chuộng Phật giáo thời Lý-Trần. Đây cũng là cơ sở tư liệu quan trọng để
tác giả luận án luận chứng về những giá trị nhân sinh cốt lõi của Phật giáo
Lý-Trần có ảnh hưởng đối với tư tưởng chính trị thời kỳ này.
1.3. Nhóm tư liệu, công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của nhân sinh
quan Phật giáo đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần
Nhóm công trình nghiên cứu ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật
giáo đến đời sống tinh thần của xã hội nói chung có thể kể đến các công
trình nghiên cứu sau: Kỷ yếu Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt
Nam (1986) do Viện Triết học biên soạn; Văn hóa Phật giáo và lối sống của
25
người Việt ở Hà Nội và Châu thổ Bắc Bộ, Nguyễn Thị Bảy (1997), Nxb.
Thông tin, Hà Nội; Cuốn Truyền thống Văn hóa và Phật giáo Việt Nam,
Nxb. Tôn giáo, Hà Nội của tác giả Minh Chi (2003); Luận văn Thạc sĩ Triết
học Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống văn hóa tinh
thần người Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị Nguyến (Thích Diệu Luyến,
2011), Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.
Kỷ yếu Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam (1986),
tập hợp tham luận của các học giả nghiên cứu chuyên sâu về Phật giáo, đã
làm sáng tỏ mối tương quan giữa Phật giáo với tư tưởng dân tộc và ảnh
hưởng của Phật giáo đối với các hệ tư tưởng (gồm cả tư tưởng chính trị)
trong xã hội Việt Nam. Trên cơ sở những khẳng định đó, tác giả luận án đã
đi đến tìm hiểu và đưa ra những luận chứng về ảnh hưởng của tư tưởng nhân
sinh quan Phật giáo đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần.
Trong cuốn Văn hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà Nội
và Châu thổ Bắc Bộ của Nguyễn Thị Bảy (1997), trên cơ sở trình bày một số
yếu tố ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của người dân Hà Nội và vùng
Châu thổ Bắc Bộ như môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, yếu tố lịch sử,
truyền thống..., tạo nên đặc trưng cho đời sống tinh thần, tính cách của người
dân nơi đây, tác giả đã đi vào nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo, trong đó
nhấn mạnh yếu tố nhân sinh quan Phật giáo cũng đã góp phần không nhỏ
hình thành nên lối sống và bản sắc văn hóa của người dân vùng Châu thổ
Bắc bộ. Những kiến thức này đã trở thành một tư liệu giá trị để tác giả luận
án tham khảo khi đi vào nghiên cứu đề tài của mình, bởi trong lịch sử, triều
đại Lý-Trần cũng nằm trọn ở vùng Châu thổ Bắc bộ.
Truyền thống văn hóa và Phật giáo Việt Nam của tác giả Minh Chi
(2003) bàn nhiều về ảnh hưởng của Phật giáo đến sự hình thành văn hóa
truyền thống của người Việt qua các giai đoạn lịch sử. Đặc biệt tác giả có
phân tích nhiều đến những tác động tích cực của Phật giáo giai đoạn Lý-Trần
và coi đó là ngọn nguồn sức mạnh của triều đại này. Trong đó, tác giả đã đưa
26
ra quan điểm chỉ trích “cái hại của tệ sùng đạo Nho” và đề cao “chủ nghĩa
bình đẳng, từ, bi, bác ái, tư tưởng không giáo điều, không cố chấp của đạo
Phật”, và cho đó là một trong những cơ sở để “phát động một cao trào tự
hào, tự cường dân tộc, toàn dân đoàn kết nhất trí, đánh thắng bao lần giặc
Tống và giặc Nguyên” thời Lý-Trần. Đứng trên quan điểm Phật giáo, tác giả
đã nhìn nhận Nho giáo như một mối nguy hại tệ “hủ Nho”, như là văn minh
giả tạo của phong kiến phương ắc tác động đến lịch sử Việt Nam trong
suốt một thời gian dài từ Lê sơ đến nhà Nguyễn. Đây là một tài liệu giá trị
cho tác giả luận án, bởi nó có đưa ra những so sánh khá rõ nét về ảnh hưởng
giữa Phật và Nho đối với nền văn hóa Việt Nam, qua đó đưa ra những nhận
định sắc bén về những ưu và nhược điểm của cả hai hệ tư tưởng này đối với
đời sống xã hội nói chung và chính trị-xã hội nói riêng.
Luận văn Thạc sĩ triết học về Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật
giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần người Việt Nam hiện nay của
Nguyễn Thị Nguyến (Thích Diệu Luyến) trình bày lí luận chung về nhân
sinh quan, nhân sinh quan Phật giáo, từ đó phân tích và làm sáng tỏ những
ảnh hưởng cơ bản nhất của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống văn hoá
tinh thần Việt Nam trên một số phương diện như: đạo đức, nhân cách; niềm
tin, tín ngưỡng, lễ hội và phong tục, tập quán. Từ đó, tác giả luận văn có
những đánh giá khách quan về ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo,
đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị của nhân
sinh quan Phật giáo.
Nhóm tư liệu, công trình về mối quan hệ giữa Phật giáo và chính trị
trong thời Lý-Trần có thể kể đến các công trình sau: Tác phẩm Văn minh
Đại Việt của Nguyễn Duy Hinh(2005), Nxb. Văn hóa thông tin và Viện văn
hóa, Hà Nội; Cuốn Vai trò chính trị của các tăng sĩ Phật giáo ở thời đại Lý-
Trần của Thích Đồng Bổn (2006), Nxb. Tôn giáo; Phật giáo đời Lý – Tập
san của viện nghiên cứu Phật học Việt Nam (2010); Kỷ yếu Phật giáo thời
Lý với 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, Nxb. Chính trị Quốc gia (2011);
27
Luận văn Thạc sĩ Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị ở Việt Nam
thời Lý-Trần, chuyên ngành Chính trị học của Nguyễn Thị Tâm(2012), Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội; Luận án tiến sĩ Lịch sử của
Hoàng Đức Thắng (Thích Minh Chí) Quan hệ giữa nhà nước quân chủ Lý-
Trần với Phật giáo (2012), Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội.
Tác phẩm Văn minh Đại Việt của Nguyễn Duy Hinh đã trình bày về
các giai đoạn, sự kiện lịch sử tác động đến sự hình thành nền văn minh của
Đại Việt từ năm 111 TCN đến năm 1883. Tác giả đã phân tích sự phát triển
của nền văn minh này bắt đầu từ thời kỳ hội nhập văn hóa Việt với văn hóa
đến từ Ấn Độ và Trung Quốc, trải qua 1150 năm bị phong kiến Hán –
Đường thống trị, nhân dân ta đã không ngừng nổi dậy để giành độc lập.
Công cuộc tranh đấu này có lúc thất bại và cũng có khi giành độc lập, nhưng
tất cả đều có ảnh hưởng tích cực để hình thành nên những trang sử hào hùng
và nền chính trị độc lập đáng tự hào của dân tộc bên cạnh sự uy hiếp liên tục
của một nước lớn. Đặc biệt, tác giả cũng nhắc nhiều đến vai trò tạo dựng và
khai sáng nên nền chính trị độc lập và văn hóa dân tộc của Phật giáo và nhấn
mạnh vai trò của Phật giáo đối với chính trị thời Lý-Trần.
Cuốn Vai trò chính trị của các tăng sĩ Phật giáo ở thời đại Lý-Trần
của Thích Đồng Bổn đã khảo sát nhiều tài liệu Hán văn và Quốc văn cổ, từ
đó hệ thống lại một cách tương đối chính xác hành trạng, tư tưởng của các
tăng sĩ, các vị quân vương, các vị quan lại sùng Phật có ảnh hưởng lớn đến
đời sống chính trị của các triều đại Đinh, Lê và sau này là L và Trần.
Tập san Phật giáo đời Lý của Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam – tủ
sách Phật giáo và dân tộc, là tập hợp những bài viết của Tăng ni sinh khóa
VI chuyên ngành Phật giáo Việt Nam. Có nhiều bài viết nghiên cứu chuyên
sâu về tư tưởng Phật giáo, nhân vật đại diện cho thế lực Phật giáo thời Lý và
Trần, ca ngợi các giá trị của đời sống văn hóa, nghệ thuật, tư tưởng có ảnh
hưởng của Phật giáo. Tập san còn có nhiều bài viết phân tích, đánh giá về
quan hệ mật thiết giữa Phật giáo với chính trị thời kỳ này (như các bài: Đóng
28
góp của Phật giáo thời Lý đối với Thăng Long-Hà Nội của Đại Đồng; Ảnh
hưởng của Phật giáo trong chính sách cải tổ cơ cấu quốc gia thời Lý của
Quảng Nga; Chính trị xã hội thời Lý của Hiền Tâm; Những đóng góp của Lý
Công Uẩn trong triều đại Nhà Lý (1010-1225) của Thích Nữ Huệ Thảo;
Quốc giáo Phật giáo thời Lý của Thích Phương Huyền; Tinh thần Phật giáo
và hiến pháp nhà Lý của Thích Quảng Pháp…)
Kỷ yếu Phật giáo thời Lý với 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội tập
hợp rất nhiều bài nghiên cứu về Phật giáo thời Lý và cả thời Trần mối quan
hệ giữa Phật giáo và chính trị ở hai triều đại này. Một số bài viết đánh giá
sâu sắc về vai trò của Phật giáo đối với lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc dưới hai triều đại Lý và Trần, đặc biệt là vai trò với công cuộc xây
dựng, phát triển kinh đô Thăng Long. Mỗi bài tham luận đều đi sâu phân tích
sự ảnh hưởng của Phật giáo, của các nhân vật Phật giáo trên nhiều khía cạnh
của đời sống xã hội (văn hóa, chính trị, nghệ thuật…) khẳng định vai trò tích
cực của Phật giáo đối với sự phát triển thịnh vượng của thời L và hướng
phát huy bảo tồn những giá trị truyền thống mà Phật giáo để lại cho giai
đoạn sau. Nội dung cuốn sách gồm ba phần. Đáng chú là một số nội dung
có liên quan đến đề tài của luận án như, ở phần 1: Tinh hoa Phật giáo thời
Lý qua các khía cạnh văn hóa, chính trị và các nhân vật Phật giáo. Phần Mở
đầu này chủ yếu tập trung các bài viết phân tích về mối quan hệ giữa Phật
giáo với nhiều lĩnh vực của đời sống như chính trị, văn hóa, tinh thần,…
Phần 2: Phật giáo Đại Việt thời Lý – Kế thừa, hội tụ và phát triển, phân tích
những đặc trưng và xu hướng phát triển của Phật giáo trong thời Lý. Phần 3:
Phát huy di sản Phật giáo thời Lý là phần cuối cùng, đã tổng kết lại di sản
vật chất quý báu và những giá tinh thần lớn lao mà Phật giáo thời L đã để
lại có ảnh hưởng tích cực trong chính trị xã hội thời đại ngày nay.
Đề tài Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị ở Việt Nam thời Lý-
Trần của Nguyễn Thị Tâm (2012) đã làm sáng tỏ vai trò của Phật giáo với
chính trị thông qua việc nghiên cứu tư tưởng của các bậc quân vương đồng thời
29
cũng là các Phật tử và các vị cao tăng có liên hệ mật thiết với triều chính. Ảnh
hưởng của Phật giáo được phân tích trên 3 phương diện sau: trong tư tưởng
chính trị thời Lý-Trần, đào tạo đội ngũ quan lại, văn hóa chính trị ở Việt Nam
và sự đồng thuận cao trong xã hội.
Luận án Quan hệ giữa nhà nước quân chủ Lý-Trần với Phật giáo của
Hoàng Đức Thắng (2012) đã nghiên cứu các chính sách và hoạt động thực
tiễn liên quan đến Phật giáo của hai triều Lý-Trần và những đóng góp của
Phật giáo cho triều đình, từ đó đã làm r mối quan hệ tương hỗ giữa Phật
giáo với Nhà nước quân chủ phong kiến và chỉ ra vị trí bệ đỡ tư tưởng của
Phật giáo đối với mô hình tập quyền thân dân thời Lý-Trần.
1.4. Những vấn đề được kế thừa và phát triển mới trong luận án
1.4.1. Những vấn đề được kế thừa từ các công trình đi trước
Trong chương 2: Nhân sinh quan Phật giáo và nhân sinh quan Phật
giáo thời Lý-Trần, luận án đã tiếp thu các khái niệm về nhân sinh quan nói
chung, nhân sinh quan Phật giáo nói riêng; Quá trình du nhập nhân sinh
quan Phật giáo ở Việt Nam từ khởi nguyên đến thời Lý-Trần. Luận án cũng
đã tiếp thu được từ các công trình nghiên cứu đi trước về đặc điểm: dung hòa
nhiều hệ tư tưởng của Phật giáo; về tinh thần nhập thế của nhân sinh quan
Phật giáo Việt Nam.
Trong chương 3: Tư tưởng chính trị thời Lý-Trần và các nhân tố ảnh
hưởng, Luận án kế thừa một số tư liệu nói về tình hình kinh tế, chính trị xã
hội, văn hóa, tư tưởng… ở thời Lý-Trần để phân tích về các nhân tố có ảnh
hưởng đến việc hình thành tư tưởng chính trị thời Lý-Trần; Luận án kế thừa
một số đánh giá về nguyên nhân Phật giáo phát triển cực thịnh ở thời Lý-
Trần và những lý do Phật giáo được giai cấp thống trị thời kỳ này coi trọng.
Trong chương 4: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo trong tư
tưởng chính trị thời Lý-Trần và một số bài học, Luận án kế thừa những
khẳng định đối với vị thế của Phật giáo trong chính trị thời Lý-Trần, để từ đó
phân tích, luận giải những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư
30
tưởng của các nhà chính trị trong thời bình và thời chiến.
Có thể nói, những công trình nghiên cứu, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp
về mối quan hệ giữa nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống xã hội thời Lý-
Trần hay cụ thể là với tư tưởng chính trị - xã hội thời Lý-Trần trong những
năm qua tương đối nhiều, và phần lớn được triển khai từ các góc độ sau:
Từ góc độ lịch sử tư tưởng: Dựa trên những dữ kiện lịch sử khách
quannhiều công trình đã nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo nói chung đến
chính trị thời Lý-Trần, tuy nhiên chưa chỉ rõ ảnh hưởng của nhân sinh quan
Phật giáo đến tư tưởng của các nhà chính trị thời kỳ này.
Từ góc độ chính trị học: một số nghiên cứu đi trước đã phân tích ảnh
hưởng của Phật giáo trong việc xây dựng thể chế, thiết chế chính trị, hay đào
tạo đội ngũ quan lại… thời Lý-Trần, song chưa phân tích chuyên sâu từ đặc
trưng nhập thế của Phật giáo thời Lý-Trần. Đây chính là điểm khác biệt cần
nghiên cứu để làm r hơn những ảnh hưởng tích cực của nhân sinh quan
Phật giáo đến chính trị thời Lý-Trần.
Từ góc độ xã hội học: Một số đề tài đã phân tích sự tương tác giữa
Phật giáo và đời sống chính trị-xã hội, và đưa ra một số nhận định về vai trò
tích cực cũng như hạn chế của Phật giáo đối với đời sống chính trị-xã hội
đương thời, và còn rút ra bài học kinh nghiệm cho xã hội trong giai đoạn
hiện nay. Đó là những kết quả nghiên cứu qu báu để luận án kế thừa và tiếp
tục tìm hiểu về ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo tới tư tưởng chính
trị thời Lý-Trần.
Ở góc độ lịch sử triết học, đã có một số nghiên cứu về Phật giáo Lý-
Trần, nhân sinh quan Phật giáo Lý-Trần, ảnh hưởng của Phật giáo hay nhân
sinh quan Phật giáo đến các lĩnh vực: lịch sử tư tưởng Việt Nam, đời sống xã
hội thời Lý-Trần, văn học-nghệ thuật… Tuy nhiên, vẫn chưa có công trình
nghiên cứu chuyên sâu nào về ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến
tư tưởng chính trị thời Lý-Trần, hoặc chỉ dừng lại ở ảnh hưởng đến tư tưởng
chính trị-xã hội chung chung.
31
1.4.2. Những vấn đề tiếp t c được triển khai mới trong Luận án
Trong chương 2:Thứ nhất, trong khuôn khổ của mình, luận án tập
trung vào phân tích những nội dung nhân sinh quan Phật giáo ở thời Lý-Trần
có ảnh hưởng đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần:quan điểm về con người,
đời người; quan niệm về đạo đức; quan niệm về giải thoát, qua đó đã chỉ ra
những điểm giống và khác nhau giữa nhân sinh quan Phật giáo nguyên thủy
với nhân sinh quan Phật giáo Lý-Trần, đồng thời cũng bổ sung những
nguyên nhân dẫn đến những khác biệt ấy, nhằm góp thêm một góc nhìn
nhận, đánh giá về Phật giáo ở Việt Nam giai đoạn thế kỷ XI-XIV.Thứ hai,
luận án phân tích thêm đặc điểmcủa nhân sinh quan Phật giáo thời Lý-Trần,
là chủ yếu là thiền đại thừa với quan điểm cốt l i là “Phật tại Tâm”, qua đó
khẳng định, cùng với đặc điểm nhập thế và dung hòa nhiều hệ tư tưởng,
nhân sinh quan Phật giáo thời kỳ này mới có có thể ảnh hưởng đến tư tưởng
chính trị thời Lý-Trần.
Trong chương 3: Thứ nhất, luận án phân tích tiến trình phát triển của
tư tưởng chính trị của Việt Nam từ khởi nguyên đến thời Lý-Trần, qua đó
chỉ ra mối quan hệ của Phật giáo nói riêng và nhân sinh quan Phật giáo nói
chung đến chính trị thời kỳ này. Đồng thời cũng chỉ rõ, sự phát triển dần tiến
tới hoàn thiện củatư tưởng chính trị thời Lý-Trần là do có sự kế thừa từ các
thành tựu của tư tưởng chính trị trước đó và các tư tưởng đương thời, nhưng
công lớn không thể không kể đến sự đóng góp của Phật giáo. Thứ hai, luận
án bổ sung và làm rõ vai trò, vị trí của tam giáo (Nho, Đạo, Phật) đối với nền
chính trị ở thời Lý-Trần. Đồng thời phân tích rõ, tại sao dù có sự tồn tại của
cả ba giáo nhưng Phật giáo (nhân sinh quan Phật giáo) vẫn được triều đình
tôn sùng, nhân dân yêu mến và trở thành tư tưởng có ảnh hưởng hơn cả
trong nền chính trị.
Trong chương 4: Thứ nhất, luận án chỉ ra cách thức Phật giáo tác động
đến tư tưởng chính trị của triều đại Lý-Trần, đó là thông qua sự tham vấn
trực tiếp của các sư tăng và qua sự thẩm thấu trong tư tưởng, hành vi, lối
32
sống của các vị vua-quan triều Lý-Trần mà gián tiếp tác động đến nền chính
trị. Thứ hai, luận án chỉ ra những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo
đối với tư tưởng chính trị qua các nội dung: Xây dựng thể chế nhà nước và
ổn định xã hội; Bảo vệ nền độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ; Trấn áp các
thế lực chống đối, phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội. Thứ ba,
luận án đưa ra những đánh giá khách quan về vị trí của nhân sinh quan Phật
giáo đối với nền chính trị Lý-Trần và hệ quả của nó (những ảnh hưởng tích
cực và hạn chế) của nó đối với nền chính trị thời Lý-Trần. Thứ tư, qua việc
tìm hiểu về quan điểm, hành trạng của các nhà chính trị và các chính sách,
đường lối của nhà nước Lý-Trần, luận án khẳng định, triều Lý-Trần đã xây
dựng được một nền văn hóa chính trị tích cực và từ đó liên hệ với Việt Nam
và đưa ra giải pháp để nền chính trị có thể kế thừa những ảnh hưởng tích cực
của Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng đối với việc
xây dựng một nền văn hoá chính trị đáp ứng với thực tiễn của thời đại.
Trên đây là một số hướng triển khai mới của luận án, nhằm góp phần
đánh giá r hơn về Phật giáo thời Lý-Trần cũng nhưluận giải về sự phát triển
của tư tưởng chính trị thời Lý-Trần từ tiếp cận mối quan hệ nhân sinh quan
Phật giáo với tư tưởng chính trị.
Tiểu kết chương Như vậy, nhu cầu tìm hiểu lại những giá trị văn
hóa tinh thần của dân tộc ngày càng được quan tâm. Trong đó, phải kể đến
những nghiên cứu về chủ đề Phật giáo - một trong những thành tố quan
trọng góp phần định hình nên bản sắc văn hóa Việt, như, nhân sinh quan
Phật giáo; Phật giáo thời Lý-Trần; hay ảnh hưởng của Phật giáo đến đời
sống xã hội, đời sống tinh thần… đều là vấn đề thu hút nhiều chuyên gia.
Tuy nhiên việc nghiên cứu về những ảnh hưởng cụ thể của nhân sinh quan
Phật giáo đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần vẫn chưa nhiều công trình đi
sâu tìm hiểu. Trên cơ sở ấy, tác giả luận án đã đưa ra một số hướng triển
khai mới, nhằm góp phần đánh giá r hơn về Phật giáo ở thời Lý-Trần cũng
như luận giải về sự phát triển của tư tưởng chính trị thời Lý-Trần từ những
33
ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo.
Chương 2
NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO VÀ NHÂN SINH QUAN
PHẬT GIÁO THỜI LÝ-TRẦN
2.1. Nhân sinh quan Phật giáo
2.1.1. Nhân sinh quan Phật giáo và những khái ni m liên quan
Nhân sinh quan là: “Bộ phận của thế giới quan (hiểu theo nghĩa rộng),
gồm những quan niệm về cuộc sống của con người: Lẽ sống của con người
là gì? Mục đích, nghĩa, giá trị cuộc sống của con người ra sao và sống như
thế nào cho xứng đáng? Trả lời những câu hỏi đó là vấn đề nhân sinh
quan”[38,235].Vậy, nhân sinh quan là quan niệm của con người về bản thân
vàcuộc sống của họ: con người là gì, con người từ đâu sinh ra, mẫu hình
người l tưởng phải như thế nào, bản chất của cuộc sống con người là gì,
mục đích của sống của họ như thế nào và con người phải sống thế nào cho
có nghĩa.
Quan niệm nhân sinh của con người sẽ có ảnh hưởng đến tâm lý, tình
cảm và mọi hoạt động sống của con người. Ngược lại, con người cũng phát
huy những nhân sinh quan có giá trị trở lại định hướng sự tương tác của họ
với thế giới tự nhiên và với xã hội.Nếu nhân sinh quan mang màu sắc tôn
giáo, nghĩa là những quan niệm về đời người, giá trị sống, mục đích sống…
của con người bị ảnh hưởng bởi những triết lý, quan niệm của một tôn giáo;
thì triết lý về cuộc sống của tôn giáo đó sẽảnh hưởng mạnh mẽ đến ý thức,
tình cảm và có thể chi phối, dẫn dắt mọi hoạt động sống của họ. ởi những
hệ tư tưởng tôn giáo tuy là yếu tố vô hình nhưng lại mang màu sắc thần bí,
siêu nhiên, nên nó có sức thu hút và dễ dàng đáp ứng được nhu cầu tâm linh
của con người. Việc đáp ứng nhu cầu tâm linh, sự an ủi về tinh thần luôn cần
thiết đối với cuộc sống của con người, cả trong thời kỳ khoa học chưa phát
triển, kinh tế-chính trị bất ổn và cả khi đời sống vật chất và tinh thần của con
34
người đã được nâng cao và khoa học kỹ thuật đã phát triển thì triết l của tôn
giáo vẫn có sức ảnh hưởng lớn đến đời sống của con người, bởi nó giúp con
người tự cân bằng tâm l trước mọi biến động của cuộc sống. Trong lịch sử,
nhiều nhà nước, nhiều triều đại đã sử dụng tôn giáo (Thiên chúa giáo, Bà La
Môn giáo, Hồi giáo, Nho giáo. Lão giáo…) làm công cụ tinh thần để thống
trị, duy trì ách áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị. Nếu nhân sinh quan tôn
giáo tiêu cực sẽ kìm hãm sự phát triển của bản thân con người và xã hội.
Ngược lại, nhân sinh quan tôn giáo mang tính nhân văn, nhân đạo và tiến bộ
thì đem lại những đổi thay có tính cách mạng, cải cách trong tư tưởng xã hội.
Chẳng hạn, tính bình đẳng, vô thần trong nhân sinh quan Phật giáo có tác
dụng chống lại bất bình đẳng khắc nghiệt của Bà La Môn giáo thần quyền ở
Ấn Độ (thế kỷ 6-5 TCN) và nó đã đem đến sự lạc quan trong tâm lý, ý thức
và hoạt động sống của con người trong xã hội đương thời.
Phật giáo là một sản phẩm tiêu biểu của tư tưởng tôn giáo - triết học
phương Đông- với đặc trưng luôn lấy con người là trung tâm. Nhân sinh
quan là nội dung cơ bản và quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Phật giáo
và nó có sức ảnh hưởng rất rộng lớn và linh hoạt đến các lĩnh vực của đời
sống xã hội trong đó phải kể đến cả ảnh hưởng đối với chính trị và tư tưởng
chính trị.
Phật giáo ra đời khi Ấn Độ đã có một nền tảng triết học và tôn giáo bề
thế với lịch sử hơn 1500 năm trước CN, trải qua hai giai đoạn lớn là Veda và
Upanishad. Phật giáo đại diện cho giai đoạn thứ ba, giai đoạn chuyển từ tư
duy thần quyền sang tư duy nhân bản, bàn nhiều về chủ đề nhân sinh, coi
trọng con người và vấn đề giải thoát cho con người là mục tiêu cao nhất của
các giáo l . “Đạo Phật lấy trọng tâm là vấn đề “diệt khổ”, “giải thoát”, mô
hình l tưởng là “Niết bàn” và phương pháp là “diệt dục”… Tất cả các hệ
phạm trù, nguyên lý thể hiện trong giáo l đều nhằm một mục đích “diệt
khổ”, “giải thoát” con người với tinh thần bác ái, phi bạo lực”[101,41].
Nhân sinh quan Phật giáo cho rằng cuộc đời của con người là “bể
35
khổ”, từ đó đưa ra những cách thức nhằm giúp con người “diệt khổ” và “giải
thoát” nhằm đạt được trạng thái l tưởng, siêu thoát là “Niết bàn”. Phương
pháp cơ bản để lên được cõi Niết bàn của Phật giáo là “diệt dục”, quan điểm
này được hệ thống chủ yếu trong thuyết “Tứ diệu đế”, “ át chính đạo”,
“Thập nhị nhân duyên”...Những triết l nhân sinh của Phật giáo mang tính
nhân văn và biện chứng sâu sắc, trong đó nội dung cốt lõi là bàn về nỗi khổ
(Khổ Đế), phân tích nguyên nhân của nỗi khổ (Tập Đế), khả năng có thể giải
thoát (Diệt Đế), từ đó chỉ ra con đường thoát khổ (Đạo Đế). Ngoài ra nhân
sinh quan Phật giáo còn đưa ra quan niệm về con đường cách thức để giải
thoát bằng kết hợp tu dưỡng đạo đức (Giới), trí tuệ (Tuệ) và niềm tin (Định)
để có nhân tâm trong sạch, kết hợp rèn luyện tâm thức không vọng động,
không nhị kiến (còn gọi là át Chính Đạo). Tâm trong sáng, từ đó tuệ giác
sẽ nảy sinh. Như vậy, tu tâm dưỡng tính để đạt được nhân cáchthanh cao,
đạo đức sáng ngời cũng là cách thức và con đường đạt đến sự giải thoát.
Toàn bộ nhân sinh quan này của Phật giáo được tóm gọn trong Tứ Diệu Đế.
Giải thoát là một trong những nội dung của nhân sinh quan được Phật
giáo kế thừa từ truyền thống Veda, Upanishad. Song điểm mới và tiến bộ là
Phật giáo quan niệm tất cả chúng sinh đều có khả năng giải thoát. Quan niệm
này đã đáp ứng đúng khát vọng tự do, bình đẳng của người Ấn Độ đương
thời dưới chế độ thần quyền của Bà La Môn giáo với sự phân biệt đẳng cấp
hà khắc và bất bình đẳng về quyền tự do tín ngưỡng lúc đó.
Tứ diệu đế đã được đức Phật giảng ngay từ những buổi đầu mới sáng
lập Phật giáo (khoảng thế kỷ V TCN), đó cũng chính là tư tưởng nhân sinh
quan cơ bản của Phật giáo từ thời cổ đại, mà đến nay vẫn còn giá trị. Trong
điều kiện lịch sử xã hội Ấn Độ cổ đại, chủ trương về sự “bình đẳng giữa
chúng sinh”, chống lại sự hà khắc của thần quyền của à La Môn giáo, mở
đường “giải thoát” cho tất cả mọi người đã là một bước tiến bộ nếu so với
các tôn giáo thần quyền ở Ấn Độ. Tuy vậy, nhân sinh quan Phật giáo thời đó
không phải là một học thuyết đấu tranh cải tạo xã hội triệt để. Phật giáo
36
không chỉ ra nguyên nhân bất bình đẳng trong xã hội từ mâu thuẫn về lợi ích
giữa các giai cấp, mà chỉ dừng lại ở việc kêu gọi con người hãy diệt bỏ lòng
tham, sống trì giới, nhẫn nhục để đạt tới giải thoát.
2.1.2. Nhân sinh quan Phật giáo kế thừa và phát triển từ các tư tưởng của
Ấn Độ c đại
Khi Phật giáo hình thành, ở Ấn Độ đã xuất hiện nhiều trường phái tôn
giáo - triết học, chúng đều dựa vào uy quyền của kinh Vê đa-Upanisad, đồng
thời kế thừa nội dung của nó. Trong bối cảnh đó, Phật giáo nói chung và
nhân sinh quan Phật giáo nói riêng cũng chịu ảnh hưởng của Vê đa-
Upanisad. Thời kỳ này, các lĩnh vực trong xã hội đang bị chi phối và ảnh
hưởng bởi sự thống trị của Bàlamôn giáo. Theo tư tưởng của Bàlamôn giáo
sự phân chia đẳng cấp trong xã hộiẤn Độ lúc đó tồn tại bốn đẳng cấp: 1.
Tăng lữ Bàlamôn (Barahmin) chuyên lo việc tôn giáo, tế tự, truyền bá kinh
Vêda; 2. Đẳng cấp vua chúa, quý tộc, tướng lĩnh, v sĩ (K’shatriya); 3. Đẳng
cấp thương nhân, điền chủ và thường dân hay những người bình dân, tự do
(Vaishya) lao động sản xuất, buôn bán, chăn nuôi tạo ra của cải vật chất nuôi
sống xã hội; 4. Đẳng cấp tiện dân, nô lệ (Shudra) có bổn phận phục dịch ba
đẳng cấp trên. Ngoài bốn đẳng cấp trên, còn có đẳng cấp Chiên đà la bị coi
là ngoài lề xã hội (untouchable). Đó là những người làm các nghề bị coi là
hạ cấp, thấp hèn (giặt quần áo, đồ tể…).
Sự phân biệt đẳng cấp khắc nghiệt thể hiện trong bộ luật Manu thành
những nguyên tắc xã hội: không được ăn cùng người khác đẳng cấp; không
được kết hôn với người thuộc đẳng cấp khác; người thuộc đẳng cấp dưới
phải tôn kính và phục tùng vô điều kiện đối với những người thuộc đẳng cấp
trên. Trong đó, đẳng cấp àlamôn được coi là đẳng cấp cao nhất, đẳng cấp
thần thánh, luôn được tôn trọng như một vị thần bởi họ được thượng đế ban
cho “tinh thần thiêng”, có thể làm chủ cả thế giới. Đẳng cấp nô lệ không phải
là lực lượng sản xuất chính trong xã hội, họ thường làm đầy tớ cho các gia
đình giàu có thuộc đẳng cấp trên, và chỉ được coi như là một loại tài sản, và
37
lệ thuộc hoàn toàn vào người chủ, họ có thể bị đuổi, bị đánh đập hoặc bị giết
bất cứ lúc nào. Sự bất bình đẳng giữa các đẳng cấp trong xã hội là một trong
những nguyên nhân giải thích tại sao các tư tưởng tôn giáo triết học Ấn Độ
cổ đại lại trội về nhân sinh quan với các quan niệm về con người, đời người;
về sự hình thành, tồn tại, phát triển của con người; về lẽ sống-chết; về quan
niệm sống và mục đích sống của mỗi người.
Tiếp nối truyền thống đó,Phật giáo cũng bàn nhiều về triết lý nhân
sinh, với đặc trưng, luôn lấy vấn đề khổ và thoát khổ của con người là trung
tâm. Nhưng khác với triết thuyết trước đó, Phật giáo đưa ra quan điểm nhân
sinh tiến bộ hơn về sự giải thoát, đã phần nào khắc phục những bất bình
đẳng khắc nghiệt trong tư tưởng thần quyền của đạo à la môn đang chi
phối đời sống chính trị - xã hội Ấn Độ đương thời.Tư tưởng nhân sinh bình
đẳng của Phật giáo đã hướng đến sự bình đẳng, góp phần khắc phục và loại
bỏ áp bức, bất công trong xã hội. Vì vậy, dù giáo lý của Phật giáo không trực
tiếp đề cập đến mục đích chính trị - xã hội nhưng l tưởng từ bi bình đẳng vị
tha lại mở cánh cửa cho thái độ “nhập thế” vào đời sống chính trị - xã hội.
Tiếp thu từ các trường phái tôn giáo-triết học khác của Ấn Độ trong
thời kỳ cổ đại, nhân sinh quan của Phật giáo tập trung vào vấn đề giải thoát
cho con người. Trước Phật giáo, tư tưởng giải thoát vốn có từ kinh Veda - bộ
kinh cổ nhất của người Ấn Độ. Tuy nhiên, kinh Veda vẫn là thần quyền, số
phận con người hoàn toàn lệ thuộc vào sự ban phát của đăng cấp Bà La Môn,
đẳng cấp này được coi làthần thánh, trên cả đẳng cấp vua chúa. Tư tưởng
giải thoát thần quyền được hoàn thiện hơn trên cơ sở triết họcUpanisad cho
rằng linh hồn vũ trụ tối cao ( rahman) có trước, tồn tại vĩnh viễn và từ đó
mà sinh ra vạn vật, sinh ra linh hồn cá nhân (Atman) tồn tại trong mỗi con
người, nhưng con người không nhận thấy được giải thoát là sự trở về của
Atman/Tiểu ngã (tương đối) hòa nhập với Brahman/Đại ngã (tuyệt đối).
Upanisad còn cho rằng, linh hồn cá nhân tồn tại trong vỏ bọc thể xác, mà thể
xác lại chứa đựng những ham muốn, dục vọng, nên đã gây đau khổ cho linh
38
hồn cá nhân. Linh hồn con người bị giam hãm và các kiếp sống khác nhau,
gánh chịu hậu quả của kiếp sống trước, bị ràng buộc bởi thế giới ảo ảnh nên
không trở về với linh hồn vũ trụ. Giải thoát chính là giúp linh hồn cá nhân
vượt qua khỏi thế giới ảo ảnh, thoát khỏi vòng nghiệp báo luân hồi nhập vào
bản thể tuyệt đối của linh hồn vũ trụ.
Tư tưởng giải thoát trong Upanisad chỉ là sự vươn lên của linh hồn cá
nhân để hợp nhất với linh hồn vũ trụ tối cao. Các trường phái triết học
(dasanas) của Ấn Độ cổ đã phát triển tiếp vấn đề giải thoát theo nhiều
hướng.Chẳng hạn: Phái Samkhuya đề cập tới nỗi đau vĩnh cửu của các cá thể
sinh ra từ sự phối kết hợp giữa tự nhiên (prakriti) và linh hồn (purusha) và
đưa ra con đường giải thoát bằng tu luyện để thoát khỏi vòng luân hồi, nhờ
đó đưa cái tôi tâm l và cái tôi xã hội thoát khỏi thế giới sinh tử, hòa nhập
với Đại ngã; Phái oga tìm con đường giải thoát bằng cách thực hành yoga -
nguồn cội của thiền Phật giáo - để hủy bỏ đam mê và mọi quan tâm tới thế
giới bên ngoài, từ đó đi sâu vào thực thể bên trong để đạt tới trạng thái tinh
thần trong sáng, hòa nhập với Đại ngã; Phái Mimansa cho rằng phải thực
hiện nghiêm ngặt mọi luật lệ, quy tắc, nghi thức của thánh kinh Vêda và luật
lệ của xã hội đẳng cấp mới đạt tới giải thoát; Phái Vedanta thì đặc biệt chú
trọng đến việc phát triển trí tuệ, coi đó là phương tiện hữu hiệu để đạt tới
giác ngộ, giải thoát[tham khảo 137].
Phật giáo đã kế thừa có chọn lọc các tư tưởng giải thoát đương thời
trên tinh thần cách tân, phủ nhận Atman và rahman bằng thuyết “vô ngã”,
nhưng lại tiếp thu tư tưởng nhân quả, nghiệp báo luân hồi và cách tu dưỡng
Thế giới nằm trong dòng chảy không ngừng (vô thường), nên không
có bản chất cố định (vô ngã). Song do mê muội (vô minh) không thấu hiểu
điều này nên con người tin rằng có một cái Ngã cố định (mắc vào hữu ngã),
từ đó đắm chìm trong dục vọng, để rồi phải gánh chịu những nghiệp quả ở
kiếp sau trong vòng luân hồi[31,269].
hướng nội, đề cao đạo đức, niềm tin. Phật giáo cho rằng,
Vì vậy, Phật giáo chọn hướng giải thoát mới là diệt bỏ những u mê,
39
lầm lẫn đó qua việc tu luyện kết hợp niềm tin, trí tuệ và đạo đức.
Phật đã kế thừa các tư tưởng truyền thống của Ấn Độ cổ đại (kinh
Vêda, kinh Upanisad, kinh Yoga của đạo Bà La Môn…) của các trường phái
triết học chính thống lúc bấy giờ (Samkhya, Yoga, Mimansa, Vedanta,
Vaisesika…) để sáng lập một dòng tư tưởng mới, bình đẳng về niềm tin tôn
giáo, về con đường đến với sự giải thoát, khuyên con người hãy nhìn thẳng
vào nỗi khổ và tìm ra con đường tự giải thoát khỏi nỗi khổ từ sự nỗ lực của
chính bản thân mỗi người. Tư tưởng giải thoát (nhân sinh quan) tiến bộ của
Phật giáo đã ảnh hưởng lớn đến vua A Dục (Asoka, 304-232 TCN), vị vua vĩ
đại nhất lịch sử Ấn Độ và ông đã cải đạo từ à La Môn giáo sang Phật giáo
và lấy Phật giáo làm quốc giáo, từ đó làm thay đổi hoàn toàn đế chế Ấn Độ.
Vua A Dục là một thí dụ điển hình vận dụng thành công nhân sinh quan Phật
... sống và thực hành tư tưởng nhân sinh Phật giáo cho tất cả mọi
người dân trong triều đại của ông. Ông còn quảng bá chính sách bất bạo
động đến các vương quốc lân cận và gửi sứ giả đi khắp nơi để truyền bá
thông điệp hòa bình và bất bạo động. Ông cổ vũ sự ứng dụng các nguyên
tắc đạo đức trong xã hội, như chân thật, từ bi, bác ái, bất bạo động, nhân từ,
không hoang phí, không chiếm đoạt, và không gây sát hại cho mọi loài
vật[149].
giáo vào đường lối trị quốc. ng đã:
Tư tưởng nhân sinh tích cực này khi thay thế tư tưởng bất bình đẳng
của Bà La Môn giáo đã giúp cho Ấn Độ, thời vua A Dục đạt những bước
phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục,
ngoại giao, và theo đó Phật giáo với tư cách quốc giáo cũng phát triển nhanh
chóng ra ngoài Ấn Độ, trở thành một tôn giáo của châu Á.
Sau khi Phật nhập diệt, những nội dung cơ bản do Phật thuyết giảng
lúc tại thế được tổng hợp và truyền tụng lại ngay trong cuộc kết tập lần thứ
nhất thành văn tự trongKinh tạng và Luật tạng: Trường A hàm, Trung A
hàm, Tạp A hàm và Tăng nhất A hàm. Khoảng 100 năm sau, trong cuộc kết
tập lần thứ hai, một bộ phận tỳ kheo trẻ thuộc Đại chúng bộ (Mahasanghika)
40
đã đưa ra 10 điều luật mới, nhưng các vị tỳ kheo lớn tuổi thuộc Thượng tọa
bộ (Sthaviravada) không chấp nhận, và coi đó là 10 điều phi pháp. Cuộc
tranh luận này đã dẫn tới sự phân hóa giáo đoàn Phật giáo thành hai phái:
Thượng tọa bộ với chủ trương giữ y giới luật như ngày Phật còn tại thế: tự
độ, tự tha; Đại chúng bộ với chủ trương hành đạo theo tinh thần “khế lý, khế
cơ” với chủ trương: kết hợp cả tự độ, tự giác và cả độ tha, giác tha. Tới đầu
công nguyên, Phật giáo Đại thừa (Mahayana) phát triển từ tư tưởng Đại
chúng bộ - phương tiện lớn - ra đời và từ đó Thượng tọa bộ bị một số đại
biểu của phái Đại thừa gọi là Phật giáo Tiểu thừa (Hinayana) - nghĩa là
phương tiện nhỏ. Nhưng từ Đại Hội Phật giáo thế giới năm 1956, Phật giáo
Tiểu thừa được gọi là Phật giáo Nguyên thủy.
Phật giáo Nguyên thủy chủ trương bảo tồn nguyên xi giáo lý và
phương pháp tu đạo mà Đức Thích Ca lúc đương thời thường thuyết giảng,
với mục đích giác ngộ và giải thoát cho riêng bản thân mình. Phật giáo
Nguyên thủy chấp nhận về mặt lý thuyết có nhiều vị Phật, nhưng thờ riêng
một đức Thích ca. Phật giáo Đại thừa chủ trương tự độ, tự giác (tự mình tu
tập để đạt giải thoát) và cả độ tha, giác tha (giác ngộ cho mình đồng thời giác
ngộ cho người khác), không cố chấp vào kinh điển. Phật giáo Đại thừa
không những thờ Đức Thích Ca mà còn thờ cả các Đức Phật khác: Đức A-
di-đà, ồ tát Di Lặc và nhiều vị Bồ tát.
Sự phân hóa thành các nhánh phái, bộ phái này diễn ra ngay trong nội
bộ Phật giáo, song nhân sinh quan Phật giáo vẫn là tư tưởng căn bản cho mọi
tông phái, chi phái Phật giáo dù thuộc Đại thừa hay nguyên thủy. Tuy nhiên,
trong quá trình du nhập, phương tiện để đạt tới giải thoát sẽ được bổ sung
tùy theo phong tục, tập quán mỗi nơi mà Phật giáo truyền bá tới. Do vậy cả
Phật giáo nguyên thủy và Đại thừa đều được phát triển ở nhiều nước và ngày
nay Phật giáo đang trở thành một trong ba tôn giáo lớn nhất của thế giới.
2.1.3. Một số nội ung cơ ản của nhân sinh quan Phật giáo
Mục đích cuối cùng của Phật giáo là tìm ra con đường đưa chúng sinh
41
thoát ra khỏi vòng luân hồi bất tận. Để thoát khổ, Phật giáo xây dựng con
đường tu luyện tâm bằng thiền định, trì giới, tích thiện... và xây dựng mô
hình Niết bàn l tưởng.
2.1.3.1. Quan niệm về con người và đời người
Phật giáo cho rằng, con người là loài hữu tình cao cấp, được tạo ra bởi
sự kết hợp tạm thời của hai thành phần chính vật chất (Sắc) và tinh thần
(Danh). Mỗi thành phần lại là sự kết hợp tạm thời của nhiều yếu tố nhỏ hơn.
1. Sắc gồm: đất, nước, lửa, khí, gọi là Tứ đại. 2. Danh gồm: Thụ (cảm giác),
Tưởng (ấn tượng), Hành (tư duy nói chung), Thức (ý thức). Cách phân chia
các yếu tố tạo thành con người nhìn theo cách khác thì gọi là Ngũ uẩn, tức
năm yếu tố: 1. Sắc, 2. Thụ, 3. Tưởng, 4. Hành, 5. Thức [tham khảo 31].
Ngoài ra còn có quan niệm chia sáu yếu tố, gọi là Lục đại: 1. Địa (đất, các
chất khoáng), 2. Thủy (nước, các chất lỏng), 3. Hỏa (lửa, nhiệt độ trong
người), 4. Phong (gió, không khí, hơi trong cơ thể), 5. Không (khoảng trống
trong cơ thế), 6. Thức (yếu tố tinh thức, tinh thần của con người). Năm yếu
tố đầu chính là Sắc, yếu tố thứ 6 chính là Danh.
Phật giáo tiếp thu thuyết Vô thường từ Veda-Upanishad, nhìn sự vật
luôn biến dịch, không có gì là thường trụ, là bất biến, nên khi nhìn vào cuộc
đời thì thấy bản chất của con người là vô ngã. Mọi thứ trên thế gian cũng chỉ
là phù du, ảo ảnh, nằm trong quy luật biến đổi không cùng của vũ trụ. Vạn
vật đều tuân theo quy luật: Sinh-trụ-dị-hoại-diệt và con người cũng không
phải là ngoại lệ, phải tuân theo quy luật: Sinh-lão-bệnh-tử. Sự kết hợp của
ngũ uẩn ở con người chỉ là tương đối, sắc thân (thể xác) tồn tại một thời gian
cũng sẽ bị hủy diệt, khi đó tinh thần (tâm) cũng bị hủy diệt. “Thân thể ta
luôn biến chuyển (vô thường) trong từng satna và có vô thường mới có sự
chuyển biến từ sơ sinh qua thời kỳ thiến niên, thanh niên, trung niên và già
lão”[4,75]. Do vậy, chết không phải là hết, mà đó là điều kiện cho một cái
sinh sắp tới, trong sự sống đã có sự chết, và trong sự chết đã có sự sống. Con
người tu hành luôn vươn tới, vượt ra khỏi vòng luân hồi sinh tử, đến cõi Niết
42
bàn chính là cái đích cuối cùng của người tu Phật.
Con người sinh ra được là do sự tích hợp của nhân duyên với dòng
nghiệp thức cộng thêm tinh cha, huyết mẹ. Nếu có đầy đủ các nhân duyên
mà thiếu vắng dòng nghiệp thức thì con người không thể hình thành như một
con người biết tư duy, có tri giác, biết sáng tạo và có tình cảm. Nghiệp chính
là cái phận riêng của mỗi người do chính mỗi người tự tạo nên, nhưng vẫn
có thể thay đổi chứ không bất biến theo kiểu quyết định luận. Nghiệp gắn
liền với Kiếp, kiếp là quãng thời gian tồn tại của mỗi đời người, mang theo
cái nghiệp đó. Con người sống trên trần thế, đã tạo nghiệp – nhân thì phải
gánh chịu nghiệp – quả. Thuyết nhân quả này chỉ ra rằng, cuộc đời con
người là do chính nghiệp nhân của mình tạo thành. Con người có thể cải tạo
cuộc đời, thoát khỏi vòng sinh-tử bằng cách tu dưỡng, tạo những nghiệp
thiện, mang lại lợi ích cho quần sinh.
Phật giáo cho rằng Niết bàn là đích giải thoát, song để tới đó mỗi
người cần phải tự giác vượt qua Thất tình, Lục dục. Thất tình là bẩy khía
cạnh tình cảmthuộc thức, tâm l khẳng định cái Tôi (hữu ngã) của bản thân:
ái (yêu), ố (ghét), hỷ (vui sướng), nộ (phẫn nộ, tức giận), cụ (sợ sệt), mạn
(ngạo mạn), tập (thói quen xấu). Lục dục là sáu ham muốn, gồm: sắc (sắc
đẹp), thanh (đàn hát), hương (mùi thơm), vị (ăn ngon), xúc (tiếp xúc da thịt),
thức (ý muốn). Nếu không dứt khỏi Thất tình, Lục dục tức vẫn còn ham
muốn và đau khổ sẽ nảy sinh chính từ mâu thuẫn của lòng khao khát về cái
Tôi vô hạn, trường cửu trong khi đời người lại hữu hạn.
Để con người dứt khỏi những ham muốn của ý thức và tâm sinh lý, từ
đó chấm dứt đau khổ, Phật giáo đưa ra thuyết Tứ diệu đế - tức Bốn chân l
cao qu .
1. Khổ đế (Dukkha Satya): Chân l về nỗi khổ của con người. Có thể
chia cái khổ của con người thành tám loại (Bát khổ): Sinh, Lão, Bệnh, Tử là
bốn nỗi khổ vì sinh ra, thì già đi theo thời gian, nẩy sinh bệnh tật và phải tất
43
yếu phải chết; Ái biệt ly khổ: khổ vì xa cách người (vật) thân yêu; Cầu bất
đắc khổ: khổ vì muốn mà không được; Oán tăng hội khổ: khổ vì gặp phải vật
(người) oán gh t; Ngũ thụ uẩn khổ: khổ vì tồn tại thân xác và tinh thần.
Chữ “Khổ” (Dukhha) trong Tứ Diệu Đế còn có nghĩa là: vô thường,
hư giả”[3,118] chứ không chỉ theo nghĩa thông thường. Con người bị quy
định, ràng buộc tất yếu bởi ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành và thức). Đó là sự
kết hợp tạm thời của các yếu tố tạm thời. Sự kết hợp tạm thời giữa những cái
vô thường lại càng vô thường. Bởi vậy, Phật giáo nhìn ngũ uẩn là khổ; con
người, cuộc đời con người là khổ. Sự hình thành con người là giả hợp của
ngũ uẩn, như ảo ảnh. Nếu con người cứ bám víu vào những khoái lạc, nhục
dục giả tạm thì con người sẽ càng dấn sâu trong vòng luân hồi khổ. Con
người chỉ tìm thấy hạnh phúc khi đạt được cái vui chân thật, thường còn,
thanh tịnh. Khi đó con người sẽ đạt được hạnh phúc thực sự, được tự do vĩnh
cửu nơi nội tâm chứ không phải ở tiền bạc, của cải hay danh vọng.
2. Tập đế (Sammudaya Satya): Chân l về nguồn gốc, nguyên nhân
sâu xa của khổ. Phật giáo cho rằng nguyên nhân của khổ nằm ngay trong bản
thân ta. Trước hết, là do Vô minh (avidyà), tức là không sáng suốt, không
nhận thức được thế giới, sự vật, hiện tượng vả cả cái tôi đều là ảo giả mà cứ
cho là thực. Vô minh đầu tiên là do có tưởng sai lạc về sự tồn tại của
“ngã”. Theo đó, sự vật trong thế giới chỉ là ảo giả nhưng cứ tưởng là thật rồi
từ đó mà nảy sinh dục vọng (tham, sân, si) nên tạo nghiệp và triền miên trôi
trong cảnh luân hồi. Vậy, dục vọng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến đau
khổ, còn nguyên nhân sâu sa là do vô minh.
Phật giáo mô hình hóa nỗi khổ của chúng sinh trong quan hệ nhân-quả
của 12vòng khâu và thường gọi là Thập nhị nhân duyên (mười hai nhân
duyên), mô tả cuộc sống qua những thời kỳ, kế tiếp nhau của cuộc đời
(kiếp), trong quan hệ thời gian luân hồi. Hệ thống mười hai nhân duyên đó
là: 1. Vô minh: tức là không sáng suốt, không nhận thức được rằng thế giới,
sự vật, hiện tượng đều là giả, là ảo mà cứ cho đó là thực; 2. Hành: hành là
44
hoạt động của ý thức, sự dao động của tâm, của khuynh hướng, đã có manh
nha của nghiệp; 3. Thức: tâm thức từ chỗ trong sáng, cân bằng trở nên ô
nhiễm, mất cân bằng. Cái tâm thức đó tùy theo nghiệp mà tìm đến các nhân
duyên khác để hiện hình, thành một cuộc đời khác; 4. Danh-Sắc: là sự hội
họp của các yếu tố vật chất và tinh thần. Đối với loài hữu hình, sự phối hợp
của Danh và Sắc sinh ra Lục căn, tức cơ quan cảm giác (mắt, mũi, tai, lưỡi,
thân thể và ý thức); 5. Lục nhập: là quá trình tiếp xúc với thế giới khách
quan xung quanh. Lục căn tiếp xúc với Lục trần (thanh, sắc, hương, vị, xúc,
pháp); 6. Xúc: là sự tiếp xúc, phối hợp giữa lục căn, lục trần và thức; 7. Thụ:
thụ là cảm giác, cảm giác do tiếp xúc mà nảy sinh ra yêu – ghét, buồn –
vui…; 8. Ái: ái là yêu thích, ở đây chỉ sự nảy sinh dục vọng; 9. Thủ: có “ái”
rồi thì có thủ, tức là đã yêu thích rồi thì muốn giữ lấy, chiếm lấy; 10. Hữu:
tiến tới xác định chủ thể chiếm hữu (cái ta) thì phải tồn tại (hữu), tức đã có
hành động tạo nghiệp; 11. Sinh: đã có tạo nghiệp - nghiệp nhân thì ắt có
nghiệp quả, tức phải có sự sinh sôi; 12. Lão-Tử: đã có sinh ắt có già và chết.
Mười hai nhân duyên, đó là sự sinh sinh, hóa hóa liên tục của nhiều cái
khổ. Mười hai nhân duyên này cũng chính là một vòng tròn luân hồi, và như
vậy sẽ không còn cái gì là nguyên nhân đầu tiên. Quan niệm này mang tính
biện chứng, phản ánh quá trình vận động của cuộc đời theo quan hệ nhân-quả.
Theo đó, mọi hành động (thân, khẩu, ý) của con người gây ra sẽ tạo thành kết
quả về sau, đó gọi là nghiệp. Nếu tạo nghiệp thiện, con người sẽ được hưởng
hạnh phúc và ngược lại.
3. Diệt đế (Nirodha Satya): Chân l về con đường khả thi để thoát
khỏi đau khổ, khỏi tính liên tục của khổ nghiệp bằng cách chặt đứt để gỡ các
nhân duyên khác. Khi tìm ra được nguyên nhân của đau khổ, người ta sẽ tìm ra
con đường để diệt trừ nó. Con đường đó chính là đạo đế, giúp con người đi
ngược vòng thập nhị nhân duyên để diệt được vô minh, thoát được hữu ngã.
4. Đạo đế (Marga Satya): Chân l về con đường dẫn đến sự chấm dứt
của khổ. Phật giáo quan niệm, vượt qua vòng luân hồi sinh tử, lên cõi Niết
45
bàn mới đạt được hạnh phúc thực sự. Tuy nhiên, con đường để đạt được sự
giải thoát theo các trường phái triết học đương thời, thường chọn một trong
hai cách: 1. Tu hành khổ hạnh (tiêu biểu là đạo Jaina), 2. Hưởng thụ mọi
khoái lạc (tiêu biểu là phái Lokayata). Phật giáo chọn con đường trung đạo-
nghĩa là vượt qua hai thái cực đó.
2.1.3.2. Quan niệm về giải thoát
Trong Tứ diệu đế: hai đế cuối chỉ cho con người khả năng có thể thoát
khỏi “khổ” là Di t đế, và cách thức để có thể thoát khổ bằng việc tu luyện là
Đạo đế để tới c i “Niết bàn”. Trong mười hai nhân duyên của Phật giáo, cái
sau là kết quả của cái trước nhưng lại là nguyên nhân của cái tiếp theo, có
cái này nên có cái kia, cái này hết nên cái kia cũng hết. Mắt xích quan trọng
nhất để loại trừ Khổ là xóa bỏ vô minh (hiểu được lẽ vô thường, vô ngã, xóa
bỏ nhị kiến), từ đó sẽ buông bỏ tất cả những dục vọng, những ham muốn,
theo đó, các nguyên nhân dẫn đến khổ (ái, thủ, hữu…) cũng sẽ bị diệt bỏ.
Đạo đế cho rằngđể được giải thoát thì con ngườiphải thực hành Bát
chính đạo (Tám con đường chân chính) gồm: 1. Chính kiến: hiểu biết đúng
đắn, am tường Tứ Diệu đế; 2. Chính tư duy: tư duy đúng đắn, không tham,
sân si, nhằm đạt tới chân lý và giác ngộ; 3. Chính ngữ: lời nói chân chính,
không nói những điều giả dối, ác độc, xấu xa, vu khống, không nói lời thêu
dệt, nhục mạ người khác; 4. Chính nghiệp: hành động đúng đắn, không làm
việc gian ác; 5. Chính mệnh: sống trung thực. nhân nghĩa, chính trực, không
tham lam, vụ lợi; 6. Chính tinh tiến: nỗ lực, sáng suốt, vươn lên một cách
đúng đắn; 7. Chính niệm: luôn tâm niệm về đạo l chân chính, đến điều tốt,
không nghĩ về những điều xấu xa; 8. Chính định: kiên định, tập trung tư
tưởng vào chân l , đạo l chân chính, đạt tới giác ngộ - Niết bàn. Niết bàn là
một trạng thái hoàn toàn sáng suốt, yên tĩnh, thoát khỏi vòng sinh - tử, luân
hồi. Giải thoát theo đạo Phật khẳng định để thoát ra khỏi mọi đau khổ là bắt
đầu ngay trong chính mỗi người, đó là diệt bỏ tham, sân, si, ái, ố, hỉ, nộ.
Tư tưởng giải thoát của Phật giáo có mặt tích cực, bởi nó đặt căn cứ
46
trên bản chất bình đẳng giữa người với người. Phật giáo là tôn giáo đầu tiên
của Ấn Độ thuyết giảng về sự bình đẳng giữa con người. Phật giáo khẳng
định: Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ như nhau, không có đẳng
cấp trong giọt nước mắt cùng mặn: “Phật giáo đã khởi đầu một phong trào vị
nhân sinh, đưa tôn giáo trở về với con người phi thần thánh khi cho rằng mọi
người đều bình đẳng như nhau về nỗi khổ (bát khổ) và bình đẳng như nhau
về khả năng giải thoát khỏi khổ, không loại trừ, kể cả giai cấp Bà La Môn tự
cho là thần thánh”[104,43-51].
Triết lý của đạo Phật không phân biệt sang hèn, kẻ trí, người ngu, cho
rằng tất cả chúng sinh đều có thể tu tập và có khả năng tự giải thoát khỏi khổ
đau. Phật giáo không đặt niềm tin vào cầu nguyện, van xin, tế lễ để được cứu
vớt, mà tin ở chính con người tự giác hướng thiện. Mọi khổ đau và hạnh
phúc của con người đều do con người tự gây ra và cũng có thể tự giải quyết.
Luật nhân quả trong Phật giáo chỉ r : con người là kết quả của chính sự tạo
nghiệp bởi bản thân mình chứ không phảido đấng sáng tạo nào ban phát. Bát
chính đạo mà Phật giáo đưa ra là con đường tự lực, không dựa cầu tha lực.
Tuy nhiên, với tư cách một tôn giáo khi đi vào giới bình dân, nhiều yếu tố
tâm linh đã được phát triển nhanh chóng thành các hình thức thờ cúng lễ bái
như ta thấy nhiều hiện tượng cầu nguyện, van xin, tế lễ ở ngay các địa điểm
Phật giáo (chùa chiền), nên không còn giữ được tinh thần vô thần, bình đẳng
của Phật giáo nguyên thủy.
Giải thoát của đạo Phật có điểm khác biệt là hướng nội phá bỏ vọng
tâm, diệt trừ dục vọng. Phật giáo cho rằng, sự thỏa mãn khoái lạc, nhục dục,
nhu cầu về vật chất chỉ là giả tạm, nếu cứ bám víu vào đó thì tất sẽ tự khổ và
gây khổ cho người khác và cho xã hội. Hạnh phúc thực sự là sự thanh bình,
tĩnh lặng nơi nội tâm, không phải ở tiền bạc, của cải, danh vọng. Song vì
không làm chủ được bản thân, không có niềm tin nơi bản thân mình nên con
người luôn cảm thấy bất an, ngay cả khi có cuộc sống vật chất đầy đủ.
Đức Phật không khuyên con người phải chối bỏ cuộc sống hay chạy
47
theo lối sống cô độc, bởi mỗi người đều có một căn duyên khác nhau nên có
thể lựa chọn cho mình cách sống riêng sao cho phù hợp. Tuy nhiên, chọn
cách sống nào cũng cần xuất phát từ thiện tâm, bởi chính họ sẽ phải chịu
trách nhiệm trước mỗi hành vi của chính mình. Hạnh phúc hay khổ đau,
thiên đường hay địa ngục là do bản thân mỗi người chứ không phải do số
mệnh. Đức Phật đã từng nhắc nhở hãy tự thắp đuốc mà đi. Trong Trường A
Hàm tập 1 chương 806, Phật đã giải thích: “Này các Tỳ kheo thế nào là tự
mình thắp đuốc mà đi, hãy thắp lên chánh pháp, đừng thắp lên một pháp nào
khác, và hãy nương tựa với chính mình, hãy nương tự với chánh pháp, đừng
nương tựa một pháp nào khác”. Theo đó, để đạt được sự giải thoát, cần phải
dựa vào chính mình, tự mình phải tu luyện để có thể nghĩa là vượt lên khỏi
sự ràng buộc của thế giới hiện tượng, dập tắt được dục vọng, xóa bỏ được vô
minh, chấm dứt sinh tử, luân hồi.
2.1.3.3. Quan niệm về đạo đức
Phật giáo chỉ ra nguyên nhân sâu xa của nỗi khổ và đưa ra con đường
để đạt tới cõi Niết àn. Con đường đó luôn gắn chặt với việc tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức. Nội dung đạo đức của Phật giáo nằm trong át chính đạo
thuộc Đạo đế trong Tứ Diệu đế - con đường đúng đắn để mỗi người tự giác
đạt tới giải thoát.
Nội dung của át chính đạo có thể khái quát lại thành ba phương diện,
gọi là Tam học gồm: Giới, Định, Tuệ. Theo đó, việc tu luyện đạo đức của
mỗi cá nhân không tách rời tu luyện trí tuệ và niềm tin. Giới, nghĩa là những
quy định về luân l , hành vi đạo đức, cách cư xử hướng thiện để đi đến diệt
trừ nghiệp ác, tích nghiệp thiện. Định là phương pháp thực hành thiền định,
rèn luyện năng lực tự giác hướng nội để có thể làm chủ được niềm tin, cảm
xúc của bản thân để không có nghĩ xấu, tư tưởng xấu, xóa bỏ mọi vọng
niệm. Tuệ không phải trí tuệ hiểu theo nghĩa thông thường (là học nhiều,
hiểu rộng, hiểu sâu của tri thức) mà là trí tuệ giác ngộ Bát nhã (Prajna),
nghĩa là cái biết (tuệ) dựa trên trực giác tâm linh thoát khỏi tri thức kinh
48
nghiệm. Tuệ trong Phật giáo là sống thiện, sống hài hòa với quy luật vô
thường, vô ngã, Tứ Diệu Đế, thuyết nhân quả, lấy cái minh xóa bỏ vô minh.
Tuệ chính là chìa khóa để mở cánh cửa đưa con người đến với cõi Niết àn,
là sức mạnh tỉnh giác của quá trình tu dưỡng, là Giác ngộ.
Mục đích cao nhất của Phật giáo là giải thoát, đó cũng là giác ngộ
chân lý cuối cùng. Để đạt được tới đó, không thể dùng tư duy phân tích
thông thường, mà phải dùng Tuệ giác. Tuệ trong Phật giáo luôn kết hợp với
đạo đức, đó cũng là đỉnh cao Giác ngộ. Muốn có Tuệ thì phải định tâm, tức
là phải tập trung tư tưởngkhông vọng động mới tạo điều kiện cho tuệ nảy
sinh.Giới tức rèn luyện cho tâm trong sạch, trong sáng, đó là là các quy
phạm đạo đức cụ thể và tỉ mỉ (Ngũ giới, Thập thiện) quy định rõ cho nhiều
loại người và cho nhiều đẳng cấp tín đồ. Có các giới cho người xuất gia, cho
đẳng cấp ồ tát của Đại Thừa và người tại gia… nhưng Ngũ giới là quy
phạm đạo đức cơ bản nhất chung cho mọi Phật tử.
Ngũ giới bao gồm: 1. Không sát sinh: không sát hại sự sống. Với tăng
sĩ nếu thấy người bị sát hại mà không cứu cũng là phạm giới; 2. Không trộm
cắp: không được lấy vật gì không thuộc quyền sở hữu của mình; 3. Không tà
dâm: đối với người tại gia là “duy chế tà dâm”, tức phải ngăn ngừa, hạn chế
dục vọng trong một giới hạn nhất định mà xã hội cho phép. Với tăng sĩ,
muốn xuất gia phải ly dục, tức phải xa lánh thế giới trần tục, không có vợ,
không có con; 4. Không nói dối: nghĩa là không nói hai lời, phải thành thật,
không thêm bớt, không nói lời độc ác gây tổn hại đến người khác, không bịa
đặt, không làm hại đến chính mình mà còn tác động không tốt đến người
khác; 5. Không uống rượu: uống rượu là nguyên nhân gây ra 4 tội trên và
nhiều tội khác nữa. Khi uống rượu trí tuệ con người trở nên mất sáng suốt,
không thể tự điều khiển hành vi của mình, ngoài ra cũng phải cách ly những
nơi có rượu chè và cũng không được xúi dục người khác uống rượu. Ngũ
giới có vị trí quan trọng, làm nền tảng ban đầu để từ đó phát triển ra các giới
49
khác. Năm giới không chỉ là nguyên tắc đạo đức cần thiết cho các phật tử
nhằm làm bền vững lành mạnh tăng đoàn, mà mọi người, mọi nhà và toàn xã
hội cũng tốt đẹp, bình yên nếu thực hiện được các giới này của Phật giáo.
Mở rộng Ngũ giới là Thập thiện. Thập thiện gồm: 1. Không sát sinh:
không làm tổn hại đến các động vật có sinh mạng; 2. Không trộm cắp: không
chiếm đoạt tài sản của người khác làm của mình; 3. Không tà dâm: giữ phẩm
hạnh; 4. Không nói dối: nói lời thành thực; 5. Không nói ác: nói lời hòa nhã;
6. Không nói hai lời: không nói lời khiêu khích, ly gián; 7. Không nói lời
thuê dệt: nói lời ngay thẳng, không nói những lời phù phiếm, vô nghĩa; 8.
Không ham dục: không ham cầu quá mức; 9. Không nóng giận: giữ tâm bình
thản, ôn hòa, mọi việc làm đều suy nghĩ chính chắn; 10. Không si mê tà
kiến: xử lý mọi việc không mê muội, dùng lý trí soi xét kỹ càng. Thập thiện
góp phần bổ sung cho Ngũ giới. Ngũ giới và Thập thiện theo giáo lý Phật
giáo đã thực sự góp phần nuôi dưỡng lòng từ bi, bác ái, kích thích hành vi tốt
đẹp của con người trong xã hội.
Phật giáo cũng khuyên con người sống có đạo đức, có tình thương với
muôn loài, mục đích của Phật giáo là giải thoát nhân loại khỏi đau khổ bằng
đạo từ bi. Phật giáo nhìn thấy mối quan hệ giữa Khổ và Từ bi. “Có khổ đau
mới có Từ bi, có Từ bi mới có Phật giáo”[59,116]. “Từ” là đem lại cho
chúng sinh niềm an lạc, hạnh phúc, “ i” là trừ khổ cho chúng sinh, thương
xót họ như bản thân. Từ bi là đem lại hạnh phúc cho mọi người, mọi loài,
cứu nạn cho chúng sinh thậm chí quên đi những lợi ích của bản thân.
Triết lý “từ bi” thể hiện r n t qua quan điểm về sự bình đẳng, công
bằng trong nhân sinh quan của Phật giáo. Quan điểm này tiến bộ hơn so với
nhiều tôn giáo thần quyền khác. Nó đem lại niềm tin về khả năng giải thoát
cho mọi người, vì tin rằng mọi người đều bình đẳng với nhau về khổ, nên
bình đẳng trên con đường tu luyện để đạt đạo. Do vậy, dù không kêu gọi
cuộc đấu tranh giành quyền sống cho những số phận bất hạnh, nhưng quan
điểm bình đẳng, công bằng của Phật giáo đã góp phần đề cao quyền sống,
50
quyền mưu cầu hạnh phúc cho những giai tầng thấp kém trong xã hội Ấn Độ
cổ. Qua đó, nhân sinh quan Phật giáo gián tiếp có mối liên hệ với các vấn đề
chính trị chung của xã hội con người và nghĩa nhân bản cách mạng, l
tưởng từ bi bình đẳng vị tha của đạo Phật đã mở cánh cửa cho tinh thần
Trong các bài giảng, Ngài đã lên án hệ thống giai cấp và Ngài công
nhận quyền bình đẳng của con người. Ngài giảng về nhu cầu cải thiện các
điều kiện kinh tế xã hội, công nhận tầm quan trọng của việc phân bố công
bằng các của cải giữa người giàu và nghèo, nâng cao vị trí của phụ nữ,
khuyến khích việc áp dụng tinh thần nhân bản trong guồng máy hành chính.
Ngài dạy rằng xã hội phải được điều hành trên tình thương và lòng từ bi,
chứ không dựa vào lòng tham lam[149].
“nhập thế” trước nhiều vấn đề của đời sống chính trị xã hội.
Tất cả mọi người, không phân biệt tuổi tác, giới tính, giai cấp, địa vị ai
cũng có thể giải thoát chỉ cần thực hành theo giới luật của Phật giáo, đây là
điểm tiến bộ của đạo Phật so với các tôn giáo đương thời. Điều này đã đáp
ứng được nhu cầu của đa số người dân Ấn Độ thuộc các đẳng cấp thấp k m
thời đức Phật. Tư tưởng về bình đẳng này đã làm hạn chế, tiến tới khắc phục
tính khắc nghiệt phân biệt đẳng cấp của đạo à la môn đang chi phối xã hội.
Phật giáo cho rằng, với tất cả chúng sinh, Phật tính đều bình đẳng, không có
kẻ thần thánh, người hè hạ không thể tu hành để tới giải thoát.
Mẫu người l tưởng trong Phật giáo là Phật, A La Hán, Bồ tát. Đó là
những con người đầy lòng từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha với tinh thần nhân ái
bao la, yêu thương mọi người; thông cảm sâu sắc với những nỗi khổ đau của
người khác; và tìm cách giảm nhẹ nỗi đau cho họ; làm tất cả mọi việc có ích
cho mọi người mà không chút đắn đo, tính toán, không mong đợi sự báo
đáp, không vì lợi lộc, danh vọng. Song, xuất phát từ chủ trương tự “diệt
khổ”, mọi người đều có thể tự giải thoát nếu biết tu dưỡng Giới-Định-Tuệ để trở
về với “Phật tính” vốn có của chính mình, Phật giáo tạo cho con người niềm tin
vào chính bản thân, động viên nỗ lực tu tâm, tích đức, làm thiện, thể hiện trong
quan niệm “tự tin, tự giác, tự thể chứng” (tự biết, tự hiểu và tự thể nghiệm, kiểm
51
chứng trong đời sống) để vượt qua thói ích kỷ, đố k của chính mình.
Nhân sinh quan Phật giáo phủ nhận vai trò của đấng siêu nhiên trong
việc giải phóng con người, mà cho rằng chính con người bằng hành động, ý
Đạo Phật là con đường mỗi người tự đi và tự tới đích chứ không phải
là chờ sự ban ơn của đấng thần linh. Trên con đường tu luyện, con người tự
hiểu bản chất đích thực của mình và càng tránh xa ái dục, tội lỗi tạo nên
nghiệp báo và luân hồi. Có thể nói, đạo Phật đã làm một cuộc cách mạng:
đảo hướng tư duy sang tìm kiếm niềm tin ở chính con người chứ không
phải ở một hoặc nhiều vị thần[101,41].
chí của họ sẽ chi phối đời sống và làm thay đổi vận mệnh của chính họ.
Phật giáo có quan điểm biện chứng khi cho rằng mọi sự vật, hiện
tượng đều có mối liên hệ, tác động lẫn nhau (duyên khởi), là quả của cái
trước nhưng đồng thời lại là nhân của cái sau. Theo đó, cái khổ của mỗi
người xuất phát từ việc làm, lời nói và suy nghĩ (thân-khẩu- ) của chính họ
đã tạo ra trong cuộc sống, con người tạo nghiệp thiện, sẽ được hưởng hạnh
phúc và ngược lại sẽ nhận báo ứng. Quan niệm này rất tích cực, nó khuyến
khích con người hành thiện để gieo nhân tốt và gặt hái được quả phúc.
Tuy vậy, nhân sinh quan Phật giáo nguyên thủy cũng có mặt hạn chế
khi cho rằng, thế giới sự vật, hiện tượng và cả con người chỉ là ảo giả, không
có thực mà do vô minh của con người tạo ra, hay cho rằng mọi đau khổ của
con người đều do vô minh mà ra, từ đó Phật giáo không đấu tranh chống lại
cái ác nơi cuộc sống trần tục, mà chỉ trầm tư, chiêm nghiệm trong thế giới
nội tâm. Chỉ hướng tới việc cải tạo đạo đức để đạt tới sự giải thoát, chứ
không nhằm tới cải tạo hiện thực nơi trần gian. Đó cũng là một lực cản lớn
đối với sự tiến bộ của xã hội, kìm hãm sự phát triển của kinh tế.
2.2. Nhân sinh quan Phật giáo thời Lý-Trần
2.2.1. Quá trình du nhập Phật giáo vào Vi t Nam đến thời Lý-Trần
Phật giáo truyền vào Việt Nam bằng hai con đường: đường biển từ Ấn
Độ và đường bộ từ Trung Quốc. Theo đường biển, các thương thuyền Ấn Độ
thường tới vùng Đông Nam Á để buôn bán. Trong các chuyến đi này, các
52
thương nhân thường cung thỉnh các vị sư tăng đi cùng để hỗ trợ cho họ về
mặt tâm linh. Phật giáo theo đó được truyền bá vào Việt Nam từ những năm
đầu Công nguyên.
Thời kỳ đầu, Việt Nam đang còn là thuộc địa của nhà Hán, Nho giáo
và Đạo giáo đã được truyền bá ở đây nhằm mục đích đồng hóa dân tộc Việt
trước sự cai trị của nhà Hán. Do vậy, hai hệ thống tư tưởng này khi ở Việt
Nam không còn nguyên bản mà mang tính khắc nghiệt, nên chưa được người
Việt đón nhận. Cùng với đó là tín ngưỡng dân gian vẫn đang được duy trì
trong đời sống làng xã. Vì vậy, khi mới du nhập, tư tưởng Phật giáo tuy còn
xa lạ với người Việt, nhưng chính tinh thần từ bi, hỷ xả, tinh thần cứu độ
chúng sinh không nề hà trong việc trị bệnh cứu người, giúp đỡ những người
khốn khó… của các nhà sư Ấn Độ, đã có tác động sâu sắc và dần cảm hóa
được người dân Việt. Từ đó, Phật giáo tuy là tôn giáo ngoại lai nhưng đã
sớm trở thành một tư tưởng có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của
cư dân trồng lúa nước thời kỳ ắc thuộc.
Nhân sinh quan Phật giáo cũng rất phù hợp với người Việt vốn ưa
chuộng hòa bình, gh t xung đột, sống hòa hợp, giàu lòng nhân ái, nên dần
dần triết l này đã được hòa nhập với tín ngưỡng bản địa của người dân
Việt,… và đặc biệt nó bổ sung cho người Việt tinh thần bình đẳng giữa
người với người trên con đường giải thoát, giúp họ có thêm niềm tin vào bản
thân, kêu gọi họ sử dụng chính khả năng tích thiện của mình để giác ngộ
“giải thoát”. Vì vậy, người Việt tự nguyện tìm đến Phật giáo như một cứu
cánh. Danh xưng uddha ( ậc giác ngộ) tiếng Phạn đã được phiên âm sang
tiếng Việt là “ ụt” và hình ảnh ông Bụt xuất hiện trong nhiều chuyện cổ
tích, ca dao, tục ngữ, thơ phú của người Việt. Giai đoạn đầu này có thể gọi là
giai đoạn Phật giáo Việt - Ấn. Hệ thống kinh điển Phật giáo thời kỳ này ở
Việt Nam cũng đã có gắn với tính thiền của Phật giáo Đại thừa vùng nam Ấn
Độ: “khuynh hướng Thiền - hay đúng hơn là Tiền Thiền - đã xuất hiện ở
Việt Nam từ thế kỷ III, với Khương Tăng Hội, làm cơ sở cho sự tiếp nhận và
53
phát triển Thiền tông về sau”[126,82]. Theo Thiền Uyển Tập Anh, năm 580,
có nhà sư Ấn Độ là Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) sang Việt Nam thành lập
phái thiền đầu tiên, thiềnTỳ Ni Đa Lưu Chi [Xem sơ đồ 2.2-Phụ lục, tr.167],
kinh điển chủ yếu thuộc văn hệ Bát nhã có gốc từ nam Ấn Độ.
Sang thế kỷ VI, Phật giáo Trung Quốc theo đường bộ truyền sang Việt
Nam, lúc đầu có ba tông phái là Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông. Thiền
tông được khởi đầu từ nhà sư Ấn Độ là Bồ Đề Đạt Ma, ông chủ trương “ ất
lập văn tự. Giáo ngoại biệt truyền. Trực chỉ nhân tâm. Kiến tính thành Phật”.
Thiền tông đòi hỏi nhiều công phu tu luyện đạo đức, niềm tin và khả năng trí
tuệ, do vậy thường được phổ biến ở giới trí thức. Tịnh độ tông chủ trương
dựa chủ yếu vào sự giúp đỡ từ bên ngoài (tha lực) để cứu giúp chúng sinh do
vậy phát sinh niềm tin lễ Phật, tụng niệm danh Phật A Di Đà là có thể đến
Tây Phương cực lạc sau khi chết. Đây là con đường tu đơn giản nên phát
triển chủ yếu ở giới bình dân. Mật tông chuộng tu luyện những phép thuật
huyền bí như linh phù, mật chú, ấn quyết… để chữa bệnh, trừ tà và đạt đến
giác ngộ và giải thoát. Ở Việt Nam, Mật tông không tồn tại độc lập như một
tông phái, mà hòa vào tín ngưỡng dân gian với những hình thức cầu đồng,
pháp thuật, yểm bùa… Cả ba tông phái Thiền, Tịnh, Mật dù có điểm khác
biệt nhưng nhìn chung đều dựa trên những giáo l cơ bản của đạo Phật, khi
truyền vào Việt Nam nên chúng cùng giao thoa, tương tác với nhau và cùng
và hòa nhập vào tín ngưỡng bản địa tạo nên sắc thái riêng biệt cho Phật giáo
Việt Nam.
Năm 820, thiền sư Vô Ngôn Thông sang Việt Nam, truyền bá dòng
thiền thứ hai, thiền Vô Ngôn Thông [Xem sơ đồ 2.3-Phụ lục, tr.168], mang
đậm màu sắc của Thiền Trung Quốc. Từ đây, danh xưng “ uddha” được
dịch thành chữ “Phật” qua biến âm của từ佛 (Phô) trong tiếng Hán và thay
thế dần từ “ ụt” – vốn do người dân Việt chuyển âm từ tiếng Ấn của từ
“ uddha” (Phật). Từ “ ụt” từ đó chỉ còn trong tín ngưỡng và các câu
54
chuyện dân gian, thơ, phú.
Trong ba phái Phật giáo du nhập vào Việt Nam, chỉ có Thiền tông đủ
sức hình thành nên một trường phái độc lập. Tuy nhiên, trong tư tưởng nhân
sinh của Thiền tông vẫn có sự kết hợp của nhiều tư tưởng. “Về mặt tín
ngưỡng, Thiền Tông ở nước ta kết hợp với tín ngưỡng nguyên thủy bản địa,
với Đạo giáo và những yều cầu thực tế của nhân dân, cũng vì vậy mà nó
mang nhiều yếu tố của Mật tông…”[113,199]. Thiền-Phật giáo Việt Nam
thời kỳ này cũng “kết hợp con đường giải thoát tự lực với con đường giải
thoát bằng tha lực, tức con đường cần đến sự cứu vớt của các Bồ Tát, nhất là
Quan thế Âm Bồ Tát. Chính sự sùng bái lối giải thoát bằng tha lực như vậy
làm cho Thiền Tông nước ta dung hòa với Tịnh Độ”[113,199]. Vì vậy, Thiền
Việt Nam giản dị về nghi thức tu hành, chỉ dùng cách tọa thiền trực giác mà
thành giác ngộ. Nhân sinh của Thiền là “yêu thiên nhiên, chuộng lao động,
đề cao sự cảm thông giữa người với người và giữa người với muôn
vật”[126,85] rất gần gũi với tinh thần trọng nghĩa tình, yêu lao động của
người dân Việt. Thiền tông chủ trương thực hành tu luyện bằng khả năng
của mỗi người, trải nghiệm qua chính cuộc sống hàng ngày, để giải thoát.
Tuy không phát triển thành thiền phái độc lập, nhưng Tịnh độ tông và
Mật tông vẫn tồn tại và hòa trộn trong văn hóa và tín ngưỡng của người dân
Việt và thường được gọi là Phật giáo dân gian. Trong Phật giáo dân gian,
Trời - Phật - Thần đã gắn liền và hòa đồng làm một. Người Việt thường nói
“cầu trời khấn Phật”, hoặc “lạy trời lạy Phật” khi gặp khổ đau, bất trắc. Đức
Phật trong Phật giáo dân gian đã mang những n t đặc trưng của một vị thần
quyền năng, thường xuất hiện khi con người gặp khó khăn, làm ph p giúp họ
vượt qua khó khăn và được người dân cầu xin sự ban phát tựa như các tôn
giáo hữu thần khác. Các nhà chính trị đã không bỏ qua tác động lớn lao của
Phật giáo đối với dân chúng. Sau này, nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ nổ ra
đều có chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng Phật giáo, đặc biệt là thời Lý-Trần.
Sang thời Lý-Trần, tình cảm của người dân với Phật giáo đã trở nên
55
sâu đậm hơn. Trong triều đình cũng có những vị vua, quan, bà hoàng sùng
Phật, tu Phật với đạo đức và nhân cách đáng ngưỡng mộ và được người dân
yêu qu tôn xưng là Phật, là Thượng sỹ, hay Bồ tát… Qua đó triều đình đã
tạo được mối dây liên kết nhân tâm với người dân lao động trong cả nước, từ
đó, đã tạo ra sức mạnh tinh thần lớn lao góp công lớn trong nhiều thắng lợi ở
thời Lý-Trần.
Năm 1069, vua L Thánh Tông đem quân chinh phạt Chiêm Thành,
trong số tù nhân bắt được, có một vị thiền sư Trung Hoa tên là Thảo Đường.
Khi biết được khả năng và danh tiếng của vị thiền sư này, vua liền phong
Thảo Đường làm quốc sư và cho trụ trì chùa Khai Quốc. Lúc này ở Việt
Nam đã có hai Thiền phái Phật giáo mang màu sắc Ấn Độ và Trung Hoa,
song “để đáp ứng nhu cầu của một đất nước độc lập tự chủ, cường thịnh,
hùng mạnh đánh sang phía ắc, dẹp và bắt phía Nam thuần phục, để xây
dựng một đế quốc “Đại Việt”[31,107], nhà L muốn tạo ra một hệ tư tưởng
mới độc lập với hệ tư tưởng của phương ắc. Vua L Thánh Tông đã cho
lập nên thiền phái Thảo Đường, cũng bởi “L Thánh Tông đã đi theo
khuynh hướng tổng hợp. Từ đó tất yếu làm nảy sinh phải có một hệ tư tưởng
tổng hợp để tương xứng với thực tiễn xã hội hoành tráng lúc bấy
giờ”[31,107].
Lãnh đạo Thiền Thảo Đường là những người đầu tiên khởi đầu trào
lưu tổng hợp các tông phái Phật giáo (Vô Ngôn Thông, Tỳ Ni Đa Lưu Chi)
và dung hợp các tư tưởng củacả Nhovà Đạo vào Phật giáo. Trong 19 người
thuộc thiền phái Thảo Đường [Xem sơ đồ 2.4 - Phụ lục, tr.169] thì có 10 vị
là người xuất gia, 9 vị là cư sĩ, mà nhiều vị là vua (Thánh Tông, Anh Tông,
Cao Tông), quan cao cấp của triều đình(Ngô Ích, Đỗ Vũ, Nguyễn Thức).
Tuy nhiên, do phái Thảo Đường có khuynh hướng bác học và hứng thú văn
chương có tính qu tộc, nên dù “có ảnh hưởng sâu đậm về mặt học thuật, tư
tưởng và thi ca trên hai thiền phái đương thời”[53,258] nhưng nó lại không
có sức sống trong quần chúng -những người ít có điều kiện học hành. Vì
56
vậy, thiền phái này “không có cơ sở trong đại chúng bình dân, cũng không
có truyền thống tu viện đặc thù”[53,258]. Do vậy, nókhông đủ sức trở thành
thiền phái độc lập có thể lưu truyền về sau.
Cuối thời L , khuynh hướng dung hợp ba thiền phái đang tồn tại được
tiếp tục bởi thiền sư Thường Chiếu1 (?-1203), “truyền thống hòa quan đồng
trần có lẽ có thể tìm thấy từ thiền sư Thường Chiếu ở chùa Lục Tổ, người
làm gạch nối giữa Phật giáo ba-tông-phái đời Lý và Phật giáo một-tông-phái
đời Trần[Xem sơ đồ 2.5-Phụ lục,tr.169]. Ngoài ra, phải kể đến Thiền sư
Hiện Quang (?-1220), người “mở đầu cho Phật giáo Trúc Lâm, nền Phật
giáo Thống Nhất đời Trần”[53,328] thiền sư chính là người sáng lập ra phái
Yên Tử (vua Trần Nhân Tông chính là tổ thứ sáu – sau ông cũng tiếp nối tư
tưởng của phái này, thành lập nên phái Trúc Lâm ên Tử và là tổ thứ nhất).
Tổ thứ hai của phải ên Tử là thiền sư Viên Chứng2 hiệu là Trúc Lâm3 -
thày của vua Trần Thái Tông, và là người có ảnh hưởng lớn lao trên con
đường tu học của vua,được vua phong làm Quốc sư. Vị tổ truyền thừa thứ ba
là Đại Đăng quốc sư, đồng sư với vua Trần Thái Tông. Thiền sư Tiêu Diêu
thuộc thế hệ thứ tư, ông là thày của Tuệ Trung - một trong những cây đuốc
sáng nhất của thiền học đời Trần. Tuệ Trung được vua Thánh Tông rất khâm
phục về nhân cách và đạo học. Chính vua đã tôn ông làm Thượng Sỹ ( ồ
tát) và ca ngợi rằng: “về cốt cách, Thượng sĩ là người khí lượng thâm trầm,
phong thần nho nhã”[121,544].
Như vậy, nhu cầu xây dựng một hệ tư tưởng thống nhất, độc lập với
đế quốc Trung Hoa đã được đặt ra từ thời L . Nhưng chỉ sau khi hoàn thành
ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyênthắng lợi vẻ vang, ý thức về một
nền độc lập tự cường như được thổi thêm luồng sinh khí mới và theo đó nhu
57
cầu thống nhất về tư tưởng đặt ra cấp bách hơn. Theo đó, vấn đề phát triển 1 Sư họ Phạm, quê làng Phù Ninh, triều L Cao Tông (1176-1210), đời thứ 12, dòng Vô Ngôn Thông. 2Ông là thày của vua Trần Thái Tông, được vua tôn xưng là Quốc sư. ng cũng là người có ảnh hưởng lớn lao trên con đường tu học của Trần Thái Tông. Khoảng năm 1236, khi vua Thái Tông bỏ lên núi Yên Tử định đi tu, chính ông là người khuyên ông trở về bằng những lý lẽ rất thuyết phục thể hiện sự am tường giáo lý Phật giáo. 3 Đây là pháp hiệu Trúc Lâm quốc sư của thiền sư Viên Chứng – tổ thứ hai của phái Yên Tử với pháp hiệu Trúc Lâm của vua Trần Nhân Tông. Vì sau này, khi xuất gia vua Trần Nhân Tông cũng lấy pháp hiệu là Trúc Lâm và trở thành tổ thứ sáu của phái Yên Tử và là tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm - còn gọi là Trúc Lâm Yên Tử.
Phật giáo trên cơ sở dung hòa các hệ tư tưởng đương thời tiếp tục được hoàn
thiện, trên cơ cở gắn nó với vấn đề quốc gia, chính sự thời L ý-Trần.
Năm 1299, Trần Nhân Tông (tổ thứ sáu của phái Yên Tử) đã đảm
đương trọng trách thống nhất giáo hội Phật giáo Việt Nam lần thứ nhất.
Ôngquyết định thành lập thiền phái Trúc Lâm và chính thức lấy pháp hiệu
Trúc Lâm Đại Đầu Đà. Nhân Tông chịu ảnh hưởng lớn từ tư tưởng nhân
sinh của vua ông Trần Thái Tông, đồng thời tiếp thu và vận dụng tư tưởng
“nhập thế hành đạo” của Tuệ Trung, tức gắn lý luận giải thoát của Phật giáo
với thực tiễn chính trị của đất nước, gắn lợi ích Phật giáo với lợi ích của triều
đại và dân tộc. Có thể khẳng định, nhân sinh quan Phật giáo của Thiền phái
Trúc Lâm có khuynh hướng nhập thế tích cực và ngày càng thể hiện ảnh
hưởng trong tư tưởng chính trị - xã hội thời Lý-Trần.
2.2.2. Một số nội ung cơ ản của nhân sinh quan Phật giáo thời Lý-Trần
Nhân sinh quan của Phật giáo thời L -Trần là sự dung hòa nhân sinh
quan Phật giáo nguyên thủy với những n t văn hóa truyền thống của người
Việt, đồng thời kế thừa cả nhân sinh quan của Nho, Đạo. Giai cấp thống trị
Lý-Trầntôn sùng Phật giáo, và do tiếp thu tinh thần khoan dung, vị tha của
Phật giáo, nên Nho và Đạo giáo vẫn được nhà nước bảo trợ và phát triển. Sự
tích hợp này, một mặt càng làm phong phú thêm tư tưởng nhân sinh thời Lý-
Trần và mặt khác làm nên đặc trưng riêng biệt của Phật giáo Lý-Trần.
2.2.2.1. Quan niệm về con người và cuộc đời con người của nhân sinh quan
Phật giáo thời Lý-Trần
Trần Thái Tông là một vị vua anh minh, song đồng thời ông là một
nhà Phật học am hiểu cả Nho và Đạo. Tác phẩm Phật học nổi tiếng của ông
là Khóa Hư Lục. Kế thừa quan điểm nhân sinh của Phật giáo truyền thống,
Trần Thái Tông cho rằng, bản thân con người chính là sự kết hợp động, tạm
thời của Ngũ uẩn là (五蘊, Sanskrit: pañca-skandha), cho nên nó cũng là ảo,
giả. Ngay cả bản thân tứ đại (địa, thủy, hỏa, phong), ngũ uẩn (sắc, thọ,
58
tưởng, hành, thức) đều không có, vì đó chẳng qua chỉ là sự kết hợp ảo, giả
của những yếu tố khác. Cuộc đời con người cũng chỉ là vô ngã, hư giả. Mọi
sự vật, hiện tượng luôn lưu chuyển, biến dịch, sinh sinh, hóa hóa, không có
cái gì là thường trụ, bất biến. Vì vậy “Công danh rất mực chỉ là một giấc
mộng to, phú qu hơn người cũng khó tránh vô thường hai chữ. Cậy mình
cậy nó, rút cuộc thành không; khoe giỏi khoe tài, cuối cùng chẳng
thực”[121,64]. Tinh thần “vô ngã” này cũng phổ biến trong các phật tử cũng
đồng thời là các nhà chính trị, giúp họ có thể “giải phóng khỏi mọi ràng buộc
của tự nhiên, xã hội và của chính bản thân mình”[129,72], khi đất nước cần
họ sẽ cống hiến hết mình cho công cuộc giải phóng dân tộc, khi hòa bình họ
lại trở về với tâm thế của một thiền sư. Cũng nhờ tinh thần này mà các vị
vua quan Lý-Trần, dù đứng đầu muôn dân nhưng không vì cái “tôi” của bản
thân, mà luôn sống vị tha và nghĩ đến cái “ta” của thiên hạ. Khi nhận trách
nhiệm thì tận tụy hết lòng, nhưng khi hoàn thành vai trò thì lại dễ dàng “lìa
bỏ ngai vàng như trút bỏ chiếc giày rách”.
Trần Thái Tông chia con người làm ba loại: “ ậc thượng trí thì tâm
tức Phật, không phải nhờ thêm sự tu hành… ậc trung trí ắt nhờ vào niệm
Phật (mới thành Phật-NLA)… Kẻ hạ trí miệng chuyên cần niệm lời Phật,
lòng mong thấy hình tướng Phật, ngày đêm tu hành chăm chỉ, không thoái
chí thay đổi… cũng được Phật quả”[121,85]. Tư tưởng này đã động viên tất
cả mọi người-dù ở các trình độ nhận thức khác nhau, đẳng cấp khác nhau
cùng tin tưởng tu Phật và hànhthiền bằng cái tâm trong sáng để hướng tới
mục đích thành Phật và chứng Niết bàn.
Nhân sinh quan Phật giáo khi vào Việt Nam đã được thay đổi để đáp
ứng nhu cầu của một dân tộc vốn có thường xuyên phải đối mặt với giặc
ngoại xâm, quanh năm lao động vất vả nhưng cuộc sống vẫn khốn khó. Nếu
như Phật giáo nguyên thủy quan niệm cuộc đời là khổ, nguyên nhân của khổ
là từ tâm mà ra, cụ thể là do: “tham, sân, si”, thì khi du nhập vào Việt Nam,
nỗi khổ đó còn từ bên ngoài: do áp bức, bất công, do thiên tai địch họa và do
59
chiến tranh mang lại. Chính vì vậy, nghĩa giải thoát (thoát khổ) được mở
rộng thêm nghĩa chính trị, là giúp ích cho nước cho dân, giúp đất nước và
nhân dân có cuộc sống no ấm, ổn định chính là một lẽ sống cao cả nhất mà
người tu Phật phải thực hành.
Dù cuộc đời là “vô thường”, nhưng Trần Thái Tông cũng khuyên con
người không nên bi quan, yếm thế, cũng không nên buông thả theo những
dục vọng tầm thường mà phải nghiêm khắc với bản thân mình rèn luyện tu
tập để “ ước đạp đến đá thật, đầu đội đến hư không. Khi dùng thì muôn
cảnh toàn bày, buông đi thì mây bụi lấp”[6,726-727]. Trần Nhân Tông kh o
l o gắn nghĩa cuộc đời cá nhân với trách nhiệm xã hội, gắn niềm tin tôn
giáo với mục đích chính trị dân tộc “Lòng chúa không riêng ơn vũ lộ. Chí
trai quyết trả nợ tang bồng”[121,478].
Các thiền sư L -Trần cũng quan tâm và nhấn mạnh đến vấn đề cốt lõi
nhất của nhân sinh là vấn đề sinh-tử. Tuy nhiên, cũng do ảnh hưởng bởi tư
duy biện chứng của người Việt, sống hòa cùng tự nhiên, nắm bắt quy luật
của tự nhiên, không phải để thay đổi nó mà để sống phù hợp với nó. Các
thiền sư cũng không tìm cách vượt lên trên sinh tử, mà chấp nhận nó như
một quy luật của cuộc sống. Nhà sư Thiện Hội (?-900, phái Vô Ngôn Thông)
nhắc nhở: “Sống chết là việc lớn, cần phải suy nghĩ cho thấu đáo” và “Phải
nắm lấy chỗ không sống chết mà tránh” [21,40]. Ý nghĩa Phật học và Thiền
học về “vô thường” và “tính Không” được vận dụng ở đây chính là phải tu
luyện để đạt tới không còn nhị kiến, vọng động; để vượt qua thức, tâm l
phân biệt, vượt qua lo sợ về sinh-tử. Trần Thái Tông ví sinh-lão-bệnh-tử như
là 4 ngọn núi mà trong đời người không ai tránh được, nên không vì điều
không thể mà không ngừng vươn lên. Đó chính thái độ ung dung, thanh thản
của nhân sinh quan Phật giáo, không chỉ đối với sinh-tử mà còn đối với cả
Bốn núi cheo leo vạn khóm xanh
Muôn loài không cả, hiểu cho rành
Lừa ba chân đó, may tìm được
Lên thẳng non cao sấn bước nhanh[121,45].
60
những vấn đề lớn của triều đình và dân tộc :
Có thể do ảnh hưởng của thực tiễn đất nước, thường xuyên phải đối
đấu với các cuộc đấu tranh ác liệt, gianh giới sinh-tử trở nên rất mong
manh,các thiền sư Việt Nam đã lấy chính sinh-tử thành công án để tu dưỡng
chân tâm, nhất là các lãnh tụ chính trị hiểu biết Thiền Phật giáo. Đó là thấy ý
nghĩa cuộc đời trong biện chứng sinh-tử của vô thường, duyên khởi. Các
thiền sư thời này đã khẳng định rằng, sống-chết suy cho cùng cũng từ tâm
mà ra, do tâm mà có, hay cho rằng đó đều là sự hợp tan của ngũ uẩn. Có sinh
ắt có lão, có lão và bệnh ắt có tử, đừng nên sợ hãi, hãy nhìn nó như một lẽ tự
nhiên. Vì vậy, các vua quan am hiểu Phật giáo thời này không có thái độ sợ
chết như thường thấy ở các vua quan phong kiến. Họ cũng không đi tìm
thuốc trường sinh để “trì hoãn” cái chết. Chẳng hạn, khi sắp tịch, Tuệ Trung
còn gượng ngồi dậy mắng thân quyến đang khóc lóc: “Sống chết là lẽ
thường, làm gì phải xót thương quyến luyến làm rối chân tính của
ta?”[121,574]. Họ bình thản đi vào trạng thái yên tĩnh, tạm gọi là “chết”,
không nghĩ đến Niết Bàn an ủi, thậm chí cũng không nghĩ đến kiếp sau.
Nhờ những chuẩn mực đạo đức Phật giáonày giúp cho các vị vua,
quan sùng Phật thường có cuộc sống thanh đạm, dản dị, thân dân, không
chạy theo danh lợi, địa vị. Thậm chí với những vị thiền sư được coi là đã đạt
đạo, họ có thể biết trước ngày mình sẽ ra đi (như thiền sư Vạn Hạnh, vua
Trần Thái Tông, vua Trần Nhân Tông…) và chuẩn bị, sắp đặt chu đáo mọi
việc để người ở lại dễ dàng tiếp nối công việc của họ.
2.2.2.2. Quan niệm về đạo đứccủa nhân sinh quan Phật giáo thời Lý-Trần
Các Thiền sư thời L thường sống giản dị, giữ giới tinh nghiêm, hòa
cùng tự nhiên, siêng làm bố thí, tin ở nghiệp lực, không tham danh lợi. Bài
kệ của thiền sư Trí Thiền (?-?, phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi) đã thể hiện rõ chuẩn
mực đạo đức, nhân cách của con ngườil tưởng trong nhân sinh quan của
Lấy đức làm trọng,
Thanh đạm giữ mình,
Một lời nói phải,
61
Phật giáo thời đó:
Ghi nhớ đinh ninh,
Lòng không bỉ, ngã,
Sáng sủa quanh mình,
Đêm ngày cảm cách,
Chẳng thấy tâm hình,
Như vang như bóng,
Vết sạch sành sanh[120,511].
Chính vì vậy, mỗi vị thiền sư thường là một tấm gương đạo đức sáng
ngời. Nhiều thiền sư được triều đình tin dùng như cố vấn chính trị, đồng thời
là vị thầy tâm linh, có thể truyền dạy đạo đức Phật giáo cho cả triều đình.
Chẳng hạn, có lúc trách nhiệm của triều đình đối với quốc gia và người dân
được quan niệm như là nghiệp thiện mà nhà vua thay mặt triều đình thực
hiện, và do vậy nhà vua được dân tôn làm Phật, Bồ Tát. Quan lại sùng Phật
mà yêu dân, thương dân, chăm sóc cho an sinh của dân cũng được dân tôn
làm Bồ tát. Trí thức sùng Phật, thương dân, làm điều thiện cho dân thì được
tôn làm Phật, Tổ, Quốc sư, Thượng sĩ…Mối quan hệ qua lại giữa Phật giáo
và triều đình rất chặt chẽ, qua đó ảnh hưởng của Phật giáo đến chính trị được
thể hiện rất rõtrong các quyết sách, đường lối của nhà nước.
Các thiền sư thời Lý-Trần luôn khuyên vua quan trong triều cũng như
mọi người dân phải sống có đức, “cấy phúc gieo duyên” để thoát khỏi vòng
nghiệp chướng. Trong bài ký bia chùa Báo Ân thể hiện rõ quan niệm này:
“ ố thí rộng thì đức sang cửa nhà; khéo dạy bảo thì người vui theo đạo.
Phúc báo nào có xa đâu; việc ghi vẫn còn rõ lắm[120,545].Các thiền sư là
những điển hình không màng quyền thế, danh lợi; sống lặng lẽ, thanh tịnh;
hy sinh bản thân vì hạnh phúc của quần sinh. Họ được coi là biểu tượng của
sự giải thoát, được xã hội tôn vinh, họ luôn xem mọi sự vật, hiện tượng của
thế giới này không cố định, bất biến mà chúng luôn trong sự biến đổi. Tất cả
tiền bạc, vật chất, địa vị chỉ là ảo giả, đến thân xác cũng chỉ là sự hợp tan của
ngũ uẩn: “Thân mệnh là rất trọng mà còn nên bỏ đề cầu cái chính giác vô
62
thượng huống chi ngọc vàng tiền của là cái đáng khinh mà lại luyến tiếc
sao!”[121,63]. Vì vậy, vua quan thời này đa phần đều sống theo tinh thần
nhân văn của Phật giáo: hướng thiện bằng việc phục vụ nhân sinh, không
màng đến danh lợi, địa vị cho bản thân.
Các thiền sư phái Vô Ngôn Thông thì luôn chuyên cần, quên mình học
đạo tới quên ăn, quên mặc gần với quan niệm “tri túc” của Lão Tử. Nói cách
khác, nhân sinh quan Phật giáo Lý-Trần có phần kết hợp với tư tưởng Lão-
Trang đương thời khi xây dựng chuẩn mực đạo đức của họ. Các thiền sư L -
Trần “luôn biết dừng, biết đủ”. Thiền sư Trí ảo (?-1190) cho rằng “nếu
biết” (tri túc) thì bên ngoài không xâm phạm đến người mà bên trong không
hại đến mình”[120,519]. ản thân Thiền sư luôn hành đạo theo tinh thần này
và khuyên học trò sống theo quan niệm tri túc này, vì cho rằng cuộc sống đạt
đến “tri túc” là cuộc sống của người có đạo đức, biết tri túc sẽ là điều kiện để
con người luôn cảm thấy hạnh phúc. Ngoài ra quan điểm đạo đức thời này,
còn được thể hiện qua cách ứng xứ “tùy tục” màThường Chiếu - người mở
đầu cho Phật giáo thống nhất thời Trần - đã truyền dạy cho đệ tử mình
“nguyên tắc “tùy tục” nghĩa là làm giống như cuộc đời”[53,260]. Nguyên tắc
đó đã được các đệ tử quan trọng của thiền sư (Thần Nghi, Thông Thiền,
Hiện Quang) và nhiều vị vua Phật (L Thái Tông, L Nhân Tông, Trần Thái
Tông, Trần Nhân Tông…) sau này tiếp nối. Đây cũng chính là những chuẩn
mực đạo đức Phật giáo thời đó, nó có nghĩa làm nền tảng cho nhận thức và
hành động của nhiều vị vua, quan sùng Phật thời L -Trần.
Vua Trần Thái Tông khi thuyết giảng về lối sống đạo đức đã vận dụng
quan điểm Phật giáo: “…đi theo con đường của chư Phật thì chỉ có kinh mà
thôi. Thế mà những điều trong kinh nói đến thì không ngoài ba việc giới,
định, tuệ”[121,79]. Ông cũng phân tích rõ mối liên hệ qua lại chặt chẽ giữa
Giới - Định - Tuệ trên con đường tu dưỡng và khuyến khích mọi người theo
Giới nghĩa là uy nghi, Định nghĩa là không loạn, Tuệ nghĩa là hiểu
biết. Thế là giới trừ bỏ sự ác độc, định trừ bỏ sự trói buộc, tuệ trừ bỏ sự sai
63
hướng tích nghiệp thiện:
khiến. Cho nên đem các loại điều thiện này mà cúi theo đạo thì gọi là giai
đoạn đầu, giai đoạn giữa và giai đoạn cuối của thiện[121,79].
Vua Trần Thái Tông cũng vận dụng quan điểm Thiền Đại thừa về giải
thoát, cho rằng đó chính là quá trình nhận r “chân tâm”, thấy được “tự tính”
vốn có. Nhà vua cũng mượn các cách trì giới và sám hối làm phương pháp tu
dưỡng để vượt qua sinh tử của kiếp người: “Kẻ có tội cần phải sám hối. Nếu
không sám hối, tội càng sâu thêm… Vậy nên giữ ph p này, vượt mau qua
đường sinh tử; thờ Phật làm thày, trước hết tuân theo giới luật”[121,82].Tiếp
nối tư tưởng này, Trần Nhân Tông sau khi từ bỏ ngai vàng, cũng đã vân du
khắp nơi để truyền bá tư tưởng đạo đức của Phật giáo. Đi đến đâu, Phật
Hoàng cũng truyền giảng Ngũ giới, Thập thiện4của Phật giáo với mong
muốn xây dựng một xã hội ổn định, thái bìnhcó đạo đức Phật giáo: thuần từ,
tốt đẹp… để thoát khỏi vòng luân hồi-nghiệp báo.
2.2.2.3. Quan niệm về giải thoát của nhân sinh quan Phật giáo Lý-Trần
Phật giáo thời Lý-Trần phổ biến là Thiền tông Đại thừa Thiền, với
triết l cơ bản là “phật tại tâm”, đề cao “cái tâm” con người trên con đường
đi đến giải thoát, điều này đã mở ra khả năng giải thoát ngay tại cõi trần.
Đây chính là điểm khác biệt của nhân sinh quan Phật giáo Đại thừa so với
Phật giáo nguyên thủy. Phật giáo từ một tôn giáo xuất thế, khi sang Việt
Nam, đặc biệt là thời Lý-Trần đã phát huy sức mạnh “nhập thế” của một tôn
giáo xuất thế. Quan niệm nhân sinh tích cực này giúp các phật tử Lý-Trần
không chỉ hiểu đạo mà còn dễ dàng hành đạo, đưa Phật giáo ứng dụng linh
hoạt hơn vào các vấn đề đời sống và chính trị đương thời.
Theo đó, cái tự tính, cái bản thể chân như siêu việt được coi là Như
Lai, là Phật tính lại có thể tồn tại ngay nơi trần gian, ngay ở cõi sinh-tử. Một
con người ngộ đạo không cần phải thoát ly cuộc sống hiện thực. Thiền sư
4Thập thiện: 1. Không sát sinh; 2. Không trộm cắp; 3. Không tà dâm ( a điều thiện về thân thể) 4. Không nói dối; 5. Không nói lời chia rẽ; 6. Không nói lời độc ác; 7. Không nói lời bẩn thỉu ( ốn điều thiện về lời nói); 8. Không tham lam; 9. Không giận giữ; 10. Không tà kiến ( a điều thiện về ).
64
Diệu Nhân (1041-1113) thời Lý nói:
Mê, phải cầu Phật
Hoặc, phải cầu Thiền.
Chẳng cầu Thiền, Phật,
Mím miệng ngồi yên [120,340].
Thiền sư Vạn Hạnh (?-1018) - người có đóng góp tích cực và quan
trọng trong sự nghiệp chính trị của triều Lý, ông được tôn xưng là người
“chống chiếc gậy Thiền để canh giữ đất nước”, cũng được coi là điển hình
về vận dụng quan niệm Phật là tâm.Thiền sưđã chỉ ra rằng đừng có tìm chân
lý ở bên ngoài cuộc đời hay trong sách vở, mà là ngay chính trong đau khổ,
Muốn tìm Tâm,
Ngoài chớ hỏi:
Thể tính lặng không, không biến đổi.
Niết – bàn, sinh tử buộc ràng suông,
Phiền não, bồ - đề đối nghịch dối [120,528].
phiền não cuộc đời:
Phật vốn ở trong Tâm mỗi người, nhưng tâm muốn thành Phật thì phải
tự mình tu luyện chứ không thể dựa vào thế lực siêu nhiên bên ngoài, rũ bỏ
phiền não, ham muốn – dục vọng, hay những ràng buộc về vật chất. Sống tự
do, tự tại, sẽ vượt qua cả sinh-tử, để đạt tới Niết bàn. Bởi vậy, để giác ngộ
không được chấp vào bất cứ điều gì. Trong mỗi con người đều có sẵn Phật tính,
không cần lậy Phật, lậy Tổ gì cả, vì Phật là Tâm, nên cần lấy nó tự tìm hiểu nó.
Tuệ Trung Thượng Sĩ – nhà Thiền học có uy tín trong triều đình thời
Trần cũng cho rằng tất cả các giáo lý cao siêu sẽ trở thành hình thức xơ cứng
và vô nghĩa nếu không biết vận dụng chúng vào đời sống thực tiễn. Thiền sư
cho rằng: “Thanh Văn ngồi thiền, ta không ngồi. Bồ Tát thuyết pháp, ta nói
thực”[121,283]. Bởi theo Tuệ Trung, con người đã đạt tới cái tâm “vô trụ”,
“vô tướng” và “vô niệm” thì không bị ràng buộc bởi bất cứ một cái gì, kể cả
Niết bàn, sinh tử, cũng không bi quan trước cuộc đời, mà luôn ung dung tự
tại. Bởi ông thấy rằng “chân tâm tự tính” là cái vốn có của mỗi con người
65
hiện thực, nên con người có thể giải thoát ngay trên cõi trần gian nếu họ tìm
được chân tâm tự tính của bản thân. Và khi con người đã ngộ đạo, không cần
Ăn thịt và ăn cỏ,
Chúng sinh từng loài đó,
Xuân về cây cỏ sinh,
Họa phúc nào đâu có[121,291].
khư khư giữ giới, ông quan niệm:
Thiền sư cho rằng ăn uống như thế nào (ăn chay hay ăn thịt) là do đặc
tính của từng loài, phụ thuộc vào tự nhiên, không phải dựa vào đó là mang
họa hay có phúc, cũng không nhờ đó mà quyết định việc có thành Phật hay
không. Chỉ cần thân tâm trong sáng, thái độ sống tích cực, thì không cần
phải tuân thủ nghiêm túc những giới luật của Phật giáo thì vẫn có thể ngộ
đạo và giải thoát.Các thiền sư, nhà phật học thời Lý-Trần đều vận dụng
thuyết “Tâm”, “tại Tâm”, “Tâm Phật” khi cho rằng mọi điều xấu hay tốt mà
Niệm Phật là điều khởi dậy do tâm. Tâm khởi dậy điều thiện tức là ý
nghĩ thiện. Ý nghĩ thiện khởi dậy thì thiện nghiệp báo lại. Tâm khởi dậy
điều ác tức là nghĩ ác. Ý nghĩ ác nảy sinh thì ác nghiệp ứng theo[121,84].
con người gặp phải đều xuất phát từ tâm mà ra:
Vì vậy, không thể vin vào hình thức bên ngoài mà cầu mong giải
thoát. Khi gắn mình vào cuộc sống bình thường thì không chấp vào danh-lợi,
mà phải hành động và suy nghĩ vì điều thiện chung. Tư tưởng “Phật tức tâm”
đã mở ra khả năng “nhập thế” cho nhiều phật tử, có thểtu Phật nhưng không
tách khỏi cuộc sống. Hơn thế nữa có thể gắn mục tiêu, ý nghĩa giải thoát và
mục đích cứu nhân độ thế, tích đức hành thiện của Phật giáo với những
nhiệm vụ chính trị của dân tộc. Chính vì thế, nhiều vị thiền sư, phật tử thuần
thành thời Lý-Trần đã tham gia tích cực vào chính sự và các hoạt động đánh
Thoát tịch diệt xong, bàn tịch diệt,
Sau vô sinh, hãy nói vô sinh.
Làm trai lập chí xông trời thẳm
Theo gót Như Lai luống nhọc mình [120,522].
66
giặc cứu nước. Như thiền sư Quang Nghiêm viết:
Đặc biệt, các vị tổ của thiền phái Trúc Lâmđều cho rằng mục đích tối
Có nghĩa là về mặt lý luận phải thấu hiểu chân l hư không, còn về
mặt thực tiễn là phải trở lại hoặc hòa đồng vào chân l đó. Cả hai mặt này
đều được thực hiện đồng thời trong sự chứng ngộ ngay tại cuộc sống hiện
thực[120,522].
hậu của giải thoát là trở về với chính cái Tâm ban đầu của mình:
Có lẽ, tinh thần giải thoát tự giác như vậy đã tập hợp được sức sáng
tạo của toàn dân, tạo nên hào khí của nhiều trận chiến vang dội trước những
kẻ thù hùng mạnh. Nói cách khác, tư tưởng Phật giáo thời Lý-Trầnđã quan
hệ rất chặt với quyền lợi quốc dân và cũng rất gần gũi với cuộc đời, gần với
cuộc sống trần thế.
. .3. Đặc trưng cơ ản của nhân sinh quan Phật giáo thời Lý - Trần
Đạo phật luôn đề cao lòng từ bi, bình đẳng, bác ái rất phù hợp với nhân
sinh quan của người Việt, “nó như một thứ chất lỏng, chui vào bình chứa
hình gì thì nó theo hình ấy mà liền ngay”[141,302]. Vì thế, dù du nhập cùng
thời với Nho giáo và Đạo giáo nhưng đến thời Lý-Trần Phật giáo được ưa
chuộng hơn và trở thành tư tưởng có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh
thần của người Việt, qua đó mà ảnh hưởng tới tư tưởng chính trị, vậy nhân
sinh quan Phật giáo có đặc điểm gì, giúp nó có thể ảnh hưởng với chính trị?
2.2.3.1. Nhân sinh quan Phật giáo Lý-Trần dung hòa các hệ tư tưởng
Thời Lý-Trần, việc vận dụng tam giáo linh hoạt nhất là trước những
vấn đề lớn của dân tộc.Nói cách khác, thời kỳ này Phật giáo được tôn sùng
hơn cả, nhưng trong nội dung tư tưởng văn hóa, chính trị, kinh tế... là sự
dung hợp của cả Nho, Phật và Đạo. Qua quá trình tiếp thu, vận dụng, người
Việt Nam nhận thấy cả ba giáo này, bên cạnh ưu điểm, còn có những hạn
chế, khiến chúng cần được bổ sung cho nhau. Trong đó, vấn đề trọng tâm
của Phật giáo là nhân sinh quan. Giáo lý Phật giáo chủ yếu nhấn mạnh đến
mối quan hệ giữa con người với chính mình và con người nội tâm; Nho giáo
thì bàn nhiều đến vấn đề chính trị-xã hộiđến tổ chức các quan hệ nhà nước,
67
xã hội và gia đình; Đạo giáo lại đặc biệt nhấn mạnh mối quan hệ giữa con
người tự nhiên với tự nhiên. Thời Lý - Trần, có sự dung hợp tư tưởng giữa
ba giáo này, nhưng Phật giáo chiếm thế ưu trội. Đa phần vua quan đều sùng
Phật và am tường giáo lý nhân sinh của Phật giáo. Cũng nhờ đó, nhân sinh
quan Phật giáo thời này có thể phát huy nhiều giá trị tốt đẹp và ngày càng trở
thành tư tưởng phù hợp, đáp ứng nhu cầu chính trị lúc đó.
Tinh thần dung hợp Phật với Nho và Đạo được bắt đầu từ thời Lý. Bởi
dù Phật giáo đã trở thành điểm tựa tinh thần vững chắc để người dân Việt
đấu tranh chống Hán hóa, giành lại nền độc lập sau nghìn năm sống dưới ách
đô hộ. Nhưng công đầu về tổ chức hành chính và Nhà nước lại được tiếp thu,
bổ sung từ Nho giáo. Các thiền sư như Vạn Hạnh, Ngô Chân Lưu thời Lý và
quốc sư Trúc Lâm thời Trần, đều am tường các triết lý trị quốc của đạo Nho.
Sau, sựdung hợp Nho, Phật cũngthể hiện rõ nét trong tư tưởng của các vị
vua. Vua Lý Thánh Tông muốn xây dựng một nền Phật giáo có tính chất
tổng hợp “kết hợp hài hòa giữa thiền, tịnh, Nho, Lão”[31,106]. Phật Hoàng
Trần Nhân Tông, cũng như nhiều nhà Phật học thời đó đều đã sử dụng một
số khái niệm của Nho để thể hiện cho tư tưởng của mình, như các khái niệm
“kẻ trượng phu”, “quân tử”. Đặc biệt, tinh thần “Nho, Phật phân công” được
thể hiện r hơn cả trong tư tưởng của Trần Thái Tông, trong Thiền tông chỉ
nam: “Coi trách nhiệm của tiên thánh là trách nhiệm của mình, giáo lý của
Đức Phật là giáo lý của mình”[121,28]. Trong bài Văn Sám hối, ông cũng kể
đến tội làm phương hại đến cương thường Nho giáo, đến quan hệ cha con,
vua tôi.
Có thể thấy, “... từ thời Lý, trong Thiền tông đã có quan niệm dung
hòa Phật giáo và Nho giáo. Đến thời Trần, xu hướng Phật giáo uốn lượn theo
Nho giáo càng r hơn”[68,309]. Sự dung hợp Nho giáo theo tinh thần “Nho,
Phật phân công” đã làm tăng tính nhân văn của Phật giáo, giảm sự khắc
nghiệt của Nho giáo và bổ sung cho tư tưởng chính trị một nhân sinh quan
68
thích hợp, cần thiết cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thời L các vua cũng cho “xây dựng miếu thờ, các cơ sở cho Đạo
giáo phát triển, các Đạo sĩ được các vua Lý trọng vọng và tin dùng”[50,21].
Trong tư tưởng nhân sinh của Tuệ Trung Thượng sĩ, yếu tố Đạo giáo cũng
được thể hiện rõ nét. Ông nhiều lần nhắc đến các khái niệm đạo, vô, dục,
hòa quan đồng trần, tri túc… “Khẩu hiện của ông là: Hãy sống tự do theo
quy luật của tự nhiên!”[125,123]. Đạo Lão Trang dạy con người trong cuộc
sống phải “tuân theo đạo tự nhiên” và chủ trương “vô vi” – thuận theo lẽ tự
nhiên. Trong quan niệm nhân sinh của phái Trúc Lâm cũng thấy nhiều yếu tố
của đạo Lão Trang như với khái niệm “tự nhiên”. Trong đạo Lão Trang diễn
tả các quy luật của cuộc sống, nhưng “tự nhiên” được Thiền phái Trúc Lâm
dùng làm môi trường diệt dục, tu tâm, dưỡng tính chứ không phải nơi ẩn
náu. Chính nhân sinh quan này đã giúp cho thiền Trúc Lâm có sức sống
mạnh mẽ và ảnh hưởng tích cực trong nhân dân.Có thể thấy trong nhân sinh
quan Phật giáo thời Lý-Trần có sự dung hòa cả Nho và Lão, giúp cho nó
ngày càng có tính thực tiễn hơn, đóng góp tích cực cho sự phát triển của Phật
giáo nói chung và trong việc trị nước ở thời Lý-Trần nói riêng. Đặc biệt,
những kiến thức Nho dung hòa với Phật góp phần truyền tải tư tưởng trị
nước của Nho giáo một cách nhân văn hơn, khi được sử dụng qua lăng kính
của nhân sinh quan Phật giáo.
2.2.3.2. Nhân sinh quan của Phật giáo Lý-Trần chủ yếu là của thiền Đại
thừa với tư tưởng cơ bản là “Phật tại tâm”
Thời Lý vẫn tồn tại cả ba môn phái Thiền, Tịnh, Mật của Phật giáo.
Dù có điểm khác biệt, nhưng chúng đều dựa trên những giáo l cơ bản của
Phật giáo. Ở Việt Nam chúng giao thoa, tương tác và hòa nhập vào tín
ngưỡng bản địa tạo nên những sắc thái riêng biệt cho Phật giáo Việt Nam.
“Đối với tầng lớp bình dân, Phật giáo có Tịnh, Mật; còn đối với tầng lớp trí
thức, Phật giáo có Thiền”[29,28]. Song mặt khác, trong triết lý nhân sinh của
mỗi nhà tư tưởng, mỗi trường phái Phật giáo cũng có sự đan xen. Thời Lý,
69
nhân sinh quan Phật giáo có sự đan xen giữa tư tưởng Thiền và Mật tông; tư
tưởng của Trần Nhân Tông có sự kết hợp giữa Thiền và Tịnh độ tông; tư
tưởng nhân sinh của Tuệ Trung thượng sĩ thì kết hợp Thiền với Lão; giai
...nhiều thiền sư trì chú, tu luyện các phép Tổng trì Đà La Ni của Mật
tông… Phật giáo thời Lý-Trần còn kết hợp với Tịnh Độ Tông. Tịnh độ
Tông đi vào quần chúng bằng con đường thuyết giáo từ bi, cứu khổ, cứu
nạn, dựng lên một cõi tịnh độ, Tây phương cực lạc, nơi có Đức Phật A Di
Đà sẵn sàng tiếp đón những người khi sống trên trần thế hành thiện, tu
phúc, niệm Phật, trai giới, cầu vãng sinh[58,54].
đoạn cuối lại có sự kết hợp giữa Thiền và Mật giáo.Có thể thấy:
Thời kỳ đầu, Phật giáo tồn tại cả ba môn phái, nhưng về sau chỉ có
Thiền tông phát triển thành tông phái độc lập. Thiền tông chủ trương thực
hành tu luyện để giải thoát ngay tại nhân gian, vì vậy, thiền rấtcó sức hút lớn
với người dân – những người thường xuyên đối mặt với thiên tai dịch họa,
hay kẻ thù xâm lược, đang mong mỏi sự yên bình, hạnh phúc dù chỉ trong
tâm tưởng. Vì vậy, triết lý này của Thiền cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến quan
niệm nhân sinh quan của người dân thời Lý-Trần. Quan điểm này cho rằng:
“Thực tại màu nhiệm ở chính nơi lòng ta. Dù ta có bỏ công dong ruổi tìm
cầu suốt ngày, suốt tháng, suốt năm cũng không bao giờ tìm gặp. Dù cho có
quanh quẩn đâu đâu rồi cũng phải quay về”[125,175].Tuệ Trung Thượng Sĩ
Đi cũng thiền! Ngồi cũng thiền!
Trong lò lửa đỏ một bông sen[121,277].
đã khái quát sinh động về hành trạng, cốt cách của người học thiền:
Ông quan niệm, tu hành để đạt giải thoát không thể chỉ câu nệ vào
hình thức. Để tu hành đắc đạo không có gì cao siêu, huyền bí mà chỉ cần trở
về với cái Tâm của chính mình, bởi “tất cả chúng sinh đều có thể thành
Phật”. Nhưng để đạt đạo không thể tìm kiếm ở bên ngoài, mà hãy quay về
thực tại để tìm về với “Phật tính” trong chính con người mình. Vì thế khi vui
với đạo thì cũng chính là vui với đời. Tư tưởng này mang lại một thái độ
70
xuất thế tích cực cho các phật tử thời Trần. Trần Nhân Tông cũng cho rằng,
người ngộ đạo không cần phải tu hành khổ hạnh mà hãy sống theo tinh thần
Cõi trần vui đạo, hãy tùy duyên;
Đói cứ ăn no, mệt thì ngủ;
Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm;
Vô tâm trước cảnh hỏi chi thiền [212,510].
Cư trần lạc đạo.
Quan trọng là phải giúp ích được cho đời. Bởi muốn thành Phật, ngoài
việc phải hội đủ tuệ mẫn còn phải phát nguyện tâm từ bi để phổ độ chúng
sinh, kết hợp cả “bi” và “trí” mới đạt được giải thoát. Tư tưởng này đã cổ vũ
cho tinh thần: tu thiền phải gắn với đời sống thực tiễn; lý luận phải gắn với
hành động. Triết l này là khởi nguồn cho tinh thần “nhập thế” để Phật giáo
tham gia tích cực vào các lĩnh vực ngoài Phật giáo, chủ động công tác với
triều đình vì lợi ích chung của dân tộc.
2.2.2.3. Nhân sinh quan Phật giáo Lý-Trần mang tính “nhập thế”
Nhờ sự kết hợp với Nho, Đạo và tín ngưỡng bản địa, Thiền học thời
Lý-Trần càng dễ dàng phát huy tinh thần nhập thế. Các thiền sư chủ động
hòa quan nhập tục, nhập thế hành đạo, đồng cam cộng khổ với dân, và sẵn
sàng xả thân vì đất nước. Thời Lý-Trần, triều đình đang bước vào công cuộc
ổn định và phát triển đất nước, đồng thời luôn phải đối mặt với nguy cơ xâm
lăng từ bên ngoài. Phật giáo không thể không đóng góp trách nhiệm với dân
tộc, đó chính là l do tại sao sang thời kỳ này, Phật giáo mang tính nhập thế
... nếu không nhập thế, các sứ giả của Đức Phật khó có thể truyền bá
đức tin trên mảnh đất thiên nhiên thì khắc nghiệt, người dân thì bị đô hộ.
Nếu không nhập thế, các tăng sĩ tiên phong ấy khó có thể hoạt động có kết
quả giữa những người dân Việt Nam cần cù, dũng cảm, coi trọng đời sống
tâm linh nhưng cũng rất gắn bó với cuộc sống xã hội hiện thực[27,31].
tích cực hơn cả:
Tư tưởng “nhập thế hành đạo” được thể hiện r trong lời khuyên của
vị quốc sư Trúc Lâm (Phù Vân), khi vua Trần Thái Tông bỏ ngai vàng lên
71
núi tu Phật: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng. Lòng
lặng lẽ mà hiểu đó là chân Phật. Nay bệ hạ giác ngộ điều đó thì lập tức thành
Phật, không phải khổ công tìm kiếm bên ngoài” [121,27]. Vì vậy, khi tổ
quốc có nguy cơ bị xâm lăng,“các ông vua Trần như Trần Thái Tông, Nhân
Tông và các vị tướng như Tuệ Trung Thượng Sĩ tuy hết lòng sùng kính Phật,
nhưng vẫn hành động và suy nghĩ phù hợp với sự nghiệp giữ nước vĩ đại của
dân tộc”[113,212]. Dù, nhân sinh quan Phật giáo Lý-Trần vẫn nhằm hướng
đến mục tiêu “giải thoát”, nhưng khi đã đạt giải thoát rồi các vị thiền sư vẫn
Tinh thần “hòa quang đồng trần” là tất cả những gì các vị thiền sư
mang theo suốt cuộc vân du trên khắp các nẻo đường đất nước. Đem ánh
sáng từ bi và trí tuệ rọi chiếu vào cuộc sống đồng thời chuyển hóa nó thành
cõi Niết bàn. Niết bàn ở ngay đây và giải thoát cũng ở ngay đây[129,92].
sống hòa cùng thế tục, không đối lập với cuộc sống thế tục:
Các vị ấy dù được nhà vua và triều đình rất coi trọng, tuy nhiên, họ
vẫn giữ thái độ của một tu sĩ hay cư sĩ, không muốn cuốn vào vòng danh lợi,
xong việc thì lui về chùa. Cách ứng xử này đã được thiền sư Vạn Hạnh thể
hiện rất r : “làm thì làm, nhưng không mắc kẹt vào công việc, không nương
tựa vào hữu vi”[33,21]. Các thiền sư như Pháp Thuận, Khuông Việt, Vạn
Hạnh, Huệ Sinh, Viên Chiếu, Mãn Giác, Không Lộ tuy thường xuyên được
mời vào cung để dự bàn việc nước, nhưnghọ tham gia chính sự bởi họ có ý
thức trách nhiệm với đất nước, chứ không vì ham danh vọng, mưu cầu lợi
ích bản thân. Sang thời Trần, các vua và quan cũng chính là các Thiền sư.
Họ không những tin tưởng vào nhân sinh quan của Phật giáo, mà bản thân
họ đã thực hành rất tốt đạo lý này.
Đặc biệt là Trần Nhân Tông, ông vừa làm vua, vừa làm Phật - ông là
tổ sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên tử, nhưng cũng là người hai lần tham
gia lãnh đạo cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông. Để khuyến khích
quân sĩ giết được nhiều giặc, ông đã cho xăm hai chữ “Sát Thát” lên người.
Điều này nhân sinh quan Phật giáo nguyên thủy không thể chấp nhận, vì nó
vi phạm giới luật: cấm sát sinh. Nhưng trong hoàn cảnh quân giặc tràn sang
72
giày xéo mồ mả tổ tiên, giết hại biết bao đồng bào nếu cứ giữ nghiêm giới
luật, để mặc nhiên cho đồng bào và nong sông chìm trong biển máu sẽ là trái
đạo, chỉ cầu giải thoát cho mình mà vô tình với đồng loại thì thành Phật cũng
chẳng có nghĩa gì. Vậy nên, lúc này “giới luật” của Phật giáo được vận
dụng một cách sáng tạo: giết kẻ thù xâm lược để cứu dân tộc là “từ bi”, đánh
thắng những kẻ xâm phạm bờ cõi mới là “đạt đạo”.
Chính tinh thần nhập thế tích cực ấy đã giúp nhân sinh quan Phật giáo
mang giá trị nhân văn, nhân đạo cao cả. Nhờ vậy, nhân sinh Phật giáo luôn
song hành với công cuộc dựng nước và phát triển của đất nước. Chiến công
lớn của dân tộc dĩ nhiên không hoàn toàn thuộc về Phật giáo nhưng, có lẽ
tinh thần nhập thế tích cực của nhân sinh quan Phật giáo cũng góp phần
không nhỏ cả về lực lượng vật chất (các thiền sư), lẫn tinh thần (triết lý nhân
sinh của Phật giáo) tạo nên sức mạnh cho thắng lợi của dân tộc.
Tiểu kết chương
1. Phật giáo được du nhập sang Việt Nam từ Ấn Độ và Trung Quốc,
với 3 tông phái cơ bản (Thiền tông, Tịnh độ tông, Mật tông), nhưng chỉ có
thiền tông có thể hình thành phái độc lập. Đến thời Lý, thiền tiếp tục phát
triển thành 3 phái(Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường). Các
thiền phái này có thể do người Ấn Độ hay Trung Quốc đưa vào Việt Nam,
song vẫn thể hiện bản sắc của văn hóa của người Việt, phù hợp với tâm tư,
tình cảm của Việt. Giữa thời Trần xuất hiện thiền phái Trúc Lâm Yên Tử,
thiền phái này do chính người Việt sáng lập, mang đậm bản sắc văn hóa
truyền thống dân tộc, đồng thời dung hợp các hệ tư tưởng đương thời, góp
phần tạo ra n t đặc trưng riêng của Phật giáo Việt, khác biệt với Phật giáo ở
Trung Quốc, Ấn Độ.
2. Phật giáo Lý-Trần đã kế thừa quan niệm nhân sinhcủa Phật giáo
nguyên thủy, thể hiện qua nội dung cơ bản: quan niệm về Con người và đời
người: nguồn gốc con người là (vô ngã), cấu tạo con người (ngũ uẩn), sự
sinh thành và phát triển con người phải tuân theo quy luật vô thường (sinh,
73
lão, bệnh, tử); mục tiêu l tưởng của con người là Giải thoát, bằng việc tu
dưỡng Đạo đức. Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên, tâm lý xã hội, truyền
thống dân tộc, bối cảnh xã hội, thực tiễn chính trị… khác với Ấn Độ, Trung
Quốc nên nhân sinh quan Phật giáo thời Lý-Trần cũng có nhiều điểm khác
biệt. Điểm khác biệt này trước hết thể hiện qua quan niệm:“nhập thế hành
đạo”, “Phật tại Tâm”, về sinh-tử, về chuẩn mực đạo đức…
Do những đặc điểm khác biệtvới Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo Lý-
Trần không còn mang tư tưởng “yếm thế”, mà luôn hòa mình vào cuộc đời,
đã giúp nó có mối quan hệ chặt chẽ với chính trị. Trong đó, phải kể đến quan
niệm Phật tại Tâm - một tư tưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo thời
kỳ này. Đây là đặc điểm quan trọng hơn cả, nó đã góp phần mở ra khả năng
giải thoát tại cõi trần, góp phần động viên các phật tử và toàn dân phải tu
tâm, dưỡng tính, từ đó, khuyến khích tinh thần nhập thế tích cực trong các
tăng ni, phật tử thời Lý-Trần. Vì vậy, nhân sinh quan Phật giáo đã thẩm thấu
trong tư tưởng, tình cảm, hành vi của giai cấp thống trị, qua đó gián tiếp ảnh
74
hưởng đến nền chính trị thời Lý-Trần.
Chương 3
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ THỜI LÝ-TRẦN VÀ
NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
3.1. Tư tưởng chính trị thời Lý-Trần
3.1.1. Khái ni m tư tưởng chính trị
Trước khi đi vào khái niệm “tư tưởng chính trị”, cần tìm hiểu khái
niệm “chính trị”. Có nhiều định nghĩa về chính trị, tuy nhiênđịnh nghĩa sau
Chính trị được hiểu dưới hai giác độ chủ yếu: thứ nhất, căn cứ vào
những hình thức biểu hiện của chính trị, những tư tưởng, học thuyết, cương
lĩnh, đường lối của chính đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, người ta
xem chính trị là sản phẩm trực tiếp của tư duy, là sự phản ánh của những
quan hệ xã hội. Do đó chính trị thuộc về kiến trúc thượng tầng; thứ hai, về
nội dung, chính trị được xem là dạng hoạt động vật chất đặc biệt của chủ
thể chính trị nhằm theo đuổi và thỏa mãn lợi ích, mà trước hết là lợi ích
kinh tế. Đó là những hoạt động nhằm giành, giữ, tổ chức, thực thi quyền lực
nhà nước, hoạt động kiến tạo hệ thống chính trị, nhằm duy trì sự thống trị
của giai cấp thống trị. Đồng thời, với những hoạt động đó, những quan hệ
chính trị cũng nảy sinh và phát triển giữa các chủ thể chính trị[60,9-10].
là đầy đủ hơn cả:
Theo đó, chính trị có thể hiểu ở hai khía cạnh, về hình thức, tư tưởng
chính trị được được hiểu là các tư tưởng, học thuyết, đường lối của giai cấp
cầm quyền; còn về nội dung, chính trị là những hoạt động vật chất nhằm
giành, giữ, tổ chức và thực thi hoạt động của nhà nước, duy trì và bảo vệ lợi
ích của giai cấp cầm quyền. Qua việc thực hiện hoạt động vật chất đặc biệt
đó, những quan hệ chính trị giữa các giai cấp được nảy sinh và phát triển,
trong đó bao gồm: quan hệ giữa giai cấp thống trị và bị trị về vấn đề bảo vệ,
xây dựng và phát triển đất nước.
Về tư tưởng chính trị, cũng có nhiều cách trình bày khác nhau, tuy
75
nhiên luận án cũng dựa trên cơ sở định nghĩa sau:
tầng kiến trúc - là hệ thống những quan niệm, quan điểm, học thuyết, phản
ánh các mối quan hệ chính trị - xã hội đặc biệt giữa các giai cấp, các dân tộc
và các quốc gia - dân tộc xoay quanh vấn đề giành, giữ, tổ chức và thực thi
quyền lực chính trị diễn ra trong lịch sử, cũng như thái độ của giai cấp, các
dân tộc đối với quyền lực chính trị mà tập trung ở quyền lực nhà nước qua
các thời đại lịch sử[60,11].
Tư tưởng chính trị là một hình thức của ý thức xã hội, thuộc thượng
Theo đó, tư tưởng chính trị được hiểu một mặt là hệ tư tưởng chi phối
ý thức, hành vi của giai cấp thống trị về vấn đề giành, giữ và duy trì quyền
lực, quyền quản l nhà nước. Tư tưởng này chi phối suy nghĩ và hành động
của giai cấp thống trị trong vấn đề bảo vệ, gìn giữ quyền lực của mình như
thế nào; mặt khác nó cũng là tư tưởng chi phối tâm lý, ý thức của giai cấp bị
trị (nhân dân) đối với đường lối, chính sách, hành vi của giai cấp nắm quyền,
qua đó giai cấp bị trị cũng sẽ có sự tương tác trở lại, bằng ý thức và hành
động ủng hộ hoặc phản đối. Điều này cũng có tác động nhất định đối với
việc giành, giữ và tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp thống trị.
Như vậy, khái niệm chính trị và tư tưởng chính trị có mối quan hệ chặt
chẽ, chúng giống nhau ở điểm đều hướng đến mục đích là giành, giữ và duy
trì quyền lực của giai cấp thống trị. Nhưng nếu chính trị nói đến hoạt động
vật chất đặc biệt của giai cấp thống trị (cách thức trị nước, xây dựng mô hình
nhà nước, phân bổ các chức quan trong triều…) để giành, giữ và bảo vệ
quyền lực, lợi ích của mình, thì tư tưởng chính trị là sự phản ánh đời sống
chính trị hay thực tiễn chính trị ấy.
Trong quá trình hoạt động chính trị, giai cấp thống trị hay chủ thể
chính trị thường bị ảnh hưởng bởi một hệ tư tưởng nào đó, hoặc chủ động sử
dụng tư tưởng, học thuyết nào đó trong điều hành đất nước. Nếu tư tưởng,
học thuyết… đó phù hợp với thực tiễn chính trị, nó sẽ phục vụ tốt cho mục
đích bảo vệ, duy trì và củng cố quyền lực của giai cấp thống trị, nếu ngược
lại nó sẽ có tác động tiêu cực và không mang lại hiệu quả trong công cuộc
76
duy trì và bảo vệ quyền lực.
Khi nói đến tư tưởng chính trị, có thể hiểu nó ở hai mặt: thứ nhất, đó
là những quan điểm, học thuyết của giai cấp thống trị xoay quanh vấn đề
giành, giữ vững quyền lực và quyền quản l nhà nước; thứ hai, đó cũng nói
đến thức, tư tưởng của giai cấp bị trị, cũng như sự tương tác trở lại trước
những hoạt động giành, giữ, tổ chức quyền lực của giai cấp thống trị. Vì vậy,
giai cấp thống trị nếu tìm ra và sử dụng hệ tư tưởng phản ánh được lợi ích
của cả hai phía (của bản thân giai cấp thống trị và của cả nhân dân – giai cấp
bị trị) sẽ thiết lập được mối quan hệ hài hòa giữa giai cấp thống trị và bị trị,
hoạt động của nền chính trị sẽ hiệu quả, thuận lợi hơn vì sẽ nhận được sự
ủng hộ tích cực từ phía nhân dân.
Chính vì vậy, khi lên cầm quyền, giai cấp thống trị thời L -Trần cũng
nhận thấy cần phải tìm cho mình một hệ tư tưởng phù hợp để làm nền tảng
cho hoạt động cai trị của bộ máy nhà nước. Trong tiến trình phát triển của
lịch sử tư tưởng của dân tộc, Việt Nam đã có nhiều hệ tư tưởng ngoại lai du
nhập, nổi bật hơn cả là Nho, Phật và Đạo giáo. Đến thời L -Trần, Nho giáo-
hệ tư tưởng bàn nhiều đến vấn đề chính trị xã hội, lại chưa mấy phát triển;
Đạo giáo thì không có được nhiều ảnh hưởng trong triều đình; chỉ có Phật
giáo là phát triển hơn cả và được yêu chuộng cả trong triều đình và ngoài xã
hội. ởi vậy, Phật giáo ngày càng có mối quan hệ mật thiết và thể hiện vai
trò tích cực của mình tới nền chính trị Việt Nam L -Trần.
Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa Phật giáo và chính trị, tất yếu
phải bàn đến phạm trù văn hóa chính trị. ởi tôn giáo, cụ thể là Phật giáo là
một trong những thành tố quan trọng cấu thành nên văn hóa chính trị. Từ khi
du nhập, Phật giáo đã trở thành một phần tâm linh, thức hiện diện hàng
ngày, hàng giờ và xuyên suốt trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hóa,
tư tưởng dân tộc Việt. Vì vậy, Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật
giáo nói riêngđã tác động đến đời sống tâm l , tính cách, lối sống của
ngườiViệt,nêntrong văn hóa chính trị Việt tất nhiên có yếu tố của nhân sinh
77
quan Phật giáo.
Văn hoá chính trị, với tư cách là một loại hình của văn hoá, là khái
niệm nói về sự thẩm thấu của văn hoá vào chính trị, tạo nên nền chính trị có
văn hoá.Văn hóa chính trị là “những tâm thức, những niềm tin và giá trị làm
cơ sở cho sự vận hành của một số hệ thống chính trị nhất định”[17,458]. Văn
hoá chính trị không phải là bản thân chính trị, bản thân văn hoá, hay là sự
cộng gộp giản đơn hai lĩnh vực này, mà là chính trị bao hàm giá trị văn hoá
bên trong nó. Văn hoá chính trị thể hiện ở các phương diện cơ bản: Một là,
chính trị với nghĩa là chính trị dân chủ, tiến bộ, hướng tới mục đích cao
nhất là vì con người, giải phóng con người, tôn trọng quyền con người, tạo
điều kiện cho con người phát triển tự do, toàn diện. Đây là tính nhân văn sâu
sắc của một nền chính trị có văn hoá. Hai là, những tư tưởng chính trị tốt
đẹp có tính thiết thực, đi vào cuộc sống, nó phải thấu triệt trong tư tưởng
chính trịvà được thể hiện qua đường lối, chính sách của người cầm quyền, từ
đó, được triển khai và thực hiện trong xã hội.Ba là, lối ứng xử của giai cấp
thống trị với quần chúng nhân dân (giai cấp bị trị) phải nhân văn, nhân đạo
tạo nên uy tín chính trị, qua đó, sẽ dễ dàng thu hút được sự ủng hộ của nhân
dân trong quá trình thực thi quyền lực. Uy tín chính trị thường được xây
dựng trên cơ sở của các giá trị tri thức, đạo đức, tài năng và mức độ cống
hiến của nhà chính trị.
Ở một số dân tộc, sự hình thành quyền lực và tham gia hoạt động
chính trị của giai cấp thống trị thường dựa vào một thiên mệnh tôn giáo nào
đó5. ởi sự trung thành với những tín điều, những giá trị của tôn giáo thường
được chuyển thành lòng trung thành với quyền lực, uy thế của giai cấp thống
trị xã hội đương thời. Vì thế tôn giáo thường hay được giai cấp thống trị sử
dụng, gắn kết nó với hoạt động chính trị. Ngay từ khi du nhập vào Việt Nam,
với tinh thần nhân văn, nhân bản của mình,nhân sinh quan Phật giáo đã có
nhiều yếu tố tương thích với đời sống tinh thần của dân tộcvà dần lan tỏa,
5 Các quốc gia Châu Âu trung cổ chịu sự chi phối của Công giáo La Mã, ở Nhật ản nền chính trị từng bị tri phối bởi Thần đạo (đạo Sintô).
78
phát huy rộng rãi trong đời sống xã hội. Phật giáo đã trở thành một thành tố
không thể thiếu, góp phần hình thành nên những đặc trưng của văn hóa nói
chung và văn hóa chính trị nói riêng của Việt Nam.
Từ thời Đinh, tiền Lê Phật giáo đã bước đầu được coi trọng, nhưng
đến thời L -Trần nó thực sự hưng thịnh và “ăn sâu, b n rễ”, khẳng định
được vị thế nổi trội trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt, nhân
sinh quan của Phật giáo đã tác động trực tiếp và ảnh hưởng mạnh mẽ hơn cả
trong đời sống và tư tưởng chính trị của vua quan sùng Phật. Thời kỳ
này,ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo trong việc xây dựng nền văn
hóa chính trị khá rõ. Những giá trị của nhân sinh quan Phật giáo đã thực sự
có ảnh hưởng trong tư tưởng, hành vi và lối sống của các nhà chính trị. Từ
đó ảnh hưởng đến cách triển khai và thực hành các quyết sách củahọ, góp
phần tạo ra một nền chính trị có văn hóa, rất được sự ủng hộ của nhân dân.
Sự thay đổi triều đại từ Tiền Lê sang triều Lý-Trần ngày càng đánh
dấu sự phát triển và ảnh hưởng mạnh mẽ của nhân sinh quan Phật giáo đối
với chính trị. Trong thời kỳ này, Phật giáo đã phát huy được tối đa sức mạnh
của mình đối với nền chính trị, và “khi tình cảm tôn giáo chuyển thành tình
cảm, tâm lý dân tộc sẽ tạo ra những nội lực mạnh mẽ góp phần củng cố khối
đoàn kết toàn dân, chống lại sự xâm nhập của các yếu tố ngoại lai”[52, 29].
3.1.2. Sự phát triển của tư tưởng chính trị từ thời Bắc thuộc đến thời Lý-Trần
Khi nói đến sự phát triển của tư tưởng chính trị Việt Nam từ thời Bắc
thuộc (năm 179 TCN) đếnthời Lý-Trần (năm 1400), ngoài việc nói đến sự
phát triển của tư tưởng, ý thức của các giai cấp thống trị về vấn đề giành, giữ
vững quyền lực và quyền quản l nhà nước; mặt khác cần nói đến tâm lý, ý
thức của giai cấp bị trị (nhân dân) đối với đường lối,chính sách, hành vi của
giai cấp nắm quyền, qua đó giai cấp thống trị cũng sẽ có sự tương tác trở lại
(bằng ý thức hay hành động ủng hộ hoặc phản đối) đường lối, quyết sách của
giai cấp thống trị, nắm giữ quyền lực.
79
3.1.2.1. Sự phát triển của tư tưởng chính trị trước thời Lý-Trần
Giai đoạn đấu tranh giành độc lập dân tộc (từ 179 TCN đến năm 906):
Năm 179 TCN, Triệu Đà bị bại trận, Âu Lạc trở thành một quận trực thuộc
các nhà nước phong kiến phương ắc. Ngoài những chính sách cai trị khắc
nghiệt, phong kiến phương ắc còn có mưu đồ đồng hóa dân tộc Việt.
Chúng thực hiện chủ trương “Di dân Hán vào đất Việt “sinh cơ lập nghiệp”
bằng nhiều cách, như xâm chiếm ruộng đất, tài sản của dân Việt, kéo bè kéo
cánh phục vụ cho chính quyền Hán”[68,24]. Chúng bắt người Việt phải nói
tiếng Hán, sinh hoạt theo lễ nghi Hán và áp đặt các tư tưởng Nho giáo, Lão
giáo nhằm nhồi nh t văn hóa Trung Hoa vào đầu óc và tâm hồn người dân
bản địa với đồ buộc dân tộc Việt quên đi nguồn gốc, bị phụ thuộc về tư
tưởng và trở thành nô lệ phục tùng sự cai trị của nhà Hán.
Tuy nhiên, qua gần một nghìn năm bị thống trị bởi phong kiến phương
…nói tiếng Việt, sống theo cách riêng của người Việt. Làng xã, thôn
xóm Việt Nam là nơi giữ gìn thuần phong mỹ tục, đức tính cần cù, lối sống
giản dị, thuần phác, thủy chung mang đậm tính chân thực tình làng nghĩa
xóm, đồng cam cộng khổ, tắt lửa tối đèn có nhau[68,15].
ắc, nhưng người dân Việt, mà đại đa số là nông dân vẫn,
Người Việt không dễ tiếp nhận những luồng tư tưởng đến từ phương
Bắc cũng bởi điều kiện tự nhiên và tâm l xã hội của người dân nước Việt
khác với người Hán. Họ luôn ý thức chống lại sự thống trị của giặc ngoại
xâm, cộng thêm lối sống đặc trưng của phương thức sản xuất nông nghiệp
trồng lúa nước vốn quen “những làng xã khép kín, ít tiếp xúc nên ngại tiếp
xúc, và nhất là vì tư duy đó đến cùng với kẻ thù xâm lược, do ghét kẻ thù mà
gh t lây đến nó”[113,97].
Trong số những người cai trị gốc Hoa phải kể đến Sĩ Nhiếp (137-226),
ông được cử làm Thái thú cai trị ở Giao Châu từ năm 187 đến năm 226. Do
tổ tiên ông đã sống ở đất Việt và bản thân ông cũng được sinh ra và lớn lên ở
nơi đây, nên ông tiếp thu ý thức, văn hóa Việt, và có phần thiên vị người
Việt. ng được đánh giá là người uyên bác, thông hiểu cả Nho, Phật, Đạo,
80
trọng người hiền tài, coi trọng giáo dục. Vì thế, dưới sự cai trị của ông, nền
chính trị, kinh tế, văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo ở đây đều khá ổn định. Đối
với chính quốc phương ắc, ông thực hiện chủ trương giữ thế độc lập tương
đối, bề ngoài vẫn giữ quan hệ chư hầu, cống nạp đầy đủ, khiến họ không có
cớ gì để hạch sách, quấy nhiễu. Như vậy, tư tưởng chính trị của Sỹ Nhiếp là
tự trị, nhưng lệ thuộc tương đối vào phương ắc, tư tưởng này được một số
bậc cai trị phong kiến sau tiếp nối.
Sau thời Sỹ Nhiếp, những kẻ thống trị do phương ắc đưa sang, đều
ra sức bóc lột, áp bức và đồng hóa dân tộc Việt. Nhưng người Việt không dễ
bị khuất phục và nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ chống lại sự đô hộ của
người Hán, giành lại chủ quyền liên tục nổ ra với quy mô khác nhau, khiến
kẻ thù trong suốt 10 thế kỷ thống trị không lúc nào được yên ổn với hàng
loạt các cuộc cách mạng: Khởi nghĩa của hai bà Trưng (từ năm 40-43); khởi
nghĩa của Bà Triệu (năm 248); khởi nghĩa của L í (năm 541); thế kỷ VI có
Triệu Quang Phục xưng đế, khởi nghĩa của Lý Phật Tử, phong trào yêu nước
của nhà trí thức Tinh Thiều; thế kỷ VIII có khởi nghĩa của Mai Thúc Loan,
Phùng Hưng; đầu thế kỷ X có phong trào giành quyền tự chủ, độc lập của
Khúc Thừa Dụ và Khúc Hạo.
Khi lãnh đạo thành công mỗi cuộc khởi nghĩa và giành lại được chính
quyền, trong quan hệ với đế quốc phương ắc, tư tưởng chính trị của Việt
Nam thường đi theo một trong hai xu thế: Một là, tự trị, nhưng vẫn phụ
thuộc tương đối vào nhà Hán thông qua việc nhận sắc phong và sang cống
tiến hàng năm; hai là, độc lập ngang hàng với nhà Hán, bằng cách đứng lên
xưng vương, xưng đế, thành lập một quốc gia với phong tục, tập quán, tín
ngưỡng, văn hóa, tư tưởng riêng, đồng thời khẳng định độc lập về chính trị.
Xu thế thứ nhất thể hiện tiêu biểu ở Sỹ Nhiếp (thế kỷ II), Lý Phật Tử
(thế kỷ VI) và Phùng An (thế kỷ VIII), họ vẫn chịu khuất phục bá quyền,
nương nhờ vào đế quốc Trung Hoa, do vậy không muốn tách ra để thành lập
quốc gia độc lập. Điều này thể hiện sự hạn chế nhất định trong nhận thức về
81
quyền độc lập tự chủ của quốc gia. Tuy nhiên, xu hướng này theo chiều dài
lịch sử chống ngoại xâm, dần bị thay thế bởi u thế thứ hai: giành độc lập
dân tộc, thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Trung Hoa, thành lập quốc gia
ngang hàng với Trung Quốc phương ắc “tất nhiên nó không thể thành công
ngay. Nó còn phải trải qua thử thách, hoàn thiện và gặp phải những thất bại
ban đầu. Có thành công ngắn ngủi rồi thất bại của Lý Bí, Mai Thúc Loan, của
Phùng Hưng… thì mới có thắng lợi quyết định của Ngô Quyền ở đầu thế kỷ
X”[113,118]. Sự phát triển của tư tưởng chính trị theo chiều hướng tích cực
ấy, thể hiện chí không chịu khuất phục trước kẻ thù, tinh thần tự lực, tự
cường và lòng tự tin vào khả năng làm chủ đất nước của người Việt.
Giai đoạn hình thành tư tưởng về một nhà nước độc lập (906 - 944):
Trải qua gần một nghìn năm đô hộ của phương ắc, từ thời Tần, Hán đến
Đường, Tống, nhưng người Việt vẫn duy trì được bản sắc dân tộc. Thuyết
“chính danh”, “thiên mệnh” của Nho giáo do kẻ thù đưa sang nhằm triệt tiêu
ý thức đấu tranh của người Việt, song không làm nguôi ý chí muốn thoát
khỏi ách đô hộ, vươn lên làm chủ đất nước. Thời kỳ này, nhiều cuộc khởi
nghĩa của người Việt tiếp tục nổ ra, tuy đa phần thất bại, hoặc có thắng lợi
nhưng nền độc lập tồn tại không dài. Điều đó đòi hỏi những vị thủ lĩnh sau
này cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng hơn về cả mô hình tổ chức Nhà nước và tư
tưởng chính trị.
Người Việt nhận ra rằng, muốn khẳng định độc lập dân tộc lâu dài,
trước tiên phải trang bị trình độ nhận thức chính trị, quân sự, ngoại giao tiến
bộ và phù hợp. Nhưng khó khăn lớn nhất sau nghìn năm đô hộ khắc nghiệt
của phong kiến Trung Hoa chính là dân tộc Việt thiếu những hệ giá trị tư
tưởng riêng. Vì vậy, “họ phải tìm nguồn khác để bổ sung. Đó là hệ thống tư
duy đồ sộ của kẻ thống trị bên ngoài”[113,93], đó là đạo Nho, đạo Lão và
đạo Phật. Nhưng vì tính chất phiến diện của mỗi đạo nên người Việt đã tiếp
thu một cách hài hòa cả ba đạo, để đáp ứng tốt nhất đòi hỏi của thực tiễn.
Ngay cả các nhà cầm quyền Trung Quốc khi sử dụng cũng thường kết hợp
82
cả ba đạo để tùy từng hoàn cảnh, điều kiện chính trị cụ thể rồi ưu tiên đạo
nào đó mà thôi. Vì vậy, từ chỗ phản ứng, đối lập với những tư tưởng của
phương ắc, gắn liền với tinh thần chống ngoại xâm, người Việt dần dần
biết kế thừa có chọn lọc và vận dụng một cách linh hoạt những hệ tư tưởng
vốn có này nhằm phục vụ cho nền chính trị của đất nước.
... người Việt có đầy đủ khả năng để tham gia vào bất cứ cuộc tranh
luận nào về học thuật, tư tưởng của Trung Quốc đương thời. Thế nhưng, họ
đã bỏ qua, không tham gia cũng không luyến tiếc phần lớn các cuộc đó. Sở
dĩ như vậy, vì sự chú ý của họ, tư duy của họ đã hướng về phía những gì mà
thực tiễn đất nước yêu cầu và nhân dân mong muốn[113,98-99].
Trong quá trình học hỏi, tiếp thu các tư tưởng đến từ phương Bắc:
Những bậc cai trị sau này cũng nhờ tinh thần tự lập đó mà tạo dựng
được nền chính trị ổn định và vững vàng hơn sau khi đã giành lại được độc
lập. Đến giai đoạn độc lập, đánh dấu bằng thắng lợi của Ngô Quyền trước
quân Nam Hán vào năm 938, tư tưởng chính trị mới thực sự được định hình
rõ nét.
Với mưu trí và tài cầm quân, Ngô Quyền đã lãnh đạo nhân dân lập lên
chiến thắng oanh liệt trên sông Bạch Đằng. Sau khi đánh bại quân Nam Hán,
Ngô Quyền đã “xưng vương, đặt quan chức, chế triều nghi, định phục sắc và
chỉnh đốn việc chính trị trong nước, chí muốn dựng nghiệp lâu dài”[43,85].
Việc làm này chứng tỏ chiến lược chính trị lâu dài muốn tách khỏi sự ảnh
hưởng của triều đình phong kiến phương ắc, khôi phục chủ quyền quốc
gia, thành lập nhà nước độc lập. ng cũng đã chọn Cổ Loa - kinh đô của
nước Âu Lạc xưa, làm kinh đô và xây dựng thể chế nhà nước phong kiến tập
quyền. Nhưng tiếc là công việc phục dựng và chỉnh đốn đất nước còn dang
dở thì năm 944 Ngô Quyền đã qua đời.
Giai đoạn xây dựng, kiến thiết nhà nước phong kiến (954-1009): Sau
khi Ngô Quyền mất, tình hình chính trị-xã hội Việt Nam hỗn loạn, nhiều đạo
quân nổi lên đánh diệt nhau để tranh giành quyền lực, dẫn tới tình trạng nội
chiến, gọi là loạn 12 xứ quân, k o dài hơn 20 năm (khoảng 946- 967). Người
83
có công dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, lên ngôi, mở ra thời kỳ
phát triển mới cho đất nước là Đinh ộ Lĩnh. Tiếp nối tư tưởng chính trị của
Ngô Quyền về một nhà nước độc lập, tự chủ, tách khỏi ảnh hưởng của nhà
Tống Trung Quốc. Năm 968 Đinh ộ Lĩnh đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Kể
từ đây, một quốc gia độc lập có quốc hiệu, có nhà nước riêng do Hoàng đế
đứng đầu thực sự được xác lập. Ông cũng hoạch định các chức quan văn v ,
quy định các luật lệ cho triều đình, lập Hoàng hậu, Thái tử. Để ổn định đất
nước, vua đã ra sức củng cố quân đội, đồng thời đề ra luật pháp nghiêm
minh nhằm đề cao sức mạnh của triều đại (đặt vạc dầu trước cung điện, nuôi
hổ báo để trừng trị kẻ phạm tội...). Nhờ những luật lệ hà khắc đó mà đất
nước dù vừa trải qua nội chiến, loạn lạc cũng đã dần được yên ổn.
Tuy mô hình và tổ chức bộ máy nhà nước thời Đinh chủ yếu học theo
nhà Tống, cũng có Quốc hiệu, Hoàng đế, Hoàng Hậu, Thái Tử và các quy
định về chức quan… Nhưng đó là sự học hỏi này là cần thiết và nó thể hiện
sự trưởng thành trong tư tưởng chính trị của người Việt.
Năm 979, Đinh Tiên Hoàng mất, Lê Hoàn lên ngôi, cũng tự xưng là
Đại Hành Hoàng đế và quyết định giữ nguyên tổ chức bộ máy đã có từ thời
Đinh. Dự liệu việc mình xưng Đế sẽ bị triều Tống trách phạt và lấy cớ đưa
binh sang xâm lược, nhưng ông và triều đình không sang Tống nhận phong
quan tước mà quyết định cùng nhân dân chuẩn bị lực lượng đánh Tống. Năm
981, quân Tống sang nhưng bị quân của Lê Hoàn đánh cho thua trận. Tuy
thắng, nhưng ở thế nước yếu, và không muốn kết thêm hiềm khích với nước
lớn, lúc này Lê Hoàn mới theo lệ triều cống và nhận sắc phong từ nhà Tống,
nhằm tránh nạn binh đao, vàđể nhà Tống không có cớ trả thù. Vì vậy, quan
hệ Tống và Việt đã được duy trì thuận hòa. Uy phong của nước Đại Cồ Việt
cũng được củng cố. “Sứ nhà Tống thường hay đi lại, có khi vua Đại Hành
phụng chiếu mà không lạy, nói dối rằng đi đánh giặc ngã ngựa đau chân. Nhà
Tống biết là dối, nhưng cũng làm ngơ đi”[43,94-95]. Uy thế chính trị của triều
đình nhà Lê ngày càng tăng. Nhờ yên ổn với phương ắc, vua Lê Đại Hành
84
còn đem quân đi bình Chiêm Thành và dẹp yên những cuộc phản loạn ở các
tỉnh miền núi phía Nam. Tình hình chính trị trong nước dần ổn định, đời sống
nhân dân yên ấm.
Nhìn chung, các triều Đinh, Tiền Lê đã tiến một bước quan trọng trên
con đường khẳng định độc lập: dân tộc độc lập luôn phải gắn liền với nhà
nước thống nhất, độc lập nhưng dân phải được hưởng cuộc sống hòa bình.
Tuy nhiên, vua quan ở hai triều đại này không đủ tài, đức để tiếp nối sự
nghiệp của ông cha, gây ra sự bất ổn về chính trị, lòng dân không yên, vì thế,
thời gian tồn tại của các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê… đều rất ngắn ngủi.
Nhưng dù sao, đây là giai đoạn quan trọng và là bước chuẩn bị cho những
thành công sau này của triều đại Lý-Trần.
3.1.2.2. Sự phát triển của tư tưởng chính trị ở thời Lý-Trần
Kế thừa những thành - bại của tư tưởng chính trị từ các triều đại trước,
sang đến thời Lý-Trần [Xem sơ đồ 3.1-Phụ lục, tr166], tư tưởng chính trị với
các chính sách đối nội và đối ngoại thời đại này đã có bước phát triển vượt
bậc và tiến tới hoàn thiện hơn. Tư tưởng chính trị nổi bật của thời kỳ này
được thể hiện trong Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn,trong bài Nam quốc sơn
hà của L Thường Kiệt, và trong tổng kết về đường lối đánh giặc giữ nước
của Trần Quốc Tuấn.
Từ những bài học của nền chính trị của thời kỳ trước, sang thời Lý-
Trần tư tưởng chính trị cũng có những bước tiến quan trọng. Mở đầu cho
giai đoạn hưng thịnh, vị vua đầu tiên của triều Lý là Lý Thái Tổ đã quyết
định dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long để “mưu toan việc lớn”, tư tưởng này
còn được ghi lại trong Chiếu dời đô [Xem hình 3.3 - Phụ lục, tr.171]. Quyết
định dời đô này có nghĩa chính trị quan trọng, nó thể hiện sự tự tin về sức
mạnh của triều đại và mong muốn về một nền độc lập dân tộc. Hành động
dời đô cũng thể hiện sự phát triển trong nhận thức về chính trị, muốn khẳng
định sự lớn mạnh về lực lượng, vị thế của đất nước; đồng thời thể hiện tầm
nhìn chiến lược của những người quản l đất nước và trách nhiệm với tương
85
lai dân tộc.
Thời kỳ này, xu hướng độc lập, thoát khỏi ảnh hưởng của phong kiến
phương ắc đã hoàn toàn thắng thế và mang lại những thành công và thắng
lợi quan trọng, góp phần làm nên những bài học giá trị cho nền chính trị ở
những giai đoạn đấu tranh của các triều đình phong kiến Việt Nam sau này.
Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn cũng thể hiện rất rõ tinh thần lạc quan, tin
tưởng vào tương lai lớn mạnh của đất nước: “thành Đại La, ở giữa khu vực
trời đất, có thế rồng cuộn hổ ngồi, ở giữa Nam - Bắc - Đông - Tây … Thực
là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi thượng đô của kinh sư muôn
đời”[18,160]. Qua đó có thể thấy, Lý Công Uẩn là người sáng suốt, biết lo
tính lâu dài. Bởi tìm được một nơi thuận tiện để phát triển về mọi phương
diện cả kinh tế, chính trị, văn hóa... thì từ đây, mới mong có được nền độc
lập lâu dài, chính trị ổn định, đất nước phồn thịnh.
Tư tưởng về một nhà nước độc lập, có chủ quyền được tiếp tục khẳng
định khi vào năm 1054, L Thánh Tông đổi tên nước thành Đại Việt, “tôn
các vua trước đó là Thái Tổ, Thái Tông, coi các nước nhỏ là chư hầu, muốn
ngăn cấm Chiêm Thành, thâu phục nhà Tống”[100,460].Khi quân Tống sang
xâm lược đất nước, sự kiên định và ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền của
quân và dân thời L cũng được thể hiện rõ trong bài Nam quốc sơn hà của
Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Cõi bờ ngăn cách tự sách trời.
Cớ chi quân giặc sang xâm lấn?
Thất bại bay xem sẽ đến nơi [18,201].
L Thường Kiệt:
ài thơ này được coi là Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên trong lịch sử
Việt Nam. Bởi nó vừa khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm của nước
Nam, vừa vạch r hành động xâm lăng ngang ngược của quân Tống. Vì hành
động không chính nghĩa ấy, quân Tống tất yếu sẽ bị thất bại và thắng lợi tất
yếu sẽ thuộc về quân dân ta. Đây cũng có thể coi như một bản cáo trạng
hùng hồn kết tội bọn xâm lăng đồng thời là bản tuyên bố đanh th p về nền
86
độc lập của nước ta. Nhờ nghĩa cao cả ấy, bài thơ đã lan truyền rất nhanh
và có tác dụng khích lệ mạnh mẽ tinh thần của quân dân ta, đồng thời cũng
làm kẻ thù run sợ và nhụt chí chiến đấu. Kết quả là quân ta đã làm nên chiến
thắng vang dội, đánh tan đồ xâm lược của quân Tống, buộc họ phải thừa
nhận Đại Việt là một quốc gia độc lập, có chủ quyền.
Sang thời Trần, Đại Việt đã ba lần đại thắng giặc Nguyên-Mông - đội
quân vốn được đánh giá là hùng mạnh nhất thời ấy6. Cả ba lần đội quân này
sangxâm lược đều chịu thất bại trước ý chí chiến đấu của quân dân Đại Việt.
Những chiến thắng này không chỉ mang lại nền độc lập tự chủ cho Đại Việt,
... lần thứ nhất, bảo vệ cho miền Nam Trung Quốc của triều Tống; lần thứ hai,
bảo vệ cho Miến Điện, Chămpa và các dân tộc vùng Đông Nam Á và lần thứ ba, phá
vỡ kế hoạch xâm lược Nhật Bản của quân Mông Cổ[81,24].
mà còn mang lại nghĩa chính trị to lớn đối với các nước láng giềng:
Vị tướng tài ba Trần Quốc Tuấn - người có công rất lớn trong cả ba
lần chống quân xâm lược, đã tổng kết kinh nghiệm giành thắng lợi trong
chiến tranh rất sâu sắc và xúc tích: “... vì vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục,
nước nhà góp sức, giặc tất bị bắt”[18,330]. Điều này thể hiện tinh thần tự tin,
hào sảng trước sức mạnh của tình đoàn kết của dân tộc ta. Sức mạnh này bồi
đắp từ trong thời bình và được phát huy mạnh mẽ trong thời chiến. Khi đất
nước có giặc ngoại xâm thì từ trong triều đình đến ngoài biên ải, từ trong
quân đội đến người dân ở các xóm làng, tất cả đều chung một chí đánh
giặc giữ nước. Lời tổng kết kinh nghiệm đánh giặc này cũng là lời chỉ đạo
chính trị đúng đắn của Trần Quốc Tuấn cho các thế hệ sau là phải coi trọng
sức mạnh của toàn dân.
Theo ông, chính nhờ sự đoàn kết trong triều đình “vua tôi đồng lòng,
anh em hòa mục” và sự đoàn kết trong quân đội “xây dựng quân đội như cha
con một nhà” đã giúp một dân tộc đất không rộng, người không đông có thể
vượt qua những thử thách ghê gớm của họa xâm lăng. Quan điểm “khoan
87
thư sức dân”, “dĩ đoản, chế trường” (lấy ngắn trị dài), “quân đội cốt tinh 6Thời bấy giờ, đội quân Nguyên-Mông đã xâm chiếm được gần trọn Châu Á và Châu Âu, vó ngựa của chúng đi đến đâu “cỏ không mọc được đến đấy”, từ Thái ình Dương đến tận bên bờ Địa Trung Hải, khắp Á, Âu chưa có danh tướng nào cản được.
không cốt nhiều” của Trần Quốc Tuấn có nghĩa lớn laocho chiến lược
quân sự nói riêng và của cả nền chính trị nói chung. Sau này, những tư tưởng
ấy đã được áp dụng linh hoạt cho cả hai cuộc chiến tranh ở Việt Nam (chiến
tranh chống Pháp và Mỹ) và cũng đều giành được thắng lợi vang dội.
Thời Lý-Trần cũng đã kế thừa tư tưởng ngoại giao khôn khéo của thời
trước. Do nằm cạnh một nước lớn, có nền văn hóa lâu đời như Trung Hoa,
cho nên để tồn tại và phát triển, nhà Lý-Trần vẫn có thái độ linh hoạt, mề
dẻo trong giao bang. Một mặt, triều đình vẫn cử người sang cống tiến, nhưng
mặt khác, luôn giữ thái độ không khoan nhượng trước sự áp đặt của triều
đình phương ắc, không chấp nhận bị cai trị và không ngồi yên nhìn cảnh
non sông bị dày xéo.
Sự phát triển và ngày càng hoàn thiện của tư tưởng chính trị thời Lý-
Trần đã mang lại một nền chính trị ổn định, đời sống vật chất của nhân dân
tương đối đầy đủ, đặc biệt, còn tạo nên nhữngthắng lợi ròn rã trên mặt trận
quân sự: 2 lần đánh thắng quân Tống (ở thời nhà Lý) và 3 lần đại thắng quân
Nguyên - Mông (ở thời nhà Trần). Chính vì những thành tựu trên lĩnh vực
quân sự, chính trị, kinh tế và chính sách ngoại giao đúng đắn, nền độc lập
của triều đại Lý-Trần kéo dài rất lâu (1009-1400), các nước trong khu vực
cũng rất tôn trọng và vị nể.
3.1.3. ột số nội ung cơ ản của tư tưởng ch nh trị trời Lý-Trần
Như trên đã trình bày, tư tưởng chính trị phản ánh thực tiễn chính trị
và được thể hiện qua những quan điểm, chủ trương nhằm thực hiện mục tiêu
giành, giữ, duy trì quyền lực của giai cấp thống trị. Tư tưởng chính trịthời
Lý-Trần là sự kế thừa và phát triển những thành tựu của các triều đại
trước,nhằmđáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn chính trị của đất nước lúc
bấy giờ. Điều này là tất yếu và cần thiết, bởi thời kỳ này giai cấp thống trị
cần phải giải quyết nhiều vấn đề chính trị cấp bách của quốc gia đang trên
con đường khẳng định nền độc lập, tự chủ:
88
Thứ nhất: Xây dựng thể chế chính trị và pháp lý của xã hội.
Kế thừa và từng bước hoàn thiện thể chế chính trị thời Ngô, Đinh,
Tiền Lê, nhà nước Lý-Trần cũng quan tâm đến việc xây dựng và tổ chức bộ
máy nhà nước trung ương tập quyền ngày càng quy củ và lớn mạnh. Nhà L
và sau này là nhà Trần, đều xây dựng mô hình nhà nước với bộ máy chính
quyền theo lối quân chủ tập quyền (giống với triều đình phong kiến Trung
Quốc). Các vua cũng tự xưng là Thiên tử, lập các ngôi Hoàng hậu và Thái
tử, cũng phong tước cho các quý tộc với đầy đủ các chức quan văn, quan v ,
các ban (đặc biệt thời kỳ này có cả Tăng quan), các cơ quan hành chính
chuyên trách được xây dựng từ trung ương đến địa phương. Điều này thể
hiện sự tự tin về thế và lực của đất nước đồng thời khẳng định sự phồn thịnh
của triều đại Lý-Trần.
Mô hình nhà nước này là cần thiết và phù hợp trong điều kiện bấy giờ,
bởi Nhà nước mà ta từng xây dựng thời Hùng Vương7, đến giai đoạn này
không còn phù hợp nữa. Và qua một ngàn năm Bắc thuộc, tư tưởng trị quốc
và mô hình hành chính của nhà nước Việt Nam cũng ít nhiều phỏng theo và
bị ảnh hưởng bởi mô hình nhà nước của người Hán và tư tưởng chính trị - xã
hội của Nho giáo. Bởi “trong hoàn cảnh xã hội đương thời, con đường duy
nhất mà giai cấp thống trị có thể theo là chế độ giáo dục Nho học. Do đó,
dưới thời Lý bắt đầu mở mang việc học tập và thi cử để đào tạo nhân tài và
tuyển chọn quan lại”[64,364]. Tuy vậy, Nho giáo chỉ dừng lại ở ảnh hưởng
trong việc xây dựng mô hình nhà nước, tổ chức cơ cấu quan lại củatriều đình
phong kiến tập quyền đang trong giai đoạn xây dựng và từng bước hoàn
thiện. Còn trên phương diện tư tưởng, giai cấp thống trị trong triều vẫn bị chi
phối bởi nhân sinh quan Phật giáo.
Cũng bởi ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo nên mô hình nhà
nước mà triều Lý-Trần chọn không phải mô hình quân chủ tập quyền chuyên
7Về chính trị-xã hội thì cơ cấu cộng đồng từ dưới lên là: Công xã thị tộc-công xã nông thôn-bộ lạc-liên minh bộ lạc-nước; Cơ cấu tổ chức nhà nước từ dưới lên là: tộc trưởng-bồ chính-phụ đạo, lạc tướng-Hùng Vương; Về kinh tế-xã hội: phổ biến là nền kinh tế tự nhiên, cấy trồng theo con nước lên xuống.
89
chế – có phần hà khắc, mà xây dựng nhà nước tập quyền thân dân. Tinh
thần từ bi, hỷ xả, tu dưỡng về thập thiện, ngũ giới đã góp phần hình thành
những khái niệm chính trị thân dân dưới thời Lý-Trần như: khoan hòa, nhân
từ, phúc huệ, bình đẳng.
Cùng với việc kiện toàn bộ máy nhà nước trung ương tập quyền, nhà
Lý-Trần cũng bắt đầu ban hành và áp dụng các bộ luật để ổn định đất nước
như bộ Hình thư, Quốc triều thông chế, Quốc triều hình luật. Việc ảnh
hưởng của tư tưởng nhân sinh Phật giáo đến mô hình nhà nước phần nào
cũng được thể hiện trong nội dung của các bộ luật mới được ban hành và các
các quy định, nguyên tắc trong triều thời kỳ này có phần giản dị, không cầu
kỳ.Về cơ bản, pháp luật Lý-Trần là công cụ thống trị của chế độ phong kiến
trung ương tập quyền, bảo vệ cho quyền lợi và quyền tư hữu của tập đoàn
quý tộc và quan lại. Tuy nhiên, các bộ luật này cũng có những điểm tiến bộ
khi “đã xây dựng chế độ ngăn cấm những người có quyền thế vi phạm pháp
luật, phạm đến lợi ích của nhân dân”[50,301]. Điều này chứng tỏ, các bộ luật
của nhà nước Lý-Trần được xây dựng trên cơ sởtiếp thu Nho giáo, nhưng
vẫn chịu ảnh hưởng bởi tinh thần nhân văn, khoan dung của Phật giáo.
Khi triều đình phong kiến dần đi vào ổn định, việc thi cử tuyển chọn
quan lại dần được tổ chức có hệ thống nhằm bổ xung nhân lực cho triều
đình. Nền giáo dục chú đến cả ba giáo: Nho, Đạo và Phật. Trí thức và giai
cấp thống trị ở Việt Nam lúc này đã thức được vai trò của từng hệ tư tưởng
này trong lĩnh vực chính trị- xã hội. Về cơ bản nhà Lý-Trần vẫn tôn sùng
Phật giáo, nhưng để duy trì quyền lực và tổ chức quản lý xã hội giai cấp
thống trị vẫn sử dụng cả Đạo giáo và đặc biệt là học thuyết bàn nhiều đến
chính trị-xã hội là Nho giáo. Giáo dục khoa cử thời kỳ này đã tạo ra những
hiền tài như: L Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Chu Văn An,… và những
bậc minh quân như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông… đã có đóng góp tích
cực cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ hai: Khẳng định quyền tự chủ về lãnh thổ, độc lập về tư tưởng,
90
văn hóa.
Sau khi thay thế nhà tiền Lê lên nắm quyền, vị vua đầu tiên của triều
L đã cho dời đô từ Hoa Lư đến thành Đại La, sau đổi tên là Thăng Long.
Việc dời đô này đã được sự ủng hộ của các quan lại trong triều bởi Hoa Lư,
là vùng đất nhiều đồi núi hiểm trở, lại chật hẹp, đường xá đi lại khó khăn chỉ
phù hợp cho việc quân sự, phòng thủ. Còn Thăng Long là nơi đất đai bằng
phẳng, màu mỡ và thuận lợi cho việc để xây dựng kinh đô, tạo được những
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đất nước. Có thể thấy, L Thái Tổ
là một vị vua có bản lĩnh và tầm nhìn, không vì tình riêng mà làm ảnh hưởng
đến “nghiệp lớn muôn đời của con cháu”, do thấy “trên thuận trời, dưới
thuận lòng người” mà thay đổi. Nếu các triều đại Ngô, Đinh, tiền Lê phải
liên tiếp tiến hành cuộc kháng chiến chống lại các thế lực xâm lược, thường
xuyên phải đối mặt với các thế lực chống đối để bảo vệ quyền thống trị và
xây dựng đất nước sau ngàn năm bị đô hộ, thì đến thời Lý-Trần, tình hình
chính trị và xã hội lại tương đối ổn định.
Có thể thấy, mong muốn xây dựng nền độc lập dài lâu và một xã hội
cường thịnh thể hiện ngay từ khi triều Lý mới thành lập. Các vua Lý sau này
và các vua Trần cũng tiếp tục mong muốn ấy, họ đã ra sức củng cố nền độc
lập trên mọi phương diện lãnh thổ, văn hóa, tư tưởng… để xây dựng một nhà
nước phong kiến hùng mạnh, ngang hàng với phong kiến phương ắc.
Niềm tự tôn và ý thức bình đẳng dân tộc còn được thể hiện qua sự
kiện năm 1054, nhà L đổi tên nước là Đại Việt, thay thế cho quốc hiệu Đại
Cồ Việt (tên gọi đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt sau gần một nghìn năm
Bắc thuộc, quốc hiệu này được dùng trong thời Đinh, Tiền Lê và hai đời vua
đầu của triều L ). Cũng với nghĩa khẳng định: nước Việt là nước lớn8,
nhưng việc đổi tên này với mong muốn ghi dấu một bước phát triển mới của
8Đinh Tiên Hoàng đặt tên nước là Đại Cồ Việt: theo tiếng Hán ”Đại” có nghĩa là lớn, ”Cồ” trong tiếng Việt cổ cũng có nghĩa là lớn. ng muốn ghép cả 2 chứ Hán và Việt để khẳng định nước Việt là nước lớn dù theo ngôn ngữ nào. 9 Năm 975 lần đầu tiên nhà Tống phải công nhận Đại Cồ Việt là một nước độc lập, nhưng vẫn sai sứ sang phong cho Đinh Tiên Hoàn làm giao chỉ quận vương. Các vua sau Đinh Tiên Hoàn không xưng Tiết độ sứ như nhà Khúc; Vương như nhà Ngô, Đinh nữa mà đều xưng Hoàng đế như một dòng chính thống. Vì thế
91
lịch sử của dân tộc9. Sau bằng chiến lược ngoại giao khôn khéo, nhà Lý-Trần
đã thành công trong công cuộc khẳng định quyền độc lập tự chủ về lãnh thổ
của Đại Việt thời đó: “Năm 1175, nhà Tống chính thức công nhận chủ quyền
quốc gia của Đại Việt khi đổi danh hiệu sắc phong từ Giao Chỉ quận vương
thành An Nam quốc vương. Quốc gia Đại Việt được bảo vệ và củng cố qua
cuộc kháng chiến chống Tống (1075-1077)”[60,72].
Triều đại Lý-Trần còn nỗ lực khẳng định nền độc lập, ở ý thức về
phương diện ngôn ngữ, văn hóa, tư tưởng. “Khuynh hướng này rõ nét và
hiển nhiên đến mức nhà Minh vào đầu thế kỷ XV quyết tâm dùng những
biện pháp tàn bạo, hòng phá vỡ những thành quả văn hóa đời Trần”[15,173],
để dễ dàng hòa lẫn văn hóa Đại Việt vào nền văn hóa Trung Hoa. Chẳng hạn
sang đời Trần, chữ Nôm cũng được khuyến khích sử dụng nhằm hạn chế ảnh
hưởng của văn hóa, chữ viết Trung Hoa. ài phú Cư trần lạc đạo của vua
Trần Nhân Tông được viết bằng chữ Nôm [hình 3.4 - phụ lục, tr.171], như
một tuyên ngôn về tư tưởng và văn hóa Việt, đã khuyến khích phong trào
Việt hóa ngôn ngữ viết trong giới trí thức Việt Nam. Đáng chú , đó là một
bài phú tuyên ngôn về tinh thần nhập thế của Phật giáo, tinh thần kết hợp
đạo với đời của một vị tổ thiền phái Phật giáo Việt Nam và đồng thời là một
vị vua anh minh nên sức lan tỏa rất lớn và triết l nhân sinh của Phật giáo
nhờ vậy, thực sự trở thành sức mạnh chính trị của nhà Trần.
Dù giai đoạn này, nhà nước bắt đầu cho phổ biến Nho giáo, nhưng
Phật giáo vẫn được coi trọng và được sử dụng như một công cụ tư tưởng để
giáo huấn đạo đức, tu dưỡng nhân cách, củng cố khối đoàn kết trong nội bộ
vương hầu quý tộc và trong toàn dân. Bởi, Phật giáo đang là tư tưởng phổ
biến trong xã hội và được nhân dân yêu mến. Lựa chọn Phật giáo, giai cấp
thống trị sẽ thu hút được sự ủng hộ trong nhân dân và dề dàng huy động
được lực lượng tham gia vào công cuộc dựng nước, giữ nước và phát triển
đất nước. Thêm nữa, có thể nói, nhân sinh quan Phật giáo cũng có nhiều yếu
mà dù là người đặt nền móng sáng lập nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên của Việt Nam, nhưng sau ông không còn được gọi là người mở nền chính thống cho các triều đại phong kiến trong lịch sử.
92
tố phù hợp, góp phần giúp giai cấp thống trị thời này giải quyết được những
vấn đề chính trị cấp bách cần giải quyết thời kỳ này. Vì vậy mà các vị vua
Lý-Trần đã có xu hướng tạo ra một nền Phật giáo thống nhất chung cho dân
tộc. Khởi đầu từ vua Lý Thánh Tông, với việc cho ra đời thiền phái Thảo
đường, nhằm loại bỏ ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc (thể hiện trong
thiền Vô Ngôn Thông) và ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ (thể hiện trong
thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi). Tuy nhiên, mong muốn thống nhất về tinh thần, tư
tưởng chỉ thực sự được hoàn thiện ở thời Trần, khi vua Trần Nhân Tông
thành lập thiền phái Trúc Lâm – thiền phái mang đậm bản sắc Việt Nam,
trên cơ sở tổng hợp ba thiền phái có từ thời Lý. Việc ra đời hệ tư tưởng mới
đã hòa quyện chính trị và tư tưởng, giúp thổi bùng lên tinh thần tự hào, ý chí
độc lập tự cường của dân tộc, góp phần tích cực cho công cuộc bảo vệ, xây
dựng và phát triển đất nước.
Thứ ba: Ổn định đất nước, mở rộng lãnh thổ, nâng cao vị thế của đất
nước trong khu vực.
Chính sách “ngụ binh ư nông” được duy trì và phát triển từ thời Lý
đến thời Trần. Đây là một chiến lược của nhà nước và nhận được sự hưởng
ứng tích cực trong nhân dân. Nó vừa tạo ra sức mạnh tổng hợp cả cho quân
đội và nền sản xuất, góp phần tạo được một lực lượng quân đội vững mạnh,
mà còn tạo được một nền nông nghiệp phát triển cho triều Lý-Trần. Chính
sách “ngụ binh ư nông” rất linh hoạt và hiệu quả. Vì vậy, dưới thời Lý-Trần
triều đình và nhân dân phải đối mặt với nhiều cuộc chiến tranh khốc liệt
trước những kẻ thù hùng mạnh, nhưng chúng ta vẫn xây dựng được một nền
chính trị ổn định, kinh tế phát triển.
Để tập trung quyền lực của chính quyền từ trung ương đến các địa
phương, với các dân tộc thiểu số miền núi, triều Lý-Trần có chính sách “ràng
buộc” nhằm động viên họ cùng triều đình chiến đấu bảo vệ bờ cõi. Một trong
những chính sách ràng buộc tầng lớp thống trị của vua Lý và Trần là dùng
93
quan hệ hôn nhân để lôi kéo các châu mục, tù trưởng có thế lực. Và họ cũng
có nhiều cống hiến trong sự nghiệp giữ nước của dân tộc. Tuy nhiên, khi cần
thiết cũng phải trấn áp bằng quân sự để bảo vệ sự thống nhất của đất nước.
Giai đoạn thế kỷ XI-XIV, Đại Việt tiếp giáp với các nước Ai Lao
(phía tây), Chăm pa - Chiêm (mặt nam), Chân Lạp (mặt tây-nam). Với các
nước này, nhà nước luôn có những chủ trương, chiến lược phù hợpnhằm giữ
vững và mở rộng lãnh thổ. Với Ai Lao và Chân Lạp, nhà nước thiết lập được
mối quan hệ tương đối ổn định,về cơ bản hai nước này từng có “quan hệ
giao hảo với Đại Việt dưới dạng cống nạp”[130,221]. Với nước Chiêm
Thành (sau là Chăm pa) thì chiến lược của triền đình là linh hoạt, lúc thì
mềm dẻo lúc phải có thái độ kiên quyết. Bởi trong lịch sử, nước Chiêm10 đã
nhiều lần k o quân sang đánh nước ta, tuy nhiên, các cuộc chiến này đều bị
quân dân Đại Việt đẩy lùi. Không những vậy quân dân ta còn “mở rộng lãnh
thổ về phía nam qua cuộc chiến tranh với Cham pa (1069), sát nhập các châu
Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (vùng Quảng Bình và Bắc Quảng trị ngày
nay)”[60,72]. Đặc biệt, trong lần vượt biển cướp bóc nước ta của nước
Chiêm vào năm 1166, vua L Anh Tông đã phải cử Tô Hiến Thành đưa quân
…quở trách về việc không giữ lễ phiên thần, lại bày tỏ sự lợi hại để
chiêu dụ. Chúa Chiêm sợ, sai sứ sang dâng châu báu và những sản vật địa
phương để xin hòa. Nhà vua y cho, hạ chiếu bảo Hiến Thành đem quân
về”[133,221].
sang dẹp. Trong cuộc hành quân này, Tô Hiến Thành đã đưa thư của vua Lý:
Từ đó, nhà L đã đẩy lùi được mối họa ngoại xâm từ phương Nam.
Sang thời Trần, nước Chiêm tiếp tục thực hiện “nghĩa vụ phiên thần”
và việc cống nạp có phần đều đặn hơn. Tuy “ nghĩa kinh tế của việc cống
nạp này không đáng kể, chủ yếu về mặt chính trị: khẳng định uy thế của Đại
Việt”[130,225], điều này chưa có được ở thời Lý. Quan hệ hòa hảo này được
tiếp tục đến đời vua Trần Nhân Tông. Khi từ bỏ ngai vàng, trở thành một
tăng sĩ đi truyền đạo trong dân chúng, Nhân Tông đã từng sang Chiêm
94
Thành và ở lại đó khoảng thời gian khá dài nhằm thiết lập mối quan hệ hữu 10 Theo Việt sử lược, vào thời L -Trần năm lần người Chiêm k o vào đánh phá Đại Việt.
hảo với vua Chiêm. Nhưng chủ trương này không được những vị vua sau
tiếp nối, gây mối bất hòa dẫn đến chiến tranh và từ đó dần làm tổn hao
nguyên khí của triều Trần.
Thứ tư: Vấn đề giữ hòa khívới đế quốc phong kiến phương ắc.
Trong lịch sử, đế quốc hùng mạnh nằm ngay phía Bắc Việt Nam,
thường xuyên tìm cách xâm chiếm lãnh thổ của nước ta. Thời Lý, quân Tống
cũng có đồ xâm lược Đại Việt, L Thường Kiệt đã bày binh bố trận, rồi
cùng với ý chí quyết tâm đánh giặc trong toàn dân, quân ta đã làm cho quân
Tống phải đại bại. Sau thắng lợi, bằng hành động chính trị ngoại giao khôn
kh o, L Thường Kiệt lại thiết lập mối quan hệ hòa hiếu với nước Tống, nên
đã tránh được họa xâm lăng trong khoảng thời gian dài. Và dù thắng trận,
nhưng nhà L vẫn sang Tống xin sắc phong thể hiện thái độ khiêm nhường
và “tuy chưa thành lệ định kỳ, nhưng nhà L thường cử sứ giả sang Tống
báo tin thắng trận trong đánh dẹp, hoặc biếu, cống nạp ngựa, voi, tê ngưu,
cũng có khi kèm theo vàng bạc”[130,209]. Việc làm này tuy chỉ là hình thức,
nhưng nó có nghĩa ngoại giao nhằm giữ hòa khí giữa hai nước.
Đến thời Trần, các vua Trần dù vẫn giữ lễ kết giao qua lại, thăm hỏi,
cống nạp, nhưng khi lên ngôi, các vua Trần đều không sang nhà Tống (sau
này là nhà Nguyên) để cầu sắc phong. “Các vua Trần được nhường ngôi,
chưa từng cầu phong ở Trung Quốc”[12,90]. Triều đình phương ắc dù rất
tức tối và nhiều lần có định đưa quân sang đánh để thể hiện oai phong,
nhưng đều lần lượt thất bại. Trong các trận chiến ấy, dù thắng trận, nhà Trần
luôn thể hiện tinh thần nhân đạo, không “đuổi cùng giết tận”, mà mở đường
rút cho chúng về nước, tạo ra sự tâm phục trong chính nội bộ quân giặc.
Thời Lý và Trần, dù nhiều lần ta đánh bại âm mưu xâm lược của kẻ
thù phương ắc. Nhưng sau chiến thắng, các vua L -Trần vẫn luôn cảnh
giác trước âm mưu muốn thôn tính Đại Việt của triều đình phương ắc. Vua
L Nhân Tông trước khi mất cũng không quên dặn dò các đại thần: “nên sửa
95
sang giáo mác để đề phòng việc không ngờ, chớ làm sai mệnh lệnh ta, dù
nhắm mắt cũng không di hận”[18,217]. Trần Hưng Đạo cũng đề ra thượng
sách giữ nước “khoan thư sức cho dân để làm kế sâu rễ bền gốc”[92,89], để
truyền dạy thế hệ sau. Chính sự chuẩn bị chu đáo về lực lượng đã tạo sức
mạnh bền bỉ cho quân đội, làm điều kiện để nhà Lý-Trần chiến thắng kẻ thù.
Sau mỗi cuộc kháng chiến, khi đã ở địa vị người chiến thắng, các nhà
chính trị Lý-Trần vẫn luôn khiêm nhường trước kẻ địch. Bởi ở cương vị
nước nhỏ, để tránh họa chiến tranh, nhằm gìn giữ nền độc lập lâu dài, giúp
nhân dân yên ổn làm ăn thì việc hạn chế xung đột và không gây thêm thù
hận là lựa chọn sáng suốt của các nhà chính trị. Nhờ việc kiên trì thực hiện
những chiến lược ngoại giao kh o l o nhưng kiên quyết với triều đình
phương ắc, đã góp phần xây dựng và phát triển đất nước thịnh trị, nâng cao
vị thế của nhà nước Đại Việt.
3.2. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần
Tư tưởng chính trị chính là biểu hiện về mặt hình thức của của chính
trị, nó là các quan điểm, tư tưởng, học thuyết phản ánh các quan hệ chính trị
xã hội đặc biệt của các giai cấp, dân tộc và quốc gia. Hai khái niệm chính trị
và tư tưởng chính trị có mối quan hệ chặt chẽ, lựa chọn được tư tưởng chính
trị phù hợp, giai cấp thống trị mới giải quyết được những vấn đề chính trị cơ
bản của quốc gia, giữ vững triều đại và duy trì quyền lực của mình. Tuy
nhiên, tư tưởng nào sẽ phù hợp và được giai cấp thống trị tin tưởng, sử dụng
làm nền tảng cho mọi hoạt động chính trị, lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố.
Trong đó, điều kiện kinh tế-xã hội, văn hóa-tư tưởng của xã hội, chính là
những nhân tố cơ bản tác động đến sự lựa chọn của nhà chính trị, đồng thời
là thước đo chính xác nhất, quyết định sự phù hợp hay không của tư tưởng
ấy với nền chính trị.
3.2.1. Tình hình kinh tế-xã hội
Có thể thấy, ở các triều đại Ngô, Đinh, tiền Lê sự thay thế giữa triều
đại này và triều đại kia gặp không ít trở ngại do sự chống đối của các thế lực
96
trong nước, hoặc sự xâm lăng từ bên ngoài. Nhưng sự thay thế giữa triều Lý
cho triềutiền Lêthì gần nhưkhông vấp phải sự phản kháng nào đáng kể. Nếu
như các triều đại Ngô, Đinh, tiền Lê phải liên tiếp đối mặt với các lực lượng
chống đối trong nước và các thế lực xâm lược ngoài nước, để củng cố và xây
dựng đất nước sau ngàn năm bị đô hộ, thì đến nhà L và nhà Trần, tình hình
chính trị nói chung đã tương đối ổn định. Ngay cả khi nhà L ở vào giai
đoạn khủng hoảng, nền chính trị được thay thế bởi sự thống trị của nhà Trần
Hồi nhà L suy tàn (1105-1225) thì nhà Tống cũng xuống dốc. Hồi
Mông cổ đánh Tống và còn bận phải mang quân đi sát phạt các nơi (từ 125-
1280) thì nhà Trần kịp thì giờ đem một sinh khí mới vào để tổ chức lại xã
hội cùng chuẩn bị đương đầu với cuộc xâm lăng của quân Mông
Cổ[71,276].
thì tình hình đất nước cũng không có nhiều biến đổi.
Kinh tế dưới triều đại L -Trần cũng tương đối ổn định. Nông nghiệp
được trú trọng, việc đắp đê, trị thủy, khẩn hoang cũng được chú . Chính
sách “ngụ binh ư nông” được duy trì là một chiến lược tích cực nhằm tạo ra
sức mạnh cho cả quân đội và nông nghiệp. Các ngành nghề thủ công (đúc
đồng, làm giấy, khắc bản in, nghề mộc, xây dựng, khai khoáng…) cũng đạt
đến trình độ cao cả về kỹ thuật lẫn nghệ thuật. Thương nghiệp cũng phát
triển, đồng tiền đã trở nên thông dụng trong lưu thông, thương mại không
chỉ phát triển trong nước mà còn mở rộng sang các nước khác. Đặc biệt giao
thương ở nhiều tuyến đường biển và các bến sông trở nên tấp nập. “Ngoại
thương khá phát đạt, tự do thông thương. Khi đó Đại Việt mở rộng buôn bán
với Chămpa, Trung Quốc và các nước Đông Nam Á” [68,120].
Là một nước nông nghiệp, nhà nước L -Trần được xây dựng trên nền
tảng chế độ sở hữu công về ruộng đất. Đầu thời L ruộng đất vẫn nằm trong
tay nhà nước (vua), chưa xuất hiện chế độ sở hữu tư nhân. Đây là giai đoạn
đầu của công cuộc xây dựng nhà nước trung ương tập quyền, nên đất đai
thuộc về nhà nước để tập trung nguồn lực về một mối, từ đó nhà sẽ điều tiết
các công việc chung như: nuôi bộ máy cai trị, chuẩn bị quân đội để bảo vệ
97
quốc gia khi có giặc đến… Cuối thời L bắt đầu xuất hiện tư hữu về ruộng
đất và sang đến thời Trần, nhà nước cho ph p mua bán ruộng, cho ph p các
vương tôn, qu tộc nhà Trần được sở hữu điền trang thái ấp riêng. Phương
thức sở hữu mới này, một mặt khuyến khích việc khai khẩn đất hoang, mở
rộng diện tích đất nông nghiệp, nhưng mặt khác, có thể dẫn đến sự phân hóa
trong nội bộ giai cấp thống trị: một bên là tầng lớp qu tộc tôn thất nhà L -
Trần và một bên là tầng lớp địa chủ quan liêu, cụ thể là các Nho sĩ dần
chiếm số lượng đông đảo trong bộ máy nhà nước.
Khi xã hội đã ổn định, kinh tế ngày càng phát triển, bờ c i được mở
rộng, thì việc học tập thi cử, tuyển chọn nhân tài cũng được chăm lo. Năm
1070, nhà L cho xây dựng Văn miếu, đánh dấu sự phát triển của Nho giáo.
Năm 1076, Quốc tử giám được xây dựng làm nơi đào tạo nhân tài cho đất
nước. Tuy nhiên, dưới thời L số lượng Nho sĩ còn được đào tạo chưa nhiều,
Phật giáo vẫn chiếm ưu thế trong xã hội. Đến nhà Trần “chế độ học hành, thi
cử ngày càng có quy củ và chính quy hóa. Thể lệ thi cử và các học vị được
quy định chính thức”[68,174].
Tuy nhiên, do ảnh hưởng đậm n t của Phật giáo và một phần của Đạo
giáo, các “nội dung giáo dục thời kỳ này ngoài tư tưởng của Nho giáo cũng
có nhiều kiến thức về Phật giáo và Đạo giáo”[55,58]. Nếu như, thời L giáo
dục chưa đi vào điển lệ, nghĩa là không được tổ chức theo kỳ hạn thường
xuyên, chương trình học quá thiên lệch về l luận văn chương, điển tích…
toán học và khoa học kỹ thuật chưa được lưu tâm, thì sang thời Trần, nội
dung giáo dục có nhiều điểm tích cực hơn, kiến thức thực tế về đạo l là căn
bản, văn chương và cú pháp là thứ yếu. Nói cách khác, nền giáo dục thời
Trần đã góp phần giải quyết tốt mối quan hệ giữa đạo và đời, vương quyền
và thần quyền, truyền giảng giáo l và thực hành đạo l . Có thể thấy, việc
học tập thi cử, tuyển chọn nhân tài thời kỳ này đã chú trọng tới Nho giáo,
song Phật giáo vẫn có ảnh hưởng mạnh mẽ.
Thời L đã ban hành và thực hiệnchế độ cất nhắc, tuyển chọn, đãi ngộ
98
nhân tài cho nhà nước và kết quả là đã tạo nên một đội ngũ quan lại, trí thức
Nho giáo chuyên nghiệp. Tuy nhiên, các trí thức Phật giáo cũng được triều
đình coi trọng, mặc dù thời kỳ này họ không còn là lực lượng duy nhất trực
tiếp tham gia vào chính sự (như thời Đinh, Tiền Lê). Chức vị Quốc sư dần
không còn có nghĩa về chính trị mà chỉ có nghĩa là vị giáo chủ về tinh
thần, đạo đức trong xã hội và cho dù giáo huấn của các vị cao tăng Phật giáo
vẫn có ảnh hưởng lớn trong triều đình và xã hội.Sang triều Trần, tư tưởng
nhân sinh nhân văn, nhân đạo của Phật giáo vẫn thấm sâu trong nhận thức
của giai cấp vương tôn, qu tộc trong triều, trong tình cảm của nhân dân và
trong ứng xử phổ biến của xã hội.
Dù trong triều đình, tầng lớp quan lại đỗ đạt qua khoa cử (Nho sĩ) xuất
hiện ngày càng nhiều và dần được giữ các chức vụ quan trọng, song họ lại
không có được nhiều đặc quyền đặc lợi. Trong khi, tầng lớp qu tộc tôn thất
lại sở hữu rất nhiều ruộng đất, có trang ấp, phủ đệ, với nhiều gia nô, nô tỳ…
và hưởng nhiều quyền lợi, gây ra những mâu thuẫn trong nội bộ triều đình.
Từ những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế trong nội bộ giai cấp thống trị nảy
sinh những mâu thuẫn về tư tưởng. Mâu thuẫn này thể hiện r ở việc phản
ứng của các Nho sỹ đối với việc giai cấp qu tộc quá sùng bái Phật
giáo“thánh triều muốn truyền phong hóa nhà vua, để phong tục đồi bại, dị
đoan đáng truất bỏ, thánh đạo nên phục hưng”[18,380]. Tầng lớp nho sĩ hy
vọng có thể phục hồi Nho giáo, qua việc bài xích Phật giáó,đồng lợi cũng để
giành lại quyền lợi cho mình.Theo đó, nhiệm vụ cấp bách của triều đình là
giải quyết mâu thuẫn về tư tưởng11 để tạo thuận lợi cho mục đích điều hòa về
lợi ích, thống nhất về lực lượng trong cả nước.
Trần Thái Tông muốn vận dụng cả tư tưởng Nho và Phật trong điều
hành chính trị. ởi theo ông, nếu chỉ vận dụng tư tưởng “chính danh”, “thiên
mệnh” của Nho giáo sẽ dẫn đến sự phân biệt giữa các chức quan lớn nhỏ
trong triều, vì vậy cần kết hợp cả tư tưởng đạo đức của Phật giáo về bình
11 Nội dung dung này sẽ được phân tích r hơn ở phần 3.2.2.
99
đẳng, vị tha, bác ái để xây dựng một triều đại thuần từ, tốt đẹp. ng cũng
nhận thấy mâu thuẫn giữa những nhà Nho – muốn đề cao Nho giáo, bài xích
Phật giáo với những người theo Phật – tư tưởng đang rất phổ biến và được
ưu ái trong triều, nên luôn tìm cách “cố gắng hạn chế rạn nứt, mâu thuẫn nội
bộ khi ông khuyên tầng lớp địa chủ quý tộc kiềm chế lòng tham lam, ích
kỷ”[15,22-23], bởi cả Phật và Nho đều cần thiết đối với nền chính trị, nhưng
trong giai đoạn đang cần một tư tưởng đủ sức liên kết nhân tâm, đoàn kết
toàn dân cùng thực hiện mục tiêu đánh giặc giữ nước thì nhân sinh quan Phật
giáo là tư tưởng phù hợp hơn cả.
Do đòi hỏi của thực tiễn chính trị, giai cấp thống trị thời Lý-Trần cũng
xây dựng nhà nước quân chủ phong kiến, nhưng khác với mô hình nhà nước
phong kiến trung ương tập quyền chuyên chế Trung Hoa, triều đình đã chủ
đích xây dựng nhà nước phong kiến tập quyền thân dân. Nhà nước này cũng
dựa vào Nho giáo, nhưng để giảm tính khắc nghiệt của Nho giáo họ đã kết
hợp Nho với Phật giáo, trong đó vẫn lấy nhân sinh quan Phật giáo làm nền
tảng. Họ “không muốn xã hội bị rằng buộc bởi ý thức hệ Nho giáo, mà muốn
phủ lên toàn bộ xã hội bởi ý thức hệ Phật giáo”[15,97].
Các vị vua Lý-Trần, dù cũng có thức về vai trò của Nho giáo trong
việc tổ chức, điều hành bộ máy nhà nước, nhưng họ vẫn đề cao Phật giáo.
Mục đích sâu xa của việc đề cao Phật giáo của các vua là muốn tạo ra sự
khác biệt với văn hóa phương ắc, nhằm khẳng định nền độc lập tự chủ của
dân tộc. Tinh thần đó được thể hiện rõ nhất trong câu trả lời của vua Trần
Minh Tông, khi các quan Lê Quát, Phạm Sư Mạnh muốn thay đổi chế độ,
vua nói: “Nước ta đã có ph p tắc nhất định, Nam Bắc khác nhau, nếu nghe
theo bọn học trò mặt trắng tìm đường tiến thân thì sinh loạn ngay”18,383].
Triều trước dựng nước, tự có pháp độ, không theo chế độ nhà Tống,
là vì Nam Bắc đều chủ nước mình, không phải noi nhau. Khoảng năm Đại
Trị (Niên hiệu Dụ Tông 1338-1396 – NLA) kẻ mặt trắng được dùng, không
hiểu ý sâu xa của sự lập pháp, đem ph p cũ của tổ tông thay đổi theo tục
của phương ắc cả, như về y phục, âm nhạc… thật không kể xiết18,393].
100
Sau này, vua Nghệ Tông cũng cho rằng:
Như vậy, triều đình đã tạo điều kiện phát triển những giá trị của nhân
sinh quan Phật giáo, nhằm khơi dậy bản sắc văn hóa truyền thống, nhưng
đồng thời thổi vào nó những sắc thái tư tưởng mới, nhằm đáp ứng nhu cầu
khẳng định nền độc lập không chỉ trên phương diện chủ quyền, lãnh thổ, mà
cả trên phương diện văn hóa, tư tưởng... Điều này thể hiện tầm nhìn sâu sắc,
nhạy b n trước thực tiễn chính trị của đất nước và thời đại.
3. . . Tình hình văn hóa-tư tưởng thời Lý-Trần
Cho đến thời Lý-Trần, người Việt đã tiếp nhận và sử dụng nhiều học
thuyết du nhập từ bên ngoài, trong đó nổi bật là tư tưởng Tam giáolà Nho
giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Thời kỳ đầu, khi Nho giáo theo chân quân xâm
lược nhà Hán truyền sang nước ta, đã bị nhân dân phản ứng lại, mục đích
muốn khẳng định nền độc lập dân tộc, bảo vệ tín ngưỡng, phong tục cổ
truyền của dân tộc. Do lịch sử truyền bá như vậy, nên “cách thức truyền bá ở
đây là khẩu truyền và cầm tay chỉ việc, chưa có điều kiện để giảng l thuyết.
Mục đích là để chuyển đổi phong tục, tập quán cho dễ bề cai trị”[150]. Vì
thế mà, Nho giáo ở Việt Nam không còn nguyên giá trị nhân bản nữa, mà có
phần khắc nghiệt: “chế độ ấy hoàn toàn hủy diệt giá trị của con người. Nó
kết hợp độc ác, tàn nhẫn, thú tính với quỷ quyệt, xảo trá, lật lọng được thần
thánh hóa dưới cái áo khoác huyền hoặc “theo mệnh trời”[81,14]. Do tính hà
khắc này, nên đầu thời Lý-Trần, Nho giáo chưa được người dân ưa chuộng.
Nhưng khi nền tảng và cơ cấu xã hội Việt Nam thay đổi với nhu cầu
thiết lập mô hình nhà nước phong kiếntập quyền, ít nhiều chịu ảnh hưởng
của nhà nước phong kiến phương ắc, thì Nho giáo lại tỏ ra thích hợp và trở
thành một tư tưởng mà giai cấp phong kiến cần phải tiếp thu, học hỏi. Bởi
Nho giáo là học thuyết chính trị, bàn nhiều về cách thức tổ chức bộ máy nhà
nước, thi hành quyền lực, nó rất có tác dụng trong việc duy trì, củng cố sự
thống trị giai cấp mà Đạo giáo và Phật giáo không thể sánh được. Hơn nữa,
“ở vào thế một nước láng giềng có nhiều mối quan hệ văn hóa và chủng tộc
101
với Trung Quốc, nhà L không thể không cậy vào Nho giáo mỗi lúc một
thêm nhiều”[23,66]. Các tư tưởng cơ bản như: “mệnh trời”, “chính danh”,
“tam cương, ngũ thường”, “trung, hiếu, lễ, nghĩa”... đã ít nhiều tác động đến
triều đình L -Trần, trong việc xây dựng mô hình nhà nước, tổ chức bộ máy
cai trị, quy định một số sinh hoạt chính trị.
Đạo giáo cũng được du nhập vào Việt Nam rất sớm, với cả hai hình
thức: Đạo giáo phù thủy (dùng các pháp thuật trừ tà trị bệnh) và Đạo giáo
thần tiên (dạy tu luyện, luyện đan nhằm đem lại sự trường sinh). Đạo giáo
phù thủy, đã thâm nhập nhanh chóng vào tín ngưỡng dân gian “tới mức
không còn ranh giới”[98,277], nên ít có điều kiện ảnh hưởng rộng rãi đến
triều đình. Còn đạo giáo thần tiên “chỉ xuất hiện lẻ tẻ, cá biệt, như trường
hợp Đạo sĩ Huyền Vân tu ở núi Phụng Hoàng (Hải Dương) đời Trần Dụ
Tông”[98,281]. Hình thức này chủ yếu phát triển trong tầng lớp các nhà nho,
quan lại, vì vậy, cùng với các tăng sĩ của Phật giáo, Đạo giáo cũng thâm
nhập vào chốn cung đình.
Khi nhà Trần thay thế nhà Lý, Trần Thủ Độ cũng đã sai các đạo sỹ
giỏi phong thuật đi xem khắp núi sông cả nước, chỗ nào có vượng khí đế
vương thì dùng ph p thuật để trấn yểm. Trong một số tài liệu cũng ghi nhận
triều đình L -Trần có dùng các đạo sỹ để lo việc cầu đảo, lễ bái. Và cùng với
các sư tăng, các đạo sỹ cũng được phân các chức quan, nhưng không tham
gia trực tiếp vào công việc triều chính và ảnh hưởng đến chính trị của đạo
này không rõ nét. Bởi tư tưởng sống hòa đồng với tự nhiên, hướng con
người thoát khỏi những ràng buộc của xã hội, dù cũng ảnh hưởng nhất định
trong tư tưởng của một số nhà chính trị, nhưng không thích hợp để vận dụng
phổ biến cho nền chính trị của Đại Việt khi ấy.
Thời kỳ này, sự liên hệ của Đạo giáovới chính trị thường thông qua
Phật giáo (chủ yếu là Mật giáo) và tồn tại dưới các hình thức lễ nghi tôn giáo
như cầu đảo, bùa chú và các phép linh dị khác. “Nhà vua thường mời các vị
cao tăng, giỏi phép thuật như Từ Đạo Hạnh, Minh Không… làm lễ cầu đảo,
102
bùa chú, chữa bệnh mỗi khi có việc bất thường như hạn hán, lũ lụt, bệnh
tật… Những buổi lễ cầu đảo này thường do các nhà sư đảm nhiệm”[99,313].
Việc sử dụng Đạo giáo của vua quan thời Lý-Trần dường như không có sự
tách bạch rõ ràng với Phật giáo, họ chỉ sử dụng những nội dung phù hợp cho
mục tiêu chính trị. Các nhà sư cũng thường am tường Đạo giáo và tiếp thu
một số tư tưởng (vô vi, tri túc) hay các lễ nghi, bùa phép của Đạo giáo để bổ
sung cho lễ nghi Phật giáo trong đời sống tâm linh khi cần thiết, nhằm ổn
định và củng cố niềm tin trong công cuộc trị nước, an dân của giai cấp thống
trị. Như vậy, thời Lý-Trần, Đạo giáo vẫn được duy trì, nhưng trên phương
diện nhà nước thì tùy từng việc, từng lúc mà Đạo giáo mới được sử dụng và
cũng thường được tác động gián tiếp qua tổ chức của Phật giáo.
Phật giáo là tôn giáo xuất thế, khi du nhập vào Việt Nam, đặc biệt là
dưới thời Lý-Trần lại phát huy tinh thần vô chấp, vô trụ thành chủ trương
nhập thế tích cực. Dù không phải ai cũng hiểu sâu xa về những triết lý nhân
sinh (nhân sinh quan) của Phật giáo, nhưng nói đến Phật giáo là ai cũng nghĩ
đến một lối sống hiền hòa, phúc đức, tích thiện. Chính tính nhân văn ấy mà
Phật giáo dễ đi vào lòng người, ảnh hưởng đến tâm lý, tình cảm của mọi
tầng lớp, và qua đó tham gia vào đời sống chính trị nhờ hành vi, tư tưởng
của giai cấp cầm quyền lúc bấy giờ. Thêm nữa, tinh thần “nhập thế tùy
duyên” của Phật giáo cũng đã giúp vua quan L -Trần khắc phục được tính
chất bảo thủ, cứng nhắc vốn có của Nho và Đạo. Chẳng hạn, Phật giáo
không coi trọng quan điểm Thiên mệnh của Nho giáo về “trung quân” với
một ông vua cụ thể. Phật giáo luôn ủng hộ sự lựa chọn của nhân dân và đất
nước những vị vua anh minh, tài đức để lên nắm quyền. Đồng thời Phật giáo
cũng không chủ trương bảo thủ, giữ nguyên những giáo thuyết của Phật, mà
luôn cởi mở đón nhận những lý luận mới phù hợp, bổ sung thêm cho các nhà
giai cấp thống trị những tư tưởng, cách thức, đường lối chính trị mới.
Sự dung hòa này đã có tác dụng rất tích cực, góp phần hoàn thiện tư
tưởng chính trị của xã hội phong kiến tập quyền thân dân và là điều cần thiết
103
cho công cuộc xây dựng và củng cố triều đại. Các nhà chính trị Lý-Trần vừa
áp dụng những kiến thức Nho giáo để xây dựng bộ máy nhà nước, với cơ
cấu tổ chức rất quy củ, chặt chẽ; lại vừa áp dụng được những tri thức Phật
giáo – cụ thể là nhân sinh quan, để phát huy tính nhân văn, nhân đạo trong
các chính sách, đường lối của mình.
Tuy nhiên, do một số quý tộc tôn thất nhà Lý-Trần quá sùng bái Phật
giáo nên trong triều đình đã xuất hiện ngày càng nhiều những mâu thuẫn
giữa hai xu hướng: ủng hộ Phật giáo (thường là các quý tộc tôn thất) và bài
xích Phật giáo (các Nho sỹ giữ một số chức quan trong triều). Để tránh gây
ra những bất ổn trong nội bộ triều đình, các nhà lãnh đạo đất nước phải tìm
cách dung hòa những mâu thuẫn về tư tưởng (thực chất là giữa Nho và
Phật). ởi vậy, triều đại tìm cáchxây dựng một hệ tư tưởng dung hòa giữa
Nho và Phật, vừa có thể đáp ứng được đòi hỏi của tầng lớp Nho học (đang
xuất hiện ngày càng nhiều trong triều đình) - nhằm tận dụng được tài năng
của họ, đồng thời đảm bảo lợi ích của mình và củng cố địa vị cho dòng họ.
Thiền học Phật giáo chính là tư tưởng đáp ứng được nhu cầu đó.
Vì thế, trong triều Lý, Phật giáo Thiền tông phát triển hơn cả. Trong
thiền luôn có xu hướng dung hòa giữa Phật với Nho, Đạo giáo. Các nhà tư
tưởng cũng tìm cách “đưa thiền tông vào cuộc sống, phục vụ đất nước, tu
dưỡng nhân cách. Thiền tông dung hợp với những yếu tố tích cực của Nho
giáo và Đạo giáo giúp con người phát triển toàn diện, phù hợp với sự phát
triển của đất nước”[58,54]. Quan điểm dung hòa này thể hiện rõ nét ở nhà sư
Viên Chiếu12 (999-1090). Khi được hỏi Phật và Thánh khác nhau như thế
nào, nhà sư đọc bài kệ: “Trú tắc kim ô chiếu. Dạ lại ngọc thỏ minh (ngày thì
mặt trời soi, đêm thì mặt trăng sáng)”[45,124]. Có thể hiểu, ông coi Phật và
Nho đều là “ánh sáng”, đều có nghĩa nhất định đối với triều đại, nhưng ở
trong mỗi hoàn cảnh khác nhau nên vận dụng mỗi loại tư tưởng khác nhau
sao cho phù hợp. Sang thời Trần, xu hướng dung hòa tư tưởng Nho – Phật –
12Sư họ Mai tên Trực, là con của người anh trai bà Linh Thái hậu, vợ vua L Thái Tông.
104
Đạo lại càng r n t hơn. Quan điểm này cũng được thể hiện đặc biệt r trong
tư tưởng và đường lối trị nước của Trần Thái Tông. Đặc biệt sự dung hòa
này còn được thể hiện r n t trong tư tưởng của Trần Nhân Tông, với việc
ông cho ra đời thiền phái Trúc Lâm Yên Tử - một thiền phái dung hòa giữa
tư tưởng bản địa với cả Nho, Đạo trong Phật.
Như vậy, “phương châm tam giáo đồng hành đối với giai cấp chính trị
là phương pháp tốt nhất và con đường ngắn nhất lúc bấy giờ để thống trị
nhân dân”[68,305]. Với tư duy biện chứng, người Việt chỉ tiếp nhận và sử
dụng những yếu tố, nội dung phù hợp từ các học thuyết này, trên cơ sở dung
hòa chúng với truyền thống bản địa, nhằm phục vụ cho công cuộc bảo vệ,
củng cố và phát triển đất nước. Nho giáo dù có những ảnh hưởng nhất định
đến triều đại nhưng vẫn chưa thực sự ảnh hưởng rộng rãi trong nhân dân,
còn Đạo giáo cũng có ảnh hưởng đến chính trị nhưng chỉ qua sự dung hợp
với nhân sinh quan Phật giáo và thường chỉ ảnh hưởng đến những tín
ngưỡng mang màu sắc mê tín. Phật giáo tuy không phải là một học thuyết
chính trị, nhưng trong nhân sinh quan Phật giáo lại dung hòa với cả Nho và
Đạo, nên Phật giáo đã trở thành tư tưởng cần thiết và phù hợp cho nền chính
trị. Vì thế mà, Phật giáo chính là tư tưởng có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn cả
đến chính trị thời kỳ này.
Qua việc phân tích tình hình kinh tế-xã hội, văn hóa-tư tưởng thời Lý-
Trần, có thể thấyđây là thời kỳ nền chính trị đang trên con đường hoàn thiện,
kinh tế đang phục hồi và phát triển sau những trận chiến tranh, xã hội đang
dần ổn định, nền độc lập đang cần được khẳng định và củng cố. Vì vậy, triều
đại cần một hệ tư tưởng có thể thống nhất triều đại, liên kết nhân tâm, đoàn
kết toàn dân để tạo nên sức mạnh củng cố và xây dựng đất nước. Trong bối
cảnh ấy, nhân sinh quan Phật giáo chính là tư tưởng mà triều đại lựa chọn,
các nhà chính trị đã tạo điều kiện phát triển hệ tư tưởng ấy, khiến nó ngày
càng phục vụ hiệu quả hơn cho triều đại. Có thể thấy, sự lựa chọn này là
đúng đắn, bởi đã tạo ra sự cộng hưởng tích cực từ hai phía - cả nền chính trị
105
và nhân sinh quan Phật giáo.
3.2.3. Một số nguyên nhân cơ ản giúp Phật giáo được coi trọng trong
nền chính trị thời Lý-Trần
Như vậy, thời Lý-Trần, Phật giáo không chỉ được coi trọng trong nhân
dân mà cònđược khẳng định vị thế, vai trò cả ở nơi triều đình. L do để Phật
giáo trở thành tư tưởng được triều đại Lý-Trần coi trọng là:
Thứ nhất: Do Phật giáo đã có thành tựu đáng kể và có quan hệ vững
chắc với Nhà nước từ các thời kỳ trước, đến thời Lý-Trần nó có điều kiện
thuận lợi để tiếp tục phát huy những ưu điểm.
Các triều đại phong kiến trước Lý-Trần đã sử dụng Phật giáo làm
công cụ tinh thần để tập hợp lực lượng, thống nhất nhân tâm trong việc duy
trì sự ổn định của triều đại bằng tinh thần vị tha, từ bi, bác ái, nhân-quả. Sự
hợp tác giữa quyền lực chính trị của triều đình phong kiến Việt Nam với trí
thức, tăng sĩ Phật giáo cho mục đích chung của dân tộc Việt là một xu hướng
tất yếu. Như trong cuộc khởi nghĩa của L í (năm 542), ông đã đặt tên một
vị tỳ tướng của mình là Lý Phật Tử, khi vị này tham gia khởi nghĩa. Hay khi
giành được chính quyền, cùng với việc đặt tên nước, xưng đế, chọn kinh đô,
L í cũng đã cho dựng ngay chùa Khai Quốc và lấy Phật giáo làm hệ tư
tưởng cho chính quyền mới.
Dưới thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, các vua cũng tiếp tục coi trọng Phật
giáo. Vua Đinh Tiên Hoàng đã phong thiền sư Ngô Chân Lưu danh hiệu là
Khuông Việt – nghĩa là người giúp đỡ nước Việt và sau đó còn được vua cử
giữ chức Tăng thống, quản lý giới tăng ni trong triều đình. Vua Đinh cũng
“quy định phẩm giai của văn, v , tăng. Đạo quan tăng có chức danh: Quốc
sư, Tăng thống, Tăng lục, Tăng chính…”[68,303-304]. Qua đây có thể thấy,
“giai cấp tăng lữ hoạt động trong triều chính, ổn định xã hội bằng đường lối
Phật giáo”[4,18]. Thời kỳ này nhiều chùa tháp đã được xây dựng, riêng ở
Hoa Lư, năm 973, Nam Việt Vương Đinh Liễn (con trai trưởng của Đinh
Tiên Hoàng) cho dựng 100 cột đá khắc kinh Phật, gọi là Kinh tràng[Xem
106
hình 3.1-3.2 - Phụ lục,tr.170].
Thời Tiền Lê, thiền sư Khuông Việt rất được triều đình trân trọngvà
có nhiều đóng góp cho chính trị. ng đã giúp vua Lê Đại Hành trong việc
ngoại giao với nước Tống, khiến nhà Tống rất vị nể: “Khả năng tài trí của
ông đã giúp vua Lê bang giao tốt đẹp với nước Tống và nhà Tống khâm
phục cách ứng phó đầy tri thức của người An Nam”[4,22]. Vua Lê Đại Hành
cũng rất tin dùng các nhà sư, ông thường xuyên mời các thiền sư Đỗ Pháp
Thuận (914-990), Ngô Chân Lưu (Khuông Việt, 933-1011), Nguyễn Vạn
Hạnh (938-1018) vào triều để trao đổi ý kiến về việc trị nước. Vậy ở nhà
Tiền Lê (980-1009) trải qua gần 30 năm liên tiếp xuất hiện các Tăng sĩ nổi
tiếng, đây cũng chính là những vị thiền sư góp phần tích cực cho sự phát
triển rực rỡ của triều đại Lý-Trần. Sau này tiếp nối Khuông Việt, Pháp
Thuận, Vạn Hạnh… có thể kể đến sư Sùng Phạm (1004-1087), Không Lộ (?-
1119), Thông Biện (?-1134), Viên Chiếu (999-1090), Chân Không (1045-
1100), Huệ Sinh (?-1063), Mãn Giác (1052-1096)… Họ dù là “quốc sư” hay
là những cố vấn “tham dự chính sự” nhưng tất thảy đều giúp triều đại Lý-
Trần trên cả hai phương diện chính trị và tôn giáo.
Điều này đã tạo thuận lợi để Phật giáo tiếp tục phát huy những ảnh
hưởng mạnh đối với Nhà nước trong thời Lý-Trần. Đây là nguyên nhân để
hệ thống chính trị đó tiếp tục hợp tác với Phật giáo và giúp Phật giáo ngày
càng hưng thịnh vào thời Lý-Trần. Thời kỳ này “khát vọng bình đẳng, bác
ái, từ bi của Phật giáo đã hòa quyện với chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam”[52,29],trở thành động lực để xây dựng và bảo vệ nền độc lập của dân
tộc. Điều này tác động đến tư tưởng trị nước mang màu sắc nhân văn, nhân
đạo của các nhà chính trị.
Thứ hai: Phật giáo đã có đóng góp lớn cho việc hình thành triều đại
Lý-Trần.
Sự lên ngôi của cả hai triều Lý và Trần đều có vai trò của các thế lực
Phật giáo. Vị vua đầu triều Lý là Lý Thái Tổ, thủa nhỏ sống và học tập ở
107
chùa Lục Tổ, được sư L Khánh Văn nhận làm con nuôi, sau này thấy ông
sáng dạ, có tài có đức, thiền sư Đa ảo đã cùng sư L Khánh Văn và thiền
sư Vạn Hạnh phối hợp cùng quan Chi hậu Đào Cam Mộc giúp sức đưa L
Công Uẩn lên ngôi. Chính vì vậy, tư tưởng và hành động của vị vua này ít
nhiều thể hiện sự ủng hộ và tôn sùng Phật giáo. Điều này giúp cho tư tưởng
Phật giáo và các thế lực Phật giáo ngày càng gần gũi với triều đình và trở
thành tư tưởng cơ bản cho giai cấp thống trị thời này.
Sang thời Trần, sự lên ngôi của vua Trần Thái Tông cũng có sự ảnh
hưởng gián tiếp từ Phật giáo. Lúc nhỏ ông gặp một nhà sư và người này đã
dự cảm rằng sau này ông sẽ trở thành vua. Năm 1231, Trần Thái Tông lên
nắm quyền đã ban chiếu: “trong nước phàm chỗ nào có đình trạm đều phải
tô tượng Phật để thờ… Thượng hoàng khi còn hàn vi, thường nghỉ ở đấy, có
một nhà sư bảo rằng: Người trẻ tuổi này ngày sau phải đại qu ”[18,269].
Việc làm của vị vua đầu triều Trần nhằm tỏ lòng thành kính và biết ơn Phật
giáo, qua đó, tiếp tục tạo thuận lợi cho Phật giáo hưng thịnh trong triều đình
và trong dân chúng. Các vua sau như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông,
Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông cũng đều là đệ tử của nhà Phật. Bởi họ
nhận thấy rằng để làm yên lòng dân, giữ vững ngôi báu thì không thể không
tận dụng sức ảnh hưởng của Phật giáo.
Các vua nhà Lý thường mời các vị thiền sư vào cung để trực tiếp bàn
thảo việc nước, hay giúp vua trong việc tiếp đón các sứ đoàn từ phương ắc.
Nhưng sang đến thời Trần, các vị sư không còn tham dự trực tiếp vào những
công việc triều chính. Bởi thời Trần, các vua đã có trình độ học vấn cao hơn,
quan lại trong triều cũng uyên bác hơn, do đó các nhà sư chủ yếu đóng vai
trò giáo hóa về đạo đức Phật giáo như giảng kinh cho các vua, tông thất
trong triều đình. Bởi, “khi trong triều đình đã có đủ người lo các việc ấy thì
họ chỉ giữ vai trò hướng dẫn tinh thần và cố vấn đạo đức”[53,235]. Chức
quốc sư được phong về sau này không có nghĩa là cố vấn cho nhà vua mà
được coi là vị giáo chủ về tinh thần của triều đình. Tuy ảnh hưởng của Phật
108
giáo tới chính trị không trực tiếp như trước, nhưng vẫn thể hiện ở chính sách,
đường lối chính trị và trong chính ý thức và hành động của các nhà chính trị.
Bởi, nhân sinh quan Phật giáo đã thẩm thấu trong chính mỗi vị vua quan,
mỗi nhà chính trị.
Thứ ba: Do Nho giáo - hệ tư tưởng chính trị-xã hội, đến thời L -Trần
chưa thực sự phát triển và chưa có điều kiện phát huy tối đa vai trò chính trị
của mình.
Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất (207 TCN-40), đế quốc Trung Hoa đã
sử dụng Nho giáo, Đạo giáo như những công cụ để thống trị và đồng hóa
người dân bản địa. Do vậy, bên cạnh sự truyền bá Nho và Đạo của chính
quyền đô hộ, thì “chống Hán hóa” đã là một xu hướng trong xã hội người
Việt. Người Việt gh t kẻ thù xâm lược nên gh t “lây” đến tư tưởng Nho giáo
và không sẵn sàng tiếp thu Nho giáo. Xu hướng này, là tiền đề thuận lợi để
nhân sinh quan Phật giáo phát triển và ngày càng có ảnh hưởng mạnh mẽ trở
lại đời sống chính trị-xã hội và trở thành tư tưởng tôn giáo chính thống dưới
thời Lý-Trần. Từ những người nông dân chất phác đến các nhà buôn, những
trí thức và quan lại Việt Nam đều có thể đến với Phật giáo.
Tuy Nho giáo đã được triều đình phong kiến Việt Nam (Ngô, Đinh,
tiền Lê) quan tâm, nhưng nó cũng chỉ phát triển ở một chừng mực nhất định,
vì bị nhà Hán kiểm soát và hạn chế, “nhà Đường phải cảnh giác, đi đến hạn
chế số người Việt Nam học tập và thi cử Nho học ở bậc cao”[150]. Vì vậy,
đến thế kỷ X, số lượng Nho sĩ còn quá nhỏ. Thêm nữa, “Việt Nam rơi vào
khủng hoảng thiếu Nho sĩ, vì cuối đời Đường ở Trung Quốc rơi vào cảnh
loạn lạc, còn ở Việt Nam do xuất hiện các cuộc vận động khởi nghĩa chống
Hán, nên việc học Nho bị ngừng trệ”[150]. Vì vậy, đầu thời L -Trần, giai
cấp phong kiến tiếp tục phải nhờ đến trí tuệ của các nhà sư. ởi ngoài tri
thức Phật học, nhà sư cũng am tường cả tri thức Nho và Đạo. Chính nhờ sự
dung hợp cả Nho và Đạo, các nhà tư tưởng của Phật giáo đã giúp Phật giáo
109
ngày càng trở nên phù hợp hơn với nền chính trị ở thời Lý-Trần.
Thứ tư: Thời Lý-Trần, các thiền sư đã có nhiều đóng góp cho nền
chính trị, khiến triều đình tin tưởng và nhân dân đều yêu mến.
Thời Lý-Trần, nhiều thiền sư đã giữ vị trí quan trọng trong bộ máy
nhà nước (Thiền sư Định Không, Vạn Hạnh, Khuông Việt, Đa ảo, Viên
Thông, Huệ Sinh...). Tuy nhiên, mục đích tham gia chính sự của các nhà sư
không phải nhắm đến việc giành quyền bính, mà vì đất nước và nhân dân
kêu gọi, vì tấm lòng yêu nước, thương dân. Nên khi tham gia chính sự, họ
không đòi quyền lợi về kinh tế và chính trị, không bảo thủ chỉ trung thành
với một vị vua duy nhất như giới Nho sĩ, mà luôn ủng hộ cho vị minh quân
nào xứng đáng nên họ được nhân dân yêu mến và triều đình tin tưởng.
Mặt khác, quan điểm của thiền tông đại thừa đang phổ biến ở thời Lý-
Trần là “Phật tại tâm”, đã khởi nguồn cho tinh thần “nhập thế” tích cực của
Phật giáo thời này. Tinh thần nhập thế tích cực đã có ảnh hưởng lớn trong
mọi lĩnh vực hoạt động, đặc biệt ảnh hưởng đến lĩnh vực chính trị và đã sản
sinh ra những nhân tài, thậm chí họ tự vạch ra cách thức hành động riêng và
ví mình ngang với Phật: “Nam nhi tự mình có cái chí tung lên trời. Đừng đi
theo bước đường của Như Lai”[121,483]. Họ là những thiền sư luôn hướng
về cuộc sống, hòa nhập với cuộc đời. Họ là những phật tử thuần thành, rất
am tường giáo l , nhưng họ cũng là công dân và có trách nhiệm với đất
nước. Khi nước nhà bị xâm lăng, họ sẵn sàng lên đường giết giặc cứu nước,
giúp dân làm vẻ vang đạo Phật và triều đại.
Thứ năm: Nhà Lý-Trần muốn tạo lập một hệ tư tưởng thống nhất, độc
lập với triều đình phương ắc nên đã tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển.
Phật giáo luôn song hành cùng tiến trình phát triển của dân tộc, in đậm
nét trong tiềm thức người dân Việt, trở thành một thành tố của văn hóa Việt.
Không những ở mỗi làng đều có chùa riêng để nhân dân trong làng được quy
y Tam Bảo, sống làm đệ tử Phật, chết quay về nương cửa Bồ đề, mà các
chốn kinh kỳ, phủ lớn đều có nhiều chùa. Vì vậy, nếu giai cấp thống trị thay
110
thế Phật giáo bằng Nho giáo hay Đạo giáo có thể gây ra những phản ứng tiêu
cực từ dân chúng. Thêm nữa, vừa trải qua 1.000 năm ắc thuộc, “các vua đã
chọn Phật giáo làm hệ tư tưởng chính thống, dễ được lòng dân hơn là Nho
giáo của phương ắc, dễ có nguy cơ bị đồng hóa dân tộc thành Bắc thuộc
lần nữa”[5,16].
Thêm một lý do nữa để triều đình chọn Phật giáo, đó là thời Lý-Trần ở
phương ắc, Phật giáo không mấy phát triển. Tương đương triều L , “…thời
kỳ này ở Trung Quốc, Tống Nho đang được tôn sùng, thời kỳ Vương An
Thạch và những người theo phái Pháp gia lãnh đạo”[126,20], Phật giáo thời
kỳ này không được ưu tiên phát triển. Còn tương đương thời Trần, “Hốt Tất
Liệt sau khi thống nhất Trung Quốc đã tôn một vị Lạt Ma trẻ tuổi là Phagspa
làm quốc sư và lấy Lạt Ma giáo là quốc giáo”[15,152]. Đây là cũng là yếu tố
khách quan về mặt tâm l thôi thúc các vua L và Trần lựa chọn Phật giáo
và muốn ưu tiên phát triển Phật giáo, xây dựng nó trở thành một hệ tư tưởng
độc lập của Đại Việt, khác biệt với Trung Hoa và Ấn Độ, nhằm tách khỏi
ảnh hưởng của những tư tưởng ngoại lai.
Có thể thấy, sau ngàn năm ắc thuộc, đây là giai đoạn thịnh trị của
Đại Việt cũng như của Phật giáo Việt Nam. Giai cấp thống trị đã sử dụng tối
đa thứ vũ khí tinh thần sắc b n là tư tưởng Phật giáo, bản thân họ cũng đã
triệt để tận dụng được sức mạnh ấy khi chính họ, đã trở thành những phật tử
mẫu mực đạt đến trình độ giải thoát ngay ở cõi trần. Đó là những yếu tố
quan trọng khiến triều đình có thể thu phục được nhân tâm, thống nhất tư
tưởng, dựng xây được một triều đại vững mạnh, vừa phát triển trong xu thế
độc lập dân tộc, vừa tạo lập những sắc thái riêng khiến các nước trong khu
vực phải vị nể.
Tiểu kết chương 3
1. Tư tưởng chính trị là sự phản ánh thực tiễn chính trị. Khi nói đến tư
tưởng chính trị, thì đó không chỉ là tư tưởng của giai cấp thống trị về vấn đề
giành, giữ và thực thi quyền lực mà còn là tư tưởng của giai cấp bị trị trước
111
những chính sách cai trị của nhà nước, tư tưởng này thể hiện thông qua việc
ủng hộ hay phản đối. Khi điều hành đất nước, giai cấp thống trị nào hay
người lãnh đạo nào cũng phải tìm cho dân tộc mình một hệ tư tưởng nhất
định làm nền tảng, để củng cố địa vị và duy trì quyền thống trị của mình.
Thời Lý-Trần, giai cấp thống trị cần phải giải quyết tốt các vấn đề chính trị
như: Xây dựng thể chế chính trị và pháp lý của xã hội; Khẳng định quyền tự
chủ về lãnh thổ, độc lập về tư tưởng-văn hóa; Ổn định đất nước, mở rộng
lãnh thổ, nâng cao vị thế của đất nước; Giữ hòa khí với đế quốc phương ắc.
2. Do tác động của các nhân tố: kinh tế-xã hội, văn hóa-tư tưởng
đương thời, giai cấp thống trị thời Lý-Trần cần lựa chọn hệ tư tưởng thống
nhất và dung hòa được lợi ích của các tầng lớp,quan lạitrong triều (gồm tầng
lớp quý tộc, tôn thất Lý-Trần và tầng lớp quan lại, tri thức Nho giáo) và nhân
dân. Đồng thời tư tưởng ấy còn khẳng định được sức mạnh của dân tộc cả
trên lĩnh vực văn hóa-tư tưởng. Thiền Phật giáo, cụ thể là nhân sinh quan
thiền chính là tư tưởng đáp ứng được nhu cầu này. Nhân sinh quan thiền
Phật giáo thời Lý-Trần, được xây dựng trên nền tảng của nền văn hóa truyền
thống và được bổ sung thêm những tư tưởng phù hợp trong Nho và Đạo để
làm phong phú hơn nội dung của mình, điều này giúp nó phát huy tốt nhất
vai trò của mình trong nền chính trị.
3. Thời kỳ này,nhà nước Lý-Trầnđang trong giai đoạntập hợp lực
lượng, đoàn kết toàn dân, nền chính trị cần một hệ tư tưởng chính thống để
hỗ trợ nhằm ổn định xã hội, bảo vệ đất nước, củng cố địa vị thống trị của
mình, giai cấp thống trị đã chọn Phật giáo.
Phật giáo được giai cấp thống trị tôn sùng và có ảnh hưởng đến chính
trị hơn Nho và Đạo, bởi nhiều lý do: Thứ nhất, trong các triều đại trước đó,
Phật giáo cũng đã có những ảnh hưởng nhất định đến chính trị và đến giai
đoạn này ảnh hưởng đó tiếp tục được phát huy; Thứ hai, sự ra đời của triều
đại Lý-Trần đều trực tiếp hoặc gián tiếp có công góp sức của Phật giáo; Thứ
ba, với trình độ của mình, các trí thức Phật giáo đã có nhiều đóng góp tích
112
cực cho triều đình; Thứ tư, thời kỳ này Nho giáo chưa mấy phát triển, các
đại diện của Nho giáo chưa nhiều, còn Phật giáo đã phát triển tương đối đầy
đủ trên cả phương diện giáo l , giáo luật, vì thế, nhân sinh quan Phật giáo đã
phát huy được tối đa khả năng và ưu thế của mình đối với chính trị; Thứ
năm, do triều đình mong muốn xây dựng một hệ tư tưởng độc lập, nhằm
không chỉ khẳng định độc lập về kinh tế-chính trị, lãnh thổ mà còn về văn
hóa tư tưởng, vì vậy đã tạo điều kiện cho phát triển các giáo lý Phật giáo.
Như vậy, giai cấp thống trị đã lựa chọn Phật giáo làm tư tưởng chủ
đạo, trợ giúp cho công việc trị nước của triều đại và điều phối các mối quan
hệ trong xã hội. Sự lựa chọn này đã được thực tiễn lịch sử chứng minh là
đúng đắn, bởi nó đã mang lại cộng hưởng tích cực cho cả hai phía. Vừa giúp
Phật giáo ngày càng phát triển cả về số lượng (số lượng thiền sư, cơ sở thờ
tự) và chất lượng (nội dung giáo lý), mà còn giúp giải quyết được những vấn
113
đề chính trị cấp bách của triều đại Lý-Trần.
Chương 4
ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ THỜI LÝ-TRẦN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ
TRONG VIỆC XÂY DỰNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Để duy trì, bảo vệ quyền lực của mình, giai cấp thống trị của mỗiquốc
gia đều cần sử dụng một hệ tư tưởng chính thống để củng cố địa vị, ổn định
và phát triển xã hội. Mỗi thời đại lịch sử khác nhau, nền chính trị sẽ bị ảnh
hưởng bởi một hệ tư tưởng khác nhau, tư tưởngấy,sẽ trở thành nền tảng tinh
thần chi phối các quyết sách và hành vi của các nhà chính trị. Thời Lý-Trần,
Phật giáo chính là tư tưởng phổ biến hơn cả và tác động trong nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội, trong đó có văn học, nghệ thuật, tư tưởng và cả trong
hoạt động chính trị. Tuy nhiên, Phật giáo là mộttôn giáo-triết học, vì vậy, nó
chính là một hình thái ý thức xã hội và sự phát triển của nó sẽ bị phụ thuộc
vào tồn tại xã hội đương thời.
Còn với chính trị, về bản chất khái niệm này phản ánh những quan hệ
xã hội đặc biệt của các chủ thể chính trị, xoay quanh vấn đề giành, giữ và
duy trì quyền lực nhà nước, nhằm đảm bảo lợi ích, trước hết và chủ yếu là
lợi ích kinh tế. “X t về hình thức, chính trị có nhiều biểu biện, chẳng hạn
như tư tưởng chính trị, hệ tư tưởng chính trị”[60,14]. Vậy, tư tưởng chính trị
chính là những biểu hiện về mặt hình thức của chính trị và tư tưởng chính trị
cũng chính là một hình thái của ý thức xã hội. Do là một hình thái của ý thức
xã hội nên dù bị phụ thuộc vào tồn tại xã hội, nhưng nó cũng có tính độc lập
tương đối và trong quá trình phát triển, nó cũng bị tương tác bởicác hình thái
ý thức khác như: đạo đức, tôn giáo, triết học… Trong đó, Phật giáo - hình
thái ý thức đang rất phổ biến và chi phối nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội
ở thời Lý-Trần, nhân sinh quan của nó tất yếu sẽ có ảnh hưởng tới tư tưởng
114
chính trị thời Lý-Trần.
4.1. Một số ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư tưởng chính
trị thời Lý-Trần
Nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo-cụ thể là nhân sinh quan Phật
giáo đến chính trị, cũng chính là nghiên cứu ảnh hưởng của nhân sinh quan
Phật giáo đến một số nội dung trong tư tưởng chính trị cơ bản thời kỳ này.
Ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo tới tư tưởng chính trị, không chỉ thể
hiện qua vai trò tham chính của các thiền sư Phật giáo; mà còn thể hiện qua
tư tưởng của giai cấp thống trị thời Lý-Trần, luôn thấm nhuần triết lý nhân
sinh Phật giáo và vận dụng nó trong trị nước; đồng thời qua cả thái độ của
giai cấp bị trị (sự ủng hộ hay phản đối của người dân) trước những đường
lối, chính sách có ảnh hưởng của nhân sinh quan thiền Phật giáo thời kỳ này.
Nhân sinh quan Phật giáo có ảnh hưởng xuyên suốt trong tiến trình
hình thành, phát triển của nền chính trị ở triều đại Lý-Trần. Vì vậy, để phân
tích một cách cụ thể hơn về những ảnh hưởng này, xin tạm thời bóc tách
những ảnh hưởng đó ở ba nội dung, ứng với ba yêu cầu cấp thiết của nền
chính trị thời ấy.
4.1.1. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đường lối xây dựng
thể chế chính trị, n định đất nước
Trong các triều tiền Lý, triều Ngô, Đinh và tiền Lê sự thay đổi một
triều đại vẫn thường được tiến hành thông qua một cuộc chiến tranh đổ máu,
nhưng sự thay thế từ triều tiền Lê sang triều Lý-Trần lại tương đối êm ả. Bởi,
sự thay thế này là hợp với lẽ tự nhiên, hợp quy luật “cái cũ-xấu, cái lạc hậu
sẽ bị cái mới-tốt, cái tiến bộ thay thế”. Thêm nữa, sự thay thế này không phải
là do các phe phái chính trị đấu tranh với nhau để tranh giành quyền lực mà
diễn ra nhờ sự hậu thuẫn của một lực lượng trung gian. Lực lượng đó chính
là các nhà sư – thế lực này đang rất được vua tiên đế (Lê Đại Hành) trọng
dụng, đồng thời nhân dân cũng hết mực tôn sùng. Khi thấy vua Lê Ngọa
Triều tàn ác, không còn xứng đáng ở ngôi trị vì thiên hạ, xã tắc đứng trước
115
nguy cơ sụp đổ, thiền sư Vạn Hạnh mong muốn thay thế một người khác
xứng đáng hơn. Đó phải là người “công minh dung thứ, khoan hồng nhân từ,
lòng người phụ thuộc”[18,156], người mà thiền sư lựa chọn là Lý Công Uẩn.
Từ nhỏ Lý Công Uẩn đã sống và học tập tại chùa Lục Tổ, được các thiền sư
rèn luyện, dạy bảo.
Sau đó, Vạn Hạnh đã làm hết sức để có thể răn dạy, trau dồi thêm kiến
thức để người mà ngài coi là có thể “làm nên nghiệp lớn” xứng đáng hơn.
Thiền sư từng nói với vua: “Tôi đã 70 tuổi rồi, mong được thư thả mới chết
để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là sự may mắn muôn năm mới
gặp một lần”[18,155]. Đây là lời ngợi ca, cũng đồng thời là lời nhắc nhở rất
cảm động của thiền sư dành cho Lý Công Uẩn. Khi bước lên ngai vàng,
không phụ sự tin tưởng của thầy, Lý Công Uẩn đã vận dụng sáng tạo và linh
hoạt tinh thần của Phật giáo để ổn định triều chính. Đồng thời vua cũng luôn
đưa ra chính sách đúng đắn để trị quốc, an dân, theo tinh thần khoan dung,
bình đẳng của nhân sinh quan Phật giáo.
Điều này cho thấy, ngay cả khi thế lực của Phật giáo lớn đến mức có
thể “sắp đặt” việc triều chính, thì các tăng sư vẫn giữ thái độ “vô vi”, “tri
túc” không vì danh-lợi cho bản thân, mà luôn suy nghĩ cho nhân sinh và lựa
chọn điều gì tốt nhất cho xã tắc. Các vị thiền sư khi được vua tin dùng, cũng
có thái độ rất r ràng mỗi khi tham gia chính sự: không nương tựa vào “hữu
vi”, bởi mọi sự đều “vô thường”, ngay cả đến bản thân cũng là “vô ngã”, họ
luôn hướng thiện bằng việc phục vụ nhân sinh, hết lòng xả thân vì nước.
Nhân sinh quan Phật giáo chính là giới hạn để các thiền sư chỉ tham
gia chính sự khi cần thiết, không vì muốn tranh ngôi vị ở ngoài đời, mà chỉ
nhằm tập trung sức lực trợ giúp cho vị minh quân, mang lại lợi ích cho quốc
gia. Quan điểm “vô vi” của nhân sinh quan Phật giáo được Thiền sư Pháp
Ngôi nước như mây quấn,
Trời nam mở thái bình
Vô vi trên điện các,
Chốn chốn tắt đao binh[120,204].
116
Thuận thể hiện rất rõ khi bàn về vận nước:
Nghĩa là, toàn dân trong nước phải đoàn kết với nhau, nương tựa vào
nhau xung quanh vua, thống nhất dưới sự lãnh đạo của vua thì mới mang lại
thái bình, thị trị. Nhưng đó phải là ông vua thực hiện được đạo vô vi (của
Phật giáo), vị vua ấy phải đại diện cho cái Thiện (vì lợi ích nhân dân), chứ
không chạy theo cái Ác (vì tham vọng bản thân). Đây cũng chính là định
hướng đạo đức chính trị cơ bản cho những chủ trương, chính sách và hành
động của các vị vua thời Lý-Trần.
Phật giáo đã góp công đầu thiết lập nên triều L , đưa Lý Thái Tổ lên
ngôi vua, mở ra thời đại trị vì tương đối lâu dài (116 năm) của nhà Lý. Vì
vậy, triều Lý vốn có sẵn mối liên hệ mật thiết với Phật giáo. Các vị vua quan
... các nhà Nho như L Thường Kiệt, Tô Hiến Thành giữ chức Thái
úy có vai trò như Tể tướng lại càng không có tư tưởng sùng bái đạo Nho về
“thiên mệnh”. Vì chính quyền nhà Lý là một chính quyền sùng Phật và thân
dân[62,71].
của triều Lý sau này cũng vẫn kế thừa truyền thống đó:
Có lẽ cũng do lấy Phật giáo làm nền tảng tư tưởng nên triều đại Lý-
Trần đã xây dựng thể chế nhà nước quân chủ tập quyền thân dân. Tuy trong
xã hội phong kiến luôn có sự phân biệt vềđịa vị chính trị, quyền lợi kinh tế,
trách nhiệm xã hội… nhưng thời Lý - Trần,với sự tham gia của Phật giáo
trên một số lĩnh vực như đạo đức, giáo dục, tín ngưỡng nên đã tạo ra được sự
đoàn kết trong triều, ổn định cho nền chính trị, thu phục được lòng dân. Như
Bậc chí nhân hiện thân giữa c i đời tất phải tế độ chúng sinh. Làm
việc gì cũng phải đầy đủ, không việc gì không làm; chẳng những đắc lực về
thiền định và trí tuệ mà cũng có công giúp đỡ nước nhà[131,617-618].
vua Lý Nhân Tông tâm niệm:
Nhiều vị vua quan thời Lý-Trần am tường triết lý nhân sinh của nhà
Phật sau cũng thấm nhuần quan điểm đó và đều hành động tích cực để có
đóng góp cho công cuộc ổn định và phát triển đất nước.
Đầu thời Lý, khi thế lực Nho giáo còn mỏng, triều đình rất cần sự
117
đóng góp của các thiền sư cho công cuộc thiết lập triều đại. Có thể kể đến sự
tham vấn rất hiệu quả của những vị như Định Không, Vạn Hạnh, Khuông
Việt, Đa ảo, Viên Thông, Huệ Sinh... Tuy họ là người xuất gia tu hành
nhưng lúc nào cũng lo cho an nguy đất nước.Thiền sư Viên Thông đã từng
chỉ giáo cho vua Lý Thần Tông về thuật trị nước: “Thiên hạ cũng như đồ
dùng, để chỗ yên thì được yên, để chỗ nguy thì bị nguy, xin đấng nhân chủ
hãy làm sao được như thế. Dùng đức hiếu sinh hợp với lòng dân, cho nên
yêu thương dân như cha mẹ, trông ngóng như trời đất. Đó là để thiên hạ vào
chỗ yên vậy”[53,216]. Do đó, muốn nước nhà yên ổn, nhà vua phải phải
thương dân, yêu dân, coi trọng nhân dân, có như vậy thời bình dân sẽ yên
vui làm ăn, kinh tế phát triển, triều đại mới hưng thịnh; thời chiến có dân
góp sức, chung lòng đánh giặc, đất nước mới sớm được thanh bình.
Khi thấy vua Lý Thần Tông ăn chơi vô độ, chỉ mải mê đàn hát không
chăm lo việc nước, tăng phó Nguyễn Thường không ngần ngại mà đứng ra
khuyên can vua: “Nay dân loạn, nước nguy, chúa thượng thì chơi bời không
điều độ, chính sự của triều đình thì rối loạn, lòng dân trái lìa, đó là dấu hiệu
bại vong”[18,253]. Các thiền sư vốn là người thông tuệ, nhìn thấu tương lai,
khi thấy vận nước bị lâm nguy, các ngài không thể vì lo cho bản thân mà
không can gián vua, nói ra sự thật.
Thư tịch cổ còn ghi lại,thời Lý-Trần đội ngũ quan lại được chia là 4
ban, ngoài Ban Văn, Ban Võ, Thái giám Ban, còn có Tăng an. Sự xuất hiện
Tăng an trong cơ cấu triều đình phong kiến lúc đó đã thể hiện sự trọng
vọng đối với tuệ - hạnh của các sư tăng cũng như sự trân trọng những giá trị
tư tưởng của Phật giáo. Tăng an có vai trò giáo chủ tinh thần đã góp
Tăng an được giao trọng trách trông coi các hoạt động của đời sống
tâm linh, chịu trách nhiệm truyền giảng kinh sách và phép giữ đạo đức,
quản lý các hoạt động của giáo hội Phật giáo. Tăng an cũng là cơ quan
đồng tổ chức các khoa thi Tam giáo vẫn thường được tiến hành dưới thời
Lý và thời Trần. Tăng ban cũng là nơi quy tụ các cố vấn của triều
đình[151].
118
phầngiáo dục, định hướng tư tưởng cho giai cấp thống trị và toàn xã hội:
Các quy định về mối quan hệ giữa vua-quan, hay giữa các chức quan
lớn-bé trong triều thời kỳ này cũng không quá khắt khe. Tầng lớp vua chúa,
tông thất dùcó nhiều đặc quyền và có lối sống khác biệt với tầng lớp quan lại
và đông đảo quần chúng, nhưng do ảnh hưởng bởi tư tưởng bình đẳng, bác ái
của Phật giáo, họ luôn cư xử khoan hòa, thân ái với mọi người. Vì vậy, đã
tạo ra quan hệ thân thiết, gần gũi trong nội bộ triều đình và các đẳng cấp
ngoài xã hội. Vua Trần Thánh Tông từng xuống chiếu cho các vương hầu
tông thất: “xong buổi chầu vào trong điện và san đình, cùng nhau ăn uống;
hoặc có khi trời tối không về thì đặt gối dài chăn rộng cùng ngủ liền giường
với nhau, để tỏ hết lòng yêu nhau”[18,292]. Với kẻ tôi tớ, nhà vua cũng rất
tôn trọng, không vì ỷ thế địa vị cao sang mà coi thường họ, “vua từng ngự
chơi bên ngoài, giữa đường gặp gia đồng của các vương hầu, tất gọi rõ tên
mà hỏi: Chủ mày ở đâu và răn các vệ sĩ không được th t đuổi họ”[18,320].
Bởi, vua rất cảm động và hiểu thấu được tấm chân tình của những kẻ tôi tớ
ấy: “Ngày thường thì có thị vệ hai bên, đến khi nhà nước hoạn nạn thì chỉ có
bọn ấy đi theo thôi”[18,320]. Điều này làm cho những kẻ tôi tớ thêm cảm
phục, ranh giới địa vị giữa vua, các quan và bề tôi bị xóa nhòa, mối quan hệ
trong triều thêm gắn bó, đoàn kết.
Tuy nhiên, cũng giống như các nhà nước phong kiến đương thời, thời
Lý- Trần, vua giữ vai trò trung tâm trong cộng đồng, vua có quyền sở hữu
tối cao về danh nghĩa đối với toàn bộ ruộng đất, tài sản đất nước; lãnh đạo và
điều hành mọi công việc của nhà nước, từ kinh tế, chính trị, đến văn hóa, tư
tưởng… Vì vậy, với những đặc quyền này nếu không phải là một vị vua đủ
tài-đức sẽ rất dễ mắc sai lầm, hay không đủ bản lĩnh sẽ rất dễ sa ngã. Để
được kế vị ngôi vua, Thái tử phải được trang bị những tố chất cần có của
một vị minh quân. Và đặc biệt, để làm quen với việc trị nước, nhà Trần có
chế độ “hai vua”. Thượng hoàng (vua cha) trực tiếp giám sát “vua con” cho
đến khi vua con đã trưởng thành thì cho nối ngôi chính, “cha lui ở cung
119
Thánh từ, xưng là thượng hoàng, cùng trông coi chính sự”[18,286].
Việc làm này không chỉ nhằm đảm bảo vững chắc quyền lực của dòng
họ Trần, duy trì sự yên ổn trong triều đình, tránh cảnh tranh đoạt ngôi vua,
mà còn cho thấy, các vị vua Trần không “tham quyền cố vị”, luôn hướng tới
lợi ích của nhân dân, mong muốn lựa chọn cho đất nước một người trị vì
xứng đáng. Khi cảm thấy vai trò của mình với đất nước đã không còn quan
trọng, họ sẽ rời bỏ ngai vàng để theo đuổi sự nghiệp tu thiền. Thậmchí vua
Trần Thái Tông còn coi ngôi vua chỉ như “chiếc giày rách”, muốn bỏ lúc nào
cũng được.
Bởi khi đã thấm nhuần triết lý “vô ngã, vô thường”, các vua thường
không bám víu vào quyền lực như thái độ thường thấy của các nhà vua
phong kiến. Họ không vì lợi ích riêng mà luôn lo lắng cho an nguy và sự
hưng thịnh của đất nước.Vua Trần Thái Tông khi muốn từ bỏ ngai vàng để
vào núi tu Phật, nhưng nhờ lời khuyên của quốc sư Trúc Lâm “Phàm là bậc
quân tử tất phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình”[121,29], nên
vua đã bỏ mong muốn của bản thân để về đảm đương trọng trách với đất nước.
Điều này cho thấy, các vị vua quan thời này không chỉ tin dùng Phật giáo,
mà bản thân họ cũng thực sự yêu mến tư tưởng này và đã trải nghiệm, thực
hành nghiêm túc triết l nhân sinh Phật giáo.
Giai cấp thống trị thời Lý-Trần luôn thiên về dùng đức trị mang màu
sắc từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha của Phật giáo. Điều này đã giúp cho nền chính
trị thời đó có được “những nhà chính trị có từ tâm và những người xuất gia
biết lo giáo dục sự thực hành đạo từ bi trong dân chúng”[53,231-232].Lý
Thường Kiệt - vị tướng lập nhiều chiến công cho triều L , cũng là người coi
trọng và nâng đỡ Phật giáo. Trên văn bia dựng tại chùa Linh Xứng[xem hình
Thái Úy trong thì sáng suốt khoan hòa, ngoài thì yêu mến nhân từ
giản dị… Làm việc thì siêng năng, sai bảo dân thì đôn hậu, cho nên dân
được cạy nhờ. Khoan hòa giúp đỡ trăm họ, nhân từ yêu mến mọi người cho
nên nhân dân kính trọng”[120,362].
120
4.5 – Phụ lục, tr 172], ngôi chùa do ông xây dựng, còn ghi:
Tuy được triều đình sủng ái nhưng không lợi dụng tình thế13để chiếm
đoạt ngôi vua, mà cùng với bà Thái hậu Ỷ Lan, hết lòng giúp đỡ vị vua trẻ
tuổi Lý Nhân Tông cai trị đất nước, lập nhiều công trạng cho triều đình nhà
Lý. Chính nhờ am hiểu Phật giáo “thân vướng việc đời, mà lòng vẫn hướng
về đạo Phật’’[120,362], nên dù là một vị tướng quân kiệt xuất được người
đời ngưỡng mộ, nhưng ông vẫn rất giản dị, coi trọng nhân dân, chăm lo cho
đời sống nhân dân. Nhiều phật tử tiêu biểu của thời đại lúc này cũng chính là
… thấm đượm tư tưởng Phật giáo không xa lìa cội nguồn, không
đánh mất bản sắc, chính họ đã thể hiện một tâm hồn cởi mở, bình đẳng, vị
tha đúng theo tôn chỉ của Phật giáo, trên cơ sở xóa đi những khác biệt và
đạt đến chỗ gặp gỡ cá tính con người Việt Nam lạc quan, hòa hiệp, nhân ái.
Họ dễ dàng cởi bỏ những vướng mắc câu chấp, nhị nguyên và sống trọn
vẹn với chân lý[129,81].
những người thuộc tầng lớp lãnh đạo, cũng:
Tuy nhiên, khi soạn thảo những văn kiện như: chiếu, chế, biểu, hịch…
các nhà chính trị đã không tìm thấy căn cứ về mặt l luận và thực tiễn trong
giáo l của Phật giáo. Do đó, giai cấp thống trị cần phải tìm cách phát triển
Nho giáo, bằng cách phát triển giáo dục nhằm cung cấp thêm nhân lực cho
Nội dung của giáo dục, đào tạo cũngđược chú trọng tới cả ba giáo Nho,
Phật và Lão. Bởi bên cạnh sự cần thiết phải đào tạo những trí thức Nho giáo
bộ máy cai trị. Giáo dục Nho học đến giai đoạn này mới bắt đầu phát triển.
để tuyển chọn nhân lực cung cấp cho bộ máy công quyền, qua đó thiết lập
một bộ máy nhà nước hoàn bị; thì tư tưởng của Đạo giáo và đặc biệt là Phật
giáo cũng vẫn có ảnh hưởng lớn đến nhân sinh quan của giai cấp thống trị
thời Lý-Trần, qua đó gián tiếp ảnh hưởng đến các quy phạm về đạo đức,
chính trị, pháp luật của triều đình. Chính nhờ nền giáo dục tổng hợp này, đã
13 Năm 1072, vua L Thánh Tông mất, thái tử mới 7 tuổi còn rất nhỏ lên ngôi, lúc này quyền hành nằm trong tay mẹ vua là Thái Hậu Ỷ Lan. Khi giặc Tống sang xâm lược, chính L Thường Kiệt khuyên Thái Hậu nên quên đi hiềm khích xưa mời L Đạo Thành về cùng chung sức đánh giặc. Nhờ vậy, triều đình dưới thời Thái Hậu Ỷ Lan, văn thì có L Đạo Thành, v có L Thường Kiệt.
121
tạo ra những hiền tài, tinh thông cả Nho, Đạo, Phật.
Vua Trần Thái Tông tuy rất trọng Nho, nhưng vẫn khẳng định vai trò
quan trọng của Phật giáo đối với chính trị. Vì thế, các nhà Nho có thể không
ưa Phật giáo, cũng chưa bao giờ phê phán tư tưởng nhân sinh Phật giáo và
Những nhà nho chỉ chăm chăm về chương cú thì e không thể trông
cậy ở họ giúp nên công việc bình trị được. Tôi trộm nghĩ: cách chọn người
nên lấy đức hạnh làm gốc, nếu người có bản lĩnh tốt thì dẫu kiêm thông cả
cửu lưu tam giáo, cũng chẳng hại gì[13,152].
thậm chí còn khẳng định nghĩa tam giáo trong trị quốc. Họ quan niệm:
Để ổn định trật tự xã hội, nhà Lý-Trần cũng bắt đầu cho ban hành các
bộ luật, các quy định về xét xử người phạm tội. Bộ luận đầu tiên ban hành
năm 1042là bộ Hình thư. Theo nhiều nhà nghiên cứu thì bộ luật này không
chỉ ảnh hưởng bởi Nho giáo, mà chủ yếu ảnh hưởng bởi tư tưởng nhân văn
và nhân đạo của Phật giáo. Điều này khiến một số nhà Nho cho rằng, hạn
chế lớn nhất của bộ Hình thư là “lỗi ở khoan rộng” (tức khoan dung và rộng
rãi-NLA)”[12,170]. Chẳng hạn, trong quy định thể lệ chuộc tội. Những
người già trên 70 tuổi, trẻ con dưới 15 tuổi, người có nhược tật, những người
họ nhà vua và có công lớn nếu phạm tội có thể chuộc bằng tiền, trừ phạm tội thập ác14(đó là những tội nặng nhất, bị trừng phạt nặng nhất vì làm phương
hại đến quyền hạn của nhà vua và hoàng tộc). Năm 1071, quy định thêm là
người được nộp tiền chuộc tội, phải tùy theo tội nặng hay nhẹ mà bắt nộp
tiền nhiều hay ít khác nhau. Thời Trần quy định, giết người phải đền mạng;
tái phạm tội trộm cắp lần hai thì bị chặt tay chân, phạm đến lần thứ ba thì bị
giết. Có thể thấy, những hình phạt này mang tính răn đe hơn là trừng phạt,
bởi, các bộ luật này vẫn bị ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo, vì vậy,
phần nào khắc phục được nhữnghình phạt hà khắc, đến tàn bạo trong việc
14 Những tội thập ác gồm: 1. Mưu phản làm nguy xã tắc; 2. Mưu đại nghịch làm nguy tông miếu, cung khuyết; 3. Mưu bạn nghịch, nổi loạn theo giặc; 4. Ác nghịch: đánh giết ông bà cha mẹ; 5. ất đạo: giết người vô tội; 6. Đại bất kính: dùng những đồ dành riêng cho vua, trộm và giả mạo ấn vua; 7. ất hiếu là mắng chửi hay không để tang ông bà cha mẹ; 8. ất mục: đánh giết những người thân thuộc gần; 9. ất nghĩa: dân giết quân, trò giết thày, lính giết tướng; 10. Nổi loạn: thông dâm với họ hàng thân thiết, thiếp của ông hay cha.
122
xét xử người phạm tội thời Đinh, Tiền lê (thả vào vạc dầu, cho sư tử x xác).
Để duy trì trật tự, kỷ cương cho xã hội, nhà Trần cũng tiếp tục bổ
sung, hoàn thiện các quy định pháp luật, thể hiện ở việc cho ra đời bộ luật
Quốc triều thông chế và Quốc triều hình luật. Trong đó, tư tưởng khoan
dung của Phật giáo vẫn có những ảnh hưởng nhất định trong nội dung và
tinh thần của các bộ luật này.Dù vẫn còn áp dụng những hình phạt thảm
khốc đối với các tội nặng, nhưng về cơ bản, pháp luật thời Lý-Trần có mang
nhiều yếu tố nhân văn, từ bi của Phật giáo hơn là tính nghiêm minh, khắc
nghiệt thường thấy trong các bộ luật của nhiều nhà nước phong kiến khác.
Chính vì vậy, luật pháp thời này được đánh giá là “thời Lý thì rộng rãi khoan
dung, pháp luật thời Trần có phần nghiêm minh, hà khắc hơn; nhưng nhìn
chung cả giai đoạn Lý-Trần, pháp luật nhà nước còn phần nào quan tâm và
chiếu cố đến quyền lợi dân chúng”[130,186].
Vậy, để hoàn thiện thể chế nhà nước, ổn định xã hội, triều đại L -Trần
tuy vẫn sử dụng tư tưởng Nho và một chút của Đạo giáo, tích hợp với tư
tưởng truyền thống dân tộc; nhưng tính trội vẫn thuộc về nhân sinh quan
Phật giáo, điều này thể hiện r n t trong tư tưởng, đường lối trị nước của các
nhà chính trị ở thời kỳ này.
4.1.2. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo tới đường lối bảo v độc lập
chủ quyền và toàn vẹn lãnh th
Các vua-quan thời Lý-Trần đồng thời cũng là những phật tử thuần
thành, bằng đạo đức và trí tuệ của mình đã đóng góp tích cực vào công cuộc
xây dựng, củng cố và phát triển đất nước. Nhân sinh quan Phật giáo cũng
hòa nhập trong lòng dân tộc vốn có truyền thống yêu nước, thương nòi; đồng
thời nó đã bổ sung cho những truyền thống ấy thêm những sức mạnh mới,
sức mạnh của niềm lạc quan, tin tưởng; ý chí, nghị lực phi thường; tinh thần
đoàn kết trước mọi khó khăn. Nhờ sự kết hợp này càng làm tăng thêm sức
mạnh của dân tộc, lòng yêu nước đã gắn liền với tinh thần trọng đạo đức,
trọng niềm tin. Đây chính là động lực tinh thần để vua tôi nhà Lý-Trần hoàn
123
thành công cuộc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Với các châu huyện miền núi thuộc chủ quyền nước Việt, để đảm bảo
chiến lược xây dựng chính quyền tập trung từ trung ương đến các địa
phương, nhà Lý-Trần đã có chính sách nhằm thu phục, động viên họ cùng
với triều đình chiến đấu bảo vệ bờ c i. Vua Lý Thái Tông từng tha tội không
giết Nùng Trí Cao-một thủ lĩnh người dân tộc, mặc dù hắn đã hai lần làm
phản. Nhờ những chính sách khoan hồng và tinh thần bình đẳng ấy, nhiều
thủ lĩnh người dân tộc đã có nhiều cống hiến trong sự nghiệp giữ nước của
dân tộc Đại Việt. Như thủ lĩnh Hà Khánh Dĩ đã có công gìn giữ và xây dựng
một vùng biên cương trọng yếu rộng tới 49 động,15 huyện cho Đại Việt.
Với các nước láng giềng nhỏ, triều Lý-Trần cũng có chiến lược vừa
thu phục vừa xây dựng mối quan hệ hữu nghị nhằm tạo ra sự yên ổn cho
biên giới phía Tây và Tây-Nam. Nhưng nước Chiêm đã nhiều lần cho quân
sang quấy rối và tấn công nước ta. Do đó, năm 1044 vua Lý Thái Tông tiến
đánh Chiêm Thành để tỏ uy danh. Tuy nhiên, trong cuộc hành quân này, khi
thấy dân Chiêm bị loạn binh giết rất nhiều, vua thương xót xuống chiếu: “Kẻ
nào giết bậy người Chiêm Thành thì sẽ bị ch m, không tha”[18,198]. Năm
1069, Lý Thánh Tông thân chinh đánh Chiêm Thành, bắt được vua nước
Chiêm là Chế Củ, vua cũng tỏ lượng khoan hồng, tha cho về nước. Đổi lại, vua Chiêm đã cắt vùng đất bắc Chiêm Thành cho Đại Việt15.
Qua đó có thể thấy, dù trên cương vị nào, các vị vua cũng đều ghi nhớ
và thực hành triết lý từ bi, cứu khổ cứu nạn. Tuy trong các cuộc hành quân ở
Chiêm có giết hại nhiều người. Nhưng đó là việc không thể đừng để bảo vệ
nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của một người đứng đầu đất nước. Nhưng
lòng độ lượng, khoan hồng của vua trước kẻ địch thì không phải vị vua nào
cũng có được. Đây là kết quả của lòng từ bi được hun đúc bởi nhân sinh
quan Phật giáo.
Cũng nhờ ảnh hưởng bởi tinh thần nhân văn của Phật giáo, trong công
15 Phần đất này gồm ba Châu ố Chính, Ma Linh, Địa L cho Đại Việt. Nay là tỉnh Quảng ình, ắc
Quảng Trị.
124
cuộc mở rộng lãnh thổ vào Nam, nhà Lý-Trần cũng không để xảy ra cuộc
chiến tranh thôn tính, hủy diệt văn hóa nào, quá trình dung hợp văn hóa diễn
ra một cách hòa bình. Nhiều công trình kiến trúc của người Chăm hay ngôi
chùa của người Khơme vẫn uy nghi tồn tại cùng với những ngôi đình, miếu,
chùa của người Việt.
Sang thời Trần, quan hệ hòa hảo với Chiêm tiếp tục được vua Trần
Nhân Tông vun đắp. Nhà vua đã từng đích thân sang Chiêm, để thiết lập mối
quan hệ hữu nghị với vua Chiêm, hứa gả công chúa cho vua Chiêm để kết
tình thân. Vua Chiêm đã cắt hai châu vua và Rí tặng cho Đại Việt để làm
sính lễ. Sau khi vua Chế Mân mất, mối quan hệ này đã không còn được nhà
Trần duy trì khiến quan hệ hai nước dần trở nên căng thẳng, gây ra những
cuộc chiến tranh biên giới liên miên, đây chính là khởi nguồn dẫn đến sự suy
yếu của triều Trần sau này.
Với phong kiến phương Bắc, nhà Lý-Trần luôn kiên trì mục tiêu bảo
vệ nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Tuy phải tiến hành không ít cuộc kháng
chiến chống lại sự xâm lăng của các thế lực lớn: hai lần chống quân Tống
(năm 1075, năm 1077) và ba lần chiến đấu chống quân Nguyên (năm 1258,
năm1285, năm 1287-1288), nhưng nền độc lập của triều đại Lý-Trần vẫn
vững bền. Ngay cả khi nhà Lý ở vào giai đoạn khủng hoảng và nhà Trần lên
thay thế, thì nền độc lập của đất nước cũng không bị đe dọa bởi các thế lực
xâm lăng. Một trong những lý do rất quan trọng là triều đình đã có được
đường lối kháng chiến phù hợp, hiệu quả. Đường lối này được chuẩn bị
tương đối chu đáo, bắt đầu từ thời bình và đến thời chiến, hiệu quả của nó
mới thực sự được phát huy và có tác dụng rõ rệt. Đường lối đó được sự trợ
giúp đắc lực từ nhân sinh quan Phật giáo.
Các vua quan thời Lý-Trần hầu hết đều tu thiền, học Phật và lấy
những triết lý nhân sinh của Phật giáo làm phương châm sống và hành động
của mình. Và khi ấy tu thiền không chỉ mang lại đạo đức trong sáng mà còn
mang lại trí tuệ minh mẫn. Nhờ tu thiền mà các vua quan, quý tộc thời Lý-
125
Trần mới bình thản trước sức mạnh như vũ bão của những đội quân xâm
lược hùng mạnh nhất lúc bấy giờ và quyết tâm phát động quân - dân cả nước
đứng lên đánh giặc. Cũng nhờ việc tu dưỡng nhân tâm trong sáng, không
vọng động nên các nhà chính trị mới đủ tài và đức để lãnh đạo đất nước trải
qua bao cơn nguy khốn.
Thời L -Trần, trường phái Phật giáo đang phổ biến là thiền Đại thừa.
Nhờ quá trình tu tập công phu, nhiều nhà thiền học đã tạo nên những kỳ tích
trên chiến trận. L Thường Kiệt người có công bình định Chiêm Thành và
cũng chính là vị chiến lược gia kiến tạo nên chiến thắng trong cả hai cuộc
kháng chiến chống Tống. Ở ông, tinh thần yêu nước đã được kết hợp với tấm
lòng yêu đạo đã tạo ra một nhân cách lớn, hết lòng vì dân vì nước. Vị tướng
kiệt xuất Trần Hưng Đạo, cũng là người rất am tường triết lý nhân sinh của
Thiền Phật giáo. Sử còn ghi lại: “Tiết chế đã đến chùa Vĩnh Nghiêm tọa
thiền, không phải tự giác giải thoát cho mình, như thế chưa đủ trước thế giặc
mạnh, mà phải cưu mang chúng sinh”[125,126]. Trong Hịch tướng sĩ [Xem
hình 4.6-Phụ lục, tr.172], tư tưởng thiền cũng được ông thể hiện rõ trong
cách suy tư về cuộc đời: “Đã một lần ta nghĩ đến ta không phải ta như người
bộ hành sau bao thuở lang thang trên khắp nẻo đường hoang vắng, để tìm lại
ta tự ngã cho lòng thanh thản, siêu thoát, từ tự giác đi vào tha
giác…”[125,228]. Là một vị tướng quân nhiều mưu lược, luôn dũng mãnh,
kiên cường nơi trận mạc, nhưng khi trong cuộc sống đời thường, ông lại
thích chọn một cách sống lặng lẽ, yên bình như một thiền sư hướng nội,
không màng chuyện thế sự.
Chính nhờ việc tu thiền, Trần Hưng Đạo đã trang bị cho bản thân một
thể lực dẻo dai và trí tuệ minh mẫn, trau dồi thêm bản lĩnh cần thiết của một
vị tướng tài ba trên chiến trận, luôn bình tĩnh, linh hoạt trước mọi biến cố.
ng cũng đã sáng suốt tuyển chọn được nhiều tướng tài, đóng góp tích cực
cho các cuộc kháng chiến. Như với Phạm Ngũ Lão bị quân lính đâm giáo
vào đùi, nhưng ông vẫn thản nhiên không hề lay động, Trần Hưng Đạo liền
126
mời ông nhập đội quân và giao nhiều trọng trách. Bởi chỉ qua một tình
huống như vậy, vị tướng quân Trần Hưng Đạo đã biết “Phạm Ngũ Lão tu
luyện tọa thiền ở trình độ cao, và ở thời ấy, một người như vậy cũng rất có
khả năng là v thuật vô cùng cao siêu”[23,350].
Nhờ phương pháp tu thiền công phu, đã giúp rèn luyện thân thể và
tâm tính cho cả vua quan, tướng lĩnh thời Trần và làm cho mối quan hệ giữa
tướng tá và quân lính không chỉ là cấp chỉ huy “mà còn là thầy giáo, là giáo
sĩ, giáo chủ. Lòng yêu nước hun đúc khối quân ấy lại thành một quân đội
gắn bó với nhau, có tinh thần chiến đấu cao”[23,351]. Chính vì tập hợp và
xây dựng được một đội quân tinh nhuệ, lại có sự gắn bó chặt chẽ như “đội
quân cha con”[121,397], cộng thêm sự ủng hộ, giúp sức của toàn dân, nên dù
lực lượng của Đại Việt không nhiều, phương tiện chiến đấu còn hạn chế
nhưng đã chiến thắng vẻ vang trước những kẻ thù hùng mạnh. Hồ Quý Ly
sau này cũng rất muốn tiếp nối tinh thần ấy, nhưng đã không làm được, bởi
quân đội của ông “trăm vạn quân như trăm vạn lòng”[92,130], nên đã nhanh
chóng thất bại và tan rã khi đối đầu với quân xâm lược nhà Minh.
Triết l “Phật tại tâm” trong thiền học đại thừa, đã đánh thức sức
mạnh trong chính bản thân mỗi người dân, đã tạo nên chí kiên cường, bất
khuất, sẵn sàng sả thân vì nước của con người thời đại Lý-Trần. Nhân sinh
quan Phật giáo luôn chủ trương “tự thắp đuốc mà đi, tự quay về với chính
mình, không tìm cầu những vật chất bên ngoài, đã tạo nên cho con người
thời đại bấy giờ có một bản lĩnh tự tin đặc biệt. Bản lĩnh này là đỉnh cao của
tinh thần nhân văn thời đại”[129,88]. Nó đã giúp bao thế hệ người Việt thời
Lý và Trần sẵn sàng đương đầu với những kẻ thù hùng mạnh, để rồi lần lượt
giành được những thắng lợi vang dội.
Bởi vậy, trong cuộc chiến tranh chống quân Tống ở triều Lý, nhân dân
tham gia đông đảo đến mức, tể tướng Vương An Thạch của nhà Tống phải
thừa nhận: “cả nước Giao Chỉ nhà có 6 người thì 5 người tòng quân, còn một
người không đi được nên phải ở lại”[25,275]. Sang thời Trần, với sự lãnh
127
đạo của các ông vua Phật và tướng lĩnh tài ba, nhân dân cũng hết lòng ủng
hộ và hưởng ứng lời kêu gọi của triều đình: “tất cả các quận huyện trong
nước, nếu có giặc ngoài đến đều phải liều chết mà đánh”, nếu không đánh lại
được thì tránh, quyết không hàng giặc. Những nơi có giặc đi qua, nhân dân
đều thực hiện theo mưu kế của triều đình: đem cất giấu lương thực, để thực
hiện kế sách “vườn không nhà trống”. Vì vậy, “trong cả ba lần chiến tranh,
quân Nguyên-Mông đều khốn đốn vì thiếu lương ăn, không những bị quân
nhà Trần đánh tan mà còn vì chúng không tài nào cướp được lương thực
trong nhân dân”[130,192-193].
Tinh thần yêu nước vốn là truyền thống của dân tộc ta, nhưng để phát
huy truyền thống ấy và tạo nên khí thế “cả nước góp sức” đánh giặc không
phải dễ. Có được những thành quả này là nhờ công sức của các vua quan,
thiền sư, phật tử Lý-Trần đã kiên trì vun đắp từ những năm tháng hòa bình,
khi giặc ngoại xâm đến, tinh thần ấy có điều kiện phát huy và ngày càng
được dâng lên cao.
Trong cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm, các vua và tướng lĩnh
nhà Trần luôn sẵn sàng lắng nghe ý kiến của dân, lấy điều tâm đức và lợi ích
chung của dân tộc để khuyến khích người dân tham gia tích cực vào cuộc
kháng chiến. Vì vậy mới có hội nghị Bình Than (1282), hội nghị Diên Hồng
(1285) để thống nhất toàn dân, hun đúc chí đánh giặc trong dân, nhằm tạo
thêm sức mạnh để đánh bại quân xâm lược hùng mạnh. Có được điều này
phần nào là nhờ ảnh hưởng bởi khuynh hướng bình đẳng, không định kiến
của triết lý nhân sinh Phật giáo.
Với tinh thần nhập thế tích cực, các tăng ni, phật tử luôn được hòa
mình cùng với cuộc kháng chiến của nhân dân. Tinh thần “cứu khổ, cứu
nạn” được các phật tử lúc đó hiểu là, giải phóng nhân dân khỏi nỗi khổ mất
nước, bảo vệ quyền sống, quyền tự do của mỗi người. Chính vì vậy, dù là
các vị sư hay các vị vua-quan am tường sâu sắc giáo lý của nhân sinh quan
Phật giáo, nhưng khi chiến tranh xảy ra, tất cả đều sẵn sàng khoác chiến bào
128
lên đường diệt giặc. Bởi ngoài vai trò của một phật tử, họ còn có vai trò của
một vị vua, vị tướng và một công dân với đất nước. Khi làm vua, làm tướng
thì hết mình vì dân vì nước, dù có phải vi phạm giới luật của nhà Phật, cũng
quyết tâm diệt giắc. Thậm chí, “các vị vua thời Lý-Trần đã lăn xả vào cái
chết để dành lấy sự sống cho dân tộc, bảo vệ sự tồn vong của đất
nước”[129,89]. Nhưng khi thấy vai trò của mình đã hết lại sẵn sàng “từ bỏ
ngai vàng” để chuyên tâm tu thiền học Phật. Điều này được thể hiện r n t
trong cuộc đời, sự nghiệp của các vị L Thánh Tông, L Nhân Tông, Trần
Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Nhân Tông…
Đặc biệt, phải kể đến là Tuệ Trung Thượng Sĩ nhà thiền học lỗi lạc,
người được coi là “ngọn đèn tổ” của thiền học đời Trần, cũng đã từng hai lần
“khoác chiến bào”; và Trần Nhân Tông – vị vua hai lần tham gia lãnh đạo
thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông thời Trần, sau khi hoàn
thành sứ mệnh vĩ đại của một vị vua, ông đã rời bỏ ngai vàng để sống một
cuộc đời đạm bạc của một vị thiền sư. Mang tấm lòng bồ tát của mình để
cứu rỗi cho chúng sinh bằng những lời khuyên về “thập thiện”. Trong những
năm tháng hành đạo trong dân gian, ông đã sử dụng rất hiệu quả tiềm năng
của Phật giáo để phục vụ chính trị, khiến cho Giáo hội Trúc Lâm trở thành
một lực lượng đắc lực trợ giúp cho triều đình.
Đó là bởi, tinh thần bình đẳng, bác ái trong triết lý nhân sinh Phật giáo
đã giúp lòng yêu nước của nhân dân Lý-Trần phát triển lên một bước mới.
Điều này được thể hiện rõ nét trong tinh thần quốc gia dân tộc của giai cấp
thống trị, ở niềm tự hào dân tộc, ý thức cao độ về quyền độc lập tự chủ. Các
nhà chính trị thời này luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích của
bản thân. Họ sẵn sàng thân chinh cầm quân đánh giặc, tuy là những phật tử,
nhưng họ không tách rời việc tu thiền với việc giữ nước, bởi theo họ đánh
giặc để cứu dân, cứu nước cũng là Thiền. Tinh thần ấy đã giúp dân tộc Đại
Việt chiến thắng những kẻ thù mạnh hơn ta rất nhiều.
Tư tưởng đề cao sự bình đẳng, dân chủ, ghét áp bức bất công của nhân
129
sinh quan Phật giáo cũng đã ảnh hưởng tích cực đến tinh thần, khí phách của
quân dân Đại Việt, khiến họ không cam chịu sống trong cảnh bị đô hộ, mất
nước, quyết tâm bảo vệ lãnh thổ trước những thế lực xâm lăng hùng mạnh.
Vì vậy, khi quân giặc Tống, giặc Nguyên kéo sang, cả triều đình và nhân dân
đều chung quyết tâm đánh giặc. Khi cả nước chung sức, đồng lòng đánh
giặc, đã tạo ra sức mạnh khó kẻ thù nào địch nổi.
Sau những thắng lợi giòn giã trên chiến trường, với tư tưởng “vô vi”,
các vị vua thời Lý-Trần lại trở về sống một cuộc đời đạo hạnh, khiêm
nhường. Họ không ngủ quên trên chiến thắng, mà luôn tỏ ra chừng mực
trong hưởng thụ, nhân từ trong trị nước. Như, sau chiến thắng giặc Nguyên
lần thứ ba, vua Trần Nhân Tông đã ban thưởng cho các quan lại trong triều,
tuy nhiên, vì vua ban thưởng chưa được xứng đáng nên có người còn không
Các ngươi quả biết rõ là giặc Hồ nhất định không dám lại xâm lấn
nữa thì nói rõ cho trẫm biết, dù có thăng lên đến cực phẩm trẫm cũng không
tiếc. Nếu không thế đã vội thưởng hậu, lỡ ra giặc Hồ trở lại mà bọn ngươi
lại lập được công nữa thì trẫm lấy gì mà thưởng để khuyến khích thiên hạ?
Mọi người đều vui phục cả[18,317].
hài lòng. Thấy vậy, vua bảo:
Tuy quân dân Lý-Trần luôn kiên cường đối mặt với những kẻ xâm
lăng, nhưng khi đã ở cương vị của người chiến thắng, giai cấp thống trị thời
Lý-Trần không tỏ ra hung hăng, ngạo mạn mà luôn khiêm nhường để làm
hòa, miễn sao có thể hạn chế tối đa chiến tranh, nhằm giảm đi những đau
thương, mất mát cho dân chúng. Vì vậy, giai cấp thống trị L -Trần luôn có
chiến lược ngoại giao khôn khéo nhằm duy trì nền độc lập.Sau khi đánh bại
quân Tống, L Thường Kiệt đã khôn kh o thiết lập lại mối quan hệ hòa hiếu
với nước Tống, nên đã tránh được họa xâm lăng trong khoảng thời gian
dài.Việc làm này là cần thiết, nó thể hiện sự khiêm tốn của nước nhỏ, trước
một nước lớn như nước Tống. Và dù trên thực tế, nó cũng chỉ mang tính
hình thức - không mang nghĩa “chấp nhận phụ thuộc”, nhưng lại có
130
nghĩa ngoại giao rất lớn.
Đến thời Trần, quân Nguyên k o sang xâm lược nhiều lần nhưng đều
chuốc thất bại. Khi thắng trận, nhà Trần vẫn thể hiện thái độ nhân đạo, cấp
thuyền, cấp lương để cho quân bại trận có thể về nước. ởi cũng giống như
thời Lý, nhà Trần luôn ý thức rằng, nước Nguyên-Mông là một đế quốc lớn
thời bấy giờ, để tồn tại và phát triển, nhà Trần luôn phải thực hiện chiến lược
ngoại giao phù hợp cho một nước nhỏ như Đại Việt. Một mặt, triều đình vẫn
cử người sang cống tiến, nhưng mặt khác, luôn giữ thái độ không khoan
nhượng trước những đòi hỏi vô lý của nhà Nguyên và càng không chấp nhận
bị cai trị hay ngồi yên nhìn cảnh non sông bị dày xéo. Chính đường lối đối
ngoại kh o l o, nhưng kiên quyết nhà nước L -Trần đã khiến các nước láng
giềng phải vị nể, kẻ thù cũng phải tôn trọng, đồng thời giữ được sự ổn định
chính trị tương đối lâu dài.
Như vậy, nhờ sự chuẩn bị chu đáo về tinh thần và lực lượng, quân dân
Lý-Trần đã lần lượt đánh bại các thế lực xâm lăng. Cội nguồn của những
thắng lợi ấy chính là sức mạnh của tình đoàn kết, của truyền thống yêu nước,
tự lực tự cường của dân tộc, những truyền thống ấy được tiếp thêm sức mạnh
nhờ ảnh hưởng bởi nhân sinh quan của Phật giáo.
4.1.3. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đường lối trấn áp
các thế lực chống đối, phát triển đất nước,giải quyết các vấn đề xã hội
Để giữ vững ngai vàng của nhà vua và quyền thống trị của dòng họ
trước những âm mưu cướp ngôi, nổi loạn,… các triều đại phong kiến thường
không ngần ngại đề ra các hình phạt tàn khốc hoặc sẵn sàng đàn áp dã man
các thế lực làm phương hại đến lợi ích, quyền lực của triều đình. Tuy nhiên,
thời Lý-Trần, việc trấn áp các thế lực chống đối không phải lúc nào cũng kết
thúc bằng “máu”, mà nhiều khi lại bằng hình phạt mang tính răn đe, rất
khoan dung, nhân đạo. Những quy định, những cách xử phạt này dường như
vi phạm thuật Pháp trị của nhà Nho, nhưng lại được nhà Phật ủng hộ. Dưới
triều đại Lý-Trần, điều này không phải hiếm và dường như việc làm ấy lại tỏ
131
ra hiệu nghiệm về mặt chính trị.
Có thể thấy, nhân sinh quan Phật giáo cũng ảnh hưởng mạnh mẽ trong
lối ứng xử của các nhà chính trị với những kẻ chống đối. Thái Tử Phật Mã
khi lên ngôi đã gặp phải sự chống đối của chính những người anh em ruột
của mình là Đông Chinh và Dực Thánh vương. Nhưng Thái Tử đã tha tội
làm phản cho họ, thậm chí còn ban cho tước cũ. Sau sự việc này nhà L đã
lập miếu thờ tại núi Đồng Cổ, để làm lễ thề, buổi lễ có sự tham gia của anh
em hoàng tộc và các quan lại trong triều, tất cả cùng uống máu thề rằng:
“Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, xin thần minh giết chết”[18,171]. Lễ
thề này được thực hiện hàng năm, mục đích nhằm giảm-trừ những tư tưởng
phản loạn nẩy sinh từ trong nội bộ triều đình, khơi dậy những nghĩ, hành vi
đúng đắn trong mỗi người, để không phải thực hiện những hình phạt tàn
khốc cho chính các thành viên trong hoàng tộc. Có thể thấy, nội dung và
hình thức của buổi lễ này bị ảnh hưởng bởi Nho giáo và Đạo giáo, nhưng
mục đích của nó này lại thể hiệntinh thần nhân văn, hỷ xả, vị tha của nhân
sinh Phật giáo.
Vua Trần Thái Tông khi đối mặt với cuộc làm phản của người anh là
Trần Liễu, vua cũng độ lượng tha cho Trần Liễu. Thậm chí khi Trần Thủ Độ
đòi tìm giết chết “giặc Liễu” vua còn “giấu Liễu ở trong thuyền, vội vàng
bảo Thủ Độ rằng: Phụng Càn Vương đến hàng đó thôi, và lấy mình che đỡ
cho Liễu”[18,273]. Dù cũng am hiểu luân lý của đạo Nho, nhưng nếu không
thấm nhuần tư tưởng từ bi, hỷ xả của nhà Phật, vua sẽ chẳng có được hành
động như vậy. Bởi vua cũng rất thấu hiểu16, việc làm phản của Trần Liễu là
“cực chẳng đã”. Khi sáng suốt nhận thức được hoàn cảnh của anh mình, vua
cũng đồng thời hiểu được vì lợi ích của dòng họ mà Trần Thủ Độ phải làm
như vậy, nên đã tìm cách hòa giải hợp tình, hợp lý. Tấm lòng khoan dung
của vua với anh, đã khiến Trần Thủ Độ không đành lòng ra tay trừng phạt
16Theo Đại Việt sử k toàn thư, Vua Trần Thái Tông kết hôn cùng công chúa Chiêu Thánh (con gái của vua L ) đã lâu không có con, để duy trì quyền thống trị của dòng họ Trần, Trần Thủ Độ đã mang công chúa Thuận Thiên L ( lúc này đang có mang Quốc Khang ba tháng) - vợ của anh vua (Trần Thái Tông), là Hoài Vương Liễu, lập làm hoàng hậu Thuận Thiên, giáng Chiêu Thánh làm công chúa.
132
Trần Liễu, mà đồng ý rút quân về. Sau vua còn “lấy đất các xã Yên Phụ, Yên
Dưỡng, ên Sinh, ên Hưng, Yên Bang cho Liễu làm ấp thang mộc và
phong làm ên Sinh Vương, ở đất ấy”[18,273].
Không chỉ khoan hồng cho anh em thân tộc, các vua cũng thực hiện
chính sách miễn-giảm tội cho quan lại có đồ phản trắc. Vua Trần Thái
Tông cũng đã tha tội cho Hoàng Cựu Đà – vị quan nhà Trần đã trốn chạy khi
giặc đến và từng có thái độ bất hợp tác với triều đình. Vua đã không bắt
phạt, mà trước mặt quần thần vua còn thừa nhận lỗi đó là do mình vì đã đối
xử không công bằng với Cựu Đà: “Việc của Cựu Đà là lỗi của ta, tha cho tội
chết, cho ph p đánh giặc chuộc tội”[18,285]. Dưới thời vua Trần Thánh
Tông trị vì, khi giặc Nguyên vừa vào, thấy thế giặc mạnh, triều thần có nhiều
kẻ giao thiệp với giặc và có định đầu hàng. “Đến khi giặc thua, bắt được
một hòm tờ biểu của những người hàng giặc, thượng hoàng (vua Trần Thánh
Tông-NLA) sai đốt đi để yên lòng những kẻ phản trắc”[18,318]. Vua không
muốn vì những chuyện nhỏ mà làm mất đi hòa khí trong triều đình, cũng vì
muốn lấy sự khoan dung, nhân từ của Phật giáo để làm lòng người cảm phục
mà từ bỏ đi nghĩ xấu. Với những kẻ đã đầu hàng giặc, đi theo giặc thì triều
đình “kết án vắng mặt, xử tội lưu hay tử, điền sản tịch thu làm của nhà nước,
bỏ quốc tính”[18,318]. Nhưng riêng với Trần Ích Tắc, do là chỗ thân tình -
anh em trong dòng tộc, nên không nỡ đổi họ xóa tên, tuy vẫn xử như vậy, nhưng “... gọi là ả17 Trần, cho là hèn nhát như đàn bà vậy”[18,318].
Nhờ tinh thần hỷ xả, vị tha, nhân văn, nhân đạo của nhân sinh quan
Phật giáo đang thấm nhuần trong đời sống xã hội lúc đó, sự chuyển giao
quyền lực từ triều Lý sang triều Trần cũng được diễn ra trong hòa bình. Khi
lên thay thế nhà Lý, triều đình đã giữ nguyên thể chế chính trị có từ thời
trước. Để yên lòng dân, nhà Trần cũng kế thừa, phát huy đường lối chính trị
mang màu sắc nhân văn, nhân đạo nên đã chinh phục và thống nhất được các
lực lượng cát cứ có từ triều Lý. Cũng nhờ tinh thần ấy, ở triều đại Lý và
17Ả: ngôi thưa ba giống cái, chữ này thường dùng trong chúng dân lao động, tương tự như các chữ: mụ
ta,bà ta...
133
Trần đều không xảy ra nhiều bạo động, không thường xuyên có cảnh tranh
cướp ngôi vua hay cha, anh em trong hoàng tộc chém giết lẫn nhau để tranh
giành địa vị như ở thời Đinh, Tiền Lê.
Bởi ảnh hưởng bởi triết l “Phật tại tâm” trong nhân sinh quan của
thiền đại thừa, các nhà chính trị quan niệm rằng, mọi điều xấu tốt mà con
người gặp phải đều xuất phát từ tâm mà ra, vì vậy, phải trang bị cho mình
lòng nhân từ. Lòng nhân từ ấy phải xuất phát từ chính trong tâm mỗi người,
khi đã có lòng nhân từ rồi, thì lòng nhân từ ấy sẽ tỏa sáng, chiếu dọi trong
từng lời nói, từng hành động của mỗi nhà chính trị. Bởi vậy, dù các vị vua
Lý-Trần cũng có thức về vai trò của Nho giáo trong việc tổ chức, điều
hành bộ máy nhà nước, nhưng họ vẫn “muốn phủ lên toàn bộ xã hội bởi ý
thức hệ Phật giáo”, để tạo nên một xã hội thuần từ, tốt đẹp cả trong triều
Sự đối lập trong nội bộ chính quyền hoặc sự đối kháng giai cấp lúc
đó chưa cao. Đặc điểm này đã tạo nên một không khí chính trị lành mạnh
trong giới cầm quyền và trong cả nước nói chung, tạo nên thế mạnh cho
chính quyền, cho cả nước trong mối quan hệ đối nội cũng như trước những
thử thách ngặt nghèo của ngoại xâm[130,97].
đình và dưới thứ dân. Có lẽ vì thế,
Theo đó, các mâu thuẫn về tư tưởng và lợi ích giữa tầng lớp quý tộc
và Nho giáo cũng dần được dung hòa, để đi đến mục tiêu chung là liên kết
nhân tâm, đoàn kết triều đại để phục vụ lợi ích dân tộc, tạo nên thành tựu rực
rỡ cho đất nước.
Sau nhiều năm du nhập Phật giáo đã trở thành nhu cầu tâm linh không
thể thiếu của dân tộc. Các vua đã yêu mến tư tưởng mà nhân dân yêu mến,
bản thân họ đã thực hành giáo lý ấy và trở thành những vị “Phật sống” khiến
dân chúng vô cùng ngưỡng mộ và hưởng ứng lời kêu gọi ấycủa triều đình.
Bởi vậy, triều đình Lý-Trần không những tập hợp được đông đảo dân chúng
tham gia vào công cuộc bảo vệ triều đại, chinh phục các thế lực chống đối;
mà còn khuyến khích và tạo điều kiện cho họ tích cực tham gia vào công
134
cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Để phát triển đất nước, giai cấp thống trị thời Lý-Trần rất chú trọng
tới sự phát triển nông nghiệp, đưa nông nghiệp trở thành lĩnh vực sản xuất
chính và là cơ sở cho mọi hoạt động trong nước. Vua cũng quan tâm chăm lo
đến việc đồng ángvà tìm cách khích lệ tinh thần hăng say lao động, sản xuất
của dân. Vua L Thánh Tông còn trực tiếp xuống cày ruộng với dân, có
người can ngăn và cho rằng vua không cần phải làm vậy, vua nói: “Trẫm
không tự cày thì lấy gì mà làm xôi cúng, lấy gì để xướng suất thiên
hạ?”[18,180]. Cũng từ đó, nhà nước Lý-Trần hàng năm thường sai lập đàn
để làm lễ tịch điền, để thể hiện sự quan tâm, chăm lo của nhà nước đến việc
cày cấy của dân.
Hoàng hậu Ỷ Lan - vợ của vua (Lý Thánh Tông) được coi là một
người phụ nữ tài giỏi, bà đã hai lần nhiếp chính18. Bà vốn là một người học
Phật và thấm nhuần triết lý nhân văn, nhân đạo của Phật giáo. Xuất thân là
một cô gáimiền quê nên bà biết rõ những nỗi khổ của người nông dân. Bà
cũng đã khuyên con – vua Lý Nhân Tông, nên phạt nặng những người trộm
trâu, giết bò, gây khốn đốn cho việc cày cấy của nông dân. Sau này, trước
tình trạng trộm trâu tiếp tục gia tăng, bà cũng nhắc lại với vua: “Gần đây, ở
kinh thành hương ấp có nhiều người trốn làm nghề trộm trâu, trăm họ cùng
quẫn, mấy nhà chung nhau một con trâu”[18,209]. Có thể thấy, bà thực lòng
lo lắng cho cuộc sống của người nông dân, cũng bởi, nước ta khi ấy vẫn chỉ
là nước nông nghiệp, chăm lo cho đời sống người nông dân cũng chính là
chăm lo đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Ở nông thôn, có nhiều
phụ nữ nghèo phải bán mình, bà cũng đã quan tâm chăm lo cho cuộc sống
của họ, cùng với vua L Nhân Tông “phát tiền nội phủ chuộc con gái nhà
nghèo phải bán mình, để gả cho đàn ông góa vợ”[18,206]. Chính vì tấm lòng
18 Lần đầu là năm 1069, khi vua L Thánh Tông mang quân đi đánh nước Chiêm, ông đã tin tưởng giao quyền nhiếp chính cho Nguyên phi Ỷ Lan. Không phụ lòng tin tưởng của chồng, bà trị nước rất giỏi, khiến dân tâm hòa, đất nước thanh bình. Lần hai vào năm 1072, khi vua L Thánh Tông mới qua đời, vua Lý Nhân Tông còn nhỏ tuổi. à đã điều hành đất nước, tạo được sự đoàn kết trong triều, để L Thường Kiệt tập trungsức lực “Phá Tống, bình Chiêm”.
135
từ bi, nhân ái ấy, bà đã được nhân dân ngưỡng mộ và tôn xưng là Phật bà.
Ngoài chính sách cấm giết mổ trâu, bò, nhà nước cũng đưa ra nhiều
chính sách để khuyến khích phát triển nền kinh tế nông nghiệp: khuyến
khích việc khai phá đất hoang để lập thành các trang trại lớn; chú đến việc
đắp đê, trị thủy, “nông dân có ruộng cày, xóm làng ổn định”[130,29]. Cùng
với những chính sách phát triển kinh tế đúng đắn, về cơ bản đời sống vật
chất của người dân tương đối đầy đủ, đời sống tinh thầnvì vậy cũng rất
phong phú. Nước Đại Việt thời Lý-Trần cũng được đánh giá là “nơi đô hội ở
phương Nam”.
Các chính sách xã hội dưới thời Lý-Trần cũng thấm đượm tinh thần
nhân đạo của Phật giáo. Đối với những người dân nghèo, triều đình cũng có
những chính sách để giảm bớt khó khăn cho họ. Những năm mất mùa, nhiều
người bị bệnh, triều đình có khuyến cáo nhà giàu dâng thóc gạo để triều đình
phát chẩn cho dân nghèo, đồng thời còn ban tước phẩm cho những nhà giàu
dâng thóc gạo. Triều đình còn chế thuốc phát cho người bệnh “nhân dân ai
có ốm đau thì ban cho thuốc công gọi là Hồng ngọc sương, có thể chữa khỏi
các bệnh”[18,386]. Hành động bố thí này cũng chính là một biểu hiện triết lý
từ bi của nhân sinh quan Phật giáo.
Mỗi khi vua mới lên ngôi, hay trong triều có tin vui (vua sinh hoàng
tử, công chúa), triều đình đều đại xá thuế cho những người dân nghèo.Năm
1010, vua L Thái Tổ đã xuống chiếu đại xá thuế cho nhân dân trong ba
năm, những người mồ côi, góa chồng, già yếu, thiếu thuế lâu năm đều tha
cho cả. Trong Đại Việt sử k cũng ghi lời bàn của sử thần Ngô Sĩ Liên:
Nhân Tông thường nhân việc mở hội Phật mà xá người có tội là không phải,
nhưng còn mượn tiếng hội Phật. Còn như vua Thần Tông thì không việc gì
mà cũng xá. Năm 1044, L Thái Tông sau khi đi đánh Chiêm Thành đại
Đánh dẹp phương xa, tổn hại việc làm nông, ngờ đâu mùa đông năm
nay lại được mùa lớn! Nếu nhân dân đã no đủ thì trẫm còn thiếu với ai?
Vậy xá cho thiên hạ một nửa tiền thuế năm nay, để yên ủi sự khó nhọc lặn
lội[18,190].
136
thắng trở về, đã xuống chiếu:
Các vua quan niệm rằng, nhân dân mà no đủ thì triều đình không sợ
thiếu, vì vậy, không chỉ những năm dân bị mất mùa, gặp hạn hán, đói k m,
chiến tranh triều đình mới đem tiền và thóc gạo phát chẩn, miễn thuế cho
dân; ngay cả khi thắng trận vua cũng miến thuế. Bởi ngai vàng chỉ thực sự
vững chắc khi nhân dân có đời sống ấm no, hạnh phúc. Tinh thần nhân văn
ấy không hiếm gặp ở các ông vua trong thời đại Lý-Trần, bởi họ đều thấm
Nhà Lý lấy lòng nhân từ mà nhiếp chính thiên hạ, từ vua cho đến
muôn dân đều lấy sự hiếu kính Cha Mẹ, nhân nghĩa bình đẳng theo tinh
thần Phật giáo mà xây dựng cơ đồ. Đồng cam cộng khổ, bố thí cho kẻ bần
cùng, xá tội cho những người lầm lỗi quay về nẻo chánh, làm ăn lương
thiện[129,297].
nhuần tư tưởng “từ bi” của Phật giáo. Có thể thấy,
Các nhà chính trị nói riêng, các phật tử nói chung đều hướng đến tu
Một người duy trì được lòng từ trong mọi nghĩ, lời nói và hành
động của mình, được xem là đã được giải thoát khỏi ba độc tham, sân, si, là
cội nguồn của mọi sự mâu thuẫn, xung đột, mất hài hòa trong bản thân mỗi
người cũng như ngoài xã hội, trong phạm vi quốc gia, cũng như trên phạm
vi quốc tế[22,284].
luyện để đạt được thân tâm trong sáng và giải thoát khỏi tham, sân, si. Bởi:
Tinh thần từ bi, hỷ xả, sự tu dưỡng thập thiện của Phật giáo đã được
phổ biến trong nền chính trị triều Lý, nhận được sự ủng hộ rất lớn của nhân
dân. Khi lên thay thế, nhà Trần vẫn kế thừa truyền thống ấy. Bản thân giai
cấp thống trị nhà Trần đã học tập và trải nghiệm nghiêm túc giáo lý nhân
sinh của thiền Phật giáo. Họ chọn tu thiền, nhằm “dĩ chúng tâm vi kỷ tâm”
tức lấy cái tâm của chúng sinh là cái tâm của mình trong hoạt động trị nước,
lấy tấm gương đạo đức của mình mà giáo hóa dân chúng. Điều này đã hình
thành ở giai cấp thống trị sự đồng cảm xót thương với nỗi khó nhọc của nhân
dân, từ đó, hình thành nên tư tưởng chính trị khoan hòa, phúc huệ, nhân từ…
137
vốn rất được ưa chuộng trong triều đại nhà Trần.
Vì vậy, có thể nói dù không phải hệ tư tưởng chính trị, không bàn
nhiều đến những vấn đề của chính trị, nhưng yếu tố ảnh hưởng đến nền
chính trị của Phật giáo chính là ở tinh thần nhân văn, nhân đạo trong trị nước
và giải quyết các mối quan hệ trong triều đình và ngoài xã hội. Đây chính là
thế mạnh của nhân sinh quan Phật giáo, mà triều đại đang cần, vì thế nó trở
nên tương thích với nền chính trị.
Không chỉ thể hiện lòng vị tha, hỷ xả với anh em, quan quân trong
triều mà với cả tù nhân. Bởi các nhà vua cảm thương cho hoàn cảnh của họ:
trong số những người tù, có kẻ vì quá nghèo khó mà lâm vào cảnh tù tội.
Vua Lý Thánh Tông có lần nói, “ta yêu con ta cũng như bậc cha mẹ yêu con
cái của họ. Trăm họ không biết gì nên phạm vào luật pháp ta rất xót
thương”[18,196]. Rồi sai người phát chăn chiếu, để họ bớt khó khăn trong
những ngày giá lạnh. Các vua sau này cũng tiếp nối tình thần nhân đạo ấy,
nhiều lần ra lệnh giảm tội hay tha tội cho người tù. Đây đúng là một cung
cách ứng xử của một đấng minh quân đã thấm nhuần triết lý từ bi, hỷ xả của
nhân sinh quan Phật giáo.
Các nhà Nho có thể phê phán vua tôi nhà Trần không giữ phép tắc,
làm giảm đi sự uy nghiêm của một đấng quân vương. Nhưng trong bối cảnh
cần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân nhằm chống lại kẻ thù lớn mạnh đó
là quân Nguyên-Mông, thì việc dùng chính sách từ bi, hỷ xả để cảm hóa lòng
người, dùng lòng khoan hồng, độ lượng để hoàn thành nghiệp lớn là cần
thiết. Tuy, những việc làm kia thực ra cũng ít nhiều đều phục vụ cho mục
đích chính trị, nhưng nếu không có tấm lòng nhân ái, vị tha của nhân sinh
Phật giáo thì các vua cũng không làm được những điều này. Nếu chỉ dựa vào
thuyết thiên mệnh, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín… của Nho giáo thì khó có thể liên
kết được nhân tâm, thống nhất được đất nước trong buổi đầu thành lập triều
đại hay khi đất nước có giặc ngoại xâm. “Vì vậy, hình ảnh những ông vua
giản dị, thân dân dù có thiếu oai vệ một chút chẳng đem lại sự ổn định cho
138
quốc gia hơn hay sao”[113,158].
Như vậy, những triết l nhân sinh hướng thiện, bình đẳng, vị tha, giảm
thần quyền ấy đã trở thành yếu tố cốt lõi hình thành nên những giá trị chuẩn
mực về đạo đức, lối ứng xử trong triều đình cũng như ngoàixã hội thời Lý-
Trần, từ đó, sẽ gián tiếp ảnh hưởng đến các biện pháp trấn áp các thế lực
chống đối, đến đường lối phát triển đất nước, giải quyết các vấn đề xã hội.
Vì vậy, dù trải qua nhiều cuộc chiến tranh, nhưng về cơ bản, đời sống vật
chất của nhân dân thời Lý-Trần vẫn tương đối đầy đủ, được các sử gia đánh
giá là “nước Đại Việt là nơi đô hội ở phương Nam, ruộng cấy lúa tốt, đất
trồng dâu tốt, núi sẵn vàng bạc, biển sẵn châu ngọc, người ở đâu đến làm ăn
buôn bán cũng làm giàu được cả”[12,33].
4.2. Đánh giá về những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư
tưởng chính trị thời Lý-Trần và ý nghĩ của nó trong việc xây dựng văn
hóa chính trị Việt Nam hiện nay
4. . . Đánh giá ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư tưởng
ch nh trị thời Lý-Trần
Về vị thế của Phật giáo trong nền chính trị thời L -Trần. Thời Lý-
Trần, giai cấp phong kiến đã tạo điều kiện phát triển nhân sinh quan Phật
giáo, nhằm biến nó thành vũ khí tinh thần, phục vụ đắc lực cho công cuộc
thống trị của triều đại. Như vậy, nhân sinh quan Phật giáo không những
được người dân ưa chuộng mà còn được giai cấp cầm quyền nâng đỡ. Tuy
nhiên, dù trên nhiều phương diện, Phật giáo có sự cộng hưởng tích cực giữa
Phật giáo và chính trị, giữa triều đình và Giáo hội, giữa tín đồ bình dân và
Nhà nước ở thời L -Trần, nhưng Phật giáo ở thời Lý-Trần vẫn không được triều đình thừa nhận chính thức ở vị trí Quốc giáo19.Các thiền sư tuy giữ vai
19Quốc giáo là tôn giáo có quan hệ chặt chẽ với Nhà nước. Mỗi nhà nước thường chỉ chọn lựa một tôn giáo
làm tôn giáo chính thống, đó là quốc giáo.
20Tôn giáo truyền thống là tôn giáo đã có được bề dày lịch sử nhất định với một dân tộc, một nền văn hóa, mà nhiều giá trị của nó được chấp nhận và trở thành giá trị văn hóa chung của một cộng đồng hay một dân tộc, song quan hệ của nó với Nhà nước không ở tầm hệ tư tưởng chính thống.
139
trò cố vấn trong triều đình nhưng luôn giữ khoảng cách nhất định của một tôn giáo truyền thống20 hay tôn giáo dân tộc21, họ không tham dự sâu vào bộ
máy quyền lực, xong việc lại lui về chùa mà không giữ một vị trí chính thức
nào trong bộ máy quyền lực. Thời Trần, tuy có nhiều vị vua tu thiền hoặc
say mê học Phật, nhưng họ luôn phân biệt r ranh giới đời và đạo, giữa trách
nhiệm khi là vua với trách nhiệm khi là phật tử-người của nhà Phật.
Phật giáo không phải là học thuyết chính trị-xã hội, nên nó không thể
thay thế hoàn toàn các hệ tư tưởng khác đối với nền chính trị. Nhân sinh
quan Phật giáo thực chất là tư tưởng về đạo đức, tâm linh nên dù rất cố gắng
nhập thế, nhưng tư tưởng ấy cũng chỉ ảnh hưởng trên phương diện tư tưởng,
ý thức của giai cấp thống trị.Để phát huy sức mạnh của mình đối với nền
chính trị, nhân sinh quan Phật giáo thời kỳ này đã dung hòa cả Đạo, đặc biệt
là Nho, để phù hợp hơn với thực tiễn chính trị. Việc làm này là cần thiết để
đáp ứng nhu cầu của nền chính trị, ngay bản thân những người đại diện cho
thế lực Phật giáo hay các phật tử thuần thành cũng chấp nhận điều đó. ởi
với tinh thần từ bi, bao dung của người học Phật giáo, nên các nhà chính trị
thời này dù rất coi trọng Phật giáo, nhưng vẫn rất trân trọng Nho và Đạo.
Ngay cả các nhà tư tưởng tiêu biểu của Phật giáo, vẫn có xu hướng học tập,
kế thừa những tư tưởng phù hợp của Nho, Đạo các giáo thuyết khác vào
nhân sinh quan Phật giáo, làm phong phú hơn cho tư tưởng của mình.
Vì vậy, thời Lý-Trần, dù triều đình rất sùng Phật giáo, nhưng vẫn tạo
điều kiện cho Nho và Đạo giáo phát triển. Bên cạnh những ngôi chùa của
Phật giáo, còn có các Miếu thờ Khổng Tử và các Đạo quán của Đạo giáo tại
kinh thành và trên khắp cả nước. Việc làm này vừa có lợi cho nền chính trị,
bởi nó vừa tận dụng được tài năng của tầng lớp Nho gia, lại vừa thỏa mãn
nhu cầu tâm linh của giai cấp thống trị; vừa giúp điều hòa mâu thuẫn về tư
tưởng (giữa thế lực theo Phật và Nho) trong nội bộ triều đình; vừa giúp nhà
nước xây dựng một hệ tư tưởng độc lập, khác biệt với triều đình phong kiến
21Tôn giáo dân tộc là tôn giáo có nhiều điểm chung với tôn giáo truyền thống, nhưng điểm khác (về định tính) là trong quan hệ với Nhà nước, nó được Nhà nước và đông đảo người dân sử dụng như hệ tư tưởng đại diện cho dân tộc.
140
phương ắc.
Giai đoạn đầu triều Lý-Trần, các thế lực Phât giáo còn trực tiếp tham
gia vào việc triều chính, nhưng giai đoạn sau sự tham vấn này giảm dần. Đến
thời Trần thì gần như không còn, tuy nhiên, không phải Phật giáo đã mất đi
địa vị chính trị trong triều, mà sang thời kỳ này việc sử dụng nhân sinh quan
Phật giáo trở nên thành thục và hiệu quả hơn. Họ đã biết kết hợp rất nhuần
nhuyễn những yếu tố tích cực của các giáo và chỉ sử dụng những ưu điểm
của chúng trong từng việc, từng lĩnh vực của nền chính trị. Với mục đích rất
thực dụng ấy, mặc dù vẫn coi trọng Phật giáo, song các nhà chính trị tất yếu
vẫn sử dụng Phật giáo trên cơ sở đan xen giữa Phật và Nho, Đạo và Phật hay
cả Nho, Đạo và Phật. Sự dung hợp này không chỉ thể hiện trong tư tưởng của
từng nhà chính trị mà còn trong từng giai đoạn chính trị.Đôi khi ảnh hưởng
này mật thiết đến mức khó lòng phân biệt.
Bởi, nền chính trị lúc này đang trên con đường hoàn thiện thể chế
chính trị và mô hình nhà nước, Phật giáo lại không phải học thuyết chính trị
nên việc bổ sung thêm các tư tưởng khác là tất yếu, đặc biệt phải kể đến tư
tưởng Nho giáo. Nhưng do lực lượng nho sĩ trong triều còn mỏng. Tình cảm
và niềm tin của người dân vẫn đang hướng về Phật giáo. Nho giáo lúc này
vẫn chỉ ảnh hưởng ở phương diện xây dựng mô hình nhà nước, quy hoạch
các chức quan, soạn thảo các văn bản của triều đình… Còn để tập hợp lực
lượng, thống nhất nhân tâm, đoàn kết cả nước thì trong thời kỳ này, nhân
sinh quan Phật giáo vẫn là tư tưởng phù hợp và cần thiết hơn cả.
Điều này đã được chứng minh qua cuộc “bình Chiêm phá Tống” của
triều L và chiến thắng trước đội quân Nguyên-Mông hùng mạnh nhất thời
đại tới 3 lần ở thời Trần. Chiến thắng này không phải chủ yếu từ sức mạnh
vật chất, bởi cùng với triều L thời kỳ này, quân Tống-kẻ thù của chúng ta
có ưu thế về vật chất hơn nhiều; còn ở thời Trần, nhiều nước Châu Âu có
nguồn lực vật chất dồi dào nhưng vẫn chịu thất bại trước sự xâm lược của
quân Nguyên-Mông. Còn nếu nói đó là sức mạnh của tư tưởng Nho hay Lão
141
thì tại sao nhà Tống cũng thảm bại trước quân Nguyên-Mông, trong khi thời
ấy họ rất coi trọng đạo Nho và Lão, vì vậy, sức mạnh ấy chỉ có thể là ở tinh
thần, một tinh thần rất “thiền” của Phật giáo. Những triết l nhân văn, nhân
đạo trong thiền Phật giáo – lúc này đã lan rộng trong cả nước. Thời chiến nó
đã tạo nên khí thế hào hùng, khiến cho quân dân cả nước luôn sẵn sàng xả
thân vì nghĩa lớn; khi đất nước hòa bình, trên dưới một lòng, tất cả lại tích
cực chung tay xây dựng nước nhà, cả nướccùng chung một ý chí phục hồi và
phát triển đất nước.
Những hưởng t ch cực của nhân sinh quan Phật giáo đối với nền
chính trị. Chính vì lấy Phật giáo làm nhân sinh quan nền tảng, nên các nhà
chính trị đều phát huy tinh thần từ bi, hỷ xả, nhân ái, vị tha, bình đẳng, bác ái
của Phật giáo trong việc trị nước. Nhân sinh quan Phật giáo, vì vậy, đã tạo
nên những hình mẫu những nhà chính trị lý tưởng. Sự hiện diện của nhân
sinh quan Phật giáo ở thời Lý-Trần, không phải chỉ qua sách vở, qua các lời
giảng của các thiền sư, hay ở các hiện vật Phật giáo để lại, mà đã đi vào tâm
thức, hành động, chính sách của vua, quan – các nhà chính trị thời phong
kiến. Nhiều vua, quan thời L -Trần được nhân dân ngưỡng mộ và được coi
là Phật, ồ Tát đã giải thoát ở c i trần. Mọi bởi tư tưởng, hành vi, lối sống
của họ đều toát lên tinh thần từ bi, hỷ xả, nhân nghĩa, vị tha mà họ tiếp thu từ
nhân sinh quan Phật giáo. Trong thời chiến, họ đồng cam cộng khổ với nhân
dân, sẵn sàng xả thân vì nước, thời bình thì bố thí cho kẻ bần cùng, xá tội
cho người lầm lỗi để tạo cơ hội cho họ quay về làm ăn lương thiện.
Tuy vẫn lấy nhân sinh quan Phật giáo làm nền tảng, nhưngtrong tư tưởng
củacác nhà chính trị còn có sự kết hợp nhân sinh quan của Nho và Đạo. Chính
sự kế thừatam giáo một cách sáng tạo đã sản sinh ra nhiều hiền tài cho đất
nước, họ vừa là những vị lãnh đạo có được cái “tài” quyết đoán trong trị nước
do ảnh hưởng bởi Nho giáo; vừa có được cái “tầm” của nhà dự báo do ảnh
hưởng bởi Đạo giáo; lại có được cái “tâm” luôn thấm đượm tinh thần từ bi, hỷ
xả của Phật giáo. Đó là những phẩm chấtđáng qu của một nhà chính trị. Bởi
142
vậy, triều đại này đã xuất hiện mẫu hìnhnhững nhà chính trị l tưởng, những
người biết tu dưỡng bản thân mình, đồng thời thực hành giáo lý từ bi trong
trị nước, khiến cho xã hội Lý-Trần ngày càng trở nên tốt đẹp, chính trị ổn
định lâu bền, dù trải qua bao biến cố, nhưng bản sắc và nguồn cội văn hóa dân
tộc vẫn được bảo tồn và phát triển.
Nhân sinh quan Phật giáo góp phần hình thành nên tư tưởng “Đức
trị” trong đường lối chính trị thời Lý-Trần. Nhưng tư tưởng đức trị thời Lý-
Trần lại mang màu sắc “từ bi” của Phật giáo. “Từ là tình thương rộng lớn.
Bi là sự thông cảm sâu sắc với nỗi khổ chúng sinh, của loài
người”[282,22].Từ bi của Phật giáo, khác với tư tưởng nhân ái trong “đức
trị” của Nho giáo. Đức trị của Nho giáo “dựa trên cơ sở huyết thống để phân
biệt thân sơ, dựa vào địa vị xã hội để phân biệt trên dưới. Phạm vi Nhân ái
của Nho giáo chủ yếu là con người chứ không bao quát mọi chúng sinh, mọi
sinh vật như Từ bi của Phật giáo”[59,122].
Nền chính trị từ bi này được nhân dân hết lòng ủng hộ. Tuy Nho giáo
cũng khuyến khích việc lấy đạo đức để trị nước, nhưng “đạo đức Nho giáo
mang tính kinh viện, sách vở, chỉ có tầng lớp trên có chữ đọc sách thánh
hiền thì đạo đức Nho giáo mới thấm vào họ, còn đạo đức Phật giáo gần gũi
với tầng lớp bình dân hơn rất nhiều”[52,173]. Dù đức trị của Nho giáo cũng
giống với Phật giáo ở tư tưởng nhân ái, nhưng nhân ái của Nho giáo dựa trên
sự phân biệt địa vị, đẳng cấp trong xã hội, nên có phần hạn chế và có sự
phân biệt giữa người này và người kia. Còn nhân ái của Phật giáo có phạm
vi bao quát hơn, không phân biệt thân sơ, không một chút vị kỷ. Đối tượng
mà Phật giáo nói đến không chỉ là con người mà làmọi chúng sinh, vì vậy,
“đức trị” theo tinh thần của Phật giáo là một đường lối chính trị nhân bản.
Bởi vậy, trong thời chiến nhân sinh quan Phật giáo có thể góp phần
tập hợp lực lượng, thống nhất cả nước cho mục đích chung – nếu người
đứng đầu hội đủ Tuệ mẫn và được coi như một vị Phật sống và sẽ được nhân
dân yêu mến, ngưỡng mộ mà đi theo; còn khi xã hội có loạn lạc, bất ổn nếu
143
sử dụng hợp lý những triết lý của nhân sinh Phật giáo có thể làm dịu đi
những mâu thuẫn, thức tỉnh nhân tâm. Đấy chính là những ưu điểm của nhân
sinh quan Phật giáo đã được các nhà chính trị triều đại Lý-Trần tận dụng, tuy
vậy, tư tưởng này không phải không có những hạn chế.
Nhân sinh quan Thiền Phật giáo thực chất là tư tưởng góp phần xây
dựng nên nền tảng đạo đức, niềm tin cho con người. Nó hướng con người
đến những hành vi, lối sống từ bi, hỷ xả; bởi cuộc đời “vô ngã” nên hãy vị
tha với mọi người, diệt trừ “tham, sân, si” để có một thân tâm trong sáng,
không “vọng động”, như vậy sẽ đạt giải thoát thành “Phật”, vậy tìm về với
chính cái “Tâm Phật” bên trong con người mình chính là giải thoát … Ở góc
độ nào đó, nó có ảnh hưởng tích cực và giúp các nhà chính trị sùng Phật rèn
luyện cho mình một đạo đức trong sáng, trí tuệ minh mẫn, để có được sức
mạnh trong chiến đấu, sáng suốt trong trị nước. Tuy nhiên, nhân sinh quan
Phật giáo cũng có những hạn chế đối với nền chính trị thời Lý-Trần. Nhân
sinh quan của nó không thể thay thế cho các tư tưởng khác trong việc xây
dựng và hoàn thiện mô hình nhà nước phong kiến quân chủ tập quyền ở thời
Lý-Trần, thậm chí cũng mang lại những ảnh hưởng tiêu cực.
Nhân sinh quan Phật giáo mang lại một niềm tin mơ hồ về sự giải
thoát, khi Thượng Sỹ Tuệ Trung nói với vua Trần Nhân Tông về quan điểm
cốt lõi của Thiền, ông cho rằng việc tu Thiền, đạt đạo không nằm ở hình
thức: “Trì giới và nhẫn nhục - Chuốc tội chẳng chuốc phúc” [121,546]. Đây
là quan điểm của người đã đắc đạo. Thời Trần, chỉ có Thái Tông, Tuệ Trung
và Nhân Tông mới được coi là đã giải thoát, nên chỉ họ mới có được tâm thế
và thái trạng thái đó. Nếu không thực sự am hiểu, thấu đáo các triết lý nhân
sinh về tính “nhập thế” của Phật giáo như: “hòa quang đồng trần”, “cư trần
lạc đạo”, sẽ dẫn đến thái độ coi thường việc tu luyện thân tâm, tùy tiện trong
hành động, vô tư hưởng thụ mà không chú đến giới luật của nhà Phật. Bởi
vậy, khi nói với Trần Nhân Tông quan điểm của mình về việc trì giới, nhẫn
nhục là “tội hay phúc”, Tuệ trung lại phải nhắc “nhỏ” thêm: “Chớ có bảo cho
144
người không đáng bảo”[121,546].
Đặc biệt, cuối thời Trần nhân sinh quan của thiều phái Trúc Lâm dần
trở nên hư ảo, xa rời thực tiễn, không hướng đến giải quyết những vấn đề
của đời sống, cải tạo xã hội của con người hiện thực, “quá thiên trọng đến
đời sống nội tâm, khai thác sâu vào khía cạnh tâm linh con người mà bỏ
quên những mối quan hệ rất cơ bản để hình thành con người hiện thực với
toàn bộ thực tiễn của họ”[15,166]. Có thể, sau Trần Nhân Tông các vị thiền
sư cao cấp của Phật giáo không còn tham gia chính trị, nếu có quan hệ với
các nhà chính trị trong triều cũng chỉ nhằm phục vụ mục đích tâm linh-tôn
giáo, nên nhân sinh quan đã tách biệt hẳn với chính trị và không tìm cách
đáp ứng những đòi hỏi của nền chính trị đương thời nữa.
Cũng cần phải thấy rằng, sau nhiều năm triều Lý-Trần tôn sùng Phật
giáo, đã dẫn đến nhiều hệ quả tiêu cực mà bản thân các nhà vua không ý
thức đến. Tầng lớp quý tộc nhà Lý-Trần là những đại diện tiêu biểu cho sự
sùng bái thái quá với Phật giáo. Nhiều chùa tháp, chuông khánh, tượng Phật
có quy mô lớn được tầng lớp tông thất, quý tộc xây trong thời Lý làm hao
tốn tiền của và nguyên khí quốc gia. Sang thời Trần hiện tượng xây dựng có
hạn chế hơn, triều đình và giai cấp quý tộc chủ yếu chỉ mở rộng hoặc trùng
tu những ngôi chùa có từ trước. Khiến nho thần Lê Quát từng than: “Chỗ
nào có người ở, tất có Phật, bỏ rồi lại xây, hỏng rồi lại sửa, chuông trống lâu
đài chiếm đến phần nửa so với dân cư”[18, 396]. Tuy nhiên, giai cấp quý tộc
thời Lý-Trần lạiquá coi trọng việc xây chùa, dựng tháp, đúc tượng. Họ cho
rằng đó là biểu hiện của lòng từ bi, hỷ xả, tích đức và hành động này sẽ
mang đến sự may mắn, bình an, giải thoát,nên dù phải tiêu tốn rất nhiều tiền
của nhưng họ vẫn mãn nguyện. Đôi khi, vì quá mải mê với nó mà họ đã
quên đi việc đời, xao nhãng việc nước.
Thêm nữa, Phật giáo trong khoảng thời gian rất dài được triều đình
tôn sùng, các thiền sư được hưởng nhiều quyền lợi về kinh tế. Sự ưu ái quá
mức này đã tạo điều kiện cho nhiều kẻ cơ hội lợi dụng để kiếm lợi. Bản thân
145
sư tổ Pháp Loa cũng lo lắng trước thực trạng này: “Số đông tăng sĩ ngoài
giáo hội, tuy họ mặc áo cà sa, nhưng tâm còn nặng chuyện thế tục, hay lười
biếng không chịu học đạo. Thậm chí còn có không ít tăng lữ lợi dụng cửa
thiền đề trốn lính, trốn phu” [15,129].
Nhân sinh quan Phật giáo lúc này không còn phát triển theo hướng
tích cực nữa, đa số các phật tử không còn nghiêm túc học tập, đầu tư phát
triển giáo lý.Điều này khiến các nhà tư tưởng chân chính của Phật giáo cũng
cảm thấy bất lực và dần lui vào nơi thanh vắng để thỏa chí tu thiền tránh đi
những tranh chấp của thời đại. Thiền sư Huyền Quang-tổ thứ ba của phái
Trúc Lâm Yên Tử cũng đã sớm nhìn thấy sự đen bạc của thế thái nhân tình,
Đức mỏng, thẹn thùng đèn tổ nối,
Luốn cho Hàn, Thập nhiều phen nổi hờn căm.
Chi bằng theo bạn về non quách,
Núi dựng non che vạn vạn tầng [121,689].
nên đã sớm có định ẩn dật:
Điều này càng tạo điều kiện cho Nho giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ và
dần thay thế địa vị của Phật giáo trong nền chính trị. Cùng với việc, Nho
giáo cuối thời Trần đã phát triển và dần đáp ứng được những đòi hỏi của
thực tiễn mới của nền chính trị, còn tư tưởng nhân văn, nhân đạo của Phật
giáo lúc này không còn phát huy tác dụng như buổi đầu – khi mới hình thành
triều đại Lý-Trần nữa. Vì vậy, việc Nho giáo ngày càng có ảnh hưởng mạnh
mẽ và chiếm địa vị quan trọng trong nền chính trị là tất yếu.
Có thể thấy, về cơ bản Phật giáo không phải học thuyết bàn nhiều đến
chính trị, vì vậy, nhân sinh quan của nó chỉ cần thiết trong giai đoạn cần có
sự liên kết tinh thần trong triều đình, củng cố niềm tin cho nhân dân, nhằm
phục vụ công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Khi nền chính trị đã ổn
định, nền độc lập đã được củng cố, nhà nước cần một thể chế chính trị
“chuyên nghiệp”, với một hệ thống quan lại được đào tạo bài bản.Thì Phật
giáo với tư tưởng “vô ngã”, “tri túc”với các thiền sư không muốn tham gia
thường xuyên vào công việc triều chính, đã không thể giải quyết được những
146
vấn đề cấp thiết của một nền chính trị trong thời kỳ mới. Thêm nữa, nhân
sinh quan Phật giáo không thể giúp triều đình hoàn thiện được bộ máy nhà
nước quân chủ tập quyền và ban hành các văn bản, pháp chế cho triều đại.
Qua đó, Nho giáo dần trở thành tư tưởng chiếm ưu thế đối với nền chính trị
vào cuối triều Lý-Trần. Triều đại cũ theo đó cũng dần mất vị thế, để thay thế
cho một triều đại mới, mở ra một trang sử mới cho dân tộc.
Như vậy, về cơ bản mối quan hệ giữa Phật giáo và chính trị trong thời
Lý-Trần là cần thiết và phù hợp. Thể hiện ở chỗ, khi Phật giáo được giai cấp
thống trị tạo điều kiện thuận lợi, nhà vua và triều đình coi trọng sự tham vấn
của các thiền sư, cao tăng, và bản thân họ đều học - hiểu giáo lý Phật giáo,
thì nền chính trị sẽ ổn định, kinh tế phát triển, đất nước thịnh trị. Khi các vua
không chuyên cần học đạo (xa rời triết l nhân văn của Phật giáo) cũng là khi có những biểu hiện ăn chơi, hưởng lạc đạo đức xã hội sa sút22; quan lại
trong triều thì sa vào tam độc (tham, sân, si); trong dân có nhiều người lợi
dụng sự ưu ái của nhà nước với Phật giáo để vun vén cho lợi ích của bản
thân, trốn tránh nghĩa vụ công dânkhi ấy sẽ báo hiệu sự suy vong của triều
đại. Lúc này, tồn tại xã hội cũ đã mất đi, đòi hỏi sự ra đời của ý thức xã hội
mới, theo đó, tư tưởng chủ đạo được giai cấp thống trị mới lựa chọn, cũng sẽ
được thay thế bởi một tư tưởng mới, phù hợp hơn.
4.2.2. Ý nghĩa của vi c kế thừa những ảnh hưởng tích cực của nhân sinh
quan Phật giáo tới tư tưởng chính trị thời Lý-Trần trong vi c xây dựng
văn hóa chính trị ở Vi t Nam hi n nay
4.2.2.1. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo tới tư tưởng chính trị đã
tạo nên văn hóa chính trị tích cực ở thời Lý-Trần
Dù “về nguồn cội là một nhân tố ngoại sinh, thế nhưng nhiều giáo lý
của chư Phật – chư ồ tát đã từ lâu ngấm vào lòng người Việt Nam như
ngấm vào lòng đất mẹ”[22,301].Vì vậy, nhân sinh quan Phật giáo đã trở
thành một thành tố không thể thiếu, xây dựng văn hóa chính trị ở thời Lý-
22 Triều Lý bắt đầu từ thời vua Lý Cao Tông, thời Trần bắt đầu từ Trần Phế Đế.
147
Trần. Điều này được hiểu là thái độ, cách thức ứng xử nhân văn, nhân đạo
của cả giai cấp nắm quyền và thái độ của nhân dânđối với nhữngđường lối,
chính sách của nhà nước, biểu hiện cụ thể là:
Thứ nhất: Thời Lý-Trần, nhà chính trị luôn tôn trọng nguyện vọng của
nhân dân, nên họ đã lựa chọn được hệ tư tưởng mà nhân dân yêu mến và tạo
điều kiện cho tư tưởng ấy phát triển. Tuy nhiên, để Phật giáo ngày càng phù
hợp với thực tiễn chính trị, nên dù tin dùng Phật giáo, nhưngcác nhà chính trị
vẫn sử dụng Nho giáo và Đạo giáo. Bởi trong triết lý nhân sinh của Phật giáo
không phải đã hoàn bị, nên vẫn cần được bổ sung triết lý nhân sinh của đạo
Lão, hay chuẩn mực đạo đức trong đạo Nho...Nhờ đó, giai cấp thống trị đã
tận dụng tối đa sức mạnh của nhân sinh quan Phật giáo, khiến nó trở thành
công cụ hỗ trợ đắc lực, hiệu quả cho nền chính trị. Điều này cho thấy, giai
cấp thống trị đã rất nhạy bén với thực tiễn chính trị, đồng thời rất linh hoạt
trong việc vận dụng và lựa chọn tư tưởng để hỗ trợ cho nền chính trị của
triều đại.
Thứ hai: Thời Lý-Trần, các nhà chính trị không chỉ tận dụng Phật giáo
để phục vụ mục tiêu chính trị mà bản thân họ cũng học hỏi nghiêm túc
những triết l nhân văn từ bi, bác ái, bình đẳng, vị tha… của Phật giáo, để
thấu hiểu và triển khai nó trong thực tiễn. Vì vậy, các quyết sách, đường lối
của nhà nước cũng thấm đượm tinh thần nhân văn, nhân đạo của Phật giáo.
Nhân sinh quan Phật giáo đã thực sự góp phần xây dựng nên một nền văn
hóa chính trị tích cực, được nhân dân hết lòng ủng hộ thời Lý-Trần.Từ
đó,giai cấp thống trị hoàn thành tốt sứ mệnh của mình, giúp cho một dân tộc
đất không rộng, người không đông, nhưng đã chiến thắng trước mọi thế lực
xâm lược lớn để xây dựng một quốc gia thịnh trị.
Thứ ba: Nhiều nhà chính trị Lý-Trần không chỉ yêu mến Phật giáo, mà
còn am tường triết lý nhân sinh của Phật giáo. Bởi vậy, triều đại L -Trần đã
xuất hiện vị vua-quan có từ tâm, ở trên ngôi cao mà vẫn khoan hồng, độ
lượng; những vị thiền sư hết lòng vì dân vì nước mà không nghĩ đến danh lợi
148
của bản thân; hay những bà hoàng có hành động từ bi, được nhân dân tôn
làm Phật bà.Vì vậy, họ đã tạo nên uy tín chính trị– một nhân tố quan trọng
trong văn hóa chính trị. Uy tín này được xây dựng trên cơ sở trình độ hiểu
biết, nhân cách đạo đức, tài năng của các nhà chính trị… Qua đó, nhân dân
luôn tin tưởng và yêu mến nhà chính trị và tích cực đóng góp cho công cuộc
xây dựng đất nước.
4.2.2.2. Sự cần thiết phải kế thừa bài học về ảnh hưởng của nhân sinh quan
Phật giáo đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần trong việc xây dựng nền văn
hóa chính trị ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay, dù điều kiện kinh tế-xã hội, văn hóa-tư tưởng của Việt Nam
có nhiều thay đổi, các nhà chính trị xuất thân là phật tử không nhiều, các nhà
chính trị cũng không đồng thời là các thiền sư như ở thời Lý-Trần nữa,
nhưng triết lý nhân sinh của Phật giáo vẫn là một chỗ dựa tinh thần vững
chắc vàảnh hưởng đếný thức, tình cảm của đại đa số nhân dân.Bởi “lịch sử
của Phật giáo Việt Nam gắn liền với lịch sử của dân tộc và chủ nghĩa yêu
nước của dân tộc Việt Nam, đã quyện vào, đã hòa nhập vào tư tưởng Phật
giáo”[22,139]. Chính vì vậy, Phật giáo vẫn có ảnh hưởng lâu dài, bền vững
trong xã hội ngày nay. Nhân sinh quan Phật giáo cũng góp phần làm cho nền
chính trị Việt Nam mang đậm tính nhân văn, nhân đạo, đồng thời Phật giáo
cũng khơi dậy thức độc lập, tự chủ và tinh thần yêu nướccủa người Việt, từ
đó tạo ra văn hóa chính trị tích cực.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nhân sinh quan Phật giáo Việt
Nam đã có nhiều đổi mới để phù hợp hơn với thực tiễn. Như, làm mềm hóa
giới luật “cấm sát sinh” hay “không được sát sinh” bằng quan niệm: kêu gọi
bảo vệ sự sống của muôn loài; Về giới luật “cấm uống rượu” được giải thích
mở rộng như: không dùng các chất ma túy, không tiêu thụ các sản phẩm văn
hóa độc hại như: sách báo, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, âm nhạc…
23 Hòa Thượng Thích Minh Châu (1918-2012), từng giữ nhiều vị trí cao trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam; ông được coi là một trong những người uyên thâm Phật pháp nhất của Việt Nam và thế giới.
149
có nội dung không lành mạnh. Với giới luật “không trộm cắp”, thì Hòa thượng Thích Minh Châu23 - Đại biểu Quốc hội các khóa VII, VIII, IX và X;
cho rằng: không phải chỉ là những hành vi trộm cắp lộ liễu mà còn cả những
hành vi buôn lậu, tham nhũng, lừa đảo, lật lọng trong buôn bán để kiếm lời
bất chính. Việc bổ sung một số nội dung mới về mặt giới luật, nhằm đưa
nhân sinh quan Phật giáo trở nên gần gũi, thiết thực hơn với đời sống xã hội
hiện nay, đồng thời thu hút quần chúng đến với đạo nhiều hơn, từ đó họ mới
học đạo, hiểu đạo và trở nên sống có đạo đức hơn.
Tiếp nối truyền thống gắn đạo với đời, “nhập thế” tích cực có từ thời
Lý-Trần. Tôn chỉ của Giáo hội Phật giáo thể hiện rất rõ lập trường chính
trịtrong quan hệ chặt chẽ với Nhà nước: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã
hội” và đó là sự kế thừa có chọn lọc theo những tư tưởng quan điểm “khế l ,
khế cơ” của Phật giáo nguyên thủy và truyền thống của Phật giáo Việt Nam
đã có từ thời L -Trần. Phật giáo Việt Nam không chỉ gắn bó với tiến trình
phát triển của lịch sử dân tộc, mà cả trong công cuộc đổi mới của đất nước
hiện nay. Phật giáo không còn hạn chế hoạt động của mình trong chùa chiền
và tu viện, hay trong các buổi cầu nguyện, lễ bái… mà còn tham gia vào
những công việc từ thiện, hoạt động chính trị, tham gia các hoạt động ngoại
giao với các nước, nhằm bảo vệ chủ quyền đất nước. Phật giáo ngày nay đã
quan tâm đến các vấn đề mà cuộc sống hiện thực đặt ra như: giáo dục tư
tưởng, văn hóa-xã hội, kinh tế-chính trị... Phật giáo nhấn mạnh giáo l tốt
đẹp của mình nhằm xây dựng một xã hội công bằng, tốt đẹp trên trần thế,
gắn kết tín ngưỡng với việc cải thiện tình trạng xã hội hiện thực.
Có thể nhận thấy, Phật giáo Việt Nam luôn cụ thể hóa triết l nhân sinh
từ bi, bình đẳng, bác ái… của mình đến hiện thực và luôn sống hòa đồng với
chúng sinh, để hoạt động của mình có ảnh hưởng tích cực nhất đến đời sống
chính trị-xã hội hiện đại. Trong các tôn giáo được công nhận về tổ chức ở
Việt Nam, chỉ có Phật giáo xác định r ràng phương hướng hành đạo không
chỉ phục vụ cho dân tộc mà còn gắn với chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, dù có vai trò nhất định trong quá trình hình thành tư tưởng
150
chính trị tích cực và nhân sinh quan Phật giáo đã góp phần không nhỏ vào
công cuộc giữ nước và phát triển đất nước, nhưng các triết lý nhân sinh của
Phật giáo vẫn có điểm hạn chế. Nhiều yếu tố trong nhân sinh quan Phật giáo
không còn phù hợp với tiến trình xây dựng tư tưởng chính trị tích cực cho
Việt Nam thế kỷ XXI, thậm chí trở thành lực cản trong quá trình xây dựng
đời sống tinh thần của một bộ phận nhân dân, đó là tâm l hướng nội, chỉ
hành động theo cảm tính, không coi trọng khoa học-kỹ thuật, không quan
tâm đến việc cải tạo thực tiễn, dễ bằng lòng với mình, ngại tranh đấu... Nếu
như những tư tưởng này không được hạn chế, khắc phục kịp thời, sẽ có tác
động tiêu cực, bào mòn dần sức sống, khả năng sáng tạo của dân tộc Việt nói
chung và nền chính trị Việt Nam nói riêng.
4.2.2.1. Một số kiến nghị nhằm phát huy những yếu tố tích cực và hạn chế
những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong việc ây
dựng văn hóa chính trị ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất: Nhà nước cần nhận thức tầm quan trọng của Phật giáo trong
việc xây dựng nền văn hóa chính trị tích cực. Trong các giá trị văn hóa đang
tồn tại ở Việt Nam thì tư tưởng Phật giáo là yếu tố tinh thần chứa đựng nhiều
giá trị văn hóa truyền thống mà đến nay nó vẫn trở thành nhu cầu thiết yếu
để nuôi dưỡng tâm hồn dân tộc. Gìn giữ và phát huy những giá trị tốt đẹp
trong nhân sinh quan Phật giáo cũng chính là một cách khơi dậy những giá
trị truyền thống tốt đẹp trong lịch sử xa xưa mà ông cha đã từng làm đã từng
chiêm nghiệm (về cả những thành công và thất bại) và giờ đây trở thành
những bài học qu giá cho thế hệ ngày nay kế thừa, vận dụng sao cho phù
hợp. Ở các nước phát triển, tôn giáo vẫn đang tồn tại bền vững như một hiện
tượng văn hóa đã ăn sâu, b n rễ vào đời sống dân tộc, bản thân chính phủ
các nước cũng nhìn nhận tôn giáo như một hiện tượng khách quan và khẳng
định tôn giáo đã góp phần làm nên bản sắc dân tộc của nước họ. Chính vì
vậy, Việt Nam cũng nên đánh giá tôn giáo một cách nghiêm túc và công
bằng, để có sự định hướng đúng đắn. Đặc biệt là Phật giáo-một tôn giáo có
151
sự phát lâu dài ở Việt Nam và vẫn chứa đựng nhiều giá trị đối với dân tộc và
luôn nhận được thiện cảm của cộng đồng. Từ đó, mới có điều kiện tận dụng
có hiệu quả những ảnh hưởng tích cực từ nhân sinh quan của Phật giáo để
xây dựng một nền chính trị có văn hóa.
Ở Việt Nam trong quá khứ và hiện tại, tôn giáo có ảnh hưởng mạnh
mẽ hơn cả đến tiến trình phát triển của dân tộcluôn là Phật giáo. Khi đời
sống tinh thần và vật chất phát triển có thêm điều kiện để nhận thức sâu sắc
và phát triển những giá trị của nhân sinh quan Phật giáo, nhưng cũng chính
những giá trị nhân sinh ấy lại quay trở lại tác động tích cực đến tư tưởng,
quan điểm củacon người, giúp họ nhận thức thực tiễn chính xác hơn, từ đó
có bản lĩnh hơn trong đối mặt với mọi biến động của đời sống. Thời L -
Trần, các nhà chính trị thấu triệt những giá trị ấy của nhân sinh quan Phật
giáo để vận dụng nó một cách hiệu quả, thì thời đại ngày nay, các nhà chính
trị Việt Nam cũng có thể kế thừa những bài học từ quá khứ để vận dụng
những gì thích hợp, góp phần tích cực trong việc xây dựng văn hóa chính trị
cho Việt Nam hiện nay.
Hai là: Tuyên truyền, giáo dục để người dân hiểu đúng bản chất của
Phật giáo. Vì là một tôn giáo, nên Phật giáo cũng không thể đưa đến cho con
người một nhân sinh quan hoàn toàn tích cực. Tư tưởng nhân sinh của Phật
giáo luôn có sự pha trộn chất hư vô chủ nghĩa, đôi khi dẫn dắt con người
hướng đến con mắt nhìn đời một cách bi quan, yếm thế, nếp sống khổ hạnh,
không có khát vọng, không tin tưởng vào khả năng của bản thân, dẫn đến
ngại giao tiếp, không chịu khó tìm tòi khám phá, k m năng động, sáng tạo
nên không đáp ứng được với nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường.
Nhiều yếu tố nhân sinh của Phật giáo không phù hợp, thậm chí trở thành lực
cản trong quá trình xây dựng đời sống tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Đó là tâm lý hướng nội, chỉ hành động theo cảm tính, không coi trọng khoa
học-kỹ thuật, không quan tâm đến việc cải tạo thực tiễn, dễ bằng lòng với
mình, ngại tranh đấu... Nhân dân cần phải nhận thức đúng đắn bản chất của
152
Phật giáo, để hạn chế những tiêu cực và phát huy những tích cực của nó.
Vì vậy, cần nâng cao trình độ dân trí cho người dân, để họ nhận thức
được những ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo nói chung và nhân sinh quan
Phật giáo nói riêng. Công tác nâng cao dân trí không chỉ thể hiện ở việc đa
dạng hóa các loại hình giáo dục, xã hội hóa giáo dục để mọi người dân dễ
dàng tiếp cận với các trình độ đào tạo. Mà còn thể hiện ở việc tuyên truyền,
giáo dục cho người dân những chuẩn mực và quy tắc của đời sống văn hóa
mới, để dần dần nó ăn sâu trong đời sống, thói quen để bản thân họ biết nhận
thức đúng đắn nhân sinh tích cực và gạn lọc những yếu tố còn hạn chế trong
tư tưởng nhân sinh của Phật giáo. Khi trình độ dân trí của nhân dân nói
chung và đồng bào phật tử nói riêng được nâng cao, nhận thức về nhân sinh
quan Phật giáo trong họ sẽ đúng đắn hơn. Không những họ biết đánh giá,
nhận định những giá trị tích cực để kế thừa, mà bản thân họ còn chủ động
vận dụng những giá trị đó trong quá trình hoàn thiện bản thân, góp phần tạo
nên nền chính trị có văn hóa.
Ba là: Nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của người dân. Muốn
từng bước khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo, phải khắc phục
nguyên nhân tạo cơ sở cho sự tồn tại của Phật giáo. Hiện ở Việt Nam đời
sống vật chất và tinh thần của người dân phát triển chưa đồng đều. Phát triển
kinh tế, xóa bỏ đói nghèo, hạn chế tình trạng phân hóa giai cấp, áp bức bất
công trong xã hội được xóa bỏ, có thể sẽ làm c i Niết àn của Phật giáo
giảm đi sự hấp dẫn trong nhân dân, niềm tin về một thế giới hư ảo sẽ dần
mất đi. Còn những giá trị tích cực trong nhân sinh quan Phật giáo có thể vẫn
còn tồn tại và dung hợp với những nhân sinh quan của thời đại mới.
Phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân
trong đó có những tín đồ của Phật là điều kiện để con người phát triển toàn
diện, tự hoàn thiện về đạo đức, nhân cách. Qua đó cần tạo điều kiện cho họ
chủ động tiếp thu, chọn lọc những giá trị tích cực, phù hợp trong nhân sinh
Phật giáo. Việc phát huy những ảnh hưởng tích cực của nhân sinh quan Phật
153
giáo trong đời sống tinh thần của nhân dân sẽ có tác động tích cực trở lại,
góp phần thực hiện tốt công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, nhằm tạo thuận lợi cho một
nền văn hóa chính trị được duy trì và phát triển.
Tiểu kết chương 4
1. Như vậy, nhân sinh quan Phật giáo ảnh hưởng đến tư tưởng chính
trị thông qua hai yếu tố: thứ nhất: ảnh hưởng của Phật giáo đến chính trị thể
hiện qua đóng góp của các vị tăng sư; thứ hai, ảnh hưởng của nhân sinh quan
Phật giáo đối với chính trị thể hiện qua các đại diện vua, quan và các nhà
chính trị sùng Phật. Qua đó, nhân sinh quan Phật giáo ảnh hưởng đến chính
trị thời Lý-Trần thể hiện trên các phương diện: 1. Nhân sinh quan Phật giáo
trở thành một trong những yếu tố chủ đạo và có ảnh hưởng mạnh mẽ trong
hành động, tư tưởng của giai cấp nắm quyền, hay những người trực tiếp
tham gia hoạt động chính trị; 2. Triết lý nhân sinh của Phật giáo thời Lý-
Trần cũng đã tạo nên những nhà chính trị tài ba, trí tuệ và đầy bản lĩnh góp
phần tạo nên những thắng lợi quân sự vĩ đại của dân tộc thời kỳ này. 3. Nhân
sinh quan Phật giáo tác động cả trong tư tưởng, ý thức, thái độ, lối sống của
nhân dân trước các vấn đề chính trị. Điều đó giúp nhân sinh quan Phật giáo
dù chỉ tác động ở phương diện tinh thần, tư tưởng nhưng lại có sức ảnh
hưởng lớn không chỉ trên phương diện chính trị, mà cho cả sự phồn thịnh
của triều đại Lý-Trần.
2. Phật giáo thời L -Trần được cả triều đình và nhân dân yêu mến,
nhưng không vì thế mà Phật giáo lấn át chính trị, nó chỉ thể hiện sự hiện diện
trong chính trị thông qua đường lối, chủ trương của các nhà chính trị: xây
dựng thể chế chính trị, ổng định đất nước; Bảo vệ và củng cố nền độc lập,
giữ toàn vẹn lãnh thổ; Trấn áp các thế lực chống đối, phát triển đất nước,
giải quyết các vấn đề xã hội.Tuy nhân sinh quan Phật giáo có những ảnh
hưởng nhất định đối với triều đại nói chung và các nhà chính trị nói riêng,
nhưng trong thời Lý-Trần, nó không được coi là Quốc giáo, mà chỉ giữ vị trị
154
là tôn giáo truyền thống hay tôn giáo dân tộc. Bản thân Phật giáo lại không
là học thuyết chính trị vì vậy nó cần phải bổ sung học thuyết Nho và Đạo, để
trở nên phù hợp với nền chính trị hơn. Nhưng, nhân sinh quan Phật giáo
cũng đã có những ảnh hưởng tích cực đến nền chính trị qua việc trang bị cho
triều đại một đội ngũ lãnh đạo l tưởng và một nên đường lối “đức trị”,
mang đậm màu sắc từ bi, hỷ xả, nhân ái, vị tha của Phật giáo.
3. Có thể thấy nhân sinh quan Phật giáo đã góp phần xây dựng văn
hóa chính trị tích cực thời Lý-Trần. Bài học rút ra cho việc xây dựng văn hóa
chính trị hiện nay là vận dụng, phát triển những tư tưởng nhân văn, nhân đạo
- hiện vẫn còn phù hợp với văn hóa chính trị Việt Nam và hạn chế những
ảnh hưởng tiêu cực của nó. Ngoài ra, trong điều kiện thực tiễn hiện nay,
nhân sinh quan Phật giáo không còn là tư tưởng duy nhất phù hợp với nền
chính trị, các nhà chính trị có thể lựa chọn những tư tưởng khác theo tiêu
chí,phù hợp với thực tiễn chính trị và đáp ứng với nguyện vọng và chí của
người dân (hiện nay là chủ nghĩa Mác-Lênin). Quan trọng hơn cả là bản thân
giai cấp thống trị cũng cần phải hiểu đúng đắn để rồi có thể thực hành,vận
dụng tư tưởng ấy một cách hiệu quả, như thếmới phát huy tối đa khả năng và
ưu điểm của nó trong nền chính trị.
Đó là những nghĩa phương pháp luận có thể rút ra sau khi nghiên
cứu về những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư tưởng chính trị
thời Lý-Trần và cách thức vận dụng nhân sinh quan Phật giáo vào việc trị
155
nước của nhà chính trị thời Lý-Trần.
KẾT LUẬN
Có thể nhận thấy, thời Lý-Trần tồn tại cả Nho, Đạo và Phật giáo,
nhưng chỉ có Phật giáo là tư tưởng gắn bó chặt chẽ với với đời sốngtinh thần
của người dân, góp phần hình thành nên nhiều giá trị văn hóa truyền thống,
tiếp thêm sức mạnh, nuôi dưỡng tâm hồn dân tộc vượt qua bao biến cố của
thời đại. Triết lý từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha, tinh thần bình đẳng của nhân
sinh quan Phật giáo đã bổ sung thêm cho người dân những quan niệm về
cuộc sống, tự do, hạnh phúc, giải thoát mà Nho và Đạo chưa đáp ứng được,
khiến người Việt yêu mến và đề cao giáo l Phật giáo, vì thế mà, nó dần xâm
nhập vào đời sống chính trị của triều đình. Thêm nữa, để phù hợp với thực
tiễn đất nước và nhân sinh quan của con người Việt Nam, Phật giáo đã ngày
càng mang tinh thần nhập thế tích cực. Đặc biệt thời Lý-Trần, nhân sinh
quan Phật giáo được phát triển lên một bước mới, bởixu hướng dung hợp với
các hệ tư tưởng đương thời, trên nền tảng văn hóa dân tộc,giúp nó ngày
càngđáp ứng đượcnhu cầu của thực tiễn chính trị. Cụ thể, tư tưởng về con
người, đời người; tư tưởng về đạo đức; và tư tưởng về giải thoát đã có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến nền chính trị thời Lý-Trần, thông qua đại diện của mình
là các thiền sư giữ vai trò cố vấn (thời Lý) hay thẩm thấu trong chính tư
tưởng của những nhà chính trị mộ đạo (thời Trần).
Tuy nhiên, để xây dựng, củng cố và hoàn thiện nhà nước phong kiến
Đại Việt, các nhà chính trị Lý-Trần vẫn sử dụng học thuyết chính trị-xã hội
của Nho giáo trên cơ sở kết hợp với Phật giáo, nhằm bổ sung chỗ khiếm
khuyết của nhân sinh quan Phật giáo. Mặc dù, Nho giáo là tư tưởng bàn
nhiều đến vấn đề chính trị, trong triều đình, Nho giáo đã có ảnh hưởng ở
việc xây dựng thể chế chính trị, mô hình quan lại và thiết chế nhà nước
phong kiến tập quyền. Song, do đặc thù lịch sử du nhập Nho giáo ở Việt
Nam nên, thiện cảm dành cho Phật giáo vẫn rất lớn và việc sử dụng Nho
156
giáo vẫn bị hạn chế. Vì thế, trong nhân dân vẫn đang phổ biến tư tưởng nhân
sinh Phật giáo, trong triều các nhà Nho còn rất hiếm, tư tưởng Nho thường
được sử dụng qua các đại diện của Phật giáo. Các triều cũng đã tận dụng đội
ngũ các nhà sư trí thức giàu đạo hạnh với trình độ học vấn uyên bác, Phật
giáo vì vậy đã có mối quan hệ mật thiết với nền chính trị. Sang thời Lý-Trần,
các vua đã kế thừa truyền thống đó và phát triển nhân sinh quan Phật giáo
lên một trình độ cao hơn, để tận dụng tối đa sức mạnh của nó cho mục đích
chính trị.
Bản thân Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng
không có mục đích tự thân là làm chính trị. Mục đích cao cả nhất của Phật
giáo là giải thoát cho hết thảy chúng sinh, không phân biệt đẳng cấp, giới
tính… Tuy nhiên, trong quá trình dựng nước và giữ nước, trong công cuộc
mưu sinh đầy gian khó của dân tộc, đã khiến Phật giáo Việt Nam muốn tồn
tại và phát triển phải “nhập thế”, dù cũng nhằm hướng tới mục tiêu giải thoát
nhưng không xa rời cuộc sống, tu thiền những vẫn hướng đến những vấn đề
thiết thực của cuộc sống, phải “nhập thế hành đạo”. Bởi vậy, nhân sinh quan
Phật giáo thời Lý-Trần, luôn gắn với khát vọng độc lập dân tộc, tự do và
hạnh phúc của nhân dân trong tiến trình dựng nước, giữ nước và phát triển
đất nước. Do đó, những nhiệm vụ chính trị của triều đình đều có ảnh hưởng
hoặc bị chi phối bởi những triết lý của nhân sinh quan Phật giáo.
Nhân sinh quan Phật giáo đã góp phần xây dựng một nền chính trị có
văn hóa. Một số đường lối chính trị cơ bản như, xây dựng thể chế nhà nước,
ổn định xã hội; bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ; trấn áp các thế
lực chống đối, phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội…đều có ảnh
hưởng bởi triết lý nhân sinh mang tính nhân văn, nhân đạo của Phật giáo.Có
thể nói, nhờ những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo,triều đình đã
thiết kế lên một nền đức trị mang màu sắc Phật giáo, và một đội ngũ lãnh
đạo có lối sống giản dị, gần gũi, chừng mực trong hưởng thụ, gây ảnh hưởng
tích cực trong dân. Chính vì vậy, nhân dân luôn mến mộ các nhà chính trị và
157
hết lòng ủng hộ các chính sách của triều đình. Điều này đã tạo ra cuộc chiến
“toàn dân, toàn diện”, góp phần quan trọng vào những thắng lợi liên tiếp
trước các kẻ xâm lược hùng mạnh ở cả triều Lý và Trần.
Có thể khẳng định, sự kết hợp tư tưởng của Nho và Đạo trong nhân
sinh quan Phật giáo, đã tạo nên sức mạnh và thành công của các nhà chính
trị và triều đại Lý-Trần. Tuy vậy, trong khuôn khổ của luận án, tác giả mới
chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu những đường lối, chính sách của triều đại bị
ảnh hưởng chủ yếu bởi nhân sinh quan Phật giáo. Nhưng để chỉ ra hay phân
biệt một cách chính xác trong đường lối, chủ trương nhất định nào đó, đâu là
ảnh hưởng của Nho, đâu là ảnh hưởng của Đạo và ảnh hưởng của Phật
chiếm liều lượng bao nhiêu thì luận án chưa có điều kiện phân tích. Thêm
nữa, trong mỗi giai đoạn lịch sử hay trong tư tưởng của từng nhà chính trị
cũng có sự ảnh hưởng và cách thức vận dụng khác nhau đối với tư tưởng
Nho, Đạo hay Phật trong nền chính trị. Việc chỉ ra sự ưu ái Nho, Đạo hay
Phật trong tư tưởng của từng nhà chính trị và trong từng giai đoạn của triều
đại Lý-Trần cũng chưa được làm rõ trong luận án, hy vọng vấn đề này sẽ
được làm rõ trong các nghiên cứu tiếp theo.
Ngày nay, xã hội Việt Nam hiện đại đã khác xa so với xã hội thời Lý-
Trần, tuy nhiên, ảnh hưởng của Phật giáo trên lĩnh vực tư tưởng vẫn còn khá
r n t. Đồng thời,tư tưởng từ bi, hỷ xả, vị tha, nhân văn của Phật giáo vẫn
ảnh hưởng nhất định trong suy nghĩ, tình cảm và lối ứng xử nhân dân, trước
những diễn biến chính trị đất nước. Điều này, cũng góp phần không nhỏ tạo
nên sức mạnh trên mặt trận quân sự - ngoại giao của Việt Nam. Đó là l do
ta nên tìm hiểu những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với chính
trị thời Lý-Trần, để kế thừa và đồng thời cũng để loại bỏ những yếu tố không
còn phù hợp, nhằm đưa nhân sinh quan Phật giáo góp phần tích cực vào việc
158
xây dựng văn hóa chính trị của Việt Nam trong thời kỳ mới.
ANH MỤC CÁC C NG TR NH ĐÃ C NG Ố
1. Nguyễn Lan Anh (2012), Phật giáo và tính cách con người Việt Nam,
Tạp chí Khoa học công nghệ và môi trường công an, số 21, trang 80-81.
2. Nguyễn Lan Anh (2012), Phật giáo thời Lý-Trần, Tạp chí Khoa học công
nghệ và môi trường công an, số 22, trang 77-78.
3. Nguyễn Lan Anh (2013), Sự phát triển của Phật giáo Việt Namthời Lý-
Trần, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 3, trang 44-52.
4. Nguyễn Lan Anh (2013), Giáo dục khoa cử thời Lý-Trần, Tạp chí Khoa
học giáo dục, số 89, trang 36-38.
5. Nguyễn Lan Anh (2015), Phật giáo với sự phát triển tư tưởng chính trị từ
khởi nguyên đến thời Lý-Trần, Tạp chí Giáo dục l luận, số 231, trang 76-81.
6. Nguyễn Lan Anh (2015), Triết lý nhân sinh của thiền Đại thừa thời Lý-
159
Trần, Tạp chí Khoa học ã hội Việt Nam, số 8(93), trang 41-49.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Đào Duy Anh (2004), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
2. Huỳnh Công Bắc (2008), Lịch sử Văn hóa Việt Nam, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
3. Nguyễn Thị Bảy (1997), Văn hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà
Nội và Châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thông tin, Hà Nội.
4. Nguyễn Thanh ình (2007), Học thuyết chính trị Nho giáo và ảnh hưởng
của nó ở Việt Nam (từ đầu thế kỷ XI đến nửa đầu thể kỷ XIX), Nxb. Chính trị
quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
5. Thích Đồng Bổn(2006), Vai trò chính trị của các tăng sĩ Phật giáo ở thời
đại Lý - Trần, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
6. Đoàn Trung Còn (1967), Phật học từ điển, tập 2, Nxb. Phật học tòng thơ, Sài
Gòn.
7. Thích Minh Châu (chủ biên, 1995), Đạo đức Phật giáo, Viện nghiên cứu
Phật học Việt Nam ấn hành.
8. Thích Minh Châu (1999), Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, Nxb. Thành phố
Hồ Chí Minh.
9. Minh Chi (1984), Về những dòng tư tưởng cơ bản ảnh hưởng tới sự hình
thành nền văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam, Một số vấn đề lý luận về
lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết học, Hà Nội.
10. Minh Chi (2003), Truyền thống văn hóa và Phật giáo Việt Nam, Nxb. Tôn
giáo, Hà Nội.
11. Doãn Chính (1997), Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội
12. Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nxb. Sử học,
Hà Nội.
13. Phan Huy Chú (1962), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2, Nxb. Khoa học
160
xã hội, Hà Nội.
14. Nguyễn Trọng Chuẩn (chủ biên, 2006) Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam,
tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
15. Trương Văn Chung (1998), Tư tưởng triết học của thiền phái Trúc Lâm
đời Trần, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Trương Văn Chung, Doãn Chính (Đồng chủ biên, 2008), Tư tưởng Việt Nam
thời Lý-Trần, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Đại học Oxford, Từ điển chính trị diễn nghĩa (bản tiếng Nga, 2001), Nxb.
Toàn thế giới, Matxcơva.
18. Đại Việt sử k toàn thư (2011, tái bản), Nxb. Thời Đại, Hà Nội.
19. Đỗ Công Định (2003), Nét tương đồng giữa hạn từ bi của đạo Phật và tư
tưởng nhân đạo ở Hồ Chí Minh, Tạp chí Triết học (số 7), tr.45-51.
20. Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb. Hà Nội.
21. Giáo hội Phật giáo ViệtNam (1990), Thiền Uyển tập anh (Ngô Đức Thọ và
Nguyễn Thúy Nga dịch), Phân viện nghiên cứu Phật học, Nxb. Văn học, Hà
Nội.
22. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2012), Đạo pháp-dân tộc-chủ nghĩa ã hội và
hòa bình, Nxb. Tổng hợp, T.p Hồ Chí Minh.
23. Trần Văn Giàu (1993), Sự phát triển của tư tưởng Việt nam từ thế kỷ XIX
đến cách mạng tháng Tám, tập 1, Nxb. T.p Hồ Chí Minh.
24. Trần Văn Giàu (1993), Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước
các nhiệm vụ lịch sử, Nxb. T.p Hồ Chí Minh.
25. Hoàng Xuân Hãn (1941), Lý Thường Kiệt – Lịch sử ngoại giao và tông giáo
triều Lý, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội.
26. Lê mậu Hãn (2008), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.
27. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2014), Một số đặc trưng của nhân sinh quan Phật
giáo Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 2 (128), Tr. 25-34.
28. Nguyễn Hùng Hậu (1996), Góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học Phật giáo
161
Trần Thái Tông, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
29. Nguyễn Hùng Hậu (1997), Lược khảo tư tưởng thiền Trúc Lâm Việt Nam
thời Lý-Trần, Viện nghiên cứu tôn giáo Hà Nội.
30. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam thời
Lý – Trần, Viện nghiên cứu tôn giáo Hà Nội.
31. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
32. Phạm Thị Thu Hiền (2010), Triết lý nhân sinh Phật giáo và ảnh hưởngcủa
nó đến đời sống tinh thần người Việt Nam, Kỷ yếu: Hội nghị Sinh viên
Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7, Đại học Đà Nẵng.
33. Nguyễn Duy Hinh (2005), Tuệ Trung, nhân sĩ, thượng sĩ, thi sĩ, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
34. Nguyễn Duy Hinh (2005), Triết học Phật giáoViệt Nam, Nxb. Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
35. Nguyễn Duy Hinh (2005), Văn minh Đại Việt, Nxb. Văn hóa Thông tin và
Viện Văn hóa, Hà Nội.
36. Nguyễn Duy Hinh (2009), Lịch sử đạo Phật Việt Nam, Nxb. Tôn giáo và
Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.
37. Thích Thiện Hoa (1994), Phật học Lý – Trần, Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
38. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển BKVN (1995), Từ điển Bách
khoa Việt Nam, Trung tâm Biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội.
39. Nguyễn Mạnh Hùng (1993), Văn học Lý – Trần, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
40. Phan Văn Hùm (1958), Phật giáo Triết học, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn.
41. Trần Đình Hượu (1984), Về đặc điểm tư tưởng Việt Nam, Một số vấn đề lý
luận về lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện triết học, Hà Nội.
42. Nguyễn Hải Kế (chủ biên, 2010), Ngàn năm lịch sử văn hóa Thăng Long –
Hà Nội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Trần Trọng Kim (tái bản 2010), Việt Nam sử lược, Nxb. Thời đại, Hà Nội.
44. Vũ Ngọc Khánh (1986), Phật giáo và văn hóa dân gian, Mấy vấn đề Phật
162
giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện triết học, Hà Nội.
45. Đinh Gia Khánh (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, tập 1, Nxb. Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
46. Phùng Văn Khai (2010), Danh tướng triều Trần, Nxb. Lao động, Hà Nội.
47. Phạm Trường Khang (2010), Các vua và Hoàng tộc triều Lý, Nxb. Hồng
Đức, Hà Nội.
48. Phạm Trường Khang (2010), Kể chuyện các vua và Hoàng tộc triều Trần,
Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.
49. Vũ Khiêu (chủ biên, 1974), Đạo đức học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
50. Khoa Triết học (2008), Tư tưởng Việt Nam thời Lý- Trần, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
51. Nguyễn Khương (biên tập 1993), Tuệ Trung Thượng sĩ với thiền tông Việt Nam,
Kỷ yếu hội thảo khoa học, Trung tâm nghiên cứu Hán nôm, Tp Hồ Chí Minh.
52. Đặng Thị Lan (2003), Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam,
Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
53. Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, Nxb. Văn học, Hà Nội.
54. LêninToàn tập (1976), tập 23, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
55. Phan Ngọc Liên (2006), Giáo dục và thi cử ở Việt Nam, Nxb. Từ điển bách
khoa, Hà Nội.
56. Lưu Văn Lợi (2000), Ngoại giao Đại Việt, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội.
57. Lịch sử Việt Nam (1971), tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
58. Nguyễn Công Lý (2014), Từ Phật giáo nhất tông đời Trần suy nghĩ về Phật
giáo Việt Nam hiện nay, Tạp chí nghiên cứu tôn giáo, số 08, tr. 116-125.
59. Hà Thúc Minh (2014), Từ bi của đạo Phật và đạo đức nhân loại, Nghiên
cứu tôn giáo, số 2 (128), tr. 116-125.
60. Dương Xuân Ngọc (chủ biên, 2001), Lịch sử tư tưởng chính trị, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
61. Phan Ngọc (2004), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà
163
Nội.
62. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên, 2003), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
63. Ngô Thì Nhậm (1978), Trúc Lâm tông chỉ Nguyên Thanh, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội.
64. Đức Nhuận (tái bản 2002), Phật học tinh hoa, Viện triết lý Việt Nam và triết
học thế giới, California.
65. Đức Nhuận (2009), Đạo Phật và dòng sử Việt, Nxb. Phương Đông, Đà Lạt.
66. ùi Thanh Phương (2000), Về mối quan hệ tam giáo trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam từ thời Bắc thuộc đến thời Lý-Trần, Luận văn thạc sĩ Triết học, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
67. Thích Thông Phương (2003), Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Nxb. Tôn giáo,
Hà Nội.
68. Lê Văn Quán (2008), Lịch sử tư tưởng chính trị-xã hội Việt Nam từ Bắc
thuộc đến thời kỳ Lý-Trần, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
69. Hồ Sỹ Quý (2007), Con người và phát triển con người, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
70. Phạm Văn Sinh (1995), Về vai trò của Phật giáo Việt Nam (qua triều đại
Lý), Luận án tiến sĩ Triết học, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.
71. Lê Văn Siêu (2004), Văn minh Đại Việt, Nxb. Thanh Niên, Bến tre.
72. Sogyal Rinpoche (2009), Đạo Phật trong văn hóa (Thanh Long và Trường
Tâm dịch),Nxb. Phương Đông, Hà Nội.
73. Thích Phước Sơn (dịch và trú, 1995), Tam tổ thực lục, Nxb. Viện nghiên cứu
Phật học, Hà Nội.
74. Suzuki (2008), Tâm thiền nhập môn, Nxb. Tổng hợp, Tp Hồ Chí Minh.
75. Suzuki (1971), Cốt tủy của Đạo Phật, Trúc Thiên dịch, Nxb. An Tiêm, Hà
Nội.
76. Lê Đình Sỹ, Nguyễn Danh Phiệt (1994), Kế sách giữ nước thời Lý – Trần,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
77. Vũ Minh Tâm (1996), Tư tưởng triết học về con người, Nxb. Giáo dục, Hà
164
Nội .
78. Nguyễn Thị Tâm (2012), Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị ở
Việt Nam thời Lý-Trần, Luận văn Thạc sĩ Chính trị học, ĐH Khoa học Xã
hội và Nhân văn Hà Nội.
79. Hà Văn Tấn (1978), Cuộc kháng chiến chống âm lược Nguyên Mông thế
kỷ XIII, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
80. Hà Văn Tấn (1998), Phật giáo đời Trần, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
81. Nguyễn Khánh Toàn (1992), Một số vấn đề của khoa học nhân văn, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
82. Nguyễn Thị Toan (2010),“Giải thoát luận Phật giáo”, Luận án tiến sĩ Triết
học, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.
83. Trần Thái Tông (1972), Khóa hư lục, Nxb. Khuông Việt, Sài Gòn.
84. Lê Hữu Tuấn (2000), Ảnh hưởng của những tư tưởng triết học Phật giáo
trong đời sống văn hoá tinh thần ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học. Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
85. Thích Minh Tuệ (1993), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Thành Hội Phật giáo
Tp. Hồ Chí Minh.
86. Thích Thanh Từ (1992), Phật giáo với dân tộc, Thành hội Phật giáo Tp Hồ
Chí Minh xuất bản.
87. Thích Thanh Từ (2001), Tại sao tôi lại chủ trương khôi phục Phật giáo thời
Trần, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
88. Thích Thanh Từ (2004), Thiền sư Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
89. Thích Thanh Từ (2007), Phật giáo trong lòng dân tộc, Nxb. Văn hóa-Thông
tin, Hà Nội.
90. Từ điển triết học (1978), Dịch từ bản tiềng Nga, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
91. Phùng Lô Tường (2010), Triết lý sinh tư Đông – Tây, Thích Hoằng Trí dịch,
Nxb. Phương Đông, Đà Lạt.
165
92. Nguyễn TrãiToàn tập (1976), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
93. Lê Mạnh Thát (1999), Nghiên cứu Thiền uyển tập anh, Nxb. Tp Hồ Chí
Minh.
94. Lê Mạnh Thát (tuyển chọn, 2000), Toàn tập Trần Nhân Tông, Nxb. Tp Hồ
Chí Minh.
95. Lê Mạnh Thát (2001), Lịch sử Phật giáo Việt Nam từ Lý Nam Đế (544) đến
Lý Thái Tông (1054), tập 2, Nxb. Tp Hồ Chí Minh.
96. Hoàng Đức Thắng (Thích Minh Trí, 2012), Quan hệ giữa nhà nước quân chủ
Lý-Trần với Phật giáo, Luận án Tiến sĩ sử học, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân
văn Hà Nội.
97. Thích Mật Thể (2004), Việt Nam Phật giáo sử lược, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
98. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
99. Thích Đức Thiện & Nguyễn Quốc Tuấn (đồng chủ biên, 2011), Kỷ yếu:
Phật giáo thời Lý với 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
100. Thích Tâm Thiện (1998), Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo, Nxb. TP Hồ
Chí Minh.
101. Hoàng Thị Thơ (2000), Vấn đề con người trong Đạo Phật,Tạp chí Triết học,
số 6, tr.41-44.
102. Hoàng Thị Thơ (2004), Sự hình thành tư tưởng Thiền Phật giáo, Luận án
Tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội.
103. Hoàng Thị Thơ (2005), Lịch sử tư tưởng thiền từ Vê đa Ấn Độ tới Thiền
Tông Trung Quốc, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
104. Hoàng Thị Thơ (2014), Triết lý nhập thế của Phật giáo và “Cư trần lạc
đạo” của Trần Nhân Tông, Tạp chí Triết học, số 3, 43-51.
105. Nguyễn Đăng Thục (1996), Thiền học Trần Thái Tông, Nxb. Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
106. Nguyễn Đăng Thục (1997), Thiền học Việt Nam, Nxb. Thuận Hóa, Long
An.
166
107. Nguyễn Khắc Thuần (2002), Nước Đại Việt thời Lý – Trần, Nxb. Hà Nội.
108. Nguyễn Khắc Thuần (2007), Tiến trình văn hóa Việt Nam từ khởi nguyên
đến thế kỷ XIX, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
109. Lê Thị Thủy (1997), Tìm hiểu tư tưởng triết học Phật giáo của Trần Nhân
Tông, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Hà Nội.
110. Nguyễn Văn Trung (1993), Một số hiểu biết về tôn giáo ở Việt Nam, Nxb.
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
111. Thượng sĩ Tuệ TrungNgữ lục (Trúc Thiên phiên dịch,1969), Nxb. Sài Gòn.
112. Nguyễn Tài Thư (tập hợp, 1986), Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng
Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
113. Nguyễn Tài Thư (chủ biên, 1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
114. Nguyễn Tài Thư (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với
con người Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
115. Chu Quang Trứ (2001), Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng, tôn giáo ở
Việt Nam, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.
116. Trần Trương (2010), Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Nxb. Văn hóa-Thông
tin, Hà Nội.
117. Trần Trương (2011), Chùa Yên Tử, Nxb. Văn hóa-Thông Tin, Hà Nội.
118. Trần Trương (2011), Danh nhân Yên Tử, Nxb. Văn hóa-Thông Tin, Hà Nội.
119. Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam (biên soạn, 1971), Lịch sử Việt Nam, tập
1, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội.
120. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý –
Trần, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
121. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học (1988), Thơ văn Lý –
Trần, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
122. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học (1978), Thơ văn Lý –
Trần, tập 3, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
123. Đặng nghiêm Vạn (1998), Về tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam hiện nay, Nxb.
167
Khoa học xã hội, Hà Nội.
124. Đặng nghiêm Vạn (2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt
Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
125. Viện khoa học xã hội (1993), Kỷ yếu hội thảo khoa học: Tuệ Trung Thượng
Sĩ với thiền tông Việt Nam, Trung Tâm nghiên cứu Hán Nôm, Tp Hồ Chí
Minh.
126. Viện Triết học (1986), Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởngViệt
Nam, Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam.
127. Viện Triết học (2002), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, văn tuyển tập 1, Nxb.
Chính trị Quốc gia Hà Nội.
128. Viện Nghiên cứu Phật học (chủ biên, 1990), Thiền uyển tập anh, Nxb. Văn học,
Hà Nội.
129. Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam (2010), Phật giáo đời Lý, Tủ sách Phật
giáo Dân tộc, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
130. Viện lịch sử Quân sự Việt Nam (1994), Kế sách giữ nước thời Lý-Trần,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
131. Viện nghiên cứu Lịch sử (1980), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
132. Viện sử học (1996), Phương thức sản xuất ở châu Á: Lý luận Mác - Lênin
và thực tiễn Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
133. Việt sử thông giám cương mục (1957), tập 3, Nxb Văn – Sử - Địa, Hà Nội.
134. Việt sử lược (1960), Nxb. Văn - Sử - Địa , Hà Nội.
135. Trần Thị Vinh(2010), Thể chế chính trị ở Việt Nam Thế kỷ XI-XIII thời Lý,
Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ III, chủ đề: “Việt Nam: Hội
nhập và Phát triển”.
136. Nguyễn Hữu Vui (1996), Mấy ý kiến góp phần tìm hiểu vai trò của đạo Phật
Việt Nam trong Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện
Triết học, Hà Nội.
137. Nguyễn Hữu Vui (chủ biên, 2002), Lịch sử triết học, Nxb. Chính trị quốc
168
gia, Hà Nội.
138. Trần Quốc Vượng (dịch và chú giải, 1960), Việt Nam sử lược, Nxb. Văn –
Sử - Địa, Hà Nội.
139. Trần Quốc Vượng (2005), Môi trường, con người và văn hóa, Nxb. Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
140. Nguyễn Như Ý (chủ biên, 1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
141. Walpola Rahula (1994),Lời Phật dạy, Nxb. Tp Hồ Chí Minh.
Trang Web:
142. Trọng Giáp, Báo Philippines ca ngợi Việt Nam truyền cảm hứng cho
ASEAN, trang web: vnexpress.net.
143. Nguyễn Thị Thu Hoan và Phạm Thị Huyền, Tìm hiểu thêm về anh hùng dân
tộc Lý Thường Kiệt qua hai tấm bia triều Lý trưng bày ở Bảo tàng lịch sử
quốc gia, trang web: baotanglichsu.vn.
144. Thái Kim Lan, Lý thuyết nhân quả trong triết học Phật giáo và trong học
thuyết siêu nghiệm của Kant, trang web: daophatngaynay.com.
145. Lịch sử Phật giáo, trang web: Wikipedia.ogr.
146. Huệ Minh, Phật giáo với văn hóa Việt Nam, trang web: thienlybuutoa.
147. Peter D. Santina, Nền tảng của đạo Phật (Thích Tâm Quang dịch), trang
web: budsas.org.
148. Hồ Sĩ Qu , Bí ẩn Châu Á trong tấm gương triết học Châu Á, trang web:
vanhoahoc.net.
149. Sri Dhammananda, Đạo Phật và chính trị, trang web: chuacaolinh.com.vn.
150. Nguyễn Tài Thư, Một số đặc trưng cơ bản của Nho giáo Việ Nam, đăng trên
trang web: tamnhin.net.
151. Nguyễn Khắc Thuần, Tăng ban trong bộ máy nhà nước thời Lý-Trần, trang
152. Thích Thanh Từ, Tại sao tôi chủ trương khôi phục Phật giáo đời Trần, trang
web: khoavanhoc-ngonngu.edu.vn.
169
web: thuong-chieu.org.
L Thái Tổ (1010-1028)
Lý Thái Tông (1028-1054)
Lý Thánh Tông (1054-1072)- - - -Ỷ Lan
Sùng Hiền Hầu
Lý Nhân Tông (1072-1127)
L Thần Tông (1128-1138)
Lý Anh Tông (1138-1175)
Lý Cao Tông (1176-1210)
L Huệ Tông (1211-1224)- - - - - - Trần Thị Dung- - - - - Trần Thủ Độ
Trần Thái Tông (1225-1258)- - - - - - Lý Chiêu Hoàng
Trần Thánh Tông (1258-1278)
Trần Nhân Tông (1279-1293)
Trần Anh Tông (1293-1314)
Trần Minh Tông (1314-1329)
(1341-1369)
Trần Hiến TôngTrần Duệ Tông Trần Nguyên (1329-1341)(1372-1377) Dục
Trần Nghệ Tông Trần Dụ Tông (1370-1372) Trần Thuận Tông Trần Ngạc Giả Định Đế Trần Phế Đế Dương Nhật Lễ (1388-1398) (1407-1409) (1377-1388) Trần Thiếu Đế Trùng Quang Đế (1398-1400)
(1409-1413)
170
PHỤ LỤC Sơ đồ 3.1: Các đời vua thời Lý-Trần
Pháp Đăng, Huệ Nghiêm
Thanh Biện
Phù Trì
Bối Đa
Pháp Thuận
Ma Ha
Vô Ngai
Sùng Phạm
Kiêu Trí Huyền
Sơ đồ 2.2: Dòng Thiền Tỳ Ny Đa Lưu Chi Tỳ Ni Đa Lưu Chi Pháp Hiền Nam Dương Định Không Thông Thiện La Quý Án Thiên Ông
Pháp Bảo
Định Huệ
Đạo Hạnh Trì Bát Thuần Chân
Vạn Hạnh
Pháp Y
Tịnh Hạnh, Pháp Nhãn
Thiên Nham
Minh Không
Bản Tịnh
Khánh Hỷ
Pháp Dung
Thảo Nhất
Huệ Sinh (cùng Hạc Lâm Pháp Thống) Quảng Phúc Giới Không
Trí Thiền
Chân Không
Đạo Lâm
Viên Học
Tịnh Thiền (cùng Tịnh Không)
Viên Thông
Pháp Ký
Diện Nhân Ni Sư
Sơn
171
Sơ đồ 2.3: òng Thiền Vô Ngôn Thông
Vô Ngôn Thông Cảm Thành
Thiện Hội Vân Phong Đa ảo
Đinh Hương
Thiên Lão
Quảng Trí
Lý Thái Tông
Viên Chiếu Cứu Chỉ (999-1090)
ảo Tích (?-1034)
Minh Tâm (?-1034)
Thông iện
(?-1134)
Ngộ Ấn (1020-1088)
Mãn Giác (1052-1096)
Hà Trạch
Đạo Huệ (?-1173)
iệt Tài
Không Lộ (?-1119)
ản Tịnh (1100-1176)
ảo Giác
Giác Hải
Nguyện Học (?- 1181)
Trường Nguyên (1110- 1165)
Minh Trí (?- 1196)
Tín Học (?- 1190)
Tịnh Không (1091- 1170)
Tịnh Lực (1112- 1175)
Trí ảo (?- 1190)
Tịnh Giới (?- 1207)
Đại Xả(11 20- 1180)
Quảng Nghiêm (1122-1190)
Thường Chiếu (?-1203)
Thần Nghi
Cư sĩ Thông Sư (?-1228) (cùng Quách Thần Nghi)
Trí Thông
Hiện Quang
Tức Lự
Cư sĩ Ứng Vương
172
Thảo Đường
Sơ đồ 2.4: òng Thiền Thảo Đường
Lý Thánh Tông
Bát Nhã
Ngộ Xá
Hoằng Minh
Không Lộ
Giác Hải
Phạm Âm
Lý Anh Tông
Đỗ Đô
Trương Tam Tạng
Chân Huyền
Thái phó Đỗ Thường
Lý Cao Tông
Nguyễn Thức
Phạm Phụng Ngự
Ngô Tham Chính Ích Thái phó Đỗ Anh Vũ Hải Tịnh
Vô Ngôn Thông
Lâm Tế
Thường Chiếu
Hiện Quang
Thông Thiền
Thần Nghi
Đạo Viên
Tức Lự
Ẩn Không
Đại Đăng
Ứng Thuận
Thiên Phong
Tiêu Diêu
Nhất Tông
Giới Minh
Huệ Tuệ
Thái Tông Thánh Tông Tuệ Trung Tông Cảnh
Trúc Lâm Pháp Loa
ảo Phác
Huyền Quang
173
Sơ đồ 2.5: Sự thống nhất của các thiền phái đầu thời Trần
Hình 3.1: Cổng tam quan chùa Nhất trụ
Hình 3. Cột kinh c nhất Vi t Nam nằm trong lầu tứ giác
Chùa Nhất Trụ (còn gọi là Chùa Một Cột) là ngôi chùa cổ có từ thế kỉ X,
nằm trong quần thể Khu di tích Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình).Chùa Nhất Trụ được
tạo lập năm 995, vua Lê Đại Hành đã cho dựng cột kinh (trụ đá) để khắc kinh
dâng nhà Phật. Chùa nằm ở vị trí trung tâm, là di tích quan trọng nhất, là nơi tu
hành và họp bàn việc nước của các nhà sư thế kỉ X như Pháp Thuận, Khuông Việt
và Vạn Hạnh.
174
Hình 3.3: Chiếu ời đô- ản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
175
Hình 3.4: Bài Cư Trần Lạc Đạo phú bản chữ Nôm của Trần Nhân Tông
Hình 4.5: ia chùa Linh Xứng
Trong bia Linh Xứng, thiền sư Hải Chiếu đã ca ngợi L Thường Kiệt: “Tuy
thân vướng việc đời, mà lòng vẫn hướng về đạo Phật”, chính vì có tấm lòng và tư
tưởng hướng Phật ấy mà đã thôi thúc ông chuyên làm những điều thiện đối với
dân, với nước.
Hình 4.6: Hịch tướng sỹ
176