VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN LAN ANH

NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ THỜI LÝ-TRẦN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

1

HÀ NỘI - 2016

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Lan Anh

NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG

CỦA NÓ ĐẾN TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ THỜI LÝ-TRẦN

Chuyên ngành: Triết học

Mã số: 62 22 03 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS HOÀNG THỊ THƠ

HÀ NỘI-2016

2

Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình

nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết

luận nêu trong luận án là trung thực, có

nguồn gốc rõ ràng và chưa từng được ai

công bố trong bất cứ một công trình khoa

học nào.

Người cam đoan

Nguyễn Lan Anh

3

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU…………………………..………………………………..........................

1

NỘI DUNG…………………………………………………………........................

7

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ……………………...……......…............................

7

1.1. Nhóm tài liệu và công trình về nhân sinh quan Phật giáo, nhân sinh quan

Phật giáo Lý-Trần ……………………….…..….................…...............................

7

1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về tư tưởng chính trị thời Lý-Trần…............

15

1.3. Nhóm tư liệu, công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của nhân sinh quan

Phật giáo đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần……………….............................

21

1.4. Những vấn đề được kế thừa và phát triển mới trong luận án…...…............

26

Chương 2: NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO VÀ NHÂN SINH QUAN PHẬT

GIÁO THỜI LÝ-TRẦN …………………………….......….....................................

30

2.1. Nhân sinh quan Phật giáo……....…...….............……...……….….................

30

2.2. Nhân sinh quan Phật giáo thời Lý – Trần…….....…………….....................

48

Chương 3: TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ THỜI LÝ-TRẦN VÀ CÁC NHÂN TỐ

ẢNH HƯỞNG……………………………................................................................

71

3.1. Tư tưởng chính trị thời Lý – Trần ………………………………..…............

71

3.2. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần….....

92

Chương 4: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN TƯ

TƯỞNG CHÍNH TRỊ THỜI LÝ-TRẦN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ VỚI VĂN

HÓA CHÍNH TRỊ VIỆT NAM HIỆN NAY………......….......................................

110

4.1. Một số ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư tưởng chính trị

thời Lý-Trần…………………………………………..……....…….......................

111

4.2. Đánh giá về những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư

tưởng chính trị thời Lý-Trần và ý nghĩ của nó trong việc xây dựng văn hóa

chính trị ở Việt Nam hiện nay………………………………………………...…..

135

KẾT LUẬN……..………..…………………………………....…............................

152

DANH M C CÁC C NG TR NH ĐÃ C NG Ố …..………………...................

155

DANH M C TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………..........

156

PH L C………………………………………………………..………….............

166

4

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Phật giáo ở hai triều đại Lý-Trần không thuần tuý chỉ là một bộ phận

của ý thức xã hội, nó không đứng độc lập bên ngoài chính trị, mà qua tinh

thần khoan dung, nhân đạo nó tác động không nhỏ đến nhiều chủ trương,

chính sách của triều đình và hoạt động xã hội của các nhà chính trị. Phật giáo

thực sự đã góp phần tạo nên một nền chính trị từ bi, nhân văn của thời Lý-

Trần. Có lẽ chính điều này đã khởi nguồn cho chính sách thân dân, dân chủ,

mà qua đó triều đình có thể tập hợp được sức người, sức của toàn dân phục

vụ cho công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Lập nên những

chiến công vang dội và mở ra một thời đại vàng son trong lịch sử. Vì vậy, dù

không phải là một học thuyết chính trị, nhưng vượt qua cả Nho giáo – hệ tư

tưởng chuyên bàn về chính trị-xã hội, nhân sinh quan Phật giáo ở thời Lý-

Trần đã phát huy được những ưu điểm và lợi thế của mình để trở thành sức

mạnh tinh thần hỗ trợ tích cựcđối với nền chính trị.

Có thể nói, việc chọn lựa tư tưởng nào làm chủ đạo ở mỗi thời kỳ đều

có nguyên do nhất định, mà nguyên nhân đầu tiên và cơ bản nhất phải kể đến

là do yêu cầu của thực tiễn chính trị, xã hội. Ở Việt Nam giai đoạn thế kỷ X

đến XIV, dù Nho giáo đã xuất hiện và bắt đầu được tạo điều kiện phát triển,

nhưng nhiều vị vua trị vì thời kỳ này vẫnđề cao Phật giáo, trên cơ sở kết hợp

với Nho giáo nhằm nâng cao hiệu quả trị quốc của bộ máy nhà nước trung

ương tập quyềntronggiai đoạn lịch sử lúc đó.Tuy nhiên, có nhiều ý kiến cho

rằng, thành tích vĩ đại của thời Lý-Trần không phải là của Phật giáo mà là

của Nho giáo, bởi trong những hệ tư tưởng xuất hiện ở thời Lý-Trần(Nho-

Đạo-Phật) thì Nho giáo mới thực sự là hệ tư tưởng chuyên bàn về chính trị-

xã hội. Song lại có kiến khác cho rằng, trong “thời kỳ Đại Việt thứ nhất –

thời kỳ Lý-Trần – là thời kỳ tam giáo với tính trội thuộc về Phật giáo, tuy

5

Phật giáo không phải là quốc giáo”[35,9]. Như vậy, cần phải làm r hơn mối

quan hệ giữa nhân sinh quan Phật giáo và tư tưởng chính trị, từ đó chỉ ra vai

trò của Phật giáo với chính trị ở thời Lý-Trần.

Giống như các triều đại phong kiến khác, xã hội thời Lý-Trần cũng có

sự phân tầng tương đối rõ nét, tầng lớp cao quý nhất đồng thời nắm giữ

quyền lực chính trị, kinh tế, tôn giáo là vua chúa và quý tộc; tầng lớp thứ hai

là địa chủ, quan liêu – họ cũng giữ một số chức vụ nhất định trong bộ máy

chính quyền; tầng lớp thứ ba là người lao động bình dân và nô tỳ, họ bị coi

là tầng lớp thấp hèn nhất trong xã hội. Nhưng khi đất nước bị ngoại xâm đe

dọacác tầng lớp trong xã hội đều chung sức một lòng đánh giặc, giữ nước.

Phải chăng, do ảnh hưởng của nhân sinh quan Thiền Phật giáo, đã tạo ra một

xã hội thuận hòa, đoàn kết nhưng rất dũng mãnh, kiên cường xông pha trận

mạc, không nao núng ngay cả quân giặc rất mạnh. Bởi thế đã lần lượt chiến

đấu và chiến thắng bao kẻ thù hùng mạnh. Đây là bài học về nghệ thuật phát

huy sức mạnh tinh thần nhằm liên kết nhân tâm, thống nhất lực lượng, mà

đến nay vẫn còn giá trị đối với nền chính trị Việt Nam.

Phật giáo là một tư tưởng phổ biến trong thời Lý-Trần, từ nơi đô thành

đến chốn thôn quê, nơi đâu cũng tôn sùng và thực hành theo giáo lý từ bi, hỷ

xả, bình đẳng, vị tha của nhân sinh Phật giáo. Giai cấp thống trị cũng yêu

mến và tôn sùng tư tưởng mà nhân dân yêu mến, họ không chỉ tận dụng sức

mạnh của giáo lý Phật giáo trong việc trị nước, mà bản thân họ đã thực hành

đạo lý này và trở thành những phật tử thuần thành. Điều này đã tạo nên lối

sống nhân nghĩa, thuần từ, vị tha của vua – quan, hoàng tộc trong triều đình.

Triết lý nhân sinh Phật giáo, đã góp phần tạo nên những nhà chính trị lý

tưởng, được tôn vinh là Phật, Bồ Tát hay Thượng Sỹ… khiến nhân dân hết

lòng yêu mến, ngưỡng mộ.Đây là một bài học qu giá để các nhà chính trị,

nhà quản lý xã hội đương thời tham khảo, để thấy được vai trò của việc tu

dưỡng đạo đức, nhân cách trong việc tạo nên uy tín chính trị trong dân, từ

đó, họ sẽ hết lòng ủng hộ các quyết sách của nhà nước, điều này chính là

6

ngọn nguồn cho mọi thắng lợi của nền chính trị và của cả đất nước.

Có thể nói, nền chính trị thời Lý-Trần đã kế thừa tư tưởng từ bi, hỷ xả,

bác ái, vị tha của Phật giáovà triển khai trong các chủ trương, đường lối

chính trị cụ thể của triều đại. Nhân sinh quan Phật giáo đã góp phần xây

dựng một nền văn hóa chính trị tích cực trong triều đại Lý-Trần, khiến nhân

dân tin tưởng và yêu mến. Đó là l do mà thời Lý-Trần, từ vua chúa, quý tộc

đến tầng lớp bình dân đều say mê đạo Phật, nhưng dân tộc đánh giặc vẫn rất

giỏi, chính trị vẫn ổn định, kinh tế vẫn phát triển. Đây là bài học có giá trị

thực tiễn cho việc xây dựng một nền văn hóa chính trị ở Việt Nam hiện nay

và định hướng đúng đắn cho sự phát triển của Phật giáo Việt Nam trong

tương lai. Bài học đó cho đến nay vẫn có giá trị lý luận và thực tiễn, nhưng

vấn đề này chưa có công trình phân tích chuyên sâu, điều này cũng sẽ cần

được luận giải cụ thể.

Luận án chọn nghiên cứu cả hai triều đại Lý và Trần, bởi: Thứ nhất,

triều Lý và Trần đều là hai triều đại phát triển cực thịnh trong lịch sử phong

kiến Việt Nam. Đây cũng là thời đại hào hùng của lịch sử với nhiều lần đánh

bại những đội quân xâm lược hùng mạnh nhất; Thứ hai, Tuy có sự chuyển

giao quyền lực giữa hai triều đại này, song cũng nhờ đóng góp tích cực của

Phật giáo mà nó được thực hiện trong hòa bình và không gây ra nhiều biến

động trong xã hội. Cũng vì vậy, chính sách cai trị ở hai triều đại này cũng

không có nhiều sự khác biệt; Thứ ba, Phật giáo ở cả hai triều đại này đều

được tôn sùng và thực sự có tiếng nói trên vũ đài tư tưởng và có ảnh hưởng

lớn trong đời sống chính trị. Chính vì có nhiều điểm tương đồng như vậy,

nên trên nhiều phương diện hai triều đại Lý-Trần đều có những điểm chung,

đặc biệt là trong các chủ trương, chính sách trị nước cũng có sự kế thừa và

thống nhất của triều đại sau với triều đại trước.

Ngày nay, Phật giáo vẫn được người Việt yêu mến và vẫn đồng hành

với tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Vậy, đứng trước những cơ hội

và thử thách của thời kỳ mới - thời kỳ phát triển kinh tế thị trường và toàn

7

cầu hóa ngày càng mạnh mẽ, nhân sinh quan Phật giáo có thể đóng góp gì

cho nền chính trị trong kỷ nguyên mới? Luận án tiếp cận vấn đề từ việc

nghiên cứu những nội dung nhân sinh quan Phật giáo có ảnh hưởng đến tư

tưởng của các nhà chính trị thời Lý-Trần, từ đó rút ra nghĩa của nó cho

công cuộc xây dựng văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay. Với những lý do

mang tính lý luận và thực tiễn trên, tác giả đã chọn đề tài Nhân sinh quan

Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trầnlàm

luận án tiến sĩ của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2. . c đ ch

Luận án làm rõ nội dung của nhân sinh quan Phật giáothời Lý-Trần,

sự phát triển của tư tưởng chính trị thời kỳ này và ảnh hưởng của nhân sinh

quan Phật giáo đến tư tưởng chính trị Việt Nam thời Lý-Trần.

2. . Nhi m v

- Làm r nội dung nhân sinh quan Phật giáo và nhân sinh quan Phật

giáo Lý-Trần.

- Phân tích sự phát triển của tư tưởng chính trị thời L -Trần và các

nhân tố ảnh hưởng đến tư tưởng chính trị, từ đó chỉ rõ thời kỳ này, nhân sinh

quan Phật giáo là tư tưởng có ảnh hưởng hơn cả đến chính trị .

- Làm r ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư tưởng chính

trị thời Lý-Trần và nghĩa nó đối với nền chính trị Việt Nam hiện nay.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam thời Lý-Trần và ảnh hưởng của

nó đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: trong khuôn khổ của luận án,đề tài chỉ xin tập trung

làm r nhân sinh quan Phật giáo ở thời Lý-Trần, qua một số nội dung: quan

điểm về con người, đời người; quan điểm về giải thoát; quan điểm về đạo

8

đức, được thể hiện qua tư tưởng của thiền sư, phật tử thời Lý-Trần, mà theo

tác giả có ảnh hưởng đến tư tưởng chính trị (Đường lối xây dựng thể chế

chính trị, ổn định xã hội; Đường lối bảo vệ thống nhất và toàn vẹn xã hội;

Đường lối trấn áp các thế lực chống đối, phát triển đất nước, giải quyết các

vấn đề xã hội) của thời Lý-Trần.

- Về tư liệu: luận án chủ yếu sử dụng các tư liệu lịch sử, công trình

nghiên cứu, sách, bài viết trên các tạp chí khoa học được dịch ra tiếng Việt

và đã được công bố rộng rãi.

- Về không gian và thời gian: nghiên cứu đời sống chính trị-xã hội

Việt Nam thời Lý-Trần, từ năm 1009 đến năm 1400.

4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

4. . Cơ sở lý thuyết

Luận án thực hiện trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về

tôn giáo, văn hóa, chính trị, đồng thời kế thừa thành tựu của các công trình đi

trước về nhân sinh quan, nhân sinh quan Phật giáo, tư tưởng chính trị, lịch sử tư

tưởng và lịch sử Phật giáo Việt Nam.

4. . Phương pháp nghiên cứu

Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của triết

học Mác-Lênin kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khác như phân

tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa và kết hợp sử dụng

phương pháp nghiên cứu liên ngành như: triết học, sử học, văn học, văn hóa

học, chính trị học.

5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án

Đóng góp mới của đề tài là tìm ra được những ảnh hưởng của nhân

sinh quan Phật giáo đến tư tưởng của các nhà chính trị thời Lý-Trần, nhằm

góp thêm một góc nhìn nhận, đánh giá khách quan về một thực tiễn lịch sử

đã từng diễn ra trong xã hội phong kiến Việt Nam, thế kỷ XI-XIV.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

9

6. . Ý nghĩa lý luận

Trên cơ sở phân tích một số nội dung cơ bản và rút ra đặc điểm của

nhân sinh quan Phật giáo thời Lý-Trần,luận án đã l giải nguyên nhân Phật

giáo có mối quan hệ với chính trị, và từ việc phân tích tình hình kinh tế-xã

hội, văn hóa-tư tưởng của thời Lý-Trần luận án khẳng định, trong bối cảnh

và điều kiện ấy, nhân sinh quan Phật giáo chính là tư tưởng phù hợp hơn cả

cho nền chính trị của triều đại. Từ đó, tác giả đưa ra nhiều lập luận, dẫn

chứng để chứng minh rằng những tư tưởng chính trị cơ bản của thời kỳ này

(xây dựng thể chế chính trị, ổn định xã hội; bảo vệ độc lập dân tộc và toàn

vẹn lãnh thổ; trấn áp các thế lực chống đối, phát triển đất nước và giải quyết

các vấn đề xã hội) đều có ảnh hưởng của tư tưởng từ bi, hỷ xả, nhân ái, vị

tha… của nhân sinh quan Phật giáo. Bởi vậy, Phật giáo thực sự đã xây dựng

một nền văn hóa chính trị tích cực cho triều đại Lý-Trần. Từ bài học này,

luận án đã khẳng định nghĩa của nhân sinh quan Phật giáo trong việc xây

dựng văn hóa chính trị ở Việt Nam và đưa ra một số kiến nghị nhằm kế thừa

những giá trị tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh

quan Phật giáo với việc xây dựng văn hóa chính trị thời đại mới.

6. . Ý nghĩa thực tiễn

Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và

giảng dạy về triết học, tôn giáo nói chung; lịch sử triết học, Phật giáo, nhân

sinh quan Phật giáo nói riêng; cho việc hoạch định chính sách đối với tôn

giáo của Đảng và Nhà nước.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh

mục công trình đã công bố và Phụ lục, Nội dung chính của Luận án gồm 4

10

chương, 10 tiết.

NỘI DUNG

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ

NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

Dựa trên cơ sở xác định đối tượng, mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài

“Nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng chính trị thời

Lý-Trần”, tác giả đã tham khảo các công trình nghiên cứu có liên quan của

các nhà khoa học đi trước, kế thừa những thành tựu nghiên cứu từ nhiều tài

liệu, tư liệu về chủ đề nhân sinh quan Phật giáo nói chung, nhân sinh quan

Phật giáo thời L -Trần nói riêng và tài liệu, tư liệu nghiên cứu về lịch sử,

văn hóa, xã hội Việt Nam thời L -Trần… trong đó đặc biệt là sự phát triển

của tư tưởng chính trị thời L -Trần, để đưa ra những dẫn chứng và phân tích

cụ thể về những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư tưởng chính

trị thời L -Trần như thế nào. Vậy xin được tổng quan thành một số nhóm

vấn đề như sau:

1.1. Nhóm tài liệu và công trình về nhân sinh quan Phật giáo, nhân sinh

quan Phật giáo Lý-Trần

Nhóm tư liệu về khái niệm nhân sinh quanvà các khái niệm liên quan:

Theo Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (chủ biên, 1999), Nxb. văn

hóa thông tin, Hà Nội, quan niệm: Nhân sinh quan là quan niệm về cuộc

đời, thành hệ thống bao gồm l tưởng, lẽ sống… Trong Từ điển Bách khoa

Việt Namdo Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển ách khoa Việt

Nam(1995), Nxb. Trung tâm iên soạn Từ điển ách khoa Việt Nam, Hà

Nội, thì định nghĩa đầy đủ hơn:Nhân sinh quan là bộ phận của thế giới quan

(hiểu theo nghĩa rộng), gồm những quan niệm về cuộc sống của con người:

lẽ sống của con người là gì? mục đích, nghĩa, giá trị của cuộc sống con

người ra sao và sống như thế nào cho xứng đáng? trả lời những câu hỏi đó là

11

vấn đề nhân sinh quan.

Đó là những định nghĩa khá cụ thể về nhân sinh quan, tác giả coi đây

là những khái niệm công cụ làm nền tảng, trên cơ sở đó có thể xây dựng

quan điểm nhân sinh quan riêng của bản thân và triển khai chi tiết hơn về nội

dung của nhân sinh quan Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo

Lý-Trần nói riêng.

Tuy nhiên, khi nghiên cứu nhân sinh quan nói chung và nhân sinh

quan Phật giáo nói riêng cần phân biệt sự khác nhau giữa quan niệm của triết

học Châu Á và Châu Âu. Trong bài viết Bí ẩn Châu Á trong tấm gương triết

học Châu Á (2007), của Hồ Sĩ Qu trên trang web vanhoahoc.net, tác giả đã

chứng minh có một nền triết học Châu Á rất khác với triết học của Châu Âu.

Để luận giải cho vấn đề đó, tác giả có đề cập đến khái niệm nhân sinh quan

và cho rằng điểm khác biệt cơ bản của hai hệ thống triết học này là quan

điểm về nhân sinh. Triết học Châu Âu thường không nói nhiều về nhân sinh,

mà thường đặt nó trong thế giới quan hay bản thể luận, còn trọng tâm của

triết học Châu Á là quan điểm về nhân sinh, như Nho giáo, Phật giáo và Lão

giáo. Từ đó tác giả phân tích khá rõ khái niệm về nhân sinh quan và các nội

dung chủ yếu của nhân sinh quan trong triết học Châu Á.

Các tài liệu đi sâu nghiên cứu về Phật giáo thời Lý-Trần gồm có Kỷ

yếu Hội thảo khoa học về Tuệ Trung Thượng sĩ với thiền tông Việt Nam,

Nguyễn Thị Thanh Xuân (chủ biên, 1993) do trung tâm nghiên cứu Hán

Nôm biên soạn và xuất bản; tác phẩm Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1 của

Nguyễn Lang(1994), Nxb. Văn học, Hà Nội; cuốn Lược khảo tư tưởng Thiền

Trúc Lâm Việt Nam của tác giả Nguyễn Hùng Hậu (1997), Nxb. Khoa học

xã hội; Tư tưởng thiền Trúc Lâm Việt Nam của Trương Văn Chung (1998),

Nxb. Chính trị Quốc gia; Lịch sử đạo Phật Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh

(1999), Nxb Tôn giáo và Nxb Từ điển Bắc Khoa; Luận án Tiến sĩ ngữ văn

của Nguyễn Công Lý (2000)về Văn học Phật giáo thời Lý-Trần, diện mạo

và đặc điểm, Đại học Sư phạm Hà Nội; Lịch sử Phật giáo Việt Nam (2 tập)

12

của Lê Mạnh Thát (2001), Nxb T.p Hồ Chí Minh…

Trước hết phải kể đến tác phẩm Việt Nam Phật giáo sử luận của

Nguyễn Lang (1994)đã kết hợp giữa viết sử và bình luận lịch sử, trên cơ sở

những đại diện tiêu biểu và các trường phái Phật giáo chính yếu xuất hiện

trong lịch sử, các mốc lịch sử quan trọng của Phật giáo Việt Nam. Tác phẩm

đã đưa ra những dữ liệu giá trị về thiên hướng phát triển của Phật giáo qua

các thời kỳ tương đối toàn vẹn và đầy đủ. Trong đó, tác giả đã giành nhiều

thời lượng để phân tích, làm r đặc điểm cơ bản của Phật giáo thời Lý và

Trần hay sự tồn tại và phát triển của các thiền phái giai đoạn nay như thế nào

và ảnh hưởng của nó đến các lĩnh vực của đời sống ra sao qua các nhà tư

tưởng tiêu biểu.

Tác phẩm Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát (2001), dựa

trên những cứ liệu lịch sử phong phú, tác giả đã hệ thống về tiến trình hình

thành và phát triển của Phật giáo Việt Nam. Đặc biệt, tác giả đã đề cập khá

đậm nét về giai đoạn phát triển của Phật giáo Lý-Trần, đồng thời só sánh nó

với thời kỳ Phật giáo chấn hưng ở thế kỷ XX.

Kỷ yếu Tuệ Trung Thượng sĩ với thiền tông Việt Nam (1993), là tập

hợp các bài viết nghiên cứu hành trạng và tư tưởng của Tuệ Trung Thượng sĩ

– đại diện tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách sống của Thiền sư Đại Việt

thời Trần, của Thiền Tông Việt Nam. Các bài viết trong đó đều tập trung

phân tích tầm ảnh hưởng quan trọng của tư tưởng Phật giáo đến đời sống xã

hội thời Trần, đến các tầng lớp thống trị, tướng sĩ và nhân dân. Chình nhờ

ảnh hưởng đó mà tạo nên sức mạnh giúp Đại Việt 3 lần chiến thắng quân

Nguyên-Mông. Một số bài viết cũng chỉ ra hướng phát triển của Phật giáo

Việt Nam hiện nay và đóng góp của nó trong thời đại mới.

Cuốn Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam của Nguyễn

Hùng Hậu (1997) đã phân tích khía cạnh bản thể luận,nhân sinh quan của

các thiền sư, phật tử thời Trần như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ

Trung Thượng sĩ, Pháp Loa, Huyền Quang. Họ là những đại diện tư tưởng

13

Phật giáo ở giai đoạn phát triển đỉnh cao của Phật giáo ở thời kỳ Nhà Trần.

Công trình này đã mang lại cái nhìn khái quát về nội dung nhân sinh quan

của Phật giáo thời Trần, làm cơ sở quan trọng để tác giả Luận án đưa ra

những nhận định, so sánh về tư tưởng nhân sinh của Phật giáo thời Lý và

Trần, qua đó rút ra những ảnh hưởng tích cực của Phật giáo đối với chính trị.

Tác phẩm Tư tưởng triết học của thiền phái Trúc Lâm đời Trần của

Trương Văn Chung (năm 1998) tập trung nghiên cứu những tiền đề về xã

hội, tôn giáo và tư tưởng ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của

Thiền phái Trúc Lâm. Trong đó tập trung phân tích ảnh hưởng tư tưởng của

Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ đến sự ra đời của phái thiền Trúc

Lâm mà sau này vua Trần Nhân Tông, là người sáng lập. Nội dung cơ bản

của thiền phái Trúc Lâm được khảo sát qua tư tưởng của tam tổ là: Trần

Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang. Tác phẩm cũng nêu lên những đặc

trưng cơ bản của phái Thiền này, trong đó nhấn mạnh tính chất nhập thế

nhằm mục đích chính trị và phụng sự dân tộc, bảo vệ quyền lợi quốc gia của

Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử thời Trần.

Đề tài của Nguyễn Công Lý (2000) về Văn học Phật giáo thời Lý-

Trần, diện mạo và đặc điểm, dù nghiên cứu ở góc độ văn học nhưng công

trình đã có những phân tích khá chính xác về ảnh hưởng của tư tưởng Phật

giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng của thời đại Lý-Trần

tới các sáng tác văn học, tư duy nghệ thuật và cả đời sống văn hóa xã hội

thời kỳ này. Đề tài cũng đã khái quát được những đặc trưng của thời đại Lý-

Trần, từ đó phân tích sự tương tác giữa Phật giáo với con người Việt Nam

trong bối cảnh đất nước đang xây dựng và bảo vệ nền độc lập và hình thành

bản sắc văn hóa dân tộc đặc thù. Đề tài phân tích rất chi tiết về ảnh hưởng

của tư tưởng Phật giáo đến ý thức, tinh thần xã hội qua các tác phẩm văn

học. Đây là những nội dung quan trọng được luận án này đánh giá cao và

tiếp tục kế thừa, phát triển.

Nhóm công trình có liên quan tới vấn đề nhân sinh quan Phật giáo

14

nói chung và nhân sinh quan Phật giáo – Thiền, đây là loại hình Phật giáo

phổ biến ở Đại Việt thời Lý-Trần, gồm các công trình sau: Thiền học Việt

Nam của Nguyễn Đăng Thục (1966), Nxb. Thuận Hóa; Tìm hiểu nhân sinh

quan Phật giáo của Thích Tâm Thiện(1995), Nxb. Tp Hồ Chí Minh, Tp Hồ

Chí Minh; Nền tảng của đạo Phật của Peter D. Santina viết năm 1996, Thích

Tâm Quang dịch, đăng trên trang budsas.org; Đại cương triết học Phật giáo

Việt Nam, Tập 1: Từ khởi nguyên đến thế kỷ XIV, của Nguyễn Hùng

Hậu(2002), Nxb. Khoa học xã hội; Nhân sinh của Phật giáo trích từ cuốn

Thế giới tái sinh Duy Nguyễn dịch(1999), Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội;

Nhân sinh quan Phật giáo của Hòa thượng Thích Thanh Từ đăng trên trang

web: thuongchieu.net; Nhân sinh quan Phật giáo của Thích Thiện Hoa đăng

trên trangweb: tangthuphathoc.net; bài nghiên của Nguyễn Thị Thúy Hằng

(2014) Một số đặc trưng của nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam đăng trên

tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 2 (128), tr 25-34.

Tác phẩmThiền học Việt Nam của Nguyễn Đăng Thục (1966), trình

bày tư tưởng của một số Thiền sư Việt Nam từ thời Bắc thuộc đến thế kỷ XV

thông qua các tác phẩm tiêu biểu của họ. Trong đó có giành nhiều nội dung

phân tích sự tương tác giữa chính trị và tư tưởng thiền Phật giáo ở Việt Nam

thời kỳ này. Qua việc phân tích những nội dung cơ bản trong triết lý nhân sinh

của thiền tác giả đã chỉ ra chính nhờ tính thực tiễn của nó đã làm cho tư tưởng

Phật giáo Việt Nam dễ hòa vào các triết l đương thời và có thể tìm thấy ở cả

tư tưởng chính trị.

Tác phẩm Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo của Thích Tâm Thiện

(1995) đã chỉ ra nguồn gốc của nhân sinh quan Phật giáo, và trình bày thuyết

Duyên sinh - Vô ngã qua các bộ kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng già.

Đồng thời, dưới góc độ nghiên cứu của triết học, tác giả khái quát những chỉ

dẫn của Phật giáo để trở thành con người l tưởng, hạnh phúc ngay trong cõi

đời này.

Trong cuốn Nền tảng của đạo Phật, tác giả trình bày 12 bài giảng về

15

lịch sử ra đời của đạo Phật và những phần giáo l căn bản nhất của đạo Phật

như: tứ diệu đế, l nhân duyên, nghiệp, ngũ uẩn...Tác phẩm đã mang lại

những góc nhìn mới,xuất phát từ quan niệm của một Phật tử ở phương Tây

và đã cố gắng làm r từng nội dung trong quan niệm nhân sinh của đạo Phật

nguyên thủy.

Nhân sinh Phật giáo trích từ cuốn Thế giới tái sinh của Chu Sở(1999)

đã chứng minh cho tính đúng đắn của các luận đề về nhân sinh của Phật giáo

như: thuyết luân hồi, thuyết định mệnh, thuyết nhân-quả, quan niệm về hạnh

phúc thực sự của loài người… trên cơ sở so sánh, đối chiếu với các học

thuyết, các triết lý của các nhà khoa học hay các học giả lỗi lạc trên thế giới

như Anhxtanh, Galilê, Côpecnich, Khổng Tử, Tôn Trung Sơn.

Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1: Từ khởi nguyên đến

thế kỷ XIV của Nguyễn Hùng Hậu (2002) đã khái quát lịch sử Phật giáo Việt

Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XIV (thời Lý-Trần), đồng thời đi vào những

vấn đề cơ bản của Phật giáo nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng.

Trong đó, nội dung nhân sinh quan Phật giáo được tác giả khảo sát qua tư

tưởng của các thiền phái và các đại diện tiêu biểu của Phật giáo Việt Nam

trong mỗi triều đại.

Bài viết Một số đặc trưng của nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam của

tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng (2014), sau khi trình bày khái quát quan

niệm nhân sinh Phật giáo về con người và so sánh sự khác nhau giữa nhân

sinh quan Phật giáo Việt Nam với Trung Quốc và Ấn Độ, tác giả đã đưa ra

ba đặc trưng của nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam là: 1. Nhân sinh quan

Phật giáo Việt Nam có sự hòa quyện với văn hóa và các hình thức thờ cúng

bản địa; 2. Sự tương đồng giữa nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam với quan

niệm nhân sinh của con người Việt Nam; 3. Tinh thần nhập thế của Phật giáo

Việt Nam. Đây là những đánh giá tương đối chính xác góp phần làm một

trong những tham khảo có giá trị cho tác giả luận án. Luận án đã có sự kế

thừa và phát triển từ những nội dung đã kể trên và đưa ra những đặc điểm cơ

16

bản của nhân sinh quan Phật giáo Lý-Trần, từ đó đi đến khẳng định, nhờ

những đặc điểm này mà nhân sinh quan Phật giáo đã có mối liên hệ chặt chẽ

với chính trị.

Nhóm công trình có liên quan đến những chiều cạnh cụ thể của nhân

sinh quan Phật giáo gồm: Bài Giá trị của triết học Phật giáo trong xã hội

hiện đại của Phương Lập Thiên (2004) đăng trên Tạp chítiếng Trung Các

trào lưu tư tưởng đương đại, số 4/2004 do Nguyễn Hải Hoành dịch trên

trang web khaidoan.com; Cuốn Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người

Việt Nam của Đặng Thị Lan (2006), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội; Luận án

Tiến sĩ triết học với đề tài Giải thoát luận Phật giáo của Nguyễn Thị Toan

(2010), trường Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân văn Hà Nội; Lý thuyết

nhân quả trong triết học Phật giáo và trong học thuyết siêu nghiệm của Kant

của Thái Kim Lan đăng trên trang web daophatngaynay.com; Bài nghiên

cứu của Hoàng Thị Thơ (2000) Vấn đề con người trong đạo Phật đăng trên

Tạp chí Triết học, số 6/2000, trang 41-44; Bài nghiên cứu Từ bi của Phật

giáo và đạo đức nhân loại của tác giả Hà Thúc Minh (2014) trên Tạp chí

Nghiên cứu Tôn giáo, số 2 (128), 2014, trang 116-125.

Trong đó, có thể kể đến những tài liệu, những vấn đề liên quan trực

tiếp đến đề tài của tác giả luận án, như:

Cuốn Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam của Đặng

Thị Lan (2006) đã nghiên cứu và đi vào phân tích một số nội dung cơ bản

của đạo đức Phật giáo như từ bi, ngũ giới, nhân quả, nghiệp báo, luân hồi và

ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến lối sống của con người Việt Nam

trong giai đoạn hiện nay, bao gồm cả những tích cực và hạn chế. Từ đó, tác

giả đã đưa ra các giải pháp để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những

tiêu cực của đạo đức Phật giáo.

Luận án tiến sĩ Triết học Giải thoát luận Phật giáo của Nguyễn Thị

Toan (2010), trên cơ sở khái quát logic phát triển quan niệm về giải thoát

của Phật giáo qua các thời kỳ, đã khảo sát lịch sử quan niệm về giải thoát

17

trong lịch sử Phật giáo trong tư tưởng Việt Nam và đi sâu phân tích một số

biến đổi trong quan niệm giải thoát. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp

nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của

quan niệm này đối với đời sống Việt Nam hiện nay.

Bài Giá trị của triết học Phật giáo trong xã hội hiện đại (2004) của

Phương Lập Thiên, bàn nhiều về giá trị nhân sinh của Phật giáo. Xuất phát

trên nền tảng những xung đột, mâu thuẫn cơ bản của xã hội loài người để nói

lên sự cần thiết phải quay trở lại với các triết l nhân sinh cơ bản của Phật

giáo như: thuyết duyên khởi, thuyết nhân – quả, trung đạo, bình đẳng, từ bi,

giải thoát và phân tích cụ thể ảnh hưởng tích cực của các triết lý này trong

việc giải quyết những vấn đề phức tạp của xã hội hiện đại.

Bài Vấn đề con người trong đạo Phật của tác giả Hoàng Thị Thơ

(2010) khẳng định cốt l i trong tư tưởng Phật giáo là nhân sinh quan, thể

hiện ngay trong bản thể luận, vũ trụ luận và nhận thức luận, bởi vì mục đích

cuối cùng của đạo Phật là “diệt khổ” giải thoát lên c i “niết bàn” của con

người. Bài viết đã phân tích nền tảng triết lý nhân sinh cơ bản của Phật giáo

và mục đích l tưởng của nó là “giải thoát”, đồng thời đưa ra những đánh giá

về những ưu điểm và hạn chế trong triết lý nhân sinh Phật giáo.

Bài viết Từ bi của Phật giáo và đạo đức nhân loại của tác giả Hà

Thúc Minh (2014 ), trên cơ sở trình bày khái niệm “từ bi”, “từ” và “bi” trong

các kinh điển của Phật giáo, tác giả đã đưa ra quan niệm của mình về từ bi

và các giá trị liên quan để có được từ bi, như hỷ xả, vô ngã, nhân ái, bố thí,

trí… Đồng thời, tác giả cũng phân tích điểm giống và khác nhau giữa từ bi

của Phật giáo với nhân ái của Nho giáo hay bác ái của Kitô giáo. Tác giả cho

rằng điểm giống nhau là đều hướng đến cuộc sống nhân văn, nhân đạo,

nhưng với Nho giáo đó là cuộc sống của con người nói chung – thiên nhân

hợp nhất, còn Kitô giáo với quan niệm “con người sinh ra để cai quản muôn

loài”, còn Phật giáo quan niệm đó phải là lòng nhân ái cho chúng sinh, muôn

loài. Tác giả luận án cũng thống nhất với quan điểm này và triển khai nó

18

trong nhiều nội dung của đề tài.

1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về tư tưởng chính trị thời Lý-Trần

Nhóm công trình bàn về các khái niệm tư tưởng chính trị và các khái

niệm liên quan: Theo cuốn Lịch sử tư tưởng chính trị do Dương Xuân Ngọc

(chủ biên, 2001, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội) khái niệmchính trịđược

tiếp cận từ hai giác độ chủ yếu: thứ nhất, căn cứ vào những hình thức biểu

hiện của chính trị, những tư tưởng, học thuyết, cương lĩnh, đường lối của

chính đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, người ta xem chính trị là sản

phẩm trực tiếp của tư duy, là sự phản ánh của những quan hệ xã hội. Do đó

chính trị thuộc về kiến trúc thượng tầng; thứ hai, về nội dung, chính trị được

xem là dạng hoạt động vật chất đặc biệt của chủ thể chính trị nhằm theo đuổi

và thỏa mãn lợi ích, mà trước hết là lợi ích kinh tế. Đó là những hoạt động

nhằm giành, giữ, tổ chức, thực thi quyền lực nhà nước, hoạt động kiến tạo hệ

thống chính trị, nhằm duy trì sự thống trị của giai cấp thống trị. Đồng thời,

với những hoạt động đó, những quan hệ chính trị cũng nảy sinh và phát triển

giữa các chủ thể chính trị.

Còn khái niệm Tư tưởng chính trị được tác giả trình bày: là một hình

thức của ý thức xã hội, thuộc thượng tầng kiến trúc - là hệ thống những quan

niệm, quan điểm, học thuyết, phản ánh các mối quan hệ chính trị - xã hội đặc

biệt giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia - dân tộc xoay quanh vấn

đề giành, giữ, tổ chức và thực thi quyền lực chính trị diễn ra trong lịch sử,

cũng như thái độ của giai cấp, các dân tộc đối với quyền lực chính trị mà tập

trung ở quyền lực nhà nước qua các thời đại lịch sử.

Luận án đã kế thừa trực tiếp các quan điểm này, trên cơ sở đó triển

khai, phân tích tư tưởng chính trị (ý thức, hệ tư tưởng) của giai cấp thống trị

thời Lý-Trần như thế nào. Mặt khác phân tích ý thức, thái độ của giai cấp bị

trị (quần chúng nhân dân) đối với các vấn đề chính trị đương thời, qua đó

bằng ý thức, hành động ủng hộ hoặc phản đối, họ tương tác trở lại đối với

19

chủ trương, chính sách, đường lối giai cấp thống trị.

Nhóm tư liệu, tài liệu nghiên cứu về tư tưởng Việt Nam thời Lý-

Trần, tư tưởng chính trị thời Lý-Trần: Cuốn Lịch sử tư tưởng chính trị -

xã hội Việt Nam từ Bắc thuộc đến thời kỳ Lý-Trần của Lê Văn Quán

(2008), Nxb. Chính trị Quốc gia; Cuốn Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam

tập 1, do Nguyễn Trọng Chuẩn (chủ biên, 2006), Nxb. Khoa học xã hội, Hà

Nội; Tư tưởng Việt Nam thời Lý-Trần do hai tác giả Trương Văn Chung và

Doãn Chính đồng chủ biên(2008), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Cuốn Lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Việt Nam từ Bắc thuộc đến

thời kỳ Lý-Trần của tác giả Lê Văn Quán (2008) trình bày tư tưởng chính trị

- xã hội ở nước ta theo từng giai đoạn, từng triều đại trên cơ sở khái quát các

đặc điểm nổi bật, đặc trưng của tư tưởng chính trị - xã hội ở mỗi triều đại,

mỗi thời đoạn lịch sử. Trên cơ sở phân tích và so sánh, tác giả luận án đi đến

khẳng định sự thịnh trị của nền chính trị ở thời Lý-Trần, chính là nhờ sự kế

thừa và phát triển những tư tưởng chính trị-xã hội đã xuất hiện trong lịch sử

và sự tiếp nối những thành tựu của sự phát triển trong tư tưởng chính trị từ

thời tiền L , Ngô, Đinh, tiền Lê. Có thế nói, công trình của tác giả Lê Văn

Quán đã cung cấp một nguồn tài liệu phong phú về lịch sử tư tưởng chính trị

- xã hội của Việt Nam từ thời kỳ đầu đến Lý-Trần. Đó là cơ sở để luận án

nghiên cứu và tìm hiểu về tiến trình phát triển của lịch sử tư tưởng chính trị

Việt Nam trước và trong thời Lý-Trần. Tuy nhiên, cách tiếp cận, trình bày

của tác giả là nghiên cứu về tư tưởng chính trị - xã hội, trong khi đề tài của

Luận án chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu tư tưởng chính trị, nên Luận án sẽ

chọn lọc kế thừa một số tư tưởng và thông tin giá trị cho luận án của mình.

Cuốn Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam (2006) tập 1 là công trình

nghiên cứu của nhiều tác giả, trình bày, dẫn dụ khá chi tiết quá trình hình

thành và phát triển hệ tư tưởng có tính triết học xuất hiện ở Việt Nam (trên

cơ sở tiếp thu, kế thừa và phát triển các hệ tư tưởng du nhập từ bên ngoài) từ

khởi nguyên cho đến thời Hồ. Công trình gồm 3 chương, mỗi chương đều là

20

những nghiên cứu khá chuyên sâu về sự hình thành và phát triển của tư

tưởng triết học Việt Nam: thế kỷ II TCN đến nửa đầu thế kỷ X (chương 1);

từ khi thoát khỏi ách đô hộ của phương ắc đến hết thời L (chương 2); thời

Trần và Hồ (chương 3). Ở mỗi giai đoạn, các tác giả đều đi phân tích bối

cảnh lịch sử và những yếu tố tinh thần, tư tưởng và những đòi hỏi của thực

tiễn đời sống xã hội có ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng triết học

đương thời, qua đó khái quát những nội dung tư tưởng triết học cơ bản và có

phân tích tư tưởng của một số đại diện tiêu biểu hay trường phái tư tưởng cơ

bản của thời kỳ ấy. Dù không tập trung phân tích về nhân sinh quan, nhưng

công trình cũng đã có những nội dung khái quát về tư tưởng nhân sinh quan

của người Việt qua các thời kỳ từ thế kỷ II đến thời Hồ và phân tích những

ảnh hưởng của ba đạo (Nho, Phật, Lão) đến đời sống chính trị xã hội phong

kiến Việt Nam nói chung và thời Lý và Trần nói riêng. Đây là một tài liệu

qu giá để tác giả tham khảo, bổ sung vào luận án của mình.

Tác phẩm Tư tưởng Việt Nam thời Lý-Trần do hai tác giả Trương Văn

Chung và Doãn Chính đồng chủ biên (2008) là công trình nghiên cứu xoay

quanh chủ đề tư tưởng thời Lý và Trần, trong đó tập trung trình bày về: tư

tưởng chính trị, nhà nước và pháp luật, quân sự. Trong đó có phân tích đóng

góp của một số nhà tư tưởng tiêu biểu thời kỳ này như: Trần Thủ Độ, Trần

Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung, Trần Quốc Tuấn… Song tư

tưởng cơ bản được các tác giả trình bày xuyên suốt qua công trình nghiên

cứu này đó là tinh thần độc lập dân tộc, lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết

chống giặc ngoại xâm của nhà nước phong kiến và nhân dân đại Việt thời kỳ

này. Chính những tư tưởng nền tảng này đã trở thành yếu tố cơ bản tạo nên

sức mạnh, khiến cho thời Lý-Trần đã trở thành thời đại hào hùng nhất trong

xã hội phong kiến Việt Nam bởi những thành tựu trong những trận chiến

trước quân xâm lược.

Nhóm tài liệu (sử k , trước tác, thơ văn) của các nhà tư tưởng, nhân

vật lãnh đạo điển hình thời Lý-Trần, có thể kể đến các công trình sau: Đại

21

Việt sử ký toàn thư (trọn bộ, tái bản 2011), Nxb. Thời Đại, Hà Nội; Tác

phẩm Khóa hư lục của Trần Thái Tông (1974), do Đào Duy Anh dịch, Nxb.

Khoa học xã hội; Thơ vănLý -Trần, (sưu tầm từ 1977 đến 1989) Tập 1, tập 2

và tập 3 của Ủy ban Khoa học Xã hội - Viện Văn học, Nxb. Khoa học Xã

hội, Hà Nội; Thiền sư Việt Nam của hòa thượng Thích Thanh Từ, xuất bản

năm 1972, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội; Thiền uyển tập anh (1990) của Viện

Nghiên cứu Phật học, Nxb. Văn học, Hà Nội; Tam tổ thực lục, Thích Phước

Sơn dịch và trú, Nxb. Khoa học Xã hội in năm 1995.

Cuốn Đại Việt sử ký toàn thư là nguồn sử liệu quan trọng để nghiên

cứu tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam từ khởi nguyên đến thời hậu Lê nói

chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng. Trong đó, tác phẩm đã liệt kê nhiều

sự kiện nói lên vai trò của các Thiền sư trong triều chính cũng như trong đời

sống xã hội thời Lý-Trần. Như tư liệu về vai trò của thiền sư Vạn Hạnh trong

việc đưa L Công Uẩn lên ngôi vua, công lao của quốc sư Khuông Việt, Từ

Đạo Hạnh, Quốc sư Trúc Lâm đối với những chuyển biến chính trị lớn và

ảnh hưởng của họ đến những quyết định chính trị quan trọng của một số vua

thời Lý-Trần… Ngoài ra, tác phẩm cũng ghi lại nhiều sự kiện, lời nói, chính

sách, chủ trương của các nhà chính trị, qua đó có thể coi đây là tư liệu gốc

cho việc nghiên cứu tư tưởng chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, quân sự

và tôn giáo không chỉ của các triều đại phong kiến Việt Nam nói chung mà

cả thời Lý-Trần nói riêng.

Cuốn Khóa hư lục, do Đào Duy Anh dịch năm 1974, được Trần Thái

Tông viết khi đã nhường lại ngôi vua lên núi tu hành. Cuốn sách trình bày

những tư tưởng triết l đại thừa Phật giáo nhằm mục đích đúc kết kinh

nghiệm và lý thuyết cũng như hướng dẫn sự tự thức tỉnh cho phật tử, đồng

thời có tính cách giáo dục quần chúng.

Tác phẩm Tam Tổ thực lục do Thích Phước Sơn dịch và chú giải, đây

được coi là tuyển tập khá công phu, trình bày về hành trạng và tư tưởng của

ba vị Tổ của Thiền phái Trúc lâm đời Trần là Trần Nhân Tông, Pháp Loa và

22

Huyền Quang.

Tác phẩm Thiền sư Việt Nam của hòa thượng Thích Thanh Từ hệ

thống lại các nguồn sử liệu về cuộc đời, tư tưởng và một số tác phẩm tiêu

biểu của các Thiền sư Việt Nam (trong đó chủ yếu là các thiền sư xuất hiện

trong thời Lý và Trần). Về mặt tư liệu tuy không có gì mới, nhưng điều đáng

lưu ở đây là tác giả đã dịch một số tài liệu chữ Hán sang chữ Quốc ngữ và

đưa ra những kiến giải mới về hành trạng của các Thiền sư mà trước đó chưa

ai đề cập.

Cuốn sách Thiền uyển tập anh , tập hợp hành trạng của những bậc

chân tu, thiền sư của Phật giáo đã vận dụng thứ trí tuệ do tu chứng để giúp

cho đạo pháp và dân tộc từ cuối thời Bắc thuộc cho đến thời cho đến thời

Lý-Trần từ góc độ văn học sử. Đây còn là cuốn truyện ký có giá trị về mặt

văn học, triết học, văn hóa dân gian, đặc biệt chủ đề Phật giáo được phản

ánh rất phong phú trong cuốn sách. Theo kiến của các chuyên gia, Thiền

uyển tập anh được biên soạn triều L và hoàn thành vào triều Trần. Trải qua

một thời gian khá dài, bộ sách này đã bị thất tán và cũ nát, nên đến thời hậu

Lê nhà sư Thích Như Trí cùng các đệ tử đã tổ chức in lại vào năm Vĩnh

Thịnh thứ 11 (1715). Đến đầu thế kỷ XX, một bậc Danh tăng uyên bác là

Phúc Điền lại một lần nữa hiệu chỉnh và cho khắc in lại dưới tựa đề “Trùng

khắc Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục”. Trong lần hiệu chỉnh này,

hòa thượng Phúc Điền đã viết lại truyện của thiền sư Không Lộ, còn các

phần khác thì hầu như không sửa chữa thêm gì.

Cuốn Thơ văn Lý-Trần tập 1, 2 và 3 (1977, 1978), được coi là nguồn

tham khảo giá trị cho đề tài khi tìm hiểu cụ thể tư tưởng của các nhà chính

trị, nhà tư tưởng, các thiền sư thời kỳ này. Ba cuốn sách này đã tập hợp hầu

hết các các bài thơ, kệ, chiếu biểu của các nhà sư, nhà chính trị tiêu biểu thời

Lý-Trần (Lý Thái Tông, Thiền sư Vạn Hạnh, Lý Thánh Tông, Lý Nhân

Tông, Thái Hậu Ỷ Lan, L Thường Kiệt, Trần Thái Tông, Tuệ Trung

23

Thượng Sĩ, Trần Nhân Tông, Trần Quốc Tuấn…). Các bản dịch cũng được

đánh giá là phản ánh tương đối đầy đủ, đúng đắn tinh thần tư tưởng của các

tác giả.

Nhóm các tư liệu, công trình nghiên cứu về chính sách, đường lối, tư

tưởng của các nhà chính trị thời Lý-Trần:Lý Thường Kiệt – lịch sử ngoại

giao và tôn giáo triều Lý của tác giả Hoàng Xuân Hãn (1941), Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội; Kế sách giữ nước thời Lý-Trần (1994), Nxb. Chính trị

Quốc gia; Ngoại giao Đại Việt của Lưu Văn Lợi (2000), Nxb. Công an Nhân

dân; tác phẩmViệt Nam văn minh sử cương -Văn minh Đại Việt, của Lê Văn

Siêu(2004), Nxb. Thanh niên, Hà Nội.

Cuốn Lý Thường Kiệt – Lịch sử ngoại giao và tôn giáo triều Lý (1941)

là một tác phẩm có giá trị cao về mặt học thuật chính trị học và Phật học với

nhiều tư liệu quý lần đầu được công bố. Tuy tác phẩm tập trung nghiên cứu

về đường lối ngoại giao và tôn giáo triều Lý với L Thường Kiệt là nhân vật

trung tâm nhưng toàn bộ xã hội thời Lý và cuộc kháng chiến chống Tống đã

được tác giả tái hiện một cách chân thực và sinh động.

Cuốn Kế sách giữ nước thời Lý-Trần (1994) gồm sáu chương phân

tích tương đối toàn diện về các chính sách đối nội và đối ngoại của triều đình

Lý-Trần, từ đó phân tích các chính sách trị quốc của triều đình như: xây

dựng chính quyền, chính sách kinh tế, chiến lược xây dựng quân đội, chiến

lược khoan thư sức dân, cuối cùng là chiến lược đối ngoại khôn khéo, làm rõ

được nền tảng tư tưởng của sự thịnh trị đáng tự hào trong công cuộc chống

ngoại xâm, bảo vệ bờ cõi của triều đại Lý-Trần.

Cuốn Ngoại giao Đại Việt (2000) nghiên cứu một cách có hệ thống

lịch sử ngoại giao của nước ta từ thời Bắc thuộc đến thời Tây Sơn. Đây là

một công trình khá đồ sộ, phân tích cụ thể các chính sách ngoại giao của các

nhà vua Đại Việt theo tiến trình lịch sử của Đại Việt, từ thời Bắc thuộc đến

thời vua Quang Trung với nhiều nước như Trung Quốc, Mông Cổ, Chiêm

Thành Chân Lạp, Ai Lao, Xiêm trong khu vực. Cuối cùng tác giả đưa ra

24

những nhận định, đánh giá về các chủ trương, kế sách ngoại giao trong từng

thời kỳ và đưa ra những bài học cho các chính sách ngoại giao của Việt Nam

hiện nay trước diễn biến phức tạp của thời đại mới. Qua đường lối đối ngoại,

khôn khéo cởi mở của nhà Lý-Trần, phần nào thấy được ảnh hưởng của Phật

giáo trong các kế sách giữ nước, ổn định chính trị của triều đại Lý-Trần.

Cuốn Văn minh Đại Việt, là tập 1 của bộ sách Việt Nam văn minh sử

cương của tác giả Lê Văn Siêu (2004). Bộ sách đã giới thiệu tiến trình văn

minh chung của dân tộc Việt, ở cuốn này ngoài phần khái quát về chính sự

Trung Hoa, những chiến thắng vang dội trước quân giặc, tác giả đã tập trung

phân tích bối cảnh văn hóa, chính trị và xã hội trước khi nhà Lý và sau này

là nhà Trần lên nắm quyền, để qua đó làm nổi bật những thành tựu mà nhà

Lý và Trần đạt được. Trong đó phải kể đến là các thành tựu về quân sự,

trong Việc nội trị và các chính sách ngoại giao, sự phát triển của các tín

ngưỡng tôn giáo, công cuộc mở rộng lãnh thổ về phương Nam... Cùng với

việc phân tích nguyên nhân khách quan để Đại Việt thời Lý-Trần, đạt được

những thành tựu trên, tác giả cũng không quên chỉ ra nguyên nhân chủ quan,

nằm ở tài năng và bản lĩnh của con người – cụ thể là các nhà chính trị ở thời

kỳ này.

Trên đây là những tài liệu quan trọng có thể làm nguồn trích dẫn,

chứng minh khi phân tích tư tưởng nhân sinh của các thiền sư, các nhà chính

trị chuộng Phật giáo thời Lý-Trần. Đây cũng là cơ sở tư liệu quan trọng để

tác giả luận án luận chứng về những giá trị nhân sinh cốt lõi của Phật giáo

Lý-Trần có ảnh hưởng đối với tư tưởng chính trị thời kỳ này.

1.3. Nhóm tư liệu, công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của nhân sinh

quan Phật giáo đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần

Nhóm công trình nghiên cứu ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật

giáo đến đời sống tinh thần của xã hội nói chung có thể kể đến các công

trình nghiên cứu sau: Kỷ yếu Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt

Nam (1986) do Viện Triết học biên soạn; Văn hóa Phật giáo và lối sống của

25

người Việt ở Hà Nội và Châu thổ Bắc Bộ, Nguyễn Thị Bảy (1997), Nxb.

Thông tin, Hà Nội; Cuốn Truyền thống Văn hóa và Phật giáo Việt Nam,

Nxb. Tôn giáo, Hà Nội của tác giả Minh Chi (2003); Luận văn Thạc sĩ Triết

học Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống văn hóa tinh

thần người Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị Nguyến (Thích Diệu Luyến,

2011), Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.

Kỷ yếu Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam (1986),

tập hợp tham luận của các học giả nghiên cứu chuyên sâu về Phật giáo, đã

làm sáng tỏ mối tương quan giữa Phật giáo với tư tưởng dân tộc và ảnh

hưởng của Phật giáo đối với các hệ tư tưởng (gồm cả tư tưởng chính trị)

trong xã hội Việt Nam. Trên cơ sở những khẳng định đó, tác giả luận án đã

đi đến tìm hiểu và đưa ra những luận chứng về ảnh hưởng của tư tưởng nhân

sinh quan Phật giáo đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần.

Trong cuốn Văn hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà Nội

và Châu thổ Bắc Bộ của Nguyễn Thị Bảy (1997), trên cơ sở trình bày một số

yếu tố ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của người dân Hà Nội và vùng

Châu thổ Bắc Bộ như môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, yếu tố lịch sử,

truyền thống..., tạo nên đặc trưng cho đời sống tinh thần, tính cách của người

dân nơi đây, tác giả đã đi vào nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo, trong đó

nhấn mạnh yếu tố nhân sinh quan Phật giáo cũng đã góp phần không nhỏ

hình thành nên lối sống và bản sắc văn hóa của người dân vùng Châu thổ

Bắc bộ. Những kiến thức này đã trở thành một tư liệu giá trị để tác giả luận

án tham khảo khi đi vào nghiên cứu đề tài của mình, bởi trong lịch sử, triều

đại Lý-Trần cũng nằm trọn ở vùng Châu thổ Bắc bộ.

Truyền thống văn hóa và Phật giáo Việt Nam của tác giả Minh Chi

(2003) bàn nhiều về ảnh hưởng của Phật giáo đến sự hình thành văn hóa

truyền thống của người Việt qua các giai đoạn lịch sử. Đặc biệt tác giả có

phân tích nhiều đến những tác động tích cực của Phật giáo giai đoạn Lý-Trần

và coi đó là ngọn nguồn sức mạnh của triều đại này. Trong đó, tác giả đã đưa

26

ra quan điểm chỉ trích “cái hại của tệ sùng đạo Nho” và đề cao “chủ nghĩa

bình đẳng, từ, bi, bác ái, tư tưởng không giáo điều, không cố chấp của đạo

Phật”, và cho đó là một trong những cơ sở để “phát động một cao trào tự

hào, tự cường dân tộc, toàn dân đoàn kết nhất trí, đánh thắng bao lần giặc

Tống và giặc Nguyên” thời Lý-Trần. Đứng trên quan điểm Phật giáo, tác giả

đã nhìn nhận Nho giáo như một mối nguy hại tệ “hủ Nho”, như là văn minh

giả tạo của phong kiến phương ắc tác động đến lịch sử Việt Nam trong

suốt một thời gian dài từ Lê sơ đến nhà Nguyễn. Đây là một tài liệu giá trị

cho tác giả luận án, bởi nó có đưa ra những so sánh khá rõ nét về ảnh hưởng

giữa Phật và Nho đối với nền văn hóa Việt Nam, qua đó đưa ra những nhận

định sắc bén về những ưu và nhược điểm của cả hai hệ tư tưởng này đối với

đời sống xã hội nói chung và chính trị-xã hội nói riêng.

Luận văn Thạc sĩ triết học về Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật

giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần người Việt Nam hiện nay của

Nguyễn Thị Nguyến (Thích Diệu Luyến) trình bày lí luận chung về nhân

sinh quan, nhân sinh quan Phật giáo, từ đó phân tích và làm sáng tỏ những

ảnh hưởng cơ bản nhất của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống văn hoá

tinh thần Việt Nam trên một số phương diện như: đạo đức, nhân cách; niềm

tin, tín ngưỡng, lễ hội và phong tục, tập quán. Từ đó, tác giả luận văn có

những đánh giá khách quan về ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo,

đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị của nhân

sinh quan Phật giáo.

Nhóm tư liệu, công trình về mối quan hệ giữa Phật giáo và chính trị

trong thời Lý-Trần có thể kể đến các công trình sau: Tác phẩm Văn minh

Đại Việt của Nguyễn Duy Hinh(2005), Nxb. Văn hóa thông tin và Viện văn

hóa, Hà Nội; Cuốn Vai trò chính trị của các tăng sĩ Phật giáo ở thời đại Lý-

Trần của Thích Đồng Bổn (2006), Nxb. Tôn giáo; Phật giáo đời Lý – Tập

san của viện nghiên cứu Phật học Việt Nam (2010); Kỷ yếu Phật giáo thời

Lý với 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, Nxb. Chính trị Quốc gia (2011);

27

Luận văn Thạc sĩ Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị ở Việt Nam

thời Lý-Trần, chuyên ngành Chính trị học của Nguyễn Thị Tâm(2012), Đại

học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội; Luận án tiến sĩ Lịch sử của

Hoàng Đức Thắng (Thích Minh Chí) Quan hệ giữa nhà nước quân chủ Lý-

Trần với Phật giáo (2012), Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội.

Tác phẩm Văn minh Đại Việt của Nguyễn Duy Hinh đã trình bày về

các giai đoạn, sự kiện lịch sử tác động đến sự hình thành nền văn minh của

Đại Việt từ năm 111 TCN đến năm 1883. Tác giả đã phân tích sự phát triển

của nền văn minh này bắt đầu từ thời kỳ hội nhập văn hóa Việt với văn hóa

đến từ Ấn Độ và Trung Quốc, trải qua 1150 năm bị phong kiến Hán –

Đường thống trị, nhân dân ta đã không ngừng nổi dậy để giành độc lập.

Công cuộc tranh đấu này có lúc thất bại và cũng có khi giành độc lập, nhưng

tất cả đều có ảnh hưởng tích cực để hình thành nên những trang sử hào hùng

và nền chính trị độc lập đáng tự hào của dân tộc bên cạnh sự uy hiếp liên tục

của một nước lớn. Đặc biệt, tác giả cũng nhắc nhiều đến vai trò tạo dựng và

khai sáng nên nền chính trị độc lập và văn hóa dân tộc của Phật giáo và nhấn

mạnh vai trò của Phật giáo đối với chính trị thời Lý-Trần.

Cuốn Vai trò chính trị của các tăng sĩ Phật giáo ở thời đại Lý-Trần

của Thích Đồng Bổn đã khảo sát nhiều tài liệu Hán văn và Quốc văn cổ, từ

đó hệ thống lại một cách tương đối chính xác hành trạng, tư tưởng của các

tăng sĩ, các vị quân vương, các vị quan lại sùng Phật có ảnh hưởng lớn đến

đời sống chính trị của các triều đại Đinh, Lê và sau này là L và Trần.

Tập san Phật giáo đời Lý của Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam – tủ

sách Phật giáo và dân tộc, là tập hợp những bài viết của Tăng ni sinh khóa

VI chuyên ngành Phật giáo Việt Nam. Có nhiều bài viết nghiên cứu chuyên

sâu về tư tưởng Phật giáo, nhân vật đại diện cho thế lực Phật giáo thời Lý và

Trần, ca ngợi các giá trị của đời sống văn hóa, nghệ thuật, tư tưởng có ảnh

hưởng của Phật giáo. Tập san còn có nhiều bài viết phân tích, đánh giá về

quan hệ mật thiết giữa Phật giáo với chính trị thời kỳ này (như các bài: Đóng

28

góp của Phật giáo thời Lý đối với Thăng Long-Hà Nội của Đại Đồng; Ảnh

hưởng của Phật giáo trong chính sách cải tổ cơ cấu quốc gia thời Lý của

Quảng Nga; Chính trị xã hội thời Lý của Hiền Tâm; Những đóng góp của Lý

Công Uẩn trong triều đại Nhà Lý (1010-1225) của Thích Nữ Huệ Thảo;

Quốc giáo Phật giáo thời Lý của Thích Phương Huyền; Tinh thần Phật giáo

và hiến pháp nhà Lý của Thích Quảng Pháp…)

Kỷ yếu Phật giáo thời Lý với 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội tập

hợp rất nhiều bài nghiên cứu về Phật giáo thời Lý và cả thời Trần mối quan

hệ giữa Phật giáo và chính trị ở hai triều đại này. Một số bài viết đánh giá

sâu sắc về vai trò của Phật giáo đối với lịch sử dựng nước và giữ nước của

dân tộc dưới hai triều đại Lý và Trần, đặc biệt là vai trò với công cuộc xây

dựng, phát triển kinh đô Thăng Long. Mỗi bài tham luận đều đi sâu phân tích

sự ảnh hưởng của Phật giáo, của các nhân vật Phật giáo trên nhiều khía cạnh

của đời sống xã hội (văn hóa, chính trị, nghệ thuật…) khẳng định vai trò tích

cực của Phật giáo đối với sự phát triển thịnh vượng của thời L và hướng

phát huy bảo tồn những giá trị truyền thống mà Phật giáo để lại cho giai

đoạn sau. Nội dung cuốn sách gồm ba phần. Đáng chú là một số nội dung

có liên quan đến đề tài của luận án như, ở phần 1: Tinh hoa Phật giáo thời

Lý qua các khía cạnh văn hóa, chính trị và các nhân vật Phật giáo. Phần Mở

đầu này chủ yếu tập trung các bài viết phân tích về mối quan hệ giữa Phật

giáo với nhiều lĩnh vực của đời sống như chính trị, văn hóa, tinh thần,…

Phần 2: Phật giáo Đại Việt thời Lý – Kế thừa, hội tụ và phát triển, phân tích

những đặc trưng và xu hướng phát triển của Phật giáo trong thời Lý. Phần 3:

Phát huy di sản Phật giáo thời Lý là phần cuối cùng, đã tổng kết lại di sản

vật chất quý báu và những giá tinh thần lớn lao mà Phật giáo thời L đã để

lại có ảnh hưởng tích cực trong chính trị xã hội thời đại ngày nay.

Đề tài Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị ở Việt Nam thời Lý-

Trần của Nguyễn Thị Tâm (2012) đã làm sáng tỏ vai trò của Phật giáo với

chính trị thông qua việc nghiên cứu tư tưởng của các bậc quân vương đồng thời

29

cũng là các Phật tử và các vị cao tăng có liên hệ mật thiết với triều chính. Ảnh

hưởng của Phật giáo được phân tích trên 3 phương diện sau: trong tư tưởng

chính trị thời Lý-Trần, đào tạo đội ngũ quan lại, văn hóa chính trị ở Việt Nam

và sự đồng thuận cao trong xã hội.

Luận án Quan hệ giữa nhà nước quân chủ Lý-Trần với Phật giáo của

Hoàng Đức Thắng (2012) đã nghiên cứu các chính sách và hoạt động thực

tiễn liên quan đến Phật giáo của hai triều Lý-Trần và những đóng góp của

Phật giáo cho triều đình, từ đó đã làm r mối quan hệ tương hỗ giữa Phật

giáo với Nhà nước quân chủ phong kiến và chỉ ra vị trí bệ đỡ tư tưởng của

Phật giáo đối với mô hình tập quyền thân dân thời Lý-Trần.

1.4. Những vấn đề được kế thừa và phát triển mới trong luận án

1.4.1. Những vấn đề được kế thừa từ các công trình đi trước

Trong chương 2: Nhân sinh quan Phật giáo và nhân sinh quan Phật

giáo thời Lý-Trần, luận án đã tiếp thu các khái niệm về nhân sinh quan nói

chung, nhân sinh quan Phật giáo nói riêng; Quá trình du nhập nhân sinh

quan Phật giáo ở Việt Nam từ khởi nguyên đến thời Lý-Trần. Luận án cũng

đã tiếp thu được từ các công trình nghiên cứu đi trước về đặc điểm: dung hòa

nhiều hệ tư tưởng của Phật giáo; về tinh thần nhập thế của nhân sinh quan

Phật giáo Việt Nam.

Trong chương 3: Tư tưởng chính trị thời Lý-Trần và các nhân tố ảnh

hưởng, Luận án kế thừa một số tư liệu nói về tình hình kinh tế, chính trị xã

hội, văn hóa, tư tưởng… ở thời Lý-Trần để phân tích về các nhân tố có ảnh

hưởng đến việc hình thành tư tưởng chính trị thời Lý-Trần; Luận án kế thừa

một số đánh giá về nguyên nhân Phật giáo phát triển cực thịnh ở thời Lý-

Trần và những lý do Phật giáo được giai cấp thống trị thời kỳ này coi trọng.

Trong chương 4: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo trong tư

tưởng chính trị thời Lý-Trần và một số bài học, Luận án kế thừa những

khẳng định đối với vị thế của Phật giáo trong chính trị thời Lý-Trần, để từ đó

phân tích, luận giải những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư

30

tưởng của các nhà chính trị trong thời bình và thời chiến.

Có thể nói, những công trình nghiên cứu, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp

về mối quan hệ giữa nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống xã hội thời Lý-

Trần hay cụ thể là với tư tưởng chính trị - xã hội thời Lý-Trần trong những

năm qua tương đối nhiều, và phần lớn được triển khai từ các góc độ sau:

Từ góc độ lịch sử tư tưởng: Dựa trên những dữ kiện lịch sử khách

quannhiều công trình đã nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo nói chung đến

chính trị thời Lý-Trần, tuy nhiên chưa chỉ rõ ảnh hưởng của nhân sinh quan

Phật giáo đến tư tưởng của các nhà chính trị thời kỳ này.

Từ góc độ chính trị học: một số nghiên cứu đi trước đã phân tích ảnh

hưởng của Phật giáo trong việc xây dựng thể chế, thiết chế chính trị, hay đào

tạo đội ngũ quan lại… thời Lý-Trần, song chưa phân tích chuyên sâu từ đặc

trưng nhập thế của Phật giáo thời Lý-Trần. Đây chính là điểm khác biệt cần

nghiên cứu để làm r hơn những ảnh hưởng tích cực của nhân sinh quan

Phật giáo đến chính trị thời Lý-Trần.

Từ góc độ xã hội học: Một số đề tài đã phân tích sự tương tác giữa

Phật giáo và đời sống chính trị-xã hội, và đưa ra một số nhận định về vai trò

tích cực cũng như hạn chế của Phật giáo đối với đời sống chính trị-xã hội

đương thời, và còn rút ra bài học kinh nghiệm cho xã hội trong giai đoạn

hiện nay. Đó là những kết quả nghiên cứu qu báu để luận án kế thừa và tiếp

tục tìm hiểu về ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo tới tư tưởng chính

trị thời Lý-Trần.

Ở góc độ lịch sử triết học, đã có một số nghiên cứu về Phật giáo Lý-

Trần, nhân sinh quan Phật giáo Lý-Trần, ảnh hưởng của Phật giáo hay nhân

sinh quan Phật giáo đến các lĩnh vực: lịch sử tư tưởng Việt Nam, đời sống xã

hội thời Lý-Trần, văn học-nghệ thuật… Tuy nhiên, vẫn chưa có công trình

nghiên cứu chuyên sâu nào về ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến

tư tưởng chính trị thời Lý-Trần, hoặc chỉ dừng lại ở ảnh hưởng đến tư tưởng

chính trị-xã hội chung chung.

31

1.4.2. Những vấn đề tiếp t c được triển khai mới trong Luận án

Trong chương 2:Thứ nhất, trong khuôn khổ của mình, luận án tập

trung vào phân tích những nội dung nhân sinh quan Phật giáo ở thời Lý-Trần

có ảnh hưởng đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần:quan điểm về con người,

đời người; quan niệm về đạo đức; quan niệm về giải thoát, qua đó đã chỉ ra

những điểm giống và khác nhau giữa nhân sinh quan Phật giáo nguyên thủy

với nhân sinh quan Phật giáo Lý-Trần, đồng thời cũng bổ sung những

nguyên nhân dẫn đến những khác biệt ấy, nhằm góp thêm một góc nhìn

nhận, đánh giá về Phật giáo ở Việt Nam giai đoạn thế kỷ XI-XIV.Thứ hai,

luận án phân tích thêm đặc điểmcủa nhân sinh quan Phật giáo thời Lý-Trần,

là chủ yếu là thiền đại thừa với quan điểm cốt l i là “Phật tại Tâm”, qua đó

khẳng định, cùng với đặc điểm nhập thế và dung hòa nhiều hệ tư tưởng,

nhân sinh quan Phật giáo thời kỳ này mới có có thể ảnh hưởng đến tư tưởng

chính trị thời Lý-Trần.

Trong chương 3: Thứ nhất, luận án phân tích tiến trình phát triển của

tư tưởng chính trị của Việt Nam từ khởi nguyên đến thời Lý-Trần, qua đó

chỉ ra mối quan hệ của Phật giáo nói riêng và nhân sinh quan Phật giáo nói

chung đến chính trị thời kỳ này. Đồng thời cũng chỉ rõ, sự phát triển dần tiến

tới hoàn thiện củatư tưởng chính trị thời Lý-Trần là do có sự kế thừa từ các

thành tựu của tư tưởng chính trị trước đó và các tư tưởng đương thời, nhưng

công lớn không thể không kể đến sự đóng góp của Phật giáo. Thứ hai, luận

án bổ sung và làm rõ vai trò, vị trí của tam giáo (Nho, Đạo, Phật) đối với nền

chính trị ở thời Lý-Trần. Đồng thời phân tích rõ, tại sao dù có sự tồn tại của

cả ba giáo nhưng Phật giáo (nhân sinh quan Phật giáo) vẫn được triều đình

tôn sùng, nhân dân yêu mến và trở thành tư tưởng có ảnh hưởng hơn cả

trong nền chính trị.

Trong chương 4: Thứ nhất, luận án chỉ ra cách thức Phật giáo tác động

đến tư tưởng chính trị của triều đại Lý-Trần, đó là thông qua sự tham vấn

trực tiếp của các sư tăng và qua sự thẩm thấu trong tư tưởng, hành vi, lối

32

sống của các vị vua-quan triều Lý-Trần mà gián tiếp tác động đến nền chính

trị. Thứ hai, luận án chỉ ra những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo

đối với tư tưởng chính trị qua các nội dung: Xây dựng thể chế nhà nước và

ổn định xã hội; Bảo vệ nền độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ; Trấn áp các

thế lực chống đối, phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội. Thứ ba,

luận án đưa ra những đánh giá khách quan về vị trí của nhân sinh quan Phật

giáo đối với nền chính trị Lý-Trần và hệ quả của nó (những ảnh hưởng tích

cực và hạn chế) của nó đối với nền chính trị thời Lý-Trần. Thứ tư, qua việc

tìm hiểu về quan điểm, hành trạng của các nhà chính trị và các chính sách,

đường lối của nhà nước Lý-Trần, luận án khẳng định, triều Lý-Trần đã xây

dựng được một nền văn hóa chính trị tích cực và từ đó liên hệ với Việt Nam

và đưa ra giải pháp để nền chính trị có thể kế thừa những ảnh hưởng tích cực

của Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng đối với việc

xây dựng một nền văn hoá chính trị đáp ứng với thực tiễn của thời đại.

Trên đây là một số hướng triển khai mới của luận án, nhằm góp phần

đánh giá r hơn về Phật giáo thời Lý-Trần cũng nhưluận giải về sự phát triển

của tư tưởng chính trị thời Lý-Trần từ tiếp cận mối quan hệ nhân sinh quan

Phật giáo với tư tưởng chính trị.

Tiểu kết chương Như vậy, nhu cầu tìm hiểu lại những giá trị văn

hóa tinh thần của dân tộc ngày càng được quan tâm. Trong đó, phải kể đến

những nghiên cứu về chủ đề Phật giáo - một trong những thành tố quan

trọng góp phần định hình nên bản sắc văn hóa Việt, như, nhân sinh quan

Phật giáo; Phật giáo thời Lý-Trần; hay ảnh hưởng của Phật giáo đến đời

sống xã hội, đời sống tinh thần… đều là vấn đề thu hút nhiều chuyên gia.

Tuy nhiên việc nghiên cứu về những ảnh hưởng cụ thể của nhân sinh quan

Phật giáo đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần vẫn chưa nhiều công trình đi

sâu tìm hiểu. Trên cơ sở ấy, tác giả luận án đã đưa ra một số hướng triển

khai mới, nhằm góp phần đánh giá r hơn về Phật giáo ở thời Lý-Trần cũng

như luận giải về sự phát triển của tư tưởng chính trị thời Lý-Trần từ những

33

ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo.

Chương 2

NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO VÀ NHÂN SINH QUAN

PHẬT GIÁO THỜI LÝ-TRẦN

2.1. Nhân sinh quan Phật giáo

2.1.1. Nhân sinh quan Phật giáo và những khái ni m liên quan

Nhân sinh quan là: “Bộ phận của thế giới quan (hiểu theo nghĩa rộng),

gồm những quan niệm về cuộc sống của con người: Lẽ sống của con người

là gì? Mục đích, nghĩa, giá trị cuộc sống của con người ra sao và sống như

thế nào cho xứng đáng? Trả lời những câu hỏi đó là vấn đề nhân sinh

quan”[38,235].Vậy, nhân sinh quan là quan niệm của con người về bản thân

vàcuộc sống của họ: con người là gì, con người từ đâu sinh ra, mẫu hình

người l tưởng phải như thế nào, bản chất của cuộc sống con người là gì,

mục đích của sống của họ như thế nào và con người phải sống thế nào cho

có nghĩa.

Quan niệm nhân sinh của con người sẽ có ảnh hưởng đến tâm lý, tình

cảm và mọi hoạt động sống của con người. Ngược lại, con người cũng phát

huy những nhân sinh quan có giá trị trở lại định hướng sự tương tác của họ

với thế giới tự nhiên và với xã hội.Nếu nhân sinh quan mang màu sắc tôn

giáo, nghĩa là những quan niệm về đời người, giá trị sống, mục đích sống…

của con người bị ảnh hưởng bởi những triết lý, quan niệm của một tôn giáo;

thì triết lý về cuộc sống của tôn giáo đó sẽảnh hưởng mạnh mẽ đến ý thức,

tình cảm và có thể chi phối, dẫn dắt mọi hoạt động sống của họ. ởi những

hệ tư tưởng tôn giáo tuy là yếu tố vô hình nhưng lại mang màu sắc thần bí,

siêu nhiên, nên nó có sức thu hút và dễ dàng đáp ứng được nhu cầu tâm linh

của con người. Việc đáp ứng nhu cầu tâm linh, sự an ủi về tinh thần luôn cần

thiết đối với cuộc sống của con người, cả trong thời kỳ khoa học chưa phát

triển, kinh tế-chính trị bất ổn và cả khi đời sống vật chất và tinh thần của con

34

người đã được nâng cao và khoa học kỹ thuật đã phát triển thì triết l của tôn

giáo vẫn có sức ảnh hưởng lớn đến đời sống của con người, bởi nó giúp con

người tự cân bằng tâm l trước mọi biến động của cuộc sống. Trong lịch sử,

nhiều nhà nước, nhiều triều đại đã sử dụng tôn giáo (Thiên chúa giáo, Bà La

Môn giáo, Hồi giáo, Nho giáo. Lão giáo…) làm công cụ tinh thần để thống

trị, duy trì ách áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị. Nếu nhân sinh quan tôn

giáo tiêu cực sẽ kìm hãm sự phát triển của bản thân con người và xã hội.

Ngược lại, nhân sinh quan tôn giáo mang tính nhân văn, nhân đạo và tiến bộ

thì đem lại những đổi thay có tính cách mạng, cải cách trong tư tưởng xã hội.

Chẳng hạn, tính bình đẳng, vô thần trong nhân sinh quan Phật giáo có tác

dụng chống lại bất bình đẳng khắc nghiệt của Bà La Môn giáo thần quyền ở

Ấn Độ (thế kỷ 6-5 TCN) và nó đã đem đến sự lạc quan trong tâm lý, ý thức

và hoạt động sống của con người trong xã hội đương thời.

Phật giáo là một sản phẩm tiêu biểu của tư tưởng tôn giáo - triết học

phương Đông- với đặc trưng luôn lấy con người là trung tâm. Nhân sinh

quan là nội dung cơ bản và quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Phật giáo

và nó có sức ảnh hưởng rất rộng lớn và linh hoạt đến các lĩnh vực của đời

sống xã hội trong đó phải kể đến cả ảnh hưởng đối với chính trị và tư tưởng

chính trị.

Phật giáo ra đời khi Ấn Độ đã có một nền tảng triết học và tôn giáo bề

thế với lịch sử hơn 1500 năm trước CN, trải qua hai giai đoạn lớn là Veda và

Upanishad. Phật giáo đại diện cho giai đoạn thứ ba, giai đoạn chuyển từ tư

duy thần quyền sang tư duy nhân bản, bàn nhiều về chủ đề nhân sinh, coi

trọng con người và vấn đề giải thoát cho con người là mục tiêu cao nhất của

các giáo l . “Đạo Phật lấy trọng tâm là vấn đề “diệt khổ”, “giải thoát”, mô

hình l tưởng là “Niết bàn” và phương pháp là “diệt dục”… Tất cả các hệ

phạm trù, nguyên lý thể hiện trong giáo l đều nhằm một mục đích “diệt

khổ”, “giải thoát” con người với tinh thần bác ái, phi bạo lực”[101,41].

Nhân sinh quan Phật giáo cho rằng cuộc đời của con người là “bể

35

khổ”, từ đó đưa ra những cách thức nhằm giúp con người “diệt khổ” và “giải

thoát” nhằm đạt được trạng thái l tưởng, siêu thoát là “Niết bàn”. Phương

pháp cơ bản để lên được cõi Niết bàn của Phật giáo là “diệt dục”, quan điểm

này được hệ thống chủ yếu trong thuyết “Tứ diệu đế”, “ át chính đạo”,

“Thập nhị nhân duyên”...Những triết l nhân sinh của Phật giáo mang tính

nhân văn và biện chứng sâu sắc, trong đó nội dung cốt lõi là bàn về nỗi khổ

(Khổ Đế), phân tích nguyên nhân của nỗi khổ (Tập Đế), khả năng có thể giải

thoát (Diệt Đế), từ đó chỉ ra con đường thoát khổ (Đạo Đế). Ngoài ra nhân

sinh quan Phật giáo còn đưa ra quan niệm về con đường cách thức để giải

thoát bằng kết hợp tu dưỡng đạo đức (Giới), trí tuệ (Tuệ) và niềm tin (Định)

để có nhân tâm trong sạch, kết hợp rèn luyện tâm thức không vọng động,

không nhị kiến (còn gọi là át Chính Đạo). Tâm trong sáng, từ đó tuệ giác

sẽ nảy sinh. Như vậy, tu tâm dưỡng tính để đạt được nhân cáchthanh cao,

đạo đức sáng ngời cũng là cách thức và con đường đạt đến sự giải thoát.

Toàn bộ nhân sinh quan này của Phật giáo được tóm gọn trong Tứ Diệu Đế.

Giải thoát là một trong những nội dung của nhân sinh quan được Phật

giáo kế thừa từ truyền thống Veda, Upanishad. Song điểm mới và tiến bộ là

Phật giáo quan niệm tất cả chúng sinh đều có khả năng giải thoát. Quan niệm

này đã đáp ứng đúng khát vọng tự do, bình đẳng của người Ấn Độ đương

thời dưới chế độ thần quyền của Bà La Môn giáo với sự phân biệt đẳng cấp

hà khắc và bất bình đẳng về quyền tự do tín ngưỡng lúc đó.

Tứ diệu đế đã được đức Phật giảng ngay từ những buổi đầu mới sáng

lập Phật giáo (khoảng thế kỷ V TCN), đó cũng chính là tư tưởng nhân sinh

quan cơ bản của Phật giáo từ thời cổ đại, mà đến nay vẫn còn giá trị. Trong

điều kiện lịch sử xã hội Ấn Độ cổ đại, chủ trương về sự “bình đẳng giữa

chúng sinh”, chống lại sự hà khắc của thần quyền của à La Môn giáo, mở

đường “giải thoát” cho tất cả mọi người đã là một bước tiến bộ nếu so với

các tôn giáo thần quyền ở Ấn Độ. Tuy vậy, nhân sinh quan Phật giáo thời đó

không phải là một học thuyết đấu tranh cải tạo xã hội triệt để. Phật giáo

36

không chỉ ra nguyên nhân bất bình đẳng trong xã hội từ mâu thuẫn về lợi ích

giữa các giai cấp, mà chỉ dừng lại ở việc kêu gọi con người hãy diệt bỏ lòng

tham, sống trì giới, nhẫn nhục để đạt tới giải thoát.

2.1.2. Nhân sinh quan Phật giáo kế thừa và phát triển từ các tư tưởng của

Ấn Độ c đại

Khi Phật giáo hình thành, ở Ấn Độ đã xuất hiện nhiều trường phái tôn

giáo - triết học, chúng đều dựa vào uy quyền của kinh Vê đa-Upanisad, đồng

thời kế thừa nội dung của nó. Trong bối cảnh đó, Phật giáo nói chung và

nhân sinh quan Phật giáo nói riêng cũng chịu ảnh hưởng của Vê đa-

Upanisad. Thời kỳ này, các lĩnh vực trong xã hội đang bị chi phối và ảnh

hưởng bởi sự thống trị của Bàlamôn giáo. Theo tư tưởng của Bàlamôn giáo

sự phân chia đẳng cấp trong xã hộiẤn Độ lúc đó tồn tại bốn đẳng cấp: 1.

Tăng lữ Bàlamôn (Barahmin) chuyên lo việc tôn giáo, tế tự, truyền bá kinh

Vêda; 2. Đẳng cấp vua chúa, quý tộc, tướng lĩnh, v sĩ (K’shatriya); 3. Đẳng

cấp thương nhân, điền chủ và thường dân hay những người bình dân, tự do

(Vaishya) lao động sản xuất, buôn bán, chăn nuôi tạo ra của cải vật chất nuôi

sống xã hội; 4. Đẳng cấp tiện dân, nô lệ (Shudra) có bổn phận phục dịch ba

đẳng cấp trên. Ngoài bốn đẳng cấp trên, còn có đẳng cấp Chiên đà la bị coi

là ngoài lề xã hội (untouchable). Đó là những người làm các nghề bị coi là

hạ cấp, thấp hèn (giặt quần áo, đồ tể…).

Sự phân biệt đẳng cấp khắc nghiệt thể hiện trong bộ luật Manu thành

những nguyên tắc xã hội: không được ăn cùng người khác đẳng cấp; không

được kết hôn với người thuộc đẳng cấp khác; người thuộc đẳng cấp dưới

phải tôn kính và phục tùng vô điều kiện đối với những người thuộc đẳng cấp

trên. Trong đó, đẳng cấp àlamôn được coi là đẳng cấp cao nhất, đẳng cấp

thần thánh, luôn được tôn trọng như một vị thần bởi họ được thượng đế ban

cho “tinh thần thiêng”, có thể làm chủ cả thế giới. Đẳng cấp nô lệ không phải

là lực lượng sản xuất chính trong xã hội, họ thường làm đầy tớ cho các gia

đình giàu có thuộc đẳng cấp trên, và chỉ được coi như là một loại tài sản, và

37

lệ thuộc hoàn toàn vào người chủ, họ có thể bị đuổi, bị đánh đập hoặc bị giết

bất cứ lúc nào. Sự bất bình đẳng giữa các đẳng cấp trong xã hội là một trong

những nguyên nhân giải thích tại sao các tư tưởng tôn giáo triết học Ấn Độ

cổ đại lại trội về nhân sinh quan với các quan niệm về con người, đời người;

về sự hình thành, tồn tại, phát triển của con người; về lẽ sống-chết; về quan

niệm sống và mục đích sống của mỗi người.

Tiếp nối truyền thống đó,Phật giáo cũng bàn nhiều về triết lý nhân

sinh, với đặc trưng, luôn lấy vấn đề khổ và thoát khổ của con người là trung

tâm. Nhưng khác với triết thuyết trước đó, Phật giáo đưa ra quan điểm nhân

sinh tiến bộ hơn về sự giải thoát, đã phần nào khắc phục những bất bình

đẳng khắc nghiệt trong tư tưởng thần quyền của đạo à la môn đang chi

phối đời sống chính trị - xã hội Ấn Độ đương thời.Tư tưởng nhân sinh bình

đẳng của Phật giáo đã hướng đến sự bình đẳng, góp phần khắc phục và loại

bỏ áp bức, bất công trong xã hội. Vì vậy, dù giáo lý của Phật giáo không trực

tiếp đề cập đến mục đích chính trị - xã hội nhưng l tưởng từ bi bình đẳng vị

tha lại mở cánh cửa cho thái độ “nhập thế” vào đời sống chính trị - xã hội.

Tiếp thu từ các trường phái tôn giáo-triết học khác của Ấn Độ trong

thời kỳ cổ đại, nhân sinh quan của Phật giáo tập trung vào vấn đề giải thoát

cho con người. Trước Phật giáo, tư tưởng giải thoát vốn có từ kinh Veda - bộ

kinh cổ nhất của người Ấn Độ. Tuy nhiên, kinh Veda vẫn là thần quyền, số

phận con người hoàn toàn lệ thuộc vào sự ban phát của đăng cấp Bà La Môn,

đẳng cấp này được coi làthần thánh, trên cả đẳng cấp vua chúa. Tư tưởng

giải thoát thần quyền được hoàn thiện hơn trên cơ sở triết họcUpanisad cho

rằng linh hồn vũ trụ tối cao ( rahman) có trước, tồn tại vĩnh viễn và từ đó

mà sinh ra vạn vật, sinh ra linh hồn cá nhân (Atman) tồn tại trong mỗi con

người, nhưng con người không nhận thấy được giải thoát là sự trở về của

Atman/Tiểu ngã (tương đối) hòa nhập với Brahman/Đại ngã (tuyệt đối).

Upanisad còn cho rằng, linh hồn cá nhân tồn tại trong vỏ bọc thể xác, mà thể

xác lại chứa đựng những ham muốn, dục vọng, nên đã gây đau khổ cho linh

38

hồn cá nhân. Linh hồn con người bị giam hãm và các kiếp sống khác nhau,

gánh chịu hậu quả của kiếp sống trước, bị ràng buộc bởi thế giới ảo ảnh nên

không trở về với linh hồn vũ trụ. Giải thoát chính là giúp linh hồn cá nhân

vượt qua khỏi thế giới ảo ảnh, thoát khỏi vòng nghiệp báo luân hồi nhập vào

bản thể tuyệt đối của linh hồn vũ trụ.

Tư tưởng giải thoát trong Upanisad chỉ là sự vươn lên của linh hồn cá

nhân để hợp nhất với linh hồn vũ trụ tối cao. Các trường phái triết học

(dasanas) của Ấn Độ cổ đã phát triển tiếp vấn đề giải thoát theo nhiều

hướng.Chẳng hạn: Phái Samkhuya đề cập tới nỗi đau vĩnh cửu của các cá thể

sinh ra từ sự phối kết hợp giữa tự nhiên (prakriti) và linh hồn (purusha) và

đưa ra con đường giải thoát bằng tu luyện để thoát khỏi vòng luân hồi, nhờ

đó đưa cái tôi tâm l và cái tôi xã hội thoát khỏi thế giới sinh tử, hòa nhập

với Đại ngã; Phái oga tìm con đường giải thoát bằng cách thực hành yoga -

nguồn cội của thiền Phật giáo - để hủy bỏ đam mê và mọi quan tâm tới thế

giới bên ngoài, từ đó đi sâu vào thực thể bên trong để đạt tới trạng thái tinh

thần trong sáng, hòa nhập với Đại ngã; Phái Mimansa cho rằng phải thực

hiện nghiêm ngặt mọi luật lệ, quy tắc, nghi thức của thánh kinh Vêda và luật

lệ của xã hội đẳng cấp mới đạt tới giải thoát; Phái Vedanta thì đặc biệt chú

trọng đến việc phát triển trí tuệ, coi đó là phương tiện hữu hiệu để đạt tới

giác ngộ, giải thoát[tham khảo 137].

Phật giáo đã kế thừa có chọn lọc các tư tưởng giải thoát đương thời

trên tinh thần cách tân, phủ nhận Atman và rahman bằng thuyết “vô ngã”,

nhưng lại tiếp thu tư tưởng nhân quả, nghiệp báo luân hồi và cách tu dưỡng

Thế giới nằm trong dòng chảy không ngừng (vô thường), nên không

có bản chất cố định (vô ngã). Song do mê muội (vô minh) không thấu hiểu

điều này nên con người tin rằng có một cái Ngã cố định (mắc vào hữu ngã),

từ đó đắm chìm trong dục vọng, để rồi phải gánh chịu những nghiệp quả ở

kiếp sau trong vòng luân hồi[31,269].

hướng nội, đề cao đạo đức, niềm tin. Phật giáo cho rằng,

Vì vậy, Phật giáo chọn hướng giải thoát mới là diệt bỏ những u mê,

39

lầm lẫn đó qua việc tu luyện kết hợp niềm tin, trí tuệ và đạo đức.

Phật đã kế thừa các tư tưởng truyền thống của Ấn Độ cổ đại (kinh

Vêda, kinh Upanisad, kinh Yoga của đạo Bà La Môn…) của các trường phái

triết học chính thống lúc bấy giờ (Samkhya, Yoga, Mimansa, Vedanta,

Vaisesika…) để sáng lập một dòng tư tưởng mới, bình đẳng về niềm tin tôn

giáo, về con đường đến với sự giải thoát, khuyên con người hãy nhìn thẳng

vào nỗi khổ và tìm ra con đường tự giải thoát khỏi nỗi khổ từ sự nỗ lực của

chính bản thân mỗi người. Tư tưởng giải thoát (nhân sinh quan) tiến bộ của

Phật giáo đã ảnh hưởng lớn đến vua A Dục (Asoka, 304-232 TCN), vị vua vĩ

đại nhất lịch sử Ấn Độ và ông đã cải đạo từ à La Môn giáo sang Phật giáo

và lấy Phật giáo làm quốc giáo, từ đó làm thay đổi hoàn toàn đế chế Ấn Độ.

Vua A Dục là một thí dụ điển hình vận dụng thành công nhân sinh quan Phật

... sống và thực hành tư tưởng nhân sinh Phật giáo cho tất cả mọi

người dân trong triều đại của ông. Ông còn quảng bá chính sách bất bạo

động đến các vương quốc lân cận và gửi sứ giả đi khắp nơi để truyền bá

thông điệp hòa bình và bất bạo động. Ông cổ vũ sự ứng dụng các nguyên

tắc đạo đức trong xã hội, như chân thật, từ bi, bác ái, bất bạo động, nhân từ,

không hoang phí, không chiếm đoạt, và không gây sát hại cho mọi loài

vật[149].

giáo vào đường lối trị quốc. ng đã:

Tư tưởng nhân sinh tích cực này khi thay thế tư tưởng bất bình đẳng

của Bà La Môn giáo đã giúp cho Ấn Độ, thời vua A Dục đạt những bước

phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục,

ngoại giao, và theo đó Phật giáo với tư cách quốc giáo cũng phát triển nhanh

chóng ra ngoài Ấn Độ, trở thành một tôn giáo của châu Á.

Sau khi Phật nhập diệt, những nội dung cơ bản do Phật thuyết giảng

lúc tại thế được tổng hợp và truyền tụng lại ngay trong cuộc kết tập lần thứ

nhất thành văn tự trongKinh tạng và Luật tạng: Trường A hàm, Trung A

hàm, Tạp A hàm và Tăng nhất A hàm. Khoảng 100 năm sau, trong cuộc kết

tập lần thứ hai, một bộ phận tỳ kheo trẻ thuộc Đại chúng bộ (Mahasanghika)

40

đã đưa ra 10 điều luật mới, nhưng các vị tỳ kheo lớn tuổi thuộc Thượng tọa

bộ (Sthaviravada) không chấp nhận, và coi đó là 10 điều phi pháp. Cuộc

tranh luận này đã dẫn tới sự phân hóa giáo đoàn Phật giáo thành hai phái:

Thượng tọa bộ với chủ trương giữ y giới luật như ngày Phật còn tại thế: tự

độ, tự tha; Đại chúng bộ với chủ trương hành đạo theo tinh thần “khế lý, khế

cơ” với chủ trương: kết hợp cả tự độ, tự giác và cả độ tha, giác tha. Tới đầu

công nguyên, Phật giáo Đại thừa (Mahayana) phát triển từ tư tưởng Đại

chúng bộ - phương tiện lớn - ra đời và từ đó Thượng tọa bộ bị một số đại

biểu của phái Đại thừa gọi là Phật giáo Tiểu thừa (Hinayana) - nghĩa là

phương tiện nhỏ. Nhưng từ Đại Hội Phật giáo thế giới năm 1956, Phật giáo

Tiểu thừa được gọi là Phật giáo Nguyên thủy.

Phật giáo Nguyên thủy chủ trương bảo tồn nguyên xi giáo lý và

phương pháp tu đạo mà Đức Thích Ca lúc đương thời thường thuyết giảng,

với mục đích giác ngộ và giải thoát cho riêng bản thân mình. Phật giáo

Nguyên thủy chấp nhận về mặt lý thuyết có nhiều vị Phật, nhưng thờ riêng

một đức Thích ca. Phật giáo Đại thừa chủ trương tự độ, tự giác (tự mình tu

tập để đạt giải thoát) và cả độ tha, giác tha (giác ngộ cho mình đồng thời giác

ngộ cho người khác), không cố chấp vào kinh điển. Phật giáo Đại thừa

không những thờ Đức Thích Ca mà còn thờ cả các Đức Phật khác: Đức A-

di-đà, ồ tát Di Lặc và nhiều vị Bồ tát.

Sự phân hóa thành các nhánh phái, bộ phái này diễn ra ngay trong nội

bộ Phật giáo, song nhân sinh quan Phật giáo vẫn là tư tưởng căn bản cho mọi

tông phái, chi phái Phật giáo dù thuộc Đại thừa hay nguyên thủy. Tuy nhiên,

trong quá trình du nhập, phương tiện để đạt tới giải thoát sẽ được bổ sung

tùy theo phong tục, tập quán mỗi nơi mà Phật giáo truyền bá tới. Do vậy cả

Phật giáo nguyên thủy và Đại thừa đều được phát triển ở nhiều nước và ngày

nay Phật giáo đang trở thành một trong ba tôn giáo lớn nhất của thế giới.

2.1.3. Một số nội ung cơ ản của nhân sinh quan Phật giáo

Mục đích cuối cùng của Phật giáo là tìm ra con đường đưa chúng sinh

41

thoát ra khỏi vòng luân hồi bất tận. Để thoát khổ, Phật giáo xây dựng con

đường tu luyện tâm bằng thiền định, trì giới, tích thiện... và xây dựng mô

hình Niết bàn l tưởng.

2.1.3.1. Quan niệm về con người và đời người

Phật giáo cho rằng, con người là loài hữu tình cao cấp, được tạo ra bởi

sự kết hợp tạm thời của hai thành phần chính vật chất (Sắc) và tinh thần

(Danh). Mỗi thành phần lại là sự kết hợp tạm thời của nhiều yếu tố nhỏ hơn.

1. Sắc gồm: đất, nước, lửa, khí, gọi là Tứ đại. 2. Danh gồm: Thụ (cảm giác),

Tưởng (ấn tượng), Hành (tư duy nói chung), Thức (ý thức). Cách phân chia

các yếu tố tạo thành con người nhìn theo cách khác thì gọi là Ngũ uẩn, tức

năm yếu tố: 1. Sắc, 2. Thụ, 3. Tưởng, 4. Hành, 5. Thức [tham khảo 31].

Ngoài ra còn có quan niệm chia sáu yếu tố, gọi là Lục đại: 1. Địa (đất, các

chất khoáng), 2. Thủy (nước, các chất lỏng), 3. Hỏa (lửa, nhiệt độ trong

người), 4. Phong (gió, không khí, hơi trong cơ thể), 5. Không (khoảng trống

trong cơ thế), 6. Thức (yếu tố tinh thức, tinh thần của con người). Năm yếu

tố đầu chính là Sắc, yếu tố thứ 6 chính là Danh.

Phật giáo tiếp thu thuyết Vô thường từ Veda-Upanishad, nhìn sự vật

luôn biến dịch, không có gì là thường trụ, là bất biến, nên khi nhìn vào cuộc

đời thì thấy bản chất của con người là vô ngã. Mọi thứ trên thế gian cũng chỉ

là phù du, ảo ảnh, nằm trong quy luật biến đổi không cùng của vũ trụ. Vạn

vật đều tuân theo quy luật: Sinh-trụ-dị-hoại-diệt và con người cũng không

phải là ngoại lệ, phải tuân theo quy luật: Sinh-lão-bệnh-tử. Sự kết hợp của

ngũ uẩn ở con người chỉ là tương đối, sắc thân (thể xác) tồn tại một thời gian

cũng sẽ bị hủy diệt, khi đó tinh thần (tâm) cũng bị hủy diệt. “Thân thể ta

luôn biến chuyển (vô thường) trong từng satna và có vô thường mới có sự

chuyển biến từ sơ sinh qua thời kỳ thiến niên, thanh niên, trung niên và già

lão”[4,75]. Do vậy, chết không phải là hết, mà đó là điều kiện cho một cái

sinh sắp tới, trong sự sống đã có sự chết, và trong sự chết đã có sự sống. Con

người tu hành luôn vươn tới, vượt ra khỏi vòng luân hồi sinh tử, đến cõi Niết

42

bàn chính là cái đích cuối cùng của người tu Phật.

Con người sinh ra được là do sự tích hợp của nhân duyên với dòng

nghiệp thức cộng thêm tinh cha, huyết mẹ. Nếu có đầy đủ các nhân duyên

mà thiếu vắng dòng nghiệp thức thì con người không thể hình thành như một

con người biết tư duy, có tri giác, biết sáng tạo và có tình cảm. Nghiệp chính

là cái phận riêng của mỗi người do chính mỗi người tự tạo nên, nhưng vẫn

có thể thay đổi chứ không bất biến theo kiểu quyết định luận. Nghiệp gắn

liền với Kiếp, kiếp là quãng thời gian tồn tại của mỗi đời người, mang theo

cái nghiệp đó. Con người sống trên trần thế, đã tạo nghiệp – nhân thì phải

gánh chịu nghiệp – quả. Thuyết nhân quả này chỉ ra rằng, cuộc đời con

người là do chính nghiệp nhân của mình tạo thành. Con người có thể cải tạo

cuộc đời, thoát khỏi vòng sinh-tử bằng cách tu dưỡng, tạo những nghiệp

thiện, mang lại lợi ích cho quần sinh.

Phật giáo cho rằng Niết bàn là đích giải thoát, song để tới đó mỗi

người cần phải tự giác vượt qua Thất tình, Lục dục. Thất tình là bẩy khía

cạnh tình cảmthuộc thức, tâm l khẳng định cái Tôi (hữu ngã) của bản thân:

ái (yêu), ố (ghét), hỷ (vui sướng), nộ (phẫn nộ, tức giận), cụ (sợ sệt), mạn

(ngạo mạn), tập (thói quen xấu). Lục dục là sáu ham muốn, gồm: sắc (sắc

đẹp), thanh (đàn hát), hương (mùi thơm), vị (ăn ngon), xúc (tiếp xúc da thịt),

thức (ý muốn). Nếu không dứt khỏi Thất tình, Lục dục tức vẫn còn ham

muốn và đau khổ sẽ nảy sinh chính từ mâu thuẫn của lòng khao khát về cái

Tôi vô hạn, trường cửu trong khi đời người lại hữu hạn.

Để con người dứt khỏi những ham muốn của ý thức và tâm sinh lý, từ

đó chấm dứt đau khổ, Phật giáo đưa ra thuyết Tứ diệu đế - tức Bốn chân l

cao qu .

1. Khổ đế (Dukkha Satya): Chân l về nỗi khổ của con người. Có thể

chia cái khổ của con người thành tám loại (Bát khổ): Sinh, Lão, Bệnh, Tử là

bốn nỗi khổ vì sinh ra, thì già đi theo thời gian, nẩy sinh bệnh tật và phải tất

43

yếu phải chết; Ái biệt ly khổ: khổ vì xa cách người (vật) thân yêu; Cầu bất

đắc khổ: khổ vì muốn mà không được; Oán tăng hội khổ: khổ vì gặp phải vật

(người) oán gh t; Ngũ thụ uẩn khổ: khổ vì tồn tại thân xác và tinh thần.

Chữ “Khổ” (Dukhha) trong Tứ Diệu Đế còn có nghĩa là: vô thường,

hư giả”[3,118] chứ không chỉ theo nghĩa thông thường. Con người bị quy

định, ràng buộc tất yếu bởi ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành và thức). Đó là sự

kết hợp tạm thời của các yếu tố tạm thời. Sự kết hợp tạm thời giữa những cái

vô thường lại càng vô thường. Bởi vậy, Phật giáo nhìn ngũ uẩn là khổ; con

người, cuộc đời con người là khổ. Sự hình thành con người là giả hợp của

ngũ uẩn, như ảo ảnh. Nếu con người cứ bám víu vào những khoái lạc, nhục

dục giả tạm thì con người sẽ càng dấn sâu trong vòng luân hồi khổ. Con

người chỉ tìm thấy hạnh phúc khi đạt được cái vui chân thật, thường còn,

thanh tịnh. Khi đó con người sẽ đạt được hạnh phúc thực sự, được tự do vĩnh

cửu nơi nội tâm chứ không phải ở tiền bạc, của cải hay danh vọng.

2. Tập đế (Sammudaya Satya): Chân l về nguồn gốc, nguyên nhân

sâu xa của khổ. Phật giáo cho rằng nguyên nhân của khổ nằm ngay trong bản

thân ta. Trước hết, là do Vô minh (avidyà), tức là không sáng suốt, không

nhận thức được thế giới, sự vật, hiện tượng vả cả cái tôi đều là ảo giả mà cứ

cho là thực. Vô minh đầu tiên là do có tưởng sai lạc về sự tồn tại của

“ngã”. Theo đó, sự vật trong thế giới chỉ là ảo giả nhưng cứ tưởng là thật rồi

từ đó mà nảy sinh dục vọng (tham, sân, si) nên tạo nghiệp và triền miên trôi

trong cảnh luân hồi. Vậy, dục vọng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến đau

khổ, còn nguyên nhân sâu sa là do vô minh.

Phật giáo mô hình hóa nỗi khổ của chúng sinh trong quan hệ nhân-quả

của 12vòng khâu và thường gọi là Thập nhị nhân duyên (mười hai nhân

duyên), mô tả cuộc sống qua những thời kỳ, kế tiếp nhau của cuộc đời

(kiếp), trong quan hệ thời gian luân hồi. Hệ thống mười hai nhân duyên đó

là: 1. Vô minh: tức là không sáng suốt, không nhận thức được rằng thế giới,

sự vật, hiện tượng đều là giả, là ảo mà cứ cho đó là thực; 2. Hành: hành là

44

hoạt động của ý thức, sự dao động của tâm, của khuynh hướng, đã có manh

nha của nghiệp; 3. Thức: tâm thức từ chỗ trong sáng, cân bằng trở nên ô

nhiễm, mất cân bằng. Cái tâm thức đó tùy theo nghiệp mà tìm đến các nhân

duyên khác để hiện hình, thành một cuộc đời khác; 4. Danh-Sắc: là sự hội

họp của các yếu tố vật chất và tinh thần. Đối với loài hữu hình, sự phối hợp

của Danh và Sắc sinh ra Lục căn, tức cơ quan cảm giác (mắt, mũi, tai, lưỡi,

thân thể và ý thức); 5. Lục nhập: là quá trình tiếp xúc với thế giới khách

quan xung quanh. Lục căn tiếp xúc với Lục trần (thanh, sắc, hương, vị, xúc,

pháp); 6. Xúc: là sự tiếp xúc, phối hợp giữa lục căn, lục trần và thức; 7. Thụ:

thụ là cảm giác, cảm giác do tiếp xúc mà nảy sinh ra yêu – ghét, buồn –

vui…; 8. Ái: ái là yêu thích, ở đây chỉ sự nảy sinh dục vọng; 9. Thủ: có “ái”

rồi thì có thủ, tức là đã yêu thích rồi thì muốn giữ lấy, chiếm lấy; 10. Hữu:

tiến tới xác định chủ thể chiếm hữu (cái ta) thì phải tồn tại (hữu), tức đã có

hành động tạo nghiệp; 11. Sinh: đã có tạo nghiệp - nghiệp nhân thì ắt có

nghiệp quả, tức phải có sự sinh sôi; 12. Lão-Tử: đã có sinh ắt có già và chết.

Mười hai nhân duyên, đó là sự sinh sinh, hóa hóa liên tục của nhiều cái

khổ. Mười hai nhân duyên này cũng chính là một vòng tròn luân hồi, và như

vậy sẽ không còn cái gì là nguyên nhân đầu tiên. Quan niệm này mang tính

biện chứng, phản ánh quá trình vận động của cuộc đời theo quan hệ nhân-quả.

Theo đó, mọi hành động (thân, khẩu, ý) của con người gây ra sẽ tạo thành kết

quả về sau, đó gọi là nghiệp. Nếu tạo nghiệp thiện, con người sẽ được hưởng

hạnh phúc và ngược lại.

3. Diệt đế (Nirodha Satya): Chân l về con đường khả thi để thoát

khỏi đau khổ, khỏi tính liên tục của khổ nghiệp bằng cách chặt đứt để gỡ các

nhân duyên khác. Khi tìm ra được nguyên nhân của đau khổ, người ta sẽ tìm ra

con đường để diệt trừ nó. Con đường đó chính là đạo đế, giúp con người đi

ngược vòng thập nhị nhân duyên để diệt được vô minh, thoát được hữu ngã.

4. Đạo đế (Marga Satya): Chân l về con đường dẫn đến sự chấm dứt

của khổ. Phật giáo quan niệm, vượt qua vòng luân hồi sinh tử, lên cõi Niết

45

bàn mới đạt được hạnh phúc thực sự. Tuy nhiên, con đường để đạt được sự

giải thoát theo các trường phái triết học đương thời, thường chọn một trong

hai cách: 1. Tu hành khổ hạnh (tiêu biểu là đạo Jaina), 2. Hưởng thụ mọi

khoái lạc (tiêu biểu là phái Lokayata). Phật giáo chọn con đường trung đạo-

nghĩa là vượt qua hai thái cực đó.

2.1.3.2. Quan niệm về giải thoát

Trong Tứ diệu đế: hai đế cuối chỉ cho con người khả năng có thể thoát

khỏi “khổ” là Di t đế, và cách thức để có thể thoát khổ bằng việc tu luyện là

Đạo đế để tới c i “Niết bàn”. Trong mười hai nhân duyên của Phật giáo, cái

sau là kết quả của cái trước nhưng lại là nguyên nhân của cái tiếp theo, có

cái này nên có cái kia, cái này hết nên cái kia cũng hết. Mắt xích quan trọng

nhất để loại trừ Khổ là xóa bỏ vô minh (hiểu được lẽ vô thường, vô ngã, xóa

bỏ nhị kiến), từ đó sẽ buông bỏ tất cả những dục vọng, những ham muốn,

theo đó, các nguyên nhân dẫn đến khổ (ái, thủ, hữu…) cũng sẽ bị diệt bỏ.

Đạo đế cho rằngđể được giải thoát thì con ngườiphải thực hành Bát

chính đạo (Tám con đường chân chính) gồm: 1. Chính kiến: hiểu biết đúng

đắn, am tường Tứ Diệu đế; 2. Chính tư duy: tư duy đúng đắn, không tham,

sân si, nhằm đạt tới chân lý và giác ngộ; 3. Chính ngữ: lời nói chân chính,

không nói những điều giả dối, ác độc, xấu xa, vu khống, không nói lời thêu

dệt, nhục mạ người khác; 4. Chính nghiệp: hành động đúng đắn, không làm

việc gian ác; 5. Chính mệnh: sống trung thực. nhân nghĩa, chính trực, không

tham lam, vụ lợi; 6. Chính tinh tiến: nỗ lực, sáng suốt, vươn lên một cách

đúng đắn; 7. Chính niệm: luôn tâm niệm về đạo l chân chính, đến điều tốt,

không nghĩ về những điều xấu xa; 8. Chính định: kiên định, tập trung tư

tưởng vào chân l , đạo l chân chính, đạt tới giác ngộ - Niết bàn. Niết bàn là

một trạng thái hoàn toàn sáng suốt, yên tĩnh, thoát khỏi vòng sinh - tử, luân

hồi. Giải thoát theo đạo Phật khẳng định để thoát ra khỏi mọi đau khổ là bắt

đầu ngay trong chính mỗi người, đó là diệt bỏ tham, sân, si, ái, ố, hỉ, nộ.

Tư tưởng giải thoát của Phật giáo có mặt tích cực, bởi nó đặt căn cứ

46

trên bản chất bình đẳng giữa người với người. Phật giáo là tôn giáo đầu tiên

của Ấn Độ thuyết giảng về sự bình đẳng giữa con người. Phật giáo khẳng

định: Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ như nhau, không có đẳng

cấp trong giọt nước mắt cùng mặn: “Phật giáo đã khởi đầu một phong trào vị

nhân sinh, đưa tôn giáo trở về với con người phi thần thánh khi cho rằng mọi

người đều bình đẳng như nhau về nỗi khổ (bát khổ) và bình đẳng như nhau

về khả năng giải thoát khỏi khổ, không loại trừ, kể cả giai cấp Bà La Môn tự

cho là thần thánh”[104,43-51].

Triết lý của đạo Phật không phân biệt sang hèn, kẻ trí, người ngu, cho

rằng tất cả chúng sinh đều có thể tu tập và có khả năng tự giải thoát khỏi khổ

đau. Phật giáo không đặt niềm tin vào cầu nguyện, van xin, tế lễ để được cứu

vớt, mà tin ở chính con người tự giác hướng thiện. Mọi khổ đau và hạnh

phúc của con người đều do con người tự gây ra và cũng có thể tự giải quyết.

Luật nhân quả trong Phật giáo chỉ r : con người là kết quả của chính sự tạo

nghiệp bởi bản thân mình chứ không phảido đấng sáng tạo nào ban phát. Bát

chính đạo mà Phật giáo đưa ra là con đường tự lực, không dựa cầu tha lực.

Tuy nhiên, với tư cách một tôn giáo khi đi vào giới bình dân, nhiều yếu tố

tâm linh đã được phát triển nhanh chóng thành các hình thức thờ cúng lễ bái

như ta thấy nhiều hiện tượng cầu nguyện, van xin, tế lễ ở ngay các địa điểm

Phật giáo (chùa chiền), nên không còn giữ được tinh thần vô thần, bình đẳng

của Phật giáo nguyên thủy.

Giải thoát của đạo Phật có điểm khác biệt là hướng nội phá bỏ vọng

tâm, diệt trừ dục vọng. Phật giáo cho rằng, sự thỏa mãn khoái lạc, nhục dục,

nhu cầu về vật chất chỉ là giả tạm, nếu cứ bám víu vào đó thì tất sẽ tự khổ và

gây khổ cho người khác và cho xã hội. Hạnh phúc thực sự là sự thanh bình,

tĩnh lặng nơi nội tâm, không phải ở tiền bạc, của cải, danh vọng. Song vì

không làm chủ được bản thân, không có niềm tin nơi bản thân mình nên con

người luôn cảm thấy bất an, ngay cả khi có cuộc sống vật chất đầy đủ.

Đức Phật không khuyên con người phải chối bỏ cuộc sống hay chạy

47

theo lối sống cô độc, bởi mỗi người đều có một căn duyên khác nhau nên có

thể lựa chọn cho mình cách sống riêng sao cho phù hợp. Tuy nhiên, chọn

cách sống nào cũng cần xuất phát từ thiện tâm, bởi chính họ sẽ phải chịu

trách nhiệm trước mỗi hành vi của chính mình. Hạnh phúc hay khổ đau,

thiên đường hay địa ngục là do bản thân mỗi người chứ không phải do số

mệnh. Đức Phật đã từng nhắc nhở hãy tự thắp đuốc mà đi. Trong Trường A

Hàm tập 1 chương 806, Phật đã giải thích: “Này các Tỳ kheo thế nào là tự

mình thắp đuốc mà đi, hãy thắp lên chánh pháp, đừng thắp lên một pháp nào

khác, và hãy nương tựa với chính mình, hãy nương tự với chánh pháp, đừng

nương tựa một pháp nào khác”. Theo đó, để đạt được sự giải thoát, cần phải

dựa vào chính mình, tự mình phải tu luyện để có thể nghĩa là vượt lên khỏi

sự ràng buộc của thế giới hiện tượng, dập tắt được dục vọng, xóa bỏ được vô

minh, chấm dứt sinh tử, luân hồi.

2.1.3.3. Quan niệm về đạo đức

Phật giáo chỉ ra nguyên nhân sâu xa của nỗi khổ và đưa ra con đường

để đạt tới cõi Niết àn. Con đường đó luôn gắn chặt với việc tu dưỡng, rèn

luyện đạo đức. Nội dung đạo đức của Phật giáo nằm trong át chính đạo

thuộc Đạo đế trong Tứ Diệu đế - con đường đúng đắn để mỗi người tự giác

đạt tới giải thoát.

Nội dung của át chính đạo có thể khái quát lại thành ba phương diện,

gọi là Tam học gồm: Giới, Định, Tuệ. Theo đó, việc tu luyện đạo đức của

mỗi cá nhân không tách rời tu luyện trí tuệ và niềm tin. Giới, nghĩa là những

quy định về luân l , hành vi đạo đức, cách cư xử hướng thiện để đi đến diệt

trừ nghiệp ác, tích nghiệp thiện. Định là phương pháp thực hành thiền định,

rèn luyện năng lực tự giác hướng nội để có thể làm chủ được niềm tin, cảm

xúc của bản thân để không có nghĩ xấu, tư tưởng xấu, xóa bỏ mọi vọng

niệm. Tuệ không phải trí tuệ hiểu theo nghĩa thông thường (là học nhiều,

hiểu rộng, hiểu sâu của tri thức) mà là trí tuệ giác ngộ Bát nhã (Prajna),

nghĩa là cái biết (tuệ) dựa trên trực giác tâm linh thoát khỏi tri thức kinh

48

nghiệm. Tuệ trong Phật giáo là sống thiện, sống hài hòa với quy luật vô

thường, vô ngã, Tứ Diệu Đế, thuyết nhân quả, lấy cái minh xóa bỏ vô minh.

Tuệ chính là chìa khóa để mở cánh cửa đưa con người đến với cõi Niết àn,

là sức mạnh tỉnh giác của quá trình tu dưỡng, là Giác ngộ.

Mục đích cao nhất của Phật giáo là giải thoát, đó cũng là giác ngộ

chân lý cuối cùng. Để đạt được tới đó, không thể dùng tư duy phân tích

thông thường, mà phải dùng Tuệ giác. Tuệ trong Phật giáo luôn kết hợp với

đạo đức, đó cũng là đỉnh cao Giác ngộ. Muốn có Tuệ thì phải định tâm, tức

là phải tập trung tư tưởngkhông vọng động mới tạo điều kiện cho tuệ nảy

sinh.Giới tức rèn luyện cho tâm trong sạch, trong sáng, đó là là các quy

phạm đạo đức cụ thể và tỉ mỉ (Ngũ giới, Thập thiện) quy định rõ cho nhiều

loại người và cho nhiều đẳng cấp tín đồ. Có các giới cho người xuất gia, cho

đẳng cấp ồ tát của Đại Thừa và người tại gia… nhưng Ngũ giới là quy

phạm đạo đức cơ bản nhất chung cho mọi Phật tử.

Ngũ giới bao gồm: 1. Không sát sinh: không sát hại sự sống. Với tăng

sĩ nếu thấy người bị sát hại mà không cứu cũng là phạm giới; 2. Không trộm

cắp: không được lấy vật gì không thuộc quyền sở hữu của mình; 3. Không tà

dâm: đối với người tại gia là “duy chế tà dâm”, tức phải ngăn ngừa, hạn chế

dục vọng trong một giới hạn nhất định mà xã hội cho phép. Với tăng sĩ,

muốn xuất gia phải ly dục, tức phải xa lánh thế giới trần tục, không có vợ,

không có con; 4. Không nói dối: nghĩa là không nói hai lời, phải thành thật,

không thêm bớt, không nói lời độc ác gây tổn hại đến người khác, không bịa

đặt, không làm hại đến chính mình mà còn tác động không tốt đến người

khác; 5. Không uống rượu: uống rượu là nguyên nhân gây ra 4 tội trên và

nhiều tội khác nữa. Khi uống rượu trí tuệ con người trở nên mất sáng suốt,

không thể tự điều khiển hành vi của mình, ngoài ra cũng phải cách ly những

nơi có rượu chè và cũng không được xúi dục người khác uống rượu. Ngũ

giới có vị trí quan trọng, làm nền tảng ban đầu để từ đó phát triển ra các giới

49

khác. Năm giới không chỉ là nguyên tắc đạo đức cần thiết cho các phật tử

nhằm làm bền vững lành mạnh tăng đoàn, mà mọi người, mọi nhà và toàn xã

hội cũng tốt đẹp, bình yên nếu thực hiện được các giới này của Phật giáo.

Mở rộng Ngũ giới là Thập thiện. Thập thiện gồm: 1. Không sát sinh:

không làm tổn hại đến các động vật có sinh mạng; 2. Không trộm cắp: không

chiếm đoạt tài sản của người khác làm của mình; 3. Không tà dâm: giữ phẩm

hạnh; 4. Không nói dối: nói lời thành thực; 5. Không nói ác: nói lời hòa nhã;

6. Không nói hai lời: không nói lời khiêu khích, ly gián; 7. Không nói lời

thuê dệt: nói lời ngay thẳng, không nói những lời phù phiếm, vô nghĩa; 8.

Không ham dục: không ham cầu quá mức; 9. Không nóng giận: giữ tâm bình

thản, ôn hòa, mọi việc làm đều suy nghĩ chính chắn; 10. Không si mê tà

kiến: xử lý mọi việc không mê muội, dùng lý trí soi xét kỹ càng. Thập thiện

góp phần bổ sung cho Ngũ giới. Ngũ giới và Thập thiện theo giáo lý Phật

giáo đã thực sự góp phần nuôi dưỡng lòng từ bi, bác ái, kích thích hành vi tốt

đẹp của con người trong xã hội.

Phật giáo cũng khuyên con người sống có đạo đức, có tình thương với

muôn loài, mục đích của Phật giáo là giải thoát nhân loại khỏi đau khổ bằng

đạo từ bi. Phật giáo nhìn thấy mối quan hệ giữa Khổ và Từ bi. “Có khổ đau

mới có Từ bi, có Từ bi mới có Phật giáo”[59,116]. “Từ” là đem lại cho

chúng sinh niềm an lạc, hạnh phúc, “ i” là trừ khổ cho chúng sinh, thương

xót họ như bản thân. Từ bi là đem lại hạnh phúc cho mọi người, mọi loài,

cứu nạn cho chúng sinh thậm chí quên đi những lợi ích của bản thân.

Triết lý “từ bi” thể hiện r n t qua quan điểm về sự bình đẳng, công

bằng trong nhân sinh quan của Phật giáo. Quan điểm này tiến bộ hơn so với

nhiều tôn giáo thần quyền khác. Nó đem lại niềm tin về khả năng giải thoát

cho mọi người, vì tin rằng mọi người đều bình đẳng với nhau về khổ, nên

bình đẳng trên con đường tu luyện để đạt đạo. Do vậy, dù không kêu gọi

cuộc đấu tranh giành quyền sống cho những số phận bất hạnh, nhưng quan

điểm bình đẳng, công bằng của Phật giáo đã góp phần đề cao quyền sống,

50

quyền mưu cầu hạnh phúc cho những giai tầng thấp kém trong xã hội Ấn Độ

cổ. Qua đó, nhân sinh quan Phật giáo gián tiếp có mối liên hệ với các vấn đề

chính trị chung của xã hội con người và nghĩa nhân bản cách mạng, l

tưởng từ bi bình đẳng vị tha của đạo Phật đã mở cánh cửa cho tinh thần

Trong các bài giảng, Ngài đã lên án hệ thống giai cấp và Ngài công

nhận quyền bình đẳng của con người. Ngài giảng về nhu cầu cải thiện các

điều kiện kinh tế xã hội, công nhận tầm quan trọng của việc phân bố công

bằng các của cải giữa người giàu và nghèo, nâng cao vị trí của phụ nữ,

khuyến khích việc áp dụng tinh thần nhân bản trong guồng máy hành chính.

Ngài dạy rằng xã hội phải được điều hành trên tình thương và lòng từ bi,

chứ không dựa vào lòng tham lam[149].

“nhập thế” trước nhiều vấn đề của đời sống chính trị xã hội.

Tất cả mọi người, không phân biệt tuổi tác, giới tính, giai cấp, địa vị ai

cũng có thể giải thoát chỉ cần thực hành theo giới luật của Phật giáo, đây là

điểm tiến bộ của đạo Phật so với các tôn giáo đương thời. Điều này đã đáp

ứng được nhu cầu của đa số người dân Ấn Độ thuộc các đẳng cấp thấp k m

thời đức Phật. Tư tưởng về bình đẳng này đã làm hạn chế, tiến tới khắc phục

tính khắc nghiệt phân biệt đẳng cấp của đạo à la môn đang chi phối xã hội.

Phật giáo cho rằng, với tất cả chúng sinh, Phật tính đều bình đẳng, không có

kẻ thần thánh, người hè hạ không thể tu hành để tới giải thoát.

Mẫu người l tưởng trong Phật giáo là Phật, A La Hán, Bồ tát. Đó là

những con người đầy lòng từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha với tinh thần nhân ái

bao la, yêu thương mọi người; thông cảm sâu sắc với những nỗi khổ đau của

người khác; và tìm cách giảm nhẹ nỗi đau cho họ; làm tất cả mọi việc có ích

cho mọi người mà không chút đắn đo, tính toán, không mong đợi sự báo

đáp, không vì lợi lộc, danh vọng. Song, xuất phát từ chủ trương tự “diệt

khổ”, mọi người đều có thể tự giải thoát nếu biết tu dưỡng Giới-Định-Tuệ để trở

về với “Phật tính” vốn có của chính mình, Phật giáo tạo cho con người niềm tin

vào chính bản thân, động viên nỗ lực tu tâm, tích đức, làm thiện, thể hiện trong

quan niệm “tự tin, tự giác, tự thể chứng” (tự biết, tự hiểu và tự thể nghiệm, kiểm

51

chứng trong đời sống) để vượt qua thói ích kỷ, đố k của chính mình.

Nhân sinh quan Phật giáo phủ nhận vai trò của đấng siêu nhiên trong

việc giải phóng con người, mà cho rằng chính con người bằng hành động, ý

Đạo Phật là con đường mỗi người tự đi và tự tới đích chứ không phải

là chờ sự ban ơn của đấng thần linh. Trên con đường tu luyện, con người tự

hiểu bản chất đích thực của mình và càng tránh xa ái dục, tội lỗi tạo nên

nghiệp báo và luân hồi. Có thể nói, đạo Phật đã làm một cuộc cách mạng:

đảo hướng tư duy sang tìm kiếm niềm tin ở chính con người chứ không

phải ở một hoặc nhiều vị thần[101,41].

chí của họ sẽ chi phối đời sống và làm thay đổi vận mệnh của chính họ.

Phật giáo có quan điểm biện chứng khi cho rằng mọi sự vật, hiện

tượng đều có mối liên hệ, tác động lẫn nhau (duyên khởi), là quả của cái

trước nhưng đồng thời lại là nhân của cái sau. Theo đó, cái khổ của mỗi

người xuất phát từ việc làm, lời nói và suy nghĩ (thân-khẩu- ) của chính họ

đã tạo ra trong cuộc sống, con người tạo nghiệp thiện, sẽ được hưởng hạnh

phúc và ngược lại sẽ nhận báo ứng. Quan niệm này rất tích cực, nó khuyến

khích con người hành thiện để gieo nhân tốt và gặt hái được quả phúc.

Tuy vậy, nhân sinh quan Phật giáo nguyên thủy cũng có mặt hạn chế

khi cho rằng, thế giới sự vật, hiện tượng và cả con người chỉ là ảo giả, không

có thực mà do vô minh của con người tạo ra, hay cho rằng mọi đau khổ của

con người đều do vô minh mà ra, từ đó Phật giáo không đấu tranh chống lại

cái ác nơi cuộc sống trần tục, mà chỉ trầm tư, chiêm nghiệm trong thế giới

nội tâm. Chỉ hướng tới việc cải tạo đạo đức để đạt tới sự giải thoát, chứ

không nhằm tới cải tạo hiện thực nơi trần gian. Đó cũng là một lực cản lớn

đối với sự tiến bộ của xã hội, kìm hãm sự phát triển của kinh tế.

2.2. Nhân sinh quan Phật giáo thời Lý-Trần

2.2.1. Quá trình du nhập Phật giáo vào Vi t Nam đến thời Lý-Trần

Phật giáo truyền vào Việt Nam bằng hai con đường: đường biển từ Ấn

Độ và đường bộ từ Trung Quốc. Theo đường biển, các thương thuyền Ấn Độ

thường tới vùng Đông Nam Á để buôn bán. Trong các chuyến đi này, các

52

thương nhân thường cung thỉnh các vị sư tăng đi cùng để hỗ trợ cho họ về

mặt tâm linh. Phật giáo theo đó được truyền bá vào Việt Nam từ những năm

đầu Công nguyên.

Thời kỳ đầu, Việt Nam đang còn là thuộc địa của nhà Hán, Nho giáo

và Đạo giáo đã được truyền bá ở đây nhằm mục đích đồng hóa dân tộc Việt

trước sự cai trị của nhà Hán. Do vậy, hai hệ thống tư tưởng này khi ở Việt

Nam không còn nguyên bản mà mang tính khắc nghiệt, nên chưa được người

Việt đón nhận. Cùng với đó là tín ngưỡng dân gian vẫn đang được duy trì

trong đời sống làng xã. Vì vậy, khi mới du nhập, tư tưởng Phật giáo tuy còn

xa lạ với người Việt, nhưng chính tinh thần từ bi, hỷ xả, tinh thần cứu độ

chúng sinh không nề hà trong việc trị bệnh cứu người, giúp đỡ những người

khốn khó… của các nhà sư Ấn Độ, đã có tác động sâu sắc và dần cảm hóa

được người dân Việt. Từ đó, Phật giáo tuy là tôn giáo ngoại lai nhưng đã

sớm trở thành một tư tưởng có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của

cư dân trồng lúa nước thời kỳ ắc thuộc.

Nhân sinh quan Phật giáo cũng rất phù hợp với người Việt vốn ưa

chuộng hòa bình, gh t xung đột, sống hòa hợp, giàu lòng nhân ái, nên dần

dần triết l này đã được hòa nhập với tín ngưỡng bản địa của người dân

Việt,… và đặc biệt nó bổ sung cho người Việt tinh thần bình đẳng giữa

người với người trên con đường giải thoát, giúp họ có thêm niềm tin vào bản

thân, kêu gọi họ sử dụng chính khả năng tích thiện của mình để giác ngộ

“giải thoát”. Vì vậy, người Việt tự nguyện tìm đến Phật giáo như một cứu

cánh. Danh xưng uddha ( ậc giác ngộ) tiếng Phạn đã được phiên âm sang

tiếng Việt là “ ụt” và hình ảnh ông Bụt xuất hiện trong nhiều chuyện cổ

tích, ca dao, tục ngữ, thơ phú của người Việt. Giai đoạn đầu này có thể gọi là

giai đoạn Phật giáo Việt - Ấn. Hệ thống kinh điển Phật giáo thời kỳ này ở

Việt Nam cũng đã có gắn với tính thiền của Phật giáo Đại thừa vùng nam Ấn

Độ: “khuynh hướng Thiền - hay đúng hơn là Tiền Thiền - đã xuất hiện ở

Việt Nam từ thế kỷ III, với Khương Tăng Hội, làm cơ sở cho sự tiếp nhận và

53

phát triển Thiền tông về sau”[126,82]. Theo Thiền Uyển Tập Anh, năm 580,

có nhà sư Ấn Độ là Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) sang Việt Nam thành lập

phái thiền đầu tiên, thiềnTỳ Ni Đa Lưu Chi [Xem sơ đồ 2.2-Phụ lục, tr.167],

kinh điển chủ yếu thuộc văn hệ Bát nhã có gốc từ nam Ấn Độ.

Sang thế kỷ VI, Phật giáo Trung Quốc theo đường bộ truyền sang Việt

Nam, lúc đầu có ba tông phái là Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông. Thiền

tông được khởi đầu từ nhà sư Ấn Độ là Bồ Đề Đạt Ma, ông chủ trương “ ất

lập văn tự. Giáo ngoại biệt truyền. Trực chỉ nhân tâm. Kiến tính thành Phật”.

Thiền tông đòi hỏi nhiều công phu tu luyện đạo đức, niềm tin và khả năng trí

tuệ, do vậy thường được phổ biến ở giới trí thức. Tịnh độ tông chủ trương

dựa chủ yếu vào sự giúp đỡ từ bên ngoài (tha lực) để cứu giúp chúng sinh do

vậy phát sinh niềm tin lễ Phật, tụng niệm danh Phật A Di Đà là có thể đến

Tây Phương cực lạc sau khi chết. Đây là con đường tu đơn giản nên phát

triển chủ yếu ở giới bình dân. Mật tông chuộng tu luyện những phép thuật

huyền bí như linh phù, mật chú, ấn quyết… để chữa bệnh, trừ tà và đạt đến

giác ngộ và giải thoát. Ở Việt Nam, Mật tông không tồn tại độc lập như một

tông phái, mà hòa vào tín ngưỡng dân gian với những hình thức cầu đồng,

pháp thuật, yểm bùa… Cả ba tông phái Thiền, Tịnh, Mật dù có điểm khác

biệt nhưng nhìn chung đều dựa trên những giáo l cơ bản của đạo Phật, khi

truyền vào Việt Nam nên chúng cùng giao thoa, tương tác với nhau và cùng

và hòa nhập vào tín ngưỡng bản địa tạo nên sắc thái riêng biệt cho Phật giáo

Việt Nam.

Năm 820, thiền sư Vô Ngôn Thông sang Việt Nam, truyền bá dòng

thiền thứ hai, thiền Vô Ngôn Thông [Xem sơ đồ 2.3-Phụ lục, tr.168], mang

đậm màu sắc của Thiền Trung Quốc. Từ đây, danh xưng “ uddha” được

dịch thành chữ “Phật” qua biến âm của từ佛 (Phô) trong tiếng Hán và thay

thế dần từ “ ụt” – vốn do người dân Việt chuyển âm từ tiếng Ấn của từ

“ uddha” (Phật). Từ “ ụt” từ đó chỉ còn trong tín ngưỡng và các câu

54

chuyện dân gian, thơ, phú.

Trong ba phái Phật giáo du nhập vào Việt Nam, chỉ có Thiền tông đủ

sức hình thành nên một trường phái độc lập. Tuy nhiên, trong tư tưởng nhân

sinh của Thiền tông vẫn có sự kết hợp của nhiều tư tưởng. “Về mặt tín

ngưỡng, Thiền Tông ở nước ta kết hợp với tín ngưỡng nguyên thủy bản địa,

với Đạo giáo và những yều cầu thực tế của nhân dân, cũng vì vậy mà nó

mang nhiều yếu tố của Mật tông…”[113,199]. Thiền-Phật giáo Việt Nam

thời kỳ này cũng “kết hợp con đường giải thoát tự lực với con đường giải

thoát bằng tha lực, tức con đường cần đến sự cứu vớt của các Bồ Tát, nhất là

Quan thế Âm Bồ Tát. Chính sự sùng bái lối giải thoát bằng tha lực như vậy

làm cho Thiền Tông nước ta dung hòa với Tịnh Độ”[113,199]. Vì vậy, Thiền

Việt Nam giản dị về nghi thức tu hành, chỉ dùng cách tọa thiền trực giác mà

thành giác ngộ. Nhân sinh của Thiền là “yêu thiên nhiên, chuộng lao động,

đề cao sự cảm thông giữa người với người và giữa người với muôn

vật”[126,85] rất gần gũi với tinh thần trọng nghĩa tình, yêu lao động của

người dân Việt. Thiền tông chủ trương thực hành tu luyện bằng khả năng

của mỗi người, trải nghiệm qua chính cuộc sống hàng ngày, để giải thoát.

Tuy không phát triển thành thiền phái độc lập, nhưng Tịnh độ tông và

Mật tông vẫn tồn tại và hòa trộn trong văn hóa và tín ngưỡng của người dân

Việt và thường được gọi là Phật giáo dân gian. Trong Phật giáo dân gian,

Trời - Phật - Thần đã gắn liền và hòa đồng làm một. Người Việt thường nói

“cầu trời khấn Phật”, hoặc “lạy trời lạy Phật” khi gặp khổ đau, bất trắc. Đức

Phật trong Phật giáo dân gian đã mang những n t đặc trưng của một vị thần

quyền năng, thường xuất hiện khi con người gặp khó khăn, làm ph p giúp họ

vượt qua khó khăn và được người dân cầu xin sự ban phát tựa như các tôn

giáo hữu thần khác. Các nhà chính trị đã không bỏ qua tác động lớn lao của

Phật giáo đối với dân chúng. Sau này, nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ nổ ra

đều có chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng Phật giáo, đặc biệt là thời Lý-Trần.

Sang thời Lý-Trần, tình cảm của người dân với Phật giáo đã trở nên

55

sâu đậm hơn. Trong triều đình cũng có những vị vua, quan, bà hoàng sùng

Phật, tu Phật với đạo đức và nhân cách đáng ngưỡng mộ và được người dân

yêu qu tôn xưng là Phật, là Thượng sỹ, hay Bồ tát… Qua đó triều đình đã

tạo được mối dây liên kết nhân tâm với người dân lao động trong cả nước, từ

đó, đã tạo ra sức mạnh tinh thần lớn lao góp công lớn trong nhiều thắng lợi ở

thời Lý-Trần.

Năm 1069, vua L Thánh Tông đem quân chinh phạt Chiêm Thành,

trong số tù nhân bắt được, có một vị thiền sư Trung Hoa tên là Thảo Đường.

Khi biết được khả năng và danh tiếng của vị thiền sư này, vua liền phong

Thảo Đường làm quốc sư và cho trụ trì chùa Khai Quốc. Lúc này ở Việt

Nam đã có hai Thiền phái Phật giáo mang màu sắc Ấn Độ và Trung Hoa,

song “để đáp ứng nhu cầu của một đất nước độc lập tự chủ, cường thịnh,

hùng mạnh đánh sang phía ắc, dẹp và bắt phía Nam thuần phục, để xây

dựng một đế quốc “Đại Việt”[31,107], nhà L muốn tạo ra một hệ tư tưởng

mới độc lập với hệ tư tưởng của phương ắc. Vua L Thánh Tông đã cho

lập nên thiền phái Thảo Đường, cũng bởi “L Thánh Tông đã đi theo

khuynh hướng tổng hợp. Từ đó tất yếu làm nảy sinh phải có một hệ tư tưởng

tổng hợp để tương xứng với thực tiễn xã hội hoành tráng lúc bấy

giờ”[31,107].

Lãnh đạo Thiền Thảo Đường là những người đầu tiên khởi đầu trào

lưu tổng hợp các tông phái Phật giáo (Vô Ngôn Thông, Tỳ Ni Đa Lưu Chi)

và dung hợp các tư tưởng củacả Nhovà Đạo vào Phật giáo. Trong 19 người

thuộc thiền phái Thảo Đường [Xem sơ đồ 2.4 - Phụ lục, tr.169] thì có 10 vị

là người xuất gia, 9 vị là cư sĩ, mà nhiều vị là vua (Thánh Tông, Anh Tông,

Cao Tông), quan cao cấp của triều đình(Ngô Ích, Đỗ Vũ, Nguyễn Thức).

Tuy nhiên, do phái Thảo Đường có khuynh hướng bác học và hứng thú văn

chương có tính qu tộc, nên dù “có ảnh hưởng sâu đậm về mặt học thuật, tư

tưởng và thi ca trên hai thiền phái đương thời”[53,258] nhưng nó lại không

có sức sống trong quần chúng -những người ít có điều kiện học hành. Vì

56

vậy, thiền phái này “không có cơ sở trong đại chúng bình dân, cũng không

có truyền thống tu viện đặc thù”[53,258]. Do vậy, nókhông đủ sức trở thành

thiền phái độc lập có thể lưu truyền về sau.

Cuối thời L , khuynh hướng dung hợp ba thiền phái đang tồn tại được

tiếp tục bởi thiền sư Thường Chiếu1 (?-1203), “truyền thống hòa quan đồng

trần có lẽ có thể tìm thấy từ thiền sư Thường Chiếu ở chùa Lục Tổ, người

làm gạch nối giữa Phật giáo ba-tông-phái đời Lý và Phật giáo một-tông-phái

đời Trần[Xem sơ đồ 2.5-Phụ lục,tr.169]. Ngoài ra, phải kể đến Thiền sư

Hiện Quang (?-1220), người “mở đầu cho Phật giáo Trúc Lâm, nền Phật

giáo Thống Nhất đời Trần”[53,328] thiền sư chính là người sáng lập ra phái

Yên Tử (vua Trần Nhân Tông chính là tổ thứ sáu – sau ông cũng tiếp nối tư

tưởng của phái này, thành lập nên phái Trúc Lâm ên Tử và là tổ thứ nhất).

Tổ thứ hai của phải ên Tử là thiền sư Viên Chứng2 hiệu là Trúc Lâm3 -

thày của vua Trần Thái Tông, và là người có ảnh hưởng lớn lao trên con

đường tu học của vua,được vua phong làm Quốc sư. Vị tổ truyền thừa thứ ba

là Đại Đăng quốc sư, đồng sư với vua Trần Thái Tông. Thiền sư Tiêu Diêu

thuộc thế hệ thứ tư, ông là thày của Tuệ Trung - một trong những cây đuốc

sáng nhất của thiền học đời Trần. Tuệ Trung được vua Thánh Tông rất khâm

phục về nhân cách và đạo học. Chính vua đã tôn ông làm Thượng Sỹ ( ồ

tát) và ca ngợi rằng: “về cốt cách, Thượng sĩ là người khí lượng thâm trầm,

phong thần nho nhã”[121,544].

Như vậy, nhu cầu xây dựng một hệ tư tưởng thống nhất, độc lập với

đế quốc Trung Hoa đã được đặt ra từ thời L . Nhưng chỉ sau khi hoàn thành

ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyênthắng lợi vẻ vang, ý thức về một

nền độc lập tự cường như được thổi thêm luồng sinh khí mới và theo đó nhu

57

cầu thống nhất về tư tưởng đặt ra cấp bách hơn. Theo đó, vấn đề phát triển 1 Sư họ Phạm, quê làng Phù Ninh, triều L Cao Tông (1176-1210), đời thứ 12, dòng Vô Ngôn Thông. 2Ông là thày của vua Trần Thái Tông, được vua tôn xưng là Quốc sư. ng cũng là người có ảnh hưởng lớn lao trên con đường tu học của Trần Thái Tông. Khoảng năm 1236, khi vua Thái Tông bỏ lên núi Yên Tử định đi tu, chính ông là người khuyên ông trở về bằng những lý lẽ rất thuyết phục thể hiện sự am tường giáo lý Phật giáo. 3 Đây là pháp hiệu Trúc Lâm quốc sư của thiền sư Viên Chứng – tổ thứ hai của phái Yên Tử với pháp hiệu Trúc Lâm của vua Trần Nhân Tông. Vì sau này, khi xuất gia vua Trần Nhân Tông cũng lấy pháp hiệu là Trúc Lâm và trở thành tổ thứ sáu của phái Yên Tử và là tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm - còn gọi là Trúc Lâm Yên Tử.

Phật giáo trên cơ sở dung hòa các hệ tư tưởng đương thời tiếp tục được hoàn

thiện, trên cơ cở gắn nó với vấn đề quốc gia, chính sự thời L ý-Trần.

Năm 1299, Trần Nhân Tông (tổ thứ sáu của phái Yên Tử) đã đảm

đương trọng trách thống nhất giáo hội Phật giáo Việt Nam lần thứ nhất.

Ôngquyết định thành lập thiền phái Trúc Lâm và chính thức lấy pháp hiệu

Trúc Lâm Đại Đầu Đà. Nhân Tông chịu ảnh hưởng lớn từ tư tưởng nhân

sinh của vua ông Trần Thái Tông, đồng thời tiếp thu và vận dụng tư tưởng

“nhập thế hành đạo” của Tuệ Trung, tức gắn lý luận giải thoát của Phật giáo

với thực tiễn chính trị của đất nước, gắn lợi ích Phật giáo với lợi ích của triều

đại và dân tộc. Có thể khẳng định, nhân sinh quan Phật giáo của Thiền phái

Trúc Lâm có khuynh hướng nhập thế tích cực và ngày càng thể hiện ảnh

hưởng trong tư tưởng chính trị - xã hội thời Lý-Trần.

2.2.2. Một số nội ung cơ ản của nhân sinh quan Phật giáo thời Lý-Trần

Nhân sinh quan của Phật giáo thời L -Trần là sự dung hòa nhân sinh

quan Phật giáo nguyên thủy với những n t văn hóa truyền thống của người

Việt, đồng thời kế thừa cả nhân sinh quan của Nho, Đạo. Giai cấp thống trị

Lý-Trầntôn sùng Phật giáo, và do tiếp thu tinh thần khoan dung, vị tha của

Phật giáo, nên Nho và Đạo giáo vẫn được nhà nước bảo trợ và phát triển. Sự

tích hợp này, một mặt càng làm phong phú thêm tư tưởng nhân sinh thời Lý-

Trần và mặt khác làm nên đặc trưng riêng biệt của Phật giáo Lý-Trần.

2.2.2.1. Quan niệm về con người và cuộc đời con người của nhân sinh quan

Phật giáo thời Lý-Trần

Trần Thái Tông là một vị vua anh minh, song đồng thời ông là một

nhà Phật học am hiểu cả Nho và Đạo. Tác phẩm Phật học nổi tiếng của ông

là Khóa Hư Lục. Kế thừa quan điểm nhân sinh của Phật giáo truyền thống,

Trần Thái Tông cho rằng, bản thân con người chính là sự kết hợp động, tạm

thời của Ngũ uẩn là (五蘊, Sanskrit: pañca-skandha), cho nên nó cũng là ảo,

giả. Ngay cả bản thân tứ đại (địa, thủy, hỏa, phong), ngũ uẩn (sắc, thọ,

58

tưởng, hành, thức) đều không có, vì đó chẳng qua chỉ là sự kết hợp ảo, giả

của những yếu tố khác. Cuộc đời con người cũng chỉ là vô ngã, hư giả. Mọi

sự vật, hiện tượng luôn lưu chuyển, biến dịch, sinh sinh, hóa hóa, không có

cái gì là thường trụ, bất biến. Vì vậy “Công danh rất mực chỉ là một giấc

mộng to, phú qu hơn người cũng khó tránh vô thường hai chữ. Cậy mình

cậy nó, rút cuộc thành không; khoe giỏi khoe tài, cuối cùng chẳng

thực”[121,64]. Tinh thần “vô ngã” này cũng phổ biến trong các phật tử cũng

đồng thời là các nhà chính trị, giúp họ có thể “giải phóng khỏi mọi ràng buộc

của tự nhiên, xã hội và của chính bản thân mình”[129,72], khi đất nước cần

họ sẽ cống hiến hết mình cho công cuộc giải phóng dân tộc, khi hòa bình họ

lại trở về với tâm thế của một thiền sư. Cũng nhờ tinh thần này mà các vị

vua quan Lý-Trần, dù đứng đầu muôn dân nhưng không vì cái “tôi” của bản

thân, mà luôn sống vị tha và nghĩ đến cái “ta” của thiên hạ. Khi nhận trách

nhiệm thì tận tụy hết lòng, nhưng khi hoàn thành vai trò thì lại dễ dàng “lìa

bỏ ngai vàng như trút bỏ chiếc giày rách”.

Trần Thái Tông chia con người làm ba loại: “ ậc thượng trí thì tâm

tức Phật, không phải nhờ thêm sự tu hành… ậc trung trí ắt nhờ vào niệm

Phật (mới thành Phật-NLA)… Kẻ hạ trí miệng chuyên cần niệm lời Phật,

lòng mong thấy hình tướng Phật, ngày đêm tu hành chăm chỉ, không thoái

chí thay đổi… cũng được Phật quả”[121,85]. Tư tưởng này đã động viên tất

cả mọi người-dù ở các trình độ nhận thức khác nhau, đẳng cấp khác nhau

cùng tin tưởng tu Phật và hànhthiền bằng cái tâm trong sáng để hướng tới

mục đích thành Phật và chứng Niết bàn.

Nhân sinh quan Phật giáo khi vào Việt Nam đã được thay đổi để đáp

ứng nhu cầu của một dân tộc vốn có thường xuyên phải đối mặt với giặc

ngoại xâm, quanh năm lao động vất vả nhưng cuộc sống vẫn khốn khó. Nếu

như Phật giáo nguyên thủy quan niệm cuộc đời là khổ, nguyên nhân của khổ

là từ tâm mà ra, cụ thể là do: “tham, sân, si”, thì khi du nhập vào Việt Nam,

nỗi khổ đó còn từ bên ngoài: do áp bức, bất công, do thiên tai địch họa và do

59

chiến tranh mang lại. Chính vì vậy, nghĩa giải thoát (thoát khổ) được mở

rộng thêm nghĩa chính trị, là giúp ích cho nước cho dân, giúp đất nước và

nhân dân có cuộc sống no ấm, ổn định chính là một lẽ sống cao cả nhất mà

người tu Phật phải thực hành.

Dù cuộc đời là “vô thường”, nhưng Trần Thái Tông cũng khuyên con

người không nên bi quan, yếm thế, cũng không nên buông thả theo những

dục vọng tầm thường mà phải nghiêm khắc với bản thân mình rèn luyện tu

tập để “ ước đạp đến đá thật, đầu đội đến hư không. Khi dùng thì muôn

cảnh toàn bày, buông đi thì mây bụi lấp”[6,726-727]. Trần Nhân Tông kh o

l o gắn nghĩa cuộc đời cá nhân với trách nhiệm xã hội, gắn niềm tin tôn

giáo với mục đích chính trị dân tộc “Lòng chúa không riêng ơn vũ lộ. Chí

trai quyết trả nợ tang bồng”[121,478].

Các thiền sư L -Trần cũng quan tâm và nhấn mạnh đến vấn đề cốt lõi

nhất của nhân sinh là vấn đề sinh-tử. Tuy nhiên, cũng do ảnh hưởng bởi tư

duy biện chứng của người Việt, sống hòa cùng tự nhiên, nắm bắt quy luật

của tự nhiên, không phải để thay đổi nó mà để sống phù hợp với nó. Các

thiền sư cũng không tìm cách vượt lên trên sinh tử, mà chấp nhận nó như

một quy luật của cuộc sống. Nhà sư Thiện Hội (?-900, phái Vô Ngôn Thông)

nhắc nhở: “Sống chết là việc lớn, cần phải suy nghĩ cho thấu đáo” và “Phải

nắm lấy chỗ không sống chết mà tránh” [21,40]. Ý nghĩa Phật học và Thiền

học về “vô thường” và “tính Không” được vận dụng ở đây chính là phải tu

luyện để đạt tới không còn nhị kiến, vọng động; để vượt qua thức, tâm l

phân biệt, vượt qua lo sợ về sinh-tử. Trần Thái Tông ví sinh-lão-bệnh-tử như

là 4 ngọn núi mà trong đời người không ai tránh được, nên không vì điều

không thể mà không ngừng vươn lên. Đó chính thái độ ung dung, thanh thản

của nhân sinh quan Phật giáo, không chỉ đối với sinh-tử mà còn đối với cả

Bốn núi cheo leo vạn khóm xanh

Muôn loài không cả, hiểu cho rành

Lừa ba chân đó, may tìm được

Lên thẳng non cao sấn bước nhanh[121,45].

60

những vấn đề lớn của triều đình và dân tộc :

Có thể do ảnh hưởng của thực tiễn đất nước, thường xuyên phải đối

đấu với các cuộc đấu tranh ác liệt, gianh giới sinh-tử trở nên rất mong

manh,các thiền sư Việt Nam đã lấy chính sinh-tử thành công án để tu dưỡng

chân tâm, nhất là các lãnh tụ chính trị hiểu biết Thiền Phật giáo. Đó là thấy ý

nghĩa cuộc đời trong biện chứng sinh-tử của vô thường, duyên khởi. Các

thiền sư thời này đã khẳng định rằng, sống-chết suy cho cùng cũng từ tâm

mà ra, do tâm mà có, hay cho rằng đó đều là sự hợp tan của ngũ uẩn. Có sinh

ắt có lão, có lão và bệnh ắt có tử, đừng nên sợ hãi, hãy nhìn nó như một lẽ tự

nhiên. Vì vậy, các vua quan am hiểu Phật giáo thời này không có thái độ sợ

chết như thường thấy ở các vua quan phong kiến. Họ cũng không đi tìm

thuốc trường sinh để “trì hoãn” cái chết. Chẳng hạn, khi sắp tịch, Tuệ Trung

còn gượng ngồi dậy mắng thân quyến đang khóc lóc: “Sống chết là lẽ

thường, làm gì phải xót thương quyến luyến làm rối chân tính của

ta?”[121,574]. Họ bình thản đi vào trạng thái yên tĩnh, tạm gọi là “chết”,

không nghĩ đến Niết Bàn an ủi, thậm chí cũng không nghĩ đến kiếp sau.

Nhờ những chuẩn mực đạo đức Phật giáonày giúp cho các vị vua,

quan sùng Phật thường có cuộc sống thanh đạm, dản dị, thân dân, không

chạy theo danh lợi, địa vị. Thậm chí với những vị thiền sư được coi là đã đạt

đạo, họ có thể biết trước ngày mình sẽ ra đi (như thiền sư Vạn Hạnh, vua

Trần Thái Tông, vua Trần Nhân Tông…) và chuẩn bị, sắp đặt chu đáo mọi

việc để người ở lại dễ dàng tiếp nối công việc của họ.

2.2.2.2. Quan niệm về đạo đứccủa nhân sinh quan Phật giáo thời Lý-Trần

Các Thiền sư thời L thường sống giản dị, giữ giới tinh nghiêm, hòa

cùng tự nhiên, siêng làm bố thí, tin ở nghiệp lực, không tham danh lợi. Bài

kệ của thiền sư Trí Thiền (?-?, phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi) đã thể hiện rõ chuẩn

mực đạo đức, nhân cách của con ngườil tưởng trong nhân sinh quan của

Lấy đức làm trọng,

Thanh đạm giữ mình,

Một lời nói phải,

61

Phật giáo thời đó:

Ghi nhớ đinh ninh,

Lòng không bỉ, ngã,

Sáng sủa quanh mình,

Đêm ngày cảm cách,

Chẳng thấy tâm hình,

Như vang như bóng,

Vết sạch sành sanh[120,511].

Chính vì vậy, mỗi vị thiền sư thường là một tấm gương đạo đức sáng

ngời. Nhiều thiền sư được triều đình tin dùng như cố vấn chính trị, đồng thời

là vị thầy tâm linh, có thể truyền dạy đạo đức Phật giáo cho cả triều đình.

Chẳng hạn, có lúc trách nhiệm của triều đình đối với quốc gia và người dân

được quan niệm như là nghiệp thiện mà nhà vua thay mặt triều đình thực

hiện, và do vậy nhà vua được dân tôn làm Phật, Bồ Tát. Quan lại sùng Phật

mà yêu dân, thương dân, chăm sóc cho an sinh của dân cũng được dân tôn

làm Bồ tát. Trí thức sùng Phật, thương dân, làm điều thiện cho dân thì được

tôn làm Phật, Tổ, Quốc sư, Thượng sĩ…Mối quan hệ qua lại giữa Phật giáo

và triều đình rất chặt chẽ, qua đó ảnh hưởng của Phật giáo đến chính trị được

thể hiện rất rõtrong các quyết sách, đường lối của nhà nước.

Các thiền sư thời Lý-Trần luôn khuyên vua quan trong triều cũng như

mọi người dân phải sống có đức, “cấy phúc gieo duyên” để thoát khỏi vòng

nghiệp chướng. Trong bài ký bia chùa Báo Ân thể hiện rõ quan niệm này:

“ ố thí rộng thì đức sang cửa nhà; khéo dạy bảo thì người vui theo đạo.

Phúc báo nào có xa đâu; việc ghi vẫn còn rõ lắm[120,545].Các thiền sư là

những điển hình không màng quyền thế, danh lợi; sống lặng lẽ, thanh tịnh;

hy sinh bản thân vì hạnh phúc của quần sinh. Họ được coi là biểu tượng của

sự giải thoát, được xã hội tôn vinh, họ luôn xem mọi sự vật, hiện tượng của

thế giới này không cố định, bất biến mà chúng luôn trong sự biến đổi. Tất cả

tiền bạc, vật chất, địa vị chỉ là ảo giả, đến thân xác cũng chỉ là sự hợp tan của

ngũ uẩn: “Thân mệnh là rất trọng mà còn nên bỏ đề cầu cái chính giác vô

62

thượng huống chi ngọc vàng tiền của là cái đáng khinh mà lại luyến tiếc

sao!”[121,63]. Vì vậy, vua quan thời này đa phần đều sống theo tinh thần

nhân văn của Phật giáo: hướng thiện bằng việc phục vụ nhân sinh, không

màng đến danh lợi, địa vị cho bản thân.

Các thiền sư phái Vô Ngôn Thông thì luôn chuyên cần, quên mình học

đạo tới quên ăn, quên mặc gần với quan niệm “tri túc” của Lão Tử. Nói cách

khác, nhân sinh quan Phật giáo Lý-Trần có phần kết hợp với tư tưởng Lão-

Trang đương thời khi xây dựng chuẩn mực đạo đức của họ. Các thiền sư L -

Trần “luôn biết dừng, biết đủ”. Thiền sư Trí ảo (?-1190) cho rằng “nếu

biết” (tri túc) thì bên ngoài không xâm phạm đến người mà bên trong không

hại đến mình”[120,519]. ản thân Thiền sư luôn hành đạo theo tinh thần này

và khuyên học trò sống theo quan niệm tri túc này, vì cho rằng cuộc sống đạt

đến “tri túc” là cuộc sống của người có đạo đức, biết tri túc sẽ là điều kiện để

con người luôn cảm thấy hạnh phúc. Ngoài ra quan điểm đạo đức thời này,

còn được thể hiện qua cách ứng xứ “tùy tục” màThường Chiếu - người mở

đầu cho Phật giáo thống nhất thời Trần - đã truyền dạy cho đệ tử mình

“nguyên tắc “tùy tục” nghĩa là làm giống như cuộc đời”[53,260]. Nguyên tắc

đó đã được các đệ tử quan trọng của thiền sư (Thần Nghi, Thông Thiền,

Hiện Quang) và nhiều vị vua Phật (L Thái Tông, L Nhân Tông, Trần Thái

Tông, Trần Nhân Tông…) sau này tiếp nối. Đây cũng chính là những chuẩn

mực đạo đức Phật giáo thời đó, nó có nghĩa làm nền tảng cho nhận thức và

hành động của nhiều vị vua, quan sùng Phật thời L -Trần.

Vua Trần Thái Tông khi thuyết giảng về lối sống đạo đức đã vận dụng

quan điểm Phật giáo: “…đi theo con đường của chư Phật thì chỉ có kinh mà

thôi. Thế mà những điều trong kinh nói đến thì không ngoài ba việc giới,

định, tuệ”[121,79]. Ông cũng phân tích rõ mối liên hệ qua lại chặt chẽ giữa

Giới - Định - Tuệ trên con đường tu dưỡng và khuyến khích mọi người theo

Giới nghĩa là uy nghi, Định nghĩa là không loạn, Tuệ nghĩa là hiểu

biết. Thế là giới trừ bỏ sự ác độc, định trừ bỏ sự trói buộc, tuệ trừ bỏ sự sai

63

hướng tích nghiệp thiện:

khiến. Cho nên đem các loại điều thiện này mà cúi theo đạo thì gọi là giai

đoạn đầu, giai đoạn giữa và giai đoạn cuối của thiện[121,79].

Vua Trần Thái Tông cũng vận dụng quan điểm Thiền Đại thừa về giải

thoát, cho rằng đó chính là quá trình nhận r “chân tâm”, thấy được “tự tính”

vốn có. Nhà vua cũng mượn các cách trì giới và sám hối làm phương pháp tu

dưỡng để vượt qua sinh tử của kiếp người: “Kẻ có tội cần phải sám hối. Nếu

không sám hối, tội càng sâu thêm… Vậy nên giữ ph p này, vượt mau qua

đường sinh tử; thờ Phật làm thày, trước hết tuân theo giới luật”[121,82].Tiếp

nối tư tưởng này, Trần Nhân Tông sau khi từ bỏ ngai vàng, cũng đã vân du

khắp nơi để truyền bá tư tưởng đạo đức của Phật giáo. Đi đến đâu, Phật

Hoàng cũng truyền giảng Ngũ giới, Thập thiện4của Phật giáo với mong

muốn xây dựng một xã hội ổn định, thái bìnhcó đạo đức Phật giáo: thuần từ,

tốt đẹp… để thoát khỏi vòng luân hồi-nghiệp báo.

2.2.2.3. Quan niệm về giải thoát của nhân sinh quan Phật giáo Lý-Trần

Phật giáo thời Lý-Trần phổ biến là Thiền tông Đại thừa Thiền, với

triết l cơ bản là “phật tại tâm”, đề cao “cái tâm” con người trên con đường

đi đến giải thoát, điều này đã mở ra khả năng giải thoát ngay tại cõi trần.

Đây chính là điểm khác biệt của nhân sinh quan Phật giáo Đại thừa so với

Phật giáo nguyên thủy. Phật giáo từ một tôn giáo xuất thế, khi sang Việt

Nam, đặc biệt là thời Lý-Trần đã phát huy sức mạnh “nhập thế” của một tôn

giáo xuất thế. Quan niệm nhân sinh tích cực này giúp các phật tử Lý-Trần

không chỉ hiểu đạo mà còn dễ dàng hành đạo, đưa Phật giáo ứng dụng linh

hoạt hơn vào các vấn đề đời sống và chính trị đương thời.

Theo đó, cái tự tính, cái bản thể chân như siêu việt được coi là Như

Lai, là Phật tính lại có thể tồn tại ngay nơi trần gian, ngay ở cõi sinh-tử. Một

con người ngộ đạo không cần phải thoát ly cuộc sống hiện thực. Thiền sư

4Thập thiện: 1. Không sát sinh; 2. Không trộm cắp; 3. Không tà dâm ( a điều thiện về thân thể) 4. Không nói dối; 5. Không nói lời chia rẽ; 6. Không nói lời độc ác; 7. Không nói lời bẩn thỉu ( ốn điều thiện về lời nói); 8. Không tham lam; 9. Không giận giữ; 10. Không tà kiến ( a điều thiện về ).

64

Diệu Nhân (1041-1113) thời Lý nói:

Mê, phải cầu Phật

Hoặc, phải cầu Thiền.

Chẳng cầu Thiền, Phật,

Mím miệng ngồi yên [120,340].

Thiền sư Vạn Hạnh (?-1018) - người có đóng góp tích cực và quan

trọng trong sự nghiệp chính trị của triều Lý, ông được tôn xưng là người

“chống chiếc gậy Thiền để canh giữ đất nước”, cũng được coi là điển hình

về vận dụng quan niệm Phật là tâm.Thiền sưđã chỉ ra rằng đừng có tìm chân

lý ở bên ngoài cuộc đời hay trong sách vở, mà là ngay chính trong đau khổ,

Muốn tìm Tâm,

Ngoài chớ hỏi:

Thể tính lặng không, không biến đổi.

Niết – bàn, sinh tử buộc ràng suông,

Phiền não, bồ - đề đối nghịch dối [120,528].

phiền não cuộc đời:

Phật vốn ở trong Tâm mỗi người, nhưng tâm muốn thành Phật thì phải

tự mình tu luyện chứ không thể dựa vào thế lực siêu nhiên bên ngoài, rũ bỏ

phiền não, ham muốn – dục vọng, hay những ràng buộc về vật chất. Sống tự

do, tự tại, sẽ vượt qua cả sinh-tử, để đạt tới Niết bàn. Bởi vậy, để giác ngộ

không được chấp vào bất cứ điều gì. Trong mỗi con người đều có sẵn Phật tính,

không cần lậy Phật, lậy Tổ gì cả, vì Phật là Tâm, nên cần lấy nó tự tìm hiểu nó.

Tuệ Trung Thượng Sĩ – nhà Thiền học có uy tín trong triều đình thời

Trần cũng cho rằng tất cả các giáo lý cao siêu sẽ trở thành hình thức xơ cứng

và vô nghĩa nếu không biết vận dụng chúng vào đời sống thực tiễn. Thiền sư

cho rằng: “Thanh Văn ngồi thiền, ta không ngồi. Bồ Tát thuyết pháp, ta nói

thực”[121,283]. Bởi theo Tuệ Trung, con người đã đạt tới cái tâm “vô trụ”,

“vô tướng” và “vô niệm” thì không bị ràng buộc bởi bất cứ một cái gì, kể cả

Niết bàn, sinh tử, cũng không bi quan trước cuộc đời, mà luôn ung dung tự

tại. Bởi ông thấy rằng “chân tâm tự tính” là cái vốn có của mỗi con người

65

hiện thực, nên con người có thể giải thoát ngay trên cõi trần gian nếu họ tìm

được chân tâm tự tính của bản thân. Và khi con người đã ngộ đạo, không cần

Ăn thịt và ăn cỏ,

Chúng sinh từng loài đó,

Xuân về cây cỏ sinh,

Họa phúc nào đâu có[121,291].

khư khư giữ giới, ông quan niệm:

Thiền sư cho rằng ăn uống như thế nào (ăn chay hay ăn thịt) là do đặc

tính của từng loài, phụ thuộc vào tự nhiên, không phải dựa vào đó là mang

họa hay có phúc, cũng không nhờ đó mà quyết định việc có thành Phật hay

không. Chỉ cần thân tâm trong sáng, thái độ sống tích cực, thì không cần

phải tuân thủ nghiêm túc những giới luật của Phật giáo thì vẫn có thể ngộ

đạo và giải thoát.Các thiền sư, nhà phật học thời Lý-Trần đều vận dụng

thuyết “Tâm”, “tại Tâm”, “Tâm Phật” khi cho rằng mọi điều xấu hay tốt mà

Niệm Phật là điều khởi dậy do tâm. Tâm khởi dậy điều thiện tức là ý

nghĩ thiện. Ý nghĩ thiện khởi dậy thì thiện nghiệp báo lại. Tâm khởi dậy

điều ác tức là nghĩ ác. Ý nghĩ ác nảy sinh thì ác nghiệp ứng theo[121,84].

con người gặp phải đều xuất phát từ tâm mà ra:

Vì vậy, không thể vin vào hình thức bên ngoài mà cầu mong giải

thoát. Khi gắn mình vào cuộc sống bình thường thì không chấp vào danh-lợi,

mà phải hành động và suy nghĩ vì điều thiện chung. Tư tưởng “Phật tức tâm”

đã mở ra khả năng “nhập thế” cho nhiều phật tử, có thểtu Phật nhưng không

tách khỏi cuộc sống. Hơn thế nữa có thể gắn mục tiêu, ý nghĩa giải thoát và

mục đích cứu nhân độ thế, tích đức hành thiện của Phật giáo với những

nhiệm vụ chính trị của dân tộc. Chính vì thế, nhiều vị thiền sư, phật tử thuần

thành thời Lý-Trần đã tham gia tích cực vào chính sự và các hoạt động đánh

Thoát tịch diệt xong, bàn tịch diệt,

Sau vô sinh, hãy nói vô sinh.

Làm trai lập chí xông trời thẳm

Theo gót Như Lai luống nhọc mình [120,522].

66

giặc cứu nước. Như thiền sư Quang Nghiêm viết:

Đặc biệt, các vị tổ của thiền phái Trúc Lâmđều cho rằng mục đích tối

Có nghĩa là về mặt lý luận phải thấu hiểu chân l hư không, còn về

mặt thực tiễn là phải trở lại hoặc hòa đồng vào chân l đó. Cả hai mặt này

đều được thực hiện đồng thời trong sự chứng ngộ ngay tại cuộc sống hiện

thực[120,522].

hậu của giải thoát là trở về với chính cái Tâm ban đầu của mình:

Có lẽ, tinh thần giải thoát tự giác như vậy đã tập hợp được sức sáng

tạo của toàn dân, tạo nên hào khí của nhiều trận chiến vang dội trước những

kẻ thù hùng mạnh. Nói cách khác, tư tưởng Phật giáo thời Lý-Trầnđã quan

hệ rất chặt với quyền lợi quốc dân và cũng rất gần gũi với cuộc đời, gần với

cuộc sống trần thế.

. .3. Đặc trưng cơ ản của nhân sinh quan Phật giáo thời Lý - Trần

Đạo phật luôn đề cao lòng từ bi, bình đẳng, bác ái rất phù hợp với nhân

sinh quan của người Việt, “nó như một thứ chất lỏng, chui vào bình chứa

hình gì thì nó theo hình ấy mà liền ngay”[141,302]. Vì thế, dù du nhập cùng

thời với Nho giáo và Đạo giáo nhưng đến thời Lý-Trần Phật giáo được ưa

chuộng hơn và trở thành tư tưởng có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh

thần của người Việt, qua đó mà ảnh hưởng tới tư tưởng chính trị, vậy nhân

sinh quan Phật giáo có đặc điểm gì, giúp nó có thể ảnh hưởng với chính trị?

2.2.3.1. Nhân sinh quan Phật giáo Lý-Trần dung hòa các hệ tư tưởng

Thời Lý-Trần, việc vận dụng tam giáo linh hoạt nhất là trước những

vấn đề lớn của dân tộc.Nói cách khác, thời kỳ này Phật giáo được tôn sùng

hơn cả, nhưng trong nội dung tư tưởng văn hóa, chính trị, kinh tế... là sự

dung hợp của cả Nho, Phật và Đạo. Qua quá trình tiếp thu, vận dụng, người

Việt Nam nhận thấy cả ba giáo này, bên cạnh ưu điểm, còn có những hạn

chế, khiến chúng cần được bổ sung cho nhau. Trong đó, vấn đề trọng tâm

của Phật giáo là nhân sinh quan. Giáo lý Phật giáo chủ yếu nhấn mạnh đến

mối quan hệ giữa con người với chính mình và con người nội tâm; Nho giáo

thì bàn nhiều đến vấn đề chính trị-xã hộiđến tổ chức các quan hệ nhà nước,

67

xã hội và gia đình; Đạo giáo lại đặc biệt nhấn mạnh mối quan hệ giữa con

người tự nhiên với tự nhiên. Thời Lý - Trần, có sự dung hợp tư tưởng giữa

ba giáo này, nhưng Phật giáo chiếm thế ưu trội. Đa phần vua quan đều sùng

Phật và am tường giáo lý nhân sinh của Phật giáo. Cũng nhờ đó, nhân sinh

quan Phật giáo thời này có thể phát huy nhiều giá trị tốt đẹp và ngày càng trở

thành tư tưởng phù hợp, đáp ứng nhu cầu chính trị lúc đó.

Tinh thần dung hợp Phật với Nho và Đạo được bắt đầu từ thời Lý. Bởi

dù Phật giáo đã trở thành điểm tựa tinh thần vững chắc để người dân Việt

đấu tranh chống Hán hóa, giành lại nền độc lập sau nghìn năm sống dưới ách

đô hộ. Nhưng công đầu về tổ chức hành chính và Nhà nước lại được tiếp thu,

bổ sung từ Nho giáo. Các thiền sư như Vạn Hạnh, Ngô Chân Lưu thời Lý và

quốc sư Trúc Lâm thời Trần, đều am tường các triết lý trị quốc của đạo Nho.

Sau, sựdung hợp Nho, Phật cũngthể hiện rõ nét trong tư tưởng của các vị

vua. Vua Lý Thánh Tông muốn xây dựng một nền Phật giáo có tính chất

tổng hợp “kết hợp hài hòa giữa thiền, tịnh, Nho, Lão”[31,106]. Phật Hoàng

Trần Nhân Tông, cũng như nhiều nhà Phật học thời đó đều đã sử dụng một

số khái niệm của Nho để thể hiện cho tư tưởng của mình, như các khái niệm

“kẻ trượng phu”, “quân tử”. Đặc biệt, tinh thần “Nho, Phật phân công” được

thể hiện r hơn cả trong tư tưởng của Trần Thái Tông, trong Thiền tông chỉ

nam: “Coi trách nhiệm của tiên thánh là trách nhiệm của mình, giáo lý của

Đức Phật là giáo lý của mình”[121,28]. Trong bài Văn Sám hối, ông cũng kể

đến tội làm phương hại đến cương thường Nho giáo, đến quan hệ cha con,

vua tôi.

Có thể thấy, “... từ thời Lý, trong Thiền tông đã có quan niệm dung

hòa Phật giáo và Nho giáo. Đến thời Trần, xu hướng Phật giáo uốn lượn theo

Nho giáo càng r hơn”[68,309]. Sự dung hợp Nho giáo theo tinh thần “Nho,

Phật phân công” đã làm tăng tính nhân văn của Phật giáo, giảm sự khắc

nghiệt của Nho giáo và bổ sung cho tư tưởng chính trị một nhân sinh quan

68

thích hợp, cần thiết cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Thời L các vua cũng cho “xây dựng miếu thờ, các cơ sở cho Đạo

giáo phát triển, các Đạo sĩ được các vua Lý trọng vọng và tin dùng”[50,21].

Trong tư tưởng nhân sinh của Tuệ Trung Thượng sĩ, yếu tố Đạo giáo cũng

được thể hiện rõ nét. Ông nhiều lần nhắc đến các khái niệm đạo, vô, dục,

hòa quan đồng trần, tri túc… “Khẩu hiện của ông là: Hãy sống tự do theo

quy luật của tự nhiên!”[125,123]. Đạo Lão Trang dạy con người trong cuộc

sống phải “tuân theo đạo tự nhiên” và chủ trương “vô vi” – thuận theo lẽ tự

nhiên. Trong quan niệm nhân sinh của phái Trúc Lâm cũng thấy nhiều yếu tố

của đạo Lão Trang như với khái niệm “tự nhiên”. Trong đạo Lão Trang diễn

tả các quy luật của cuộc sống, nhưng “tự nhiên” được Thiền phái Trúc Lâm

dùng làm môi trường diệt dục, tu tâm, dưỡng tính chứ không phải nơi ẩn

náu. Chính nhân sinh quan này đã giúp cho thiền Trúc Lâm có sức sống

mạnh mẽ và ảnh hưởng tích cực trong nhân dân.Có thể thấy trong nhân sinh

quan Phật giáo thời Lý-Trần có sự dung hòa cả Nho và Lão, giúp cho nó

ngày càng có tính thực tiễn hơn, đóng góp tích cực cho sự phát triển của Phật

giáo nói chung và trong việc trị nước ở thời Lý-Trần nói riêng. Đặc biệt,

những kiến thức Nho dung hòa với Phật góp phần truyền tải tư tưởng trị

nước của Nho giáo một cách nhân văn hơn, khi được sử dụng qua lăng kính

của nhân sinh quan Phật giáo.

2.2.3.2. Nhân sinh quan của Phật giáo Lý-Trần chủ yếu là của thiền Đại

thừa với tư tưởng cơ bản là “Phật tại tâm”

Thời Lý vẫn tồn tại cả ba môn phái Thiền, Tịnh, Mật của Phật giáo.

Dù có điểm khác biệt, nhưng chúng đều dựa trên những giáo l cơ bản của

Phật giáo. Ở Việt Nam chúng giao thoa, tương tác và hòa nhập vào tín

ngưỡng bản địa tạo nên những sắc thái riêng biệt cho Phật giáo Việt Nam.

“Đối với tầng lớp bình dân, Phật giáo có Tịnh, Mật; còn đối với tầng lớp trí

thức, Phật giáo có Thiền”[29,28]. Song mặt khác, trong triết lý nhân sinh của

mỗi nhà tư tưởng, mỗi trường phái Phật giáo cũng có sự đan xen. Thời Lý,

69

nhân sinh quan Phật giáo có sự đan xen giữa tư tưởng Thiền và Mật tông; tư

tưởng của Trần Nhân Tông có sự kết hợp giữa Thiền và Tịnh độ tông; tư

tưởng nhân sinh của Tuệ Trung thượng sĩ thì kết hợp Thiền với Lão; giai

...nhiều thiền sư trì chú, tu luyện các phép Tổng trì Đà La Ni của Mật

tông… Phật giáo thời Lý-Trần còn kết hợp với Tịnh Độ Tông. Tịnh độ

Tông đi vào quần chúng bằng con đường thuyết giáo từ bi, cứu khổ, cứu

nạn, dựng lên một cõi tịnh độ, Tây phương cực lạc, nơi có Đức Phật A Di

Đà sẵn sàng tiếp đón những người khi sống trên trần thế hành thiện, tu

phúc, niệm Phật, trai giới, cầu vãng sinh[58,54].

đoạn cuối lại có sự kết hợp giữa Thiền và Mật giáo.Có thể thấy:

Thời kỳ đầu, Phật giáo tồn tại cả ba môn phái, nhưng về sau chỉ có

Thiền tông phát triển thành tông phái độc lập. Thiền tông chủ trương thực

hành tu luyện để giải thoát ngay tại nhân gian, vì vậy, thiền rấtcó sức hút lớn

với người dân – những người thường xuyên đối mặt với thiên tai dịch họa,

hay kẻ thù xâm lược, đang mong mỏi sự yên bình, hạnh phúc dù chỉ trong

tâm tưởng. Vì vậy, triết lý này của Thiền cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến quan

niệm nhân sinh quan của người dân thời Lý-Trần. Quan điểm này cho rằng:

“Thực tại màu nhiệm ở chính nơi lòng ta. Dù ta có bỏ công dong ruổi tìm

cầu suốt ngày, suốt tháng, suốt năm cũng không bao giờ tìm gặp. Dù cho có

quanh quẩn đâu đâu rồi cũng phải quay về”[125,175].Tuệ Trung Thượng Sĩ

Đi cũng thiền! Ngồi cũng thiền!

Trong lò lửa đỏ một bông sen[121,277].

đã khái quát sinh động về hành trạng, cốt cách của người học thiền:

Ông quan niệm, tu hành để đạt giải thoát không thể chỉ câu nệ vào

hình thức. Để tu hành đắc đạo không có gì cao siêu, huyền bí mà chỉ cần trở

về với cái Tâm của chính mình, bởi “tất cả chúng sinh đều có thể thành

Phật”. Nhưng để đạt đạo không thể tìm kiếm ở bên ngoài, mà hãy quay về

thực tại để tìm về với “Phật tính” trong chính con người mình. Vì thế khi vui

với đạo thì cũng chính là vui với đời. Tư tưởng này mang lại một thái độ

70

xuất thế tích cực cho các phật tử thời Trần. Trần Nhân Tông cũng cho rằng,

người ngộ đạo không cần phải tu hành khổ hạnh mà hãy sống theo tinh thần

Cõi trần vui đạo, hãy tùy duyên;

Đói cứ ăn no, mệt thì ngủ;

Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm;

Vô tâm trước cảnh hỏi chi thiền [212,510].

Cư trần lạc đạo.

Quan trọng là phải giúp ích được cho đời. Bởi muốn thành Phật, ngoài

việc phải hội đủ tuệ mẫn còn phải phát nguyện tâm từ bi để phổ độ chúng

sinh, kết hợp cả “bi” và “trí” mới đạt được giải thoát. Tư tưởng này đã cổ vũ

cho tinh thần: tu thiền phải gắn với đời sống thực tiễn; lý luận phải gắn với

hành động. Triết l này là khởi nguồn cho tinh thần “nhập thế” để Phật giáo

tham gia tích cực vào các lĩnh vực ngoài Phật giáo, chủ động công tác với

triều đình vì lợi ích chung của dân tộc.

2.2.2.3. Nhân sinh quan Phật giáo Lý-Trần mang tính “nhập thế”

Nhờ sự kết hợp với Nho, Đạo và tín ngưỡng bản địa, Thiền học thời

Lý-Trần càng dễ dàng phát huy tinh thần nhập thế. Các thiền sư chủ động

hòa quan nhập tục, nhập thế hành đạo, đồng cam cộng khổ với dân, và sẵn

sàng xả thân vì đất nước. Thời Lý-Trần, triều đình đang bước vào công cuộc

ổn định và phát triển đất nước, đồng thời luôn phải đối mặt với nguy cơ xâm

lăng từ bên ngoài. Phật giáo không thể không đóng góp trách nhiệm với dân

tộc, đó chính là l do tại sao sang thời kỳ này, Phật giáo mang tính nhập thế

... nếu không nhập thế, các sứ giả của Đức Phật khó có thể truyền bá

đức tin trên mảnh đất thiên nhiên thì khắc nghiệt, người dân thì bị đô hộ.

Nếu không nhập thế, các tăng sĩ tiên phong ấy khó có thể hoạt động có kết

quả giữa những người dân Việt Nam cần cù, dũng cảm, coi trọng đời sống

tâm linh nhưng cũng rất gắn bó với cuộc sống xã hội hiện thực[27,31].

tích cực hơn cả:

Tư tưởng “nhập thế hành đạo” được thể hiện r trong lời khuyên của

vị quốc sư Trúc Lâm (Phù Vân), khi vua Trần Thái Tông bỏ ngai vàng lên

71

núi tu Phật: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng. Lòng

lặng lẽ mà hiểu đó là chân Phật. Nay bệ hạ giác ngộ điều đó thì lập tức thành

Phật, không phải khổ công tìm kiếm bên ngoài” [121,27]. Vì vậy, khi tổ

quốc có nguy cơ bị xâm lăng,“các ông vua Trần như Trần Thái Tông, Nhân

Tông và các vị tướng như Tuệ Trung Thượng Sĩ tuy hết lòng sùng kính Phật,

nhưng vẫn hành động và suy nghĩ phù hợp với sự nghiệp giữ nước vĩ đại của

dân tộc”[113,212]. Dù, nhân sinh quan Phật giáo Lý-Trần vẫn nhằm hướng

đến mục tiêu “giải thoát”, nhưng khi đã đạt giải thoát rồi các vị thiền sư vẫn

Tinh thần “hòa quang đồng trần” là tất cả những gì các vị thiền sư

mang theo suốt cuộc vân du trên khắp các nẻo đường đất nước. Đem ánh

sáng từ bi và trí tuệ rọi chiếu vào cuộc sống đồng thời chuyển hóa nó thành

cõi Niết bàn. Niết bàn ở ngay đây và giải thoát cũng ở ngay đây[129,92].

sống hòa cùng thế tục, không đối lập với cuộc sống thế tục:

Các vị ấy dù được nhà vua và triều đình rất coi trọng, tuy nhiên, họ

vẫn giữ thái độ của một tu sĩ hay cư sĩ, không muốn cuốn vào vòng danh lợi,

xong việc thì lui về chùa. Cách ứng xử này đã được thiền sư Vạn Hạnh thể

hiện rất r : “làm thì làm, nhưng không mắc kẹt vào công việc, không nương

tựa vào hữu vi”[33,21]. Các thiền sư như Pháp Thuận, Khuông Việt, Vạn

Hạnh, Huệ Sinh, Viên Chiếu, Mãn Giác, Không Lộ tuy thường xuyên được

mời vào cung để dự bàn việc nước, nhưnghọ tham gia chính sự bởi họ có ý

thức trách nhiệm với đất nước, chứ không vì ham danh vọng, mưu cầu lợi

ích bản thân. Sang thời Trần, các vua và quan cũng chính là các Thiền sư.

Họ không những tin tưởng vào nhân sinh quan của Phật giáo, mà bản thân

họ đã thực hành rất tốt đạo lý này.

Đặc biệt là Trần Nhân Tông, ông vừa làm vua, vừa làm Phật - ông là

tổ sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên tử, nhưng cũng là người hai lần tham

gia lãnh đạo cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông. Để khuyến khích

quân sĩ giết được nhiều giặc, ông đã cho xăm hai chữ “Sát Thát” lên người.

Điều này nhân sinh quan Phật giáo nguyên thủy không thể chấp nhận, vì nó

vi phạm giới luật: cấm sát sinh. Nhưng trong hoàn cảnh quân giặc tràn sang

72

giày xéo mồ mả tổ tiên, giết hại biết bao đồng bào nếu cứ giữ nghiêm giới

luật, để mặc nhiên cho đồng bào và nong sông chìm trong biển máu sẽ là trái

đạo, chỉ cầu giải thoát cho mình mà vô tình với đồng loại thì thành Phật cũng

chẳng có nghĩa gì. Vậy nên, lúc này “giới luật” của Phật giáo được vận

dụng một cách sáng tạo: giết kẻ thù xâm lược để cứu dân tộc là “từ bi”, đánh

thắng những kẻ xâm phạm bờ cõi mới là “đạt đạo”.

Chính tinh thần nhập thế tích cực ấy đã giúp nhân sinh quan Phật giáo

mang giá trị nhân văn, nhân đạo cao cả. Nhờ vậy, nhân sinh Phật giáo luôn

song hành với công cuộc dựng nước và phát triển của đất nước. Chiến công

lớn của dân tộc dĩ nhiên không hoàn toàn thuộc về Phật giáo nhưng, có lẽ

tinh thần nhập thế tích cực của nhân sinh quan Phật giáo cũng góp phần

không nhỏ cả về lực lượng vật chất (các thiền sư), lẫn tinh thần (triết lý nhân

sinh của Phật giáo) tạo nên sức mạnh cho thắng lợi của dân tộc.

Tiểu kết chương

1. Phật giáo được du nhập sang Việt Nam từ Ấn Độ và Trung Quốc,

với 3 tông phái cơ bản (Thiền tông, Tịnh độ tông, Mật tông), nhưng chỉ có

thiền tông có thể hình thành phái độc lập. Đến thời Lý, thiền tiếp tục phát

triển thành 3 phái(Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường). Các

thiền phái này có thể do người Ấn Độ hay Trung Quốc đưa vào Việt Nam,

song vẫn thể hiện bản sắc của văn hóa của người Việt, phù hợp với tâm tư,

tình cảm của Việt. Giữa thời Trần xuất hiện thiền phái Trúc Lâm Yên Tử,

thiền phái này do chính người Việt sáng lập, mang đậm bản sắc văn hóa

truyền thống dân tộc, đồng thời dung hợp các hệ tư tưởng đương thời, góp

phần tạo ra n t đặc trưng riêng của Phật giáo Việt, khác biệt với Phật giáo ở

Trung Quốc, Ấn Độ.

2. Phật giáo Lý-Trần đã kế thừa quan niệm nhân sinhcủa Phật giáo

nguyên thủy, thể hiện qua nội dung cơ bản: quan niệm về Con người và đời

người: nguồn gốc con người là (vô ngã), cấu tạo con người (ngũ uẩn), sự

sinh thành và phát triển con người phải tuân theo quy luật vô thường (sinh,

73

lão, bệnh, tử); mục tiêu l tưởng của con người là Giải thoát, bằng việc tu

dưỡng Đạo đức. Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên, tâm lý xã hội, truyền

thống dân tộc, bối cảnh xã hội, thực tiễn chính trị… khác với Ấn Độ, Trung

Quốc nên nhân sinh quan Phật giáo thời Lý-Trần cũng có nhiều điểm khác

biệt. Điểm khác biệt này trước hết thể hiện qua quan niệm:“nhập thế hành

đạo”, “Phật tại Tâm”, về sinh-tử, về chuẩn mực đạo đức…

Do những đặc điểm khác biệtvới Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo Lý-

Trần không còn mang tư tưởng “yếm thế”, mà luôn hòa mình vào cuộc đời,

đã giúp nó có mối quan hệ chặt chẽ với chính trị. Trong đó, phải kể đến quan

niệm Phật tại Tâm - một tư tưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo thời

kỳ này. Đây là đặc điểm quan trọng hơn cả, nó đã góp phần mở ra khả năng

giải thoát tại cõi trần, góp phần động viên các phật tử và toàn dân phải tu

tâm, dưỡng tính, từ đó, khuyến khích tinh thần nhập thế tích cực trong các

tăng ni, phật tử thời Lý-Trần. Vì vậy, nhân sinh quan Phật giáo đã thẩm thấu

trong tư tưởng, tình cảm, hành vi của giai cấp thống trị, qua đó gián tiếp ảnh

74

hưởng đến nền chính trị thời Lý-Trần.

Chương 3

TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ THỜI LÝ-TRẦN VÀ

NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG

3.1. Tư tưởng chính trị thời Lý-Trần

3.1.1. Khái ni m tư tưởng chính trị

Trước khi đi vào khái niệm “tư tưởng chính trị”, cần tìm hiểu khái

niệm “chính trị”. Có nhiều định nghĩa về chính trị, tuy nhiênđịnh nghĩa sau

Chính trị được hiểu dưới hai giác độ chủ yếu: thứ nhất, căn cứ vào

những hình thức biểu hiện của chính trị, những tư tưởng, học thuyết, cương

lĩnh, đường lối của chính đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, người ta

xem chính trị là sản phẩm trực tiếp của tư duy, là sự phản ánh của những

quan hệ xã hội. Do đó chính trị thuộc về kiến trúc thượng tầng; thứ hai, về

nội dung, chính trị được xem là dạng hoạt động vật chất đặc biệt của chủ

thể chính trị nhằm theo đuổi và thỏa mãn lợi ích, mà trước hết là lợi ích

kinh tế. Đó là những hoạt động nhằm giành, giữ, tổ chức, thực thi quyền lực

nhà nước, hoạt động kiến tạo hệ thống chính trị, nhằm duy trì sự thống trị

của giai cấp thống trị. Đồng thời, với những hoạt động đó, những quan hệ

chính trị cũng nảy sinh và phát triển giữa các chủ thể chính trị[60,9-10].

là đầy đủ hơn cả:

Theo đó, chính trị có thể hiểu ở hai khía cạnh, về hình thức, tư tưởng

chính trị được được hiểu là các tư tưởng, học thuyết, đường lối của giai cấp

cầm quyền; còn về nội dung, chính trị là những hoạt động vật chất nhằm

giành, giữ, tổ chức và thực thi hoạt động của nhà nước, duy trì và bảo vệ lợi

ích của giai cấp cầm quyền. Qua việc thực hiện hoạt động vật chất đặc biệt

đó, những quan hệ chính trị giữa các giai cấp được nảy sinh và phát triển,

trong đó bao gồm: quan hệ giữa giai cấp thống trị và bị trị về vấn đề bảo vệ,

xây dựng và phát triển đất nước.

Về tư tưởng chính trị, cũng có nhiều cách trình bày khác nhau, tuy

75

nhiên luận án cũng dựa trên cơ sở định nghĩa sau:

tầng kiến trúc - là hệ thống những quan niệm, quan điểm, học thuyết, phản

ánh các mối quan hệ chính trị - xã hội đặc biệt giữa các giai cấp, các dân tộc

và các quốc gia - dân tộc xoay quanh vấn đề giành, giữ, tổ chức và thực thi

quyền lực chính trị diễn ra trong lịch sử, cũng như thái độ của giai cấp, các

dân tộc đối với quyền lực chính trị mà tập trung ở quyền lực nhà nước qua

các thời đại lịch sử[60,11].

Tư tưởng chính trị là một hình thức của ý thức xã hội, thuộc thượng

Theo đó, tư tưởng chính trị được hiểu một mặt là hệ tư tưởng chi phối

ý thức, hành vi của giai cấp thống trị về vấn đề giành, giữ và duy trì quyền

lực, quyền quản l nhà nước. Tư tưởng này chi phối suy nghĩ và hành động

của giai cấp thống trị trong vấn đề bảo vệ, gìn giữ quyền lực của mình như

thế nào; mặt khác nó cũng là tư tưởng chi phối tâm lý, ý thức của giai cấp bị

trị (nhân dân) đối với đường lối, chính sách, hành vi của giai cấp nắm quyền,

qua đó giai cấp bị trị cũng sẽ có sự tương tác trở lại, bằng ý thức và hành

động ủng hộ hoặc phản đối. Điều này cũng có tác động nhất định đối với

việc giành, giữ và tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp thống trị.

Như vậy, khái niệm chính trị và tư tưởng chính trị có mối quan hệ chặt

chẽ, chúng giống nhau ở điểm đều hướng đến mục đích là giành, giữ và duy

trì quyền lực của giai cấp thống trị. Nhưng nếu chính trị nói đến hoạt động

vật chất đặc biệt của giai cấp thống trị (cách thức trị nước, xây dựng mô hình

nhà nước, phân bổ các chức quan trong triều…) để giành, giữ và bảo vệ

quyền lực, lợi ích của mình, thì tư tưởng chính trị là sự phản ánh đời sống

chính trị hay thực tiễn chính trị ấy.

Trong quá trình hoạt động chính trị, giai cấp thống trị hay chủ thể

chính trị thường bị ảnh hưởng bởi một hệ tư tưởng nào đó, hoặc chủ động sử

dụng tư tưởng, học thuyết nào đó trong điều hành đất nước. Nếu tư tưởng,

học thuyết… đó phù hợp với thực tiễn chính trị, nó sẽ phục vụ tốt cho mục

đích bảo vệ, duy trì và củng cố quyền lực của giai cấp thống trị, nếu ngược

lại nó sẽ có tác động tiêu cực và không mang lại hiệu quả trong công cuộc

76

duy trì và bảo vệ quyền lực.

Khi nói đến tư tưởng chính trị, có thể hiểu nó ở hai mặt: thứ nhất, đó

là những quan điểm, học thuyết của giai cấp thống trị xoay quanh vấn đề

giành, giữ vững quyền lực và quyền quản l nhà nước; thứ hai, đó cũng nói

đến thức, tư tưởng của giai cấp bị trị, cũng như sự tương tác trở lại trước

những hoạt động giành, giữ, tổ chức quyền lực của giai cấp thống trị. Vì vậy,

giai cấp thống trị nếu tìm ra và sử dụng hệ tư tưởng phản ánh được lợi ích

của cả hai phía (của bản thân giai cấp thống trị và của cả nhân dân – giai cấp

bị trị) sẽ thiết lập được mối quan hệ hài hòa giữa giai cấp thống trị và bị trị,

hoạt động của nền chính trị sẽ hiệu quả, thuận lợi hơn vì sẽ nhận được sự

ủng hộ tích cực từ phía nhân dân.

Chính vì vậy, khi lên cầm quyền, giai cấp thống trị thời L -Trần cũng

nhận thấy cần phải tìm cho mình một hệ tư tưởng phù hợp để làm nền tảng

cho hoạt động cai trị của bộ máy nhà nước. Trong tiến trình phát triển của

lịch sử tư tưởng của dân tộc, Việt Nam đã có nhiều hệ tư tưởng ngoại lai du

nhập, nổi bật hơn cả là Nho, Phật và Đạo giáo. Đến thời L -Trần, Nho giáo-

hệ tư tưởng bàn nhiều đến vấn đề chính trị xã hội, lại chưa mấy phát triển;

Đạo giáo thì không có được nhiều ảnh hưởng trong triều đình; chỉ có Phật

giáo là phát triển hơn cả và được yêu chuộng cả trong triều đình và ngoài xã

hội. ởi vậy, Phật giáo ngày càng có mối quan hệ mật thiết và thể hiện vai

trò tích cực của mình tới nền chính trị Việt Nam L -Trần.

Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa Phật giáo và chính trị, tất yếu

phải bàn đến phạm trù văn hóa chính trị. ởi tôn giáo, cụ thể là Phật giáo là

một trong những thành tố quan trọng cấu thành nên văn hóa chính trị. Từ khi

du nhập, Phật giáo đã trở thành một phần tâm linh, thức hiện diện hàng

ngày, hàng giờ và xuyên suốt trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hóa,

tư tưởng dân tộc Việt. Vì vậy, Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật

giáo nói riêngđã tác động đến đời sống tâm l , tính cách, lối sống của

ngườiViệt,nêntrong văn hóa chính trị Việt tất nhiên có yếu tố của nhân sinh

77

quan Phật giáo.

Văn hoá chính trị, với tư cách là một loại hình của văn hoá, là khái

niệm nói về sự thẩm thấu của văn hoá vào chính trị, tạo nên nền chính trị có

văn hoá.Văn hóa chính trị là “những tâm thức, những niềm tin và giá trị làm

cơ sở cho sự vận hành của một số hệ thống chính trị nhất định”[17,458]. Văn

hoá chính trị không phải là bản thân chính trị, bản thân văn hoá, hay là sự

cộng gộp giản đơn hai lĩnh vực này, mà là chính trị bao hàm giá trị văn hoá

bên trong nó. Văn hoá chính trị thể hiện ở các phương diện cơ bản: Một là,

chính trị với nghĩa là chính trị dân chủ, tiến bộ, hướng tới mục đích cao

nhất là vì con người, giải phóng con người, tôn trọng quyền con người, tạo

điều kiện cho con người phát triển tự do, toàn diện. Đây là tính nhân văn sâu

sắc của một nền chính trị có văn hoá. Hai là, những tư tưởng chính trị tốt

đẹp có tính thiết thực, đi vào cuộc sống, nó phải thấu triệt trong tư tưởng

chính trịvà được thể hiện qua đường lối, chính sách của người cầm quyền, từ

đó, được triển khai và thực hiện trong xã hội.Ba là, lối ứng xử của giai cấp

thống trị với quần chúng nhân dân (giai cấp bị trị) phải nhân văn, nhân đạo

tạo nên uy tín chính trị, qua đó, sẽ dễ dàng thu hút được sự ủng hộ của nhân

dân trong quá trình thực thi quyền lực. Uy tín chính trị thường được xây

dựng trên cơ sở của các giá trị tri thức, đạo đức, tài năng và mức độ cống

hiến của nhà chính trị.

Ở một số dân tộc, sự hình thành quyền lực và tham gia hoạt động

chính trị của giai cấp thống trị thường dựa vào một thiên mệnh tôn giáo nào

đó5. ởi sự trung thành với những tín điều, những giá trị của tôn giáo thường

được chuyển thành lòng trung thành với quyền lực, uy thế của giai cấp thống

trị xã hội đương thời. Vì thế tôn giáo thường hay được giai cấp thống trị sử

dụng, gắn kết nó với hoạt động chính trị. Ngay từ khi du nhập vào Việt Nam,

với tinh thần nhân văn, nhân bản của mình,nhân sinh quan Phật giáo đã có

nhiều yếu tố tương thích với đời sống tinh thần của dân tộcvà dần lan tỏa,

5 Các quốc gia Châu Âu trung cổ chịu sự chi phối của Công giáo La Mã, ở Nhật ản nền chính trị từng bị tri phối bởi Thần đạo (đạo Sintô).

78

phát huy rộng rãi trong đời sống xã hội. Phật giáo đã trở thành một thành tố

không thể thiếu, góp phần hình thành nên những đặc trưng của văn hóa nói

chung và văn hóa chính trị nói riêng của Việt Nam.

Từ thời Đinh, tiền Lê Phật giáo đã bước đầu được coi trọng, nhưng

đến thời L -Trần nó thực sự hưng thịnh và “ăn sâu, b n rễ”, khẳng định

được vị thế nổi trội trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt, nhân

sinh quan của Phật giáo đã tác động trực tiếp và ảnh hưởng mạnh mẽ hơn cả

trong đời sống và tư tưởng chính trị của vua quan sùng Phật. Thời kỳ

này,ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo trong việc xây dựng nền văn

hóa chính trị khá rõ. Những giá trị của nhân sinh quan Phật giáo đã thực sự

có ảnh hưởng trong tư tưởng, hành vi và lối sống của các nhà chính trị. Từ

đó ảnh hưởng đến cách triển khai và thực hành các quyết sách củahọ, góp

phần tạo ra một nền chính trị có văn hóa, rất được sự ủng hộ của nhân dân.

Sự thay đổi triều đại từ Tiền Lê sang triều Lý-Trần ngày càng đánh

dấu sự phát triển và ảnh hưởng mạnh mẽ của nhân sinh quan Phật giáo đối

với chính trị. Trong thời kỳ này, Phật giáo đã phát huy được tối đa sức mạnh

của mình đối với nền chính trị, và “khi tình cảm tôn giáo chuyển thành tình

cảm, tâm lý dân tộc sẽ tạo ra những nội lực mạnh mẽ góp phần củng cố khối

đoàn kết toàn dân, chống lại sự xâm nhập của các yếu tố ngoại lai”[52, 29].

3.1.2. Sự phát triển của tư tưởng chính trị từ thời Bắc thuộc đến thời Lý-Trần

Khi nói đến sự phát triển của tư tưởng chính trị Việt Nam từ thời Bắc

thuộc (năm 179 TCN) đếnthời Lý-Trần (năm 1400), ngoài việc nói đến sự

phát triển của tư tưởng, ý thức của các giai cấp thống trị về vấn đề giành, giữ

vững quyền lực và quyền quản l nhà nước; mặt khác cần nói đến tâm lý, ý

thức của giai cấp bị trị (nhân dân) đối với đường lối,chính sách, hành vi của

giai cấp nắm quyền, qua đó giai cấp thống trị cũng sẽ có sự tương tác trở lại

(bằng ý thức hay hành động ủng hộ hoặc phản đối) đường lối, quyết sách của

giai cấp thống trị, nắm giữ quyền lực.

79

3.1.2.1. Sự phát triển của tư tưởng chính trị trước thời Lý-Trần

Giai đoạn đấu tranh giành độc lập dân tộc (từ 179 TCN đến năm 906):

Năm 179 TCN, Triệu Đà bị bại trận, Âu Lạc trở thành một quận trực thuộc

các nhà nước phong kiến phương ắc. Ngoài những chính sách cai trị khắc

nghiệt, phong kiến phương ắc còn có mưu đồ đồng hóa dân tộc Việt.

Chúng thực hiện chủ trương “Di dân Hán vào đất Việt “sinh cơ lập nghiệp”

bằng nhiều cách, như xâm chiếm ruộng đất, tài sản của dân Việt, kéo bè kéo

cánh phục vụ cho chính quyền Hán”[68,24]. Chúng bắt người Việt phải nói

tiếng Hán, sinh hoạt theo lễ nghi Hán và áp đặt các tư tưởng Nho giáo, Lão

giáo nhằm nhồi nh t văn hóa Trung Hoa vào đầu óc và tâm hồn người dân

bản địa với đồ buộc dân tộc Việt quên đi nguồn gốc, bị phụ thuộc về tư

tưởng và trở thành nô lệ phục tùng sự cai trị của nhà Hán.

Tuy nhiên, qua gần một nghìn năm bị thống trị bởi phong kiến phương

…nói tiếng Việt, sống theo cách riêng của người Việt. Làng xã, thôn

xóm Việt Nam là nơi giữ gìn thuần phong mỹ tục, đức tính cần cù, lối sống

giản dị, thuần phác, thủy chung mang đậm tính chân thực tình làng nghĩa

xóm, đồng cam cộng khổ, tắt lửa tối đèn có nhau[68,15].

ắc, nhưng người dân Việt, mà đại đa số là nông dân vẫn,

Người Việt không dễ tiếp nhận những luồng tư tưởng đến từ phương

Bắc cũng bởi điều kiện tự nhiên và tâm l xã hội của người dân nước Việt

khác với người Hán. Họ luôn ý thức chống lại sự thống trị của giặc ngoại

xâm, cộng thêm lối sống đặc trưng của phương thức sản xuất nông nghiệp

trồng lúa nước vốn quen “những làng xã khép kín, ít tiếp xúc nên ngại tiếp

xúc, và nhất là vì tư duy đó đến cùng với kẻ thù xâm lược, do ghét kẻ thù mà

gh t lây đến nó”[113,97].

Trong số những người cai trị gốc Hoa phải kể đến Sĩ Nhiếp (137-226),

ông được cử làm Thái thú cai trị ở Giao Châu từ năm 187 đến năm 226. Do

tổ tiên ông đã sống ở đất Việt và bản thân ông cũng được sinh ra và lớn lên ở

nơi đây, nên ông tiếp thu ý thức, văn hóa Việt, và có phần thiên vị người

Việt. ng được đánh giá là người uyên bác, thông hiểu cả Nho, Phật, Đạo,

80

trọng người hiền tài, coi trọng giáo dục. Vì thế, dưới sự cai trị của ông, nền

chính trị, kinh tế, văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo ở đây đều khá ổn định. Đối

với chính quốc phương ắc, ông thực hiện chủ trương giữ thế độc lập tương

đối, bề ngoài vẫn giữ quan hệ chư hầu, cống nạp đầy đủ, khiến họ không có

cớ gì để hạch sách, quấy nhiễu. Như vậy, tư tưởng chính trị của Sỹ Nhiếp là

tự trị, nhưng lệ thuộc tương đối vào phương ắc, tư tưởng này được một số

bậc cai trị phong kiến sau tiếp nối.

Sau thời Sỹ Nhiếp, những kẻ thống trị do phương ắc đưa sang, đều

ra sức bóc lột, áp bức và đồng hóa dân tộc Việt. Nhưng người Việt không dễ

bị khuất phục và nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ chống lại sự đô hộ của

người Hán, giành lại chủ quyền liên tục nổ ra với quy mô khác nhau, khiến

kẻ thù trong suốt 10 thế kỷ thống trị không lúc nào được yên ổn với hàng

loạt các cuộc cách mạng: Khởi nghĩa của hai bà Trưng (từ năm 40-43); khởi

nghĩa của Bà Triệu (năm 248); khởi nghĩa của L í (năm 541); thế kỷ VI có

Triệu Quang Phục xưng đế, khởi nghĩa của Lý Phật Tử, phong trào yêu nước

của nhà trí thức Tinh Thiều; thế kỷ VIII có khởi nghĩa của Mai Thúc Loan,

Phùng Hưng; đầu thế kỷ X có phong trào giành quyền tự chủ, độc lập của

Khúc Thừa Dụ và Khúc Hạo.

Khi lãnh đạo thành công mỗi cuộc khởi nghĩa và giành lại được chính

quyền, trong quan hệ với đế quốc phương ắc, tư tưởng chính trị của Việt

Nam thường đi theo một trong hai xu thế: Một là, tự trị, nhưng vẫn phụ

thuộc tương đối vào nhà Hán thông qua việc nhận sắc phong và sang cống

tiến hàng năm; hai là, độc lập ngang hàng với nhà Hán, bằng cách đứng lên

xưng vương, xưng đế, thành lập một quốc gia với phong tục, tập quán, tín

ngưỡng, văn hóa, tư tưởng riêng, đồng thời khẳng định độc lập về chính trị.

Xu thế thứ nhất thể hiện tiêu biểu ở Sỹ Nhiếp (thế kỷ II), Lý Phật Tử

(thế kỷ VI) và Phùng An (thế kỷ VIII), họ vẫn chịu khuất phục bá quyền,

nương nhờ vào đế quốc Trung Hoa, do vậy không muốn tách ra để thành lập

quốc gia độc lập. Điều này thể hiện sự hạn chế nhất định trong nhận thức về

81

quyền độc lập tự chủ của quốc gia. Tuy nhiên, xu hướng này theo chiều dài

lịch sử chống ngoại xâm, dần bị thay thế bởi u thế thứ hai: giành độc lập

dân tộc, thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Trung Hoa, thành lập quốc gia

ngang hàng với Trung Quốc phương ắc “tất nhiên nó không thể thành công

ngay. Nó còn phải trải qua thử thách, hoàn thiện và gặp phải những thất bại

ban đầu. Có thành công ngắn ngủi rồi thất bại của Lý Bí, Mai Thúc Loan, của

Phùng Hưng… thì mới có thắng lợi quyết định của Ngô Quyền ở đầu thế kỷ

X”[113,118]. Sự phát triển của tư tưởng chính trị theo chiều hướng tích cực

ấy, thể hiện chí không chịu khuất phục trước kẻ thù, tinh thần tự lực, tự

cường và lòng tự tin vào khả năng làm chủ đất nước của người Việt.

Giai đoạn hình thành tư tưởng về một nhà nước độc lập (906 - 944):

Trải qua gần một nghìn năm đô hộ của phương ắc, từ thời Tần, Hán đến

Đường, Tống, nhưng người Việt vẫn duy trì được bản sắc dân tộc. Thuyết

“chính danh”, “thiên mệnh” của Nho giáo do kẻ thù đưa sang nhằm triệt tiêu

ý thức đấu tranh của người Việt, song không làm nguôi ý chí muốn thoát

khỏi ách đô hộ, vươn lên làm chủ đất nước. Thời kỳ này, nhiều cuộc khởi

nghĩa của người Việt tiếp tục nổ ra, tuy đa phần thất bại, hoặc có thắng lợi

nhưng nền độc lập tồn tại không dài. Điều đó đòi hỏi những vị thủ lĩnh sau

này cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng hơn về cả mô hình tổ chức Nhà nước và tư

tưởng chính trị.

Người Việt nhận ra rằng, muốn khẳng định độc lập dân tộc lâu dài,

trước tiên phải trang bị trình độ nhận thức chính trị, quân sự, ngoại giao tiến

bộ và phù hợp. Nhưng khó khăn lớn nhất sau nghìn năm đô hộ khắc nghiệt

của phong kiến Trung Hoa chính là dân tộc Việt thiếu những hệ giá trị tư

tưởng riêng. Vì vậy, “họ phải tìm nguồn khác để bổ sung. Đó là hệ thống tư

duy đồ sộ của kẻ thống trị bên ngoài”[113,93], đó là đạo Nho, đạo Lão và

đạo Phật. Nhưng vì tính chất phiến diện của mỗi đạo nên người Việt đã tiếp

thu một cách hài hòa cả ba đạo, để đáp ứng tốt nhất đòi hỏi của thực tiễn.

Ngay cả các nhà cầm quyền Trung Quốc khi sử dụng cũng thường kết hợp

82

cả ba đạo để tùy từng hoàn cảnh, điều kiện chính trị cụ thể rồi ưu tiên đạo

nào đó mà thôi. Vì vậy, từ chỗ phản ứng, đối lập với những tư tưởng của

phương ắc, gắn liền với tinh thần chống ngoại xâm, người Việt dần dần

biết kế thừa có chọn lọc và vận dụng một cách linh hoạt những hệ tư tưởng

vốn có này nhằm phục vụ cho nền chính trị của đất nước.

... người Việt có đầy đủ khả năng để tham gia vào bất cứ cuộc tranh

luận nào về học thuật, tư tưởng của Trung Quốc đương thời. Thế nhưng, họ

đã bỏ qua, không tham gia cũng không luyến tiếc phần lớn các cuộc đó. Sở

dĩ như vậy, vì sự chú ý của họ, tư duy của họ đã hướng về phía những gì mà

thực tiễn đất nước yêu cầu và nhân dân mong muốn[113,98-99].

Trong quá trình học hỏi, tiếp thu các tư tưởng đến từ phương Bắc:

Những bậc cai trị sau này cũng nhờ tinh thần tự lập đó mà tạo dựng

được nền chính trị ổn định và vững vàng hơn sau khi đã giành lại được độc

lập. Đến giai đoạn độc lập, đánh dấu bằng thắng lợi của Ngô Quyền trước

quân Nam Hán vào năm 938, tư tưởng chính trị mới thực sự được định hình

rõ nét.

Với mưu trí và tài cầm quân, Ngô Quyền đã lãnh đạo nhân dân lập lên

chiến thắng oanh liệt trên sông Bạch Đằng. Sau khi đánh bại quân Nam Hán,

Ngô Quyền đã “xưng vương, đặt quan chức, chế triều nghi, định phục sắc và

chỉnh đốn việc chính trị trong nước, chí muốn dựng nghiệp lâu dài”[43,85].

Việc làm này chứng tỏ chiến lược chính trị lâu dài muốn tách khỏi sự ảnh

hưởng của triều đình phong kiến phương ắc, khôi phục chủ quyền quốc

gia, thành lập nhà nước độc lập. ng cũng đã chọn Cổ Loa - kinh đô của

nước Âu Lạc xưa, làm kinh đô và xây dựng thể chế nhà nước phong kiến tập

quyền. Nhưng tiếc là công việc phục dựng và chỉnh đốn đất nước còn dang

dở thì năm 944 Ngô Quyền đã qua đời.

Giai đoạn xây dựng, kiến thiết nhà nước phong kiến (954-1009): Sau

khi Ngô Quyền mất, tình hình chính trị-xã hội Việt Nam hỗn loạn, nhiều đạo

quân nổi lên đánh diệt nhau để tranh giành quyền lực, dẫn tới tình trạng nội

chiến, gọi là loạn 12 xứ quân, k o dài hơn 20 năm (khoảng 946- 967). Người

83

có công dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, lên ngôi, mở ra thời kỳ

phát triển mới cho đất nước là Đinh ộ Lĩnh. Tiếp nối tư tưởng chính trị của

Ngô Quyền về một nhà nước độc lập, tự chủ, tách khỏi ảnh hưởng của nhà

Tống Trung Quốc. Năm 968 Đinh ộ Lĩnh đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Kể

từ đây, một quốc gia độc lập có quốc hiệu, có nhà nước riêng do Hoàng đế

đứng đầu thực sự được xác lập. Ông cũng hoạch định các chức quan văn v ,

quy định các luật lệ cho triều đình, lập Hoàng hậu, Thái tử. Để ổn định đất

nước, vua đã ra sức củng cố quân đội, đồng thời đề ra luật pháp nghiêm

minh nhằm đề cao sức mạnh của triều đại (đặt vạc dầu trước cung điện, nuôi

hổ báo để trừng trị kẻ phạm tội...). Nhờ những luật lệ hà khắc đó mà đất

nước dù vừa trải qua nội chiến, loạn lạc cũng đã dần được yên ổn.

Tuy mô hình và tổ chức bộ máy nhà nước thời Đinh chủ yếu học theo

nhà Tống, cũng có Quốc hiệu, Hoàng đế, Hoàng Hậu, Thái Tử và các quy

định về chức quan… Nhưng đó là sự học hỏi này là cần thiết và nó thể hiện

sự trưởng thành trong tư tưởng chính trị của người Việt.

Năm 979, Đinh Tiên Hoàng mất, Lê Hoàn lên ngôi, cũng tự xưng là

Đại Hành Hoàng đế và quyết định giữ nguyên tổ chức bộ máy đã có từ thời

Đinh. Dự liệu việc mình xưng Đế sẽ bị triều Tống trách phạt và lấy cớ đưa

binh sang xâm lược, nhưng ông và triều đình không sang Tống nhận phong

quan tước mà quyết định cùng nhân dân chuẩn bị lực lượng đánh Tống. Năm

981, quân Tống sang nhưng bị quân của Lê Hoàn đánh cho thua trận. Tuy

thắng, nhưng ở thế nước yếu, và không muốn kết thêm hiềm khích với nước

lớn, lúc này Lê Hoàn mới theo lệ triều cống và nhận sắc phong từ nhà Tống,

nhằm tránh nạn binh đao, vàđể nhà Tống không có cớ trả thù. Vì vậy, quan

hệ Tống và Việt đã được duy trì thuận hòa. Uy phong của nước Đại Cồ Việt

cũng được củng cố. “Sứ nhà Tống thường hay đi lại, có khi vua Đại Hành

phụng chiếu mà không lạy, nói dối rằng đi đánh giặc ngã ngựa đau chân. Nhà

Tống biết là dối, nhưng cũng làm ngơ đi”[43,94-95]. Uy thế chính trị của triều

đình nhà Lê ngày càng tăng. Nhờ yên ổn với phương ắc, vua Lê Đại Hành

84

còn đem quân đi bình Chiêm Thành và dẹp yên những cuộc phản loạn ở các

tỉnh miền núi phía Nam. Tình hình chính trị trong nước dần ổn định, đời sống

nhân dân yên ấm.

Nhìn chung, các triều Đinh, Tiền Lê đã tiến một bước quan trọng trên

con đường khẳng định độc lập: dân tộc độc lập luôn phải gắn liền với nhà

nước thống nhất, độc lập nhưng dân phải được hưởng cuộc sống hòa bình.

Tuy nhiên, vua quan ở hai triều đại này không đủ tài, đức để tiếp nối sự

nghiệp của ông cha, gây ra sự bất ổn về chính trị, lòng dân không yên, vì thế,

thời gian tồn tại của các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê… đều rất ngắn ngủi.

Nhưng dù sao, đây là giai đoạn quan trọng và là bước chuẩn bị cho những

thành công sau này của triều đại Lý-Trần.

3.1.2.2. Sự phát triển của tư tưởng chính trị ở thời Lý-Trần

Kế thừa những thành - bại của tư tưởng chính trị từ các triều đại trước,

sang đến thời Lý-Trần [Xem sơ đồ 3.1-Phụ lục, tr166], tư tưởng chính trị với

các chính sách đối nội và đối ngoại thời đại này đã có bước phát triển vượt

bậc và tiến tới hoàn thiện hơn. Tư tưởng chính trị nổi bật của thời kỳ này

được thể hiện trong Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn,trong bài Nam quốc sơn

hà của L Thường Kiệt, và trong tổng kết về đường lối đánh giặc giữ nước

của Trần Quốc Tuấn.

Từ những bài học của nền chính trị của thời kỳ trước, sang thời Lý-

Trần tư tưởng chính trị cũng có những bước tiến quan trọng. Mở đầu cho

giai đoạn hưng thịnh, vị vua đầu tiên của triều Lý là Lý Thái Tổ đã quyết

định dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long để “mưu toan việc lớn”, tư tưởng này

còn được ghi lại trong Chiếu dời đô [Xem hình 3.3 - Phụ lục, tr.171]. Quyết

định dời đô này có nghĩa chính trị quan trọng, nó thể hiện sự tự tin về sức

mạnh của triều đại và mong muốn về một nền độc lập dân tộc. Hành động

dời đô cũng thể hiện sự phát triển trong nhận thức về chính trị, muốn khẳng

định sự lớn mạnh về lực lượng, vị thế của đất nước; đồng thời thể hiện tầm

nhìn chiến lược của những người quản l đất nước và trách nhiệm với tương

85

lai dân tộc.

Thời kỳ này, xu hướng độc lập, thoát khỏi ảnh hưởng của phong kiến

phương ắc đã hoàn toàn thắng thế và mang lại những thành công và thắng

lợi quan trọng, góp phần làm nên những bài học giá trị cho nền chính trị ở

những giai đoạn đấu tranh của các triều đình phong kiến Việt Nam sau này.

Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn cũng thể hiện rất rõ tinh thần lạc quan, tin

tưởng vào tương lai lớn mạnh của đất nước: “thành Đại La, ở giữa khu vực

trời đất, có thế rồng cuộn hổ ngồi, ở giữa Nam - Bắc - Đông - Tây … Thực

là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi thượng đô của kinh sư muôn

đời”[18,160]. Qua đó có thể thấy, Lý Công Uẩn là người sáng suốt, biết lo

tính lâu dài. Bởi tìm được một nơi thuận tiện để phát triển về mọi phương

diện cả kinh tế, chính trị, văn hóa... thì từ đây, mới mong có được nền độc

lập lâu dài, chính trị ổn định, đất nước phồn thịnh.

Tư tưởng về một nhà nước độc lập, có chủ quyền được tiếp tục khẳng

định khi vào năm 1054, L Thánh Tông đổi tên nước thành Đại Việt, “tôn

các vua trước đó là Thái Tổ, Thái Tông, coi các nước nhỏ là chư hầu, muốn

ngăn cấm Chiêm Thành, thâu phục nhà Tống”[100,460].Khi quân Tống sang

xâm lược đất nước, sự kiên định và ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền của

quân và dân thời L cũng được thể hiện rõ trong bài Nam quốc sơn hà của

Sông núi nước Nam vua Nam ở,

Cõi bờ ngăn cách tự sách trời.

Cớ chi quân giặc sang xâm lấn?

Thất bại bay xem sẽ đến nơi [18,201].

L Thường Kiệt:

ài thơ này được coi là Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên trong lịch sử

Việt Nam. Bởi nó vừa khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm của nước

Nam, vừa vạch r hành động xâm lăng ngang ngược của quân Tống. Vì hành

động không chính nghĩa ấy, quân Tống tất yếu sẽ bị thất bại và thắng lợi tất

yếu sẽ thuộc về quân dân ta. Đây cũng có thể coi như một bản cáo trạng

hùng hồn kết tội bọn xâm lăng đồng thời là bản tuyên bố đanh th p về nền

86

độc lập của nước ta. Nhờ nghĩa cao cả ấy, bài thơ đã lan truyền rất nhanh

và có tác dụng khích lệ mạnh mẽ tinh thần của quân dân ta, đồng thời cũng

làm kẻ thù run sợ và nhụt chí chiến đấu. Kết quả là quân ta đã làm nên chiến

thắng vang dội, đánh tan đồ xâm lược của quân Tống, buộc họ phải thừa

nhận Đại Việt là một quốc gia độc lập, có chủ quyền.

Sang thời Trần, Đại Việt đã ba lần đại thắng giặc Nguyên-Mông - đội

quân vốn được đánh giá là hùng mạnh nhất thời ấy6. Cả ba lần đội quân này

sangxâm lược đều chịu thất bại trước ý chí chiến đấu của quân dân Đại Việt.

Những chiến thắng này không chỉ mang lại nền độc lập tự chủ cho Đại Việt,

... lần thứ nhất, bảo vệ cho miền Nam Trung Quốc của triều Tống; lần thứ hai,

bảo vệ cho Miến Điện, Chămpa và các dân tộc vùng Đông Nam Á và lần thứ ba, phá

vỡ kế hoạch xâm lược Nhật Bản của quân Mông Cổ[81,24].

mà còn mang lại nghĩa chính trị to lớn đối với các nước láng giềng:

Vị tướng tài ba Trần Quốc Tuấn - người có công rất lớn trong cả ba

lần chống quân xâm lược, đã tổng kết kinh nghiệm giành thắng lợi trong

chiến tranh rất sâu sắc và xúc tích: “... vì vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục,

nước nhà góp sức, giặc tất bị bắt”[18,330]. Điều này thể hiện tinh thần tự tin,

hào sảng trước sức mạnh của tình đoàn kết của dân tộc ta. Sức mạnh này bồi

đắp từ trong thời bình và được phát huy mạnh mẽ trong thời chiến. Khi đất

nước có giặc ngoại xâm thì từ trong triều đình đến ngoài biên ải, từ trong

quân đội đến người dân ở các xóm làng, tất cả đều chung một chí đánh

giặc giữ nước. Lời tổng kết kinh nghiệm đánh giặc này cũng là lời chỉ đạo

chính trị đúng đắn của Trần Quốc Tuấn cho các thế hệ sau là phải coi trọng

sức mạnh của toàn dân.

Theo ông, chính nhờ sự đoàn kết trong triều đình “vua tôi đồng lòng,

anh em hòa mục” và sự đoàn kết trong quân đội “xây dựng quân đội như cha

con một nhà” đã giúp một dân tộc đất không rộng, người không đông có thể

vượt qua những thử thách ghê gớm của họa xâm lăng. Quan điểm “khoan

87

thư sức dân”, “dĩ đoản, chế trường” (lấy ngắn trị dài), “quân đội cốt tinh 6Thời bấy giờ, đội quân Nguyên-Mông đã xâm chiếm được gần trọn Châu Á và Châu Âu, vó ngựa của chúng đi đến đâu “cỏ không mọc được đến đấy”, từ Thái ình Dương đến tận bên bờ Địa Trung Hải, khắp Á, Âu chưa có danh tướng nào cản được.

không cốt nhiều” của Trần Quốc Tuấn có nghĩa lớn laocho chiến lược

quân sự nói riêng và của cả nền chính trị nói chung. Sau này, những tư tưởng

ấy đã được áp dụng linh hoạt cho cả hai cuộc chiến tranh ở Việt Nam (chiến

tranh chống Pháp và Mỹ) và cũng đều giành được thắng lợi vang dội.

Thời Lý-Trần cũng đã kế thừa tư tưởng ngoại giao khôn khéo của thời

trước. Do nằm cạnh một nước lớn, có nền văn hóa lâu đời như Trung Hoa,

cho nên để tồn tại và phát triển, nhà Lý-Trần vẫn có thái độ linh hoạt, mề

dẻo trong giao bang. Một mặt, triều đình vẫn cử người sang cống tiến, nhưng

mặt khác, luôn giữ thái độ không khoan nhượng trước sự áp đặt của triều

đình phương ắc, không chấp nhận bị cai trị và không ngồi yên nhìn cảnh

non sông bị dày xéo.

Sự phát triển và ngày càng hoàn thiện của tư tưởng chính trị thời Lý-

Trần đã mang lại một nền chính trị ổn định, đời sống vật chất của nhân dân

tương đối đầy đủ, đặc biệt, còn tạo nên nhữngthắng lợi ròn rã trên mặt trận

quân sự: 2 lần đánh thắng quân Tống (ở thời nhà Lý) và 3 lần đại thắng quân

Nguyên - Mông (ở thời nhà Trần). Chính vì những thành tựu trên lĩnh vực

quân sự, chính trị, kinh tế và chính sách ngoại giao đúng đắn, nền độc lập

của triều đại Lý-Trần kéo dài rất lâu (1009-1400), các nước trong khu vực

cũng rất tôn trọng và vị nể.

3.1.3. ột số nội ung cơ ản của tư tưởng ch nh trị trời Lý-Trần

Như trên đã trình bày, tư tưởng chính trị phản ánh thực tiễn chính trị

và được thể hiện qua những quan điểm, chủ trương nhằm thực hiện mục tiêu

giành, giữ, duy trì quyền lực của giai cấp thống trị. Tư tưởng chính trịthời

Lý-Trần là sự kế thừa và phát triển những thành tựu của các triều đại

trước,nhằmđáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn chính trị của đất nước lúc

bấy giờ. Điều này là tất yếu và cần thiết, bởi thời kỳ này giai cấp thống trị

cần phải giải quyết nhiều vấn đề chính trị cấp bách của quốc gia đang trên

con đường khẳng định nền độc lập, tự chủ:

88

Thứ nhất: Xây dựng thể chế chính trị và pháp lý của xã hội.

Kế thừa và từng bước hoàn thiện thể chế chính trị thời Ngô, Đinh,

Tiền Lê, nhà nước Lý-Trần cũng quan tâm đến việc xây dựng và tổ chức bộ

máy nhà nước trung ương tập quyền ngày càng quy củ và lớn mạnh. Nhà L

và sau này là nhà Trần, đều xây dựng mô hình nhà nước với bộ máy chính

quyền theo lối quân chủ tập quyền (giống với triều đình phong kiến Trung

Quốc). Các vua cũng tự xưng là Thiên tử, lập các ngôi Hoàng hậu và Thái

tử, cũng phong tước cho các quý tộc với đầy đủ các chức quan văn, quan v ,

các ban (đặc biệt thời kỳ này có cả Tăng quan), các cơ quan hành chính

chuyên trách được xây dựng từ trung ương đến địa phương. Điều này thể

hiện sự tự tin về thế và lực của đất nước đồng thời khẳng định sự phồn thịnh

của triều đại Lý-Trần.

Mô hình nhà nước này là cần thiết và phù hợp trong điều kiện bấy giờ,

bởi Nhà nước mà ta từng xây dựng thời Hùng Vương7, đến giai đoạn này

không còn phù hợp nữa. Và qua một ngàn năm Bắc thuộc, tư tưởng trị quốc

và mô hình hành chính của nhà nước Việt Nam cũng ít nhiều phỏng theo và

bị ảnh hưởng bởi mô hình nhà nước của người Hán và tư tưởng chính trị - xã

hội của Nho giáo. Bởi “trong hoàn cảnh xã hội đương thời, con đường duy

nhất mà giai cấp thống trị có thể theo là chế độ giáo dục Nho học. Do đó,

dưới thời Lý bắt đầu mở mang việc học tập và thi cử để đào tạo nhân tài và

tuyển chọn quan lại”[64,364]. Tuy vậy, Nho giáo chỉ dừng lại ở ảnh hưởng

trong việc xây dựng mô hình nhà nước, tổ chức cơ cấu quan lại củatriều đình

phong kiến tập quyền đang trong giai đoạn xây dựng và từng bước hoàn

thiện. Còn trên phương diện tư tưởng, giai cấp thống trị trong triều vẫn bị chi

phối bởi nhân sinh quan Phật giáo.

Cũng bởi ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo nên mô hình nhà

nước mà triều Lý-Trần chọn không phải mô hình quân chủ tập quyền chuyên

7Về chính trị-xã hội thì cơ cấu cộng đồng từ dưới lên là: Công xã thị tộc-công xã nông thôn-bộ lạc-liên minh bộ lạc-nước; Cơ cấu tổ chức nhà nước từ dưới lên là: tộc trưởng-bồ chính-phụ đạo, lạc tướng-Hùng Vương; Về kinh tế-xã hội: phổ biến là nền kinh tế tự nhiên, cấy trồng theo con nước lên xuống.

89

chế – có phần hà khắc, mà xây dựng nhà nước tập quyền thân dân. Tinh

thần từ bi, hỷ xả, tu dưỡng về thập thiện, ngũ giới đã góp phần hình thành

những khái niệm chính trị thân dân dưới thời Lý-Trần như: khoan hòa, nhân

từ, phúc huệ, bình đẳng.

Cùng với việc kiện toàn bộ máy nhà nước trung ương tập quyền, nhà

Lý-Trần cũng bắt đầu ban hành và áp dụng các bộ luật để ổn định đất nước

như bộ Hình thư, Quốc triều thông chế, Quốc triều hình luật. Việc ảnh

hưởng của tư tưởng nhân sinh Phật giáo đến mô hình nhà nước phần nào

cũng được thể hiện trong nội dung của các bộ luật mới được ban hành và các

các quy định, nguyên tắc trong triều thời kỳ này có phần giản dị, không cầu

kỳ.Về cơ bản, pháp luật Lý-Trần là công cụ thống trị của chế độ phong kiến

trung ương tập quyền, bảo vệ cho quyền lợi và quyền tư hữu của tập đoàn

quý tộc và quan lại. Tuy nhiên, các bộ luật này cũng có những điểm tiến bộ

khi “đã xây dựng chế độ ngăn cấm những người có quyền thế vi phạm pháp

luật, phạm đến lợi ích của nhân dân”[50,301]. Điều này chứng tỏ, các bộ luật

của nhà nước Lý-Trần được xây dựng trên cơ sởtiếp thu Nho giáo, nhưng

vẫn chịu ảnh hưởng bởi tinh thần nhân văn, khoan dung của Phật giáo.

Khi triều đình phong kiến dần đi vào ổn định, việc thi cử tuyển chọn

quan lại dần được tổ chức có hệ thống nhằm bổ xung nhân lực cho triều

đình. Nền giáo dục chú đến cả ba giáo: Nho, Đạo và Phật. Trí thức và giai

cấp thống trị ở Việt Nam lúc này đã thức được vai trò của từng hệ tư tưởng

này trong lĩnh vực chính trị- xã hội. Về cơ bản nhà Lý-Trần vẫn tôn sùng

Phật giáo, nhưng để duy trì quyền lực và tổ chức quản lý xã hội giai cấp

thống trị vẫn sử dụng cả Đạo giáo và đặc biệt là học thuyết bàn nhiều đến

chính trị-xã hội là Nho giáo. Giáo dục khoa cử thời kỳ này đã tạo ra những

hiền tài như: L Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Chu Văn An,… và những

bậc minh quân như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông… đã có đóng góp tích

cực cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Thứ hai: Khẳng định quyền tự chủ về lãnh thổ, độc lập về tư tưởng,

90

văn hóa.

Sau khi thay thế nhà tiền Lê lên nắm quyền, vị vua đầu tiên của triều

L đã cho dời đô từ Hoa Lư đến thành Đại La, sau đổi tên là Thăng Long.

Việc dời đô này đã được sự ủng hộ của các quan lại trong triều bởi Hoa Lư,

là vùng đất nhiều đồi núi hiểm trở, lại chật hẹp, đường xá đi lại khó khăn chỉ

phù hợp cho việc quân sự, phòng thủ. Còn Thăng Long là nơi đất đai bằng

phẳng, màu mỡ và thuận lợi cho việc để xây dựng kinh đô, tạo được những

điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đất nước. Có thể thấy, L Thái Tổ

là một vị vua có bản lĩnh và tầm nhìn, không vì tình riêng mà làm ảnh hưởng

đến “nghiệp lớn muôn đời của con cháu”, do thấy “trên thuận trời, dưới

thuận lòng người” mà thay đổi. Nếu các triều đại Ngô, Đinh, tiền Lê phải

liên tiếp tiến hành cuộc kháng chiến chống lại các thế lực xâm lược, thường

xuyên phải đối mặt với các thế lực chống đối để bảo vệ quyền thống trị và

xây dựng đất nước sau ngàn năm bị đô hộ, thì đến thời Lý-Trần, tình hình

chính trị và xã hội lại tương đối ổn định.

Có thể thấy, mong muốn xây dựng nền độc lập dài lâu và một xã hội

cường thịnh thể hiện ngay từ khi triều Lý mới thành lập. Các vua Lý sau này

và các vua Trần cũng tiếp tục mong muốn ấy, họ đã ra sức củng cố nền độc

lập trên mọi phương diện lãnh thổ, văn hóa, tư tưởng… để xây dựng một nhà

nước phong kiến hùng mạnh, ngang hàng với phong kiến phương ắc.

Niềm tự tôn và ý thức bình đẳng dân tộc còn được thể hiện qua sự

kiện năm 1054, nhà L đổi tên nước là Đại Việt, thay thế cho quốc hiệu Đại

Cồ Việt (tên gọi đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt sau gần một nghìn năm

Bắc thuộc, quốc hiệu này được dùng trong thời Đinh, Tiền Lê và hai đời vua

đầu của triều L ). Cũng với nghĩa khẳng định: nước Việt là nước lớn8,

nhưng việc đổi tên này với mong muốn ghi dấu một bước phát triển mới của

8Đinh Tiên Hoàng đặt tên nước là Đại Cồ Việt: theo tiếng Hán ”Đại” có nghĩa là lớn, ”Cồ” trong tiếng Việt cổ cũng có nghĩa là lớn. ng muốn ghép cả 2 chứ Hán và Việt để khẳng định nước Việt là nước lớn dù theo ngôn ngữ nào. 9 Năm 975 lần đầu tiên nhà Tống phải công nhận Đại Cồ Việt là một nước độc lập, nhưng vẫn sai sứ sang phong cho Đinh Tiên Hoàn làm giao chỉ quận vương. Các vua sau Đinh Tiên Hoàn không xưng Tiết độ sứ như nhà Khúc; Vương như nhà Ngô, Đinh nữa mà đều xưng Hoàng đế như một dòng chính thống. Vì thế

91

lịch sử của dân tộc9. Sau bằng chiến lược ngoại giao khôn khéo, nhà Lý-Trần

đã thành công trong công cuộc khẳng định quyền độc lập tự chủ về lãnh thổ

của Đại Việt thời đó: “Năm 1175, nhà Tống chính thức công nhận chủ quyền

quốc gia của Đại Việt khi đổi danh hiệu sắc phong từ Giao Chỉ quận vương

thành An Nam quốc vương. Quốc gia Đại Việt được bảo vệ và củng cố qua

cuộc kháng chiến chống Tống (1075-1077)”[60,72].

Triều đại Lý-Trần còn nỗ lực khẳng định nền độc lập, ở ý thức về

phương diện ngôn ngữ, văn hóa, tư tưởng. “Khuynh hướng này rõ nét và

hiển nhiên đến mức nhà Minh vào đầu thế kỷ XV quyết tâm dùng những

biện pháp tàn bạo, hòng phá vỡ những thành quả văn hóa đời Trần”[15,173],

để dễ dàng hòa lẫn văn hóa Đại Việt vào nền văn hóa Trung Hoa. Chẳng hạn

sang đời Trần, chữ Nôm cũng được khuyến khích sử dụng nhằm hạn chế ảnh

hưởng của văn hóa, chữ viết Trung Hoa. ài phú Cư trần lạc đạo của vua

Trần Nhân Tông được viết bằng chữ Nôm [hình 3.4 - phụ lục, tr.171], như

một tuyên ngôn về tư tưởng và văn hóa Việt, đã khuyến khích phong trào

Việt hóa ngôn ngữ viết trong giới trí thức Việt Nam. Đáng chú , đó là một

bài phú tuyên ngôn về tinh thần nhập thế của Phật giáo, tinh thần kết hợp

đạo với đời của một vị tổ thiền phái Phật giáo Việt Nam và đồng thời là một

vị vua anh minh nên sức lan tỏa rất lớn và triết l nhân sinh của Phật giáo

nhờ vậy, thực sự trở thành sức mạnh chính trị của nhà Trần.

Dù giai đoạn này, nhà nước bắt đầu cho phổ biến Nho giáo, nhưng

Phật giáo vẫn được coi trọng và được sử dụng như một công cụ tư tưởng để

giáo huấn đạo đức, tu dưỡng nhân cách, củng cố khối đoàn kết trong nội bộ

vương hầu quý tộc và trong toàn dân. Bởi, Phật giáo đang là tư tưởng phổ

biến trong xã hội và được nhân dân yêu mến. Lựa chọn Phật giáo, giai cấp

thống trị sẽ thu hút được sự ủng hộ trong nhân dân và dề dàng huy động

được lực lượng tham gia vào công cuộc dựng nước, giữ nước và phát triển

đất nước. Thêm nữa, có thể nói, nhân sinh quan Phật giáo cũng có nhiều yếu

mà dù là người đặt nền móng sáng lập nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên của Việt Nam, nhưng sau ông không còn được gọi là người mở nền chính thống cho các triều đại phong kiến trong lịch sử.

92

tố phù hợp, góp phần giúp giai cấp thống trị thời này giải quyết được những

vấn đề chính trị cấp bách cần giải quyết thời kỳ này. Vì vậy mà các vị vua

Lý-Trần đã có xu hướng tạo ra một nền Phật giáo thống nhất chung cho dân

tộc. Khởi đầu từ vua Lý Thánh Tông, với việc cho ra đời thiền phái Thảo

đường, nhằm loại bỏ ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc (thể hiện trong

thiền Vô Ngôn Thông) và ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ (thể hiện trong

thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi). Tuy nhiên, mong muốn thống nhất về tinh thần, tư

tưởng chỉ thực sự được hoàn thiện ở thời Trần, khi vua Trần Nhân Tông

thành lập thiền phái Trúc Lâm – thiền phái mang đậm bản sắc Việt Nam,

trên cơ sở tổng hợp ba thiền phái có từ thời Lý. Việc ra đời hệ tư tưởng mới

đã hòa quyện chính trị và tư tưởng, giúp thổi bùng lên tinh thần tự hào, ý chí

độc lập tự cường của dân tộc, góp phần tích cực cho công cuộc bảo vệ, xây

dựng và phát triển đất nước.

Thứ ba: Ổn định đất nước, mở rộng lãnh thổ, nâng cao vị thế của đất

nước trong khu vực.

Chính sách “ngụ binh ư nông” được duy trì và phát triển từ thời Lý

đến thời Trần. Đây là một chiến lược của nhà nước và nhận được sự hưởng

ứng tích cực trong nhân dân. Nó vừa tạo ra sức mạnh tổng hợp cả cho quân

đội và nền sản xuất, góp phần tạo được một lực lượng quân đội vững mạnh,

mà còn tạo được một nền nông nghiệp phát triển cho triều Lý-Trần. Chính

sách “ngụ binh ư nông” rất linh hoạt và hiệu quả. Vì vậy, dưới thời Lý-Trần

triều đình và nhân dân phải đối mặt với nhiều cuộc chiến tranh khốc liệt

trước những kẻ thù hùng mạnh, nhưng chúng ta vẫn xây dựng được một nền

chính trị ổn định, kinh tế phát triển.

Để tập trung quyền lực của chính quyền từ trung ương đến các địa

phương, với các dân tộc thiểu số miền núi, triều Lý-Trần có chính sách “ràng

buộc” nhằm động viên họ cùng triều đình chiến đấu bảo vệ bờ cõi. Một trong

những chính sách ràng buộc tầng lớp thống trị của vua Lý và Trần là dùng

93

quan hệ hôn nhân để lôi kéo các châu mục, tù trưởng có thế lực. Và họ cũng

có nhiều cống hiến trong sự nghiệp giữ nước của dân tộc. Tuy nhiên, khi cần

thiết cũng phải trấn áp bằng quân sự để bảo vệ sự thống nhất của đất nước.

Giai đoạn thế kỷ XI-XIV, Đại Việt tiếp giáp với các nước Ai Lao

(phía tây), Chăm pa - Chiêm (mặt nam), Chân Lạp (mặt tây-nam). Với các

nước này, nhà nước luôn có những chủ trương, chiến lược phù hợpnhằm giữ

vững và mở rộng lãnh thổ. Với Ai Lao và Chân Lạp, nhà nước thiết lập được

mối quan hệ tương đối ổn định,về cơ bản hai nước này từng có “quan hệ

giao hảo với Đại Việt dưới dạng cống nạp”[130,221]. Với nước Chiêm

Thành (sau là Chăm pa) thì chiến lược của triền đình là linh hoạt, lúc thì

mềm dẻo lúc phải có thái độ kiên quyết. Bởi trong lịch sử, nước Chiêm10 đã

nhiều lần k o quân sang đánh nước ta, tuy nhiên, các cuộc chiến này đều bị

quân dân Đại Việt đẩy lùi. Không những vậy quân dân ta còn “mở rộng lãnh

thổ về phía nam qua cuộc chiến tranh với Cham pa (1069), sát nhập các châu

Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (vùng Quảng Bình và Bắc Quảng trị ngày

nay)”[60,72]. Đặc biệt, trong lần vượt biển cướp bóc nước ta của nước

Chiêm vào năm 1166, vua L Anh Tông đã phải cử Tô Hiến Thành đưa quân

…quở trách về việc không giữ lễ phiên thần, lại bày tỏ sự lợi hại để

chiêu dụ. Chúa Chiêm sợ, sai sứ sang dâng châu báu và những sản vật địa

phương để xin hòa. Nhà vua y cho, hạ chiếu bảo Hiến Thành đem quân

về”[133,221].

sang dẹp. Trong cuộc hành quân này, Tô Hiến Thành đã đưa thư của vua Lý:

Từ đó, nhà L đã đẩy lùi được mối họa ngoại xâm từ phương Nam.

Sang thời Trần, nước Chiêm tiếp tục thực hiện “nghĩa vụ phiên thần”

và việc cống nạp có phần đều đặn hơn. Tuy “ nghĩa kinh tế của việc cống

nạp này không đáng kể, chủ yếu về mặt chính trị: khẳng định uy thế của Đại

Việt”[130,225], điều này chưa có được ở thời Lý. Quan hệ hòa hảo này được

tiếp tục đến đời vua Trần Nhân Tông. Khi từ bỏ ngai vàng, trở thành một

tăng sĩ đi truyền đạo trong dân chúng, Nhân Tông đã từng sang Chiêm

94

Thành và ở lại đó khoảng thời gian khá dài nhằm thiết lập mối quan hệ hữu 10 Theo Việt sử lược, vào thời L -Trần năm lần người Chiêm k o vào đánh phá Đại Việt.

hảo với vua Chiêm. Nhưng chủ trương này không được những vị vua sau

tiếp nối, gây mối bất hòa dẫn đến chiến tranh và từ đó dần làm tổn hao

nguyên khí của triều Trần.

Thứ tư: Vấn đề giữ hòa khívới đế quốc phong kiến phương ắc.

Trong lịch sử, đế quốc hùng mạnh nằm ngay phía Bắc Việt Nam,

thường xuyên tìm cách xâm chiếm lãnh thổ của nước ta. Thời Lý, quân Tống

cũng có đồ xâm lược Đại Việt, L Thường Kiệt đã bày binh bố trận, rồi

cùng với ý chí quyết tâm đánh giặc trong toàn dân, quân ta đã làm cho quân

Tống phải đại bại. Sau thắng lợi, bằng hành động chính trị ngoại giao khôn

kh o, L Thường Kiệt lại thiết lập mối quan hệ hòa hiếu với nước Tống, nên

đã tránh được họa xâm lăng trong khoảng thời gian dài. Và dù thắng trận,

nhưng nhà L vẫn sang Tống xin sắc phong thể hiện thái độ khiêm nhường

và “tuy chưa thành lệ định kỳ, nhưng nhà L thường cử sứ giả sang Tống

báo tin thắng trận trong đánh dẹp, hoặc biếu, cống nạp ngựa, voi, tê ngưu,

cũng có khi kèm theo vàng bạc”[130,209]. Việc làm này tuy chỉ là hình thức,

nhưng nó có nghĩa ngoại giao nhằm giữ hòa khí giữa hai nước.

Đến thời Trần, các vua Trần dù vẫn giữ lễ kết giao qua lại, thăm hỏi,

cống nạp, nhưng khi lên ngôi, các vua Trần đều không sang nhà Tống (sau

này là nhà Nguyên) để cầu sắc phong. “Các vua Trần được nhường ngôi,

chưa từng cầu phong ở Trung Quốc”[12,90]. Triều đình phương ắc dù rất

tức tối và nhiều lần có định đưa quân sang đánh để thể hiện oai phong,

nhưng đều lần lượt thất bại. Trong các trận chiến ấy, dù thắng trận, nhà Trần

luôn thể hiện tinh thần nhân đạo, không “đuổi cùng giết tận”, mà mở đường

rút cho chúng về nước, tạo ra sự tâm phục trong chính nội bộ quân giặc.

Thời Lý và Trần, dù nhiều lần ta đánh bại âm mưu xâm lược của kẻ

thù phương ắc. Nhưng sau chiến thắng, các vua L -Trần vẫn luôn cảnh

giác trước âm mưu muốn thôn tính Đại Việt của triều đình phương ắc. Vua

L Nhân Tông trước khi mất cũng không quên dặn dò các đại thần: “nên sửa

95

sang giáo mác để đề phòng việc không ngờ, chớ làm sai mệnh lệnh ta, dù

nhắm mắt cũng không di hận”[18,217]. Trần Hưng Đạo cũng đề ra thượng

sách giữ nước “khoan thư sức cho dân để làm kế sâu rễ bền gốc”[92,89], để

truyền dạy thế hệ sau. Chính sự chuẩn bị chu đáo về lực lượng đã tạo sức

mạnh bền bỉ cho quân đội, làm điều kiện để nhà Lý-Trần chiến thắng kẻ thù.

Sau mỗi cuộc kháng chiến, khi đã ở địa vị người chiến thắng, các nhà

chính trị Lý-Trần vẫn luôn khiêm nhường trước kẻ địch. Bởi ở cương vị

nước nhỏ, để tránh họa chiến tranh, nhằm gìn giữ nền độc lập lâu dài, giúp

nhân dân yên ổn làm ăn thì việc hạn chế xung đột và không gây thêm thù

hận là lựa chọn sáng suốt của các nhà chính trị. Nhờ việc kiên trì thực hiện

những chiến lược ngoại giao kh o l o nhưng kiên quyết với triều đình

phương ắc, đã góp phần xây dựng và phát triển đất nước thịnh trị, nâng cao

vị thế của nhà nước Đại Việt.

3.2. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần

Tư tưởng chính trị chính là biểu hiện về mặt hình thức của của chính

trị, nó là các quan điểm, tư tưởng, học thuyết phản ánh các quan hệ chính trị

xã hội đặc biệt của các giai cấp, dân tộc và quốc gia. Hai khái niệm chính trị

và tư tưởng chính trị có mối quan hệ chặt chẽ, lựa chọn được tư tưởng chính

trị phù hợp, giai cấp thống trị mới giải quyết được những vấn đề chính trị cơ

bản của quốc gia, giữ vững triều đại và duy trì quyền lực của mình. Tuy

nhiên, tư tưởng nào sẽ phù hợp và được giai cấp thống trị tin tưởng, sử dụng

làm nền tảng cho mọi hoạt động chính trị, lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố.

Trong đó, điều kiện kinh tế-xã hội, văn hóa-tư tưởng của xã hội, chính là

những nhân tố cơ bản tác động đến sự lựa chọn của nhà chính trị, đồng thời

là thước đo chính xác nhất, quyết định sự phù hợp hay không của tư tưởng

ấy với nền chính trị.

3.2.1. Tình hình kinh tế-xã hội

Có thể thấy, ở các triều đại Ngô, Đinh, tiền Lê sự thay thế giữa triều

đại này và triều đại kia gặp không ít trở ngại do sự chống đối của các thế lực

96

trong nước, hoặc sự xâm lăng từ bên ngoài. Nhưng sự thay thế giữa triều Lý

cho triềutiền Lêthì gần nhưkhông vấp phải sự phản kháng nào đáng kể. Nếu

như các triều đại Ngô, Đinh, tiền Lê phải liên tiếp đối mặt với các lực lượng

chống đối trong nước và các thế lực xâm lược ngoài nước, để củng cố và xây

dựng đất nước sau ngàn năm bị đô hộ, thì đến nhà L và nhà Trần, tình hình

chính trị nói chung đã tương đối ổn định. Ngay cả khi nhà L ở vào giai

đoạn khủng hoảng, nền chính trị được thay thế bởi sự thống trị của nhà Trần

Hồi nhà L suy tàn (1105-1225) thì nhà Tống cũng xuống dốc. Hồi

Mông cổ đánh Tống và còn bận phải mang quân đi sát phạt các nơi (từ 125-

1280) thì nhà Trần kịp thì giờ đem một sinh khí mới vào để tổ chức lại xã

hội cùng chuẩn bị đương đầu với cuộc xâm lăng của quân Mông

Cổ[71,276].

thì tình hình đất nước cũng không có nhiều biến đổi.

Kinh tế dưới triều đại L -Trần cũng tương đối ổn định. Nông nghiệp

được trú trọng, việc đắp đê, trị thủy, khẩn hoang cũng được chú . Chính

sách “ngụ binh ư nông” được duy trì là một chiến lược tích cực nhằm tạo ra

sức mạnh cho cả quân đội và nông nghiệp. Các ngành nghề thủ công (đúc

đồng, làm giấy, khắc bản in, nghề mộc, xây dựng, khai khoáng…) cũng đạt

đến trình độ cao cả về kỹ thuật lẫn nghệ thuật. Thương nghiệp cũng phát

triển, đồng tiền đã trở nên thông dụng trong lưu thông, thương mại không

chỉ phát triển trong nước mà còn mở rộng sang các nước khác. Đặc biệt giao

thương ở nhiều tuyến đường biển và các bến sông trở nên tấp nập. “Ngoại

thương khá phát đạt, tự do thông thương. Khi đó Đại Việt mở rộng buôn bán

với Chămpa, Trung Quốc và các nước Đông Nam Á” [68,120].

Là một nước nông nghiệp, nhà nước L -Trần được xây dựng trên nền

tảng chế độ sở hữu công về ruộng đất. Đầu thời L ruộng đất vẫn nằm trong

tay nhà nước (vua), chưa xuất hiện chế độ sở hữu tư nhân. Đây là giai đoạn

đầu của công cuộc xây dựng nhà nước trung ương tập quyền, nên đất đai

thuộc về nhà nước để tập trung nguồn lực về một mối, từ đó nhà sẽ điều tiết

các công việc chung như: nuôi bộ máy cai trị, chuẩn bị quân đội để bảo vệ

97

quốc gia khi có giặc đến… Cuối thời L bắt đầu xuất hiện tư hữu về ruộng

đất và sang đến thời Trần, nhà nước cho ph p mua bán ruộng, cho ph p các

vương tôn, qu tộc nhà Trần được sở hữu điền trang thái ấp riêng. Phương

thức sở hữu mới này, một mặt khuyến khích việc khai khẩn đất hoang, mở

rộng diện tích đất nông nghiệp, nhưng mặt khác, có thể dẫn đến sự phân hóa

trong nội bộ giai cấp thống trị: một bên là tầng lớp qu tộc tôn thất nhà L -

Trần và một bên là tầng lớp địa chủ quan liêu, cụ thể là các Nho sĩ dần

chiếm số lượng đông đảo trong bộ máy nhà nước.

Khi xã hội đã ổn định, kinh tế ngày càng phát triển, bờ c i được mở

rộng, thì việc học tập thi cử, tuyển chọn nhân tài cũng được chăm lo. Năm

1070, nhà L cho xây dựng Văn miếu, đánh dấu sự phát triển của Nho giáo.

Năm 1076, Quốc tử giám được xây dựng làm nơi đào tạo nhân tài cho đất

nước. Tuy nhiên, dưới thời L số lượng Nho sĩ còn được đào tạo chưa nhiều,

Phật giáo vẫn chiếm ưu thế trong xã hội. Đến nhà Trần “chế độ học hành, thi

cử ngày càng có quy củ và chính quy hóa. Thể lệ thi cử và các học vị được

quy định chính thức”[68,174].

Tuy nhiên, do ảnh hưởng đậm n t của Phật giáo và một phần của Đạo

giáo, các “nội dung giáo dục thời kỳ này ngoài tư tưởng của Nho giáo cũng

có nhiều kiến thức về Phật giáo và Đạo giáo”[55,58]. Nếu như, thời L giáo

dục chưa đi vào điển lệ, nghĩa là không được tổ chức theo kỳ hạn thường

xuyên, chương trình học quá thiên lệch về l luận văn chương, điển tích…

toán học và khoa học kỹ thuật chưa được lưu tâm, thì sang thời Trần, nội

dung giáo dục có nhiều điểm tích cực hơn, kiến thức thực tế về đạo l là căn

bản, văn chương và cú pháp là thứ yếu. Nói cách khác, nền giáo dục thời

Trần đã góp phần giải quyết tốt mối quan hệ giữa đạo và đời, vương quyền

và thần quyền, truyền giảng giáo l và thực hành đạo l . Có thể thấy, việc

học tập thi cử, tuyển chọn nhân tài thời kỳ này đã chú trọng tới Nho giáo,

song Phật giáo vẫn có ảnh hưởng mạnh mẽ.

Thời L đã ban hành và thực hiệnchế độ cất nhắc, tuyển chọn, đãi ngộ

98

nhân tài cho nhà nước và kết quả là đã tạo nên một đội ngũ quan lại, trí thức

Nho giáo chuyên nghiệp. Tuy nhiên, các trí thức Phật giáo cũng được triều

đình coi trọng, mặc dù thời kỳ này họ không còn là lực lượng duy nhất trực

tiếp tham gia vào chính sự (như thời Đinh, Tiền Lê). Chức vị Quốc sư dần

không còn có nghĩa về chính trị mà chỉ có nghĩa là vị giáo chủ về tinh

thần, đạo đức trong xã hội và cho dù giáo huấn của các vị cao tăng Phật giáo

vẫn có ảnh hưởng lớn trong triều đình và xã hội.Sang triều Trần, tư tưởng

nhân sinh nhân văn, nhân đạo của Phật giáo vẫn thấm sâu trong nhận thức

của giai cấp vương tôn, qu tộc trong triều, trong tình cảm của nhân dân và

trong ứng xử phổ biến của xã hội.

Dù trong triều đình, tầng lớp quan lại đỗ đạt qua khoa cử (Nho sĩ) xuất

hiện ngày càng nhiều và dần được giữ các chức vụ quan trọng, song họ lại

không có được nhiều đặc quyền đặc lợi. Trong khi, tầng lớp qu tộc tôn thất

lại sở hữu rất nhiều ruộng đất, có trang ấp, phủ đệ, với nhiều gia nô, nô tỳ…

và hưởng nhiều quyền lợi, gây ra những mâu thuẫn trong nội bộ triều đình.

Từ những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế trong nội bộ giai cấp thống trị nảy

sinh những mâu thuẫn về tư tưởng. Mâu thuẫn này thể hiện r ở việc phản

ứng của các Nho sỹ đối với việc giai cấp qu tộc quá sùng bái Phật

giáo“thánh triều muốn truyền phong hóa nhà vua, để phong tục đồi bại, dị

đoan đáng truất bỏ, thánh đạo nên phục hưng”[18,380]. Tầng lớp nho sĩ hy

vọng có thể phục hồi Nho giáo, qua việc bài xích Phật giáó,đồng lợi cũng để

giành lại quyền lợi cho mình.Theo đó, nhiệm vụ cấp bách của triều đình là

giải quyết mâu thuẫn về tư tưởng11 để tạo thuận lợi cho mục đích điều hòa về

lợi ích, thống nhất về lực lượng trong cả nước.

Trần Thái Tông muốn vận dụng cả tư tưởng Nho và Phật trong điều

hành chính trị. ởi theo ông, nếu chỉ vận dụng tư tưởng “chính danh”, “thiên

mệnh” của Nho giáo sẽ dẫn đến sự phân biệt giữa các chức quan lớn nhỏ

trong triều, vì vậy cần kết hợp cả tư tưởng đạo đức của Phật giáo về bình

11 Nội dung dung này sẽ được phân tích r hơn ở phần 3.2.2.

99

đẳng, vị tha, bác ái để xây dựng một triều đại thuần từ, tốt đẹp. ng cũng

nhận thấy mâu thuẫn giữa những nhà Nho – muốn đề cao Nho giáo, bài xích

Phật giáo với những người theo Phật – tư tưởng đang rất phổ biến và được

ưu ái trong triều, nên luôn tìm cách “cố gắng hạn chế rạn nứt, mâu thuẫn nội

bộ khi ông khuyên tầng lớp địa chủ quý tộc kiềm chế lòng tham lam, ích

kỷ”[15,22-23], bởi cả Phật và Nho đều cần thiết đối với nền chính trị, nhưng

trong giai đoạn đang cần một tư tưởng đủ sức liên kết nhân tâm, đoàn kết

toàn dân cùng thực hiện mục tiêu đánh giặc giữ nước thì nhân sinh quan Phật

giáo là tư tưởng phù hợp hơn cả.

Do đòi hỏi của thực tiễn chính trị, giai cấp thống trị thời Lý-Trần cũng

xây dựng nhà nước quân chủ phong kiến, nhưng khác với mô hình nhà nước

phong kiến trung ương tập quyền chuyên chế Trung Hoa, triều đình đã chủ

đích xây dựng nhà nước phong kiến tập quyền thân dân. Nhà nước này cũng

dựa vào Nho giáo, nhưng để giảm tính khắc nghiệt của Nho giáo họ đã kết

hợp Nho với Phật giáo, trong đó vẫn lấy nhân sinh quan Phật giáo làm nền

tảng. Họ “không muốn xã hội bị rằng buộc bởi ý thức hệ Nho giáo, mà muốn

phủ lên toàn bộ xã hội bởi ý thức hệ Phật giáo”[15,97].

Các vị vua Lý-Trần, dù cũng có thức về vai trò của Nho giáo trong

việc tổ chức, điều hành bộ máy nhà nước, nhưng họ vẫn đề cao Phật giáo.

Mục đích sâu xa của việc đề cao Phật giáo của các vua là muốn tạo ra sự

khác biệt với văn hóa phương ắc, nhằm khẳng định nền độc lập tự chủ của

dân tộc. Tinh thần đó được thể hiện rõ nhất trong câu trả lời của vua Trần

Minh Tông, khi các quan Lê Quát, Phạm Sư Mạnh muốn thay đổi chế độ,

vua nói: “Nước ta đã có ph p tắc nhất định, Nam Bắc khác nhau, nếu nghe

theo bọn học trò mặt trắng tìm đường tiến thân thì sinh loạn ngay”18,383].

Triều trước dựng nước, tự có pháp độ, không theo chế độ nhà Tống,

là vì Nam Bắc đều chủ nước mình, không phải noi nhau. Khoảng năm Đại

Trị (Niên hiệu Dụ Tông 1338-1396 – NLA) kẻ mặt trắng được dùng, không

hiểu ý sâu xa của sự lập pháp, đem ph p cũ của tổ tông thay đổi theo tục

của phương ắc cả, như về y phục, âm nhạc… thật không kể xiết18,393].

100

Sau này, vua Nghệ Tông cũng cho rằng:

Như vậy, triều đình đã tạo điều kiện phát triển những giá trị của nhân

sinh quan Phật giáo, nhằm khơi dậy bản sắc văn hóa truyền thống, nhưng

đồng thời thổi vào nó những sắc thái tư tưởng mới, nhằm đáp ứng nhu cầu

khẳng định nền độc lập không chỉ trên phương diện chủ quyền, lãnh thổ, mà

cả trên phương diện văn hóa, tư tưởng... Điều này thể hiện tầm nhìn sâu sắc,

nhạy b n trước thực tiễn chính trị của đất nước và thời đại.

3. . . Tình hình văn hóa-tư tưởng thời Lý-Trần

Cho đến thời Lý-Trần, người Việt đã tiếp nhận và sử dụng nhiều học

thuyết du nhập từ bên ngoài, trong đó nổi bật là tư tưởng Tam giáolà Nho

giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Thời kỳ đầu, khi Nho giáo theo chân quân xâm

lược nhà Hán truyền sang nước ta, đã bị nhân dân phản ứng lại, mục đích

muốn khẳng định nền độc lập dân tộc, bảo vệ tín ngưỡng, phong tục cổ

truyền của dân tộc. Do lịch sử truyền bá như vậy, nên “cách thức truyền bá ở

đây là khẩu truyền và cầm tay chỉ việc, chưa có điều kiện để giảng l thuyết.

Mục đích là để chuyển đổi phong tục, tập quán cho dễ bề cai trị”[150]. Vì

thế mà, Nho giáo ở Việt Nam không còn nguyên giá trị nhân bản nữa, mà có

phần khắc nghiệt: “chế độ ấy hoàn toàn hủy diệt giá trị của con người. Nó

kết hợp độc ác, tàn nhẫn, thú tính với quỷ quyệt, xảo trá, lật lọng được thần

thánh hóa dưới cái áo khoác huyền hoặc “theo mệnh trời”[81,14]. Do tính hà

khắc này, nên đầu thời Lý-Trần, Nho giáo chưa được người dân ưa chuộng.

Nhưng khi nền tảng và cơ cấu xã hội Việt Nam thay đổi với nhu cầu

thiết lập mô hình nhà nước phong kiếntập quyền, ít nhiều chịu ảnh hưởng

của nhà nước phong kiến phương ắc, thì Nho giáo lại tỏ ra thích hợp và trở

thành một tư tưởng mà giai cấp phong kiến cần phải tiếp thu, học hỏi. Bởi

Nho giáo là học thuyết chính trị, bàn nhiều về cách thức tổ chức bộ máy nhà

nước, thi hành quyền lực, nó rất có tác dụng trong việc duy trì, củng cố sự

thống trị giai cấp mà Đạo giáo và Phật giáo không thể sánh được. Hơn nữa,

“ở vào thế một nước láng giềng có nhiều mối quan hệ văn hóa và chủng tộc

101

với Trung Quốc, nhà L không thể không cậy vào Nho giáo mỗi lúc một

thêm nhiều”[23,66]. Các tư tưởng cơ bản như: “mệnh trời”, “chính danh”,

“tam cương, ngũ thường”, “trung, hiếu, lễ, nghĩa”... đã ít nhiều tác động đến

triều đình L -Trần, trong việc xây dựng mô hình nhà nước, tổ chức bộ máy

cai trị, quy định một số sinh hoạt chính trị.

Đạo giáo cũng được du nhập vào Việt Nam rất sớm, với cả hai hình

thức: Đạo giáo phù thủy (dùng các pháp thuật trừ tà trị bệnh) và Đạo giáo

thần tiên (dạy tu luyện, luyện đan nhằm đem lại sự trường sinh). Đạo giáo

phù thủy, đã thâm nhập nhanh chóng vào tín ngưỡng dân gian “tới mức

không còn ranh giới”[98,277], nên ít có điều kiện ảnh hưởng rộng rãi đến

triều đình. Còn đạo giáo thần tiên “chỉ xuất hiện lẻ tẻ, cá biệt, như trường

hợp Đạo sĩ Huyền Vân tu ở núi Phụng Hoàng (Hải Dương) đời Trần Dụ

Tông”[98,281]. Hình thức này chủ yếu phát triển trong tầng lớp các nhà nho,

quan lại, vì vậy, cùng với các tăng sĩ của Phật giáo, Đạo giáo cũng thâm

nhập vào chốn cung đình.

Khi nhà Trần thay thế nhà Lý, Trần Thủ Độ cũng đã sai các đạo sỹ

giỏi phong thuật đi xem khắp núi sông cả nước, chỗ nào có vượng khí đế

vương thì dùng ph p thuật để trấn yểm. Trong một số tài liệu cũng ghi nhận

triều đình L -Trần có dùng các đạo sỹ để lo việc cầu đảo, lễ bái. Và cùng với

các sư tăng, các đạo sỹ cũng được phân các chức quan, nhưng không tham

gia trực tiếp vào công việc triều chính và ảnh hưởng đến chính trị của đạo

này không rõ nét. Bởi tư tưởng sống hòa đồng với tự nhiên, hướng con

người thoát khỏi những ràng buộc của xã hội, dù cũng ảnh hưởng nhất định

trong tư tưởng của một số nhà chính trị, nhưng không thích hợp để vận dụng

phổ biến cho nền chính trị của Đại Việt khi ấy.

Thời kỳ này, sự liên hệ của Đạo giáovới chính trị thường thông qua

Phật giáo (chủ yếu là Mật giáo) và tồn tại dưới các hình thức lễ nghi tôn giáo

như cầu đảo, bùa chú và các phép linh dị khác. “Nhà vua thường mời các vị

cao tăng, giỏi phép thuật như Từ Đạo Hạnh, Minh Không… làm lễ cầu đảo,

102

bùa chú, chữa bệnh mỗi khi có việc bất thường như hạn hán, lũ lụt, bệnh

tật… Những buổi lễ cầu đảo này thường do các nhà sư đảm nhiệm”[99,313].

Việc sử dụng Đạo giáo của vua quan thời Lý-Trần dường như không có sự

tách bạch rõ ràng với Phật giáo, họ chỉ sử dụng những nội dung phù hợp cho

mục tiêu chính trị. Các nhà sư cũng thường am tường Đạo giáo và tiếp thu

một số tư tưởng (vô vi, tri túc) hay các lễ nghi, bùa phép của Đạo giáo để bổ

sung cho lễ nghi Phật giáo trong đời sống tâm linh khi cần thiết, nhằm ổn

định và củng cố niềm tin trong công cuộc trị nước, an dân của giai cấp thống

trị. Như vậy, thời Lý-Trần, Đạo giáo vẫn được duy trì, nhưng trên phương

diện nhà nước thì tùy từng việc, từng lúc mà Đạo giáo mới được sử dụng và

cũng thường được tác động gián tiếp qua tổ chức của Phật giáo.

Phật giáo là tôn giáo xuất thế, khi du nhập vào Việt Nam, đặc biệt là

dưới thời Lý-Trần lại phát huy tinh thần vô chấp, vô trụ thành chủ trương

nhập thế tích cực. Dù không phải ai cũng hiểu sâu xa về những triết lý nhân

sinh (nhân sinh quan) của Phật giáo, nhưng nói đến Phật giáo là ai cũng nghĩ

đến một lối sống hiền hòa, phúc đức, tích thiện. Chính tính nhân văn ấy mà

Phật giáo dễ đi vào lòng người, ảnh hưởng đến tâm lý, tình cảm của mọi

tầng lớp, và qua đó tham gia vào đời sống chính trị nhờ hành vi, tư tưởng

của giai cấp cầm quyền lúc bấy giờ. Thêm nữa, tinh thần “nhập thế tùy

duyên” của Phật giáo cũng đã giúp vua quan L -Trần khắc phục được tính

chất bảo thủ, cứng nhắc vốn có của Nho và Đạo. Chẳng hạn, Phật giáo

không coi trọng quan điểm Thiên mệnh của Nho giáo về “trung quân” với

một ông vua cụ thể. Phật giáo luôn ủng hộ sự lựa chọn của nhân dân và đất

nước những vị vua anh minh, tài đức để lên nắm quyền. Đồng thời Phật giáo

cũng không chủ trương bảo thủ, giữ nguyên những giáo thuyết của Phật, mà

luôn cởi mở đón nhận những lý luận mới phù hợp, bổ sung thêm cho các nhà

giai cấp thống trị những tư tưởng, cách thức, đường lối chính trị mới.

Sự dung hòa này đã có tác dụng rất tích cực, góp phần hoàn thiện tư

tưởng chính trị của xã hội phong kiến tập quyền thân dân và là điều cần thiết

103

cho công cuộc xây dựng và củng cố triều đại. Các nhà chính trị Lý-Trần vừa

áp dụng những kiến thức Nho giáo để xây dựng bộ máy nhà nước, với cơ

cấu tổ chức rất quy củ, chặt chẽ; lại vừa áp dụng được những tri thức Phật

giáo – cụ thể là nhân sinh quan, để phát huy tính nhân văn, nhân đạo trong

các chính sách, đường lối của mình.

Tuy nhiên, do một số quý tộc tôn thất nhà Lý-Trần quá sùng bái Phật

giáo nên trong triều đình đã xuất hiện ngày càng nhiều những mâu thuẫn

giữa hai xu hướng: ủng hộ Phật giáo (thường là các quý tộc tôn thất) và bài

xích Phật giáo (các Nho sỹ giữ một số chức quan trong triều). Để tránh gây

ra những bất ổn trong nội bộ triều đình, các nhà lãnh đạo đất nước phải tìm

cách dung hòa những mâu thuẫn về tư tưởng (thực chất là giữa Nho và

Phật). ởi vậy, triều đại tìm cáchxây dựng một hệ tư tưởng dung hòa giữa

Nho và Phật, vừa có thể đáp ứng được đòi hỏi của tầng lớp Nho học (đang

xuất hiện ngày càng nhiều trong triều đình) - nhằm tận dụng được tài năng

của họ, đồng thời đảm bảo lợi ích của mình và củng cố địa vị cho dòng họ.

Thiền học Phật giáo chính là tư tưởng đáp ứng được nhu cầu đó.

Vì thế, trong triều Lý, Phật giáo Thiền tông phát triển hơn cả. Trong

thiền luôn có xu hướng dung hòa giữa Phật với Nho, Đạo giáo. Các nhà tư

tưởng cũng tìm cách “đưa thiền tông vào cuộc sống, phục vụ đất nước, tu

dưỡng nhân cách. Thiền tông dung hợp với những yếu tố tích cực của Nho

giáo và Đạo giáo giúp con người phát triển toàn diện, phù hợp với sự phát

triển của đất nước”[58,54]. Quan điểm dung hòa này thể hiện rõ nét ở nhà sư

Viên Chiếu12 (999-1090). Khi được hỏi Phật và Thánh khác nhau như thế

nào, nhà sư đọc bài kệ: “Trú tắc kim ô chiếu. Dạ lại ngọc thỏ minh (ngày thì

mặt trời soi, đêm thì mặt trăng sáng)”[45,124]. Có thể hiểu, ông coi Phật và

Nho đều là “ánh sáng”, đều có nghĩa nhất định đối với triều đại, nhưng ở

trong mỗi hoàn cảnh khác nhau nên vận dụng mỗi loại tư tưởng khác nhau

sao cho phù hợp. Sang thời Trần, xu hướng dung hòa tư tưởng Nho – Phật –

12Sư họ Mai tên Trực, là con của người anh trai bà Linh Thái hậu, vợ vua L Thái Tông.

104

Đạo lại càng r n t hơn. Quan điểm này cũng được thể hiện đặc biệt r trong

tư tưởng và đường lối trị nước của Trần Thái Tông. Đặc biệt sự dung hòa

này còn được thể hiện r n t trong tư tưởng của Trần Nhân Tông, với việc

ông cho ra đời thiền phái Trúc Lâm Yên Tử - một thiền phái dung hòa giữa

tư tưởng bản địa với cả Nho, Đạo trong Phật.

Như vậy, “phương châm tam giáo đồng hành đối với giai cấp chính trị

là phương pháp tốt nhất và con đường ngắn nhất lúc bấy giờ để thống trị

nhân dân”[68,305]. Với tư duy biện chứng, người Việt chỉ tiếp nhận và sử

dụng những yếu tố, nội dung phù hợp từ các học thuyết này, trên cơ sở dung

hòa chúng với truyền thống bản địa, nhằm phục vụ cho công cuộc bảo vệ,

củng cố và phát triển đất nước. Nho giáo dù có những ảnh hưởng nhất định

đến triều đại nhưng vẫn chưa thực sự ảnh hưởng rộng rãi trong nhân dân,

còn Đạo giáo cũng có ảnh hưởng đến chính trị nhưng chỉ qua sự dung hợp

với nhân sinh quan Phật giáo và thường chỉ ảnh hưởng đến những tín

ngưỡng mang màu sắc mê tín. Phật giáo tuy không phải là một học thuyết

chính trị, nhưng trong nhân sinh quan Phật giáo lại dung hòa với cả Nho và

Đạo, nên Phật giáo đã trở thành tư tưởng cần thiết và phù hợp cho nền chính

trị. Vì thế mà, Phật giáo chính là tư tưởng có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn cả

đến chính trị thời kỳ này.

Qua việc phân tích tình hình kinh tế-xã hội, văn hóa-tư tưởng thời Lý-

Trần, có thể thấyđây là thời kỳ nền chính trị đang trên con đường hoàn thiện,

kinh tế đang phục hồi và phát triển sau những trận chiến tranh, xã hội đang

dần ổn định, nền độc lập đang cần được khẳng định và củng cố. Vì vậy, triều

đại cần một hệ tư tưởng có thể thống nhất triều đại, liên kết nhân tâm, đoàn

kết toàn dân để tạo nên sức mạnh củng cố và xây dựng đất nước. Trong bối

cảnh ấy, nhân sinh quan Phật giáo chính là tư tưởng mà triều đại lựa chọn,

các nhà chính trị đã tạo điều kiện phát triển hệ tư tưởng ấy, khiến nó ngày

càng phục vụ hiệu quả hơn cho triều đại. Có thể thấy, sự lựa chọn này là

đúng đắn, bởi đã tạo ra sự cộng hưởng tích cực từ hai phía - cả nền chính trị

105

và nhân sinh quan Phật giáo.

3.2.3. Một số nguyên nhân cơ ản giúp Phật giáo được coi trọng trong

nền chính trị thời Lý-Trần

Như vậy, thời Lý-Trần, Phật giáo không chỉ được coi trọng trong nhân

dân mà cònđược khẳng định vị thế, vai trò cả ở nơi triều đình. L do để Phật

giáo trở thành tư tưởng được triều đại Lý-Trần coi trọng là:

Thứ nhất: Do Phật giáo đã có thành tựu đáng kể và có quan hệ vững

chắc với Nhà nước từ các thời kỳ trước, đến thời Lý-Trần nó có điều kiện

thuận lợi để tiếp tục phát huy những ưu điểm.

Các triều đại phong kiến trước Lý-Trần đã sử dụng Phật giáo làm

công cụ tinh thần để tập hợp lực lượng, thống nhất nhân tâm trong việc duy

trì sự ổn định của triều đại bằng tinh thần vị tha, từ bi, bác ái, nhân-quả. Sự

hợp tác giữa quyền lực chính trị của triều đình phong kiến Việt Nam với trí

thức, tăng sĩ Phật giáo cho mục đích chung của dân tộc Việt là một xu hướng

tất yếu. Như trong cuộc khởi nghĩa của L í (năm 542), ông đã đặt tên một

vị tỳ tướng của mình là Lý Phật Tử, khi vị này tham gia khởi nghĩa. Hay khi

giành được chính quyền, cùng với việc đặt tên nước, xưng đế, chọn kinh đô,

L í cũng đã cho dựng ngay chùa Khai Quốc và lấy Phật giáo làm hệ tư

tưởng cho chính quyền mới.

Dưới thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, các vua cũng tiếp tục coi trọng Phật

giáo. Vua Đinh Tiên Hoàng đã phong thiền sư Ngô Chân Lưu danh hiệu là

Khuông Việt – nghĩa là người giúp đỡ nước Việt và sau đó còn được vua cử

giữ chức Tăng thống, quản lý giới tăng ni trong triều đình. Vua Đinh cũng

“quy định phẩm giai của văn, v , tăng. Đạo quan tăng có chức danh: Quốc

sư, Tăng thống, Tăng lục, Tăng chính…”[68,303-304]. Qua đây có thể thấy,

“giai cấp tăng lữ hoạt động trong triều chính, ổn định xã hội bằng đường lối

Phật giáo”[4,18]. Thời kỳ này nhiều chùa tháp đã được xây dựng, riêng ở

Hoa Lư, năm 973, Nam Việt Vương Đinh Liễn (con trai trưởng của Đinh

Tiên Hoàng) cho dựng 100 cột đá khắc kinh Phật, gọi là Kinh tràng[Xem

106

hình 3.1-3.2 - Phụ lục,tr.170].

Thời Tiền Lê, thiền sư Khuông Việt rất được triều đình trân trọngvà

có nhiều đóng góp cho chính trị. ng đã giúp vua Lê Đại Hành trong việc

ngoại giao với nước Tống, khiến nhà Tống rất vị nể: “Khả năng tài trí của

ông đã giúp vua Lê bang giao tốt đẹp với nước Tống và nhà Tống khâm

phục cách ứng phó đầy tri thức của người An Nam”[4,22]. Vua Lê Đại Hành

cũng rất tin dùng các nhà sư, ông thường xuyên mời các thiền sư Đỗ Pháp

Thuận (914-990), Ngô Chân Lưu (Khuông Việt, 933-1011), Nguyễn Vạn

Hạnh (938-1018) vào triều để trao đổi ý kiến về việc trị nước. Vậy ở nhà

Tiền Lê (980-1009) trải qua gần 30 năm liên tiếp xuất hiện các Tăng sĩ nổi

tiếng, đây cũng chính là những vị thiền sư góp phần tích cực cho sự phát

triển rực rỡ của triều đại Lý-Trần. Sau này tiếp nối Khuông Việt, Pháp

Thuận, Vạn Hạnh… có thể kể đến sư Sùng Phạm (1004-1087), Không Lộ (?-

1119), Thông Biện (?-1134), Viên Chiếu (999-1090), Chân Không (1045-

1100), Huệ Sinh (?-1063), Mãn Giác (1052-1096)… Họ dù là “quốc sư” hay

là những cố vấn “tham dự chính sự” nhưng tất thảy đều giúp triều đại Lý-

Trần trên cả hai phương diện chính trị và tôn giáo.

Điều này đã tạo thuận lợi để Phật giáo tiếp tục phát huy những ảnh

hưởng mạnh đối với Nhà nước trong thời Lý-Trần. Đây là nguyên nhân để

hệ thống chính trị đó tiếp tục hợp tác với Phật giáo và giúp Phật giáo ngày

càng hưng thịnh vào thời Lý-Trần. Thời kỳ này “khát vọng bình đẳng, bác

ái, từ bi của Phật giáo đã hòa quyện với chủ nghĩa yêu nước Việt

Nam”[52,29],trở thành động lực để xây dựng và bảo vệ nền độc lập của dân

tộc. Điều này tác động đến tư tưởng trị nước mang màu sắc nhân văn, nhân

đạo của các nhà chính trị.

Thứ hai: Phật giáo đã có đóng góp lớn cho việc hình thành triều đại

Lý-Trần.

Sự lên ngôi của cả hai triều Lý và Trần đều có vai trò của các thế lực

Phật giáo. Vị vua đầu triều Lý là Lý Thái Tổ, thủa nhỏ sống và học tập ở

107

chùa Lục Tổ, được sư L Khánh Văn nhận làm con nuôi, sau này thấy ông

sáng dạ, có tài có đức, thiền sư Đa ảo đã cùng sư L Khánh Văn và thiền

sư Vạn Hạnh phối hợp cùng quan Chi hậu Đào Cam Mộc giúp sức đưa L

Công Uẩn lên ngôi. Chính vì vậy, tư tưởng và hành động của vị vua này ít

nhiều thể hiện sự ủng hộ và tôn sùng Phật giáo. Điều này giúp cho tư tưởng

Phật giáo và các thế lực Phật giáo ngày càng gần gũi với triều đình và trở

thành tư tưởng cơ bản cho giai cấp thống trị thời này.

Sang thời Trần, sự lên ngôi của vua Trần Thái Tông cũng có sự ảnh

hưởng gián tiếp từ Phật giáo. Lúc nhỏ ông gặp một nhà sư và người này đã

dự cảm rằng sau này ông sẽ trở thành vua. Năm 1231, Trần Thái Tông lên

nắm quyền đã ban chiếu: “trong nước phàm chỗ nào có đình trạm đều phải

tô tượng Phật để thờ… Thượng hoàng khi còn hàn vi, thường nghỉ ở đấy, có

một nhà sư bảo rằng: Người trẻ tuổi này ngày sau phải đại qu ”[18,269].

Việc làm của vị vua đầu triều Trần nhằm tỏ lòng thành kính và biết ơn Phật

giáo, qua đó, tiếp tục tạo thuận lợi cho Phật giáo hưng thịnh trong triều đình

và trong dân chúng. Các vua sau như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông,

Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông cũng đều là đệ tử của nhà Phật. Bởi họ

nhận thấy rằng để làm yên lòng dân, giữ vững ngôi báu thì không thể không

tận dụng sức ảnh hưởng của Phật giáo.

Các vua nhà Lý thường mời các vị thiền sư vào cung để trực tiếp bàn

thảo việc nước, hay giúp vua trong việc tiếp đón các sứ đoàn từ phương ắc.

Nhưng sang đến thời Trần, các vị sư không còn tham dự trực tiếp vào những

công việc triều chính. Bởi thời Trần, các vua đã có trình độ học vấn cao hơn,

quan lại trong triều cũng uyên bác hơn, do đó các nhà sư chủ yếu đóng vai

trò giáo hóa về đạo đức Phật giáo như giảng kinh cho các vua, tông thất

trong triều đình. Bởi, “khi trong triều đình đã có đủ người lo các việc ấy thì

họ chỉ giữ vai trò hướng dẫn tinh thần và cố vấn đạo đức”[53,235]. Chức

quốc sư được phong về sau này không có nghĩa là cố vấn cho nhà vua mà

được coi là vị giáo chủ về tinh thần của triều đình. Tuy ảnh hưởng của Phật

108

giáo tới chính trị không trực tiếp như trước, nhưng vẫn thể hiện ở chính sách,

đường lối chính trị và trong chính ý thức và hành động của các nhà chính trị.

Bởi, nhân sinh quan Phật giáo đã thẩm thấu trong chính mỗi vị vua quan,

mỗi nhà chính trị.

Thứ ba: Do Nho giáo - hệ tư tưởng chính trị-xã hội, đến thời L -Trần

chưa thực sự phát triển và chưa có điều kiện phát huy tối đa vai trò chính trị

của mình.

Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất (207 TCN-40), đế quốc Trung Hoa đã

sử dụng Nho giáo, Đạo giáo như những công cụ để thống trị và đồng hóa

người dân bản địa. Do vậy, bên cạnh sự truyền bá Nho và Đạo của chính

quyền đô hộ, thì “chống Hán hóa” đã là một xu hướng trong xã hội người

Việt. Người Việt gh t kẻ thù xâm lược nên gh t “lây” đến tư tưởng Nho giáo

và không sẵn sàng tiếp thu Nho giáo. Xu hướng này, là tiền đề thuận lợi để

nhân sinh quan Phật giáo phát triển và ngày càng có ảnh hưởng mạnh mẽ trở

lại đời sống chính trị-xã hội và trở thành tư tưởng tôn giáo chính thống dưới

thời Lý-Trần. Từ những người nông dân chất phác đến các nhà buôn, những

trí thức và quan lại Việt Nam đều có thể đến với Phật giáo.

Tuy Nho giáo đã được triều đình phong kiến Việt Nam (Ngô, Đinh,

tiền Lê) quan tâm, nhưng nó cũng chỉ phát triển ở một chừng mực nhất định,

vì bị nhà Hán kiểm soát và hạn chế, “nhà Đường phải cảnh giác, đi đến hạn

chế số người Việt Nam học tập và thi cử Nho học ở bậc cao”[150]. Vì vậy,

đến thế kỷ X, số lượng Nho sĩ còn quá nhỏ. Thêm nữa, “Việt Nam rơi vào

khủng hoảng thiếu Nho sĩ, vì cuối đời Đường ở Trung Quốc rơi vào cảnh

loạn lạc, còn ở Việt Nam do xuất hiện các cuộc vận động khởi nghĩa chống

Hán, nên việc học Nho bị ngừng trệ”[150]. Vì vậy, đầu thời L -Trần, giai

cấp phong kiến tiếp tục phải nhờ đến trí tuệ của các nhà sư. ởi ngoài tri

thức Phật học, nhà sư cũng am tường cả tri thức Nho và Đạo. Chính nhờ sự

dung hợp cả Nho và Đạo, các nhà tư tưởng của Phật giáo đã giúp Phật giáo

109

ngày càng trở nên phù hợp hơn với nền chính trị ở thời Lý-Trần.

Thứ tư: Thời Lý-Trần, các thiền sư đã có nhiều đóng góp cho nền

chính trị, khiến triều đình tin tưởng và nhân dân đều yêu mến.

Thời Lý-Trần, nhiều thiền sư đã giữ vị trí quan trọng trong bộ máy

nhà nước (Thiền sư Định Không, Vạn Hạnh, Khuông Việt, Đa ảo, Viên

Thông, Huệ Sinh...). Tuy nhiên, mục đích tham gia chính sự của các nhà sư

không phải nhắm đến việc giành quyền bính, mà vì đất nước và nhân dân

kêu gọi, vì tấm lòng yêu nước, thương dân. Nên khi tham gia chính sự, họ

không đòi quyền lợi về kinh tế và chính trị, không bảo thủ chỉ trung thành

với một vị vua duy nhất như giới Nho sĩ, mà luôn ủng hộ cho vị minh quân

nào xứng đáng nên họ được nhân dân yêu mến và triều đình tin tưởng.

Mặt khác, quan điểm của thiền tông đại thừa đang phổ biến ở thời Lý-

Trần là “Phật tại tâm”, đã khởi nguồn cho tinh thần “nhập thế” tích cực của

Phật giáo thời này. Tinh thần nhập thế tích cực đã có ảnh hưởng lớn trong

mọi lĩnh vực hoạt động, đặc biệt ảnh hưởng đến lĩnh vực chính trị và đã sản

sinh ra những nhân tài, thậm chí họ tự vạch ra cách thức hành động riêng và

ví mình ngang với Phật: “Nam nhi tự mình có cái chí tung lên trời. Đừng đi

theo bước đường của Như Lai”[121,483]. Họ là những thiền sư luôn hướng

về cuộc sống, hòa nhập với cuộc đời. Họ là những phật tử thuần thành, rất

am tường giáo l , nhưng họ cũng là công dân và có trách nhiệm với đất

nước. Khi nước nhà bị xâm lăng, họ sẵn sàng lên đường giết giặc cứu nước,

giúp dân làm vẻ vang đạo Phật và triều đại.

Thứ năm: Nhà Lý-Trần muốn tạo lập một hệ tư tưởng thống nhất, độc

lập với triều đình phương ắc nên đã tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển.

Phật giáo luôn song hành cùng tiến trình phát triển của dân tộc, in đậm

nét trong tiềm thức người dân Việt, trở thành một thành tố của văn hóa Việt.

Không những ở mỗi làng đều có chùa riêng để nhân dân trong làng được quy

y Tam Bảo, sống làm đệ tử Phật, chết quay về nương cửa Bồ đề, mà các

chốn kinh kỳ, phủ lớn đều có nhiều chùa. Vì vậy, nếu giai cấp thống trị thay

110

thế Phật giáo bằng Nho giáo hay Đạo giáo có thể gây ra những phản ứng tiêu

cực từ dân chúng. Thêm nữa, vừa trải qua 1.000 năm ắc thuộc, “các vua đã

chọn Phật giáo làm hệ tư tưởng chính thống, dễ được lòng dân hơn là Nho

giáo của phương ắc, dễ có nguy cơ bị đồng hóa dân tộc thành Bắc thuộc

lần nữa”[5,16].

Thêm một lý do nữa để triều đình chọn Phật giáo, đó là thời Lý-Trần ở

phương ắc, Phật giáo không mấy phát triển. Tương đương triều L , “…thời

kỳ này ở Trung Quốc, Tống Nho đang được tôn sùng, thời kỳ Vương An

Thạch và những người theo phái Pháp gia lãnh đạo”[126,20], Phật giáo thời

kỳ này không được ưu tiên phát triển. Còn tương đương thời Trần, “Hốt Tất

Liệt sau khi thống nhất Trung Quốc đã tôn một vị Lạt Ma trẻ tuổi là Phagspa

làm quốc sư và lấy Lạt Ma giáo là quốc giáo”[15,152]. Đây là cũng là yếu tố

khách quan về mặt tâm l thôi thúc các vua L và Trần lựa chọn Phật giáo

và muốn ưu tiên phát triển Phật giáo, xây dựng nó trở thành một hệ tư tưởng

độc lập của Đại Việt, khác biệt với Trung Hoa và Ấn Độ, nhằm tách khỏi

ảnh hưởng của những tư tưởng ngoại lai.

Có thể thấy, sau ngàn năm ắc thuộc, đây là giai đoạn thịnh trị của

Đại Việt cũng như của Phật giáo Việt Nam. Giai cấp thống trị đã sử dụng tối

đa thứ vũ khí tinh thần sắc b n là tư tưởng Phật giáo, bản thân họ cũng đã

triệt để tận dụng được sức mạnh ấy khi chính họ, đã trở thành những phật tử

mẫu mực đạt đến trình độ giải thoát ngay ở cõi trần. Đó là những yếu tố

quan trọng khiến triều đình có thể thu phục được nhân tâm, thống nhất tư

tưởng, dựng xây được một triều đại vững mạnh, vừa phát triển trong xu thế

độc lập dân tộc, vừa tạo lập những sắc thái riêng khiến các nước trong khu

vực phải vị nể.

Tiểu kết chương 3

1. Tư tưởng chính trị là sự phản ánh thực tiễn chính trị. Khi nói đến tư

tưởng chính trị, thì đó không chỉ là tư tưởng của giai cấp thống trị về vấn đề

giành, giữ và thực thi quyền lực mà còn là tư tưởng của giai cấp bị trị trước

111

những chính sách cai trị của nhà nước, tư tưởng này thể hiện thông qua việc

ủng hộ hay phản đối. Khi điều hành đất nước, giai cấp thống trị nào hay

người lãnh đạo nào cũng phải tìm cho dân tộc mình một hệ tư tưởng nhất

định làm nền tảng, để củng cố địa vị và duy trì quyền thống trị của mình.

Thời Lý-Trần, giai cấp thống trị cần phải giải quyết tốt các vấn đề chính trị

như: Xây dựng thể chế chính trị và pháp lý của xã hội; Khẳng định quyền tự

chủ về lãnh thổ, độc lập về tư tưởng-văn hóa; Ổn định đất nước, mở rộng

lãnh thổ, nâng cao vị thế của đất nước; Giữ hòa khí với đế quốc phương ắc.

2. Do tác động của các nhân tố: kinh tế-xã hội, văn hóa-tư tưởng

đương thời, giai cấp thống trị thời Lý-Trần cần lựa chọn hệ tư tưởng thống

nhất và dung hòa được lợi ích của các tầng lớp,quan lạitrong triều (gồm tầng

lớp quý tộc, tôn thất Lý-Trần và tầng lớp quan lại, tri thức Nho giáo) và nhân

dân. Đồng thời tư tưởng ấy còn khẳng định được sức mạnh của dân tộc cả

trên lĩnh vực văn hóa-tư tưởng. Thiền Phật giáo, cụ thể là nhân sinh quan

thiền chính là tư tưởng đáp ứng được nhu cầu này. Nhân sinh quan thiền

Phật giáo thời Lý-Trần, được xây dựng trên nền tảng của nền văn hóa truyền

thống và được bổ sung thêm những tư tưởng phù hợp trong Nho và Đạo để

làm phong phú hơn nội dung của mình, điều này giúp nó phát huy tốt nhất

vai trò của mình trong nền chính trị.

3. Thời kỳ này,nhà nước Lý-Trầnđang trong giai đoạntập hợp lực

lượng, đoàn kết toàn dân, nền chính trị cần một hệ tư tưởng chính thống để

hỗ trợ nhằm ổn định xã hội, bảo vệ đất nước, củng cố địa vị thống trị của

mình, giai cấp thống trị đã chọn Phật giáo.

Phật giáo được giai cấp thống trị tôn sùng và có ảnh hưởng đến chính

trị hơn Nho và Đạo, bởi nhiều lý do: Thứ nhất, trong các triều đại trước đó,

Phật giáo cũng đã có những ảnh hưởng nhất định đến chính trị và đến giai

đoạn này ảnh hưởng đó tiếp tục được phát huy; Thứ hai, sự ra đời của triều

đại Lý-Trần đều trực tiếp hoặc gián tiếp có công góp sức của Phật giáo; Thứ

ba, với trình độ của mình, các trí thức Phật giáo đã có nhiều đóng góp tích

112

cực cho triều đình; Thứ tư, thời kỳ này Nho giáo chưa mấy phát triển, các

đại diện của Nho giáo chưa nhiều, còn Phật giáo đã phát triển tương đối đầy

đủ trên cả phương diện giáo l , giáo luật, vì thế, nhân sinh quan Phật giáo đã

phát huy được tối đa khả năng và ưu thế của mình đối với chính trị; Thứ

năm, do triều đình mong muốn xây dựng một hệ tư tưởng độc lập, nhằm

không chỉ khẳng định độc lập về kinh tế-chính trị, lãnh thổ mà còn về văn

hóa tư tưởng, vì vậy đã tạo điều kiện cho phát triển các giáo lý Phật giáo.

Như vậy, giai cấp thống trị đã lựa chọn Phật giáo làm tư tưởng chủ

đạo, trợ giúp cho công việc trị nước của triều đại và điều phối các mối quan

hệ trong xã hội. Sự lựa chọn này đã được thực tiễn lịch sử chứng minh là

đúng đắn, bởi nó đã mang lại cộng hưởng tích cực cho cả hai phía. Vừa giúp

Phật giáo ngày càng phát triển cả về số lượng (số lượng thiền sư, cơ sở thờ

tự) và chất lượng (nội dung giáo lý), mà còn giúp giải quyết được những vấn

113

đề chính trị cấp bách của triều đại Lý-Trần.

Chương 4

ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN

TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ THỜI LÝ-TRẦN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ

TRONG VIỆC XÂY DỰNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Để duy trì, bảo vệ quyền lực của mình, giai cấp thống trị của mỗiquốc

gia đều cần sử dụng một hệ tư tưởng chính thống để củng cố địa vị, ổn định

và phát triển xã hội. Mỗi thời đại lịch sử khác nhau, nền chính trị sẽ bị ảnh

hưởng bởi một hệ tư tưởng khác nhau, tư tưởngấy,sẽ trở thành nền tảng tinh

thần chi phối các quyết sách và hành vi của các nhà chính trị. Thời Lý-Trần,

Phật giáo chính là tư tưởng phổ biến hơn cả và tác động trong nhiều lĩnh vực

của đời sống xã hội, trong đó có văn học, nghệ thuật, tư tưởng và cả trong

hoạt động chính trị. Tuy nhiên, Phật giáo là mộttôn giáo-triết học, vì vậy, nó

chính là một hình thái ý thức xã hội và sự phát triển của nó sẽ bị phụ thuộc

vào tồn tại xã hội đương thời.

Còn với chính trị, về bản chất khái niệm này phản ánh những quan hệ

xã hội đặc biệt của các chủ thể chính trị, xoay quanh vấn đề giành, giữ và

duy trì quyền lực nhà nước, nhằm đảm bảo lợi ích, trước hết và chủ yếu là

lợi ích kinh tế. “X t về hình thức, chính trị có nhiều biểu biện, chẳng hạn

như tư tưởng chính trị, hệ tư tưởng chính trị”[60,14]. Vậy, tư tưởng chính trị

chính là những biểu hiện về mặt hình thức của chính trị và tư tưởng chính trị

cũng chính là một hình thái của ý thức xã hội. Do là một hình thái của ý thức

xã hội nên dù bị phụ thuộc vào tồn tại xã hội, nhưng nó cũng có tính độc lập

tương đối và trong quá trình phát triển, nó cũng bị tương tác bởicác hình thái

ý thức khác như: đạo đức, tôn giáo, triết học… Trong đó, Phật giáo - hình

thái ý thức đang rất phổ biến và chi phối nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội

ở thời Lý-Trần, nhân sinh quan của nó tất yếu sẽ có ảnh hưởng tới tư tưởng

114

chính trị thời Lý-Trần.

4.1. Một số ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư tưởng chính

trị thời Lý-Trần

Nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo-cụ thể là nhân sinh quan Phật

giáo đến chính trị, cũng chính là nghiên cứu ảnh hưởng của nhân sinh quan

Phật giáo đến một số nội dung trong tư tưởng chính trị cơ bản thời kỳ này.

Ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo tới tư tưởng chính trị, không chỉ thể

hiện qua vai trò tham chính của các thiền sư Phật giáo; mà còn thể hiện qua

tư tưởng của giai cấp thống trị thời Lý-Trần, luôn thấm nhuần triết lý nhân

sinh Phật giáo và vận dụng nó trong trị nước; đồng thời qua cả thái độ của

giai cấp bị trị (sự ủng hộ hay phản đối của người dân) trước những đường

lối, chính sách có ảnh hưởng của nhân sinh quan thiền Phật giáo thời kỳ này.

Nhân sinh quan Phật giáo có ảnh hưởng xuyên suốt trong tiến trình

hình thành, phát triển của nền chính trị ở triều đại Lý-Trần. Vì vậy, để phân

tích một cách cụ thể hơn về những ảnh hưởng này, xin tạm thời bóc tách

những ảnh hưởng đó ở ba nội dung, ứng với ba yêu cầu cấp thiết của nền

chính trị thời ấy.

4.1.1. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đường lối xây dựng

thể chế chính trị, n định đất nước

Trong các triều tiền Lý, triều Ngô, Đinh và tiền Lê sự thay đổi một

triều đại vẫn thường được tiến hành thông qua một cuộc chiến tranh đổ máu,

nhưng sự thay thế từ triều tiền Lê sang triều Lý-Trần lại tương đối êm ả. Bởi,

sự thay thế này là hợp với lẽ tự nhiên, hợp quy luật “cái cũ-xấu, cái lạc hậu

sẽ bị cái mới-tốt, cái tiến bộ thay thế”. Thêm nữa, sự thay thế này không phải

là do các phe phái chính trị đấu tranh với nhau để tranh giành quyền lực mà

diễn ra nhờ sự hậu thuẫn của một lực lượng trung gian. Lực lượng đó chính

là các nhà sư – thế lực này đang rất được vua tiên đế (Lê Đại Hành) trọng

dụng, đồng thời nhân dân cũng hết mực tôn sùng. Khi thấy vua Lê Ngọa

Triều tàn ác, không còn xứng đáng ở ngôi trị vì thiên hạ, xã tắc đứng trước

115

nguy cơ sụp đổ, thiền sư Vạn Hạnh mong muốn thay thế một người khác

xứng đáng hơn. Đó phải là người “công minh dung thứ, khoan hồng nhân từ,

lòng người phụ thuộc”[18,156], người mà thiền sư lựa chọn là Lý Công Uẩn.

Từ nhỏ Lý Công Uẩn đã sống và học tập tại chùa Lục Tổ, được các thiền sư

rèn luyện, dạy bảo.

Sau đó, Vạn Hạnh đã làm hết sức để có thể răn dạy, trau dồi thêm kiến

thức để người mà ngài coi là có thể “làm nên nghiệp lớn” xứng đáng hơn.

Thiền sư từng nói với vua: “Tôi đã 70 tuổi rồi, mong được thư thả mới chết

để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là sự may mắn muôn năm mới

gặp một lần”[18,155]. Đây là lời ngợi ca, cũng đồng thời là lời nhắc nhở rất

cảm động của thiền sư dành cho Lý Công Uẩn. Khi bước lên ngai vàng,

không phụ sự tin tưởng của thầy, Lý Công Uẩn đã vận dụng sáng tạo và linh

hoạt tinh thần của Phật giáo để ổn định triều chính. Đồng thời vua cũng luôn

đưa ra chính sách đúng đắn để trị quốc, an dân, theo tinh thần khoan dung,

bình đẳng của nhân sinh quan Phật giáo.

Điều này cho thấy, ngay cả khi thế lực của Phật giáo lớn đến mức có

thể “sắp đặt” việc triều chính, thì các tăng sư vẫn giữ thái độ “vô vi”, “tri

túc” không vì danh-lợi cho bản thân, mà luôn suy nghĩ cho nhân sinh và lựa

chọn điều gì tốt nhất cho xã tắc. Các vị thiền sư khi được vua tin dùng, cũng

có thái độ rất r ràng mỗi khi tham gia chính sự: không nương tựa vào “hữu

vi”, bởi mọi sự đều “vô thường”, ngay cả đến bản thân cũng là “vô ngã”, họ

luôn hướng thiện bằng việc phục vụ nhân sinh, hết lòng xả thân vì nước.

Nhân sinh quan Phật giáo chính là giới hạn để các thiền sư chỉ tham

gia chính sự khi cần thiết, không vì muốn tranh ngôi vị ở ngoài đời, mà chỉ

nhằm tập trung sức lực trợ giúp cho vị minh quân, mang lại lợi ích cho quốc

gia. Quan điểm “vô vi” của nhân sinh quan Phật giáo được Thiền sư Pháp

Ngôi nước như mây quấn,

Trời nam mở thái bình

Vô vi trên điện các,

Chốn chốn tắt đao binh[120,204].

116

Thuận thể hiện rất rõ khi bàn về vận nước:

Nghĩa là, toàn dân trong nước phải đoàn kết với nhau, nương tựa vào

nhau xung quanh vua, thống nhất dưới sự lãnh đạo của vua thì mới mang lại

thái bình, thị trị. Nhưng đó phải là ông vua thực hiện được đạo vô vi (của

Phật giáo), vị vua ấy phải đại diện cho cái Thiện (vì lợi ích nhân dân), chứ

không chạy theo cái Ác (vì tham vọng bản thân). Đây cũng chính là định

hướng đạo đức chính trị cơ bản cho những chủ trương, chính sách và hành

động của các vị vua thời Lý-Trần.

Phật giáo đã góp công đầu thiết lập nên triều L , đưa Lý Thái Tổ lên

ngôi vua, mở ra thời đại trị vì tương đối lâu dài (116 năm) của nhà Lý. Vì

vậy, triều Lý vốn có sẵn mối liên hệ mật thiết với Phật giáo. Các vị vua quan

... các nhà Nho như L Thường Kiệt, Tô Hiến Thành giữ chức Thái

úy có vai trò như Tể tướng lại càng không có tư tưởng sùng bái đạo Nho về

“thiên mệnh”. Vì chính quyền nhà Lý là một chính quyền sùng Phật và thân

dân[62,71].

của triều Lý sau này cũng vẫn kế thừa truyền thống đó:

Có lẽ cũng do lấy Phật giáo làm nền tảng tư tưởng nên triều đại Lý-

Trần đã xây dựng thể chế nhà nước quân chủ tập quyền thân dân. Tuy trong

xã hội phong kiến luôn có sự phân biệt vềđịa vị chính trị, quyền lợi kinh tế,

trách nhiệm xã hội… nhưng thời Lý - Trần,với sự tham gia của Phật giáo

trên một số lĩnh vực như đạo đức, giáo dục, tín ngưỡng nên đã tạo ra được sự

đoàn kết trong triều, ổn định cho nền chính trị, thu phục được lòng dân. Như

Bậc chí nhân hiện thân giữa c i đời tất phải tế độ chúng sinh. Làm

việc gì cũng phải đầy đủ, không việc gì không làm; chẳng những đắc lực về

thiền định và trí tuệ mà cũng có công giúp đỡ nước nhà[131,617-618].

vua Lý Nhân Tông tâm niệm:

Nhiều vị vua quan thời Lý-Trần am tường triết lý nhân sinh của nhà

Phật sau cũng thấm nhuần quan điểm đó và đều hành động tích cực để có

đóng góp cho công cuộc ổn định và phát triển đất nước.

Đầu thời Lý, khi thế lực Nho giáo còn mỏng, triều đình rất cần sự

117

đóng góp của các thiền sư cho công cuộc thiết lập triều đại. Có thể kể đến sự

tham vấn rất hiệu quả của những vị như Định Không, Vạn Hạnh, Khuông

Việt, Đa ảo, Viên Thông, Huệ Sinh... Tuy họ là người xuất gia tu hành

nhưng lúc nào cũng lo cho an nguy đất nước.Thiền sư Viên Thông đã từng

chỉ giáo cho vua Lý Thần Tông về thuật trị nước: “Thiên hạ cũng như đồ

dùng, để chỗ yên thì được yên, để chỗ nguy thì bị nguy, xin đấng nhân chủ

hãy làm sao được như thế. Dùng đức hiếu sinh hợp với lòng dân, cho nên

yêu thương dân như cha mẹ, trông ngóng như trời đất. Đó là để thiên hạ vào

chỗ yên vậy”[53,216]. Do đó, muốn nước nhà yên ổn, nhà vua phải phải

thương dân, yêu dân, coi trọng nhân dân, có như vậy thời bình dân sẽ yên

vui làm ăn, kinh tế phát triển, triều đại mới hưng thịnh; thời chiến có dân

góp sức, chung lòng đánh giặc, đất nước mới sớm được thanh bình.

Khi thấy vua Lý Thần Tông ăn chơi vô độ, chỉ mải mê đàn hát không

chăm lo việc nước, tăng phó Nguyễn Thường không ngần ngại mà đứng ra

khuyên can vua: “Nay dân loạn, nước nguy, chúa thượng thì chơi bời không

điều độ, chính sự của triều đình thì rối loạn, lòng dân trái lìa, đó là dấu hiệu

bại vong”[18,253]. Các thiền sư vốn là người thông tuệ, nhìn thấu tương lai,

khi thấy vận nước bị lâm nguy, các ngài không thể vì lo cho bản thân mà

không can gián vua, nói ra sự thật.

Thư tịch cổ còn ghi lại,thời Lý-Trần đội ngũ quan lại được chia là 4

ban, ngoài Ban Văn, Ban Võ, Thái giám Ban, còn có Tăng an. Sự xuất hiện

Tăng an trong cơ cấu triều đình phong kiến lúc đó đã thể hiện sự trọng

vọng đối với tuệ - hạnh của các sư tăng cũng như sự trân trọng những giá trị

tư tưởng của Phật giáo. Tăng an có vai trò giáo chủ tinh thần đã góp

Tăng an được giao trọng trách trông coi các hoạt động của đời sống

tâm linh, chịu trách nhiệm truyền giảng kinh sách và phép giữ đạo đức,

quản lý các hoạt động của giáo hội Phật giáo. Tăng an cũng là cơ quan

đồng tổ chức các khoa thi Tam giáo vẫn thường được tiến hành dưới thời

Lý và thời Trần. Tăng ban cũng là nơi quy tụ các cố vấn của triều

đình[151].

118

phầngiáo dục, định hướng tư tưởng cho giai cấp thống trị và toàn xã hội:

Các quy định về mối quan hệ giữa vua-quan, hay giữa các chức quan

lớn-bé trong triều thời kỳ này cũng không quá khắt khe. Tầng lớp vua chúa,

tông thất dùcó nhiều đặc quyền và có lối sống khác biệt với tầng lớp quan lại

và đông đảo quần chúng, nhưng do ảnh hưởng bởi tư tưởng bình đẳng, bác ái

của Phật giáo, họ luôn cư xử khoan hòa, thân ái với mọi người. Vì vậy, đã

tạo ra quan hệ thân thiết, gần gũi trong nội bộ triều đình và các đẳng cấp

ngoài xã hội. Vua Trần Thánh Tông từng xuống chiếu cho các vương hầu

tông thất: “xong buổi chầu vào trong điện và san đình, cùng nhau ăn uống;

hoặc có khi trời tối không về thì đặt gối dài chăn rộng cùng ngủ liền giường

với nhau, để tỏ hết lòng yêu nhau”[18,292]. Với kẻ tôi tớ, nhà vua cũng rất

tôn trọng, không vì ỷ thế địa vị cao sang mà coi thường họ, “vua từng ngự

chơi bên ngoài, giữa đường gặp gia đồng của các vương hầu, tất gọi rõ tên

mà hỏi: Chủ mày ở đâu và răn các vệ sĩ không được th t đuổi họ”[18,320].

Bởi, vua rất cảm động và hiểu thấu được tấm chân tình của những kẻ tôi tớ

ấy: “Ngày thường thì có thị vệ hai bên, đến khi nhà nước hoạn nạn thì chỉ có

bọn ấy đi theo thôi”[18,320]. Điều này làm cho những kẻ tôi tớ thêm cảm

phục, ranh giới địa vị giữa vua, các quan và bề tôi bị xóa nhòa, mối quan hệ

trong triều thêm gắn bó, đoàn kết.

Tuy nhiên, cũng giống như các nhà nước phong kiến đương thời, thời

Lý- Trần, vua giữ vai trò trung tâm trong cộng đồng, vua có quyền sở hữu

tối cao về danh nghĩa đối với toàn bộ ruộng đất, tài sản đất nước; lãnh đạo và

điều hành mọi công việc của nhà nước, từ kinh tế, chính trị, đến văn hóa, tư

tưởng… Vì vậy, với những đặc quyền này nếu không phải là một vị vua đủ

tài-đức sẽ rất dễ mắc sai lầm, hay không đủ bản lĩnh sẽ rất dễ sa ngã. Để

được kế vị ngôi vua, Thái tử phải được trang bị những tố chất cần có của

một vị minh quân. Và đặc biệt, để làm quen với việc trị nước, nhà Trần có

chế độ “hai vua”. Thượng hoàng (vua cha) trực tiếp giám sát “vua con” cho

đến khi vua con đã trưởng thành thì cho nối ngôi chính, “cha lui ở cung

119

Thánh từ, xưng là thượng hoàng, cùng trông coi chính sự”[18,286].

Việc làm này không chỉ nhằm đảm bảo vững chắc quyền lực của dòng

họ Trần, duy trì sự yên ổn trong triều đình, tránh cảnh tranh đoạt ngôi vua,

mà còn cho thấy, các vị vua Trần không “tham quyền cố vị”, luôn hướng tới

lợi ích của nhân dân, mong muốn lựa chọn cho đất nước một người trị vì

xứng đáng. Khi cảm thấy vai trò của mình với đất nước đã không còn quan

trọng, họ sẽ rời bỏ ngai vàng để theo đuổi sự nghiệp tu thiền. Thậmchí vua

Trần Thái Tông còn coi ngôi vua chỉ như “chiếc giày rách”, muốn bỏ lúc nào

cũng được.

Bởi khi đã thấm nhuần triết lý “vô ngã, vô thường”, các vua thường

không bám víu vào quyền lực như thái độ thường thấy của các nhà vua

phong kiến. Họ không vì lợi ích riêng mà luôn lo lắng cho an nguy và sự

hưng thịnh của đất nước.Vua Trần Thái Tông khi muốn từ bỏ ngai vàng để

vào núi tu Phật, nhưng nhờ lời khuyên của quốc sư Trúc Lâm “Phàm là bậc

quân tử tất phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình”[121,29], nên

vua đã bỏ mong muốn của bản thân để về đảm đương trọng trách với đất nước.

Điều này cho thấy, các vị vua quan thời này không chỉ tin dùng Phật giáo,

mà bản thân họ cũng thực sự yêu mến tư tưởng này và đã trải nghiệm, thực

hành nghiêm túc triết l nhân sinh Phật giáo.

Giai cấp thống trị thời Lý-Trần luôn thiên về dùng đức trị mang màu

sắc từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha của Phật giáo. Điều này đã giúp cho nền chính

trị thời đó có được “những nhà chính trị có từ tâm và những người xuất gia

biết lo giáo dục sự thực hành đạo từ bi trong dân chúng”[53,231-232].Lý

Thường Kiệt - vị tướng lập nhiều chiến công cho triều L , cũng là người coi

trọng và nâng đỡ Phật giáo. Trên văn bia dựng tại chùa Linh Xứng[xem hình

Thái Úy trong thì sáng suốt khoan hòa, ngoài thì yêu mến nhân từ

giản dị… Làm việc thì siêng năng, sai bảo dân thì đôn hậu, cho nên dân

được cạy nhờ. Khoan hòa giúp đỡ trăm họ, nhân từ yêu mến mọi người cho

nên nhân dân kính trọng”[120,362].

120

4.5 – Phụ lục, tr 172], ngôi chùa do ông xây dựng, còn ghi:

Tuy được triều đình sủng ái nhưng không lợi dụng tình thế13để chiếm

đoạt ngôi vua, mà cùng với bà Thái hậu Ỷ Lan, hết lòng giúp đỡ vị vua trẻ

tuổi Lý Nhân Tông cai trị đất nước, lập nhiều công trạng cho triều đình nhà

Lý. Chính nhờ am hiểu Phật giáo “thân vướng việc đời, mà lòng vẫn hướng

về đạo Phật’’[120,362], nên dù là một vị tướng quân kiệt xuất được người

đời ngưỡng mộ, nhưng ông vẫn rất giản dị, coi trọng nhân dân, chăm lo cho

đời sống nhân dân. Nhiều phật tử tiêu biểu của thời đại lúc này cũng chính là

… thấm đượm tư tưởng Phật giáo không xa lìa cội nguồn, không

đánh mất bản sắc, chính họ đã thể hiện một tâm hồn cởi mở, bình đẳng, vị

tha đúng theo tôn chỉ của Phật giáo, trên cơ sở xóa đi những khác biệt và

đạt đến chỗ gặp gỡ cá tính con người Việt Nam lạc quan, hòa hiệp, nhân ái.

Họ dễ dàng cởi bỏ những vướng mắc câu chấp, nhị nguyên và sống trọn

vẹn với chân lý[129,81].

những người thuộc tầng lớp lãnh đạo, cũng:

Tuy nhiên, khi soạn thảo những văn kiện như: chiếu, chế, biểu, hịch…

các nhà chính trị đã không tìm thấy căn cứ về mặt l luận và thực tiễn trong

giáo l của Phật giáo. Do đó, giai cấp thống trị cần phải tìm cách phát triển

Nho giáo, bằng cách phát triển giáo dục nhằm cung cấp thêm nhân lực cho

Nội dung của giáo dục, đào tạo cũngđược chú trọng tới cả ba giáo Nho,

Phật và Lão. Bởi bên cạnh sự cần thiết phải đào tạo những trí thức Nho giáo

bộ máy cai trị. Giáo dục Nho học đến giai đoạn này mới bắt đầu phát triển.

để tuyển chọn nhân lực cung cấp cho bộ máy công quyền, qua đó thiết lập

một bộ máy nhà nước hoàn bị; thì tư tưởng của Đạo giáo và đặc biệt là Phật

giáo cũng vẫn có ảnh hưởng lớn đến nhân sinh quan của giai cấp thống trị

thời Lý-Trần, qua đó gián tiếp ảnh hưởng đến các quy phạm về đạo đức,

chính trị, pháp luật của triều đình. Chính nhờ nền giáo dục tổng hợp này, đã

13 Năm 1072, vua L Thánh Tông mất, thái tử mới 7 tuổi còn rất nhỏ lên ngôi, lúc này quyền hành nằm trong tay mẹ vua là Thái Hậu Ỷ Lan. Khi giặc Tống sang xâm lược, chính L Thường Kiệt khuyên Thái Hậu nên quên đi hiềm khích xưa mời L Đạo Thành về cùng chung sức đánh giặc. Nhờ vậy, triều đình dưới thời Thái Hậu Ỷ Lan, văn thì có L Đạo Thành, v có L Thường Kiệt.

121

tạo ra những hiền tài, tinh thông cả Nho, Đạo, Phật.

Vua Trần Thái Tông tuy rất trọng Nho, nhưng vẫn khẳng định vai trò

quan trọng của Phật giáo đối với chính trị. Vì thế, các nhà Nho có thể không

ưa Phật giáo, cũng chưa bao giờ phê phán tư tưởng nhân sinh Phật giáo và

Những nhà nho chỉ chăm chăm về chương cú thì e không thể trông

cậy ở họ giúp nên công việc bình trị được. Tôi trộm nghĩ: cách chọn người

nên lấy đức hạnh làm gốc, nếu người có bản lĩnh tốt thì dẫu kiêm thông cả

cửu lưu tam giáo, cũng chẳng hại gì[13,152].

thậm chí còn khẳng định nghĩa tam giáo trong trị quốc. Họ quan niệm:

Để ổn định trật tự xã hội, nhà Lý-Trần cũng bắt đầu cho ban hành các

bộ luật, các quy định về xét xử người phạm tội. Bộ luận đầu tiên ban hành

năm 1042là bộ Hình thư. Theo nhiều nhà nghiên cứu thì bộ luật này không

chỉ ảnh hưởng bởi Nho giáo, mà chủ yếu ảnh hưởng bởi tư tưởng nhân văn

và nhân đạo của Phật giáo. Điều này khiến một số nhà Nho cho rằng, hạn

chế lớn nhất của bộ Hình thư là “lỗi ở khoan rộng” (tức khoan dung và rộng

rãi-NLA)”[12,170]. Chẳng hạn, trong quy định thể lệ chuộc tội. Những

người già trên 70 tuổi, trẻ con dưới 15 tuổi, người có nhược tật, những người

họ nhà vua và có công lớn nếu phạm tội có thể chuộc bằng tiền, trừ phạm tội thập ác14(đó là những tội nặng nhất, bị trừng phạt nặng nhất vì làm phương

hại đến quyền hạn của nhà vua và hoàng tộc). Năm 1071, quy định thêm là

người được nộp tiền chuộc tội, phải tùy theo tội nặng hay nhẹ mà bắt nộp

tiền nhiều hay ít khác nhau. Thời Trần quy định, giết người phải đền mạng;

tái phạm tội trộm cắp lần hai thì bị chặt tay chân, phạm đến lần thứ ba thì bị

giết. Có thể thấy, những hình phạt này mang tính răn đe hơn là trừng phạt,

bởi, các bộ luật này vẫn bị ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo, vì vậy,

phần nào khắc phục được nhữnghình phạt hà khắc, đến tàn bạo trong việc

14 Những tội thập ác gồm: 1. Mưu phản làm nguy xã tắc; 2. Mưu đại nghịch làm nguy tông miếu, cung khuyết; 3. Mưu bạn nghịch, nổi loạn theo giặc; 4. Ác nghịch: đánh giết ông bà cha mẹ; 5. ất đạo: giết người vô tội; 6. Đại bất kính: dùng những đồ dành riêng cho vua, trộm và giả mạo ấn vua; 7. ất hiếu là mắng chửi hay không để tang ông bà cha mẹ; 8. ất mục: đánh giết những người thân thuộc gần; 9. ất nghĩa: dân giết quân, trò giết thày, lính giết tướng; 10. Nổi loạn: thông dâm với họ hàng thân thiết, thiếp của ông hay cha.

122

xét xử người phạm tội thời Đinh, Tiền lê (thả vào vạc dầu, cho sư tử x xác).

Để duy trì trật tự, kỷ cương cho xã hội, nhà Trần cũng tiếp tục bổ

sung, hoàn thiện các quy định pháp luật, thể hiện ở việc cho ra đời bộ luật

Quốc triều thông chế và Quốc triều hình luật. Trong đó, tư tưởng khoan

dung của Phật giáo vẫn có những ảnh hưởng nhất định trong nội dung và

tinh thần của các bộ luật này.Dù vẫn còn áp dụng những hình phạt thảm

khốc đối với các tội nặng, nhưng về cơ bản, pháp luật thời Lý-Trần có mang

nhiều yếu tố nhân văn, từ bi của Phật giáo hơn là tính nghiêm minh, khắc

nghiệt thường thấy trong các bộ luật của nhiều nhà nước phong kiến khác.

Chính vì vậy, luật pháp thời này được đánh giá là “thời Lý thì rộng rãi khoan

dung, pháp luật thời Trần có phần nghiêm minh, hà khắc hơn; nhưng nhìn

chung cả giai đoạn Lý-Trần, pháp luật nhà nước còn phần nào quan tâm và

chiếu cố đến quyền lợi dân chúng”[130,186].

Vậy, để hoàn thiện thể chế nhà nước, ổn định xã hội, triều đại L -Trần

tuy vẫn sử dụng tư tưởng Nho và một chút của Đạo giáo, tích hợp với tư

tưởng truyền thống dân tộc; nhưng tính trội vẫn thuộc về nhân sinh quan

Phật giáo, điều này thể hiện r n t trong tư tưởng, đường lối trị nước của các

nhà chính trị ở thời kỳ này.

4.1.2. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo tới đường lối bảo v độc lập

chủ quyền và toàn vẹn lãnh th

Các vua-quan thời Lý-Trần đồng thời cũng là những phật tử thuần

thành, bằng đạo đức và trí tuệ của mình đã đóng góp tích cực vào công cuộc

xây dựng, củng cố và phát triển đất nước. Nhân sinh quan Phật giáo cũng

hòa nhập trong lòng dân tộc vốn có truyền thống yêu nước, thương nòi; đồng

thời nó đã bổ sung cho những truyền thống ấy thêm những sức mạnh mới,

sức mạnh của niềm lạc quan, tin tưởng; ý chí, nghị lực phi thường; tinh thần

đoàn kết trước mọi khó khăn. Nhờ sự kết hợp này càng làm tăng thêm sức

mạnh của dân tộc, lòng yêu nước đã gắn liền với tinh thần trọng đạo đức,

trọng niềm tin. Đây chính là động lực tinh thần để vua tôi nhà Lý-Trần hoàn

123

thành công cuộc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.

Với các châu huyện miền núi thuộc chủ quyền nước Việt, để đảm bảo

chiến lược xây dựng chính quyền tập trung từ trung ương đến các địa

phương, nhà Lý-Trần đã có chính sách nhằm thu phục, động viên họ cùng

với triều đình chiến đấu bảo vệ bờ c i. Vua Lý Thái Tông từng tha tội không

giết Nùng Trí Cao-một thủ lĩnh người dân tộc, mặc dù hắn đã hai lần làm

phản. Nhờ những chính sách khoan hồng và tinh thần bình đẳng ấy, nhiều

thủ lĩnh người dân tộc đã có nhiều cống hiến trong sự nghiệp giữ nước của

dân tộc Đại Việt. Như thủ lĩnh Hà Khánh Dĩ đã có công gìn giữ và xây dựng

một vùng biên cương trọng yếu rộng tới 49 động,15 huyện cho Đại Việt.

Với các nước láng giềng nhỏ, triều Lý-Trần cũng có chiến lược vừa

thu phục vừa xây dựng mối quan hệ hữu nghị nhằm tạo ra sự yên ổn cho

biên giới phía Tây và Tây-Nam. Nhưng nước Chiêm đã nhiều lần cho quân

sang quấy rối và tấn công nước ta. Do đó, năm 1044 vua Lý Thái Tông tiến

đánh Chiêm Thành để tỏ uy danh. Tuy nhiên, trong cuộc hành quân này, khi

thấy dân Chiêm bị loạn binh giết rất nhiều, vua thương xót xuống chiếu: “Kẻ

nào giết bậy người Chiêm Thành thì sẽ bị ch m, không tha”[18,198]. Năm

1069, Lý Thánh Tông thân chinh đánh Chiêm Thành, bắt được vua nước

Chiêm là Chế Củ, vua cũng tỏ lượng khoan hồng, tha cho về nước. Đổi lại, vua Chiêm đã cắt vùng đất bắc Chiêm Thành cho Đại Việt15.

Qua đó có thể thấy, dù trên cương vị nào, các vị vua cũng đều ghi nhớ

và thực hành triết lý từ bi, cứu khổ cứu nạn. Tuy trong các cuộc hành quân ở

Chiêm có giết hại nhiều người. Nhưng đó là việc không thể đừng để bảo vệ

nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của một người đứng đầu đất nước. Nhưng

lòng độ lượng, khoan hồng của vua trước kẻ địch thì không phải vị vua nào

cũng có được. Đây là kết quả của lòng từ bi được hun đúc bởi nhân sinh

quan Phật giáo.

Cũng nhờ ảnh hưởng bởi tinh thần nhân văn của Phật giáo, trong công

15 Phần đất này gồm ba Châu ố Chính, Ma Linh, Địa L cho Đại Việt. Nay là tỉnh Quảng ình, ắc

Quảng Trị.

124

cuộc mở rộng lãnh thổ vào Nam, nhà Lý-Trần cũng không để xảy ra cuộc

chiến tranh thôn tính, hủy diệt văn hóa nào, quá trình dung hợp văn hóa diễn

ra một cách hòa bình. Nhiều công trình kiến trúc của người Chăm hay ngôi

chùa của người Khơme vẫn uy nghi tồn tại cùng với những ngôi đình, miếu,

chùa của người Việt.

Sang thời Trần, quan hệ hòa hảo với Chiêm tiếp tục được vua Trần

Nhân Tông vun đắp. Nhà vua đã từng đích thân sang Chiêm, để thiết lập mối

quan hệ hữu nghị với vua Chiêm, hứa gả công chúa cho vua Chiêm để kết

tình thân. Vua Chiêm đã cắt hai châu vua và Rí tặng cho Đại Việt để làm

sính lễ. Sau khi vua Chế Mân mất, mối quan hệ này đã không còn được nhà

Trần duy trì khiến quan hệ hai nước dần trở nên căng thẳng, gây ra những

cuộc chiến tranh biên giới liên miên, đây chính là khởi nguồn dẫn đến sự suy

yếu của triều Trần sau này.

Với phong kiến phương Bắc, nhà Lý-Trần luôn kiên trì mục tiêu bảo

vệ nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Tuy phải tiến hành không ít cuộc kháng

chiến chống lại sự xâm lăng của các thế lực lớn: hai lần chống quân Tống

(năm 1075, năm 1077) và ba lần chiến đấu chống quân Nguyên (năm 1258,

năm1285, năm 1287-1288), nhưng nền độc lập của triều đại Lý-Trần vẫn

vững bền. Ngay cả khi nhà Lý ở vào giai đoạn khủng hoảng và nhà Trần lên

thay thế, thì nền độc lập của đất nước cũng không bị đe dọa bởi các thế lực

xâm lăng. Một trong những lý do rất quan trọng là triều đình đã có được

đường lối kháng chiến phù hợp, hiệu quả. Đường lối này được chuẩn bị

tương đối chu đáo, bắt đầu từ thời bình và đến thời chiến, hiệu quả của nó

mới thực sự được phát huy và có tác dụng rõ rệt. Đường lối đó được sự trợ

giúp đắc lực từ nhân sinh quan Phật giáo.

Các vua quan thời Lý-Trần hầu hết đều tu thiền, học Phật và lấy

những triết lý nhân sinh của Phật giáo làm phương châm sống và hành động

của mình. Và khi ấy tu thiền không chỉ mang lại đạo đức trong sáng mà còn

mang lại trí tuệ minh mẫn. Nhờ tu thiền mà các vua quan, quý tộc thời Lý-

125

Trần mới bình thản trước sức mạnh như vũ bão của những đội quân xâm

lược hùng mạnh nhất lúc bấy giờ và quyết tâm phát động quân - dân cả nước

đứng lên đánh giặc. Cũng nhờ việc tu dưỡng nhân tâm trong sáng, không

vọng động nên các nhà chính trị mới đủ tài và đức để lãnh đạo đất nước trải

qua bao cơn nguy khốn.

Thời L -Trần, trường phái Phật giáo đang phổ biến là thiền Đại thừa.

Nhờ quá trình tu tập công phu, nhiều nhà thiền học đã tạo nên những kỳ tích

trên chiến trận. L Thường Kiệt người có công bình định Chiêm Thành và

cũng chính là vị chiến lược gia kiến tạo nên chiến thắng trong cả hai cuộc

kháng chiến chống Tống. Ở ông, tinh thần yêu nước đã được kết hợp với tấm

lòng yêu đạo đã tạo ra một nhân cách lớn, hết lòng vì dân vì nước. Vị tướng

kiệt xuất Trần Hưng Đạo, cũng là người rất am tường triết lý nhân sinh của

Thiền Phật giáo. Sử còn ghi lại: “Tiết chế đã đến chùa Vĩnh Nghiêm tọa

thiền, không phải tự giác giải thoát cho mình, như thế chưa đủ trước thế giặc

mạnh, mà phải cưu mang chúng sinh”[125,126]. Trong Hịch tướng sĩ [Xem

hình 4.6-Phụ lục, tr.172], tư tưởng thiền cũng được ông thể hiện rõ trong

cách suy tư về cuộc đời: “Đã một lần ta nghĩ đến ta không phải ta như người

bộ hành sau bao thuở lang thang trên khắp nẻo đường hoang vắng, để tìm lại

ta tự ngã cho lòng thanh thản, siêu thoát, từ tự giác đi vào tha

giác…”[125,228]. Là một vị tướng quân nhiều mưu lược, luôn dũng mãnh,

kiên cường nơi trận mạc, nhưng khi trong cuộc sống đời thường, ông lại

thích chọn một cách sống lặng lẽ, yên bình như một thiền sư hướng nội,

không màng chuyện thế sự.

Chính nhờ việc tu thiền, Trần Hưng Đạo đã trang bị cho bản thân một

thể lực dẻo dai và trí tuệ minh mẫn, trau dồi thêm bản lĩnh cần thiết của một

vị tướng tài ba trên chiến trận, luôn bình tĩnh, linh hoạt trước mọi biến cố.

ng cũng đã sáng suốt tuyển chọn được nhiều tướng tài, đóng góp tích cực

cho các cuộc kháng chiến. Như với Phạm Ngũ Lão bị quân lính đâm giáo

vào đùi, nhưng ông vẫn thản nhiên không hề lay động, Trần Hưng Đạo liền

126

mời ông nhập đội quân và giao nhiều trọng trách. Bởi chỉ qua một tình

huống như vậy, vị tướng quân Trần Hưng Đạo đã biết “Phạm Ngũ Lão tu

luyện tọa thiền ở trình độ cao, và ở thời ấy, một người như vậy cũng rất có

khả năng là v thuật vô cùng cao siêu”[23,350].

Nhờ phương pháp tu thiền công phu, đã giúp rèn luyện thân thể và

tâm tính cho cả vua quan, tướng lĩnh thời Trần và làm cho mối quan hệ giữa

tướng tá và quân lính không chỉ là cấp chỉ huy “mà còn là thầy giáo, là giáo

sĩ, giáo chủ. Lòng yêu nước hun đúc khối quân ấy lại thành một quân đội

gắn bó với nhau, có tinh thần chiến đấu cao”[23,351]. Chính vì tập hợp và

xây dựng được một đội quân tinh nhuệ, lại có sự gắn bó chặt chẽ như “đội

quân cha con”[121,397], cộng thêm sự ủng hộ, giúp sức của toàn dân, nên dù

lực lượng của Đại Việt không nhiều, phương tiện chiến đấu còn hạn chế

nhưng đã chiến thắng vẻ vang trước những kẻ thù hùng mạnh. Hồ Quý Ly

sau này cũng rất muốn tiếp nối tinh thần ấy, nhưng đã không làm được, bởi

quân đội của ông “trăm vạn quân như trăm vạn lòng”[92,130], nên đã nhanh

chóng thất bại và tan rã khi đối đầu với quân xâm lược nhà Minh.

Triết l “Phật tại tâm” trong thiền học đại thừa, đã đánh thức sức

mạnh trong chính bản thân mỗi người dân, đã tạo nên chí kiên cường, bất

khuất, sẵn sàng sả thân vì nước của con người thời đại Lý-Trần. Nhân sinh

quan Phật giáo luôn chủ trương “tự thắp đuốc mà đi, tự quay về với chính

mình, không tìm cầu những vật chất bên ngoài, đã tạo nên cho con người

thời đại bấy giờ có một bản lĩnh tự tin đặc biệt. Bản lĩnh này là đỉnh cao của

tinh thần nhân văn thời đại”[129,88]. Nó đã giúp bao thế hệ người Việt thời

Lý và Trần sẵn sàng đương đầu với những kẻ thù hùng mạnh, để rồi lần lượt

giành được những thắng lợi vang dội.

Bởi vậy, trong cuộc chiến tranh chống quân Tống ở triều Lý, nhân dân

tham gia đông đảo đến mức, tể tướng Vương An Thạch của nhà Tống phải

thừa nhận: “cả nước Giao Chỉ nhà có 6 người thì 5 người tòng quân, còn một

người không đi được nên phải ở lại”[25,275]. Sang thời Trần, với sự lãnh

127

đạo của các ông vua Phật và tướng lĩnh tài ba, nhân dân cũng hết lòng ủng

hộ và hưởng ứng lời kêu gọi của triều đình: “tất cả các quận huyện trong

nước, nếu có giặc ngoài đến đều phải liều chết mà đánh”, nếu không đánh lại

được thì tránh, quyết không hàng giặc. Những nơi có giặc đi qua, nhân dân

đều thực hiện theo mưu kế của triều đình: đem cất giấu lương thực, để thực

hiện kế sách “vườn không nhà trống”. Vì vậy, “trong cả ba lần chiến tranh,

quân Nguyên-Mông đều khốn đốn vì thiếu lương ăn, không những bị quân

nhà Trần đánh tan mà còn vì chúng không tài nào cướp được lương thực

trong nhân dân”[130,192-193].

Tinh thần yêu nước vốn là truyền thống của dân tộc ta, nhưng để phát

huy truyền thống ấy và tạo nên khí thế “cả nước góp sức” đánh giặc không

phải dễ. Có được những thành quả này là nhờ công sức của các vua quan,

thiền sư, phật tử Lý-Trần đã kiên trì vun đắp từ những năm tháng hòa bình,

khi giặc ngoại xâm đến, tinh thần ấy có điều kiện phát huy và ngày càng

được dâng lên cao.

Trong cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm, các vua và tướng lĩnh

nhà Trần luôn sẵn sàng lắng nghe ý kiến của dân, lấy điều tâm đức và lợi ích

chung của dân tộc để khuyến khích người dân tham gia tích cực vào cuộc

kháng chiến. Vì vậy mới có hội nghị Bình Than (1282), hội nghị Diên Hồng

(1285) để thống nhất toàn dân, hun đúc chí đánh giặc trong dân, nhằm tạo

thêm sức mạnh để đánh bại quân xâm lược hùng mạnh. Có được điều này

phần nào là nhờ ảnh hưởng bởi khuynh hướng bình đẳng, không định kiến

của triết lý nhân sinh Phật giáo.

Với tinh thần nhập thế tích cực, các tăng ni, phật tử luôn được hòa

mình cùng với cuộc kháng chiến của nhân dân. Tinh thần “cứu khổ, cứu

nạn” được các phật tử lúc đó hiểu là, giải phóng nhân dân khỏi nỗi khổ mất

nước, bảo vệ quyền sống, quyền tự do của mỗi người. Chính vì vậy, dù là

các vị sư hay các vị vua-quan am tường sâu sắc giáo lý của nhân sinh quan

Phật giáo, nhưng khi chiến tranh xảy ra, tất cả đều sẵn sàng khoác chiến bào

128

lên đường diệt giặc. Bởi ngoài vai trò của một phật tử, họ còn có vai trò của

một vị vua, vị tướng và một công dân với đất nước. Khi làm vua, làm tướng

thì hết mình vì dân vì nước, dù có phải vi phạm giới luật của nhà Phật, cũng

quyết tâm diệt giắc. Thậm chí, “các vị vua thời Lý-Trần đã lăn xả vào cái

chết để dành lấy sự sống cho dân tộc, bảo vệ sự tồn vong của đất

nước”[129,89]. Nhưng khi thấy vai trò của mình đã hết lại sẵn sàng “từ bỏ

ngai vàng” để chuyên tâm tu thiền học Phật. Điều này được thể hiện r n t

trong cuộc đời, sự nghiệp của các vị L Thánh Tông, L Nhân Tông, Trần

Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Nhân Tông…

Đặc biệt, phải kể đến là Tuệ Trung Thượng Sĩ nhà thiền học lỗi lạc,

người được coi là “ngọn đèn tổ” của thiền học đời Trần, cũng đã từng hai lần

“khoác chiến bào”; và Trần Nhân Tông – vị vua hai lần tham gia lãnh đạo

thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông thời Trần, sau khi hoàn

thành sứ mệnh vĩ đại của một vị vua, ông đã rời bỏ ngai vàng để sống một

cuộc đời đạm bạc của một vị thiền sư. Mang tấm lòng bồ tát của mình để

cứu rỗi cho chúng sinh bằng những lời khuyên về “thập thiện”. Trong những

năm tháng hành đạo trong dân gian, ông đã sử dụng rất hiệu quả tiềm năng

của Phật giáo để phục vụ chính trị, khiến cho Giáo hội Trúc Lâm trở thành

một lực lượng đắc lực trợ giúp cho triều đình.

Đó là bởi, tinh thần bình đẳng, bác ái trong triết lý nhân sinh Phật giáo

đã giúp lòng yêu nước của nhân dân Lý-Trần phát triển lên một bước mới.

Điều này được thể hiện rõ nét trong tinh thần quốc gia dân tộc của giai cấp

thống trị, ở niềm tự hào dân tộc, ý thức cao độ về quyền độc lập tự chủ. Các

nhà chính trị thời này luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích của

bản thân. Họ sẵn sàng thân chinh cầm quân đánh giặc, tuy là những phật tử,

nhưng họ không tách rời việc tu thiền với việc giữ nước, bởi theo họ đánh

giặc để cứu dân, cứu nước cũng là Thiền. Tinh thần ấy đã giúp dân tộc Đại

Việt chiến thắng những kẻ thù mạnh hơn ta rất nhiều.

Tư tưởng đề cao sự bình đẳng, dân chủ, ghét áp bức bất công của nhân

129

sinh quan Phật giáo cũng đã ảnh hưởng tích cực đến tinh thần, khí phách của

quân dân Đại Việt, khiến họ không cam chịu sống trong cảnh bị đô hộ, mất

nước, quyết tâm bảo vệ lãnh thổ trước những thế lực xâm lăng hùng mạnh.

Vì vậy, khi quân giặc Tống, giặc Nguyên kéo sang, cả triều đình và nhân dân

đều chung quyết tâm đánh giặc. Khi cả nước chung sức, đồng lòng đánh

giặc, đã tạo ra sức mạnh khó kẻ thù nào địch nổi.

Sau những thắng lợi giòn giã trên chiến trường, với tư tưởng “vô vi”,

các vị vua thời Lý-Trần lại trở về sống một cuộc đời đạo hạnh, khiêm

nhường. Họ không ngủ quên trên chiến thắng, mà luôn tỏ ra chừng mực

trong hưởng thụ, nhân từ trong trị nước. Như, sau chiến thắng giặc Nguyên

lần thứ ba, vua Trần Nhân Tông đã ban thưởng cho các quan lại trong triều,

tuy nhiên, vì vua ban thưởng chưa được xứng đáng nên có người còn không

Các ngươi quả biết rõ là giặc Hồ nhất định không dám lại xâm lấn

nữa thì nói rõ cho trẫm biết, dù có thăng lên đến cực phẩm trẫm cũng không

tiếc. Nếu không thế đã vội thưởng hậu, lỡ ra giặc Hồ trở lại mà bọn ngươi

lại lập được công nữa thì trẫm lấy gì mà thưởng để khuyến khích thiên hạ?

Mọi người đều vui phục cả[18,317].

hài lòng. Thấy vậy, vua bảo:

Tuy quân dân Lý-Trần luôn kiên cường đối mặt với những kẻ xâm

lăng, nhưng khi đã ở cương vị của người chiến thắng, giai cấp thống trị thời

Lý-Trần không tỏ ra hung hăng, ngạo mạn mà luôn khiêm nhường để làm

hòa, miễn sao có thể hạn chế tối đa chiến tranh, nhằm giảm đi những đau

thương, mất mát cho dân chúng. Vì vậy, giai cấp thống trị L -Trần luôn có

chiến lược ngoại giao khôn khéo nhằm duy trì nền độc lập.Sau khi đánh bại

quân Tống, L Thường Kiệt đã khôn kh o thiết lập lại mối quan hệ hòa hiếu

với nước Tống, nên đã tránh được họa xâm lăng trong khoảng thời gian

dài.Việc làm này là cần thiết, nó thể hiện sự khiêm tốn của nước nhỏ, trước

một nước lớn như nước Tống. Và dù trên thực tế, nó cũng chỉ mang tính

hình thức - không mang nghĩa “chấp nhận phụ thuộc”, nhưng lại có

130

nghĩa ngoại giao rất lớn.

Đến thời Trần, quân Nguyên k o sang xâm lược nhiều lần nhưng đều

chuốc thất bại. Khi thắng trận, nhà Trần vẫn thể hiện thái độ nhân đạo, cấp

thuyền, cấp lương để cho quân bại trận có thể về nước. ởi cũng giống như

thời Lý, nhà Trần luôn ý thức rằng, nước Nguyên-Mông là một đế quốc lớn

thời bấy giờ, để tồn tại và phát triển, nhà Trần luôn phải thực hiện chiến lược

ngoại giao phù hợp cho một nước nhỏ như Đại Việt. Một mặt, triều đình vẫn

cử người sang cống tiến, nhưng mặt khác, luôn giữ thái độ không khoan

nhượng trước những đòi hỏi vô lý của nhà Nguyên và càng không chấp nhận

bị cai trị hay ngồi yên nhìn cảnh non sông bị dày xéo. Chính đường lối đối

ngoại kh o l o, nhưng kiên quyết nhà nước L -Trần đã khiến các nước láng

giềng phải vị nể, kẻ thù cũng phải tôn trọng, đồng thời giữ được sự ổn định

chính trị tương đối lâu dài.

Như vậy, nhờ sự chuẩn bị chu đáo về tinh thần và lực lượng, quân dân

Lý-Trần đã lần lượt đánh bại các thế lực xâm lăng. Cội nguồn của những

thắng lợi ấy chính là sức mạnh của tình đoàn kết, của truyền thống yêu nước,

tự lực tự cường của dân tộc, những truyền thống ấy được tiếp thêm sức mạnh

nhờ ảnh hưởng bởi nhân sinh quan của Phật giáo.

4.1.3. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đường lối trấn áp

các thế lực chống đối, phát triển đất nước,giải quyết các vấn đề xã hội

Để giữ vững ngai vàng của nhà vua và quyền thống trị của dòng họ

trước những âm mưu cướp ngôi, nổi loạn,… các triều đại phong kiến thường

không ngần ngại đề ra các hình phạt tàn khốc hoặc sẵn sàng đàn áp dã man

các thế lực làm phương hại đến lợi ích, quyền lực của triều đình. Tuy nhiên,

thời Lý-Trần, việc trấn áp các thế lực chống đối không phải lúc nào cũng kết

thúc bằng “máu”, mà nhiều khi lại bằng hình phạt mang tính răn đe, rất

khoan dung, nhân đạo. Những quy định, những cách xử phạt này dường như

vi phạm thuật Pháp trị của nhà Nho, nhưng lại được nhà Phật ủng hộ. Dưới

triều đại Lý-Trần, điều này không phải hiếm và dường như việc làm ấy lại tỏ

131

ra hiệu nghiệm về mặt chính trị.

Có thể thấy, nhân sinh quan Phật giáo cũng ảnh hưởng mạnh mẽ trong

lối ứng xử của các nhà chính trị với những kẻ chống đối. Thái Tử Phật Mã

khi lên ngôi đã gặp phải sự chống đối của chính những người anh em ruột

của mình là Đông Chinh và Dực Thánh vương. Nhưng Thái Tử đã tha tội

làm phản cho họ, thậm chí còn ban cho tước cũ. Sau sự việc này nhà L đã

lập miếu thờ tại núi Đồng Cổ, để làm lễ thề, buổi lễ có sự tham gia của anh

em hoàng tộc và các quan lại trong triều, tất cả cùng uống máu thề rằng:

“Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, xin thần minh giết chết”[18,171]. Lễ

thề này được thực hiện hàng năm, mục đích nhằm giảm-trừ những tư tưởng

phản loạn nẩy sinh từ trong nội bộ triều đình, khơi dậy những nghĩ, hành vi

đúng đắn trong mỗi người, để không phải thực hiện những hình phạt tàn

khốc cho chính các thành viên trong hoàng tộc. Có thể thấy, nội dung và

hình thức của buổi lễ này bị ảnh hưởng bởi Nho giáo và Đạo giáo, nhưng

mục đích của nó này lại thể hiệntinh thần nhân văn, hỷ xả, vị tha của nhân

sinh Phật giáo.

Vua Trần Thái Tông khi đối mặt với cuộc làm phản của người anh là

Trần Liễu, vua cũng độ lượng tha cho Trần Liễu. Thậm chí khi Trần Thủ Độ

đòi tìm giết chết “giặc Liễu” vua còn “giấu Liễu ở trong thuyền, vội vàng

bảo Thủ Độ rằng: Phụng Càn Vương đến hàng đó thôi, và lấy mình che đỡ

cho Liễu”[18,273]. Dù cũng am hiểu luân lý của đạo Nho, nhưng nếu không

thấm nhuần tư tưởng từ bi, hỷ xả của nhà Phật, vua sẽ chẳng có được hành

động như vậy. Bởi vua cũng rất thấu hiểu16, việc làm phản của Trần Liễu là

“cực chẳng đã”. Khi sáng suốt nhận thức được hoàn cảnh của anh mình, vua

cũng đồng thời hiểu được vì lợi ích của dòng họ mà Trần Thủ Độ phải làm

như vậy, nên đã tìm cách hòa giải hợp tình, hợp lý. Tấm lòng khoan dung

của vua với anh, đã khiến Trần Thủ Độ không đành lòng ra tay trừng phạt

16Theo Đại Việt sử k toàn thư, Vua Trần Thái Tông kết hôn cùng công chúa Chiêu Thánh (con gái của vua L ) đã lâu không có con, để duy trì quyền thống trị của dòng họ Trần, Trần Thủ Độ đã mang công chúa Thuận Thiên L ( lúc này đang có mang Quốc Khang ba tháng) - vợ của anh vua (Trần Thái Tông), là Hoài Vương Liễu, lập làm hoàng hậu Thuận Thiên, giáng Chiêu Thánh làm công chúa.

132

Trần Liễu, mà đồng ý rút quân về. Sau vua còn “lấy đất các xã Yên Phụ, Yên

Dưỡng, ên Sinh, ên Hưng, Yên Bang cho Liễu làm ấp thang mộc và

phong làm ên Sinh Vương, ở đất ấy”[18,273].

Không chỉ khoan hồng cho anh em thân tộc, các vua cũng thực hiện

chính sách miễn-giảm tội cho quan lại có đồ phản trắc. Vua Trần Thái

Tông cũng đã tha tội cho Hoàng Cựu Đà – vị quan nhà Trần đã trốn chạy khi

giặc đến và từng có thái độ bất hợp tác với triều đình. Vua đã không bắt

phạt, mà trước mặt quần thần vua còn thừa nhận lỗi đó là do mình vì đã đối

xử không công bằng với Cựu Đà: “Việc của Cựu Đà là lỗi của ta, tha cho tội

chết, cho ph p đánh giặc chuộc tội”[18,285]. Dưới thời vua Trần Thánh

Tông trị vì, khi giặc Nguyên vừa vào, thấy thế giặc mạnh, triều thần có nhiều

kẻ giao thiệp với giặc và có định đầu hàng. “Đến khi giặc thua, bắt được

một hòm tờ biểu của những người hàng giặc, thượng hoàng (vua Trần Thánh

Tông-NLA) sai đốt đi để yên lòng những kẻ phản trắc”[18,318]. Vua không

muốn vì những chuyện nhỏ mà làm mất đi hòa khí trong triều đình, cũng vì

muốn lấy sự khoan dung, nhân từ của Phật giáo để làm lòng người cảm phục

mà từ bỏ đi nghĩ xấu. Với những kẻ đã đầu hàng giặc, đi theo giặc thì triều

đình “kết án vắng mặt, xử tội lưu hay tử, điền sản tịch thu làm của nhà nước,

bỏ quốc tính”[18,318]. Nhưng riêng với Trần Ích Tắc, do là chỗ thân tình -

anh em trong dòng tộc, nên không nỡ đổi họ xóa tên, tuy vẫn xử như vậy, nhưng “... gọi là ả17 Trần, cho là hèn nhát như đàn bà vậy”[18,318].

Nhờ tinh thần hỷ xả, vị tha, nhân văn, nhân đạo của nhân sinh quan

Phật giáo đang thấm nhuần trong đời sống xã hội lúc đó, sự chuyển giao

quyền lực từ triều Lý sang triều Trần cũng được diễn ra trong hòa bình. Khi

lên thay thế nhà Lý, triều đình đã giữ nguyên thể chế chính trị có từ thời

trước. Để yên lòng dân, nhà Trần cũng kế thừa, phát huy đường lối chính trị

mang màu sắc nhân văn, nhân đạo nên đã chinh phục và thống nhất được các

lực lượng cát cứ có từ triều Lý. Cũng nhờ tinh thần ấy, ở triều đại Lý và

17Ả: ngôi thưa ba giống cái, chữ này thường dùng trong chúng dân lao động, tương tự như các chữ: mụ

ta,bà ta...

133

Trần đều không xảy ra nhiều bạo động, không thường xuyên có cảnh tranh

cướp ngôi vua hay cha, anh em trong hoàng tộc chém giết lẫn nhau để tranh

giành địa vị như ở thời Đinh, Tiền Lê.

Bởi ảnh hưởng bởi triết l “Phật tại tâm” trong nhân sinh quan của

thiền đại thừa, các nhà chính trị quan niệm rằng, mọi điều xấu tốt mà con

người gặp phải đều xuất phát từ tâm mà ra, vì vậy, phải trang bị cho mình

lòng nhân từ. Lòng nhân từ ấy phải xuất phát từ chính trong tâm mỗi người,

khi đã có lòng nhân từ rồi, thì lòng nhân từ ấy sẽ tỏa sáng, chiếu dọi trong

từng lời nói, từng hành động của mỗi nhà chính trị. Bởi vậy, dù các vị vua

Lý-Trần cũng có thức về vai trò của Nho giáo trong việc tổ chức, điều

hành bộ máy nhà nước, nhưng họ vẫn “muốn phủ lên toàn bộ xã hội bởi ý

thức hệ Phật giáo”, để tạo nên một xã hội thuần từ, tốt đẹp cả trong triều

Sự đối lập trong nội bộ chính quyền hoặc sự đối kháng giai cấp lúc

đó chưa cao. Đặc điểm này đã tạo nên một không khí chính trị lành mạnh

trong giới cầm quyền và trong cả nước nói chung, tạo nên thế mạnh cho

chính quyền, cho cả nước trong mối quan hệ đối nội cũng như trước những

thử thách ngặt nghèo của ngoại xâm[130,97].

đình và dưới thứ dân. Có lẽ vì thế,

Theo đó, các mâu thuẫn về tư tưởng và lợi ích giữa tầng lớp quý tộc

và Nho giáo cũng dần được dung hòa, để đi đến mục tiêu chung là liên kết

nhân tâm, đoàn kết triều đại để phục vụ lợi ích dân tộc, tạo nên thành tựu rực

rỡ cho đất nước.

Sau nhiều năm du nhập Phật giáo đã trở thành nhu cầu tâm linh không

thể thiếu của dân tộc. Các vua đã yêu mến tư tưởng mà nhân dân yêu mến,

bản thân họ đã thực hành giáo lý ấy và trở thành những vị “Phật sống” khiến

dân chúng vô cùng ngưỡng mộ và hưởng ứng lời kêu gọi ấycủa triều đình.

Bởi vậy, triều đình Lý-Trần không những tập hợp được đông đảo dân chúng

tham gia vào công cuộc bảo vệ triều đại, chinh phục các thế lực chống đối;

mà còn khuyến khích và tạo điều kiện cho họ tích cực tham gia vào công

134

cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Để phát triển đất nước, giai cấp thống trị thời Lý-Trần rất chú trọng

tới sự phát triển nông nghiệp, đưa nông nghiệp trở thành lĩnh vực sản xuất

chính và là cơ sở cho mọi hoạt động trong nước. Vua cũng quan tâm chăm lo

đến việc đồng ángvà tìm cách khích lệ tinh thần hăng say lao động, sản xuất

của dân. Vua L Thánh Tông còn trực tiếp xuống cày ruộng với dân, có

người can ngăn và cho rằng vua không cần phải làm vậy, vua nói: “Trẫm

không tự cày thì lấy gì mà làm xôi cúng, lấy gì để xướng suất thiên

hạ?”[18,180]. Cũng từ đó, nhà nước Lý-Trần hàng năm thường sai lập đàn

để làm lễ tịch điền, để thể hiện sự quan tâm, chăm lo của nhà nước đến việc

cày cấy của dân.

Hoàng hậu Ỷ Lan - vợ của vua (Lý Thánh Tông) được coi là một

người phụ nữ tài giỏi, bà đã hai lần nhiếp chính18. Bà vốn là một người học

Phật và thấm nhuần triết lý nhân văn, nhân đạo của Phật giáo. Xuất thân là

một cô gáimiền quê nên bà biết rõ những nỗi khổ của người nông dân. Bà

cũng đã khuyên con – vua Lý Nhân Tông, nên phạt nặng những người trộm

trâu, giết bò, gây khốn đốn cho việc cày cấy của nông dân. Sau này, trước

tình trạng trộm trâu tiếp tục gia tăng, bà cũng nhắc lại với vua: “Gần đây, ở

kinh thành hương ấp có nhiều người trốn làm nghề trộm trâu, trăm họ cùng

quẫn, mấy nhà chung nhau một con trâu”[18,209]. Có thể thấy, bà thực lòng

lo lắng cho cuộc sống của người nông dân, cũng bởi, nước ta khi ấy vẫn chỉ

là nước nông nghiệp, chăm lo cho đời sống người nông dân cũng chính là

chăm lo đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Ở nông thôn, có nhiều

phụ nữ nghèo phải bán mình, bà cũng đã quan tâm chăm lo cho cuộc sống

của họ, cùng với vua L Nhân Tông “phát tiền nội phủ chuộc con gái nhà

nghèo phải bán mình, để gả cho đàn ông góa vợ”[18,206]. Chính vì tấm lòng

18 Lần đầu là năm 1069, khi vua L Thánh Tông mang quân đi đánh nước Chiêm, ông đã tin tưởng giao quyền nhiếp chính cho Nguyên phi Ỷ Lan. Không phụ lòng tin tưởng của chồng, bà trị nước rất giỏi, khiến dân tâm hòa, đất nước thanh bình. Lần hai vào năm 1072, khi vua L Thánh Tông mới qua đời, vua Lý Nhân Tông còn nhỏ tuổi. à đã điều hành đất nước, tạo được sự đoàn kết trong triều, để L Thường Kiệt tập trungsức lực “Phá Tống, bình Chiêm”.

135

từ bi, nhân ái ấy, bà đã được nhân dân ngưỡng mộ và tôn xưng là Phật bà.

Ngoài chính sách cấm giết mổ trâu, bò, nhà nước cũng đưa ra nhiều

chính sách để khuyến khích phát triển nền kinh tế nông nghiệp: khuyến

khích việc khai phá đất hoang để lập thành các trang trại lớn; chú đến việc

đắp đê, trị thủy, “nông dân có ruộng cày, xóm làng ổn định”[130,29]. Cùng

với những chính sách phát triển kinh tế đúng đắn, về cơ bản đời sống vật

chất của người dân tương đối đầy đủ, đời sống tinh thầnvì vậy cũng rất

phong phú. Nước Đại Việt thời Lý-Trần cũng được đánh giá là “nơi đô hội ở

phương Nam”.

Các chính sách xã hội dưới thời Lý-Trần cũng thấm đượm tinh thần

nhân đạo của Phật giáo. Đối với những người dân nghèo, triều đình cũng có

những chính sách để giảm bớt khó khăn cho họ. Những năm mất mùa, nhiều

người bị bệnh, triều đình có khuyến cáo nhà giàu dâng thóc gạo để triều đình

phát chẩn cho dân nghèo, đồng thời còn ban tước phẩm cho những nhà giàu

dâng thóc gạo. Triều đình còn chế thuốc phát cho người bệnh “nhân dân ai

có ốm đau thì ban cho thuốc công gọi là Hồng ngọc sương, có thể chữa khỏi

các bệnh”[18,386]. Hành động bố thí này cũng chính là một biểu hiện triết lý

từ bi của nhân sinh quan Phật giáo.

Mỗi khi vua mới lên ngôi, hay trong triều có tin vui (vua sinh hoàng

tử, công chúa), triều đình đều đại xá thuế cho những người dân nghèo.Năm

1010, vua L Thái Tổ đã xuống chiếu đại xá thuế cho nhân dân trong ba

năm, những người mồ côi, góa chồng, già yếu, thiếu thuế lâu năm đều tha

cho cả. Trong Đại Việt sử k cũng ghi lời bàn của sử thần Ngô Sĩ Liên:

Nhân Tông thường nhân việc mở hội Phật mà xá người có tội là không phải,

nhưng còn mượn tiếng hội Phật. Còn như vua Thần Tông thì không việc gì

mà cũng xá. Năm 1044, L Thái Tông sau khi đi đánh Chiêm Thành đại

Đánh dẹp phương xa, tổn hại việc làm nông, ngờ đâu mùa đông năm

nay lại được mùa lớn! Nếu nhân dân đã no đủ thì trẫm còn thiếu với ai?

Vậy xá cho thiên hạ một nửa tiền thuế năm nay, để yên ủi sự khó nhọc lặn

lội[18,190].

136

thắng trở về, đã xuống chiếu:

Các vua quan niệm rằng, nhân dân mà no đủ thì triều đình không sợ

thiếu, vì vậy, không chỉ những năm dân bị mất mùa, gặp hạn hán, đói k m,

chiến tranh triều đình mới đem tiền và thóc gạo phát chẩn, miễn thuế cho

dân; ngay cả khi thắng trận vua cũng miến thuế. Bởi ngai vàng chỉ thực sự

vững chắc khi nhân dân có đời sống ấm no, hạnh phúc. Tinh thần nhân văn

ấy không hiếm gặp ở các ông vua trong thời đại Lý-Trần, bởi họ đều thấm

Nhà Lý lấy lòng nhân từ mà nhiếp chính thiên hạ, từ vua cho đến

muôn dân đều lấy sự hiếu kính Cha Mẹ, nhân nghĩa bình đẳng theo tinh

thần Phật giáo mà xây dựng cơ đồ. Đồng cam cộng khổ, bố thí cho kẻ bần

cùng, xá tội cho những người lầm lỗi quay về nẻo chánh, làm ăn lương

thiện[129,297].

nhuần tư tưởng “từ bi” của Phật giáo. Có thể thấy,

Các nhà chính trị nói riêng, các phật tử nói chung đều hướng đến tu

Một người duy trì được lòng từ trong mọi nghĩ, lời nói và hành

động của mình, được xem là đã được giải thoát khỏi ba độc tham, sân, si, là

cội nguồn của mọi sự mâu thuẫn, xung đột, mất hài hòa trong bản thân mỗi

người cũng như ngoài xã hội, trong phạm vi quốc gia, cũng như trên phạm

vi quốc tế[22,284].

luyện để đạt được thân tâm trong sáng và giải thoát khỏi tham, sân, si. Bởi:

Tinh thần từ bi, hỷ xả, sự tu dưỡng thập thiện của Phật giáo đã được

phổ biến trong nền chính trị triều Lý, nhận được sự ủng hộ rất lớn của nhân

dân. Khi lên thay thế, nhà Trần vẫn kế thừa truyền thống ấy. Bản thân giai

cấp thống trị nhà Trần đã học tập và trải nghiệm nghiêm túc giáo lý nhân

sinh của thiền Phật giáo. Họ chọn tu thiền, nhằm “dĩ chúng tâm vi kỷ tâm”

tức lấy cái tâm của chúng sinh là cái tâm của mình trong hoạt động trị nước,

lấy tấm gương đạo đức của mình mà giáo hóa dân chúng. Điều này đã hình

thành ở giai cấp thống trị sự đồng cảm xót thương với nỗi khó nhọc của nhân

dân, từ đó, hình thành nên tư tưởng chính trị khoan hòa, phúc huệ, nhân từ…

137

vốn rất được ưa chuộng trong triều đại nhà Trần.

Vì vậy, có thể nói dù không phải hệ tư tưởng chính trị, không bàn

nhiều đến những vấn đề của chính trị, nhưng yếu tố ảnh hưởng đến nền

chính trị của Phật giáo chính là ở tinh thần nhân văn, nhân đạo trong trị nước

và giải quyết các mối quan hệ trong triều đình và ngoài xã hội. Đây chính là

thế mạnh của nhân sinh quan Phật giáo, mà triều đại đang cần, vì thế nó trở

nên tương thích với nền chính trị.

Không chỉ thể hiện lòng vị tha, hỷ xả với anh em, quan quân trong

triều mà với cả tù nhân. Bởi các nhà vua cảm thương cho hoàn cảnh của họ:

trong số những người tù, có kẻ vì quá nghèo khó mà lâm vào cảnh tù tội.

Vua Lý Thánh Tông có lần nói, “ta yêu con ta cũng như bậc cha mẹ yêu con

cái của họ. Trăm họ không biết gì nên phạm vào luật pháp ta rất xót

thương”[18,196]. Rồi sai người phát chăn chiếu, để họ bớt khó khăn trong

những ngày giá lạnh. Các vua sau này cũng tiếp nối tình thần nhân đạo ấy,

nhiều lần ra lệnh giảm tội hay tha tội cho người tù. Đây đúng là một cung

cách ứng xử của một đấng minh quân đã thấm nhuần triết lý từ bi, hỷ xả của

nhân sinh quan Phật giáo.

Các nhà Nho có thể phê phán vua tôi nhà Trần không giữ phép tắc,

làm giảm đi sự uy nghiêm của một đấng quân vương. Nhưng trong bối cảnh

cần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân nhằm chống lại kẻ thù lớn mạnh đó

là quân Nguyên-Mông, thì việc dùng chính sách từ bi, hỷ xả để cảm hóa lòng

người, dùng lòng khoan hồng, độ lượng để hoàn thành nghiệp lớn là cần

thiết. Tuy, những việc làm kia thực ra cũng ít nhiều đều phục vụ cho mục

đích chính trị, nhưng nếu không có tấm lòng nhân ái, vị tha của nhân sinh

Phật giáo thì các vua cũng không làm được những điều này. Nếu chỉ dựa vào

thuyết thiên mệnh, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín… của Nho giáo thì khó có thể liên

kết được nhân tâm, thống nhất được đất nước trong buổi đầu thành lập triều

đại hay khi đất nước có giặc ngoại xâm. “Vì vậy, hình ảnh những ông vua

giản dị, thân dân dù có thiếu oai vệ một chút chẳng đem lại sự ổn định cho

138

quốc gia hơn hay sao”[113,158].

Như vậy, những triết l nhân sinh hướng thiện, bình đẳng, vị tha, giảm

thần quyền ấy đã trở thành yếu tố cốt lõi hình thành nên những giá trị chuẩn

mực về đạo đức, lối ứng xử trong triều đình cũng như ngoàixã hội thời Lý-

Trần, từ đó, sẽ gián tiếp ảnh hưởng đến các biện pháp trấn áp các thế lực

chống đối, đến đường lối phát triển đất nước, giải quyết các vấn đề xã hội.

Vì vậy, dù trải qua nhiều cuộc chiến tranh, nhưng về cơ bản, đời sống vật

chất của nhân dân thời Lý-Trần vẫn tương đối đầy đủ, được các sử gia đánh

giá là “nước Đại Việt là nơi đô hội ở phương Nam, ruộng cấy lúa tốt, đất

trồng dâu tốt, núi sẵn vàng bạc, biển sẵn châu ngọc, người ở đâu đến làm ăn

buôn bán cũng làm giàu được cả”[12,33].

4.2. Đánh giá về những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư

tưởng chính trị thời Lý-Trần và ý nghĩ của nó trong việc xây dựng văn

hóa chính trị Việt Nam hiện nay

4. . . Đánh giá ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư tưởng

ch nh trị thời Lý-Trần

Về vị thế của Phật giáo trong nền chính trị thời L -Trần. Thời Lý-

Trần, giai cấp phong kiến đã tạo điều kiện phát triển nhân sinh quan Phật

giáo, nhằm biến nó thành vũ khí tinh thần, phục vụ đắc lực cho công cuộc

thống trị của triều đại. Như vậy, nhân sinh quan Phật giáo không những

được người dân ưa chuộng mà còn được giai cấp cầm quyền nâng đỡ. Tuy

nhiên, dù trên nhiều phương diện, Phật giáo có sự cộng hưởng tích cực giữa

Phật giáo và chính trị, giữa triều đình và Giáo hội, giữa tín đồ bình dân và

Nhà nước ở thời L -Trần, nhưng Phật giáo ở thời Lý-Trần vẫn không được triều đình thừa nhận chính thức ở vị trí Quốc giáo19.Các thiền sư tuy giữ vai

19Quốc giáo là tôn giáo có quan hệ chặt chẽ với Nhà nước. Mỗi nhà nước thường chỉ chọn lựa một tôn giáo

làm tôn giáo chính thống, đó là quốc giáo.

20Tôn giáo truyền thống là tôn giáo đã có được bề dày lịch sử nhất định với một dân tộc, một nền văn hóa, mà nhiều giá trị của nó được chấp nhận và trở thành giá trị văn hóa chung của một cộng đồng hay một dân tộc, song quan hệ của nó với Nhà nước không ở tầm hệ tư tưởng chính thống.

139

trò cố vấn trong triều đình nhưng luôn giữ khoảng cách nhất định của một tôn giáo truyền thống20 hay tôn giáo dân tộc21, họ không tham dự sâu vào bộ

máy quyền lực, xong việc lại lui về chùa mà không giữ một vị trí chính thức

nào trong bộ máy quyền lực. Thời Trần, tuy có nhiều vị vua tu thiền hoặc

say mê học Phật, nhưng họ luôn phân biệt r ranh giới đời và đạo, giữa trách

nhiệm khi là vua với trách nhiệm khi là phật tử-người của nhà Phật.

Phật giáo không phải là học thuyết chính trị-xã hội, nên nó không thể

thay thế hoàn toàn các hệ tư tưởng khác đối với nền chính trị. Nhân sinh

quan Phật giáo thực chất là tư tưởng về đạo đức, tâm linh nên dù rất cố gắng

nhập thế, nhưng tư tưởng ấy cũng chỉ ảnh hưởng trên phương diện tư tưởng,

ý thức của giai cấp thống trị.Để phát huy sức mạnh của mình đối với nền

chính trị, nhân sinh quan Phật giáo thời kỳ này đã dung hòa cả Đạo, đặc biệt

là Nho, để phù hợp hơn với thực tiễn chính trị. Việc làm này là cần thiết để

đáp ứng nhu cầu của nền chính trị, ngay bản thân những người đại diện cho

thế lực Phật giáo hay các phật tử thuần thành cũng chấp nhận điều đó. ởi

với tinh thần từ bi, bao dung của người học Phật giáo, nên các nhà chính trị

thời này dù rất coi trọng Phật giáo, nhưng vẫn rất trân trọng Nho và Đạo.

Ngay cả các nhà tư tưởng tiêu biểu của Phật giáo, vẫn có xu hướng học tập,

kế thừa những tư tưởng phù hợp của Nho, Đạo các giáo thuyết khác vào

nhân sinh quan Phật giáo, làm phong phú hơn cho tư tưởng của mình.

Vì vậy, thời Lý-Trần, dù triều đình rất sùng Phật giáo, nhưng vẫn tạo

điều kiện cho Nho và Đạo giáo phát triển. Bên cạnh những ngôi chùa của

Phật giáo, còn có các Miếu thờ Khổng Tử và các Đạo quán của Đạo giáo tại

kinh thành và trên khắp cả nước. Việc làm này vừa có lợi cho nền chính trị,

bởi nó vừa tận dụng được tài năng của tầng lớp Nho gia, lại vừa thỏa mãn

nhu cầu tâm linh của giai cấp thống trị; vừa giúp điều hòa mâu thuẫn về tư

tưởng (giữa thế lực theo Phật và Nho) trong nội bộ triều đình; vừa giúp nhà

nước xây dựng một hệ tư tưởng độc lập, khác biệt với triều đình phong kiến

21Tôn giáo dân tộc là tôn giáo có nhiều điểm chung với tôn giáo truyền thống, nhưng điểm khác (về định tính) là trong quan hệ với Nhà nước, nó được Nhà nước và đông đảo người dân sử dụng như hệ tư tưởng đại diện cho dân tộc.

140

phương ắc.

Giai đoạn đầu triều Lý-Trần, các thế lực Phât giáo còn trực tiếp tham

gia vào việc triều chính, nhưng giai đoạn sau sự tham vấn này giảm dần. Đến

thời Trần thì gần như không còn, tuy nhiên, không phải Phật giáo đã mất đi

địa vị chính trị trong triều, mà sang thời kỳ này việc sử dụng nhân sinh quan

Phật giáo trở nên thành thục và hiệu quả hơn. Họ đã biết kết hợp rất nhuần

nhuyễn những yếu tố tích cực của các giáo và chỉ sử dụng những ưu điểm

của chúng trong từng việc, từng lĩnh vực của nền chính trị. Với mục đích rất

thực dụng ấy, mặc dù vẫn coi trọng Phật giáo, song các nhà chính trị tất yếu

vẫn sử dụng Phật giáo trên cơ sở đan xen giữa Phật và Nho, Đạo và Phật hay

cả Nho, Đạo và Phật. Sự dung hợp này không chỉ thể hiện trong tư tưởng của

từng nhà chính trị mà còn trong từng giai đoạn chính trị.Đôi khi ảnh hưởng

này mật thiết đến mức khó lòng phân biệt.

Bởi, nền chính trị lúc này đang trên con đường hoàn thiện thể chế

chính trị và mô hình nhà nước, Phật giáo lại không phải học thuyết chính trị

nên việc bổ sung thêm các tư tưởng khác là tất yếu, đặc biệt phải kể đến tư

tưởng Nho giáo. Nhưng do lực lượng nho sĩ trong triều còn mỏng. Tình cảm

và niềm tin của người dân vẫn đang hướng về Phật giáo. Nho giáo lúc này

vẫn chỉ ảnh hưởng ở phương diện xây dựng mô hình nhà nước, quy hoạch

các chức quan, soạn thảo các văn bản của triều đình… Còn để tập hợp lực

lượng, thống nhất nhân tâm, đoàn kết cả nước thì trong thời kỳ này, nhân

sinh quan Phật giáo vẫn là tư tưởng phù hợp và cần thiết hơn cả.

Điều này đã được chứng minh qua cuộc “bình Chiêm phá Tống” của

triều L và chiến thắng trước đội quân Nguyên-Mông hùng mạnh nhất thời

đại tới 3 lần ở thời Trần. Chiến thắng này không phải chủ yếu từ sức mạnh

vật chất, bởi cùng với triều L thời kỳ này, quân Tống-kẻ thù của chúng ta

có ưu thế về vật chất hơn nhiều; còn ở thời Trần, nhiều nước Châu Âu có

nguồn lực vật chất dồi dào nhưng vẫn chịu thất bại trước sự xâm lược của

quân Nguyên-Mông. Còn nếu nói đó là sức mạnh của tư tưởng Nho hay Lão

141

thì tại sao nhà Tống cũng thảm bại trước quân Nguyên-Mông, trong khi thời

ấy họ rất coi trọng đạo Nho và Lão, vì vậy, sức mạnh ấy chỉ có thể là ở tinh

thần, một tinh thần rất “thiền” của Phật giáo. Những triết l nhân văn, nhân

đạo trong thiền Phật giáo – lúc này đã lan rộng trong cả nước. Thời chiến nó

đã tạo nên khí thế hào hùng, khiến cho quân dân cả nước luôn sẵn sàng xả

thân vì nghĩa lớn; khi đất nước hòa bình, trên dưới một lòng, tất cả lại tích

cực chung tay xây dựng nước nhà, cả nướccùng chung một ý chí phục hồi và

phát triển đất nước.

Những hưởng t ch cực của nhân sinh quan Phật giáo đối với nền

chính trị. Chính vì lấy Phật giáo làm nhân sinh quan nền tảng, nên các nhà

chính trị đều phát huy tinh thần từ bi, hỷ xả, nhân ái, vị tha, bình đẳng, bác ái

của Phật giáo trong việc trị nước. Nhân sinh quan Phật giáo, vì vậy, đã tạo

nên những hình mẫu những nhà chính trị lý tưởng. Sự hiện diện của nhân

sinh quan Phật giáo ở thời Lý-Trần, không phải chỉ qua sách vở, qua các lời

giảng của các thiền sư, hay ở các hiện vật Phật giáo để lại, mà đã đi vào tâm

thức, hành động, chính sách của vua, quan – các nhà chính trị thời phong

kiến. Nhiều vua, quan thời L -Trần được nhân dân ngưỡng mộ và được coi

là Phật, ồ Tát đã giải thoát ở c i trần. Mọi bởi tư tưởng, hành vi, lối sống

của họ đều toát lên tinh thần từ bi, hỷ xả, nhân nghĩa, vị tha mà họ tiếp thu từ

nhân sinh quan Phật giáo. Trong thời chiến, họ đồng cam cộng khổ với nhân

dân, sẵn sàng xả thân vì nước, thời bình thì bố thí cho kẻ bần cùng, xá tội

cho người lầm lỗi để tạo cơ hội cho họ quay về làm ăn lương thiện.

Tuy vẫn lấy nhân sinh quan Phật giáo làm nền tảng, nhưngtrong tư tưởng

củacác nhà chính trị còn có sự kết hợp nhân sinh quan của Nho và Đạo. Chính

sự kế thừatam giáo một cách sáng tạo đã sản sinh ra nhiều hiền tài cho đất

nước, họ vừa là những vị lãnh đạo có được cái “tài” quyết đoán trong trị nước

do ảnh hưởng bởi Nho giáo; vừa có được cái “tầm” của nhà dự báo do ảnh

hưởng bởi Đạo giáo; lại có được cái “tâm” luôn thấm đượm tinh thần từ bi, hỷ

xả của Phật giáo. Đó là những phẩm chấtđáng qu của một nhà chính trị. Bởi

142

vậy, triều đại này đã xuất hiện mẫu hìnhnhững nhà chính trị l tưởng, những

người biết tu dưỡng bản thân mình, đồng thời thực hành giáo lý từ bi trong

trị nước, khiến cho xã hội Lý-Trần ngày càng trở nên tốt đẹp, chính trị ổn

định lâu bền, dù trải qua bao biến cố, nhưng bản sắc và nguồn cội văn hóa dân

tộc vẫn được bảo tồn và phát triển.

Nhân sinh quan Phật giáo góp phần hình thành nên tư tưởng “Đức

trị” trong đường lối chính trị thời Lý-Trần. Nhưng tư tưởng đức trị thời Lý-

Trần lại mang màu sắc “từ bi” của Phật giáo. “Từ là tình thương rộng lớn.

Bi là sự thông cảm sâu sắc với nỗi khổ chúng sinh, của loài

người”[282,22].Từ bi của Phật giáo, khác với tư tưởng nhân ái trong “đức

trị” của Nho giáo. Đức trị của Nho giáo “dựa trên cơ sở huyết thống để phân

biệt thân sơ, dựa vào địa vị xã hội để phân biệt trên dưới. Phạm vi Nhân ái

của Nho giáo chủ yếu là con người chứ không bao quát mọi chúng sinh, mọi

sinh vật như Từ bi của Phật giáo”[59,122].

Nền chính trị từ bi này được nhân dân hết lòng ủng hộ. Tuy Nho giáo

cũng khuyến khích việc lấy đạo đức để trị nước, nhưng “đạo đức Nho giáo

mang tính kinh viện, sách vở, chỉ có tầng lớp trên có chữ đọc sách thánh

hiền thì đạo đức Nho giáo mới thấm vào họ, còn đạo đức Phật giáo gần gũi

với tầng lớp bình dân hơn rất nhiều”[52,173]. Dù đức trị của Nho giáo cũng

giống với Phật giáo ở tư tưởng nhân ái, nhưng nhân ái của Nho giáo dựa trên

sự phân biệt địa vị, đẳng cấp trong xã hội, nên có phần hạn chế và có sự

phân biệt giữa người này và người kia. Còn nhân ái của Phật giáo có phạm

vi bao quát hơn, không phân biệt thân sơ, không một chút vị kỷ. Đối tượng

mà Phật giáo nói đến không chỉ là con người mà làmọi chúng sinh, vì vậy,

“đức trị” theo tinh thần của Phật giáo là một đường lối chính trị nhân bản.

Bởi vậy, trong thời chiến nhân sinh quan Phật giáo có thể góp phần

tập hợp lực lượng, thống nhất cả nước cho mục đích chung – nếu người

đứng đầu hội đủ Tuệ mẫn và được coi như một vị Phật sống và sẽ được nhân

dân yêu mến, ngưỡng mộ mà đi theo; còn khi xã hội có loạn lạc, bất ổn nếu

143

sử dụng hợp lý những triết lý của nhân sinh Phật giáo có thể làm dịu đi

những mâu thuẫn, thức tỉnh nhân tâm. Đấy chính là những ưu điểm của nhân

sinh quan Phật giáo đã được các nhà chính trị triều đại Lý-Trần tận dụng, tuy

vậy, tư tưởng này không phải không có những hạn chế.

Nhân sinh quan Thiền Phật giáo thực chất là tư tưởng góp phần xây

dựng nên nền tảng đạo đức, niềm tin cho con người. Nó hướng con người

đến những hành vi, lối sống từ bi, hỷ xả; bởi cuộc đời “vô ngã” nên hãy vị

tha với mọi người, diệt trừ “tham, sân, si” để có một thân tâm trong sáng,

không “vọng động”, như vậy sẽ đạt giải thoát thành “Phật”, vậy tìm về với

chính cái “Tâm Phật” bên trong con người mình chính là giải thoát … Ở góc

độ nào đó, nó có ảnh hưởng tích cực và giúp các nhà chính trị sùng Phật rèn

luyện cho mình một đạo đức trong sáng, trí tuệ minh mẫn, để có được sức

mạnh trong chiến đấu, sáng suốt trong trị nước. Tuy nhiên, nhân sinh quan

Phật giáo cũng có những hạn chế đối với nền chính trị thời Lý-Trần. Nhân

sinh quan của nó không thể thay thế cho các tư tưởng khác trong việc xây

dựng và hoàn thiện mô hình nhà nước phong kiến quân chủ tập quyền ở thời

Lý-Trần, thậm chí cũng mang lại những ảnh hưởng tiêu cực.

Nhân sinh quan Phật giáo mang lại một niềm tin mơ hồ về sự giải

thoát, khi Thượng Sỹ Tuệ Trung nói với vua Trần Nhân Tông về quan điểm

cốt lõi của Thiền, ông cho rằng việc tu Thiền, đạt đạo không nằm ở hình

thức: “Trì giới và nhẫn nhục - Chuốc tội chẳng chuốc phúc” [121,546]. Đây

là quan điểm của người đã đắc đạo. Thời Trần, chỉ có Thái Tông, Tuệ Trung

và Nhân Tông mới được coi là đã giải thoát, nên chỉ họ mới có được tâm thế

và thái trạng thái đó. Nếu không thực sự am hiểu, thấu đáo các triết lý nhân

sinh về tính “nhập thế” của Phật giáo như: “hòa quang đồng trần”, “cư trần

lạc đạo”, sẽ dẫn đến thái độ coi thường việc tu luyện thân tâm, tùy tiện trong

hành động, vô tư hưởng thụ mà không chú đến giới luật của nhà Phật. Bởi

vậy, khi nói với Trần Nhân Tông quan điểm của mình về việc trì giới, nhẫn

nhục là “tội hay phúc”, Tuệ trung lại phải nhắc “nhỏ” thêm: “Chớ có bảo cho

144

người không đáng bảo”[121,546].

Đặc biệt, cuối thời Trần nhân sinh quan của thiều phái Trúc Lâm dần

trở nên hư ảo, xa rời thực tiễn, không hướng đến giải quyết những vấn đề

của đời sống, cải tạo xã hội của con người hiện thực, “quá thiên trọng đến

đời sống nội tâm, khai thác sâu vào khía cạnh tâm linh con người mà bỏ

quên những mối quan hệ rất cơ bản để hình thành con người hiện thực với

toàn bộ thực tiễn của họ”[15,166]. Có thể, sau Trần Nhân Tông các vị thiền

sư cao cấp của Phật giáo không còn tham gia chính trị, nếu có quan hệ với

các nhà chính trị trong triều cũng chỉ nhằm phục vụ mục đích tâm linh-tôn

giáo, nên nhân sinh quan đã tách biệt hẳn với chính trị và không tìm cách

đáp ứng những đòi hỏi của nền chính trị đương thời nữa.

Cũng cần phải thấy rằng, sau nhiều năm triều Lý-Trần tôn sùng Phật

giáo, đã dẫn đến nhiều hệ quả tiêu cực mà bản thân các nhà vua không ý

thức đến. Tầng lớp quý tộc nhà Lý-Trần là những đại diện tiêu biểu cho sự

sùng bái thái quá với Phật giáo. Nhiều chùa tháp, chuông khánh, tượng Phật

có quy mô lớn được tầng lớp tông thất, quý tộc xây trong thời Lý làm hao

tốn tiền của và nguyên khí quốc gia. Sang thời Trần hiện tượng xây dựng có

hạn chế hơn, triều đình và giai cấp quý tộc chủ yếu chỉ mở rộng hoặc trùng

tu những ngôi chùa có từ trước. Khiến nho thần Lê Quát từng than: “Chỗ

nào có người ở, tất có Phật, bỏ rồi lại xây, hỏng rồi lại sửa, chuông trống lâu

đài chiếm đến phần nửa so với dân cư”[18, 396]. Tuy nhiên, giai cấp quý tộc

thời Lý-Trần lạiquá coi trọng việc xây chùa, dựng tháp, đúc tượng. Họ cho

rằng đó là biểu hiện của lòng từ bi, hỷ xả, tích đức và hành động này sẽ

mang đến sự may mắn, bình an, giải thoát,nên dù phải tiêu tốn rất nhiều tiền

của nhưng họ vẫn mãn nguyện. Đôi khi, vì quá mải mê với nó mà họ đã

quên đi việc đời, xao nhãng việc nước.

Thêm nữa, Phật giáo trong khoảng thời gian rất dài được triều đình

tôn sùng, các thiền sư được hưởng nhiều quyền lợi về kinh tế. Sự ưu ái quá

mức này đã tạo điều kiện cho nhiều kẻ cơ hội lợi dụng để kiếm lợi. Bản thân

145

sư tổ Pháp Loa cũng lo lắng trước thực trạng này: “Số đông tăng sĩ ngoài

giáo hội, tuy họ mặc áo cà sa, nhưng tâm còn nặng chuyện thế tục, hay lười

biếng không chịu học đạo. Thậm chí còn có không ít tăng lữ lợi dụng cửa

thiền đề trốn lính, trốn phu” [15,129].

Nhân sinh quan Phật giáo lúc này không còn phát triển theo hướng

tích cực nữa, đa số các phật tử không còn nghiêm túc học tập, đầu tư phát

triển giáo lý.Điều này khiến các nhà tư tưởng chân chính của Phật giáo cũng

cảm thấy bất lực và dần lui vào nơi thanh vắng để thỏa chí tu thiền tránh đi

những tranh chấp của thời đại. Thiền sư Huyền Quang-tổ thứ ba của phái

Trúc Lâm Yên Tử cũng đã sớm nhìn thấy sự đen bạc của thế thái nhân tình,

Đức mỏng, thẹn thùng đèn tổ nối,

Luốn cho Hàn, Thập nhiều phen nổi hờn căm.

Chi bằng theo bạn về non quách,

Núi dựng non che vạn vạn tầng [121,689].

nên đã sớm có định ẩn dật:

Điều này càng tạo điều kiện cho Nho giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ và

dần thay thế địa vị của Phật giáo trong nền chính trị. Cùng với việc, Nho

giáo cuối thời Trần đã phát triển và dần đáp ứng được những đòi hỏi của

thực tiễn mới của nền chính trị, còn tư tưởng nhân văn, nhân đạo của Phật

giáo lúc này không còn phát huy tác dụng như buổi đầu – khi mới hình thành

triều đại Lý-Trần nữa. Vì vậy, việc Nho giáo ngày càng có ảnh hưởng mạnh

mẽ và chiếm địa vị quan trọng trong nền chính trị là tất yếu.

Có thể thấy, về cơ bản Phật giáo không phải học thuyết bàn nhiều đến

chính trị, vì vậy, nhân sinh quan của nó chỉ cần thiết trong giai đoạn cần có

sự liên kết tinh thần trong triều đình, củng cố niềm tin cho nhân dân, nhằm

phục vụ công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Khi nền chính trị đã ổn

định, nền độc lập đã được củng cố, nhà nước cần một thể chế chính trị

“chuyên nghiệp”, với một hệ thống quan lại được đào tạo bài bản.Thì Phật

giáo với tư tưởng “vô ngã”, “tri túc”với các thiền sư không muốn tham gia

thường xuyên vào công việc triều chính, đã không thể giải quyết được những

146

vấn đề cấp thiết của một nền chính trị trong thời kỳ mới. Thêm nữa, nhân

sinh quan Phật giáo không thể giúp triều đình hoàn thiện được bộ máy nhà

nước quân chủ tập quyền và ban hành các văn bản, pháp chế cho triều đại.

Qua đó, Nho giáo dần trở thành tư tưởng chiếm ưu thế đối với nền chính trị

vào cuối triều Lý-Trần. Triều đại cũ theo đó cũng dần mất vị thế, để thay thế

cho một triều đại mới, mở ra một trang sử mới cho dân tộc.

Như vậy, về cơ bản mối quan hệ giữa Phật giáo và chính trị trong thời

Lý-Trần là cần thiết và phù hợp. Thể hiện ở chỗ, khi Phật giáo được giai cấp

thống trị tạo điều kiện thuận lợi, nhà vua và triều đình coi trọng sự tham vấn

của các thiền sư, cao tăng, và bản thân họ đều học - hiểu giáo lý Phật giáo,

thì nền chính trị sẽ ổn định, kinh tế phát triển, đất nước thịnh trị. Khi các vua

không chuyên cần học đạo (xa rời triết l nhân văn của Phật giáo) cũng là khi có những biểu hiện ăn chơi, hưởng lạc đạo đức xã hội sa sút22; quan lại

trong triều thì sa vào tam độc (tham, sân, si); trong dân có nhiều người lợi

dụng sự ưu ái của nhà nước với Phật giáo để vun vén cho lợi ích của bản

thân, trốn tránh nghĩa vụ công dânkhi ấy sẽ báo hiệu sự suy vong của triều

đại. Lúc này, tồn tại xã hội cũ đã mất đi, đòi hỏi sự ra đời của ý thức xã hội

mới, theo đó, tư tưởng chủ đạo được giai cấp thống trị mới lựa chọn, cũng sẽ

được thay thế bởi một tư tưởng mới, phù hợp hơn.

4.2.2. Ý nghĩa của vi c kế thừa những ảnh hưởng tích cực của nhân sinh

quan Phật giáo tới tư tưởng chính trị thời Lý-Trần trong vi c xây dựng

văn hóa chính trị ở Vi t Nam hi n nay

4.2.2.1. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo tới tư tưởng chính trị đã

tạo nên văn hóa chính trị tích cực ở thời Lý-Trần

Dù “về nguồn cội là một nhân tố ngoại sinh, thế nhưng nhiều giáo lý

của chư Phật – chư ồ tát đã từ lâu ngấm vào lòng người Việt Nam như

ngấm vào lòng đất mẹ”[22,301].Vì vậy, nhân sinh quan Phật giáo đã trở

thành một thành tố không thể thiếu, xây dựng văn hóa chính trị ở thời Lý-

22 Triều Lý bắt đầu từ thời vua Lý Cao Tông, thời Trần bắt đầu từ Trần Phế Đế.

147

Trần. Điều này được hiểu là thái độ, cách thức ứng xử nhân văn, nhân đạo

của cả giai cấp nắm quyền và thái độ của nhân dânđối với nhữngđường lối,

chính sách của nhà nước, biểu hiện cụ thể là:

Thứ nhất: Thời Lý-Trần, nhà chính trị luôn tôn trọng nguyện vọng của

nhân dân, nên họ đã lựa chọn được hệ tư tưởng mà nhân dân yêu mến và tạo

điều kiện cho tư tưởng ấy phát triển. Tuy nhiên, để Phật giáo ngày càng phù

hợp với thực tiễn chính trị, nên dù tin dùng Phật giáo, nhưngcác nhà chính trị

vẫn sử dụng Nho giáo và Đạo giáo. Bởi trong triết lý nhân sinh của Phật giáo

không phải đã hoàn bị, nên vẫn cần được bổ sung triết lý nhân sinh của đạo

Lão, hay chuẩn mực đạo đức trong đạo Nho...Nhờ đó, giai cấp thống trị đã

tận dụng tối đa sức mạnh của nhân sinh quan Phật giáo, khiến nó trở thành

công cụ hỗ trợ đắc lực, hiệu quả cho nền chính trị. Điều này cho thấy, giai

cấp thống trị đã rất nhạy bén với thực tiễn chính trị, đồng thời rất linh hoạt

trong việc vận dụng và lựa chọn tư tưởng để hỗ trợ cho nền chính trị của

triều đại.

Thứ hai: Thời Lý-Trần, các nhà chính trị không chỉ tận dụng Phật giáo

để phục vụ mục tiêu chính trị mà bản thân họ cũng học hỏi nghiêm túc

những triết l nhân văn từ bi, bác ái, bình đẳng, vị tha… của Phật giáo, để

thấu hiểu và triển khai nó trong thực tiễn. Vì vậy, các quyết sách, đường lối

của nhà nước cũng thấm đượm tinh thần nhân văn, nhân đạo của Phật giáo.

Nhân sinh quan Phật giáo đã thực sự góp phần xây dựng nên một nền văn

hóa chính trị tích cực, được nhân dân hết lòng ủng hộ thời Lý-Trần.Từ

đó,giai cấp thống trị hoàn thành tốt sứ mệnh của mình, giúp cho một dân tộc

đất không rộng, người không đông, nhưng đã chiến thắng trước mọi thế lực

xâm lược lớn để xây dựng một quốc gia thịnh trị.

Thứ ba: Nhiều nhà chính trị Lý-Trần không chỉ yêu mến Phật giáo, mà

còn am tường triết lý nhân sinh của Phật giáo. Bởi vậy, triều đại L -Trần đã

xuất hiện vị vua-quan có từ tâm, ở trên ngôi cao mà vẫn khoan hồng, độ

lượng; những vị thiền sư hết lòng vì dân vì nước mà không nghĩ đến danh lợi

148

của bản thân; hay những bà hoàng có hành động từ bi, được nhân dân tôn

làm Phật bà.Vì vậy, họ đã tạo nên uy tín chính trị– một nhân tố quan trọng

trong văn hóa chính trị. Uy tín này được xây dựng trên cơ sở trình độ hiểu

biết, nhân cách đạo đức, tài năng của các nhà chính trị… Qua đó, nhân dân

luôn tin tưởng và yêu mến nhà chính trị và tích cực đóng góp cho công cuộc

xây dựng đất nước.

4.2.2.2. Sự cần thiết phải kế thừa bài học về ảnh hưởng của nhân sinh quan

Phật giáo đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần trong việc xây dựng nền văn

hóa chính trị ở Việt Nam hiện nay

Hiện nay, dù điều kiện kinh tế-xã hội, văn hóa-tư tưởng của Việt Nam

có nhiều thay đổi, các nhà chính trị xuất thân là phật tử không nhiều, các nhà

chính trị cũng không đồng thời là các thiền sư như ở thời Lý-Trần nữa,

nhưng triết lý nhân sinh của Phật giáo vẫn là một chỗ dựa tinh thần vững

chắc vàảnh hưởng đếný thức, tình cảm của đại đa số nhân dân.Bởi “lịch sử

của Phật giáo Việt Nam gắn liền với lịch sử của dân tộc và chủ nghĩa yêu

nước của dân tộc Việt Nam, đã quyện vào, đã hòa nhập vào tư tưởng Phật

giáo”[22,139]. Chính vì vậy, Phật giáo vẫn có ảnh hưởng lâu dài, bền vững

trong xã hội ngày nay. Nhân sinh quan Phật giáo cũng góp phần làm cho nền

chính trị Việt Nam mang đậm tính nhân văn, nhân đạo, đồng thời Phật giáo

cũng khơi dậy thức độc lập, tự chủ và tinh thần yêu nướccủa người Việt, từ

đó tạo ra văn hóa chính trị tích cực.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nhân sinh quan Phật giáo Việt

Nam đã có nhiều đổi mới để phù hợp hơn với thực tiễn. Như, làm mềm hóa

giới luật “cấm sát sinh” hay “không được sát sinh” bằng quan niệm: kêu gọi

bảo vệ sự sống của muôn loài; Về giới luật “cấm uống rượu” được giải thích

mở rộng như: không dùng các chất ma túy, không tiêu thụ các sản phẩm văn

hóa độc hại như: sách báo, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, âm nhạc…

23 Hòa Thượng Thích Minh Châu (1918-2012), từng giữ nhiều vị trí cao trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam; ông được coi là một trong những người uyên thâm Phật pháp nhất của Việt Nam và thế giới.

149

có nội dung không lành mạnh. Với giới luật “không trộm cắp”, thì Hòa thượng Thích Minh Châu23 - Đại biểu Quốc hội các khóa VII, VIII, IX và X;

cho rằng: không phải chỉ là những hành vi trộm cắp lộ liễu mà còn cả những

hành vi buôn lậu, tham nhũng, lừa đảo, lật lọng trong buôn bán để kiếm lời

bất chính. Việc bổ sung một số nội dung mới về mặt giới luật, nhằm đưa

nhân sinh quan Phật giáo trở nên gần gũi, thiết thực hơn với đời sống xã hội

hiện nay, đồng thời thu hút quần chúng đến với đạo nhiều hơn, từ đó họ mới

học đạo, hiểu đạo và trở nên sống có đạo đức hơn.

Tiếp nối truyền thống gắn đạo với đời, “nhập thế” tích cực có từ thời

Lý-Trần. Tôn chỉ của Giáo hội Phật giáo thể hiện rất rõ lập trường chính

trịtrong quan hệ chặt chẽ với Nhà nước: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã

hội” và đó là sự kế thừa có chọn lọc theo những tư tưởng quan điểm “khế l ,

khế cơ” của Phật giáo nguyên thủy và truyền thống của Phật giáo Việt Nam

đã có từ thời L -Trần. Phật giáo Việt Nam không chỉ gắn bó với tiến trình

phát triển của lịch sử dân tộc, mà cả trong công cuộc đổi mới của đất nước

hiện nay. Phật giáo không còn hạn chế hoạt động của mình trong chùa chiền

và tu viện, hay trong các buổi cầu nguyện, lễ bái… mà còn tham gia vào

những công việc từ thiện, hoạt động chính trị, tham gia các hoạt động ngoại

giao với các nước, nhằm bảo vệ chủ quyền đất nước. Phật giáo ngày nay đã

quan tâm đến các vấn đề mà cuộc sống hiện thực đặt ra như: giáo dục tư

tưởng, văn hóa-xã hội, kinh tế-chính trị... Phật giáo nhấn mạnh giáo l tốt

đẹp của mình nhằm xây dựng một xã hội công bằng, tốt đẹp trên trần thế,

gắn kết tín ngưỡng với việc cải thiện tình trạng xã hội hiện thực.

Có thể nhận thấy, Phật giáo Việt Nam luôn cụ thể hóa triết l nhân sinh

từ bi, bình đẳng, bác ái… của mình đến hiện thực và luôn sống hòa đồng với

chúng sinh, để hoạt động của mình có ảnh hưởng tích cực nhất đến đời sống

chính trị-xã hội hiện đại. Trong các tôn giáo được công nhận về tổ chức ở

Việt Nam, chỉ có Phật giáo xác định r ràng phương hướng hành đạo không

chỉ phục vụ cho dân tộc mà còn gắn với chủ nghĩa xã hội.

Tuy nhiên, dù có vai trò nhất định trong quá trình hình thành tư tưởng

150

chính trị tích cực và nhân sinh quan Phật giáo đã góp phần không nhỏ vào

công cuộc giữ nước và phát triển đất nước, nhưng các triết lý nhân sinh của

Phật giáo vẫn có điểm hạn chế. Nhiều yếu tố trong nhân sinh quan Phật giáo

không còn phù hợp với tiến trình xây dựng tư tưởng chính trị tích cực cho

Việt Nam thế kỷ XXI, thậm chí trở thành lực cản trong quá trình xây dựng

đời sống tinh thần của một bộ phận nhân dân, đó là tâm l hướng nội, chỉ

hành động theo cảm tính, không coi trọng khoa học-kỹ thuật, không quan

tâm đến việc cải tạo thực tiễn, dễ bằng lòng với mình, ngại tranh đấu... Nếu

như những tư tưởng này không được hạn chế, khắc phục kịp thời, sẽ có tác

động tiêu cực, bào mòn dần sức sống, khả năng sáng tạo của dân tộc Việt nói

chung và nền chính trị Việt Nam nói riêng.

4.2.2.1. Một số kiến nghị nhằm phát huy những yếu tố tích cực và hạn chế

những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong việc ây

dựng văn hóa chính trị ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất: Nhà nước cần nhận thức tầm quan trọng của Phật giáo trong

việc xây dựng nền văn hóa chính trị tích cực. Trong các giá trị văn hóa đang

tồn tại ở Việt Nam thì tư tưởng Phật giáo là yếu tố tinh thần chứa đựng nhiều

giá trị văn hóa truyền thống mà đến nay nó vẫn trở thành nhu cầu thiết yếu

để nuôi dưỡng tâm hồn dân tộc. Gìn giữ và phát huy những giá trị tốt đẹp

trong nhân sinh quan Phật giáo cũng chính là một cách khơi dậy những giá

trị truyền thống tốt đẹp trong lịch sử xa xưa mà ông cha đã từng làm đã từng

chiêm nghiệm (về cả những thành công và thất bại) và giờ đây trở thành

những bài học qu giá cho thế hệ ngày nay kế thừa, vận dụng sao cho phù

hợp. Ở các nước phát triển, tôn giáo vẫn đang tồn tại bền vững như một hiện

tượng văn hóa đã ăn sâu, b n rễ vào đời sống dân tộc, bản thân chính phủ

các nước cũng nhìn nhận tôn giáo như một hiện tượng khách quan và khẳng

định tôn giáo đã góp phần làm nên bản sắc dân tộc của nước họ. Chính vì

vậy, Việt Nam cũng nên đánh giá tôn giáo một cách nghiêm túc và công

bằng, để có sự định hướng đúng đắn. Đặc biệt là Phật giáo-một tôn giáo có

151

sự phát lâu dài ở Việt Nam và vẫn chứa đựng nhiều giá trị đối với dân tộc và

luôn nhận được thiện cảm của cộng đồng. Từ đó, mới có điều kiện tận dụng

có hiệu quả những ảnh hưởng tích cực từ nhân sinh quan của Phật giáo để

xây dựng một nền chính trị có văn hóa.

Ở Việt Nam trong quá khứ và hiện tại, tôn giáo có ảnh hưởng mạnh

mẽ hơn cả đến tiến trình phát triển của dân tộcluôn là Phật giáo. Khi đời

sống tinh thần và vật chất phát triển có thêm điều kiện để nhận thức sâu sắc

và phát triển những giá trị của nhân sinh quan Phật giáo, nhưng cũng chính

những giá trị nhân sinh ấy lại quay trở lại tác động tích cực đến tư tưởng,

quan điểm củacon người, giúp họ nhận thức thực tiễn chính xác hơn, từ đó

có bản lĩnh hơn trong đối mặt với mọi biến động của đời sống. Thời L -

Trần, các nhà chính trị thấu triệt những giá trị ấy của nhân sinh quan Phật

giáo để vận dụng nó một cách hiệu quả, thì thời đại ngày nay, các nhà chính

trị Việt Nam cũng có thể kế thừa những bài học từ quá khứ để vận dụng

những gì thích hợp, góp phần tích cực trong việc xây dựng văn hóa chính trị

cho Việt Nam hiện nay.

Hai là: Tuyên truyền, giáo dục để người dân hiểu đúng bản chất của

Phật giáo. Vì là một tôn giáo, nên Phật giáo cũng không thể đưa đến cho con

người một nhân sinh quan hoàn toàn tích cực. Tư tưởng nhân sinh của Phật

giáo luôn có sự pha trộn chất hư vô chủ nghĩa, đôi khi dẫn dắt con người

hướng đến con mắt nhìn đời một cách bi quan, yếm thế, nếp sống khổ hạnh,

không có khát vọng, không tin tưởng vào khả năng của bản thân, dẫn đến

ngại giao tiếp, không chịu khó tìm tòi khám phá, k m năng động, sáng tạo

nên không đáp ứng được với nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường.

Nhiều yếu tố nhân sinh của Phật giáo không phù hợp, thậm chí trở thành lực

cản trong quá trình xây dựng đời sống tinh thần của một bộ phận nhân dân.

Đó là tâm lý hướng nội, chỉ hành động theo cảm tính, không coi trọng khoa

học-kỹ thuật, không quan tâm đến việc cải tạo thực tiễn, dễ bằng lòng với

mình, ngại tranh đấu... Nhân dân cần phải nhận thức đúng đắn bản chất của

152

Phật giáo, để hạn chế những tiêu cực và phát huy những tích cực của nó.

Vì vậy, cần nâng cao trình độ dân trí cho người dân, để họ nhận thức

được những ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo nói chung và nhân sinh quan

Phật giáo nói riêng. Công tác nâng cao dân trí không chỉ thể hiện ở việc đa

dạng hóa các loại hình giáo dục, xã hội hóa giáo dục để mọi người dân dễ

dàng tiếp cận với các trình độ đào tạo. Mà còn thể hiện ở việc tuyên truyền,

giáo dục cho người dân những chuẩn mực và quy tắc của đời sống văn hóa

mới, để dần dần nó ăn sâu trong đời sống, thói quen để bản thân họ biết nhận

thức đúng đắn nhân sinh tích cực và gạn lọc những yếu tố còn hạn chế trong

tư tưởng nhân sinh của Phật giáo. Khi trình độ dân trí của nhân dân nói

chung và đồng bào phật tử nói riêng được nâng cao, nhận thức về nhân sinh

quan Phật giáo trong họ sẽ đúng đắn hơn. Không những họ biết đánh giá,

nhận định những giá trị tích cực để kế thừa, mà bản thân họ còn chủ động

vận dụng những giá trị đó trong quá trình hoàn thiện bản thân, góp phần tạo

nên nền chính trị có văn hóa.

Ba là: Nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của người dân. Muốn

từng bước khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo, phải khắc phục

nguyên nhân tạo cơ sở cho sự tồn tại của Phật giáo. Hiện ở Việt Nam đời

sống vật chất và tinh thần của người dân phát triển chưa đồng đều. Phát triển

kinh tế, xóa bỏ đói nghèo, hạn chế tình trạng phân hóa giai cấp, áp bức bất

công trong xã hội được xóa bỏ, có thể sẽ làm c i Niết àn của Phật giáo

giảm đi sự hấp dẫn trong nhân dân, niềm tin về một thế giới hư ảo sẽ dần

mất đi. Còn những giá trị tích cực trong nhân sinh quan Phật giáo có thể vẫn

còn tồn tại và dung hợp với những nhân sinh quan của thời đại mới.

Phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân

trong đó có những tín đồ của Phật là điều kiện để con người phát triển toàn

diện, tự hoàn thiện về đạo đức, nhân cách. Qua đó cần tạo điều kiện cho họ

chủ động tiếp thu, chọn lọc những giá trị tích cực, phù hợp trong nhân sinh

Phật giáo. Việc phát huy những ảnh hưởng tích cực của nhân sinh quan Phật

153

giáo trong đời sống tinh thần của nhân dân sẽ có tác động tích cực trở lại,

góp phần thực hiện tốt công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, nâng cao

đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, nhằm tạo thuận lợi cho một

nền văn hóa chính trị được duy trì và phát triển.

Tiểu kết chương 4

1. Như vậy, nhân sinh quan Phật giáo ảnh hưởng đến tư tưởng chính

trị thông qua hai yếu tố: thứ nhất: ảnh hưởng của Phật giáo đến chính trị thể

hiện qua đóng góp của các vị tăng sư; thứ hai, ảnh hưởng của nhân sinh quan

Phật giáo đối với chính trị thể hiện qua các đại diện vua, quan và các nhà

chính trị sùng Phật. Qua đó, nhân sinh quan Phật giáo ảnh hưởng đến chính

trị thời Lý-Trần thể hiện trên các phương diện: 1. Nhân sinh quan Phật giáo

trở thành một trong những yếu tố chủ đạo và có ảnh hưởng mạnh mẽ trong

hành động, tư tưởng của giai cấp nắm quyền, hay những người trực tiếp

tham gia hoạt động chính trị; 2. Triết lý nhân sinh của Phật giáo thời Lý-

Trần cũng đã tạo nên những nhà chính trị tài ba, trí tuệ và đầy bản lĩnh góp

phần tạo nên những thắng lợi quân sự vĩ đại của dân tộc thời kỳ này. 3. Nhân

sinh quan Phật giáo tác động cả trong tư tưởng, ý thức, thái độ, lối sống của

nhân dân trước các vấn đề chính trị. Điều đó giúp nhân sinh quan Phật giáo

dù chỉ tác động ở phương diện tinh thần, tư tưởng nhưng lại có sức ảnh

hưởng lớn không chỉ trên phương diện chính trị, mà cho cả sự phồn thịnh

của triều đại Lý-Trần.

2. Phật giáo thời L -Trần được cả triều đình và nhân dân yêu mến,

nhưng không vì thế mà Phật giáo lấn át chính trị, nó chỉ thể hiện sự hiện diện

trong chính trị thông qua đường lối, chủ trương của các nhà chính trị: xây

dựng thể chế chính trị, ổng định đất nước; Bảo vệ và củng cố nền độc lập,

giữ toàn vẹn lãnh thổ; Trấn áp các thế lực chống đối, phát triển đất nước,

giải quyết các vấn đề xã hội.Tuy nhân sinh quan Phật giáo có những ảnh

hưởng nhất định đối với triều đại nói chung và các nhà chính trị nói riêng,

nhưng trong thời Lý-Trần, nó không được coi là Quốc giáo, mà chỉ giữ vị trị

154

là tôn giáo truyền thống hay tôn giáo dân tộc. Bản thân Phật giáo lại không

là học thuyết chính trị vì vậy nó cần phải bổ sung học thuyết Nho và Đạo, để

trở nên phù hợp với nền chính trị hơn. Nhưng, nhân sinh quan Phật giáo

cũng đã có những ảnh hưởng tích cực đến nền chính trị qua việc trang bị cho

triều đại một đội ngũ lãnh đạo l tưởng và một nên đường lối “đức trị”,

mang đậm màu sắc từ bi, hỷ xả, nhân ái, vị tha của Phật giáo.

3. Có thể thấy nhân sinh quan Phật giáo đã góp phần xây dựng văn

hóa chính trị tích cực thời Lý-Trần. Bài học rút ra cho việc xây dựng văn hóa

chính trị hiện nay là vận dụng, phát triển những tư tưởng nhân văn, nhân đạo

- hiện vẫn còn phù hợp với văn hóa chính trị Việt Nam và hạn chế những

ảnh hưởng tiêu cực của nó. Ngoài ra, trong điều kiện thực tiễn hiện nay,

nhân sinh quan Phật giáo không còn là tư tưởng duy nhất phù hợp với nền

chính trị, các nhà chính trị có thể lựa chọn những tư tưởng khác theo tiêu

chí,phù hợp với thực tiễn chính trị và đáp ứng với nguyện vọng và chí của

người dân (hiện nay là chủ nghĩa Mác-Lênin). Quan trọng hơn cả là bản thân

giai cấp thống trị cũng cần phải hiểu đúng đắn để rồi có thể thực hành,vận

dụng tư tưởng ấy một cách hiệu quả, như thếmới phát huy tối đa khả năng và

ưu điểm của nó trong nền chính trị.

Đó là những nghĩa phương pháp luận có thể rút ra sau khi nghiên

cứu về những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư tưởng chính trị

thời Lý-Trần và cách thức vận dụng nhân sinh quan Phật giáo vào việc trị

155

nước của nhà chính trị thời Lý-Trần.

KẾT LUẬN

Có thể nhận thấy, thời Lý-Trần tồn tại cả Nho, Đạo và Phật giáo,

nhưng chỉ có Phật giáo là tư tưởng gắn bó chặt chẽ với với đời sốngtinh thần

của người dân, góp phần hình thành nên nhiều giá trị văn hóa truyền thống,

tiếp thêm sức mạnh, nuôi dưỡng tâm hồn dân tộc vượt qua bao biến cố của

thời đại. Triết lý từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha, tinh thần bình đẳng của nhân

sinh quan Phật giáo đã bổ sung thêm cho người dân những quan niệm về

cuộc sống, tự do, hạnh phúc, giải thoát mà Nho và Đạo chưa đáp ứng được,

khiến người Việt yêu mến và đề cao giáo l Phật giáo, vì thế mà, nó dần xâm

nhập vào đời sống chính trị của triều đình. Thêm nữa, để phù hợp với thực

tiễn đất nước và nhân sinh quan của con người Việt Nam, Phật giáo đã ngày

càng mang tinh thần nhập thế tích cực. Đặc biệt thời Lý-Trần, nhân sinh

quan Phật giáo được phát triển lên một bước mới, bởixu hướng dung hợp với

các hệ tư tưởng đương thời, trên nền tảng văn hóa dân tộc,giúp nó ngày

càngđáp ứng đượcnhu cầu của thực tiễn chính trị. Cụ thể, tư tưởng về con

người, đời người; tư tưởng về đạo đức; và tư tưởng về giải thoát đã có ảnh

hưởng mạnh mẽ đến nền chính trị thời Lý-Trần, thông qua đại diện của mình

là các thiền sư giữ vai trò cố vấn (thời Lý) hay thẩm thấu trong chính tư

tưởng của những nhà chính trị mộ đạo (thời Trần).

Tuy nhiên, để xây dựng, củng cố và hoàn thiện nhà nước phong kiến

Đại Việt, các nhà chính trị Lý-Trần vẫn sử dụng học thuyết chính trị-xã hội

của Nho giáo trên cơ sở kết hợp với Phật giáo, nhằm bổ sung chỗ khiếm

khuyết của nhân sinh quan Phật giáo. Mặc dù, Nho giáo là tư tưởng bàn

nhiều đến vấn đề chính trị, trong triều đình, Nho giáo đã có ảnh hưởng ở

việc xây dựng thể chế chính trị, mô hình quan lại và thiết chế nhà nước

phong kiến tập quyền. Song, do đặc thù lịch sử du nhập Nho giáo ở Việt

Nam nên, thiện cảm dành cho Phật giáo vẫn rất lớn và việc sử dụng Nho

156

giáo vẫn bị hạn chế. Vì thế, trong nhân dân vẫn đang phổ biến tư tưởng nhân

sinh Phật giáo, trong triều các nhà Nho còn rất hiếm, tư tưởng Nho thường

được sử dụng qua các đại diện của Phật giáo. Các triều cũng đã tận dụng đội

ngũ các nhà sư trí thức giàu đạo hạnh với trình độ học vấn uyên bác, Phật

giáo vì vậy đã có mối quan hệ mật thiết với nền chính trị. Sang thời Lý-Trần,

các vua đã kế thừa truyền thống đó và phát triển nhân sinh quan Phật giáo

lên một trình độ cao hơn, để tận dụng tối đa sức mạnh của nó cho mục đích

chính trị.

Bản thân Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng

không có mục đích tự thân là làm chính trị. Mục đích cao cả nhất của Phật

giáo là giải thoát cho hết thảy chúng sinh, không phân biệt đẳng cấp, giới

tính… Tuy nhiên, trong quá trình dựng nước và giữ nước, trong công cuộc

mưu sinh đầy gian khó của dân tộc, đã khiến Phật giáo Việt Nam muốn tồn

tại và phát triển phải “nhập thế”, dù cũng nhằm hướng tới mục tiêu giải thoát

nhưng không xa rời cuộc sống, tu thiền những vẫn hướng đến những vấn đề

thiết thực của cuộc sống, phải “nhập thế hành đạo”. Bởi vậy, nhân sinh quan

Phật giáo thời Lý-Trần, luôn gắn với khát vọng độc lập dân tộc, tự do và

hạnh phúc của nhân dân trong tiến trình dựng nước, giữ nước và phát triển

đất nước. Do đó, những nhiệm vụ chính trị của triều đình đều có ảnh hưởng

hoặc bị chi phối bởi những triết lý của nhân sinh quan Phật giáo.

Nhân sinh quan Phật giáo đã góp phần xây dựng một nền chính trị có

văn hóa. Một số đường lối chính trị cơ bản như, xây dựng thể chế nhà nước,

ổn định xã hội; bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ; trấn áp các thế

lực chống đối, phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội…đều có ảnh

hưởng bởi triết lý nhân sinh mang tính nhân văn, nhân đạo của Phật giáo.Có

thể nói, nhờ những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo,triều đình đã

thiết kế lên một nền đức trị mang màu sắc Phật giáo, và một đội ngũ lãnh

đạo có lối sống giản dị, gần gũi, chừng mực trong hưởng thụ, gây ảnh hưởng

tích cực trong dân. Chính vì vậy, nhân dân luôn mến mộ các nhà chính trị và

157

hết lòng ủng hộ các chính sách của triều đình. Điều này đã tạo ra cuộc chiến

“toàn dân, toàn diện”, góp phần quan trọng vào những thắng lợi liên tiếp

trước các kẻ xâm lược hùng mạnh ở cả triều Lý và Trần.

Có thể khẳng định, sự kết hợp tư tưởng của Nho và Đạo trong nhân

sinh quan Phật giáo, đã tạo nên sức mạnh và thành công của các nhà chính

trị và triều đại Lý-Trần. Tuy vậy, trong khuôn khổ của luận án, tác giả mới

chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu những đường lối, chính sách của triều đại bị

ảnh hưởng chủ yếu bởi nhân sinh quan Phật giáo. Nhưng để chỉ ra hay phân

biệt một cách chính xác trong đường lối, chủ trương nhất định nào đó, đâu là

ảnh hưởng của Nho, đâu là ảnh hưởng của Đạo và ảnh hưởng của Phật

chiếm liều lượng bao nhiêu thì luận án chưa có điều kiện phân tích. Thêm

nữa, trong mỗi giai đoạn lịch sử hay trong tư tưởng của từng nhà chính trị

cũng có sự ảnh hưởng và cách thức vận dụng khác nhau đối với tư tưởng

Nho, Đạo hay Phật trong nền chính trị. Việc chỉ ra sự ưu ái Nho, Đạo hay

Phật trong tư tưởng của từng nhà chính trị và trong từng giai đoạn của triều

đại Lý-Trần cũng chưa được làm rõ trong luận án, hy vọng vấn đề này sẽ

được làm rõ trong các nghiên cứu tiếp theo.

Ngày nay, xã hội Việt Nam hiện đại đã khác xa so với xã hội thời Lý-

Trần, tuy nhiên, ảnh hưởng của Phật giáo trên lĩnh vực tư tưởng vẫn còn khá

r n t. Đồng thời,tư tưởng từ bi, hỷ xả, vị tha, nhân văn của Phật giáo vẫn

ảnh hưởng nhất định trong suy nghĩ, tình cảm và lối ứng xử nhân dân, trước

những diễn biến chính trị đất nước. Điều này, cũng góp phần không nhỏ tạo

nên sức mạnh trên mặt trận quân sự - ngoại giao của Việt Nam. Đó là l do

ta nên tìm hiểu những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với chính

trị thời Lý-Trần, để kế thừa và đồng thời cũng để loại bỏ những yếu tố không

còn phù hợp, nhằm đưa nhân sinh quan Phật giáo góp phần tích cực vào việc

158

xây dựng văn hóa chính trị của Việt Nam trong thời kỳ mới.

ANH MỤC CÁC C NG TR NH ĐÃ C NG Ố

1. Nguyễn Lan Anh (2012), Phật giáo và tính cách con người Việt Nam,

Tạp chí Khoa học công nghệ và môi trường công an, số 21, trang 80-81.

2. Nguyễn Lan Anh (2012), Phật giáo thời Lý-Trần, Tạp chí Khoa học công

nghệ và môi trường công an, số 22, trang 77-78.

3. Nguyễn Lan Anh (2013), Sự phát triển của Phật giáo Việt Namthời Lý-

Trần, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 3, trang 44-52.

4. Nguyễn Lan Anh (2013), Giáo dục khoa cử thời Lý-Trần, Tạp chí Khoa

học giáo dục, số 89, trang 36-38.

5. Nguyễn Lan Anh (2015), Phật giáo với sự phát triển tư tưởng chính trị từ

khởi nguyên đến thời Lý-Trần, Tạp chí Giáo dục l luận, số 231, trang 76-81.

6. Nguyễn Lan Anh (2015), Triết lý nhân sinh của thiền Đại thừa thời Lý-

159

Trần, Tạp chí Khoa học ã hội Việt Nam, số 8(93), trang 41-49.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAMKHẢO

1. Đào Duy Anh (2004), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

2. Huỳnh Công Bắc (2008), Lịch sử Văn hóa Việt Nam, Nxb. Thuận Hóa, Huế.

3. Nguyễn Thị Bảy (1997), Văn hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà

Nội và Châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thông tin, Hà Nội.

4. Nguyễn Thanh ình (2007), Học thuyết chính trị Nho giáo và ảnh hưởng

của nó ở Việt Nam (từ đầu thế kỷ XI đến nửa đầu thể kỷ XIX), Nxb. Chính trị

quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

5. Thích Đồng Bổn(2006), Vai trò chính trị của các tăng sĩ Phật giáo ở thời

đại Lý - Trần, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

6. Đoàn Trung Còn (1967), Phật học từ điển, tập 2, Nxb. Phật học tòng thơ, Sài

Gòn.

7. Thích Minh Châu (chủ biên, 1995), Đạo đức Phật giáo, Viện nghiên cứu

Phật học Việt Nam ấn hành.

8. Thích Minh Châu (1999), Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, Nxb. Thành phố

Hồ Chí Minh.

9. Minh Chi (1984), Về những dòng tư tưởng cơ bản ảnh hưởng tới sự hình

thành nền văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam, Một số vấn đề lý luận về

lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết học, Hà Nội.

10. Minh Chi (2003), Truyền thống văn hóa và Phật giáo Việt Nam, Nxb. Tôn

giáo, Hà Nội.

11. Doãn Chính (1997), Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ, Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội

12. Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nxb. Sử học,

Hà Nội.

13. Phan Huy Chú (1962), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2, Nxb. Khoa học

160

xã hội, Hà Nội.

14. Nguyễn Trọng Chuẩn (chủ biên, 2006) Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam,

tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

15. Trương Văn Chung (1998), Tư tưởng triết học của thiền phái Trúc Lâm

đời Trần, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16. Trương Văn Chung, Doãn Chính (Đồng chủ biên, 2008), Tư tưởng Việt Nam

thời Lý-Trần, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

17. Đại học Oxford, Từ điển chính trị diễn nghĩa (bản tiếng Nga, 2001), Nxb.

Toàn thế giới, Matxcơva.

18. Đại Việt sử k toàn thư (2011, tái bản), Nxb. Thời Đại, Hà Nội.

19. Đỗ Công Định (2003), Nét tương đồng giữa hạn từ bi của đạo Phật và tư

tưởng nhân đạo ở Hồ Chí Minh, Tạp chí Triết học (số 7), tr.45-51.

20. Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb. Hà Nội.

21. Giáo hội Phật giáo ViệtNam (1990), Thiền Uyển tập anh (Ngô Đức Thọ và

Nguyễn Thúy Nga dịch), Phân viện nghiên cứu Phật học, Nxb. Văn học, Hà

Nội.

22. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2012), Đạo pháp-dân tộc-chủ nghĩa ã hội và

hòa bình, Nxb. Tổng hợp, T.p Hồ Chí Minh.

23. Trần Văn Giàu (1993), Sự phát triển của tư tưởng Việt nam từ thế kỷ XIX

đến cách mạng tháng Tám, tập 1, Nxb. T.p Hồ Chí Minh.

24. Trần Văn Giàu (1993), Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước

các nhiệm vụ lịch sử, Nxb. T.p Hồ Chí Minh.

25. Hoàng Xuân Hãn (1941), Lý Thường Kiệt – Lịch sử ngoại giao và tông giáo

triều Lý, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội.

26. Lê mậu Hãn (2008), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà

Nội.

27. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2014), Một số đặc trưng của nhân sinh quan Phật

giáo Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 2 (128), Tr. 25-34.

28. Nguyễn Hùng Hậu (1996), Góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học Phật giáo

161

Trần Thái Tông, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

29. Nguyễn Hùng Hậu (1997), Lược khảo tư tưởng thiền Trúc Lâm Việt Nam

thời Lý-Trần, Viện nghiên cứu tôn giáo Hà Nội.

30. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam thời

Lý – Trần, Viện nghiên cứu tôn giáo Hà Nội.

31. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1,

Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

32. Phạm Thị Thu Hiền (2010), Triết lý nhân sinh Phật giáo và ảnh hưởngcủa

nó đến đời sống tinh thần người Việt Nam, Kỷ yếu: Hội nghị Sinh viên

Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7, Đại học Đà Nẵng.

33. Nguyễn Duy Hinh (2005), Tuệ Trung, nhân sĩ, thượng sĩ, thi sĩ, Nxb. Khoa

học xã hội, Hà Nội.

34. Nguyễn Duy Hinh (2005), Triết học Phật giáoViệt Nam, Nxb. Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

35. Nguyễn Duy Hinh (2005), Văn minh Đại Việt, Nxb. Văn hóa Thông tin và

Viện Văn hóa, Hà Nội.

36. Nguyễn Duy Hinh (2009), Lịch sử đạo Phật Việt Nam, Nxb. Tôn giáo và

Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.

37. Thích Thiện Hoa (1994), Phật học Lý – Trần, Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

38. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển BKVN (1995), Từ điển Bách

khoa Việt Nam, Trung tâm Biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội.

39. Nguyễn Mạnh Hùng (1993), Văn học Lý – Trần, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

40. Phan Văn Hùm (1958), Phật giáo Triết học, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn.

41. Trần Đình Hượu (1984), Về đặc điểm tư tưởng Việt Nam, Một số vấn đề lý

luận về lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện triết học, Hà Nội.

42. Nguyễn Hải Kế (chủ biên, 2010), Ngàn năm lịch sử văn hóa Thăng Long –

Hà Nội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Trần Trọng Kim (tái bản 2010), Việt Nam sử lược, Nxb. Thời đại, Hà Nội.

44. Vũ Ngọc Khánh (1986), Phật giáo và văn hóa dân gian, Mấy vấn đề Phật

162

giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện triết học, Hà Nội.

45. Đinh Gia Khánh (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, tập 1, Nxb. Đại học và

Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

46. Phùng Văn Khai (2010), Danh tướng triều Trần, Nxb. Lao động, Hà Nội.

47. Phạm Trường Khang (2010), Các vua và Hoàng tộc triều Lý, Nxb. Hồng

Đức, Hà Nội.

48. Phạm Trường Khang (2010), Kể chuyện các vua và Hoàng tộc triều Trần,

Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.

49. Vũ Khiêu (chủ biên, 1974), Đạo đức học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

50. Khoa Triết học (2008), Tư tưởng Việt Nam thời Lý- Trần, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

51. Nguyễn Khương (biên tập 1993), Tuệ Trung Thượng sĩ với thiền tông Việt Nam,

Kỷ yếu hội thảo khoa học, Trung tâm nghiên cứu Hán nôm, Tp Hồ Chí Minh.

52. Đặng Thị Lan (2003), Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam,

Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.

53. Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, Nxb. Văn học, Hà Nội.

54. LêninToàn tập (1976), tập 23, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.

55. Phan Ngọc Liên (2006), Giáo dục và thi cử ở Việt Nam, Nxb. Từ điển bách

khoa, Hà Nội.

56. Lưu Văn Lợi (2000), Ngoại giao Đại Việt, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội.

57. Lịch sử Việt Nam (1971), tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

58. Nguyễn Công Lý (2014), Từ Phật giáo nhất tông đời Trần suy nghĩ về Phật

giáo Việt Nam hiện nay, Tạp chí nghiên cứu tôn giáo, số 08, tr. 116-125.

59. Hà Thúc Minh (2014), Từ bi của đạo Phật và đạo đức nhân loại, Nghiên

cứu tôn giáo, số 2 (128), tr. 116-125.

60. Dương Xuân Ngọc (chủ biên, 2001), Lịch sử tư tưởng chính trị, Nxb. Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

61. Phan Ngọc (2004), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà

163

Nội.

62. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên, 2003), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb.

Giáo dục, Hà Nội.

63. Ngô Thì Nhậm (1978), Trúc Lâm tông chỉ Nguyên Thanh, Nxb. Khoa học xã

hội, Hà Nội.

64. Đức Nhuận (tái bản 2002), Phật học tinh hoa, Viện triết lý Việt Nam và triết

học thế giới, California.

65. Đức Nhuận (2009), Đạo Phật và dòng sử Việt, Nxb. Phương Đông, Đà Lạt.

66. ùi Thanh Phương (2000), Về mối quan hệ tam giáo trong lịch sử tư tưởng Việt

Nam từ thời Bắc thuộc đến thời Lý-Trần, Luận văn thạc sĩ Triết học, Đại học

Quốc gia Hà Nội.

67. Thích Thông Phương (2003), Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Nxb. Tôn giáo,

Hà Nội.

68. Lê Văn Quán (2008), Lịch sử tư tưởng chính trị-xã hội Việt Nam từ Bắc

thuộc đến thời kỳ Lý-Trần, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

69. Hồ Sỹ Quý (2007), Con người và phát triển con người, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

70. Phạm Văn Sinh (1995), Về vai trò của Phật giáo Việt Nam (qua triều đại

Lý), Luận án tiến sĩ Triết học, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.

71. Lê Văn Siêu (2004), Văn minh Đại Việt, Nxb. Thanh Niên, Bến tre.

72. Sogyal Rinpoche (2009), Đạo Phật trong văn hóa (Thanh Long và Trường

Tâm dịch),Nxb. Phương Đông, Hà Nội.

73. Thích Phước Sơn (dịch và trú, 1995), Tam tổ thực lục, Nxb. Viện nghiên cứu

Phật học, Hà Nội.

74. Suzuki (2008), Tâm thiền nhập môn, Nxb. Tổng hợp, Tp Hồ Chí Minh.

75. Suzuki (1971), Cốt tủy của Đạo Phật, Trúc Thiên dịch, Nxb. An Tiêm, Hà

Nội.

76. Lê Đình Sỹ, Nguyễn Danh Phiệt (1994), Kế sách giữ nước thời Lý – Trần,

Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

77. Vũ Minh Tâm (1996), Tư tưởng triết học về con người, Nxb. Giáo dục, Hà

164

Nội .

78. Nguyễn Thị Tâm (2012), Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị ở

Việt Nam thời Lý-Trần, Luận văn Thạc sĩ Chính trị học, ĐH Khoa học Xã

hội và Nhân văn Hà Nội.

79. Hà Văn Tấn (1978), Cuộc kháng chiến chống âm lược Nguyên Mông thế

kỷ XIII, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

80. Hà Văn Tấn (1998), Phật giáo đời Trần, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb.

Khoa học xã hội, Hà Nội.

81. Nguyễn Khánh Toàn (1992), Một số vấn đề của khoa học nhân văn, Nxb.

Khoa học xã hội, Hà Nội.

82. Nguyễn Thị Toan (2010),“Giải thoát luận Phật giáo”, Luận án tiến sĩ Triết

học, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.

83. Trần Thái Tông (1972), Khóa hư lục, Nxb. Khuông Việt, Sài Gòn.

84. Lê Hữu Tuấn (2000), Ảnh hưởng của những tư tưởng triết học Phật giáo

trong đời sống văn hoá tinh thần ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học. Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

85. Thích Minh Tuệ (1993), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Thành Hội Phật giáo

Tp. Hồ Chí Minh.

86. Thích Thanh Từ (1992), Phật giáo với dân tộc, Thành hội Phật giáo Tp Hồ

Chí Minh xuất bản.

87. Thích Thanh Từ (2001), Tại sao tôi lại chủ trương khôi phục Phật giáo thời

Trần, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

88. Thích Thanh Từ (2004), Thiền sư Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

89. Thích Thanh Từ (2007), Phật giáo trong lòng dân tộc, Nxb. Văn hóa-Thông

tin, Hà Nội.

90. Từ điển triết học (1978), Dịch từ bản tiềng Nga, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

91. Phùng Lô Tường (2010), Triết lý sinh tư Đông – Tây, Thích Hoằng Trí dịch,

Nxb. Phương Đông, Đà Lạt.

165

92. Nguyễn TrãiToàn tập (1976), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

93. Lê Mạnh Thát (1999), Nghiên cứu Thiền uyển tập anh, Nxb. Tp Hồ Chí

Minh.

94. Lê Mạnh Thát (tuyển chọn, 2000), Toàn tập Trần Nhân Tông, Nxb. Tp Hồ

Chí Minh.

95. Lê Mạnh Thát (2001), Lịch sử Phật giáo Việt Nam từ Lý Nam Đế (544) đến

Lý Thái Tông (1054), tập 2, Nxb. Tp Hồ Chí Minh.

96. Hoàng Đức Thắng (Thích Minh Trí, 2012), Quan hệ giữa nhà nước quân chủ

Lý-Trần với Phật giáo, Luận án Tiến sĩ sử học, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân

văn Hà Nội.

97. Thích Mật Thể (2004), Việt Nam Phật giáo sử lược, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

98. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

99. Thích Đức Thiện & Nguyễn Quốc Tuấn (đồng chủ biên, 2011), Kỷ yếu:

Phật giáo thời Lý với 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

100. Thích Tâm Thiện (1998), Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo, Nxb. TP Hồ

Chí Minh.

101. Hoàng Thị Thơ (2000), Vấn đề con người trong Đạo Phật,Tạp chí Triết học,

số 6, tr.41-44.

102. Hoàng Thị Thơ (2004), Sự hình thành tư tưởng Thiền Phật giáo, Luận án

Tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội.

103. Hoàng Thị Thơ (2005), Lịch sử tư tưởng thiền từ Vê đa Ấn Độ tới Thiền

Tông Trung Quốc, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

104. Hoàng Thị Thơ (2014), Triết lý nhập thế của Phật giáo và “Cư trần lạc

đạo” của Trần Nhân Tông, Tạp chí Triết học, số 3, 43-51.

105. Nguyễn Đăng Thục (1996), Thiền học Trần Thái Tông, Nxb. Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

106. Nguyễn Đăng Thục (1997), Thiền học Việt Nam, Nxb. Thuận Hóa, Long

An.

166

107. Nguyễn Khắc Thuần (2002), Nước Đại Việt thời Lý – Trần, Nxb. Hà Nội.

108. Nguyễn Khắc Thuần (2007), Tiến trình văn hóa Việt Nam từ khởi nguyên

đến thế kỷ XIX, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

109. Lê Thị Thủy (1997), Tìm hiểu tư tưởng triết học Phật giáo của Trần Nhân

Tông, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Hà Nội.

110. Nguyễn Văn Trung (1993), Một số hiểu biết về tôn giáo ở Việt Nam, Nxb.

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

111. Thượng sĩ Tuệ TrungNgữ lục (Trúc Thiên phiên dịch,1969), Nxb. Sài Gòn.

112. Nguyễn Tài Thư (tập hợp, 1986), Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng

Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

113. Nguyễn Tài Thư (chủ biên, 1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nxb.

Khoa học xã hội, Hà Nội.

114. Nguyễn Tài Thư (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với

con người Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

115. Chu Quang Trứ (2001), Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng, tôn giáo ở

Việt Nam, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.

116. Trần Trương (2010), Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Nxb. Văn hóa-Thông

tin, Hà Nội.

117. Trần Trương (2011), Chùa Yên Tử, Nxb. Văn hóa-Thông Tin, Hà Nội.

118. Trần Trương (2011), Danh nhân Yên Tử, Nxb. Văn hóa-Thông Tin, Hà Nội.

119. Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam (biên soạn, 1971), Lịch sử Việt Nam, tập

1, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội.

120. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý –

Trần, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

121. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học (1988), Thơ văn Lý –

Trần, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

122. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học (1978), Thơ văn Lý –

Trần, tập 3, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

123. Đặng nghiêm Vạn (1998), Về tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam hiện nay, Nxb.

167

Khoa học xã hội, Hà Nội.

124. Đặng nghiêm Vạn (2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt

Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

125. Viện khoa học xã hội (1993), Kỷ yếu hội thảo khoa học: Tuệ Trung Thượng

Sĩ với thiền tông Việt Nam, Trung Tâm nghiên cứu Hán Nôm, Tp Hồ Chí

Minh.

126. Viện Triết học (1986), Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởngViệt

Nam, Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam.

127. Viện Triết học (2002), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, văn tuyển tập 1, Nxb.

Chính trị Quốc gia Hà Nội.

128. Viện Nghiên cứu Phật học (chủ biên, 1990), Thiền uyển tập anh, Nxb. Văn học,

Hà Nội.

129. Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam (2010), Phật giáo đời Lý, Tủ sách Phật

giáo Dân tộc, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

130. Viện lịch sử Quân sự Việt Nam (1994), Kế sách giữ nước thời Lý-Trần,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

131. Viện nghiên cứu Lịch sử (1980), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần,

Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

132. Viện sử học (1996), Phương thức sản xuất ở châu Á: Lý luận Mác - Lênin

và thực tiễn Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

133. Việt sử thông giám cương mục (1957), tập 3, Nxb Văn – Sử - Địa, Hà Nội.

134. Việt sử lược (1960), Nxb. Văn - Sử - Địa , Hà Nội.

135. Trần Thị Vinh(2010), Thể chế chính trị ở Việt Nam Thế kỷ XI-XIII thời Lý,

Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ III, chủ đề: “Việt Nam: Hội

nhập và Phát triển”.

136. Nguyễn Hữu Vui (1996), Mấy ý kiến góp phần tìm hiểu vai trò của đạo Phật

Việt Nam trong Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện

Triết học, Hà Nội.

137. Nguyễn Hữu Vui (chủ biên, 2002), Lịch sử triết học, Nxb. Chính trị quốc

168

gia, Hà Nội.

138. Trần Quốc Vượng (dịch và chú giải, 1960), Việt Nam sử lược, Nxb. Văn –

Sử - Địa, Hà Nội.

139. Trần Quốc Vượng (2005), Môi trường, con người và văn hóa, Nxb. Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

140. Nguyễn Như Ý (chủ biên, 1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

141. Walpola Rahula (1994),Lời Phật dạy, Nxb. Tp Hồ Chí Minh.

Trang Web:

142. Trọng Giáp, Báo Philippines ca ngợi Việt Nam truyền cảm hứng cho

ASEAN, trang web: vnexpress.net.

143. Nguyễn Thị Thu Hoan và Phạm Thị Huyền, Tìm hiểu thêm về anh hùng dân

tộc Lý Thường Kiệt qua hai tấm bia triều Lý trưng bày ở Bảo tàng lịch sử

quốc gia, trang web: baotanglichsu.vn.

144. Thái Kim Lan, Lý thuyết nhân quả trong triết học Phật giáo và trong học

thuyết siêu nghiệm của Kant, trang web: daophatngaynay.com.

145. Lịch sử Phật giáo, trang web: Wikipedia.ogr.

146. Huệ Minh, Phật giáo với văn hóa Việt Nam, trang web: thienlybuutoa.

147. Peter D. Santina, Nền tảng của đạo Phật (Thích Tâm Quang dịch), trang

web: budsas.org.

148. Hồ Sĩ Qu , Bí ẩn Châu Á trong tấm gương triết học Châu Á, trang web:

vanhoahoc.net.

149. Sri Dhammananda, Đạo Phật và chính trị, trang web: chuacaolinh.com.vn.

150. Nguyễn Tài Thư, Một số đặc trưng cơ bản của Nho giáo Việ Nam, đăng trên

trang web: tamnhin.net.

151. Nguyễn Khắc Thuần, Tăng ban trong bộ máy nhà nước thời Lý-Trần, trang

152. Thích Thanh Từ, Tại sao tôi chủ trương khôi phục Phật giáo đời Trần, trang

web: khoavanhoc-ngonngu.edu.vn.

169

web: thuong-chieu.org.

L Thái Tổ (1010-1028)

Lý Thái Tông (1028-1054)

Lý Thánh Tông (1054-1072)- - - -Ỷ Lan

Sùng Hiền Hầu

Lý Nhân Tông (1072-1127)

L Thần Tông (1128-1138)

Lý Anh Tông (1138-1175)

Lý Cao Tông (1176-1210)

L Huệ Tông (1211-1224)- - - - - - Trần Thị Dung- - - - - Trần Thủ Độ

Trần Thái Tông (1225-1258)- - - - - - Lý Chiêu Hoàng

Trần Thánh Tông (1258-1278)

Trần Nhân Tông (1279-1293)

Trần Anh Tông (1293-1314)

Trần Minh Tông (1314-1329)

(1341-1369)

Trần Hiến TôngTrần Duệ Tông Trần Nguyên (1329-1341)(1372-1377) Dục

Trần Nghệ Tông Trần Dụ Tông (1370-1372) Trần Thuận Tông Trần Ngạc Giả Định Đế Trần Phế Đế Dương Nhật Lễ (1388-1398) (1407-1409) (1377-1388) Trần Thiếu Đế Trùng Quang Đế (1398-1400)

(1409-1413)

170

PHỤ LỤC Sơ đồ 3.1: Các đời vua thời Lý-Trần

Pháp Đăng, Huệ Nghiêm

Thanh Biện

Phù Trì

Bối Đa

Pháp Thuận

Ma Ha

Vô Ngai

Sùng Phạm

Kiêu Trí Huyền

Sơ đồ 2.2: Dòng Thiền Tỳ Ny Đa Lưu Chi Tỳ Ni Đa Lưu Chi Pháp Hiền Nam Dương Định Không Thông Thiện La Quý Án Thiên Ông

Pháp Bảo

Định Huệ

Đạo Hạnh Trì Bát Thuần Chân

Vạn Hạnh

Pháp Y

Tịnh Hạnh, Pháp Nhãn

Thiên Nham

Minh Không

Bản Tịnh

Khánh Hỷ

Pháp Dung

Thảo Nhất

Huệ Sinh (cùng Hạc Lâm Pháp Thống) Quảng Phúc Giới Không

Trí Thiền

Chân Không

Đạo Lâm

Viên Học

Tịnh Thiền (cùng Tịnh Không)

Viên Thông

Pháp Ký

Diện Nhân Ni Sư

Sơn

171

Sơ đồ 2.3: òng Thiền Vô Ngôn Thông

Vô Ngôn Thông Cảm Thành

Thiện Hội Vân Phong Đa ảo

Đinh Hương

Thiên Lão

Quảng Trí

Lý Thái Tông

Viên Chiếu Cứu Chỉ (999-1090)

ảo Tích (?-1034)

Minh Tâm (?-1034)

Thông iện

(?-1134)

Ngộ Ấn (1020-1088)

Mãn Giác (1052-1096)

Hà Trạch

Đạo Huệ (?-1173)

iệt Tài

Không Lộ (?-1119)

ản Tịnh (1100-1176)

ảo Giác

Giác Hải

Nguyện Học (?- 1181)

Trường Nguyên (1110- 1165)

Minh Trí (?- 1196)

Tín Học (?- 1190)

Tịnh Không (1091- 1170)

Tịnh Lực (1112- 1175)

Trí ảo (?- 1190)

Tịnh Giới (?- 1207)

Đại Xả(11 20- 1180)

Quảng Nghiêm (1122-1190)

Thường Chiếu (?-1203)

Thần Nghi

Cư sĩ Thông Sư (?-1228) (cùng Quách Thần Nghi)

Trí Thông

Hiện Quang

Tức Lự

Cư sĩ Ứng Vương

172

Thảo Đường

Sơ đồ 2.4: òng Thiền Thảo Đường

Lý Thánh Tông

Bát Nhã

Ngộ Xá

Hoằng Minh

Không Lộ

Giác Hải

Phạm Âm

Lý Anh Tông

Đỗ Đô

Trương Tam Tạng

Chân Huyền

Thái phó Đỗ Thường

Lý Cao Tông

Nguyễn Thức

Phạm Phụng Ngự

Ngô Tham Chính Ích Thái phó Đỗ Anh Vũ Hải Tịnh

Vô Ngôn Thông

Lâm Tế

Thường Chiếu

Hiện Quang

Thông Thiền

Thần Nghi

Đạo Viên

Tức Lự

Ẩn Không

Đại Đăng

Ứng Thuận

Thiên Phong

Tiêu Diêu

Nhất Tông

Giới Minh

Huệ Tuệ

Thái Tông Thánh Tông Tuệ Trung Tông Cảnh

Trúc Lâm Pháp Loa

ảo Phác

Huyền Quang

173

Sơ đồ 2.5: Sự thống nhất của các thiền phái đầu thời Trần

Hình 3.1: Cổng tam quan chùa Nhất trụ

Hình 3. Cột kinh c nhất Vi t Nam nằm trong lầu tứ giác

Chùa Nhất Trụ (còn gọi là Chùa Một Cột) là ngôi chùa cổ có từ thế kỉ X,

nằm trong quần thể Khu di tích Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình).Chùa Nhất Trụ được

tạo lập năm 995, vua Lê Đại Hành đã cho dựng cột kinh (trụ đá) để khắc kinh

dâng nhà Phật. Chùa nằm ở vị trí trung tâm, là di tích quan trọng nhất, là nơi tu

hành và họp bàn việc nước của các nhà sư thế kỉ X như Pháp Thuận, Khuông Việt

và Vạn Hạnh.

174

Hình 3.3: Chiếu ời đô- ản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam

175

Hình 3.4: Bài Cư Trần Lạc Đạo phú bản chữ Nôm của Trần Nhân Tông

Hình 4.5: ia chùa Linh Xứng

Trong bia Linh Xứng, thiền sư Hải Chiếu đã ca ngợi L Thường Kiệt: “Tuy

thân vướng việc đời, mà lòng vẫn hướng về đạo Phật”, chính vì có tấm lòng và tư

tưởng hướng Phật ấy mà đã thôi thúc ông chuyên làm những điều thiện đối với

dân, với nước.

Hình 4.6: Hịch tướng sỹ

176