VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN SỸ HÀ

GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở TỈNH HÒA BÌNH

TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC

HÀ NỘI - 2018

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN SỸ HÀ

GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở TỈNH HÒA BÌNH TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2010

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Mã số: 9229013

LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS. TS. ĐINH QUANG HẢI

HÀ NỘI - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi, các số liệu, kết quả nghiên cứu trong Luận án là

trung thực, khách quan và chưa từng được công bố trong

bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Sỹ Hà

MỤC LỤC Trang

TRANG PHỤ BÌA……………………………………………………..

LỜI CAM ĐOAN……………………………………………………...

MỤC LỤC……………………………………………………………...

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT…………………………………

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU……………………………………..

MỞ ĐẦU………………………………………………………………. 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN……………………………………………….. 7

1.1. Những nghiên cứu về giáo dục và giáo dục phổ thông …………… 7

1.2. Những nghiên cứu có liên quan đến giáo dục ở tỉnh Hòa Bình…… 13

1.3. Những kết quả nghiên cứu đã đạt được và những vấn đề luận án

cần tiếp tục nghiên cứu…………………………………………………. 17

Chương 2: PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở TỈNH

HÒA BÌNH GIAI ĐOẠN 1991 - 2001……………………………….. 21

2.1. Khái quát về tỉnh Hòa Bình và giáo dục phổ thông ở Hòa Bình

trước khi tái lập tỉnh (1991)……………………………………………. 21

2.2. Bối cảnh lịch sử và chủ trương đổi mới giáo dục phổ thông ở tỉnh

Hoà Bình (1991 - 2001)………………………………………………... 38

2.3. Phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình trong 10 năm đầu

sau khi tái lập tỉnh (1991 - 2001)………………………………………. 45

Tiểu kết chương 2……………………………………………………… 69

Chương 3: PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở TỈNH

HÒA BÌNH GIAI ĐOẠN 2001 - 2010……………………………….. 70

3.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương phát triển giáo dục phổ thông ở

tỉnh Hòa Bình trong giai đoạn mới……………………………………... 70

3.2. Phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình, góp phần tạo bước

đột phá về kinh tế - xã hội (2001 - 2010)………………………………. 76

Tiểu kết chương 3……………………………………………………… 105

Chương 4: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM…………… 107

4.1. Nhận xét…………………………………………………………… 107

4.2. Một số kinh nghiệm và vấn đề đặt ra……………………………… 131

Tiểu kết chương 4……………………………………………………… 142

KẾT LUẬN……………………………………………………………. 143

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN……………………………… 146

TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………. 147

PHỤ LỤC……………………………………………………………… 163

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TT Chữ viết tắt Nội dung chữ viết tắt

CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1

2 CNXH Chủ nghĩa xã hội

3 GD - ĐT Giáo dục và Đào tạo

4 GDPT Giáo dục phổ thông

5 KT - XH Kinh tế xã hội

6 NQTW Nghị quyết Trung ương

7 PTCS Phổ thông cơ sở

8 PTTH Phổ thông trung học

9 THCS Trung học cơ sở

10 THPT Trung học phổ thông

11 UBND Ủy ban nhân dân

12 XHCN Xã hội chủ nghĩa

13 XMC Xóa mù chữ

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Biểu đồ 2.1. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế (1991 - 2010)………... Trang 25

Bảng 2.1. Số lượng giáo viên phổ thông (1991 - 2001)…………………... 47

Bảng 2.2. Số trường học phổ thông (1991 - 2001)………………………... 50

Bảng 2.3. Số phòng học phổ thông (1991 - 1996)………………………... 51

Bảng 2.4. Số lớp học phổ thông (1991 - 2001)…………………………… 52

Bảng 2.5. Số lượng học sinh phổ thông (1991 - 2001)…………………… 52

Biểu đồ 2.2. Chất lượng giáo dục hai mặt, học sinh phổ thông tỉnh Hòa

Bình (1991 - 1996)………………………………………………………... 56

Bảng 2.6. Số lượng học sinh phổ thông đoạt giải Quốc gia (1991 - 1996).. 57

Biểu đồ 2.3. Tỷ lệ trẻ em vào lớp 1 và bỏ học……………………………. 59

Biểu đồ 2.4. Chất lượng giáo dục hai mặt bậc trung học, năm học 2000 - 2001 61

Biểu đồ 2.5. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS và THPT (1997 - 2002)…... 62

Biểu đồ 3.1. Chất lượng đội ngũ giáo viên phổ thông năm học 2004 - 2005 78

Biểu đồ 3.2. Chất lượng đội ngũ giáo viên phổ thông năm học 2009 - 2010 82

Bảng 3.1. Số lượng trường, lớp phổ thông (2001 - 2010)………………… 83

Biểu đồ 3.3. Số lượng học sinh phổ thông (2001 - 2010)………………… 84

Bảng 3.2. Tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học và đỗ tốt

nghiệp phổ thông năm học 2004 -2005…………………………………… 88

Biểu đồ 3.4. Ngân sách chi cho sự nghiệp giáo dục đào tạo và số phòng

học được xây dựng trong năm học 2005 - 2006………………………….. 93

Bảng 3.3. Số trường học và giáo viên được thanh tra năm học 2005 - 2006. 100

Biểu đồ 4.1. Tỷ lệ giáo viên phổ thông đạt chuẩn năm học 2009 - 2010…. 124

Bảng 4.1. Số trường học, phòng học và học sinh phổ thông năm học 2009

- 2010……………………………………………………………………... 125

Bảng 4.2. Công tác phổ cập giáo dục phổ thông………………………….. 127

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam, giáo dục phổ thông được

nhìn nhận là một bậc giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt, vừa là “bản lề”,

vừa là “xương sống” của toàn bộ quá trình hình thành và phát triển nhân cách

của lứa tuổi nhi đồng, thiếu niên và thanh niên, giúp các em từ bước đi chập

chững, từ nhận biết đơn sơ lên nắm bắt được nhiều kiến thức cơ bản về văn

hóa chữ, văn hóa làm người và định hướng được cuộc sống của mình là phục

vụ đất nước và dân tộc. Do vậy từ ngày nước nhà được độc lập đến nay sự

nghiệp phát triển giáo dục phổ thông đã đạt được những thành tựu to lớn trên

các lĩnh vực: Quy mô không ngừng được mở rộng; chất lượng ngày một được

nâng cao và từng bước đáp ứng tốt hơn yêu cầu cung cấp nguồn nhân lực cho

sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với vị trí và vai

trò to lớn đó, Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục lần thứ 3 (năm

1979) đã chỉ rõ: “Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hóa của một nước, là

sức mạnh tương lai của một dân tộc. Nó đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển

toàn diện con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [106, tr. 23].

Hòa Bình là tỉnh miền núi, nằm ở vùng cửa ngõ Tây Bắc của Tổ quốc,

nơi tụ hội nhiều điều kiện thuận lợi để trở thành trung tâm Văn hóa - Giáo

dục của vùng Tây Bắc. Với đặc điểm địa lý giáp với đồng bằng sông Hồng và

Thủ đô Hà Nội, tỉnh Hòa Bình được biết đến không chỉ nổi tiếng với công

trình thủy điện lớn nhất Đông Nam Á, mà còn nổi tiếng với một nền văn hóa

đặc sắc là cái nôi “văn hóa Hòa Bình”.

Là mảnh đất có chiều dày lịch sử và văn hóa, phát huy truyền thống

đấu tranh kiên cường bất khuất của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc, nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình đã kề vai, sát cánh góp phần

làm nên những trang sử hào hùng của dân tộc. Bước vào công cuộc đổi mới,

nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình tiếp tục vượt lên mọi khó khăn, thách

1

thức để hoàn thành xuất sắc các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế và xã

hội, phấn đấu trở thành vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và vùng Tây Bắc.

Sau khi tái lập tỉnh Hòa Bình (năm 1991), nhận thức vai trò to lớn của

giáo dục phổ thông trong hệ thống giáo dục quốc dân cũng như phát triển

giáo dục phổ thông nhằm “nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi

dưỡng nhân tài, góp phần tích cực vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước, xây dựng tỉnh Hòa Bình ngày càng giàu đẹp, văn minh và công

bằng xã hội” [158, tr. 314], lãnh đạo và nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình

đã thường xuyên chăm lo, tạo điều kiện để giáo dục phổ thông từng bước

được đổi mới và phát triển vững chắc. Năm 2010, tỉnh Hòa Bình đã đạt chuẩn

quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học - chống mù chữ và phổ cập giáo dục

trung học cơ sở, đội ngũ giáo viên các ngành học, bậc học không chỉ lớn về

số lượng mà còn mạnh về chuyên môn; cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và

học ngày càng hiện đại.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình phát triển giáo

dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình trong những năm qua còn nhiều yếu kém, bất

cập như chất lượng giáo dục các cấp học, bậc học, ngành học còn thấp và

chưa đồng đều; việc dạy và học ở vùng kinh tế và xã hội khó khăn còn hạn

chế; cơ sở vật chất còn thiếu thốn, lạc hậu. Ngoài ra còn nhiều hạn chế khác

cần phải giải quyết. Vì vậy, việc nghiên cứu giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa

Bình là rất cần thiết. Song cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên

cứu toàn diện, hệ thống về giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991

đến năm 2010. Trên những ý nghĩa đó, tôi chọn nghiên cứu đề tài: "Giáo dục

phổ thông ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010" làm luận án Tiến

sĩ, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu.

Luận án nghiên cứu nhằm đạt các mục đích sau:

2

- Luận giải và làm sáng tỏ thực trạng quá trình phát triển giáo dục phổ

thông (GDPT) ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010.

- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, từ đó rút ra những kinh nghiệm góp

phần phục vụ cho công tác hoạch định và phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình

trong các giai đoạn tiếp theo.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.

Để đạt các mục đích đề ra, luận án thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu

chủ yếu sau:

- Tổng quan các tài liệu liên quan đến đề tài luận án.

- Phân tích làm rõ các yếu tố tác động (cả thuận lợi và khó khăn) đối

với phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình. Trong đó có đề cập từ chủ trương,

đường lối đến các biện pháp cụ thể trong việc phát triển GDPT của tỉnh Hòa

Bình từ năm 1991 đến năm 2010.

- Phục dựng lại quá trình phát triển của GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm

1991 đến năm 2010 trên cơ sở đánh giá khách quan, khoa học về những thành

tựu, hạn chế và nguyên nhân.

- Rút ra đặc điểm và bài học kinh nghiệm góp phần cung cấp cơ sở thực

tiễn và luận cứ cho việc đổi mới GDPT ở tỉnh Hoà Bình trong giai đoạn hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu.

Luận án tập trung nghiên cứu về quá trình phát triển GDPT ở tỉnh Hòa

Bình từ năm 1991 đến năm 2010.

3.2. Phạm vi nghiên cứu.

- Phạm vi thời gian

Luận án nghiên cứu GDPT ở tỉnh Hòa Bình trong thời gian 20 năm (từ

năm 1991 đến năm 2010).

Lý do tác giả chọn mốc nghiên cứu năm 1991 là năm được kỳ họp thứ

IX, Quốc hội khóa VIII quyết định tái lập tỉnh Hòa Bình (8 - 1991) và mốc

3

năm 2010 là năm Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XV (10 -

2010). Đồng thời năm 2010 được coi là năm cuối của kế hoạch phát triển giáo

dục tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2001 - 2010.

- Phạm vi không gian

Luận án nghiên cứu trên phạm vi địa giới hành chính tỉnh Hòa Bình

trong giai đoạn 1991 - 2010 bao gồm: Thành phố Hòa Bình và các huyện: Kỳ

Sơn, Tân Lạc, Mai Châu, Lương Sơn, Kim Bôi, Lạc Thủy, Đà Bắc, Yên

Thủy, Lạc Sơn, Cao Phong.

- Phạm vi nội dung

Luận án tập trung nghiên cứu về: Chủ trương, đường lối chính sách của

Đảng, Nhà nước và sự vận dụng của Đảng bộ tỉnh Hòa Bình về phát triển

GDPT; thực trạng quá trình phát triển GDPT tỉnh Hòa Bình trên ba bậc: Tiểu

học, trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ thông (THPT); ngoài ra Hòa

Bình là tỉnh miền núi, nên các trường phổ thông dân tộc nội trú cũng là đối

tượng và nội dung nghiên cứu của luận án. Trên cơ sở đó đưa ra những nhận

xét, đánh giá khách quan về GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm

2010 và rút ra một số kinh nghiệm cho các giai đoạn phát triển tiếp theo.

4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu

4.1. Cơ sở lý luận.

Dựa trên nguyên tắc nắm vững cơ sở lý luận và vận dụng phương pháp

luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính

sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới giáo dục, trong đó có GDPT. Đây là

cơ sở lý luận, phương pháp luận cho việc nghiên cứu GDPT ở tỉnh Hòa Bình

từ năm 1991 đến năm 2010.

4.2. Phương pháp nghiên cứu.

Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp

lịch sử và phương pháp lôgic.

4

- Luận án sử dụng phương pháp lịch sử để bảo đảm trình tự và diễn tiến

thời gian của các sự kiện và vấn đề, làm rõ điều kiện phát sinh, phát triển và

biểu hiện của chúng, qua đó phục dựng lại toàn bộ quá trình phát triển của

GDPT tỉnh Hòa Bình qua hai giai đoạn với những nét chung vừa mang tính

phổ biến, vừa có nét đặc thù riêng đối với địa phương miền núi.

- Luận án sử dụng phương pháp logic để xem xét, nghiên cứu các sự

kiện, các vấn đề về GDPT để làm sáng tỏ mối liên hệ gắn bó, chặt chẽ các

vấn đề của GDPT với nhau và tìm ra bản chất, khuynh hướng, quy luật vận

động. Trên cơ sở đó rút ra đặc điểm và kết luận từ quá trình phát triển của

GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010.

Ngoài ra luận án còn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên

ngành khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu; đặc biệt

tác giả chú trọng đến phương pháp điều tra khảo sát thực địa để thẩm định, bổ

sung và hoàn chỉnh tư liệu để thực hiện luận án.

4.3. Nguồn tài liệu.

Để thực hiện luận án, tác giả chủ yếu dựa vào những tài liệu chủ yếu sau:

- Các Văn kiện, Nghị định, Chỉ thị, Nghị quyết, Quyết định,… của

Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD - ĐT); của Tỉnh ủy, Uỷ ban

nhân dân (UBND) tỉnh Hòa Bình, Cục thống kê tỉnh Hoà Bình và một số Sở,

Ban ngành của tỉnh có liên quan đến giáo dục nói chung, GDPT nói riêng từ

năm 1991 đến năm 2010.

- Các báo cáo tổng kết hàng năm của Sở GD - ĐT tỉnh Hoà Bình từ

năm 1991 đến năm 2010.

- Các công trình nghiên cứu, bài viết, các luận văn, luận án nghiên cứu

về lĩnh vực GDPT nói chung và liên quan đến GDPT của tỉnh Hòa Bình nói

riêng đã được công bố.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

- Luận án làm rõ những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về

GDPT và sự vận dụng của tỉnh Hòa Bình vào thực tiễn địa phương.

5

- Luận án phân tích những yếu tố tác động đến GDPT của tỉnh Hòa

Bình và tái hiện lại bức tranh khá đầy đủ, toàn diện, có hệ thống về thực trạng

GDPT ở tỉnh Hoà Bình từ năm 1991 đến năm 2010.

- Luận án rút ra đặc điểm chủ yếu, một số kinh nghiệm và đặt ra một số

vấn đề đối với phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình trong các giai đoạn tiếp theo.

- Kết quả của luận án cung cấp một tập hợp tư liệu phong phú, đa dạng,

làm cơ sở tham khảo cho Đảng bộ, chính quyền tỉnh Hòa Bình trong công tác

hoạch định phát triển GDPT giai đoạn tiếp theo.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

6.1. Ý nghĩa lý luận.

Luận án góp phần cung cấp thêm cơ sở lý luận và các luận cứ khoa học

về phát triển giáo dục nói chung, GDPT nói riêng, cũng như góp phần vào

việc nghiên cứu và bổ sung lý luận về lịch sử phát triển giáo dục ở Việt Nam.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn.

- Luận án đóng góp thêm tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử

GDPT ở tỉnh Hòa Bình nói riêng, lịch sử giáo dục Việt Nam nói chung.

- Luận án rút ra đặc điểm và bài học kinh nghiệm từ kết quả nghiên cứu

GDPT ở tỉnh Hòa Bình giúp cho việc hoạch định chủ trương và thực hiện

phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình hiện nay và các giai đoạn tiếp theo.

- Luận án góp phần phục vụ thiết thực cho công tác nghiên cứu, giảng

dạy lịch sử địa phương cho học sinh các cấp trong tỉnh.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung

chính của luận án được chia làm 4 chương:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.

Chương 2. Khái quát về tỉnh Hòa Bình và quá trình phát triển GDPT

của tỉnhgiai đoạn 1991 - 2001.

Chương 3.Phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2001 - 2010.

Chương 4. Một số nhận xét và kinh nghiệm.

6

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

Giáo dục là một vấn đề thu hút sự quan tâm đặc biệt của các giới

nghiên cứu, các tổ chức và học giả. Đã có không ít tác giả nghiên cứu về đề

tài này, từ những vấn đề lý luận đến thực tiễn, ở nhiều giai đoạn lịch sử khác

nhau và có liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận án, trong đó có thể

chia thành các nhóm công trình nghiên cứu như sau.

1.1. Những nghiên cứu về giáo dục và giáo dục phổ thông

Tổ chức Văn hóa - Khoa học - Giáo dục của Liên Hợp Quốc

(UNESCO), với dự án: Nghiên cứu tổng thể Giáo dục - Đào tạo, phân tích

nguồn nhân lực VIE89/022 và dự án: Báo cáo đánh giá tình hình Giáo dục -

Đào tạo của Việt Nam hiện nay, được tiến hành trong 2 năm (1991 - 1992);

Ngân hàng thế giới (WB) cùng với Bộ GD - ĐT tổ chức hội thảo với chủ đề

"Lựa chọn chính sách cải cách Giáo dục - Đào tạo", tại Hà Nội (8 - 1993)…

Những công trình này đã đánh giá về thực trạng GD - ĐT ở Việt Nam, đồng

thời nghiên cứu về sự tác động của các nguồn lực, các chính sách lớn và đưa ra

một số định hướng phát triển GD - ĐT ở Việt Nam trong những năm tiếp theo.

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tổng kết giáo dục 10 năm (1975 - 1985), Nxb

Giáo dục, Hà Nội, 1986: Cuốn sách đã nêu ra những chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục. Mặc dù không đi sâu vào lĩnh vực

GDPT, nhưng đã cung cấp những tài liệu quan trọng, nhất là những số liệu

thống kê và tình hình GDPT của Việt Nam 10 năm sau ngày thống nhất đất

nước. Trong cuốn 50 năm phát triển sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo (1945 -

1995), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995 đã khái quát về bức tranh toàn cảnh giáo

dục Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1995, cũng như đưa ra những đánh giá,

nhận xét về giáo dục Việt Nam trong giai đoạn này.

7

Các nhà lãnh đạo, quản lý ngành giáo dục qua các thời kỳ rất quan tâm

đến việc tổng kết, đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn quá trình lãnh đạo, tổ chức

thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực giáo dục.

Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Võ Thuần Nho, 35

năm phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thông, Nxb Giáo dục, 1981; Nguyễn

Khánh Toàn, Nền giáo dục Việt Nam: Lý luận và thực hành, Nxb Giáo dục,

1991; Phạm Minh Hạc, Sơ thảo lịch sử giáo dục Việt Nam 1945 - 1990, Nxb

Giáo dục, 1992; Trần Hồng Quân, Giáo dục 10 năm đổi mới và chặng đường

trước mắt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996; Phát triển giáo dục, phát

triển con người phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội, 1996; Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999; Nhân tố mới về Giáo dục và Đào tạo trong

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội, 2002;… Các công trình nêu trên chủ yếu đi vào tổng kết quá trình phát

triển của ngành giáo dục Việt Nam qua các giai đoạn khác nhau, trong hai

cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và thời kỳ

đầu khi cả nước độc lập thống nhất quá độ đi lên xây dựng CNXH, đồng thời

bước đầu cũng rút ra một số kinh nghiệm trong xây dựng và phát triển nền

giáo dục của nước nhà. Bên cạnh đó, một số công trình cũng đi sâu nghiên

cứu về vị trí, vai trò của nhân tố con người thông qua hoạt động GD - ĐT,

nhằm góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ngoài ra còn có nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục Việt Nam

như: Nguyễn Quang Hưng, Toàn cảnh Giáo dục - Đào tạo Việt Nam, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000; Trần Văn Tùng, Nền kinh tế tri thức và yêu

cầu đổi mới giáo dục Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001; Đặng

Bá Lãm, Giáo dục Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XXI: Chiến lược

phát triển, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2003; Lê Văn Giạng, Lịch sử giản lược

hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003;

8

Nguyễn Quang Kính, Giáo dục Việt Nam 1945 - 2005, tập 2, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội, 2005; Nguyễn Thế Long, Đổi mới tư duy, phát triển giáo

dục Việt Nam trong nền kinh tế thị trường, Nxb Lao động, 2006; Nguyên Hữu

Châu, Giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục, 2007;

Đặng Bá Lãm, Vũ Ngọc Hải, Trần Khánh Đức, Giáo dục Việt Nam đổi mới

và phát triển hiện đại hóa, Nxb Giáo dục, 2007; Đinh Văn Ân, Hoàng Thu

Hòa, Giáo dục và Đào tạo - chìa khóa của sự phát triển, Nxb Tài chính,

2008; Phạm Tất Dong, Giáo dục Việt Nam 1945 - 2010, Nxb Giáo dục, Hà

Nội, 2010;… Các công trình đã đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình

phát triển nền giáo dục ở nước ta qua các thời kỳ khác nhau, nhiều công trình

đã phân tích về sự đóng góp to lớn của giáo dục đối với công cuộc xây dựng

và phát triển đất nước. Bên cạnh đó, các tác giả còn đề cập đến việc tăng

cường hợp tác quốc tế để nâng cao chất lượng giáo dục, phương hướng đổi

mới giáo dục, đa dạng hoá các loại hình đào tạo, xã hội hoá giáo dục,… Tuy

nhiên các công trình này vẫn chủ yếu tập đi vào lĩnh vực giáo dục nói chung,

chưa đi sâu nghiên cứu về lĩnh vực GDPT, song đây cũng là những tài liệu

quan trọng, đưa đến những nhận thức có tính hệ thống về giáo dục.

Nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, các tác giả Nguyễn

Minh San (Chủ biên), Phạm Việt Long, Hoàng Thế Thanh, xuất bản công

trình Mười thế kỷ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam (1010 - 2010), Nxb Dân trí,

2010. Đây là công trình nghiên cứu có giá trị to lớn, giúp cho người đọc thấy

được một cách rõ ràng và cụ thể bức tranh toàn cảnh về giáo dục và đào tạo

của đất nước từ khi nước ta giành được độc lập tự chủ cho đến nay. Nội dung

cuốn sách khắc họa tiến trình hình thành, phát triển và những thành tựu to lớn

của nền giáo dục và đào tạo Việt Nam trong 10 thế kỷ qua (1010 - 2010) theo

chiều lịch đại. Ở cuối mỗi giai đoạn còn có phần nhận xét, đánh giá của các

tác giả về giáo dục và đào tạo nước nhà trong giai đoạn đó, đồng thời các tác

giả cũng giới thiệu những tấm gương nhà giáo tận tụy, lao động sáng tạo, gắn

9

bó với sự nghiệp "trồng người", góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc. Trải qua 10 thế kỷ biến thiên, thăng trầm của lịch sử, sự nghiệp giáo

dục và đào tạo Việt Nam luôn được xem là quốc sách hàng đầu, nhờ vậy giáo

dục nước ta đã gặt hái được nhiều thành tựu, đóng góp xứng đáng vào sự

nghiệp xây đắp nền văn hiến Việt Nam rực rỡ, giàu bản sắc… Công trình đã

giúp cho tác giả có cái nhìn tổng quát về lịch sử giáo dục Việt Nam; trên cơ

sở đó đặt nền tảng cho việc nghiên cứu lịch sử giáo dục địa phương.

Cũng có không ít bài viết về GD - ĐT đăng tải trên các báo, tạp chí

như: Vũ Thiện Vương, Tiếp tục đổi mới sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo đáp

ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số

47 năm 2001; Trần Viết Lưu, Suy nghĩ về các giải pháp phát triển giáo dục

phổ thông nước ta hiện nay, Tạp chí Giáo dục số 92 (2002); Vũ Ngọc Hải,

Đổi mới Giáo dục - Đào tạo nước ta trong những năm đầu thế kỷ XXI, Tạp

chí Phát triển giáo dục, số 4 năm 2003; Hồ Thiệu Hùng, Một số cơ hội để

đánh giá thực trạng giáo dục trung học phổ thông, báo Tuổi trẻ (2003);

Nguyễn Cảnh Toàn, Phát huy việc tự học trong trường phổ thông trung học,

báo Giáo dục và Thời đại (2003) và Chất lượng giáo dục phổ thông - một số

vấn đề cấp bách, báo Văn nghệ (2003); Huỳnh Công Minh, Tiếp cận chất

lượng giáo dục phổ thông dưới góc độ mục tiêu đào tạo, Tạp chí Giáo dục số

92 (2004); Ngô Văn Hiển, Các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư cho Giáo

dục - Đào tạo thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, Tạp chí Giáo

dục, số 112 năm 2005; Dương Văn Khoa, Phát triển mạnh mẽ Giáo dục - Đào

tạo theo hướng hiện đại, thiết thực, nhanh chóng nâng cao dân trí, tạo nguồn

nhân lực dồi dào và đội ngũ nhân tài cho đất nước, Tạp chí Dạy và Học ngày

nay, số 8 năm 2005; Phạm Thị Kim Anh, Những thay đổi của Giáo dục - Đào

tạo Việt Nam từ sau công cuộc đổi mới (1986) đến nay, Tạp chí Dạy và Học

ngày nay, số 7 năm 2008; Nguyễn Hữu Chí, Những quan điểm cơ bản của

Đảng về Giáo dục - Đào tạo qua các chặng đường lịch sử, Tạp chí Lịch sử

10

Đảng, số 10 năm 2010;… Nội dung các bài viết phản ánh nhiều mặt về thực

trạng nền giáo dục nước nhà; luận giải những quan điểm cơ bản của Đảng về

GD - ĐT từ năm 1945 đến nay; đề ra những phương hướng giải pháp tích cực

nhằm phát triển nền giáo dục XHCN. Tuy nhiên, các bài viết này chỉ dừng lại

ở những vấn đề lớn, phạm vi rộng của GD - ĐT Việt Nam, chưa đi sâu vào

từng địa phương cụ thể, song đây là nguồn tư liệu quý giúp tác giả định

hướng nội dung trong quá trình nghiên cứu đề tài.

Một số nhà nghiên cứu về giáo dục còn đi sâu tìm hiểu về kinh nghiệm

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở một số quốc gia có nền giáo dục phát

triển, tiêu biểu như: Đặng Thị Thanh Huyền, Giáo dục phổ thông với phát

triển chất lượng nguồn nhân lực - những bài học thực tiễn từ Nhật Bản, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội 2001. Toàn bộ cuốn sách thể hiện sự am hiểu sâu

sắc của tác giả về GDPT Nhật Bản cũng như chiến lược phát triển kinh tế của

đất nước này. Điều đó được thể hiện xuyên suốt qua 4 chương của cuốn sách

với một cấu trúc chặt chẽ, hợp lý, đảm bảo logic của cuốn sách. Tác giả của

cuốn sách đã phân tích rõ sự tiến triển về chiến lược giáo dục trong mối quan

hệ với các yêu cầu phát triển kinh tế của Nhật Bản, đặc biệt từ sau chiến tranh

thế giới thứ hai. Cuốn sách là đã khái quát một cách cụ thể và khá toàn diện

chặt chẽ giữa GDPT với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Nhật Bản.

Những kinh nghiệm quan trọng của người Nhật Bản trong cách giải quyết có

hiểu quả mối quan hệ giữa GDPT và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đã

được phân tích khái quát thành ba bài học chủ yếu. Qua đó, tác giả đã đưa ra

các gợi ý cho Việt Nam với ý tưởng muốn vận dụng những kinh nghiệm đó

vào hoàn cảnh nước nhà. Các tác giả Nguyễn Văn Lê, Hà Thế Truyền, Một số

kinh nghiệm về giáo dục phổ thông và hướng nghiệp trên thế giới, NXB Đại

học Sư phạm, Hà Nội 2004 đã khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục

trung học phổ thông đối với mỗi quốc gia, biểu hiện ở chỗ: Giáo dục trung

học đóng góp tích cực và tối ưu cho sự phát triển nguồn nhân lực quốc gia.

11

Với yêu cầu phát triển toàn diện, người lao động dù học lên đại học học hoặc

sớm đi vào cuộc sống lao động, nữ cũng như nam đều phải được hình thành

những giá trị văn hóa, đạo đức, nhân văn cùng với những kiến thức khoa học

kĩ thuật, năng lực sáng tạo. Họ không chỉ có năng lực góp phần đẩy mạnh sự

phát triển quốc gia mà còn phải có tiềm năng sinh lợi từ những thành quả của

sự phát triển đó. Tác giả cũng nhấn mạnh: Trong bối cảnh hiện nay, giáo dục

trung học phổ thông có tầm quan trọng ngày càng lớn trong hệ thống giáo dục

quốc dân. Thực tế đòi hỏi phải tăng cường hiệu quả giáo dục hướng nghiệp

trong GDPT… Công trình của các tác giả nêu trên đã khái quát về bức tranh

của một số nước có nền giáo dục phát triển, từ đó thấy được thực trạng của

nền giáo dục Việt Nam. Đây là những tư liệu quan trọng để tác giả nghiên cứu

và tìm hiểu về những khoảng trống của nền giáo dục Việt Nam nói chung,

GDPT nói riêng.

Một số luận án Tiến sĩ chuyên ngành Giáo dục học, Lịch sử Việt Nam

hiện đại, nghiên cứu về giáo dục nói chung và GDPT nói riêng như: Lê Xuân

Trường, Một số biện pháp sử dụng nguồn lực tài chính nhằm phát triển giáo

dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay, (2004); Phạm Xuân Tài, Quá trình

phát triển giáo dục phổ thông của Hà Nội từ năm 1986 đến năm 2008,

(2012); Duy Thị Hải Hường, Giáo dục các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam

từ 1954 đến 1965, (2014); Nguyễn Gia Kiệm, Quá trình thực hiện xã hội hóa

giáo dục phổ thông ở Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến năm 2010,

(2014); Nguyễn Văn Thắng, Quá trình phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh

Thanh Hóa từ năm 1986 đến năm 2006, (2014); Nguyễn Thúy Quỳnh, Giáo

dục phổ thông ở miền Bắc Việt Nam từ 1954 đến 1975, (2015)… Nội dung

của các luận án đều có điểm chung là đã quán triệt và vận dụng một cách sáng

tạo quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục và

GDPT vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương; nhận xét, đánh giá

về thực trạng phát triển GDPT trên một số kết quả chính, từ đó rút ra những bài

12

học kinh nghiệm phục vụ cho sự nghiệp xây dựng, đổi mới và phát triển giáo

dục nói chung, GDPT nói riêng trong giai đoạn hiện nay.

1.2. Những nghiên cứu có liên quan đến giáo dục ở tỉnh Hòa Bình

Phát triển GD - ĐT của của tỉnh Hòa Bình là một trong những nội dung

quan trọng phục vụ mục tiêu phát triển KT - XH của địa phương, nên đã được

đề cập khá nhiều trong các công trình nghiên cứu, có thể kể đến:

Địa chí Hòa Bình, Tỉnh uỷ - Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005. Đây là công trình khoa học tổng hợp chứa

đựng nhiều nội dung phong phú, khai thác triệt để các nguồn tư liệu thành

văn và điền dã, đã làm sáng tỏ những lĩnh vực địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hoá,

xã hội và các mối liên hệ gắn bó giữa các lĩnh vực đó. Về phát triển giáo dục

qua các thời kỳ từ thời phong kiến đến nay cũng đã được đề cập đến, tuy nhiên

nội dung phần giáo dục chỉ dừng lại ở mức độ ghi nhận một cách khái quát

nhất, những nét lớn về giáo dục của tỉnh Hoà Bình qua các giai đoạn lịch sử mà

chưa có đánh giá, nhận xét cụ thể về quá trình phát triển giáo dục trong tỉnh.

Song có thể nói, các nguồn tư liệu thành văn, điền dã ở các lĩnh vực nêu trên

cũng đã phần nào chỉ ra được những thuận lợi, khó khăn và sự tác động, ảnh

hưởng rất lớn đến quá trình phát triển giáo dục của tỉnh Hòa Bình.

Đảng bộ tỉnh Hoà Bình qua các kỳ đại hội (1945 - 2005), Ban Tuyên

giáo tỉnh uỷ Hoà Bình, 2008. Cuốn sách đã khái quát đầy đủ về 14 kỳ đại hội

của Đảng bộ tỉnh Hoà Bình qua 60 năm lãnh đạo, trên cơ sở vận dụng linh

hoạt các chủ trương của Trung ương và đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm

vụ phù hợp với điều kiện của tỉnh trong các giai đoạn lịch sử cụ thể, qua đó

những chủ trương, đường lối về phát triển GD - ĐT cũng được đề cập một

phần trong cuốn sách này, đồng thời là tư tiệu quan trọng để tác giả nghiên

cứu, tổng hợp vào luận án.

Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hòa Bình (1929 - 2010), Ban chấp hành Đảng bộ

tỉnh Hòa Bình, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010. Cuốn sách được

13

nghiên cứu, kế thừa, dựa trên những nội dung: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hoà

Bình tập I (1929 - 1945), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hoà Bình tập II (1954 - 1975)

và Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hoà Bình tập III (1975 - 2000). Bố cục của cuốn

sách gồm 6 chương, đã tái hiện toàn cảnh về vị trí chiến lược và truyền thống

lịch sử - văn hóa; quá tình hoạt động đầy thử thách, hy sinh giành thắng lợi to

lớn của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Hoà Bình từ năm 1929 đến

năm 2010. Tuy không trực tiếp đề cập đến quá trình phát triển giáo dục cũng

như luận giải về những vấn đề này nhưng khi trình bày về quá trình lãnh đạo,

chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh, cuốn sách đã điểm qua một số thành tựu cũng như

một số hạn chế của giáo dục Hoà Bình.

Lịch sử giáo dục và đào tạo tỉnh Hòa Bình (1945 - 2008), Sở GD - ĐT

Hòa Bình, 2010. Công trình đã ghi lại những trang sử hào hùng và oanh liệt

của các thế hệ cán bộ, giáo viên và học sinh của tỉnh Hòa Bình đã tạo dựng

nên, giúp cho các thế hệ con em của nhân dân các dân tộc Hòa Bình hôm nay

và mai sau hiểu được phần nào lịch sử và truyền thống văn hiến, hiếu học của

dân tộc Việt Nam nói chung và nhân dân các dân tộc Hòa Bình nói riêng để

phát huy hơn truyền thống quý báu đó. Đặc biệt công trình cũng đã nhấn

mạnh đến những thành tựu về phát triển giáo dục từ năm 1991, thời điểm tái

lập tỉnh Hoà Bình đến năm 2008, trong đó có những thành tựu về GDPT.

Công trình đã chứa đựng nhiều tư liệu quan trọng cho tác giả nghiên cứu

trong luận án.

Lịch sử Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh Hòa Bình (1958 - 2013), Đảng

bộ tỉnh Hòa Bình, Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh, 2013. Cuốn sách bao gồm

5 chương, đã giới thiệu về các giai đoạn lịch sử cách mạng, những chặng

đường phát triển của Đảng uỷ khối các cơ quan tỉnh từ năm 1958 đến năm

2013. Trong đó, Đảng bộ cơ quan Sở GD - ĐT Hòa Bình là đơn vị trực thuộc

Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh. Do vậy nội dung được trình bày trong cuốn

sách qua các giai đoạn lịch sử của Đảng bộ Khối tuy không đi sâu về lĩnh vực

14

GDPT, song một số thành tựu chủ yếu dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ cơ quan

Sở GD - ĐTcũng được đề cập đến trong nội dung của cuốn sách này.

Cuốn Gương người tốt, việc tốt tỉnh Hòa Bình (2010 - 2015), Hội đồng

thi đua - khen thưởng tỉnh Hòa Bình, 2015, bao gồm 80 bài viết về các tập

thể, cá nhân tiêu biểu trong các phong trào thi đua yêu nước trên địa bàn tỉnh.

Thông qua đó, biểu dương ghi nhận những kết quả đã đạt được từ các phong

trào thi đua yêu nước; tôn vinh các tập thể, cá nhân tiêu biểu trong các cấp,

các ngành. Từ đó, khơi dậy và cổ vũ sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết

dân tộc, phát huy nội lực, tạo động lực thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát

triển kinh tế, xã hội, cũng như góp phần tuyên truyền, cổ vũ, nhân rộng các

gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến ở các địa phương, đơn vị để xã

hội học tập và làm theo. Các tập thể và cá nhân được nêu gương, trong đó có

lĩnh vực GDPT, tuy không tiệm cận trực tiếp đến lĩnh vực của luận án, song

cũng là động lực thúc đẩy quan trọng cho phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình

trong các giai đoạn tiếp theo.

Đẻ đất đẻ nước và phong tục đạo lý nhân văn Mường, UBND tỉnh Hòa

Bình, Bùi Thiện sưu tầm, biên dịch, giới thiệu, NXB Văn hóa dân tộc, 2015.

Công trình được coi là một bộ từ điển về sử thi, về tri thức dân gian của dân

tộc Mường nói chung và người Mường tỉnh Hòa Bình nói riêng. Với hơn

1300 trang sách, tác giả đã giúp chúng ta rõ hơn về các nghi thức dân gian

chủ yếu của người Mường là Mo, Trượng và Mỡi; quan niệm về vũ trụ, về xứ

Mường xưa, về đạo lý, nhân văn, về lịch sử dân tộc người đã và đang là

những chủ nhân của tỉnh Hòa Bình. Đặc biệt đây là lần đầu tiên, cuốn sách

chính thức cho chúng ta biết Mo Mường không chỉ có đẻ đất đẻ nước, mà còn

có rất nhiều các áng Mo khác phản ánh phong tục và đạo lý. Một cái nhìn bao

quát thì đó là những câu chuyện về huyền thoại - huyền tích; là áng sử thi về

nguồn gốc loài người; về cuộc chiến sinh tồn; về lao động và những cuộc

chiến huyền thoại từ xa xưa của xứ Mường. Tác phẩm không trực tiếp đề cập

15

đến GDPT, song là một tỉnh với đa số dân cư là dân tộc Mường, do chịu ảnh

hưởng của các yếu tố truyền thống, văn hóa, tập tục, tín ngưỡng nên cũng có

sự tác động nhất định đến phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình qua các giai đoạn.

Cuốn "Văn phòng Tỉnh ủy Hòa Bình 70 năm - những chặng đường phát

triển" đã tái hiện lại quá trình hoạt động 70 năm xây dựng và phát triển của

Văn phòng Tỉnh ủy qua các thời kỳ, thể hiện chính xác, đầy đủ dữ liệu và giá

trị lịch sử, khoa học. Tuy chưa được xuất bản, song các đại biểu tham dự Hội

nghị đều nhất trí cao với nội dung và bố cục của cuốn sách và sẽ được phát

hành trong thời gian gấn nhất, để các độc giả quan tâm nghiên cứu. Qua

chặng đường 70 năm phát triển của Văn phòng Tỉnh ủy, cuốn sách không đi

sâu về chủ trương phát triển GDPT, song mọi tham mưu cho Tỉnh ủy về chủ

trương phát triển GD - ĐT, nơi lưu trữ các văn bản của tỉnh ủy, trong đó có

các văn bản chỉ đạo về giáo dục, các số liệu báo cáo cũng được đề cập trong

cuốn sách này.

Liên quan đến đề tài của luận án còn có những công trình, bài viết của

các nhà nghiên cứu như: Pierre - Grossin, Tỉnh mường Hòa Bình, Nxb Lao

động, Hà Nội, 1994; Đỗ Thế Mậu, Nguyễn Thành Công, Hà Văn Thu, Hòa

Bình những tập thể và cá nhân anh hùng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,

2000; Quách Thế Tản, Văn hóa Hòa Bình ở thế kỷ XXI, Nxb Văn hóa dân tộc,

Hà Nội, 2000; Chu Viết Luân, Hòa Bình - thế và lực trong thế kỉ XXI, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Bùi Văn Thắng, Hòa Bình phía trước là

những con đường, Tạp chí Thương Mại, 2005; Hồ Sỹ Quý, Nguyễn Ngọc

Hồng, Dương Thị Bạch Kim, Con người và phát triển con người ở Hòa Bình:

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007; Phạm

Lê Hòa, Những ghi chép về người Mường ở Hòa Bình Phần 1: Đặc điểm nơi

cư trú, Tạp chí Giáo dục Nghệ thuật, 2017… Các công trình, bài viết chưa

trực tiếp đề cập đến đề tài của luận án, song có mối liên hệ với các mặt, các

lĩnh vực và tác động chung đến quá trình phát triển GD - ĐT ở tỉnh Hoà Bình.

16

Luận án Tiến sĩ Sử học của Bùi Thị Nguyệt Quỳnh, Quá trình chuyển

biến kinh tế, xã hội tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010, (2017) là công

trình nghiên cứu khoa học chuyên khảo đã tổng hợp một cách hệ thống về sự

chuyển biến kinh tế, xã hội của tỉnh Hòa Bình trong giai đoạn 1991 đến 2010

với những chỉ số định lượng cụ thể của từng lĩnh vực, cũng như những tiềm

năng thế mạnh và thách thức đặt ra cho địa phương trong sự phát triển đi lên.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đã đưa ra một số nhận xét, đánh giá,

đồng thời cũng gợi mở một số đề xuất nhằm góp phần vào sự phát triển kinh

tế, xã hội của tỉnh Hòa Bình trong thời gian tới. Tuy không trực tiếp nghiên

cứu về GDPT, song một số kết quả về phát triển KT - XH của tỉnh Hòa Bình,

trong đó có GDPT cũng được đề cập khái quát trong nội dung luận án.

1.3. Những kết quả nghiên cứu đã đạt được và những vấn đề luận

án cần tiếp tục nghiên cứu

1.3.1. Kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố.

Các công trình, bài viết đề cập đến GD - ĐT nói chung, GDPT nói

riêng như tác giả nêu trên rất phong phú và đa dạng, đã nghiên cứu ở nhiều

góc độ, khía cạnh, giai đoạn lịch sử khác nhau. Công trình được nghiên cứu là

các tổ chức, các nhóm, các cá nhân quan tâm. Kết quả nghiên cứu của các

công trình, bài viết đã làm rõ được những vấn đề cơ bản như sau:

Thứ nhất: Các công trình nghiên cứu về giáo dục và giáo dục phổ thông

- Nhiều công trình nghiên cứu có tính chất lý luận về giáo dục, đã hệ

thống những quan điểm, tư tưởng của Đảng về GD - ĐT, bao gồm cả khái

niệm, mục đích, nội dung, cách dạy, cách học, cách quản lý, cách lãnh đạo

ngành giáo dục… Đây là cơ sở lý luận quan trọng góp phần vào công tác xây

dựng đường lối chính sách về phát triển giáo dục ở nước ta, cho nền khoa học

giáo dục Việt Nam và về chiến lược xây dựng con người mới.

- Các công trình cũng đã khẳng định vai trò của GD - ĐT là yếu tố quan

trọng nhất trong chiến lược con người của Đảng, là hạt nhân, là động lực thúc

đẩy sự phát triển KT - XH của đất nước.

17

- Một số công trình đã đi vào tổng kết quá trình phát triển của ngành

giáo dục Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, đã đánh giá, nhận xét

về giáo dục Việt Nam qua các giai đoạn đó; đồng thời rút ra một số bài học

kinh nghiệm và định hướng phát triển GD - ĐT ở Việt Nam trong những năm

tiếp theo.

- Một số tác giả đã đề cập đến việc tăng cường hợp tác quốc tế để nâng

cao chất lượng giáo dục, phương hướng đổi mới giáo dục, đa dạng hoá các

loại hình đào tạo, thực hiện xã hội hoá giáo dục và chỉ ra sự tác động của các

nguồn lực, các chính sách lớn đến GD - ĐT ở Việt Nam.

- Một số nhà nghiên cứu về giáo dục còn đi sâu tìm hiểu về kinh nghiệm

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở một số quốc gia có nền giáo dục phát

triển, qua đó đã đưa ra các gợi ý cho Việt Nam với ý tưởng muốn vận dụng

những kinh nghiệm đó vào hoàn cảnh nước nhà.

- Một số công trình, bài viết, luận án đã trực tiếp nghiên cứu về GDPT

như nghiên cứu về lịch sử phát triển, đánh giá khái quát về thực trạng và đưa

ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng GDPT trong giai đoạn hiện nay.

Thứ hai: Các công trình nghiên cứu về tỉnh Hòa Bình có liên quan đến

giáo dục

- Một số công trình, bài viết đã tái hiện toàn cảnh về vị trí chiến lược và

truyền thống lịch sử - văn hóa; quá tình hoạt động đầy thử thách, hy sinh giành

thắng lợi to lớn của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Hoà Bình qua các

giai đoạn lịch sử, đã chứa đựng nhiều nội dung phong phú các nguồn tư liệu

thành văn, điền dã và làm sáng tỏ trên những lĩnh vực địa lý, lịch sử, kinh tế,

văn hoá, xã hội và mối liên hệ gắn bó giữa các lĩnh vực đó. Về phát triển giáo

dục qua các giai đoạn lịch sử cũng đã được đề cập đến ở một cách khái quát

nhất, những nét lớn về giáo dục của tỉnh Hoà Bình trong các công trình này.

- Một số cuốn sách đã khái quát đầy đủ về các kỳ đại hội của Đảng bộ

tỉnh Hoà Bình, trên cơ sở vận dụng linh hoạt các chủ trương của Đảng, đồng

18

thời đã đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ cho phù hợp với điều kiện

của tỉnh Hòa Bình qua các giai đoạn lịch sử. Qua đó, những chủ trương,

đường lối và một số chỉ tiêu chính về phát triển giáo dục cũng được đề cập

đến trong các cuốn sách.

- Một số công trình đã trực tiếp nghiên cứu về GD - ĐT ở tỉnh Hòa

Bình, đã giới thiệu các sự kiện tiêu biểu và những thành tựu cơ bản của sự

nghiệp giáo dục của tỉnh Hoà Bình dưới chế độ mới,…

Có thể nói các công trình, bài viết mà các tác giả đề cập đến trong nội

dung tổng quan, có mối liên hệ với các mặt, các lĩnh vực và liên quan trực

tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình phát triển GDPT ở tỉnh Hoà Bình. Đây là

những tư liệu và là định hướng nghiên cứu có giá trị quan trọng giúp tác giả

tham khảo cho luận án của mình.

1.3.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu.

Hầu hết các công trình nghiên cứu trước đây về giáo dục và GDPT,

mới chỉ đánh giá khái quát ở góc độ ghi nhận, hay nghiên cứu trên một số

mặt, một số lĩnh vực cụ thể, ở các địa phương khác nhau mà chưa nghiên cứu

một cách có hệ thống, toàn diện về GDPT, nhất là chưa đánh giá được thực

trạng GDPT trên các mặt, các lĩnh vực. Còn các công trình, bài viết nghiên

cứu về tỉnh Hòa Bình và GD - ĐT ở tỉnh Hòa Bình cũng mới chỉ chủ yếu đề

cập đến GD - ĐT nói chung, hoặc điểm qua một số thành tựu, hạn chế về giáo

dục qua các giai đoạn lịch sử… mà chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu

về GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010.

Với những đánh giá, nhận xét nêu trên, tác giả nhận thấy rằng GDPT ở

tỉnh Hòa Bình còn những khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu trong nội

dung luận án, tác giả sẽ tập trung giải quyết vào một số nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, phân tích làm rõ những yếu tố tác động đến GDPT ở tỉnh

Hòa Bình; đồng thời nêu lên chủ trương của Đảng và sự vận dụng của Đảng

bộ tỉnh Hòa Bình về phát triển GDPT.

19

Thứ hai, làm rõ thực trạng GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến

năm 2010.

Thứ ba, trên cơ sở đánh giá khách quan về quá trình phát triển GDPT ở

tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010 sẽ rút ra đặc điểm chủ yếu và một số

kinh nghiệm cho GDPT tỉnh Hòa Bình trong các giai đoạn phát triển tiếp theo.

20

Chương 2

PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở TỈNH HÒA BÌNH

GIAI ĐOẠN 1991 - 2001

2.1. Khái quát về tỉnh Hòa Bình và giáo dục phổ thông ở Hòa Bình

trước khi tái lập tỉnh (1991)

2.1.1. Khái quát về tỉnh Hòa Bình và những yếu tố tác động đến quá

trình phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình.

Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên.

Hòa Bình là một tỉnh miền núi nằm ở cửa ngõ vùng Tây Bắc của Tổ

quốc, có vị trí địa lý quan trọng của vùng chuyển tiếp từ đồng bằng lên vùng

núi, điểm trung chuyển sức hút ảnh hưởng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội

của Thủ đô Hà Nội.

Nằm trong giới hạn ở vị trí 20,9 độ vĩ bắc và 104,86 độ kinh đông, phía

Bắc giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp thành phố Hà Nội, phía Tây giáp tỉnh

Sơn La, phía Nam giáp tỉnh Ninh Bình, Hà Nam và Thanh Hóa. Diện tích

toàn tỉnh Hòa Bình là 4.596,4km2, ở địa bàn miền núi, nông - lâm nghiệp là

tiềm năng kinh tế quan trọng hàng đầu của tỉnh, đặc biệt là tiềm năng về lâm

nghiệp. Trong tổng số 307.755ha đất nông - lâm nghiệp, đất lâm nghiệp chiếm

tới 250.168ha, bằng 80%; cấy lúa, hoa màu 29.243ha, bằng 10% diện tích, còn

lại phần lớn diện tích trong tỉnh là núi đá vôi và đồi núi trọc [2, tr. 9,12].

Ngày 22 - 6 - 1886, chính quyền thực dân Pháp kí Nghị định cắt vùng

đất có nhiều đồng bào Mường cư trú thuộc các tỉnh Hưng Hóa, Sơn Tây, Hà

Nội và Ninh Bình để thành lập một tỉnh mới gọi là tỉnh Mường (tỉnh lỵ đặt tại

Chợ Bờ), tỉnh Mường bao gồm 4 phủ: Vàng An, Lương Sơn, Lạc Sơn và chợ

Bờ. Ngày 5 - 9 - 1896, tỉnh lỵ tỉnh Mường được chuyển về làng Vĩnh Diệu,

xã Hòa Bình (phía tả ngạn sông Đà, đối diện xã Phương Lâm), từ đó tỉnh

Mường được gọi là tỉnh Hòa Bình và địa giới của tỉnh về cơ bản đã được ổn

21

định. Sau năm 1954, các châu được chuyển thành đơn vị hành chính cấp

huyện. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa V, kì họp thứ 2, ngày 01 - 4

- 1976, hai tỉnh Hòa Bình và Hà Tây sát nhập thành tỉnh Hà Sơn Bình và

chính thức đi vào hoạt động. Năm 1991, Quốc hội khóa VIII, kì họp thứ IX,

đã quyết định điều chỉnh lại địa giới và chia cắt tỉnh Hà Sơn Bình thành hai

tỉnh là Hà Tây và Hòa Bình.

Tính đến năm 2009, tỉnh Hòa Bình có 10 huyện và 1 thành phố, 210

xã, phường và thị trấn. Tỉnh lỵ Hòa Bình (nay là thành phố Hòa Bình), cách

Thủ đô Hà Nội 76 km về phía Tây. Đường quốc lộ 6 đi qua Hòa Bình dài 125

km, nối liền Hà Nội, đồng bằng Bắc Bộ với Tây Bắc và Thượng Lào. Các

tuyến đường 12, 15, 21 đã nối liền Hòa Bình với các tỉnh Ninh Bình, Thanh

Hóa và Hà Nam. Theo kết quả tổng điều tra dân số năm 2009, tỉnh Hòa Bình

có 832.543 người, với mật độ dân số 171 người/km2. Hòa Bình là địa bàn cư

trú của nhiều dân tộc anh em, trong đó có 7 dân tộc chính. Dân tộc Mường

đông nhất chiếm 62,98%, ngoài ra còn có các dân tộc Kinh, dân tộc Thái, dân

tộc Tày, dân tộc Dao, dân tộc Mông và dân tộc Hoa [2, tr. 9].

Địa hình Hòa Bình bị chia cắt phức tạp, có độ dốc lớn. Vùng núi cao

hiểm trở nằm ở phía Tây Bắc với độ cao trung bình 600 - 700m so với mặt

nước biển, với độ dốc 30 - 35°, có nơi dốc trên 40°. Phía Đông Nam là vùng

núi thấp với độ cao trung bình 100 - 200m và độ dốc 20 - 25° [163, tr. 3].

Trên dải cao nguyên đá vôi chạy suốt từ Phong Thổ (Lai Châu) đến bờ biển

Ninh Bình, hoạt động Cacxtơ hóa đã tạo ra bồn địa giữa núi có điều kiện cư

trú thuận lợi (địa hình thấp, khá bằng phẳng, đất đai màu mỡ, có nguồn

nước…) hình thành lên các xứ Mường trù phú sinh sống.

Khí hậu ở Hòa Bình có đặc điểm nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm ướt với

nhiệt độ trung bình từ 23,4°C, những tháng nhiệt độ cao thường vào tháng 6,

tháng 7, tháng 8 nhiệt độ trên 30°C; lượng mưa hàng năm từ 1800mm -

2000mm và độ ẩm trung bình hàng năm 85% [163, tr. 20].

22

Hòa Bình có hai con sông chính: Sông Đà bắt nguồn từ Trung Quốc

chảy qua các tỉnh Tây Bắc của Việt Nam đến Việt Trì nhập vào sông Hồng,

đoạn có chiều dài chảy qua Hòa Bình 151km. Sông Bôi, bắt nguồn từ Kỳ

Sơn, chảy qua huyện Kim Bôi, Lạc Thủy ra Nho Quan (Ninh Bình), có chiều

dài qua Hòa Bình 66km. Ngoài ra còn có các sông Bưởi, sông Bùi, sông

Lạng… Hồ lớn nhất của tỉnh Hòa Bình là hồ sông Đà với diện tích mặt nước

trên 9000ha và dung tích 9,5 tỉ m³. Đây không chỉ là công trình thủy điện lớn

nhất cả nước với tổng công xuất 1920Mw và lượng thủy năng 50 tỷ kw/h mà

còn là công trình thủy lợi cung cấp nguồn nước phục vụ sản xuất sinh hoạt, nuôi

trồng thủy hải sản của tỉnh cũng như tạo ra khu du lịch lòng hồ đầy triển vọng.

Thiên nhiên đã tạo ra cho Hòa Bình nhiều cảnh quan đẹp và kỳ thú

như: núi Cột Cờ (huyện Tân Lạc) hang Can (huyện Kỳ Sơn) hang Trại (huyện

Lạc Sơn) hang Đồng Nội (huyện Lạc Thủy) các khu du lịch Vua Bà, Chợ Bờ,

suối nước khoáng Mớ Bà (huyện Kim Bôi)… Nhờ bàn tay lao động cần cù và

sáng tạo, nhân dân các dân tộc ở đây đã tạo nên nền văn hóa Hòa Bình nổi

tiếng với những bản làng đẹp của đồng bào Thái (bản Lác - Mai Châu), của

dân tộc Mường (bản Đốm - Thành phố Hòa Bình), cùng với trang phục thổ

cẩm đầy màu sắc, đặc sản rượu cần của địa phương… đã mang đến cho Hòa

Bình những điểm du lịch có giá trị văn hóa cao.

Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên nêu trên đã có ảnh hưởng rất lớn

đến phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình, đặc biệt đối với một tỉnh miền núi,

nhiều nơi giao thông đi lại thường xuyên bị chia cắt, địa hình, địa thế khá

hiểm trở, dân cư thưa thớt nằm dải rác ở khắp nơi, tỷ lệ dân tộc thiểu số cư trú

ở các vùng sâu, vùng xa, vùng lòng hồ còn khá phổ biến,… vì vậy điều kiện

cho con em tham gia học tập cũng như việc mở trường, lớp tại các thôn, bản,

vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn, ở vùng lòng hồ các em phải đi học

bằng thuyền vừa khó khăn, vừa nguy hiểm. Những khó khăn đó đã ảnh hưởng

không nhỏ đến số lượng và chất lượng của giáo dục của tỉnh Hòa Bình.

23

Kinh tế.

Thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản

Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, từ thực tiễn phát triển KT - XH của địa

phương, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hòa Bình từ các khóa XI

(1992) đến khóa XV (2010) đưa ra mục tiêu trọng tâm là: Ổn định và đẩy

mạnh phát triển KT - XH, giải phóng năng lực sản xuất; từng bước chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH; phát triển mạnh mẽ tiểu thủ công

nghiệp, xây dựng - công nghiệp và phát triển thương mại, du lịch, dịch vụ;

tăng trưởng kinh tế gắn với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội; bảo

đảm an ninh - quốc phòng; từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần

của nhân dân [2, tr. 818].

Thực hiện mục tiêu, chiến lược phát triển KT - XH do Đại hội Đảng bộ

tỉnh Hòa Bình đã đề ra, sau 20 năm tái lập tỉnh, giai đoạn 1991 - 2010, phát

triển kinh tế ở Hòa Bình có bước chuyển biến rõ nét, đã đạt những thành tựu

khá toàn diện, GDP liên tục đạt tốc độ tăng trưởng khá, với mức bình quân

7,6%/ năm trong giai đoạn 1991 - 1995; 7,5%/ năm trong giai đoạn 1996 -

2000; 8%/ năm trong giai đoạn 2001 - 2005, đặc biệt trong giai đoạn 2006 -

2010, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 12,14%. Thu ngân sách nhà nước có

bước nhảy vọt (năm 1995 đạt 240,3 tỉ đồng, năm 2005 đạt 379 tỷ đồng, năm

2010 đạt 1.322 tỷ đồng). Thu nhập bình quân đầu người năm 1995 là 1,7 triệu

đồng, năm 2000 là 2,5 triệu đồng, năm 2010 đạt 13,2 triệu đồng; đời sống của

nhân dân các dân tộc trong tỉnh không ngừng được cải thiện. Toàn tỉnh không

còn hộ đói, tốc độ giảm nghèo nhanh từ 31,31% năm 2005 xuống còn 14%

năm 2010. Kết cấu hạ tầng KT - XH được đầu tư phát triển, đường giao

thông, điện, trường học, bệnh viện, công trình thủy lợi, cùng các công trình

phúc lợi khác phát triển mạnh làm cho diện mạo của tỉnh Hòa Bình có nhiều

thay đổi nhanh chóng, nhất là Thành phố Hòa Bình và các thị trấn. Sản xuất

24

nông nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng bền vững; sản xuất công nghiệp

tăng giá trị gấp 2,5 lần so với năm 2005; các ngành dịch vụ phát triển khá,

tổng mức doanh thu tăng gấp 4,5 lần so với năm 2005 [2, tr. 809]. Quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Hòa Bình diễn ra theo hướng giảm dần tỉ

trọng của nông - lâm - ngư nghiệp, tăng dần tỉ trọng của công nghiệp, xây

dựng và dịch vụ. Tiến trình này phù hợp với xu thế chung của chuyển dịch cơ

cấu kinh tế đất nước trong thời kỳ đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa (CNH, HĐH) và hội nhập quốc tế, được thể hiện qua biểu đồ sau:

Biểu đồ 2.1. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế (1991 - 2010)

Nguồn: [159, tr. 427] Nguồn: [2, tr. 786]

Với tốc độ tăng trưởng về kinh tế và thu nhập bình quân đầu người qua

các năm của tỉnh Hòa Bình không ngừng được tăng lên đã góp phần quan

trọng vào tổng thu ngân sách của tỉnh, nhờ đó đầu tư cho giáo dục cũng được

tăng theo mức thu hàng năm, tạo động lực quan trọng cho GDPT được phát

triển. Bên cạnh đó, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp

- xây dựng và dịch vụ, tỷ trọng trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp giảm dần, đã

đặt ra yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực đối với GDPT phải kịp thời thích

ứng với sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế. Đây vừa là điều kiện thuận lợi,

song cũng đặt ra không ít những khó khăn, thách thức đối với phát triển

GDPT ở tỉnh Hòa Bình.

25

Truyền thống lịch sử, văn hóa - xã hội.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, ở địa bàn có vị trí

quan trọng, địa thế hiểm yếu nên nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình có

truyền thống yêu nước, đấu tranh lâu đời, chính trong quá trình đó, truyền

thống yêu nước được hình thành và ngày càng được bồi đắp, phát huy. Núi

vua Bà đã đi vào sử sách, là nơi lập căn cứ của hai nữ anh hùng Trưng Trắc,

Trưng Nhị chống lại quân xâm lược Đông Hán trong những năm đầu công

nguyên. Thế kỷ XV, phong kiến nhà Minh xâm lược và thống trị nước ta, Lê

Lợi đã dựng cờ khởi nghĩa tại Lam Sơn (Thanh Hóa), dải đất liền mạch với

địa bàn cư trú của đồng bào Mường Hòa Bình, nghĩa quân đã được nhân dân

các dân tộc Hòa Bình hết lòng ủng hộ, kết thúc cuộc kháng chiến 10 năm

gian khổ giành độc lập dân tộc. Thế kỷ XVIII, nước ta bị tập đoàn phong kiến

phương Bắc Mãn Thanh xâm lược, người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ từ

Phú Xuân đưa đại quân thần tốc ra đại phá quân Thanh, trên đường qua Lạc

Sơn - Kim Bôi được nhân dân tận tình giúp đỡ như dẫn đường, ủng hộ và vận

chuyển lương thực, thực phẩm… Không chỉ có truyền thống yêu nước chống

giặc ngoại xâm, nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình còn có truyền thống đấu

tranh chống lại sự áp bức bóc lột của một bộ phận triều đình phong kiến thối

nát. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân

dân các dân tộc Hòa Bình tiếp tục nêu cao tinh thần đấu tranh bất khuất, anh

dũng đứng lên cầm vũ khí chiến đấu bảo vệ quê hương, bảo vệ nền độc lập

dân tộc và lập nhiều chiến công vang dội, đồng thời là nơi tiếp tế quan trọng

cho tiền tuyến, góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống

thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam

thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên xây dựng CNXH.

Nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình có niềm tự hào là quê hương của

một nền văn hóa nổi tiếng, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tiến trình

hình thành, phát triển của loài người nói chung và con người Việt Nam nói

26

riêng, đó là nền văn hóa Hòa Bình, nền văn hóa của dân cư nông nghiệp sơ

khai cách đây hàng vạn năm do nhà khảo cổ học người Pháp Colani phát hiện

và được đại hội lần thứ nhất các nhà tiền sử Viễn Đông họp tại Hà Nội vào

tháng Giêng năm 1932 thừa nhận. Hàng loạt các di chỉ khảo cổ học trên đất

Hòa Bình được phát hiện, trong đó có trống Sông Đà là một trong những

chiếc trống vào loại đẹp nhất, cổ nhất thế giới. Nhiều công cụ bằng đồng

được phát hiện như: rìu lưỡi xéo, lưỡi giáo, thuẫn, dao cắt, thạp thố… thuộc

văn hóa Đông Sơn đã chứng tỏ nền văn hóa nổi tiếng này đã phát triển rực rỡ

trên vùng đất Hòa Bình, là những minh chứng lịch sử khẳng định cư dân xưa

trên đất Hòa Bình đã góp phần xây dựng nền văn minh nông nghiệp của đất

Việt. Dân tộc Mường chính là người Việt cổ.

Tự hào là mảnh đất có chiều dày lịch sử, nhân dân các dân tộc trong

tỉnh cũng tạo cho mình một sắc thái đặc sắc riêng. Đồng bào Mường có lễ hội

Cồng Chiêng, có trường ca “Đẻ đất, đẻ nước”. Đồng bào Thái có chữ viết

riêng từ lâu đời với trường ca “Sống trụ sôn sao”. Tiếng sáo cùng những làn

điệu dân ca H’Mông say đắm,… đã tạo ra sự phong phú đa dạng về văn hóa

Việt Nam mà vẫn giữ được bản sắc riêng của mỗi dân tộc tỉnh Hòa Bình.

Cần cù lao động, nghị lực trong cuộc sống đầy khó khăn vất vả, thật

thà chân chất và giàu lòng nhân ái, mến khách, tình gắn bó keo sơn giữa

những người cùng cộng đồng. Trong lịch sử phát triển của mình, mặc dù tỉnh

Hòa Bình có bề dày văn hóa, nhưng do nhiều nguyên nhân, nền giáo dục Hòa

Bình phát triển rất chậm. Với điều kiện kinh tế mang tính tự cấp, tự túc, lại bị

chế độ lang đạo, thực dân thống trị cực kỳ tàn bạo, lạc hậu và bảo thủ, đã kìm

hãm trình độ dân trí của dân nhân các dân tộc trong tỉnh, ngay cả Công sứ tỉnh

Hòa Bình Regnier cũng phải xem đó như một sai lầm cần phải sửa chữa…

Từ các đặc điểm chủ yếu nêu trên, đã phản ánh những thuận lợi cơ bản,

to lớn cũng như những khó khăn không nhỏ đối với quá trình phát triển

GDPT ở tỉnh Hòa Bình. Song, với truyền thống bất khuất kiên cường chống

27

áp bức bất công, chống quân xâm lược của nhân dân các dân tộc và xuất phát

từ nền tảng văn hóa được các thế hệ dân cư Hòa Bình, là một trong những

nền tảng vững chắc, động lực quan trọng để giáo dục đào tạo nói chung,

GDPT ở tỉnh Hòa Bình nói riêng được phát triển bền vững, cũng như góp

phần vào việc giữ gìn, bảo tồn các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc.

2.1.2. Giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình trước khi tái lập tỉnh (1991).

Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi,

hòa bình được lập lại ở miền Bắc, nhân dân các dân tộc trong tỉnh Hoà Bình

bắt tay vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng quê hương

sau 9 năm kháng chiến. Ngành giáo dục tỉnh Hòa Bình bước vào thực hiện

nhiệm vụ mới rất vẻ vang, nhưng cũng đòi hỏi tinh thần trách nhiệm để vượt

qua khó khăn, thách thức. Xác định phát triển GD - ĐT là một trong những

nhiệm vụ trọng yếu, nhân dân các dân tộc Hòa Bình đã dốc sức cho sự nghiệp

chấn hưng và phát triển giáo dục.

Thời kỳ từ năm 1954 đến năm 1975, ngành giáo dục tỉnh Hòa Bình tiếp

tục tiến hành cải cách giáo dục lần thứ hai theo hệ thống giáo dục 10, năm

gồm ba cấp: Cấp I là 4 năm, cấp II là 3 năm, cấp III là 3 năm. Do vậy hệ

thống GDPT của tỉnh Hòa Bình đã không ngừng được phát triển. Trong

những năm khôi phục và phát triển kinh tế (1954 - 1957), cùng với việc hoàn

thiện, củng cố hệ thống GDPT theo chương trình mới, tỉnh Hòa Bình vẫn duy

trì được phong trào bình dân học vụ. Tính đến cuối năm 1957, toàn tỉnh đã tổ

chức được 1548 lớp bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ cho 10.949 người (đạt

144% kế hoạch). Xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy trở thành lá cờ đầu về xóa

mù chữ của tỉnh được Chính phủ tặng thưởng Huân chương. Ngoài ra còn vận

động được 8.568 học viên tham gia bổ túc văn hóa, đạt 173% kế hoạch [146,

tr. 103]. Năm 1958, phong trào bổ túc văn hóa, phát triển GDPT được đẩy

mạnh hơn các năm trước. Toàn ngành giáo dục của tỉnh đã mở các lớp bình

dân học vụ, thu hút được 26.500 học viên tham dự, về cơ bản đã xóa mù chữ

28

ở các xã Yên Lạc, Ngọc Lương, Yên Trị, Lạc Lương, Đoàn Kết, Hữu Lợi

thuộc huyện Yên Thủy; xã Thịnh Lang, Trung Minh, Phú Minh thuộc huyện

Kỳ Sơn. Ở huyện Lương Sơn, năm 1960, 100% số người trong độ tuổi, chưa

biết chữ đều đi học và chuyển sang thực hiện bổ túc văn hóa [146, tr. 107-

109]. Đối với các xã vùng cao, vùng xa, toàn tỉnh Hòa Bình đã mở thêm 9

trường cấp I ở vùng cao và vùng đồng bào Thiên Chúa giáo, ở Kim Bôi đã

mở thêm một trường cấp II. Số học sinh phổ thông thời kỳ này đã tăng lên

7.290 em cấp I và 370 em cấp III [146, tr. 109].

Ngoài ra, các phong trào như “dạy tốt, học tốt”, “xây dựng kỷ cương,

tình thương, trách nhiệm”, “vở sạch chữ đẹp”… được phát động rộng khắp ở

các trường học.

Cũng trong thời gian này, hưởng ứng phong trào miền xuôi đi xây

dựng kinh tế, văn hóa và lập nghiệp ở miền núi, năm 1959, tỉnh Hòa Bình đã

tiếp nhận 86 giáo viên và hàng chục sinh viên tình nguyện lên công tác ở địa

phương trong tỉnh. Hàng loạt các trường cấp I, cấp II đã được thành lập như:

trường Ngọc Lương (Yên Thủy), Suối Rút (Mai Châu), Hợp Thịnh, Thịnh

Lang, Dân Hạ, Thu Phong (Kỳ Sơn), Mãn Đức, Tử Nê (Tân Lạc), Vĩnh Tiến,

Thanh Lương (Kim Bôi). Được sự quan tâm của Tỉnh ủy và chính quyền địa

phương, tháng 10 - 1961, tỉnh Hòa Bình đã thành lập Khu học xá và phát

động phong trào thi đua “Hai tốt” để nâng cao chất lượng giáo dục.

Thực hiện Chỉ thị 237 của Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị 26 của Bộ

GD - ĐT về công tác lãnh đạo sản xuất trong các trường học, ngày 1 - 4 -

1958, trường Thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình ra đời. Đây là

trường “vừa học, vừa làm” đầu tiên ở Việt Nam với phương châm giáo dục

của trường là thực hiện “học đi đôi với hành”. Tiếp tục phát triển mô hình

này, tỉnh đã chỉ đạo thành lập trường phổ thông lao động ở các huyện. Ngày

17 - 8 - 1962, nhà trường đã vinh dự được đón Bác Hồ về thăm, Bác đã ghi

trong sổ vàng truyền thống của trường dòng chữ: “phải học tập tốt, lao động

29

tốt, cố gắng mãi, tiến bộ mãi”. Đây không chỉ là yêu cầu đối với trường

Thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình, mà còn là mục tiêu chung

cho toàn hệ thống GD - ĐT của cả nước. Từ mô hình trường Thanh niên lao

động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình, trường đã trở thành một điển hình giáo dục

không chỉ trong nước mà còn có ảnh hưởng tới một số nước khác như Lào,

Cu Ba… đã tới thăm và học tập kinh nghiệm. Không ngừng xây dựng và

trưởng thành, trường luôn là đơn vị dẫn đầu các trường vừa học vừa làm và

được nhận cờ thi đua xuất sắc nhất của Bộ Giáo dục trao tặng tại đại hội thi

đua “Hai tốt” toàn miền Bắc (12 - 1966).

Bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), ngành

giáo dục Hòa Bình tích cực tìm ra những hình thức hoạt động cho phù hợp

với điều kiện địa phương để kết hợp giáo dục với lao động sản xuất, học lý

thuyết với rèn luyện kỹ năng thực hành. Kết quả, đầu năm 1961, Hòa Bình

là tỉnh miền núi đầu tiên hoàn thành công tác xóa mù chữ và vinh dự được

đón Phó Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng dự lễ mừng công về xóa mù chữ và

trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất cho ngành giáo dục của tỉnh.

Năm 1962, toàn tỉnh Hòa Bình có thêm 5.434 người biết đọc, biết viết. Năm

học 1962 - 1963, tính chung các huyện thị trong tỉnh đã mở thêm 40 trường

phổ thông cấp I, đưa tổng số trường ở toàn tỉnh lên 201 trường, với 17.932

học sinh; cấp II có 20 trường, với 2.266 học sinh; 1 trường cấp III, với 536

học sinh. Năm học 1963 - 1964, tổng số học sinh phổ thông các cấp lên

nhanh chóng với 22.756 em, đạt 109,18% kế hoạch, đặc biệt trong số học

sinh cấp III có 17% là con em đồng bào dân tộc Tày, Dao, Mông, Thái,

Mường [146, tr. 118].

Tuy nhiên, một số chỉ tiêu cụ thể mà ngành giáo dục Hòa Bình đề ra

cho giai đoạn này vẫn chưa đạt yêu cầu, trong đó đáng chú ý là việc huy động

các trẻ em dân tộc trong độ tuổi đi học đến lớp đạt tỷ lệ thấp, nhất là ở cấp I,

như ở Mai Châu, Đà Bắc mới đạt 23 - 26%, một số huyện khác cũng chỉ đạt

30

28 - 47%. Đặc biệt các vùng đồng bào dân tộc Mông, Dao tỷ lệ này càng

thấp, bình quân 1.000 dân mới có 4 người đi học [146, tr. 119].

Từ cuối năm 1964, đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc bằng

không quân và hải quân, tỉnh Hòa Bình là cửa ngõ khu Tây Bắc và là nơi tập

kết các cơ sở hậu cần quan trọng nên đế quốc Mỹ coi Hòa Bình là một trong

những trọng điểm tập trung phá hoại, nhiều nơi trên địa bàn tỉnh Hòa Bình bị

máy bay Mỹ đánh phá ác liệt. Thực hiện sự chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh, các

trường học đã nhanh chóng sơ tán về các làng, bản. Phương châm giáo dục

tỉnh Hòa Bình lúc này là tiếp tục duy trì việc dạy và học ở tất cả các cấp học,

bậc học. Với tinh thần quyết tâm cao, thầy và trò luôn duy trì bám trường,

bám lớp và đạt được những kết quả đáng khích lệ. Năm học 1964 - 1965, tỷ lệ

học sinh thi tốt nghiệp phổ thông ở cả ba cấp: cấp I đạt 95,5%, cấp II đạt

97%, cấp III đạt 93,2%. Huyện Kim Bôi, năm học 1974 - 1975 tỷ lệ học sinh

lên lớp đạt 90%, chuyển cấp đạt 85% [146, tr. 126,134,138].

Tháng 12-1966, trường cấp III Hoàng Văn Thụ tiếp tục được Bộ Giáo

dục công nhận là 1 trong 9 trường tiên tiến toàn miền Bắc; năm 1971 Trường

thanh niên Lao động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình là 1 trong 3 trường được

nhận danh hiệu Đơn vị tiên tiến toàn ngành, được Nhà nước tặng thưởng

Huân chương Lao động hạng Hai. Thực hiện lời dạy của Bác Hồ “Dù khó

khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt”, các trường, các

cấp học trong tỉnh đã phát động phòng trào thi đua “dạy tốt, học tốt”. Các

trường điển hình tiên tiến như: Ngổ Luông, Định Cư, Thu Phong, Kim Bình,

Vĩnh Tiến luôn là lá cờ đầu của ngành giáo dục tỉnh Hòa Bình.

Số lượng học sinh phổ thông trong tỉnh Hòa Bình tiếp tục tăng nhanh

trong các năm. Năm học 1964 - 1965 là 25.912 học sinh, đến năm học 1974 -

1975 là 88.516 học sinh. Số trường trong toàn tỉnh cũng tăng lên. Năm học

1964 - 1965 có 239 trường, đến năm học 1968 -1969 đã lên đến 314 trường;

100% xã có trường cấp I; cứ 2,5 xã có 1 trường cấp II, huyện nào cũng có

31

trường cấp III. Tiêu biểu là huyện Lạc Thủy, năm học 1969 - 1970, có 136

lớp cấp I và cấp II, với 5.503 học sinh, đến năm học 1974 - 1975 số học sinh

đã tăng 23% so với năm học trước [146, tr. 127,133,134].

Để tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng đội ngũ giáo

viên, tỉnh Hòa Bình đã tiến hành sáp nhập một số trường như: trường sư

phạm bổ túc văn hóa Lê Hồng Phong nhập với trường Trung cấp sư phạm;

trường sư phạm cấp I Mai Châu, Đà Bắc nhập với trường sư phạm cấp I của

tỉnh. Cũng trong thời gian này, ngành GD - ĐT Hòa Bình tiếp tục mở thêm

trường sư phạm 10 + 3 và tiến hành sáp nhập với trường Cao đẳng sư phạm

Thường Tín (Hà Tây) để tiếp tục nhiệm vụ đào tạo giáo viên. Hàng năm

trường đã đào tạo được 400 - 500 giáo sinh, trong đó phần đông là các giáo

sinh dân tộc thiểu số trong tỉnh. Hệ thống các trường sư phạm đã đóng góp

một phần quan trọng vào việc phát triển đội ngũ giáo viên và sự nghiệp GD -

ĐT của tỉnh Hòa Bình.

Công tác toàn dân chung sức chăm lo sự nghiệp giáo dục cũng đã

đượcquan tâm chỉ đạo. Tiêu biểu như nhân dân huyện Kim Bôi đã tự nguyện

quyên góp 800 tấn củi khô, trị giá 16.000đ cho quỹ giáo dục, hỗ trợ các thầy,

cô giáo; huyện Lạc Thủy hàng chục phòng học và hàng trăm bộ bàn ghế học

sinh do nhân dân tự nguyện đóng góp và trang bị cho các trường học; huyện

Lương Sơn thực hiện phương châm “Dân tự làm, Nhà nước hỗ trợ”… Do

vậy, năm học 1971 - 1972 đã khắc phục được tình trạng thiếu trường, lớp,

hoặc trường lớp nhà rách vách nát, thiếu bàn ghế học cho học sinh.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền

Nam đã đưa cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới, cả nước độc lập,

thống nhất và đi lên xây dựng CNXH. Trước yêu cầu và nhiệm vụ mới, ngày

27 - 12 - 1975, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (khóa V) tại kỳ

họp thứ II, đã ra Nghị quyết về việc hợp nhất hai tỉnh Hà Tây và Hòa Bình

thành tỉnh Hà Sơn Bình. Trong bối cảnh đó sự nghiệp phát triển giáo dục của

32

Hòa Bình gắn liền với mục tiêu phát triển KT - XH của tỉnh Hà Sơn Bình.

Ngay sau khi sáp nhập, Ty Giáo dục Hà Sơn Bình được thành lập và đi vào

hoạt động, đã khẩn trương chỉ đạo có hiệu quả các mặt công tác của ngành.

Riêng về khu vực Hòa Bình, ngành giáo dục đã tập trung chỉ đạo thực

hiện và có những bước phát triển mới. Năm học 1975 - 1976, tỷ lệ học sinh

tốt nghiệp cấp I đạt 99%, cấp II đạt 97%, cấp III đạt 76%; trường, lớp, bàn

ghế được sửa chữa và mua sắm thêm, một số xã đã xây dựng trường cấp II

kiên cố, xây dựng trường cấp III Yên Thủy, Tân Lạc [146, tr. 153].

Năm 1977 là năm đầu tiên ngành giáo dục tỉnh Hà Sơn Bình thực hiện

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất. Triển khai thực hiện Nghị

quyết của Đảng bộ, Hội đồng nhân dân và UBND tỉnh đã đưa ra chỉ đạo

chung đó là: phải coi trọng công tác bổ túc văn hóa, tăng số học sinh phổ

thông, chuẩn bị tiến hành cải cách giáo dục; quy hoạch sắp xếp lại mạng lưới

trường cấp III; vận động học sinh các dân tộc tiếp tục học lên cấp III, đồng

thời tổ chức nội trú ở một số trường miền núi, tạo điều kiện cho học sinh các

dân tộc đi học. Đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường; tăng

cường tu sửa trường, lớp và chuẩn bị chu đáo việc khai giảng năm học mới.

Thực hiện chủ trương nêu trên, GDPT khu vực Hòa Bình đã đạt được

một số kết quả như:

Năm học 1976 - 1977, số học sinh tốt nghiệp cấp III đạt tỷ lệ 82,%, cấp

II đạt 87,5%, cấp II bổ túc đạt 92%. Tổng số học sinh khi khai giảng tăng 5%

so với năm học trước. Trong chiến dịch ánh sáng văn hóa đã xóa mù chữ cho

3.470 người; hoàn thành việc hợp nhất cấp I, cấp II để chuẩn bị cho việc cải

cách giáo dục; các xã đều có trường cấp I và hầu hết có trường cấp II (trừ một

số xã vùng cao) [146, tr. 157].

Năm học 1977 - 1978, số lượng học sinh tăng lên nhanh chóng đạt 99%

kế hoạch, công tác bổ túc văn hóa thực hiện vượt mức 2,7%. GDPT tiếp tục

phát triển khá, tỷ lệ thi đỗ trong các kỳ thi hết cấp đạt kết quả cao: cấp II đỗ

33

89,8%, trong đó có nhiều trường đỗ 100%; cấp III đỗ 80%, trong đó trường

cấp III Mai Châu đỗ 100%; cấp II bổ túc văn hóa đỗ 88%, cấp III bổ túc văn

hóa đỗ 80%. Nhiều trường cấp III đã có sự chuyển biến theo phương thức

“vừa học, vừa làm”. Trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường,

nhiều địa phương đã kết hợp tốt việc sử dụng vốn của Nhà nước với huy động

vốn và sức lao động đông đảo của nhân dân; đã sử dụng 2,7 triệu đồng ngân

sách đầu tư cho các trường cấp I và cấp II, trong năm học đã xây dựng thêm

800 phòng học, hầu hết là kiên cố, nhiều ngôi trường cao tầng và bán kiên cố

đã được xây dựng như trường cấp III Hoàng Văn Thụ, trường cấp III Công

nghiệp, các trường PTCS Hữu Nghị A, Hữu Nghị B, Kim Đồng, Nguyễn Bá

Ngọc, Lý Tự Trọng; đã hoàn thành việc hợp nhất trường cấp I, II thành

trường PTCS [146, tr. 159-160, 163].

Năm học 1978 - 1979, các ngành học, cấp học tiếp tục phát triển, số học

sinh cấp II tăng từ 10 - 20%, cấp III tăng 20% (riêng huyện Đà Bắc tăng

110%). Đặc biệt, huyện Yên Thủy là đơn vị dẫn đầu toàn tỉnh hoàn thành phổ

cập cấp I cho toàn dân; xã Ngổ Luông (Tân Lạc) hoàn thành phổ cập cấp II

trong độ tuổi; năm 1979, Trường cấp III Công nghiệp B với những thành tích

xuất sắc trong phong trào vừa học vừa làm đã được Nhà nước tặng thưởng

Huân chương lao động hạng Ba. Công tác xây dựng các trường ở khu vực

vùng sâu, vùng xa cũng được quan tâm đầu tư, củng cố cơ sở vật chất như các

trường cấp III Đà Bắc, Mai Châu, Lương Sơn, Kim Bôi A được xây dựng

mới khang trang [146, tr. 163-164].

Trước yêu cầu và đòi hỏi của tình hình mới, ngày 11 - 01 - 1979, Bộ

Chính trị ban hành Nghị quyết số 14-NQ/TW về cải cách giáo dục lần thứ 3.

Nghị quyết nêu rõ hệ thống GDPT được thực hiện theo chương trình 12 năm

gồm 3 cấp, theo đó hệ thống trường phổ thông trong cả nước được chia thành

2 bậc: bậc PTCS từ lớp 1 đến lớp 9, bậc PTTH từ lớp 10 đến lớp 12. Thực

hiện Nghị quyết số 14-NQ/TW, các địa phương trong tỉnh Hà Sơn Bình

34

đãtiến hành chuyển hệ GDPT từ 10 năm sang hệ 12 năm và chia thành hai

bậc học: bậc PTCS, từ lớp 1 đến lớp 9 và bậc PTTH từ lớp 10 đến lớp 12.

Đây là một bước ngoặt lớn trong công tác chỉ đạo về cải cách giáo dục của cả

nước nói chung và tỉnh Hà Sơn Bình nói riêng.

Có được những động lực quan trọng như vậy, sự nghiệp giáo dục của

tỉnh Hà Sơn Bình đã nhanh chóng triển khai thực hiện và có những chuyển

biến rõ nét. Riêng khu vực tỉnh Hòa Bình, GDPT đạt được những kết quả

đáng ghi nhận như: Năm học 1979 - 1980, số học sinh cấp I và cấp II tăng

hơn 5%, số học sinh tuyển vào lớp 8 tăng 7% so với năm học trước [146, tr.

168]. Năm học 1981 - 1982, ngành giáo dục Hòa Bình bắt đầu thực hiện thay

sách giáo khoa từ lớp 1 đến lớp 12 theo chương trình cải cách giáo dục. Chất

lượng GDPT không ngừng được nâng lên. Kết qủa thi PTCS đạt 91%, tăng

4%; thi PTTH đạt 87,5%, tăng gần 20% so với năm học 1980 - 1981 [146, tr.

172]. Phát huy truyền thống dạy tốt, học tốt, trường phổ thông cấp III Hoàng

Văn Thụ vẫn vững vàng là lá cờ đầu ngành giáo dục của tỉnh và là điển hình

tiên tiến trong toàn quốc. Công tác xây dựng cơ sở vật chất không ngừng

được chú trọng. Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, số

trường, lớp được xây dựng bằng gạch gói và số bộ bàn ghế cho học sinh được

đóng mới không ngừng tăng lên.

Năm 1982, Nhà nước đã quyết định lấy ngày 20 - 11 hàng năm là Ngày

nhà giáo Việt Nam, đó là niềm tự hào của đội ngũ cán bộ, giáo viên và học

sinh ngành giáo dục cả nước nói chung, tỉnh Hà Sơn Bình nói riêng. Phát huy

truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của dân tộc và tôn vinh vai trò, vị trí

của người thầy trong sự nghiệp “trồng người”, năm học 1984 - 1985, việc chỉ

đạo tiếp tục cải cách giáo dục diễn ra tích cực ở tất cả các trường. Đáng chú ý

là khu vực Hòa Bình có những trường vươn tới trường kiểu mới về cải cách

giáo dục như trường THPT Lạc Thủy, THPT Hồng Dương, THPT Công

Nghiệp A - B và trường Hoàng Văn Thụ… Với phương pháp giáo dục toàn

35

diện và năm học 1984 - 1985, thi tốt nghiệp của các cấp GDPT đạt trên 90%

[146, tr. 178].

Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giáo viên được chú trọng;

việc chuẩn hóa đội ngũ giáo viên đạt kết quả khá. Đến năm 1985, khu vực

Hòa Bình 68,5% giáo viên cấp I đạt hệ chuẩn 10 + 2; 78.2% giáo viên cấp II

đạt hệ chuẩn 10 + 3 và Cao đẳng sư phạm; 87% giáo viên cấp III đạt hệ chuẩn

10 + 4 [146, tr. 176-177]. Đội ngũ giáo viên được đào tạo có hệ thống, có

phẩm chất đạo đức tốt, tinh thần chịu đựng khó khăn, nhất là giáo viên miền

núi. Dù đời sống còn nhiều khó khăn, thiếu thốn song đại bộ phận giáo viên

bám trường, bám lớp, nhiều đồng chí thực sự là tấm gương sáng của ngành.

Phong trào xóa mù chữ, phổ cập cấp I phát triển khá tốt. Trong 5 năm

1981 - 1985, ở khu vực Hòa Bình đã xóa mù chữ cho 4.404 người; 10 huyện,

1 thị xã hoàn thành phổ cập cấp I toàn dân từ năm 1982 (riêng huyện Yên

Thủy là huyện dẫn đầu khu vực Hòa Bình về phổ cập cấp I, hoàn thành năm

1979 và phổ cập cấp II cho toàn bộ cán bộ huyện, xã, đảng viên và thanh niên

ưu tú). Ngoài ra, còn có trên 40 xã, phường thuộc thị xã Hòa Bình, huyện Lạc

Sơn, Lạc Thủy, Tân Lạc và 3/4 cơ quan xí nghiệp hoàn thành phổ cập cấp II

[146, tr. 178-179].

Phong trào thi đua “Hai tốt” tiếp tục phát triển rộng khắp, các điển hình

tiên tiến vẫn được giữ vững và phát huy tác dụng tốt. Đặc biệt năm 1985,

trường Thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình và xã Ngổ Luông

(huyện Tân Lạc) là hai đơn vị được Hội đồng Nhà nước tuyên dương danh

hiệu Anh hùng lao động về thành tích giáo dục. Đây không chỉ là niềm vinh

dự, tự hào của sự nghiệp giáo dục miền núi mà còn là niềm tự hào chung của

các dân tộc Hòa Bình.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12 - 1986) của Đảng đã mở ra

công cuộc đổi mới toàn diện trên đất nước, với niềm tin tưởng, hy vọng sâu

sắc về tương lai tươi sáng. Năm 1986 toàn ngành giáo dục trong cả nước,

36

trong đó có giáo dục tỉnh Hà Sơn Bình thực hiện công tác tổng kết 10 năm

sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng. Trước yêu cầu và đòi hỏi của tình

hình mới, ngày 19 - 8 - 1987, Tỉnh ủy Hà Sơn Bình đã ra Chỉ thị số 07-

CT/TU “Về việc đẩy mạnh một số công tác cấp bách trong sự nghiệp giáo

dục”. Tiếp đó, kỳ họp thứ 11 Hội đồng nhân dân tỉnh khóa X (10 - 1987) đã

ra Nghị quyết chuyên đề về công tác giáo dục.

Trên tinh thần đó, phát triển GDPT thuộc khu vực Hòa Bình thời kỳ này

tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực. Tính đến năm 1990, đội ngũ giáo viên

ở Hòa Bình đã có 6.631 thầy, cô giáo [146, tr. 186]. Cấp ủy, chính quyền các

địa phương đã vào cuộc và ngày càng quan tâm tới sự nghiệp giáo dục, với

phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Đã xây dựng và tu sửa

nhiều trường cao tầng, phòng học kiên cố một tầng, bàn ghế đủ cho học sinh

học 2 ca. Riêng kinh phí đầu tư cho giáo dục trong 3 năm 1987 - 1991 chiếm

20% ngân sách địa phương. Số lượng học sinh phổ thông ở Hòa Bình tính đến

năm học 1989 - 1990 là 147.443 em [146, tr. 186].

Thực hiện chương trình cải cách giáo dục, các nhà trường ở Hòa Bình

tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học để nâng cao chất lượng giáo dục.

Do vậy, tỷ lệ tốt nghiệp các cấp trong các năm từ 1987 - 1990 đạt 93 - 95%,

bình quân hàng năm có hàng trăm em thi đỗ vào các trường đại học, cao

đẳng, trung cấp. Đến năm 1990, Hòa Bình có 376 trường phổ thông. Các đơn

vị điển hình tiên tiến xuất sắc có tác dụng thúc đẩy phong trào thi đua về giáo

dục, trong đó “con chim đầu đàn” là trường Phổ thông cấp III Hoàng Văn

Thụ; các trường cấp III Lạc Thủy, Lạc Sơn A, Kim Bôi B, trường cấp II

Phương Lâm, trường Phổ thông cơ sở Hữu Nghị B đã trở thành những điểm

sáng trong phong trào giáo dục ở Hòa Bình. Ngoài ra khu vực miền núi huyện

Lạc Thủy là đơn vị dẫn đầu các huyện miền núi trong nhiều năm liền, năm

1991, trường Phổ thông cấp III A và B Lạc Thủy đã thu hút 100% học sinh

vào lớp 10, tỷ lệ tốt nghiệp hàng năm đạt trên 90% [146, tr. 189]. Phong trào

37

phổ cập giáo dục - xóa mù chữ cũng có bước phát triển đều khắp. Thị xã Hòa

Bình là khu vực đầu tiên của khu vực miền núi được công nhận hoàn thành

phổ cập giáo dục - xóa mù chữ. Đây cũng là đơn vị có nhiều thành tích trong

công tác xây dựng đội ngũ giáo viên dạy giỏi và học sinh giỏi.

Bên cạnh những kết quả đạt được rất đáng ghi nhận, song phát triển

GDPT khu vực Hòa Bình thời kỳ này cũng còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế:

Chất lượng giáo dục toàn diện chưa cao dẫn đến học sinh sau khi ra trường

chưa nhanh chóng thích ứng với đời sống xã hội, tỷ lệ tái mù chữ khá cao. Cơ

sở vật chất còn nghèo nàn, tình trạng “Trường không ra trường, lớp không ra

lớp” còn khá phổ biến. Đời sống giáo viên rất khó khăn, các huyện miền núi

Hòa Bình thiếu giáo viên nghiêm trọng; nhiều nơi cấp ủy, chính quyền chưa

thực sự quan tâm đúng mức đến công tác giáo dục, chưa kết hợp chặt chẽ

giữa gia đình, nhà trường và xã hội ... Đây là những vấn đề đặt ra cần có sự

vào cuộc của cả hệ thống chính trị, của ngành giáo dục và nhân dân các dân tộc

Hòa Bình, từng bước đưa giáo dục ở Hòa Bình phát triển ngày càng bền vững.

2.2. Bối cảnh lịch sử và chủ trương đổi mới giáo dục phổ thông ở

tỉnh Hoà Bình (1991 - 2001)

2.2.1. Bối cảnh lịch sử và yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông.

Trong những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX,

tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp đã tác động

không nhỏ đến sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước nói chung, đổi mới GD -

ĐT ở Việt Nam nói riêng.

Ở trong nước, “sau hơn bốn năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, công

cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng” [31, tr.

49]. Mặc dù nước ta chưa ra khỏi khủng hoảng KT - XH, song “mức độ

khủng hoảng đã giảm bớt” [31, tr. 49].

Trên phạm vi thế giới, hệ thống các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô

đã và đang lâm vào “cuộc khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng nhất từ

trước đến nay” dẫn đến sự sụp đổ từ năm 1991. Đây là một tổn thất to lớn đã

38

tác động mạnh mẽ đến tâm lý của mọi người dân Việt Nam, cũng như ảnh

hưởng trực tiếp đến công cuộc đổi mới ở nước ta.

Một số nước trên thế giới và trong khu vực đã bước vào giai đoạn phát

triển mới của tiến bộ khoa học công nghệ và đang chạy đua phát triển giáo

dục với những chuẩn mực của quốc tế về chất lượng, nhằm tạo cơ sở cho việc

cạnh tranh kinh tế như: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore,

Hồng Kông [76, tr. 71]. Nguyên nhân bao trùm nhất là các nước giải quyết tốt

vấn đề nguồn nhân lực thông qua phát triển giáo dục. Nhìn chung, xu thế đổi

mới giáo dục của các quốc gia có nền giáo dục phát triển chủ yếu tập trung

vào cải cách chương trình và sách giáo khoa. Chương trình của các nước đều

hướng tới việc thực hiện yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, trực tiếp góp

phần cải thiện nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng cuộc

sống con người, khắc phục tình trạng học tập nặng nề căng thẳng; yêu cầu

quá cao về mặt lý thuyết mà coi nhẹ những tri thức, kỹ năng có liên quan trực

tiếp đến cuộc sống hàng ngày của học sinh; giảm dần sự bất bình đẳng về cơ

hội tiếp nhận giáo dục mà biểu hiện chủ yếu là sự cách biệt về điều kiện, về

trình độ giữa các địa phương và khu vực, cách biệt giữa giới tính và địa vị xã

hội. Với tinh thần đó, việc xây dựng chương trình GDPT ở các nước thường

theo xu thế sau: Phổ cập THPT nhằm đào tạo những con người có năng lực

đóng góp vào sự tiến bộ của xã hội vào phát triển kinh tế; làm cho giáo dục

thích ứng được những thay đổi của thời đại (xu thế quốc tế hóa, máy tính hóa,

xã hội thông tin), đồng thời nhấn mạnh việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc,

kế thừa văn hóa tốt đẹp của mỗi quốc gia; tích cực chuyển sang hệ thống học

tập suốt đời, hệ thống giáo dục đa dạng và mềm dẻo, thu hẹp về khoảng cách,

tạo ra sự công bằng và bình đẳng về cơ hội giáo dục. Việc áp dụng chương

trình như trên, đã làm thay đổi quan niệm và cách biên soạn, cách sử dụng

sách giáo khoa. Sách giáo khoa trở thành tài liệu định hướng và hỗ trợ cho

quá trình tự học, tự phát hiện, tự chiếm lĩnh tri thức mới và thực hành theo

39

năng lực của người học; làm cho giáo viên và học sinh linh hoạt, sáng tạo

trong cách dạy và học, trong học và hành.

Thực tiễn cho thấy, các nước có nền kinh tế phát triển nhảy vọt đều có

tiền đề là nền giáo dục phát triển cao và giáo dục đã góp phần nâng cao trí

tuệ, làm cho con người nắm bắt được những thành tựu mới nhất của khoa học

công nghệ. Tình hình đó thúc đẩy tất cả các quốc gia đều nhận thức được giáo

dục là nhân tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững.

Trước bối cảnh của tình hình thế giới có nhiều thay đổi và xu thế đổi

mới giáo dục trên thế giới, ở Việt Nam trình độ của lực lượng sản xuất và

khoa học công nghệ còn thuộc loại thấp nhất trong nhóm các nước chậm phát

triển, nhiều vấn đề xã hội khá gay gắt đang đòi hỏi phải giải quyết. Tình hình

đó đã đặt Việt Nam đứng trước tình trạng ngày càng có nguy cơ “tụt hậu”

trước đà phát triển giáo dục của thế giới (Phụ lục 02). Vấn đề đặt ra đối với

Việt Nam là làm thế nào để phát huy tốt lợi thế so sánh, chủ động nắm bắt cơ

hội, tạo khâu đột phá, đẩy nhanh sự phát triển; khi khoa học và công nghệ trở

thành nền tảng của CNH, HĐH thì “nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy

nguồn nhân lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng

lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [35, tr. 21].

Hòa Bình là một tỉnh miền núi được tái lập năm 1991, từ ngày tái lập

tỉnh đến nay, tỉnh Hòa Bình là một trong những tỉnh nghèo nhất cả nước,

trình độ dân trí thấp, điều kiện phát triển KT - XH còn nhiều khó khăn...; đặc

biệt với bối cảnh tình hình thế giới và trong nước nêu trên đã tác động lớn

đến yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực và phát triển KT - XH của tỉnh Hòa

Bình. Nhận thức được vấn đề phát triển giáo dục là nhân tố quyết định sự

phát triển nhanh và bền vững, không nằm ngoài xu thế phát triển GD - ĐT

chung của cả nước, vì vậy nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân

tài, từng bước đáp ứng yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực, phục vụ sự nghiệp

phát triển KT - XH của tỉnh Hòa Bình là đòi hỏi của thực tiễn đang đặt ra.

40

2.2.2. Chủ trương của Đảng và sự vận dụng của Đảng bộ tỉnh Hòa

Bình về phát triển giáo dục phổ thông.

Đánh giá về thực trạng giáo dục Việt Nam và yêu cầu đặt ra đối với sự

nghiệp phát triển giáo dục, Đại hội lần thứ VII (6 - 1991) của Đảng đã khẳng

định: “giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu để

phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển” [31, tr. 121].

Riêng về GDPT, Đại hội đề ra nhiệm vụ chủ yếu đó là: “Tập trung thực hiện

chương trình phổ cập giáo dục cấp I và chống mù chữ; phát triển cấp II, cấp

III phù hợp với yêu cầu và điều kiện của nền kinh tế. Củng cố và phát triển

trường phổ thông cho trẻ em khuyết tật… Tăng cường đầu tư cho giáo dục ở

miền núi và vùng dân tộc thiểu số, mở rộng các trường nội trú, quy hoạch đào

tạo cán bộ và trí thức người dân tộc” [31, tr. 82].

Để đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục, ngày 12 - 8 - 1991, Quốc hội

nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã thông qua Luật phổ cập giáo dục tiểu

học và Luật chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em. Đây là bộ luật mở đầu về

công tác giáo dục ở nước ta. Tiếp đó, tại kỳ họp thứ XI, Quốc hội khóa VIII

thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (năm 1992) một lần

nữa khẳng định GD - ĐT là quốc sách hàng đầu. Hiến pháp 1992 đã tạo cơ sở

pháp lý cho ngành GD - ĐT dựa vào để hoạch định chính sách ổn định và

phát triển sự nghiệp giáo dục trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài.

Quán triệt mục tiêu GD - ĐT do Đại hội VII của Đảng đề ra, Hội nghị

Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 (khóa VII) tháng 1 - 1993 đã ra

một Nghị quyết chuyên đề “Về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào

tạo”. Riêng về GDPT, Nghị quyết chỉ rõ: Phấn đấu đến năm 2000 thanh toán

nạn mù chữ ở người lao động trong độ tuổi từ 15 - 35; hoàn thành phổ cập

giáo dục tiểu học, trước hết đối với trẻ em trong độ tuổi 6 - 14. Đẩy mạnh

thực hiện phổ cập giáo dục cấp II, nhất là ở các đô thị. Xác định lại mục tiêu,

thiết kế lại chương trình, nội dung, phương pháp GD - ĐT đối với học sinh

41

từng bậc học, cấp học. Củng cố và phát triển giáo dục ở các vùng dân tộc

thiểu số và những vùng khó khăn, coi trọng công tác đào tạo cán bộ cho các

vùng dân tộc thiểu số. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với

sự nghiệp giáo dục. Tăng dần tỷ trọng chi trong ngân sách cho giáo dục; thực

hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục theo phương châm “Nhà nước và nhân

dân cùng làm”. Đổi mới công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra đối với GDPT

[33, tr. 34-35].

Từ những quan điểm chỉ đạo của Đảng nhằm đổi mới sự nghiệp GDPT

nêu trên, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ GD - ĐT đã ban

hành một số văn bản quy phạm pháp luật về GD - ĐT, từ 1 - 1 - 1991 đến 30 -

6 - 1996 (Phụ lục 03). Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để các địa

phương trong cả nước nói chung, Hòa Bình nói riêng căn cứ triển khai thực hiện.

Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, để đáp ứng tốt yêu

cầu của thời kỳ mới, Đại hội lần thứ VIII (6 - 1996) của Đảng đã xác định các

giải pháp phát triển đối với GDPT như: Hoàn thành cơ bản phổ cập giáo dục

tiểu học trong cả nước và phổ cập THCS ở các thành phố lớn và những nơi có

điều kiện học tập. Phát triển lớp nội trú, bán trú, mở thêm trường dân lập, bán

công ở các cấp học phổ thông. Thực hiện giáo dục toàn diện ở bậc tiểu học.

Mở rộng và nâng cao chất lượng dạy ngoại ngữ, tin học từ cấp phổ thông.

Khắc phục tình trạng thiếu giáo viên, bổ sung chính sách đãi ngộ và có chính

sách khuyến khích giáo viên tình nguyện đến các vùng khó khăn. Sớm xây

dựng và ban hành Luật giáo dục, chú trọng đổi mới công tác quản lý giáo dục

để đảm bảo hiệu quả đào tạo đúng mục tiêu mong muốn [35, tr. 200-203].

Tiếp sau Đại hội lần thứ VIII của Đảng, Hội nghị Ban chấp hành Trung

ương lần thứ 2 (khóa VIII) tháng 12 - 1996 đã ra Nghị quyết chuyên đề về

“Định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ CNH,

HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000”. Riêng về GDPT, Nghị quyết đề ra mục

tiêu đó là: “Phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước, phổ cập trung học cơ sở

42

ở các thành phố, đô thị và những nơi có điều kiện. Hoàn thành phổ cập giáo

dục trung học cơ sở vào năm 2010 và trung học phổ thông vào năm 2020”

[36, tr. 31, 33].

Để tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước về giáo dục, Quốc hội

khóa X, kỳ họp thứ 4, đã thông qua Luật giáo dục (Số 11/1998/QH 10, ngày

02 - 12 - 1998), trong đó có quy định những nội dung về hệ thống giáo dục

quốc dân đối với GDPT. Tiếp đó, Quốc hội khóa X đã ra Nghị quyết số

40/2000 QH 10, ngày 09 - 2 - 2000, về đổi mới chương trình GDPT. Trên cơ

sở đó, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 14/2001/CT - TT ngày 11 - 06 -

2001 về việc đổi mới chương trình GDPT thực hiện Nghị quyết số

40/2000/QH 10 của Quốc hội. Ngoài ra, một số văn bản quy phạm pháp luật

do Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ Giáo dục - Đào tạo ban

hành (từ 1 - 7 - 1996 đến 31 - 12 - 2001) cũng tập trung nhằm nâng cao chất

lượng và hiệu quả hoạt động của GDPT (Phụ lục 04).

Quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về đổi mới

GDPT, từ thực trạng GDPT sau khi tái lập tỉnh (năm 1991), tỉnh Hòa Bình đã

nhanh chóng đề ra những chủ trương, biện pháp nhằm đáp ứng yêu cầu và

nhiệm vụ của GDPT trong giai đoạn mới.

Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XI (3 - 1992) đã nêu rõ phương

hướng, mục tiêu GDPT đến năm 1995 là: “Giáo dục phổ cập tiểu học năm

1995 đạt 95%, thanh toán nạn mù chữ đạt 95% so với tổng số người mù chữ”

[43, tr. 24]. Nghị quyết đại hội lần thứ XI của Đảng bộ tỉnh Hòa Bình được

coi là sự đổi mới mạnh mẽ trong nhận thức về giáo dục ngay sau khi tỉnh mới

được tái lập. Nêu cao tinh thần đó, Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Đảng bộ

tỉnh Hòa Bình (khóa XI) đã tập trung đánh giá thực trạng và tìm ra nguyên

nhân về GD - ĐT sau hơn một năm tái lập tỉnh. Hội nghị đề ra phương

hướng, nhiệm vụ phát triển GDPT trong thời gian tới là: Hoàn thành phổ cập

giáo dục tiểu học vào năm 1995, xóa nạn mù chữ trước năm 1997. Xây dựng

43

mạng lưới trường lớp, phát triển các ngành học, cấp học hợp lý trên địa bàn

tỉnh.Sử dụng hiệu quả nguồn vốn của Trung ương và của tỉnh, huy động tích

cực sự đóng góp của nhân dân các dân tộc để đưa tỷ lệ trường, lớp được xây

dựng vững chắc từ 45% lên 60%. Tập trung đào tạo và bồi dưỡng giáo viên

để nhanh chóng có giáo viên tại chỗ, giáo viên đạt trình độ chuẩn theo yêu

cầu của cải cách giáo dục [158, tr. 224-225].

Tiếp tục đổi mới về GDPT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất

nước, Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XII (năm 1996) đã đề ra mục

tiêu phát triển GD - ĐT đến năm 2000 là: “Số học sinh hàng năm tăng bình

quân 7 - 9%, phổ cập giáo dục THCS trong độ tuổi đạt 100%, các huyện vùng

thấp đạt 50 - 60%, các huyện vùng cao đạt 15 - 20%, trường học được xây

dựng vững chắc đạt 90%” [44, tr. 12].

Sau Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XII, trong 2 ngày 14 và 15 -

03 - 1997, Hội nghị Tỉnh ủy Hòa Bình mở rộng đã nghiên cứu quán triệt Nghị

quyết Hội nghị Trung ương 2 (khóa VIII). Hội nghị đã ban hành Kế hoạch số

101/KH-TU, trong đó đề ra một số nhiệm vụ đối với GDPT như: Củng cố và

nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học, huy động học sinh đi học

đúng độ tuổi, dạy đủ 9 môn theo chương trình quy định, khuyến khích học 2

buổi/ngày ở bậc tiểu học tại những nơi có điều kiện. Triển khai phổ cập giáo

dục THCS; mở trường, lớp cấp II ở tất cả các xã, phường trong tỉnh; mở

trường cấp II + III ở khu vực xa trung tâm, chú trọng giáo dục hướng nghiệp

cho học sinh. Phấn đấu đến năm 2000 hoàn thành phổ cập giáo dục THCS ở

thị xã, thị trấn và 2 huyện Lạc Thủy và Yên Thủy. Tăng cường đào tạo, bồi

dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên; ưu tiên đào tạo giáo viên các môn tự

nhiên, tin học, ngoại ngữ; hoàn thành chuẩn hóa và tiến hành đào tạo, bồi

dưỡng nâng chuẩn. Huy động mọi nguồn lực để từng bước hiện đại hóa nhà

trường. Phấn đấu đến năm 2000 có 90% trường, lớp kiên cố, vững chắc. Tiếp

tục phát huy kết quả, kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi; phấn đấu tỷ lệ học

sinh khá, giỏi lên 30% vào năm 2000 [45, tr. 3-4].

44

Thực hiện Nghị quyết, Kế hoạch của Đảng bộ tỉnh về đổi mới GDPT, ngày

24 - 06 - 1996, UBND tỉnh Hòa Bình thành lập Ban chỉ đạo cuộc vận động

“Ngày toàn dân đưa trẻ đến trường năm học 1996 - 1997”, đồng thời đã quyết

định chính sách phụ cấp đối với giáo viên vùng cao, vùng sâu, vùng khó khăn và

chế độ chính sách đối với học sinh các trường Phổ thông dân tộc nội trú…

Nhìn chung, việc vận dụng đường lối đổi mới trong quá trình phát triển

GDPT ở tỉnh Hòa Bình được xác định trên các mặt chính là: Tổ chức nghiên

cứu quán triệt nội dung Nghị quyết, làm cho toàn ngành hiểu rõ thực trạng

giáo dục, nắm vững cơ bản mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp phát triển GD

- ĐT trong thời kỳ CNH, HĐH của Đảng bộ tỉnh và Trung ương; kiểm điểm

sâu sắc và làm rõ trách nhiệm của các cấp quản lý giáo dục về những thành

tựu, hạn chế, yếu kém; từ đó xây dựng chương trình hành động cụ thể nhằm

thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đảng bộ và của ngành, từng bước đáp ứng

tốt yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực, phục vụ mục tiêu, chiến lược phát triển

KT - XH mà Đảng bộ tỉnh Hòa Bình đã đề ra.

2.3. Phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình trong 10 năm

đầu sau khi tái lập tỉnh (1991 - 2001)

Trong 10 năm đầu sau khi tái lập tỉnh (1991 - 2001), GDPT ở tỉnh Hòa

Bình được tổ chức thực hiện và đạt được những kết quan trọng trên một số

lĩnh vực chủ yếu như sau:

2.3.1. Xây dựng đội ngũ cán bộ và giáo viên.

Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên được

xem là bước đi đầu tiên và quyết định đến chất lượng của giáo dục đào tạo.

Sau khi tái lập tỉnh (10 - 1991), cơ quan Sở GD - ĐT Hòa Bình chính

thức đi vào hoạt động. Tháng 12 - 1991, Đảng bộ Sở GD - ĐT được thành

lập. Trên cơ sở đó, Giám đốc và Phó Giám đốc Sở được bổ nhiệm đã từng là

các nhà giáo ưu tú, có nhiều kinh nghiệm trong ngành, có khả năng tập hợp

được đội ngũ cán bộ chuyên trách. Việc tuyển chọn cán bộ, chuyên viên của

45

Sở được tiến hành thận trọng, bố trí đúng người, đúng việc, nhằm phát huy

được năng lực, sở trường của mỗi cán bộ.

Ngay sau khi kiện toàn về tổ chức, Ban cán sự, lãnh đạo Sở Giáo dục đã

xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giáo viên của tỉnh,

củng cố trường sư phạm, liên kết với trường Cao đẳng sư phạm Hà Tây mở hệ

cao đẳng sư phạm đào tạo giáo viên trung học cơ sở (cấp II) và chuẩn bị cho

việc thành lập trường Cao đẳng sư phạm đa hệ sau này. Bên cạnh đó, Sở GD -

ĐT tiếp tục liên kết với trường Đại học sư phạm Hà Nội I, trường Đại học

ngoại ngữ để đào tạo giáo viên, cán bộ cốt cán cho các cấp học, cũng như

triển khai mạnh mẽ công tác bồi dưỡng giáo viên cho tỉnh.

Ban cán sự Đảng ngành GD - ĐT đã chủ động tham mưu với Tỉnh ủy về

tăng cường công tác Đảng trong ngành, phối hợp với huyện ủy, thị ủy để xây

dựng chi bộ trong trường học. Lãnh đạo Sở Giáo dục đã tham mưu với

UBND tỉnh ra Quyết định số 66 và Quyết định số 650 về chính sách thu hút

giáo viên vùng cao, vùng sâu, ưu đãi giáo viên giỏi, học sinh giỏi tham gia

vào công tác giảng dạy, cống hiến cho nền giáo dục tỉnh nhà. Đây là những

giải pháp đúng đắn nhằm triển khai mạnh mẽ Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh về

công tác đổi mới GDPT.

Triển khai thực hiện tốt công tác xây dựng đội ngũ, do vậy đội ngũ cán

bộ, giáo viên đã có nhiều chuyển biến tích cực, công tác đào tạo bồi dưỡng

trong toàn ngành đã được củng cố, từng bước đáp ứng tốt về chuyên môn

nghiệp vụ. Đến năm học 2000 - 2001, toàn tỉnh đã khắc phục được tình trạng

thiếu giáo viên nhất là giáo viên ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, tỷ lệ giáo

viên bình quân ở bậc tiểu học là 1,5 giáo viên/lớp; ở bậc trung học cơ sở là

1,85 giáo viên/lớp; ở bậc trung học phổ thông là 2,1 giáo viên /lớp [146, tr.

232]. Tình hình đội ngũ giáo viên của tỉnh Hòa Bình thời kỳ này được thể

hiện qua bảng số liệu như sau:

46

Bảng 2.1. Số lượng giáo viên phổ thông (1991 - 2001)

Đơn vị: Người

Trong đó Năm học Tổng số Tiểu học THCS THPT

1991 - 1992 6.923 4.489 1.953 481

1992 - 1993 6.987 4.370 2.095 522

1993 - 1994 6.992 4.497 2.017 478

1994 - 1995 7.177 4.582 2.155 440

1995 - 1996 7.245 4.669 2.053 523

1996 - 1997 8.330 5.229 2.543 558

1997 - 1998 8.993 5.367 2.981 645

1998 - 1999 9.416 5.806 2.936 674

1999 - 2000 9.854 5.508 3.527 819

5.552 3.654 867 2000 - 2001 10.073

Nguồn: [2, tr. 699-700], [163, tr. 377].

Từ bảng 2.1 cho thấy, số lượng giáo viên phổ thông vẫn giữ được quy

mô và tăng đều qua các năm, nhất là bậc tiểu học. Song, kết quả trên cũng

phần nào phản ánh bậc THCS và THPT số lượng giáo viên qua công tác và

đào tạo trong các năm chưa thật ổn định. Năm học 1995 - 1996 (so với năm

học 1994 - 1995) ở bậc THCS giảm trên 100 người; năm học 1994 - 1995 (so

với năm học 1992 - 1993) ở bậc THPT cũng giảm trên 100 người. Nguyên

nhân chủ yếu là do những năm đầu tái lập tỉnh, Hòa Bình là một trong những

tỉnh miền núi nghèo nhất nước lúc bấy giờ, điều kiện KT - XH còn gặp nhiều

khó khăn, đội ngũ cán bộ các ngành nói chung còn thiếu… Cho nên, số lượng

giáo viên phổ thông cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ của sự tác động đó.

Ngành GD - ĐT cũng đã thực hiện tiếp nhận và điều động đội ngũ giáo viên

về giảng dạy tại các nhà trường, cũng trong thời gian này, tháng 10 - 1995,

Chính phủ ra Quyết định thành lập trường Cao đẳng sư phạm đa hệ nhằm đẩy

47

mạnh công tác đào tạo đội ngũ cán bộ và giáo viên, giải quyết tốt hơn sự thiếu

hụt giáo viên trên địa bàn toàn tỉnh. Ngoài ra Sở GD - ĐT còn phối hợp với

Ban tổ chức chính quyền tỉnh tổ chức thi tuyển công chức vào ngạch giáo

viên THPT, thực hiện kế hoạch hợp đồng giáo viên, điều động thuyên chuyển

giáo viên trên địa bàn. Đến năm học mới 2001 - 2002 về cơ bản đã sắp xếp

tương đối ổn định đội ngũ giáo viên, đáp ứng tốt nhu cầu dạy và học.

Bên cạnh đó, chất lượng giáo viên cũng từng bước được chú trọng. Tỷ lệ

giáo viên đạt chuẩn ở các bậc học năm học 1995 - 1996 là: Giáo viên tiểu học

(hệ 12 + 2) đạt 85%, giáo viên THCS đạt 90%, giáo viên THPT đạt 97% và

hàng trăm giáo viên được đào tạo vượt chuẩn [120, tr. 4]. Ngành GD - ĐT

Hòa Bình thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuẩn hóa giáo viên các cấp học,

bậc học theo chu kỳ hàng năm như: Chuẩn hóa trình độ 9 + 3 cho số giáo viên

tiểu học có trình độ dưới trung học sư phạm 9 + 2, liên kết với trường Cán bộ

Quản lý giáo dục và Học viện Hành chính Quốc gia mở một lớp Bồi dưỡng

Giáo dục và Quản lý Nhà nước cho đội ngũ cán bộ Sở GD - ĐT, lãnh đạo

trường. Do vậy, riêng năm học 1997 - 1998 đã tổ chức đào tạo lại cho 200

giáo viên tiểu học các chuyên ngành: Hát - Nhạc, Mỹ thuật đồng thời khảo sát

chuẩn bị đào tạo lại cho 180 giáo viên tiểu học vào thời gian sau. Nâng trình

độ cho 400 giáo viên trung học sư phạm lên trình độ cao đẳng sư phạm; đưa

tổng số 97% giáo viên tiểu học, 98% giáo viên THCS, 99.9% giáo viên THPT

được đào tạo và bồi dưỡng trong năm [121, tr. 4].

Tính từ năm 1997 - 2000, công tác bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ

không ngừng được đẩy mạnh. Tỷ lệ giáo viên tiểu học tham gia bồi dưỡng là

99%, giáo viên THCS là 99.5%, giáo viên THPT là 100%, với kết quả thi

chứng chỉ đạt 97% từ trung bình trở lên [124, tr. 7]. Việc tạo điều kiện cho

một bộ phận cán bộ giáo viên nâng cao trình độ chuyên môn sau đại học được

coi trọng. Đã có hàng chục giáo viên được theo học và bảo vệ thành công

luận văn cao học, luận án tiến sĩ. Đến năm 2000, toàn ngành giáo dục của tỉnh

48

có trên 11.000 giáo viên có trình độ đại học, cao đẳng, trung học thuộc các

ngành học, bậc học khác nhau. Chất lượng đội ngũ giáo viên được nâng lên

đáng kể, trong đó có 1 Tiến sĩ, 53 Thạc sĩ, 4 cán bộ là nghiên cứu sinh; 7 giáo

viên tiểu học và trung học chuyên nghiệp được Bộ GD - ĐT công nhận là

giáo viên cấp quốc gia, 18 giáo viên giỏi bậc cao; đội ngũ cán bộ quản lý,

nhất là ở các trường tiểu học, trung học cơ sở được chuẩn hóa về nghiệp vụ

quản lý theo chương trình của Bộ GD - ĐT, đã có 75% cán bộ quản lý trường

tiểu học và 80% cán bộ quản lý trung học cơ sở đã qua nghiệp vụ bồi dưỡng

quản lý. Phong trào thi đua dạy tốt, phấn đấu trở thành giáo viên dạy giỏi

được hưởng ứng như: tổ chức thi giáo viên dạy giỏi ở vùng khó khăn, tổ chức

thi Hiệu trưởng giỏi, phong trào nữ giáo viên giỏi việc trường, đảm việc nhà.

Do vậy, trong năm 1996 toàn ngành đã có 76 lao động giỏi cấp tỉnh, 230 giáo

viên giỏi cấp tỉnh, 750 giáo viên giỏi cấp huyện, thị, cấp trường; đã có 860 giáo

viên được tặng Huy chương “Vì sự nghiệp giáo dục”. Tính đến năm học 2000 -

2001, toàn tỉnh có 35 - 40% giáo viên khá, giỏi, chỉ còn 10 - 15% giáo viên yếu,

kém cần thay thế và đào tạo lại [146, tr. 232-233]. Đây là kết quả của sự quyết

tâm mà ngành GD - ĐT coi việc nâng cao chất lượng đội ngũ là một trong

những giải pháp mang tính quyết định đến sự nghiệp phát triển của ngành.

2.3.2. Xây dựng hệ thống trường, lớp đa dạng và quy mô phát triển.

Hòa Bình là một tỉnh miền núi có 2 huyện, 46 xã vùng cao, hàng chục

xã vùng sâu, nhiều xã vùng lòng hồ, dân cư thưa thớt…, sau khi tái lập tỉnh,

hệ thống trường học trên địa bàn rất thiếu thốn, nhiều nơi chủ yếu được xây

dựng bằng tranh, tre, nứa lá, chưa đáp ứng được nhu cầu học tập của con em

đồng bào các dân tộc.

Nhằm triển khai, thu hút học sinh đến trường, ngành GD - ĐT tỉnh Hòa

Bình đã thực hiện nhiều giải pháp tích cực và cụ thể như: đưa trường về gần

dân, mở các lớp đầu cấp tại thôn bản, mở cụm lớp tại khu vực trung tâm xã,

mở rộng hệ thống trường lớp ghép... Do vậy, từ 5 lớp ghép thực nghiệm tại

49

Đà Bắc (năm 1991) với 98 học sinh, đến năm học 1995 - 1996 toàn tỉnh Hòa

Bình đã có 232 lớp ghép với tổng số 4949 học sinh [120, tr. 4].

Các loại hình trường lớp được phát triển đa dạng và mở rộng như mở các

trường Trung học bán công và các lớp bán công tại các trường THPT; xây

dựng hệ thống trường liên cấp II + III ở khu vực xa trung tâm huyện. Năm học

1995 - 1996 đã có 9 trường liên cấp với gần 5000 học sinh. Năm học 1997 -

1998 toàn tỉnh có 3 trường bán công (trong đó có 1 trường bán công cấp

huyện), 10 trường liên cấp II + III, 19 trường THPT (cá biệt có huyện có 4

trường THPT và liên cấp II + III, không huyện nào không có trường THPT

[121, tr. 3]. Bên cạnh đó, hệ thống các trường Phổ thông dân tộc nội trú cũng

đặc biệt được quan tâm xây dựng, đã có 1 trường Phổ thông dân tộc nội trú

tỉnh, 5 trường Phổ thông dân tộc nội trú huyện và 2 trường Phổ thông dân tộc

nội trú liên xã, với tổng số học sinh dân tộc trong tỉnh là 141.148 em [2, tr. 698]

và đang tiếp tục xây dựng thêm 2 trường Phổ thông dân tộc nội trú vùng cao tại

xã Mường Chiềng (Đà Bắc) và xã Hang Kia, Pà Cò (Mai Châu). Đến năm 2000

số trường học phổ thông đã tăng lên đáng kể, về cơ bản đáp ứng được nhu cầu

học tập của con em các dân tộc trong tỉnh, được thể hiện qua bảng sau:

Bảng 2.2. Số trường học phổ thông (1991 - 2001)

Đơn vị: Trường học

Tổng số trường phổ thông Trong đó THPT Năm (cấp I, II, III)

1990 - 1991 200 18

1995 - 1996 340 14

2000 - 2001 424 20

Nguồn: [2, tr. 699], [158, tr. 253].

Cùng với việc tích cực đa dạng hóa các loại hình trường lớp; quy mô,

số lượng phòng học, lớp học và học sinh phổ thông ở Hòa Bình cũng không

ngừng được phát triển, thể hiện qua bảng sau:

50

Bảng 2.3. Số phòng học phổ thông (1991 - 1996)

Đơn vị: Phòng học

Trong đó

Năm học Tổng số Tiểu học PTCS PTCS PTTH

(cấp 1) (cấp I - II) (cấp II) (cấp II - III)

1991 - 1992 1.977 1.394 137 289 148

1992 - 1993 3.409 1.453 1.453 349 154

1993 - 1994 3.619 1.537 1.405 450 227

1994 - 1995 3.712 1.580 1.438 409 285

1995 - 1996 3.734 1.523 1.455 549 207

Nguồn: [163, tr. 377]

Qua bảng 2.3 ở trên cho thấy, tổng số phòng học đều tăng lên trong các

năm, đặc biệt năm học 1992 - 1993 so với năm học 1991 - 1992 có sự tăng

lên đột biến; số phòng học trong các năm từ 1992 - 1993 đến năm học 1995 -

1996 ở tất cả các bậc học cũng có sự biến động và không ổn định. Nguyên

nhân chủ yếu là do sự tăng nhanh về số lượng học sinh và việc mở đa dạng

các loại hình trường, lớp nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh trong

tỉnh, cũng như mở các điểm trường để phù hợp với từng địa bàn dân cư. Mặc

dù đã có nhiều cố gắng, song trong giai đoạn này, số phòng học được xây

dựng kiên cố còn ít, số phòng bằng tranh tre, nứa lá còn khá phổ biến và

xuống cấp nghiêm trọng, tập trung chủ yếu ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa,

vùng lòng hồ, nơi nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống nên cũng chưa

được sửa chữa và bổ sung kịp thời. Bên cạnh đó, kinh phí dành cho xây dựng

trường lớp còn hạn chế cũng như việc triển khai xây dựng trường, lớp còn

chậm; công tác xã hội hóa giáo dục vẫn chủ yếu động viên về mặt tinh thần…

Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ trường lớp được xây dựng

kiên cố hóa còn thấp.

51

Bảng 2.4. Số lớp học phổ thông (1991 - 2001)

Đơn vị: Lớp học

Trong đó Năm học Tổng số Tiểu học THCS THPT

1991 - 1992 5.246 3.882 1.140 244

1992 - 1993 5.589 4.078 1.224 287

1993 - 1994 6.141 4.723 1.200 218

1994 - 1995 6.243 4.863 1.162 218

1995 - 1996 6.549 5.025 1.277 247

1996 - 1997 6.552 4.724 1.532 296

1997 - 1998 6.886 4.771 1.784 331

1998 - 1999 7.018 4.704 1.930 384

1999 - 2000 7.011 4.560 2.022 429

2000 - 2001 6.945 4.383 2.094 468

Nguồn: [2, tr. 699], [163, tr. 377].

Từ bảng 2.4 trên cho thấy, số lớp học (giai đoạn 1991 - 2001) tăng đều

qua các năm nhưng mức độ tăng còn thấp. Trong các năm học 1993 - 1994 và

năm học 1994 - 1995, ở bậc THCS và THPT, số lớp học có giảm đáng kể và

đã từng bước được khắc phục trong các năm học từ 1995 - 1996 đến năm học

2000 - 2001. Đây cũng là kết quả của việc xây dựng hệ thống trường, lớp đa

dạng và sự tăng nhanh về số lượng học sinh các cấp.

Bảng 2.5. Số lượng học sinh phổ thông (1991 - 2001)

Đơn vị: Học sinh

Trong đó Năm học Tổng số Tiểu học THCS THPT

1991 - 1992 129.269 99.117 25.173 4.979

1992 - 1993 142.916 108.818 28.169 5.929

52

1993 - 1994 157.967 120.210 30.367 7.390

1994 - 1995 167.934 124.155 35.430 8.349

1995 - 1996 184.030 128.129 45.374 10.527

1996 - 1997 190.229 126.711 51.143 12.375

1997 - 1998 195.978 121.961 59.834 14.183

1998 - 1999 202.652 117.307 68.261 17.084

1999 - 2000 206.872 118.417 69.172 19.283

2000 - 2001 193.461 101.219 71.258 20.984

Nguồn: [2, tr. 700], [163, tr. 377].

Từ bảng 2.5 trên, điều dễ nhận thấy là số lượng học sinh không ngừng

tăng lên hàng năm. Việc mở rộng quy mô số lượng học sinh phổ thông nhất là

bậc THCS và THPT ngày càng tăng là do xuất phát từ yêu cầu mở rộng, đa

dạng các loại hình đào tạo cho phù hợp với từng địa bàn dân cư; đó cũng là

kết quả của công tác vận động phổ cập giáo dục tiểu học, xóa mù chữ và vận

động “Ngày toàn dân đưa trẻ đến trường” nên học sinh chuyển cấp tăng nhanh

trong các năm; trong khi số lượng phòng học và số lượng thầy cô giáo không

tăng kịp với số lượng học sinh. Đây là một trong những bất cập về công tác

chỉ đạo giáo dục chưa đồng bộ, cần rút kinh nghiệm và kịp thời đưa ra các

giải pháp để giải quyết những bất cập nêu trên. Bên cạnh đó, số học sinh tiểu

học từ năm 1996 đến năm 2001 có xu hướng giảm là do những năm trước đây

một số con em công nhân trên công trường thủy điện Hòa Bình đã di chuyển

vào các tỉnh phía Nam và các tỉnh đồng bằng sinh sống; đặc biệt trong thời

gian này, tỉnh Hòa Bình đã làm tốt công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình,

cho nên số trẻ em trong độ tuổi vào bậc tiểu học đã giảm rất rõ.

Công tác phổ cập giáo dục tiểu học, XMC trên địa bàn tỉnh cũng không

ngừng được đẩy mạnh, song kết quả còn hạn chế và còn nhiều khó khăn đặt ra

cần được tiếp tục giải quyết. Kể từ sau khi tái lập tỉnh (10 - 1991), Sở GD -

ĐT tỉnh Hòa Bình đã điều tra, khảo sát và thống kê toàn tỉnh có gần 20.000

53

người từ 15 - 35 tuổi mù chữ. Số lượng này chủ yếu tập trung ở vùng nông

thôn, vùng cao và vùng sâu.

Thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ lần thứ XI, Tỉnh ủy Hòa Bình

xây dựng Kế hoạch 02 chuyên về củng cố, đổi mới và phát triển sự nghiệp

GD - ĐT, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến công tác phổ cập giáo dục tiểu

học, XMC và coi đây là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng bộ trong giai đoạn

1991 - 2000. Nghị quyết đã khẳng định: “Muốn xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu để

dân giàu nước mạnh, chỉ có thể đạt được bằng không ngừng nâng cao dân trí”

[43, tr. 25], đồng thời đề ra mục tiêu phấn đấu hoàn thành phổ cập giáo dục

tiểu học, XMC trước năm 1997. Trên cơ sở đó, UBND tỉnh đã ra Chỉ thị số

14 - CT/UB, ngày 10 - 5 - 1994, về việc thành lập Ban chỉ đạo công tác phổ

cập giáo dục tiểu học, XMC và nhanh chóng đi vào hoạt động và đã đạt được

thành tựu to lớn. Đến 10 - 1995, toàn tỉnh có 9 - 10 huyện, thị, 203/213 xã,

phường hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, XMC đạt tỷ lệ 95%. Tỷ lệ học

sinh bỏ học, thất học chỉ còn dưới 2%. Toàn tỉnh huy động được 95% số trẻ

trong độ tuổi lớp 1 đến trường, 18.000 người đến các lớp XMC [86, tr. 207-

208] và được Bộ GD - ĐT công nhận là tỉnh đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục

tiểu học, XMC. Tích cực triển khai đề án phổ cập giáo dục THCS, cuối năm

1999, Sở GD - ĐT Hòa Bình đề nghị công nhận thị xã Hòa Bình và các xã

vùng thấp đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục THCS. Đây là kết quả của

sự cố gắng nỗ lực của toàn ngành GD - ĐT Hòa Bình và sự phối hợp triển

khai, tổ chức thực hiện giữa các cơ quan ban ngành cũng như sự đóng góp,

hưởng ứng của toàn dân trong công tác phát triển giáo dục.

Từ công tác phổ cập giáo dục tiểu học, XMC, Sở GD - ĐT Hòa Bình đã

rút ra một số kinh nghiệm quý báu như:

Một là, phải luôn đặt công tác phổ cập giáo dục, XMC thành nhiệm vụ

hàng đầu của Đảng bộ và chính quyền các cấp, coi đó là chìa khóa để nâng

cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, từng bước đẩy lùi đói

54

nghèo. Nhiệm vụ phổ cập giáo dục, XMC phải được ghi trong Nghị quyết của

các cấp ủy Đảng, trong chương trình, kế hoạch của các cấp chính quyền.

Hai là, phải có quy chế phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể, các lực

lượng xã hội, trong đó ngành GD - ĐT là nòng cốt.

Ba là, phải gắn công tác phổ cập giáo dục, XMC vào các chương trình

phát triển KT - XH, làm cho người học thấy được hiệu quả, tác dụng của việc

học đối với bản thân, gia đình và xã hội. Đặc biệt chú trọng việc ứng dụng

những điều đã học vào việc phát triển kinh tế gia đình, xây dựng gia đình no

ấm, hạnh phúc.

Bốn là, phải có cơ chế, chính sách cho người dạy và học, khuyến khích,

động viên kịp thời những đơn vị, cá nhân có thành tích trong công tác phổ

cập giáo dục, XMC. Tạo điều kiện cho người học được ưu tiên vay vốn, được

cấp sách vở, tài liệu. Người dạy được khen thưởng, có phụ cấp xóa mù chữ.

Đơn vị hoàn thành phổ cập giáo dục, XMC phải được khen thưởng, ưu tiên

kinh phí để xây dựng trường, lớp.

Năm là, phải có bộ máy tổ chức chặt chẽ, gọn nhẹ, lấy quy mô nhỏ là

chính, phát huy tính tích cực, tự giác, kết hợp với biện pháp hành chính để

thực hiện luật phổ cập giáo dục.

Từ những kinh nghiệm rút ra nêu trên, có thể nói công tác phổ cập giáo

dục, XMC đã đặt nền tảng vững chắc cho việc thực hiện mục tiêu: nâng cao

dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài của tỉnh Hòa Bình. Với những

kết quả to lớn đã đạt được là một niềm tự hào. Song, Hòa Bình cũng xác định

công việc trước mắt còn nặng nề, cần phải có sự cố gắng, nỗ lực hơn nữa để

từng bước đưa sự nghiệp giáo dục của tỉnh không ngừng đi lên.

2.3.3. Về chất lượng giáo dục đào tạo.

Cùng với việc mở rộng quy mô, ngành giáo dục tỉnh Hòa Bình đã đưa

ra nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng GDPT như: Tích cực đào tạo, bồi

dưỡng, nâng cao trình độ cho cán bộ, giáo viên; tăng cường công tác giáo dục

55

chính trị, tư tưởng, xây dựng kỷ cương, tình thương, trách nhiệm; thường

xuyên tổ chức các phong trào thi đua phấn đấu trở thành giáo viên dạy giỏi,

học sinh giỏi; động viên khen thưởng kịp thời; tăng cường công tác thanh tra,

kiểm tra… Do vậy chất lượng GDPT không ngừng được tăng lên.

Giai đoạn 1991 - 1996:

Tỷ lệ học sinh xếp loại học lực giỏi, khá và xếp loại hạnh kiểm tốt, khá,

thể hiện ở biểu đồ sau:

Biểu đồ 2.2. Chất lượng giáo dục hai mặt, học sinh phổ thông

Đơn vị: %

100

90.0

89.0

90

82.2

80

68.7

70

60.5

60

50

40

30

20.5

20.1

18.5

15.7

20

9.2

10

0

1991-1992

1992-1993

1993-1994

1994-1995

1995-1996

Hạnh kiểm

Học lực

tỉnh Hòa Bình (1991 - 1996)

Nguồn: [120, tr. 2].

Từ biểu đồ trên cho thấy, việc đào tạo chất lượng học sinh vừa “hồng”

vừa “chuyên” đã được tỉnh Hòa Bình quán triệt sâu sắc. Kết quả đó đã phản

ánh đúng với tình hình thực tế của một tỉnh miền núi vừa mới tái lập.

Không ngừng đẩy mạnh hơn nữa chất lượng GDPT, ngành GD - ĐT

tỉnh Hòa Bình đã tích cực triển khai phát triển giáo dục mũi nhọn như tăng

cường biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi, chú trọng ở các trường chuyên, lớp

56

năng khiếu dân tộc… Do vậy, số học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao

đẳng đạt 70% (có lớp đạt trên 90%). Đặc biệt số học sinh đoạt giải quốc gia

tăng nhanh qua các năm học, thể hiện ở bảng sau:

Bảng 2.6. Số lượng học sinh phổ thông đoạt giải Quốc gia (1991 - 1996)

Trong đó

Năm học Tổng số Giải Nhất Học sinh dân tộc

(Đơn vị: Giải) (Đơn vị: Người)

1991 - 1992 18 0 1

1992 - 1993 24 2 3

1993 - 1994 45 2 5

1994 - 1995 60 11 8

1995 - 1996 61 3 9

Nguồn: [120, tr. 2]

Ngoài những thành tích nổi bật nêu trên, theo Báo cáo số 213/GDĐT

ngày 28 - 4 - 1996 của Sở GD - ĐT tỉnh Hòa Bình về kết quả thi học sinh giỏi

Quốc gia, năm học 1995 - 1996, trong số 25 tỉnh dự thi ở bảng B, Hòa Bình là

tỉnh miền núi duy nhất có 2 học sinh được tham dự bồi dưỡng cùng với sinh

viên các trường đại học và học sinh các thành phố lớn để chọn đội tuyển dự

thi tin học và toán học quốc tế lớp 12 tại Hunggari và Ấn Độ. Đó là hai em:

Trần Thạch Anh (môn tin học) và Lê Văn Mạnh (môn toán). Đối với học sinh

PTCS và THPT, tỉnh Hòa Bình dẫn đầu bảng B về số lượng học sinh đoạt giải

và chất lượng các giải. Ở bậc tiểu học, Hòa Bình là 1 trong 3 tỉnh có nhiều

học sinh đoạt giải nhất với tổng số là 18/20 học sinh. Cũng trong giai đoạn

1991 - 1996, Hòa Bình còn có 2 học sinh đoạt giải tin học trẻ không chuyên

và 3 học sinh đoạt giải vẽ toàn quốc [119, tr. 1]. Đây là một thành tích khẳng

định chất lượng GD - ĐT của Hòa Bình đã có những tiến bộ rõ rệt, vươn lên

đứng hàng đầu các tỉnh miền núi. Với những kết quả đã đạt được, năm học

1993 - 1994, ngành giáo dục Hòa Bình được Bộ GD - ĐT xếp thứ nhất khu

57

vực miền núi và đứng thứ 8 trong 53 tỉnh, thành phố; năm học 1994 - 1995,

được công nhận đứng thứ nhất miền núi và đứng thứ 2 trong 53 tỉnh, thành phố

và tiếp tục đứng đầu bảng B (khu vực miền núi và đồng bằng sông Cửu Long)

về số lượng học sinh giỏi [146, tr. 215]. Đây là một thành tích rất đáng tự hào

của giáo dục Hòa Bình thời kỳ đầu đổi mới về nâng cao chất lượng GDPT,

ngành GD - ĐT Hòa Bình đã vinh dự được Nhà nước trao tặng Huân chương

Lao động hạng Nhất năm 1995 và nhiều năm liền được Bộ GD - ĐT tặng cờ

“Đơn vị dẫn đầu về GD - ĐT”. Đó là nguồn cổ vũ, động viên cho toàn ngành

giáo dục tỉnh Hòa Bình không ngừng phát huy hơn nữa sự nghiệp trồng người.

Giai đoạn 1996 - 2001:

Không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng GDPT nhằm đáp ứng yêu

cầu của sự nghiệp CNH, HĐH tiếp tục được tỉnh Hòa Bình quan tâm chỉ đạo.

Hệ thống các trường chuyên, lớp chọn, trung tâm chất lượng cao được ngành

quan tâm đầu tư. Do vậy, năm học 1996 - 1997, toàn tỉnh đã có 11 trường

chuyên, trong đó có 10 trường THCS cấp huyện, thị và 1 trường THPT cấp

tỉnh với gần 3.000 học sinh theo học. Từ năm 1996 - 2000, Hòa Bình đã thí

điểm thành lập trường trung học chuyên ban, hệ thống các trường chuyên ban

ở các huyện, thị được chuyển thành trung tâm chất lượng cao, thực hiện giáo

dục toàn diện. Hệ thống trường trọng điểm chất lượng cao được xây dựng

(mỗi huyện, thị 1 trường tiểu học, 1 trường THCS) [146, tr. 230-231].

Công tác chỉ đạo đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao

trình độ chuyên môn cho đội ngũ giáo viên được triển khai cụ thể hơn. Qua

các hội thảo, hội thi giáo viên dạy giỏi đã góp phần nâng cao chất lượng dạy

và học trong nhà trường. Sở GD - ĐT đã chỉ đạo dạy thí điểm theo chương

trình, sách giáo khoa mới ở bậc tiểu học ở 46 trường thuộc 10/10 huyện, thị

xã với tổng số 7.100 em học chương trình tiểu học ở 3 môn thử nghiệm Toán,

Tiếng Việt, Đạo đức. Riêng thị xã Hòa Bình triển khai 19/19 trường môn

Toán và Đạo đức [120, tr. 3]. Sở GD - ĐT đã tổ chức nhiều lớp tập huấn về

58

đổi mới phương pháp dạy học, mời các chuyên gia đầu ngành về phương

pháp bộ môn, giảng dạy; tập huấn cho các giáo viên; coi việc đổi mới phương

pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người

học là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá, xếp loại giáo viên.

Việc đổi mới phương pháp dạy học được triển khai sâu rộng trong toàn ngành

từ trường, tổ chuyên môn đến giáo viên.

Qua 5 năm (1997 - 2001), việc đổi mới nội dung, phương pháp được

thực hiện rất nghiêm túc, do đó chất lượng giáo dục không ngừng được nâng

lên, thể hiện ở chỗ:

Ở bậc tiểu học:

Tổ chức thực hiện tốt “Ngày toàn dân đưa trẻ đến trường”. Vì vậy, tỷ lệ

trẻ em 6 tuổi được huy động vào lớp 1 hàng năm khá cao (vùng thuận lợi đạt

100%), tỷ lệ trẻ em bỏ học giảm theo từng năm học, là do một phần điều kiện

KT - XH phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao, việc chăm

lo cho con em học tập đã tốt hơn; mặt khác có sự quan tâm đúng mức của cấp

ủy đảng và chính quyền các cấp, sự nỗ lực của cán bộ, giáo viên trong

ngành,... kết quả đó được thông qua biểu đồ sau:

Biểu đồ 2.3. Tỷ lệ trẻ em vào lớp 1 và bỏ học

Đơn vị: %

Nguồn: [121, tr. 2]; [123, tr. 3]; [124, tr. 5].

59

Việc triển khai, nhân rộng các trường học 2 buổi/ngày tiếp tục được

thực hiện. Năm học 2001 - 2002, toàn tỉnh có 37 trường, 164 lớp và 4495 học

sinh tiểu học đã tham gia [120, tr. 5]. Bên cạnh đó, công tác chỉ đạo chặt chẽ

đầy đủ 9 môn bắt buộc và triển khai chương trình hiện hành dạy, học thử

nghiệm bậc tiểu học năm 2000 của Bộ GD - ĐT được thực hiện rất có hiệu

quả. Kết quả giáo dục hai mặt ở bậc tiểu học sau đây cho thấy điều đó.

Năm học 2000 - 2001: Về học lực, loại giỏi đạt là 8,78% (tăng 0,53%),

loại khá 28,55% (tăng 4,48%); về hạnh kiểm, loại tốt là 65,28% (tăng

12,14%); loại yếu, kém 0,68% (giảm 0,04%), so với năm học 1999 - 2000. Tỷ

lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học đạt 99,36% (năm học 1999 -

2000 là 99,5%) [124, tr. 5].

Bậc trung học (THCS và THPT):

Ngành giáo dục thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn hè nhằm nâng

cao chuyên môn cho giáo viên, nhất là các môn Toán, Lý, Hóa, Sinh, Văn, Tiếng

việt, đồng thời nhanh chóng cung cấp tài liệu hướng dẫn ôn thi tốt nghiệp THCS

và THPT, tạo điều kiện để các trường thực hiện ôn tập có chất lượng.

Công tác tổ chức thi học sinh giỏi cũng luôn được chú trọng. Năm học

1997 - 1998 đã tổ chức thi học sinh giỏi THCS trong toàn tỉnh (cho học sinh

lớp 9, vòng 1 được chia làm 2 bảng: Bảng A - vùng thuận lợi có 522 em đạt

giải. Bảng B - vùng khó khăn có 107 em dự thi và 54 em đạt giải). Cũng trong

năm học đó, ngành đã tổ chức cho các em tham gia dự thi học sinh giỏi Quốc

gia đối với lớp 12, có 87 học sinh dự thi. Kết quả: 55 học sinh đạt giải, trong

đó 4 giải nhất (Văn, Toán, Địa, Nga văn); 11 giải nhì, 22 giải ba, 18 giải

khuyến khích (trong đó 11 học sinh người dân tộc đạt giải) [121, tr. 3-4]. Phát

huy truyền thống đó, năm học 2001 - 2002 đối với học sinh THPT, đoàn học

sinh tỉnh Hòa Bình có 88 học sinh dự thi, kết quả 64 học sinh đạt giải (tăng 14

giải so với năm học 1999 - 2000). Trong đó 1 giải nhất, 17 giải nhì, 26 giải ba

và 20 giải khuyến khích (có 6 học sinh người dân tộc đoạt giải). Hòa Bình

60

tiếp tục đứng đầu bảng B (gồm các tỉnh Miền Núi, Tây Nguyên và Đồng bằng

Sông Cửu Long) về số lượng học sinh đoạt giải [124, tr. 6].

Về chất lượng giáo dục hai mặt bậc trung học qua 5 năm (1996 - 2001)

đã được nâng lên một bước, thể hiện qua biểu đồ sau:

Biểu đồ 2.4. Chất lượng giáo dục hai mặt bậc trung học,

năm học 2000 - 2001

89.5

100

80.5

80

43.3

60

37.4

40

20

0

THCS

THPT

Học lực Khá, Giỏi

Hạnh kiểm Khá, Tốt

Đơn vị: %

Nguồn: [124, tr. 6].

Từ biểu đồ 2.4 cho thấy, chất lượng giáo dục 2 mặt năm học 2000 -

2001 được nâng lên rõ rệt so với năm học 1999 - 2000. Bậc THCS, tỷ lệ học

sinh học lực đạt loại khá, giỏi tăng 4,1%, tỷ lệ học sinh xếp loại hạnh kiểm

khá, tốt tăng 12,1%. Bậc THPT, học sinh đạt học lực khá, giỏi tăng 5,5%, tỷ

lệ học sinh xếp loại hạnh kiểm loại khá, tốt tăng 21,2% [124, tr. 6]. Điều đó

đã phản ánh công tác giáo dục cả “đức” lẫn “tài”, vừa “hồng” vừa “chuyên”

luôn được quán triệt một cách sâu sắc, góp phần vào nâng cao chất lượng,

hiệu quả giáo dục của tỉnh Hòa Bình.

Với sự nỗ lực cố gắng của toàn ngành, tỷ lệ học sinh THCS và THPT

đỗ tốt nghiệp được thể hiện qua biểu đồ sau:

61

Biểu đồ 2.5. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS và THPT (1997 - 2002)

99.63

100

96.35

98

94

94.06

96

94

92

THCS

87.81

90

87.04

THPT

88

86

84

82

80

1997 - 1998

1999 - 2000

2001 - 2002

Đơn vị: %

Nguồn: [121, tr. 4]; [123, tr. 4]; [124, tr. 6].

Qua biểu đồ 2.5 cho thấy, tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp phổ thông tương

đối đồng đều và tăng ở bậc THPT trong các năm. Tuy có giảm một số ở bậc

THCS trong năm học 2001 - 2002 (so với năm học 1999 - 2000), song điều

đó đã phản ánh đúng với thực tế của ở bậc học này. Đây cũng là vấn đề đặt ra

đối với ngành GD - ĐT mà trực tiếp là bậc THCS cần phải tiếp tục tìm ra

những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng GDPT trong thời gian

tới. Bên cạnh đó, những đơn vị luôn là lá cờ đầu về phong trào nâng cao chất

lượng dạy và học là trường THPT dân tộc nội trú tỉnh Hòa Bình là điểm sáng

về mô hình giáo dục phổ thông dân tộc nội trú; trường THPT năng khiếu

Hoàng Văn Thụ, trường THPT chuyên ban Lương Sơn, THCS Hữu Nghị,

trường tiểu học Sông Đà, là những đơn vị tiêu biểu xuất sắc của ngành giáo

dục Hòa Bình, được nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động. Huyện

Mai Châu, Lạc Sơn, thị xã Hòa Bình là những đơn vị xuất sắc thi đua trong sự

nghiệp “trồng người”.

62

2.3.4. Công tác đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giáo dục.

Năm 1991, sau khi tái lập tỉnh, Hòa Bình chỉ có trên 20% số trường,

lớp được xây dựng kiên cố, trong đó có 10 trường cao tầng chủ yếu ở thị xã.

Còn lại trên 70% số trường, lớp đã xuống cấp và xây dựng bằng tranh tre, nứa

lá. Do thiếu phòng học, hàng trăm lớp đã phải học ba ca và cả tỉnh mới có 1

máy vi tính đặt tại trường THPT Hoàng Văn Thụ [120, tr. 5]. Đây là một khó

khăn rất lớn của ngành giáo dục Hòa Bình trong bối cảnh mới được tái lập.

Thực hiện quyết tâm ngói hóa, tiến tới kiên cố hóa trường học, Sở GD -

ĐT tỉnh Hòa Bình đã tích cực, năng động khai thác tối đa các nguồn nhân lực,

vật lực và tài lực như: triệt để tiết kiệm, kết hợp giữa Trung ương và địa

phương, Nhà nước và nhân dân, trong nước và quốc tế,… với nhiều biện pháp

hữu hiệu nhằm đẩy nhanh tốc độ xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị cho

trường học. Do vậy, từ 1991 - 1996, toàn ngành đã xây dựng được thêm trên

50 nhà cao tầng, hàng trăm nhà gỗ cấp 4 lợp ngói, nâng tổng số phòng kiên

cố, vững chắc lên tới 3785 phòng, chiếm tỷ lệ 67,8% (tăng 3 lần so với trước

khi tái lập tỉnh). Tổng số tiền đầu tư xây dựng, sửa chữa trường, lớp lên tới 40

tỷ đồng (trong đó, Nhà nước cấp 80%, nhân dân đóng góp 9%, các nguồn

khác là 11%). Ngành GD - ĐT đã trang bị gần 200 máy vi tính để dạy tin học

cho học sinh, xây dựng 6 phòng học ngoại ngữ hiện đại, 150 thư viện trường

học đạt chuẩn và hàng chục vạn bản sách giáo khoa dùng chung, sách tham

khảo cho giáo viên và học sinh [120, tr. 6].

Phát huy tinh thần đó, năm học 1997 - 1998, các nguồn vốn được huy

động như: Vốn chương trình mục tiêu 7.560 triệu đồng, vốn tiết kiệm ngân

sách 2.334 triệu đồng, vốn dự án giáo dục tiểu học 5.173 triệu đồng, vốn xây

dựng cơ bản tập trung 2.890 triệu đồng, vốn chương trình 747 là 1000 triệu

đồng, vốn do nhân dân đóng góp 1.850 triệu đồng [121, tr. 6]. Với việc huy

động tối đa các nguồn vốn đó; trong năm học 1997 - 1998, ngành đã xây dựng

được 140 phòng học bán kiên cố và 104 phòng học kiên cố, mua sắm trang

63

thiết bị và đồ dùng dạy học, máy vi tính, đóng mới bàn ghế, sách giáo khoa,

sách tham khảo và hỗ trợ cho 64 xã vùng đặc biệt khó khăn, nâng tổng kinh

phí mua sắm trang thiết bị dạy học lên 7.677 triệu đồng [124, tr. 6].

Trong năm học 2000 - 2001, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Hội

đồng nhân dân tỉnh Hòa Bình về “Cứng hóa trường học”, xây dựng trường

bán kiên cố và tăng cường cơ sở vật chất cho các nhà trường. Toàn tỉnh đã

làm mới thêm 468 phòng học, ngoài ra còn tu sửa 536 phòng học với tổng

kinh phí là 25.771 triệu đồng, do vậy toàn tỉnh đã có 30% trường lớp cao

tầng, 40% bán kiên cố, 100% trường THCS và THPT được xây dựng cao

tầng. Hàng năm tỉnh đã trích 6 - 10% tổng kinh phí của ngành để mua sắm

sách giáo khoa, đồ dùng dạy học, trang thiết bị với tổng kinh phí là 1.700

triệu đồng, từng bước đáp ứng đủ phòng học cho các ngành học, cấp học,

không có trường lớp học ba ca, các đơn vị trường học trong tỉnh đảm bảo

đủ sách giáo khoa cho học sinh, sách giáo khoa và tài liệu tham khảo cho

giáo viên. Từ đó, công nhận thêm 3 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia giai

đoạn 1996 - 2000, nâng tổng số trường tiểu học đạt chuẩn lên 6 trường

[124, tr. 4], [146, tr. 230].

Quán triệt quan điểm GD - ĐT là sự nghiệp của toàn dân, toàn dân tham

gia xây dựng, phát triển sự nghiệp GD - ĐT. Công đoàn ngành đã phối hợp

với Sở Giáo dục, Huyện ủy, UBND các huyện, thị xã, các tổ chức chính trị -

xã hội, đoàn thể và mọi tầng lớp nhân dân tham gia đóng góp vào nhiệm vụ

chính trị chung của ngành. Do đó, công tác xã hội hóa giáo dục cũng được tập

trung chỉ đạo nhằm tạo lập phong trào học tập sâu rộng trong xã hội, mọi

người đều được học thường xuyên, học suốt đời; xây dựng môi trường giáo

dục lành mạnh, ngăn chặn đẩy lùi mọi ảnh hưởng tiêu cực xâm nhập vào nhà

trường; huy động mọi nguồn lực trong xã hội để phát triển giáo dục. Vì vậy,

phong trào nhân dân xây dựng trường học đã được hưởng ứng mạnh mẽ, một

số xã, thị trấn, nhân dân đóng góp 50% kinh phí để xây dựng trường cao tầng

64

cho con em như xã Đa Phúc huyện Lạc Sơn, thị trấn Mường Khến huyện Tân

Lạc, riêng năm học 1999 - 2000, nhân dân đã đóng góp xây dựng trường lớp,

đóng bàn ghế, mua sắm đồ chơi cho các cháu, tổng số tiền ước tính gần 3 tỷ

đồng. Nhìn chung, sự đóng góp của nhân dân còn hạn hẹp do kinh tế chưa

phát triển nhưng đây là nguồn cổ vũ, động viên, khích lệ con em mình cũng

như toàn dân chăm lo hơn nữa sự nghiệp trồng người.

Với những kết quả trên, rõ ràng việc huy động mọi nguồn vốn đầu tư

cho giáo dục đang từng bước được phát huy có hiệu quả. Xác định rõ tăng

cường đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, Hòa Bình tiếp tục chỉ đạo

và quán triệt sâu sắc công tác này nhằm từng bước đáp ứng tốt yêu cầu dạy và

học của các nhà trường.

2.3.5. Công tác quản lý giáo dục, xây dựng tổ chức Đảng, đoàn thể

trong nhà trường.

Công tác Quản lý giáo dục được thực hiện theo hướng chuẩn hóa:

Chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, chuẩn hóa cơ sở vật chất và chuẩn hóa đánh giá,

xếp loại. Quản lý theo hướng dân chủ hóa, đặc biệt là dân chủ hóa đối với giáo

viên, phát huy mọi năng lực của các thành viên trong Hội đồng giáo dục; thực

hiện công khai, công bằng, cũng như thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của

các cơ quan quản lý về giáo dục và làm tốt chức năng quản lý Nhà nước.

Công tác quản lý đội ngũ cán bộ được thực hiện một cách toàn diện, theo

phân cấp quản lý và theo ngành. Do vậy, Sở GD - ĐT tỉnh Hòa Bình đã kiện

toàn hồ sơ, nắm vững biên chế tổ chức của tất cả các đơn vị, xây dựng quy

hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với hiện tại, đồng thời tiến hành đánh giá, sử

dụng, đề bạt, bố trí đúng cán bộ, giáo viên theo nguyên tắc dân chủ và hiệu quả.

Việc quản lý tài chính được thực hiện công khai, công bằng trong phân

bổ kinh phí, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, hướng dẫn cơ

sở thực hiện nghiêm túc nguyên tắc quản lý tài chính. Vì vậy, kinh phí được

sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng, phát huy hiệu quả cao.

65

Bên cạnh đó, công tác thanh tra cũng được ngành giáo dục hết sức coi

trọng. Hoạt động của thanh tra tập trung đi vào thanh tra chuyên môn, thanh

tra các trường, thanh tra công tác giảng dạy của giáo viên, thanh tra các kỳ

thi, đồng thời Sở GD - ĐT Hòa Bình đã mở phòng tiếp dân để giải quyết

những công việc thắc mắc hàng ngày của nhân dân, học sinh, giải quyết kịp

thời các đơn thư, khiếu tố, xử lý đúng người, đúng khuyết điểm một cách

nhanh gọn không để tồn đọng, từ đó giúp cán bộ, giáo viên thực hiện tốt

nhiệm vụ, xây dựng kỷ cương, nề nếp trường học. Điển hình trong năm học

1997 - 1998, ngành đã tổ chức thanh tra toàn diện 9 đơn vị, đạt tỷ lệ 20%;

142 giáo viên THPT đạt tỷ lệ 23%; thanh tra chuyên đề dạy và học 28 đơn vị,

đạt tỷ lệ 100%; thanh tra quản lý của Hiệu trưởng 14 đơn vị, đạt tỷ lệ 50%;

thanh tra các kỳ thi đạt 100%; thanh tra 120 trường/ 446 trường đạt tỷ lệ 26%

(vượt 6% so với chỉ tiêu Bộ Giáo dục giao). Giải quyết 32 đơn thư khiếu nại,

tố cáo, trong đó buộc thôi việc 1 cán bộ quản lý, cảnh cáo toàn ngành và

chuyển công tác khác 2 chuyên viên, hạ chức vụ 1 chuyên viên, thu hồi

102.989.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước [121, tr. 6].

Công tác thi đua, tuyên truyền được triển khai sâu rộng trong hệ thống

các trường phổ thông. Việc đánh giá, khen thưởng đối với cán bộ, giáo viên

và học sinh ngày càng chính xác, kịp thời, có định mức rõ ràng. Ngành đã chỉ

đạo tổ chức nghiêm túc, đúng quy trình việc xét tặng các danh hiệu “Nhà giáo

nhân dân”, “Nhà giáo ưu tú”, Huy chương “Vì sự nghiệp giáo dục” và các

danh hiệu thi đua khác. Bên cạnh đó phối hợp chặt chẽ với Báo, đài Phát

thanh và truyền hình tỉnh Hòa Bình trong việc tuyên truyền, nêu gương các

đơn vị, cá nhân tiên tiến, xuất sắc, đóng góp vào sự nghiệp phát triển giáo dục

cũng như phổ biến quy chế về tuyển sinh, tuyên truyền về “Ngày Nhà giáo

Việt Nam”, tuyên truyền về các cuộc vận động của Đảng, Nhà nước và của

ngành… Ngoài ra Sở GD - ĐT tiếp tục triển khai chỉ đạo chặt chẽ Chỉ thị của

Bộ trưởng Bộ GD - ĐT về chấn chỉnh công tác dạy thêm, phối hợp với công

66

đoàn ngành thực hiện tốt các cuộc vận động “Kỷ cương, tình thương, trách

nhiệm”, “Cô giáo như mẹ hiền”, “Giáo viên chủ nhiệm giỏi”…; tổ chức gặp

mặt các tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến xuất sắc trong toàn ngành nhằm cổ

vũ, động viên giáo viên, học sinh hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học được giao.

Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và xây dựng tổ chức Đảng, đoàn

thể trong nhà trường được Ban cán sự Đảng GD - ĐT tỉnh Hòa Bình rất quan

tâm chỉ đạo và phát huy có hiệu quả.

Ngay sau khi Sở GD - ĐT Hòa Bình mới thành lập và đi vào hoạt

động, Thường vụ Tỉnh ủy đã ra quyết định thành lập Ban cán sự Đảng GD -

ĐT. Thực hiện chức năng của mình, Ban cán sự đã phối hợp với lãnh đạo Sở

GD - ĐT tích cực tham mưu cho Tỉnh ủy và phối hợp với các huyện ủy, thị

ủy để xây dựng tổ chức Đảng trong ngành, đồng thời tranh thủ sự lãnh đạo

của Tỉnh ủy thường xuyên báo cáo tình hình và xin ý kiến về các chủ trương

xây dựng, phát triển sự nghiệp GD - ĐT của địa phương. Đã tham mưu cho

Tỉnh ủy ra Nghị quyết 02 chuyên về củng cố, đổi mới và phát triển GD - ĐT;

cụ thể hóa Nghị quyết lần thứ 4 Ban chấp hành Đảng bộ khóa XI. Bên cạnh

đó, lãnh đạo Sở đã tham mưu cho Hội đồng nhân dân tỉnh ra Nghị quyết 09

về GD - ĐT và UBND tỉnh ra Nghị quyết 66 và 650 về Ban hành một số

chính sách của địa phương đối với GD - ĐT. Đảng bộ cơ quan Sở GD - ĐT,

cơ quan đầu não của ngành được Đảng ủy khối Dân, Chính, Đảng lãnh đạo,

chỉ đạo trực tiếp và sâu sát. Đây là một trong những thuận lợi đối với Đảng

bộ cơ quan ngành GD - ĐT Hòa Bình. Tiếp tục thực hiện tốt công tác tham

mưu và phân cấp quản lý, phòng GD - ĐT các huyện, thị xã cũng tranh thủ sự

lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy địa phương. Do vậy, 11/11 huyện ủy, thị ủy đều

ra Nghị quyết chuyên đề về công tác phát triển GD - ĐT của địa phương mình.

Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và xây dựng tổ chức Đảng trong

nhà trường thường xuyên được quan tâm và có nhiều chuyển biến tích cực.

Các tổ chức Đảng trong nhà trường phổ thông đã phát huy tốt vai trò lãnh

67

đạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức và tác phong gương mẫu của

người đảng viên. Ban cán sự Đảng thường xuyên phối hợp với huyện ủy, thị

ủy tổ chức các hội nghị học tập, quán triệt chuyên đề, Nghị quyết của Đảng,

nhằm nâng cao nhận thức trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Công tác phát

triển đảng viên đảm bảo số lượng và chất lượng, tập trung vào những quần

chúng ưu tú là giáo viên dạy giỏi, quản lý giỏi, giáo viên nữ, giáo viên người

dân tộc. Do vậy, “từ năm 1991 - 1996, Đảng bộ cơ quan Sở Giáo dục và Đào

tạo luôn được công nhận là tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh, Đảng

bộ tiêu biểu của khối Dân, Chính, Đảng, toàn ngành đã có gần 100 chi bộ và

kết nạp được trên 500 đảng viên [120, tr. 3].

Tiếp tục quán triệt Chỉ thị số 34 CT/TW ngày 30 - 05 - 1998 của Bộ

Chính trị “Về tăng cường công tác chính trị tư tưởng, củng cố tổ chức Đảng,

đoàn thể quần chúng và công tác phát triển đảng viên trong các trường học”.

Giai đoạn 1997 - 2001, chất lượng và số lượng đảng viên không ngừng được

tăng lên nhất là trong các trường phổ thông. Tiêu biểu là năm học 1997 -

1998, đã kết nạp được 392 đảng viên mới đưa tổng số đảng viên toàn ngành

lên 2.187 người tập trung ở 315 chi bộ, Đảng bộ, chiếm 16,84% số biên chế

cán bộ, giáo viên, công nhân viên (trong đó đảng viên nữ chiếm 57%, đảng

viên người dân tộc chiếm 63.3%) [121, tr. 8]; năm học 2001 - 2002, số lượng

đảng viên mới được kết nạp là 250 đảng viên, nâng tổng số đảng viên lên 2.273

người (chiếm tỷ lệ 16.7% số cán bộ, giáo viên, công nhân viên) [124, tr. 8].

Cùng với công tác xây dựng Đảng, tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên đã

phát huy tốt vai trò theo chức năng, nhiệm vụ, góp phần tích cực vào thành tích

chung của nhà trường và chăm lo đời sống cho cán bộ giáo viên và học sinh.

Với những kết quả nêu trên đã phản ánh khá rõ nét về vai trò lãnh đạo

của tổ chức Đảng, tổ chức đoàn thể đối với công tác giáo dục. Đây là cơ sở

bảo đảm cho việc định hướng về đường lối của toàn ngành, phục vụ tốt hơn

chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cho toàn tỉnh.

68

Tiểu kết chương 2.

Khởi sắc đi lên cùng tiến trình đổi mới đất nước, GD - ĐT nói chung và

GDPT nói riêng đã có những bước tiến nhất định trong sự nghiệp đổi mới

GDPT nước nhà. Thực hiện chủ trương của Đảng về đổi mới GD - ĐT, là một

tỉnh miền núi được tái lập (10 - 1991), điều kiện KT - XH còn đứng trước rất

nhiều khó khăn, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình đã nhanh

chóng bắt kịp công cuộc đổi mới và phát triển giáo dục của đất nước, nhất là

giáo dục ở bậc phổ thông. Do vậy, GDPT đã không ngừng được đổi mới và

phát triển. Quy mô giáo dục được mở rộng, chất lượng giáo dục từng bước

được nâng cao, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập

được thêm mới, công tác quản lý giáo dục, thanh tra, kiểm tra được thực hiện

một cách nghiêm túc làm cho bộ mặt của ngành ngày càng khởi sắc. Tuy

nhiên bên cạnh những kết quả đạt được rất đáng tự hào; GDPT ở Hòa Bình

còn thấp so với yêu cầu đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực phục vụ sự

nghiệp CNH, HĐH. Chất lượng giáo dục chưa thật đồng đều giữa các trường;

tỷ lệ học sinh THPT thi đỗ vào các trường Đại học, Cao đẳng chưa cao, công

tác hướng nghiệp, gắn lý luận với thực tiễn chưa thực sự được chú trọng,

nhiều nơi vùng khó khăn tỷ lệ trường, lớp là tranh tre, nứa lá vẫn còn; việc

đầu tư về cơ sở vật chất trang thiết bị, kinh phí giành cho giáo dục còn thấp…

Song có thể nói, quá trình phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình giai đoạn (1991 -

2001), với những kết qủa đạt được là rất đáng ghi nhận. Đây là những tiền đề

đầy hứa hẹn giúp cho GDPT nói riêng, GD - ĐT ở tỉnh Hòa Bình nói chung

có những bước phát triển mới, đáp ứng tốt hơn yêu cầu đào tạo nguồn nhân

lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

69

Chương 3

PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở TỈNH HÒA BÌNH

GIAI ĐOẠN 2001 - 2010

3.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương phát triển giáo dục phổ thông ở

tỉnh Hòa Bình trong giai đoạn mới

3.1.1. Bối cảnh lịch sử và yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực trong

giai đoạn mới.

Nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI, thế kỷ của nền văn minh tri thức,

từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên sang nền

kinh tế dựa vào trí tuệ con người. Khoa học và công nghệ trở thành lực lượng

sản xuất trực tiếp làm thay đổi sâu sắc bộ mặt thế giới. Những thành tựu của

khoa học công nghệ thể hiện ở các lĩnh vực Internet, công nghệ Nanô, vật liệu

mới, công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ… Điều này tác động đến tất cả

các lĩnh vực, làm chuyển biến nhanh chóng, sâu sắc đời sống vật chất và tinh

thần của mọi quốc gia.

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu hướng chủ đạo, vừa là quá trình

hợp tác, vừa là quá trình đấu tranh của các nước để bảo vệ lợi ích dân tộc.

Cạnh tranh kinh tế giữa các nước ngày càng trở nên quyết liệt, đòi hỏi các

quốc gia phải đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động, đặt ra vị trí mới

của giáo dục. Tình hình đó thúc đẩy tất cả các quốc gia trên thế giới đều nhận

thức được giáo dục là nhân tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững,

phải có những chiến lược phát triển để vươn lên mạnh mẽ, trong đó GD - ĐT,

khoa học và công nghệ luôn được coi là chìa khóa của sự thành công, có thể

đáp ứng một cách năng động hơn, hiệu quả hơn, trực tiếp hơn những nhu cầu

của sự phát triển KT - XH đất nước và hội nhập quốc tế.

Trong bối cảnh đó, ở Việt Nam nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN đã và đang được vận hành, đã tạo ra nhiều cơ hội, đem đến những

70

bước đột phá lớn. Sản xuất hàng hóa phát triển làm cho thị trường lao động

mở rộng, nhu cầu học tập tăng lên, bộ mặt xã hội không ngừng được đổi mới,

uy tín và vị thế của nước ta ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế…

Tuy nhiên, đồng hành với nó là sự thay đổi quan niệm về giá trị và lợi ích; tạo

ra sự phân hóa giàu nghèo; sự suy thoái về đạo đức và lối sống thực dụng

trong một bộ phận dân cư; ảnh hưởng đến lựa chọn nghề nghiệp, động cơ học

tập, các quan hệ trong nhà trường và ngoài xã hội, góp phần tăng thêm sự

khác biệt về cơ hội học tập. Việc đầu tư của các doanh nghiệp, sự cạnh tranh

của các cơ sở sản xuất tạo ra nhu cầu lớn về nguồn nhân lực có chất lượng cao

để đáp ứng nhu cầu đó. Các yếu tố như kiến thức nền tảng phổ thông, khả

năng đáp ứng nhu cầu cao của công nghệ, ngoại ngữ, tin học là không thể

thiếu cho nguồn nhân lực mới… Vì vậy vấn đề đặt ra đối với GD - ĐT ở Việt

Nam khi bước sang thế kỷ XXI, làm thế nào để đáp ứng tốt yêu cầu là nơi

cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng, phục vụ nền kinh tế thị trường định

hướng xã XHCN và hội nhập quốc tế.

Sau 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh

đạo, với sự nỗ lực cố gắng vươn lên của đồng bào các dân tộc trong tỉnh, Hòa

Bình đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, nền kinh

tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng

XHCN. Các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế đã và đang chuyển dịch theo

đúng hướng; tiềm năng, thế mạnh về nguồn lực lao động, đất đai, điều kiện tự

nhiên được phát huy gắn liền với yêu cầu của thị trường. Cơ cấu ngành

chuyển biến theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, thương mại, giảm

dần tỷ trọng nông nghiệp trong GDP; cơ chế chính sách được bổ sung và triển

khai kịp thời, phù hợp với điều kiện địa phương; hoạt động văn hóa, xã hội

được chăm lo và đạt được nhiều thành quả quan trọng, góp phần vào ổn định

chính trị, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân… đã tạo ra thế và lực

mới cho quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,

71

xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những kết quả đạt được trong thời kỳ

đổi mới là toàn diện và rất quan trọng, song đây mới chỉ là những kết quả

trong bước đi đầu tiên kể từ khi tái lập tỉnh (năm 1991).

Đứng trước những yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao về cung cấp nguồn

nhân lực, phục vụ bước đột phá phát triển kinh tế của tỉnh Hòa Bình trong giai

đoạn mới, đã tạo ra sức ép không nhỏ đối với việc nâng cao chất lượng và

hiệu quả của GDPT. Do vậy, ngành GD - ĐT Hòa Bình phải nhanh chóng

nắm bắt những cơ hội, vượt qua những khó khăn thách thức; xác định rõ mục

tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ của ngành và của địa phương để phát huy mạnh mẽ

nguồn lực con người, từng bước xây dựng quê hương Hòa Bình ngày càng

giàu đẹp, văn minh.

3.1.2. Chủ trương của Đảng và sự vận dụng của Đảng bộ tỉnh Hòa

Bình về đổi mới giáo dục phổ thông.

Đại hội lần thứ IX (4 - 2001) của Đảng diễn ra vào thời điểm có ý nghĩa

trọng đại, thế kỷ XX đã kết thúc, thế kỷ XXI vừa bắt đầu. Từ thực tiễn 15

năm đổi mới GD - ĐT, Đại hội một lần nữa khẳng định: “Phát triển giáo dục

và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu

tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” [37, tr.

108-109]. Riêng về GDPT, Đại hội đề ra một số giải pháp như: Tiếp tục nâng

cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và

học.Củng cố thành tựu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Đẩy nhanh

tiến độ phổ cập giáo dục THCS trong cả nước. Tăng ngân sách Nhà nước cho

GD - ĐT theo nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Thực hiện chủ trương xã hội hóa

giáo dục [37, tr. 109-111].

Tiếp đó, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX

(2002), đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp về đổi mới giáo dục

đến năm 2005 và năm 2010. Hội nghị đề ra một số chỉ tiêu phát triển GDPT

72

đó là: Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Tăng tỷ lệ huy động

học sinh trong độ tuổi đến trường tiểu học từ 95% năm 2000 lên 97% vào

năm 2005 và 99% vào năm 2010. Phấn đấu đến năm 2010 tất cả các trường

tiểu học đạt chuẩn quốc gia. Đạt chuẩn phổ cập THCS ở các thành phố, đô thị,

vùng kinh tế thuận lợi vào năm 2005, trong cả nước vào năm 2010. Tăng tỷ lệ

học sinh THCS trong độ tuổi từ 74% năm 2000 lên 80% vào năm 2005 và

90% vào năm 2010. Phấn đấu đến năm 2015 tất cả các trường THCS đạt

chuẩn quốc gia. Tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi vào THPT từ 38% năm

2000 lên 45% năm 2005 và 50% vào năm 2010. Phấn đấu đến năm 2007 tất

cả các trường THPT đạt chuẩn quốc gia. Vào năm 2010 bảo đảm 100% yêu

cầu chuẩn về thiết bị dạy học, phòng thí nghiệm, thư viện trường học ở tất cả

các cấp học, bậc học [38, tr. 44-45].

Đại hội lần thứ X của Đảng (4 - 2006), trên cơ sở đánh giá khách quan

về thực trạng giáo dục Việt Nam, đại hội đã xác định phương hướng, nhiệm

vụ phát triển phát triển giáo dục trong 5 năm (2006 - 2010) đó là: “Đổi mới tư

duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu chương trình nội dung phương

pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tiếp cận với trình độ

giáo dục của khu vực và trên thế giới. Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện

đại, của dân, do dân và vì dân, đảm bảo công bằng về cơ hội học tập cho mọi

người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, đáp ứng yêu

cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước” [39, tr. 206-207].

Triển khai các quan điểm của Đảng về phát triển giáo dục, ngày 28 - 12

- 2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg,

kèm theo “Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010”. Tiếp đó, ngày 14 - 6 -

2005, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Giáo dục (sửa đổi), trong đó quy

định GDPT gồm hai bậc học là giáo dục tiểu học và giáo dục trung học, ở bậc

trung học có hai cấp là THCS và THPT...

73

Có thể nói, những chủ trương, chính sách về phát triển GDPT của Đảng

và Nhà nước nêu trên là cơ sở định hướng, căn cứ pháp lý quan trọng để các địa

phương trong cả nước nói chung, tỉnh Hòa Bình nói riêng tiếp thu vận dụng.

Quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tỉnh Hòa

Bình đã đề ra những chủ trương, biện pháp phát triển GDPT, nhằm từng bước

đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.

Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XIII (2001) đã đề ra mục tiêu

phát triển GDPT trong 5 năm đầu thế kỷ XXI đó là: “Huy động 100% số học

sinh đúng độ tuổi vào lớp 1, thực hiện phổ cập giáo dục THCS cho các xã,

phường thuộc vùng I và vùng II, tiến hành phổ cập giáo dục THPT cho thị xã

và các thị trấn, huyện lỵ đạt từ 20% trở lên” [46, tr. 12]. Để thực hiện mục

tiêu nêu trên, đại hội đã đề ra các nhiệm vụ và giải pháp phát triển GDPT như:

Thu hút 100% học sinh vào lớp 1 cùng độ tuổi, chống tái mù trong việc thực

hiện phổ cập giáo dục tiểu học; thực hiện phổ cập giáo dục THCS cho các

trường, xã thuộc vùng I, vùng II. Nâng cao chất lượng giáo viên, phấn đấu

đến năm 2005 cao đẳng hóa giáo viên tiểu học, giáo viên THCS đạt chuẩn

30%, giáo viên THPT đạt chuẩn 8 - 10%, có từ 8 - 10% giáo viên THPT có

trình độ sau đại học, 30% giáo viên THCS có trình độ đại học. Khuyến khích

đối với những giáo viên giỏi, giáo viên tình nguyện tới những vùng sâu, vùng

xa. Đẩy mạnh hơn nữa công tác xã hội hóa giáo dục, tích cực huy động nguồn

lực ngoài ngân sách cho giáo dục, xây dựng trường lớp phù hợp với thực tế

từng địa bàn dân cư. Tăng tỷ trọng ngân sách đầu tư cho việc dạy và học từ 20

- 25% tổng ngân sách ngành [46, tr. 12-13].

Sau Đại hội Đảng bộ lần thứ XIII, Tỉnh ủy Hòa Bình đề ra Định hướng

chiến lược phát triển GD - ĐT những năm đầu thế kỷ XXI đó là: Phát triển hệ

thống GD - ĐT Hòa Bình theo hướng tiên tiến, hiện đại. Xây dựng đội ngũ

giáo viên đủ về số lượng, đồng bộ về loại hình, 100% giáo viên trong độ tuổi

đạt trình độ bậc học về chuyên môn nghiệp vụ. Đến năm 2005, 100% giáo

74

viên tiểu học đạt chuẩn trung học sư phạm, 100% giáo viên THCS đạt chuẩn

cao đẳng sư phạm, 100% giáo viên các trường THPT đạt chuẩn đại học sư

phạm. Tăng cường nguồn lực tài chính và đa dạng hóa, xã hội hóa các hoạt

động GD - ĐT. Phấn đấu đến năm 2010 đạt tỷ lệ 20 - 30% trường đạt chuẩn

quốc gia, năm 2020 có 80 - 90% trường đạt chuẩn quốc gia. Thực hiện phổ

cập giáo dục THCS, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi trên cơ sở giữ

vững và nâng cao kết quả đã đạt được [146, tr. 239-241].

Tiếp đó, thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001 - 2010

của Thủ tướng Chính phủ, tháng 7 - 2001, Tỉnh ủy Hòa Bình đã đề ra Định

hướng chiến lược phát triển GD - ĐT ở Hòa Bình với các chỉ tiêu: Thu hút

100% học sinh đúng độ tuổi vào lớp 1, đến năm 2005 đạt chuẩn phổ cập tiểu

học đúng độ tuổi, đạt chuẩn phổ cập THCS, tiến tới phổ cập THPT cho thị xã,

thị trấn, huyện lỵ đạt 20%. Đến năm 2005, tỷ lệ giáo viên tiểu học vượt chuẩn

30% giáo viên THCS vượt chuẩn 20%, giáo viên THPT vượt chuẩn 8 - 10%...

[146, tr. 241-242].

Trên cơ sở những thành tích bước đầu đạt được về GDPT, tháng 5 -

2004, Sở GD - ĐT Hòa Bình đề ra Chương trình hành động của ngành với

nhiều nội dung quan trọng như:

Chương trình 1: Đổi mới nâng cao hơn nữa năng lực quản lý nhà nước

trong GD - ĐT.

Chương trình 2: Tiếp tục đổi mới GDPT và phương pháp dạy học theo

hướng hiện đại, phù hợp với điều kiện KT - XH của tỉnh. Tập trung thực hiện

chương trình, sách giáo khoa phổ thông theo tinh thần Nghị quyết

40/2000/QH của Quốc hội khóa X.

Chương trình 3: Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản

lý giáo dục, coi trọng đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, chuẩn hóa về trình

độ đào tạo.

Chương trình 4: Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường

lớp, trang thiết bị, đồ dùng dạy học, tập trung các nguồn lực cho GD - ĐT.

75

Chương trình 5: Phát triển quy mô giáo dục trên hai lĩnh vực đại trà và

mũi nhọn, bảo đảm chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn với yêu cầu

phát triển KT - XH của địa phương.

Chương trình 6: Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục [146, tr. 247].

Bước sang giai đoạn mới, Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XIV

(2005) đã đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ phát triển GDPT như:

Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng

(khóa IX) về “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ

quản lý giáo dục”; phấn đấu đến năm 2010 có 100% giáo viên đạt chuẩn;

hoàn thành đổi mới GDPT theo Nghị quyết 40 của Quốc hội. Tăng cường đầu

tư ngân sách và huy động nguồn lực ngoài ngân sách cho giáo dục. Giữ vững

và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo

dục tiểu học, XMC và phổ cập giáo dục THCS [165, tr. 482].

Có thể khẳng định rằng các quan điểm của Đảng bộ tỉnh Hòa Bình về

phát triển GDPT, đã thể hiện nhận thức đúng đắn tinh thần đổi mới về giáo

dục của Đảng. Do vậy, quá trình quán triệt và vận dụng vào thực tiễn địa

phương luôn có được những bước đi thuận lợi và mang tính khả thi.

3.2. Phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình, góp phần tạo

bước đột phá về kinh tế - xã hội (2001 - 2010)

3.2.1. Nâng cao chất lượng và chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, cán bộ

quản lý giáo dục.

Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục giữ vai trò quan trọng

trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, do vậy công tác xây dựng đội ngũ cán

bộ, giáo viên vững mạnh tiếp tục được tỉnh Hòa Bình quan tâm chỉ đạo.

Quán triệt Chỉ thị số 40 CT/TW ngày 15 - 6 - 2004 của Ban Bí thư

Trung ương Đảng, về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo

và cán bộ quản lý giáo dục, Chương trình hành động số 374/CTr-TU ngày

24 - 12 - 2004 của Tỉnh ủy Hòa Bình, ngành giáo dục Hòa Bình đã tiến hành

76

rà soát đánh giá, bổ sung đội ngũ cán bộ, kiện toàn bộ máy quản lý; chuẩn

hóa nâng cao năng lực quản lý gắn trách nhiệm với quyền hạn của cán bộ

quản lý theo nhiệm kì 5 năm; sắp xếp điều chỉnh biên chế giữa các vùng, các

trường một cách hợp lý đảm bảo giáo viên dạy đúng môn, chất lượng giảng

dạy ở các vùng không bị chênh lệch. Thực hiện chủ trương nêu trên, hàng

năm Sở GD - ĐT đã tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn,

nghiệp vụ cho cán bộ quản lý và giáo viên các nhà trường; chỉ đạo các

trường phổ thông chọn cử giáo viên dạy giỏi dạy các lớp đầu cấp tham gia

dạy các lớp thay sách, làm cơ sở rút kinh nghiệm cho việc chọn cử giáo viên

các lớp sau; tổ chức hội giảng, hội thi giáo viên dạy giỏi. Hàng năm ngành

giáo dục đã tiến hành cử đội ngũ cán bộ tham gia tập huấn tại Bộ GD - ĐT

và thực hiện nhiệm vụ tập huấn cho giáo viên đại trà tại địa phương; thường

xuyên tổ chức hội thảo đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm rút ra những

kinh nghiệm để có biện pháp phát huy mặt mạnh và kịp thời khắc phục

những hạn chế, khó khăn và từng bước có kế hoạch bồi dưỡng giáo viên

trong những năm sau; có kế hoạch thanh tra, kiểm tra báo trước, đột xuất để

tổ chức dự giờ, các chuyên đề về phương pháp thiết kế bài giảng, các hoạt

động dạy học tích cực tập trung vào người học để cùng nhau rút kinh nghiệm

và nâng cao kiến thức chuyên môn cho giáo viên; triển khai việc ứng dụng

công nghệ thông tin vào công tác giảng dạy, đồng thời bố trí đủ giáo viên

công nghệ thông tin và toán - tin đến các trường phổ thông; thực hiện chuẩn

hóa trình độ 9 + 3 cho giáo viên tiểu học có trình độ dưới sư phạm 9 + 2;

chú trọng liên kết với các trường đại học, cao đẳng bồi dưỡng đào tạo chuẩn

cho giáo viên bằng các hình thức chính quy, tại chức, từ xa nhằm nâng cao

chất lượng đội ngũ… Do vậy, năm học 2004 - 2005 chất lượng đội ngũ giáo

viên các cấp học, bậc học ngày càng được tăng cường, tỷ lệ giáo viên được

đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn được thể hiện qua biểu đồ sau:

77

Biểu đồ 3.1. Chất lượng đội ngũ giáo viên phổ thông năm học 2004 - 2005

97.78

95.89

91

Đạt chuẩn

Trên chuẩn

21

19.6

1.64

100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0

Tiểu học

THCS

THPT

Đơn vị: %

Nguồn: [132, tr. 8].

Bên cạnh đó, tỉnh Hòa Bình cũng rất quan tâm đào tạo giáo viên cho

vùng dân tộc, số lượng giáo viên người dân tộc ở cấp học phổ thông tăng hơn

so với năm học trước, năm học 2004 - 2005, tỉnh Hòa Bình đã có

7.123/11.815 giáo viên người dân tộc thiểu số trực tiếp tham gia giảng dạy,

chiếm tỷ lệ 60,28% so với tổng số giáo viên toàn ngành [132, tr. 10]. Đến

năm học 2005 - 2006, tỷ lệ giáo viên là người dân tộc thiểu số tăng 0,98% so

với năm học 2004 - 2005; chất lượng giáo viên được nâng cao, có 76,36%

giáo viên tiểu học là người dân tộc thiểu số đạt chuẩn và 12,6% vượt chuẩn;

79,68% giáo viên THCS là người dân tộc hiểu số đạt chuẩn và 11,5% vượt

chuẩn; 95,5% giáo viên THPT là người dân tộc thiểu số đạt chuẩn và 2,25%

vượt chuẩn [133, tr. 16]. Ngành giáo dục tỉnh Hòa Bình cũng đã thực hiện đầy

đủ các chính sách, chế độ cho cán bộ, giáo viên, nhân viên công tác tại các

trường phổ thông dân tộc nội trú theo Nghị định 61/2006/NĐ-CP của Chính

phủ về chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục ở các trường

chuyên biệt, ở vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn. Bên cạnh đó, thực hiện

Nghị quyết 09/2003/NQ-CP của Chính phủ, đã giải quyết tinh giản biên chế

78

đối với một số giáo viên có trình độ năng lực yếu, kém không đáp ứng yêu

cầu nghiệp vụ trong giai đoạn mới.

Tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị số 40 CT/TW ngày 15 - 6 - 2004

của Ban Bí thư Trung ương Đảng, ngày 11 - 01 - 2005, Thủ tướng Chính phủ

đã ban hành Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg về xây dựng, nâng cao chất

lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 - 2010.

Quán triệt chủ trương nêu trên, UBND tỉnh Hòa Bình đã ban hành Quyết định

số 3463/QĐ-UBND, ngày 25 - 12 - 2006, về việc phê duyệt Đề án “Xây

dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tỉnh

Hòa Bình giai đoạn 2005 - 2010”; trên cơ sở đó, ngành GD - ĐT ban hành

hướng dẫn số 897/SGD&ĐT-TCCB, ngày 15/6/2007 để thực hiện Quyết định

của UBND tỉnh, với mục tiêu “Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý

giáo dục theo hướng chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ số lượng, đồng bộ về

cơ cấu; đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống

lương tâm, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của nhà giáo và cán bộ quản lý

giáo dục” [196, tr. 1].

Thực hiện quyết định trên, ngành giáo dục đã chủ động rà soát, sắp xếp

lại đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, kiên quyết chuyển công tác

khác đối với giáo viên không đáp ứng được yêu cầu, hợp đồng giáo viên trẻ

có chất lượng. Tổ chức đánh giá, xếp loại cán bộ quản lý, giáo viên chính xác,

không chạy theo thành tích đảm bảo phản ánh đúng chất lượng giáo dục.

Thực hiện tinh giản biên chế, sắp xếp và sử dụng cán bộ công chức phù hợp

với chức trách, nhiệm vụ được giao, đổi mới phong cách làm việc, phân công

nhiệm vụ rõ ràng. Triển khai đồng bộ các giải pháp nêu trên, riêng năm học

2007 - 2008, toàn ngành đã có 189 cán bộ, giáo viên đăng ký nghỉ chế độ (đợt

1 và đợt 2) theo Nghị định 132/2007/NĐ-CP của Chính phủ do dôi dư về cơ

cấu và năng lực chuyên môn yếu kém; một số giáo viên yếu kém về chuyên

môn, còn trẻ được chuyển làm công tác phục vụ và hành chính; đồng thời

79

tăng cường kỷ cương, nền nếp trong dạy và học, xử lý kỷ luật nghiêm minh

đối với những trường hợp vi phạm khuyết điểm. Trong năm học đã xử lý kỷ

luật khiển trách, cảnh cáo 41 cán bộ quản lý, giáo viên; buộc thôi việc 03 giáo

viên vi phạm pháp luật [135, tr. 10]. Năm học 2009 - 2010, đã khảo sát xếp

loại 78 giáo viên không đáp ứng được yêu cầu, 450 giáo viên chưa đạt chuẩn,

căn cứ vào đó, ngành tiếp tục chỉ đạo cử đi đào tạo lại, vận động nghỉ hưu

trước tuổi và nghỉ chờ chế độ hưu sớm, bố trí lại công việc phù hợp với yêu

cầu nhiệm vụ, đồng thời bổ sung kịp thời lực lượng giáo viên trẻ có đủ điều

kiện và năng lực để tránh thiếu hụt; chỉ đạo khắc phục tình trạng thiếu giáo

viên ở một số bộ môn, động viên cán bộ, giáo viên dạy tăng tiết, tăng giờ, hợp

đồng tạm thời một số giáo viên tốt nghiệp cao đẳng sư phạm tin học loại khá

để giảng dạy bộ môn tin học trong trường THPT còn thiếu. Liên kết mở các

lớp đại học với các trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học sư phạm Thái

Nguyên để đào tạo nâng trình độ trên chuẩn cho giáo viên các cấp học. Bên cạnh

đó, xây dựng kế hoạch thực hiện công tác điều động, luân chuyển cán bộ quản lý

theo tinh thần Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 25 - 11 - 2002 của Bộ Chính trị

(khóa IX) và bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ quản lý giáo dục nhiệm kỳ 2010 -

2015. Kiên quyết không bổ nhiệm lại cán bộ quản lý năng lực yếu; không bố trí

giáo viên yếu hoặc chưa qua đào tạo tham gia giảng dạy. Thực hiện việc đánh

giá, lấy phiếu tín nhiệm giữa nhiệm kỳ đối với cán bộ quản lý giáo dục.

Công tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ quản lý luôn đảm bảo chặt chẽ,

đúng quy trình, thủ tục; công khai, dân chủ, đảm bảo tiêu chuẩn theo quy

định Điều lệ trường học và quy định của tỉnh. Phối kết hợp chặt chẽ với các

cấp ủy Đảng, Chính quyền địa phương để làm tốt công tác cán bộ quản lý

như bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển, điều động cán bộ luôn được đồng

thuận cao. Hàng năm thực hiện tốt công tác đánh giá, quy hoạch cán bộ quản

lý theo tinh thần NQTW 3 (khoá 8) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh

CNH, HĐH đất nước. Trong năm học 2009 - 2010, toàn ngành đã tiến hành

80

bổ nhiệm lại 1 đồng chí lãnh đạo ngành, 124 cán bộ quản lý, miễn nhiệm 68

cán bộ quản lý năng lực yếu kém.

Một trong những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ là công

tác đánh giá đúng chất lượng cán bộ, giáo viên. Căn cứ chuẩn nghề nghiệp

giáo viên các cấp để hướng dẫn phân loại cán bộ, giáo viên nhằm đào tạo, bồi

dưỡng, sử dụng, bố trí đội ngũ một cách hợp lý, phù hợp với năng lực chuyên

môn và trình độ đào tạo. Ngành đã phối hợp với Sở Nội vụ xây dựng đề án rõ

ràng, chặt chẽ, dân chủ, khách quan trong việc tuyển dụng, sử dụng và đãi

ngộ cán bộ giáo viên.

Công tác xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên

là người dân tộc thiểu số trong các trường phổ thông cũng được ngành giáo

dục tỉnh Hòa Bình hết sức quan tâm, quy mô đội ngũ giáo viên người dân

tộc thiểu số tăng lên khá nhanh. Đến năm 2008, toàn tỉnh có 6.637 giáo viên

là người dân tộc thiểu số, chiếm tỷ lệ 45,39% so với tổng số giáo viên toàn

ngành [146, tr. 277]. Đã tuyển chọn đào tạo, bồi dưỡng người Mông thành

giáo viên trực tiếp dạy tiểu học tại các xã và đã có 22 giáo viên tiểu học là

người Mông đạt chuẩn trực tiếp giảng dạy tại các lớp [146, tr. 277]. Tổ chức

đào tạo đội ngũ giáo viên người dân tộc Mường, Tày, Thái đến giảng dạy tại

các vùng đặc biệt khó khăn; điều động các giáo viên giỏi, giáo viên cốt cán

các bộ môn đến giảng dạy ở các trường vùng cao, vùng khó khăn một thời

gian. Chất lượng giáo viên là người dân tộc thiểu số không ngừng được nâng

cao, tỷ lệ giáo viên dân tộc thiểu số đạt chuẩn trở lên trong toàn ngành bậc

tiểu học đạt 98% (trong đó trên chuẩn là 20%); giáo viên THCS là 96%

(trong đó trên chuẩn là 2%); giáo viên THPT đạt 99%, (trong đó trên chuẩn

là 2% [146, tr. 278].

Tiếp tục phát huy những kết quả đạt được trong công tác xây dựng đội

ngũ, đến năm học 2009 - 2010, tỷ lệ giáo viên phổ thông các cấp có trình độ

đạt chuẩn và trên chuẩn tiếp tục được nâng lên thể hiện qua biểu đồ sau:

81

Biểu đồ 3.2. Chất lượng đội ngũ giáo viên phổ thông năm học 2009 - 2010

100

100

100

100

90

80

70

Đạt chuẩn

60

40.2

50

Trên chuẩn

40

23.3

30

20

3.3

10

0

Tiểu học

THCS

THPT

Đơn vị: %

Nguồn: [138, tr. 13].

Tuy nhiên, đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục trong giai

đoạn 2001 - 2010 vẫn còn bộc lộ một số hạn chế. Một bộ phận giáo viên, cán

bộ quản lý chưa theo kịp với yêu cầu đổi mới giáo dục, nhất là việc đổi mới

công tác thi, kiểm tra, đánh giá, đổi mới phương pháp dạy và học. Bên cạnh

đó, công tác quy hoạch, đào tạo còn thiếu tổng thể nên dẫn đến tình trạng đội

ngũ giáo viên vừa thiếu, vừa thừa và không đồng bộ về cơ cấu, trình độ

chuyên môn. Điển hình như năm học 2007 - 2008, đối với cấp THPT toàn

tỉnh vẫn còn thiếu 498 người, trong đó thiếu 365 giáo viên giảng dạy, 55 nhân

viên thiết bị, 30 nhân viên thư viện, 24 nhân viên văn phòng [135, tr. 9]....

Với những hạn chế nêu trên, ngành giáo dục tỉnh Hòa Bình cần phải tiếp tục

nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ, để kịp thời đáp ứng với yêu cầu của

tình hình mới, đây là yếu tố quyết định đến chất lượng giáo dục đào tạo của

tỉnh Hòa Bình.

3.2.2. Hệ thống trường, lớp và quy mô học sinh.

Hệ thống trường, lớp tiếp tục được phát triển đa dạng và mở rộng khắp

các làng bản, thôn xóm, đã đáp ứng nhu cầu học tập của con em đồng bào các

82

dân tộc trong tỉnh. Đến năm học 2009 - 2010, toàn tỉnh Hòa Bình có một mạng

lưới trường lớp phổ thông tương đối hợp lý, thể hiện qua bảng số liệu sau:

Bảng 3.1. Số lượng trường, lớp phổ thông (2001 - 2010)

Trường

Lớp

Năm học

Tiểu

PTCS

PT

Tiểu

THCS THPT

THCS THPT

học

(cấp I-II)

DTNT

học

2004 - 2005

210

32

194

33

9

3.640 2.253

622

2009 - 2010

219

19

209

38

10

3.016 1.659

638

Nguồn: [132, tr. 5], [138, tr. 2]

Từ bảng số liệu 3.1 cho thấy, số trường tiểu học, THCS và THPT có

tăng qua các năm, số trường PTCS (cấp I - II) có sự giảm dần. Lý do các

trường PTCS giảm dần là do Bộ GD - ĐT đã ban hành Điều lệ hoạt động của

trường phổ thông mới, trong đó quy định thống nhất bậc PTCS thành bậc

THCS, tuy nhiên do điều kiện về kinh tế, địa bàn dân cư bị phân tán và đặc

thù của từng địa phương, một số vùng trong tỉnh Hòa Bình vẫn còn tồn tại bậc

PTCS; bên cạnh đó số lớp tiểu học và THCS chưa thật ổn định, mỗi bậc học

giảm gần 600 lớp, nguyên nhân chủ yếu là do số lượng học sinh tiểu học và

THCS giảm lên số lớp giảm theo. Mặt khác, số lớp học do xuống cấp vẫn

chưa được sửa chữa, bổ sung kịp thời, đây cũng là nguyên nhân của sự sụt

giảm về số lớp học. Ngoài ra hệ thống trường bán công, các lớp bán công bậc

THPT cũng tăng mạnh, đến năm học 2004 - 2005, toàn tỉnh Hòa Bình có 3

trường bán công, 30 lớp bán công với tổng số trên 4.000 học sinh [132, tr.

10]. Hệ thống các trường Phổ thông dân tộc nội trú trong tỉnh ngày càng được

hoàn thiện hơn, 100% các huyện khó khăn đều có các trường Phổ thông dân

tộc nội trú nhằm huy động tối đa trẻ em là người dân tộc thiểu số đến lớp ở tất

cả các cấp học. Đến năm học 2005 - 2006, toàn tỉnh có 100% số xã, phường,

thị trấn, kể cả các xã ở vùng cao, vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn đều có

83

trường tiểu học, PTCS, THCS thu hút học sinh trong độ tuổi đến trường. Có

nhiều xã vùng khó khăn có từ 1 đến 2 trường tiểu học đáp ứng nhu cầu học

tập của con em nhân dân các dân tộc trong xã, trong huyện [133, tr. 15]. Để

thuận lợi cho công tác quản lý, cũng như tiếp tục quan tâm hơn nữa đến chính

sách về giáo dục đối với con em các dân tộc thiểu số, từ năm 2010, hệ thống

các trường Phổ thông dân tộc nội trú cấp huyện và liên xã đã được bàn giao

về Sở GD - ĐT quản lý và thành lập khối thi đua các trường Phổ thông dân

tộc nội trú huyện, liên xã [138, tr. 10].

Cùng với sự phát triển đa dạng về quy mô trường lớp, số lượng học

sinh cũng có sự biến động trong các năm, thể hiện qua biểu đồ sau:

Biểu đồ 3.3. Số lượng học sinh phổ thông (2001 - 2010)

80000

70000

60000

50000

40000

30000

20000

10000

0

2004 - 2005

Tiểu học 77810

THCS 74059

THPT 26876

2009 - 2010

57026

51494

27581

Đơn vị: Người

Nguồn: [132, tr. 6], [146, tr. 259].

Từ biểu đồ 3.1 cho thấy, số lượng học sinh có xu hướng giảm dần, đặc

biệt là bậc tiểu học và THCS. Ở bậc tiểu học trong năm học 2004 - 2005 có

77.810 học sinh, năm học 2009 - 2010 giảm còn 57.026 học sinh. Ở bậc

THCS năm học 2004 - 2005 có 74.059 học sinh, năm học 2009 - 2010 giảm

xuống còn 510.494 học sinh. Bậc THPT năm học 2004 - 2005 có 26.876 học

84

sinh, năm học 2009 - 2010 tăng lên 27.581 học sinh. Nguyên nhân chủ yếu là

do tỉnh Hòa Bình đã thực hiện tốt công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình

theo chủ trương của Đảng, Nhà nước nên nên tỷ lệ sinh giảm và trẻ em trong

độ tuổi vào lớp 1 giảm, tỷ lệ học sinh chuyển cấp cũng giảm theo. Bên cạnh

đó, việc mở rộng địa giới hành chính Thành phố Hà Nội (năm 2008), nên một

số lượng học sinh khá lớn ở 4 xã thuộc huyện Lương Sơn cũng đã chuyển về

Hà Nội. Song về cơ bản các cấp học, bậc học đã huy động tối đa số học sinh

trong độ tuổi vào lớp, đảm bảo đủ chi tiêu đề ra.

Công tác củng cố kết quả XMC, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi,

phổ cập giáo dục THCS được quan tâm chỉ đạo và phát huy có hiệu quả. Tỉnh

Hòa Bình tiếp tục duy trì, củng cố tốt công tác XMC và giáo dục tiếp tục sau

khi biết chữ. Ngoài nội dung chương trình các mức 1 và 2 theo quy định của

Bộ GD - ĐT, các hình thức học sau XMC được tổ chức đa dạng hơn, học theo

chuyên đề, phù hợp với từng đối tượng và thu hút nhiều người tham gia học

tập, góp phần quan trọng chống tái mù chữ cho học viên mới biết chữ. Do vậy,

số người biết chữ và tiếp tục được giáo dục sau biết chữ không ngừng tăng lên,

điển hình như: Năm học 2005 - 2006, đã mở được 229 lớp XMC và sau XMC

với 4.249 học viên, so với năm học 2004 - 2005 số học viên huy động ra các

lớp XMC và sau XMC tăng 390% [133, tr. 6]. Năm học 2007 - 2008, đã mở

được 315 lớp XMC và sau biết chữ với 6.251 học viên; công nhận hoàn thành

chương trình bổ túc tiểu học cho 2.071 người; mở rộng diện XMC cho các độ

tuổi khác nhau nên tỷ lệ người biết chữ của các nhóm độ tuổi đạt khá cao so

với kế hoạch đề ra. Độ tuổi từ 15 - 35, biết chữ đạt tỷ lệ 99,3%; độ tuổi 36 - 45,

biết chữ đạt tỷ lệ 97,7% [135, tr. 12]. Cũng với nội dung này, đến năm học

2009 - 2010, tỷ lệ người biết chữ cùng độ tuổi như trên đạt 100% [138, tr. 7].

Tỉnh Hòa Bình đã đưa ra nhiều giải pháp để vận động trẻ vào lớp 1,

đồng thời đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết 41/QH ngày 9 - 12 - 2000 của

Quốc hội về phổ cập giáo dục THCS trên phạm vi cả nước, Chỉ thị số 61-

85

CT/TW ngày 28 - 12 - 2000 của Bộ Chính trị về việc thực hiện phổ cập

THCS, Chỉ thị số 11/2001/CT-UB ngày 08/5/2001 của UBND tỉnh về việc

thực hiện phổ cập giáo dục THCS, Chỉ thị số 15/CT-TU ngày 12 - 3 - 2002

của Tỉnh uỷ Hoà Bình về việc tăng cường công tác lãnh đạo, công tác phổ cập

giáo dục THCS. Do vậy, tháng 12 - 2003, tỉnh Hòa Bình đã đạt chuẩn phổ cập

giáo dục THCS và tháng 12 - 2005 được công nhận phổ cập giáo dục tiểu học

đúng độ tuổi [2, tr. 781]. Đặc biệt, trong năm học 2005 - 2006, tỉnh Hòa Bình

đã huy động tối đa số trẻ em là người dân tộc thiểu số ra lớp ở tất cả các

ngành học cấp học, đã có 99,8% học sinh 6 tuổi ra lớp 1; nhiều xã, phường,

thị trấn huy động tối đa 100% số trẻ em trong độ tuổi ra lớp [133, tr. 16].

Cũng theo số liệu báo cáo, thống kê chung, năm học 2005 - 2006, toàn tỉnh có

146.162 học sinh, sinh viên là người dân tộc dân tộc thiểu số, chiếm tỷ lệ

65,09% so với tổng số học sinh, sinh viên toàn tỉnh, tăng 1,3% so với năm

học 2004 - 2005. Đây là năm học có số lượng học sinh, sinh viên dân tộc

thiểu số nhiều nhất kể từ trước đến nay [133, tr. 16]. Có thể nói Hoà Bình đã

chấm dứt hiện tượng học sinh dân tộc thiểu số thất học. Đây là một trong

những thành tích nổi bật về công tác phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi,

phổ cập giáo dục THCS và huy động trẻ trong độ tuổi đến trường mà ngành

giáo dục Hòa Bình đã đạt được, cũng như hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu, kế

hoạch do Đảng bộ tỉnh đã đề ra.

3.2.3. Đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao chất lượng dạy và học.

Đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao chất lượng dạy và học được

Sở GD - ĐT Hòa Bình coi đó là mục tiêu, nhiệm vụ số một của ngành.

Năm học 2001 - 2002, ngành giáo dục tỉnh Hòa Bình đã tập trung chỉ

đạo việc đổi mới chương trình GDPT, thực hiện thay sách giáo khoa, gắn với

việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện theo Nghị quyết 40/2000QH,

Quốc hội khóa X. Do vậy, năm học 2004 - 2005, đã thực hiện việc đổi mới

chương trình, sách giáo khoa ở lớp 1, lớp 2, lớp 6 và lớp 7 theo quy định. Bên

86

cạnh đó, phương pháp dạy và học cũng được tập trung đổi mới theo hướng

tăng cường trao đổi kinh nghiệm, dành nhiều thời gian vào việc soạn giáo án,

giảng thử; xem băng hình, các tiết dạy có minh hoạ; bồi dưỡng kỹ năng thực

hành sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học; khuyến khích học sinh đề xuất sáng

kiến cùng và các thầy cô thực hiện giải pháp để thực hiện việc giạy và học có

hiệu quả ngày càng cao… đặc biệt, năm học 2009 - 2010 đã tổ chức tập huấn

tin học và ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy cho 34 lớp với 862

giáo viên tiểu học, THCS và THPT; đồng thời chỉ đạo các đơn vị, trường học

thực hiện tốt khẩu hiệu “Mỗi giáo viên xây dựng ít nhất một bài giảng điện

tử” [138, tr. 6], từ đó giúp giáo viên có được phương pháp giảng dạy tích cực,

tiếp cận được với các thiết bị giảng dạy tiên tiến, góp phần vào việc nâng cao

chất lượng giáo dục đào tạo.

Công tác tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá và tăng cường kỹ năng cho

người học cũng không ngừng được đổi mới, thông qua các hoạt động dự giờ,

thăm lớp, trao đổi kinh nghiệm ở các tổ chuyên môn, hội thảo, hội nghị. Tổ

chức bồi dưỡng kỹ năng ra đề, soạn đáp án và chấm bài thi, kiểm tra bằng

hình thức tự luận, trắc nghiệm bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng của chương

trình với các cấp độ. Coi trọng việc phân tích kết quả kiểm tra, đánh giá, thi

giữa các năm học liền kề, kết quả khảo sát chất lượng để điều chỉnh hoạt động

giảng dạy và học tập. Tăng cường thực hành, thí nghiệm, rèn luyện kỹ năng tự

học, tự nghiên cứu cho học sinh theo chuẩn kiến thức và kỹ năng của chương

trình. Tổ chức các hoạt động ngoại khoá, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.

Chú trọng giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh, triển khai giáo dục

lịch sử địa phương. Đảm bảo chất lượng giáo dục, giảm số lượng học sinh lưu

ban, bỏ học, có biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi, giúp đỡ học sinh yếu kém.

Các giải pháp về đổi mới nội dung, phương pháp nêu trên đã được tỉnh

Hòa Bình quán triệt và triển khai đồng bộ trong toàn ngành, đã góp phần nâng

cao chất lượng dạy và học. Do vậy, chất lượng GDPT trong các năm đã có

87

nhiều chuyển biến tích cực và khá đồng đều, điển hình năm học 2004 - 2005

được thể hiện ở bảng số liệu sau:

Bảng 3.2. Tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học

và đỗ tốt nghiệp phổ thông năm học 2004 - 2005

Đơn vị: %

Nội dung Tỷ lệ hoàn thành Trong đó

Bậc học tiểu học/đỗ TN Loại Giỏi Loại Khá

Tiểu học 99,74 6,69 60,91

THCS 99,23 2,02 22,79

THPT 98,53 1,6 9,14

Nguồn: [132, tr. 6].

Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi tiếp tục được các nhà trường triển

khai có hiệu quả. Kỳ thi học sinh giỏi Quốc gia THPT năm học 2004 - 2005,

Hòa Bình có 88 học sinh dự thi. Kết quả: có 67 học sinh đoạt giải, chiếm tỷ lệ

76,13%; trong đó có 2 giải Nhất, 14 giải Nhì, 31 giải Ba và 20 giải Khuyến

khích; có 9 học sinh dân tộc đoạt giải, chiếm tỷ lệ 13,43% so với tổng số học

sinh đoạt giải Quốc gia trong tỉnh. Tỉnh Hòa Bình tiếp tục đứng đầu ở bảng B

(các tỉnh phía Bắc, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long) về kết quả thi

học sinh giỏi cấp Quốc gia THPT. Kỳ thi giải Toán bằng máy vi tính toàn

quốc tại Thái Nguyên, đoàn học sinh Hoà Bình dự thi ở hai bảng A và B. Kết

quả: Bậc THCS đạt 3 giải gồm 1 giải Nhất, 1 giải Ba và 1 giải Khuyến khích.

Bậc THPT đạt 2 giải Ba, 1 giải Khuyến khích. Kỳ thi giáo viên dạy giỏi nghề

phổ thông toàn quốc lần thứ nhất, Hòa Bình có 1 giáo viên được công nhận

giáo viên dạy giỏi nghề phổ thông [132, tr. 6-7]. Kỳ thi học sinh giỏi Quốc gia

năm học 2007 - 2008, trường THPT chuyên Hoàng Văn Thụ tiếp tục giữ vững

truyền thống và khẳng định được chất lượng dạy và học của nhà trường, đã

mang về tổng số 25/25 giải Quốc gia, chiếm tỷ lệ 100% tổng số giải của tỉnh

88

Hòa Bình, xứng đáng là trung tâm giáo dục đào tạo chất lượng cao hàng đầu

của tỉnh [146, tr. 261]. Với kết quả nêu trên, tỉnh Hòa Bình tiếp tục khẳng

định công tác đào tạo, bồi dưỡng chất lượng giáo dục mũi nhọn trong nhiều

năm; đồng thời tiếp tục khẳng định vị trí giáo dục miền núi so với giáo dục

đào tạo trong cả nước, góp phần vào sự chuyển biến lĩnh vực đào tạo mũi

nhọn và đào tạo đại trà của tỉnh Hòa Bình.

Phát huy những kết quả đạt được, năm học 2009 - 2010, chất lượng

GDPT tiếp tục có được những kết quả đáng ghi nhận. Cụ thể:

Giáo dục tiểu học:

Toàn tỉnh có 31.243 học sinh được học 2 buổi/ngày đạt tỷ lệ 52%. Việc

triển khai dạy học hai buổi/ngày đã góp phần tích cực trong việc nâng cao

chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh tiểu học. Bên cạnh đó, ngành đã tổ

chức hội thi Phó Hiệu trưởng giỏi cấp tỉnh cho 41 người tham gia dự thi, kết

quả 26 Phó Hiệu trưởng đạt giải; tổ chức hội thi giáo viên giỏi lớp 2 và lớp 3,

với tổng số 117 giáo viên tham gia dự thi, kết quả có 46 giáo viên đạt giải; tổ

chức hội thi viết chữ đẹp với kết quả 110 học sinh và 22 giáo viên dự thi đạt

giải. Đây là những hoạt động có tác dụng thúc đẩy phong trào thi đua, nâng

cao chất lượng dạy và học. Vì vậy, chất lượng giáo dục tiểu học có được

những kết quả: Môn Toán, tỷ lệ đạt loại giỏi 41% (tăng 11%), loại yếu còn

1,9% (giảm 1,5%); môn Tiếng Việt, tỷ lệ đạt loại giỏi 31% (tăng 9%), loại

yếu còn 2,0% (giảm 1,3%) so với năm học 2008 - 2009; xét và công nhận

hoàn thành chương trình tiểu học đạt tỷ lệ 98% [138, tr. 9].

Giáo dục trung học:

Về kết quả giáo dục hai mặt:

Bậc THCS: Hạnh kiểm tốt đạt 63,8% (tăng 2,6%), loại yếu 0,6% (tăng

0,21%); học lực giỏi đạt 5,8% (tăng 0,6%), học lực khá đạt 32% (tăng

3,76%), học lực yếu 8,5% (giảm 0,6%), học lực kém 0,14% (giảm 0,05%) so

89

với năm học 2008 - 2009. Số học sinh tốt nghiệp THCS vào học lớp 10 bậc

THPT đạt 85.8%.

Bậc THPT: Hạnh kiểm tốt đạt 64,6% (giảm 5,6%), loại yếu 0,9% (giảm

0,1%); học lực giỏi đạt 1.9% (tăng 0,9%), học lực khá đạt 21,1% (tăng 1,1%),

học lực yếu 14,3% (giảm 3,7%), học lực kém 0,3% (tăng 0,2%) so với năm

học 2008 - 2009. Học sinh đỗ tốt nghiệp THPT đạt tỷ lệ 100%. [138, tr. 10].

Ngành đã lựa chọn và tổ chức cho các em học sinh tham gia kỳ thi học

sinh giỏi Quốc gia lớp 12 THPT năm học 2009 - 2010, với kết quả 40/72 học

sinh đoạt giải, tăng 16 giải so với năm học 2008 - 2009, tỷ lệ đoạt giải là

55,5%. Trong tổng số 40 giải Quốc gia, có 4 giải Nhì, 20 giải Ba và 16 giải

Khuyến khích; có 8 học sinh dân tộc đoạt giải. Kết quả kỳ thi học sinh giỏi

Quốc gia tiếp tục khẳng định chất lượng về giáo dục mũi nhọn trong các nhà

trường. Cũng trong năm học này, tỉnh Hòa Bình đạt giải Nhất toàn đoàn tại kỳ

thi giải toán trên máy tính cầm tay Vinacal tổ chức tại Hòa Bình với 26 giải

trong đó có 5 giải Nhất, 10 giải Nhì, 10 giải Ba và 1 giải Khuyến khích. Tổ

chức thi giáo viên giỏi cấp tỉnh THPT ở 5 môn thi: Toán, Ngữ Văn, Tiếng

Anh, Hóa học, Vật lý với 116 giáo viên tham gia dự thi, kết quả có 26 giáo

viên đạt giải, trong đó có 7 giải nhất, 7 giải nhì, 12 giải ba và 38 giáo viên

được công nhận; tổ chức thi giáo viên giỏi tỉnh cấp THCS có 87 giáo viên dự

thi, kết quả có 42 giáo viên đạt giải, trong đó có 5 giải nhất, 11 giải nhì, 13

giải ba, 13 giải khuyến khích và 39 giáo viên được công nhận [138, tr. 9-10].

Công tác giáo dục dân tộc cũng thường xuyên được quan tâm. Toàn

ngành đã chỉ đạo, nâng cao chất lượng giáo dục dân tộc, huy động học sinh ra

lớp đạt tỷ lệ cao, đồng thời có biện pháp khắc phục học sinh bỏ học, nhất là

học sinh thuộc con em các dân tộc thiểu số. Tổ chức hỗ trợ cho học sinh còn

gặp khó khăn, phân loại học sinh yếu kém để phụ đạo, bổ sung kiến thức ngay

vào đầu năm học. Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường

phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc thiểu số. Chỉ đạo thực hiện các giải

90

pháp tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc ở tiểu học, bồi dưỡng học

tiếng dân tộc cho giáo viên vùng dân tộc. Tổ chức nuôi dạy chu đáo học sinh

các trường Phổ thông dân tộc nội trú. Bên cạnh đó thực hiện nghiêm túc chế

độ cử tuyển học sinh dân tộc vào Đại học, Cao đẳng, công tác tuyển sinh vào

các trường Phổ thông dân tộc nội trú tỉnh, huyện, liên xã theo đúng quy định;

đồng thời tiếp tục thực hiện đầy đủ các chính sách, chế độ cho cán bộ, giáo

viên, nhân viên công tác tại các trường Phổ thông dân tộc nội trú theo Nghị

định 61/2006/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách đối với nhà giáo, cán bộ

quản lý giáo dục ở các trường chuyên biệt, ở vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó

khăn. Đây là một chủ trương đúng đắn, sát với tình hình thực tế ở một tỉnh

miền núi Hòa Bình, có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, đã được

Đảng bộ và ngành quán triệt và triển khai nghiêm túc, góp phần vào nâng cao

chất lượng và hiệu quả giáo dục của ngành. Do vậy, chất lượng dạy và học

vùng đồng bào dân tộc thiểu số qua các năm có nhiều chuyển biến rõ nét,

khoảng cách chênh lệch về học lực giữa vừng khó khăn và vùng thuận lợi

được thu hẹp đáng kể, chất lượng giáo dục mũi nhọn tiếp tục được khẳng

định. Điển hình như: năm học 2005 - 2006, tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu số xếp

loại học lực khá, giỏi tăng 2,3%; tỷ lệ xếp loại học lực yếu giảm 1,45% so với

năm học 2004 - 2005; đã có thêm 154 học sinh dân tộc thiểu số đạt danh hiệu

học sinh giỏi cấp tỉnh, 234 học sinh đạt danh hiệu học sinh giỏi cấp huyện. Kỳ

thi học sinh giỏi THPT lớp 12, toàn tỉnh có thêm 6 học sinh dân tộc Mường,

dân tộc Thái đạt giải Quốc gia, nâng tổng số học sinh dân tộc thiểu số đạt

chuẩn Quốc gia lên 108 em [133, tr. 16]. Phát huy những kết quả đạt được,

năm học 2007 - 2008, tại kỳ thi chọn học sinh giỏi Quốc gia lớp 12 THPT,

toàn tỉnh có thêm 3 học sinh dân tộc thiểu số đạt giải, nâng tổng số học sinh

dân tộc thiểu số đạt giải quốc gia là 112 em [146, tr. 276]. Tỷ lệ học sinh dân

tộc thiểu số đỗ tốt nghiệp và thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng ngày

càng nhiều. Riêng trường Phổ thông dân tộc nội trú tỉnh, hàng năm có từ 40 -

91

45% học sinh đỗ đại học, cao đẳng [146, tr. 276]. Ngoài ra các trường Phổ

thông dân tộc nội trú vừa chú ý nâng cao chất lượng văn hóa, vừa chú ý giáo

dục hướng nghiệp, dạy nghề gắn với phát triển KT - XH của tỉnh Hòa Bình.

Bên cạnh những kết quả đạt được, song việc đổi mới nội dung, phương

pháp, nâng cao chất lượng GDPT giai đoạn này vẫn còn một số tồn tại, hạn

chế như: Việc đổi mới phương pháp dạy và học ở một bộ phận giáo viên chủ

yếu vẫn theo phương pháp truyền thống, tâm lý ngại sử dụng các thiết bị hỗ

trợ, việc soạn bài giảng điện tử vì mất nhiều thời gian; chất lượng giáo dục

còn chưa đồng đều giữa các vùng miền và các trường;… những hạn chế nêu

trên chủ yếu tập trung vào các vùng sâu, vùng xa, vùng lòng hồ, nơi có điều

kiện kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khăn. Đây là những vấn đề đặt ra đối

với ngành GD - ĐT Hòa Bình, cần phải tập trung khắc phục trong những năm

tiếp theo để không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục và chuẩn hóa đội ngũ,

từng bước đáp ứng tốt yêu cầu trong giai đoạn mới.

3.2.4. Cơ sở vật chất, trang thiết bị và công tác xã hội hóa giáo dục.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giáo dục là điều kiện quan trọng

đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Nhận thức rõ vấn đề này,

tỉnh Hòa Bình đã chỉ đạo thực hiện việc huy động các nguồn lực, đặc biệt là

nguồn lực tài chính, chỉ đạo nâng mức đầu tư từ ngân sách theo nhịp độ tăng

trưởng kinh tế hàng năm. Bên cạnh đó, huy động nguồn vốn đóng góp của các

tổ chức, cá nhân, các dự án trong và ngoài nước để xây dựng mới trường lớp

trang thiết bị dạy và học theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa. Kết quả được

thể hiện điển hình qua các năm như:

Năm học 2005 - 2006, tổng chi ngân sách cho sự nghiệp giáo dục đào

tạo là 339.296 triệu đồng, tăng 8,96% so với năm học 2004 - 2005. Trong đó,

sự nghiệp giáo dục là 318.436 triệu đồng chiếm 94%, sự nghiệp đào tạo là

20.860 triệu đồngchiếm 6%. Từ nguồn ngân sách được đầu tư và các nguồn

92

vốn huy động khác, đã nâng tổng số phòng học trong toàn tỉnh được xây dựng

lên 8.059 phòng, trong đó 4.035 phòng học kiên cố chiếm 50%, 2.418 phòng

học cấp 4 chiếm 30%, 1.606 phòng học tạm chiếm 20%, tăng 551 phòng học

so với năm học 2004 - 2005, đưa tỷ lệ phòng học từ cấp 4 trở lên đạt 80%,

phòng học tạm còn 20%, được thể hiện qua biểu đồ sau:

Biểu đồ 3.4. Ngân sách chi cho sự nghiệp giáo dục đào tạo

và số phòng học được xây dựng trong năm học 2005 - 2006

Đơn vị: %

Nguồn: [133, tr. 11].

Công tác xây dựng các phòng chức năng, nhà ở giáo viên, phòng thí

nghiệm, phòng làm việc hội đồng cũng được quan tâm xây dựng. Đến năm

học 2005 - 2006, toàn tỉnh đã có 1.092 phòng chức năng và phòng ở giáo viên

(trong đó có 1.064 phòng ở giáo viên), 127 phòng thí nghiệm, 525 phòng làm

việc Hội đồng giáo viên, tăng 228 phòng so với năm học 2004 - 2005 [133, tr.

11]. Thư viện các trường học được đầu tư xây dựng và tăng lên đáng kể, số

trường có thư viện là 414 trường, trong đó 260 trường có thư viện đạt chuẩn;

480 trường có tủ sách dùng chung; nguồn kinh phí cấp cho thư viện trường

học là 2.021 triệu đồng chiếm tỷ lệ gần 3% so với kinh phí chi thường xuyên

[133, tr. 12]. Kinh phí mua sắm trang thiết bị dạy và học cũng được triển khai

đồng bộ, đã đầu tư kinh phí mua thiết bị dạy học lớp 4 và lớp 9 là 16.800

triệu đồng; mua sắm trang thiết bị dạy học theo Thông tư 30, ngày 26 - 7 -

93

1990 của liên Bộ GD - ĐT và Bộ Tài chính là 2.021 triệu đồng; sách giáo

khoa 3.024.128 bản, trong đó: tiểu học 1.435.773 bản, THCS 1.098.824 bản,

THPT 489.531 bản; sách giáo khoa thí điểm 19.218 bản; sách giáo khoa phục

vụ công tác phổ cập THCS 12.880 bản; vở ghi, vở bài tập cấp cho học sinh

vùng 135 là 266.053 quyển; sách giáo viên 37.381 bản; sách tham khảo 27.607

bản; thiết bị cấp cho lớp 4 là 714 bộ, cấp cho lớp 9 là 247 bộ [133, tr. 12].

Năm học 2007 - 2008, tổng nguồn vốn đầu tư là 131.157 triệu đồng,

tăng 11,8% so với năm học 2006 - 2007, trong đó: Chương trình mục tiêu

Quốc gia là 49.600 triệu đồng; xây dựng cơ bản tập trung 24.717 triệu đồng;

chương trình 135 là 9.768 triệu đồng; dự án giảm nghèo 9.904 triệu đồng; dự

án THPT 14.115 triệu đồng; dự án THCS 15.553 triệu đồng; tiết kiệm chi

ngân sách 5.200 triệu đồng; nguồn vốn nhân dân đóng góp 2.300 triệu đồng

[135, tr. 11]. Với các nguồn kinh phí được đầu tư nêu trên, tỉnh Hòa Bình đã

xây mới và đưa vào sử dụng 496 phòng học kiên cố, nâng tổng số phòng học

trong toàn tỉnh là 7.562 phòng; trong đó 4.721 phòng học kiên cố đạt 62,4%,

1.368 phòng học bán kiên cố chiếm 18,1%, 1.473 phòng học tạm chiếm

19,47%. Ngoài ra còn có 968 phòng ở của giáo viên, 484 phòng thư viện, 105

phòng thí nghiệm và phòng học bộ môn, 467 phòng làm việc của hội đồng

nhà trường, 8.100 bộ bàn ghế giáo viên, 80.530 bộ bàn ghế học sinh; đã phát

hành 3.581.215 bản sách giáo khoa với tổng kinh phí là 19.852 triệu đồng;

phối hợp với Ban Dân tộc và Tôn giáo triển khai việc cấp không thu tiền vở

bài tập, vở viết cho học sinh tiểu học vùng 135 và các xóm khu vực 3 với số

lượng 230.394 quyển thành tiền 639,2 triệu đồng [135, tr. 11-12].

Triển khai Đề án kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo

viên giai đoạn 2008 - 2012 theo Quyết định số 20/2008/QĐ-TTg, ngày 01 -

02 - 2008 của Chính phủ, nhằm thực hiện mục tiêu tiếp tục xóa phòng học

tạm, giải quyết nhà công vụ cho giáo viên ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng

đặc biệt khó khăn. Do vậy, đến năm học 2009 - 2010, số phòng đã hoàn thành

94

và đưa vào sử dụng là 1709 phòng học, 622 phòng công vụ; riêng năm 2008

và 2009 đã giải ngân 247.928 triệu đồng đạt tỷ lệ 100% kế hoạch vốn. Toàn

tỉnh đã có 8.479 phòng học, với 5.224 phòng kiên cố chiếm 61,6%; phòng bán

kiên cố 2.329 phòng chiếm 27.5%; 926 phòng tạm chiếm 10.9%; 1145 phòng

ở của giáo viên; 564 phòng thư viện; 185 phòng thí nghiệm, phòng học bộ

môn và đang tiếp tục triển khai đầu tư 5 công trình cho các cấp học theo kế

hoạch năm 2010 với tổng kinh phí là 10.659 triệu đồng, xây dựng Dự án phát

triển THPT đợt 3 với tổng số 18 phòng học, 12 phòng thí nghiệm, phòng học

bộ môn với tổng mức đầu tư khoảng 12.000 triệu đồng [138, tr. 12]. Công tác

mua sắm bổ sung thiết bị dạy học từ lớp 1 đến lớp 5 cũng được ưu tiên đầu tư

với số tiền là 2.000 triệu đồng, mua sắm bổ sung 8 phòng tin học cho 8 trường

THPT, thiết bị hỗ trợ kết nối internet, phòng họp trực tuyến tại văn phòng Sở

GD - ĐT là 100 triệu đồng; tiếp tục triển khai kế hoạch mua sắm thiết bị tin

học năm 2010 cho 7 trường tiểu học và 6 trường THCS với tổng kinh phí

3.000 triệu đồng; mua sắm bổ sung thiết bị dạy học tối thiểu cho cấp THCS

và 6 trường THPT mới thành lập với tổng kinh phí 2.300 triệu đồng, trong đó

THCS là 2.000 triệu đồng, THPT là 300 triệu đồng [138, tr. 12]. Ngoài ra, từ

nguồn vốn ngân sách của tỉnh và các nguồn khác đã tiến hành xây dựng, cải tạo

nâng cấp và mua sắm thiết bị cho các trường học với tổng mức đầu tư khoảng

64.000 triệu đồng; từ nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia, mua sắm sách

giáo khoa, sách giáo viên, sách bổ túc cho học sinh vùng kinh tế xã hội khó

khăn với kinh phí là 500 triệu năm 2009 và 900 triệu năm 2010 [138, tr. 12].

Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các trường Phổ thông dân tộc nội trú theo

hướng tăng cường chuẩn hóa, chuẩn quốc gia được quan tâm triển khai. Năm

2009, đã tiến hành nghiệm thu 8 phòng học bộ môn, 27 phòng ký túc xá

trường Phổ thông dân tộc nội trú tỉnh, 3 công trình trường Phổ thông dân tộc

nội trú huyện; tiếp tục triển khai xây dựng trường Phổ thông dân tộc nội trú

Mường Chiềng với tổng mức đầu tư là 25.300 triệu đồng, trường Phổ thông

95

dân tộc nội trú Yên Thủy với tổng mức đầu tư là 27.700 triệu đồng. Sở GD -

ĐT đã phối hợp với Ban Dân tộc tỉnh triển khai việc cấp không thu tiền vở bài

tập, vở viết cho học sinh tiểu học vùng 135 và các xóm khu vực 3 với số

lượng 285.683 bản sách, tổng kinh phí là 1000 triệu đồng [138, tr. 10-11]. Với

sự quan tâm của ngành, 100% các trường Phổ thông dân tộc nội trú được xây

dựng cao tầng, có đầy đủ các phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm, thư viện,

bộ mặt của các trường Phổ thông dân tộc nội trú hơn hẳn các trường phổ

thông cùng cấp.

Công tác xây dựng trường đạt chuẩn Quốc gia tiếp tục được đẩy mạnh,

quan tâm xây dựng trong các nhà trường phổ thông. Do vậy, số lượng trường

phổ thông đạt chuẩn Quốc gia tăng lên hàng năm. Kết quả đó được thể hiện qua

một số năm học như sau: Năm học 2005 - 2006, tỉnh Hòa Bình đã được công

nhận thêm 13 trường đạt chuẩn Quốc gia, nâng tổng số trường trong toàn tỉnh

lên 52 trường; trong đó bậc tiểu học 33 trường, THCS 9 trường, THPT 2

trường [133, tr. 11-12]. Năm học 2007 - 2008, số trường đạt chuẩn Quốc gia

được công nhận lên 67 trường; trong đó có 51 trường tiểu học, 14 trường

THCS, 2 trường THPT [135, tr. 11]. Đến năm học 2009 - 2010, số trường tiếp

tục được công nhận nâng lên đáng kể, toàn tỉnh đã có 63 trường tiểu học, 24

trường THCS, 2 trường THPT đạt chuẩn Quốc gia [138, tr. 12-13], đặc biệt

trong đó có 4 trường Phổ thông dân tộc nội trú đạt chuẩn quốc gia, chiếm tỷ lệ

40% [146, tr. 275]. Việc quan tâm xây dựng các trường chuẩn Quốc gia của

tỉnh Hòa Bình, đã góp phần tích cực vào công tác chuẩn hóa, hiện đại hóa giáo

dục, nâng cao chất lượng dạy và học.

Quán triệt chủ trương của Đảng, nhà nước theo tinh thần: GD - ĐT là

sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, chăm lo phát triển sự nghiệp GD - ĐT là

trách nhiệm của toàn xã hội. Sở GD - ĐT Hòa Bình đã tham mưu cho Tỉnh

ủy, UBND tỉnh xây dựng Đề án: “Quy hoạch phát triển xã hội hóa giáo

dục”, “Đổi mới giáo dục phổ thông”, “Thực hiện phổ cập giáo dục bậc trung

96

học” và Đề án: “Xây dựng xã hội học tập”. Do vậy, việc huy động mọi

nguồn vốn để đầu tư cơ sở vật chất cho sự nghiệp phát triển giáo dục đã

không ngừng được tăng cường. Mặc dù còn nhiều khó khăn, riêng năm học

2005 - 2006, nhân dân đã đóng góp được 5.764.083.000 đồng, trong đó quỹ

khuyến học 1.975.071.000 đồng; ngoài ra có 210/214 xã, phường có quỹ

khuyến học bình quân từ 2 - 5 triệu đồng, nhiều xã xây dựng quỹ khuyến

học xóm, dòng họ để khuyến khích con em học tập [133, tr. 12]. Các nguồn

kinh phí khác đầu tư cho phát triển giáo dục tăng từ 14% lên 20% ngân sách

của tỉnh. Từ nguồn kinh phí trên, đã có 55 trường học mới được xây dựng,

214 phòng học mới; 21.453m2 sân trường bằng gạch, bê tông; 19.332m

tường rào; 1.287m2 nhà ở giáo viên, trị giá 295.750.000 đồng; xây mới 3 bể

nước, 3 giếng khoan ở vùng thiếu nước sinh hoạt; toàn ngành đã đóng góp

được 167.693.000 đồng giúp học sinh khó khăn, 140.097.000 đồng cho giáo

viên có hoàn cảnh khó khăn. Ngoài ra, còn mua sách vở, quần áo cho học

sinh nghèo vùng sâu, vùng cao trị giá 45.000.000 đồng, xây dựng quỹ đói

nghèo trên 500.000.000 đồng, quỹ thiên tai trên 300.000.000 đồng. 80% các

đơn vị trường học có hội cha mẹ học sinh [133, tr. 12-13].

Tiếp tục quán triệt quan điểm xã hội hóa giáo dục của Đảng và thực

hiện Nghị quyết 05/2005/NQ-CP, ngày 18 - 04 - 2005 của Chính phủ về đẩy

mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao. Năm

2006, Sở GD - ĐT đã tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng Đề án: “Phát triển

xã hội hóa giáo dục tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2006 - 2010” và “Kế hoạch xây

dựng xã hội học tập tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2006 - 2010”. Do vậy việc liên

kết giáo dục giữa gia đình - nhà trường - xã hội được duy trì và phát huy có

hiệu quả, kỷ cương, nền nếp trường học được giữ vững, môi trường giáo dục

lành mạnh luôn được giữ gìn. Công tác khuyến học của tỉnh đã tập trung vào

các hoạt động khuyến khích hỗ trợ giáo dục phát triển; đã tích cực phối hợp

với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội vận động toàn

97

dân đưa trẻ đến trường nhân ngày khai giảng năm học mới, gia đình có trẻ

không đi học ra lớp và học sinh bỏ học trở lại lớp; tích cực hưởng ứng các

cuộc vận động và phong trào thi đua của ngành giáo dục như: Cuộc vận động

“Hai không”, “Phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”,

“Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”. Ngành giáo

dục đã phối hợp với Hội khuyến học các cấp vận động các nhà hảo tâm, các

doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh huy động các nguồn lực phát triển giáo dục,

do vậy 100% xã, phường, thị trấn trong tỉnh đã có quỹ khuyến học và được

quản lý sử dụng có hiệu quả, góp phần khích lệ toàn dân học tập, thực hiện

mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Sự ra đời của

các quỹ khuyến học trong các dòng họ, thôn, bản có ý nghĩa lớn lao, góp phần

quan trọng giúp đỡ học sinh nghèo có điều kiện duy trì học tập và động viên

các nhà trường, các em học sinh thi đua học tốt. Bên cạnh đó, ngành cũng đã

triển khai thực hiện tốt cuộc vận động “Hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng sâu,

vùng xa” với mục đích là xây dựng nhà công vụ cho giáo viên vùng khó khăn,

năm học 2007 - 2008, toàn ngành đã đóng góp được 700.990.600đ, đã xây

dựng và đưa vào sử dụng trên 400 m2 nhà ở cho giáo viên [135, tr. 11].

Công bằng trong giáo dục cũng không ngừng được chú trọng, giáo dục

vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn được quan tâm với việc mở rộng các

trường Phổ thông dân tộc nội trú, cấp học bổng cho học sinh dân tộc thiểu số,

đội ngũ giáo viên ở những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xã được hưởng

những chính sách ưu đãi. Do đó, thu hút ngày càng nhiều và đảm bảo số

lượng học sinh dân tộc thiểu số đi học; con em các gia đình chính sách, gia

đình nghèo được tạo điều kiện thuận lợi để học tập; trẻ khuyết tật được quan

tâm, giúp đỡ trong quá trình học tập, hòa nhập, tạo ra những chuyển biến tích

cực, rõ nét trong công tác khuyến học và xây dựng ở tỉnh Hòa Bình trở thành

một xã hội học tập. Vì vậy khoảng cách chênh lệch về học lực giữa vùng khó

khăn và vùng thuận lợi được thu hẹp đáng kể.

98

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đầu tư cơ sở vật chất, trang

thiết bị, thực hiện công tác xã hội hóa trong giáo dục ở Hòa Bình vẫn còn bộc

lộ một số tồn tại, hạn chế. Việc xây dựng trường chuẩn Quốc gia còn gặp khó

khăn do kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của các địa phương hạn hẹp,

mặc dù số trường đạt chuẩn quốc gia đã tăng, song tỷ lệ còn thấp. Cơ sở vật

chất, trang thiết bị dạy học tuy đã được đầu tư xây dựng, nhưng nhiều trường

học vẫn còn thiếu diện tích đất, thiếu phòng học bộ môn, nhà đa năng, sân

chơi, bãi tập; thiếu trang thiết bị dạy học nên chưa đáp ứng được yêu cầu về

đổi mới giáo dục phổ thông; nhiều trường chưa đảm bảo vệ sinh, thiếu nước

sạch. Việc huy động sự tham gia của cộng đồng xã hội vào thực hiện nội dung

phong trào thi đua còn ở mức hạn chế nhất định, nhất là đối với tỉnh miền núi

kinh tế còn khó khăn. Sự hỗ trợ từ các doanh nghiệp, các cơ quan về kinh phí

cho các nhà trường chủ yếu là động viên tinh thần. Đây là những vấn đề khó

khăn không chỉ trước mắt mà còn là những vấn đề lâu dài, cần phải có sự

quan tâm vào cuộc của cả hệ thống chính trị, đồng bào các dân tộc trong tỉnh

để GDPT ở Hòa Bình thực sự được phát triển một cách bền vững.

3.2.5. Công tác quản lý về nhà nước và các tổ chức Đảng, đoàn thể

trong nhà trường.

Công tác quản lý nhà nước đối với GDPT được thực hiện theo hướng

dân chủ hóa, công khai và công bằng. Sở GD - ĐT tỉnh Hòa Bình đã chỉ đạo

việc tăng cường tổ chức tuyên truyền, phổ biến, quán triệt Luật giáo dục trong

toàn ngành; rà soát hệ thống các văn bản hiện hành để có kế hoạch sửa đổi, bổ

sung đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của văn bản về giáo dục. Triển khai

việc kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật theo Nghị định 135/2005/NĐ-CP

của Chính phủ về kiểm tra văn bản; thực hiện Chỉ thị số 40/2004/CT-BGD-

ĐT, ngày 21 - 12 - 2004 của Bộ trưởng Bộ GD - ĐT về tăng cường pháp chế

XHCN trong tổ chức và hoạt động của ngành; triển khai thực hiện Luật thi

đua khen thưởng nhằm phát huy động lực tinh thần và nâng cao chất lượng

99

công tác thi đua, khen thưởng trong giáo dục; chỉ đạo tổ chức đánh giá việc

thực hiện giai đoạn 1 của Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010, nhằm

xác định nhiệm vụ giải pháp cho giai đoạn 2 từ 2006 - 2010. Bên cạnh đó,

ngành đã thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo của Thanh tra Bộ GD - ĐT về công

tác xây dựng lực lượng cán bộ thanh tra chuyên trách và cộng tác viên thanh

tra ở các cấp quản lý giáo dục. Nội dung thanh tra chú trọng việc chấp hành

Điều lệ nhà trường, quy chế chuyên môn và quy chế dân chủ ở cơ sở. Kết quả

thanh tra điển hình trong năm học 2005 - 2006 thể hiện ở bảng số liệu sau:

Bảng 3.3. Số trường học và giáo viên được thanh tra năm học 2005 - 2006

Tiểu học

PTCS

THCS

THPT

Bậc học

Tổng

Tỷ lệ

Tổng

Tỷ lệ

Tổng

Tỷ lệ

Tổng

Tỷ lệ

Nội dung

số

%

số

%

số

%

số

%

Số

trường được

91

42,33

8

28,57

74

36,1

9

28,13

36,1

thanh tra toàn diện

Số GV

được

thanh

tra hoạt

2.191 24,58

-

-

1.202 26,62

242

21,41

động sư phạm

Nguồn:[133, tr. 14-15].

Với kết quả thanh tra nêu trên, năm học 2005 - 2006, số trường được

ngành thanh tra toàn diện tăng 53 đơn vị so với năm học 2004 - 2005 và

vượt chỉ tiêu được giao là 17,64%; số giáo viên được thanh tra hoạt động sư

phạm tăng 231 giáo viên so với năm học 2004 - 2005, vượt chỉ tiêu được

giao 4,45%. Bên cạnh đó, số phòng giáo dục được thanh tra đổi mới chương

trình GDPT so với năm học 2004 - 2005 tăng 9,09%, vượt chỉ tiêu 50,91%.

Số giáo viên dạy chương trình và sách giáo khoa mới được thanh tra vượt

chỉ tiêu 3,85% [133, tr. 14-15].

Công tác thanh tra chuyên đề cũng được chú trọng, tập trung chủ yếu

thanh tra về công tác quản lý, dạy thêm, học thêm, các khoản thu chi ngoài

100

ngân sách, quản lý văn bằng, chứng chỉ, công tác tuyển sinh, công tác mua

sắm, bảo quản và sử dụng thiết bị dạy học... Kết quả, đã thanh tra công tác thiết

bị dạy học từ năm học 2002 - 2003 đến năm học 2005 - 2006 của 11/11 phòng

giáo dục các huyện, thị xã và kiểm tra việc quản lý, sử dụng và bảo quản thiết

bị dạy học của 89 trường Tiểu học, 105 trường THCS và PTCS [133, tr. 15].

Qua công tác thanh tra đã kịp thời chấn chỉnh các đơn vị thực hiện chưa

nghiêm túc, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý, phòng ngừa các sai phạm

trong công tác quản lý của các đơn vị. Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố

cáo đúng luật đã chiếm được lòng tin của cán bộ, giáo viên và nhân dân.

Tiếp tục triển khai nội dung trên, giai đoạn 2006 - 2010, công tác quản

lý nhà nước về GDPT không ngừng được đổi mới, hoàn thiện; chất lượng,

hiệu quả quản lý không ngừng được nâng lên.

Sở GD - ĐT Hòa Bình đã tham mưu cho UBND tỉnh và UBND huyện

ban hành quy định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cơ cấu tổ chức của

Sở GD - ĐT, Phòng GD - ĐT theo thẩm quyền; chủ động trong việc kiện

toàn, ổn định tổ chức bộ máy ở các cơ sở giáo dục, sắp xếp tuyển dụng đội

ngũ cán bộ công chức, viên chức hợp lý theo Thông tư 35/2006/TTLB-

BGDĐT-BNV, ngày 23 - 8 - 2006 của Bộ GD - ĐT, Bộ Nội vụ, về việc

hướng dẫn định mức biên chế viên chức ở các cơ sở GDPT công lập. Sở GD -

ĐT sẽ trực tiếp quản lý các trường Phổ thông dân tộc nội trú cấp tỉnh, huyện,

liên xã và các trường THPT.

Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý ngân sách sự nghiệp GD - ĐT cho

các huyện, Thành phố và hướng dẫn các đơn vị thực hiện việc lập dự toán thu

chi ngân sách từng năm, nhằm phát huy tính chủ động, tự chịu trách nhiệm về

tài chính, cho nên các đơn vị đã triển khai nhiều biện pháp thực hành tiết

kiệm, chống lãng phí nên hiệu quả sử dụng kinh phí được phát huy tốt.

Căn cứ Thông tư 09/2009/TT-BGD&ĐT ngày 07 - 5 - 2009 của Bộ GD

- ĐT, về việc ban hành quy chế thực hiện công khai đối với cơ sở giáo dục

101

của hệ thống giáo dục quốc dân, Sở GD - ĐT đã hướng dẫn các cơ sở giáo

dục thực hiện tốt 3 công khai: Công khai cam kết chất lượng giáo dục và chất

lượng giáo dục thực tế, công khai điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục,

công khai thu chi tài chính; đồng thời chỉ đạo các đơn vị thực hiện nghiêm túc

quy chế chi tiêu nội bộ đã được phê duyệt, bảo đảm tính hiệu quả và tiết kiệm.

Triển khai công tác tự đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục theo

quy định của Bộ GD - ĐT, năm học 2009 - 2010 đã tiến hành công tác tự

đánh giá 21/38 trường THPT, 11/11 phòng GD - ĐT; xây dựng kế hoạch

đánh giá giáo viên tiểu học theo chuẩn nghề nghiệp, nghiên cứu triển khai

chuẩn nghề nghiệp giáo viên THCS và THPT, chuẩn Hiệu trưởng trường

THCS, THPT; đồng thời chỉ đạo xây dựng tiêu chí và hướng dẫn các cơ sở

giáo dục đánh giá, xếp loại giáo viên tiểu học, THCS, THPT theo Quyết

định 06/2006/QĐ-BNV ngày 21 - 3 - 2006 của Bộ Nội vụ, về việc ban hành

Quy chế đánh giá, xếp loại giáo viên mầm non và giáo viên phổ thông công

lập, góp phần thúc đẩy công tác nâng cao chất lượng và chuẩn hóa đội ngũ

cán bộ giáo viên.

Công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý giáo dục được

triển khai trong toàn ngành. 100% các đơn vị, trường học có địa chỉ email

phục vụ điều hành và quản lý giáo dục; Sở GD - ĐT đã tiến hành khai trương

website của ngành tháng 8 - 2010, đã chỉ đạo các đơn vị, trường học tham gia

giảng dạy bằng bài giảng điện tử, bài giảng e-learning với khẩu hiệu “Mỗi

giáo viên xây dựng ít nhất một bài giảng điện tử”, giúp cán bộ, giáo viên

không ngừng nâng cao trình độ tin học, chuyên môn, cũng như bài giảng ngày

càng thêm phong phú, sinh động.

Công tác thanh tra tiếp tục được hoàn thiện và đẩy mạnh. Riêng năm

học 2009 - 2010, đã thanh tra hoạt động sư phạm của 276 giáo viên đạt

104,2% kế hoạch; thanh tra công tác quản lý hành chính 15 đơn vị, trường

học; thanh tra, kiểm tra các cuộc vận động và phong trào thi đua, thanh tra

102

công tác quản lý tài chính, tài sản lồng ghép với các cuộc thanh tra toàn diện

đạt 100% kế hoạch; thanh tra việc cấp phát văn bằng chứng chỉ của 13 đơn vị,

trường học; thanh tra, kiểm tra quản lý dạy thêm, học thêm, thanh tra việc

thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại 11 đơn vị trường học; thanh tra quản lý,

bảo quản và sử dụng thiết bị dạy học tại 21 đơn vị, trường học; thanh tra,

kiểm tra việc thực hiện Luật Phòng chống tham nhũng; Luật thực hành tiết

kiệm chống lãng phí tại 14 đơn vị. Qua thanh tra, kiểm tra cho thấy các đơn

vị đã thực hiện tốt các quy định; hoạt động thanh tra đã đi vào chiều sâu và

có hiệu quả; các đơn vị được thanh tra đã thực hiện tốt các kết luận, kiến

nghị sau thanh tra, góp phần nâng cao chất lượng công tác quản lý, tăng

cường nền nếp kỷ cương, phòng ngừa tham nhũng, vi phạm quy chế chuyên

môn trong các đơn vị, trường học [138, tr. 6-7]. Bên cạnh đó, bộ phận pháp

chế cũng đã chủ trì soạn thảo và tham mưu với UBND tỉnh ban hành 02 văn

bản quy phạm pháp luật; tổ chức rà soát và hệ thống hoá văn bản quy phạm

pháp luật liên quan đến quản lý hoạt động giáo dục và đào tạo, đã tiến hành rà

soát 32 văn bản quy phạm pháp luật, góp phần loại bỏ những văn bản không

còn phù hợp, nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý văn bản Nhà nước.

Sở GD - ĐT đã tích cực, chủ động phối hợp với các cơ quan báo chí

thông tin tuyên truyền về các hoạt động của ngành, các phong trào thi đua; tổ

chức tốt việc giảng dạy kiến thức pháp luật theo chương trình đối với các cấp

học và trình độ đào tạo, xây dựng đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tủ sách

pháp luật,… đã tạo sự chuyển biến tích cực về tư duy, nhận thức của đội ngũ

cán bộ trong quản lý điều hành các hoạt động của đơn vị, cũng như góp phần

thúc đẩy các hoạt động của ngành đi vào nề nếp và hiệu quả.

Các tổ chức Đảng, đoàn thể trong nhà trường phổ thông cũng được

ngành đặc biệt quan tâm. Thực hiện Chỉ thị số 34 CT/TW ngày 30 - 05 - 1998

của Bộ Chính trị, về “Về tăng cường công tác chính trị tư tưởng, củng cố tổ

chức Đảng, đoàn thể quần chúng và công tác phát triển đảng viên trong các

103

trường học”, Ban cán sự Đảng ngành GD - ĐT Hòa Bình đã chỉ đạo các cấp

ủy trực thuộc tăng cường công tác tuyên truyền, thực hiện nghiêm túc Chỉ thị

số 34 CT/TW ngày 30 - 05 - 1998 của Bộ Chính trị trong toàn ngành. Do vậy,

đa số cán bộ, giáo viên trong các nhà trường luôn có lập trường tư tưởng vững

vàng, yên tâm công tác, tâm huyết với nghề; năng lực, trình độ chuyên môn

từng bước được nâng cao. Bên cạnh đó, công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng

được triển khai mạnh mẽ, các tổ chức Đảng ở trường học đã phát huy tốt vai

trò lãnh đạo, nhiều cán bộ, giáo viên trẻ đã tích cực phấn đấu và được đứng

trong hàng ngũ của Đảng. Điển hình như: năm học 2005 - 2006, đã kết nạp

thêm 250 đảng viên mới, nâng tổng số đảng viên trong toàn ngành lên 4.793

đảng viên, đạt tỷ lệ 35.56% so với tổng số cán bộ, công nhân viên. Trong đó,

2.113 đảng viên nữ (chiếm 44,58%), 1.501 đảng viên người dân tộc thiểu số

(chiếm 31,67%) [133, tr. 10]. Đến năm học 2009 - 2010, toàn ngành đã có 6

Đảng bộ và 682 chi bộ trường học, với 7.533 đảng viên, đạt tỷ lệ 40,3% so

với tổng số cán bộ, giáo viên, công nhân viên. Trong đó, 5.366 đảng viên nữ

(chiếm 70%), 3.229 đảng viên người dân tộc thiểu số (chiếm 48%). Cũng

trong năm học này, qua đánh giá và phân loại, 100% chi bộ, Đảng bộ đạt danh

hiệu “Tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh” [138, tr. 14].

Công đoàn ngành đã phát huy tốt vai trò theo chức năng, nhiệm vụ, đặc

biệt trong công tác tuyên truyền, vận động luôn bám sát vào nhiệm vụ chuyên

môn như thực hiện các cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo

đức Hồ Chí Minh”, “Dân chủ, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm”, “Mỗi

thầy cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, “Nói không với tiêu

cực và bệnh thành tích trong giáo dục” và phong trào thi đua “Xây dựng

trường học thân thiện, học sinh tích cực”… được triển khai mạnh mẽ trong

toàn ngành, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức và hành động thực tiễn

trong cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh; được sự đồng tình, ủng hộ của

đông đảo nhà giáo và toàn xã hội. Do vậy, 100% các đơn vị trường học đã

104

triển khai có hiệu quả cuộc vận động và đi vào chiều sâu, phát triển lan toả

trong mọi mặt hoạt động GD - ĐT. Bên cạnh đó, công đoàn ngành đã duy trì

xây dựng quỹ tương trợ để hỗ trợ cán bộ, giáo viên vùng khó khăn, hỗ trợ

giáo viên làm kinh tế, cho con đi học, xây dựng, sửa chữa nhà ở... đặc biệt

trong năm học 2009 - 2010, đã xét và trao tiền hỗ trợ làm nhà ở cho 13 giáo

viên nghèo với tổng số tiền là 156.000.000đ, tặng quà Tết cho 222 giáo viên

có hoàn cảnh khó khăn mỗi xuất quà trị giá 200.000đ, tặng quà Tết cho 187

cháu mồ côi cha mẹ, mỗi xuất quà trị giá 100.000đ, hỗ trợ xây dựng nhà công

vụ giáo viên vùng khó khăn với tổng số tiền là 29 triệu đồng [138, tr. 14].

Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh

trong các đơn vị, trường học, đã phát huy tốt vai trò theo chức năng, nhiệm

vụ, đặc biệt công tác tuyên truyền, vận động đã đi vào chiều sâu, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp cho các đoàn viên, đội viên, góp phần tích cực vào

việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác GD - ĐT trong các nhà trường,

xây dựng một môi trường giáo dục lành mạnh.

Tiểu kết chương 3.

Trước những yêu cầu và đòi hỏi của tình hình mới, vận dụng các quan

điểm chỉ đạo của Đảng về phát triển giáo dục, giai đoạn 2001 - 2010, sự

nghiệp phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình đã đạt được những kết quả to lớn.

Mạng lưới trường lớp và quy mô giáo dục không ngừng được mở rộng; chất

lượng giáo dục toàn diện ở các cấp học được nâng lên; đội ngũ giáo viên và

cán bộ quản lý các cấp từng bước được chuẩn hóa và nâng cao về trình độ

chuyên môn nghiệp vụ; cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học đã được quan

tâm đầu tư theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa; công tác quản lý giáo dục đã

đi vào chiều sâu và duy trì thường xuyên… làm cho bộ mặt của ngành ngày

càng phát triển và khởi sắc, đáp ứng tốt yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực

phục vụ mục tiêu phát triển KT - XH của địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh

những kết quả đạt được, song GDPT ở tỉnh Hòa Bình vẫn còn một số tồn tại,

105

hạn chế. Công tác quy hoạch về mạng lưới trường lớp còn thiếu tính hợp lý và

chưa đồng bộ với sự tăng nhanh về quy mô, số lượng học sinh; đội ngũ nhà

giáo và cán bộ quản lý giáo dục vừa thừa, vừa thiếu; công tác xây dựng

trường chuẩn quốc gia còn khó khăn về kinh phí và quỹ đất; sự vào cuộc của

các ban ngành, đoàn thể và nhân dân trong công tác xã hội hóa giáo dục chủ

yếu vẫn động viên về mặt tinh thần; chất lượng giáo dục còn chưa đồng đều,

nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc… đây là những tồn

tại, hạn chế trong sự nghiệp phát triển của ngành.

Phát huy những kết quả đạt được, đồng thời từng bước khắc phục

những tồn tại hạn chế, những năm tiếp theo, Sở GD - ĐT Hòa Bình cần tiếp

tục tăng cường chỉ đạo trong toàn ngành thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp

để nâng cao chất lượng và hiệu quả GDPT; sự phối hợp vào cuộc của các

ban ngành, đoàn thể và nhân dân chăm lo cho sự nghiệp phát triển giáo dục,

để GDPT ở tỉnh Hòa Bình thực sự được phát triển bền vững, đáp ứng tốt hơn

yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực, phục vụ bước đột phá phát triển KT -

XH của tỉnh.

106

Chương 4

MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

4.1. Nhận xét

4.1.1. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân.

Trải qua 20 năm xây dựng và phát triển (1991 - 2010), GDPT ở tỉnh

Hòa Bình đã có sự chuyển biến và đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, song

vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục.

Về thành tựu.

Trước hết là chất lượng và hiệu quả giáo dục:

Ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Hòa Bình đã tập trung mọi giải pháp

nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Do vậy, chất lượng giáo dục

toàn diện, giáo dục đại trà, giáo dục mũi nhọn tiếp tục được giữ vững và nâng

lên qua các năm.

Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, ngành giáo

dục đã triển khai nhiều giải pháp, trong đó đặc biệt chú ý đến đào tạo trên

các mặt Đức - Trí - Thể - Mỹ; bên cạnh đó đẩy mạnh công tác tuyên truyền,

giáo dục các kiến thức về an toàn giao thông, kiến thức pháp luật, phòng,

chống các tệ nạn xâm nhập vào nhà trường; đồng thời phối hợp chặt chẽ

giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong quản lý, giáo dục học sinh… Nhờ

đó, giúp các em học sinh nâng cao ý thức, trách nhiệm với bản thân, gia đình

và cộng đồng, cũng như góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục

trong các nhà trường.

Công tác giáo dục đại trà được quan tâm chỉ đạo thường xuyên. Đây

được xem là cơ sở quan trọng để đánh giá mặt bằng về chất lượng giáo dục so

với mặt bằng chung của cả nước và đạt được những kết quả đáng ghi nhận.

Năm học 2001 - 2002, toàn ngành giáo dục trong tỉnh đã tập trung chỉ đạo đổi

mới chương trình GDPT, thực hiện thay sách giáo khoa theo Nghị quyết số

40/2000QH, Quốc hội khóa X, thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học, đã

107

tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng giáo dục đại trà ở các cấp học, bậc

học trong toàn tỉnh. Do vậy, năm học 2009 - 2010, ở bậc tiểu học, công nhận

hoàn thành chương trình tiểu học đạt tỷ lệ 98%; bậc THCS, công nhận tốt

nghiệp đạt 85.8%; bậc THPT, tỷ lệ đỗ tốt nghiệp đạt 100% [138, tr. 9-10].

Bên cạnh đó, công tác phổ cập giáo dục tiếp tục được đẩy mạnh và phát huy

có hiệu quả, 210/210 xã, phường, thị trấn đạt phổ cập giáo dục tiểu học, 11/11

huyện, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS [138, tr. 7]. Đây là những

thành tích nổi bật, đáng ghi nhận về công tác giáo dục đại trà và công tác phổ

cập giáo dục của tỉnh Hòa Bình.

Phát huy những thành tích đã đạt được, công tác đào tạo, tuyển chọn,

bồi dưỡng học sinh giỏi được chỉ đạo tích cực, thông qua việc phát triển hệ

thống trường chuyên, trường năng khiếu, do đó chất lượng học sinh dự thi học

sinh giỏi Quốc gia THPT hàng năm liên tục được giữ vững. Đến năm 2010,

tổng kết qua 20 lần tham dự kỳ học sinh thi học sinh giỏi Quốc gia, đoàn học

sinh tỉnh Hòa Bình đạt tổng số 995 giải, trong đó, có 35 giải Nhất, 189 giải

Nhì, 729 giải Ba và giải Khuyến khích, toàn tỉnh có 129 học sinh dân tộc đoạt

giải [138, tr. 2]. Trong nhiều năm liền, ngành giáo dục tỉnh Hòa Bình luôn

đứng đầu các tỉnh miền núi, Tây Nguyên, Đồng Bằng sông Cửu Long về số

lượng và chất lượng học sinh trong các kỳ thi học sinh giỏi Quốc gia đoạt

giải. Đặc biệt, trường trung học phổ thông chuyên Hoàng Văn Thụ luôn giữ

vững truyền thống và khẳng định chất lượng dạy và học, trong kỳ thi học sinh

giỏi Quốc gia, xứng đáng là trung tâm giáo dục, đào tạo chất lượng cao hàng

đầu của tỉnh. Từ kết các quả của kỳ thi, tiếp tục khẳng định chất lượng về giáo

dục mũi nhọn của tỉnh Hòa Bình đã đạt được trong nhiều năm.

Về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên:

Đây được xem là nhân tố quyết định đến chất lượng GD - ĐT. Quán

triệt sâu sắc Chỉ thị số 40 CT/TW, ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư khóa X, về

việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo

108

dục, tỉnh Hòa Bình đã chỉ đạo tiến hành rà soát, đánh giá, chuẩn hóa đội ngũ,

xây dựng đội ngũ cán bộ giáo viên, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu. Toàn

ngành tích cực đẩy mạnh việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao

phẩm chất đạo đức, chuẩn hóa đội ngũ; khuyến khích phong trào tự học, tự

bồi dưỡng trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn, tiến tới không còn giáo viên dưới

chuẩn,… Do vậy, đến năm 2010, tỷ lệ giáo viên các cấp tiểu học, THCS và

THPT đạt chuẩn trở lên là 100% [138, tr. 13]. Đây chính là hạt nhân quan

trọng đảm bảo chất lượng GD - ĐT của tỉnh Hòa Bình. Bên cạnh đó, các chủ

trương, chính sách, chế độ đãi ngộ hợp lý với nguyện vọng của đội ngũ cán

bộ, giáo viên được thực hiện đầy đủ; việc đánh giá phân loại đội ngũ hàng

năm được chỉ đạo thường xuyên; công tác đề bạt, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán

bộ quản lý được thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục, công khai, dân chủ,

đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định Điều lệ trường học; công tác tổ chức thi

giáo viên dạy giỏi ở các cấp học, bậc học, thi cán bộ quản lý giỏi cấp tỉnh

được duy trì đều đặn;… đã tạo ra phong trào thi đua sôi nổi trong các đơn vị

trường học, cũng như nhằm kịp thời động viên, khuyến khích các nhân tố

mới, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục.

Về xây dựng hệ thống trường lớp, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị

phục vụ giáo dục:

Mặc dù còn nhiều khó khăn, song hệ thống trường, lớp ở tỉnh Hòa Bình

được phát triển rộng khắp ở tất cả các cấp học, bậc học, phù hợp với điều

kiện kinh tế - xã hội ở từng vùng, miền. Đến năm 2010, “100% số xã,

phường, thị trấn kể cả các xã ở vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh

Hòa Bình đều có trường tiểu học và THCS, mỗi huyện có từ 02 đến 4 trường

THPT” [138, tr. 12]. Bên cạnh đó, hệ thống trường Phổ thông dân tộc nội trú

cũng được quan tâm đầu tư xây dựng, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho con

em đồng bào cư trú tại các vùng sâu, vùng xa, vùng nhiều dân tộc thiểu số

tham gia học tập, nâng tổng số trường trong toàn tỉnh là 219 trường tiểu học,

109

19 trường PTCS (cấp I-II), 209 trường THCS, 38 trường THPT, 10 trường

Phổ thông dân tộc nội trú; đã đáp ứng tốt nhu cầu học tập cho 56.210 học

sinh tiểu học, 48.655 học sinh THCS và 26.626 học sinh THPT [138, tr. 2].

Đây là thành quả của việc mở rộng quy mô, đa dạng hóa các loại hình trường,

lớp, phục vụ nhu cầu về học tập của học sinh, theo đúng chủ trương mà tỉnh

Hòa Bình đã đề ra.

Công tác đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giáo dục có bước

chuyển biến lớn trong toàn ngành. Với mục tiêu xây dựng trường học, lớp

học theo hướng, chuẩn hóa, hiện đại hóa, tỉnh Hòa Bình đã tích cực chỉ đạo

tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học, phòng học bộ

môn, nhà công vụ cho giáo viên, thực hiện kiên cố hóa trường học, lớp học;

xây dựng trường chuẩn Quốc gia, quan tâm đầu tư, xây dựng các trường Phổ

thông dân tộc nội trú; tăng cường các nguồn ngân sách đầu tư cho giáo dục

theo yêu cầu và sự phát triển của nền kinh tế; đồng thời chỉ đạo nghiêm túc

Đề án kiên cố hóa trường học, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai

đoạn 2008 - 2012 theo Quyết định số 20/2008/QĐ-TTg, ngày 01/02/2008 của

Chính phủ,... Do vậy, đến năm học 2009 - 2010, toàn tỉnh đã có 8.479 phòng

học, 1145 phòng ở giáo viên, 564 phòng thư viện, 185 phòng thí nghiệm,

phòng bộ môn [138, tr. 12]. Bên cạnh đó, công tác bổ sung, mua sắm trang

thiết bị cũng được triển khai kịp thời, trên cơ sở nguồn vốn ngân sách nhà

nước được cấp, nguồn vốn ngân sách của tỉnh và các nguồn khác, đã đáp ứng

tốt yêu cầu dạy và học trong các nhà trường. Phong trào xây dựng trường đạt

chuẩn Quốc gia cũng được tỉnh Hòa Bình quan tâm đầu tư, đến năm 2010,

toàn tỉnh đã có 63 trường tiểu học, 24 trường THCS, 2 trường THPT đạt

chuẩn Quốc gia [138, tr. 13]. Công tác xã hội hóa giáo dục đã trở thành

phong trào quần chúng, có chiều sâu trong từng gia đình, dòng họ, ở từng địa

phương, đã kịp thời động viên nhân dân trong tỉnh chăm lo xây dựng cơ sở

vật chất trường lớp, thiết bị học, nâng cao đời sống giáo viên, góp phần tích

110

cực vào việc mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo. Đây

cũng là những tiền đề quan trọng, góp phần thúc đẩy nhanh chóng công tác

chuẩn hóa, hiện đại hóa trường lớp.

Về công tác quản lý giáo dục, giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng tổ

chức Đảng, đoàn thể:

Ngành giáo dục tỉnh Hòa Bình đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền,

phổ biến, quán triệt Luật giáo dục trong toàn ngành, rà soát hệ thống các văn

bản hiện hành để có kế hoạch sửa đổi, bổ sung đảm bảo tính đồng bộ, thống

nhất của văn bản về giáo dục. Các hoạt động thanh tra, pháp chế đã đi vào

chiều sâu và kịp thời ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực trong ngành, qua

công tác thanh tra đã kịp thời chấn chỉnh các đơn vị thực hiện chưa nghiêm

túc, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý, phòng ngừa các sai phạm trong công

tác quản lý của các đơn vị. Bên cạnh đó, công tác giải quyết đơn thư khiếu

nại, tố cáo đúng luật đã chiếm được lòng tin của cán bộ, giáo viên và nhân

dân. Công tác xây dựng tổ chức Đảng, đoàn thể trong nhà trường được tổ

chức chặt chẽ và phát huy tốt vai trò theo chức năng, nhiệm vụ; đặc biệt công

tác tuyên truyền, vận động của các tổ chức đoàn thể đã đi vào chiều sâu, thiết

thực, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong đội ngũ cán bộ, giáo

viên và học sinh trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, cũng như góp

phần xây dựng một môi trường giáo dục lành mạnh.

Giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình đạt được những thành tích nêu

trên là do một số nguyên nhân chủ yếu sau đây:

Một là, công cuộc đổi mới của đất nước đã tạo điều kiện cho GD - ĐT,

trong đó có GDPT được phát triển.

Đất nước bước vào công cuộc đổi mới, tạo nền tảng kinh tế xã hội quan

trọng cho giáo dục được phát triển, là điều kiện cơ bản nhất để có được thành

quả như trên. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm đến chính

sách giáo dục, được thể hiện tập trung ở các Nghị quyết chuyên đề như:

111

NQTW4 (khóa VII), NQTW2 (khóa VIII), NQTW 6 (khóa IX), Chiến lược

phát triển giáo dục 2001 - 2010 ngày 28 - 12 - 2001 của Thủ tướng Chính

phủ, Luật Giáo dục ngày 14 - 6 - 2005 Quốc hội khóa XI… đã chỉ rõ quan

điểm của Đảng và Nhà nước, coi GD - ĐT là quốc sách hàng đầu, là một

trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển KT - XH của đất

nước. Đây là cơ sở để chỉ đạo, căn cứ pháp lý quan trọng, giúp các địa

phương trong cả nước nói chung, tỉnh Hòa Bình nói riêng có được những cơ

chế chính sách rộng mở để GD - ĐT được phát triển.

Hai là, quán triệt các quan điểm của Đảng, tỉnh Hòa Bình đã vận dụng

sáng tạo vào thực tiễn của địa phương.

Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hòa Bình (khóa XI) đã

tập trung đánh giá thực trạng và tìm ra nguyên nhân về GD - ĐT sau hơn một

năm tái lập tỉnh; Kế hoạch 101 của Tỉnh ủy Hòa Bình về định hướng chiến

lược phát triển GD - ĐT trong thời kỳ CNH, HĐH; Chương trình hành động

số 374-CTr/TU của Tỉnh ủy thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư

Trung ương Đảng (khóa IX) về “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà

giáo và cán bộ quản lý giáo dục”… Bên cạnh đó, tỉnh Hòa Bình đã thực hiện

tốt các chính sách nhằm thúc đẩy giáo dục phát triển ở mỗi giai đoạn, cho phù

hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương; mặt khác, các cấp ủy Đảng,

chính quyền, đoàn thể và nhân dân cũng đã nhận thức rõ hơn về vị trí, vai trò

của GD - ĐT, quyết tâm đưa sự nghiệp phát triển giáo dục đi lên vững chắc,

góp phần thúc đẩy GDPT ở tỉnh Hòa Bình đạt được những thành tựu to lớn.

Ba là, đội ngũ cán bộ, giáo viên và học sinh có lập trường tư tưởng

vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước,

phát huy truyền thống quê hương.

Phát huy truyền thống “trung dũng, quyết thắng”, vượt qua những khó

khăn, thách thức, phấn đấu vươn lên trong giảng dạy và học tập, tâm huyết,

gắn bó với nghề, đã thôi thúc cho con người vươn lên trên con đường học tập,

112

họ luôn nhận thức được tri thức là con đường phát triển bền vững và dễ vươn

lên nhất của mỗi con người, góp phần quan trọng và có ý nghĩa quyết định

vào sự phát triển của ngành. Bên cạnh đó, Hòa Bình là một tỉnh giàu truyền

thống văn hóa lâu đời, tạo nền tảng vững chắc, động lực mạnh mẽ cho sự phát

triển GD - ĐT nói chung, GDPT nói riêng.

Về hạn chế

Bên cạnh những thành tích quan trọng đã đạt được, GDPT ở tỉnh Hòa

Bình vẫn còn một số hạn chế, yếu kém cần khắc phục đó là:

Một bộ phận giáo viên, cán bộ quản lý chưa theo kịp với yêu cầu đổi

mới giáo dục.

Việc đổi mới công tác thi, kiểm tra, đánh giá, đổi mới phương pháp dạy

và học, một bộ phận cán bộ, giáo viên còn lúng túng, bị động và chưa theo kịp

với yêu cầu về công tác này. Công tác quy hoạch, đào tạo còn thiếu tổng thể

nên dẫn đến tình trạng đội ngũ giáo viên vừa thiếu, vừa thừa và không đồng

bộ về cơ cấu, trình độ chuyên môn,... Đối với giáo dục tiểu học, do thiếu giáo

viên ở một số môn học đặc thù như Âm nhạc, Mỹ thuật, Thể dục nên việc

thực hiện chương trình còn gặp khó khăn; việc dạy tiếng Anh ở một số trường

chưa thực sự được quan tâm; nhiều giáo viên còn lúng túng trong sử dụng đồ

dùng, thiết bị và tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Ở bậc trung học,

biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh còn nặng về hành chính, mệnh lệnh,

thiếu thuyết phục, một bộ phận nhỏ học sinh còn có biểu hiện thiếu hụt về

nhận thức, thái độ, hành vi; một số giáo viên năng lực sư phạm chưa đáp ứng

được yêu cầu của chương trình và sách giáo khoa mới, bài giảng chưa đi sâu

vào tìm tòi đổi mới phương pháp giảng dạy; việc ứng dụng công nghệ thông

tin trong giảng dạy chưa linh hoạt, nhất là ở vùng sâu, vùng xa; việc khắc

phục tình trạng dạy học theo cách đọc, chép ở một số đơn vị, trường học chưa

được chỉ đạo tích cực; hiện tượng giáo viên dạy chéo môn vẫn còn; một bộ

phận cán bộ quản lý giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu. Đối với cấp THPT còn

113

thiếu nhiều nhân viên thư viện, nhân viên thiết bị và nhân viên văn phòng. Tỷ

lệ giáo viên có trình độ sau đại học trong các trường còn thấp. Công tác điều

hành và quản lý ở một số nhà trường chưa thực sự hiệu quả. Những hạn chế

nêu trên, đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục, đòi hỏi ngành

giáo dục tỉnh Hòa Bình cần phải tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng đội

ngũ, để kịp thời đáp ứng với yêu cầu của tình hình mới, đây là yếu tố quan

trọng quyết định đến chất lượng GD - ĐT của tỉnh Hòa Bình.

Hệ thống trường học, lớp học và các điều kiện về cơ sở vật chất phục

vụ giáo dục chưa theo kịp với tốc độ tăng nhanh so với quy mô học sinh.

Hệ thống trường học, lớp học và cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ

giáo dục về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu học tập của con em đồng bào các

dân tộc trong tỉnh. Tuy nhiên với tốc độ tăng nhanh về quy mô học sinh đã tạo

ra những khó khăn rất lớn, điều này thể hiện sự thiếu đồng bộ mà ngành giáo

dục tỉnh Hòa Bình cần có những giải pháp để kịp thời khắc phục. Bên cạnh đó,

kinh phí đầu tư cho giáo dục đã được quan tâm, song mức đầu tư còn thấp,

chưa tương xứng với yêu cầu thực tế về phát triển giáo dục, chủ yếu chi cho

lương chiếm trên 80%, chi cho các hoạt động dạy và học là rất hạn chế. Nhiều

trường còn thiếu diện tích đất, phòng học bộ môn, nhà đa năng, sân chơi, bãi

tập, trang thiết bị dạy học, nước sạch, nên chưa đáp ứng được yêu cầu về đổi

mới giáo dục phổ thông. Việc xây dựng trường chuẩn quốc gia trên toàn tỉnh

không đồng đều giữa các vùng, một số nhà trường chưa thực sự quan tâm đến

công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia, một phần là do kinh phí đầu tư xây

dựng cơ sở vật chất của các địa phương còn hạn hẹp, vì vậy số trường đạt

chuẩn quốc gia có tăng, song tỷ lệ còn thấp,… Những bất cập đó đã ảnh hưởng

không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng dạy và học GDPT ở tỉnh Hòa Bình.

Chất lượng giáo dục đại trà, giáo dục toàn diện ở các cấp học, bậc học

còn chưa đồng đều.

Chất lượng giáo dục là một trong những yếu tố quan trọng để đánh giá

hiệu quả giáo dục đào tạo. Trong các năm học cho thấy, chất lượng GDPT

114

đều tăng ở cả ba cấp học, tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học và

đỗ tốt nghiệp phổ thông là khá cao. Tuy nhiên, để đánh giá thực chất về chất

lượng GDPT ở tỉnh Hòa Bình cũng là một vấn đề đặt ra, bởi lẽ tỷ lệ giáo viên

xếp loại xuất sắc, giỏi, khá hàng năm nhiều, nhưng chất lượng học sinh lại

không tương xứng. Đây không chỉ riêng ở tỉnh Hòa Bình, nhiều tỉnh thành

khác trong cả nước cũng xảy ra hiện tượng này. Mặt khác, chất lượng các cấp

học, bậc học phổ thông ở tỉnh Hòa Bình còn chưa đồng đều giữa các vùng

miền, tỷ lệ học sinh yếu, kém vẫn còn cao, nhất là ở các vùng đặc biệt khó

khăn do trình độ nhận thức của học sinh còn hạn chế. Việc bồi dưỡng học

sinh giỏi đạt kết quả tốt, tuy nhiên cũng tạo ra sự thiên lệch trong phông kiến

thức chung của học sinh, chủ yếu tập trung vào học các môn có khối thi đã

lựa chọn hoặc môn dự thi học sinh giỏi. Trình độ kiến thức, kỹ năng thực

hành các môn Tin học, Ngoại ngữ, phương pháp tư duy khoa học còn yếu,

năng lực vận dụng kiến thức vào thực tế còn hạn chế. Công bằng trong giáo

dục từng bước được cải thiện, song điều kiện về học tập còn sự chênh lệch

khá lớn giữa các vùng, miền trong tỉnh, khoảng cách về trình độ giáo dục còn

cao. Công tác phổ cập giáo dục đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục THCS và

THPT chuyển biến còn chậm, cần phải tiếp tục củng cố và phát triển… Do

vậy ngành giáo dục cần phải nhanh chóng đề ra các giải pháp khắc phục nhằm

nâng cao chất lượng GDPT, từng bước đáp ứng tốt các yêu cầu về cung cấp

nguồn nhân lực có chất lượng, phục vụ mục tiêu phát triển KT - XH của tỉnh.

Kỷ cương một số đơn vị trường học cần được chấn chỉnh, công tác

quản lý giáo dục một số nơi còn lỏng lẻo, tùy tiện.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song một số đơn vị, trường học việc

chấp hành kỷ cương, nề nếp vẫn còn tùy tiện; tình trạng dạy thêm, học thêm

vẫn còn diễn ra ở một số đơn vị, trường học, việc quản lý công tác này còn

thiếu quyết liệt; tâm lý trông chờ, ỷ lại ở một bộ phận cán bộ, giáo viên còn

khá phổ biến; việc triển khai các hệ thống văn bản ở một số cơ sở còn chậm

115

và yếu, dẫn đến một số chủ trương, biện pháp của Trung ương, của tỉnh, của

ngành không đến được với giáo viên, cán bộ quản lý, nhân viên các nhà

trường. Công tác xã hội hoá giáo dục còn gặp nhiều khó khăn, một số phụ

huynh chưa quan tâm đến việc học hành của con cái, còn khoán trắng cho các

thầy cô giáo, tỷ lệ kinh phí huy động do công tác xã hội hoá đem lại chưa

tương xứng với kinh tế của địa phương, chưa khai thác có hiệu quả nguồn lực

trong nhân dân và trong các cơ quan, ban, ngành, các tổ chức doanh nghiệp

đóng góp cho phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, chủ yếu là động viên về

mặt tinh thần; một số trường học công tác Đảng chưa được coi trọng đúng

mức, một số trường học nhiều năm chưa kết nạp được đảng viên…

Những hạn chế, yếu kém nêu trên của GDPT ở tỉnh Hòa Bình do nhiều

nguyên nhân, trong đó phải kể đến các nguyên nhân chủ yếu như:

Một là, Hòa Bình là tỉnh miền núi còn nghèo, điều kiện phát triển về KT

- XH, cơ sở hạ tầng, cũng như điều kiện địa lý, tự nhiên, giao thông đi lại…

còn gặp nhiều khó khăn.

Trong tổng số 210 xã, phường, thị trấn có 23 xã thuộc vùng ngập lòng

hồ sông Đà, 60 xã thuộc vùng III, 9 xã thuộc vùng hạ lưu thủy điện, 34 xã

thuộc vùng ATK [46, tr.13]. Đây là một trong những khó khăn rất lớn trong

phát triển KT - XH của địa phương, đã tác động ảnh hưởng trực tiếp đến đời

sống của người dân, nên việc học tập của con em các dân tộc trong tỉnh cũng

chịu ảnh hưởng và gặp không ít khó khăn. Bên cạnh đó, tỉnh Hòa Bình cũng

thường xuyên bị thiên tai, bão lũ, sạt lở đất; một bộ phận dân cư nhận thức

còn khá nặng nề bởi các phong tục, tập quán và không muốn cho con em theo

học, nhất là ở các vùng có điều kiện phát triển KT - XH đặc biệt khó khăn,

vùng nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống; nền kinh tế thị trường đã và

đang tác động trực tiếp đến đời sống, tâm lý và động cơ học tập của người

dân;… Do vậy cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp phát triển GDPT

của tỉnh Hòa Bình.

116

Hai là, sự phát triển nhanh về quy mô, số lượng, vượt quá khả năng

kinh tế cho phép.

Số lượng học sinh tăng nhanh qua các năm, trong khi ngân sách đầu tư

cho giáo dục còn thấp là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc xây dựng

trường học, lớp học và cơ sở vật chất phục vụ giáo dục còn hạn chế. Công tác

xã hội hóa giáo dục chưa phát huy hết hiệu quả. Bên cạnh đó, sự quan tâm,

lãnh đạo của một số cấp ủy Đảng còn chưa sâu sát, cụ thể,nhất là ở cơ sở.

Nhiều nơi vẫn còn ảnh hưởng tư tưởng thụ động, trông chờ, ỷ lại vào cấp trên,

vẫn còn thể hiện bệnh quan liêu qua giấy tờ. Sự phối hợp giữa các ngành, các

cấp về công tác phát triển GD - ĐT còn chưa thường xuyên, chưa có quy định

rõ về trách nhiệm, nghĩa vụ của các lực lượng xã hội đối với GD - ĐT; những

trọng tâm công tác, những vấn đề quan trọng còn thiếu kế hoạch cụ thể, chưa

thực hiện tốt công tác tổng kết, sơ kết kịp thời,… Đây thể hiện là sự thiếu

đồng bộ trong tổ chức và thực hiện cần phải được khắc phục.

Ba là, bản thân ngành GD - ĐT nói chung, GD - ĐT Hòa Bình nói riêng

cũng còn những nhược điểm.

Một số chủ trương đổi mới về giáo dục có nghiên cứu và chuẩn bị,

nhưng khi áp dụng tổ chức thực hiện còn nhiều thiếu sót, không đồng bộ.

Công tác quản lý giáo dục còn nhiều bất cập, việc quản lý chương trình, nội

dung và chất lượng chưa thiết thực, nặng về hình thức; công tác thanh tra còn

chưa thường xuyên và thiếu những biện pháp hữu hiệu để kiểm tra, đánh giá

chất lượng đào tạo; việc phát hiện, xử lý và khắc phục những biểu hiện tiêu

cực trong ngành còn chậm. Nội dung giáo dục nhiều phần chưa gắn với cuộc

sống. Công tác giáo dục hướng nghiệp bậc phổ thông chưa được chú ý đúng

mức. Phương pháp giáo chậm được đổi mới, chưa phát huy được tính chủ

động, sáng tạo của người học. Giáo dục chưa kết hợp chặt chẽ với lao động

sản xuất. Các cấp, các ngành chưa có những quyết định đủ mạnh về chính

sách, cơ chế và biện pháp tổ chức thực hiện. Một số chính sách được ban

117

hành chưa đủ sức khuyến khích được giáo viên đến dạy ở những vùng khó

khăn, chưa động viên giáo viên dạy giỏi và giáo viên có trình độ cao; tiền

lương vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu sinh hoạt. Thiếu chính sách thu hút học

sinh khá, giỏi vào học sư phạm; chưa có quyết định đủ mạnh thu hút người

tài. Tỷ lệ ngân sách đầu tư cho giáo dục còn thấp, cơ sở vật chất, phương tiện

dạy học của các trường nhìn chung còn chưa được cải thiện... Đây là nguyên

nhân chính của những hạn chế, yếu kém mà ngành giáo dục tỉnh Hòa Bình

cần phải tập trung tháo gỡ. Do vậy, để GDPT của tỉnh Hòa Bình thực sự được

phát triển một cách bền vững, đáp ứng tốt yêu cầu phát triển KT - XH của

tỉnh trong thời kỳ mới, cần có sự quan tâm, vào cuộc của cả hệ thống chính trị

và của cả cộng đồng.

4.1.2. So sánh quá trình phát triển GDPT của tỉnh Hòa Bình qua hai

giai đoạn 1991 - 2001 và 2001 - 2010.

Sau khi tái lập tỉnh (1991), Hòa Bình là một trong những tỉnh nghèo

nhất cả nước, tình hình KT - XH gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp,

nên đã ảnh hưởng nhiều đến sự nghiệp phát triển GDPT.

Giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010 trải

qua hai giai đoạn 1991 - 2001 và 2001 - 2010 song đó là quá trình phát triển

liên tục, theo hướng tích cực, đảm bảo về số lượng, tăng dần về chất lượng,

giai đoạn sau phát triển hơn giai đoạn trước, những hạn chế, yếu kém đã từng

bước được khắc phục, thể hiện qua một số nội dung so sánh như sau:

Trước hết là công tác xây dựng đội ngũ cán bộ và giáo viên.

Giai đoạn 1991 - 2001, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên tập

trung chủ yếu vào công tác tổ chức, cán bộ, từng bước hoàn thiện bộ máy,

thực hiện các chính sách thu hút giáo viên, ưu đãi giáo viên giỏi, đẩy mạnh

công tác đào tạo, đào tạo lại, thường xuyên chuẩn hóa, bồi dưỡng giáo viên

theo định kỳ… nhằm đáp ứng yêu cầu chủ yếu về mặt số lượng, trong bối

cảnh Hòa Bình mới được tái lập. Do vậy, đến năm học 2000 - 2001, tỉnh Hòa

118

Bình về cơ bản đã khắc phục được tình trạng thiếu giáo viên phổ thông ở các

cấp học. Bên cạnh đó, chất lượng đội ngũ giáo viên cũng từng bước được

nâng lên, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn năm học 1995 - 1996: Giáo viên tiểu học

đạt 85%, giáo viên THCS đạt 90%, giáo viên THPT đạt 97% [120, tr. 4]; đến

năm học 2000 - 2001, toàn tỉnh có 35 - 40% giáo viên khá, giỏi, chỉ còn 10 -

15% giáo viên yếu, kém cần thay thế và đào tạo lại [146, tr. 233].

Trong những năm từ 2001 đến 2010, thực hiện Chỉ thị số 40 CT/TW,

ngày 15 - 6 - 2004 của Ban Bí thư khóa X, về việc xây dựng, nâng cao chất

lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, tỉnh Hòa Bình đã chỉ đạo

tiến hành rà soát, đánh giá, chuẩn hóa đội ngũ nhằm đáp ứng yêu cầu của

tình hình mới. Do vậy, đến năm học 2009 - 2010, tỷ lệ giáo viên phổ thông

đạt chuẩn và trên chuẩn được tăng lên rõ rệt. Cụ thể, giáo viên tiểu học đạt

chuẩn là 100%, trong đó trình độ trên chuẩn là 40,2%; giáo viên THCS đạt

chuẩn là 100%, trong đó trên chuẩn 23.3%; giáo viên THPT đạt chuẩn là

100%, trong đó trên chuẩn là 3,3% [138, tr. 13]. Đây là một bước tiến lớn

trong công tác xây dựng đội ngũ, góp phần quan trọng vào nâng cao chất

lượng giáo dục trong các nhà trường phổ thông.

Thứ hai, về xây dựng hệ thống trường, lớp và quy mô phát triển.

Giai đoạn 1991 - 2001, các loại hình trường lớp được phát triển đa dạng

và mở rộng, khắp các thôn bản, phù hợp với từng địa bàn dân cư để thu hút

học sinh vào học. Với sự cố gắng của toàn ngành, năm học 1997 - 1998, toàn

tỉnh đã có 3 trường bán công, 10 trường liên cấp II + III, 19 trường THPT

[121, tr. 3] và 8 trường Phổ thông dân tộc nội trú. Tuy nhiên, hệ thống

trường, lớp trong giai đoạn này tỷ lệ được xây dựng kiên cố còn thấp, số

trường bằng tranh tre, nứa lá vẫn còn nhiều. Mặt khác, quy mô, số lượng các

lớp học và học sinh phổ thông cũng không ngừng được tăng lên. Đến năm

học 2000 - 2001, toàn tỉnh có 6.945 lớp học với 193.461 học sinh [2, tr. 700].

Công tác phổ cập giáo dục tiểu học, XMC cũng đạt được kết quả to lớn. Đến

119

tháng 10 - 1995, toàn tỉnh có 9/10 huyện, thị, 203/213 xã, phường đã hoàn

thành công tác phổ cập, đạt tỷ lệ 95% [86, tr. 207].

Trong những năm từ 2001 - 2010, công tác xây dựng hệ thống trường,

lớp tiếp tục được tỉnh Hòa Bình quan tâm mở rộng, đã đáp ứng tốt nhu cầu

học tập của học sinh trong tỉnh, tuy nhiên giai đoạn này cũng có sự biến động

về số lượng trường, lớp và học sinh. Năm học 2009 - 2010, toàn tỉnh có 219

trường tiểu học, 19 trường PTCS (cấp I-II), 209 trường THCS, 38 trường

THPT, 10 trường Phổ thông dân tộc nội trú; với 3.016 lớp tiểu học và 56.210

học sinh, 1.659 lớp THCS và 48.655 học sinh, 638 lớp THPT và 26.626 học

sinh [138, tr. 2]. Nguyên nhân của sự biến động về trường, lớp và học sinh có

giảm ở bậc tiểu học và THCS so với một số năm học trước là do việc mở

rộng địa giới hành chính Thành phố Hà Nội (năm 2008), một số xã thuộc

huyện Lương Sơn đã chuyển về Hà Nội nên số học sinh cũng chuyển theo.

Bên cạnh đó, Hòa Bình đã thực hiện tốt công tác dân số, kế hoạch hóa gia

đình theo chủ trương của Đảng, Nhà nước nên tỷ lệ sinh giảm. Với sự phát

triển nhanh chóng về số lượng trường lớp, đặc biệt là số trường lớp được xây

dựng kiên cố trong giai đoạn 2001 - 2010, đã đáp ứng tốt nhu cầu học tập của

các em học sinh.

Thứ ba, về chất lượng giáo dục đào tạo.

Giai đoạn 1991 - 2001, bên cạnh việc mở rộng quy mô, ngành giáo dục

Hòa Bình đã đưa ra nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng GDPT. Do vậy,

năm học 2000 - 2001, bậc tiểu học thi cuối cấp đạt 99,36%; bậc THCS, tỷ lệ

học sinh đỗ tốt nghiệp đạt 94,06%; bậc THPT, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp đạt

96,35%” [124, tr. 5-6]. Công tác giáo dục mũi nhọn được ngành đặc biệt quan

tâm và phát huy có hiệu quả. Từ năm học 1995 - 1996 đến năm học 2001 -

2002, số lượng học sinh đoạt giải trong các kỳ thi Quốc gia tăng cao, Hòa

Bình là tỉnh luôn dẫn đầu các tỉnh miền núi, Tây Nguyên và Đồng bằng Sông

Cửu Long về số lượng học sinh đoạt giải và chất lượng các giải.

120

Trong những năm từ 2001 đến 2010, toàn ngành giáo dục trong tỉnh Hòa

Bình đã tập trung chỉ đạo đổi mới chương trình GDPT, thực hiện thay sách

giáo khoa theo Nghị quyết số 40/2000QH, Quốc hội khóa X; thực hiện các

phương pháp giảng dạy tích cực cho phù hợp với yêu cầu của tình hình mới…

Do vậy, chất lượng GDPT có những chuyển biến tích cực. Năm học 2009 -

2010, bậc tiểu học, xét và công nhận hoàn thành chương trình tiểu học đạt tỷ

lệ 98%”; bậc THCS, tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp đạt 85.8%; bậc THPT, tỷ lệ

học sinh đỗ tốt nghiệp đạt 100% [138, tr. 9-10]. Công tác bồi dưỡng học sinh

dự thi học sinh giỏi Quốc gia từ 2001 - 2010 tiếp tục đoạt được nhiều kết quả

to lớn, nhiều năm liền, tỉnh Hòa Bình luôn dẫn đầu các tỉnh miền núi, Tây

Nguyên và Đồng bằng Sông Cửu Long về số lượng học sinh đoạt giải và chất

lượng các giải. Đến năm 2010, tổng kết qua 20 lần tham dự kỳ học sinh thi

học sinh giỏi Quốc gia, đoàn học sinh tỉnh Hòa Bình đã đạt tổng số 995 giải,

trong đó, có 35 giải Nhất, 189 giải Nhì, 729 giải Ba và giải Khuyến khích

[141, tr.2] và tiếp tục khẳng định chất lượng về giáo dục mũi nhọn của tỉnh

Hòa Bình đối với GDPT của cả nước.

Thứ tư, công tác đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giáo dục.

Sau khi được tái lập, tỉnh Hòa Bình “có trên 20% số trường, lớp được

xây dựng kiên cố và 01 máy vi tính” [120, tr. 5]. Đây là một khó khăn rất

lớn của ngành giáo dục Hòa Bình trong bối cảnh mới được tái lập.

Giai đoạn 1991 - 2001, thực hiện quyết tâm ngói hóa, tiến tới kiên cố

hóa trường học, đến năm học 2000 - 2001, toàn tỉnh đã có 30% trường, lớp

cao tầng, 40% bán kiên cố, 100% trường THCS và THPT được xây dựng

cao tầng. Hàng năm tỉnh Hòa Bình đã trích 6 - 10% tổng kinh phí của

ngành để đầu tư cho sự nghiệp giáo dục, toàn tỉnh có 6 trường tiểu học

được Bộ GD - ĐT công nhận trường đạt chuẩn quốc gia [124, tr. 4]. Công

tác xã hội hóa giáo dục cũng không ngừng được quan tâm, riêng năm học

1999 - 2000, nhân dân đã đóng góp xây dựng trường lớp với tổng số tiền

ước tính gần 3 tỷ đồng [123, tr. 2].

121

Giai đoạn 2001 - 2010, công tác đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị

phục vụ giáo dục được triển khai theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa. Đến

năm học 2009 - 2010, toàn tỉnh đã có 8.479 phòng học, trong đó phòng học

kiên cố chiếm 61,6%, phòng bán kiên cố chiếm 27.5%, phòng tạm chiếm

10.9%; 1145 phòng ở giáo viên; 564 phòng thư viện; 185 phòng thí nghiệm,

phòng bộ môn; 63 trường tiểu học, 24 trường THCS, 2 trường THPT đạt

chuẩn Quốc gia [138, tr. 12-13]. Với sự quan tâm đầu tư nêu trên, đã đáp

ứng tốt nhu cầu về phòng học, phòng ở của giáo viên và các trang thiết bị

phục vụ giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.

Thứ năm, về công tác quản lý giáo dục, nâng cao ý thức chính trị, tư

tưởng và xây dựng tổ chức Đảng, đoàn thể trong nhà trường phổ thông.

Giai đoạn 1991 - 2001, công tác quản lý đội ngũ cán bộ được thực hiện

một cách toàn diện, theo phân cấp quản lý và theo ngành. Quản lý tài chính

được thực hiện công khai, minh bạch, vì vậy kinh phí được sử dụng đúng

mục đích, đúng đối tượng, phát huy hiệu quả cao. Công tác thanh tra tập

trung chủ yếu đi vào thanh tra chuyên môn, Sở GD - ĐT Hòa Bình mở phòng

tiếp dân để giải quyết kịp thời các đơn thư, khiếu tố một cách nhanh gọn

không để tồn đọng; đồng thời chỉ đạo thực hiện nghiêm túc Chỉ thị của Bộ

GD - ĐT về chấn chỉnh công tác dạy thêm, học thêm. Công tác giáo dục

chính trị, tư tưởng được quan tâm, Ban cán sự Đảng thường xuyên tổ chức

các hội nghị học tập, quán triệt chuyên đề, Nghị quyết của Đảng, nhằm nâng

cao nhận thức trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quán triệt Chỉ thị số 34

CT/TW ngày 30 - 05 - 1998 của Bộ Chính trị về công tác xây dựng Đảng và

củng cố tổ chức Đảng trong trường học, năm học 2001 - 2002, số lượng đảng

viên trong toàn ngành là 2.273 đảng viên [124, tr. 8]. Đảng bộ cơ quan Sở GD

- ĐT luôn được công nhận là tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh,

Đảng bộ tiêu biểu của khối Dân, Chính, Đảng. Tổ chức Công đoàn, Đoàn

thanh niên đã phát huy tốt vai trò theo chức năng, nhiệm vụ, góp phần tích

122

cực vào thành tích chung của nhà trường và chăm lo đời sống cho cán bộ giáo

viên và học sinh.

Trong giai đoạn 2001 - 2010, công tác quản lý nhà nước về giáo dục tiếp

tục được thực hiện theo hướng chuẩn hóa, dân chủ hóa, công khai, công bằng.

Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong toàn ngành; rà

soát lại hệ thống các văn bản hiện hành và kịp thời sửa đổi, bổ sung, đảm bảo

tính đồng bộ, thống nhất của văn bản về giáo dục. Ngành đã xây dựng lực

lượng cán bộ thanh tra chuyên trách và cộng tác viên thanh tra. Công tác

thanh tra tiếp tục được đẩy mạnh, nội dung thanh tra đặc biệt trọng tâm vào

thanh tra chuyên đề. Số lượt thanh tra hàng năm đều vượt chỉ tiêu được giao.

Qua công tác thanh tra đã kịp thời chấn chỉnh nền nếp, kỷ cương trong trường

học, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý, phòng ngừa các sai phạm, chiếm

được lòng tin của cán bộ, giáo viên và nhân dân. Công tác giáo dục chính trị

tư tưởng thường xuyên được quan tâm. Công tác phát triển đảng viên luôn

đảm bảo số lượng và chất lượng. Đến năm học 2009 - 2010, toàn ngành có 6

Đảng bộ và 682 chi bộ trường học, với 7.533 đảng viên; qua đánh giá phân

loại, 100% chi bộ, Đảng bộ đạt danh hiệu “Tổ chức cơ sở Đảng trong sạch,

vững mạnh [138, tr. 14]. Tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên, Đội Thiếu

niên Tiền phong Hồ Chí Minh trong các trường học, đã thực hiện tốt chức

năng, nhiệm vụ; các hoạt động đã đi vào chiều sâu, bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp cho các đoàn viên, đội viên, góp phần tích cực vào việc nâng cao

chất lượng và hiệu quả công tác GD - ĐT trong các nhà trường.

4.1.3. So sánh GDPT của tỉnh Hòa Bình với một số tỉnh có điều kiện

tương đồng.

Giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010 so với

mặt bằng chung của cả nước vẫn còn ở mức trung bình thấp và còn kém xa so

với các tỉnh ở đồng bằng và các thành phố khác.

123

Riêng trong các tỉnh miền núi phía Tây Bắc như tỉnh Sơn La, tỉnh Điện

Biên và tỉnh Yên Bái có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, vùng nhiều đồng bào

dân tộc thiểu số, phát triển KT - XH, truyền thống văn hóa... có nhiều yếu tố

tương đồng với tỉnh Hòa Bình. Do vậy, để đánh giá thực trạng quá trình phát

triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010, tác giả lựa chọn so

sánh về phát triển GDPT với ba tỉnh Sơn La, tỉnh Điện Biên và tỉnh Yên Bái.

- Về chất lượng giáo viên phổ thông, đến năm học 2009 - 2010, tỷ lệ

giáo viên phổ thông đạt chuẩn ở cả 4 tỉnh: Hòa Bình, tỉnh Sơn La, tỉnh Điện

Biên và tỉnh Yên Bái đều tăng cao, bởi lẽ xác định chất lượng đội ngũ là yếu

tố quan trọng hàng đầu quyết định đến chất lượng và hiệu quả giáo dục nên

các tỉnh đều tập trung quan tâm chỉ đạo và được thể hiện qua biểu đồ sau:

Biểu đồ 4.1. Tỷ lệ giáo viên phổ thông đạt chuẩn năm học 2009 - 2010

101

100

99

98

97

96

95

94

93

92

Tiểu học

Tỉnh Hòa Bình 100

Tỉnh Sơn La 99.1

Tỉnh Điện Biên 95

Tỉnh Yên Bái 98.87

THCS

100

95.3

95

98.87

THPT

100

97.8

95

98.87

Đơn vị: %

Nguồn:[26, tập 1, tr. 551], [26, tập 2, tr. 545, 775], [138, tr. 13].

Song với tỷ lệ ở cả 3 cấp Tiểu học, THCS và THPT đạt chuẩn và trên

chuẩn là 100%, tỉnh Hòa Bình đã cho thấy chất lượng đội ngũ có sự vượt trội

hơn so với ba tỉnh Sơn La, Điện Biên và Yên Bái. Kết quả đó đã thể hiện sự

quyết tâm của ngành trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên, đặt

124

nền móng quan trọng để tỉnh Hòa Bình tiếp tục duy trì và phát triển trong

nhưng năm tiếp theo, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo trong

các nhà trường.

- Công tác xây dựng hệ thống trường, lớp đa dạng cũng được các tỉnh

Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên và Yên Bái đặc biệt quan tâm, nhằm phục vụ

nhu cầu học tập của con em đồng bào các dân tộc trong tỉnh và phù hợp với

từng địa bàn dân cư sinh sống. Số lượng trường học, phòng học đạt chuẩn

Quốc gia và được xây dựng kiên cố tăng lên đáng kể, đã từng bước giảm dần

số phòng học bán kiên cố, phòng học tạm, thể hiện qua bảng số liệu sau:

Bảng 4.1. Số trường học, phòng học và học sinh phổ thông

năm học 2009 - 2010

Số

Trường

Phòng học

lượng

Phổ

Đạt chuẩn

Phổ

thông

Trong đó:

Học sinh

Quốc gia

Tổng số

thông

dân tộc

Kiên cố

Tỉnh

nội trú

Hòa Bình 485 10 89 8.479 5.224 136.101

Sơn La 532 11 33 11.876 4.507 208.040

Điện Biên 306 9 63 6.573 3.042 107.183

Yên Bái 381 9 66 4.419 2.828 132.750

Nguồn: [26, tập 1, tr. 550,551], [26, tập 2, tr. 546,547,548,774,782],

[138, 146, tr. 2,10,12,13; 259].

Từ bảng 4.1 cho thấy, tổng số trường học, phòng học và học sinh phổ

thông có sự trên lệch khá lớn giữa các tỉnh. Nguyên nhân chủ yếu là do: Đối

với tỉnh Hòa Bình, năm 2008, việc mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà

Nội, 4 xã thuộc huyện Lương Sơn đã sáp nhập về Thành phố Hà Nội, một số

trường học, phòng học và học sinh phổ thông cũng đã chuyển theo nên số

lượng trường học, lớp học và học sinh cũng có giảm đi. Đối với tỉnh Điện

125

Biên, năm 2003, theo Nghị quyết số 22/2003/QH-QH11, ngày 26/11/2003 của

Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ tư, đã chia tách tỉnh Lai Châu (cũ) thành hai

tỉnh Điện Biên và Lai Châu, do vậy nhiều địa giới hành chính của tỉnh Điện

Biên đã bị thu hẹp và chuyển về tỉnh Lai Châu mới. Đây là nguyên nhân chủ

yếu dẫn đến số trường học, phòng học và số lượng học sinh phổ thông ở tỉnh

Điện Biên giảm khá nhiều. Đối với tỉnh Sơn La là tỉnh có diện tích tự nhiên

rộng, có sự ổn định và không bị phân chia, sáp nhập bởi việc thay đổi địa giới

hành chính nên số lượng trường học, phòng học và học sinh có cao hơn so với

tỉnh Hòa Bình, Điện Biên và Yên Bái. Cũng từ bảng số liệu cho thấy, tỉnh

Yên Bái có số trường học và số lượng học sinh là khá cao, tuy nhiên tổng số

phòng học và phòng học kiên cố so với các tỉnh là rất thấp, điều này đã ảnh

hưởng không nhỏ đến việc học tập của các em học sinh nên việc học hai

buổi/ngày vẫn còn diễn ra ở nhiều trường. Bên cạnh đó, hệ thống các trường

PTDTNT của cả bốn tỉnh nêu trên phát triển tương đối đồng đều, với mục tiêu

chung là nhằm tạo điều kiện tối đa cho con em đồng bào dân tộc thiểu số

được theo học và phù hợp với từng địa bàn dân cư. Song nhìn tổng thể từ

bảng 4.1 cũng cho thấy, với số lượng phòng học phổ thông được xây dựng

kiên cố trên tổng số trường học và số trường phổ thông đạt chuẩn Quốc gia

được xây dựng của tỉnh Hòa Bình đều cao hơn so với ba tỉnh Sơn La, Điện

Biên và tỉnh Yên Bái, điều đó thể hiện sự quyết tâm của ngành giáo dục Hòa

Bình về kiên cố hóa trường, lớp phục vụ công tác dạy và học, góp phần vào

nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo của tỉnh.

- Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước và của ngành về đẩy mạnh

công tác phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục THCS, đã

được các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên và Yên Bái tăng cường chỉ đạo

triển khai, đã vận dụng linh hoạt với từng nhóm đối tượng người học, từng

vùng miền cụ thể và đạt được kết quả rất đáng ghi nhận, thể hiện qua bảng sau:

126

Bảng 4.2. Công tác phổ cập giáo dục phổ thông

Năm phổ cập 2003

Tỉnh Hòa Bình

2005

2007

Sơn La 2008

2008

Điện Biên 2010

2007

Yên Bái 2009

Nội dung Đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục THCS Đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi Đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục THCS Đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi Đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục THCS Đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi Đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục THCS Đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi

Nguồn: [2, tr. 781], [26, tập 1, tr. 552], [26, tập 2, tr.544, 776].

Từ bảng 4.2 cho thấy, công tác phổ cập giáo dục bậc Tiểu học và bậc

THCS ở tỉnh Hòa Bình có sớm hơn cả so với các tỉnh Sơn La, Điện Biên và

Yên Bái. Điều đó đã cho thấy sự quyết tâm, coi trọng và có hiệu quả của tỉnh

Hòa Bình đối với công tác này.

- Công tác giáo dục mũi nhọn là một trong những yếu tố quan trọng, góp

phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo của các tỉnh. Với công

tác này, tỉnh Hòa Bình là điểm nổi bật hơn cả so với ba tỉnh Sơn La, Điện

Biên và Yên Bái, đồng thời cũng nổi trội hơn so với một số tỉnh, thành khác

trong cả nước. Tính đến năm 2010, tổng kết qua 20 lần tham dự kỳ học sinh

thi học sinh giỏi Quốc gia, đoàn học sinh tỉnh Hòa Bình đã đạt tổng số 995

giải, trong đó, có 35 giải Nhất, 189 giải Nhì, 729 giải Ba và giải Khuyến

khích [141, tr. 2], nhiều năm liền tỉnh Hòa Bình luôn dẫn đầu các tỉnh miền

núi, Tây Nguyên và Đồng bằng Sông Cửu Long về số lượng học sinh đoạt

giải và chất lượng các giải. Đây cũng là điểm nổi bật của ngành giáo dục Hòa

Bình kể từ khi tái lập tỉnh.

127

Có thể nói, các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên và Yên Bái là những

tỉnh miền núi có nhiều yếu tố tương đồng và còn gặp rất nhiều khó khăn. Một

số kết quả chính về phát triển GDPT của bốn tỉnh nêu trên đã cho thấy

khoảng cách đạt được trên các lĩnh vực giữa các tỉnh là không xa. Song nhìn

trên một số lĩnh vực cụ thể, tỉnh Hòa Bình cũng có những điểm nổi bật hơn.

Đây là kết quả của sự quyết tâm và rất đáng tự hào của toàn ngành giáo dục,

của cả hệ thống chính trị đối với sự nghiệp phát triển giáo dục ở tỉnh Hòa

Bình và đặt nền móng quan trọng cho các giai đoạn phát triển tiếp theo.

4.1.4. Một số đặc điểm riêng nổi bật về GDPT của tỉnh Hòa Bình.

Là tỉnh miền núi nghèo, chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố về vị trí địa lý,

điều kiện tự nhiên, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội; nơi có đông đồng bào

dân tộc thiểu số sinh sống… đã tạo cho GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991

đến năm 2010 vừa mang đặc điểm chung của GDPT của Việt Nam, vừa có

những đặc điểm riêng của tỉnh Hòa Bình.

Đặc điểm chung của nền giáo dục XHCN ở Việt Nam là bảo đảm tốt

mục tiêu giáo dục; nội dung, chương trình giáo dục phải luôn bám sát vào

mục tiêu; thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với người dạy và người học, đặc

biệt là các vùng có điều kiện KT - XH còn nhiều khó khăn, vùng nhiều đồng

bào dân tộc, con em gia đình chính sách; bảo đảm cho mọi người dân ai cũng

được tham gia học tập; toàn dân tham gia vì sự nghiệp trồng người; giáo dục

công lập vẫn đóng vai trò là nồng cốt để bảo đảm những nhu cầu tối thiểu của

người dân; các chi phí cho giáo dục phần lớn là do ngân sách nhà nước đảm

bảo… Với đặc điểm nêu trên, cùng với các tỉnh, thành phố khác trong cả

nước, phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010 cũng đã

đảm bảo và thực hiện tốt các yêu cầu này.

Bên cạnh đó, phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình còn có những đặc điểm

riêng khá nổi bật như:

128

Thứ nhất, Hòa Bình là một tỉnh miền núi, có địa bàn rộng, nhiều nơi

giao thông đi lại bị chia cắt và gặp nhiều khó khăn, đã ảnh hưởng lớn đến sự

nghiệp phát triển giáo dục.

Hòa Bình có diện tích toàn tỉnh là 4.596,4 km2 chủ yếu là đồi và núi đá

vôi, với địa bàn rộng, dân cư thưa thớt nằm rải rác ở khắp các vùng miền

trong tỉnh; điều kiện về giao thông đi lại nhiều nơi còn gặp không ít khó khăn,

nhất là ở những xã vùng sâu, vùng xa, vùng lòng hồ bị chia cắt bởi các sông,

hồ, khe, suối, nhiều thung lũng, hàng trăm con suối lớn nhỏ và đường đất trơn

trượt; mùa mưa lũ, một số vùng cao, vùng sâu đường giao thông bị sạt lở,

việc đi lại và vận chuyển bằng xe cơ giới cũng gặp nhiều trắc trở. Trong tổng

số 210 xã, phường, thị trấn có 23 xã thuộc vùng ngập lòng hồ sông Đà, 60 xã

thuộc vùng III, 9 xã thuộc vùng hạ lưu thủy điện, 34 xã thuộc vùng ATK [46,

tr. 13], quy mô trường lớp phân tán, khó khăn để hưởng thụ công bằng trong

giáo dục, đời sống người dân còn nghèo, cơ sở vật chất thiếu thốn, trình độ

dân trí còn thấp… Với đặc điểm về địa hình và phân bố về dân cư nêu trên,

đã ảnh hưởng rất lớn đến việc đi lại, học tập của các em học sinh. Do vậy,

tỉnh Hòa Bình đã chỉ đạo rà soát và thực hiện nhiều giải pháp để đưa trường

về gần dân, xây dựng hệ thống trường, lớp rộng khắp các bản làng, thôn xóm,

phù hợp với từng địa bàn dân cư, đã đáp ứng nhu cầu học tập của con em

đồng bào các dân tộc trong tỉnh.

Thứ hai,hệ thống các trường Phổ thông dân tộc nội trú được tỉnh Hòa

Bình đặc biệt quan tâm xây dựng.

Hòa Bình là nơi hội tụ của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống,

trong7 dân tộc chính cư trú trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, dân tộc Mường đông

nhất chiếm 62,98% dân số trong toàn tỉnh, ngoài ra còn có các dân tộc Kinh,

dân tộc Thái, dân tộc Tày, dân tộc Dao, dân tộc Mông và dân tộc Hoa [2, tr.

9]. Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước để mọi người dân

đều được tham gia học tập, tỉnh Hòa Bình đã xây dựng và phát triển mạnh mẽ

129

hệ thống các trường Phổ thông dân tộc nội trú tại trung tâm của tỉnh, các

huyện và liên xã. Đến năm học 2009 - 2010, trên địa bàn toàn tỉnh có 10

trường Phổ thông dân tộc nội trú, trong đó có 1 trường Phổ thông dân tộc nội

trú tỉnh, 7 trường Phổ thông dân tộc nội trú huyện và 2 trường Phổ thông dân

tộc nội trú liên xã và đang tiếp tục xây dựng trường Phổ thông dân tộc nội trú

Mường Chiềng và trường Phổ thông dân tộc nội trú Yên thủy [138, tr. 10].

Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các trường Phổ thông dân tộc nội trú

theo hướng tăng cường chuẩn hóa và chuẩn quốc gia, các chế độ chính sách

dành cho cán bộ giáo viên và học sinh luôn được bảo đảm theo quy định của

Nhà nước. Đặc biệt, trường Phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Hòa Bình luôn là

đơn vị đạt thành tích tiên tiến, xuất sắc nhiều năm liền về công tác giáo dục.

Sự phát triển của hệ thống các trường Phổ thông dân tộc nội trú, đã góp phần

nâng cao chất lượng, hiệu quả GDPT ở tỉnh Hòa Bình.

Thứ ba, với truyền thống văn hóa lâu đời, con người cần cù, sáng tạo

và nhiều thắng cảnh đẹp, là niềm tự hào, động lực thúc đẩy GDPT ở tỉnh Hòa

Bình được phát triển.

Nằm ở cửa ngõ vùng tây Bắc của Tổ quốc, có địa bàn giáp với Thủ đô

Hà Nội, tỉnh lỵ Hòa Bình cách Thủ đô Hà Nội 76 km về phía Tây. Thiên

nhiên đã tạo cho tỉnh nhiều cảnh quan, danh thắng đẹp và kỳ thú; bên cạnh

đó, nhờ bàn tay lao động cần cù và sáng tạo của mình, đồng bào các dân tộc

trong tỉnh đã tạo nên nền văn hóa mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc với

những bản, làng du lịch văn hóa danh tiếng, nơi đây đang là điểm đến của du

khách gần xa. Mặt khác, tỉnh Hòa Bình là nơi có truyền thống văn hóa lâu đời

đó là nền “văn hóa Hòa Bình”, nền văn hóa của dân cư nông nghiệp sơ khai

cách đây hàng vạn năm và được biết đến với công trình thủy điện lớn nhất cả

nước với tổng công xuất 1920Mw và lượng thủy năng 50 tỷ kw/h… Đây là

những yếu tố quan trọng để nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình tự hào về

mảnh đất quê hương, bảo tồn, giữ gìn cũng như phát huy các giá trị truyền

130

thống văn hóa của dân tộc, đồng thời tiếp thu và giao thoa với các nền văn

hóa của nhân dân các dân tộc trong nước và quốc tế, từ đó tạo động lực để

GDPT được phát triển.

Với những đặc điểm chung và riêng nêu trên, phát triển GDPT ở tỉnh

Hòa Bình đã bảo đảm các yêu cầu chung về phát triển giáo dục, song bên

cạnh đó cũng đã phát huy tốt những đặc điểm riêng, từ đó góp phần thúc đẩy

GDPT ở tỉnh Hòa Bình ngày càng phát triển bền vững.

4.2. Một số kinh nghiệm và vấn đề đặt ra

4.2.1. Một số kinh nghiệm chủ yếu.

Thực tiễn quá trình phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến

năm 2010 có thể rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu sau đây:

Một là, Giữ vững mục tiêu XHCN trong giáo dục, coi trọng yếu tố con

người để đẩy nhanh việc nâng cao chất lượng giáo dục.

Thực chất của kinh nghiệm này là giữ vững định hướng XHCN trong

GD - ĐT, chống nguy cơ lệch hướng, không thể hiện đúng với bản chất chế

độ ta vàđược nêu ra trong các quan điểm chỉ đạo của Đảng.

Từ kinh nghiệm nêu trên, tỉnh Hòa Bình đã quán triệt sâu sắc những

quan điểm cơ bản của Đảng về đổi mới GD - ĐT và cho đó là nhiệm vụ chính

trị quan trọng để giữ vững mục tiêu XHCN trong giáo dục. Đó là quá trình

vận dụng các Nghị quyết đại hội lần thứ VII đến Nghị quyết đại hội lần thứ X

của Đảng; đặc biệt là NQTW 4 (khóa VII), NQTW 2 (khóa VIII), NQTW 6

(khóa IX) chuyên về đổi mới GD - ĐT, được vận dụng vào điều kiện cụ thể

của địa phương. Nhờ đó, phát triển GDPT ở Hòa Bình luôn đi đúng hướng,

phục vụ đắc lực vào sự nghiệp phát triển KT - XH của tỉnh, cũng như giúp

cho các cấp ủy Đảng, chính quyền, ngành GD - ĐT và mọi tầng lớp nhân dân

nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò quan trọng của GD - ĐT, cùng nhau hành

động vì sự nghiệp trồng người.

131

Hai là, Mở rộng quy mô đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo

dục và xuất phát từ thực tiễn và nhu cầu phát triển KT - XH của Hòa Bình.

Việc mở rộng quy mô trước hết phải xuất phát từ yêu cầu cung cấp

nguồn nhân lực, khả năng đào tạo và nhu cầu học tập của nhân dân. Qua 20

năm kể từ khi tái lập tỉnh (năm 1991), quy mô các cấp học, bậc học ở Hòa

Bình phát triển mạnh mẽ, rộng khắp tới các bản làng, thôn xóm, đã đáp ứng

tốt nhu cầu học tập của con em đồng bào các dân tộc trong tỉnh. Bên cạnh đó,

nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục là điều mà ngành GD - ĐT Hòa

Bình cũng đặc biệt quan tâm. Ngành đã xác định rõ hiệu quả KT - XH là tiêu

chuẩn quan trọng trong việc đánh giá chất lượng giáo dục, do vậy công tác

đào tạo nguồn nhân lực ở tỉnh Hòa Bình luôn đặt ra yêu cầu và đòi hỏi ngày

càng cao cả về số lượng và chất lượng, để đáp ứng tốt mục tiêu phát triển KT

- XH của tỉnh trong thời điểm hiện tại và trong tương lai.

Ba là, Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất, thực hiện công tác xã hội

hóa giáo dục.

Quán triệt quan điểm của Đảng, coi GD - ĐT là quốc sách hàng đầu,

tăng mức đầu tư cho các trường phổ thông từ nguồn ngân sách nhà nước, từ

sự đóng góp của người học và các nguồn lực khác để đáp ứng yêu cầu về đào

tạo. Nhận thức rõ vấn đề này, ngoài nguồn ngân sách được cấp hàng năm, tỉnh

Hòa Bình đã động viên, khuyến khích các tổ chức, cá nhân và nhân dân các

dân tộc trong tỉnh đóng góp, chăm lo đến sự nghiệp “trồng người”. Do vậy, số

trường học, lớp học được “ngói hóa” và xây dựng kiên cố không ngừng tăng

lên, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giáo dục được tăng cường làm cho

bộ mặt các nhà trường ngày càng khang trang hiện đại.

Mặc dù đã có sự cố gắng, tuy nhiên nguồn ngân sách đầu tư cho giáo

dục ở tỉnh Hòa Bình vẫn còn hạn chế và chưa theo kịp với yêu cầu đòi hỏi

ngày càng cao của sự phát triển KT - XH. Việc trả lương và các khoản phụ

cấp theo lương chiếm tới 90% tổng số ngân sách, còn lại là đầu tư xây dựng

132

cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học, tỷ lệ đó là quá thấp so với

mục tiêu “kiên cố hóa, hiện đại hóa” trường học. Đây là một trong những

nguyên nhân mà tỷ lệ trường lớp được xây dựng kiên cố hóa còn chậm, cơ sở

vật chất, trang thiết bị cũ kỹ lạc hậu vẫn còn ở một số địa phương trong tỉnh.

Bên cạnh đó, việc triển khai công tác xã hội hóa giáo dục trên địa bàn tỉnh

Hòa Bình kết quả đạt được còn thấp. Một số quan điểm nhìn nhận chưa đầy

đủ cho đó là trách nhiệm chủ yếu của ngành GD - ĐT, xã hội hóa chủ yếu

nặng về đóng góp… Những quan điểm trên đều thiếu tính thuyết phục, chưa

đúng với chủ trương về công tác xã hội hóa giáo dục. Vấn đề đặt ra ở đây rõ

ràng là sự nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân cũng như trong công tác tổ

chức, tuyên truyền về xã hội hóa giáo dục còn hạn chế.

Bốn là, Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp GDPT, đáp ứng

yêu cầu phát triển KT - XH của Hòa Bình.

Cùng với các địa phương trên cả nước, ngành GD - ĐT của tỉnh Hòa

Bình cũng đã triển khai theo khung chương trình của Bộ GD - ĐT ở bậc phổ

thông, nhằm đổi mới một số nội dung, phương pháp cho phù hợp với tình

hình mới. Mặc dù đã có nhiều cố gắng của toàn ngành song kết quả cũng chưa

được như mong muốn. Đây không chỉ là khó khăn đối với tỉnh Hòa Bình, mà

một số tỉnh khác ở miền núi, Tây Nguyên và Đồng bằng Sông Cửu Long cũng

gặp nhiều lúng túng và hiệu quả chưa cao.

Về đổi mới phương pháp GDPT. Thực trạng phương pháp GDPT ở nước

ta nói chung, ở Hòa Bình nói riêng cho thấy phương pháp giảng dạy, học tập

còn nhiều lạc hậu. Đây là lĩnh vực có điều kiện đổi mới mạnh mẽ, vì nó phụ

thuộc chủ yếu vào điều kiện chủ quan của ngành GD - ĐT, nhưng đáng tiếc

lại là lĩnh vực bị phê phán nhiều nhất vì còn trì trệ, lạc hậu, bàn đến thì nhiều

nhưng đổi mới lại quá ít. Bên cạnh đó, sức ỳ của cách dạy và cách học cũ đã

trở thành nếp nghĩ, thói quen của các nhà quản lý, của giáo viên và học sinh.

Việc đổi mới GDPT đã có lúc được dấy lên sôi nổi một thời gian rồi lại đi vào

133

im lặng và phương pháp giáo dục cũ vẫn ngự trị. Tình hình đó đã dung túng

cho cho việc chỉ lo “dạy chữ”, “dạy chay”, “dạy nhồi nhét”… còn học sinh thì

đua nhau đi học thêm, cũng chỉ vì “học chữ”… cho nên cần thay đổi nếp nghĩ,

thói quen của ngành GD - ĐT đối với việc dạy và học.

Năm là, Tăng cường công tác quản lý Nhà nước, phát huy vai trò của

các cấp ủy Đảng, đoàn thể trong nhà trường phổ thông.

Công tác quản lý Nhà nước đối với GDPT là một bộ phận hợp thành hệ

thống giáo dục, có tác dụng làm cho hệ thống giáo dục được vận hành đúng

mục đích, cân đối, hài hòa và hiệu quả. Việc đổi mới công tác quản lý giáo

dục phải được tiến hành dựa trên các nguyên tắc chung như: Tuân thủ nguyên

tắc tập trung dân chủ, tăng cường tập trung của Nhà nước về những vấn đề

trọng yếu, thực hiện tốt việc phân cấp quản lý; bộ máy quản lý phải được tổ

chức gọn nhẹ, có hiệu lực và hiệu quả; phương pháp quản lý phải được đổi

mới theo hướng tăng cường tính pháp chế và sử dụng các biện pháp kinh tế để

phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục; đổi mới công

tác quản lý GDPT phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng rộng rãi các

phương tiện kỹ thuật công nghệ hiện đại vào quá trình quản lý và điều hành.

Thấm nhuần các nguyên tắc nêu trên, ngành GD - ĐT Hòa Bình đã đưa

ra nhiều giải pháp về công tác tổ chức, công tác cán bộ, công tác thanh tra,

kiểm tra, đánh giá, phân loại… Do vậy, đã góp phần nâng cao nhận thức và

hiệu lực quản lý; thực hiện tốt việc phân cấp, phát huy tính chủ động, tự chịu

trách nhiệm của các cơ sở giáo dục; giải quyết có hiệu quả các vấn đề bức

xúc, ngăn chặn và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong ngành.

Các cấp ủy Đảng, đoàn thể trong nhà trường phổ thông cần tiếp tục được

đẩy mạnh. Quán triệt nguyên tắc Đảng lãnh đạo,Đảng bộ nhận thấy chỉ có

tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy trong nhà trường thì mới phát huy

hơn nữa năng lực quản lý, giảng dạy của đội ngũ cán bộ, giáo viên đồng thời

khắc phục, tháo gỡ những ách tắc cần kịp thời giải quyết như: Nhiều trường

học chưa có chi bộ, chưa có đảng viên, số cán bộ quản lý, cán bộ đoàn thể

134

chưa phải là đảng viên; công tác phát triển Đảng đối với giáo viên và học sinh

còn hạn chế; hoạt động của Đoàn Thanh niên, Đội Thiếu niên, đặc biệt tổ

chức Công đoàn trong trường học còn nhiều lúng túng, chưa mang lại hiệu

quả thiết thực; một số chi bộ chưa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình,

buông lỏng công tác quản lý đảng viên, cho nên dẫn đến hiện tượng tiêu cực

trong thi cử, vi phạm quản lý, sử dụng nguồn tài chính cũng như việc tổ chức

dạy thêm, học thêm tràn lan và thu các khoản tiền ngoài quy định... Những

nguyên nhân nêu trên đã làm cho một số cơ sở Đảng bị suy yếu và có nguy cơ

mất vai trò lãnh đạo. Vì vậy, tăng cường vai trò của cấp ủy Đảng, đoàn thể

trong các nhà trường được tỉnh Hòa Bình xem đó là kinh nghiệm quan

trọngtrong bất cứ giai đoạn phát triển nào.

4.2.2. Một số vấn đề đặt ra.

Thực tiễn quá trình phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến

năm 2010 đã để lại nhiều kinh nghiệm quý báu; đồng thời cũng đặt ra một số

vấn đề cần phải khắc phục trong các giai đoạn tiếp theo. Để GDPT ở tỉnh Hòa

Bình thực sự được phát triển bền vững, là nơi cung cấp nguồn nhân lực có

chất lượng phục vụ yêu cầu phát triển KT - XH của địa phương và cho đất

nước, trong thời gian tới tỉnh Hòa Bình cần tập trung giải quyết tốt một số vấn

đề đặt ra như sau:

Thứ nhất, là một tỉnh miền núi còn nghèo, điều kiện phát triển KT - XH,

giao thông đi lại còn nhiều khó khăn,trình độ dân trí còn thấp, là nơi hội tụ

của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống… Do vậy, trong quá trình vận

dụng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn địa

phương, bên cạnh việc thực hiện theo đúng các quy định chung, tỉnh Hòa

Bình cần tiếp tục xem xét những yếu tố đặc thù của địa phương và đưa ra các

chính sách linh hoạt, cụ thể đối với từng đối tượng người học, từng vùng,

miền trong tỉnh để đem lại hiệu quả giáo dục cao nhất, góp phần đào tạo

nguồn nhân lực một cách có hệ thống và toàn diện cho địa phương mình.

135

Thứ hai, việc mở rộng quy mô đi đôi với nâng cao chất lượng và hiệu

quả giáo dục là một yêu cầu bức thiết trong bất kỳ giai đoạn nào. Thực tiễn

phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010 đã đạt được

nhiều tiến bộ. Song để đáp ứng tốt hơn yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực, phục

vụ phát triển KT - XH, tỉnh Hòa Bình cần chú trọng vào một số giải pháp như:

- Cần xác định được nhu cầu học tập của con em đồng bào các dân tộc

trong tỉnh, trên cơ sở đó rà soát lại hệ thống trường, lớp trên các địa bàn và

mở các điểm trường phù hợp với từng địa bàn dân cư, chú trọng xây dựng hệ

thống các trường Phổ thông dân tộc nội trú nơi có đông đồng bào dân tộc

thiểu số sinh sống, nhằm tạo điều kiện tối đa để mọi người dân đều được

tham gia học tập.

- Chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng

trực tiếp và quyết định đến chất lượng giáo dục đào tạo. Đến năm học 2009 -

2010, tỷ lệ giáo viên Tiểu học, THCS và THPT ở tỉnh Hòa Bình đạt chuẩn là

khá cao, tuy nhiên tỷ lệ giáo viên đạt trên chuẩn và được đào tạo ở bậc sau đại

học còn thấp. Do vậy công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, giáo viên cần phải

được đẩy mạnh hơn nữa và coi đó là bước đi đầu tiên của ngành; đặc biệt

trong công tác đào tạo bồi dưỡng về chuyên môn hàng năm cần phải trang bị

cho giáo viên được tiếp thu và lĩnh hội những kiến thức mới, các phương

pháp tiên tiến, hiện đại vào giảng dạy để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu

quả giáo dục đào tạo.

- Tiếp tục chú trọng việc nâng cao chất lượng giáo dục đại trà tại các xã

vùng sâu, vùng xa, vùng lòng hồ, vùng đồng bào dân tộc thiểu số - nơi có sự

chênh lệch khá lớn so với các vùng đô thị và đồng bằng, nhằm từng bước giảm

dần khoảng cách về cơ hội và điều kiện học tập giữa các vùng miền, cũng như

góp phần nâng cao mặt bằng chung về chất lượng giáo dục đại trà trong tỉnh.

Bên cạnh đó cần phát huy thế mạnh của công tác giáo dục mũi nhọn và tiếp tục

136

khẳng định vị thế đối với các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và Đồng

bằng sông Cửu Long trong các kỳ thi học sinh giỏi Quốc gia.

- Cơ cấu ngành nghề đào tạo cần phải khắc phục ngay vấn đề nhiều học

sinh chủ yếu tập trung vào các môn khoa học tự nhiên, ít chú ý đến các môn

khoa học xã hội, nhằm tránh tình trạng mất cân đối về ngành nghề đào tạo,

ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục toàn diện và không cân bằng ở các môn

học, cũng như ảnh hưởng đến vấn đề cung - cầu về nguồn nhân lực cho tỉnh

Hòa Bình và cho xã hội sau này.

Thứ ba, về đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp GDPT ở tỉnh

Hòa Bình cũng còn một số bất cập, để nâng cao chất lượng dạy và học phổ

thông, ngành giáo dục Hòa Bình cần tập trung đổi mới theo các hướng sau:

- Chương trình, nội dung sách giáo khoa phải đảm bảo tính chuẩn mực,

khối lượng, chất lượng của các kiến thức, kỹ năng và thời lượng giảng dạy

phải theo đúng chuẩn quốc gia. Nội dung giáo dục phải đảm bảo tính cơ bản,

hệ thống nhưng cần tinh giản, tránh việc dạy ôm đồm, nhồi nhét, học qua loa,

đối phó; cần phải cải thiện tình trạng bất hợp lý trong cơ cấu nhân lực được

đào tạo, tăng hướng nghiệp và đào tạo nghề ở bậc phổ thông, giảm lý thuyết

và tăng thực hành, thực hiện học đi đôi với hành, lý thuyết đi đôi với thực

tiễn;... nhằm giúp học sinh nhanh chóng tiếp cận với những tri thức và kỹ

năng cần thiết phục vụ cho cuộc sống sau này.

- Thực hiện nhiều phương pháp giảng dạy tích cực như: thảo luận, thực

hành, thực tập, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, tự học… song phương pháp

giáo dục cần phải đảm bảo tính cân đối giữa các mặt theo mục tiêu giáo dục

và nhân cách đã xác định: Cân đối giữa các mặt nội dung giáo dục đức, trí,

thể, mỹ; cân đối giữa kiến thức - thái độ - kỹ năng; cân đối giữa các thành tố

trong cấu trúc nhân cách nhân, trí, dũng; cân đối giữa phẩm chất, năng lực

“hồng” và “chuyên”.

137

- Đổi mới phương pháp giáo dục phải phù hợp với từng đối tượng

người học, lấy học sinh làm trung tâm. Mọi đổi mới đều phải vì lợi ích của

người học, phù hợp với đặc điểm nhu cầu, điều kiện hoàn cảnh của các đối

tượng, tạo những điều kiện, cơ hội thuận lợi nhất cho người học. Đổi mới

phương pháp giáo dục tạo nên những thay đổi tích cực nhưng không gây bất

ổn cho nhà trường, cho ngành giáo dục cũng như cho xã hội nói chung.

Thứ tư, Công tác đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị góp phần

vào việc nâng cao chất lượng dạy và học, song để xây dựng các trường phổ

thông theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, trong thời gian tới tỉnh Hòa Bình

cần tập trung vào một số nhiệm vụ chủ yếu như sau:

- Ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các chương trình, mục tiêu

phát triển giáo dục trọng điểm ở cấp vĩ mô như: củng cố công tác phổ cập

giáo dục Tiểu học, THCS, tiến tới mục tiêu phổ cập giáo dục THPT. Đẩy

mạnh công tác xây dựng các trường chuẩn Quốc gia ở các bậc học phổ thông.

Hoàn chỉnh công tác xây dựng cơ sở vật chất trường học ở các vùng có điều

kiện KT - XH khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng lòng hồ Sông Đà, vùng

đồng bào dân tộc thiểu số.

- Quan tâm đầu tư xây dựng các phòng thí nghiệm, thư viện, khu vực

hành chính, nhà ở giáo viên; đầu tư các trang thiết bị cho việc tin học hóa nhà

trường, trang thiết bị học ngoại ngữ, trang thiết bị phục vụ chương trình đổi

mới phương pháp giảng dạy, chương trình công nghệ thông tin, chương trình

sách giáo khoa, ngoại ngữ,… để phục vụ tốt công tác dạy và học.

- Công tác đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy

và học là cần thiết, song phải được quán triệt trên nguyên tắc bảo đảm khai

thác một cách có hiệu quả, tránh tình trạng đầu tư tràn lan, dàn trải, không

hiệu quả; hoặc có ưu tiên đầu tư nhưng đơn vị và người sử dụng chưa tiếp

cận được với các trang thiết bị mới sẽ gây ra tình trạng lãng phí, thất thoát

trong đầu tư.

138

- Để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, phục vụ mục tiêu phát

triển KT - XH đã được các đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra, hàng năm tỉnh Hòa

Bình cần phải cân đối các nguồn ngân sách và ưu tiên đầu tư cho sự nghiệp

phát triển giáo dục theo tốc độ tăng trưởng kinh tế, điều này được thực hiện

theo đúng nguyên lý đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển và đó là con

đường ngắn nhất để dẫn đến mọi thành công.

Thứ năm, về thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và công tác xã

hội hóa giáo dục.

Công bằng xã hội trong giáo dục là yếu tố quan trọng để thu hẹp về

khoảng cách giữa các vùng miền trong tỉnh. Với mục tiêu để mọi người dân

được cắp sách đến trường và giảm dần về mặt khoảng cách, trong thời gian

tớitỉnh Hòa Bình cần chú trọng vào một số nhóm giải pháp sau:

- Chống tái mù chữ trở lại, khắc phục tình trạng bỏ học đối với học sinh

con em các gia đình nghèo và đối tượng chính sách, nhất là ở các xã vùng

cao, vùng sâu, vùng xa, vùng lòng hồ, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng

có điều kiện KT - XH còn nhiều khó khăn.

- Cần giải quyết các bất hợp lý trong chính sách và cơ chế về đầu tư dẫn

đến thiếu công bằng trong giáo dục giữa các vùng, miền như: Trong phân bổ

ngân sách; trong đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, tránh tình trạng chỉ tập trung

vào các trường ở thị trấn, thành phố, ít chú trọng đến các vùng còn lại.

- Thực hiện tốt chính sách học bổng, học phí và các giải pháp hỗ trợ

khác đối với con em người dân tộc thiểu số, con em công nhân, nông dân

nghèo và các gia đình chính sách. Đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện chính

sách thu hút, hỗ trợ thỏa đáng đối với giáo viên công tác ở các vùng núi, vùng

sâu, vùng xa, vùng lòng hồ, vùng có điều kiện KT - XH đặc biệt khó khăn; có

chính sách thu hút đối với sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, loại xuất sắc, tốt

nghiệp sau đại học… về công tác và giảng dạy trong ngành.

139

Trong xu thế hội nhập và phát triển của đất nước, sự nghiệp phát triển

GD - ĐT nói chung, GDPT nói riêng cần có sự tham gia, vào cuộc của toàn

Đảng, của mọi tầng lớp nhân dân dân và của toàn xã hội. Quán triệt phương

châm này, trong thời gian tới, tỉnh Hòa Bình cần tiếp tục huy động sự vào

cuộc hơn nữa của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, các tổ chức

chính trị đoàn thể, sự tham gia của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, cũng như

tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp và cá nhân cùng chăm lo cho

sự nghiệp giáo dục, vì sự nghiệp giáo dục.

Thứ sáu,công tác quản lý Nhà nước về GDPT ở Hòa Bình cũng đặt ra

một số vấn đề cần tập trung giải quyết. Đứng trước những yêu cầu và đòi hỏi

của tình hình mới, trong thời gian tới tỉnh Hòa Bình cần tập trung giải quyết

theo các hướng sau:

- Công tác quản lý Nhà nước về giáo dục phải được thực hiện theo

hướng chuẩn hóa: Chuẩn hóa về đội ngũ, chuẩn hóa cơ sở vật chất và chuẩn

hóa cách đánh giá, xếp loại.

- Hoàn thiện hệ thống thanh tra giáo dục, tăng cường cán bộ thanh tra

chuyên trách với lực lượng đủ mạnh, tập trung vào thanh tra chuyên môn,

thanh tra chuyên đề, coi đây là hoạt động chủ yếu để xây dựng kỷ cương, nề

nếp trường học; đồng thời phải xử lý dứt điểm sau kết luận thanh tra, đem lại

lòng tin trong nhân dân.

- Hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước trong toàn ngành GD -

ĐT Hòa Bình theo hướng phân cấp quản lý cho các cấp cơ sở, thực hiện

quản lý thống nhất theo luật định và các quy định, quy chế chung của Nhà

nước, của địa phương và của ngành; đồng thời chú trọng xây dựng mô hình

quản lý thích hợp, có hiệu quả cho từng loại hình trường học, cơ sở đào tạo

và cho toàn ngành.

Thứ bảy, thực hiện chỉ thị 34/CT - TW ngày 30- 5 - 1998 của Bộ Chính

trị “Về việc tăng cường công tác chính trị tư tưởng, củng cố tổ chức Đảng,

140

đoàn thể quần chúng và công tác đảng viên trong nhà trường”, trên cơ sở đánh

giá thực trạng của các cấp ủy Đảng trong trường học phổ thông, trong những

năm tiếp theo, Đảng bộ cơ quan GD - ĐT Hòa Bình cần tập trung chỉ đạo một

số nội dung chủ yếu như sau:

- Tổ chức định kỳ cho cán bộ, giáo viên học tập, nghiên cứu, quán triệt

các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đặc

biệt tập trung vào các Nghị quyết chuyên đề liên quan đến đổi mới giáo dục…

nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, người đứng đầu

cấp ủy các cấp và toàn thể đảng viên, cán bộ giáo viên trong các nhà trường.

- Thông qua sinh hoạt chuyên môn, sinh hoạt Công đoàn, Đoàn Thanh

niên hàng tháng, luôn nhắc nhở giáo viên, công đoàn viên, đoàn thanh niên ra

sức phấn đấu, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống. Đồng thời qua

đó tổ chức phê bình, kiểm điểm nhằm giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

- Qua các bài giảng trên lớp, giáo viên có ý thức liên hệ những vấn đề có

liên quan đến đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà

nước nhằm bồi dưỡng một cách có hệ thống lý tưởng, đạo đức cách mạng cho

học sinh. Giáo viên giảng dạy các môn đạo đức, giáo dục công dân, chính trị

phải thường xuyên được quan tâm bồi dưỡng để bổ sung kiến thức và phương

pháp giảng dạy mới.

- Thông qua các hoạt động ngoại khóa, tổ chức nói chuyện, tìm hiểu về

truyền thống cách mạng, truyền thống anh bộ đội cụ Hồ; tìm hiểu về môi

trường, phòng chống các tệ nạn xã hội, giáo dục trật tự an toàn giao thông; tổ

chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, các hội thi; thực hiện tốt các phong

trào đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn… góp phần nâng cao giáo dục

chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức, lối sống nhằm hình thành nhân cách con

người mới cho học sinh.

- Các cấp ủy Đảng trong nhà trường cần thể hiện rõ hơn vai trò lãnh đạo;

tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên tăng cường công tác vận động, bồi

141

dưỡng quần chúng để giới thiệu cho Đảng, đặc biệt trọng tâm vào các nhà

trường chưa có chi bộ, chưa có đảng viên. Với những nhà trường đã có chi bộ,

Đảng bộ phải tăng cường hơn nữa công tác xây dựng Đảng nhằm xây dựng

các chi bộ, Đảng bộ đó thật sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư

tưởng và tổ chức, là hạt nhân lãnh đạo trong các nhà trường.

Tiểu kết chương 4.

Nhận xét, đánh giá về quá trình phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình từ

năm 1991 đến năm 2010, nhằm khẳng định những kết quả đạt được là to lớn

và rất đáng khích lệ, đồng thời chỉ ra những tồn tại, hạn chế cần khắc phục,

cũng như thấy được nguyên nhân của những kết qủa và tồn tại, hạn chế.

Qua hai giai đoạn phát triển GDPT ở tỉnh Hòa Bình (1991 - 2001) và

(2001 - 2010), mỗi giai đoạn xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ khác nhau, song

đã từng bước khẳng định rõ về chất lượng và hiệu quả giáo dục theo chiều

hướng tích cực, giai đoạn sau phát triển hơn giai đoạn trước. Những kết quả

GDPT ở tỉnh Hòa Bình đạt được so với mặt bằng chung của cả nước còn

chưa cao, song nhìn trên một số lĩnh vực cụ thể, GDPT ở tỉnh Hòa Bình

cũng có sự nổi trội hơn so với một số tỉnh miền núi phía Bắc có điều kiện

tương đồng với Hòa Bình. Từ quá trình nghiên cứu phát triển GDPT ở tỉnh

Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2010, rút ra một số kinh nghiệm làm căn cứ

cho quá trình phát triển GDPT ở Hòa Bình trong các giai đoạn về sau được

phát huy có hiệu quả hơn.

142

KẾT LUẬN

Hòa Bình là tỉnh miền núi, giáp với Thủ đô Hà Nội, nằm ở cửa ngõ

vùng Tây Bắc của Tổ quốc. Nơi đây là vùng đất cổ với nền văn hóa Hòa Bình

nổi tiếng cách đây hàng vạn năm. Nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình có

truyền thống đoàn kết, yêu nước, yêu quê hương, lao động cần cù, dũng cảm,

kiên cường trong đấu tranh, bảo vệ nền độc lập của dân tộc.

Phát huy những truyền thống quý báu đó, thực hiện chủ trương của

Đảng về đổi mới giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi

dưỡng nhân tài, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,

ngay sau khi tái lập tỉnh (năm 1991), trong bối cảnh bộn bề khó khăn, Đảng

bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình đã vận dụng sáng tạo đường lối

quan điểm đổi mới của Đảng, nhanh chóng bắt tay vào xây dựng quê hương.

Xác định phát triển giáo dục phổ thông là một trong những động lực quan

trọng để phát huy nguồn lực con người, nhằm tạo bước đột phá về phát triển

kinh tế - xã hội của địa phương, từ năm 1991 đến năm 2010, giáo dục phổ

thông ở tỉnh Hòa Bình đã được quan tâm chỉ đạo và đạt được nhiều thành tựu

đáng ghi nhận: quy mô giáo dục đã được tăng cường và mở rộng; chất lượng

giáo dục ở các cấp học đã được bảo đảm ổn định vững chắc và phát triển; đội

ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý tăng lên cả về số lượng và chất lượng; cơ sở

vật chất, trang thiết bị dạy học đã được chỉ đạo tăng cường theo hướng kiên

cố hóa, hiện đại hóa,… Những kết quả đó có ý nghĩa hết sức to lớn, tạo tiền

đề cho sự phát triển giáo dục của tỉnh ở giai đoạn tiếp theo. Nguyên nhân của

những thành tựu là do có sự lãnh đạo đứng đắn, kịp thời, sáng tạo của các cấp

ủy Đảng, chính quyền; sự quan tâm, chăm lo đến sự nghiệp “trồng người”

của nhân dân các dân tộc trong tỉnh và đặc biệt là sự cố gắng không ngừng

của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý và các em học sinh.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, giáo dục phổ thông ở Hòa Bình

vẫn còn những tồn tại, hạn chế: quy mô giáo dục chưa khắc phục được tình

143

trạng phát triển không đồng đều giữa các vùng miền và thiếu cân đối trong

đào tạo nguồn nhân lực; chất lượng giáo dục toàn diện còn nhiều hạn chế; đội

ngũ giáo viên tăng lên về quy mô song còn nhiều bất cập; công tác xây dựng

cơ sở vật chất một số nơi còn chậm, còn thiếu thốn lạc hậu và chậm được

khắc phục… Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là do sự quan tâm của

một số cấp ủy Đảng và chính quyền còn chưa kịp thời và “khoán trắng” cho

ngành; các giải pháp thực hiện đổi mới giáo dục phổ thông chưa thực sự được

triển khai một cách đồng bộ; sự phát triển về kinh tế không đồng đều giữa các

vùng trong tỉnh; nhận thức về vai trò của giáo dục trong một bộ phận nhân

dân còn hạn chế.

Từ những thành tựu và hạn chế về phát triển giáo dục phổ thông nêu

trên, song có thể thấy rằng, giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình từ năm 1991

đến năm 2010 đã trải qua một quá trình phát triển liên tục theo hướng tích

cực, đảm bảo về số lượng, tăng dần về chất lượng, giai đoạn sau phát triển

hơn giai đoạn trước; những hạn chế, yếu kém đã từng bước được khắc phục;

đồng thời cũng đã thể hiện được những đặc điểm riêng của tỉnh Hòa Bình về

phát triển giáo dục. Tuy nhiên so với mặt bằng chung của cả nước, giáo dục

phổ thông ở tỉnh Hòa Bình vẫn còn ở mức trung bình thấp và còn kém xa so

với các tỉnh ở đồng bằng và các thành phố có điều kiện kinh tế - xã hội phát

triển. Từ thực tiễn phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình từ năm

1991 đến năm 2010 đã để lại cho tỉnh Hòa Bình những kinh nghiệm quý báu

trong giai đoạn mới đó là: Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong giáo

dục; mở rộng quy mô phải đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục

và xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; tăng cường

xây dựng cơ sở vật chất, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục; đổi mới

nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục phổ thông, đáp ứng yêu cầu

phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; tăng cường trách nhiệm của Đảng, Nhà

nước và của toàn dân đối với phát triển sự nghiệp phát triển giáo dục đào tạo;

144

tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với giáo dục phổ thông; tăng

cường vai trò của cấp ủy Đảng, đoàn thể trong nhà trường.

Để phát triển giáo dục phổ thông phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát

triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, ở Hòa Bình nói riêng, giáo dục

phổ thông ở tỉnh Hòa Bình cần tiếp tục giải quyết tốt các vấn đề đặt ra đó là:

quán triệt và vận dụng một cách linh hoạt, cụ thể các chủ trương, chính sách

của Đảng, Nhà nước vào thực tiễn địa phương, trên cơ sở xem xét những yếu

tố đặc thù đối với từng đối tượng người học, từng vùng, miền trong tỉnh để

đem lại hiệu quả giáo dục cao nhất; mở rộng quy mô đi đôi với nâng cao chất

lượng và hiệu quả giáo dục, đặc biệt chú trọng xây dựng hệ thống các Trường

Phổ thông dân tộc nội trú, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và học sinh;

đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục phổ thông vừa bảo

đảm tính chuẩn mực theo quy định, song cũng phải phù hợp với yêu cầu của

địa phương và đối tượng người học; tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật

chất, trang thiết bị góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy và học; thực

hiện công bằng xã hội trong giáo dục và công tác xã hội hóa giáo dục; tăng

cường công tác chính trị tư tưởng, củng cố tổ chức Đảng, đoàn thể quần

chúng và công tác đảng viên trong trường học phổ thông;… nhằm đáp ứng tốt

hơn yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ hội nhập và phát triển

của đất nước.

145

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Sỹ Hà (2017), Thành tựu về phát triển giáo dục phổ thông ở

Hòa Bình (1991-2001), Tạp chí Lịch sử Đảng, số tháng 2 (tr. 80-83).

2. Nguyễn Sỹ Hà (2017), Xây dựng nguồn lực giáo dục phổ thông ở

tỉnh Hòa Bình trong thập niên đầu thế kỷ XXI, Tạp chí Nhân lực khoa học xã

hội, số tháng 3 (tr. 96-102).

146

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Thị Kim Anh (2008), Những thay đổi của Giáo dục - Đào tạo

Việt Nam từ sau công cuộc đổi mới (1986) đến nay, Tạp chí Dạy và Học ngày

nay, số 7.

2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hòa Bình (2011), Lịch sử Đảng bộ tỉnh

Hòa Bình (1929 - 2010), Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

3. Ban Khoa giáo Trung ương (1995), Nền giáo dục Việt Nam - 50 năm

trên chặng đường xây dựng và phát triển, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

4. Ban Khoa giáo Trung ương (2001), Báo cáo kiểm điểm thực hiện Nghị

quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về Giáo dục đào tạo 1996 - 2001, trình Bộ

Chính trị, Ban Bí thư, Hà Nội.

5. Ban Khoa giáo Trung ương (2002), Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ

đổi mới. Chủ trương, thực hiện, đánh giá, Hà Nội.

6. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Ban Khoa giáo Trung ương,

Ban Tổ chức Trung ương (2002), Tài liệu phục vụ nghiên cứu các kết luận

Hội nghị lần thứ sáu BCH Trung ương Đảng (khóa IX) - Dùng cho cán bộ

chủ chốt và Báo cáo viên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

7. Bàn về công tác giáo dục (1972), tập hợp những bài viết của Chủ tịch

Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.

8. Nguyễn Trọng Bảo (1996), Vấn đề đào tạo nhân tài của tổ tiên ta, Tạp

chí Đại học và Giáo dục Chuyên nghiệp.

9. Nguyễn Thị Bình (1997), Phát biểu trong lễ trao tặng huân chương

độc lập hạng nhất cho ngành sư phạm, Bộ Giáo dục và Đào tạo nhân kỷ niệm

50 năm thành lập ngành, Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp.

10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1986), Tổng kết giáo dục 10 năm (1975 -

1985), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1992), Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục

và đào tạo, Hà Nội.

12. Bộ Giáo dục và Đào tạo UNESCO (1992), Giáo dục và nguồn nhân

lực Việt Nam, Hà Nội.

147

13. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1995), 50 năm phát triển sự nghiệp giáo

dục và đào tạo (1945 - 1995), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

14. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Các văn bản pháp luật hiện hành về

giáo dục đào tạo, 4 tập, Nxb Thống kê, Hà Nội.

15. Nguyên Hữu Châu (2007), Giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ

XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

16. Nguyễn Thùy Chi (2009), Tỉnh Hoà Bình trong công cuộc vận động

cách mạng và khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền (1930 - 1945), luận văn

Thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.

17. Nguyễn Thị Thuỳ Chi (2009), Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo sự

nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1996 đến năm 2010, luận văn Thạc sĩ Lịch

sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.

18. Nguyễn Hữu Chí (2003), Một số vấn đề cơ bản về đổi mới chương

trình trong học phổ thông, Tạp chí phát triển giáo dục.

19. Nguyễn Hữu Chí (2010), Những quan điểm cơ bản của Đảng về giáo

dục - đào tạo qua các chặng đường lịch sử, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 10.

20. Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg ngày 08/9/2006 của Thủ tướng Chính

phủ Nguyễn Tấn Dũng về“Chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong

giáo dục” http://vanban.moet.gov.vn.

21. Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 (Ban hành kèm theo

Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg ngày 28/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ

Phan Văn Khải), vbqppl.moj.gov.vn/vbpq.

22. Trường Chinh (1967), Ra sức nâng cao trình độ văn hoá của toàn

Đảng, toàn dân để đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và đấu

tranh thực hiện thống nhất nước nhà, Viện Khoa học - Giáo dục.

23. CMác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin - I.V.Xtalin (1976), Bàn về giáo

dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.

24. Nguyễn Nghĩa Dân (1994), Đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư

cho phát triển, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục.

25. Phạm Tất Dong (1994), Phát triển nguồn nhân lực theo hướng CNH,

HĐH đất nước, Tạp chí công tác tư tưởng văn hóa.

148

26. Phạm Tất Dong (2010), Giáo dục Việt Nam 1945 - 2010, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

27. Lê Duẩn - Trường Chinh - Phạm Văn Đồng - Tố Hữu (1972), Thấu

suốt đường lối của Đảng, đưa sự nghiệp giáo dục tiến lên mạnh mẽ vững

chắc, Nxb Sự thật, Hà Nội.

28. Nguyễn Văn Đạo (1997), Vài suy nghĩ và đào tạo phục vụ cho CNH,

HĐH đất nước, Tạp chí giáo dục và thời đại.

29. Trần Thị Tâm Đan (1999), Luật giáo dục - cơ sở pháp lý đẩy mạnh

sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo, Tạp chí Cộng sản.

30. Đảng bộ tỉnh Hòa Bình, Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh (2013), Lịch

sử Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh Hòa Bình (1958 - 2013).

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước

trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban

chấp hành Trung ương lần thứ VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn

quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII - Tài liệu mật, lưu hành nội bộ, Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban

chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban

chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

149

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban

chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban

chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

43. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Hòa Bình (1992), Văn kiện

Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XI.

44. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Hòa Bình (1996) Văn kiện

Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XII.

45. Đảng Cộng sản Việt Nam, Tỉnh ủy Hòa Bình (1997), Kế hoạch

101/KH-TU thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung

ương Đảng khóa VIII.

46. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hòa Bình

(2001) Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XIII.

47. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hòa Bình

(2006) Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XIV.

48. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hòa Bình

(2010) Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XV.

49. Phạm Văn Đồng (1979), Sự nghiệp giáo dục trong chế độ XHCN,

Nxb Sự thật, Hà Nội.

50. Phạm Văn Đồng (1999), Vấn đề giáo dục - đào tạo, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

51. Phạm Thị Giang (2009), Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo phát triển

giáo dục phổ thông từ năm 1965 đến năm 1975, luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Đại

học Quốc gia Hà Nội.

52. Lê Văn Giạng (1992), Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục

Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

53. Giáo dục và Thời đại (1998), Xã hội hóa - giải pháp chủ yếu để phát

triển giáo dục đào tạo.

54. Ngô Thị Thu Hà (2009), Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo phát

triển giáo dục phổ thông trong những năm 1996 - 2006, luận văn Thạc sĩ Lịch

sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.

150

55. Nguyễn Kế Hào (2000), Phổ cập giáo dục tiểu học - sự nghiệp lớn

của toàn dân, Tạp chí cộng sản.

56. Phạm Minh Hạc (1992), Sơ thảo giáo dục Việt Nam (1945 - 1992),

Nxb Sự thật, Hà Nội.

57. Phạm Minh Hạc (1996), 10 năm đổi mới giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.

58. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người

phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

59. Phạm Minh Hạc (2000), Ba năm thực hiện Nghị quyết Trung ương

hai (khóa VIII) về giáo dục và đào tạo, Tạp chí Xây dựng Đảng.

60. Phạm Minh Hạc (2000), Cương lĩnh của nền giáo dục mới, Báo nhân dân.

61. Phạm Minh Hạc (2002), Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn

diện, Tạp chí Cộng sản.

62. Phạm Minh Hạc (2002), Nhân tố mới về giáo dục và đào tạo trong

thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

63. Phạm Minh Hạc (2002), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ

XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

64. Phạm Minh Hạc, Trần Kiều, Đặng Bá Lãm, Nghiêm Đình Vỳ

(2002), Giáo dục thế giới đi vào thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

65. Nguyên Hạnh (và tập thể tác giả) (1997), Toàn cảnh Việt Nam, Nxb

Thống kê, Hà Nội.

66. Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2009), Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo

phát triển giáo dục phổ thông giai đoạn 1996 - 2006, luận văn Thạc sĩ Lịch

sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.

67. Vũ Ngọc Hải (2003), Đổi mới giáo dục và đào tạo nước ta trong

những năm đầu thế kỷ XXI, Tạp chí Phát triển giáo dục, số 4.

68. Đào Thanh Hải - Minh Tiến (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo

dục, Nxb Lao động, Hà Nội.

69. Nguyễn Ngọc Hải (2009), Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo sự

nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010, luận văn Thạc sĩ Lịch

sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.

151

70. Bùi Hiền (1998), Mục tiêu và giải pháp cho giáo dục trung học phổ

thông, Tạp chí cộng sản.

71. Nguyễn Minh Hiển (2001), Chống mù chữ và phổ cập giáo dục - sự

nghiệp to lớn và lâu dài của toàn xã hội, Tạp chí cộng sản.

72. Nguyễn Minh Hiển (2002), Ngành giáo dục - đào tạo thực hiện Nghị

quyết Trung ương hai (khóa VIII) và triển khai thực hiện Nghị quyết đại hội

IX, Tạp chí Cộng sản.

73. Nguyễn Minh Hiển (2003), Về chất lượng giáo dục phổ thông, Tạp

chí phát triển giáo dục.

74. Ngô Văn Hiển (2005), Các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư cho

giáo dục đào tạo thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, Tạp chí

Giáo dục, số 112.

75. Phạm Lê Hòa (2017), Những ghi chép về người Mường ở Hòa Bình

Phần 1: Đặc điểm nơi cư trú, Tạp chí Giáo dục Nghệ thuật.

76. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Hà Nội (1997),

Đề cương bài giảng các chuyên đề bồi dưỡng Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII

của Đảng Cộng sản Việt Nam (Tập 2), Tạp chí giáo dục lí luận.

77. Lương Thị Hòe (1998), Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lãnh đạo sự nghiệp

giáo dục đào tạo (1991 - 2000), luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia

Hà Nội.

78. Vũ Thị Bích Hồng (2009), Đảng bộ thành phố Việt Trì lãnh đạo sự

nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010, luận văn Thạc sĩ Lịch

sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.

79. Hội đồng thi đua - khen thưởng tỉnh Hòa Bình (2015), Gương người

tốt, việc tốt tỉnh Hòa Bình (2010 - 2015).

80. Đặng Thị Thanh Huyền (2001), Giáo dục phổ thông với phát triển

chất lượng nguồn nhân lực - những bài học thực tiễn từ Nhật Bản, Nxb Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

81. Nguyễn Quang Hưng (2000), Toàn cảnh giáo dục - đào tạo Việt

Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

152

82. Lê Khanh (1998), Thực hiện Nghị quyết Trung ương hai về giáo dục

- đào tạo, Tạp chí công tác khoa giáo.

83. Lê Khanh (1997), Một số vấn đề nổi cộm trong giáo dục cần được

giải quyết, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục.

84. Nguyễn Khánh (1997), Kế hoạch chỉ đạo của Chính phủ về việc thực

hiện Nghị quyết Trung ương hai (khóa VIII), Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục.

85. Kháng chiến về mặt văn hóa, Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

Việt Nam (1976), Nxb Sự thật, Hà Nội.

86. Nguyễn Quang Kính (và tập thể tác giả) (2005) Giáo dục Việt Nam

1945 - 2005, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

87. Nguyễn Gia Kiệm, Quá trình thực hiện xã hội hóa giáo dục phổ

thông ở Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến năm 2010, luận án Tiến sĩ

Lịch sử, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

88. Trần Hoàng Kim (2002), Tư liệu kinh tế - xã hội 631 huyện, quận, thị

xã, thành phố thuộc tỉnh Việt Nam, Nxb Thống kê.

89. Dương Văn Khoa (2005), Phát triển mạnh mẽ giáo dục - đào tạo

theo hướng hiện đại, thiết thực, nhanh chóng nâng cao dân trí, tạo nguồn

nhân lực dồi dào và đội ngũ nhân tài cho đất nước, Tạp chí Dạy và Học ngày

nay, số 8.

90. Đặng Bá Lãm (2003), Giáo dục Việt Nam những thập niên đầu thể

kỷ XXI, chiến lược và phát triển, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

91. Phan Ngọc Liên - Nghiêm Đình Vỳ (1993), Sự lãnh đạo của Đảng

đối với sự nghiệp giáo dục, Tạp chí Lịch sử Đảng.

92. Nguyễn Văn Lê, Hà Thế Truyền (2004), Một số kinh nghiệm về giáo

dục phổ thông và hướng nghiệp trên thế giới, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.

93. Nguyễn Thế Long (2006), Đổi mới tư duy, phát triển giáo dục Việt

Nam trong nền kinh tế thị trường, Nxb Lao động.

94. Luật phổ cập giáo dục tiểu học (1991), Nxb Pháp lý, Hà Nội.

95. Luật giáo dục (1998), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

96. Luật giáo dục (2005), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

153

97. Luật Giáo dục và Nghị định quy định chi tiết hướng dẫn thi hành

2006, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

98. Chu Viết Luân (2005), Hòa Bình - thế và lực trong thế kỉ XXI, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

99. Trần Viết Lưu (2002), Suy nghĩ về các giải pháp phát triển giáo dục

phổ thông nước ta hiện nay, Tạp chí Giáo dục số 92.

100. Đỗ Thế Mậu, Nguyễn Thành Công, Hà Văn Thu (2000), Hòa Bình

những tập thể và cá nhân anh hùng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

101. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

102. Huỳnh Công Minh (2004), Tiếp cận chất lượng giáo dục phổ thông

dưới góc độ mục tiêu đào tạo, Tạp chí Giáo dục số 92.

103. Đỗ Mười (1991), Phát triển mạnh mẽ giáo dục và đào tạo phục vụ

đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

104. Đỗ Mười (1995), Chăm lo đến sự nghiệp giáo dục là chăm lo đến

sự phát triển của con người, chủ thể của mọi sáng tạo - Bài phát biểu tại lễ kỷ

niệm 50 năm thành lập ngành giáo dục Việt Nam nhân ngày 20/11.

105. Nền giáo dục Việt Nam: Lý luận và thực hành (1991), Nxb Giáo dục.

106. Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục (1979), Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

107. Trương Thị Nguyệt (2008), Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo sự

nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010, luận văn Thạc sĩ Lịch

sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.

108. Võ Thuần Nho (1981), 35 năm phát triển sự nghiệp giáo dục phổ

thông, Nxb Giáo dục.

109. Pierre - Grossin (1994), Tỉnh mường Hòa Bình, Nxb Lao động, Hà Nội.

110. Lê Khả Phiêu (1998), Thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VIII

của Đảng, vững bước tiến vào thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

111. Trần Hồng Quân (1992), Đổi mới về nhận thức vị trí, vai trò của

giáo dục và đào tạo,Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 1.

154

112. Trần Hồng Quân (1995), Giáo dục là con đường quan trọng nhất

của xã hội để phát huy sức mạnh của con người, Tạp chí Giáo dục và thời đại.

113. Trần Hồng Quân (1996), Giáo dục 10 năm đổi mới và chặng đường

trước mắt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

114. Dương Hồng Quý - Lê Đình Lập (1996), Một số suy nghĩ về đào

tạo nhân lực sau 10 năm đổi mới giáo dục - đào tạo, Tạp chí Đại học và Giáo

dục Chuyên nghiệp.

115. Hồ Sỹ Quý, Nguyễn Ngọc Hồng, Dương Thị Bạch Kim (2007),

Con người và phát triển con người ở Hòa Bình: Một số vấn đề lý luận và thực

tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

116. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (1992), Số 131 TH/GDĐT.

Báo cáo tổng tình hình GD - ĐT của Tỉnh năm 1992 kết năm học.

117. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (1996), Báo cáo kiểm điểm

việc thực hiện năm học 1995 - 1996. Phương hướng, nhiệm vụ phát triển GD

- ĐT năm học 1996 - 1997.

118. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (1996), Số 745/ GD - ĐT. Về

chương trình phát triển GD - ĐT vùng khó khăn.

119. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (1996), Số 231/ GD - ĐT. Về

việc báo cáo kết quả thi học sinh giỏi.

120. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (1996), Số 568/GDĐT. Báo

cáo sự nghiệp GD - ĐT tỉnh Hòa Bình 5 năm xây dựng và phát triển (10/1991

- 8/1996).

121. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (1998), Báo cáo tổng kết năm

học 1997 - 1998.

122. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (1999), Báo cáo tổng kết năm

học 1998 - 1999.

123. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (2000), Số 3348/GDĐT. Báo cáo

tổng kết năm học 1999 - 2000. Phương hướng, nhiệm vụ năm học 2000 - 2001.

124. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (2001), Báo cáo tình hình

thực hiện nhiệm vụ công tác 9 tháng đầu năm 2001.

155

125. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (2001), Chương trình hành động

triển khai thực hiện “Năm giáo dục” tỉnh Hòa Bình (năm học 2001 - 2002).

126. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hòa Bình (2001), Báo cáo tổng kết năm

học 2000 - 2001 về giáo dục mầm non, phổ thông, Trung học Chuyên nghiệp

và giáo dục thường xuyên.

127. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2001), Báo cáo tổng kết năm

học 2000 - 2001 và phương hướng, nhiệm vụ năm học 2001 - 2002.

128. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2002), Báo cáo tổng kết năm

học 2001 - 2002 và phương hướng, nhiệm vụ năm học 2002 - 2003.

129. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2003), Báo cáo tổng kết năm

học 2002 - 2003 và phương hướng, nhiệm vụ năm học 2003 - 2004.

130. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2004), Báo cáo tổng kết năm

học 2003 - 2004 và phương hướng, nhiệm vụ năm học 2004 - 2005.

131. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2005), Báo cáo tình hình giáo dục

đào tạo Hòa Bình từ 2001 - 2005 và phương hướng, nhiệm vụ từ 2006 - 2010.

132. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2005), Số: 2357 /SGD&ĐT,

ngày 8/6/2005, Báo cáo tổng kết năm học 2004 - 2005 và phương hướng,

nhiệm vụ năm học 2005 - 2006.

133. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2006), Số: 593/BC-SGD&ĐT-

VP Hoà Bình, ngày 19/6/2006, Báo cáo tổng kết năm học 2005 - 2006 và

phương hướng, nhiệm vụ năm học 2006 - 2007.

134. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2007), Báo cáo tổng kết năm

học 2006 - 2007 và phương hướng, nhiệm vụ năm học 2007 - 2008.

135. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2008), Số: 148 /BC-SGD&ĐT-

VP, ngày 11/8/2008, Báo cáo tổng kết năm học 2007 - 2008 và phương

hướng, nhiệm vụ năm học 2008 - 2009.

136. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2009), Báo cáo tổng kết năm

học 2008 - 2009 và phương hướng, nhiệm vụ năm học 2009 - 2010.

137. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2010), Báo cáo tổng kết 4 năm

thực hiện Chỉ thị số 33/2006/CTg của Thủ tướng Chính phủ về chống tiêu cực

trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục.

156

138. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2010), Số: 142/BC-SGD&ĐT- VP ngày 23/8/2010, Báo cáo tổng kết năm học 2009 - 2010 và phương hướng, nhiệm vụ năm học 2010 - 2011.

139. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2010), Báo cáo kết quả triển khai thực hiện “Đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục” theo chủ đề năm học 2009 - 2010.

140. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2010), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Đề án “Xây dựng xã hội học tập” và phát triển trung tâm học tập cộng đồng.

141. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2010), Báo cáo tình hình Giáo dục và Đào tạo trong những năm qua. Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển GD&ĐT đến năm 2015.

142. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2010), Báo cáo kết quả thực hiện Giáo dục và Đào tạo giai đoạn 2005 - 2010. Định hướng chiến lược phát triển Giáo dục và Đào tạo giai đoạn 2010 - 2015.

143. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2010), Báo cáo Kết quả thực

hiện lĩnh vực công tác Giáo dục trung học, năm học 2009 - 2010.

144. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2010), Báo cáo Tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư và Quyết định số 09/2005/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”.

145. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2010), Báo cáo các giải pháp

nâng cao chất lượng giáo dục năm 2011.

146. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2010), Lịch sử giáo dục và đào

tạo Hòa Bình (1945 - 2008), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

147. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2011), Báo cáo Tổng kết 10 năm

thực hiện công tác phổ cập giáo dục giai đoạn 2001 - 2010.

148. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2011), Báo cáo Tổng kết công tác xã hội hóa giai đoạn 2006 - 2010. Phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2011 - 2015.

149. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2011), Báo cáo tổng kết 10 năm

xây dựng trường chuẩn quốc gia giai đoạn 2000 - 2010.

157

150. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình (2011), Báo cáo Tình hình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo giai đoạn 2006 - 2010 và đề xuất cơ chế, giải pháp và nguồn lực thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo giai đoạn 2001 - 2015.

151. Phạm Xuân Tài (2012), Quá trình phát triển giáo dục phổ thông của Hà Nội từ năm 1986 đến năm 2008, luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

152. Quách Thế Tản (2000), Văn hóa Hòa Bình ở thế kỷ XXI, Nxb Văn

hóa dân tộc, Hà Nội.

153. Lý Trung Thành, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2005, luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.

154. Bùi Văn Thắng (2005), Hòa Bình phía trước là những con đường,

Tạp chí Thương mại.

155. Nguyễn Văn thắng (2014), Quá trình phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 1986 đến năm 2006, luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

156. Tỉnh ủy Hòa Bình (1993), Lịch sử Đảng bộ Tỉnh Hòa Bình, Tập 1

(1929 -1945), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

157. Tỉnh ủy Hòa Bình (1996), Lịch sử Đảng bộ Tỉnh Hòa Bình, Tập 2

(1945 - 1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

158. Tỉnh ủy Hòa Bình (2005), Lịch sử Đảng bộ Tỉnh Hòa Bình, Tập 3

(1975 - 2000), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

159. Tỉnh Hòa Bình (2003), Bản đồ hành chính, Nxb Bản đồ, Hà Nội. 160. Tỉnh ủy Hòa Bình (2004), Kế hoạch 374-CTr/TU Về Chương trình hành động thực hiện Chỉ thị số40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Phòng lưu trữ Tỉnh ủy Hòa Bình.

161. Tỉnh ủy Hòa Bình (2005), Báo cáo Tổng kết công tác khoa giáo năm 2005, phương hướng, nhiệmvụ công tác khoa giáo năm 2006, Phòng lưu trữ Tỉnh ủy Hòa Bình.

162. Tỉnh ủy Hòa Bình (2005), Đảng bộ tỉnh Hòa Bình - Các nghị quyết,

chỉ thị và chương trình hành động, nhiệm kỳ 2001 - 2005, Phòng lưu trữ Tỉnh

ủy Hòa Bình.

158

163. Tỉnh uỷ - Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân (2005), Địa chí

Hòa Bình, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

164. Tỉnh ủy Hòa Bình (2007), Kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị số

11-CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với

công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, Phòng lưu trữ Tỉnh

ủy Hòa Bình.

165. Tỉnh ủy Hòa Bình (2008), Đảng bộ tỉnh Hoà Bình qua các kỳ đại

hội (1945 - 2005), Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Hoà Bình xuất bản.

166. Tỉnh ủy Hòa Bình, (2010) Đảng bộ tỉnh Hòa Bình - Các nghị quyết,

chỉ thị và chương trình hành động, nhiệm kỳ 2006 - 2010, Phòng lưu trữ Tỉnh

ủy Hòa Bình.

167. Trịnh Quốc Thái (2002), Những giải pháp cơ bản thực hiện đổi mới

phương pháp dạy học ở tiểu học, Tạp chí giáo dục.

168. Nguyễn Quang Thái (2004), Toàn cảnh kinh tế Việt Nam, Tập 1,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

169. Thị ủy Hòa Bình (1988), Lịch sử cách mạng Đảng bộ và nhân dân

thị xã Hòa Bình, Tập 1 (1939 - 1945).

170. Thị ủy Hòa Bình (1996), Lịch sử cách mạng và Đảng bộ nhân dân

thị xã Hòa Bình, Tập 2 (1945 - 1975).

171. Nguyễn Đăng Tiến (2001), Nhà trường phổ thông qua các thời kỳ

lịch sử, Nxb Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.

172. Nguyễn Khánh Toàn (1980), Xung quanh một số vấn đề về văn học

và giáo dục, Nxb Giáo dục.

173. Toàn cảnh nền giáo dục và đào tạo Việt Nam (2000), Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

174. Tổng cục Thống kê (1995), Niên giám thống kê tỉnh Hoà Bình

(1990 - 1994), Xí nghiệp in tỉnh Hòa Bình.

175. Tổng cục Thống kê (1998), Niên giám thống kê tỉnh Hoà Bình năm

1997, Xí nghiệp in Hòa Bình.

159

176. Tổng cục Thống kê (2001), Niên giám Thống kê 2000, NXB Thống

kê, Hà Nội.

177. Tổng cục thống kê (2005), Tư liệu kinh tế - xã hội 64 tỉnh và thành

phố Việt Nam, Nxb Thống kê.

178. Tổng cục Thống kê (2010), Niên giảm thống kê tỉnh Hòa Bình

2009, NXB Thống kê, Hà Nội.

179. Tổng cục thống kê - Niên giám thống kê từ năm 1991 đến năm

2010, Nxb Thống kê, Hà Nội.

180. Tổng cục Thống kê (2011), Niên giám thống kê tỉnh Hòa Bình

2010, NXB Thống kê, Hà Nội.

181. Trần Văn Tùng (2001), Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo

dục Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

182. Hà Thị Minh Trang (2010), Đảng bộ huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ

lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010, luận văn

Thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.

183. Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước

(1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

184. Trung tâm Nghiên cứu tài nguyên và môi trường - Đại học Quốc

gia Hà Nội (2008), Những chuyểnđổi kinh tế - xã hội ở vùng cao Việt Nam,

NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

185. Lê Xuân Trường, Một số biện pháp sử dụng nguồn lực tài chính

nhằm phát triển giáo dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ

Giáo dục học

186. UBND tỉnh Hòa Bình (1992), Số 30 CT/UB. Chỉ thị về nhiệm vụ

năm học 1992 - 1993.

187. UBND tỉnh Hòa Bình (1992), Số 30-BC/UB. Về phát triển sự

nghiệp giáo dục thời gian qua và những vấn đề cấp bách cần giải quyết.

188. UBND tỉnh Hòa Bình (1994), Số 14 - CT/UB. Chỉ thị về việc đẩy

mạnh công tác phổ cập giáo dục tiểu học - xóa mù chữ.

189. UBND tỉnh Hòa Bình (1996), Số 15 CT/UB - VX. Chỉ thị về nhiệm

vụ năm học 1996 - 1997.

160

190. Ủy ban khoa học Công nghệ và môi trường, Quốc hội khóa X

(1998), Giáo dục hướng tới thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

191. UBND tỉnh Hòa Bình (1997), Chương trình thực hiện Nghị quyết

Trung ương 2 khóa VIII, lưu tại văn phòng UBND tỉnh Hòa Bình.

192. UBND tỉnh Hòa Bình (2005), Báo cáo kết quả thực hiện phổ cập

giáo dục đúng độ tuổi tỉnh Hòa Bình từ năm 1999 đến năm 2005.

193. UBND tỉnh Hòa Bình (2005), Chỉ thị của Ủy ban nhân dân tỉnh

Hòa Bình về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 -

2010 tỉnh Hòa Bình, lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Hòa Bình.

194. UBND tỉnh Hòa Bình (2005), Chỉ thị số 15/2005/CT-UBND về Xây

dựng, củng cố và phát triển trung tâm cộng đồng xã, phường, thị trấn, lưu tại

Văn phòng UBND tỉnh Hòa Bình.

195. UBND tỉnh Hòa Bình (2006), Chỉ thị số 18/2006/CT-UBND về thực

hiện cuộc vận động về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong

giáo dục.

196. UBND tỉnh Hòa Bình (2006), Quyết định số 3463/QĐ-UBND về

việc phê duyệt Đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và

cán bộ quản lý giáo dục tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2005 - 2010.

197. UBND tỉnh Hòa Bình (2006), Đề án xã hội hóa giáo dục giai đoạn

2006 - 2010.

198. UBND tỉnh Hòa Bình (2006), Kế hoạch xây dựng xã hội học tập tỉnh

Hòa Bình giai đoạn 2006 - 2010, lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Hòa Bình.

199. UBND tỉnh Hòa Bình (2008), Đề án kiên cố hóa trường, lớp học và

nhà công vụ giáo viên tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2008 - 2012, lưu tại Văn

phòng UBND tỉnh Hòa Bình.

200. UBND tỉnh Hòa Bình (2008), Quyết định số 669/QĐ-UBND về việc

phê duyệt Kế hoạch thực hiện Chương trình hành động số 15 - CTr/TU ngày

31/10/2008 của Tỉnh ủy Hòa Bình, lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Hòa Bình.

201. UBND tỉnh Hòa Bình (2008), Kế hoạch số 545/KH-UBND về việc

tổ chức thực hiện “Quyết định số 112/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án

161

xây dựng xã hội học tập” trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, lưu tại Văn phòng

UBND tỉnh Hòa Bình.

202. UBND tỉnh Hòa Bình (2009), Quyết định số 1806/QĐ-UBND về

việc quy định mức phụ cấp kiêm nhiệm đối với cán bộ quản lý Trung tâm học

tập cộng đồng, lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Hòa Bình.

203. UBND tỉnh Hòa Bình (2010), Chỉ thị số 16/2010/CT-UBND về xây

dựng trường học đạt chuẩn Quốc gia trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.

204. UBND tỉnh Hòa Bình (2010), Quyết định số 90/UBND-XDCB về việc

đầu tư xây dựng các Trung tâm học tập cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.

205. UBND tỉnh Hòa Bình (2010), Quy hoạch phát triển giáo dục - đào

tạo tỉnh Hòa Bình đến năm 2020.

206. UBND tỉnh Hòa Bình (2015), Đẻ đất đẻ nước và phong tục đạo lý nhân

văn Mường, Bùi Thiện sưu tầm, biên dịch, giới thiệu, NXB Văn hóa dân tộc.

207. Vũ Thiện Vương (2001), Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục đào

tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Tạp chí Kinh tế và phát

triển, số 47.

208. Phượng Vũ (1997), Hoa hậu xứ Mường, NXB Văn học tái bản lần thứ 3.

209. Phạm Viết Vượng (2000), Giáo dục học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 210. Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc Hưng (2002), Phát triển giáo dục

và đào tạo nhân tài, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

211. Vũ Thị Kim Yến (2005), Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông trong thời kỳ 1986 – 2003, luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.

212. Lê Thị Yến (2012), Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo phát giáo dục phổ thông từ năm 1996 đến năm 2010, luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.

213. http://dangcongsan.vn/cpv/ 214. http://www.gddt.vn 215. http://wwwmoet.gov.vn 216. http://www.hoabinh.gov.vn 217. http://www.hoabinh.edu.vn

162

PHỤ LỤC

Phụ lục 01:

BẢN ĐỒ ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH TỈNH HÒA BÌNH NĂM 2010

163

Phụ lục 02:

Chỉ số chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực

ở một số nước châu Á và Việt Nam.

Ấn

Mức độ

Mức độ

Nội dung

tượng

sẵn có

sẵn có

Mức độ

Chỉ số

Sự

đánh giá

chung

lao

các cán

sẵn có

Sự

tổng hợp về

thành

về chất

động

bộ

cán bộ

thành

chất lượng

thạo

TT

lượng

sản

hành

quản lý

thạo

giáo dục và

công

Tên

hệ

xuất

chính

chất

tiếng

nguồn

nghệ

nước

thống

chất

chất

lượng

Anh

nhân lực

cao

giáo

lượng

lượng

cao

dục

cao

cao

1 Hàn Quốc 6.91 8.00 7.00 8.00 7.50 4.00 7.00

2 Singarpo 6.81 7.17 6.83 5.67 6.33 8.33 7.83

3 Nhật Bản 6.5 6.00 8.00 7.50 7.00 3.50 7.50

4 Đài Loan 6.04 6.37 5.37 5.62 5.00 3.86 7.62

5 Ấn Độ 5.76 4.62 5.25 5.50 5.62 6.62 6.75

6 Trung Quốc 5.12 7.12 6.19 4.12 3.62 4.37 5.73

7 Malaixia 5.59 4.50 4.50 7.00 4.50 4.00 5.50

8 HồngKông 5.2 5.03 4.23 5.24 4.24 4.50 5.43

9 Phlippin 4.53 3.80 5.80 6.20 5.60 5.40 5.00

10 Thái Lan 4.04 2.64 4.00 3.37 2.36 2.82 3.27

11 Việt Nam 3.79 3.25 3.25 3.50 2.75 2.62 2.50

12 Inđônêxia 3.44 0.50 2.00 3.00 1.50 3.00 2.50

Ghi chú: Các nước được xếp hạng theo thang điểm 10 và điểm 0 là thấp nhất.

Nguồn: [38, tr.69]

164

Phụ lục 03:

Danh mục các văn bản quy phạm pháp luật về Giáo dục & Đào tạo

do Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ Giáo dục & Đào tạo

ban hành (từ 1 - 1 - 1991 đến 30 - 6 - 1996)

- Luật Phổ cập Giáo dục tiểu học được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam qua ngày 12-8-1991.

- Nghị định số 338/HĐBT ngày 26-10-1991 của Hội đồng Bộ trưởng: Về

thi hành Luật Phổ cập giáo dục tiểu học.

- Quyết định số 478/QĐ ngày 11-3-1993 của Bộ trưởng Bộ GD - ĐT: Về

việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của hệ thống thanh tra GD - ĐT.

- Quyết định số 3856/QĐ - GD & ĐT ngày 14-12-1994 của Bộ trưởng Bộ

GD - ĐT: Về việc ban hành quy định về giáo viên và cán bộ quản lý tiểu học.

- Quyết định số 2676/QĐ - TCTB ngày 3-12-1993 của Bộ trưởng Bộ

Giáo dục và Đào tạo: Về việc ban hành nghiệp vụ Giám đốc Sở GD - ĐT.

- Quyết định số 1548/ GD - ĐT ngày 27-7-1993 của Bộ trưởng Bộ GD -

ĐT: Về việc ban hành “Quy chế công tác HSSV trong các trường đào tạo”.

- Công văn số 1904/TCCB ngày 02- 4-1996 của Bộ GD - ĐT: Về việc

hướng dẫn nội dung thi tuyển dụng mới công chức vào ngạch giáo viên giảng

dạy tại các trường thuộc bậc học mầm non, phổ thông.

- Chỉ thị số 10/CT - GD & ĐT ngày 30- 6-1995 của Bộ trưởng Bộ GD -

ĐT về việc tăng cường giáo dục phòng chống AIDS và các tệ nạn giáo dục

trong ngành GD - ĐT.

- Chỉ thị số 24/CT - GD & ĐT ngày 11-11-1996 của Bộ trưởng Bộ GD -

ĐT: Về tăng cường công tác phòng chống tệ nạn ma túy ở các trường học.

- Chỉ thị Liên tịch số 11/CTLT ngày 1-7-1995 của Liên tịch Bộ GD - ĐT

- Công đoàn Giáo dục Việt Nam: Về đẩy mạnh công tác xây dựng “Gia đình

nhà giáo văn hóa” trong cán bộ, giáo viên, công nhân viên ngành GD - ĐT”

- Chỉ thị số 05/GD & ĐT ngày 18-5-1994 của Bộ trưởng Bộ GD - ĐT: Về

công tác bồi dưỡng giáo viên mầm non lớn tuổi thành giáo viên tiểu học ở

những vùng có nhu cầu.

165

- Chỉ thị số 19/ BGD & ĐT ngày 21-9-1995 của Bộ trưởng Bộ GD - ĐT:

Về tăng cường quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên phổ thông - mầm

non, cán bộ quản lý, củng cố và đổi mới hệ thống các trường sư phạm năm học

1995 - 1996 và các năm tiếp theo.

- Thông tư Liên bộ số 27/TT- LB ngày 7-12-1992 của Liên bộ GD - ĐT -

Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ: Về việc sắp xếp đội ngũ giáo viên - cán bộ

các trường học của ngành GD - ĐT thuộc địa phương quản lý.

- Thông tư số 26/ LĐTBXH - TT ngày 13-9-1993 của Bộ Lao động -

Thương binh và Xã hội: Hướng dẫn bổ sung thực hiện chế độ tiền lương mới

đối với công chức, viên chức ngành GD - ĐT.

- Thông tư số 10/TT - GD &ĐT ngày 29-7-1994 của Bộ GD - ĐT: Hướng

dẫn bổ sung, điều chỉnh việc phân hạng và phụ cấp chức vụ lãnh đạo trong các

trường thuộc bậc GDPT.

- Thông tư Liên bộ số 35/TTLB ngày 21- 4 - 1994 của Liên bộ Tài chính

- GD - ĐT: Hướng dẫn quản lý ngân sách GD - ĐT.

- Thông tư Liên tịch số 07/ TTLT ngày 18-6-1994 của Liên tịch Bộ GD -

ĐT - Hội Cựu chiến binh Việt Nam: Về việc đẩy mạnh công tác chống mù chữ

và phổ cập giáo dục tiểu học.

- Thông tư số 3/TT - BGD & ĐT ngày 3- 4-1993 của Bộ GD - ĐT:

Hướng dẫn về công tác làm đề thi hết cấp 1, thi tốt nghiệp PTCS, thi tuyển vào

cấp II PTCS, vào PTTH và các vòng thi sơ khảo học sinh giỏi phổ thông.

Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo (2001), Các văn bản hiện hành về GD -

ĐT, Tập 1, 2, 3. Nxb Thống kê.

166

Phụ lục 04:

Danh mục các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục phổ thông

do Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ Giáo dục & Đào tạo

ban hành (từ 1-7-1996 đến 31-12-2001)

- Luật Giáo dục được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa X

kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 2-12-1998.

- Nghị định số 43/2000/NĐ - CP ngày 30-8-2000 của Chính phủ: Quy

định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục.

- Nghị quyết số 40/2000/ QH10 được quốc hội nước Cộng hòa XHCN

Việt Nam khóa X kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 9-12-2000: Về đổi mới chương

trình GDPT.

- Nghị quyết số 41/2000/HQ10 được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN

Việt Nam khóa X kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 9-12-2000: Về thực hiện phổ

cập giáo dục THCS.

- Nghị quyết số 40/NQ - CP ngày 21- 8 - 1997 của Chính phủ: Về

phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa.

- Nghị định số 35/2001/NĐ - CP ngày 9-7-2001 của Chính phủ: Về chính

sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở trường chuyên biệt, ở

vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

- Quyết định số 61/1998 QĐ - BGD & ĐT ngày 6-11-1998 của Bộ trưởng

Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động thư viện trường

phổ thông.

- Quyết định số 22/2000 QĐ - BGD & ĐT ngày 11-7-2000 của Bộ trưởng

Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Điều lệ Trường tiểu học.

- Quyết định số 23/2000 QĐ - BGD & ĐT ngày 11-7-2000 của Bộ trưởng

Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Điều lệ Trường trung học.

- Quyết định số 25/2000 QĐ - BGD & ĐT ngày 11-7-2000 của Bộ trưởng

Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của trung tâm

kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp.

167

- Quyết định số 11/2001 QĐ - BGD & ĐT ngày 16- 4-2001 của Bộ

trưởng Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội

đồng bộ môn.

- Quyết định số 27/2001 QĐ - BGD & ĐT ngày 5-7-2001 của Bộ trưởng

Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Quy chế công nhận trường trung học đạt chuẩn

quốc gia (giai đoạn từ năm 2001 - 2010).

- Quyết định số 183/1999/QĐ - TTg ngày 9-9-1999 của Thủ tướng Chính

phủ: Về việc cho phép thành lập Quỹ khuyết học Việt Nam.

- Quyết định số 01/2000 QĐ - BGD & ĐT ngày 24-1-2000 của Bộ trưởng

Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Bản Quy định về làm đề thi chọn học sinh giỏi

quốc gia lớp 12 THPT.

- Quyết định số 28/1999 QĐ - BGD & ĐT ngày 23-6-1999 của Bộ trưởng

Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành “Bản quy định kiểm tra, đánh giá và công nhận

phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi”.

- Quyết định số 33/2000 QĐ - BGD & ĐT ngày 25-8-2000 của Bộ trưởng

Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Quy định về tiêu chuẩn danh hiệu Giáo viên tiểu

học giỏi, Trường tiểu học tiên tiến, Trường tiểu học tiên tiến xuất sắc.

- Quyết định số 34/2000 QĐ - BGD & ĐT ngày 25-8-2000 của Bộ trưởng

Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Quy định về tiêu chuẩn danh hiệu Giáo viên

THCS giỏi, Giáo viên THPT giỏi, Trường THCS tiên tiến, Trường THPT tiên

tiến, trường THCS tiên tiến xuất sắc, Trường THPT tiên tiến xuất sắc.

- Quyết định số 26/2001 QĐ - BGD & ĐT ngày 5-7-2001 của Bộ trưởng

Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Quy định tiêu chuẩn, kiểm tra và đánh giá công

nhận phổ cập giáo dục THCS.

- Quyết định số 04/2000 QĐ - BGD & ĐT ngày 1-3-2000 của Bộ trưởng

Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành “Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của

nhà trường”.

- Quyết định số 48/2000 QĐ - BGD & ĐT ngày 13-11-2000 của Bộ

trưởng Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Quy chế đánh giá, xếp loại chuyên môn

nghiệp vụ giáo viên tiểu học.

168

- Quyết định số 65/1998 QĐ - BGD & ĐT ngày 18-12-1998 của Bộ

trưởng Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành Quy chế thi chọn học sinh giỏi quốc gia

lớp 12 THPT.

- Quyết định số 08/1999 QĐ - BGD & ĐT ngày 27-2-1999 của Bộ trưởng Bộ

GD - ĐT: Về việc ban hành “Quy chế tuyển sinh vào các trường THCS và THPT”.

- Quyết định số 41/1999 QĐ - BGD & ĐT ngày 10-12-1999 của Bộ

trưởng Bộ GD - ĐT: Về việc sửa đổi một số điều trong Quy chế thi chọn học

sinh giỏi Quốc gia lớp 12 THPT ban hành theo Quyết định số 65/1998/QĐ

BGD & ĐT ngày 18-12-1998 của Bộ trưởng Bộ GD - ĐT.

- Quyết định số 15/1998 QĐ - BGD & ĐT ngày 1- 4-1998 của Bộ trưởng

Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành “Quy chế thi tốt nghiệp THPT, trung học

chuyên ban và THCS”.

- Quyết định số 12/1999 QĐ - BGD & ĐT ngày 15-3-1999 của Bộ trưởng

Bộ GD - ĐT: Về việc ban hành “Quy chế thi tốt nghiệp tiểu học”.

- Quyết định số 1121/1997/QĐ - TTg ngày 23-12-1997 của Thủ tướng

Chính phủ: Về học bổng và trợ cấp xã hội đối với học sinh, sinh viên các trường

đào tạo công lập.

- Chỉ thị số 18/GD - ĐT ngày 22- 09-1997 của Bộ trưởng Bộ GD - ĐT:

Về không tổ chức lớp chọn ở các cấp học, không tổ chức trường chuyên ở bậc

tiểu học và THCS.

- Chỉ thị số 14/2001/CT - TTg ngày 11- 06-2001 của Thủ tướng Chính

phủ: Về việc đổi mới chương trình GDPT thực hiện Nghị quyết số 40/2000/QH

10 của Quốc hội.

- Chỉ thị số 60/1998/CT - BGD & ĐT ngày 2-11-1998 của Bộ trưởng Bộ GD

- ĐT: Về việc tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra trong ngành GD - ĐT.

- Chỉ thị số 27/1999/CT - BGD & ĐT ngày 10-06-1999 của Bộ trưởng Bộ

GD - ĐT: Về đẩy mạnh và đổi mới công tác thi đua khen thưởng trong ngành

Giáo dục.

- Chỉ thị số 18/2001/CT - TTg ngày 27- 08-2001 của Thủ tướng Chính

phủ: Về một số biện pháp cấp bách xây dựng đội ngũ nhà giáo của hệ thống

giáo dục quốc dân.

169

- Chỉ thị số 30/1998/CT - BGD & ĐT ngày 20- 05-1998 của Bộ trưởng

Bộ GD - ĐT: Về việc đào tạo và bồi dưỡng giáo viên bộ môn Giáo dục công

dân trường THCS, THPT, trung học chuyên ban.

- Chỉ thị số 36/2001/CT - BGD & ĐT ngày 10- 8-2001 của Bộ trưởng Bộ

GD - ĐT: Về việc tăng cường công tác phòng chống tác hại của thuốc lá trong

học sinh, sinh viên và cán bộ, công chức ngành GD - ĐT.

- Chỉ thị số 34/1998/CT - BGD & ĐT ngày 30-5-1998 của Bộ trưởng Bộ

GD - ĐT: về việc tiếp tục tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT và trung học chuyên ban.

- Chỉ thị số 35/1998/CT - BGD & ĐT ngày 3- 6-1998 của Bộ trưởng Bộ

GD - ĐT: về việc tăng cường các biện pháp bảo đảm các kỳ thi tiến hành

nghiêm túc.

- Thông tư Liên tịch số 35/1999/TTLT - BGD & ĐT - BVHTT ngày 15-

9-1999 của Liên tịch Bộ GD - ĐT- Bộ Văn hóa - Thông tin: Về việc xuất bản và

phát hành các sách tham khảo cho học sinh ở các bậc phổ thông.

- Thông tư Liên tịch số 40/1998/TTLT - BGD & ĐT - BYT ngày 18-7-

1998 của Liên tịch Bộ GD - ĐT - Bộ y tế: Hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế

học sinh.

- Thông tư Liên tịch số 23/2001/TTLT/BTC/BLĐTBXH ngày 6- 04-2001

của Liên tịch Bộ Tài chính - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Hướng dẫn

thực hiện chính sách miễn giảm học phí đối với học sinh, sinh viên thuộc diện

chính sách đang theo học tại các cơ sở giáo dục và đào tạo ngoài công lập.

Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo (2001), Các văn bản hiện hành về GD -

ĐT, Tập 1, 2, 3. Nxb Thống kê.

170

Phụ lục 05:

Tình hình giáo dục phổ thông tỉnh Hòa Bình từ năm 1991 đến năm 2000

1990 -

1991 -

1992 -

1993 -

1994 -

1995 -

1996 -

1997 -

1998 -

1999 -

1991

1992

1993

1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000

Năm học Nội dung

Số phòng 3.110

3.244

3.414

6.743

3.706

3.834

363

389

452

400

TH

1.309

1394

1.453

1537

1580

1.523

141

156

165

172

THCS

1.652

1.702

1.811

1910

1942

2.049

198

207

142

213

THPT

149

148

154

227

185

207

24

28

29

30

Số lớp

4.829

5.266

5.589

6.141

6.243

6.549

6.557

6.886

7.018

7.011

TH

3.895

4.489

4.370

4.497

4.582

5.025

4.729

4.771

4.707

4.560

THCS

1.806

1.953

2.095

2.017

2.115

1.277

1.532

1.748

1.930

2.022

THPT

461

481

522

478

440

247

296

331

384

429

Số

6.162

6.923

6.987

6.992

7.227

7.245

8.330

8.993

9.416

9.864

giáo viên

TH

3.895

4.489

4.370

4.497

4.582

4.669

5.229

5.367

5.806

5.508

THCS

1.806

1.953

2.095

2.017

2.155

2.053

2.543

2.981

2.936

3.527

THPT

461

481

522

478

440

523

558

645

674

819

Số

120.585 129.269 142.916 157.967 167.934 184.030 190.226 195.978 202.652 206.872

học sinh

TH

91.613

99.117 108.818 120.210 124.155 128.129 126.711 121.961 117.307 118.417

THCS

23.799

25.173

28.169

30.367

35.430

45.734

51.143

59.834

68.261

69.172

THPT

5.137

4.979

5.929

7.390

8.349

10.527

12.357

14.183

17.084

19.283

Nguồn: [101, tr. l60], [102, tr. l08], [103, tr. 146].

171

Phụ lục 06:

Tình hình giáo dục phổ thông tỉnh Hòa Bình từ năm 2000 đến năm 2010

2000 -

2001 -

2002 -

2003 -

2004 -

2005 -

2006 -

2007 -

2008 -

2009 -

Năm học

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Nội dung

Số

424

444

458

462

475

479

448

487

483

486

trường

Cấp I

182

186

200

203

215

182

219

221

216

216

Cấp I+II

59

57

42

39

27

59

24

22

22

22

Cấp II

152

168

183

187

200

152

209

210

210

210

Cấp II

11

2

-

-

-

-

-

-

-

-

+III

Cấp III

20

31

33

33

33

32

32

34

35

38 ..

Số lớp

6.945

6.857

6.663

7.575

6.439

6.288

6.062

5.905

5.776

6.058

TH

4.383

4.173

3.922

4.663

3.589

3.439

3.244

3.168

3.086

3.125

THCS

2.094

2.181

2.199

2.343

2.227

2.190

2.103

2.201

1.996

2.528

THPT

468

503

542

569

623

659

715

716

694

675

Số

giáo

10.073

10.721

11.036

11.544

11.078

10.957

10.981

11.012

10.560

10.352

viên

TH

5.552

5.611

5.678

5.651

5.448

5.261

4.947

4.923

4.499

4.542

THCS

3.654

4.230

4.369

4.790

4.522

4.566

4.733

4.710

4.679

4.219

THPT

867

880

989

1.103

1.108

1.130

1.261

1.379

1.382

1.591

126.85

Số học

193.461 189.180 182.760 180.765 171.080 164.510 68.681 148.441 145.090

4

sinh

TH

101.219 93.187

84.998

77.858

70.718

65.021

61.310

58.857

57.016

54.634

THCS

71.258

73.811

73.342

74.882

72.163

69.211

64.920

58.621

57.494

44.898

THPT

20.984

22.182

24.220

28.025

28.199

30.278

32.505

30.945

30.580

27.322

Nguồn: [105, tr. l69], [106, tr.152], [107, tr. 169].

172

Phụ lục 07:

Nguồn: [146]

173

Phụ lục 8:

Nguồn: [146]

174

Phụ lục 9:

Nguồn: [146]

175

Phụ lục 10:

Nguồn: [146]

176

Phụ lục 11:

Nguồn: [146]

177

Phụ lục 12:

Nguồn: [146]

178

Phụ lục 13:

Nguồn: [146]

179

Phụ lục 14:

Nguồn: [146]

180

Phụ lục 15:

Nguồn: [146]

181

Phụ lục 16:

Trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Hòa Bình có tiền thân là Trường

Thanh niên lao động XHCN Hòa Bình, được thành lập theo Quyết định của Tỉnh

ủy Hòa Bình ngày 01 - 04 - 1958. Ngày 17/8/1962, nhà trường vinh dự được đón

Bác Hồ về thăm và ghi vào cuốn Sổ vàng căn dặn:“Fải. Học tập tốt, lao động tốt.

Cố gắng mãi, tiến bộ mãi”.

Đơn vị điểm sáng về công tác giáo dục dân tộc

Các danh hiệu nổi bật mà trường đã đạt được trong 50 năm (1958 - 2008)

- Huân chương lao động hạng Nhì ( 30/8/1961).

- Huân chương lao động hạng Nhì (31/01/1967).

- Huân chương lao động hạng Ba (1972).

- Huân chương lao động hạng Nhất (1975).

- Cờ luân lưu của Chính phủ tặng (1975-1976).

- Cờ đơn vị lá cờ đầu phong trào thi đua “Hai tốt” (1971-1972”.

- Cờ đơn vị lá cờ đầu phong trào thi đua "Hai tốt" (1976-1977).

- Huân chương lao động hạng Nhất (13/01/1985).

- Danh hiệu Đơn vị Anh Hùng lao động (29/8/1985).

- Trường tiên tiến, xuất sắc từ năm học 1991-1992 đến năm học 1994-1995.

- Giải Nhất học sinh Hội thi VH-TT các trường PTDTNT toàn quốc (7/1994).

- Cờ luân lưu của Chính phủ dẫn đầu các trường PTDTNT cả nước (năm 1995).

- Cờ Tổng cục TDTT tặng Đoàn Nhất khu vực II (1994-1998).

- Huân chương Độc lập hạng Ba (22/4/1998).

- Cờ ANTT và PCTN xuất sắc toàn quốc của Bộ Công An (năm 1997 và 1998).

- Cờ Dẫn đầu khối trường THPT toàn tỉnh năm học 1998-1999.

- Cờ Dẫn đầu khối cơ quan của tỉnh Hoà Bình về công tác An ninh (1999).

- Trường tiên tiến, xuất sắc từ năm học 2000-2001 đến năm học 2007-2008.

Nguồn: Nhà Truyền Thống.

182