HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN HOÀNG HIỂU
QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN VÀ
DOANH NGHIỆP TRONG PHÁT TRIỂN CÁNH ĐỒNG LỚN
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2019
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN HOÀNG HIỂU
QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN VÀ
DOANH NGHIỆP TRONG PHÁT TRIỂN CÁNH ĐỒNG LỚN
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ Mã số: 62 31 01 02
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. NGUYỄN QUỐC DŨNG 2. GS.TS. CHU VĂN CẤP
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, tư liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc
rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Trần Hoàng Hiểu
MỤC LỤC
Trang 1
MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
7 7
1.1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan đến đề tài luận án và những khoảng trống luận án cần tiếp tục nghiên cứu
28
31
Chương 2: LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN VÀ DOANH NGHIỆP TRONG PHÁT TRIỂN CÁNH ĐỒNG LỚN
2.1. Lý luận về quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh
nghiệp trong mô hình cánh đồng lớn
31
2.2. Kinh nghiệm xây dựng "Mô hình liên kết sản xuất" - nơi sản sinh và thực hiện lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp và bài học rút ra cho đồng bằng sông Cửu Long
59
Chương 3: THỰC TRẠNG QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN VÀ DOANH NGHIỆP TRONG PHÁT TRIỂN CÁNH ĐỒNG LỚN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
72 72
3.1. Khái quát về vùng đồng bằng sông Cửu Long 3.2. Thực trạng thực hiện lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua
77
115
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT HÀI HÕA QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN VÀ DOANH NGHIỆP TRONG PHÁT TRIỂN CÁNH ĐỒNG LỚN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
4.1. Quan điểm giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu Long
115
4.2. Giải pháp giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2025
127 150
152 153
KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AGPPS
: Công ty cổ phần bảo vệ thực vật An Giang
CĐL
: Cánh đồng lớn
CTCP
: Công ty cổ phần
ĐBSCL
: Đồng bằng sông Cửu Long
HQKT
: Hiệu quả kinh tế
KT-XH
: Kinh tế - xã hội
LKKT
: Liên kết kinh tế
LIKT
: Lợi ích kinh tế
MHCĐL
: Mô hình cánh đồng lớn
NCKT
: Nhu cầu kinh tế
NN&PTNT
: Nông nghiệp và phát triển nông thôn
NSLĐ
: Năng suất lao động
GAP
: Thực hành sản xuất tốt
Globalgap
: Thực hành sản xuất tốt theo tiêu chuẩn toàn cầu
VSATTP
: Vệ sinh an toàn thực phẩm
VietGAP
: Thực hành sản xuất tốt theo tiêu chuẩn Việt Nam
UBND
: Uỷ ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, HÌNH, SƠ ĐỒ
Trang
Bảng 2.1:
48
Bảng 3.1:
79
Bảng 3.2:
81
Bảng 3.3:
82
Bảng 3.4:
91
Bảng 3.5:
92
Bảng 3.6:
93
Bảng 3.7:
94
Bảng 3.8:
95
Bảng 3.9:
Tổng hợp lợi ích kinh tế của nông dân và doanh nghiệp trong mô hình cánh đồng lớn Vùng liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ lúa - xây dựng cánh đồng lớn tại đồng bằng sông Cửu Long năm 2014 Diện tích, số hộ thực hiện cánh đồng lớn năm 2016 và kế hoạch thực hiện cánh đồng lớn giai đoạn 2017-2019 của thành phố Cần Thơ Số lượng và diện tích cánh đồng lớn tỉnh Bạc Liêu 2017- 2020 Hiệu quả kinh tế cánh đồng lớn tại Cờ Đỏ vụ Đông Xuân 2015 - 2016 Chi phí sản xuất trung bình vụ Đông Xuân 2015- 2016, vụ Hè Thu 2016 của vùng đồng bằng sông Cửu Long qua khảo sát Doanh thu và lợi nhuận vụ Đông Xuân 2015 - 2016, vụ Hè Thu 2016 của vùng đồng bằng sông Cửu Long qua khảo sát Về hiệu quả kinh tế của mô hình cánh đồng lớn vụ Đông Xuân 2016-2017 tại huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang Hiệu quả kinh tế của một số cánh đồng lớn điển hình trên địa bàn huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang vụ Hè Thu năm 2018 Chênh lệch giữa giá gạo xuất khẩu và giá lúa tại ruộng giai đoạn 2011-2017
110
Biểu đồ 3.1: Giá xuất khẩu gạo của Việt Nam và Thái Lan giai đoạn
2011 - 2017 (USD/tấn)
104
Biểu đồ 3.2: Chênh lệch giữa giá xuất khẩu và giá lúa tại ruộng giai
đoạn 2012 - 2017 (USD/tấn
110
Biểu đồ 4.1: Sự thay đổi về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của một số mặt
119 27
Hình 1.1: Sơ đồ 4.1:
hàng chủ lực giai đoạn 2012 - 2017 (%) Mô hình chuỗi giá trị hàng nông sản Đề xuất mô hình liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp sản xuất lúa theo cánh đồng lớn
139
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn luôn chiếm vị trí quan trọng, là nền
tảng của phát triển kinh tế - xã hội. Đảng ta luôn xác định: Nông nghiệp dồi dào thì
nền tảng vững mạnh, nông dân giàu thì nước thịnh, nông thôn ổn định thì cả xã hội
yên. Đảng ta coi vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là cơ sở và lực lượng
quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm
bảo an ninh quốc phòng; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi
trường sinh thái của đất nước.
Chính vì vậy, thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương,
chính sách phát triển nông nghiệp Việt Nam nói chung, đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) nói riêng và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, nông
nghiệp nước ta chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán, lạc hậu... nông nghiệp, nông
dân, nông thôn nước ta vẫn đang đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức lớn...
Vì thế, Đảng và Nhà nước ta chủ trương tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng
cao giá trị gia tăng và phát triển hiện đại, bền vững gắn với xây dựng nông thôn
mới, dựa trên nền tảng ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, đặc biệt công nghệ
cao và đổi mới mô hình tổ chức sản xuất nông nghiệp. Để tái cơ cấu nông nghiệp
cần xây dựng vùng sản xuất tập trung gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Theo
Nghị định số 80/2002/NĐ-TTg, ngày 26/4/2002 của Thủ tướng Chính phủ về chính
sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng và Chỉ thị
24/2004/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng vùng nguyên liệu gắn với
chế biến và tiêu thụ. Quyết định 62/2013/QĐ-TTg, ngày 25/10/2013 của Thủ tướng
Chính phủ về chính sách phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông
sản, xây dựng cánh đồng lớn (CĐL). Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 05/7/2018 về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Xây dựng CĐL là nhu cầu thực tiễn, là giải
pháp quan trọng và lâu dài góp phần thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nông nghiệp theo
hướng nâng cao giá trị gia tăng và tính bền vững như Nghị quyết 21/2011/QH13 đã
khẳng định.
2
Ở ĐBSCL, việc liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản theo mô hình CĐL đã
được hình thành và phát triển từ năm 2011 đến nay. Cánh đồng lớn là mô hình có sự
liên kết 4 nhà: Nhà nông, nhà doanh nghiệp, có sự hỗ trợ của Nhà nước và nhà khoa
học. Trong đó, mối liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp giữ vai trò nòng cốt. Mô
hình này đã mang lại lợi ích kinh tế (LIKT) cho cả nông dân và doanh nghiệp, tạo động
lực cho quá trình đổi mới tổ chức sản xuất theo mô hình liên kết. Đặc biệt, trong sản
xuất lúa ở ĐBSCL là mô hình tham gia liên kết sản xuất theo CĐL đã tạo sự đồng
thuận to lớn đối với cả nông dân và doanh nghiệp - yếu tố quyết định sự thành bại đối
với quá trình hình thành và phát triển mô hình CĐL. Trên thực tế, khi tham gia liên kết
sản xuất theo CĐL, nông dân có được những lợi ích như: có cơ hội tiếp cận thị trường,
biết được mình trồng cây gì, bán cho ai, giá bao nhiêu, vào lúc nào và có thể biết hưởng
lợi bao nhiêu, từ đâu, nên họ sẽ yên tâm sản xuất; nông dân sẽ tiết kiệm được chi phí
sản xuất từ đó tăng thu nhập; nhận thức và trình độ của nông dân được nâng lên. Đối
với doanh nghiệp có lợi ích như: thiết lập được liên kết dọc với nông dân đa diện và
sâu sát sẽ đảm bảo nguồn nguyên liệu đầy đủ và kịp thời, đáp ứng nhu cầu của thị
trường; doanh nghiệp có được nguồn nguyên liệu với độ đồng đều và chất lượng cao
mua được từ nông dân trong mô hình liên kết, dẫn đến giá bán nông sản cao hơn từ đó
lợi nhuận tăng lên. Qua đó cho thấy, quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp
là tác nhân quan trọng để phát triển mô hình CĐL.
Tuy vậy, thực tế cho thấy quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp
trong mô hình CĐL vẫn còn tồn tại những mâu thuẫn, những bất hợp lý, thua thiệt
cho cả nông dân và doanh nghiệp mà nguyên nhân xuất phát từ cả phía nông dân lẫn
phía doanh nghiệp, mà chủ yếu là vấn đề giải quyết hài hòa quan hệ LIKT giữa
nông dân và doanh nghiệp. Để mô hình liên kết trong CĐL ổn định và phát triển
bền vững thì việc đảm bảo hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp
trong liên kết sản xuất lúa theo CĐL là rất quan trọng. Do đó, cần có những nghiên
cứu chuyên sâu tìm giải pháp hữu hiệu nhằm giải quyết hài hòa quan hệ LIKT giữa
nông dân và doanh nghiệp trong phát triển CĐL. Để góp phần tìm giải pháp, nghiên
cứu sinh lựa chọn vấn đề: "Quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh
nghiệp trong phát triển cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu Long" làm đề tài
luận án Tiến sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị.
3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở luận giải lý luận và thực tiễn về LIKT và quan hệ LIKT giữa
nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL, luận án nghiên cứu đánh giá thực
trạng quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong quá trình phát triển mô
hình CĐL sản xuất lúa ở ĐBSCL thời gian qua. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất các
quan điểm và giải pháp nhằm giải quyết hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và
doanh nghiệp để thúc đẩy phát triển CĐL sản xuất lúa ở ĐBSCL đến năm 2025.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án có các nhiệm vụ sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến LIKT và quan hệ LIKT
giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển CĐL.
- Hệ thống hóa, làm rõ thêm lý luận về quan hệ LIKT giữa nông dân và
doanh nghiệp trong mô hình CĐL. Nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn về "xây dựng
và phát triển các mô hình liên kết sản xuất tiêu thụ nông phẩm theo CĐL - nơi sản
sinh và thực hiện quan hệ LIKT tế giữa nông dân và doanh nghiệp.
- Đánh giá toàn diện, khách quan thực trạng thực hiện LIKT và quan hệ
LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL sản xuất lúa ở ĐBSCL
giai đoạn 2014-2018.
- Đề xuất những quan điểm và và giải pháp nhằm giải quyết hài hòa quan hệ
LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển CĐL sản xuất lúa ở ĐBSCL
đến năm 2025.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh
nghiệp trong phát triển mô hình CĐL sản xuất lúa dưới góc độ khoa học kinh tế
chính trị. Quan hệ LIKT được nghiên cứu dưới góc cạnh là sản phẩm hay kết quả
của việc thực hiện các mối quan hệ liên kết kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp
trong mô hình CĐL sản xuất lúa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Trên địa bàn các tỉnh, thành phố thuộc vùng ĐBSCL.
4
- Về thời gian: Việc nghiên cứu đánh giá thực trạng được tiến hành chủ yếu
trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018. Các giải pháp được đề xuất thực hiện
đến năm 2025.
4. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn của luận án
- Cở sở lý luận của luận án: Luận án dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; về LIKT trong
liên kết sản xuất và tiêu thụ nông phẩm; quan điểm, chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước đối với việc giải quyết hài hòa quan hệ LIKT giữa nông
dân và doanh nghiệp trong liên kết sản xuất giai đoạn hiện nay.
- Cơ sở thực tiễn của luận án: Luận án dựa trên kinh nghiệm quốc tế và một
số địa phương trong nước về xây dựng các mô hình liên kết sản xuất theo CĐL - nơi
sản sinh và thực hiện quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử dụng phương pháp nghiên
cứu của khoa học kinh tế chính trị - phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Phương
pháp trừu tượng hóa khoa học được sử dụng chủ yếu ở chương 2 nhằm phân tích cơ
sở lý luận về LIKT và mối quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô
hình CĐL.
Các phương pháp cụ thể được tác giả luận án sử dụng:
(1) Phân tích - tổng hợp, phương pháp logic kết hợp với lịch sử.
Phân tích là một vấn đề cần thiết để giải thích theo phương pháp truy nguyên
nhằm nhận thức quá trình hình thành, phát triển các hiện tượng, quá trình kinh tế...
trong các giai đoạn khác nhau của quá trình phát triển. Điểm kết thúc của sự phân
tích là tổng hợp, nhờ có tổng hợp mới có thể đi từ cái cụ thể, tản mạn đến sự khái
quát thành khái niệm, phạm trù lý luận. Phương pháp này được sử dụng ở Chương 1
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án - để phân tích cơ sở
lý luận, kinh nghiệm thực tiễn về đối tượng nghiên cứu, từ đó rút ra những kết quả
nghiên cứu và các vấn đề còn là "khoảng trống" cần tiếp tục nghiên cứu. Phương
5
pháp này cũng được sử dụng ở Chương 2 để phân tích khung lý luận về LIKT và
mối quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL.
(2) Phương pháp thống kê và so sánh, diễn dịch và quy nạp, điều tra khảo sát
được sử dụng ở Chương 3 nhằm làm rõ thực trạng thực hiện LIKT và mối quan hệ
LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL giai đoạn 2014-2018, từ
đó rút ra những thành công, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.
(3) Phương pháp thu thập thông tin
- Thu thập dữ liệu thứ cấp: tác giả luận án thu thập tài liệu trong và ngoài
nước qua các công trình khoa học đã công bố, qua số liệu thống kê của Tổng cục
Thống kê Việt Nam và các tài liệu công bố chính thức liên quan đến đề tài luận án,
của các cơ quan nhà nước, bộ, ngành, địa phương...
- Thu thập dữ liệu sơ cấp: tọa đàm, trao đổi, hỏi ý kiến, phỏng vấn trực tiếp
một số nông dân, doanh nghiệp và cán bộ quản lý...
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở Chương 3 nhằm cung cấp các luận
cứ phân tích và rút ra kết quả đạt được cũng như những hạn chế, yếu kém và
nguyên nhân của thực trạng vấn đề nghiên cứu.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp tổng kết thực tiễn về xây dựng
và phát triển CĐL và giải quyết mối quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp
trong phát triển CĐL ở ĐBSCL.
5. Những đóng góp mới của luận án
Luận án có những đóng góp mới như:
- Thứ 1, góp phần khái quát các nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan
đến LIKT nói chung và quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong CĐL
nói riêng, qua đó, chỉ ra những khoảng trống của các nghiên cứu trước đó về mối
quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển CĐL mà luận án cần
tiếp tục nghiên cứu.
- Thứ 2, luận án tiếp cận vấn đề quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh
nghiệp trong mô hình CĐL sản xuất lúa dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị. Vì
vậy, kết quả nghiên cứu của luận án góp phần hệ thống hóa và làm rõ các cơ sở lý
luận, bản chất và phương thức đảm bảo hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và
doanh nghiệp trong phát triển CĐL ở ĐBSCL.
6
- Thứ 3, tổng kết, đánh giá thực trạng quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh
nghiệp trong mô hình CĐL sản xuất lúa ở ĐBSCL từ năm 2014 đến năm 2018. Ở
đây, luận án rút ra kết luận có tính lý luận và thực tiễn là: đảm bảo hài hòa quan hệ
LIKT là "chất kết dính" người nông dân và doanh nghiệp trong phát triển CĐL và là
nhân tố đảm bảo cho CĐL phát triển ổn định, hiệu quả, bền vững.
- Thứ 4, đề xuất các quan điểm định hướng và giải pháp mang tính toàn diện
và khả thi nhằm giải quyết hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp
trong mô hình CĐL ở ĐBSCL đến năm 2025.
6. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án gồm 4 chương 08 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN
1.1.1. Tổng quan các nghiên cứu về lợi ích kinh tế của các tác giả nước
ngoài và trong nước
Lợi ích kinh tế (LIKT) là vấn đề quan trọng của sản xuất và đời sống, nên từ
lâu, đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu dưới các góc độ
khoa học triết học, kinh tế chính trị, xã hội học, tâm lý học...
1.1.1.1. Các tác giả nước ngoài nghiên cứu về lợi ích kinh tế * Quan niệm về lợi ích kinh tế:
A.Smith với tác phẩm: "The wealth of nations" (Của cải của các dân tộc)
[95, tr.65] cho rằng: LIKT và phân công lao động chính là hai phạm trù có mối quan
hệ gắn bó với nhau. Thông qua phân công lao động, mỗi cá nhân sẽ trau dồi nghề
nghiệp của mình hoàn hảo và khiến việc lao động mang lại hiệu quả cao nhất, qua
đó sẽ làm cho lợi ích cá nhân tăng lên. Khi nói về vai trò của lợi ích, A.Smith cho
rằng: động lực thúc đẩy con người lao động để làm ra của cải vật chất cho xã hội,
tạo ra sự phồn thịnh của mọi quốc gia, mọi dân tộc chính là LIKT của mỗi cá nhân,
lòng ham tư lợi, vị kỷ của cá nhân, ham làm giàu. Ông cũng chỉ ra mối quan hệ giữa
lợi ích của toàn dân tộc, quốc gia và LIKT của cá nhân. Theo A.Smith, trong quá
trình hoạt động kinh tế, mỗi người đều theo đuổi lợi ích cá nhân, đều nỗ lực cải
thiện mức sống của mình, như thế tất yếu sẽ dẫn đến làm tăng của cải xã hội.
David Ricardo (1772 - 1823) với tác phẩm: Những nguyên lý của kinh tế
chính trị học và thuế khóa, đã cho rằng: LIKT của các giai cấp khác nhau được xây
dựng trên cơ sở giá trị, tiền lương và lợi nhuận. Do đó, việc tăng hay giảm tiền
lương sẽ không ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa, mà chỉ ảnh hưởng đến việc phân
phối giá trị đã được tạo ra giữa công nhân và tư bản. Chính vì vậy, nó sẽ ảnh hưởng
đến LIKT của họ. Khi giá trị vật phẩm tiêu dùng thiết yếu giảm xuống, tiền công lao
động giảm, lợi nhuận của nhà tư bản sẽ tăng lên. Điều đó được thể hiện trong số giá
trị mới được tạo ra, phần của công nhân được hưởng nhỏ hơn, còn phần của người
sử dụng lao động (hay là nhà tư bản) thì lớn hơn, đây là mối quan hệ tỷ lệ nghịch về
lợi ích, nếu lợi ích của người đi thuê công nhân tăng thì lợi ích của người đi làm
8
thuê sẽ giảm và ngược lại [93]. Phát hiện này của David Ricardo có ý nghĩa quan
trọng đối với việc nghiên cứu quan hệ lợi ích giữa chủ và thợ trong các cơ sở sản
xuất có thuê mướn lao động.
Tác giả B.B.Radaev (1971), trong tác phẩm: LIKT trong chủ nghĩa xã hội
[92], đã phân tích làm rõ bản chất của LIKT, nhận diện hệ thống LIKT trong chủ
nghĩa xã hội, tác giả đi sâu phân tích vai trò của LIKT như là động lực phát triển xã
hội trong môi trường xã hội chủ nghĩa của Liên Xô (cũ). Tác giả đã nhìn thấy mối
quan hệ biện chứng giữa LIKT với lợi ích tinh thần, LIKT riêng và lợi LIKT chung
của xã hội. Ông khẳng định, việc điều tiết tốt, hợp lý các mối quan hệ lợi ích sẽ tạo
động lực phát triển xã hội.
Theo "Bách khoa toàn thư Liên Xô", năm 1972 [34], lợi ích được phân loại
như sau: lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, LIKT, lợi ích chính trị; lợi ích cá nhân,
lợi ích tập thể, lợi ích xã hội, lợi ích giai cấp; lợi ích tiến bộ, lợi ích bảo thủ; lợi ích
trước mắt, lợi ích lâu dài; lợi ích căn bản, lợi ích không căn bản; lợi ích cấp bách,
lợi ích không cấp bách; lợi ích chính đáng, lợi ích không chính đáng.
* Về vai trò của lợi ích kinh tế:
Đa số các tác giả đều chỉ ra tính tích cực của lợi ích trong hoạt động của con
người. D.M.Xôraép, cho rằng: lợi ích tạo nên sức mạnh động lực bởi được phản ánh
trong tư tưởng và được tiếp nhận dưới hình thức nhân tố động cơ. Bản chất của sự
định hướng của lợi ích bao hàm trong nó, rằng cơ sở của nó nằm trong mâu thuẫn
giữa nhu cầu của chủ thể và điều kiện khách quan, mà trong khuôn khổ của những
điều kiện ấy những nhu cầu này không thể thực hiện. Chính những mâu thuẫn này
là những lực lượng thúc đẩy tính tích cực của con người. A.M.Đidcốp-xki, cho
rằng, lợi ích được nhận thức sẽ định hướng nhận thức nhu cầu và điều kiện khách
quan, đến lượt mình, nó xác định sự tìm kiếm phương thức, con đường và phương
tiện để giải quyết những mâu thuẫn của thực tiễn.
Tác giả Laprinmenco (1978) [63], trong tác phẩm: Những vấn đề lợi ích
trong chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đưa ra quan niệm về lợi ích, theo đó, ông cho
rằng: "Lợi ích chính là mối quan hệ xã hội khách quan của sự tự khẳng định xã hội
của chủ thể". Tác giả cùng phân tích và chỉ ra bản chất của lợi ích, ông cho rằng:
nghiên cứu quá trình tự khẳng định bản thân trong đời sống xã hội sẽ hiểu được bản
chất và nội dung lợi ích khách quan của chủ thể, điều này hợp lý vì hoạt động tự
khẳng định bản thân trong xã hội là nhân tố quan trọng nhất trong hoạt động có mục
9
đích của con người, vì khí con người thực hiện các hoạt động của mình sẽ bộc lộ
những đặc tính thể hiện rõ sự phù hợp của họ với vị trí và vai trò của mình trong xã
hội. Đó chính là nội dung của lợi ích và LIKT. Như vậy, có thể khẳng định nội dung
của LIKT là phương thức tự khẳng định xã hội của con người, thể hiện trước hết ở
phương thức thoả mãn những nhu cầu vật chất (nhu cầu kinh tế) của chủ thể.
Ông cũng phân tích những đặc tính của lợi ích nói chung, LIKT nói riêng và
đã tán thành quan điểm của V.I.Lênin khi cho rằng LIKT là một hiện tượng có thực,
biểu hiện của các quan hệ kinh tế khách quan. Tính khách quan của lợi ích thể hiện
ở chỗ, nó xuất hiện bên ngoài các chủ thể, không phụ thuộc vào nhận thức của các
chủ thể. Bên cạnh đó, LIKT cũng mang tính lịch sử cụ thể và tính giai cấp. Có thể
thấy, các quan điểm về LIKT của Laprinmenco trong tác phẩm này chủ yếu xuất
phát từ việc phân tích, phát triển các chỉ dẫn của Lênin về vấn đề này.
Đ.I.Tresnôccôp [120] cho rằng LIKT gắn bó mật thiết với NCKT, song,
LIKT không phải là NCKT. Theo Đ.I.Tresnôccôp, lợi ích là mối quan hệ khách
quan của xã hội, hay của một con người riêng lẻ đối với điều kiện sống của xã hội
và các nhu cầu hiện có của mình, là mối quan hệ kích thích, tác động đến tập thể
hay cá nhân mỗi người nhằm bảo đảm điều kiện thuận lợi cho đời sống và sự phát
triển của cá nhân hay tập thể, đấu tranh với những điều kiện cản trở sự tồn tại và
phát triển của họ. Nguồn gốc ra đời của LIKT chính là từ quá trình giải quyết mối
quan hệ giữa nhu cầu của con người với điều kiện sống. Chính thông qua việc giải
quyết mối quan hệ này, con người sẽ có được phương thức để tồn tại, hướng tới sự
phát triển cho cá nhân và xã hội. Quan điểm này của tác giả khá đồng nhất với một
số tác giả hiện nay khi khẳng định: LIKT là một phạm trù khách quan, nó sinh ra từ
NCKT, là phương thức để thoả mãn những nhu cầu đó.
1.1.1.2. Các tác giả trong nước nghiên cứu về lợi ích, lợi ích kinh tế
Một là, các nghiên cứu về LIKT nói chung.
Ở nước ta, nghiên cứu về LIKT được nhiều tác giả quan tâm trong những
năm 1980 bắt nguồn từ những tư tưởng đột phá về kinh tế trong Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá IV
(8/1979) với quan điểm "làm cho sản xuất bung ra"… khắc phục sai lầm, khuyết
điểm trong quản lý kinh tế; trong cải tạo XHCN, tạo ra động lực cho sản xuất, chú ý
kết hợp 3 LIKT - xã hội, tập thể và cá nhân người lao động, quan tâm hơn đến lợi
ích thiết thân của người lao động.
10
Các tác giả trong nước đều nghiên cứu về quan niệm, bản chất của LIKT, các
hình thức LIKT và vai trò động lực của LIKT trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu
của các tác giả nước ngoài, mà trực tiếp nhất là các quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen
và V.I.Lênin, các nhà nghiên cứu trong nước có chung quan điểm cho rằng:
- Cơ sở của LIKT là nhu cầu vật chất kinh tế khi đã được xác định về mặt xã
hội (tức là nhu cầu vật chất có khả năng thanh toán).
- Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, là hình thức biểu hiện
của quan hệ sản xuất mà trước hết là quan hệ sở hữu.
- Lợi ích kinh tế là một phạm trù mang tính chất giai cấp. Trong xã hội, do
địa vị của các giai cấp khác nhau nên NCKT và LIKT cũng hoàn toàn khác nhau.
Đồng thời, LIKT mang tính chất lịch sử rõ rệt. Trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ
phát triển của nền kinh tế - xã hội khác nhau, nhu cầu của con người luôn vận động
và thay đổi. Chính yếu tố nhu cầu thay đổi, tác động làm LIKT luôn biến đổi cho
phù hợp với sự thay đổi của nhu cầu.
- Lợi ích kinh tế đóng vai trò là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Có thể đề cập đến một số công trình tiêu biểu đề cập đến các vấn đề lý luận
nêu ở trên:
Tập thể tác giả cuốn "Bàn về LIKT" (1982) cho rằng "Lợi ích kinh tế là hình
thức biểu hiện của những quan hệ kinh tế, quan hệ giữa người với người trong sản
xuất". "Lợi ích kinh tế dưới chế độ xã hội chủ nghĩa được biểu hiện dưới hình thức
lợi ích của xã hội, lợi ích của tập thể, lợi ích của cá nhân người lao động" [102,
tr.9]. "Lợi ích kinh tế của xã hội là lợi ích của nhân dân lao động trên phạm vi cả
nước, lợi ích của tất cả các tập đoàn, các thành viên của xã hội xã hội chủ nghĩa. Lợi
ích kinh tế của xã hội nảy sinh trên cơ sở nhân dân lao động làm chủ tập thể về tư
liệu sản xuất, về lao động, đất đai, về tài nguyên thiên nhiên" [102, tr.11]. "Lợi ích
kinh tế là phạm trù kinh tế khách quan, là hình thức biểu hiện trước hết của quan hệ
sản xuất, nó không tuỳ thuộc vào ý chí, lòng ham muốn của con người" [102, tr.62].
và cho rằng, LIKT là cái biểu hiện của các quan hệ kinh tế dưới hình thức những
động cơ, mục đích, những nhân tố kích thích khách quan thúc đẩy hoạt động lao
động của con người… LIKT gắn chặt với nhu cầu kinh tế, vì có nhu cầu kinh tế mới
có LIKT tương ứng. Tuy nhiên, sẽ là không đúng nếu đồng nhất LIKT với nhu cầu
kinh tế… Bởi vì, LIKT là một phạm trù kinh tế khách quan, nó phát sinh và tồn tại
trên cơ sở của một quan hệ sản xuất nhất định, không phụ thuộc vào ý muốn con
11
người. Cũng như bất cứ một phạm trù kinh tế nào khác, LIKT tồn tại không tuỳ
thuộc ở chỗ người ta có nhận thức được nó hay không, mà do địa vị của họ trong hệ
thống sản xuất - xã hội quyết định. Vì vậy, LIKT tồn tại khách quan. Nhưng LIKT
muốn thực hiện được phải thông qua con người, thông qua hoạt động có ý thức của
con người... Người ta cũng không thể thực hiện được lợi ích của cá nhân nếu tách
khỏi quan hệ sản xuất. Nhưng đồng thời, quan hệ sản xuất không tự động dẫn đến
LIKT, nó chỉ tạo ra khả năng khách quan để thực hiện LIKT mà thôi... Theo tác giả
Lê Xuân Tùng: "LIKT được thể hiện trong cả bốn khâu của quá trình tái sản xuất: sản
xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng... Lợi ích kinh tế bao giờ cũng mang tính vật
chất và được biểu hiện cuối cùng trong các giá trị sử dụng, dưới hình thức những tư
liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Tính vật chất, đó là tiêu chuẩn để phân biệt LIKT
với các lợi ích khác như lợi ích chính trị, lợi ích tinh thần, lợi ích tâm lý,...
Tuy nhiên, cũng theo tác giả Lê Xuân Tùng: "Ở đâu có hoạt động sản xuất -
kinh doanh, ở đó có LIKT. Do đó, các cơ quan hành chính, phục vụ, hoạt động
không có tính chất kinh tế trực tiếp, nói chung không phải là chủ thể mang LIKT (ví
dụ: trường học, bệnh viện, thư viện, nhà văn hoá, câu lạc bộ, các cơ quan hành
chính, đoàn thể...).
Trong cuốn "Bàn về LIKT'', các tác giả cho rằng, "LIKT là một phạm trù
kinh tế khách quan, là hình thức biểu hiện trước hết của quan hệ sản xuất, nó
không tuỳ thuộc vào ý chí, lòng ham muốn của con người… LIKT bao giờ cũng
phản ánh một quan hệ sản xuất nhất định. Không có động cơ kinh tế nào đứng
ngoài quan hệ sản xuất" [102, tr.62]. Như vậy, theo tác giả Vũ Hữu Ngoạn, LIKT
có cơ sở từ nhu cầu kinh tế, LIKT mang tính khách quan không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người, LIKT phụ thuộc vào quan hệ sản xuất nhất định,
lợi ích mang bản chất xã hội.
Tác giả Nguyễn Đức Bách đã phân biệt nhu cầu và LIKT với nhu cầu và lợi
ích vật chất nói chung. Về nhu cầu và LIKT, tác giả cho rằng: "nhu cầu kinh tế biểu
thị những quan hệ kinh tế trực tiếp của chủ thể với những điều kiện, những sản
phẩm vật chất có tác dụng duy trì, phát triển sản xuất và đời sống của chủ thể trong
một nền sản xuất xã hội nhất định; LIKT biểu thị quan hệ kinh tế giữa các chủ thể
trước những nhu cầu kinh tế được phản ánh trong ý thức của các chủ thể thành động
cơ, mục đích chỉ đạo hành động nhằm thoả mãn một cách tối ưu các nhu cầu kinh tế
của họ trong một nền sản xuất xã hội nhất định" [3, tr.7].
12
Trong Luận án Tiến sĩ Kinh tế LIKT trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (những hình thức kết hợp và phát triển chúng trong lĩnh vực kinh tế xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam) năm 1984, tác giả Chu Văn Cấp đã đề cập đến các LIKT trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tác giả cho rằng, trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, "các LIKT là không đồng nhất và phức tạp, mỗi thành phần kinh tế có
những LIKT tương ứng", như "lợi ích giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể,
tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa", "lợi ích toàn dân, lợi ích tập thể và cá nhân
người lao động", "lợi ích của các nhà tư bản tư nhân, của những người sản xuất nhỏ
cá thể, tồn tại cùng với hệ thống các lợi ích xã hội chủ nghĩa của thời kỳ quá độ"
[18, tr.9]. Tác giả Chu Văn Cấp cũng đưa ra nhiều hình thức thể hiện sự kết hợp các
LIKT trong thời kỳ quá độ, trong đó nhấn mạnh tới các hình thức: "kế hoạch hoá
nền kinh tế quốc dân, tổ chức lao động và sản xuất, quản lý, kích thích vật chất"
[15, tr.8]. Tác giả cũng chỉ ra rằng, chỉ có sự kết hợp hài hoà các LIKT mới tạo
được động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nguyễn Linh Khiếu (1999), Lợi ích động lực phát triển xã hội [61]. Trong
tác phẩm này, ông đã tổng kết lại nhiều nghiên cứu khác nhau về lợi ích trong nước
và ngoài nước. Ông đã đưa ra một cách tiếp cận mới về khái niệm lợi ích, theo đó:
"Lợi ích chỉ có ý nghĩa là lợi ích trong các quan hệ lợi ích cụ thể. Ngoài quan hệ lợi
ích nó không còn là lợi ích nữa mà chỉ là cái có lợi hay có ích đối với các chủ thể ở
một hoàn cảnh nhất định. Trong trường hợp này, nó cũng giống như các đối tượng
thoả mãn nhu cầu hoặc chính là các đối tượng thoả mãn nhu cầu".
Tác giả cũng nêu ra khái niệm quan hệ LIKT như một khái niệm tiền đề để
giải thích khái niệm lợi ích. Ông cho rằng: "Quan hệ lợi ích là mối quan hệ khách
quan giữa các chủ thể có cùng nhu cầu và cùng đối tượng thoả mãn nhu cầu như
nhau trong việc thực hiện nhu cầu ấy". Quan hệ lợi ích chỉ nảy sinh trong những
hoàn cảnh xã hội nhất định và quan hệ lợi ích chỉ nảy sinh khi những nhu cầu trở
nên không trực tiếp thực hiện được.
Tác giả còn đi sâu phân tích các mối quan hệ biện chứng như: Quan hệ giữa
lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần; giữa lợi ích chung và lợi ích riêng; giữa lợi ích
trước mắt và lợi ích lâu dài. Các mối quan hệ biện chứng giữa các lợi ích tiêu biểu
với tư cách là động lực của xã hội nêu trên đã được tác giả biện giải rất rành mạch
và thuyết phục. Chẳng hạn, khi phân tích mối quan hệ giữa lợi ích vật chất và lợi
ích tinh thần, ông khẳng định: "Xét đến cùng thì các lợi ích vật chất đóng vai trò
13
quyết định và là tiền đề, là cơ sở để thực hiện các lợi ích tinh thần. Và thực hiện
được các lợi ích tinh thần sẽ tạo ra những khả năng mới trong sự nảy sinh cũng như
làm xuất hiện những phương thức thực hiện lợi ích vật chất mới". Về bản chất, vai
trò của lợi ích chung và lợi ích riêng, tác giả đã đi sâu phân tích và chỉ rõ vai trò,
động lực trực tiếp của lợi ích riêng trong việc thúc đẩy cá nhân hoạt động, nó chính
là nhân tố quyết định con người tích cực tham gia hoạt động xã hội, vì vậy nó là cơ
sở để thực hiện lợi ích chung. Trái lại, khi lợi ích chung của tất cả mọi thành viên
trong xã hội được thực hiện sẽ đóng vai trò là điều kiện và định hướng cho lợi ích
riêng, cho nên, chỉ khi tạo lập được mối quan hệ hài hoà giữa lợi ích chung và lợi
ích riêng mới có thể tạo ra sự phát triển của mỗi cá nhân và của cả xã hội. Tác giả
cũng tổng kết lại quá trình sử dụng vai trò, động lực của lợi ích trong thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Tác phẩm này là một công trình khoa học vừa mang tính lý luận
quan trọng về lợi ích nói chung vừa nghiên cứu về LIKT nói riêng.
Nguyễn Linh Khiếu (2002), với tác phẩm: Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi
ích [62]. Tác giả đi sâu phân tích cụ thể hơn về vai trò của LIKT trong phát triển kinh
tế - xã hội của Việt Nam. Ông khẳng định: "Quan hệ kinh tế của một xã hội biểu hiện
tập trung nhất của các quan hệ lợi ích". Trên cơ sở nghiên cứu các mối quan hệ kinh
tế thể hiện cụ thể các quan hệ LIKT, ông cho rằng: Trong nền kinh tế xã hội của Việt
Nam hiện nay có những xu hướng vận động cụ thể như: Kinh tế nhà nước vận động
theo xu hướng mà Đảng và Nhà nước ta mong muốn, đó là đảm bảo đúng "định
hướng xã hội chủ nghĩa"; kinh tế tập thể vận động theo cơ chế thị trường; kinh tế tư
bản nhà nước và tư bản tư nhân vận động theo xu hướng phát triển tư bản chủ nghĩa;
kinh tế cá thể, tiểu chủ vận động theo hướng kinh tế tư nhân. Tương ứng với mỗi xu
hướng vận động lại có một hệ thống LIKT riêng. Các xu hướng vận động này theo
nhiều hướng khác nhau, với thực trạng kinh tế xã hội hiện nay, thấy rằng tất cả các xu
hướng đều đưa nền kinh tế nước ta ngày một phát triển. Đó là một sự vận động theo
hướng tổng lực các thành phần kinh tế, trong đó, các thành phần kinh tế vận động
theo xu hướng xã hội chủ nghĩa đang đóng vai trò chủ đạo.
Hai là, một số tác giả cũng đã nghiên cứu đến lợi ích của nông dân và những
vấn đề liên quan đến lợi ích của họ
Vương Đình Cường [24] đã đề cập đến vai trò của nông dân, nông dân tập
thể ở nước ta: là chủ thể chính trong phát triển nông nghiệp nước ta để cung cấp
lương thực, thực phẩm cho đời sống xã hội, cung cấp nguyên liệu, là thị trường tiêu
14
thụ hàng công nghiệp... Nông dân trong mọi thời kỳ cách mạng, họ là lực lượng
chính tạo dựng sự ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn...
Lợi ích của nông dân trong thời kỳ trước đổi mới và những năm đầu của đổi
mới, bao gồm: thu nhập từ kinh tế tập thể - kinh tế hợp tác theo ngày công. Thu
nhập từ kết quả ''vượt" khoán sản phẩm của hợp tác xã và thu nhập từ hoạt động của
kinh tế hộ nông dân (sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn)...
Tác giả Đặng Quang Định [38], cho rằng:
(1) Ở nước ta hiện nay giai cấp nông dân là giai cấp của những người lao
động nông nghiệp, lấy sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư
nghiệp) làm ngành nghề chủ yếu. Đây là giai cấp có số lượng lớn nhất, chiếm
khoảng 70% dân cư, tập trung chủ yếu ở nông thôn, năm 2006, cả nước có 10,46
triệu hộ làm nông, lâm nghiệp và thuỷ sản.
(2) Những năm gần đây, nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam có
nhiều thay đổi to lớn. Thu nhập và đời sống nông dân ngày được nâng lên, tình
trạng đói nghèo giảm đáng kể, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng
cao... nông dân ngày càng có đóng góp quan trọng vào công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn.
(3) Hiện nay, LIKT chủ yếu của nông dân nước ta gồm:
Thứ 1, thu nhập từ sản xuất kinh doanh nông, lâm, thuỷ sản. Đây là nguồn
thu nhập chủ yếu của nông dân hiện nay. Năm 2006, có 76% số hộ nông dân tham
gia hoạt động tạo thu nhập từ nguồn này và số hộ có nguồn thu nhập chính từ nông,
lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 79,15%.
Thứ 2, thu nhập từ mua, bán, cho thuê, chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Thứ 3, thu nhập từ sản xuất kinh doanh, công nghiệp, xây dựng. Năm 2006,
số hộ có thu nhập chính từ nguồn này là 6,1%.
Thứ 4, thu nhập từ dịch vụ. Năm 2006 số hộ có thu nhập chính từ nguồn này
chiếm 11,25%.
Thứ 5, thu nhập từ các nguồn khác. Năm 2006, có tới 3,7% số hộ nông dân
có thu nhập từ nguồn này (sản xuất ngành nghề thủ công).
Ngoài ra, một bộ phận nông dân cũng được trợ cấp từ nhà nước thông qua
các chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách đào tạo lao động, chính sách an sinh
xã hội... Các chính sách trên trở thành cách thức phân phối lại cho nông dân dưới
dạng phúc lợi xã hội qua đó nhằm điều chỉnh quan hệ lợi ích trong xã hội.
15
(4) Tác giả Đặng Quang Định còn đề cập đến các hình thức thể hiện sự thống
nhất LIKT giữa công nhân, nông dân và trí thức là:
- Phát triển ngành công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản. Đây là lĩnh vực,
ngành sản xuất thể hiện rõ nhất sự thống nhất LIKT của công nhân, nông dân và trí thức.
- Mô hình hợp tác, liên kết 4 nhà (nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học
và nhà nông) trong lĩnh vực nông nghiệp. Tác giả đã đưa 2 mô hình hợp tác, liên kết
có tính điển hình là: Mô hình Công ty cổ phần Mía đường Lam Sơn và Hợp tác xã
nông nghiệp Duy Sơn 2, xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
Ngoài những mô hình tiêu biểu trên, tác giả Đặng Quang Định còn đề cập
đến hình thức liên kết; hợp tác đa dạng để cùng thực hiện lợi ích của công nhân;
nông dân và trí thức là Hợp đồng mướn kỹ sư của nông dân xã Hoà Ân, huyện Cầu
Kè, tỉnh Trà Vinh. Đây là sự liên kết, hợp tác hiệu quả.
Cùng với việc nêu ra các hình thức thể hiện sự thống nhất LIKT giữa công
nhân, nông dân và trí thức, tác giả Đặng Quang Định cũng nêu ra một số biểu hiện
thiếu thống nhất LIKT của 3 chủ thể này. Đó là:
- Tình hình tranh chấp việc làm trong lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp, đặc
biệt là tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm của cả công nhân, nông dân và trí thức.
- Tình trạng tranh chấp, vi phạm một số LIKT trong việc thu hồi đất của
nông dân để phát triển công nghiệp và dịch vụ; những tranh chấp giữa nông dân và
doanh nghiệp ở một số nơi; sự chênh lệch về thu nhập và thụ hưởng phúc lợi xã hội
giữa các tầng lớp xã hội (sự chênh lệch về thu nhập giữa thành thị và nông thôn,
giữa các tầng lớp trong xã hội; so với công nhân và trí thức thì mức độ thụ hưởng
các chế độ, chính sách từ an sinh xã hội của nông dân thấp).
Những phân tích của tác giả Đặng Quang Định về những vấn đề liên quan
đến quan hệ lợi ích giữa công nhân, nông dân và trí thức ở nước ta hiện nay, thực sự
là sâu sắc, có giá trị tham khảo tốt.
Tác giả Vũ Văn Phúc, Nguyễn Thị Minh Châu [86] đã đi vào phân tích một
nội dung của LIKT của nông dân là sự hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân.
- Trước hết, các tác giả đã nêu quan niệm về chính sách hỗ trợ nông dân của
Nhà nước, là "chính sách hỗ trợ nông dân của Nhà nước là tổng thể các quan điểm,
chủ trương, đường lối, phương pháp và công cụ của Nhà nước sử dụng để tác động
vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân, nhằm thực hiện các mục tiêu mà
nhà nước mong muốn ở nông dân" [86, tr.34-35].
16
- Mục tiêu của chính sách hỗ trợ nông dân bao gồm cả khía cạnh kinh tế (tạo
điều kiện cho nông dân thực thi nền nông nghiệp tiên tiến, hiện đại, trên cơ sở đó có
thu nhập và đời sống tốt hơn), khía cạnh xã hội - mục tiêu xã hội -(góp phần xoá đói,
giảm nghèo, giảm độ chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn; xây dựng
nông thôn mới); khía cạnh, chính trị - mục tiêu chính trị - xây dựng giai cấp nông dân
vững mạnh, là chỗ dựa và là hậu thuẫn của Đảng Cộng sản và Nhà nước XHCN, thắt
chặt tình đoàn kết công - nông - trí thức trong quá trình đi lên CNXH [86, tr.35-36].
- Nội dung của chính sách hỗ trợ nông dân của Nhà nước, bao gồm: (1) hỗ
trợ nông dân xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; (2) tạo điều kiện để
nông dân tiếp cận các nguồn lực thuận lợi, an toàn, chi phí thấp; (3) tạo điều kiện để
nông dân có sức mạnh thoả thuận trên thị trường tiêu thụ nông sản; (4) giúp nông
dân ổn định thu nhập khi nông dân gặp khó khăn; (5) hỗ trợ pháp lý, kỹ thuật và xã
hội cho nông dân.
Những nội dung hỗ trợ nông dân được thực hiện bằng các công cụ và cơ chế
tác động dưới đây: Miễn giảm thuế và trợ cấp thu nhập trực tiếp; khuyến nông,
khuyến ngư, khuyến công; đầu tư của Nhà nước để xây dựng cơ sở hạ tầng nông
nghiệp, nông thôn; chính sách đất đai, thực chất là chế độ quản lý đất nông nghiệp
có lợi cho nông dân; xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh hiệu quả ở
nông thôn; hỗ trợ tổ chức Hiệp hội ngành nghề và củng cố Hội nông dân; hỗ trợ đào
tạo nghề nghiệp và giúp nông dân tạo việc làm; tổ chức, quản lý thị trường nông
sản, vật tư nông nghiệp; cung cấp dịch vụ công ở nông thôn.
Đặc biệt là cuốn sách đã dành nhiều trang để đánh giá quá trình triển khai
chính sách hỗ trợ nông dân của Nhà nước ta trong thời gian qua. Và từ đó nêu ra các
giải pháp tiếp tục đổi mới chính sách hỗ trợ nông dân của Nhà nước trong thời gian
tới. Những phân tích về nội dung chính sách hỗ trợ nông dân và công cụ và cơ chế
tác động của chính sách hỗ trợ nông dân của Nhà nước ta, có giá trị tham khảo tốt
cho NCS khi đi tìm giải pháp gia tăng LIKT của nông dân trong mô hình CĐL.
Đỗ Huy Hà (2013), Giải quyết quan hệ LIKT trong quá trình đô thị hoá ở
nước ta hiện nay [40]. Tác giả nghiên cứu về quá trình đô thị hóa, chỉ ra rằng việc
thu hẹp đất sản xuất nông nghiệp đưa đến tình trạng người nông dân bị mất một
phần lớn hoặc toàn bộ đất sản xuất dẫn đến khó khăn tìm nghề kiếm sống vì họ chỉ
quen với sản xuất nông nghiệp, trình độ văn hoá thấp và sự thay đổi cách sống, lề
thói, phong tục tập quán, kéo theo nhiều hệ luỵ… Trong luận án, tác giả đưa ra khái
17
niệm về LIKT. Theo đó: LIKT là những quan hệ kinh tế phản ánh những nhu cầu,
động cơ khách quan về sự hoạt động của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động
kinh tế - xã hội và do hệ thống quan hệ sản xuất quyết định. Tác giả đã nghiên cứu
những kết quả tích cực trong xử lý quan hệ LIKT; những hạn chế, khó khăn về việc
xử lý các quan hệ LIKT phát sinh trong quá trình đô thị hoá ở Hà Nội. Từ đó, đề
xuất một số giải pháp cơ bản nhằm giải quyết mối quan hệ LIKT trong quá trình đô
thị hoá, để giải quyết hài hoà các quan hệ về LIKT giữa các chủ thể.
Trần Thị Lan (2002), Quan hệ LIKT trong thu hồi đất của nông dân để xây
dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở Hà Nội [64]. Luận án Tiến sĩ Kinh tế
trình bày thực trạng giải quyết các quan hệ các mối quan hệ LIKT giữa các chủ thể
kinh tế, nảy sinh trong thu hồi đất của nông dân để xây dựng các khu công nghiệp
và khu đô thị mới ở Hà Nội và nêu các giải pháp để giải quyết hài hoà các LIKT...
1.1.2. Những nghiên cứu liên quan đến mối quan hệ liên kết, chuỗi giá
trị và lợi ích kinh tế trong phát triển cánh đồng lớn
1.1.2.1. Các nghiên cứu của các tác giả ngoài nước về quan hệ liên kết và
chuỗi giá trị
Theo Eaton, C. and Shepperd (2001), Contract farming: Partnerships for
Growth [127]: có 07 hình thức liên kết giữa nông dân với thị trường: i) liên kết giữa
nông dân với thương lái; ii) liên kết giữa nông dân với người bán lẻ; iii) liên kết
thông qua đại diện nông dân; iv) liên kết thông qua HTX; v) liên kết giữa nông dân
và nhà chế biến; vi) liên kết giữa nông dân và nhà xuất khẩu; vii) liên kết theo hợp
đồng. Như vậy, liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp trong CĐL là một hình thức
liên kết, gắn người nông dân với thị trường tiêu thụ.
Trong nghiên cứu của Rozhan Abu Dardak (2015) [130], Cooperative
Movement in the Supply Chain of Agricultural Products: Way Forwards,
International Seminar on Improving Food Marketing Efficiency-the Role of
Agricultural Cooperatives, tác giả cho rằng những người nông dân có quy mô ruộng
đất dưới 1ha ở Malaysia phải tham gia chuỗi cung ứng dài hơn với nhiều tác nhân
trung gian làm cho người tiêu dùng phải chi trả với giá cao để mua sản phẩm, thì
người nông dân sản xuất ra sản phẩm lại chỉ được nhận một mức giá bán thấp. Qua
nghiên cứu này, tác giả nhận thấy rằng việc liên kết trực tiếp giữa nông dân và
doanh nghiệp được tổ chức tốt sẽ làm giảm bớt các khâu trung gian trong chuỗi, qua
đó có thể giúp người nông dân được lợi nhiều hơn từ giá bán sản phẩm. Nghiên cứu
18
cũng khẳng định tính bền vững của hợp tác trong chuỗi cung ứng phần lớn phụ
thuộc vào mức độ tham gia của các chủ thể trong chuỗi. Tương tự, sự tin tưởng giữa
các tác nhân trong chuỗi giá trị sẽ giúp các bên tham gia chia sẻ quyền lực và đó
chính là yếu tố tác động để tăng cường mối quan hệ trong hệ thống chuỗi.
Các tác giả Yiching Song, Gubo Qi, Yanyan Zhang & Ronnie Vernooy (2014)
[134], "Farmer cooperatives in China: diverse pathways to sustainable rural
development" trên cơ sở dữ liệu khảo sát quốc gia Trung Quốc và nghiên cứu hai
HTX điển hình của Trung Quốc đã đưa ra nhận định: HTX nông nghiệp tạo điều
kiện tốt hơn cho hợp tác kinh tế và tiếp cận thị trường, giúp tăng khả năng cạnh
tranh, giảm chi phí giao dịch và chi phí đầu tư, tăng giá bán nông sản qua đó tăng
thu nhập cho người nông dân ở Trung Quốc. Dưới góc độ xã hội, liên kết ngang
thông qua HTX thể hiện tính bền chặt vững chắc, giảm rủi ro cho các hoạt động
kinh tế và tăng mức độ công nghiệp hóa cho quản lí nông nghiệp.
Trong các nghiên cứu về chuỗi giá trị hàng nông sản và phát triển chuỗi giá
trị hàng nông sản trước hết cần kể đến nghiên cứu của Jonh Humphrey (2005)
[130]: Shaping Value Chains Development: Global Value Chains in Agribusiness,
Federal Ministry for Economic Coperation and Development - Các chuỗi giá trị
toàn cầu trong Kinh doanh Nông nghiệp, Bộ Hợp tác và Phát triển Kinh tế Liên
bang. Theo Jonh Humphrey, các phương pháp tiếp cận theo chuỗi giá trị đã được
phát triển theo thời gian và được sử dụng như một công cụ phân tích chính trong
nghiên cứu thị trường hàng nông sản quốc tế. Phân tích chuỗi giá trị hàng nông sản
là phân tích việc tổ chức các hoạt động kinh tế cũng như các tác nhân tham gia từ
sản xuất đến thị trường, xác định cơ cấu sản xuất, thương mại và tiêu thụ sản phẩm.
Ba thành tố chính của phân tích chuỗi giá trị được xác định là: (i), quan hệ đầu vào -
đầu ra và những yếu tố địa kinh tế; (ii), khuôn khổ thể chế và cơ cấu quản trị và
(iii), phương thức chia sẻ lợi ích giữa các tác nhân tham gia chuỗi giá trị.
Trong nghiên cứu này, một phương diện thứ tư - quan hệ giữa các nhà vận
hành chuỗi và các nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ - cũng được đề cập đến do phân tích
chuỗi giá trị cũng có thể được sử dụng như một công cụ để nghiên cứu liên kết theo
chiều dọc. Vì những ''nhà'' này có tiềm lực để thực hiện kiểu hợp đồng này nên họ
được coi là công ty đầu mối trong chuỗi giá trị - và chính những người bán quy mô
nhỏ phải tự điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu của các công ty đầu mối. Nghiên cứu
của Jonh Humphrey có giá trị tham khảo tốt cho việc phân tích vai trò của các chủ
19
thể trong phát triển chuỗi giá trị dựa vào ba thành tố chính và mối quan hệ giữa các
nhà vận hành chuỗi trong mối liên kết dọc.
1.1.2.2. Các nghiên cứu của các tác giả trong nước
- Thứ 1, các nghiên cứu về mô hình cánh đồng lớn:
"Cánh đồng lớn" là mô hình sản xuất mới trong nông nghiệp, phổ biến là
trong sản xuất lúa. Mô hình này được manh nha vào cuối năm 2009 đầu năm 2010
tại tỉnh An Giang. Những hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của mô hình này
đã tạo ra sự quan tâm rất lớn của Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học. Mô hình
này đã trở thành đối tượng nghiên cứu của các cơ quan, tổ chức và các nhà khoa học
dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhiều công trình đã được công bố dưới dạng các ấn
phẩm khoa học khác nhau. Các tác giả đã nghiên cứu làm rõ mô hình CĐL ở
ĐBSCL(ĐBSCL) trong lĩnh vực canh tác lúa dưới các khía cạnh: quan niệm CĐL,
tính tất yếu và mục tiêu phát triển CĐL, vai trò, hiệu quả của mô hình CĐL, các giải
pháp nhằm phát triển bền vững mô hình CĐL.
Các công trình nghiên cứu tiêu biểu về vấn đề này:
Vũ Trọng Bình và Đặng Đức Chiến [5], Cánh đồng mẫu lớn: Lý luận và tiếp
cận thực tiễn trên thế giới và Việt Nam. Các tác giả bài viết cho rằng: Cánh đồng
mẫu lớn (CĐML) là khái niệm ở Việt Nam ban đầu được hiểu là làm mẫu những
CĐL, do vậy, nếu nhân rộng ra nên gọi là "cánh đồng mẫu lớn". Việc xây dựng cánh
đồng mẫu lớn thực chất được thực hiện ở Việt Nam qua nhiều thời kỳ, kể từ hợp tác
hoá nông nghiệp đến nay. Quan niệm về "cánh đồng mẫu lớn" của các tác giả này là
"những cánh đồng có thể một hay nhiều chủ, nhưng có cùng quy trình sản xuất, cùng
kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, cung ứng đồng đều và ổn định về số lượng và chất lượng
theo yêu cầu thị trường dưới một thương hiệu nhất định". Trên cánh đồng mẫu lớn
diễn ra các mối quan hệ liên kết giữa nông dân với nông dân, giữa nông dân với nhà
doanh nghiệp, nhà nước và nhà khoa học. Nông dân là chủ thể chính trong cánh đồng
mẫu lớn. Các tác giả cũng đề cập đến một số trường hợp xây dựng CĐL ở nước ngoài
như: sản xuất rượu nho ở Pháp; trồng rau ở Philippines; sản xuất lúa ở Malaysia và
chỉ ra một số nguyên tắc dẫn đến thành công của các mô hình trên.
Đỗ Kim Chung và Kim Thị Dung [27], Cánh đồng mẫu lớn trong nông
nghiệp: một số vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển. Các tác giả đã tập trung làm rõ
khái niệm cánh đồng mẫu lớn; phân tích tính tất yếu và vai trò của cánh đồng mẫu
lớn, các điều kiện phát triển cánh đồng mẫu lớn. Bài viết cũng phân tích, đánh giá
20
thực trạng phát triển và hiệu quả của mô hình này trong sản xuất nông nghiệp. Qua
đó, các tác giả đã chỉ ra một số khó khăn, hạn chế của mô hình và đề xuất các giải
pháp phát triển thời gian tới.
Trần Văn Hiếu [44], Cánh đồng mẫu lớn" - Mô hình liên kết "Bốn nhà" bước
đầu có hiệu quả ở ĐBSCL. Bài viết bước đầu đã đánh giá hiệu quả từ mô hình liên
kết 4 nhà trong sản xuất lúa ở ĐBSCL. Bài viết đã chỉ ra những khó khăn, thách
thức, đồi hỏi cả Nhà nước, hộ nông dân cũng như các doanh nghiệp tham gia vào
mô hình phải cùng nhau giải quyết, đồng thời đề xuất các giải pháp để nhân rộng
mô hình này thời gian tới.
Chu Văn Cấp và Lê Xuân Tạo (2013), "Cánh đồng mẫu lớn" ở ĐBSCL- mô
hình sản xuất hiệu quả" [19]. Bài viết đã đề cập đến mô hình "cánh đồng mẫu lớn"
là mô hình liên kết 4 nhà (doanh nghiệp, nhà nước, khoa học và nhà nông) thâm
canh lúa hiệu quả, bền vững theo hướng thực hành sản xuất tốt (GAP). "Cánh đồng
mẫu lớn" giúp giải quyết bài toàn đưa nông hộ nhỏ ra CĐL, qua đó nâng cao hiệu
quả toàn bộ chuỗi giá trị lúa gạo. Các tác giả đã phân tích những thành công, khó
khăn, hạn chế trong việc triển khai mô hình "cánh đồng mẫu lớn" ở ĐBSCL thời
gian từ 2011-2013. Phân tích và chỉ ra sự cần thiết phải nhân rộng và nâng cao chất
lượng của mô hình "cánh đồng mẫu lớn" với một số giải pháp cụ thể.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học với chủ đề Nâng cao hiệu quả các cánh đồng lớn
trong xây dựng chuỗi giá trị lúa gạo do Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang (Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật
An Giang) tổ chức vào tháng 4/2016. Các bài viết của Hội thảo tập trung làm rõ
những vấn đề lý luận và thực tiễn về "cánh đồng lớn", hiệu quả của mô hình CĐL,
những vấn đề đặt ra trong xây dựng mô hình CĐL hiện nay, đề xuất các giải pháp
phát triển bền vững mô hình CĐL trong xây dựng chuỗi giá trị lúa gạo.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học với chủ đề Vai trò của cánh đồng mẫu lớn trong
xây dựng nông thôn mới do Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần
Thơ tổ chức ngày 25/10/2013. Các bài viết của Hội thảo tập trung làm rõ những vấn
đề lý luận và thực tiễn về "cánh đồng mẫu lớn", đặc biệt nhấn mạnh vai trò của "cánh
đồng mẫu lớn" trong xây dựng nông thôn mới. Một số bài viết cũng đã đề cập và có
đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của các cánh đồng mẫu lớn tại thành
phố Cần Thơ, trong đó nhấn tập trung phần lớn cho đánh giá hiệu quả về kinh tế.
Nguyễn Quốc Dũng (2016) [33], Hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của
21
mô hình ''cánh đồng mẫu lớn'' ở đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Lý luận Chính trị,
Hà Nội. Cuốn sách đã hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về hiệu quả
kinh tế, xã hội và môi trường của mô hình "Cánh đồng lớn". Đưa ra các khái niệm,
chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng cùng hệ thống các tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế,
hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường của mô hình CĐL. Nghiên cứu kinh nghiệm
thế giới và trong nước về phát triển mô hình CĐL và rút ra 6 bài học kinh nghiệm
có thể vận dụng trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của mô
hình CĐL ở ĐBSCL. Đi sâu phân tích hiệu quả của mô hình CĐL trên 3 phương
diện: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. Tác giả cuốn sách
cũng nêu lên 5 vấn đề thuộc về tồn tại, hạn chế ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế, xã
hội và môi trường của mô hình CĐL ở ĐBSCL. Đồng thời, phân tích, chỉ rõ các
nguyên nhân khách quan và chủ quan của hạn chế, tồn tại cần có giải pháp khắc
phục để nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của mô hình CĐL ở
ĐBSCL. Tác giả đã phân tích những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao hiệu quả
kinh tế, xã hội và môi trường của mô hình CĐL ở ĐBSCL. Cuốn sách đã đưa ra
những dự báo về thuận lợi, khó khăn trong phát triển mô hình CĐL ở ĐBSCL thời
gian tới. Qua đó, đề xuất phương hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế,
xã hội và môi trường của mô hình CĐL ở ĐBSCL.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học với chủ đề Cánh đồng lớn do Văn phòng Ban chỉ
đạo Trung ương chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tổ chức
tại thành phố Cần Thơ tháng 4 năm 2014. Các bài viết của Hội thảo đã đề cập
nhiều vấn đề liên quan đến mô hình CĐL như: lý luận và tiếp cận thực tiễn CĐL
trên thế giới và Việt Nam; liên kết sản xuất lúa theo cánh đồng lớn vùng
ĐBSCL; giải pháp sau thu hoạch trong CĐL để phát triển bền vững sản xuất lúa
ở ĐBSCL v.v… Các bài viết cũng đề cập và phân tích những hiệu quả của mô
hình này mang lại, trong đó có đề cập đến một số hiệu quả về kinh tế, xã hội và
môi trường của mô hình CĐL.
Nguyễn Phú Son (2018), Nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội của mô hình cánh
đồng lúa lớn tại đồng bằng sông Cửu Long [96]. Thông qua khảo sát 180 hộ sản
xuất lúa trong mô hình CĐL và 180 hộ sản xuất lúa không tham gia mô hình CĐL ở
các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, tác giả đã đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội
của mô hình CĐL so với ngoài mô hình CĐL. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các hộ
sản xuất lúa trong mô hình CĐL đạt được hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả qui mô trong
22
cả 2 vụ Đông Xuân và Hè Thu đều cao và cao hơn so với các hộ sản xuất lúa ngoài
mô hình. Tuy nhiên, cả hai nhóm hộ đều chưa đạt hiệu quả chi phí tối ưu, trong đó
nhìn chung các hộ trong mô hình vẫn có hiệu quả hơn, mặc dù không chênh lệch
nhiều lắm. Điều này cho thấy các hộ nông dân tham gia mô hình CĐL vẫn còn dư địa
để gia tăng hiệu quả sản xuất nếu như họ cải thiện kỹ thuật sử dụng các yếu tố đầu
vào, cũng như năng động hơn trong khâu tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Ngoài ra, kết quả
nghiên cứu cũng đã xác định được có 3 yếu tác động có ý nghĩa đến hiệu quả chi phí
của các hộ sản xuất lúa như: năng lực liên kết với các nhà cung cấp đầu vào theo
hướng hộ nào có mối liên kết này sẽ đạt được hiệu quả càng cao; nguồn giống sử
dụng (mua từ các cơ sở sản xuất giống chuyên nghiệp hay tự để giống) theo hướng hộ
nào tự để lúa lại để làm giống sẽ đạt được hiệu quả chi phí càng thấp và khả năng tự
trang bị máy bơm của nông hộ theo hướng hộ nào có khả năng tự trang bị máy bơm
để phục vụ cho sản xuất sẽ đạt được hiệu quả chi phí cao hơn.
Tác giả cho rằng ngoài những lợi ích được mang lại cho nông hộ tham gia vào
CĐL, hoạt động của CĐL cũng đã mang lại những hiệu quả về mặt xã hội và môi
trường rõ nét đối với vùng sản xuất. Đặc biệt đã củng cố và phát triển thêm mối liên
kết ngang giữa các nông dân với nhau trong CĐL. Đồng thời cũng đã thúc đẩy cho
mối liên kết dọc được bền vững hơn giữa nông dân và doanh nghiệp tham gia liên
kết. Ngoài ra, việc tham gia vào CĐL giúp cho các hộ nông dân giảm lượng phân
bón và thuốc bảo vệ thực vật cũng đã làm cho môi trường sống ở vùng nông thôn
tốt hơn và cũng đã làm cho nguồn tài nguyên đất được cải thiện hơn. Tác giả đã đề
xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của CĐL sản xuất lúa. Những
giải pháp này bao gồm: mở rộng thêm các CĐL đi đôi với việc nâng cao chất lượng
liên kết giữa các doanh nghiệp và các hộ tham gia trong CĐL thông qua hình thức
HTX hoặc THT; Tăng cường các hoạt động kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư vào
CĐL; đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất;
Nâng cao nhận thức liên kết của các hộ nông dân trong CĐL; nâng cao năng lực sản
xuất kinh doanh cho hộ sản xuất lúa tham gia CĐL; tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng
và phát triển ngành nghề nông thôn; tăng cường liên kết giữa các hộ sản xuất trong
CĐL với những nhà cung cấp và doanh nghiệp vật tư đầu vào và mở rộng, nâng cao
chất lượng liên kết dọc với người mua.
- Thứ 2, các nghiên cứu về liên kết kinh tế - cơ sở quan hệ lợi ích kinh tế
trong mô hình cánh đồng lớn.
23
Mô hình CĐL là sự cụ thể hoá chủ trương xây dựng vùng sản xuất hàng hoá
tập trung gắn với tiêu thụ sản phẩm thông qua hợp đồng theo Quyết định
80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ. Ở những mô hình
CĐL thường có mối liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp theo hợp đồng. Hình
thức liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp rất đa dạng tùy theo điều kiện thực tế
và sự sáng tạo của từng địa phương.
Liên kết kinh tế "4 nhà" trong mô hình CĐL sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp
của các nhà, tận dụng tốt nhất tiềm năng, lợi thế so sánh trong sản xuất nông nghiệp,
tăng giá trị sản phẩm, sử dụng tốt nguồn lực: đất đai, lao động... thúc đẩy phát triển
khoa học - kỹ thuật, gắn khoa học - công nghệ với sản xuất nông nghiệp và đời sống
nông dân. Mỗi bên tham gia liên kết trong mô hình CĐL đều thực hiện tốt vai trò,
nghĩa vụ, trách nhiệm của mình thì sẽ tạo ra sự thống nhất LIKT giữa các nhà, nhất
là nhà nông và nhà doanh nghiệp.
Những vấn đề lý luận nêu trên được thể hiện ở một số công trình nghiên cứu
có tính tiêu biểu dưới đây:
Trần Văn Hiếu (2005), Liên kết kinh tế giữa các hộ nông dân với doanh
nghiệp nhà nước - qua khảo sát mô hình nông trường sông Hậu, Công ty Mê Kông
và Công ty Mía đường Cần Thơ, luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh [43].
Trần Văn Hiếu (2013), "Cánh đồng mẫu lớn" - mô hình liên kết "bốn nhà"
bước đầu có hiệu quả ở ĐBSCL" [44].
Bài viết đã phân tích khá rõ sự ra đời và phát triển mô hình CĐL ở ĐBSCL
trong những năm 2010-2013. Trong mô hình CĐL, thường có mối liên kết giữa nông
dân và doanh nghiệp với sự đa dạng các hình thức liên kết, như: nông dân liên kết với
doanh nghiệp để nhận phân bón, thuốc trừ sâu từ doanh nghiệp; nông dân liên kết với
doanh nghiệp thu mua lúa,... hoặc liên kết "khép kín" các khâu từ cung ứng đầu vào
đến bao tiêu đầu ra cho nông dân... Tác giả bài báo đã đánh giá các mô hình CĐL ở
vùng ĐBSCL bước đầu mang lại những kết quả tích cực như: (i) Mô hình CĐL đã
gắn kết "4 nhà" với nhau, điều mà trong sản xuất nông nghiệp trước đây không thể
thực hiện được; (ii) CĐL đã dần hình thành người nông dân mới biết sản xuất lúa
theo đơn đặt hàng, theo nhu cầu tiêu thụ, xuất khẩu; (iii) Xây dựng mô hình CĐL là
con đường ngắn nhất tiến tới hình thành vùng nguyên liệu quy mô lớn thông qua liên
kết "4 nhà", rút ngắn sự chênh lệch về năng suất giữa các hộ, các thửa ruộng, các
vùng sản xuất... (iv) đảm bảo nguồn hàng xuất khẩu cho các doanh nghiệp,...
24
Tác giả bài báo cũng nêu lên những khó khăn, thách thức đòi hỏi doanh
nghiệp, nông dân, nhà nước tham gia mô hình CĐL cùng nhau giải quyết. Đồng
thời nêu ra các giải pháp để tiếp tục phát triển mô hình CĐL ở ĐBSCL trong thời
gian tiếp sau.
Bài viết "Liên kết 4 nhà" - xu hướng tất yếu của nền nông nghiệp hiện đại'',
theo baominhbinh.org.vn, đã cho rằng: Trong thời mở cửa và hội nhập, sản xuất
nông nghiệp rất cần sự liên kết 4 nhà gồm: nhà nông - nhà nước - nhà khoa học và
nhà doanh nghiệp. Mỗi nhà có vai trò của mình trong chuỗi liên kết 4 nhà, trong đó,
nông dân là nhân vật trung tâm, nhà doanh nghiệp là "đầu tàu" là động cơ của mối
liên kết, nhà khoa học có vai trò quan trọng trong việc tạo "đầu vào" có chất lượng
cao, giảm giá thành nhờ công nghệ..., Nhà nước là nhạc trưởng có vai trò tạo hành
lang pháp lý... phù hợp, lành mạnh đảm bảo cho sự liên kết 3 nhà còn lại chặt chẽ
và hiệu quả.
Như vậy, xu thế phát triển tất yếu của nền nông nghiệp hiện đại và bền vững
là xây dựng thành công mô hình liên kết "4 nhà". Bởi suy cho cùng, nếu liên kết
chặt chẽ tất cả các bên đều có lợi.
Bài viết "Các mô hình liên kết sản xuất lúa - Nền tảng phát triển "Cánh đồng
mẫu lớn" ở An Giang" của tác giả Đoàn Ngọc Phả đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử
ngày 19/9/2013. Tác giả đã phân tích sự liên kết sản xuất lúa của một số mô hình như:
liên kết sản xuất lúa Nhật; mô hình lên kết sản xuất theo kiểu xây dựng vùng nguyên
liệu của Công ty xuất nhập khẩu An Giang (Angimex); mô hình sản xuất lúa theo tiêu
chuẩn GLOBAL GAP; mô hình liên kết của Công ty bảo vệ thực vật An Giang. Khái
quát quá trình hình thành và phát triển mô hình CĐL ở An Giang, đánh giá hiệu quả
của mô hình và đề xuất giải pháp tăng cường liên kết phát triển mô hình CĐL.
Võ Hữu Phước [87], Nghiên cứu ứng dụng mô hình "liên kết bốn nhà" vào
thực tiễn sản xuất nông nghiệp nông thôn tỉnh Trà Vinh, Luận án Tiến sĩ kinh tế
phát triển, Học viện Khoa học xã hội. Tác giả luận án đi sâu làm rõ mô hình liên kết
bốn nhà trong đó có liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp. Tác giả phân tích thực
trạng liên kết bốn nhà trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Trà Vinh và đề
xuất các giải pháp thực hiện tót các mối liên kết bốn nhà trong sản xuất nông nghiệp
trên địa bàn tỉnh Trà Vinh. Trong quá trình phân tích mối quan hệ liên kết bốn nhà,
tác giả cũng đề cập nhiều đến mối quan hệ liên kết kinh tế giữa nông dân và doanh
nghiệp trong sản xuất nông nghiệp.
25
Hồ Quế Hậu [41], Liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến nông sản với
nông dân ở Việt Nam. Tác giả cuốn sách đã trình bày khá rõ sự cần thiết và xu
hướng phát triển các liên kết kinh tế, sản xuất trong nông nghiệp trên thế giới cũng
như ở Việt Nam. Cuốn sách đã giới thiệu các mô hình liên kết kinh tế, sản xuất ở
Việt Nam, trong đó nổi bật là Công ty cổ phần Mía đường Lam Sơn. Đây là một
công ty xác lập được quan hệ chặt chẽ giữa 4 nhà: nhà nước, nhà khoa học, nhà
doanh nghiệp và nhà nông, đặc biệt là quan hệ liên kết giữa nhà nông và doanh
nghiệp. Quan hệ liên kết này đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của Công ty trong
nhiều năm qua. Công ty đã tạo ra sự gắn kết giữa Công ty với vùng nguyên liệu;
gắn kết tổ chức hợp tác ổn định, bền vững với sản xuất nông nghiệp, nông thôn và
nông dân dưới sự hỗ trợ đắc lực của các nhà khoa học, nhà nước. Nhờ những
phương thức liên kết chặt chẽ, thực chất, hiệu quả, công ty đã tạo ra sự chuyển biến
to lớn đối với đời sống của nông dân và công nhân lao động của Công ty. Công ty
làm ăn có lãi, tạo được hàng vạn việc làm cho người lao động; công nhân và nông
dân ngày càng có thu nhập cao, góp phần xoá đói giảm nghèo ở nông thôn.
Cuốn sách đã nêu ra các giải pháp để củng cố hoàn thiện các quan hệ liên kết
kinh tế, sản xuất giữa doanh nghiệp chế biến nông sản với nông dân Việt Nam,
trong đó, nhấn mạnh đến giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là hợp đồng
kinh tế tiêu thụ sản phẩm; phân vai rõ trách nhiệm của các tác nhân trong chuỗi liên
kết, giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích của các bên tham gia liên kết.
Nguyễn Thị Kim Chi, Nguyễn Phúc Thọ [20] trong bài viết "Giải pháp tăng
cường liên kết nhà doanh nghiệp và nhà nông trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
nông nghiệp" đã khẳng định: mô hình "4 nhà" (nhà nước, nhà nông, nhà khoa học,
nhà doanh nghiệp) là mối liên kết có thể phát huy được sức mạnh tổng hợp của các
nhà, tận dụng có hiệu quả, tiềm năng, lợi thế của từng địa phương. Tuy nhiên giữa
"4 nhà" vẫn hoạt động chưa ăn khớp, đặc biệt là giữa nhà doanh nghiệp và nhà nông
vẫn thiếu bền vững, chỉ mang tính thời vụ, ngắn hạn, chưa đặt trọn niềm tin vào
nhau. Tác giả bài báo đã khuyến nghị các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của việc sản xuất và tiêu thụ nông sản qua liên kết "4 nhà".
Chi Mai, "Liên kết trong sản xuất: Xu thế phát triển tất yếu của nông nghiệp
hiện đại: tìm chất kết dính" [78]. Bài báo khẳng định là: trong kinh tế thị trường
cạnh tranh cần phải có sản phẩm với khối lượng lớn, chất lượng tốt, giá cả cạnh
tranh... nông dân cá thể không làm được điều này. Nông dân phải tổ chức được
26
"hành động tập thể" theo quy trình sản xuất chung trên CĐL dựa trên cơ sở liên kết
"4 nhà" (nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nông), trong đó chủ yếu là
nhà nông và nhà doanh nghiệp.
Đi tìm "chất kết dính" trong mối liên kết ấy, bài báo dẫn ý kiến của các
chuyên gia là: "doanh nghiệp phải đầu tư đảm bảo đầu vào sản xuất và đầu ra...",
"mấu chốt của thành công là thay đổi vị thế của nông dân". "Đặt lợi ích của nông
dân trên trên lợi ích của công ty là cách hiệu quả nhất để nông dân gắn bó lâu dài
với doanh nghiệp". "Phải làm cho nông dân "mắt thấy", "tai nghe" và phải đặt mục
tiêu lợi nhuận của nông dân lên hàng đầu". Theo Nguyễn Đăng Nghĩa, Viện Khoa
học Kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam, Liên kết "4 nhà" để đáp ứng các điều kiện cần
và đủ xây dựng nền nông nghiệp hiện đại. Các điều kiện cần, gồm: có sự nhận thức
và chỉ đạo thống nhất của các cấp lãnh đạo từ Chính phủ, các bộ ngành đến các địa
phương. Cần có liên kết "4 nhà" mà doanh nghiệp là hạt nhân và chính là mắt xích
quan trọng nhất trong chuõi liên kết; cần tuyên truyền, vận động, giải thích cho
nông dân về lợi ích khi tham gia chuỗi liên kết sản xuất. Cần có các doanh nghiệp
đủ tầm, đủ năng lực và tâm huyết để tham gia vào mô hình liên kết và rất cần sự
đóng góp công sức, trí tuệ, kinh nghiệm của các nhà khoa học... Các điều kiện đủ,
gồm: phải có đủ diện tích sản xuất nông nghiệp theo tiêu chí CĐL. Phải có đủ "4
nhà" cùng thực hiện liên kết nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện các hợp đồng sản xuất.
Trong đó, chủ yếu là nhà doanh nghiệp và nhà nông cùng thực hiện trong 1 dự án có
sự hỗ trợ về cơ chế chính sách của Nhà nước và sự hỗ trợ ứng dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật cho năng suất cao, chất lượng tốt, giá thành sản phẩm hạ... của nhà
khoa học. Bên cạnh đó phải có đủ máy móc, kho bãi phục vụ chăm sóc, thu hoạch
phù hợp với quy mô diện tích, sản lượng của từng cánh đồng liên kết.
- Thứ 3, nghiên cứu hàng nông sản Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị
toàn cầu.
Năm 2010, tác giả Đinh Văn Thành cùng nhóm các nhà khoa học Viện
Nghiên cứu Bộ Thương mại đã công bố cuốn sách: ''Tăng cường năng lực tham gia
của hàng nông sản vào chuỗi giá trị toàn cầu trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam''
[104]. Mục tiêu nghiên cứu được xác định là ''năng lực tham gia của hàng nông sản
vào chuỗi giá trị toàn cầu…'' nên sau khi hệ thống hóa các vấn đề lý luận: các đặc
điểm của chuỗi giá trị nông sản toàn cầu, các mô hình chuỗi giá trị nông sản và
khung khổ phân tích chuỗi giá trị hàng nông sản toàn cầu, các tác giả đã tập trung
27
phân tích và đánh giá thực trạng năng lực tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của
một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. Cụ thể, năng lực tham
gia của chuỗi giá trị gạo, cà phê, cao su thiên nhiên, hạt tiêu, hạt điều, quả nhiệt đới,
hoa tươi và sản phẩm thịt. Do hướng tiếp cận nghiên cứu của các tác giả là nhằm làm
rõ năng lực tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của từng mặt hàng, nên kết quả khảo sát
hướng vào mức độ tham gia các khâu: R&D, sản xuất, chế biến, phân phối và dịch vụ
với thang đánh giá gồm 5 bậc: rất tốt, tốt, khá, trung bình và kém. Mặc dù nghiên cứu
này chưa nêu được khái niệm chuỗi giá trị nông sản, chuỗi giá trị nông sản toàn cầu
và làm rõ vai trò của từng tác nhân trong từng chuỗi nông sản, nhưng theo tác giả,
đây là một công trình nghiên cứu công phu, có giá trị tham khảo tốt, nhất là ở phương
pháp tiếp cận nghiên cứu năng lực tham gia của các chuỗi nông sản Việt Nam vào
chuỗi giá trị toàn cầu. Đặc biệt, từ việc phân tích đặc điểm của chuỗi giá trị nông sản,
tác giả đã có cơ sở khoa học khi đưa ra mô hình chuỗi giá trị hàng nông sản.
Giá trị gia tăng
Giá trị gia tăng
Phân phối Marketing
Thiết kế
Sản xuất
R&D
Hình 1.1: Mô hình chuỗi giá trị hàng nông sản
Nguồn: Đinh Văn Thành (2010), Tăng cường năng lực tham gia của hàng nông sản
vào chuỗi giá trị toàn cầu [104, tr.31].
Cùng chủ đề trên, trong nghiên cứu Xây dựng và phát triển thương hiệu cho
nông sản Việt Nam tham gia chuỗi giá trị toàn cầu - Đề tài cấp Nhà nước
KX.01.16/06-10, 2009, tác giả Nguyễn Quốc Thịnh [105] đã khái quát và đưa ra ba mô
hình cơ bản trong chuỗi giá trị toàn cầu đối với hàng nông sản Việt Nam như sau:
Một là, mô hình chuỗi giá trị hàng nông sản do nhà sản xuất triển khai và
quản lý. Chuỗi giá trị này được hình thành trên cơ sở những người sản xuất tự liên
kết với nhau, sau đó sẽ thu hút sự tham gia của các bên cung ứng vật tư, giống, chế
biến, vận chuyển, các nhà xuất khẩu và cuối cùng là các nhà phân phối, bán lẻ. Vai
trò điều hành chuỗi loại này thường là một hiệp hội hay một liên minh của các nhà
28
sản xuất. Lợi thế của chỉ dẫn địa lý sẽ được khai thác tối đa để trở thành thương
hiệu cho nông sản - yếu tố then chốt để cạnh tranh.
Hai là, chuỗi giá trị hàng nông sản do người bán lẻ quản lý. Sự tham gia của
nông sản vào mô hình này thường ở dạng đã chế biến hoàn chỉnh hoặc các loại rau
quả tươi, nông sản tươi sống. Để tham gia vào chuỗi giá trị này, quy trình sản xuất
và chất lượng nông sản phải tuân thủ những quy định rất nghiêm ngặt của nhà bán
lẻ. Lợi thế cơ bản khi tham gia vào chuỗi do nhà bán lẻ quản lý là các nông sản sẽ
có cơ hội gia tăng hình ảnh thương hiệu của mình tại các thị trường nước ngoài và
từ đó có thể triển khai hệ thống của riêng những doanh nghiệp sản xuất và phân
phối trực tiếp hàng hóa đến người tiêu dùng cuối cùng.
Ba là, chuỗi giá trị hàng nông sản do nhà cung ứng quản lý. Trong trường
hợp này, hầu hết các nông sản đều phải mang thương hiệu của nhà cung ứng. Một tỷ
lệ rất lớn nông sản Việt Nam đang tham gia chuỗi theo mô hình này, vì thế chúng ta
buộc phải xuất khẩu nông sản dưới dạng thô hoặc sơ chế và người tiêu dùng nước
ngoài ít hoặc thậm chí không biết được đó là những nông sản được sản xuất tại Việt
Nam. Quyền lợi của nhà sản xuất thường bị chèn ép tối đa trong trường hợp này nếu
quản lý chuỗi là các nhà nhập khẩu, người chế biến lại là bên nước ngoài.
Qua việc khảo sát, phân tích thực trạng ba mô hình trên, nghiên cứu của
PGS, TS. Nguyễn Quốc Thịnh đã đề cập ở chừng mực nhất định vai trò của ba chủ
thể trong phát triển chuỗi giá trị nông sản, đó là người sản xuất, người bán lẻ và
người cung ứng. Nghiên cứu này có giá trị tham khảo tốt về mặt số liệu và phương
pháp phân tích cho luận án.
1.2. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA CÁC CÔNG TRÌNH CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG KHOẢNG TRỐNG LUẬN ÁN
CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.2.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan đến
đề tài luận án
Những điểm thống nhất qua các nghiên cứu của tác giả trong và ngoài nước:
- Khái niệm về mô hình cánh đồng lớn, sự cần thiết phải hình thành và phát
triển mô hình CĐL ở ĐBSCL, mục tiêu phát triển CĐL...
- Phát triển CĐL nhất thiết phải xây dựng và phát triển các mối quan hệ liên
kết "4 nhà" (nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nông), trong đó
thường và chủ yếu là liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua hợp đồng.
29
Sự liên kết trực tiếp sẽ làm cho chuỗi ngắn lại và qua đó các chủ thể nông dân và
doanh nghiệp sẽ đạt được LIKT cao hơn.
- Tham gia vào mối liên kết trong mô hình CĐL thì cả doanh nghiệp và nông
dân đều có LIKT và các lợi ích khác tùy theo vị thế của họ trong chuỗi liên kết.
Tuy vậy, xã hội còn có nhiều đánh giá khác nhau, phức tạp, trái chiều. Chẳng hạn:
+ Cánh đồng mẫu lớn... chưa lớn! thiếu những ưu đãi cụ thể, việc tổ chức
liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa gạo liên tục bị trục trặc.
+ Nông dân nghĩ rằng, mô hình CĐL chỉ có lợi nhiều cho doanh nghiệp mà
có rất ít lợi cho nông dân, đặc biệt là giá lúa, nông dân thiệt "kép".
+ Còn nhiều vướng mắc trong xây dựng CĐL: việc đảm bảo đầu ra cho nông
dân còn nhiều bất cập, nên nông dân chưa an tâm. Chưa tạo được sự khác biệt về
hiệu quả kinh tế, đảm bảo giá cả và đầu ra. Việc triển khai mô hình ở các khâu:
quy hoạch, tổ chức sản xuất, liên kết đầu ra và đầu vào... ở nhiều CĐL còn kém
hiệu quả v.v...
Vì vậy, triển khai mô hình CĐL một cách rộng rãi và có hiệu quả cần thực
hiện nhiều biện pháp để xây dựng các mối liên kết "4 nhà" chủ yếu là giữa nông dân
và doanh nghiệp sao cho thiết thực, hiệu quả và bền vững, trên cơ sở đó mà đảm
bảo tính thống nhất và hài hòa về LIKT giữa các bên tham gia quan hệ liên kết
trong mô hình CĐL.
1.2.2. Những khoảng trống luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Từ tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đề tài luận án cho thấy,
đến nay có nhiều công trình nghiên cứu về mô hình CĐL và quan hệ liên kết sản
xuất - tiêu thụ giữa nông dân và doanh nghiệp trong sản xuất nông nghiệp nói chung
và sản xuất lúa nói riêng. Tuy nhiên, vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên
cứu về Quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển CĐL ở
ĐBSCL dưới góc độ kinh tế chính trị. Do đó, việc nghiên cứu đề tài này là góp phần
lấp "khoảng trống" mà các nghiên cứu trước đây không hoặc chưa đề cập đến, đó là:
Thứ 1, quan hệ LIKT của nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL là gì?
và cơ sở khách quan của mối quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát
triển CĐL là gì? Có phải sự hài hòa trong quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh
nghiệp trong mô hình CĐL là nhân tố quyết định sự phát triển của CĐL không?
Thứ 2, các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh
nghiệp trong mô hình CĐL là gì? Hình thức biểu hiện và cơ chế thực hiện nhằm
30
đảm bảo hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển
CĐL là gì?
Thứ 3, đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế, yếu kém trong
thực hiện quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL ở
ĐBSCL thời gian qua trong bối cảnh (hội nhập, biến đổi khí hậu, thực hiện tái cơ
cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm
nông nghiệp) cần được làm sáng tỏ thêm.
Thứ 4, trong bối cảnh phát triển mới (hội nhập sâu rộng, biến đổi khí hậu,
tiếp tục thực hiện tái cơ cấu ngành trồng trọt,…) thì xu thế phát triển CĐL và các
quan hệ liên kết, hợp tác giữa nông dân và doanh nghiệp trong CĐL diễn ra như thế
nào? Và làm thế nào để giải quyết tốt, đảm bảo hài hòa trong quan hệ LIKT giữa
nông dân và doanh nghiệp trong phát triển CĐL ở ĐBSCL đến năm 2025.
31
Chương 2
LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ QUAN HỆ
LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN VÀ DOANH NGHIỆP
TRONG PHÁT TRIỂN CÁNH ĐỒNG LỚN
2.1. LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN VÀ
DOANH NGHIỆP TRONG MÔ HÌNH CÁNH ĐỒNG LỚN
2.1.1. Mô hình cánh đồng lớn trong tổ chức sản xuất nông nghiệp
2.1.1.1. Khái niệm mô hình cánh đồng lớn
"Cánh đồng mẫu lớn" hay "Cánh đồng lớn" (CĐL) không phải là mới ở Việt
Nam và cũng không mới đối với các nước có nền công nghiệp phát triển ở trình độ
cao. Ở nhiều nước phát triển và đang phát triển, với sự phát triển của kinh tế thị
trường, của phân công lao động... Sản xuất nông nghiệp đã phát triển theo hướng
sản xuất hàng hoá quy mô lớn, áp dụng công nghệ hiện đại... vào sản xuất và chế
biến sản phẩm... Vì thế, nhiều cánh đồng quy mô lớn đã hình thành và phát triển
gắn sản xuất, chế biến và tiêu thụ.
Ở Việt Nam CĐL lần đầu tiên xuất hiện ở An Giang. Khởi xướng từ An
Giang, với những tên gọi khác nhau như CĐL chất lượng cao (Long An), cánh đồng
hiện đại (Đồng Tháp), mô hình vùng nguyên liệu (An Giang), sản xuất theo hướng
GAP (Cần Thơ). Mô hình "Cánh đồng mẫu lớn" trong sản xuất lúa được nhân rộng
ở 12 tỉnh vùng ĐBSCL và tỉnh Tây Ninh từ vụ hè thu 2011.
Cánh đồng lớn là cách gọi của nông dân vùng ĐBSCL để chỉ rõ những cánh
đồng có diện tích lớn, gieo trông một hay một số loại giống cây trồng với quy trình
và thời vụ giống nhau, gắn srn xuất với tiêu thụ nông sản đáp ứng các tiêu chuẩn về
số lượng và chất lượng theo yêu cầu của thị trường. Bản chất của mô hình CĐL là
mô hình sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung, quy mô lớn [5].
Có quan niệm rằng: CĐL là những cánh đồng có thể có một chủ hoặc nhiều
chủ, nhưng có cùng quy trình sản xuất, cùng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, cung ứng
đồng đều và ổn định về số lượng và chất lượng theo yêu cầu của thị trường dưới
một thương hiệu nhất định [1].
Lại có những quan niệm "CĐL là mô hình liên kết 4 nhà: Nhà nước, nhà
khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nông, mà nòng cốt là mối liên kết giữa nhà nông
và nhà doanh nghiệp''. Hay "CĐL với ý nghĩa là: trong CĐL gồm nhiều nông hộ
nhỏ và nơi đó có sự trợ lực của nhà nước, giúp cho nông dân làm ra sản phẩm được
32
quý trọng và có giá trị nâng cao". Một cách tiếp cận khác cho rằng: "CĐL có ý
nghĩa là một vùng nguyên liệu, cụm lúa gạo, quá trình vận hành sẽ đưa đảm đương
được đầu vào và đầu ra của sản phẩm".
Ngày 25 tháng 10 năm 2013 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
62/2013/QĐ-TTg về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất,
gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng CĐL. Tại Điều 3 của Quyết định này đã giải
thích từ ngữ, "CĐL là cách thức tổ chức sản xuất trên cơ sở hợp tác, liên kết giữa
người nông dân với doanh nghiệp, tổ chức đại diện của nông dân trong sản xuất gắn
với chế biến và tiêu thụ nông sản trên cùng địa bàn, có quy mô ruộng đất lớn, với
mục đích tạo ra sản lượng nông sản hàng hoá tập trung, chất lượng cao, tăng sức
cạnh tranh của nông sản trên thị trường nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu
nhập cho nông dân và các đối tác tham gia'' [111].
Từ những quan niệm nêu trên, chúng tôi cho rằng:
Cánh đồng lớn trong sản xuất lúa là mô hình liên kết của các chủ thể, chủ
yếu là 4 nhà (nhà doanh nghiệp, nhà nước, nhà khoa học, nhà nông) sản xuất lúa
theo chuỗi giá trị. Thực hiện thâm canh lúa hiệu quả, bền vững theo tiêu chuẩn GAP
(thực hành sản xuất tốt), tiến tới xây dựng vùng nguyên liệu lúa hàng hóa có chất
lượng cao. CĐL thực hiện tổ chức các "nông hộ nhỏ" liên kết tiến hành quy trình
sản xuất theo chuỗi giá trị nông sản, nhằm nâng cao LIKT của các chủ thể tham gia,
đặc biệt là nông dân và doanh nghiệp.
Trong liên kết sản xuất lúa theo mô hình CĐL, nông dân là chủ thể chính,
quá trình liên kết ngang từ những người nông dân sản xuất riêng lẻ với ruộng đất
quy mô nhỏ, manh mún được quy tụ thành vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn; và
liên kết dọc với doanh nghiệp, được doanh nghiệp hỗ trợ các yếu tố đầu vào của sản
xuất: phân bón, thuốc trừ sâu... với giá cả hợp lý và chất lượng đảm bảo, có sự hỗ
trợ về tín dụng. Trong quá trình canh tác, nông dân được các nhà khoa học, cán bộ
kỹ thuật hướng dẫn, giúp đỡ về kỹ thuật... người nông dân trong CĐL được bình
đẳng trong tiếp cận và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật cho quy trình sản xuất. Khi thu
hoạch, nông dân được bao tiêu sản phẩm, đảm bảo đầu ra, người nông dân có thể
gia tăng thu nhập từ mảnh ruộng của mình.
Trong mô hình CĐL, Nhà nước có vai trò rất quan trọng, vừa là bà đở vừa là
trọng tài trong các mối liên kết. Nhà nước xây dựng các kế hoạch cụ thể và tổ chức
điều phối các hoạt động liên kết. Xây dựng và thực thi các chính sách hỗ trợ về tín
dụng, hỗ trợ thành lập các THT, HTX làm trung gian liên kết. Quy hoạch vùng sản
33
xuất, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất của nông dân và các
doanh nghiệp tham gia liên kết.
2.1.1.2. Tính tất yếu và mục tiêu xây dựng cánh đồng lớn (1) Tính tất yếu xây dựng cánh đồng lớn
Xây dựng CĐL là một đòi hỏi tất yếu của việc "xây dựng một nền nông
nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn,
đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài", đó là
những mục tiêu mà ngành nông nghiệp cần hướng tới.
Ở Việt Nam, đặc biệt ở miền Bắc, ruộng đất trong nông nghiệp vốn dĩ là
phân tán, manh mún, quy mô sử dụng đất canh tác của hộ nông dân rất nhỏ bé.
Trong thời kỳ đổi mới, chuyển đổi sang kinh tế thị trường, nhất là việc thực hiện
"khoán 10" ruộng đất được giao cho các hộ nông dân, nên vẫn tồn tại tình trạng
ruộng đất phân tán, manh mún.
"Cả nước hiện nay có 13 triệu hộ nông dân. Bình quân mỗi hộ có 2,2 lao
động canh tác trên 0,4-1,2ha. Số hộ có diện tích dưới 0,5ha chiếm tới 61,2%. Diện
tích bình quân cua các hộ ở đồng bằng sông Hồng và miền Trung chỉ dưới 0,3ha/hộ,
cá biệt có xã quy mô đất sản xuất 0,1ha/hộ [14].
Để phát triển được nền nông nghiệp hàng hoá, cần thiết phải có sản xuất
nông nghiệp tập trung, quy mô lớn. Vì vậy xây dựng CĐL là tất yếu.
Cánh đồng lớn là giải pháp nhằm cụ thể hoá chủ trương xây dựng vùng sản
xuất hàng hoá tập trung gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm thông qua hợp đồng
theo Quyết định số 80 của Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị số 24/2003/CT-TTg của
Thủ tướng Chính phủ về xây dựng vùng nguyên liệu gắn với chế biến và tiêu thụ.
Xây dựng CĐL được xác định là giải pháp quan trọng trước mắt và lâu dài nhằm
góp phần thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia
tăng và phát triển bền vững theo tinh thần Nghị quyết 21/2011/QH13 ngày
26/11/2011 của Quốc hội. Sau đó Chính phủ đã ban hành Quyết định số
62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 (thay cho Quyết định 80/QĐ-TTg) về chính
sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản,
xây dựng CĐL. Nghị định số: 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05/7/2018 về
chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp (thay thế Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg từ ngày 20/8/2018).
Cánh đồng lớn được xem như là bước đột phá của ngành nông nghiệp, là khởi
điểm tiến hành hiện đại hóa nền nông nghiệp, CĐL hướng đến một nền nông nghiệp
34
tập trung, quy mô lớn, gia tăng năng suất và chất lượng nông sản, đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ cao, hiện đại và là xu thế phát triển của quá trình hội nhập quốc tế.
(2) Mục tiêu xây dựng cánh đồng lớn
Xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng
hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất chất lượng và khả năng
cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia và an toàn môi
trường sinh thái cả trước mắt và lâu dài, đó là những mục tiêu mà ngành nông
nghiệp Việt Nam hướng tới.
Mục tiêu xây dựng mô hình CĐL là nhằm thực hiện tốt việc áp dụng các tiến
bộ kỹ thuật tiên tiến một cách đồng bộ, hiệu quả trên một diện tích lớn, rút ngắn
khoảng cách chênh lệch về năng suất giữa các hộ nông dân, các thửa ruộng, các
vùng sản xuất, nâng cao năng suất bình quân toàn vùng, gia tăng chất lượng lúa, gạo
và làm nền tảng cho việc sản xuất lúa theo VietGAP, vệ sinh an toàn thực phẩm,
xây dựng thương hiệu lúa gạo Việt Nam trong nước và xuất khẩu. Mô hình "Cánh
đồng lớn" tiến tới xây dựng vùng nguyên liệu thông qua việc liên kết 4 nhà, sản
xuất và tiêu thụ nông sản theo hợp đồng, chủ động trong sản xuất, điều tiết và tiêu
thụ lúa gạo ở Nam Bộ nói chung và ĐBSCL nói riêng [10].
Nói một cách cụ thể, xây dựng mô hình CĐL nhằm:
- Đưa cơ giới hoá vào đồng ruộng, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật.
- Đưa giống mới có năng suất cao, chất lượng cao thay thế giống cũ đại trà
năng suất thấp.
- Xây dựng các mô hình tổ chức liên kết, gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ
để giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao thu nhập của nông dân,
nhà nông và doanh nghiệp.
- Nâng cao chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp (bao gồm các vấn đề tổ
chức và điều phối, chiến lược và mối quan hệ quyền lực của các tác nhân khác
nhau trong chuỗi).
2.1.1.3. Các hình thức liên kết trong mô hình cánh đồng lớn (1) Mô hình cánh đồng lớn là mô hình liên kết 4 nhà
Trong mô hình CĐL có sự liên kết giữa 4 nhà (nhà doanh nghiệp, nhà nước,
nhà khoa học và nhà nông) thâm canh lúa hiệu quả bền vững theo hướng GAP (thực
hành sản xuất tốt). Hình thức liên kết 4 nhà trong mô hình CĐL rất đa dạng, theo
điều kiện thực tế và sự sáng tạo của từng địa phương, nhưng về cơ bản có các kiểu
liên kết sau đây:
35
- Nông dân liên kết với doanh nghiệp và nhà khoa học đảm bảo các yếu tố
đầu vào: phân bón, giống, vật tư nông nghiệp, kỹ thuật....
- Nông dân liên kết với doanh nghiệp nhằm tiêu thụ sản phẩm.
- Hình thức liên kết "khép kín" từ "đầu vào" đến "đầu ra". Điển hình là Công ty
cổ phần bảo vệ thực vật An Giang (AGPPS) nay là Công ty cổ phần tập đoàn Lộc Trời.
Mặc dù có nhiều hình thức liên kết, nhưng để mô hình CĐL phát triển bền
vững thì việc phân phối lợi ích giữa các "tác nhân" tham gia CĐL phải hợp lý, công
bằng và minh bạch, bởi lợi ích là chất kết dính tốt nhất giữa các nhà trong mối quan
hệ liên kết.
(2) Liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình cánh đồng lớn
Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg, ngày 24/06/2002 của Thủ tướng Chính phủ
về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng là căn
cứ thúc đẩy sự hình thành những liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp để có
những CĐL.
Thứ 1, liên kết nông dân với nông dân:
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh, cần phải có sản phẩm khối lượng
lớn, chất lượng cao, giá cả cạnh tranh... Nông dân cá thể, riêng lẻ không thể làm
được điều này. Nông dân phải tổ chức được "hành động tập thể" theo quy trình
sản xuất chung theo từng CĐL. Điểm mấu chốt của CĐL là nông dân cùng nhau
thực hành sản xuất theo một quy trình chung trong tất cả các khâu từ sản xuất, quy
trình kỹ thuật, quản lý sản xuất, thu hoạch, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm... Để
làm được điều đó người nông dân phải tổ chức được "hành động tập thể" của họ
với nhau theo từng CĐL thay vì hành động độc lập, riêng lẻ, tức là nông dân phải
liên kết với nhau.
Sự liên kết giữa nông dân với nông dân - sự liên kết ngang, để hình thành
nên "nhóm liên gia", "tổ hợp tác"... để hợp tác với nhau trong các khâu sản xuất
(làm đất, tưới tiêu, chăm sóc bảo vệ thực vật, thu hoạch...). Mặt khác, sự liên kết
giữa nông dân với nông dân để tăng ''sự mặc cả" của nông dân khi đàm phán ký kết
hợp đồng với doanh nghiệp và đảm bảo cho nông dân làm đúng quy trình sản xuất,
nâng cao chất lượng và giảm chi phí sản xuất.
Vậy, yếu tố nào để nông dân liên kết với nhau? "Trước hết, đó là phải là lợi
ích mà hành động tập thể" mang lại phải lớn hơn lợi ích của hành động cá nhân
riêng lẻ quyết định. Lợi ích của "hành động tập thể" do thực hiện trên cùng một
CĐL bao gồm: i) đạt tính kinh tế quy mô; ii) giảm chi phí sản xuất, chi phí giao
36
dịch; iii) tăng khả năng tiếp cận với công nghệ, nguồn lực sản xuất và thị trường
mới; iv) tăng vị thế đàm phán và khả năng cạnh tranh; v) nâng cao năng lực về tổ
chức và nâng cao kiến thức nhờ chia sẻ kinh nghiệm trong nhóm; vi) chia sẻ rủi ro.
Những lợi ích "hành động tập thể" mang lại là vượt trội mà hành động riêng lẻ
không thể nào tạo ra được [1].
Bên cạnh các yếu tố kể trên, liên kết nông dân với nhau nhằm để đáp ứng
nhu cầu thị trường tốt hơn. Chỉ có liên kết lại nông dân mới có thể cung cấp sản
phẩm đủ lớn về số lượng, đồng đều về chất lượng, kịp thời gian cho nhiều đối tác.
Nhờ vào liên kết nông dân mới có khả năng xây dựng và quản lý nhãn hiệu tập thể,
tiến tới xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình, quản lý về chất lượng sản
phẩm để không ngừng gia tăng giá trị mà còn đáp ứng nhu cầu thị trường ngày càng
tăng đối với sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, đảm bảo an toàn, chất lượng.
Thứ 2, liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và nông dân (liên kết dọc CĐL chỉ
có thể hình thành trên cơ sở liên kết giữa doanh nghiệp thu mua, chế biến và xuất
khẩu với nông dân. Dựa theo nhu cầu thị trường, doanh nghiệp ký kết hợp đồng với
nông dân về sản xuất sản phẩm (bao gồm số lượng, chất lượng, giá cả, thời gian
giao nộp...). Trên cơ sở đó, nông dân tổ chức sản xuất theo một quy trình thống
nhất, để tạo ra khối lượng sản phẩm, với chất lượng phù hợp với nhu cầu thị trường.
Sự liên kết này còn thể hiện vai trò, trách nhiệm của doanh nghiệp đối với nông dân
trong chỉ đạo, hướng dẫn kỹ thuật để đảm bảo sản xuất, sản phẩm đạt chất lượng
tốt. Xây dựng mối liên kết này về bản chất là xây dựng kênh tiêu thụ mới trong
chuỗi giá trị thông qua loại bỏ bớt tác nhân trung gian giữa người sản xuất và doanh
nghiệp, rút ngắn độ dài của kênh tiêu thụ. Nếu không có liên kết này thì việc tổ
chức sản xuất thông qua liên kết ngang không đạt được lợi ích như mong muốn. Dĩ
nhiên, nông dân chỉ nên liên kết với doanh nghiệp có khả năng chế biến sâu sản
phẩm, bán sản phẩm trực tiếp, có thương hiệu đến người tiêu dùng thông qua các hệ
thống phân phối trong nước hoặc toàn cầu. Hoặc những doanh nghiệp chứng minh
được là họ đã liên kết, là một phần hữu cơ của một chuỗi hàng hoá nào đó trong các
khía cạnh về chất lượng, thương hiệu, rủi ro...
Vậy, liên kết dọc giữa doanh nghiệp và nông dân dựa trên những yếu tố nào?
Hay nói cách khác cái gì là "chất kết dính" giữa doanh nghiệp và nông dân? Câu trả
lời khái quát nhất là bảo đảm hài hoà lợi ích của nông dân và doanh nghiệp trong
quá trình thực hiện liên kết. Hay, để liên kết này bền vững điều quan trọng nhất
chính là tạo được "lợi ích chung" cho cả 2 bên. Doanh nghiệp thì luôn tính đến lợi
37
ích dài hạn, nông dân nhìn lợi ích ngắn hạn hơn. Mỗi bên cần đặt mình vào vị thế
của đối tác để thuyết phục họ, tạo niềm tin từ quan điểm, lợi ích chung.
Điểm cơ bản và cốt lõi của mô hình CĐL chính là xây dựng các mối liên kết
ngang (nông dân với nông dân) để thực hiện "hành động tập thể" để xây dựng kênh
phân phối mới của các tác nhân trong chuỗi giá trị, đáp ứng yêu cầu thị trường hiệu
quả nhất dựa trên nguyên tắc các bên tham gia bình đẳng, cùng có lợi.
Cần lưu ý, trong các mô hình liên kết, liên kết giữa nông dân với nông dân,
nông dân và doanh nghiệp chưa thể hình thành nên một mô hình phát triển ổn định,
bền vững. Ở đây, còn có rất nhiều mắt xích trong chuỗi sản xuất nông sản liên kết
lại với nhau để hình thành nên mối liên kết 4 nhà: nhà nước, nhà khoa học, nhà
doanh nghiệp, nhà nông. Liên kết "4 nhà" để đáp ứng các điều kiện cần và đủ xây
dựng nền nông nghiệp hiện đại. Các điều kiện "cần", gồm: cần có sự nhận thức,
chỉ đạo thống nhất của các cấp lãnh đạo từ Chính phủ, các bộ ngành đến địa
phương. Cần có liên kết "4 nhà" mà doanh nghiệp là hạt nhân và chính là mắt xích
quan trọng nhất trong chuỗi liên kết. Cần tuyên truyền, vận động, giải thích, nâng
cao nhận thức của nông dân về lợi ích khi tham gia chuỗi liên kết. Cần có các
doanh nghiệp đủ tầm, đủ năng lực và tâm huyết để tham gia vào chuỗi liên kết và
rất cần sự đóng góp công sức, trí tuệ và kinh nghiệm của các nhà khoa học... Các
điều kiện đủ, gồm; phải có đủ diện tích sản xuất nông nghiệp theo tiêu chuẩn
CĐL. Phải có đủ 4 nhà cùng thực hiện liên kết nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện các
hợp đồng sản xuất. Trong đó, chủ yếu là nhà doanh nghiệp và nhà nông cùng thực
hiện trong một dự án - có sự hỗ trợ của Nhà nước về cơ chế, chính sách và sự hỗ
trợ ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật cho năng suất cao, chất lượng tốt, giá
thành sản phẩm hạ... của nhà khoa học. Bên cạnh đó phải có đủ máy móc, kho bãi
phục vụ chăm sóc, thu hoạch, phù hợp với quy mô diện tích, sản lượng của từng
cánh đồng liên kết [78].
Nghị định số 98/2018/NĐ-CP, ngày 05/7/2018 của Chính phủ về chính sách
khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp", tại điều 3, chương 1, điểm 2 ghi: "Liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm
nông nghiệp quy định tại Nghị định là hình thức liên kết trong sản xuất nông nghiệp
theo chuỗi từ cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào, sản xuất, sơ chế hoặc chế biến gắn
với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp...".
Thị trường vẫn là khâu quyết định cho chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp,
trước hết là lúa gạo. Trong chuỗi giá trị lúa gạo không chỉ nằm ngoài đồng ruộng,
38
mà phần lớn hơn còn ở giai đoạn sau thu hoạch, chế biến, bảo quản... đến tay người
tiêu dùng. Do đó, tổ chức sản xuất lúa gạo theo chuỗi giá trị từ khâu giống, gieo
trồng, chăm sóc, thu hoạch, chế biến ra gạo thành phẩm. Thương mại hoá sản phẩm
lúa gạo qua mô hình CĐL phải bao gồm: cải tiến công nghệ, ứng dụng ngày càng
nhiều tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, hướng đến sản xuất bền vững hơn về
môi trường, chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt hơn.
Các hình thức liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm, theo Nghị định 98, Điều 4:
1) Liên kết từ cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào, tổ chức sản xuất, thu hoạch,
sơ chế hoặc chế biến gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp;
2) Liên kết cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp;
3) Liên kết tổ chức sản xuất, thu hoạch gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp;
4) Liên kết cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào, tổ chức sản xuất, thu hoạch gắn
với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp;
5) Liên kết tổ chức sản xuất, thu hoạch, sơ chế hoặc chế biến gắn với tiêu thụ
sản phẩm nông nghiệp;
6) Liên kết cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào, sơ chế hoặc chế biến gắn với
tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp;
7) Liên kết sơ chế hoặc chế biến gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Như vậy, các hình thức liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm, nông nghiệp,
trước hết là lúa gạo là rất đa dạng và phong phú. Từ đó, cho thấy: CĐL thực sự là
"không gian" rộng lớn cho doanh nghiệp, doanh nhân sáng tạo; người nông dân
được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức sản xuất trong nền kinh tế thị trường khắc phục
tư duy mùa vụ, làm ăn theo từng thương vụ và hạn chế những kinh nghiệm sản
xuất nông nghiệp truyền thống.. Nông dân tham gia CĐL cần có sự hỗ trợ của nhà
khoa học, và kiến tạo của nhà nước. Thực tiễn cho thấy, giải quyết tốt mối quan hệ
lợi ích giữa nông dân và doanh nghiệp là yếu tố quyết định sự tồn tại của CĐL.
Doanh nghiệp xây dựng CĐL cần có tiềm lực mạnh để đủ sức làm hạt nhân "trong
quan hệ liên kết".
2.1.2. Lợi ích kinh tế và vai trò của nó trong phát triển kinh tế - xã hội
2.1.2.1. Nhu cầu kinh tế là cơ sở của lợi ích kinh tế
Ngay từ khi mới xuất hiện con người đã tiến hành các hoạt động kinh tế. Hoạt
động kinh tế luôn giữ vị trí trung tâm, quyết định trong mọi hoạt động chính trị, xã
hội, luật pháp, tư tưởng… và là cơ sở cho các hoạt động khác. Con người luôn có
động cơ khi tham gia vào các hoạt động kinh tế, đó là yếu tố thúc đẩy hành động của
39
họ. Mức độ mạnh hay yếu của động cơ hành động tùy thuộc vào sự nhận thức được
và thực hiện các lợi ích, trước hết là LIKT của chính bản thân họ.
Lợi ích không phải là cái gì trừu tượng và có tính chủ quan, mà cơ sở của
LIKT chính là nhu cầu khách quan của con người. Con người luôn có nhiều loại
nhu cầu khác nhau: nhu cầu về vật chất, nhu cầu về văn hóa, nhu cầu tinh thần, nhu
cầu chính trị, và do đó, có nhiều loại lợi ích tương ứng: LIKT, lợi ích chính trị, lợi
ích tinh thần, lợi ích văn hoá.
Giống như lợi ích của con người nói chung, LIKT gắn liền với nhu cầu, song
không phải mọi nhu cầu mà là nhu cầu vật chất, nhu cầu vật chất được xác định về
mặt xã hội - tức là nhu cầu có khả năng thực hiện chứ không phải là mọi nhu cầu.
Chỉ có những NCKT có khả năng thực hiện mới làm phát sinh LIKT và là cơ sở của
LIKT. Tóm lại, những nhu cầu vật chất kinh tế của con người khi nó được xác định
về mặt xã hội thì nó trở thành cơ sở, nội dung của LIKT.
2.1.2.2. Lợi ích kinh tế và bản chất của lợi ích kinh tế * Lợi ích kinh tế:
Trong các nghiên cứu của mình, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã nói về
LIKT và bản chất của LIKT.
Trong tác phẩm "Vấn đề nhà ở", khi phân tích quan điểm của Proudhon về
nguyên lý tối cao chi phối mọi nguyên lý khác là công lý, Ph.Ăngghen đã khẳng
định LIKT là một phạm trù phản ánh quan hệ kinh tế. Lợi ích kinh tế là hình thức
biểu hiện của quan hệ sản xuất mà trước hết là quan hệ sở hữu. Điểm này hoàn toàn
phù hợp với quan điểm của C.Mác trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức. C.Mác viết:
Lợi ích là nguyên tắc điều tiết cơ bản mà các nguyên tắc khác tuân theo. Như vậy,
LIKT là quan trọng nhất trong các lợi ích, thực hiện LIKT sẽ tạo cơ sở để thực hiện
các lợi ích khác.
Ph.Ăngghen nhận định: Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào
đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích.
Cùng quan điểm như trên, V.I.Lênin đã viết: "Lợi ích của giai cấp này hay
giai cấp khác được xác định một cách khách quan theo vai trò mà họ có trong hệ
thống quan hệ sản xuất,theo những hoàn cảnh và điều kiện sống của họ”.
Tác giả Laprinmenco - Nhà khoa học Nga, trong tác phẩm: Những vấn đề lợi
ích trong chủ nghĩa Mác - Lênin đã phân tích những đặc tính của lợi ích nói chung,
lợi ích kinh tế nói riêng và đã tán thành quan điểm của V.I.Lênin khi cho rằng lợi
ích kinh tế là một hiện tượng có thực, biểu hiện của các quan hệ kinh tế khách quan.
40
Tính khách quan của lợi ích thể hiện ở chỗ, nó xuất hiện bên ngoài các chủ thể,
không phụ thuộc vào nhận thức của các chủ thể. Bên cạnh đó, lợi ích kinh tế cũng
mang tính lịch sử cụ thể.
Đ.I.Tresnôccôp - Nhà kinh tế Nga cho rằng: Lợi ích là mối quan hệ khách
quan của xã hội, hay của một con người riêng lẻ đối với điều kiện sống của xã hội
và các nhu cầu hiện có của mình, là mối quan hệ kích thích, tác động đến tập thể
hay cá nhân mỗi người nhằm bảo đảm điều kiện thuận lợi cho đời sống và sự phát
triển của cá nhân hay tập thể, đấu tranh với những điều kiện cản trở sự tồn tại và
phát triển của họ [120]. Nguồn gốc ra đời của LIKT chính là từ quá trình giải quyết
mối quan hệ giữa nhu cầu của con người với điều kiện sống. Chính thông qua việc
giải quyết mối quan hệ này, con người sẽ có được phương thức để tồn tại, hướng tới
sự phát triển cho cá nhân và xã hội. Quan điểm này của tác giả khá đồng nhất với
một số tác giả hiện nay khi khẳng định: Lợi ích kinh tế là một phạm trù khách quan,
nó sinh ra từ NCKT, là phương thức để thoả mãn những nhu cầu đó.
Từ những quan niệm trên, chúng tôi quan niệm về LIKT như sau:
Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, nó sinh ra từ nhu cầu
kinh tế, là phương thức để thoả mãn những nhu cầu đó. Con người không thể lựa
chọn, quyết định được LIKT của mình mà nó phụ thuộc vào vai trò, vị trí của họ
trong hệ thống quan hệ sản xuất.
Lợi ích kinh tế chính là hình thức biểu hiện của QHSX, nên LIKT thể hiện cả
trong 4 khâu của quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội: sản xuất, phân phối, trao
đổi và tiêu dùng. Chính vì vậy, có thể khẳng định ở đâu có hoạt động sản xuất kinh
doanh thì ở đó có LIKT. Các chủ thể sản xuất kinh doanh cũng là các chủ thể của
những LIKT khác nhau.
* Bản chất của lợi ích kinh tế:
Lợi ích kinh tế được hiểu là một phạm trù thể hiện mối quan hệ giữa người
với người trong quá trình sản xuất, theo đó, LIKT là một hình thức biểu hiện của
quan hệ sản xuất.
Lợi ích kinh tế phản ánh địa vị kinh tế của các giai cấp, các tầng lớp trong xã
hội. Phân tích vấn đề này, Lênin chỉ rõ: LIKT được xác định một cách khách quan
tương ứng với vai trò, vị trí của họ có được trong hệ thống quan hệ sản xuất và tùy
thuộc vào các hoàn cảnh lịch sử cụ thể, hoàn cảnh sống khác nhau.
Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, mà trước hết là
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và Các Mác chỉ rõ: trong đó việc phân phối kết
41
quả sản xuất là biểu hiện cơ bản của LIKT. Phân phối kết quả sản xuất được hiểu là
sự phân chia sản phẩm lao động giữa những chủ thể tham gia vào nền sản xuất xã hội,
giai cấp nào nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội thì giai cấp đó có quyền
quyết định phân phối kết quả sản xuất, tức là phân phối các LIKT.
Trong xã hội, do địa vị giai cấp khác nhau nên nhu cầu kinh tế, LIKT cũng hoàn
toàn khác nhau và do đó, khi thực hiện LIKT lại mang "tính giai cấp". Đồng thời, LIKT
cũng mang tính lịch sử rõ rệt. Điều này có nghĩa là trong mỗi thời kỳ phát triển kinh tế
- xã hội, nhu cầu kinh tế của con người luôn biến đổi theo hướng tăng số lượng nhu cầu
và đòi hỏi chất lượng nhu cầu phải cao hơn. Điều này tác động làm cho LIKT cũng
phải biến đổi cho phù hợp với sự biến đổi của các nhu cầu kinh tế.
2.1.2.3. Vai trò của lợi ích kinh tế Lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề quan trọng nhất của sản xuất và
đời sống xã hội. Chính những LIKT đã tạo nên sự gắn bó giữa con người với cộng
đồng của mình và tạo ra những động lực thôi thúc, khát vọng và sự say mê trong
hoạt động sản xuất; kinh tế của bản thân người lao động.
Lợi ích kinh tế được xã hội thừa nhận và được thực hiện đúng sẽ là động lực
kinh tế mạnh mẽ thúc đẩy hành động của con người. Do đó, LIKT biểu hiện như là
một trong những động lực cơ bản thúc đẩy thực hiện tiến bộ xã hội nói chung, quá
trình phát triển kinh tế - xã hội nói riêng.
Trong các tác phẩm của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nói về vai trò động
lực của LIKT. Các ông đã khẳng định: "Lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con
người theo đuổi mục đích của bản thân mình". Do đó, nghiên cứu lịch sử chính là
nghiên cứu bản thân con người, tìm động lực cho tiến trình phát triển của lịch sử đó
cũng chính là động lực hoạt động của con người. C.Mác - Ăngghen cho rằng: động
lực sâu xa nhất thúc đẩy con người hành động đó chính là lợi ích. Điều này thấy rõ
thông qua các cuộc đấu tranh giai cấp: Cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp chiếm
hữu ruộng đất và giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, vấn đề là ở những LIKT, để thoả
mãn những LIKT thì quyền lực chính trị được sử dụng làm phương tiện đơn thuần.
C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định mạnh mẻ: "xét đến cùng mọi cuộc cách
mạng đều được tiến hành vì để giải phóng về LIKT".
Lợi ích kinh tế trở thành một trong những vấn đề quan trọng nhất của sản
xuất và đời sống. Lợi ích kinh tế là cơ sở để gắn bó con người với cộng đồng của
mình và tạo ra những kích thích, những thôi thúc khát vọng và sự say mê của các
chủ thể kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh. LIKT được con người nhận
42
thức đầy đủ và được thực hiện hài hòa thì nó trở thành động lực kinh tế thúc đẩy
con người hành động. Chính vì vậy, LIKT được coi là một trong những động lực cơ
bản của sự tiến bộ xã hội, của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của loài người.
Ph.Ăngghen cho rằng: LIKT là những động cơ làm chuyển động quần chúng đông
đảo. Và khi LIKT biến thành sự kích thích hoạt động của con người thì chúng làm
"lay động đời sống nhân dân".
Vậy có thể khẳng định: trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, LIKT là
động lực phát triển, là yếu tố thúc đẩy sự vận động và phát triển của con người.
Trong nền kinh tế thị trường, LIKT là một yếu tố quan trọng thúc đẩy các chủ thể
kinh tế hoạt động, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Thông qua hoạt động sản
xuất - kinh doanh các chủ thể kinh tế tìm kiếm LIKT, phương thức thỏa mãn nhu
cầu kinh tế, nhu cầu vật chất, qua đó, đảm bảo cho các chủ thể kinh tế tồn tại và
phát triển.
2.1.3. Lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh
nghiệp trong cánh đồng lớn
2.1.3.1. Lợi ích kinh tế của nông dân và doanh nghiệp trong cánh đồng lớn Một là, LIKT của nông dân trong CĐL.
(i) Người nông dân khi tham gia CĐL không phải rời khỏi mảnh ruộng của
mình để đi làm thuê, làm mướn, mà họ vẫn là "chủ đất", vẫn được hưởng lợi từ
quyền sử dụng đất nông nghiệp. Tại Chương XI - Quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất, mục 1 - Quy định chung, Điều 166 của Luật Đất đai sửa đổi năm 2013,
người sử dụng đất có các quyền: (1) Được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
(2) Được hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất; (3) Hưởng các lợi ích
do công trình của Nhà nước về bảo vệ cải tạo đất nông nghiệp; (4) Được Nhà nước
hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo đất nông nghiệp; (5) Được Nhà nước bảo
vệ khi người khác xâm phạm đến quyền sử dụng đất hợp pháp của mình và (6)
Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp
của mình và những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai; (7) Được bồi thường
khi nhà nước thu hồi đất theo quy định của Luật này. Ngoài 7 quyền chung nêu trên,
người sử dụng đất còn được hưởng các quyền: quyền chuyển đổi, chuyển nhượng,
cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất. Đặc
biệt là mô hình CĐL, nông dân có thể góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp bằng
quyền sử dụng đất, bởi quyền sử dụng đất là quyền tài sản của công dân, được trị
giá bằng tiền trong các giao dịch dân sự.
43
(ii) Trong quá trình tổ chức xây dựng và thực hiện các hoạt động sản xuất lúa theo mô hình CĐL của nông dân phải đạt được hiệu quả kinh tế cao, qua đó nâng cao lợi nhuận và thu nhập cho nông dân.
Các tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế bao gồm: (i) năng suất và sản lượng lúa; (ii) chi phí sản xuất và giá cả lúa gạo; (iii) chất lượng, phẩm chất lúa (phụ thuộc vào chất lượng giống lúa, công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế biến...). Chất lượng lúa gạo, đặc biệt là gạo xuất khẩu bao gồm: giá trị sử dụng (chất lượng dinh dưỡng, chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, phải đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng theo chuẩn mực, tiêu chuẩn ISO quốc tế và các tiêu chuẩn theo quy định của WTO và các tiêu chuẩn của các nước khác như: dư lượng kháng sinh và chất bảo vệ thực vật, các quy định về môi trường, an toàn lương thực thực phẩm, (iv) thu nhập, lợi nhuận và các LIKT khác của các chủ thể tham gia hoạt động trên CĐL... [33].
Thực tế phát triển CĐL đã chỉ rõ: - Cánh đồng lớn đã giúp nông dân ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông sản theo hướng tập trung đối với khối lượng lớn, chất lượng cao. Thật vậy: Canh tác trên CĐL, người nông dân được tập huấn kỹ thuật canh tác, áp dụng đồng bộ quy trình canh tác "3 giảm, 3 tăng" (giảm lượng giống gieo sạ, giảm lượng thuốc trừ sâu, giảm lượng phân đạm, tăng năng suất cây trồng, tăng chất lượng nông sản, tăng hiệu quả kinh tế); hoặc "1 phải, 5 giảm" (phải dùng giống xác nhận, giảm lượng nước vừa đủ, giảm thất thoát sau thu hoạch, giảm lượng giống gieo sạ, giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, giảm phân bón), hoặc tiêu chuẩn VietGAP (Vietnamese Good Agricultural Pratices) có nghĩa là thực hành sản xuất nông nghiệp tốt ở Việt Nam. VietGAP là những nguyên tắc, trình tự, thủ tục hướng dẫn tổ chức, cá nhân sản xuất, thu hoạch, xử lý sau thu hoạch nhằm đảm bảo an toàn, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo phúc lợi xã hội, sức khoẻ người sản xuất và người tiêu dùng, đồng thời bảo vệ môi trường và có thể truy xuất được nguồn gốc sản xuất... Như vậy, rõ ràng là nông dân không còn sản xuất theo kinh nghiệm cổ truyền, manh mún, nhỏ lẻ mà cần phải tập trung sản xuất theo quy mô lớn hơn.
- Các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, được áp dụng một cách đồng bộ trong CĐL sẽ rút ngắn chênh lệch về năng suất cây trồng giữa các hộ tham gia mô hình CĐL và nâng cao năng suất bình quân toàn cánh đồng.
- Thực hiện mô hình CĐL, người nông dân được cung ứng vật tư đầu vào kịp thời với giá cả hợp lý, đảm bảo chất lượng, được tư vấn, hướng dẫn sử dụng nên hiệu quả cao hơn, khắc phục tình trạng mua bán vật tư trôi nổi, không rõ nguồn gốc, kém chất lượng. Các chi phí sản xuất như: dịch vụ làm đất, tưới nước, gieo cấy, thu
44
hoạch... đều giảm; áp dụng quy trình, sản xuất tiên tiến,quản lý dịch hại tổng hợp và cơ giới hoá nên tăng năng suất lao động, giảm chi phí nhân công, giảm lượng và số lần phun thuốc, giảm lượng giống, lượng phân bón và tăng hiệu quả sử dụng, giảm giá thành tăng lợi nhuận cho nông dân so với cách làm riêng lẻ ngoài mô hình CĐL. Sản xuất theo mô hình CĐL không chỉ giảm được chi phí đầu tư, tăng năng
suất, nâng cao chất lượng hạt gạo... mà còn là yếu tố quan trọng để xây dựng
thương hiệu gạo, truy xuất được nguồn gốc nhờ quản lý chặt chẽ đầu vào - đầu ra.
Cánh đồng lớn nơi áp dụng các kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao năng suất,
chất lượng, giảm chi phí sản xuất, tăng giá trị hạt gạo và tăng thu nhập cho nông
dân vùng ĐBSCL.
(iii) Gia tăng chất lượng, giá trị sản phẩm, đảm bảo việc làm và đầu ra của
sản phẩm
- Nhờ vào các mối liên kết ổn định và chặt chẽ, người nông dân sẽ hoạch
định được kế hoạch sản xuất của mình một cách lâu dài và có nhiều cơ hội hợp tác
với nhau tạo ra nguồn nông sản có sản lượng lớn, mang tính hàng hoá cao. Đồng
thời, chất lượng sản phẩm sẽ được nâng cao do thu hoạch đúng thời điểm, thời gian
cất trữ sau thu hoạch ngắn... làm tăng lợi ích cho xã hội và người sản xuất.
- Tham gia vào chuỗi liên kết ổn định, chặt chẽ, nhất là giữa các khâu sản
xuất nguyên liệu và chế biến nông sản, các mặt hàng nông sản sẽ gia tăng giá trị do
tăng khả năng đầu tư khoa học - công nghệ trong cả khâu sản xuất, lẫn khâu chế
biến, mặt khác, tạo cơ hội tạo việc làm cho nông dân, đặc biệt là người nông dân đã
và đang chịu ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá, cần có sinh kế
hữu hiệu, một khi họ mất đi một phần tư liệu sản xuất (đất canh tác nông nghiệp).
- Tham gia vào chuỗi liên kết trên CĐL, người nông dân có đầu ra của sản
phẩm ổn định, nên có thể yên tâm sản xuất, không còn lo lắng về giá cả lên xuống
bấp bênh. Mặt khác, Nhà nước đảm bảo mục tiêu lợi nhuận 30% trở lên đối với
người nông dân, hạn chế được tình trạng ''được mùa rớt giá", CĐL từng bước giúp
nông dân sản xuất theo đơn đặt hàng và theo kế hoạch cụ thể, hướng dẫn người
nông dân làm ăn lớn và hội nhập. Người nông dân tính toán được giá thành mỗi vụ,
chi phí đầu vào và đầu ra sản xuất, từ giống, phân bón, thuốc trừ sâu... đến ứng
dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, biết gắn sản xuất với thị trường, sản xuất ra sản
phẩm chất lượng cao, an toàn, đạt hiệu quả kinh tế cao, bảo vệ môi trường, bảo vệ
sức khoẻ bản thân và cộng đồng. Tóm lại, tham gia CĐL, sẽ dần dần hình thành
người nông dân mới.
45
(iv) Các LIKT thu được từ chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước đối với
nông dân.
Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg, ngày 24/06/2002 của Thủ tướng Chính phủ
về chính sách khuyến khích tiêu thụ hàng hoá thông qua hợp đồng với các hình thức
hỗ trợ từ phía Nhà nước đối với nông dân tham gia ký kết hợp đồng như sau: (1)
Nông dân có thể dùng quyền sử dụng đất nông nghiệp tham gia góp vốn, hình thành
liên danh, liên kết với doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ nông sản; (2) Nhà nước hỗ
trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng (vùng sản xuất nguyên liệu tập trung được hỗ
trợ xây dựng đường giao thông, thuỷ lợi, điện, chợ buôn bán, kho hàng, mạng lưới
thông tin thị trường, cơ sở kiểm dịch chất lượng hàng hoá); (3) Được vay vốn 0% từ
Quỹ Hỗ trợ phát triển, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu; (4) Hỗ trợ nông dân tham gia hợp
đồng chuyển giao kỹ thuật và công nghệ, nhập khẩu giống và kỹ thuật mới, triển
khai áp dụng giống mới đại trà (hỗ trợ kinh phí mua giống, kỹ thuật mới, hỗ trợ đầu
tư cơ sở nhân giống).
Theo Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg, ngày 25/10/2013 của Thủ tướng
Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với
tiêu thụ nông sản, xây dựng CĐL, chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với nông dân là:
- Được tập huấn và hướng dẫn kỹ thuật về sản xuất và thông tin thị trường
miễn phí liên quan đến loại sản phẩm tham gia CĐL.
- Được hỗ trợ một lần tối đa 30% chi phí mua giống cây trồng có phẩm cấp
chất lượng từ giống xác nhận trở lên để gieo trồng vụ đầu tiên trong dự án CĐL.
- Được hỗ trợ 100% kinh phí lưu kho tại doanh nghiệp thời hạn tối đa là 3
tháng trong trường hợp Chính phủ thực hiện chủ trương tạm trữ nông sản.
Điều kiện hưởng ưu đãi, hỗ trợ: Hộ nông dân cam kết thực hiện sản xuất và
bán nông sản theo hợp đồng đã ký và cấp có thẩm quyền xác nhận.
Hai là, LIKT của doanh nghiệp trong cánh đồng lớn.
(1) Vai trò của doanh nghiệp
Theo quan điểm của V.I.Lênin, LIKT của mỗi người tùy thuộc vào vai trò, vụ trí
của họ có trong hệ thống quan hệ sản xuất. Do đó, nghiên cứu về LIKT của doanh nghiệp
trong mô hình CĐL sản xuất lúa, cần thiết phải nghiên cứu vai trò của doanh nghiệp.
Trong mô hình CĐL, nông dân là "nhân vật trung tâm", doanh nghiệp đóng
vai trò chính yếu trong trong việc thúc đẩy sự hình thành và thành công của mô hình.
Mô hình cánh đồng lớn là mô hình có sự liên kết chặt chẽ "bốn nhà": Nhà
nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nông. Trong đó, mối liên kết kinh tế
46
nông dân và doanh nghiệp là cơ bản và quan trọng nhất, quyết định sự tồn tại và
phát triển mô hình.
Trong mô hình CĐL, nông dân - trực tiếp tiến hành sản xuất tạo ra các mặt hàng
nông sản đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội và xuất dưới sự trợ giúp của nhà nước,
nhà khoa học, các doanh nghiệp về vốn, kỹ thuật, công nghệ và tiêu thụ sản phẩm...
Doanh nghiệp đóng vai trò là nhà cung ứng các yếu tố sản xuất (giống, thuốc BVTV,
phân bón…), chỉ đạo sản xuất theo quy trình và tiêu chuẩn đáp ứng nhu cầu thị trường,
đồng thời tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho nông dân. Doanh nghiệp là tác nhân quan trọng
trong chuỗi giá trị lúa gạo trên CĐL, là động lực để nông dân đổi mới phương pháp
canh tác lúa trên CĐL. Trong chuỗi liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ lúa gạo theo
mô hình CĐL thì doanh nghiệp là tác nhân chủ yếu, đầu mối, một mắt xích quan trọng
nhất để hình thành và duy trì hoạt động bền vững của cả chuỗi.
(2) Lợi ích kinh tế của doanh nghiệp trong CĐL bao hàm những gì?
Như chúng ta đều biết, trong mọi xã hội, doanh nghiệp là nguồn gốc sự giàu
có của xã hội, bởi lẽ, với chức năng của mình, doanh nghiệp là nơi tạo ra của cải
cho xã hội. Của cải được tạo ra càng nhiều, chất lượng càng tốt, kinh doanh càng có
hiệu quả và lợi nhuận cao thì doanh nghiệp càng mạnh. Còn nếu kinh doanh thua lỗ,
mặc dù được ưu ái như các doanh nghiệp nhà nước của ta hiện nay, thì không còn là
doanh nghiệp nữa. Là nguồn gốc của cải của xã hội, đòi hỏi doanh nghiệp kinh
doanh phải có hiệu quả, hiệu quả kinh tế thuần hay lợi nhuận. Lợi ích kinh tế của
doanh nghiệp là phải tối đa hoá lợi nhuận. Lợi nhuận ở đây là phạm trù của sản
xuất, là giá trị gia tăng của hiệu số giá trị hàng hoá - chi phí sản xuất. Có thể biểu thị
bằng công thức: giá trị hàng hoá (c+v+m) - chi phí sản xuất (c+v) = m (hay giá trị
gia tăng, hay lợi nhuận). Lợi nhuận là động lực chi phối các nhà kinh doanh.
Ngoài lợi nhuận thu được trong kinh doanh, doanh nghiệp còn có nhiều
LIKT khác:
- Tham gia vào chuỗi liên kết ổn định, chặt chẽ, nhất là giữa các khâu sản
xuất nguyên liệu và chế biến nông sản, các mặt hàng nông sản sẽ gia tăng giá trị do
tăng được khả năng đầu tư khoa học - công nghệ trong cả khâu sản xuất lẫn khâu
chế biến. Các doanh nghiệp chế biến sẽ ổn định được sản xuất do ổn định được
nguồn cung nguyên liệu, do có được nguồn nguyên liệu có chất lượng cao và do đó,
thị trường tiêu thụ sản phẩm sẽ ổn định hơn, uy tín và chất lượng nông sản vì thế
cũng được cải thiện và nâng cao. Các doanh nghiệp cũng nhờ đó mà có điều kiện
để thực hiện đúng các quy trình kỹ thuật cần thiết, nâng cao chất lượng sản phẩm.
47
- Tham gia vào chuỗi liên kết, các doanh nghiệp có đủ nguyên liệu, ổn định
được sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm, nên có nhiều cơ hội để đầu tư mở
rộng sản xuất, cải thiện chất lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm...
- Theo Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg, ngày 25/10/2013 của Thủ tướng
Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với
tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn, doanh nghiệp được hưởng các LIKT từ
chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước, như:
+ Được miễn tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất khi được nhà nước giao đất
hoặc cho thuê đất để thực hiện các dự án xây dựng nhà máy chế biến, kho chứa, nhà
ở công nhân, nhà công vụ phục vụ cho dự án CĐL;
+ Ưu tiên tham gia thực hiện các hợp đồng xuất khẩu nông sản hoặc chương
trình tạm trữ nông sản của Chính phủ;
+ Hỗ trợ một phần kinh phí thực hiện quy hoạch, cải tạo đồng ruộng, hoàn
thiện hệ thống giao thông, thuỷ lợi nội đồng, hệ thống điện phục vụ sản xuất nông
nghiệp trong dự án CĐL;
+ Hỗ trợ tối đa 50% kinh phí tổ chức đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật cho
nông dân sản xuất nông sản theo hợp đồng, bao gồm chi phí về tài liệu, ăn, ở, đi lại,
tổ chức lớp học.
Điều kiện hưởng ưu đãi, hỗ trợ.
1) Doanh nghiệp phải có hợp đồng trực tiếp hoặc liên kết với các doanh
nghiệp khác để cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào phục vụ sản xuất gắn với mua
nông sản của hộ nông dân hoặc tổ chức đại diện của nông dân trong dự án CĐL.
2) Có vùng nguyên liệu, đảm bảo ít nhất 50% nhu cầu nguyên liệu và có hệ
thống sấy, kho chứa, cơ sở chế biến, bảo đảm yêu cầu sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp theo hợp đồng.
3) Có phương án thực hiện các nội dung được ưu đãi, hỗ trợ (4 nội dung ưu
đãi, hỗ trợ nêu trên) và được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Ngoài ra, theo quy định tại Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ thì hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (là cá tổ chức đại diện của
nông dân) cũng được hưởng chính sách ưu đãi, hỗ trợ như sau:
- Được miễn tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất khi được nhà nước giao đất
hoặc cho thuê để thực hiện xây dựng cơ sở sấy, chế biến, kho chứa phục vụ cho dự
án CĐL.
48
- Ưu tiên tham gia thực hiện các hợp đồng xuất khẩu nông sản hoặc chương
trình tạm trữ nông sản của Chính phủ.
- Hỗ trợ tối đa 30% trong năm đầu và 20% năm thứ 2 chi phí thực tế về thuốc
bảo vệ thực vật, công lao động, thuê máy để thực hiện dịch vụ bảo vệ thực vật
chung cho các thành viên.
Bảng 2.1: Tổng hợp lợi ích kinh tế của nông dân và doanh nghiệp
trong mô hình CĐL
LIKT của nông dân LIKT của doanh nghiệp
(1) Nông dân vẫn là "chủ đất" khi tham (1) LIKT trước tiên, bao trùm là thu
gia CĐL nên vẫn được hưởng các LIKT được lợi nhuận cao.
từ quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng (2) Các doanh nghiệp có được nguồn
đất là tài sản của người sử dụng đất và cung nguyên liệu ổn định, có chất lượng
được tính bằng tiền trong các giao dịch giúp nâng cao chất lượng sản phẩm, ổn
dân sự. định sản xuất, ổn định thị trường tiêu
(2) Tăng lợi nhuận và thu nhập do tăng thụ… nên có nhiều cơ hội mở rộng đầu
cường ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ tư, phát triển sản xuất nâng cao khả năng
thuật. Do đó, nâng cao năng suất, sản cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh
lượng, giảm chi phí sản xuất, tăng giá trị nghiệp có khả năng tối đa hóa lợi nhuận.
lúa gạo… (3) Tham gia vào thị trường các yếu tố
(3) Ổn định đầu ra cho sản phẩm, bảo sản xuất (cung cấp phân bón, giống,
đảm việc làm thường xuyên, kết quả là: thuốc bảo vệ thực vật), dịch vụ (dự trữ
ổn định thu nhập, ổn định và cải thiện lúa, sấy cho nông dân) làm đa dạng hóa
chất lượng cuộc sống. hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
(4) Các LIKT khác thu được từ các (4) Các LIKT khác thu được từ các
chính sách hỗ trợ của Nhà nước: hỗ trợ chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước
mua giống xác nhận, tập huấn kỹ thuật, khi đầu tư vào nông nghiệp như: hỗ trợ
hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ phát triển kinh tế lãi suất, tiền thuê đất, đổi mới công
hợp tác… nghệ, thiết bị…
Nguồn: Tác giả tổng hợp.
2.1.3.2. Quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô
hình cánh đồng lớn
Trong Từ điển Tiếng việt, cụm từ "quan hệ" là sự liên quan giữa hai hai đối
tượng hoặc hai nhóm đối tượng, có thể có các ý nghĩa như: quan hệ xã hội, quan hệ
họ hàng, quan hệ chính trị, quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất, quan hệ lợi ích… Mối
49
quan hệ được hiểu là sự tác động qua lại giữa hai (hoặc nhiều hơn hai) đối tượng
hoặc hai (hoặc nhiều hơn hai) nhóm đối tượng có liên quan với nhau.
Quan hệ LIKT thực chất là mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế nảy sinh và
phát triển tất yếu do chính các quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất. Quan hệ LIKT có
thể được xem là "cốt lõi vật chất" của các mối quan hệ xã hội. Bởi lẽ, LIKT là nhân
tố chủ yếu tạo động lực thúc đẩy con người hành động nhằm thỏa mãn nhu cầu.
Nhu cầu càng lớn thì sự hấp dẫn đối với chủ thể càng lớn và do đó, động cơ nảy
sinh trên cơ sở thực hiện LIKT càng lớn và càng thúc đẩy con người hành động.
Lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL sản xuất
lúa nêu ở trên là động lực thúc đẩy nông dân và doanh nghiệp hoạt động trong mô
hình CĐL, thông qua đó hình thành quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp.
Có thể hiểu quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình
CĐL là mối quan hệ LIKT giữa hai chủ thể kinh tế cùng hoạt động sản xuất kinh
doanh trong CĐL và nó nảy sinh phát triển do các mối quan hệ liên kết kinh tế giữa
nông dân và doanh nghiệp.
Trong mô hình CĐL, nông dân và doanh nghiệp trong CĐL phải liên kết với
nhau, nương tựa lẫn nhau, cùng nhau hành động, nên LIKT của họ gắn kết với nhau
rất chặt chẽ. Nếu nông dân hoạt động trong CĐL, trong chuỗi liên kết giữa nông
dân và doanh nghiệp mà không đạt được các LIKT, thì doanh nghiệp cũng không có
được các LIKT như mong muốn...
Cơ sở trực tiếp của quan hệ LIKT là các hoạt động kinh tế trong quá trình
sản xuất và tái sản xuất. Thông qua các hoạt động kinh tế đó, các quan hệ giữa các
chủ thể kinh tế được xác lập và hình thành nên các quan hệ LIKT tương ứng. Quan
hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong CĐL là mối quan hệ hữu cơ, tương
tác lẫn nhau trong chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ, chế biến nông sản (lúa). Thể
hiện: một mặt, nông dân sản xuất lúa, cung cấp lúa nguyên liệu cho doanh nghiệp
chế biến, tiêu thụ với khối lượng lớn, chất lượng cao... bởi doanh nghiệp cung cấp
các yếu tố đầu vào của sản xuất, trợ giúp về mặt kỹ thuật cho nông dân, nên nông
dân đạt được năng suất cao, hiệu quả kinh tế lớn, thu nhập của nông dân và việc làm
được đảm bảo ổn định... Mặt khác, doanh nghiệp cung cấp các yếu tố đầu vào cho
sản xuất của nông dân và hướng dẫn khoa học, kỹ thuật cho nông dân, nên có được
vùng nguyên liệu quy mô lớn, ổn định, từ đó, sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp ổn định và phát triển, nên đạt được lợi nhuận tối ưu, gia tăng các LIKT của
doanh nghiệp.
50
Mối quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL sản xuất
lúa biểu hiện tập trung ở hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của hoạt động sản xuất
kinh doanh của nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL. Mối quan hệ LIKT này
được thực hiện thông qua cơ chế phân phối lợi nhuận, thu nhập trong chuỗi giá trị lúa
gạo mà nông dân và doanh nghiệp là các tác nhân trong chuỗi giá trị đó.
Quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trở thành yếu tố gắn kết nông
dân và doanh nghiệp với nhau, đảm bảo cho hai chủ thể này đạt được LIKT. Khi
LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp được đảm bảo thì quan hệ liên kết kinh tế
giữa hai chủ thể này được cũng cố và thắt chặt. Nếu LIKT không được thực hiện
một cách công bằng, bị xâm phạm thì sớm hay muộn quan hệ liên kết kinh tế giữa
nông dân và doanh nghiệp có thể bị đỗ vỡ, chấm dứt.
Quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL sản xuất
lúa có sự khác biệt, có thể thống nhất hay mâu thuẫn với nhau, hài hòa hoặc bất bình
đẳng trong thụ hưởng LIKT… Vì thế, giải quyết tốt, hài hòa mối quan hệ LIKT giữa
nông dân và doanh nghiệp là "chất kết dính" gắn bó họ trong mô hình CĐL.
Giải quyết tốt, đảm bảo hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh
nghiệp trong mô hình CĐL sản xuất lúa là một trong những nhân tố thúc đẩy phát
triển nhanh, bền vững mô hình CĐL. Hơn nữa, nó sẽ là cơ sở nền tảng góp phần tạo
nên sự bền vững các liên kết kinh tế mà nông dân và doanh nghiệp tham gia.
Giải quyết tốt, hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp, một
mặt, phải đảm bảo nâng cao lợi nhuận, thu nhập và nâng cao đời sống của nông dân,
từ đó giúp nông dân gắn bó lâu dài với doanh nghiệp; mặt khác, phải đảm bảo cho
doanh nghiệp thu được lợi nhuận tối ưu và đời sống của người lao động trong doanh
nghiệp được cải thiện, từ đó doanh nghiệp mới có điều kiện phát triển, giúp nông
dân trong CĐL gia tăng LIKT.
Phương thức đảm bảo hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp
trong phát triển CĐL là:
- Xác định rõ quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể (nông dân, doanh
nghiệp…) tham gia chuỗi liên kết kinh tế trong CĐL, chuỗi sản xuất giá trị lúa gạo.
- Thực hiện nghiêm túc hợp đồng kinh tế đã ký kết giữa nông dân và doanh
nghiệp trong CĐL.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách phân phối lợi ích, thu nhập, chính sách giá
cả… Phát huy vai trò của thị trường, tuân thủ các quy luật kinh tế khách quan. Đồng
thời, phát huy vai trò của Nhà nước trong việc giải quyết hợp lý quan hệ phân phối.
51
2.1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông
dân và doanh nghiệp trong mô hình cánh đồng lớn
Có các nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến quan hệ LIKT
giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL sản xuất lúa.
2.1.4.1. Nhận thức của các bên tham gia cánh đồng lớn và tính bền vững
trong mối quan hệ liên kết "4 nhà"
(1) Nhận thức của các bên tham gia cánh đồng lớn
- Các bên tham gia CĐL cần hiểu đúng mục tiêu tối thượng của CĐL là nâng
cao thu nhập cho nông dân và lợi nhuận cho doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản
xuất và đảm bảo an toàn nông sản, bảo vệ môi trường. Tham gia vào mô hình CĐL
là "cuộc chơi" mà các bên đều có lợi.
- Nâng cao nhận thức mọi mặt cho nông dân, để phát huy hiệu quả CĐL,
phải bắt đầu từ nhận thức của nông dân về sự đồng thuận sản xuất hợp tác làm ăn,
không phá vỡ hợp đồng ký kết giữa nông dân và doanh nghiệp, về vai trò của ứng
dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất, nâng cao năng lực quản lý sản
xuất sản phẩm đồng đều và nâng cao chất lượng để tăng sức cạnh tranh trên thị
trường, kiến thức về pháp luật và có sự am hiểu kinh tế thị trường, nhận thức đầy đủ
hơn về tầm quan trọng của việc liên kết với nhau trong sản xuất, vai trò của mối liên
kết 4 nhà, nhất là mối liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp.
- Trong quan hệ liên kết 4 nhà, thì nhà doanh nghiệp là người phải chịu trách
nhiệm đến cùng đối với nông dân từ cung ứng vật tư đến tiêu thụ nông sản giúp
tăng thu nhập cho các hộ nông dân. Các doanh nghiệp, cần tham gia với tinh thần
đồng hành, chia sẻ tích cực vì LIKT cao nhất của người nông dân, vì sự phát triển
bền vững của mô hình này.
- Các nhà khoa học có điều kiện trực tiếp giúp nông dân ứng dụng tiến bộ
khoa học - kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất hàng nông sản nhằm tăng năng suất,
chất lượng và hiệu quả kinh tế...
- Nhà nước phải hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh để tạo
điều kiện thuận lợi cho sự liên kết 4 nhà trong CĐL, trong đó, ưu tiên đầu tư hoàn
thiện hệ thống thuỷ lợi, kiến thiết lại đồng ruộng tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh
cơ giới hoá. Nhà nước hỗ trợ nông dân mua máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất, thu
hoạch, bảo quản sản phẩm... Chính quyền địa phương phải tham gia tích cực, trực
tiếp chỉ đạo, huy động lực lượng để xây dựng CĐL. Thực hiện công tác khuyến
52
nông, đào tạo, tập huấn, hướng dẫn ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học, công
nghệ nông nghiệp hiện đại cho nông dân. Ngoài ra, chính quyền địa phương cần
tuyên truyền, vận động các doanh nghiệp chung tay xây dựng nông thôn mới bằng
hình thức liên kết xây dựng CĐL, với tư cách vừa là "bà đỡ" hỗ trợ nông dân, vừa là
người hưởng lợi từ chương trình liên kết.
(2) Tính bền vững trong mối quan hệ liên kết 4 nhà Để mô hình CĐL thực sự đạt hiệu quả cao: (i) Cần xác định rõ vai trò chủ
yếu của mỗi đối tác (nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà nước và nhà nông) trong
quan hệ liên kết để biện pháp quản lý hỗ trợ, nâng cao hiệu quả liên kết. Cần thể
hiện mối liên kết 4 nhà, mỗi nhà cần làm tròn vai trò của mình thì mối liên kết mới
có hiệu quả cao; (ii) Mô hình CĐL sẽ bền vững khi phân phối lợi ích giữa 4 nhà
một cách hợp lý. Vì LIKT là chất kết dính 4 nhà, phải công khai, minh bạch LIKT
giữa các nhà, phải xây dựng được hệ thống thông tin rõ ràng, nhanh nhạy cho các
nhà, làm sao cho các hạt nhân trong chuỗi liên kết này không ''đồng sàng dị mộng'';
(iii) Các hợp đồng kinh tế được ký kết giữa nông dân, nhà cung ứng các yếu tố đầu
vào và nhất là các doanh nghiệp thu mua, tiêu thụ sản phẩm phải có tính pháp lý
cao, quy định rõ trách nhiệm và nghĩa của mỗi bên tham gia ký kết hợp đồng và
phải đảm bảo gắn với LIKT cụ thể của từng chủ thể. Bên cạnh đó, nhà nước có
chính sách khuyến khích, có chế tài xử phạt phù hợp, kịp thời đối với tất cả doanh
nghiệp, cá nhân, tổ chức vi phạm hợp đồng để bảo vệ LIKT của nông dân và doanh
nghiệp và tạo niềm tin lâu dài của nông dân và doanh nghiệp.
Tóm lại, nâng cao nhận thức của các bên tham gia chuỗi liên kết trong CĐL
sản xuất lúa. Thực hiện tốt trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của các chủ thể trong
liên kết kinh tế, phân phối hợp lý LIKT giữa các bên tham gia CĐL là nhân tố tác
động tích cực đến quan hệ LIKT của các bên tham gia CĐL, nhất là nông dân và
doanh nghiệp
2.1.4.2. Tổ chức sản xuất và quản lý trong mô hình cánh đồng lớn đạt hiệu
quả kinh tế, xã hội và môi trường cao
Tổ chức sản xuất là hệ thống các biện pháp nhằm sử dụng có hiệu quả cao
các nguồn lực của nông dân và doanh nghiệp trong CĐL, đó là: nguồn lực đất đai,
vốn, khoa học công nghệ (máy móc, thiết bị, nhà nhà xưởng, kho chứa, các phương
pháp canh tác mới, quản quy trình canh tác…), nguồn lực lao động… của nông dân
và doanh nghiệp nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng, vai trò nhiệm vụ của nông
dân và doanh nghiệp trong CĐL.
53
Tổ chức sản xuất và quản lý trong CĐL bao gồm nhiều mặt hoạt động, hoạt
động sản xuất sản phẩm (lúa) chủ yếu thuộc về nông dân, hoạt động điều hành sản
xuất, tổ chức quá trình lao động, cung ứng vật tư kỹ thuật và quản lý chủ yếu thuộc
về doanh nghiệp.
Hình thức tổ chức sản xuất và quản lý trong CĐL đạt hiệu quả cao và hoàn
thiện sẽ là nhân tố quan trọng tác động đến hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường
của mô hình CĐL sản xuất lúa.
Đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường cao trong hoạt động sản
xuất lúa trên CĐL thì cả nông dân, doanh nghiệp và xã hội đều gia tăng được LIKT.
Hiệu quả của mô hình này càng cao thì sự gắn kết quan hệ LIKT giữa các chủ thể
càng chặt chẽ, hướng đến đảm bảo hài hòa lợi ích hơn.
Theo chúng tôi: Hiệu quả của CĐL là một phạm trù kinh tế xem xét tính khả
thi của CĐL, tức là so sánh giữa những kết quả, lợi ích đạt được của các CĐL với
các chi phí về sức người, sức của các bên tham gia CĐL để đạt được mục tiêu phát
triển mô hình CĐL.
Các tiêu chí cụ thể đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của hoạt
động sản xuất lúa theo mô hình CĐL là:
Thứ 1, các tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế, bao gồm: (i) năng suất và sản
lượng cây trồng; (ii) chi phí sản xuất và giá cả nông sản; (iii) chất lượng, phẩm chất,
chất lượng nông sản phụ thuộc vào chất lượng giống cây trồng, công nghệ sau thu
hoạch, công nghệ chế biến...), đặc biệt là nông sản xuất khẩu bao gồm: giá trị sử
dụng (chất lượng dinh dưỡng, chất lượng vệ sinh an toàn lương thực, thực phẩm...),
phải đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng theo chuẩn mực, tiêu chuẩn ISO quốc tế
và các tiêu chuẩn theo quy định của WTO và các tiêu chuẩn của các nước khác,
như: dư lượng kháng sinh và thuốc bảo vệ thực vật, các quy định về môi trường, về
an toàn lương thực, thực phẩm; (iv) thu nhập lợi nhuận và các lợi ích khác của các
chủ thể tham gia hoạt động sản xuất lúa theo mô hình CĐL.
Thứ 2, tiêu chí đánh giá hiệu quả xã hội, phản ánh trình độ sử dụng nguồn
lực nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định như: (i) Giải quyết việc làm, nâng
cao sự hiểu biết của người dân; (ii) Góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần
của người dân; (iii) Góp phần xoá đói giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới; (iv)
Cải thiện môi trường và điều kiện làm việc của người lao động.
Thứ 3, các tiêu chí đánh giá hiệu quả môi trường thể hiện: (i) Không làm suy
54
thoái, ô nhiễm môi trường sinh thái (môi trường đất, nước, phát thải nhà kính...) hay
làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên (đất, nước, đa dạng sinh học...); (ii) Mang lại
những lợi ích cho môi trường như: góp phần ngăn chặn ô nhiễm, khôi phục và cải
tạo chất lượng môi trường, góp phần bảo tồn tài nguyên đất, nước, đa dạng sinh
học...; (iii) Đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và điều kiện làm việc của người lao
động và môi trường sống của con người.
Khi hiệu sản xuất lúa theo mô hình CĐL đạt được quả kinh tế, xã hội và môi
trường cao thì cả nông dân và doanh nghiệp tham gia CĐL đều gia tăng được các
LIKT của mình. Quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp có cơ sở đảm bảo
và ngày càng bền chặt hơn.
2.1.4.3. Đường lối, chủ trưởng của Đảng, cơ chế chính sách, pháp luật
của Nhà nước
Đường lối, chủ trương của Đảng, cơ chế chính sách, pháp luật của Nhà nước
về phát triển mô hình CĐL, về liên kết sản xuất - tiêu thụ nông sản, về giải quyết
mối quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến quan
hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL.
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng ta đã đề ra
đường lối phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn, đặc biệt là Nghị quyết số
26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương
khóa X về "nông nghiệp, nông dân, nông thôn" đã đề ra nhiều chủ trương nhằm
phát triển toàn diện nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của người nông dân.
Hiện thực hóa đường lối của Đảng, Nhà nước đã ban hành chính sách phát
triển nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là cơ chế, chính sách nhằm xây dựng và phát
triển liên kết kinh tế theo mô hình CĐL như:
- Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg, ngày 24/06/2002 của Thủ tướng Chính
phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ hàng hoá thông qua hợp đồng.
- Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 đã thay thế Quyết định 80.
- Thông tư 15/2014/TT-BNNPTNT, ngày 29/04/2014 của Bộ Nông nghiệp &
Phát triển nông thôn, ban hành tiêu chí CĐL và biểu mẫu hợp đồng liên kết sản xuất
và tiêu thụ nông sản.
- Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05 tháng 7 năm 2018 về
chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp có quy định về hình thức xử lý các tranh chấp hợp đồng liên kết.
55
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước đóng vai trò như là "bà đỡ" cho sự
phát triển kinh tế thị trường, như người nhạc trưởng trong quản lý điều tiết kinh tế vĩ
mô. Nhà nước trong nền kinh tế thị trường có nhiều chức năng, trong đó, chức năng
quan trọng hàng đầu là định hướng phát triển thông qua các công cụ chính sách, như:
xây dựng chiến lược và quy hoạch, sử dụng công cụ pháp luật, công cụ kinh tế, công
cụ hành chính... để quản lý, định hướng quá trình phát triển nền kinh tế.
Trong phát triển CĐL, gia tăng hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của
mô hình này thì nhà nước đóng vai trò là "bà đỡ" cho sự hình thành, phát triển, gia
tăng hiệu quả của CĐL trong sản xuất lúa, thể hiện:
- Nhà nước đầu tư và hỗ trợ đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng hoàn
chỉnh để tạo điều kiện thuận lợi cho sự liên kết 4 nhà trên CĐL, trong đó ưu tiên
đầu tư vào hạ tầng giao thông, các định hướng này gắn chặt với công tác triển khai
chương trình mục tiêu quốc gia và xây dựng nông thôn mới của Đảng và Nhà nước.
- Nhà nước phải hướng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của mình trực tiếp đến
với nông dân, doanh nghiệp, không qua khâu trung gian. Nhà nước hỗ trợ nông dân
mua máy móc thiết bị phục vụ sản xuất, thu hoạch, ưu tiên bảo hiểm nông nghiệp,
tích tụ đất đai quy mô hợp lý; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào CĐL, chính
sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản,
xây dựng và phát triển mô hình CĐL.
- Chính phủ hỗ trợ phát triển hoàn chỉnh công tác khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư: đào tạo, tập huấn, hướng dẫn ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong
sản xuất nông nghiệp cho nông dân... Bên cạnh đó, Nhà nước có chính sách đào tạo
nguồn nhân lực, chính sách ưu đãi đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ sư nông
nghiệp như mô hình FF (Fridend Farn - Bạn của nông dân) mà Công ty cổ phần Bảo
vệ thực vật An Giang (nay là Công ty cổ phần Tập đoàn Lộc Trời) trong xây dựng
CĐL ở ĐBSCL thời gian qua.
Trong thực hiện LIKT của các chủ thể và đảm bảo hài hòa LIKT giữa các
chủ thể Nhà nước có vai trò như người xây dựng "luật chơi" và làm "trọng tài" trong
cuộc chơi giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL. Cụ thể:
- Nhà nước ban hành các quy định tham gia CĐL, các quy định về ký kết các
hợp đồng liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa gạo, giám sát quá trình thực thi các hợp
đồng kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp trong CĐL và tham gia giải quyết
tranh chấp hợp đồng giữa các chủ thể. Theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP, hình
56
thức xử lý các tranh chấp hợp đồng liên kết bao gồm: Nhà nước khuyến khích các
hình thức giải quyết tranh chấp của các bên tham gia liên kết bằng hình thức thương
lượng và hòa giải. Trường hợp không thống nhất được thì giải quyết thông qua
trọng tài thương mại hoặc giải quyết tại tòa án. Khi có vi phạm, tranh chấp hợp
đồng xảy ra mà các bên không thể thống nhất, giải quyết được thì Toà án là cơ quan
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Quy trình giải quyết này đối với Toà án sẽ
thuận lợi và dễ dàng hơn cho nông dân cũng như doanh nghiệp bởi đây là hợp đồng
dân sự sẽ do Toà án cấp sơ thẩm (chủ yếu cấp huyện) giải quyết theo trình tự thủ tục
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung 2011).
- Nhà nước phải là người "cầm trịch" trong việc phân chia lợi ích cho các
bên tham gia chuỗi liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản, hay nói khác là
nông dân và doanh nghiệp sao cho công khai, minh bạch, hợp lý nhằm đảm bảo giải
quyết hài hoà LIKT giữa các bên tham gia CĐL.
Như vậy, vai trò của Nhà nước có tác động rất lớn đến sự hình thành và phát
triển, gia tăng hiệu quả của mô hình CĐL sản xuất lúa - nơi hình thành và thực hiện
quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp, đồng thời tác động lớn đến việc đảm
bảo hài hòa LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp tham gia sản xuất lúa theo mô
hình CĐL.
2.1.4.4. Tác động của thị trường
Thị trường đầu vào và đầu ra của sản phẩm có ảnh hưởng lớn đối với quá
trình hình thành các LIKT của các chủ thể tham gia CĐL, đồng thời tác động đến
quan hệ LIKT giữa các chủ thể, đặc biệt là nông dân và doanh nghiệp.
Khoa học kinh tế chính trị quan niệm về thị trường như sau: Thị trường là
tổng hoà các mối quan hệ mua bán trong xã hội, được hình thành trong những điều
kiện lịch sử, kinh tế - xã hội nhất định. Thị trường là cầu nối giữa sản xuất và tiêu
dùng, là một mắt khâu của quá trình tái sản xuất xã hội (sản xuất, phân phối, trao
đổi và tiêu dùng).
Thị trường kết nối cung - cầu, người mua, người bán, người sản xuất và
người tiêu dùng; thị trường kết nối thông tin (sản phẩm, giá cả...).
Thị trường có các chức năng: điều tiết, kích thích, thông tin và dự báo.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, thị trường có vai trò
quyết định sự tồn tại và phát triển của các chủ thể kinh tế (cá nhân, tổ chức kinh tế,
doanh nghiệp...).
57
Tác động của thị trường đến quan hệ LIKT của nông dân và doanh nghiệp
trong CĐL thể hiện: một mặt, thông qua thị trường, doanh nghiệp cung cấp các yếu
tố đầu vào (giống, vật tư nông nghiệp...) cho nông dân. Nếu các yếu tố đầu vào này
được doanh nghiệp cung cấp đầy đủ, đồng bộ, kịp thời và đảm bảo chất lượng thì
nông dân sản xuất sản phẩm sẽ có năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, chi phí
sản xuất hợp lý... do đó sẽ tăng hiệu quả sản xuất và tăng lợi nhuận cho nông dân.
Mặt khác, doanh nghiệp có được vùng nguyên liệu để chế biến với chất lượng tốt,
số lượng lớn... thì sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ ổn định, hiệu quả và lợi
nhuận đạt được sẽ cao; doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm sẽ tốt hơn, ổn định được thị
trường, bán hàng, đảm bảo doanh thu... đồng thời, nông dân cũng tránh được tình
trạng "được mùa rớt giá" và họ yên tâm sản xuất. Qua đó, giúp mối liên kết kinh tế
giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL trở nên gắn bó chặt chẽ hơn.
Thị trường trong nước và thế giới đều ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của nông dân và doanh nghiệp trong CĐL và do đó, ảnh hưởng đến
LIKT và quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp. Thật vậy:
Thông thường, khi nguồn cung sản xuất lớn hơn nhu cầu thị trường có thể
tiêu thụ thì nông dân cần hợp đồng nhưng ngược lại, khi nhu cầu thị trường lớn hơn
nguồn cung sản xuất thì doanh nghiệp lại có nhu cầu liên kết cao hơn.
Ở khía cạnh đầu vào, việc cung ứng nguyên liệu, vật tư nông nghiệp cho sản
xuất lúa bị hạn hẹp, khó khăn thì giá cả các yếu tố đầu vào sẽ tăng lên, làm tăng chi
phí sản xuất lúa, giá thành sản xuất lúa sẽ tăng lên. Do đó, cung đầu vào cho sản
xuất lúa có thể ảnh hưởng đến chuỗi sản xuất, giá trị lúa gạo. Cung đầu vào sản xuất
lúa trong nước có thể bị ảnh hưởng của thị trường thế giới nếu các yếu tố đầu vào
cho sản xuất lúa được nhập khẩu.
Ở khía cạnh đầu ra, khi giá thị trường lúa gạo thế giới thay đổi, do cung cầu
gạo xuất khẩu thế giới biến đổi, do cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu ngày càng
gia tăng do sự gia nhập của nhiều chủ thể xuất khẩu gạo… sẽ làm cho hoạt động sản
xuất lúa gạo bị ảnh hưởng cùng với những biến đổi này. Chẳng hạn, xuất khẩu gạo
của ĐBSCL chịu áp lực rất lớn về cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là Ấn Độ với
khối lượng gạo khổng lồ đưa vào thị trường và nguồn gạo giá thấp của Pakistan,
Myanmar. Trong khi đó, các thị trường lớn nhập khẩu gạo của Việt Nam như
Philippines, Indonesia giảm sức mua và số lượng hợp đồng nhập khẩu tập trung
(hợp đồng của Chính phủ) giảm mạnh, thay vào các hợp đồng thương mại với giá trị
58
hợp đồng không lớn, số lượng ít… làm giảm sản lượng gạo xuất khẩu của ĐBSCL.
Biến động này làm cầu về lúa gạo xuất khẩu của ĐBSCL giảm, trong khi lượng
cung không đổi hoặc có xu hướng gia tăng do tăng năng suất, dẫn đến giá cả giảm
ảnh hưởng đến lợi nhuận và thu nhập của cả nông dân và doanh nghiệp. Doanh
nghiệp có khả năng không thực hiện hợp đồng đã ký kết với nông dân làm rạng nứt
mối quan hệ, niềm tin đối với nông dân trong liên kết sản xuất lúa.
2.1.4.5. Các nhân tố khác
(1) Điều kiện tự nhiên, môi trường, biến đổi khí hậu... tác động đến hoạt
động của nông dân và doanh nghiệp trong CĐL. Từ đó, có ảnh hưởng đến thu, đạt
lợi ích của hai bên (nông dân, doanh nghiệp). Chẳng hạn, điều kiện tư nhiên thuận
lợi, mưa thuận gió hòa, đất đai màu mỡ… thì năng suất lúa sẽ gia tăng, sản lượng
gia tăng thì nông dân sẽ có thu nhập cao hơn. Đối với phía doanh nghiệp, nguồn
cung lúa gạo sẽ ổn định và đảm bảo chất lượng qua đó có thể đáp ứng được các đơn
hàng đã ký kết và có điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ, qua đó giúp doanh
nghiệp ổn định thị trường, gia tăng lợi nhuận.
(2) Sự phát triển của kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, thương mại. Hệ thống
hạ tầng như đường giao thông, công trình thủy lợi, điện, kho bãi,.. có vai trò quan
trọng để phát triển liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Thực tế, ở nơi
nào có điều kiện hạ tầng thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, HTX đầu
tư, giúp liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản dễ dàng hơn. Qua đó, giúp gia tăng
LIKT và đảm bảo các điều kiện giải quyết tốt quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh
nghiệp trong mô hình CĐL. Ngược lại, giao thông khó khăn, tiếp cận thông tin hạn
chế gây ảnh hưởng lớn đến tiêu thụ sản phẩm của nông dân, khó tạo điều kiện liên kết
chặt chẽ giữa nông dân và doanh nghiệp trong chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
(3) Quy mô, năng lực sản xuất kinh doanh, quản lý của các chủ thể cũng ảnh
hưởng đến quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL. Thực
tế cho thấy, quy mô sản xuất của hộ nông dân là một trong các yếu tố ảnh hưởng
đến liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản. Cụ thể, nếu quy mô sản xuất của hộ càng
lớn (diện tích và sản lượng sản xuất ra càng lớn) thì nhu cầu liên kết để sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm của hộ nông dân càng cao, do các hộ nông dân mong muốn tiêu
thụ sản phẩm đầu ra được ổn định, hạn chế rủi ro trước biến động của thị trường
hơn là những hộ có quy mô nhỏ. Ngược lại, các doanh nghiệp liên kết cũng thường
mong muốn được liên kết với các hộ có quy mô sản xuất lớn để có thể tiết kiệm
59
được chi phí hơn. Các doanh nghiệp quy mô lớn mới có đủ các điều kiện về tài
chính, kho bải, nhà máy… đáp ứng tốt các điều kiện cần và đủ trong liên kết sản
xuất lúa theo mô hình CĐL, tạo niềm tin và giúp nông dân thực hiện tốt quy trình
canh tác gia tăng lợi ích kinh tế.
2.2. KINH NGHIỆM XÂY DỰNG "MÔ HÌNH LIÊN KẾT SẢN XUẤT" -
NƠI SẢN SINH VÀ THỰC HIỆN LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN VÀ
DOANH NGHIỆP VÀ BÀI HỌC RÖT RA CHO ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
2.2.1. Kinh nghiệm của một số nước Châu Á và vùng Đồng bằng Sông
Hồng của Việt Nam
2.2.1.1. Kinh nghiệm của Thái Lan - xây dựng "nông nghiệp hợp đồng"
Nông nghiệp của Thái Lan cho đến giữa thập nhiên 1980 vẫn là khu vực
quan trọng nhất của nền kinh tế xét cả về lực lượng lao động, mức độ đóng góp vào
GDP, cũng như giá trị xuất khẩu.
Thái Lan đã tập trung thực hiện chính sách liên kết sản xuất và tiêu thụ nông
sản theo hợp đồng. Việc sản xuất và tiêu thụ nông sản theo hợp đồng ở Thái Lan,
phần lớn xuất phát từ nhu cầu của doanh nghiệp chế biến nông sản. Mô hình sản
xuất và tiêu thụ nông sản theo hợp đồng đầu tiên ở Thái Lan do tập đoàn Charoen
Pokphand (CP) thực hiện. Tập đoàn CP bắt đầu ký kết hợp đồng với nông dân để
chăn nuôi gà gia công vào đầu thập niên 1970. Đây là mô hình thành công và nhân
rộng ra khắp Thái Lan. Đến cuối thập niên 1990, gần 100% hộ chăn nuôi gà ở Thái
Lan đều sản xuất gia công cho doanh nghiệp chế biến. Tập đoàn CP đã triển khai
nhiều mô hình khác nhưng điều thất bại vì nông dân không chấp nhận giá cố định
do tập đoàn đưa ra. Được sự hỗ trợ của Chính phủ, ngân hàng nông nghiệp, doanh
nghiệp trong và ngoài nước… mô hình sản xuất nông nghiệp theo hợp đồng đã lan
tỏa sang các sản phẩm khác như: lúa gạo, hoa quả, rau củ…
Cấu trúc sản xuất nông nghiệp theo hợp đồng của Thái Lan chủ yếu theo mô
hình tập trung, giữa một bên là doanh nghiệp chế biến, một bên là các trang trại.
Trong mô hình này, người nông dân chủ yếu sản xuất gia công cho doanh nghiệp
chế biến. Các doanh nghiệp chế biến cung cấp các yếu tố đầu vào, hướng dẫn kỹ
thuật, kiểm soát chất lượng. Đây là mô hình liên kết sản xuất giống như mô hình
liên kết sản xuất và tiêu thụ theo CĐL ở Việt Nam.
Ngoài ra, Thái Lan cũng rất thành công với mô hình trang trại hạt nhân.
Chẳng hạn, Công ty Frito-lay International Co., Ltd. ký kết hợp đồng với nông dân
60
trồng khoai tây cung ứng nguyên liệu cho công ty sản xuất khoai tây chiên theo mô
hình tập trung. Công ty cung ứng các yếu tố đầu vào như giống, tư vấn kỹ thuật và
nhận lại sản phẩm từ nông dân. Năm 1995, Công ty Frito-Lay Foods tiến hành
thành lập các nhóm nông dân và thực hiện các mô hình liên kết sản xuất tiêu thụ
theo mô hình sản xuất tập trung dưới mô hình trang trại hạt nhân. Mô hình này
thành công và được nhiều công ty khác. Công ty CP sản xuất các giống lúa và bắp
cung cấp cho nông dân, các công ty khác cũng tham gia như: Euro Asian Seeds Co.
Ltd., Saha Farm Co. Ltd.
Trong lĩnh vực chăn nuôi, Công ty CP rất thành công với hình thức nông
nghiệp hợp đồng. CP ký hợp đồng với nông dân chăn nuôi gà, lợn với số lượng lớn,
nông dân rất ít vi phạm hợp đồng với doanh nghiệp. Theo mô hình này, CP đầu tư
các yếu tố đầu vào: giống, thuốc, tư vấn kỹ thuật. Nông dân buộc phải đầu tư
chuồng trại, mua sắm các thiết bị chuyên biệt có giá trị lớn (Asset specificity), các
tài sản chuyên biệt này chỉ có thể sử dụng để nuôi gà hoặc nuôi lợn cho CP. Chính
các quy định này của CP và đặc tính của các tài sản chuyên biệt đã cột chặt nông
dân với doanh nghiệp, vì không chăn nuôi cho CP thì không sử dụng được các tài
sản chuyên biệt đó cho các hoạt động khác.
Để gia tăng LIKT và đảm bảo hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh
nghiệp, Chính phủ Thái Lan đã phát huy vài trò rất cao độ. Chính phủ Thái Lan hỗ
trợ cho việc xây dựng các mối quan hệ liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp sản
xuất và tiêu thụ. Xây dựng hệ thống pháp luật, tiêu chuẩn và các quy định cần thiết
đảm bảo thực hiện tốt các hợp đồng giữa nông dân và doanh nghiệp. Chẳng hạn,
Chính phủ Thái Lan ban hành Luật Mía đường, xác điịnh mức giá mía cho nông dân
và doanh nghiệp. Kiểm soát chặt chẽ giá cả, hạn mức sản xuất và kiểm soát chặt các
hoạt động sản xuất đường của khu vực tư nhân. Chính phủ đề xuất việc phân chia
lợi nhuận ròng từ hoạt động trồng mía đảm bảo cho nông dân có lợi nhuận 30%, các
doanh nghiệp là 70%.
Để gia tăng LIKT của nông dân và doanh nghiệp, phát triển hình thức sản
xuất nông nghiệp theo hợp đồng, Chính phủ Thái Lan đã khuyến khích sự tham gia
của nhiểu tổ chứ như Ủy ban Đầu tư, Ủy ban phát triển kinh tế và xã hội quốc gia.
Đặc biệt, hai cơ quan rất quan trọng là Cục khuyến nông và BAAC đã xúc tiến mở
các lớp tập huấn các kiến thức về liên kết cho nông dân. Quy định các điều khoản
ràng buộc trong hợp đồng đảm bảo công bằng (hài hòa về LIKT) giữa nông dân và
doanh nghiệp tham gia liên kết.
61
Thái Lan đặc biệt chú trọng đến xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ nông
nghiệp như: xây dựng đường ống dẫn nước cho khu Đông Bắc, nơi chiếm đến 60%
diện tích đất nông nghiệp của cả nước nhưng chỉ có 12% diện tích được tưới tiêu.
Thái Lan còn dành một lượng vốn lớn xây dựng các tuyến đường vận chuyển nông
sản từ nơi sản xuất đến các kho bãi dự trữ. Bên cạnh đó, chương trình điện khí khí
hóa nông thôn với việc xây dựng các trạm thủy điện vừa và nhỏ khắp cả nước.
Việc xây dựng mô hình liên kết sản xuất nông nghiệp theo hợp đồng với hai
chủ thể là nông dân và doanh nghiệp chế biến là một trong các giải pháp quan trọng
nhằm phát triển nông nghiệp Thái Lan, đồng thời, mô hình liên kết sản xuất này
cũng là mô hình liên kết giúp gia tăng LIKT cho cả nông dân và doanh nghiệp ở
quốc gia này.
2.2.1.2. Kinh nghiệm của Malayssia - xây dựng cánh đồng lớn đạt hiệu
quả cao
Malaysia đã phát triển mô hình CĐL sản xuất lúa bằng nhiều hình thức,
trong đó có 03 hình thức chủ yếu sau:
- Doanh nghiệp tiến hành thuê lại những mảnh ruộng nhỉ của nông dân và
tiến hành sản xuất theo quy mô lớn.
- Tập hợp nông dân xây dựng các hợp tác xã và tiến hành sản xuất trên
những mảnh ruộng của các thành viên hợp tác xã.
- Doanh nghiệp thu mua ruộng đất từ nông dân hình thành các mảnh ruộng
lớn và tổ chức sản xuất CĐL.
Để hình thành các CĐL, Chính phủ Malaysia đã xây dựng các chủ trương,
chính sách khuyến khích nông dân và doanh nghiệp nhằm giúp tăng năng suất, giảm
chi phí sản xuất, đồng thời phù hợp với điều kiện thiếu lao động trong nông nghiệp
do chuyển đổi đất đai sang các lĩnh vực khác. Các chủ trương, chính sách đó đã
giúp Malaysia xây dựng được những CĐL với quy mô và trình độ cao, nhất là tại
huyện Sekinchan thuộc bang Selangor có điều kiện trù phú nhất của nước này.
Quy mô CĐL ở Malaysia lên đến 3.000 ha, diên tích CĐL được chia thành
2.000 thửa ruộng có diện tích và kích thước như nhau. Mỗi thửa có diện tích khoảng
1,2 ha, với chiều dài từ 200 - 250m, chiều rộng 45 - 60m. Chiều rộng các thửa được
ngăn cách bởi mương nhỏ chiều rộng 1m, chiều dài thửa được ngăn bởi mương
rộng 4m được bê tông hóa. Xây dựng tục chính là đường nhựa, các trục nối là
đường bê tông cho phép các xe nông cơ các loại.
62
Trên các CĐL, việc sản xuất được cơ giới hóa cao độ, các khâu canh tác như
cày, bừa, trang đất được cơ giới hóa bằng các loại máy nông cơ gắn theo máy cày
có công suất 90 sức ngựa. Khâu gieo cấy cũng được cơ giới hóa với việc sử dụng
máy cấy của hãng Kobuta Nhật Bản nên đạt hiệu quả cao, giảm lao động trực tiếp.
Khâu bón phân cũng thực hiện cơ giới một phần, sử dụng các máy cao áp được đặt
ở đầu bờ. Việc phun thuốc được thực hiện thủ công do sử dụng lao động thue từ các
nước Indonesia và Ấn Độ.
Khâu thu hoạch được thực hiện cơ giới hóa, sử dụng các máy gặt đập liên
hợp, lúa trong quá trình thụ hoạch được bơm lên ô tô chở về kho của công ty thu
mua. Hệ thống kết cấu hạ tầng được kiên cố hóa bởi bê tông và nhựa nên thuận lợi
cho việc thực hiện cơ giới hóa trên đồng ruộng và vận chuyển lúa về kho của doanh
nghiệp. Hệ thống tiêu nước thuận lợi bởi các van tiêu nước được đặt ở các vị trí cố
định, thuận lợi.
Việc đầu tư trang thiết bị được thực hiện chủ yếu bởi hai hình thức: chỉ có
các hộ nông dân có trên 10 ha trở lên mới có điều kiện mua sắm máy riêng; phần
còn lại sẽ thuê các dịch vụ trên của các công ty tư nhân. Các công ty tư nhân này có
kho bãi tại các CĐL, cung ứng các dịch vụ khép kín cho sản xuất và tiêu thụ lúa
gạo, cung ứng các yếu tố đầu vào, thậm chí một số công ty còn kết hợp các dịch vụ
du lịch sinh thái, du lịch nông nghiệp nên rất thuận lợi cho nông dân.
Việc sản xuất lúa trên CĐL ở Malaysia đã góp phần gia tăng năng suất lúa,
đạt năng suất từ 10-12 tấn/ha, tổng năng suất của cả hai vụ đạt trên 20 tấn/ha, cao
hơn năng suất trung bình của cả nước. Về giá thành sản xuất lúa tại các CĐL ở
Malaysia chỉ khoảng 0,45-0,5 ringgit (3.200-3.500 đồng), giá bán lúa của nông dân
là 1 ringgit (7.000 đồng). Ngoài ra, người nông dân còn nhận được khoản trợ cấp từ
Chính phủ là 0,2 ringgit/kg lúa. Vì vậy, lợi nhuận của những người nông dân tham
gia sản xuất trên CĐL ở Malaysia đạt từ 50-55%, nếu tính luôn khoản trợ cấp của
Chính phủ thì con số này tăng lên 70-75%. Mức lợi nhuận trên 1 ha đất đạt từ 98 -
105 triệu đồng mỗi năm, mức này cao hơn rất nhiều so với những hộ nông dân sản
xuất ngoài mô hình CĐL.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tăng năng suất và hiệu quả kinh tế của các
CĐLở Malaysia xuất phát từ các nguyên nhân cơ bản sau: tiết kiệm được lượng
phân bón và nước tưới do đồng ruộng bằng phẳng có thể điều chỉnh lượng nước khi
bón phân, lúa phát triển đồng đều; chất lượng nước luôn đảm bảo tiêu chuẩn do đầu
63
tư hệ thống kênh tưới và tiêu riêng biệt; gia tăng mức độ cơ giới hóa do đồng ruộng
bằng phẳng làm giảm thất thoát trong thu hoạch và giảm chi phí các khâu sản xuất;
giống lúa tốt, thời gian sinh trưởng dài hơn (115 ngày so với 100 ngày của Việt
Nam) làm cho hạt lúa dài hơn, tỷ lệ hạt lép không đáng kể, năng suất cao hơn; trình
độ của người nông dân cao hơn, hầu hết các nông sản xuất trên CĐL có trình độ,
kiến thức cao, bộ phận còn lại thường chọn cách cho thuê lại ruộng.
Kết quả sản xuất lúa theo mô hình CĐL ở Malaysia cho thấy, năng suất, chất
lượng và hiệu quả kinh tế của mô hình rất cao so với phương pháp canh tác truyền
thống. Người nông dân tham gia mô hình CĐL thu được LIKT lớn, giúp họ gắn kết
chặt chẽ với doanh nghiệp trong quá trình sản xuất. Các chính sách hỗ trợ từ phía
Nhà nước giúp doanh nghiệp và nông dân gia tăng LIKT của mình và càng thúc đẩy
quá trình phát triển mô hình này. Đây được xem là giải pháp quan trọng nhằm khắc
phục tình trạng nhập khẩu khoảng 40% khối lượng gạo từ bên ngoài để đáp ứng nhu
cầu trong nước.
Từ nghiên cứu mô hình CĐL ở Malaysia cho thấy, mô hình CĐL ở Việt Nam
đang hình thành và phát triển thời gian qua có những điểm tương đồng với
Malaysia. Sự tương đồng thể hiện ở mối liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp
theo hướng công khai, minh bạch và tự nguyện giúp mang lại hiệu quả kinh tế cao,
qua đó gia tăng LIKT cho cả nông dân và doanh nghiệp. Sự liên kết giữa nông dân
và doanh nghiệp có sự hỗ trợ của nhà nước để quy hoạch vùng sản xuất, phát triển
kết cấu hạ tầng đồng bộ tạo điều kiện tăng cường cơ giới hóa trong sản xuất nông
nghiệp. Liên kết sản xuất khép kín các khâu từ đầu vào, đến sản xuất và tiêu thụ
theo chuỗi giá trị. Kinh nghiệm kiến thiết lại đồng ruộng của Malaysia có thể là bài
học quý giá có thể vận dụng tốt ở Việt Nam hiện nay.
2.2.1.3. Trung Quốc hỗ trợ, khuyến khích sản xuất và tiêu thụ nông sản
hàng hoá thông qua hợp đồng
Trong chương trình hiện đại hoá nông nghiệp, Chính phủ Trung Quốc đã xây
dựng chính sách hỗ trợ và khuyên khích sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hoá
thông qua hợp đồng nhằm giúp ngành nông nghiệp thu được nhiều lợi nhuận và có
sức cạnh tranh. Sản xuất theo hợp đồng được xem là hình thức hiệu quả để liên kết
nông dân sản xuất nhỏ lẻ với các doanh nghiệp chế biến lớn. Từ những năm 1990,
hợp đồng bao tiêu nông sản đã được Chính phủ Trung Quốc hỗ trợ nhằm tăng
cường doanh thu và tính cạnh tranh của việc sản xuất nông nghiệp.
64
Các số liệu gần đây cho thấy số lượng các công ty kinh doanh nông sản tham
gia hợp đồng bao tiêu nông sản đã tăng 5 lần từ năm 1996 đến năm 2002 từ 8.377
lên 46.060. Số hộ nông dân đã ký hợp đồng với các doanh nghiệp là gần 72.650.000
hộ vào năm 2002. Tỷ lệ các hộ nông dân tham gia vào hợp đồng bao tiêu nông sản
tăng từ 10% giữa năm 1996 lên 30% năm 2002 [131].
Trong địa bàn tỉnh Triết Giang, 72% doanh nghiệp kinh doanh nông sản
tham gia hợp đồng bao tiêu nông sản có hơn 75% các hộ nông dân đã ký hợp đồng
hoặc đạt được các điều kiện để ký kết [131]. Từ sự thành công của Trung Quốc
trong thực hiện liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến nông sản với nông dân
có thể rút ra 3 kinh nghiệm.
(1) Lựa chọn ngành hàng có đủ điều kiện để thực hiện liên kết. Việc thực
hiện liên kết trước hết tập trung cho một số ngành hàng nông sản có tính chuyên
biệt cao và có yêu cầu cao về chất lượng, nhất là bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn
thực phẩm như: chế biến rau, chế biến thịt, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến dâu, tơ
tằm, bông vải, nấm và sữa. Tuy nhiên, tỷ lệ ký hợp đồng nhiều nhất là ngành chế
biến thực phẩm, nuôi trồng thuỷ sản và chế biến sữa.
(2) Sử dụng nhiều hình thức liên kết phù hợp. Ở Trung Quốc, có hai hình
thức tổ chức cấu trúc được sử dụng tại các doanh nghiệp tham gia hợp đồng bao tiêu
nông sản. Mô hình tập trung, trong đó, 1 đơn vị sẽ ký hợp đồng trực tiếp với nhiều
hộ nông dân, được xem như "công ty + các hộ nông dân". Hình thức được sử dụng
rộng rãi thứ hai là doanh nghiệp sẽ ký hợp đồng với các các hộ nông dân thông qua
1 bên trung gian, ví dụ như hội đoàn nông dân, người trung gian, hoặc hội đồng
làng, được xem như "công ty + trung gian + các hộ nông dân". Giá cả thoả thuận
trong các hợp đồng liên kết ở Trung Quốc có 3 hình thức: giá cố định, giá sàn và giá
theo thị trường.
(3) Vai trò của Nhà nước. Để thúc đẩy sản xuất theo hợp đồng, Chính phủ
Trung Quốc đã lựa chọn và chỉ định các doanh nghiệp (trung ương hoặc địa
phương) có tiềm lực kinh tế, quy mô lớn, có kỹ thuật và công nghệ ký kết hợp đồng
trực tiếp với nông dân được gọi là ''Doanh nghiệp đầu rồng'', uỷ ban phối hợp phát
triển công nghiệp hoá nông nghiệp quốc gia (The National Agricultural
Industrialisation Development Joint Committee) đưa ra tiêu chuẩn và giám sát việc
thực hiện của các doanh nghiệp này. Nhờ đó, việc sản xuất theo hợp đồng giữa nông
dân và doanh nghiệp chiếm tỷ lệ khá cao.
65
Nhìn chung, sản xuất theo hợp đồng ở Trung Quốc thực hiện nhờ vào chính
sách công nghiệp hoá nông nghiệp. Nông dân và doanh nghiệp nhận thức được tầm
quan trọng sản xuất theo hợp đồng nên ngày càng có nhiều doanh nghiệp và nông
dân tham gia sản xuất theo hợp đồng. Sản xuất theo hợp đồng thành công còn tuỳ
thuộc vào loại sản phẩm. Các sản phẩm đòi hỏi chế biến ngay và yêu cầu vệ sinh
thực phẩm dễ dàng thực hiện sản xuất theo hợp đồng hơn những sản phẩm khác.
2.2.1.4. Kinh nghiệm dồn điền, đổi thửa xây dựng cánh đồng lớn ở một số
tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng
Công tác dồn điền, đổi thửa ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng có những
điểm tương đồng với chương trình xay dựng CĐL ở các tỉnh vùng ĐBSCL vì cùng
mục tiêu vận động nông dân kiến thiết lại những cánh đồng rộng lớn, tạo điều kiện
đẩy mạnh cơ giới hóa, ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, kỹ thuật vào các
vùng sản xuất tập trung trong sản xuất lúa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từng bước
phân công lại lao động trong từng địa phương, nâng cao năng suất, chất lượng sản
phẩm nông nghiệp, đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội trong khu vực nông thôn,
giảm nghèo bền vững.
Ở các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Hưng Yên, công tác dồn
diền, đổi thửa được thực hiện trên nguyên tắc minh bạch, công khai, tự nguyện. Nhiều
hộ nông dân đã chủ động chuyển đổi diện tích làm cho số thửa ruộng của gia đình giảm
từ 5-7 thửa/hộ xuống còn 2-3 thửa/hộ tạo ra những thửa đất lớn hơn, CĐL vài chục
hécta, xây dựng mô hình sản xuất lớn, tập trung... mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Theo Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), lúa vụ Hè
Thu, vụ Mùa 2016 các tỉnh thành vùng đồng bằng sông Hồng đã xây dựng
được 859 mô hình CĐL với trên 42.300 ha trong sản xuất lúa vụ Hè Thu, vụ
Mùa 2016, tăng gần 2.700 ha so với cùng kỳ vụ trước. Hầu hết các tỉnh đã có quy
hoạch vùng cho sản xuất hàng hóa tập trung quy mô từ vài chục đến hàng trăm héc
ta trở lên. Không chỉ với cây lúa, nhiều loại cây trồng khác như ngô, rau đậu các
loại cũng được sản xuất theo cánh đồng lớn.
Điển hình tại tỉnh Nam Định, mô hình thuê gom, tích tụ ruộng đất của Công
ty TNHH Cường Tân để sản xuất giống lúa theo cánh đồng lớn, lợi nhuận đạt 70-80
triệu đồng/ha/năm, cao gấp 7-8 lần so với sản xuất lúa đại trà. Hay Công ty TNHH
Toản Xuân ký hợp đồng tiêu thụ 155 ha lúa cho nông dân trong tỉnh.
Tại tỉnh Thái Bình, năm 2012 được lựa chọn thực hiện thí điểm mô hình
cánh đồng mẫu lớn ở khu vực miền Bắc. Đến năm 2018, toàn tỉnh đã xây dựng
66
được 143 mô hình CĐL ở các xã với tổng diện tích là 6.44.,05 ha, góp phần quan
trọng vào trong thực hiện mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh tế của tỉnh. Thời
điểm triển khai thí điểm xây dựng CĐL, Thái Bình có diện tích đất canh tác lúa
manh mún, nhỏ lẻ gây khó khăn lớn cho việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ
thuật, cơ giới hóa trong sản xuất. Trình độ sản xuất của các hộ nông dân không
đồng đều gây khó khăn cho việc vận động liên kết sản xuất theo CĐL, sản xuất tập
trung vài loại giống. Năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ địa phương còn nhiều hạn
chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Trước tình hình đó, tỉnh Thái
Bình đã lựa chọn giải pháp đột phá là quy hoạch vùng sản xuất, kiến thiết lại không
gian sản xuất thông qua dồn diền, đổi thửa tạo điều kiện đẩy mạnh cơ giới hóa sản
xuất. Phát triển hệ thống giao thông, thủy lợi phục vụ sản xuất nơi có CĐL. Tỉnh đã
ban hành và thực thi nhiều chính sách hỗ trợ phát triển CĐL như: đầu tư xây dựng
hệ thống giao thông, thủy lợi nội đồng tại các mô hình điểm gắn với chương trình
xây dựng nông thôn mới. Chính sách hỗ trợ kinh phí tập huấn và in ấn các tài liệu
tuyên truyền, nhật ký ghi chép của nông dân, hỗ trợ 50% kinh phí mua giống xác
nhận cho các nông dân trong mô hình CĐL.
Về phía doanh nghiệp, tỉnh Thái Bình có ít doanh nghiệp tham gia vào trong
lĩnh vực nông nghiệp, quy mô và năng lực doanh nghiệp còn hạn chế nên không có
đủ năng lực ký kết hợp đồng với nông dân sản xuất quy mô lớn. Trước thực trạng
đó, tỉnh đã có những tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp và nông dân tiếp cận các
chính sách hỗ trợ, ưu đãi đầu tư. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi thu hút các
doanh nghiệp liên kết sản xuất với nông dân bằng nhiều hình thức như: ứng trước
vật tư cho nông dân không lãi suất và nông dân sẽ thanh toán cho doanh nghiệp khi
thu hoạch. Việc liên kết sản xuất bước đầu đã mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nông
dân yên tâm đầu tư sản xuất những giống lúa chất lượng cao. Chẳng hạn, mô hình
CĐL ở xã Nguyên Xã, huyện Vũ Thư canh tác giống VS1 hoặc RVT, luân canh
canh tác lúa và hoa màu theo vụ, mô hình CĐL ở xã Trọng Quan canh tác giống lúa
Nhật DS1… đã mang lại thu nhập cao hơn cho cả nông dân và doanh nghiệp.
Để giúp nông dân gia tăng năng suất và sản lượng trên CĐL, tỉnh đã tranh
thủ các dự án như quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) do các tổ chức quốc tế tài trợ.
Nông dân được tập huấn kỹ thuật canh tác mới, hướng dẫn ghi chép nhật ký sản
xuất. Trên địa bàn tỉnh đã hình thành được các THT, HTX dịch vụ sản xuất nông
nghiệp, cung cấp các dịch vụ cho nông dân sản xuất theo hướng hàng hóa lớn.
67
Tỉnh Hà Nam, để đảm bảo LIKT cho cả nông dân và doanh nghiệp tỉnh đã áp
dụng rất nhiều giải pháp đồng bộ liên quan mật thiết với nhau trong từng khâu trong
phát triển cánh đồng lớn. Trước tiên, tỉnh làm tốt công tác tuyên truyền để bà con
thấy được ý nghĩa, tầm quan trọng, lợi ích mà cánh đồng mẫu mang lại. Đồng thời
quyết tâm chỉ đạo dồn điền, đổi thửa, tập trung ruộng đất, tạo ra những vùng tập
trung quy mô lớn. Từ những cánh đồng mẫu làm điểm năm 2014 tại 6 huyện, thành
phố với sự hỗ trợ của tỉnh cho các địa phương, hiện toàn tỉnh đã tích tụ đất và xây
dựng được 81 cánh đồng mẫu/1.756 ha, trong đó có gần 30 cánh đồng mẫu đạt quy
mô 30ha trở lên [58]. Điều này cho thấy, mô hình cánh đồng mẫu đã mang lại hiệu
quả rõ nét, nâng cao được giá trị kinh tế trên diện tích canh tác, là hướng đi tất yếu
trong phát triển sản xuất nông nghiệp, từng bước góp phần xoá bỏ tình trạng manh
mún nhỏ lẻ, chuyển sang sản xuất theo phương thức tập trung quy mô lớn, có liên
kết giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Có tích tụ được ruộng đất mới tạo điều kiện
thuận tiện cho việc thực hiện đồng bộ các khâu.
Để xây dựng CĐL thành công và hiệu quả, tỉnh Hà Nam đã tập trung thực
hiện giải pháp "3 cùng" trong sản xuất (cùng giống, cùng trà, cùng quy trình chăm
sóc). Giải pháp này đã được tỉnh chỉ đạo ngay từ khi triển khai điểm các mô hình
CĐL tại các huyện, thành phố. Cùng với đó là một số yêu cầu quan trọng như phải
liên kết với doanh nghiệp trong tiêu thụ sản phẩm; quy hoạch vùng từ 30ha trở
lên/cánh đồng/vụ và phải có gắn kết 3 vụ/năm, trong đó 2 vụ bắt buộc phải "3
cùng", còn vụ đông thì lựa chọn 1-2 loại cây trồng hàng hoá. Thực tế triển khai cho
thấy, nhiều CĐL có quy hoạch tập trung quy mô 30ha/cánh đồng đã tạo điều kiện
giải quyết "3 cùng". Để nhân rộng mô hình CĐL, chính quyền tỉnh Hà Nam rất
quan tâm đến việc kêu gọi các công ty, doanh nghiệp tham gia liên kết với nông dân
để mở rộng mô hình CĐL.
Bên cạnh đó, để phát triển CĐL, nhiều tỉnh, thành phố đã thành lập Ban chỉ
đạo, cùng với đó là các chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng mô hình như Thái Bình,
Nam Định, Hà Nội... Các địa phương đã gắn xây dựng CĐL với dồn điền đổi thửa,
thiết kế lại đồng ruộng và xây dựng nông thôn mới.
Theo kết quả điều tra nông nghiệp nông thôn, năm 2016, cả nước có 2.294
xã tiến hành dồn điền đổi thửa đất sản xuất nông nghiệp, chiếm 25,6% tổng số
xã. Diện tích đã dồn điền, đổi thửa là 693,7 nghìn ha, chiếm 6% tổng diện tích
đất sản xuất nông nghiệp. Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải
68
miền Trung là những vùng triển khai dồn điền, đổi thửa rộng khắp các địa
phương trong vùng. Đồng bằng sông Hồng có 69,1% tổng số xã trong vùng thực
hiện với diện tích dồn điền đổi thửa 419,5 nghìn ha, chiếm 52,5% diện tích đất
sản xuất nông nghiệp [13, tr.18].
Trên cơ sở đó, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến
vào sản xuất. Đồng thời, qua đó nghiên cứu phát hiện những nhân tố mới trong sản
xuất để bổ sung kịp thời. Ngoài áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, cung ứng vật tư, tiêu
thụ sản phẩm, các địa phương đặc biệt quan tâm tới việc đưa nhanh cơ giới hóa vào
sản xuất nhằm giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động và hiệu quả sản xuất.
Đặc biệt, các địa phương đã chủ động xây dựng chương trình đưa máy làm đất, máy
gặt đập liên hợp vào sản xuất.
2.2.2. Những bài học kinh nghiệm rút ra cho khu vực đồng bằng sông
Cửu Long
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia như Thái Lan, Malaysia, Trung
Quốc trong phát triển mô hình liên kết sản xuất, giải quyết quan hệ LIKT giữa nông
dân và doanh nghiệp trong liên kết sản xuất quy mô lớn; kinh nghiệm dồn điền, đổi
thửa ở vùng đồng bằng sông Hồng, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho khu
vực ĐBSCL trong phát triển mô hình CĐL nói chung và giải quyết quan hệ LIKT giữa
nông dân và doanh nghiệp nói riêng. Các bài học kinh nghiệm cụ thể:
Một là, tổ chức mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản đảm bảo LIKT
của nông dân và doanh nghiệp phải bắt nguồn từ nhu cầu của hai bên và dựa trên
nguyên tắc tự nguyện.
Bài học kinh nghiệm của Thái Lan và Trung Quốc cho thấy, quá trình hình
thành và phát triển của các mô hình liên kết sản xuất giữa nông dân và doanh
nghiệp theo kiểu hợp đồng xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn, nhất là nhu cầu của
các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu muốn xây dựng nguồn nguyên liệu ổn định,
kiểm soát chất lượng, cung cấp các yếu tố đầu vào ổn định cho người sản xuất...,
người nông dân cũng muốn ổn định đầu ra sản phẩm của mình, giảm rủi ro do
doanh nghiệp đầu tư các yếu tố đầu vào... Từ đó, các chủ thể tự nguyện tham gia
liên kết với nhau trong quá trình sản xuất. Sự phát triển các mối liên kết kinh tế dựa
trên cơ sở LIKT của các chủ thể gia tăng và gắn chặt với nhau về LIKT trong quá
trình sản xuất. Để vận dụng được bài học kinh nghiệm này, các tỉnh thành vùng
ĐBSCL cần tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các chủ thể
69
về sự cần thiết, cùng như những LIKT mang lại cho các chủ thể liên kết, nhất là
nông dân và doanh nghiệp để các chủ thể tự nguyên tham gia liên kết sản xuất theo
mô hình CĐL; xây dựng những mô hình liên kết điểm, đạt hiệu quả cao để người
nông dân và doanh nghiệp chủ động và tự nguyện gắn kết nhân rộng mô hình; Nhà
nước phải quan tâm theo dõi, giám sát và hoàn thiện cơ chế phân chia LIKT giữa
các chủ thể tham gia mô hình liên kết theo hướng hài hòa LIKT giữa các chủ thể.
Hai là, quan tâm đến các điều kiện cần và đủ trong quá trình xây dựng các
mối liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp nhằm đảm bảo gia tăng LIKT và gắn
kết bền vững giữa các chủ thể.
Bài học kinh nghiệm của Thái Lan và Trung Quốc cho thấy, việc liên kết
kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ nông sản không
phải thành công trên các lĩnh vực hay tất cả các loại nông sản. Để liên kết thành
công trên cơ sở gia tăng LIKT cho các chủ thể và gắn kết LIKT giữa họ, cần thiết
phải quan tâm đến các điều kiện cần và đủ cho mối liên kết này. Chỉ có các doanh
nghiệp quy mô lớn mới có đủ các điều kiện liên kết sản xuất đạt hiệu quả cao, chẳng
hạn như tập đoàn CP của Thái Lan, các "doanh nghiệp đầu rồng" ở Trung Quốc mới
có đủ điều kiện để xây kho, trữ hàng, xây dụng nhãn hiệu hàng hoá, quảng bá
thương hiệu, hậu mãi..., chỉ có những vùng có điều kiện thuận lợi, diện tích đủ lớn
mới có thể liên kết hiệu quả hơn. Để vận dụng được bài học kinh nghiệm này, các
tỉnh thành vùng ĐBSCL cần nghiên cứu các điều kiện cần và đủ cho liên kết sản
xuất lúa theo CĐL. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ và khuyến
khích nhằm xây dựng các doanh nghiệp đủ mạnh, quy mô lớn nhằm đảm đương vai
trò hạt nhân của mình, đồng thời, thu hút các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thực
hiện phương thức nông nghiệp hợp đồng với nông dân trồng lúa.
Ba là, đề cao vai trò của Nhà nước trong mô hình liên kết sản xuất và tiêu
thụ giữa nông dân và doanh nghiệp.
Kinh nghiệm của Thái Lan, Nhà nước tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng;
kinh nghiệm của Malaysia Nhà nước tham gia hoàn thiện thể chế quản lý và cải tạo
đồng ruộng; kinh nghiệm của Trung Quốc lựa chọn và chỉ định các doanh nghiệp có
năng lực tốt tham gia liên kết với nông dân... Điểm chung của Nhà nước của các
quốc gia này là luôn quan tâm đến việc gia tăng LIKT của các củ thể trong mô hình
liên kết, việc phân chia LIKT giữa các chủ thể, đảm bảo hài hòa LIKT cho các chủ
thể. Kinh nghiệm của các tỉnh thành vùng đồng bằng sông Hồng, Nhà nước tham
70
gia quá trình dồn điền, đổi thửa, thực hiện các chính sách hỗ trợ cho nông dân và
doanh nghiệp tham gia CĐL. Từ bài học kinh nghiệm của các nước và vùng đồng
bằng sông Hồng cho thấy, Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự
hình thành, phát triển liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp theo hình thức hợp
đồng. Để vận dụng bài học kinh nghiệm này ở ĐBSCL, các chủ thể cần nhận thức
được vai trò của Nhà nước trong liên kết bốn nhà, nhất là đối với sự hình thành và
phát triển liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp. Nhà nước cần có các chính sách
thu hút các doanh nghiệp đủ lớn, có năng lực tốt tham gia liên kết sản xuất với nông
dân. Đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất ở các vùng có CĐL
hiệu quả. Quy hoạch, thực hiện các chính sách hỗ trợ nhằm kiến thiết lại đồng
ruộng, thuận lợi cho cơ giới hóa và gia tăng hiệu quả kinh tế theo quy mô. Nghiên
cứu hoàn thiện pháp luật về hợp đồng kinh tế, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể gia tăng LIKT và hài hòa trong phân chia LIKT giữa các chủ thể.
Bốn là, khuyến khích xây dựng các mô hình liên kết có mối quan hệ gắn kết
tài sản chặt chẽ giữa hai bên liên kết nhằm đảm bảo giải quyết hài hòa quan hệ
LIKT giữa các bên tham gia liên kết.
Bài học kinh nghiệm từ Thái Lan, nhất là từ tập đoàn CP cho thấy, việc
khuyến khích nông dân đầu tư mua sắm các tài sản chuyên biệt (Asset specificity) là
rất quan trọng. Khi đó, người nông dân sẽ gắn chặt hoạt động sản xuất của mình với
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó giúp doanh nghiệp ổn định được
nguồn cung sản phẩm, ổn định thị trường. Đây là cơ sở phát triển bền vững mối
quan hệ liên kết kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp theo hướng gắn chặt về
LIKT, cùng đi chung trên một con thuyền lợi ích. Chính quyền các cấp cần quan
tâm đến LIKT của các chủ thể, nhất là nông dân vì đây chính là động lực giúp thu
hút được nhiều nông dân tham gia liên kết với doanh nghiệp.
Để vận dụng được bài học kinh nghiệm này, ĐBSCL cần tập trung khuyến
khích các mô hình liên kết có sự gắn kết chặt chẽ giữa nông dân và doanh nghiệp
sản xuất các sản phẩm chuyên biệt cung ứng trên thị trường, chẳng hạn sản xuất các
loại gạo chất lượng cao, gắn với thương hiệu của công ty. Khuyến khích các hình
thức gia công cho các doanh nghiệp, doanh nghiệp đầu tư các yếu tố đầu vào, quản
lý và tư vấn kỹ thuật, nông dân hưởng LIKT qua diện tích gia công sản xuất cho các
doanh nghiệp. Khuyến khích nông dân, các THT, HTX mua cổ phần, góp cổ phần
qua quyền sử dụng đất với các doanh nghiệp, ngược lại khuyến khích các doanh
71
nghiệp góp vốn vào các THT, HTX nhằm gắn kết chặt chẻ hoạt động sản xuất kinh
doanh và các LIKT. Có thể khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng thương hiệu
gạo riêng của mình và liên kết với nông dân sản xuất cung ứng cho việc xây dựng
thương hiệu này. Cung ứng các vật tư nông nghiệp cho nông dân nhằm quản lý quy
trình và đảm bảo chất lượng, tiêu chuẩn hạt gạo.
Năm là, tập trung ruộng đất, quy hoạch và cải tạo đồng ruộng để thuận lợi cho
ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và cơ giới hoá vào sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Từ bài học kinh nghiệm Malaysia và các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng
cho thấy, để sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao cần xây dựng những CĐL đủ lớn về
diện tích, có độ bằng phẳng cao tạo thuận lợi cho việc ứng dụng các phương pháp
canh tác tiên tiến, đẩy mạnh cơ giới hóa trong tất cả các khâu sản xuất nhằm giảm
chi phí, tăng hiệu quả kinh tế theo quy mô. Ở Việt Nam hiện nay, tiêu chí quy mô
CĐL không cố định mà tùy vào điều kiện của từng địa phương mà xây dựng
CĐLvới quy mô phù hợp. Khu vực ĐBSCL, diện tích CĐL sản xuất lúa có thể từ
300-500 ha, lớn hơn có thể từ 500-100 ha. Trong khi đó, bình quân đất đai trên hộ
của vùng ĐBSCL hiện nay chỉ đạt 0,87ha/hộ. Vì vậy, để xây dựng được những
CĐL đạt hiệu quả cao cần phải tiến hành các biện pháp tập trung ruộng đất, hình
thành các vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn. Khuyến khích các doanh nghiệp
thuê đất của nông dân, đồng thời thuê mướn nông dân làm việc trên chính mảnh
ruộng của mình để tạo việc làm ổn định và gia tăng thu nhập cho họ. Thực hiện các
biện pháp dồn điền, đổi thửa tạo thuận lợi cho t ập trung ruộng đất quy mô lớn hơn.
Khuyến khích nông dân chuyển đổi đất, cho thuê đất lâu dài giúp doanh nghiệp yên
tâm đầu tư trren những mảnh ruộng lớn.
Tổ chức vận động nông dân "bang bờ", cải tạo mặt ruộng để có CĐL bằng
phẳng, diện tích các thửa tương đối lớn tạo điều kiện phát triển hệ thống thủy lợi, hệ
thống giao thông nội đồng giúp đẩy mạnh cơ giới hóa và thuận lợi trong vận chuyển
máy móc, vật tư nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Việc bang bờ hiện nay
không ảnh hưởng đến quyền sử dụng đất của nông dân, bởi lẽ, Nhà nước có thể
dùng công nghệ chụp hình trên khong để quản lý các thửa đất, thiết lập dữ liệu về
đất đai lưu giữ lại. Có thể áp dụng phương pháp san bằng mặt ruộng bằng tia laser
để gia tăng diện tích sử dụng, thuận tiện áp dụng cơ giới hóa. Tuy nhiên, thực hiện
dự án này, kinh phí thực hiện là khá lớn, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của Nhà nước và
phải áp dụng phương thức "Nhà nước và nhân dân cùng làm".
72
Chương 3 THỰC TRẠNG QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN VÀ DOANH NGHIỆP TRONG PHÁT TRIỂN CÁNH ĐỒNG LỚN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
3.1. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 3.1.1. Vị trí và vai trò của vùng đồng bằng sông Cửu Long Đồng bằng sông Cửu Long là vùng cực nam của Việt Nam, còn được gọi là vùng Đồng Bằng Nam Bộ hoặc Miền Tây Nam Bộ, theo cách gọi của người dân Việt Nam ngắn gọn là Miền Tây.
Đồng bằng sông Cửu Long gồm 13 tỉnh, thành phố (thành phố Cần Thơ, Long An, Tiền Giang, Bến tre, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau). ĐBSCL có vị trí liền kề với vùng Đông Nam Bộ, phía Bắc giáp Campuchia, phía Tây Nam là vịnh Thái Lan, phía Đông Nam là Biển Đông có các đảo xa bờ như đảo Phú Quốc, quần đảo Thổ Chu (Kiên Giang) và Hòn Khoai (Cà Mau). ĐBSCL nằm trong khu vực có đường giao thông hàng hải và hàng không quốc tế giữa Nam Á và Đông Nam Á, cũng như với châu Úc và các quần đảo khác trong Thái Bình Dương, đây là thuận lợi lớn trong giao thương quốc tế.
Đồng bằng sông Cửu Long nằm giữa khu vực kinh tế năng động và phát triển, liền kề với thành phố Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có diện tích tự nhiên là 40.816,3km2 chiếm 12,32% diện tích cả nước, dân số khoảng 18 triệu người chiếm gần 19% dân số cả nước, có hơn 340km đường biên giới trên bộ giáp Campuchia, là khu vực duy nhất của cả nước tiếp giáp Biển Đông và Biển Tây, với bờ biển dài 740km, chiếm 23% chiều dài bờ biển quốc gia, hơn 360.000km2 vùng biển và đặc quyền kinh tế, có gần 200 đảo và quần đảo, đặc biệt là đảo Phú Quốc lớn nhất Việt Nam [2].
Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ là vùng trọng điểm sản xuất lương thực, trái cây, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ hải sản của cả nước, mà còn được xác định là "vùng nông sản lớn trong mạng lưới sản xuất toàn cầu" và là ''vùng có tiềm năng thế mạnh phát triển công nghiệp năng lượng, công nghiệp thực phẩm, phát triển du lịch và là vùng sản xuất lương thực trọng điểm quốc gia". Cụ thể: chỉ riêng lúa đã chiếm 47% diện tích và 56% sản lượng lúa của cả nước, xuất khẩu gạo của toàn vùng chiếm tới 90% sản lượng cả nước; thuỷ sản chiếm 70% diện tích, 40% sản lượng và 60% xuất khẩu của cả nước; cây ăn trái phát triển nhanh, đã hình thành các
73
vùng sản xuất hàng hóa tập trung đáp ứng nhu cầu của thị trường, một số loại trái cây có thương hiệu như: Xoài cát Hoà Lộc, bưởi Năm Roi, bưởi Da xanh, vú sữa Lò Rèn. Toàn vùng hiện có hơn 300.000 ha cây ăn trái, chiếm trên 40% diện tích cả nước, đạt bình quân 3,6 triệu tấn/năm, chiếm khoảng 70% sản lượng trái cây của cả nước [2].
3.1.2. Về phát triển kinh tế - xã hội (1) Tăng trưởng và phát triển kinh tế vùng ĐBSCL Thông báo của Hội nghị "Tổng kết năm 2017 và 15 năm hoạt động của Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ diễn ra ngày 05/02/2018 tại thành phố Cần Thơ thì tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng ĐBSCL đang ngày càng chậm lại". Cụ thể: nếu tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2001-2010 đạt bình quân 11,7%/năm thì giai đoạn 2011-2015, con số này là 8,55%. Riêng năm 2017, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7,39%, tăng 0,49% so với năm 2016 (6,9%), nhưng so với giai đoạn 2011-2015 (là 8,55%) thì tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn vùng ĐBSCL vẫn thấp hơn 1,6 điểm phần trăm [4].
Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Hội nghị "Đánh giá giữa kỳ kế hoạch 5 năm giai đoạn 2016-2020 và xây dựng kế hoạch năm 2019 vùng Đông Nam Bộ và vùng ĐBSCL", tổ chức tại thành phố Cần Thơ, ngày 31/08/2018, giai đoạn 2016-2018 vùng ĐBSCL có tốc độ tăng GRDP bình quân đạt 7,5% (mục tiêu là 8,6%); Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân đầu người năm 2018 đạt 2.217 USD.
- Tổng thu ngân sách toàn vùng ĐBSCL giai đoạn 2016-2018 đạt hơn 243.200 tỷ đồng, đóng góp 18% GDP cả nước, trong đó thành phố Cần Thơ là địa phương duy nhất của vùng điều tiết ngân sách về Trung ương. Giá trị xuất khẩu hàng hóa vùng ĐBSCL đạt 45,8 tỷ USD, đạt 47,6% kế hoạch giai đoạn 2016-2020 (96,3 tỷ USD) [8].
- Tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân đầu người (GRDP bình quân đầu người) vùng ĐBSCL là 2.217 USD/người. Trong đó, Cần Thơ đạt 3.830 USD/người; Long An đạt 3.225 USD/người [8].
(2) Cơ cấu kinh tế vùng ĐBSCL giai đoạn 2016-2018 như sau: nông nghiệp chiếm 28,46%, công nghiệp và xây dựng là 26,54%, dịch vụ chiếm 42,12%. Giai đoạn 2016 -2018, thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo Nghị quyết 120/NQ- CP của Chính phủ, nông nghiệp ĐBSCL đạt tốc độ tăng trưởng GDP 3%/năm, cao hơn mức tăng bình quân cả nước (2,67%), đóng góp 34,6 GDP toàn ngành nông nghiệp cả nước và 33,5% GDP chung vùng. Đồng thời, tiếp tục đứng đầu cả nước về sản lượng lúa, tôm, cá tra và trái cây với kim ngạch xuất khẩu đạt 8,43 tỷ USD [8].
Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực có tốc độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, đây là khu vực luôn có chỉ số PCI đứng trong nhóm
74
đầu cả nước (Đồng Tháp, Long An, Bến Tre, Vĩnh Long, Cần Thơ...), môi trường đầu tư, cải cách thủ tục hành chính được cải thiện theo hướng minh bạch, thực chất. Tuy nhiên, thu hút FDI của nơi được coi là vựa lúa, trái cây và thủy sản của Việt Nam còn ở mức thấp cả về dự án và tổng vốn đầu tư đăng ký, đứng thứ 4/6 vùng của cả nước; các chính sách cho nông nghiệp chưa đủ mạnh để hấp dẫn các doanh nghiệp.
(3) Dân số, lao động và xã hội Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2017 dân số vùng ĐBSCL là khoảng 17.738.000 người, chiếm 18,94% dân số cả nước. Mật độ dân số trung bình là 435 người/km2. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của vùng là 10.596.600 người, chiếm 59,74% dân số vùng chiếm 19,33% lực lượng lao động của cả nước. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc so với dân số của vùng chiếm 58,2%, tăng 0,3% so với năm 2016. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo của vùng là 12,1%, tăng 0,1% so với năm 2016. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi của vùng là 2,88%, cao hơn mức bình quân của cả nước (2,24%), trong đó, khu vực thành thị là 3,63%, nông thôn là 2,64%. Vùng ĐBSCL là vùng đất hội cư của nhiều dân tộc, trong đó, dân tộc Kinh (90%), dân tộc Khmer (6%), dân tộc Hoa (2%), còn lại là người Chăm [117].
Tỷ lệ hộ nghèo vùng ĐBSCL theo tiêu chuẩn hộ nghèo của Chính phủ giai đoạn 2011-2015 có xu hướng giảm. Năm 2014 là 7,9%, năm 2015 là 6,2% và năm 2016: 5,2%. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều, năm 2016 là 8,6% đến năm 2017 giảm xuống còn 7,4% [107].
3.1.3. Về tài nguyên (1) Đồng bằng sông Cửu Long không giàu về khoáng sản. Khoáng sản chủ yếu là than bùn và đá vôi. Ngoài ra, ĐBSCL còn có các khoáng sản, vật liệu xây dựng như: sét, gạch ngói, cát, sỏi...
(2) Tài nguyên rừng cũng giữ vai trò quan trọng, đặc biệt là hệ thống rừng ngập mặn ven biển lớn nhất Việt Nam, trong đó, hệ thống rừng ngập mặn mũi Cà Mau được công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Bên cạnh đó, ĐBSCL có những cánh rừng tràm ở U Minh, Cà Mau, Đồng Tháp với một hệ thống sinh học vô cùng đa dạng.
(3) Tài nguyên đất đai vô cùng phong phú, đa dạng các loại đất. + Đất phù sa: diện tích 1,2 triệu ha chiếm 29,7% diện tích đất tự nhiên toàn vùng và khoảng 1/3 diện tích đất phù sa của cả nước, phân bố chủ yếu ở vùng ven và giữa hệ thống sông Tiền và sông Hậu. Nhóm đất này có độ phì cao và cân đối, thích hợp đối với nhiều loại cây trồng lúa, cây ăn quả, màu, cây công nghiệp ngắn ngày.
+ Nhóm đất phèn: Diện tích 1,2 triệu ha, chiếm 40% diện tích toàn vùng.
75
Nhóm đất này phân bố chủ yếu ở vùng Đồng Tháp Mười và Hà Tiên, vùng trũng trung tâm bán đảo Cà Mau. Nhóm đất này có hàm lượng độc tố cao, tính chất cơ lý yếu, nứt nẻ nhanh.
+ Nhóm đất xám: Diện tích trên 134.000 ha chiếm 3,4% dịện tích toàn vùng, phân bố chủ yếu ở các vùng dọc biên giới Campuchia, trên các bậc thềm phù sa cổ vùng Đồng Tháp Mười. Nhóm đất này có đặc tính nhẹ, tơi xốp, độ phì thấp, độc tố bình thường.
+ Các nhóm đất khác: đất cát giồng, than bùn, đất đỏ vàng, đất xói mòn...
chiếm diện tích không đáng kể khoảng 0,9% diện tích toàn vùng.
Nhìn chung đất đai ở đây rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, thích họp
trồng lúa, dừa, mía, dứa, cây ăn quả.
(4) Tài nguyên nước ngọt Đồng bằng sông Cửu Long thuộc hạ lưu sông Mê Kông, với hai nhánh sông chính là sông Tiên và sông Hậu, tổng lượng nước sông hằng năm khoảng 500 tỷ mét khối. Trong đó, lượng nước chảy qua sông Tiền chiếm 79% và sông Hậu chiếm 21%. Chế độ thủy văn thay đổi theo mùa, mùa mưa nước sông lớn vào tháng 9, tháng 10 làm ngập các vùng trũng Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, về mùa này, nước sông mang nhiều phù sa bồi đắp cho đồng bằng, về mùa khô, lượng nước giảm nhiều, làm cho thuỷ triều lấn sâu vào đồng bằng làm vùng đất ven biển bị nhiễm mặn nghiêm trọng.
3.1.4. Về giao thông Mạng lưới đường bộ từng bước được quy hoạch, nâng cấp, xây mới theo dạng "ô bàn cờ", bao gồm các trục dọc, ngang và hệ thống đường vành đai liên kết với nhau một cách hợp lý.
Điểm nhấn giao thông kết nối vùng là tuyến thành phố Hồ Chí Minh - Cần Thơ, trung tâm đô thị của ĐBSCL, với Quốc lộ 1 được nâng cấp và 2 cầu mới: Mỹ Thuận vượt sông Tiền và Cần Thơ vượt sông Hậu. Trên tuyến đất xây mới đường cao tốc Sài Gòn - Trung Lương, đang thi công tuyến Trung Lương - Mỹ Thuận và tuyến cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ đã nằm trong kế hoạch triển khai. Trục đường bộ quan trọng thứ thứ 2 đang được xây dựng nối thành phố Hồ Chí Minh, qua trung tâm ĐBSCL với khu vực ven biển phía Tây Nam, tiếp với hành lang ven biển phía Nam và tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng tại Rạch Giá.
- Về đường không: Nhờ việc quan tâm đầu tư, quy hoạch các sân bay trong vùng theo nguyên tắc đảm bảo kết nối vùng với các sân bay quốc tế và phân bổ đều trong khu vực, nhất là các tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL. Hiện
76
ĐBSCL có 4 sân bay: Cần Thơ, Phú Quốc, Rạch Giá và Cà Mau. Cần Thơ và Phú Quốc là hai sân bay quốc tế; trong đó, sân bay Phú Quốc là sân bay duy nhất của cả nước cho đến nay được đầu tư xây dựng mới từ sau năm 1975. Tuy nhiên, hiện mới chỉ có sân bay Phú Quốc có các chuyến bay quốc tế (tới Singapore và Siêm Riệp). Song, sân bay Cần Thơ cũng đã có các đường bay không thường xuyên (thuê chuyến) đi đến Đài Bắc (Đài Loan) và ngược lại; sắp tới sẽ là các chuyến bay đi Băngkok (Thái Lan), Phnompenh, Siêm Riệp (Campuachia), Seoul (Hàn Quốc).
- Hệ thống đường sông: Cùng với đường bộ, đường không, hệ thống đường sông vùng ĐBSCL đã và đang được đầu tư nâng cấp một cách đáng kể, nhất là các tuyến sông chính, kết hợp với hệ thống đường thuỷ do địa phương quản lý đã góp phần nâng cao khả năng kết nối với các cảng biển. Từ thành phố Hồ Chí Minh, bằng phương tiện thuỷ, hàng hóa và hành khách có thể đi qua Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên đến Hà Tiên (Kiên Giang), Cà Mau... Nông sản hàng hóa vùng ĐBSCL sẽ đến nhanh hơn với các trung tâm kinh tế lớn của cả nước.
3.1.5. Về hệ thống giáo dục - đào tạo và dạy nghề Giáo dục - đào tạo và dạy nghề là lĩnh vực phát triển khá, góp phần nâng cao dân trí, chất lượng nguồn nhân lực của vùng ĐBSCL. Mạng lưới trường, lớp mầm non, phổ thông được quan tâm đầu tư phát triển rộng khắp các địa bàn dân cư và phân bổ ngày càng hợp lý. Đến nay, khu vực ĐBSCL có 44 trường đại học, cao đẳng (trong đó có 18 trường đại học, 26 trường cao đẳng), ngoài công lập có 7 trường đại học (tỉ lệ 15%). Quy mô sinh viên chính quy của vùng là 130.896 sinh viên (trong đó đại học là 86.230 và cao đẳng là 44.666), tăng 9% so với năm học 2011- 2012. Đến nay, tổng số giảng viên cơ hữu trong các trường Đại học, Cao đẳng trong vùng tăng 1.876 giảng viên (từ 5.692 lên 7.568). Số lượng giảng viên có trình độ sau đại học trở lên trong các trường đại học, cao đẳng của vùng là 3.896 giảng viên, chiếm tỉ lệ 52,7%; trình độ tiến sĩ trở lên đạt 8,9%. Trường Đại học Cần Thơ trở thành trường trọng điểm cấp vùng và quốc gia, có vai trò rất quan trọng trong đào tạo nguồn nhân lực của vùng [82].
Hệ thống dạy nghề của vùng đã hình thành mạng lưới đa dạng với 176 cơ sở dạy nghề (cơ sở dạy nghề công lập chiếm 77,8%), trong đó có: 17 trường cao đẳng nghề (tăng 6 trường tương đương 65,2% so với năm 2010), 34 trường trung cấp nghề (tăng 4 trường tương đương 13,33% so với năm 2010), 125 trung tâm dạy nghề (tăng 7 trung tâm tương đương 5,93% so với năm 2010). Nếu tính cả các cơ sở khác có dạy nghề thì mạng lưới cơ sở dạy nghề toàn vùng có 364 cơ sở dạy nghề;mạng lưới trung tâm dạy nghề cấp huyện đã được mở rộng, có 119/131 đơn vị
77
cấp huyện có cơ sở dạy nghề công lập đóng trên địa bàn; Quy mô đào tạo nghề được mở rộng. Trong giai đoạn 2011-2017, tổng số tuyển sinh học nghề là 1.238.643 người, trong đó cao đẳng nghề là 29.120 người chiếm 2%, trung cấp nghề là 58.917 người chiếm 5%, sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng là 1.150.606 người chiếm 93% (số lao động nông thôn học nghề là 794.147 người) [82].
Nhìn chung, điều kiện tự nhiên, đất đai và khí hậu của vùng ĐBSCL khá thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng, so sánh với các vùng khác trong cả nước thì ĐBSCL có nhiều lợi thế trong việc xây dựng và nhân rộng các CĐL sản xuất lúa. Kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp ngày càng hoàn thiện, góp phần quan trọng thúc đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và tình bền vững, đi lên sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, hiện đại. Nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển nông nghiệp được quan tâm phát triển, nâng cao chất lượng đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh theo quy mô lớn. Những thuận lợi trên đã góp phần thúc đẩy việc xây dựng và nhân rộng mô hình CĐL sản xuất lúa ở ĐBSCL, qua đó gia tăng LIKT của cả nông dân và doanh nghiệp, gắn kết chặt chẽ hai chủ thể này trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên, những đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL vẫn bộc lộ nhiều bất cập, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình nhân rộng mô hình CĐL, cũng như việc gia tăng LIKT cho các chủ thể tham gia mô hình này như: lực lượng lao động trong nông nghiệp còn trình độ học vấn thấp, tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật còn hạn chế, sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm; kết cấu hạ tầng mặc dù được quan tâm đầu tư nhưng vẫn thiếu đồng bộ, chưa đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất và nhân rộng mô hình CĐL; biến đổi khí hậu còn nhiều phức tạp như xâm nhập mặn, khô hạn gây thiếu nước sản xuất, thiên tai gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng.
3.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN LỢI ÍCH KINH TẾ VÀ QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN VÀ DOANH NGHIỆP TRONG MÔ HÌNH CÁNH ĐỒNG LỚN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG THỜI GIAN QUA
3.2.1. Thực trạng hình thành và phát triển mô hình cánh đồng lớn ở
đồng bằng sông Cửu Long
Xây dựng CĐL trong sản xuất lúa (gọi là cánh đồng lúa lớn - CĐL) là một trong những hoạt động cụ thể hóa chủ trương xây dựng vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm đã được nêu ra từ khi có Nghị định 80/2002/NĐ-TTg, ngày 26/4/2002 của Thủ tướng chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng và Chỉ thị 24/2004/CT-TTg
78
của Thủ tướng chính phủ về xây dựng vùng nguyên liệu gắn với chế biến và tiêu thụ. Quyết định 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 của Thủ tướng chính phủ về chính sách phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng CĐL. Xây dựng CĐL cũng là giải pháp quan trọng và lâu dài góp phần tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và tính bền vững được nêu ra trong Nghị quyết 21/2011/QH13 ngày 26/3/2011, tại Cần Thơ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phát động phong trào xây dựng CĐL và đã nhận được sự hưởng ứng tích cực của nhiều địa phương, doanh nghiệp và nông dân. Từ đó, nhiều mô hình CĐL ra đời tại hầu hết các tỉnh, thành phố thuộc khu vực ĐBSCL với quy mô từ vài đến vài chục hecta (ha) cùng rất nhiều hình thức canh tác, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới như 3 giảm 3 tăng, 1 phải 5 giảm, cánh đồng 1 giống, cánh đồng hiện đại, cánh đồng lúa chất lượng cao...
Cánh đồng lớn về bản chất là phương thức tổ chức sản xuất mới tiên tiến,
hiệu quả, phù hợp với định hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp, trong đó, có nhiều
hộ sử dụng đất đai hợp tác với nhau thực hiện cùng một quy trình sản xuất đối với
một sản phẩm nhất định theo phương thức "đồng trà, liền khoảnh" tạo nên mối liên
kết ngang giữa những người sản xuất - nông dân. Quá trình liên kết này lại được hỗ
trợ bởi các doanh nghiệp về đầu vào sản xuất và đầu ra theo các hợp đồng sản xuất
và tiêu thụ nông sản ký kết giữa doanh nghiệp và nông dân hoặc doanh nghiệp với
tổ chức đại diện nông dân (Hợp tác xã - HTX, tổ hợp tác - THT,...) còn gọi là liên
kết dọc.
Từ vụ hè thu 2008-2009 mô hình CĐL đã được xây dựng thí điểm tại rất
nhiều điểm trình diễn với quy mô vài ha đến vài chục ha ở các tỉnh Long An, Đồng
Tháp, An Giang, Cần Thơ... với tên gọi "Cánh đồng liên kết 4 nhà". Được nhân
rộng từ khi ngày 26/03/2011, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phát động
phong trào xây dựng CĐL trên phạm vi cả nước, với mục tiêu nâng cao hiệu quả giá
trị gia tăng trong sản xuất, trước hết là sản xuất lúa. Phong trào được hưởng ứng
mạnh mẽ trên cả nước.
Thực hiện chủ trương xây dựng CĐL, các tỉnh vùng ĐBSCL đã tích cực triển
khai liên kết gắn tiêu thụ nông sản, xây dựng CĐL. Nhiều tỉnh đã quan tâm chỉ đạo
triển khai, quy hoạch vùng sản xuất tập trung, chỉ đạo và hướng dẫn nông dân sản
xuất và tham gia giải quyết những vướng mắc trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Theo Cục Kinh tế Hợp tác và phát triển nông thôn, tổng diện tích CĐL ở
ĐBSCL năm 2014 đạt 146.207 ha, thì đến năm 2015 đã tăng lên 196.000 ha.
79
Bảng 3.1: Vùng liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ lúa - xây dựng cánh đồng lớn tại đồng bằng sông Cửu Long năm 2014
Đơn vị tính: ha
Tỉnh
Diện tích
TT Trà Vinh 1 Long An 2 Cần Thơ 3 Tiền Giang 4 Kiên Giang 5 Hậu Giang 6 Sóc Trăng 7 An Giang 8 9 Đồng Tháp 10 Vĩnh Long 11
Cà Mau
58.668 4.869 25.564 1.235 6.868 4.453 22.145 4.531 5.870 10.440 700
146.207
Tổng Nguồn: Tổng hợp của tác giả.
Ở ĐBSCL cả 13 tỉnh, thành phố đều đã xây dựng CĐL, một số tỉnh, thành có
diện tích CĐL tăng nhanh và có diện tích lớn như: Cần Thơ đạt 39.000ha, Sóc
Trăng 22.000ha, Bạc Liêu 17.000ha, các doanh nghiệp lớn như: Công ty cổ phần
bảo vệ thực vật An Giang (nay là Tập đoàn Lộc Trời), Tổng Công ty lương thực
miền Nam đã xây dựng được các phương án cụ thể phát triển CĐL giai đoạn 2015-
2020 [45].
Theo Cục Kinh tế Hợp tác và Phát triển nông nghiệp, tổng diện tích CĐL
vùng ĐBSCL năm 2014 đạt khoảng 146.000 ha, thì đến năm 2015 đã tăng lên, đạt
khoảng 196.000 ha, chiếm khoảng trên 11% diện tích canh lúa của cả vùng. Một số
tỉnh có diện tích CĐL tăng nhanh và quy mô lớn, như Cần Thơ đạt 39.000 ha, Sóc
Trăng 22.000 ha, Long An 29,245 ha (năm 2016), An Giang 40.000 ha (năm 2015).
Theo Báo cáo sơ bộ kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản
năm 2016 của Ban Chỉ đạo tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản Trung
ương. Tính đến thời điểm 01/7/2016, cả nước có tổng 2.262 CĐL, trong đó, có
1.661 cánh đồng trồng lúa, chiếm 73,4% tổng số CĐL trong cả nước. Riêng vùng
ĐBSCL có 580 CĐL, chiếm 25,6% tổng số CĐL của cả nước. Tổng diện tích gieo
80
trồng của CĐL năm 2016 đạt 579,3 nghìn ha, trong đó diện tích trồng lúa 516,9
nghìn ha, chiếm 89,2%. Mặc dù sản xuất theo mô hình cánh đồng lớn đem lại hiệu quả
sản xuất cao, tuy nhiên hiện nay quy mô sản xuất của cánh đồng lớn so với tổng diện
tích gieo trồng của cả nước vẫn còn khá khiêm tốn, chỉ chiếm 3,9%. Diện tích gieo
trồng bình quân một cánh đồng đạt 256,1 ha, trong đó: cánh đồng lúa 311,2 ha [116].
Ngày 5/10/2019, tại thành phố Cần Thơ, Trung tâm Khuyến nông quốc gia tổ
chức Diễn đàn Khuyến nông và nông nghiệp "Liên kết sản xuất lúa". Theo Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, trong năm 2018, các hình thức hợp tác, liên kết sản
xuất gắn với tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị đã trở nên khá phổ biến. Qua thống
kê, cả nước có 6.800 mô hình liên kết với khoảng 1 triệu ha. Đặc biệt, nhờ việc liên
kết hợp tác trong sản xuất cho nên cả nước đã có gần 600.000 ha CĐL được xây
dựng, trong đó trồng lúa 516,9 nghìn ha, chiếm 89,2%, với khoảng 619.000 hộ tham
gia. ĐBSCL là khu vực có diện tích sản xuất lớn nhất với 427.000 ha chiếm 73,9%
diện tích CĐL của cả nước [103].
Như vậy, giai đoạn 2014-2018, diện tích sản xuất lúa theo mô hình CĐL của
vùng ĐBSCL tăng lên nhanh chóng. Diện tích sản xuất lúa cả vùng năm 2018 tăng
280.793 ha, tăng 192,05% so với năm 2014 (năm 2014 diện tích CĐL cả vùng đạt
146.207 ha). Trong đó, nhiều địa phương trong vùng tăng vụ sản xuất lúa theo mô
hình CĐL, do đó, diện tích gieo trồng lúa theo mô hình CĐL trong năm tăng lên
đáng kể. Chẳng hạn:
(1) Thành phố Cần Thơ triển khai xây dựng CĐL từ vụ Hè thu 2011 (quy mô
400 ha tại huyện Vĩnh Thạnh) và đến năm 2015 thành phố mở rộng hình thành
phong trào "cánh đồng lớn" với diện tích hơn 17.630 ha/vụ, chiếm trên 20% diện
tích canh tác lúa. Trong đó, có 63 ha sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP và 100 ha
sản xuất theo tiêu chuẩn GlobalGAP,… Việc áp dụng mô hình sản xuất tập trung đã
tạo điều kiện phát huy hiệu quả "liên kết 4 nhà", thúc đẩy nâng cao chuỗi giá trị sản
xuất kinh doanh lúa gạo và tăng thu nhập cho nông dân.
Theo số liệu báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố
Cần Thơ tại Hội nghị tổng kết sản xuất trồng trọt năm 2017 diễn ra ngày 19 tháng 10
năm 2017, cả ba vụ lúa trong năm 2017 đều có diện tích CĐL tăng hơn so với năm
81
2016. Thành phố đã triển khai 93 mô hình CĐL trong vụ Đông Xuân 2016 - 2017 với
diện tích 19.830 ha và có 12.926 hộ nông dân tham gia, tăng 3.164 ha so với vụ Đông
Xuân 2015-2016; trong vụ Hè Thu, đã thực hiện 87 mô hình CĐL với diện tích là
19.492 ha và có 14.252 hộ nông dân tham gia, cao hơn 1.121 ha so với vụ Hè Thu năm
2016. Vụ Thu Đông 2017, thành phố thực hiện 78 mô hình CĐL trong vụ Thu Đông
với diện tích 17.309 ha và cao hơn 3.619 ha so với năm 2016. Mỗi vụ lúa, thành phố
Cần Thơ có 13 đến 17 doanh nghiệp ký hợp đồng bào tiêu khoảng 49 - 53% diện tích
CĐL, điển hình như công ty TNHH MTV Nông nghiệp Cờ Đỏ, công ty Nông trường
Sông Hậu, công ty TNHH Trung An, Công ty Cổ phần Hoàng Minh Nhựt,… [99].
Trong Vụ Đông Xuân 2017-2018, thành phố Cần Thơ thực hiện được 93
CĐL sản xuất lúa với tổng diện tích 23.211 ha và 16.349 hộ, tăng 3.381 ha và 3.423
hộ so với Vụ Đông Xuân 2016-2017. Ngoài ra, Công ty Nông nghiệp Cờ Đỏ hợp
đồng bao tiêu diện tích 5.291 ha với 2.500 hộ tại xã Thạnh Phú, Cờ Đỏ và Công ty
Nông trường sông Hậu hợp đồng bao tiêu 3.020 ha với 2.900 hộ tại xã Thới Hưng,
Cờ Đỏ. So sánh với Kế hoạch phát triển CĐL được UBND thành phố Cần Thơ phê
duyệt, diện tích CĐL phát triển thực tế đã vượt kế hoạch đề ra [99].
Bảng 3.2: Diện tích, số hộ thực hiện cánh đồng lớn năm 2016 và kế hoạch thực
hiện cánh đồng lớn giai đoạn 2017-2019 của thành phố Cần Thơ
Năm 2016 KH Năm 2017 KH Năm 2018 KH Năm 2019
STT Quận/huyện
Số hộ
Số hộ
Số hộ
Số hộ
Diện tích (ha)
1 2 3 4 5
Cờ Đỏ Thốt Nốt Thới Lai Vĩnh Thạnh Phong Điền
Diện tích (ha) 2.109 596 5.944 7.913 104
Diện tích (ha) 2.207 597 6.133 8.435 128
Diện tích (ha) 3.098 1.554 800 692 5.024 8.189 5.842 11.522 424
186
1.472 698 4.865 5.473 148
2.182 4.000 950 1.000 6.759 9.000 7.969 12.000 600
608
2.800 1.150 7.500 8.300 850 16.666 12.647 17.500 13.298 24.033 18.468 26.600 20.600
5.170 2.132 2.650
6.533
834
651
97
Tổng cộng Tăng diện tích và số hộ thực hiện CĐL qua các năm Nguồn: Quyết định số 2911/QĐ-UBND, ngày 05/11/2017 về việc phê duyệt Kế hoạch
xây dựng cánh đồng lớn thành phố Cần Thơ đến năm 2020, định hướng 2025 [125].
82
(2) Tại Long An, năm 2016 toàn tỉnh thực hiện 115 CĐL với diện tích là
29.245ha, đạt 111% kế hoạch với 10.616 hộ dân tham gia và có 19 doanh nghiệp
tham gia liên kết sản xuất. Trong năm 2017, Long An xây dựng CĐL với 36.700ha.
Trong đó, vụ Đông Xuân 2016-2017 thực hiện 68 cánh đồng với 19.000ha và vụ Hè
Thu 2017 là 40 cánh đồng với 17.750 ha. Năm 2017, tỉnh Long An thực hiện được
102 cánh đồng trên diện tích hơn 26.500 ha với 10.950 hộ dân. Năm 2018 tỉnh sẽ
xây dựng 107 CĐL sản xuất lúa, với diện tích gần 50.000 ha; trong đó, vụ Đông
Xuân 2017-2018 là 33.200 ha; vụ Hè Thu là 16.600 ha [98].
(3) Tại Kiên Giang, năm 2014 toàn tỉnh chỉ có 6.868 ha thực hiện theo mô
hình CĐL, thì đến năm 2018, chỉ tính riêng vụ Đông Xuân 2018-2019 toàn tỉnh
thực hiện được 28 CĐL sản xuất lúa, tổng diện tích trên 22.121 ha, giảm 36.342 ha
so với vụ Đông Xuân 2017-2018 (vụ Đông Xuân 2017-2018 thực hiện 169 cánh
đồng, diện tích 58.463 ha).
(4) Tỉnh Bạc Liêu cũng là một trong các tỉnh điển hình về xây dựng CĐL liên kết
sản xuất và tiêu thụ lúa gạo. Theo thông tin từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh
Bạc Liêu, năm 2012 toàn tỉnh chỉ có 4 CĐL với diện tích 850 ha, sản lượng lúa đạt 4.670
tấn. Đến năm 2019, toàn tỉnh đã xây dựng được 28 CĐL, diện tích 17.932 ha, sản lượng
đạt 327.620 tấn. Diện tích CĐL chiếm 27,39% và chiếm 28,66% về sản lượng.
Bảng 3.3: Số lượng và diện tích cánh đồng lớn tỉnh Bạc Liêu 2017-2020 Năm 2018
UTH 2019
Năm 2017 Diện
Diện
Diện
KH Năm 2020 Diện
Cánh
Cánh
Cánh
Cánh
Huyện/Thị xã
tích
tích
tích
tích
đồng
đồng
đồng
đồng
(ha)
(ha)
(ha)
(ha)
14
7.503
21 11.372
28 17.932
38 27.818
Tổng
1
115
5
570
7
2.300
9
4.100
1 Vĩnh Lợi
5
3.990
5
4.990
6
5.245
8
7.245
2 Hòa Bình
4
2.685
4
2.658
5
2.853
7
4.453
3 Hồng Dân
3
613
7
3.154
8
7.210
10
9.810
4 Phước Long
1
100
2
324
4
2.210
5 Giá Rai
Nguồn: Tổng hợp của tác giả.
Bảng số liệu trên cho thấy, số lượng và diện tích CĐL trên địa bàn tỉnh Bạc
Liêu tăng qua các năm. Giai đoạn 2017-2019, số lượng CĐL tăng gấp đôi và diện
tích tăng 2,39 lần.
(5) Tại tỉnh An Giang, năm 2014 có 4.531 ha diện tích đất lúa thực hiện
CĐL. Năm 2017, các doanh nghiệp đã ký hợp đồng bao tiêu với nông dân thông
83
qua 19 hợp tác xã và 31 tổ hợp tác với diện tích cả 03 vụ là 33.531 ha, trong đó, Vụ
Đông Xuân 2016-2017 diện tích 20.569 ha, Hè Thu 9.637 ha, Thu Đông 3.298 ha.
Diện tích thu mua đạt 25.724 ha, chiếm 77% tổng số diện tích ký kết [21]. Năm
2018, diện tích đăng ký thực hiện của các doanh nghiệp là 55.820 ha, diện tích thực
hiện ký kết hợp đồng bao tiêu là 30.333 ha, đạt 55% kế hoạch đăng ký và chiếm
4,83% diện tích lúa của tỉnh, trong đó, Vụ Đông Xuân 2017-2018 diện tích 16.102
ha, Hè Thu 8.412 ha, Thu Đông 5.827 ha [22].
Qua phân tích quá trình hình thành và phát triển CĐL ở ĐBSCL và điển hình
một số địa phương cho thấy, số lượng và diện tích CĐL không ngừng tăng lên qua
các năm. Các địa phương đã chủ động xây dựng phương án phát triển CĐL, kế
hoạch thực hiện cho giai đoạn tiếp theo.
Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng trong liên kết, xây dựng CĐL
cũng còn nhiều khó khăn, hạn chế:
- Tốc độ mở rộng diện tích liên kết CĐL còn chậm. Mặc dù ĐBSCL là nơi
tập trung nhiều nhất diện tích CĐL của cả nước, nhưng chỉ đạt 11% tổng diện tích
canh tác lúa toàn vùng.
- Tỷ lệ thành công của những hợp đồng liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản
còn thấp, chỉ ở mức bình quân 20-30% đối với lúa cao nhất mới được trên 70%.
Tình trạng doanh nghiệp hoặc nông dân vi phạm hợp đồng còn diễn ra.
3.2.2. Thực trạng hình thành và phát triển các mô hình liên kết sản xuất
lúa theo cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu Long
Kể từ khi có Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg, ngày 24/06/2002 của Thủ
tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ hàng hoá thông qua hợp đồng
và sau đó là Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 thay thế Quyết định
80 thì việc xây dựng liên kết sản xuất theo mô hình CĐL được đẩy mạnh và phát
triển khá nhanh.
Các hình thức liên kết sản xuất trong mô hình CĐL rất phong phú, đa dạng
tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể và sự sáng tạo của mỗi địa phương. Song, có thể quy
thành 03 dạng phương thức liên kết dưới đây:
- Phương thức doanh nghiệp có đầu tư giống, vật tư nông nghiệp và thu mua
lại sản phẩm.
- Phương thức chỉ ký hợp đồng và thu mua lúa theo giá thị trường, không đầu
tư giống và vật tư nông nghiệp.
84
- Phương thức ký biên bản ghi nhớ lúc đầu vụ và thu mua lúa lúc cuối vụ. Từ các phương thức liên kết trên, các địa phương vận dụng hình thành các
mô hình liên kết cụ thể của địa phương mình.
3.1.3.1. Tại thành phố Cần Thơ Nông dân đăng ký tham gia trên tinh thần tự nguyện, được cán bộ kỹ thuật nông nghiệp hướng dẫn kỹ thuật canh tác, hướng dẫn cách ghi chép sổ tay trong quá trình sản xuất lúa theo hướng VietGAP. Các cánh đồng sản xuất lúa ứng dụng kỹ thuật "1 phải, 5 giảm", "gieo sạ né rầy, ôm nước", ứng dụng công nghệ sinh thái, trồng hoa quanh bờ ruộng để thu hút thiên địch, giúp giảm sử dụng thuốc trừ sâu, rầy trên ruộng; liên kết sản xuất với tiêu thụ, trên cơ sở đó mở rộng liên kết "4 nhà". Liên kết, ký hợp đồng giữa doanh nghiệp và các THT sản xuất trong CĐL về cung ứng vật tư đầu vào và bao tiêu sản phẩm đầu ra. Hướng dẫn nông dân ghi chép sổ tay sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, tổ chức thăm đồng, kiểm tra tình hình dịch hại, hướng dẫn các giải pháp xử lý đồng ruộng. 100% diện tích được thu hoạch bằng máy gặt đập liên hợp đã góp phần giảm tổn thất sau thu hoạch và nâng cao chất lượng hạt gạo. Cụ thể:
(1) Tổ chức liên kết ký hợp đồng giữa doanh nghiệp và các tổ hợp tác sản xuất trong CĐL về cung ứng vật tư đầu vào và bao tiêu sản phẩm đầu ra. Các Công ty, Doanh nghiệp thu mua đã liên kết với các công ty cung ứng đầu vào (giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật) cho bà con trong mô hình như Công ty cổ phần Gentraco, Công ty TNHH Trung An, Công ty Lương thực Sông Hậu, Công ty TNHH thương mại dịch vụ Tấn Hưng, doanh nghiệp tư nhân Trung Thạnh, Công ty Việt Long, Công ty Hiệp Thành, Công ty phân bón 5 sao, Công ty cổ phần Bayer, Công ty trâu vàng, Công ty Nông Việt, Công ty bảo vệ thực vật An Giang, Cơ sở sản xuất lúa giống Bá Khem, Năm Tổng, Hai Liêm, Hai Le, Công ty Hiếu Nhân, Trại giống Cờ Đỏ, Nông trường Sông Hậu, Công ty TNHH MTV Nông nghiệp Cờ Đỏ.
(2) Các công ty, doanh nghiệp tham gia bao tiêu sản phẩm đầu ra: Công ty bảo vệ thực vật An Giang, Công ty cổ phần Gentraco, Công ty TNHH Trung An, Công ty Lương thực Sông Hậu, Công ty TNHH thương mại dịch vụ Tấn Hưng, Doanh nghiệp tư nhân Trung Thạnh, Công ty Việt Long, Công ty cổ phần Hiệp Thanh, Công ty Thái Bình, Công ty Lương thực Miền Nam, Công ty Đại Dương Xanh, Công ty TNHH MTV Nông nghiệp Cờ Đỏ, Công ty TNHH Tân Thành, Công ty Vinacam Cờ Đỏ, Trại giống Cờ Đỏ, Nông trường Sông Hậu. Các công ty đã họp dân, cho giá và triển khai thu mua cho bà con trong mô hình với giá bằng và cao hơn ngoài thị trường khoảng 100 - 200 đồng/kg.
85
3.1.3.2. Tại An Giang Có 03 hình thức liên kết sản xuất và tiêu thụ giữa doanh nghiệp với nông dân
trong mô hình CĐL.
- Hình thức 1: Thực hiện toàn chuỗi sản xuất - tiêu thụ: doanh nghiệp đầu tư yếu tố sản xuất đầu vào (giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật…), hỗ trợ kỹ thuật cho nông dân thông qua hợp tác xã, tổ hợp tác hoặc liên kết trực tiếp với nông dân; tổ chức thu mua cuối vụ.
- Hình thức 2: Thực hiện một phần chuỗi: doanh nghiệp cung cấp một số yếu tố đầu vào của sản xuất lúa như: giống, hoặc phân bón, hoặc thuốc bảo vệ thực vật, hoặc hỗ trợ kỹ thuật cho nông dân và tổ chức thu mua cuối vụ.
- Hình thức 3: Doanh nghiệp tiêu thụ không đầu tư, chỉ hợp đồng thu mua. Đặc điểm chung của các hình thức liên kết là đều có hợp đồng. Với sự hỗ trợ của các ngành chuyên môn và chính quyền địa phương, đầu vụ sản xuất doanh nghiệp tiến hành trao đổi, thảo luận với nông dân để thoả thuận các điều khoản và đi đến ký kết hợp đồng sản xuất và tiêu thụ. Trong đó, xác định giá thu mua thường là giá thị trường vào thời điểm thu hoạch. Riêng đối với hợp đồng tiêu thụ lúa của công ty liên doanh Angimex-Kitoku có giá thu mua được xác định trước vào đầu vụ sản xuất.
Về nội dung liên kết: Đa số các doanh nghiệp tiêu thụ đầu tư giống cấp xác nhận cho những hộ tham gia với hình thức trực tiếp cấp giống, hoặc thông qua doanh nghiệp sản xuất giống, hoặc hỗ trợ chi phí giống cho nông dân không tính lãi suất trong thời gian 4 tháng/vụ. Cuối vụ thu mua sản phẩm theo sản lượng ước tính tương ứng với diện tích ký hợp đồng đầu vụ và thu hồi chi phí đầu tư giống. Một số công ty như Công ty cổ phần Tập đoàn Lộc Trời (Công ty cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang), Công ty Gentraco thực hiện việc cung cấp trọn gói các vật tư đầu vào để nông dân sản xuất theo hình thức nợ đến cuối vụ. Tuy nhiên, các công ty này có yêu cầu cao hơn và chất lượng.
Các mô hình tiêu biểu: (1) Mô hình thực hiện cả chuỗi sản xuất - tiêu thụ gắn với hợp tác xã kiểu mới: Công ty cổ phần Tập Đoàn Lộc Trời (Công ty cổ phần bảo vệ thực vật An Giang): Với lợi thế về vốn và nhân sự, hệ thống nhà máy xay xát, sấy, kho chứa lớn; sản xuất cung ứng thuốc bảo vệ thực vật, xuất giống,... Công ty thực hiện cung ứng giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật đầu vụ cho nông dân với lãi suất 0% và thu hồi vốn khi thu mua cuối vụ. Trong quá trình sản xuất, hộ nông dân được đội ngũ cán bộ "3 Cùng" của công ty tư vấn kỹ thuật, quản lý sản xuất, hướng dẫn ghi chép nhật ký sản xuất. Mỗi cán bộ "3 Cùng" của công ty phụ trách một vùng có diện
86
tích trung bình trên 50 ha. Sau khi thu hoạch, hộ nông dân sẽ được hỗ trợ các chi phí vận chuyển, chi phí sấy và thu mua theo giá thị trường. Tại thời điểm thu hoạch, nếu nông dân chưa đồng ý bán với giá thị trường thì công ty có chính sách cho lưu kho trong vòng 30 ngày không tính phí để xem biến động giá. Hiện nay, công ty đang cùng với chính quyền các địa phương trong vùng ĐBSCL đang hỗ trợ, xúc tiến việc thành lập các hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới, theo đó, công ty cử cán bộ tham gia điều hành, quản lý ở các hợp tác xã. Các hợp tác xã có nhiệm vụ hướng dẫn nông dân tổ chức sản xuất và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất, tiêu thụ để liên kết với doanh nghiệp.
(2) Mô hình thực hiện liên kết, thu mua theo giá cố định (Công ty TNHH Angimex-Kitoku): Mô hình này được Công ty Angimex-Kitoku triển khai khá sớm, hầu như thực hiện toàn chuỗi cung ứng từ sản xuất đến tiêu thụ. Nông dân tham gia mô hình này được tập hợp thành các tổ hợp tác. Công ty cung cấp giống (chủ yếu là giống Jiaponica), hướng dẫn kỹ thuật, kiểm soát quy trình và thu mua cuối vụ với giá cao. Công ty phối hợp chặt chẽ với Hội Nông dân các cấp, chính quyền địa phương tuyên truyền một cách cụ thể rõ ràng về hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, các điều khoản về xử phạt vi phạm hợp đồng; giá thu mua được xác định từ đầu vụ, do đó nông dân có nhiều thông tin để quyết định tham gia mô hình.
(3) Mô hình sản xuất lúa theo GlobalGAP: Công ty TNHH lương thực Tấn Vương: Từ năm 2010 tỉnh An Giang đã vận động các hộ dân hình thành các tổ hợp tác thực hiện sản xuất lúa theo tiêu chuẩn GlobalGAP trên diện tích khoảng 100ha. Ngành nông nghiệp đã hỗ trợ nhiều chính sách để duy trì và chứng nhận vùng sản xuất đạt tiêu chuẩn GlobalGAP trong 3 năm liền. Hiện nay công ty TNHH lương thực Tấn Vương đang hỗ trợ duy trì và mở rộng vùng sản xuất lên 150 ha. Cuối vụ công ty thu mua toàn bộ lúa với giá cao hơn giá thị thường 20%. (4) Mô hình liên kết nhiều đơn vị cung cấp đầu vào, đầu tư đầu vụ, thu mua cuối vụ: Theo hình thức này, nhiều doanh nghiệp kinh doanh lương thực liên kết với các doanh nghiệp cung ứng đầu vào cho sản xuất (giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật…) đầu tư cho nông dân thông qua hợp tác xã hoặc tổ hợp tác, sau đó thu mua cuối vụ theo giá thị trường hoặc cao hơn từ 50 - 100đ/kg (thoả thuận tại thời điểm định giá). (i) Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu An Giang (Angimex) liên kết với các doanh nghiệp cung cấp giống xác nhận để đầu tư giống cho nông dân thông qua các tổ hợp tác, hoặc nông dân nòng cốt, thực hiện chủ yếu ở huyện Thoại Sơn. Cuối vụ, công ty thu mua lúa lại của nông dân với nhiều hình thức tuỳ theo các tiểu vùng (lúa tươi, khô, vận chuyển....) với giá thu mua cao hơn giá thị trường từ 50-100đ/kg.
87
(ii) Công ty cổ phần Gentraco liên kết với công ty Bayer (Đức) cung cấp thuốc bảo vệ thực vật và hướng dẫn kỹ thuật, yêu cầu nông dân thực hiện theo đúng quy trình sản xuất để có sản phẩm đạt chất lượng, nhất là kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên sản phẩm sau thu hoạch. Thực hiện mô hình này, nông dân có thể tự tìm nguồn giống. Cuối vụ, công ty thu mua với giá cao hơn thị trường.
(iii) Ngoài ra, một số doanh nghiệp khác hỗ trợ chi phí đầu tư ban đầu cho
nông dân (thông qua hợp tác xã, tổ hợp tác) bằng tiền.
3.1.3.3. Tại Đồng Tháp Các HTX, THT thực hiện cánh đồng chủ động liên kết đầu vào với các Công ty cung ứng vật tư nông nghiệp: Công ty TNHH MTV Lúa gạo Tân Hồng (Công ty bảo vệ thực vật An Giang), Công ty TNHH ADC,… để cung ứng vật tư cho xã viên và liên kết với các đơn vị tiêu thụ lúa gạo như: Công ty bảo vệ thực vật An Giang, Công ty Lương Thực Phương Đông, Công ty TNHH xuất nhập khẩu Võ Thị Thu Hà (Công ty VTTH), Công ty TNHH Một thành viên Hiếu Nhân, Công ty Việt Thành, Công ty TNHH Highland Dragon,… để tiêu thụ lúa cho nông dân. Các phương thức liên kết sản xuất - tiêu thụ chủ yếu:
Một là, đầu tư đầu vào và tiêu thụ lúa (Công ty TNHH một thành viên Lương Thực Tân Hồng và Công ty bảo vệ thực vật An Giang). Phương thức hỗ trợ: Hỗ trợ kỹ thuật, đầu tư vật tư kết hợp tiêu thụ lúa, công ty cử cán bộ kỹ thuật phụ trách mô hình hướng dẫn nông dân áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác từ khâu chọn giống, gieo sạ, bón phân, quản lý dịch hại. Công ty cung ứng vật tư đầu vào không tính lãi suất và sẽ khấu trừ chi phí đầu tư khi thu mua lúa cuối vụ. Phương thức ký hợp đồng: Ký hợp đồng trực tiếp với hộ cá thể trồng lúa ngay từ đầu vụ thông qua THT hoặc HTX. Cụ thể, Công ty bảo vệ thực vật An Giang triển khai vùng nguyên liệu, công ty cử cán bộ kỹ thuật hỗ trợ nông dân, đầu tư 100% thuốc bảo vệ thực vật, 50% phân bón và tổ chức phương tiện vận chuyển lúa tại điểm tập kết lúa của nông dân về kho công ty. Ngoài ra, Công ty còn hỗ trợ nông dân gửi lúa tại kho không tính chi phí trong thời gian 30 ngày; nông dân có thể tạm ứng tiền trước, khi nhận thấy giá lúa thu mua tại thời điểm chưa phù hợp. Phương thức thanh toán: Nông dân nhận tiền tại công ty sau khi trừ các khoản công ty đã đầu tư.
Hai là, đầu tư giống và tiêu thụ lúa: Công ty TNHH MTV Hiếu Nhân, Thương lái Hồ Văn Tràng. Phương thức hỗ trợ: Các đơn vị cung ứng giống đầu vụ không tính lãi suất và sẽ khấu trừ chi phí đầu tư khi thu mua lúa cuối vụ. Phương thức ký hợp đồng: Công ty ký hợp đồng với THT hoặc HTX ngay từ đầu vụ trên cơ sở nông dân tham gia mô hình đăng ký với THT hoặc HTX. Phương thức thanh
88
toán: Nông dân nhận tiền ngay sau khi trừ các khoản chi phí công ty đã đầu tư.
Ba là, đầu tư thuốc bảo vệ thực vật và tiêu thụ lúa: Công ty TNHH thương mại Tân Thành: Phương thức hỗ trợ: Hỗ trợ kỹ thuật, đầu tư thuốc bảo vệ thực vật, công ty cử cán bộ kỹ thuật phụ trách mô hình hướng dẫn nông dân áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác từ khâu chọn giống, gieo sạ, bón phân, quản lý dịch hại. Công ty cung ứng thuốc bảo vệ thực vật đầu vào không tính lãi suất và sẽ khấu trừ chi phí đầu tư khi thu mua lúa cuối vụ. Phương thức ký hợp đồng: Công ty ký hợp đồng trực tiếp với hộ cá thể ngay từ đầu vụ. Phương thức thanh toán: Nông dân nhận tiền ngay sau khi trừ các khoản công ty đã đầu tư.
Bốn là, đầu tư thuốc bảo vệ thực vật - không tiêu thụ lúa: Các công ty: TNHH ADC (Công ty ADC) thực hiện chương trình "Cánh đồng mơ ước", công ty Hoá nông Lúa Vàng thực hiện chương trình "Hành trình cây lúa khoẻ ",… cung ứng các yếu tố sản xuất như thuốc bảo vệ thực vật cho nông dân tham gia mô hình với giá ưu đãi và cho nợ đến cuối vụ.
Năm là, đầu tư tín dụng - tiêu thụ lúa (Công ty Cẩm Nguyên, Công ty VTTH): Phương thức hỗ trợ: Công ty cho nông dân ứng vốn trước khi mua lúa (2,5- 5 triệu đồng/ha) sau khi kiểm tra đồng trước thu hoạch 15-20 ngày không tính lãi suất và sẽ khấu trừ chi phí đầu tư khi thu mua lúa cuối vụ. Phương thức ký hợp đồng: Ký hợp đồng trực tiếp với hộ cá thể trồng lúa sau khi kiểm tra đồng trước thu hoạch 15-20 ngày thông qua THT hoặc HTX. Phương thức thanh toán: Công ty cho nhân viên thu mua lúa tươi tại ruộng và cấp phiếu cho hộ nông dân đến nhận tiền tại văn phòng HTX sau khi trừ các khoản công ty đã đầu tư.
Sáu là, không đầu tư - Tiêu thụ lúa: Gồm các công ty: Phương Đông, Lương Thực Đồng Tháp, Việt Thành, Quảng Nam, Quang Trung, Tân Phát, Thiên Nhiên, Vĩnh Hoàn 2,… Phương thức ký hợp đồng: Công ty cử nhân viên thăm đồng vào 2 giai đoạn: lúa trổ và trước thu hoạch 7 ngày; sau đó lập biên bản ghi nhớ với HTX. Từ những mô hình liên kết nêu trên, cho thấy, CĐL là mô hình "liên kết bốn nhà": nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nông, trong đó, mối liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân giữ vai trò quyết định, nông dân và doanh nghiệp cũng là chủ thể chính trong liên kết sản xuất. Nông dân và doanh nghiệp có vai trò riêng trong quan hệ liên kết.
Nông dân có vai trò quan trọng, là nhân vật trung tâm của quá trình liên kết, quyết định sự thành bại của việc tồn tại và phát triển của mô hình liên kết, bởi họ là người chiếm hữu và sử dụng đất đai và trực tiếp làm ra nông sản. Khi mối liên kết thành công, đạt hiệu quả thì nhà nông là người hưởng lợi trước tiên.
89
Doanh nghiệp là chủ thể chính có tầm quyết định trong việc kiến tạo, duy trì và phát triển mô hình liên kết. Bởi doanh nghiệp có các vai trò, thể hiện ở những mặt sau đây: (1) Doanh nghiệp là chủ thể tham gia cung ứng vật tư nông nghiệp cho nông dân. Đối với người nông dân do khả năng tích lũy hạn chế nên khan hiếm nguồn vốn đầu tư cho sản xuất. Khi không liên kết với các doanh nghiệp, người nông dân thường mua các yếu tố đầu vào thông qua các đại lý phân phối nên giá thành thường cao. Trong nhiều trường hợp, người nông dân không thể thanh toán ngay tiền mua vật tư mà phải nợ đến cuối vụ thường phải chấp nhận giá cao, hoặc chịu lãi suất của các đại lý phân phối, làm cho chi phí sản xuất gia tăng, lợi nhuận giảm. Việc ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp sẽ giúp nông dân tiếp cận được nguồn cung ứng đầu vào với chi phí thấp hơn, yên tâm về nguồn gốc và chất lượng hàng hóa. Các doanh nghiệp thường ứng trước vật tư cho nông dân không lãi suất nên giản áp lực đầu tư của nông dân. Từ đó có thể thấy, việc tham gia cung ứng đầu vào sản xuất cho nông dân giúp nông dân giảm chi phí sản xuất, gia tăng lợi nhuận. Doanh nghiệp cũng mở rộng được thị trường cung ứng của mình.
(2) Doanh nghiệp là chủ thể chỉ đạo hoạt động sản xuất, hướng dẫn kỹ thuật và quản lý quy trình và chất lượng nông sản phẩm. Các doanh nghiệp ký kết hợp đồng với nông dân đều quy định đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật nhất định. Các doanh nghiệp thường xây dựng đội ngũ cán bộ kỹ thuật nhằm hướng dẫn, hỗ trợ nông dân về mặt kỹ thuật, quản lý quy trình canh tác, giúp truy xuất được nguồn gốc và hạch toán chi phí sản xuất thông qua hướng dẫn ghi chép nhật ký sản xuất. Hoạt động này của doanh nghiệp một mặt giúp nông dân gia tăng trình độ, năng lực sản xuất, mặt khác giúp gia tăng chất lượng sản phẩm.
(3) Doanh nghiệp chủ thể tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho nông dân. Trong mô hình CĐL, doanh nghiệp ký kết các hợp đồng bao tiêu sản phẩm cho nông dân theo giá thị trường hoặc giá cố định, có nhiều doanh nghiệp cam kết đảm bảo giá cao hơn giá thị trường tại thời điểm xác định giá bán. Việc bao tiêu sản phẩm đầu ra cho nông dân giúp nông dân tránh được hiện tượng "được mùa mất giá”, bị các tiểu thương ép giá khi đến mùa vụ thu hoạch tập trung. Một số doanh nghiệp thực hiện các chính sách cho phép nông dân ký gửi lưu kho miễn phí chọn thời điểm bán hợp lý… qua đó giúp nông dân hạn chế được thất thoát sau thu hoạch.
Đánh giá chung về các mô hình liên kết sản xuất lúa theo mô hình CĐL ở
một số tỉnh vùng ĐBSCL:
Việc xây dựng và phát triển các mối liên kết gắn sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp đã và đang góp phần hình thành các vùng sản xuất tập trung, nâng cao
90
chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu, người nông dân nâng cao thu nhập và ổn định đời sống. Sản xuất có sự liên kết chặt chẽ giữa nông dân và doanh nghiệp tiêu thụ, các nhà khoa học và cơ quan quản lý nhà nước.
Hiện tại, ĐBSCL có 180 doanh nghiệp, 149 hợp tác xã, 590 tổ hợp tác có thực hiện liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản, xây dựng CĐL. Việc tham gia liên kết sản xuất lúa của các doanh nghiệp, các hợp tác xã và các tổ hợp tác theo CĐL đã góp phần gia tăng hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của mô hình này, qua đó gia tăng LIKT của các chủ thể tham gia liên kết, giải quyết tốt mối quan hệ LIKT giữa các chủ thể, nhất là nông dân và doanh nghiệp. Tuy vậy, theo Cục Kinh tế hợp tác, việc tổ chức liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ, xây dựng CĐL trong thực tiễn đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập.
3.2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu Long
3.2.3.1. Thực hiện lợi ích kinh tế của nông dân và doanh nghiệp trong mô
hình cánh đồng lớn
Một là, thực hiện lợi ích kinh tế của nông dân trong mô hình cánh đồng lớn. Trong mối quan hệ giữa LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL, thì các lợi ích của nông dân thể hiện rõ nhất và nổi bật nhất ở một số khía cạnh dưới đây:
Thứ 1, hiệu quả sử dụng đất và quyền sử dụng đất (QSDĐ) được thực hiện
có hiệu quả hơn, do đó, góp phần tăng thu nhập cho nông dân.
Khi tham gia CĐL, nông dân vẫn là chủ đất sản xuất nông nghiệp, họ vẫn có đầy đủ cá quyền của người sử dụng đất theo pháp luật đất đai. Một khi số lượng CĐL tăng lên và quy mô diện tích CĐL tăng lên hoặc việc thực hiện sản xuất quảng canh - tăng mùa vụ gieo trồng trên diện tích CĐL, thì tất yếu sẽ dẫn đến kết quả là: diện tích đất gieo trồng lúa sẽ tăng lên, quy mô sản xuất tăng lên (hiệu quả kinh tế theo quy mô) giải quyết được lao động và việc làm, tăng sản lượng nông sản sản xuất ra, do đó, tăng gia trị nông sản trển một đơn vị diện tích, người nông dân có thu nhập tăng thêm... Vậy là, nông dân thu được "đa lợi ích" trong việc tăng số lượng CĐL và quy mô diện tích CĐL.
Có thể minh chứng điều này qua các tư liệu sau đây: Theo Cục trồng trọt (Bộ NN&PTNT) từ triển khai thực hiện CĐL, đến nay hầu hết các tỉnh trong cả nước đã có quy hoạch vùng sản xuất hàng hoá tập trung quy mô từ vài chục ha đến hàng trăm ha, với nhiều loại cây trồng khác nhau như:
91
lúa, ngô, rau, đậu các loại... Trong đó, diện tích trồng lúa đạt 337,4 nghìn ha, riêng các tỉnh phía Nam là 259,390 ha tăng khoảng 66.000 ha/năm 2015. Trong đó, một số tỉnh có diện tích lớn thực hiện như: Đồng Tháp, Sóc Trăng, Long An, Cần Thơ và An Giang [15].
Từ thực tế nêu trên, có thể khẳng định rằng, nông dân và doanh nghiệp đều thu được lợi ích trên nhiều phương diện khi tăng số lượng CĐL và quy mô diện tích CĐL. Trước hết là đối với nông dân là: hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và quyền sử dụng đất được thực hiện tốt hơn, tận dụng được lực lượng lao động và tạo thêm được việc làm, tăng sản lượng và giá trị nông sản sản xuất ra, được tiếp cận các dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp (làm đất, gieo sạ, tưới tiêu...) với giá thấp hoặc miễn phí, tùy theo thỏa thuận trong hợp đồng liên kết. Tựu trung lại là tăng thêm
thu nhập cho nông dân.
Thứ 2, đạt hiệu quả kinh tế cao: tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, tăng
giá bán do đó tăng thêm lợi nhuận.
Thực tiễn cho thấy, các mô hình CĐL đều cho hiệu quả rõ rệt, với quy mô gieo cấy lớn, thuận tiện trong việc đưa cơ giới hoá vào sản xuất, giúp tiết kiệm chi phí và thời gian cho nông dân. Bình quân mỗi ha trong mô hình CĐL có thể giảm chi phí sản xuất từ 10%-15% và giá trị sản lượng có thể tăng 20-25%, thu lợi tăng thêm từ 2,2-7,5 triệu đồng/ha. Mặt khác, khi tham gia CĐL, người sản xuất (nông dân) được ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm ổn định, được hỗ trợ kỹ thuật và trong một số mô hình còn được doanh nghiệp liên kết cung ứng vật tư đầu vào không tính lãi. Do đó, nông dân yên tâm đầu tư sản xuất; thực hiện tốt các biện pháp kỹ thuật và mạnh dạn đầu tư, tổ chức sản xuất tạo ra khối lượng sản phẩm lớn, giá thành hạ và tăng thu nhập.
Bảng 3.4: Hiệu quả kinh tế CĐL tại Cờ Đỏ vụ Đông Xuân 2015 - 2016
Trong
Ngoài
STT
Hạng mục
Hiệu quả (+/-)
Mô hình
Mô hình
1
- Năng suất (kg/ha)
8,50
8,47
(+) 0,03
2
- Giá bán (đồng/kg)
4.733
4.658
(+) 75
3
Tổng chi phí (đồng/ha)
18.069.667
18.967.900
(-) 898.233
4
Tổng thu (đồng/ha)
40.233.333
39.440.556
(+) 788.777
3
Lợi nhuận (đồng/ha)
22.163.667
20.472.656
(+) 1.691.001
Nguồn: Tác giả tổng hợp số liệu
từ Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cờ Đỏ, 2016.
Trong trường hợp này, năng suất lúa trong mô hình CĐL tăng nhẹ, giá bán
92
cao hơn không nhiều (75 đồng/kg) nhưng chi phí đã giảm 898.233 đồng/ha, lợi
nhuận đã tăng 1.691.001 đồng/ha. Việc tăng lợi nhuận phần lớn do giảm chi phí và
tăng giá bán lúa.
Qua khảo sát 180 hộ sản xuất lúa theo mô hình CĐL và 180 hộ sản xuất
lúa ngoài mô hình CĐL trên địa bàn các địa bàn: thành phố Cần Thơ, Đồng
Tháp, An Giang trong 02 vụ Đông Xuân 2015-2016 và vụ Hè Thu 2016, tác giả
Nguyễn Phú Son đã phân tích, so sánh chi phí sản xuất của trong mô hình và
ngoài mô hìn như sau:
Bảng 3.5: Chi phí sản xuất trung bình vụ Đông Xuân 2015- 2016,
vụ Hè Thu 2016 của vùng đồng bằng sông Cửu Long qua khảo sát
ĐVT: 1.000đ/1.000 m2
Vụ Đông Xuân 2015- 2016
Trong mô hình
Ngoài mô hình
Chi phí
Số tiền
Tỷ lệ (%)
Số tiền
Tỷ lệ (%)
Giống
211,07
14,04
208,94
13,60
Làm đất
153,17
10,10
149,64
9,74
Thu Hoạch
219,60
14,62
215,85
14,05
Phân Bón
357,88
23,82
391,76
25,51
Thuốc
304,82
20,29
311,50
20,28
Lao Động
255,72
17,02
258,11
16,82
Tổng cộng
1.502,27
100,00
1.535,80
100,00
Vụ Hè thu năm 2016
Giống
212,05
13,81
208,02
13,36
Làm đất
153,38
9,99
149,64
9,61
Thu Hoạch
219,60
14,31
215,85
13,86
Phân Bón
357,29
23,28
380,38
24,43
Thuốc
305,25
19,89
311,50
20,02
Lao Động
287,46
18,72
291,47
18,72
Tổng cộng
1.535,03
100,00
1.556,85
100,00
Nguồn: Nguyễn Phú Son (2018), Nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội của mô hình
cánh đồng lúa lớn tại đồng bằng sông Cửu Long, Đề tài khoa học cấp bộ[96, tr.57].
Về doanh thu và lợi nhuận, tác giả Nguyễn Phú Son (2018), đã phân tích và so sánh
doanh thu và lợi nhuận của các hộ trong và ngoài mô hình CĐL, kết quả như sau: doanh
thu trung bình vụ đông xuân của các hộ tham gia CĐL cao hơn so với nhóm hộ còn lại,
93
khoảng 5,95%. Theo đó trong vụ đông xuân, lợi nhuận trung bình của các hộ trong CĐL cũng cao hơn so với các hộ ngoài CĐL khoảng 290.000 đồng/1.000 m2. Bảng 3.6: Doanh thu và lợi nhuận vụ Đông Xuân 2015 - 2016, vụ Hè Thu 2016
của vùng đồng bằng sông Cửu Long qua khảo sát
ĐVT: 1.000đ/1.000 m2
Vụ Đông Xuân 2015 - 2016
Nhóm hộ
Nhỏ nhất
Trung bình
Doanh Thu Lớn nhất
Nhỏ nhất
Độ lệch chuẩn
Trung bình
Lợi nhuận Lớn nhất
Độ lệch chuẩn
4.522,12 2.535,00 6.840,00
737,75 3.019,84
89,70 5.163,09
776,50
4.268,11 2.687,50 6.600,00
791,80 2.732,31
861,85 4.744,34
786,77
Trong mô hình Ngoài mô hình
Vụ Hè Thu 2016
3.285,07 1.592,50 5.500,00 1.738,51 1.748,67 (1.245,30) 3.500,00 1.738,55
3.419,11 1.560,00 5.595,65
771,71 1.862,25
19,98 3.974,75
782,95
Trong mô hình Ngoài mô hình
Nguồn: Nguyễn Phú Son (2018), Nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội của mô hình
cánh đồng lúa lớn tại đồng bằng sông Cửu Long, Đề tài khoa học cấp bộ[96, tr.57].
Như vậy ở vụ đông xuân, lợi nhuận trung bình của các hộ tham gia CĐL cao hơn lợi nhuận trung bình của các hộ ngoài CĐL. Đối với vụ hè thu, chưa thể kết luận lợi nhuận trung bình của các hộ trong và ngoài CĐL.
Trong một số mô hình CĐL, nông dân tham gia sẽ được tập huấn kỹ thuật, áp dụng các biện pháp kỹ thuật trồng trọt nhằm giảm giá thành sản phẩm, tăng năng suất và chất lượng lúa thu hoạch. Nhờ áp dụng tốt các giải pháp kỹ thuật như: sạ hàng, bón phân cân đối, tưới tiêu tiết kiệm nước,... nên dù năng suất cây trồng tương đương với năng suất bên ngoài, nhưng chi phí sản xuất trong CĐL giảm từ 15%-20%, lợi nhuận tăng hơn 15%.
Theo số liệu Báo cáo Kết quả thực hiện kinh tế tập thể đến năm 2019 của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Cần Thơ, trong Vụ Đông Xuân 2017-2018, do đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật 3G3T, 1P5G, tổ chức các cuộc thi giảm giống gieo sạ nên giúp cho lượng giống gieo sạ của nông dân trong mô hình CĐL giảm, lượng giống trung bình sử dụng 151kg/ha, giảm 20kg so với ngoài mô hình và giảm so với Vụ Đông Xuân 2016-2017 là 17kg/ha giúp cho lượng phân sử dụng giảm (N-P-K: 107-99-71), số lần phun thuốc giảm 2 lần so với ngoài mô
94
hình, giảm 1 lần so với Vụ Đông Xuân 2016-2017. Từ đó, lợi nhuận trung bình của nông dân trong mô hình CĐL của Đông Xuân 2017-2018 là 29,757 triệu đồng, cao hơn ngoài mô hình CĐL 2,801 triệu đồng [100].
Tại tỉnh Kiên Giang, thực hiện Dự án "Cánh đồng lớn" đáp ứng vùng nguyên liệu và ứng phó với biến đổi khí hậu trên địa bàn Huyện Tân Hiệp đã đạt được nhiều kết quả quan trọng về hiệu quả kinh tế.
Bảng 3.7: Về hiệu quả kinh tế của mô hình CĐL vụ Đông Xuân 2016-2017 tại huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang
ĐVT: 1.000 đồng
Diễn giải
Chênh lệch
Ruộng trong dự án
Ruộng ngoài dự án
I. Chi phí
-1016
1. Làm đất
0
15.615 2.000
16.627 2.000
2. Giống
-60
1.500
1.560
3. Phân bón (bao gồm hỗ trợ)
-200
3.028
3.228
4. Thuốc cỏ
0
340
340
5.Thuốc bảo vệ thực vật
-308
2.609
2.917
6. Bơm tưới
0
500
500
7.Công dặm lúa
0
1.250
1.250
8.Công chăm sóc
-444
1.588
2.032
9. Thu hoạch, v/c
0
2.000
2.000
10. Chi khác
0
800
800
II. Thu nhập
1. Năng suất lúa (T/ha)
+200 kg/ha
7,8
7,6
2. Giá bán(đ/kg)
-50
5.650
5.600
3. Tổng thu
1.510
44.070
42.560
4. Lợi nhuận
+2.522
28.455
25.933
5. Giá thành (đ/kg)
- 186
2.002
2.188
Nguồn: Trạm Khuyến nông huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang [118].
Ghi chú: Công chăm sóc: công bón phân (50.000đ/bao), công phun thuốc, phun phân bón lá (bình quân 150.000đ/ha); Chi khác: công sạ (300.000đ/ha), công bơm nước (trả cho người coi máy, cho thuê máy 250.000đ/ha), công nhổ cỏ, đi lại mua vật tư....giá giống ngoài mô hình bà con tự mua ngoài với giá 13.000 đ/kg giống XN 1.Giá bán trong mô hình theo thỏa thuận của Công ty sẽ mua cao hơn giá thị trường từ 30-50 đồng/kg.
95
Kết quả so sánh trên cho thấy: Lợi nhuận của nông dân trong mô hình cao
hơn ngoài mô hình 2.522.000đ/ha. Do ứng dụng một số yêu cầu kỹ thuật trong sản
xuất lúa như sử dụng giống lúa cấp xác nhận 1, gieo sạ đúng mật độ, phân bón qua
lá Đại Nông… nên lúa cho năng suất cao hơn ngoài mô hình chênh lệch 200 kg/ha ,
một số chi phí khác giảm như: thuốc BVTV, phân bón gốc, công chăm sóc,… tính
chung 1 ha nông dân trong cánh đồng chi thấp hơn 1.016.000đ so với các hộ ngoài
mô hình CĐL.
Bảng 3.8: Hiệu quả kinh tế của một số cánh đồng lớn điển hình trên địa bàn
huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang vụ Hè Thu năm 2018
ĐVT: 1.000 đồng
Cánh đồng Đông Hòa Cánh đồng Kênh 4 A
Cánh đồng Phú Hòa
Diễn giải
Trong
Ngoài
Chênh
Trong
Ngoài
Chênh
Trong
Ngoài
Chênh
(1ha)
dự án
dự án
lệch
dự án
dự án
lệch
dự án
dự án
lệch
I. Chi phí
17.442 17.817
-375 17.418 19.404
-1.986 16.220 16.412
192
II. Thu nhập
1. NS lúa
5,5
5,42
5,8
6,11
-0,31
5,6
5,6
0
0
(T/ha)
2. Giá bán
5.200
5.200
0
5.700
5.500
+200
5.600 5.600
0
(đ/kg)
3. Tổng thu 28.600 28.184
416 33.060 33.605
-545 31.360 31.360
0
4. Lợi
11.158 10.368
791 16.188 14.201
-1.987 15.140 14.989
192
nhuận
5. Giá
3.172
3.287
-115
3.003 3. 175
-172
2.896 2.930
-34
thành
(đ/kg)
Nguồn: Trạm Khuyến nông huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang [118].
Ghi chú: Công chăm sóc: công bón phân (50.000đ/bao), công phun thuốc,
phun phân bón lá (bình quân 150.000đ/ha); Chi khác: công sạ (300.000đ/ha), công
bơm nước (trả cho người coi máy, cho thuê máy 250.000đ/ha), công nhổ cỏ, đi lại
mua vật tư....giá giống ngoài mô hình bà con tự nhân giống trao đổi lẫn nhau
7.000đ/kg, sạ 220 - 230kg/ha.
Kết quả so sánh trên cho thấy: Giá bán của OM 5451 và ĐT 8 bằng nhau, lợi
nhuận của nông dân trong mô hình cao hơn ngoài mô hình nhưng không chênh lệch
nhiều. Do ứng dụng một số yêu cầu kỹ thuật trong sản xuất lúa như sử dụng giống
lúa cấp xác nhận 1, phân bón qua lá hữu cơ vi sinh Đại Nông nên nông dân trong
96
mô hình tốn chi phí giống, phân cao hơn ngoài mô hình. Tuy vậy, một số chi phí
khác giảm như: thuốc BVTV, phân bón gốc, công chăm sóc … tính chung 1 ha thì
tương đương nhau. Đây là vụ thứ 4 của cánh đồng Phú Hòa nên bà con đã mạnh dạn
giảm giống, phân, thuốc BVTV nên chi phí giảm so với 2 cánh đồng còn lại.
Từ năm 2010, Công ty cổ phần bảo vệ thực vật An Giang (AGPPS) nay là
Công ty cổ phần Tập đoàn Lộc Trời (SRP) chính thức triển khai Chương trình "Đầu
tư, thu mua và chế biến lúa gạo" hay gọi nôm na là "mô hình cánh đồng mẫu lớn"
đầu tiên, được thực hiện tại xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Theo
đó, AGPPS thực hiện chuỗi giá trị sản xuất lúa gạo theo quy trình khép kín từ khâu
xây dựng vùng nguyên liệu, ký hợp đồng bao tiêu với nông dân, cử lực lượng cán
bộ kỹ thuật trực tiếp hướng dẫn kỹ thuật, cung ứng giống, thuốc, phân bón không
tính lãi, nông dân được hỗ trợ miễn phí các khoản bao bì, vận chuyển, sấy và được
thu mua theo giá thị trường. Quy trình này đã giúp người nông dân trong vùng giảm
được chi phí và đạt thu nhập cao từ 30-40 triệu đồng/ha/vụ, mở ra một hướng làm
ăn mới trong hợp đồng đầu tư sản xuất và bao tiêu sản phẩm cho nông dân.
Ông Nguyễn Thành Hướng - Giám đốc Trung tâm khuyến nông tỉnh Đồng
Tháp cho biết: "Xuất phát từ đề án "Xây dựng cánh đồng lúa theo hướng hiện đại",
tỉnh đang tích cực triển khai phát triển mô hình CĐL. Theo đó, tỉnh chủ động chọn
địa điểm triển khai là các HTX hoặc THT có hệ thống đê bao tương đối hoàn chỉnh,
thuận lợi cho việc tưới tiêu. Quy mô mỗi CĐL từ 100-200ha, được ứng dụng đồng
bộ những giải pháp kỹ thuật vào sản xuất từ khâu làm đất, gieo sạ, bón phân... và
thực hiện bằng cơ giới hoá. Hiện toàn tỉnh đã hình thành CĐL gần 100 ha tập trung
ở các huyện Tam Nông, Tháp Mười, Tân Hồng... Tổng kết vụ hè thu vừa qua, các
CĐL đã tiết kiệm được lượng giống gieo sạ khoảng 30kg/ha, phân bón urê giảm
khoảng 30kg/ha... đã tạo được sự chênh lệch lợi nhuận so với cánh đồng bình
thường (ngoài CĐL) từ 2 - 2,5 triệu đồng/ha. Tại hợp tác xã Mỹ Đông 2, huyện
Tháp Mười thực hiện mô hình liên kết tiêu thụ lúa với quy mô 300 ha hay Hợp tác
xã Tân Cường, huyện Tam Nông hơn 1.500 ha, qua liên kết của các công ty, doanh
nghiệp với hợp tác xã mua lúa cao hơn ngoài mô hình 200 đồng/kg lúa.
Ở nhiều địa phương, thông qua việc hợp tác, liên kết sản xuất trong CĐL đã
giúp nông dân nâng cao giá trị trên một đơn vị canh tác. Hoạt động hợp tác, liên kết
sản xuất trên CĐL sẽ giúp giảm chi phí sản xuất, do hầu hết các khâu đều được cơ
giới hoá, tăng khả năng tiếp cận khoa học kỹ thuật, nâng cao năng suất chất lượng.
Liên kết sản xuất giữa nông dân với nông dân, và nông dân với doanh nghiệp đáp
97
ứng tốt hơn nhu cầu thực hiện, cung cấp sản phẩm nông sản đủ về số lượng, đồng
đều về chất lượng. Từ đó, tăng sức cạnh tranh trên thị trường, bảo đảm thời gian
cho doanh nghiệp thực hiện hợp đồng sản xuất, kinh doanh với đối tác để tiêu thụ
sản phẩm.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong năm 2018, các hình
thức hợp tác, liên kết sản xuất CĐL gắn với tiêu thụ nông sản, theo chuỗi giá trị đã
trở nên phổ biến. Theo tính toán, ở ĐBSCL mỗi ha lúa tham gia CĐL có thể giảm
chi phí sản xuất từ 10-15% và giá trị sản lượng có thể tăng từ 20-25%, thu lãi thêm
từ 2,2 đến 7,5 triệu đồng [80].
Thêm vào đó, việc xây dựng CĐL sẽ hình thành những vùng sản xuất tập
trung, từ đó, ứng dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật để sản xuất ra nông sản với khối
lượng lớn và chất lượng đảm bảo, nhằm thu hút doanh nghiệp tham gia vào tiêu thụ
sản phẩm.
Theo Cục Kinh tế Hợp tác và Phát triển nông thôn, thuộc Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, việc xây dựng và phát triển các mối liên kết sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm nông nghiệp - chủ trương đúng đắn nhằm giúp cho việc sản xuất tập
trung, nâng cao chất lượng nông sản, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và
xuất khẩu, giúp người nông dân nâng cao thu nhập và ổn định đời sống, sản xuất có
sự liên kết chặt chẽ giữa người sản xuất, doanh nghiệp tiêu thụ, chuyển giao công
nghệ và cơ quan quản lý nhà nước.
Thực tiễn cho thấy, các mô hình CĐL đều cho hiệu quả kinh tế rõ rệt, với
quy mô gieo cấy lớn, thuận tiện trong việc đưa cơ giới vào sản xuất, giúp tiết kiệm
chi phí và thời gian cho nông dân. Bình quân mỗi ha lúa trong mô hình CĐL có thể
giảm chi phí sản xuất từ 10-15%, giá trị sản lượng có thể tăng 20-25% thu lợi
nhuận từ 2,2-7,5 triệu đồng/ha [113].
Theo ông Nguyễn Phong Quang, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo
Tây Nam Bộ, trong bài "Cơ cấu lại và phát triển bền vững nông nghiệp ĐBSCL trên
cơ sở liên kết vùng" [88], thì "với thực tế sản xuất nông nghiệp còn manh mún, quy
mô nhỏ lẻ, thiếu sự gắn kết giữa nông dân và doanh nghiệp, thì mô hình CĐL đang
được xem là một trong các mô hình liên kết đạt hiệu quả cao trong sản xuất và tiêu
thụ nông sản. Theo tính toán mỗi ha lúa tham gia CĐL, nông dân có thể giảm được
chi phí sản xuất từ 10%-15%, giá trị sản lượng tăng từ 20-25%, thu lợi nhuận thêm
từ 2,2 - 7,5 triệu đồng". Chính vì vậy, mô hình CĐL không chỉ giới hạn ở các tỉnh,
thành vùng ĐBSCL, mà đã được áp dụng tại các địa phương trong cả nước. Mô
98
hình này không chỉ giới hạn ở sản xuất lúa mà còn được áp dụng đối với nhiều loại
cây trồng khác (mía đường, cà phê, nuôi trồng thuỷ sản...). Tuy vậy, do còn có
những hạn chế trong cơ chế, chính sách, những yếu kém nội tại trong quá trình thực
hiện "Liên kết 4 nhà", nên hiệu quả từ các mô hình liên kết hợp tác sản xuất trong
CĐL chưa như mong muốn.
Cũng nhờ thúc đẩy liên kết CĐL nên các tổ chức nông dân có bước phát triển
mới. Hiện nay, một số doanh nghiệp có được tính liên kết lớn như: Công ty cổ phần
Bảo vệ thực vật An Giang (nay là Tập đoàn Lộc Trời); Tổng Công ty lương thực
miền Nam đã và đang hỗ trợ nông dân liên kết tên CĐL thành lập các HTX nông
nghiệp làm tổ chức trung gian kết nối doanh nghiệp và nông dân. Điển hình là Tập
đoàn Lộc Trời trong năm 2014 đã hỗ trợ thành lập 141 tổ, nhóm hợp tác của các hộ
sản xuất lúa trong diện tích gần 40.000 ha CĐL của Công ty ở ĐBSCL. Theo kế
hoạch năm 2016, Công ty thành lập 100 HTX trong vùng nguyên liệu của Công ty ở
khu vực này. Điều đáng chú ý là sau khi thành lập các HTX, Công ty đã cử nhân
viên kỹ thuật hỗ trợ các HTX về kỹ năng quản lý, đã giúp các HTX chủ động trong
sản xuất. Hoặc như ở Tiền Giang, trong các mô hình sản xuất lúa theo CĐL, 100%
nông dân đã sử dụng giống lúa chất lượng cao, thực hiện quy trình "1 phải 5 giảm"
(phải sử dụng giống tốt, giống xác nhận; giảm giống, giảm lượng phân đạm, giảm
lượng thuốc bảo vệ thực vật, giảm lượng nước tưới và số lần bơm tưới, giảm thất
thoát trong và sau thu hoạch) đã góp phần tăng lợi nhuận cho nông hộ thêm từ 2,5 -
4,0 triệu đồng/ha [113].
Biểu lộ LIKT của nông dân khi tham gia liên kết trong mô hình CĐL, ông
Nguyễn Văn Tài ở ấp Vĩnh Phước, xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An
Giang, cười tít mắt, nói: "Làm ruộng bây giờ sướng lắm à, mọi việc đã có công ty lo
hết và tụi tôi chỉ có mỗi nhiệm vụ thỉnh thoảng chạy xe ra thăm đồng thôi. Ngoài
năng suất bình quân tăng khoảng 1 tấn/ha, chi phí đầu tư cũng giảm từ 1-2 triệu
đồng/ha góp phần tăng thêm lợi nhuận 2 - 4 triệu đồng/ha".
Ông Nguyễn Văn Huỳnh (xã Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Lợi) chia sẻ: "Trước
đây tôi sản xuất theo phương pháp truyền thống, thu hoạch 30-35 giạ/ công (1 giạ
bằng 20kg), còn từ khi sản xuất lúa theo mô hình CĐL thì đạt 45-60 giạ/công. Với 3
ha, vụ lúa Đông Xuân vừa qua tôi lãi gần 25 triệu đồng. Nhờ vậy mà cuộc sống của
gia đình tôi được cải thiện hơn" (Theo: Hoàng Lam, Báo Bạc Liêu, ngày 9/8/2014).
Ông Lê Văn Chư, HTX Nông nghiệp Mỹ Thành, xã Mỹ Thành Nam, huyện
Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang cho biết, vụ Hè Thu 2017, HTX đã liên kết sản xuất lúa
99
theo CĐL trên diện tích 110ha với một đại lý vật tư nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp.
Đối tác ứng trước giống tốt (giống Đài Thơm 8) cho bà con sản xuất, đến kỳ thu
hoạch thu mua theo giá thị trường nên nông dân rất an tâm. Bản thân ông Chư canh
tác 2ha giống Đài Thơm theo mô hình CĐL, được bình đẳng về ứng dụng tiến bộ kỹ
thuật cho quy trình sản xuất, được biết rõ lợi nhuận từ mảnh ruộng của mình sau
mỗi vụ gieo trồng.
Thứ 3, về mặt xã hội, một số nông dân tham gia mô hình CĐL đã thoát
nghèo vươn lên làm ăn khá giả.
Ông Bùi Bá Bổng, Nguyên thứ trưởng Bộ NN&PTNT nhận định, không có
CĐL, nông dân ĐBSCL tiếp tục nghèo. Bởi liên kết sản xuất trong mô hình CĐL đã
giúp tăng năng suất; hạ giá thành nông sản, tăng thu nhập và lợi nhuận cho nông
dân tham gia CĐL.
Vấn đề xóa đói giảm nghèo tại ấp Cầu Tre, xã Phú Cần, huyện Tiểu Cần, tỉnh
Trà Vinh chủ yếu là đồng bào dân tộc Khmer. Trước đây, ấp này là vùng đất khó
sản xuất, có sản xuất cũng chỉ dựa vào nước mưa nên mỗi năm chỉ sản xuất được 1
lúa trong mùa mưa. Vào đầu năm 2007, các nhà khoa học, doanh nghiệp, quản lý đã
chọn khu vực này xây dựng mô hình ''cùng nông dân ra đồng'' để sản xuất lúa chất
lượng cao. Chỉ sau hơn 4 năm, với 11 vụ sản xuất; năng suất lúa tăng liên tục từ 4
tấn/ha (năm 2007) lên 7-8 tấn/ha, có hộ đạt 9,5 tấn/ha trong vụ hè thu năm 2011.
Năng suất lúa tăng lên, kéo theo đời sống nông dân từng bước được cải thiện
và nâng lên đáng kể, một số hộ trúng mùa trở lên khá giả sắm sửa được nhiều phương
tiện phục vụ cho sản xuất và đời sống gia đình... Bộ mặt nông thôn của ấp gần như
"lột xác", nhiều nhà khang trang được xây mới, năm2 016, toàn ấp có 136 hộ nghèo,
nay chỉ còn có 30 hộ, đặc biệt có 3 hộ nghèo trước đây nay trở lên khá giả.
Theo đó, xã Phong Phú, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh cũng đã thành lập 10
tổ sản xuất theo mô hình CĐL, tăng năng suất, tăng thu nhập, giúp xóa đói giảm
nghèo trong toàn xã (theo: Hồng Nhung, TTXVH, Vietnam+, Hiệu quả từ mô hình
CĐL ở ĐBSCL).
Trong một số mô hình liên kết, nông dân được tham gia góp vốn với doanh
nghiệp bằng quyền sử dụng đất. Điều này đã làm tăng vị thế, vai trò của người nông
dân và nông dân được lợi nhiều từ quyền sử dụng đất nông nghiệp. Có thể thấy rõ
điều này qua ví dụ dưới đây:
- Nông dân Nguyễn Văn He, ở xã Vĩnh Hạnh, huyện Châu Thành, tỉnh An
Giang, chia sẻ gia đình tham gia góp ruộng đất vào mô hình CĐL với Công ty cổ
100
phần bảo vệ thực vật An Giang từ năm 2013, với 13 công đất (13.000m2). trong quá
trình thực hiện, gia đình ông được phía Công ty hỗ trợ kỹ thuật chăm sóc, nên ông
nắm được kiến thức trong canh tác theo tiêu chuẩn xuất khẩu, bảo đảm năng suất,
chất lượng, được Công ty bao tiêu giá cả ổn định đảm bảo có lãi trên 13%. Ông
Nguyễn Văn He cho biết thêm, từ khi tham gia CĐL ông thấy vị thế của người nông
dân ngày càng được nâng lên, nên ông rất phấn khởi và tích cực vận động nhiều
nông dân khác cùng tham gia.
- Nông dân Nguyễn Minh Hiếu ở xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An
Giang tham gia mô hình CĐL gần 20 công đất (20.000m2). Sau 3 năm ông đã tích
lũy được khoản tiền lớn để xây nhà, mua xe. Đặc biệt vừa rồi, ông được Công ty cổ
phần bảo vệ thực vật An Giang ưu tiên mua cổ phần, nên ông càng yên tâm gắn bó
lâu dài, bền vững với mô hình CĐL.
Thứ 4, các LIKT khác thu được từ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước: hỗ
trợ mua giống xác nhận, tập huấn kỹ thuật, hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ phát triển kinh tế
hợp tác…
Tham gia liên kết, sản xuất lúa trên CĐL người nông dân nhận được sự hỗ
trợ rất lớn từ phía Nhà nước. Từ năm 2017, UBND thành phố Cần Thơ đã có kế
hoạch hỗ trợ nông dân sản xuất lúa trên CĐL. Theo đó, chính quyền các địa phương
có phương án hỗ trợ 30% chi phí giống nguyên chủng cho nông dân trong các CĐL;
hỗ trợ 30% chi phí thuốc bảo vệ thực vật cho năm thứ 1 và 20% cho năm thứ 2
[125]. Tại huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang, Vụ Đông Xuân 2017-2018, huyện đã
thực hiện hỗ trợ 4.500 đ/kg (lượng giống 120kg/ha) tiền mua lúa giống tương
đương 540.000đ/ha, phần còn lại nông dân nộp tiền đối ứng trước khi nhận giống.
Về phân bón, Nhà nước hỗ trợ 900.000 đ/ha. Dự án chọn sản phẩm phân bón lá hữu
cơ vi sinh Đại Nông do công ty Thanh Xuân phân phối đầu tư hỗ trợ theo định mức,
nông dân nộp đối ứng phần còn lại. Tổng diện tích hỗ trợ Vụ Đông Xuân 2017-
2018 trên địa bàn huyện là 389 ha, vốn hỗ trợ giống là 560.160.000 đồng, hỗ trợ
phân bón là 386.666.000 đồng [119].
Bên cạnh đó, tham gia CĐL người nông dân được hỗ trợ tập huấn kỹ thuật
như: tập huấn các phương pháp canh tác mới như "3 giảm 3 tăng", "1 phải 5 giảm";
tập huấn phương pháp sạ hàng nhằm hướng đến sử dụng tiết kiệm giống gieo sạ
giúp giảm chi phí; tập huấn cách thức quản lý nguồn nước, bón phân, thuốc bảo vệ
thực vật và quản lý dịch bệnh; hướng dẫn nông dân ghi chép nhật ký sản xuất qua
đó có thể truy xuất nguồn gốc, đồng thời có số liệu hạch toán chi phí sản xuất;
101
thông qua việc thành lập các tổ hợp tác, hợp tác xã liên kết trong các CĐL, nông
dân còn được hưởng các chính sách hỗ trợ khác của Nhà nước về phát triển kinh tế
tập thể như: ưu đãi tín dụng, đào tạo quản lý hợp tác xã…
Các chính sách hỗ trợ trên của Nhà nước đối với nông dân sản xuất trong
CĐL, một mặt, giúp nông dân giảm chi phí sản xuất, gia tăng năng suất, chất lượng
sản phẩm làm tăng thu nhập cho người nông dân. Mặt khác, thông qua các chính
sách hỗ trợ về mặt kỹ thuật giúp gia tăng năng lực sản xuất của người nông dân, qua
đó giúp họ tăng năng suất lao động, gia tăng hiệu quả kinh tế hộ.
Hai là, hiệu quả và lợi ích kinh tế của doanh nghiệp tham gia cánh đồng lớn.
Như ở cuối 2.1.3 luận án đã khái quát vai trò của doanh nghiệp trong mối
quan hệ liên kết với nông dân trong CĐL như: doanh nghiệp tham gia cung ứng các
yếu tố đầu vào của sản xuất cho nông dân; doanh nghiệp hướng dẫn, chỉ đạo sản
xuất, hỗ trợ kỹ thuật cho nông dân; doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho nông
dân. Với vai trò này, doanh nghiệp trở thành tác nhân quan trọng trong chuỗi giá trị
lúa gạo, là động lực chủ yếu trong mối liên kết kinh tế với nông dân trong mô hình
CĐL sản xuất lúa.
Liên kết, hợp tác sản xuất và tiêu thụ lúa gạo với nông dân trong mô hình
CĐL, doanh nghiệp có được các LIKT dưới đây:
Thứ 1, tham gia liên kết sản xuất trong mô hình CĐL, các doanh nghiệp có
được vùng nguyên liệu quy mô lớn, ổn định với chất lượng đảm bảo, tiết kiệm chi
phí thu mua, chi phí vận chuyển. Nhờ đó, sản phẩm sản xuất ra bảo đảm chất lượng
đồng đều để chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu, xây dựng các thương hiệu.
Thật vậy: Công ty cổ phần bảo vệ thực vật An Giang, ngay trong vụ hè thu
2011 đã thực hiện xây dựng mô hình liên kết tiêu thụ sản phẩm ở xã Vĩnh Bình,
huyện Châu Thành, tỉnh An Giang với quy mô 1.600 ha. Qua mô hình CĐL đã thu
hút được gần 100.000 hộ nông dân ĐBSCL tham gia liên kết trong các HTX kiểu
mới. Tại các vùng liên kết sản xuất của Tập đoàn Lộc Trời ở các tỉnh: Đồng Tháp,
Kiên Giang, Long An, An Giang, Cần Thơ... Các nhà máy chế biến gạo của Tập
đoàn Lộc trời đã chủ động lên lịch thu hoạch, mua lúa cho nông dân, chủ động nắm
sản lượng lúa, chất lượng lúa - chủ động nguồn hàng xuất khẩu để xây dựng thương
hiệu uy tín, tạo sức cạnh tranh và giá bán cao.
- Xây dựng mô hình sản xuất, theo hướng CĐL là con đường ngắn nhất tiến
tới hình thành vùng nguyên liệu quy mô lớn thông qua mối liên kết 4 nhà (nhà
nước, nhà doanh nghiệp, nhà nông, nhà khoa học), rút ngắn khoảng cách chênh lệch
102
về năng suất giữa các hộ nông dân, các thửa ruộng, các vùng sản xuất, đảm bảo lịch
thời vụ gieo đồng loạt, theo từng vùng, áp dụng quy trình sản xuất theo hướng thực
hành tốt (GAP) trên cơ sở các kỹ thuật đã ứng dụng rộng như "3 giảm, 3 tăng" hay
"1 phải, 5 giảm), ứng dụng được cơ giới hoá trong sản xuất, từ khâu thu hoạch đến
phơi sấy đúng quy trình, đảm bảo số lượng, chất lượng gạo xuất khẩu ổn định...
đảm bảo nguòn hàng xuất khẩu cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp được lợi vì đảm
bảo nguồn hàng cho xuất khẩu, cả về số lượng và chất lượng... tạo điều kiện hình
thành thương hiệu tạo xuất khẩu của doanh nghiệp nói riêng, thương hiệu gạo Việt
Nam nói chung [15]. Nước ta hiện nay có 210 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu
gạo, nếu mỗi doanh nghiệp xây dựng cho mình vùng nguyên liệu rộng 10 nghìn ha,
thì sẽ có ít nhất 210 nghìn ha sản xuất lúa nguyên liệu, chiếm khoảng 12,7% diện
tích canh tác. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với ngành xuất khẩu gạo
Việt Nam [44].
Trên địa bàn thành phố Cần Thơ, giai đoạn 2014-2018, có 05 doanh nghiệp
(Công ty Gentraco, Công ty TNHH MTV nông nghiệp Cờ Đỏ, Doanh nghiệp tư
nhân Trung Thạnh, Chi nhánh Tổng Công ty lương thực Miền Nam - Thốt Nốt,
Công ty TNHH Hiếu Nhân) được UBND thành phố phê duyệt phương án bao tiêu
nông sản thông qua hợp đồng với tổng diện tích 36.535,62 ha, đáp ứng khoảng 70%
nhu cầu của các doanh nghiệp. Ngoài ra còn có các doanh nghiệp khác chưa thực
hiện phê duyệt theo Quyết định 62/2013/QĐ-TTg nhưng vẫn ký kết hợp đồng bao
tiêu cho nông dân (Công ty Hoàng Minh Nhật, Công ty Vinacam, Công ty SunWa,
Công ty Thái Bình, Công ty Ngọc Lợi, Công ty Sông Hậu…) [23].
Tại An Giang, năm 2018 có 37 doanh nghiệp (27 công ty lương thực và 10
công ty giống) triển khai thực hiện liên kết sản xuất thông qua 20 hợp tác xã và 10 tổ
hợp tác với diện tích là 30.333 ha, đạt 55% kế hoạch đăng ký của các doanh nghiệp
(55.100 ha). Tiêu biểu, Công ty cổ phần tập đoàn Lộc Trời đăng ký thực hiện CĐL
trên diện tích 17.000 ha, thực hiện 10.531 ha, đạt 61,95% kế hoạch đăng ký, diện tích
thu mua đạt 8.780 ha, đạt 83,37%. Công ty TNHH Angimex Kitoku đăng ký thực
hiện 4.250 ha, diện tích thực hiện 2.561 ha, đạt 60,26% kế hoạch đăng ký, diện tích
thu mua 2.770 ha, đạt 108,16% so với diện tích thực hiện. Trong năm 2019, Công ty
cổ phần tập đoàn Lộc Trời đăng ký thự hiện CĐL với diện tích 12.000 ha; Công ty
TNHH Angimex Kitoku đăng ký thực hiện CĐL với diện tích 7.500 ha [22].
Tại Kiên Giang, từ năm 2015, Công ty TNHH MTV xuất nhập khẩu Kiên
Giang đã xây dựng phương án phát liên kết sản xuất theo CĐL giai đoạn 2015-
103
2020. Theo kế hoạch, đến năm 2020, Công ty mở rộng vùng sản xuất CĐL với diện
tích 75.000 ha với tổng sản lượng 465.000 tấn theo hai phương án (phương án 1:
cung ứng vật tư, hỗ trợ kỹ thuật và thu mua theo giá thị trường; phương án 2: ký
hợp đòng bao tiêu sản phẩm theo giá thị trường) [28].
Qua các số liệu trên cho thấy, các công ty đã chủ động xây dựng kế hoạch
phát triển vùng nguyên liệu phục vụ cho hoạt động chế biến, xuất khẩu. Đây cũng là
cơ sở để Chính quyền địa phương xem xét thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với
doanh nghiệp và nông dân.
Bên cạnh đó, việc liên kết sản xuất - tiêu thụ lúa gạo với nông dân theo mô
hình CĐL đã giúp các doanh nghiệp từng bước xây dựng và phát triển được các
thương hiệu gạo Việt Nam, qua đó giúp mở rộng thị trường tiêu thụ (cả trong nước
và xuất khẩu), giá bán tăng lên và đạt lợi nhuận cao hơn. Chẳng hạn, Công ty cổ
phần tập đoàn Lộc trời đã xây dựng được thương hiệu Gạo Hạt Ngọc Trời được
trồng trên vùng nguyên liệu theo quy trình khép kín từ khâu gieo trồng, chăm sóc
đến khi thu hoạch và chế biến, đạt tiêu chuẩn HACCP Châu Âu. Và hơn hết, nhờ
quy trình khép kín mà gạo Hạt Ngọc Trời truy xuất được nguốn gốc, kiểm tra hơn
600 chỉ tiêu về dư lượng hoá chất và thuốc bảo vệ thực vật. Đó là những lý do gạo
Hạt Ngọc Trời đạt TOP 3 gạo ngon nhất thế giới trong cuộc thi năm 2015. Giá bán
các loại gạo Hạt ngọc trời trong nước từ 25.000 - 27.000 đồng/kg.
Tại Sóc Trăng, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trao quyền sử dụng
nhãn hiệu "Gạo thơm Sóc Trăng" cho năm doanh nghiệp: Công ty Gentraco ở Cần
Thơ, Công ty Lương thực Sóc Trăng, Công ty TNHH Thành Tín, Công ty Chế biến
gạo chất lượng cao Sóc Trăng và cơ sở sản xuất lúa giống và gạo thơm Mỹ Xuyên.
Năm 2017, gạo thơm Sóc Trăng ST24 được bình chọn là loại gạo ngon thứ 3 thế
giới tại Hội chợ ở Ma Cau. Năm 2019, Hội nghị Thương mại Gạo Thế giới lần thứ
11 tại Manila, Philippines từ ngày 10 - 13/11/2019, gạo ST25 của Việt Nam được
công nhận "Gạo ngon nhất thế giới năm 2019”. Các doanh nghiệp ký hợp đồng thu
mua lúa hàng hóa với giá cả hợp lý, mở ra hướng đi bền vững cho người trồng lúa,
vừa tạo ra vùng nguyên liệu lúa gạo tập trung, có chất lượng cao để cung cấp cho thị
trường, vừa giúp nông dân tiêu thụ lúa được thuận lợi.
Khả năng mở rộng thị trường trong và ngoài nước rất lớn do xu thế gia tăng
nhu cầu sản phẩm nông nghiệp, lương thực trên địa bàn thế giới. Năng lực cạnh
tranh về giá xuất khẩu của mặt hàng gạo đã được cải thiện đáng kể, góp phần nâng
cao giá trị và giá trị gia tăng của nông sản.
104
Biểu đồ 3.1: Giá xuất khẩu gạo của Việt Nam và Thái Lan
giai đoạn 2011 - 2017 (USD/tấn) Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn [13].
Điều này được thể hiện rõ qua số liệu về giá xuất khẩu các nông sản của Việt
Nam với giá xuất khẩu của thế giới, đặc biệt đối với các đối thủ cạnh tranh. Cụ thể,
trên phân khúc thị trường gạo chất lượng trung bình, giá xuất khẩu của Việt Nam đã
đuổi kịp giá xuất khẩu gạo của Thái Lan. Năm 2012, giá gạo xuất khẩu 25% tấm
của Thái Lan cao hơn giá gạo xuất khẩu của Việt Nam lần là 41,0%, và gạo 5% tấm
cao hơn 32,6%. Năm 2017, mức độ chênh lệch giữa gạo của Thái Lan và Việt Nam
đã được thu hẹp lại, gạo 25% tấm chỉ còn 9,2% và 5% tấm là 6,9%.
Thứ 2, doanh nghiệp chủ động trong kế hoạch sản xuất, kinh doanh và sử
dụng trang thiết bị máy móc... có hiệu quả và đào tạo được đội ngũ cán bộ kỹ thuật
giỏi qua đó giúp doanh nghiệp quản lý tốt quy trình sản xuất, mở rộng thị trường
cung ứng các yếu tố đầu vào trong sản xuất lúa.
- Doanh nghiệp xây dựng được đội ngũ cán bộ kỹ thuật (FF) tinh luyện để hỗ
trợ cho nông dân trong CĐL, doanh nghiệp đã tạo được lòng tin của nông dân cũng
như Chính quyền địa phương tại các địa phương có CĐL, qua đó đã tạo dựng được
thương hiệu cho chính doanh nghiệp. Ví dụ, tính đến 2015, AGPPS đã đào tạo được
1500 cán bộ FF. Kế hoạch sẽ tăng lên 3000 và đến 4000 vào năm 2018 và 2020
tương ứng. Lực lượng FF cũng giúp các doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ
các yếu tố đầu vào như: phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giống lúa… qua đó, tăng
doanh thu và lợi nhuận, truy suất tốt nguồn gốc sản phẩm - yếu tố rất quan trọng
giúp doanh nghiệp ổn định thị trường, nâng cao giá trị thương hiệu hạt gạo.
- Doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trang thiết bị ngày càng hiện
đại và sử dụng máy móc, thiết bị hiệu quả, sẽ giúp doanh nghiệp giảm chi phí sản
105
xuất. Điều này tạo cơ hội cho doanh nghiệp mở rộng thị trường nội địa và xuất
khẩu, đặc biệt những thị trường khó tính. Chẳng hạn như: Công ty Bảo vệ Thực vật
An Giang (AGPPS), chỉ trong năm 2012 khi mới bắt đầu tham gia liên kết với CĐL
đã đầu tư đến 4,5 triệu USD để đầu tư Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp Định
Thành (DT ARC - Dinh Thanh Agricultural Reseach Center) để nghiên cứu nghiên
cứu ứng dụng các loại giống lúa, lai tạo, phục tráng giống lúa; nghiên cứu về đất,
nước; nghiên cứu các quy trình, giải pháp canh tác lúa cho từng loại giống, thổ
nhưỡng để cung cấp giống lúa cho các hộ trong CĐL; Lợi nhuận và giá trị xuất
khẩu của doanh nghiệp có dấu hiệu tốt. Chẳng hạn: Công ty Trung An nhờ hệ thống
cơ sở vật chất kỹ thuật tốt nên đã nâng giá trị gia tăng của gạo được chế biến của hạt
lúa mua từ CĐL lên khoảng 60 USD/tấn gạo.
Thứ 3, thông qua liên kết, doanh nghiệp đã có cơ hội tham gia vào thị trường
các yếu tố sản xuất (cung cấp phân bón, giống, thuốc bảo vệ thực vật), cũng như thị
trường đầu ra của sản xuất nông nghiệp (dự trữ lúa, sấy, chế biến lúa gạo) làm đa
dạng hóa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, và do vậy làm gia tăng thu nhập
và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Qua mô hình CĐL có thể thấy, về cơ bản doanh nghiệp cung cấp đầu vào sản
xuất cho nông dân giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật với chất lượng và giá cả
hợp lý, điều đó sẽ giúp cho nông dân tiết kiệm được chi phí sản xuất, đồng thời
doanh nghiệp gắn kết đầu ra - tiêu thụ sản phẩm của nông dân - thông qua hợp đồng
kinh tế. Các doanh nghiệp cung ứng vật tư trực tiếp cho nông dân trong các CĐL
mà không cần thiết lập hệ thống phân phối, qua đó giảm chi phí bán hàng, tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp. Mô hình khép kín tương đối hoàn chỉnh này sẽ giúp doanh
nghiệp chế biến và tiêu thụ có được khối lượng hàng hóa lớn, đảm bảo chất lượng,
ổn định, xây dựng được thương hiệu... Các chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho
doanh nghiệp được phân chia từ gốc đến ngọn không qua khâu trung gian... Vì thế,
góp phần làm gia tăng thu nhập và lợi nhuận doanh nghiệp.
Thứ 4, các cấp chính quyền rất quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp
tham gia liên kết sản xuất theo CĐL tiếp cận các chính sách hỗ trợ từ phía Nhà nước.
Theo Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg, khi tham gia CĐL, doanh nghiệp có
được nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ từ chính phủ, làm tăng lợi thế của mình, cụ
thể: (i) Được miễn tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất khi được nhà nước giao đất
hoặc cho thuê đất để thực hiện các dự án xây dựng nhà máy chế biến, kho chứa, nhà
ở cho công nhân, nhà công vụ phục vụ cho dự án CĐL; (ii) Ưu tiên tham gia thực
106
hiện các hợp đồng xuất khẩu nông sản hoặc chương trình tạm trữ nông sản của
Chính phủ; (iii) Hỗ trợ một phần kinh phí thực hiện quy hoạch, cải tạo đồng ruộng,
hoàn thiện hệ thống giao thông, thủy lợi nội đồng, hệ thống điện phục vụ sản xuất
nông nghiệp trong dự án CĐL; (iv) Hỗ trợ tối đa 50% kinh phí tổ chức đào tạo và
hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân sản xuất nông sản theo hợp đồng, bao gồm chi phí
về tài liệu, ăn, ở, đi lại, tổ chức lớp học.
Tóm lại, cũng như nông dân, doanh nghiệp khi tham gia mô hình liên kết sản
xuất lúa theo CĐL - thực sự hiệu quả và thu được "đa lợi ích", từ lợi ích vật chất,
kinh tế đến lợi ích tinh thần. Từ đó, mà góp phần nâng tầm vị thế, vai trò của doanh
nghiệp trong quan hệ liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL.
3.2.3.2. Đánh giá chung về quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh
nghiệp trong mô hình cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu Long
Một là, những kết quả đạt được
Thực hiện LIKT và giải quyết quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp
trong CĐL ở ĐBSCL thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Thứ 1, LIKT của nông dân và doanh nghiệp tham gia mô hình CĐL đều có sự gia
tăng cao hơn so với ngoài mô hình CĐL, tạo sự thống nhất LIKT giữa hai chủ thể này.
Từ sự phân tích quá trình thực hiện LIKT của nông dân và doanh nghiệp
trên, có thể rút ra nhận xét. LIKT của cả nông dân và doanh nghiệp đều có sự gia
tăng đáng kể trong tương quan so sánh với các hộ không tham gia mô hình CĐL.
Đối với nông dân, khi tham gia liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa gạo với
doanh nghiệp, về trước mắt, việc liên kết đã giúp họ giảm chi phí sản xuất từ 10-
15% và giá trị sản lượng có thể tăng từ 20-25%, thu lãi thêm từ 2,2 đến 7,5 triệu
đồng theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Về lâu dài, năng
lực sản xuất của nông dân tăng lên đáng kể thông qua việc tiếp nhận sự hỗ trợ về
mặt kỹ thuật, tập huấn về chuyên môn, mở rộng khả năng tích lũy qua đó có cơ hội
mở rộng sản xuất. Đây là những yếu tố tạo nền tảng quan trọng trong mở rộng khả
năng gia tăng thu nhập cho nông dân, nâng cao năng lực và trình độ đáp ứng tốt yêu
cầu của doanh nghiệp trong liên kết sản xuất, đồng thời, tăng vị thế của nông dân
trong thực hiện các hợp đồng liên kết với doanh nghiệp, từng bước đảm bảo hài hòa
về LIKT giữa hai chủ thể này. Bên cạnh đó, việc phát triển liên kết ngang giữa nông
dân với nông dân thành các hình thức THT, HTX có thể giúp nông dân củng cố các
mối quan hệ tình làng, nghĩa xóm giúp nâng cao chất lượng cuộc sống, hỗ trợ giúp
nhau giảm nghèo.
107
Đối với doanh nghiệp, việc liên kết sản xuất và tiêu thụ với nông dân theo
mô hình CĐL, về trước mắt, doanh nghiệp có được vùng nguyên liệu quy mô lớn ổn
định với chất lượng đảm bảo, tiết kiệm chi phí thu mua, chi phí vận chuyển (nhờ
vận chuyển thông qua các THT, HTX của nông dân doanh nghiệp không cần đầu tư
phương tiện vận chuyển, chuyên tâm vào khâu sản xuất). Nhờ đó, sản phẩm sản
xuất ra bảo đảm chất lượng đồng đều, ổn định dễ truy xuất nguồn gốc tạo điều kiện
thuận lợi cho xuất khẩu, tạo điều kiện xây dựng và phát triển thương hiệu hạt gạo;
doanh nghiệp tham gia vào thị trường cung ứng vật tư đầu vào và thực hiện các dịch
vụ sau thu hoạch nhằm mở rộng lĩnh vực kinh doanh; doanh nghiệp nhận được các
chính sách hỗ trợ và sự quan tâm giúp đỡ từ phía Nhà nước, tạo thuận lợi cho hoạt
động sản xuất kinh doanh… giúp tăng doanh thu, lợi nhuận doanh nghiệp. Về lâu
dài, với việc có vùng nguyên liệu ổn định, tạo được niềm tin với nông dân, doanh
nghiệp sẽ chuyên tâm vào mở rộng thị trường, nâng cao chất lượng đầu ra cho nông
sản, xây dựng và phát triển các thương hiệu hạt gạo, giúp doanh nghiệp có thể thâm
nhập vào các thị trường khó tính nhưng giá bán cao qua đó gia tăng doanh thu và lợi
nhuận tiềm năng trong tương lai.
Như vậy, xét cả về trước mắt và lâu dài, nông dân và doanh nghiệp đều có
mục tiêu chung là gia tăng lợi nhuận và thu nhập. Mô hình CĐL bước đầu đã gắn
kết được nông dân và doanh nghiệp theo mục tiêu chung đó, taoọ sự thống nhất về
LIKT và sự gắn kết chặt chẽ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp.
Thứ 2, thể chế đảm bảo hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh
nghiệp trong mô hình CĐL từng bước hoàn thiện.
Qua nghiên cứu, đánh giá hệ thống các quy định của Chính phủ và hướng
dẫn của các Bộ ngành liên quan cho thấy, các quy định của pháp luật về hợp đồng
tiêu thụ nông sản về cơ bản đã được quy định khá đầy đủ, chặt chẽ cả về nội dung
quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như hệ thống các chế tài xử lý vi phạm. Vì vậy,
với các quy định mới doanh nghiệp và nông dân sẽ phải thỏa thuận cụ thể, rõ ràng,
chi tiết hơn đảm bảo hài hòa LIKT giữa hai bên thì mối quan hệ này mới bền vững
và mô hình CĐL mới phát triển.
Thứ 3, các chính sách hỗ trợ đối với doanh nghiệp, nông dân và các tổ chức
đại diện của nông dân tham gia cánh đồng lớn tạo điều kiện thuận lợi gia tăng LIKT
của các chủ thể. Với những ưu đãi, hỗ trợ đối với mô hình CĐL, doanh nghiệp và
nông dân có nhiều cơ hội thể hiện vai trò của mình trong việc thực hiện cánh đồng
lớn. Nhìn chung, những chính sách của Chính phủ, cũng như của địa phương đã hội
108
tụ gần như đủ điều kiện cho việc phát triển CĐL và tạo cơ hội liên kết giữa doanh
nghiệp thu mua, chế biến và xuất khẩu lúa gạo với nông dân và các tổ chức đại diện
của nông dân tham gia trong mô hình CĐL.
Hai là, những hạn chế, yếu kém
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc giải quyết mối quan hệ LIKT giữa
nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL ở ĐBSCL thời gian qua vẫn còn
nhiều hạn chế, yếu kém. Cụ thể:
Thứ 1, lợi ích kinh tế của nôn dân đạt được chư thật sự hấp dẫn.
Hiện nay, xã hội vẫn còn nhiều cách đánh giá khác nhau, phức tạp, trái chiều.
Nông dân nghĩ rằng, mô hình CĐL chỉ có lợi nhiều cho doanh nghiệp, mà ít có lợi
cho nông dân. Đặc biệt là giá lúa nông dân thiệt "kép". LIKT của nông dân không
những chưa nhiều, mà còn thiếu ổn định, bấp bênh khi xảy ra tình trạng "được mùa,
rớt giá". Đánh giá về sự phân chia lợi ích kinh tế giữa các tác nhân trong chuỗi giá
trị lúa gạo (nông dân - thương lái - doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu) ở vùng
ĐBSCL thời gian qua cho thấy:
Lợi nhuận trên mỗi hộ nông dân trồng lúa thấp nhất trong chuỗi giá trị. Các lý
do đưa ra vì nông dân có lợi ích kinh tế thấp về tổng thu nhập và tổng lợi nhuận; có quá
nhiều nông dân tham gia trồng lúa, sản xuất manh mún và chu kì sản xuất dài (3 - 4
tháng) hơn các tác nhận khác trong chuỗi, do đó, lợi nhuận thấp hơn rất nhiều [70].
Theo kết quả điều tra của Oxfam hợp tác với Viện Chính sách và Chiến lược
phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD) tại tỉnh An Giang cho thấy, trong số ba
tác nhân tham gia chuỗi giá trị xuất khẩu (nông dân, thương lái, doanh nghiệp xuất
khẩu), nông dân phải bỏ mức chi phí cao nhất (63%, chưa tính công lao động của
các thành viên gia đình họ) trong khi thương lái và các doanh nghiệp xuất khẩu chia
đều 37% còn lại. Nếu tính tổng giá trị, mỗi hộ nông dân chỉ thu được 27,3 triệu
đồng cho cả năm lao động vất vả, trong khi mỗi thương lái trung bình thu về 300
triệu đồng, và mỗi doanh nghiệp xuất khẩu thu lợi nhuận 25 tỉ đồng/năm [96, tr.46].
Kết quả này cho thấy, chưa đảm bảo được cho nông dân có được thu nhập,
lợi nhuận trên 30% như mong muốn của Chính phủ.
Thứ 2, đời sống của người nông dân vùng ĐBSCL còn nhiều khó khăn.
Vùng ĐBSCL có tiềm năng lớn về sản xuất lúa, chiếm trên 50% sản lượng
lúa và hơn 90% sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Đây cũng là cái nôi của mô
hình CĐL, diện tích CĐL chiếm lớn nhất cả nước. Tuy nhiên, đời sống nhân dân,
chất lượng cuộc sống còn nhiều khó khăn và thấp, số hộ nghèo vẫn còn chiếm tỷ lệ
109
5,2% (năm 2015), tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều là 8,6% (năm 2016) và
7,8% (năm 2017).
Thứ 3, đã xuất hiện những biểu hiện thiếu thống nhất trong quan hệ LIKT
giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình cánh đồng lớn.
Trong quan hệ liên kết sản xuất, một số doanh nghiệp đã xây dựng các nhà máy,
cơ sở chế biến để chế biến nông sản xuất khẩu, vì thế đã có nhiều doanh nghiệp ký hợp
đồng với nông dân trong việc cung cấp nguyên liệu cho nhà máy. Ngoài việc ký hợp
đồng, nhiều doanh nghiệp đã cử cán bộ kỹ thuật, giúp đỡ, tư vấn, kỹ thuật... để nông
dân yên tâm sản xuất. Một số doanh nghiệp còn cung cấp vốn, giống, phân bón và một
số vật tư nông nghiệp và các yếu tố đầu vào khác của sản xuất cho nông dân với mức
ưu đãi. Tuy vậy, do chạy theo lợi ích trước mắt, nông dân bán nông sản cho tư thương
với giá cao, trong khi đó, doanh nghiệp không có nguyên liệu hoặc thiếu nguyên liệu
chế biến, không đảm bảo hoạt động xuất khẩu, chính vì vậy gây khó khăn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Trong thu mua nông sản theo hợp đồng đã ký kết cũng đã có không ít doanh
nghiệp đưa ra nhiều lý do khác nhau như nâng cao tiêu chuẩn đánh giá chất lượng
sản phẩm để ép giá nông sản của nông dân làm cho nông dân bị thua thiệt, làm
không có lãi. Bên cạnh đó, tâm lý nông dân muốn nhận tiền tươi khi bán lúa cho
doanh nghiệp trong khi năng lực tài chính của doanh nghiệp có hạn, nhất là trong
các trường hợp phải thu mua lưu kho khi chưa có hợp đồng xuất khẩu, doanh
nghiệp không có đủ vốn để thực hiện hợp đồng thu mua với nông dân.
Có sự rạn nứt trong quan hệ giữa nông dân và doanh nghiệp, cả hai chủ thể
của CĐL gần như chưa hài lòng và thường xuyên "tố bẻ kèo" lẫn nhau. Cụ thể,
doanh nghiệp tố nông dân khi thấy giá lúa cao thì bán cho thương lái bên ngoài.
Còn nông dân kêu than khi giá lúa thấp hoặc lúa hàng hóa nhiều, doanh nghiệp "đề"
ra đủ điều để "hành" nông dân. Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và PTNT (2016): ''tỷ
lệ thành công hợp đồng tiêu thụ nông sản mới chỉ đạt 20-30% với lúa, cao nhất mới
được trên 70%. Tình trạng doanh nghiệp hoặc nông dân bẻ kèo vẫn còn phổ biến''.
Đây là một điểm nói lên sự thiếu thống nhất trong quan hệ lợi ích giữa nông dân và
doanh nghiệp trong mô hình CĐL.
Hơn nữa, chưa tạo được sự "hài hòa" về LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp
cả trước mắt lẫn lâu dài. Nông dân không những hưởng thụ các LIKT chưa nhiều, mà
trong nhiều trường hợp có thể vì LIKT trước mắt (bán nông sản cho tư thương với giá
cao) lại đánh mất LIKT lâu dài có thể nhờ sự trợ giúp của doanh nghiệp mà tăng năng
110
suất, hạ giá thành sản phẩm và tăng thêm lợi nhuân. Còn doanh nghiệp nhiều khi vì
"chạy" theo LIKT trước mắt, "tham lam", "tận thu" mà không chú ý đến đầu tư cho
nông dân. Điều này gây tâm lý bất hợp tác của nông dân với doanh nghiệp và không
tạo được mối liên hệ bền vững, gắn kết và thống nhất về LIKT.
Bảng 3.9: Chênh lệch giữa giá gạo xuất khẩu và giá lúa tại ruộng
giai đoạn 2011-2017
Đơn vị tính: USD/tấn
Năm
Giá lúa tại ruộng
Giá xuất khẩu trung bình
Chênh lệch
2011
323
524
62.1%
2012
290
468
61.3%
2013
275
444
61.6%
2014
248
465
87.2%
2015
223
429
92.5%
2016
222
450
102.3%
2017
260
453
74.0%
Nguồn: Bộ NN & PTNT & TCHQVN
Theo bảng số liệu trên, cho thấy nông dân không chưa được hưởng lợi nhiều từ
sự tăng trưởng thương mại ngành xuất khẩu gạo, bởi sự chênh lệch giữa giá lúa tại
ruộng và giá xuất khẩu ngày càng lớn. Cụ thể, năm 2012, giá xuất khẩu lúa gạo cao
hơn giá lúa tại ruộng là 61,3%, thì năm 2017, mức chênh lệch này đã tăng lên 74%.
Biểu đồ 3.2: Chênh lệch giữa giá xuất khẩu và giá lúa tại ruộng giai đoạn 2012 - 2017 (USD/tấn)
Nguồn: Bộ NN & PTNT & TCHQVN
111
Thứ 4, xuất hiện những khó khăn trong việc phát triển các LIKT của cả nông
dân lẫn doanh nghiệp.
Những khó khăn này bắt nguồn từ những khó khăn trong phát triển mô hình
CĐL, trước hết và chủ yếu ở hai chủ thể: nông dân và doanh nghiệp.
Nhìn chung, ở ĐBSCL việc xây dựng các mô hình hợp tác, liên kết sản xuất
trên CĐL đã đem lại nhiều thành công, đáng khích lệ, song, trong liên kết xây dựng
CĐL cũng còn nhiều khó khăn, hạn chế:
- Tốc độ mở rộng CĐL còn chậm. Mặc dù ĐBSCL là nơi tập trung nhiều
nhất diện tích CĐL của cả nước, nhưng cũng chỉ đạt 11%/tổng diện tích canh tác lúa
của cả vùng (khoảng 176.000 ha/1,6 triệu ha) [113].
- Tỷ lệ thành công của những hợp đồng liên kết sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm còn thấp. Thực tiễn cho thấy, tỷ lệ thành công hợp đồng tiêu thụ nông sản chi
ở mức bình quân 20-30% đối với lúa, cao nhất mới được 70% [113].
- Phần lớn nông hộ tham gia CĐL có diện tích canh tác lúa nhỏ, chưa có
hướng sản xuất lúa hàng hóa theo quy mô lớn, nông dân chưa tiếp cận được
nhiều với tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, trình độ nông dân không đều, khó
tiếp thu khoa học và công nghệ, nhận thức của nông dân về hình thức liên kết còn
nhiều hạn chế.
- Hầu hết các doanh nghiệp tham gia liên kết với nông dân vùng ĐBSCL là
các doanh nghiệp cung cấp đầu vào có rất ít doanh nghiệp liên kết để tiêu thụ sản
phẩm. Sự liên kết với nông dân được hình thành, tuy vậy ở nhiều nơi còn mang tính
hình thức, không thiết thực. Ngoài ra, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và năng lực
tài chính kém nên họ không sẵn sàng để đầu tư trước đầu vào sản xuất cho nông dân
và sau đó thu mua lại sản phẩm, nên chưa tạo ra được "sức hút" đối với nông dân.
Đặc biệt, doanh nghiệp thiếu vốn để thanh toán cho nông dân trong trường hợp phải
mua số lượng lớn lưu kho khi chưa ký kết được các hợp đồng xuất khẩu nên dẫn
đến khó khăn trong thực hiện hợp đồng. Hơn nữa, LIKT từ cam kết giá cả do hợp
đồng mang lại chưa có sự hấp dẫn nông dân và doanh nghiệp. Năng lực tiêu thụ
nông sản của doanh nghiệp còn thấp và thị trường tiêu thụ kém ổn định nên tình
trạng giá cao thì doanh nghiệp sẽ không mua được hàng, còn giá thấp thì nông dân
sẽ bị lỗ vốn cũng thường xảy ra khi thực hiện hợp đồng.
Ba là, nguyên nhân của hạn chế, yếu kém.
Thứ 1, nhận thức của nông dân và doanh nghiệp đối với việc thực hiện LIKT
trong liên kết sản xuất theo cánh đồng lớn còn nhiều hạn chế, nhất là nông dân.
112
Hiện nay, nhận thức liên kết của nông dân vẫn còn khập khiểng và ỉ lại vào
sự hỗ trợ của Nhà nước (xem đây là nhiệm vụ của Nhà nước và các doanh nghiệp
phải mua với giá cao). Điều này đã làm kìm hãm tiến trình phát triển CĐL do nông
dân thiếu động lực đúng đắn trong việc liên kết lợi ích nên đã làm tính hiệu quả
trong liên kết. Tập quán sản xuất - không quen với việc ghi chép lại qui trình sản
xuất (sử dụng phân thuốc và chi phí sản xuất) đã làm hạn chế việc sản xuất theo các
tiêu chuẩn thực hành tốt, nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường. Tâm lý hướng vào
LIKT trước mắt, chưa quan tâm đến xây dựng niềm tin, thương hiệu để phát triển
bền vững. Đối với doanh nghiệp, một số doanh nghiệp tham gia liên kết một cách
miễn cưỡng hoặc chỉ để nhằm mục tiêu khác (dễ bán vật tư nông nghiệp, dễ vay vốn
hơn và hưởng lợi từ chính sách ưu đãi của Nhà nước) từ đó làm giảm niềm tin của
các chủ thể trong liên kết. Do vậy, vấn đề đặt ra là phải làm thay đổi những nhận
thức này của các chủ thể, phải làm cho doanh nghiệp và nông dân thật sự đi chung
trên một ''con thuyền lợi ích'' thì mới đảm bảo liên kết chặt chẽ, bền vững.
Trong nhận thức của một số chủ doanh nghiệp thường hướng về LIKT trước
mắt là chủ yếu làm cho mối quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp dễ bị
xung đột. Những tư tưởng kiểu cơ hội, chú tâm nhiều đến LIKT trước mắt mà
không coi trọng LIKT lâu dài, kinh doanh chụp giật vẫn còn tồn tại phổ biến, theo
cách "sống chết mặc bay, tiền thày bỏ túi". Những tâm lý trên xuất phát từ nguyên
nhân từ những lối sống, phong tục, tập quán sản xuất nhỏ lẻ, tiểu nông. Mặt khác,
do sự xuống cấp của đạo đức, văn hóa từ những tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường tự do.
Thứ 2, "giá trị pháp lý" của các Hợp đồng kinh tế liên kết nông dân và doanh
nghiệp chưa cao, kém hiệu lực.
Cần nhìn nhận một cách sòng phẳng những biểu hiện của sự "thiếu thống
nhất", mâu thuẫn LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp, nhất là chuyên "bẻ kèo"
đều có nguyên nhân khách quan và chủ quan của mỗi chủ thể.
Các liên kết vẫn còn lỏng lẻo, tình trạng phá vỡ hợp đồng liên kết vẫn
thường xuyên xảy ra. Hiện nay, việc thực hiện LIKT giữa nông dân và doanh
nghiệp trong mô hình CĐL chủ yếu thực hiện thông qua các hợp đồng kinh tế (hợp
đồng cung ứng yếu tố đầu vào, hợp đồng quản lý sản xuất hay hợp đồng bao tiêu
sản phẩm đầu ra). Tuy nhiên, thể chế thực thi hợp đồng còn yếu kém, tình trạng phá
vỡ hợp đồng còn phổ biến. Hợp đồng là sự thỏa thuận và cam kết thực hiện một số
yêu cầu giữa các bên tham gia và có tính ràng buộc lẫn nhau, tuy nhiên cả nông dân
113
và doanh nghiệp ở nước ta vẫn chưa quen với cách làm mới này. Đối với nhiều
nông sản hàng hóa, hình thức hợp đồng hầu như chưa được áp dụng và còn rất xa lạ
với nông dân và doanh nghiệp ở nhiều địa phương. Sự hiểu biết và thực thi theo các
qui định pháp luật của nông dân nước ta còn rất thấp, cho nên nông dân xem việc
không thực hiện theo đúng như những gì đã thỏa thuận trong hợp đồng là bình
thường mà không cảm thấy vi phạm về mặt pháp luật. Nông dân thiếu kiến thức về
pháp luật, trong khi đó cũng đang thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước.
Các doanh nghiệp kinh doanh nông sản ở nước ta chưa thích ứng tốt trong
nền kinh tế thị trường, nên họ sẽ không thực hiện và tuân thủ theo đúng các nguyên
tắc của thị trường và cũng sẵn sàng không thực hiện theo đúng những gì đã thỏa
thuận với người dân. Nhiều doanh nghiệp không thực hiện đúng các điều khoản đã
ký kết như không cung ứng vật tư sản xuất, đơn phương phá bỏ hợp đồng, trì hoãn
việc thu mua chính vụ làm chất lượng nông sản của người dân và thanh toán hợp
đồng chậm. Giữa nông dân và doanh nghiệp cũng dễ dàng phá bỏ hợp đồng và chấp
nhận xử lý các vi phạm vì các ràng buộc và mức phạt cũng không đáng kể so với lợi
ích mà họ có được từ việc phá hợp đồng. Thêm nữa, sự hỗ trợ về thực thi pháp luật
trong kinh tế thiếu mạnh mẽ, thiếu nghiêm minh, các điều khoản trong hợp đồng
thiếu chặt chẽ, những điều này dễ dẫn đến sự bội ước phá vỡ hợp đồng giữa nông
dân và doanh nghiệp.
Cộng với vai trò của Nhà nước trong giải quyết quan hệ LIKT giữa nông dân
và doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Với vai trò vừa là ''bà đỡ'', vừa là trọng tài trong
giải quyết mối quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong CĐL, Nhà nước
còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Việc thể chế thực thi các hợp đồng kinh tế còn
nhiều bất cập, khó thực hiện, tính pháp lý không cao. Công tác kiểm tra, giám sát
còn hạn chế, tình trạng trục lợi từ chính sách hỗ trợ của Nhà nước của các doanh
nghiệp khi tham gia mô hình CĐL làm cho mối quan hệ liên kết giữa nông dân và
doanh nghiệp trở thành hình thức, không đi vào thực chất. Hiệu lực quản lý nhà
nước đối với doanh nghiệp chưa đủ mạnh, nhà nước chủ yếu thực hiện biện pháp
''vận động'' doanh nghiệp thực hiện hợp đồng với nông dân (chẳng hạn vận động
doanh nghiệp thu mua lúa cho nông dân, vận động doanh nghiệp trả tiền sớm cho
nông dân…) và ngược lại đối với nông dân.
Thứ 3, mô hình liên kết chưa thật sự chặt chẽ, bền vững, chưa gắn kết các
LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp.
Qua khảo sát một số doanh nghiệp có tham gia liên kết sản xuất lúa theo
114
CĐL, các doanh nghiệp cho rằng quá trình và nội dung liên kết còn hạn chế về
nguồn lực và năng lực thị trường nên qui mô liên kết cũng còn hạn chế. Thêm vào
đó, giữa các doanh nghiệp và nông dân vẫn chưa tìm ra được sự đồng thuận cao
trong việc định giá cả nông sản tại thời điểm giao dịch. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến việc các tác nhân liên kết không thực hiện theo đúng
những cam kết trong quá trình thực hiện. Đối với mô hình liên kết thông qua các
THT, HTX, đa số thành viên quản lý HTX, THT được bầu chọn từ nông dân của hộ
sản xuất kinh doanh trong vùng HTX nên còn hạn chế về trình độ chuyên môn,
năng lực tổ chức, quản lý. Các THT, HTX thường ít vốn, không có tài sản thế
chấp,… nên chưa tạo được lòng tin với Ngân hàng gây khó khăn trong tiếp cận vốn
tín dụng để tham gia đầu tư, sản xuất - kinh doanh thực hiện các dịch vụ nông
nghiệp trên CĐL.
Bên cạnh đó, phương thức thực hiện LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp
chủ yếu thực hiện thông qua hợp đồng liên kết. Tuy nhiên, giá trị pháp lý và quy
trình xử lý vi phạm hợp đồng còn rườm rà, phức tạp nên khó thực hiện trong thực
tế. Diện tích của các hộ nông dân tham gia mô hình CĐL nhỏ nên đã làm hạn chế
tính hiệu quả về mặt quy mô. Thêm vào đó cũng gây khó khăn cho các doanh
nghiệp trong việc quản lý, giám sát quy trình sản xuất cuả các hộ nông dân tham gia
mô hình. Chẳng hạn, năm 2017 thành phố Cần Thơ đã triển khai 93 mô hình CĐL
trong vụ Đông Xuân 2016 - 2017 với diện tích 19.830 ha và có 12.926 hộ nông dân
tham gia (bình quân 139 hộ/cánh đồng; 1,53ha/hộ tham gia); tỉnh Long An thực
hiện được 102 cánh đồng trên diện tích hơn 26.500 ha với 10.950 hộ dân tham gia
(bình quân 107 hộ/CĐL; 2,42ha/hộ tham gia). Do đó, nếu không tạo ra các liên kết
ngang giữa nông dân - nông dân tốt sẽ diễn ra một số vấn đề như: Doanh nghiệp
phải ký kết hợp đồng kinh tế với rất nhiều hộ nông dân khác nhau có trình độ và
năng lực khác nhau, điều này rất tốn kém về thời gian và chi phí và có nguy cơ diễn
ra xung đột LIKT chính các hộ nông dân với nhau; tính pháp lý của hợp đồng còn
hạn chế, việc phá vỡ hợp đồng sẽ giải quyết rất khó khăn ảnh hưởng đến LIKT của
cả nông dân và doanh nghiệp.
115
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT HÀI HÕA QUAN HỆ
LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN VÀ DOANH NGHIỆP TRONG
PHÁT TRIỂN CÁNH ĐỒNG LỚN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
4.1. QUAN ĐIỂM GIẢI QUYẾT HÀI HÕA QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ
GIỮA NÔNG DÂN VÀ DOANH NGHIỆP TRONG PHÁT TRIỂN CÁNH ĐỒNG LỚN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
4.1.1. Cơ hội, thuận lợi và khó khăn, thách thức đối với phát triển mô
hình cánh đồng lớn và thực hiện quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và
doanh nghiệp
Trước bối cảnh mới của thế giới và tình thực hiện những giải pháp đổi mới
mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu lại nền kinh tế, ĐBSCL đang đứng trước những cơ
hội, thuận lợi và không ít những khó khăn, thách thức trong quá trình phát triển
CĐL sản xuất lúa và giải quyết hài hòa quan hệ LIKT cho cả nông dân và doanh
nghiệp tham gia CĐL.
4.1.1.1. Cơ hội, thuận lợi
Thứ 1, vùng đồng bằng sông Cửu Long có những lợi thế quan trọng cho phát
triển sản xuất lúa.
Có thể dễ dàng nhận thấy điều kiện tự nhiên rất ưu đãi cho ĐBSCL như: đất
đai trù phú, độ phì cao, màu mỡ, nguồn nước dồi dào rất phù hợp cho trồng lúa
nước. Bên cạnh đó, khí hậu vùng ĐBSCL rất thuận lợi để phát triển ngành trồng lúa
nước. Ngoài ra, ĐBSCL là vùng sản xuất lúa chiếm diện tích lớn nhất cả nước, bình
quân đất đai trên hộ sản xuất lớn (vùng ĐBSCL có diện tích bình quân là 0,87 ha/hộ
so với 0,67 ha/hộ của cả nước). ĐBSCL có nhiều cơ quan nghiên cứu về giống lúa
như: Viện lúa ĐBSCL, Khoa Nông nghiệp Trường Đại học Cần Thơ, Viện nghiên
cứu phát triển ĐBSCL… Chính vì vậy, nông dân, các nhà khoa học, các Viện
nghiên cứu của vùng ĐBSCL luôn cải tiến sản xuất, lai tạo ra nhiều giống lúa tốt,
chất lượng, có khả năng thích ứng với những biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn cao.
Từ đó, tạo điều kiện cho phát triển nền nông nghiệp bền vững dựa trên những lợi
thế đó của vùng.
Thứ 2, điều kiện về kết cấu hạ tầng, các điều kiện phục vụ sản xuất lúa ở
ĐBSCL cơ bản đáp ứng yêu cầu của sản xuất lớn.
Kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp của vùng ĐBSCL không
116
ngừng được đầu tư và hoàn thiện đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi để phát triển
các mối liên kết sản xuất lúa giữa nông dân và doanh nghiệp theo các CĐL, đẩy
mạnh cơ giới hóa trong sản xuất và áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật
vào sản xuất. Các máy móc thiết bị sử dụng trong sản xuất tương đối hiện đại, hệ
thống thủy lợi đảm bảo đáp ứng nhu cầu tưới tiêu trên CĐL. Trình độ nông dân làm
dịch vụ tưới tiêu ngày càng được nâng lên, đáp ứng nhu cầu sản xuất. Giao thông
nông thôn ngày càng phát triển và hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu vận chuyển vật tư và
nông sản tiêu thụ.
Thị trường cung cấp đầu vào đa dạng, nhiều loại phân, thuốc bảo vệ thực vật
nên dễ lựa chọn và có sức cạnh tranh. Phân bón đa dạng, chất lượng, hiệu quả
nhanh, giá hợp lý, nông dân dễ mua và vận chuyển. Thuốc bảo vệ thực vật phong
phú, nhiều loại phức hợp trị nhiều bệnh, trừ nhiều loại sâu - rầy …, giá thuốc hợp
lý. Bên cạnh đó, các đại lý, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón và thuốc bảo vệ
thực vật có uy tín, cho nông dân ứng trước gối vụ, giảm chi phí đầu tư cho nông dân
tạo thuận lợi cho nông dân yên tâm sản xuất.
Các nông dân tham gia mô hình CĐL được hỗ trợ kỹ thuật tốt từ cán bộ
khuyến nông, từ lực lượng cán bộ kỹ thuật của doanh nghiệp, các dự án hỗ trợ sản
xuất như VnSAT… từ đó, giúp họ thấy được lợi ích của việc liên kết trong sản xuất
và tiêu thụ nông sản nói chung, sản xuất lúa nói riêng. Nông dân cũng tham gia
nhiều chương trình, mô hình khuyến nông và sẵn sàng áp dụng những tiến bộ kỹ
thuật trong sản xuất. Việc tham gia vào mô hình CĐL là một hình thức tổ chức sản
xuất mới, vừa có tính thực tiễn vừa khoa học, vừa mang tính cộng đồng cao, vừa cụ
thể về các LIKT khi tham gia.
Thứ 3, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta ngày càng tiến tới
minh bạch, ổn định hơn theo hướng khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản
xuất - tiêu thụ nông sản, xây dựng CĐL.
Nhiều chủ trương, chính sách lớn có tác động mạnh mẽ đến phát triển mô hình
CĐL và đảm bảo hài hòa LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp được ban hành, cụ thể:
Nghị quyết số 26-NQ/TW về "nông nghiệp, nông dân, nông thôn nêu rõ:
"Đổi mới và xây dựng các mô hình kinh tế, hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở
nông thôn. Có chính sách khuyến khích phát triển các mối liên kết giữa hộ nông dân
với các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức khoa học, hiệp hội ngành hàng và thị
trường tiêu thụ sản phẩm để hỗ trợ kinh tế hộ phát triển theo hướng gia trại, trang
trại có quy mô phù hợp, sản xuất hàng hoá lớn”.
117
Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008 của Chính phủ cũng đặt ra
nhiệm vụ chủ yếu về xây dựng và phát triển chuỗi liên kết trong sản xuất nông
nghiệp đó là: "Đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn:
trong đó, phải xác định rõ vị trí, vai trò của các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu
quả ở nông thôn, chú trọng phát triển loại hình sản xuất tạo đột phá căn bản, đáp
ứng yêu cầu của nền nông nghiệp hiện đại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao
động nông thôn. Hình thành mối liên kết hộ sản xuất với trang trại, hợp tác xã,
doanh nghiệp, tổ chức khoa học, thương mại, hiệp hội ngành hàng”.
Hội nghị Trung ương 4 (khoá XII) ngày 1 tháng 11 năm 2016 của Đảng đã ban
hành Nghị quyết số 05-NQ/TW về "một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục
đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức
cạnh tranh của nền kinh tế" đặt ra yêu cầu: "Tiếp tục đổi mới và phát triển các hình
thức tổ chức sản xuất phù hợp; nhân rộng các mô hình tổ chức sản xuất mới, hiệu quả
đã được kiểm chứng; phát triển các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, chế biến, tiêu
thụ nông sản theo chuỗi giá trị, kết nối với hệ thống tiêu thụ ở cả trong nước và ngoài
nước; chuyển mạnh từ sản xuất theo hộ gia đình riêng lẻ sang mô hình sản xuất hợp
tác, liên kết, tập trung, quy mô lớn; có cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút mạnh
mẽ các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn”.
Quyết định số 68/QĐ-TTg, ngày 15/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng ĐBSCL đến năm 2030 và tầm
nhìn đến năm 2050, đã nêu rõ định hướng phát triển Các vùng sản xuất chính phân
bổ theo 3 vùng sinh thái phát triển thích ứng với BĐKH - nước biển dâng, trong đó
sản xuất lúa gạo, rau và trái cây tại vùng giữa đồng bằng (diện tích tự nhiên khoảng
1,5 triệu ha).
Nghị định 98/2018/NĐ-CP ngày 05/07/2017 của Thủ tướng Chính phủ về
chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp. Theo Nghị định này, dự án liên kết sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp được hỗ trợ như sau: Hỗ trợ 30% vốn đầu tư máy móc, trang bị
xây dựng các công trình hạ tầng phục vụ liên kết, tổng mức hỗ trợ không quá 10 tỷ
đồng; hỗ trợ 100% chi phí tư vấn liên kết, tối đa không quá 30 triệu đồng; hỗ trợ
giống, vật tư, bao bì, nhãn mác sản phẩm tối đa không quá 03 vụ hoặc 03 chu kỳ
sản xuất, khai thác sản phẩm thông qua các dịch vụ tập trung của hợp tác xã; hỗ trợ
40% chi phí chuyển giao ứng dụng khoa học kỹ thuật mới, áp dụng quy trình kỹ
thuật và quản lý chất lượng đồng bộ theo chuỗi.
118
Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 của Chính phủ về phát triển bền
vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH, việc chuyển đổi mô hình phát triển phải dựa
trên hệ sinh thái, đảm bảo phù hợp với điều kiện tự nhiên, đa dạng sinh học, văn
hóa, con người và quy luật tự nhiên; kết hợp giữa công nghệ tiên tiến, hiện đại với
tri thức, kinh nghiệm truyền thống, đảm bảo tính ổn định và sinh kế của người dân,
trong đó người dân và doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm, Nhà nước đóng vai trò
định hướng dẫn dắt, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và hỗ trợ khởi nghiệp, đẩy mạnh ứng
dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nhất là thành tựu của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0. Quá trình chuyển đổi cần có tầm nhìn dài hạn, ưu tiên cho thích ứng với
BĐKH, nhưng cũng phải tận dụng các cơ hội để phát triển kinh tế cácbon thấp, kinh
tế xanh, bảo vệ sinh thái tự nhiên. Xây dựng cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo 3
trọng tâm: thuỷ sản - cây ăn quả - lúa gắn với các tiểu vùng sinh thái, trong đó coi
thuỷ sản (nước lợ, nước ngọt, nước mặn) là sản phẩm chủ lực.
Thứ 4, sự thành công của các mô hình hợp tác, liên kết gắn sản xuất với tiêu
thụ nông sản, xây dựng CĐL.
Những mô hình liên kết sản xuất tiêu thụ nông sản thời gian qua đã tạo ra sự
chuyển biến mạnh mẽ nhận thức của người nông dân và cán bộ, chính quyền các
cấp về tính tất yếu phải hợp tác, liên kết triển nông nghiệp hiện nay. Chỉ có hợp tác,
liên kết sản xuất và tiêu thụ mới giải quyết được bài toán về chất lượng nông sản,
nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững trước những biến động ngày càng
phức tạp của thị trường. Các mô hình CĐL đều cho hiệu quả rõ rệt đối với các chủ
thể tham gia (nông dân, hợp tác xã, tổ hợp tác và doanh nghiệp) tham gia liên kết.
Đối với người nông dân, các tổ chức đại diện nông dân (hợp tác xã, tổ hợp
tác) có đầu ra cho sản phẩm ổn định, giá cả cao, an toàn và hạn chế rủi ro, nhất là
rủi ro về thị trường. Nông dân được doanh nghiệp đầu tư, cung ứng giống xác nhận,
vật tư nông nghiệp phục vụ sản xuất với lãi suất thấp, tin cậy về chất lượng; được
nhà nước hỗ trợ về kỹ thuật, chi phí mua giống xác nhận…từ đó, nông dân yên tâm
sản xuất, thực hiện tốt các biện pháp kỹ thuật và mạnh dạn đầu tư chuyển đổi các
giống lúa thích hợp để tăng lợi nhuận. Đặc biệt, nông dân có động lực tổ chức sản
xuất theo mô hình trang trại, tạo ra khối lượng hàng hóa lớn, giảm giá thành sản
phẩm và nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống.
Về phía doanh nghiệp, chủ động nguồn cung lúa gạo, quản lý tốt về chất lượng,
giá cả ổn định, tạo điều kiện xây dựng thương hiệu gạo, mở rộng thị trường tiêu thụ,
119
tránh các rủi ro về chất lượng bị trả lại đơn hàng… Các hợp đồng liên kết với nông dân
có sự cam kết rõ ràng về số lượng, chất lượng, thời gian cung cấp, giá cả và cả hình thức
thanh toán. Tính pháp lý và các hình thức xử lý tranh chấp hợp đồng ngày càng được
hoàn thiện, hiệu quả hơn, ràng buộc chặt chẽ hơn đối với cả nông dân và doanh nghiệp
tạo thuận lợi cho hoạt động liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp ngày càng bền
vững dựa trên quan hệ LIKT ngày càng gia tăng và đảm bảo hài hòa.
Thứ 5, một số yếu tố khác tạo thuận lợi cho phát triển CĐL.
Xu hướng gia tăng nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm sạch của xã hội, xu
hướng này đối xuất hiện cả ở thị trường trong nước và xuất khẩu. Nhu cầu sử dụng
sản phẩm gạo chất lượng cao trên thị trường xuất khẩu đã phát sinh từ lâu nay. Hiện
tại, nhu cầu này tiếp tục được gia tăng và định hướng tiếp cận thị trường có nhu cầu
này trở thành chiến lược lâu dài của Chính phủ Việt Nam.
Chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đã được cải thiện thông qua việc thay
đổi cơ cấu gạo sản xuất và nâng cao năng lực chế biến. Tỷ trọng gạo chất lượng cao đã
được tăng lên đáng kể, như: gạo thơm, gạo nếp tăng từ 11,7% năm 2012 lên tới 41,7%
năm 2017, tỷ trọng gạo trắng giảm từ 81,7% năm 2012 xuống còn 49,7%.
Biểu đồ 4.1: Sự thay đổi về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu
của một số mặt hàng chủ lực giai đoạn 2012 - 2017 (%)
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn [13].
Trong thời gian qua, Chính phủ, Bộ Công thương và các Bộ, Ngành có liên
quan đã triển khai các biện pháp, giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
mặt hàng gạo Việt Nam, mở rộng thị trường xuất khẩu, góp phần tiêu thị hết lúa gạo
của người nông dân. Đặc biệt, việc ban hành Chiến lược phát triển thị trường xuất
120
khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm 2030; Đề án Tái
cơ cấu ngành lúa gạo Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030; Đề án
phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và
Nghị định số 107/2018/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo, ngành lúa gạo sẽ được
định hướng quy hoạch, sản xuất để nâng cao hiệu quả và thúc đẩy xuất khẩu.
Bên cạnh đó, mặc dù nhu cầu tiêu dùng sản phẩm gạo sạch và chất lượng cao
ở thị trường nội địa chưa phải phổ biến nhưng đã có xu hướng phát triển rõ rệt, chẳng
hạn như các thương hiệu: ST24, ST25, Hạt Ngọc Trời… đã xuất hiện ngày càng phổ
biến hơn ở các Siêu thị, các cửa hàng phân phối gạo trên thị trường nội địa.
Như vậy, hội tụ cả hai xu hướng gia tăng nhu cầu gạo sạch, chất lượng cao
cả thị trường trong nước và xuất khẩu đã trở thành cơ hội cho việc phát triển mô
hình CĐL cho hiện tại và cho tương lai. Và cơ hội này cũng tạo ra điều kiện gắn kết
chặt chẽ các quan hệ LIKT giữa các chủ thể tham gia mô hình CĐL, bởi vì chỉ có
liên kết sản xuất theo những quy trình khép kín mới thuận lợi cho việc sản xuất, xây
dựng thương hiệu cho mở rộng thị trường này.
Mặt khác, trong bối cảnh hội nhập kinh tế của nước ta ngày càng sâu rộng
cũng tạo ảnh hưởng tích cực đến việc phát triển CĐL sản xuất lúa. Quá trình hội
nhập càng sâu rộng sẽ giúp các doanh nghiệp có thể mở rộng thị trường xuất khẩu,
đặc biệt là thị trường khó tính (đòi hỏi chất lượng cao, nhưng giá mua cao). Trong
khi đó, chỉ có kiểu tổ chức sản xuất với quy mô lớn, tập trung như CĐL mới có khả
năng đạt được những tiêu chuẩn chất lượng theo yêu cầu của phân khúc thị trường
khó tính này, mô hình này cũng giúp hạ thấp giá thành sản xuất giúp các doanh
nghiệp nâng cao được năng lực cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu.
4.1.1.2. Khó khăn, thách thức Thứ 1, khó khăn, thách thức thời tiết, khí hậu và thiên tai của vùng ĐBSCL.
Bên cạnh những ưu đãi về điều kiện tư nhiên, tài nguyên thiên nhiên thì vùng
ĐBSCL cũng đứng trước những khó khăn như: đôi lúc khí hậu, thời tiết thất
thường, mưa bão nhiều gây ngập úng, cây lúa bị đổ ngã; hạn chế khi bảo quản nông
sản. Ngoài ra, thời tiết còn là nguyên nhân làm cho dịch bệnh lan rộng; mưa nhiều
làm rửa trôi phân thuốc, dẫn đến nông dân bón phân xịt thuốc không hiệu quả, tốn
nhiều chi phí, năng suất cây lúa thấp. Dịch chuột, ốc và sâu bệnh tràn lan, phá hoại
cánh đồng, gây tổn thất cho nông dân. Một số sâu bệnh kháng thuốc hoành hành,
nông dân phải trộn nhiều loại thuốc để diệt làm tốn chi phi mua thuốc và tốn công
xịt nhiều lần. Một số vùng đất nhiễm phèn nặng, nông dân phải tốn chi phí cải tạo
121
đất. Ngoài ra, một số nơi do canh tác nhiều, đất không kịp luân chuyển chất dinh
dưỡng làm cho đất mất độ phì, năng suất cây trồng bị giảm sút.
Thứ 2, thách thức của biến đổi khí hậu đối với vùng ĐBSCL.
Theo kịch bản quốc gia về BĐKH năm 2016, đối với kịch bản trung bình, thì
đến cuối thế kỷ XXI (2100), khu vực ĐBSCL, nhiệt độ trung bình có thể tăng từ 1,70C - 1,90C, mưa có thể tăng 5-15%, nước biển dâng từ 32-78cm. Với kịch bản BĐKH cao đến cuối thế kỷ XXI, khu vực ĐBSCL, nhiệt độ trung bình có thể tăng 3,0 - 3,50C, mưa có thể tăng trên 20%, nước biển dâng từ 48-106cm. Trong khi đó, các quốc gia ở thượng nguồn sông Mê Kông gia tăng các hoạt động kinh tế, tập
trung vào thuỷ điện và nông nghiệp, gây ra hệ luỵ tiêu cực đối với ĐBSCL [84].
Đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với nhiều thách thức và tác động
kép do khí hậu cực đoan, khai thác và sử dụng nguồn nước ở thượng nguồn sông
Mê Kông. Nguồn lợi thuỷ sản và nguồn nước ngọt có xu hướng giảm, nhiều tai biến
liên quan và thách thức từ BĐKH đối với ĐBSCL có xu hướng gia tăng. Tác động
của BĐKH đối với ĐBSCL đang diễn ra với cường độ mạnh và tốc độ nhanh. Hậu
quả là ĐBSCL có nguy cơ mất đi 7,6 triệu tấn lúa/năm, tương đương với khoảng
40% tổng sản lượng lúa của cả vùng. Diện tích đất canh tác lúa bị ảnh hưởng nhiều
nhất là các tỉnh vùng trọng điểm lúa gạo thuộc vùng Đồng Tháp Mười, Tứ giác
Long Xuyên như: Kiên Giang Long An, An Giang, Đồng Tháp. Các tỉnh mất sản
lượng lúa nhiều nhất là Kiên Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh… Nguyên nhân gây tình
trạng mất sản lượng lúa là do ngập lũ nước ngọt gây ra mất sản lượng nhiều nhất vì
đây vốn là đặc thù của ĐBSCL, sau đó là do nước biển dâng, xâm nhập mặn.
Tóm lại, thiên tai, BĐKH đã tác động mạnh gây ra nhiều khó khăn và làm giảm
hiệu quả sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL nói chung và giảm hiệu quả canh tác lúa nói
riêng. Từ đó làm giảm LIKT của nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL.
Thứ 3, khó khăn, thách thức từ quy mô và năng lực sản xuất kinh doanh của
cả nông dân và doanh nghiệp.
Phần lớn các hộ nông dân trồng lúa có quy mô nhỏ lẻ, manh mún.. trình độ
tiếp nhận và khả năng ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật được tập huấn vào sản xuất lúa
của người dân còn hạn chế nên đã làm giảm tính hiệu quả về mặt quy mô. Khả
năng, thói quen ghi chép nhật ký quá trình sản xuất còn nhiều hạn chế, còn bộ phận
lớn chưa quen với công việc ghi chép này. Những hạn chế trên cũng gây khó khăn
cho các doanh nghiệp trong việc quản lý, giám sát quy trình sản xuất của các hộ
nông dân trong mô hình CĐL.
122
Qua khảo sát một số doanh nghiệp có tham gia liên kết, các doanh nghiệp
này cho rằng quá trình và nội dung liên kết còn hạn chế về nguồn lực, nhất là nguồn
vốn và năng lực thị trường nên quy mô liên kết cũng còn hạn chế. Thêm vào đó,
giữa các doanh nghiệp và nông dân vẫn chưa tìm ra được sự đồng thuận cao trong
việc định giá cả thị trường tại thời điểm giao dịch. Đây cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến việc các tác nhân liên kết không thực hiện theo đúng những
cam kết trong quá trình thực hiện. Ở đâu đó vẫn còn xảy ra trường hợp không thực
hiện cam kết giữa nông dân và doanh nghiệp "bẻ kèo" mà nguyên nhân chính là do
biến động của nhu cầu và giá cả thị trường và do sự cạnh tranh của các thương lái
thu mua lúa diễn ra trên địa bàn có CĐL.
Hiện nay, cả 13 tỉnh, thành vùng ĐBSCL đều xây dựng CĐL sản xuất lúa
với sự tham gia của 180 doanh nghiệp, 149 hợp tác xã, 590 tổ hợp tác, tổng diện
tích thực hiện đạt 450.000 ha, chiếm 11% diện tích canh tác lúa của toàn vùng. Tuy
nhiên, mô hình CĐL sản xuất lúa ở vùng ĐBSCL hiện đang gặp phải những khó
khăn như: thừa đầu vào lại thiếu đầu ra; việc bao tiêu sản phẩm ở đa số CĐL chỉ
đảm bảo được 20-30%. Tham gia sản xuất theo mô hình CĐL giúp người nông dân
tăng thêm thu nhập, nhưng đời sống của phần lớn nông dẫn của vùng vẫn còn
nghèo. ĐBSCL còn là "vùng trũng" về giáo dục, trình độ, tập quán canh tác của
người nông dân còn hạn chế trong đáp ứng quy trình sản xuất quy mô lớn, áp dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Bên cạnh đó, nếu thực hiện liên kết sản
xuất lúa theo kiểu khép kín như mô hình của Công ty cổ phần tập đoàn Lộc Trời đã
làm sẽ khó khăn trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công tác đào tạo
không đáp ứng kịp nhu cầu phát triển đội ngũ này. Việc xây dựng các hợp tác xã
nông nghiệp kiểu mới làm trung gian liên kết lại thiếu đội ngũ quản lý các hợp tác
xã có hiệu quả.
Thứ 4, thách thức "4 nhà chung quanh mình" đối với nông dân.
Người nông dân ở vùng ĐBSCL do mức thu nhập còn thấp nên đứng trước
những thách thức đối với "4 nhà chung quanh mình": Nhiều kết quả nghiên cứu cho
thấy rằng sau khi thu hoạch mùa vụ, nông dân phải trang trải: (i) nhà mình: chi tiêu
gia đình hàng ngày, chữa bệnh, và học hành cho con cái, (ii) nhà hàng xóm: đám
tiệc, hiếu, hỉ và quan hệ xóm làng, (iii) nhà vật tư: ứng vật tư sản xuất trước và trả
lại sau khi thu hoạch mùa vụ, (iv) Nhà ngân hàng: vay vốn sản xuất đầu vụ hoặc chi
tiêu gia đình và trả nợ cuối vụ. Do thu nhập thấp và trang trải 4 nhà chung quanh
mình, dẫn đến tích luỹ để tái sản xuất rất thấp. Thí dụ tích luỹ trung bình hộ tại tỉnh
123
An Giang chỉ đạt khoảng hơn 200.000 đồng /người/tháng (Nguyễn Văn Sánh, 2013).
Trong trường hợp đó, khi giá cả tiêu dùng tăng, giá vật tư tăng thì mức độ tích lũy
của người nông dân sẽ càng hạn chế hơn. Mức độ dễ bị tổn thương về thu nhập gia
tăng làm ảnh hưởng đến việc thực hiện các hợp đồng đã ký kết với các doanh
nghiệp, bởi lẽ, khi giá lúa trên thị trường cao hơn mức giá đã chốt trong hợp đồng
với doanh nghiệp người nông dân có xu hướng "bẻ kèo" với mong muốn gia tăng
thu nhập và khả tích lũy của hộ gia đình. Khi không thực hiện đúng các hợp đồng
đã ký kết, mối quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp bị đổ vỡ, niềm tin
xuống cấp.
Những khó khăn, thách thức nêu trên tác động lớn đến sự phát triển và nhân
rộng mô hình CĐL sản xuất lúa ở ĐBSCL trong thời gian tới, đồng thời ảnh hưởng
đến hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của mô hình CĐL. Những tác động đó sẽ
có ảnh hưởng mạnh mẽ đến phát triển LIKT của cả nông dân và doanh nghiệp và
giải quyết hài hòa mối quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình
CĐL sản xuất lúa thời gian tới.
4.1.2. Quan điểm giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông
dân và doanh nghiệp mô hình cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu Long
4.1.2.1. Giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh
nghiệp trong cánh đồng lớn trên cơ sở đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên
tham gia liên kết
Quan điểm này rất cần thiết, bởi lẽ giải quyết tốt, hài hòa quan hệ LIKT giữa
nông dân và doanh nghiệp tác động trực tiếp đến việc tạo động lực thúc đẩy phát
triển mô hình CĐL. Giải quyết quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp phải
dựa trên cơ sở pháp luật của Nhà nước về phát triển các mối quan hệ liên kết sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp (lúa), trong đó, bảo đảm thực hiện quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia CĐL là yếu tố rất quan trọng.
Việc giải quyết hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong
CĐL phải căn cứ vào quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia liên kết. Cần
thể chế rõ ràng quyền và trách nhiệm của các chủ thể trong mối liên kết tạo cơ sở
đảm bảo thực hiện hài hòa quan hệ LIKT giữa các chủ thể.
Các bên tham gia liên kết sản xuất - tiêu thụ lúa gạo (nông dân và doanh
nghiệp) có các quyền sau:
Một là, quyền liên kết trong những lĩnh vực, ngành nghề sản xuất nông
nghiệp mà pháp luật không cấm;
124
Hai là, được hưởng các chính sách khuyến khích liên kết gắn sản xuất với
tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và các chính sách hỗ trợ, ưu đãi khác của Nhà nước
theo quy định;
Ba là, được sử dụng tài sản đầu tư trên đất và tài sản hình thành từ vốn vay
để thế chấp vay vốn tại các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật;
Bốn là, được cung cấp thông tin về chính sách hỗ trợ liên kết của Nhà nước,
giá cả thị trường, tiêu chuẩn chất lượng, khoa học kỹ thuật, công nghệ và các dịch
vụ công ích khác phục vụ liên kết;
Năm là, được lựa chọn phương thức phù hợp để giải quyết tranh chấp phát
sinh trong thực hiện hợp đồng, dự án liên kết theo quy định của pháp luật.
Các bên tham gia liên kết sản xuất - tiêu thụ lúa gạo (nông dân và doanh
nghiệp) có các nghĩa vụ sau:
Một là, cung cấp đầy đủ và chính xác các thông tin liên quan đến hợp đồng,
dự án liên kết cho các bên tham gia liên kết khi được yêu cầu;
Hai là, thực hiện đúng và đầy đủ các nội dung cam kết của hợp đồng, dự án
liên kết;
Ba là, tuân thủ các quy định của Nhà nước về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
và bảo vệ môi trường sức khỏe con người, cây trồng... trong quá trình thực hiện hợp
đồng liên kết;
Bốn là, đảm bảo đúng quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia liên kết
theo quy định của pháp luật;
Năm là, các bên tham gia liên kết có nghĩa vụ trao đổi, thương lượng và
thống nhất giải quyết nhằm chia sẻ những khó khăn và rủi ro bất khả kháng trong
quá trình thực hiện hợp đồng liên kết.
Thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia CĐL sản xuất lúa
cũng đồng nghĩa với việc thực hiện tốt vai trò và đóng góp của nông dân, của doanh
nghiệp trong mô hình CĐL, tạo cơ sở cho việc giải quyết hài hòa và bền vững quan
hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp.
4.1.2.2. Giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh
nghiệp trên cơ sở nâng cao hiệu quả kinh tế của cánh đồng lớn và hoàn thiện cơ
chế phân phối lợi ích kinh tế cả trong ngắn hạn và dài hạn
Để các chủ thể đồng thuận với nhau, liên kết chặt chẽ trong phát triển mô
hình CĐL sản xuất lúa trước hết phải gia tăng hiệu quả của mô hình này, nhất hiệu
quả về kinh tế. Thực tế cho thấy, khi mô hình CĐL đạt hiệu quả cao và chỉ khi tham
125
gia mô hình CĐL mới mang lại hiệu quả, trước hết là hiệu quả kinh tế cho nông dân
và doanh nghiệp cao hơn so với việc không tham gia mô hình này thì các chủ thể
mới có nhu cầu và tự nguyện liên kết chặt chẽ với nhau. Chính vì vậy, nâng cao
hiệu quả kinh tế cho mô hình CĐL sản xuất lúa là cần thiết để duy trì và phát triển
các mối liên kết. Bên cạnh đó, cần tạo ra cơ chế phân phối LIKT hài hòa cho cả
nông dân và doanh nghiệp, đảm bảo sự đồng thuận và thống nhất lợi ích với nhau.
Một là, trong liên kết, hợp tác sản xuất lúa theo CĐL cần gắn kết chặt chẽ từ
khâu sản xuất, chế biến đến tiêu thụ nhằm nâng cao giá trị sản phẩm đem lại hiệu
quả kinh tế cao hơn cho nông dân và doanh nghiệp. Đồng thời, phải nhận thấy lợi
ích của liên kết, lấy lợi ích chung, lợi ích của xã hội, lợi ích của toàn vùng để xác
định mục tiêu liên kết.
Hai là, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ĐBSCL bền vững, hạn chế ô
nhiễm môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Xây dựng, nhân rộng CĐL là
một biện pháp tái cơ cấu và phát triển bền vững nông nghiệp ĐBSCL trên cơ sở liên
kết vùng hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả
và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao đáp ứng nhu cầu của
thị trường trong nước và xuất khẩu.
Ba là, hoàn thiện cơ chế phân phối chi các chủ thể trong mối liên kết sản
xuất - tiêu thụ sản phẩm lúa theo mô hình CĐL đảm bảo hài hòa LIKT trong cả
ngắn hạn và dài hạn. Cơ chế phân phối LIKT, một mặt phải mang lại thu nhập, lợi
nhuận thỏa đáng cho nông dân giúp nâng cao mọi mặt đời sống của họ, mặt khác,
phải đảm bảo lợi nhuận, thu nhập hợp lý của doanh nghiệp để đảm bảo doanh
nghiệp có thể tồn tại, phát triển lâu bền.
Thực hiện tốt quan điểm này sẽ tạo cơ sở gắn kết chặt chẽ, bền vững giữa
nông dân và doanh nghiệp. Nhà nước cần phối hợp chặt chẽ với nông dân và doanh
nghiệp trong xây dựng, ban hành cơ chế phân phối, tạo các điều kiện thuận lợi cho
tổ chức sản xuất kinh doanh theo mô hình CĐL đạt hiệu quả kinh tế cao.
4.1.2.3. Giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh
nghiệp trong mô hình cánh đồng lớn trên cơ sở xây dựng "Lợi ích chung và
niềm tin lâu dài của hai bên"
Trong những năm qua, ĐBSCL đã xây dựng được nhiều mô hình liên kết
kinh tế có hiệu quả giữa nông dân và doanh nghiệp trông phát triển CĐL. Tuy vậy,
trong các mô hình liên kết, mối liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp chưa hình
thành một mô hình phát triển ổn định, bền vững. Do vậy, trong mô hình CĐL ở một
126
số địa phương, nông dân và doanh nghiệp tố nhau "vi phạm hợp đồng", doanh
nghiệp và nông dân chưa có niềm tin chiến lược để kết nối chặt chẽ trong chuỗi giá
trị hạt gạo. Thực tế cho thấy, cả nông dân và doanh nghiệp có thể gia tăng LIKT
riêng khi không thực hiện hợp đồng đã ký kết trong trường hợp có những biến động
về giá cả thị trường. Tính không minh bạch trong thông tin và lợi ích của mỗi bên,
cả nông dân và doanh nghiệp thường cho rằng mình đạt LIKT thấp nên không thể
chia sẽ thêm LIKT cho chủ thể còn lại. Chính vì vậy, niềm tin lẫn nhau giữa các chủ
thể chưa cao.
Theo chỉ dẫn của Ph.Ănnghen: ở đâu không có sự "đồng nhất" về LIKT thì ở
đó không có sự thống nhất về mục đích và hành động.
Một là, tạo ra LIKT chung, thống nhất giữa nông dân và doanh nghiệp tham
gia liên kết sản xuất lúa theo mô hình CĐL. Theo các chuyên gia, "câu chuyện" liên
kết giữa nông dân và doanh nghiệp trong CĐL là "câu chuyện niềm tin". Điều quan
trọng để liên kết này bền vững, chính là tạo được lợi ích chung cho hai bên. Doanh
nghiệp thường tính đến lợi ích lâu dài, nông dân thì nhìn lợi ích ngắn hạn hơn, lợi
ích trước mắt, thiển cận... Vì vậy, mỗi bên cần đặt mình vào vị thế của đối tác, để
thuyết phục họ, tạo niềm tin từ quan điểm, lợi ích chung.
Hai là, trong xây dựng các mối liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp cần
chú trọng việc cân bằng về vị thế và năng lực của các bên. Mối liên kết giữa nông
dân và doanh nghiệp trong CĐL chỉ có thể bền vững khi có được sự cân bằng về
vị thế, năng lực của các bên. Tham gia CĐL, nông dân có quyền sử dụng đất,
nhưng giá trị trong chuỗi sản phẩm không cao, trong khi doanh nghiệp sở hữu
nhiều yếu tố khác, nắm cả đầu vào và đầu ra của sản phẩm. Ở vị thế cao hơn,
doanh nghiệp cần có cách tiếp cận hợp lý để thuyết phục nông dân đồng hành với
mình trong chuỗi giá trị, chủ động chia sẻ những công nghệ, thông tin thị trường...
mà mình tiếp cận được để tạo niềm tin, giúp đỡ nông dân, nâng cao năng lực tổ
chức và quản lý... Đồng thời chú trọng đến việc cải tiến, đổi mới cơ chế chính
sách nhằm đảm bảo tính hài hòa trong việc phân chia LIKT giữa các khâu trong
chuỗi sản xuất, tiêu thụ lúa gạo.
Ba là, phải tạo điều kiện để cả nông dân và doanh nghiệp đi chung trên một
con thuyền LIKT, thống nhất về LIKT, có như vậy mới tạo được sự tin tưởng và
chăm bồi LIKT cho nhau. Chỉ khi nào, doanh nghiệp chăm lo, gia tăng LIKT cho
nông dân thì mới có thể gia tăng LIKT của mình và ngược lại thì sự liên kết LIKT
mới bền chặt hơn.
127
Xây dựng niềm tin hai bên, đảm bảo hiệu lực của công cụ pháp lý, nhất là hệ thống chế tài xử lý tranh chấp một cách nghiêm minh để đảm bảo giải quyết hài hòa
quan hệ LIKT cho cả hai bên và tạo niềm tin lâu dài.
4.2. GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT HÀI HÕA QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN VÀ DOANH NGHIỆP TRONG PHÁT TRIỂN CÁNH ĐỒNG LỚN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐẾN NĂM 2025
4.2.1. Nâng cao nhận thức của nông dân và doanh nghiệp về mối quan
hệ lợi ích kinh tế trong phát triển cánh đồng lớn
Nhận thức của chủ thể nông dân và doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc xây dựng, phát triển quan hệ liên kết sản xuất trong mô hình CĐL. Việc
giải quyết hài hòa quan hệ LIKT phụ thuộc rất lớn vào nhận thức của các chủ thể,
nhất là niềm tin chiến lược trong sản xuất. Thời gian qua, nhận thức của nông dân
và doanh nghiệp về quan hệ liên kết sản xuất, cũng như quan hệ LIKT của nông dân
và doanh nghiệp trong phát triển CĐL còn nhiều hạn chế, gây ảnh hưởng đến tính
bền vững của quan hệ liên kết sản xuất giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô
hình CĐL. Vì vậy, cần phải có giải pháp nâng cao nhận thức mọi mặt của cả nông dân và doanh nghiệp.
Để nâng cao nhận thức của nông dân và doanh nghiệp trong phát triển CĐL
cần thực hiện các biện pháp sau:
4.2.1.1. Tuyên truyền sâu rộng nâng cao nhận thức cho nông dân và
doanh nghiệp về vị trí, vai trò và lợi ích kinh tế trong liên kết sản xuất lúa theo
mô hình cánh đồng lớn
Để phát huy hiệu quả CĐL, phải bắt đầu từ nhận thức của nông dân và doanh
nghiệp về sự đồng thuận sản xuất hợp tác sản xuất kinh doanh, không phá vỡ hợp
đồng ký kết giữa nông dân và doanh nghiệp, về vai trò của ứng dụng khoa học kỹ
thuật, công nghệ vào sản xuất, nâng cao năng lực quản lý sản xuất sản phẩm đồng
đều và nâng cao chất lượng để tăng sức cạnh tranh trên thị trường; kiến thức về pháp luật… và có sự am hiểu kinh tế thị trường, nhận thức đầy đủ hơn về tầm quan trọng của việc liên kết với nhau trong sản xuất, vai trò của mối liên kết 4 nhà, nhất là mối liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp, người nông dân có được thông tin trước khi làm ra sản phẩm: sản xuất bán cho ai? giá bao nhiêu? chất lượng và số
lượng như thế nào?... Muốn như vậy, cần phải làm tốt công tác tuyên truyền đối với các chủ thể.
Công tác tuyên truyền có ý nghĩa lớn đối với nông dân và các doanh nghiệp
128
nhằm động viên những người trực tiếp thực hiện liên kết. Mục đích của công tác
tuyên truyền là nhằm làm cho nông dân và doanh nghiệp nhận thức đầy đủ về
những LIKT mà họ có thể đạt được khi tham gia CĐL, nhất là những lợi ích tiềm
năng, lâu dài. Đồng thời, phải làm cho các chủ thể xác định đúng vị trí, vai trò của
mình trong mối quan hệ liên kết và lợi ích tương ứng với vị trí, vai trò đó qua đó tạo
sự đồng thuận giữa các chủ thể trong mối quan hệ liên kết. Tuyên truyền, vận động
và đẩy mạnh tổ chức các hình thức hợp tác sản xuất tập thể trong nông nghiệp từ
thấp đến cao (tổ, đội liên kết sản xuất, câu lạc bộ, hợp tác xã) bảo đảm các nguyên
tắc tự nguyện, tự chủ của các nông hộ để tạo điều kiện cho việc triển khai và thực
hiện có hiệu quả mô hình liên kết sản xuất theo CĐL.
Nội dung tuyên truyền cần tập trung vào các vấn đề trọng yếu như: Nâng cao
nhận thức của các chủ thể về tính tất yếu khách quan và các LIKT của các chủ thể
khi tham gia liên kết sản xuất lúa theo CĐL, nhất là vai trò của của việc đảm bảo
hài hòa quan hệ LIKT đối với sự phát triển mô hình CĐL và phát triển nền nông
nghiệp hàng hóa lớn; Công khai các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước để các chủ thể nhận thức được và tham gia liên kết sản xuất theo mô hình
CĐL để tiếp cận được các chính sách hỗ trợ đó; Tăng cường tuyên truyền những mô
hình có hiệu quả, những bài học kinh nghiệm từ các mô hình thành công trên thế
giới và các địa phương để nông dân và doanh nghiệp có thể vận dụng; Tuyên truyền
và giáo dục doanh nghiệp và nông dân ý thức tuân thủ pháp luật, thực hiện nghiêm
túc các hợp đồng liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân.
Để làm tốt công tác tuyên truyền, thời gian tới cần thực hiện một số biện
pháp cụ thể sau [37]:
Một là, mở rộng hình thức tuyên truyền. Tăng chất và lượng các bài viết trên
các chuyên trang, chuyên mục, chuyên đề của các thể loại báo chí liên quan đến
triển khai thực hiện mô hình CĐL. Chuyển tải kịp thời các thông tin qua các chuyên
mục tin tức, phóng sự, ghi nhanh trong các chương trình thời sự, đồng thời tuyên
truyền về LIKT của mô hình CĐL trên chuyên trang nông nghiệp - nông thôn ra
định kỳ trên các số báo trong tuần; Đài Phát thanh - truyền hình cũng cần dành thời
lượng thích đáng hơn để truyền tin liên quan đến việc triển khai thực hiện mô hình
CĐL. Thường xuyên tổ chức các Hội thảo khoa học, Diễn đàn khuyến nông,… cùng
với gặp gỡ, trao đổi các chủ thể cùng tham gia xây dựng CĐL.
Hai là, đổi mới phương pháp tuyên truyền. Đổi mới và lựa chọn phương
129
pháp tuyên truyền hiệu quả đối với các chủ thể, nhất là đối với nông dân - chủ thể
có trình độ dân trí thấp, khả năng tiếp cận thông tin hạn chế, theo đuổi lợi ích trước
mắt phổ biến. Cần phát huy cao độ vai trò của hệ thống chính trị cơ sở, nhất là vai
trò của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn trong thực hiện công tác tuyên
truyền về hiệu quả, LIKT trong phát triển mô hình CĐL.
Ba là, thực hiện tốt việc phối hợp tuyên truyền. Tăng cường sự phối hợp giữa
các cơ quan báo chí với ngành nông nghiệp, chính quyền cơ sở của các địa phương.
Các cơ quan báo của địa phương cần phối hợp với nhau cùng với các cơ quan báo
chí trung ương thực hiện tuyên truyền không chỉ cho địa phương mình mà cần tăng
cường tuyên truyền những sự kiện liên quan đến vấn đề nông nghiệp của toàn vùng
bằng thực tiễn sinh động; mở rộng mạng lưới cộng tác viên chuyên ngành nông
nghiệp. Tăng cường sự phối hợp giữa các địa phương khu vực ĐBSCL trong thực
hiện công tác tuyên truyền nhằm giảm chi phí, tăng tính hiệu quả, tiếp thu những
kinh nghiệp từ những mô hình CĐL hoạt động có hiệu quả làm tư liệu tuyên truyền.
Sở Giáo dục và Đào tạo các tỉnh, thành vùng ĐBSCL nên soạn thảo bổ sung chương
trình ngoại khóa cho học sinh phổ thông đi tham quan tìm hiểu về mô hình CĐL,
nhất là những tỉnh chủ lực trong xây dựng CĐL.
4.2.1.2. Thể chế hoá quyền lợi và trách nhiệm của từng chủ thể tham gia
liên kết theo nguyên tắc đảm bảo hài hòa lợi ích kinh tế của các chủ thể
Thể chế quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể là vấn đề rất quan
trọng, bởi vì trong bất cứ mối liên kết kinh tế nào các chủ thể cần phải biết rõ vai
trò, trách nhiệm và quyền lợi của mình để từ đó cóp ý thức thực hiện đúng.
Đối với chủ thể nông dân - người trực tiếp làm ra sản phẩm: lý do chính mà
người nông dân thường phá vỡ hợp đồng là do nội dung các hợp đồng liên kết
thường do doanh nghiệp đưa ra, thiếu sự bàn bạc, thương thảo với nông dân trong
quá trình ký kết, nên LIKT của người nông dân chưa thỏa đáng. Nông dân vẫn giữ
tập quán sản xuất truyền thống, chưa theo kịp yêu cầu sản xuất hàng hóa, nhất là
tiêu chuẫn kỹ thuật đáp ứng từng thị trường khác nhau. Do thiếu kiến thức về pháp
luật, tâm lý tiểu nông, vì lợi ích trước mắt đã xuất hiện hiện tượng nông dân không
tôn trọng các điều khoản đã ký với doanh nghiệp trong hợp đồng.
Để hoàn thiện và tạo sự bèn vững trong liên kết kinh tế giữa nông dân và
doanh nghiệp thì cần thể chế rõ quyền và trách nhiệm của nông dân khi tham gia
CĐL. Theo đó, nông dân chỉ nên tập trung vào khâu sản xuất, các vấn đề về vốn,
130
thu mua sản phẩm theo đúng hợp đồng ký kết, đầu tư và tìm kiếm thị trường đã
được công ty thu mua thực hiện thông qua hợp đồng. Đổi lại, người nông dân phải
có trách nhiệm tuân thủ các quy trình sản xuất, ghi chép nhật ký, nhiều hộ nông dân
cùng làm việc trên một diện tích lớn nhưng chỉ có một tiêu chuẩn duy nhất. Chính
điều này bảo đảm sản phẩm đạt tiêu chuẩn đáp ứng nhu cầu thị trường.
Bên cạnh đó, nông dân chủ động và tham dự đầy đủ các lớp đào tạo, tập
huấn và đào tạo nghề, đáp ứng các yêu cầu của sản xuất, nâng cao năng lực tổ chức
sản xuất, kết nối đầu vào đầu ra sản phẩm. Hơn nữa, nông dân phải hợp tác sản xuất
đảm bảo vùng nguyên liệu cho doanh nghiệp theo đúng hợp đồng, tôn trọng hợp
đồng cả về số lượng, chất lượng và thời gian cung ứng.
Đối với các doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ nông sản: khi tham gia vào
chuỗi sản xuất này được Nhà nước hỗ trợ đầu vào, kỹ thuật sản xuất, chế biến, bảo
quản; xây dựng thương hiệu, tìm kiếm thị trường. Ðồng thời, Nhà nước ban hành
các chế tài ràng buộc nông dân phải bán sản phẩm theo đúng hợp đồng cho doanh
nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp xây dựng nhà máy chế biến gắn với xây dựng
các vùng nguyên liệu. Doanh nghiệp sẽ tăng thu lợi nhuận do tăng năng suất và chất
lượng, giá trị gia tăng từ sản phẩm. Mặt khác, các doanh nghiệp phải chủ động kế
hoạch sản xuất kinh doanh và sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị máy móc.
Ngược lại, doanh nghiệp có trách nhiệm như: phải có chiến lược và xây dựng
các kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp với thị trường trong và ngoài nước, đảm
bảo tính ổn định về thị trường; phải hướng tới xây dựng được thương hiệu và chăm
sóc thương hiệu theo định hướng cạnh tranh lành mạnh, cần những mô hình hiệu
quả để tập hợp nông dân. Doanh nghiệp phải đóng vai trò trung tâm, chủ động ký
kết hợp đồng. Tuy nhiên, quá trình soạn thảo và ký kết các hợp đồng nên cho người
dân tham gia bàn bạc với doanh nghiệp. Doanh nghiệp hướng dẫn, giúp đỡ nhà
nông trong việc áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, hỗ trợ vay vốn tín dụng và vật
tư nông nghiệp, hỗ trợ đầu vào và thu mua sản phẩm cho nông dân đúng theo hợp
đồng ký kết. Thực hiện bao tiêu sản phẩm với giá thỏa thuận trong hợp đồng bảo
đảm LIKT của cả hai bên. Doanh nghiệp tích cực đi tìm thị trường, mở rộng khả
năng tiêu thụ nhằm đảm bảo đầu ra cho nông dân. Doanh nghiệp nên mua bảo hiểm
vùng nguyên liệu cho nông dân, bảo đảm phát triển bền vững, tạo điều kiện để nông
dân mua cổ phần trong doanh nghiệp chế biến.
131
4.2.1.3. Thay đổi tập quán sản xuất, ý thức chấp hành pháp luật của nông
dân và doanh nghiệp tham gia cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu Long
Một bộ phận lớn nông dân hiện nay trình độ học vấn còn thấp, tập quán canh
tác lạc hậu, trình độ không đồng đều nên việc tiếp cận và ứng dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào quá trình sản xuất còn hạn chế, gặp nhiều trở ngại. Chẳng hạn, để
hướng dẫn nông dân sản xuất theo hướng GAP, bắt buộc nông dân phải thực hiện
ghi chép nhật ký sản xuất trên cây lúa. Tuy nhiên, thời gian qua hầu hết nông dân
đều không đáp ứng yêu cầu. Nông dân tại các CĐL mặc dù đáp ứng được quy trình
sản xuất do doanh nghiệp đề ra nhưng chỉ có 50% ghi chép nhật ký đạt yêu cầu.
Thực tiễn từ ĐBSCL cho thấy, mặc dù có nhiều tiến bộ trong ứng dụng khoa học -
công nghệ, nhưng nhìn chung kiến thức của người nông dân còn nhiều bất cập,
khoảng cách giữa yêu cầu ngày càng cao của sự hội nhập và phát triển với năng lực
thực tế của người nông dân là rất lớn. Yêu cầu đặt ra của người nông dân ngày nay
phải có trình độ học vấn, có tay nghề, có phẩm chất đạo đức, có lối sống văn minh,
có kiến thức pháp luật và chấp hành tốt pháp luật. Phải tạo dần thói quen làm ăn
trong môi trường tập thể, liên kết, hợp tác. Có như vậy mới phát huy sức mạnh,
khắc phục điểm yếu, giảm bớt rủi ro, tạo nên lợi thế mà sản xuất riêng lẽ không làm
được hoặc làm được nhưng hiệu quả không cao. Phải khẳng định rằng sản xuất theo
mô hình liên kết, hợp tác là nền tảng để tiến dần lên sản xuất lớn, là con đường ngắn
nhất để đưa nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất lớn.
Cần tuyên truyền sâu rộng để nông dân thay đổi tập quán canh tác cũ, nâng
cao nhận thức, kỹ năng trong việc tự quản lý lượng giống sạ phù hợp. Các địa
phương đã triển khai chương trình phát động giảm khối lượng giống lúa gieo sạ
trong canh tác lúa ở ĐBSCL. Chương trình này với mục tiêu giảm lượng giống lúa,
giảm chi phí đầu vào, giảm phân thuốc và tăng năng suất, sản lượng lúa gạo.
Cùng với việc tuyên truyền, vận động nông dân áp dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất, ngành nông nghiệp đẩy mạnh công tác khuyến nông, đưa nhiều bộ
giống mới, biện pháp canh tác mới để nông dân chuyển đổi tập quán tập quán sản
xuất. Tổ chức các buổi tọa đàm, thực tế nhằm giới thiệu các mô hình canh tác lúa có
hiệu quả để nông dân có thể làm theo.
Hội Nông dân cùng với các đoàn thể các địa phương cần đổi mới và nâng
cao chất lượng phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp
nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững. Các cấp hội đẩy mạnh hỗ trợ, hướng dẫn
nông dân phát triển các loại hình kinh tế tập thể gắn với hỗ trợ về vốn, vật tư,
132
chuyển giao khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất, kinh
doanh; tổ chức đào tạo nghề, nâng cao trình độ sản xuất thâm canh; huy động tối đa
các nguồn vốn hỗ trợ nông dân gia tăng giá trị sản phẩm và khả năng cạnh tranh.
4.2.2. Nâng cao hiệu quả kinh tế của mô hình cánh đồng lớn ở đồng bằng
sông Cửu Long
Lợi ích kinh tế của nông dân và doanh nghiệp trong CĐL phụ thuộc vào hiệu
quả thiết thực của mô hình này. Thực tế cho thấy, khi hiệu quả của mô hình cao thì
mối liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp càng chặt chẽ, bền vững. Khi CĐL
mang lại hiệu quả kinh tế cao thì cả doanh nghiệp và nông dân điều không muốn
phá vỡ mối quan hệ liên kết, và khi đó, họ sẽ quan tâm đến lợi ích của chủ thể liên
kết với mình để giữ vững mối liên kết. Đây là tiền đề quan trọng hướng đến sự hài
hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong CĐL.
Để hạn chế những hậu quả do ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu, dịch bệnh
đến năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất lúa trong mô hình CĐL. Trên cơ sở
tận dụng lợi thế hiệu quả kinh tế theo quy mô dựa trên liên kết giữa nông dân và
doanh nghiệp trên CĐL. Khi giải pháp này được thực hiện sẽ giúp gia tăng năng
suất lao động, năng suất và sản lượng lúa, nâng cao thu nhập và lợi nhuận cho cả
nông dân và doanh nghiệp. Đây là cơ sở quan trọng cho sự hình thành và phát
triển bền vững mối quan hệ liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình
CĐL sản xuất lúa.
Để nâng cao hiệu quả kinh tế của mô hình CĐL ở ĐBSCL, thời gian tới cần
tập trung vào các biện pháp sau:
4.2.2.1. Quy hoạch, cải tạo lại đồng ruộng, đầu tư kết cấu hạ tầng vùng
cánh đồng lớn để thuận lợi cho ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và cơ giới hóa
Ở nước ta hiện nay, tiêu chí về quy mô diện tích CĐL được xác định linh
hoạt đảm bảo phù hợp với điều kiện tự nhiên của mỗi địa phương. Đối với vùng
ĐBSCL, diện tích CĐL có thể từ 300 ha đến 500 ha, những cánh đồng tương đối
lớn có thể có diện tích từ 500 ha đến 1.000 ha.
Theo Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg và Thông tư số 15/2014/TT-
BNNPTNT thì "Ủy ban nhân dân tỉnh căn cứ điều kiện địa phương quy định quy
mô diện tích tối thiểu dự án hoặc phương án CĐL phù hợp với điều kiện cụ thể".
Chính vì vậy, quy hoạch phát triển CĐL chỉ mang tính chất địa phương, chưa đặt
trong tổng thể của vùng nên ảnh hưởng đến cạnh tranh và phát huy lợi thế của
vùng. Bên cạnh đó, CĐL hiện nay chỉ giải quyết được bài toán giảm chi phí,
133
nâng cao năng suất lúa, còn bài toán chất lượng, tạo sự khác biệt so với sản phẩm
ngoài mô hình đặt trong điều kiện biến đổi khí hậu vùng ĐBSCL chưa có có lời
giải thật rõ ràng.
Trên thực tế, qua các kết quả nghiên cứu thời gian qua cho thấy, 30 huyện
trong tổng số 103 huyện của vùng ĐBSCL đã chiếm hơn 50% sản lượng lúa hàng
năm của cả vùng. Điều đó chứng minh cho việc ĐBSCL có thể trồng lúa ở nhiều nơi,
nhưng sản xuất lúa hàng hóa cạnh tranh chỉ nên tập trung ở một số nơi, còn lại, nên
ưu tiên cho các loại cây trồng, vật nuôi hay dành cho mục đích kinh tế khác hiệu quả
hơn. Bên cạnh đó, trong thời kỳ đổi mới, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, nhất
là việc thực hiện "khoán 10" ruộng đất được giao cho các hộ nông dân, nên vẫn tồn
tại tình trạng ruộng đất phân tán, manh mún. "Cả nước hiện nay có 12,6 triệu hộ nông
dân. Bình quân mỗi hộ có 2,2 lao động canh tác trên 0,4-1,2ha. Số hộ có diện tích
dưới 0,5 ha chiếm tới 61,2%. Nhiều nơi ở đồng bằng sông hồng và miền Trung chỉ
dưới 0,3ha/hộ, cá biệt có xã quy mô đất sản xuất dưới 0,1ha/hộ" [27].
Vì vậy, để xây dựng được những CĐL đáp ứng tiêu chí trên, nhằm nâng cao
hiệu quả kinh tế theo quy mô cần thiết phải có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ
tập trung ruộng đất bằng nhiều hình thức khác nhau. Bên cạnh đó, cần tiến hành cải
tạo, kiến thiết lại đồng ruộng, đầu tư hệ thống hạ tầng phù hợp nhằm thúc đẩy ứng
dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đẩy mạnh cơ giới hóa sản xuất
giúp nâng cao năng suất, chất lượng, giảm chi phí sản xuất. Chính sách thực hiện
nhiệm vụ này: tăng cường các biện pháp dồn điền, đổi thửa, cho phép nông dân tập
trung ruộng đất trên cơ sở mở rộng hạn điền, chuyển đổi, cho thuê ruộng đất lâu
dài… để hình thành những thửa ruộng lớn.
Tuyên truyền, vận động nông dân bang bờ, tạo thửa ruộng liền canh, liền
vùng để tăng cường cơ giới hóa. Cần có sự liên kết giữa các địa phương trong thực
hiện chủ trương này. Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong quản lý thửa đất, đồng
thời ứng dụng công nghệ laser để san bằng mặt ruộng, nâng cao hiệu quả canh tác.
Quản lý tốt dữ liệu đất đai trong điều kiện không có bờ ranh phân cách. Nhà nước
cần tạo niềm tin cho người dân, đồng thời hỗ trợ kinh phí thực hiện dự án này. Việc
bang bờ không nên thực hiện phổ biến mà nên tiến hành ở các vùng thuận lợi, có
diện tích lớn. Do đó, việc quy hoạch vùng sản xuất chuyên canh lúa nhằm phát triển
các CĐL là rất cần thiết.
Kinh nghiệm xây dựng CĐL ở Malaysia là một gợi ý hay có thể tham khảo,
mô hình CĐL ở huyện Sekimchan, tiểu bang Selangor có diện tích 3.000ha bằng
134
phẳng, được chia thành 2.000 mảnh ruộng, mỗi mảnh rộng 45-60m, dài 200-250m,
diện tích đúng là 1,2ha. Hệ thống đường giao thông và hệ thống thủy lợi nội đồng
được đầu tư kiên cố nhựa và bê tông hóa, hệ thống tưới tiêu và hệ thống thoát nước
riêng biệt tạo môi trường thuận lợi cho sinh trưởng của cây lúa. Tham gia mô hình
"CĐL" nông dân sản xuất cùng một giống chất lượng cao trên cùng một cánh đồng,
áp dụng kỹ thuật tiên tiến một cách đồng bộ, hiệu quả, góp phần tạo ra sản phẩm
đồng nhất về chất lượng và mẫu mã, tăng tính cạnh tranh sản phẩm trên thị trường
trong nước và quốc tế.
Hoàn thiện chính sách thúc đẩy quá trình tập trung ruộng đất trong sản xuất
nông nghiệp nhằm hướng đến xây dựng được những mảnh ruộng đủ lớn tạo điều
kiện thuận lợi cho việc liên kết dễ dàng hơn (do ít chủ thể việc ký kết hợp đồng
thuận lợi hơn, tạo điều kiện có những mảnh ruộng liền canh thuận lợi áp dụng các
quy trình canh tác tiên tiến). Tập trung ruộng đất tùy theo quy mô thị trường của
từng sản phẩm, đặc điểm tự nhiên, canh tác của từng địa phương trong vùng. Thúc
đẩy "dồn điền, đổi thửa", hỗ trợ thủ tục hành chính và hỗ trợ chi phí đo đạc, lên
phương án cho người nông dân trong quá trình thực hiện "dồn điền, đổi thửa", đẩy
nhanh tiến độ cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện "dồn
điền, đổi thửa"; Tập trung ruộng đất thông qua giao dịch đất đai như chuyển
nhượng, thuê lại, cho thuê lại đất sử dụng nông nghiệp, liên kết sản xuất... Nhà nước
có những chính sách hỗ trợ với những hộ nông dân tham gia vào THT, HTX sản
xuất nông nghiệp như chính sách hỗ trợ mua máy móc, thiết bị sản xuất nông
nghiệp, hỗ trợ đào tạo tập huấn kỹ thuật,…nhằm khuyến khích nông dân đóng góp
ruộng đất vào sản xuất.
Nhà nước tiến hành quy hoạch, minh bạch rõ ràng vùng sản xuất cho sản
phẩm mang tính chất lâu dài. Hướng đến việc cấp giấy phép sản xuất, hoạt động cho
vùng được quy hoạch. Toàn bộ hạ tầng, khoa học công nghệ, chính sách hỗ trợ của Nhà
nước sẽ được tập trung vào các vùng được quy hoạch. Sự kết hợp tổng lực đó sẽ tạo ra
lợi thế cạnh tranh, không những về điều kiện tự nhiên, mà còn về chi phí sản xuất, chi
phí giao dịch thương mại, áp dụng khoa học công nghệ, giảm rủi ro, không có sự
cạnh tranh lộn xộn giữa các doanh nghiệp, nông dân và doanh nghiệp phải tôn trọng
hợp đồng đã ký, nếu không sẽ bị phạt hoặc thu hồi giấy phép kinh doanh.
Thúc đẩy liên kết vùng trong thực hiện quy hoạch phát triển CĐL, nhất là
những vùng giáp ranh giữa các địa phương. Cần hướng tới quy hoạch tổng thể vùng
ĐBSCL trong phát triển CĐL tránh tình trạng cạnh tranh trong thu hút doanh
135
nghiệp và sử dụng có hiệu quả những diện tích đất phù hợp canh tác lúa, nhất là lúa
chất lượng cao. Việc quy hoạch vùng sản xuất phải dựa trên cơ sở thực hiện Quyết
định số 639/QĐ-BNN-KH về phê duyệt quy hoạch nông nghiệp, nông thôn vùng
ĐBSCL đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 trong điều kiện biến đổi khí hậu;
Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi
khí hậu… và dựa trên đánh giá tiền năng, lợi thế của các vùng sản xuất lúa trong
vùng ĐBSCL. Thúc đẩy mối liên kết vùng trong thực hiện quy hoạch vùng sản xuất
lúa, hạn chế sự cạnh tranh của các địa phương trong thu hút đầu tư vào nông nghiệp.
Tập trung xây dựng vùng lúa chất lượng cao liên kết theo CĐL. Hình thành
vùng nguyên liệu lúa hàng hóa chất lượng cao với quy mô lớn gắn kết với tiêu thụ.
Khai thác tối đa tiềm năng năng suất, nâng cao chất lượng lúa hàng hóa, giảm giá
thành sản xuất thông qua tổ chức liên kết sản xuất. Xây dựng nền sản xuất nông
nghiệp hiện đại, phát triển dịch vụ nông nghiệp, nông thôn, đẩy mạnh cơ giới hóa
trong sản xuất, phát triển toàn diện theo hướng bền vững và góp phần nâng cao
năng lực cạnh tranh của sản phẩm; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia,
đáp ứng tốt nhu cầu về tiêu dùng, đẩy mạnh xuất khẩu.
4.2.2.2. Đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào quá
trình sản xuất lúa trong mô hình cánh đồng lớn
Tiến bộ công nghệ cần được hiểu đầy đủ ở 2 góc độ: 1) Đó là những thành
tựu khoa học, những nguyên lý, thử nghiệm và cải tiến sản phẩm, quy trình công
nghệ hay thiết bị kỹ thuật; 2) Là sự áp dụng phổ biến các kết quả nghiên cứu, thử
nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của sản xuất. Nghiên
cứu và phát minh, sáng chế sẽ tạo ra kiến thức, còn quá trình triển khai và cải tiến sẽ
đưa kiến thức mới vào sản xuất. Theo các cách hiểu rộng hơn, tiến bộ công nghệ
còn thu được qua quá trình "học thông qua làm" (Learning by doing). Theo đó, công
nhân, người quản lý, nhà đầu tư tích lũy kinh nghiệm và kết quả là có thể tăng hiệu
quả sản xuất trong tương lai.
Vai trò xuyên suốt của tiến bộ công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế bền
vững đã được nhiều nhà kinh tế khẳng định, đối với các nước đang phát triển trên 2
lĩnh vực lớn, nhất là nông nghiệp (công nghệ sinh học) và thông tin - truyền thông
(công nghệ thông tin và truyền thông).
Đẩy mạnh công tác ứng dụng, chuyển giao khoa học và kỹ thuật cho nông
dân, các hợp tác xã trồng lúa; tập huấn, nâng cao ứng dụng kỹ thuật "3 giảm, 3
tăng" vào sản xuất (giảm lượng giống gieo sạ, giảm lượng thuốc trừ sâu, giảm lượng
136
phân đạm, tăng năng suất cây trồng, tăng chất lượng nông sản, tăng hiệu quả kinh tế);
hoặc "1 phải, 5 giảm" (phải dùng giống xác nhận, giảm lượng nước vừa đủ, giảm thất
thoát sau thu hoạch, giảm lượng giống gieo sạ, giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật,
giảm phân bón) hay "1 phải, 6 giảm" - giảm thứ 6 là giảm khí phát thải được tạo ra mà quan tâm nhất là khí CO2 và CH4. Xây dựng và nhân rộng mô hình sản xuất lúa theo tiêu chuẩn VietGAP. Các tiến bộ khoa học, công nghệ được áp dụng một cách đồng bộ
trong CĐL sẽ rút ngắn chênh lệch về năng suất trồng giữa các hộ tham gia mô hình và
nâng cao năng suất bình quân toàn cánh đồng. Đây cũng là con đường để tái cơ cấu sản
xuất; xây dựng nền nông nghiệp hiện đại thông qua liên kết với doanh nghiệp cung ứng
vật tư và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân và là biện pháp cơ bản để tăng năng suất, hạ
giá thành nông sản và tăng thêm lợi nhuận cho nông dân.
Đẩy mạnh phát triển công nghệ bảo quản trong sản xuất lúa. Công nghệ bảo
quản có vai trò quan trọng đối với việc bảo quản giá trị sử dụng và gia tăng giá trị
hàng hóa. Các công trình nghiên cứu được công bố thời gian qua cho thấy, nếu sử
dụng công nghệ hiện đại để bảo quản nông sản thì tỷ lệ tổn thất chỉ khoảng 0,1-
0,2%, còn nếu sử dụng công nghệ lạc hậu thì tỷ lệ đó là 1%-2%. Theo báo cáo tổng
kết tổn thất sau thu hoạch lúa ở ĐBSCL, về khối lượng lúa là 13% và về giá trị là
12%, cộng dồn tổng thiệt hại đến 25% [126]. Đối với vùng ĐBSCL, nơi trọng điểm
sản xuất lúa của cả nước, việc phát triển công nghệ bảo quản cần hướng vào đầu tư
xây dựng hệ thống sấy lúa công nghiệp kết hợp với hệ thống kho chứa lúa khô công
suất lớn. Bởi sấy lúa là khâu quan trọng nhất để giảm tổn thất sau thu hoạch về khối
lượng và chất lượng hạt gạo.
Do đó, thực hiện giải pháp này cần tập trung vào các nội dung sau:
Áp dụng cơ giới hóa đồng bộ, đặc biệt là khâu thu hoạch và bảo quản nông
sản. Dùng máy móc cơ giới thích hợp cho từng vùng sinh thái từ khâu làm đất, tưới
tiêu, gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch, phơi sấy, bảo đảm tồn trữ để giảm thất thoát sau
thu hoạch, giảm công lao động và gia tăng gia trị nông sản hàng hóa.
Nhà nước cần hỗ trợ các HTX, các doanh nghiệp đầu tư máy móc, thiết bị;
xây dựng các công trình hạ tầng phục vụ liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa gạo, ưu
tiên các vùng sản xuất tập trung, có nhiều mô hình liên kết.
Tranh thủ các dự án hỗ trợ khoa học công nghệ thông qua các trường Đại
học, các viện nghiên cứu, các chương trình trong các dự án biến đổi khí hậu để hỗ
trợ, hướng dẫn, tập huấn nhằm tăng cường năng lực ứng dụng tiến bộ khoa học
công nghệ cho nông dân canh tác lúa như: Dự án về chuyển giao tiến bộ khoa học
137
kỹ thuật trong canh tác lúa của chương trình IPM từ các dự án như Dự án WB6, dự
án GIZ, dự án VnSAT….
4.2.2.3. Xây dựng những cánh đồng lúa lớn chất lượng cao gắn với xây
dựng thương hiệu và xuất khẩu vào thị trường khó tính
Việc xây dựng những cánh đồng lúa lớn với những giống lúa chất lượng cao,
quy trình quản lý sạch, từng bước xây dựng thương hiệu sản phẩm là biện pháp
quan trọng nâng cao hiệu quả của mô hình CĐL.
Cần thay đổi nhận thức của cả nông dân và doanh nghiệp nhằm thay đổi tư
duy chuyển từ "lượng" sang "chất". Cánh đồng lúa chất lượng cao đang được hình
thành và mở rộng sẽ tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ nhằm nâng cao chất lượng
cây lúa, đồng thời áp dụng rộng rãi tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất, thâm canh giúp
gia tăng lợi ích của nông dân và doanh nghiệp.
Chú trọng tới việc phát triển cây lúa chất lượng cao thông qua xây dựng các
mô hình trình diễn để tìm ra những giống lúa phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng của
địa phương. Hướng đến lựa chọn những giống lúa có phẩm cấp và chất lượng như
P6, Thiên Ưu 8, PC6, HC95, Hương Thơm, TBR225, ST24, ST25… Đây là những
giống lúa trung và ngắn ngày, có khả năng chống chịu, thích nghi tốt với môi
trường và cho năng suất đạt từ 58- 60 tạ/ ha, chất lượng gạo thơm ngon, được người
tiêu dùng trong và ngoài huyện quan tâm, tin dùng.
Cần chú trọng phát triển các thị trường có nhu cầu nhập khẩu gạo có chất
lượng, giá trị cao. Bộ NN&PTNT cần tăng cường phối hợp với các bộ, ngành, địa
phương, các tham tán thương mại tại nước ngoài đẩy mạnh quảng bá thương hiệu
gạo Việt Nam, đồng thời tiếp tục đồng hành với doanh nghiệp trong phát triển, mở
rộng thị trường. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng
thương hiệu, xúc tiến thương mại đối với các mặt hàng gạo chất lượng cao. Đầu tư
nghiên cứu giống mới, quy trình canh tác và xây dựng thương hiệu hạt gạo Việt
Nam. Chính quyền các cấp đã định hướng phát triển, vận động người dân tham gia
liên kết sản xuất. Khi tham gia, các nhà khoa học sẽ đến tận nơi để chuyển giao
khoa học kỹ thuật, cách chăm sóc, gieo trồng giống lúa mới. Đồng thời nhà nước và
doanh nghiệp cũng có chính sách hỗ trợ một phần về phân bón, tiền giống, tạo điều
kiện cho người dân tham gia sản xuất.
Thực tế cho thấy, việc sản xuất lúa chất lượng cao, lúa đặc sản cần các điều kiện riêng, đặc biệt là thổ những, khí hậu, đồng thời phải tuân thủ nghiên ngặc các quy trình canh tác. Do đó, cần quy hoạch vùng CĐL sản xuất lúa chất lượng cao,
138
lúa đặc sản phù hợp với các điều kiện sản xuất và cách ly với các cánh đồng lúa thường là rất cần thiết.
Để thực hiện có hiệu quả các biện pháp trên cần đảm bảo các yêu cầu sau: Phải tăng cường huy động vốn từu nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp, cùng với sự hỗ trợ giúp đỡ của Nhà nước về thủ tục pháp lý và vốn để quy hoạch, cải tạo lại đồng ruộng. Tăng cường sự hỗ trợ của nhà khoa học trong việc đẩy mạnh áp dụng, chuyển giao những tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, cải tạo đồng ruộng.
Nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp tham gia liên kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm, xây dựng CĐL là lực lượng chủ yếu thực hiện giải pháp này với sự hỗ trợ của nhà nước.
4.2.3. Hoàn thiện mô hình liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu Long đảm bảo gắn kết chặt chẽ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp
Mô hình liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thời gian qua còn thiếu chặt chẽ, tính bền vững không cao, chính vì vậy, đây sẽ là một trong các giải pháp góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ liên kết sản xuất hiệu quả, bền vững trong mô hình CĐL và đó cũng là giải pháp tạo sự thống nhất, hài hòa quan hệ LIKT giữa doanh nghiệp và nông dân.
Thực tiễn liên kết sản xuất lúa theo CĐL ở ĐBSCL cho thấy, tình trạng phá vỡ hợp đồng liên kết còn khá phổ biến. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng này là do mô hình liên kết, các điều kiện ràng buộc trong liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp chưa tạo được sự gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng nhau chia sẽ lợi ích và rủi ro. Nông dân và doanh nghiệp chưa thật sự "đi chung một con thuyền". Do đó, để nông dân và doanh nghiệp gắn kết với nhau bền vững hơn cần xây dựng mô hình liên kết chặt chẽ giữa nông dân (các tổ chức đại diện của nông dân) với doanh nghiệp trong CĐL theo hướng "cùng nhau chia sẻ LIKT và rủi ro".
Thời gian tới, cần tập trung các biện pháp sau: Cần tạo điều kiện cho nông dân góp cổ phần vào các doanh nghiệp liên kết thông qua các hình thức góp quyền sử dụng đất, hay góp các sản phẩm chính họ tạo ra sẽ giúp nông dân gắn bó hơn với doanh nghiệp. Nông dân vừa có LIKT thông qua bán lúa, vừa có thêm LIKT từ cổ tức của doanh nghiệp. Ngược lại, doanh nghiệp sẽ góp vốn vào các THT, HTX của nông dân, gia tăng vốn sản xuất cho nông dân. Các hình thức góp vốn này sẽ giúp nông dân và doanh nghiệp tạo được niềm tin cho nhau và gắn chặt hoạt động sản xuất kinh doanh với nhau, hướng đến LIKT lâu dài. Khi đó, cả doanh nghiệp, các THT, HTX phải công khai hoạt động
139
sản xuất kinh doanh, lợi nhuận và sẽ hạn chế được tình trạng ép giá của các doanh nghiệp khi ở vị thế cao hơn, qua đó minh bạch và đảm bảo hài hòa LIKT của các cả nông dân và doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, Nhà nước và các doanh nghiệp có thể nghiên cứu đấu thầu tiêu thụ lúa trên những CĐL, giúp nông dân có thể gia tăng được LIKT của mình. Khuyến khích các THT, HTX tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị lúa gạo với doanh nghiệp, tham gia thực hiện dịch vụ vận chuyển lúa cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp chuyên tâm vào khẩu chế biến, tiêu thụ và gia tăng được thu nhập cho nông dân trong các CĐL.
Quá trình liên kết, các doanh nghiệp phải gắn với các tổ hợp tác, hợp tác xã để cùng xây dựng chuỗi giá trị gắn sản xuất, chế biến với tiêu thụ. Doanh nghiệp không thể nào ký hợp đồng đơn lẻ với một vài nông dân mà phải tổ chức, phát triển các tổ hợp tác và hợp tác xã để ký kết hợp đồng với doanh nghiệp có như vậy thì sự liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp mới hiệu quả và bền vững. Việc liên kết giữa nông dân, doanh nghiệp và các hợp tác xã có thể thực hiện theo mô hình sau:
Hỗ trợ, giám sát
Hợp đồng cung ứng
Nhà nước
Doanh nghiệp tiêu thụ lúa
Hỗ trợ, Tuyên truyền
Hợp đồng liên kết
Thu mua lúa
Chính quyền địa phương
Tư vấn, hỗ trợ,
Doanh nghiệp/ Cơ sở cung ứng đầu vào (Giống, phân bón, thuốc BVTV)
Hội đoàn thể chính trị Hợp tác xã nông nghiệp
Bán lúa
Cung ứng
Hợp đồng
Khuyến nông, BVTV
Tư vấn, hỗ trợ,
HND
HND
Nhà khoa học
HND HND
HND HND
Viện, Trường
Sơ đồ 4.1: Đề xuất mô hình liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp
sản xuất lúa theo cánh đồng lớn Nguồn: Tổng hợp của tác giả. Các tác nhân chính tham gia mô hình liên kết gồm: - Doanh nghiệp tiêu thụ lúa, cung cấp yếu tối đầu vào: Hợp đồng liên kết xây
dựng CĐL với HTX.
140
- Hợp tác xã nông nghiệp: Là tác nhân chủ đạo điều phối liên kết xây dựng
CĐL, đại diện cho các hộ nông dân trồng lúa.
- Cơ quan Nhà nước, bao gồm: i) Chính quyền địa phương (Đảng ủy, UBND
xã); ii) Cơ quan cung cấp dịch vụ công của nhà nước: khuyến nông, BVTV; iii) Các
Hội, đoàn thể chính trị cơ sở.
- Nhà khoa học: các Viện nghiên cứu, trường đại học, các tổ chức Khoa học
công nghệ.
Trong mô hình trên, Hợp tác xã nông nghiệp là tác nhân chủ đạo điều phối
liên kết xây dựng CĐL, đại diện cho các hộ nông dân trồng lúa hợp đồng liên kết
với doanh nghiệp tiêu thụ lúa đặt dưới sự hỗ trợ, giám sát, tư vấn của Nhà nước và
Nhà khoa học. Hợp tác xã thu mua lúa từ nông dân và bán lại cho doanh nghiệp liên
kết, đồng thời có thể đảm nhận luôn khâu vận chuyển đến kho cho doanh nghiệp
góp phần tăng thu nhập và hiệu quả.
Doanh nghiệp tiêu thụ lúa có thể hỗ trợ ứng trước một phần giống và vật tư
phân bón, thuốc BVTV từ đầu vụ cho các hộ sản xuất lúa thông qua HTX. Doanh
nghiệp không làm việc trực tiếp với hộ nông dân mà ký kết hợp đồng với các hợp
tác xã. Việc doanh nghiệp ký kết hợp đồng với hợp tác xã sẽ hiệu quả và giá trị
pháp lý của hợp đồng được đảm bảo hơn.
Nhà nước thực hiện quy hoạch và công bố quy hoạch vùng CĐL sản xuất
lúa; Hỗ trợ xây dựng CSHT phục vụ CĐL: đường giao thông, thủy lợi; Hỗ trợ
doanh nghiệp và HTX vay vốn đầu tư hệ thống sấy lúa, kho chứa; Đảng ủy, UBND,
các Hội đoàn thể chính trị cần tuyên truyền, vận động nông dân thực hiện liên kết
xây dựng CĐL, tuân thủ hợp đồng đã ký; Hỗ trợ xây dựng và giám sát thực hiện
hợp đồng. Đồng thời làm trung gian hòa giải trong trường hợp các bên xảy ra tranh
chấp; Chỉ đạo lịch thời vụ sản xuất lúa: làm đất, xuống giống, thu hoạch trên cơ sở
phù hợp với thực tiễn địa phương và nhu cầu của doanh nghiệp và HTX; Hỗ trợ
cung cấp dịch vụ công phục vụ sản xuất lúa (khuyến nông, BVTV): hướng dẫn kỹ
thuật sản xuất, theo dõi và hỗ trợ xử lý dịch bệnh.
Nhà Khoa học cần nghiên cứu, chuyển giao khoa học kỹ thuật cho hộ nông
dân: giống mới, quy trình kỹ thuật canh tác lúa tiên tiến; Hướng dẫn, tập huấn kỹ
thuật cho hộ nông dân; Tư vấn, hỗ trợ nâng cao năng lực cho các HTX liên kết.
Điều kiện và chủ thể thực hiện giải pháp:
Để thực hiện giải pháp này, các doanh nghiệp cần tạo điều kiện cho nông dân
141
tham gia hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, minh bạch hóa hoạt động quản lý của
doanh nghiệp tạo niềm tin lâu dài với nông dân.
Doanh nghiệp và nông dân là các chủ thể chính thực hiện giải pháp này, Nhà
nước tham gia hỗ trợ pháp lý, và các điều kiện cho liên kết tài sản giữa nông dân và
doanh nghiệp. Nhà nước nghiên cứu, tổng kết thực tiễn các mô hình liên kết có hiệu
quả từ đó có biện pháp nhân rộng.
4.2.4. Nâng cao giá trị pháp lý và hoàn thiện cơ chế thực hiện hợp đồng
kinh tế giữa nông dân (tổ chức đại diện của nông dân) và doanh nghiệp trong
phát triển cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu Long
Hiện nay, liên kết kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp chủ yếu được thực
hiện thông qua các hợp đồng kinh tế. Hiện nay, các hợp đồng liên kết vẫn còn mang
tính hình thức, chỉ có khoảng 305 mô hình liên kết thực sự có hoạt động đầu tư,
chuyển giao khoa học - kỹ thuật gắn với tiêu thụ nông sản. Mức độ liên kết giữa
nông dân và doanh nghiệp còn lỏng lẻo, chưa xác định hài hòa LIKT các bên; tình
trạng hợp đồng bị vi phạm và phá vỡ cam kết vẫn thường xuyên xảy ra. Cơ chế thực
thi pháp luật trong xử phạt vi phạm hợp đồng hoặc phá vỡ cam kết giữa doanh
nghiệp và nông dân gặp nhiều khó khăn.
Để nâng cao giá trị pháp lý và hoàn thiện cơ chế thực hiện hợp đồng kinh tế
giữa nông dân và doanh nghiệp, cần tập trung vào các biện pháp sau:
(1) Xây dựng niềm tin giữa doanh nghiệp và nông dân đóng vai trò quan
trọng, xây dựng niềm tin là "chiến lược" để kết nối các bên tham gia. Theo kinh
nghiệm và cách làm của các doanh nghiệp trên thế giới để làm được điều này cần
xây dựng các doanh nghiệp có tiềm lực mạnh về vốn, tài chính, khoa học và công
nghệ, cách tổ chức và cách làm chuyên nghiệp.
(2) Mức độ bền vững của liên kết hay nói khác đi các liên kết dài lâu, bền
chặt không phụ thuộc vào các hợp đồng phi chính thức, hợp đồng riêng hay cả hợp
đồng bằng văn bản mà phụ thuộc vào cơ chế thực thi, cơ chế thưởng phạt có hiệu
lực nhằm đảm bảo các bên tham gia tuân thủ đúng các quy định, các điều ước đã
được thiết lập trong hợp đồng. Để đảm bảo tính hiệu quả của liên kết giữa nông dân,
nhà cung ứng các yếu tố đầu vào và nhất là các doanh nghiệp thu mua, tiêu thụ sản
phẩm phải có tính pháp lý cao, quy định rõ trách nhiệm và nghĩa của mỗi bên tham
gia ký kết hợp đồng và phải đảm bảo gắn với lợi ích cụ thể của từng chủ thể. Bên
cạnh đó, nhà nước có chính sách khuyến khích, có cơ chế chế tài xử phạt phù hợp,
142
kịp thời đối với tất cả doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức vi phạm hợp đồng để bảo vệ
LIKT của nông dân và doanh nghiệp.
(3) Hiện nay, vấn đề đặt ra đối với mô hình CĐL là giải quyết đúng đắn, hài
hòa về LIKT giữa người nông dân và doanh nghiệp, để doanh nghiệp và nông dân
tin tưởng nhau nhìn thấy lợi ích lâu dài từ mô hình liên kết này, tôn trọng và thực
hiện đầy đủ nội dung của hợp đồng, không phá vỡ hợp đồng khi có biến động giá
cả. Do đó, cần thực hiện: (i) Việc ký kết hợp đồng cần linh hoạt và bổ sung các nội
dung cần thiết nhằm nâng cao tính pháp lý và đảm bảo hài hòa lợi ích của các bên;
thực hiện công khai minh bạch, triển khai đến các tổ chức đại diện nông dân và có
sự tham gia của các cơ quan chức năng có thẩm quyền có liên quan giám sát việc ký
kết hợp đồng; (ii) Theo dõi, giám sát việc ký kết và thực thi các hợp đồng liên kết
sản xuất của doanh nghiệp với tổ chức đại diện nông dân và nông dân trong CĐL;
tăng cường công tác quản lý địa bàn, kịp thời xử lý những vướng mắc, khó khăn,
tạo sự đồng thuận giữa doanh nghiệp và nông dân để liên kết sản xuất, cùng có lợi;
(iii) Đẩy mạnh công tác vận động, tuyên truyền và giám sát, phản biện các hoạt
động liên kết, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các bên thực hiện hợp đồng kinh tế trong
CĐL; (iv) Chính quyền các cấp cần nâng cao hơn nữa trách nhiệm để tạo những
điều kiện tốt nhất để các chủ thể tham gia vào sản xuất theo mô hình CĐL làm tròn
trách nhiệm; thường xuyên kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện hợp đồng để kịp
thời động viên, biểu dương những mặt làm tốt, khắc phục những mặt còn hạn chế,
kiên quyết xử lý các sai phạm, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.
(4) Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hợp đồng, cần thiết ban hành các mẫu
hợp đồng riêng trong liên kết sản xuất nông nghiệp với các điều khoản quy định
chặt chẽ. Xây dựng hệ thống chế tài phù hợp, đủ tính răng đe với các chủ thể khi vi
phạm hợp đồng đã ký kết. Các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với doanh
nghiệp và nông dân cần được thực hiện dựa trên cơ sở dữ liệu về mức độ thực hiện
hợp đồng của các chủ thể. Có các chính sách thưởng, phạt phù hợp đối với các chủ
thể thực hiện đúng, tốt và phạt nặng đối với các doanh nghiệp hoặc nông dân
thường xuyên phá vỡ hợp đồng. Các hợp đồng được ký kết cần đảm bảo sự hài hòa
về LIKT giữa các chủ thể, nhất là đối với nông dân. Cần tạo điều kiện để nông dân
tham gia thương thảo hợp đồng ký kết giữa nông dân và doanh nghiệp.
Điều kiện và chủ thể thực hiện giải pháp:
Để thực hiện tốt giải pháp này, cần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành
143
pháp luật của nông dân và doanh nghiệp. Nhà nước nghiên cứu ban hành các quy
định về mẫu hợp đồng, chế tài xử phạt hợp đồng… đảm bảo dễ thực hiện và có tính
hiệu lực cao.
Nông dân và doanh nghiệp là hai chủ thể chính với những vai trò khác nhau
là chủ thể chính thực hiện giải pháp này. Các tổ chức hợp tác xã, tổ hợp tác và nhà
nước tạo điều kiện thúc đẩy xây dựng các mối liên kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm
một cách hiệu quả và bền vững, tạo cơ sở vững chắc giải quyết tốt mối quan hệ
LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển CĐL.
4.2.5. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và tăng cường quản lý nhà nước đối
với hoạt động liên kết sản xuất lúa trong cánh đống lớn
Cánh đồng lớn là mô hình cần có sự liên kết chặt chẽ 4 nhà: Nhà nông, Nhà
Doanh nghiệp, Nhà nước, Nhà khoa học dựa trên những điều kiện cần và đủ, bản
thân chỉ có nông dân và doanh nghiệp thì rất khó phát triển và nhân rộng mô hình
này cũng như đảm bảo kết hợp hài hòa quan hệ LIKT. Chính vì vậy, Nhà nước cần
có những chính sách nhằm khuyến khích các chủ thể tham gia liên kết và chia sẽ
LIKT. Các biện pháp thực hiện thời gian tới:
4.2.5.1. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích đảm bảo
giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp trong
mô hình cánh đồng lớn
Nhà nước cần ban hành các chính sách hỗ trợ nông dân mua máy móc thiết
bị phục vụ sản xuất, thu hoạch, ưu tiên bảo hiểm nông nghiệp, tập trung đất đai quy
mô hợp lý, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào CĐL, chính sách
khuyến khích phát triển hợp tác xã, nhất là hợp tác xã liên kết sản xuất gắn với tiêu
thụ nông sản. Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của nhà nước đối với nông dân, doanh
nghiệp phải trực tiếp đến với họ, không qua khâu trung gian. Thời gian tới, Nhà
nước cần tập trung xây dựng và hoàn thiện các chính sách sau:
- Một là, xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách tập trung đất nông
nghiệp để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp quy mô lớn.
Cụ thể: i) Sửa đổi, bổ sung Luật đất đai 2013 theo hướng quy định rõ ràng
việc góp vốn chuyển quyền sử dụng đất và góp vốn không chuyển quyền sử dụng
đất. Xây dựng cơ chế pháp lý để doanh nghiệp nhận góp vốn thông qua nhận quyền
sử dụng đất có thể thế chấp để vay vốn ngân hàng; ii) Thúc đẩy tập trung ruộng đất
nông nghiệp thông qua việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc mua bán chuyển
144
nhượng quyền sử dụng đất; iii) Hỗ trợ HTX tiền thuê đất để thực hiện liên kết CĐL;
iv) Hỗ trợ về cơ sở hạ tầng đối với các diện tích mới được tích tụ, tập trung; v) Quy
hoạch vùng chuyên canh, đẩy mạnh đầu tư theo hình thức đối tác công-tư để xây
dựng kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh thu hút đầu tư của doanh nghiệp, HTX; vi) Xây
dựng tổ chức hỗ trợ pháp lý cho người dân góp vốn bằng đất cho HTX.
- Hai là, hoàn thiện các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp nông thôn, thực hiện liên kết xây dựng cánh đồng lớn.
Thời gian tới, Nhà nước cần: Tạo điều kiện, ưu đãi cho doanh nghiệp liên kết
thuê đất để xây dựng nhà xưởng, kho bãi, cơ sở bảo quản, chế biến nông sản; hỗ trợ
doanh nghiệp chi phí giải phóng mặt bằng, hỗ trợ chi phí thuê đất, miễn, giảm tiền
thuê đất; Hỗ trợ lãi suất vay vốn ưu đãi để doanh nghiệp có vốn đầu tư liên kết như:
i) Hỗ trợ ứng trước cho hộ nông dân; ii) Đầu tư kết cấu hạ tầng, trang thiết bị: kho
chứa, hệ thống sấy lúa, xay xát, đánh bóng gạo. Tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp xây
dựng dự án liên kết xây dựng CĐL với HTX: chi phí xây dựng kế hoạch sản xuất
kinh doanh; xây dựng quy trình sản xuất thu hoạch, bảo quản, chế biến, tiêu thụ bảo
đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. Vừa qua, Chính phủ mới ban hành Nghị định số
57/2018/NĐ-CP, ngày 17 tháng 4 năm 2018 về chính sách khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn (thay thế Nghị định
210/2013/NĐ-CP). Nghị định số 57/2018/NĐ-CP đã góp phần giải quyết được
những hạn chế, vướng mắc của Nghị định 210/2013/NĐ-CP. Tuy nhiên, các Bộ
ngành cần nhanh chóng ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện, đồng thời phổ
biến rộng rãi nội dung Nghị định đến các cấp chính quyền và các chủ thể tham gia
liên kết trong mô hình CĐL, nhất là doanh nghiệp.
Ba là, chính sách phát triển thị trường xuất khẩu gạo.
Thị trường tiêu thụ lúa gạo là nhân tố quyết định đến mối quan hệ liên kết giữa
nông dân và doanh nghiệp và tính bền vững của mô hình CĐL. Thực tiễn cho thấy,
khi thị trường lúa gạo gặp khó khăn, giá cả biến động thì mối liên kết giữa nông dân
và doanh nghiệp dễ bị rạng nứt, bởi lẽ nông dân thuộc diện dễ bị tổn thương trong
cuộc sống. Mâu thuẫn trong quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp nảy sinh.
Khi mô hình CĐL được nhân rộng trên phạm vi lớn hơn thì vấn đề thị trường càng
trở nên bức thiết. Việc ổn định thị trường "đầu vào", chi phí thấp, đồng thời giải
quyết tốt thị trường "đầu ra" sẽ tạo thuận lợi cho phát triển CĐL. Trong thời gian
tới, cùng với việc tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ lúa gạo xuất khẩu, các
145
doanh nghiệp cần chú trọng việc xây dựng, củng cố các thương hiệu lúa gạo đặc
trưng đáp ứng cả thị trường trong nước. Nâng cao hiệu quả công tác dự báo, phân
tích thông tin về thị trường, công khai rộng rãi thông tin để giúp nông dân tránh
được tình trạng "được mùa mất giá". Ban hành các quy định, hoàn thiện pháp luật
về hợp đồng kinh tế giữa doanh nghiệp và nông dân để giải quyết căn cơ vấn đề
"đầu ra" cho nông sản.
Khi CĐL được nhân rộng khắp cả nước, diện tích tham gia CĐL ngày càng
lớn, năng suất lúa càng cao thì vấn đề thị trường, nhất là thị trường lúa gạo sẽ càng
trở nên khó khăn. Do đó, trong thời gian tới, Chính phủ và Chính quyền các cấp cần
quan tâm, hỗ trợ giải quyết "đầu ra" cho lúa gạo trên CĐL.
Xây dựng các chính sách ưu đãi đặc biệt cho các doanh nghiệp đầu tư hiện đại
hóa chế biến gạo, các doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu, chế biến phụ phẩm từ lúa
gạo, hình thành tổ chức dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận được nguồn lực chính
sách, nhất là vốn và công nghệ.
Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao năng lực thu
mua và thực hiện tốt chính sách thu mua tạm trữ khi cần thiết. Tăng cường các
chính sách hỗ trợ xây dựng thương hiệu cho nông sản hàng hóa đối với các mô hình
CĐL. Tuyên truyền, vận động người dân và doanh nghiệp có trách nhiệm và nghĩa
vụ phải thực hiện tốt hợp đồng đã ký kết.
Xây dựng thương hiệu lúa gạo trên thị trường thế giới: rà soát các giống lúa
hiện có tại Việt Nam xác định các giống lúa cao sản, đặc trưng của Việt Nam để xây
dựng thương hiệu trên thị trường thế giới.
Xây dựng hệ thống thông tin thị trường nông sản nói chung và thị trường lúa
gạo nói riêng theo hướng toàn diện và hiện đại với ứng công nghệ 4.0 trong việc thu
thập và quản lý dữ liệu, khuyến khích sự tham gia của các đối tác công tư. Tăng
nguồn ngân sách xây dựng hệ thống thông tin thị trường nông sản và cảnh báo sớm
phạm vi trong nước và thế giới, đặc biệt theo dõi các nước đối thủ cạnh tranh với
nông sản của Việt Nam trên thị trường thế giới với ứng dụng công nghệ 4.0 như
ứng dụng Big Data. Nâng cao năng lực về khả năng nghiên cứu, phân tích và dự báo
thị trường lúa gạo và hỗ trợ cung cấp thông tin cho doanh nghiệp và nông dân.
Bốn là, xây dựng và hoàn thiện các chính sách nhằm phát huy vai trò của
nhà khoa học trong liên kết sản xuất theo trong mô hình cánh đồng lớn.
Thời gian qua, vai trò của Nhà khoa học trong CĐL còn chưa rõ nét, nhà
146
khoa học có thể từ phía doanh nghiệp (lực lượng FF) phụ thuộc vào các mục tiêu
của doanh nghiệp; có thể từ các cơ quan quản lý nhà nước, các viện nghiên cứu, các
dự án trong và ngoài nước phụ thuộc vào nguồn kinh phí của các dự án. Chính vì
vậy, chưa phát huy được tối đa vai trò của chủ thể rất quan trọng này. Thời gian tới,
cần tập trung vào các biện pháp sau:
Xây dựng các chính sách khuyến khích, hỗ trợ ứng dụng các tiến bộ khoa
học công nghệ vào trong sản xuất và chế biến lúa gạo, áp dụng các quy trình sản
xuất tiên tiến, hiệu quả. Chú trọng các khâu quan trọng như: lai tao, sản xuất các
giống lúa mới, đẩy mạnh cơ giới hóa, giảm thất thoát sau thu hoạch, xây dựng
thương hiệu…Khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường đầu tư nghiên cứu, ứng
dụng khoa học, công nghệ hiện đại và hướng dẫn chuyển giao kỹ thuật cho nông
dân trong các mô hình CĐL.
Nhà nước cần xác lập cơ chế tham gia của nhà khoa học rõ ràng hơn, các
doanh nghiệp có thể đặt hàng từ phía các nhà khoa học, Nhà nước cần có các chính
sách hỗ trợ hoạt động này của doanh nghiệp và nhà khoa học. Cần xây dựng cơ chế
chuyển giao các công trình nghiên cứu cho các chủ thể khai thác, ứng dụng nhằm gia
tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tranh thủ đội ngũ nhà khoa học đã về hưu, có
kinh nghiệm. Các đề tài đặt hàng sau khi nghiên cứu xong, các đề tài này sẽ được bàn
giao lại cho người đề xuất để có cơ chế quản lý cụ thể, minh bạch. Việc sử dụng vốn
đầu tư cho khoa học và công nghệ vào nông nghiệp hiệu quả cùng với cơ chế nghiên
cứu gắn với đầu ra sản xuất sẽ giúp nông nghiệp có được những sản phẩm có hàm
lượng khoa học kỹ thuật cao. Hàm lượng này chính là nguồn gốc để nâng cao giá trị
cũng như tạo lập thương hiệu cho hạt gạo Việt Nam. Để thực hiện tốt cơ chế này, cần
gia tăng nguồn vốn đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu của các đơn vị nghiên cứu
công lập, đẩy mạnh công tác xã hội hóa trong nghiên cứu. Trong điều kiện vốn còn
hạn chế, việc lựa chọn đề tài, lĩnh vực nghiên cứu là rất quan trọng, cần có sự ưu tiên
cho các lĩnh vực cấp thiết hơn. Cải cách thủ tục hành chính trong nghiên cứu khoa
học theo hướng gọn nhẹ, gắn với sản phẩm đầu ra, tạo điều kiện về thời gian cho các
nhà khoa học, quan tâm đãi ngộ đặc biệt đối với nhà khoa học đầu ngành, các chuyên
gia trong các cơ quan nghiên cứu.
Nghiên cứu thành lập quỹ nghiên cứu phát triển, xây dựng thương hiệu các
giống lúa mang thương hiệu quốc gia. Nguồn thành lập có thể huy động từ việc thu
phí từ nguồn gạo xuất khẩu, chẳng hạn, nếu mỗi tấn gạo xuất khẩu chúng ta thu
147
1USD, thì mỗi năm chúng ta sẽ huy động được 6 triệu USD cho việc nghiên cứu
giống lúa, quy trình canh tác, xây dựng thương hiệu… qua đó giúp nâng cao giá trị
gia tăng cho sản phẩm lúa xuất khẩu, qua đó gia tăng thu nhập cho cả nông dân và
doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, Nhà nước có chính sách đào tạo nguồn nhân lực, chính sách ưu
đãi đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ sư nông nghiệp, kể cả của doanh nghiệp như
mô hình xây dựng lực lượng FF (Farmer’s Friend - Bạn của nông dân) mà Công ty
cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang ứng dụng trong xây dựng CĐL ở ĐBSCL thời
gian qua. Đào tạo Chủ tịch Hội đồng quản trị và Giám đốc của HTX như một doanh
nhân (về quản trị HTX, lập kế hoạch SXKD của HTX dựa trên lợi thế của HTX,
kiến thức về thị trường, nghiên cứu thị trường,.).
Năm là, phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp gắn với liên kết xây
dựng cánh đồng lớn.
Nhà nước cần hỗ trợ chi phí bảo hiểm nông nghiệp trên cơ sở căn cứ mức phí
bảo hiểm nông nghiệp theo thỏa thuận tại hợp đồng bảo hiểm ký kết giữa doanh
nghiệp với HTX nông nghiệp, hộ nông dân thành viên tham gia dự án liên kết. Nhà
nước cần có chính sách trợ cấp cho nông dân và các doanh nghiệp nông nghiệp khi
bị tổn thất vì thiên tai, bị rủi ro về biến động giá thị trường nông sản. Khuyến khích
các hình thức bảo hiểm nông nghiệp, nhằm hướng đến chia sẽ, giảm thiểu rủi ro
trong sản xuất - kinh doanh.
4.2.5.2. Tăng cường hỗ trợ vốn cho cánh đồng lớn
Những năm gần đây, diện tích cánh đồng lớn có liên kết bao tiêu giữa doanh
nghiệp và nông dân sụt giảm là do doanh nghiệp thiếu vốn, phía ngân hàng không
cho vay hoặc cho vay rất ít để thực hiện mô hình này. Dù cơ chế chính sách đã có
nhưng ngân hàng lại không tham gia, ngành hàng lúa gạo ít được ngân hàng chú ý,
thậm chí có khi còn tránh né. Làm cánh đồng lớn thì phải bao tiêu cho nông dân, khi
thu hoạch lúa thì phải có tiền trả cho họ. Lúc nhận lúa tươi tại ruộng cần phải có
máy sấy lúa, sau đó đưa vào si-lo bảo quản, nếu không có vốn sẽ không thể bao tiêu
cho nông dân, đầu tư máy sấy và kho chứa. Hiện nay, ngân hàng chỉ mới cho các
doanh nghiệp lúa gạo vay để xuất khẩu gạo bình thường, còn cho vay để thực hiện
mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi nhằm phát triển ngành hàng lúa gạo một cách
bền vững, thì hầu như chưa có ngân hàng nào làm. Thời gian tới, cần tập trung vào
các giải pháp sau:
148
- Triển khai nghiên cứu điều tra, rà soát, đánh giá tình hình thực hiện chính
sách tín dụng liên kết, đặc biệt là về chương trình thí điểm cho vay theo Nghị quyết
14/NQ-CP (Quyết định 1050/QĐ-NHNN, ngày 28/5/2014) cho vay theo chuỗi giá
trị sản xuất và ứng dụng công nghệ cao; kết quả triển khai Nghị định 55/2015/NĐ-
CP,.. Qua đó, đề xuất hoàn thiện chính sách tín dụng cho vay theo chuỗi giá trị và
nhân rộng trong toàn ngành nông nghiệp (quy mô nhu cầu thị trường; chủ thể tham
gia chuỗi; nhu cầu sản phẩm tài chính; các dịch vụ khác.).
- Tiếp tục cải cách, đơn giản hóa thủ tục tiếp cận tín dụng, đặc biệt là các thủ tục
về thế chấp tài sản đảm bảo… Vấn đề điều kiện để các HTX nông nghiệp có nhu cầu
vay vốn tiếp cận được các chương trình tín dụng (ưu đãi) cần được đơn giản hóa đến
mức tối thiểu. Theo đó, các yêu cầu về xác nhận, chứng minh liên quan đến địa bàn và
lĩnh vực hoạt động, tài sản đảm bảo và quy trình định giá tài sản (như theo các yêu cầu
của Nghị định 55/2015/NĐ-CP) cần được nhanh chóng rà soát và điều chỉnh, bổ sung
với những quy định mới (như Thông tư số 09/2016/TTLT-BTP-BTNMT và các quy
định cụ thể hơn về quy trình đánh giá, định giá tài sản đăng kí thế chấp).
- Cần có chính sách ưu đãi về nguồn vốn vay đầu tư mua máy cày, máy cấy,
máy san ủi đồng ruộng, máy tưới tiêu... hoặc máy sấy lúa, silo chứa lúa, máy xay
xát, chế biến lúa gạo để sản xuất canh tác và phục vụ trong cánh đồng lớn. Ngoài ra,
với vốn ngắn hạn để đầu tư giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật... đầu vụ và
thanh toán tiền lúa bao tiêu cho nông dân khi thu hoạch trong cánh đồng lớn.
4.2.5.3. Phát huy vai trò của các Hội đoàn thể, chính quền địa phương
trong đảm bảo giải quyết hài hòa lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp
trong cánh đồng lớn
Hiện nay, Nhà nước chưa xây dựng được các chế tài đủ mạnh để xử phạt các
bên tham gia liên kết, tình trạng "bẻ kèo" trong liên kết sản xuất và những quy định
liên quan đến trách nhiệm của các cấp ngành địa phương chưa rõ ràng. Khi ký hợp
đồng liên kết, hầu hết các hợp đồng đều qui định việc xử lý tranh chấp theo đúng
pháp luật nhưng việc thực thi rất khó khăn và kém hiệu lực. Khi có tranh chấp hợp
đồng xảy ra cả doanh nghiệp lẫn nông dân chưa quen cũng như không nghĩ đến
chuyện đưa nhau ra tòa án. Trong khi chính quyền cấp xã không có quyền hạn cũng
như năng lực xử lý tranh chấp hợp đồng. Tình hình đó làm cho hiệu lực của hợp
đồng không cao. Thời gian qua, vẫn còn tình trạng hộ nông dân không tuân thủ hợp
đồng đã ký với doanh nghiệp. Một số hộ nông dân mặc dù đã ký hợp đồng với bán
149
lúa cho doanh nghiệp, nhưng khi giá lúa bên ngoài do thương lái thu mua cao thì hộ
sẵn sàng không tuân thủ hợp đồng mà bán cho thương lái. Đây là khó khăn, trở ngại
rất lớn đối với nông dân cũng như doanh nghiệp khi ký hợp đồng liên kết. Thực tiễn
cho thấy, nơi nào chính quyền địa phương có quan tâm, tham gia tốt vào quá trình
ký kết hợp đồng tiêu thụ lúa gạo cho CĐL thì ở đó tình trạng phá vỡ hợp đồng ít
phổ biến hơn. Do đó, thời gian tới, Chính quyền các địa phương cùng các Hội đoàn
thể nên vào cuộc để giúp nhanh chóng khắc phục tình trạng trên, tạo niềm tin chiến
lược lâu dài giữa nông dân và doanh nghiệp.
Chính quyền các địa phương các tỉnh thành vùng ĐBSCL cần quy hoạch và
công bố vùng xây dựng CĐL để làm căn cứ thực hiện các chính sách hỗ trợ các tổ
chức nông dân (HTX, THT), hộ nông dân và doanh nghiệp liên kết CĐL sản xuất
lúa. Chính quyền địa phương nên định hướng tổ chức sản xuất nông nghiệp hàng
hóa lớn theo các quy trình đạt tiêu chuẩn. Phải quy hoạch được vùng sản xuất
hàng hóa đủ lớn để dễ dàng tiếp cận thị trường và đảm bảo đầu ra, tránh tình trạng
mang hình thức là cánh đồng thì "lớn" nhưng giao dịch thì "nhỏ", phân tán, tự
phát, manh mún như hiện nay. Trong mô hình, khuyến cáo chỉ sử dụng từ 1 - 2
loại giống cấp xác nhận phù hợp với nhu cầu thị trường. Đặc biệt, sự quan tâm
lãnh đạo của chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp xã là rất quan trọng trong việc
tuyên truyền vận động, quản lý địa bàn chặt chẽ; xác định giá lúa theo thị trường,
hỗ trợ xử lý các khó khăn, tranh chấp hợp đồng phát sinh. Củng cố xây dựng các
HTX, THT đảm bảo năng lực điều hành, thật sự là cầu nối có hiệu quả giữa nông
dân và doanh nghiệp, tránh tình trạng hình thức trong phát triển HTX.
Tập trung phát triển CĐL gắn kết với chương trình xây dựng xã nông thôn
mới, hợp tác xã kiểu mới; tổ chức hình thành những dịch vụ thu hoạch, thu gom lúa,
bốc xếp, vận chuyển, phơi sấy, bảo quản lúa,… hỗ trợ hiệu quả cho doanh nghiệp
lúc thu mua cao điểm. Nâng cấp và sửa chữa kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, nhất
là hạ tầng phục vụ cho khâu thu mua như cầu đường, nạo vét kênh rạch đảm bảo
cho phương tiện vận chuyển 30 - 50 tấn vào đến nơi nhận lúa.
Ngoài ra, chính quyền các địa phương vùng ĐBSCL phải tham gia tích cực,
trực tiếp chỉ đạo, huy động lực lượng xây dựng CĐL. Cần huy động cả hệ thống
chính trị ở cơ sở để phổ biến rộng rãi chủ trương, sự cần thiết, tính hiệu quả của
việc xây dựng CĐL gắn với quá trình tái cơ cấu nông nghiệp và quá trình xây dựng
nông thôn mới.
150
KẾT LUẬN
Cánh đồng lớn là hình thức tổ chức sản xuất trên cơ sở hợp tác, liên kết sản
xuất giữa người nông dân (tổ chức đại diện nông dân - tổ hợp tác, hợp tác xã) và
doanh nghiệp trong sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ nông sản hàng hóa tập
trung, chất lượng cao, tăng sức cạnh tranh của nông dân trên thị trường nhằm nâng
cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho nông dân và các đối tác tham gia liên kết.
Liên kết, hợp tác sản xuất trong CĐL, cả nông dân và doanh nghiệp đều đạt được
nhiều LIKT mà nổi bật là thu nhập và lợi nhuận của nông dân đều tăng lên; doanh
thu và lợi nhuận của doanh nghiệp cũng tăng lên đáng kể.
Tuy vậy, sự phát triển mô hình CĐL ở ĐBSCL còn chậm, quy mô diện tích
CĐL mới chỉ đạt khoảng 11% tổng diện tích sản xuất lúa của cả vùng. Tỷ lệ diện
tích thực hiện trên diện tích ký kết hợp đồng sản xuất - tiêu thụ giữa nông dân và
doanh nghiệp trong các CĐL còn thấp, nơi cao nhất cũng chỉ đạt 70% diện tích đã
ký kết bao tiêu. Số lượng doanh nghiệp tham gia mô hình CĐL còn ít, doanh nghiệp
quy mô lớn chưa nhiều. Sự phân chia LIKT trong chuỗi giá trị lúa gạo còn chưa thật
hợp lý, nông dân chưa đạt được mức lợi nhuận 30%, trong khi thương lái và doanh
nghiệp xuất khẩu đạt trên 70%. Nguyên nhân của tình trạng trên chủ yếu xuất phát
từ quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong CĐL còn nhiều hạn chế,
nhiều tồn tại, khó khăn trong sự phát triển như: nhận thức của nông dân và doanh
nghiệp về thực hiện LIKT còn nhiều hạn chế, nhất là nông dân; giá trị pháp lý của
các hợp đồng liên kết sản xuất chưa cao, kém hiệu lực; mô hình liên kết chưa thực
sự chặt chẽ, bền vững, chưa gắn kết được LIKT của các bên tham gia mô hình.
Để đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết hài hòa quan hệ LIKT giữa
nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL ở ĐBSCL, luận án đã trình bày,
phân tích 05 cơ hội, thuận lợi và 04 thách thức, khó khăn có tác động đến quá trình
phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của mô hình CĐL sản
xuất lúa, đảm bảo thực hiện tốt các LIKT và giải quyết hài hòa quan hệ LIKT giữa
nông dân và doanh nghiệp. Luận án đã nêu ra 03 quan điểm có tính định hướng giải
quyết hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển CĐL ở
ĐBSCL thời gian tới, bao gồm: Thứ nhất, giải quyết hài hòa quan hệ LIKT giữa
nông dân và doanh nghiệp trong CĐL trên cơ sở đảm bảo quyền và nghĩa vụ của
các bên tham gia liên kết; Thứ hai, giải quyết hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân
151
và doanh nghiệp trên cơ sở nâng cao hiệu quả kinh tế của mô hình CĐL và hoàn
thiện cơ chế phân phối LIKT cả trong ngắn hạn và trong dài hạn; Thứ ba, giải quyết
hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trên cơ sở xây dựng "Lợi ích
chung và niền tin lâu dài của hai bên". Luận án đã đề xuất 05 giải pháp nhằm giải
quyết hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trên cơ sở phát triển
hiệu quả, bền vững mô hình CĐL ở ĐBSCL thời gian tới. Các giải pháp: Thứ nhất,
nâng cao nhận thức của nông dân và doanh nghiệp về mối quan hệ LIKT trong phát
triển cánh đồng lớn; Thứ hai, nâng cao hiệu quả kinh tế của mô hình cánh đồng lớn
ở ĐBSCL; Thứ ba, hoàn thiện mô hình liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp
trong phát triển CĐL ở ĐBSCL đảm bảo gắn kết chặt chẽ LIKT giữa nông dân và
doanh nghiệp; Thứ tư, nâng cao giá trị pháp lý và hoàn thiện cơ chế thực hiện hợp
đồng kinh tế giữa nông dân (tổ chức đại diện của nông dân) và doanh nghiệp trong
phát triển CĐL ở ĐBSCL; Thứ năm, hoàn thiện cơ chế, chính sách và tăng cường
quản lý nhà nước đối với hoạt động liên kết sản xuất lúa trong mô hình CĐL.
Các giải pháp trên mang tính toàn diện, đồng bộ và khả thi sẽ góp phần giải
quyết tốt, hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình
CĐL ở ĐBSCL. Qua đó, góp phần thúc đẩy sự phát triển và nhân rộng mô CĐL ở
khu vực ĐBSCL thời gian tới, tiến tới xây dựng nền nông nghiệp sản xuất lớn, hiện
đại theo định hướng của Đảng./.
152
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. Đỗ Thế Tùng, Trần Hoàng Hiểu (2016), ''Phải nắm vững tính quy luật của
quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất hàng hóa quy mô lớn trong
nông nghiệp khi xây dựng và nhân rộng mô hình cánh đồng mẫu lớn'', Tạp
chí khoa học Cần Thơ, (02/56), tr.46-50.
2. Trần Hoàng Hiểu, Nguyễn Phú Son (2018), ''Phát triển cánh đồng lúa lớn ở
đồng bằng sông Cửu Long'', Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (30), tr.70-73.
3. Trần Hoàng Hiểu (2018), ''Lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp
trong mô hình "Cánh đồng lớn" ở đồng bằng sông Cửu Long - Thực trạng và
vấn đề đặt ra'', Tạp chí Thông tin khoa học chính trị, (03/12). tr.80-84.
4. Trần Hoàng Hiểu (2018), ''Hài hòa lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh
nghiệp - động lực phát triển mô hình cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu
Long'', Tạp chí Thông tin khoa học chính trị, (04/13). tr.58-62.
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phần tài liệu tiếng Việt:
1. AGPPS (2013), Báo cáo thực hiện Cánh đồng lớn - AGPPS, An Giang.
2. Hà Anh (2019), ''Phát huy tiềm năng, thế mạnh vùng Đông Nam Bộ và đồng
bằng sông Cửu Long'', tại trang http://dangcongsan.vn/kinh-te/phat-huy-tiem-
nang-the-manh-vung-dong-nam-bo-va-dong-bang-song-cuu-long-
531821.html, [truy cập ngày 14/08/2019].
3. Nguyễn Đức Bách (1988), Quan hệ lợi ích kinh tế của xã hội, của tập thể và
cá nhân người lao động trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tóm tắt Luận án Phó tiến sĩ Triết học, Học viện
Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội.
4. Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ (2018), Hội nghị Tổng kết năm 2017 và 15 năm
hoạt động của Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ diễn ra ngày 05/02/2018 tại thành
phố Cần Thơ, Cần Thơ.
5. Vũ Trọng Bình, Đặng Đức Chiến (2012), "Cánh đồng lớn: Lý luận và tiếp cận
trên thế giới và Việt Nam", Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông
nghiệp nông thôn.
6. Bộ Chính trị (2012), Kết luận số 28/KL-TW ngày 14/8/2012 về phương hướng,
nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh - quốc
phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2011-2020, Hà Nội.
7. Bộ Công Thương (2010), Tăng cường năng lực tham gia của hàng nông sản
vào chuỗi giá trị toàn cầu trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, Nxb Công
thương, Hà Nội.
8. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Hội nghị Đánh giá giữa kỳ kế hoạch 5 năm giai
đoạn 2016-2020 và xây dựng kế hoạch năm 2019 vùng Đông Nam Bộ và vùng
đồng bằng sông Cửu Long, Cần Thơ.
9. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2002), Quyết định số 77/2002/QĐ-
BNNPTNT ngày 28/8/2002 về hướng dẫn về mẫu hợp đồng tiêu thụ nông sản
hàng hóa thực hiện Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ
tướng Chính phủ, Hà Nội.
10. Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn (2011), Tiêu chí xây dựng cánh đồng
mẫu lớn, Nxb Nông nghiệp, thành phố Hồ Chí Minh.
154
11. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2014), Quyết định số 639/QĐ-BNN-KH
về phê duyệt quy hoạch nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 trong điều kiện biến đổi khí hậu, Hà Nội.
12. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2016), Quyết định số 1898/QĐ-
BNN-TT ngày 23/5/2016 về phê duyệt đề án Tái cơ cấu ngành lúa gạo Việt
Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội.
13. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2018), Báo cáo rà soát tái cơ cấu
trong lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2014-2017 và điều chỉnh kế hoạch cơ cấu
lại ngành trồng trọt giai đoạn 2018-2020, định hướng năm 2030, tháng
6/2018, Hà Nội.
14.
15.
16.
17.
''Cánh đồng mẫu lớn ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long - Bước đột phá trong nông nghiệp", tại trang http://wcag.mard.gov.vn/pages/news_detail. aspx? Newsid=19355, [truy cập ngày 15/6/2018]. ''Cánh đồng mẫu lớn - Xu thế phát triển của nền nông nghiệp hiện đại'', tại trang http://baovethucvatcongdong.info/en/node/32609, [truy cập ngày 12/7/2018]. ''Cánh đồng mẫu lớn giải quyết hài hoà bài toán lợi nhuận trong chuỗi sản xuất lúa'', tại trang http://www.canthoib.org.vn/Database/Content/475.pdf, [truy cập ngày 05/4/2019]. ''Cần khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất cánh đồng lớn gắn với tiêu thụ hiệu quả'', tại trang emoitruong.org, [truy cập ngày 24/02/2018]. 18. Chu Văn Cấp (1984), Lợi ích kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Những hình thức kết hợp và phát triển chúng trong lĩnh vực kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Kinh tế chính trị, bản dịch từ tiếng Nga sang tiếng Việt, đặt tại thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
19. Chu Văn Cấp, Lê Xuân Tạo (2013), "Cánh đồng mẫu lớn ở đồng bằng sông Cửu Long - mô hình sản xuất hiệu quả", Tạp chí Cộng sản, (số chuyên đề cơ sở), số 79, 7/2013).
20. Nguyễn Thị Kim Chi, Nguyễn Phúc Thọ (2013), "Giải pháp tăng cường liên kết nhà doanh nghiệp và nhà nông trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp", Tạp chí Kinh tế và phát triển, (187), tháng 1/2013.
21. Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh An Giang (2018), Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch cánh đồng lớn lúa, nếp năm 2017, An Giang, ngày 13 tháng 4 năm 2018, An Giang.
155
22. Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh An Giang (2019), Báo cáo kết quả thực hiện liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa gạo trên địa bàn tỉnh An Giang năm 2018 An Giang, ngày 05 tháng 3 năm 2018, An Giang.
23. Chi Cục Phát triển nông thôn thành phố Cần Thơ (2019), Báo cáo kết quả thực hiện kinh tế tập thể đến năm 2019, ngày 24 tháng 01 năm 2019, Cần Thơ. 24. Chính phủ (2017), Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày 16/11/2017 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2017 - 2020, Hà Nội.
25. Chính phủ (2017), Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, Hà Nội.
26. Chính phủ (2018), Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính
phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, Hà Nội.
27. Đỗ Kim Chung, Kim Thị Dung (2013), "Cánh đồng mẫu lớn trong nông
nghiệp: một số vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển", tại trang
luanvan.co/luan-van/canh-dong-mau-lon-trong-nong-nghiep-phat-trien-5080/,
[truy cập ngày 06/4/2019].
28. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên xuất nhập khẩu Kiên Giang
(2015), Phương án xây dựng cánh đồng lớn giai đoạn 2015-2020, Kiên Giang,
ngày 19/6/2015, Kiên Giang.
29. Cục Thống kê thành phố Cần Thơ (2010), Số liệu kinh tế xã hội đồng bằng
sông Cửu Long 2000-2009, Cần Thơ.
30. Vương Đình Cường (1992), Lợi ích kinh tế nông dân ở nước ta hiện nay, Luận
án Phó tiến sĩ kinh tế, Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội.
31. Nguyễn Quốc Dũng, "Vai trò của doanh nghiệp trong phát triển cánh đồng lớn
ở đồng bằng sông Cửu Long", tại trang (i)iasvn.org/tin-tuc/vai, [truy cập ngày
06/12/2018].
32. Nguyễn Quốc Dũng (2015), Hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của mô
hình "cánh đồng lớn" ở đồng bằng sông Cửu Long, Đề tài khoa học cấp bộ,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
33. Nguyễn Quốc Dũng (2016), Hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của mô
hình "cánh đồng mẫu lớn" ở đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Lý luận Chính
trị, Hà Nội.
156
34. Đại Bách khoa toàn thư Liên Xô (1972), Lợi ích kinh tế. Nguyễn Ái Quốc -
Trường đảng cao cấp), T10, M.1972, tr.321 - 321, tài liệu dịch số 43/1981), tr.2.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. ''Đẩy mạnh tuyên truyền nhân rộng mô hình cánh đồng lớn ở đồng bằng sông
Cửu Long" tại trang https://mic.gov.vn/nongthon/pa, [truy cập ngày
24/6/2018].
38. Đặng Quang Định (2010), Quan hệ lợi ích kinh tế giữa công nhân, nông dân
và trí thức ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Lương Định (2015), "An Giang: Nông dân làm giàu từ cánh đồng lớn", tại
trang baodansinh.vn/an-giang-nong-dan-lam-giau-tu-canh-dong-mau, [truy
cập ngày 11/11/2018].
40. Đỗ Huy Hà (2013), Giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế trong quá trình đô thị
hóa ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Hồ Quế Hậu (chủ biên, 2012), Liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến
nông sản với nông dân Việt Nam, Nxb Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
42. Văn Hiến (2011), "Hiệu quả thiết thực từ mô hình cánh đồng mẫu lớn", tại
trang bao:chinhphu.vn, [truy cập ngày 19/9/2018].
43. Trần Văn Hiếu (2005), Liên kết kinh tế giữa các hộ nông dân và doanh nghiệp
nhà nước qua khảo sát mô hình Nông trường sông Hậu, Công ty Mê Kông và
Công ty mía đường Cần Thơ, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc
gia, Hồ Chí Minh.
44. Trần Văn Hiếu (2013) "Cánh đồng mẫu lớn" - mô hình liên kết "4 nhà" bước đầu
có hiệu quả ở đồng bằng sông Cửu Long", Tạp chí Lý luận chính trị, số 11 (2012).
45. Trọng Hiếu (2016), ''Thúc đẩy liên kết, xây dựng cánh đồng lớn ở Đồng bằng
sông Cửu Long'', tại trang dangcongsan.vn/kinh-te/thuc-day-lien-ket-xay-
dung-canh-dong-lon-o-dong-bang-song-cuu-long-417866.html, [truy cập ngày
16/8/2019].
46. Trần Hoàng Hiểu (2014), ''Mô hình "Cánh đồng lớn" góp phần đưa nông
nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long đi lên sản xuất hàng hóa lớn, hiện
đại'', Tạp chí Cộng sản Chuyên đề cơ sở, (96), tr.55-60.
157
47. Trần Hoàng Hiểu (2014), ''Mô hình "Cánh đồng lớn" ở đồng bằng sông Cửu
Long - những vấn đề đặt ra và giải pháp phát triển'', Tạp chí Kinh tế và Quản
lý (ISSN 1859-4565), (12), tr.33-38.
48. Trần Hoàng Hiểu (2015), ''Phát triển hợp tác xã trong nông nghiệp ở Đồng
bằng Sông Cửu Long'', tại trang http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-
tien/item/974-phat-trien-hop-tac-xa-trong-nong-nghiep-o-dong-bang-song-
cuu-long.html, [truy cập ngày 20/8/2019].
49. Trần Hoàng Hiểu (2016), ''Mô hình "Cánh đồng lớn" ở một số nước và kinh
nghiệm đối với Đồng bằng Sông Cửu Long'', tại trang
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/quoc-te/item/1504-mo-hinh-
%E2%80%9Ccanh-dong-lon%E2%80%9D-o-mot-so-nuoc-va-kinh-nghiem-
doi-voi-dong-bang-song-cuu-long.html., [truy cập ngày 15/7/2019].
50. Trần Hoàng Hiểu (2016), ''Hoàn thiện và nhân rộng mô hình cánh đồng lớn ở đồng
bằng sông Cửu Long'', Tạp chí lý luận chính trị (ISSN 0868-2771), (4), tr.69-73.
51. Trần Hoàng Hiểu (2016), ''Lợi ích của nông dân và doanh nghiệp trong mô
hình "Cánh đồng lớn" ở đồng bằng sông Cửu Long'', Tạp chí Thông tin khoa
học chính trị (ISSN 2354-1474), (01/2), tr.52-56.
52. Trần Hoàng Hiểu, Đào Lộc Bình (2016), ''Một số vấn đề pháp lý trong phát
triển mô hình "cánh đồng lớn" hiện nay'', Tạp chí lý luận chính trị điện tử, tại
trang http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/1526-mot-so-van-
de-phap-ly-trong-phat-trien-mo-hinh-%E2%80%9Ccanh-dong-
lon%E2%80%9D-hien-nay.html, ngày 24/6/2016.
53. Trần Hoàng Hiểu (2016), ''Liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân trong sản
xuất nông nghiệp: Nhìn từ kinh nghiệm thế giới'', Tạp chí Kinh tế và Dự báo
(ISSN 0866-7120), (12), tr.52-54.
54. Trần Hoàng Hiểu, Nguyễn Phú Son (2018), ''Phát triển cánh đồng lúa lớn ở
đồng bằng sông Cửu Long'', Tạp chí Kinh tế và Dự báo (ISSN 0866-7120),
(30), tr.70-73.
55. Trần Hoàng Hiểu (2018), ''Lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp
trong mô hình "Cánh đồng lớn" ở đồng bằng sông Cửu Long - Thực trạng và
vấn đề đặt ra'', Tạp chí Thông tin khoa học chính trị (ISSN 2354-1474),
(03/12). tr.80-84.
158
56. Trần Hoàng Hiểu (2018), ''Hài hòa lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh
nghiệp - động lực phát triển mô hình cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu
Long'', Tạp chí Thông tin khoa học chính trị (ISSN 2354-1474), (04/13). tr.58-62.
57. ''Hiệu quả từ "cánh đồng mẫu lớn" ở các tỉnh phía nam'', tại trang
iasvn.org/tintuc/hieu-qua-tu-nhung-"canh-dong-mau-lon"-o-cac-t, [truy cập
ngày 06/7/2018].
58. Mai Huê (2019), Hà Nam phát triển cánh đồng mẫu, tại trang
https://nongnghiep.vn/ha-nam-phat-trien-canh-dong-mau-post236711.html,
[truy cập ngày 18/02/2019].
59. Phạm Thị Xuân Hương (2008), Lợi ích kinh tế của công nhân trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại miền Đông Nam Bộ hiện nay, Đề tài khoa
học cấp Bộ năm 2007, thành phố Hồ Chí Minh.
60. Lê Nguyễn Đoan Khôi, Nguyễn Ngọc Vàng (2012), Giải pháp nâng cao hiệu
quả tổ chức sản xuất tiêu thụ lúa gạo - trường hợp cánh đồng lớn tai An
Giang, Kỷ yếu khoa học 2012: 125-132, Trường đại học Cần Thơ.
61. Nguyễn Linh Khiếu (1999), Lợi ích động lực phát triển xã hội, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
62. Nguyễn Linh Khiếu (2002), Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
63. Laprinmenco (1978), Những vấn đề lợi ích trong chủ nghĩa Lênin, Nxb
Mátxcơva.
64. Trần Thị Lan (2012), Quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất của nông dân
để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở Hà Nội. Luận án Tiến sĩ
kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
65. Nguyễn Việt Long, Trần Đức Viên (2016), "Thúc đẩy liên kết với người sản
xuất trong nông nghiệp", tại trang tiasang.com.vn, [truy cập ngày 22/11/2018].
66. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
67. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
68. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
69. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 40, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
70. Võ Thị Thanh Lộc và Nguyễn Phú Son (2011), ''Phân tích chuỗi giá trị lúa gạo
vùng đồng bằng sông Cửu Long'', Tạp chí Khoa học trường Đại học Cần Thơ,
(19a), tr.96 - 108.
159
71. ''Lợi ích từ sản xuất theo mô hình cánh đồng lớn'', tại trang www.mard.gov.vn,
[truy cập ngày 19/10/2018].
72. Hoàng Văn Luân (2000), Lợi ích - động lực của sự phát triển xã hội bền vững,
Luận án Tiến sĩ Triết học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
73. C.Mác và Ph.Ăngghen (1971), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 25, phần II, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
77. C.Mác và Ph.Ăngghen (1997), Toàn tập, tập 26, phần I, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
78. Chi Mai, "Liên kết trong sản xuất: Xu thế phát triển tất yếu của nông nghiệp
hiện đại: tìm "chất kết dính"", tại trang (i)thetrang.vn/lien-ket-trong- san-xuat-
xu-the-phat-trien-tat-yeu, [truy cập ngày 05/2/2019].
79. Hoàng Mạnh, "Lợi ích tham gia cánh đồng mẫu lớn", tại trang
binhdien.com/dong-hanh-cung-nha-may-nong-/thong-tin-nha-nong/lo, [truy
cập ngày 05/2/2019].
80. "Mô hình cánh đồng mẫu: Niềm tin của nông dân", tại trang
baoangiang.com.vn/ mo-hinh-canh-dong-mau-lon-niem-tin-cua-nong (theo
Hoàng Lam, báo Bạc Liêu), [truy cập ngày 05/2/2019].
81. ''Mô hình cung ứng vật tư sản xuất chế biến tiêu thụ lúa "cánh đồng mẫu lớn"
của Công ty bảo vệ thực vật An Giang - AGPPS tại xã Vĩnh Châu (Châu
Thành) đang hoạt động hiệu quả'', Báo An Giang - Công ty bảo vệ thực vật An
Giang.
82. Đinh Nam (2015), " Nhìn lại 5 năm phát triển giáo dục và dạy nghề vùng đồng
bằng Sông Cửu Long", tại trang http://ptnlvn.gov.vn/baiviet.aspx?id=488#,
[truy cập ngày 10/8/2019].
83. ''Nâng giá trị thông qua liên kết sản xuất'', tại trang nhandan.com.vn/kinhte/item/39,
[truy cập ngày 16/2/2019].
84. Lâm Nguyễn (2017), ''Đồng bằng sông Cửu Long có thể ngập đến hơn 1m'',
tại trang https://baomoi.com/dong-bang-song-cuu-long-co-the-ngap-den-hon-
1m/c/23380284.epi, [truy cập ngày 26/6/2019].
85. Ngô Tuấn Nghĩa (2011), Bảo đảm quan hệ lợi ích hài hoà về sở hưu trí tuệ
trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
160
86. Vũ Văn Phúc, Trần Thị Minh Châu (đồng chủ biên, 2010), Chính sách hỗ trợ
của nhà nước ta đối với nông dân trong điều kiện hội nhập WTO, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
87. Võ Hữu Phước (2014), Nghiên cứu ứng dụng mô hình "liên kết bốn nhà" vào
thực tiễn sản xuất nông nghiệp nông thôn tỉnh Trà Vinh, Luận án Tiến sĩ kinh
tế phát triển, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
88. Nguyễn Phong Quang, Tâm Hữu Hiệp, Võ Hùng Dũng (2012), Phát triển kinh
tế vùng đồng bằng sông Cửu Long - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
89. Nguyễn Phong Quang, "Cơ cấu lại và phát triển bền vững nông nghiệp đồng
bằng sông Cửu Long trên cơ sở liên kết vùng", tại trang iasvn.org/tin-te, [truy
cập ngày 06/8/2018].
90. Quốc hội (2013), Luật Đất đai năm 2013 số 45/2013/QH13 ngày 29 tháng 11
năm 2013, Hà Nội.
91. Quốc hội (2014), Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 số 55/2014/QH13 ngày
23 tháng 6 năm 2014, Hà Nội.
92. B.B.Radaev (1971), Lợi ích kinh tế trong chủ nghĩa xã hội, Nxb Matxcơva.
93. David Ricardo (2002), Những nguyên lý của kinh tế chính trị học và thuế
khóa, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
94. Nguyễn Văn Sánh (2013), Đánh giá các hình thức liên kết sản xuất nông
nghiệp tại đồng bằng sông Cửu Long, Viện Nghiên cứu phát triển đồng bằng
sông Cửu Long, Đại học Cần Thơ.
95. Adam Smith (1997), Của cải của các dân tộc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
96. Nguyễn Phú Son (2018), Nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội của mô hình cánh
đồng lúa lớn tại đồng bằng sông Cửu Long, Đề tài khoa học cấp bộ, Trường
Đại học Cần Thơ, Cần Thơ.
97. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn An Giang (2014), Báo cáo kết quả
thực hiện xây dựng Cánh đồng lớn năm 2014, An Giang.
98. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn An Giang (2016), Hội thảo Bàn các
giải pháp xây dựng cánh đồng lớn trên cây lúa năm 2017 do Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn tỉnh Long An tổ chức, ngày 28/12/2016, An Giang
99. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cần Thơ (2017), Hội nghị tổng kết
sản xuất trồng trọt năm 2017, Cần Thơ.
161
100. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cần Thơ (2019), Báo cáo kết quả
thực hiện kinh tế tập thể đến năm 2019, ngày 24/01/2019, Cần Thơ.
101. Đỗ Nhật Tân (1991), Vai trò động lực của lợi ích kinh tế đối với sự nghiệp xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận án
Tiến sĩ Triết học, Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội.
102. Tập thể tác giả (1982), Bàn về lợi ích kinh tế, Nxb Sự thật, Hà Nội.
103. Mỹ Thanh (2019), "Nhân rộng ''Cánh đồng lớn'' sản xuất, tiêu thụ lúa gạo", tại trang
https://baocantho.com.vn/nhan-rong-canh-dong-lon-san-xuat-tieu-thu-lua-
gao-a109186.html, [truy cập ngày 15/6/2019].
104. Đinh Văn Thành (2010), Tăng cường năng lực tham gia của hàng nông sản
vào chuỗi giá trị toàn cầu, NXB Công Thương, Hà Nội.
105. Nguyễn Quốc Thịnh (2009), Xây dựng và phát triển thương hiệu cho nông sản
Việt Nam tham gia chuỗi giá trị toàn cầu - Đề tài cấp Nhà nước KX.01.16/06-10.
106. Tâm Thời (2018), "Hài hòa lợi ích nông dân và doanh nghiệp", tại trang
www.nhandan.com.vn/chinh, [truy cập ngày 12/3/2018].
107. Thời báo kinh tế Việt Nam (2019), Kinh tế 2018-2019, Việt Nam và thế giới, Hà Nội.
108. Thủ tướng Chính phủ (2002), Quyết định 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002
của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản thông
qua hợp đồng, Hà Nội.
109. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 1581/QĐ-TTg ngày 09/10/2009
của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch xây dựng vùng đồng bằng
sông Cửu Long đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội.
110. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Tái cơ cấu ngành nông nghiệp
theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững", Hà Nội.
111. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013
của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết
sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn, Hà Nội.
112. Thủ tướng Chính phủ (2018), Quyết định số 68/2018/QĐ-TTg ngày
15/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch
xây dựng vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm
2030, Hà Nội.
113. "Thúc đẩy liên kết, xây dựng cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu Long", tại
trang dangcongsan.vn/kinh-te/thuc-day, [truy cập ngày 28/11/2018].
162
114. Đoàn Xuân Thuỷ (2011), Chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
115. Phạm Thủy (2018), "Liên kết sản xuất giữa nông dân và doanh nghiệp: đa lợi
ích", tại trang kinhtenongthon.vn/lienket-s, [truy cập ngày 16/2/2018].
116. Tổng cục Thống kê (2016), "Thông báo cáo chí về kết quả sơ bộ tổng điều tra
nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản năm 2016'', tại trang
https://gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=382&ItemID=16177, [truy cập ngày
06/8/2019].
117. Tổng cục Thống kê (2018), Niên giám thống kê năm 2017, NXB Thống kê, Hà Nội.
118. Trạm Khuyến nông huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang (2018), Báo cáo Kết quả
thực hiện Dự án "Cánh đồng lớn" đáp ứng vùng nguyên liệu và ứng phó với
biến đổi khí hậu vụ Hè Thu 2018 của Trạm Khuyến nông huyện Tân Hiệp, tỉnh
Kiên Giang, Kiên Giang.
119. Trạm Khuyến nông Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang (2018), Báo cáo tổng kết kết
quả thực hiện dự án cánh đồng lớn đáp ứng vùng nguyên liệu và ứng phó với
biến đổi khí hậu huyện Tân Hiệp Vụ Đông Xuân 2017-2018, ngày 31 tháng 3
năm 2018, Kiên Giang.
120. Tresnôccôp, Đ.I (1973), Chủ nghĩa duy vật lịch sử với tính cách là xã hội học
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nxb Mátxcơva.
121. Vương Thoại Trung, "An Giang: Mô hình sản xuất cánh đồng mẫu lớn ở An
Giang mang lại hiệu quả tốt", tại trang nongthonmoi.angiang.gov.vn/ kinh-te-
nong-thon/2014/an-giang-vn, [truy cập ngày 06/12/2018].
122. Vương Thoại Trung, "Sản xuất theo mô hình cánh đồng lớn - Bài 1 - Cơ hội
để nông dân thoát nghèo", tại trang nongthonmoi.angiang.gov.vn/kinh-te -
nong-thon/2016/san-xuat, [truy cập ngày 12/12/2018].
123. Đỗ Thế Tùng, Trần Hoàng Hiểu (2016), ''Phải nắm vững tính quy luật của quá
trình chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất hàng hóa quy mô lớn trong nông
nghiệp khi xây dựng và nhân rộng mô hình cánh đồng mẫu lớn'', Tạp chí khoa
học Cần Thơ (ISSN 1859-025X), (02/56), tr.46-50.
124. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2016), Động lực và giải pháp đột phá phát
triển nông nghiệp An Giang và đồng bằng sông Cửu Long, Kỷ yếu Hội thảo
khoa học, An Giang.
163
125. Uỷ ban nhân dân thành phố Cần Thơ (2017), Quyết định số 2911/QĐ-UBND,
ngày 05/11/2017 về việc phê duyệt Kế hoạch xây dựng cánh đồng lớn thành
phố Cần Thơ đến năm 2020, định hướng 2025, Cần Thơ.
126. Mai Thị Thanh Xuân (2019), ''Công nghiệp chế biến với việc nâng cao giá trị
hàng nông sản xuất khẩu ở Việt Nam'', tại trang
ww.hids.hochiminhcity.gov.vn/web/guest/nang-luong-cong-nghiep-khai-
khoang?, [truy cập ngày 28/11/2019].
Phần tài liệu tiếng Anh:
127. Eaton, C. and Shepherd, A.. (2001), Contract farming: Partnerships for
Growth, FAO Agricultural Services Bulletin 145.
128. Guo, Hongdong and Robert W.Jolly, 2008, Contract Arrangements and
Enforcement in Transition Agriculture: Theory and Evidence in China, Food
Policy (33), 570-575.
129. Humphrey, J., 2005, Shaping Value Chains Development: Global Value
Chains in Agribusiness, Federal Ministry for Economic Coperation and
Development.
130. Rozhan Abu Dardak, 2015, "Cooperative Movement in the Supply Chain of
Agricultural Products: Way Forwards, International Seminar on Improving
Food Marketing Efficiency-the Role of Agricultural Cooperatives". NACF,
Seoul, Korea. September 14-18.
131. Ruofeng, N.I.U, 2006, "Industrialized Management of Agriculture in China:
Observations and Comments." Issues in Agricultural Economy, 3-2006.
132. Sukhpalsingh, 2002, "Contracting Out Solutions: Political Economy of
Contract Farming in the Indian Punjab", World Development, vol.30, issue 9,
pages 1621-1638.
133. Wiboonpoongse, A. and Sriboonchitta, S., 2002, "Faculty of Agriculture and
Faculty of Economics" - Chiang Mai University, Contract Farming in
Thailand.
134. Yiching Song, Gubo Qi, Yanyan Zhang & Ronnie Vernooy, 2014, "Farmer
cooperatives in China: diverse pathways to sustainable rural development",
International Journal of Agricultural Sustainability, Volume 12, 2014 - Issue 2.
Published online: 18 Nov 2013. Pages 95-108.
164
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Diện tích lúa cả năm các tỉnh thành vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Đơn vị tính: Nghìn ha
Sơ bộ
Năm
2010
2014
2015
2016
2017
Địa phương
Đồng bằng sông Cửu Long
3945,9 4249,5 4301,5 4241,1 4188,8
Long An
471,1
519,2
522,9
527,4
526,7
Tiền Giang
244,0
230,6
224,7
215,5
210,8
Bến Tre
80,2
66,6
63,0
41,5
58,4
Trà Vinh
232,7
235,8
235,8
210,6
220,2
Vĩnh Long
170,0
180,2
180,5
176,4
169,4
Đồng Tháp
465,1
528,6
546,0
551,4
538,3
An Giang
586,6
625,8
644,2
669,0
641,1
Kiên Giang
642,7
753,6
769,5
765,9
735,3
Cần Thơ
209,4
232,3
237,9
240,0
240,1
Hậu Giang
210,7
205,3
207,1
202,2
206,6
Sóc Trăng
349,6
363,9
362,7
356,6
348,2
Bạc Liêu
158,3
180,2
180,6
172,4
180,6
Cà Mau
125,5
127,4
126,6
112,2
113,1
Nguồn: Tổng cục thống kê (Niêm giám thống kê năm 2017).
165
Phụ lục 2
Năng suất lúa cả năm các tỉnh/thành vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Đơn vị tính: Tạ/ha
Sơ bộ
Năm
2010
2014
2015
2016
2017
Địa phương
54,7
59,4
59,5
56,2
56,4
Đồng bằng sông Cửu Long
48,9
55,1
55,8
53,1
50,2
Long An
54,1
59,4
59,8
58,8
59,3
Tiền Giang
45,7
47,9
44,3
21,1
41,1
Bến Tre
49,7
56,3
56,8
45,4
51,7
Trà Vinh
54,6
60,3
60,6
53,2
55,6
Vĩnh Long
60,4
62,4
62,0
61,6
59,6
Đồng Tháp
62,3
64,3
63,2
59,4
60,5
An Giang
54,4
60,1
60,3
54,3
55,2
Kiên Giang
57,1
58,9
59,2
58,2
57,8
Cần Thơ
51,7
58,7
62,4
60,9
61,0
Hậu Giang
56,3
62,3
62,7
60,9
60,5
Sóc Trăng
51,1
57,5
58,9
57,6
59,6
Bạc Liêu
39,7
43,3
36,7
40,3
39,4
Cà Mau
Nguồn: Tổng cục thống kê (Niêm giám thống kê năm 2017).
166
Phụ lục 3
Sản lượng lúa cả năm các tỉnh/thành vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Đơn vị tính: Nghìn tấn
Sơ bộ
Năm
2010
2014
2015
2016
2017
Địa phương
21595,6 25245,6 25583,7 23831,0 23633,5
Đồng bằng sông Cửu Long
Long An
2304,8
2860,6
2918,7
2802,2
2643,2
Tiền Giang
1320,6
1370,3
1344,4
1268,1
1249,3
Bến Tre
366,8
318,9
278,8
87,6
239,8
Trà Vinh
1156,0
1326,9
1339,5
956,3
1137,4
Vĩnh Long
928,9
1087,2
1094,7
938,7
942,5
Đồng Tháp
2807,0
3300,0
3384,5
3396,8
3206,8
An Giang
3653,1
4022,9
4073,7
3974,7
3879,6
Kiên Giang
3497,1
4532,2
4643,0
4161,6
4058,7
Cần Thơ
1196,7
1367,7
1408,1
1397,8
1387,2
Hậu Giang
1090,2
1204,6
1293,1
1231,0
1261,0
Sóc Trăng
1966,6
2265,3
2275,5
2171,1
2105,1
Bạc Liêu
809,5
1037,0
1064,5
993,1
1076,9
Cà Mau
498,3
552,0
465,2
452,0
446,0
Nguồn: Tổng cục thống kê (Niêm giám thống kê năm 2017).
167
Phụ lục 4
Xuất khẩu gạo của Việt Nam, 2010 - 2018
Khối lượng (triệu tấn) Trị giá FOB (tỷ USD) Năm
2010 6,75 2,912
2011 7,10 3,507
2012 7,72 3,450
2013 6,58 2,418
2014 6,38 2,955
2015 6.59 2,803
2016 4,88 2,186
2017 5,83 2,63
Nguồn: Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA), 2018.
2018 6,03 3,03
168
Phụ lục 5
Tình hình các Tổ hợp tác, Hợp tác xã tham gia liên kết với các doanh
nghiệp ở một số địa phương
Đồng
An
Bạc
Hậu
Cần
Nội dung
ĐVT
#
Tháp
Giang
Liêu
Giang
Thơ
Tổng số HTX nông
HTX
128
96
62
129
115
1
nghiệp
Trong đó:
Số HTX có tham gia
HTX
118
96
40
48
54
1.1
sản xuất lúa
Số HTX thực hiện
1.2
liên kết và xây dựng
HTX
12
15
15
27
13
CĐL sản xuất lúa
Số HTX thực hiện
liên kết nhưng không
HTX
61
30
14
15
11
1.3
xây dựng CĐL sản
xuất lúa
Số HTX không liên
kết
với
doanh
HTX
45
51
11
6
30
1.4
nghiệp, không xây
dựng CĐL lúa
Tổng số THT nông
THT
968
580
613
577
1266
2
nghiệp
Trong đó:
Số THT có tham gia
THT
763
155
350
97
242
2.1
sản xuất lúa
Số THT
thực hiện
liên kết và xây dựng
THT
6
28
35
14
2.2
CĐL sản xuất lúa
Số THT
thực hiện
liên kết nhưng không
THT
35
21
30
54
21
2.3
xây dựng CĐL sản
169
xuất lúa
Số THT không liên
kết với doanh nghiệp,
THT
728
128
292
8
207
2.4
không xây dựng CĐL
lúa
Số doanh nghiệp
tham gia liên kết
DN
59
19
10
10
21
3
xây dựng CĐL lúa
Thực trạng CĐL
4
sản xuất lúa
Tổng diện tích CĐL
Ha
99.903
43.210
5.258
9.200
70.944
4.1
lúa
Tổng sản lượng lúa
Tấn
165.978 284.538
31.022
64.400 461.136
4.2
CĐL
Tỷ lệ diện tích lúa
CĐL/ Tổng diện tích
%
30,70
6,46
2,97
11,58
29,9
4.3
gieo trồng lúa cả năm
Tỷ lệ diện tích lúa
theo hình thức liên
5
kết CĐL
Liên kết doanh
44
%
60
40
50
51
5.1
nghiệp -HTX
Liên kết doanh
29
%
21
25
40
5.2
nghiệp -THT
27
Doanh nghiệp liên
kết trực tiếp từng hộ
%
19
35
27
10
12
5.3
nông dân
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ các báo cáo từ các địa phương.
Ghi chú: Cần Thơ (tổng diện tích cánh đồng lớn được tính là 03 vụ trong năm 2018)
170
Phụ lục 6
Tổng số hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản qua 3 kỳ
tổng điều tra năm 2006, năm 2011 và năm 2016
Nguồn: Tổng điều tra nông, lâm, thủy sản.