BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN SỸ TÁ
CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI
HỆ THỐNG NHÀ KHÁCH THUỘC CƠ QUAN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SỸ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CÔNG
Hà Nội - Năm 2018
BỘ NỘI VỤ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN SỸ TÁ
CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI
HỆ THỐNG NHÀ KHÁCH THUỘC CƠ QUAN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SỸ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý hành chính công
Mã số: 62 34 82 01
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ CHI MAI
GS.TS. ĐINH VĂN TIẾN
Hà Nội - Năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án "Cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống
nhà khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước ở Việt Nam" là công trình nghiên
cứu của tôi, các nội dung nghiên cứu và kết quả được trình bày trong luận án
là trung thực và chưa từng được công bố.
Hà nội, ngày 14 tháng 11 năm 2018
Tác giả của luận án
Nguyễn Sỹ Tá
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy Cô hướng dẫn
khoa học em, Giáo sư, Tiến sĩ đã tận tình hướng dẫn và đóng góp nhiều ý kiến
khoa học trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận án.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Hành chính
Quốc gia, Khoa sau Đại học cùng toàn thể các Thầy Cô đã nhiệt tình giảng
dạy, hướng dẫn và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Lãnh đạo Văn phòng Chính phủ, các Bộ các
Tỉnh, các Lãnh đạo nhà khách đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong việc
nghiên cứu và tìm kiếm tài liệu, số liệu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới tất cả các Thầy
Cô giáo, cơ quan, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp, sự động viên giúp đỡ của
các Thầy Cô giáo, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp là nguồn động viên quý
báu cho tôi hoàn thành luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 14 tháng 11 năm 2018
Tác giả của luận án
Nguyễn Sỹ Tá
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN 8
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước:............................................................ 8
1.1.1. Các nghiên cứu về cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp
công nói chung ............................................................................................... 8
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm đối với
các đơn vị sự nghiệp công lập trong các lĩnh vực cụ thể ............................... 13
1.2. Nhận xét chung về các công trình nghiên cứu ........................................ 18
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
ĐỐI VỚI HỆ THỐNG NHÀ KHÁCH THUỘC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC Ở VIỆT NAM .................................................................................. 20
2.1. Tổng quan về cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống nhà khách thuộc
cơ quan quản lý nhà nước ở Việt Nam - một loại hình đơn vị sự nghiệp công
lập. ............................................................................................................... 20
2.1.1. Những vấn đề chung về đơn vị sự nghiệp công lập ............................. 20
2.1.2. Nhà khách thuộc các cơ quan quản lý nhà nước – một loại đơn vị sự
nghiệp công đặc thù...................................................................................... 31
2.2. Cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống nhà khách thuộc cơ quan quản
lý nhà nước: ................................................................................................. 35
2.2.1. Khái niệm cơ chế quản lý tài chính đối với các nhà khách thuộc cơ quan
quản lý nhà nước .......................................................................................... 35
2.2.2. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với nhà khách thuộc
cơ quan quản lý nhà nước ............................................................................. 36
2.2.3. Nội dung cơ chế tự chủ tài chính trong các đơn vị sự nghiệp công lập.
..................................................................................................................... 41
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý tài chính của các đơn vị sự
nghiệp công lập: ........................................................................................... 53
2.4. Kinh nghiệm một số nước về cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống
các nhà khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước ............................................ 60
2.4.1. Giới thiệu về các nhà khách của các chính phủ trên thế giới và cơ chế
quản lý tài chính của Nhà khách ................................................................... 60
2.4.2. Kinh nghiệm quản lý theo kết quả đầu ra đối với các tổ chức trong khu
vực công ....................................................................................................... 61
2.4.3. Những bài học kinh nghiệm về cơ chế quản lý tài chính đối với nhà
khách thuộc cơ quan QLNN ở Việt Nam ...................................................... 66
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI
VỚI HỆ THỐNG NHÀ KHÁCH THUỘC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC Ở VIỆT NAM .................................................................................. 69
3.1. Khái quát về hệ thống nhà khách và kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của hệ thống nhà khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước ở Việt Nam 69
3.1.1. Quá trình hình thành và phát triển hệ thống nhà khách thuộc cơ quan
quản lý nhà nước ở Việt Nam ....................................................................... 69
3.1.2. Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của hệ thống nhà khách ....................... 71
3.1.3. Mô hình tổ chức hệ thống nhà khách các cơ quan nhà nước ở Việt Nam
..................................................................................................................... 72
3.1.4. Khái quát về tình hình và kết quả hoạt động sản xuất- kinh doanh của
hệ thống nhà khách thuộc cơ quan nhà nước ở Việt Nam ............................. 74
3.1.5. Thuận lợi và khó khăn trong hoạt động của các nhà khách ................ 83
3.2. Thực trạng cơ chế quản lý tài chính của hệ thống nhà khách thuộc cơ
quan quản lý nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2004 – 2015: ......................... 84
3.2.1. Tình hình lập dự toán, chấp hành dự toán, kế toán và quyết toán thu, chi
tài chính của hệ thống nhà khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước: .............. 84
3.2.2. Thực trạng về cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống nhà khách
thuộc cơ quan QLNN ................................................................................... 93
3.3. Đánh giá chung về cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống nhà khách
thuộc cơ quan quản lý nhà nước ở Việt Nam những năm qua ..................... 102
3.3.1. Các thành công ................................................................................ 102
3.3.2. Những hạn chế về cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống nhà khách
thuộc cơ quan quản lý nhà nước: ................................................................ 104
3.3.3. Nguyên nhân những hạn chế về cơ chế quản lý tài chính đối với hệ
thống nhà khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước ...................................... 114
CHƯƠNG 4. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CHẾ
QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI HỆ THỐNG NHÀ KHÁCH THUỘC CƠ
QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM ........................................ 120
4.1. Phương hướng đổi mới hoạt động cơ chế quản lý tài chính đối với hệ
thống nhà khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước ở Việt Nam ................... 120
4.1.1. Phương hướng, mục tiêu đổi mới cơ chế quản lý tài chính: ............. 120
4.1.2. Mục tiêu đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống nhà
khách… ...................................................................................................... 127
4.2. Hệ thống giải pháp đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống nhà
khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước ở Việt Nam .................................... 128
4.2.1. Hoàn thiện khung pháp luật về cơ chế quản lý tài chính đối với hệ
thống nhà khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước ...................................... 128
4.2.2. Đổi mới nhận thức hệ thống nhà khách quản lý về vấn đề tự chủ tài
chính. ......................................................................................................... 132
4.2.3.Đổi mới phương thức quản lý tài chính, tách bạch giữa quản lý nhà nước
và quản lý của nhà nước với tư cách là chủ sở hữu ..................................... 133
4.2.4. Hoàn thiện quy trình xây dựng và nội dung quy chế chi tiêu nội bộ tại
các nhà khách thuộc cơ quan QLNN .......................................................... 136
4.2.5.Đa dạng hoá các nguồn tài chính đối với hệ thống nhà khách thuộc cơ
quan QLNN ................................................................................................ 138
4.2.6. Hoàn thiện công tác quản lý tài chính kế toán và quản lý tài sản tại hệ
thống nhà khách thuộc cơ quan QLNN ....................................................... 139
4.2.7. Tăng cường công tác thanh kiểm tra tài chính và kiểm toán nội bộ các
nhà khách thuộc cơ quan QLNN ................................................................ 145
4.2.8. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và nhân sự quản lý tài chính tại các nhà
khách .......................................................................................................... 148
4.2.9. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và tin học hoá trong quản lý
tài chính tại nhà khách ................................................................................ 152
KẾT LUẬN ................................................................................................ 156
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 158
DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH-HĐH Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá
GATS General Agreement on Trade in Services
(Hiệp định chung về thương mại trong dịch vụ)
GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo
GDĐH Giáo dục đại học
NK Nhà khách
KTTT Kinh tế thị trường
KT-XH Kinh tế-Xã hội
NXB Nhà xuất bản
QLNN Quản lý Nhà nước
TĐH Trường đại học
TW Trung ương
HĐND Hội đồng Nhân dân
UBND Ủy ban Nhân dân
ĐVSN Đơn vị sự nghiệp
QLNN Quản lý nhà nước
NXB Nhà xuất bản
SNCL Sự nghiệp công lập
HCSN Hành chính sự nghiệp
UNESCO United Nation Education Science Culture Organization
(Tổ chức văn hoá-khoa học-giáo dục Liên hợp quốc)
XHCN Xã hội chủ nghĩa
WB The World Bank (Ngân hàng Thế giới)
WTO World Trade Organization (Tổ chức thương mại thế giới)
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới tiến vào thế kỷ XXI với thành tựu của công nghệ thông tin và
xu thế toàn cầu hoá, toàn cầu hoá là một quá trình không thể đảo ngược, nó
tác động đến tất cả các lĩnh vực quản lý của các quốc gia trên thế giới, buộc
tất cả các quốc gia phải cải cách để hội nhập và phát triển. Việt Nam đã có
những nội dung và chương trình lớn để chuẩn bị cho hội nhập thành công,
trong đó có chương trình tổng thể cải cách nền hành chính quốc gia, được phê
duyệt tại Quyết định số: 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001 của
Thủ tướng chính phủ, đặc biệt Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08 tháng 11 năm
2011 của chính phủ về việc ban hành chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 với 6 nội dung cơ bản là: cải cách thể
chế; cải cách thủ tục hành chính; cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà
nước; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức;
cải cách tài chính công; hiện đại hóa hành chính.
Một trong sáu nội dung quan trọng của chương trình tổng thể cải cách
nền hành chính quốc gia là cải cách nền tài chính công, để thực hiện nội dung
trên, chính phủ đã ban hành Quyết định số: 192/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng
12 năm 2001 về mở rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành
chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước; Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16 tháng 1 năm 2002[16] về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu và Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006[1]
quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Nghị định 10 và
Nghị định 43 của chính phủ đã tạo nên những chuyển biến đáng kể trong quản
1
lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công lập. Gần đây chính phủ đã ban hành Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015[5] Về việc quy
định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, nghị định 16 là một bước
tiếp tục đổi mới tài chính công theo hướng nâng cao hơn nữa quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tự chủ
về tài chính.
Quá trình cải cách tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập từ nghị
định 10 năm 2001 đến nghị định 16/2015/NĐ_CP, đang tạo nên luồng sinh
khí mới cho các đơn vị sự nghiệp công, với cơ chế mới này phần lớn các đơn
vị SNC sẽ dần dần thoát khỏi bao cấp của nhà nước, từng bước tự chủ, tự chịu
trách nhiệm một cách toàn diện về hoạt động của mình, từng bước nâng cao
chất lượng dịch vụ, vươn lên đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội và hệ
thống nhà khách các cơ quan nhà nước ở nước ta cũng không là ngoại lệ.
Vai trò của các nhà khách thuộc cơ quan nhà nước đặc biệt quan trọng,
đây là hệ thống cơ sở phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng, nhà nước và
chính phủ, phục vụ việc ăn, nghỉ, đi lại của đại biểu về dự các kỳ họp quốc
hội, đại biểu về dự các hội nghị của Đảng, nhà nước, quốc hội và chính phủ,
HĐND và UBND các tỉnh thành phố hàng năm hoặc bất thường, phục vụ
khách vãng lai của Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân các tỉnh, huyện, xã
về làm việc với chính phủ, văn phòng chính phủ, nhà nước, và quốc hội và các
tỉnh thành, ngoài ra các nhà khách còn tận dụng cơ sở vật chất, nhận làm dịch
vụ cho các hội nghị của các tổ chức trong và ngoài nước, tổ chức việc ăn, nghỉ
cho khách quốc tế và các tỉnh thành cũng như các huyện xã khi có nhu cầu về
tỉnh hoặc trung ương làm việc.
Có nhiều đặc thù cụ thể, song tất cả các nhà khách thuộc cơ quan nhà
nước trước đây đều hoạt động theo “Cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp
là chính”. đặc thù hoạt động của các nhà khách theo chỉ tiêu kế hoạch cấp
trên giao trực tiếp, về vốn, do ngân sách nhà nước cấp, cơ sở vật chất kỹ thuật
do nhà nước đầu tư xây dựng, lao động tuyển dụng trước đây do cấp trên
chuyển đến và tiền lương do cấp trên quyết định, khách đến ăn, nghỉ nói
2
chung được bao cấp không phải trả tiền, nói cách khác do kinh phí từ các hội
nghị hoặc kinh phí nhà nước đài thọ.
Cơ chế quản lý tài chính đối với nhà khách thuộc cơ quan nhà nước là
nhân tố có ảnh hưởng quan trọng tới công tác quản lý tài chính tại đơn vị. Cơ
chế quản lý tài chính có vai trò cân đối giữa việc hình thành, tạo lập và sử
dụng các nguồn lực tài chính nhằm đáp ứng các yêu cầu hoạt động của các
nhà khách thuộc cơ quan nhà nước. do đó, cơ chế phải được xây dựng phù
hợp với loại hình hoạt động của đơn vị nhằm tăng cường và tập trung nguồn
lực tài chính, đảm bảo sự linh hoạt, chủ động trong việc thực hiện các nhiệm
vụ của nhà khách.
Cơ chế tài chính đối với các nhà khách thuộc cơ quan nhà nước góp phần
tạo hành lang pháp lý cho quá trình tạo lập và sử dụng nguồn tài chính, được
xây dựng trên quan điểm thống nhất và hợp lý, từ việc xây dựng các định
mức, tiêu chuẩn chi tiêu đến quy định về cấp phát, kiểm tra, kiểm soát quá
trình chi tiêu nhằm phát huy vai trò của cơ chế tự chủ tài chính, hiện nay việc
chuyển sang thực hiện cơ chế tài chính mới, hệ thống nhà khách thuộc cơ
quan nhà nước đang gặp một số khó khăn:
Một là: một số cán bộ, viên chức vẫn quen cơ chế bao cấp, mang tâm lý
dùng “tiền chùa” nên chưa thực sự có ý thức tiết kiệm.
Hai là: tuy nguồn thu của các nhà khách thuộc cơ quan nhà nước đã tăng nhưng tỷ lệ chưa cao, nghị định số 43/2006/NĐ-CP[1] cho phép các đơn vị sự
nghiệp vay vốn các tổ chức tín dụng, vốn huy động của cán bộ viên chức
trong đơn vị, rõ ràng đây là nguồn tài chính tiềm năng nhưng các nhà khách
thuộc cơ quan nhà nước chưa dám thực hiện vì chưa có cơ chế quản lý rõ
ràng, đặc biệt, nghị định này cho phép các đơn vị chuyển đổi sang loại hình
doanh nghiệp, loại hình ngoài công lập nhưng vẫn chỉ là quy định chung
chung, có thể thấy đây là vấn đề vô cùng phức tạp, muốn thực hiện cần phải
có lộ trình do cơ quan quản lý nhà nước ban hành.
Ba là: dù đã thực hiện cơ chế tự chủ được 10 năm nhưng các nhà khách
3
thuộc cơ quan nhà nước vẫn chưa quen với tư duy mới, đó là hiện nay, hoạt
động sự nghiệp của các nhà khách thuộc cơ quan nhà nước có tính chất tương
tự như hoạt động sản xuất kinh doanh, đều phải cân nhắc, tính toán đến hiệu
quả kinh tế, trong khi đó, bộ máy quản lý tài chính còn thiếu, còn yếu và vẫn
theo nếp tư duy cũ, chưa tham mưu cố vấn cho thủ trưởng đơn vị được những
chính sách quản lý tài chính thực sự hiệu quả, chưa có sự năng động nhạy bén
để tìm kiếm các nguồn thu mới.
Hơn nữa, quy định để lại 40% nguồn thu của đơn vị thực hiện cải cách
tiền lương khiến cho các đơn vị vẫn bị bó buộc trong việc sử dụng nguồn thu
của mình. (số liệu nghiên cứu được lấy từ các quyết định về chức năng nhiệm
vụ, cơ chế quản lý tài chính của các nhà khách thuộc văn phòng chính phủ).
Bốn là: tuy được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện
nhiệm vụ nhưng các nhà khách vẫn phải theo sự phân công chỉ đạo công việc
của cấp trên mà không được giao kinh phí, thực tế đó đã ảnh hưởng không
nhỏ đến việc thực hiện tự chủ tài chính của nhà khách
Trước yêu cầu đổi mới cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công
và đặc thù hoạt động của hệ thống nhà khách các cơ quan nhà nước, việc xây
dựng cơ chế quản lý tài chính phù hợp với hệ thống nhà khách thuộc cơ quan
quản lý nhà nước ở Việt Nam đang đặt ra hết sức cần thiết và cấp bách.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của luận án là đưa ra các giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý
tài chính đối với hệ thống Nhà khách thuộc các cơ quan QLNN ở Trung ương
và địa phương theo hướng đảm bảo tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Để đạt được mục tiêu đó, luận án tập trung thực hiện những nhiệm vụ
sau đây:
- Hệ thống hóa cơ sở khoa học về cơ chế quản lý tài chính đối với các
đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và các nhà khách thuộc cơ quan quản lý
nhà nước nói riêng.
4
- Phân tích, đánh giá thực trạng cơ chế quản lý tài chính hiện hành của
các Nhà khách công vụ thuộc các cơ quan QLNN ở Trung ương và địa
phương hiện nay, tìm ra hiện trạng những ưu điểm, nhược điểm và nguyên
nhân hiện tại của các ưu nhược điểm đó.
- Qua lý luận khoa học và phân tích thực trạng, luận án đưa ra các đề xuất
cơ chế mới và các giải pháp thực hiện cơ chế quản lý tài chính mới có luận cứ
khoa học đối với hệ thống các nhà khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án:
Cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống các nhà khách
công vụ thuộc các cơ quan QLNN ở trung ương và địa phương.
- Khách thể nghiên cứu: Các nhà khách thuộc cơ quan quản
lý nhà nước.
- Phạm vi nghiên cứu của luận án:
+ Phạm vi nghiên cứu về nội dung:
Luận án nghiên cứu cơ chế quản lý tài chính đối với loại
hình tổ chức đơn vị sự nghiệp là hệ thống nhà khách thuộc các
cơ quan QLNN ở trung ương và địa phương (đây là các nhà
khách thuộc UBND các tỉnh, các Bộ và VPCP). Luận án tập
trung vào cơ sở khoa học của việc định hình cơ chế quản lý tài
chính và các nội dung của cơ chế đó đối với nhà khách công vụ
thuộc các cơ quan QLNN ở trung ương và địa phương.
+ Phạm vi nghiên cứu về không gian:
Hệ thống nhà khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước ở Việt
Nam
+ Phạm vi nghiên cứu về thời gian:
Nghiên cứu từ năm 2004 đến năm 2015 và tầm nhìn 2025
4. Phương pháp nghiên cứu
5
4.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu sinh sử dụng phép biện chứng duy vật với quan điểm toàn
diện, phát triển và lịch sử cụ thể; cơ sở lý luận khoa học Mác-Lê-nin; và quán
triệt quan điểm của Đảng và nhà nước về đổi mới quản lý tài chính đối với
các đơn vị sự nghiệp công lập, tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của các nhà khách thuộc các cơ quan QLNN.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án vận dụng và kết hợp hợp lý các phương pháp:
- Khảo sát thực tế và phân tích đánh giá: thu thập số liệu và đưa ra thực
trạng gắn với phân tích, xác định những nguyên nhân và tồn tại về cơ chế
quản lý tài chính của hệ thống các nhà khách thuộc các cơ quan QLNN từ
trung ương đến địa phương ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích tổng hợp: Trong việc tiến hành phân tích luận án sử dụng
việc so sánh, khái quát hóa để nghiên cứu các vấn đề lý luận, các tài liệu khoa
học, các đề tài nghiên cứu liên quan đến luận án để tổng hợp cơ sở khoa học
của vấn đề nghiên cứu từ đó tiến hành phân tích thực trạng tình hình quản lý
tài chính của hệ thống các nhà khách thuộc các cơ quan QLNN từ trung ương
đến địa phương ở Việt Nam hiện nay chỉ rõ những nguyên nhân còn tồn tại.
- Phương pháp thống kê: qua việc thống kê số liệu quản lý tài chính của
hệ thống các nhà khách thuộc các cơ quan QLNN từ trung ương đến địa
phương ở Việt Nam từ năm 2004-2015, đưa ra các dự báo mới.
- Đóng góp chuyên gia: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đưa ra các
số liệu về thực trạng công tác quản lý tài chính của hệ thống các nhà khách
thuộc các cơ quan QLNN từ trung ương đến địa phương ở Việt Nam hiện nay
và xin ý kiến chuyên gia nhằm đạt được những mục tiêu đặt ra. (Các giáo sư
thuộc cơ quan quản lý nhà nước như: Học viện Hành Chính, lãnh đạo văn
phòng Chính phủ).
6
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
- Luận án đóng góp mới về lý luận quản lý tài chính của hệ thống các
nhà khách thuộc các cơ quan QLNN từ trung ương đến địa phương ở Việt
Nam hiện nay, về phương diện phân cấp, trao quyền và cơ cấu thẩm quyền;
về phương thức và phạm vi tác động hiệu quả của nhà nước tới hoạt động
cung cấp dịch vụ của các nhà khách thuộc cơ quan QLNN; về bản chất, tính
thực tế và điều kiện của tự chủ, tự chịu trách nhiệm; về sự phối hợp với thị
trường định hướng XHCN.
- Bổ sung luận cứ khoa học hành chính về sự điều chỉnh của nhà nước
trong quản lý tài chính đối với hệ thống các nhà khách thuộc cơ quan QLNN, sự
tách bạch giữa ban hành và thực thi chính sách, xác lập mối quan hệ phù hợp
giữa nhà nước trong vai trò giám sát các nhà khách thuộc cơ quan QLNN trong
vai trò cung cấp dịch vụ công một cách chủ động, xây dựng cơ chế phù hợp.
- Đóng góp vào phương pháp nghiên cứu giải pháp quản lý tài chính đối
với hệ thống các nhà khách thuộc cơ quan QLNN, thiết lập môi trường thuận
tiện, bình đẳng, khuyến khích sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm đồng bộ về các
mặt tự chủ của các nhà khách trong điều kiện nền KTTT có sự QLNN thống
nhất và đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng.
- Đề xuất hệ thống giải pháp đồng bộ có tính toàn diện có thể vận dụng
vào thực tiễn, làm cơ sở cho các nghiên cứu sau này về quản lý tài chính đối
với đơn vị sự nghiệp công lập. Góp phần vào đổi mới cơ cấu quá trình hình
thành và phương thức quản lý của nhà nước; xác định lại vai trò, chức năng
của các cơ quan có thẩm quyền quản lý tài chính đối với hệ thống nhà khách
thuộc cơ quan QLNN trong bối cảnh mới.
- Luận án là tài liệu tham khảo có luận cứ khoa học cho các cơ quan quản
lý các nhà khách, các nhà khoa học trong nghiên cứu giảng dạy và quản lý.
6. Kết cấu của luận án:
Phần Mở đầu và Kết luận, luận án có 4 chương:
7
Chương 1- Tổng quan tình hình nghiên cứu của luận án
Chương 2- Cơ sở khoa học về cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống nhà
khách thuộc cơ quan nhà nước
Chương 3- Thực trạng về cơ chế quản lý tài chính của hệ thống nhà khách
thuộc cơ quan nhà nước ở Việt Nam
Chương 4- Phương hướng và hệ thống giải pháp đổi mới cơ chế quản lý tài
chính đối với hệ thống nhà khách thuộc cơ quan nhà nước ở Việt Nam
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước:
1.1.1. Các nghiên cứu về cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp
công nói chung
Luận án tiến sỹ kinh tế“ Đổi mới chính sách tài chính đối với khu vực sự
nghiệp công ở Việt Nam”, chuyên ngành: Kinh tế chính trị, tác giả Phạm Chí
Thanh. Luận án đã tiếp cận nghiên cứu tài chính của đơn vị sự nghiệp công
theo các mối quan hệ của đơn vị với các chủ thể (Nhà nước, các chủ thể cung
cấp đầu vào cho đơn vị, các chủ thể sử dụng dịch vụ của đơn vị sự nghiệp và
người lao động làm việc trong các đơn vị) trong quá trình hình thành và sử
dụng các quỹ tiền tệ ở đơn vị sự nghiệp công; qua đó đã làm rõ bản chất tài
chính của đơn vị sự nghiệp công trong nền kinh tế thị trường, cần tuân thủ các
qui luật của thị trường: thực hiện hạch toán đầy đủ chi phí hoạt động (bao
gồm cả chi phí khấu hao tài sản), giá dịch vụ theo cơ chế cạnh tranh trong
việc cung cấp dịch vụ… từ đó hình thành những yêu cầu về cơ chế quản lý,
8
cách thức điều tiết, can thiệp của Nhà nước. Đây là cơ sở lý luận để hình
thành các chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp công.
Qua phân tích mối quan hệ tài chính giữa đơn vị sự nghiệp công với Nhà
nước: đã làm rõ kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp để thực hiện nhiệm vụ
Nhà nước giao, chính là Nhà nước mua dịch vụ của đơn vị sự nghiệp; do vậy
chi ngân sách Nhà nước đã tạo ra thu nhập của đơn vị sự nghiệp để bù đắp chi
phí trong quá trình hoạt động, đơn vị được quyền quyết định trong việc quản
lý, sử dụng kinh phí này. Bởi vậy chính sách tài chính đối với khu vực sự
nghiệp công cần đổi mới theo hướng xoá bỏ bao cấp, thực hiện tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về tài chính và hoạt động của đơn vị sự nghiệp công. Đổi mới
chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp công được luận giải là một quá
trình liên tục, hướng đến mục tiêu quản lý chi ngân sách Nhà nước cho các
đơn vị sự nghiệp theo kết quả hoạt động.
Đề tài “Đổi mới cơ chế quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp công, nâng
cao chất lượng dịch vụ công đến năm 2020”, TS. Lưu Thái Bình, Trưởng
phòng Kế hoạch - Tài vụ, Học viện Chính trị khu vực I, ngày 10 tháng 8 năm
2015. Trong giai đoạn 2006 - 2015, công tác quản lý tài chính đơn vị sự
nghiệp công ở Việt Nam đã từng bước được cải cách và đổi mới trên nhiều
phương diện. Mọi người dân Việt Nam đều được hưởng những dịch vụ công
với chất lượng tốt hơn và công bằng hơn. Đổi mới thể chế chính sách và cơ
chế quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp công lập là điều kiện then chốt để các
đơn vị này nâng cao chất lượng dịch vụ công cũng như hiệu quả đầu tư công.
Quá trình thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính
phủ, đã tạo ra quyền chủ động cho các đơn vị sự nghiệp công trong: Quản lý
chi tiêu tài chính hiệu quả; Huy động được sự đóng góp của cộng đồng xã hội
cho phát triển hoạt động sự nghiệp; Thúc đẩy các đơn vị chủ động năng động
và sáng tạo hơn trong các hoạt động quản lý và cung cấp dịch vụ công; đa
dạng hóa các loại hình dịch vụ công và nâng cao chất lượng dịch vụ công.
9
Bài viết “Đổi mới cơ chế tài chính đối với dịch vụ sự nghiệp công”, đăng
tại trang Web của Viện chiến lược và chính sách tài chính, tác giả Mai Thị
Thu, Giám đốc Trung tâm TT&DB KTXH quốc gia và Nhóm nghiên cứu,
ngày 31/12/2015. Chủ trương xã hội hóa dịch vụ công đã được nêu rất rõ
trong các văn kiện của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và đã được
thực hiện từ nhiều năm nay, theo đó đã đạt được những kết quả đáng khích lệ,
thu hút được sự tham gia của nhiều chủ thể trong xã hội, mở rộng và nâng cao
chất lượng dịch vụ công. Tuy nhiên, cơ chế quản lý nói chung và cơ chế tài
chính nói riêng đối với loại dịch vụ này còn nhiều bất cập. Bài viết này tập
trung phân tích những mặt còn hạn chế của cơ chế tài chính đối với dịch vụ sự
nghiệp công và đề xuất giải pháp đổi mới nhằm phân bổ hợp lý nguồn lực của
Nhà nước, huy động nguồn vốn từ các chủ thể khác cùng tham gia cung ứng
dịch vụ cũng như bảo đảm sự tiếp cận dịch vụ cho các đối tượng thụ hưởng.
Bài viết “Đổi mới cơ chế tài chính trong cung cấp dịch vụ công hướng tới
mục tiêu chất lượng, công bằng và hiệu quả” 17/12/2012 , Vương Đình Huệ,
Tạp chí cộng sản.Theo tác giả, thực hiện lộ trình cải cách nền hành chính,
Việt Nam đang đẩy mạnh công cuộc cải cách khu vực dịch vụ công, trong đó
đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước đối với các tổ chức sự nghiệp công luôn
là một ưu tiên. Mục đích chính yếu là bảo đảm cho mọi người dân Việt Nam
ngày càng được thụ hưởng những dịch vụ công tốt hơn, công bằng hơn.
Đề tài: “Quản lý tài sản công trong các cơ quan hành chính – sự nghiệp
hiện nay ở Việt Nam”, của nhóm tác giả do PGS.TS.Trần Văn Giao chủ
nhiệm đề tài, nội dung của đề tài: Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về tài
sản công và kinh nghiệm quản lý của các nước trên thế giới. Đánh giá thực
trạng việc quản lý, sử dụng tài sản công; tập trung vào tài sản công tại khu
vực hành chính sự nghiệp ở nước ta từ năm 1995 đến nay.
Đề xuất những giải pháp nhằm quản lý, khai thác, sử dụng tài sản công
trong các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp thời gian tới.
10
- “Đổi mới cơ chế quản lý tài sản nhà nước tại đơn vị sự nghiệp công
lập” (04/05/2013), Cục Công sản Bộ Tài chính, ngày 16/4/2013. Trướcyêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với tốc độ tăng trưởng nhanh và
bền vững đòi hỏi phải phát huy cao độ và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực
của đất nước, trong đó TSNN (tài sản nhà nước) là nguồn lực to lớn và đầy
tiềm năng, cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và sự
chuyển dịch cơ chế quản lý sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước đòi hỏi cần có sự đổi mới trong cơ chế quản lý đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập, đề tài nghiên cứu đã tập trung phân tích, đánh giá đề xuất
nhiều giải pháp đổi mới công tác quản lý TSNN tại đơn vị sự nghiệp với mục
tiêu: trao quyền tự chủ cho các ĐVSN công lập để phát triển các hoạt động sự
nghiệp, thực hiện xã hội hoá, giảm sức ép chi từ ngân sách nhà nước, trên cơ
sở thực hiện thông qua các phương thức: đi thuê và cho thuê tài sản; cho phép
sử dụng TSNN để sản xuất kinh doanh dịch vụ, liên doanh, liên kết... Theo
đó, cơ chế quản lý tài chính đối với một số lĩnh vực, một số đối tượng đã có
những thay đổi quan trọng (như chính sách tài chính khuyến khích xã hội hoá,
khuyến khích huy động nguồn lực)…
Bài viết “Sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tự chủ, tự
chịu trách nhiệm”, ngày 16/07/2013 của tác giả Yên Thanh. Tác giả cho biết
những năm qua, công tác quản lý nhà nước về tổ chức bộ máy và biên chế cán
bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực, tổ
chức bộ máy các cơ quan từ tỉnh đến huyện được kiện toàn, củng cố theo các
quy định pháp luật, góp phần ổn định hoạt động và tăng cường chủ động
trong tham mưu, đề xuất cơ chế, chính sách theo ngành, lĩnh vực, thúc đẩy
kinh tế - xã hội của tỉnh tăng trưởng ổn định đúng hướng. Công tác tuyển
dụng, sử dụng quản lý CCVC đã bám sát các chủ trương nghị quyết của Đảng
và pháp luật của nhà nước, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
CCVC...
11
- “Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập thêm
một bước đột phá về cơ chế tài chính” ngày 22/03/2012, của tác giả Tấn Lực -
nguồn thông tin bộ Tài chính. Theo bài viết, đổi mới cơ chế quản lý, đặc biệt
là quản lý tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập là một chủ trương lớn
của Đảng và nhà nước ta, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của bộ Tài
chính. Tại kết luận số 37- TB/TW ngày 26/5/2011 của Bộ Chính trị, Đảng ta
đã thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ: “Đổi mới cơ chế hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự
nghiệp công”, đây được coi là một trong những nhiệm vụ then chốt, góp phần
hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
thực hiện mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Những năm qua, cơ chế chính sách của nhà nước
đối với lĩnh vực sự nghiệp công đã từng bước đổi mới.
- “Thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính trong các đơn vị sự nghiệp công
lập”, ngày 27/09/2012, của tác giả Đức Minh. Bài viết cho biết, ngay sau khi
Nghị định của Chính phủ và các thông tư hướng dẫn có hiệu lực thi hành, đầu
năm 2007 UBND tỉnh Phú Thọ đã có văn bản chỉ đạo các cấp ngành liên quan
triển khai thực hiện, theo đó, trong tổng số 147 đơn vị sự nghiệp công lập cấp
tỉnh thuộc đối tượng điều chỉnh của Nghị định có 136 đơn vị được giao quyền
tự chủ, đạt 93%; còn lại 11 đơn vị chưa có phương án, chưa có quyết định
được giao quyền tự chủ, chiếm 11% ở các lĩnh vực.
Bài viết “Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập,
đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công” ngày
15/08/2012, tác giả Thúy Hồng…Bài viết đề câp đến Nghị quyết số 40/NQ-
CP ngày 09/8/2012 của Chính Phủ về chương trình hành động của chính phủ
thực hiện thông báo kết luận của Bộ Chính trị về đề án “Đổi mới cơ chế hoạt
động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại
hình dịch vụ sự nghiệp công”, mục tiêu của chương trình hành động nhằm xác
12
định, phân công và tổ chức thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ chủ yếu
của các cơ quan quản lý nhà nước nhằm thực hiện chủ trương đổi mới cơ chế
hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại
hình dịch vụ sự nghiệp công góp phần thực hiện được mục tiêu phát triển đến
năm 2020 đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt.
- Bài viết “Tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính”,
05/03/2013, tác giả Xuân Vương - Nghị định của Chính phủ về chế độ tự chủ,
tự chịu trách nhiệm sử dụng biên chế và kinh phí đối với các cơ quan hành
chính nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập năm 2012 ở tỉnh đã có những
tín hiệu tích cực, nhiều đơn vị đã xây dựng được quy chế chi tiêu nội bộ, quản
lý tài sản công và tiết kiệm được kinh phí cho đơn vị, tăng thu nhập cho người
lao động.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm đối với các
đơn vị sự nghiệp công lập trong các lĩnh vực cụ thể
Các công trình đề cập đến vấn đề tự chủ tự chịu trách nhiệm của các
trường đại học theo tinh thần Nghị định 43/2006/NĐ-CP bao gồm: Các công
trình trong nước:
Luận án tiến sĩ kinh tế “Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính các trường
đại học công lập ở Việt Nam” năm 2012 của tác giả Trần Đức Cân–Trường
Đại học Kinh tế quốc dân. Luận án làm rõ các khái niệm về tài chính công, cơ
chế tự chủ tài chính công; phân tích các các nhân tố ảnh hưởng; tổng kết bài
học kinh nghiệm của 5 nước; đưa ra 6 tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện
của cơ chế tự chủ tài chính: quy mô vốn, cơ cấu vốn, cơ cấu chi phí. Luận án
tiến hành phân tích thực trạng, những thuận lợi, khóa khăn của cơ chế thự chủ
tài chính hiện nay dưới góc nhìn từ chuyên ngành kinh tế tài chính ngân hàng.
Các giải pháp đưa ra mang tính định hướng về chủ chương.
13
Đề tài “Quản lý Nhà nước và mức độ tự chủ của các cơ sở giáo dục đào
tạo qua kết quả khảo sát” TS. Nguyễn Kim Dung, Viện Nghiên cứu Giáo dục
PGS.TS. Trần Quốc Toản, Văn phòng Chính phủ, 29/10/2010. Đề tài tập
trung vào việc giới thiệu kết quả khảo sát của một đề tài nhánh do Viện
Nghiên cứu Giáo dục thực hiện. Đề tài này thuộc chương trình nghiên cứu
độc lập cấp nhà nuớc “Phát triển Giáo dục Việt Nam trong nền kinh tế thị
trường và trước yêu cầu hội nhập quốc tế” của Hội đồng Quốc Gia Giáo dục.
Phần đầu trong bài viết giới thiệu về một số quan điểm và lý luận về quản lý
Nhà nước và tự chủ trong giáo dục, chủ yếu là giáo dục (GD) đại học (ĐH),
sau đó trình bày sơ lược về đề tài nghiên cứu. Phần thứ hai tập trung vào các
kết quả khảo sát về a) thực trạng quan hệ, hợp tác, hỗ trợ, phối kết hợp giữa
GD đào tạo (ĐT) và các tổ chức cộng đồng và b) mức độ tự chủ của cơ sở
(CS) GD-ĐT. Cuối cùng, các tác giả bài viết đưa ra một số kiến nghị cho các
nhà làm chính sách cũng như các cơ sở GD& ĐT.
Đề tài “Chính sách tài chính thúc đẩy xã hội hóa giáo dục đại học ở Việt
Nam giai đoạn 2014-2020”, đề tài khoa học cấp bộ của trường đại học Tài
chính – Marketing, bộ tài chính, nội dung cơ bản của đề tài là đề xuất hệ
thống các giải pháp để thúc đẩy XHH giáo dục đại học ở Việt Nam như:
Chính sách huy động nguồn lực, chính sách thuế, chính sách đất đai, chính
sách tín dụng..
Các công trình nước ngoài: Về cơ chế tài chính và hoạt động thực tế của
hệ thống nhà khách các nước cơ bản nghiêm khắc, nghiêm cấm, kín đáo như
nước Nga, Trung quốc, các nước Phật giáo…
“A 2020 vision for Vietnam” và “Institutional autonomy for HE in
Vietnam”, Hayden và Thiep (2006,2007). Tác phẩm đã nêu lên những vấn đề
về cải cách tài chính công trong đó có cải cách về tài chính đơn vị sự nghiệp
công, cho rằng nghị sự đổi mới ở Việt Nam gắn với đổi mới quản lý và đảm
bảo tự chủ cho trường đại học công; tự chủ đại học chịu những thách thức và
14
căng thẳng không chỉ do sự miễn cưỡng đối với việc từ bỏ sự kiểm soát trực
tiếp của một bộ phận quản lý tài chính trong GDĐH mà còn do sự nhận thức
chưa đầy đủ hàm ý thực sự của tự chủ, cả những đòi hỏi liên quan đến trách
nhiệm xã hội cũng như cách thức quản lý hiệu quả trong hoàn cảnh mà nguồn
vật lực và nhân lực tương xứng cho quản lý tự quản hạn chế [86], [87]. Mặc
dù chỉ ra được khiếm khuyết trong quản lý của Nhà nước dẫn tới sự thiếu tự
chủ thực chất nhưng chưa đưa ra cách bù đắp sự khiếm khuyết, cách tháo gỡ
cơ chế bộ chủ quản.
Vallely (2005, 2008), trong “Đề cương thảo luận: Xây dựng trường đại
học hàng đầu tại Việt Nam”, “Giáo dục bậc đại học Việt Nam: Khủng hoảng
và Phản ứng”, đã chỉ ra một số vấn đề về thực trạng GDĐH và khuyến cáo
hình thành một cơ chế quản lý mới mà trong đó quyền tự chủ nhà trường và
tự do học thuật được đề cao [68]. Tuy nhiên, nội dung được nêu ra chỉ là ý
tưởng nhằm gợi mở thảo luận, còn luận điểm, so với quan điểm phát triển
GDĐH của nước ta, thì có nhiều khác biệt.
Các công trình đề cập đến vấn đề tự chủ tự chịu trách nhiệm của các tổ
chức khoa học công nghệ theo tinh thần Nghị định 115/CP, và việc ứng dụng
các thành tựu nghiên cứu vào thực tế. Nhóm này có các công trình sau:
- Đề tài khoa học “Đổi mới cơ chế quản lý tài chính khoa học và công
nghệ Việt Nam đến năm 2020”. Đề tài khoa học cấp bộ của Vụ tài chính hành
chính- sự nghiệp Bộ Tài chính. Đề tài đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về
cơ chế tài chính đối với KHCN, nghiên cứu thực trạng cơ chế quản lý tài
chính đối với KHCN ở nước ta và đề xuất hệ thống các giải pháp đổi mới cơ
chế quản lý tài chính đến 2020.
- Đề án chuyển đổi “Viện kỹ thuật biến thành tổ chức khoa học công
nghệ tự trang trải kinh phí theo nghị định 115/CP”, hiện nay trong 128 tổ
chức khoa học công nghệ đã có 38 tổ chức có đề án phê duyệt chuyển đổi cơ
chế tự trang trải kinh phí theo tinh thần Nghị định 115/CP.
15
Đề án này được thực hiện vào tháng 3/2009, Viện Kỹ thuật biển là đơn
vị sự nghiệp khoa học công lập trực thuộc Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam
theo Quyết định 594/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số
55/2008/QĐ-BNN ngày 24/4/2008 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT
và Quyết định số 2863/QĐ-BNN-TCCB ngày 18/9/2008 của Bộ trưởng Bộ
Nông nghiệp và PTNT. Viện hoạt động theo mô hình tự trang trải kinh phí
(tuy nhiên, do phải đảm đương thêm nhiệm vụ nghiên cứu mang tính chiến
lược, nghiên cứu cơ bản và công ích thực hiện yêu cầu của Nhà nước giao nên
kiến nghị Nhà nước cấp một phần kinh phí hoạt động thường xuyên tương
xứng với nhiệm vụ đó).
Bài viết- “Đổi mới cơ chế tự chủ đối với tổ chức khoa học công nghệ
công lập” PGS. TS. Lưu Đức Tuyên, Bài đăng trên ấn phẩm Tạp chí Tài
chính kỳ 01 số tháng 7/2016, Sau hơn 10 năm thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm đối với các tổ chức khoa học công nghệ công lập theo tinh thần
Nghị định 115/2005/NĐ-CP, kết quả mang lại chưa như mong đợi, các đơn vị
chưa tự chủ được nguồn kinh phí bảo đảm tiền lương; về cơ bản chưa đáp ứng
được yêu cầu của xã hội. Trước tình hình đó, ngày 14/6/2016 Chính phủ đã
ban hành Nghị định 54/2016/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ của tổ chức khoa
học công nghệ công lập. Chính sách mới này được kỳ vọng sẽ giải quyết được
các bất cập tồn tại, tạo động lực cho các tổ chức khoa học công nghệ công lập
phát triển.
Bài viết “Đổi mới cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp khoa học
và công nghệ: những vấn đề đặt ra” ngày 25/02/2014 của TS. Bùi Tiến Dũng -
Bộ Khoa học và Công nghệ. Theo tác giả, nguồn ngân sách dành cho nghiên
cứu khoa học và công nghệ nói chung còn khiêm tốn so với các lĩnh vực khác,
mặc dù gần đây nhiều quy định đang được đổi mới song vẫn chưa hiển thị rõ
nét, bài viết đề cập một số đổi mới cơ chế tài chính hiện hành của các đơn vị sự
nghiệp KH&CN công lập và đề xuất một số gợi ý nhằm góp phần hoàn thiện
16
cơ chế tài chính hiện nay.
Bài viết “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ ở tỉnh Kon Tum”, tác giả Đoàn Trọng
Đức - Trung tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ năm 2014. Theo tác giả, Tỉnh Kon
Tum hiện có 02 đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ là Trung tâm ứng
dụng khoa học và chuyển giao công nghệ trực thuộc sở khoa học và công
nghệ được thành lập từ tháng 5/1996 và trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn- đo
lường chất lượng, trực thuộc chi cục tiêu chuẩn đo lường- chất lượng được
thành lập từ tháng 5/2011.
Áp dụng phương thức khoán chi thực hiện nhiệm vụ khoa học và công
nghệ của nhà nước do các cơ quan nhà nước giao, đặt hàng hoặc thông qua
tuyển chọn đấu thầu, các tổ chức khoa học công nghệ tự quyết định việc sử
dụng kinh phí được khoán để thực hiện nhiệm vụ trên cơ sở đảm bảo yêu cầu
về chất lượng và tiến độ thực hiện theo hợp đồng.
Các công trình nghiên cứu về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với
các cơ sở y tế công lập:
Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp y tế công lập” năm 2008 của Bộ Y tế. Đề án đã khái quát về hệ thống
y tế và đánh giá thực trạng cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính của các đơn vị
sự nghiệp công lập. Đề án phân tích thực trạng tài chính y tế và chi tiêu cho
chăm sóc sức khỏe trong đó có chi tiêu của hệ thống các cơ sở y tế công lập,
về cơ chế phân bổ nguồn tài chính y tế từ NSNN, chính sách tiền lương thu
nhập, chính sách viện phí chi phí DVYT, chính sách BHYT… và những điểm
mạnh yếu của mỗi chính sách này. Đặc biệt đề án phân tích cụ thể tình hình
thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính theo Nghị định
43/2006/NĐ-CP với các kết quả sau quá trình triển khai thực hiện và những
bất cập đang gặp phải tại các ĐVSN y tế khi thực hiện Nghị định này. Với các
quan điểm và mục tiêu đổi mới, đề án cũng đã xác định các nội dung đổi
17
mới: về cơ chế hoạt động, về cơ chế tài chính, về cơ chế tiền lương và chính
sách viện phí.
1.2. Nhận xét chung về các công trình nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu của các tác giả đã xây dựng cơ sở khoa học,
cho cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp có thu, thực trạng hiện nay của
các đơn vị thông qua đề án thực hiện tự chủ tự chịu trách nhiệm của các đơn
vị, theo tinh thần nghị định của chính phủ đưa ra các giải pháp hoàn thiện cơ
chế quản lý tài chính.
Những công trình nghiên cứu khoa học nói trên đã cung cấp cơ sở lý
luận, chỉ ra hiện trạng và một số giải pháp về đổi mới quản lý tài chính trong
các đơn vị sự nghiệp nói chung và ở các lĩnh vực cụ thể như giáo dục và đào
tạo, y tế, cũng như các tổ chức khoa học công nghệ. Nhìn chung, các nghiên
cứu nói trên rất hữu ích trong việc định hướng, cung cấp nội dung và phương
thức QLNN nhằm tăng quyền tự chủ và nâng cao trách nhiệm xã hội của các
đơn vị sự nghiệp công lập. Những công trình này cũng là tài liệu tham khảo
được tác giả khai thác và sử dụng trong quá trình viết luận án.
Tuy nhiên chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu xây dựng cơ
chế quản lý tài chính cho hệ thống các Nhà khách thuộc các cơ quan QLNN ở
Trung ương và Địa phương. Đây chính là khoảng trống nghiên cứu mà luận án
sẽ tập trung làm rõ.
Xuất phát từ đó, luận án sẽ tập trung làm sáng rõ 3 câu hỏi nghiên cứu
như sau:
Thứ nhất, đâu là cơ sở lý luận làm căn cứ cho việc đổi mới cơ chế quản
lý tài chính đối với hệ thống nhà khách thuộc cơ quan QLNN ở Việt Nam?
Thứ hai, thực trạng cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống nhà khách
thuộc cơ quan QLNN trong những năm qua như thế nào?
Thứ ba, đâu là những giải pháp cơ bản để hoàn thiện cơ chế quản lý tài
18
chính đối với hệ thống nhà khách thuộc cơ quan QLNN trong giai đoạn tới?
19
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
ĐỐI VỚI HỆ THỐNG NHÀ KHÁCH THUỘC CƠ QUAN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
2.1. Tổng quan về cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống nhà khách
thuộc cơ quan quản lý nhà nước ở Việt Nam - một loại hình đơn vị sự
nghiệp công lập.
2.1.1. Những vấn đề chung về đơn vị sự nghiệp công lập
* Khái niệm đơn vị sự nghiệp công lập
“Sự nghiệp” là một từ gốc trung quốc theo nghĩa rộng, đó là mục tiêu
cao cả mà con người luôn hướng tới, theo nghĩa hẹp dùng trong kinh tế, văn
hóa xã hội, từ “sự nghiệp” dùng để chỉ những hoạt động không tạo ra sản
phẩm vật chất nhưng cần thiết để thỏa mãn nhu cầu xã hội và của cá nhân con
người, ví dụ như: giáo dục, y tế, khoa học, văn hóa, xã hội … những hoạt
động này không lấy lợi nhuận làm mục tiêu, vì thế trong một thời kỳ dài do
nhà nước dùng ngân sách để thực hiện, do đó, trong ngân sách có phần chi
“sự nghiệp”, trong kế hoạch nhà nước có lĩnh vực “Sự nghiệp” như: sự nghiệp
kinh tế; sự nghiệp văn hóa, thông tin; sự nghiệp khoa học và công nghệ: sự
nghiệp giáo dục và đào tạo:…Các đơn vị sự nghiệp trước đây (như trường
học, bệnh viện …) cơ chế hoạt động không khác các đơn vị hành chính bao
nhiêu, cũng là đơn vị dự toán, kế hoạch do cấp trên giao, nhân sự do cấp trên
quyết định, kinh phí do cấp trên duyệt và chi trả, vì vậy hai từ “sự nghiệp” và
“hành chính” hay đi liền với nhau và người ta thường gọi là “đơn vị hành
chính - sự nghiệp”.
Để hiểu rõ hơn lĩnh vực sự nghiệp, cần phân biệt “sự nghiệp” với “dịch
20
vụ”. Hiện nay ở nước ta thuật ngữ “dịch vụ” đã được sử dụng khá phổ biến,
thuật ngữ này được dịch từ tiếng nước ngoài “service” và được hiểu theo
nghĩa rộng như “khu vực dịch vụ” của nền kinh tế. Đây là một trong ba khu
vực của nền kinh tế (khu vực công nghiệp, xây dựng; khu vực nông lâm
nghiệp và khu vực dịch vụ) khu vực này hàng năm đạt tốc độ tăng trưởng trên
10% và tạo ra trên 20% GDP và giải quyết công ăn việc làm cho xã hội. Như
vậy nội dung của “dịch vụ” bao gồm toàn bộ khu vực thứ 3 của nền kinh tế,
còn lĩnh vực sự nghiệp chỉ bao gồm một số ít ngành trong khu vực dịch vụ có
những đặc thù riêng.
Từ những thập kỷ cuối thế kỷ XX trên thế giới đã xuất hiện thuật ngữ
“dịch vụ công” để chỉ những loại dịch vụ hoạt động vì lợi ích công được thực
hiện dưới sự chỉ đạo, bảo trợ của nhà nước, Dịch vụ công bao gồm (i) Dịch vụ
hành chính công: là dịch vụ gắn liền với chức năng quản lý nhà nước, mà đặc
trưng của nó là gắn với thẩm quyền hành chính và thường do các cơ quan
hành chính thực hiện. Đó là những hoạt động của nhà nước cung cấp các giấy
tờ hành chính, tư pháp như: cấp phép, giấy chứng nhận, đăng ký, công chứng,
thi hành án, thị thực, hộ tịch... (ii) Dịch vụ sự nghiệp: bao gồm các hoạt động
cung cấp phúc lợi xã hội thiết yếu cho người dân như: giáo dục, y tế, văn hóa,
khoa học, thể dục - thể thao, bảo hiểm, an sinh xã hội,...(iii) Dịch vụ công ích:
là các hoạt động cung cấp các hàng hóa, dịch vụ có tính chất kinh tế đáp ứng
nhu cầu vật chất thiết yếu cho sinh hoạt của người dân và cộng đồng, nó gắn
liền với việc cung ứng các cơ sở hạ tầng kỹ thuật cơ bản như: vệ sinh môi
trường, xử lý rác thải, cấp thoát nước, điện chiếu sáng, giao thông đô thị,...
Việc cung ứng các dịch vụ công phải đảm bảo nguyên tắc liên tục,
không gián đoạn , bình đẳng, mọi công dân đều có quyền tiếp cận như nhau
và nguyên tắc thích ứng, tổ chức và hoạt động phải phù hợp với yêu cầu thay
đổi hoặc yêu cầu phát triển của xã hội. Từ những phân tích trên có thể hiểu
hoạt động sự nghiệp chỉ tương ứng với một phần của loại dịch vụ công thứ 2
21
đó là dịch vụ văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, nghiên cứu khoa học và công
nghệ, bảo trợ xã hội... Loại dịch vụ thứ nhất thuộc lĩnh vực hành chính phải
do nhà nước trực tiếp thực hiện. Loại dịch vụ thứ 2 thuộc hoặc gần với lĩnh
vực kinh doanh có thể ủy thác cho các tổ chức ngoài nhà nước thực hiện. Loại
dịch vụ thứ 3 thuộc trách nhiệm của nhà nước nhưng có thể xã hội hóa để huy
động nguồn lực của xã hội nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng của loại
dịch vụ này.
Như vậy, lĩnh vực sự nghiệp ở đây chỉ bao gồm một số ngành như giáo
dục, đào tạo, văn hóa, xã hội, y tế, nghiên cứu khoa học, những đơn vị hoạt
động trong lĩnh vực sự nghiệp này có những đặc điểm sau đây:
Một là: Phần lớn các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực sự nghiệp không
tạo ra sản phẩm vật chất và cũng không tham gia trực tiếp vào việc sản xuất ra
của cải vật chất, nhưng sản phẩm của các ngành này nhằm thỏa mãn trực tiếp
nhu cầu thiết yếu cho phát triển kinh tế - xã hội và các thành viên trong xã
hội.
Hai là: Nhà nước, ngoài trách nhiệm bảo đảm an ninh, an toàn xã hội,
tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động phát triển kinh tế, tổ chức quản lý xã
hội theo luật pháp và đạo đức xã hội, công bằng xã hội, còn có chức năng
phục vụ xã hội. Trong xã hội hiện đại nhà nước sẽ chuyển dần từ chức năng
cai trị sang thực hiện chức năng phục vụ, dùng tiền thuế của nhân dân để chi
vào việc nâng cao dân trí, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân, nâng cao thẩm mỹ
và đời sống tinh thần, nâng cao trình độ văn hóa khoa học, công nghệ cho
người dân; nghĩa là nhà nước sẽ có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ công hay
còn gọi là hàng hóa công cộng cho xã hội và cho người dân. Trong đó có
những dịch vụ do nhà nước độc quyền cung ứng, nhưng có những loại dịch vụ
do các thành phần kinh tế khác cung ứng, nhà nước thông qua cơ chế, chính
sách để hướng việc cung ứng đó vào phục vụ xã hội và cho người dân. Từ nhà
nước cai trị sang nhà nước quản trị, nhà nước của dân, nhà nước vì dân và nhà
22
nước phục vụ nhân dân.
Ba là: Các hoạt động sự nghiệp là những hoạt động không vụ lợi nhằm
mục đích chính phục vụ cho sự phát triển của kính tế xã hội, đảm bảo cho xã
hội phát triển bình thường, lành mạnh và bền vững, phục vụ nhà nước phục
vụ nhân dân.
Bốn là: Trong kinh tế thị trường, việc cung cấp các dịch vụ sự nghiệp có
thể do nhiều thành phần kinh tế tham gia nhưng nhà nước vẫn đóng vai trò
chính, thông qua chức năng của mình nhà nước không để cho các dịch vụ sự
nghiệp bị thương mại hóa và không làm cho lĩnh vực sự nghiệp bị hành chính
hóa.
Từ những phân tích trên, ở nước ta hiện nay có thể hiểu rằng: Đơn vị sự
nghiệp là những đơn vị hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, do nhà nước thành
lập hoặc cho phép thành lập để thực hiện các hoạt động sự nghiệp, những
hoạt động này nhằm duy trì và bảo đảm sự hoạt động bình thường của xã hội,
mang tính chất phục vụ lợi ích chung của xã hội là chủ yếu, phục vụ nhà nước
phục vụ nhân dân.
Đối với nước ta trong một thời kỳ dài hầu hết các đơn vị sự nghiệp đều
thuộc nhà nước, kể cả đơn vị sự nghiệp của kinh tế tập thể và của doanh
nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp hoạt động giống như một cơ quan
hành chính nhà nước, nhiều đơn vị sự nghiệp ở một số lĩnh vực còn được giao
chức năng quản lý nhà nước, cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp trong
thời kỳ này là: nhiệm vụ và kế hoạch hoạt động hàng năm được nhà nước
giao, biên chế do nhà nước quyết định, nhân sự được nhà nước tuyển dụng,
kinh phí hoạt động được nhà nước đảm bảo toàn bộ, sản phẩm, dịch vụ của
các đơn vị sự nghiệp được nhà nước độc quyền phân phối và quản lý… Với
cơ chế như trên, các đơn vị sự nghiệp rất ít quyền chủ động trong hoạt động
chủ yếu của mình, trong khi đó hoạt động sự nghiệp thường có tính chuyên
môn sâu, cơ chế thụ động của các đơn vị sự nghiệp đã làm chậm trễ và mai
23
một khả năng sáng tạo của các tầng lớp cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ sáng
tạo khoa học – kỹ thuật, và văn học nghệ thuật mà sự sáng tạo đó không ai có
thể làm thay đổi họ, hoạt động sự nghiệp đã bộc lộ nhiều bất cập, không đáp
ứng được yêu cầu thụ hưởng ngày càng cao của xã hội, kính tế xã hội chậm
phát triển.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng hơn 30 năm qua đã gặt hái
được nhiều thành quả quan trọng, cùng với đổi mới nền kinh tế - xã hội, lĩnh
vực sự nghiệp đã có những bước đổi mới đột phá mà cốt lõi là chủ trương xã
hội hóa lĩnh vực này nhằm huy động nguồn lực xã hội cho việc phát triển và
nâng cao chất lượng các dịch vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Bước đổi
mới căn bản đó đã làm ra đời hàng loạt các đơn vị sự nghiệp do các cá nhân,
pháp nhân khác thành lập trong lĩnh vực kinh tế xã hội, giáo dục, y tế, văn hóa
xã hội, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ dưới các hình thức dân lập, tư
thục... Từ đây cũng bắt đầu xuất hiện cụm từ “đơn vị sự nghiệp ngoài công
lập” và “đơn vị sự nghiệp công lập” Hiện nay khái niệm đơn vị sự nghiệp
công lập được sử dụng để chỉ ra những đơn vị sự nghiệp do nhà nước thành
lập để thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước giao, hoạt động trong các lĩnh
vực y tế, giáo dục, văn hóa, thông tin, khoa học và công nghệ, thể thao, quản
lý tài nguyên môi trường, khí tượng, thủy văn…
Những đơn vị sự nghiệp công được xác định bởi những thành tố đặc
trưng sau đây:
Một là: Do các cơ quan nhà nước thành lập và quản lý, thuộc sở hữu nhà
nước, đây là thuộc tính quan trọng nhất làm cơ sở để phân biệt đơn vị sự
nghiệp công lập với đơn vị sự nghiệp ngoài công lập.
Hai là: Thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước giao thuộc các lĩnh
vực: y tế, giáo dục, đào tạo, văn hóa, thông tin, bảo tồn, bảo tàng, khoa học và
công nghệ, thể dục thể thao, tài nguyên, môi trường, khí tượng, thủy văn, sự
24
nghiệp kinh tế… nhằm thỏa mãn yêu cầu phát triển của xã hội và nhu cầu của
cá nhân về học tập, chăm sóc sức khỏe, nâng cao thẩm mỹ, tiếp thu tri thức
khoa học công nghệ, hưởng thụ văn hóa xã hội...
Ba là: Kinh phí hoạt động chủ yếu do nhà nước cấp toàn bộ hay một
phần, được phép thu các khoản phí, lệ phí, hoặc một số loại dịch vụ được thu
theo cơ chế giá dịch vụ tùy theo loại dịch vụ có sử dụng kinh phí NSNN hoặc
không sử dụng kinh phí NSNN.
Bốn là: Tham gia thực hiện phân phối lại thu nhập quốc dân thông qua
sự nghiệp và các quỹ tài chính (quỹ BHXH, BHYT, quỹ xóa đói giảm
nghèo..)
Năm là: Không thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
Sáu là: Có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng trong và
ngoài công lập.
* Đặc điểm của đơn vị sự nghiệp công lập
- Đơn vị sự nghiệp công là một tổ chức hoạt động theo nguyên tắc phục
vụ xã hội không vì mục đích kiếm lời, trong kinh tế thị trường, các sản phẩm,
dịch vụ do các đơn vị sự nghiệp sáng tạo ra, đều có thể trở thành hàng hóa
cung ứng cho mọi thành phần trong xã hội. Khác với hoạt động SXKD, việc
cung cấp hàng hóa này cho thị trường chủ yếu không vì mục đích lợi nhuận
do nhà nước tổ chức, duy trì và hỗ trợ cho các hoạt động sự nghiệp để cung
cấp sản phẩm, dịch vụ cho thị trường trước hết nhằm thực hiện vai trò của nhà
nước trong việc phân phối lại thu nhập và thực hiện các chính sách phúc lợi
công cộng khi can thiệp vào thị trường, chính hoạt động này của nhà nước đã
hỗ trợ cho các vùng miền, các ngành, các lĩnh vực của xã hội hoạt động bình
thường, góp phần thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài,
đảm bảo nguồn nhân lực có chất lượng ngày càng cao cho phát triển kinh tế -
xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển có hiệu quả ngày càng cao, đảm bảo
cho việc chăm sóc sức khỏe nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống vật
25
chất và tinh thần cho mọi thành viên trong xã hội, vì vậy hoạt động sự nghiệp
luôn mang tính chất xã hội, tính cộng đồng và tính nhân văn.
- Sản phẩm của các đơn vị sự nghiệp là sản phẩm mang lại lợi ích
chung có tính bền vững và gắn bó hữu cơ với quá trình tạo ra của cải vật chất
và giá trị tinh thần, sản phẩm, dịch vụ của đơn vị sự nghiệp chủ yếu là giá trị
về tri thức, văn hóa, phát minh, sức khỏe, đạo đức… Đây là những sản phẩm
vô hình, có thể sử dụng chung cho nhiều người, cho nhiều đối tượng trên
phạm vi rộng, phần lớn sản phẩm của đơn vị sự nghiệp là sản phẩm có tính
phục vụ không chỉ một ngành, một lĩnh vực nhất định mà những sản phẩm đó
khi tiêu dùng thường có tác động lan tỏa. Mặt khác, sản phẩm của hoạt động
sự nghiệp chủ yếu là các “hàng hóa công cộng” ở dạng vật chất và phi vật
chất, phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp quá trình tái sản xuất xã hội, khác với
các hàng hóa thông thường, ngoài giá trị và giá trị sử dụng, sản phẩm “hàng
hóa công cộng” của hoạt động sự nghiệp có giá trị xã hội cao, điều đó có
nghĩa là nhiều người cùng sử dụng, dùng rồi có thể dùng lại được và trên
phạm vi rộng, hàng hóa công cộng có hai đặc điểm cơ bản là “không loại trừ”
và “không cạnh tranh”. việc sử dụng “hàng hóa công cộng” do hoạt động sự
nghiệp tạo ra như là một yếu tố làm cho quá trình sản xuất của cải vật chất
được thuận lợi và ngày càng đạt hiệu quả cao, hoạt động sự nghiệp (y tế, giáo
dục, đào tạo, thể dục, thể thao) góp phần tạo ra cho xã hội một lực lượng lao
động có tri thức, có sức khỏe, có văn hóa, có hiểu biết góp phần nâng cao
năng suất lao động, tạo nên một xã hội văn minh, tiến bộ. vì vậy, hoạt động sự
nghiệp luôn gắn bó hữu cơ và tác động tích cực đến quá trình tái sản xuất kinh
tế xã hội.
- Hoạt động sự nghiệp trong các đơn vị sự nghiệp công luôn gắn liền và
bị chi phối bởi các chương trình phát triển kinh tế xã hội của nhà nước, do nhà
nước vì dân phục vụ nhân dân.
26
* Vai trò của đơn vị sự nghiệp công lập
+ Trong công cuộc phát triển và công nghiệp hóa của mỗi nước, các lĩnh
vực sự nghiệp như khoa học công nghệ và giáo dục - đào tạo, văn hóa, thể dục
thể thao ... bao giờ cũng giữ vai trò rất quan trọng, qua kinh nghiệm mấy thập
kỷ qua của các nước công nghiệp hóa và các nước Đông Nam Á đã chứng
minh điều đó, với ý nghĩa đó, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta các lĩnh vực sự nghiệp luôn được coi vừa là nền tảng, vừa là động lực
của sự phát triển kinh tế xã hội, do đó các lĩnh vực sự nghiệp trở thành một
trong những điều kiện tiền đề quyết định khả năng triển khai việc phát triển
thành công các nhiệm vụ của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
nước.
+ Lĩnh vực sự nghiệp, nhất là giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ,
văn hóa, y tế có vai trò và tác động ngày càng lớn đối với quá trình phát triển,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước, có ý nghĩa quyết định đối với tốc
độ, chất lượng tăng trưởng và thực hiện công bằng xã hội.
+ Các đơn vị sự nghiệp cung cấp những dịch vụ cơ bản cho xã hội đảm
bảo cho xã hội phát triển ổn định và bền vững, chính vì vậy một trong những
bài học mà Đảng ta đã rút ra sau 30 năm đổi mới là: “phải coi trọng việc kết
hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội,
bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
cho dân và vì dân vì nước… gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa,
củng cố quốc phòng an ninh …” Và một trong những nhiệm vụ chủ yếu phát
triển đất nước giai đoạn 2011 - 2020 là “Phát triển, nâng cao chất lượng giáo
dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học công nghệ và
kinh tế tri thức, tập trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người
lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo bước tiến
rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm
27
tỷ lệ hộ nghèo cho nhân dân… Tiếp tục xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp
của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại…”
+ Mục tiêu đã được các đại hội Đảng ta xác định là “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong suốt quá trình phát triển, những
mục tiêu xã hội mới thực sự là mục tiêu cuối cùng, sự phát triển tự do của con
người là tâm điểm của mọi chính sách phát triển, các đơn vị sự nghiệp nói
chung có vai trò vô cùng quan trọng thực hiện sự phát triển kinh tế xã hội, với
các mục tiêu mà Đảng ta đã xác định.
Như vậy có thể kết luận rằng, phát triển các lĩnh vực sự nghiệp là điều
kiện tiền đề, là nền tảng và là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đó cũng là động lực cho sự
phát triển bền vững công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và phát triển kinh tế tri
thức, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, những lĩnh vực sự nghiệp như:
văn hóa, xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ … gắn bó chặt chẽ
với sự phát triển con người, cần được coi trọng phát triển đúng với vai trò của
nó.
Phát triển lĩnh vực sự nghiệp chính là sự quan tâm đến chất lượng của
phát triển chất lượng sống của con người và của xã hội, thể hiện sự văn minh,
tiến bộ của xã hội, vai trò nói trên thể hiện ở một số nội dung sau đây:
- Thứ nhất, cung cấp các dịch vụ công về đời sống, y tế, giáo dục, văn
hóa thể dục thể thao...có chất lượng cao cho xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng của nhân dân, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, mặt khác, hoạt động sự nghiệp cung cấp những hàng hóa mà thị
trường không muốn hoặc không thể cung cấp hiệu quả, thông qua các đơn vị
SNC để cung cấp các dịch vụ sự nghiệp cho vùng sâu, vùng xa, vùng khó
khăn, phát triển bảo vệ tài nguyên môi trường phục vụ cho sự bền vững kinh
28
tế - xã hội; bảo tồn và phát triển các di sản văn hóa của đất nước.
- Thứ hai, Tham gia vào quá trình thực hiện phân phối lại, đảm bảo cho
người dân được thụ hưởng những phúc lợi xã hội thiết yếu (thông qua các
hoạt động dịch vụ, công tác giáo dục, y tế...)..
-Thứ ba, Kích thích đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thông qua các hoạt
động đầu tư phát triển nguồn nhân lực, cung cấp các dịch vụ công ích, đầu tư phát
triển khoa học công nghệ, nâng cao sức sản xuất xã hội và trình độ quản lý...
Thứ tư, Là công cụ vật chất để nhà nước can thiệp, điều tiết thị trường:
đối với những hàng hóa đặc thù như phục vụ đời sống ăn nghỉ, dạy học, dạy
nghề, khám chữa bệnh..đây là những hàng hóa cá nhân thuần túy, đòi hỏi
người sử dụng dịch vụ này phải trả tiền để cho người cung cấp bù đắp chi phí,
đảm bảo tái sản xuất, tuy nhiên, nhà nước vẫn cần thiết phải tham gia vào thị
trường này, phát huy vai trò của các đơn vị sự nghiệp công để cung cấp dịch
vụ theo nhu cầu của thị trường, can thiệp điều tiết thị trường hạn chế những
tiêu cực của thị trường để đảm bảo quyền lợi của mọi người dân, đảm bảo
tính xã hội, tính nhân văn của hoạt động sự nghiệp, mặt khác, thông qua hoạt
động thu phí và lệ phí của các đơn vị SNC góp phần tăng nguồn lực tài chính,
đẩy mạnh đa dạng hóa xã hội hóa nguồn lực, thúc đẩy sự phát triển và nâng
cao chất lượng dịch vụ sự nghiệp.
* Phân loại đơn vị sự nghiệp công
Có nhiều cách phân loại đơn vị SNC khác nhau tùy theo yêu cầu quản
lý, hay mục đích nghiên cứu để có cách phân loại thích hợp, dưới đây là một
số cách phân loại chủ yếu.
a- Phân loại theo lĩnh vực hoạt động.
Căn cứ theo tính chất hoạt động, có thể phân loại đơn vị sự nghiệp công
theo các lĩnh vực hoạt động như: Giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa, xã hội,
nghiên cứu khoa học và công nghệ, bảo tồn, bảo tàng, thể dục, thể thao, sự
nghiệp kinh tế.
29
b- Phân loại đơn vị SNC theo cơ quan trực tiếp quản lý.
Theo cách phân loại này, các đơn vị SNC có thể chia thành:
- Đơn vị sự nghiệp công thuộc các cơ quan nhà nước như: các trường,
viện nghiên cứu ...thuộc các bộ, ngành trung ương.
- Đơn vị SNC trực thuộc các đơn vị sự nghiệp công như: các viện, các
trung tâm thuộc các trường đại học, các đài khí tượng thủy văn thuộc trung
tâm khí tượng thủy văn quốc gia...
- Các đơn vị sự nghiệp thuộc các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
- Các đơn vị sự nghiệp thuộc các doanh nghiệp nhà nước...
c- Phân loại theo cấp hành chính gồm:
- Đơn vị sự nghiệp cấp trung ương do Chính phủ, các bộ, các ngành
trung ương thành lập và quản lý.
- Đơn vị sự nghiệp cấp tỉnh là các đơn vị do Ủy ban nhân tỉnh thành lập
và quản lý hoặc phân cấp cho các sở quản lý.
- Đơn vị sự nghiệp cấp Huyện là những đơn vị do Ủy ban nhân dân
huyện thành lập và quản lý hoặc do tỉnh thành lập giao cho huyện quản lý
d- Phân loại theo cấp dự toán. Theo qui định của luật NSNN hiện hành,
theo cấp dự toán, đơn vị sự nghiệp công được chia làm 03 loại sau:
- Đơn vị dự toán cấp I là những đơn vị trực tiếp nhận kinh phí trực tiếp
từ NSNN do Chính phủ, UBND các cấp chính quyền giao, có nhiệm vụ quản
lý, sử dụng và quyết toán kinh phí với cơ quan tài chính.
- Đơn vị dự toán cấp II là những đơn vị nhận kinh phí từ đơn vị dự toán
cấp I giao, phân bổ dự toán cho các đơn vị dự toán cấp III trực thuộc, có
nhiệm vụ quản lý, sử dụng ngân sách và quyết toán ngân sách của đơn vị
mình và đơn vị dự toán cấp III trực thuộc.
- Đơn vị dự toán cấp III là những đơn vị nhận kinh phí từ đơn vị dự
toán cấp I hoặc cấp II giao, có nhiệm vụ trực tiếp sử dụng ngân sách và quyết
toán ngân sách của đơn vị mình với đơn vị dự toán cấp trên,
30
đ- Phân loại đơn vị sự nghiệp theo cơ cấu nguồn kinh phí.
Theo qui định tại Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm
2015 về việc qui định chế độ tự chủ đối với đơn vị SNC, căn cứ vào khả năng
tự chủ và cơ cấu nguồn kinh phí, các đơn vị SNC được chia làm 04 loại sau:
- Đơn vị sự nghiệp tự chủ toàn bộ kinh phí chi thường xuyên và chi đầu tư.
- Đơn vị sự nghiệp tự chủ toàn bộ chi thường xuyên.
- Đơn vị sự nghiệp tự chủ một phần kinh phí chi thường xuyên
- Đơn vị sự nghiệp được nhà nước đảm bảo toàn bộ chi thường xuyên
và chi đầu tư.
2.1.2. Nhà khách thuộc các cơ quan quản lý nhà nước – một loại đơn vị sự nghiệp
công đặc thù
* Khái niệm
Nhà khách là cơ sở kinh doanh dịch vụ phục vụ khách lưu trú đáp ứng
yêu cầu về các mặt ăn, uống, ngủ nghỉ, giải trí và các dịch vụ cần thiết khác
và là nhà của các cơ quan dùng làm nơi ăn ở cho khách của các cơ quan đó
khi tới công tác, nhà khách không thu tiền khi tiếp các khách chính thức của
cơ quan chủ quản.
Nhà khách thuộc các cơ quan quản lý nhà nước là những đơn vị do các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, nhằm hoạt động phục vụ cho việc
thực hiện chức năng nhiệm vụ cho cơ quan nhà nước quản lý.
Hệ thống nhà khách
Hệ thống nhà khách được hình thành nhằm cung cấp các dịch vụ công
mà nhà nước chịu trách nhiệm chủ yếu bảo đảm nhằm phục vụ dịch vụ ăn,
ngủ, nghỉ cho các cán bộ thuộc các cơ quan QLNN và các lĩnh vực khác mà
khu vực ngoài công lập chưa có khả năng đáp ứng.
Hệ thống nhà khách thuộc các cơ quan QLNN hiện nay gồm các nhà
khách của UBND các tỉnh, thành phố, các nhà khách thuộc các bộ quản lý tại
31
các khu du lịch lớn của cả nước và hệ thống các nhà khách thuộc Văn phòng
Chính phủ quản lý.
* Đặc điểm của nhà khách thuộc các cơ quan quản lý nhà nước
Hệ thống nhà khách thuộc cơ quan QLNN do nhà nước đầu tư về kinh
phí và cơ sở vật chất, hoạt động chủ yếu bằng kinh phí từ các nguồn tài chính
hoặc các khoản đóng góp phi vụ lợi, do đó, cơ chế quản lý tài chính của hệ
thống nhà khách bên cạnh phục vụ mục tiêu kinh tế - tài chính còn phục vụ
mục tiêu của cơ quan QLNN, đây là một trong những điểm cần chú ý đối với
việc nghiên cứu về cơ chế quản lý tài chính hệ thống nhà khách ở nước ta, nếu
các khách sạn được tự chủ về nguồn thu, chi và tập trung vào kinh doanh tối
đa hóa lợi nhuận của họ thì các nhà khách phải cân đối hài hòa giữa nhiệm vụ
kinh tế và nhiệm vụ phục vụ đối với khách thuộc cơ quan quản lý, điều này
cũng đặt ra một giới hạn nhất định đối với thiết lập cơ chế quản lý tài chính hệ
thống nhà khách, sự ràng buộc đó đối với hệ thống nhà khách khiến cho mục
tiêu tài chính của hệ thống nhà khách trở nên khó khăn hơn trong việc thanh
quyết toán đến tiêu điểm tối ưu.
Cơ chế quản lý tài chính của hệ thống nhà khách đứng trước hai thách
thức: Thứ nhất là sự giới hạn về ngân sách và thứ hai là nhu cầu ngày càng
cao từ phía yêu cầu dịch vụ, việc nâng cao chất lượng cơ sở vật chất và đội
ngũ cán bộ cũng như các dịch vụ khác buộc hệ thống nhà khách phải đầu tư
mạnh vào cơ sở hạ tầng, đầu tư cơ sở hạ tầng cần nhu cầu nguồn vốn lớn, điều
này rất khó khăn đối với hệ thống nhà khách trong điều kiện ràng buộc ngân
sách chặt chẽ, những quy trình, thủ tục nhà nước về huy động và sử dụng
nguồn vốn từ NSNN trong phát triển hệ thống nhà khách, nếu thông thoáng
và cởi mở sẽ thúc đẩy hệ thống nhà khách phát triển, ngược lại sẽ kìm hãm hệ
thống này mở rộng.
Khi bàn về cơ chế tài chính của hệ thống nhà khách chúng ta không
dừng lại ở những khoản thu chi mà cần nhìn vào nhiệm vụ, nhiệm vụ chủ đạo
32
của chúng nằm ở những giá trị vô hình về hệ thống phục vụ và những đóng
góp vào quá trình phát triển, cơ chế quản lý tài chính hệ thống nhà khách
được hiểu là một tập hợp các phương pháp, công cụ quản lý tài chính tuân
theo hệ thống pháp luật hiện hành, nhằm thực hiện mục tiêu tài chính và phi
tài chính của hệ thống nhà khách thuộc cơ quan QLNN, cơ chế quản lý tài
chính, do đó được xây dựng đơn giản hay phức tạp tùy thuộc vào quy mô của
hệ thống nhà khách.
* Phân loại nhà khách các thuộc cơ quan quản lý nhà nước
Có rất nhiều loại nhà khách thuộc cơ quan QLNN như
- Theo hình thức quản lý có thể chia ra làm các loại sau:
Nhà khách thuộc cơ quan trung ương quản lý ( nhà khách thuộc Văn
phòng Chính phủ quản lý, ví dụ: nhà khách 37 Hùng Vương, nhà khách Tao
Đàn, nhà khách Dinh Độc Lập...)
Nhà khách thuộc các Bộ quản lý (ví dụ: nhà khách Bộ Giáo dục, nhà
khách Bộ Giao thông, nhà khách Bộ Quốc phòng...)
Nhà khách thuộc UBND tỉnh quản lý (ví dụ : nhà khách Tỉnh Quảng
Ninh, nhà khách Tỉnh Quảng Ngãi, nhà khách Tỉnh Thanh Hóa, tỉnh Bến
Tre...).
- Theo loại hình của các bộ quản lý các nhà khách thì tại các địa phương
cũng có các nhà khách của các bộ…
Nhà khách Bộ Xây dựng ở Vũng Tàu, nhà khách Bộ Giáo dục ở Cửa Lò,
nhà khách Bộ Ngoại giao ở Sầm Sơn.
* Vai trò và nhiệm vụ của nhà khách các cơ quan quản lý nhà nước
Vai trò của các nhà khách đặc biệt quan trọng, đây là hệ thống cơ sở phục
vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng, nhà nước và chính phủ, phục vụ việc ăn,
nghỉ, đi lại của các đại biểu về dự các kỳ họp Quốc hội, đại biểu về dự các hội
nghị TW của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, HĐND và UBND các
tỉnh thành phố hàng năm hoặc bất thường, phục vụ khách vãng lai của Ủy ban
33
nhân dân và Hội đồng nhân dân các tỉnh, huyện, xã về làm việc với chính phủ,
Văn phòng Chính phủ, Nhà nước, Quốc hội ... Ngoài ra các nhà khách còn tận
dụng cơ sở vật chất, nhận làm dịch vụ cho các hội nghị của các tổ chức trong
và ngoài nước, tổ chức việc ăn, nghỉ cho khách quốc tế và các tỉnh thành cũng
như các huyện xã khi có nhu cầu về tỉnh hoặc Trung ương làm việc.
Vai trò của các nhà khách thuộc cơ quan QLNNc thể hiện ở đặc thù của
các nhà khách này, nhà khách của cơ quan QLNN có các đặc thù sau:
Thứ nhất, các nhà khách đều thực hiện nhiệm vụ tổ chức ăn, nghỉ, hội
họp cho các cơ quan quản lý nhà nước cấp trên.
Thứ hai, các nhà khách này được quản lý trực tiếp của cơ quan QLNN về
hoạt động của các bộ, bộ máy nhà khách của bộ mình.
Thứ ba, Các nhà khách này có hai nguồn thu chính, một là nguồn thu từ
ngân sách nhà nước và nguồn thu từ kinh doanh dịch vụ ăn, ở và cho thuê dịch
vụ khác.
Thứ tư, các nhà khách đều được đầu tư, xây dựng và trang bị từ nguồn
ngân sách nhà nước, hầu hết các nhà khách này được xây dựng từ thời bao cấp
và hiện nay đã xuống cấp cần đầu tư sửa chữa lớn.
Thứ năm, vị trí của các nhà khách thường ở những vị trí đắc địa tại thủ
phủ của các địa phương hay những thành phố lớn thuộc Trung ương.
Thứ sáu, nguồn nhân lực của các nhà khách hiện nay đều được điều
chuyển và làm việc từ nguồn cán bộ, công chức của nhà nước từ trước đây.
Có nhiều đặc thù cụ thể, song tất cả các nhà khách trước đây đều hoạt
động theo “Cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp là chính. đặc thù các hoạt
động của các nhà khách theo chỉ tiêu kế hoạch cấp trên giao trực tiếp, về vốn,
do ngân sách nhà nước cấp, cơ sở vật chất kỹ thuật do nhà nước đầu tư xây
dựng. lao động tuyển dụng trước đây do cấp trên chuyển đến và tiền lương do
cấp trên quyết định, khách đến ăn, nghỉ nói chung được bao cấp không phải trả
34
tiền, nói cách khác do kinh phí từ các hội nghị hoặc kinh phí nhà nước đài thọ.
2.2. Cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống nhà khách thuộc cơ quan
quản lý nhà nước:
2.2.1. Khái niệm cơ chế quản lý tài chính đối với các nhà khách thuộc cơ quan
quản lý nhà nước
Quản lý tài chính là một bộ phận, một khâu của quản lý kinh tế xã hội
và là khâu quản lý mang tính tổng hợp. Quản lý tài chính được coi là hợp lý,
có hiệu quả nếu nó tạo ra được một cơ chế quản lý thích hợp, có tác động tích
cực tới các quá trình kinh tế xã hội theo các phương hướng phát triển đã được
hoạch định. Việc quản lý, sử dụng nguồn tài chính ở các đơn vị sự nghiệp có
liên quan trực tiếp đến hiệu quả kinh tế xã hội do đó phải có sự quản lý, giám
sát, kiểm tra nhằm hạn chế, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng
trong khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính đồng thời nâng cao hiệu quả
việc sử dụng các nguồn tài chính.
Cơ chế quản lý tài chính là tổng thể các yếu tố từ quy định, quy tắc,
nguyên tắc, phương pháp, công cụ, biện pháp… nhằm xây dựng hành lang
pháp lý cho các hoạt động quản lý tài chính. Trong đơn vị sự nghiệp, Nhà
nước là chủ thể quản lý, đối tượng quản lý là tài chính đơn vị sự nghiệp. Tài
chính đơn vị sự nghiệp bao gồm các hoạt động và quan hệ tài chính liên quan
đến quản lý, điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực sự nghiệp.
Là chủ thể quản lý, Nhà nước có thể sử dụng tổng thể các phương
pháp, các hình thức và công cụ để quản lý hoạt động tài chính của các đơn vị
sự nghiệp trong những điều kiện cụ thể nhằm đạt được những mục tiêu nhất
định.
Cơ chế quản lý tài chính đối với ĐVSNCL là việc sử dụng và phát huy
35
vai trò, chức năng, công cụ, phương pháp quản lý, thông qua hoạt động của
bộ máy quản lý trong ĐVSNCL, trên cơ sở tuân thủ cơ chế, chính sách và
pháp luật về quản lý tài chính của nhà nước từ khâu lập kế hoạch tài chính,
tạo và sử dụng nguồn tài chính đến kiểm tra, giám sát việc sử dụng nguồn tài
chính; nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển ĐVSNCL.
Cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống nhà khách các cơ quan
QLNN là quá trình áp dụng các công cụ và phương pháp quản lý nhằm tạo lập
và sử dụng các quỹ tài chính trong nhà khách để đạt được mục tiêu đã định.
2.2.2. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với nhà khách thuộc cơ
quan quản lý nhà nước
2.2.2.1. Sự ra đời của quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ đối với đơn vị sự
nghiệp công lập.
Trước năm 2002, cơ chế quản lý tài chính đối với cơ quan hành chính
đơn vị sự nghiệp là giống hệt như nhau, các đơn vị này hoạt động hoàn toàn
dựa vào NSNN. Kinh phí từ NSNN được cấp phát theo hạn mức kinh phí cho
từng mục chi theo mục lục ngân sách Nhà nước. Do hạn chế trong việc xây
dựng dự toán đầu năm hoặc có những biến động bất thường trong năm, dẫn
đến cuối năm nhiều đơn vị sử dụng ngân sách đã xảy ra tình trạng thừa hạn
mức kinh phí ở mục này nhưng lại thiếu kinh phí hoạt động ở mục khác, hoặc
nếu không sử dụng hết thì phần hạn mức thừa sẽ bị huỷ bỏ… Cơ chế này
dẫn đến tình trạng sử dụng kinh phí chưa đúng mục đích và chưa hiêụ quả,
tình trạng tồn đọng kinh phí ở các đơn vị sử dụng NSNN còn nhiều. Cách cấp
phát tài chính này có xu hướng thiên về cơ chế “ Xin - Cho ”, các đơn vị sự
nghiệp phần lớn còn ỷ lại vào việc phân bổ ngân sách nhà nước hàng năm. Dự
toán kinh phí cấp còn chậm, nhiều dự án đã được phê duyệt, triển khai thực
hiện song nhưng kinh phí còn chưa đáp ứng được.
Trước tình hình đó, Chính phủ ban hành Nghị định số: 10/2002/NĐ-CP
36
ngày 16 tháng 01 năm 2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho
đơn vị sự nghiệp có thu. So với cơ chế cũ, tinh thần Nghị định số:
10/2002/NĐ-CP có nhiều sự thay đổi lớn: Các đơn vị sự nghiệp khi chuyển
sang thực hiện Nghị định10/2002/NĐ-CP được khoán phần kinh phí ngân
sách cấp, đồng thời tích cực khai thác các nguồn thu sự nghiệp từ hoạt động
cung ứng dịch vụ và được chủ động sử dụng các nguồn kinh phí tuỳ theo yêu
cầu hoạt động của đơn vị, đảm bảo chi tiêu hiệu quả, tiết kiệm trên cơ sở quy
chế chi tiêu nội bộ do đơn vị tự xây dựng.
Đến năm 2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số: 43/2006/NĐ-CP
ngày 25/04/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với sự nghiệp công lập.
Nghị định số: 43/2006/NĐ-CP mở rộng thêm quyền và trách nhiệm của các
đơn vị sự nghiệp công lập, khắc phục những tồn tại của Nghị định số:
10/2002/NĐ-CP. Đến tháng 08 năm 2006, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư
số: 71/2006/TT- BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định 43/2006/NĐ-CP. Nghị
định 43/2006/NĐ-CP mở rộng trao quyền tự chủ cho đơn vị sự nghiệp góp
phần nâng cao số lượng và chất lượng dịch vụ công; tạo điều kiện cho người
dân có thêm cơ hội lựa chọn, tiếp cận các dịch vụ công với chất lượng ngày
càng cao, đồng thời, góp phần cải thiện từng bước thu nhập của người lao động
tại các đơn vị sự nghiệp.
Năm 2015, Chính phủ ban hành Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày
14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập (gọi tắt là
Nghị định 16). Nghị định 16 điều chỉnh cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối
với đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tăng cường trao quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm, khuyến khích các đơn vị có điều kiện vươn lên tự chủ ở
mức cao. Nghị định 16 có một số điểm mới nổi bật so với Nghị định
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ. Theo đó, việc phân loại đơn
vị sự nghiệp công lập được dựa trên mức độ tự chủ về tài chính của các đơn vị
37
cả về chi thường xuyên và chi đầu tư. Các đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm
chi thường xuyên và chi đầu tư được giao quyền tự chủ khá rộng. Nghị định
16 đã kịp thời đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển của hoạt động sự nghiệp
công trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các nhà khách thuộc CQ QLNN là một loại hình đơn vị sự nghiệp công
lập. Vì vậy, cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với đơn vị sự nghiệp công
lập được áp dungjcho toàn bộ hệ thống nhà khách CQQLNN.
2.2.2.2 , Khái quát về cơ chế quản lý tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính
Khái niệm, đặc điểm của cơ chế quản lý tự chủ tài chính.
Cơ chế quản lý tài chính là hệ thống tổng thể các phương pháp, các
hình thức và công cụ được vận hành để quản lý các hoạt động tài chính ở một
chủ thể nhât định nhằm đạt được nhưng mục tiêu đặt ra. Cơ chế quản lý tài
chính là sản phẩm chủ quan của con người trên cơ sở nhận thức vận động
khách quan của phạm trù tài chính trong từng giai đoạn lịch sử.
Cơ chế tự chủ tài chính trong các đơn vị sự nghiệp công lập thực chất là
cơ chế quản lý tài chính mà ở đó quyền định đoạt các vấn đề tài chính của đơn
vị gắn trách nhiệm thực thi quyền định đoạn đó được đề cao.
Các đơn vị sự nghiệp công lập là những đơn vị quản lý và cung cấp các
dịch vụ công cho xã hội do Nhà nước thành lập và đặt dưới sự quản lý của
Nhà nước, nên quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính trong các đơn
vị sự nghiệp công lập mang những đặc điểm riêng, cụ thể:
Quyền đi đôi với trách nhiệm: Đơn vị sự nghiệp công được Nhà nước
giao quyền quyết định các vấn đề tài chính trong đơn vị, song phải chịu trách
nhiệm về các quyết định của mình trước Pháp luật, trước Nhà nước và trước
yêu cầu của người thụ hưởng các dịch vụ do mình cung cấp.
Quyền tự chủ tài chính luôn song hành với các quyền tự chủ trong các
hoạt động khác của đơn vị. Quyền tự chủ tài chính chỉ có thể triển khai thực
38
hiện khi đơn vị sự nghiệp công lập được quyền tự chủ trong các hoạt động sự
nghiệp một cách có hiệu quả, đơn vị sự nghiệp công phải có tự chủ về tài
chính. Như vậy giữa quyền tự chủ tài chính với quyền tự chủ các hoạt động
khác trong đơn vị sự nghiệp công lập có mối quan hệ hữu cơ gắn bó với nhau,
hỗ trợ nhau.
Quyền tự chủ tài chính trong các đơn vị sự nghiệp công là quyền tự chủ
có giới hạn. Các đơn vị sự nghiệp công lập là các đơn vị do Nhà nước thành
lập và quản lý, do đó mọi hoạt động trong đơn vị sự nghiệp công lập, kể cả
hoạt động tài chính đều đặt dưới sự kiểm tra giám sát của Nhà nước, của các
cơ quan quản lý cấp trên, cho dù các hoạt động đó đã được trao quyền tự chủ
và tự chịu trách nhiệm. Sự giới hạn của quyền tự chủ tài chính trong các đơn
vị công lập là một yêu cầu tất yếu, nó xuất phát lợi ích chính đáng trong việc
hưởng thụ dịch vụ công của xã hội, mà Nhà nước là người bảo hộ. Nhà nước
ban hành quy chế tự chủ tài chính trong đơn vị sự nghiệp công lập, quy định
phạm vi, mức độ tự chủ đối với một số hoạt động tài chính trong đơn vị.
Nhà nước trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho đơn vị sự nghiệp
công lập trong tổ chức, sắp xếp, sử dụng lao động và nguồn lực tài chính để
hoàn thành nhiệm vụ được giao, phát huy mọi khả năng của đơn vị để cung
cấp dịch vụ với chất lượng cao cho xã hội, tăng nguồn thu nhằm từng bước
giải quyết thu nhập cho người lao động.
Thực hiện chủ trương xã hội hoá trong việc cung cấp dịch vụ cho xã
hội, huy động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động
sự nghiệp, từng bước giảm dần bao cấp từ ngân sách nhà nước.
Vai trò của cơ chế quản lý tự chủ tài chính.
Vai trò cụ thể của việc thực hiện giao quyền tự chủ tài chính cho các
đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh
vực Giáo dục nghề nghiệp nói riêng được thể hiện trên các mặt sau:
Giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị đã giúp các đơn vị chủ động
39
thu hút, khai thác, tạo lập nguồn vốn ngân sách và ngoài ngân sách thông qua
đa dạng hoá các hoạt động sự nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách
Nhà nước, nhân lực, tài sản để việc thực hiện nhiệm vụ hiệu quả hơn, mở
rộng, phát triển nguồn thu.
Giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị tác động tích cực tạo điều
kiện cho các đơn vị chủ động hơn trong công tác quản lý tài chính, quan tâm
hơn đến hiệu quả sử dụng kinh phí và thực hành tiết kiệm. Qua đó, thúc đẩy
các đơn vị chủ động và năng động hơn trong các hoạt động theo hướng đa
dạng hoá các loại hình đào tạo để tăng nguồn thu, khắc phục được tình trạng
sử dụng lãng phí các nguồn lực, đồng thời khuyến khích sử dụng tiết kiệm
trong chi tiêu và tôn trọng nhiệm vụ hoạt động nghiệp vụ có chuyên môn của
các đơn vị.
Giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị góp phần tăng cường trách
nhiệm của đơn vị đối với nguồn kinh phí, công tác lập dự toán được chú trọng
hơn và khả thi hơn. Hầu hết các đơn vị được giao quyền tự chủ đã xây dựng
quy chế chi tiêu nội bộ và thực hiện công khai tài chính.
Giao quyền tự chủ tài chính là cơ sở xác lập cơ chế bảo đảm và hỗ trợ
thực hiện quyền tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập trong quá trình
tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài chính trong đơn vị.
Giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị bảo đảm đầu tư cửa Nhà
nước cho các đơn vị sự nghiệp được đúng mục đích hơn, có trọng tâm trọng
điểm, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp, tạo cơ sở pháp lý cho
các đơn vị hoạt động theo đúng quy định của pháp luật, thể chế hoá việc trả
lương tăng một cách thích đáng, hợp phát từ kết quả hoạt động sản xuất cung
ứng dịch vụ và tiết kiệm chi tiêu, tăng cường công tác quản lý tài chính của các
đơn vị từng bước đi vào nề nếp.
Lợi ích của cơ chế quản lý tự chủ tài chính.
Việc trao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp tạo ra sự chủ động
40
sáng tạo cho họ, các đơn vị có thể linh hoạt trong việc sử dụng có hiệu quả
nguồn kinh phí, đồng thời nâng cao tính tự chịu trách nhiệm khiến cho các
đơn vị phải biết tiết kiệm, tránh lãng phí. Nhờ tiết kiệm các nguồn thu được
sử dụng hợp lý, nâng cao thu nhập cho người lao động, trang thiết bị được đầu
tư trọng điểm, tạo điều kiện nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ, các đơn vị
chủ động hơn trong công tác quản lý tài chính, chủ động trong đầu tư mua
sắm và xây dựng cơ bản theo thời điểm và mục đích sử dụng kinh phí có hiệu
quả, tự chủ trong việc sắp xếp tổ chức bộ máy, biên chế và lao động trong
từng đơn vị.
Cơ chế tự chủ cho phép các đơn vị sự nghiệp được mở rộng hoạt động
dịch vụ của mình, mở rộng các hình thức liên kết nhằm tăng nguồn thu cho
đơn vị đồng thời đơn vị được sử dụng nguồn thu đó theo quy định. Chính điều
này đã kích thích các đơn vị tìm kiếm, thu hút nguồn kinh phí ngoài kinh phí
NSNN, muốn vậy họ phải nâng cao chất lượng dịch vụ của mình.
Hoạt động của các đơn vị trở nên năng động hơn theo hướng đa dạng
hoá các loại hình hoạt động để tăng nguồn thu sự nghiệp của các đơn vị. Nếu
trước kia các đơn vị chỉ trông chờ vào nguồn kinh phí từ ngân sách cấp thì
nay họ có thể huy động nguồn lực tài chính từ nhiều cách. Như vậy chất
lượng phục vụ của các đơn vị sự nghiệp nói chung và chất lượng đào tạo nói
riêng được nâng lên, đồng thời gánh nặng đối với ngân sách cũng được giảm
bớt, Nhà nước chỉ phải tập trung cho những ngành trọng điểm mũi nhọn.
2.2.3. Nội dung của cơ chế quản lý tự chủ tài chính trong các đơn vị sự nghiệp
công lập.
2.2.3.1. Khái quát quyền tự chủ về quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp
công lập.
Quyền tự chủ quản lý về tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập
41
được quy định tại Nghị định số: 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 của Chính
phủ và Nghị định Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ
quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, bao gồm:
* Phạm vi , đối tượng thực hiện cơ chế quản lý tự chủ
Là các đơn vị sự nghiệp công lập (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp) do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập.
Đơn vị thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm phải là đơn vị dự
toán độc lập, có con dấu và tài khoản riêng, tổ chức bộ máy kế toán theo quy
định của Luật Kế toán.
* Mục tiêu thực hiện cơ chế quản lý tự chủ
- Trao quyền quản lý tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho đơn vị sự nghiệp
trong việc tổ chức công việc, sắp xếp lại bộ máy, sử dụng lao động và nguồn
lực tài chính để hoàn thành nhiệm vụ được giao, phát huy mọi khả năng của
đơn vị để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho xã hội, tăng nguồn thu
nhằm từng bước giải quyết thu nhập cho người lao động.
- Thực hiện chủ trương xã hội hoá trong việc cung cấp dịch vụ cho xã
hội, huy động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động
sự nghiệp, từng bước giảm dần bao cấp từ ngân sách nhà nước.
- Thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với đơn vị sự nghiệp,
nhà nước vẫn quan tâm đầu tư để hoạt động sự nghiệp ngày càng phát triển,
bảo đảm cho các đối tượng chính sách - xã hội, đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn được cung cấp dịch vụ theo quy
định ngày càng tốt hơn.
-Phân biệt rõ cơ chế quản lý nhà nước đối với đơn vị sự nghiệp với cơ
chế quản lý nhà nước đối với cơ quan hành chính nhà nước.
* Nguyên tắc thực hiện cơ chế quản lý tự chủ
- Hoàn thành nhiệm vụ được giao, đối với hoạt động sản xuất hàng hoá,
42
cung cấp dịch vụ phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao, phù hợp
với khả năng chuyên môn và tài chính của đơn vị.
-. Thực hiện quyền tự chủ gắn với tự chịu trách nhiệm trước cơ quan
quản lý cấp trên trực tiếp và trước pháp luật về những quyết định của mình;
đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
-. Bảo đảm lợi ích của nhà nước, quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân
theo quy định của pháp luật.
Về tự chủ quản lý về tài chính: Nhằm khuyến khích các đơn vị phấn
đấu vươn lên tự chủ tài chính mức cao hơn, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy
định theo nguyên tắc: Đơn vị tự chủ cao về nguồn tài chính thì được tự chủ
cao về quản lý, sử dụng các kết quả tài chính và ngược lại (đi kèm theo đó là
tự chủ về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự).
Tự chủ tài chính có các mức độ sau: Tự bảo đảm chi thường xuyên và
chi đầu tư; Tự bảo đảm chi thường xuyên; Tự bảo đảm một phần chi thường
xuyên (do giá, phí dịch vụ sự nghiệp công chưa kết cấu đủ chi phí) và Được
Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên (theo quy định không có nguồn thu hoặc
nguồn thu thấp, chẳng hạn các trường tiểu học).
Về chi tiền lương: Các đơn vị sự nghiệp chi trả tiền lương theo lương
ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp do Nhà nước quy định đối với đơn
vị sự nghiệp công. Khi Nhà nước điều chỉnh tiền lương cơ sở, đơn vị tự bảo
đảm chi thường xuyên và chi đầu tư và đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên
phải tự bảo đảm tiền lương tăng thêm từ nguồn thu của đơn vị; NSNN không
cấp bổ sung.
Đối với đơn vị chưa tự bảo đảm chi thường xuyên và đơn vị được Nhà
nước bảo đảm chi thường xuyên, chi tiền lương tăng thêm từ các nguồn theo
43
quy định, bao gồm cả nguồn NSNN cấp bổ sung (nếu thiếu).
Về trích lập các Quỹ: Hàng năm, sau khi hạch toán đầy đủ các khoản
chi phí, nộp thuế và các khoản nộp NSNN khác (nếu có) theo quy định, phần
chênh lệch thu lớn hơn chi, đơn vị được sử dụng để trích lập các quỹ phát
triển hoạt động sự nghiệp; quỹ bổ sung thu nhập; quỹ khen thưởng và quỹ
phúc lợi.
Ngoài ra, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP cũng cho phép các đơn vị được
trích lập các quỹ khác theo quy định của pháp luật. Mức trích các Quỹ căn cứ
vào mức độ tự chủ tài chính của đơn vị.
Về tự chủ trong giao dịch tài chính: Đơn vị được mở tài khoản tiền gửi
tại ngân hàng thương mại hoặc Kho bạc Nhà nước để phản ánh các khoản thu,
chi hoạt động dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước. Lãi
tiền gửi đơn vị được bổ sung vào Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp hoặc bổ
sung vào Quỹ khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành (nếu có),
không được bổ sung vào Quỹ bổ sung thu nhập.
Đơn vị sự nghiệp công lập có hoạt động dịch vụ đuợc quyền vay vốn
của các tổ chức tín dụng, được huy động vốn của Cán bộ, viên chức trong đơn
vị để đầu tư mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp, tổ chức các
hoạt động dịch vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và tự chịu trách nhiệm
trả nợ vay theo quy định của Pháp luật.
Quyền tự chủ trong việc huy động vốn và vay vốn tín dụng. Đơn vị sự
nghiệp công lập được huy động vốn, vay vốn để đầu tư, xây dựng cơ sở vật
chất theo quy định của pháp luật và phải có phương án tài chính khả thi để
hoàn trả vốn vay; chịu trách nhiệm về hiệu quả của việc huy động vốn, vay
vốn.
Ngoài ra, cho phép đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường
xuyên và chi đầu tư được vận dụng cơ chế tài chính như doanh nghiệp (công
ty TNHH một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ), khi đáp
44
ứng đủ các điều kiện theo quy định.
Quyền tự chủ về quản lý và sử dụng tài sản.
Đơn vị được thực hiện đầu tư, mua sắm, quản lý sử dụng tài sản Nhà
nước theo quy định của pháp luật quản lý tài sản tại đơn vị sự nghiệp. Đối với
Tài sản cố định ( TSCĐ ) sử dụng vào hoạt động dịch vụ theo thực hiện khấu
hao thu hồi vốn theo quy định áp dụng cho doanh nghiệp Nhà nước. Số tiền
trích khấu hao, thanh lý tài sản thuộc nguồn vốn NSNN được để lại cho đơn
vị sự nghiệp công lập để bổ sung quỹ phát triển sự nghiệp, số tiền trích khấu
hao, tiền thanh lý tài sản thuộc nguồn vốn vay được dùng vào trả nợ vay, nếu
trả đủ nợ mà còn thừa thì bổ sung quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp.
Quyền tự chủ quản lý về giá, phí: Để khắc phục những hạn chế về vấn
đề Giá, phí, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP đã quy định cụ thể về giá, phí và lộ
trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công, danh mục dịch vụ sự nghiệp công; đồng
thời phân định dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí NSNN và dịch vụ sự
nghiệp công không sử dụng kinh phí NSNN. Theo đó, đối với loại dịch vụ sự
nghiệp công không sử dụng kinh phí NSNN thì đơn vị được tự xác định giá
dịch vụ theo nguyên tắc thị trường. Đối với loại dịch vụ sự nghiệp công sử
dụng kinh phí NSNN thì Nhà nước ban hành danh mục và định giá.
Tuy nhiên, Nhà nước cũng quy định lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp
công để phù hợp với khả năng của NSNN và thu nhập của người dân như sau:
Đến năm 2016 sẽ tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp (chưa tính chi
phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định); Đến năm 2018 sẽ tính đủ chi
phí tiền lương, chi phí trực tiếp và chi phí quản lý (chưa tính chi phí khấu hao
tài sản cố định); Đến năm 2020 sẽ tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp,
chi phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định.
Căn cứ vào tình hình thực tế, các đơn vị được thực hiện trước lộ trình
giá dịch vụ sự nghiệp công. Đối với nguồn NSNN cấp cho các đơn vị sự
45
nghiệp, thực hiện chủ trương chuyển mạnh sang cơ chế đấu thầu, đặt hàng,
giao nhiệm vụ, thì đây cũng được coi là nguồn thu của đơn vị để thực hiện tự
chủ tài chính.
Đó là những nội dung cơ bản quyền tự chủ tài chính trong các đơn vị sự
nghiệp công lập có thu. Tuỳ theo mức tự bảo đảm nguồn kinh phí cho hoạt
động thường xuyên trong các đơn vị mà phạm vi, mức độ tự chủ tài chính có
khác nhau trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Nói chung đơn vị sự nghiệp
bảo đảm hoàn toàn kinh phí cho hoạt động thường xuyên theo quy định thì
phạm vi mức độ tự chủ đuợc quy định rộng rãi hơn.
2.2.3.2. Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về quản lý tài chính đối với đơn vị
sự nghiệp công lập tự bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên và chi đầu tư
Các đơn vị được chủ động sử dụng các nguồn tài chính được giao tự
chủ, bao gồm nguồn thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công (kể cả nguồn
NSNN đấu thầu, đặt hàng), nguồn thu phí theo quy định được để lại chi và
nguồn thu hợp pháp khác, để chi thường xuyên.
Để tạo điều kiện khuyến khích các đơn vị tự chủ toàn diện về chi
thường xuyên và chi đầu tư, các đơn vị này căn cứ nhu cầu đầu tư và khả
năng cân đối các nguồn tài chính, đơn vị chủ động xây dựng danh mục các dự
án đầu tư, báo cáo cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Trên cơ sở danh mục dự án đầu tư đã được phê duyệt, đơn vị quyết
định dự án đầu tư, bao gồm các nội dung về quy mô, phương án xây dựng,
tổng mức vốn, nguồn vốn, phân kỳ thời gian triển khai theo quy định của
pháp luật về đầu tư. Đơn vị sự nghiệp công được vay vốn tín dụng ưu đãi của
Nhà nước hoặc được hỗ trợ lãi suất cho các dự án đầu tư sử dụng vốn vay của
các tổ chức tín dụng theo quy định. Căn cứ yêu cầu phát triển của đơn vị, Nhà
nước xem xét bố trí vốn cho các dự án đầu tư đang triển khai, các dự án đầu
46
tư khác theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
Các đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư
được giao quyền tự chủ khá rộng như được quyết định số lượng người làm
việc, được vay vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước hoặc được hỗ trợ lãi suất cho
các dự án đầu tư sử dụng vốn vay của các tổ chức tín dụng theo quy định, được
tự quyết định mức trích quỹ bổ sung thu nhập mà không bị không chế mức
trích Quỹ bổ sung thu nhập như các loại hình đơn vị sự nghiệp khác (đơn vị tự
đảm bảo chi thường xuyên bị khống chế không quá 3 lần quỹ tiền lương ngạch,
bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp lương do nhà nước quy định; đơn vị tự đảm
bảo một phần chi thường xuyên bị khống chế không quá 2 lần, đơn vị do nhà
nước bảo đảm chi thường xuyên bị khống chế không quá 1 lần).
2.2.3.3. Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về quản lý tài chính đối với đơn vị
sự nghiệp công lập tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động và đối với đơn vị sự
nghiệp công lập bảo đảm một phần chi phí hoạt động.
Phạm vi và mức độ tự chủ về quản lý các khoản thu và mức thu:
- Được quyền thu phí, lệ phí nhưng phải thu đúng, thu đủ theo mức thu
và đối tượng thu do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định. Nếu cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền quy định khung mức thu thì đơn vị có quyền quy
định mức thu cụ thể dựa trên nhu cầu chi tiêu phục vụ cho hoạt động của đơn
vị và khả năng đóng góp của xã hội, nhưng không được vượt quá khung thu
đã được quy định. Đơn vị có quyền thực hiện chế độ miễn giảm các khoản thu
phí, lệ phí cho đối tượng chính sách xã hội theo quy định của Nhà nước.
- Được quyền xác định mức thu dựa trên mức giá do Nhà nước quy
định khi thực hiện đơn đặt hàng về sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Nếu Nhà
nước chưa quy định mức giá thì việc xác định mức thu dựa trên cơ sở dự toán
chi phí được cơ quan tài chính cùng cấp thẩm định chấp thuận.
- Được quyết định các khoản thu, mức thu cụ thể đối với những hoạt
47
động dịch vụ theo hợp đồng với tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, đơn vị
hoạt động liên doanh, liên kết dựa trên nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí và
có tích luỹ.
Phạm vi mức độ tự chủ vềquản lý sử dụng nguồn tài chính.
- Căn cứ vào nhiệm vụ được giao và khả năng nguồn tài chính của đơn
vị các khoản chi thường xuyên ( Chi cho hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ
được cấp có thẩm quyền giao; chi hoạt động thường xuyên phục vụ cho công
tác thu phí, lệ phí; cho các hoạt động dịch vụ; kể cả chi thực hiện nghĩa vụ
đơn vị NSNN, trích khấu hao TSCĐ, chi trả vốn, trả lãi tiền vay theo quy định
của Pháp luật ). Thủ trưởng đơn vị có quyền quyết định một số mức chi quản
lý, chi hoạt động sự nghiệp cao hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền quy định.
- Căn cứ vào bản chất công việc, thủ trưởng đơn vị được quyền quyết
định phương thức khoán chi phí cho từng bộ phận, đơn vị trực thuộc.
- Có quyền quyết định đầu tư xây dựng, mua sắm mới và sửa chữa lớn
tài sản theo quy định của pháp luật.
Phạm vi, mức độ tự chủ về quản lý sử dụng kết quả hoạt động tài chính
năm.
Hàng năm sau khi trang trải các khoản chi phí, nộp thuế và các khoản
nộp khác theo quy định ( nếu có ), khoản chênh lệch thu lớn chi ( thu, chi hoạt
động thường xuyên và nhiệm vụ Nhà nước đặt hàng ) thì đơn vị sự nghiệp có
thu được toàn quyền sử dụng. Quyền sử dụng này được quy định theo mức độ
tự bảo đảm kinh phí cho hoạt động thường xuyên, phần chênh lệch thu lớn
hơn chi được phân phối theo trình tự như sau:
- Trích tối thiểu 25% phần chênh lệch để lập quỹ Phát triển hoạt động
sự nghiệp.
- Trả thu nhập tăng thêm cho người lao động.
- Trích lập Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi, Quỹ dự phòng ổn định thu
48
nhập. Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi được quyền trích lập vào 2 quỹ tối đa
không quá 03 tháng tiền lương, tiền công và thu nhập tăng thêm bình quân
thực hiện trong năm.
Trường hợp chênh lệch thu lớn hơn chi bằng hoặc nhỏ hơn một lần quỹ
tiền lương cấp bậc, chức vụ trong năm thì đơn vị được quyết định sử dụng
như sau:
- Trả thu nhập tăng thêm cho người lao động.
- Trích lập các quỹ: Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp ( mức trích tối
thiểu 25% phần chênh lệch ), quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ dự phòng
ổn định thu nhập. Đối với Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi được quyền trích
lập vào 2 quỹ tối đa không quá 3 tháng tiền lương, tiền công và thu nhập tăng
thêm bình quân thực hiện trong năm.
Dựa trên những quy định đó, Thủ trưởng đơn vị quyết định mức trả thu
nhập và mức lập các quỹ theo quy chế chi tiêu nội bộ đơn vị.
2.2.3.3. Quyền tự chủ quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công do
NSNN bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động.
Về cơ bản nội dung tự chủ tài chính trong các đơn vị này cũng tương tự
như đối với các đơn vị sự nghiệp công lập bảo đảm toàn bộ hoặc một phần
kinh phí cho hoạt động thường xuyên, song mức độ tự chủ tài chính thấp hơn.
Thủ trưởng đơn vị quyết định mức chi không vượt quá mức chi do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quy định, bởi vì nguồn kinh phí phục vụ cho hoạt
động sự nghiệp ở đơn vị này hoàn toàn phụ thuộc vào NSNN cấp.
Hàng năm sau khi trang trải các khoản chi phí, nộp thuế và các khoản
nộp khác theo quy định; phần kinh phí tiết kiệm chi, chênh lệch thu lớn hơn
chi của hoạt động dịch vụ (nếu có), đơn vị được sử dụng theo trình tự sau:
- Trả thu nhập tăng thêm cho người lao động.
- Chi khen thưởng định kỳ, đột xuất cho tập thể, cá nhân trong và ngoài
49
đơn vị.
- Chi phúc lợi, trợ cấp khó khăn, đột xuất cho người lao động.
- Lập quỹ dự phòng ổn định thu thập cho người lao đông.
Các mức cụ thể đối với các khoản chi và mức trích lập quỹ dự phòng
ổn định thu nhập do Thủ trưởng đơn vị quyết định theo Quy chế chi tiêu nội
bộ của đơn vị.
2.2.3.5. Tổ chức thực hiện cơ chế quản lý tự chủ tài chính trong các đơn vị sự
nghiệp công lập
Tổ chức thực hiện cơ chế quản lý tự chủ tài chính trong các đơn vị sự
nghiệp công lập bao gồm các bước sau:
* Lập dự toán
Lập dự toán là khâu mở đầu rất quan trọng trong mỗi chu kỳ quản lý
ngân sách nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập cho dù là đơn vị tự đảm
bảo toàn bộ chi phí cho hoạt động thường xuyên hay tự đảm bảo một phần chi
phí hoạt động thường xuyên, đều là đơn vị dự toán ngân sách.
Vì vậy, việc tuân thủ đầy đủ các yêu cầu, các nguyên tắc trong quản lý
ngân sách theo quy định là lẽ đương nhiên đòi hỏi các đơn vị sự nghiệp có thu
phải thực hiện.
Dự toán ngân sách hàng năm của các đơn vị phải phản ánh đầy đủ các
khoản thu, chi theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan có thẩm
quyền ban hành, kể cả các khoản thu, chi từ nguồn thu được tạo ra trong quá
trình hoạt động sự nghiệp. Cùng với việc lập dự toán thu, chi, trên cơ sở định
mức kinh tế kỹ thuật và chế độ chi tiêu tài chính hiện hành của nhà nước, đơn
vị chủ động xây dựng tiêu chuẩn, định mức và chế độ chi tiêu nội bộ để đảm
bảo hoạt động thường xuyên cho phù hợp với hoạt động đặc thù của đơn vị và
tăng cường công tác quản lý, sử dụng kinh phí tiết kiệm có hiệu quả.
* Giao dự toán và thực hiện quản lý dự toán
50
+ Chấp hành ngân sách nhà nước được coi là khâu có ý nghĩa quyết định
tới chất lượng của mỗi chu trình quản lý ngân sách nhà nước. Tại đây, những
mong muốn, những dự đoán về thu, chi ngân sách có trở thành hiện thực hay
không là tùy thuộc vào khả năng điều hành và quản lý tài chính của đơn vị.
Trong quá trình chi tiêu, các đơn vị sự nghiệp công lập phải tổ chức quản
lý chặt chẽ, tôn trọng dự toán được duyệt, các chế độ, tiêu chuẩn, định mức
chi tiêu do nhà nước quy định về vật tư, lao động, tiền vốn. Sử dụng có hiệu
quả, thực hiện đúng tiến độ công việc theo kế hoạch.
++ VVềề ccăănn ccứứ cchhấấpp hhàànnhh ddựự ttooáánn:: Tất cả các khoản thu của đơn vị phải dựa
trên dự toán đã được phê duyệt phù hợp với định mức thu sự nghiệp do Nhà
nước quy định.
++ VVềề ccôônngg ttáácc kkiiểểmm ssooáátt tthhuu,, cchhii đđốốii vvớớii nngguuồồnn tthhuu ssựự nngghhiiệệpp:: Căn cứ
quyết định giao chỉ tiêu nhiệm vụ kế hoạch năm của đơn vị dự toán cấp I, các
đơn vị dự toán cấp II trực thuộc lập dự toán thu, chi nguồn sự nghiệp theo
hàng quý, hàng tháng và báo cáo số liệu cho đơn vị dự toán cấp I chi tiết các
khoản thực thu, thực chi để làm cơ sở kiểm tra và gửi cơ quan tài chính để ghi
thu ngân sách nhà nước và ghi chi cho đơn vị.
++ VVềề ccôônngg ttáácc kkiiểểmm ssooáátt tthhuu,, cchhii đđốốii vvớớii nngguuồồnn nnggâânn ssáácchh nnhhàà nnưướớcc: Trên
cơ sở dự toán năm, quý đã được duyệt và nhiệm vụ phải thực hiện trong quý,
các đơn vị sự nghiệp có thu lập kế hoạch sử dụng kinh phí chi tiết theo các
mục chi của mục lục ngân sách gửi kho bạc nhà nước nơi đơn vị mở tài khoản
để được cấp phát và sử dụng kinh phí, sau khi kết thúc quý, đơn vị phải làm
giấy đề nghị thanh toán tạm ứng gửi KBNN để được kho bạc quyết toán phần
kinh phí đã tạm ứng và tiếp tục cấp phát kinh phí cho quý tiếp theo.
++ VVềề đđiiềềuu cchhỉỉnnhh ddựự ttooáánn:: Trong quá trình thực hiện, đơn vị được điều
chỉnh dự toán thu, chi hoạt động sự nghiệp, kinh phí thường xuyên đã được
giao cho phù hợp với tình hình thực tế gửi cơ quan chủ quản và kho bạc nhà
nước để theo dõi, quản lý.
51
Cuối năm ngân sách, các khoản kinh phí chưa sử dụng hết đơn vị được
chuyển sang năm sau để hoạt động, bao gồm kinh phí ngân sách nhà nước cấp
đảm bảo hoạt động thường xuyên và các khoản thu sự nghiệp.
* Quyết toán
Quyết toán ngân sách là khâu cuối cùng của chu trình quản lý kinh phí
trong mỗi đơn vị sự nghiệp nhằm kiểm tra, rà soát, chỉnh lý lại toàn bộ số liệu
đã được kế toán đơn vị phản ánh sau một kỳ hoạt động cho chính xác.
Đồng thời tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả của quá trình chấp
hành ngân sách để phục vụ cho việc thuyết minh quyết toán.
Các đơn vị sự nghiệp công lập phải tổ chức công tác kế toán, thống kê
và báo cáo tài chính theo các quy định của pháp luật về chế độ kế toán thống
kê áp dụng cho các đơn vị hành chính sự nghiệp.
Hệ thống chỉ tiêu báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán ngân sách phải
phù hợp, thống nhất với chỉ tiêu dự toán năm tài chính và mục lục ngân sách
nhà nước, đảm bảo có thể so sánh được giữa số thực hiện với số dự toán và
giữa các kỳ kế toán với nhau.
Báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán ngân sách dùng để tổng hợp tình
hình về tài sản, tiếp nhận và sử dụng kinh phí ngân sách của nhà nước.
Tình hình thu, chi và kết quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập
trong kỳ kế toán, cung cấp thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu cho việc đánh
giá tình hình và thực trạng của đơn vị, là căn cứ quan trọng giúp cơ quan nhà
nước, lãnh đạo đơn vị kiểm tra, giám sát điều hành hoạt động của đơn vị.
Báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán ngân sách phải lập đúng, phản ánh
đầy đủ các chỉ tiêu theo mẫu, phải lập đúng kỳ hạn, nộp đúng thời hạn tới cơ
quan tài chính và cơ quan thống kê, kho bạc nhà nước nơi giao dịch để phối
hợp kiểm tra, đối chiếu, điều chỉnh số liệu kế toán liên quan đến thu, chi ngân
sách nhà nước và hoạt động nghiệp vụ chuyên môn của đơn vị.
Cuối quý, cuối năm, đơn vị sự nghiệp lập báo cáo kế toán, báo cáo quyết
52
toán thu, chi ngân sách nhà nước gửi cơ quan quản lý cấp trên xét duyệt theo
quy định hiện hành.
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý tài chính của các đơn vị
sự nghiệp công lập:
* Cơ chế quản lý tài chính của nhà nước:
Cơ chế tài chính do Nhà nước ban hành đối với các đơn vị sự nghiệp
công sẽ tạo ra môi trường pháp lý cho sự hoạt động của đơn vị, Cùng với xu
hướng phát triển kinh tế thị trường và xã hội hóa dịch vụ công, cơ chế tài
chính của nhà nước đã từng bước đổi mới với nhóm các đơn vị sự nghiệp
công lập, cung cấp các dịch vụ sự nghiệp công có khả năng xã hội hóa cao, tự
đảm bảo được toàn bộ chi phí hoạt động ( như các trường đại học, bệnh viện
và một số cơ sở dạy nghề ...) theo hướng giao quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm đồng bộ cả về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nhân lực, tài chính, tài sản
khi cung cấp dịch vụ gắn với nhu cầu của xã hội.
: Cơ chế quản lý và phương thức hoạt động của các đơn vị cung cấp dịch
vụ SNCL nếu không được đổi mới đồng bộ sẽ dẫn đến chất lượng và hiệu quả
cung ứng các dịch vụ sự nghiệp bị hạn chế; Hệ thống định mức kinh tế kỹ
thuật của từng lĩnh vực sự nghiệp chậm được ban hành, sửa đổi, bổ sung hoàn
thiện; Một số đơn vị SNCL trong quản lý tài chính chưa đảm bảo theo các
nguyên tắc hạch toán kinh tế đầy đủ. Quy chế chi tiêu nội bộ, phân phối thu
nhập còn mang tính bình quân, chưa thật sự khuyến khích người lao động;
Một số đơn vị SNCL khi mở rộng hoạt động dịch vụ còn chạy theo số lượng
mà không quan tâm đến chất lượng hoạt động, lạm dụng kỹ thuật để tăng
thu...
* Quy mô của đơn vị sự nghiệp công lập
53
Quy mô của đơn vị sự nghiệp công lập càng lớn, với quá nhiều bộ phận
thì việc vận hành cơ chế quản lý tài chính của đơn vị càng phức tạp. Đồng
thời việc kiểm tra giám sát hoạt động quản lý tài chính sẽ đòi hỏi phải chặt
chẽ, thường xuyên để tránh những sai phạm có thể xảy ra.
Các đơn vị sự nghiệp còn có xu hướng đẻ ra thêm về số lượng, phình to
ra về biên chế vì không có động cơ cắt giảm chi phí, mà chỉ cần giải trình xin
được ngân sách là để chi cho cán bộ nhân viên cũng như hoạt động của nhà
khách mà không nhìn đến việc hoạt động kinh doanh của chính mình.
Nên sẽ không có gì là ngạc nhiên khi, trái ngược với xu hướng co hẹp lại
của khối doanh nghiệp nhà nước, khu vực đơn vị sự nghiệp đã không những
không giảm mà còn tăng mạnh trong những năm qua. cụ thể, theo tổng cục
thống kê, số lượng các đơn vị sự nghiệp tăng từ 63.054 đơn vị năm 2007 lên đến
69.735 đơn vị năm 2012, loại trừ mức tăng của ngành y tế và giáo dục thì con số
đơn vị sự nghiệp khác vẫn tăng mạnh từ 8.770 lên 11.341 đơn vị. đi kèm với
việc phình to về quy mô đương nhiên là gánh nặng bao cấp đè lên ngân sách.
Về số lượng và phạm vi dịch vụ cung cấp bởi các đơn vị sự nghiệp,
thực tế xã hội phát triển và thay đổi có thể làm nảy sinh những nhu cầu dịch
vụ mới và co hẹp những dịch vụ hiện tại do các đơn vị sự nghiệp cung cấp.
nhưng sự cứng nhắc trong các ràng buộc về cơ chế hoạt động của các đơn vị
sự nghiệp công lập làm cho các dịch vụ mới phát sinh không được đáp ứng
một cách hiệu quả, còn các dịch vụ có xu hướng bị đào thải cũng không được
“chôn” một cách hiệu quả (chẳng hạn đóng cửa, giải thể hoặc chuyển đổi
ngành nghề các đơn vị cung cấp những loại hình dịch vụ này), ít gây phí tổn
cho ngân sách và toàn xã hội.
* Tổ chức hoạt động quản lý kế toán – tài chính trong đơn vị
Trong quá trình hoạt động trong công tác kế toán - tài chính, các đơn vị
phải có trách nhiệm chấp hành quy định của luật NSNN, các tiêu chuẩn định
mức, các quy định về chế độ kế toán HCSN do nhà nước ban hành, cụ thể là
54
đáp ứng yêu cầu về quản lý kinh tế - tài chính, tăng cường quản lý kiểm soát
chi quỹ NSNN, quản lý tài sản công, nâng cao chất lượng công tác kế toán và
hiệu quả quản lý trong các đơn vị sự nghiệp công vì thế, công tác kế toán
trong đơn vị sự nghiệp công phải đảm bảo được tính thống nhất giữa kế toán
và yêu cầu quản lý của nhà nước và đơn vị; đảm bảo sự thống nhất về nội
dung, phương pháp của kế toán với các chế độ kế toán hiện hành của nhà
nước; đảm bảo sự phù hợp với đặc thù của đơn vị...
Để quản lý và chủ động trong các khoản chi tiêu của mình, hàng năm
các đơn vị HCSN phải lập dự toán cho từng khoản chi tiêu này, dựa vào bản
dự toán, ngân sách nhà nước (NSNN) cấp kinh phí cho các đơn vị, chính vì
vậy, quản lý tài chính - kế toán không chỉ quan trọng đối với bản thân đơn vị
mà còn quan trọng đối với NSNN.
Với vai trò đó, công tác kế toán trong các đơn vị HCSN phải có kế
hoạch tổ chức hệ thống thông tin bằng số liệu để quản lý và để kiểm soát
nguồn kinh phí, tình hình sử dụng quyết toán kinh phí, tình hình quản lý và
sử dụng các loại vật tư tài sản công, tình hình chấp hành dự toán thu, chi và
thực hiện các tiêu chuẩn định mức của nhà nước ở đơn vị, đồng thời, kế toán
HCSN với chức năng thông tin mọi hoạt động kinh tế phát sinh trong quá
trình chấp hành NSNN được nhà nước sử dụng như một công cụ sắc bén
trong việc quản lý NSNN, góp phần đắc lực vào việc sử dụng vốn một tiết
kiệm và hiệu quả cao.
Tổ chức kế toán khoa học sẽ góp phần quan trọng vào việc thu thập, xử
lý thông tin, giúp lãnh đạo đơn vị đưa ra những quyết định đúng đắn và kịp
thời, có ảnh hưởng đến kết quả sử dụng các nguồn lực nhằm hoàn thành tốt
các chức năng, nhiệm vụ được giao của các đơn vị sự nghiệp. Để thực hiện
chức năng, nhiệm vụ hạch toán kế toán trong một đơn vị sự nghiệp cần có
một bộ máy kế toán hợp lý. bộ máy này được xây dựng trên cơ sở định hình
được khối lượng công tác kế toán và tổ chức hệ thống thông tin kế toán đạt
55
chất lượng. thông thường căn cứ vào quy mô, địa bàn hoạt động, cơ sở hạ
tầng, trình độ quản lý cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ của bộ máy
kế toán, các đơn vị HCSN có thể lựa chọn một trong ba mô hình sau: mô hình
tổ chức bộ máy kế toán tập trung; mô hình tổ chức bộ máy kế toán phân tán;
mô hình tổ chức bộ máy kế toán vừa tập trung vừa phân tán. Sau khi lựa chọn
được mô hình phù hợp, các đơn vị HCSN tiến hành phân công công việc phù
hợp với khả năng trình độ, năng lực của cán bộ…
Về nhận thức, tư tưởng và công tác tổ chức thực hiện: nhận thức của người
dân, xã hội về đổi mới hoạt động của đơn vị cung ứng dịch vụ công lập và xã
hội hoá còn hạn chế, chưa đầy đủ, vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự
bao cấp của nhà nước; trình độ và tư duy của đội ngũ cán bộ về công tác quản
lý, quản trị nội bộ ở nhiều đơn vị SNCL chậm đổi mới, còn tư duy bao cấp;
* Việc sử dụng các phương pháp quản lý tài chính của đơn vị sự nghiệp
công lập
Quản lý tài chính là một bộ phận, một khâu của quản lý kinh tế xã hội
và là khâu quản lý mang tính tổng hợp. quản lý tài chính được coi là hợp lý,
có hiệu quả nếu nó tạo ra được một cơ chế quản lý thích hợp, có tác động tích
cực tới các quá trình kinh tế xã hội theo các phương hướng phát triển đã được
hoạch định. việc quản lý, sử dụng nguồn tài chính ở các đơn vị sự nghiệp có
liên quan trực tiếp đến hiệu quả kinh tế xã hội do đó phải có sự quản lý, giám
sát, kiểm tra nhằm hạn chế, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng
trong khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính đồng thời nâng cao hiệu quả
việc sử dụng các nguồn tài chính.
Trong đơn vị sự nghiệp, nhà nước là chủ thể quản lý, đối tượng quản
lý là tài chính đơn vị sự nghiệp. tài chính đơn vị sự nghiệp bao gồm các hoạt
động và quan hệ tài chính liên quan đến quản lý, điều hành của nhà nước
trong lĩnh vực sự nghiệp. Là chủ thể quản lý, nhà nước có thể sử dụng tổng
thể các phương pháp, các hình thức và công cụ để quản lý hoạt động tài chính
56
của các đơn vị sự nghiệp trong những điều kiện cụ thể nhằm đạt được những
mục tiêu nhất định. để đạt được những mục tiêu đề ra.,
Trong điều kiện cụ thể ở các đơn vị sự nghiệp của Việt Nam hiện nay,
phương pháp lập dự toán trên cơ sở quá khứ vẫn là phương pháp được sử
dụng rộng rãi. tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu đổi mới của cơ chế tự chủ tài
chính, các đơn vị sự nghiệp có thể nghiên cứu triển khai áp dụng thử nghiệm
phương pháp lập dự toán cấp không cho một số hoạt động tự chủ của đơn vị.
Trong quá trình chấp hành dự toán thu, các đơn vị sự nghiệp phải coi
trọng công bằng xã hội, đảm bảo thực hiện nghiêm túc các chính sách, chế độ
thu do cơ quan có thẩm quyền ban hành. đối với các đơn vị được sử dụng
nhiều nguồn thu đồng thời cần có biện pháp quản lý thống nhất nhằm sử dụng
các nguồn thu đúng mục đích trên cơ sở hiệu quả và tiết kiệm. Để đạt được
các yêu cầu trên đòi hỏi các đơn vị sự nghiệp phải sử dụng nhiều biện pháp
khác nhau, trong đó phải tổ chức hệ thống thông tin để ghi nhận đầy đủ, kịp
thời và liên tục giám sát quá trình chấp hành dự toán đã được xây dựng. muốn
vậy các đơn vị phải tổ chức hệ thống chứng từ ghi nhận các khoản thu, trên cơ
sở đó tiến hành phân loại các khoản thu, ghi chép trên hệ thống sổ sách và
định kỳ thiết lập các báo cáo tình hình huy động các nguồn thu.
Song song với việc tổ chức khai thác các nguồn thu đảm bảo tài chính
cho hoạt động, các đơn vị sự nghiệp phải có kế hoạch theo dõi việc sử dụng
các nguồn kinh phí đúng mục đích để hoàn thành nhiệm vụ được giao trên cơ
sở minh bạch, tiết kiệm và hiệu quả.Một yêu cầu căn bản đối với quản lý chi
trong các đơn vị sự nghiệp là phải có hiệu quả và tiết kiệm. nguồn lực luôn có
giới hạn nhưng nhu cầu sử dụng không có giới hạn. hoạt động sự nghiệp diễn
ra trên phạm vi rộng, đa dạng và phức tạp dẫn đến nhu cầu chi luôn gia tăng
với tốc độ nhanh chóng trong khi khả năng huy động nguồn thu có hạn nên
tiết kiệm để đạt hiệu quả trong quản lý tài chính là vấn đề vô cùng quan trọng.
đo đó việc phải tính toán sao cho với chi phí thấp nhất nhưng vẫn đạt hiệu quả
57
cao nhất là vấn đề quan tâm hàng đầu của quản lý tài chính. muốn vậy các
đơn vị phải sử dụng đồng thời nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có tổ chức
hệ thống thông tin bằng số liệu để phản ánh, ghi nhận kịp thời các khoản chi
theo từng nội dung chi, từng nhóm chi, mục chi và thường xuyên tổ chức
phân tích, đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm, trên cơ sở đó đề ra biện pháp
tăng cường quản lý chi.
Công tác thanh tra, kiểm tra quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp:
Để bảo đảm cho cơ chế quản lý tài chính đối với đơn vị sự nghiệp vận
hành một cách có hiệu quả, một khâu hết sức quan trọng là công tác thanh tra,
kiểm tra,hoạt động quản lý tài chính tại các đơn vị này. Việc thanh tra, kiểm
tra phải tuân thủ các quy định của nhà nước và bao quát toán bộ quy trình
quản lý tài chính của đơn vị. Trong khâu lập dự toán, các cơ quan thanh kiểm
tra cần kiểm tra căn cứ lập dự toán theo các văn bản hướng dẫn lập dự toán
của bộ tài chính đối với các đơn vị dự toán cấp I, các hướng dẫn của của cơ
quan quản lý nhà nước cấp trên đối với đơn vị dự toán cấp II .Việc lập dự
toán chi ngân sách phải lập theo hai nội dung riêng biệt, đó là kinh phí thực
hiện chế độ tự chủ và kinh phí không thực hiện chế độ tự chủ. khi kiểm tra
phải kiểm tra từng phần theo dự toán kinh phí thực hiện chế độ tự chủ và dự
toán phần kinh phí không thực hiện chế độ tự chủ.
Kiểm tra sử dụng kinh phí thực hiện chế độ tự chủ, cần xem xét từng
khoản chi phí thực hiện chế độ tự chủ có đúng quy định không? (có vượt quá
chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định
không? có đúng chứng từ hoá đơn hợp lệ không?) nhất là đối với các khoản
chi thanh toán cá nhân, chi thanh toán dịch vụ công cộng, chi thuê mướn, chi
vật tư, văn phòng, thông tin tuyên truyền, liên lạc, chi công tác phí trong
nước, hội nghị, chi các đoàn đi công tác nước ngoài và đón khách nước ngoài
58
vào Việt Nam…
Đối với kiểm tra việc thực hiện dự toán kinh phí không thực hiện chế
độ tự chủ, kiểm tra nên xem xét từng khoản chi của đơn vị có đúng với quy
định chi hiện hành không?
Kiểm tra việc quyết toán kinh phí:quá trình này, kiểm tra nên xem xét
việc chuyển nguồn kinh phí (nguồn thực hiện chế độ tự chủ và không thực
hiện chế độ tự chủ) sang năm sau có đúng không? kiểm tra lại số kinh phí tiết
kiệm được, việc hạch toán kế toán và mục lục ngân sách có đúng quy định
không? việc quyết toán ngân sách có đúng thời hạn, biểu mẫu không? xem xét
quyết toán có được công khai không?
* Hệ thống kiểm soát nội bộ trong quản lý đơn vị sự nghiệp công lập
Là các qui định và các thủ tục kiểm soát do đơn vị được kiểm toán xây
dựng và áp dụng nhằm bảo đảm cho đơn vị tuân thủ pháp luật và các qui định,
để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai sót; để lập báo
cáo tài chính trung thực và hợp lý; nhằm bảo vệ, quản lý và sử dụng có hiệu
quả tài sản của đvị.
Ngân sách nhà nước được phân bố rộng rãi. chính vì vậy cần có các
kiểm soát nhằm đảm bảo ngân sách được sử dụng đúng mục đích, các tài sản
không bị thất thoát hay lãng phí. vì vậy việc bảo vệ nguồn nhân lực cần được
nhấn mạnh thêm tầm quan trọng trong khu vực công.
Thiết lập một hệ thống kiểm soát nội bộ chính là xác lập một cơ chế
giám sát mà ở đó bạn không quản lý bằng lòng tin, mà bằng những quy định
rõ ràng nhằm: giảm bớt nguy cơ rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động (sai sót vô
tình gây thiệt hại, các rủi ro làm chậm kế hoạch, tăng giá thành, giảm chất
lượng sản phẩm...),bảo vệ tài sản khỏi bị hư hỏng, mất mát, hao hụt, gian lận,
lừa gạt, trộm cắp…đảm bảo tính chính xác của các số liệu kế toán và báo cáo
59
tài chính,đảm bảo mọi thành viên tuân thủ nội quy của công ty cũng như các
quy định của luật pháp,đảm bảo sử dụng tối ưu các nguồn lực và đạt được
mục tiêu đặt ra,-
2.4. Kinh nghiệm một số nước về cơ chế quản lý tài chính đối với hệ
thống các nhà khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước
2.4.1. Giới thiệu về các nhà khách của các chính phủ trên thế giới và cơ chế quản
lý tài chính của Nhà khách
Tại nhiều nước trên thế giới đều tồn tại các Nhà khách của Chính phủ
Trung ương và chính quyền địa phương để phục vụ công tác an toàn, an ninh,
đối nội, đối ngoại, đón, tiếp khách của Nhà nước. Một số nhà khách lớn tại
các nước quy định nghiêm khắc, nghiêm túc và khá chặt chẽ về cơ chế quản
lý và không lộ ra thị trường như:
- Nhà khách Tổng thống Liên bang Nga, nhà khách được thành lập từ
thời Sa hoàng nằm giữa thành phố Matxcơva, phục vụ nhiệm vụ chính trị đón
tiếp khách cho Tổng thống Nga và Chính phủ Nga hàng năm. Phục vụ nhiệm
vụ chính trị và kinh doanh cho Văn phòng Tổng thống Nga quản lý thực hiện
nghiêm ngặt không lộ liễu số liệu và cán bộ theo dõi, khá nghiêm khắc.
- Nhà khách Điếu Ngư Đài Trung Quốc, phục vụ nhiệm vụ chính trị và
kinh doanh cho Chính phủ Trung quốc, được thành lập từ thời đại phong kiến
của đất nước Trung Hoa. nhiệm vụ chính đón tiếp khách ăn nghỉ cho lãnh đạo
đảng và Chính phủ Trung Quốc.
- Nhà khách Thủ tướng Đức, phục vụ nhiệm vụ chính trị cho thủ tướng
và Văn phòng Thủ tướng, được thành lập từ thời Đức Quốc xã, nhiệm vụ
phục vụ Chính phủ Đức, đón tiếp khách cho Thủ tướng và Văn phòng Thủ
tướng...
Về quản lý tài chính: phục vụ nhiệm vụ chính trị là chính, thực hiện theo
sự chỉ đạo điều hành của chính phủ và Văn phòng Chính phủ. Ngoài ra kinh
60
doanh theo đơn đặt hàng của các đơn vị, các hãng lớn trong nước và khách
hàng quốc tế. công tác tài chính rất được minh bạch rõ ràng, không lạm dụng
nhiệm vụ chính trị làm ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của nhà khách,
thực hiện theo hình thức khoán rất hiệu quả và nhanh gọn, công tác tài chính
cụ thể và chính xác, đảm bảo quyền lợi và lợi ích cho hệ thống nhà khách...
2.4.2. Kinh nghiệm quản lý theo kết quả đầu ra đối với các tổ chức trong khu vực
công
2.4.2.1. Xu hướng quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra
Trước khi tiến hành sản xuất một sản phẩm, đơn vị phải tính toán được
mức độ chi phí cần thiết, tập hợp các chi phí đầu vào (vốn, nhân công, vật tư,
nguyên liệu, năng lượng hoặc các yếu tố mua ngoài khác... gọi là các yếu tố
đầu vào) và tiến hành kết hợp chúng trong một quy trình sản xuất theo một
dây chuyền công nghệ cụ thể để tạo ra sản phẩm và bán các sản phẩm đã được
tạo ra. Khi bán được hàng thì đơn vị đã hoàn chỉnh được kết quả đầu ra tương
xứng. Muốn có được kết quả đầu ra tốt nhất, bán được nhiều hàng nhất, nhiều
lợi nhuận nhất, thì sản phẩm đầu ra phải đáp ứng được các nhu cầu của thị
61
trường, có giá bán thích hợp...
Chi phí
Đầu vào
(1)
Quy trình
Sản phẩm đầu ra
Kết quả
(2) (4)
SƠ ĐỒ QUẢN LÝ DỰA TRÊN KẾT QUẢ ĐẦU RA (3)
Trong đó
Khi xây dựng dự toán ngân sách hoặc dự toán chi tiêu công, phải gắn
chặt giữa mức ngân sách dự kiến sẽ cấp với việc xác định đơn vị sẽ thực hiện
những mục tiêu gì? Sẽ đạt được một kết quả đầu ra cụ thể như thế nào?... Sơ
đồ dưới đây mô tả quá trình quản lý dựa theo kết quả đầu ra.
(1): Các tính toán kinh tế, xác định tổng dự toán chi tiêu.
(2): So sánh hiệu quả: Với bao nhiêu đầu vào thì đạt được bao nhiêu sản
phẩm đầu ra; hoặc đạt được một lượng sản phẩm đầu ra như thế thì cần sử
dụng bao nhiêu đầu vào.
(3): Mức độ thành công: Nghĩa là những sản phẩm đầu ra đó tác động
tích cực hay tiêu cực đối với nền kinh tế - xã hội.
(4): Hiệu suất sử dụng nguồn lực: Đánh giá tác động của việc sử dụng
62
các yếu tố đầu vào đối với nền kinh tế - xã hội.
Quy trình lập dự toán và phân bổ ngân sách theo kết quả đầu ra gắn với
tầm nhìn trung hạn theo lộ trình 3 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: Xây dựng và quyết định một khuôn khổ kinh tế - tài chính
trung hạn trên cơ sở xác lập các chiến lược, chính sách, các chỉ tiêu, các dự
báo kinh tế - tài chính vĩ mô.
Giai đoạn 2: Xây dựng và quyết định khuôn khổ ngân sách trung hạn,
xác lập các chỉ tiêu tài chính vĩ mô, các giới hạn và kỷ luật tài chính tổng thể.
Giai đoạn 3: Xây dựng và quyết định khuôn khổ chi tiêu trung hạn cho
các ngành.[10]
2.4.2.2. Kinh nghiệm quản lý theo kết quả đầu ra đối với các tổ chức trong
khu vực công tại một số quốc gia
Kinh nghiệm của Hoa Kì
Đối với các cơ quan Chính Phủ, căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của
mình xây dựng kế hoạch ,chương trình hoạt động trong một thời kì trung hạn
từ 3 đến 5 năm. Mỗi chương trình cần cụ thể hóa các nội dung gồm : Nội
dung; Kết quả kỳ vọng; Kế hoạch hoạt động; Phương thức quản lý; Tính toán
và đo lường hiệu quả. Đồng thời các cơ quan cũng xác định được mức độ ưu
tiên với từng chương trình, từng hoạt động trong mỗi chương trình để tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác phân bổ ngân sách.
Văn phòng quản lý ngân sách căn cứ vào đánh giá tình hình kết quả hoạt
động của các cơ quan Chính Phủ dự toán ngân sách do các cơ quan này trình
lên để thảo luận được thực hiện bao gồm các bước:
Bước 1: Đánh giá lại các hoạt động theo chương trình ,dự án có đạt hiệu
63
quả mang lại lợi ích cho Chính Phủ Hoa Kì hay không ?
Bước 2: So sánh kết quả và hiệu quả của từng chương trình và các
chương trình tương tự, so sánh với thời kì trước, so sánh giữa các cơ quan
khác…
Bước 3: Xác định mục tiêu ,kết quả cho thời kì mới
Bước 4: Thảo luận và đưa ra các quyết định về ngân sách để thực hiện
các nhiệm vụ và các hoạt động trong năm mới.
Có thể nói cơ chế quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra cho những
người đứng đầu các cơ quan Chính Phủ quyền hạn cao hơn, những trách
nhiệm cũng lớn đối với các khoản chi ngân sách. Chính vì thế, nó bảo đảm
hiệu quả trong hoạt động của mình và mỗi cơ quan Chính Phủ phải thường
xuyên tự đánh giá hoạt động cơ quan mình thông qua cơ chế và tổ chức do cơ
quan đó đặt ra.[22]
- Kinh nghiệm Newzealand
Năm 1988, Chính Phủ Newzealand bắt đầu thực hiện chương trình cải
cách quản lý tài chính nhằm cải thiện hiệu quả và nâng cao trách nhiệm giải
trình trong khu vực công. Nội dung chính của chương trình cải cách này bao
gồm: Chuyển từ tập trung đầu vào sang chú trọng đến đầu ra và kết quả; Thay
đổi hệ thống phân bổ ngân sách nhằm thể hiện rõ vai trò của Chính Phủ trong
mối quan hệ giữa Địa phương; Tạo ra 1 cơ chế phân định rõ ràng hơn về trách
nhiệm giải trình giữa Chính Phủ và Quốc Hội, giữa giám đốc điều hành và Bộ
Trưởng; Trao quyền chủ động hơn cho giám đốc điều hành bằng cơ chế
khoán kinh phí trên cơ sở dồn tích.
Luật Tài chính công năm 1989 của Newzealand quy định: quản lý ngân
sách phải dựa trên cơ sở các hàng hóa được cung cấp bởi các Bộ - Ngành chứ
không dựa trên cơ sở nguồn lực Chính Phủ phân bổ cho họ. Theo đó các Bộ -
64
Ngành cùng kết hợp với Chính Phủ về cam kết cung cấp hàng hóa, dịch vụ và
đổi lại họ sẽ nhận được 1 ngân sách do Chính Phủ phân bổ hoàn thành tốt hợp
đồng mình đã ký kết.
Một ngân sách theo đầu ra phải đảm bảo: Đơn giản; Cung cấp thông tin
thực về chi phí cho 1 dịch vụ đầu ra; Khuyến khích sự tham gia của các thành
viên 1 tổ chức để đạt được mục đích của đơn vị; Cần có sự phân biệt rõ ràng
giữa chi thường xuyên và chi đầu tư; Mọi nguồn thông tin số liệu phải dễ tiếp
cận và phục vụ tốt cho phân tích đánh giá hoạt động của đơn vị.[22]
- Kinh nghiệm của Canada
Theo Hiến pháp Canada, bộ máy quản lý nhà nước được chia làm ba
cấp. Chính phủ Liên bang, chính phủ Bang và chính quyền tỉnh. Do vây
NSNN được hình thành theo ba cấp tương ứng, mỗi cấp ngân sách được
quyền có những khoản thu và có những nhiệm vụ chi riêng. Quản lý NSNN
dựa trên nguyên tắc phân định rõ ràng, rành mạch về trách nhiệm, quyền hạn
cũng như nghĩa vụ và lợi ích giữa chính quyền các cấp, không những đảm bảo
sự hoạt động bình thường có hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước mà
còn đảm bảo được việc cung cấp các dịch vụ công cộng có chất lượng cao
trên toàn bộ phạm vi lãnh thổ Canada.
Trong quản lý chi NSNN, chính phủ Canada đã thay đổi quan điểm kiểm
soát đầu vào bằng quan điểm kiểm soát theo đầu ra. Có nghĩa là thay vì việc
kiểm soát chặt chẽ chi tiêu cụ thể từng bộ (mang tính chất sự vụ) bằng việc
giám sát hiệu quả các chương trình hoặc khoản chi tiêu do bộ đó đảm nhiệm.
Kinh phí ngân sách cấp ổn định cho các đơn vị thụ hưởng, chuyển từ
việc cấp theo mục chi tiết sang những mục tổng hợp, một số đơn vị được cấp
phát kinh phí theo hình thức trọn gói (giao trọn gói kinh phí cho việc thực
hiện một số nhiệm vụ cụ thể nào đó đã được xác định trước).
65
- Kinh nghiệm của Cộng hoà Pháp
Tại Pháp, theo quy định của Luật tổ chức ngân sách ngày 01/8/2001 đã
được ban hành, Nghị viện sẽ khoán cho các Bộ trưởng một khoản ngân sách
trọn gói, đổi lại, các Bộ trưởng phải xác định các mục tiêu kèm theo các chỉ
số cụ thể để thực hiện ngân sách nhằm đạt được các kết quả cụ thể. Việc xác
định mục tiêu và đánh giá kết quả thực hiện nhằm cải thiện hiệu quả chi ngân
sách ở hai cấp độ: (1) trong quá trình ra quyết định ngân sách ở cấp độ Chính
phủ và Nghị viện; (2) trong quá trình quản lý, thực hiện ngân sách tại các cơ
quan, đơn vị. Theo cơ chế mới, kinh phí sẽ được thông qua dựa trên các mục
tiêu cụ thể trong khuôn khổ các khoản cấp phát trọn gói. Những thông tin kèm
theo dự toán ngân sách cho phép đối chiếu kết quả đạt được so với dự kiến
ban đầu.
2.4.3. Những bài học kinh nghiệm về cơ chế quản lý tài chính đối với nhà khách
thuộc cơ quan QLNN ở Việt Nam
Hệ thống nhà khách thuộc cơ quan QLNN ở Việt Nam là những tổ chức
thuộc khu vực công, được cấp kinh phí từ NSNN. Vì vậy, việc cải cách cơ chế
quản lý tài chính đối với hệ thống nhà khách cũng dựa trên xu hướng cải cách
quản lý tài chính đối với các tổ chức thuộc khu vực công. Qua kinh nghiệm
của một số nước, có thể rút ra một số bài học cho việc quản lý tài chính đối
với hệ thống nhà khách thuộc cơ quan QLNN ở Việt Nam như sau:
- Kinh phí sẽ được sử dụng hợp lý và hiệu quả khi nó được giao trọn gói
cho các tổ chức trong khu vực công.
- Kiểm soát chặt chẽ đầu ra về số lượng, chất lượng sản phẩm, dịch vụ với
ấn định chi phí đầu vào sẽ tạo điều kiện cho các đơn vị nâng cao năng lực, kỹ
năng quản lý, không ngừng nghiên cứu, áp dụng khoa học kỹ thuật để cải tiến
quy trình nhằm ngày càng tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao.
- Nhà nước cần xây dựng khuôn khổ ngân sách trung hạn nhằm đảm bảo
66
tính thống nhất trong thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Cần xác
định cụ thể về định tính và định lượng đầu ra, kết quả và đầu ra trung gian đối
với các đơn vị cung cấp dịch vụ công; Nhà nước cần xây dựng hệ thống các
chỉ tiêu đánh giá đối với từng hoạt động ,kết quả của đơn vị, xây dựng các
phương pháp thu thập xử lý thông tin.
- Qua quá trình thực hiện về các khoản kinh phí trọn gói (khoán chi và tự
trang trải) người ta có thể dần dần xây dựng được các định mức chi tiêu, định
biên và mô hình tổ chức, phân công lao động một cách sát thực, hợp lý hơn.
- Để quản lý tốt các hoạt động dịch vụ công, nhà nước có trách nhiệm
trong việc đề ra các chiến lược, chính sách; quy định tiêu chuẩn chất lượng
dịch vụ; phân bổ ngân sách và thực hiện kiểm toán. Quyền tự chủ về tài chính
và nhân lực của các đơn vị trực tiếp cung ứng dịch vụ công được đảm bảo,
đồng thời Chính phủ tăng cường kiểm tra, giám sát và có biện pháp xử lý các
sai phạm một cách kịp thời để đảm bảo tính liên tục của các dịch vụ.
- Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều khai thác tốt nguồn lực xã hội
trong việc cung cấp dịch vụ công cộng. Việc chuyển giao một số dịch vụ công
cộng cho tư nhân đã tạo nên sự cạnh tranh làm cho chất lượng hàng hóa dịch
67
vụ công ngày càng tốt hơn.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Vai trò hệ thống các nhà khách trong sự phát triển kinh tế xã hội là rất
to lớn. vai trò này có thể được phát huy tốt nếu hệ thống các nhà khách thuộc
cơ quan QLNN có được sự tự chủ tự chịu trách nhiệm trong quản lý tài chính.
Đổi mới cơ chế tài chính đối với hệ thống các nhà khách thuộc cơ quan
QLNN theo hướng đảm bảo tự chủ và tự chịu trách nhiệm là phương thức
quản lý dựa trên sự giám sát nhà nước, thông qua khuôn khổ thể chế chính
sách chặt chẽ và có sự phối hợp của thị trường được định hướng theo hệ
thống chính trị của đất nước, nhằm tạo ra môi trường để hệ thống các nhà
khách thuộc cơ quan QLNN phát triển bình đẳng và đúng hướng. nội dung
quản lý tài chính được thiết lập thể chế và chính sách đúng đắn, đúng định
hướng, hướng dẫn sự phát triển dài hạn, xây dựng cơ cấu tổ chức hệ thống
quản lý có hiệu quả, bảo đảm sự tự chủ tài chính và trách nhiệm xã hội của hệ
thống thống nhất các nhà khách, đây vừa là xu thế chung, vừa là yêu cầu
khách quan của hệ thống chính trị đất nước.
Kinh nghiệm quản lý của nước ngoài về cơ chế tài chính đối với các
nhà khách và các tổ chức trong khu vực công là kinh nghiệm có giá trị trong
việc thực hiện quản lý tài chính hiện nay ở nước ta, từ những bài học đó
chúng ta có thể tiếp tục nghiên cứu thực trạng và đề ra những giải pháp đổi
mới cơ chế tài chính đối với hệ thống nhà khách thuộc cơ quan QLNN trong
68
giai đoạn hiện nay.
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
ĐỐI VỚI HỆ THỐNG NHÀ KHÁCH THUỘC CƠ QUAN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
3.1. Khái quát về hệ thống nhà khách và kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của hệ thống nhà khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước ở Việt
Nam
3.1.1. Quá trình hình thành và phát triển hệ thống nhà khách thuộc cơ quan quản
lý nhà nước ở Việt Nam
Hệ thống các nhà khách thuộc Văn phòng Chính phủ
Các nhà khách của Chính chủ được hình thành ở miền Bắc từ những
năm 1950, 1955. ở miền Nam, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 miền Nam
hoàn toàn giải phóng thống nhất đất nước, một số nhà khách của Chính phủ
ở miền Nam được ra đời, từ đó hình thành hệ thống nhà khách thuộc văn
phòng chính phủ, cho đến thời điểm cuối năm 2002 thời gian trước khi
chuyển thành đơn vị sự nghiệp, số lượng nhà khách thuộc Văn phòng Chính
phủ quản lý trực tiếp bao gồm:
Nhà khách chính phủ 37 Hùng Vương- Ba Đình – Hà Nội.
Đây là nhà khách được hình thành sớm nhất vào những năm 1954, đến
tháng 6 năm 1976 sát nhập với nhà khách 103 Quán Thánh của Phủ Thủ tướng
sau đó lấy tên chung thành: Nhà khách 37 Hùng Vương hiện nay thuộc Văn
phòng Chính phủ, nhà khách được bộ trưởng chủ nhiệm giao nhiệm vụ, phục vụ
nhiệm vụ chính trị là chủ yếu, trực tiếp phục vụ các đại hội, hội nghị của đảng,
nhà nước, quốc hội, chính phủ, VPCP và các ban ngành, ngoài ra nhà khách tận
69
dụng cơ sở vật chất, để tận thu - giảm chi cho ngân sách nhà nước . Trung tâm hội nghị quốc tế 35 Hùng Vương- Ba Đình – Hà Nội.[23]
Là trung tâm mà nguồn gốc trước đây là Câu lạc bộ Quốc tế của bộ
ngoại giao, sau này được cải tạo nâng cấp và đổi tên thành trung tâm hội
nghị quốc tế 35 hùng vương, thuộc VPCP, trung tâm này được bộ trưởng -
chủ nhiệm VPCP quy định thực hiện nhiệm vụ chính là phục vụ các cuộc hội
nghị lớn của đảng, nhà nước và các hoạt động đối nội, đối ngoại của chính
phủ và Văn phòng Chính phủ.
Nhà khách La Thành - quận Ba Đình – TP. Hà Nội.[21]
Là nhà khách mà nguồn gốc trước đây là khách sạn Liễu Giai trực
thuộc cục chuyên gia - Bộ Ngoại giao có nhiệm vụ phục vụ chuyên gia nước
ngoài đến giúp nước ta xây dựng CNXH ở miền Bắc và bảo vệ Tổ quốc, đến
năm 2003 nhà khách mới trực thuộc Văn phòng Chính phủ, ngoài nhiệm vụ
phục vụ các chuyên gia, còn có nhiệm vụ phục vụ ăn nghỉ cho các đại biểu
về dự hội nghị của Đảng, Chính phủ và Quốc hội, cũng như khách vãng lai
của các địa phương về công tác tại Hà Nội.
Trung tâm hội nghị quốc gia - Mỹ Đình - Từ Liêm – Hà Nội.[18]
Là trung tâm được thành lập ngày 25 tháng 11 năm 2005 theo quyết
định 1819/QĐ-VPCP của Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, được
hình thành và phát triển đầy đủ các
Hội trường Thống Nhất - Thành phố Hồ Chí Minh.[22]
Hội trường thống nhất trước đây là trụ sở làm việc của chính quyền
Sài Gòn, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 miền Nam giải phóng thống nhất
nước nhà, Chính phủ ta tiếp quản và đặt tên lại là “Hội trường Thống Nhất”
trực thuộc Văn phòng Chính phủ, hội trường này có nhiệm vụ, phục vụ các
cuộc hội nghị của Chính phủ tại phía Nam và phục vụ việc hướng dẫn khách
trong nước và khách quốc tế tham quan khu di tích lịch sử này. Nhà khách Tao Đàn- Thành phố Hồ Chí Minh.[20]
Đây là nhà khách của chế độ cũ, để lại, Chính phủ ta tiếp quản sau
70
ngày 30 tháng 4 năm 1975 và thành lập nhà khách của Chính phủ ở phía
Nam, khi Thành phố Sài Gòn mang tên: Thành phố Hồ Chí Minh , nhà khách
Tao Đàn Sài Gòn đổi tên thành nhà khách Tao Đàn - Thành phố Hồ Chí
Minh trực thuộc Văn phòng Chính phủ. nhà khách có nhiệm vụ phục vụ cho
các đại biểu về dự hội nghị của Chính phủ khi tổ chức họp ở phía Nam, phục
vụ khách của các địa phương trong cả nước khi về ăn, nghỉ và làm việc tại
Thành phố Hồ Chí Minh.
*Lịch sử hình thành và phát triển của các nhà khách:
Dù thời gian, phạm vi, chức năng nhiệm vụ cụ thể có mức độ khác
nhau nào đó, song có thể khái quát qua các đặc điểm, chức năng và nhiệm vụ
chung chủ yếu như sau:
*Về đặc điểm:
Có nhiều đặc điểm cụ thể, song tất cả các nhà khách các trung tâm nói
trên đều hoạt động theo “Cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp là chính”
đặc điểm này biểu hiện ở:
- Hoạt động của các nhà khách, trung tâm theo chỉ tiêu kế hoạch cấp
trên giao trực tiếp.
- Về vốn, do ngân sách nhà nước cấp, cơ sở vật chất kỹ thuật do nhà
nước đầu tư xây dựng .
- Lao động tuyển dụng trước đây do cấp trên chuyển đến và tiền lương
do cấp trên quyết định.
- Khách đến ăn, nghỉ nói chung được bao cấp không phải trả tiền, nói
cách khác do kinh phí từ các hội nghị hoặc kinh phí nhà nước đài thọ.
3.1.2. Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của hệ thống nhà khách
*Về chức năng và nhiệm vụ:
- Phục vụ việc ăn, nghỉ, đi lại của các đại biểu về dự các đại hội, hội
nghị của đảng, nhà nước, quốc hội và chính phủ hàng năm hoặc bất thường.
71
- Phục vụ khách vãng lai của ủy ban nhân dân và hội đồng nhân dân
các tỉnh về ăn, nghỉ để làm việc với Chính phủ, Văn phòng Chính phủ, lãnh
đạo nhà nước và Quốc hội .
- Ngoài ra tận dụng cơ sở vật chất, nhận làm dịch vụ cho các hội nghị
của các tổ chức trong và ngoài nước, tổ chức việc ăn, nghỉ cho khách quốc tế
và các tỉnh thành có nhu cầu .
- Hướng dẫn các đoàn khách trong nước và quốc tế thăm quan các khu
di tích lịch sử của Chính phủ, như: hội trường thống nhất.
Cũng như nhà khách thuộc Chính phủ, các nhà khách thuộc UBND các
tỉnh được thành lập ở miền Bắc trước năm 1975 và ở miền Nam sau giải
phóng 1975, các nhà khách ở phía Nam một phần là những khu nhà nghỉ trước
đây để lại và có cải tạo và một phần là xây dựng mới, hiện nay có 63 tỉnh bao
gồm 63 nhà khách và các nhà khách của các bộ.
Về chức năng và nhiệm vụ: các nhà khách này có chức năng nhiệm vụ
gần giống nhà khách thuộc Chính phủ, chỉ khác là đối tượng phục vụ việc ăn,
nghỉ, đi lại là khách của Trung ương đến làm việc tại tỉnh và khách là đối
tượng là các đại biểu về dự các đại hội, hội nghị của đảng bộ tỉnh, UBND tỉnh
hàng năm hoặc các huyện xã lên làm việc, thậm chí các huyện cách trung tâm
tỉnh hàng 200 km.
3.1.3. Mô hình tổ chức hệ thống nhà khách các cơ quan nhà nước ở Việt Nam
Cơ cấu tổ chức, biên chế và chế độ làm việc
1. Nhà khách các cơ quan nhà nước có giám đốc và không quá 03 Phó
Giám đốc, giám đốc do thủ trưởng các cơ quan QLNN bổ nhiệm, miễn nhiệm
theo quy định của pháp luật; chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước trực
tiếp quản lý và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của nhà khách..
Các phó giám đốc và kế toán trưởng do thủ trưởng các cơ quan QLNN
72
bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo quy định của pháp luật; chịu trách
nhiệm trước thủ trưởng các cơ quan QLNN và trước giám đốc về lĩnh vực
công tác được phân công
2. Nhà khách các cơ quan nhà nước có các phòng nghiệp vụ sau đây:
a) Phòng tổ chức – hành chính – quản trị;
b) Phòng kế toán – tài vụ;
c) Phòng kế hoạch – kinh doanh;
d) Phòng lễ tân.
3. Giám đốc nhà khách các cơ quan nhà nước được quyết định thành
lập, sáp nhập, giải thể các tổ chuyên môn và bổ nhiệm, miễn nhiệm quản đốc,
phó quản đốc, tổ trưởng, tổ phó các tổ chuyên môn.
4. Giám đốc nhà khách các cơ quan nhà nước trình thủ trưởng các cơ
quan QLNN phê duyệt biên chế cán bộ, viên chức và quyết định bổ nhiệm,
miễn nhiệm trưởng phòng, phó trưởng phòng sau khi có ý kiến thẩm định của
tổ chức cán bộ.
5. Giám đốc nhà khách các cơ quan nhà nước quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của các phòng thuộc nhà khách.
6. Chế độ làm việc
Nhà khách các cơ quan nhà nước làm việc theo chế độ thủ trưởng và
thực hiện đầy đủ quy chế dân chủ trong hoạt động của cơ quan nhà nước theo
73
quy định của chính phủ và quyết định của thủ trưởng các cơ quan QLNN.
3.1.4. Khái quát về tình hình và kết quả hoạt động sản xuất- kinh doanh của hệ
thống nhà khách thuộc cơ quan nhà nước ở Việt Nam
Bảng 1: Thực trạng hoạt động của 50 nhà khách trong 12 năm:
Đơn vị tính: Triệu đồng
Số lượng Diện tích
Các năm Doanh thu Chi phí Thuế Lợi nhuận CBCNV sử dụng
(người) m2)
2004 240,762,544 208,692,530 14,545,727 19,356,453 1,074 231,495
2005 267,531,940 231,880,589 16,161,919 21,507,170 1,192 238,575
2006 297,237,709 257,645,099 17,957,688 23,896,856 1,325 238,575
2007 330,264,121 286,272,332 19,952,988 26,552,062 1,473 238,575
2008 366,960,135 318,080,369 22,169,985 29,502,291 1,636 259,575
2009 407,733,484 353,422,632 24,633,318 32,780,323 1,818 267,323
2010 453,037,204 392,691,814 27,370,000 36,422,000 2,020 267,343
2011 498,340,924 431,960,995 30,107,000 40,064,200 2,222 267,343
2012 548,175,017 475,157,095 33,117,700 44,070,620 2,444 267,343
2013 630,401,270 546,430,670 38,085,360 50,681,210 2,811 277,403
2014 706,049,430 612,002,340 42,655,600 56,762,960 3,148 282,413
2015 760,775,360 685,442,630 47,777,270 63,574,510 3,526 2,943,453
Tổng 5,507,269,138 4,799,679,095 334,534,555 445,170,655 cộng
74
Nguồn tài liệu từ báo cáo của 50 nhà khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước
Bảng 2: Thực trạng hoạt động của 50 nhà khách trong năm 2012
Đơn vị tính: triệu đồng
Tên Nhà khách Doanh thu (triệu đồng) Chi phí (triệu đồng) Thuế (triệu đồng) Lợi nhuận (triệu đồng) Số lượng CBCNV (người) Diện tích sử dụng (m2) Thu nhập BQ (triệu đồng/ người)
NK Phương
Nam - BCA 26,440.920 6,824.400 1,402.390 5,146.130 33.880 90 13,062
NK Kinh Đô -
BCA(Huế) 2,001.313 775.617 164.840 1,060.776 39.741 41 3,216
NK Bộ
LĐTBXH -HN 1,207.580 827.640 75.020 297.660 27.830 18 561
NK Bộ
LĐTBXH -
HCM 9,846.980 7,106.330 527.560 2,740.650 44.770 31 4,385
NK UBND TP
Hà Nội 10,222.080 9,321.840 611.050 287.980 50.820 93 2,700
NK Hương
Sen TPHCM 39,332.260 30,805.390 3,011.690 4,359.630 63.612 119 2,800
NK TP Hải
Phòng 38,681.280 36,650.900 4,316.070 2,030.380 66.792 136 12,098
75
NK Cần Thơ 4,522.980 4,339.060 185.251 (1.210) 34.848 23 2,745
Nhà khách Cao
Bằng 17,997.540 14,645.840 1,798.060 1,553.640 60.500 59 6,700
Nhà khách A1
Lạng Sơn 9,125.820 8,402.240 291.610 431.970 43.560 48 3,620
NK Hương
Phong Lchâu 8,398.822 5,194.745 523.377 2,680.699 46.130 36 2,227
Nk UBND tỉnh
Sơn La 7,316.870 7,973.900 707.850 (657.030) 39.204 38 16,329
NK T/ Quang 19 3,968
NK Bắc Kạn 1,754.500 1,522.180 141.570 90.750 58.080 11 1,250
NK T/ Nguyên 5,042.070 4,876.300 51.667 114.103 43.560 18 720
NK Hào Gia -
Yên Bái 10,504.010 9,114.930 929.280 459.800 39.204 67 5,449
NK số II - Lào
Cai 1,270.500 1,028.500 96.800 145.200 39.204 11 2,100
TT Hội Nghị -
Vĩnh Phúc
76
NK Bắc Giang 11,676.500 7,470.540 1,059.960 4,326.960 43.850 70 19,000
TT Văn Hoá
Kinh Bắc 4,381.017 4,103.400 148.417 277.616 26.620 40 9,500
NK Hoà Bình 580.800 419.870 58.080 102.850 43.996 11 1,900
NK Quảng
Ninh 13,498.087 11,974.283 527.311 1,523.803 58.893 85 16,311
NK Hải
Dương 3,873.210 3,585.230 267.410 22.990 7 760
NK Hưng Yên 6,245.731 5,897.700 310.763 348.030 36.300 21 3,060
NK Hội trường
Thái Bình 4,256.780 3,274.260 272.250 710.270 29.766 28 5,000
NK Nam Định 1,824.680 1,824.680 185.992 20.343 24
NK Nghệ An 22,627.000 21,104.820 1,600.830 1,522.180 47.916 104 7,696
NK Nghệ An
II 7,502.000 6,780.840 665.500 55.660 40.656 47 7,600
NK Hương
Sen Hà Tĩnh 15,246.000 14,762.000 1,161.600 484.000 50.820 73 5,742
TT DV HN
77
Quảng Trị 6,713.080 6,687.670 25.410 43.560 38 1,500
TT HN Quảng
Nam 1,235.562 1,232.174 907.500 2.481 31.944 16 248
NK Quảng
Ngãi 7,320.500 6,957.500 586.850 363.000 46.464 46 3,162
NK Thanh
Bình Bình Định 15,123.427 14,380.487 605.000 742.093 47.190 67 2,000
TT HN NK
Khánh Hoà 3,882.399 3,524.336 252.267 105.796 37.578 41 11,000
NK Ninh
Thuận 2,303.840 1,891.230 204.490 208.120 30.492 70 20,000
KS Bình Minh
– Bthuận 47,202.100 43,163.120 4,284.610 4,038.980 60.984 173 13,226
NK Gia Lai 3,426.173 3,403.725 330.694 22.508 25.091 29 2,452
NK Hữu Nghị
- KonTum 3,345.650 2,970.550 284.350 90.750 37.011 27 1,883
NK Lâm Đồng 12,612.821 10,088.548 680.169 1,844.103 78.011 53 4,230
NK Long An 8,939.480 8,351.420 383.570 204.490 37.510 47 6,499
78
NK Tây Ninh 121.278 121.278 3.807 33.880 4 1,170
NK Bình
Dương 7,053.028 6,306.700 529.420 216.908 42.834 24 2,360
TT HN Tiền
Giang 91,121.948 88,906.442 553.876 1,661.630 32.936 132 15,100
NK Bến Tre 17,198.940 15,479.530 603.190 1,720.620 20.189 74 1,558
NK Bông Sen
-Hậu Giang 341.220 220.220 18.150 102.850 26.426 19 6,246
KS Quê Hương-
Sóc Trăng 12,980.650 11,069.128 477.877 1,433.608 34.461 71 7,139
NK Trà Vinh 12,790.910 11,979.000 615.890 608.630 37.510 75 5,015
NK Kiên Giang 1,986.820 1,783.540 50.820 152.460 65.340 21 450
NK Cà mau 7,097.860 6,033.060 653.400 411.400 29.040 51 1,606
Tổng cộng 548,175.017 475,157.095 33,117.700 44,070.620 2,444 267,343
Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ của các nhà khách, chi
tiết có phụ lục 52 kèm theo.
Về doanh thu
79
Tổng doanh thu của 50 nhà khách năm 2004 đạt 240,768 tỷ đồng,
doanh thu năm 2015 của 50 nhà khách đạt 760,775 tỷ đồng tăng 316% tron doanh thu năm 2015 c ạt 760,775 tỷ đồng tăng 316% trong
12 năm. Trong đó hoạt động kinh doanh dịch vụ tăng mạnh b 12 năm. Trong đó ho ạt động kinh doanh dịch vụ tăng mạnh bên cạnh việc
thực hiện tốt nhiệm vụ của m ực hiện tốt nhiệm vụ của mình là phục vụ nhiệm vụ chính trị l ục vụ nhiệm vụ chính trị lãnh đạo đảng
và nhà nước, chính phủ v ớc, chính phủ và các cơ quan trung ương cũng nh ũng như các tổ chức quốc
tế, các đơn vị kinh doanh th ị kinh doanh thành công trong lĩnh vực dịch vụ, bán h ĩnh vực dịch vụ, bán hàng tạo
nguồn thu chính cho các nh ạt động nhiệm vụ chính trị, ồn thu chính cho các nhà khách, đóng góp hoạt động nhiệm vụ chính trị,
giảm chi từ ngân sách nh ảm chi từ ngân sách nhà nước.
Trong 12 năm, thực trạng hoạt động của các nh ực trạng hoạt động của các nhà khách.
Biểu đồ 1. Doanh thu v ểu đồ 1. Doanh thu và chi phí hoạt động của hệ thố ạt động của hệ thống nhà
khách
ệu đồng) giai đoạn 2004-2015 (triệu đồng)
Thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách nh ực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước
Các đơn vị luôn ho ị luôn hoàn thành tốt nghĩa vụ đóng góp với ngân sách nh ốt nghĩa vụ đóng góp với ngân sách nhà
nước, Tỷ lệ đóng góp đối với ngân sách nh ớc, Tỷ lệ đóng góp đối với ngân sách nhà nước củacác nh ớc củacác nhà khách thuộc cơ
80
quan QLNN như sau: quan QLNN như sau:
- Thuế năm 2004 là: 14,545 t à: 14,545 tỷ đồng; - Thuế năm 2015 là: 47,777 t à: 47,777 tỷ đồng
Tăng 330% thuế cho ngân sách nhà nước. Tăng 330% thu
Tỷ suất thuế tr ăm là 6%. ỷ suất thuế trên doanh thu bình quân hàng năm là 6%.
Biểu đồ 2. Thuế v ểu đồ 2. Thuế và lợi nhuận của hệ thống nh ợi nhuận của hệ thống nhà khách
giai đoạn 2004-2015 (triệu đồng)
81
Biểu đồ 3. C ểu đồ 3. Cơ cấu doanh thu của hệ thống nh ấu doanh thu của hệ thống nhà khách
82
giai đoạn 2004-2015 (%)
Về lợi nhuận
Nhờ cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, ở những vị trí thuận lợi nên kết
quả hoạt động kinh doanh, lợi nhuận đạt được của các đơn vị không ngừng
tăng lên qua các năm.
- Năm 2004 là: 19,356 tỷ ;- Năm 2015 là: 63,574 tỷ ; Tăng 328%
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thi bình quân năm là 8%.
3.1.5. Thuận lợi và khó khăn trong hoạt động của các nhà khách
Hệ thống các nhà khách thuộc các cơ quan QLNN trước đây hoạt động
theo cơ chế bao cấp, được cấp phát toàn bộ kinh phí, hoạt động theo kế hoạch
chung của các cơ quan QLNN, các nhà khách này chỉ phục vụ chủ yếu khách
của các đoàn do cơ quan QLNN cấp trên đưa xuống, từ khi cơ chế chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường, các cơ quan chủ quản cơ quan QLNN đã thực
hiện khoán chi hành chính và chuyển đổi một số đơn vị phục vụ sang thành
đơn vị sự nghiệp có thu, sau khi chuyển sang đơn vị sự nghiệp, các đơn vị này
có một số thuận lợi và khó khăn nhất định:
Về thuận lợi.
Các đơn vị sự nghiệp thừa hưởng được một số thuận lợi để lại, như:
- Tiếp nhận các địa điểm được xây dựng phần lớn ở những vị trí trung
tâm đắc địa, thuận lợi cho hoạt động khi chuyển sang đơn vị sự nghiệp có thu.
- Thừa hưởng được cơ sở vật chất rất tốt, như những khách sạn 3-4 sao,
nơi ăn, nghỉ, khu giải trí được đảm bảo, trong đó có một số cơ sở bộ phận
được trang bị theo hướng hiện đại cần thiết cho việc tiếp tục thực hiện và phát
triển các hoạt động
- Các nhà khách, trung tâm này được thừa hưởng đội ngũ cán bộ quản
lý, chuyên viên và nhân viên có trình độ quản lý và tay nghề cao, quen việc,
cho phép giảm được chi phí về tuyển dụng, đào tạo, một thuận lợi rất cần thiết
83
để đưa nhanh hoạt động quản lý, sản xuất, kinh doanh dịch vụ khi chuyển các
nhà khách sang các ĐVSN gắn với chức năng và nhiệm vụ mới.
- Các đơn vị sự nghiệp ra đời có nguồn gốc từ các nhà khách vốn trước
đây đã trực thuộc cơ quan QLNN, nay vẫn trực thuộc cơ quan QLNN, như
vậy, về mặt chủ thể quản lý trực tiếp cấp trên của các đơn vị sự nghiệp cơ bản
là không thay đổi. đây là một thuận lợi cho phép các nhà khách rút ngắn thời
gian thiết lập mối quan hệ với chủ thể quản lý nhà nước cấp trên trực tiếp,
dành thời gian cho việc triển khai thực hiện hoạt động mới của mình.
Về khó khăn.
Ngoài những thuận lợi cơ bản trên, khi chuyển sang cơ chế tài chính
mới, các nhà khách cũng gặp một số khó khăn ban đầu như:
Thứ nhất: Về cơ sở vật chất do xây dựng đã lâu, chỉ thích ứng với thời kỳ
bao cấp và chiến tranh, nên khi chuyển sang cơ chế mới, một số bị hư hỏng,
lạc hậu, đòi hỏi phải có nhiều vốn, nhiều kinh phí để xây dựng mới, cải tạo và
nâng cấp, nhằm đảm bảo thực hiện chức năng nhiệm vụ mới một cách có chất
lượng hơn..
Thứ hai: Có nhà khách ở vị trí mặt bằng hẹp khó phát triển, trong khi
hoạt động lại cần đa dạng hóa các dịch vụ cho nhu cầu của khách.
Thứ ba: Có cán bộ quản lý và nhân viên quen kiểu quản lý cũ và dịch vụ
trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp lâu ngày, khi chuyển sang cơ chế
tự chủ tài chính chưa quen, đã và đang thực sự là một khó khăn trong qua
trình kinh doanh hoạt động phát triển cơ chế thị trường.
3.2. Thực trạng cơ chế quản lý tài chính của hệ thống nhà khách thuộc cơ
quan quản lý nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2004 – 2015:
3.2.1. Tình hình lập dự toán, chấp hành dự toán, kế toán và quyết toán thu, chi tài
chính của hệ thống nhà khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước:
84
Quá trình lập dự toán, chấp hành dự toán
- Dự toán chi thường xuyên của các nhà khách là các đơn vị sự nghiệp
công được xác định theo một định mức chi ổn định., Sau một chu trình hoạt
động tài chính của các nhà khách, ngân sách được xác định duy nhất với một
mức độ tự chủ tài chính trên cơ sở các chỉ tiêu thu, chi NS theo dự toán năm
đầu thời kỳ ổn định NS. Cơ chế tự chủ đối với nhà khách được quy định rất
linh động, tạo động lực cho các đơn vị phát huy sức sáng tạo, năng động
chuyển mình thành một đơn vị độc lập, tự chủ về tài chính, khẳng định sự lớn
mạnh của chính đơn vị để được chuyển đổi sang hình thức hoạt động như một
doanh nghiệp. Những mặt mạnh ấy cũng tồn tại nhiều khó khăn đối với những
đơn vị thiếu điều kiện, khả năng vận động và khai thác nguồn thu, mà ngân
sách nhà nước phải đảm bảo một phần chi phí cho các nhà khách duy trì bộ
máy hoạt động, vấn đề kiểm tra, kiểm toán NS sử dụng tại nhà khách.
Dự toán chi thường xuyên (TX):
Dự toán chi TX là dự toán các khoản mục chi mang tính chất hoạt động
TX trong một thời kỳ nhất định, đảm bảo cho đơn vị duy trì hoạt động. Dự
toán chi TX không bao gồm các khoản chi lương nhưng có khi nó được dùng
để chi thưởng, lương tăng thêm trên cơ sở tiết kiệm NS. Dự toán chi TX gồm
hai loại:
- Dự toán chi hành chính: được cấp có thẩm quyền giao, trong suốt thời
kỳ ổn định NS từ 3 đến 5 năm, nhà khách chỉ được phân bổ dự toán chi đã
giao và không điều chỉnh.
- Dự toán chi sự nghiệp có tính chất TX: Thuộc nhiệm vụ chi SN ngành,
lĩnh vực chuyên môn nhưng lại có tính chất chi TX không đảm bảo nhiệm vụ
quản lý hành chính, SN (được hiểu cụ thể hơn là những hoạt động trong SN y
tế, giao thông, nông nghiệp….). Dự toán chi SN rất đa dạng, được cấp có
thẩm quyền giao đầu năm nhưng có thể được điều chỉnh bổ sung.
Nhà khách thuộc cơ quan nhà nước là một cơ quan do nhà nước thành
85
lập theo pháp luật, và được các cơ quan tài chính phân bổ NS, nhà khách được
giao nhiệm vụ kinh doanh và cung cấp dịch vụ công, được tự chủ tài chính.
Nguồn lực tài chính của đơn vị được hình thành từ các nguồn thu SN và từ
NSNN. Phần NSNN giao ổn định trong một thời kỳ, được gọi là dự toán chi
TX từ NS và là đối tượng kiểm tra của nhà nước.
Cơ sở thực hiện kiểm tra dự toán
Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính cho các nhà khách cơ quan
nhà nước theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 và TT số
113/2007/TT-BTC ngày 24/09/2007, cơ chế tự chủ tài chính này có những
điểm không còn phù hợp, vì vậy, chính phủ đã ban hành Nghị định số
16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015.
Theo nghị định, chính phủ giao quyền tự chủ cao hơn cho các đơn vị chủ
động xác định mục tiêu, nhiệm vụ gắn liền với nghĩa vụ quản lý trực tiếp. đơn
vị tự chủ phải thành lập hội đồng quản lý từ 05 đến 11 thành viên để nâng cao
vai trò quản lý trung hạn và dài hạn.
Các nhà khách được vận dụng cơ chế hoạt động tài chính như một DN;
vận dụng chế độ kế toán DN; quản lý tài sản theo quy định về quản lý TS
công; được huy động vốn, vay vốn và đầu tư ra bên ngoài theo quy định của
pháp luật.
Với sự đổi mới như trên đã tạo ra động lực phát triển cao cho các đơn vị
chuyển đổi loại hình hoạt động công, tư, hoạt động của các đơn vị này như
một DN; các TS có nguồn gốc nhà nước sau khi được chuyển giao vốn cho
đơn vị quản lý phải tuân theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng TS
nhà nước.
Việc xác định mức độ tự chủ của nhà khách các cơ quan nhà nước tự chủ
một phần kinh phí vẫn được quy định tại TT số 71/2006/TT-BTC, việc phân
loại các nhà khách để giao quyền tự chủ, phân bổ dự toán theo mức độ tự chủ
được tính theo dự toán thu, chi của năm đầu thời kỳ ổn định, quy định này có
86
những ưu điểm là việc xác định tỷ lệ tự chủ một cách đơn giản, sẵn có dự toán
của năm đầu thời kỳ ổn định NS, nhưng lại hạn chế ở chỗ mức độ tự chủ thực
của nó không thể xác định và đảm bảo là chắc chắn ngay từ giai đoạn lập đề
án hoạt động. Trên thực tế, sau một năm hoặc một kỳ ổn định NS của các đơn
vị này đã kết thúc, các cơ quan quản lý tiến hành xác định lại mức độ tự chủ
tài chính thực tế sẽ cho thấy việc phân loại các ĐVSN công rất có ý nghĩa
thực tiễn, theo đó, các cơ quan quản lý, kiểm tra có thể tính được mức độ sử
dụng NS thực của các đơn vị trực thuộc và phần dự toán đã được phân bổ sẽ
bị sai lệch theo hai trường hợp sau:
Dự toán đã được phân bổ thiếu khi mức độ tự chủ được xác định theo dự
toán cao hơn thực tế, trường hợp này, sẽ tạo ra khó khăn cho đơn vị thực hiện
nhiệm vụ và mục tiêu trong suốt thời kỳ ổn định NS của mình.
Dự toán đã được phân bổ thừa khi mức độ tự chủ được xác định theo dự
toán thấp hơn thực tế, trong trường hợp này, các đơn vị sẽ có nguồn tài chính
chi tiêu thông thoáng nhưng lại không thể chia sẻ một phần lợi ích cho những
đơn vị hoạt động cùng ngành, nghề thiếu điều kiện và khả năng khai thác các
nguồn thu tại chỗ.
Trên cơ sở phân tích trên cho thấy nghĩa vụ của việc quản lý dự toán, cân
đối NSNN mang lại ý nghĩa to lớn, Bộ Tài chính hướng dẫn phương pháp
phân loại các ĐVSN nhằm xác định mức độ tự chủ, phân bổ dự toán chi
thường xuyên năm đầu thời kỳ ổn định NS., chủ thể quản lý cần tiến hành các
thử nghiệm:
Gọi M là tổng thu hoạt động SN
Gọi N là tổng chi hoạt động SN
Gọi A là số thực chi hoạt động thường xuyên theo nhiệm vụ quản lý
hành chính và B là số dự toán được phân bổ theo kế hoạch.
Tỷ lệ % đơn vị tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên (Ty):
Ty = M/(N+A) x 100%
87
Vậy N +A là tổng chi hoạt động thường xuyên
Tỷ lệ % mà NSNN được phân bổ cho các đơn vị sử dụng là: (1-Ty)% =
a%. như vậy, tổng số dự toán NSNN được phân bổ theo thực tế là: a% x (N +
A) = C.
Bước tiếp theo, cơ quan quản lý NS tiến hành cân đối NS đã được sử
dụng tại các đơn vị mà khả năng có thể xảy ra khi, chỉ tiêu C < B sẽ cho thấy
NSNN phân bổ thừa một khoản chênh lệch B -C và ngược lại.
Ngoài ra, chủ thể quản lý còn có thể dùng phương pháp kiểm chứng sau:
so sánh tổng nhu cầu sử dụng kinh phí (N+A) cao hơn tổng nguồn tài chính
mà đơn vị có được (M+B), chứng tỏ, cơ quan quản lý phân bổ thiếu một
khoản chênh lệch tương ứng giữa nhu cầu sử dụng và nguồn thực hiện, kiểm
chứng tương tự trong trường hợp ngược lại.
Kiểm tra việc xác định dự toán chi TX từ NSNN
Quá trình chấp hành NSNN tại các nhà khách cơ quan nhà nước, những
yêu cầu đặt ra trước tình hình hình hoạt động SXKD và thực hiện nhiệm vụ
chính trị được nhà nước giao phải đảm bảo hiệu quả, hiệu lực, tình hình hoạt
động tài chính của đơn vị sẽ biến động ở mức độ tương đối trong suốt thời kỳ
ổn định NS từ 3 đến 5 năm nhưng không cho phép các các đơn vị ỷ lại
NSNN, dự toán chi được xác định và giao quyền tự chủ tại thời điểm lập dự
toán năm, điều đó sẽ có những biến động khá lớn, ảnh hưởng lớn làm mất cân
đối NS sau một thời kỳ ổn định NS, cơ quản quản lý tài chính và các cơ quan
chủ quản cần tiến hành xác lập các tiêu chí kiểm tra dự toán, cân đối NS sử
dụng theo TT 71/2006/TT-BTC:
Thử nghiệm thứ nhất: Về phân phối kết quả thu, chi NS, cơ quan quản lý
NS cần kiểm tra, xác định lại tình hình phân bổ dự toán NS tại một nhà khách
có tình hình tài chính về: Tổng thu hoạt động SN là 1.000.000.000 đ; Tổng
chi hoạt động SN là 500.000.000 đ; Tổng dự toán chi được phân bổ
88
1.000.000.000 đồng, cuối kỳ kế toán, đơn vị đã tiết kiệm được một khoản
500.000.000đ chi TX từ vốn NS cấp, trong năm ấy, đơn vị đã trích lập các
quỹ và chi thu nhập tăng thêm là 300triệu.
Theo giả thiết, số thực chi hoạt động TX cho nhiệm vụ quản lý hành
chính được xác định: A = 1.000.000.000 – (500.000.000 - 300.000.000) =
800.000.000 đ. như vậy:
Ty = M/(N+A)x100% = 1.000.000.000/(500.000.000+800.000.000) x
100% = 10/13x100% = 77% đây là tỷ lệ % tự chủ thực tế tại đơn vị.
Tỷ lệ % mà NSNN được cơ quan tài chính phân bổ cho các đơn vị sử
dụng là (1-Ty)% = a% = 23%, tổng dự toán NSNN được phân bổ theo định số
thực tế là: a% x (N + A) = C = 300.000.000, vậy chỉ tiêu C < B =
1.000.000.000đ. Kết quả cho thấy, cơ quan tài chính đã phân bổ NSNN cho
các đơn vị sử dụng thừa một khoản là 700.000.000đ.
Thử nghiệm thứ hai: về chi phí hợp lý, hợp lệ, chủ thể quản lý cần kiểm
tra, xác định lại tình hình phân bổ dự toán NS tại một nhà khách có tình hình
tài chính về: Tổng thu hoạt động SN là 3.000.000.000 đ; tổng chi hoạt động
SN là 2.000.000.000 đ, tổng dự toán chi được phân bổ 1.000.000.000 đ. Cuối
kỳ kế toán, đơn vị đã tiết kiệm được một khoản chi từ kinh phí SN là
1.000.000.000 đ và tiết kiệm một khoản chi từ kinh phí quản lý hành chính là
400.000.000 đ. Đơn vị đã chi thu nhập tăng thêm, trích lập các quỹ toàn bộ.
thẩm tra phát hiện một khoản chi phí hợp lệ bị bỏ sót, chưa kết chuyển trong
kỳ từ kinh phí SN là 500.000.000 đ.
Theo giả thiết, số thực chi hoạt động TX cho nhiệm vụ quản lý hành
chính được xác định: A = 1.000.000.000 đ; tổng chi hoạt động SN được xác
định: N = 2.000.000.000 + 1.000.000.000 + 500.000.000 = 3.500.000.000 đ.
Như vậy:
Ty = M/(N+A)x100% =
3.000.000.000/(3.500.000.000+1.000.000.000)x100% = 66,67% đây là tỷ lệ
89
% tự chủ thực tế.
Tỷ lệ % mà NSNN được được cơ quan tài chính phân bổ cho các đơn vị
sử dụng là: (1-Ty)% = a% = 33,33%. tổng dự toán NSNN được phân bổ theo
định số thực tế là: a% x (N + A) = C = 1.500.000.000 đ, vậy chỉ tiêu C > B =
1.000.000.000 đ. kết quả cho thấy, cơ quan tài chính đã phân bổ NSNN cho
các đơn vị sử dụng thiếu một khoản là 500.000.000 đ.
Thử nghiệm thứ ba: về chuyển nguồn kinh phí, năm tiếp theo, cũng
tương tự tại một nhà khách có tình hình tài chính về: tổng thu hoạt động SN là
4.000.000.000 đ tổng chi hoạt động SN là 3.000.000.000 đ; tổng dự toán chi
được phân bổ 4.000.000.000 đ. cuối kỳ kế toán, đơn vị tiết kiệm một khoản
chi phí quản lý hành chính là 1.000.000.000 đ, mặc nhiên được chi chuyển
nguồn 50% và chi chuyển tiếp kinh phí từ hoạt động SN là 40%. qua thẩm tra
phát hiện một khoản chi phí quản lý hành chính quyết toán khống là
500.000.000 đ.
Theo giả thiết, số thực chi hoạt động TX cho nhiệm vụ quản lý hành
chính được xác định: A = 4.000.000.000 – (1.000.000.000 - 500.000.000) –
500.000.000 = 3.000.000.000 đồng; tổng chi hoạt động SN được xác định: N
= 3.000.000.000 + 60%(4.000.000.000-3.000.000.000) = 3.600.000.000 đ.
Như vậy:
Ty = M/(N+A)x100% =
4.000.000/(3.600.000.000+3.000.000.000)x100% = 60,61% đây là tỷ lệ % tự
chủ thực tế tại đơn vị.
Tỷ lệ % mà NSNN được được cơ quan tài chính phân bổ cho các đơn vị
sử dụng là: (1-Ty)% = a% = 39,39%. tổng dự toán NSNN được phân bổ theo
định số thực tế là: a% x (N + A) = C = 2.600.000.000 đ, vậy chỉ tiêu C < B =
4.000.000.000 đ. kết quả cho thấy, cơ quan Tài chính đã phân bổ NSNN cho
90
các đơn vị sử dụng thừa một khoản là 1.400.000.000 đ.
Chủ thể quản lý cũng có thể thực hiện kiểm chứng cho thấy, tổng nhu
cầu sử dụng kinh phí tại đơn vị này thấp hơn tổng nguồn tài chính mà đơn vị
có được một khoản 1.400.000.000 đồng.
Hiệu lực hóa kết quả kiểm tra NS
Về tổng thể, các cơ quan kiểm tra, quản lý NSNN các cấp tiến hành các
bước kiểm tra, cân đối dự toán NS tại các nhà khách thuộc cơ quan nhà nước
hàng năm, cũng có thể tính hết cho các năm sau một thời kỳ ổn định NS. công
tác kiểm tra dự toán sẽ thuận lợi hơn đối với những nhà khách được NSNN
đảm bảo toàn bộ, nhưng cũng cần xem xét đối với các nhà khách đã tự chủ
toàn bộ. đối với nhà khách có đủ điều kiện chuyển đổi thực hiện chế độ tài
chính, kế toán như một DN thì phải được hướng dẫn thực hiện theo Nghị định
của chính phủ số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015, có hiệu lực thi hành ngày
16/04/2015.
Hàng năm vào thời điểm xây dựng dự toán thu, chi ngân sách nhà nước
căn cứ theo chương trình hoạt động cụ thể đã được cấp có thẩm quyền phê
duyệt, tổ chức nhà khách các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập tự
bảo đảm một phần chi phí hoạt động và đơn vị sự nghiệp công lập do nhà
nước bảo đảm chi phí hoạt động xây dựng dự toán kinh phí bảo đảm cho hoạt
động của nhà khách trong năm, dự toán thu (nếu có), số đề nghị được ngân
sách nhà nước hỗ trợ gửi bộ phận tài chính của đơn vị mình.
Các nhà khách cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm
một phần chi phí hoạt động và đơn vị sự nghiệp công lập do nhà nước bảo
đảm chi phí hoạt động có trách nhiệm tổng hợp kinh phí hỗ trợ hoạt động nhà
khách trong dự toán thu, chi ngân sách của cơ quan, đơn vị, gửi cơ quan tài
chính cùng cấp trình cấp có thẩm quyền quyết định.
Căn cứ vào dự toán ngân sách nhà nước được cấp có thẩm quyền giao,
nhà khách các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập có trách nhiệm
91
phân bổ dự toán ngân sách nhà nước được giao trong đó ghi rõ mức kinh phí
chi hỗ trợ cho hoạt động của nhà khách trong dự toán kinh phí chi thường
xuyên của cơ quan nhà nước, thủ trưởng cơ quan nhà nước, có trách nhiệm
thông báo mức kinh phí được chi trong năm cho nhà khách thuộc cơ quan nhà
nước;
Kết thúc năm ngân sách, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp có trách
nhiệm quyết toán kinh phí hoạt động của nhà khách các cơ quan nhà nước và
tổng hợp trong báo cáo quyết toán hàng năm của cơ quan, đơn vị.
- Tổ chức hạch toán kế toán và chế độ quản lý tài chính
Nhà khách thuộc các cơ quan QLNN là đơn vị dự toán cấp III, có bộ
máy kế toán tổ chức hạch toán, sử dụng sổ sách, biểu mẫu, tài khoản theo
đúng chế độ của nhà nước về kế toán đơn vị sự nghiệp công lập;
Nhà khách thuộc cơ quan QLNN tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động
thường xuyên, chế độ quản lý tài chính thực hiện theo quy định của chính phủ
về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với đơn vị sự nghiệp,
các văn bản hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và quy định cụ
thể tại quyết định của các cơ quan QLNN cấp trên.
Từ thực tế này đặt ra vấn đề cần phải có cơ chế quản lý tài chính rõ hơn,
chủ động hơn cho hệ thống kế toán nhà khách và chế độ tài chính của hệ
thống nhà khách.
- Chế độ quản lý tài sản
Nhà khách thuộc cơ quan QLNN có trách nhiệm quản lý và sử dụng tài
sản được nhà nước giao theo chế độ quản lý tài sản đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập và các quy định cụ thể tại quyết định này;
Nhà khách thuộc cơ quan QLNN thực hiện việc tính khấu hao và trích
lập quỹ khấu hao tài sản theo quy định của pháp luật.
Việc thanh lý tài sản thực hiện theo các quy định hiện hành, tiền thu
thanh lý tài sản sau khi trừ chi phí thanh lý hợp lý được để lại và hạch toán
92
vào quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp của nhà khách thuộc cơ quan QLNN.
Chi phí sửa chữa lớn, nâng cấp, mua sắm trang thiết bị của nhà khách
thuộc cơ quan QLNN được bảo đảm từ quỹ khấu hao tài sản, quỹ phát triển
hoạt động sự nghiệp, phần phiếu nếu có được bổ sung từ ngân sách nhà nước
theo dự toán hoặc dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Các chi phí sửa chữa thường xuyên, bảo dưỡng định kỳ hạch toán vào
chi phí hoạt động kinh doanh dịch vụ của nhà khách thuộc cơ quan QLNN.
Thực chất của chế độ quản lý tài sản của các nhà khách hiện nay chủ yếu
là quản lý tài sản công, chưa có phần xây dựng đóng góp lớn của chính nhà
khách đó từ hoạt động kinh doanh của mình, chế độ quản lý tài sản thực hiện
theo nghị định 43 và nghị định 16 của Chính phủ hiện nay mà chưa huy động
được nguồn đóng góp lớn từ hoạt động kinh doanh của nhà khách đó.
3.2.2. Thực trạng về cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống nhà khách thuộc cơ
quan QLNN
* Thực trạng về cơ chế chính sách
- Các cơ quan quản lý nhà nước đã sớm ban hành quyết định chuyển
các nhà khách và trung tâm thuộc các cơ quan QLNN trước đây thành đơn vị
sự nghiệp, hoạt động theo nghị định số 10/2002/NĐ-CP, nghị định 43 và nay
là Nghị định số 16/2015/ NĐ-CP của chính phủ.
- Từ quyết định chuyển đổi của thủ trưởng các cơ quan QLNN đã kịp thời
cụ thể hóa nghị định để ban hành các quy định về khung tổ chức bộ máy,
biên chế, chế độ làm việc, trách nhiệm và quyền hạn của giám đốc, chế độ
quản lý tài chính, tạo các quy chế cần và đủ về mặt pháp lý nhà nước , tạo
điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sự nghiệp đi vào hoạt động có hiệu quả.
- Thay đổi cơ chế quản lý tài chính của các nhà khách trước đây thành cơ
chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo tinh thần của nghị định trong các đơn vị
sự nghiệp thuộc cơ quan QLNN hiện nay, đóng góp to lớn một bước ngoặt
93
trong cải cách hành chính công từ bao cấp hoàn toàn sang hoạt động theo cơ
chế quản lý mới- cơ chế tự chủ về tài chính thích ứng dần với cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước, mở cửa và hội nhập kinh tế khu vực và
quốc tế, nhất là khi nước ta là thành viên của WTO.
- Thay đổi cơ chế quản lý tài chính của nhà nước trong các đơn vị sự
nghiệp thuộc cơ quan QLNN thời gian qua đã góp phần không nhỏ vào việc
thực hiện giảm dần bao cấp trong khu vực này mà còn tăng nguồn thu cho
ngân sách, sử dụng vốn và kinh phí hiệu quả hơn, mở rộng quy mô và nâng
cao chất lượng dịch vụ góp phần cải thiện đời sống của cán bộ và công nhân
viên chức.
a. Nguồn tài chính của nhà khách thuộc cơ quan QLNN, bao gồm:
Ngân sách nhà nước cấp
- Kinh phí sửa chữa lớn, nâng cấp cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị
phục vụ các hoạt động khi được cấp có thẩm quyền giao.
- Kinh phí thực hiện các dự án đầu tư xây dựng được cấp có thẩm quyền
phê duyệt.
- Kinh phí thực hiện tinh giản biên chế cán bộ, viên chức theo chế độ do
nhà nước quy định.
Nguyên tắc cấp phát nguồn vốn này thực hiện theo dự toán được cấp có
thẩm quyền phê duyệt theo đúng trình tự quản lý và chế độ quy định.
Nguồn thu sự nghiệp của nhà khách thuộc cơ quan QLNN
- Thu cho thuê phòng ngủ.
- Thu cho thuê hội trường, phòng họp.
- Thu bán hàng hóa.
- Thu phục vụ bếp ăn.
- Thu tiền lãi từ tiền gửi ngân hàng theo quy định.
- Thu cho thuê xe ô tô, điện thoại phục vụ khách về nghỉ tại nhà khách
thuộc cơ quan QLNN;
94
- Thu dịch vụ ăn, uống, tổ chức đám cưới, sinh nhật, hội nghị, trang trí,
giới thiệu sản phẩm, quảng cáo, trông ô tô, tiền giặt là quần áo cho khách và
các dịch vụ khác theo quy định.
- Các khoản thu hợp pháp khác (nếu có).
Nguồn vốn tín dụng đầu tư
Nhà khách thuộc cơ quan QLNN được phép huy động vốn vay tín dụng
bao gồm vay vốn của các tổ chức tín dụng và các nguồn hợp pháp khác để
đầu tư mở rộng, nâng cao chất lượng phục vụ phù hợp với chức năng, nhiệm
vụ, được giao.
b. Về sử dụng nguồn tài chính
- Nội dung chi:
Chi hoạt động thường xuyên của các nhà khách thuộc cơ quan QLNN
theo chức năng, nhiệm vụ được các cơ quan QLNN giao và chi cho các hoạt
động sự nghiệp có thu, bao gồm:
- Chi lương, phụ cấp lương cho cán bộ, công nhân viên, trả tiền công lao
động hợp đồng, lao động công nhật.
- Chi khoán các công việc đột xuất.
- Chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trích nộp kinh phí công đoàn theo
quy định của nhà nước.
- Chi tiền ăn trưa, ăn ca cho cán bộ, viên chức và người lao động được
tính vào chi phí, tối đa không quá một tháng mức lương tối thiểu do nhà nước
quy định đối với cán bộ, công chức nhà nước.
- Chi đào tạo lại, bồi dưỡng nghiệp vụ, mời chuyên gia tư vấn phục vụ
nhiệm vụ chuyên môn của đơn vị.
- Chi tiền điện, nước, tiền điện thoại, thuế đất, vận chuyển rác thải, tiền
may quần áo đồng phục, truyền hình cáp, internet.
- Chi chăm sóc cây cảnh, đặt báo, xăng xe phục vụ công tác.
- Chi mua nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu ăn, uống.
95
- Chi mua hàng hóa phục vụ các hoạt động dịch vụ được giao.
- Chi hợp pháp khác.
-Trích khấu hao đối với tài sản cố định phục vụ hoạt động kinh doanh,
dịch vụ theo tỷ lệ 3% trên nguyên giá tài sản cố định.
Khoản khấu hao này để lại và được hạch toán vào quỹ khấu hao để đầu
tư mới hoặc nâng cấp tài sản cố định của các nhà khách thuộc cơ quan
QLNN.
- Chi thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước: các nhà khách
thuộc các cơ quan QLNN có trách nhiệm kê khai và nộp thuế giá trị gia tăng
và thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng hình thức thuế khoán, mức thuế cụ thể
thực hiện sau khi thỏa thuận với bộ tài chính. trước mắt thuế giá trị gia tăng
và thuế thu nhập doanh nghiệp thực hiện theo công văn số 2106/BTC-HCSN
ngày 11 tháng 02 năm 2010 của bộ tài chính về việc thẩm định phân loại và
thuế đối với đơn vị sự nghiệp thuộc cơ quan QLNN.
- Các khoản chi sửa chữa thường xuyên, mua sắm công cụ lao động, văn
phòng phẩm khoán theo tỷ lệ 8% trên tổng chi phí.
- Các khoản chi quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, tiếp tân, khánh tiết, chi
phí giao dịch, chi phí hoa hồng môi giới dẫn khách, khám sức khoẻ, quần áo
phục vụ và các khoản chi khác theo quy định, khoán theo tỷ lệ 8% trên tổng
chi phí.
Chi thực hiện tinh giản biên chế cán bộ, viên chức theo quy định của
nhà nước.
Chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn
tài sản, chi thực hiện các dự án đầu tư theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
Khoản chi hợp pháp khác.
- Về định mức chi:
Căn cứ hướng dẫn của bộ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập
có thu, các nhà khách thuộc cơ quan QLNN xây dựng các định mức chi tiêu
96
tài chính trên cơ sở các định mức kinh tế - kỹ thuật của nhà nước cho từng
công việc cụ thể, phù hợp với hoạt động đặc thù của các nhà khách thuộc các
cơ quan QLNN (tiếp khách, hội họp, giao dịch, đối ngoại, quảng cáo, tiếp thị)
trình thủ trưởng các cơ quan QLNN cho ý kiến trước khi giám đốc các nhà
khách thuộc cơ quan QLNN phê duyệt, trên cơ sở định mức quy định, khuyến
khích các nhà khách thuộc các cơ quan QLNN tổ chức khoán chi phí đến từng
phần việc, từng đơn vị và cá nhân trong phạm vi nguồn kinh phí được giao,
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phục vụ và kinh doanh.
c. Về sử dụng kết quả tài chính
- Quỹ lương và chi trả lương
Xác định quỹ tiền lương, tiền công (gọi chung là quỹ tiền lương) của các
nhà khách thuộc cơ quan QLNN, như sau:
Các nhà khách thuộc cơ quan QLNN áp dụng hệ thống thang bảng
lương theo quy định tại nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm
2004 của chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức
và lực lượng vũ trang và các văn bản hướng dẫn thực hiện.
Trên cơ sở cách tính lương theo quy định của bộ tài chính để bảo đảm
quyền chủ động của các nhà khách thuộc các cơ quan QLNN và khuyến khích
tăng năng suất lao động, giảm chi phí, thực hiện khoán chi phí tiền lương theo
tỷ lệ trên tổng doanh thu cho các nhà khách thuộc các cơ quan với tỷ lệ khoán
chi lương và các khoản phụ cấp lương là 22% trên doanh thu của các nhà
khách thuộc cơ quan QLNN.
Trường hợp quỹ tiền lương khoán của các nhà khách thuộc các cơ quan
QLNN vượt quá 3,5 lần quỹ tiền lương tính theo mức lương tối thiểu chung
do nhà nước quy định thì nhà khách điều chỉnh phần vượt này vào quỹ dự
phòng ổn định thu nhập.
Phương án chi trả lương
Trên cơ sở quỹ lương được xác định, giám đốc các nhà khách thuộc cơ
97
quan QLNN chỉ đạo xây dựng phương án chi trả lương cho từng người lao
động theo nguyên tắc người nào, bộ phận nào có hiệu suất công việc cao,
đóng góp nhiều thì được hưởng nhiều, phương án chi trả lương phải có sự
tham gia của tổ chức công đoàn, báo cáo thủ trưởng các cơ quan QLNN cho ý
kiến trước khi tổ chức thực hiện.
Khi chế độ tiền lương của nhà nước có thay đổi hoặc định mức, chế độ,
tiêu chuẩn chi ngân sách nhà nước thay đổi, khoản tiền lương cấp bậc, chức
vụ tăng thêm theo chế độ được bảo đảm từ các nguồn theo quy định.
Trường hợp nguồn thu bị giảm sút, không bảo đảm mức tiền lương tối
thiểu cho người lao động, các nhà khách thuộc cơ quan QLNN được sử dụng
quỹ dự phòng ổn định thu nhập để trả lương cho người lao động, bảo đảm đạt
mức tiền lương tối thiểu.
- Trích lập và sử dụng các quỹ
Trích lập các quỹ
Các khoản thu của các nhà khách thuộc cơ quan QLNN sau khi đã trừ đi
các khoản chi phí hợp lý và các khoản thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà
nước theo quy định, phần chênh lệch thu lớn hơn chi (nếu có) được phân phối
theo trình tự, như sau:
- Lập quỹ dự phòng ổn định thu nhập: 10%.
- Lập quỹ phúc lợi và khen thưởng: 30%.
- Nộp quỹ hỗ trợ người lao động : 40%.
- Lập quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp: 20%.
Mức tối đa trích lập quỹ khen thưởng và phúc lợi của các nhà khách
thuộc cơ quan QLNN không vượt quá 03 tháng lương thực tế bình quân năm,
số còn lại bổ sung quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp.
Ngoài phần được trích lập từ chênh lệch thu lớn hơn chi theo quy định từ
khoản này, quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp còn được bổ sung từ phần
chênh lệch thu lớn hơn chi do thanh lý tài sản và phần còn lại sau khi trích
98
quỹ khen thưởng và phúc lợi (nếu có) theo quy định của khoản này.
Sử dụng các quỹ
Các quỹ của các nhà khách thuộc các cơ quan QLNN được sử dụng theo
quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị sau khi được thủ trưởng các cơ quan
QLNN thông qua.
* Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý tài chính của hệ thống nhà khách
các cơ quan nhà nước ở Việt Nam
Bộ máy quản lý có ảnh hưởng to lớn đến cơ chế hoạt động tài chính của
các nhà khách thuộc cơ quan QLNN, giám đốc các nhà khách sẽ chịu trách
nhiệm trong việc xây dựng cơ chế tài chính của đơn vị mình và trình cơ quan
QLNN cấp trên, hiện nay mô hình tổ chức quản lý các nhà khách như sau:
- Tổ chức bộ máy các nhà khách thuộc cơ quan QLNN hiện nay thường
bao gồm ban giám đốc (có một giám đốc và từ 2 đến 3 phó giám đốc thực hiện
các công việc do giám đốc phân công và chịu trách nhiệm trước giám đốc)
Nhà khách thường có các phòng nghiệp vụ như : kế hoạch tài vụ, hành
chính tổ chức, kế hoạch quản trị và các tổ chuyên môn để đảm bảo thực hiện
nhiệm vụ được giao, chế độ làm việc của các nhà khách theo chế độ thủ
trưởng và thực hiện đầy đủ các quy chế dân chủ trong hoạt động của cơ quan
theo nghị định của chính phủ.
- Mô hình quản lý các nhà khách hiện nay: các nhà khách được quản lý
bởi cơ quan QLNN cấp trên, ở các tỉnh là văn phòng UBND tỉnh, ở Chính
phủ là Văn phòng Chính phủ.
Hiện nay ở các tỉnh vẫn tồn tại hai hệ thống các nhà khách là nhà khách
tỉnh ủy và nhà khách UBND tỉnh quản lý, hiện nay có mô hình quản lý mới là
sát nhập hai hệ thống nhà khách này: Ví dụ: ở tỉnh Quảng Ninh đã thí điểm
thực hiện việc nhập hai nhà khách này và được quản lý bởi văn phòng UBND
tỉnh, với mô hình này việc tự chủ và tự chịu trách nhiệm sẽ cao hơn vì hai hệ
thống nhà khách này đều được cấp ngân sách và khi thực hiện cơ chế tài
99
chính theo nghị định của chính phủ thì việc chuyển đổi ở hệ thống nhà khách
thuộc UBND tỉnh dễ thự hiện hơn nhà khách tỉnh ủy, việc sát nhập hai nhà
khách này sẽ làm việc quản lý dễ dàng hơn và khả năng tăng nguồn thu ngoài
ngân sách sẽ lớn hơn, tính tự chủ trong huy động nguồn nhân lực về tài chính
cũng như con người sẽ cao hơn.
* Thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán hoạt động tài chính
đối với hệ thống nhà khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước
- Hàng năm các cơ quan nhà nước đã thực hiện các đoàn thanh tra,
kiểm tra đối với hoạt động của các nhà khách, đặc biệt là công tác tài chính,
kết quả thanh tra, kiểm tra đã chỉ ra nhiều vấn đề còn tồn tại như:
+ Ban hành và thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ chưa đúng với hướng
dẫn tại thông tư của bộ tài chính, cụ thể là: quy định cước điện thoại di động,
điện thoại nhà riêng cao hơn mức quy định của nhà nước, hoặc không quy
định mức cước điện thoại mà thanh toán theo thực tế phát sinh không đúng
quy định, quản lý sử dụng các quỹ còn tình trạng chưa xây dựng mức trích lập
quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ dự phòng ổn định thu nhập và quỹ phát
triển hoạt động sự nghiệp, chưa quy định cụ thể về đối tượng chi, mức chi.
quản lý các hoạt động dịch vụ các đơn vị đều chưa hạch toán kịp thời, đầy đủ,
chính xác doanh thu, chi phí hoạt động dịch vụ dẫn tới thiếu thuế GTGT và
thuế TNDN, tại các đơn vị đều chưa xây dựng tiêu chí để đánh giá mức độ
hoàn thành nhiệm vụ được giao như khối lượng công việc hoàn thành trong
năm, chất lượng công việc hoàn thành… nên việc chi trả thu nhập tăng thêm
trong năm đều tính theo hệ số chức vụ cấp bậc công tác và bình bầu A,B,C…
tự ban hành tỷ lệ trích chênh lệch thu chi vào quỹ dự phòng tài chính; trích
quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp không đúng; trích quỹ dự phòng ổn định
thu nhập, trợ cấp mất việc...nhiều khoản chi thường xuyên phát sinh nhưng
100
chưa được qui định cụ thể trong qui chế chi tiêu nội bộ mà thực hiện theo
quyết định của thủ trưởng đơn vị, dẫn tới hạn chế về tính công khai, dân chủ
trong quá trình quản lý tài chính tại các nhà khách cơ quan nhà nước.
+ Lập và giao dự toán chưa sát với thực tế: tại một số nhà khách, chưa
xác định rõ cơ cấu nguồn thu và khả năng tự bảo đảm chi thường xuyên, để
làm cơ sở xác định chính xác mức hỗ trợ của NSNN, một số nhà khách lập dự
toán thu, chi NSNN vẫn mang theo tâm lý khi lập dự toán thu chưa phản ánh
hết các nguồn thu, hoặc lập dự toán với số thu thấp hơn số thực thu năm
trước, nội dung chi cao hơn để được tăng hỗ trợ từ NSNN, lập dự toán chi cao
hơn số quyết toán các năm trước liền kề, nhưng không có thuyết minh và lý
giải hợp lý nguyên nhân tăng.
+ Xác định sai loại hình đơn vị sự nghiệp, dẫn đến cấp kinh phí không
chính xác: một số nhà khách đã xác định nguồn thu sự nghiệp không chính
xác, cơ quan chủ quản chưa thẩm tra, đánh giá đầy đủ, nên đã xác định sai
loại hình đơn vị sự nghiệp để thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
tài chính.
+ Qua tổng hợp số liệu thu chi thường xuyên các năm từ 2004-2015
cho thấy, có nhiều nhà khách tỷ lệ tự đảm bảo kinh phí trên 10%, nhưng vẫn
được xác định là đơn vị sự nghiệp do NSNN đảm bảo toàn bộ kinh phí
(NSNN cấp 100%). Nguyên nhân do một số nhà khách lập dự toán số thu sự
nghiệp thấp, đồng thời xác định số chi thường xuyên cao hơn thực tế, dẫn tới
xác định không đúng tỷ lệ tự đảm bảo kinh phí.
+ Nhà khách đã tự chủ toàn bộ chi phí hoạt động, nhưng cơ quan chủ
quản vẫn cho phép áp dụng cơ chế tài chính của đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo
một phần chi phí hoạt động thường xuyên, việc nhà khách xác định không
101
đúng loại hình tự chủ dẫn đến NSNN hàng năm vẫn phải cấp bù kinh phí hoạt
động thường xuyên.
+ Quản lý các hoạt động dịch vụ ăn, nghỉ tại các nhà khách còn nhiều
sai sót, thiếu hướng dẫn: hoạt động dịch vụ của các đơn vị sự nghiệp cũng đã
đóng góp một phần đáng kể nguồn thu cho đơn vị, tăng thu nhập cho cán bộ
công nhân viên... song việc quản lý hoạt động dịch vụ tại các đơn vị cũng còn
nhiều tồn tại, như chưa hướng dẫn giá thu dịch vụ, phân phối việc liên kết với
các tổ chức cá nhân hạch toán thiếu, không kịp thời doanh thu, chi phí dẫn tới
thực hiện nghĩa vụ với NSNN không đầy đủ, thiếu thuế GTGT, thiếu thuế
TNDN...
- Công tác kiểm toán được thực hiện đầy đủ theo từng năm, nhà khách
là các đơn vị sự nghiệp thuộc các cơ quan nhà nước, hàng năm kiểm toán nhà
nước đã thực hiện việc kiểm tra công tác thu chi cũng như việc lập dự toán,
qua công tác kiểm toán cũng đã chỉ ra được nhiều vấn đề sai sót trong hoạt
động tài chính của các nhà khách các cơ quan nhà nước, đặc biệt nhiều khoản
chi như xây dựng cơ bản, đấu thầu mua sắm thiết bị…còn làm sai so với pháp
luật qui định.
3.3. Đánh giá chung về cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống nhà
khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước ở Việt Nam những năm qua
3.3.1. Các thành công
-a. Nhà nước đã từng bước hoàn thiện thể chế về cơ chế quản lý tài chính
đối với các đơn vị sự nghiệp công lập
Các cơ quan quản lý nhà nước đã sớm ban hành quyết định chuyển các
nhà khách và trung tâm thuộc các cơ quan QLNN trước đây thành đơn vị sự
nghiệp, hoạt động theo Nghị định số 16 / 2015 / NĐ-CP.
102
- Từ quyết định chuyển đổi của thủ trưởng các cơ quan QLNN đã kịp thời
cụ thể hóa nghị định để ban hành các quy định về khung tổ chức bộ máy, biên
chế, chế độ làm việc, trách nhiệm và quyền hạn của giám đốc, chế độ quản lý
tài chính, tạo các quy chế cần và đủ về mặt pháp lý nhà nước , tạo điều kiện
thuận lợi cho các đơn vị sự nghiệp đi vào hoạt động có hiệu quả.
- Thay đổi cơ chế quản lý tài chính của các nhà khách trước đây thành cơ
cơ chể tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo tinh thần của nghị định số 10, nghị
định 43 và nay là Nghị định số 16/2015/NĐ-CP trong các đơn vị sự nghiệp
thuộc cơ quan QLNN hiện nay, đóng góp to lớn một bước ngoặt trong cải
cách hành chính công từ bao cấp hoàn toàn sang hoạt động theo cơ chế quản
lý mới- cơ chế tự chủ về tài chính thích ứng dần với cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước, mở cửa và hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, nhất là
khi nước ta là thành viên của WTO.
- Thay đổi cơ chế quản lý tài chính của nhà nước đối với các nhà khách
thuộc cơ quan QLNN thời gian qua đã góp phần không nhỏ vào việc thực
hiện giảm dần bao cấp trong khu vực này mà còn tăng nguồn thu cho ngân
sách, sử dụng vốn và kinh phí hiệu quả hơn, mở rộng quy mô và nâng cao
chất lượng dịch vụ góp phần cải thiện đời sống của cán bộ và công nhân viên
chức.
b. Kết quả hoạt đông của các nhà khách theo cơ chế tự chủ đã làm thay
đổi phương thức hoạt động của các đơn vị theo hướng hiệu quả hơn
Các nhà khách thuộc cơ quan QLNN được giao quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm tài chính đã chủ động sử dụng kinh phí NSNN giao hiệu quả hơn
để thực hiện nhiệm vụ; đồng thời chủ động sử dụng tài sản, nguồn nhân lực
để phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo điều kiện tăng nguồn thu.
- Các nhà khách đã xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ để tăng cường
103
công tác quản lý trong nội bộ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy
phát triển hoạt động sự nghiệp, khai thác nguồn thu, tăng thu, tiết kiệm chi, do
vậy nhiều đơn vị đã tiết kiệm chi thường xuyên góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động sự nghiệp.
- Về kết quả tăng thu của các nhà khách: nhìn chung kết quả thu sự
nghiệp đều tăng, tỷ lệ tự đảm bảo kinh phí chi thường xuyên đạt từ 70-80%.
- Thực hiện cơ chế tự chủ tài chính, các nhà khách đã đổi mới phương
thức hoạt động, tiết kiệm chi, thu nhập đã từng bước được nâng cao, nguồn
thu sự nghiệp, cùng với nguồn kinh phí tiết kiệm chi thường xuyên, đã góp
phần bảo đảm bù đắp nhu cầu tiền lương tăng thêm cho cán bộ, nhân viên.
- Các nhà khách thuộc cơ quan QLNN từng bước đã được tự chủ huy
động vốn để đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị, tạo điều
kiện mở rộng các hoạt động sự nghiệp và các hoạt động dịch vụ trong đơn vị.
3.3.2. Những hạn chế về cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống nhà khách
thuộc cơ quan quản lý nhà nước:
a. Thể chế về cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống nhà khách thuộc
cơ quan quản lý nhà nước các cấp hiện nay ở Việt Nam chưa hoàn thiện
Một số cơ quan QLNN chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế, do
đó chưa đồng bộ với cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính.
- Nhiều định mức kinh tế kỹ thuật, tiêu chuẩn ngành đã lạc hậu hoặc còn
thiếu; không hợp lý nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung.
- Việc nghiên cứu, xây dựng các văn bản quy định tiêu chí đánh giá mức
độ hoàn thành và chất lượng hoạt động sự nghiệp của nhà khách khi được
giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm chưa được thực hiện, nên đã hạn chế
104
việc chi trả thu nhập theo mức độ hoàn thành công việc; chi trả thu nhập ở
một số đơn vị vẫn mang tính cào bằng hoặc bình quân.
- Một số cơ quan QLNN chưa thật sự quan tâm chỉ đạo sát sao để triển
khai thực hiện cơ chế tự chủ; việc nhận thức và quán triệt chủ trương thực
hiện cơ chế tự chủ của một bộ phận cán bộ công chức chưa cao, chưa thấy
việc thực hiện cơ chế tự chủ là tạo điều kiện cho thủ trưởng và cán bộ công
chức trong đơn vị chủ động sử dụng biên chế và kinh phí được giao, gắn việc
sử dụng kinh phí với chất lượng và hiệu quả công việc.
- Một số cơ chế chính sách chưa được cụ thể hoá, hoàn thiện nên các cơ
quan QLNN còn bị động trong quá trình triển khai thực hiện.
- Một số cơ quan QLNN còn lúng túng trong việc xây dựng quy chế chi
tiêu nội bộ và các tiêu chí làm căn cứ đánh giá cấp dưới hoàn thành nhiệm vụ,
mà chủ yếu vẫn căn cứ vào chương trình công tác được cấp trên giao hàng năm.
Cần phải bổ sung, sửa đổi thể chế cho phù hợp với chức năng, nhiệm
vụ của các nhà khách và xu thế phát triển của xã hội, đảm bảo các đơn vị hoạt
động hiệu quả, đáp ứng ngày một cao nhu cầu xã hội.:
b. Việc phổ biến, tuyên truyền chính sách về cơ chế tự chủ chưa đầy đủ
- Nội dung và hình thức giáo dục phổ biến chế độ chính sách chưa phù
hợp, nên những hiểu biết của người lao động trong nhà khách tự chủ tự chịu
trách nhiệm về những quyền lợi được hưởng và nghĩa vụ phải làm còn rất mơ
hồ, mặt khác do nhận thức về đơn vị sự nghiệp chưa đúng chưa đầy đủ, cho
nên người lao động không sử dụng hết quyền của mình, sử dụng quá vai trò,
quyền hạn của mình, đưa ra những đòi hỏi vượt quá thẩm quyền, ảnh hưởng
tới quá trình hoạt động của tổ chức.
- Thực tế cho thấy đổi mới cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với
105
các nhà khách – đơn vị sự nghiệp trong thời gian qua cho thấy đây là một chủ
trương lớn, liên quan đến những vấn đề cơ bản thuộc đường lối, chính sách
của đảng và nhà nước như sở hữu, cơ cấu, vai trò quản lý nhà nước, chính
sách đối với người lao động trong các đơn vị sự nghiệp... Tuy nhiên chưa có
chính sách tuyên truyền sâu rộng từ trong đảng, trong bộ máy nhà nước, từ cơ
sở và toàn xã hội về quan điểm, chủ trương đổi mới, quản lý và hoạt động của
các nhà khách thuộc cơ quan QLNN, có thể thấy sự yếu kém về công tác
tuyên truyền như sau:
+ Chưa làm cho các cấp uỷ và chính quyền từ Trung ương đến địa
phương, cán bộ đảng viên trong tất cả các cấp lãnh đạo cơ sở quán triệt đầy
đủ thông suốt về chủ trương đổi mới của Đảng.
+ Chưa tổ chức tuyên truyền sâu rộng và giải thích cụ thể cho người lao
động trong các tổ chức và toàn xã hội hiểu và nhận thức đúng đắn những nội
dung cơ bản chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước về tự chủ, tự chịu
trách nhiệm cho các nhà khách thuộc cơ quan QLNN là biện pháp hữu hiệu để
cho các tổ chức có quyền trong hoạt động, tự chủ trong việc thu chi và quản
lý cán bộ, tăng nguồn thu nhập cho cán bộ – công nhân viên và giảm bớt
gánh nặng cho ngân sách nhà nước, mang lợi ích của nhà nước, của xã hội
mới được đảm bảo bền vững.
+ Chưa phổ cập rộng rãi các kiến thức chủ yếu về đầu tư, từ đó hình
thành nhận thức và tâm lý đầu tư mới trong nhân dân và người lao động trong
các nhà khách, đối với các nước đã có nền kinh tế thị trường phát triển con
người ở đó có trình độ dân trí cao về kinh tế thị trường, các kiến thức đã được
phổ cập ngay cả trong trường học, còn ở nước ta kiến thức về kinh tế thị
trường chỉ được hiểu biết là kiến thức mới trong thời gian gần đây và cũng chỉ
được bậc đại học nghiên cứu, các kiến thức liên quan đến tư duy quản lý mới
hiện còn sơ sài và thiếu vắng, người dân còn ít được tiếp cận các thông tin về
kiến thức về kinh tế thị trường.
106
Mặc dù đã dự đoán trước nhiều tình huống khó khăn, nhưng trong điều
kiện quá mới mẻ, các nhà khách tự chủ tự chịu trách nhiệm không tránh khỏi
những khó khăn ban đầu về vốn, lao động và thị trường, vì thế sự hỗ trợ của
các cơ quan quản lý nhà nước các cấp, các ngành với nhà khách thuộc các cơ
quan QLNN rất cần thiết, tạo đà cho sự phát triển, tuy nhiên, sau khi nhà
khách tự chủ, tự chịu trách nhiệm gặp những bất lợi sau: Phân biệt đối xử
trong vay vốn ngân hàng, khó khăn trong xin cấp vốn cho những dự án xây
dựng và phát triển…
c. Việc thực hiện cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống nhà khách
thuộc cơ quan quả lý nhà nước các chính quyền các cấp hiện nay ở VN.còn
nhiều bất cập
Thứ nhất, Xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ chưa đúng quy định: một
số nhà khách ban hành và thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ chưa đúng với
hướng dẫn tại Thông tư của bộ tài chính, cụ thể là:
- Quy định cước điện thoại di động, điện thoại nhà riêng cao hơn mức
quy định của nhà nước, hoặc không quy định mức cước điện thoại mà thanh
toán theo thực tế phát sinh không đúng quy định.
- Quản lý sử dụng các quỹ còn tình trạng chưa xây dựng mức trích lập
quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ dự phòng ổn định thu nhập và quỹ phát
triển hoạt động sự nghiệp, chưa quy định cụ thể về đối tượng chi, mức chi.
- Về quản lý các hoạt động dịch vụ các đơn vị đều chưa hạch toán kịp
thời, đầy đủ, chính xác doanh thu, chi phí hoạt động dịch vụ dẫn tới thiếu thuế
GTGT và thuế TNDN.
- Tại các đơn vị đều chưa xây dựng tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn
thành nhiện vụ được giao như khối lượng công việc hoàn thành trong năm,
107
chất lượng công việc hoàn thành… nên việc chi trả thu nhập tăng thêm trong
năm đều tính theo hệ số chức vụ cấp bậc công tác và bình bầu A,B,C…
- Tự ban hành tỷ lệ trích chênh lệch thu chi vào quỹ dự phòng tài chính;
trích quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp không đúng; trích quỹ dự phòng ổn
định thu nhập, trợ cấp mất việc k có căn cứ…
- Nhiều khoản chi thường xuyên phát sinh nhưng chưa được qui định
cụ thể trong qui chế chi tiêu nội bộ mà thực hiện theo quyết định của thủ
trưởng đơn vị, dẫn tới hạn chế về tính công khai, dân chủ trong quá trình quản
lý tài chính...
Thứ hai, Lập và giao dự toán chưa sát với thực tế:
- Tại một số nhà khách, chưa xác định rõ cơ cấu nguồn thu và khả năng
tự bảo đảm chi thường xuyên, để làm cơ sở xác định chính xác mức hỗ trợ
của NSNN.
- Một số đơn vị lập dự toán thu, chi NSNN vẫn mang theo tâm lý khi
lập dự toán thu chưa phản ánh hết các nguồn thu, hoặc lập dự toán với số thu
thấp hơn số thực thu năm trước, nội dung chi cao hơn để được tăng hỗ trợ từ
NSNN, lập dự toán chi cao hơn số quyết toán các năm trước liền kề, nhưng
không có thuyết minh và lý giải hợp lý nguyên nhân tăng.
Thứ ba, Xác định sai loại hình đơn vị sự nghiệp, dẫn đến cấp kinh phí
không chính xác:
Một số nhà khách đã xác định nguồn thu sự nghiệp không chính xác, cơ
quan chủ quản chưa thẩm tra, đánh giá đầy đủ, nên đã xác định sai loại hình
đơn vị sự nghiệp để thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính.
108
- Qua tổng hợp số liệu thu chi thường xuyên các năm cho thấy, có nhà
khách tỷ lệ tự đảm bảo kinh phí trên 10%, nhưng vẫn được xác định là đơn vị
sự nghiệp do NSNN đảm bảo toàn bộ kinh phí (NSNN cấp 100%). Nguyên
nhân do dự toán năm đầu thời kỳ ổn định, một số đơn vị lập dự toán số thu sự
nghiệp thấp, đồng thời xác định số chi thường xuyên cao hơn thực tế, dẫn tới
xác định không đúng tỷ lệ tự đảm bảo kinh phí.
- Nhà khách thuộc cơ quan QLNN đã tự chủ toàn bộ chi phí hoạt động,
nhưng cơ quan chủ quản là các cơ quan QLNN vẫn cho phép áp dụng cơ chế
tài chính của đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường
xuyên, việc nhà khách xác định không đúng loại hình tự chủ dẫn đến NSNN
hàng năm vẫn phải cấp bù kinh phí hoạt động thường xuyên. (Ví dụ có nhà
khách từ năm 2006 đến năm 2009, tỷ lệ tự đảm bảo kinh phí hoạt động
thường xuyên năm 2006 là 154%, năm 2007 là 166%, năm 2008 là 146%,
năm 2009 là 256% nhưng vẫn được NSNN cấp bổ sung kinh phí: năm 2006 là
431 triệu đồng, năm 2009 là 200 triệu đồng...).
Thứ tư, Quản lý các hoạt động dịch vụ còn nhiều sai sót, thiếu hướng dẫn:
Hoạt động dịch vụ của các nhà khách thuộc cơ quan QLNN cũng đã
đóng góp một phần đáng kể nguồn thu cho đơn vị, tăng thu nhập cho cán bộ
công nhân viên... song việc quản lý hoạt động dịch vụ tại các đơn vị cũng còn
nhiều tồn tại, như chưa hướng dẫn giá thu dịch vụ, phân phối việc liên kết với
các tổ chức cá nhân tổ chức kinh doanh trong khuôn viên các nhà khách hạch
toán thiếu, không kịp thời doanh thu, chi phí dẫn tới thực hiện nghĩa vụ với
NSNN không đầy đủ, thiếu thuế GTGT, thiếu thuế TNDN...
Thứ năm, tại các nhà khách của các UBND tỉnh còn có những vấn đề
về chi tiêu chưa đúng chế độ, chi vượt dự toán được duyệt, nhiều khoản chi
109
lập dự toán chưa đầy đủ, đặc biệt trong quản lý và sửa chữa thường xuyên tài
sản không đúng dự toán được duyệt, chi vượt dự toán, chi không đúng hạng
mục sửa chữa trong dự toán...; thiếu hoá đơn chứng từ, trả lương và thanh
toán công tác phí, tiền điện thoại, tiền nghỉ phép... không đúng qui định; báo
cáo quyết toán về thu chi phản ánh chưa đúng chế độ.
Thứ sáu, việc xác định doanh thu, chi phí hoạt động dịch vụ: Còn có
đơn vị không tổ chức hạch toán riêng doanh thu, chi phí đối với từng hoạt
động dịch vụ, do đó đã không thể tách bạch rõ về quỹ tiền lương, chi phí quản
lý, các khoản chi phí khác... của các hoạt động nhà nước giao theo chức năng
nhiệm vụ với các hoạt động dịch vụ mà đơn vị đã cung cấp cho thị trường,
gây khó khăn trong việc xác định mức thu phí, lệ phí theo tôn chỉ mục đích
hoạt động cung cấp các dịch vụ cho xã hội không vì mục tiêu lợi nhuận, với
việc xác định giá dịch vụ của một số đơn vị đối với khách hàng.
Nhà nước thiếu nguồn lực tài chính cần thiết để giải quyết hàng loạt các
vấn đề có liên quan đến quá trình đổi mới như: trợ cấp cho người lao động
thất nghiệp, chi phí đào tạo nghề mới, thời gian tìm việc làm…
d. Các bất cập liên quan đến việc trích lập và sử dụng các quỹ
- Một số nhà khách, vừa đồng thời thực hiện các dự án nhiệm vụ nhà
nước giao, vừa thực hiện hoạt động kinh doanh dịch vụ, nên không thể tách
bạch rõ về quỹ tiền lương, chi phí quản lý, các khoản chi phí chung... Nhiều
nhà khách đã không xây dựng đơn giá tiền lương, thực hiện hạch toán quĩ tiền
lương của hoạt động dịch vụ mà thường ký các hợp đồng thuê khoán chuyên
môn, trả tiền công theo các hợp đồng vụ việc, như vậy thực chất đã ẩn cả thu
nhập tăng thêm, thậm chí là các khoản chi phúc lợi, lễ, tết... vào trong chi phí
trước thuế TNDN, đã dẫn tới giảm số thuế TNDN phải nộp NSNN và không
thể hạch toán được chênh lệch thu-chi, không có nguồn để trích quỹ theo đúng
110
quy định, từ những vấn đề vướng mắc như trên, cho thấy cần có sự nghiên cứu,
tổng kết, đánh giá rõ hơn để xây dựng cơ chế, chính sách quản lý đối với các
nhà khách thuộc cơ quan QLNN thực hiện cơ chế tự chủ toàn bộ kinh phí theo
hướng chuyển dần sang hạch toán đủ chi phí theo mô hình doanh nghiệp,
NSNN không cấp kinh phí mua sắm máy móc, thiết bị cho đơn vị; đơn giá
thanh toán các nhiệm vụ nhà nước đặt hàng đã bao gồm đủ các chi phí.
- Việc không khống chế tối đa tiền lương tăng thêm đối với các nhà
khách tự đảm bảo chi phí hoạt động:
Hiện tại, nhà khách thuộc cơ quan QLNN thực hiện tự chủ hoàn toàn
theo Nghị định và Thông tư của BTC, không khống chế mức tiền lương tăng
thêm, việc không quy định mức tiền lương tăng thêm tối đa đối với các đơn vị
sự nghiệp tự đảm bảo kinh phí hoạt động, dẫn đến các đơn vị có lợi thế về số
thu không những thuận lợi cho việc hoàn thành các nhiệm vụ nhà nước giao
do luôn có sẵn nguồn kinh phí, mà còn được chi tiền lương tăng thêm không
khống chế, dẫn đến thu nhập của cán bộ nhân viên có chênh lệch về tiền
lương tăng thêm lớn.
- Một số nhà khách không xác định được số chênh lệch thu chi thường
xuyên, nguyên nhân là do:
+ Qui định mức trích các quỹ khen thưởng, phúc lợi theo tỷ lệ % trên
số thu của từng loại thu phí, lệ phí, các khoản trích nộp từ các hoạt động dịch
vụ... theo tỷ lệ đó, nhiều đơn vị đã quyết toán chi khen thưởng, phúc lợi vào
chi thường xuyên nên đã không xác định chênh lệch thu chi để trích lập các
quỹ theo đúng qui định.
+ Qui chế chi tiêu nội bộ qui định cụ thể mức chi tiền lương tăng thêm,
dẫn tới hàng tháng đã quyết toán chi tiền lương tăng thêm vào chi thường
111
xuyên trước khi xác định chênh lệch thu chi, do không xác định được chênh
lệch thu - chi trước khi trả tiền lương tăng thêm, trích lập các quĩ nên không
đánh giá được kết quả tăng thu, tiết kiệm chi của các đơn vị; tiền lương tăng
thêm và chi khen thưởng, phúc lợi chưa trở thành động lực khuyến khích tăng
112
thu, tiết kiệm chi.
e. Việc tổ chức quản lý các nhà khách chưa thống nhất giữa các cơ
quan QLNN
- Bộ máy nhà khách hiện nay gồm giám đốc và một đến ba phó Giám
đốc, các phòng chức năng, kế toán, kế hoạch, lễ tân, kỹ thuật, buồng bàn...
thực hiện nhiệm vụ chính trị chủ yếu là đón tiếp khách cho chính phủ, văn
phòng chính phủ các lãnh đạo ủy ban nhân dân các cấp, còn các bộ thì đón
tiếp các sở ban ngành các cấp từ trung ương đến địa phương, về làm việc theo
sự chỉ đạo điều hành mệnh lệnh hành chính.
- Các nhà khách thuộc cơ quan nhà nước được thành lập bởi chính phủ,
VPCP, ủy ban nhân dân các cấp hoặc bộ trưởng, thủ trưởng các ngành, theo hình
thức cá biệt của từng đơn vị, không theo chiều dọc, không có sự thống nhất. -
Việc quản lý các nhà khách thuộc cơ quan nhà nước thực hiện theo mô hình
mỗi đơn vị một hình thức, mỗi ủy ban, mỗi bộ một hình thức khác nhau, chưa
có sự thống nhất từ trung ương đến địa phương. có tỉnh trực thuộc chủ tịch ủy
ban, có tỉnh trực thuộc văn phòng ủy ban... có nhà khách thực hiện quản lý
theo quyết định cá biệt của cấp trên, có nhà khách thực hiện theo Nghị định
của chính phủ, phần lớn các nhà khách thực hiện theo sự chỉ đạo vẫn theo
hình thức thời bao cấp của tỉnh ấy. - Văn phòng chính phủ có hệ thống nhà
khách và trung tâm, ủy ban nhân dân các tỉnh có nhà khách tỉnh, có tỉnh có
nhà khách cấp huyện cấp xã, các bộ có nhà khách bộ trên trung ương và các
sở các địa phương các vũng núi vùng biển của các bộ... chưa có sự quản lý
thống nhất và chưa có mô hình thống nhất...
- Tổ chức quản lý bộ máy nhân sự chưa được thống nhất, mỗi bộ, mỗi
ngành còn khác nhau, nơi thì giám đốc nhà khách nơi thì chủ nhiệm nhà
khách, nơi gọi nhà khách nơi gọi trung tâm, nơi xuống tỉnh xuống huyện, nơi
xuống xã, có bộ có trên trung ương, có bộ xuống tới các sở. Tổng thể CBCNV
113
làm việc trong hệ thống nhà khách từ Trung ương đến địa phương là rất lớn
chúng ta chưa thống kê được con số, có thể nhân sự lên hơn 1 triệu cán bộ
thực hiện nhiệm vụ trong hệ thống này không được thống nhất từ trung ương
đến các địa phương, như Văn phòng Chính phủ CBCNV hành chính là 1000
cán bộ, nhưng CBCNV trong các đơn vị sự nghiệp lên đến 1500 cán bộ, tại ủy
ban nhân dân tỉnh lào cai, CBCNV trong ủy ban tỉnh khoảng 60 CBCNV mà
nhà khách là 110 CBCNV... Mỗi nhà khách mỗi trung tâm quản lý nhân sự
theo một mô hình khách nhau, nơi thì biên chế trực thuộc ủy ban, nơi thì hợp
đồng công nhật, nơi trực thuộc chủ tịch tỉnh, nơi trực thuộc văn phòng ủy ban...
- Các nhà khách hoạt động theo sự chỉ đạo của cơ quan chủ quản là chủ
yếu, tổ chức hoạt động theo nhiệm vụ chính trị, hoạt động theo kế hoạch đơn
vị chủ quản, đón tiếp khách, phục vụ hội họp, ăn nghỉ ..- Có nhà khách được
phép hoạt động kinh doanh ngoài, có nhà khách chỉ phục vụ nhiệm vụ chính
trị của đơn vị chủ quản, vì vậy hoạt động của các đơn vị này là được bao cấp,
có nguồn thu từ cấp trên là ủy ban nhân dân. - Có đơn vị hoạch toán theo nghị
định của chính phủ, có đơn vị theo doanh nghiệp có đơn vị báo sổ với ủy ban
nhân dân.
3.3.3. Nguyên nhân những hạn chế về cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống
nhà khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước
* Nguyên nhân khách quan trong quản lý
Thứ nhất, Trong tình hình phát triển kinh tế - xã hội những năm gần
đây, công tác quản lý thì tất cả các loại giá cả hàng hóa đều tăng đột biến,
như giá xăng dầu, điện nước…mà các nhà khách là đơn vị phục vụ ăn nghỉ thì
bị ảnh hưởng rất nhiều bởi thị trường hàng hóa, dịch vụ…do vậy việc đổi mới
cơ chế tài chính sang việc tự chủ sẽ rất khó khăn.
Thứ hai, Từ trước đến nay, tâm lý của xã hội cũng như người lao động
tại các nhà khách chưa thích ứng được với quan điểm cạnh tranh của thị
114
trường nên các nhà khách cũng bị động khi tự chủ quản lý tài chính.
Thứ ba, Do tác động quá trình đổi mới phù hợp với hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay, việc thay đổi của các nhà khách nhất là các nhà khách ở
trung ương là rất quan trọng, tuy nhiên hiện nay các nhà khách này vẫn chưa
có những biện pháp để thay đổi.
* Nguyên nhân quản lý chủ quan
Một là: hệ thống văn bản về chế độ tự chủ quản lý tài chính các đơn vị
sự nghiệp còn chưa đầy đủ, các đơn vị chưa có định hướng cũng như cơ sở
pháp lý để thực hiện tự chủ một cách đầy đủ, một số văn bản quản lý đã lạc
hậu gây cản trở cho đơn vị.
Một số bộ ngành chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế, đo đó chưa
đồng bộ với cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính, nhiều định mức
kinh tế kỹ thuật, tiêu chuẩn ngành đã lạc hậu hoặc còn thiếu; không hợp lý
nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung.
Việc nghiên cứu, xây dựng các văn bản quy định tiêu chí đánh giá mức
độ hoàn thành và chất lượng hoạt động sự nghiệp của đơn vị khi được giao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm chưa được thực hiện, nên đã hạn chế việc
chi trả thu nhập theo mức độ hoàn thành công việc; chi trả thu nhập ở một số
đơn vị vẫn mang tính cào bằng hoặc bình quân.
Hai là: Công tác quản lý kế toán tài chính chưa được coi trọng đúng
mức, công tác đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và phổ biến các quy
chế quản lý tài chính mới chưa được cơ quan QLNN và các đơn vị quan tâm,
dẫn tới nhiều cán bộ viên chức chưa nắm rõ về cơ chế tự chủ của đơn vị mình.
Cán bộ chưa được đào tạo, bồi dưỡng ngang tầm vẫn là những người quản lý
các nhà khách, vì thực chất nhà nước vẫn chi phối toàn bộ các hoạt động của
115
nhà khách nên khi thuê người cán bộ quản lý vẫn là những người quản lý của
các đơn vị hành chính trước đây, nên họ chưa đủ năng lực quản lý cả về tư
duy và phong cách lãnh đạo.
Ba là: Thủ trưởng các đơn vị chịu trách nhiệm về quản lý tài chính
thường là những người kiêm nhiệm, họ thường bận công tác chuyên môn,
chưa coi trọng công tác tài chính kế toán và thiếu kiến thức về quản lý tài
chính nên các quyết định thu chi đôi khi còn theo cảm tính, dễ vi phạm
nguyên tắc về tài chính.
Bốn là: Các cơ quan QLNN là cơ quan chủ quản của hệ thống các nhà
khách vẫn chưa có những chính sách quản lý cụ thể để quản lý và đổi mới cơ
chế tài chính đối với hệ thống các nhà khách.
Năm là: Chưa có sự phối hợp trong quản lý của các cơ quan chức năng
trong đổi mới quản lý tài chính đối với hệ thống các nhà khách, hiện nay các
cơ quan QLNN vẫn đặt hệ thống nhà khách là sân sau để thực hiện các
chương trình tiếp khách và tổ chức hội nghị của UBND nên không thực hiện
tự chủ được cho các nhà khách này.
Sáu là: Chưa có chính sách đầu tư cụ thể để có thể phát triển hệ thống
các nhà khách, dù các nhà khách đều được đầu tư của NSNN từ trước và có vị
trí thuận lợi trong việc kinh doanh, tuy nhiên hiện nay phải có chính sách đầu
tư nâng cấp, sửa chữa thị hệ thống nhà khách này mới đáp ứng được nhu cầu
ngày càng cao của thị trường.
Bảy là: Chưa có hệ thống tin học hiện đại trong việc thực hiện công tác
tài chính kế toán tại các nhà khách, việc thiếu thông tin và thiếu sự trao đổi
học hỏi giữa các nhà khách với nhau cũng là một hạn chế trong việc thực hiện
đổi mới cơ chế tài chính
Tám là: Hệ thống kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các nhà
khách hiện còn rất kém, nhiều lãnh đạo các nhà khách hiện còn thao túng hoạt
động tài chính của các nhà khách, công tác kiểm toán của nhà nước đối với
116
nhà khách còn rất hời hợt vì họ cho rằng các nhà khách là đơn vị nhận ngân
117
sách thực hiện nhiệm vụ chính trị là chính.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Quá trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống nhà khách
thuộc cơ quan QLNN, với chủ trương nhất quán tăng quyền tự chủ và trách
nhiệm của các nhà khách, không chỉ góp phần mang lại những thay đổi quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng hoạt động của nhà khách trong công
cuộc phát triển KT-XH của đất nước, mà còn thay đổi tư duy và nhận thức
cũng như giảm áp lực đối với NSNN cho hệ thống các nhà khách này. Thực
trạng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của hệ thống các nhà khách thuộc cơ
quan QLNN là thay đổi tư duy rất lớn của nhà nước về mối quan hệ giữa cơ
quan quản lý nhà nước và nhà khách. Mặc dù quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm và sự bảo đảm của nhà nước về quyền này chưa như mong đợi nhưng
có dấu hiệu cho thấy sự dịch chuyển trong quản lý tài chính đối với các nhà
khách theo hướng tích cực hơn, đó là giám sát của nhà nước, nhà nước từng
bước tạo ra môi trường mà trong đó nhà khách chủ động hơn về tổ chức bên
trong nhà khách, phân phối nguồn lực tài chính, tìm kiếm các nguồn thu nhập
ngoài nguồn lực công, tuyển dụng nhân viên, các điều kiện trong cung ứng
các dịch vụ đa dạng, chất lượng cao hơn có khả năng cạnh tranh với thị
trường du lịch hiện nay.
Tuy nhiên, nhà nước chưa tách nhà khách khỏi cơ quan QLNN, các nội
dung và phương thức bảo đảm của nhà nước cũng còn khiếm khuyết và bất
cập các nhà khách vẫn còn chưa được phép tự quản mình, sự can thiệp của
các cơ quan QLNN vào các hoạt động của nhà khách vẫn còn rất mạnh mẽ,
còn chưa phân định được quản lý của nhà nước trong tư cách quản lý vĩ mô
và trong tư cách chủ sở hữu nhà nước, hệ quả tất yếu là hệ thống các nhà
khách chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển, hội nhập và cạnh tranh đang đặt
ra. Các vấn đề về nhận thức, thể chế chính sách, cơ cấu thẩm quyền và cơ chế
118
quản lý là nguyên nhân của thành tựu và tồn tại. Quá trình giải quyết đòi hỏi
gia tăng sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và sự kiểm soát hợp lý của nhà nước,
điều này cần có thời gian nhưng phải dựa trên cơ sở tiếp cận mới, nhà nước
cần xác định lại vai trò; định hướng, chỉ dẫn và tạo động lực cho các nhà
khách, sớm tạo ra môi trường cho sự phát triển chủ động và bình đẳng của
119
mọi loại hình nhà khách
CHƯƠNG 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CHẾ
QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI HỆ THỐNG NHÀ KHÁCH
THUỘC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
4.1. Phương hướng đổi mới hoạt động cơ chế quản lý tài chính đối với hệ
thống nhà khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước ở Việt Nam
4.1.1. Phương hướng, mục tiêu đổi mới cơ chế quản lý tài chính:
Thời gian tới, để phát huy được hiệu quả hoạt động của các nhà khách
thuộc cơ quan QLNN sẽ tiếp tục hoàn thiện cơ chế tự chủ phù hợp với lộ trình
cải cách hành chính nhà nước và tiền lương giai đoạn 2016 - 2020 theo
hướng:
Thứ nhất, đối với nhà khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước, tiếp tục
thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm để tạo điều kiện hơn nữa cho các
bộ phận chủ động trong sử dụng biên chế và kinh phí một cách hợp lý nhất để
hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, thúc đẩy việc sắp xếp, tổ chức
bộ máy tinh gọn, theo vị trí việc làm, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí,
nâng cao hiệu năng suất lao động, hiệu quả sử dụng kinh phí, tăng thu nhập
cho cán bộ, công chức, từng bước xây dựng hệ thống định mức “kinh tế - kĩ
thuật” phù hợp trong từng lĩnh vực, gắn với quản lý chất lượng, trên cơ sở đó
hoàn thiện từng bước thực hiện cơ chế phân bổ kinh phí, quản lý tài chính gắn
với kết quả công việc được giao.
Thứ hai, thực hiện chuyển đổi từ việc giao dự toán ngân sách cho các nhà
khách thuộc cơ quan QLNN như hiện nay sang thực hiện phương thức đặt
120
hàng, mua hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ dựa trên cơ sở hệ thống định
mức kinh tế - kĩ thuật và tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng của từng loại hình
dịch vụ của từng bộ phận, chuyển dần từ phương thức cấp phát trực tiếp cho
hệ thống nhà khách sang cấp phát cho đối tượng thụ hưởng; thực hiện đổi mới
cơ chế tài chính đối với nhóm các nhà khách cung cấp các dịch vụ du lịch có
khả năng xã hội hoá cao, tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động được nhà nước
xác định giá trị tài sản để giao cho nhà khách theo cơ chế giao vốn cho các
nhà khách vững mạnh; đơn vị được vay vốn các tổ chức tín dụng, huy động
của các cán bộ viên chức trong nhà khách để đầu tư mở rộng và nâng cao chất
lượng hoạt động sự nghiệp; tiếp tục đẩy mạnh phân công, phân cấp, giao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và
biên chế cho các nhà khách thuộc cơ quan QLNN phù hợp.
Quy định rõ ràng thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu trong
quản lý và điều hành các nhà khách thuộc cơ quan QLNN, có cơ chế giám sát,
kiểm tra việc thực hiện thẩm quyền của người đứng đầu nhà khách thuộc cơ
quan QLNN; đổi mới cơ chế theo hướng tính đủ giá dịch vụ đặt hàng sản
phẩm, dịch vụ phục vụ; nhà nước quy định giá hoặc khung giá sản phẩm, dịch
vụ đối với các loại dịch vụ cơ bản, có vai trò thiết yếu đối với xã hội; từng
bước tính đúng, tính đủ các chi phí hợp lý trong giá dịch vụ phục vụ; thực
hiện có lộ trình việc xoá bỏ bao cấp qua giá, phí dịch vụ; tăng cường hoàn
thiện các công cụ quản lý và vai trò kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà
nước đối với hoạt động cung cấp dịch vụ phục vụ nhằm hướng tới việc cung
cấp tốt hơn cả về số lượng và chất lượng dịch vụ phục vụ cho toàn xã hội...
Thứ ba, Nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, tăng cường đầu tư cho
xây dựng cơ sở vật chất các nhà khách hoạt động sự nghiệp công cơ bản và
thực hiện cơ cấu lại chi thường xuyên ngân sách nhà nước đối với các nhà
121
khách hoạt động cung cấp dịch vụ theo hướng:
- NSNN bảo đảm kinh phí hoạt động thường xuyên đối với các nhà
khách công lập được nhà nước giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ phục vụ
nhiệm vu chính trị ở các nhà khách có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi, biên giới và hải đảo khi tiếp cận
báo cáo đến ăn nghĩ và nhà khách được đầu tư xây dựng
- Thay đổi cơ bản phương thức hỗ trợ từ NSNN trong các nhà khách
cung cấp dịch vụ ăn nghĩ sự nghiệp công, từng bước chuyển từ việc giao dự
toán ngân sách cho các nhà khách cung cấp dịch vụ sự nghiệp công lập như
hiện nay sang thực hiện phương thức đặt hàng, mua hàng dựa trên cơ sở hệ
thống định mức kinh tế - kỹ thuật và tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng của từng
loại hình dịch vụ đơn vị cung cấp mà không phân biệt nhà khách, ngoài công
lập nhằm tạo cạnh tranh lành mạnh, tạo môi trường thuận lợi, bảo đảm cho
các nhà khách sự nghiệp công lập và ngoài công lập phát triển bình đẳng.
Nhà nước bảo đảm thực hiện các chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người
có công, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số để được tiếp cận và hưởng
thụ các dịch vụ sự nghiệp nhà khách cơ bản thiết yếu với chất lượng ngày
càng cao hơn; bảo đảm ăn nghĩ dưỡng, đảo bảo kinh phí đào tạo con em, bồi
dưỡng đội ngũ lãnh đạo quản lý và cán bộ quản lý giám sát, quản lý ở các cơ
sở nhà khách không phân biệt cơ sở công lập, ngoài công lập để phục vụ
nhiệm vụ chính trị của đất nước.
Thứ tưi, hoàn thiện thể chế về cơ chế tài chính đối với các nhà khách:
- Tăng cường phân cấp và thực hiện trao quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm cao hơn cho các nhà khách sự nghiệp công lập đồng bộ cả về tổ chức
thực hiện nhiệm vụ, nhân lực, tài chính (từng bước tính đủ giá dịch vụ và
122
giảm trợ cấp ngân sách) có tính đến đặc điểm từng loại hình nhà khách, khả
năng, nhu cầu thị trường và trình độ quản lý kinh phí đầu tư các nhà khách.
- Thực hiện minh bạch hóa các hoạt động liên doanh, liên kết của các
nhà khách sự nghiệp công lập; khắc phục tình trạng công - tư lẫn lộn; đổi mới
cơ chế phân phối theo hướng vừa đảm bảo quyền lợi của người lao động vừa
có tích lũy để tái đầu tư tăng cường cơ sở vật chất của nhà khách sự nghiệp
công lập phát triển.
- Thực hiện đổi mới cơ chế tài chính đối với nhà khách công lập cung
cấp các dịch vụ sự nghiệp công có khả năng xã hội hóa cao, tự đảm bảo toàn
bộ chi phí hoạt động theo hướng: Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
đồng bộ cả về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nhân lực, tài chính, tài sản khi
cung cấp dịch vụ gắn với nhu cầu của xã hội; được quyết định thu giá dịch vụ
trên cơ sở khung giá tính đủ các chi phí hợp lý, đúng pháp luật do cấp có thẩm
quyền ban hành; được nhà nước giao vốn, xác định giá trị tài sản để giao cho
nhà khách sự nghiệp công lập theo cơ chế giao vốn như cho doanh nghiệp;
được quyền quyết định việc huy động vốn, sử dụng vốn, tài sản gắn với
nhiệm vụ được giao theo quy định để mở rộng việc cung cấp dịch vụ sự
nghiệp công, tự quyết định số người làm việc và trả lương trên cơ sở thang
bảng lương của nhà nước và hiệu quả, chất lượng công việc của nhà khách.
- Đối với các nhà khách sự nghiệp cung cấp những dịch vụ thông
thường: phục vụ ăn ngủ, ban hành và tổ chức thực hiện cơ chế nhằm tạo điều
kiện để chuyển sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp và sau đó cổ phần
hóa theo quy định để phát triển, như các nhà khách dưới vùng biển nghỉ
dưỡng, nghĩ mát...
- Thực hiện thí điểm góp vốn cổ phần để thành lập mới đối với một số
123
nhà khách sự nghiệp công lập, các nhà khách thuộc các tập đoàn, tổng công ty
nhà nước khi tiến hành cổ phần hóa, nhưng không thực hiện cổ phần hóa các
nhà khách sự nghiệp công lập độc lập hiện có phục vụ an ninh chính trị để bảo
vệ đất nước, như nhà khách bộ công an quân đội, nhà khách của chính phủ…
Thứ năm, hoàn thiện thể chế về cơ chế tự chủ về thực hiện nhiệm vụ và
tổ chức bộ máy đối với các nhà khách sự nghiệp công lập:
- Tiếp tục đẩy mạnh phân công, phân cấp, giao quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và số người làm việc cho
các nhà khách sự nghiệp công lập, quy định rõ ràng thẩm quyền và trách
nhiệm của người đứng đầu trong quản lý và điều hành nhà khách sự nghiệp;
quy định và thực hiện cơ chế giám sát, kiểm tra trách nhiệm của người đứng
đầu nhà khách sự nghiệp công lập trong việc thực hiện thẩm quyền.
- Đổi mới cơ chế quản lý đội ngũ viên chức phải bảo đảm tính kế thừa
và phát triển, thích ứng với việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của các nhà khách sự nghiệp công lập, phù hợp với các quy luật của nền kinh
tế thị trường, bảo đảm tính cạnh tranh với khu vực ngoài công lập, thu hút
người có tài năng, có trình độ cao tham gia vào đội ngũ viên chức để nâng cao
chất lượng phục vụ lãnh đạo đảng nhà nước, các đại biểu quốc hội và cán bộ
thuộc cơ quan hành chính trong các lĩnh vực nhà nước.
Thứ sáu, thiết lập cơ chế đặt hàng, mua hàng, giao nhiệm vụ cung ứng
dịch vụ cho các nhà khách:
- Xây dựng và ban hành hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật và tiêu
chí, tiêu chuẩn của từng loại hình dịch vụ để làm căn cứ đặt hàng, giao nhiệm
vụ phục vụ các lãnh đạo và đại biểu hoặc các khách trong và ngoài hệ thống
124
nhà khách.
- Đổi mới cơ chế tính giá đặt hàng sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp công;
nhà nước quy định giá hoặc khung giá sản phấm, dịch vụ đối với các loại dịch
vụ cơ bản, có vai trò thiết yếu đối với xã hội; từng bước tính đúng, tính đủ các
chi phí hợp lý trong giá dịch vụ hệ thống nhà khách, phù hợp với thị trường
và khả năng của ngân sách nhà nước bao ăn ngủ nghĩ các khách đối tượng
đúng; thực hiện có lộ trình việc xóa bỏ bao cấp qua giá, phí dịch vụ nhằm
tăng tính cạnh tranh và đảm bảo lợi ích của các nhà khách cung ứng dịch vụ
sự nghiệp công.
Thứ bảy, đẩy mạnh việc thực hiện chính sách khuyến khích xã hội hóa
dịch vụ các nhà khách:
Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong
việc xã hội hóa nhất là các chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng nhằm
khuyến khích, huy động các thành phần kinh tế trong và ngoài hệ thống nhà
khách, tích cực tham gia đầu tư phát triển dịch vụ công hệ thống nhà khách.
Tăng cường hoàn thiện các công cụ quản lý và vai trò kiểm tra, giám
sát của các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động cung cấp dịch vụ
công nhằm hướng tới việc cung cấp tốt hơn dịch vụ cho mọi tầng lớp lãnh đạo
và nhân dân, phát huy các yếu tố tích cực, hạn chế các mặt trái của cơ chế thị
trường, đổi mới cơ chế hoạt động của các nhà khách phải gắn liền với cải
cách thủ tục hành chính chỉ đạo điều hành trên dưới của các lãnh đạo nhà
khách; Hiện đại hóa, tin học hóa, ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi
hoạt động của các nhà khách, giám sát phòng ăn nghĩ, quản lý tài chính kế
toán, đầu tư xây dựng …
Phát huy tiềm năng trí tuệ, tiềm lực vật chất và tài chính trong nhân
125
dân, huy động và thu hút toàn xã hội chăm lo dịch vụ sự nghiệp công lập; tạo
điều kiện để toàn xã hội được thụ hưởng chất lượng dịch vụ ở mức độ ngày
càng cao trong hệ thống nhà khách, đảm bảo sức khỏe và tinh thần mọi khách
hàng mọi đối tượng thụ hướng...
Đổi mới phương thức hoạt động và cơ chế tài chính của các nhà khách
cung ứng dịch vụ sự nghiệp công lập, thúc đẩy áp dụng các kỹ năng quản lý,
quản trị tiên tiến để nâng cao hiệu quả dịch vụ, tạo cơ chế chính sách để tiền
lương thực sự trở thành công cụ đòn bẩy khuyến khích người lao động chủ
động, sáng tạo, nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc, khuyến khích
người tài giỏi; xóa bỏ cơ chế độc quyền tạo ra môi trường cạnh tranh lành
mạnh, tận thu tận hưởng cơ sở vật chất, thăng nguồn thu từ các nhà khách.
Cơ cấu lại NSNN gắn với cải cách tiền lương, thực hiện lộ trình hạch
toán chi phí đối với nhà khách sự nghiệp công lập có đủ điều kiện.
Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả các
nguồn lực của nhà nước và của toàn xã hội trong việc cung ứng dịch vụ sự
nghiệp công lập và chất lượng dịch vụ sự nghiệp công lập hệ thống nhà
126
khách.,
4.1.2. Mục tiêu đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống nhà khách…
Hiệu quả quản lý là yêu cầu bắt buộc đối với người quản lý và trách
nhiệm của các cấp quản lý nhằm đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ quản lý.
DDổi mới cơ chế quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công cũng không
nằm ngoài mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý nền tài chính quốc gia trong xu
thế cải cách và hội nhập quốc tế.
Cùng với các nội dung đổi mới và cải cách quản lý, cải cách cơ chế tự
chủ tài chính ở các nhà khách thuộc cơ quan QLNN là phù hợp với xu thế cải
cách quản lý hành chính và chủ trương đổi mới nền tài chính công của nhà
nước, nhằm đạt được các mục tiêu sau:
- Quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính của các cơ quan
QLNN.
- Đa dạng hoá các nguồn tài chính đảm bảo các yêu cầu hoạt động của
các nhà khách thuộc cơ quan QLNN;
- Tăng cường phân cấp để nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
- Đổi mới phương thức, chất lượng hoạt động đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của quá trình đổi mới.
- Tạo điều kiện cho các nhà khách thuộc cơ quan QLNN sắp xếp tổ chức
bộ máy, tinh giản biên chế, góp phần tăng thu nhập cho người lao động.
Qua quá trình thực hiện cơ chế tự chủ tài chính, hoạt động quản lý tài
chính của các nhà khách thuộc cơ quan QLNN bước đầu đạt được các kết quả
mong muốn mục tiêu đặt ra, tuy nhiên, có rất nhiều tồn tại, khó khăn khi các
nhà khách thuộc cơ quan QLNN tiến hành đổi mới cơ chế quản lý theo hướng
tự chủ, tự chịu trách nhiệm đòi hỏi phải có giải pháp khắc phục nhằm phục vụ
127
nhiệm vụ chính trị tốt hơn.
4.2. Hệ thống giải pháp đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống
nhà khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước ở Việt Nam
4.2.1. Hoàn thiện khung pháp luật về cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống
nhà khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước
Hoàn thiện các quy định pháp lý về cơ chế quản lý tài chính đối với hệ
thống nhà khách của cơ quan QLNN
Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, các cơ quan QLNN nghiên cứu ban hành
hướng dẫn việc thực hiện Nghị định số 16/2015 NĐ-CP ngày 14 tháng 2 năm
2015 quy định về cơ chế quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp phù
hợp với đặc thù hoạt động của nhà khách thuộc cơ quan QLNN.
Sửa đổi, bổ sung các văn bản quản lý không còn phù hợp với điều kiện
thực tiễn, qua đánh giá, tổng kết thực hiện cơ chế tự chủ tài chính của các bộ,
ngành, đơn vị cho thấy một trong các nguyên nhân dẫn tới việc thực hiện cơ
chế tự chủ tài chính chưa triệt để và hiệu quả đó là những tồn tại về cơ chế
chính sách, chủ yếu là do các quy định của một số văn bản quy phạm pháp
luật còn chưa đồng bộ, hợp lý, gây khó khăn trong quá trình thực hiện, đặc
biệt là những quy định về tiêu chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật còn chưa thực
phù hợp với điều kiện thực tế, cần quy định cụ thể thêm về cơ chế tài chính,
chế độ kế toán.
Vấn đề trước mắt là phải ban hành quy định liên quan đến vấn đề phí,
lệ phí để phù hợp với cơ chế tự chủ tài chính đối với các nhà khách, tạo nguồn
để thực hiện chế độ tiền lương mới, định mức thu chi phải được cụ thể hóa
hơn nữa.
Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách, cơ chế phân bổ ngân sách của nhà
nước hiện nay đang bộc lộ một số điểm bất cập do thiếu các chuẩn
128
mực, tiêu chí làm căn cứ để phân bổ ngân sách, định mức tính toán
thiếu khoa học, mang nặng tính bình quân, không hợp lý, thiếu đầu tư
tập trung, dàn trải, cơ chế phân bổ chưa tạo động lực khuyến khích,
tăng cường chất lượng, hiệu quả trong quá trình thực thi nhiệm vụ, việc
cải cách cơ chế phân bổ NSNN cần tập trung cải tiến định mức cấp
ngân sách, xác định các căn cứ, cơ sở khoa học và tiêu chí để cấp ngân
sách cho hoạt động thường xuyên của một đơn vị sự nghiệp, cần nêu rõ
những khoản mục được cấp ngân sách đầu tư, phân bổ cho phù hợp với
từng đơn vị sự nghiệp.
Trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm lớn hơn cho nhà khách:
Trao quyền tự chủ lớn hơn cho nhà khách thuộc cơ quan QLNN và
nâng cao nhận thức của người quản lý về thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu
trách nhiệm
Về tài chính, các đơn vị có quyền chủ động, tự quyết định việc bố trí,
sử dụng nguồn thu, bảo đảm không ngừng nâng cao hiệu suất công tác, chất
lượng và hiệu quả hoạt động, bù đắp được chi phí thực tế đã bỏ ra, bao gồm
cả tiền lương.
Về lao động, cần chuyển sang áp dụng chế độ hợp đồng lao động đối
với những người làm việc trong lĩnh vực sự nghiệp, thay cho biên chế như
hiện nay; đồng thời tạo điều kiện để họ dễ dàng lựa chọn và thuyên chuyển
việc làm theo nguyện vọng, cũng như để các đơn vị có thể chọn được người
lao động có năng lực phù hợp với yêu cầu của mình, đơn vị có quyền quyết
định bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức vụ quản lý, có quyền quyết định số
lượng cán bộ nhân viên phù hợp với khả năng và yêu cầu của đơn vị, có
quyền quyết định tuyển dụng, sử dụng, sa thải cán bộ, viên chức theo quy
định của pháp luật.
Xóa bỏ cơ chế cấp phát tài chính theo kiểu “xin-cho”, ban hành các cơ
chế chính sách thực hiện chế độ tự chủ tài chính cho các nhà khách có điều
129
kiện trên cơ sở xác định nhiệm vụ phải thực hiện, mức hỗ trợ tài chính từ
NSNN và phần còn lại do các nhà khách tự trang trải.
Quyền tự chủ về tài chính của đơn vị sự nghiệp gồm phần thu và chi,
ngoài nhiệm vụ ưu tiên thực hiện các đơn đặt hàng của nhà nước, các nhà
khách thuộc cơ quan QLNN được tự thỏa thuận về giá trị các hợp đồng với
các bên đối tác theo cơ chế thị trường, được chủ động tiếp nhận các nguồn
cung cấp tài chính khác, các nhà khách được quyền quyết định nội dung thu
chi, mức chi để bảo đảm hoàn thành các nhiệm vụ đã ký kết, được quyền
quyết định quỹ lương của đơn vị sau khi nộp thuế và lập các quỹ theo quy
định của pháp luật.
Trên cơ sở thực hiện chế độ tự chủ tài chính, các đơn vị sự nghiệp tự
quyết định trả lương theo nguyên tắc tương tự như các doanh nghiệp nhà
nước (công ích), nhà nước không quy định hệ thống thang bảng lương bắt
buộc đối với khu vực sự nghiệp như khu vực hành chính.
Tuy nhiên, hoạt động cung ứng dịch vụ công là không vụ
lợi, nên cần có sự quản lý của nhà nước đối với các đơn vị cung
ứng dịch vụ công về tài chính, về tiền lương chứ không phải
hoàn toàn do đơn vị quyết định.
Áp dụng rộng rãi một số cơ chế tài chính mới, thực hiện cơ chế khoán
một số loại dịch vụ công cộng…
Về lâu dài vẫn tiếp tục thực hiện đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài
chính đối với các nhà khách thuộc cơ quan QLNN phù hợp với nền kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN, nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong
việc đầu tư cơ sở vật chất các hoạt động dịch vụ của các nhà khách, đảm
nhiệm vai trò cung cấp một số loại hình dịch vụ của các nhà khách có tính
chất thiết yếu cho lượng khách hiện nay.
Cùng với đó nhà nước đảm bảo kinh phí để các đối tượng là cán bộ
thuộc cơ quan QLNN được hưởng các dịch vụ cơ bản, thiết yếu tại các nhà
130
khách.
Cần tiếp tục hoàn thiện thể chế về cơ chế tài chính đối với các nhà
khách thuộc cơ quan QLNN., trong đó, tăng cường phân cấp và thực hiện trao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao hơn cho các đơn vị đồng bộ cả về tổ
chức thực hiện nhiệm vụ, nhân lực, tài chính trên cơ sở có tính đến đặc điểm
từng loại hình đơn vị, khả năng và nhu cầu thị trường, trình độ quản lý.
Trong đó, đối với các nhà khách thuộc cơ quan QLNN được nhà nước
giao nhiệm vụ, biên chế và tài chính (chủ yếu các nhà khách thuộc các bộ,
UBND tỉnh, thành phố Trung ương) thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm có hạn chế trong nguồn NSNN đảm bảo và biên chế được cấp có thẩm
quyền giao theo vị trí việc làm của đơn vị.
Đối với nhóm các nhà khách thuộc cơ quan QLNN có khả năng xã hội
hóa cao (những nhà khách thuộc các cơ quan QLNN nhưng được hình thành
tại các khu du lịch), tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động cần giao quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm đồng bộ cả về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nhân lực,
tài chính, tài sản khi cung cấp dịch vụ gắn với nhu cầu của xã hội, được quyết
định thu giá dịch vụ trên cơ sở khung giá tính đủ các chi phí hợp lý, đúng
pháp luật do cấp có thẩm quyền ban hành.
Ngoài ra, sẽ được nhà nước giao vốn, xác định giá trị tài sản để giao
cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn cho DN; được quyền quyết định việc
huy động vốn, sử dụng vốn, tài sản gắn với nhiệm vụ được giao theo quy định
để mở rộng việc cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, tự quyết định số người làm
việc và trả lương trên cơ sở thang bảng lương của nhà nước và hiệu quả, chất
lượng công việc theo kiểu hạch toán như DN.
Nhóm các nhà khách thuộc cơ quan QLNN cung cấp các dịch vụ du
lịch có khả năng xã hội hóa cao, tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động này sẽ
thực hiện minh bạch hóa các hoạt động liên doanh, liên kết của các nhà
131
khách, khắc phục tình trạng công - tư lẫn lộn.
4.2.2. Đổi mới nhận thức hệ thống nhà khách quản lý về vấn đề tự chủ tài chính.
Về nhận thức: các nghị định cũ chưa có sự nhận thức thống nhất, đầy
đủ về mục đích, ý nghĩa, nội dung của các nhà khách, một số cán bộ, công
chức vẫn muốn duy trì cơ chế quản lý như cũ, chưa muốn giao quyền tự chủ
thực sự cho nhà khách; có người còn lo ngại sau khi được giao quyền tự chủ
tài chính thì kinh phí ngân sách nhà nước cấp cho nhà khách giảm; có người
băn khoăn về chất lượng hoạt động sự nghiệp của nhà khách bị giảm hoặc sẽ
xuất hiện sự không công bằng trong phân phối thu nhập giữa các bộ phận sau
khi chuyển sang cơ chế tự chủ tài chính.
Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý và thực hiện tự chủ tài chính,
một số cán bộ vẫn còn tâm lý muốn duy trì cơ chế cũ do tâm lý trì trệ quen
bao cấp, lo ngại sau khi được tự chủ tài chính kinh phí NSNN cấp cho nhà
khách sẽ giảm, có người băn khoăn về chất lượng hoạt động sự nghiệp sẽ
giảm, sự không công bằng trong phân phối thu nhập, lý do này đã ảnh hưởng
đến quá trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính trong các nhà khách thuộc cơ
quan QLNN, đối với đội ngũ cán bộ của các cơ quan QLNN và của các nhà
khách thuộc cơ quan QLNN, đặc biệt là cán bộ quản lý tài chính cần thống
nhất nhận thức về đổi mới cơ chế quản lý thông qua công tác tập huấn, hội
thảo.
Để tạo điều kiện cho các bộ, ngành các địa phương triển khai thực hiện
tốt nghị định, đề nghị bộ tài chính ban hành các văn bản nghị định, các bộ, các
ngành ban hành thông tư hướng dẫn ngay về chế độ quản lý tài chính đối với
hệ thống nhà khách, trong đó nên có hướng dẫn một số lĩnh vực đặc thù, tổ
chức hội nghị phổ biến nội dung nghị định và các văn bản hướng dẫn cho các
bộ, ngành trung ương và các địa phương nhất là ủy ban nhân dân các tỉnh
thành phố.
132
Các cơ quan chức năng ở các cấp thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục
và vận động nhằm quán triệt sâu rộng, tạo sự thống nhất về nhận thức trong
toàn xã hội, đặc biệt đối với các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, các nhà khách và đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức nhà nước về các nội dung và tinh thần của việc đổi mới cơ chế hoạt
động của nhà khách công lập và đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ
sự nghiệp công phục vụ các khách.
Các cơ quan chức năng ở các cấp tham mưu cho các cấp ủy đảng cùng
cấp trong việc ban hành và triển khai các nghị quyết, chỉ thị về chủ trương, kế
hoạch và biện pháp cụ thể nhằm tạo chuyển biến về tư tưởng, nâng cao nhận
thức của xã hội về sự cần thiết, tính cấp bách của việc đổi mới cơ chế hoạt
động của các nhà khách, đồng thời khuyến khích thu hút các thành phần kinh
tế đầu tư phát triển dịch vụ nhà khách để hướng tới việc cung cấp tốt hơn dịch
vụ cho mọi tầng lớp nhân dân và bảo đảm cho các đối tượng chính sách xã
hội và người nghèo được tiếp cận, hưởng thụ các dịch vụ cơ bản thiết yếu với
chất lượng cao hơn từ trung ương đến địa phương, ưu ái các đại biểu người có
công và tiêu biểu của các dân tộc miền núi và hải đảo...
4.2.3.Đổi mới phương thức quản lý tài chính, tách bạch giữa quản lý nhà nước và
quản lý của nhà nước với tư cách là chủ sở hữu
Thay đổi phương thức quản lý tài chính đối với hệ thống các nhà
khách thuộc cơ quan QLNN, cần tách bạch giữa QLNN về tài chính đối với
hệ thống các nhà khách thuộc cơ quan QLNN và quản lý của nhà nước với tư
cách là chủ sở hữu đối với hệ thống các nhà khách về tài chính, nguyên tắc
chung là:
- Hệ thống các nhà khách thuộc cơ quan QLNN được quyền tự chủ sử
dụng các khoản tài trợ công cho các hoạt động dịch vụ và nâng cấp cơ sở vật
chất phù hợp với chức năng khác đúng pháp luật và có trách nhiệm, nhà nước
133
cần xây dựng cơ chế đảm bảo việc sử dụng ngân sách được cấp là thích đáng,
nếu không có những quy định cụ thể và chi tiết về trách nhiệm thì khó tránh
khỏi nguy cơ thất thoát và lãng phí tài chính.
- Quyết định phân bổ tài trợ công cho các nhà khách cần độc lập với
quá trình ra chính sách tài chính cho hệ thống các nhà khách, cần lập ra tổ
chức độc lập đảm trách việc phân bổ tài trợ công cho các nhà khách, cần có
hệ thống quản lý riêng đối với hệ thống các nhà khách từ trung ương đến địa
phương vì như thế mới có những chính sách và cơ chế quản lý phù hợp, để
thực hiện được sự tách bạch này, nhà nước cần lập ra một tổ chức hay cơ
quan quản lý tài chính độc lập trực tiếp quản lý các nguồn tài trợ cho hệ thống
các nhà khách thuộc cơ quan QLNN, tổ chức này trực tiếp thực thi các chính
sách tài chính đưa ra trên cơ sở quy định pháp luật và yếu tố kỹ thuật, không
can thiệp vào hoạt động hợp pháp của hệ thống các nhà khách, đây chính là tổ
chức mang tính trung gian đảm bảo cân bằng lợi ích của nhà nước (đại diện
cho lợi ích xã hội) và yêu cầu tự chủ của các nhà khách.
Với tư cách là chủ sở hữu các nhà khách thuộc cơ quan QLNN, nhà
nước cần đổi mới cơ chế phân bổ tài trợ công, đây là biện pháp tích cực để
bảo đảm tự chủ tài chính của các nhà khách, tính tự chủ có thể được cải thiện
thông qua áp dụng một số hoặc kết hợp các phương thức phân bổ tích cực như
sau: i) phân bổ theo cách rõ ràng và dự đoán được; ii) phân bổ theo hình thức
khoán hay còn gọi là “cả gói”; iii) phân bổ theo hình thức gián tiếp thông qua
định mức thu phí dịch vụ hay “khách hàng”; iv) phân bổ theo kết quả thực
hiện, chất lượng, dựa trên sự cạnh tranh; v) phân bổ theo hình thức đặt hàng
và giao ngân sách, khả năng đối ứng ngân sách.
Trước hết, thực hiện chính sách phân bổ tài trợ công rõ ràng và dự
đoán được nhằm giúp hệ thống các nhà khách lập kế hoạch chủ động, sớm
hoàn thiện khung pháp lý định rõ cơ chế và định mức phân bổ, đảm bảo sự
chủ động của các nhà khách trong tiếp cận các nguồn tài trợ công, đồng thời,
134
sớm quy định ràng buộc trách nhiệm trong sử dụng ngân sách tài trợ, nhất là
cách thức xử lý các vi phạm cam kết, pháp lý việc giao trần kế hoạch kinh phí
và cho phép thực hiện các điều chỉnh hợp lý khi cần thiết.
Phân bổ tài trợ công theo hình thức “khoán” hay “cả gói” cần được áp
dụng rộng rãi để các nhà khách linh hoạt và chủ động hơn trong lập kế hoạch
hoạt động của các năm, quyết định cách thức chi tiêu, lựa chọn ưu tiên phát
triển, tái phân bổ kinh phí bên trong và cả vấn đề tiết kiệm trong cung ứng các
dịch vụ và thậm chí là xây dựng cơ bản, tuy nhiên, điều quan trọng là phải
điều chỉnh và bổ sung quy định phù hợp, đảm bảo cơ chế thảo luận có hiệu
quả giữa cơ quan phân bổ hệ thống các nhà khách về hoạt động và kế hoạch
đầu tư công.
Nghiên cứu áp dụng phương thức tài trợ công gián tiếp cho các nhà
khách thuộc cơ quan QLNN bằng chính sách cho phép thu phí các dịch vụ
ngoài dịch vụ lưu trú đối với cán bộ khi lưu trú tại nhà khách, đặc biệt, nó
không chỉ mở rộng sự chọn lựa chủ động cho đối tượng có yêu cầu mà còn
làm giảm sự lệ thuộc của các nhà khách vào các cơ quan QLNN.
Cần áp dụng cơ chế phân bổ tài trợ công theo kết quả thực hiện, trên cơ
sở xem xét cụ thể kết quả thực hiện các thoả thuận ràng buộc thành tích, các
mục tiêu thành tích, qua đánh giá chỉ số đầu ra hay kết quả từ đánh giá và
chọn lựa thực hiện đề án của nhà khách mà nhà nước phân giao kinh phí.
Đặt hàng và giao ngân sách đối với các chương trình, hội nghị cũng là
cơ chế phân bổ tích cực giúp tăng cường sự chủ động thực hiện nhiệm vụ của
các nhà khách cần sớm được áp dụng.
Với tư cách là chủ sở hữu các nhà khách thuộc cơ quan QLNN, nhà
nước cũng cần đổi mới quản lý sử dụng tài sản và tạo thu nhập. hầu hết các
nhà khách thuộc cơ quan QLNN hiện đang quản lý một khối lượng tài sản
công rất lớn, việc sử dụng hiệu quả nguồn tài sản công này có thể mang lại
cho nguồn thu mới, góp phần giảm gánh nặng cho nhà nước, muốn vậy, các
135
nhà khách phải được quyền tự chủ đầy đủ hơn trong định đoạt tài sản được
giao quản lý, điều này cũng đồng nghĩa với việc nhà nước cần từng bước nới
lỏng kiểm soát tập trung về tài sản và khuyến khích các nhà khách khai thác
sử dụng hiệu quả tài sản đang có, tuy nhiên, việc uỷ quyền khai thác sử dụng
tài sản công có thể dẫn đến rủi ro về lạm dụng, tham nhũng cho nên song song
với việc trao quyền hay uỷ quyền, nhà nước cần thực hiện các biện pháp đảm
bảo an toàn, một số biện pháp đảm bảo an toàn cần được áp dụng là:
- Quy định rõ quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu, đại diện chủ sở hữu
và cơ chế giám sát thực hiện các quyền này.
- Đưa ra quy tắc “quản lý tốt” yêu cầu các nhà khách phải thực hiện
đồng thời thiết lập kênh thông tin phục vụ cho việc quản lý và đánh giá đánh
tin cậy.
- Yêu cầu các nhà khách phải chuẩn bị và đưa ra kế hoạch sử dụng tài
sản cụ thể, phải báo cáo và đánh giá kết quả thực hiện đối với các dự án đầu
tư lớn, trên cơ sở quy định của nhà nước ban hành.
- Cần quy định rõ việc khai thác các trang thiết bị nhà ở và dịch vụ ăn
uống để tạo thêm thu nhập, phải đảm bảo rằng các nguồn thu được dùng vì
mục đích phục vụ dịch vụ và các hoạt động khai thác không làm cản trở các
hoạt động chính thức.
Việc giảm bớt quản lý tài chính tập trung, trao quyền tự chủ tài sản đầy
đủ hơn sẽ giúp các nhà khách có thể tìm ra cách thức tài trợ và thu nhập mới,
mở ra các khả năng sử dụng các nguồn tài trợ cả công và tư, tuy nhiên, vấn đề
cốt lõi là việc tạo thu nhập không ảnh hưởng xấu đến sự tự chủ trong hoạt
động và phải đảm bảo những lợi ích tích cực.
4.2.4. Hoàn thiện quy trình xây dựng và nội dung quy chế chi tiêu nội bộ tại các
nhà khách thuộc cơ quan QLNN
Hoàn thiện các chính sách về tài chính, hiện nay các nhà khách tự thu,
136
tự chi theo tinh thần của nghị định có nhiều nhà khách hoạt động theo tinh
thần là các doanh nghiệp, các đơn vị này hoạt động tương đối độc lập, nhiều
đơn vị đã không phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, mô hình quản lý của các
đơn vị này rất giống mô hình quản lý doanh nghiệp tuy nhiên cần có các biện
pháp thúc đẩy để các nhà khách này có thể chuyển đổi mô hình thành các
doanh nghiệp phục vụ nhiệm vụ như các đơn vị sự nghiệp:
- Ban hành các văn bản về tài chính để các nhà khách này có thể
chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp
- Các nhà khách này được phép huy động nguồn vốn, hoặc các nguồn
lực công khác để thực hiện sản xuất – kinh doanh như doanh nghiệp
- Các nhà khách này hoạt động theo tinh thần của Nghị định
16/2015/NĐ-CP, tuy nhiên cũng cần ban hành một Nghị định khác để các nhà
khách này thực hiện việc bán cổ phần, việc này tạo điều kiện cho các nhà
khách chuyển đổi theo mô hình doanh nghiệp huy động được nguồn vốn cho
quá trình hoạt động
- Việc sử dụng tài sản và công sản phải được định giá một cách cụ thể
vì hầu hết các nhà khách đều nắm tài sản công có giá trị.
Nhà khách cần xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ theo đúng với các quy
định của nhà nước, quy chế chi tiêu nội bộ bao gồm các quy định về chế độ,
tiêu chuẩn, định mức chi tiêu áp dụng thống nhất trong nhà khách và do nhà
khách tự xây dựng phù hợp với hoạt động đặc thù của mình nhằm thực hiện
được các nhiệm vụ được giao và sử dụng doanh thu hoạt động dịch vụ có
hiệu quả, quy chế chi tiêu nội bộ cần được xây dựng đảm bảo chất lượng
chuyên môn, tiết kiệm chi phí và phân công lao động hợp lý, hiệu quả. khi
tiến hành xây dựng hệ thống định mức phải có sự phối hợp giữa các tổ và
phòng kế toán tham mưu, việc xây dựng định mức cụ thể cho từng nội dung
chi tiêu sẽ giúp cho đơn vị chủ động hơn trong việc chi tiêu qua từng thời kỳ
137
nhất định và căn cứ vào định mức đơn vị sẽ dễ dàng kiểm tra, kiểm soát hơn.
4.2.5.Đa dạng hoá các nguồn tài chính đối với hệ thống nhà khách thuộc cơ quan
QLNN
Một trong những thách thức to lớn đối với cải cách của các nước đang
phát triển trong đó có Việt Nam nói chung và cơ quan QLNN nói riêng hiện
nay là nhu cầu mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và sự thiếu hụt nguồn
lực, trong đó có nguồn lực tài chính, làm thế nào để có thể thu hút tối đa các
nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động của các nhà khách thuộc cơ QLNN
được đặt ra cho các nhà quản lý.
Qua nghiên cứu thực trạng đã cho thấy các nhà khách thuộc cơ quan
QLNN còn phụ thuộc rất lớn vào nguồn đầu tư của NSNN, điều này dẫn đến
việc các nhà khách rất thụ động trước sự thay đổi của môi trường, trong các
hoạt động của bản thân đơn vị mình, một trong những nội dung quan trọng
của cải cách quản lý ở các nhà khách theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm
là đa dạng hoá các nguồn tài chính.
Đa dạng hoá nguồn tài chính không chỉ nhằm cải thiện khả năng tài
chính của các nhà khách phục vụ mà còn giúp các nhà khách đứng vững
trước sự thay đổi của môi trường bên trong và ngoài của quá trình phục vụ
của các đơn vị.
Các nguồn tài chính đầu tư cho các nhà khách thuộc cơ quan QLNN
hiện nay gồm có NSNN cấp, các nguồn thu sự nghiệp và các nguồn tài trợ,
viện trợ… Trong điều kiện nguồn lực từ ngân sách ngày càng giảm khi các
nhà khách thực hiện cơ chế tự chủ tài chính thì việc đa dạng hoá và tăng
cường thu hút các nguồn tài chính là giải pháp hiệu quả.
Các nhà khách cần phải thay đổi nhận thức về nguồn đầu tư, có nghĩa là
không chỉ trông chờ vào nguồn vốn từ NSNN mà phải đa dạng hoá các nguồn
đầu tư và tăng tính chủ động của các đơn vị sự nghiệp trong đầu tư tài chính.
138
Hiện nay, đối với các nhà khách thuộc cơ quan QLNN, thu dịch vụ là nguồn
thu chủ yếu, vậy để tự chủ phải tăng nguồn thu dịch vụ và số lượng các loại
hình dịch vụ, đây là vấn đề khó khăn vì việc tăng thu dịch vụ là vấn đề hết sức
nhạy cảm, đụng chạm đến nhiều công việc nhà khách thuộc cơ quan QLNN.
nếu tăng các loại hình dịch vụ thì cơ sở vật chất của các đơn vị chưa đủ đáp
ứng: phòng ốc, trang thiết bị chưa đủ đáp ứng... rõ ràng là trong hoàn cảnh
trên, dịch vụ phí chỉ là phần quan trọng nhưng không thể là tất cả trong nguồn
thu sự nghiệp của đơn vị, các nhà khách cần mở rộng hợp tác với các doanh
nghiệp, tổ chức trong và ngoài nước để triển khai những dự án, chương trình
hỗ trợ, mang lại nguồn thu bằng hoạt động nghiên cứu triển khai dịch vụ, một
hoạt động khác cũng thu hút nguồn tài chính cho các hoạt động dịch vụ là hợp
tác và quan hệ quốc tế, bên cạnh việc nâng cao vị thế, uy tín của các cơ quan
QLNN trước các nước trong khu vực và quốc tế, nó còn góp phần tăng cường
các nguồn đầu tư cho các nhà khách thuộc cơ quan QLNN từ các khoản tài
trợ, viện trợ của các tổ chức và cá nhân với số lượng ngày càng nhiều.
Theo nghị định của chính phủ, các đơn vị được phép huy động nguồn
tài chính từ người lao động trong đơn vị mình, nếu biết cách huy động đây sẽ
là nguồn lực không nhỏ, hơn nữa làm cho người lao động ngày càng gắn bó
với đơn vị, hiệu suất công việc ngày càng cao, nhà nước cũng khuyến khích
việc các đơn vị sự nghiệp chuyển đổi loại hình hoạt động nhưng chưa có văn
bản hướng dẫn cụ thể nên việc thực hiện sẽ gặp rất nhiều khó khăn, nhiều đơn
vị muốn chuyển đổi cũng đang lúng túng vì không biết bắt đầu từ đâu, vì chưa
có hành lang pháp lý để hoạt động.
4.2.6. Hoàn thiện công tác quản lý tài chính kế toán và quản lý tài sản tại hệ thống
nhà khách thuộc cơ quan QLNN
Đổi mới cơ chế quản lý tài chính ở các nhà khách nhằm tăng cường các
nguồn tài chính đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động, cùng với sự
139
tăng trưởng ngân sách giành cho các nhà khách, cơ cấu và nội dung thu - chi
cũng được đổi mới đáp ứng yêu cầu trên.
Các nhà khách khi xây dựng dự toán thu – chi hàng năm, ngoài những
căn cứ về tình hình hoạt động năm trước phải tính toán chính xác các yếu tố
có thể ảnh hưởng đến nguồn tài chính, tránh tình trạng chi vượt dự toán hoặc
phát sinh ngoài dự toán, cần đưa hoạt động sản xuất kinh doanh vào kế hoạch
hoạt động và dự toán thu chi hàng năm, quy định chế tài xử phạt rõ ràng đối
với các trường hợp sử dụng vượt mức khoán, tiêu chuẩn, định mức quy định
cũng như thu không đủ, không đúng trừ trường hợp khách quan, có như vậy
mới không bỏ sót nguồn thu hoặc nguồn thu bị bỏ ngoài sổ sách.
Cần có cơ chế khoán, giám sát việc sử dụng các dịch vụ công cộng như
điện, nước ... vì đây vẫn là khoản chi lãng phí nhất ở các nhà khách, có kế
hoạch trung và dài hạn trong việc đầu tư cơ sở vật chất, cải thiện điều kiện
làm việc, làm định hướng cho các nhà khách thuộc cơ quan QLNN chủ động
nguồn tài chính, tránh tình trạng đầu tư dàn trải, thiếu tập trung lãng phí và
thiếu hiệu quả. Các cơ quan QLNN cần phải xây dựng các khung định mức
thống nhất trong toàn văn phòng, với đặc trưng của các nhà khách thuộc văn
phòng là phục vụ gồm các trung tâm hội nghị và nhà khách cần có định mức
thống nhất về giá cho thuê các loại dịch vụ (như cho thuê phòng hội nghị,
thuê phòng nghỉ…). cần xây dựng các chương trình, lộ trình và kế hoạch cho
các mặt hoạt động làm căn cứ cho các nhà khách xây dựng cơ cấu chi hợp lý,
ưu tiên cho từng nội dung chi phù hợp với từng giai đoạn.
Để có được những thông tin tài chính, kế toán có giá trị, thì các nhà
khách thuộc cơ quan QLNN nên có những biện pháp kiểm tra bằng chính nội
bộ hoặc kiểm toán, mặt khác, để các nhà khách thuộc cơ quan QLNN hoà
nhập với quá trình phát triển của nền kinh tế, bắt nhịp với sự thay đổi của đất
nước, công tác kế toán phải tuân thủ theo chế độ kế toán mới và những chuẩn
mực kế toán, kiểm toán Việt Nam, bên cạnh đó cần chú trọng
140
bổ sung những báo cáo tài chính ngoài hệ thống báo cáo tài chính bắt
buộc của bộ tài chính để phục vụ luồng thông tin đầy đủ cho công tác phân
tích, như phân tích báo cáo thu nhập rất quan trọng và được sử dụng trong hầu
hết phân tích tài chính dùng cho những quyết định về cơ cấu vốn, sử dụng
vốn, các quyết định về đầu tư và sử dụng những đòn bẩy... mà hầu như các
nhà khách thuộc cơ quan QLNN hiện nay không sử dụng, sự hiểu biết của họ
về báo cáo thu nhập và các chỉ tiêu trong báo cáo là chưa rõ ràng, do vậy, các
nhà khách thuộc cơ quan QLNN nên đưa báo cáo thu nhập vào hệ thống báo
cáo tài chính.
Thành lập bộ phận kiểm soát chi tiêu với chức năng chính là kiểm soát
thanh toán tất cả các khoản chi tiêu từ NSNN, bao gồm: chi đầu tư xây dựng
cơ bản, chi thường xuyên, mục đích của việc thành lập bộ phận kiểm soát chi
NSNN để chuyên môn hóa nghiệp vụ kiểm soát thanh toán vào một bộ phận;
phòng kế toán chỉ thực hiện chức năng chính là kế toán NSNN không thực
hiện nhiệm vụ kiểm soát chi NSNN như hiện nay.
Hoàn thiện kiểm soát tạm ứng và thu hồi tạm ứng, phải yêu cầu thanh
toán dứt điểm các khoản đã tạm ứng kỳ trước mới cho tạm ứng kỳ này, trường
hợp không hoàn ứng được phải có đơn gia hạn thời gian hoàn ứng (tạm ứng
kỳ thứ ba phải hoàn ứng dứt điểm kỳ thứ nhất).
Quản lý, kiểm soát cam kết chi sẽ góp phần ngăn chặn tình trạng nợ
đọng trong thanh toán nâng cao trách nhiệm, kỷ luật tài chính không chỉ đối
với cơ quan tài chính, làm lành mạnh hóa và tăng cường công tác quản lý tài
chính – ngân sách, đây là một nội dung rất mới đáp ứng yêu cầu cải cách quản
lý tài chính công tại Việt Nam.
Xây dựng và áp dụng phương thức kiểm soát chi NSNN theo kết quả
đầu ra, là một phương thức cấp phát NSNN tiên tiến, theo đó, nhà nước không
can thiệp vào việc sử dụng các khoản kinh phí NSNN đã cấp cho các cơ quan
đơn vị, mà chỉ quan tâm đến hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí đó, tức là
141
chỉ quan tâm đến kết quả đầu ra của các chương trình, mục tiêu đã được cơ
quan có thẩm quyền phê duyệt, thủ trưởng đơn vị được quyền chủ động và tự
chịu trách nhiệm việc sử dụng kinh phí đảm bảo thực hiện được những nhiệm
vụ chi, như vậy, với phương thức cấp phát này thì các ràng buộc bằng chế độ,
tiêu chuẩn, định mức được thay bằng các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả chất
142
lượng “đầu ra”.
Do đó, nó đã khắc phục được những hạn chế của cơ chế kiểm soát chi
theo “đầu vào” khi mà hệ thống chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu của nhà
nước còn thiếu, lạc hậu, quản lý ngân sách theo đầu ra chú trọng đến kết quả
trong việc thực hiện hơn là việc chi như thế nào để thực hiện.
Kiểm soát các khoản chi NSNN theo mức độ rủi ro, cần phân tích mức
độ rủi ro các khoản chi NSNN, khi đã xác định được mức độ rủi ro, cần có
các cơ chế kiểm soát cho phù hợp với từng loại, đối với các khoản chi NSNN
rủi ro cao cần phải kiểm soát tất cả các khoản chi đó, đối với các khoản chi
NSNN ít rủi ro thì cần kiểm soát chọn mẫu hoặc thanh toán trước kiểm soát
sau.
Phối hợp chặt chẽ với các bên có liên quan, kiểm soát qua KBNN được
coi là một khâu lớn, trong đó lại có nhiều tác nghiệp nhỏ, muốn có được sự
thống nhất cao phải có rõ sự rõ ràng trong phân công nhiệm vụ và chặt chẽ,
hợp lý trong phối hợp điều hành các nhà khách.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, việc thường xuyên
kiểm tra, kiểm soát nội bộ cho phép kho bạc kịp thời phát hiện và chấn chỉnh
những sai phạm, thông qua công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ đó cũng là
điều kiện tốt để cán bộ nhà khách nâng cao chất lượng kiểm soát thu chi.
Tiêu chuẩn định mức được quy định trong quy chế chi tiêu nội
bộ, tiêu chuẩn định mức phân bổ kinh phí và giao khoán cho các đơn vị
thuộc đơn vị sự nghiệp ngày càng chặt chẽ sẽ là cơ sở để kế toán đơn vị
kiểm soát việc chi tiêu có hiệu quả hơn, công tác kế hoạch- tài chính
trước hết phải dựa trên thông tin kế toán mà báo cáo tài chính cung cấp
để xây dựng các kế hoạch tài chính, làm cơ sở để Ban Giám đốc ra các
quyết định quản lý.
Triển khai chương trình kế toán trên máy tính, sử dụng mạng
Intranet sẵn có để việc lập báo cáo tài chính tại đơn vị và kiểm tra báo
143
cáo tài chính được nhanh chóng, chính xác, thực hiện nối mạng giữa bộ
phận kế toán tài chính với Ban giám đốc để thông tin kế toán có thể
cung cấp được kịp thời làm cơ sở cho việc ra các quyết định tức thời,
ngắn hạn của ban giám đốc.
Trực tiếp có chính sách chế độ để các nhà khách được chủ động trong
việc khen thưởng kỷ luật, thúc đẩy sự phát triển kinh doanh trong và ngoài hệ
thống, tăng cường sự chủ động của các cấp lãnh đạo trong nhà khách và cán
bộ công nhân viên trong nhà khách phát huy mặt mạnh của mình trong hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Để khuyến khích việc chủ động hoạch toán kinh doanh, khuyến khích
việc đối nội đối ngoại trong công tác kinh doanh cho phép các nhà khách chủ
động thưởng phạt bằng hiện vật, bằng tiền trực tiếp để Ban lãnh đạo cũng như
cán bộ công nhân viên của nhà khác chủ động kinh doanh, nhằm tránh lãng
phí khi các phòng nghỉ, hội trường bỏ trống, các phòng ăn, các đầu bếp không
có công ăn việc làm, đây là nhóm giải pháp tận dụng cơ sở vật chất, tận dụng
những ngày thanh vắng công tác hoạt động nhiệm vụ chính trị, chủ động tăng
cường kinh doanh, tránh lãng phí cơ sở vật chất và công sức lao động của cán
bộ công nhân viên các nhà khách.
Hoàn thiện công tác quản lý tài sản tại các nhà khách
Có đề án sử dụng tài sản phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao,
được bộ, cơ quan trung ương (đối với nhà khách thuộc Trung ương quản lý)
hoặc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh (đối với nhà khách thuộc địa phương quản lý)
phê duyệt;
Cam kết thực hiện đúng quy định về quản lý, sử dụng tài sản đối với
nhà khách tự chủ tài chính quy định nghị định của chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước
và hướng dẫn của Bộ tài chính;
Trường hợp được nhà nước cho phép hoặc yêu cầu tính đủ chi phí,
144
bao gồm cả khấu hao tài sản cố định vào giá thành sản phẩm dịch vụ, hàng
hoá (kể cả các sản phẩm dịch vụ, hàng hoá do cơ quan có thẩm quyền của nhà
nước đặt hàng) thì đơn vị phải đảm bảo tự bù đắp đủ các chi phí;
Nhà nước không tăng thêm kinh phí, trừ các trường hợp nhà nước giao
thêm nhiệm vụ hoặc bổ sung một phần cho tiền lương tăng thêm theo chế độ
của nhà nước;
Không thuộc các trường hợp sau: nhà khách thuộc cấp huyện (quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh) quản lý…
Riêng việc tính hao mòn và trích khấu hao tài sản cố định được định
hướng như sau: Thực hiện trích khấu hao tài sản cố định đối với phần tài sản
sử dụng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ, cho thuê, liên doanh,
liên kết theo quy định; Thực hiện tính hao mòn tài sản theo quy định đối với
phần tài sản sử dụng cung cấp dịch vụ thuộc nhiệm vụ nhà nước giao.
Trường hợp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc yêu
cầu tính đủ chi phí, bao gồm cả khấu hao tài sản cố định vào giá thành sản
phẩm dịch vụ, hàng hoá (kể cả các sản phẩm dịch vụ, hàng hoá do cơ quan có
thẩm quyền của nhà nước đặt hàng) thì nhà khách phải trích khấu hao tài sản
cố định, việc tính và hạch toán chi phí khấu hao tài sản cố định thực hiện theo
quy định hiện hành.
4.2.7. Tăng cường công tác thanh kiểm tra tài chính và kiểm toán nội bộ các nhà
khách thuộc cơ quan QLNN
Công tác kiểm tra chịu ảnh hưởng của số lượng, trình độ nhân lực và hệ
thống văn bản phục vụ thanh tra, cũng như tổ chức phối hợp công tác với các
nhà khách các cấp, nhà khách chính phủ, nhà khách cấp bộ, nhà khách các
tỉnh huyện.. Công tác thanh tra giúp rà soát những hạn chế vướng mắc văn
bản thực hiện, đánh giá được thực trạng sử dụng và quản lý, nắm bắt được
tình hình tài chính của các nhà khách, giải pháp chủ yếu cần làm như sau:
145
Thứ nhất, tăng cường vai trò kiểm soát của nhà nước đối với tài chính
của các nhà khách với biện pháp cụ thể là:
- Các nhà khách phải thực hiện đăng ký với cơ quan tài chính đảm bảo
cơ quan tài chính nắm được đầy đủ các lĩnh vực thu, chi tại đơn vị sau khi
phần mềm kê khai và quản lý tài chính đi vào vận hành, đồng thời phải triển
khai sớm cho các cấp ứng dụng quản lý.
- Các nhà khách phải thực hiện báo cáo tăng, giảm thu chi làm việc với
các cơ quan tài chính các cấp, nếu cơ quan hành chính không thực hiện đăng
ký, báo cáo tài chính với cơ quan tài chính các cấp thì không được cấp kinh
phí hoạt động, mặc dù văn bản có quy định nhưng thực tế địa phương triển
khai chưa được tốt nội dung này.
- Thực hiện triệt để việc thẩm định nhu cầu tài chính; coi thẩm định là
khâu then chốt để quản lý quá trình tài chính, kiên quyết cắt giảm những nhu
cầu chi vượt tiêu chuẩn, định mức; không thanh toán, quyết toán các khoản
chi về đầu tư, mua sắm ngoài dự toán NSNN, chưa được cơ quan tài chính
thẩm định, muốn làm tốt cần yêu cầu nhà khách phải gắn các chỉ tiêu đánh giá
hiệu quả sử dụng nguồn vốn nhà nước.
Thứ hai, tăng cường vai trò thanh tra, kiểm tra tình hình quản lý tình
hình xử lý nghiêm các vi phạm về chế độ tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài
chính của các nhà khách, nhằm hạn chế đi đến xoá bỏ tình trạng sử dụng tài
chính sai mục đích, lãng phí, cụ thể là thực hiện kiểm tra theo định kỳ hàng
năm hoặc đột xuất về tình hình quản lý tài chính tại các nhà khách, đây là
thanh tra chuyên ngành về tài chính do cơ quan quản lý tài chính công thuộc
ngành tài chính các cấp tổ chức thực hiện kiểm tra nhà khách, nội dung kiểm
tra tập trung vào một số vấn đề chủ yếu sau đây:
+ Hiện trạng quỹ tài chính làm việc của nhà khách về số lượng, chất
lượng, việc bố trí sử dụng quỹ làm việc theo mục đích và tiêu chuẩn, định
mức sử dụng.
146
+ Tình hình thực hiện hạch toán theo tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài
chính của các nhà khách
+ Tình hình thực hiện các quy định của nhà nước về kê khai, báo cáo,
chế độ theo dõi hạch toán và quản lý tài chính tại các nhà khách
+ Các văn bản của cơ quan hành chính thể chế các quy định của nhà
nước trong quản lý tài chính tại các nhà khách thuộc cơ quan mình quản lý.
Thứ ba, các nhà khách thuộc cơ quan QLNN khi đã tự chủ, phải gắn với
tự chịu trách nhiệm trước cơ quan quản lý cấp trên và trước pháp luật về
những quyết định của mình; đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, trong thời gian tới, cùng với việc tiếp tục đổi
mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính đối với các nhà khách thuộc cơ quan
QLNN, các bộ, ngành lĩnh vực đang nghiên cứu để từng bước: ban hành các
tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ trong từng lĩnh vực; ban hành cơ chế
tham gia giám sát đối với hoạt động của các nhà khách; trách nhiệm giải trình
của các nhà khách thuộc cơ quan QLNN đối với xã hội về hoạt động và chất
lượng dịch vụ do nhà khách cung cấp cho xã hội, song song với việc tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra, nhà nước sẽ thành lập một số tổ chức kiểm
định, đánh giá chất lượng dịch vụ phục vụ; ban hành các chế tài xử phạt nếu
các nhà khách thuộc cơ quan QLNN làm sai quy định nhà nước.
Như vậy, cùng với việc hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước và việc đổi
mới cơ chế giá dịch vụ cho các nhà khách gắn với chất lượng hiệu quả cung
cấp dịch vụ phục vụ, sẽ tạo ra tính hiệu quả, tạo động lực thúc đẩy cao và tạo
sự cạnh tranh lành mạnh của các nhà khách thuộc cơ quan QLNN.
Thứ tư, cần nâng cao nhận thức về mục đích, vai trò, nguyên tắc kiểm
soát nội bộ; căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao thường xuyên rà soát lại
các văn bản quy phạm pháp luật, quy trình nghiệp vụ liên quan đến hoạt động
tài chính để bổ sung, chỉnh sửa kịp thời, tạo hành lang pháp lý trong việc chỉ
đạo điều hành hoạt động cơ quan quản lý và chức năng quản lý nhà nước đối
147
với hoạt động tài chính của các nhà khách thuộc cơ quan QLNN, bên cạnh đó,
thủ trưởng các nhà khách cần nghiên cứu và tổ chức xây dựng đầy đủ các quy
trình nhiệm vụ để thực hiện tốt nghiệp vụ chuyên môn được giao, chủ động
nghiên cứu, đề xuất về mô hình cán bộ kiểm soát chuyên trách; tổ chức phân
tích, đánh giá mức độ rủi ro trong hoạt động của đơn vị mình, rủi ro trong
từng quy trình nghiệp vụ để có biện pháp kiểm soát, hạn chế thấp nhất rủi ro,
đảm bảo an toàn cho hệ thống nhà khách thuộc cơ quan QLNN.
Đối với công tác kiểm toán nội bộ của các nhà khách thuộc cơ quan
QLNN cần phải rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật, quy trình nghiệp
vụ liên quan đến hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ để bổ sung, chỉnh sửa
kịp thời, đảm bảo phù hợp, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật của
nhà nước, nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động kiểm soát, kiểm
toán nội bộ nhà khách thuộc cơ quan QLNN, đồng thời, tham mưu giúp lãnh
đạo các cơ quan QLNN chỉ đạo và xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ trong
hệ thống các nhà khách thuộc cơ quan QLNN; nghiên cứu áp dụng các chuẩn
mực quốc tế về kiểm toán nội bộ, chuẩn hóa các quy trình, báo cáo kiểm toán,
đổi mới phương án tiếp cận hồ sơ, thu thập thông tin, bằng chứng kiểm toán,
đẩy nhanh tiến độ áp dụng công nghệ vào hoạt động kiểm toán nội bộ, các
hoạt động của nhà khách…
Thứ năm, xử lý nghiêm, kịp thời các vi phạm về chế độ quản lý tài chính
tại các nhà khách đã phát hiện qua thanh tra, kiểm tra; thực hiện nghiêm chỉnh
Nghị định 16/2005/NĐ-CP.
4.2.8. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và nhân sự quản lý tài chính tại các nhà khách
Với việc trao quyền tự chủ trong việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy, biên chế, các nhà khách cần phải thực hiện việc rà soát lại cơ cấu tổ
chức, sắp xếp hai bộ phận quản lý tài như: giám đốc, phó giám đốc, kế toán
trưởng, cán bộ kế toán theo mô hình hai ban hoặc hai bộ phận rõ ràng nhằm
148
tinh giản bộ máy hành chính và tăng số lượng cán bộ phục vụ có trình độ
chuyên môn được đào tạo từ đại học, cao đẳng trở lên tại các nhà khách thuộc
cơ quan QLNN, các nhà khách cần phải xây dựng được tiêu chí cụ thể về chất
và lượng để phân loại đánh giá cán bộ, từ đó sàng lọc được những nhân tài
thực sự cũng như có chính sách đãi ngộ thích hợp, bên cạnh đó, việc áp dụng
công nghệ thông tin cũng là một biện pháp hữu hiệu, với một bộ máy gọn
nhẹ, hiệu quả, nhiệm vụ của nhà khách được thực hiện nhanh chóng hiệu quả,
đem lại nguồn tài chính lớn cho nhà khách và thu nhập cao cho người lao
động, đó là cơ sở để nhà khách thực hiện tốt tự chủ tài chính, trong công tác
này, việc sắp xếp và hoàn thiện bộ máy kế toán cũng cần phải chú trọng.
Quản lý tài chính không thể tách rời hoạt động của công tác kế toán tài
chính, trong đó, hạch toán kế toán là công cụ đắc lực phục vụ quản lý thông
qua việc thu thập xử lý và cung cấp thông tin một cách liên tục, chính xác, kịp
thời cho nhà quản lý, để thực hiện tốt vai trò và chức năng trên bộ máy kế
toán tài chính phải được tổ chức một cách khoa học, hợp lý, với thực trạng
hiện nay, các nhà khách cần có giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy kế toán
tài chính góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác kế toán tài
chính để hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính thể hiện:
Một là: Các nhà khách cần kiện toàn lại bộ máy kế toán tài chính, đối
với những nhà khách chưa có bộ phận kế toán độc lập cần tổ chức sắp xếp
thành các phòng, bộ phận riêng đảm bảo cho công tác kế toán được tổ chức
hạch toán theo đúng quy định hiện hành.
Hai là: Các nhà khách cần tổ chức công tác kế toán tài chính khoa học,
hợp lý, phù hợp với đặc điểm tổ chức và tuân thủ các quy định của chế độ kế
toán, tài chính, việc nghiên cứu và vận dụng hình thức kế toán tài chính phù
hợp với từng nhà khách là yêu cầu quan trọng của công tác kế toán tài chính,
lựa chọn một hình thức tổ chức kế toán phải căn cứ vào quy mô, đặc thù tổ
chức và hoạt động của nhà khách căn cứ vào năng lực đội ngũ cán bộ, điều
149
kiện cơ sở vật chất nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ của các nhà khách.
Ba là: Đi đôi với việc hoàn thiện bộ máy kế toán tài chính cần quan
tâm thực hiện tốt công tác kiểm toán trong đó có kiểm toán nội bộ, kiểm toán
là một hoạt động không thể thiếu trong quản lý tài chính đảm bảo cho các
thông tin được cung cấp chính xác, tin cậy và có hiệu quả, các nhà khách
thuộc cơ quan QLNN hiện nay mới chỉ chịu sự kiểm tra hàng năm của cơ
quan tài chính thuộc cơ quan QLNN, do đó cần phải thực hiện kiểm toán độc
lập và kiểm toán nội bộ các nhà khách hàng năm.
Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ kế toán - tài chính
Đội ngũ cán bộ kế toán – tài chính các đơn vị phải tự nghiên cứu kỹ các
Luật Kế toán, Luật Ngân sách, Luật Quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước; hệ
thống các văn bản, hướng dẫn như: Nghị định, Thông tư, chỉ đạo của Chính
phủ, Bộ Tài chính, UBND tỉnh... để vận dụng tham mưu cho thủ trưởng đơn
vị quản lý điều hành. Đồng thời, phải thực hiện đúng quy trình theo dõi tài
sản. Lập sổ sách theo dõi tài sản theo đúng quy định, số liệu trong sổ sách
phải khớp đúng với báo cáo quyết toán và đối chiếu chéo giữa tài khoản, thực
tế và sổ sách.
Việc kê khai tài sản qua phần mềm kế toán đòi hỏi cán bộ kế toán phải
theo dõi tài sản chi tiết đầy đủ các thông tin như ký mã hiệu tài sản, nước sản
xuất, năm đưa vào sử dụng, nguyên giá, tỷ lệ khấu hao có như vậy mới làm cơ
sở khai báo vào phần mềm kế toán để theo dõi, quản lý một cách có hệ thống,
vì vậy, yêu cầu kế toán đơn vị khai báo những tài sản mua sắm mới còn
những tài sản đã gần hết khấu hao hoặc đã hết khấu hao nhưng chưa thanh lý
vẫn theo dõi trên bản Excel cho đến khi thanh lý. Ngoài ra, kế toán các đơn vị
phải lập và nộp đúng hạn các báo cáo cho các cơ quan quản lý cấp trên và cơ
quan tài chính theo quy định.
150
Đội ngũ cán bộ là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến tự chủ tài
chính tại đơn vị, là bộ phận quan trọng và không thể thiếu của bộ máy kế toán
tài chính nói riêng và công tác quản lý tài chính nói chung. Năng lực làm việc
của đội ngũ cán bộ kế toán tài chính sẽ quyết định chất lượng, hiệu quả công
tác hạch toán kế toán và quản lý tài chính. Vì vậy, nâng cao năng lực đội ngũ
cán bộ kế toán là yêu cầu khách quan đối với bất kỳ đơn vị nào trước yêu cầu
của cơ chế tài chính mới. Đây cũng là vấn đề của cơ quan QLNN trong quá
trình đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính. Để thực hiện được mục
tiêu nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ kế toán tài chính cần có kế hoạch tổng
thể lâu dài với nhiều phương thức thích hợp để tuyển chọn, sử dụng, đào tạo
và bồi dưỡng cán bộ. Theo hướng đó, các giải pháp cần thực hiện là:
Tích cực cho cán bộ trẻ làm công tác kế toán tài chính được học tập,
bồi dưỡng nâng cao trình độ ở trong và ngoài nước, tham gia các chương trình
liên kết đào tạo của đơn vị với nước ngoài;
Thường xuyên mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng các chế độ, chính
sách mới về quản lý tài chính, nhất là các văn bản mới liên quan đến tự chủ
tài chính giúp cán bộ được cập nhật và nghiên cứu thực hiện đúng, hiệu quả
các văn bản quản lý của Nhà nước;
Đào tạo bồi dưỡng cho cán bộ về ngoại ngữ, tin học là những kỹ
năng cần thiết trong thời đại hội nhập nhằm phục vụ tốt công tác chuyên môn.
Các cơ quan QLNN cần hướng dẫn các đơn vị xây dựng tiêu chuẩn
cán bộ, tiêu chuẩn nghiệp vụ đối với đội ngũ cán bộ kế toán tài chính. Từ đó
làm căn cứ tuyển dụng cán bộ mới. Tạo điều kiện cho cán bộ trẻ được làm
việc theo đúng chuyên môn đào tạo, vị trí được tuyển dụng nhằm phát huy
năng lực cán bộ, nâng cao kinh nghiệm và chuyên môn công tác.
- Để chủ động cho hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả đạt năng
suất cao mọi vấn đề được bắt nguồn từ nhân sự. Đó chính là con người, giám
đốc hoặc phó giám đốc, kế toán trưởng đều là những người nắm về kế toán tài
151
chính hoạt động kinh doanh, phải được đào tạo từ cấp Đại học trở lên.
- Phòng kế toán tài chính từ kế toán trưởng xuống đến cán bộ công
nhân viên phải được đào tạo chuyên ngành về kế toán tài chính để chủ động
trong việc quản lý kinh doanh hoạt động của nhà khách và có kinh nghiệm ít
nhất từ 5 năm trở lên.
- Hàng năm Ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên phải được tập
huấn, đào tạo, cập nhật các chính sách chế độ mới áp dụng theo từng thời kỳ,
thời điểm hạch toán trung thực, đúng chế độ, có hiệu quả.
- Phòng tổ chức quản lý nhân sự phải biết cách sắp xếp đúng người
đúng việc để năng suất lao động đạt cao hơn tránh lãng phí công sức cũng như
tiền của của nhà nước và cán bộ công nhân viên đóng góp bỏ ra cho hoạt động
sản xuất kinh doanh.
- Việc quản lý nguồn tài chính hình thành lên tài sản của nhà khách
phần hình thành từ ngân sách nhà nước và phần hình thành từ tự có của nhà
khách. Ban giám đốc, kế toán trưởng phải có phần giao nhiệm vụ và chỉ đạo
cụ thể đúng quy định nhưng chủ động trong việc sản xuất kinh doanh từ
nguồn ngân sách tự có để đạt được hiệu quả cao nhất.
- Nâng cao trình độ và phẩm chất của cán bộ quản lý, tất cả các quyết
định về kinh doanh, tài chính, quản lý của doanh nghiệp đều từ cán bộ quản
lý, do vậy, trình độ năng lực và đạo đức của họ là quyết định sự hoạt động có
hiệu quả của các nhà khách, hiệu quả hoạt động tài chính và công tác phân
tích tài chính của các nhà khách.
4.2.9. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và tin học hoá trong quản lý tài
chính tại nhà khách
Hỗ trợ việc xây dựng hệ thống thông tin phục vụ quản lý tài chính tại nhà
khách; đưa hệ thống thông tin điện tử của cơ quan hành chính vào hoạt động
hiệu quả quản lý các nhà khách.
152
Bám sát các mục tiêu của chương trình cải cách hành chính nhà nước,
thúc đẩy mạnh mẽ việc hiện đại hoá công nghệ hành chính, thực hiện tin học
hoá các quy trình phục vụ người dân trong các lĩnh vực dịch vụ, nâng cao
năng lực của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc cung cấp các dịch
vụ cho nhân dân và doanh nghiệp được thuận tiện, nhanh gọn và chất lượng
cao, ngoài phục vụ các lãnh đạo thì nhà khách cũng phục vụ nhân dân và các
doanh nghiệp là hết sức hợp nhất.
Đào tạo tin học cho cán bộ, công chức, viên chức nhà khách lĩnh vực kế
toán và lễ tân.., tạo khả năng tiếp cận, sử dụng công nghệ mới trong công việc
thường xuyên, nhằm đáp ứng yêu cầu cao về hiệu quả và chất lượng công
việc.
Với mục tiêu trên, giải pháp là làm tăng tính chính xác và hiệu quả bằng
cách cung cấp truy cập đơn giản hóa vào các nội dung cá nhân và các ứng
dụng thông qua việc sử dụng theo dõi theo vai trò, đào tạo kịp thời và phối
hợp với các chuyên gia và dữ liệu hoạt động quản lý được hiệu quả. kết quả là
tốc độ và chất lượng đáp ứng các yêu cầu về hệ thống kế toán tài chính tại các
nhà khách thuộc cơ quan QLNN.
Tiến bộ khoa học, đặc biệt là công nghệ thông tin với tốc độ phát triển
mạnh mẽ đã có tác động sâu rộng đến tất cả các lĩnh vực và hoạt động của đời
sống kinh tế xã hội, do vậy, quản lý nói chung và quản lý tài chính nói riêng
cũng trở nên phức tạp hơn, đòi hỏi có sự đầu tư lớn cả về chất xám và năng
lực của trang thiết bị,. quá trình thu nhận, xử lý thông tin và ra quyết định
quản lý sẽ thuận tiện, nhanh chóng, chính xác và mang lại hiệu quả cao nếu áp
dụng công nghệ hiện đại, với khối lượng thông tin cần xử lý ngày càng lớn,
nếu các trường áp dụng phương pháp thủ công sẽ không đáp ứng kịp yêu cầu
quản lý, gây cản trở cho quá trình tự chủ tài chính, hiện nay, các nhà khách
thuộc cơ quan QLNN đã áp dụng công nghệ trong công tác tài chính kế toán
bằng việc sử dụng phần mềm kế toán, tuy nhiên, các phần mềm kế toán của
153
các nhà khách lại không đồng nhất, các văn bản quản lý tài chính – kế toán
liên tục thay đổi nên việc lấy số liệu, thông tin của các nhà khách thuộc cơ
quan QLNN bị ảnh hưởng và chậm trễ, các nhà khách thuộc cơ quan QLNN
nên xây dựng một phần mềm kế toán thống nhất cho tất cả các nhà khách trực
thuộc sử dụng, đồng thời nối mạng với máy chủ của các nhà khách thuộc cơ
quan QLNN, biện pháp này nhằm thống nhất công tác kế toán của các đơn vị
nhà khách thuộc cơ quan QLNN có thể tiếp nhận và xử lý thông tin kịp thời,
từ đó đưa ra quyết định quản lý chính xác, bên cạnh đó, việc ứng dụng tin học
hoá trong quản lý cũng là nội dung quan trọng hỗ trợ tích cực cho công tác
quản lý tài chính thuộc các nhà khách.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống nhà khách thuộc cơ
quan QLNN hiện nay có rất nhiều giải pháp, đổi mới về nhận thức về vai trò
của nhà nước, vai trò của thị trường định hướng XHCN; đổi mới cơ cấu tổ
chức và thẩm quyền; hoàn thiện thể chế chính sách bảo đảm tự chủ, tự chịu
trách nhiệm; đổi mới phương thức quản lý; đổi mới quản lý tài chính và tăng
cường kiểm soát nhà nước nhằm bảo đảm trách nhiệm xã hội.
Trong vai trò giám sát, nhà nước là cơ quan quản lý cấp trên của các
nhà khách, thông qua một cơ cấu tổ chức và thẩm quyền hỗ trợ tự chủ tự
trách nhiệm của các Nhà khách mà không có sự hiện diện của cơ chế chủ
quản, tách bạch với thực thi chính sách, tách bạch với vai trò chủ sở hữu;
bằng các phương tiện như thể chế, tài trợ, hoạch định và đánh giá; dưới sự
phối hợp của kinh tế thị trường định hướng XHCN cùng với sự hỗ trợ của các
tổ chức nhà nước được vai trò của lực lượng xã hội, phát huy các nhà khách
phát triển, không sử dụng nhiều tốn kém nguồn tài chính ngân sách nhà nước
cho lĩnh vực này của toàn hệ thống.
154
Các nhóm giải pháp đưa ra tại chương 3 đã từng bước xây dựng một
mô hình cơ chế tài chính theo hướng tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho hệ
155
thống các nhà khách thuộc cơ quan QLNN.
KẾT LUẬN
Việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống nhà khách thuộc
các cơ quan QLNN là các đơn vị sự nghiệp có thu có tầm quan trọng đặc biệt.
Nhận thức được điều đó, tác giả Luận án với đề tài: " Cơ chế quản lý tài chính
đối với hệ thống nhà khách thuộc cơ quan quản lý nhà nước ở Việt Nam” đã
tập trung nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng cơ chế quản lý tài chính
đối với các các nhà khách thuộc cơ quan QLNN. Qua nghiên cứu, có thể thấy:
- Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với các
nhà khách thuộc cơ quan QLNN tạo điều kiện cho đơn vị chủ động tổ chức
hoạt động dịch vụ tăng nguồn thu, chủ động phân bổ nguồn tài chính của đơn
vị theo nhu cầu chi tiêu đối với từng lĩnh vực tiết kiệm, thiết thực hiệu quả.
- Cơ chế tự chủ tạo điều kiện cho các nhà khách thuộc cơ quan QLNN
thực hiện việc kiểm soát chi tiêu nội bộ, phát huy tính chủ động, sáng tạo của
người lao động; nâng cao kỹ năng quản lý, chất lượng hoạt động sự nghiệp;
xoá bỏ tình trạng hành chính hóa các hoạt động sự nghiệp; giảm dần sự can
thiệp trực tiếp của cơ quan chủ quản và cơ quan tài chính đối với hoạt động
của các nhà khách thuộc cơ quan QLNN.
Luận án đã đưa ra một hệ thống giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản
lý tài chính đối với hệ thống nhà khách thuộc cơ quan QLNN.
Cơ chế quản lý tài chính đối với các nhà khách là định hướng, thúc đẩy
hoặc giới hạn tự chủ, tự chịu trách nhiệm, nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong
tài trợ và tài trợ công bằng cho hệ thống các nhà khách nhưng phương thức tài
trợ phải trao cho các nhà khách quyền tự chủ nhiều hơn nữa và thúc đẩy các
nhà khách phát triển nguồn thu nhập mới cũng như sử dụng hiệu quả kinh phí.
các chính sách về đất đai, thuế, mứcchi tiêu... không chỉ là những hỗ trợ có ý
nghĩa mà còn là công cụ điều khiển sự vận hành tự chủ trong các nhà khách
156
một cách khách quan.
Môi trường cạnh tranh lành mạnh cả bên trong lẫn bên ngoài đối với
các nhà khách là điều kiện không thể thiếu đối với đổi mới hoạt động của các
nhà khách.Cần xây dựng cơ chế, chính sách không chỉ khuyến khích sự tham
gia cung cấp dịch vụ công mà còn đảm bảo cho các nhà khách có điều kiện
tham gia thị trường.
-- Trên cơ sở nhận thức đúng vai trò phù hợp của nhà nước, của thị
trường định hướng XHCN và của tổ chức hoạt động các nhà khách, hoàn
thiện thể chế chính sách điều chỉnh cơ cấu và quá trình quản lý nhà khách; tái
cơ cấu tổ chức và thẩm quyền quản lý theo hướng hạn chế sự can thiệp không
thuộc chức năng QLNN, phân định rõ chức năng nhà nước và chức năng quản
lý của nhà khách tự chủ tự chịu trách nhiệm theo hướng thành lập các doanh
nghiệp có tính độc lập.
Trong quá trình nghiên cứu, Luận án khó tránh khỏi những hạn chế
nhất định. Vì vậy tác giả rất mong muốn được sự đóng góp ý kiến từ các
thầy cô giáo, các đồng nghiệp và các bạn học để tác giả tiếp tục hoàn thiện
hơn về lý luận cũng như kiến thức thực tế.
157
Tác giả xin chân thành cám ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài chính (2006), Thông tư 71/2006/TT-BTC ngày 9/8/2006 Hướng
dẫn thực hiện Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/ 2006 của Chính phủ
2. Bộ Tài chính (2007), Thông tư 113/2007/TT-BTC ngày24/9/2007 về việc
sửa đổi, bổ sung một số quy định tại Thông tư số 71/2006/TT-BTC ngày
9/8/2006 / 2006 của Bộ Tài chính về trình tự chi thanh toán thu nhập tăng
thêm nhằm tăng tính tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp.
3. Chính phủ (2002), Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 về chế độ
tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu, Hà Nội.
4. Chính phủ (2006), Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính
đối với đơn vị sự nghiệp công lập.
5. Chính phủ năm 2015 ra Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/1015 Ban
hành quy Cơ chế tự chủ đơn vị sự nghiệp công lập.
6. Nguyễn Ngọc Hiến (Chủ biên) (2003), Hành chính công, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
7. Học viện Hành chính Quốc gia (2004), Giáo trình Quản lý & Phát triển tổ
chức hành chính Nhà nước, Nxb ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.
8. Bùi Đức Kháng (2005), “Vai trò của Nhà nước trong nền KTTT”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 4 (51), tháng 4 năm 2005, tr. 23-29.
9. Lê Chi Mai (2003). Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam, NXB Chính trị
quốc gia, HN
10. Trần Đình Ty (2003). Quản lý tài chính công, NXB Lao động, HN
11. Báo nhân dân điện tử- (2006)- Dự báo kinh tế Việt Nam và thế giới-Số ra
ngày 3 tháng 8 năm 2006.
12. Bộ Khoa học và Công nghệ (2003)- Chiến lược phát triển KH &CN Việt
158
Nam đến năm 2010- Hà Nội, ban hành kèm theoQuyết định số
272/2003/QĐ-TTg
13. Bộ Khoa học và Công nghệ (2004)- Đề án đổi mới cơ chế quản lý khoa
học và công nghệ, Hà Nội, ban hành kèm theo Quyết định số
171/2004/QĐ-TTg.
14. Bộ Khoa học và Công nghệ.-(2006)- Đổi mới, phát triển mạnh mẽ hoạt
động KH &CN- Báo nhân dân điện tử số ra ngày 18 tháng 7
15. Bộ Tài chính (2002)- Thông tư 25/2002/TT-BTC- Hướng dẫn thực hiện
Nghị định số 10/2002/NĐ-CP của Bộ Tài chính ban hành ngày 21/3/2002
16. Chính phủ nước Công hòa XXHCN Việt Nam (2002)- Nghị định số
10/2002/ NĐ-CP
17. Chính phủ nước Công hòa XXHCN Việt Nam (2002)- Nghị định số
43/2006/ NĐ-CP.
18. Cục Quản trị-Tài vụ- VPCP: Các Báo cáo sơ kết và tổng kết hàng năm từ
năm 2006-2007 của Trung tân Hội nghị Quốc gia.
19. Cục Quản trị-Tài vụ- VPCP: Các Báo cáo sơ kết và tổng kết hàng năm từ
năm 2002-2006 của Nhà khách 37 Hùng Vương.
20. Cục Quản trị-Tài vụ- VPCP: Các Báo cáo sơ kết và tổng kết hàng năm từ
năm 2002-2006 của Nhà khách tao Đàn.
21. Cục Quản trị-Tài vụ- VPCP: Các Báo cáo sơ kết và tổng kết hàng năm từ
năm 2002-2006 của Khách sạn La Thành.
22. Cục Quản trị-Tài vụ- VPCP: Các Báo cáo sơ kết và tổng kết hàng năm từ
năm 2002-2006 của Dinh Thống Nhất .
23. Cục Quản trị-Tài vụ- VPCP: Các Báo cáo sơ kết và tổng kết hàng năm từ
năm 2002-2006 của Trung tân Hội nghị quốc tế 35 Hùng Vương..
24. Cục Quản trị-Tài vụ- VPCP-(2005)- Các tham luận tại Hội nghị khối Hậu
cần.
25. Cục Quản trị-Tài vụ - VPCP -(2006)- Hội nghị hậu cần năm 2006
159
26. Đảng Cộng sản Việt Nam- (2006) - Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X-
NXB CTQG – HN
27. Đảng cộng sản Việt nam ( 2002) Nghị quyết 07 của Bộ chính trị " Về chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế ".
28. Đảng Cộng sản Việt nam: (2005)- Báo cáo tổng kết một sơ vấn đề lý luận-
thực tiễn qua 20 năm đổi mới(1986-2006)- NXB Chính trị quốc gia-Hà
Nội.
29. Đảng bộ Cục Quản trị -Tài vụ (2007)- Đại hội Đảng bộ Cục Quản trị-Tài
vụ lần thứ II.
30. Đảng cộng sản Việt Nam (2006) Văn kiện đại hội Đảng X - NXB Chính trị
quốc gia- HN.; -Nghị quyết số 8 Hội nghị trung ương 4 (khóa X), trang 63.
31. Đại học quốc gia Hà nội(2005)- Việt Nam - Những thách thức trong tiến
trình HNKTQT-NXB Đại học quốc gia Hà Nội
32. Đại học quốc gia Hà nội(2004)- Đổi mới ở Việt Nam tiến trình thành tựu
và kinh nghiệm - NXB chính trị quốc gia-Hà Nội
33. Mai hữu Khuê: (2003)- Lý luận quản lý Nhà nước- NXB Hà Nội
34. VI Lê Nin , toàn tập ( 1980), tập 36 - Nhà XB Tiến bộ MVC.
35. CMác: Mác - Ănghen toàn tập ( 1994), tập 23 - NXBCTQGST, HN, Phan
Thanh Phố.(1994)- Khoa học công nghệ và kinh tế thị trường ở Việt Nam-
NXB Thống Kê, 1994.
36. Phan Thanh Phố (2000) " Kinh tế và đổi mới kinh tế " - NXB giáo dục - HN.
37. Phan Thanh Phố (2005)- Việt Nam với tiến trình gia nhập Tổ chức thương
mại thế giới- NXB Chính trị quốc gia-Hà Nội.
38. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam( 2005)- Luật Đầu tư – Tại kỳ
họp thứ 10 khóa XI.
39. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam( 2005)- Luật doanh nghiệp -
Tại kỳ họp thứ 10 khóa XI
40. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam( 2000)- Luật khoa học và công
160
nghệ - Tại kỳ họp thứ 7 khóa XI.
41. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam( 2000)- Luật Sơ hữu trí tuệ -
Tại kỳ họp thứ 10 khóa XI
42. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam( 2006)- Báo cáo của Chính
phủ trình bày tại kỳ họp Quốc hội khóa XI- ngày 6/11/2006
43. Joseph E.Stiglitz (1995)- Kinh tế học công cộng- Sách dịch – NXB Khoa
học và kỹ thuật- trường ĐHKTQD.
44. Văn phòng Chính phủ-(2004)- Quyết định số 04/2004/QĐ-VPCP của Bộ
trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ ban hành Quy chế tổ chức hoạt
động và chế độ quản lý tài chính - của Nhà khách Tao Đàn
45. Văn phòng Chính phủ-(2003)- Quyết định số 11/2003/QĐ-VPCP của Bộ
trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ ban hành Quy chế tổ chức hoạt
động và chế độ quản lý tài chính- của Nhà khách 37 Hùng Vương
46. Văn phòng Chính phủ-(2004)- Quyết định số 021/2004/QĐ-VPCP của Bộ
trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ ban hành Quy chế tổ chức hoạt
động và chế độ quản lý tài chính- của Trung tân Hội nghi Quốc tế.
47. Văn phòng Chính phủ-(2004)- Quyết định số 05/2004/QĐ-VPCP của Bộ
trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ ban hành Quy chế tổ chức hoạt
động và chế độ quản lý tài chính- của Hội trường (Dinh) Thống Nhất.
48. Văn phòng Chính phủ-(2004)- Quyết định số 03/2004/QĐ-VPCP của Bộ
trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ ban hành Quy chế tổ chức hoạt
động và chế độ quản lý tài chính- của Khách Sạn La Thành.
49. Luận án thạc sỹ của tác giả Nguyễn Bá Duyên Trường đại học kinh tế
quốc dân.
50. Văn phòng Chính phủ Quyết định chức năng nhiệm vụ các đơn vị sự
nghiệp Nhà khách 37 Hùng Vương, Nhà khách La Thành, Nhà khách Tao
Đàn, Hội Trường Thống Nhất, Trung Tâm Hội nghị Quốc Gia, Trung Tâm
Hội nghị Quốc Tế.
161
51. Nhà khách UBND các Tỉnh, Thành, Nhà khách các Bộ, cơ quan ngang Bộ.
162