VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN SỸ HÀ
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở TỈNH HÒA BÌNH
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2010
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC
HÀ NỘI - 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN SỸ HÀ
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở TỈNH HÒA BÌNH TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2010
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 9229013
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. ĐINH QUANG HẢI
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, các số liệu, kết quả nghiên cứu trong Luận án là
trung thực, khách quan và chưa từng được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Sỹ Hà
MỤC LỤC Trang
TRANG PHỤ BÌA……………………………………………………..
LỜI CAM ĐOAN……………………………………………………...
MỤC LỤC……………………………………………………………...
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT…………………………………
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU……………………………………..
MỞ ĐẦU………………………………………………………………. 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN……………………………………………….. 7
1.1. Những nghiên cứu về giáo dục và giáo dục phổ thông …………… 7
1.2. Những nghiên cứu có liên quan đến giáo dục ở tỉnh Hòa Bình…… 13
1.3. Những kết quả nghiên cứu đã đạt được và những vấn đề luận án
cần tiếp tục nghiên cứu…………………………………………………. 17
Chương 2: PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở TỈNH
HÒA BÌNH GIAI ĐOẠN 1991 - 2001……………………………….. 21
2.1. Khái quát về tỉnh Hòa Bình và giáo dục phổ thông ở Hòa Bình
trước khi tái lập tỉnh (1991)……………………………………………. 21
2.2. Bối cảnh lịch sử và chủ trương đổi mới giáo dục phổ thông ở tỉnh
Hoà Bình (1991 - 2001)………………………………………………... 38
2.3. Phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình trong 10 năm đầu
sau khi tái lập tỉnh (1991 - 2001)………………………………………. 45
Tiểu kết chương 2……………………………………………………… 69
Chương 3: PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở TỈNH
HÒA BÌNH GIAI ĐOẠN 2001 - 2010……………………………….. 70
3.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương phát triển giáo dục phổ thông ở
tỉnh Hòa Bình trong giai đoạn mới……………………………………... 70
3.2. Phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình, góp phần tạo bước
đột phá về kinh tế - xã hội (2001 - 2010)………………………………. 76
Tiểu kết chương 3……………………………………………………… 105
Chương 4: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM…………… 107
4.1. Nhận xét…………………………………………………………… 107
4.2. Một số kinh nghiệm và vấn đề đặt ra……………………………… 131
Tiểu kết chương 4……………………………………………………… 142
KẾT LUẬN……………………………………………………………. 143
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN……………………………… 146
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………. 147
PHỤ LỤC……………………………………………………………… 163
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT Chữ viết tắt Nội dung chữ viết tắt
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1
2 CNXH Chủ nghĩa xã hội
3 GD - ĐT Giáo dục và Đào tạo
4 GDPT Giáo dục phổ thông
5 KT - XH Kinh tế xã hội
6 NQTW Nghị quyết Trung ương
7 PTCS Phổ thông cơ sở
8 PTTH Phổ thông trung học
9 THCS Trung học cơ sở
10 THPT Trung học phổ thông
11 UBND Ủy ban nhân dân
12 XHCN Xã hội chủ nghĩa
13 XMC Xóa mù chữ
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Biểu đồ 2.1. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế (1991 - 2010)………... Trang 25
Bảng 2.1. Số lượng giáo viên phổ thông (1991 - 2001)…………………... 47
Bảng 2.2. Số trường học phổ thông (1991 - 2001)………………………... 50
Bảng 2.3. Số phòng học phổ thông (1991 - 1996)………………………... 51
Bảng 2.4. Số lớp học phổ thông (1991 - 2001)…………………………… 52
Bảng 2.5. Số lượng học sinh phổ thông (1991 - 2001)…………………… 52
Biểu đồ 2.2. Chất lượng giáo dục hai mặt, học sinh phổ thông tỉnh Hòa
Bình (1991 - 1996)………………………………………………………... 56
Bảng 2.6. Số lượng học sinh phổ thông đoạt giải Quốc gia (1991 - 1996).. 57
Biểu đồ 2.3. Tỷ lệ trẻ em vào lớp 1 và bỏ học……………………………. 59
Biểu đồ 2.4. Chất lượng giáo dục hai mặt bậc trung học, năm học 2000 - 2001 61
Biểu đồ 2.5. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS và THPT (1997 - 2002)…... 62
Biểu đồ 3.1. Chất lượng đội ngũ giáo viên phổ thông năm học 2004 - 2005 78
Biểu đồ 3.2. Chất lượng đội ngũ giáo viên phổ thông năm học 2009 - 2010 82
Bảng 3.1. Số lượng trường, lớp phổ thông (2001 - 2010)………………… 83
Biểu đồ 3.3. Số lượng học sinh phổ thông (2001 - 2010)………………… 84
Bảng 3.2. Tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học và đỗ tốt
nghiệp phổ thông năm học 2004 -2005…………………………………… 88
Biểu đồ 3.4. Ngân sách chi cho sự nghiệp giáo dục đào tạo và số phòng
học được xây dựng trong năm học 2005 - 2006………………………….. 93
Bảng 3.3. Số trường học và giáo viên được thanh tra năm học 2005 - 2006. 100
Biểu đồ 4.1. Tỷ lệ giáo viên phổ thông đạt chuẩn năm học 2009 - 2010…. 124
Bảng 4.1. Số trường học, phòng học và học sinh phổ thông năm học 2009
- 2010……………………………………………………………………... 125
Bảng 4.2. Công tác phổ cập giáo dục phổ thông………………………….. 127
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam, giáo dục phổ thông được
nhìn nhận là một bậc giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt, vừa là “bản lề”,
vừa là “xương sống” của toàn bộ quá trình hình thành và phát triển nhân cách
của lứa tuổi nhi đồng, thiếu niên và thanh niên, giúp các em từ bước đi chập
chững, từ nhận biết đơn sơ lên nắm bắt được nhiều kiến thức cơ bản về văn
hóa chữ, văn hóa làm người và định hướng được cuộc sống của mình là phục
vụ đất nước và dân tộc. Do vậy từ ngày nước nhà được độc lập đến nay sự
nghiệp phát triển giáo dục phổ thông đã đạt được những thành tựu to lớn trên
các lĩnh vực: Quy mô không ngừng được mở rộng; chất lượng ngày một được
nâng cao và từng bước đáp ứng tốt hơn yêu cầu cung cấp nguồn nhân lực cho
sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với vị trí và vai
trò to lớn đó, Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục lần thứ 3 (năm
1979) đã chỉ rõ: “Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hóa của một nước, là
sức mạnh tương lai của một dân tộc. Nó đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển
toàn diện con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [106, tr. 23].
Hòa Bình là tỉnh miền núi, nằm ở vùng cửa ngõ Tây Bắc của Tổ quốc,
nơi tụ hội nhiều điều kiện thuận lợi để trở thành trung tâm Văn hóa - Giáo
dục của vùng Tây Bắc. Với đặc điểm địa lý giáp với đồng bằng sông Hồng và
Thủ đô Hà Nội, tỉnh Hòa Bình được biết đến không chỉ nổi tiếng với công
trình thủy điện lớn nhất Đông Nam Á, mà còn nổi tiếng với một nền văn hóa
đặc sắc là cái nôi “văn hóa Hòa Bình”.
Là mảnh đất có chiều dày lịch sử và văn hóa, phát huy truyền thống
đấu tranh kiên cường bất khuất của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình đã kề vai, sát cánh góp phần
làm nên những trang sử hào hùng của dân tộc. Bước vào công cuộc đổi mới,
nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình tiếp tục vượt lên mọi khó khăn, thách
1
thức để hoàn thành xuất sắc các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế và xã
hội, phấn đấu trở thành vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và vùng Tây Bắc.
Sau khi tái lập tỉnh Hòa Bình (năm 1991), nhận thức vai trò to lớn của
giáo dục phổ thông trong hệ thống giáo dục quốc dân cũng như phát triển
giáo dục phổ thông nhằm “nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, góp phần tích cực vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng tỉnh Hòa Bình ngày càng giàu đẹp, văn minh và công
bằng xã hội” [158, tr. 314], lãnh đạo và nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình
đã thường xuyên chăm lo, tạo điều kiện để giáo dục phổ thông từng bước
được đổi mới và phát triển vững chắc. Năm 2010, tỉnh Hòa Bình đã đạt chuẩn
quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học - chống mù chữ và phổ cập giáo dục
trung học cơ sở, đội ngũ giáo viên các ngành học, bậc học không chỉ lớn về
số lượng mà còn mạnh về chuyên môn; cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và
học ngày càng hiện đại.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình phát triển giáo
dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình trong những năm qua còn nhiều yếu kém, bất
cập như chất lượng giáo dục các cấp học, bậc học, ngành học còn thấp và
chưa đồng đều; việc dạy và học ở vùng kinh tế và xã hội khó khăn còn hạn
chế; cơ sở vật chất còn thiếu thốn, lạc hậu. Ngoài ra còn nhiều hạn chế khác
cần phải giải quyết. Vì vậy, việc nghiên cứu giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa
Bình là rất cần thiết. Song cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên
cứu toàn diện, hệ thống về giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991
đến năm 2010. Trên những ý nghĩa đó, tôi chọn nghiên cứu đề tài: "Giáo dục
phổ thông ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010" làm luận án Tiến
sĩ, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu.
Luận án nghiên cứu nhằm đạt các mục đích sau:
2
- Luận giải và làm sáng tỏ thực trạng quá trình phát triển giáo dục phổ
thông (GDPT) ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, từ đó rút ra những kinh nghiệm góp
phần phục vụ cho công tác hoạch định và phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình
trong các giai đoạn tiếp theo.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt các mục đích đề ra, luận án thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu
chủ yếu sau:
- Tổng quan các tài liệu liên quan đến đề tài luận án.
- Phân tích làm rõ các yếu tố tác động (cả thuận lợi và khó khăn) đối
với phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình. Trong đó có đề cập từ chủ trương,
đường lối đến các biện pháp cụ thể trong việc phát triển GDPT của tỉnh Hòa
Bình từ năm 1991 đến năm 2010.
- Phục dựng lại quá trình phát triển của GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm
1991 đến năm 2010 trên cơ sở đánh giá khách quan, khoa học về những thành
tựu, hạn chế và nguyên nhân.
- Rút ra đặc điểm và bài học kinh nghiệm góp phần cung cấp cơ sở thực
tiễn và luận cứ cho việc đổi mới GDPT ở tỉnh Hoà Bình trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Luận án tập trung nghiên cứu về quá trình phát triển GDPT ở tỉnh Hòa
Bình từ năm 1991 đến năm 2010.
3.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Phạm vi thời gian
Luận án nghiên cứu GDPT ở tỉnh Hòa Bình trong thời gian 20 năm (từ
năm 1991 đến năm 2010).
Lý do tác giả chọn mốc nghiên cứu năm 1991 là năm được kỳ họp thứ
IX, Quốc hội khóa VIII quyết định tái lập tỉnh Hòa Bình (8 - 1991) và mốc
3
năm 2010 là năm Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XV (10 -
2010). Đồng thời năm 2010 được coi là năm cuối của kế hoạch phát triển giáo
dục tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2001 - 2010.
- Phạm vi không gian
Luận án nghiên cứu trên phạm vi địa giới hành chính tỉnh Hòa Bình
trong giai đoạn 1991 - 2010 bao gồm: Thành phố Hòa Bình và các huyện: Kỳ
Sơn, Tân Lạc, Mai Châu, Lương Sơn, Kim Bôi, Lạc Thủy, Đà Bắc, Yên
Thủy, Lạc Sơn, Cao Phong.
- Phạm vi nội dung
Luận án tập trung nghiên cứu về: Chủ trương, đường lối chính sách của
Đảng, Nhà nước và sự vận dụng của Đảng bộ tỉnh Hòa Bình về phát triển
GDPT; thực trạng quá trình phát triển GDPT tỉnh Hòa Bình trên ba bậc: Tiểu
học, trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ thông (THPT); ngoài ra Hòa
Bình là tỉnh miền núi, nên các trường phổ thông dân tộc nội trú cũng là đối
tượng và nội dung nghiên cứu của luận án. Trên cơ sở đó đưa ra những nhận
xét, đánh giá khách quan về GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm
2010 và rút ra một số kinh nghiệm cho các giai đoạn phát triển tiếp theo.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
4.1. Cơ sở lý luận.
Dựa trên nguyên tắc nắm vững cơ sở lý luận và vận dụng phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới giáo dục, trong đó có GDPT. Đây là
cơ sở lý luận, phương pháp luận cho việc nghiên cứu GDPT ở tỉnh Hòa Bình
từ năm 1991 đến năm 2010.
4.2. Phương pháp nghiên cứu.
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp
lịch sử và phương pháp lôgic.
4
- Luận án sử dụng phương pháp lịch sử để bảo đảm trình tự và diễn tiến
thời gian của các sự kiện và vấn đề, làm rõ điều kiện phát sinh, phát triển và
biểu hiện của chúng, qua đó phục dựng lại toàn bộ quá trình phát triển của
GDPT tỉnh Hòa Bình qua hai giai đoạn với những nét chung vừa mang tính
phổ biến, vừa có nét đặc thù riêng đối với địa phương miền núi.
- Luận án sử dụng phương pháp logic để xem xét, nghiên cứu các sự
kiện, các vấn đề về GDPT để làm sáng tỏ mối liên hệ gắn bó, chặt chẽ các
vấn đề của GDPT với nhau và tìm ra bản chất, khuynh hướng, quy luật vận
động. Trên cơ sở đó rút ra đặc điểm và kết luận từ quá trình phát triển của
GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010.
Ngoài ra luận án còn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên
ngành khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu; đặc biệt
tác giả chú trọng đến phương pháp điều tra khảo sát thực địa để thẩm định, bổ
sung và hoàn chỉnh tư liệu để thực hiện luận án.
4.3. Nguồn tài liệu.
Để thực hiện luận án, tác giả chủ yếu dựa vào những tài liệu chủ yếu sau:
- Các Văn kiện, Nghị định, Chỉ thị, Nghị quyết, Quyết định,… của
Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD - ĐT); của Tỉnh ủy, Uỷ ban
nhân dân (UBND) tỉnh Hòa Bình, Cục thống kê tỉnh Hoà Bình và một số Sở,
Ban ngành của tỉnh có liên quan đến giáo dục nói chung, GDPT nói riêng từ
năm 1991 đến năm 2010.
- Các báo cáo tổng kết hàng năm của Sở GD - ĐT tỉnh Hoà Bình từ
năm 1991 đến năm 2010.
- Các công trình nghiên cứu, bài viết, các luận văn, luận án nghiên cứu
về lĩnh vực GDPT nói chung và liên quan đến GDPT của tỉnh Hòa Bình nói
riêng đã được công bố.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án làm rõ những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về
GDPT và sự vận dụng của tỉnh Hòa Bình vào thực tiễn địa phương.
5
- Luận án phân tích những yếu tố tác động đến GDPT của tỉnh Hòa
Bình và tái hiện lại bức tranh khá đầy đủ, toàn diện, có hệ thống về thực trạng
GDPT ở tỉnh Hoà Bình từ năm 1991 đến năm 2010.
- Luận án rút ra đặc điểm chủ yếu, một số kinh nghiệm và đặt ra một số
vấn đề đối với phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình trong các giai đoạn tiếp theo.
- Kết quả của luận án cung cấp một tập hợp tư liệu phong phú, đa dạng,
làm cơ sở tham khảo cho Đảng bộ, chính quyền tỉnh Hòa Bình trong công tác
hoạch định phát triển GDPT giai đoạn tiếp theo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận.
Luận án góp phần cung cấp thêm cơ sở lý luận và các luận cứ khoa học
về phát triển giáo dục nói chung, GDPT nói riêng, cũng như góp phần vào
việc nghiên cứu và bổ sung lý luận về lịch sử phát triển giáo dục ở Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn.
- Luận án đóng góp thêm tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử
GDPT ở tỉnh Hòa Bình nói riêng, lịch sử giáo dục Việt Nam nói chung.
- Luận án rút ra đặc điểm và bài học kinh nghiệm từ kết quả nghiên cứu
GDPT ở tỉnh Hòa Bình giúp cho việc hoạch định chủ trương và thực hiện
phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình hiện nay và các giai đoạn tiếp theo.
- Luận án góp phần phục vụ thiết thực cho công tác nghiên cứu, giảng
dạy lịch sử địa phương cho học sinh các cấp trong tỉnh.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận án được chia làm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Chương 2. Khái quát về tỉnh Hòa Bình và quá trình phát triển GDPT
của tỉnhgiai đoạn 1991 - 2001.
Chương 3.Phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2001 - 2010.
Chương 4. Một số nhận xét và kinh nghiệm.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Giáo dục là một vấn đề thu hút sự quan tâm đặc biệt của các giới
nghiên cứu, các tổ chức và học giả. Đã có không ít tác giả nghiên cứu về đề
tài này, từ những vấn đề lý luận đến thực tiễn, ở nhiều giai đoạn lịch sử khác
nhau và có liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận án, trong đó có thể
chia thành các nhóm công trình nghiên cứu như sau.
1.1. Những nghiên cứu về giáo dục và giáo dục phổ thông
Tổ chức Văn hóa - Khoa học - Giáo dục của Liên Hợp Quốc
(UNESCO), với dự án: Nghiên cứu tổng thể Giáo dục - Đào tạo, phân tích
nguồn nhân lực VIE89/022 và dự án: Báo cáo đánh giá tình hình Giáo dục -
Đào tạo của Việt Nam hiện nay, được tiến hành trong 2 năm (1991 - 1992);
Ngân hàng thế giới (WB) cùng với Bộ GD - ĐT tổ chức hội thảo với chủ đề
"Lựa chọn chính sách cải cách Giáo dục - Đào tạo", tại Hà Nội (8 - 1993)…
Những công trình này đã đánh giá về thực trạng GD - ĐT ở Việt Nam, đồng
thời nghiên cứu về sự tác động của các nguồn lực, các chính sách lớn và đưa ra
một số định hướng phát triển GD - ĐT ở Việt Nam trong những năm tiếp theo.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tổng kết giáo dục 10 năm (1975 - 1985), Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 1986: Cuốn sách đã nêu ra những chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục. Mặc dù không đi sâu vào lĩnh vực
GDPT, nhưng đã cung cấp những tài liệu quan trọng, nhất là những số liệu
thống kê và tình hình GDPT của Việt Nam 10 năm sau ngày thống nhất đất
nước. Trong cuốn 50 năm phát triển sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo (1945 -
1995), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995 đã khái quát về bức tranh toàn cảnh giáo
dục Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1995, cũng như đưa ra những đánh giá,
nhận xét về giáo dục Việt Nam trong giai đoạn này.
7
Các nhà lãnh đạo, quản lý ngành giáo dục qua các thời kỳ rất quan tâm
đến việc tổng kết, đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn quá trình lãnh đạo, tổ chức
thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực giáo dục.
Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Võ Thuần Nho, 35
năm phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thông, Nxb Giáo dục, 1981; Nguyễn
Khánh Toàn, Nền giáo dục Việt Nam: Lý luận và thực hành, Nxb Giáo dục,
1991; Phạm Minh Hạc, Sơ thảo lịch sử giáo dục Việt Nam 1945 - 1990, Nxb
Giáo dục, 1992; Trần Hồng Quân, Giáo dục 10 năm đổi mới và chặng đường
trước mắt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996; Phát triển giáo dục, phát
triển con người phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1996; Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999; Nhân tố mới về Giáo dục và Đào tạo trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2002;… Các công trình nêu trên chủ yếu đi vào tổng kết quá trình phát
triển của ngành giáo dục Việt Nam qua các giai đoạn khác nhau, trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và thời kỳ
đầu khi cả nước độc lập thống nhất quá độ đi lên xây dựng CNXH, đồng thời
bước đầu cũng rút ra một số kinh nghiệm trong xây dựng và phát triển nền
giáo dục của nước nhà. Bên cạnh đó, một số công trình cũng đi sâu nghiên
cứu về vị trí, vai trò của nhân tố con người thông qua hoạt động GD - ĐT,
nhằm góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngoài ra còn có nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục Việt Nam
như: Nguyễn Quang Hưng, Toàn cảnh Giáo dục - Đào tạo Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000; Trần Văn Tùng, Nền kinh tế tri thức và yêu
cầu đổi mới giáo dục Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001; Đặng
Bá Lãm, Giáo dục Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XXI: Chiến lược
phát triển, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2003; Lê Văn Giạng, Lịch sử giản lược
hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003;
8
Nguyễn Quang Kính, Giáo dục Việt Nam 1945 - 2005, tập 2, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2005; Nguyễn Thế Long, Đổi mới tư duy, phát triển giáo
dục Việt Nam trong nền kinh tế thị trường, Nxb Lao động, 2006; Nguyên Hữu
Châu, Giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục, 2007;
Đặng Bá Lãm, Vũ Ngọc Hải, Trần Khánh Đức, Giáo dục Việt Nam đổi mới
và phát triển hiện đại hóa, Nxb Giáo dục, 2007; Đinh Văn Ân, Hoàng Thu
Hòa, Giáo dục và Đào tạo - chìa khóa của sự phát triển, Nxb Tài chính,
2008; Phạm Tất Dong, Giáo dục Việt Nam 1945 - 2010, Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 2010;… Các công trình đã đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình
phát triển nền giáo dục ở nước ta qua các thời kỳ khác nhau, nhiều công trình
đã phân tích về sự đóng góp to lớn của giáo dục đối với công cuộc xây dựng
và phát triển đất nước. Bên cạnh đó, các tác giả còn đề cập đến việc tăng
cường hợp tác quốc tế để nâng cao chất lượng giáo dục, phương hướng đổi
mới giáo dục, đa dạng hoá các loại hình đào tạo, xã hội hoá giáo dục,… Tuy
nhiên các công trình này vẫn chủ yếu tập đi vào lĩnh vực giáo dục nói chung,
chưa đi sâu nghiên cứu về lĩnh vực GDPT, song đây cũng là những tài liệu
quan trọng, đưa đến những nhận thức có tính hệ thống về giáo dục.
Nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, các tác giả Nguyễn
Minh San (Chủ biên), Phạm Việt Long, Hoàng Thế Thanh, xuất bản công
trình Mười thế kỷ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam (1010 - 2010), Nxb Dân trí,
2010. Đây là công trình nghiên cứu có giá trị to lớn, giúp cho người đọc thấy
được một cách rõ ràng và cụ thể bức tranh toàn cảnh về giáo dục và đào tạo
của đất nước từ khi nước ta giành được độc lập tự chủ cho đến nay. Nội dung
cuốn sách khắc họa tiến trình hình thành, phát triển và những thành tựu to lớn
của nền giáo dục và đào tạo Việt Nam trong 10 thế kỷ qua (1010 - 2010) theo
chiều lịch đại. Ở cuối mỗi giai đoạn còn có phần nhận xét, đánh giá của các
tác giả về giáo dục và đào tạo nước nhà trong giai đoạn đó, đồng thời các tác
giả cũng giới thiệu những tấm gương nhà giáo tận tụy, lao động sáng tạo, gắn
9
bó với sự nghiệp "trồng người", góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Trải qua 10 thế kỷ biến thiên, thăng trầm của lịch sử, sự nghiệp giáo
dục và đào tạo Việt Nam luôn được xem là quốc sách hàng đầu, nhờ vậy giáo
dục nước ta đã gặt hái được nhiều thành tựu, đóng góp xứng đáng vào sự
nghiệp xây đắp nền văn hiến Việt Nam rực rỡ, giàu bản sắc… Công trình đã
giúp cho tác giả có cái nhìn tổng quát về lịch sử giáo dục Việt Nam; trên cơ
sở đó đặt nền tảng cho việc nghiên cứu lịch sử giáo dục địa phương.
Cũng có không ít bài viết về GD - ĐT đăng tải trên các báo, tạp chí
như: Vũ Thiện Vương, Tiếp tục đổi mới sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số
47 năm 2001; Trần Viết Lưu, Suy nghĩ về các giải pháp phát triển giáo dục
phổ thông nước ta hiện nay, Tạp chí Giáo dục số 92 (2002); Vũ Ngọc Hải,
Đổi mới Giáo dục - Đào tạo nước ta trong những năm đầu thế kỷ XXI, Tạp
chí Phát triển giáo dục, số 4 năm 2003; Hồ Thiệu Hùng, Một số cơ hội để
đánh giá thực trạng giáo dục trung học phổ thông, báo Tuổi trẻ (2003);
Nguyễn Cảnh Toàn, Phát huy việc tự học trong trường phổ thông trung học,
báo Giáo dục và Thời đại (2003) và Chất lượng giáo dục phổ thông - một số
vấn đề cấp bách, báo Văn nghệ (2003); Huỳnh Công Minh, Tiếp cận chất
lượng giáo dục phổ thông dưới góc độ mục tiêu đào tạo, Tạp chí Giáo dục số
92 (2004); Ngô Văn Hiển, Các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư cho Giáo
dục - Đào tạo thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, Tạp chí Giáo
dục, số 112 năm 2005; Dương Văn Khoa, Phát triển mạnh mẽ Giáo dục - Đào
tạo theo hướng hiện đại, thiết thực, nhanh chóng nâng cao dân trí, tạo nguồn
nhân lực dồi dào và đội ngũ nhân tài cho đất nước, Tạp chí Dạy và Học ngày
nay, số 8 năm 2005; Phạm Thị Kim Anh, Những thay đổi của Giáo dục - Đào
tạo Việt Nam từ sau công cuộc đổi mới (1986) đến nay, Tạp chí Dạy và Học
ngày nay, số 7 năm 2008; Nguyễn Hữu Chí, Những quan điểm cơ bản của
Đảng về Giáo dục - Đào tạo qua các chặng đường lịch sử, Tạp chí Lịch sử
10
Đảng, số 10 năm 2010;… Nội dung các bài viết phản ánh nhiều mặt về thực
trạng nền giáo dục nước nhà; luận giải những quan điểm cơ bản của Đảng về
GD - ĐT từ năm 1945 đến nay; đề ra những phương hướng giải pháp tích cực
nhằm phát triển nền giáo dục XHCN. Tuy nhiên, các bài viết này chỉ dừng lại
ở những vấn đề lớn, phạm vi rộng của GD - ĐT Việt Nam, chưa đi sâu vào
từng địa phương cụ thể, song đây là nguồn tư liệu quý giúp tác giả định
hướng nội dung trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Một số nhà nghiên cứu về giáo dục còn đi sâu tìm hiểu về kinh nghiệm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở một số quốc gia có nền giáo dục phát
triển, tiêu biểu như: Đặng Thị Thanh Huyền, Giáo dục phổ thông với phát
triển chất lượng nguồn nhân lực - những bài học thực tiễn từ Nhật Bản, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội 2001. Toàn bộ cuốn sách thể hiện sự am hiểu sâu
sắc của tác giả về GDPT Nhật Bản cũng như chiến lược phát triển kinh tế của
đất nước này. Điều đó được thể hiện xuyên suốt qua 4 chương của cuốn sách
với một cấu trúc chặt chẽ, hợp lý, đảm bảo logic của cuốn sách. Tác giả của
cuốn sách đã phân tích rõ sự tiến triển về chiến lược giáo dục trong mối quan
hệ với các yêu cầu phát triển kinh tế của Nhật Bản, đặc biệt từ sau chiến tranh
thế giới thứ hai. Cuốn sách là đã khái quát một cách cụ thể và khá toàn diện
chặt chẽ giữa GDPT với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Nhật Bản.
Những kinh nghiệm quan trọng của người Nhật Bản trong cách giải quyết có
hiểu quả mối quan hệ giữa GDPT và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đã
được phân tích khái quát thành ba bài học chủ yếu. Qua đó, tác giả đã đưa ra
các gợi ý cho Việt Nam với ý tưởng muốn vận dụng những kinh nghiệm đó
vào hoàn cảnh nước nhà. Các tác giả Nguyễn Văn Lê, Hà Thế Truyền, Một số
kinh nghiệm về giáo dục phổ thông và hướng nghiệp trên thế giới, NXB Đại
học Sư phạm, Hà Nội 2004 đã khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục
trung học phổ thông đối với mỗi quốc gia, biểu hiện ở chỗ: Giáo dục trung
học đóng góp tích cực và tối ưu cho sự phát triển nguồn nhân lực quốc gia.
11
Với yêu cầu phát triển toàn diện, người lao động dù học lên đại học học hoặc
sớm đi vào cuộc sống lao động, nữ cũng như nam đều phải được hình thành
những giá trị văn hóa, đạo đức, nhân văn cùng với những kiến thức khoa học
kĩ thuật, năng lực sáng tạo. Họ không chỉ có năng lực góp phần đẩy mạnh sự
phát triển quốc gia mà còn phải có tiềm năng sinh lợi từ những thành quả của
sự phát triển đó. Tác giả cũng nhấn mạnh: Trong bối cảnh hiện nay, giáo dục
trung học phổ thông có tầm quan trọng ngày càng lớn trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Thực tế đòi hỏi phải tăng cường hiệu quả giáo dục hướng nghiệp
trong GDPT… Công trình của các tác giả nêu trên đã khái quát về bức tranh
của một số nước có nền giáo dục phát triển, từ đó thấy được thực trạng của
nền giáo dục Việt Nam. Đây là những tư liệu quan trọng để tác giả nghiên cứu
và tìm hiểu về những khoảng trống của nền giáo dục Việt Nam nói chung,
GDPT nói riêng.
Một số luận án Tiến sĩ chuyên ngành Giáo dục học, Lịch sử Việt Nam
hiện đại, nghiên cứu về giáo dục nói chung và GDPT nói riêng như: Lê Xuân
Trường, Một số biện pháp sử dụng nguồn lực tài chính nhằm phát triển giáo
dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay, (2004); Phạm Xuân Tài, Quá trình
phát triển giáo dục phổ thông của Hà Nội từ năm 1986 đến năm 2008,
(2012); Duy Thị Hải Hường, Giáo dục các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
từ 1954 đến 1965, (2014); Nguyễn Gia Kiệm, Quá trình thực hiện xã hội hóa
giáo dục phổ thông ở Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến năm 2010,
(2014); Nguyễn Văn Thắng, Quá trình phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh
Thanh Hóa từ năm 1986 đến năm 2006, (2014); Nguyễn Thúy Quỳnh, Giáo
dục phổ thông ở miền Bắc Việt Nam từ 1954 đến 1975, (2015)… Nội dung
của các luận án đều có điểm chung là đã quán triệt và vận dụng một cách sáng
tạo quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục và
GDPT vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương; nhận xét, đánh giá
về thực trạng phát triển GDPT trên một số kết quả chính, từ đó rút ra những bài
12
học kinh nghiệm phục vụ cho sự nghiệp xây dựng, đổi mới và phát triển giáo
dục nói chung, GDPT nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Những nghiên cứu có liên quan đến giáo dục ở tỉnh Hòa Bình
Phát triển GD - ĐT của của tỉnh Hòa Bình là một trong những nội dung
quan trọng phục vụ mục tiêu phát triển KT - XH của địa phương, nên đã được
đề cập khá nhiều trong các công trình nghiên cứu, có thể kể đến:
Địa chí Hòa Bình, Tỉnh uỷ - Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005. Đây là công trình khoa học tổng hợp chứa
đựng nhiều nội dung phong phú, khai thác triệt để các nguồn tư liệu thành
văn và điền dã, đã làm sáng tỏ những lĩnh vực địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hoá,
xã hội và các mối liên hệ gắn bó giữa các lĩnh vực đó. Về phát triển giáo dục
qua các thời kỳ từ thời phong kiến đến nay cũng đã được đề cập đến, tuy nhiên
nội dung phần giáo dục chỉ dừng lại ở mức độ ghi nhận một cách khái quát
nhất, những nét lớn về giáo dục của tỉnh Hoà Bình qua các giai đoạn lịch sử mà
chưa có đánh giá, nhận xét cụ thể về quá trình phát triển giáo dục trong tỉnh.
Song có thể nói, các nguồn tư liệu thành văn, điền dã ở các lĩnh vực nêu trên
cũng đã phần nào chỉ ra được những thuận lợi, khó khăn và sự tác động, ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình phát triển giáo dục của tỉnh Hòa Bình.
Đảng bộ tỉnh Hoà Bình qua các kỳ đại hội (1945 - 2005), Ban Tuyên
giáo tỉnh uỷ Hoà Bình, 2008. Cuốn sách đã khái quát đầy đủ về 14 kỳ đại hội
của Đảng bộ tỉnh Hoà Bình qua 60 năm lãnh đạo, trên cơ sở vận dụng linh
hoạt các chủ trương của Trung ương và đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm
vụ phù hợp với điều kiện của tỉnh trong các giai đoạn lịch sử cụ thể, qua đó
những chủ trương, đường lối về phát triển GD - ĐT cũng được đề cập một
phần trong cuốn sách này, đồng thời là tư tiệu quan trọng để tác giả nghiên
cứu, tổng hợp vào luận án.
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hòa Bình (1929 - 2010), Ban chấp hành Đảng bộ
tỉnh Hòa Bình, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010. Cuốn sách được
13
nghiên cứu, kế thừa, dựa trên những nội dung: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hoà
Bình tập I (1929 - 1945), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hoà Bình tập II (1954 - 1975)
và Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hoà Bình tập III (1975 - 2000). Bố cục của cuốn
sách gồm 6 chương, đã tái hiện toàn cảnh về vị trí chiến lược và truyền thống
lịch sử - văn hóa; quá tình hoạt động đầy thử thách, hy sinh giành thắng lợi to
lớn của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Hoà Bình từ năm 1929 đến
năm 2010. Tuy không trực tiếp đề cập đến quá trình phát triển giáo dục cũng
như luận giải về những vấn đề này nhưng khi trình bày về quá trình lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh, cuốn sách đã điểm qua một số thành tựu cũng như
một số hạn chế của giáo dục Hoà Bình.
Lịch sử giáo dục và đào tạo tỉnh Hòa Bình (1945 - 2008), Sở GD - ĐT
Hòa Bình, 2010. Công trình đã ghi lại những trang sử hào hùng và oanh liệt
của các thế hệ cán bộ, giáo viên và học sinh của tỉnh Hòa Bình đã tạo dựng
nên, giúp cho các thế hệ con em của nhân dân các dân tộc Hòa Bình hôm nay
và mai sau hiểu được phần nào lịch sử và truyền thống văn hiến, hiếu học của
dân tộc Việt Nam nói chung và nhân dân các dân tộc Hòa Bình nói riêng để
phát huy hơn truyền thống quý báu đó. Đặc biệt công trình cũng đã nhấn
mạnh đến những thành tựu về phát triển giáo dục từ năm 1991, thời điểm tái
lập tỉnh Hoà Bình đến năm 2008, trong đó có những thành tựu về GDPT.
Công trình đã chứa đựng nhiều tư liệu quan trọng cho tác giả nghiên cứu
trong luận án.
Lịch sử Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh Hòa Bình (1958 - 2013), Đảng
bộ tỉnh Hòa Bình, Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh, 2013. Cuốn sách bao gồm
5 chương, đã giới thiệu về các giai đoạn lịch sử cách mạng, những chặng
đường phát triển của Đảng uỷ khối các cơ quan tỉnh từ năm 1958 đến năm
2013. Trong đó, Đảng bộ cơ quan Sở GD - ĐT Hòa Bình là đơn vị trực thuộc
Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh. Do vậy nội dung được trình bày trong cuốn
sách qua các giai đoạn lịch sử của Đảng bộ Khối tuy không đi sâu về lĩnh vực
14
GDPT, song một số thành tựu chủ yếu dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ cơ quan
Sở GD - ĐTcũng được đề cập đến trong nội dung của cuốn sách này.
Cuốn Gương người tốt, việc tốt tỉnh Hòa Bình (2010 - 2015), Hội đồng
thi đua - khen thưởng tỉnh Hòa Bình, 2015, bao gồm 80 bài viết về các tập
thể, cá nhân tiêu biểu trong các phong trào thi đua yêu nước trên địa bàn tỉnh.
Thông qua đó, biểu dương ghi nhận những kết quả đã đạt được từ các phong
trào thi đua yêu nước; tôn vinh các tập thể, cá nhân tiêu biểu trong các cấp,
các ngành. Từ đó, khơi dậy và cổ vũ sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết
dân tộc, phát huy nội lực, tạo động lực thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát
triển kinh tế, xã hội, cũng như góp phần tuyên truyền, cổ vũ, nhân rộng các
gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến ở các địa phương, đơn vị để xã
hội học tập và làm theo. Các tập thể và cá nhân được nêu gương, trong đó có
lĩnh vực GDPT, tuy không tiệm cận trực tiếp đến lĩnh vực của luận án, song
cũng là động lực thúc đẩy quan trọng cho phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình
trong các giai đoạn tiếp theo.
Đẻ đất đẻ nước và phong tục đạo lý nhân văn Mường, UBND tỉnh Hòa
Bình, Bùi Thiện sưu tầm, biên dịch, giới thiệu, NXB Văn hóa dân tộc, 2015.
Công trình được coi là một bộ từ điển về sử thi, về tri thức dân gian của dân
tộc Mường nói chung và người Mường tỉnh Hòa Bình nói riêng. Với hơn
1300 trang sách, tác giả đã giúp chúng ta rõ hơn về các nghi thức dân gian
chủ yếu của người Mường là Mo, Trượng và Mỡi; quan niệm về vũ trụ, về xứ
Mường xưa, về đạo lý, nhân văn, về lịch sử dân tộc người đã và đang là
những chủ nhân của tỉnh Hòa Bình. Đặc biệt đây là lần đầu tiên, cuốn sách
chính thức cho chúng ta biết Mo Mường không chỉ có đẻ đất đẻ nước, mà còn
có rất nhiều các áng Mo khác phản ánh phong tục và đạo lý. Một cái nhìn bao
quát thì đó là những câu chuyện về huyền thoại - huyền tích; là áng sử thi về
nguồn gốc loài người; về cuộc chiến sinh tồn; về lao động và những cuộc
chiến huyền thoại từ xa xưa của xứ Mường. Tác phẩm không trực tiếp đề cập
15
đến GDPT, song là một tỉnh với đa số dân cư là dân tộc Mường, do chịu ảnh
hưởng của các yếu tố truyền thống, văn hóa, tập tục, tín ngưỡng nên cũng có
sự tác động nhất định đến phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình qua các giai đoạn.
Cuốn "Văn phòng Tỉnh ủy Hòa Bình 70 năm - những chặng đường phát
triển" đã tái hiện lại quá trình hoạt động 70 năm xây dựng và phát triển của
Văn phòng Tỉnh ủy qua các thời kỳ, thể hiện chính xác, đầy đủ dữ liệu và giá
trị lịch sử, khoa học. Tuy chưa được xuất bản, song các đại biểu tham dự Hội
nghị đều nhất trí cao với nội dung và bố cục của cuốn sách và sẽ được phát
hành trong thời gian gấn nhất, để các độc giả quan tâm nghiên cứu. Qua
chặng đường 70 năm phát triển của Văn phòng Tỉnh ủy, cuốn sách không đi
sâu về chủ trương phát triển GDPT, song mọi tham mưu cho Tỉnh ủy về chủ
trương phát triển GD - ĐT, nơi lưu trữ các văn bản của tỉnh ủy, trong đó có
các văn bản chỉ đạo về giáo dục, các số liệu báo cáo cũng được đề cập trong
cuốn sách này.
Liên quan đến đề tài của luận án còn có những công trình, bài viết của
các nhà nghiên cứu như: Pierre - Grossin, Tỉnh mường Hòa Bình, Nxb Lao
động, Hà Nội, 1994; Đỗ Thế Mậu, Nguyễn Thành Công, Hà Văn Thu, Hòa
Bình những tập thể và cá nhân anh hùng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2000; Quách Thế Tản, Văn hóa Hòa Bình ở thế kỷ XXI, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội, 2000; Chu Viết Luân, Hòa Bình - thế và lực trong thế kỉ XXI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Bùi Văn Thắng, Hòa Bình phía trước là
những con đường, Tạp chí Thương Mại, 2005; Hồ Sỹ Quý, Nguyễn Ngọc
Hồng, Dương Thị Bạch Kim, Con người và phát triển con người ở Hòa Bình:
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007; Phạm
Lê Hòa, Những ghi chép về người Mường ở Hòa Bình Phần 1: Đặc điểm nơi
cư trú, Tạp chí Giáo dục Nghệ thuật, 2017… Các công trình, bài viết chưa
trực tiếp đề cập đến đề tài của luận án, song có mối liên hệ với các mặt, các
lĩnh vực và tác động chung đến quá trình phát triển GD - ĐT ở tỉnh Hoà Bình.
16
Luận án Tiến sĩ Sử học của Bùi Thị Nguyệt Quỳnh, Quá trình chuyển
biến kinh tế, xã hội tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010, (2017) là công
trình nghiên cứu khoa học chuyên khảo đã tổng hợp một cách hệ thống về sự
chuyển biến kinh tế, xã hội của tỉnh Hòa Bình trong giai đoạn 1991 đến 2010
với những chỉ số định lượng cụ thể của từng lĩnh vực, cũng như những tiềm
năng thế mạnh và thách thức đặt ra cho địa phương trong sự phát triển đi lên.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đã đưa ra một số nhận xét, đánh giá,
đồng thời cũng gợi mở một số đề xuất nhằm góp phần vào sự phát triển kinh
tế, xã hội của tỉnh Hòa Bình trong thời gian tới. Tuy không trực tiếp nghiên
cứu về GDPT, song một số kết quả về phát triển KT - XH của tỉnh Hòa Bình,
trong đó có GDPT cũng được đề cập khái quát trong nội dung luận án.
1.3. Những kết quả nghiên cứu đã đạt được và những vấn đề luận
án cần tiếp tục nghiên cứu
1.3.1. Kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố.
Các công trình, bài viết đề cập đến GD - ĐT nói chung, GDPT nói
riêng như tác giả nêu trên rất phong phú và đa dạng, đã nghiên cứu ở nhiều
góc độ, khía cạnh, giai đoạn lịch sử khác nhau. Công trình được nghiên cứu là
các tổ chức, các nhóm, các cá nhân quan tâm. Kết quả nghiên cứu của các
công trình, bài viết đã làm rõ được những vấn đề cơ bản như sau:
Thứ nhất: Các công trình nghiên cứu về giáo dục và giáo dục phổ thông
- Nhiều công trình nghiên cứu có tính chất lý luận về giáo dục, đã hệ
thống những quan điểm, tư tưởng của Đảng về GD - ĐT, bao gồm cả khái
niệm, mục đích, nội dung, cách dạy, cách học, cách quản lý, cách lãnh đạo
ngành giáo dục… Đây là cơ sở lý luận quan trọng góp phần vào công tác xây
dựng đường lối chính sách về phát triển giáo dục ở nước ta, cho nền khoa học
giáo dục Việt Nam và về chiến lược xây dựng con người mới.
- Các công trình cũng đã khẳng định vai trò của GD - ĐT là yếu tố quan
trọng nhất trong chiến lược con người của Đảng, là hạt nhân, là động lực thúc
đẩy sự phát triển KT - XH của đất nước.
17
- Một số công trình đã đi vào tổng kết quá trình phát triển của ngành
giáo dục Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, đã đánh giá, nhận xét
về giáo dục Việt Nam qua các giai đoạn đó; đồng thời rút ra một số bài học
kinh nghiệm và định hướng phát triển GD - ĐT ở Việt Nam trong những năm
tiếp theo.
- Một số tác giả đã đề cập đến việc tăng cường hợp tác quốc tế để nâng
cao chất lượng giáo dục, phương hướng đổi mới giáo dục, đa dạng hoá các
loại hình đào tạo, thực hiện xã hội hoá giáo dục và chỉ ra sự tác động của các
nguồn lực, các chính sách lớn đến GD - ĐT ở Việt Nam.
- Một số nhà nghiên cứu về giáo dục còn đi sâu tìm hiểu về kinh nghiệm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở một số quốc gia có nền giáo dục phát
triển, qua đó đã đưa ra các gợi ý cho Việt Nam với ý tưởng muốn vận dụng
những kinh nghiệm đó vào hoàn cảnh nước nhà.
- Một số công trình, bài viết, luận án đã trực tiếp nghiên cứu về GDPT
như nghiên cứu về lịch sử phát triển, đánh giá khái quát về thực trạng và đưa
ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng GDPT trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai: Các công trình nghiên cứu về tỉnh Hòa Bình có liên quan đến
giáo dục
- Một số công trình, bài viết đã tái hiện toàn cảnh về vị trí chiến lược và
truyền thống lịch sử - văn hóa; quá tình hoạt động đầy thử thách, hy sinh giành
thắng lợi to lớn của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Hoà Bình qua các
giai đoạn lịch sử, đã chứa đựng nhiều nội dung phong phú các nguồn tư liệu
thành văn, điền dã và làm sáng tỏ trên những lĩnh vực địa lý, lịch sử, kinh tế,
văn hoá, xã hội và mối liên hệ gắn bó giữa các lĩnh vực đó. Về phát triển giáo
dục qua các giai đoạn lịch sử cũng đã được đề cập đến ở một cách khái quát
nhất, những nét lớn về giáo dục của tỉnh Hoà Bình trong các công trình này.
- Một số cuốn sách đã khái quát đầy đủ về các kỳ đại hội của Đảng bộ
tỉnh Hoà Bình, trên cơ sở vận dụng linh hoạt các chủ trương của Đảng, đồng
18
thời đã đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ cho phù hợp với điều kiện
của tỉnh Hòa Bình qua các giai đoạn lịch sử. Qua đó, những chủ trương,
đường lối và một số chỉ tiêu chính về phát triển giáo dục cũng được đề cập
đến trong các cuốn sách.
- Một số công trình đã trực tiếp nghiên cứu về GD - ĐT ở tỉnh Hòa
Bình, đã giới thiệu các sự kiện tiêu biểu và những thành tựu cơ bản của sự
nghiệp giáo dục của tỉnh Hoà Bình dưới chế độ mới,…
Có thể nói các công trình, bài viết mà các tác giả đề cập đến trong nội
dung tổng quan, có mối liên hệ với các mặt, các lĩnh vực và liên quan trực
tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình phát triển GDPT ở tỉnh Hoà Bình. Đây là
những tư liệu và là định hướng nghiên cứu có giá trị quan trọng giúp tác giả
tham khảo cho luận án của mình.
1.3.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu.
Hầu hết các công trình nghiên cứu trước đây về giáo dục và GDPT,
mới chỉ đánh giá khái quát ở góc độ ghi nhận, hay nghiên cứu trên một số
mặt, một số lĩnh vực cụ thể, ở các địa phương khác nhau mà chưa nghiên cứu
một cách có hệ thống, toàn diện về GDPT, nhất là chưa đánh giá được thực
trạng GDPT trên các mặt, các lĩnh vực. Còn các công trình, bài viết nghiên
cứu về tỉnh Hòa Bình và GD - ĐT ở tỉnh Hòa Bình cũng mới chỉ chủ yếu đề
cập đến GD - ĐT nói chung, hoặc điểm qua một số thành tựu, hạn chế về giáo
dục qua các giai đoạn lịch sử… mà chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu
về GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010.
Với những đánh giá, nhận xét nêu trên, tác giả nhận thấy rằng GDPT ở
tỉnh Hòa Bình còn những khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu trong nội
dung luận án, tác giả sẽ tập trung giải quyết vào một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, phân tích làm rõ những yếu tố tác động đến GDPT ở tỉnh
Hòa Bình; đồng thời nêu lên chủ trương của Đảng và sự vận dụng của Đảng
bộ tỉnh Hòa Bình về phát triển GDPT.
19
Thứ hai, làm rõ thực trạng GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến
năm 2010.
Thứ ba, trên cơ sở đánh giá khách quan về quá trình phát triển GDPT ở
tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010 sẽ rút ra đặc điểm chủ yếu và một số
kinh nghiệm cho GDPT tỉnh Hòa Bình trong các giai đoạn phát triển tiếp theo.
20
Chương 2
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở TỈNH HÒA BÌNH
GIAI ĐOẠN 1991 - 2001
2.1. Khái quát về tỉnh Hòa Bình và giáo dục phổ thông ở Hòa Bình
trước khi tái lập tỉnh (1991)
2.1.1. Khái quát về tỉnh Hòa Bình và những yếu tố tác động đến quá
trình phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình.
Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên.
Hòa Bình là một tỉnh miền núi nằm ở cửa ngõ vùng Tây Bắc của Tổ
quốc, có vị trí địa lý quan trọng của vùng chuyển tiếp từ đồng bằng lên vùng
núi, điểm trung chuyển sức hút ảnh hưởng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
của Thủ đô Hà Nội.
Nằm trong giới hạn ở vị trí 20,9 độ vĩ bắc và 104,86 độ kinh đông, phía
Bắc giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp thành phố Hà Nội, phía Tây giáp tỉnh
Sơn La, phía Nam giáp tỉnh Ninh Bình, Hà Nam và Thanh Hóa. Diện tích
toàn tỉnh Hòa Bình là 4.596,4km2, ở địa bàn miền núi, nông - lâm nghiệp là
tiềm năng kinh tế quan trọng hàng đầu của tỉnh, đặc biệt là tiềm năng về lâm
nghiệp. Trong tổng số 307.755ha đất nông - lâm nghiệp, đất lâm nghiệp chiếm
tới 250.168ha, bằng 80%; cấy lúa, hoa màu 29.243ha, bằng 10% diện tích, còn
lại phần lớn diện tích trong tỉnh là núi đá vôi và đồi núi trọc [2, tr. 9,12].
Ngày 22 - 6 - 1886, chính quyền thực dân Pháp kí Nghị định cắt vùng
đất có nhiều đồng bào Mường cư trú thuộc các tỉnh Hưng Hóa, Sơn Tây, Hà
Nội và Ninh Bình để thành lập một tỉnh mới gọi là tỉnh Mường (tỉnh lỵ đặt tại
Chợ Bờ), tỉnh Mường bao gồm 4 phủ: Vàng An, Lương Sơn, Lạc Sơn và chợ
Bờ. Ngày 5 - 9 - 1896, tỉnh lỵ tỉnh Mường được chuyển về làng Vĩnh Diệu,
xã Hòa Bình (phía tả ngạn sông Đà, đối diện xã Phương Lâm), từ đó tỉnh
Mường được gọi là tỉnh Hòa Bình và địa giới của tỉnh về cơ bản đã được ổn
21
định. Sau năm 1954, các châu được chuyển thành đơn vị hành chính cấp
huyện. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa V, kì họp thứ 2, ngày 01 - 4
- 1976, hai tỉnh Hòa Bình và Hà Tây sát nhập thành tỉnh Hà Sơn Bình và
chính thức đi vào hoạt động. Năm 1991, Quốc hội khóa VIII, kì họp thứ IX,
đã quyết định điều chỉnh lại địa giới và chia cắt tỉnh Hà Sơn Bình thành hai
tỉnh là Hà Tây và Hòa Bình.
Tính đến năm 2009, tỉnh Hòa Bình có 10 huyện và 1 thành phố, 210
xã, phường và thị trấn. Tỉnh lỵ Hòa Bình (nay là thành phố Hòa Bình), cách
Thủ đô Hà Nội 76 km về phía Tây. Đường quốc lộ 6 đi qua Hòa Bình dài 125
km, nối liền Hà Nội, đồng bằng Bắc Bộ với Tây Bắc và Thượng Lào. Các
tuyến đường 12, 15, 21 đã nối liền Hòa Bình với các tỉnh Ninh Bình, Thanh
Hóa và Hà Nam. Theo kết quả tổng điều tra dân số năm 2009, tỉnh Hòa Bình
có 832.543 người, với mật độ dân số 171 người/km2. Hòa Bình là địa bàn cư
trú của nhiều dân tộc anh em, trong đó có 7 dân tộc chính. Dân tộc Mường
đông nhất chiếm 62,98%, ngoài ra còn có các dân tộc Kinh, dân tộc Thái, dân
tộc Tày, dân tộc Dao, dân tộc Mông và dân tộc Hoa [2, tr. 9].
Địa hình Hòa Bình bị chia cắt phức tạp, có độ dốc lớn. Vùng núi cao
hiểm trở nằm ở phía Tây Bắc với độ cao trung bình 600 - 700m so với mặt
nước biển, với độ dốc 30 - 35°, có nơi dốc trên 40°. Phía Đông Nam là vùng
núi thấp với độ cao trung bình 100 - 200m và độ dốc 20 - 25° [163, tr. 3].
Trên dải cao nguyên đá vôi chạy suốt từ Phong Thổ (Lai Châu) đến bờ biển
Ninh Bình, hoạt động Cacxtơ hóa đã tạo ra bồn địa giữa núi có điều kiện cư
trú thuận lợi (địa hình thấp, khá bằng phẳng, đất đai màu mỡ, có nguồn
nước…) hình thành lên các xứ Mường trù phú sinh sống.
Khí hậu ở Hòa Bình có đặc điểm nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm ướt với
nhiệt độ trung bình từ 23,4°C, những tháng nhiệt độ cao thường vào tháng 6,
tháng 7, tháng 8 nhiệt độ trên 30°C; lượng mưa hàng năm từ 1800mm -
2000mm và độ ẩm trung bình hàng năm 85% [163, tr. 20].
22
Hòa Bình có hai con sông chính: Sông Đà bắt nguồn từ Trung Quốc
chảy qua các tỉnh Tây Bắc của Việt Nam đến Việt Trì nhập vào sông Hồng,
đoạn có chiều dài chảy qua Hòa Bình 151km. Sông Bôi, bắt nguồn từ Kỳ
Sơn, chảy qua huyện Kim Bôi, Lạc Thủy ra Nho Quan (Ninh Bình), có chiều
dài qua Hòa Bình 66km. Ngoài ra còn có các sông Bưởi, sông Bùi, sông
Lạng… Hồ lớn nhất của tỉnh Hòa Bình là hồ sông Đà với diện tích mặt nước
trên 9000ha và dung tích 9,5 tỉ m³. Đây không chỉ là công trình thủy điện lớn
nhất cả nước với tổng công xuất 1920Mw và lượng thủy năng 50 tỷ kw/h mà
còn là công trình thủy lợi cung cấp nguồn nước phục vụ sản xuất sinh hoạt, nuôi
trồng thủy hải sản của tỉnh cũng như tạo ra khu du lịch lòng hồ đầy triển vọng.
Thiên nhiên đã tạo ra cho Hòa Bình nhiều cảnh quan đẹp và kỳ thú
như: núi Cột Cờ (huyện Tân Lạc) hang Can (huyện Kỳ Sơn) hang Trại (huyện
Lạc Sơn) hang Đồng Nội (huyện Lạc Thủy) các khu du lịch Vua Bà, Chợ Bờ,
suối nước khoáng Mớ Bà (huyện Kim Bôi)… Nhờ bàn tay lao động cần cù và
sáng tạo, nhân dân các dân tộc ở đây đã tạo nên nền văn hóa Hòa Bình nổi
tiếng với những bản làng đẹp của đồng bào Thái (bản Lác - Mai Châu), của
dân tộc Mường (bản Đốm - Thành phố Hòa Bình), cùng với trang phục thổ
cẩm đầy màu sắc, đặc sản rượu cần của địa phương… đã mang đến cho Hòa
Bình những điểm du lịch có giá trị văn hóa cao.
Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên nêu trên đã có ảnh hưởng rất lớn
đến phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình, đặc biệt đối với một tỉnh miền núi,
nhiều nơi giao thông đi lại thường xuyên bị chia cắt, địa hình, địa thế khá
hiểm trở, dân cư thưa thớt nằm dải rác ở khắp nơi, tỷ lệ dân tộc thiểu số cư trú
ở các vùng sâu, vùng xa, vùng lòng hồ còn khá phổ biến,… vì vậy điều kiện
cho con em tham gia học tập cũng như việc mở trường, lớp tại các thôn, bản,
vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn, ở vùng lòng hồ các em phải đi học
bằng thuyền vừa khó khăn, vừa nguy hiểm. Những khó khăn đó đã ảnh hưởng
không nhỏ đến số lượng và chất lượng của giáo dục của tỉnh Hòa Bình.
23
Kinh tế.
Thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, từ thực tiễn phát triển KT - XH của địa
phương, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hòa Bình từ các khóa XI
(1992) đến khóa XV (2010) đưa ra mục tiêu trọng tâm là: Ổn định và đẩy
mạnh phát triển KT - XH, giải phóng năng lực sản xuất; từng bước chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH; phát triển mạnh mẽ tiểu thủ công
nghiệp, xây dựng - công nghiệp và phát triển thương mại, du lịch, dịch vụ;
tăng trưởng kinh tế gắn với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội; bảo
đảm an ninh - quốc phòng; từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân [2, tr. 818].
Thực hiện mục tiêu, chiến lược phát triển KT - XH do Đại hội Đảng bộ
tỉnh Hòa Bình đã đề ra, sau 20 năm tái lập tỉnh, giai đoạn 1991 - 2010, phát
triển kinh tế ở Hòa Bình có bước chuyển biến rõ nét, đã đạt những thành tựu
khá toàn diện, GDP liên tục đạt tốc độ tăng trưởng khá, với mức bình quân
7,6%/ năm trong giai đoạn 1991 - 1995; 7,5%/ năm trong giai đoạn 1996 -
2000; 8%/ năm trong giai đoạn 2001 - 2005, đặc biệt trong giai đoạn 2006 -
2010, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 12,14%. Thu ngân sách nhà nước có
bước nhảy vọt (năm 1995 đạt 240,3 tỉ đồng, năm 2005 đạt 379 tỷ đồng, năm
2010 đạt 1.322 tỷ đồng). Thu nhập bình quân đầu người năm 1995 là 1,7 triệu
đồng, năm 2000 là 2,5 triệu đồng, năm 2010 đạt 13,2 triệu đồng; đời sống của
nhân dân các dân tộc trong tỉnh không ngừng được cải thiện. Toàn tỉnh không
còn hộ đói, tốc độ giảm nghèo nhanh từ 31,31% năm 2005 xuống còn 14%
năm 2010. Kết cấu hạ tầng KT - XH được đầu tư phát triển, đường giao
thông, điện, trường học, bệnh viện, công trình thủy lợi, cùng các công trình
phúc lợi khác phát triển mạnh làm cho diện mạo của tỉnh Hòa Bình có nhiều
thay đổi nhanh chóng, nhất là Thành phố Hòa Bình và các thị trấn. Sản xuất
24
nông nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng bền vững; sản xuất công nghiệp
tăng giá trị gấp 2,5 lần so với năm 2005; các ngành dịch vụ phát triển khá,
tổng mức doanh thu tăng gấp 4,5 lần so với năm 2005 [2, tr. 809]. Quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Hòa Bình diễn ra theo hướng giảm dần tỉ
trọng của nông - lâm - ngư nghiệp, tăng dần tỉ trọng của công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ. Tiến trình này phù hợp với xu thế chung của chuyển dịch cơ
cấu kinh tế đất nước trong thời kỳ đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa (CNH, HĐH) và hội nhập quốc tế, được thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 2.1. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế (1991 - 2010)
Nguồn: [159, tr. 427] Nguồn: [2, tr. 786]
Với tốc độ tăng trưởng về kinh tế và thu nhập bình quân đầu người qua
các năm của tỉnh Hòa Bình không ngừng được tăng lên đã góp phần quan
trọng vào tổng thu ngân sách của tỉnh, nhờ đó đầu tư cho giáo dục cũng được
tăng theo mức thu hàng năm, tạo động lực quan trọng cho GDPT được phát
triển. Bên cạnh đó, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp
- xây dựng và dịch vụ, tỷ trọng trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp giảm dần, đã
đặt ra yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực đối với GDPT phải kịp thời thích
ứng với sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế. Đây vừa là điều kiện thuận lợi,
song cũng đặt ra không ít những khó khăn, thách thức đối với phát triển
GDPT ở tỉnh Hòa Bình.
25
Truyền thống lịch sử, văn hóa - xã hội.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, ở địa bàn có vị trí
quan trọng, địa thế hiểm yếu nên nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình có
truyền thống yêu nước, đấu tranh lâu đời, chính trong quá trình đó, truyền
thống yêu nước được hình thành và ngày càng được bồi đắp, phát huy. Núi
vua Bà đã đi vào sử sách, là nơi lập căn cứ của hai nữ anh hùng Trưng Trắc,
Trưng Nhị chống lại quân xâm lược Đông Hán trong những năm đầu công
nguyên. Thế kỷ XV, phong kiến nhà Minh xâm lược và thống trị nước ta, Lê
Lợi đã dựng cờ khởi nghĩa tại Lam Sơn (Thanh Hóa), dải đất liền mạch với
địa bàn cư trú của đồng bào Mường Hòa Bình, nghĩa quân đã được nhân dân
các dân tộc Hòa Bình hết lòng ủng hộ, kết thúc cuộc kháng chiến 10 năm
gian khổ giành độc lập dân tộc. Thế kỷ XVIII, nước ta bị tập đoàn phong kiến
phương Bắc Mãn Thanh xâm lược, người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ từ
Phú Xuân đưa đại quân thần tốc ra đại phá quân Thanh, trên đường qua Lạc
Sơn - Kim Bôi được nhân dân tận tình giúp đỡ như dẫn đường, ủng hộ và vận
chuyển lương thực, thực phẩm… Không chỉ có truyền thống yêu nước chống
giặc ngoại xâm, nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình còn có truyền thống đấu
tranh chống lại sự áp bức bóc lột của một bộ phận triều đình phong kiến thối
nát. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân
dân các dân tộc Hòa Bình tiếp tục nêu cao tinh thần đấu tranh bất khuất, anh
dũng đứng lên cầm vũ khí chiến đấu bảo vệ quê hương, bảo vệ nền độc lập
dân tộc và lập nhiều chiến công vang dội, đồng thời là nơi tiếp tế quan trọng
cho tiền tuyến, góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam
thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên xây dựng CNXH.
Nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình có niềm tự hào là quê hương của
một nền văn hóa nổi tiếng, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tiến trình
hình thành, phát triển của loài người nói chung và con người Việt Nam nói
26
riêng, đó là nền văn hóa Hòa Bình, nền văn hóa của dân cư nông nghiệp sơ
khai cách đây hàng vạn năm do nhà khảo cổ học người Pháp Colani phát hiện
và được đại hội lần thứ nhất các nhà tiền sử Viễn Đông họp tại Hà Nội vào
tháng Giêng năm 1932 thừa nhận. Hàng loạt các di chỉ khảo cổ học trên đất
Hòa Bình được phát hiện, trong đó có trống Sông Đà là một trong những
chiếc trống vào loại đẹp nhất, cổ nhất thế giới. Nhiều công cụ bằng đồng
được phát hiện như: rìu lưỡi xéo, lưỡi giáo, thuẫn, dao cắt, thạp thố… thuộc
văn hóa Đông Sơn đã chứng tỏ nền văn hóa nổi tiếng này đã phát triển rực rỡ
trên vùng đất Hòa Bình, là những minh chứng lịch sử khẳng định cư dân xưa
trên đất Hòa Bình đã góp phần xây dựng nền văn minh nông nghiệp của đất
Việt. Dân tộc Mường chính là người Việt cổ.
Tự hào là mảnh đất có chiều dày lịch sử, nhân dân các dân tộc trong
tỉnh cũng tạo cho mình một sắc thái đặc sắc riêng. Đồng bào Mường có lễ hội
Cồng Chiêng, có trường ca “Đẻ đất, đẻ nước”. Đồng bào Thái có chữ viết
riêng từ lâu đời với trường ca “Sống trụ sôn sao”. Tiếng sáo cùng những làn
điệu dân ca H’Mông say đắm,… đã tạo ra sự phong phú đa dạng về văn hóa
Việt Nam mà vẫn giữ được bản sắc riêng của mỗi dân tộc tỉnh Hòa Bình.
Cần cù lao động, nghị lực trong cuộc sống đầy khó khăn vất vả, thật
thà chân chất và giàu lòng nhân ái, mến khách, tình gắn bó keo sơn giữa
những người cùng cộng đồng. Trong lịch sử phát triển của mình, mặc dù tỉnh
Hòa Bình có bề dày văn hóa, nhưng do nhiều nguyên nhân, nền giáo dục Hòa
Bình phát triển rất chậm. Với điều kiện kinh tế mang tính tự cấp, tự túc, lại bị
chế độ lang đạo, thực dân thống trị cực kỳ tàn bạo, lạc hậu và bảo thủ, đã kìm
hãm trình độ dân trí của dân nhân các dân tộc trong tỉnh, ngay cả Công sứ tỉnh
Hòa Bình Regnier cũng phải xem đó như một sai lầm cần phải sửa chữa…
Từ các đặc điểm chủ yếu nêu trên, đã phản ánh những thuận lợi cơ bản,
to lớn cũng như những khó khăn không nhỏ đối với quá trình phát triển
GDPT ở tỉnh Hòa Bình. Song, với truyền thống bất khuất kiên cường chống
27
áp bức bất công, chống quân xâm lược của nhân dân các dân tộc và xuất phát
từ nền tảng văn hóa được các thế hệ dân cư Hòa Bình, là một trong những
nền tảng vững chắc, động lực quan trọng để giáo dục đào tạo nói chung,
GDPT ở tỉnh Hòa Bình nói riêng được phát triển bền vững, cũng như góp
phần vào việc giữ gìn, bảo tồn các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc.
2.1.2. Giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình trước khi tái lập tỉnh (1991).
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi,
hòa bình được lập lại ở miền Bắc, nhân dân các dân tộc trong tỉnh Hoà Bình
bắt tay vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng quê hương
sau 9 năm kháng chiến. Ngành giáo dục tỉnh Hòa Bình bước vào thực hiện
nhiệm vụ mới rất vẻ vang, nhưng cũng đòi hỏi tinh thần trách nhiệm để vượt
qua khó khăn, thách thức. Xác định phát triển GD - ĐT là một trong những
nhiệm vụ trọng yếu, nhân dân các dân tộc Hòa Bình đã dốc sức cho sự nghiệp
chấn hưng và phát triển giáo dục.
Thời kỳ từ năm 1954 đến năm 1975, ngành giáo dục tỉnh Hòa Bình tiếp
tục tiến hành cải cách giáo dục lần thứ hai theo hệ thống giáo dục 10, năm
gồm ba cấp: Cấp I là 4 năm, cấp II là 3 năm, cấp III là 3 năm. Do vậy hệ
thống GDPT của tỉnh Hòa Bình đã không ngừng được phát triển. Trong
những năm khôi phục và phát triển kinh tế (1954 - 1957), cùng với việc hoàn
thiện, củng cố hệ thống GDPT theo chương trình mới, tỉnh Hòa Bình vẫn duy
trì được phong trào bình dân học vụ. Tính đến cuối năm 1957, toàn tỉnh đã tổ
chức được 1548 lớp bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ cho 10.949 người (đạt
144% kế hoạch). Xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy trở thành lá cờ đầu về xóa
mù chữ của tỉnh được Chính phủ tặng thưởng Huân chương. Ngoài ra còn vận
động được 8.568 học viên tham gia bổ túc văn hóa, đạt 173% kế hoạch [146,
tr. 103]. Năm 1958, phong trào bổ túc văn hóa, phát triển GDPT được đẩy
mạnh hơn các năm trước. Toàn ngành giáo dục của tỉnh đã mở các lớp bình
dân học vụ, thu hút được 26.500 học viên tham dự, về cơ bản đã xóa mù chữ
28
ở các xã Yên Lạc, Ngọc Lương, Yên Trị, Lạc Lương, Đoàn Kết, Hữu Lợi
thuộc huyện Yên Thủy; xã Thịnh Lang, Trung Minh, Phú Minh thuộc huyện
Kỳ Sơn. Ở huyện Lương Sơn, năm 1960, 100% số người trong độ tuổi, chưa
biết chữ đều đi học và chuyển sang thực hiện bổ túc văn hóa [146, tr. 107-
109]. Đối với các xã vùng cao, vùng xa, toàn tỉnh Hòa Bình đã mở thêm 9
trường cấp I ở vùng cao và vùng đồng bào Thiên Chúa giáo, ở Kim Bôi đã
mở thêm một trường cấp II. Số học sinh phổ thông thời kỳ này đã tăng lên
7.290 em cấp I và 370 em cấp III [146, tr. 109].
Ngoài ra, các phong trào như “dạy tốt, học tốt”, “xây dựng kỷ cương,
tình thương, trách nhiệm”, “vở sạch chữ đẹp”… được phát động rộng khắp ở
các trường học.
Cũng trong thời gian này, hưởng ứng phong trào miền xuôi đi xây
dựng kinh tế, văn hóa và lập nghiệp ở miền núi, năm 1959, tỉnh Hòa Bình đã
tiếp nhận 86 giáo viên và hàng chục sinh viên tình nguyện lên công tác ở địa
phương trong tỉnh. Hàng loạt các trường cấp I, cấp II đã được thành lập như:
trường Ngọc Lương (Yên Thủy), Suối Rút (Mai Châu), Hợp Thịnh, Thịnh
Lang, Dân Hạ, Thu Phong (Kỳ Sơn), Mãn Đức, Tử Nê (Tân Lạc), Vĩnh Tiến,
Thanh Lương (Kim Bôi). Được sự quan tâm của Tỉnh ủy và chính quyền địa
phương, tháng 10 - 1961, tỉnh Hòa Bình đã thành lập Khu học xá và phát
động phong trào thi đua “Hai tốt” để nâng cao chất lượng giáo dục.
Thực hiện Chỉ thị 237 của Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị 26 của Bộ
GD - ĐT về công tác lãnh đạo sản xuất trong các trường học, ngày 1 - 4 -
1958, trường Thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình ra đời. Đây là
trường “vừa học, vừa làm” đầu tiên ở Việt Nam với phương châm giáo dục
của trường là thực hiện “học đi đôi với hành”. Tiếp tục phát triển mô hình
này, tỉnh đã chỉ đạo thành lập trường phổ thông lao động ở các huyện. Ngày
17 - 8 - 1962, nhà trường đã vinh dự được đón Bác Hồ về thăm, Bác đã ghi
trong sổ vàng truyền thống của trường dòng chữ: “phải học tập tốt, lao động
29
tốt, cố gắng mãi, tiến bộ mãi”. Đây không chỉ là yêu cầu đối với trường
Thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình, mà còn là mục tiêu chung
cho toàn hệ thống GD - ĐT của cả nước. Từ mô hình trường Thanh niên lao
động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình, trường đã trở thành một điển hình giáo dục
không chỉ trong nước mà còn có ảnh hưởng tới một số nước khác như Lào,
Cu Ba… đã tới thăm và học tập kinh nghiệm. Không ngừng xây dựng và
trưởng thành, trường luôn là đơn vị dẫn đầu các trường vừa học vừa làm và
được nhận cờ thi đua xuất sắc nhất của Bộ Giáo dục trao tặng tại đại hội thi
đua “Hai tốt” toàn miền Bắc (12 - 1966).
Bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), ngành
giáo dục Hòa Bình tích cực tìm ra những hình thức hoạt động cho phù hợp
với điều kiện địa phương để kết hợp giáo dục với lao động sản xuất, học lý
thuyết với rèn luyện kỹ năng thực hành. Kết quả, đầu năm 1961, Hòa Bình
là tỉnh miền núi đầu tiên hoàn thành công tác xóa mù chữ và vinh dự được
đón Phó Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng dự lễ mừng công về xóa mù chữ và
trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất cho ngành giáo dục của tỉnh.
Năm 1962, toàn tỉnh Hòa Bình có thêm 5.434 người biết đọc, biết viết. Năm
học 1962 - 1963, tính chung các huyện thị trong tỉnh đã mở thêm 40 trường
phổ thông cấp I, đưa tổng số trường ở toàn tỉnh lên 201 trường, với 17.932
học sinh; cấp II có 20 trường, với 2.266 học sinh; 1 trường cấp III, với 536
học sinh. Năm học 1963 - 1964, tổng số học sinh phổ thông các cấp lên
nhanh chóng với 22.756 em, đạt 109,18% kế hoạch, đặc biệt trong số học
sinh cấp III có 17% là con em đồng bào dân tộc Tày, Dao, Mông, Thái,
Mường [146, tr. 118].
Tuy nhiên, một số chỉ tiêu cụ thể mà ngành giáo dục Hòa Bình đề ra
cho giai đoạn này vẫn chưa đạt yêu cầu, trong đó đáng chú ý là việc huy động
các trẻ em dân tộc trong độ tuổi đi học đến lớp đạt tỷ lệ thấp, nhất là ở cấp I,
như ở Mai Châu, Đà Bắc mới đạt 23 - 26%, một số huyện khác cũng chỉ đạt
30
28 - 47%. Đặc biệt các vùng đồng bào dân tộc Mông, Dao tỷ lệ này càng
thấp, bình quân 1.000 dân mới có 4 người đi học [146, tr. 119].
Từ cuối năm 1964, đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc bằng
không quân và hải quân, tỉnh Hòa Bình là cửa ngõ khu Tây Bắc và là nơi tập
kết các cơ sở hậu cần quan trọng nên đế quốc Mỹ coi Hòa Bình là một trong
những trọng điểm tập trung phá hoại, nhiều nơi trên địa bàn tỉnh Hòa Bình bị
máy bay Mỹ đánh phá ác liệt. Thực hiện sự chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh, các
trường học đã nhanh chóng sơ tán về các làng, bản. Phương châm giáo dục
tỉnh Hòa Bình lúc này là tiếp tục duy trì việc dạy và học ở tất cả các cấp học,
bậc học. Với tinh thần quyết tâm cao, thầy và trò luôn duy trì bám trường,
bám lớp và đạt được những kết quả đáng khích lệ. Năm học 1964 - 1965, tỷ lệ
học sinh thi tốt nghiệp phổ thông ở cả ba cấp: cấp I đạt 95,5%, cấp II đạt
97%, cấp III đạt 93,2%. Huyện Kim Bôi, năm học 1974 - 1975 tỷ lệ học sinh
lên lớp đạt 90%, chuyển cấp đạt 85% [146, tr. 126,134,138].
Tháng 12-1966, trường cấp III Hoàng Văn Thụ tiếp tục được Bộ Giáo
dục công nhận là 1 trong 9 trường tiên tiến toàn miền Bắc; năm 1971 Trường
thanh niên Lao động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình là 1 trong 3 trường được
nhận danh hiệu Đơn vị tiên tiến toàn ngành, được Nhà nước tặng thưởng
Huân chương Lao động hạng Hai. Thực hiện lời dạy của Bác Hồ “Dù khó
khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt”, các trường, các
cấp học trong tỉnh đã phát động phòng trào thi đua “dạy tốt, học tốt”. Các
trường điển hình tiên tiến như: Ngổ Luông, Định Cư, Thu Phong, Kim Bình,
Vĩnh Tiến luôn là lá cờ đầu của ngành giáo dục tỉnh Hòa Bình.
Số lượng học sinh phổ thông trong tỉnh Hòa Bình tiếp tục tăng nhanh
trong các năm. Năm học 1964 - 1965 là 25.912 học sinh, đến năm học 1974 -
1975 là 88.516 học sinh. Số trường trong toàn tỉnh cũng tăng lên. Năm học
1964 - 1965 có 239 trường, đến năm học 1968 -1969 đã lên đến 314 trường;
100% xã có trường cấp I; cứ 2,5 xã có 1 trường cấp II, huyện nào cũng có
31
trường cấp III. Tiêu biểu là huyện Lạc Thủy, năm học 1969 - 1970, có 136
lớp cấp I và cấp II, với 5.503 học sinh, đến năm học 1974 - 1975 số học sinh
đã tăng 23% so với năm học trước [146, tr. 127,133,134].
Để tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng đội ngũ giáo
viên, tỉnh Hòa Bình đã tiến hành sáp nhập một số trường như: trường sư
phạm bổ túc văn hóa Lê Hồng Phong nhập với trường Trung cấp sư phạm;
trường sư phạm cấp I Mai Châu, Đà Bắc nhập với trường sư phạm cấp I của
tỉnh. Cũng trong thời gian này, ngành GD - ĐT Hòa Bình tiếp tục mở thêm
trường sư phạm 10 + 3 và tiến hành sáp nhập với trường Cao đẳng sư phạm
Thường Tín (Hà Tây) để tiếp tục nhiệm vụ đào tạo giáo viên. Hàng năm
trường đã đào tạo được 400 - 500 giáo sinh, trong đó phần đông là các giáo
sinh dân tộc thiểu số trong tỉnh. Hệ thống các trường sư phạm đã đóng góp
một phần quan trọng vào việc phát triển đội ngũ giáo viên và sự nghiệp GD -
ĐT của tỉnh Hòa Bình.
Công tác toàn dân chung sức chăm lo sự nghiệp giáo dục cũng đã
đượcquan tâm chỉ đạo. Tiêu biểu như nhân dân huyện Kim Bôi đã tự nguyện
quyên góp 800 tấn củi khô, trị giá 16.000đ cho quỹ giáo dục, hỗ trợ các thầy,
cô giáo; huyện Lạc Thủy hàng chục phòng học và hàng trăm bộ bàn ghế học
sinh do nhân dân tự nguyện đóng góp và trang bị cho các trường học; huyện
Lương Sơn thực hiện phương châm “Dân tự làm, Nhà nước hỗ trợ”… Do
vậy, năm học 1971 - 1972 đã khắc phục được tình trạng thiếu trường, lớp,
hoặc trường lớp nhà rách vách nát, thiếu bàn ghế học cho học sinh.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền
Nam đã đưa cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới, cả nước độc lập,
thống nhất và đi lên xây dựng CNXH. Trước yêu cầu và nhiệm vụ mới, ngày
27 - 12 - 1975, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (khóa V) tại kỳ
họp thứ II, đã ra Nghị quyết về việc hợp nhất hai tỉnh Hà Tây và Hòa Bình
thành tỉnh Hà Sơn Bình. Trong bối cảnh đó sự nghiệp phát triển giáo dục của
32
Hòa Bình gắn liền với mục tiêu phát triển KT - XH của tỉnh Hà Sơn Bình.
Ngay sau khi sáp nhập, Ty Giáo dục Hà Sơn Bình được thành lập và đi vào
hoạt động, đã khẩn trương chỉ đạo có hiệu quả các mặt công tác của ngành.
Riêng về khu vực Hòa Bình, ngành giáo dục đã tập trung chỉ đạo thực
hiện và có những bước phát triển mới. Năm học 1975 - 1976, tỷ lệ học sinh
tốt nghiệp cấp I đạt 99%, cấp II đạt 97%, cấp III đạt 76%; trường, lớp, bàn
ghế được sửa chữa và mua sắm thêm, một số xã đã xây dựng trường cấp II
kiên cố, xây dựng trường cấp III Yên Thủy, Tân Lạc [146, tr. 153].
Năm 1977 là năm đầu tiên ngành giáo dục tỉnh Hà Sơn Bình thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất. Triển khai thực hiện Nghị
quyết của Đảng bộ, Hội đồng nhân dân và UBND tỉnh đã đưa ra chỉ đạo
chung đó là: phải coi trọng công tác bổ túc văn hóa, tăng số học sinh phổ
thông, chuẩn bị tiến hành cải cách giáo dục; quy hoạch sắp xếp lại mạng lưới
trường cấp III; vận động học sinh các dân tộc tiếp tục học lên cấp III, đồng
thời tổ chức nội trú ở một số trường miền núi, tạo điều kiện cho học sinh các
dân tộc đi học. Đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường; tăng
cường tu sửa trường, lớp và chuẩn bị chu đáo việc khai giảng năm học mới.
Thực hiện chủ trương nêu trên, GDPT khu vực Hòa Bình đã đạt được
một số kết quả như:
Năm học 1976 - 1977, số học sinh tốt nghiệp cấp III đạt tỷ lệ 82,%, cấp
II đạt 87,5%, cấp II bổ túc đạt 92%. Tổng số học sinh khi khai giảng tăng 5%
so với năm học trước. Trong chiến dịch ánh sáng văn hóa đã xóa mù chữ cho
3.470 người; hoàn thành việc hợp nhất cấp I, cấp II để chuẩn bị cho việc cải
cách giáo dục; các xã đều có trường cấp I và hầu hết có trường cấp II (trừ một
số xã vùng cao) [146, tr. 157].
Năm học 1977 - 1978, số lượng học sinh tăng lên nhanh chóng đạt 99%
kế hoạch, công tác bổ túc văn hóa thực hiện vượt mức 2,7%. GDPT tiếp tục
phát triển khá, tỷ lệ thi đỗ trong các kỳ thi hết cấp đạt kết quả cao: cấp II đỗ
33
89,8%, trong đó có nhiều trường đỗ 100%; cấp III đỗ 80%, trong đó trường
cấp III Mai Châu đỗ 100%; cấp II bổ túc văn hóa đỗ 88%, cấp III bổ túc văn
hóa đỗ 80%. Nhiều trường cấp III đã có sự chuyển biến theo phương thức
“vừa học, vừa làm”. Trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường,
nhiều địa phương đã kết hợp tốt việc sử dụng vốn của Nhà nước với huy động
vốn và sức lao động đông đảo của nhân dân; đã sử dụng 2,7 triệu đồng ngân
sách đầu tư cho các trường cấp I và cấp II, trong năm học đã xây dựng thêm
800 phòng học, hầu hết là kiên cố, nhiều ngôi trường cao tầng và bán kiên cố
đã được xây dựng như trường cấp III Hoàng Văn Thụ, trường cấp III Công
nghiệp, các trường PTCS Hữu Nghị A, Hữu Nghị B, Kim Đồng, Nguyễn Bá
Ngọc, Lý Tự Trọng; đã hoàn thành việc hợp nhất trường cấp I, II thành
trường PTCS [146, tr. 159-160, 163].
Năm học 1978 - 1979, các ngành học, cấp học tiếp tục phát triển, số học
sinh cấp II tăng từ 10 - 20%, cấp III tăng 20% (riêng huyện Đà Bắc tăng
110%). Đặc biệt, huyện Yên Thủy là đơn vị dẫn đầu toàn tỉnh hoàn thành phổ
cập cấp I cho toàn dân; xã Ngổ Luông (Tân Lạc) hoàn thành phổ cập cấp II
trong độ tuổi; năm 1979, Trường cấp III Công nghiệp B với những thành tích
xuất sắc trong phong trào vừa học vừa làm đã được Nhà nước tặng thưởng
Huân chương lao động hạng Ba. Công tác xây dựng các trường ở khu vực
vùng sâu, vùng xa cũng được quan tâm đầu tư, củng cố cơ sở vật chất như các
trường cấp III Đà Bắc, Mai Châu, Lương Sơn, Kim Bôi A được xây dựng
mới khang trang [146, tr. 163-164].
Trước yêu cầu và đòi hỏi của tình hình mới, ngày 11 - 01 - 1979, Bộ
Chính trị ban hành Nghị quyết số 14-NQ/TW về cải cách giáo dục lần thứ 3.
Nghị quyết nêu rõ hệ thống GDPT được thực hiện theo chương trình 12 năm
gồm 3 cấp, theo đó hệ thống trường phổ thông trong cả nước được chia thành
2 bậc: bậc PTCS từ lớp 1 đến lớp 9, bậc PTTH từ lớp 10 đến lớp 12. Thực
hiện Nghị quyết số 14-NQ/TW, các địa phương trong tỉnh Hà Sơn Bình
34
đãtiến hành chuyển hệ GDPT từ 10 năm sang hệ 12 năm và chia thành hai
bậc học: bậc PTCS, từ lớp 1 đến lớp 9 và bậc PTTH từ lớp 10 đến lớp 12.
Đây là một bước ngoặt lớn trong công tác chỉ đạo về cải cách giáo dục của cả
nước nói chung và tỉnh Hà Sơn Bình nói riêng.
Có được những động lực quan trọng như vậy, sự nghiệp giáo dục của
tỉnh Hà Sơn Bình đã nhanh chóng triển khai thực hiện và có những chuyển
biến rõ nét. Riêng khu vực tỉnh Hòa Bình, GDPT đạt được những kết quả
đáng ghi nhận như: Năm học 1979 - 1980, số học sinh cấp I và cấp II tăng
hơn 5%, số học sinh tuyển vào lớp 8 tăng 7% so với năm học trước [146, tr.
168]. Năm học 1981 - 1982, ngành giáo dục Hòa Bình bắt đầu thực hiện thay
sách giáo khoa từ lớp 1 đến lớp 12 theo chương trình cải cách giáo dục. Chất
lượng GDPT không ngừng được nâng lên. Kết qủa thi PTCS đạt 91%, tăng
4%; thi PTTH đạt 87,5%, tăng gần 20% so với năm học 1980 - 1981 [146, tr.
172]. Phát huy truyền thống dạy tốt, học tốt, trường phổ thông cấp III Hoàng
Văn Thụ vẫn vững vàng là lá cờ đầu ngành giáo dục của tỉnh và là điển hình
tiên tiến trong toàn quốc. Công tác xây dựng cơ sở vật chất không ngừng
được chú trọng. Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, số
trường, lớp được xây dựng bằng gạch gói và số bộ bàn ghế cho học sinh được
đóng mới không ngừng tăng lên.
Năm 1982, Nhà nước đã quyết định lấy ngày 20 - 11 hàng năm là Ngày
nhà giáo Việt Nam, đó là niềm tự hào của đội ngũ cán bộ, giáo viên và học
sinh ngành giáo dục cả nước nói chung, tỉnh Hà Sơn Bình nói riêng. Phát huy
truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của dân tộc và tôn vinh vai trò, vị trí
của người thầy trong sự nghiệp “trồng người”, năm học 1984 - 1985, việc chỉ
đạo tiếp tục cải cách giáo dục diễn ra tích cực ở tất cả các trường. Đáng chú ý
là khu vực Hòa Bình có những trường vươn tới trường kiểu mới về cải cách
giáo dục như trường THPT Lạc Thủy, THPT Hồng Dương, THPT Công
Nghiệp A - B và trường Hoàng Văn Thụ… Với phương pháp giáo dục toàn
35
diện và năm học 1984 - 1985, thi tốt nghiệp của các cấp GDPT đạt trên 90%
[146, tr. 178].
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giáo viên được chú trọng;
việc chuẩn hóa đội ngũ giáo viên đạt kết quả khá. Đến năm 1985, khu vực
Hòa Bình 68,5% giáo viên cấp I đạt hệ chuẩn 10 + 2; 78.2% giáo viên cấp II
đạt hệ chuẩn 10 + 3 và Cao đẳng sư phạm; 87% giáo viên cấp III đạt hệ chuẩn
10 + 4 [146, tr. 176-177]. Đội ngũ giáo viên được đào tạo có hệ thống, có
phẩm chất đạo đức tốt, tinh thần chịu đựng khó khăn, nhất là giáo viên miền
núi. Dù đời sống còn nhiều khó khăn, thiếu thốn song đại bộ phận giáo viên
bám trường, bám lớp, nhiều đồng chí thực sự là tấm gương sáng của ngành.
Phong trào xóa mù chữ, phổ cập cấp I phát triển khá tốt. Trong 5 năm
1981 - 1985, ở khu vực Hòa Bình đã xóa mù chữ cho 4.404 người; 10 huyện,
1 thị xã hoàn thành phổ cập cấp I toàn dân từ năm 1982 (riêng huyện Yên
Thủy là huyện dẫn đầu khu vực Hòa Bình về phổ cập cấp I, hoàn thành năm
1979 và phổ cập cấp II cho toàn bộ cán bộ huyện, xã, đảng viên và thanh niên
ưu tú). Ngoài ra, còn có trên 40 xã, phường thuộc thị xã Hòa Bình, huyện Lạc
Sơn, Lạc Thủy, Tân Lạc và 3/4 cơ quan xí nghiệp hoàn thành phổ cập cấp II
[146, tr. 178-179].
Phong trào thi đua “Hai tốt” tiếp tục phát triển rộng khắp, các điển hình
tiên tiến vẫn được giữ vững và phát huy tác dụng tốt. Đặc biệt năm 1985,
trường Thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình và xã Ngổ Luông
(huyện Tân Lạc) là hai đơn vị được Hội đồng Nhà nước tuyên dương danh
hiệu Anh hùng lao động về thành tích giáo dục. Đây không chỉ là niềm vinh
dự, tự hào của sự nghiệp giáo dục miền núi mà còn là niềm tự hào chung của
các dân tộc Hòa Bình.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12 - 1986) của Đảng đã mở ra
công cuộc đổi mới toàn diện trên đất nước, với niềm tin tưởng, hy vọng sâu
sắc về tương lai tươi sáng. Năm 1986 toàn ngành giáo dục trong cả nước,
36
trong đó có giáo dục tỉnh Hà Sơn Bình thực hiện công tác tổng kết 10 năm
sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng. Trước yêu cầu và đòi hỏi của tình
hình mới, ngày 19 - 8 - 1987, Tỉnh ủy Hà Sơn Bình đã ra Chỉ thị số 07-
CT/TU “Về việc đẩy mạnh một số công tác cấp bách trong sự nghiệp giáo
dục”. Tiếp đó, kỳ họp thứ 11 Hội đồng nhân dân tỉnh khóa X (10 - 1987) đã
ra Nghị quyết chuyên đề về công tác giáo dục.
Trên tinh thần đó, phát triển GDPT thuộc khu vực Hòa Bình thời kỳ này
tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực. Tính đến năm 1990, đội ngũ giáo viên
ở Hòa Bình đã có 6.631 thầy, cô giáo [146, tr. 186]. Cấp ủy, chính quyền các
địa phương đã vào cuộc và ngày càng quan tâm tới sự nghiệp giáo dục, với
phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Đã xây dựng và tu sửa
nhiều trường cao tầng, phòng học kiên cố một tầng, bàn ghế đủ cho học sinh
học 2 ca. Riêng kinh phí đầu tư cho giáo dục trong 3 năm 1987 - 1991 chiếm
20% ngân sách địa phương. Số lượng học sinh phổ thông ở Hòa Bình tính đến
năm học 1989 - 1990 là 147.443 em [146, tr. 186].
Thực hiện chương trình cải cách giáo dục, các nhà trường ở Hòa Bình
tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học để nâng cao chất lượng giáo dục.
Do vậy, tỷ lệ tốt nghiệp các cấp trong các năm từ 1987 - 1990 đạt 93 - 95%,
bình quân hàng năm có hàng trăm em thi đỗ vào các trường đại học, cao
đẳng, trung cấp. Đến năm 1990, Hòa Bình có 376 trường phổ thông. Các đơn
vị điển hình tiên tiến xuất sắc có tác dụng thúc đẩy phong trào thi đua về giáo
dục, trong đó “con chim đầu đàn” là trường Phổ thông cấp III Hoàng Văn
Thụ; các trường cấp III Lạc Thủy, Lạc Sơn A, Kim Bôi B, trường cấp II
Phương Lâm, trường Phổ thông cơ sở Hữu Nghị B đã trở thành những điểm
sáng trong phong trào giáo dục ở Hòa Bình. Ngoài ra khu vực miền núi huyện
Lạc Thủy là đơn vị dẫn đầu các huyện miền núi trong nhiều năm liền, năm
1991, trường Phổ thông cấp III A và B Lạc Thủy đã thu hút 100% học sinh
vào lớp 10, tỷ lệ tốt nghiệp hàng năm đạt trên 90% [146, tr. 189]. Phong trào
37
phổ cập giáo dục - xóa mù chữ cũng có bước phát triển đều khắp. Thị xã Hòa
Bình là khu vực đầu tiên của khu vực miền núi được công nhận hoàn thành
phổ cập giáo dục - xóa mù chữ. Đây cũng là đơn vị có nhiều thành tích trong
công tác xây dựng đội ngũ giáo viên dạy giỏi và học sinh giỏi.
Bên cạnh những kết quả đạt được rất đáng ghi nhận, song phát triển
GDPT khu vực Hòa Bình thời kỳ này cũng còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế:
Chất lượng giáo dục toàn diện chưa cao dẫn đến học sinh sau khi ra trường
chưa nhanh chóng thích ứng với đời sống xã hội, tỷ lệ tái mù chữ khá cao. Cơ
sở vật chất còn nghèo nàn, tình trạng “Trường không ra trường, lớp không ra
lớp” còn khá phổ biến. Đời sống giáo viên rất khó khăn, các huyện miền núi
Hòa Bình thiếu giáo viên nghiêm trọng; nhiều nơi cấp ủy, chính quyền chưa
thực sự quan tâm đúng mức đến công tác giáo dục, chưa kết hợp chặt chẽ
giữa gia đình, nhà trường và xã hội ... Đây là những vấn đề đặt ra cần có sự
vào cuộc của cả hệ thống chính trị, của ngành giáo dục và nhân dân các dân tộc
Hòa Bình, từng bước đưa giáo dục ở Hòa Bình phát triển ngày càng bền vững.
2.2. Bối cảnh lịch sử và chủ trương đổi mới giáo dục phổ thông ở
tỉnh Hoà Bình (1991 - 2001)
2.2.1. Bối cảnh lịch sử và yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông.
Trong những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX,
tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp đã tác động
không nhỏ đến sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước nói chung, đổi mới GD -
ĐT ở Việt Nam nói riêng.
Ở trong nước, “sau hơn bốn năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, công
cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng” [31, tr.
49]. Mặc dù nước ta chưa ra khỏi khủng hoảng KT - XH, song “mức độ
khủng hoảng đã giảm bớt” [31, tr. 49].
Trên phạm vi thế giới, hệ thống các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô
đã và đang lâm vào “cuộc khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng nhất từ
trước đến nay” dẫn đến sự sụp đổ từ năm 1991. Đây là một tổn thất to lớn đã
38
tác động mạnh mẽ đến tâm lý của mọi người dân Việt Nam, cũng như ảnh
hưởng trực tiếp đến công cuộc đổi mới ở nước ta.
Một số nước trên thế giới và trong khu vực đã bước vào giai đoạn phát
triển mới của tiến bộ khoa học công nghệ và đang chạy đua phát triển giáo
dục với những chuẩn mực của quốc tế về chất lượng, nhằm tạo cơ sở cho việc
cạnh tranh kinh tế như: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore,
Hồng Kông [76, tr. 71]. Nguyên nhân bao trùm nhất là các nước giải quyết tốt
vấn đề nguồn nhân lực thông qua phát triển giáo dục. Nhìn chung, xu thế đổi
mới giáo dục của các quốc gia có nền giáo dục phát triển chủ yếu tập trung
vào cải cách chương trình và sách giáo khoa. Chương trình của các nước đều
hướng tới việc thực hiện yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, trực tiếp góp
phần cải thiện nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng cuộc
sống con người, khắc phục tình trạng học tập nặng nề căng thẳng; yêu cầu
quá cao về mặt lý thuyết mà coi nhẹ những tri thức, kỹ năng có liên quan trực
tiếp đến cuộc sống hàng ngày của học sinh; giảm dần sự bất bình đẳng về cơ
hội tiếp nhận giáo dục mà biểu hiện chủ yếu là sự cách biệt về điều kiện, về
trình độ giữa các địa phương và khu vực, cách biệt giữa giới tính và địa vị xã
hội. Với tinh thần đó, việc xây dựng chương trình GDPT ở các nước thường
theo xu thế sau: Phổ cập THPT nhằm đào tạo những con người có năng lực
đóng góp vào sự tiến bộ của xã hội vào phát triển kinh tế; làm cho giáo dục
thích ứng được những thay đổi của thời đại (xu thế quốc tế hóa, máy tính hóa,
xã hội thông tin), đồng thời nhấn mạnh việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc,
kế thừa văn hóa tốt đẹp của mỗi quốc gia; tích cực chuyển sang hệ thống học
tập suốt đời, hệ thống giáo dục đa dạng và mềm dẻo, thu hẹp về khoảng cách,
tạo ra sự công bằng và bình đẳng về cơ hội giáo dục. Việc áp dụng chương
trình như trên, đã làm thay đổi quan niệm và cách biên soạn, cách sử dụng
sách giáo khoa. Sách giáo khoa trở thành tài liệu định hướng và hỗ trợ cho
quá trình tự học, tự phát hiện, tự chiếm lĩnh tri thức mới và thực hành theo
39
năng lực của người học; làm cho giáo viên và học sinh linh hoạt, sáng tạo
trong cách dạy và học, trong học và hành.
Thực tiễn cho thấy, các nước có nền kinh tế phát triển nhảy vọt đều có
tiền đề là nền giáo dục phát triển cao và giáo dục đã góp phần nâng cao trí
tuệ, làm cho con người nắm bắt được những thành tựu mới nhất của khoa học
công nghệ. Tình hình đó thúc đẩy tất cả các quốc gia đều nhận thức được giáo
dục là nhân tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững.
Trước bối cảnh của tình hình thế giới có nhiều thay đổi và xu thế đổi
mới giáo dục trên thế giới, ở Việt Nam trình độ của lực lượng sản xuất và
khoa học công nghệ còn thuộc loại thấp nhất trong nhóm các nước chậm phát
triển, nhiều vấn đề xã hội khá gay gắt đang đòi hỏi phải giải quyết. Tình hình
đó đã đặt Việt Nam đứng trước tình trạng ngày càng có nguy cơ “tụt hậu”
trước đà phát triển giáo dục của thế giới (Phụ lục 02). Vấn đề đặt ra đối với
Việt Nam là làm thế nào để phát huy tốt lợi thế so sánh, chủ động nắm bắt cơ
hội, tạo khâu đột phá, đẩy nhanh sự phát triển; khi khoa học và công nghệ trở
thành nền tảng của CNH, HĐH thì “nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy
nguồn nhân lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng
lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [35, tr. 21].
Hòa Bình là một tỉnh miền núi được tái lập năm 1991, từ ngày tái lập
tỉnh đến nay, tỉnh Hòa Bình là một trong những tỉnh nghèo nhất cả nước,
trình độ dân trí thấp, điều kiện phát triển KT - XH còn nhiều khó khăn...; đặc
biệt với bối cảnh tình hình thế giới và trong nước nêu trên đã tác động lớn
đến yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực và phát triển KT - XH của tỉnh Hòa
Bình. Nhận thức được vấn đề phát triển giáo dục là nhân tố quyết định sự
phát triển nhanh và bền vững, không nằm ngoài xu thế phát triển GD - ĐT
chung của cả nước, vì vậy nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài, từng bước đáp ứng yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực, phục vụ sự nghiệp
phát triển KT - XH của tỉnh Hòa Bình là đòi hỏi của thực tiễn đang đặt ra.
40
2.2.2. Chủ trương của Đảng và sự vận dụng của Đảng bộ tỉnh Hòa
Bình về phát triển giáo dục phổ thông.
Đánh giá về thực trạng giáo dục Việt Nam và yêu cầu đặt ra đối với sự
nghiệp phát triển giáo dục, Đại hội lần thứ VII (6 - 1991) của Đảng đã khẳng
định: “giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu để
phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển” [31, tr. 121].
Riêng về GDPT, Đại hội đề ra nhiệm vụ chủ yếu đó là: “Tập trung thực hiện
chương trình phổ cập giáo dục cấp I và chống mù chữ; phát triển cấp II, cấp
III phù hợp với yêu cầu và điều kiện của nền kinh tế. Củng cố và phát triển
trường phổ thông cho trẻ em khuyết tật… Tăng cường đầu tư cho giáo dục ở
miền núi và vùng dân tộc thiểu số, mở rộng các trường nội trú, quy hoạch đào
tạo cán bộ và trí thức người dân tộc” [31, tr. 82].
Để đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục, ngày 12 - 8 - 1991, Quốc hội
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã thông qua Luật phổ cập giáo dục tiểu
học và Luật chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em. Đây là bộ luật mở đầu về
công tác giáo dục ở nước ta. Tiếp đó, tại kỳ họp thứ XI, Quốc hội khóa VIII
thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (năm 1992) một lần
nữa khẳng định GD - ĐT là quốc sách hàng đầu. Hiến pháp 1992 đã tạo cơ sở
pháp lý cho ngành GD - ĐT dựa vào để hoạch định chính sách ổn định và
phát triển sự nghiệp giáo dục trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài.
Quán triệt mục tiêu GD - ĐT do Đại hội VII của Đảng đề ra, Hội nghị
Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 (khóa VII) tháng 1 - 1993 đã ra
một Nghị quyết chuyên đề “Về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào
tạo”. Riêng về GDPT, Nghị quyết chỉ rõ: Phấn đấu đến năm 2000 thanh toán
nạn mù chữ ở người lao động trong độ tuổi từ 15 - 35; hoàn thành phổ cập
giáo dục tiểu học, trước hết đối với trẻ em trong độ tuổi 6 - 14. Đẩy mạnh
thực hiện phổ cập giáo dục cấp II, nhất là ở các đô thị. Xác định lại mục tiêu,
thiết kế lại chương trình, nội dung, phương pháp GD - ĐT đối với học sinh
41
từng bậc học, cấp học. Củng cố và phát triển giáo dục ở các vùng dân tộc
thiểu số và những vùng khó khăn, coi trọng công tác đào tạo cán bộ cho các
vùng dân tộc thiểu số. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với
sự nghiệp giáo dục. Tăng dần tỷ trọng chi trong ngân sách cho giáo dục; thực
hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục theo phương châm “Nhà nước và nhân
dân cùng làm”. Đổi mới công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra đối với GDPT
[33, tr. 34-35].
Từ những quan điểm chỉ đạo của Đảng nhằm đổi mới sự nghiệp GDPT
nêu trên, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ GD - ĐT đã ban
hành một số văn bản quy phạm pháp luật về GD - ĐT, từ 1 - 1 - 1991 đến 30 -
6 - 1996 (Phụ lục 03). Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để các địa
phương trong cả nước nói chung, Hòa Bình nói riêng căn cứ triển khai thực hiện.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, để đáp ứng tốt yêu
cầu của thời kỳ mới, Đại hội lần thứ VIII (6 - 1996) của Đảng đã xác định các
giải pháp phát triển đối với GDPT như: Hoàn thành cơ bản phổ cập giáo dục
tiểu học trong cả nước và phổ cập THCS ở các thành phố lớn và những nơi có
điều kiện học tập. Phát triển lớp nội trú, bán trú, mở thêm trường dân lập, bán
công ở các cấp học phổ thông. Thực hiện giáo dục toàn diện ở bậc tiểu học.
Mở rộng và nâng cao chất lượng dạy ngoại ngữ, tin học từ cấp phổ thông.
Khắc phục tình trạng thiếu giáo viên, bổ sung chính sách đãi ngộ và có chính
sách khuyến khích giáo viên tình nguyện đến các vùng khó khăn. Sớm xây
dựng và ban hành Luật giáo dục, chú trọng đổi mới công tác quản lý giáo dục
để đảm bảo hiệu quả đào tạo đúng mục tiêu mong muốn [35, tr. 200-203].
Tiếp sau Đại hội lần thứ VIII của Đảng, Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương lần thứ 2 (khóa VIII) tháng 12 - 1996 đã ra Nghị quyết chuyên đề về
“Định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ CNH,
HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000”. Riêng về GDPT, Nghị quyết đề ra mục
tiêu đó là: “Phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước, phổ cập trung học cơ sở
42
ở các thành phố, đô thị và những nơi có điều kiện. Hoàn thành phổ cập giáo
dục trung học cơ sở vào năm 2010 và trung học phổ thông vào năm 2020”
[36, tr. 31, 33].
Để tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước về giáo dục, Quốc hội
khóa X, kỳ họp thứ 4, đã thông qua Luật giáo dục (Số 11/1998/QH 10, ngày
02 - 12 - 1998), trong đó có quy định những nội dung về hệ thống giáo dục
quốc dân đối với GDPT. Tiếp đó, Quốc hội khóa X đã ra Nghị quyết số
40/2000 QH 10, ngày 09 - 2 - 2000, về đổi mới chương trình GDPT. Trên cơ
sở đó, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 14/2001/CT - TT ngày 11 - 06 -
2001 về việc đổi mới chương trình GDPT thực hiện Nghị quyết số
40/2000/QH 10 của Quốc hội. Ngoài ra, một số văn bản quy phạm pháp luật
do Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ Giáo dục - Đào tạo ban
hành (từ 1 - 7 - 1996 đến 31 - 12 - 2001) cũng tập trung nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động của GDPT (Phụ lục 04).
Quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về đổi mới
GDPT, từ thực trạng GDPT sau khi tái lập tỉnh (năm 1991), tỉnh Hòa Bình đã
nhanh chóng đề ra những chủ trương, biện pháp nhằm đáp ứng yêu cầu và
nhiệm vụ của GDPT trong giai đoạn mới.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XI (3 - 1992) đã nêu rõ phương
hướng, mục tiêu GDPT đến năm 1995 là: “Giáo dục phổ cập tiểu học năm
1995 đạt 95%, thanh toán nạn mù chữ đạt 95% so với tổng số người mù chữ”
[43, tr. 24]. Nghị quyết đại hội lần thứ XI của Đảng bộ tỉnh Hòa Bình được
coi là sự đổi mới mạnh mẽ trong nhận thức về giáo dục ngay sau khi tỉnh mới
được tái lập. Nêu cao tinh thần đó, Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Đảng bộ
tỉnh Hòa Bình (khóa XI) đã tập trung đánh giá thực trạng và tìm ra nguyên
nhân về GD - ĐT sau hơn một năm tái lập tỉnh. Hội nghị đề ra phương
hướng, nhiệm vụ phát triển GDPT trong thời gian tới là: Hoàn thành phổ cập
giáo dục tiểu học vào năm 1995, xóa nạn mù chữ trước năm 1997. Xây dựng
43
mạng lưới trường lớp, phát triển các ngành học, cấp học hợp lý trên địa bàn
tỉnh.Sử dụng hiệu quả nguồn vốn của Trung ương và của tỉnh, huy động tích
cực sự đóng góp của nhân dân các dân tộc để đưa tỷ lệ trường, lớp được xây
dựng vững chắc từ 45% lên 60%. Tập trung đào tạo và bồi dưỡng giáo viên
để nhanh chóng có giáo viên tại chỗ, giáo viên đạt trình độ chuẩn theo yêu
cầu của cải cách giáo dục [158, tr. 224-225].
Tiếp tục đổi mới về GDPT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước, Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XII (năm 1996) đã đề ra mục
tiêu phát triển GD - ĐT đến năm 2000 là: “Số học sinh hàng năm tăng bình
quân 7 - 9%, phổ cập giáo dục THCS trong độ tuổi đạt 100%, các huyện vùng
thấp đạt 50 - 60%, các huyện vùng cao đạt 15 - 20%, trường học được xây
dựng vững chắc đạt 90%” [44, tr. 12].
Sau Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XII, trong 2 ngày 14 và 15 -
03 - 1997, Hội nghị Tỉnh ủy Hòa Bình mở rộng đã nghiên cứu quán triệt Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 2 (khóa VIII). Hội nghị đã ban hành Kế hoạch số
101/KH-TU, trong đó đề ra một số nhiệm vụ đối với GDPT như: Củng cố và
nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học, huy động học sinh đi học
đúng độ tuổi, dạy đủ 9 môn theo chương trình quy định, khuyến khích học 2
buổi/ngày ở bậc tiểu học tại những nơi có điều kiện. Triển khai phổ cập giáo
dục THCS; mở trường, lớp cấp II ở tất cả các xã, phường trong tỉnh; mở
trường cấp II + III ở khu vực xa trung tâm, chú trọng giáo dục hướng nghiệp
cho học sinh. Phấn đấu đến năm 2000 hoàn thành phổ cập giáo dục THCS ở
thị xã, thị trấn và 2 huyện Lạc Thủy và Yên Thủy. Tăng cường đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên; ưu tiên đào tạo giáo viên các môn tự
nhiên, tin học, ngoại ngữ; hoàn thành chuẩn hóa và tiến hành đào tạo, bồi
dưỡng nâng chuẩn. Huy động mọi nguồn lực để từng bước hiện đại hóa nhà
trường. Phấn đấu đến năm 2000 có 90% trường, lớp kiên cố, vững chắc. Tiếp
tục phát huy kết quả, kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi; phấn đấu tỷ lệ học
sinh khá, giỏi lên 30% vào năm 2000 [45, tr. 3-4].
44
Thực hiện Nghị quyết, Kế hoạch của Đảng bộ tỉnh về đổi mới GDPT, ngày
24 - 06 - 1996, UBND tỉnh Hòa Bình thành lập Ban chỉ đạo cuộc vận động
“Ngày toàn dân đưa trẻ đến trường năm học 1996 - 1997”, đồng thời đã quyết
định chính sách phụ cấp đối với giáo viên vùng cao, vùng sâu, vùng khó khăn và
chế độ chính sách đối với học sinh các trường Phổ thông dân tộc nội trú…
Nhìn chung, việc vận dụng đường lối đổi mới trong quá trình phát triển
GDPT ở tỉnh Hòa Bình được xác định trên các mặt chính là: Tổ chức nghiên
cứu quán triệt nội dung Nghị quyết, làm cho toàn ngành hiểu rõ thực trạng
giáo dục, nắm vững cơ bản mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp phát triển GD
- ĐT trong thời kỳ CNH, HĐH của Đảng bộ tỉnh và Trung ương; kiểm điểm
sâu sắc và làm rõ trách nhiệm của các cấp quản lý giáo dục về những thành
tựu, hạn chế, yếu kém; từ đó xây dựng chương trình hành động cụ thể nhằm
thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đảng bộ và của ngành, từng bước đáp ứng
tốt yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực, phục vụ mục tiêu, chiến lược phát triển
KT - XH mà Đảng bộ tỉnh Hòa Bình đã đề ra.
2.3. Phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình trong 10 năm
đầu sau khi tái lập tỉnh (1991 - 2001)
Trong 10 năm đầu sau khi tái lập tỉnh (1991 - 2001), GDPT ở tỉnh Hòa
Bình được tổ chức thực hiện và đạt được những kết quan trọng trên một số
lĩnh vực chủ yếu như sau:
2.3.1. Xây dựng đội ngũ cán bộ và giáo viên.
Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên được
xem là bước đi đầu tiên và quyết định đến chất lượng của giáo dục đào tạo.
Sau khi tái lập tỉnh (10 - 1991), cơ quan Sở GD - ĐT Hòa Bình chính
thức đi vào hoạt động. Tháng 12 - 1991, Đảng bộ Sở GD - ĐT được thành
lập. Trên cơ sở đó, Giám đốc và Phó Giám đốc Sở được bổ nhiệm đã từng là
các nhà giáo ưu tú, có nhiều kinh nghiệm trong ngành, có khả năng tập hợp
được đội ngũ cán bộ chuyên trách. Việc tuyển chọn cán bộ, chuyên viên của
45
Sở được tiến hành thận trọng, bố trí đúng người, đúng việc, nhằm phát huy
được năng lực, sở trường của mỗi cán bộ.
Ngay sau khi kiện toàn về tổ chức, Ban cán sự, lãnh đạo Sở Giáo dục đã
xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giáo viên của tỉnh,
củng cố trường sư phạm, liên kết với trường Cao đẳng sư phạm Hà Tây mở hệ
cao đẳng sư phạm đào tạo giáo viên trung học cơ sở (cấp II) và chuẩn bị cho
việc thành lập trường Cao đẳng sư phạm đa hệ sau này. Bên cạnh đó, Sở GD -
ĐT tiếp tục liên kết với trường Đại học sư phạm Hà Nội I, trường Đại học
ngoại ngữ để đào tạo giáo viên, cán bộ cốt cán cho các cấp học, cũng như
triển khai mạnh mẽ công tác bồi dưỡng giáo viên cho tỉnh.
Ban cán sự Đảng ngành GD - ĐT đã chủ động tham mưu với Tỉnh ủy về
tăng cường công tác Đảng trong ngành, phối hợp với huyện ủy, thị ủy để xây
dựng chi bộ trong trường học. Lãnh đạo Sở Giáo dục đã tham mưu với
UBND tỉnh ra Quyết định số 66 và Quyết định số 650 về chính sách thu hút
giáo viên vùng cao, vùng sâu, ưu đãi giáo viên giỏi, học sinh giỏi tham gia
vào công tác giảng dạy, cống hiến cho nền giáo dục tỉnh nhà. Đây là những
giải pháp đúng đắn nhằm triển khai mạnh mẽ Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh về
công tác đổi mới GDPT.
Triển khai thực hiện tốt công tác xây dựng đội ngũ, do vậy đội ngũ cán
bộ, giáo viên đã có nhiều chuyển biến tích cực, công tác đào tạo bồi dưỡng
trong toàn ngành đã được củng cố, từng bước đáp ứng tốt về chuyên môn
nghiệp vụ. Đến năm học 2000 - 2001, toàn tỉnh đã khắc phục được tình trạng
thiếu giáo viên nhất là giáo viên ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, tỷ lệ giáo
viên bình quân ở bậc tiểu học là 1,5 giáo viên/lớp; ở bậc trung học cơ sở là
1,85 giáo viên/lớp; ở bậc trung học phổ thông là 2,1 giáo viên /lớp [146, tr.
232]. Tình hình đội ngũ giáo viên của tỉnh Hòa Bình thời kỳ này được thể
hiện qua bảng số liệu như sau:
46
Bảng 2.1. Số lượng giáo viên phổ thông (1991 - 2001)
Đơn vị: Người
Trong đó Năm học Tổng số Tiểu học THCS THPT
1991 - 1992 6.923 4.489 1.953 481
1992 - 1993 6.987 4.370 2.095 522
1993 - 1994 6.992 4.497 2.017 478
1994 - 1995 7.177 4.582 2.155 440
1995 - 1996 7.245 4.669 2.053 523
1996 - 1997 8.330 5.229 2.543 558
1997 - 1998 8.993 5.367 2.981 645
1998 - 1999 9.416 5.806 2.936 674
1999 - 2000 9.854 5.508 3.527 819
5.552 3.654 867 2000 - 2001 10.073
Nguồn: [2, tr. 699-700], [163, tr. 377].
Từ bảng 2.1 cho thấy, số lượng giáo viên phổ thông vẫn giữ được quy
mô và tăng đều qua các năm, nhất là bậc tiểu học. Song, kết quả trên cũng
phần nào phản ánh bậc THCS và THPT số lượng giáo viên qua công tác và
đào tạo trong các năm chưa thật ổn định. Năm học 1995 - 1996 (so với năm
học 1994 - 1995) ở bậc THCS giảm trên 100 người; năm học 1994 - 1995 (so
với năm học 1992 - 1993) ở bậc THPT cũng giảm trên 100 người. Nguyên
nhân chủ yếu là do những năm đầu tái lập tỉnh, Hòa Bình là một trong những
tỉnh miền núi nghèo nhất nước lúc bấy giờ, điều kiện KT - XH còn gặp nhiều
khó khăn, đội ngũ cán bộ các ngành nói chung còn thiếu… Cho nên, số lượng
giáo viên phổ thông cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ của sự tác động đó.
Ngành GD - ĐT cũng đã thực hiện tiếp nhận và điều động đội ngũ giáo viên
về giảng dạy tại các nhà trường, cũng trong thời gian này, tháng 10 - 1995,
Chính phủ ra Quyết định thành lập trường Cao đẳng sư phạm đa hệ nhằm đẩy
47
mạnh công tác đào tạo đội ngũ cán bộ và giáo viên, giải quyết tốt hơn sự thiếu
hụt giáo viên trên địa bàn toàn tỉnh. Ngoài ra Sở GD - ĐT còn phối hợp với
Ban tổ chức chính quyền tỉnh tổ chức thi tuyển công chức vào ngạch giáo
viên THPT, thực hiện kế hoạch hợp đồng giáo viên, điều động thuyên chuyển
giáo viên trên địa bàn. Đến năm học mới 2001 - 2002 về cơ bản đã sắp xếp
tương đối ổn định đội ngũ giáo viên, đáp ứng tốt nhu cầu dạy và học.
Bên cạnh đó, chất lượng giáo viên cũng từng bước được chú trọng. Tỷ lệ
giáo viên đạt chuẩn ở các bậc học năm học 1995 - 1996 là: Giáo viên tiểu học
(hệ 12 + 2) đạt 85%, giáo viên THCS đạt 90%, giáo viên THPT đạt 97% và
hàng trăm giáo viên được đào tạo vượt chuẩn [120, tr. 4]. Ngành GD - ĐT
Hòa Bình thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuẩn hóa giáo viên các cấp học,
bậc học theo chu kỳ hàng năm như: Chuẩn hóa trình độ 9 + 3 cho số giáo viên
tiểu học có trình độ dưới trung học sư phạm 9 + 2, liên kết với trường Cán bộ
Quản lý giáo dục và Học viện Hành chính Quốc gia mở một lớp Bồi dưỡng
Giáo dục và Quản lý Nhà nước cho đội ngũ cán bộ Sở GD - ĐT, lãnh đạo
trường. Do vậy, riêng năm học 1997 - 1998 đã tổ chức đào tạo lại cho 200
giáo viên tiểu học các chuyên ngành: Hát - Nhạc, Mỹ thuật đồng thời khảo sát
chuẩn bị đào tạo lại cho 180 giáo viên tiểu học vào thời gian sau. Nâng trình
độ cho 400 giáo viên trung học sư phạm lên trình độ cao đẳng sư phạm; đưa
tổng số 97% giáo viên tiểu học, 98% giáo viên THCS, 99.9% giáo viên THPT
được đào tạo và bồi dưỡng trong năm [121, tr. 4].
Tính từ năm 1997 - 2000, công tác bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ
không ngừng được đẩy mạnh. Tỷ lệ giáo viên tiểu học tham gia bồi dưỡng là
99%, giáo viên THCS là 99.5%, giáo viên THPT là 100%, với kết quả thi
chứng chỉ đạt 97% từ trung bình trở lên [124, tr. 7]. Việc tạo điều kiện cho
một bộ phận cán bộ giáo viên nâng cao trình độ chuyên môn sau đại học được
coi trọng. Đã có hàng chục giáo viên được theo học và bảo vệ thành công
luận văn cao học, luận án tiến sĩ. Đến năm 2000, toàn ngành giáo dục của tỉnh
48
có trên 11.000 giáo viên có trình độ đại học, cao đẳng, trung học thuộc các
ngành học, bậc học khác nhau. Chất lượng đội ngũ giáo viên được nâng lên
đáng kể, trong đó có 1 Tiến sĩ, 53 Thạc sĩ, 4 cán bộ là nghiên cứu sinh; 7 giáo
viên tiểu học và trung học chuyên nghiệp được Bộ GD - ĐT công nhận là
giáo viên cấp quốc gia, 18 giáo viên giỏi bậc cao; đội ngũ cán bộ quản lý,
nhất là ở các trường tiểu học, trung học cơ sở được chuẩn hóa về nghiệp vụ
quản lý theo chương trình của Bộ GD - ĐT, đã có 75% cán bộ quản lý trường
tiểu học và 80% cán bộ quản lý trung học cơ sở đã qua nghiệp vụ bồi dưỡng
quản lý. Phong trào thi đua dạy tốt, phấn đấu trở thành giáo viên dạy giỏi
được hưởng ứng như: tổ chức thi giáo viên dạy giỏi ở vùng khó khăn, tổ chức
thi Hiệu trưởng giỏi, phong trào nữ giáo viên giỏi việc trường, đảm việc nhà.
Do vậy, trong năm 1996 toàn ngành đã có 76 lao động giỏi cấp tỉnh, 230 giáo
viên giỏi cấp tỉnh, 750 giáo viên giỏi cấp huyện, thị, cấp trường; đã có 860 giáo
viên được tặng Huy chương “Vì sự nghiệp giáo dục”. Tính đến năm học 2000 -
2001, toàn tỉnh có 35 - 40% giáo viên khá, giỏi, chỉ còn 10 - 15% giáo viên yếu,
kém cần thay thế và đào tạo lại [146, tr. 232-233]. Đây là kết quả của sự quyết
tâm mà ngành GD - ĐT coi việc nâng cao chất lượng đội ngũ là một trong
những giải pháp mang tính quyết định đến sự nghiệp phát triển của ngành.
2.3.2. Xây dựng hệ thống trường, lớp đa dạng và quy mô phát triển.
Hòa Bình là một tỉnh miền núi có 2 huyện, 46 xã vùng cao, hàng chục
xã vùng sâu, nhiều xã vùng lòng hồ, dân cư thưa thớt…, sau khi tái lập tỉnh,
hệ thống trường học trên địa bàn rất thiếu thốn, nhiều nơi chủ yếu được xây
dựng bằng tranh, tre, nứa lá, chưa đáp ứng được nhu cầu học tập của con em
đồng bào các dân tộc.
Nhằm triển khai, thu hút học sinh đến trường, ngành GD - ĐT tỉnh Hòa
Bình đã thực hiện nhiều giải pháp tích cực và cụ thể như: đưa trường về gần
dân, mở các lớp đầu cấp tại thôn bản, mở cụm lớp tại khu vực trung tâm xã,
mở rộng hệ thống trường lớp ghép... Do vậy, từ 5 lớp ghép thực nghiệm tại
49
Đà Bắc (năm 1991) với 98 học sinh, đến năm học 1995 - 1996 toàn tỉnh Hòa
Bình đã có 232 lớp ghép với tổng số 4949 học sinh [120, tr. 4].
Các loại hình trường lớp được phát triển đa dạng và mở rộng như mở các
trường Trung học bán công và các lớp bán công tại các trường THPT; xây
dựng hệ thống trường liên cấp II + III ở khu vực xa trung tâm huyện. Năm học
1995 - 1996 đã có 9 trường liên cấp với gần 5000 học sinh. Năm học 1997 -
1998 toàn tỉnh có 3 trường bán công (trong đó có 1 trường bán công cấp
huyện), 10 trường liên cấp II + III, 19 trường THPT (cá biệt có huyện có 4
trường THPT và liên cấp II + III, không huyện nào không có trường THPT
[121, tr. 3]. Bên cạnh đó, hệ thống các trường Phổ thông dân tộc nội trú cũng
đặc biệt được quan tâm xây dựng, đã có 1 trường Phổ thông dân tộc nội trú
tỉnh, 5 trường Phổ thông dân tộc nội trú huyện và 2 trường Phổ thông dân tộc
nội trú liên xã, với tổng số học sinh dân tộc trong tỉnh là 141.148 em [2, tr. 698]
và đang tiếp tục xây dựng thêm 2 trường Phổ thông dân tộc nội trú vùng cao tại
xã Mường Chiềng (Đà Bắc) và xã Hang Kia, Pà Cò (Mai Châu). Đến năm 2000
số trường học phổ thông đã tăng lên đáng kể, về cơ bản đáp ứng được nhu cầu
học tập của con em các dân tộc trong tỉnh, được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.2. Số trường học phổ thông (1991 - 2001)
Đơn vị: Trường học
Tổng số trường phổ thông Trong đó THPT Năm (cấp I, II, III)
1990 - 1991 200 18
1995 - 1996 340 14
2000 - 2001 424 20
Nguồn: [2, tr. 699], [158, tr. 253].
Cùng với việc tích cực đa dạng hóa các loại hình trường lớp; quy mô,
số lượng phòng học, lớp học và học sinh phổ thông ở Hòa Bình cũng không
ngừng được phát triển, thể hiện qua bảng sau:
50
Bảng 2.3. Số phòng học phổ thông (1991 - 1996)
Đơn vị: Phòng học
Trong đó
Năm học Tổng số Tiểu học PTCS PTCS PTTH
(cấp 1) (cấp I - II) (cấp II) (cấp II - III)
1991 - 1992 1.977 1.394 137 289 148
1992 - 1993 3.409 1.453 1.453 349 154
1993 - 1994 3.619 1.537 1.405 450 227
1994 - 1995 3.712 1.580 1.438 409 285
1995 - 1996 3.734 1.523 1.455 549 207
Nguồn: [163, tr. 377]
Qua bảng 2.3 ở trên cho thấy, tổng số phòng học đều tăng lên trong các
năm, đặc biệt năm học 1992 - 1993 so với năm học 1991 - 1992 có sự tăng
lên đột biến; số phòng học trong các năm từ 1992 - 1993 đến năm học 1995 -
1996 ở tất cả các bậc học cũng có sự biến động và không ổn định. Nguyên
nhân chủ yếu là do sự tăng nhanh về số lượng học sinh và việc mở đa dạng
các loại hình trường, lớp nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh trong
tỉnh, cũng như mở các điểm trường để phù hợp với từng địa bàn dân cư. Mặc
dù đã có nhiều cố gắng, song trong giai đoạn này, số phòng học được xây
dựng kiên cố còn ít, số phòng bằng tranh tre, nứa lá còn khá phổ biến và
xuống cấp nghiêm trọng, tập trung chủ yếu ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa,
vùng lòng hồ, nơi nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống nên cũng chưa
được sửa chữa và bổ sung kịp thời. Bên cạnh đó, kinh phí dành cho xây dựng
trường lớp còn hạn chế cũng như việc triển khai xây dựng trường, lớp còn
chậm; công tác xã hội hóa giáo dục vẫn chủ yếu động viên về mặt tinh thần…
Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ trường lớp được xây dựng
kiên cố hóa còn thấp.
51
Bảng 2.4. Số lớp học phổ thông (1991 - 2001)
Đơn vị: Lớp học
Trong đó Năm học Tổng số Tiểu học THCS THPT
1991 - 1992 5.246 3.882 1.140 244
1992 - 1993 5.589 4.078 1.224 287
1993 - 1994 6.141 4.723 1.200 218
1994 - 1995 6.243 4.863 1.162 218
1995 - 1996 6.549 5.025 1.277 247
1996 - 1997 6.552 4.724 1.532 296
1997 - 1998 6.886 4.771 1.784 331
1998 - 1999 7.018 4.704 1.930 384
1999 - 2000 7.011 4.560 2.022 429
2000 - 2001 6.945 4.383 2.094 468
Nguồn: [2, tr. 699], [163, tr. 377].
Từ bảng 2.4 trên cho thấy, số lớp học (giai đoạn 1991 - 2001) tăng đều
qua các năm nhưng mức độ tăng còn thấp. Trong các năm học 1993 - 1994 và
năm học 1994 - 1995, ở bậc THCS và THPT, số lớp học có giảm đáng kể và
đã từng bước được khắc phục trong các năm học từ 1995 - 1996 đến năm học
2000 - 2001. Đây cũng là kết quả của việc xây dựng hệ thống trường, lớp đa
dạng và sự tăng nhanh về số lượng học sinh các cấp.
Bảng 2.5. Số lượng học sinh phổ thông (1991 - 2001)
Đơn vị: Học sinh
Trong đó Năm học Tổng số Tiểu học THCS THPT
1991 - 1992 129.269 99.117 25.173 4.979
1992 - 1993 142.916 108.818 28.169 5.929
52
1993 - 1994 157.967 120.210 30.367 7.390
1994 - 1995 167.934 124.155 35.430 8.349
1995 - 1996 184.030 128.129 45.374 10.527
1996 - 1997 190.229 126.711 51.143 12.375
1997 - 1998 195.978 121.961 59.834 14.183
1998 - 1999 202.652 117.307 68.261 17.084
1999 - 2000 206.872 118.417 69.172 19.283
2000 - 2001 193.461 101.219 71.258 20.984
Nguồn: [2, tr. 700], [163, tr. 377].
Từ bảng 2.5 trên, điều dễ nhận thấy là số lượng học sinh không ngừng
tăng lên hàng năm. Việc mở rộng quy mô số lượng học sinh phổ thông nhất là
bậc THCS và THPT ngày càng tăng là do xuất phát từ yêu cầu mở rộng, đa
dạng các loại hình đào tạo cho phù hợp với từng địa bàn dân cư; đó cũng là
kết quả của công tác vận động phổ cập giáo dục tiểu học, xóa mù chữ và vận
động “Ngày toàn dân đưa trẻ đến trường” nên học sinh chuyển cấp tăng nhanh
trong các năm; trong khi số lượng phòng học và số lượng thầy cô giáo không
tăng kịp với số lượng học sinh. Đây là một trong những bất cập về công tác
chỉ đạo giáo dục chưa đồng bộ, cần rút kinh nghiệm và kịp thời đưa ra các
giải pháp để giải quyết những bất cập nêu trên. Bên cạnh đó, số học sinh tiểu
học từ năm 1996 đến năm 2001 có xu hướng giảm là do những năm trước đây
một số con em công nhân trên công trường thủy điện Hòa Bình đã di chuyển
vào các tỉnh phía Nam và các tỉnh đồng bằng sinh sống; đặc biệt trong thời
gian này, tỉnh Hòa Bình đã làm tốt công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình,
cho nên số trẻ em trong độ tuổi vào bậc tiểu học đã giảm rất rõ.
Công tác phổ cập giáo dục tiểu học, XMC trên địa bàn tỉnh cũng không
ngừng được đẩy mạnh, song kết quả còn hạn chế và còn nhiều khó khăn đặt ra
cần được tiếp tục giải quyết. Kể từ sau khi tái lập tỉnh (10 - 1991), Sở GD -
ĐT tỉnh Hòa Bình đã điều tra, khảo sát và thống kê toàn tỉnh có gần 20.000
53
người từ 15 - 35 tuổi mù chữ. Số lượng này chủ yếu tập trung ở vùng nông
thôn, vùng cao và vùng sâu.
Thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ lần thứ XI, Tỉnh ủy Hòa Bình
xây dựng Kế hoạch 02 chuyên về củng cố, đổi mới và phát triển sự nghiệp
GD - ĐT, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến công tác phổ cập giáo dục tiểu
học, XMC và coi đây là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng bộ trong giai đoạn
1991 - 2000. Nghị quyết đã khẳng định: “Muốn xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu để
dân giàu nước mạnh, chỉ có thể đạt được bằng không ngừng nâng cao dân trí”
[43, tr. 25], đồng thời đề ra mục tiêu phấn đấu hoàn thành phổ cập giáo dục
tiểu học, XMC trước năm 1997. Trên cơ sở đó, UBND tỉnh đã ra Chỉ thị số
14 - CT/UB, ngày 10 - 5 - 1994, về việc thành lập Ban chỉ đạo công tác phổ
cập giáo dục tiểu học, XMC và nhanh chóng đi vào hoạt động và đã đạt được
thành tựu to lớn. Đến 10 - 1995, toàn tỉnh có 9 - 10 huyện, thị, 203/213 xã,
phường hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, XMC đạt tỷ lệ 95%. Tỷ lệ học
sinh bỏ học, thất học chỉ còn dưới 2%. Toàn tỉnh huy động được 95% số trẻ
trong độ tuổi lớp 1 đến trường, 18.000 người đến các lớp XMC [86, tr. 207-
208] và được Bộ GD - ĐT công nhận là tỉnh đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục
tiểu học, XMC. Tích cực triển khai đề án phổ cập giáo dục THCS, cuối năm
1999, Sở GD - ĐT Hòa Bình đề nghị công nhận thị xã Hòa Bình và các xã
vùng thấp đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục THCS. Đây là kết quả của
sự cố gắng nỗ lực của toàn ngành GD - ĐT Hòa Bình và sự phối hợp triển
khai, tổ chức thực hiện giữa các cơ quan ban ngành cũng như sự đóng góp,
hưởng ứng của toàn dân trong công tác phát triển giáo dục.
Từ công tác phổ cập giáo dục tiểu học, XMC, Sở GD - ĐT Hòa Bình đã
rút ra một số kinh nghiệm quý báu như:
Một là, phải luôn đặt công tác phổ cập giáo dục, XMC thành nhiệm vụ
hàng đầu của Đảng bộ và chính quyền các cấp, coi đó là chìa khóa để nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, từng bước đẩy lùi đói
54
nghèo. Nhiệm vụ phổ cập giáo dục, XMC phải được ghi trong Nghị quyết của
các cấp ủy Đảng, trong chương trình, kế hoạch của các cấp chính quyền.
Hai là, phải có quy chế phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể, các lực
lượng xã hội, trong đó ngành GD - ĐT là nòng cốt.
Ba là, phải gắn công tác phổ cập giáo dục, XMC vào các chương trình
phát triển KT - XH, làm cho người học thấy được hiệu quả, tác dụng của việc
học đối với bản thân, gia đình và xã hội. Đặc biệt chú trọng việc ứng dụng
những điều đã học vào việc phát triển kinh tế gia đình, xây dựng gia đình no
ấm, hạnh phúc.
Bốn là, phải có cơ chế, chính sách cho người dạy và học, khuyến khích,
động viên kịp thời những đơn vị, cá nhân có thành tích trong công tác phổ
cập giáo dục, XMC. Tạo điều kiện cho người học được ưu tiên vay vốn, được
cấp sách vở, tài liệu. Người dạy được khen thưởng, có phụ cấp xóa mù chữ.
Đơn vị hoàn thành phổ cập giáo dục, XMC phải được khen thưởng, ưu tiên
kinh phí để xây dựng trường, lớp.
Năm là, phải có bộ máy tổ chức chặt chẽ, gọn nhẹ, lấy quy mô nhỏ là
chính, phát huy tính tích cực, tự giác, kết hợp với biện pháp hành chính để
thực hiện luật phổ cập giáo dục.
Từ những kinh nghiệm rút ra nêu trên, có thể nói công tác phổ cập giáo
dục, XMC đã đặt nền tảng vững chắc cho việc thực hiện mục tiêu: nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài của tỉnh Hòa Bình. Với những
kết quả to lớn đã đạt được là một niềm tự hào. Song, Hòa Bình cũng xác định
công việc trước mắt còn nặng nề, cần phải có sự cố gắng, nỗ lực hơn nữa để
từng bước đưa sự nghiệp giáo dục của tỉnh không ngừng đi lên.
2.3.3. Về chất lượng giáo dục đào tạo.
Cùng với việc mở rộng quy mô, ngành giáo dục tỉnh Hòa Bình đã đưa
ra nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng GDPT như: Tích cực đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao trình độ cho cán bộ, giáo viên; tăng cường công tác giáo dục
55
chính trị, tư tưởng, xây dựng kỷ cương, tình thương, trách nhiệm; thường
xuyên tổ chức các phong trào thi đua phấn đấu trở thành giáo viên dạy giỏi,
học sinh giỏi; động viên khen thưởng kịp thời; tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra… Do vậy chất lượng GDPT không ngừng được tăng lên.
Giai đoạn 1991 - 1996:
Tỷ lệ học sinh xếp loại học lực giỏi, khá và xếp loại hạnh kiểm tốt, khá,
thể hiện ở biểu đồ sau:
Biểu đồ 2.2. Chất lượng giáo dục hai mặt, học sinh phổ thông
Đơn vị: %
100
90.0
89.0
90
82.2
80
68.7
70
60.5
60
50
40
30
20.5
20.1
18.5
15.7
20
9.2
10
0
1991-1992
1992-1993
1993-1994
1994-1995
1995-1996
Hạnh kiểm
Học lực
tỉnh Hòa Bình (1991 - 1996)
Nguồn: [120, tr. 2].
Từ biểu đồ trên cho thấy, việc đào tạo chất lượng học sinh vừa “hồng”
vừa “chuyên” đã được tỉnh Hòa Bình quán triệt sâu sắc. Kết quả đó đã phản
ánh đúng với tình hình thực tế của một tỉnh miền núi vừa mới tái lập.
Không ngừng đẩy mạnh hơn nữa chất lượng GDPT, ngành GD - ĐT
tỉnh Hòa Bình đã tích cực triển khai phát triển giáo dục mũi nhọn như tăng
cường biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi, chú trọng ở các trường chuyên, lớp
56
năng khiếu dân tộc… Do vậy, số học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao
đẳng đạt 70% (có lớp đạt trên 90%). Đặc biệt số học sinh đoạt giải quốc gia
tăng nhanh qua các năm học, thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.6. Số lượng học sinh phổ thông đoạt giải Quốc gia (1991 - 1996)
Trong đó
Năm học Tổng số Giải Nhất Học sinh dân tộc
(Đơn vị: Giải) (Đơn vị: Người)
1991 - 1992 18 0 1
1992 - 1993 24 2 3
1993 - 1994 45 2 5
1994 - 1995 60 11 8
1995 - 1996 61 3 9
Nguồn: [120, tr. 2]
Ngoài những thành tích nổi bật nêu trên, theo Báo cáo số 213/GDĐT
ngày 28 - 4 - 1996 của Sở GD - ĐT tỉnh Hòa Bình về kết quả thi học sinh giỏi
Quốc gia, năm học 1995 - 1996, trong số 25 tỉnh dự thi ở bảng B, Hòa Bình là
tỉnh miền núi duy nhất có 2 học sinh được tham dự bồi dưỡng cùng với sinh
viên các trường đại học và học sinh các thành phố lớn để chọn đội tuyển dự
thi tin học và toán học quốc tế lớp 12 tại Hunggari và Ấn Độ. Đó là hai em:
Trần Thạch Anh (môn tin học) và Lê Văn Mạnh (môn toán). Đối với học sinh
PTCS và THPT, tỉnh Hòa Bình dẫn đầu bảng B về số lượng học sinh đoạt giải
và chất lượng các giải. Ở bậc tiểu học, Hòa Bình là 1 trong 3 tỉnh có nhiều
học sinh đoạt giải nhất với tổng số là 18/20 học sinh. Cũng trong giai đoạn
1991 - 1996, Hòa Bình còn có 2 học sinh đoạt giải tin học trẻ không chuyên
và 3 học sinh đoạt giải vẽ toàn quốc [119, tr. 1]. Đây là một thành tích khẳng
định chất lượng GD - ĐT của Hòa Bình đã có những tiến bộ rõ rệt, vươn lên
đứng hàng đầu các tỉnh miền núi. Với những kết quả đã đạt được, năm học
1993 - 1994, ngành giáo dục Hòa Bình được Bộ GD - ĐT xếp thứ nhất khu
57
vực miền núi và đứng thứ 8 trong 53 tỉnh, thành phố; năm học 1994 - 1995,
được công nhận đứng thứ nhất miền núi và đứng thứ 2 trong 53 tỉnh, thành phố
và tiếp tục đứng đầu bảng B (khu vực miền núi và đồng bằng sông Cửu Long)
về số lượng học sinh giỏi [146, tr. 215]. Đây là một thành tích rất đáng tự hào
của giáo dục Hòa Bình thời kỳ đầu đổi mới về nâng cao chất lượng GDPT,
ngành GD - ĐT Hòa Bình đã vinh dự được Nhà nước trao tặng Huân chương
Lao động hạng Nhất năm 1995 và nhiều năm liền được Bộ GD - ĐT tặng cờ
“Đơn vị dẫn đầu về GD - ĐT”. Đó là nguồn cổ vũ, động viên cho toàn ngành
giáo dục tỉnh Hòa Bình không ngừng phát huy hơn nữa sự nghiệp trồng người.
Giai đoạn 1996 - 2001:
Không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng GDPT nhằm đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp CNH, HĐH tiếp tục được tỉnh Hòa Bình quan tâm chỉ đạo.
Hệ thống các trường chuyên, lớp chọn, trung tâm chất lượng cao được ngành
quan tâm đầu tư. Do vậy, năm học 1996 - 1997, toàn tỉnh đã có 11 trường
chuyên, trong đó có 10 trường THCS cấp huyện, thị và 1 trường THPT cấp
tỉnh với gần 3.000 học sinh theo học. Từ năm 1996 - 2000, Hòa Bình đã thí
điểm thành lập trường trung học chuyên ban, hệ thống các trường chuyên ban
ở các huyện, thị được chuyển thành trung tâm chất lượng cao, thực hiện giáo
dục toàn diện. Hệ thống trường trọng điểm chất lượng cao được xây dựng
(mỗi huyện, thị 1 trường tiểu học, 1 trường THCS) [146, tr. 230-231].
Công tác chỉ đạo đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao
trình độ chuyên môn cho đội ngũ giáo viên được triển khai cụ thể hơn. Qua
các hội thảo, hội thi giáo viên dạy giỏi đã góp phần nâng cao chất lượng dạy
và học trong nhà trường. Sở GD - ĐT đã chỉ đạo dạy thí điểm theo chương
trình, sách giáo khoa mới ở bậc tiểu học ở 46 trường thuộc 10/10 huyện, thị
xã với tổng số 7.100 em học chương trình tiểu học ở 3 môn thử nghiệm Toán,
Tiếng Việt, Đạo đức. Riêng thị xã Hòa Bình triển khai 19/19 trường môn
Toán và Đạo đức [120, tr. 3]. Sở GD - ĐT đã tổ chức nhiều lớp tập huấn về
58
đổi mới phương pháp dạy học, mời các chuyên gia đầu ngành về phương
pháp bộ môn, giảng dạy; tập huấn cho các giáo viên; coi việc đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người
học là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá, xếp loại giáo viên.
Việc đổi mới phương pháp dạy học được triển khai sâu rộng trong toàn ngành
từ trường, tổ chuyên môn đến giáo viên.
Qua 5 năm (1997 - 2001), việc đổi mới nội dung, phương pháp được
thực hiện rất nghiêm túc, do đó chất lượng giáo dục không ngừng được nâng
lên, thể hiện ở chỗ:
Ở bậc tiểu học:
Tổ chức thực hiện tốt “Ngày toàn dân đưa trẻ đến trường”. Vì vậy, tỷ lệ
trẻ em 6 tuổi được huy động vào lớp 1 hàng năm khá cao (vùng thuận lợi đạt
100%), tỷ lệ trẻ em bỏ học giảm theo từng năm học, là do một phần điều kiện
KT - XH phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao, việc chăm
lo cho con em học tập đã tốt hơn; mặt khác có sự quan tâm đúng mức của cấp
ủy đảng và chính quyền các cấp, sự nỗ lực của cán bộ, giáo viên trong
ngành,... kết quả đó được thông qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 2.3. Tỷ lệ trẻ em vào lớp 1 và bỏ học
Đơn vị: %
Nguồn: [121, tr. 2]; [123, tr. 3]; [124, tr. 5].
59
Việc triển khai, nhân rộng các trường học 2 buổi/ngày tiếp tục được
thực hiện. Năm học 2001 - 2002, toàn tỉnh có 37 trường, 164 lớp và 4495 học
sinh tiểu học đã tham gia [120, tr. 5]. Bên cạnh đó, công tác chỉ đạo chặt chẽ
đầy đủ 9 môn bắt buộc và triển khai chương trình hiện hành dạy, học thử
nghiệm bậc tiểu học năm 2000 của Bộ GD - ĐT được thực hiện rất có hiệu
quả. Kết quả giáo dục hai mặt ở bậc tiểu học sau đây cho thấy điều đó.
Năm học 2000 - 2001: Về học lực, loại giỏi đạt là 8,78% (tăng 0,53%),
loại khá 28,55% (tăng 4,48%); về hạnh kiểm, loại tốt là 65,28% (tăng
12,14%); loại yếu, kém 0,68% (giảm 0,04%), so với năm học 1999 - 2000. Tỷ
lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học đạt 99,36% (năm học 1999 -
2000 là 99,5%) [124, tr. 5].
Bậc trung học (THCS và THPT):
Ngành giáo dục thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn hè nhằm nâng
cao chuyên môn cho giáo viên, nhất là các môn Toán, Lý, Hóa, Sinh, Văn, Tiếng
việt, đồng thời nhanh chóng cung cấp tài liệu hướng dẫn ôn thi tốt nghiệp THCS
và THPT, tạo điều kiện để các trường thực hiện ôn tập có chất lượng.
Công tác tổ chức thi học sinh giỏi cũng luôn được chú trọng. Năm học
1997 - 1998 đã tổ chức thi học sinh giỏi THCS trong toàn tỉnh (cho học sinh
lớp 9, vòng 1 được chia làm 2 bảng: Bảng A - vùng thuận lợi có 522 em đạt
giải. Bảng B - vùng khó khăn có 107 em dự thi và 54 em đạt giải). Cũng trong
năm học đó, ngành đã tổ chức cho các em tham gia dự thi học sinh giỏi Quốc
gia đối với lớp 12, có 87 học sinh dự thi. Kết quả: 55 học sinh đạt giải, trong
đó 4 giải nhất (Văn, Toán, Địa, Nga văn); 11 giải nhì, 22 giải ba, 18 giải
khuyến khích (trong đó 11 học sinh người dân tộc đạt giải) [121, tr. 3-4]. Phát
huy truyền thống đó, năm học 2001 - 2002 đối với học sinh THPT, đoàn học
sinh tỉnh Hòa Bình có 88 học sinh dự thi, kết quả 64 học sinh đạt giải (tăng 14
giải so với năm học 1999 - 2000). Trong đó 1 giải nhất, 17 giải nhì, 26 giải ba
và 20 giải khuyến khích (có 6 học sinh người dân tộc đoạt giải). Hòa Bình
60
tiếp tục đứng đầu bảng B (gồm các tỉnh Miền Núi, Tây Nguyên và Đồng bằng
Sông Cửu Long) về số lượng học sinh đoạt giải [124, tr. 6].
Về chất lượng giáo dục hai mặt bậc trung học qua 5 năm (1996 - 2001)
đã được nâng lên một bước, thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 2.4. Chất lượng giáo dục hai mặt bậc trung học,
năm học 2000 - 2001
89.5
100
80.5
80
43.3
60
37.4
40
20
0
THCS
THPT
Học lực Khá, Giỏi
Hạnh kiểm Khá, Tốt
Đơn vị: %
Nguồn: [124, tr. 6].
Từ biểu đồ 2.4 cho thấy, chất lượng giáo dục 2 mặt năm học 2000 -
2001 được nâng lên rõ rệt so với năm học 1999 - 2000. Bậc THCS, tỷ lệ học
sinh học lực đạt loại khá, giỏi tăng 4,1%, tỷ lệ học sinh xếp loại hạnh kiểm
khá, tốt tăng 12,1%. Bậc THPT, học sinh đạt học lực khá, giỏi tăng 5,5%, tỷ
lệ học sinh xếp loại hạnh kiểm loại khá, tốt tăng 21,2% [124, tr. 6]. Điều đó
đã phản ánh công tác giáo dục cả “đức” lẫn “tài”, vừa “hồng” vừa “chuyên”
luôn được quán triệt một cách sâu sắc, góp phần vào nâng cao chất lượng,
hiệu quả giáo dục của tỉnh Hòa Bình.
Với sự nỗ lực cố gắng của toàn ngành, tỷ lệ học sinh THCS và THPT
đỗ tốt nghiệp được thể hiện qua biểu đồ sau:
61
Biểu đồ 2.5. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS và THPT (1997 - 2002)
99.63
100
96.35
98
94
94.06
96
94
92
THCS
87.81
90
87.04
THPT
88
86
84
82
80
1997 - 1998
1999 - 2000
2001 - 2002
Đơn vị: %
Nguồn: [121, tr. 4]; [123, tr. 4]; [124, tr. 6].
Qua biểu đồ 2.5 cho thấy, tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp phổ thông tương
đối đồng đều và tăng ở bậc THPT trong các năm. Tuy có giảm một số ở bậc
THCS trong năm học 2001 - 2002 (so với năm học 1999 - 2000), song điều
đó đã phản ánh đúng với thực tế của ở bậc học này. Đây cũng là vấn đề đặt ra
đối với ngành GD - ĐT mà trực tiếp là bậc THCS cần phải tiếp tục tìm ra
những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng GDPT trong thời gian
tới. Bên cạnh đó, những đơn vị luôn là lá cờ đầu về phong trào nâng cao chất
lượng dạy và học là trường THPT dân tộc nội trú tỉnh Hòa Bình là điểm sáng
về mô hình giáo dục phổ thông dân tộc nội trú; trường THPT năng khiếu
Hoàng Văn Thụ, trường THPT chuyên ban Lương Sơn, THCS Hữu Nghị,
trường tiểu học Sông Đà, là những đơn vị tiêu biểu xuất sắc của ngành giáo
dục Hòa Bình, được nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động. Huyện
Mai Châu, Lạc Sơn, thị xã Hòa Bình là những đơn vị xuất sắc thi đua trong sự
nghiệp “trồng người”.
62
2.3.4. Công tác đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giáo dục.
Năm 1991, sau khi tái lập tỉnh, Hòa Bình chỉ có trên 20% số trường,
lớp được xây dựng kiên cố, trong đó có 10 trường cao tầng chủ yếu ở thị xã.
Còn lại trên 70% số trường, lớp đã xuống cấp và xây dựng bằng tranh tre, nứa
lá. Do thiếu phòng học, hàng trăm lớp đã phải học ba ca và cả tỉnh mới có 1
máy vi tính đặt tại trường THPT Hoàng Văn Thụ [120, tr. 5]. Đây là một khó
khăn rất lớn của ngành giáo dục Hòa Bình trong bối cảnh mới được tái lập.
Thực hiện quyết tâm ngói hóa, tiến tới kiên cố hóa trường học, Sở GD -
ĐT tỉnh Hòa Bình đã tích cực, năng động khai thác tối đa các nguồn nhân lực,
vật lực và tài lực như: triệt để tiết kiệm, kết hợp giữa Trung ương và địa
phương, Nhà nước và nhân dân, trong nước và quốc tế,… với nhiều biện pháp
hữu hiệu nhằm đẩy nhanh tốc độ xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị cho
trường học. Do vậy, từ 1991 - 1996, toàn ngành đã xây dựng được thêm trên
50 nhà cao tầng, hàng trăm nhà gỗ cấp 4 lợp ngói, nâng tổng số phòng kiên
cố, vững chắc lên tới 3785 phòng, chiếm tỷ lệ 67,8% (tăng 3 lần so với trước
khi tái lập tỉnh). Tổng số tiền đầu tư xây dựng, sửa chữa trường, lớp lên tới 40
tỷ đồng (trong đó, Nhà nước cấp 80%, nhân dân đóng góp 9%, các nguồn
khác là 11%). Ngành GD - ĐT đã trang bị gần 200 máy vi tính để dạy tin học
cho học sinh, xây dựng 6 phòng học ngoại ngữ hiện đại, 150 thư viện trường
học đạt chuẩn và hàng chục vạn bản sách giáo khoa dùng chung, sách tham
khảo cho giáo viên và học sinh [120, tr. 6].
Phát huy tinh thần đó, năm học 1997 - 1998, các nguồn vốn được huy
động như: Vốn chương trình mục tiêu 7.560 triệu đồng, vốn tiết kiệm ngân
sách 2.334 triệu đồng, vốn dự án giáo dục tiểu học 5.173 triệu đồng, vốn xây
dựng cơ bản tập trung 2.890 triệu đồng, vốn chương trình 747 là 1000 triệu
đồng, vốn do nhân dân đóng góp 1.850 triệu đồng [121, tr. 6]. Với việc huy
động tối đa các nguồn vốn đó; trong năm học 1997 - 1998, ngành đã xây dựng
được 140 phòng học bán kiên cố và 104 phòng học kiên cố, mua sắm trang
63
thiết bị và đồ dùng dạy học, máy vi tính, đóng mới bàn ghế, sách giáo khoa,
sách tham khảo và hỗ trợ cho 64 xã vùng đặc biệt khó khăn, nâng tổng kinh
phí mua sắm trang thiết bị dạy học lên 7.677 triệu đồng [124, tr. 6].
Trong năm học 2000 - 2001, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Hội
đồng nhân dân tỉnh Hòa Bình về “Cứng hóa trường học”, xây dựng trường
bán kiên cố và tăng cường cơ sở vật chất cho các nhà trường. Toàn tỉnh đã
làm mới thêm 468 phòng học, ngoài ra còn tu sửa 536 phòng học với tổng
kinh phí là 25.771 triệu đồng, do vậy toàn tỉnh đã có 30% trường lớp cao
tầng, 40% bán kiên cố, 100% trường THCS và THPT được xây dựng cao
tầng. Hàng năm tỉnh đã trích 6 - 10% tổng kinh phí của ngành để mua sắm
sách giáo khoa, đồ dùng dạy học, trang thiết bị với tổng kinh phí là 1.700
triệu đồng, từng bước đáp ứng đủ phòng học cho các ngành học, cấp học,
không có trường lớp học ba ca, các đơn vị trường học trong tỉnh đảm bảo
đủ sách giáo khoa cho học sinh, sách giáo khoa và tài liệu tham khảo cho
giáo viên. Từ đó, công nhận thêm 3 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia giai
đoạn 1996 - 2000, nâng tổng số trường tiểu học đạt chuẩn lên 6 trường
[124, tr. 4], [146, tr. 230].
Quán triệt quan điểm GD - ĐT là sự nghiệp của toàn dân, toàn dân tham
gia xây dựng, phát triển sự nghiệp GD - ĐT. Công đoàn ngành đã phối hợp
với Sở Giáo dục, Huyện ủy, UBND các huyện, thị xã, các tổ chức chính trị -
xã hội, đoàn thể và mọi tầng lớp nhân dân tham gia đóng góp vào nhiệm vụ
chính trị chung của ngành. Do đó, công tác xã hội hóa giáo dục cũng được tập
trung chỉ đạo nhằm tạo lập phong trào học tập sâu rộng trong xã hội, mọi
người đều được học thường xuyên, học suốt đời; xây dựng môi trường giáo
dục lành mạnh, ngăn chặn đẩy lùi mọi ảnh hưởng tiêu cực xâm nhập vào nhà
trường; huy động mọi nguồn lực trong xã hội để phát triển giáo dục. Vì vậy,
phong trào nhân dân xây dựng trường học đã được hưởng ứng mạnh mẽ, một
số xã, thị trấn, nhân dân đóng góp 50% kinh phí để xây dựng trường cao tầng
64
cho con em như xã Đa Phúc huyện Lạc Sơn, thị trấn Mường Khến huyện Tân
Lạc, riêng năm học 1999 - 2000, nhân dân đã đóng góp xây dựng trường lớp,
đóng bàn ghế, mua sắm đồ chơi cho các cháu, tổng số tiền ước tính gần 3 tỷ
đồng. Nhìn chung, sự đóng góp của nhân dân còn hạn hẹp do kinh tế chưa
phát triển nhưng đây là nguồn cổ vũ, động viên, khích lệ con em mình cũng
như toàn dân chăm lo hơn nữa sự nghiệp trồng người.
Với những kết quả trên, rõ ràng việc huy động mọi nguồn vốn đầu tư
cho giáo dục đang từng bước được phát huy có hiệu quả. Xác định rõ tăng
cường đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, Hòa Bình tiếp tục chỉ đạo
và quán triệt sâu sắc công tác này nhằm từng bước đáp ứng tốt yêu cầu dạy và
học của các nhà trường.
2.3.5. Công tác quản lý giáo dục, xây dựng tổ chức Đảng, đoàn thể
trong nhà trường.
Công tác Quản lý giáo dục được thực hiện theo hướng chuẩn hóa:
Chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, chuẩn hóa cơ sở vật chất và chuẩn hóa đánh giá,
xếp loại. Quản lý theo hướng dân chủ hóa, đặc biệt là dân chủ hóa đối với giáo
viên, phát huy mọi năng lực của các thành viên trong Hội đồng giáo dục; thực
hiện công khai, công bằng, cũng như thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan quản lý về giáo dục và làm tốt chức năng quản lý Nhà nước.
Công tác quản lý đội ngũ cán bộ được thực hiện một cách toàn diện, theo
phân cấp quản lý và theo ngành. Do vậy, Sở GD - ĐT tỉnh Hòa Bình đã kiện
toàn hồ sơ, nắm vững biên chế tổ chức của tất cả các đơn vị, xây dựng quy
hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với hiện tại, đồng thời tiến hành đánh giá, sử
dụng, đề bạt, bố trí đúng cán bộ, giáo viên theo nguyên tắc dân chủ và hiệu quả.
Việc quản lý tài chính được thực hiện công khai, công bằng trong phân
bổ kinh phí, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, hướng dẫn cơ
sở thực hiện nghiêm túc nguyên tắc quản lý tài chính. Vì vậy, kinh phí được
sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng, phát huy hiệu quả cao.
65
Bên cạnh đó, công tác thanh tra cũng được ngành giáo dục hết sức coi
trọng. Hoạt động của thanh tra tập trung đi vào thanh tra chuyên môn, thanh
tra các trường, thanh tra công tác giảng dạy của giáo viên, thanh tra các kỳ
thi, đồng thời Sở GD - ĐT Hòa Bình đã mở phòng tiếp dân để giải quyết
những công việc thắc mắc hàng ngày của nhân dân, học sinh, giải quyết kịp
thời các đơn thư, khiếu tố, xử lý đúng người, đúng khuyết điểm một cách
nhanh gọn không để tồn đọng, từ đó giúp cán bộ, giáo viên thực hiện tốt
nhiệm vụ, xây dựng kỷ cương, nề nếp trường học. Điển hình trong năm học
1997 - 1998, ngành đã tổ chức thanh tra toàn diện 9 đơn vị, đạt tỷ lệ 20%;
142 giáo viên THPT đạt tỷ lệ 23%; thanh tra chuyên đề dạy và học 28 đơn vị,
đạt tỷ lệ 100%; thanh tra quản lý của Hiệu trưởng 14 đơn vị, đạt tỷ lệ 50%;
thanh tra các kỳ thi đạt 100%; thanh tra 120 trường/ 446 trường đạt tỷ lệ 26%
(vượt 6% so với chỉ tiêu Bộ Giáo dục giao). Giải quyết 32 đơn thư khiếu nại,
tố cáo, trong đó buộc thôi việc 1 cán bộ quản lý, cảnh cáo toàn ngành và
chuyển công tác khác 2 chuyên viên, hạ chức vụ 1 chuyên viên, thu hồi
102.989.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước [121, tr. 6].
Công tác thi đua, tuyên truyền được triển khai sâu rộng trong hệ thống
các trường phổ thông. Việc đánh giá, khen thưởng đối với cán bộ, giáo viên
và học sinh ngày càng chính xác, kịp thời, có định mức rõ ràng. Ngành đã chỉ
đạo tổ chức nghiêm túc, đúng quy trình việc xét tặng các danh hiệu “Nhà giáo
nhân dân”, “Nhà giáo ưu tú”, Huy chương “Vì sự nghiệp giáo dục” và các
danh hiệu thi đua khác. Bên cạnh đó phối hợp chặt chẽ với Báo, đài Phát
thanh và truyền hình tỉnh Hòa Bình trong việc tuyên truyền, nêu gương các
đơn vị, cá nhân tiên tiến, xuất sắc, đóng góp vào sự nghiệp phát triển giáo dục
cũng như phổ biến quy chế về tuyển sinh, tuyên truyền về “Ngày Nhà giáo
Việt Nam”, tuyên truyền về các cuộc vận động của Đảng, Nhà nước và của
ngành… Ngoài ra Sở GD - ĐT tiếp tục triển khai chỉ đạo chặt chẽ Chỉ thị của
Bộ trưởng Bộ GD - ĐT về chấn chỉnh công tác dạy thêm, phối hợp với công
66
đoàn ngành thực hiện tốt các cuộc vận động “Kỷ cương, tình thương, trách
nhiệm”, “Cô giáo như mẹ hiền”, “Giáo viên chủ nhiệm giỏi”…; tổ chức gặp
mặt các tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến xuất sắc trong toàn ngành nhằm cổ
vũ, động viên giáo viên, học sinh hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học được giao.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và xây dựng tổ chức Đảng, đoàn
thể trong nhà trường được Ban cán sự Đảng GD - ĐT tỉnh Hòa Bình rất quan
tâm chỉ đạo và phát huy có hiệu quả.
Ngay sau khi Sở GD - ĐT Hòa Bình mới thành lập và đi vào hoạt
động, Thường vụ Tỉnh ủy đã ra quyết định thành lập Ban cán sự Đảng GD -
ĐT. Thực hiện chức năng của mình, Ban cán sự đã phối hợp với lãnh đạo Sở
GD - ĐT tích cực tham mưu cho Tỉnh ủy và phối hợp với các huyện ủy, thị
ủy để xây dựng tổ chức Đảng trong ngành, đồng thời tranh thủ sự lãnh đạo
của Tỉnh ủy thường xuyên báo cáo tình hình và xin ý kiến về các chủ trương
xây dựng, phát triển sự nghiệp GD - ĐT của địa phương. Đã tham mưu cho
Tỉnh ủy ra Nghị quyết 02 chuyên về củng cố, đổi mới và phát triển GD - ĐT;
cụ thể hóa Nghị quyết lần thứ 4 Ban chấp hành Đảng bộ khóa XI. Bên cạnh
đó, lãnh đạo Sở đã tham mưu cho Hội đồng nhân dân tỉnh ra Nghị quyết 09
về GD - ĐT và UBND tỉnh ra Nghị quyết 66 và 650 về Ban hành một số
chính sách của địa phương đối với GD - ĐT. Đảng bộ cơ quan Sở GD - ĐT,
cơ quan đầu não của ngành được Đảng ủy khối Dân, Chính, Đảng lãnh đạo,
chỉ đạo trực tiếp và sâu sát. Đây là một trong những thuận lợi đối với Đảng
bộ cơ quan ngành GD - ĐT Hòa Bình. Tiếp tục thực hiện tốt công tác tham
mưu và phân cấp quản lý, phòng GD - ĐT các huyện, thị xã cũng tranh thủ sự
lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy địa phương. Do vậy, 11/11 huyện ủy, thị ủy đều
ra Nghị quyết chuyên đề về công tác phát triển GD - ĐT của địa phương mình.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và xây dựng tổ chức Đảng trong
nhà trường thường xuyên được quan tâm và có nhiều chuyển biến tích cực.
Các tổ chức Đảng trong nhà trường phổ thông đã phát huy tốt vai trò lãnh
67
đạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức và tác phong gương mẫu của
người đảng viên. Ban cán sự Đảng thường xuyên phối hợp với huyện ủy, thị
ủy tổ chức các hội nghị học tập, quán triệt chuyên đề, Nghị quyết của Đảng,
nhằm nâng cao nhận thức trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Công tác phát
triển đảng viên đảm bảo số lượng và chất lượng, tập trung vào những quần
chúng ưu tú là giáo viên dạy giỏi, quản lý giỏi, giáo viên nữ, giáo viên người
dân tộc. Do vậy, “từ năm 1991 - 1996, Đảng bộ cơ quan Sở Giáo dục và Đào
tạo luôn được công nhận là tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh, Đảng
bộ tiêu biểu của khối Dân, Chính, Đảng, toàn ngành đã có gần 100 chi bộ và
kết nạp được trên 500 đảng viên [120, tr. 3].
Tiếp tục quán triệt Chỉ thị số 34 CT/TW ngày 30 - 05 - 1998 của Bộ
Chính trị “Về tăng cường công tác chính trị tư tưởng, củng cố tổ chức Đảng,
đoàn thể quần chúng và công tác phát triển đảng viên trong các trường học”.
Giai đoạn 1997 - 2001, chất lượng và số lượng đảng viên không ngừng được
tăng lên nhất là trong các trường phổ thông. Tiêu biểu là năm học 1997 -
1998, đã kết nạp được 392 đảng viên mới đưa tổng số đảng viên toàn ngành
lên 2.187 người tập trung ở 315 chi bộ, Đảng bộ, chiếm 16,84% số biên chế
cán bộ, giáo viên, công nhân viên (trong đó đảng viên nữ chiếm 57%, đảng
viên người dân tộc chiếm 63.3%) [121, tr. 8]; năm học 2001 - 2002, số lượng
đảng viên mới được kết nạp là 250 đảng viên, nâng tổng số đảng viên lên 2.273
người (chiếm tỷ lệ 16.7% số cán bộ, giáo viên, công nhân viên) [124, tr. 8].
Cùng với công tác xây dựng Đảng, tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên đã
phát huy tốt vai trò theo chức năng, nhiệm vụ, góp phần tích cực vào thành tích
chung của nhà trường và chăm lo đời sống cho cán bộ giáo viên và học sinh.
Với những kết quả nêu trên đã phản ánh khá rõ nét về vai trò lãnh đạo
của tổ chức Đảng, tổ chức đoàn thể đối với công tác giáo dục. Đây là cơ sở
bảo đảm cho việc định hướng về đường lối của toàn ngành, phục vụ tốt hơn
chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cho toàn tỉnh.
68
Tiểu kết chương 2.
Khởi sắc đi lên cùng tiến trình đổi mới đất nước, GD - ĐT nói chung và
GDPT nói riêng đã có những bước tiến nhất định trong sự nghiệp đổi mới
GDPT nước nhà. Thực hiện chủ trương của Đảng về đổi mới GD - ĐT, là một
tỉnh miền núi được tái lập (10 - 1991), điều kiện KT - XH còn đứng trước rất
nhiều khó khăn, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình đã nhanh
chóng bắt kịp công cuộc đổi mới và phát triển giáo dục của đất nước, nhất là
giáo dục ở bậc phổ thông. Do vậy, GDPT đã không ngừng được đổi mới và
phát triển. Quy mô giáo dục được mở rộng, chất lượng giáo dục từng bước
được nâng cao, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập
được thêm mới, công tác quản lý giáo dục, thanh tra, kiểm tra được thực hiện
một cách nghiêm túc làm cho bộ mặt của ngành ngày càng khởi sắc. Tuy
nhiên bên cạnh những kết quả đạt được rất đáng tự hào; GDPT ở Hòa Bình
còn thấp so với yêu cầu đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp CNH, HĐH. Chất lượng giáo dục chưa thật đồng đều giữa các trường;
tỷ lệ học sinh THPT thi đỗ vào các trường Đại học, Cao đẳng chưa cao, công
tác hướng nghiệp, gắn lý luận với thực tiễn chưa thực sự được chú trọng,
nhiều nơi vùng khó khăn tỷ lệ trường, lớp là tranh tre, nứa lá vẫn còn; việc
đầu tư về cơ sở vật chất trang thiết bị, kinh phí giành cho giáo dục còn thấp…
Song có thể nói, quá trình phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình giai đoạn (1991 -
2001), với những kết qủa đạt được là rất đáng ghi nhận. Đây là những tiền đề
đầy hứa hẹn giúp cho GDPT nói riêng, GD - ĐT ở tỉnh Hòa Bình nói chung
có những bước phát triển mới, đáp ứng tốt hơn yêu cầu đào tạo nguồn nhân
lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
69
Chương 3
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở TỈNH HÒA BÌNH
GIAI ĐOẠN 2001 - 2010
3.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương phát triển giáo dục phổ thông ở
tỉnh Hòa Bình trong giai đoạn mới
3.1.1. Bối cảnh lịch sử và yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực trong
giai đoạn mới.
Nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI, thế kỷ của nền văn minh tri thức,
từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên sang nền
kinh tế dựa vào trí tuệ con người. Khoa học và công nghệ trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp làm thay đổi sâu sắc bộ mặt thế giới. Những thành tựu của
khoa học công nghệ thể hiện ở các lĩnh vực Internet, công nghệ Nanô, vật liệu
mới, công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ… Điều này tác động đến tất cả
các lĩnh vực, làm chuyển biến nhanh chóng, sâu sắc đời sống vật chất và tinh
thần của mọi quốc gia.
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu hướng chủ đạo, vừa là quá trình
hợp tác, vừa là quá trình đấu tranh của các nước để bảo vệ lợi ích dân tộc.
Cạnh tranh kinh tế giữa các nước ngày càng trở nên quyết liệt, đòi hỏi các
quốc gia phải đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động, đặt ra vị trí mới
của giáo dục. Tình hình đó thúc đẩy tất cả các quốc gia trên thế giới đều nhận
thức được giáo dục là nhân tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững,
phải có những chiến lược phát triển để vươn lên mạnh mẽ, trong đó GD - ĐT,
khoa học và công nghệ luôn được coi là chìa khóa của sự thành công, có thể
đáp ứng một cách năng động hơn, hiệu quả hơn, trực tiếp hơn những nhu cầu
của sự phát triển KT - XH đất nước và hội nhập quốc tế.
Trong bối cảnh đó, ở Việt Nam nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN đã và đang được vận hành, đã tạo ra nhiều cơ hội, đem đến những
70
bước đột phá lớn. Sản xuất hàng hóa phát triển làm cho thị trường lao động
mở rộng, nhu cầu học tập tăng lên, bộ mặt xã hội không ngừng được đổi mới,
uy tín và vị thế của nước ta ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế…
Tuy nhiên, đồng hành với nó là sự thay đổi quan niệm về giá trị và lợi ích; tạo
ra sự phân hóa giàu nghèo; sự suy thoái về đạo đức và lối sống thực dụng
trong một bộ phận dân cư; ảnh hưởng đến lựa chọn nghề nghiệp, động cơ học
tập, các quan hệ trong nhà trường và ngoài xã hội, góp phần tăng thêm sự
khác biệt về cơ hội học tập. Việc đầu tư của các doanh nghiệp, sự cạnh tranh
của các cơ sở sản xuất tạo ra nhu cầu lớn về nguồn nhân lực có chất lượng cao
để đáp ứng nhu cầu đó. Các yếu tố như kiến thức nền tảng phổ thông, khả
năng đáp ứng nhu cầu cao của công nghệ, ngoại ngữ, tin học là không thể
thiếu cho nguồn nhân lực mới… Vì vậy vấn đề đặt ra đối với GD - ĐT ở Việt
Nam khi bước sang thế kỷ XXI, làm thế nào để đáp ứng tốt yêu cầu là nơi
cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng, phục vụ nền kinh tế thị trường định
hướng xã XHCN và hội nhập quốc tế.
Sau 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh
đạo, với sự nỗ lực cố gắng vươn lên của đồng bào các dân tộc trong tỉnh, Hòa
Bình đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng
XHCN. Các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế đã và đang chuyển dịch theo
đúng hướng; tiềm năng, thế mạnh về nguồn lực lao động, đất đai, điều kiện tự
nhiên được phát huy gắn liền với yêu cầu của thị trường. Cơ cấu ngành
chuyển biến theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, thương mại, giảm
dần tỷ trọng nông nghiệp trong GDP; cơ chế chính sách được bổ sung và triển
khai kịp thời, phù hợp với điều kiện địa phương; hoạt động văn hóa, xã hội
được chăm lo và đạt được nhiều thành quả quan trọng, góp phần vào ổn định
chính trị, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân… đã tạo ra thế và lực
mới cho quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
71
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những kết quả đạt được trong thời kỳ
đổi mới là toàn diện và rất quan trọng, song đây mới chỉ là những kết quả
trong bước đi đầu tiên kể từ khi tái lập tỉnh (năm 1991).
Đứng trước những yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao về cung cấp nguồn
nhân lực, phục vụ bước đột phá phát triển kinh tế của tỉnh Hòa Bình trong giai
đoạn mới, đã tạo ra sức ép không nhỏ đối với việc nâng cao chất lượng và
hiệu quả của GDPT. Do vậy, ngành GD - ĐT Hòa Bình phải nhanh chóng
nắm bắt những cơ hội, vượt qua những khó khăn thách thức; xác định rõ mục
tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ của ngành và của địa phương để phát huy mạnh mẽ
nguồn lực con người, từng bước xây dựng quê hương Hòa Bình ngày càng
giàu đẹp, văn minh.
3.1.2. Chủ trương của Đảng và sự vận dụng của Đảng bộ tỉnh Hòa
Bình về đổi mới giáo dục phổ thông.
Đại hội lần thứ IX (4 - 2001) của Đảng diễn ra vào thời điểm có ý nghĩa
trọng đại, thế kỷ XX đã kết thúc, thế kỷ XXI vừa bắt đầu. Từ thực tiễn 15
năm đổi mới GD - ĐT, Đại hội một lần nữa khẳng định: “Phát triển giáo dục
và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu
tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” [37, tr.
108-109]. Riêng về GDPT, Đại hội đề ra một số giải pháp như: Tiếp tục nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và
học.Củng cố thành tựu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Đẩy nhanh
tiến độ phổ cập giáo dục THCS trong cả nước. Tăng ngân sách Nhà nước cho
GD - ĐT theo nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Thực hiện chủ trương xã hội hóa
giáo dục [37, tr. 109-111].
Tiếp đó, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
(2002), đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp về đổi mới giáo dục
đến năm 2005 và năm 2010. Hội nghị đề ra một số chỉ tiêu phát triển GDPT
72
đó là: Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Tăng tỷ lệ huy động
học sinh trong độ tuổi đến trường tiểu học từ 95% năm 2000 lên 97% vào
năm 2005 và 99% vào năm 2010. Phấn đấu đến năm 2010 tất cả các trường
tiểu học đạt chuẩn quốc gia. Đạt chuẩn phổ cập THCS ở các thành phố, đô thị,
vùng kinh tế thuận lợi vào năm 2005, trong cả nước vào năm 2010. Tăng tỷ lệ
học sinh THCS trong độ tuổi từ 74% năm 2000 lên 80% vào năm 2005 và
90% vào năm 2010. Phấn đấu đến năm 2015 tất cả các trường THCS đạt
chuẩn quốc gia. Tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi vào THPT từ 38% năm
2000 lên 45% năm 2005 và 50% vào năm 2010. Phấn đấu đến năm 2007 tất
cả các trường THPT đạt chuẩn quốc gia. Vào năm 2010 bảo đảm 100% yêu
cầu chuẩn về thiết bị dạy học, phòng thí nghiệm, thư viện trường học ở tất cả
các cấp học, bậc học [38, tr. 44-45].
Đại hội lần thứ X của Đảng (4 - 2006), trên cơ sở đánh giá khách quan
về thực trạng giáo dục Việt Nam, đại hội đã xác định phương hướng, nhiệm
vụ phát triển phát triển giáo dục trong 5 năm (2006 - 2010) đó là: “Đổi mới tư
duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu chương trình nội dung phương
pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tiếp cận với trình độ
giáo dục của khu vực và trên thế giới. Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện
đại, của dân, do dân và vì dân, đảm bảo công bằng về cơ hội học tập cho mọi
người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, đáp ứng yêu
cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước” [39, tr. 206-207].
Triển khai các quan điểm của Đảng về phát triển giáo dục, ngày 28 - 12
- 2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg,
kèm theo “Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010”. Tiếp đó, ngày 14 - 6 -
2005, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Giáo dục (sửa đổi), trong đó quy
định GDPT gồm hai bậc học là giáo dục tiểu học và giáo dục trung học, ở bậc
trung học có hai cấp là THCS và THPT...
73
Có thể nói, những chủ trương, chính sách về phát triển GDPT của Đảng
và Nhà nước nêu trên là cơ sở định hướng, căn cứ pháp lý quan trọng để các địa
phương trong cả nước nói chung, tỉnh Hòa Bình nói riêng tiếp thu vận dụng.
Quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tỉnh Hòa
Bình đã đề ra những chủ trương, biện pháp phát triển GDPT, nhằm từng bước
đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XIII (2001) đã đề ra mục tiêu
phát triển GDPT trong 5 năm đầu thế kỷ XXI đó là: “Huy động 100% số học
sinh đúng độ tuổi vào lớp 1, thực hiện phổ cập giáo dục THCS cho các xã,
phường thuộc vùng I và vùng II, tiến hành phổ cập giáo dục THPT cho thị xã
và các thị trấn, huyện lỵ đạt từ 20% trở lên” [46, tr. 12]. Để thực hiện mục
tiêu nêu trên, đại hội đã đề ra các nhiệm vụ và giải pháp phát triển GDPT như:
Thu hút 100% học sinh vào lớp 1 cùng độ tuổi, chống tái mù trong việc thực
hiện phổ cập giáo dục tiểu học; thực hiện phổ cập giáo dục THCS cho các
trường, xã thuộc vùng I, vùng II. Nâng cao chất lượng giáo viên, phấn đấu
đến năm 2005 cao đẳng hóa giáo viên tiểu học, giáo viên THCS đạt chuẩn
30%, giáo viên THPT đạt chuẩn 8 - 10%, có từ 8 - 10% giáo viên THPT có
trình độ sau đại học, 30% giáo viên THCS có trình độ đại học. Khuyến khích
đối với những giáo viên giỏi, giáo viên tình nguyện tới những vùng sâu, vùng
xa. Đẩy mạnh hơn nữa công tác xã hội hóa giáo dục, tích cực huy động nguồn
lực ngoài ngân sách cho giáo dục, xây dựng trường lớp phù hợp với thực tế
từng địa bàn dân cư. Tăng tỷ trọng ngân sách đầu tư cho việc dạy và học từ 20
- 25% tổng ngân sách ngành [46, tr. 12-13].
Sau Đại hội Đảng bộ lần thứ XIII, Tỉnh ủy Hòa Bình đề ra Định hướng
chiến lược phát triển GD - ĐT những năm đầu thế kỷ XXI đó là: Phát triển hệ
thống GD - ĐT Hòa Bình theo hướng tiên tiến, hiện đại. Xây dựng đội ngũ
giáo viên đủ về số lượng, đồng bộ về loại hình, 100% giáo viên trong độ tuổi
đạt trình độ bậc học về chuyên môn nghiệp vụ. Đến năm 2005, 100% giáo
74
viên tiểu học đạt chuẩn trung học sư phạm, 100% giáo viên THCS đạt chuẩn
cao đẳng sư phạm, 100% giáo viên các trường THPT đạt chuẩn đại học sư
phạm. Tăng cường nguồn lực tài chính và đa dạng hóa, xã hội hóa các hoạt
động GD - ĐT. Phấn đấu đến năm 2010 đạt tỷ lệ 20 - 30% trường đạt chuẩn
quốc gia, năm 2020 có 80 - 90% trường đạt chuẩn quốc gia. Thực hiện phổ
cập giáo dục THCS, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi trên cơ sở giữ
vững và nâng cao kết quả đã đạt được [146, tr. 239-241].
Tiếp đó, thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001 - 2010
của Thủ tướng Chính phủ, tháng 7 - 2001, Tỉnh ủy Hòa Bình đã đề ra Định
hướng chiến lược phát triển GD - ĐT ở Hòa Bình với các chỉ tiêu: Thu hút
100% học sinh đúng độ tuổi vào lớp 1, đến năm 2005 đạt chuẩn phổ cập tiểu
học đúng độ tuổi, đạt chuẩn phổ cập THCS, tiến tới phổ cập THPT cho thị xã,
thị trấn, huyện lỵ đạt 20%. Đến năm 2005, tỷ lệ giáo viên tiểu học vượt chuẩn
30% giáo viên THCS vượt chuẩn 20%, giáo viên THPT vượt chuẩn 8 - 10%...
[146, tr. 241-242].
Trên cơ sở những thành tích bước đầu đạt được về GDPT, tháng 5 -
2004, Sở GD - ĐT Hòa Bình đề ra Chương trình hành động của ngành với
nhiều nội dung quan trọng như:
Chương trình 1: Đổi mới nâng cao hơn nữa năng lực quản lý nhà nước
trong GD - ĐT.
Chương trình 2: Tiếp tục đổi mới GDPT và phương pháp dạy học theo
hướng hiện đại, phù hợp với điều kiện KT - XH của tỉnh. Tập trung thực hiện
chương trình, sách giáo khoa phổ thông theo tinh thần Nghị quyết
40/2000/QH của Quốc hội khóa X.
Chương trình 3: Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản
lý giáo dục, coi trọng đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, chuẩn hóa về trình
độ đào tạo.
Chương trình 4: Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường
lớp, trang thiết bị, đồ dùng dạy học, tập trung các nguồn lực cho GD - ĐT.
75
Chương trình 5: Phát triển quy mô giáo dục trên hai lĩnh vực đại trà và
mũi nhọn, bảo đảm chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn với yêu cầu
phát triển KT - XH của địa phương.
Chương trình 6: Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục [146, tr. 247].
Bước sang giai đoạn mới, Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XIV
(2005) đã đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ phát triển GDPT như:
Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng
(khóa IX) về “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục”; phấn đấu đến năm 2010 có 100% giáo viên đạt chuẩn;
hoàn thành đổi mới GDPT theo Nghị quyết 40 của Quốc hội. Tăng cường đầu
tư ngân sách và huy động nguồn lực ngoài ngân sách cho giáo dục. Giữ vững
và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo
dục tiểu học, XMC và phổ cập giáo dục THCS [165, tr. 482].
Có thể khẳng định rằng các quan điểm của Đảng bộ tỉnh Hòa Bình về
phát triển GDPT, đã thể hiện nhận thức đúng đắn tinh thần đổi mới về giáo
dục của Đảng. Do vậy, quá trình quán triệt và vận dụng vào thực tiễn địa
phương luôn có được những bước đi thuận lợi và mang tính khả thi.
3.2. Phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình, góp phần tạo
bước đột phá về kinh tế - xã hội (2001 - 2010)
3.2.1. Nâng cao chất lượng và chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, cán bộ
quản lý giáo dục.
Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục giữ vai trò quan trọng
trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, do vậy công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ, giáo viên vững mạnh tiếp tục được tỉnh Hòa Bình quan tâm chỉ đạo.
Quán triệt Chỉ thị số 40 CT/TW ngày 15 - 6 - 2004 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng, về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục, Chương trình hành động số 374/CTr-TU ngày
24 - 12 - 2004 của Tỉnh ủy Hòa Bình, ngành giáo dục Hòa Bình đã tiến hành
76
rà soát đánh giá, bổ sung đội ngũ cán bộ, kiện toàn bộ máy quản lý; chuẩn
hóa nâng cao năng lực quản lý gắn trách nhiệm với quyền hạn của cán bộ
quản lý theo nhiệm kì 5 năm; sắp xếp điều chỉnh biên chế giữa các vùng, các
trường một cách hợp lý đảm bảo giáo viên dạy đúng môn, chất lượng giảng
dạy ở các vùng không bị chênh lệch. Thực hiện chủ trương nêu trên, hàng
năm Sở GD - ĐT đã tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn,
nghiệp vụ cho cán bộ quản lý và giáo viên các nhà trường; chỉ đạo các
trường phổ thông chọn cử giáo viên dạy giỏi dạy các lớp đầu cấp tham gia
dạy các lớp thay sách, làm cơ sở rút kinh nghiệm cho việc chọn cử giáo viên
các lớp sau; tổ chức hội giảng, hội thi giáo viên dạy giỏi. Hàng năm ngành
giáo dục đã tiến hành cử đội ngũ cán bộ tham gia tập huấn tại Bộ GD - ĐT
và thực hiện nhiệm vụ tập huấn cho giáo viên đại trà tại địa phương; thường
xuyên tổ chức hội thảo đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm rút ra những
kinh nghiệm để có biện pháp phát huy mặt mạnh và kịp thời khắc phục
những hạn chế, khó khăn và từng bước có kế hoạch bồi dưỡng giáo viên
trong những năm sau; có kế hoạch thanh tra, kiểm tra báo trước, đột xuất để
tổ chức dự giờ, các chuyên đề về phương pháp thiết kế bài giảng, các hoạt
động dạy học tích cực tập trung vào người học để cùng nhau rút kinh nghiệm
và nâng cao kiến thức chuyên môn cho giáo viên; triển khai việc ứng dụng
công nghệ thông tin vào công tác giảng dạy, đồng thời bố trí đủ giáo viên
công nghệ thông tin và toán - tin đến các trường phổ thông; thực hiện chuẩn
hóa trình độ 9 + 3 cho giáo viên tiểu học có trình độ dưới sư phạm 9 + 2;
chú trọng liên kết với các trường đại học, cao đẳng bồi dưỡng đào tạo chuẩn
cho giáo viên bằng các hình thức chính quy, tại chức, từ xa nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ… Do vậy, năm học 2004 - 2005 chất lượng đội ngũ giáo
viên các cấp học, bậc học ngày càng được tăng cường, tỷ lệ giáo viên được
đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn được thể hiện qua biểu đồ sau:
77
Biểu đồ 3.1. Chất lượng đội ngũ giáo viên phổ thông năm học 2004 - 2005
97.78
95.89
91
Đạt chuẩn
Trên chuẩn
21
19.6
1.64
100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0
Tiểu học
THCS
THPT
Đơn vị: %
Nguồn: [132, tr. 8].
Bên cạnh đó, tỉnh Hòa Bình cũng rất quan tâm đào tạo giáo viên cho
vùng dân tộc, số lượng giáo viên người dân tộc ở cấp học phổ thông tăng hơn
so với năm học trước, năm học 2004 - 2005, tỉnh Hòa Bình đã có
7.123/11.815 giáo viên người dân tộc thiểu số trực tiếp tham gia giảng dạy,
chiếm tỷ lệ 60,28% so với tổng số giáo viên toàn ngành [132, tr. 10]. Đến
năm học 2005 - 2006, tỷ lệ giáo viên là người dân tộc thiểu số tăng 0,98% so
với năm học 2004 - 2005; chất lượng giáo viên được nâng cao, có 76,36%
giáo viên tiểu học là người dân tộc thiểu số đạt chuẩn và 12,6% vượt chuẩn;
79,68% giáo viên THCS là người dân tộc hiểu số đạt chuẩn và 11,5% vượt
chuẩn; 95,5% giáo viên THPT là người dân tộc thiểu số đạt chuẩn và 2,25%
vượt chuẩn [133, tr. 16]. Ngành giáo dục tỉnh Hòa Bình cũng đã thực hiện đầy
đủ các chính sách, chế độ cho cán bộ, giáo viên, nhân viên công tác tại các
trường phổ thông dân tộc nội trú theo Nghị định 61/2006/NĐ-CP của Chính
phủ về chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục ở các trường
chuyên biệt, ở vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn. Bên cạnh đó, thực hiện
Nghị quyết 09/2003/NQ-CP của Chính phủ, đã giải quyết tinh giản biên chế
78
đối với một số giáo viên có trình độ năng lực yếu, kém không đáp ứng yêu
cầu nghiệp vụ trong giai đoạn mới.
Tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị số 40 CT/TW ngày 15 - 6 - 2004
của Ban Bí thư Trung ương Đảng, ngày 11 - 01 - 2005, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg về xây dựng, nâng cao chất
lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 - 2010.
Quán triệt chủ trương nêu trên, UBND tỉnh Hòa Bình đã ban hành Quyết định
số 3463/QĐ-UBND, ngày 25 - 12 - 2006, về việc phê duyệt Đề án “Xây
dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tỉnh
Hòa Bình giai đoạn 2005 - 2010”; trên cơ sở đó, ngành GD - ĐT ban hành
hướng dẫn số 897/SGD&ĐT-TCCB, ngày 15/6/2007 để thực hiện Quyết định
của UBND tỉnh, với mục tiêu “Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục theo hướng chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ số lượng, đồng bộ về
cơ cấu; đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống
lương tâm, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục” [196, tr. 1].
Thực hiện quyết định trên, ngành giáo dục đã chủ động rà soát, sắp xếp
lại đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, kiên quyết chuyển công tác
khác đối với giáo viên không đáp ứng được yêu cầu, hợp đồng giáo viên trẻ
có chất lượng. Tổ chức đánh giá, xếp loại cán bộ quản lý, giáo viên chính xác,
không chạy theo thành tích đảm bảo phản ánh đúng chất lượng giáo dục.
Thực hiện tinh giản biên chế, sắp xếp và sử dụng cán bộ công chức phù hợp
với chức trách, nhiệm vụ được giao, đổi mới phong cách làm việc, phân công
nhiệm vụ rõ ràng. Triển khai đồng bộ các giải pháp nêu trên, riêng năm học
2007 - 2008, toàn ngành đã có 189 cán bộ, giáo viên đăng ký nghỉ chế độ (đợt
1 và đợt 2) theo Nghị định 132/2007/NĐ-CP của Chính phủ do dôi dư về cơ
cấu và năng lực chuyên môn yếu kém; một số giáo viên yếu kém về chuyên
môn, còn trẻ được chuyển làm công tác phục vụ và hành chính; đồng thời
79
tăng cường kỷ cương, nền nếp trong dạy và học, xử lý kỷ luật nghiêm minh
đối với những trường hợp vi phạm khuyết điểm. Trong năm học đã xử lý kỷ
luật khiển trách, cảnh cáo 41 cán bộ quản lý, giáo viên; buộc thôi việc 03 giáo
viên vi phạm pháp luật [135, tr. 10]. Năm học 2009 - 2010, đã khảo sát xếp
loại 78 giáo viên không đáp ứng được yêu cầu, 450 giáo viên chưa đạt chuẩn,
căn cứ vào đó, ngành tiếp tục chỉ đạo cử đi đào tạo lại, vận động nghỉ hưu
trước tuổi và nghỉ chờ chế độ hưu sớm, bố trí lại công việc phù hợp với yêu
cầu nhiệm vụ, đồng thời bổ sung kịp thời lực lượng giáo viên trẻ có đủ điều
kiện và năng lực để tránh thiếu hụt; chỉ đạo khắc phục tình trạng thiếu giáo
viên ở một số bộ môn, động viên cán bộ, giáo viên dạy tăng tiết, tăng giờ, hợp
đồng tạm thời một số giáo viên tốt nghiệp cao đẳng sư phạm tin học loại khá
để giảng dạy bộ môn tin học trong trường THPT còn thiếu. Liên kết mở các
lớp đại học với các trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học sư phạm Thái
Nguyên để đào tạo nâng trình độ trên chuẩn cho giáo viên các cấp học. Bên cạnh
đó, xây dựng kế hoạch thực hiện công tác điều động, luân chuyển cán bộ quản lý
theo tinh thần Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 25 - 11 - 2002 của Bộ Chính trị
(khóa IX) và bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ quản lý giáo dục nhiệm kỳ 2010 -
2015. Kiên quyết không bổ nhiệm lại cán bộ quản lý năng lực yếu; không bố trí
giáo viên yếu hoặc chưa qua đào tạo tham gia giảng dạy. Thực hiện việc đánh
giá, lấy phiếu tín nhiệm giữa nhiệm kỳ đối với cán bộ quản lý giáo dục.
Công tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ quản lý luôn đảm bảo chặt chẽ,
đúng quy trình, thủ tục; công khai, dân chủ, đảm bảo tiêu chuẩn theo quy
định Điều lệ trường học và quy định của tỉnh. Phối kết hợp chặt chẽ với các
cấp ủy Đảng, Chính quyền địa phương để làm tốt công tác cán bộ quản lý
như bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển, điều động cán bộ luôn được đồng
thuận cao. Hàng năm thực hiện tốt công tác đánh giá, quy hoạch cán bộ quản
lý theo tinh thần NQTW 3 (khoá 8) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước. Trong năm học 2009 - 2010, toàn ngành đã tiến hành
80
bổ nhiệm lại 1 đồng chí lãnh đạo ngành, 124 cán bộ quản lý, miễn nhiệm 68
cán bộ quản lý năng lực yếu kém.
Một trong những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ là công
tác đánh giá đúng chất lượng cán bộ, giáo viên. Căn cứ chuẩn nghề nghiệp
giáo viên các cấp để hướng dẫn phân loại cán bộ, giáo viên nhằm đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng, bố trí đội ngũ một cách hợp lý, phù hợp với năng lực chuyên
môn và trình độ đào tạo. Ngành đã phối hợp với Sở Nội vụ xây dựng đề án rõ
ràng, chặt chẽ, dân chủ, khách quan trong việc tuyển dụng, sử dụng và đãi
ngộ cán bộ giáo viên.
Công tác xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên
là người dân tộc thiểu số trong các trường phổ thông cũng được ngành giáo
dục tỉnh Hòa Bình hết sức quan tâm, quy mô đội ngũ giáo viên người dân
tộc thiểu số tăng lên khá nhanh. Đến năm 2008, toàn tỉnh có 6.637 giáo viên
là người dân tộc thiểu số, chiếm tỷ lệ 45,39% so với tổng số giáo viên toàn
ngành [146, tr. 277]. Đã tuyển chọn đào tạo, bồi dưỡng người Mông thành
giáo viên trực tiếp dạy tiểu học tại các xã và đã có 22 giáo viên tiểu học là
người Mông đạt chuẩn trực tiếp giảng dạy tại các lớp [146, tr. 277]. Tổ chức
đào tạo đội ngũ giáo viên người dân tộc Mường, Tày, Thái đến giảng dạy tại
các vùng đặc biệt khó khăn; điều động các giáo viên giỏi, giáo viên cốt cán
các bộ môn đến giảng dạy ở các trường vùng cao, vùng khó khăn một thời
gian. Chất lượng giáo viên là người dân tộc thiểu số không ngừng được nâng
cao, tỷ lệ giáo viên dân tộc thiểu số đạt chuẩn trở lên trong toàn ngành bậc
tiểu học đạt 98% (trong đó trên chuẩn là 20%); giáo viên THCS là 96%
(trong đó trên chuẩn là 2%); giáo viên THPT đạt 99%, (trong đó trên chuẩn
là 2% [146, tr. 278].
Tiếp tục phát huy những kết quả đạt được trong công tác xây dựng đội
ngũ, đến năm học 2009 - 2010, tỷ lệ giáo viên phổ thông các cấp có trình độ
đạt chuẩn và trên chuẩn tiếp tục được nâng lên thể hiện qua biểu đồ sau:
81
Biểu đồ 3.2. Chất lượng đội ngũ giáo viên phổ thông năm học 2009 - 2010
100
100
100
100
90
80
70
Đạt chuẩn
60
40.2
50
Trên chuẩn
40
23.3
30
20
3.3
10
0
Tiểu học
THCS
THPT
Đơn vị: %
Nguồn: [138, tr. 13].
Tuy nhiên, đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục trong giai
đoạn 2001 - 2010 vẫn còn bộc lộ một số hạn chế. Một bộ phận giáo viên, cán
bộ quản lý chưa theo kịp với yêu cầu đổi mới giáo dục, nhất là việc đổi mới
công tác thi, kiểm tra, đánh giá, đổi mới phương pháp dạy và học. Bên cạnh
đó, công tác quy hoạch, đào tạo còn thiếu tổng thể nên dẫn đến tình trạng đội
ngũ giáo viên vừa thiếu, vừa thừa và không đồng bộ về cơ cấu, trình độ
chuyên môn. Điển hình như năm học 2007 - 2008, đối với cấp THPT toàn
tỉnh vẫn còn thiếu 498 người, trong đó thiếu 365 giáo viên giảng dạy, 55 nhân
viên thiết bị, 30 nhân viên thư viện, 24 nhân viên văn phòng [135, tr. 9]....
Với những hạn chế nêu trên, ngành giáo dục tỉnh Hòa Bình cần phải tiếp tục
nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ, để kịp thời đáp ứng với yêu cầu của
tình hình mới, đây là yếu tố quyết định đến chất lượng giáo dục đào tạo của
tỉnh Hòa Bình.
3.2.2. Hệ thống trường, lớp và quy mô học sinh.
Hệ thống trường, lớp tiếp tục được phát triển đa dạng và mở rộng khắp
các làng bản, thôn xóm, đã đáp ứng nhu cầu học tập của con em đồng bào các
82
dân tộc trong tỉnh. Đến năm học 2009 - 2010, toàn tỉnh Hòa Bình có một mạng
lưới trường lớp phổ thông tương đối hợp lý, thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 3.1. Số lượng trường, lớp phổ thông (2001 - 2010)
Trường
Lớp
Năm học
Tiểu
PTCS
PT
Tiểu
THCS THPT
THCS THPT
học
(cấp I-II)
DTNT
học
2004 - 2005
210
32
194
33
9
3.640 2.253
622
2009 - 2010
219
19
209
38
10
3.016 1.659
638
Nguồn: [132, tr. 5], [138, tr. 2]
Từ bảng số liệu 3.1 cho thấy, số trường tiểu học, THCS và THPT có
tăng qua các năm, số trường PTCS (cấp I - II) có sự giảm dần. Lý do các
trường PTCS giảm dần là do Bộ GD - ĐT đã ban hành Điều lệ hoạt động của
trường phổ thông mới, trong đó quy định thống nhất bậc PTCS thành bậc
THCS, tuy nhiên do điều kiện về kinh tế, địa bàn dân cư bị phân tán và đặc
thù của từng địa phương, một số vùng trong tỉnh Hòa Bình vẫn còn tồn tại bậc
PTCS; bên cạnh đó số lớp tiểu học và THCS chưa thật ổn định, mỗi bậc học
giảm gần 600 lớp, nguyên nhân chủ yếu là do số lượng học sinh tiểu học và
THCS giảm lên số lớp giảm theo. Mặt khác, số lớp học do xuống cấp vẫn
chưa được sửa chữa, bổ sung kịp thời, đây cũng là nguyên nhân của sự sụt
giảm về số lớp học. Ngoài ra hệ thống trường bán công, các lớp bán công bậc
THPT cũng tăng mạnh, đến năm học 2004 - 2005, toàn tỉnh Hòa Bình có 3
trường bán công, 30 lớp bán công với tổng số trên 4.000 học sinh [132, tr.
10]. Hệ thống các trường Phổ thông dân tộc nội trú trong tỉnh ngày càng được
hoàn thiện hơn, 100% các huyện khó khăn đều có các trường Phổ thông dân
tộc nội trú nhằm huy động tối đa trẻ em là người dân tộc thiểu số đến lớp ở tất
cả các cấp học. Đến năm học 2005 - 2006, toàn tỉnh có 100% số xã, phường,
thị trấn, kể cả các xã ở vùng cao, vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn đều có
83
trường tiểu học, PTCS, THCS thu hút học sinh trong độ tuổi đến trường. Có
nhiều xã vùng khó khăn có từ 1 đến 2 trường tiểu học đáp ứng nhu cầu học
tập của con em nhân dân các dân tộc trong xã, trong huyện [133, tr. 15]. Để
thuận lợi cho công tác quản lý, cũng như tiếp tục quan tâm hơn nữa đến chính
sách về giáo dục đối với con em các dân tộc thiểu số, từ năm 2010, hệ thống
các trường Phổ thông dân tộc nội trú cấp huyện và liên xã đã được bàn giao
về Sở GD - ĐT quản lý và thành lập khối thi đua các trường Phổ thông dân
tộc nội trú huyện, liên xã [138, tr. 10].
Cùng với sự phát triển đa dạng về quy mô trường lớp, số lượng học
sinh cũng có sự biến động trong các năm, thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 3.3. Số lượng học sinh phổ thông (2001 - 2010)
80000
70000
60000
50000
40000
30000
20000
10000
0
2004 - 2005
Tiểu học 77810
THCS 74059
THPT 26876
2009 - 2010
57026
51494
27581
Đơn vị: Người
Nguồn: [132, tr. 6], [146, tr. 259].
Từ biểu đồ 3.1 cho thấy, số lượng học sinh có xu hướng giảm dần, đặc
biệt là bậc tiểu học và THCS. Ở bậc tiểu học trong năm học 2004 - 2005 có
77.810 học sinh, năm học 2009 - 2010 giảm còn 57.026 học sinh. Ở bậc
THCS năm học 2004 - 2005 có 74.059 học sinh, năm học 2009 - 2010 giảm
xuống còn 510.494 học sinh. Bậc THPT năm học 2004 - 2005 có 26.876 học
84
sinh, năm học 2009 - 2010 tăng lên 27.581 học sinh. Nguyên nhân chủ yếu là
do tỉnh Hòa Bình đã thực hiện tốt công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình
theo chủ trương của Đảng, Nhà nước nên nên tỷ lệ sinh giảm và trẻ em trong
độ tuổi vào lớp 1 giảm, tỷ lệ học sinh chuyển cấp cũng giảm theo. Bên cạnh
đó, việc mở rộng địa giới hành chính Thành phố Hà Nội (năm 2008), nên một
số lượng học sinh khá lớn ở 4 xã thuộc huyện Lương Sơn cũng đã chuyển về
Hà Nội. Song về cơ bản các cấp học, bậc học đã huy động tối đa số học sinh
trong độ tuổi vào lớp, đảm bảo đủ chi tiêu đề ra.
Công tác củng cố kết quả XMC, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi,
phổ cập giáo dục THCS được quan tâm chỉ đạo và phát huy có hiệu quả. Tỉnh
Hòa Bình tiếp tục duy trì, củng cố tốt công tác XMC và giáo dục tiếp tục sau
khi biết chữ. Ngoài nội dung chương trình các mức 1 và 2 theo quy định của
Bộ GD - ĐT, các hình thức học sau XMC được tổ chức đa dạng hơn, học theo
chuyên đề, phù hợp với từng đối tượng và thu hút nhiều người tham gia học
tập, góp phần quan trọng chống tái mù chữ cho học viên mới biết chữ. Do vậy,
số người biết chữ và tiếp tục được giáo dục sau biết chữ không ngừng tăng lên,
điển hình như: Năm học 2005 - 2006, đã mở được 229 lớp XMC và sau XMC
với 4.249 học viên, so với năm học 2004 - 2005 số học viên huy động ra các
lớp XMC và sau XMC tăng 390% [133, tr. 6]. Năm học 2007 - 2008, đã mở
được 315 lớp XMC và sau biết chữ với 6.251 học viên; công nhận hoàn thành
chương trình bổ túc tiểu học cho 2.071 người; mở rộng diện XMC cho các độ
tuổi khác nhau nên tỷ lệ người biết chữ của các nhóm độ tuổi đạt khá cao so
với kế hoạch đề ra. Độ tuổi từ 15 - 35, biết chữ đạt tỷ lệ 99,3%; độ tuổi 36 - 45,
biết chữ đạt tỷ lệ 97,7% [135, tr. 12]. Cũng với nội dung này, đến năm học
2009 - 2010, tỷ lệ người biết chữ cùng độ tuổi như trên đạt 100% [138, tr. 7].
Tỉnh Hòa Bình đã đưa ra nhiều giải pháp để vận động trẻ vào lớp 1,
đồng thời đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết 41/QH ngày 9 - 12 - 2000 của
Quốc hội về phổ cập giáo dục THCS trên phạm vi cả nước, Chỉ thị số 61-
85
CT/TW ngày 28 - 12 - 2000 của Bộ Chính trị về việc thực hiện phổ cập
THCS, Chỉ thị số 11/2001/CT-UB ngày 08/5/2001 của UBND tỉnh về việc
thực hiện phổ cập giáo dục THCS, Chỉ thị số 15/CT-TU ngày 12 - 3 - 2002
của Tỉnh uỷ Hoà Bình về việc tăng cường công tác lãnh đạo, công tác phổ cập
giáo dục THCS. Do vậy, tháng 12 - 2003, tỉnh Hòa Bình đã đạt chuẩn phổ cập
giáo dục THCS và tháng 12 - 2005 được công nhận phổ cập giáo dục tiểu học
đúng độ tuổi [2, tr. 781]. Đặc biệt, trong năm học 2005 - 2006, tỉnh Hòa Bình
đã huy động tối đa số trẻ em là người dân tộc thiểu số ra lớp ở tất cả các
ngành học cấp học, đã có 99,8% học sinh 6 tuổi ra lớp 1; nhiều xã, phường,
thị trấn huy động tối đa 100% số trẻ em trong độ tuổi ra lớp [133, tr. 16].
Cũng theo số liệu báo cáo, thống kê chung, năm học 2005 - 2006, toàn tỉnh có
146.162 học sinh, sinh viên là người dân tộc dân tộc thiểu số, chiếm tỷ lệ
65,09% so với tổng số học sinh, sinh viên toàn tỉnh, tăng 1,3% so với năm
học 2004 - 2005. Đây là năm học có số lượng học sinh, sinh viên dân tộc
thiểu số nhiều nhất kể từ trước đến nay [133, tr. 16]. Có thể nói Hoà Bình đã
chấm dứt hiện tượng học sinh dân tộc thiểu số thất học. Đây là một trong
những thành tích nổi bật về công tác phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi,
phổ cập giáo dục THCS và huy động trẻ trong độ tuổi đến trường mà ngành
giáo dục Hòa Bình đã đạt được, cũng như hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu, kế
hoạch do Đảng bộ tỉnh đã đề ra.
3.2.3. Đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao chất lượng dạy và học.
Đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao chất lượng dạy và học được
Sở GD - ĐT Hòa Bình coi đó là mục tiêu, nhiệm vụ số một của ngành.
Năm học 2001 - 2002, ngành giáo dục tỉnh Hòa Bình đã tập trung chỉ
đạo việc đổi mới chương trình GDPT, thực hiện thay sách giáo khoa, gắn với
việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện theo Nghị quyết 40/2000QH,
Quốc hội khóa X. Do vậy, năm học 2004 - 2005, đã thực hiện việc đổi mới
chương trình, sách giáo khoa ở lớp 1, lớp 2, lớp 6 và lớp 7 theo quy định. Bên
86
cạnh đó, phương pháp dạy và học cũng được tập trung đổi mới theo hướng
tăng cường trao đổi kinh nghiệm, dành nhiều thời gian vào việc soạn giáo án,
giảng thử; xem băng hình, các tiết dạy có minh hoạ; bồi dưỡng kỹ năng thực
hành sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học; khuyến khích học sinh đề xuất sáng
kiến cùng và các thầy cô thực hiện giải pháp để thực hiện việc giạy và học có
hiệu quả ngày càng cao… đặc biệt, năm học 2009 - 2010 đã tổ chức tập huấn
tin học và ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy cho 34 lớp với 862
giáo viên tiểu học, THCS và THPT; đồng thời chỉ đạo các đơn vị, trường học
thực hiện tốt khẩu hiệu “Mỗi giáo viên xây dựng ít nhất một bài giảng điện
tử” [138, tr. 6], từ đó giúp giáo viên có được phương pháp giảng dạy tích cực,
tiếp cận được với các thiết bị giảng dạy tiên tiến, góp phần vào việc nâng cao
chất lượng giáo dục đào tạo.
Công tác tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá và tăng cường kỹ năng cho
người học cũng không ngừng được đổi mới, thông qua các hoạt động dự giờ,
thăm lớp, trao đổi kinh nghiệm ở các tổ chuyên môn, hội thảo, hội nghị. Tổ
chức bồi dưỡng kỹ năng ra đề, soạn đáp án và chấm bài thi, kiểm tra bằng
hình thức tự luận, trắc nghiệm bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng của chương
trình với các cấp độ. Coi trọng việc phân tích kết quả kiểm tra, đánh giá, thi
giữa các năm học liền kề, kết quả khảo sát chất lượng để điều chỉnh hoạt động
giảng dạy và học tập. Tăng cường thực hành, thí nghiệm, rèn luyện kỹ năng tự
học, tự nghiên cứu cho học sinh theo chuẩn kiến thức và kỹ năng của chương
trình. Tổ chức các hoạt động ngoại khoá, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Chú trọng giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh, triển khai giáo dục
lịch sử địa phương. Đảm bảo chất lượng giáo dục, giảm số lượng học sinh lưu
ban, bỏ học, có biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi, giúp đỡ học sinh yếu kém.
Các giải pháp về đổi mới nội dung, phương pháp nêu trên đã được tỉnh
Hòa Bình quán triệt và triển khai đồng bộ trong toàn ngành, đã góp phần nâng
cao chất lượng dạy và học. Do vậy, chất lượng GDPT trong các năm đã có
87
nhiều chuyển biến tích cực và khá đồng đều, điển hình năm học 2004 - 2005
được thể hiện ở bảng số liệu sau:
Bảng 3.2. Tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học
và đỗ tốt nghiệp phổ thông năm học 2004 - 2005
Đơn vị: %
Nội dung Tỷ lệ hoàn thành Trong đó
Bậc học tiểu học/đỗ TN Loại Giỏi Loại Khá
Tiểu học 99,74 6,69 60,91
THCS 99,23 2,02 22,79
THPT 98,53 1,6 9,14
Nguồn: [132, tr. 6].
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi tiếp tục được các nhà trường triển
khai có hiệu quả. Kỳ thi học sinh giỏi Quốc gia THPT năm học 2004 - 2005,
Hòa Bình có 88 học sinh dự thi. Kết quả: có 67 học sinh đoạt giải, chiếm tỷ lệ
76,13%; trong đó có 2 giải Nhất, 14 giải Nhì, 31 giải Ba và 20 giải Khuyến
khích; có 9 học sinh dân tộc đoạt giải, chiếm tỷ lệ 13,43% so với tổng số học
sinh đoạt giải Quốc gia trong tỉnh. Tỉnh Hòa Bình tiếp tục đứng đầu ở bảng B
(các tỉnh phía Bắc, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long) về kết quả thi
học sinh giỏi cấp Quốc gia THPT. Kỳ thi giải Toán bằng máy vi tính toàn
quốc tại Thái Nguyên, đoàn học sinh Hoà Bình dự thi ở hai bảng A và B. Kết
quả: Bậc THCS đạt 3 giải gồm 1 giải Nhất, 1 giải Ba và 1 giải Khuyến khích.
Bậc THPT đạt 2 giải Ba, 1 giải Khuyến khích. Kỳ thi giáo viên dạy giỏi nghề
phổ thông toàn quốc lần thứ nhất, Hòa Bình có 1 giáo viên được công nhận
giáo viên dạy giỏi nghề phổ thông [132, tr. 6-7]. Kỳ thi học sinh giỏi Quốc gia
năm học 2007 - 2008, trường THPT chuyên Hoàng Văn Thụ tiếp tục giữ vững
truyền thống và khẳng định được chất lượng dạy và học của nhà trường, đã
mang về tổng số 25/25 giải Quốc gia, chiếm tỷ lệ 100% tổng số giải của tỉnh
88
Hòa Bình, xứng đáng là trung tâm giáo dục đào tạo chất lượng cao hàng đầu
của tỉnh [146, tr. 261]. Với kết quả nêu trên, tỉnh Hòa Bình tiếp tục khẳng
định công tác đào tạo, bồi dưỡng chất lượng giáo dục mũi nhọn trong nhiều
năm; đồng thời tiếp tục khẳng định vị trí giáo dục miền núi so với giáo dục
đào tạo trong cả nước, góp phần vào sự chuyển biến lĩnh vực đào tạo mũi
nhọn và đào tạo đại trà của tỉnh Hòa Bình.
Phát huy những kết quả đạt được, năm học 2009 - 2010, chất lượng
GDPT tiếp tục có được những kết quả đáng ghi nhận. Cụ thể:
Giáo dục tiểu học:
Toàn tỉnh có 31.243 học sinh được học 2 buổi/ngày đạt tỷ lệ 52%. Việc
triển khai dạy học hai buổi/ngày đã góp phần tích cực trong việc nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh tiểu học. Bên cạnh đó, ngành đã tổ
chức hội thi Phó Hiệu trưởng giỏi cấp tỉnh cho 41 người tham gia dự thi, kết
quả 26 Phó Hiệu trưởng đạt giải; tổ chức hội thi giáo viên giỏi lớp 2 và lớp 3,
với tổng số 117 giáo viên tham gia dự thi, kết quả có 46 giáo viên đạt giải; tổ
chức hội thi viết chữ đẹp với kết quả 110 học sinh và 22 giáo viên dự thi đạt
giải. Đây là những hoạt động có tác dụng thúc đẩy phong trào thi đua, nâng
cao chất lượng dạy và học. Vì vậy, chất lượng giáo dục tiểu học có được
những kết quả: Môn Toán, tỷ lệ đạt loại giỏi 41% (tăng 11%), loại yếu còn
1,9% (giảm 1,5%); môn Tiếng Việt, tỷ lệ đạt loại giỏi 31% (tăng 9%), loại
yếu còn 2,0% (giảm 1,3%) so với năm học 2008 - 2009; xét và công nhận
hoàn thành chương trình tiểu học đạt tỷ lệ 98% [138, tr. 9].
Giáo dục trung học:
Về kết quả giáo dục hai mặt:
Bậc THCS: Hạnh kiểm tốt đạt 63,8% (tăng 2,6%), loại yếu 0,6% (tăng
0,21%); học lực giỏi đạt 5,8% (tăng 0,6%), học lực khá đạt 32% (tăng
3,76%), học lực yếu 8,5% (giảm 0,6%), học lực kém 0,14% (giảm 0,05%) so
89
với năm học 2008 - 2009. Số học sinh tốt nghiệp THCS vào học lớp 10 bậc
THPT đạt 85.8%.
Bậc THPT: Hạnh kiểm tốt đạt 64,6% (giảm 5,6%), loại yếu 0,9% (giảm
0,1%); học lực giỏi đạt 1.9% (tăng 0,9%), học lực khá đạt 21,1% (tăng 1,1%),
học lực yếu 14,3% (giảm 3,7%), học lực kém 0,3% (tăng 0,2%) so với năm
học 2008 - 2009. Học sinh đỗ tốt nghiệp THPT đạt tỷ lệ 100%. [138, tr. 10].
Ngành đã lựa chọn và tổ chức cho các em học sinh tham gia kỳ thi học
sinh giỏi Quốc gia lớp 12 THPT năm học 2009 - 2010, với kết quả 40/72 học
sinh đoạt giải, tăng 16 giải so với năm học 2008 - 2009, tỷ lệ đoạt giải là
55,5%. Trong tổng số 40 giải Quốc gia, có 4 giải Nhì, 20 giải Ba và 16 giải
Khuyến khích; có 8 học sinh dân tộc đoạt giải. Kết quả kỳ thi học sinh giỏi
Quốc gia tiếp tục khẳng định chất lượng về giáo dục mũi nhọn trong các nhà
trường. Cũng trong năm học này, tỉnh Hòa Bình đạt giải Nhất toàn đoàn tại kỳ
thi giải toán trên máy tính cầm tay Vinacal tổ chức tại Hòa Bình với 26 giải
trong đó có 5 giải Nhất, 10 giải Nhì, 10 giải Ba và 1 giải Khuyến khích. Tổ
chức thi giáo viên giỏi cấp tỉnh THPT ở 5 môn thi: Toán, Ngữ Văn, Tiếng
Anh, Hóa học, Vật lý với 116 giáo viên tham gia dự thi, kết quả có 26 giáo
viên đạt giải, trong đó có 7 giải nhất, 7 giải nhì, 12 giải ba và 38 giáo viên
được công nhận; tổ chức thi giáo viên giỏi tỉnh cấp THCS có 87 giáo viên dự
thi, kết quả có 42 giáo viên đạt giải, trong đó có 5 giải nhất, 11 giải nhì, 13
giải ba, 13 giải khuyến khích và 39 giáo viên được công nhận [138, tr. 9-10].
Công tác giáo dục dân tộc cũng thường xuyên được quan tâm. Toàn
ngành đã chỉ đạo, nâng cao chất lượng giáo dục dân tộc, huy động học sinh ra
lớp đạt tỷ lệ cao, đồng thời có biện pháp khắc phục học sinh bỏ học, nhất là
học sinh thuộc con em các dân tộc thiểu số. Tổ chức hỗ trợ cho học sinh còn
gặp khó khăn, phân loại học sinh yếu kém để phụ đạo, bổ sung kiến thức ngay
vào đầu năm học. Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường
phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc thiểu số. Chỉ đạo thực hiện các giải
90
pháp tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc ở tiểu học, bồi dưỡng học
tiếng dân tộc cho giáo viên vùng dân tộc. Tổ chức nuôi dạy chu đáo học sinh
các trường Phổ thông dân tộc nội trú. Bên cạnh đó thực hiện nghiêm túc chế
độ cử tuyển học sinh dân tộc vào Đại học, Cao đẳng, công tác tuyển sinh vào
các trường Phổ thông dân tộc nội trú tỉnh, huyện, liên xã theo đúng quy định;
đồng thời tiếp tục thực hiện đầy đủ các chính sách, chế độ cho cán bộ, giáo
viên, nhân viên công tác tại các trường Phổ thông dân tộc nội trú theo Nghị
định 61/2006/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách đối với nhà giáo, cán bộ
quản lý giáo dục ở các trường chuyên biệt, ở vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó
khăn. Đây là một chủ trương đúng đắn, sát với tình hình thực tế ở một tỉnh
miền núi Hòa Bình, có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, đã được
Đảng bộ và ngành quán triệt và triển khai nghiêm túc, góp phần vào nâng cao
chất lượng và hiệu quả giáo dục của ngành. Do vậy, chất lượng dạy và học
vùng đồng bào dân tộc thiểu số qua các năm có nhiều chuyển biến rõ nét,
khoảng cách chênh lệch về học lực giữa vừng khó khăn và vùng thuận lợi
được thu hẹp đáng kể, chất lượng giáo dục mũi nhọn tiếp tục được khẳng
định. Điển hình như: năm học 2005 - 2006, tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu số xếp
loại học lực khá, giỏi tăng 2,3%; tỷ lệ xếp loại học lực yếu giảm 1,45% so với
năm học 2004 - 2005; đã có thêm 154 học sinh dân tộc thiểu số đạt danh hiệu
học sinh giỏi cấp tỉnh, 234 học sinh đạt danh hiệu học sinh giỏi cấp huyện. Kỳ
thi học sinh giỏi THPT lớp 12, toàn tỉnh có thêm 6 học sinh dân tộc Mường,
dân tộc Thái đạt giải Quốc gia, nâng tổng số học sinh dân tộc thiểu số đạt
chuẩn Quốc gia lên 108 em [133, tr. 16]. Phát huy những kết quả đạt được,
năm học 2007 - 2008, tại kỳ thi chọn học sinh giỏi Quốc gia lớp 12 THPT,
toàn tỉnh có thêm 3 học sinh dân tộc thiểu số đạt giải, nâng tổng số học sinh
dân tộc thiểu số đạt giải quốc gia là 112 em [146, tr. 276]. Tỷ lệ học sinh dân
tộc thiểu số đỗ tốt nghiệp và thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng ngày
càng nhiều. Riêng trường Phổ thông dân tộc nội trú tỉnh, hàng năm có từ 40 -
91
45% học sinh đỗ đại học, cao đẳng [146, tr. 276]. Ngoài ra các trường Phổ
thông dân tộc nội trú vừa chú ý nâng cao chất lượng văn hóa, vừa chú ý giáo
dục hướng nghiệp, dạy nghề gắn với phát triển KT - XH của tỉnh Hòa Bình.
Bên cạnh những kết quả đạt được, song việc đổi mới nội dung, phương
pháp, nâng cao chất lượng GDPT giai đoạn này vẫn còn một số tồn tại, hạn
chế như: Việc đổi mới phương pháp dạy và học ở một bộ phận giáo viên chủ
yếu vẫn theo phương pháp truyền thống, tâm lý ngại sử dụng các thiết bị hỗ
trợ, việc soạn bài giảng điện tử vì mất nhiều thời gian; chất lượng giáo dục
còn chưa đồng đều giữa các vùng miền và các trường;… những hạn chế nêu
trên chủ yếu tập trung vào các vùng sâu, vùng xa, vùng lòng hồ, nơi có điều
kiện kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khăn. Đây là những vấn đề đặt ra đối
với ngành GD - ĐT Hòa Bình, cần phải tập trung khắc phục trong những năm
tiếp theo để không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục và chuẩn hóa đội ngũ,
từng bước đáp ứng tốt yêu cầu trong giai đoạn mới.
3.2.4. Cơ sở vật chất, trang thiết bị và công tác xã hội hóa giáo dục.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giáo dục là điều kiện quan trọng
đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Nhận thức rõ vấn đề này,
tỉnh Hòa Bình đã chỉ đạo thực hiện việc huy động các nguồn lực, đặc biệt là
nguồn lực tài chính, chỉ đạo nâng mức đầu tư từ ngân sách theo nhịp độ tăng
trưởng kinh tế hàng năm. Bên cạnh đó, huy động nguồn vốn đóng góp của các
tổ chức, cá nhân, các dự án trong và ngoài nước để xây dựng mới trường lớp
trang thiết bị dạy và học theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa. Kết quả được
thể hiện điển hình qua các năm như:
Năm học 2005 - 2006, tổng chi ngân sách cho sự nghiệp giáo dục đào
tạo là 339.296 triệu đồng, tăng 8,96% so với năm học 2004 - 2005. Trong đó,
sự nghiệp giáo dục là 318.436 triệu đồng chiếm 94%, sự nghiệp đào tạo là
20.860 triệu đồngchiếm 6%. Từ nguồn ngân sách được đầu tư và các nguồn
92
vốn huy động khác, đã nâng tổng số phòng học trong toàn tỉnh được xây dựng
lên 8.059 phòng, trong đó 4.035 phòng học kiên cố chiếm 50%, 2.418 phòng
học cấp 4 chiếm 30%, 1.606 phòng học tạm chiếm 20%, tăng 551 phòng học
so với năm học 2004 - 2005, đưa tỷ lệ phòng học từ cấp 4 trở lên đạt 80%,
phòng học tạm còn 20%, được thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 3.4. Ngân sách chi cho sự nghiệp giáo dục đào tạo
và số phòng học được xây dựng trong năm học 2005 - 2006
Đơn vị: %
Nguồn: [133, tr. 11].
Công tác xây dựng các phòng chức năng, nhà ở giáo viên, phòng thí
nghiệm, phòng làm việc hội đồng cũng được quan tâm xây dựng. Đến năm
học 2005 - 2006, toàn tỉnh đã có 1.092 phòng chức năng và phòng ở giáo viên
(trong đó có 1.064 phòng ở giáo viên), 127 phòng thí nghiệm, 525 phòng làm
việc Hội đồng giáo viên, tăng 228 phòng so với năm học 2004 - 2005 [133, tr.
11]. Thư viện các trường học được đầu tư xây dựng và tăng lên đáng kể, số
trường có thư viện là 414 trường, trong đó 260 trường có thư viện đạt chuẩn;
480 trường có tủ sách dùng chung; nguồn kinh phí cấp cho thư viện trường
học là 2.021 triệu đồng chiếm tỷ lệ gần 3% so với kinh phí chi thường xuyên
[133, tr. 12]. Kinh phí mua sắm trang thiết bị dạy và học cũng được triển khai
đồng bộ, đã đầu tư kinh phí mua thiết bị dạy học lớp 4 và lớp 9 là 16.800
triệu đồng; mua sắm trang thiết bị dạy học theo Thông tư 30, ngày 26 - 7 -
93
1990 của liên Bộ GD - ĐT và Bộ Tài chính là 2.021 triệu đồng; sách giáo
khoa 3.024.128 bản, trong đó: tiểu học 1.435.773 bản, THCS 1.098.824 bản,
THPT 489.531 bản; sách giáo khoa thí điểm 19.218 bản; sách giáo khoa phục
vụ công tác phổ cập THCS 12.880 bản; vở ghi, vở bài tập cấp cho học sinh
vùng 135 là 266.053 quyển; sách giáo viên 37.381 bản; sách tham khảo 27.607
bản; thiết bị cấp cho lớp 4 là 714 bộ, cấp cho lớp 9 là 247 bộ [133, tr. 12].
Năm học 2007 - 2008, tổng nguồn vốn đầu tư là 131.157 triệu đồng,
tăng 11,8% so với năm học 2006 - 2007, trong đó: Chương trình mục tiêu
Quốc gia là 49.600 triệu đồng; xây dựng cơ bản tập trung 24.717 triệu đồng;
chương trình 135 là 9.768 triệu đồng; dự án giảm nghèo 9.904 triệu đồng; dự
án THPT 14.115 triệu đồng; dự án THCS 15.553 triệu đồng; tiết kiệm chi
ngân sách 5.200 triệu đồng; nguồn vốn nhân dân đóng góp 2.300 triệu đồng
[135, tr. 11]. Với các nguồn kinh phí được đầu tư nêu trên, tỉnh Hòa Bình đã
xây mới và đưa vào sử dụng 496 phòng học kiên cố, nâng tổng số phòng học
trong toàn tỉnh là 7.562 phòng; trong đó 4.721 phòng học kiên cố đạt 62,4%,
1.368 phòng học bán kiên cố chiếm 18,1%, 1.473 phòng học tạm chiếm
19,47%. Ngoài ra còn có 968 phòng ở của giáo viên, 484 phòng thư viện, 105
phòng thí nghiệm và phòng học bộ môn, 467 phòng làm việc của hội đồng
nhà trường, 8.100 bộ bàn ghế giáo viên, 80.530 bộ bàn ghế học sinh; đã phát
hành 3.581.215 bản sách giáo khoa với tổng kinh phí là 19.852 triệu đồng;
phối hợp với Ban Dân tộc và Tôn giáo triển khai việc cấp không thu tiền vở
bài tập, vở viết cho học sinh tiểu học vùng 135 và các xóm khu vực 3 với số
lượng 230.394 quyển thành tiền 639,2 triệu đồng [135, tr. 11-12].
Triển khai Đề án kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo
viên giai đoạn 2008 - 2012 theo Quyết định số 20/2008/QĐ-TTg, ngày 01 -
02 - 2008 của Chính phủ, nhằm thực hiện mục tiêu tiếp tục xóa phòng học
tạm, giải quyết nhà công vụ cho giáo viên ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng
đặc biệt khó khăn. Do vậy, đến năm học 2009 - 2010, số phòng đã hoàn thành
94
và đưa vào sử dụng là 1709 phòng học, 622 phòng công vụ; riêng năm 2008
và 2009 đã giải ngân 247.928 triệu đồng đạt tỷ lệ 100% kế hoạch vốn. Toàn
tỉnh đã có 8.479 phòng học, với 5.224 phòng kiên cố chiếm 61,6%; phòng bán
kiên cố 2.329 phòng chiếm 27.5%; 926 phòng tạm chiếm 10.9%; 1145 phòng
ở của giáo viên; 564 phòng thư viện; 185 phòng thí nghiệm, phòng học bộ
môn và đang tiếp tục triển khai đầu tư 5 công trình cho các cấp học theo kế
hoạch năm 2010 với tổng kinh phí là 10.659 triệu đồng, xây dựng Dự án phát
triển THPT đợt 3 với tổng số 18 phòng học, 12 phòng thí nghiệm, phòng học
bộ môn với tổng mức đầu tư khoảng 12.000 triệu đồng [138, tr. 12]. Công tác
mua sắm bổ sung thiết bị dạy học từ lớp 1 đến lớp 5 cũng được ưu tiên đầu tư
với số tiền là 2.000 triệu đồng, mua sắm bổ sung 8 phòng tin học cho 8 trường
THPT, thiết bị hỗ trợ kết nối internet, phòng họp trực tuyến tại văn phòng Sở
GD - ĐT là 100 triệu đồng; tiếp tục triển khai kế hoạch mua sắm thiết bị tin
học năm 2010 cho 7 trường tiểu học và 6 trường THCS với tổng kinh phí
3.000 triệu đồng; mua sắm bổ sung thiết bị dạy học tối thiểu cho cấp THCS
và 6 trường THPT mới thành lập với tổng kinh phí 2.300 triệu đồng, trong đó
THCS là 2.000 triệu đồng, THPT là 300 triệu đồng [138, tr. 12]. Ngoài ra, từ
nguồn vốn ngân sách của tỉnh và các nguồn khác đã tiến hành xây dựng, cải tạo
nâng cấp và mua sắm thiết bị cho các trường học với tổng mức đầu tư khoảng
64.000 triệu đồng; từ nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia, mua sắm sách
giáo khoa, sách giáo viên, sách bổ túc cho học sinh vùng kinh tế xã hội khó
khăn với kinh phí là 500 triệu năm 2009 và 900 triệu năm 2010 [138, tr. 12].
Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các trường Phổ thông dân tộc nội trú theo
hướng tăng cường chuẩn hóa, chuẩn quốc gia được quan tâm triển khai. Năm
2009, đã tiến hành nghiệm thu 8 phòng học bộ môn, 27 phòng ký túc xá
trường Phổ thông dân tộc nội trú tỉnh, 3 công trình trường Phổ thông dân tộc
nội trú huyện; tiếp tục triển khai xây dựng trường Phổ thông dân tộc nội trú
Mường Chiềng với tổng mức đầu tư là 25.300 triệu đồng, trường Phổ thông
95
dân tộc nội trú Yên Thủy với tổng mức đầu tư là 27.700 triệu đồng. Sở GD -
ĐT đã phối hợp với Ban Dân tộc tỉnh triển khai việc cấp không thu tiền vở bài
tập, vở viết cho học sinh tiểu học vùng 135 và các xóm khu vực 3 với số
lượng 285.683 bản sách, tổng kinh phí là 1000 triệu đồng [138, tr. 10-11]. Với
sự quan tâm của ngành, 100% các trường Phổ thông dân tộc nội trú được xây
dựng cao tầng, có đầy đủ các phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm, thư viện,
bộ mặt của các trường Phổ thông dân tộc nội trú hơn hẳn các trường phổ
thông cùng cấp.
Công tác xây dựng trường đạt chuẩn Quốc gia tiếp tục được đẩy mạnh,
quan tâm xây dựng trong các nhà trường phổ thông. Do vậy, số lượng trường
phổ thông đạt chuẩn Quốc gia tăng lên hàng năm. Kết quả đó được thể hiện qua
một số năm học như sau: Năm học 2005 - 2006, tỉnh Hòa Bình đã được công
nhận thêm 13 trường đạt chuẩn Quốc gia, nâng tổng số trường trong toàn tỉnh
lên 52 trường; trong đó bậc tiểu học 33 trường, THCS 9 trường, THPT 2
trường [133, tr. 11-12]. Năm học 2007 - 2008, số trường đạt chuẩn Quốc gia
được công nhận lên 67 trường; trong đó có 51 trường tiểu học, 14 trường
THCS, 2 trường THPT [135, tr. 11]. Đến năm học 2009 - 2010, số trường tiếp
tục được công nhận nâng lên đáng kể, toàn tỉnh đã có 63 trường tiểu học, 24
trường THCS, 2 trường THPT đạt chuẩn Quốc gia [138, tr. 12-13], đặc biệt
trong đó có 4 trường Phổ thông dân tộc nội trú đạt chuẩn quốc gia, chiếm tỷ lệ
40% [146, tr. 275]. Việc quan tâm xây dựng các trường chuẩn Quốc gia của
tỉnh Hòa Bình, đã góp phần tích cực vào công tác chuẩn hóa, hiện đại hóa giáo
dục, nâng cao chất lượng dạy và học.
Quán triệt chủ trương của Đảng, nhà nước theo tinh thần: GD - ĐT là
sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, chăm lo phát triển sự nghiệp GD - ĐT là
trách nhiệm của toàn xã hội. Sở GD - ĐT Hòa Bình đã tham mưu cho Tỉnh
ủy, UBND tỉnh xây dựng Đề án: “Quy hoạch phát triển xã hội hóa giáo
dục”, “Đổi mới giáo dục phổ thông”, “Thực hiện phổ cập giáo dục bậc trung
96
học” và Đề án: “Xây dựng xã hội học tập”. Do vậy, việc huy động mọi
nguồn vốn để đầu tư cơ sở vật chất cho sự nghiệp phát triển giáo dục đã
không ngừng được tăng cường. Mặc dù còn nhiều khó khăn, riêng năm học
2005 - 2006, nhân dân đã đóng góp được 5.764.083.000 đồng, trong đó quỹ
khuyến học 1.975.071.000 đồng; ngoài ra có 210/214 xã, phường có quỹ
khuyến học bình quân từ 2 - 5 triệu đồng, nhiều xã xây dựng quỹ khuyến
học xóm, dòng họ để khuyến khích con em học tập [133, tr. 12]. Các nguồn
kinh phí khác đầu tư cho phát triển giáo dục tăng từ 14% lên 20% ngân sách
của tỉnh. Từ nguồn kinh phí trên, đã có 55 trường học mới được xây dựng,
214 phòng học mới; 21.453m2 sân trường bằng gạch, bê tông; 19.332m
tường rào; 1.287m2 nhà ở giáo viên, trị giá 295.750.000 đồng; xây mới 3 bể
nước, 3 giếng khoan ở vùng thiếu nước sinh hoạt; toàn ngành đã đóng góp
được 167.693.000 đồng giúp học sinh khó khăn, 140.097.000 đồng cho giáo
viên có hoàn cảnh khó khăn. Ngoài ra, còn mua sách vở, quần áo cho học
sinh nghèo vùng sâu, vùng cao trị giá 45.000.000 đồng, xây dựng quỹ đói
nghèo trên 500.000.000 đồng, quỹ thiên tai trên 300.000.000 đồng. 80% các
đơn vị trường học có hội cha mẹ học sinh [133, tr. 12-13].
Tiếp tục quán triệt quan điểm xã hội hóa giáo dục của Đảng và thực
hiện Nghị quyết 05/2005/NQ-CP, ngày 18 - 04 - 2005 của Chính phủ về đẩy
mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao. Năm
2006, Sở GD - ĐT đã tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng Đề án: “Phát triển
xã hội hóa giáo dục tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2006 - 2010” và “Kế hoạch xây
dựng xã hội học tập tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2006 - 2010”. Do vậy việc liên
kết giáo dục giữa gia đình - nhà trường - xã hội được duy trì và phát huy có
hiệu quả, kỷ cương, nền nếp trường học được giữ vững, môi trường giáo dục
lành mạnh luôn được giữ gìn. Công tác khuyến học của tỉnh đã tập trung vào
các hoạt động khuyến khích hỗ trợ giáo dục phát triển; đã tích cực phối hợp
với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội vận động toàn
97
dân đưa trẻ đến trường nhân ngày khai giảng năm học mới, gia đình có trẻ
không đi học ra lớp và học sinh bỏ học trở lại lớp; tích cực hưởng ứng các
cuộc vận động và phong trào thi đua của ngành giáo dục như: Cuộc vận động
“Hai không”, “Phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”,
“Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”. Ngành giáo
dục đã phối hợp với Hội khuyến học các cấp vận động các nhà hảo tâm, các
doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh huy động các nguồn lực phát triển giáo dục,
do vậy 100% xã, phường, thị trấn trong tỉnh đã có quỹ khuyến học và được
quản lý sử dụng có hiệu quả, góp phần khích lệ toàn dân học tập, thực hiện
mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Sự ra đời của
các quỹ khuyến học trong các dòng họ, thôn, bản có ý nghĩa lớn lao, góp phần
quan trọng giúp đỡ học sinh nghèo có điều kiện duy trì học tập và động viên
các nhà trường, các em học sinh thi đua học tốt. Bên cạnh đó, ngành cũng đã
triển khai thực hiện tốt cuộc vận động “Hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng sâu,
vùng xa” với mục đích là xây dựng nhà công vụ cho giáo viên vùng khó khăn,
năm học 2007 - 2008, toàn ngành đã đóng góp được 700.990.600đ, đã xây
dựng và đưa vào sử dụng trên 400 m2 nhà ở cho giáo viên [135, tr. 11].
Công bằng trong giáo dục cũng không ngừng được chú trọng, giáo dục
vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn được quan tâm với việc mở rộng các
trường Phổ thông dân tộc nội trú, cấp học bổng cho học sinh dân tộc thiểu số,
đội ngũ giáo viên ở những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xã được hưởng
những chính sách ưu đãi. Do đó, thu hút ngày càng nhiều và đảm bảo số
lượng học sinh dân tộc thiểu số đi học; con em các gia đình chính sách, gia
đình nghèo được tạo điều kiện thuận lợi để học tập; trẻ khuyết tật được quan
tâm, giúp đỡ trong quá trình học tập, hòa nhập, tạo ra những chuyển biến tích
cực, rõ nét trong công tác khuyến học và xây dựng ở tỉnh Hòa Bình trở thành
một xã hội học tập. Vì vậy khoảng cách chênh lệch về học lực giữa vùng khó
khăn và vùng thuận lợi được thu hẹp đáng kể.
98
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đầu tư cơ sở vật chất, trang
thiết bị, thực hiện công tác xã hội hóa trong giáo dục ở Hòa Bình vẫn còn bộc
lộ một số tồn tại, hạn chế. Việc xây dựng trường chuẩn Quốc gia còn gặp khó
khăn do kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của các địa phương hạn hẹp,
mặc dù số trường đạt chuẩn quốc gia đã tăng, song tỷ lệ còn thấp. Cơ sở vật
chất, trang thiết bị dạy học tuy đã được đầu tư xây dựng, nhưng nhiều trường
học vẫn còn thiếu diện tích đất, thiếu phòng học bộ môn, nhà đa năng, sân
chơi, bãi tập; thiếu trang thiết bị dạy học nên chưa đáp ứng được yêu cầu về
đổi mới giáo dục phổ thông; nhiều trường chưa đảm bảo vệ sinh, thiếu nước
sạch. Việc huy động sự tham gia của cộng đồng xã hội vào thực hiện nội dung
phong trào thi đua còn ở mức hạn chế nhất định, nhất là đối với tỉnh miền núi
kinh tế còn khó khăn. Sự hỗ trợ từ các doanh nghiệp, các cơ quan về kinh phí
cho các nhà trường chủ yếu là động viên tinh thần. Đây là những vấn đề khó
khăn không chỉ trước mắt mà còn là những vấn đề lâu dài, cần phải có sự
quan tâm vào cuộc của cả hệ thống chính trị, đồng bào các dân tộc trong tỉnh
để GDPT ở Hòa Bình thực sự được phát triển một cách bền vững.
3.2.5. Công tác quản lý về nhà nước và các tổ chức Đảng, đoàn thể
trong nhà trường.
Công tác quản lý nhà nước đối với GDPT được thực hiện theo hướng
dân chủ hóa, công khai và công bằng. Sở GD - ĐT tỉnh Hòa Bình đã chỉ đạo
việc tăng cường tổ chức tuyên truyền, phổ biến, quán triệt Luật giáo dục trong
toàn ngành; rà soát hệ thống các văn bản hiện hành để có kế hoạch sửa đổi, bổ
sung đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của văn bản về giáo dục. Triển khai
việc kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật theo Nghị định 135/2005/NĐ-CP
của Chính phủ về kiểm tra văn bản; thực hiện Chỉ thị số 40/2004/CT-BGD-
ĐT, ngày 21 - 12 - 2004 của Bộ trưởng Bộ GD - ĐT về tăng cường pháp chế
XHCN trong tổ chức và hoạt động của ngành; triển khai thực hiện Luật thi
đua khen thưởng nhằm phát huy động lực tinh thần và nâng cao chất lượng
99
công tác thi đua, khen thưởng trong giáo dục; chỉ đạo tổ chức đánh giá việc
thực hiện giai đoạn 1 của Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010, nhằm
xác định nhiệm vụ giải pháp cho giai đoạn 2 từ 2006 - 2010. Bên cạnh đó,
ngành đã thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo của Thanh tra Bộ GD - ĐT về công
tác xây dựng lực lượng cán bộ thanh tra chuyên trách và cộng tác viên thanh
tra ở các cấp quản lý giáo dục. Nội dung thanh tra chú trọng việc chấp hành
Điều lệ nhà trường, quy chế chuyên môn và quy chế dân chủ ở cơ sở. Kết quả
thanh tra điển hình trong năm học 2005 - 2006 thể hiện ở bảng số liệu sau:
Bảng 3.3. Số trường học và giáo viên được thanh tra năm học 2005 - 2006
Tiểu học
PTCS
THCS
THPT
Bậc học
Tổng
Tỷ lệ
Tổng
Tỷ lệ
Tổng
Tỷ lệ
Tổng
Tỷ lệ
Nội dung
số
%
số
%
số
%
số
%
Số
trường được
91
42,33
8
28,57
74
36,1
9
28,13
36,1
thanh tra toàn diện
Số GV
được
thanh
tra hoạt
2.191 24,58
-
-
1.202 26,62
242
21,41
động sư phạm
Nguồn:[133, tr. 14-15].
Với kết quả thanh tra nêu trên, năm học 2005 - 2006, số trường được
ngành thanh tra toàn diện tăng 53 đơn vị so với năm học 2004 - 2005 và
vượt chỉ tiêu được giao là 17,64%; số giáo viên được thanh tra hoạt động sư
phạm tăng 231 giáo viên so với năm học 2004 - 2005, vượt chỉ tiêu được
giao 4,45%. Bên cạnh đó, số phòng giáo dục được thanh tra đổi mới chương
trình GDPT so với năm học 2004 - 2005 tăng 9,09%, vượt chỉ tiêu 50,91%.
Số giáo viên dạy chương trình và sách giáo khoa mới được thanh tra vượt
chỉ tiêu 3,85% [133, tr. 14-15].
Công tác thanh tra chuyên đề cũng được chú trọng, tập trung chủ yếu
thanh tra về công tác quản lý, dạy thêm, học thêm, các khoản thu chi ngoài
100
ngân sách, quản lý văn bằng, chứng chỉ, công tác tuyển sinh, công tác mua
sắm, bảo quản và sử dụng thiết bị dạy học... Kết quả, đã thanh tra công tác thiết
bị dạy học từ năm học 2002 - 2003 đến năm học 2005 - 2006 của 11/11 phòng
giáo dục các huyện, thị xã và kiểm tra việc quản lý, sử dụng và bảo quản thiết
bị dạy học của 89 trường Tiểu học, 105 trường THCS và PTCS [133, tr. 15].
Qua công tác thanh tra đã kịp thời chấn chỉnh các đơn vị thực hiện chưa
nghiêm túc, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý, phòng ngừa các sai phạm
trong công tác quản lý của các đơn vị. Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố
cáo đúng luật đã chiếm được lòng tin của cán bộ, giáo viên và nhân dân.
Tiếp tục triển khai nội dung trên, giai đoạn 2006 - 2010, công tác quản
lý nhà nước về GDPT không ngừng được đổi mới, hoàn thiện; chất lượng,
hiệu quả quản lý không ngừng được nâng lên.
Sở GD - ĐT Hòa Bình đã tham mưu cho UBND tỉnh và UBND huyện
ban hành quy định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cơ cấu tổ chức của
Sở GD - ĐT, Phòng GD - ĐT theo thẩm quyền; chủ động trong việc kiện
toàn, ổn định tổ chức bộ máy ở các cơ sở giáo dục, sắp xếp tuyển dụng đội
ngũ cán bộ công chức, viên chức hợp lý theo Thông tư 35/2006/TTLB-
BGDĐT-BNV, ngày 23 - 8 - 2006 của Bộ GD - ĐT, Bộ Nội vụ, về việc
hướng dẫn định mức biên chế viên chức ở các cơ sở GDPT công lập. Sở GD -
ĐT sẽ trực tiếp quản lý các trường Phổ thông dân tộc nội trú cấp tỉnh, huyện,
liên xã và các trường THPT.
Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý ngân sách sự nghiệp GD - ĐT cho
các huyện, Thành phố và hướng dẫn các đơn vị thực hiện việc lập dự toán thu
chi ngân sách từng năm, nhằm phát huy tính chủ động, tự chịu trách nhiệm về
tài chính, cho nên các đơn vị đã triển khai nhiều biện pháp thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí nên hiệu quả sử dụng kinh phí được phát huy tốt.
Căn cứ Thông tư 09/2009/TT-BGD&ĐT ngày 07 - 5 - 2009 của Bộ GD
- ĐT, về việc ban hành quy chế thực hiện công khai đối với cơ sở giáo dục
101
của hệ thống giáo dục quốc dân, Sở GD - ĐT đã hướng dẫn các cơ sở giáo
dục thực hiện tốt 3 công khai: Công khai cam kết chất lượng giáo dục và chất
lượng giáo dục thực tế, công khai điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục,
công khai thu chi tài chính; đồng thời chỉ đạo các đơn vị thực hiện nghiêm túc
quy chế chi tiêu nội bộ đã được phê duyệt, bảo đảm tính hiệu quả và tiết kiệm.
Triển khai công tác tự đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục theo
quy định của Bộ GD - ĐT, năm học 2009 - 2010 đã tiến hành công tác tự
đánh giá 21/38 trường THPT, 11/11 phòng GD - ĐT; xây dựng kế hoạch
đánh giá giáo viên tiểu học theo chuẩn nghề nghiệp, nghiên cứu triển khai
chuẩn nghề nghiệp giáo viên THCS và THPT, chuẩn Hiệu trưởng trường
THCS, THPT; đồng thời chỉ đạo xây dựng tiêu chí và hướng dẫn các cơ sở
giáo dục đánh giá, xếp loại giáo viên tiểu học, THCS, THPT theo Quyết
định 06/2006/QĐ-BNV ngày 21 - 3 - 2006 của Bộ Nội vụ, về việc ban hành
Quy chế đánh giá, xếp loại giáo viên mầm non và giáo viên phổ thông công
lập, góp phần thúc đẩy công tác nâng cao chất lượng và chuẩn hóa đội ngũ
cán bộ giáo viên.
Công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý giáo dục được
triển khai trong toàn ngành. 100% các đơn vị, trường học có địa chỉ email
phục vụ điều hành và quản lý giáo dục; Sở GD - ĐT đã tiến hành khai trương
website của ngành tháng 8 - 2010, đã chỉ đạo các đơn vị, trường học tham gia
giảng dạy bằng bài giảng điện tử, bài giảng e-learning với khẩu hiệu “Mỗi
giáo viên xây dựng ít nhất một bài giảng điện tử”, giúp cán bộ, giáo viên
không ngừng nâng cao trình độ tin học, chuyên môn, cũng như bài giảng ngày
càng thêm phong phú, sinh động.
Công tác thanh tra tiếp tục được hoàn thiện và đẩy mạnh. Riêng năm
học 2009 - 2010, đã thanh tra hoạt động sư phạm của 276 giáo viên đạt
104,2% kế hoạch; thanh tra công tác quản lý hành chính 15 đơn vị, trường
học; thanh tra, kiểm tra các cuộc vận động và phong trào thi đua, thanh tra
102
công tác quản lý tài chính, tài sản lồng ghép với các cuộc thanh tra toàn diện
đạt 100% kế hoạch; thanh tra việc cấp phát văn bằng chứng chỉ của 13 đơn vị,
trường học; thanh tra, kiểm tra quản lý dạy thêm, học thêm, thanh tra việc
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại 11 đơn vị trường học; thanh tra quản lý,
bảo quản và sử dụng thiết bị dạy học tại 21 đơn vị, trường học; thanh tra,
kiểm tra việc thực hiện Luật Phòng chống tham nhũng; Luật thực hành tiết
kiệm chống lãng phí tại 14 đơn vị. Qua thanh tra, kiểm tra cho thấy các đơn
vị đã thực hiện tốt các quy định; hoạt động thanh tra đã đi vào chiều sâu và
có hiệu quả; các đơn vị được thanh tra đã thực hiện tốt các kết luận, kiến
nghị sau thanh tra, góp phần nâng cao chất lượng công tác quản lý, tăng
cường nền nếp kỷ cương, phòng ngừa tham nhũng, vi phạm quy chế chuyên
môn trong các đơn vị, trường học [138, tr. 6-7]. Bên cạnh đó, bộ phận pháp
chế cũng đã chủ trì soạn thảo và tham mưu với UBND tỉnh ban hành 02 văn
bản quy phạm pháp luật; tổ chức rà soát và hệ thống hoá văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến quản lý hoạt động giáo dục và đào tạo, đã tiến hành rà
soát 32 văn bản quy phạm pháp luật, góp phần loại bỏ những văn bản không
còn phù hợp, nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý văn bản Nhà nước.
Sở GD - ĐT đã tích cực, chủ động phối hợp với các cơ quan báo chí
thông tin tuyên truyền về các hoạt động của ngành, các phong trào thi đua; tổ
chức tốt việc giảng dạy kiến thức pháp luật theo chương trình đối với các cấp
học và trình độ đào tạo, xây dựng đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tủ sách
pháp luật,… đã tạo sự chuyển biến tích cực về tư duy, nhận thức của đội ngũ
cán bộ trong quản lý điều hành các hoạt động của đơn vị, cũng như góp phần
thúc đẩy các hoạt động của ngành đi vào nề nếp và hiệu quả.
Các tổ chức Đảng, đoàn thể trong nhà trường phổ thông cũng được
ngành đặc biệt quan tâm. Thực hiện Chỉ thị số 34 CT/TW ngày 30 - 05 - 1998
của Bộ Chính trị, về “Về tăng cường công tác chính trị tư tưởng, củng cố tổ
chức Đảng, đoàn thể quần chúng và công tác phát triển đảng viên trong các
103
trường học”, Ban cán sự Đảng ngành GD - ĐT Hòa Bình đã chỉ đạo các cấp
ủy trực thuộc tăng cường công tác tuyên truyền, thực hiện nghiêm túc Chỉ thị
số 34 CT/TW ngày 30 - 05 - 1998 của Bộ Chính trị trong toàn ngành. Do vậy,
đa số cán bộ, giáo viên trong các nhà trường luôn có lập trường tư tưởng vững
vàng, yên tâm công tác, tâm huyết với nghề; năng lực, trình độ chuyên môn
từng bước được nâng cao. Bên cạnh đó, công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng
được triển khai mạnh mẽ, các tổ chức Đảng ở trường học đã phát huy tốt vai
trò lãnh đạo, nhiều cán bộ, giáo viên trẻ đã tích cực phấn đấu và được đứng
trong hàng ngũ của Đảng. Điển hình như: năm học 2005 - 2006, đã kết nạp
thêm 250 đảng viên mới, nâng tổng số đảng viên trong toàn ngành lên 4.793
đảng viên, đạt tỷ lệ 35.56% so với tổng số cán bộ, công nhân viên. Trong đó,
2.113 đảng viên nữ (chiếm 44,58%), 1.501 đảng viên người dân tộc thiểu số
(chiếm 31,67%) [133, tr. 10]. Đến năm học 2009 - 2010, toàn ngành đã có 6
Đảng bộ và 682 chi bộ trường học, với 7.533 đảng viên, đạt tỷ lệ 40,3% so
với tổng số cán bộ, giáo viên, công nhân viên. Trong đó, 5.366 đảng viên nữ
(chiếm 70%), 3.229 đảng viên người dân tộc thiểu số (chiếm 48%). Cũng
trong năm học này, qua đánh giá và phân loại, 100% chi bộ, Đảng bộ đạt danh
hiệu “Tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh” [138, tr. 14].
Công đoàn ngành đã phát huy tốt vai trò theo chức năng, nhiệm vụ, đặc
biệt trong công tác tuyên truyền, vận động luôn bám sát vào nhiệm vụ chuyên
môn như thực hiện các cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”, “Dân chủ, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm”, “Mỗi
thầy cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, “Nói không với tiêu
cực và bệnh thành tích trong giáo dục” và phong trào thi đua “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực”… được triển khai mạnh mẽ trong
toàn ngành, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức và hành động thực tiễn
trong cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh; được sự đồng tình, ủng hộ của
đông đảo nhà giáo và toàn xã hội. Do vậy, 100% các đơn vị trường học đã
104
triển khai có hiệu quả cuộc vận động và đi vào chiều sâu, phát triển lan toả
trong mọi mặt hoạt động GD - ĐT. Bên cạnh đó, công đoàn ngành đã duy trì
xây dựng quỹ tương trợ để hỗ trợ cán bộ, giáo viên vùng khó khăn, hỗ trợ
giáo viên làm kinh tế, cho con đi học, xây dựng, sửa chữa nhà ở... đặc biệt
trong năm học 2009 - 2010, đã xét và trao tiền hỗ trợ làm nhà ở cho 13 giáo
viên nghèo với tổng số tiền là 156.000.000đ, tặng quà Tết cho 222 giáo viên
có hoàn cảnh khó khăn mỗi xuất quà trị giá 200.000đ, tặng quà Tết cho 187
cháu mồ côi cha mẹ, mỗi xuất quà trị giá 100.000đ, hỗ trợ xây dựng nhà công
vụ giáo viên vùng khó khăn với tổng số tiền là 29 triệu đồng [138, tr. 14].
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh
trong các đơn vị, trường học, đã phát huy tốt vai trò theo chức năng, nhiệm
vụ, đặc biệt công tác tuyên truyền, vận động đã đi vào chiều sâu, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho các đoàn viên, đội viên, góp phần tích cực vào
việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác GD - ĐT trong các nhà trường,
xây dựng một môi trường giáo dục lành mạnh.
Tiểu kết chương 3.
Trước những yêu cầu và đòi hỏi của tình hình mới, vận dụng các quan
điểm chỉ đạo của Đảng về phát triển giáo dục, giai đoạn 2001 - 2010, sự
nghiệp phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình đã đạt được những kết quả to lớn.
Mạng lưới trường lớp và quy mô giáo dục không ngừng được mở rộng; chất
lượng giáo dục toàn diện ở các cấp học được nâng lên; đội ngũ giáo viên và
cán bộ quản lý các cấp từng bước được chuẩn hóa và nâng cao về trình độ
chuyên môn nghiệp vụ; cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học đã được quan
tâm đầu tư theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa; công tác quản lý giáo dục đã
đi vào chiều sâu và duy trì thường xuyên… làm cho bộ mặt của ngành ngày
càng phát triển và khởi sắc, đáp ứng tốt yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực
phục vụ mục tiêu phát triển KT - XH của địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh
những kết quả đạt được, song GDPT ở tỉnh Hòa Bình vẫn còn một số tồn tại,
105
hạn chế. Công tác quy hoạch về mạng lưới trường lớp còn thiếu tính hợp lý và
chưa đồng bộ với sự tăng nhanh về quy mô, số lượng học sinh; đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục vừa thừa, vừa thiếu; công tác xây dựng
trường chuẩn quốc gia còn khó khăn về kinh phí và quỹ đất; sự vào cuộc của
các ban ngành, đoàn thể và nhân dân trong công tác xã hội hóa giáo dục chủ
yếu vẫn động viên về mặt tinh thần; chất lượng giáo dục còn chưa đồng đều,
nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc… đây là những tồn
tại, hạn chế trong sự nghiệp phát triển của ngành.
Phát huy những kết quả đạt được, đồng thời từng bước khắc phục
những tồn tại hạn chế, những năm tiếp theo, Sở GD - ĐT Hòa Bình cần tiếp
tục tăng cường chỉ đạo trong toàn ngành thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp
để nâng cao chất lượng và hiệu quả GDPT; sự phối hợp vào cuộc của các
ban ngành, đoàn thể và nhân dân chăm lo cho sự nghiệp phát triển giáo dục,
để GDPT ở tỉnh Hòa Bình thực sự được phát triển bền vững, đáp ứng tốt hơn
yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực, phục vụ bước đột phá phát triển KT -
XH của tỉnh.
106
Chương 4
MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. Nhận xét
4.1.1. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân.
Trải qua 20 năm xây dựng và phát triển (1991 - 2010), GDPT ở tỉnh
Hòa Bình đã có sự chuyển biến và đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, song
vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục.
Về thành tựu.
Trước hết là chất lượng và hiệu quả giáo dục:
Ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Hòa Bình đã tập trung mọi giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Do vậy, chất lượng giáo dục
toàn diện, giáo dục đại trà, giáo dục mũi nhọn tiếp tục được giữ vững và nâng
lên qua các năm.
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, ngành giáo
dục đã triển khai nhiều giải pháp, trong đó đặc biệt chú ý đến đào tạo trên
các mặt Đức - Trí - Thể - Mỹ; bên cạnh đó đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
giáo dục các kiến thức về an toàn giao thông, kiến thức pháp luật, phòng,
chống các tệ nạn xâm nhập vào nhà trường; đồng thời phối hợp chặt chẽ
giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong quản lý, giáo dục học sinh… Nhờ
đó, giúp các em học sinh nâng cao ý thức, trách nhiệm với bản thân, gia đình
và cộng đồng, cũng như góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục
trong các nhà trường.
Công tác giáo dục đại trà được quan tâm chỉ đạo thường xuyên. Đây
được xem là cơ sở quan trọng để đánh giá mặt bằng về chất lượng giáo dục so
với mặt bằng chung của cả nước và đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
Năm học 2001 - 2002, toàn ngành giáo dục trong tỉnh đã tập trung chỉ đạo đổi
mới chương trình GDPT, thực hiện thay sách giáo khoa theo Nghị quyết số
40/2000QH, Quốc hội khóa X, thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học, đã
107
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng giáo dục đại trà ở các cấp học, bậc
học trong toàn tỉnh. Do vậy, năm học 2009 - 2010, ở bậc tiểu học, công nhận
hoàn thành chương trình tiểu học đạt tỷ lệ 98%; bậc THCS, công nhận tốt
nghiệp đạt 85.8%; bậc THPT, tỷ lệ đỗ tốt nghiệp đạt 100% [138, tr. 9-10].
Bên cạnh đó, công tác phổ cập giáo dục tiếp tục được đẩy mạnh và phát huy
có hiệu quả, 210/210 xã, phường, thị trấn đạt phổ cập giáo dục tiểu học, 11/11
huyện, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS [138, tr. 7]. Đây là những
thành tích nổi bật, đáng ghi nhận về công tác giáo dục đại trà và công tác phổ
cập giáo dục của tỉnh Hòa Bình.
Phát huy những thành tích đã đạt được, công tác đào tạo, tuyển chọn,
bồi dưỡng học sinh giỏi được chỉ đạo tích cực, thông qua việc phát triển hệ
thống trường chuyên, trường năng khiếu, do đó chất lượng học sinh dự thi học
sinh giỏi Quốc gia THPT hàng năm liên tục được giữ vững. Đến năm 2010,
tổng kết qua 20 lần tham dự kỳ học sinh thi học sinh giỏi Quốc gia, đoàn học
sinh tỉnh Hòa Bình đạt tổng số 995 giải, trong đó, có 35 giải Nhất, 189 giải
Nhì, 729 giải Ba và giải Khuyến khích, toàn tỉnh có 129 học sinh dân tộc đoạt
giải [138, tr. 2]. Trong nhiều năm liền, ngành giáo dục tỉnh Hòa Bình luôn
đứng đầu các tỉnh miền núi, Tây Nguyên, Đồng Bằng sông Cửu Long về số
lượng và chất lượng học sinh trong các kỳ thi học sinh giỏi Quốc gia đoạt
giải. Đặc biệt, trường trung học phổ thông chuyên Hoàng Văn Thụ luôn giữ
vững truyền thống và khẳng định chất lượng dạy và học, trong kỳ thi học sinh
giỏi Quốc gia, xứng đáng là trung tâm giáo dục, đào tạo chất lượng cao hàng
đầu của tỉnh. Từ kết các quả của kỳ thi, tiếp tục khẳng định chất lượng về giáo
dục mũi nhọn của tỉnh Hòa Bình đã đạt được trong nhiều năm.
Về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên:
Đây được xem là nhân tố quyết định đến chất lượng GD - ĐT. Quán
triệt sâu sắc Chỉ thị số 40 CT/TW, ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư khóa X, về
việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
108
dục, tỉnh Hòa Bình đã chỉ đạo tiến hành rà soát, đánh giá, chuẩn hóa đội ngũ,
xây dựng đội ngũ cán bộ giáo viên, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu. Toàn
ngành tích cực đẩy mạnh việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao
phẩm chất đạo đức, chuẩn hóa đội ngũ; khuyến khích phong trào tự học, tự
bồi dưỡng trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn, tiến tới không còn giáo viên dưới
chuẩn,… Do vậy, đến năm 2010, tỷ lệ giáo viên các cấp tiểu học, THCS và
THPT đạt chuẩn trở lên là 100% [138, tr. 13]. Đây chính là hạt nhân quan
trọng đảm bảo chất lượng GD - ĐT của tỉnh Hòa Bình. Bên cạnh đó, các chủ
trương, chính sách, chế độ đãi ngộ hợp lý với nguyện vọng của đội ngũ cán
bộ, giáo viên được thực hiện đầy đủ; việc đánh giá phân loại đội ngũ hàng
năm được chỉ đạo thường xuyên; công tác đề bạt, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán
bộ quản lý được thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục, công khai, dân chủ,
đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định Điều lệ trường học; công tác tổ chức thi
giáo viên dạy giỏi ở các cấp học, bậc học, thi cán bộ quản lý giỏi cấp tỉnh
được duy trì đều đặn;… đã tạo ra phong trào thi đua sôi nổi trong các đơn vị
trường học, cũng như nhằm kịp thời động viên, khuyến khích các nhân tố
mới, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục.
Về xây dựng hệ thống trường lớp, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị
phục vụ giáo dục:
Mặc dù còn nhiều khó khăn, song hệ thống trường, lớp ở tỉnh Hòa Bình
được phát triển rộng khắp ở tất cả các cấp học, bậc học, phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội ở từng vùng, miền. Đến năm 2010, “100% số xã,
phường, thị trấn kể cả các xã ở vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh
Hòa Bình đều có trường tiểu học và THCS, mỗi huyện có từ 02 đến 4 trường
THPT” [138, tr. 12]. Bên cạnh đó, hệ thống trường Phổ thông dân tộc nội trú
cũng được quan tâm đầu tư xây dựng, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho con
em đồng bào cư trú tại các vùng sâu, vùng xa, vùng nhiều dân tộc thiểu số
tham gia học tập, nâng tổng số trường trong toàn tỉnh là 219 trường tiểu học,
109
19 trường PTCS (cấp I-II), 209 trường THCS, 38 trường THPT, 10 trường
Phổ thông dân tộc nội trú; đã đáp ứng tốt nhu cầu học tập cho 56.210 học
sinh tiểu học, 48.655 học sinh THCS và 26.626 học sinh THPT [138, tr. 2].
Đây là thành quả của việc mở rộng quy mô, đa dạng hóa các loại hình trường,
lớp, phục vụ nhu cầu về học tập của học sinh, theo đúng chủ trương mà tỉnh
Hòa Bình đã đề ra.
Công tác đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giáo dục có bước
chuyển biến lớn trong toàn ngành. Với mục tiêu xây dựng trường học, lớp
học theo hướng, chuẩn hóa, hiện đại hóa, tỉnh Hòa Bình đã tích cực chỉ đạo
tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học, phòng học bộ
môn, nhà công vụ cho giáo viên, thực hiện kiên cố hóa trường học, lớp học;
xây dựng trường chuẩn Quốc gia, quan tâm đầu tư, xây dựng các trường Phổ
thông dân tộc nội trú; tăng cường các nguồn ngân sách đầu tư cho giáo dục
theo yêu cầu và sự phát triển của nền kinh tế; đồng thời chỉ đạo nghiêm túc
Đề án kiên cố hóa trường học, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai
đoạn 2008 - 2012 theo Quyết định số 20/2008/QĐ-TTg, ngày 01/02/2008 của
Chính phủ,... Do vậy, đến năm học 2009 - 2010, toàn tỉnh đã có 8.479 phòng
học, 1145 phòng ở giáo viên, 564 phòng thư viện, 185 phòng thí nghiệm,
phòng bộ môn [138, tr. 12]. Bên cạnh đó, công tác bổ sung, mua sắm trang
thiết bị cũng được triển khai kịp thời, trên cơ sở nguồn vốn ngân sách nhà
nước được cấp, nguồn vốn ngân sách của tỉnh và các nguồn khác, đã đáp ứng
tốt yêu cầu dạy và học trong các nhà trường. Phong trào xây dựng trường đạt
chuẩn Quốc gia cũng được tỉnh Hòa Bình quan tâm đầu tư, đến năm 2010,
toàn tỉnh đã có 63 trường tiểu học, 24 trường THCS, 2 trường THPT đạt
chuẩn Quốc gia [138, tr. 13]. Công tác xã hội hóa giáo dục đã trở thành
phong trào quần chúng, có chiều sâu trong từng gia đình, dòng họ, ở từng địa
phương, đã kịp thời động viên nhân dân trong tỉnh chăm lo xây dựng cơ sở
vật chất trường lớp, thiết bị học, nâng cao đời sống giáo viên, góp phần tích
110
cực vào việc mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo. Đây
cũng là những tiền đề quan trọng, góp phần thúc đẩy nhanh chóng công tác
chuẩn hóa, hiện đại hóa trường lớp.
Về công tác quản lý giáo dục, giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng tổ
chức Đảng, đoàn thể:
Ngành giáo dục tỉnh Hòa Bình đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền,
phổ biến, quán triệt Luật giáo dục trong toàn ngành, rà soát hệ thống các văn
bản hiện hành để có kế hoạch sửa đổi, bổ sung đảm bảo tính đồng bộ, thống
nhất của văn bản về giáo dục. Các hoạt động thanh tra, pháp chế đã đi vào
chiều sâu và kịp thời ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực trong ngành, qua
công tác thanh tra đã kịp thời chấn chỉnh các đơn vị thực hiện chưa nghiêm
túc, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý, phòng ngừa các sai phạm trong công
tác quản lý của các đơn vị. Bên cạnh đó, công tác giải quyết đơn thư khiếu
nại, tố cáo đúng luật đã chiếm được lòng tin của cán bộ, giáo viên và nhân
dân. Công tác xây dựng tổ chức Đảng, đoàn thể trong nhà trường được tổ
chức chặt chẽ và phát huy tốt vai trò theo chức năng, nhiệm vụ; đặc biệt công
tác tuyên truyền, vận động của các tổ chức đoàn thể đã đi vào chiều sâu, thiết
thực, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong đội ngũ cán bộ, giáo
viên và học sinh trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, cũng như góp
phần xây dựng một môi trường giáo dục lành mạnh.
Giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình đạt được những thành tích nêu
trên là do một số nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Một là, công cuộc đổi mới của đất nước đã tạo điều kiện cho GD - ĐT,
trong đó có GDPT được phát triển.
Đất nước bước vào công cuộc đổi mới, tạo nền tảng kinh tế xã hội quan
trọng cho giáo dục được phát triển, là điều kiện cơ bản nhất để có được thành
quả như trên. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm đến chính
sách giáo dục, được thể hiện tập trung ở các Nghị quyết chuyên đề như:
111
NQTW4 (khóa VII), NQTW2 (khóa VIII), NQTW 6 (khóa IX), Chiến lược
phát triển giáo dục 2001 - 2010 ngày 28 - 12 - 2001 của Thủ tướng Chính
phủ, Luật Giáo dục ngày 14 - 6 - 2005 Quốc hội khóa XI… đã chỉ rõ quan
điểm của Đảng và Nhà nước, coi GD - ĐT là quốc sách hàng đầu, là một
trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển KT - XH của đất
nước. Đây là cơ sở để chỉ đạo, căn cứ pháp lý quan trọng, giúp các địa
phương trong cả nước nói chung, tỉnh Hòa Bình nói riêng có được những cơ
chế chính sách rộng mở để GD - ĐT được phát triển.
Hai là, quán triệt các quan điểm của Đảng, tỉnh Hòa Bình đã vận dụng
sáng tạo vào thực tiễn của địa phương.
Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hòa Bình (khóa XI) đã
tập trung đánh giá thực trạng và tìm ra nguyên nhân về GD - ĐT sau hơn một
năm tái lập tỉnh; Kế hoạch 101 của Tỉnh ủy Hòa Bình về định hướng chiến
lược phát triển GD - ĐT trong thời kỳ CNH, HĐH; Chương trình hành động
số 374-CTr/TU của Tỉnh ủy thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư
Trung ương Đảng (khóa IX) về “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục”… Bên cạnh đó, tỉnh Hòa Bình đã thực hiện
tốt các chính sách nhằm thúc đẩy giáo dục phát triển ở mỗi giai đoạn, cho phù
hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương; mặt khác, các cấp ủy Đảng,
chính quyền, đoàn thể và nhân dân cũng đã nhận thức rõ hơn về vị trí, vai trò
của GD - ĐT, quyết tâm đưa sự nghiệp phát triển giáo dục đi lên vững chắc,
góp phần thúc đẩy GDPT ở tỉnh Hòa Bình đạt được những thành tựu to lớn.
Ba là, đội ngũ cán bộ, giáo viên và học sinh có lập trường tư tưởng
vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước,
phát huy truyền thống quê hương.
Phát huy truyền thống “trung dũng, quyết thắng”, vượt qua những khó
khăn, thách thức, phấn đấu vươn lên trong giảng dạy và học tập, tâm huyết,
gắn bó với nghề, đã thôi thúc cho con người vươn lên trên con đường học tập,
112
họ luôn nhận thức được tri thức là con đường phát triển bền vững và dễ vươn
lên nhất của mỗi con người, góp phần quan trọng và có ý nghĩa quyết định
vào sự phát triển của ngành. Bên cạnh đó, Hòa Bình là một tỉnh giàu truyền
thống văn hóa lâu đời, tạo nền tảng vững chắc, động lực mạnh mẽ cho sự phát
triển GD - ĐT nói chung, GDPT nói riêng.
Về hạn chế
Bên cạnh những thành tích quan trọng đã đạt được, GDPT ở tỉnh Hòa
Bình vẫn còn một số hạn chế, yếu kém cần khắc phục đó là:
Một bộ phận giáo viên, cán bộ quản lý chưa theo kịp với yêu cầu đổi
mới giáo dục.
Việc đổi mới công tác thi, kiểm tra, đánh giá, đổi mới phương pháp dạy
và học, một bộ phận cán bộ, giáo viên còn lúng túng, bị động và chưa theo kịp
với yêu cầu về công tác này. Công tác quy hoạch, đào tạo còn thiếu tổng thể
nên dẫn đến tình trạng đội ngũ giáo viên vừa thiếu, vừa thừa và không đồng
bộ về cơ cấu, trình độ chuyên môn,... Đối với giáo dục tiểu học, do thiếu giáo
viên ở một số môn học đặc thù như Âm nhạc, Mỹ thuật, Thể dục nên việc
thực hiện chương trình còn gặp khó khăn; việc dạy tiếng Anh ở một số trường
chưa thực sự được quan tâm; nhiều giáo viên còn lúng túng trong sử dụng đồ
dùng, thiết bị và tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Ở bậc trung học,
biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh còn nặng về hành chính, mệnh lệnh,
thiếu thuyết phục, một bộ phận nhỏ học sinh còn có biểu hiện thiếu hụt về
nhận thức, thái độ, hành vi; một số giáo viên năng lực sư phạm chưa đáp ứng
được yêu cầu của chương trình và sách giáo khoa mới, bài giảng chưa đi sâu
vào tìm tòi đổi mới phương pháp giảng dạy; việc ứng dụng công nghệ thông
tin trong giảng dạy chưa linh hoạt, nhất là ở vùng sâu, vùng xa; việc khắc
phục tình trạng dạy học theo cách đọc, chép ở một số đơn vị, trường học chưa
được chỉ đạo tích cực; hiện tượng giáo viên dạy chéo môn vẫn còn; một bộ
phận cán bộ quản lý giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu. Đối với cấp THPT còn
113
thiếu nhiều nhân viên thư viện, nhân viên thiết bị và nhân viên văn phòng. Tỷ
lệ giáo viên có trình độ sau đại học trong các trường còn thấp. Công tác điều
hành và quản lý ở một số nhà trường chưa thực sự hiệu quả. Những hạn chế
nêu trên, đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục, đòi hỏi ngành
giáo dục tỉnh Hòa Bình cần phải tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng đội
ngũ, để kịp thời đáp ứng với yêu cầu của tình hình mới, đây là yếu tố quan
trọng quyết định đến chất lượng GD - ĐT của tỉnh Hòa Bình.
Hệ thống trường học, lớp học và các điều kiện về cơ sở vật chất phục
vụ giáo dục chưa theo kịp với tốc độ tăng nhanh so với quy mô học sinh.
Hệ thống trường học, lớp học và cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
giáo dục về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu học tập của con em đồng bào các
dân tộc trong tỉnh. Tuy nhiên với tốc độ tăng nhanh về quy mô học sinh đã tạo
ra những khó khăn rất lớn, điều này thể hiện sự thiếu đồng bộ mà ngành giáo
dục tỉnh Hòa Bình cần có những giải pháp để kịp thời khắc phục. Bên cạnh đó,
kinh phí đầu tư cho giáo dục đã được quan tâm, song mức đầu tư còn thấp,
chưa tương xứng với yêu cầu thực tế về phát triển giáo dục, chủ yếu chi cho
lương chiếm trên 80%, chi cho các hoạt động dạy và học là rất hạn chế. Nhiều
trường còn thiếu diện tích đất, phòng học bộ môn, nhà đa năng, sân chơi, bãi
tập, trang thiết bị dạy học, nước sạch, nên chưa đáp ứng được yêu cầu về đổi
mới giáo dục phổ thông. Việc xây dựng trường chuẩn quốc gia trên toàn tỉnh
không đồng đều giữa các vùng, một số nhà trường chưa thực sự quan tâm đến
công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia, một phần là do kinh phí đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất của các địa phương còn hạn hẹp, vì vậy số trường đạt
chuẩn quốc gia có tăng, song tỷ lệ còn thấp,… Những bất cập đó đã ảnh hưởng
không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng dạy và học GDPT ở tỉnh Hòa Bình.
Chất lượng giáo dục đại trà, giáo dục toàn diện ở các cấp học, bậc học
còn chưa đồng đều.
Chất lượng giáo dục là một trong những yếu tố quan trọng để đánh giá
hiệu quả giáo dục đào tạo. Trong các năm học cho thấy, chất lượng GDPT
114
đều tăng ở cả ba cấp học, tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học và
đỗ tốt nghiệp phổ thông là khá cao. Tuy nhiên, để đánh giá thực chất về chất
lượng GDPT ở tỉnh Hòa Bình cũng là một vấn đề đặt ra, bởi lẽ tỷ lệ giáo viên
xếp loại xuất sắc, giỏi, khá hàng năm nhiều, nhưng chất lượng học sinh lại
không tương xứng. Đây không chỉ riêng ở tỉnh Hòa Bình, nhiều tỉnh thành
khác trong cả nước cũng xảy ra hiện tượng này. Mặt khác, chất lượng các cấp
học, bậc học phổ thông ở tỉnh Hòa Bình còn chưa đồng đều giữa các vùng
miền, tỷ lệ học sinh yếu, kém vẫn còn cao, nhất là ở các vùng đặc biệt khó
khăn do trình độ nhận thức của học sinh còn hạn chế. Việc bồi dưỡng học
sinh giỏi đạt kết quả tốt, tuy nhiên cũng tạo ra sự thiên lệch trong phông kiến
thức chung của học sinh, chủ yếu tập trung vào học các môn có khối thi đã
lựa chọn hoặc môn dự thi học sinh giỏi. Trình độ kiến thức, kỹ năng thực
hành các môn Tin học, Ngoại ngữ, phương pháp tư duy khoa học còn yếu,
năng lực vận dụng kiến thức vào thực tế còn hạn chế. Công bằng trong giáo
dục từng bước được cải thiện, song điều kiện về học tập còn sự chênh lệch
khá lớn giữa các vùng, miền trong tỉnh, khoảng cách về trình độ giáo dục còn
cao. Công tác phổ cập giáo dục đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục THCS và
THPT chuyển biến còn chậm, cần phải tiếp tục củng cố và phát triển… Do
vậy ngành giáo dục cần phải nhanh chóng đề ra các giải pháp khắc phục nhằm
nâng cao chất lượng GDPT, từng bước đáp ứng tốt các yêu cầu về cung cấp
nguồn nhân lực có chất lượng, phục vụ mục tiêu phát triển KT - XH của tỉnh.
Kỷ cương một số đơn vị trường học cần được chấn chỉnh, công tác
quản lý giáo dục một số nơi còn lỏng lẻo, tùy tiện.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song một số đơn vị, trường học việc
chấp hành kỷ cương, nề nếp vẫn còn tùy tiện; tình trạng dạy thêm, học thêm
vẫn còn diễn ra ở một số đơn vị, trường học, việc quản lý công tác này còn
thiếu quyết liệt; tâm lý trông chờ, ỷ lại ở một bộ phận cán bộ, giáo viên còn
khá phổ biến; việc triển khai các hệ thống văn bản ở một số cơ sở còn chậm
115
và yếu, dẫn đến một số chủ trương, biện pháp của Trung ương, của tỉnh, của
ngành không đến được với giáo viên, cán bộ quản lý, nhân viên các nhà
trường. Công tác xã hội hoá giáo dục còn gặp nhiều khó khăn, một số phụ
huynh chưa quan tâm đến việc học hành của con cái, còn khoán trắng cho các
thầy cô giáo, tỷ lệ kinh phí huy động do công tác xã hội hoá đem lại chưa
tương xứng với kinh tế của địa phương, chưa khai thác có hiệu quả nguồn lực
trong nhân dân và trong các cơ quan, ban, ngành, các tổ chức doanh nghiệp
đóng góp cho phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, chủ yếu là động viên về
mặt tinh thần; một số trường học công tác Đảng chưa được coi trọng đúng
mức, một số trường học nhiều năm chưa kết nạp được đảng viên…
Những hạn chế, yếu kém nêu trên của GDPT ở tỉnh Hòa Bình do nhiều
nguyên nhân, trong đó phải kể đến các nguyên nhân chủ yếu như:
Một là, Hòa Bình là tỉnh miền núi còn nghèo, điều kiện phát triển về KT
- XH, cơ sở hạ tầng, cũng như điều kiện địa lý, tự nhiên, giao thông đi lại…
còn gặp nhiều khó khăn.
Trong tổng số 210 xã, phường, thị trấn có 23 xã thuộc vùng ngập lòng
hồ sông Đà, 60 xã thuộc vùng III, 9 xã thuộc vùng hạ lưu thủy điện, 34 xã
thuộc vùng ATK [46, tr.13]. Đây là một trong những khó khăn rất lớn trong
phát triển KT - XH của địa phương, đã tác động ảnh hưởng trực tiếp đến đời
sống của người dân, nên việc học tập của con em các dân tộc trong tỉnh cũng
chịu ảnh hưởng và gặp không ít khó khăn. Bên cạnh đó, tỉnh Hòa Bình cũng
thường xuyên bị thiên tai, bão lũ, sạt lở đất; một bộ phận dân cư nhận thức
còn khá nặng nề bởi các phong tục, tập quán và không muốn cho con em theo
học, nhất là ở các vùng có điều kiện phát triển KT - XH đặc biệt khó khăn,
vùng nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống; nền kinh tế thị trường đã và
đang tác động trực tiếp đến đời sống, tâm lý và động cơ học tập của người
dân;… Do vậy cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp phát triển GDPT
của tỉnh Hòa Bình.
116
Hai là, sự phát triển nhanh về quy mô, số lượng, vượt quá khả năng
kinh tế cho phép.
Số lượng học sinh tăng nhanh qua các năm, trong khi ngân sách đầu tư
cho giáo dục còn thấp là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc xây dựng
trường học, lớp học và cơ sở vật chất phục vụ giáo dục còn hạn chế. Công tác
xã hội hóa giáo dục chưa phát huy hết hiệu quả. Bên cạnh đó, sự quan tâm,
lãnh đạo của một số cấp ủy Đảng còn chưa sâu sát, cụ thể,nhất là ở cơ sở.
Nhiều nơi vẫn còn ảnh hưởng tư tưởng thụ động, trông chờ, ỷ lại vào cấp trên,
vẫn còn thể hiện bệnh quan liêu qua giấy tờ. Sự phối hợp giữa các ngành, các
cấp về công tác phát triển GD - ĐT còn chưa thường xuyên, chưa có quy định
rõ về trách nhiệm, nghĩa vụ của các lực lượng xã hội đối với GD - ĐT; những
trọng tâm công tác, những vấn đề quan trọng còn thiếu kế hoạch cụ thể, chưa
thực hiện tốt công tác tổng kết, sơ kết kịp thời,… Đây thể hiện là sự thiếu
đồng bộ trong tổ chức và thực hiện cần phải được khắc phục.
Ba là, bản thân ngành GD - ĐT nói chung, GD - ĐT Hòa Bình nói riêng
cũng còn những nhược điểm.
Một số chủ trương đổi mới về giáo dục có nghiên cứu và chuẩn bị,
nhưng khi áp dụng tổ chức thực hiện còn nhiều thiếu sót, không đồng bộ.
Công tác quản lý giáo dục còn nhiều bất cập, việc quản lý chương trình, nội
dung và chất lượng chưa thiết thực, nặng về hình thức; công tác thanh tra còn
chưa thường xuyên và thiếu những biện pháp hữu hiệu để kiểm tra, đánh giá
chất lượng đào tạo; việc phát hiện, xử lý và khắc phục những biểu hiện tiêu
cực trong ngành còn chậm. Nội dung giáo dục nhiều phần chưa gắn với cuộc
sống. Công tác giáo dục hướng nghiệp bậc phổ thông chưa được chú ý đúng
mức. Phương pháp giáo chậm được đổi mới, chưa phát huy được tính chủ
động, sáng tạo của người học. Giáo dục chưa kết hợp chặt chẽ với lao động
sản xuất. Các cấp, các ngành chưa có những quyết định đủ mạnh về chính
sách, cơ chế và biện pháp tổ chức thực hiện. Một số chính sách được ban
117
hành chưa đủ sức khuyến khích được giáo viên đến dạy ở những vùng khó
khăn, chưa động viên giáo viên dạy giỏi và giáo viên có trình độ cao; tiền
lương vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu sinh hoạt. Thiếu chính sách thu hút học
sinh khá, giỏi vào học sư phạm; chưa có quyết định đủ mạnh thu hút người
tài. Tỷ lệ ngân sách đầu tư cho giáo dục còn thấp, cơ sở vật chất, phương tiện
dạy học của các trường nhìn chung còn chưa được cải thiện... Đây là nguyên
nhân chính của những hạn chế, yếu kém mà ngành giáo dục tỉnh Hòa Bình
cần phải tập trung tháo gỡ. Do vậy, để GDPT của tỉnh Hòa Bình thực sự được
phát triển một cách bền vững, đáp ứng tốt yêu cầu phát triển KT - XH của
tỉnh trong thời kỳ mới, cần có sự quan tâm, vào cuộc của cả hệ thống chính trị
và của cả cộng đồng.
4.1.2. So sánh quá trình phát triển GDPT của tỉnh Hòa Bình qua hai
giai đoạn 1991 - 2001 và 2001 - 2010.
Sau khi tái lập tỉnh (1991), Hòa Bình là một trong những tỉnh nghèo
nhất cả nước, tình hình KT - XH gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp,
nên đã ảnh hưởng nhiều đến sự nghiệp phát triển GDPT.
Giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010 trải
qua hai giai đoạn 1991 - 2001 và 2001 - 2010 song đó là quá trình phát triển
liên tục, theo hướng tích cực, đảm bảo về số lượng, tăng dần về chất lượng,
giai đoạn sau phát triển hơn giai đoạn trước, những hạn chế, yếu kém đã từng
bước được khắc phục, thể hiện qua một số nội dung so sánh như sau:
Trước hết là công tác xây dựng đội ngũ cán bộ và giáo viên.
Giai đoạn 1991 - 2001, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên tập
trung chủ yếu vào công tác tổ chức, cán bộ, từng bước hoàn thiện bộ máy,
thực hiện các chính sách thu hút giáo viên, ưu đãi giáo viên giỏi, đẩy mạnh
công tác đào tạo, đào tạo lại, thường xuyên chuẩn hóa, bồi dưỡng giáo viên
theo định kỳ… nhằm đáp ứng yêu cầu chủ yếu về mặt số lượng, trong bối
cảnh Hòa Bình mới được tái lập. Do vậy, đến năm học 2000 - 2001, tỉnh Hòa
118
Bình về cơ bản đã khắc phục được tình trạng thiếu giáo viên phổ thông ở các
cấp học. Bên cạnh đó, chất lượng đội ngũ giáo viên cũng từng bước được
nâng lên, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn năm học 1995 - 1996: Giáo viên tiểu học
đạt 85%, giáo viên THCS đạt 90%, giáo viên THPT đạt 97% [120, tr. 4]; đến
năm học 2000 - 2001, toàn tỉnh có 35 - 40% giáo viên khá, giỏi, chỉ còn 10 -
15% giáo viên yếu, kém cần thay thế và đào tạo lại [146, tr. 233].
Trong những năm từ 2001 đến 2010, thực hiện Chỉ thị số 40 CT/TW,
ngày 15 - 6 - 2004 của Ban Bí thư khóa X, về việc xây dựng, nâng cao chất
lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, tỉnh Hòa Bình đã chỉ đạo
tiến hành rà soát, đánh giá, chuẩn hóa đội ngũ nhằm đáp ứng yêu cầu của
tình hình mới. Do vậy, đến năm học 2009 - 2010, tỷ lệ giáo viên phổ thông
đạt chuẩn và trên chuẩn được tăng lên rõ rệt. Cụ thể, giáo viên tiểu học đạt
chuẩn là 100%, trong đó trình độ trên chuẩn là 40,2%; giáo viên THCS đạt
chuẩn là 100%, trong đó trên chuẩn 23.3%; giáo viên THPT đạt chuẩn là
100%, trong đó trên chuẩn là 3,3% [138, tr. 13]. Đây là một bước tiến lớn
trong công tác xây dựng đội ngũ, góp phần quan trọng vào nâng cao chất
lượng giáo dục trong các nhà trường phổ thông.
Thứ hai, về xây dựng hệ thống trường, lớp và quy mô phát triển.
Giai đoạn 1991 - 2001, các loại hình trường lớp được phát triển đa dạng
và mở rộng, khắp các thôn bản, phù hợp với từng địa bàn dân cư để thu hút
học sinh vào học. Với sự cố gắng của toàn ngành, năm học 1997 - 1998, toàn
tỉnh đã có 3 trường bán công, 10 trường liên cấp II + III, 19 trường THPT
[121, tr. 3] và 8 trường Phổ thông dân tộc nội trú. Tuy nhiên, hệ thống
trường, lớp trong giai đoạn này tỷ lệ được xây dựng kiên cố còn thấp, số
trường bằng tranh tre, nứa lá vẫn còn nhiều. Mặt khác, quy mô, số lượng các
lớp học và học sinh phổ thông cũng không ngừng được tăng lên. Đến năm
học 2000 - 2001, toàn tỉnh có 6.945 lớp học với 193.461 học sinh [2, tr. 700].
Công tác phổ cập giáo dục tiểu học, XMC cũng đạt được kết quả to lớn. Đến
119
tháng 10 - 1995, toàn tỉnh có 9/10 huyện, thị, 203/213 xã, phường đã hoàn
thành công tác phổ cập, đạt tỷ lệ 95% [86, tr. 207].
Trong những năm từ 2001 - 2010, công tác xây dựng hệ thống trường,
lớp tiếp tục được tỉnh Hòa Bình quan tâm mở rộng, đã đáp ứng tốt nhu cầu
học tập của học sinh trong tỉnh, tuy nhiên giai đoạn này cũng có sự biến động
về số lượng trường, lớp và học sinh. Năm học 2009 - 2010, toàn tỉnh có 219
trường tiểu học, 19 trường PTCS (cấp I-II), 209 trường THCS, 38 trường
THPT, 10 trường Phổ thông dân tộc nội trú; với 3.016 lớp tiểu học và 56.210
học sinh, 1.659 lớp THCS và 48.655 học sinh, 638 lớp THPT và 26.626 học
sinh [138, tr. 2]. Nguyên nhân của sự biến động về trường, lớp và học sinh có
giảm ở bậc tiểu học và THCS so với một số năm học trước là do việc mở
rộng địa giới hành chính Thành phố Hà Nội (năm 2008), một số xã thuộc
huyện Lương Sơn đã chuyển về Hà Nội nên số học sinh cũng chuyển theo.
Bên cạnh đó, Hòa Bình đã thực hiện tốt công tác dân số, kế hoạch hóa gia
đình theo chủ trương của Đảng, Nhà nước nên tỷ lệ sinh giảm. Với sự phát
triển nhanh chóng về số lượng trường lớp, đặc biệt là số trường lớp được xây
dựng kiên cố trong giai đoạn 2001 - 2010, đã đáp ứng tốt nhu cầu học tập của
các em học sinh.
Thứ ba, về chất lượng giáo dục đào tạo.
Giai đoạn 1991 - 2001, bên cạnh việc mở rộng quy mô, ngành giáo dục
Hòa Bình đã đưa ra nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng GDPT. Do vậy,
năm học 2000 - 2001, bậc tiểu học thi cuối cấp đạt 99,36%; bậc THCS, tỷ lệ
học sinh đỗ tốt nghiệp đạt 94,06%; bậc THPT, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp đạt
96,35%” [124, tr. 5-6]. Công tác giáo dục mũi nhọn được ngành đặc biệt quan
tâm và phát huy có hiệu quả. Từ năm học 1995 - 1996 đến năm học 2001 -
2002, số lượng học sinh đoạt giải trong các kỳ thi Quốc gia tăng cao, Hòa
Bình là tỉnh luôn dẫn đầu các tỉnh miền núi, Tây Nguyên và Đồng bằng Sông
Cửu Long về số lượng học sinh đoạt giải và chất lượng các giải.
120
Trong những năm từ 2001 đến 2010, toàn ngành giáo dục trong tỉnh Hòa
Bình đã tập trung chỉ đạo đổi mới chương trình GDPT, thực hiện thay sách
giáo khoa theo Nghị quyết số 40/2000QH, Quốc hội khóa X; thực hiện các
phương pháp giảng dạy tích cực cho phù hợp với yêu cầu của tình hình mới…
Do vậy, chất lượng GDPT có những chuyển biến tích cực. Năm học 2009 -
2010, bậc tiểu học, xét và công nhận hoàn thành chương trình tiểu học đạt tỷ
lệ 98%”; bậc THCS, tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp đạt 85.8%; bậc THPT, tỷ lệ
học sinh đỗ tốt nghiệp đạt 100% [138, tr. 9-10]. Công tác bồi dưỡng học sinh
dự thi học sinh giỏi Quốc gia từ 2001 - 2010 tiếp tục đoạt được nhiều kết quả
to lớn, nhiều năm liền, tỉnh Hòa Bình luôn dẫn đầu các tỉnh miền núi, Tây
Nguyên và Đồng bằng Sông Cửu Long về số lượng học sinh đoạt giải và chất
lượng các giải. Đến năm 2010, tổng kết qua 20 lần tham dự kỳ học sinh thi
học sinh giỏi Quốc gia, đoàn học sinh tỉnh Hòa Bình đã đạt tổng số 995 giải,
trong đó, có 35 giải Nhất, 189 giải Nhì, 729 giải Ba và giải Khuyến khích
[141, tr.2] và tiếp tục khẳng định chất lượng về giáo dục mũi nhọn của tỉnh
Hòa Bình đối với GDPT của cả nước.
Thứ tư, công tác đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giáo dục.
Sau khi được tái lập, tỉnh Hòa Bình “có trên 20% số trường, lớp được
xây dựng kiên cố và 01 máy vi tính” [120, tr. 5]. Đây là một khó khăn rất
lớn của ngành giáo dục Hòa Bình trong bối cảnh mới được tái lập.
Giai đoạn 1991 - 2001, thực hiện quyết tâm ngói hóa, tiến tới kiên cố
hóa trường học, đến năm học 2000 - 2001, toàn tỉnh đã có 30% trường, lớp
cao tầng, 40% bán kiên cố, 100% trường THCS và THPT được xây dựng
cao tầng. Hàng năm tỉnh Hòa Bình đã trích 6 - 10% tổng kinh phí của
ngành để đầu tư cho sự nghiệp giáo dục, toàn tỉnh có 6 trường tiểu học
được Bộ GD - ĐT công nhận trường đạt chuẩn quốc gia [124, tr. 4]. Công
tác xã hội hóa giáo dục cũng không ngừng được quan tâm, riêng năm học
1999 - 2000, nhân dân đã đóng góp xây dựng trường lớp với tổng số tiền
ước tính gần 3 tỷ đồng [123, tr. 2].
121
Giai đoạn 2001 - 2010, công tác đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị
phục vụ giáo dục được triển khai theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa. Đến
năm học 2009 - 2010, toàn tỉnh đã có 8.479 phòng học, trong đó phòng học
kiên cố chiếm 61,6%, phòng bán kiên cố chiếm 27.5%, phòng tạm chiếm
10.9%; 1145 phòng ở giáo viên; 564 phòng thư viện; 185 phòng thí nghiệm,
phòng bộ môn; 63 trường tiểu học, 24 trường THCS, 2 trường THPT đạt
chuẩn Quốc gia [138, tr. 12-13]. Với sự quan tâm đầu tư nêu trên, đã đáp
ứng tốt nhu cầu về phòng học, phòng ở của giáo viên và các trang thiết bị
phục vụ giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.
Thứ năm, về công tác quản lý giáo dục, nâng cao ý thức chính trị, tư
tưởng và xây dựng tổ chức Đảng, đoàn thể trong nhà trường phổ thông.
Giai đoạn 1991 - 2001, công tác quản lý đội ngũ cán bộ được thực hiện
một cách toàn diện, theo phân cấp quản lý và theo ngành. Quản lý tài chính
được thực hiện công khai, minh bạch, vì vậy kinh phí được sử dụng đúng
mục đích, đúng đối tượng, phát huy hiệu quả cao. Công tác thanh tra tập
trung chủ yếu đi vào thanh tra chuyên môn, Sở GD - ĐT Hòa Bình mở phòng
tiếp dân để giải quyết kịp thời các đơn thư, khiếu tố một cách nhanh gọn
không để tồn đọng; đồng thời chỉ đạo thực hiện nghiêm túc Chỉ thị của Bộ
GD - ĐT về chấn chỉnh công tác dạy thêm, học thêm. Công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng được quan tâm, Ban cán sự Đảng thường xuyên tổ chức
các hội nghị học tập, quán triệt chuyên đề, Nghị quyết của Đảng, nhằm nâng
cao nhận thức trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quán triệt Chỉ thị số 34
CT/TW ngày 30 - 05 - 1998 của Bộ Chính trị về công tác xây dựng Đảng và
củng cố tổ chức Đảng trong trường học, năm học 2001 - 2002, số lượng đảng
viên trong toàn ngành là 2.273 đảng viên [124, tr. 8]. Đảng bộ cơ quan Sở GD
- ĐT luôn được công nhận là tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh,
Đảng bộ tiêu biểu của khối Dân, Chính, Đảng. Tổ chức Công đoàn, Đoàn
thanh niên đã phát huy tốt vai trò theo chức năng, nhiệm vụ, góp phần tích
122
cực vào thành tích chung của nhà trường và chăm lo đời sống cho cán bộ giáo
viên và học sinh.
Trong giai đoạn 2001 - 2010, công tác quản lý nhà nước về giáo dục tiếp
tục được thực hiện theo hướng chuẩn hóa, dân chủ hóa, công khai, công bằng.
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong toàn ngành; rà
soát lại hệ thống các văn bản hiện hành và kịp thời sửa đổi, bổ sung, đảm bảo
tính đồng bộ, thống nhất của văn bản về giáo dục. Ngành đã xây dựng lực
lượng cán bộ thanh tra chuyên trách và cộng tác viên thanh tra. Công tác
thanh tra tiếp tục được đẩy mạnh, nội dung thanh tra đặc biệt trọng tâm vào
thanh tra chuyên đề. Số lượt thanh tra hàng năm đều vượt chỉ tiêu được giao.
Qua công tác thanh tra đã kịp thời chấn chỉnh nền nếp, kỷ cương trong trường
học, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý, phòng ngừa các sai phạm, chiếm
được lòng tin của cán bộ, giáo viên và nhân dân. Công tác giáo dục chính trị
tư tưởng thường xuyên được quan tâm. Công tác phát triển đảng viên luôn
đảm bảo số lượng và chất lượng. Đến năm học 2009 - 2010, toàn ngành có 6
Đảng bộ và 682 chi bộ trường học, với 7.533 đảng viên; qua đánh giá phân
loại, 100% chi bộ, Đảng bộ đạt danh hiệu “Tổ chức cơ sở Đảng trong sạch,
vững mạnh [138, tr. 14]. Tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên, Đội Thiếu
niên Tiền phong Hồ Chí Minh trong các trường học, đã thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ; các hoạt động đã đi vào chiều sâu, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho các đoàn viên, đội viên, góp phần tích cực vào việc nâng cao
chất lượng và hiệu quả công tác GD - ĐT trong các nhà trường.
4.1.3. So sánh GDPT của tỉnh Hòa Bình với một số tỉnh có điều kiện
tương đồng.
Giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010 so với
mặt bằng chung của cả nước vẫn còn ở mức trung bình thấp và còn kém xa so
với các tỉnh ở đồng bằng và các thành phố khác.
123
Riêng trong các tỉnh miền núi phía Tây Bắc như tỉnh Sơn La, tỉnh Điện
Biên và tỉnh Yên Bái có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, vùng nhiều đồng bào
dân tộc thiểu số, phát triển KT - XH, truyền thống văn hóa... có nhiều yếu tố
tương đồng với tỉnh Hòa Bình. Do vậy, để đánh giá thực trạng quá trình phát
triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010, tác giả lựa chọn so
sánh về phát triển GDPT với ba tỉnh Sơn La, tỉnh Điện Biên và tỉnh Yên Bái.
- Về chất lượng giáo viên phổ thông, đến năm học 2009 - 2010, tỷ lệ
giáo viên phổ thông đạt chuẩn ở cả 4 tỉnh: Hòa Bình, tỉnh Sơn La, tỉnh Điện
Biên và tỉnh Yên Bái đều tăng cao, bởi lẽ xác định chất lượng đội ngũ là yếu
tố quan trọng hàng đầu quyết định đến chất lượng và hiệu quả giáo dục nên
các tỉnh đều tập trung quan tâm chỉ đạo và được thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 4.1. Tỷ lệ giáo viên phổ thông đạt chuẩn năm học 2009 - 2010
101
100
99
98
97
96
95
94
93
92
Tiểu học
Tỉnh Hòa Bình 100
Tỉnh Sơn La 99.1
Tỉnh Điện Biên 95
Tỉnh Yên Bái 98.87
THCS
100
95.3
95
98.87
THPT
100
97.8
95
98.87
Đơn vị: %
Nguồn:[26, tập 1, tr. 551], [26, tập 2, tr. 545, 775], [138, tr. 13].
Song với tỷ lệ ở cả 3 cấp Tiểu học, THCS và THPT đạt chuẩn và trên
chuẩn là 100%, tỉnh Hòa Bình đã cho thấy chất lượng đội ngũ có sự vượt trội
hơn so với ba tỉnh Sơn La, Điện Biên và Yên Bái. Kết quả đó đã thể hiện sự
quyết tâm của ngành trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên, đặt
124
nền móng quan trọng để tỉnh Hòa Bình tiếp tục duy trì và phát triển trong
nhưng năm tiếp theo, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo trong
các nhà trường.
- Công tác xây dựng hệ thống trường, lớp đa dạng cũng được các tỉnh
Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên và Yên Bái đặc biệt quan tâm, nhằm phục vụ
nhu cầu học tập của con em đồng bào các dân tộc trong tỉnh và phù hợp với
từng địa bàn dân cư sinh sống. Số lượng trường học, phòng học đạt chuẩn
Quốc gia và được xây dựng kiên cố tăng lên đáng kể, đã từng bước giảm dần
số phòng học bán kiên cố, phòng học tạm, thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 4.1. Số trường học, phòng học và học sinh phổ thông
năm học 2009 - 2010
Số
Trường
Phòng học
lượng
Phổ
Đạt chuẩn
Phổ
thông
Trong đó:
Học sinh
Quốc gia
Tổng số
thông
dân tộc
Kiên cố
Tỉnh
nội trú
Hòa Bình 485 10 89 8.479 5.224 136.101
Sơn La 532 11 33 11.876 4.507 208.040
Điện Biên 306 9 63 6.573 3.042 107.183
Yên Bái 381 9 66 4.419 2.828 132.750
Nguồn: [26, tập 1, tr. 550,551], [26, tập 2, tr. 546,547,548,774,782],
[138, 146, tr. 2,10,12,13; 259].
Từ bảng 4.1 cho thấy, tổng số trường học, phòng học và học sinh phổ
thông có sự trên lệch khá lớn giữa các tỉnh. Nguyên nhân chủ yếu là do: Đối
với tỉnh Hòa Bình, năm 2008, việc mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà
Nội, 4 xã thuộc huyện Lương Sơn đã sáp nhập về Thành phố Hà Nội, một số
trường học, phòng học và học sinh phổ thông cũng đã chuyển theo nên số
lượng trường học, lớp học và học sinh cũng có giảm đi. Đối với tỉnh Điện
125
Biên, năm 2003, theo Nghị quyết số 22/2003/QH-QH11, ngày 26/11/2003 của
Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ tư, đã chia tách tỉnh Lai Châu (cũ) thành hai
tỉnh Điện Biên và Lai Châu, do vậy nhiều địa giới hành chính của tỉnh Điện
Biên đã bị thu hẹp và chuyển về tỉnh Lai Châu mới. Đây là nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến số trường học, phòng học và số lượng học sinh phổ thông ở tỉnh
Điện Biên giảm khá nhiều. Đối với tỉnh Sơn La là tỉnh có diện tích tự nhiên
rộng, có sự ổn định và không bị phân chia, sáp nhập bởi việc thay đổi địa giới
hành chính nên số lượng trường học, phòng học và học sinh có cao hơn so với
tỉnh Hòa Bình, Điện Biên và Yên Bái. Cũng từ bảng số liệu cho thấy, tỉnh
Yên Bái có số trường học và số lượng học sinh là khá cao, tuy nhiên tổng số
phòng học và phòng học kiên cố so với các tỉnh là rất thấp, điều này đã ảnh
hưởng không nhỏ đến việc học tập của các em học sinh nên việc học hai
buổi/ngày vẫn còn diễn ra ở nhiều trường. Bên cạnh đó, hệ thống các trường
PTDTNT của cả bốn tỉnh nêu trên phát triển tương đối đồng đều, với mục tiêu
chung là nhằm tạo điều kiện tối đa cho con em đồng bào dân tộc thiểu số
được theo học và phù hợp với từng địa bàn dân cư. Song nhìn tổng thể từ
bảng 4.1 cũng cho thấy, với số lượng phòng học phổ thông được xây dựng
kiên cố trên tổng số trường học và số trường phổ thông đạt chuẩn Quốc gia
được xây dựng của tỉnh Hòa Bình đều cao hơn so với ba tỉnh Sơn La, Điện
Biên và tỉnh Yên Bái, điều đó thể hiện sự quyết tâm của ngành giáo dục Hòa
Bình về kiên cố hóa trường, lớp phục vụ công tác dạy và học, góp phần vào
nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo của tỉnh.
- Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước và của ngành về đẩy mạnh
công tác phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục THCS, đã
được các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên và Yên Bái tăng cường chỉ đạo
triển khai, đã vận dụng linh hoạt với từng nhóm đối tượng người học, từng
vùng miền cụ thể và đạt được kết quả rất đáng ghi nhận, thể hiện qua bảng sau:
126
Bảng 4.2. Công tác phổ cập giáo dục phổ thông
Năm phổ cập 2003
Tỉnh Hòa Bình
2005
2007
Sơn La 2008
2008
Điện Biên 2010
2007
Yên Bái 2009
Nội dung Đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục THCS Đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi Đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục THCS Đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi Đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục THCS Đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi Đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục THCS Đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi
Nguồn: [2, tr. 781], [26, tập 1, tr. 552], [26, tập 2, tr.544, 776].
Từ bảng 4.2 cho thấy, công tác phổ cập giáo dục bậc Tiểu học và bậc
THCS ở tỉnh Hòa Bình có sớm hơn cả so với các tỉnh Sơn La, Điện Biên và
Yên Bái. Điều đó đã cho thấy sự quyết tâm, coi trọng và có hiệu quả của tỉnh
Hòa Bình đối với công tác này.
- Công tác giáo dục mũi nhọn là một trong những yếu tố quan trọng, góp
phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo của các tỉnh. Với công
tác này, tỉnh Hòa Bình là điểm nổi bật hơn cả so với ba tỉnh Sơn La, Điện
Biên và Yên Bái, đồng thời cũng nổi trội hơn so với một số tỉnh, thành khác
trong cả nước. Tính đến năm 2010, tổng kết qua 20 lần tham dự kỳ học sinh
thi học sinh giỏi Quốc gia, đoàn học sinh tỉnh Hòa Bình đã đạt tổng số 995
giải, trong đó, có 35 giải Nhất, 189 giải Nhì, 729 giải Ba và giải Khuyến
khích [141, tr. 2], nhiều năm liền tỉnh Hòa Bình luôn dẫn đầu các tỉnh miền
núi, Tây Nguyên và Đồng bằng Sông Cửu Long về số lượng học sinh đoạt
giải và chất lượng các giải. Đây cũng là điểm nổi bật của ngành giáo dục Hòa
Bình kể từ khi tái lập tỉnh.
127
Có thể nói, các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên và Yên Bái là những
tỉnh miền núi có nhiều yếu tố tương đồng và còn gặp rất nhiều khó khăn. Một
số kết quả chính về phát triển GDPT của bốn tỉnh nêu trên đã cho thấy
khoảng cách đạt được trên các lĩnh vực giữa các tỉnh là không xa. Song nhìn
trên một số lĩnh vực cụ thể, tỉnh Hòa Bình cũng có những điểm nổi bật hơn.
Đây là kết quả của sự quyết tâm và rất đáng tự hào của toàn ngành giáo dục,
của cả hệ thống chính trị đối với sự nghiệp phát triển giáo dục ở tỉnh Hòa
Bình và đặt nền móng quan trọng cho các giai đoạn phát triển tiếp theo.
4.1.4. Một số đặc điểm riêng nổi bật về GDPT của tỉnh Hòa Bình.
Là tỉnh miền núi nghèo, chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố về vị trí địa lý,
điều kiện tự nhiên, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội; nơi có đông đồng bào
dân tộc thiểu số sinh sống… đã tạo cho GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991
đến năm 2010 vừa mang đặc điểm chung của GDPT của Việt Nam, vừa có
những đặc điểm riêng của tỉnh Hòa Bình.
Đặc điểm chung của nền giáo dục XHCN ở Việt Nam là bảo đảm tốt
mục tiêu giáo dục; nội dung, chương trình giáo dục phải luôn bám sát vào
mục tiêu; thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với người dạy và người học, đặc
biệt là các vùng có điều kiện KT - XH còn nhiều khó khăn, vùng nhiều đồng
bào dân tộc, con em gia đình chính sách; bảo đảm cho mọi người dân ai cũng
được tham gia học tập; toàn dân tham gia vì sự nghiệp trồng người; giáo dục
công lập vẫn đóng vai trò là nồng cốt để bảo đảm những nhu cầu tối thiểu của
người dân; các chi phí cho giáo dục phần lớn là do ngân sách nhà nước đảm
bảo… Với đặc điểm nêu trên, cùng với các tỉnh, thành phố khác trong cả
nước, phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010 cũng đã
đảm bảo và thực hiện tốt các yêu cầu này.
Bên cạnh đó, phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình còn có những đặc điểm
riêng khá nổi bật như:
128
Thứ nhất, Hòa Bình là một tỉnh miền núi, có địa bàn rộng, nhiều nơi
giao thông đi lại bị chia cắt và gặp nhiều khó khăn, đã ảnh hưởng lớn đến sự
nghiệp phát triển giáo dục.
Hòa Bình có diện tích toàn tỉnh là 4.596,4 km2 chủ yếu là đồi và núi đá
vôi, với địa bàn rộng, dân cư thưa thớt nằm rải rác ở khắp các vùng miền
trong tỉnh; điều kiện về giao thông đi lại nhiều nơi còn gặp không ít khó khăn,
nhất là ở những xã vùng sâu, vùng xa, vùng lòng hồ bị chia cắt bởi các sông,
hồ, khe, suối, nhiều thung lũng, hàng trăm con suối lớn nhỏ và đường đất trơn
trượt; mùa mưa lũ, một số vùng cao, vùng sâu đường giao thông bị sạt lở,
việc đi lại và vận chuyển bằng xe cơ giới cũng gặp nhiều trắc trở. Trong tổng
số 210 xã, phường, thị trấn có 23 xã thuộc vùng ngập lòng hồ sông Đà, 60 xã
thuộc vùng III, 9 xã thuộc vùng hạ lưu thủy điện, 34 xã thuộc vùng ATK [46,
tr. 13], quy mô trường lớp phân tán, khó khăn để hưởng thụ công bằng trong
giáo dục, đời sống người dân còn nghèo, cơ sở vật chất thiếu thốn, trình độ
dân trí còn thấp… Với đặc điểm về địa hình và phân bố về dân cư nêu trên,
đã ảnh hưởng rất lớn đến việc đi lại, học tập của các em học sinh. Do vậy,
tỉnh Hòa Bình đã chỉ đạo rà soát và thực hiện nhiều giải pháp để đưa trường
về gần dân, xây dựng hệ thống trường, lớp rộng khắp các bản làng, thôn xóm,
phù hợp với từng địa bàn dân cư, đã đáp ứng nhu cầu học tập của con em
đồng bào các dân tộc trong tỉnh.
Thứ hai,hệ thống các trường Phổ thông dân tộc nội trú được tỉnh Hòa
Bình đặc biệt quan tâm xây dựng.
Hòa Bình là nơi hội tụ của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống,
trong7 dân tộc chính cư trú trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, dân tộc Mường đông
nhất chiếm 62,98% dân số trong toàn tỉnh, ngoài ra còn có các dân tộc Kinh,
dân tộc Thái, dân tộc Tày, dân tộc Dao, dân tộc Mông và dân tộc Hoa [2, tr.
9]. Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước để mọi người dân
đều được tham gia học tập, tỉnh Hòa Bình đã xây dựng và phát triển mạnh mẽ
129
hệ thống các trường Phổ thông dân tộc nội trú tại trung tâm của tỉnh, các
huyện và liên xã. Đến năm học 2009 - 2010, trên địa bàn toàn tỉnh có 10
trường Phổ thông dân tộc nội trú, trong đó có 1 trường Phổ thông dân tộc nội
trú tỉnh, 7 trường Phổ thông dân tộc nội trú huyện và 2 trường Phổ thông dân
tộc nội trú liên xã và đang tiếp tục xây dựng trường Phổ thông dân tộc nội trú
Mường Chiềng và trường Phổ thông dân tộc nội trú Yên thủy [138, tr. 10].
Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các trường Phổ thông dân tộc nội trú
theo hướng tăng cường chuẩn hóa và chuẩn quốc gia, các chế độ chính sách
dành cho cán bộ giáo viên và học sinh luôn được bảo đảm theo quy định của
Nhà nước. Đặc biệt, trường Phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Hòa Bình luôn là
đơn vị đạt thành tích tiên tiến, xuất sắc nhiều năm liền về công tác giáo dục.
Sự phát triển của hệ thống các trường Phổ thông dân tộc nội trú, đã góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả GDPT ở tỉnh Hòa Bình.
Thứ ba, với truyền thống văn hóa lâu đời, con người cần cù, sáng tạo
và nhiều thắng cảnh đẹp, là niềm tự hào, động lực thúc đẩy GDPT ở tỉnh Hòa
Bình được phát triển.
Nằm ở cửa ngõ vùng tây Bắc của Tổ quốc, có địa bàn giáp với Thủ đô
Hà Nội, tỉnh lỵ Hòa Bình cách Thủ đô Hà Nội 76 km về phía Tây. Thiên
nhiên đã tạo cho tỉnh nhiều cảnh quan, danh thắng đẹp và kỳ thú; bên cạnh
đó, nhờ bàn tay lao động cần cù và sáng tạo của mình, đồng bào các dân tộc
trong tỉnh đã tạo nên nền văn hóa mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc với
những bản, làng du lịch văn hóa danh tiếng, nơi đây đang là điểm đến của du
khách gần xa. Mặt khác, tỉnh Hòa Bình là nơi có truyền thống văn hóa lâu đời
đó là nền “văn hóa Hòa Bình”, nền văn hóa của dân cư nông nghiệp sơ khai
cách đây hàng vạn năm và được biết đến với công trình thủy điện lớn nhất cả
nước với tổng công xuất 1920Mw và lượng thủy năng 50 tỷ kw/h… Đây là
những yếu tố quan trọng để nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình tự hào về
mảnh đất quê hương, bảo tồn, giữ gìn cũng như phát huy các giá trị truyền
130
thống văn hóa của dân tộc, đồng thời tiếp thu và giao thoa với các nền văn
hóa của nhân dân các dân tộc trong nước và quốc tế, từ đó tạo động lực để
GDPT được phát triển.
Với những đặc điểm chung và riêng nêu trên, phát triển GDPT ở tỉnh
Hòa Bình đã bảo đảm các yêu cầu chung về phát triển giáo dục, song bên
cạnh đó cũng đã phát huy tốt những đặc điểm riêng, từ đó góp phần thúc đẩy
GDPT ở tỉnh Hòa Bình ngày càng phát triển bền vững.
4.2. Một số kinh nghiệm và vấn đề đặt ra
4.2.1. Một số kinh nghiệm chủ yếu.
Thực tiễn quá trình phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến
năm 2010 có thể rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu sau đây:
Một là, Giữ vững mục tiêu XHCN trong giáo dục, coi trọng yếu tố con
người để đẩy nhanh việc nâng cao chất lượng giáo dục.
Thực chất của kinh nghiệm này là giữ vững định hướng XHCN trong
GD - ĐT, chống nguy cơ lệch hướng, không thể hiện đúng với bản chất chế
độ ta vàđược nêu ra trong các quan điểm chỉ đạo của Đảng.
Từ kinh nghiệm nêu trên, tỉnh Hòa Bình đã quán triệt sâu sắc những
quan điểm cơ bản của Đảng về đổi mới GD - ĐT và cho đó là nhiệm vụ chính
trị quan trọng để giữ vững mục tiêu XHCN trong giáo dục. Đó là quá trình
vận dụng các Nghị quyết đại hội lần thứ VII đến Nghị quyết đại hội lần thứ X
của Đảng; đặc biệt là NQTW 4 (khóa VII), NQTW 2 (khóa VIII), NQTW 6
(khóa IX) chuyên về đổi mới GD - ĐT, được vận dụng vào điều kiện cụ thể
của địa phương. Nhờ đó, phát triển GDPT ở Hòa Bình luôn đi đúng hướng,
phục vụ đắc lực vào sự nghiệp phát triển KT - XH của tỉnh, cũng như giúp
cho các cấp ủy Đảng, chính quyền, ngành GD - ĐT và mọi tầng lớp nhân dân
nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò quan trọng của GD - ĐT, cùng nhau hành
động vì sự nghiệp trồng người.
131
Hai là, Mở rộng quy mô đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo
dục và xuất phát từ thực tiễn và nhu cầu phát triển KT - XH của Hòa Bình.
Việc mở rộng quy mô trước hết phải xuất phát từ yêu cầu cung cấp
nguồn nhân lực, khả năng đào tạo và nhu cầu học tập của nhân dân. Qua 20
năm kể từ khi tái lập tỉnh (năm 1991), quy mô các cấp học, bậc học ở Hòa
Bình phát triển mạnh mẽ, rộng khắp tới các bản làng, thôn xóm, đã đáp ứng
tốt nhu cầu học tập của con em đồng bào các dân tộc trong tỉnh. Bên cạnh đó,
nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục là điều mà ngành GD - ĐT Hòa
Bình cũng đặc biệt quan tâm. Ngành đã xác định rõ hiệu quả KT - XH là tiêu
chuẩn quan trọng trong việc đánh giá chất lượng giáo dục, do vậy công tác
đào tạo nguồn nhân lực ở tỉnh Hòa Bình luôn đặt ra yêu cầu và đòi hỏi ngày
càng cao cả về số lượng và chất lượng, để đáp ứng tốt mục tiêu phát triển KT
- XH của tỉnh trong thời điểm hiện tại và trong tương lai.
Ba là, Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất, thực hiện công tác xã hội
hóa giáo dục.
Quán triệt quan điểm của Đảng, coi GD - ĐT là quốc sách hàng đầu,
tăng mức đầu tư cho các trường phổ thông từ nguồn ngân sách nhà nước, từ
sự đóng góp của người học và các nguồn lực khác để đáp ứng yêu cầu về đào
tạo. Nhận thức rõ vấn đề này, ngoài nguồn ngân sách được cấp hàng năm, tỉnh
Hòa Bình đã động viên, khuyến khích các tổ chức, cá nhân và nhân dân các
dân tộc trong tỉnh đóng góp, chăm lo đến sự nghiệp “trồng người”. Do vậy, số
trường học, lớp học được “ngói hóa” và xây dựng kiên cố không ngừng tăng
lên, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giáo dục được tăng cường làm cho
bộ mặt các nhà trường ngày càng khang trang hiện đại.
Mặc dù đã có sự cố gắng, tuy nhiên nguồn ngân sách đầu tư cho giáo
dục ở tỉnh Hòa Bình vẫn còn hạn chế và chưa theo kịp với yêu cầu đòi hỏi
ngày càng cao của sự phát triển KT - XH. Việc trả lương và các khoản phụ
cấp theo lương chiếm tới 90% tổng số ngân sách, còn lại là đầu tư xây dựng
132
cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học, tỷ lệ đó là quá thấp so với
mục tiêu “kiên cố hóa, hiện đại hóa” trường học. Đây là một trong những
nguyên nhân mà tỷ lệ trường lớp được xây dựng kiên cố hóa còn chậm, cơ sở
vật chất, trang thiết bị cũ kỹ lạc hậu vẫn còn ở một số địa phương trong tỉnh.
Bên cạnh đó, việc triển khai công tác xã hội hóa giáo dục trên địa bàn tỉnh
Hòa Bình kết quả đạt được còn thấp. Một số quan điểm nhìn nhận chưa đầy
đủ cho đó là trách nhiệm chủ yếu của ngành GD - ĐT, xã hội hóa chủ yếu
nặng về đóng góp… Những quan điểm trên đều thiếu tính thuyết phục, chưa
đúng với chủ trương về công tác xã hội hóa giáo dục. Vấn đề đặt ra ở đây rõ
ràng là sự nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân cũng như trong công tác tổ
chức, tuyên truyền về xã hội hóa giáo dục còn hạn chế.
Bốn là, Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp GDPT, đáp ứng
yêu cầu phát triển KT - XH của Hòa Bình.
Cùng với các địa phương trên cả nước, ngành GD - ĐT của tỉnh Hòa
Bình cũng đã triển khai theo khung chương trình của Bộ GD - ĐT ở bậc phổ
thông, nhằm đổi mới một số nội dung, phương pháp cho phù hợp với tình
hình mới. Mặc dù đã có nhiều cố gắng của toàn ngành song kết quả cũng chưa
được như mong muốn. Đây không chỉ là khó khăn đối với tỉnh Hòa Bình, mà
một số tỉnh khác ở miền núi, Tây Nguyên và Đồng bằng Sông Cửu Long cũng
gặp nhiều lúng túng và hiệu quả chưa cao.
Về đổi mới phương pháp GDPT. Thực trạng phương pháp GDPT ở nước
ta nói chung, ở Hòa Bình nói riêng cho thấy phương pháp giảng dạy, học tập
còn nhiều lạc hậu. Đây là lĩnh vực có điều kiện đổi mới mạnh mẽ, vì nó phụ
thuộc chủ yếu vào điều kiện chủ quan của ngành GD - ĐT, nhưng đáng tiếc
lại là lĩnh vực bị phê phán nhiều nhất vì còn trì trệ, lạc hậu, bàn đến thì nhiều
nhưng đổi mới lại quá ít. Bên cạnh đó, sức ỳ của cách dạy và cách học cũ đã
trở thành nếp nghĩ, thói quen của các nhà quản lý, của giáo viên và học sinh.
Việc đổi mới GDPT đã có lúc được dấy lên sôi nổi một thời gian rồi lại đi vào
133
im lặng và phương pháp giáo dục cũ vẫn ngự trị. Tình hình đó đã dung túng
cho cho việc chỉ lo “dạy chữ”, “dạy chay”, “dạy nhồi nhét”… còn học sinh thì
đua nhau đi học thêm, cũng chỉ vì “học chữ”… cho nên cần thay đổi nếp nghĩ,
thói quen của ngành GD - ĐT đối với việc dạy và học.
Năm là, Tăng cường công tác quản lý Nhà nước, phát huy vai trò của
các cấp ủy Đảng, đoàn thể trong nhà trường phổ thông.
Công tác quản lý Nhà nước đối với GDPT là một bộ phận hợp thành hệ
thống giáo dục, có tác dụng làm cho hệ thống giáo dục được vận hành đúng
mục đích, cân đối, hài hòa và hiệu quả. Việc đổi mới công tác quản lý giáo
dục phải được tiến hành dựa trên các nguyên tắc chung như: Tuân thủ nguyên
tắc tập trung dân chủ, tăng cường tập trung của Nhà nước về những vấn đề
trọng yếu, thực hiện tốt việc phân cấp quản lý; bộ máy quản lý phải được tổ
chức gọn nhẹ, có hiệu lực và hiệu quả; phương pháp quản lý phải được đổi
mới theo hướng tăng cường tính pháp chế và sử dụng các biện pháp kinh tế để
phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục; đổi mới công
tác quản lý GDPT phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng rộng rãi các
phương tiện kỹ thuật công nghệ hiện đại vào quá trình quản lý và điều hành.
Thấm nhuần các nguyên tắc nêu trên, ngành GD - ĐT Hòa Bình đã đưa
ra nhiều giải pháp về công tác tổ chức, công tác cán bộ, công tác thanh tra,
kiểm tra, đánh giá, phân loại… Do vậy, đã góp phần nâng cao nhận thức và
hiệu lực quản lý; thực hiện tốt việc phân cấp, phát huy tính chủ động, tự chịu
trách nhiệm của các cơ sở giáo dục; giải quyết có hiệu quả các vấn đề bức
xúc, ngăn chặn và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong ngành.
Các cấp ủy Đảng, đoàn thể trong nhà trường phổ thông cần tiếp tục được
đẩy mạnh. Quán triệt nguyên tắc Đảng lãnh đạo,Đảng bộ nhận thấy chỉ có
tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy trong nhà trường thì mới phát huy
hơn nữa năng lực quản lý, giảng dạy của đội ngũ cán bộ, giáo viên đồng thời
khắc phục, tháo gỡ những ách tắc cần kịp thời giải quyết như: Nhiều trường
học chưa có chi bộ, chưa có đảng viên, số cán bộ quản lý, cán bộ đoàn thể
134
chưa phải là đảng viên; công tác phát triển Đảng đối với giáo viên và học sinh
còn hạn chế; hoạt động của Đoàn Thanh niên, Đội Thiếu niên, đặc biệt tổ
chức Công đoàn trong trường học còn nhiều lúng túng, chưa mang lại hiệu
quả thiết thực; một số chi bộ chưa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình,
buông lỏng công tác quản lý đảng viên, cho nên dẫn đến hiện tượng tiêu cực
trong thi cử, vi phạm quản lý, sử dụng nguồn tài chính cũng như việc tổ chức
dạy thêm, học thêm tràn lan và thu các khoản tiền ngoài quy định... Những
nguyên nhân nêu trên đã làm cho một số cơ sở Đảng bị suy yếu và có nguy cơ
mất vai trò lãnh đạo. Vì vậy, tăng cường vai trò của cấp ủy Đảng, đoàn thể
trong các nhà trường được tỉnh Hòa Bình xem đó là kinh nghiệm quan
trọngtrong bất cứ giai đoạn phát triển nào.
4.2.2. Một số vấn đề đặt ra.
Thực tiễn quá trình phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến
năm 2010 đã để lại nhiều kinh nghiệm quý báu; đồng thời cũng đặt ra một số
vấn đề cần phải khắc phục trong các giai đoạn tiếp theo. Để GDPT ở tỉnh Hòa
Bình thực sự được phát triển bền vững, là nơi cung cấp nguồn nhân lực có
chất lượng phục vụ yêu cầu phát triển KT - XH của địa phương và cho đất
nước, trong thời gian tới tỉnh Hòa Bình cần tập trung giải quyết tốt một số vấn
đề đặt ra như sau:
Thứ nhất, là một tỉnh miền núi còn nghèo, điều kiện phát triển KT - XH,
giao thông đi lại còn nhiều khó khăn,trình độ dân trí còn thấp, là nơi hội tụ
của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống… Do vậy, trong quá trình vận
dụng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn địa
phương, bên cạnh việc thực hiện theo đúng các quy định chung, tỉnh Hòa
Bình cần tiếp tục xem xét những yếu tố đặc thù của địa phương và đưa ra các
chính sách linh hoạt, cụ thể đối với từng đối tượng người học, từng vùng,
miền trong tỉnh để đem lại hiệu quả giáo dục cao nhất, góp phần đào tạo
nguồn nhân lực một cách có hệ thống và toàn diện cho địa phương mình.
135
Thứ hai, việc mở rộng quy mô đi đôi với nâng cao chất lượng và hiệu
quả giáo dục là một yêu cầu bức thiết trong bất kỳ giai đoạn nào. Thực tiễn
phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010 đã đạt được
nhiều tiến bộ. Song để đáp ứng tốt hơn yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực, phục
vụ phát triển KT - XH, tỉnh Hòa Bình cần chú trọng vào một số giải pháp như:
- Cần xác định được nhu cầu học tập của con em đồng bào các dân tộc
trong tỉnh, trên cơ sở đó rà soát lại hệ thống trường, lớp trên các địa bàn và
mở các điểm trường phù hợp với từng địa bàn dân cư, chú trọng xây dựng hệ
thống các trường Phổ thông dân tộc nội trú nơi có đông đồng bào dân tộc
thiểu số sinh sống, nhằm tạo điều kiện tối đa để mọi người dân đều được
tham gia học tập.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng
trực tiếp và quyết định đến chất lượng giáo dục đào tạo. Đến năm học 2009 -
2010, tỷ lệ giáo viên Tiểu học, THCS và THPT ở tỉnh Hòa Bình đạt chuẩn là
khá cao, tuy nhiên tỷ lệ giáo viên đạt trên chuẩn và được đào tạo ở bậc sau đại
học còn thấp. Do vậy công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, giáo viên cần phải
được đẩy mạnh hơn nữa và coi đó là bước đi đầu tiên của ngành; đặc biệt
trong công tác đào tạo bồi dưỡng về chuyên môn hàng năm cần phải trang bị
cho giáo viên được tiếp thu và lĩnh hội những kiến thức mới, các phương
pháp tiên tiến, hiện đại vào giảng dạy để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả giáo dục đào tạo.
- Tiếp tục chú trọng việc nâng cao chất lượng giáo dục đại trà tại các xã
vùng sâu, vùng xa, vùng lòng hồ, vùng đồng bào dân tộc thiểu số - nơi có sự
chênh lệch khá lớn so với các vùng đô thị và đồng bằng, nhằm từng bước giảm
dần khoảng cách về cơ hội và điều kiện học tập giữa các vùng miền, cũng như
góp phần nâng cao mặt bằng chung về chất lượng giáo dục đại trà trong tỉnh.
Bên cạnh đó cần phát huy thế mạnh của công tác giáo dục mũi nhọn và tiếp tục
136
khẳng định vị thế đối với các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và Đồng
bằng sông Cửu Long trong các kỳ thi học sinh giỏi Quốc gia.
- Cơ cấu ngành nghề đào tạo cần phải khắc phục ngay vấn đề nhiều học
sinh chủ yếu tập trung vào các môn khoa học tự nhiên, ít chú ý đến các môn
khoa học xã hội, nhằm tránh tình trạng mất cân đối về ngành nghề đào tạo,
ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục toàn diện và không cân bằng ở các môn
học, cũng như ảnh hưởng đến vấn đề cung - cầu về nguồn nhân lực cho tỉnh
Hòa Bình và cho xã hội sau này.
Thứ ba, về đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp GDPT ở tỉnh
Hòa Bình cũng còn một số bất cập, để nâng cao chất lượng dạy và học phổ
thông, ngành giáo dục Hòa Bình cần tập trung đổi mới theo các hướng sau:
- Chương trình, nội dung sách giáo khoa phải đảm bảo tính chuẩn mực,
khối lượng, chất lượng của các kiến thức, kỹ năng và thời lượng giảng dạy
phải theo đúng chuẩn quốc gia. Nội dung giáo dục phải đảm bảo tính cơ bản,
hệ thống nhưng cần tinh giản, tránh việc dạy ôm đồm, nhồi nhét, học qua loa,
đối phó; cần phải cải thiện tình trạng bất hợp lý trong cơ cấu nhân lực được
đào tạo, tăng hướng nghiệp và đào tạo nghề ở bậc phổ thông, giảm lý thuyết
và tăng thực hành, thực hiện học đi đôi với hành, lý thuyết đi đôi với thực
tiễn;... nhằm giúp học sinh nhanh chóng tiếp cận với những tri thức và kỹ
năng cần thiết phục vụ cho cuộc sống sau này.
- Thực hiện nhiều phương pháp giảng dạy tích cực như: thảo luận, thực
hành, thực tập, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, tự học… song phương pháp
giáo dục cần phải đảm bảo tính cân đối giữa các mặt theo mục tiêu giáo dục
và nhân cách đã xác định: Cân đối giữa các mặt nội dung giáo dục đức, trí,
thể, mỹ; cân đối giữa kiến thức - thái độ - kỹ năng; cân đối giữa các thành tố
trong cấu trúc nhân cách nhân, trí, dũng; cân đối giữa phẩm chất, năng lực
“hồng” và “chuyên”.
137
- Đổi mới phương pháp giáo dục phải phù hợp với từng đối tượng
người học, lấy học sinh làm trung tâm. Mọi đổi mới đều phải vì lợi ích của
người học, phù hợp với đặc điểm nhu cầu, điều kiện hoàn cảnh của các đối
tượng, tạo những điều kiện, cơ hội thuận lợi nhất cho người học. Đổi mới
phương pháp giáo dục tạo nên những thay đổi tích cực nhưng không gây bất
ổn cho nhà trường, cho ngành giáo dục cũng như cho xã hội nói chung.
Thứ tư, Công tác đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị góp phần
vào việc nâng cao chất lượng dạy và học, song để xây dựng các trường phổ
thông theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, trong thời gian tới tỉnh Hòa Bình
cần tập trung vào một số nhiệm vụ chủ yếu như sau:
- Ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các chương trình, mục tiêu
phát triển giáo dục trọng điểm ở cấp vĩ mô như: củng cố công tác phổ cập
giáo dục Tiểu học, THCS, tiến tới mục tiêu phổ cập giáo dục THPT. Đẩy
mạnh công tác xây dựng các trường chuẩn Quốc gia ở các bậc học phổ thông.
Hoàn chỉnh công tác xây dựng cơ sở vật chất trường học ở các vùng có điều
kiện KT - XH khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng lòng hồ Sông Đà, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số.
- Quan tâm đầu tư xây dựng các phòng thí nghiệm, thư viện, khu vực
hành chính, nhà ở giáo viên; đầu tư các trang thiết bị cho việc tin học hóa nhà
trường, trang thiết bị học ngoại ngữ, trang thiết bị phục vụ chương trình đổi
mới phương pháp giảng dạy, chương trình công nghệ thông tin, chương trình
sách giáo khoa, ngoại ngữ,… để phục vụ tốt công tác dạy và học.
- Công tác đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy
và học là cần thiết, song phải được quán triệt trên nguyên tắc bảo đảm khai
thác một cách có hiệu quả, tránh tình trạng đầu tư tràn lan, dàn trải, không
hiệu quả; hoặc có ưu tiên đầu tư nhưng đơn vị và người sử dụng chưa tiếp
cận được với các trang thiết bị mới sẽ gây ra tình trạng lãng phí, thất thoát
trong đầu tư.
138
- Để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, phục vụ mục tiêu phát
triển KT - XH đã được các đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra, hàng năm tỉnh Hòa
Bình cần phải cân đối các nguồn ngân sách và ưu tiên đầu tư cho sự nghiệp
phát triển giáo dục theo tốc độ tăng trưởng kinh tế, điều này được thực hiện
theo đúng nguyên lý đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển và đó là con
đường ngắn nhất để dẫn đến mọi thành công.
Thứ năm, về thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và công tác xã
hội hóa giáo dục.
Công bằng xã hội trong giáo dục là yếu tố quan trọng để thu hẹp về
khoảng cách giữa các vùng miền trong tỉnh. Với mục tiêu để mọi người dân
được cắp sách đến trường và giảm dần về mặt khoảng cách, trong thời gian
tớitỉnh Hòa Bình cần chú trọng vào một số nhóm giải pháp sau:
- Chống tái mù chữ trở lại, khắc phục tình trạng bỏ học đối với học sinh
con em các gia đình nghèo và đối tượng chính sách, nhất là ở các xã vùng
cao, vùng sâu, vùng xa, vùng lòng hồ, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng
có điều kiện KT - XH còn nhiều khó khăn.
- Cần giải quyết các bất hợp lý trong chính sách và cơ chế về đầu tư dẫn
đến thiếu công bằng trong giáo dục giữa các vùng, miền như: Trong phân bổ
ngân sách; trong đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, tránh tình trạng chỉ tập trung
vào các trường ở thị trấn, thành phố, ít chú trọng đến các vùng còn lại.
- Thực hiện tốt chính sách học bổng, học phí và các giải pháp hỗ trợ
khác đối với con em người dân tộc thiểu số, con em công nhân, nông dân
nghèo và các gia đình chính sách. Đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện chính
sách thu hút, hỗ trợ thỏa đáng đối với giáo viên công tác ở các vùng núi, vùng
sâu, vùng xa, vùng lòng hồ, vùng có điều kiện KT - XH đặc biệt khó khăn; có
chính sách thu hút đối với sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, loại xuất sắc, tốt
nghiệp sau đại học… về công tác và giảng dạy trong ngành.
139
Trong xu thế hội nhập và phát triển của đất nước, sự nghiệp phát triển
GD - ĐT nói chung, GDPT nói riêng cần có sự tham gia, vào cuộc của toàn
Đảng, của mọi tầng lớp nhân dân dân và của toàn xã hội. Quán triệt phương
châm này, trong thời gian tới, tỉnh Hòa Bình cần tiếp tục huy động sự vào
cuộc hơn nữa của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, các tổ chức
chính trị đoàn thể, sự tham gia của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, cũng như
tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp và cá nhân cùng chăm lo cho
sự nghiệp giáo dục, vì sự nghiệp giáo dục.
Thứ sáu,công tác quản lý Nhà nước về GDPT ở Hòa Bình cũng đặt ra
một số vấn đề cần tập trung giải quyết. Đứng trước những yêu cầu và đòi hỏi
của tình hình mới, trong thời gian tới tỉnh Hòa Bình cần tập trung giải quyết
theo các hướng sau:
- Công tác quản lý Nhà nước về giáo dục phải được thực hiện theo
hướng chuẩn hóa: Chuẩn hóa về đội ngũ, chuẩn hóa cơ sở vật chất và chuẩn
hóa cách đánh giá, xếp loại.
- Hoàn thiện hệ thống thanh tra giáo dục, tăng cường cán bộ thanh tra
chuyên trách với lực lượng đủ mạnh, tập trung vào thanh tra chuyên môn,
thanh tra chuyên đề, coi đây là hoạt động chủ yếu để xây dựng kỷ cương, nề
nếp trường học; đồng thời phải xử lý dứt điểm sau kết luận thanh tra, đem lại
lòng tin trong nhân dân.
- Hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước trong toàn ngành GD -
ĐT Hòa Bình theo hướng phân cấp quản lý cho các cấp cơ sở, thực hiện
quản lý thống nhất theo luật định và các quy định, quy chế chung của Nhà
nước, của địa phương và của ngành; đồng thời chú trọng xây dựng mô hình
quản lý thích hợp, có hiệu quả cho từng loại hình trường học, cơ sở đào tạo
và cho toàn ngành.
Thứ bảy, thực hiện chỉ thị 34/CT - TW ngày 30- 5 - 1998 của Bộ Chính
trị “Về việc tăng cường công tác chính trị tư tưởng, củng cố tổ chức Đảng,
140
đoàn thể quần chúng và công tác đảng viên trong nhà trường”, trên cơ sở đánh
giá thực trạng của các cấp ủy Đảng trong trường học phổ thông, trong những
năm tiếp theo, Đảng bộ cơ quan GD - ĐT Hòa Bình cần tập trung chỉ đạo một
số nội dung chủ yếu như sau:
- Tổ chức định kỳ cho cán bộ, giáo viên học tập, nghiên cứu, quán triệt
các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đặc
biệt tập trung vào các Nghị quyết chuyên đề liên quan đến đổi mới giáo dục…
nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, người đứng đầu
cấp ủy các cấp và toàn thể đảng viên, cán bộ giáo viên trong các nhà trường.
- Thông qua sinh hoạt chuyên môn, sinh hoạt Công đoàn, Đoàn Thanh
niên hàng tháng, luôn nhắc nhở giáo viên, công đoàn viên, đoàn thanh niên ra
sức phấn đấu, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống. Đồng thời qua
đó tổ chức phê bình, kiểm điểm nhằm giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
- Qua các bài giảng trên lớp, giáo viên có ý thức liên hệ những vấn đề có
liên quan đến đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước nhằm bồi dưỡng một cách có hệ thống lý tưởng, đạo đức cách mạng cho
học sinh. Giáo viên giảng dạy các môn đạo đức, giáo dục công dân, chính trị
phải thường xuyên được quan tâm bồi dưỡng để bổ sung kiến thức và phương
pháp giảng dạy mới.
- Thông qua các hoạt động ngoại khóa, tổ chức nói chuyện, tìm hiểu về
truyền thống cách mạng, truyền thống anh bộ đội cụ Hồ; tìm hiểu về môi
trường, phòng chống các tệ nạn xã hội, giáo dục trật tự an toàn giao thông; tổ
chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, các hội thi; thực hiện tốt các phong
trào đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn… góp phần nâng cao giáo dục
chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức, lối sống nhằm hình thành nhân cách con
người mới cho học sinh.
- Các cấp ủy Đảng trong nhà trường cần thể hiện rõ hơn vai trò lãnh đạo;
tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên tăng cường công tác vận động, bồi
141
dưỡng quần chúng để giới thiệu cho Đảng, đặc biệt trọng tâm vào các nhà
trường chưa có chi bộ, chưa có đảng viên. Với những nhà trường đã có chi bộ,
Đảng bộ phải tăng cường hơn nữa công tác xây dựng Đảng nhằm xây dựng
các chi bộ, Đảng bộ đó thật sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, là hạt nhân lãnh đạo trong các nhà trường.
Tiểu kết chương 4.
Nhận xét, đánh giá về quá trình phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ
năm 1991 đến năm 2010, nhằm khẳng định những kết quả đạt được là to lớn
và rất đáng khích lệ, đồng thời chỉ ra những tồn tại, hạn chế cần khắc phục,
cũng như thấy được nguyên nhân của những kết qủa và tồn tại, hạn chế.
Qua hai giai đoạn phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình (1991 - 2001) và
(2001 - 2010), mỗi giai đoạn xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ khác nhau, song
đã từng bước khẳng định rõ về chất lượng và hiệu quả giáo dục theo chiều
hướng tích cực, giai đoạn sau phát triển hơn giai đoạn trước. Những kết quả
GDPT ở tỉnh Hòa Bình đạt được so với mặt bằng chung của cả nước còn
chưa cao, song nhìn trên một số lĩnh vực cụ thể, GDPT ở tỉnh Hòa Bình
cũng có sự nổi trội hơn so với một số tỉnh miền núi phía Bắc có điều kiện
tương đồng với Hòa Bình. Từ quá trình nghiên cứu phát triển GDPT ở tỉnh
Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010, rút ra một số kinh nghiệm làm căn cứ
cho quá trình phát triển GDPT ở Hòa Bình trong các giai đoạn về sau được
phát huy có hiệu quả hơn.
142
KẾT LUẬN
Hòa Bình là tỉnh miền núi, giáp với Thủ đô Hà Nội, nằm ở cửa ngõ
vùng Tây Bắc của Tổ quốc. Nơi đây là vùng đất cổ với nền văn hóa Hòa Bình
nổi tiếng cách đây hàng vạn năm. Nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình có
truyền thống đoàn kết, yêu nước, yêu quê hương, lao động cần cù, dũng cảm,
kiên cường trong đấu tranh, bảo vệ nền độc lập của dân tộc.
Phát huy những truyền thống quý báu đó, thực hiện chủ trương của
Đảng về đổi mới giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
ngay sau khi tái lập tỉnh (năm 1991), trong bối cảnh bộn bề khó khăn, Đảng
bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình đã vận dụng sáng tạo đường lối
quan điểm đổi mới của Đảng, nhanh chóng bắt tay vào xây dựng quê hương.
Xác định phát triển giáo dục phổ thông là một trong những động lực quan
trọng để phát huy nguồn lực con người, nhằm tạo bước đột phá về phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương, từ năm 1991 đến năm 2010, giáo dục phổ
thông ở tỉnh Hòa Bình đã được quan tâm chỉ đạo và đạt được nhiều thành tựu
đáng ghi nhận: quy mô giáo dục đã được tăng cường và mở rộng; chất lượng
giáo dục ở các cấp học đã được bảo đảm ổn định vững chắc và phát triển; đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý tăng lên cả về số lượng và chất lượng; cơ sở
vật chất, trang thiết bị dạy học đã được chỉ đạo tăng cường theo hướng kiên
cố hóa, hiện đại hóa,… Những kết quả đó có ý nghĩa hết sức to lớn, tạo tiền
đề cho sự phát triển giáo dục của tỉnh ở giai đoạn tiếp theo. Nguyên nhân của
những thành tựu là do có sự lãnh đạo đứng đắn, kịp thời, sáng tạo của các cấp
ủy Đảng, chính quyền; sự quan tâm, chăm lo đến sự nghiệp “trồng người”
của nhân dân các dân tộc trong tỉnh và đặc biệt là sự cố gắng không ngừng
của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý và các em học sinh.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, giáo dục phổ thông ở Hòa Bình
vẫn còn những tồn tại, hạn chế: quy mô giáo dục chưa khắc phục được tình
143
trạng phát triển không đồng đều giữa các vùng miền và thiếu cân đối trong
đào tạo nguồn nhân lực; chất lượng giáo dục toàn diện còn nhiều hạn chế; đội
ngũ giáo viên tăng lên về quy mô song còn nhiều bất cập; công tác xây dựng
cơ sở vật chất một số nơi còn chậm, còn thiếu thốn lạc hậu và chậm được
khắc phục… Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là do sự quan tâm của
một số cấp ủy Đảng và chính quyền còn chưa kịp thời và “khoán trắng” cho
ngành; các giải pháp thực hiện đổi mới giáo dục phổ thông chưa thực sự được
triển khai một cách đồng bộ; sự phát triển về kinh tế không đồng đều giữa các
vùng trong tỉnh; nhận thức về vai trò của giáo dục trong một bộ phận nhân
dân còn hạn chế.
Từ những thành tựu và hạn chế về phát triển giáo dục phổ thông nêu
trên, song có thể thấy rằng, giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991
đến năm 2010 đã trải qua một quá trình phát triển liên tục theo hướng tích
cực, đảm bảo về số lượng, tăng dần về chất lượng, giai đoạn sau phát triển
hơn giai đoạn trước; những hạn chế, yếu kém đã từng bước được khắc phục;
đồng thời cũng đã thể hiện được những đặc điểm riêng của tỉnh Hòa Bình về
phát triển giáo dục. Tuy nhiên so với mặt bằng chung của cả nước, giáo dục
phổ thông ở tỉnh Hòa Bình vẫn còn ở mức trung bình thấp và còn kém xa so
với các tỉnh ở đồng bằng và các thành phố có điều kiện kinh tế - xã hội phát
triển. Từ thực tiễn phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình từ năm
1991 đến năm 2010 đã để lại cho tỉnh Hòa Bình những kinh nghiệm quý báu
trong giai đoạn mới đó là: Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong giáo
dục; mở rộng quy mô phải đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục
và xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; tăng cường
xây dựng cơ sở vật chất, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục; đổi mới
nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục phổ thông, đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; tăng cường trách nhiệm của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân đối với phát triển sự nghiệp phát triển giáo dục đào tạo;
144
tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với giáo dục phổ thông; tăng
cường vai trò của cấp ủy Đảng, đoàn thể trong nhà trường.
Để phát triển giáo dục phổ thông phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, ở Hòa Bình nói riêng, giáo dục
phổ thông ở tỉnh Hòa Bình cần tiếp tục giải quyết tốt các vấn đề đặt ra đó là:
quán triệt và vận dụng một cách linh hoạt, cụ thể các chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước vào thực tiễn địa phương, trên cơ sở xem xét những yếu
tố đặc thù đối với từng đối tượng người học, từng vùng, miền trong tỉnh để
đem lại hiệu quả giáo dục cao nhất; mở rộng quy mô đi đôi với nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục, đặc biệt chú trọng xây dựng hệ thống các Trường
Phổ thông dân tộc nội trú, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và học sinh;
đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục phổ thông vừa bảo
đảm tính chuẩn mực theo quy định, song cũng phải phù hợp với yêu cầu của
địa phương và đối tượng người học; tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất, trang thiết bị góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy và học; thực
hiện công bằng xã hội trong giáo dục và công tác xã hội hóa giáo dục; tăng
cường công tác chính trị tư tưởng, củng cố tổ chức Đảng, đoàn thể quần
chúng và công tác đảng viên trong trường học phổ thông;… nhằm đáp ứng tốt
hơn yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ hội nhập và phát triển
của đất nước.
145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Sỹ Hà (2017), Thành tựu về phát triển giáo dục phổ thông ở
Hòa Bình (1991-2001), Tạp chí Lịch sử Đảng, số tháng 2 (tr. 80-83).
2. Nguyễn Sỹ Hà (2017), Xây dựng nguồn lực giáo dục phổ thông ở
tỉnh Hòa Bình trong thập niên đầu thế kỷ XXI, Tạp chí Nhân lực khoa học xã
hội, số tháng 3 (tr. 96-102).
146
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thị Kim Anh (2008), Những thay đổi của Giáo dục - Đào tạo
Việt Nam từ sau công cuộc đổi mới (1986) đến nay, Tạp chí Dạy và Học ngày
nay, số 7.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hòa Bình (2011), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Hòa Bình (1929 - 2010), Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
3. Ban Khoa giáo Trung ương (1995), Nền giáo dục Việt Nam - 50 năm
trên chặng đường xây dựng và phát triển, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Ban Khoa giáo Trung ương (2001), Báo cáo kiểm điểm thực hiện Nghị
quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về Giáo dục đào tạo 1996 - 2001, trình Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, Hà Nội.
5. Ban Khoa giáo Trung ương (2002), Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ
đổi mới. Chủ trương, thực hiện, đánh giá, Hà Nội.
6. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Ban Khoa giáo Trung ương,
Ban Tổ chức Trung ương (2002), Tài liệu phục vụ nghiên cứu các kết luận
Hội nghị lần thứ sáu BCH Trung ương Đảng (khóa IX) - Dùng cho cán bộ
chủ chốt và Báo cáo viên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Bàn về công tác giáo dục (1972), tập hợp những bài viết của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
8. Nguyễn Trọng Bảo (1996), Vấn đề đào tạo nhân tài của tổ tiên ta, Tạp
chí Đại học và Giáo dục Chuyên nghiệp.
9. Nguyễn Thị Bình (1997), Phát biểu trong lễ trao tặng huân chương
độc lập hạng nhất cho ngành sư phạm, Bộ Giáo dục và Đào tạo nhân kỷ niệm
50 năm thành lập ngành, Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp.
10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1986), Tổng kết giáo dục 10 năm (1975 -
1985), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1992), Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục
và đào tạo, Hà Nội.
12. Bộ Giáo dục và Đào tạo UNESCO (1992), Giáo dục và nguồn nhân
lực Việt Nam, Hà Nội.
147
13. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1995), 50 năm phát triển sự nghiệp giáo
dục và đào tạo (1945 - 1995), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Các văn bản pháp luật hiện hành về
giáo dục đào tạo, 4 tập, Nxb Thống kê, Hà Nội.
15. Nguyên Hữu Châu (2007), Giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ
XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16. Nguyễn Thùy Chi (2009), Tỉnh Hoà Bình trong công cuộc vận động
cách mạng và khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền (1930 - 1945), luận văn
Thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.
17. Nguyễn Thị Thuỳ Chi (2009), Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo sự
nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1996 đến năm 2010, luận văn Thạc sĩ Lịch
sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.
18. Nguyễn Hữu Chí (2003), Một số vấn đề cơ bản về đổi mới chương
trình trong học phổ thông, Tạp chí phát triển giáo dục.
19. Nguyễn Hữu Chí (2010), Những quan điểm cơ bản của Đảng về giáo
dục - đào tạo qua các chặng đường lịch sử, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 10.
20. Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg ngày 08/9/2006 của Thủ tướng Chính
phủ Nguyễn Tấn Dũng về“Chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong
giáo dục” http://vanban.moet.gov.vn.
21. Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 (Ban hành kèm theo
Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg ngày 28/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ
Phan Văn Khải), vbqppl.moj.gov.vn/vbpq.
22. Trường Chinh (1967), Ra sức nâng cao trình độ văn hoá của toàn
Đảng, toàn dân để đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và đấu
tranh thực hiện thống nhất nước nhà, Viện Khoa học - Giáo dục.
23. CMác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin - I.V.Xtalin (1976), Bàn về giáo
dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
24. Nguyễn Nghĩa Dân (1994), Đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư
cho phát triển, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục.
25. Phạm Tất Dong (1994), Phát triển nguồn nhân lực theo hướng CNH,
HĐH đất nước, Tạp chí công tác tư tưởng văn hóa.
148
26. Phạm Tất Dong (2010), Giáo dục Việt Nam 1945 - 2010, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
27. Lê Duẩn - Trường Chinh - Phạm Văn Đồng - Tố Hữu (1972), Thấu
suốt đường lối của Đảng, đưa sự nghiệp giáo dục tiến lên mạnh mẽ vững
chắc, Nxb Sự thật, Hà Nội.
28. Nguyễn Văn Đạo (1997), Vài suy nghĩ và đào tạo phục vụ cho CNH,
HĐH đất nước, Tạp chí giáo dục và thời đại.
29. Trần Thị Tâm Đan (1999), Luật giáo dục - cơ sở pháp lý đẩy mạnh
sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo, Tạp chí Cộng sản.
30. Đảng bộ tỉnh Hòa Bình, Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh (2013), Lịch
sử Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh Hòa Bình (1958 - 2013).
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban
chấp hành Trung ương lần thứ VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn
quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII - Tài liệu mật, lưu hành nội bộ, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban
chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban
chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
149
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban
chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban
chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Hòa Bình (1992), Văn kiện
Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XI.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Hòa Bình (1996) Văn kiện
Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XII.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam, Tỉnh ủy Hòa Bình (1997), Kế hoạch
101/KH-TU thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa VIII.
46. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hòa Bình
(2001) Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XIII.
47. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hòa Bình
(2006) Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XIV.
48. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hòa Bình
(2010) Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XV.
49. Phạm Văn Đồng (1979), Sự nghiệp giáo dục trong chế độ XHCN,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
50. Phạm Văn Đồng (1999), Vấn đề giáo dục - đào tạo, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
51. Phạm Thị Giang (2009), Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo phát triển
giáo dục phổ thông từ năm 1965 đến năm 1975, luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Đại
học Quốc gia Hà Nội.
52. Lê Văn Giạng (1992), Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
53. Giáo dục và Thời đại (1998), Xã hội hóa - giải pháp chủ yếu để phát
triển giáo dục đào tạo.
54. Ngô Thị Thu Hà (2009), Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo phát
triển giáo dục phổ thông trong những năm 1996 - 2006, luận văn Thạc sĩ Lịch
sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.
150
55. Nguyễn Kế Hào (2000), Phổ cập giáo dục tiểu học - sự nghiệp lớn
của toàn dân, Tạp chí cộng sản.
56. Phạm Minh Hạc (1992), Sơ thảo giáo dục Việt Nam (1945 - 1992),
Nxb Sự thật, Hà Nội.
57. Phạm Minh Hạc (1996), 10 năm đổi mới giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
58. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
59. Phạm Minh Hạc (2000), Ba năm thực hiện Nghị quyết Trung ương
hai (khóa VIII) về giáo dục và đào tạo, Tạp chí Xây dựng Đảng.
60. Phạm Minh Hạc (2000), Cương lĩnh của nền giáo dục mới, Báo nhân dân.
61. Phạm Minh Hạc (2002), Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, Tạp chí Cộng sản.
62. Phạm Minh Hạc (2002), Nhân tố mới về giáo dục và đào tạo trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
63. Phạm Minh Hạc (2002), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ
XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
64. Phạm Minh Hạc, Trần Kiều, Đặng Bá Lãm, Nghiêm Đình Vỳ
(2002), Giáo dục thế giới đi vào thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
65. Nguyên Hạnh (và tập thể tác giả) (1997), Toàn cảnh Việt Nam, Nxb
Thống kê, Hà Nội.
66. Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2009), Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo
phát triển giáo dục phổ thông giai đoạn 1996 - 2006, luận văn Thạc sĩ Lịch
sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.
67. Vũ Ngọc Hải (2003), Đổi mới giáo dục và đào tạo nước ta trong
những năm đầu thế kỷ XXI, Tạp chí Phát triển giáo dục, số 4.
68. Đào Thanh Hải - Minh Tiến (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục, Nxb Lao động, Hà Nội.
69. Nguyễn Ngọc Hải (2009), Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo sự
nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010, luận văn Thạc sĩ Lịch
sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.
151
70. Bùi Hiền (1998), Mục tiêu và giải pháp cho giáo dục trung học phổ
thông, Tạp chí cộng sản.
71. Nguyễn Minh Hiển (2001), Chống mù chữ và phổ cập giáo dục - sự
nghiệp to lớn và lâu dài của toàn xã hội, Tạp chí cộng sản.
72. Nguyễn Minh Hiển (2002), Ngành giáo dục - đào tạo thực hiện Nghị
quyết Trung ương hai (khóa VIII) và triển khai thực hiện Nghị quyết đại hội
IX, Tạp chí Cộng sản.
73. Nguyễn Minh Hiển (2003), Về chất lượng giáo dục phổ thông, Tạp
chí phát triển giáo dục.
74. Ngô Văn Hiển (2005), Các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư cho
giáo dục đào tạo thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, Tạp chí
Giáo dục, số 112.
75. Phạm Lê Hòa (2017), Những ghi chép về người Mường ở Hòa Bình
Phần 1: Đặc điểm nơi cư trú, Tạp chí Giáo dục Nghệ thuật.
76. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Hà Nội (1997),
Đề cương bài giảng các chuyên đề bồi dưỡng Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII
của Đảng Cộng sản Việt Nam (Tập 2), Tạp chí giáo dục lí luận.
77. Lương Thị Hòe (1998), Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lãnh đạo sự nghiệp
giáo dục đào tạo (1991 - 2000), luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia
Hà Nội.
78. Vũ Thị Bích Hồng (2009), Đảng bộ thành phố Việt Trì lãnh đạo sự
nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010, luận văn Thạc sĩ Lịch
sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.
79. Hội đồng thi đua - khen thưởng tỉnh Hòa Bình (2015), Gương người
tốt, việc tốt tỉnh Hòa Bình (2010 - 2015).
80. Đặng Thị Thanh Huyền (2001), Giáo dục phổ thông với phát triển
chất lượng nguồn nhân lực - những bài học thực tiễn từ Nhật Bản, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
81. Nguyễn Quang Hưng (2000), Toàn cảnh giáo dục - đào tạo Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
152
82. Lê Khanh (1998), Thực hiện Nghị quyết Trung ương hai về giáo dục
- đào tạo, Tạp chí công tác khoa giáo.
83. Lê Khanh (1997), Một số vấn đề nổi cộm trong giáo dục cần được
giải quyết, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục.
84. Nguyễn Khánh (1997), Kế hoạch chỉ đạo của Chính phủ về việc thực
hiện Nghị quyết Trung ương hai (khóa VIII), Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục.
85. Kháng chiến về mặt văn hóa, Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
Việt Nam (1976), Nxb Sự thật, Hà Nội.
86. Nguyễn Quang Kính (và tập thể tác giả) (2005) Giáo dục Việt Nam
1945 - 2005, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
87. Nguyễn Gia Kiệm, Quá trình thực hiện xã hội hóa giáo dục phổ
thông ở Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến năm 2010, luận án Tiến sĩ
Lịch sử, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
88. Trần Hoàng Kim (2002), Tư liệu kinh tế - xã hội 631 huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh Việt Nam, Nxb Thống kê.
89. Dương Văn Khoa (2005), Phát triển mạnh mẽ giáo dục - đào tạo
theo hướng hiện đại, thiết thực, nhanh chóng nâng cao dân trí, tạo nguồn
nhân lực dồi dào và đội ngũ nhân tài cho đất nước, Tạp chí Dạy và Học ngày
nay, số 8.
90. Đặng Bá Lãm (2003), Giáo dục Việt Nam những thập niên đầu thể
kỷ XXI, chiến lược và phát triển, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
91. Phan Ngọc Liên - Nghiêm Đình Vỳ (1993), Sự lãnh đạo của Đảng
đối với sự nghiệp giáo dục, Tạp chí Lịch sử Đảng.
92. Nguyễn Văn Lê, Hà Thế Truyền (2004), Một số kinh nghiệm về giáo
dục phổ thông và hướng nghiệp trên thế giới, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
93. Nguyễn Thế Long (2006), Đổi mới tư duy, phát triển giáo dục Việt
Nam trong nền kinh tế thị trường, Nxb Lao động.
94. Luật phổ cập giáo dục tiểu học (1991), Nxb Pháp lý, Hà Nội.
95. Luật giáo dục (1998), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
96. Luật giáo dục (2005), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
153
97. Luật Giáo dục và Nghị định quy định chi tiết hướng dẫn thi hành
2006, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
98. Chu Viết Luân (2005), Hòa Bình - thế và lực trong thế kỉ XXI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. Trần Viết Lưu (2002), Suy nghĩ về các giải pháp phát triển giáo dục
phổ thông nước ta hiện nay, Tạp chí Giáo dục số 92.
100. Đỗ Thế Mậu, Nguyễn Thành Công, Hà Văn Thu (2000), Hòa Bình
những tập thể và cá nhân anh hùng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
101. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
102. Huỳnh Công Minh (2004), Tiếp cận chất lượng giáo dục phổ thông
dưới góc độ mục tiêu đào tạo, Tạp chí Giáo dục số 92.
103. Đỗ Mười (1991), Phát triển mạnh mẽ giáo dục và đào tạo phục vụ
đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
104. Đỗ Mười (1995), Chăm lo đến sự nghiệp giáo dục là chăm lo đến
sự phát triển của con người, chủ thể của mọi sáng tạo - Bài phát biểu tại lễ kỷ
niệm 50 năm thành lập ngành giáo dục Việt Nam nhân ngày 20/11.
105. Nền giáo dục Việt Nam: Lý luận và thực hành (1991), Nxb Giáo dục.
106. Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục (1979), Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
107. Trương Thị Nguyệt (2008), Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo sự
nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010, luận văn Thạc sĩ Lịch
sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.
108. Võ Thuần Nho (1981), 35 năm phát triển sự nghiệp giáo dục phổ
thông, Nxb Giáo dục.
109. Pierre - Grossin (1994), Tỉnh mường Hòa Bình, Nxb Lao động, Hà Nội.
110. Lê Khả Phiêu (1998), Thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VIII
của Đảng, vững bước tiến vào thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
111. Trần Hồng Quân (1992), Đổi mới về nhận thức vị trí, vai trò của
giáo dục và đào tạo,Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 1.
154
112. Trần Hồng Quân (1995), Giáo dục là con đường quan trọng nhất
của xã hội để phát huy sức mạnh của con người, Tạp chí Giáo dục và thời đại.
113. Trần Hồng Quân (1996), Giáo dục 10 năm đổi mới và chặng đường
trước mắt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
114. Dương Hồng Quý - Lê Đình Lập (1996), Một số suy nghĩ về đào
tạo nhân lực sau 10 năm đổi mới giáo dục - đào tạo, Tạp chí Đại học và Giáo
dục Chuyên nghiệp.
115. Hồ Sỹ Quý, Nguyễn Ngọc Hồng, Dương Thị Bạch Kim (2007),
Con người và phát triển con người ở Hòa Bình: Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
116. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (1992), Số 131 TH/GDĐT.
Báo cáo tổng tình hình GD - ĐT của Tỉnh năm 1992 kết năm học.
117. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (1996), Báo cáo kiểm điểm
việc thực hiện năm học 1995 - 1996. Phương hướng, nhiệm vụ phát triển GD
- ĐT năm học 1996 - 1997.
118. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (1996), Số 745/ GD - ĐT. Về
chương trình phát triển GD - ĐT vùng khó khăn.
119. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (1996), Số 231/ GD - ĐT. Về
việc báo cáo kết quả thi học sinh giỏi.
120. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (1996), Số 568/GDĐT. Báo
cáo sự nghiệp GD - ĐT tỉnh Hòa Bình 5 năm xây dựng và phát triển (10/1991
- 8/1996).
121. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (1998), Báo cáo tổng kết năm
học 1997 - 1998.
122. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (1999), Báo cáo tổng kết năm
học 1998 - 1999.
123. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (2000), Số 3348/GDĐT. Báo cáo
tổng kết năm học 1999 - 2000. Phương hướng, nhiệm vụ năm học 2000 - 2001.
124. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (2001), Báo cáo tình hình
thực hiện nhiệm vụ công tác 9 tháng đầu năm 2001.
155
125. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (2001), Chương trình hành động
triển khai thực hiện “Năm giáo dục” tỉnh Hòa Bình (năm học 2001 - 2002).
126. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (2001), Báo cáo tổng kết năm
học 2000 - 2001 về giáo dục mầm non, phổ thông, Trung học Chuyên nghiệp
và giáo dục thường xuyên.
127. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2001), Báo cáo tổng kết năm
học 2000 - 2001 và phương hướng, nhiệm vụ năm học 2001 - 2002.
128. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2002), Báo cáo tổng kết năm
học 2001 - 2002 và phương hướng, nhiệm vụ năm học 2002 - 2003.
129. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2003), Báo cáo tổng kết năm
học 2002 - 2003 và phương hướng, nhiệm vụ năm học 2003 - 2004.
130. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2004), Báo cáo tổng kết năm
học 2003 - 2004 và phương hướng, nhiệm vụ năm học 2004 - 2005.
131. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2005), Báo cáo tình hình giáo dục
đào tạo Hòa Bình từ 2001 - 2005 và phương hướng, nhiệm vụ từ 2006 - 2010.
132. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2005), Số: 2357 /SGD&ĐT,
ngày 8/6/2005, Báo cáo tổng kết năm học 2004 - 2005 và phương hướng,
nhiệm vụ năm học 2005 - 2006.
133. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2006), Số: 593/BC-SGD&ĐT-
VP Hoà Bình, ngày 19/6/2006, Báo cáo tổng kết năm học 2005 - 2006 và
phương hướng, nhiệm vụ năm học 2006 - 2007.
134. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2007), Báo cáo tổng kết năm
học 2006 - 2007 và phương hướng, nhiệm vụ năm học 2007 - 2008.
135. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2008), Số: 148 /BC-SGD&ĐT-
VP, ngày 11/8/2008, Báo cáo tổng kết năm học 2007 - 2008 và phương
hướng, nhiệm vụ năm học 2008 - 2009.
136. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2009), Báo cáo tổng kết năm
học 2008 - 2009 và phương hướng, nhiệm vụ năm học 2009 - 2010.
137. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2010), Báo cáo tổng kết 4 năm
thực hiện Chỉ thị số 33/2006/CTg của Thủ tướng Chính phủ về chống tiêu cực
trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục.
156
138. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2010), Số: 142/BC-SGD&ĐT- VP ngày 23/8/2010, Báo cáo tổng kết năm học 2009 - 2010 và phương hướng, nhiệm vụ năm học 2010 - 2011.
139. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2010), Báo cáo kết quả triển khai thực hiện “Đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục” theo chủ đề năm học 2009 - 2010.
140. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2010), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Đề án “Xây dựng xã hội học tập” và phát triển trung tâm học tập cộng đồng.
141. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2010), Báo cáo tình hình Giáo dục và Đào tạo trong những năm qua. Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển GD&ĐT đến năm 2015.
142. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2010), Báo cáo kết quả thực hiện Giáo dục và Đào tạo giai đoạn 2005 - 2010. Định hướng chiến lược phát triển Giáo dục và Đào tạo giai đoạn 2010 - 2015.
143. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2010), Báo cáo Kết quả thực
hiện lĩnh vực công tác Giáo dục trung học, năm học 2009 - 2010.
144. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2010), Báo cáo Tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư và Quyết định số 09/2005/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”.
145. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2010), Báo cáo các giải pháp
nâng cao chất lượng giáo dục năm 2011.
146. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2010), Lịch sử giáo dục và đào
tạo Hòa Bình (1945 - 2008), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
147. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2011), Báo cáo Tổng kết 10 năm
thực hiện công tác phổ cập giáo dục giai đoạn 2001 - 2010.
148. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2011), Báo cáo Tổng kết công tác xã hội hóa giai đoạn 2006 - 2010. Phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2011 - 2015.
149. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2011), Báo cáo tổng kết 10 năm
xây dựng trường chuẩn quốc gia giai đoạn 2000 - 2010.
157
150. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2011), Báo cáo Tình hình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo giai đoạn 2006 - 2010 và đề xuất cơ chế, giải pháp và nguồn lực thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo giai đoạn 2001 - 2015.
151. Phạm Xuân Tài (2012), Quá trình phát triển giáo dục phổ thông của Hà Nội từ năm 1986 đến năm 2008, luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
152. Quách Thế Tản (2000), Văn hóa Hòa Bình ở thế kỷ XXI, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
153. Lý Trung Thành, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2005, luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.
154. Bùi Văn Thắng (2005), Hòa Bình phía trước là những con đường,
Tạp chí Thương mại.
155. Nguyễn Văn thắng (2014), Quá trình phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 1986 đến năm 2006, luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
156. Tỉnh ủy Hòa Bình (1993), Lịch sử Đảng bộ Tỉnh Hòa Bình, Tập 1
(1929 -1945), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
157. Tỉnh ủy Hòa Bình (1996), Lịch sử Đảng bộ Tỉnh Hòa Bình, Tập 2
(1945 - 1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
158. Tỉnh ủy Hòa Bình (2005), Lịch sử Đảng bộ Tỉnh Hòa Bình, Tập 3
(1975 - 2000), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
159. Tỉnh Hòa Bình (2003), Bản đồ hành chính, Nxb Bản đồ, Hà Nội. 160. Tỉnh ủy Hòa Bình (2004), Kế hoạch 374-CTr/TU Về Chương trình hành động thực hiện Chỉ thị số40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Phòng lưu trữ Tỉnh ủy Hòa Bình.
161. Tỉnh ủy Hòa Bình (2005), Báo cáo Tổng kết công tác khoa giáo năm 2005, phương hướng, nhiệmvụ công tác khoa giáo năm 2006, Phòng lưu trữ Tỉnh ủy Hòa Bình.
162. Tỉnh ủy Hòa Bình (2005), Đảng bộ tỉnh Hòa Bình - Các nghị quyết,
chỉ thị và chương trình hành động, nhiệm kỳ 2001 - 2005, Phòng lưu trữ Tỉnh
ủy Hòa Bình.
158
163. Tỉnh uỷ - Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân (2005), Địa chí
Hòa Bình, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
164. Tỉnh ủy Hòa Bình (2007), Kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị số
11-CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, Phòng lưu trữ Tỉnh
ủy Hòa Bình.
165. Tỉnh ủy Hòa Bình (2008), Đảng bộ tỉnh Hoà Bình qua các kỳ đại
hội (1945 - 2005), Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Hoà Bình xuất bản.
166. Tỉnh ủy Hòa Bình, (2010) Đảng bộ tỉnh Hòa Bình - Các nghị quyết,
chỉ thị và chương trình hành động, nhiệm kỳ 2006 - 2010, Phòng lưu trữ Tỉnh
ủy Hòa Bình.
167. Trịnh Quốc Thái (2002), Những giải pháp cơ bản thực hiện đổi mới
phương pháp dạy học ở tiểu học, Tạp chí giáo dục.
168. Nguyễn Quang Thái (2004), Toàn cảnh kinh tế Việt Nam, Tập 1,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
169. Thị ủy Hòa Bình (1988), Lịch sử cách mạng Đảng bộ và nhân dân
thị xã Hòa Bình, Tập 1 (1939 - 1945).
170. Thị ủy Hòa Bình (1996), Lịch sử cách mạng và Đảng bộ nhân dân
thị xã Hòa Bình, Tập 2 (1945 - 1975).
171. Nguyễn Đăng Tiến (2001), Nhà trường phổ thông qua các thời kỳ
lịch sử, Nxb Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.
172. Nguyễn Khánh Toàn (1980), Xung quanh một số vấn đề về văn học
và giáo dục, Nxb Giáo dục.
173. Toàn cảnh nền giáo dục và đào tạo Việt Nam (2000), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
174. Tổng cục Thống kê (1995), Niên giám thống kê tỉnh Hoà Bình
(1990 - 1994), Xí nghiệp in tỉnh Hòa Bình.
175. Tổng cục Thống kê (1998), Niên giám thống kê tỉnh Hoà Bình năm
1997, Xí nghiệp in Hòa Bình.
159
176. Tổng cục Thống kê (2001), Niên giám Thống kê 2000, NXB Thống
kê, Hà Nội.
177. Tổng cục thống kê (2005), Tư liệu kinh tế - xã hội 64 tỉnh và thành
phố Việt Nam, Nxb Thống kê.
178. Tổng cục Thống kê (2010), Niên giảm thống kê tỉnh Hòa Bình
2009, NXB Thống kê, Hà Nội.
179. Tổng cục thống kê - Niên giám thống kê từ năm 1991 đến năm
2010, Nxb Thống kê, Hà Nội.
180. Tổng cục Thống kê (2011), Niên giám thống kê tỉnh Hòa Bình
2010, NXB Thống kê, Hà Nội.
181. Trần Văn Tùng (2001), Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo
dục Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
182. Hà Thị Minh Trang (2010), Đảng bộ huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ
lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010, luận văn
Thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.
183. Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước
(1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
184. Trung tâm Nghiên cứu tài nguyên và môi trường - Đại học Quốc
gia Hà Nội (2008), Những chuyểnđổi kinh tế - xã hội ở vùng cao Việt Nam,
NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
185. Lê Xuân Trường, Một số biện pháp sử dụng nguồn lực tài chính
nhằm phát triển giáo dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ
Giáo dục học
186. UBND tỉnh Hòa Bình (1992), Số 30 CT/UB. Chỉ thị về nhiệm vụ
năm học 1992 - 1993.
187. UBND tỉnh Hòa Bình (1992), Số 30-BC/UB. Về phát triển sự
nghiệp giáo dục thời gian qua và những vấn đề cấp bách cần giải quyết.
188. UBND tỉnh Hòa Bình (1994), Số 14 - CT/UB. Chỉ thị về việc đẩy
mạnh công tác phổ cập giáo dục tiểu học - xóa mù chữ.
189. UBND tỉnh Hòa Bình (1996), Số 15 CT/UB - VX. Chỉ thị về nhiệm
vụ năm học 1996 - 1997.
160
190. Ủy ban khoa học Công nghệ và môi trường, Quốc hội khóa X
(1998), Giáo dục hướng tới thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
191. UBND tỉnh Hòa Bình (1997), Chương trình thực hiện Nghị quyết
Trung ương 2 khóa VIII, lưu tại văn phòng UBND tỉnh Hòa Bình.
192. UBND tỉnh Hòa Bình (2005), Báo cáo kết quả thực hiện phổ cập
giáo dục đúng độ tuổi tỉnh Hòa Bình từ năm 1999 đến năm 2005.
193. UBND tỉnh Hòa Bình (2005), Chỉ thị của Ủy ban nhân dân tỉnh
Hòa Bình về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 -
2010 tỉnh Hòa Bình, lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Hòa Bình.
194. UBND tỉnh Hòa Bình (2005), Chỉ thị số 15/2005/CT-UBND về Xây
dựng, củng cố và phát triển trung tâm cộng đồng xã, phường, thị trấn, lưu tại
Văn phòng UBND tỉnh Hòa Bình.
195. UBND tỉnh Hòa Bình (2006), Chỉ thị số 18/2006/CT-UBND về thực
hiện cuộc vận động về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong
giáo dục.
196. UBND tỉnh Hòa Bình (2006), Quyết định số 3463/QĐ-UBND về
việc phê duyệt Đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2005 - 2010.
197. UBND tỉnh Hòa Bình (2006), Đề án xã hội hóa giáo dục giai đoạn
2006 - 2010.
198. UBND tỉnh Hòa Bình (2006), Kế hoạch xây dựng xã hội học tập tỉnh
Hòa Bình giai đoạn 2006 - 2010, lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Hòa Bình.
199. UBND tỉnh Hòa Bình (2008), Đề án kiên cố hóa trường, lớp học và
nhà công vụ giáo viên tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2008 - 2012, lưu tại Văn
phòng UBND tỉnh Hòa Bình.
200. UBND tỉnh Hòa Bình (2008), Quyết định số 669/QĐ-UBND về việc
phê duyệt Kế hoạch thực hiện Chương trình hành động số 15 - CTr/TU ngày
31/10/2008 của Tỉnh ủy Hòa Bình, lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Hòa Bình.
201. UBND tỉnh Hòa Bình (2008), Kế hoạch số 545/KH-UBND về việc
tổ chức thực hiện “Quyết định số 112/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án
161
xây dựng xã hội học tập” trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, lưu tại Văn phòng
UBND tỉnh Hòa Bình.
202. UBND tỉnh Hòa Bình (2009), Quyết định số 1806/QĐ-UBND về
việc quy định mức phụ cấp kiêm nhiệm đối với cán bộ quản lý Trung tâm học
tập cộng đồng, lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Hòa Bình.
203. UBND tỉnh Hòa Bình (2010), Chỉ thị số 16/2010/CT-UBND về xây
dựng trường học đạt chuẩn Quốc gia trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.
204. UBND tỉnh Hòa Bình (2010), Quyết định số 90/UBND-XDCB về việc
đầu tư xây dựng các Trung tâm học tập cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.
205. UBND tỉnh Hòa Bình (2010), Quy hoạch phát triển giáo dục - đào
tạo tỉnh Hòa Bình đến năm 2020.
206. UBND tỉnh Hòa Bình (2015), Đẻ đất đẻ nước và phong tục đạo lý nhân
văn Mường, Bùi Thiện sưu tầm, biên dịch, giới thiệu, NXB Văn hóa dân tộc.
207. Vũ Thiện Vương (2001), Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục đào
tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Tạp chí Kinh tế và phát
triển, số 47.
208. Phượng Vũ (1997), Hoa hậu xứ Mường, NXB Văn học tái bản lần thứ 3.
209. Phạm Viết Vượng (2000), Giáo dục học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 210. Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc Hưng (2002), Phát triển giáo dục
và đào tạo nhân tài, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
211. Vũ Thị Kim Yến (2005), Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông trong thời kỳ 1986 – 2003, luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.
212. Lê Thị Yến (2012), Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo phát giáo dục phổ thông từ năm 1996 đến năm 2010, luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.
213. http://dangcongsan.vn/cpv/ 214. http://www.gddt.vn 215. http://wwwmoet.gov.vn 216. http://www.hoabinh.gov.vn 217. http://www.hoabinh.edu.vn
162
PHỤ LỤC
Phụ lục 01:
BẢN ĐỒ ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH TỈNH HÒA BÌNH NĂM 2010
163
Phụ lục 02:
Chỉ số chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực
ở một số nước châu Á và Việt Nam.
Ấn
Mức độ
Mức độ
Nội dung
tượng
sẵn có
sẵn có
Mức độ
Chỉ số
Sự
đánh giá
chung
lao
các cán
sẵn có
Sự
tổng hợp về
thành
về chất
động
bộ
cán bộ
thành
chất lượng
thạo
TT
lượng
sản
hành
quản lý
thạo
giáo dục và
công
Tên
hệ
xuất
chính
chất
tiếng
nguồn
nghệ
nước
thống
chất
chất
lượng
Anh
nhân lực
cao
giáo
lượng
lượng
cao
dục
cao
cao
1 Hàn Quốc 6.91 8.00 7.00 8.00 7.50 4.00 7.00
2 Singarpo 6.81 7.17 6.83 5.67 6.33 8.33 7.83
3 Nhật Bản 6.5 6.00 8.00 7.50 7.00 3.50 7.50
4 Đài Loan 6.04 6.37 5.37 5.62 5.00 3.86 7.62
5 Ấn Độ 5.76 4.62 5.25 5.50 5.62 6.62 6.75
6 Trung Quốc 5.12 7.12 6.19 4.12 3.62 4.37 5.73
7 Malaixia 5.59 4.50 4.50 7.00 4.50 4.00 5.50
8 HồngKông 5.2 5.03 4.23 5.24 4.24 4.50 5.43
9 Phlippin 4.53 3.80 5.80 6.20 5.60 5.40 5.00
10 Thái Lan 4.04 2.64 4.00 3.37 2.36 2.82 3.27
11 Việt Nam 3.79 3.25 3.25 3.50 2.75 2.62 2.50
12 Inđônêxia 3.44 0.50 2.00 3.00 1.50 3.00 2.50
Ghi chú: Các nước được xếp hạng theo thang điểm 10 và điểm 0 là thấp nhất.
Nguồn: [38, tr.69]
164
Phụ lục 03:
Danh mục các văn bản quy phạm pháp luật về Giáo dục & Đào tạo
do Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ Giáo dục & Đào tạo
ban hành (từ 1 - 1 - 1991 đến 30 - 6 - 1996)
- Luật Phổ cập Giáo dục tiểu học được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam qua ngày 12-8-1991.
- Nghị định số 338/HĐBT ngày 26-10-1991 của Hội đồng Bộ trưởng: Về
thi hành Luật Phổ cập giáo dục tiểu học.
- Quyết định số 478/QĐ ngày 11-3-1993 của Bộ trưởng Bộ GD - ĐT: Về
việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của hệ thống thanh tra GD - ĐT.
- Quyết định số 3856/QĐ - GD & ĐT ngày 14-12-1994 của Bộ trưởng Bộ
GD - ĐT: Về việc ban hành quy định về giáo viên và cán bộ quản lý tiểu học.
- Quyết định số 2676/QĐ - TCTB ngày 3-12-1993 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo: Về việc ban hành nghiệp vụ Giám đốc Sở GD - ĐT.
- Quyết định số 1548/ GD - ĐT ngày 27-7-1993 của Bộ trưởng Bộ GD -
ĐT: Về việc ban hành “Quy chế công tác HSSV trong các trường đào tạo”.
- Công văn số 1904/TCCB ngày 02- 4-1996 của Bộ GD - ĐT: Về việc
hướng dẫn nội dung thi tuyển dụng mới công chức vào ngạch giáo viên giảng
dạy tại các trường thuộc bậc học mầm non, phổ thông.
- Chỉ thị số 10/CT - GD & ĐT ngày 30- 6-1995 của Bộ trưởng Bộ GD -
ĐT về việc tăng cường giáo dục phòng chống AIDS và các tệ nạn giáo dục
trong ngành GD - ĐT.
- Chỉ thị số 24/CT - GD & ĐT ngày 11-11-1996 của Bộ trưởng Bộ GD -
ĐT: Về tăng cường công tác phòng chống tệ nạn ma túy ở các trường học.
- Chỉ thị Liên tịch số 11/CTLT ngày 1-7-1995 của Liên tịch Bộ GD - ĐT
- Công đoàn Giáo dục Việt Nam: Về đẩy mạnh công tác xây dựng “Gia đình
nhà giáo văn hóa” trong cán bộ, giáo viên, công nhân viên ngành GD - ĐT”
- Chỉ thị số 05/GD & ĐT ngày 18-5-1994 của Bộ trưởng Bộ GD - ĐT: Về
công tác bồi dưỡng giáo viên mầm non lớn tuổi thành giáo viên tiểu học ở
những vùng có nhu cầu.
165
- Chỉ thị số 19/ BGD & ĐT ngày 21-9-1995 của Bộ trưởng Bộ GD - ĐT:
Về tăng cường quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên phổ thông - mầm
non, cán bộ quản lý, củng cố và đổi mới hệ thống các trường sư phạm năm học
1995 - 1996 và các năm tiếp theo.
- Thông tư Liên bộ số 27/TT- LB ngày 7-12-1992 của Liên bộ GD - ĐT -
Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ: Về việc sắp xếp đội ngũ giáo viên - cán bộ
các trường học của ngành GD - ĐT thuộc địa phương quản lý.
- Thông tư số 26/ LĐTBXH - TT ngày 13-9-1993 của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội: Hướng dẫn bổ sung thực hiện chế độ tiền lương mới
đối với công chức, viên chức ngành GD - ĐT.
- Thông tư số 10/TT - GD &ĐT ngày 29-7-1994 của Bộ GD - ĐT: Hướng
dẫn bổ sung, điều chỉnh việc phân hạng và phụ cấp chức vụ lãnh đạo trong các
trường thuộc bậc GDPT.
- Thông tư Liên bộ số 35/TTLB ngày 21- 4 - 1994 của Liên bộ Tài chính
- GD - ĐT: Hướng dẫn quản lý ngân sách GD - ĐT.
- Thông tư Liên tịch số 07/ TTLT ngày 18-6-1994 của Liên tịch Bộ GD -
ĐT - Hội Cựu chiến binh Việt Nam: Về việc đẩy mạnh công tác chống mù chữ
và phổ cập giáo dục tiểu học.
- Thông tư số 3/TT - BGD & ĐT ngày 3- 4-1993 của Bộ GD - ĐT:
Hướng dẫn về công tác làm đề thi hết cấp 1, thi tốt nghiệp PTCS, thi tuyển vào
cấp II PTCS, vào PTTH và các vòng thi sơ khảo học sinh giỏi phổ thông.
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo (2001), Các văn bản hiện hành về GD -
ĐT, Tập 1, 2, 3. Nxb Thống kê.
166
Phụ lục 04:
Danh mục các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục phổ thông
do Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ Giáo dục & Đào tạo
ban hành (từ 1-7-1996 đến 31-12-2001)
- Luật Giáo dục được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa X
kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 2-12-1998.
- Nghị định số 43/2000/NĐ - CP ngày 30-8-2000 của Chính phủ: Quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục.
- Nghị quyết số 40/2000/ QH10 được quốc hội nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam khóa X kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 9-12-2000: Về đổi mới chương
trình GDPT.
- Nghị quyết số 41/2000/HQ10 được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam khóa X kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 9-12-2000: Về thực hiện phổ
cập giáo dục THCS.
- Nghị quyết số 40/NQ - CP ngày 21- 8 - 1997 của Chính phủ: Về
phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa.
- Nghị định số 35/2001/NĐ - CP ngày 9-7-2001 của Chính phủ: Về chính
sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở trường chuyên biệt, ở
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
- Quyết định số 61/1998 QĐ - BGD & ĐT ngày 6-11-1998 của Bộ trưởng
Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động thư viện trường
phổ thông.
- Quyết định số 22/2000 QĐ - BGD & ĐT ngày 11-7-2000 của Bộ trưởng
Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Điều lệ Trường tiểu học.
- Quyết định số 23/2000 QĐ - BGD & ĐT ngày 11-7-2000 của Bộ trưởng
Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Điều lệ Trường trung học.
- Quyết định số 25/2000 QĐ - BGD & ĐT ngày 11-7-2000 của Bộ trưởng
Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của trung tâm
kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp.
167
- Quyết định số 11/2001 QĐ - BGD & ĐT ngày 16- 4-2001 của Bộ
trưởng Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội
đồng bộ môn.
- Quyết định số 27/2001 QĐ - BGD & ĐT ngày 5-7-2001 của Bộ trưởng
Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Quy chế công nhận trường trung học đạt chuẩn
quốc gia (giai đoạn từ năm 2001 - 2010).
- Quyết định số 183/1999/QĐ - TTg ngày 9-9-1999 của Thủ tướng Chính
phủ: Về việc cho phép thành lập Quỹ khuyết học Việt Nam.
- Quyết định số 01/2000 QĐ - BGD & ĐT ngày 24-1-2000 của Bộ trưởng
Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Bản Quy định về làm đề thi chọn học sinh giỏi
quốc gia lớp 12 THPT.
- Quyết định số 28/1999 QĐ - BGD & ĐT ngày 23-6-1999 của Bộ trưởng
Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành “Bản quy định kiểm tra, đánh giá và công nhận
phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi”.
- Quyết định số 33/2000 QĐ - BGD & ĐT ngày 25-8-2000 của Bộ trưởng
Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Quy định về tiêu chuẩn danh hiệu Giáo viên tiểu
học giỏi, Trường tiểu học tiên tiến, Trường tiểu học tiên tiến xuất sắc.
- Quyết định số 34/2000 QĐ - BGD & ĐT ngày 25-8-2000 của Bộ trưởng
Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Quy định về tiêu chuẩn danh hiệu Giáo viên
THCS giỏi, Giáo viên THPT giỏi, Trường THCS tiên tiến, Trường THPT tiên
tiến, trường THCS tiên tiến xuất sắc, Trường THPT tiên tiến xuất sắc.
- Quyết định số 26/2001 QĐ - BGD & ĐT ngày 5-7-2001 của Bộ trưởng
Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Quy định tiêu chuẩn, kiểm tra và đánh giá công
nhận phổ cập giáo dục THCS.
- Quyết định số 04/2000 QĐ - BGD & ĐT ngày 1-3-2000 của Bộ trưởng
Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành “Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của
nhà trường”.
- Quyết định số 48/2000 QĐ - BGD & ĐT ngày 13-11-2000 của Bộ
trưởng Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Quy chế đánh giá, xếp loại chuyên môn
nghiệp vụ giáo viên tiểu học.
168
- Quyết định số 65/1998 QĐ - BGD & ĐT ngày 18-12-1998 của Bộ
trưởng Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Quy chế thi chọn học sinh giỏi quốc gia
lớp 12 THPT.
- Quyết định số 08/1999 QĐ - BGD & ĐT ngày 27-2-1999 của Bộ trưởng Bộ
GD - ĐT: Về việc ban hành “Quy chế tuyển sinh vào các trường THCS và THPT”.
- Quyết định số 41/1999 QĐ - BGD & ĐT ngày 10-12-1999 của Bộ
trưởng Bộ GD - ĐT: Về việc sửa đổi một số điều trong Quy chế thi chọn học
sinh giỏi Quốc gia lớp 12 THPT ban hành theo Quyết định số 65/1998/QĐ
BGD & ĐT ngày 18-12-1998 của Bộ trưởng Bộ GD - ĐT.
- Quyết định số 15/1998 QĐ - BGD & ĐT ngày 1- 4-1998 của Bộ trưởng
Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành “Quy chế thi tốt nghiệp THPT, trung học
chuyên ban và THCS”.
- Quyết định số 12/1999 QĐ - BGD & ĐT ngày 15-3-1999 của Bộ trưởng
Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành “Quy chế thi tốt nghiệp tiểu học”.
- Quyết định số 1121/1997/QĐ - TTg ngày 23-12-1997 của Thủ tướng
Chính phủ: Về học bổng và trợ cấp xã hội đối với học sinh, sinh viên các trường
đào tạo công lập.
- Chỉ thị số 18/GD - ĐT ngày 22- 09-1997 của Bộ trưởng Bộ GD - ĐT:
Về không tổ chức lớp chọn ở các cấp học, không tổ chức trường chuyên ở bậc
tiểu học và THCS.
- Chỉ thị số 14/2001/CT - TTg ngày 11- 06-2001 của Thủ tướng Chính
phủ: Về việc đổi mới chương trình GDPT thực hiện Nghị quyết số 40/2000/QH
10 của Quốc hội.
- Chỉ thị số 60/1998/CT - BGD & ĐT ngày 2-11-1998 của Bộ trưởng Bộ GD
- ĐT: Về việc tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra trong ngành GD - ĐT.
- Chỉ thị số 27/1999/CT - BGD & ĐT ngày 10-06-1999 của Bộ trưởng Bộ
GD - ĐT: Về đẩy mạnh và đổi mới công tác thi đua khen thưởng trong ngành
Giáo dục.
- Chỉ thị số 18/2001/CT - TTg ngày 27- 08-2001 của Thủ tướng Chính
phủ: Về một số biện pháp cấp bách xây dựng đội ngũ nhà giáo của hệ thống
giáo dục quốc dân.
169
- Chỉ thị số 30/1998/CT - BGD & ĐT ngày 20- 05-1998 của Bộ trưởng
Bộ GD - ĐT: Về việc đào tạo và bồi dưỡng giáo viên bộ môn Giáo dục công
dân trường THCS, THPT, trung học chuyên ban.
- Chỉ thị số 36/2001/CT - BGD & ĐT ngày 10- 8-2001 của Bộ trưởng Bộ
GD - ĐT: Về việc tăng cường công tác phòng chống tác hại của thuốc lá trong
học sinh, sinh viên và cán bộ, công chức ngành GD - ĐT.
- Chỉ thị số 34/1998/CT - BGD & ĐT ngày 30-5-1998 của Bộ trưởng Bộ
GD - ĐT: về việc tiếp tục tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT và trung học chuyên ban.
- Chỉ thị số 35/1998/CT - BGD & ĐT ngày 3- 6-1998 của Bộ trưởng Bộ
GD - ĐT: về việc tăng cường các biện pháp bảo đảm các kỳ thi tiến hành
nghiêm túc.
- Thông tư Liên tịch số 35/1999/TTLT - BGD & ĐT - BVHTT ngày 15-
9-1999 của Liên tịch Bộ GD - ĐT- Bộ Văn hóa - Thông tin: Về việc xuất bản và
phát hành các sách tham khảo cho học sinh ở các bậc phổ thông.
- Thông tư Liên tịch số 40/1998/TTLT - BGD & ĐT - BYT ngày 18-7-
1998 của Liên tịch Bộ GD - ĐT - Bộ y tế: Hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế
học sinh.
- Thông tư Liên tịch số 23/2001/TTLT/BTC/BLĐTBXH ngày 6- 04-2001
của Liên tịch Bộ Tài chính - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Hướng dẫn
thực hiện chính sách miễn giảm học phí đối với học sinh, sinh viên thuộc diện
chính sách đang theo học tại các cơ sở giáo dục và đào tạo ngoài công lập.
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo (2001), Các văn bản hiện hành về GD -
ĐT, Tập 1, 2, 3. Nxb Thống kê.
170
Phụ lục 05:
Tình hình giáo dục phổ thông tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2000
1990 -
1991 -
1992 -
1993 -
1994 -
1995 -
1996 -
1997 -
1998 -
1999 -
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Năm học Nội dung
Số phòng 3.110
3.244
3.414
6.743
3.706
3.834
363
389
452
400
TH
1.309
1394
1.453
1537
1580
1.523
141
156
165
172
THCS
1.652
1.702
1.811
1910
1942
2.049
198
207
142
213
THPT
149
148
154
227
185
207
24
28
29
30
Số lớp
4.829
5.266
5.589
6.141
6.243
6.549
6.557
6.886
7.018
7.011
TH
3.895
4.489
4.370
4.497
4.582
5.025
4.729
4.771
4.707
4.560
THCS
1.806
1.953
2.095
2.017
2.115
1.277
1.532
1.748
1.930
2.022
THPT
461
481
522
478
440
247
296
331
384
429
Số
6.162
6.923
6.987
6.992
7.227
7.245
8.330
8.993
9.416
9.864
giáo viên
TH
3.895
4.489
4.370
4.497
4.582
4.669
5.229
5.367
5.806
5.508
THCS
1.806
1.953
2.095
2.017
2.155
2.053
2.543
2.981
2.936
3.527
THPT
461
481
522
478
440
523
558
645
674
819
Số
120.585 129.269 142.916 157.967 167.934 184.030 190.226 195.978 202.652 206.872
học sinh
TH
91.613
99.117 108.818 120.210 124.155 128.129 126.711 121.961 117.307 118.417
THCS
23.799
25.173
28.169
30.367
35.430
45.734
51.143
59.834
68.261
69.172
THPT
5.137
4.979
5.929
7.390
8.349
10.527
12.357
14.183
17.084
19.283
Nguồn: [101, tr. l60], [102, tr. l08], [103, tr. 146].
171
Phụ lục 06:
Tình hình giáo dục phổ thông tỉnh Hòa Bình từ năm 2000 đến năm 2010
2000 -
2001 -
2002 -
2003 -
2004 -
2005 -
2006 -
2007 -
2008 -
2009 -
Năm học
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Nội dung
Số
424
444
458
462
475
479
448
487
483
486
trường
Cấp I
182
186
200
203
215
182
219
221
216
216
Cấp I+II
59
57
42
39
27
59
24
22
22
22
Cấp II
152
168
183
187
200
152
209
210
210
210
Cấp II
11
2
-
-
-
-
-
-
-
-
+III
Cấp III
20
31
33
33
33
32
32
34
35
38 ..
Số lớp
6.945
6.857
6.663
7.575
6.439
6.288
6.062
5.905
5.776
6.058
TH
4.383
4.173
3.922
4.663
3.589
3.439
3.244
3.168
3.086
3.125
THCS
2.094
2.181
2.199
2.343
2.227
2.190
2.103
2.201
1.996
2.528
THPT
468
503
542
569
623
659
715
716
694
675
Số
giáo
10.073
10.721
11.036
11.544
11.078
10.957
10.981
11.012
10.560
10.352
viên
TH
5.552
5.611
5.678
5.651
5.448
5.261
4.947
4.923
4.499
4.542
THCS
3.654
4.230
4.369
4.790
4.522
4.566
4.733
4.710
4.679
4.219
THPT
867
880
989
1.103
1.108
1.130
1.261
1.379
1.382
1.591
126.85
Số học
193.461 189.180 182.760 180.765 171.080 164.510 68.681 148.441 145.090
4
sinh
TH
101.219 93.187
84.998
77.858
70.718
65.021
61.310
58.857
57.016
54.634
THCS
71.258
73.811
73.342
74.882
72.163
69.211
64.920
58.621
57.494
44.898
THPT
20.984
22.182
24.220
28.025
28.199
30.278
32.505
30.945
30.580
27.322
Nguồn: [105, tr. l69], [106, tr.152], [107, tr. 169].
172
Phụ lục 07:
Nguồn: [146]
173
Phụ lục 8:
Nguồn: [146]
174
Phụ lục 9:
Nguồn: [146]
175
Phụ lục 10:
Nguồn: [146]
176
Phụ lục 11:
Nguồn: [146]
177
Phụ lục 12:
Nguồn: [146]
178
Phụ lục 13:
Nguồn: [146]
179
Phụ lục 14:
Nguồn: [146]
180
Phụ lục 15:
Nguồn: [146]
181
Phụ lục 16:
Trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Hòa Bình có tiền thân là Trường
Thanh niên lao động XHCN Hòa Bình, được thành lập theo Quyết định của Tỉnh
ủy Hòa Bình ngày 01 - 04 - 1958. Ngày 17/8/1962, nhà trường vinh dự được đón
Bác Hồ về thăm và ghi vào cuốn Sổ vàng căn dặn:“Fải. Học tập tốt, lao động tốt.
Cố gắng mãi, tiến bộ mãi”.
Đơn vị điểm sáng về công tác giáo dục dân tộc
Các danh hiệu nổi bật mà trường đã đạt được trong 50 năm (1958 - 2008)
- Huân chương lao động hạng Nhì ( 30/8/1961).
- Huân chương lao động hạng Nhì (31/01/1967).
- Huân chương lao động hạng Ba (1972).
- Huân chương lao động hạng Nhất (1975).
- Cờ luân lưu của Chính phủ tặng (1975-1976).
- Cờ đơn vị lá cờ đầu phong trào thi đua “Hai tốt” (1971-1972”.
- Cờ đơn vị lá cờ đầu phong trào thi đua "Hai tốt" (1976-1977).
- Huân chương lao động hạng Nhất (13/01/1985).
- Danh hiệu Đơn vị Anh Hùng lao động (29/8/1985).
- Trường tiên tiến, xuất sắc từ năm học 1991-1992 đến năm học 1994-1995.
- Giải Nhất học sinh Hội thi VH-TT các trường PTDTNT toàn quốc (7/1994).
- Cờ luân lưu của Chính phủ dẫn đầu các trường PTDTNT cả nước (năm 1995).
- Cờ Tổng cục TDTT tặng Đoàn Nhất khu vực II (1994-1998).
- Huân chương Độc lập hạng Ba (22/4/1998).
- Cờ ANTT và PCTN xuất sắc toàn quốc của Bộ Công An (năm 1997 và 1998).
- Cờ Dẫn đầu khối trường THPT toàn tỉnh năm học 1998-1999.
- Cờ Dẫn đầu khối cơ quan của tỉnh Hoà Bình về công tác An ninh (1999).
- Trường tiên tiến, xuất sắc từ năm học 2000-2001 đến năm học 2007-2008.
Nguồn: Nhà Truyền Thống.
182