HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN ĐỨC TOÀN
Sù NGHIÖP CñNG Cè §éC LËP D¢N TéC
CñA CéNG HßA ÊN §é TRONG GIAI §O¹N 1950 - 1964
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2014
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN ĐỨC TOÀN
Sù NGHIÖP CñNG Cè §éC LËP D¢N TéC
CñA CéNG HßA ÊN §é TRONG GIAI §O¹N 1950 - 1964
Chuyên ngành : Lịch sử Phong trào cộng sản,
công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc : 62 22 52 01
Mã số
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS NGUYỄN HOÀNG GIÁP
2. PGS. TS THÁI VĂN LONG
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Đức Toàn
MỤC LỤC
Trang
1 6 6 21 22
MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 1.1. Các kết quả nghiên cứu đã công bố 1.2. Những vấn đề chưa được giải quyết nhìn từ phía Việt Nam 1.3. Những vấn đề luận án tập trung làm rõ Chương 2: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ NGHIỆP CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA CỘNG HÒA ẤN ĐỘ TRONG GIAI ĐOẠN
24 24 31
51 51 61 75 99 110
117 117
1950 - 1964 2.1. Tình hình thế giới và khu vực Nam Á sau Chiến tranh thế giới thứ hai 2.2. Tình hình Ấn Độ sau khi được tự trị Chương 3: NỘI DUNG CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA CỘNG HÒA ẤN ĐỘ TRONG GIAI ĐOẠN 1950 - 1964 3.1. Trên lĩnh vực kinh tế 3.2. Trên lĩnh vực chính trị 3.3. Trên lĩnh vực ngoại giao 3.4. Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh 3.5. Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội Chương 4: NHẬN XÉT VỀ SỰ NGHIỆP CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA CỘNG HÒA ẤN ĐỘ TRONG GIAI ĐOẠN 1950 - 1964 VÀ KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN 4.1. Đánh giá chung 4.2. Kinh nghiệm từ sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa
Ấn Độ đối với các nước đang phát triển
143 149
KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
CHÚ GIẢI
151 152 161 164
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT Từ viết tắt
Tên tiếng Anh
Nghĩa tiếng Việt
1
AAPSO Afro-Asian People’s
Tổ chức đoàn kết nhân dân Á - Phi
Solodarity Organization
ASEAN Association of
2
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Southeast Asia nations
BRDB
3
Border Roads Development Board
Ủy ban Phát triển đường biên giới Ấn Độ
CENTO Central Treaty
4
Khối Hiệp ước Trung Tâm
Organization
CPI
Communist Party of India
5
Đảng Cộng sản Ấn Độ
NATO
6
Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
North Atlantic Treaty Organization
NEFA
7
North East Frontier Agency
Cơ quan Biên giới vùng Đông Bắc của Ấn Độ
NICs
8
Các nước công nghiệp mới
Newly Industrilizing Coutries
NNRC
9
Hội đồng hồi hương các quốc gia trung lập
Neutral Nations Repatriation Commission
Rs
Rupees
10
Đồng rupee (Đơn vị tiền tệ Ấn Độ)
SEATO
11
Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á
The South East Asia Treaty Organization
12
SEV
Hội đồng Tương trợ Kinh tế
Council of Mutual Economic Assistance
SRC
13
Ủy ban Cải cách Hành chính Nhà nước
States Reorganisation Commission
USD
United States dollar
14
Đồng đô-la (Đơn vị tiền tệ Hoa Kỳ)
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh nhiều mối quan hệ quốc tế mới đan xen, phức tạp của xu thế
quốc tế hóa, toàn cầu hóa hiện nay, để tồn tại và phát triển theo hướng độc lập tự
chủ, đòi hỏi mỗi quốc gia phải tìm cho mình một hướng đi thích hợp. Hướng đi đó
cần hợp với xu thế của thời đại, với những đặc thù của quốc gia dân tộc thì việc bảo
vệ và củng cố nền độc lập cho dân tộc sẽ được thực hiện một cách thuận lợi. Vì vậy,
việc nghiên cứu, tìm hiểu những con đường đấu tranh bảo vệ, củng cố độc lập và
phát triển quốc gia dân tộc của các nước trên thế giới có một ý nghĩa quan trọng cả
về lý luận lẫn thực tiễn.
Nằm ở khu vực Nam Á, Ấn Độ không chỉ được biết đến như một trong
những quốc gia rộng lớn và đông dân, mà thế kỷ XX, Ấn Độ từ một nước thuộc địa,
vươn lên trở thành một cường quốc, đã và đang tham gia vào các vấn đề chung của
khu vực và quốc tế. Thật vậy, trong lịch sử, Ấn Độ còn được biết đến như là một
trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại, một trong những thuộc địa vô cùng
quan trọng, là “xương sống” của đế quốc Anh, một “viên kim cương trên vương
miện Nữ hoàng Anh”, một quá trình đấu tranh kiên trì và bền bỉ để được tự trị
(1947) và độc lập hoàn toàn (1950), một thành viên sáng lập “Phong trào không liên
kết”... Ấn Độ cũng là một quốc gia có vai trò quan trọng và những đóng góp tích
cực cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giữ gìn bảo vệ hòa bình trên thế
giới cũng như sự ổn định và phát triển của khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Sau khi giành được độc lập và bắt đầu bước vào kỷ nguyên mới xây dựng
nền Cộng hòa, nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho dân tộc Ấn Độ hết sức to lớn: đó là lựa
chọn con đường đi đến tương lai, tiến theo kịp sự phát triển của thế giới văn minh.
Đây không phải là một công việc đơn giản, bởi vì với phương châm “đi mà ở” của
thực dân Anh, Ấn Độ phải giải quyết những hậu quả hết sức nặng nề: một nền kinh
tế khủng hoảng với những tàn dư dai dẳng mang tính chất thuộc địa; một chế độ
chính trị xã hội phức tạp với những mâu thuẫn về dân tộc, những bất hòa về tín
ngưỡng; sự bỏ dở vấn đề Kashmir trong quan hệ Ấn Độ - Pakistan... Tuy nhiên, các
2
vấn đề này được giải quyết một cách khá hiệu quả dưới thời Chính phủ Thủ tướng
J. Nehru, từ năm 1950 đến năm 1964.
Với những biện pháp nhằm ổn định tình hình và phát triển đất nước trong
hơn một thập niên đầu nền Cộng hòa, chính phủ của Thủ tướng J. Nehru từng bước
giải quyết đồng bộ, có kế hoạch các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, sự mềm dẻo, tích cực
trong đường lối đối ngoại, sự kiên quyết đấu tranh trong việc thu hồi lãnh thổ… nền
độc lập được củng cố, uy tín và vị thế của Ấn Độ được khẳng định trên trường quốc
tế. Đây cũng là nền tảng để các chính phủ tiếp theo tiếp tục lãnh đạo đất nước đạt
nhiều thành tựu về sau. Đúng như lời phát biểu ngày 15/8/1947 của Thủ tướng J.
Nehru tại Nghị viện Ấn Độ:
Từ bao năm qua chúng ta đã ước hẹn với số phận, và nay là lúc chúng ta
thực hiện lời hứa, không phải một cách đầy đủ hay trọn vẹn mà là một
cách cơ bản. Ngay vào thời khắc lúc nửa đêm, khi cả thế giới đang chìm
trong giấc ngủ thì Ấn Độ sẽ thức giấc để được sống và hưởng tự do. Thời
khắc lịch sử hiếm hoi đang đến, khi chúng ta bước ra khỏi quá khứ để
đến với tương lai, khi một thời đại sẽ kết thúc, khi hồn thiêng dân tộc,
vốn bị áp bức bao lâu nay, sẽ bắt đầu cất tiếng [146].
Chính vì thế, việc nghiên cứu sự nghiệp củng cố nền độc lập dân tộc của
Cộng hòa Ấn Độ trong giai đoạn 1950 - 1964, phân tích quá trình bền bỉ và gian
khổ của nhân dân Ấn Độ, từng bước củng cố nền Cộng hòa, đánh giá được những
thành tựu, hạn chế, rút ra đặc điểm con đường xây dựng và bảo vệ đất nước theo
đường lối J. Nehru có giá trị cao về lý luận lẫn thực tiễn.
Hơn nữa, Ấn Độ là một nước lớn ở châu Á, có mối quan hệ lâu đời và chặt
chẽ với khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Mối quan hệ hữu nghị, hợp
tác giữa Việt Nam và Ấn Độ trong thời kỳ cận - hiện đại được các lãnh tụ của hai
dân tộc, Hồ Chí Minh và J. Nehru, đặt nền móng và luôn được Đảng và Nhà nước
ta quan tâm, vun đắp. Từ thực tế trên đặt ra yêu cầu cần tìm hiểu về lịch sử và văn
hóa Ấn Độ để hiểu rõ, phát huy tình đoàn kết và quan hệ giữa hai nước trong giai
đoạn cách mạng mới.
3
Xuất phát từ tầm quan trọng của những vấn đề nêu trên, tác giả quyết định
chọn đề tài “Sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ trong giai
đoạn 1950 - 1964” để nghiên cứu viết luận án Tiến sĩ Lịch sử.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Mục đích của luận án là nghiên cứu có hệ thống về sự nghiệp củng cố độc
lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ từ góc độ của nhà nghiên cứu Việt Nam trên các
lĩnh vực: kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh
trong giai đoạn 1950 - 1964. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm đối với các nước
đang phát triển.
2.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ
yếu sau đây:
- Phân tích những nhân tố tác động đến quá trình củng cố nền độc lập dân tộc
của Cộng hòa Ấn Độ trong giai đoạn 1950 - 1964.
- Phân tích việc thực thi các chính sách kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại
giao, quốc phòng - an ninh trong việc bảo vệ và củng cố nền Cộng hòa Ấn Độ trong
giai đoạn 1950 - 1964. Qua đây làm rõ sự thành công và hạn chế từ sự nghiệp củng
cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ trong giai đoạn 1950 - 1964.
- Bước đầu rút ra đặc điểm về sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng
hòa Ấn Độ và một số kinh nghiệm đối với các nước đang phát triển.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu về sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng
hòa Ấn Độ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tìm hiểu về đề tài sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ là
một công việc khó khăn, đòi hỏi nghiên cứu công phu trong một thời gian dài. Căn
cứ vào nguồn tư liệu hiện có và khả năng của mình, luận án tiến hành nghiên cứu
trong phạm vi các giới hạn sau đây:
4
- Về không gian, luận án nghiên cứu quốc gia Ấn Độ kể từ khi thiết lập nền
Cộng hòa.
- Về thời gian, luận án nghiên cứu sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ từ năm 1950 đến năm 1964. Tuy nhiên, để có một cái nhìn tổng thể trong tiến trình lịch sử, nhằm rút ra những đánh giá, kết luận xác đáng, tác giả cũng đề cập đến một số nội dung liên quan đến giai đoạn trước và sau thời gian nêu trên.
Mốc thời gian năm 1950, mà cụ thể là ngày 26/1/1950 là mốc thời gian Hiến pháp Ấn Độ - văn bản có tính pháp lý cao nhất của quốc gia - có hiệu lực trên thực tế, khẳng định nền Cộng hòa Ấn Độ sau hơn 2 thế kỷ dưới sự thống trị của thực dân Anh. Từ đây, Ấn Độ bước vào thời kỳ xây dựng, bảo vệ và củng cố nền Cộng hòa, gắn liền với sự lãnh đạo của Chính phủ Ấn Độ, đứng đầu là Thủ tướng Jawaharlal Nehru. Mốc năm 1964 là dấu mốc kết thúc thời kỳ lãnh đạo của Thủ tướng Jawaharlal Nehru (J. Nehru qua đời ngày 27/5/1964) mà lịch sử vẫn thường gọi “kỷ nguyên Nehru”. Ấn Độ tiếp tục công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trên cơ sở những nền tảng ban đầu đã được Chính phủ J. Nehru tạo dựng thời kỳ (1950 - 1964).
- Về nội dung: luận án nghiên cứu toàn diện những biện pháp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh…
4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở phương pháp luận Luận án quán triệt những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về một số vấn đề như: vấn đề dân tộc và quyền tự quyết dân tộc, đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị; độc lập dân tộc và đấu tranh củng cố độc lập dân tộc trong bối cảnh hiện nay… Những quan điểm này được xem là kim chỉ nam trong quá trình xử lý, hệ thống tư liệu và thực hiện luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án vận dụng linh hoạt phương pháp nghiên cứu chuyên ngành: sưu tầm, chọn lọc, phân loại, tổng hợp, so sánh, đối chiếu… để xử lý tư liệu trước khi
5
tạo dựng bức tranh toàn diện về sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa
Ấn Độ từ năm 1950 đến năm 1964. Đồng thời, luận án sử dụng phương pháp phân tích để đánh giá các biện pháp cũng như kết quả đạt được của nền Cộng hòa Ấn Độ trong giai đoạn 1950 - 1964. Quan trọng hơn, phương pháp logic, phương pháp lịch sử và quan điểm của Đảng ta nhất là các vấn đề về quốc tế, đường lối đối ngoại
được tác giả chú trọng để giải quyết những vấn đề do đề tài đặt ra.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án 5.1. Luận án được trình bày một cách có hệ thống trên cơ sở khai thác và xử lý các tài liệu thu thập được về sự nghiệp củng cố nền độc lập của Cộng hòa Ấn Độ trong giai đoạn 1950 - 1964, từ củng cố nền chính trị - hành chính quốc gia đến chủ quyền lãnh thổ, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng - an ninh thời kỳ Chiến tranh lạnh.
5.2. Luận án khái quát các chính sách mà Chính phủ Ấn Độ đề ra và thực hiện trong giai đoạn 1950 - 1964 nhằm củng cố nền độc lập, chỉ ra những thành công, hạn chế của quá trình này, từ đó rút ra những kinh nghiệm đối với các nước đang phát triển. Do đó, nội dung luận án sẽ góp phần hiểu rõ hơn vai trò của “kiến trúc sư” Thủ tướng J. Nehru trong công cuộc đấu tranh vì một nước
Ấn Độ phát triển.
5.3. Thông qua việc thực hiện luận án, giai đoạn 1950 - 1964 trong lịch sử Ấn Độ được làm sáng tỏ hơn. Do vậy, luận án có thể dùng để tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy các vấn đề khác nhau về lịch sử bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ, nhất là về sự lựa chọn thể chế chính trị, mô hình kinh tế - xã hội, chính sách quốc phòng - an ninh, về chủ trương thống nhất đoàn kết quốc gia - dân tộc... cũng như về lịch sử đấu tranh vì nền độc lập dân tộc và phát triển đất nước của các nước đang phát triển.
6. Bố cục của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung chính của luận án được trình bày trong 4 chương, 12 tiết.
6
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Với bề dày lịch sử, đất nước Ấn Độ thật sự đã thu hút sự chú ý, quan tâm của nhiều học giả trên thế giới nghiên cứu về những giá trị truyền thống, lịch sử phát triển và cả những biến động xã hội đang diễn ra. Đối với Việt Nam, công tác nghiên cứu về lịch sử, văn hóa Ấn Độ đã đạt được những kết quả cụ thể. Ngoài cuốn “Ấn Độ cách mạng” của tác giả Minh Tranh do Tổng bộ Việt Minh xuất bản năm 1946, đến nay đáng chú ý nhất là cuốn chuyên sử “Lịch sử Ấn Độ” do GS. Vũ Dương Ninh chủ biên, xuất bản 1996. Qua tìm hiểu cho thấy, ở Việt Nam đã xuất hiện một số tác giả chuyên tìm hiểu về lịch sử Ấn Độ cận - hiện đại như: Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng, Nguyễn Quốc Hùng, Phan Văn Ban, Nguyễn Thừa Hỷ, Đinh Trung Kiên, Nguyễn Công Khanh, Trần Thị Lý, Văn Ngọc Thành… Tuy nhiên vấn đề được các tác giả quan tâm nhiều nhất là quan hệ Việt Nam - Ấn Độ, còn lịch sử Ấn Độ giai đoạn 1950 - 1964 vẫn chưa được nghiên cứu chuyên sâu. Do vậy, nguồn kiến thức về giai đoạn này của lịch sử Ấn Độ và việc tiếp cận rất khó khăn, nhưng đó cũng là cơ sở để tác giả định hướng cho việc tìm hiểu tư liệu tiếng Anh của các học giả nước ngoài.
1.1. CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ 1.1.1. Tiếp cận dưới góc độ nghiên cứu về lịch sử của Ấn Độ
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu của các học giả nước ngoài
Trên phương diện lịch sử phát triển và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc
của Ấn Độ, hầu hết các học giả nước ngoài và kể cả những nhà viết sử ở Ấn Độ đều
tập trung nghiên cứu theo hướng các giai đoạn trong tiến trình lịch sử ở mức độ
khái quát. Chính vì vậy, số lượng các công trình nghiên cứu về nội dung này tương
đối phong phú. Cụ thể: một số công trình tiêu biểu như: India since partition [113],
của tác giả Andrew Mellor. Cuốn sách gồm 8 chương phản ánh tương đối rõ nét
tình hình Ấn Độ giai đoạn 1947 - 1950 trên một số phương diện như: quá trình đàm
phán dẫn tới Kế hoạch Mountbatten, sự chia cắt, tình hình xã hội, mâu thuẫn Ấn -
Hồi và vấn đề Kashmir… Nhà nghiên cứu Romesh Thapar với cuốn India in
7
transition [134]. Đây là công trình nghiên cứu có giá trị về lịch sử Ấn Độ giai đoạn
sau năm 1947. Cuốn sách chỉ rõ những biến động sâu sắc trong bối cảnh Trật tự hai
cực của thế giới tác động đến tình hình Ấn Độ, đồng thời cũng nghiên cứu sự ứng
phó của chính quyền Thủ tướng J. Nehru đối với các vấn đề quốc tế sau năm 1947.
Học giả T. F. Devakina với cuốn Đảng Quốc đại Ấn Độ 1947 - 1964, (tiếng Nga)
[82]. Công trình là kết quả nghiên cứu có hệ thống của học giả Liên Xô về Đảng
Quốc đại Ấn Độ từ năm 1947 đến năm 1964. Nội dung công trình gồm 7 chương:
Đảng Quốc đại nắm chính quyền và hoạt động của đảng trong những năm đầu Ấn
Độ độc lập; những nguyên tắc tổ chức và cấu trúc của Đảng Quốc đại, Đảng Quốc
đại và quần chúng; quan hệ tương hỗ của tổ chức trung ương và địa phương của
đảng; Đại hội Đảng Quốc đại ở Avadi và cương lĩnh xây dựng xã hội theo kiểu mẫu
xã hội chủ nghĩa, các cuộc Tổng tuyển cử và lập trường của Đảng Quốc đại; Đảng
Quốc đại sau cuộc Tổng tuyển cử lần 3. Thông qua đó, lịch sử Đảng Quốc đại với
những hoạt động phong phú trong giai đoạn này được làm rõ trên nhiều phương
diện khác nhau. Đồng thời, tác giả cũng lý giải những nguyên nhân dẫn đến sự suy
yếu, mất dần ảnh hưởng của đảng trong quần chúng nhân dân Ấn Độ trước các
đảng đối lập. Nhóm các tác giả người Nga: K. Antonova, G. Bougard - Levin, G.
Kotovsky với cuốn A history of India, Book 2 [76]. Cuốn sách lần lượt trình bày
khái lược về lịch sử của Ấn Độ từ năm 1885 đến 1985, trong đó cũng có đề cập đến
giai đoạn nền Cộng hòa của Ấn Độ từ 1950 đến 1964 trên một số phương diện khác
nhau như: cải cách ruộng đất, sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản nhà
nước, các cuộc Tổng tuyển cử 1951 - 1952, 1957 và 1962, các đảng đối lập ở Ấn
Độ, những nét đặc trưng của quá trình công nghiệp hóa…
Ngoài ra còn phải kể đến một số công trình khác như: tác giả Arthur Lall với
cuốn The Emergence of Modern India [109]. Công trình nghiên cứu về lịch sử Ấn
Độ từ khi giành độc lập cho đến đầu những năm 1980, đặc biệt nhấn mạnh tới
những thành tựu Ấn Độ đạt được dưới thời Thủ tướng J. Nehru và Indira Gandhi,
nguyên nhân dẫn đến thất bại của Đảng Quốc đại trong cuộc bầu cử năm 1977. Bên
cạnh đó, tác giả còn chú ý nhiều đến ảnh hưởng của Liên Xô, Mỹ, Trung Quốc lên
chính sách đối nội và đối ngoại của Ấn Độ. Tác giả Judith M. Brown với công trình
8
Modern India [79]. Tác giả đã nghiên cứu sâu về quá trình hình thành nhà nước Ấn
Độ, một nhà nước dân chủ lớn nhất thế giới thông qua sự tác động giữa một xã hội
ổn định với truyền thống văn hóa phong phú và các lực lượng hình thành từ nền văn
minh phương Tây xâm nhập vào Ấn Độ. Qua đó, tác giả cũng làm rõ tư tưởng,
niềm tin của dân chúng vào các thể chế nhà nước và chính trị tạo ra nền dân chủ ở
Ấn Độ. Tác giả Stanley Wolpert với cuốn A new history of India [141]. Cuốn sách
đã phác họa khái quát cho độc giả những kiến thức cơ bản về lịch sử Ấn Độ từ 2500
TCN qua các thời kỳ cho tới những năm 70 của thế kỷ XX. Nguồn gốc, nội dung và
giá trị nền văn minh Ấn Độ. Tôn giáo và các cuộc đụng độ tôn giáo, vấn đề sắc tộc,
về sự phát triển hiện đại của Ấn Độ sau khi giành được độc lập với thời đại J.
Nehru. Tác giả cũng đề cập đến Ấn Độ từ năm 1950 đến năm 1964 nhưng chỉ ở
mức độ khái quát…
Đặc biệt, sử gia người Ấn Độ Bipan Chandra có công trình India after
independence (1947 - 2000) [81]. Công trình thể hiện sự nghiên cứu công phu của
tác giả về lịch sử Ấn Độ từ khi giành độc lập đến năm 2000. Qua thời kỳ cầm quyền
của các Thủ tướng Đảng Quốc đại Ấn Độ như: J. Nehru, L. B. Shastri, Indira
Gandhi, Rajiv Gandhi… những nét khái quát về lịch sử Ấn Độ từ năm 1947 đến
năm 2000 được thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Ví như: những năm đầu
sau khi giành độc lập, di sản để lại của chủ nghĩa thực dân, những khó khăn trong
quá trình soạn thảo Hiến pháp Ấn Độ năm 1950, phong trào dân tộc, các đảng
phái chính trị, tình hình kinh tế, xã hội. Đây là cơ sở quan trọng giúp tác giả có
thêm tư liệu phục vụ đề tài. Hai tác giả Hermann Kulke và Dietmar Rothermund
có cuốn A history of India [107]. Với 8 chương và 488 trang, cuốn sách giới thiệu
khái lược về lịch sử Ấn Độ bắt đầu từ nền văn minh tiền sử đến quá trình xâm
chiếm và cai trị của chủ nghĩa thực dân; quá trình đấu tranh giành độc lập của
nhân dân Ấn Độ cũng như những vấn đề về kinh tế, chính trị trong thời kỳ đầu của
nền Cộng hòa.
1.1.1.2. Các công trình khoa học của các nhà nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu về Ấn Độ ở Việt Nam được tập trung vào nửa cuối của thế kỷ
XX, chủ yếu là tại các trường, trung tâm nghiên cứu, Viện nghiên cứu lớn như:
9
Viện Đông Nam Á, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường Đại học
KHXH & NV, Đại học Quốc gia Hà Nội), Trường Đại học Sư phạm Vinh… Tại
các cơ sở đào tạo bộ môn Ấn Độ học trong toàn quốc những năm gần đây cũng tồn
tại một thực tế: số lượng các luận án, luận văn về Ấn Độ tuy có tăng lên, nhưng chỉ
tập trung chủ yếu vào các vấn đề kinh tế - xã hội, văn hóa, văn học, tôn giáo, kiến
trúc, mà ít thấy những công trình mang tính lịch sử, đặc biệt là dưới góc độ củng cố
độc lập dân tộc của Ấn Độ. Để tham khảo nguồn tư liệu bằng tiếng Việt liên quan
đến luận án do các nhà nghiên cứu Việt Nam viết, tác giả đã khảo cứu ở một số
công trình tiêu biểu như: Cuốn Ấn Độ, một cường quốc thế giới [10] của tác giả
Nguyễn Viết Chung đi vào giới thiệu về đất nước, con người, chế độ chính trị, sự
phát triển kinh tế, đời sống văn hóa của nhân dân Ấn Độ từ trước khi độc lập đến
năm 1956. Bên cạnh đó, tác giả còn tiếp cận nguồn tư liệu của học giả nước ngoài
(chủ yếu là tiếng Nga, tiếng Anh) được dịch sang tiếng Việt như: tác giả R. P. Dutt
với cuốn Ấn Độ hôm nay và ngày mai [16]. Đây là công trình nghiên cứu quý báu
về lịch sử Ấn Độ thuộc Anh của tác giả từng là phó chủ tịch Đảng Cộng sản Anh ở
khía cạnh quá trình xâm nhập của thực dân phương Tây vào Ấn Độ, nền thống trị
của thực dân Anh và chủ nghĩa đế quốc hiện đại cũng như sự phát triển của Ấn Độ
trên một số lĩnh vực sau khi độc lập đến năm 1956. Công trình là cơ sở quan trọng
để chúng tôi định hướng trong nghiên cứu luận án. Cuốn Lịch sử hiện đại, tập II từ
1939 đến 1959 [2], của Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Cuốn
sách bao gồm 28 chương trình bày tóm tắt lịch sử các nước trong hệ thống xã hội
chủ nghĩa thế giới, lịch sử các nước tư bản lớn nhất và hàng loạt nước đã giành
được độc lập và tự do. Trong đó ở chương thứ XVI, tác giả trình bày khái lược về
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân Ấn Độ và sự thành lập nước
Cộng hòa Ấn Độ.
Ngoài ra, viết về Ấn Độ với những nét khái quát chung nhất được xem là
những cuốn “sổ tay” tuyên truyền phổ biến thời kỳ trước năm 1991 còn phải kể đến
như: Cuốn Ấn Độ qua các thời đại [30] của tác giả Nguyễn Thừa Hỷ, giới thiệu
những nét cơ bản về lịch sử, nền văn hóa, phong tục tập quán, phong trào đấu tranh,
những vị anh hùng… của đất nước Ấn Độ qua các thời kỳ lịch sử cổ trung đại, cận
10
hiện đại. Riêng giai đoạn 1950 - 1964 trong lịch sử Ấn Độ, công trình đề cấp tương
đối khái quát. Hay như cuốn tự truyện Chân lý của tôi [20] của Indira Gandhi. Cuốn
sách đi vào trình bày một số nét khái quát về cuộc đời và quá trình hoạt động của I.
Gandhi - con gái của Thủ tướng J. Nehru từ năm 1917 đến năm 1977. Phần lớn các
sự kiện được nhắc tới là những hoạt động chính trị đối nội, đối ngoại của bà cho nền
độc lập đất nước và tự do hạnh phúc của nhân dân Ấn Độ, trong đó giai đoạn 1950 -
1964 cũng được đề cập tới.
Cuốn Ấn Độ hôm qua và hôm nay [38] của tác giả Đinh Trung Kiên (1995)
là một công trình giới thiệu những nét khái quát về đất nước, con người Ấn Độ: về
lịch sử, những giá trị văn hóa truyền thống, quá trình xây dựng nước Cộng hòa Ấn
Độ, chính sách đối ngoại của Ấn Độ và quan hệ giữa Ấn Độ với Việt Nam.
Đặc biệt, cuốn Lịch sử Ấn Độ [55], do tác giả Vũ Dương Ninh (1996) chủ
biên. Đây được coi là công trình chuyên khảo có giá trị và toàn diện nhất về lịch sử
Ấn Độ cho đến nay tại Việt Nam. Với 5 chương và 200 trang, công trình lần lượt đề
cập khái quát về đất nước con người và nền văn hóa truyền thống Ấn Độ (chương
1), những nét chính về lịch sử của Ấn Độ qua từ thời cổ trung đại, chặng đường dài
từ một thuộc địa trở thành quốc gia độc lập từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX, và
thời kỳ xây dựng đất nước phồn vinh (chương 2, 3, 4), quan hệ Việt Nam - Ấn Độ
qua những thời kỳ lịch sử (chương 5). Riêng giai đoạn 1950 - 1964, các tác giả dành
10 trang để trình bày về nước Cộng hòa Ấn Độ qua 3 kế hoạch 5 năm (1951 -
1964). Công trình này là tư liệu và định hướng tốt để chúng tôi tiếp tục đi sâu làm
rõ hơn khi thực hiện luận án.
Viện nghiên cứu Đông Nam Á với cuốn Ấn Độ xưa và nay [60]. Công trình
là kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả Cao Xuân Phổ; Trần Thị Lý chủ biên, lần
lượt khái quát về đất nước, con người và truyền thống lịch sử Ấn Độ từ thời tiền
sử đến khi giành độc lập năm 1947, những thành tựu lớn về văn hóa, kinh tế từ sau
khi giành độc lập đến những năm 90 của thế kỷ XX. Bên cạnh đó, công trình cũng
trình bày khái lược về chính sách đối ngoại hòa bình, độc lập và không liên kết
của Ấn Độ cũng như mối quan hệ giữa hai dân tộc Ấn Độ - Việt Nam từ trong lịch
sử đến nay.
11
Xét trên phương diện lý luận về bản chất và nội dung của phong trào giải
phóng dân tộc nói chung và của châu Á nói riêng phải kể đến hai công trình do tác
giả Đỗ Thanh Bình chủ biên là cuốn Con đường cứu nước trong cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc ở một số nước châu Á (từ cuối thế kỷ XIX đến 1945) [5]. Đây
được coi là một chuyên luận toàn diện nhất về chủ đề đấu tranh giành độc lập dân
tộc, bao quát những nét chung cả về lý luận lẫn thực tiễn của các phong trào ở châu
Á, châu Phi và khu vực Mỹ latinh. Và cuốn Lịch sử phong trào giải phóng dân tộc
thế kỷ XX - một cách tiếp cận [4], đã đi sâu phân tích về điều kiện đặc thù của các
quốc gia Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia… có ảnh hưởng trực tiếp đến việc lựa
chọn con đường giành độc lập dân tộc. Qua đó, công trình gợi ý hướng tiếp cận mới
khi nghiên cứu về con đường phát triển đất nước của các quốc gia trên thế giới.
Ngoài ra, tác giả Đào Việt Trung với cuốn Ấn Độ và quan hệ Việt Nam - Ấn
Độ [71]. Cuốn sách giới thiệu toàn cảnh về lịch sử, đất nước, con người cùng với sự
phát triển của khoa học công nghệ, kinh tế, giáo dục, văn hóa, văn học và điện ảnh
của Ấn Độ. Ngoài ra, cuốn sách còn tập hợp các bài viết về quan hệ giữa Việt Nam
- Ấn Độ, thể hiện sâu sắc trên phương diện về lịch sử và văn hóa, quan hệ hữu nghị
truyền thống và hợp tác toàn diện giữa hai nước phát triển lên tầm đối tác chiến
lược. Cuốn 5000 năm lịch sử và văn hóa Ấn Độ [7] của tác giả Anjana Mothar
Chandra. Cuốn sách giới thiệu tất cả những giai đoạn lịch sử chính của đất nước từ
những ngày đầu mới hình thành nền văn minh lưu vực sông Ấn đến sự chia cắt đau
thương của một tiểu lục địa Ấn Độ và những năm sau ngày giành độc lập. Ngoài ra
cuốn sách còn cung cấp những thông tin đáng tin cậy nhất về địa lý, tôn giáo, tín
ngưỡng, lễ hội, ca múa nhạc, phim ảnh, văn chương, nghệ thuật và thủ công của đất
nước giàu truyền thống này.
1.1.2. Tiếp cận dưới góc độ về việc xây dựng, lựa chọn con đường phát
triển kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa, quốc phòng - an ninh, xác lập đường
lối đối ngoại đặc thù... để củng cố độc lập dân tộc và phát triển đất nước Ấn Độ
1.1.2.1. Tình hình nghiên cứu của các học giả nước ngoài
Các học giả nước ngoài chủ yếu là người Mỹ, Anh, Nga và chính những học
giả Ấn Độ rất quan tâm đến việc nghiên cứu về nền chính trị - xã hội của Ấn Độ từ
12
thời thuộc địa cho tới sự phát triển đất nước trong thời kỳ Cộng hòa. Tiêu biểu là
một số công trình như: tác giả Norman Dunbar Palmer với cuốn The Indian
political system [127]. Cuốn sách đi vào nghiên cứu về hệ thống và bản chất của
nền chính trị, nhà nước Ấn Độ, kỷ nguyên người Anh thống trị, phong trào giải
phóng dân tộc, chính quyền trung ương trong tiến trình bầu cử và quan hệ ngoại
giao. Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh đến yếu tố truyền thống cũng góp phần chi phối
nền chính trị của đất nước Ấn Độ. W. H. Morris Jones với cuốn The government
and politics of India [98]. Tác giả đi vào nghiên cứu về khung cảnh chính trị Ấn Độ
một cách sâu sắc và có hệ thống bao gồm những nội dung cơ bản như: sự kế thừa
trong các hoạt động chính trị và xã hội của Ấn Độ ở giai đoạn trước khi giành độc
lập. Với 236 trang, những sự kiện và vấn đề mới của chính phủ từ sau năm 1947,
sức mạnh chính trị và sự sắp xếp cơ cấu cũng như khuynh hướng tư tưởng xuất hiện
trong nền Cộng hòa Ấn Độ cũng được tác giả trình bày khái lược. Tác giả Marcus
F. Franda với cuốn West Bengal and the federalizing process in India [86]. Cuốn
sách giới thiệu tình hình chính trị Ấn Độ với việc cơ cấu lại các bang do nhu cầu
phát triển của đất nước và của các bang, những nội dung trong chính sách cải cách
ruộng đất. Bên cạnh đó, tác giả còn phân tích mối quan hệ giữa nhà nước trung
ương và sự phát triển của chính sách cải cách ruộng đất cho bang Tây Bengal, cũng
như mối liên hệ giữa chính quyền trung ương và các đảng chính trị.
Tác giả T. V. Kunhi Krishnan với cuốn Chavan and the troubled decade
[106]. Cuốn sách nói về những kết quả nghiên cứu của Y. B. Chavan từng là Bộ
trưởng Quốc phòng, Tài chính, Nội vụ về tình hình chính trị tại Ấn Độ trong thập
kỷ 60 với các sự kiện: chiến tranh với Trung Quốc và Pakistan, cái chết của hai thủ
tướng chính phủ, sự tranh giành quyền lực của thủ tướng, ba cuộc Tổng tuyển cử,
sự chia rẽ trong Đảng Quốc đại sau các bất đồng giữa Đảng Cộng sản và Xã hội,
nảy sinh các thế lực của phe cực tả và cực hữu, sự rối loạn của các tín đồ đạo Hindu
và đạo Hồi cũng như những thử thách nghiêm trọng về kinh tế của Ấn Độ trong
những năm 60 của thế kỷ XX. Tác giả Sunil Kumar Sen với cuốn Working class
movements in India 1885 - 1975 [130]. Cuốn sách trình bày lịch sử của phong trào
công nhân toàn Ấn Độ từ năm 1885 đến 1975, vai trò của tổ chức công đoàn và tổ
13
chức Liên đoàn phụ nữ quốc gia Ấn Độ (NFIW) trong phong trào công nhân, nhấn
mạnh tầm quan trọng của liên minh công - nông trong việc thúc đẩy những thay đổi
xã hội. Trên cơ sở đó, tác giả phân tích tác động của phong trào công nhân đối với
sự thay đổi trong xã hội Ấn Độ và đi đến khẳng định: những cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân là một phần trong nền chính trị Ấn Độ bất chấp những tiến bộ của
phong trào dân chủ.
Mặt khác, với đường lối ngoại giao đặc thù, Ấn Độ đã gặt hái được nhiều
thành công trong các mối quan hệ quốc tế, vấn đề biên giới trong quan hệ giữa các
quốc gia láng giềng cũng là mảng đề tài được các học giả đi sâu nghiên cứu qua
một khối lượng lớn các công trình. Trên cơ sở tổng hợp nguồn tài liệu này, chúng
tôi có thể lựa chọn những thông tin khoa học, phục vụ cho luận án. Tiêu biểu là một
số công trình: cuốn The China - India border: the origins of the disputed
boundaries [110], của tác giả Alastair Lamb. Trên cơ sở trình bày lịch sử biên giới
Trung - Ấn (từ thời Ấn Độ thuộc Anh rồi từ năm 1947 khi Anh trao trả quyền độc
lập cho Ấn Độ, đến thỏa thuận biên giới giữa Trung Quốc - Pakistan), cuốn sách
xem xét nguyên nhân của các cuộc tranh chấp biên giới giữa Trung Quốc và Ấn Độ,
không chỉ trong khu vực dãy Himalaya mà còn ở các vùng biên giới khác giữa
Trung Quốc, Ấn Độ và Pakistan. Cuốn Indian Foreign Policy in Cambodia, Laos
and Vietnam 1947 - 1964 [129] của tác giả D. R. SarDesai. Với 9 chương và 336
trang, tác giả đi sâu nghiên cứu các vấn đề chính trong chính sách đối ngoại của Ấn
Độ đối với ba nước Đông Dương là: Campuchia, Lào và Việt Nam trong giai đoạn
1947 - 1964. Qua đây, công trình làm nổi bật lên vai trò của Ấn Độ với phong trào
giải phóng dân tộc ở Đông Dương, thái độ của Ấn Độ đối với phong trào chia cắt
nước Việt Nam (1954 - 1958), mối quan hệ ngoại giao giữa Ấn Độ với Lào và
Campuchia, xung đột Trung - Ấn và quan hệ giữa Ấn Độ và Việt Nam, vai trò của
Ấn Độ trong cuộc khủng hoảng ở Lào (1959 - 1962). Cuối cùng, tác giả chỉ ra
những hậu quả của sự xâm lược mà Trung Quốc gây ra ở Ấn Độ… Tác giả Neville
Maxwell với cuốn India’s China War [111]. Trên cơ sở phân tích chính sách của
Trung Quốc đối với đường biên giới McMahon (McMahon Line) cũng như đối
sách của Ấn Độ về vấn đề biên giới, lãnh thổ, tác giả Neville Maxwell đã chỉ ra căn
14
nguyên cơ bản dẫn tới xung đột của hai quốc gia trong những năm 50 và đỉnh điểm
là cuộc chiến tranh biên giới giữa Ấn Độ và Trung Quốc năm 1962. Bên cạnh đó,
tác giả phân tích hậu quả của cuộc chiến tranh giữa hai nước sau khi lệnh ngừng
bắn được thực hiện.
Tác giả Bhabani Sen Gupta với cuốn The fulcrum of Asia: relations among
China, India, Pakistan and the USSR [92]. Trên cơ sở tương quan lực lượng của cục diện thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tác giả đi sâu phân tích đặc điểm mối quan hệ giữa Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan và Liên Xô những năm 50 của thế kỷ XX, cũng như sự tiếp cận của Liên Xô đối với châu Á. Bằng các dẫn chứng khoa học và thuyết phục, tác giả chỉ ra sự thách thức của nhân tố Trung Quốc trong những năm 60 đã dẫn tới sự đối kháng giữa 4 nước và hệ quả đặt ra trong quan hệ giữa các quốc gia này. Cuốn Jawaharlal Nerhu and India foreign’s policy [118], của tác giả I. Nasenko. Tác giả đã nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ
tướng J. Nehru, trong đó đề cập đến chính sách của Ấn Độ với Pakistan, với Trung Quốc, với khối Liên hiệp Anh, vấn đề Triều Tiên, Hội nghị Bandung…
Ngoài ra, việc lựa chọn con đường phát triển kinh tế và những thành tựu trong quá trình phát triển , xây dựng, củng cố nền quốc phòng - an ninh được các học giả dành nhiều thời gian quan tâm, nghiên cứu. Tiêu biểu có các công trình: Lorne J. Kavic với cuốn India’s quest for security: defence policies 1947 - 1965 [101]. Đây là công trình nghiên cứu toàn diện về chính sách quốc phòng và lực
lượng quân đội của Ấn Độ từ năm 1947 đến năm 1965. Với 11 chương, tác giả khái lược về nguồn gốc, nền tảng và mục đích của chính sách quốc phòng Ấn Độ từ năm 1947 đến năm 1961. Bên cạnh đó, tác giả đi sâu nghiên cứu các lực lượng quân đội: lục quân, hải quân, không quân, cũng như những xung đột dọc biên giới thuộc dãy Himalaya từ năm 1961 đến năm 1965. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả giới thiệu cơ sở để xây dựng một chương trình quốc phòng mới của Ấn Độ về sau này. Tác giả Wilfred Malenbaum với cuốn Modern India’s economy: two decades of planed growth [112]. Công trình đề cập tới sự phát triển kinh tế Ấn Độ trong hai thập niên kể từ khi giành độc lập năm 1947. Với 4 kế hoạch 5 năm được khái quát trong nội dung công trình, những thành tựu phát triển về nông nghiệp, công nghiệp, thương mại cũng được tác giả tập trung làm rõ.
15
Đặc biệt tác giả Jag Mohan với Twenty five years of Indian independence
[116]. Công trình là kết quả nghiên cứu về Ấn Độ sau 25 năm kể từ khi giành độc
lập 1947 trên nhiều phương diện khác nhau. Nội dung công trình được chia làm 4
phần: phần 1: Tình hình chính trị của Ấn Độ từ khi độc lập. Qua đây, công trình đã
hệ thống những sự kiện lớn như: sự chuyển giao quyền lực, sự phát triển trong
những năm 1951 - 1962, chiến tranh với Pakistan - 1965, sự bất ổn trong những
năm 1966 - 1970, sự xuất hiện của Bangladesh…; phần 2: Kinh tế Ấn Độ từ khi độc
lập. Công trình đã nghiên cứu về các kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế, cải cách
ruộng đất, hướng tới một nền công nghiệp mở, những thách thức từ sự nghèo đói,
thất nghiệp và sự chậm phát triển; phần 3: Tình hình văn hóa và xã hội. Công trình
đề cập đến những nội dung như: chương trình phát triển giáo dục, giai cấp công
nhân Ấn Độ kể từ khi giành độc lập, khoa học, kỹ thuật và nghệ thuật sau 25 năm
độc lập; phần 4: Biên niên các sự kiện lịch sử của Ấn Độ từ 1947 đến 1971.
Với 198 trang, công trình India: problems of development [97], đi vào
nghiên cứu những vấn đề trong sự phát triển ở Ấn Độ như: sự hình thành tư bản
công nghiệp, sự phát triển của khoa học và công nghệ, chính sách hợp nhất kinh tế,
cấu trúc đảng phái ở Ấn Độ. Bên cạnh đó, cuốn sách còn đề cập đến quá trình hình
thành một cấu trúc mới phù hợp với quyền lực chính trị của đất nước này. Tác giả
Dharma Kumar với cuốn The Cambridge economic history of India, Vol 2: 1757 -
1970 [108]. Với 1.048 trang và được chia làm 3 phần: phần 1: gồm 6 chương (từ
chương 1 đến chương 6), phác họa lại bức tranh kinh tế của Ấn Độ vào giữa thế kỷ
XVIII, các xu hướng kinh tế nói chung trong 4 khu vực phía Tây, Bắc, Đông, và
Nam của Ấn Độ, những thay đổi trong cơ cấu nông nghiệp trước độc lập; phần 2:
gồm 6 chương (từ chương 7 đến chương 12), tác giả làm rõ một số lĩnh vực cơ bản
của kinh tế Ấn Độ trước độc lập như: về công nghiệp, thủy lợi, thương mại, hệ
thống tài chính…; phần 3: gồm 2 chương, tác giả tiếp tục nghiên cứu sự phát triển
kinh tế của Ấn Độ và Pakistan từ khi độc lập đến đầu những năm 70 của thế kỷ XX.
Tác giả B. R. Tomlinson với cuốn The economy of morden India 1860 -
1970 [136]. Đây là tài liệu giới thiệu tổng quát và phân tích cụ thể về quá trình thay
đổi kinh tế ở Ấn Độ từ năm 1860 đến 1970, bao gồm: quá trình phát triển nông
16
nghiệp, công nghiệp hóa và lịch sử kinh doanh, thực hiện quy hoạch nhà nước sau
năm 1947, sự xuất hiện của cuộc “Cách mạng xanh”. Bằng những số liệu cụ thể,
trong 5 chương, tác giả Tomlinson đã khôi phục lại bức tranh kinh tế Ấn Độ dưới
ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, tiến trình lịch sử qua sự thay đổi trong nông
nghiệp, thương mại và sản xuất, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp, nền kinh tế và
nhà nước trước và sau năm 1947.
Ngoài ra, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Ấn Độ còn được phản
ánh trong các kế hoạch 5 năm, cụ thể First Five Year Plan (1951 - 1956), Second
Five Year Plan (1956 - 1961), Third Five Year Plan (1961 - 1965)… tại địa chỉ:
http://planningcommission.nic.in/plans/planrel/fiveyr/default.html [149]. Đây là
trang website chính thống chứa đựng thông tin nội dung về các kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội ngắn hạn 5 năm của Ấn Độ. Qua mỗi kế hoạch 5 năm, nội dung
website lần lượt giới thiệu những thành tựu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo
dục, y tế, dịch vụ xã hội… với những số liệu được đề cập cụ thể.
Sự nghiệp củng cố, phát triển quốc gia, dân tộc của đất nước Ấn Độ, thời kỳ
Thủ tướng J. Nehru nắm quyền thật sự mang lại nhiều thành tựu rực rỡ cho buổi
đầu của nền Cộng hòa. Chính vì vậy, nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của J.
Nehru thu hút sự quan tâm của nhiều học giả nước ngoài. Trên cơ sở kế thừa nguồn
tư liệu này, chúng tôi rút ra đánh giá, nhận định khách quan vai trò của ông trong sự
nghiệp củng cố độc lập dân tộc giai đoạn 1950 - 1964. Một số công trình tiêu biểu:
cuốn Jawaharlal Nehru: A political leader [99] là tập kỷ yếu tại Hội thảo kỷ niệm
85 năm ngày sinh và 10 năm ngày mất của Jawaharlal Nehru. Đây là cuốn sách tập
hợp một số công trình nghiên cứu của các học giả xoay quanh “kiến trúc sư” vĩ đại
đất nước Ấn Độ J. Nehru trên một số phương diện như: đường lối chính trị, tư
tưởng, chính sách ngoại giao… với một số bài viết tiêu biểu: Jawaharlal Nehru and
the principle of secularism in India politics của tác giải Jan Marek; The role of
tradition in Nehru’s thought của tác giả Ondrej Novák; Nehru as a political thinker
của tác giả Jan Filipsky…
Tác giả Sarvepalli Gopal với cuốn Jawaharlal Nehru: A biograph, vol 2:
1947 - 1956 [90] và cuốn Jawaharlal Nehru: A biograph, vol 3: 1956 - 1964 [91].
17
Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống của tác giả S. Gopla về cuộc
đời và sự nghiệp của J. Nehru. Trong vol 2, nội dung công trình thuật lại 9 năm đầu
làm Thủ tướng của J. Nehru, phân tích những vấn đề về tình hình của Ấn Độ cũng
như trên thế giới bao gồm: cuộc đấu tranh của Ấn Độ và Pakistan về vấn đề
Kashmir, cuộc bầu cử tự do đầu tiên ở Ấn Độ, khủng hoảng Triều Tiên và kênh đào
Suez… Từ đó, tác giả đưa ra những nhận định chủ quan của mình về vai trò của J.
Nehru trên trường quốc tế từ năm 1947 đến năm 1956. Tiếp nối thành công của vol
2, Sarvepalli Gopal tập trung nghiên cứu hoạt động trong những năm cuối cùng của
Thủ tướng Ấn Độ trong thời gian từ 1956 đến 1964 trong vol 3. Tác giả khẳng định:
tám năm cuối đời là những cố gắng không mệt mỏi để phát triển kinh tế và xã hội
Ấn Độ, xây dựng những nguyên tắc cơ bản trong chính sách đối ngoại của J. Nehru
như: cải thiện quan hệ với Trung Quốc, Pakistan, các nước phương Đông lẫn
phương Tây, cuộc vận động cho vấn đề Congo, những nỗ lực ngoại giao để thu hồi
lãnh thổ Goa… Có thể nói, dưới nhãn quan của tác giả, thành tựu vĩ đại nhất trong
cuộc đời Thủ tướng J. Nehru là đã xây dựng Ấn Độ thành một quốc gia hiện đại,
khẳng định vai trò và vị thế quan trọng trên trường quốc tế.
1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu con đường củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ được
nhận diện qua các công trình nghiên cứu chuyên sâu của các học giả trong nước
trên nhiều khía cạnh khác nhau như: kinh tế, chính trị - hành chính, ngoại giao, quốc
phòng - an ninh. Tiêu biểu là một số công trình sau: trước hết phải kể đến tập hợp
các công trình nghiên cứu chuyên sâu về Ấn Độ đầu tiên của các nhà khoa học
trong nước nhân kỷ niệm Quốc khánh Ấn Độ do tác giả Phan Văn Ban chủ biên,
Thông báo khoa học: đặc san kỷ niệm 43 năm Quốc khánh nước Cộng hòa Ấn Độ
[3]. Một số công trình tiêu biểu liên quan tới hướng nghiên cứu của tác giả được đề
cập như: Chủ tịch Hồ Chí Minh trong trái tim nhân dân Ấn Độ; Lịch sử Ấn Độ và
những mối liên hệ Việt Nam - Ấn Độ trong lịch sử; Tư tưởng dân tộc của J. Nehru
trong tác phẩm “Phát hiện Ấn Độ”; Những trang sử quan hệ Việt Nam - Ấn Độ
giai đoạn 1945 - 1954… từ đó gợi mở cho các nhà nghiên cứu hướng tiếp cận
chuyên sâu về Ấn Độ.
18
Tác giả Đỗ Đức Định với cuốn 50 năm kinh tế Ấn Độ [18]. Công trình đã
tổng kết 50 năm phát triển kinh tế Ấn Độ từ trước cải cách đến quá trình cải cách
vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Trong đó, tác giả làm rõ một số vấn đề như:
mô hình công nghiệp hóa tự lực tự cường trước cải cách, công nghiệp hóa nông
nghiệp và phát triển nông thôn, xây dựng chính sách ngoại thương, đầu tư nước
ngoài công nghiệp và du lịch… Qua đó, thành quả của quá trình cải cách và triển
vọng phát triển kinh tế Ấn Độ cũng được tác giả tiếp cận dưới nhiều góc độ khác
nhau. Ngoài ra, tác giả Đỗ Đức Định còn chủ biên cuốn Giáo trình kinh tế Ấn Độ
[19]. Cuốn sách trình bày tiến trình phát triển kinh tế Ấn Độ từ khi giành độc lập
đến nay, tập trung hai giai đoạn phát triển của nền kinh tế Ấn Độ: thời kỳ trước cải
cách (1947 - 1990) và thời kỳ cải cách (1991 đến nay). Mặt khác, tác giả cũng
nghiên cứu sự phát triển của các ngành kinh tế cơ bản, trên cơ sở đó phân tích quá
trình chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phân
tích chính sách ưu tiên phát triển khoa học công nghệ của Ấn Độ; nghiên cứu những
nỗ lực mới của Ấn Độ nhằm xây dựng một cường quốc vào thế kỷ XXI và đề cập
đến mối quan hệ hợp tác giữa Ấn Độ và Việt Nam.
Tác giả Trần Thị Lý với cuốn Sự điều chỉnh chính sách của Cộng hòa Ấn
Độ từ 1991 đến 2000 [45]. Trong đó, tác giả đã trình bày một số nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến sự điều chỉnh chính sách cải cách kinh tế và chính sách đối ngoại của
Cộng hòa Ấn Độ cũng như những thành tựu mà quốc gia này đạt được sau 10 năm
điều chỉnh chính sách. Ngoài ra, nội dung công trình cũng liệt kê một số sự kiện
liên quan tiêu biểu trong chính sách đối ngoại của Cộng hòa Ấn Độ ở giai đoạn
1950 - 1964.
Một số công trình của học giả Vũ Dương Ninh được đề cập trong cuốn Việt
Nam - Thế giới và hội nhập (Một số công trình tuyển chọn) [57]. Đây là tập hợp 70
công trình khoa học được tác giả tuyển chọn trong thời gian dài làm khoa học, giới
thiệu với giới nghiên cứu. Trong đó, một số công trình liên quan tới đề tài nghiên cứu
của tác giả đề cập tới như: Việt Nam - Ấn Độ trong đấu tranh vì độc lập dân tộc và
tiến bộ xã hội; Jawaharlal Nehru - nhà kiến trúc vĩ đại của nước Cộng hòa Ấn Độ…
19
Hai tác giả Phan Văn Rân, Nguyễn Hoàng Giáp với cuốn Chủ quyền quốc
gia dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa và vấn đề đặt ra với Việt Nam [62]. Nghiên
cứu về nội hàm của chủ quyền quốc gia dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa, so
sánh quan niệm về chủ quyền quốc gia dân tộc trong thời kỳ Chiến tranh lạnh là
một trong những nội dung chính của công trình. Theo đó, vấn đề này tác động tới
phương thức củng cố độc lập dân tộc của các quốc gia trong thời kỳ Chiến tranh
lạnh và trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Vì vậy, công trình gợi mở một
hướng tiếp cận về cách thức bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc Ấn Độ trong thời
kỳ sau độc lập.
Ngoài ra, nghiên cứu những khía cạnh cụ thể về bối cảnh lịch sử, chính sách
đối ngoại, những vấn đề phức tạp trong sự nghiệp củng cố độc lập của Ấn Độ cũng
được đề cập trong một số công trình tiêu biểu như: tác giả Võ Anh Tuấn với cuốn
Phong trào không liên kết [72]. Cuốn sách nghiên cứu cụ thể về Phong trào không
liên kết trên các khía cạnh: quá trình hình thành và phát triển của phong trào, nhiệm
vụ đặt ra trong từng giai đoạn lịch sử và vị thế của phong trào trong đời sống chính
trị thế giới, các hội nghị cấp cao của phong trào từ 1961 đến 1999. Trong đó, Ấn Độ
với Phong trào không liên kết giai đoạn 1950 - 1964 cũng được tác giả đề cập đến ở
mức độ khái lược. Hai tác giả Trần Văn Đào, Phan Doãn Nam với cuốn Giáo trình
Lịch sử quan hệ quốc tế 1945 - 1990 [17]. Cuốn sách hệ thống hóa các sự kiện quan
trọng trong tiến trình lịch sử quan hệ quốc tế của nhân loại từ sau Chiến tranh thế
giới thứ hai đến kết thúc Chiến tranh lạnh. Nội dung cuốn sách cũng đề cập tới
một số sự kiện trong quan hệ quốc tế có tác động đến lịch sử Ấn Độ giai đoạn
1950 - 1964.
Tác giả Trình Mưu, Vũ Quang Vinh (đồng chủ biên) với cuốn Quan hệ quốc
tế những năm đầu thế kỷ XXI - vấn đề, sự kiện và quan điểm [47]. Công trình làm rõ
sự vận động của những mối quan hệ quốc tế trên thế giới từ sau Chiến tranh lạnh
đến những năm đầu thế kỷ XXI như: chủ nghĩa khủng bố, khủng hoảng Trung
Đông, Triều Tiên, Đài Loan… và chính sách đối ngoại của Việt Nam trong điều
kiện hội nhập quốc tế. Trong đó, Vấn đề Kashmir trong quan hệ giữa Ấn Độ và
Pakistan cũng được các tác giả đề cập ở khía cạnh khái lược.
20
Đặc biệt, tác giả Nguyễn Công Khanh với công trình Jawaharlal Nehru, tiểu
sử và sự nghiệp [34]. Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu về Thủ
tướng Ấn Độ J. Nehru ở nước ta dựa trên cơ sở Đề tài Nghiên cứu khoa học do Bộ
Giáo dục và Đào tạo (mã số B.96.42.04) quản lý, chủ trì là TS. Nguyễn Công
Khanh. Công trình khảo cứu về cuộc đời và sự nghiệp “kiến trúc sư” vĩ đại của đất
nước Ấn Độ trên nhiều phương diện: các chặng đường chính trong cuộc đời J.
Nehru (1889 - 1964), vạch ra và thực hiện đường lối giải phóng dân tộc, chính sách
đối nội và đối ngoại. Công trình là nguồn tư liệu tham khảo quý giá, định hướng
cho chúng tôi trong quá trình thực hiện luận án.
Bên cạnh các công trình đã được xuất bản mà tác giả đề cập trong tài liệu
tham khảo, còn có khá nhiều các luận văn, luận án đã được bảo vệ liên quan đến đề
tài như: Luận án tiến sĩ lịch sử của Đinh Trung Kiên với “Quan hệ Việt Nam - Ấn
Độ (thời kỳ 1945 - 1975)” [37], Hoàng Thị Điệp với “Quá trình phát triển quan hệ
Việt Nam - Ấn Độ từ năm 1986 đến năm 2004”, Trần Thị Thanh Vân với “Chính
sách thực dân của Anh ở Ấn Độ từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX” [74], Lê Thế
Cường với “Quan hệ Ấn Độ - Liên Xô từ năm 1947 đến 1991” [12]... Một số luận
văn thạc sĩ như: tác giả Lê Thế Cường: Ấn Độ từ tự trị đến độc lập (1947 - 1950)
[11]; Trần Thị Thuận với “Quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa và Cộng hòa Ấn Độ từ năm 1949 đến năm 1991” [69]; Hà Thị Lịch,
Vấn đề Casơmia trong quan hệ Ấn Độ - Pakistan từ 1947 đến nay … Tuy nhiên,
hiện nay chưa có một luận án nào chuyên sâu nghiên cứu sự nghiệp củng cố độc lập
dân tộc trong những năm đầu nền Cộng hòa ở Ấn Độ (1950 - 1964), gắn liền với
thời kỳ lãnh đạo, kỷ nguyên của Thủ tướng J. Nehru.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu của các học giả trong cũng như
ngoài nước đề cập đến lịch sử Ấn Độ giai đoạn 1950 - 1964 từ nhiều góc độ và
quan điểm tiếp cận khác nhau, nhưng tất cả nhằm đi đến khái quát hoặc làm rõ từng
vấn đề cụ thể trên các lĩnh vực của đất nước Ấn Độ. Điểm qua các công trình
nghiên cứu, về cơ bản, các nhà khoa học đã giải quyết những vấn đề sau:
- Lịch sử hình thành và phát triển của Ấn Độ qua các thời kỳ cụ thể; những
đặc trưng về văn hóa, ngôn ngữ, tộc người, tôn giáo, truyền thống, bản sắc dân tộc.
21
- Chính sách đối ngoại của Ấn Độ đối với các nước ở khu vực và các nước
lớn trên thế giới (Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc).
- Những vấn đề trong sự phát triển về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc
phòng - an ninh để củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ.
- Cuộc đời và sự nghiệp vĩ đại của “kiến trúc sư” đất nước Ấn Độ - Thủ
tướng Jawaharlal Nehru.
Trên cơ sở nguồn tài liệu là thành quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi
trước mà chúng tôi tiếp cận trên, tuy đa dạng và phong phú, đề cập đến hầu hết các
vấn đề về lịch sử phát triển của Ấn Độ ở những giai đoạn khác nhau, nhưng nhìn
chung, tại Việt Nam vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, mang tính
hệ thống về sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ trong thời kỳ từ
năm 1950 đến năm 1964 với bối cảnh phức tạp thời kỳ Chiến tranh lạnh. Hơn thế
nữa, việc nghiên cứu, đánh giá về cách thức củng cố độc lập dân tộc Ấn Độ trong
thời kỳ này vẫn ít được đề cập trong các công trình nêu trên.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHƯA ĐƯỢC GIẢI QUYẾT NHÌN TỪ PHÍA
VIỆT NAM
Một là, mặc dù việc nghiên cứu về Ấn Độ đã thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà khoa học trong và ngoài nước với nhiều công trình được công bố, đề cập đến
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, hoàn thiện nền chính trị - hành chính
quốc gia, củng cố quốc phòng - an ninh, nền ngoại giao đặc thù của Ấn Độ... kể từ
khi nước này bước vào thời kỳ xây dựng nền Cộng hòa. Tuy nhiên, qua tìm hiểu
những nguồn tài liệu nêu trên, chúng tôi nhận thấy, các công trình này chủ yếu được
phân tích đơn lẻ, chưa đặt chúng trong tổng thể chính sách phát triển quốc gia cũng
như trong sự biến đổi bên trong và bên ngoài Ấn Độ.
Hai là, một số công trình chỉ trình bày một cách khái quát về lịch sử phát
triển của đất nước Ấn Độ nói chung, quá trình ra đời và phát triển của Ấn Độ từ
năm 1947 đến nay; hoặc chỉ đi sâu tìm hiểu, phân tích, đưa ra nhận định trên một
vấn đề cụ thể như: về hoạt động của Đảng Quốc đại, chính sách đối ngoại của Ấn
Độ trong từng thời kỳ, về tình hình chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa,
quốc phòng an ninh… Trong khi đó, còn một số vấn đề chưa được làm sáng tỏ như:
22
những thành công và hạn chế, đánh giá về vai trò Thủ tướng J. Nehru, đặc điểm,
cách thức, bài học kinh nghiệm của sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc Ấn Độ giai
đoạn 1950 - 1964 trong mối quan hệ biện chứng với xu hướng chung của tình hình
thế giới thời kỳ Chiến tranh lạnh… Do vậy, cần phải làm rõ hơn về những vấn đề
trên, góp phần cung cấp cứ liệu khoa học, làm sáng tỏ một thời kỳ lịch sử đặc biệt ở
Ấn Độ - kỷ nguyên J. Nehru.
Xuất phát từ yêu cầu này, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài với hy vọng
nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề đặt ra trên cơ sở tổng hợp công
trình của các nhà khoa học đi trước. Đó là nguồn tư liệu có ý nghĩa, gợi mở để
chúng tôi hình thành và là những tư liệu quý có giá trị tham khảo trong việc triển
khai thực hiện đề tài.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG LÀM RÕ Trên cơ sở tiếp thu kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, luận
án tập trung làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản sau:
Một là, phân tích bối cảnh trong nước, khu vực, và thế giới tác động đến sự
nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ giai đoạn 1950 - 1964.
Hai là, làm rõ nội dung những chính sách cơ bản phát triển đất nước và quá
trình thực hiện trong giai đoạn 1950 - 1964 để củng cố độc lập dân tộc của Chính
phủ Ấn Độ mà đứng đầu là Thủ tướng J. Nehru.
Ba là, đánh giá thành công và hạn chế trong sự nghiệp củng cố độc lập dân
tộc của Cộng hòa Ấn Độ giai đoạn 1950 - 1964, từ đó rút ra một số đặc điểm cũng
như những kinh nghiệm của quá trình này đối với các nước đang phát triển, trong
đó có Việt Nam.
Tiểu kết chương 1
Nghiên cứu về Ấn Độ được các học giả trong và ngoài nước rất quan tâm với
hướng nghiên cứu cho đến nay chủ yếu tập trung vào lịch sử phát triển Ấn Độ
trên các lĩnh vực cụ thể cũng như quan hệ Ấn Độ - Việt Nam… Giai đoạn lịch sử
1950 - 1964 và nội dung đấu tranh bảo vệ củng cố độc lập dân tộc hầu như chưa được
23
đề cập một cách cụ thể, hệ thống qua bất kỳ tài liệu nào. Vì vậy, nguồn tư liệu
phong phú mà tác giả luận án có thể tiếp cận trên một số phương diện: về độc lập
dân tộc, lịch sử, đặc điểm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, cách thức giải
quyết vấn đề dân tộc, ngôn ngữ, về nền quốc phòng - an ninh… là vô cùng quan
trọng, đặt cơ sở cho việc nghiên cứu, hệ thống hóa, chọn lọc và xử lý để hoàn thành
nội dung nghiên cứu của luận án.
Luận án sẽ là công trình nghiên cứu có hệ thống về một giai đoạn phát triển
đặc thù của lịch sử Ấn Độ tiếp sau thời kỳ đấu tranh tự trị (1947 - 1950) trên một số
lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, ngoại giao, quốc phòng - an ninh. Trên
thực tế, giai đoạn 1950 - 1964 là quá trình chính phủ và nhân dân Ấn Độ tiếp tục
đấu tranh nhằm bảo vệ, củng cố, xây dựng và phát triển đất nước, khẳng định vị thế
của quốc gia, dân tộc trong khu vực và trên thế giới. Có thể nói, đây là giai đoạn đặt
nền tảng, cơ sở quan trọng cho bước phát triển mạnh mẽ của quốc gia Ấn Độ trong
những thời kỳ tiếp sau.
24
Chương 2 NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ NGHIỆP CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA CỘNG HÒA ẤN ĐỘ TRONG GIAI ĐOẠN 1950 - 1964
2.1. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC NAM Á SAU CHIẾN TRANH THẾ
GIỚI THỨ HAI
2.1.1. Chiến tranh lạnh và cuộc đối đầu hai cực Xô - Mỹ Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, những thay đổi căn bản về tương quan
lực lượng của cục diện thế giới đã dẫn tới sự hình thành nên Trật tự hai cực với hai
hệ thống chính trị - quân sự đối lập nhau trong quan hệ quốc tế. Các nước phát xít
Đức, Italia, Nhật Bản bị đánh bại hoàn toàn. Anh và Pháp bước ra khỏi chiến tranh
với tư thế của người thắng trận nhưng chịu nhiều tổn thất nghiêm trọng. Cán cân
quyền lực chỉ còn là sự đối trọng giữa hai cường quốc Mỹ và Liên Xô. Từ Hội nghị
Ianta (Liên Xô) tháng 2/1945 đến Hội nghị Potsdam (Đức) tháng 7/1945, thế giới
đã phân thành hai cực do Liên Xô và Mỹ đứng đầu, đặt nhân loại đứng trước nguy
cơ một cuộc chiến tranh thế giới mới.
Với sự lớn mạnh về mọi mặt của Liên Xô và Mỹ sau chiến tranh đã làm gia
tăng nhanh chóng ảnh hưởng của hai nước này, tạo điều kiện vươn lên vị trí siêu
cường, chi phối mạnh mẽ tình hình chính trị quốc tế. Liên Xô bước ra khỏi chiến
tranh với những thiệt hại nặng nề về người và của. Tuy vậy, Liên Xô vẫn là quốc
gia có nhiều ưu thế đặc biệt. Liên Xô có lực lượng quân sự hùng mạnh với nền công
nghiệp quân sự quy mô, đứng đầu thế giới về lục quân, chế tạo thành công bom
nguyên tử năm 1949, tổng thể thực lực quân sự chỉ đứng sau Mỹ. Ngoài ra, cống
hiến có tính chất quyết định của Liên Xô trong chiến thắng vĩ đại trước chủ nghĩa
phát xít khiến nước này dành được uy tín rất cao đối với tất cả các lực lượng tiến bộ
trên toàn thế giới, kể cả trong lòng chủ nghĩa tư bản và trở thành ngọn cờ đầu trong
phong trào cộng sản, công nhân và giải phóng dân tộc trên thế giới.
Mỹ không những không bị chiến tranh phá hoại mà còn là kẻ trục lợi trên sự đổ nát của châu Âu và thế giới với hơn 114 tỷ USD lợi nhuận do buôn bán vũ khí. Hơn nữa, sau chiến tranh, Mỹ trở thành quốc gia giàu mạnh nhất, chiếm ưu thế
25
tuyệt đối trong thế giới tư bản chủ nghĩa về kinh tế tài chính, khoa học kỹ thuật và quân sự. Sản lượng công nghiệp Mỹ chiếm 56,4% sản lượng công nghiệp thế giới, dự trữ vàng chiếm 3/4 lượng vàng thế giới. Về quân sự, Mỹ đứng đầu thế giới về hải quân, không quân và là nước duy nhất có vũ khí hạt nhân [66, tr.288-289]. Với thế mạnh ấy, Mỹ từng bước lũng đoạn, tìm mọi cách chi phối chính sách đối nội và
đối ngoại các nước Tây Âu, Nhật Bản, vươn lên vị trí đứng đầu trong các nước tư bản chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, Mỹ đã vạch ra “Chiến lược toàn cầu” với tham vọng bá chủ thế giới.
Từ bài diễn văn của nguyên Thủ tướng Anh W. Churchil ở Fulton (3/1946) đến bài phát biểu trước Quốc hội của Tổng thống H. Truman (3/1947) kêu gọi viện trợ 400 triệu USD cho Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, trên thực tế Mỹ đã khởi đầu quá trình “ủng hộ các dân tộc tự do” chống lại phong trào cách mạng mang tính chất cộng sản và chống sự can thiệp của Liên Xô [70, tr.54-55]. Sự ra đời của “Học thuyết Truman” cộng với kế hoạch Marshall ồ ạt đổ tiền vào châu Âu (6/1947), thành lập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO, 4/1949), đưa ra “Kế hoạch 4 điểm” viện trợ các nước chậm tiến, dựng chính quyền tay sai ở Triều Tiên… Mỹ đã gây ra bầu không khí ngột ngạt và căng thẳng trong quan hệ quốc tế. Tham vọng của Mỹ và thế giới tư bản chủ nghĩa gặp phải lực cản lớn nhất đến từ Liên Xô. Liên Xô cũng tìm cách để củng cố vị thế của mình bằng việc ký hàng loạt các hiệp ước hữu nghị, hợp tác, liên minh và tương trợ song phương với các nước Đông Âu, thành lập Hội đồng Tương trợ Kinh tế (SEV, 1/1949), Tổ chức Warsaw (5/1955)… Như vậy, trong thời gian này, hàng loạt các công cụ, biện pháp, thiết chế, chiến lược, nguồn lực… được cả hai phe huy động để phục vụ cho cạnh tranh ảnh hưởng về quyền lực. Sự thay đổi về tương quan lực lượng, sự khác nhau về lợi ích và ý thức hệ giữa một bên là Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, với một bên là Mỹ và các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây đã đưa nhân loại bước vào thời kỳ Chiến tranh lạnh kéo dài hơn 40 năm, toàn bộ đời sống quốc tế bị bao phủ bởi không khí đối đầu căng thẳng.
Bối cảnh quốc tế ấy đã biến thế giới thứ ba - các nước mới được giải phóng - trở thành đối tượng trực tiếp của cuộc chạy đua nhằm lắp đầy “khoảng trống quyền lực”, chiếm giữ vị trí xung yếu và tạo ảnh hưởng giữa hai cường quốc Xô - Mỹ
26
nhằm lôi kéo các nước này về phía mình. Họ buộc phải đứng trước sự lựa chọn mang tính sống còn trên con đường phát triển: hoặc là ngã hẳn về khối các nước tư
bản chủ nghĩa, hoặc là đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, hoặc là tìm kiếm một hướng đi thích hợp mới. Tình hình đó ảnh hưởng trực tiếp đến con đường đấu tranh củng cố độc lập dân tộc của các quốc gia dân tộc trên thế giới nói chung và Ấn Độ nói riêng. Là một quốc gia rộng lớn, lại vừa mới giành được độc lập, Ấn Độ cũng không nằm ngoài sự tác động của ván bài nêu trên.
Đó cũng chính là nhân tố quan trọng dẫn đến sự ra đời con đường không liên kết và Phong trào không liên kết mà Ấn Độ là một trong những quốc gia tiên phong sáng lập. Hơn nữa, Trật tự hai cực và Chiến tranh lạnh cũng buộc các nước lớn có cách nhìn mới hơn về thuộc địa, đặc biệt là những quốc gia có vị trí chiến lược quan trọng, hoặc những nơi mà phong trào giải phóng dân tộc do giai cấp tư sản lãnh đạo. Cả Liên Xô và Mỹ đều nhận thức tầm quan trọng của khu vực Nam Á, nhất là Ấn Độ đối với thế giới nên có những chính sách đặc biệt với khu vực này.
2.1.2. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc, độc lập
dân tộc
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào giải phóng dân tộc bùng nổ, phát triển và đạt được những thành tựu chưa từng có cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đã lôi cuốn hàng triệu nhân dân các nước Á, Phi, Mỹ latinh vào cuộc đấu tranh rộng lớn, không ngừng tấn công vào chủ nghĩa thực dân cũ và mới, làm sụp đổ hệ thống thuộc địa vốn đã được thiết lập từ nhiều thế kỷ trước. Trước ý chí độc lập của các dân tộc trên thế giới, trong khóa họp lần thứ XV năm 1960 của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua văn kiện quan trọng
“Tuyên ngôn về thủ tiêu hoàn toàn chủ nghĩa thực dân, trao trả độc lập cho các quốc gia và các dân tộc thuộc địa”. Tuyên ngôn nhấn mạnh các nước thực dân vi phạm nguyên tắc quan trọng nhất của luật pháp quốc tế, khẳng định rõ ràng cơ sở pháp lý quốc tế của cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc. Tuyên ngôn phi thực dân hóa đã góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa. Tiếp đó, khóa họp lần thứ XVIII của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1963 thông qua “Tuyên ngôn đòi xóa bỏ mọi đạo luật, mọi quy chế phân biệt chủng
tộc”, trong đó khẳng định việc xóa bỏ mọi đạo luật, mọi quy chế phân biệt chủng
27
tộc, lên án mọi hành động tuyên truyền của các tổ chức phân biệt chủng tộc. Hàng loạt các quốc gia ở châu lục Á, Phi, Mỹ latinh đã tuyên bố độc lập. Bộ mặt của các châu lục Á, Phi và Mỹ latinh từng bước thay đổi căn bản: từ những thuộc địa của chủ nghĩa thực dân lần lượt trở thành các quốc gia độc lập và tham gia vào đời sống chính trị quốc tế, tạo ra sự thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho phong trào cách mạng, tiến bộ trên thế giới.
Để sức mạnh đó thật sự phát huy vai trò của mình, một số quốc gia đã tham gia sáng lập Phong trào không liên kết. Đó là phong trào quốc tế rộng lớn bao gồm các nước với chủ trương không liên kết trong chính sách đối ngoại, không tham gia vào bất cứ khối quân sự - chính trị nào, đấu tranh giành độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa, hợp tác quốc tế trên cơ sở cân bằng và có lợi, thiết lập nền kinh tế quốc tế mới công bằng, hợp lý, bảo vệ hòa bình và an ninh của các dân tộc. Với tư cách là thành viên sáng lập của tổ chức, Ấn Độ ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong diễn đàn này.
Mặt khác, sau khi giành độc lập, các nước Á, Phi, Mỹ latinh đều bắt tay vào
công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế xã hội. Bởi lẽ, độc lập về chính trị
vẫn chưa phải là độc lập hoàn toàn, các nước đế quốc không dễ dàng từ bỏ quyền
lợi của mình ở các thuộc địa, do đó nguy cơ lệ thuộc dưới nhiều hình thức mới là rất
lớn. Công cuộc xây dựng được bắt đầu ở những thời gian sớm muộn khác nhau,
nhưng đối với tất cả các nước này là một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ. Trong
quá trình đó, cuộc chiến đấu vì sự phát triển sẽ khó khăn hơn gấp nhiều lần so với
cuộc chiến đấu vì tự do. Nhiều nước đã đạt được những tiến bộ và tạo nên biến đổi
nhất định trong đời sống kinh tế xã hội. Rõ ràng sự phát triển về kinh tế của các
nước có được xuất phát từ sự mở đường độc lập về chính trị, góp phần quan trọng
vào củng cố độc lập chính trị.
Tuy nhiên, những thành tựu mà các nước Á, Phi, Mỹ latinh đạt được cũng
chưa đủ để làm thay đổi bức tranh kinh tế lạc hậu, lệ thuộc vào các nước tư bản chủ
nghĩa, thường chịu thua thiệt, bất bình đẳng trong quan hệ với các cường quốc của
thế giới tư bản. Đứng trước điều này, sau khi đạt được quyền tự trị và bắt tay vào
công cuộc xây dựng, củng cố nền Cộng hòa, Chính phủ Ấn Độ đã nỗ lực tìm kiếm
28
những giải pháp, chiến lược phát triển đất nước, chủ động điều chỉnh cho phù hợp
với yêu cầu của thực tiễn đặt ra, đưa đất nước đi tới sự ổn định và phát triển.
2.1.3. Tình hình khu vực Nam Á Sự phức tạp trong quan hệ quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai làm cho những điểm nóng trong khu vực Nam Á phát triển mạnh mẽ, trở thành những nhân tố chính vừa thúc đẩy, vừa chi phối, vừa là thước đo cho sự nghiệp bảo vệ độc lập của Cộng hòa Ấn Độ.
Khu vực Nam Á bao gồm lãnh thổ các nước Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Nepal, Bhutan, Sri Lanka và Maldives, có diện tích khoảng 4 triệu km2, dân số khoảng 1.234 triệu người. Phía Tây giáp với vịnh Ba Tư - nơi sản xuất nhiều dầu lửa nhất thế giới. Phía Bắc giáp với khu vực địa chiến lược Trung Á, nơi tranh giành giữa hai khối Đông - Tây trong cuộc Chiến tranh lạnh. Phía Đông gần eo biển Malacca - vốn được coi là yết hầu chiến lược, là con đường giao thông quan trọng liên kết với tuyến đường giao thông của phương Đông và Tây. Vì thế, Nam Á luôn được coi là một khu vực có ý nghĩa quan trọng. Hàng năm, lượng hàng hoá vận chuyển qua Ấn Độ Dương chiếm tới 60% tổng lượng hàng mậu dịch toàn cầu, trong đó Ấn Độ là nước có tuyến đường biển kéo dài trên 7.600 km, với 11 cảng lớn và trên 200 cảng vừa và nhỏ…
Do vị trí chiến lược quan trọng của khu vực, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cũng như các khu vực khác, tình hình Nam Á không nằm ngoài những toan tính chiến lược của các cường quốc, đặc biệt là Anh, Mỹ, Liên Xô và phần nào là Trung Quốc. Điều đó làm cho tình hình khu vực vốn đã phức tạp lại càng thêm phức tạp hơn, nhất là dễ bùng phát những cuộc xung đột lớn.
Về phía Anh, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, do những thắng lợi trong cuộc đấu tranh của nhân dân Nam Á, Anh buộc phải rút quân khỏi các nước này nhưng vẫn tìm cách duy trì ảnh hưởng của mình. Với bản chất thâm độc của chủ nghĩa thực dân, Anh không dễ gì từ bỏ mọi quyền lợi ở khu vực Nam Á, đặc biệt là Ấn Độ. Anh thực hiện ở đây chính sách “đi mà ở”, “chia để trị” [66, tr.363]. Kế hoạch Mounbatten chia Ấn Độ thành hai quốc gia trên cơ sở tôn giáo chính là sự tiếp tục và cụ thể hóa cho chính sách trên. Chính sách này đã làm gia tăng những rạn nứt sẵn có trong quan hệ giữa các tôn giáo, tộc người trong từng vùng, từng nước ở
29
Nam Á và hậu quả của nó cho đến nay vẫn khó khắc phục được. Chúng ảnh hưởng rất lớn đến an ninh và hòa bình ở khu vực này.
Thấy rõ vị trí trọng yếu của Kashmir về chiến lược, thực dân Anh muốn biến khu vực này thành căn cứ quân sự lâu dài nên đã đưa ra một phương án lập lờ, không rõ ràng về chủ quyền đối với Kashmir, kích động Ấn Độ và Pakistan tranh chấp nhau để mưu lợi ích riêng. Âm mưu của Anh trong vấn đề này là muốn xúi giục tiểu vương của Kashmir tuyên bố độc lập để khống chế khu vực trọng yếu này. Tuy nhiên, thực tế lịch sử đã diễn ra khác với mong muốn của người Anh bởi vì tiểu vương Kashmir là Hari Singh đã quyết định ngả theo Ấn Độ, âm mưu của người Anh đã thất bại hoàn toàn. Và từ đây, Anh đã mất dần vai trò và ảnh hưởng của mình đối với Ấn Độ, Pakistan và khu vực Nam Á, thay vào đó sẽ là Mỹ và Liên Xô. Về phía Mỹ, Nam Á là một trong những địa bàn địa chiến lược đặc biệt quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Trong số các quốc gia lớn ở Nam Á, Ấn Độ là một trong những mục tiêu quan trọng. Quốc gia với diện tích 3.287.263 km2, nằm ở phía Nam Liên Xô, có đường biên giới chung với Trung Quốc cộng sản này sẽ là “con đê lớn nhất ngăn chặn làn sóng đỏ” lan tràn ra khắp châu Á, cũng là một nhân tố lớn trong nền chính trị thế giới. Mặt khác, ý đồ chiến lược của Mỹ ở Nam Á luôn gắn với việc thiết lập một “vòng cung” bao vây chiến lược chạy từ Đông Bắc Á sang tới Đại Tây Dương nhằm ngăn chặn sự mở rộng chủ nghĩa cộng sản của Liên Xô. Để duy trì địa vị chiến lược của mình ở Nam Á, Mỹ còn cố gắng lôi kéo cả Ấn Độ và Pakistan vào mặt trận chống cộng. Mỹ đã nhiều lần tuyên bố muốn thiết lập một sự giám sát liên minh chiến lược với Ấn Độ và Pakistan thông qua các biện pháp như ký kết hiệp uớc, viện trợ kinh tế, quân sự… Đặc biệt, trước những mâu thuẫn trong quan hệ Ấn Độ - Pakistan xung quanh vấn đề Kashmir, Mỹ chuyển
hướng sang ủng hộ Pakistan bằng một loạt các biện pháp: ký Hiệp ước quân sự Mỹ - Pakistan (1954), lôi kéo tham gia vào tổ chức SEATO (9/1954), áp sát biên giới Liên Xô và Trung Quốc, cản trở tiến trình hòa bình Nam Á…
Tuy nhiên, thế đối đầu hai cực đã hoàn toàn chi phối quá trình hoạch định và triển khai chính sách của Mỹ đối với các quốc gia Nam Á. Việc Ấn Độ tích cực tham gia Phong trào không liên kết đã khiến cho quan hệ song phương với Mỹ luôn ở vào tình thế bế tắc với những bất đồng và mâu thuẫn. Tình thế này đòi hỏi Mỹ
30
phải tìm một đồng minh khác ở Nam Á, và Washington đã quyết định chọn Ixlamabad. Điều này một mặt có tác dụng kiềm chế, đe dọa đối với Ấn Độ, nhưng mặt khác đã đẩy Ấn Độ vào hoàn cảnh xích lại gần hơn với Liên Xô nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng và củng cố tiềm lực quốc phòng.
Về phía Liên Xô, trước những biến động to lớn của thế giới trong Chiến tranh lạnh, với tư cách là một nước lớn, đi đầu trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, để tạo ra một cực đối trọng với Mỹ, Liên Xô đã tìm đến với các nước thuộc thế giới thứ ba. Liên Xô ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, góp phần tiêu diệt chủ nghĩa thực dân. Trước những toan tính của các nước thực dân Anh, Mỹ tại Nam Á, Liên Xô cũng thể hiện rõ quan điểm của mình khi coi Nam Á là khu vực chiến lược quan trọng, một trong những tiêu điểm trong trận tuyến đối đầu Đông - Tây. Cả Mỹ và Liên Xô đều cho rằng việc khống chế khu vực Nam Á sẽ giúp họ không chỉ kiểm soát được khu vực Ấn Độ Dương rộng lớn mà còn củng cố vị thế của họ ở khu vực Trung Đông giàu có về dầu lửa. Mặt khác, với Liên Xô, củng cố vị thế ở Nam Á cũng đồng nghĩa với việc làm gia tăng ảnh hưởng chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội không chỉ với khu vực địa chiến lược quan trọng này mà còn rộng xuống phía Nam châu Á - Thái Bình Dương.
Khác với các nước Anh, Mỹ, Liên Xô tìm cách xích lại gần hơn với Ấn Độ - một nhân tố lớn trong nền chính trị thế giới - ủng hộ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc và nền dân chủ nơi đây. Đối với vấn đề Kashmir và quan hệ Ấn Độ - Pakistan, Liên Xô thể hiện chính kiến rất rõ khi lên án hậu quả của thực dân Anh để lại, đồng thời ủng hộ Ấn Độ trên trường quốc tế và Liên hợp quốc. Chính sự tương đồng về quan điểm này đã giúp quan hệ Liên Xô - Ấn Độ trở nên bền vững hơn nhất là sau khi nước Cộng hòa Ấn Độ ra đời, làm đối trọng trong quan hệ với các
nước lớn, chi phối mạnh mẽ quan hệ quốc tế ở Nam Á.
Như vậy, bối cảnh quốc tế và khu vực sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã có ảnh hưởng nhất định đến sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ trên một số phương diện:
Thứ nhất, trong bối cảnh Chiến tranh lạnh, sự chi phối bởi Trật tự thế giới
hai cực đứng đầu là hai siêu cường Xô - Mỹ, việc xem xét quan hệ quốc tế theo
logic thông thường là đứng về phe tư bản chủ nghĩa hoặc phe xã hội chủ nghĩa,
31
những nước đi theo mô hình tư bản chủ nghĩa thường là đứng về phe tư bản chủ
nghĩa và ngược lại. Vì vậy, vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc cũng bị biến
dạng theo hai hướng: đóng cửa biệt lập với bên ngoài; hoặc tập hợp lực lượng, thực
hiện liên minh liên kết theo phe, khối, theo hệ tư tưởng. Đứng trước tình hình trên,
Ấn Độ cần phải nhạy bén nắm bắt tình hình, phân tích thời cuộc, đặt trong thế
tương quan chiến lược, cân bằng lực lượng của các nước lớn trong trận tuyến đối
đầu Đông - Tây, lựa chọn con đường đi phù hợp với đặc thù xã hội, tránh tình trạng
nghiêng về một khối trong Trật tự hai cực. Và Ấn Độ đã lựa chọn con đường đi
riêng trong phương thức củng cố độc lập dân tộc, quốc gia là đứng giữa hai khối.
Đây là cơ sở để Ấn Độ xây dựng nên một đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, trung
lập và không liên kết.
Thứ hai, bối cảnh đó cũng đặt Ấn Độ trước nhiều điều kiện thuân lợi, nhất là tranh thủ sự giúp đỡ, viện trợ về vật chất của cả hai hệ thống để củng cố, xây dựng và phát triển kinh tế độc lập tự chủ, có kế hoạch, tự lực tự cường, củng cố quốc phòng - an ninh vững mạnh, đưa Ấn Độ trở thành một chủ thể lớn trong khu vực và trên thế giới.
Thứ ba, trong sự chi phối của Trật tự thế giới hai cực, Ấn Độ nổi lên như là
một nước đi đầu, cổ vũ và ủng hộ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc, đấu
tranh xóa bỏ chủ nghĩa thực dân. Sức mạnh đó được tập hợp lại trong Phong trào
không liên kết. Vì thế, bước đầu đã tạo cho Ấn Độ có vai trò, tiếng nói quan trọng
trong các nước thế giới thứ ba, đưa ra nhiều giải pháp hòa bình thiết thực, góp phần
làm hòa dịu một số vấn đề quan hệ quốc tế ở khu vực và thế giới.
2.2. TÌNH HÌNH ẤN ĐỘ SAU KHI ĐƯỢC TỰ TRỊ 2.2.1. Kế hoạch Mountbatten và sự chia cắt Ấn Độ Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, từ kết quả đấu tranh của nhân dân Ấn Độ, thực dân Anh đã phải lo lắng và tự nhận thấy rằng khó có thể giữ vững được địa vị thống trị của mình ở Ấn Độ như trước. Ngày 20/2/1947, Thủ tướng Anh Attlee tuyên bố trước Hạ viện: “Chính phủ Hoàng gia loan báo rằng, chính phủ có ý định dứt khoát là dùng mọi biện pháp cần thiết để tiến hành việc chuyển giao quyền hành cho một Chính phủ Ấn Độ có trách nhiệm, chậm nhất là tháng 6/1948” [16, tr.310].
32
Để thực hiện sứ mệnh này, Phó vương Weywell bị triệu hồi về nước, Huân tước
Mountbatten được bổ nhiệm làm Phó vương mới ở Ấn Độ.
Ngày 22/3/1947, Mountbatten đến Ấn Độ. Ngày 31/3/1947, Phó vương bắt
đầu thực hiện nhiều cuộc tiếp xúc với M. Gandhi và M. Jinnah nhằm thảo luận về
giải pháp cho vấn đề Ấn Độ. Thái độ của hai vị lãnh tụ khiến cho Mountbatten
nhanh chóng nhận thức được trách nhiệm tất yếu của mình về tương lai của tiểu lục
địa: M. Jinnah muốn lập nên xứ Pakistan gồm 6 tỉnh Bengal, Assam, Sind, Punjab,
Beluchistan, Northwest Province; còn M. Gandhi thì kiên quyết giữ nguyên sự
thống nhất Ấn Độ bằng mọi giá, kể cả việc duy trì quyền thống trị của người Anh
hoặc người Anh rút quân để cho nhân dân Ấn Độ tự quyết định tương lai của mình.
Bất đồng quan điểm giữa lãnh tụ hai đảng làm cho tình thế chia cắt ngày càng lộ rõ.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đấu tranh quần chúng và cuộc
vận động rầm rộ của Liên đoàn Hồi giáo được sự ủng hộ của người Anh nhằm
thành lập quốc gia Hồi giáo Pakistan, Đảng Quốc đại hiểu rằng không thể bảo toàn
sự thống nhất Ấn Độ được nữa. Ngày 8/4/1947, Uỷ ban lâm thời Đảng Quốc đại
công khai ra Nghị quyết chấp nhận chia cắt Ấn Độ thành hai xứ tự trị. Tiếp theo đó,
J. Nehru tuyên bố: “Liên đoàn Hồi giáo có thể có Pakistan nếu họ muốn, nhưng với
điều kiện họ sẽ không tách khỏi Ấn Độ các vùng không muốn sáp nhập vào
Pakistan”, nghĩa là Punjab và Bengal phải được chia cắt thành hai vùng theo cộng
đồng nguời Hồi và người Hindu [113, tr.20]. M. Jinnah mặc dù tuyên bố việc chia
cắt Punjab và Bengal là một động thái tồi tệ nhưng vẫn chấp nhận để đạt tới tận
cùng mục đích là thành lập Pakistan.
Trước sự thỏa hiệp từ hai phía, đầu tháng 5/1947, những điểm căn bản nhất
trong giải pháp về Ấn Độ đã được Mountbatten soạn thảo và thông qua tại London
vào ngày 15/5/1947. Ngày 3/6/1947 tại Simla, bản kế hoạch do Phó vương soạn
thảo, lịch sử thường gọi là “Kế hoạch Mountbatten”, được công bố trong cuộc họp
của các đảng phái chính trị Ấn Độ (Chú giải 1). Ngày 15/8/1947, “Kế hoạch
Mountbatten” với tư cách là “Đạo luật về nền độc lập của Ấn Độ” được Nghị viện
Anh biểu quyết thông qua. Cũng trong ngày này, tại Thành Đỏ lịch sử ở Delhi, J.
Nehru đã trịnh trọng kéo quốc kỳ Ấn Độ đánh dấu sự ra đời quốc gia Ấn Độ tự trị.
33
Sự kiện này đã tạo nên bước ngoặt căn bản chấm dứt hơn 200 năm cai trị trực tiếp Ấn Độ của thực dân Anh, mở ra một giai đoạn mới trong phong trào đấu tranh giành độc lập ở Ấn Độ. Lần đầu tiên, Ấn Độ mới bắt đầu thật sự làm chủ vận mệnh của mình - dù còn rất nhiều hạn chế - dưới sự lãnh đạo của một Chính phủ Liên bang tự trị của chính nguời Ấn với toàn quyền về đối nội. Nó đánh dấu thắng lợi đầu tiên trên con đường từ tự trị đến độc lập, tạo bước đệm nền tảng để Ấn Độ vươn lên giành độc lập hoàn toàn.
Tuy nhiên, đằng sau ý nghĩa to lớn ấy, Kế hoạch Mountbatten không phải là một thắng lợi trọn vẹn của Ấn Độ và cũng chưa hẳn là sự thất bại hoàn toàn của người Anh ở thuộc địa béo bở này. Kế hoạch đó đã chia cắt Ấn Độ thành hai nhà
nước Ấn Độ và Pakistan trên cơ sở tôn giáo. Nó không phản ánh được nguyện vọng của nhân dân Ấn Độ, chính vì thế đã để lại những hậu quả nghiêm trọng:
Thứ nhất, đã tạo ra một cuộc di cư chưa từng thấy trong lịch sử Ấn Độ. Ngay sau tuyên bố của Chính phủ Anh, tại tiểu lục địa Ấn Độ đã diễn ra một cuộc di dân ồ ạt của khoảng “9 triệu người Hồi giáo chạy sang Pakistan và gần 8 triệu người Ấn Độ giáo di cư sang Ấn Độ” [27, tr.78]. Cuộc di dân này đã tạo nên một cục diện hỗn
độn, mất ổn định đối với cả hai quốc gia, khiến cho đời sống của người dân Ấn Độ bị xáo trộn, đi kèm với nó là những xung đột sự phân biệt giữa người Ấn Độ giáo và Hồi giáo.
Thứ hai, là nguyên nhân gây tình trạng mâu thuẫn gay gắt và tranh chấp thường xuyên giữa hai chính phủ Ấn Độ và Pakistan, trong đó đặc biệt nghiêm trọng là vấn đề Kashmir đến tận ngày nay vẫn chưa tìm được lối ra.
Thứ ba, việc chia cắt này đã để lại những hậu quả nặng nề đối với nền kinh tế của cả hai nước. Nhiều vùng công nghiệp và nông nghiệp tuỳ thuộc lẫn nhau đã bị chia cắt, những hệ thống đường sắt và thủy lợi cũng bị phân chia, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống sản xuất của Ấn Độ và Pakistan.
Như vậy, thông qua kế hoạch Mountbatten, mọi ý đồ của người Anh đã được thực hiện. Đây là sự thể hiện rõ nét của âm mưu của người Anh trong những cụm từ mà họ đã có tính toán từ lâu: chia để trị, tự trị (Dominion) và đi mà ở. Hậu quả của chia cắt - sự phản ánh sinh động âm mưu của thực dân Anh - là vết thương nhứt nhối đối với lịch sử Ấn Độ cận hiện đại. Nó đặt Chính phủ Ấn Độ đứng trước
34
những nhiệm vụ hết sức nặng nề. Đó là đấu tranh nhằm xoá bỏ những hậu quả do chia cắt mang lại, đồng nghĩa với việc triệt tiêu những tàn dư của chủ nghĩa thực dân, giành và củng cố độc lập hoàn toàn. Mặt khác, thông qua việc phân chia, thực dân Anh cũng tạo cơ hội thuận lợi cho các cường quốc bên ngoài khai thác các vấn đề về tôn giáo và quan hệ giữa hai nước, làm sâu sắc hơn mâu thuẫn từ hai dân tộc, tăng cường ảnh hưởng của họ ở khu vực này.
2.2.2. Đấu tranh bước đầu trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, ngoại giao của
quốc gia Ấn Độ tự trị (1947 - 1950)
Hơn hai thế kỷ dưới ách thống trị của thực dân Anh, Ấn Độ đạt được mục tiêu cuối cùng là nền độc lập. Tuy nhiên, nền độc lập ấy vẫn chưa trọn vẹn. Hậu quả của một thời gian dài do chế độ cai trị thuộc địa mà thực dân Anh để lại cho Ấn Độ trên các mặt là rất nặng nề. Do vậy, khi Ấn Độ bắt tay vào quá trình xây dựng đất nước sau khi được tự trị và những năm đầu của nền Cộng hòa, ngoài những yếu tố thuận lợi, tình hình kinh tế, chính trị - xã hội đều có nhiều khó khăn phức tạp.
Về kinh tế, Ấn Độ vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Những tàn tích phong kiến - chế độ Daminda về sở hữu và canh tác đất đai - vẫn còn thống trị. Vị trí của tư bản Anh, Mỹ ở Ấn Độ vẫn còn rất lớn. Tư bản nước ngoài kiểm soát 47% số vốn đầu tư vào công nghiệp khai thác và chế biến dầu lửa, 90% ở ngành đường sắt… [55, tr.138]. Thiên tai tàn phá, nạn đói lan tràn khắp nước, kho dự trữ nhà
nước không đủ cấp lương thực để cứu tế. Thu nhập quốc dân rất thấp (dưới 60
USD/người/năm)...
Về chính trị - xã hội, một số vùng lãnh thổ Ấn Độ còn nằm trong sự kiểm soát của Pháp và Bồ Đào Nha, sự xung đột về tôn giáo khá gay gắt… Về mặt xã hội, gần 90% dân số bị mù chữ, những tập tục lạc hậu còn nhiều và gây tác hại cùng với sự tồn tại trên thực tế chế độ đẳng cấp từ xa xưa. Tình trạng dịch bệnh xảy ra liên miên. Các đảng cánh hữu, kể cả phái hữu trong Đảng Quốc đại, gây không ít trở ngại cho việc xây dựng một nước Ấn Độ mới.
Bên cạnh những khó khăn trên, đất nước và nhân dân Ấn Độ cũng có nhiều thuận lợi. Việc giành được độc lập hoàn toàn sau hơn hai thế kỷ bị thực dân thống trị đã đưa lại cho Ấn Độ - đất nước với số dân đông thứ hai trên thế giới - một sức mạnh mới. Ấn Độ có tài nguyên phong phú, tiềm năng thủy điện dồi dào, vị trí
35
chiến lược thuận lợi cho giao thông, buôn bán quốc tế cũng là một thế mạnh của Ấn Độ. Ngoài ra, Ấn Độ xây dựng đất nước trong điều kiện quốc tế khá thuận lợi. Phong trào chống đế quốc thực dân đang dâng cao ở các nước châu Á, châu Phi và Mỹ latinh. Sự đồng tình ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, các nước đang phát triển và các lực lượng tiến bộ là nguồn cổ vũ lớn đối với Ấn Độ.
Đứng trước thực tế trên, sau khi giành độc lập về chính trị, nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho Ấn Độ trong thời kỳ đấu tranh từ tự trị đến Cộng hòa (1947 - 1950) là phải thực hiện một loạt biến đổi sâu sắc về kinh tế, chính trị - xã hội, ngoại giao nhằm xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu, thủ tiêu tàn tích xã hội cũ, bước đầu xây dựng
đường lối kinh tế tự chủ và đối ngoại độc lập, đặt nền tảng cho sự phát triển của Ấn Độ trong giai đoạn đầu của nền Cộng hòa (1950 - 1964).
2.2.2.1. Trên lĩnh vực kinh tế
Trước cuộc khủng hoảng công nghiệp những năm đầu tự trị buộc Chính phủ Ấn Độ nhanh chóng đề ra một chính sách kinh tế phù hợp với lợi ích giai cấp và dân tộc, nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, từng bước thay đổi tính chất phụ thuộc của nền kinh tế, xây dựng và phát triển đường lối kinh tế độc lập. Nhiệm vụ hoạch định đường lối phù hợp không những là điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà còn thể hiện rõ tính độc lập của quốc gia, bản chất giai cấp và sự tiến bộ của đảng cầm quyền.
Sau khi giành được quyền tự trị, bản Cương lĩnh kinh tế của Đảng Quốc đại dự kiến sẽ có những thay đổi lớn trong cơ cấu, trong đó nêu rõ quan điểm rằng: “Chính phủ sẽ quốc hữu hóa các nguồn lợi và những ngành công nghiệp chủ yếu; việc đẩy mạnh quốc hữu hóa như thế được coi là cần thiết không những kiến thiết có tính chất tiến bộ mà còn để trừ bỏ xâm nhập của tư bản nước ngoài vào nền kinh tế Ấn Độ” [16, tr.320]. Tuy nhiên, ngay từ khi mới ra đời, bản Cương lĩnh đã không có chỗ đứng trong nền kinh tế Ấn Độ, và đã bị bãi bỏ, bởi cho dù là cấp tiến nhưng nó đụng chạm tới lợi ích của giai cấp tư sản - giai cấp đang cầm quyền.
Trước tình hình đó, ngày 17/2/1948, J. Nehru tuyên bố: “sẽ không có sự thay đổi đột ngột trong cơ cấu kinh tế. Chúng ta sẽ cố gắng không quốc hữu hóa các ngành công nghiệp hiện có trong 10 năm tới” [16, tr.320]. Cụ thể hóa tuyên bố của J. Nehru, ngày 6/4/1948, tại Quốc hội lập pháp, Chính phủ Ấn Độ chính thức công
36
bố “Tuyên ngôn về chính sách công nghiệp”, lịch sử thường gọi theo nội dung là Tuyên ngôn về “Nền kinh tế hỗn hợp”. Điểm căn bản nhất của Tuyên ngôn là nhà nước nắm độc quyền một số ngành công nghiệp quan trọng: sản xuất vũ khí đạn dược, sản xuất và quản lý năng lượng nguyên tử; làm chủ và quản lý đường sắt; tất cả các ngành phục vụ quốc phòng. Đối với các ngành công nghiệp quan trọng, mạch máu của nền kinh tế, chính phủ cho phép: “Các xí nghiệp hiện có trong các ngành ấy hoạt động trong thời gian 10 năm; rằng chính phủ sẽ quốc hữu hóa ngành điện; và các ngành khác trong lĩnh vực công nghiệp thì xí nghiệp tư nhân sẽ hoạt động bình thường” [16, tr.320].
Đây thực sự là nền kinh tế hỗn hợp theo hướng mở. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng nó đã mang lại cho kinh tế Ấn Độ một diện mạo mới, chính thức xóa bỏ những rào cản của chế độ thuộc địa, mở đường cho giai cấp tư sản Ấn Độ phát triển.
Tuy nhiên, trên thực tế, thời kỳ 1947 - 1950 và nhiều năm sau đó, nền kinh tế Ấn Độ vẫn chịu sự lũng đoạn của các tập đoàn kinh tế lớn từ nước ngoài. Tư bản Anh tiếp tục kiểm soát các ngành lọc dầu, khai thác mỏ, chè, cao su, nhiều xí nghiệp cơ khí vẫn giữ vị trí hàng đầu trong số các nước đầu tư vào Ấn Độ. Nước Anh vẫn chiếm 85% tổng số vốn đầu tư của tư bản nước ngoài vào các cơ sở quốc doanh và chiếm 70% tổng số tư bản tư nhân ngoại quốc đầu tư dài hạn trên thị trường Ấn Độ. Tổng số vốn ấy chiếm 1/4 tổng số vốn Anh đầu tư vào nước ngoài và chiếm 2/5 tổng số vốn Anh đầu tư vào các nước thuộc khối Liên hiệp Anh [16, tr.327]. Mỹ mặc dù không có cơ sở vững chắc bằng Anh, nhưng cũng đã từng bước chiếm lĩnh thị phần Ấn Độ. Trong 5.190 triệu rupee vốn đầu tư của tư bản tư nhân vào Ấn Độ thì Mỹ chỉ chiếm 300 triệu rupee (khoảng 6%) nhưng phần lớn số vốn nấp dưới danh nghĩa tài sản của Pháp, Bỉ và Ấn Độ rất khó xác định [21, tr.403]. Trong thương mại, Mỹ từng bước hạn chế vị trí độc quyền của Anh ở thị trường Ấn
Độ (xem Phụ lục 1).
Như vậy, mặc dù vẫn giữ vị trí cao nhất trong cán cân nhập khẩu vào Ấn Độ, nhưng Anh đã không còn là quốc gia độc quyền lũng đoạn nền thương nghiệp Ấn Độ. Sự cạnh tranh Anh - Mỹ là điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế dân tộc Ấn Độ phát triển. Bên cạnh việc mở rộng quan hệ với Anh và Mỹ, Ấn Độ cũng tăng cường
37
quan hệ kinh tế với các nước tư bản khác như Pháp, Hà Lan, Bồ Đào Nha… và các nước đang phát triển. Chính phủ bước đầu thiết lập mối quan hệ kinh tế với Liên Xô, Trung Quốc và các nước Đông Âu.
Sự khủng hoảng trong nông nghiệp ở Ấn Độ thời kỳ tự trị là hậu quả của
chính sách khai thác thuộc địa mà thực dân Anh mang lại cho nền kinh tế. Ấn Độ
dưới thời kỳ thuộc địa được biết đến như là “trung tâm chết đói của thế giới”. Mặc
dù là quốc gia có hơn 90% cư dân hoạt động trong nông nghiệp, nhưng vấn đề thiếu
lương thực là căn bệnh kinh niên của nền kinh tế Ấn. Để giải quyết vấn đề trên,
tháng 5/1948, Ủy ban Chính sách nông nghiệp đã vạch ra chương trình 5 năm, với
mục tiêu sản xuất 1 triệu tấn trong 1 năm và tăng diện tích đất canh tác được tưới
lên 19 triệu mẫu đất. Theo đó, chính phủ phê chuẩn một dự án dài hạn nhằm phục
vụ tưới tiêu và thủy điện với số vốn khổng lồ 192.750.000 bảng [11, tr.63]. Trước
mắt, chính phủ cho khôi phục và sử dụng toàn bộ hệ thống tưới tiêu cho khoảng
23% diện tích đất canh tác, tập trung vào sản xuất nông nghiệp giải quyết nạn đói.
Tuy nhiên, điểm đáng chú ý nhất trong nông nghiệp giai đoạn này là vấn đề
sở hữu ruộng đất. Cuộc khủng hoảng trong nông nghiệp chấm dứt sớm hay muộn
phụ thuộc hoàn toàn vào cuộc cải cách ruộng đất của chính phủ. Chính sách cải
cách ruộng đất được chính phủ ban hành cuối năm 1947, áp dụng thực tế ở một số
địa phương năm 1948 và mở rộng quy mô trên cả nước, kết thúc vào năm 1954.
Trên lãnh thổ Ấn Độ từ lâu tồn tại hai chế độ sở hữu đất đai. Chế độ
Daminda có từ thời trung đại, thừa nhận quyền sở hữu của đại địa chủ. Theo đó, các
chủ đất có quyền thừa kế đất đai và họ có trách nhiệm nộp thuế theo quy định. Còn
chế độ Raiyatvari là chế độ thuế đất do thực dân Anh thực hiện từ thế kỷ XIX ở Ấn
Độ, quyền sở hữu tối cao ruộng đất thuộc về nhà nước, còn nông dân và chủ phong
kiến có quyền chiếm hữu theo chế độ lĩnh canh vô thời hạn. Sau năm 1947, hình
thức Raiyatvari vẫn được bảo lưu bởi Chính phủ Ấn Độ tự trị. Luật cải cách ruộng
đất chỉ thực hiện ở những vùng theo chế độ Daminda nên gọi là “Luật thay thế
Daminda”. Nguyên tắc chung của đạo luật này là nhà nước quốc hữu hóa toàn bộ
ruộng đất, xóa bỏ sở hữu địa chủ trên cơ sở bồi thường sòng phẳng căn cứ vào mức
tô hiện hành.
38
Phong trào này nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ quần chúng nhân dân,
song gặp phải sự chống đối quyết liệt của bọn chủ đất, tạo nên bầu không khí
căng thẳng trong nông thôn của Ấn Độ. Bởi lẽ, giai cấp địa chủ mất gần 60%
ruộng đất trước đây, ở một số bang tỷ lệ lên tới trên 85% [55, tr.144]. Vì thế, một
bộ phận cơ bản của địa chủ kiểu Daminda bị suy yếu đi do cải cách. Bên cạnh
đó, luật này còn quy định chính phủ bồi thường một khoản tiền lớn, ước tính trên
toàn quốc là 7 tỷ rupee.
Cùng với nhiều điều khoản khác, vị trí của Daminda có phần suy giảm
nhưng tầng lớp này vẫn giữ được một vị thế kinh tế chính trị nhất định. Còn những
người nông dân trực tiếp sản xuất được hưởng rất ít quyền lợi do cải cách đưa lại.
Họ đã trở thành người lĩnh canh, và nộp thuế cho nhà nước.
Như vậy, mặc dù có một vài hạn chế, song cải cách ruộng đất ở Ấn Độ có ý
nghĩa lịch sử tiến bộ. Cải cách đã thu hẹp phạm vi bóc lột theo lối phong kiến của
giai cấp địa chủ, góp phần mở đường cho phương thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa
trong nông nghiệp, bước đầu thay đổi bộ mặt nông thôn của Ấn Độ.
Bên cạnh áp dụng Luật thay thế chế độ Daminda, một số đạo luật về nông
nghiệp cũng được chính phủ soạn thảo, trong đó quan trọng nhất là Luật sở hữu tối
đa về ruộng đất. Dự luật này, như tên gọi của nó, nhằm quy định diện tích đất đai
tối đa mà chủ đất có quyền sở hữu. Luật này gây phản ứng lớn trong giới địa chủ, tư
sản nông nghiệp, thậm chí cả trong nội bộ đảng cầm quyền. Do vậy, trong hơn 10
năm, Luật sở hữu tối đa mới được thông qua ở hầu hết các bang của Ấn Độ. “Mức
tối đa” được định ra tùy theo ruộng đất và từng bang: đối với vùng ruộng nước là 15
đến 30 mẫu, vùng khô là 80 đến 100 mẫu. Quy định này làm tăng đáng kể bình
quân đất đai của người nông dân có ruộng: 5 mẫu ở vùng ruộng nước và 10 mẫu ở
vùng ruộng khô [55, tr.145].
Nhìn chung, trên lĩnh vực kinh tế, với những đối sách mang tính chiến lược
và sách lược của chính phủ, tuy chưa mang lại một kết quả triệt để, làm thay đổi
toàn bộ bộ mặt của nền kinh tế Ấn Độ, nhưng nó đã định hình và đặt nền tảng quan
trọng cho quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế tự chủ của Ấn Độ sau ngày
độc lập cũng như nền Cộng hòa trong giai đoạn kế tiếp.
39
2.2.2.2. Trên lĩnh vực chính trị
Ngay sau khi giành được quyền tự trị, tại kỳ họp của Quốc hội lập pháp ngày 10/3/1948, J. Nehru đã khẳng định: “Ấn Độ sẽ là nước Cộng hòa độc lập, có chủ quyền để xứng đáng với lời thề “Purna Swaraj” (độc lập hoàn toàn) vang lên tại Lahore năm 1929 mà cả dân tộc nhắc đến” [36, tr.40]. Nét đặc trưng trong lịch sử Ấn Độ giai đoạn này là: quá trình đấu tranh thực hiện quy chế tự trị xen lẫn với cuộc đấu tranh giành độc lập. Đó là quá trình đấu tranh không khoan nhượng trên mặt trận chính trị của chính phủ và nhân dân Ấn Độ đối với thực dân Anh và các thế lực đối lập vì một nước Ấn Độ độc lập, thống nhất, dân chủ trên một số lĩnh vực cơ bản: quá trình Ấn Độ hóa chính quyền; xây dựng Hiến pháp và thể chế chính trị Ấn Độ.
* Trước hết là quá trình Ấn Độ hóa chính quyền. Quy chế tự trị sau kế hoạch
Mountbatten là bước ngoặt lịch sử, mở ra thời kỳ có tính chất quá độ để quốc gia Ấn Độ tự trị tạo “nguyên liệu” cho nền độc lập. Trách nhiệm lịch sử đặt ra cho Ấn Độ giai đoạn này là cần phải có một chính phủ, bộ máy chính quyền ổn định và đủ mạnh để lãnh đạo đất nước. Nghĩa là phải “Ấn Độ hóa” bộ máy chính quyền của chính dân tộc Ấn, xóa bỏ những ảnh hưởng của chính quyền thực dân để lại. Đây là điều kiện rất quan trọng, vừa là mục tiêu, vừa là tiền đề trong cuộc đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước.
Nhằm xây dựng cơ sở pháp lý cho chế độ mới, Ủy ban lập pháp đã bầu ra Chính phủ Ấn Độ tự trị do J. Nehru làm Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Ngoại giao và Quốc phòng. Đảng Quốc đại là đảng cầm quyền chiếm 12/14 ghế trong nội các chính phủ. Thành phần chính phủ có đầy đủ đại diện của hai phái trong Đảng Quốc đại. V. Patel - đại diện của cánh hữu - được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Nội vụ. Mặc dù chính phủ có đại diện của hai nhóm đối lập trong Đảng Quốc đại nhưng nhìn chung hoạt động cơ bản vẫn thiên về xu hướng tiến bộ, nêu cao lợi ích dân tộc trên cơ sở cân bằng giai cấp. Trong vai trò lãnh tụ tiên phong, J. Nehru đã xây dựng Chính phủ Ấn Độ tự trị trở thành cơ quan quyền lực có tính tập trung dân tộc mạnh để thực thi những vấn đề lớn mà quốc gia đặt ra.
Quá trình thay thế các quan chức và viên chức người Anh trong bộ máy hành chính, lực lượng vũ trang Ấn Độ cũng từng bước được thực hiện. Sau ngày
40
15/8/1947, Phó vương Ấn Độ - Huân tước Mountbatten - bị đổi thành Tổng đốc tự trị, cuối cùng được thay thế bằng một người Ấn là Rajagopalachara. Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng, chấm dứt tồn tại suốt hàng trăm năm của người Anh trên cương vị cao nhất của quốc gia Ấn Độ. Trong giai đoạn đầu, Bộ Ngoại giao Ấn Độ vẫn còn hơn 1.000 người Anh làm việc. Điều này đã đụng chạm đến tình cảm dân tộc khiến cho áp lực quần chúng ngày càng tăng, lợi dụng tình hình đó, J. Nehru đã từng bước buộc tất cả các quan chức này lần lượt rời khỏi bộ máy chính quyền Ấn Độ. Sự phát triển cao nhất trong quá trình Ấn Độ hóa là việc ban hành Hiến pháp
trong đó có điều khoản quy định vị thế của người Anh trong chính quyền Ấn. Hiến
pháp nêu rõ:
Người Ấn gốc Anh không được tham gia chính thức vào Hạ viện, Tổng thống có quyền cho họ hai ghế phụ theo quy định của Hạ viện nếu cần thiết. Người đứng đầu chính quyền địa phương có quyền bổ nhiệm các đại biểu Ấn - Anh lên các cơ quan lập pháp bang. Tất cả sự nhân nhượng này sẽ kết thúc sau khi Hiến pháp hoạt động được 10 năm. Sau khi những đòi hỏi của các đẳng cấp, bộ lạc được xem xét thì sẽ có sự giảm dần số lượng người Anh trong ngành đường sắt, hải quan, bưu chính viễn thông [113, tr.103].
Nhìn chung, quá trình Ấn Độ hóa chính quyền đã đạt được những thắng lợi to lớn. Chính quyền Ấn Độ thống nhất của người Ấn với thiết chế chính trị riêng, xây dựng trên cơ sở Hiến pháp dân chủ và tiến bộ… là nền tảng căn bản của quốc
gia độc lập, thống nhất có chủ quyền, tạo điều kiện vững chắc cho sự nghiệp củng cố độc lập giai đoạn sau.
* Hiến pháp năm 1950 - cơ sở pháp lý cho việc tạo lập và phát triển nền
Cộng hòa dân chủ ở Ấn Độ đương đại
Sau khi giành được quyền tự trị, Ấn Độ vẫn còn phải đối mặt với những vấn đề xã hội phức tạp do lịch sử để lại. Trong bối cảnh đó, yêu cầu xây dựng một Hiến pháp độc lập và tiến bộ - văn bản có tính chất pháp lý cao nhất đề cập đến những vấn đề căn bản nhất của quốc gia - được đặt ra cấp thiết đối với Ấn Độ. Hiến pháp
ra đời sẽ đặt nền tảng pháp lý căn bản cho sự phát triển của quốc gia Ấn Độ độc lập. Những vấn đề mà Hiến pháp đề cập tới thật sự thành quả cao nhất của quá trình đấu
41
tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ trong nhiều năm của nhân dân Ấn Độ và đã trở
thành cơ sở để Ấn Độ xây dựng nền dân chủ.
Để cho ra đời một Hiến pháp Ấn Độ vừa mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, vừa kế thừa xuất sắc những giá trị của những bản Hiến pháp dân chủ và tiến bộ trên thế giới, trong quá trình soạn thảo Hiến pháp đã trải qua nhiều cuộc tranh luận gay gắt xung quanh các vấn đề: xóa bỏ đẳng cấp, vị trí của người Hindu, cấm rượu, quyền bình đẳng cho phụ nữ,… Tuy nhiên, vấn đề bức thiết nhất có tác động sâu sắc tới tình hình Ấn Độ trong giai đoạn này là: quan hệ với khối Liên hiệp do đế quốc Anh đứng đầu và vấn đề thành lập hệ thống các bang trên cơ sở ngôn ngữ (nguồn gốc dân tộc).
Thứ nhất, vấn đề có nên hay không nên ở lại khối Liên hiệp Anh (Commonwealth) không chỉ có tính chất đối ngoại đơn thuần, mà còn có tác động toàn diện đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Ấn Độ trong giai đoạn này. Đây cũng là mục tiêu cao nhất trong cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Ấn Độ. Điều này có nghĩa là hợp pháp hóa quyền độc lập bằng một Hiến pháp chính thức xóa bỏ quy chế tự trị và đồng thời xóa bỏ mọi dính líu về chính trị - quân sự giữa Ấn Độ với thực dân Anh. Mặt khác, việc xác định mức độ quan hệ với thực dân Anh giai đoạn này có vai trò quan trọng trong việc xác định chính sách đối ngoại Ấn Độ trước tình hình thế giới có nhiều biến động và nhạy cảm sau năm 1945. Đứng trước những vấn đề trên, ở Ấn Độ có hai ý kiến trái ngược nhau:
Xu hướng thứ nhất mà đại diện chủ yếu là các nhà tư bản lớn, các chính khách cho rằng: cần phải ở lại khối Liên hiệp Anh. Xu hướng còn lại thì cho rằng: cần dứt khoát cắt đứt quan hệ với khối Liên hiệp Anh, tuyên bố Ấn Độ là nước Cộng hòa độc lập, xứng đáng với lời thề “độc lập hoàn toàn” vang lên tại Đại hội Lahore năm 1929. Trong khi đó, quan điểm của J. Nehru là cần phải giữ mối liên hệ với khối Liên hiệp Anh trên cơ sở đảm bảo được nền độc lập.
Quá trình tranh luận gay gắt với các xu hướng ý kiến trong nội bộ Ấn Độ kéo dài từ kỳ họp của Quốc hội lập pháp ngày 8/3/1948 đến ngày 10/4/1949, khi Ủy ban hành động của Đảng Quốc đại ra nghị quyết khẳng định: “Ấn Độ phải là một nước Cộng hòa và trong Hiến pháp của mình không cần nói đến mối quan hệ với Vương quốc Anh”[73, tr.85]. Sau một quá trình đấu tranh với Anh, giải pháp về Ấn Độ
42
trong khối Liên hiệp Anh đã được khẳng định trong Tuyên ngôn London ngày 27/4/1949: Ấn Độ là nước Cộng hòa có chủ quyền, độc lập về chính trị với Vương quốc Anh, vẫn ở trong khối Liên hiệp và công nhận ngôi vua Anh như là biểu tượng của khối Liên hiệp mà Ấn Độ là thành viên [55, tr.140].
Thứ hai, vấn đề thành lập các bang trên cơ sở ngôn ngữ (thực chất là cơ sở dân tộc) cũng được tranh luận gay gắt. Tại Đại hội Japua vào tháng 4/1948, Đảng Quốc đại thành lập Ủy ban J.V.P (viết tắt tên của J. Nehru, V. Patel, P. Sitaramain). Ủy ban này khẳng định: không thể thành lập các bang trên cơ sở ngôn ngữ dân tộc và nhấn mạnh:
Yêu cầu đầu tiên và cuối cùng của Ấn Độ thời điểm hiện tại là trở thành một quốc gia độc lập. Mọi thứ hỗ trợ cho sự trưởng thành của chủ nghĩa dân tộc phải tiên phong và mọi thứ gây trở ngại phải bị bác bỏ hoặc thay thế… Chúng tôi đã xem xét các vùng ngôn ngữ và thấy rằng nếu như những nguyên tắc này được thực hiện thì ngay lập tức nó sẽ tạo nên sự suy sụp hoàn toàn cho đất nước [113, tr.143].
Như vậy, việc thành lập các bang ngôn ngữ bị loại bỏ do những lo ngại bất ổn, chia rẽ, bè phái làm suy yếu sự thống nhất dân tộc vừa đạt được. Đây là chủ trương đúng đắn của Chính phủ Ấn Độ, tuy nhiên vấn đề này vẫn còn tồn tại dai dẳng nhiều năm sau khi giành độc lập.
Sau một quá trình soạn thảo với nhiều cuộc tranh luận gay gắt, ngày 26/11/1949, Quốc hội lập pháp đã thông qua và phê duyệt bản Hiến pháp mới, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 26/1/1950. Dưới ảnh hưởng to lớn của tư tưởng M. Gandhi, được sự chỉ đạo sáng suốt và kịp thời của J. Nehru, Hiến pháp Ấn Độ thật sự là một Hiến pháp tự do, bình đẳng và tiến bộ, nhấn mạnh các quyền căn bản nhất của con người và nghĩa vụ của họ đối với nhà nước. Hiến pháp dài 225 trang, gồm 22 phần, 395 điều khoản và 8 mục. Trong đó 12 trang đề cập đến các quyền cơ bản, 6 trang
đề cập đến các điều khoản liên quan đến giai cấp và đẳng cấp, 3 trang đề cập đến các nguyên tắc chính của chính sách nhà nước, các phần còn lại đề cập đến các quyền tư pháp, lập pháp, hành pháp, quan hệ giữa chính quyền trung ương và các bang, tài chính, thương mại, bầu cử và ngôn ngữ. Hiến pháp cũng thông qua Quốc kỳ, Quốc ca, Quốc huy và khẳng định lại những quyền căn bản của quốc gia Ấn Độ.
43
Trong lời mở đầu, Hiến pháp tuyên bố Ấn Độ là một quốc gia Liên bang Cộng hòa độc lập, có chủ quyền. Hiến pháp đã đưa ra một tập hợp các quy tắc phù hợp với những luật lệ bình thường của một đất nước còn mang nặng những tàn dư của lịch sử và chế độ thực dân. Nó cũng đưa ra một sự thống nhất cho hình thức dân chủ của Quốc hội và chính phủ. Lần đầu tiên, Hiến pháp này bao gồm một hệ thống về các quyền cơ bản và những nguyên tắc chỉ dẫn để thực hiện có hiệu quả các quyền đó. Về các quyền cơ bản của công dân, Hiến pháp khẳng định:
Chúng tôi, nhân dân Ấn Độ quyết tâm xây dựng Ấn Độ thành một nước Cộng hòa dân chủ có chủ quyền và bảo đảm trước các công dân Ấn Độ: 1. Quyền bình đẳng về xã hội, kinh tế, chính trị. 2. Quyền tự do suy nghĩ, biểu lộ, tín ngưỡng, đức tin và thờ cúng. 3. Quyền bình đẳng về địa vị và cơ hội. 4. Sự bác ái, đảm bảo tôn trọng cá nhân, 5. Sự thống nhất dân tộc [88, tr.22].
Hiến pháp cũng chỉ rõ, mọi người thuộc bất kỳ tín ngưỡng, chủng tộc, đẳng cấp, giới tính hay nơi sinh cũng đều bình đẳng trước pháp luật. Các quyền căn bản khác bao gồm 7 quyền tự do: tự do ngôn luận và biểu lộ, tự do hội họp không vũ trang, tự do thành lập hiệp hội, tự do di chuyển khắp đất nước, sống ở bất kỳ vùng nào của đất nước, quyền sở hữu tài sản và quyền có việc làm. Các quyền này được kết hợp chặt chẽ với nhau tại các điều từ 12 đến 35 của Hiến pháp, chủ yếu để bảo vệ cho cá nhân và các dân tộc thiểu số trước những hành động chuyên quyền của nhà nước. Ngoài ra còn một số chế định xử phạt vi phạm quyền con người. Hiến pháp bảo đảm cho các dân tộc thiểu số có quyền giữ ngôn ngữ, văn bản, văn hóa,
trường học riêng…
Thiết chế nhà nước Ấn Độ tổ chức theo hình thức tam quyền phân lập. Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội gồm Tổng thống và hai viện: Viện Dân tộc hay Hội đồng các bang (Thượng nghị viện - Rajya sabha) và Viện Nhân dân (Hạ nghị viện - Loksabha). Viện Dân tộc gồm 250 nghị sĩ, trong đó có 12 người do Tổng thống chỉ định thường là những nhân vật nổi tiếng trong các hoạt động triết học, khoa học, nghệ thuật hoặc xã hội, 238 người còn lại do Viện Lập pháp các bang bầu ra. Viện Dân tộc là một cơ quan thường nhiệm với nhiệm kỳ hoạt động 6 năm cứ 2
44
năm một lần thay 1/3 số nghị sĩ [88, tr.14]. Chủ tịch Viện Dân tộc là Phó Tổng thống Ấn Độ. Viện Nhân dân gồm 545 nghị sĩ, trong đó có 2 người được Tổng thống bổ nhiệm vào ghế phụ đại diện cho cư dân Ấn Độ gốc Anh. Còn lại số nghị sĩ tính theo số dân từng bang và được công dân bầu trực tiếp và bỏ phiếu theo nhiệm kỳ 5 năm. Công dân phải trên 30 tuổi đối với Viện Dân tộc và 25 tuổi đối với Viện Nhân dân mới được vào danh sách bầu cử. Tổng thống có quyền triển hạn hoặc giải tán Viện Nhân dân [88, tr.15]. Quốc hội được quyền thảo luận những vấn đề chung, giám sát các hoạt động của các cơ quan nhà nước theo Hiến pháp và pháp luật.
Theo Hiến pháp, Tổng thống là người đứng đầu nhà nước và là Tổng tư lệnh quân đội. Tổng thống được bầu bởi đại cử tri của hai viện và các viện lập pháp bang, nhiệm kỳ 6 năm và có quyền tái cử. Tổng thống bổ nhiệm Thủ tướng nhưng phải được sự ủng hộ của đa số nghị viện của Viện Nhân dân. Theo đề nghị của Thủ tướng, Tổng thống bổ nhiệm các Bộ trưởng. Nhìn chung, Tổng thống không trực tiếp nắm quyền hành pháp mà tập trung cho chính phủ, do vậy, Tổng thống thường có vai trò mờ nhạt đối với lịch sử Ấn Độ. Chính phủ Ấn Độ, đứng đầu là Thủ tướng và các Bộ trưởng do Tổng thống chỉ định nhưng chịu trách nhiệm trước Viện Nhân dân. Thủ tướng Ấn Độ có vai trò rất lớn, là người đề ra và điều hành trực tiếp mọi vấn đề quan trọng của quốc gia. Điều 74 của Hiến pháp quy định chính phủ làm việc theo trách nhiệm tập thể.
Quyền tư pháp tập trung vào Tòa án tối cao. Tòa án tối cao gồm 7 thẩm phán do Tổng thống chỉ định và Quốc hội thông qua. Đây là cơ quan cao nhất lãnh đạo chung hệ thống hành pháp ở tất cả các bang, theo bộ luật dân sự và hình sự thống nhất.
Hệ thống tổ chức các bang cơ bản giống như chính quyền trung ương, có Quốc hội lập pháp, một số bang có 2 viện. Đứng đầu bang là Thống đốc do Tổng thống bổ nhiệm với nhiệm kỳ 5 năm, chính phủ bang do Thủ hiến đứng đầu chịu trách nhiệm trước Quốc hội lập pháp bang. Nhìn chung, hệ thống tổ chức bang cơ bản là thống nhất, tuy nhiên tùy theo đặc trưng từng bang mà có những quy định cụ thể chặt chẽ, phức tạp hơn.
Mặc dù quyền bầu cử cho những công dân trưởng thành đã được đề cập từ thập niên 1920 trong Quốc hội, nhưng nó hầu như không có khả năng thực hiện bởi
45
những rào cản của chính quyền thực dân Anh. Đến khi Hiến pháp được thông qua, một lần nữa, đây là cơ hội để mọi người dân Ấn Độ thực hiện được ước mơ của mình. Hiến pháp quy định quyền bầu cử cho mọi công dân Ấn Độ trên 21 tuổi, không phân biệt dân tộc tôn giáo, giới tính… Đối với công dân Ấn - Anh thì có những hạn chế riêng trong bầu cử.
Như vậy, trong gần 3 năm (1947 - 1949), các thành viên của Quốc hội lập hiến đã vận dụng mọi trí lực để soạn nên bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên cho nước Ấn Độ. Bản Hiến pháp 1950 đã trở thành cơ sở để Ấn Độ xây dựng nền dân chủ. Hiến pháp mới được Quốc hội thông qua và có hiệu lực vào ngày Ấn Độ tuyên bố độc lập 26/1/1950 trong bầu không khí phấn khởi của người dân cả nước. Tại buổi lễ được tổ chức ở Sảnh Durbar thuộc phủ Tổng thống Rashtrapathi Bhavan, Toàn quyền Ấn Độ Rajagopalachari đã long trọng tuyên bố Ấn Độ là “quốc gia dân chủ và toàn vẹn lãnh thổ”. Thiết chế chính trị của Ấn Độ được tổ chức trên cơ sở của nhà nước Cộng hòa Liên bang theo thể chế dân chủ tư sản với hình thức tam quyền phân lập từ trung ương đến hệ thống các bang. Sự kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống kết hợp với ý thức dân tộc, hấp thụ tinh hoa văn hóa nhân loại đã tạo cho Hiến pháp vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của thực tại xã hội Ấn Độ vừa thoát khỏi chế độ thực dân và những tàn tích phong kiến, vạch ra xu hướng phát triển độc lập, dân chủ, tiến bộ và hiện đại của quốc gia Ấn Độ mới. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng đảm bảo cho nhà nước Ấn Độ hoạt động dựa trên những nguyên tắc thống nhất và là nền tảng cho sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc ở quốc gia này.
2.2.2.3. Trên lĩnh vực ngoại giao * Ấn Độ và khối Liên hiệp Anh Từ năm 1947 đến năm 1949, ở Ấn Độ diễn ra nhiều cuộc xung đột gay gắt xung quanh vấn đề: Ấn Độ nên ở lại trong Đế quốc Anh (năm 1948 là khối Liên hiệp Anh) hay không? Quá trình tranh luận xuất hiện hai nhóm ý kiến khác nhau trong các cuộc họp của Đảng Quốc đại cũng như trong Quốc hội lập pháp và dư luận quần chúng.
Vấn đề này lại tiếp tục được tranh luận gay gắt tại Đại hội lần thứ 55 của Đảng Quốc đại họp ở Jaipua tháng 12/1948. Từ ngày 21 đến ngày 27/4/1949, J. Nehru đã tham dự Hội nghị hàng năm cấp thủ tướng tại London. Hội nghị diễn ra
46
trong bầu không khí căng thẳng do đề cập đến nhiều vấn đề nhạy cảm về quy chế, hình thức hợp tác và vị thế của các nước thành viên khối Liên hiệp trước Anh hoàng… Người Anh tỏ ý muốn duy trì vị trí của Anh hoàng đối với các nước thành viên và phản đối việc thành lập nền Cộng hòa ở Ấn Độ. Điều đó vi phạm nguyên tắc thành lập nước Cộng hòa Ấn Độ độc lập có chủ quyền đã được thống nhất tại kỳ họp Quốc hội lập pháp tháng 4/1949. Thủ tướng J. Nehru kiên quyết tuyên bố Ấn Độ sẽ thành lập thể chế Cộng hòa, bất chấp điều đó không thể dung hòa và thậm chí đi ngược lại với thể chế chính trị Quân chủ lập hiến của nước Anh. Ấn Độ và Canada phản đối trao cho vua nước Anh quyền làm vua của Liên hiệp. Ấn Độ cũng chống lại việc vua nước Anh bổ nhiệm Tổng thống Ấn Độ dù là về mặt hình thức. Đề nghị đặt dấu hiệu cờ nước Anh vào góc cờ Ấn Độ cũng bị từ chối. Rõ ràng, Ấn Độ muốn ở lại trong khối Liên hiệp nhằm mục đích hợp tác và phát triển kinh tế, hoàn toàn không chấp nhận mọi sự ảnh hưởng và can thiệp về chính trị, đường lối đối nội cũng như đối ngoại dù là về hình thức của nước Anh. Đây là cuộc đấu tranh trực diện của Ấn Độ với thực dân Anh nhằm xóa bỏ quy chế tự trị, giành độc lập hoàn toàn.
Cuối cùng, Anh buộc phải chấp nhận và đi đến một phương thức mang tính thỏa hiệp để giải quyết mối quan hệ với các thành viên trong khối. Điều này được nêu rõ trong Tuyên ngôn London ban hành vào ngày 27/4/1949 là:
Chính phủ Vương Quốc Anh, Canada, Australia, New Zealend, Nam Phi, Ấn Độ, Pakistan và Ceylon thừa nhận là thành viên chính thức của khối Liên hiệp Anh, dưới sự ủng hộ chung của Anh hoàng với tư cách là biểu tượng của khối hòa hợp tự do đối với các thành viên của khối Liên hiệp, có sự cân nhắc về những thay đổi của Hiến pháp Ấn Độ trong thời gian tới. Chính phủ Ấn Độ, dù bất cứ trường hợp nào cũng trịnh trọng tuyên bố và khẳng định rằng Ấn Độ có tư cách là thành viên đầy đủ chính thức của khối Liên hiệp thừa nhận Anh hoàng là biểu tượng của khối Liên hiệp mà nó là thành viên và là trụ cột [96, tr.70].
Ngày 26/11/1949, Quốc hội lập pháp đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa Ấn Độ và chính thức có hiệu lực hai tháng sau đó. Hiến pháp không nói đến quan hệ với khối Liên hiệp Anh, không đề cập đến công thức công nhận vua Anh là
47
biểu tượng của sự thống nhất trong khối. Ngày 16/12/1949, Ấn Độ gửi cho khối Liên hiệp những điều khoản bổ sung và ngày 14/1/1950, khối này chính thức tuyên bố hoàn thành mọi điều khoản công nhận nước Cộng hòa Ấn Độ tiếp tục là thành viên chính thức của khối Liên hiệp Anh.
* Quan hệ Ấn Độ - Pakistan Pakistan là một quốc gia được tách ra từ Ấn Độ sau Kế hoạch Mountbatten (15/8/1947). Trong quá trình chia cắt, Pakistan vẫn tiếp tục dựa vào người Anh để đấu tranh giành giật lãnh thổ cùng với người Anh thực hiện những âm mưu chống lại Chính phủ Ấn Độ. Do vậy, quan hệ Ấn Độ - Pakistan là mối quan hệ có vị trí rất quan trọng trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ. Những bất đồng sâu sắc trong vấn đề chia cắt: biên giới, nguồn nước, yêu cầu tài chính và thương mại, mâu thuẫn dân tộc và tôn giáo… làm cho quan hệ hai nước luôn trong tình trạng căng thẳng. Tuy nhiên, điểm mấu chốt tạo nên sự căng thẳng trong mối quan hệ này chính là vấn đề Kashmir (chúng tôi sẽ làm rõ trong chương 3 và 4).
Cuối tháng 8/1947, Mountbatten trực tiếp thuyết phục lãnh vương về khả năng thể hiện ý nguyện của nhân dân, tổ chức trưng cầu dân ý nhằm quyết định tương lai của Kashmir. Thực chất việc này chẳng khác gì việc yêu cầu Kashmir sáp nhập vào Pakistan vì 70% cư dân xứ này là tín đồ Hồi giáo. Lãnh vương Kashmir là người Hindu lưỡng lự không biết lựa chọn nên gia nhập vào xứ tự trị nào, trong khi cư dân Hindi của tiểu quốc này đã tập hợp dưới sự lãnh đạo của Hội nghị nhân dân Kashmir đấu tranh quyết liệt, yêu cầu sáp nhập vùng đất này vào Ấn Độ.
Hành động của Mountbatten thúc đẩy ban lãnh đạo Đảng Quốc đại cố gắng hơn trong cuộc đấu tranh giành quyền quản lý Kashmir. Tháng 9/1947, Gandhi đến Kashmir và đã giải thoát cho trưởng giáo đạo Hồi Abdulla khỏi nhà tù, tạo uy tín lớn trong cư dân Hồi giáo. Điều này đã kích động Pakistan tiến xa hơn trong mưu đồ lật đổ chính quyền ở Kashmir. Ngày 22/10/1947, Chính phủ Pakistan hậu thuẫn cho 4,5 nghìn quân tấn công Kashmir, buộc lãnh vương Kashmir phải bỏ chạy về Jammu và kêu gọi sự giúp đỡ từ phía Ấn Độ. Ngay lập tức, ngày 27/10/1947, quân đội Ấn Độ đã được đưa tới, giao tranh xảy ra một ngày sau đó.
Trước áp lực của Anh và nhiều lý do khác, Chính phủ Ấn Độ tạm dừng tiến
quân và đưa vấn đề Kashmir lên Liên hợp quốc. Một Ủy ban quốc tế về Kashmir
48
được thành lập do Mỹ đứng đầu. Vấn đề Kashmir bị quốc tế hóa và chịu sự tác
động sâu sắc mưu đồ của Anh và Mỹ. Ủy ban này yêu cầu quân đội hai nước rút
quân khỏi Kashmir và thực hiện trưng cầu dân ý, nhưng cả Ấn Độ và Pakistan
không đồng ý. Kết quả là Hiệp định ngừng bắn được ký kết và có hiệu lực từ ngày
1/1/1949 theo đường biên giới mà hai bên chấp nhận. Ranh giới tạm thời đó đã biến
thành ranh giới lâu dài giữa hai nước khi những động thái chính trị tiếp theo kế
hoạch của Liên hợp quốc không được thực hiện được do sự nhùng nhằng trong lập
trường của hai phía, đặc biệt là âm mưu của Anh - Mỹ ở khu vực này. Như vậy,
tương lai cuối cùng của Kashmir vẫn còn bỏ ngõ, vùng đất này trở thành nơi nhạy
cảm nhất trong quan hệ Ấn Độ - Pakistan đến tận ngày nay. Đúng như J. Nehru
tuyên bố ngày 6/12/1950: “Trong các vấn đề quan hệ quốc tế thì quan hệ với
Pakistan là vấn đề quan trọng nhất” [34, tr.76].
* Quan hệ với các nước lớn
Quan điểm đối ngoại của J. Nehru ngay từ những ngày đầu giành được
quyền tự trị là thắt chặt mối quan hệ với các nước lớn trên cơ sở tôn trọng chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, giải quyết vấn đề quốc tế bằng thương lượng,
hòa bình. Nhiệm vụ đó có vai trò rất quan trọng bởi nó tạo điều kiện để khôi phục
và phát triển kinh tế, khẳng định vị thế của Ấn Độ với tư cách là nhân tố lớn trong
hệ thống quan hệ quốc tế hiện đại. Ấn Độ đã thiết lập quan hệ với Liên Xô, Mỹ,
Trung Quốc, Anh, Pháp… và nhiều nước khác. Việc khẳng định quan hệ với các
nước lớn trong thời kỳ này là cơ sở quan trọng để Ấn Độ thực hiện đường lối đối
ngoại trung lập trong giai đoạn tiếp theo.
Nét đặc trưng trong quan hệ Ấn Độ - Mỹ là quá trình tìm hiểu và xích lại gần
nhau do những động cơ không giống nhau từ cả hai phía. Đối với Ấn Độ, sau khi
giành quyền tự trị, quan hệ với Mỹ là cần thiết để thu hút vốn đầu tư, viện trợ kỹ
thuật nhằm khôi phục và phát triển đất nước, đồng thời cũng hạn chế sự lũng đoạn
của Anh. Về phía Mỹ, Ấn Độ được xác định là quốc gia có vị trí chiến lược đặc biệt
quan trọng trong kế hoạch toàn cầu của Mỹ, sẽ là “con đê lớn nhất ngăn chặn làn
sóng đỏ” lan tràn ra khắp châu Á - Thái Bình Dương. Mặt khác, thông qua viện trợ,
cho vay, Mỹ cũng nhằm lũng đoạn, gây ảnh hưởng và lôi kéo Ấn Độ vào các khối
49
quân sự. Tháng 10/1949, J. Nehru sang thăm chính thức Hoa Kỳ. Điều đặc biệt
trong mối quan hệ này là luôn duy trì trạng thái cân bằng, không phát triển rầm rộ
nhưng cũng không đứt đoạn. Đây là một biểu hiện tích cực của tư tưởng không liên
kết, làm nền tảng cho quan hệ ở giai đoạn sau.
Thiết lập quan hệ với Trung Quốc là vấn đề Chính phủ Ấn Độ rất coi trọng
bởi quốc gia láng giềng này có vị thế chính trị rất lớn ở châu Á và thế giới. Chính vì
thế, sau khi giành được quyền tự trị, Ấn Độ là một trong những nước đầu tiên chính
thức công nhận nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (30/12/1949), làm cơ sở để
xây dựng quan hệ sau này. Sự phù hợp trong chính sách và lợi ích của Trung Quốc
và Ấn Độ trong thời kỳ sau khi hai nước giành độc lập đã đưa đến mối quan hệ hữu
nghị giữa hai quốc gia lớn nhất châu Á này, từ đó góp phần tăng cường sức mạnh
cho phong trào giải phóng dân tộc và đoàn kết ở các nước Á - Phi. Từ năm 1949
cho đến cuối thập niên 50 của thế kỷ XX được coi là thời kỳ “trăng mật” trong quan
hệ hai nước. Tuy nhiên, hai nước cũng đứng trước nhiều thách thức nhất là vấn đề
Tây Tạng, để rồi quan hệ này trở nên xấu đi trong những năm 60.
Quan hệ Ấn Độ - Pháp trong giai đoạn đấu tranh từ tự trị đến Cộng hòa là
mối quan hệ cơ bản xoay quanh việc đấu tranh nhằm thu hồi những vùng đất của
Ấn Độ thuộc Pháp như: vùng Chandernagore, Pondicherry, Janaon và Karikal. Sự
kiên quyết của Chính phủ Nehru trong bối cảnh vị thế Ấn Độ ngày càng cao, áp lực
trong và ngoài nước ngày càng mạnh đã buộc người Pháp phải nhượng bộ. Cuộc
trưng cầu dân ý ở Chandernagore là thành tựu lớn nhất của Ấn Độ trong quan hệ
với Pháp từ 1947 đến 1950, đặt nền tảng, cách thức giải quyết bằng hòa bình và
thương lượng các vùng đất còn lại nhiều năm sau đó.
Quan hệ Ấn Độ - Liên Xô có thể nói là mối quan hệ giữa một siêu cường,
một cực trong Trật tự hai cực với một nước rộng lớn, có vị thế rất quan trọng trong
thế giới thứ ba và ở châu Á. Ngày 13/4/1947, Ấn Độ và Liên Xô ký hiệp định thiết
lập quan hệ ở cấp đại sứ, mở ra chương mới trong quan hệ hai nước. Trong giai
đoạn 1947 - 1950, quan hệ hai nước dù có chuyển biến nhưng chưa thật sự tạo nên
bước ngoặt lớn do sự hoài nghi của Liên Xô đối với nền độc lập và chính sách đối
ngoại của Ấn Độ. Việc Ấn Độ có thái độ không dứt khoát trong vấn đề Đông
50
Dương ở hai Hội nghị Liên Á (1947 và 1949), vấn đề Tây Tạng (1950), giai đoạn
đầu trong vấn đề Triều Tiên… và chuyến thăm Mỹ năm 1949 của J. Nehru làm cho
Liên Xô tỏ ý nghi ngại. Cho đến khi Ấn Độ tuyên bố độc lập ngày 26/1/1950, quan
hệ hai nước mới có điều kiện thuận lợi để tìm hiểu và xích lại gần nhau hơn.
Tiểu kết chương 2
Sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ diễn ra trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều biến động. Những thay đổi địa chiến lược và địa chính trị trên bàn cờ thế giới sau chiến tranh làm cho quan hệ quốc tế càng trở nên phức tạp hơn. Hệ quả của nó là sự ra đời của trật tự lưỡng cực, sự đối đầu quyết liệt của hai khối Đông - Tây. Mặt khác, những toan tính chiến lược của các cường quốc làm cho khu vực Nam Á vốn đã bất ổn lại càng trở nên phức tạp hơn, thể hiện rõ
tương quan lực lượng của Trật tự thế giới thời kỳ Chiến tranh lạnh. Trong khi đó, phong trào giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc trên thế giới phát triển mạnh mẽ càng thúc đẩy cho sự nghiệp bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc của nhân dân Ấn Độ nhanh chóng thắng lợi.
Bên cạnh đó, nhà nước Ấn Độ tuyên bố độc lập trong bối cảnh Trật tự thế giới hai cực Xô - Mỹ chi phối mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế. Do vậy, quá trình đấu tranh từ tự trị đến Cộng hòa (1947 - 1950) đặt Chính phủ Ấn Độ phải giải quyết những nhiệm vụ hết sức nặng nề, những khó khăn của tình hình trong nước, khẳng định con đường phát triển riêng của Ấn Độ ở Nam Á với tư cách là một chủ thể lớn. Đó là từng bước cải tạo, xây dựng và phát triển nền kinh tế với những đặc trưng riêng, phù hợp với điều kiện đặc thù của Ấn Độ. Đó là quá trình đấu tranh quyết liệt để cải tổ nền chính trị, khẳng định nền dân chủ thông qua Hiến pháp năm 1950. Đặc biệt, Ấn Độ đã bước đầu xây dựng một đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ trong quan hệ với các nước lớn. Đây là những thành quả lớn lao đầu tiên, đặt nền tảng và cơ sở vững chắc cho sự trỗi dậy mạnh mẽ của Ấn Độ, tiếp tục sự nghiệp bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc trong kỷ nguyên Thủ tướng J. Nehru (1950 - 1964).
51
Chương 3 NỘI DUNG CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA CỘNG HÒA ẤN ĐỘ TRONG GIAI ĐOẠN 1950 - 1964
Độc lập dân tộc luôn bao hàm hai nội dung cơ bản, gắn bó chặt chẽ với nhau,
đó là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và độc lập trong
quan hệ quốc tế. Đối với các quốc gia, dân tộc, vấn đề bức thiết đặt ra sau độc lập là
phải củng cố trên mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao…
Điều này có thành công hay không còn tùy thuộc vào chính sách phát triển quốc gia
và chính quyền nước đó hoạch định nên. Hơn nữa, khi đã củng cố được độc lập dân
tộc, những nhà lãnh đạo của quốc gia không nên coi đó là quá trình đã hoàn tất, mà
nên xem đây là nhiệm vụ thường xuyên của nhà nước, có điều chỉnh phù hợp với sự
thay đổi trong nước và xu thế chung của thời đại.
Với Ấn Độ, sau khi giành quyền tự trị và từng bước đấu tranh để xác lập nền
Cộng hòa, vấn đề củng cố độc lập dân tộc được đặt ra cấp thiết. Trên thực tế, chính
quyền của Thủ tướng J. Nehru phải đối phó với những thách thức đe dọa trực tiếp
tới nền độc lập còn non trẻ, đặc biệt, vấn đề toàn vẹn lãnh thổ chưa được giải quyết
dứt điểm. Đứng trước xu thế chung của thời đại, thông qua cách thức hoạch định
đường lối phát triển đất nước trên các lĩnh vực khác nhau, kế thừa quá trình xây
dựng nền tảng ban đầu trong thời kỳ tự trị 1947 - 1950, trong giai đoạn 1950 - 1964,
“kỷ nguyên J. Nehru”, Ấn Độ đã giải quyết cụ thể yêu cầu đặt ra của quốc gia dân
tộc, từng bước tạo sự ổn định, củng cố độc lập thành công.
3.1. TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ
Giành được độc lập tự do cho đất nước là điều rất khó khăn, song quan
trọng hơn là phải xây dựng đất nước vững mạnh về kinh tế, tạo cơ sở cho việc xây
dựng và phát triển quốc gia một cách toàn diện. Đó là vấn đề cấp thiết đặt ra cho
nhân dân và Chính phủ Ấn Độ. Ý thức được điều này, Chính phủ Ấn Độ xác định
những mục tiêu như sau: đưa đất nước thoát khỏi nghèo đói và lạc hậu; phấn đấu
xây dựng nền kinh tế vững mạnh với nền khoa học kỹ thuật tiên tiến, độc lập tự
chủ. Thực hiện mục tiêu trên, trước hết, Ấn Độ xác định những hướng ưu tiên
52
chiến lược và sách lược cho nền kinh tế, được cụ thể hóa trong các kế hoạch phát
triển kinh tế 5 năm.
3.1.1. Chiến lược và sách lược cho nền kinh tế Ấn Độ Để xây dựng Ấn Độ thành một nước công nghiệp giàu mạnh, tự lực tự cường, theo quan điểm của các nhà lãnh đạo Ấn Độ, vấn đề then chốt là phải thực hiện một cuộc cải biến căn bản trong khoa học - kỹ thuật, phải đưa nền khoa học - kỹ thuật của Ấn Độ từ tình trạng lạc hậu lên trình độ tiên tiến.
Ngày 23/5/1956, phát biểu tại Quốc hội về kế hoạch 5 năm lần thứ hai, Thủ
tướng J. Nehru đã nhấn mạnh:
Khi nói về kế hoạch hóa, chúng ta phải nghĩ tới nghĩa công nghiệp của khái niệm đó, vì chính sự phát triển của khoa học và công nghệ đã cho phép con người có thể sản xuất ra được những của cải mà không một ai có thể mơ ước được. Đó chính là cái đã làm cho các nước khác hùng mạnh và giàu có, và chỉ có thông qua sự phát triển của quá trình công nghệ mà chúng ta có thể lớn lên và trở thành một quốc gia thịnh vượng và hùng mạnh; không có con đường nào khác… Do đó, nếu Ấn Độ muốn tiến lên, Ấn Độ phải tiến lên trong khoa học và công nghệ, Ấn Độ phải sử dụng những kỹ thuật mới nhất [18, tr.9].
Và để bác bỏ quan điểm sự ưu tiên quá cao cho khoa học kỹ thuật có thể sẽ
làm trầm trọng thêm tình trạng nghèo khổ, Thủ tướng J. Nehru nói tiếp:
Phát triển khoa học kỹ thuật là một tất yếu, là không tránh khỏi, nhưng không vì thế mà gây ra sự bần cùng và bất hạnh… Sự nghèo khổ của chúng ta là do sự lạc hậu về khoa học và công nghệ gây ra, do đó bằng cách cải tạo sự lạc hậu đó, chúng ta không những tạo ra được sự giàu có mà còn tạo ra được việc làm [18, tr.9].
Quan điểm này được quán triệt qua các kế hoạch phát triển 5 năm cũng như
trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, kể cả trong giáo dục và đào tạo.
Tiếp đến là vấn đề nông nghiệp. Đối với đất nước mà nạn đói thường xuyên xảy ra như ở Ấn Độ, không thể không dành ưu tiên hàng đầu cho phát triển nông nghiệp nhằm giải quyết vấn đề thiếu thốn lương thực. Bước đi đầu tiên là tiến hành cải cách ruộng đất (bắt đầu từ năm 1947, kết thúc vào năm 1954). Bên cạnh đó, nhà
53
nước còn ủng hộ phong trào “hiến đất” (Bhudan) và “hiến làng” (Gramdan). So với
phong trào “hiến làng” thì “hiến đất” có kết quả hơn. Riêng ở hai bang Pradesh, Bihar, trong năm 1955, chủ đất đã tự nguyện hiến 4,3 triệu mẫu.
Chính nhờ kết quả bước đầu từ hai phong trào trên, diện tích gieo cấy ở Ấn Độ được mở rộng đã đưa sản lượng nông nghiệp tăng lên, mặc dù năng suất cây trồng vẫn như cũ. Bên cạnh đó, vai trò nhà nước cũng hết sức quan trọng. Các tổ chức nhà nước quản lý khoản 7,5 triệu mẫu đất khai hoang, xây dựng những công trình thủy lợi lớn nhỏ (tăng diện tích được tưới nước, từ năm 1951 đến năm 1965, lên gấp 2 lần), sửa sang đường sá, tổ chức mạng lưới trại chăn nuôi, trại giống, phổ biến kinh nghiệm nông học tiên tiến, lập các hợp tác xã… Đặc biệt, thấy được sự cần thiết phải chuyển hướng phát triển nông nghiệp từ quảng canh sang thâm canh, Chính phủ Ấn Độ đã có kế hoạch nghiên cứu và thực hiện thí điểm nhằm tăng sản
lượng lương thực ở giai đoạn sau. Đến đầu những năm 60, kết quả thu được từ cải cách ruộng đất và mở rộng diện tích canh tác làm cho tổng sản phẩm nông nghiệp tăng 65%. Chính sách ưu tiên phát triển nông nghiệp của Ấn Độ vừa mang ý nghĩa
sách lược, vừa có ý nghĩa chiến lược. Nó không chỉ nhằm giải quyết nạn đói trước mắt, tạo việc làm và cải thiện mức sống cho 2/3 tổng số dân sống nhờ nông nghiệp mà tạo cơ sở vững chắc cho quá trình công nghiệp hóa.
Cuối cùng là phát triển một nền công nghiệp đa dạng và vững mạnh. Mức
tăng tỷ trọng giá trị công nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân là thước đo phản ánh mức độ công nghiệp hóa của đất nước. Mức tăng này có thể đạt được tương đối nhanh nhờ quá trình “đa dạng hóa” các ngành công nghiệp của đất nước. Nhưng mức tăng đó chưa phản ánh được sức mạnh của nền công nghiệp nếu trong số các ngành công nghiệp “đa dạng” đó không có vai trò chủ lực của các ngành công nghiệp trụ cột (sắt thép, luyện kim…) và các ngành mũi nhọn thể hiện trình độ phát triển mới, năng động của khoa học - kỹ thuật (điện tử, tự động hóa…). Chính vì vậy, phát triển một nền công nghiệp đa dạng và vững mạnh được coi là mục tiêu cơ bản của chiến lược công nghiệp hóa tự lực tự cường của Ấn Độ.
Năm 1956, khi bắt đầu kế hoạch 5 năm lần thứ hai, Chính phủ Ấn Độ công bố Nghị quyết về chính sách công nghiệp hóa, quyết định tăng cường đầu tư cho các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp cơ bản. Trong các ngành này, sắt thép
54
được Thủ tướng J. Nehru coi là biểu tượng sức mạnh của nền kinh tế và là ngành đem lại vinh quang cho Ấn Độ trong tương lai, tiếp đó là các ngành luyện kim màu, dầu lửa, than, phân bón và cơ khí nặng. Những ngành công nghiệp trụ cột ở trên chủ yếu tập trung trong khu vực kinh tế nhà nước. Các ngành khác cũng được chú trọng và khuyến khích, nhưng chủ yếu để khu vực tư nhân tự do phát triển dựa trên những chính sách, biện pháp điều tiết và kích thích của nhà nước.
Ngoài ra, ở một đất nước như Ấn Độ, trải qua hàng thế kỷ dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, nền tảng ban đầu của hạ tầng cơ sở còn nhỏ yếu. Do vậy, cơ sở hạ tầng cũng là một lĩnh vực được ưu tiên phát triển. Nhà nước dành sự quan tâm rất cao cho việc phát triển hệ thống thủy lợi, đường bộ, đường sắt, bến cảng và cả hệ thống giáo dục, y tế. Giống như các công trình công nghiệp nặng, phần lớn các công trình cơ sở hạ tầng được khu vực kinh tế nhà nước đảm nhận.
Như vậy, những ưu tiên chiến lược về khoa học - kỹ thuật, nông nghiệp, công nghiệp và hạ tầng cơ sở cho cả quá trình công nghiệp hóa đã được khẳng định, nhưng không phải lúc nào chúng cũng dành được những vị trí ưu tiên như nhau, mà tùy theo tình hình và điều kiện cụ thể của mỗi thời kỳ, lĩnh vực này có thể được coi trọng hơn lĩnh vực kia. Điều này được phản ánh cụ thể trong các kế hoạch phát triển
5 năm của Ấn Độ.
3.1.2. Chú trọng phát triển kinh tế nhà nước và khoa học công nghệ 3.1.2.1. Phát triển thành phần kinh tế nhà nước Hiến pháp Ấn Độ cũng như những văn kiện có tính chất cương lĩnh về kinh tế của Đảng Quốc đại đều nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong phát triển nền kinh tế đất nước. Theo quy định ghi trong Nghị quyết về chính sách công nghiệp hóa ban hành năm 1956, khu vực kinh tế nhà nước được trao độc quyền nắm các ngành công nghiệp then chốt có tầm quan trọng về kinh tế và an ninh quốc phòng. Điều này nhằm củng cố sản xuất của quốc gia, kiểm soát các hoạt động của khu vực tư nhân, kích thích sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế (kể cả khu vực nhà nước và tư nhân) [76, tr.280]. Các thể chế về kinh tế và tài chính của nhà nước trong khi thực hiện việc kiểm soát và quản lý phải dựa trên một loạt các đạo luật đặc biệt như: các quy định ngoại hối, kiểm soát xuất nhập khẩu (Đạo luật năm 1947), Luật Ngân hàng 1949, Đạo luật về các ngành công nghiệp năm 1951 (đặc
55
biệt, trong đó quy định các quy tắc cấp phép cho phép doanh nghiệp hoạt động và mở rộng sản xuất); Luật hàng hóa thiết yếu năm 1955 (trong đó ủy quyền cho nhà
nước ấn định giá)…
Nhận thức tầm quan trọng của kinh tế nhà nước, Chính phủ Ấn Độ đã tập trung vốn đầu tư vào khu vực này. Trong vòng 10 năm (1951 - 1961) vốn đầu tư vào các công ty nhà nước tăng hơn 20 lần (263 triệu/5452 triệu rupee), còn các công
ty tư nhân chỉ tăng 1,5 lần (7491 triệu/11.894 triệu rupee). Nhà nước chủ trương hướng các nguồn đầu tư vào những xí nghiệp công nghiệp, nhất là công nghiệp nặng như luyện kim đen và màu, chế biến dầu, hóa chất, sản xuất vật liệu xây dựng và năng lượng (từ 9,1 tỷ rupee năm 1948, lên 3,6 tỷ rupee năm 1962). Việc tăng vốn đầu tư làm cho công nghiệp Ấn Độ phát triển nhanh chóng. Nếu trong 10 năm trước khi giành độc lập (1937 - 1947), công nghiệp hàng năm chỉ tăng 0,6%, thì đến những năm của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất là 6,5%, lần thứ hai là 7,3% và đầu kế hoạch 5 năm lần thứ ba, mặc dù có ảnh hưởng của chiến tranh biên giới Trung - Ấn, vẫn tăng gần 4,7%. Nếu tính chung so với năm 1948, tổng sản lượng công nghiệp năm 1964 tăng 2,5 lần - trong đó phần khu vực nhà nước đạt gần 18%.
Sự tăng tiến của khu vực kinh tế nhà nước đã ảnh hưởng đến khu vực kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, từ cuối những năm 50 trở đi, khu vực nhà nước đã có những bước lùi đáng kể trước khu vực tư nhân. Đó là do cấu trúc nền kinh tế nhiều thành phần của Ấn Độ và áp lực của giai cấp đại tư sản. Do vậy, dù vẫn còn một vài hạn chế, nhà nước đã chú ý đến phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Mặc dù đạt được nhiều thành tựu, kết quả công nghiệp hóa ở giai đoạn này (1950 - 1964) vẫn chưa thật sự cao. Sản phẩm làm ra chưa tiêu thụ hết đã dẫn đến việc chưa sử dụng tối đa công suất của máy, do vậy phải kéo dài thời hạn công nghiệp hóa vì không đạt được chỉ tiêu đề ra.
3.1.2.2. Tăng cường phát triển khoa học công nghệ Sau ngày độc lập và trong thập kỷ đầu của nền Cộng hòa, với tầm nhìn chiến lược, sự quan tâm đặc biệt từ chính phủ, nền khoa học và công nghệ của Ấn Độ phát triển có kế hoạch và trở thành một lực lượng to lớn để tạo ra những thay đổi về kinh tế và xã hội. Với nhận thức: “Chỉ có khoa học và công nghệ mới đưa một đất nước tuy giàu có về tài nguyên khoáng sản và truyền thống văn hóa nhưng lại bị
56
nạn mù chữ, đói nghèo đi lên” [81, tr.141], Chính phủ Ấn Độ đã quán triệt sâu sắc
quan điểm tiến bộ này và được ghi nhận trong bản Nghị quyết chính sách về khoa học tháng 3/1958, khi bàn về vai trò quan trọng của khoa học công nghệ đối với sự phát triển của kinh tế, xã hội và văn hóa Ấn Độ. Theo đó:
1. Khuyến khích, thúc đẩy và duy trì bằng mọi biện pháp thích hợp việc truyền bá khoa học và nghiên cứu khoa học trên tất cả các lĩnh vực: khoa học đơn thuần, ứng dụng và giáo dục. 2. Đảm bảo cung cấp một cách thích hợp cho các nhà khoa học làm công tác nghiên cứu có chất lượng cao nhất, thừa nhận công việc của họ là một bộ phận quan trọng để làm cho đất nước hùng mạnh [34, tr.55].
Trên cơ sở này, những bước đi cụ thể trong cơ cấu và đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao đã được Chính phủ Ấn Độ triển khai. Năm 1952, với 5 Học viện công nghệ đầu tiên của Ấn Độ ra đời tại Kharagpur, Madras, Bombay, Kanpur và New Delhi. Tất cả đều dựa trên mô hình tiên tiến của Học viện công nghệ Massachusetts của Mỹ. Điều này đã thu về những thành tựu đáng ghi nhận cho Ấn Độ, mà biểu hiện rõ nhất là số lượng lao động trình độ cao tăng vọt từ 188.000 người năm 1950 lên đến 731.500 người năm 1964. Cùng với đó là số lượng học viên đăng ký học tập tại các trường đại học đào tạo về khoa học công nghệ tăng từ 13.000 học viên năm 1950 tới 78.000 học viên năm 1964.
Là một trong những quốc gia đầu tiên nhận thức rõ tầm quan trọng của năng lượng hạt nhân trong chiến lược phát triển kinh tế và nâng cao sức mạnh quốc phòng, năm 1954, Cơ quan quản lý năng lượng nguyên tử Ấn Độ được thành lập. Chính phủ chủ trương kiểm soát chặt chẽ lĩnh vực này, chủ yếu sử dụng vào mục đích hòa bình như: sản xuất điện, công nghiệp, y học và các lĩnh vực khác. Năm 1956, lò phản ứng hạt nhân đầu tiên ở Ấn Độ ra đời tại Trombay kéo theo chuỗi các nhà máy hạt nhân cũng lần lượt xây dựng.
Chính phủ Ấn Độ đặc biệt quan tâm đến ngân sách đầu tư phát triển và nghiên cứu khoa học công nghệ. Bởi lẽ, một khi khoa học phát triển càng nhanh thì hố ngăn cách giữa các nước lạc hậu và tiên tiến càng lớn. Vì vậy, chỉ có tập trung cho phát triển khoa học thì mới có thể thủ tiêu khoảng cách này. Trong hơn một thập kỷ của nền Cộng hòa, ngân sách đầu tư vào khoa học và công nghệ ở Ấn Độ
57
tăng nhanh đáng kể: từ 200 triệu rupee trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất lên 670 triệu rupee trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai và 1,44 tỷ rupee vào đầu những năm 60. Điều đó góp phần quan trọng cho các hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ đi vào chiều sâu, đóng góp trực tiếp vào sự phát triển và tạo ra sức mạnh cho khu vực kinh tế nhà nước.
Như vậy, cho dù những cảnh báo về một đất nước với phần đông dân số mù chữ sẽ không thể là nền tảng để phát triển khoa học công nghệ, nhưng với đường lối chiến lược đúng đắn và hệ thống nghiên cứu, đào tạo khoa học kỹ thuật tiên tiến, trong giai đoạn 1950 - 1964, Ấn Độ vươn lên trở thành một thế lực thực sự cả về kinh tế lẫn quân sự.
3.1.3. Các kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế Sau ngày nước Cộng hòa Ấn Độ ra đời, những khó khăn kinh tế vẫn rất lớn. Nhiệm vụ đặt ra cho Chính phủ J. Nehru lúc này là phải cải tạo sâu sắc nền kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa, xây dựng một nền kinh tế hiện đại, thịnh vượng trên cơ sở tự lực tự cường, làm nền tảng để củng cố độc lập dân tộc và bảo vệ chủ quyền.
Theo Thủ tướng J. Nehru, Ấn Độ là một nước có diện tích rộng, đông dân, có nhiều tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, thị trường trong nước lớn, đủ đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp hiện đại. Do đó, Ấn Độ phải xây dựng một nền kinh tế hoàn chỉnh có công nghiệp, nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến và dựa vào sức mình là chính, cố gắng tạo nguồn tích lũy chủ yếu trong nước, tranh thủ sự giúp đỡ và quan hệ với nước ngoài, nhưng không lệ thuộc.
Mặc dù có sự chống đối của các lực lượng bảo thủ như V. Patel, P. Tandon,
nhưng quan điểm tự lực, tự cường của Thủ tướng J. Nehru lại được sự ủng hộ của những người theo chủ nghĩa trung tâm, cánh tả trong ban lãnh đạo Đảng Quốc đại và các cơ quan lập pháp, hành pháp trung ương, trở thành tư tưởng chỉ đạo cho toàn bộ đường lối phát triển kinh tế của Ấn Độ. Trên cơ sở đó, những mục tiêu cơ bản của các kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm đã được đề ra. Theo đó: “1. Tăng
trưởng kinh tế vững chắc; 2. Hiện đại hóa nền kinh tế; 3. Tự lực cánh sinh; 4. Công bằng xã hội; 5. Xóa bỏ nạn nghèo khổ” [18, tr.8]. Chính phủ chuyển sang
con đường xây dựng có kế hoạch, dự định tạo điều kiện để công nghiệp hóa Ấn
Độ, nhằm phát triển nền kinh tế độc lập. Chính phủ dự định củng cố nền độc lập
58
kinh tế bằng cách phát triển thành phần nhà nước trong nền kinh tế quốc dân, bởi vì, ngay cả sau khi Ấn Độ đã giành được độc lập, tư bản nước ngoài vẫn giữ vai trò quan trọng ở đây. Cụ thể: 40% tổng số vốn đầu tư vào nền kinh tế quốc dân của Ấn Độ nằm trong tay tư bản nước ngoài, chủ yếu là tư bản Anh. Tư bản Anh chiếm trên 70% tổng số vốn đầu tư của nước ngoài ở Ấn Độ, trong khi tư bản Mỹ
chưa vượt quá 16% Anh [2, tr.570].
Để thực hiện kế hoạch phát triển, tháng 3/1950, Ủy ban kế hoạch được thành lập. Tháng 7/1951, Ủy ban kế hoạch trình bày trước Quốc hội một dự thảo kế hoạch phát triển cho giai đoạn 5 năm đầu tiên (1951 - 1956). Kế hoạch này bao gồm một số dự án đã thực hiện và đang bắt đầu. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng hàng đầu cho các kế hoạch phát triển kinh tế được thực hiện trong thực tế là vốn. Do vậy, trong 3 kế hoạch 5 năm đầu tiên, tổng số nguồn vốn được đầu tư đều tăng mạnh ở các lĩnh vực (xem Phụ lục 2).
Sau thời kỳ khôi phục kinh tế (1947 - 1950), Ấn Độ bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1951 - 1956) được trình bày bởi Thủ tướng J. Nehru trước Quốc hội ngày 8/12/1951, với hai nhiệm vụ chính: Một là tiếp tục những công việc khôi phục, ổn định kinh tế và đời sống, giải quyết những vấn đề cấp bách như kiểm soát giá cả, khắc phục tình trạng khan hiếm, thiếu thốn về lương thực, thực phẩm, hàng hóa tiêu dùng, nguyên nhiên liệu công nghiệp, phục hồi hệ thống đường sắt, giải quyết những hậu quả do chiến tranh thế giới lần thứ hai và tình trạng chia cắt đất nước gây ra. Hai là xây dựng những cơ sở và nền móng ban đầu cho quá trình công nghiệp hóa, bao gồm việc xây dựng kinh tế Nhà nước và bộ máy quản lý kinh tế, xác lập hệ thống kế hoạch hóa, xây dựng và hoàn thiện các cơ sở nghiên cứu, các trạm trại, phòng thí nghiệm quốc gia [18, tr.14].
Để khắc phục tình trạng thiếu nghiêm trọng về lương thực, nông nghiệp, thủy lợi và điện lực là những ngành kinh tế được Chính phủ Ấn Độ dành ưu tiên phát triển số một trong thời kỳ này, đặt biệt là chương trình phát triển các lưu vực sông. Đầu tư vào những ngành này chiếm 44,6 % tổng số kinh phí đầu tư cho khu vực công, trong đó 20,69 tỷ rupee được phân bổ cho các dự án [142, tr.21]. Nhà nước đã chú trọng cung cấp nguồn giống, vật tư và tăng cường đưa khoa học - kỹ thuật vào đồng ruộng. Mặt khác, chính phủ cũng đẩy mạnh việc xây dựng mới và
59
cải tạo hệ thống thủy lợi phục vụ nông nghiệp nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tác hại của thiên tai. Chương trình thủy lợi đã đem lại lợi ích đáng kể cho sự phát triển nông nghiệp. Hơn 2,8 triệu hécta ruộng đất được tưới tiêu trong năm 1956 [38, tr.116]. Cho đến cuối kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, các chỉ tiêu về lương thực đều vượt mức, tăng 20% từ 55 triệu tấn (1950 - 1951) lên 65,8 triệu tấn (1955 - 1956). So với những năm đầu tiên của kế hoạch, chỉ số phát triển công nghiệp trong năm 1955 - 1956 tăng 40 %, thu nhập quốc dân (trong mục tiêu kế hoạch đề ra là 11%) tăng 15,5%. Nạn đói được đẩy lùi một bước, giá cả giảm mạnh, kinh tế ổn định. Sự
thành công bước đầu của kế hoạch 5 năm đầu tiên là cơ sở quan trọng để Chính phủ Ấn Độ tiếp tục thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tiếp theo.
Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1956 - 1961) đưa ra trong bối cảnh có sự hướng dẫn bởi một mục tiêu chính trị mới. Năm 1954, Quốc hội Ấn Độ thông qua một Nghị quyết trong việc xây dựng “Mô hình xã hội theo kiểu xã hội chủ nghĩa” như một nguyên tắc hướng dẫn chính sách kinh tế của quốc gia. Theo đó cần chú trọng: a. Xây dựng công nghiệp nặng đảm bảo máy móc cho điện khí hóa, thủy
điện, giao thông…; b. Đảm bảo kiểm tra mọi nơi đối với nguồn dự trữ, các dự án xã hội và giữ bản quyết toán cần thiết về kinh tế; c. Ngăn ngừa tình trạng vô chính phủ trong phát triển công nghiệp bằng thực hiện kiểm
tra đối với các công ty độc quyền tư nhân; d. Kế hoạch hóa nền kinh tế theo những hướng chính [82, tr.120].
Như vậy, có thể thấy rằng, với chính sách này, Chính phủ Ấn Độ nhằm mục
đích đảm bảo sự tăng trưởng cao hơn cho khu vực kinh tế nhà nước.
Bên cạnh đó, kế hoạch 5 năm lần thứ hai cũng đặt ra mục tiêu là tăng thu nhập quốc dân lên 25%, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng, đặc biệt phát triển các ngành công nghiệp nặng, nhất là sắt thép, điện lực, cơ khí nặng, tăng cường phát triển mạng lưới giao thông vận tải, mở rộng việc làm, từng bước giảm dần sự bất bình đẳng. Tổng kinh phí được đề xuất là 48 tỷ rupee cho khu vực nhà nước và 24 tỷ rupee cho khu vực tư nhân [142, tr.22]. Trên cơ sở phân bổ kinh phí cho các ngành kinh tế (xem Phụ lục 2) cho thấy, so với kế hoạch đầu tiên (4,4 tỷ
rupee đầu tư), đến kế hoạch 5 năm lần thứ hai, công nghiệp được chính phủ ưu tiên hàng đầu với 18,1 tỷ rupee. Do đó đến cuối kế hoạch, đã có thêm một số cơ sở công
60
nghiệp quan trọng. Có 3 nhà máy luyện thép đã được xây dựng, trong đó có 2 nhà máy do Liên Xô giúp (Chú giải 2). Tuy nhiên những cơ sở công nghiệp này đòi hỏi đầu tư lớn, thời gian xây dựng lâu dài, chậm sinh lợi, do đó chưa đóng góp nhiều cho việc tăng sản lượng công nghiệp trong thời gian kế hoạch.
Sản xuất công nghiệp trong kế hoạch lần thứ hai tăng 41% so với những năm đầu của kế hoạch thứ nhất, chủ yếu là ngành sản xuất thép; xây cơ sở hạ tầng và thủy điện. Trong đó, chỉ trong vòng một thập kỷ, công suất thủy điện tăng từ 0,56 triệu kw lên đến 1,93 triệu kw, nhiệt điện tăng từ 1,74 triệu kw lên 3,77 triệu kw [142, tr.24].
Hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ hai vào tháng 3/1961 cũng là lúc đánh dấu kết thúc thập kỷ đầu tiên của kế hoạch phát triển Ấn Độ, nền tảng đời sống kinh tế - xã hội, tăng trưởng công nghiệp cũng như những tiến bộ trong khoa học và công nghệ ở Ấn Độ đã có bước chuyển biến rõ rệt. Những nét phác thảo về cơ cấu kinh tế xã hội và tương lai của đất nước dần định hình. Đó là cơ sở cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế cơ bản và dài hạn trong kế hoạch 5 năm tiếp theo.
Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1961 - 1965) tiếp tục đặt ra các mục tiêu
chính sau:
1. Đảm bảo tăng thu nhập quốc dân hơn 5% mỗi năm. 2. Đảm bảo tự cung tự cấp ngũ cốc và gia tăng sản xuất nông nghiệp để đáp ứng các yêu cầu của ngành công nghiệp và xuất khẩu. 3. Mở rộng các ngành công nghiệp cơ bản như thép, hóa chất công nghiệp, nhiên liệu, năng lượng và xây dựng các nhà máy để đẩy mạnh hơn nữa yêu cầu công nghiệp hóa, đáp ứng trong thời hạn phát triển 10 năm tới. 4. Sử dụng đến mức tối đa có thể các nguồn tài nguyên, nhân lực của đất nước, đảm bảo mở rộng cơ hội việc làm. 5. Thiết lập dần dần sự bình đẳng về cơ hội, giảm bất bình đẳng trong thu nhập và phân phối từ sức mạnh của nền kinh tế [149].
Nhờ hai kế hoạch liền ưu tiên, công nghiệp đạt được tốc độ phát triển kinh tế tương đối cao trong một số năm, trung bình mỗi năm tăng 8%. Nông nghiệp thời kỳ này cũng được chú trọng hơn nhằm tiến tới tự túc về lương thực để giảm bớt những điều kiện và sức ép của Mỹ theo đạo luật P.L 480.
61
Tổng số vốn đầu tư dự kiến cho kế hoạch lần thứ ba rất cao, gấp 2,5 lần
tổng số vốn của cả hai kế hoạch trước cộng lại với 119,5 tỷ rupee, trong đó phần
ưu tiên cho khu vực kinh tế nhà nước là 75 tỷ rupee, còn lại là khu vực tư nhân.
Nhưng thời kỳ 1961 - 1965 đã nổ ra hai cuộc chiến tranh, phải tăng chi phí quốc
phòng, tiếp đó là những năm hạn hán và lạm phát. Kết quả cuối của kế hoạch đạt
kém, thu nhập quốc dân trung bình chỉ tăng 2,5% (chỉ tiêu là 5%). Lương thực sụt
giảm trong 3 năm liền từ 88 triệu tấn năm 1964 - 1965 xuống còn 72 triệu tấn
1965 - 1966. Công nghiệp tăng chậm, giá cả tăng cao, lạm phát tăng, kinh tế lâm
vào khủng hoảng.
Như vậy, từ khi Ấn Độ giành được quyền tự trị và phát triển đi lên trong những năm đầu của nền Cộng hòa, các kế hoạch phát triển kinh tế trên đây phản ánh một sự vận dụng thích hợp những ưu tiên chiến lược của Ấn Độ trong mỗi thời kỳ lịch sử để tiến tới tự lực, tự cường. Mặt khác, Chính phủ Ấn Độ cũng căn cứ vào tình hình thực tiễn của quốc gia để hoạch định cho những mục tiêu phát triển bền vững trong từng lĩnh vực, vừa thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền, vừa tạo ra biến đổi sâu sắc trong xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp của quốc gia, góp phần quyết định đến nền độc lập dân tộc.
3.2. TRÊN LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ 3.2.1. Thực hiện cải cách lãnh thổ hành chính Sau ngày độc lập, ở Ấn Độ tồn tại rất nhiều công quốc (601), bên cạnh các bang trực tiếp do trung ương quản lý. Trong những năm 1947 - 1949, 555 trong số 601 công quốc lần lượt được sáp nhập vào Ấn Độ, số còn lại nhập vào Pakistan. Đây được coi là công cuộc cải cách hành chính đầu tiên, giáng một đòn chí mạng vào các thế lực phong kiến, củng cố chính quyền nhà nước và nền độc lập.
Trải qua quá trình đấu tranh từ tự trị đến Cộng hòa, sự ra đời của bản Hiến pháp có hiệu lực từ ngày 26/1/1950 đưa Ấn Độ trở thành nước Cộng hòa có chủ quyền, đồng thời khẳng định đây là một “Nhà nước liên bang”. Căn cứ vào Hiến pháp năm 1950, nguyên tắc phân chia đơn vị hành chính ở Ấn Độ rất phức tạp. Ấn Độ tổ chức chia hành chính lãnh thổ tất cả thành 28 bang theo 3 nhóm đặc trưng lớn
A, B, C. Theo đó:
62
- Các bang thuộc nhóm A gồm: Tây Bengal, Orissa, Madras, Bombay,
Madhya Pradesh, Punjab, Assam, Bihar, Uttar Pradesh. Những bang này đều có
nghị viện riêng và thuộc quyền điều khiển của các thủ hiến do nghị viện bầu ra.
- Các bang thuộc nhóm B gồm: Hydarabad, Travacore - cochin, Mysore,
Vindhya, Saurastra, Rajasthan, Patiana và Đông Punjab, Jammu và Kashmir,
Madhya Bharat. Những bang này có nghị viện riêng của mình, nhưng không có thủ
hiến, và do các công tước cha truyền con nối cai trị.
- Những bang thuộc nhóm C gồm: Ajmer, Bhopal, Bilaspur, Cooch Behar,
Coorg, Delhi, Himachal Pradesh, Cutch, Manipur, Tripura (những bang nhỏ và
các công quốc). Họ không có nghị viện riêng của mình và do trung ương trực tiếp
điều khiển.
Các đơn vị hành chính mới này phản ánh một thực tế là những vương quốc
nhỏ không còn tồn tại. Tuy nhiên hệ thống các bang mới này vẫn không phản ánh
được tính chất ngôn ngữ, tộc người vốn rất phức tạp, hình thành từ lâu đời ở Ấn Độ.
Cuộc đấu tranh giải quyết vấn đề dân tộc từ sự phức tạp trong các phân chia này
phát triển mạnh mẽ trong quần chúng nhân dân, đặc biệt là ở Telengana và Andhra.
Do áp lực quần chúng, sau cuộc bầu cử năm 1951 - 1952, chú ý đến tâm
trạng của nhân dân các khu vực miền Bắc bang Madras, Chính phủ Ấn Độ có nhiều
nhượng bộ bằng cách đã hợp nhất những khu vực này lại thành một đơn vị riêng
biệt và lập ra bang Andhra. Việc thành lập bang Andhra vào ngày 19/12/1952 là
một bước tiến nhất định trên con đường giải quyết vấn đề dân tộc ở vùng có cư dân
Telugu sinh sống. Đến tháng 12/1953, vì phong trào đòi thành lập các bang theo
nguyên tắc ngôn ngữ được tăng cường trong nhiều khu dân tộc, chính phủ đã thành
lập một Ủy ban nghiên cứu về vấn đề này, gọi là Ủy ban Cải cách Hành chính Nhà
nước (States Reorganisation Commission (SRC)) do thẩm phán Fazal Ali đứng đầu.
Đến năm 1955, sau gần hai năm nghiên cứu, Ủy ban này công bố bản báo cáo. Theo
đó: 1. Việc tổ chức chia hành chính lãnh thổ theo 3 nhóm đặc trưng A, B, C sẽ bãi
bỏ. 2. Tước vị Rajapramukh (thủ hiến) và thỏa thuận đặc biệt trước đây với các tiểu
vương sẽ bãi bỏ. 3. Sự kiểm soát chung được trao cho Chính phủ Ấn Độ theo điều
371 của Hiến pháp sẽ bãi bỏ. 4. Có 3 tiểu bang sau sẽ là vùng lãnh thổ hợp nhất:
63
Andaman Nicobar, Delhi và Manipu. Các vùng khác của nhóm C có thể sáp nhập
với các bang lân cận [131, tr.312-313].
Bản báo cáo này được đưa ra thảo luận ở Quốc hội Ấn Độ vào ngày
14/12/1955. Đến ngày 31/8/1956, dự luật dựa trên báo cáo của Ủy ban SRC được
thông qua bởi Quốc hội và tiến hành những sửa đổi cần thiết trong tháng 9 để ghi
vào Hiến pháp. Ngày 1/10/1956, đạo luật mới liên quan đến các đơn vị hành chính
lãnh thổ của Ấn Độ bắt đầu có hiệu lực. Theo đó, Quốc hội tiến hành phê chuẩn
việc cải tổ các bang. Kết quả là để thay thế cho tình trạng có nhiều bang với dân cư
thuộc các dân tộc khác nhau, chính phủ đã thành lập 14 bang mới trên cơ sở các
công quốc cũ. Những bang đó là: Madras, Kerala, Mysore, Assam, Andhra Pradesh,
Orissa, Madhya Pradesh, Bombay, Tây Bengal, Bihar, Uttar Pradesh, Punjab,
Rajasthan, Jammu và Kashmir [2; tr.577] cùng 6 vùng lãnh thổ hành chính trực
thuộc trung ương: Himachal Pradesh; quần đảo Andaman và Nicobar; Delhi; vùng
đảo Laccadive, Minicoy và Amindivi; Manipur; Tripura.
Việc cải cách lãnh thổ hành chính có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nhà
nước sau độc lập. Về cơ bản hình thức công quốc phong kiến lỗi thời do thực dân
Anh duy trì trên đất nước Ấn Độ đã bị xóa sạch, đồng thời cũng thủ tiêu triệt để sự
tồn tại của các tiểu quốc, tạo điều kiện ổn định cho sự quản lý tập trung hơn từ
chính quyền nhà nước. Điều này cũng được coi là một bước quan trọng tiến tới hội
nhập quốc gia.
3.2.2. Bầu cử Quốc hội dân chủ đầu tiên
Bước vào thời kỳ xây dựng nền Cộng hòa, Chính phủ Ấn Độ phải đối mặt
với nhiều khó khăn và phức tạp trong nền chính trị đa đảng. Một trong số đó là
những mâu thuẫn nảy sinh trong chủ trương, đường lối phát triển đất nước, củng cố
độc lập dân tộc của các đảng đối lập. Do vậy, tiến hành đấu tranh về tư tưởng ngay
chính trong nội bộ đảng, nhất là các đảng đối lập, tạo sự đoàn kết và thống nhất
trong đảng, qua đó khẳng định đường lối nhất quán trong sự nghiệp củng cố nền
độc lập và phát triển đất nước là nhiệm vụ quan trọng trước tiên. Hoạt động của
Đảng Quốc đại trong ba cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên (1951 - 1952, 1957, 1962) và
kết quả của nó là một minh chứng cho thấy quyết tâm của đảng trong quá trình
64
giành lấy sự ủng hộ từ quần chúng, xác lập quyền lãnh đạo đất nước, tiếp tục sự
nghiệp củng cố vững chắc nền độc lập dân tộc trước các đảng đối lập.
3.2.2.1. Cuộc Tổng tuyển cử lần thứ nhất
Cho đến thời gian Tổng tuyển cử đầu tiên, Chính phủ Ấn Độ đã tiến hành
một số biện pháp chống phong kiến và cải cách dân chủ. Giai đoạn đầu tiên là thủ
tiêu nhiều vương quốc phong kiến và hạn chế quyền lực của các lãnh vương kết
thúc, đồng thời tiếp tục cho giai đoạn cải cách ruộng đất. Kế hoạch 5 năm phát triển
nền kinh tế của đất nước cũng được vạch ra và đưa vào thực hiện trong đời sống.
Hiến pháp tuyên bố quyền bầu cử chung cho mọi người và một loạt các quyền tự do
dân chủ khác cũng được thông qua. Đảng Quốc đại, người lãnh đạo cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân, thành lập nền Cộng hòa, đã khẳng
định được vị trí của mình đối với các tầng lớp nhân dân Ấn Độ. Tháng 9/1951, để
đảm bảo thắng lợi trong cuộc Tổng tuyển cử Quốc hội đầu tiên, những người lãnh
đạo Đảng Quốc đại đã bầu J. Nehru làm Chủ tịch của đảng.
Trong điều kiện đó, Đảng Quốc đại bước vào cuộc bầu cử với niềm tin vào
thắng lợi hoàn toàn của mình. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên (bầu Quốc hội trung
ương và Hội nghị lập pháp các bang) vào Nghị viện Ấn Độ vô cùng quan trọng vì
các cơ quan lập pháp này sẽ quyết định tương lai của đất nước. Do tính chất quan
trọng này, thời gian tổng tuyển cử kéo dài từ ngày 25/10/1951 đến 24/2/1952. Kết
quả bầu cử cho thấy, trong 489 ghế vào Viện Nhân dân thì Đảng Quốc đại giành
được 364 ghế, trong khi Đảng Cộng sản (CPI) và các đồng minh của họ gần 10% số
ghế. Còn các đảng cực hữu chỉ được 10 ghế. Tình hình tương tự cũng thể hiện qua
kết quả bầu cử Hội nghị lập pháp các bang. Cụ thể: Punjap (16/18 ghế), Bombay
(40/45), Assam (11/12 ghế), Bihar (9/11 ghế), Madhya Pradesh (27/29 ghế). Số
lượng cử tri bỏ phiếu cho đảng cầm quyền là: 45% vào Viện Nhân dân và 41,96%
vào Hội nghị lập pháp các bang. Ứng cử viên của đảng chiếm 2.247 ghế trong 3.283
ghế và có đa số trong các bang [82, tr.130].
Như vậy, đông đảo cử tri đã đứng về phía Đảng Quốc đại. Nhân dân bỏ
phiếu cho đảng của M. Gandhi và J. Nehru vì họ cho rằng đảng này sẽ thực hiện các
65
cuộc cải cách kinh tế - xã hội được ghi trong cương lĩnh tranh cử. Kết quả này cho
phép Đảng Quốc đại thành lập chính phủ một đảng ở trung ương và ở các bang.
Để củng cố ảnh hưởng của mình trong quần chúng, Đảng Quốc đại thực hiện
một loạt các biện pháp. Ngay từ tháng 1/1953, tại Đại hội hàng năm, đảng ủng hộ
kế hoạch phát triển đất nước 5 năm lần thứ nhất (1951 - 1956) và kêu gọi toàn dân
Ấn Độ cống hiến sức lực cho xây dựng nước Ấn Độ mới. Tại Hội nghị toàn quốc
của đảng tháng 6/1953, đảng thông qua Nghị quyết về “Cương lĩnh kinh tế - xã
hội”, trong đó nhấn mạnh rằng, đà phát triển của đất nước phải nhanh hơn, đặc biệt
là cải cách ruộng đất và phát triển công nghiệp. Ruộng đất phải được chia cho
những người nông dân không có ruộng. Bộ máy hành chính phải đơn giản hóa và
phải giảm giá. Đến năm 1954, Đảng Quốc đại đã có nhiều sửa đổi trong điều lệ
đảng, trong đó chủ trương: cấu trúc xã hội hiện tại cần phải thay đổi dần dần và nền
kinh tế của đất nước phải biến thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Tháng 1/1955, Đảng Quốc đại đã thông qua Cương lĩnh xây dựng một xã hội
kiểu xã hội chủ nghĩa. Việc thông qua cương lĩnh này được coi như là 1 trong 5
điểm quan trọng nhất của Đảng. Nó đã khơi dậy được một cao trào trong nước và
củng cố được quan điểm của Đảng Quốc đại. Sau một thời gian dài chậm giải quyết
vấn đề thành lập các bang theo nguyên tắc dân tộc, năm 1956, chính phủ đã phân
chia hành chính mới. Ngày 31/8/1956, đạo luật về phân chia lại lãnh thổ hành chính
được Quốc hội thông qua, 14 bang mới và khu vực trực thuộc chính phủ trung ương
được thành lập, đồng thời phá bỏ chế độ cũ mà chính quyền thực dân dựng nên, thủ
tiêu triệt để sự tồn tại của các tiểu quốc. Với những biện pháp trên cùng những
thành quả đạt được trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã nâng cao uy tín cho đảng
trước quần chúng và các đảng đối lập.
3.2.2.2. Cuộc Tổng tuyển cử lần thứ hai
Dù giành được những thắng lợi nhất định trong cuộc Tổng tuyển cử lần thứ
nhất, nhưng để thu hút sự quan tâm của quần chúng, tiếp tục trở thành đảng cầm
quyền và lãnh đạo sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc, Đảng Quốc đại buộc phải có
những chính sách mới để tranh cử trước những toan tính của các đảng đối lập.
66
Trong tuyên ngôn trước bầu cử, đảng khôn khéo khi nêu lên những thắng lợi của mình khi lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, thủ tiêu chế độ ruộng đất Daminda và Raiyatvari, cũng như bất luận như thế nào cũng phải xây dựng hệ thống thủy lợi ở Bhakra - Nangal (Chú giải 3), Damodar, Tungabhadra… Bên cạnh đó, đảng cũng thành lập một Ủy ban đặc biệt về bầu cử, đứng đầu là L.B. Shastri (Chú giải 4). Khắp nơi phổ biến những cuốn sách nhỏ có tranh minh họa với những tên gọi như: “Cách mạng xã hội chủ nghĩa”,
“Vấn đề việc làm”. “Các bạn nông dân - Hãy bỏ phiếu cho Đảng Quốc đại”… Các Ủy ban cũng tiến hành dịch những cuốn sách này ra tiếng địa phương và phổ biến rộng rãi trong quần chúng. Đặc biệt ra tờ tạp chí hàng tuần bằng tiếng Anh, trong có nhiều bài viết nói về các hoạt động mà đảng tham gia.
Tầm quan trọng của cuộc Tổng tuyển cử năm 1957 được đánh giá là lớn hơn lần thứ nhất và là bước thử nghiệm cho nền dân chủ lớn trên thế giới khi số cử tri tăng lên hơn 20 triệu và số phiếu thu được tăng từ 103,3 triệu lên 112,3 triệu [144]. Truớc sự chuẩn bị nghiêm túc đó, thành công trong cuộc Tổng tuyển cử của đảng được minh chứng rõ ràng. Kết quả cuộc bầu cử năm 1957 cho thấy, Đảng Quốc đại vẫn là một đảng được lòng dân nhất ở Ấn Độ. Trong 494 ghế vào Viện Nhân dân,
Đảng Quốc đại chiếm 371 ghế (chiếm 47,78%). Trong 3.840 đại biểu do 26 đảng giới thiệu vào Hội nghị lập pháp các bang thì có 1.889 là đại biểu của Đảng Quốc
đại, chiếm 65,1% (xem Phụ lục 3).
Tình hình đó cho phép Đảng Quốc đại tiếp tục duy trì chính phủ một đảng dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng J. Nehru. Tuy nhiên ở một số bang, ảnh hưởng của Đảng Quốc đại bắt đầu giảm sút. Thắng lợi của những người cộng sản ở bang Kerala, Tây Bengal và Andhra Pradesh và việc thành lập ở đó một chính phủ cộng sản là một điều bất ngờ, là sự kiện lịch sử quan trọng của phong trào cộng sản nước này, làm rung chuyển đối với Đảng Quốc đại. Chính phủ do lãnh tụ E.M. Namboodiripad đứng đầu tồn tại từ năm 1957 đến 1959. Điều này đặt ra thách thức cho Đảng Quốc đại trong cuộc Tổng tuyển cử lần ba.
3.2.2.3. Cuộc Tổng tuyển cử lần thứ ba Tháng 12/1961, Ủy ban toàn quốc của Đảng Quốc đại ra bản tuyên bố trước
bầu cử. Trong tuyên bố, ý tưởng xây dựng xã hội kiểu xã hội chủ nghĩa được bảo vệ
67
kiên quyết, rằng Đảng Quốc đại đã tạo nên một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa tiến bộ,
trong đó mọi người có thể được lao động, không còn bất bình đẳng. Trong suốt thời
gian cầm quyền của đảng sau khi độc lập, với đường lối lãnh đạo đúng đắn và khoa
học, tạo nên diện mạo mới cho Ấn Độ trong các lĩnh vực tăng trưởng và phát triển.
Các kế hoạch 5 năm đã phát huy được hiệu quả trong việc nâng cao đời sống của
nhân dân, tạo bước phát triển nhảy vọt trong công nghiệp, khoa học và công nghệ,
giao thông… Tuyên bố cũng chỉ ra rằng, các tầng lớp nhân dân Ấn Độ, đặc biệt là
tầng lớp dưới vẫn còn nghèo đói. Ở các vùng nông thôn, một bộ phận vẫn bị tuớc
đoạt những điều kiện cần thiết, vẫn còn nhiều người thất nghiệp.
Trong chính sách đối ngoại, tuyên ngôn cũng nêu lên những nhiệm vụ đấu
tranh để cải thiện các cuộc tranh chấp lãnh thổ với Pakistan và Trung Quốc, giải
phóng vô điều kiện đối với các lãnh thổ Goa, Daman khỏi ách thống trị của Bồ Đào
Nha. Việc quân đội Ấn Độ giải phóng các vùng chiếm đóng của Bồ Đào Nha là một
thuận lợi cho việc tuyên truyền trước bầu cử. Nó khơi dậy một cao trào chủ nghĩa ái
quốc trong nước và làn sóng tin tưởng vào Chính phủ J. Nehru.
Cuộc Tổng tuyển cử diễn ra ở tất cả các bang từ ngày 19 đến ngày
25/2/1962. Về phía đảng cầm quyền đã chuẩn bị đầy đủ cho cuộc bầu cử hứa hẹn
thắng lợi như những lần trước. Kết quả, Đảng Quốc đại vẫn như những lần trước
đó, giành được đa số phiếu của cử tri và chiếm được đa số ghế ở Nghị viện và Hội
nghị lập pháp ở các bang.
Trong 520 ghế vào Viện Nhân dân, Đảng Quốc đại với 494 ứng viên thì có
đến 353 trở thành đại biểu. Số cử tri đi bầu cho đảng là 51.247.168 người, chiếm
46,02% số phiếu bầu. Đảng Cộng sản đưa ra 137 ứng viên nhưng vẫn giành được
29 ghế. Đảng Swatantra cũng thu được số phiếu khá lớn với 172 ứng viên vào Viện
Nhân dân. Đảng Nhân dân Xã hội chủ nghĩa đưa ra 166 ứng viên thì thu được 12
ghế [82, tr.147].
Nếu so sánh những con số này với kết quả của các cuộc bầu cử trước đó, rõ
ràng vị trí của Đảng Quốc đại có phần yếu hơn (xem Phụ lục 4).
Nhìn chung, qua 3 cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên dưới chính thể Cộng hòa,
thắng lợi của Đảng Quốc đại làm cơ sở để Chính phủ Thủ tướng J. Nehru tiếp tục
68
duy trì quyền lãnh đạo trong sự nghiệp củng cố độc lập, xây dựng đất nước, ổn định
chính trị, thúc đẩy dân chủ cũng như hạn chế ảnh hưởng các lực lượng đối lập trong
hệ thống chính trị đa đảng, tăng cường củng cố nền độc lập dân tộc.
3.2.3. Đấu tranh thu hồi các vùng đất thuộc Pháp và Bồ Đào Nha
Sau khi giành quyền tự trị (15/8/1947), Ấn Độ vẫn còn những vùng đất đang
nằm trong quyền kiểm soát của Pháp và Bồ Đào Nha. Vùng đất thuộc quyền kiểm
soát của Bồ Đào Nha rộng khoảng 2.500 dặm vuông với dân số khoảng 624.000
người bao gồm Goa, Nam Bombay, Daman, Bắc đảo Diu, Kathiawa. Vùng đất nằm
trong tay Pháp nhỏ hơn với diện tích 203 dặm vuông, dân số khoảng 362.000
người, bao gồm các vùng Chandernagore (gần Calcutta), Pondichery, Janaon và
Karikal [113, tr.142]. Trong đó, Goa thuộc Bồ Đào Nha và Pondicherry thuộc Pháp
là những vùng giàu có bậc nhất ở Ấn Độ. Vì vậy, yêu cầu thu hồi các vùng lãnh thổ
này được đặt ra cấp thiết đối với Ấn Độ, nhất là trong bối cảnh Ấn Độ đang củng cố
nền Cộng hòa, đảm bảo tính toàn vẹn của cương thổ.
3.2.3.1. Thu hồi các vùng lãnh thổ thuộc Pháp
Đối với Pháp, những vùng đất thuộc Ấn có vị trí chiến lược rất quan trọng
không những về kinh tế mà còn cả về địa chính trị. Đây là những vùng đất nằm ở vị
trí cửa ngõ vào tiểu lục địa Ấn Độ, trên huyết mạch giao thông từ chính quốc - châu
Phi - Madagaxca sang Nam Á và Đông Nam Á. Vị trí quan trọng ấy khiến Chính
phủ Pháp không muốn rời bỏ vùng đất này dù họ biết chắc rằng đó là vấn đề sớm
muộn cũng xảy ra.
Chính phủ Thủ tướng J. Nehru ngay sau khi giành được quyền tự trị đã nhiều
lần khẳng định quyết tâm thu hồi những vùng đất này. Sự kiện ngày 10/7/1949,
tuyên bố Ấn - Pháp về việc trao chủ quyền Chandernagore cho Ấn Độ, đánh dấu
một bước ngoặt quan trọng, mở đầu cho quá trình trao trả các vùng đất còn lại sau
này, thông qua cách thức giải quyết bằng hòa bình và thương lượng. Trong thời
gian từ năm 1950 đến 1954, phong trào đấu tranh ở Pondicherry giữa hai xu hướng
ủng hộ hợp nhất vào Ấn Độ (dưới sự lãnh đạo của V. Subbiah) và ủng hộ thuộc
Pháp (dưới sự lãnh đạo của Edouard Goubert) diễn ra gay gắt. Trong khi đó, dựa
trên những yêu cầu từ phía Pháp và qua những ý kiến phản đối của Ấn Độ, từ ngày
69
28/3 đến ngày 22/4/1951, Tòa án quốc tế đã cử một đoàn quan sát viên trung lập tới
Ấn Độ để tìm hiểu các điều kiện ở vùng đất Ấn Độ thuộc Pháp [129, tr.20].
Bản báo cáo của đoàn quan sát viên (gồm Đan Mạch, Thụy Sĩ và Philippin)
đã lên án Pháp có những hành động chống lại những người ủng hộ việc sáp nhập
với Ấn Độ, đồng thời phê phán Ấn Độ có những biện pháp trừng phạt kinh tế nhằm
khống chế các vùng đất này. Tiếp theo việc công bố bản báo cáo, Chính phủ Ấn Độ
tuyên bố: “…Với những hành động chống lại những người ủng hộ sáp nhập với Ấn
Độ của Pháp thì khó có thể tiến hành một cuộc trưng cầu dân ý” [129, tr.20]. Tháng
10/1952, Ấn Độ đề nghị một sự chuyển giao thực tế các địa giới còn lại cho Ấn Độ,
đồng thời tiếp tục bảo lưu các cuộc thương lượng. Tuy nhiên, Chính phủ Pháp từ
chối, viện cớ Hiến pháp không cho phép nhượng lại đất đai mà không có sự chấp
thuận của nhân dân.
Trong khi đó, ngày 18/3/1954, các thành viên của Hội đồng điều hành và Thị
trưởng của Pondicherry và 7 xã liền kề tuyên bố quyết định của mình hợp nhất với
Ấn Độ mà không thông qua trưng cầu dân ý. Quyết định này đã được phê chuẩn bởi
Hội đồng đại diện. Trong khi Đảng Xã hội đang chuẩn bị từng bước sáp nhập,
Thống đốc Pháp lại tìm cách trì hoãn buổi họp. Trước hành động này, Đảng Xã hội
có kế hoạch kêu gọi các xã ở những vùng xa kéo về Pondicherry. Đảng Cộng sản
cũng đã sẵn sàng bắt đầu cho cuộc vận động trực tiếp để sáp nhập Pondicherry.
Điều đó tạo ra một hiệu ứng mạnh mẽ cho các khu vực khác thực hiện theo, đặc biệt
là các xã trong Karikal. Theo đó, trong khu vực Karikal, tất cả các xã và thành phố
tự trị đã thông qua nghị quyết ủng hộ việc sáp nhập. Mặt khác, vào cuối tháng
3/1954, sự kiện các nhà lãnh đạo của Đảng Xã hội đã kéo lá cờ Ấn Độ lên trạm
cảnh sát Nettapakkam, khẳng định quyết tâm sáp nhập vào Ấn Độ.
Trước những diễn biến trên, ngày 14/5/1954, tại Paris, Chính phủ Pháp bắt
đầu tiến hành các cuộc đàm phán với Ấn Độ. Sau cuộc hội đàm ngày 13/10/1954,
Ấn Độ và Pháp đã đưa ra một tuyên bố chung về giải pháp để giải quyết các vùng
đất thuộc Pháp trên lãnh thổ Ấn Độ. Sự kiện này chứng tỏ rằng, lần đầu tiên sau 7
năm Ấn Độ độc lập, mối quan hệ Ấn Độ - Pháp được cải thiện đáng kể. Ngày
18/10/1954, đại diện hội đồng thành phố Pondicherry và Karikal tham gia vào cuộc
70
trưng cầu dân ý tại Keeloor với 170/178 phiếu áp đảo của các thành viên ủng hộ sáp
nhập lãnh thổ của Ấn Độ thuộc Pháp về với Ấn Độ. Ba ngày sau đó, một thỏa thuận
về việc chuyển nhượng trên thực tế các vùng lãnh thổ này được ký tại New Delhi
giữa hai nước và chính thức được phê chuẩn bởi Quốc hội Pháp vào tháng 5/1962.
Ngày 16/8/1962, hai nước tiến hành trao đổi văn kiện được phê chuẩn. Theo đó,
Pháp trao lại đầy đủ chủ quyền cho Ấn Độ trên các vùng đất thuộc Pháp. Quá trình
đấu tranh thu hồi các lãnh thổ thuộc Pháp của Ấn Độ về cơ bản đến đây đã hoàn
thành. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia của Ấn Độ từng bước được thống nhất, nền độc
lập ngày càng được củng cố.
3.2.3.2. Thu hồi các vùng lãnh thổ thuộc Bồ Đào Nha
Song song với việc đấu tranh thu hồi những vùng đất thuộc Pháp, sự kiên
quyết của Chính phủ J. Nehru trong bối cảnh vị thế Ấn Độ ngày càng cao, áp lực
trong và ngoài nước ngày càng mạnh đã tiếp thêm sức mạnh cho Ấn Độ tiếp tục sáp
nhập lãnh thổ còn lại thuộc Bồ Đào Nha. Điều này phù hợp với tư tưởng “độc lập
hoàn toàn” mà nhân dân Ấn Độ kiên trì giành được hơn 200 năm dưới ách thống trị
của Anh. Đối với vấn đề thu hồi Goa và các vùng đất khác thuộc Bồ Đào Nha, sau
khi giành được độc lập, Chính phủ J. Nehru vẫn chủ trương thực hiện giải pháp hòa
bình thông qua thương lượng. Ấn Độ nhiều lần đàm phán với Chính phủ Bồ Đào
Nha như cách đã từng thực hiện với Pháp. Tuy nhiên, mọi nỗ lực của người Ấn đều
bị từ chối.
Ngày 27/2/1950, Chính phủ Ấn Độ yêu cầu Bồ Đào Nha mở cuộc đàm phán
về tương lai của các thuộc địa ở Ấn Độ. Điều này theo sau tuyên bố của Thủ tướng
J. Nehru rằng, Goa là một phần của lãnh thổ Ấn Độ độc lập và nhất định phải được
thu hồi lại. Tuy vậy, “dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được sử dụng vũ
lực” [91, tr.190]. Ngày 15/7/1950, Chính phủ Bồ Đào Nha phản ứng trở lại bằng
một tuyên bố cứng rắn rằng: “…Sẽ không thể tranh luận và cũng không chấp nhận
các giải pháp đã được đề xuất” [143]. Họ khẳng định, lãnh thổ của mình ở Ấn Độ
không phải là một xứ thuộc địa mà là một phần của đất nước Bồ Đào Nha và vì thế
nó không thể được thương lượng, và rằng Ấn Độ không có quyền kiếm soát đối với
71
lãnh thổ này. Việc bảo vệ chủ quyền Goa ở Ấn Độ cũng như những vùng khác tại
châu Phi thực sự là cần thiết. Điều đó được Hiến pháp Bồ Đào Nha xác nhận.
Trong tháng 1/1953, Chính phủ Ấn Độ tiếp tục gửi một văn bản tới Chính
phủ Bồ Đào Nha, chỉ ra rằng: “Những rào cản về chính trị và lịch sử trước đây
không thể ngăn nổi sức mạnh của sự hợp nhất quốc gia ở thời điểm hiện tại” [143].
Mặt khác, Ấn Độ cũng đảm bảo sẽ: “Duy trì văn hóa và các quyền cơ bản khác như
ngôn ngữ, pháp luật, phong tục tập quán của cư dân ở Goa” [143]. Tuy nhiên, điều
này bị Bồ Đào Nha từ chối. Đáp trả lại, ngày 11/6/1953, Ấn Độ rút cơ quan đại diện
ngoại giao ở Lisbon về nước.
Vấn đề Goa vẫn chưa lắng xuống bởi những bất đồng từ hai bên. Đến đầu
năm 1954, Chính phủ Ấn Độ bắt đầu hạn chế thị thực đi lại từ Goa đến Ấn Độ cũng
như từ Goa đến các vùng khác của Bồ Đào Nha ở Ấn Độ. Trong lúc đó, công nhân
Ấn Độ đã bắt đầu tẩy chay những chuyến hàng vận chuyển từ Bồ Đào Nha đến Ấn
Độ. Từ ngày 22/7 đến ngày 2/8/1954, các hoạt động vũ trang khác nhau được cho là
của một số thành viên thuộc tổ chức Liên minh Mặt trận Goans, dưới sự lãnh đạo
của Francis Mascarenhas và được hỗ trợ bởi các phong trào dân tộc khác, cùng với
lực lượng quân đội, cảnh sát có cuộc tấn công và buộc các lực lượng quân đội Bồ
Đào Nha đóng quân ở các thành phố Dadra và Nagar Haveli phải đầu hàng. Đồng
thời, Ấn Độ ngăn chặn Bồ Đào Nha điều lực lượng vũ trang từ Daman đến hỗ trợ.
Trước hành động này của Ấn Độ, ngày 30/11/1954, tại Quốc hội Bồ Đào Nha, Thủ
tướng Antonio Salaza đã đặt Goa vào vị trí quan trọng trong các hoạt động ngoại
giao và quân sự của đất nước, đồng thời cũng bác bỏ tuyên bố của Ấn Độ về các
vùng lãnh thổ của Bồ Đào Nha.
Ngày 15/8/1955, nhân kỷ niệm Ngày độc lập của Ấn Độ, khoảng 3.000
người, bao gồm 49 nhà hoạt động bất bạo động và đông đảo nhân dân không vũ
trang đã diễu hành vào Goa, kéo lá cờ Ấn Độ lên ở pháo đài Tiracol Fort. Tuy
nhiên, cảnh sát Bồ Đào Nha dưới sự hỗ trợ của binh lính tại các thuộc địa của Bồ
Đào Nha ở châu Phi đã nổ súng vào đoàn diễu hành. Kết quả là dẫn đến cái chết của
hơn 30 người, hàng trăm người khác bị thương. Khi tin tức về sự việc được biết đến
qua báo chí đã tạo nên một làn sóng căm phẫn và phản đối mạnh mẽ ở Ấn Độ.
72
Nhân dân Ấn Độ bắt đầu chỉ trích vào chính sách “mềm” của chính phủ và yêu cầu
cần phải có những hành động mạnh mẽ hơn về vấn đề này. Ngày 16/8/1955, phát
biểu tại Quốc hội, Thủ tướng J. Nehru lên án hành động của Bồ Đào Nha là “tàn
bạo và thiếu văn minh trong sự quá khích”.
Sau sự việc trên, Chính phủ Ấn Độ dần hạn chế đối với người Ấn tới Goa
hoạt động biểu tình bất bạo động. Ngày 1/9/1955, Ấn Độ đóng cửa văn phòng lãnh
sự ở Goa. Mặt khác, Chính phủ Ấn Độ thực thi chính sách rõ ràng về vấn đề vận
động để chấm dứt chế độ thực dân Bồ Đào Nha tại Goa, đặc biệt tiếp tục hỗ trợ cho
các nhóm vũ trang hoạt động từ các căn cứ nằm dọc theo biên giới Ấn Độ - Goa vũ
khí, hậu cần và tài chính. Từ năm 1955 đến 1961, lần lượt 6 đảng phái chính trị
được thành lập tại Goa: Azad Gomantak Dal (Đảng Tự do Goa); Đảng Nhân dân
Goa, Mặt trận Goans; Quân đội giải phóng Goa; Tổ chức Rancour Patriota và Tổ
chức Quit Goa (Cút khỏi Goa). Thông qua đó, từng bước làm suy yếu các hoạt động
của Bồ Đào Nha và tạo điều kiện cho những hoạt động về sau. Sau những nỗ lực
ngoại giao không thành, Chính phủ Bồ Đào Nha - với tư cách là một trong những
thành viên sáng lập NATO - tiếp tục tìm đến sự giúp đỡ của các nước phương Tây
cũng như các quốc gia đang tranh chấp với Ấn Độ là Pakistan và Trung Quốc để
gây áp lực đối với Ấn Độ về vấn đề Goa. Đáp lại những hành động này, Ngoại
trưởng Anh Alec Douglas-Home bày tỏ quan điểm: “Liên minh quân sự NATO
không muốn liên quan tới những vướng mắc của Bồ Đào Nha ở bên ngoài biên giới
và cũng đừng mong đợi bất cứ điều gì hơn là một vai trò trung gian hòa giải” [100,
tr.317]. Ông cũng cảnh báo rằng, nếu Bồ Đào Nha viện dẫn liên minh Anh - Bồ
Đào Nha trong quá khứ thì Anh cũng sẽ đáp lại một cách miễn cưỡng, tuy nhiên sẽ
không có ý định tham gia vào chiến sự với một thành viên của Khối Liên hiệp Anh.
Trong khi đó, năm 1955, Ngoại trưởng Mỹ A. Dulles tuyên bố coi Goa là
“lãnh thổ Bồ Đào Nha” nên Mỹ và tất cả các thành viên của NATO phải quan tâm
đến việc bảo vệ Goa theo điều 6 của Hiệp ước này. Thái độ này của Mỹ đặt Ấn Độ
vào tình thế bị cô lập trong vấn đề giải phóng Goa, càng làm cho vấn đề này lâm vào
bế tắc. Trong điều kiện đó, Ấn Độ khó có thể thực hiện được nguyện vọng chính
đáng của mình, khi đất nước này chưa thể được coi là một quốc gia hùng mạnh.
73
Đúng vào lúc này, Liên Xô đã công khai tuyên bố lập trường ủng hộ Ấn Độ
thu hồi Goa. Trong chuyến thăm Ấn Độ tháng 12/1955, Bí thư thứ nhất Ban chấp
hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô N. Khrushchev tuyên bố:
Lập trường dứt khoát của Liên Xô là phải xóa bỏ những tàn tích của chủ
nghĩa thực dân thối nát. Chúng tôi cho rằng, các dân tộc ở những vùng
đất bao năm nay bị thực dân xâm chiếm một cách phi pháp và bóc lột dã
man phải được quyền tự quyết định vận mệnh của mình. Goa là một
phần lãnh thổ của Ấn Độ. Điều đó ai cũng biết. Mọi người điều biết rằng
nhân dân Goa gắn liền với tổ quốc của mình như máu với thịt, không thể
nào sống tách rời khỏi nước Ấn Độ… Bọn thực dân sẽ phải bước ra khỏi
những đất đai không phải của chúng [53, tr.96].
Thái độ cương quyết của Liên Xô có thể coi như một cái phao cứu mệnh
trong những điều kiện ngặt nghèo của Ấn Độ thời gian này. Mặt khác, Ấn Độ tiếp
tục sử dụng vai trò của mình trong Phong trào không liên kết nhằm tranh thủ sự ủng
hộ của các nước Á, Phi cho việc thu hồi lãnh thổ Goa. Biểu hiện rõ nét nhất là trong
Hội nghị đoàn kết các nước Á - Phi ở Loke (họp từ ngày 26/12/1957 đến 1/1/1958)
với sự tham gia của đại biểu 45 nước. Hội nghị kiên quyết và nhất trí lên án chủ
nghĩa đế quốc với tất cả mọi biểu hiện của nó, đòi trao trả độc lập hoàn toàn cho tất
cả các thuộc địa, các xứ bảo hộ và các xứ ủy trị. Nghị quyết về chủ nghĩa đế quốc
của hội nghị ủng hộ những yêu sách dân tộc về việc trao trả vùng Goa của Ấn Độ,
miền tây Irian của Indonesia, và đảo Okinawa của Nhật Bản, hiện đang nằm trong
tay bọn thực dân cho các nước nói trên.
Ngày 14/12/1960, Liên hợp quốc thông qua Nghị quyết 1514 (XV) về việc
trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa, kêu gọi tất cả các quốc gia
thực hiện từng bước đặt hệ thống các thuộc địa và vùng lãnh thổ theo hướng tự
quyết như quy định tại điều 73 của Hiến chương (Chú giải 5). Điều này tạo điều
kiện thuận lợi cho các thuộc địa còn lại của chủ nghĩa thực dân nói chung và của Bồ
Đào Nha nói riêng tiếp tục đấu tranh để độc lập. Phát biểu tại Hội nghị cấp cao các
nước không liên kết lần thứ nhất ở Belgrade (từ ngày 1 đến 6/9/1961) về vấn đề phi
thực dân hóa, Thủ tướng J. Nehru coi cuộc khủng hoảng ở Angola chống lại thực
74
dân Bồ Đào Nha càng phát triển càng ảnh hưởng tới chính sách của Ấn Độ đối với
Goa. J. Nehru coi Goa và Angola trở thành một vấn đề duy nhất - đó là chủ nghĩa
thực dân Bồ Đào Nha.
Có thể nói, những Nghị quyết trên đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cũng như tính hợp pháp cho Chính phủ Ấn Độ hoàn tất quá trình giải phóng Goa bằng vũ lực mà không phải bận tâm về dư luận quốc tế. Mặt khác, sự phản đối của dư luận thế giới đối với chủ nghĩa thực dân châu Âu thông qua các sự kiện tại Congo và Angola như tiếp thêm sức mạnh cho Ấn Độ buộc phải hành động sớm đối với Goa. Việc sáp nhập Goa vào Ấn Độ sẽ là chương cuối cùng của thời phục hưng ở Ấn Độ, và một phần của “sự logic trong tiến trình lịch sử” [91, tr.195].
Về phía Ấn Độ, ngày 18/12/1961, sau nhiều nỗ lực ngoại giao cũng như hòa giải quốc tế không thành, chính phủ buộc phải sử dụng vũ trang giải phóng đối với Goa, Daman và Diu. Quân đội Bồ Đào Nha nhanh chóng thất bại. Ấn Độ tuyên bố Goa, Daman và Diu là một phần lãnh thổ thuộc quản lý của chính phủ liên bang. Mỹ và Anh lập tức tuyên bố đứng về phía Bồ Đào Nha và đặt NATO trong tình trạng chiến tranh. Tại Hội đồng Bảo an, Mỹ, Anh, Pháp và Thổ Nhỹ Kỳ đưa ra dự thảo nghị quyết lên án Ấn Độ xâm lược, yêu cầu quân đội Ấn Độ rút khỏi Goa. Với tư cách là một thành viên của Hội đồng Bảo an, Đại sứ Liên Xô Zorin nhanh chóng phủ quyết đề nghị này và tuyên bố:
Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với tuyên bố của Thủ tướng J. Nehru, Ấn Độ thu hồi Goa là điều đúng đắn, là điều tất yếu, là điều có tính chất lịch sử… Nếu vấn đề này được đưa ra xem xét tại Liên hợp quốc, nó là vấn đề Bồ Đào Nha đã vi phạm tuyên ngôn Liên hợp quốc trong điều khoản thừa nhận quyền độc lập của nhân dân các nước thuộc địa. Bồ Đào Nha đã không thi hành tuyên ngôn này và do đó đang tạo nên sự đe dọa lớn tới hòa bình và an ninh ở nhiều khu vực khác của thế giới [77, tr.115].
Đồng thời Khrushchev cũng gửi thư tới Thủ tướng J. Nehru khẳng định sẽ hoàn toàn ủng hộ về vật chất lẫn tinh thần cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân của nhân dân Ấn Độ.
Cùng với tuyên bố cứng rắn của Liên Xô, các nước Á, Phi đi đầu là Liberia, Sri Lanka, Các Tiểu vương quốc Ảrập thống nhất cũng ủng hộ hành động của Ấn
75
Độ, kịch kiệt lên án Bồ Đào Nha và Anh, Mỹ đi ngược lại điều 1 khoản 2 Hiến chương Liên hợp quốc. Trước sức ép từ nhiều phía và thắng lợi quân sự nhanh chóng của Ấn Độ, Bồ Đào Nha buộc phải nhượng bộ. Sự kiện này chấm dứt hoàn toàn 451 năm thống trị vùng đất này của chủ nghĩa thực dân Bồ Đào Nha nói riêng và phương Tây trên lãnh thổ Ấn Độ nói chung. Năm 1963, Quốc hội Ấn Độ thông qua luật sửa đổi Hiến pháp, một lần nữa chính thức xác nhận các vùng lãnh thổ này
được sáp nhập thuộc chủ quyền của Ấn Độ.
Như vậy, quá trình thu hồi lãnh thổ của Pháp và Bồ Đào Nha được tiến hành tuy theo kiểu thức khác nhau nhưng kết quả cuối cùng là chấm dứt sự hiện diện của chủ nghĩa thực dân trên lãnh thổ Ấn Độ. Bước đầu, cuộc đấu tranh toàn vẹn lãnh thổ của Chính phủ Ấn Độ đã giành thắng lợi. Trên thực tế, Chính phủ Ấn Độ đã kết hợp hài hòa những nhân tố bên trong và bên ngoài, thậm chí phải hy sinh con đường hòa bình cho mục tiêu và lý tưởng chống chủ nghĩa thực dân. Điều đó góp phần khẳng định vững chắc chủ quyền quốc gia dân tộc trong bối cảnh sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ đang gặt hái những thành tựu to lớn. Mặt khác, nó cũng cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới, từng bước làm tan rã hoàn toàn chủ nghĩa thực dân tại các thuộc địa.
3.3. TRÊN LĨNH VỰC NGOẠI GIAO Trải qua một thời kỳ lâu dài và gian khổ dưới sự thống trị của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, nhân dân Ấn Độ hiểu rõ nỗi cơ cực và sự tàn bạo. Vì vậy ngay từ khi chưa giành được độc lập, lực lượng lãnh đạo chủ chốt ở Ấn Độ là Đảng Quốc đại thể hiện lập trường chống chủ nghĩa đế quốc, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, phấn đấu cho hòa bình, chống chiến tranh đế quốc. Chính lập trường ấy là nền tảng cơ bản của chính sách đối ngoại của nước Cộng hòa Ấn Độ trong giai đoạn 1950 - 1964 và sau này.
Về chính sách đối ngoại, Hiến pháp mới của Cộng hòa Ấn Độ được thông qua tháng 1/1950, long trọng ghi những nguyên tắc độc lập, trung lập, hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc. Nó xác định một cách rõ ràng sự gắn bó chặt chẽ giữa độc lập dân tộc, trung lập với hòa bình và hữu nghị giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Sự gắn bó trên những nguyên tắc ấy của chính sách đối ngoại là cơ sở của sự hợp tác và quan hệ giữa Ấn Độ với các nước.
76
Những nội dung chủ yếu trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ bao gồm: chống chiến tranh thế giới, phát triển nền kinh tế Ấn Độ; duy trì nền độc lập của Ấn
Độ về đối ngoại, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế về vấn đề Kashmir; thu hồi các lãnh địa của Ấn Độ thuộc Pháp và Bồ Đào Nha; ủng hộ phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc; xóa bỏ chế độ phân biệt chủng tộc; hợp tác với các cường quốc, các nước láng giềng và các nước châu Á khác… Theo đó, giai đoạn 1950 - 1964, Ấn Độ đã thật sự khẳng định vai trò và vị thế của mình
trong thế giới thứ ba cũng như tạo thế cân bằng chiến lược với hai cực Xô - Mỹ,
đồng thời góp phần hình thành nền tảng cho chính sách đối ngoại của Ấn Độ ở giai
đoạn sau.
3.3.1. Quan hệ với các nước láng giềng 3.3.1.1. Với Pakistan Trong số các quốc gia láng giềng, Pakistan là một trường hợp đặc biệt trong quan hệ với Ấn Độ. Hậu quả từ chính sách “đi mà ở” của thực dân Anh đã dẫn đến sự ra đời của nhà nước Pakistan, đồng thời tạo nên những bất ổn, mâu thuẫn trong cộng đồng tôn giáo, dân tộc ở hai quốc gia, nhất là vấn đề Kashmir trở thành tâm
điểm trong quan hệ giữa hai nước.
Từ khi Ấn Độ giành quyền tự trị, các cuộc xung đột vũ trang 1947 - 1948, chiến tranh thương mại 1949 - 1950, thái độ đối với cộng đồng tôn giáo đối lập làm cho mâu thuẫn giữa quốc gia này và Pakistan thêm sâu sắc. Tuy nhiên, Ấn Độ thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo, trái với thái độ cực đoan của những thế lực muốn tạo nên sự chia rẽ giữa hai dân tộc bằng việc Thủ tướng J. Nehru thông qua
đại diện tối cao của Pakistan tại New Delhi chuyển cho chính phủ này đề nghị của Ấn Độ ký một tuyên ngôn chung chối từ chiến tranh như là biện pháp giải quyết các cuộc tranh chấp. Vì vậy, ngày 2/4/1950, kết quả cuộc gặp giữa J. Nehru và Thủ tướng Pakistan Liacata là Hiệp ước Nehru - Liacata được ký kết. Nội dung của Hiệp ước lịch sử này là cần phải chặn đứng hiểm họa tôn giáo cộng đồng, cho phép đi lại tự do, hồi hương của những người di tản nếu họ muốn. Hai thủ tướng còn kêu gọi nhân dân và báo chí hai nước góp phần tạo ra không khí hòa bình và hữu nghị.
Sau đó, mặc dù sự căng thẳng trong quan hệ hai nước có giảm, song nhiều vấn đề vẫn chưa giải quyết. Trong đó, vấn đề Kashmir tưởng chừng đã có thể được
77
giải quyết trong giai đoạn 1953 - 1954, khi Mohammed Ali Bogra trở thành Thủ tướng Pakistan vào năm 1953. Sau cuộc gặp mặt thân thiện giữa hai thủ tướng, cả hai bên đã ký kết một thông cáo chung vào ngày 20/8/1953, trong đó J. Nehru đồng ý tổ chức một cuộc trưng cầu ý dân ở Kashmir. Nhưng những hy vọng hòa bình sớm bị dập tắt vì những hệ lụy của cuộc Chiến tranh lạnh đang xảy ra (xem thêm mục 4.1.2.3). Sau những động thái của Ấn Độ về vấn đề trên bán đảo Triều Tiên, nước Mỹ đã cung cấp viện trợ quân sự cho Pakistan. Kết quả là hiệp định quân sự Mỹ - Pakistan được ký vào ngày 10/11/1953. Điều này bị phía Ấn Độ phản đối kiên quyết. Đến cuối năm 1953, quan hệ Ấn Độ - Pakistan càng trở nên xấu đi. Từ khi Pakistan gia nhập các khối quân sự SEATO, CENTO, tham gia ký kết hiệp ước Baghdad trong những năm 1954 - 1955 và nhận viện trợ từ Mỹ, quan hệ Ấn Độ - Pakistan bị tác động mạnh. Tháng 5/1955, khi hội đàm với Thủ tướng Pakistan, Ấn
Độ đưa ra đề nghị giải quyết vấn đề Kashmir trên cơ sở công nhận đường ngừng bắn ngày 1/1/1949 với tư cách là biên giới quốc gia Ấn Độ - Pakistan. Tuy nhiên, mọi nỗ lực của Ấn Độ đều không mang lại kết quả. Trong tình thế đó, việc giải quyết ổn thỏa được vấn đề Kashmir đối với Ấn Độ thực sự là một thách thức lớn.
Về phía Ấn Độ, với những nỗ lực trong đường lối ngoại giao của mình, Liên Xô ngày càng hiểu rõ giá trị và bản chất của con đường không liên kết, từ đó ủng hộ hoàn toàn lập trường Ấn Độ về vấn đề Kashmir trên các diễn đàn. Từ năm 1956, Liên Xô sử dụng quyền phủ quyết của mình trong Hội đồng Bảo an, ngăn chặn tất cả các nghị quyết phi lý đối với Ấn Độ về chủ quyền trên lãnh thổ Kashmir. Đến cuối thập niên 50, đầu 60, bằng sự hỗ trợ của Liên Xô, Ấn Độ lẽ ra có thể tránh được mọi áp lực quốc tế về vấn đề Kashmir. Tuy nhiên, quan hệ Ấn Độ - Pakistan càng trở nên phức tạp hơn kể từ năm 1962, khi Pakistan bắt tay với Trung Quốc hòng đe dọa, cô lập Ấn Độ. Chính sự xích lại gần nhau giữa Trung Quốc và Pakistan đẩy Ấn Độ vào thế gọng kìm. Những nỗ lực đàm phán sau đó của Ấn Độ với Pakistan đều không có kết quả. Tình trạng căng thẳng trong quan hệ giữa hai nước tiếp tục tiếp diễn đến tháng 4/1965 bùng nổ cuộc chiến tranh Ấn Độ - Pakistan lần thứ hai.
Như vậy, quan hệ Ấn Độ - Pakistan trong giai đoạn 1950 - 1964 vẫn chưa
thật sự cải thiện, thậm chí là phải giải quyết những tranh chấp bằng các cuộc chiến
78
tranh. Hậu quả của chính sách “đi mà ở” của thực dân Anh không chỉ làm tổn
thương cho nhân dân hai nước mà còn để lại sự thù hằn giữa hai dân tộc về sau, ảnh
hưởng rõ nét đến tiến trình củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ.
3.3.1.2. Với Trung Quốc
Thiết lập quan hệ với Trung Quốc là vấn đề được Chính phủ Ấn Độ rất chú
trọng bởi quốc gia láng giềng này có vị thế chính trị rất lớn ở châu Á và trên thế
giới. Do vậy, sau khi giành được quyền tự trị, Thủ tướng J. Nehru nhiều lần đánh
giá cao sự cần thiết phải thiết lập mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc.
Tháng 4/1950, hai nước Trung - Ấn thiết lập quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ.
Tháng 6/1950, khi Mỹ thao túng Hội đồng Bảo an thông qua nghị quyết về cuộc
chiến tranh Triều Tiên, Ấn Độ tuyên bố ủng hộ Trung Quốc, đồng thời chủ trương
khôi phục địa vị hợp pháp của Trung Quốc tại tổ chức này. Ấn Độ cũng ủng hộ lập
trường của Bắc Kinh về vấn đề Đài Loan, coi Đài Loan là một bộ phận không thể
tách rời của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Điều này đồng nghĩa với việc Ấn Độ
phủ nhận vị trí của Đài Loan đại diện cho Trung Quốc trong Hội đồng Bảo an. Về
điều này, Thủ tướng J. Nehru khẳng định: “…Một nước lớn như Trung Quốc lại
dường như không tồn tại mà chỉ có một hòn đảo nhỏ bé nằm kề cận duyên hải
Trung Quốc mới được chấp nhận là đại diện cho cả Trung Quốc” [34, tr.77].
Những hành động đầy thiện chí ấy đặt nền tảng cho quan hệ tốt đẹp của hai
nước, đồng thời chứng tỏ sự tiến bộ trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ giai đoạn
này. Tuy nhiên, đây cũng là giai đoạn quan hệ hai nước phải đối mặt với nhiều khó
khăn thách thức gay gắt, đặc biệt là vấn đề Tây Tạng.
Mầm mống xung đột biên giới Trung - Ấn cũng bắt đầu xuất hiện khi Trung
Quốc giải phóng Tây Tạng (10/1950), Dalai Lama chạy sang Ấn Độ. Thủ tướng J.
Nehru một mặt thừa nhận Tây Tạng thuộc chủ quyền của Trung Quốc, mặt khác
cũng tỏ ý thương lượng với Trung Quốc để dành cho Tây Tạng vị trí tự trị, độc lập
trong một nước Trung Quốc. Đáp lại, Trung Quốc lập tức tuyên bố Ấn Độ theo đuôi
chủ nghĩa thực dân chống lại họ và yêu cầu xét lại đường biên giới McMahon giữa
hai nước. Trung Quốc không thừa nhận đường McMahon (Chú giải 6) vì nó là sản
phẩm của chủ nghĩa thực dân. Trước tình hình đó, Thủ tướng J. Nehru khẳng định
79
tại Quốc hội rằng, Ấn Độ công nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không có
nghĩa là công nhận quan điểm của nước này về đường biên giới.
Sau nhiều cuộc hội đàm, Hiệp định về Thương mại và Bưu điện giữa Ấn Độ
và khu Tây Tạng của Trung Quốc ký ngày 29/4/1954 được coi là sự công nhận của
Ấn Độ đối với chủ quyền của Trung Quốc ở Tây Tạng và gián tiếp xác nhận một số
đèo núi làm mốc biên giới giữa hai nước. Chuyến thăm của hai thủ tướng năm 1954
cho thấy đều mong muốn của cả hai bên là củng cố tình hữu nghị hợp tác, thúc đẩy
hòa bình, an ninh ở châu Á và thế giới. Thủ tướng Chu Ân Lai và Thủ tướng J.
Nehru đã thống nhất “Năm nguyên tắc chung sống hòa bình” (Chú giải 7) làm cơ sở
cho việc hoạch định vấn đề biên giới và quan hệ hai nước; trở thành nền tảng trong
chính sách đối ngoại của Ấn Độ. Với 5 nguyên tắc này, cả hai nước đều hy vọng
rằng tình hữu nghị Trung - Ấn sẽ giúp cho châu Á đứng ngoài cuộc Chiến tranh
lạnh, làm dịu tình hình căng thẳng trên thế giới; giảm bớt nguy cơ một cuộc chiến
tranh thế giới [1]. Như vậy, dù xuất hiện bất đồng chủ yếu về vấn đề Tây Tạng,
quan hệ Trung - Ấn nhìn chung vẫn khá thân thiện, hữu nghị. Cả hai đều mong
muốn phát triển quan hệ, dựa vào nhau để phát huy ảnh hưởng trong thế giới thứ ba,
chống lại sức ép và những mưu toan của các thế lực đế quốc, phù hợp với lợi ích
của hai nước, và hòa bình ở châu Á cũng như thế giới.
Sau khi J. Stalin mất, quan hệ Xô - Trung bắt đầu xuất hiện những bất đồng,
rạn nứt. Trong bối cảnh đó, sự thắt chặt quan hệ Ấn Độ - Liên Xô qua các cuộc
viếng thăm liên tiếp của các lãnh đạo cấp cao hai nước trong năm 1955 có phần đe
dọa vị thế của Trung Quốc ở châu Á. Tình hình trên tạo nên những thay đổi trong
nhận thức chiến lược của Trung Quốc, nhu cầu xác định vị thế trong phe xã hội chủ
nghĩa và tìm kiếm vị thế mới ở thế giới thứ ba trở nên cấp bách.
Tháng 12/1957, Trung Quốc công bố bản đồ mới trong đó xác định lại
đường biên giới với Ấn Độ. Đến tháng 7/1958, Thủ tướng Chu Ân Lai chính thức
gửi thư cho Thủ tướng J. Nehru không thừa nhận đường biên giới McMahon và đòi chủ quyền với một vùng lãnh thổ rộng khoảng 90.000 km2 đang thuộc về Ấn Độ. Ngày 25/8/1959, nhân lúc đàn áp cuộc đấu tranh đòi độc lập của Tây tạng, Trung
Quốc đem quân lấn sâu sang biên giới phía Đông của Ấn Độ, đẩy nhanh quá trình
80
xung đột biên giới hai nước [12, tr.45]… Có thể thấy, Trung Quốc đang gây sức ép
cả chính trị lẫn quân sự với Ấn Độ nhằm đòi lại vùng đất hiện đang thuộc chủ
quyền của Ấn Độ.
Ngày 7/11/1959, Trung Quốc đẩy mạnh hành động quân sự, mở con
đường chiến lược nối liền Tân Cương với Tây Tạng cắt qua lãnh thổ Kashmir, biến một vùng lãnh thổ ở Akshi Chin rộng khoảng 36.000km2 thành lãnh thổ Trung Quốc. Từ năm 1959 đến 1962, mâu thuẫn biên giới Ấn - Trung ngày càng
gay gắt đến mức không thể kiểm soát. Trong giai đoạn này, hợp tác quân sự và
thương mại Xô - Ấn tăng nhanh càng khiến cho Trung Quốc có cơ sở để cho
rằng Liên Xô ủng hộ Ấn Độ.
Sau nhiều cuộc hội đàm thất bại, ngày 20/10/1962, Trung Quốc đơn phương
phát động cuộc chiến tranh quy mô lớn trên toàn tuyến biên giới Ấn Độ. Qua một
tháng tấn công và tiến sâu vào lãnh thổ Ấn Độ cách đường McMahon từ 80km đến
100km, ngày 21/11/1962, Trung Quốc tuyên bố ngừng bắn và rút quân về đường
kiểm soát ngày 7/11/1959. Thực tế, với ưu thế về quân sự của mình, sự chủ quan về
“bức tường thành Himalaya không thể công phá” của J. Nehru, Trung Quốc đã
giành thắng lợi áp đảo đối với Ấn Độ. “Đường kiểm soát ngày 7/11/1959” trở thành
biên giới thật sự giữa hai nước đến tận ngày nay [12, tr.47].
Sau năm 1962, quan hệ hai nước vẫn tiếp tục xấu đi. Trung Quốc chuyển
sang thân thiện với Pakistan, gây sức ép và kiềm chế Ấn Độ. Tháng 3/1963, Trung
Quốc và Pakistan ký Hiệp định biên giới (Chú giải 8), trong đó Trung Quốc tuyên
bố thừa nhận quyền kiểm soát của Pakistan ở Kashmir và vấn đề tranh chấp
Kashmir là có tồn tại. Ấn Độ phản đối Hiệp định và không thừa nhận giá trị pháp lý
của nó. Song song với việc ủng hộ chính trị, Trung Quốc còn tích cực viện trợ kinh
tế và quân sự cho Pakistan, lôi kéo nước này chuẩn bị Hội nghị Á - Phi lần 2, nhằm
cô lập Ấn Độ và Liên Xô trong Phong trào không liên kết. Từ năm 1964, Trung
Quốc tuyên bố hoàn toàn ủng hộ Pakistan trong vấn đề Kashmir và trong trường
hợp Pakistan bị tấn công bất cứ từ phía nào.
Như vậy, từ quan hệ thân thiện dựa trên những nét tương đồng xuất phát từ
lợi ích của cả hai nước trong bối cảnh Chiến tranh lạnh, quan hệ Ấn Độ - Trung
81
Quốc trở nên căng thẳng thậm chí là thù địch từ chiến tranh Trung - Ấn năm 1962.
Với Ấn Độ, sau cuộc xung đột biên giới, Ấn Độ luôn cảnh giác và hoài nghi chính
sách của Trung Quốc, và cho rằng đây là mối nguy cơ tiềm tàng ở phương bắc. Để
đối phó với nguy cơ đó, Ấn Độ tăng cường quan hệ với Liên Xô và dần cải thiện
quan hệ với Mỹ. Mặt khác, Ấn Độ tăng cường đầu tư xây dựng, củng cố nền quốc
phòng hiện đại, đảm bảo an ninh biên giới phía Bắc trong sự nghiệp củng cố độc lập
dân tộc.
3.3.2. Quan hệ với các siêu cường Liên Xô, Mỹ
3.3.2.1. Với Liên Xô
Có thể nói, quan hệ Ấn Độ - Liên Xô là mối quan hệ giữa một siêu cường,
một cực trong Trật tự hai cực với một nước rộng lớn, có vị thế quan trọng trong thế
giới thứ ba và ở châu Á. Do vậy, nó không chỉ là quan hệ đơn thuần giữa hai quốc
gia mà còn tác động qua lại sâu rộng với tổng thể các mối quan hệ quốc tế trong
thời kỳ Chiến tranh lạnh. Mục tiêu chiến lược và động lực của Ấn Độ trong quan hệ
với Liên Xô là đảm bảo vị thế một nước lớn trong khu vực và thế giới, duy trì và
thực hiện sự độc lập, khách quan trong quá trình phát huy vai trò đứng đầu thế giới
thứ ba theo đường lối không liên kết. Mặt khác, Ấn Độ cũng mong muốn thông qua
mối quan hệ này để phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề trong nước, khẳng định
vai trò nước lớn ở khu vực Nam Á và Cận Đông.
Khởi đầu mối quan hệ giữa hai nước trong giai đoạn 1947 - 1950, dù có
chuyển biến nhưng chỉ là những thái độ lạnh nhạt, chưa thật sự tạo nên bước ngoặt
lớn. Trong nhận thức ban đầu của Liên Xô, Ấn Độ vẫn là nước đang chịu ảnh
hưởng đến từ chủ nghĩa đế quốc. Khi Ấn Độ tuyên bố độc lập, quan hệ hai nước có
điều kiện thuận lợi để tìm hiểu và xích lại gần nhau.
Nhận thức của Liên Xô đối với Ấn Độ có dấu hiệu ấm dần lên trước khi J.
Stalin qua đời. Bởi lẽ thái độ của Ấn Độ đối với vấn đề Triều Tiên, vị trí của Trung
Quốc ở Liên hợp quốc, cùng với tư duy đối ngoại rõ ràng, đã có tác động tích cực
đến lập trường của J. Stalin. Quan trọng hơn là những động thái của Mỹ đối với khu
vực Nam Á như tăng cường quan hệ với Pakistan và sự tham gia của nước này vào
các tổ chức quân sự khu vực… đe dọa lợi ích chiến lược của Liên Xô, buộc
82
Moscow phải tìm kiếm một tiếng nói chung mạnh mẽ hơn từ khu vực Nam Á. Sự
thay đổi chính sách của Liên Xô đối với Ấn Độ diễn ra trong bối cảnh cuối năm
1953, Mỹ ký với Pakistan hiệp ước viện trợ quân sự và xây dựng căn cứ quân sự
gần biên giới Liên Xô. Trong tuyên bố ngày 24/2/1954, Chính phủ Liên Xô lên án
việc Mỹ xây dựng căn cứ quân sự ở Pakistan đe dọa sự toàn vẹn lãnh thổ của Liên
Xô, đồng thời khẳng định biến Thổ Nhĩ Kỳ và Pakistan thành đồng minh của Mỹ là
“đạo luật chiến tranh”. Từ năm 1954, sau sự ra đời của SEATO và Hiệp ước
Baghdad (Sau đổi tên thành Khối Hiệp ước Trung tâm (Central Treaty
Organisation) - viết tắt là CENTO), quân đội Pakistan được trang bị vũ khí bởi Mỹ
đã không chống cộng sản mà chủ yếu là chống lại Ấn Độ. Đây là những dấu hiệu rõ
nét về sự thay đổi quan điểm của Liên Xô xuất phát từ sự thay đổi cá nhân lãnh đạo
ở Kremli và đặc biệt là những biến động quan trọng trong khu vực Nam Á.
Sau khi J. Stalin qua đời, quan hệ hai nước có những thay đổi bước ngoặt.
Dấu hiệu đầu tiên là lời phát biểu của M. Malenkov - Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Liên Xô tại Xô viết tối cao vào tháng 8/1953:
Vị trí quá rộng lớn của một đất nước như Ấn Độ là hết sức quan trọng
đối với việc củng cố hòa bình ở phương Đông. Ấn Độ đã cống hiến
một cách đáng kể cho những nỗ lực của những nước yêu chuộng hòa
bình bằng việc kết thúc chiến tranh ở Triều Tiên, mối quan hệ với Ấn
Độ ngày càng lớn mạnh, văn hóa và kinh tế đang trên đà phát triển.
Chúng tôi hy vọng rằng mối quan hệ giữa Ấn Độ và Liên Xô sẽ tiếp
tục phát triển và lớn mạnh dựa trên nguyên tắc chủ đạo là hợp tác thân
thiện [93, tr.3].
Có thể nhận thấy, những chuyển biến về nhận thức của Liên Xô trong việc
cải thiện quan hệ với Ấn Độ vừa phản ánh nhu cầu tất yếu thúc đẩy quan hệ, vừa
phù hợp với lợi ích dân tộc của hai quốc gia ở khu vực Nam Á trước tình hình mới.
Quan hệ của hai nước được xem là tạo ra một bước ngoặt mới trong chuyến
thăm Liên Xô từ ngày 7 đến 23/6/1955 của Thủ tướng J. Nehru. Tại đây, Ấn Độ
được Liên Xô tiếp đón một cách nồng hậu, đặc biệt là đối với một nước phi cộng
sản như Ấn Độ. Tuyên bố chung nêu rõ: “…Người đứng đầu hai chính phủ tin
83
tưởng rằng, với Năm nguyên tắc cơ bản trong tuyên bố này, là cơ sở cho sự phát
triển của quan hệ hợp tác văn hóa, kinh tế, khoa học kỹ thuật giữa hai nước” [119,
tr.76]. Chuyến thăm của Thủ tướng J. Nehru có ý nghĩa hết sức quan trọng, đánh
dấu sự thay đổi căn bản nhận thức của Liên Xô về Ấn Độ và con đường không liên
kết do Ấn Độ khởi xướng, mở ra giai đoạn phát triển mới trong quan hệ hai nước.
Sau chuyến thăm của Thủ tướng J. Nehru, từ ngày 17/11 đến 14/12/1955. Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô N. Khrushchev và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô N. Bulganin cùng nhiều quan chức cao cấp đã thăm chính thức Ấn Độ. Trong 3 tuần ở Ấn Độ, hai nhà lãnh đạo Liên Xô có nhiều cuộc hội đàm với lãnh đạo và các đoàn thể chính trị Ấn Độ ở thủ đô New Delhi. Phát biểu trước Quốc hội Ấn Độ, N. Khrushchev khẳng định:
Ở đây, tại Quốc hội Ấn Độ, tôi quả quyết rằng tình hữu nghị của nhân dân chúng ta bao thế kỷ vẫn phát triển và không hề bị lu mờ vì những xung đột và xích mích. Ngày nay, Ấn Độ đã giành được độc lập và chủ quyền quốc gia, những quan hệ thân thiện giữa hai nước chúng ta lại càng được củng cố, phù hợp với lợi ích sống còn của hai dân tộc chúng ta, phù hợp với 5 nguyên tắc chung sống do Ấn Độ và Trung Quốc đề ra [53, tr.26].
Như vậy, chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao của Liên Xô sang Ấn Độ đạt được những kết quả to lớn trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hóa xã hội cũng như trong các vấn đề quốc tế. Theo đó, từ năm 1955, Liên Xô đã hoàn toàn ủng hộ Ấn Độ về vấn đề chủ quyền đối với khu vực Kashmir, và từ năm 1956, Liên Xô còn đe dọa sử dụng quyền phủ quyết của mình trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đối với các nghị quyết bất lợi cho Ấn Độ về vấn đề Kashmir. Đặc biệt, xuất phát từ sự tương đồng trong mục tiêu chống lại chủ nghĩa thực dân, Liên Xô tỏ rõ thái độ của mình đối với vấn đề thu hồi Goa, Diu, Daman từ thực dân Bồ Đào Nha, xem đó như là một giải pháp góp phần thủ tiêu hoàn toàn chủ nghĩa thực dân trên đất nước Ấn Độ. Ngoài ra, trên cơ sở Năm nguyên tắc chung sống hòa bình, hai nước còn nhấn mạnh sự đồng nhất trong việc phát triển quan hệ hữu nghị giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau, thúc đẩy giải quyết hòa bình về vấn đề
Đức; vấn đề Triều Tiên và Đông Dương…
84
Con đường xây dựng và phát triển nền kinh tế mà Ấn Độ đã chọn là dựa
trên vai trò quy hoạch và dẫn đường của lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là trong
ngành công nghiệp nặng và lấy sở hữu nhà nước làm nền tảng. Chính điều này
đưa Ấn Độ gần gũi hơn với Liên Xô. Trong khi các cường quốc phương Tây, đặc
biệt là Mỹ, do dự viện trợ, thì Liên Xô lại sẵn sàng tiên phong với sự hỗ trợ trong
việc xây dựng Nhà máy thép Bhilai vào năm 1956. Sau đó, Anh và Đức mới trợ
giúp xây dựng các nhà máy thép tiếp theo ở Durgapur và Rourkela. Trong những
năm sau đó, Liên Xô lại đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ Ấn Độ
thăm dò dầu mỏ.
Những kết quả trên làm nền tảng ngày càng thắt chặt hơn nữa mối quan hệ
hợp tác, hữu nghị giữa Liên Xô và Ấn Độ, đồng thời cũng tạo nên bước phát triển
nhảy vọt trong quan hệ Ấn Độ - Liên Xô trong những năm tiếp theo.
Từ năm 1957 đến 1959, quan hệ hai nước tiếp tục có những chuyển biến tích
cực trên nhiều phương diện. Từ tháng 8/1959, quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc
bắt đầu xấu đi, đồng thời với các cuộc đụng độ quân sự ngay khu vực biên giới
Trung - Ấn. Lúc này, Liên Xô đã chủ động là nước trung lập. Ấn Độ nhận thức rõ
được tầm quan trọng trong lập trường của Liên Xô, tích cực xích lại gần hơn nữa
với Liên Xô. Ấn Độ và Liên Xô đã ký kết thỏa hiệp đầu tiên về việc Liên Xô cung
cấp cho Ấn Độ các thiết bị quân sự. Năm 1960, Ấn Độ nhận được gói các máy bay
vận tải, máy bay trực thăng cùng các thiết bị kỹ thuật cho “Cục phát triển đường bộ
biên giới” để xây dựng đường giao thông tại các khu vực tranh chấp với Trung
Quốc. Năm 1961, chuyến hàng quân sự đầu tiên gồm 10 chiếc máy bay trực thăng
Mi-4, 8 máy bay vận tải An-12, 6 động cơ phản lực chế tạo máy bay HF 24 cùng
với việc đào tạo binh sĩ và cung cấp trang thiết bị cho bộ binh [12, tr.31]. Đầu năm
1962, Liên Xô tiếp tục đồng ý chuyển giao khoa học công nghệ và xây dựng ở Ấn
Độ một nhà máy chế tạo động cơ máy bay MIG-21. Do vậy, góp phần tăng thêm
sức mạnh quân sự cho quân đội Ấn Độ trong xung đột với Bồ Đào Nha, Pakistan và
Trung Quốc.
Tháng 10/1962, Trung Quốc một lần nữa tấn công vào Ấn Độ. Liên Xô vẫn
tiếp tục lựa chọn giải pháp trung lập của mình. Một phần vì nó xảy ra trong bối cảnh
85
cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba đang ở đỉnh điểm, mặt khác Liên Xô cũng không
muốn khoét sâu thêm mâu thuẫn với “người anh em cộng sản” Trung Quốc.
Nhưng ngay sau đó, vào tháng 12/1962, M. Suslov - một trong những nhà lãnh đạo
tối cao của Liên Xô, tại một phiên họp, đã công khai tuyên bố Trung Quốc phải
chịu trách nhiệm cho cuộc chiến này.
Tiếp sau đó, sự thay đổi nhân sự lãnh đạo cấp cao ở cả Ấn Độ và Liên Xô
cùng trong năm 1964 đã ảnh hưởng đáng kể đến quan hệ giữa hai quốc gia. Đặc biệt
là sau khi J. Nehru qua đời, L. Shastri lên nối nghiệp cũng như các nhà lãnh đạo ở
thời kỳ sau, Ấn Độ khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại với Liên Xô
mà J. Nehru đã lựa chọn để củng cố độc lập dân tộc.
3.3.2.2. Với Mỹ
Quan hệ Ấn Độ - Mỹ trải qua nhiều thăng trầm nhưng cơ bản vẫn là mâu
thuẫn với nhau về chiến lược. Sau khi Ấn Độ giành được quyền tự trị, đường
lối đối ngoại của hai nước hoàn toàn ngược nhau. Ấn Độ theo đuổi chính sách
không liên kết, hòa bình thì Mỹ lại mở rộng chính sách liên kết, xâm lược và
phá hoại nền hòa bình thế giới. Từ sự nhận thức khác nhau về cuộc Chiến tranh
lạnh, từ năm 1950, quan hệ Ấn Độ - Mỹ xuất hiện những bất đồng với nhau
trong việc giải quyết các vấn đề lớn và phức tạp của thế giới như: chiến tranh
Triều Tiên, Hiệp ước hòa bình Nhật - Mỹ, chiến tranh Đông Dương, sự kiện
Liên Xô đưa quân vào Hungari (10/1956) và việc Mỹ thành lập các khối quân
sự trên thế giới…
Tiếp sau vấn đề Ấn Độ công nhận nước Trung Hoa mới, dưới danh nghĩa lực
lượng Liên hợp quốc, Mỹ đưa quân vào can thiệp ở Triều Tiên. Lúc đầu Ấn Độ ủng
hộ nghị quyết lên án Bắc Triều Tiên của Liên hợp quốc và cử tới đây một đoàn
quân y gồm 500 người. Nhưng ngay sau đó, Ấn Độ đã thay đổi quan điểm, chống
lại mọi hành động của Mỹ ở Triều Tiên. Trước sức ép của Mỹ, Ấn Độ không những
không lên án Trung Quốc xâm lược mà còn đứng về phía Trung Quốc tố cáo Mỹ.
Mỹ phản đối gay gắt hành động của Ấn Độ bằng cách, ngày 2/2/1951, Tổng thống
Mỹ H. Truman đã đề nghị Quốc hội Mỹ bãi bỏ việc viện trợ cho Ấn Độ 200 vạn tấn
lương thực.
86
Về chiến tranh Đông Dương, Mỹ ủng hộ Pháp xâm lược, kéo dài chiến tranh.
Để cứu Pháp, Mỹ yêu cầu Ấn Độ cho phép máy bay chở quân, vũ khí… qua Ấn
Độ, tiếp tế cho Pháp ở Đông Dương. Tuy nhiên, Ấn Độ đã từ chối. Thượng nghị sĩ
Mỹ, ngài Knowland tuyên bố: “Việc Ấn Độ không cho phép máy bay Mỹ chở quân
qua Ấn Độ chứng tỏ Ấn Độ đã đứng về phe cộng sản” [69, tr.73].
Sự kiện Hungari năm 1956 tiếp tục làm cho quan hệ hai nước xấu đi. Việc
Liên Xô đưa quân vào Hungari đã tạo nên một làn sóng phản đối ở nhiều quốc gia.
Mỹ, Anh và các nước Tây Âu xem đó là cuộc chiến tranh xâm lược, can thiệp thô
bạo vào công việc nội bộ và quyền dân chủ Hungari. Các nước phương Tây kêu gọi
các quốc gia trung lập, trong đó đặc biệt là Ấn Độ, tỏ thái độ ủng hộ phong trào tự
do của Hungari và chống lại Liên Xô. Trước yêu cầu của các nước không liên kết,
Ấn Độ đã đưa ra giải pháp trung gian, bổ nhiệm quan sát viên của Liên hợp quốc
vào Hungari, giám sát quyền tự do ở đây. Do đó, Mỹ lên án Ấn Độ không những
không tố cáo Liên Xô can thiệp vào Hungari mà còn chống lại nghị quyết của Liên
hợp quốc, kêu gọi tổng tuyển cử tự do ở Hungari.
Với bản chất trong chính sách đối ngoại là không liên kết, chống lại các khối
quân sự, Ấn Độ bị Mỹ kịch liệt phản đối. Bởi lẽ, Ấn Độ cho rằng các khối quân sự
là nguyên nhân gây nên tình trạng bất ổn, phá hoại hòa bình trên thế giới. Đối lập
với điều này, Mỹ thực hiện đường lối liên kết, thành lập các khối liên minh quân sự
một mặt để chống các nước xã hội chủ nghĩa, mặt khác buộc các nước thuộc khối
quân sự phải đi theo quỹ đạo của Mỹ. Đối với khối quân sự NATO, Ấn Độ cho
rằng Mỹ tham gia vào khối quân sự mà các nước thực dân châu Âu đã có thời gian
dài đô hộ các nước Á - Phi. Trong đó, Pháp và Bồ Đào Nha là hai thành viên của
khối này đang chiếm hai vùng đất của Ấn Độ, điều này sẽ khó khăn cho Ấn Độ
trong việc giải phóng hoàn toàn đất nước. Đặc biệt, Ấn Độ chống lại khối quân sự
Baghdad, SEATO khi hai khối này ở gần và đe dọa trực tiếp đến an ninh của khu
vực và Ấn Độ.
Trong một thời gian dài tìm cách lôi kéo, đặc biệt dùng sức ép buộc Ấn Độ
từ bỏ chính sách đối ngoại độc lập, không liên kết không thành công, Mỹ tìm đến
Pakistan với hy vọng Pakistan trở thành một thành trì chống cộng ở Nam Á và bành
87
trướng xuống phía Nam, đồng thời còn kiềm chế sự phát triển của Ấn Độ. Quan hệ
Mỹ - Pakistan ngày càng tiến triển, điều này đe dọa thật sự nền an ninh mà trực tiếp
là sự nghiệp củng cố độc dân tộc của Ấn Độ cũng như nền hòa bình ở khu vực.
Ngay từ năm 1954, Mỹ và Pakistan đã ký với nhau hiệp định về việc cung cấp vũ
khí cho Pakistan. Thậm chí, năm 1959, Mỹ và Pakistan tiếp tục ký hiệp định hợp
tác. Theo đó, Mỹ cam kết bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền của Pakistan, tuyên
bố sẽ có những biện pháp cần thiết kể cả dùng lực lượng vũ trang. Mỹ luôn đứng về
phía Pakistan trong các vấn đề tranh chấp, nhất là vấn đề Kashmir với Ấn Độ.
Ấn Độ phản đối kịch liệt việc Mỹ viện trợ quân sự cho Pakistan. Chẳng hạn,
trong thư gửi Thủ tướng Pakistan ngày 9/12/1953, Thủ tướng J. Nehru chỉ ra rằng
việc nhận viện trợ quân sự Mỹ trước hết sẽ cản trở các cuộc đàm phán liên quan đến
Kashmir, kéo Pakistan vào quỹ đạo của Mỹ. Tháng 1/1954, trong một bài viết đăng
trên tờ Hindu - Madras, J. Nehru tuyên bố thẳng thắn và dứt khoát là sự can thiệp
quân sự của các cường quốc Âu, Mỹ vào công việc châu Á sẽ làm tăng thêm chủ
nghĩa thực dân và cản trở phong trào giải phóng dân tộc ở khu vực này. Điều này sẽ
làm đảo lộn quá trình bình thường hóa quan hệ giữa Ấn Độ và Pakistan; tạo ra
những tiền đề cho bất ổn khu vực và cho sự xâm lược của Pakistan. Thực tế cuộc
xung đột Ấn Độ - Pakistan năm 1965 đã chứng minh cho những hành động trên của
Mỹ, càng làm cho quan hệ hai nước thêm căng thẳng.
Trái với những khác biệt trong quan điểm về các vấn đề khu vực và quốc tế,
trên lĩnh vực kinh tế, quan hệ Ấn Độ - Mỹ lại có những cải thiện đáng kể. Mặc dù
không đồng tình với chính sách đối ngoại, nhưng Mỹ muốn tranh thủ sự ủng hộ của
Ấn Độ để thực hiện mục tiêu về chính trị của mình. Mỹ muốn tất cả các nước nhận
viện trợ phải ủng hộ trong các vấn đề quốc tế và hành động theo mong muốn của
Mỹ. Mặt khác, Mỹ muốn kiểm soát nền kinh tế của các nước thuộc thế giới thứ ba
như Ấn Độ. Đối với Ấn Độ, việc phát triển mối quan hệ về kinh tế với Mỹ đảm bảo
nguồn cung cấp công nghệ và máy móc cho quá trình công nghiệp hóa đất nước,
nhất là trong bối cảnh Chiến tranh lạnh, khi chính sách không liên kết làm cho Liên
Xô không mấy thiện cảm. Do vậy, Ấn Độ nhận viện trợ từ Mỹ nhiều hơn các nước
khác. Theo đó, ngày 28/12/1950, Hiệp định về hợp tác kỹ thuật theo chương trình 4
88
điểm được ký kết giữa hai nước về việc Ấn Độ nhận viện trợ không hoàn lại từ Mỹ.
Ngày 5/11/1952, hai nước tiếp tục ký Hiệp định về việc Mỹ giúp Ấn Độ phát triển
kinh tế. Tuy nhiên, Mỹ cũng đặt ra yêu cầu liên quan đến chính trị làm cho chính
phủ J. Nehru phải liên tục có những thay đổi quan điểm cho phù hợp với tình hình.
Trong chuyến thăm Mỹ lần thứ hai của Thủ tướng J. Nehru (12/1956), Mỹ
đồng ý viện trợ lương thực và cho Ấn Độ vay 225 triệu USD nhằm trang trải cho kế
hoạch 5 năm lần thứ hai, trong đó 70% được vay qua Ngân hàng phát triển, 30%
thông qua Quỹ cho vay phát triển. Cuối năm 1956, Ấn Độ và Mỹ ký hiệp định theo
đó Mỹ sẽ cung cấp lương thực dài hạn cho Ấn Độ (gọi tắt là P.L 480) trị giá hơn
350 triệu USD. Mặc dù trên danh nghĩa P.L 480 là nhằm: tăng thêm lương thực,
góp phần ổn định giá cả, giúp Ấn Độ có điều kiện đầu tư vào các công trình hạ tầng
cơ bản. Nhưng trên thực tế, P.L 480 là cách giải quyết lương thực thừa, buộc Ấn Độ
trở thành con nợ lâu dài của Mỹ.
Năm 1958, để đối phó với những khó khăn lớn về tài chính, cũng như mối
đe dọa từ Trung Quốc, Ấn Độ đã dần cải thiện quan hệ với Mỹ. Mỹ đã viện trợ
225 triệu USD cho Ấn Độ, đồng thời thuyết phục các nước phương Tây khác viện
trợ thêm. Trong thời kỳ của Tổng thống F. Kennedy (1961 - 1963), Ấn Độ được
coi là một đối tác chiến lược quan trọng. Quỹ Tiền tệ quốc tế do Mỹ khống chế đã
cho Ấn Độ vay 14.800 triệu rupee [28, tr.19]. Viện trợ của Mỹ cho Ấn Độ tiếp tục
tăng lên đáng kể. Cụ thể: nếu trong 10 năm đầu (1949 - 1959) là 2.500 USD, từ
năm 1959 - 1962 là 4.100 triệu USD. Chính điều này góp phần giúp kinh tế Ấn
Độ giai đoạn (1950 - 1964) bước đầu vượt qua những khó khăn, đảm bảo nguồn
cung ứng lương thực đồng thời thúc đẩy cho quá trình công nghiệp hóa đất nước
diễn ra nhanh chóng.
Như vậy, trong quan hệ với Mỹ, Ấn Độ vừa tuân thủ nguyên tắc của đường
lối đối ngoại không liên kết, vừa quan hệ trên lĩnh vực kinh tế, tạo điều kiện thuận
lợi cho sự nghiệp bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc. Việc Chính phủ Ấn Độ theo
đuổi chính sách trên hoàn toàn phù hợp với đặc thù của nước này, tạo cơ sở cho sự
phát triển quan hệ giữa hai quốc gia về sau, nhất là sau chiến tranh biên giới với
Trung Quốc năm 1962.
89
3.3.3. Tham gia sáng lập Phong trào không liên kết Là một trong những thành viên sáng lập, Ấn Độ đã có đóng góp to lớn cho
sự ra đời và phát triển của Phong trào không liên kết. Trong bối cảnh phức tạp giữa
những năm 50, Ấn Độ lại càng có nhiều nỗ lực trong việc triệu tập Hội nghị các
nước Á, Phi. Trước cuộc gặp gỡ các nguyên thủ Ấn Độ, Indonesia, Pakistan và
Ceylan tháng 12/1954 ở Bogor (Indonesia), J. Nehru đã thông báo sơ bộ dự kiến
của mình: Hội nghị Á - Phi sẽ mời khoảng 30 nước ở cấp Thủ tướng, Bộ trưởng
Ngoại giao; chương trình nghị sự không gồm những vấn đề đang tranh cãi mà là
những vấn đề chung như hữu nghị, “Năm nguyên tắc chung sống hòa bình”, thành
lập Ban thư ký để chuẩn bị Hội nghị.
Sau thời gian 3 tháng kể từ cuộc gặp trên, tình hình thế giới, nhất là khu vực
châu Á trở nên phức tạp hơn, đòi hỏi phải có sự đoàn kết của các nước Á - Phi. Việc
Mỹ ký với Đài Loan hiệp ước đảm bảo an ninh ngày 2/12/1954 và Tổng thống
Eisenhower đòi Quốc hội Mỹ trao cho ông toàn quyền sử dụng lực lượng quân sự
để bảo vệ cho Đài Loan, tạo ra nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh lớn. Ở Trung
Cận Đông, ngày 24/2/1955, khối quân sự Baghdad ra đời. Bốn ngày sau, Israel thực
hiện cuộc tấn công xâm lược dải Gaza.
Từ năm 1954 đến tháng 4/1955, Thủ tướng J. Nehru và Chính phủ Ấn Độ đã
có nhiều hoạt động năng động chuẩn bị cho Hội nghị Bandung bằng một loạt các
cuộc tiếp xúc quan trọng với Tổng thống Nasser của Ai Cập (2/1955); Tổng thống
Tito của Nam Tư, và đặc biệt là với Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai. Thông cáo
chung của cuộc hội đàm giữa J. Nehru và Chu Ân Lai (29/4/1954) đề ra 5 nguyên
tắc chỉ đạo quan hệ giữa hai nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau, về sau
được gọi là Năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình (Panch Sheel).
Hội nghị các nước Á - Phi diễn ra từ ngày 18 đến 24/4/1955 với sự tham gia
của 29 quốc gia, trong đó 23 quốc gia châu Á và 6 của châu Phi (Chú giải 9) thành
công rực rỡ. “Panch Sheel” được phát triển thành 10 nguyên tắc Bandung. Kết quả
lớn nhất của Hội nghị Bandung là thúc đẩy tiến trình đấu tranh giành độc lập của
các nước và dân tộc thuộc địa. Về thực chất, 10 nguyên tắc Bandung khẳng định
các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị - xã hội khác
90
nhau và được dùng làm cơ sở cho chính sách đối ngoại của các nước Á - Phi mới
độc lập, cũng như những nguyên tắc của Phong trào không liên kết sau này. Đại đa
số các nước thuộc thế giới thứ ba đã khẳng định lý tưởng của chính sách không liên
kết. Thành công của hội nghị chứng tỏ rằng các nước có chế độ xã hội và khuynh
hướng chính trị khác nhau có thể vượt qua các bất đồng nếu họ có chung nguyện
vọng bảo vệ hòa bình thế giới, độc lập tự do của các dân tộc, bình đẳng và hợp tác
cùng có lợi giữa các quốc gia.
Sau Hội nghị Bandung, tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp. Mỹ
giật dây để lập ra các khối quân sự do Mỹ lãnh đạo, phá hoại phong trào giải phóng
dân tộc. Mặc dù vậy, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới vẫn đạt được
những thắng lợi quan trọng: cuộc cách mạng ở Iraq thành công, một loạt các nước
châu Phi giành được độc lập, đặc biệt là Ai Cập đã đánh thắng cuộc xâm lược của
Anh, Pháp và Israel, quốc hữu hóa kênh đào Suez. Trước tình hình này, Ấn Độ
cùng các nhà lãnh đạo của một số nước như Indonesia, Nam Tư, Ai Cập, Ghana, đã
có những cuộc tiếp xúc với nhau để tìm biện pháp cụ thể nhằm thực hiện nguyện
vọng chung là: đoàn kết trong các vấn đề quốc tế nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền
dân tộc, ủng hộ các dân tộc đang đấu tranh thoát khỏi ách thực dân, không để bị lôi
kéo vào các liên minh quân sự, góp phần bảo vệ hòa bình thế giới, tạo một môi
trường quốc tế hòa bình để tồn tại và phát triển [72, tr.36].
Bằng những hoạt động con thoi để thúc đẩy phong trào đoàn kết Á - Phi, tiến
tới thành lập Phong trào không liên kết, tại Hội nghị đoàn kết nhân dân Á - Phi
được tổ chức ở Cairo (12/1957), Ấn Độ đã cùng với 44 nước quyết định thành lập
Tổ chức đoàn kết nhân dân Á - Phi (AAPSO). Tổ chức đã trở thành diễn đàn quan
trọng để các phong trào giải phóng dân tộc tranh thủ đồng tình rộng rãi của quốc tế,
đồng thời cũng là một tổ chức tích cực ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc về
tinh thần và vật chất [59, tr.55]. Tiếp theo cuộc gặp gỡ giữa Thủ tướng J. Nehru,
Tổng thống Nasser và Tổng thống Tito tại đảo Brioni (Nam Tư) tháng 7/1956, trong
cuộc họp lần thứ 15 của của Đại hội đồng Liên hợp quốc (9/1960), Thủ tướng J.
Nehru tiếp tục gặp các nguyên thủ quốc gia của Ai Cập, Indonesia, Nam Tư, Ghana
91
để đi đến thống nhất triệu tập một hội nghị của tất cả các nước không liên kết Á,
Phi, Mỹ latinh.
Tháng 6/1961, hội nghị trù bị của phong trào được tổ chức tại Cairo. Nhờ
chuẩn bị chu đáo, tháng 9/1961, hội nghị cấp cao các nước không liên kết lần thứ
nhất được tổ chức tại Belgrade (Nam Tư) với sự tham gia của 25 thành viên chính
thức, 3 quan sát viên, 15 thành viên phong trào giải phóng dân tộc và 11 Đảng công
nhân và xã hội châu Âu - Á - Phi - Mỹ latinh và một số tổ chức khác, được coi là
mốc khai sinh ra Phong trào không liên kết.
Hội nghị Belgrade đã đề cập một cách toàn diện các vấn đề mục tiêu, nguyên
tắc, vị trí và vai trò của Phong trào không liên kết. Tham gia tổ chức hội nghị và xây
dựng chương trình nghị sự, Thủ tướng J. Nehru có những đóng góp không nhỏ về lý
luận của phong trào này. Theo J. Nehru, tiêu chuẩn cơ bản của một nước không liên
kết là thực hiện chính sách độc lập trên những nguyên tắc chung sống hòa bình và
không liên kết, luôn ủng hộ phong trào độc lập dân tộc, không tham gia liên minh
quân sự. Không liên kết không phải là trung lập một cách thụ động, mà cần phải có
thái độ rõ ràng trong các vấn đề như chạy đua vũ trang, chính sách xâm lược của
các nước đế quốc.
Như vậy, với tư cách là quốc gia khởi xướng và đi tiên phong, Ấn Độ có
những đóng góp quan trọng cho phong trào trong giai đoạn đầu. Sự đóng góp đó
gắn liền với tên tuổi của Thủ tướng J. Nehru từ ý tưởng đến sự hoàn thiện về tư
tưởng, và từ tư tưởng đến hiện thực thông qua những nỗ lực hoạt động thực hiện sôi
nổi. Tư tưởng đó mang ý nghĩa một sự tiếp cận có tính nguyên tắc đối với những
vấn đề có tầm vóc quốc tế. Về sau, Indira Gandhi - con gái của ông, ba lần làm Thủ
tướng Ấn Độ đã kế tục xuất sắc sự nghiệp của cha mình, tiếp tục đóng góp vào sự
lớn mạnh của Phong trào không liên kết.
3.3.4. Giữ vai trò trong một số vấn đề quốc tế và khu vực
Trên cơ sở chính sách đối ngoại hòa bình, trung lập và không liên kết, Ấn Độ
không bao giờ tự coi mình là một bộ phận tách rời của thế giới, khu vực, nhất là Ấn
Độ vừa giành được quyền tự trị và đang trong thời kỳ xây dựng, củng cố nền Cộng
hòa. Trái lại, trong thời kỳ Trật tự thế giới hai cực, sự đối đầu ngày càng căng thẳng
92
giữa hai siêu cường Xô - Mỹ, Ấn Độ nổi lên như một nhân tố trung gian của thế
giới thứ ba góp phần làm xoa dịu mâu thuẫn trong các vấn đề quốc tế, khu vực.
Những hoạt động ngoại giao con thoi, quan điểm, giải pháp chống chiến tranh, chủ
nghĩa thực dân, bảo vệ độc lập dân tộc, ủng hộ hòa bình ở các nước Á, Phi, Mỹ
latinh của Ấn Độ trên các diễn đàn đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá
cao, thể hiện qua một số sự kiện sau:
3.3.4.1. Chiến tranh Triều Tiên
Ấn Độ đóng vai trò năng động trong cuộc khủng hoảng ở Triều Tiên như
một nhà lãnh đạo của các quốc gia trung lập. Trước những động thái từ phía Trung
Quốc, Mỹ và Bắc Triều Tiên, tháng 8/1950, Ấn Độ đưa ra một đề nghị mới là giao
việc trung gian hòa giải cho các thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an.
Tuy nhiên, kết quả của những cố gắng hòa bình này đều bị Mỹ bác bỏ. Là một quốc
gia theo đường lối không liên kết, Ấn Độ rất do dự có nên tham gia vào một cam
kết quân sự chống lại Bắc Triều Tiên hay không? Thay vào đó, để hỗ trợ cho Liên
hợp quốc (Ấn Độ lúc này ủng hộ Mỹ trong Hội đồng an ninh của Liên hợp quốc),
Ấn Độ quyết định gửi một đơn vị y tế cho Nam Triều Tiên để điều trị cho các bệnh
nhân và những người bị thương trong chiến tranh như một hành động nhân đạo.
Sau nhiều lần đàm phán giữa các bên, đặc biệt là từ tháng 5/1952, trở ngại
duy nhất còn ngăn cản đi đến một hiệp định đình chiến ở bán đảo Triều Tiên là vấn
đề tù binh. Về vấn đề này, Mỹ đòi tù binh hồi hương trên cơ sở tự nguyện với mục
đích muốn giữ lại một số tù binh Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Bị phía Trung -
Triều bác bỏ, tháng 10/1952, Mỹ tự ý cắt đứt cuộc thương lượng và mở cuộc tiến
công mới, tuy nhiên tất cả đều thất bại. Khi Mỹ chính thức yêu cầu Ấn Độ có sáng
kiến để đạt được một hiệp ước đình chiến trong cuộc chiến tranh, cùng với đại diện
các quốc gia Á - Phi trong Liên hợp quốc, ngày 17/11/1952, Ấn Độ soạn thảo một
nghị quyết thỏa hiệp, trình lên Đại hội đồng. Theo đó:
1. Tất cả các tù binh nên được trao trả và hồi hương theo quy định của
Công ước Geneve đối với việc điều trị các tù binh trong chiến tranh ngày
12/8/1949, phù hợp với những thông lệ, với các nguyên tắc của luật pháp
quốc tế, và với những quy định của dự thảo hiệp định đình chiến.
93
2. Không được sử dụng vũ lực để chống lại các tù binh. Họ cần được đối
xử phù hợp với các điều khoản cụ thể của Công ước Geneve và với tinh
thần chung đó [104, tr.29].
Ngày 1/12/1952, dự thảo nghị quyết đã được thông qua lần đầu tiên tại
Đại hội đồng với số phiếu tán thành là 53/5. Tuy nhiên, đề nghị này của Ấn Độ
bị chỉ trích từ Liên Xô và Trung Quốc, bởi họ nghi ngờ Ấn Độ hành động dưới
áp lực của Mỹ.
Sau khi có một số sửa đổi, Liên hợp quốc yêu cầu Trung Quốc và Bắc Triều
Tiên chấp nhận đề nghị để cho “một nền hòa bình được xây dựng lâu dài tại Triều
Tiên”. Tuy nhiên, cả hai đều từ chối đề nghị này và cho rằng “không có cơ sở pháp
lý, và không công bằng”. Trung Quốc và Bắc Triều Tiên chỉ muốn có một cuộc hồi
hương chính thức.
Trước sự bế tắc của các cuộc đàm phán, Tổng thống Mỹ Eisenhower đã gửi
một thông điệp vào ngày 2/2/1953, rằng nước Mỹ sẽ không ngần ngại sử dụng vũ
khí nguyên tử trong cuộc chiến tranh Triều Tiên. Vài ngày sau, Ấn Độ bày tỏ quan
ngại sâu sắc rằng Mỹ có thể thực hiện mối đe dọa này và đồng nghĩa có thể xảy ra
một cuộc chiến tranh thế giới mới. Tháng 2/1953, Liên hợp quốc gửi một bức thư
tới Trung Quốc và Bắc Triều Tiên thông báo sẽ sẵn sàng để hồi hương các tù binh.
Ngày 28/3/1953, cả hai đã đồng ý. Ấn Độ kêu gọi Liên hợp quốc bằng những nỗ
lực của mình để giữ các cuộc đàm phán được tiếp tục. Ngày 1/6/1953, thỏa thuận về
việc hồi hương của các tù binh được ký kết. Thỏa thuận này tương tự với những đề
xuất của Ấn Độ trước đó. Ngày 27/7/1953, hiệp định đình chiến ở Triều Tiên được
ký kết.
Những nỗ lực của Ấn Độ dần dần được công nhận bởi cả hai khối. Sau đó,
Ấn Độ trở thành Chủ tịch Hội đồng hồi hương các quốc gia trung lập (NNRC) (Chú
giải 10), có đầy đủ thẩm quyền thực hiện hợp pháp chức năng và trách nhiệm của
mình đối với sự kiểm soát các tù binh chiến tranh.
3.3.4.2. Chiến tranh Đông Dương
Tình hình thế giới đầu những năm 50 có nhiều thay đổi quan trọng. Cùng với
Hiệp định đình chiến ở Triều Tiên được ký kết ngày 27/3/1953, Chính phủ Ấn Độ
94
bắt đầu có những hoạt động tích cực nhằm góp phần chấm dứt chiến sự ở Việt Nam
và Đông Dương. Tháng 12/1953, Thủ tướng J. Nehru tuyên bố: “Chính phủ không
cho phép sự có mặt của quân đội nước ngoài trên lãnh thổ Ấn Độ trong bất cứ hoàn
cảnh nào; chấm dứt việc sử dụng sân bay của Ấn Độ để vận chuyển vũ khí và binh
lính Pháp sang Đông Dương qua không phận Ấn Độ” [35, tr.68]. Tiếp đó, ngày
22/4/1954, tại Hạ viện Ấn Độ, J. Nehru đưa ra lời kêu gọi ngừng bắn, chấm dứt
chiến tranh ở Đông Dương. Có thể nói, lời tuyên bố và kêu gọi trên đánh dấu bước
chuyển biến đáng kể của Ấn Độ trong nỗ lực của mình nhằm chấm dứt cuộc chiến
tranh Đông Dương.
Đi xa hơn, J. Nehru và Chính phủ Ấn Độ đã tiến hành một loạt hoạt động,
kiên trì đấu tranh nhằm lập lại hòa bình ở Đông Dương. Ngày 24/4/1954, trước Hạ
viện Ấn Độ, J. Nehru đưa ra tuyên bố về tình hình Đông Dương, trong đó nêu lên
nhận định về những diễn biến ở khu vực này từ năm 1940 - 1950 và về cuộc chiến
tranh xâm lược lần thứ hai của Pháp. Trong phần cuối tuyên bố, J. Nehru đưa ra đề
nghị hòa bình 6 điểm. Đề nghị này được coi là cơ sở của “Đề nghị Colombo về
Đông Dương” được những người đứng đầu chính phủ 5 nước: Ấn Độ, Sri Lanca,
Pakistan, Indonesia, Miến Điện đưa ra ngày 2/5/1954 [37, tr.25]. Một trong 6 điểm
được nêu ra tại Hội nghị Colombo là các cường quốc không được can thiệp vào
công việc nội bộ Đông Dương. Hội nghị ra tuyên bố cuối cùng đề nghị ngừng bắn
lập tức ở Đông Dương và tiến hành đàm phán trực tiếp giữa các bên tham chiến có
các cường quốc Trung Quốc, Mỹ, Liên Xô, Anh chứng kiến.
Khi Hội nghị Geneve về Đông Dương được tổ chức (từ ngày 8/5/1954),
những nhà lãnh đạo Ấn Độ đã bày tỏ quan điểm mong muốn hiệp nghị được ký kết,
hòa bình được lập lại. Phát biểu tại Quốc hội Ấn Độ ngày 15/5/1954, J. Nehru đã
khẳng định: “những vấn đề lớn hiện đang được xem xét ở Geneve, vấn đề Triều
Tiên và vấn đề Việt Nam, là những vấn đề của châu Á… thật ra thì chúng ta còn
liên quan mật thiết hơn nữa với vấn đề Đông Dương vì về địa lý, ta ở gần Đông
Dương hơn” [37, tr.26]. Nhận thấy rõ vai trò, ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu
vực và trên thế giới, Ấn Độ cũng có nhiều cuộc gặp gỡ nhằm tranh thủ lẫn nhau,
đồng thời cũng mong có tiếng nói, vị trí ở châu Á và thế giới của hai nước. Vào
95
cuối tháng 6/1954, trong thời gian tạm dừng của Hội nghị Geneve, J. Nehru đã có
cuộc gặp với Chu Ân Lai vào ngày 26/6/1954 tại Delhi, cùng những cuộc gặp với
các lãnh đạo quốc gia khác để đi đến thống nhất nhằm ngăn cản sự quốc tế hóa về
cuộc xung đột trên bán đảo Đông Dương. Kết quả của cuộc hội đàm J. Nehru - Chu
Ân Lai là cơ sở của Năm nguyên tắc chung sống hòa bình nổi tiếng sau này. Điều
đó, dĩ nhiên đã làm tăng thêm “sức mạnh châu Á” tại Hội nghị.
Ấn Độ cử đại sứ V.K. Krishna Menon tại Liên hợp quốc đến Hội nghị
Geneve để trình bày quan điểm của châu Á về tình hình bán đảo Đông Dương (Ấn
Độ không được mời tham gia vào Hội nghị này). K. Menon đã có nhiều cuộc gặp
gỡ với lãnh đạo các đoàn đại biểu của hội nghị và đưa ra những đề nghị tích cực.
Trên thực tế, Ấn Độ có đóng góp xứng đáng vào thành công của Hội nghị Geneve
về Đông Dương dù không phải là thành viên chính thức của hội nghị. Ấn Độ đã đề
nghị Liên Xô và Anh làm đồng Chủ tịch Hội nghị Geneve về Đông Dương. Ấn Độ
được Trung Quốc cam kết sẽ không can thiệp vào tình hình của Lào và Campuchia,
đồng thời Ấn Độ cũng được Anh, Pháp và Trung Quốc cam kết sẽ không để cho
Hoa Kỳ thiết lập các căn cứ quân sự ở hai quốc gia này.
Đêm ngày 20/7/1954, Hiệp định Geneve về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Đông Dương được ký kết. Về hình thức, Ấn Độ không tham gia, song đã có
đóng góp to lớn vào công việc của hội nghị. Vai trò quan trọng của Ấn Độ trong
cuộc đàm phán lớn đến mức mà Thủ tướng Pháp Pierre Mendes - France gọi Hội
nghị Geneve là: “Cuộc hội nghị của 10 bên - 9 ở bàn làm việc - và Ấn Độ” [81,
tr.154]. Cũng bởi lập trường được coi là trung lập của mình, do được Trung Quốc
đề xuất, Ấn Độ đã được bổ nhiệm làm Chủ tịch của Ủy ban quốc tế (gồm cả Ba Lan
và Canada) kiểm soát và giám sát việc thi hành Hiệp định Geneve về Đông Dương,
với công việc giám sát nhập khẩu vũ khí nước ngoài vào Lào, Campuchia và Việt
Nam. Điều đó chẳng những xác nhận uy tín quốc tế cao mà còn ghi nhận đóng góp
của Ấn Độ vào thành công của Hội nghị Geneve năm 1954. Vào thời điểm đó, nguy
cơ Trung Quốc can thiệp vào Đông Dương, những viện trợ tăng cường của Hoa Kỳ
dành cho thực dân Pháp, ý đồ đưa vũ khí hạt nhân vào sử dụng ở chiến trường
Đông Dương của thực dân Pháp đều bị ngăn chặn.
96
Ngày 25/8/1954, trong tuyên bố trước Hạ viện Ấn Độ về kết quả của hội
nghị quốc tế này, J. Nehru nói: “Chúng ta gửi đến nhân dân Đông Dương những lời
chúc mừng chân thành, nồng nhiệt và nhiều hy vọng về hòa bình, thống nhất và
thịnh vượng. Nhờ giải phóng Đông Dương mà châu Á tăng thêm hòa bình và sự ổn
định” [35, tr.69]. Thái độ của chính phủ Ấn Độ với vấn đề Đông Dương được J.
Nehru khẳng định trong tuyên bố ngày 27/9/1954 là: “Phương châm chính thức của
chúng ta là nỗ lực cho hòa bình ở Đông Dương. Chúng ta sẽ dùng tất cả trí não,
lòng kiên nhẫn và tinh thần cương quyết để thực hiện nhiệm vụ đó” [37, tr.26-27].
Như vậy, chính sách đối ngoại của Chính phủ Ấn Độ và Thủ tướng J. Nehru trong
quá trình vận động chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương là phù hợp với ý nguyện
của nhân dân Ấn Độ, nhờ đó giúp sức vào sự nghiệp bảo vệ hòa bình ở Đông
Dương, châu Á và thế giới.
3.3.4.3. Sự kiện Ai Cập quốc hữu hóa kênh đào Suez
Năm 1956, trong một phản ứng mạnh mẽ trước áp lực của Anh và Mỹ nhằm
buộc Ai Cập từ bỏ định hướng không liên kết, mà điển hình là việc hủy cam kết
viện trợ tài chính cho việc xây dựng con đập Aswan trên dòng sông Nile. Trong bối
cảnh đó, ngày 26/7/1956, Chính phủ Ai Cập tuyên bố quốc hữu hóa kênh đào Suez,
vốn đang thuộc quyền kiểm soát của Công ty Hàng hải quốc tế kênh đào Suez, gồm
đa số cổ đông là các chính khách Anh và Pháp. Điều này khiến các nước sử dụng
kênh Suez, điển hình là Anh, Pháp lên tiếng đòi hỏi một sự kiểm soát mang tầm
quốc tế đối với con kênh này. Chính Ấn Độ cũng là nước sử dụng kênh Suez,
nhưng lại nhận thấy rằng: căn cứ theo công ước Constantinople (1888) thì kênh
Suez là nằm trên lãnh thổ của Ai Cập [81, tr.155]. Lý do mà Ấn Độ ủng hộ Ai Cập
thu hồi lại kênh đào là quan niệm cho rằng đây là biện pháp nhằm loại bỏ những di
sản của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập về kinh tế, khẳng định chủ quyền bất khả
xâm phạm của nước này.
Ấn Độ sau đó kêu gọi cả Cairo và London giữ kiềm chế và đối thoại tại Hội
nghị London vào tháng 8/1956. Ngày 20/8/1956, đại diện Chính phủ Ấn Độ đưa ra
gói giải pháp 6 điểm nhằm giải quyết vấn đề kênh đào Suez trên cơ sở thương
lượng hòa bình, không làm tổn hại đến quyền lợi của các bên sử dụng kênh đào
97
Suez và tôn trọng độc lập chủ quyền của Ai Cập. Ấn Độ đề nghị trao chủ quyền
kiểm soát kênh đào Suez cho Ai Cập, đồng thời ưu tiên các nước sử dụng kênh đào
Suez trong một thời hạn nhất định và không lên án các cường quốc phương Tây.
Lời đề nghị của Ấn Độ đạt được sự đồng thuận rộng rãi từ Liên Xô, Indonesia,
Ceylon, và cả từ phía Ai Cập. Trong khi đó các nước phương Tây không chấp nhận.
Thất bại trong âm mưu gây sức ép chính trị, ngày 20/10/1956, Pháp và Anh giật dây cho Israel, tấn công Ai Cập và đưa quân đội vào chiếm đóng kênh Suez. Chính hành động này bị Liên Xô, Mỹ và Liên hợp quốc lên án quyết liệt. Ấn Độ tuyên bố lên án hành động của Israel, gọi đó là “sự xâm lược trắng trợn” và là sự “xuất hiện trở lại của loại hình xâm lược thuộc địa trong quá khứ” [81, tr.155], đồng thời đưa ra gói giải pháp toàn diện giải quyết vấn đề Suez trên cơ sở đề nghị 6 điểm vào tháng 8/1956. Trước sự chống trả quyết liệt của nhân dân Ai Cập, sự lên án mạnh mẽ của các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới, các nước Anh, Pháp, Israel buộc phải ngừng chiến theo yêu cầu của Liên hợp quốc ngày 6/11/1956 và rút quân khỏi Ai Cập vào đầu tháng 12/1956.
Việc rút quân đã diễn ra dưới sự quan trắc của Liên hợp quốc và một lượng lớn quân đội Ấn Độ tham gia trong lực lượng gìn giữ hòa bình. Sau đó, Ấn Độ tiếp tục hỗ trợ Ai Cập trong các cuộc đàm phán tiếp theo với các nước khác để đi đến sự bình ổn. Về sau, nước Anh đã chấp thuận sự công tâm trong các đề xuất của Ấn Độ về vấn đề kênh đào Suez.
3.3.4.4. Sự kiện Liên Xô đưa quân vào Hungari Việc đưa quân của Xô Viết vào Hungari tháng 10/1956 nhằm tiêu diệt lực lượng phiến loạn đang có ý định kéo Hungari ra khỏi khối Liên Xô đã bị lên án bởi Liên hợp quốc. Mỹ, Anh và các nước Tây Âu xem đó là cuộc chiến tranh xâm lược, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ và quyền dân chủ của Hungari. Các nước phương Tây kêu gọi các quốc gia trung lập, đặc biệt là Ấn Độ, tỏ thái độ ủng hộ phong trào tự do của Hungari và chống lại Liên Xô. Trước yêu cầu của các nước không liên kết, Ấn Độ đưa ra giải pháp trung gian, đề nghị Chính phủ Hungari cho phép bổ nhiệm quan sát viên của Tổng thư ký Liên hợp quốc vào lãnh thổ Hungari để quan sát quyền tự do và gửi báo cáo về Tổng thư ký. Đáp lại điều này, Liên Xô tuyên bố sẽ cân nhắc đề nghị của Ấn Độ.
98
Tuy nhiên, tình hình Hungari trở nên phức tạp hơn khi Chính phủ I. Nagy tuyên bố giải tán chính phủ, giải tán Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Hungari, thành lập Chính phủ Liên hiệp, cam kết tiến hành bầu cử tự do, yêu cầu quân đội Liên Xô rút khỏi Hungari và tuyên bố rút khỏi khối Hiệp ước Warsaw, kêu gọi sự giúp đỡ từ bên ngoài [12, tr.52]. Với những hành động này buộc Liên Xô phải huy động quân đội trấn áp, lật đổ Chính phủ I. Nagy, dựng lên chính phủ mới do J. Kadar đứng đầu. Trước những diễn biến phức tạp ấy, J. Nehru không tuyên bố chính thức trên các diễn đàn quốc tế lên án Liên Xô mà chỉ bày tỏ quan điểm cá nhân rằng: “Có thể có một số luật gia cho rằng theo đúng điều khoản của Hiệp ước Warsaw, quân đội Liên Xô có thể có mặt ở các nước đó, nhưng đó chỉ là một việc nhỏ. Một sự thật như những biến cố đã chứng tỏ, là quân đội Liên Xô đã được sử dụng để chống lại nguyện vọng của nhân dân Hungari. Điều đó rất rõ ràng” [37, tr.42].
Ngày 4/12/1956, phát biểu trước Hạ viện Ấn Độ, J. Nehru cho rằng việc Liên Xô đưa quân vào Hungari có mối liên hệ với việc Anh, Pháp xâm lược Ai Cập. Sự xâm lược Ai Cập:
Xuất hiện như là điềm báo trước về một cuộc chiến tranh mới khiến Liên Xô không thể cho phép hỗn loạn xảy ra ở Hungari. Liên Xô đã rất khó khăn khi đưa ra sự lựa chọn, nếu phớt lờ tình trạng ở Hungari, các nước khác cũng sẽ thử tuyên bố rút khỏi Hiệp ước Warsaw. Sự tan rã của Hiệp ước Warsaw là tai họa cho thế giới cộng sản [12, tr.52].
Như vậy, mặc dù vấn đề Hungari diễn ra trong không gian chiến lược của Liên Xô, phản ứng của cộng đồng quốc tế dường như không hiệu quả, nhất là khi Liên Xô sử dụng hiệu lực của Hiệp ước Warsaw, đã làm cho thái độ Ấn Độ với vai trò là nước trung gian lúc này thực sự là không dễ dàng. Một mặt, Ấn Độ vẫn tiếp tục theo đuổi chính sách đối ngoại trung lập của mình, mặt khác quan hệ Ấn Độ -
Liên Xô sau năm 1955 phát triển khá tốt đẹp, Ấn Độ không muốn làm phương hại tới mối quan hệ này. Do vậy, Ấn Độ với vấn đề Hungari lại khá nhẹ nhàng và thận trọng, thậm chí là không tỏ thái độ rõ ràng trước việc Liên Xô can thiệp vào công việc nội bộ ở nước này. Điều đó lý giải rõ ràng hơn về chính sách trung lập, hòa bình của Ấn Độ trong bối cảnh của Chiến tranh lạnh.
99
3.3.4.5. Cuộc nội chiến ở Congo
Một thành tựu rất lớn của chính sách đối ngoại Ấn Độ là vai trò trong việc
giúp duy trì tính toàn vẹn và độc lập của Congo. Congo chính thức giành được độc
lập từ Bỉ ngày 30/6/1960 khi tỉnh Katanga tuyên bố độc lập. Ngay sau đó, quân
đội Bỉ đã quay trở lại thủ đô Congo dưới danh nghĩa bảo vệ cho người dân Bỉ ở
đây. Thủ tướng Congo - Lumumba cầu cứu sự can thiệp từ Mỹ, Liên hợp quốc và
Liên bang Xô Viết. Liên hợp quốc yêu cầu Tổng thư ký Dag Hammarskjöld lên
mọi kế hoạch giúp đỡ cần thiết. Lịch sử Congo sau đó chứng kiến một vở rối khi
các thế lực nước ngoài liêp tiếp giật dây cho các con rối trong nước trong cuộc
chiến tranh giành quyền lực. Mỹ ủng hộ Tổng thống Kgsavubu, Liên Xô hậu
thuẫn cho Patrice Lumumba, trong khi đó Bỉ lại cổ xúy cho người đứng đầu quân
đội Congo - Mobutu. Chiến thuật của họ là cuối cùng dẫn đến cái chết của Thủ
tướng Lumumba.
Việc Thủ tướng Lumumba bị ám sát khiến cả thế giới bất ngờ. Trước tình
hình đó, J. Nehru yêu cầu Liên hợp quốc phải đóng một vai trò quyết định hơn nữa
nhằm rút khỏi lãnh thổ Congo các đơn vị lính đánh thuê, quân đội nước ngoài, ngăn
chặn cuộc nội chiến, triệu tập quốc hội và thành lập một chính phủ mới. Ấn Độ
cũng cam kết sẵn sàng cử quân đội đến cho mục đích này. Liên hiệp quốc sau đó
đồng ý. Ngày 21/2/1961, Hội đồng Bảo an thông qua một nghị quyết cho phép lực
lượng vũ trang Ấn Độ thực hiện sứ mệnh kết thúc cuộc nội chiến tại Congo, khôi
phục lại cơ quan chính phủ trung ương ở Katanga và phần còn lại của đất nước này
vào tháng 3/1963. Tổng thư ký Liên hợp quốc Dag Hammarskjöld sau đó đã dành
cho Ấn Độ lời ghi nhận và khen ngợi cho chiến tích trên. Đó thực sự là một trong
những khoảnh khắc nổi trội nhất trong chính sách không liên kết của Ấn Độ đối với
việc giúp đỡ các quốc gia mới độc lập của châu Phi và châu Á, cũng như tăng
cường hơn nữa vai trò của mình trong Liên hợp quốc.
3.4. TRÊN LĨNH VỰC QUỐC PHÒNG - AN NINH 3.4.1. Tăng cường xây dựng và củng cố nền quốc phòng - an ninh Nhận thức được tầm quan trọng của sức mạnh quốc phòng - an ninh đối với
sự nghiệp bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc, trong giai đoạn 1950 - 1964, Ấn Độ
100
tập trung tăng cường xây dựng và củng cố trên nhiều phương diện khác nhau. Một
mặt, vừa đảm bảo an ninh biên giới phía Bắc trước các hành động xâm lấn của
Trung Quốc, mặt khác mang lại sự ổn định cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, phát triển kinh tế, xã hội của Ấn Độ. Chính vì vậy, việc hoàn thiện hệ thống cơ
sở hạ tầng quốc phòng ở biên giới phía Bắc cũng như phát triển lực lượng vũ trang
Ấn Độ được chính phủ chú trọng quan tâm.
Sau khi Trung Quốc đưa quân vào Tây Tạng, ngày 20/11/1950, phát biểu tại
Quốc hội, Thủ tướng J. Nehru đã tuyên bố: “Mặc dù tham vọng của Trung Quốc về
chủ quyền trên các vùng ở Assam (phía Nam đường biên giới McMahon), nhưng
McMahon là ranh giới của chúng tôi, cho dù là có hay không có bản đồ, chúng tôi
sẽ không cho phép bất cứ ai đi qua ranh giới đó” [101, tr.47]. Ngày 23/11/1950, J.
Nehru khẳng định một lần nữa tại Quốc hội rằng: “Việc bảo vệ biên giới phía Bắc
vẫn liên tục được giám sát và sẽ không có lực lượng xâm lược nào được phép qua
biên giới” [101, tr.47].
Vấn đề ổn định lâu dài an ninh biên giới dọc dãy Himalaya đã được nghiên
cứu cụ thể bởi một Ủy ban Quốc phòng Biên giới Bắc và Đông Bắc của Ấn Độ
(NEFA) được thành lập tháng 2/1951 theo yêu cầu của Bộ trưởng Quốc phòng. Các
báo cáo của Ủy ban này trình lên chính phủ vào đầu năm 1953, bao gồm một số
lượng lớn các khuyến nghị. Theo đó, cần tổ chức lại và mở rộng lực lượng bán quân
sự của Ấn Độ, phát triển mạng lưới tình báo quân sự dọc theo biên giới, phát triển
lực lượng cảnh sát vũ trang dân sự, hệ thống thông tin liên lạc và các trạm thông tin
[101; tr.46]. Năm 1953, Cục Hành chính Biên giới Ấn Độ (IFAS) được thành lập
trong Bộ Ngoại giao để quản lý các NEFA.
Năm 1954, chính phủ phê duyệt việc mở rộng lực lượng an ninh cho biên
giới phía Đông và phía Bắc, đặc biệt chú trọng các NEFA. Trước tiên cần cải thiện
hệ thống thông tin liên lạc trên toàn bộ khu vực các bộ lạc khu vực biên giới. Hệ
thống cũ gần như bị phá hủy nặng nề bởi trận động đất vào năm 1950. Việc xây
dựng cơ sở hạ tầng cho giao thông được nhấn mạnh trong kế hoạch phát triển 5 năm
và được phê chuẩn trong năm 1953.
101
Tháng 6/1954, các nhà chức trách của bang Uttar Pradesh công bố một
chương trình xây dựng hệ thống giao thông với 5,6 triệu USD để liên kết các khu
vực có tầm quan trọng chiến lược trong Kumaon Hills liền kề biên giới với Nepal
và Tây Tạng. Các đường bay đầu tiên nối với thung lũng Kulu được mở cửa vào
ngày 18/1/1956, và ngày 25/5/1956, một đoạn đường 7 dặm nối Sainwala đến
Kandaiwala (bang Himachal Pradesh) cũng chính thức được đưa vào sử dụng. Việc
thông tuyến cây cầu Rohin ngày 5/11/1956 cũng mở ra một tuyến đường quan trọng
nối liền vùng Gorakhpur (bang Uttar Pradesh) và phía Đông Nepal. Trong thời kỳ
kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1956 - 1961), chính quyền bang Punjab cũng cho xây
dựng 9 dặm đường kết nối Grampjoo và Keylong (bang Himachal Pradesh).
Trước những hành động từ phía Bắc Kinh, Chính phủ Ấn Độ lần lượt đưa ra
một số biện pháp về hành chính, đảm bảo giữ vững an ninh vùng biên giới như:
thành lập 6 huyện biên giới vào năm 1960 gồm: Pithoragarh, Chamoli, và
Uttarkashi trong bang Uttar Pradesh, Lahaul, Spiti trong bang Punjab, và Kinnaur
trong bang Himachal Pradesh. Các sĩ quan dày dạn kinh nghiệm trong Cục Hành
chính Biên giới được ủy quyền đứng đầu các huyện mới này, được trao quyền hành
chính và tài chính. Một viên tướng quân đội đã về hưu - ngài S. M. Shrinagesh được
bổ nhiệm làm thống đốc của bang Assam ngày 14/11/1959. Trong năm 1960,
NEFA, Naga Hills và khu vực Tuensang được thống nhất dưới một chính quyền
duy nhất.
Năm 1960, một Ủy ban được thành lập trong văn phòng Nội các Chính phủ
Ấn Độ để đảm bảo phối hợp hiệu quả của chính phủ trong các chương trình phát
triển trong khu vực biên giới chiến lược. Trong giai đoạn ba của kế hoạch 5 năm lần
thứ 3, một kinh phí 50 triệu rupee được dự kiến cho xây dựng đường giao thông, cơ
sở hạ tầng và một số công trình thủy lợi trong Ladakh. Chính quyền bang Punjab
tăng cường phân bổ cho các chương trình phát triển ở huyện Lahaul, Spiti trong
năm 1960 là 20 triệu rupee và có kế hoạch phát triển 100 dặm đường ước tính
khoảng hơn 600 triệu rupee ở lĩnh vực này trong kế hoạch thứ ba. Chính quyền
bang Uttar Pradesh tiến hành 12 dự án làm đường tại các khu vực đồi giáp Tây
Tạng. Chi phí của NEFA cho kế hoạch lần thứ ba ước tính khoảng 72,1 triệu rupee
102
(tăng gấp đôi trong kế hoạch lần thứ hai), kế hoạch được soạn thảo để xây dựng sân
bay và tăng cường hơn nữa cơ sở vật chất thuận tiện cho các bãi đáp, đường giao
thông. Tháng 3/1960, Ủy ban Phát triển đường biên giới (BRDB) được thành lập để
phối hợp cùng với nhà nước xây dựng chương trình đường riêng của quân đội trong
khu vực biên giới chiến lược. Tất cả kế hoạch trên là xây dựng gần 4.000 km và cải
thiện gần 2.400 km đường cũ, với chi phí ước tính 1.200 triệu rupee trong khoảng
thời gian 3 năm. Việc thực hiện chương trình này được giao cho các đơn vị khác
nhau như: Vartak ở Assam và NEFA, Dhantok ở Bhutan, Dragon ở Sikkim, Deepak
ở Himachal Pradesh và Beacon ở Ladakh.
Từ khi thành lập đến năm 1963, Ủy ban BRDB đã thực hiện được hơn 2.500
km đường, phát triển giao thông gần 1.000 km, khảo sát khoảng hơn 4.000 km
đường về sau. Hơn 150 km đường từ Dirrang (bang Assam) đến Along (bang
Arunachal Pradesh) được hoàn thành trong năm 1960 và một con đường mới được
xây dựng ở chân đồi phía Bắc của Sadiya (bang Assam). Hơn 120 km đường ở
Mokokchung (bang Nagaland) được hoàn thành vào mùa xuân năm 1962. Ngày
13/1/1960, việc xây dựng bắt đầu trên con đường hơn 170 km từ Phuntsholing ở
Tây Bengal đến Paro (Bhutal) và chính thức hoàn thành vào ngày 13/2/1962, rút
ngắn thời gian di chuyển từ 6 ngày đi bộ xuống còn 10 giờ đi bằng xe quân sự.
Thông tin liên lạc cũng được cải thiện dọc theo tuyến biên giới Ấn Độ - Nepal.
Trong giai đoạn 1950 đến 1962, sức mạnh của nền quốc phòng Ấn Độ đã
được tăng cường mạnh mẽ. Hệ thống cơ sở hạ tầng và thông tin liên lạc ở khu vực
biên giới phía Bắc dần hoàn thiện, đảm bảo ổn định tuyến hành lang chiến lược
quan trọng này. Mặt khác, việc nâng cao sức mạnh quốc phòng được coi là một
trong những nguồn “sức mạnh cứng” của Ấn Độ trong sự nghiệp bảo vệ độc lập
dân tộc. Trong hơn một thập kỷ của nền Cộng hòa, ngoài các khoản kinh phí phục
vụ cho các kế hoạch phát triển kinh tế, kinh phí đầu tư xây dựng và trang bị quốc
phòng hiện đại các lực lượng quân đội Ấn Độ trong nền kinh tế quốc dân ngày một
tăng (xem Phụ lục 5).
Về trang bị quốc phòng, sau thất bại trong cuộc chiến năm 1962 với Trung
Quốc, Ấn Độ đã mở rộng mạng lưới đối tác của mình rộng khắp, vượt qua những
103
phân chia chiến tuyến thời kỳ Chiến tranh lạnh. Phát biểu trước Quốc hội ngày
3/9/1963, Thủ tướng J. Nehru nhấn mạnh: “Việc xây dựng sức mạnh cho quân đội
là biện pháp đảm bảo an ninh duy nhất” [81, tr.166]. Trong thời kỳ này, Ấn Độ
trang bị cho không quân 104 máy bay Toofani (bão tố) từ Pháp, 182 máy bay
Hunters (kẻ đi săn) và 80 máy bay ném bom Canberra từ Mỹ, 110 chiếc Mysters
của Pháp, 55 chiếc Fairchild Packets của Mỹ, 16 máy bay vận tải AN-12s và 26
trực thăng chiến đấu Mi-4 của Liên Xô. Ngoài ra còn có 230 máy bay Vampire
được Anh cấp phép sản xuất ngay tại Ấn Độ. Đối với hải quân và quân đội nói
chung, số lượng vũ khí được mua vào cũng rất đáng kể. Thêm vào đó, những nỗ lực
nhằm củng cố nền quốc phòng bằng việc mua lại bản quyền rồi tự sản xuất những
vũ khí, thiết bị quân sự đã được Ấn Độ triển khai. Ví dụ như các mẫu máy bay đánh
chặn Gnat và máy bay vận tải HS-748 của Anh, mẫu trực thăng Allouette của Pháp,
máy bay đánh chặn MiG của Liên Xô, súng phòng không L-70 từ Thụy Điển, Xe
tăng Vijayanta của Mỹ, các xe tăng Shaktiman từ Đức, Xe bọc thép Nissan từ Nhật,
súng cối Brandt từ Pháp, súng chống giật 106mm từ Mỹ, Cabin thép từ Anh, cùng
nhiều loại thiết bị không dây từ nhiều quốc gia khác nhau. Điều này góp phần nâng
cao hơn nữa “sức mạnh cứng” trong sự nghiệp bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc,
cũng như vị thế của Ấn Độ ở khu vực và quốc tế.
3.4.2. Củng cố quan hệ với các vương quốc trên dãy Himalaya
Trong bối cảnh Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thực thi chính sách thu hồi
Tây Tạng và thể hiện tham vọng mở rộng lãnh thổ xuống vùng Tây - Nam, chính
quyền Thủ tướng J. Nehru đã buộc gia tăng chính sách an ninh, quốc phòng của Ấn
Độ bằng việc vận dụng linh hoạt các giải pháp chính trị, quân sự nhằm thắt chặt
quan hệ với các vương quốc trên dãy Himalaya trên cơ sở kế thừa quan hệ từ trước
của Anh với các vương quốc đó. Bởi lẽ, xét ở góc độ vị trí địa chiến lược của
Sikkim, Bhutan và Nepal, nó tạo thành một dải đất “đệm” kéo dài, chiếm gần một
nửa dọc tuyến biên giới Trung - Ấn. Việc “ổn định” khu vực này cùng với hoàn
thiện hệ thống cơ sở hạ tầng và thông tin liên lạc góp phần đảm bảo an ninh biên
giới, tăng cường sức mạnh cho sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn
Độ trong giai đoạn 1950 - 1964.
104
3.4.2.1. Với Sikkim
Quan hệ Ấn Độ - Sikkim được thiết lập bằng một hiệp ước ký vào ngày
5/12/1950, trong đó tái khẳng định mối quan hệ tốt đẹp trước đây với sự bảo hộ của
Ấn Độ, đồng thời Ấn Độ có trách nhiệm đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ của nhà nước
Sikkim, xây dựng và duy trì thông tin liên lạc cho các mục đích chiến lược. Điều
này vừa bảo vệ Sikkim nhưng cũng đồng thời đảm bảo an ninh cho Ấn Độ. Theo
bình luận của tờ Hindustan Times, ngày 7/12/1950, thì “Hiệp ước này được xem là
một bước tiến lớn trong việc tăng cường phòng thủ biên giới. Bây giờ, dãy Himalay
không còn là rào cản không thể vượt qua như trước đây, nó có tầm quan trọng đặc
biệt để đảm bảo biện pháp bảo vệ thích hợp dọc theo biên giới” [101, tr.52].
Năm 1951, Ấn Độ đã bổ nhiệm J. S. Lall, một chính trị gia có kinh nghiệm,
làm Bộ trưởng Sikkim. Dưới sự chỉ đạo sát sao của J. S. Lall, các cải cách về đất đai
và thuế lần lượt được đưa ra. Bên cạnh đó, Chính phủ Ấn Độ còn hỗ trợ tài chính
cho Sikkim mỗi năm 168.000 USD (trong các năm 1951, 1952, 1953), sau đó tăng
lên 478.000 USD năm 1954 và 1.120.000 USD trong năm 1955 [80, tr.21]. Đây
cũng là năm đánh dấu bắt đầu kế hoạch phát triển 7 năm (1951 - 1958) của Sikkim
trị giá 30 triệu rupee dưới sự bảo lãnh của Ấn Độ mà trọng tâm là tập trung vào phát
triển hệ thống các phương tiện liên lạc, bao gồm xây dựng một con đường từ
Gangtok (thủ phủ của Sikkim) đến Natu Pass trên tuyến biên giới Tây Tạng và được
thông tuyến vào tháng 9/1958.
Trong thời gian sau đó, Ấn Độ vẫn tiếp tục giữ mối quan hệ Ấn Độ -
Sikkim bằng những khoản viện trợ, giúp phát triển kinh tế và hoàn thiện hệ thống
cơ sở hạ tầng. Một cựu Tổng lãnh sự của Ấn Độ ở Lhasa, thiếu tá S. L. Chibber,
được bổ nhiệm làm Thư ký đầu tiên tại Văn phòng Chính trị Ấn Độ ở Gangtok và
một sĩ quan quân đội được bổ nhiệm vào chức vụ quan trọng của nhân viên hành
chính ở quận Kalimpong. Theo lời đề nghị, tháng 4/1961, một nhóm chuyên gia từ
Ủy ban kế hoạch của Ấn Độ đã đến thăm Sikkim và đưa ra một kế hoạch 5 năm
phát triển kinh tế có liên quan đến khoản chi phí ước tính 82 triệu rupee. Thủ
tướng J. Nehru nhấn mạnh rằng, toàn bộ kế hoạch đã được đảm bảo bởi sự viện
trợ của Ấn Độ.
105
Bằng những nguồn kinh phí viện trợ từ Chính phủ Ấn Độ, Sikkim ngày càng
thắt chặt quan hệ thân hữu với Ấn Độ. Ngày 14/4/1975, cuộc trưng cầu dân ý để bãi
bỏ chế độ quân chủ đã được tổ chức tại Sikkim. Với đa số phiếu ủng hộ, ngày
16/5/1975, Sikkim chính thức trở thành bang thứ 22 của Ấn Độ.
3.4.2.2. Với Bhutan
Với mong muốn duy trì một vị trí đặc biệt quan trọng trong vương quốc
chiến lược, cũng như không muốn Bhutan bị hút vào vòng xoáy của cuộc Chiến
tranh lạnh, New Delhi đã thực hiện sự thõa hiệp trong một hiệp ước hữu nghị được
ký kết tại Darjeeling (Tây Bengal) vào ngày 8/8/1949. Theo quy định của hiệp ước:
Ấn Độ sẽ đảm bảo quyền tự chủ nội bộ của Bhutan và tăng trợ cấp hàng
năm lên 500.000 rupee. Đổi lại chính phủ Ấn Độ được quyền tham vấn
về các vấn đề có liên quan đến quan hệ đối ngoại của Bhutan và đặc
quyền giám sát việc nhập khẩu vào Bhutan những vật liệu quân sự (quân
nhu), hoặc các vật liệu dự trữ có tăng cường sức mạnh và phúc lợi của
Bhutan. Ấn Độ cũng đồng ý trả lại cho Bhutan 32 dặm vuông lãnh thổ
vùng Dewangiri (bang Assam) [101, tr.53-54].
Nội dung của các điều khoản này đã được chấp thuận bởi Quốc hội vào ngày
8/8/1951.
Sau khi Trung Quốc chiếm đóng Tây Tạng, Bhutan đã đóng cửa biên giới
phía bắc và phát triển mạnh mẽ quan hệ song phương với Ấn Độ. Tuy nhiên,
Bhutan vẫn tiếp tục kiểm soát các hoạt động xâm nhập từ bên ngoài, bao gồm cả
người Ấn Độ. Cơ quan đại diện chính thức của Ấn Độ tại Bhutan vẫn tiếp tục đặt tại
Gangtok (thủ phủ của Sikkim). Chính sự cô lập của vương quốc là một trong những
nguyên nhân gây ra mối lo ngại ngày càng tăng đối với New Delhi trong bối cảnh
các hoạt động quân sự mạnh mẽ của Trung Quốc ở Tây Tạng và sự xuất hiện những
tuyên bố của Bắc Kinh về chủ quyền Trung Quốc đối với một phần lãnh thổ
Bhutan. Có thể nhận thấy, Chính phủ Ấn Độ có lý do để cần thiết phải thắt chặt
quan hệ hơn nữa với Bhutan.
Tháng 9/1958, J. Nehru đã thực hiện một cuộc hành trình kéo dài 5 ngày đến Bhutan. Một năm sau, tháng 9/1959, Thủ tướng Bhutan Jigme Dorji Palden đến
106
thăm Ấn Độ nhằm tìm kiếm viện trợ về kinh tế. Tại cuộc họp báo ở New Delhi vào ngày 15/9/1959, ông nhấn mạnh đến tình hữu nghị thân thiết Ấn Độ - Bhutan và tuyên bố rằng: chính phủ của ông không yêu cầu hỗ trợ từ bất kỳ nước nào khác ngoài Ấn Độ. Hai ngày sau chuyến thăm, một thông cáo được đưa ra tại New Delhi với nội dung: Ấn Độ đã nhất trí tăng cường viện trợ hằng năm cho Bhutan từ 500.000 rupee đến 1.200.000 rupee và sẽ chịu khoảng 150 triệu rupee chi phí cho các công trình xây dựng đường giao thông liên kết giữa hai quốc gia.
Tháng 1/1961, quốc vương của Bhutan Jigme Dorji Wangchuck thực hiện chuyến viếng thăm đầu tiên tới Ấn Độ kể từ năm 1954. Phát biểu với báo chí tại Calcutta vào ngày 30/1, ông tuyên bố rằng, vào thời điểm đó, Bhutan không đề xuất tìm kiếm viện trợ từ các nguồn khác và cũng không nhận đề nghị được viện trợ từ bất kỳ quốc gia nào, ngoại trừ Ấn Độ. Một cuộc họp cấp cao được tổ chức vào tháng 2/1961 dưới sự chủ trì của J. Nehru và tham dự của quốc vương Bhutan, Bộ trưởng Quốc phòng Krishna Menon cùng 3 tham mưu trưởng của Ấn Độ. Báo cáo vạch ra một chương trình mới trong việc thực hiện trách nhiệm của Ấn Độ đối với nền quốc phòng Bhutan. Các điều khoản cho thấy Ấn Độ sẵn sàng đưa quân đội, cũng như trực thăng đến Bhutan khi có tình trạng khẩn cấp.
Để đáp ứng với yêu cầu của quốc vương Bhutan cho các kế hoạch phát triển đất nước, tháng 6/1961, một nhóm nghiên cứu từ Ủy ban kế hoạch Ấn Độ đã đến
thăm Bhutan. Kết quả của chuyến thăm này là một kế hoạch phát triển 5 năm, ước tính chi phí khoảng 175 triệu rupee mà Ấn Độ đồng ý viện trợ, trong đó 120 triệu
rupee được phân bổ cho xây dựng các tuyến đường giao thông. Theo lời mời của Chính phủ Bhutan, Ấn Độ cử một phái đoàn sĩ quan cao cấp đến thăm Bhutan vào năm 1961 và xem xét cụ thể các yêu cầu quốc phòng. Tháng 9/1961, hai nước đã ký một hiệp ước khai thác sông Jaldhaka để phục vụ cho thủy điện, dự kiến sẽ tạo ra 18.000 kw mỗi năm, trong đó hàng năm Bhutan sẽ nhận miễn phí 250 kw. Đây là những nỗ lực nhằm gắn kết và tiến tới ràng buộc quốc gia này với Ấn Độ trong việc đảm bảo ổn định biên giới phía Bắc.
3.4.2.3. Với Nepal
Nepal khống chế 600 dặm ở vùng biên giới phía Bắc của Ấn Độ. Chính sự
ổn định và toàn vẹn này trở thành mối quan tâm đặc biệt của chính phủ Ấn Độ. Vào
107
đầu năm 1950, ngay sau khi Trung Quốc có ý định giải phóng Tây Tạng, Chính phủ
Ấn Độ và Nepal tiến hành thảo luận song phương liên quan đến sự an toàn quốc
phòng hai nước. Ấn Độ kiên quyết ủng hộ ổn định tại Nepal, đồng thời cũng để
tránh việc mở rộng của các hoạt động quân sự từ Trung Quốc. Trong một tuyên bố
tại Quốc hội ngày 17/3/1950, Thủ tướng J. Nehru lưu ý đến các lợi ích chung giữa
hai nước và khẳng định:
Thật không cần thiết cho chúng ta có một liên minh quân sự với Nepal…
(nhưng) trên thực tế chúng ta không thể chấp nhận những cuộc tấn công
từ các nước bên ngoài vào bất kỳ phần nào của tiểu lục địa. Bất kỳ cuộc
tấn công nào có thể có đối với Nepal cũng sẽ không tránh khỏi liên quan
đến sự an toàn của Ấn Độ. Tôi không nghĩ rằng bất kỳ các cuộc tấn công
như vậy vào Nepal là dễ dàng hoặc có thể thực hiện được [101, tr.55].
Tháng 6/1950, Thủ tướng J. Nehru có chuyến viếng thăm đến Nepal. Sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa hai nước được tái khẳng định trong một Hiệp ước hòa bình và
hữu nghị ký kết tại Kathmandu (thủ đô của Nepal) vào ngày 31/7/1950, trong đó:
“Cho phép Nepal vận tải hàng hóa thương mại quá cảnh qua Ấn Độ một cách
không hạn chế, Ấn Độ đảm bảo toàn vẹn chủ quyền của Nepal, đồng thời ràng buộc
trách nhiệm bảo vệ an ninh quốc gia của nhau” [81, tr.161]. Trong những bức thư
trao đổi giữa chính phủ hai nước nhân dịp này đều khẳng định một quyết tâm:
không chấp nhận bất cứ mối đe dọa cho sự an toàn nào đến từ các lực lượng bên
ngoài. Để đối phó với những mối đe dọa như vậy, chính phủ hai nước sẽ tham khảo
ý kiến với nhau và cùng đưa ra các biện pháp phòng chống hữu hiệu, góp phần bảo
vệ biên giới phía Bắc với sự giúp đỡ của binh sĩ Ấn Độ. Khẳng định điều này,
Chính phủ Ấn Độ gia tăng kinh phí trong kế hoạch viện trợ của mình cho Nepal tại
các chốt kiểm soát an ninh biên giới giữa hai nước từ 42.000 USD năm 1952 lên
đến 280.000 năm 1954 [128, tr.449]. Ngoài ra, kế hoạch viện trợ này còn liên quan
đến việc gửi các chuyên gia sang Nepal nhằm giúp cải thiện dịch vụ dân sự, xây
dựng các công trình thủy lợi, trường học, bệnh viện, truyền thông.
Bất chấp sự can thiệp của Trung Quốc trong việc lôi kéo Nepal vào tầm ảnh
hưởng của mình, quan hệ Ấn Độ - Nepal vẫn tiếp tục phát triển theo hướng tích cực.
108
Tháng 6/1959, Thủ tướng J. Nehru tiếp tục đến thăm Nepal. Phát biểu tại
Kathmandu, J. Nehru một lần nữa khẳng định sự phát triển tốt đẹp trong quan hệ
giữa hai nước, đồng thời theo yêu cầu của Chính phủ Nepal, một lực lượng quân đội
Ấn Độ cũng được gửi đến tại các vị trí đóng quân dọc biên giới Nepal - Tây Tạng.
Tháng 8/1959, Nepal công bố tăng 14% kinh phí của mình về quốc phòng và chấp
nhận một đề nghị của Ấn Độ tương đương 20 triệu USD viện trợ về kỹ thuật, kinh
tế bao gồm cả trang thiết bị và đào tạo khoảng 10.000 người trong quân đội hoàng
gia Nepal [101, tr.78].
Tháng 1/1960, Thủ tướng Nepal Prasad Koirala thăm Ấn Độ và đạt được
một cam kết 180 triệu rupee viện trợ kinh tế (con số này bao gồm khoảng 40 triệu
rupee chưa chi từ số tiền mà Ấn Độ đã cam kết ở kế hoạch trước và 30 - 40 triệu
rupee phân bổ cho các dự án kênh đào Chatra hoàn thành năm 1965). Một thông
cáo báo chí được đưa ra vào ngày 28/1/1960 ngay khi kết thúc chuyến thăm đã
chứng thực các lợi ích sống còn của hai quốc gia trong “sự tự do, tính toàn vẹn, an
ninh và sự tiến bộ”, những nét tương đồng trong cách tiếp cận các vấn đề quốc tế,
mong muốn hợp tác, cũng như thỏa thuận về sự cần thiết phải tham khảo ý kiến về
nhiều vấn đề cùng quan tâm. Tiếp đó, tháng 4/1960, Quốc vương Nepal Mahendra
và các thành viên trong chính phủ của ông cũng đến thăm New Delhi, tái khẳng
định lập trường cùng hỗ trợ lẫn nhau giữa hai bên cho sự độc lập và toàn vẹn lãnh
thổ của mỗi nước theo yêu cầu của một trong hai bên. Trong một thỏa thuận được
ký kết tại thủ đô Kathmandu vào ngày 31/8/1960, Ấn Độ mở rộng thêm hơn 9 triệu
rupee viện trợ kinh tế đồng thời chính phủ hai nước ký kết một hiệp định thương
mại và quá cảnh ở Kathmandu vào ngày 11/9/1960.
Các chính sách trên một lần nữa chỉ ra rằng, New Delhi đánh giá cao vai trò
quan trọng của Nepal trong nền an ninh khu vực biên giới Ấn Độ. Trong hai lần
trình bày trước Quốc hội vào ngày 24/8 và 26/11/1959, J. Nehru khẳng định mạnh
mẽ là phải bảo vệ Bhutan và Sikkim để chống lại bất kỳ hành động gây hấn nào,
đồng thời tuyên bố một lần nữa rằng: bất kỳ cuộc tấn công nào vào Nepal sẽ được
coi là cuộc tấn công vào Ấn Độ.
109
Tuy nhiên, bước sang thập kỷ 60, Chính phủ Nepal đã chuyển sang chính
sách đối ngoại mới: cân bằng với hai nước láng giềng là Ấn Độ và Trung Quốc.
Một mặt, Nepal muốn giảm bớt sự phụ thuộc một chiều về kinh tế (và sau đó là
chính trị) vào Ấn Độ. Mặt khác, Nepal bị hấp dẫn bởi một số lợi ích mang lại từ
Trung Quốc. Tháng 4/1960, Thủ tướng Koirala đến thăm Trung Quốc. Kết quả là cả
hai nước cùng đạt được một thỏa thuận chung về biên giới Nepal - Tây Tạng có lợi
cho Nepal cũng như cam kết viện trợ của Trung Quốc khoản kinh phí trị giá 100
triệu rupee. Tháng 10/1961, Quốc vương Nepal có chuyến viếng thăm Trung Quốc,
đồng thời cùng ký một thỏa thuận viện trợ của Trung Quốc về việc xây dựng một
con đường 45 dặm từ Kathmandu đến Koderi (Tamil Nadu - Ấn Độ). Rõ ràng, vào
thời điểm này, một con đường mang ý nghĩa chiến lược đối với Trung Quốc. Nó
liên kết Tribhuvan Rajpath đến các vùng đồng bằng của Ấn Độ và sẽ thuận lợi hơn
cho các hoạt động quân sự của Trung Quốc. Chính phủ Ấn Độ chính thức thông
báo đến Kathmandu quan điểm của mình về vấn đề này nhưng đáp lại là một kết
quả không rõ ràng. Mặc dù vậy, để không đẩy Nepal về phía Trung Quốc, Ấn Độ
vẫn tiếp tục chính sách viện trợ kinh tế của mình cho Nepal bằng việc chi 40 triệu
USD làm tin trong kế hoạch thứ hai, bắt đầu vào năm 1962.
Tóm lại, trong khi nhận thức đầy đủ ý nghĩa chiến lược của Trung Quốc
chiếm đóng đối với Tây Tạng, Chính phủ Ấn Độ đã phản ứng linh hoạt với tình
hình Himalaya, tránh những hành động khiêu khích từ Bắc Kinh, tiếp tục tạo sự
bình yên khu vực biên giới (ít nhất đến trước xung đột biên giới Trung Quốc - Ấn
Độ tháng 10/1962) bằng chính sách ngoại giao khôn khéo của Thủ tướng J. Nehru
với các vương quốc. Tầm quan trọng trong quan hệ của Ấn Độ với các vương quốc
Sikkim, Bhutan và Nepal có một tác động rất lớn đối với an ninh biên giới phía Bắc,
tạo sự ổn định cần thiết cho sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn
Độ. Đúng như một học giả đã nhận định: “Tất cả các cánh cửa dọc theo biên giới từ
Kashmir đến Assam đang được bảo vệ chặt chẽ hơn trước. Quân đội của Ấn Độ vẫn
đang canh giữ Himalaya” [101, tr.60]. Trên thực tế, chính quyền J. Nehru đã xác lập
và “mặc định” kiểu thức mối quan hệ của Cộng hòa Ấn Độ với các vương quốc
trong dãy Himalaya theo phương châm “bạn ổn định, mình an ninh”.
110
3.5. TRÊN LĨNH VỰC VĂN HÓA - XÃ HỘI 3.5.1. Vấn đề thống nhất ngôn ngữ quốc gia Với một quốc gia rộng lớn, đa dạng về văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo như Ấn Độ, những người sáng lập ra nhà nước Cộng hòa đều nhận thức rằng, trên thực tế, vấn đề thống nhất quốc gia dân tộc, trước hết về ngôn ngữ là một thách thức lớn nhất. Bởi lẽ, nếu không giải quyết căn bản, nó sẽ dẫn tới những vấn đề chính trị liên quan tới việc phát triển giáo dục và các cơ hội về kinh tế, việc làm và tiếp cận về chính trị. Đúng như J. Nehru nhận định vào năm 1952: “Vấn đề quan trọng nhất trong các vấn đề quan trọng là sự thống nhất Ấn Độ” [81, tr.84]. Hiến pháp Ấn Độ 1950 công nhận 14 ngôn ngữ chính thức bên cạnh hàng trăm ngôn ngữ khác. Theo cuộc tổng điều tra năm 1951, Ấn Độ có khoảng 1.652 ngôn ngữ mẹ đẻ, gần 92% dân số nói một trong 14 thứ tiếng được đề cập trong Hiến pháp (Chú giải 11); 32% nói một trong 23 ngôn ngữ bộ lạc chính và khoảng 5% sử dụng ngôn ngữ hoặc
phương ngữ khác. Như vậy, một ngôn ngữ quốc gia cho đại đa số người dân trong một đất nước đa ngôn ngữ như Ấn Độ là một vấn đề nhạy cảm và phức tạp mà Chính phủ Ấn Độ cần phải giải quyết để đảm bảo sự “thống nhất trong đa dạng”.
Theo Hiến pháp Ấn Độ năm 1950, tiếng Hindi trong hệ thống chữ viết Devanagari (Chú giải 12) là ngôn ngữ chính thức của liên bang và tiếng Anh vẫn sẽ
được sử dụng như là ngôn ngữ chính thức thứ hai của đất nước trong thời gian 15 năm (tức là đến ngày 26/1/1965). Đến tháng 6/1955, Tổng thống Ấn Độ thành lập một Ủy ban ngôn ngữ chính thức, đứng đầu là luật sư B. G. Kher. Ủy ban đã gửi đến Tổng thống những khuyến nghị liên quan tới việc sử dụng rộng rãi tiếng Hindi ở Cộng hòa Ấn Độ trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Bởi lẽ, trên thực tế, tiếng Hindi là ngôn ngữ được người dân Ấn Độ sử dụng nhiều nhất, đặc biệt là khu vực miền Bắc, từ bang Bengal đến bang Punjap, từ bang Maharashtra đến bang Gujarat. Mặt khác, nó vốn là ngôn ngữ của người bản địa, có bề dày lịch sử, là tiếng nói thông dụng của các tổ chức xã hội. Trong khi đó, tiếng Anh và nền giáo dục Anh trong suy nghĩ của nhiều người Ấn Độ theo chủ nghĩa dân tộc là biểu
tượng của “chế độ nô lệ vĩnh viễn” (The Eternal slavery).
Đến tháng 8/1956, sau một quá trình khảo sát trong thực tế, Ủy ban đã kết luận rằng: “Không thể sử dụng tiếng Anh như một phương tiện giảng dạy rộng rãi
111
cho người dân Ấn Độ, tiếng Hindi được coi là phù hợp cho ngôn ngữ chính thức vì nó là ngôn ngữ được nói bởi phần lớn dân số” [76, tr.293]. Tuy vậy, vấn đề trên đã vấp phải sự phản đối quyết liệt của các bang ở miền Nam vốn không coi tiếng Hindi là ngôn ngữ chính thức như Tamil Nadu, Tây Bengal, Puducherry, Andhra Pradesh. Do đó, nhiều cuộc biểu tình liên tiếp diễn ra.
Nhận thức rõ về tình trạng bất ổn do vấn đề ngôn ngữ chính thức mang lại cho chính thể Cộng hòa, cũng như để xoa dịu mâu thuẫn đang lên cao ở miền Nam Ấn Độ, vì lợi ích của sự đoàn kết và thống nhất dân tộc, ngày 7/8/1959, tại Quốc hội, Thủ tướng J. Nehru đưa ra một sự đảm bảo nhất định rằng: “Tôi bằng lòng khi coi tiếng Anh như là một ngôn ngữ thay thế miễn là họ cần đến nó, và nếu họ không muốn học tiếng Hindi, hãy để cho họ thực hiện” [81, tr.94]. Tiếp đó, tại một phiên họp Quốc hội vào năm 1962, Chính phủ Ấn Độ đã quyết định: “Hoãn việc thay thế tiếng Anh bằng tiếng Hindi vô thời hạn, đồng thời tiếng Hindi được sử dụng trong giảng dạy ở bậc đại học” [76, tr.293]. Kết quả là, ngày 10/5/1963, Quốc hội đã ban hành Luật Ngôn ngữ chính thức, trong đó tiếp tục cho phép sử dụng tiếng Hindi và tiếng Anh vào các mục đích chính thức, ngay cả sau năm 1965. Theo đó, tiếng Anh và tiếng Hindi sử dụng cho các nghị quyết, các điều luật, thông báo hành chính, hoặc các thông cáo báo chí phát hành từ Trung ương hoặc các Bộ, Sở, văn phòng, các hợp đồng, thỏa thuận… Tuy nhiên, đạo luật trên vẫn chưa tạo ra chuyển biến mới trong cuộc tranh luận về ngôn ngữ quốc gia ở Ấn Độ.
Sau khi J. Nehru qua đời, Thủ tướng kế nhiệm L.B. Shastri tiếp tục đối mặt với phong trào phản đối áp đặt tiếng Hindi làm ngôn ngữ chính thức ở Ấn Độ. Trong thời gian này, dưới sức ép của các đảng phái chính trị, L.B. Shastri buộc phải thông qua vấn đề ngôn ngữ bằng một sự thỏa hiệp với những khu vực không nói tiếng Hindi rằng: tiếng Hindi sẽ không bao giờ bị ép buộc. Điều này chính thức cụ thể hóa trong đạo luật thông vào năm 1967 trên cơ sở sửa đổi Luật Ngôn ngữ chính thức năm 1963, với sự ủng hộ của các bang ở khu vực miền Nam. Như vậy, sau nhiều cuộc tranh luận, Chính phủ Ấn Độ đã có một bước đi quan trọng trong giải quyết vấn đề ngôn ngữ.
Về cơ bản, đến đây, ngôn ngữ quốc gia được giải quyết trên cơ sở dân chủ và
theo phương thức thúc đẩy sự hợp nhất quốc gia. Tiếng Hindi và tiếng Anh vẫn sử
112
dụng cho các hoạt động của nhà nước và ở các bang cùng với tất cả các ngôn ngữ
địa phương. Việc pháp lý hóa ngôn ngữ là sự lựa chọn phù hợp trong điều kiện một
quốc gia đa ngôn ngữ như Ấn Độ. Thực hiện chính sách song ngữ Hindi - Anh
được coi là giải pháp tốt nhất lúc bấy giờ, qua đó vừa giữ được những giá trị truyền
thống riêng biệt của nền văn hóa bản địa, vừa tạo điều kiện cho các hoạt động giao
thương ở các bang miền Nam Ấn Độ phát triển.
3.5.2. Hội nhập các bộ lạc trong nền văn hóa dân tộc
Trong hơn một thập niên của nền Cộng hòa, nhiệm vụ thống nhất tâm lý dân
tộc trong các bộ lạc vào dòng chủ lưu chính là vấn đề vô cùng phức tạp ở Ấn Độ,
bởi hầu hết họ sống ở nhiều vùng miền của đất nước, với truyền thống, ngôn ngữ và
nền văn hóa khác nhau. Theo điều tra dân số năm 1961, có hơn 400 cộng đồng các
bộ lạc, với hơn 30 triệu người và chiếm hơn 6% dân số Ấn Độ, phần lớn tập trung ở
các bang Madhya Pradesh, Bihar, Orissa, phía Đông Bắc Ấn Độ, khu vực Tây
Bengal, Maharashtra, Gujarat, và Rajasthan.
Vấn đề bảo tồn những di sản xã hội và nền văn hóa phong phú của các bộ lạc
là trọng tâm trong chính sách của Chính phủ Ấn Độ về hội nhập bộ lạc. Thủ tướng
J. Nehru khẳng định rằng: “Vấn đề đầu tiên chúng ta phải đối mặt ở đó (trong khu
vực bộ lạc) là để truyền cảm hứng cho họ bằng sự tự tin và làm cho họ cảm thấy Ấn
Độ là một, và nhận ra rằng họ vinh dự là một phần trong đó” [81; tr.107]. Ở Ấn Độ,
có hai cách tiếp cận về vấn đề thống nhất bộ lạc trong văn hóa dân tộc. Một là vẫn
giữ nguyên tình trạng hiện có của các bộ lạc, hai là thực hiện đồng hóa vào nền văn
hóa Ấn Độ. Tuy nhiên, với cả hai cách tiếp cận này, trên cương vị là người đứng
đầu chính phủ, Thủ tướng J. Nehru không đồng ý. Bởi lẽ, xét ở phương diện văn
hóa - xã hội, tất yếu dẫn đến sự “cô lập” và “đồng hóa” dân tộc. Theo J. Nehru, đó
là một sự xúc phạm khi bỏ rơi và cô lập họ với thế giới bên ngoài. Mặt khác, nó
cũng là con đường làm đảo lộn toàn bộ đời sống, dẫn tới sự phá hủy bản sắc và văn
hóa của cộng đồng các bộ lạc.
Theo Hiến pháp Ấn Độ năm 1950, “mọi tầng lớp nhân dân có một ngôn
ngữ, một chữ viết, một nền văn hóa riêng biệt đều có quyền duy trì ngôn ngữ, chữ
viết, văn hóa đó” [48, tr.16]. Do vậy, để thay thế hai cách tiếp cận này, Thủ tướng
113
J. Nehru ủng hộ chính sách hòa nhập các bộ lạc vào xã hội, đồng thời duy trì bản
sắc và văn hóa riêng của họ, tạo thành một phần không thể thiếu trong cộng đồng
dân tộc Ấn Độ. Nắm vững quan điểm “thống nhất trong đa dạng”, J. Nehru khởi
xướng cuộc vận động về phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, đặc biệt là các lĩnh
vực truyền thông, thiết bị y tế hiện đại, nông nghiệp và giáo dục trong khu vực của
các bộ lạc. Theo đó, J. Nehru đưa ra cách tiếp cận về vấn đề hòa nhập các bộ lạc
như sau:
1. Các bộ lạc phát triển theo truyền thống của mình. Không nên có sự áp đặt
hay ép buộc từ bên ngoài.
2. Các quyền của họ cần được tôn trọng. Sự xâm nhập của nền kinh tế thị
trường vào khu vực bộ lạc phải được kiểm soát và quản lý chặt chẽ.
3. Khuyến khích các ngôn ngữ của bộ lạc.
4. Trong quản lý hành chính, cần chọn người trong chính các bộ lạc để đào
tạo. Nếu là người bên ngoài được giới thiệu, lựa chọn, hoặc bổ nhiệm để quản lý, họ
cần phải có sự am hiểu về văn hóa và tâm lý của bộ lạc.
5. Việc quản lý và phát triển phải thông qua các tổ chức văn hóa và xã hội
riêng của họ.
Đây được coi là năm nguyên tắc quan trọng, làm nền tảng áp dụng cho
quá trình thống nhất tâm lý dân tộc trong các bộ lạc, hướng đến một sự hòa hợp
trong đa dạng ở Ấn Độ. Thái độ của J. Nehru đối với các bộ lạc và cách tiếp cận
của ông dựa trên nền tảng chính sách dân tộc từ những năm hai mươi của
Gandhi, được thống nhất bởi Tổng thống Rajendra Prasad cũng như nhiều nhà
lãnh đạo chính trị lớn khác sau ngày độc lập. Đặc biệt, chính sách đó đã lần lượt
được thể chế hóa trong Hiến pháp đầu tiên của Ấn Độ tại các Điều 46, 244, 275,
330, 332, 335 (Chú giải 13).
Để thực hiện quá trình này, nhiều chương trình, đề án phúc lợi cho sự phát
triển các bộ lạc thuộc vùng Đông Bắc, Nagaland, Mizoram, Jharkhand được xây
dựng và triển khai bởi Chính phủ Ấn Độ trong giai đoạn 1950 - 1964 thông qua các
kế hoạch 5 năm nhằm cải thiện điều kiện kinh tế, giáo dục, cũng như thúc đẩy tiến
bộ cho phụ nữ và trẻ em. Đặc biệt, đối với khu vực Đông Bắc, Chính phủ Ấn Độ
114
nhiều lần khẳng định: đây là khu vực cần quan tâm đặc biệt. Nơi đây tập trung hơn
100 tộc người khác nhau, nói nhiều ngôn ngữ và chủ yếu sống ở vùng đồi Assam,
tiếp giáp với biên giới Tây Tạng. Do vậy, việc ổn định các cộng đồng bộ lạc vùng
này không những đảm bảo an ninh biên giới, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng
và phong phú trong nền văn hóa Ấn Độ. Ngoài ra, Hiến pháp Ấn Độ cũng quy định
cho phép các bộ lạc nơi này sống theo cách riêng của họ với một quy chế tự trị đặc
biệt trong cơ quan biên giới Đông Bắc (NEFA) được thành lập năm 1951. Thông
qua đó, những chính sách phát triển cho các bộ lạc lần lượt được triển khai, đồng
thời vẫn giữ nguyên kết cấu của các mô hình xã hội, văn hóa và cuộc sống của họ.
Nhìn chung, mục tiêu ban đầu trong việc hội nhập các bộ lạc vào nền văn
hóa dân tộc của Chính phủ Ấn Độ bước đầu được thực hiện có hiệu quả. Đây cũng
là cơ sở đảm bảo cho Ấn Độ đạt được mục tiêu củng cố độc lập dân tộc trong giai
đoạn này.
Tiểu kết chương 3
Nhìn lại chặng đường trong sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa
Ấn Độ 1950 - 1964, có thể nhận thấy:
Thứ nhất, đây là một quá trình khá phức tạp, mang đặc thù riêng của quốc
gia dân tộc, chịu sự tác động bởi nhiều nhân tố. Vì vậy, Chính phủ J. Nehru không
ngừng nỗ lực tìm kiếm những phương thức phù hợp nhằm xây dựng quốc gia - dân
tộc thống nhất, thông qua các chính sách, biện pháp phát triển quốc gia trên nhiều
lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu thực tiễn xã hội. Hơn nữa, Ấn Độ đã khéo léo kết hợp các
chính sách đó với bối cảnh quốc tế và khu vực đầy phức tạp trong thời kỳ Chiến
tranh lạnh để vừa củng cố độc lập dân tộc thành công, vừa nâng cao vai trò và uy tín
của mình trên trường quốc tế trong kỷ nguyên Nehru. Những thành tựu đạt được
trong sự nghiệp củng cố độc lập của Cộng hòa Ấn Độ trong giai đoạn 1950 - 1964
thật sự đã tạo nền tảng và tiền đề cho sự phát triển quốc gia thời kỳ sau.
Thứ hai, về phương diện kinh tế, giai đoạn 1950 - 1964, trên cơ sở ưu tiên
chiến lược phát triển hợp lý, khoa học, phù hợp với đặc thù của quốc gia, Ấn Độ
115
xây dựng một nền kinh tế kế hoạch hóa thông qua 3 kế hoạch phát triển 5 năm lần
thứ nhất (1951 - 1955), lần thứ hai (1956 - 1961), lần thứ 3 (1961 - 1965) trong đó
chú trọng cho thành phần kinh tế nhà nước. Nhờ vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao, thu nhập người dân không ngừng tăng. Đặc biệt, Ấn Độ phát huy tiềm năng
trong nước với ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại; tạo
sự phát triển hài hòa, và là nền tảng cho cuộc “Cách mạng xanh”, “Cách mạng
trắng” sau này.
Thứ ba, trên phương diện chính trị, nền chính trị được kiện toàn thông qua 3
cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên dưới chính thể Cộng hòa, Đảng Quốc đại vẫn là chính
đảng cầm quyền. Công cuộc cải cách hành chính năm 1956 đạt được thành công lớn
khi đã thay đổi cách phân chia đơn vị hành chính phức tạp trước kia bằng việc thiết
lập nên 14 bang mới và các khu vực tự trị. Qua đó dấu vết còn lại của chế độ thực
dân Anh duy trì trên đất Ấn dần xóa bỏ, tạo nền tảng cho quá trình hoàn thiện các
đơn vị hành chính sau này. Đặc biệt, quá trình đấu tranh thu hồi các lãnh thổ thuộc
Pháp và Bồ Đào Nha giành được thắng lợi lớn. Quá trình đó vừa đáp ứng với xu thế
của thời đại, vừa nhận được sự đồng thuận từ các dân tộc cùng cảnh ngộ trên các
diễn đàn quốc tế, đi đến thủ tiêu hoàn toàn những hình thức còn lại của chủ nghĩa
thực dân, đảm bảo chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Về văn hóa - xã hội,
Ấn Độ có những bước đi ban đầu trong giải quyết vấn đề nhạy cảm và phức tạp về
ngôn ngữ, cũng như tâm lý hòa nhập của các bộ lạc vào dòng chủ lưu chính trên cơ
sở đảm bảo nguyên tắc “thống nhất trong đa dạng”.
Thứ tư, nền quốc phòng Ấn Độ được đầu tư khá toàn diện. Trang bị quốc
phòng Ấn Độ ngày càng hiện đại và vững mạnh, đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình
hình mới khi những tham vọng mở rộng lãnh thổ xuống vùng Tây - Nam của Trung
Quốc biểu hiện rõ nét hơn. Thêm vào đó, trên thực tế, Chính phủ J. Nehru ngày
càng tăng cường mối quan hệ của Cộng hòa Ấn Độ với các vương quốc chiến lược
trên dãy Himalaya. Với Sikkim, Ấn Độ thi hành chính sách bảo hộ và thắt chặt quan
hệ thân hữu để đến năm 1975 sáp nhập nó thành bang thứ 22 của Ấn Độ. Còn với
Bhutan và Nepal, Chính quyền J. Nehru thực hiện đối ngoại thân hữu bằng cách
công nhận nền độc lập và tăng cường giúp đỡ, viện trợ cho bạn để chấp nhận quan
116
điểm đối ngoại của mình. Đúng như nhận định của một nhà báo chính trị Mỹ viết
vào tháng 6/1956:
Khía cạnh thực tế chủ đạo trong chính sách đối ngoại của J. Nehru là
Himalaya. Đây là vùng cao nguyên rộng lớn của Tây Tạng với một biên
giới phía Nam hơn 2.500 dặm che mờ cả vùng đồng bằng Ấn Độ. Ấn Độ
được quan tâm để buộc các nước trong dãy Himalaya như Sikkim,
Nepal, Bhutan cam thiệp dưới sự che chở của nó [101, tr.60-61].
Thứ năm, quan trọng hơn, Ấn Độ đã trụ vững trước vòng xoáy của cuộc
Chiến tranh lạnh bằng đường lối ngoại giao khôn khéo: hòa bình, trung lập và
không liên kết. Tuy nhiên, trong từng trường hợp cụ thể, cách thức xử lý của Ấn Độ
lại linh hoạt, phù hợp với bối cảnh quốc tế, đảm bảo phục vụ lợi ích dân tộc. Trong
bối cảnh khu vực và quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Ấn Độ triển khai quan
hệ hữu nghị với các nước láng giềng, mặc dù trong quá trình đó vẫn còn một số bất
đồng. Chính quyền J. Nehru khéo léo cân bằng trong quan hệ với hai cực Xô - Mỹ,
vừa hợp tác, vừa tranh thủ sự giúp đỡ trong quá trình phát triển quốc gia. Với Năm
nguyên tắc chung sống hòa bình nổi tiếng, có thể khẳng định rằng: Ấn Độ thật sự
trở thành “thủ lĩnh” trong Phong trào không liên kết thời kỳ Chiến tranh lạnh, góp
phần nâng cao địa vị quốc gia trên trong các mối quan hệ quốc tế; đóng góp vào sự
nghiệp bảo vệ hòa bình khu vực và thế giới.
117
Chương 4 NHẬN XÉT VỀ SỰ NGHIỆP CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA CỘNG HÒA ẤN ĐỘ TRONG GIAI ĐOẠN 1950 - 1964 VÀ KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
4.1. ĐÁNH GIÁ CHUNG 4.1.1. Những thành tựu
Một là, với những chính sách thực hiện của Chính phủ Thủ tướng J. Nehru
đã tạo ra thay đổi sâu sắc trong xã hội Ấn Độ giai đoạn 1950 - 1964
Trong tầm nhìn chiến lược về một nhà nước Ấn Độ phát triển mạnh mẽ sau
thời kỳ tự trị bằng sự ổn định về chính trị và toàn vẹn lãnh thổ, được Chính phủ Ấn
Độ hết sức chú trọng trong những năm đầu của nền Cộng hòa. Thông qua việc hoạch định chiến lược phát triển cụ thể trong giai đoạn 1950 - 1964, những thay đổi
quan trọng trong xã hội Ấn Độ dần rõ nét. Mục 36 của Hiến pháp về các nguyên tắc
chỉ đạo trong chính sách quốc gia chỉ rõ: “Nhà nước Ấn Độ phải làm mọi cách để
củng cố và nâng cao phúc lợi cho dân. Xây dựng một trật tự xã hội gồm các thể chế
chính trị, kinh tế, luật pháp vận hành có hiệu quả, phục vụ cuộc sống nhân dân” [81,
tr.142]. Khái niệm “Trật tự xã hội mới” xuất hiện năm 1955 cùng với việc xây
dựng mô hình xã hội “theo kiểu mẫu chủ nghĩa xã hội” được Quốc hội thông qua
tại phiên họp ở Avadi. Sau này được hiện thực hóa thành mục tiêu trong các kế
hoạch phát triển 5 năm lần thứ 2 và thứ 3 của Ấn Độ. Thành tựu đạt được trong thời kỳ Thủ tướng J. Nehru nắm quyền là sự thiết lập lại xã hội mới cùng với sự hình
thành của hệ thống phúc lợi, sự phát triển có kế hoạch của nền kinh tế. Chính sách
xã hội mà Chính phủ Ấn Độ xây dựng và thực hiện trong thời kỳ này gắn liền với
quá trình phát triển kinh tế, nhằm đạt được mục tiêu quan trọng nhất là mọi người
dân đều phải được đảm bảo tốt về mặt xã hội. Chính phủ Ấn Độ thường xuyên nhấn
mạnh trong khi cải cách cấu trúc tổ chức xã hội Ấn Độ phải hướng đến sự giải
phóng cho các tầng lớp xã hội vốn lạc hậu và chịu nhiều bất công, và rằng: “Chúng
ta không chỉ đấu tranh để cải cách chính trị, không chỉ đấu tranh giành lấy cải cách kinh tế…, mà chúng ta sẽ tiến hành công cuộc cách mạng xã hội. Điều đó chỉ có thể
đạt được khi toàn bộ dân tộc Ấn Độ đồng lòng” [81, tr.142].
118
Trước hết, hệ thống luật pháp Ấn Độ công nhận quyền lợi chính đáng của người lao động, cho phép họ được có các công đoàn, được tổ chức biểu tình đòi quyền lợi, được bảo hiểm về tai nạn và sức khỏe trong mọi môi trường lao động. Chính phủ cũng tạo điều kiện thuận lợi cho tầng lớp bần nông và những tầng lớp dưới đáy xã hội khác hưởng lợi từ những thành quả phát triển kinh tế thông qua những biện pháp nhằm cải thiện địa vị xã hội của họ như ưu tiên về học bổng giáo dục, y tế, nhà ở, dịch vụ xã hội… Năm 1951, “Bộ luật Hindu” được đưa vào thảo luận trong Quốc hội và sau này được chính phủ thông qua. Đây là cơ sở để xây dựng một nhà nước thế tục ở Ấn Độ, trong đó mọi người đều có quyền lợi như nhau, xóa bỏ tất cả rào cản phân biệt con người dựa theo tôn giáo, đẳng cấp.
Chính phủ Ấn Độ đã có những giải pháp trong giải quyết việc làm, xây dựng cơ sở hạ tầng, cũng như sự hợp lý trong chính sách phát triển giáo dục và các dịch vụ xã hội đã tạo nên những thành tựu to lớn cho Ấn Độ trong thời kỳ này
(xem Phụ lục 6).
Các nhà lãnh đạo Ấn Độ sớm ý thức được tầm quan trọng của việc phát triển hệ thống giáo dục rộng lớn, hiệu quả với cân bằng cơ hội được học hành cho mọi tầng lớp trong một xã hội dân chủ. Vấn đề này càng trở nên bức thiết khi trong năm 1951, cả Ấn Độ chỉ có 16,6 % dân số biết chữ, và chỉ 6% nếu tính riêng khu vực nông thôn. Để giải quyết vấn đề này, chính quyền Ấn Độ đặt mục tiêu đến năm 1961 sẽ triển khai chương trình giáo dục miễn phí và bắt buộc đối với toàn bộ trẻ em dưới 14 tuổi. Tháng 5/1961, Thủ tướng J. Nehru khẳng định với Hội đồng Phát triển quốc gia rằng: “Tôi nhận thức được rằng chính giáo dục là cội nguồn của mọi sự phát triển, do vậy chúng ta phải để cho giáo dục được phát triển đi lên” [90, tr.169]. Vào cuối nhiệm kỳ Thủ tướng, J. Nehru bắt đầu chú trọng nhiều hơn vào sự phát triển của giáo dục, đặc biệt là giáo dục tiểu học và nhấn mạnh cần phải phát triển hệ thống giáo dục cơ bản với bất cứ giá nào. Trong bản báo cáo cuối cùng của nhiệm kỳ năm 1963, J. Nehru nói với các Bộ trưởng: “Việc mở cửa giáo dục cho tất cả mọi người là phương thuốc tốt nhất để trị mọi căn bệnh của đất nước… trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, chúng ta thà để một số ngành công nghiệp bị đình trệ để cho hệ thống giáo dục cơ bản được phát triển đi
lên” [122, tr.601].
119
Trong những năm 1951 - 1952, Ấn Độ chi 198 triệu rupee vào phát triển
giáo dục, nhưng đến giai đoạn 1964 - 1965, con số đó đã tăng gấp 7 lần, lên tới
1462,7 triệu rupee. Để giải quyết nạn mù chữ, Thủ tướng J. Nehru thúc giục Quốc
hội không những không cắt giảm nguồn chi vào giáo dục cơ bản dưới bất kỳ điều
kiện nào do sự khó khăn của nền kinh tế mang lại mà thậm chí còn đề xuất việc cắt
giảm nguồn chi vào sự phát triển công nghiệp để phát triển giáo dục nếu cần thiết.
Chính nhờ những giải pháp như vậy, trong hơn một thập niên của nền Cộng hòa,
giáo dục Ấn Độ có bước phát triển vượt bậc. Trong giai đoạn từ những năm 1950 -
1951 đến 1964 - 1965, số lượng học sinh tăng từ 1,02 triệu đến 4,08 triệu người. Tỷ
lệ trẻ em theo học các trường trong nhóm từ 6 đến 11 tuổi tăng từ 42,6% (năm 1950
- 1951) lên 61,1% (năm 1960 - 1961), và ở nhóm từ 11 đến 14 tuổi là 12,7% (năm
1950 - 1951) lên 22,8% [149]. Số lượng các trường trung học cơ sở tăng vọt từ
7.288 lên tới 24.477 [81, tr.145]. Sau khi giành độc lập, Ấn Độ mới chỉ có 18
trường đại học với tổng số sinh viên là 300.000 người. Đến năm 1964, số lượng các
trường đại học đã lên đến 44 trường, các trường cao đẳng là 2.500 trường, và tổng
số sinh viên năm cuối và nghiên cứu sinh lên đến 613.000 người. Đặc biệt, số lượng
sinh viên nữ tăng gấp 6 lần, chiếm 22%.
Các dịch vụ về sức khỏe, y tế có sự mở rộng đáng kể. Trong vòng một thập
kỷ, số lượng lớn các bệnh viện, trạm sá, cơ sở y tế và các trung tâm phục vụ cho bà
mẹ và phúc lợi trẻ em được xây dựng mới. Các chương trình đặc biệt về nước sạch,
môi trường và kiểm soát dịch bệnh được chú trọng. Trong những năm 1950 - 1951,
chỉ có 8.600 cơ sở y tế với khoảng 113 triệu gường bệnh, đến những năm 1960 -
1961, số lượng cơ sở y tế tăng lên 12.600 với khoảng 186 triệu giường bệnh. Ngoài
ra, còn có 2.800 trung tâm chăm sóc sức khỏe hoạt động thường xuyên [149].
Bên cạnh đó, hai chương trình lớn nhằm phát triển vùng nông thôn, cụ thể là
“Chương trình phát triển cộng đồng” và “Panchayan Rai”, đã được triển khai năm
1952 và 1959. Chúng được thiết kế nhằm mục đích đặt nền móng cho hệ thống
phúc lợi xã hội của quốc gia. Mặc dù mục đích ban đầu của hai chương trình này là
để phát triển ngành nông nghiệp, làm thay đổi bộ mặt nông nghiệp của Ấn Độ và
cải thiện chất lượng cuộc sống con người, nhất là đối với các tầng lớp Harijan (Chú
120
giải 14) của xã hội. Tuy nhiên, chúng cũng chứa đựng những mục đích về phúc lợi
xã hội. Người dân ở nông thôn nhận được sự giúp đỡ của nhà nước thông qua hỗ trợ
về tài chính, giáo dục và cơ hội việc làm, để cải thiện địa vị kinh tế - xã hội như
những bộ phận khác của cộng đồng.
Có thể nói, trên đây là những thành quả đáng ghi nhận khi Ấn Độ vừa bước
ra từ sự thống trị của chủ nghĩa thực dân, nhanh chóng hoạch định chiến lược gắn
phát triển với đảm bảo các chính sách xã hội. Nghĩa là các mục tiêu chính sách xã
hội chỉ đạt được trên cơ sở của thành quả kinh tế, đồng thời động lực phát triển kinh
tế chỉ được tạo ra khi người dân đảm bảo về mặt xã hội và được hưởng các thành
quả kinh tế đó. Do vậy, những thành quả trên tạo nền tảng vững chắc để Ấn Độ
củng cố độc lập về kinh tế và chính trị.
Hai là, uy tín và vị thế của Chính phủ Ấn Độ đối với người dân trong nước
và trên trường quốc tế được nâng cao
Bằng sự nhạy bén về chính trị, quyết đoán trong các quyết sách xuất phát từ
thực tiễn ở một đất nước rộng lớn, ngay khi thiết lập nền Cộng hòa, dưới sự lãnh
đạo của Thủ tướng J. Nehru, Chính phủ Ấn Độ đã xác định hai nhiệm vụ trung tâm
là vừa củng cố độc lập, vừa xác lập phương thức phát triển quốc gia. Nhìn tổng thể,
những thành tựu phát triển kinh tế, chính trị, xã hội giai đoạn 1950 - 1964 của
Chính phủ Ấn Độ cho thấy rằng, việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển
quốc gia không phải là một nhiệm vụ đơn giản. Nhất là gắn nhiệm vụ này trong bối
cảnh Ấn Độ vừa mới giành được độc lập cũng như tính chất phức tạp của quan hệ
quốc tế thời kỳ Chiến tranh lạnh thì những thành công mà Ấn Độ đạt được càng có
giá trị hơn. Những thành công này đã tạo dựng uy tín cho Chính phủ Ấn Độ trong
nhân dân bất chấp những bất ổn tiềm tàng trong nước và sự chống phá từ bên ngoài
và tạo nền tảng vững chắc để Ấn Độ tiếp tục phát triển trong các giai đoạn về sau.
Trước hết, Chính phủ Ấn Độ từ việc đề ra đường lối chiến lược phát triển
đất nước trong thời kỳ dài, đã đề ra từng kế hoạch 5 năm với những mục tiêu,
nhiệm vụ cụ thể, xác định hướng ưu tiêu phát triển từng lĩnh vực cho từng giai
đoạn. Đồng thời, chính phủ cũng kịp thời có sự điều chỉnh kế hoạch khi tình hình
quốc tế, trong nước có sự thay đổi. Quá trình thống nhất lãnh thổ, kiện toàn cơ cấu
121
hành chính liên bang trong thời kỳ cầm quyền của Thủ tướng J. Nehru vừa đảm
bảo tập trung quản lý từ trung ương đến địa phương, vừa loại bỏ những di sản thực
dân của các vùng đất thuộc Pháp và Bồ Đào Nha trên đất Ấn Độ, đảm bảo tính
toàn vẹn cương vực lãnh thổ. Bên cạnh đó, giải quyết vấn đề ngôn ngữ quốc gia
theo tinh thần thúc đẩy sự hợp nhất quốc gia, dựa trên yếu tố dân tộc và hiện đại,
đáp ứng nguyện vọng đại đa số quần chúng. Trong toàn bộ đời sống chính trị, kinh
tế, văn hóa của đất nước đều được Hiến pháp quy định chặt chẽ với quy chế rõ
ràng để mọi người dân tuân thủ. Mặt khác, chính quyền thực hiện nhiều biện pháp
nhằm ổn định tâm lý, thúc đẩy hội nhập các bộ lạc vào một nước Ấn Độ đảm bảo
tính “thống nhất trong đa dạng”.
Ngoài ra, cùng với sự tăng trưởng kinh tế, chính phủ đã có những chính
sách phúc lợi xã hội giải quyết các vấn đề cấp thiết trong đời sống của nhân dân
như nhà ở, việc làm, đất đai, chăm sóc sức khỏe, y tế, giáo dục… Biến đổi sâu sắc
trong xã hội Ấn Độ giai đoạn này là một minh chứng cụ thể. Chính phủ kết hợp
linh hoạt và hiệu quả giữa phát triển kinh tế với chính sách xã hội theo hướng mọi
người dân Ấn Độ phải được đảm bảo về mặt xã hội một cách tốt nhất. Điều này
tạo nên sự ổn định chính trị xã hội, được coi là nền tảng quan trọng để củng cố độc
lập dân tộc ở Ấn Độ.
Trải qua quá trình đấu tranh từ tự trị đến Cộng hòa (1947 - 1950), nước Cộng
hòa Ấn Độ ra đời (26/1/1950) trong bối cảnh cuộc Chiến tranh lạnh với nhiều biến
động phức tạp, nhất là sự hình thành Trật tự hai cực Xô - Mỹ. Vừa thoát khỏi sự
thống trị của thực dân Anh nên lúc này, Ấn Độ có mục tiêu lớn nhất là tập trung
củng cố nội bộ, giữ gìn và bảo vệ nền độc lập dân tộc vừa mới giành được, cải tạo,
phát triển kinh tế, xây dựng đất nước hùng mạnh. Do vậy, hơn lúc nào hết, để thực
hiện mục tiêu trên, Chính phủ Ấn Độ đề ra chính sách đối ngoại dựa trên cơ sở cùng
tồn tại hòa bình, tự lực tự cường và hợp tác, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau, không liên kết, ủng hộ phi thực dân hóa, giải trừ vũ khí, xây dựng trật tự
kinh tế quốc tế công bằng và đấu tranh trên toàn cầu, chống phân biệt chủng tộc.
Với chính sách này, trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, Ấn Độ đã theo đuổi chủ nghĩa
lý tưởng, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân cũ, mới,
122
chủ nghĩa Apartheid; chủ trương làm bạn với tất cả các nước chứ không nghiêng về
bất cứ phe nào trong nền chính trị cường quyền và thi hành một nền kinh tế hỗn hợp
để có thể nhận được viện trợ từ các nước tư bản và xã hội chủ nghĩa.
Là một quốc gia có đầy đủ tiềm năng nổi lên như là một trung tâm quyền lực
quan trọng trên thế giới, Ấn Độ đã nhanh chóng nắm bắt ngọn cờ lãnh đạo nhóm
các nước mới giành được độc lập. Thời kỳ này, Ấn Độ tích cực ủng hộ cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Đông Dương và Triều Tiên, đóng vai trò
quan trọng trong việc triệu tập Hội nghị Bandung (1955), hình thành phong trào Á -
Phi và đã cùng đề xướng Năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình. Đặc biệt, tại Liên
hợp quốc, Ấn Độ nổi lên như một nhân tố mang hòa bình cho các cuộc xung đột
khu vực bằng những giải pháp hiệu quả. Từ những giải pháp hòa bình cho cuộc
chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Đông Dương, đến việc đảm bảo quyền tự quyết
trong vấn đề kênh đào Suez, phản đối sự can thiệp của Anh, Pháp, Israel tới Ai Cập,
từ thể hiện quan điểm rõ ràng trong vấn đề Liên Xô đưa quân vào Hungari đến một
giải pháp ổn định tình hình tại Congo… tất cả đều được thế giới ghi nhận ở những
nỗ lực không mệt mỏi của Ấn Độ cho sự ổn định và hòa bình khu vực, thế giới.
Quan trọng hơn, Ấn Độ đã “ghi điểm” trong mắt của hai khối Đông - Tây, đồng
thời làm thay đổi nhận thức, quan điểm của họ đối với tư tưởng không liên kết mà
Ấn Độ theo đuổi.
Biểu hiện rõ nét nhất là trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, thuốc thử mạnh
mẽ để kiểm chứng sự kiên định của Ấn Độ vào con đường “không liên kết” và tư
tưởng yêu chuộng hòa bình. Đầu tiên Ấn Độ phải chịu sự ghẻ lạnh từ Trung Quốc
và Liên Xô bởi Ấn Độ cho rằng chính Bắc Triều Tiên là bên gây chiến đầu tiên. Sau
đó, Ấn Độ lại chịu sự giận dữ từ Hoa Kỳ khi từ chối cùng với các thế lực phương
Tây can thiệp vào cuộc chiến… Mặc dù vậy, Ấn Độ đã không để những việc đó
làm ảnh hưởng đến lập trường của mình trong cuộc chiến tranh Triều Tiên. Ấn Độ
vẫn tiếp tục thúc giục Liên hợp quốc công nhận và trao cho Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa một ghế trong Hội đồng Bảo an. Mặt khác, Ấn Độ rất cần sự viện trợ
lương thực từ Mỹ để chống lại nạn đói hoành hành trong nước, nhưng vẫn không cổ
xúy cho lập trường của Mỹ về tình hình bán đảo Triều Tiên. Ấn Độ vẫn miệt mài
123
theo đuổi lập trường của mình mặc cho các thế lực liên tiếp kéo Ấn Độ về phía
mình. Cuối cùng, mọi nỗ lực của Ấn Độ đã được đền đáp xứng đáng. Cả Liên Xô
và phương Tây đều ghi nhận con đường trung lập của Ấn Độ. Thế giới bấy giờ
công nhận sự tích cực của lập trường không liên kết. Liên Xô bắt đầu nhìn Ấn Độ
bằng ánh mắt thân thiện, hữu nghị. Ngay cả Thủ tướng Liên Xô Bulganin cũng đã
dành cho đại sứ Ấn Độ K.P.S. Menon những lời nói đầy thiện cảm: “Liên bang Xô
viết hoàn toàn đánh giá cao vị thế của Ấn Độ trong Khối thịnh vượng chung và hy
vọng rằng Ấn Độ sẽ phát triển mạnh mẽ trong khối đó” [81, tr.154]. Đây là một
thay đổi to lớn vì vốn dĩ trong mắt Liên Xô, mối quan hệ với Khối thịnh vượng
chung của Ấn Độ được xem như là bằng chứng không thể chối cãi về việc Ấn Độ
đã lấn theo chủ nghĩa đế quốc.
Những việc làm trên là phù hợp với lợi ích của các nước xã hội chủ nghĩa mà
chủ yếu là Liên Xô (muốn thúc đẩy các phong trào giải phóng dân tộc và không liên
kết, tìm kiếm phát triển quan hệ với Ấn Độ để tranh giành ảnh hưởng với hệ thống
tư bản chủ nghĩa) nên quan hệ Ấn - Xô phát triển mạnh mẽ. Trong khi đó, chính
sách của Ấn Độ khác biệt với lợi ích của Mỹ là duy trì địa vị độc tôn trên thế giới và
ngăn chặn sự thách thức của Liên Xô, củng cố chế độ tư bản chủ nghĩa, thi hành
chính sách mậu dịch tự do; khác biệt với lợi ích của Trung Quốc trong việc tranh
giành ảnh hưởng trong thế giới thứ ba và trong khu vực; khác biệt với Pakistan
trong vấn đề Kashmir nên Ấn Độ đã không thành công trong việc thúc đẩy các mối
quan hệ này.
Cuối cùng, đóng góp lớn nhất của Ấn Độ cho lịch sử quan hệ quốc tế thời kỳ
Chiến tranh lạnh là đã sáng tạo nên một con đường đi mới - con đường đi giữa trong
Trật tự thế giới hai cực. Đó là con đường không liên kết, và được hơn 100 quốc gia
đi theo. Những quốc gia này đã trở thành một lực lượng giữ vị trí quan trọng trong
đời sống chính trị quốc tế được biết đến với tên gọi: thế giới thứ ba. Với những hoạt
động tích cực của mình, Ấn Độ nổi lên với tư cách một nước đứng đầu các nước thế
giới thứ ba, có một tiếng nói có trọng lượng và một vị trí được nể trọng trên trường
quốc tế. Nhận xét sau đây về vị thế quốc tế của J. Nehru, cũng được coi là đại diện
cho vị thế quốc tế của Ấn Độ thời kỳ này:
124
Với vai trò là trụ cột của ông trong Phong trào không liên kết, với tư cách
là người đại diện cho lợi ích quốc gia của Ấn Độ, Nehru đã được đón
tiếp tại Mátxcơva, Oasinhton và châu Âu như một đồng minh bình đẳng,
được đánh giá cao và được công nhận ngay cả khi những luận điểm của
ông, những ý kiến hoặc quan niệm của ông chưa chấp nhận được hoặc
không thể chấp nhận được. Như vậy, ông đã góp phần vào việc khẳng
định và mở rộng không những chính sách quốc gia của Ấn Độ mà cả
chính sách không liên kết nói chung [45, tr.11-12].
4.1.2. Những hạn chế
4.1.2.1. Vấn đề dân tộc, ngôn ngữ vẫn chưa được giải quyết sau cuộc cải
cách hành chính năm 1956
Sau khi bản đồ hành chính được vẽ lại, chính phủ của Thủ tướng J. Nehru và
lãnh đạo Đảng Quốc đại bắt đầu lo ngại rằng tất cả các vấn đề dân tộc gắn với việc
phân chia hành chính và thành lập các bang trên cơ sở dân tộc tất yếu dẫn đến sự
phát triển của chủ nghĩa biệt lập (Particularism). Do vậy, chính phủ trung ương đã
ra chỉ thị thành lập 5 vùng dưới sự cai quản của Hội đồng vùng. Hội đồng gồm các
đại diện chính phủ trung ương và chính phủ các bang tương ứng. Các Hội đồng
vùng làm công việc tư vấn, kế hoạch hóa, chương trình phát triển kinh tế của các
bang, giải quyết vấn đề các dân tộc thiểu số, tranh chấp biên giới, sử dụng nguồn
nước, giao thông vận tải…
Tuy nhiên, cải cách lãnh thổ hành chính năm 1956 đã không giải quyết được
vấn đề dân tộc ở Ấn Độ. Tình hình đặc biệt phức tạp ở các bang có nhiều ngôn ngữ
như: Bombay, Assam, Punjab. Từ đây bùng lên cuộc đấu tranh nhằm thành lập các
bang trên cơ sở ngôn ngữ. Kết quả là, dưới áp lực đấu tranh của các tộc người ở
nhiều địa phương do một số đảng tại các nơi đó lãnh đạo, chính phủ đã phải nhượng
bộ. Lấy bang Punjab làm ví dụ: bang này có cư dân nói hai thứ tiếng Punjabi và
Hindi. Sau cuộc đấu tranh lâu dài 8 năm, đến năm 1964, chính phủ trung ương mới
tách bang Haryana nói tiếng Hindi ra khỏi bang Punjab. Ngoài ra, để đáp ứng yêu
cầu của phong trào đòi quyền tự trị ở bang Assam tại Đông Bắc Ấn Độ, đầu năm
1963, Chính phủ J. Nehru đã thành lập bang mới Nagaland.
125
Mặt khác, trong khi cách phân chia hành chính này là một bước tiến bộ và
giải quyết được vấn đề thành lập các bang gồm những dân tộc đông người ở Ấn Độ,
việc cải tổ không đề cập đến đất đai của những dân tộc ít người hơn cho nên họ tiếp
tục đấu tranh đòi được hưởng chế độ tự trị. Do đó, những bất ổn trong việc phân
chia các bang dựa trên cơ sở ngôn ngữ lại tiếp tục xuất hiện. Trước hết, việc đem
nhập vào bang Bombay đất đai của dân tộc Marathi và Gujarati, đã làm cho cả hai
dân tộc này bất mãn. Sự bất mãn này là nguyên nhân gây nên những vụ xung đột
khá nghiêm trọng giữa nhân dân và cảnh sát. Cả hai dân tộc đều đòi chia bang
Bombay thành hai bang, lấy tên là bang Maharashtra và Gujarat. Bạo lực và đốt phá
diễn ra tại thành phố Ahmedabad và sau đó lan sang các khu vực khác của Gujarat.
Có khoảng 16 người bị giết và hơn 200 người bị thương trong các vụ đụng độ với
cảnh sát. Không những thế, trong cuộc Tổng tuyển cử năm 1957, số lượng cử tri
ủng hộ Đảng Quốc đại xuống mức thấp nhất. Trước yêu cầu trên cùng với những
cuộc đấu tranh liên tiếp xảy ra trong vòng 5 năm, cuối cùng, Chính phủ Ấn Độ cũng
đồng ý. Tháng 5/1960, bang Bombay được chia thành hai bang Maharashtra (với
thủ phủ là Mumbai) và bang Gujarat (với thủ phủ là Ahmedabad).
Liên quan đến cuộc đấu tranh dân tộc ở Ấn Độ còn phải nói tới vấn đề ngôn
ngữ. Khi những mâu thuẫn trong việc tổ chức lại các đơn vị lãnh thổ hành chính
trên cơ sở ngôn ngữ năm 1956 vẫn chưa được giải quyết dứt điểm, thì những quyết
định của nhà nước về vấn đề ngôn ngữ tạo nên sự phản đối mạnh mẽ trong giới tư
sản dân tộc, nhất là tư sản ở miền Nam Ấn Độ. Bởi lẽ tiếng Anh là ngôn ngữ được
giới tư sản Ấn Độ sử dụng chính trong hoạt động kinh doanh của mình. Đồng thời
điều này ảnh hưởng đến những khu vực ở Ấn Độ mà cư dân vốn chỉ sử dụng ngôn
ngữ bản địa. Vì thế, các cuộc biểu tình được tổ chức ở nhiều nơi. Câu hỏi về ngôn
ngữ được sử dụng trong trường học và trong kinh doanh trở thành vấn đề gây tranh
cãi chính trị trong nước từ cuối những năm 50 trở đi.
4.1.2.2. Uy tín của Chính phủ Ấn Độ bị giảm sút sau cuộc chiến tranh
năm 1962
Tranh chấp biến giới giữa hai quốc gia láng giềng Ấn Độ - Trung Quốc bắt
đầu từ những mâu thuẫn trong đàm phán và phát triển lên tới đỉnh điểm với cuộc
126
chiến tranh biên giới năm 1962. Điều này đã dẫn đến những tác động tiêu cực đối
với không chỉ quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ, tới an ninh khu vực, mà quan trọng
hơn, đối với người dân Ấn Độ, chính phủ của Thủ tướng J. Nehru đã bị chỉ trích
nghiêm trọng từ nhiều phía, uy tín ngày càng giảm sút.
Về phía Ấn Độ, hậu quả lớn nhất là cuộc chiến này để lại là “làm cho Ấn Độ
bẽ bàng và để lại nỗi niềm cay đắng và nghi kị” [68], phải mất một thời gian dài để
vực dậy đất nước. Quan hệ của Ấn Độ với các quốc gia khác phải chịu nhiều ảnh
hưởng lớn, mà cụ thể là “yếu tố Trung Quốc” đã dần hiện rõ trong chính sách đối
ngoại của Ấn Độ. Mối quan hệ vốn được xây dựng tốt đẹp giữa hai quốc gia này từ
đầu những năm 50 đã thật sự hằn vết. Cuộc chiến cũng chấm dứt những hy vọng
trước đó của J. Nehru rằng Ấn Độ và Trung Quốc sẽ hình thành một sức mạnh châu
Á để chống lại những ảnh hưởng ngày càng gia tăng của hai siêu cường trong Chiến
tranh lạnh. Không chỉ đối với các tầng lớp chính trị Ấn Độ, mà ngay cả với một bộ
phận đông đảo người Ấn, Trung Quốc được nhắc tới với những ngôn từ thiếu thiện
cảm như “kẻ xâm lược”, “gian xảo”… Người Ấn xem cuộc chiến tranh này là một
sự phản bội của những nỗ lực thiết lập nền hòa bình lâu dài với Trung Quốc, và bắt
đầu đặt câu hỏi về tuyên bố trước đây giữa hai dân tộc “Hindi - Chini bhai bhai”
(nghĩa là Ấn Độ và Trung Quốc là anh em). Sau cuộc chiến, Ấn Độ mất đi một bộ phận lãnh thổ rộng lớn khoảng 36.000 km2. Ngay tại thời điểm đó, với hậu quả nặng nề của cuộc chiến, kế hoạch 5 năm lần thứ 4 của Ấn Độ dự định thực hiện vào
tháng 8/1964 đã phải lùi lại tới năm 1971, làm cho nền kinh tế và đời sống của nhân
dân Ấn Độ trở nên khó khăn hơn.
Ngoài những phản ứng tiêu cực của người dân, cuộc chiến tranh năm 1962
còn ảnh hưởng mạnh mẽ tới tình hình chính trị của quốc gia này. Sự bất ổn của Ấn
Độ được miêu tả lại như sau:
Các thế lực phản động ở Ấn Độ đã lợi dụng sự xung đột để gây bất ổn về
chính trị - xã hội cho đất nước. Các phần tử này tấn công lực lượng tiến
bộ trong nước, khiến Ấn Độ rời bỏ con đường trung lập và kéo nó vào
khối chính trị phương Tây… Từ lâu, Ấn Độ đã tuyên bố tình trạng khẩn
cấp, quyền dân chủ nhân dân bị thu hẹp. Hàng trăm người cộng sản bị
127
bắt bỏ tù. Những phần tử phản động đòi rút bớt kế hoạch phát triển kinh
tế, dùng tài nguyên có hạn trong nước vào mục đích quân sự và lập nên
bộ máy quân sự khổng lồ [8, tr.53].
Thủ tướng J. Nehru và các cộng sự đắc lực của ông trở thành mục tiêu phản
kích của phái hữu trong Đảng Quốc đại. Phe đối lập đã chỉ trích Chính phủ J. Nehru
không lường trước được tình hình, vội vàng thực hiện chính sách hòa hảo với Trung
Quốc. Trên báo chí, họ mở một cuộc vận động tập trung làm mất danh dự của J.
Nehru. Họ đòi J. Nehru phải từ chức Thủ tướng và xem xét lại toàn bộ chính sách
đối nội. Ngay cả Tổng thống Ấn Độ K. Radhakrisnan cũng chỉ trích J. Nehru là
ngây thơ và không có sự chuẩn bị cho cuộc chiến. Tháng 11/1962, N. G. Ranga -
thủ lĩnh của đảng Swatantra - yêu cầu nghị viện bãi miễn Chính phủ J. Nehru vì
“không đảm bảo phòng thủ cần thiết chống lại sự tấn công của quân Trung Quốc ở
biên giới” [82, tr.159]. Mặt khác, phe đối lập còn tuyên bố rằng, Chính phủ của J.
Nehru phải thay bằng một chính phủ đa đảng, trong đó đảng Swatantra cùng với
những liên minh giữ vai trò lãnh đạo. Bên cạnh đó, Bộ trưởng Quốc phòng K.
Menon cũng phải chịu trách nhiệm cho sự thiếu sẵn sàng của quân đội Ấn Độ, làm
cho tinh thần quốc gia bị mờ đi… và buộc ông phải từ chức Bộ trưởng.
Trên phương diện quốc tế, sau cuộc chiến tranh biên giới, quan hệ giữa các
nước trong Phong trào không liên kết với Ấn Độ đã bị rạn nứt, từ đó vai trò và uy
tín của Ấn Độ trong các vấn đề quốc tế cũng như trong Phong trào không liên kết
ngày càng mờ nhạt. Khi cuộc chiến nổ ra, trong lúc phương Tây tỏ thái độ kiên định
ủng hộ cho Ấn Độ thì các nước không liên kết giành cho Ấn Độ những “ước
nguyện và lo lắng riêng”. Một phóng viên của Ấn Độ ở Trung Đông khẳng định
rằng: “Không một biểu hiện của sự cảm thông nào đối với Ấn Độ đến từ bất kỳ
chính Ảrập, hay của bất kỳ cá nhân nào một tuần sau cuộc tấn công” [111, tr.55].
Ngày 10/12/1962, gần một tháng sau khi Trung Quốc đơn phương tuyên bố ngừng
bắn, sáu quốc gia trong Phong trào không liên kết (gồm Ai Cập, Myanmar,
Campuchia, Sri Lanka, Ghana và Indonesia) đã gặp nhau tại Hội nghị Colombo đưa
ra những đề xuất cho cuộc thương lượng giữa Chu Ân Lai và J. Nehru về đường
biên giới ngày 7/11/1959. Tuy nhiên, trên thực tế, hội nghị đã không hoàn thành sứ
128
mệnh trong việc giải quyết vấn đề của Ấn Độ và Trung Quốc sau cuộc chiến. Thất
bại của sáu quốc gia trong việc không dứt khoát lên án Trung Quốc gây thất vọng
sâu sắc đối với Ấn Độ. Phát biểu trước Quốc hội, Thủ tướng J. Nehru bày tỏ thái độ
bất bình “cái gọi là quốc gia không liên kết” (cách nói bất ngờ từ J. Nehru): “Các
nước không liên kết đã gây tổn hại đến lợi ích của Ấn Độ khi so sánh với vị trí của
Moscow, bây giờ rõ ràng là đứng về phía Trung Quốc” [111, tr.55].
Như vậy, về cơ bản, cả trên bình diện quốc tế lẫn trong nước, sau cuộc chiến
năm 1962, uy tín của Chính phủ Ấn Độ đã suy giảm nghiêm trọng. Điều đó không
chỉ để lại những hậu quả trước mắt mà mầm móng xung đột vẫn còn kéo dài cho
đến ngày nay giữa hai quốc gia.
4.1.2.3. Vấn đề Kashmir vẫn chưa giải quyết dứt khoát
Pakistan vốn là một nước tách ra từ Ấn Độ năm 1947. Giữa Ấn Độ và
Pakistan ngay từ đầu đã tồn tại nhiều vấn đề nan giải như: nguồn nước sông Ấn,
tranh chấp tài chính, biên giới, cộng đồng tôn giáo Ấn - Hồi, đặc biệt là vấn đề
Kashmir. Vấn đề Kashmir là một trong những điểm nóng sau Chiến tranh thế giới
thứ hai. Những mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo đan xen nhau làm cho tranh chấp giữa
Ấn Độ và Pakistan ở Kashmir ngày càng khó giải quyết. Vấn đề này lại càng phức
tạp hơn bởi ý đồ của các nước lớn trong thời kỳ Chiến tranh lạnh.
Kashmir nằm ở phía Bắc Ấn Độ, có vị trí địa chiến lược rất quan trọng tiếp
giáp với Trung Quốc và Afghanistan, phía Bắc chỉ cách biên giới Liên Xô 14,5 km.
Từ đây có thể bao vây Liên Xô, kiềm chế Trung Quốc thời Chiến tranh lạnh và cả
hiện nay. Đây là một tiểu quốc do tiểu vương người Ấn Độ đứng đầu, với 77% dân
số theo đạo Hồi, số còn lại là người Hindu và người Sikhs [12, tr.39]. Theo Kế
hoạch Mountbatten, tiểu vương của các tiểu quốc có quyền lựa chọn sáp nhập vào
Ấn Độ hoặc Pakistan. Trước tình thế Kashmir chắc chắn sẽ gia nhập vào Ấn Độ,
ngày 22/10/1947, Pakistan hậu thuẫn cho 4,5 nghìn quân từ các bộ lạc người Pustuc
tấn công vào Kashmir; áp sát thủ phủ Srinagar. Tiểu vương Kashmir quyết định
chạy về Delhi, ký với Ấn Độ hiệp định sáp nhập xứ Kashmir vào Ấn Độ và yêu cầu
Chính phủ Ấn Độ gửi quân đội đến tiếp viện. Ngày 27/10/1947, quân đội Ấn Độ
tiến vào Kashmir, đẩy lùi quân Pakistan ra khỏi thủ phủ Srinagar. Từ đó, mâu thuẫn
129
Ấn Độ - Pakistan phát triển đến đỉnh cao, bắt đầu những xung đột phức tạp và căng
thẳng về vấn đề Kashmir kéo dài cho đến năm 1948.
Vấn đề Kashmir về cơ bản vẫn chưa thể giải quyết dứt khoát trong giai đoạn này bởi lập trường khác nhau của hai bên cũng như sự can thiệp mạnh mẽ của các thế lực cực đoan bên ngoài, đi đầu là Mỹ và Trung Quốc.
Thứ nhất, lập trường của Ấn Độ về vấn đề Kashmir hoàn toàn khác với Pakistan. Ấn Độ coi toàn bộ Kashmir kể cả phần Pakistan đang kiểm soát là một bộ phận lãnh thổ không thể tách rời của Ấn Độ. Vì vậy, chủ trương của Chính phủ J. Nehru là giải quyết thông qua đàm phán và thương lượng hòa bình, không có sự can thiệp từ bên ngoài, kể cả Liên hợp quốc. Với lập trường đó, từ năm 1949, Ấn Độ luôn tìm cách hợp thức Kashmir thành một bang của Ấn Độ như: tháng 8/1951, tổ chức bầu cử Hội đồng lập hiến ở phần Kashmir thuộc Ấn; ngày 15/2/1954, Hiến pháp Ấn Độ tiếp tục khẳng định sự gia nhập của Jammu và Kashmir vào Ấn Độ. Tháng 5/1955, khi hội đàm với Thủ tướng Pakistan Mohamad Ali, J. Nehru đã đưa ra đề nghị giải quyết vấn đề Kashmir trên cơ sở công nhận đường ngừng bắn ngày 1/1/1949 với tư cách là biên giới quốc gia Ấn Độ - Pakistan… Về điều này, Ấn Độ nhận được sự đồng thuận và quan tâm lớn từ Liên Xô trong bối cảnh Mỹ và các lực lượng thân Mỹ tìm cách làm phức tạp thêm vấn đề. Trong chuyến thăm Ấn Độ tháng 12/1955, N. Bulganin và N. Khrushchev đã đến thăm Kashmir và tuyên bố:
Lập trường của chúng tôi về vấn đề này là hết sức rõ ràng: Liên Xô luôn luôn chủ trương rằng việc quyết định quy chế chính trị ở Kashmir phải là việc của bản thân nhân dân Kashmir, vì việc đó phù hợp với những nguyên tắc dân chủ và với lợi ích củng cố mối quan hệ thân thiện giữa các dân tộc ở vùng này…Vấn đề Kashmir, một trong những xứ của nước Cộng hòa Ấn Độ, do nhân dân Kashmir tự giải quyết lấy. Đó là công việc của nhân dân [53, tr.80-81].
Trong khi đó, lập trường của Pakistan là tiến hành cuộc trưng cầu dân ý (bởi lẽ hơn 70% dân số ở Kashmir là theo Hồi giáo) và coi việc giải quyết vấn đề Kashmir là vấn đề ưu tiên hàng đầu. Mặt khác, Pakistan trong đường lối đối ngoại của mình, lại chọn ngả hẳn sang phương Tây (chủ yếu là Mỹ), cụ thể: tháng 9/1954, Pakistan là thành viên của khối SEATO, tháng 3/1955, Pakistan tham gia ký Hiệp
130
ước phòng thủ Baghdad với Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq và Anh. Điều này chứng tỏ, giới lãnh đạo Pakistan đặt niềm hy vọng vào sự trợ giúp của phương Tây trong việc nỗ lực xây dựng một quân đội đủ sức đương đầu với Ấn Độ trong vấn đề Kashmir.
Thứ hai, tình hình Kashmir ngày càng căng thẳng do Pakistan được Anh, Mỹ hậu thuẫn luôn tìm cách gây hấn ở biên giới Ấn Độ. Một mặt, Mỹ thông qua Liên hợp quốc với danh nghĩa “hòa giải” để xâm nhập vào Kashmir, luôn tìm mọi cách ngăn cản việc giải quyết để gây mâu thuẫn giữa Ấn Độ - Pakistan. Mỹ đã tỏ thái độ
ủng hộ Pakistan để tạo áp lực đối với Ấn Độ, lôi kéo Ấn Độ đi theo đường lối đối ngoại của Mỹ, chống phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á. Quan trọng hơn, Mỹ sử dụng vùng Kashmir làm căn cứ quân sự để chống Liên Xô, Trung Quốc (Chú giải 15). Tháng 10/1956, Hiến pháp bang Kashmir được thông qua, công nhận quyền tự trị hợp pháp của bang này trong Cộng hòa Liên bang Ấn Độ. Ngay lập tức, tháng 1/1957, Anh, Mỹ, Áo và Cuba (dưới chế độ độc tài Batista thân Mỹ) đưa ra dự thảo nghị quyết đề nghị phi quân sự hóa toàn Kashmir, đưa một lực lượng quân sự tạm thời vào Kashmir để gìn giữ hòa bình và thực hiện trưng cầu dân ý ở vùng đất này [12, tr.40-41].
Vấn đề Kashmir càng trở nên phức tạp và nghiêm trọng hơn khi từ năm 1958 đến 1962 có sự tham gia “góp mặt” của Trung Quốc. Ngày 7/11/1959, Trung Quốc chính thức mở một con đường cắt qua lãnh thổ Kashmir thuộc Ấn Độ. Ngày 4/5/1962, Pakistan và Trung Quốc bất ngờ ra Thông cáo Karachi (thủ đô của Pakistan trước năm 1960) tuyên bố hai nước đã đàm phán và phân định ranh giới chung ở Kashmir. Ấn Độ đã phản ứng dữ dội trước động thái này của hai nước. Trước tình hình đó, ngày 22/6/1962, Anh đề xuất một nghị quyết mới về Kashmir, trong đó nhấn mạnh sự cần thiết phải có một lực lượng trung gian tới Pakistan và Ấn Độ giải quyết xung đột. Cuộc chiến tranh Trung - Ấn tháng 10/1962 đẩy Kashmir tiếp tục phức tạp hơn vì Trung Quốc chiếm một bộ phận lớn lãnh thổ Kashmir và tham gia trực tiếp vào tranh chấp ở khu vực này.
Trước diễn biến trên, Ayub Khan - người đứng đầu chế độ quân sự ở Pakistan - lại xem sự thất thế của Ấn Độ trong cuộc xung đột biên giới với Trung Quốc là một cơ hội thuận lợi khi Trung Quốc và Pakistan, ngày 3/5/1963, đã ra Thông cáo quyết định hoạch định đường biên giới giữa Tân Cương của Trung
131
Quốc với Kashmir của Pakistan, tức Trung Quốc thừa nhận Kashmir là lãnh thổ của Pakistan. Sự xích lại gần nhau giữa Trung Quốc với Pakistan diễn ra đồng thời với tình trạng căng thẳng trong quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ sau vụ tháng 10/1962. Tình hình này buộc Ấn Độ phải tìm cách đàm phán với Pakistan về vấn
đề Kashmir [17, tr.256].
Trong các vòng đàm phán kéo dài từ tháng 12/1962 đến tháng 5/1963, Ấn Độ đề nghị phân chia Kashmir theo lệnh ngừng bắn được xác lập ngày 27/7/1949, còn Pakistan lại muốn thực hiện nghị quyết của Liên hợp quốc về việc tiến hành trưng cầu dân ý trên tiểu vương quốc Kashmir. Tuy nhiên, không mang lại kết quả gì mà ngược lại, mối quan hệ giữa hai quốc gia trở nên xấu hơn. Cũng trong năm 1963, ở Kashmir bùng phát cuộc khủng hoảng gay gắt do thánh đường Hồi giáo Hazrat Bal ở Srinagar bị cướp phá. Theo yêu cầu của Pakistan, vấn đề Kashmir
được mang ra thảo luận ở Hội đồng Bảo an tháng 4/1964 nhưng cũng không đưa ra được đề xuất gì. Tháng 10/1964, diễn ra cuộc gặp gỡ giữa tân Thủ tướng Ấn Độ Shastri và Thủ tướng Pakistan Ayub Khan. Hai bên tuyên bố sẵn sàng cải thiện quan hệ. Nhưng vào cuối năm 1964, khi Ấn Độ thực hiện một số thay đổi trong quy chế hiến pháp của Kashmir nhằm biến vùng đất này thành một bang bình thường của Ấn Độ, quan hệ giữa hai nước căng thẳng trở lại để rồi dẫn tới xung đột vũ trang vào tháng 4/1965.
Như vậy, trong suốt 17 năm (1947 - 1964), việc chấm dứt xung đột giữa Ấn Độ - Pakistan đã không thể thực hiện được. Điều này không chỉ gây nên những hậu quả nặng nề về kinh tế, chính trị, xã hội cho cả hai dân tộc mà còn dẫn đến ba cuộc chiến tranh và nhiều lần tranh chấp, vẫn chưa tìm được giải pháp thỏa đáng.
4.1.3. Đặc điểm của sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc Cộng hòa Ấn Độ
trong giai đoạn 1950 - 1964
Một là, sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ trong giai
đoạn 1950 - 1964 đặt nền tảng quan trọng cho quá trình phát triển quốc gia thời kỳ
tiếp theo.
Trên cơ sở đường lối xây dựng đất nước nói chung và phát triển kinh tế nói
riêng của Chính phủ Ấn Độ - đường lối độc lập tự chủ - mà Thủ tướng J. Nehru là
“kiến trúc sư” không chỉ phù hợp với tình hình Ấn Độ và xu thế của thời đại mà còn
132
tạo nền tảng cho sự phát triển cho thời kỳ sau. Thật vậy, quá trình phát triển kinh tế
Ấn Độ sau năm 1964 là sự kế tục những định hướng phát triển mà Chính phủ Ấn
Độ đề ra và thực hiện trong giai đoạn 1950 - 1964. Chính sách kinh tế hỗn hợp mà
nòng cốt là ưu tiên phát triển công nghiệp nhà nước tiếp tục trở thành nội dung chủ
đạo trong định hướng phát triển kinh tế Ấn Độ sau năm 1964. Vai trò của tư bản
nhà nước cùng với chương trình kế hoạch hóa đã được đưa vào hệ thống quản lý
kinh tế quốc dân.
Qua 3 kế hoạch đầu tiên, về cơ bản, nền tảng ban đầu của nền kinh tế Ấn Độ hiện đại đã hình thành. Trên cơ sở đó, Chính phủ Ấn Độ tiếp tục đưa ra và thực hiện các kế hoạch 5 năm theo hướng hạn chế đầu tư chiều rộng, chú trọng đầu tư chiều sâu. Trong lĩnh vực nông nghiệp, thành tựu nổi bật nhất phải kể đến là cuộc “Cách mạng xanh” và “Cách mạng trắng”. Từ giữa những năm 60, Ấn Độ bắt đầu thực hiện cuộc “Cách mạng xanh”. Chỉ trong một thời gian, cuộc cách mạng này mang lại kết quả to lớn. Sản lượng lương thực tăng từ 72,35 triệu tấn (năm 1966) lên 150 triệu tấn (năm 1985) và đạt tới 176 triệu tấn (năm 1990). Từ một nước thiếu lương thực triền miên, đến giữa những năm 80, Ấn Độ đã tự túc được lương thực và có kho dự trữ chiến lược. Trong khoảng 3 thập kỷ, từ những năm 50 đến những năm 70, Ấn Độ đạt mức tăng bình quân hàng năm là 3,5%, những năm 80 đạt bình quân là 5,5%. Mức tăng này mặc dù không cao như một số nước đang phát triển ở châu Á khác như nhóm nước NICs hay ASEAN nhưng đều và liên tục trong một thời gian dài 4 thập kỷ. Cuộc cách mạng này đưa Ấn Độ trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới (1995). “Cách mạng trắng” bắt đầu từ năm 1970 khi Ấn Độ tiến hành chương trình sản xuất sữa trên toàn quốc cũng tạo nên những bước đột phá lớn. Đàn gia súc năm 1989 lên tới 195 triệu con bò, 55 triệu con cừu. Có khoảng gần 1,6 triệu người sản xuất sữa ở nông thôn tham gia vào chương trình này, tạo nguồn việc làm và thu nhập quan trọng cho nông dân. Sản lượng sữa của Ấn Độ tăng lên nhanh chóng qua các giai đoạn, từ 20,8 triệu tấn (năm 1970) lên 55,5 triệu tấn (năm 1990) [60, tr.240]. Ấn Độ trở thành một trong những nước sản xuất sữa hàng đầu thế giới. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực công nghiệp, với nền tảng công nghiệp hóa đất nước trong giai đoạn 1950 - 1964, sau năm 1964, công nghiệp vẫn
133
trở thành ngành then chốt của nền kinh tế đất nước. Ấn Độ đã xây dựng được nhiều ngành công nghiệp mũi nhọn như: đóng tàu, chế tạo máy bay, ô tô, máy công cụ, hóa chất, hóa dầu, năng lượng nguyên tử, công nghệ phần mềm máy tính... Chiến
lược công nghiệp hóa đưa Ấn Độ trở thành nước đứng thứ 10 trong các nước có nền công nghiệp phát triển với tốc độ trung bình hàng năm là 5% [55, tr.161]. Về khoa học - kỹ thuật, Ấn Độ đứng thứ ba thế giới về đội ngũ các nhà khoa học có trình độ cao đào tạo trong nước (sau Mỹ, Nga). Quốc gia này đã thử hạt nhân thành công vào tháng 5/1974, phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên tháng 4/1975…
Nền tảng chính trị với một Hiến pháp được thể chế hóa và áp dụng rộng rãi trong đời sống chính trị xã hội (vẫn còn được sử dụng cho tới ngày nay), bộ máy chính quyền tập trung dân tộc dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ J. Nehru đã tạo nên sự ổn định tương đối trong một thời gian dài của quốc gia Ấn Độ. Điều đó làm cơ sở để sau năm 1964, giai đoạn cầm quyền của Thủ tướng L. Shastri (1964 - 1966), I. Gandhi (1966 - 1984), và sau này là Rajiv Gandhi (1984 - 1991) dù có nhiều biến
động khá phức tạp, về cơ bản, nền chính trị Ấn Độ tiếp tục ổn định, vẫn dưới quyền lãnh đạo của gia đình J. Nehru, với sự cầm quyền của Đảng Quốc đại.
Về đối ngoại, trên cơ sở chính sách đối ngoại “hòa bình, trung lập, không liên kết” thời kỳ 1950 - 1964, Ấn Độ thật sự trở thành quốc gia có ảnh hưởng chính trị sâu rộng ở châu Á và thế giới. Sau năm 1964, Ấn Độ tiếp tục củng cố, phát triển hơn nữa chính sách này. “Năm nguyên tắc chung sống hòa bình” và “Mười nguyên tắc Bandung” vẫn còn nguyên giá trị trong hệ thống quan hệ quốc tế sau này. Ấn Độ vẫn duy trì đường lối ngoại giao cân bằng giữa các nước lớn. Nét đặc sắc nhất trong quan hệ giữa Ấn Độ với các nước lớn thời kỳ này là việc Ấn Độ và Liên Xô đã ký Hiệp ước hòa bình, Hữu nghị và Hợp tác năm 1971. Điều đó đảm bảo vững chắc cho nền hòa bình và an ninh của Ấn Độ trước sự đe dọa từ Trung Quốc, Pakistan được sự hậu thuẫn của Mỹ. Nó đánh dấu thời điểm quan trọng trong chính
sách đối ngoại của Ấn Độ, tạo điều kiện cho nước này tăng cường vị trí tại tiểu lục địa. Bên cạnh đó, bằng đường lối ngoại giao năng động của mình, Ấn Độ tiếp tục là đầu tàu, đặc biệt trong vai trò Chủ tịch Phong trào không liên kết (1983 - 1986)…
Có thể nói, những thành tựu về kinh tế, chính trị và đối ngoại mà giai đoạn
1950 - 1964 để lại cho sự nghiệp phát triển quốc gia Ấn Độ sau “kỷ nguyên Nehru”
134
là rất to lớn và đặc biệt quan trọng. Hai nhiệm vụ vừa củng cố độc lập, vừa phát
triển đất nước là biện chứng và không thể tách rời đã tạo cho giai đoạn này có vị trí
quan trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử Ấn Độ. Ấn Độ đã xác lập được vị
thế nước lớn trong khu vực và thế giới.
Hai là, sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ (1950 -
1964) góp phần hoàn thiện hơn chính sách đối ngoại “hòa bình, trung lập, không
liên kết”, trở thành xu hướng phát triển độc đáo trong bối cảnh Chiến tranh lạnh.
Sau khi giành độc lập, Chính phủ Ấn Độ do Thủ tướng J. Nehru đứng đầu đã
theo đuổi đường lối đối ngoại đúng đắn để xây dựng nước Ấn Độ độc lập và phồn
thịnh. Mục tiêu hàng đầu trong các hoạt động đối ngoại là phấn đấu cho hòa bình và
ổn định của Ấn Độ và của các quốc gia, dân tộc. Bằng chính sách đối ngoại “hòa
bình, trung lập, không liên kết”, Ấn Độ đã thành công nhất định trong những nhiệm
vụ cao cả: vừa củng cố độc lập dân tộc, đưa Ấn Độ trở thành một nước hùng cường,
vừa ủng hộ phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giải phóng dân
tộc, góp phần bảo vệ hòa bình, an ninh khu vực và thế giới.
Với tầm vóc của một nước lớn ở Nam Á, Ấn Độ không thể không muốn
đóng vai trò lãnh đạo trong khu vực và không thể không kỳ vọng về một vai trò
cường quốc trên thế giới. Đây chính là cơ sở của chính sách đối ngoại của Ấn Độ
trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Chính sách không liên kết cũng thường được giải
thích là biện pháp loại trừ ảnh hưởng của các siêu cường và khẳng định vai trò lãnh
đạo của Ấn Độ tại tiểu lục địa này. Chính sách đó trở thành cốt lõi cho các hoạt
động đối ngoại của Ấn Độ kể từ khi giành độc lập cho đến nay. Trong giai đoạn
1950 - 1964, Ấn Độ đã áp dụng khá nhuần nhuyễn chiến thuật liên minh và cân
bằng lực lượng, khi thì đẩy mạnh quan hệ với Liên Xô, lúc thì cải thiện quan hệ với
phương Tây. J. Nehru đã coi đây là chính sách tốt nhất để Ấn Độ vừa duy trì được
lập trường độc lập của mình trong các vấn đề quốc tế phù hợp với lợi ích dân tộc,
vừa lợi dụng được địa vị to lớn của mình trong thế giới có hai phe đối địch để phát
huy vai trò trung gian hòa giải Xô - Mỹ và hai phe, đóng góp vào việc củng cố hòa
bình ở khu vực và trên thế giới. Mặt khác, một chính sách trung lập như vậy cũng
tạo điều kiện để tranh thủ sự giúp đỡ và hợp tác của cả hai phe, phục vụ cho việc
135
khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và từng bước phát triển nền kinh tế. Ví như,
trong quan hệ với Liên Xô, Ấn Độ đã tranh thủ sự giúp đỡ của cường quốc đi đầu
phe xã hội chủ nghĩa bằng những chuyến viếng thăm giữa hai bên. Tháng 6/1955,
nhận lời mời của Chính phủ Liên Xô, Thủ tướng J. Nehru đã sang thăm. Kết quả
của chuyến thăm là giữa Liên Xô và Ấn Độ đã đặt những quan hệ chặt chẽ và tiếp
tục được phát triển trên Năm nguyên tắc chung sống hòa bình. Việc đoàn đại biểu
Chính phủ Liên Xô do Khrushchev dẫn đầu sang thăm Ấn Độ tháng 12/1955 có
một ý nghĩa to lớn đối với việc củng cố các quan hệ giữa hai nước. Các vị đại biểu
của Liên Xô được đa số nhân dân Ấn Độ hoan nghênh rất nhiệt liệt. Cuộc đi thăm
đó đã đưa đến việc ký hiệp định thương mại 5 năm 1953 - 1958 giữa Liên Xô và Ấn
Độ. Theo hiệp định này, Liên Xô tuyên bố cung cấp cho Ấn Độ 1 triệu tấn sắt trong
thời hạn 3 năm từ năm 1956, đồng thời thỏa thuận sẽ bán cho Ấn Độ những máy
móc thiết bị khai thác dầu, công nghiệp mỏ và các máy móc thiết bị khác với những
điều kiện ưu đãi. Đây là cơ sở quan trọng để hai nước tiếp tục ký kết các hiệp định
thương mại 5 năm lần thứ hai (1959 - 1963) vào tháng 11/1958, 5 năm lần thứ ba
(1963 - 1968) vào tháng 6/1963, thúc đẩy kim ngạch thương mại hai nước ngày
càng tăng…
Trong quá trình thực hiện chính sách đối ngoại của mình, Ấn Độ rất trung
thành với những nguyên tắc đã vạch ra, thể hiện một thái độ trung lập tích cực. Năm
1954, Ấn Độ đã tích cực tham gia vào việc vận động chấm dứt chiến tranh, lập lại
hòa bình ở Đông Dương. Ấn Độ cùng với Trung Quốc đã đề xướng “Năm nguyên
tắc chung sống hòa bình” nổi tiếng. Với sự đóng góp của mình, Ấn Độ còn có uy tín
trong việc xây dựng khối đoàn kết các nước Á - Phi chống chủ nghĩa đế quốc, chủ
nghĩa thực dân. Tháng 9/1954, Mỹ và đồng minh đã thành lập tổ chức “Hiệp ước
phòng thủ Đông Nam Á” (SEATO). Ấn Độ đã phản đối việc lập các tổ chức quân
sự loại này. Thủ tướng J. Nehru tuyên bố rằng: “Khu vực hòa bình phải không
ngừng được mở rộng, phải bao gồm càng nhiều nước càng tốt và cuối cùng để đạt
được mục đích tiêu diệt các tập đoàn quân sự” [38, tr.138].
Chính sách không liên kết trên cơ sở chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân, bảo
vệ hòa bình, độc lập và phát triển kinh tế của Ấn Độ đã thu hút được sự ủng hộ
136
đông đảo của các nước thuộc thế giới thứ ba, các nước đang đấu tranh cho độc lập
dân tộc. Ấn Độ quan niệm rõ rằng:
Không liên kết không có nghĩa là giữ thái độ “trung lập” trong các
quan hệ quốc tế, không có nghĩa là ngồi im trước các sự kiện, mà cần
tỏ thái độ dứt khoát như đối với vấn đề chạy đua vũ trang, chống lại
các cuộc chiến tranh xâm lược. Không liên kết là phải ủng hộ và hợp
tác chặt chẽ giữa các nước để bảo vệ hòa bình, giữ vững an ninh, tăng
cường giúp đỡ nhau xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập và tự
chủ của mỗi nước [38, tr.139].
Trong bối cảnh quốc tế có sự phân hóa thành hai cực đối lập giai đoạn sau
Chiến tranh thế giới thứ hai, chính J. Nehru là người đi tiên phong trong Phong trào
không liên kết. J. Nehru hiểu rằng các nước nghèo, mới giành lại độc lập ở châu Á
và châu Phi sẽ chẳng đạt được lợi ích gì và mất rất nhiều thứ nếu tham gia và các
khối quân sự trên. Họ có thể bị lợi dụng như là những con tốt thí trong một cuộc
chiến chẳng liên quan gì tới họ. Cuộc chiến mà họ cần tham gia chính là đấu tranh
chống lại nghèo đói, mù chữ và bệnh tật hơn là tham gia vào các khối quân sự đó
[81, tr.149]. Ấn Độ và các nước vừa giành được độc lập muốn hướng đến sự hòa
bình và phát triển kinh tế. Do đó, Ấn Độ đã không cổ xúy và tham gia vào các Hiệp
ước Baghdad, Manila, SEATO, CENTO.
Ấn Độ đã tiến rất xa trong quá trình trung lập hóa, không can dự vào bất kỳ
khối quân sự nào. J. Nehru nhận thức được việc không liên kết tức là tự do đưa ra
chính kiến, tự do quyết định cái đúng, cái sai, tự do ủng hộ điều mình cho là lẽ phải.
Chúng ta dứt khoát phản đối chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa thực dân, chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc cũng như bom hạt nhân, các cuộc xâm lược,
đàn áp. Chúng ta thực hiện việc không liên kết đối với các hiệp ước quân
sự, đồng thời kịch liệt phản đối việc ép buộc các quốc gia mới giành độc
lập ở châu Á và châu Phi tham gia vào cỗ máy Chiến tranh lạnh. Mặt
khác, chúng ta được tự do lên án bất kỳ động thái nào phá hoại hòa bình
và hạnh phúc của nhân loại [81, tr.150].
137
Phong trào không liên kết đã trở thành biểu tượng cho sự trỗi dậy của Ấn
Độ và các quốc gia mới giành lại độc lập khác trong việc nâng cao giá trị của sự
độc lập, thoát khỏi chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc. Là một trong những
lãnh tụ đề xướng phong trào, J. Nehru đã góp phần khẳng định ra những tiêu
chuẩn cơ bản của một nước không liên kết: thực hiện chính sách độc lập trên
những nguyên tắc chung sống hòa bình và không liên kết, luôn ủng hộ phong trào
độc lập dân tộc, không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào.
Trong thực tế, Ấn Độ luôn chủ trương giải quyết các tranh chấp và xung
đột quốc tế thông qua phương pháp hòa bình: thương lượng, đàm phán. Hơn
nữa các nhà lãnh đạo Ấn Độ thường tuyên bố rằng hòa bình và độc lập luôn
luôn phải gắn bó chặt chẽ với nhau. J. Nehru nhấn mạnh: “Nói chung, chính
sách đối ngoại hòa bình có thể giải quyết được những vấn đề của khu vực và
của toàn cầu, đảm bảo cho việc củng cố an ninh bằng sự hợp tác và tạo ra một
nền hòa bình bền vững” [24, tr.62]. Với quan điểm đúng đắn đó, Ấn Độ luôn
ủng hộ các phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc, chống chủ nghĩa thực
dân, chống chạy đua vũ trang, đòi giải trừ quân bị, cấm thử vũ khí hạt nhân…
Đó là quan điểm nhất quán trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ từ sau ngày
độc lập. Ấn Độ đóng vai trò quan trọng vào việc làm dịu tình hình căng thẳng
trong một số vấn đề quốc tế và khu vực bằng giải pháp thương lượng, hòa bình
như các sự kiện: chiến tranh Đông Dương, chiến tranh Triều Tiên, sự kiện Ai
Cập quốc hữu hóa kênh đào Suez, Liên Xô đưa quân vào Hungari, cuộc nội
chiến ở Congo…
Có thể nói rằng, đây là một sự đóng góp tích cực và hiệu quả của Ấn Độ
vào sự nghiệp bảo vệ và củng cố nền hòa bình thế giới, đặc biệt trong tình hình
thế giới có nhiều biến động, phức tạp như thời kỳ Chiến tranh lạnh. Do vậy, vị
thế của Ấn Độ ngày càng nâng cao trong cộng đồng quốc tế. Mặt khác, chính
sách đối ngoại hòa bình này không chỉ là tài sản riêng vô giá của nhân dân Ấn
Độ mà của cả nhân loại. Nó cần được kế thừa và phát huy trong chính sách đối
ngoại của mỗi dân tộc trong thời kỳ mới.
138
Ba là, sự nghiệp củng cố độc lập của Cộng hòa Ấn Độ trong giai đoạn 1950
- 1964 thể hiện xuất sắc vai trò “kiến trúc sư” - Thủ tướng J. Nehru.
Là người khai sinh ra nước Cộng hòa Ấn Độ độc lập, Thủ tướng J. Nehru
đồng thời cũng đề ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Trên cương
vị là nhà lãnh đạo, bằng sự nhạy cảm về chính trị và tầm nhìn chiến lược, J. Nehru
đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ củng cố khối đoàn kết dân tộc, phát triển kinh tế,
ổn định chính trị - xã hội, nâng cao vị thế Ấn Độ trên trường quốc tế. Đối với J.
Nehru, độc lập quốc gia không chỉ độc lập về chính trị mà J. Nehru cam kết thực
hiện những thay đổi và phát triển mạnh mẽ, xây dựng một xã hội công bằng, bình
đẳng, dân chủ dựa trên nền tảng một thể chế chính trị tự do dân chủ và sự hợp nhất
của quốc gia. J. Nehru đã nỗ lực suốt cuộc đời mình để thực hiện những điều đó.
“Đường lối J. Nehru” đã đặt nền tảng cho những chặng đường phát triển của Ấn
Độ, đưa Ấn Độ từ một nước nghèo thành một quốc gia sản xuất đủ và thừa lương
thực, kết hợp khéo léo giữa nền thủ công cổ truyền với nền công nghiệp hiện đại,
phát huy nền văn hóa dân tộc đến đỉnh cao và nền khoa học đến trình độ tiên tiến.
Bản thân những thành tựu của Ấn Độ trong sự nghiệp xây dựng đất nước có sức cổ
vũ lớn lao đối với nhân dân thế giới cùng cảnh ngộ, hứa hẹn những khả năng vươn
lên của các quốc gia lạc hậu để đạt tới những thành tựu hiện đại. Có thể nhận thấy,
vai trò của J. Nehru đối với nền Cộng hòa Ấn Độ giai đoạn 1950 - 1964 thể hiện
trên những phương diện sau:
Thứ nhất, củng cố nền độc lập của Ấn Độ
Duy trì, tăng cường và củng cố nền độc lập Ấn Độ là một trong những nhiệm
vụ khó khăn thử thách nhất đối với J. Nehru. Trong một thế giới bị phân chia bởi
những quốc gia có tầm ảnh hưởng đến phần còn lại của thế giới là Liên Xô và Mỹ,
J. Nehru đã đứng vững, không để Ấn Độ trở thành con tốt trong nước cờ của hai
cường quốc đó. Các chính sách đối nội của Ấn Độ phát triển vượt qua tầm ảnh
hưởng từ các nước siêu cường. Ấn Độ hoàn toàn có thể tự kiểm soát được các chính
sách đối nội cũng như đối ngoại của mình. J. Nehru cũng thành công trong việc giữ
cho cấu trúc kinh tế và chính trị của Ấn Độ khỏi ảnh hưởng từ sự phức tạp của Trật
tự thế giới hai cực.
139
Quan trọng hơn, với quan niệm độc lập phụ thuộc vào sức mạnh kinh tế của
một quốc gia, J. Nehru đã thiết lập, xây dựng được một nền kinh tế độc lập, tự lực
tự cường, nhằm thoát khỏi tình trạng kém phát triển, đảm bảo duy trì sự tăng trưởng
cả trong nông nghiệp và công nghiệp. J. Nehru đặc biệt nhấn mạnh vào sự tự lực để
chống lại phụ thuộc vào các quốc gia khác. Quá trình công nghiệp hóa nhanh
chóng, đặc biệt là tăng trưởng của ngành công nghiệp nặng, hoạch định, phát triển
các lĩnh vực công, năng lượng nguyên tử, khoa học công nghệ, đào tạo cán bộ kỹ
thuật và khoa học được J. Nehru xem là nòng cốt trong nỗ lực phát triển nền kinh tế
độc lập và tự lực.
J. Nehru, tác giả của đường lối cơ bản xây dựng đất nước, người trực tiếp
lãnh đạo và thực hiện 3 kế hoạch 5 năm (1951 - 1966) đã xây dựng nền móng vững
chắc cho các thế hệ nối tiếp đưa Ấn Độ đi lên thành một quốc gia giàu mạnh. Nhờ
đó, Ấn Độ lần lượt đạt được nhiều kỳ tích trong cuộc cách mạng về sản xuất: cách
mạng xanh (nông nghiệp), cách mạng ánh sáng (điện cơ khí), cách mạng trắng
(sữa), cách mạng dầu khí và cách mạng khoa học - kỹ thuật. Sản lượng lương thực
từ 52 triệu tấn (1951) tăng lên 154 triệu tấn (1958) gấp 3 lần, trong đó dự trữ thường
xuyên là 25 triệu tấn [57, tr.457]. Đối với các quốc gia đang phát triển, những thành
tựu trên quả là một kỳ công. Thành tựu lớn nhất mà J. Nehru đạt được trong việc
hoạnh định chiến lược là tạo ra được cảm giác tự tin, tự chủ của người dân. Chính
điều này đã có sức mạnh củng cố độc lập quốc gia, dân tộc. Vì vậy, trong lòng nhân
dân Ấn Độ, J. Nehru là hiện thân của nghị lực phi thường và tài ba sáng tạo, của
niềm hy vọng ấm no và hạnh phúc.
Thứ hai, thúc đẩy đoàn kết, thống nhất đất nước
J. Nehru đã thành công trong việc duy trì và tăng cường sự đoàn kết dân tộc
trong suốt thời kỳ đấu tranh giành độc lập và chuyển giao quyền lực năm 1947 cũng
như hơn một thập kỷ của nền Cộng hòa. Ông cũng thành công trong việc kiểm soát
các lực lượng chống phá, củng cố sự độc lập cho quốc gia, và thúc đẩy tâm lý hội
nhập của người dân Ấn Độ.
J. Nehru nhận thức rằng, Ấn Độ chưa phải là một quốc gia được “kiến trúc”
trọn vẹn, mà là đang trong quá trình xây dựng. J. Nehru vẫn giữ quan điểm cho
140
phép tồn tại tính đa dạng của Ấn Độ trong sự thống nhất quốc gia. Bởi lẽ sự độc lập
và thống nhất của Cộng hòa Ấn Độ có mối quan hệ khăng khít với nhau. Năm
1953, J. Nehru khẳng định rằng chúng ta sống trong một thời đại đầy biến động và
phức tạp, nơi mà chỉ có sức mạnh của đoàn kết mới mong giữ được sự độc lập tự do
của mình. Biểu hiện cụ thể là chính sách của J. Nehru về các bộ lạc trong khu vực
Đông Bắc Ấn Độ. Nhìn chung, bất chấp có nhiều thế lực chống đối phá hoại, J.
Nehru vẫn kiểm soát tốt và tạo nên sự ổn định trong chính trị, đóng góp cho quá
trình thống nhất và xây dựng nhà nước Cộng hòa Ấn Độ.
Thứ ba, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế
J. Nehru quan niệm phát triển kinh tế nhanh chóng là nền tảng cho củng cố
nền độc lập của Ấn Độ và là cơ sở để thực thi các chính sách xã hội, xóa bỏ đói
nghèo. Điều này được J. Nehru khẳng định một lần nữa trong giai đoạn kế hoạch 5
năm lần thứ 3 cũng như trước Đại hội của Đảng Quốc đại tại Avadi rằng: “Một tỷ lệ
tăng trưởng kinh tế cao được duy trì trong thời gian dài là điều kiện cần thiết để đạt
được mức sống gia tăng cho tất cả người dân, và đặc biệt là cho những người trong
nhóm có thu nhập thấp hoặc thiếu cơ hội việc làm” [89, tr.9].
Chúng ta không thể có một nhà nước phúc lợi với định hướng chủ
nghĩa xã hội trừ khi thu nhập quốc gia được tăng mạnh. Nếu bạn
muốn thì chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản có thể giúp cho
chúng ta phân chia những của cải hiện có, nhưng ở Ấn Độ hiện thời
không tồn tại của cải giàu có nào. Mà chỉ có sự nghèo đói để phân
chia… Làm thế nào chúng ta có được một nhà nước có phúc lợi mà lại
không giàu có? [91, tr.17-18].
Nói cách khác, theo quan điểm của J. Nehru, ở Ấn Độ lúc này, đẩy mạnh sản
xuất của cải vật chất là điều cấp thiết nhất.
Có 3 điểm quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của J. Nehru, đó là
tăng trưởng về công nghiệp và nông nghiệp nhanh chóng, phát triển các lĩnh vực
công để phát triển các ngành công nghiệp chiến lược, và phát triển một kinh tế hỗn
hợp. J. Nehru đã phổ biến khái niệm này một cách rộng rãi, biến nó thành một phần
trong nhận thức của người dân Ấn Độ. Ấn Độ phải sở hữu nền kinh tế hỗn hợp như
141
là một giai đoạn chuyển giao. Về lâu dài, nhà nước sẽ đóng vai trò lãnh đạo nền
kinh tế, sở hữu và kiểm soát tất cả các ngành công nghiệp cơ bản và các lĩnh vực
chiến lược của nền kinh tế. Đồng thời, J. Nehru hướng đến các lĩnh vực công phải
dần tạo ra được các nguồn lực bổ sung. Theo Nghị quyết chính sách công nghiệp
năm 1956, các lĩnh vực công phải được xác định là để tăng thêm nguồn thu cho nhà
nước và cung cấp các tài nguyên cho những lĩnh vực mới khác phát triển.
Như vậy, J. Nehru muốn xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, thoát khỏi
sự phụ thuộc vào sức mạnh kinh tế và chính trị từ nước ngoài. J. Nehru đẩy mạnh
quá trình công nghiệp hóa, xây dựng nền nông nghiệp tự cung tự cấp, hoạch định,
các lĩnh vực công, ngành công nghiệp nặng và công nghiệp sản xuất hàng hóa. Mặt
khác, hạn chế các dòng vốn từ bản từ nước ngoài cũng như đẩy mạnh nghiên cứu
phát triển khoa học, hiện đại hóa công nghệ, đào tạo cán bộ kỹ thuật có chất lượng,
nghiên cứu phát triển năng lượng nguyên tử… Trên thực tế, Ấn Độ đã thực hiện
một cuộc chuyển đổi từ nền kinh tế thuộc địa trở thành nền kinh tế độc lập, đặt nền
tảng cho bước phát triển vượt bậc về sau.
Thứ tư, trung thành với chính sách đối ngoại hòa bình, trung lập và không
liên kết
Nền tảng của đường lối đối ngoại J. Nehru là nguyên tắc hòa bình, hữu nghị
và không liên kết, là sự không nhân nhượng trong cuộc đấu tranh chống đế quốc,
chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Trên thực tế, J. Nehru (và sau
này những người kế thừa ông) đã đóng góp tích cực vào sự nghiệp bảo vệ hòa bình
thế giới và ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. J. Nehru và Chính phủ
Ấn Độ đã phải trải qua nhiều cuộc đấu tranh chống áp lực từ mọi phía để kiên trì
đường lối đúng đắn của mình. Từ New Delhi đã vang lên tiếng nói đồng tình của
chính phủ và nhân dân Ấn Độ đối với những cuộc kháng chiến của nhân dân
Indonesia chống thực dân Hà Lan, của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Pháp và
Mỹ. Đầu năm 1954, J. Nehru đã đưa ra lời kêu gọi ngừng bắn và dự thảo chương
trình 6 điểm về việc thiết lập hòa bình ở Đông Dương trên nguyên tắc đế quốc Pháp
phải trao trả độc lập và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhân dân Đông
Dương. Hoạt động của Ấn Độ trên cương vị Chủ tịch của Ủy ban Quốc tế ở Đông
142
Dương đã làm cho Ấn Độ có vai trò nhất định trong việc thi hành Hiệp định
Geneve, lập lại hòa bình ở các nước Đông Dương và góp phần giải quyết các vấn đề
phức tạp trên bán đảo này. Vượt qua mọi sức ép, Ấn Độ kiên quyết không tham gia
khối SEATO, công cụ xâm lược của Mỹ ở khu vực Đông Nam Á. Mặt khác, trên
cương vị là vai trò trung gian hòa giải, Ấn Độ đã đóng góp những sáng kiến trong
việc giải quyết những xung đột và tranh chấp giữa các quốc gia bằng giải pháp đàm
phán và thương lượng hòa bình ở chiến tranh Triều Tiên, sự kiện Ai Cập quốc hữu
hóa kênh đào Suez, Liên Xô đưa quân vào Hungari cũng như giữ cho đất nước
Congo thoát khỏi cảnh nội chiến… Sự thành công này được Liên hợp quốc cũng
như cộng đồng quốc tế ghi nhận như một đóng góp tích cực của Ấn Độ vào sự
nghiệp hòa bình và tiến bộ trên hành tinh. Bên cạnh đó, J. Nehru trở thành một
trong những nhà sáng lập của Phong trào không liên kết, một tổ chức quốc tế rộng
lớn đứng thứ hai sau Liên hợp quốc, có tiếng nói chính nghĩa của các nước đang
phát triển và có ảnh hưởng lớn lao đối với tình hình quốc tế. Rõ ràng, J. Nehru sử
dụng chính sách đối ngoại của mình như là một công cụ vừa để phòng thủ, làm tăng
thêm sức mạnh, vị thế của một quốc gia vừa mới giành được độc lập trên trường
quốc tế, vừa bảo vệ các lợi ích dân tộc, cũng như khơi dậy sự tự tin và niềm tự hào
của người dân Ấn Độ.
Bằng sức mạnh thực tiễn và đường lối đối ngoại đúng đắn, Ấn Độ ngày
càng có vị trí quan trọng trên trường quốc tế. Những tư tưởng của J. Nehru,
đường lối của Nehru vẫn tiếp tục thực hiện bởi tài năng của những nhà lãnh đạo
kế tục. Đặc biệt, quan điểm trước sau như một của Ấn Độ đối với cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia, thái độ
dứt khoát trong việc lên án chế độ diệt chủng Polpot và việc công nhận ngay từ
đầu chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia là những minh chứng sinh động
về sự trung thành đối với đường lối Nehru, về lòng thủy chung đối với sự nghiệp
giải phóng của các dân tộc. Chính sách đối ngoại của J. Nehru đã và đang phát
huy ảnh hưởng của các mối quan hệ quốc tế ở khu vực và thế giới. J. Nehru là
hiện thân của hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc. Các nguyên tắc chung sống
hòa bình mà ông là đồng tác giả có cội nguồn từ truyền thống yêu chuộng hòa
143
bình và phi bạo lực của Ấn Độ, cũng là xuất phát từ đặc điểm của quan hệ quốc
tế hiện nay.
Tóm lại, với vai trò là Thủ tướng đầu tiên của đất nước Ấn Độ, trong hơn
một thập kỷ của nền Cộng hòa, J. Nehru phải đối mặt với muôn vàn khó khăn. Tuy
vậy, bằng trí tuệ và tầm nhìn chiến lược, những di sản mà J. Nehru để lại cho lịch sử
Ấn Độ trước và sau khi giành độc lập đã đặt nền tảng vững chắc cho sự phát triển
của quốc gia này về sau. Đúng như nhà sử học Geoffrey Tyson khẳng định: “Nếu J.
Nehru là một người khác, Ấn Độ sẽ trở thành một đất nước khác”[137, tr.173].
4.2. KINH NGHIỆM TỪ SỰ NGHIỆP CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA
CỘNG HÒA ẤN ĐỘ ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
4.2.1. Giữ vững và ổn định chính trị - xã hội, từng bước thực hiện dân chủ
Một trong những yêu cầu thiết thực nhất của các nước đang phát triển nhằm
phát triển kinh tế là ổn định an ninh chính trị và môi trường xã hội. Tuy nhiên, để
làm được điều này, các nước đang phát triển cần phải cố gắng giải quyết các vấn đề
ngay chính trong bản thân mỗi nước. Thực tế cho thấy, nếu không giữ vững chủ
quyền an ninh và toàn vẹn lãnh thổ cũng như sự ổn định và tạo môi trường dân chủ
trong đời sống chính trị xã hội, thì không thể nói đến sự phát triển đất nước. Đây là
những vấn đề chung mà các nước đang phát triển đều phải đối mặt sau khi giành
độc lập về mặt chính trị.
Là một quốc gia từng là thuộc địa của thực dân Anh trong hơn 2 thế kỷ, Ấn
Độ phải gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề về kinh tế - xã hội cũng như sự
phức tạp trong tôn giáo, đẳng cấp, sắc tộc, văn hóa. Do vậy, những mầm móng ảnh
hưởng tới an ninh quốc gia như chia rẽ, ly khai, mâu thuẫn tôn giáo, sắc tộc… cũng
bắt đầu xuất hiện, nhất là trong thời kỳ cải cách lãnh thổ, hành chính. Nhận thức rõ
tầm quan trọng của việc ổn định tình hình an ninh xã hội, trong hơn một thập niên
của nền Cộng hòa, Chính phủ Ấn Độ luôn đề cao vấn đề ổn định chính trị xã hội và
sử dụng nhiều biện pháp để đạt được mục tiêu đó.
Trong giai đoạn 1950 - 1964, chính quyền của Thủ tướng J. Nehru chú trọng
ổn định chính trị xã hội thông qua các chính sách về hòa nhập bộ lạc vào dòng chủ
lưu chính theo hướng “thống nhất trong đa dạng”, về thống nhất ngôn ngữ quốc gia,
144
hoàn thiện hệ thống pháp lý (Hiến pháp), kiện toàn nền hành chính liên bang, kiềm
chế sự chống đối của các đảng đối lập… Về cơ bản, Ấn Độ tỏ ra là một thể chế ổn
định về chính trị hiếm thấy ở các nước đang phát triển. Chính phủ ổn định trong lúc
các cuộc bầu cử tự do được tổ chức đều đặn, duy trì thế cân bằng và tính độc lập
giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, tôn trọng các quyền tự do được ghi
trong Hiến pháp.
Mặt khác, để đảm bảo sự thống nhất, đoàn kết, ổn định trong một quốc gia
có xã hội đa dạng như Ấn Độ, việc xây dựng một thể chế dân chủ là điều tối quan
trọng. Thủ tướng J. Nehru từng phát biểu vào năm 1960: “Ở Ấn Độ lúc này, bất kỳ
sự đảo lộn nào của các phương pháp dân chủ cũng có thể dẫn tới bạo loạn và đổ vỡ”
[102, tr.48]. Chính quyền của Thủ tướng J. Nehru không lợi dụng quyền lực để phá
bỏ nền dân chủ, không sử dụng vị trí trong đảng cầm quyền là Đảng Quốc đại vào
những mục đích cá nhân, ngược lại sử dụng sức mạnh này để củng cố và phát triển
tiến trình dân chủ trong quốc gia. Tại một đất nước rộng lớn như Ấn Độ đã tạo ra
cấu trúc thể chế dân chủ theo hướng quyền lực bị phân tán. Một Hiến pháp với các
quyền tự do dân chủ cơ bản, một Quốc hội được lập ra dựa trên các cuộc bỏ phiếu
định kỳ cùng một nội các chính phủ và Bộ Tư pháp độc lập. Bên cạnh đó, chính phủ
luôn ý thức rõ rằng, để phát triển kinh tế quốc gia phải dựa trên một cấu trúc chính
trị tự do, dân chủ. Tính đến thời điểm đó, chưa có một quốc gia nào làm được điều
này. Trong khi đó hầu hết các quốc gia đều sử dụng các biện pháp hành chính, độc
tài trong quá trình phát triển kinh tế.
Những kinh nghiệm trong việc giải quyết vấn đề ổn định chính trị - xã hội,
từng bước thực hiện dân chủ của Ấn Độ sẽ là bài học kinh nghiệm cần thiết, có giá
trị thực tiễn đối với các nước đang phát triển.
4.2.2. Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế độc lập, tự chủ, có kế hoạch Nghiên cứu về chiến lược phát triển kinh tế độc lập, tự chủ, có kế hoạch của
Ấn Độ, chúng tôi nhận thấy rằng, chính phủ đã đề ra đường lối chiến lược phát
triển kinh tế phù hợp điều kiện đặc thù quốc gia gắn với các kế hoạch 5 năm bằng
mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn. Việc xây dựng chiến lược phát triển
đó phụ thuộc vào tầm vĩ mô và trong từng phương án cụ thể nhằm thoát khỏi sự phụ
145
thuộc vào sức mạnh kinh tế và chính trị từ bên ngoài, nhất là trong bối cảnh Chiến
tranh lạnh, khi Ấn Độ vừa giành độc lập.
Kinh nghiệm của Ấn Độ chỉ ra rằng, quốc gia này đã lựa chọn xây dựng một
mô hình “kinh tế hỗn hợp” với hai thành phần: kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân,
trong đó kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo. Thành phần kinh tế nhà nước nắm
những ngành công nghiệp then chốt có tầm quan trọng về kinh tế và an ninh quốc
phòng. Kinh tế tư nhân chỉ tham gia vào một số lĩnh vực nhất định và chịu sự kiểm
soát chặt chẽ của nhà nước thông qua các đạo luật nhằm ngăn chặn xu hướng tập
trung hóa dẫn tới tư bản độc quyền. Tất cả nằm trong một cơ chế quản lý tập trung,
kế hoạch hóa (còn gọi là nền kinh tế kế hoạch hóa mềm) - mô hình phát triển
Mahalanobis. Ấn Độ chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, trong đó ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng. J. Nehru cho rằng công nghiệp nặng là điều kiện cơ bản cho
công nghiệp hóa. Công nghiệp nhẹ được phát triển rộng khắp nhằm đáp ứng mọi
nhu cầu tiêu dùng trong nước. Với đường lối độc lập và tự lực cánh sinh, Ấn Độ đã
thực hiện chính sách đóng cửa và chính sách thay thế nhập khẩu (import
substitution). Nông nghiệp cũng được ưu tiên phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu về
lương thực và nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp được coi như một trong
hai chân của nền kinh tế. Từ sự lựa chọn trên, các kế hoạch ngắn hạn phát triển kinh
tế 5 năm ở Ấn Độ lần lượt ra đời và quốc gia này đã thật sự thành công.
Mô hình đó giúp Ấn Độ đứng vững trong hơn một thập kỷ của nền Cộng hòa
đầy khó khăn và thử thách. Ấn Độ đã xây dựng một nền kinh tế đồng bộ với mạng
lưới công nghiệp khá hoàn chỉnh, có khả năng đáp ứng được hầu hết các nhu cầu
trong nước. Từ một nước với nạn đói triền miên, Ấn Độ đã tự túc lương thực và có
dự trữ, bước đầu đem lại sự thay đổi lớn đối với dân cư trong các khu vực khác
nhau. Nội dung này vẫn tiếp tục được Chính phủ Ấn Độ chú trọng trong thời kỳ tiếp
theo. Biểu hiện rõ nhất là từ kế hoạch 5 năm đầu tiên, đến nay, Ấn Độ vẫn đang
thực hiện kế hoạch phát triển 5 năm lần thứ 12 (2012 - 2017).
Đây là kinh nghiệm thực tiễn cần thiết đối với các nước đang phát triển.
Thực tế cho thấy, ngay khi giành được độc lập, phần lớn các nước đang phát triển
nhanh chóng lại rơi vào sự phụ thuộc về kinh tế từ hệ thống tư bản chủ nghĩa. Có
146
nhiều nguyên nhân dẫn tới thực tế này. Trước hết, các quốc gia này phải gánh chịu
hậu quả nặng nề từ chính sách thực dân, nhiều nước chính phủ thiếu một chiến lược
phát triển kinh tế xã hội đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. Mặt
khác, các nước này luôn ở trong tình trạng bất ổn về chính trị xã hội, không có môi
trường ổn định cho phát triển kinh tế… Do vậy, kinh nghiệm của Ấn Độ về chiến
lược xây dựng nền kinh tế tự chủ, độc lập, có kế hoạch với những chính sách ưu
tiên cho từng lĩnh vực, trong từng giai đoạn vẫn có giá trị đối với các nước đang
phát triển trong mục tiêu định hình chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia, dân
tộc mình.
4.2.3. Thực hiện chính sách đối ngoại và giải quyết các vấn đề quốc tế
mềm dẻo, linh hoạt
Trong bối cảnh tác động của cuộc Chiến tranh lạnh, sự đối đầu giữa các nước
lớn có ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều quốc gia, khu vực. Cùng với những yêu cầu
phát triển ở Ấn Độ sau ngày độc lập, đứng trước tình hình thế giới phân chia thành
hai hệ thống kinh tế, chính trị đối lập nhau, với tư cách là một nước lớn ở Nam Á,
Ấn Độ không muốn rơi vào quỹ đạo của hai hệ thống này. Do đó, ngay từ đầu, Ấn
Độ chủ trương đứng giữa hai hệ thống với đường lối trung lập, không liên kết. Điều
này không có nghĩa Ấn Độ thực hiện chính sách cô lập mà ngược lại, uy tín và vai
trò của quốc gia này ngày càng cao trên trường quốc tế.
Kinh nghiệm cho thấy, trong mối quan hệ quốc tế phức tạp của Chiến tranh
lạnh, là nước đi đầu trong thế giới thứ ba, lựa chọn con đường trung lập, nhưng
không vì thế Ấn Độ từ bỏ mối quan hệ với hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản
chủ nghĩa. Ngược lại, khi thiết lập quan hệ với hai nước lớn, trong chính sách đối
ngoại, Ấn Độ thể hiện rõ tính linh hoạt, mềm dẻo. Bằng chứng là, sau khi độc lập,
Ấn Độ đã thiết lập quan hệ với Liên Xô và Mỹ. Tuy nhiên, trải qua những biến
động tình hình quốc tế, Ấn Độ dần nhận rõ lập trường và quan điểm của các bên, từ
đó chủ động nghiêng hơn về phía Liên Xô. Trên cơ sở tương đồng về đường lối đối
ngoại, cùng giương cao ngọn cờ chung sống hòa bình, đoàn kết quốc tế, chống chủ
nghĩa thực dân, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc và phong trào hòa bình thế
giới, Ấn Độ cùng với Liên Xô có cơ sở để nhìn nhận, giải quyết các vấn đề quốc tế
147
tương đối giống nhau trong giai đoạn nhạy cảm này. Đây cũng là điểm khác biệt
căn bản nhất giữa mối quan hệ Ấn Độ - Liên Xô và Ấn Độ - Mỹ. Trong khi đó, do
sự khác biệt về quan điểm và bản chất, Ấn Độ không tán thành các hành động chạy
đua vũ trang, phản đối thiết lập khối quân sự, thậm chí là bỏ phiếu chống lại những
nghị quyết tiêu cực trong Liên hợp quốc do Mỹ đề nghị. Đây là hành động khẳng
định sự trung thành với chính sách đối ngoại không liên kết của Ấn Độ trong bối
cảnh của Chiến tranh lạnh.
Bên cạnh đó, bước vào kỷ nguyên mới của nền Cộng hòa, mặc dù phải đối
mặt với nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội phức tạp do lịch sử để lại, song với vị
thế của một nước lớn, Ấn Độ không tách mình ra khỏi những biến động của Trật tự
thế giới hai cực mà đóng góp tích cực trong việc điều hòa mâu thuẫn, đảm bảo nền
hòa bình cho thế giới. Với vai trò trung gian hòa giải, sự hiện diện tại các hội nghị
quốc tế quan trọng cũng như thái độ, quan điểm và phương thức hành động của Ấn
Độ đối với một số vấn đề quốc tế (vấn đề Triều Tiên, vấn đề Đông Dương, quốc
hữu hóa kênh đào Suez, Liên Xô đưa quân vào Hungari, nội chiến tại Congo) trong
thời kỳ đối đầu Đông - Tây căng thẳng đã tác động tích cực vào các vấn đề quốc tế,
khẳng định uy tín trong các nước thuộc thế giới thứ ba, và trong Liên hợp quốc.
Như vậy, việc thực hiện chính sách đối ngoại và giải quyết các vấn đề quốc
tế phù hợp với yêu cầu trong nước và xu thế của thế giới vừa góp phần nâng cao uy
tín của Ấn Độ trên trường quốc tế, vừa tạo điều kiện cho Ấn Độ củng cố và bảo vệ
độc lập dân tộc. Đây là bài học kinh nghiệm quan trọng cho các nước đang phát
triển trong quá trình đấu tranh củng cố độc lập dân tộc.
Tiểu kết chương 4
Sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc Ấn Độ qua hơn một thập kỷ nền của
Cộng hòa (1950 - 1964) đã để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử nước này. Từ đặc thù
của quốc gia - dân tộc, trong bối cảnh Trật tự hai cực và thời kỳ Chiến tranh lạnh,
Chính phủ Ấn Độ về cơ bản đã tạo ra những biến đổi sâu sắc trên nhiều lĩnh vực
trong đời sống xã hội, đưa tới sự ổn định về chính trị xã hội. Những chính sách đó
148
đáp ứng được cả yêu cầu trước mắt và lâu dài, tạo cơ sở phát triển bền vững quốc
gia Ấn Độ về sau. Thành công bước đầu này góp phần tạo dựng nên uy tín của
chính phủ đối với người dân trong nước và nâng cao vị thế của Ấn Độ trên trường
quốc tế.
Bên cạnh đó, những tồn tại từ sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc trong giai
đoạn (1950 - 1964) như: vấn đề dân tộc và ngôn ngữ, vấn đề Kashmir hay hệ quả từ
cuộc chiến với Trung Quốc năm 1962 vốn là những vấn đề nhạy cảm, vừa mang
tính lịch sử, vừa chịu sự chi phối của Trật tự thế giới thời kỳ Chiến tranh lạnh. Điều
này không chỉ ảnh hưởng đến hình ảnh của Ấn Độ trong thế giới thứ ba mà để lại
những hậu quả nhất định trong các cuộc chiến tranh, xung đột biên giới với các
quốc gia láng giềng Trung Quốc, Pakistan. Mặt khác, trong sự nghiệp này nổi lên
những đặc điểm về tư duy trong chính sách đối ngoại “hòa bình, trung lập, không
liên kết” mà Ấn Độ khởi xướng, đảm bảo cho một nền độc lập vững chắc và trở
thành xu hướng phát triển độc đáo trong bối cảnh Chiến tranh lạnh, cũng như vai trò
kiến thiết của “kiến trúc sư” J. Nehru. Quan trọng hơn, từ chính nguyên liệu ban
đầu này đã tạo nền tảng quan trọng cho bước phát triển nhảy vọt của Ấn Độ trong
các giai đoạn tiếp theo.
Với những thành tựu và hạn chế trên, các nước đang phát triển có thể tìm
thấy ở Ấn Độ những kinh nghiệm cần thiết cho sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc
của quốc gia, dân tộc mình như xây dựng chiến lược phát triển kinh tế độc lập, tự
chủ, có kế hoạch, thực hiện chính sách đối ngoại và giải quyết các vấn đề quốc tế
mềm dẻo, linh hoạt. Quan trọng hơn, phải giữ vững ổn định chính trị - xã hội, từng
bước thực hiện dân chủ mới là tiền đề cần thiết của quá trình phát triển quốc gia.
149
KẾT LUẬN
Từ sự nghiệp đấu tranh củng cố nền độc lập, phát triển đất nước của Cộng
hòa Ấn Độ trong giai đoạn 1950 - 1964, luận án có thể rút ra một số kết luận sau:
Thứ nhất, là một đất nước rộng lớn khu vực Nam Á, với nhiều nét đặc thù riêng biệt về dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, đẳng cấp và giai cấp, có truyền thống văn minh lâu đời; nên ngay từ khi thoát khỏi ách thống trị của thực dân Anh, trải qua thời gian từ tự trị đến Cộng hòa, Ấn Độ đã lựa chọn cho mình một con đường đấu tranh riêng để củng cố và bảo vệ độc lập của dân tộc. Trước vòng xoáy của Chiến tranh lạnh, những người sáng lập ra nước Cộng hòa Ấn Độ đặt nhiệm vụ xây dựng đất nước thành một quốc gia độc lập, hùng mạnh và thịnh vượng trên cơ sở tự lực tự cường. Và cho dù đi theo xu hướng nào đi nữa, giai đoạn 1950 - 1964, Ấn Độ cũng đã thành công trong việc thành lập nhà nước Cộng hòa, đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc xây dựng đất nước. Những thành tựu to lớn về các mặt trong sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc hơn một thập kỷ đầu nền Cộng hòa chứng tỏ sự đúng đắn của đường lối xây dựng đất nước nói chung và phát triển kinh tế nói riêng của Chính phủ Ấn Độ mà J. Nehru là kiến trúc sư. Đó là đường lối độc lập tự chủ, là đường lối phù hợp với tình hình của Ấn Độ và xu thế của thời đại.
Thứ hai, sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ trong 1950 - 1964 chịu sự tác động bởi nhiều nhân tố khách quan quan trọng: bối cảnh quốc tế và khu vực với sự căng thẳng của Trật tự hai cực và Chiến tranh lạnh, sự tương tác qua lại trong quan hệ với các nước láng giềng… Tuy nhiên, nhìn toàn bộ tiến trình của sự nghiệp này, trên cơ sở những thành công và hạn chế trong thời gian đấu tranh từ tự trị đến Cộng hòa (1947 - 1950), Chính phủ của Thủ tướng J. Nehru đã thực hiện một sự điều chỉnh phù hợp trong các chính sách kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, ngoại giao, quốc phòng - an ninh nhằm đưa Ấn Độ phát triển mạnh mẽ ở một giai đoạn lịch sử mới. Trên thực tế, trong giai đoạn 1950 - 1964, Ấn Độ đã đạt được những thành tựu quan trọng. Về đối nội, là sự ổn định tương đối của tình hình chính trị - xã hội, tạo điều kiện tốt cho việc thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế, một chính sách song ngữ Hindi - Anh cũng như hội nhập các bộ lạc trong nền văn hóa dân tộc là cơ sở cho tính “thống nhất trong đa dạng”, một nền quốc phòng và an ninh vững mạnh làm cơ sở để củng cố nền độc lập dân tộc trước mối đe dọa
150
từ bên ngoài. Về đối ngoại, Ấn Độ đã tạo dựng hình ảnh, nâng cao vị thế và tầm ảnh hưởng của mình trong thế giới thứ ba, quan hệ với các siêu cường và trong việc xử lý các vấn đề quốc tế, khu vực phức tạp thời kỳ Chiến tranh lạnh phù hợp với xu thế của thời đại. Có thể khẳng định rằng, đây chính là giai đoạn định hướng, tìm tòi và
đặt nền tảng ban đầu cho sự phát triển vượt bậc của Cộng hòa Ấn Độ sau này.
Thứ ba, trong bối cảnh thế giới phân cực một cách rõ nét, việc lựa chọn con đường thứ ba - con đường không liên kết và kiên định con đường này để vừa đảm bảo lợi ích dân tộc, vừa phù hợp với bối cảnh quốc tế là sự lựa chọn rất thành công của Ấn Độ. Trong sự lựa chọn ấy, tuyệt nhiên Ấn Độ không “nghiêng” hẳn về cực nào (mặc dù trong việc xử lý các vấn đề quốc tế cũng như quan hệ với Liên Xô, ít nhiều chúng ta dễ dàng nhận thấy Ấn Độ đã hơi “nghiêng” về Liên Xô), mà khéo léo vận dụng “chính sách ngoại giao mềm”, tranh thủ nguồn lực từ hai cực này, nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Đây không chỉ là cống hiến lớn lao của Ấn Độ cho hệ tư tưởng mới thời kỳ Chiến tranh lạnh mà còn khẳng định nguyên tắc cơ bản
trong đường lối đối ngoại của các nước đang phát triển hiện nay.
Thứ tư, giai đoạn 1950 - 1964 gắn bó trọn vẹn với sự nghiệp lãnh đạo đất nước của Thủ tướng J. Nehru và Đảng Quốc đại. Đối với J. Nehru, độc lập quốc gia không chỉ là độc lập về chính trị mà chính nhà “kiến trúc sư” này còn cam kết thực hiện những thay đổi và phát triển một cách mạnh mẽ. Không chỉ khai sinh ra nước Cộng hòa Ấn Độ độc lập, J. Nehru đồng thời là người đề ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đường lối này dựa trên nguyên tắc rộng rãi: một nền kinh tế đa thành phần và dân chủ về chính trị, nhằm đạt mục tiêu cơ bản là phát triển kinh tế trên cơ sở nguồn dự trữ tài nguyên của bản thân thông qua công nghiệp hóa trên một phạm vi rộng lớn và bình đẳng, công bằng xã hội và dân chủ hóa quyền lực chính trị. Đường lối đó đã dẫn tới những thành công nhất định trên con đường bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc trong hơn một thập niên đầu của nền Cộng hòa.
Thứ năm, từ những thành công và hạn chế trong sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ giai đoạn 1950 - 1964 đã đặt ra những yêu cầu cụ thể và thiết thực cho đất nước này ở giai đoạn tiếp theo. Trên thực tế, những nhà lãnh đạo Ấn Độ đã có sự kế thừa và phát triển nền tảng được tạo dựng, phù hợp với đặc thù quốc gia và xu thế thời đại. Có thể thấy rằng, sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc vẫn là nhiệm vụ không ngừng của Ấn Độ.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Đức Toàn (2013), “Hiến pháp Ấn Độ 1950 - cơ sở pháp lý cho nền
Cộng hòa dân chủ”, Nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, số 2.
2. Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Đức Toàn (2013), “Đảng Quốc đại Ấn Độ với 3
cuộc tổng tuyển cử đầu tiên dưới chính thể Cộng hòa”, Nghiên cứu Lịch sử, số 12.
3. Nguyễn Đức Toàn (2014), “Quan hệ của Ấn Độ với các vương quốc Sikkim,
Bhutan và Nepal (1950 - 1962)”, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2.
4. Nguyễn Đức Toàn (2014), Vai trò của Ấn Độ trong việc giải quyết một số vấn
đề quốc tế và khu vực, giai đoạn 1950 - nửa đầu những năm 60 thế kỷ XX, Kỷ
yếu Hội thảo khoa học “Cán bộ trẻ các Trường Đại học sư phạm toàn quốc lần
thứ IV, năm 2014”, Trường Đại học Hải Phòng.
5. Nguyễn Đức Toàn (2014), “Đấu tranh thu hồi các vùng lãnh thổ thuộc Pháp và
Bồ Đào Nha của Ấn Độ (1949 - 1961)”, Nghiên cứu châu Âu, số 7.
6. Nguyễn Đức Toàn (chủ nhiệm) (2014), Sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc
của Cộng hòa Ấn Độ (1950 - 1964), Đề tài KH-CN cấp Trường Đại học
Quy Nhơn.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt 1. Ấn Độ - Trung Quốc và Đông Dương, Tài liệu biên soạn của C52, Bộ TTM,
Thư viện Quân đội sao lục.
2. Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (1963), Lịch sử hiện đại, tập II từ 1939 đến 1959, (Bản dịch tiếng Việt), Nxb Sự thật, Hà Nội. 3. Phan Văn Ban (chủ biên) (1993), Thông báo khoa học: đặc san kỷ niệm 43 năm
Quốc khánh nước Cộng hòa Ấn Độ, Trường Đại học Sư phạm Vinh. 4. Đỗ Thanh Bình (2006), Lịch sử phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX -
một cách tiếp cận, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
5. Đỗ Thanh Bình (chủ biên) (1999), Con đường cứu nước trong đấu tranh giải phóng dân tộc ở một số nước châu Á (Từ cuối thế kỷ XIX đến 1954), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 6. Các nước Nam Á (1977), Nxb Sự thật, Hà Nội. 7. Anjana Mothar Chandra (2010), 5000 năm lịch sử và văn hóa Ấn Độ, Nxb Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
8. Chân tướng việc Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô liên hiệp với Ấn Độ
chống Trung Quốc (1964), Nxb Ngoại văn, Bắc Kinh.
9. Chiến tranh biên giới Trung - Ấn (1963), Tài liệu biên soạn của C52, Bộ TTM,
Thư viện Quân đội sao lục.
10. Nguyễn Viết Chung (1956), Ấn Độ, một cường quốc thế giới, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
11. Lê Thế Cường (2004), Ấn Độ từ tự trị đến độc lập (1947 - 1950), Luận văn
thạc sĩ Lịch sử, Vinh.
12. Lê Thế Cường (2011), Quan hệ Ấn Độ - Liên Xô từ năm 1947 đến 1991, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Chuyên ngành Lịch sử thế giới cận đại và hiện đại, Mã số: 62.22.50.05, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
13. Lê Thế Cường (2011), “Đường lối không liên kết của Ấn Độ: Nhận thức từ Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và Hợp tác Ấn Độ - Liên Xô năm 1971”, Nghiên cứu Lịch sử, (1).
153
14. Lê Thế Cường (2010), “Ấn Độ với vấn đề quốc hữu hóa kênh đào Suez của Ai Cập và việc Liên Xô đưa quân vào Hungari năm 1956”, Nghiên cứu Đông Nam Á, (12).
15. J. B. Durossel (1994), Lịch sử ngoại giao từ 1919 đến nay, (Lưu Đoàn Huynh
dịch) Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội.
16. R.P.Dutt (1960), Ấn Độ hôm nay và ngày mai, Nxb Sự thật, Hà Nội. 17. Trần Văn Đào, Phan Doãn Nam (2001), Giáo trình Lịch sử quan hệ quốc tế
1945 - 1990, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội.
18. Đỗ Đức Định (1999), 50 năm kinh tế Ấn Độ, Nxb Thế giới, Hà Nội. 19. Đỗ Đức Định (2010), Giáo trình kinh tế Ấn Độ, Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
20. I. Gandhi (1987), Chân lý của tôi, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
21. Phạm Giảng (1962), Lịch sử quan hệ quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai
đến năm 1954, Nxb Sử học, Viện sử học, Hà Nội.
22. Nguyễn Cảnh Huệ (2002), “Ấn Độ - những thành tựu của công cuộc xây dựng
và phát triển đất nước từ 1947 đến nay”, Nghiên cứu Đông Nam Á, (4).
23. Nguyễn Cảnh Huệ (2001), “Vài nhận xét về quan hệ Việt Nam-Ấn Độ từ 1945
đến nay”, Nghiên cứu Đông Nam Á, (6).
24. Nguyễn Cảnh Huệ (1998), “Tìm hiểu tư tưởng hòa bình trong chính sách đối
ngoại của nước Cộng hòa Ấn Độ”, Nghiên cứu Lịch sử, (3).
25. Nguyễn Quốc Hùng (1996), Ấn Độ và Phong trào Không liên kết, Tìm hiểu
Ấn Độ, Chuyên san của Trung tâm phát triển văn hóa dân tộc, Hà Nội.
26. Đặng Ngọc Hùng (1993), Khái quát về nước Cộng hòa Ấn Độ, Tìm hiểu Ấn
Độ, Trung tâm phát triển văn hóa dân tộc, Hà Nội.
27. Đặng Ngọc Hùng (2004), “Hòa giải giữa Ấn Độ và Pakistan”, Nghiên cứu
quốc tế, (56).
28. Tào Thanh Hương (1999), Nhìn lại quá trình bình thường hóa quan hệ Ấn - Trung từ 1976 đến 1989, Luận văn thạc sĩ, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội.
29. Nguyễn Thu Hương (2001), “Về vị trí của Ấn Độ trên trường quốc tế (thời kỳ
1947 - 1997)”, Nghiên cứu Đông Nam Á, (6).
154
30. Nguyễn Thừa Hỷ (1986), Ấn Độ qua các thời đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 31. P. Kennedy (1992), Sự hưng thịnh và suy vong của các cường quốc, Nxb
Thông tin lý luận, Hà Nội.
32. Kashmir trong quan hệ Ấn Độ và Pakistan (1975), Tài liệu tham khảo Vụ
Nam Á - Ban Đối ngoại Trung ương.
33. Nguyễn Công Khanh (1990), Quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật Việt Nam - Ấn Độ từ 1976 đến 1988, Luận án Phó Tiến sĩ sử học, Tashkent.
34. Nguyễn Công Khanh (2001), Jawaharlal Nehru, tiểu sử và sự nghiệp, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
35. Nguyễn Công Khanh (1993), Những trang sử quan hệ Việt Nam - Ấn Độ giai đoạn 1945 - 1954, Thông báo khoa học các ngành KHXH, Đại học Sư phạm Vinh.
36. Nguyễn Công Khanh (1996), “Quan hệ Ấn Độ và khối Liên hiệp Anh”,
Nghiên cứu châu Âu, (5).
37. Đinh Trung Kiên (1993), Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ (1945 - 1975), Luận án Phó Tiến sĩ Sử học, Chuyên ngành Lịch sử Cận đại và Hiện đại, Mã số: 50304, Đại học Tổng hợp Hà Nội.
38. Đinh Trung Kiên (1995), Ấn Độ hôm qua và hôm nay, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
39. Lý Kiện (2002), Ngọn lửa Chiến tranh lạnh, Tập 1, Nxb Thanh Niên. 40. Lý Kiện (2002), Ngọn lửa Chiến tranh lạnh, Tập 2, Nxb Thanh Niên. 41. Lý Kiện (2002), Ngọn lửa Chiến tranh lạnh, Tập 3, Nxb Thanh Niên. 42. J. A. Koplep (1955), Ấn Độ ngày nay, Nxb Sự thật, Hà Nội. 43. Hà Thị Lịch (2005), Vấn đề Casơmia trong quan hệ Ấn Độ - Pakistan từ 1947 đến nay, Luận văn thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
44. Thái Văn Long (2006), Độc lập dân tộc của các nước đang phát triển trong xu
thế toàn cầu hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
45. Trần Thị Lý (Chủ biên), (2002), Sự điều chỉnh chính sách của Cộng hòa Ấn
Độ từ 1991 đến 2000, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
155
46. Trương Tiểu Minh (2002), Chiến tranh lạnh và di sản của nó, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
47. Trình Mưu, Vũ Quang Vinh (Đồng chủ biên), (2005), Quan hệ quốc tế những năm đầu thế kỷ XXI - vấn đề, sự kiện và quan điểm, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
48. J. Milbert (1981), Ấn Độ, quá trình chuyển biến về chính trị, xã hội và kinh tế,
Viện Đông Nam Á lượt dịch.
49. J. Nehru (1990), Phát hiện Ấn Độ, Tập I, Nxb Văn học, Hà Nội. 50. J. Nehru (1990), Phát hiện Ấn Độ, Tập II, Nxb Văn học, Hà Nội. 51. J. Nehru (1990), Phát hiện Ấn Độ, Tập III, Nxb Văn học, Hà Nội. 52. J. Nehru (2006), Hồi ký của Thủ tướng Nehru, Nxb Từ điển Bách khoa,
Hà Nội.
53. Những bài diễn văn của các lãnh tụ Liên Xô trong chuyến thăm lịch sử Ấn Độ,
(1956), Nxb Sự thật, Hà Nội.
54. Vũ Dương Ninh (1987), “Việt Nam - Ấn Độ trong cuộc đấu tranh vì độc lập
dân tộc và tiến bộ xã hội”, Nghiên cứu Lịch sử, (5 + 6).
55. Vũ Dương Ninh (Chủ biên), (1996), Lịch sử Ấn Độ, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 56. Vũ Dương Ninh (Chủ biên), (2000), Một số chuyên đề lịch sử thế giới, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
57. Vũ Dương Ninh (2006), Việt Nam - Thế giới và hội nhập, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
58. Nước Cộng hòa Ấn Độ (1983), Nxb Sự thật, Hà Nội. 59. Ngô Minh Oanh (2005), “Tư tưởng không liên kết ở Ấn Độ từ Jawaharlal
Nehru đến Indra Gandhi”, Nghiên cứu Lịch sử, (2).
60. Cao Xuân Phổ, Trần Thị Lý, Ngô Văn Doanh, Đỗ Đức Định, Lưu Đức Trung, Nguyễn Văn Căn (1997), Ấn Độ xưa và nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 61. P. H. Rapur (1980), Ấn Độ có phải là một cường quốc? Tham khảo lãnh đạo,
Thư viện Quân đội sao lục.
62. Phan Văn Rân, Nguyễn Hoàng Giáp (2010), Chủ quyền quốc gia dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
156
63. Nguyễn Ngọc Sinh, Vũ Văn Lưu (1989), “Nehru - Ấn Độ và thời đại”, Quan
hệ quốc tế, (11).
64. Tập tài liệu về Kashmir (2004), Tài liệu tham khảo, Thư viện Quân đội sao
lục, Hà Nội.
65. Nguyễn Anh Thái (Chủ biên), Lịch sử thế giới hiện đại, từ 1945 đến 1995,
Quyển A, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
66. Nguyễn Anh Thái (Chủ biên), Lịch sử thế giới hiện đại, từ 1945 đến 1995,
Quyển B, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
67. Tôn Sinh Thành (2001), “Vài suy nghĩ về tư duy đối ngoại của Ấn Độ”,
Nghiên cứu Đông Nam Á, (6).
68. Thông tấn xã Việt Nam (2008), Quan hệ Ấn - Trung vừa hợp tác vừa cạnh
tranh, Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 28/4/2008
69. Trần Thị Thuận (2012), Quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Ấn Độ từ năm 1949 đến năm 1991, Luận văn thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học Vinh, Nghệ An.
70. Trần Nam Tiến (Chủ biên), Nguyễn Tuấn Khanh, Trần Phi Tuấn (2008), Lịch
sử quan hệ quốc tế (1945 - 2000), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
71. Đào Việt Trung (2013), Ấn Độ và quan hệ Việt Nam - Ấn Độ, Nxb Thế giới,
Hà Nội.
72. Võ Anh Tuấn (1999), Phong trào không liên kết, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
73. Trần Thị Thanh Vân (2002), Chính sách của thực dân Anh đối với Ấn Độ và hệ quả của nó, Luận văn thạc sĩ Sử học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
74. Trần Thị Thanh Vân (2010), Chính sách thực dân của Anh ở Ấn Độ từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX, Luận án Tiến sĩ sử học, Chuyên ngành Lịch sử thế giới cận đại và hiện đại, Mã số: 62.22.50.05, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
75. M. Yahuda (2006), Các vấn đề chính trị quốc tế ở châu Á - Thái Bình Dương,
In lần thứ 2 có sửa chữa, Nxb Văn học, Hà Nội.
157
Tài liệu tiếng nước ngoài
76. K. Antonova, G. Bougard - Levin, G. Kotovsky (1978), A history of India,
Book 2, Progress publishers, Moscow.
77. B. N. Bannejee (1985), India political unity and Soviet Union policy, Paribus
Publishers and Distributors, New Delhi.
78. C. Bowles (1971), America and Russia in India, Foreign Affairs, Vol. 49,
Issue 4, New York.
79. J. M. Brown (1985), Modern India, Oxford University Press, New York. 80. R. Brissendon (1960), India and the Northern Frontier, Australian Outlook. 81. B. Chandra (2000), India after independence (1947 - 2000), Penguin Book,
New Delhi.
82. T. F. Devakina (1970), Đảng Quốc đại Ấn Độ 1947 - 1964, (tiếng Nga)
Moskva.
83. P. During (1955), Middle ground between America and Russia - an Indian
view, Foreign Affairs, Vol. 32, Issue 2, New York.
84. V. P. Dutt (1990), India and the World, New Delhi. 85. V. P. Dutt (1984), India’s Foreign Policy, New Delhi. 86. M. F. Franda (1968) West Bengal and the federalizing process in India,
Princeton University Press.
87. D. C. Gadgib (1954), The economic development of India, Asia, Bombay. 88. Government of India (1952), Our government, The puplications division, Delhi. 89. Government of India (1961), Planning Commission: Third Five Year Plan,
New Delhi.
90. S. Gopal (1979), Jawaharlal Nehru: A biograph, vol 2: 1947 - 1956, Oxford
University Press, New Delhi.
91. S. Gopal (1984), Jawaharlal Nehru: A biograph, vol 3: 1956 - 1964, Oxford
University Press, New Delhi.
92. B. S. Gupta (1970), The fulcrum of Asia: relations among China, India, Pakistan and the USSR, Western Publishing Company, New York. 93. R. C. Horn (1982), Soviet - India Relation: Issues and Influence, Praeger
Publishers, New York.
158
94. S. H. Husain (1985), The national culture of India, National Book Trust,
New Delhi.
95. Indian’s relations with Pakistan (1954 - 1957), Indian council of world affairs,
New Delhi.
96.
97. India 1947 - 1950 (1959), Vol.II, Oxford University Press. India: problems of development (1982), USSR Academy of Sciences,
Moscow.
98. W. H. M. Jones (1967), The government and politics of India, Hutchinson
University, London.
99. Jawaharlal Nehru: A political leader (1974), Prague: Czechoslovak Society
for International Relations.
100. H. Kay (1970), Salazar and Modern Portugal, Hawthorn Books, Inc, New York. 101. L. J. Kavic (1967), India’s quest for security: defence policies 1947 - 1965,
University of California Press, USA.
102. R. K. Karanjia (1960), The Mind of Mr Nehru, London. 103. R. K. Karanjia (1966), The Philosophy of Mr Nehru, London. 104. Kim Chan Wahn (2010), The Role of India in the Korean War, International
Area Review, Vol. 13 (2).
105. B. I. Kluev (1981), India: National and Language Problem, New Delhi. 106. T. V. K. Krishnan (1971), Chavan and the troubled decade, Somaiya
Publications Pvt.Ltd, New Delhi.
107. H. Kulke and D. Rothermund (2004) A history of India, Routledge, London
and New York.
108. D. Kumar (1983), The Cambridge economic history of India, Vol 2: 1757 -
1970, Cambridge University Press.
109. A. Lall (1981), The Emergence of Modern India, Columbia University Press,
New York.
110. A. Lamb (1964), The China - India border: the origins of the disputed
boundaries, Oxford University Press, London.
111. N. Maxwell (1970), India’s China war, Gayatri Enteprises, New Delhi. 112. W. Malenbaum (1971), Modern India’s economy: two decades of planed growth, Charles E. Merrill Publishing Company, Columbus, Ohio.
159
113. A. Mellor (1951), India since partition, Turnstile Press, London. 114. T. Mende (1956), Conversations with Mr. Nehru, London. 115. A. N. Misra (1980), The diplomatic triangle China, India, America, Janaki
Prakashan, New Delhi.
116. J. Mohan (1973), Twenty five years of Indian independence, Oxford & IBH
Publishing Co., New Delhi.
117. W. H. Morris - Jones (1957), Parliament in India, London. 118. I. Nasenko (1977), Jawaharlal Nerhu and India foreign’s policy, Sterling
Publisher, New Delhi.
119. J. A. Naik (1995), Russia policy toward India from Stalin to Yeltsin, MD
Publications Pvt Ltd, New Delhi.
120. J. Nehru (1987), India’s Foreign Policy, Publication Division, New Delhi. 121. J. Nehru (1980), India Today and Tomorrow, Readings from India, India
Council for Cultural Relations, New Delhi.
122. J. Nehru, Letters to Chief Ministers, 1947 - 1964, Vol 5, New Delhi. 123. Nehru, Speeches, Vol.3, New Delhi, 1970 reprint.
124. B. N. Pande (General Editor) (1985), Centenary History of the Indian National
Congress, vol. 1, Vikas, New Delhi.
125. B. N. Pande (General Editor) (1985), Centenary History of the Indian National
Congress, vol. 2, Vikas, New Delhi.
126. B. N. Pande (General Editor) (1985), Centenary History of the Indian National
Congress, vol. 3, Vikas, New Delhi.
127. N. D. Palmer (1961), The Indian political system, Houghton Mifflin Palmer,
Boston.
128. L. G. Pine (1956), The International Year Book and Statesman’s Who’s Who,
London: Burke’s Peerage, Ltd.
129. D. R. SarDesai (1968), Indian Foreign Policy in Cambodia, Laos and Vietnam
1947 - 1964, University of California Press, Berkeley & Los Angeles.
130. S. K. Sen (1994), Working class movements in India 1885 - 1975, Oxford
University Press, New Delhi.
131. Showick Thorpe Edgar Thorpe (2009), The Pearson General Studies
Manual (1 ed.), Pearson Education India.
160
132. K. S. Singh (1982), Tribal Movements in India, Vol 2, New Delhi. 133. W. Stanley (1997), A new history of India, Oxford University Press, New York. 134. R. Thapar (1956), India in transition, Current Book House, Bombay. 135. H. Tinker (1967), India and Pakistan: A political Analysis, Pall Mall Press,
London.
136. B. R. Tomlinson (1996), The economic of modern India 1860 - 1970,
Cambridge University Press, New Delhi.
137. G. Tyson (1966), Nehru: The Year of Power, London. 138. M. Weiner (1957), Party Politics in India, Princeton, Delhi. 139. H. W. Wilson (1982), The Indian Empire: its People, History and Products, London. 140. W. A. Wilcox (1964), India, Pakistan and the rice of China, Walker, New York. 141. S. Wolpert (1993), A new history of India, Oxford University Press, New York. 142. V. Viswanathan, K. S. Rajiva (1982), The political, economic, and labor climate in India, University of Pennsylvania, Philadelphia, USA.
Một số trang web
143. http://www.bharat-rakshak/LAND-FORCES/History/1961Goa.html
144. http://www.preservearticles.com/2011111216939/short-essay-on-the-second-
general-election-of-india-1957.html
145. http://planningcommission.gov.in/plans/planrel/fiveyr/welcome.html
146. http://legacy.fordham.edu/halsall/mod/1947nehru1.html
147. http://india.gov.in
148. http://www.indembassy.com.vn
149. http://www.planningcommission.nic.in/plans/planrel/fiveyr/default.html
161
CHÚ GIẢI
1. Kế hoạch Mountbatten có nội dung như sau: 1. Trên lãnh thổ Ấn Độ phải thành lập hai chính phủ tự trị (Dominions) là Liên bang Ấn Độ và Pakistan. 2. Vấn đề phân chia Bengal và Punjab theo đặc trưng tôn giáo sẽ được quyết định thông qua biểu quyết của đại biểu các khu vực có cư dân Ấn Độ giáo và Hồi giáo cư trú. 3. Tỉnh biên giới Tây Bắc và huyện Silhet (thuộc Assam) chủ yếu có người Hồi sinh sống thì tiến hành trưng cầu dân ý. 4. Số phận của Sind được biểu quyết ở Hội đồng lập pháp tỉnh. 5. Việc các công quốc gia nhập xứ tự trị nào là thuộc thẩm quyền của các lãnh vương công quốc đó. 6. Quốc hội lập hiến chung sẽ chia thành Quốc hội lập hiến của hai xứ tự trị, cơ quan này sẽ quyết định thể chế của hai quốc gia.
2. Ngày 2/2/1955, Ấn Độ - Liên Xô đã ký kết Hiệp định về xây dựng nhà máy thép Bhilai, chính thức động thổ vào tháng 5/1956. Đến năm 1962,
năng suất của nhà máy đạt 1 triệu tấn thép/năm và tăng lên 2,5 triệu tấn năm 1965. Ngày 25/1/1965, Hiệp định về Nhà máy thép Bokaro giữa Liên Xô và
Ấn Độ được ký kết với công suất 1,7 triệu tấn thép/năm.
3. Đập Bhakra-Nangal nằm trong số các dự án phát triển thủy lợi ở Ấn
Độ sau khi độc lập thuộc bang Himachal Pradesh, tây bắc Ấn Độ. Là con đập lớn thứ hai sau đập Indirasagar, với công suất 12.22 tỷ m3. Đập được xây dựng vào năm 1948 và hoàn thành vào năm 1963. Tháng 10/1963, tại lễ
khánh thành, để đánh dấu tầm quan trọng của dự án này đối với sự phát triển của đất nước, Thủ tướng J. Nehru nói: “Công trình này được xây dựng với
những nỗ lực vĩ đại của chúng ta cho lợi ích của dân tộc, và do đó, nó phải
được tôn thờ, nó mang lại cho chúng ta sự khâm phục và ngưỡng mộ. Chúng ta
có thể gọi đây là một hiệp sĩ, một thánh đường Hồi giáo”.
4. Lal Bahadur Shastri (1904 - 1966) là Thủ tướng thứ hai của Cộng hòa Ấn Độ (1964 - 1966) sau khi J. Nehru qua đời. Năm 1951, ông được bổ nhiệm làm Tổng thư ký của Ủy ban Quốc hội của Ấn Độ, trực tiếp chịu trách nhiệm về việc lựa chọn các ứng cử viên và chỉ đạo công tác tuyên truyền, vận
162
động bầu cử của Đảng Quốc đại. Ông đóng vai trò quan trọng trong những thành công của đảng qua các cuộc Tổng tuyển cử năm 1952, 1957 và 1962.
5. Điều 73 của Hiến chương Liên hợp quốc: Các thành viên của Liên
hơp quốc có trách nhiệm hoặc được cho là có trách nhiệm cai trị những lãnh
thổ mà dân tộc tại đó chưa giành được chủ quyền đầy đủ phải công nhận
nguyên tắc đặt lợi ích của người dân tại lãnh thổ đó lên cao nhất, và trong khuôn khổ hệ thống hòa bình và an ninh quốc tế do Hiến chương này thiết lập,
thừa nhận với niềm tin thiêng liêng bổn phận thúc đẩy phúc lợi của người dân
của các vùng đó lên mức cao nhất…
6. Đường McMahon (McMahon Line) là đường phân định biên giới
giữa Đông Ấn Độ và Tây Tạng, được xác lập theo Hiệp ước bí mật ở Simla
giữa đại diện người Anh là Henry McMahon và đại diện Tây Tạng
Lonchensetra năm 1914.
7. Năm nguyên tắc chung sống hòa bình: 1. Tôn trọng toàn bộ lãnh thổ
và chủ quyền của nhau; 2. Không tấn công nhau; 3. Không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau; 4. Bình đẳng và cùng có lợi; 5. Cùng tồn tại hòa bình.
8. Theo Hiệp định này, Pakistan nhượng cho Trung Quốc 2.100 dặm
vuông lãnh thổ thuộc bang Jammu và Kashmir.
9. Afghanistan, Saudi Arabia, Campuchia, Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa, Bờ biển Vàng (Ghana), Ai Cập, Ethiopia, Iraq, Iran, Nhật Bản, Jordan,
Lào, Lebanon, Liberia, Libya, Nepal, Philippines, Thái Lan, Sudan, Syria,
Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Yemen, Pakistan, Ấn Độ, Miến
Điện, Indonesia, Ceyland.
10. Được sáng lập bởi Thụy Điển, Thụy Sĩ, Tiệp Khắc, Ba Lan và Ấn
Độ. Sau khi hết trách nhiệm, Ủy ban này đã tự giải thể vào ngày 21/2/1954.
11. Trong phụ lục VIII của Hiến pháp xác định ngôn ngữ quan trọng
của Ấn Độ như: Assamese, Bengali, Gujarati, Hindi, Kannada, Kashmir,
Malayalam, Marathi, Oriya, Punjabi, Sanskrit, Tamil, Telegu và tiếng Urdu.
12. Bộ mẫu tự dùng cho nhiều ngôn ngữ ở Ấn Độ.
163
13. Điều 46 của Hiến pháp khẳng định: Nhà nước cần đẩy mạnh sự quan tâm đặc biệt đối với các lợi ích về giáo dục và kinh tế của người dân trong bộ lạc; bảo vệ họ khỏi bất công xã hội và các hình thức khác thông qua
đạo luật đặc biệt. Điều 244, quy định một chính quyền tự chủ cho các dân tộc bộ lạc bằng cách quy định về việc thành lập Hội đồng tự trị huyện. Mục đích là để cho phép những bộ lạc sống theo cách riêng của họ. Điều 275, quy định viện trợ đặc biệt để thúc đẩy phúc lợi cho các bộ lạc. Điều 330, 332,
335 quy định phân bổ vị trí cho các bộ lạc trong Quốc hội và cơ quan lập pháp của nhà nước.
14. Những người thuộc địa vị hạ đẳng trong Hindu giáo ở Ấn Độ. 15. Mỹ xây dựng căn cứ quân sự ở Gingit thuộc Kashmir do Pakistan
kiểm soát.
164
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Nhập khẩu của Ấn Độ (1948 - 1950)
Phụ lục 2: Tổng số đầu tư ở Ấn Độ trong 3 kế hoạch 5 năm 1951 - 1955,
1956 - 1961, 1961 - 1965
Phụ lục 3: Kết quả cuộc Tổng tuyển cử lần 2 năm 1957
Phụ lục 4: Bảng so sánh kết quả Tổng tuyển cử năm 1957 và 1962
Phụ lục 5: Kinh phí sử dụng cho Hải quân và Không quân Ấn Độ từ 1951 - 52
đến 1962 - 63
Phụ lục 6: Sự phát triển của cơ sở hạ tầng, sức khỏe và giáo dục ở Ấn Độ
trong các năm 1950 - 51, 1960 - 61, 1965 - 66
Phụ lục 7: Jawaharlal Nehru niên biểu
Phụ lục 8: Biên niên sự kiện lịch sử về Ấn Độ từ năm 1947 đến năm 1964
Phụ lục 9: Bản đồ Ấn Độ và một số hình ảnh liên quan
165
Phụ lục 1 NHẬP KHẨU CỦA ẤN ĐỘ (1948 - 1950)
Đơn vị: triệu rupee
1948 - 1949
1949 - 1950
Tỷ lệ
Tỷ lệ
1.227
21,7%
Anh
1.530
28,2%
1.558
27,6%
1.087
20%
Mỹ
5.655
100%
5.429
100%
Tổng số
Nguồn: R.P.Dutt (1960), Ấn Độ hôm nay và ngày mai, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.331
Phụ lục 2 TỔNG SỐ ĐẦU TƯ Ở ẤN ĐỘ TRONG 3 KẾ HOẠCH 5 NĂM 1951 - 1955, 1956 - 1961, 1961 - 1965
Đơn vị: tỷ rupee theo giá trị hiện hành
Kế hoạch 5 năm
Kế hoạch 5 năm (1951 - 1955)
Kế hoạch 5 năm (1961 - 1965)
(1956 - 1961)
Lĩnh vực đầu tư
%
%
%
Tỷ Rs
Tỷ Rs
Tỷ Rs
27
12,6
9,1
19
21,2
18
Nông nghiệp
12
18,1
4,4
27
29,9
25
Công nghiệp
8
4,8
2,7
7
12,9
11
Năng lượng
Giao thông
18
14,1
5,9
21
23,5
20
35
17,9
11,5
26
32,0
26
Lĩnh vực khác
67,5
33,6
100
100
119,5
100
Tổng cộng
Nguồn: B. R. Tomlinson (1996), The economy of modern India 1860 - 1970,
Cambridge University press, New Delhi, p.176
166
Phụ lục 3 KẾT QUẢ CUỘC TỔNG TUYỂN CỬ LẦN 2 NĂM 1957
Đảng
Số ghế vào Viện Nhân dân
371
Đảng Quốc đại
19
195
Đảng nhân dân XHCN
27
162
Đảng Cộng sản
4
46
Đảng Jana Sangh
2
22
Mặt trận dân chủ nhân dân
6
20
Liên minh các giáo phái nhỏ
-
1
Đảng Xã hội chủ nghĩa
4
32
Đảng Công nông
1
58
Đảng Hindu Mahasabha
-
22
Đảng Ram raiya parisad
Nguồn: T. F. Devakina (1970), Đảng Quốc đại từ năm 1947
đến năm 1964, (tiếng Nga), Moskva p.136
Số ghế vào hội nghị lập pháp các bang 1.889
Phụ lục 4 BẢNG SO SÁNH KẾT QUẢ TỔNG TUYỂN CỬ NĂM 1957 VÀ 1962
Năm
Tỷ lệ %
Số ứng cử viên
Số người được bầu
Số phiếu thu được
1957
489
364
57.579.593
44,99
1962
494
361
51.247.168
46,02
Nguồn: T. F. Devakina (1970), Đảng Quốc đại từ năm 1947
đến năm 1964, (tiếng Nga), Moskva p.148
167
Phụ lục 5 KINH PHÍ SỬ DỤNG CHO HẢI QUÂN VÀ KHÔNG QUÂN ẤN ĐỘ TỪ 1951 - 52 ĐẾN 1962 - 63
Đơn vị: tỷ rupee
Năm
Tổng số
Tổng số
Chi phí của Không quân
Chi phí của Hải quân
Tổng thu nhập quốc dân
Tổng thu nhập quốc dân
1951 - 52
7,66.18
1,27.21
8,93.39
16,02.50
1,11.91
17,14.41
1952 - 53
8,68.69
1,77.27
10,45.96
15,62.74
1,87.82
17,50.56
1953 - 54
10,42.62
2,16.18
12,58.80
28,56.61
1,64.26
30,20.87
1954 - 55
11,08.24
3,94.77
15,03.01
29,73.78
2,02.99
31,76.77
1955 - 56
12,04.67
7,33.52
19,38.19
30,05.63
2,71.23
32,76.86
1956 - 57
12,46.61
8,10.87
20,57.48
38,50.50
3,68.14
42,26.64
1957 - 58
14,16.80
13,31.85
27,48.65
72,74.68
4,32.26
77,06.94
1958 - 59
16,37.66
15,50.41
31,88.07
77,35.04
3,34.80
80,69.84
1959 - 60
15,11.12
19,25.50
34,36.62
60,91.20
3,34.47
64,25.67
1960 - 61
17,66.96
15,24.01
32,90.97
53,19.17
3,87.51
57,06.68
1961 - 62
20,66.45
4,41.34
25,07.79
54,07.97
4,53.61
58,61.58
1962 - 63
16,58.16
5,01.95
21,60.11
77,88.10
16,65.09
94,53.19
162,94.16
97,34.88
260,29.04 554,75.92
49,14.09
603,90.01
Tổng số
Nguồn: Lorne J. Kavic (1967), India’s quest for security: defence policies
1947 - 1965, University of California Press, USA, p.225
168
Phụ lục 6 SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG, SỨC KHỎE VÀ GIÁO DỤC Ở ẤN ĐỘ TRONG CÁC NĂM 1950 - 51, 1960 - 61, 1965 - 66
1950 - 1
1960 -1
1965 - 6
Lĩnh vực
Đơn vị
2,3
5,6
10,2
Điện lực: công suất;
triệu kw
ngàn
3,7
24,2
52,3
thị trấn và làng mạc được chiếu sáng
93
156
205
Đường sắt: hàng hóa chuyên chở;
triệu tấn ngàn km
156
235
284
bờ mặt đường
113
186
300
Số giường bệnh
triệu
23,5
44,7
67,7
triệu
Số lượng học sinh được tuyển vào trường học
357
430
490
Dân số
triệu
Nguồn: Bipan Chandra (2000), India after independence (1947 - 2000)
Penguin Book, New Delhi, p.348
169
Phụ lục 7 JAWAHARLAL NEHRU NIÊN BIỂU
Năm 1889:
Sinh ngày 14/11 tại Allahabad, con trai của Montilal Nehru và Swarup Rani Nehru.
Học tại trường Harrow, Midd lesex.
Năm 1905:
Học trường Đại học Trinity ở Cambridge.
Từ 1907- 1910
Năm 1910:
Rời Cambridge, nhận giải thưởng khoa học tự nhiên (Natural Sciences Tripos). Gia nhập Hội luật sư (The Inner Temple) ở London và được cấp chứng chỉ đủ tư cách làm luật sư.
Năm 1912:
Trở về Ấn Độ, bắt đầu tập sự luật sư tại Tòa án tối cao Allahabad. Tham gia kỳ họp Bakipore của Đảng Quốc đại với tư cách là một đại biểu.
Năm 1916:
Kết hôn với Kamala ngày 9/2 ở Delhi. Gặp M.K. Gandhi tại kỳ họp Lucknow của Đảng Quốc đại.
Năm 1917:
Gia nhập Liên đoàn tự trị (Home rule League). Sinh con gái Indira Priyadarshini ngày 19/11.
Năm 1918:
Được bầu làm Ủy viên Ủy ban Quốc đại toàn Ấn (All - India Congress Committee).
Năm 1919:
Cộng tác với C.R. Das trong việc chuẩn bị chứng cớ về vụ giết người ở Jalli - Anwala, phục vụ cho báo cáo điều tra của Quốc đại.
Năm 1920:
Tham gia phong trào “bất hợp tác” (Non Cooperation Movement). Tham gia kỳ họp đặc biệt của Đảng Quốc đại tổ chức ở Calcutta từ ngày 4 đến 8/9.
Năm 1921:
Bị bắt ở Allahabad ngày 6/12 do tham gia vào hoạt động tẩy chay chuyến đi Ấn Độ của Hoàng tử xứ Wale.
Được thả ngày 3/3. Bị bắt ngày 11/5 vì tội tổ chức chống dùng vải ngoại.
Năm 1922:
Năm 1923:
Được bầu làm Chủ tịch ủy ban thành phố Allahabad. Từ chức tháng 1/1925. Bị bắt cùng với K.Santhanam, A.T.Gidwani ở Jaito ngày 21/9 do việc kêu gọi và dẫn một đoàn người đến bang Nabhe. Được thả ngày 4/10. Được bầu làm Tổng bí thư Ủy ban Quốc đại toàn Ấn tại khóa họp khóa 9 ở Delhi. Chức vụ này được giữ đến năm 1925. Giúp N.S. Hardiker trong việc thành lập Hindustani Sava Dal. Chủ trì cuộc họp đầu tiên ở Cocanada tháng 12.
Năm 1927:
Tham dự với tư cách là người đại diện của Quốc đại tại Đại hội các dân tộc bị áp bức (Congress of Oppressed Nationalities) ở Brussels từ ngày 10 đến 15/2. Thăm Liên Xô vào tháng 11. Đưa ra Nghị quyết về độc lập tại kỳ họp Madras của Quốc đại ngày 27/12.
170
Năm 1928:
Cùng với S.Srinivasa, Subhas Chandra Bose và những người khác tổ chức “Liên đoàn độc lập Ấn Độ” (Independence for India League). Trong tháng 8, tham dự Hội nghị Đảng Quốc đại họp ở Lucknow dưới sự chủ tọa của Motilal Nehru và làm việc trong Ủy ban hoàn chỉnh báo cáo của M. Nehru. Chủ tọa Hội nghị sinh viên Bengal ở Calentta ngày 22/9. Tham gia tích cực vào cuộc tẩy chay Ủy ban Simon. Chủ tọa Hội nghị thanh niên Bombay ở Poona ngày 12 đến 13/9. Tham gia hoàn chỉnh Nghị quyết của M.K. Gandhi về quyền tự trị (Dominion status) tại Ủy ban trực thuộc Ủy ban Quốc đại ngày 27/12 nhằm đòi “Độc lập hoàn toàn” (Complete Independence).
Năm 1929:
Chủ trì kỳ họp thứ 10 của Liên hiệp công đoàn Quốc đại toàn Ấn tại Nagpur từ ngày 28/11 đến 1/12. Chủ trì kỳ họp Lahore của Đảng Quốc đại từ ngày 29 đến 31/12, được bầu là Chủ tịch Đảng.
Năm 1930:
Công bố “Những bức thư của một người cha gửi con gái” (Letters from a father to his daughter). Tham gia cuộc hành trình muối (Salf Satyagraha). Bị bắt ngày 19/10 do diễn thuyết ủng hộ phong trào chống tăng thuế. Bức thư đầu tiên của “Các quan điểm về lịch sử thế giới” (Glimpses World History) được công bố ngày 26/10.
Năm 1931: M. Nehru mất. Bị bắt ngày 26/10 do vi phạm lệnh cấm rời khỏi địa giới
Allahabad, được thả ngày 30/8/1933 vì lý do mẹ ốm.
Năm 1934:
Công bố “Những quan điểm về lịch sử thế giới”. Thăm Bihar vào tháng 1 sau trận động đất tại đây. Bị bắt ngày 12/2 do những bài nói của ông ở Calcutta và những phát ngôn trong hai năm tù. Được thả ngày 3/9/1935.
Năm 1936:
Kamala Nehru mất ngày 28/2 ở Lausanne, Thụy Sĩ. Công bố Tiểu sử tự thuật (An Autobiography). Chủ tọa kỳ họp Lucknow của Quốc đại từ ngày 12 đến 14/4. Công bố “Ấn Độ và thế giới” (India and the World). Chủ tọa kỳ họp Faizpur của Quốc đại từ ngày 27/11 đến 8/12.
Năm 1938:
Swarup Rani Nehru mất ngày 16/1. Thăm Tây Ban Nha, Pháp, Anh và một vài nước châu Âu. Chủ tọa Đại hội hòa bình và Đế chế ở London ngày 15 đến 16/7. Cùng với P.P Tandon, A.N. Deva và những người khác bắt đầu cho ra tờ National Herald (Người đưa tin Quốc gia) vào tháng 9, làm Tổng biên tập từ 1938 đến 1946. Được cử làm Chủ tịch Ủy ban kế hoạch của Quốc đại.
Năm 1939:
Chủ tọa Hội nghị toàn thể nhân dân các bang toàn Ấn Độ ở Ludhiana ngày 15/2. Thăm Seylon vào tháng 7 và Trung Quốc vào tháng 8, 9.
Năm 1940:
Công bố “Trung Quốc, Tây Ban Nha và Chiến tranh”. Được bầu làm nhân vật thứ hai của Ủy ban đòi quyền tự trị. Bị bắt ngày 31/10 do diễn thuyết tại Gorakhpur.
171
Được phóng thích ngày 4/9. Xuất bản Sự thống nhất ở Ấn Độ.
Năm 1941:
Năm 1942:
Gặp vợ chồng Tưởng Giới Thạch đang ở thăm Ấn Độ và hội đàm với họ ngày 10, 11/2. Hội đàm với Stafford Cripps - đặc phái viên của Thủ tướng Anh tháng 3,4. Đưa ra Nghị quyết “Cút khỏi Ấn Độ” (Quit India) tại cuộc họp Ủy ban Quốc đại toàn Ấn ngày 9/8. Phóng thích ngày 15/6/1954.
Bắt đầu viết Phát hiện Ấn Độ (The Discovery of India) ngày 13/4.
Năm 1944:
Năm 1946:
Công bố Phát hiện Ấn Độ. Thăm Singapore vào tháng 3. Thương lượng với phái đoàn Chính phủ Anh tháng 4 đến tháng 6, được bầu làm Chủ tịch Đảng Quốc đại vào tháng 5. Từ chức ngày 23/9. Bị bắt ở Donel ngày 20/6 theo lệnh của Chính phủ Jammu và Kashmir lâm thời (Interim) ngày 2/9 là Ủy viên phụ trách đối ngoại và quan hệ với khối Liên hiệp Anh, được cử làm Phó Chủ tịch Hội đồng hành chính Phó vương (Vice - President of the viee - roy’s exeeutive Council). Đưa ra “Nghị quyết về các mục tiêu” (Objective resolution) tại Hội nghị Hội đồng Lập hiến ngày 13/12.
Năm 1947:
Chủ tịch Đại hội khoa học Ấn Độ ở Delhi ngày 3/1 và đến sự tất cả các kỳ họp của Đại hội cho đến năm 1963. Khai mạc Hội nghị Liên Á ở New Delhi ngày 23/3. Truyền thanh khắp đất nước ngày 3/6 việc chấp nhận kế hoạch của Chính phủ Anh về trao quyền độc lập hạn chế cho Ấn Độ. Đưa ra Nghị quyết về Quốc kỳ tại Hội nghị lập hiến ngày 22/7. Trở thành Thủ tướng đầu tiên của nước Ấn Độ tự do ngày 15/8, đồng thời lãnh đạo Bộ Ngoại giao, quan hệ với khối Liên hiệp Anh và Bộ Nghiên cứu khoa học.
Năm 1948:
Dự Hội nghị các Thủ tướng khối Liên hiệp Anh ở London vào tháng 10. Đọc diễn văn tại Đại hội đồng Liên hợp quốc họp ở Paris ngày 3/11.
Năm 1949:
Khai mạc Hội nghị 18 nước lên án cuộc xâm lược ở Indonesia của Hà Lan tại New Delhi ngày 20/1. Thăm Mỹ và Canada từ ngày 11/10 đến 7/11.
Năm 1950:
Trở thành Chủ tịch Ủy ban kế hoạch từ ngày 28/3 và lãnh đạo cơ quan này cho đến khi qua đời. Hiệp ước Nehru - Liaqat (thủ lĩnh Pakistan) về các cộng đồng thiểu số ngày 8/4. Thăm Indonesia từ ngày 7 đến ngày 10/6.
Được bầu làm Chủ tịch Đảng Quốc đại và giữ chức này đến 1954.
Năm 1951:
Năm 1952:
Lập chính phủ mới sau cuộc tổng tuyển cử đầu tiên. Khai mạc lễ triển khai dự án phát triển cộng đồng đầu tiên ngày 2/10 tại làng Alipore, Delhi.
Năm 1954:
Hội đàm với Chu Ân Lai trong tháng 6 và cùng đưa ra Năm nguyên tắc giải quyết quan hệ giữa các dân tộc (Panch sheel) ngày 28/6. Thăm Trung Quốc, Campuchia, Việt Nam và Lào tháng 10, 11.
172
Năm 1955:
Đưa ra Nghị quyết “Mô hình hóa xã hội chủ nghĩa” (“Socialistic Pattern of Sociaty”) ở kỳ họp Avadi của Đảng Quốc đại họp từ ngày 21/12/1954 đến 3/1/1955. Dự Đại hội Á - Phi tổ chức tại Bandung từ ngày 18 đến 22/4. Thăm Liên Xô từ ngày 7 đến 23/6. Thăm Nam Tư từ ngày 30/6 đến 7/7. Thăm Cairo từ ngày 11 đến 12/7, hội đàm với Tổng thống Nasser. Được nhận giải thưởng Quốc gia Bharat vì những đóng góp cho sự nghiệp hòa bình ngày 15/7.
Năm 1956:
Cùng với Tổng thống Ai Cập Nasser và Chủ tịch Nam tư Tito tham dự Hội nghị tổ chức ở Brioni từ ngày 18 đến 19/7 để thảo luận vấn đề cùng tồn tại và sự cần thiết giải trừ quân bị. Dự Hội nghị các nước lớn Colombo ở New Delhi từ ngày 12 đến 14/11 để thảo luận tình hình thế giới nhằm phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Anh, Pháp, Israel ở Ai Cập và sự can thiệp của Liên Xô ở Hungari.
Năm 1957:
Thành lập Nội các mới sau cuộc Tổng tuyển cử lần thứ hai. Thăm Nhật Bản từ ngày 4 đến 13/10.
Công bố Một bức thư cũ (A bunch of old letters).
Năm 1958:
Năm 1959:
Đưa ra Nghị quyết về kế hoạch hóa và bảo vệ chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp ở kỳ họp Quốc đại tại Nagpur từ ngày 9 đến 11/1. Thăm Nepal từ ngày 11 đến 14/6.
Năm 1960:
Hội đàm Nehru - Chu Ân Lai tổ chức vào tháng 4 đế giải quyết tình hình căng thẳng ở biên giới Ấn - Trung. Thăm Thổ Nhĩ Kỳ từ ngày 20/4 đến 4/5. Thăm Pakistan từ ngày 19 đến 23/9. Ký Hiệp ước về phân chia nguồn nước ở Karachi ngày 19/9. Đọc diễn văn tại Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 3/10 ở New York.
Năm 1961:
Dự hội nghị các nước không liên kết ở Belgrade từ ngày 1 đến 6/9. Thăm Liên Xô từ ngày 6 đến 11/9. Triệu tập và cùng với L.B. Shartri dự Hội nghị thống nhất Quốc gia ở New Delhi ngày 28/9. Thăm Mỹ từ ngày 5 đến 14/11.
Năm 1962:
Cải tổ Nội các sau cuộc Tổng tuyển cử lần thứ ba. Thăm Seylon từ ngày 13 đến 16/10.
Hiến Bhakra Dam cho Nhà nước 22/10.
Năm 1963:
Năm 1964:
Bị ốm trong suốt kỳ họp 68 của Đảng Quốc đại ở Bhubanneswar trong tháng 1. Mất ngày 27/5 ở New Delhi. Hỏa táng thi hài tại bến sông Yamuna, nay địa điểm này có tên gọi là Shanti Vana.
Nguồn: Nguyễn Công Khanh (2001), Jawaharlal Nehru, tiểu sử và sự nghiệp,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
173
Phụ lục 8 BIÊN NIÊN SỰ KIỆN LỊCH SỬ VỀ ẤN ĐỘ TỪ NĂM 1947 ĐẾN NĂM 1964
Năm 1947
Ngày 13/4: Ấn Độ thiết lập mối quan hệ ngoại giao cấp đại sứ với Liên Xô, mở ra thời kỳ mới trong quan hệ giữa hai nước. Ngày 15/8: Đạo luật về nền độc lập của Ấn Độ được Nghị viện Anh thông qua. Ấn Độ giành được quyền tự trị, J. Nehru tuyên bố theo đuổi chính sách đối ngoại yêu chuộng hòa bình, chống chủ nghĩa thực dân và không liên kết. Ngày 22/10: Chiến tranh Ấn Độ - Pakistan bùng nổ. Ngày 24/10: Kashmir sáp nhập vào Ấn Độ.
Năm 1948
Ngày 15/1: Ấn Độ đưa vấn đề Kashmir lên Liên hợp quốc. Ngày 30/1: Mahahma Gandhi bị ám sát. Ngày 6/4: Tại Quốc hội, Chính phủ Ấn Độ chính thức công bố “Tuyên ngôn về chính sách công nghiệp”, lịch sử thường gọi theo nội dung là Tuyên ngôn về “Nền kinh tế hỗn hợp”. Tháng 4: Tại Đại hội Japua, Đảng Quốc đại thành lập Ủy ban J.V.P (viết tắt tên của J. Nehru, V. Patel, P. Sitaramain) xem xét vấn đề thành lập các bang trên cơ sở ngôn ngữ. Đêm ngày 31/12: Lệnh ngừng bắn giữa Ấn Độ với quân đội Pakistan ở Kashmir.
Năm 1949
Ngày 10/7: Tuyên bố Ấn - Pháp về việc trao chủ quyền Chandernagore cho Ấn Độ, mở đầu cho quá trình trao trả các vùng đất còn lại sau này, thông qua cách thức giải quyết bằng hòa bình và thương lượng. Tháng 10: Thủ tướng J. Nehru sang thăm chính thức Hoa Kỳ. Ngày 26/11: Quốc hội lập pháp Ấn Độ đã thông qua và phê duyệt bản Hiến pháp mới.
Năm 1950
Ngày 14/1: Khối Liên hiệp Anh tuyên bố hoàn thành mọi điều khoản công nhận nước Cộng hòa Ấn Độ tiếp tục là thành viên chính thức của khối.
174
Ngày 26/1: Hiến pháp Ấn Độ có hiệu lực, tuyên bố Ấn Độ là một quốc gia Liên bang Cộng hòa độc lập, có chủ quyền. Tháng 3: Ủy ban kế hoạch nhà nước được thành lập. Ngày 2/4: Kết quả cuộc gặp giữa J. Nehru và Thủ tướng Pakistan Liacata là Hiệp ước Nehru - Liacata được ký kết với nội dung là cần phải chặn đứng hiểm họa tôn giáo cộng đồng, cho phép đi lại tự do, hồi hương của những người di tản nếu họ muốn. Ngày 31/7: Hiệp ước hòa bình và hữu nghị ký kết giữa Ấn Độ và Nepal tại Kathmandu (thủ đô của Nepal). Ngày 5/12: Quan hệ Ấn Độ - Sikkim được thiết lập bằng một hiệp ước trong đó tái khẳng định mối quan hệ tốt đẹp trước đây với sự bảo hộ của Ấn Độ, đồng thời Ấn Độ có trách nhiệm đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ của nhà nước Sikkim, xây dựng và duy trì thông tin liên lạc cho các mục đích chiến lược.
Năm 1951
Tháng 2: Ủy ban Quốc phòng Biên giới Bắc và Đông Bắc của Ấn Độ (NEFA) được thành lập. Từ ngày 28/3 đến ngày 22/4: Tòa án quốc tế đã cử một đoàn quan sát viên trung lập tới Ấn Độ để tìm hiểu các điều kiện ở vùng đất Ấn Độ thuộc Pháp. Tháng 7: Ủy ban kế hoạch nhà nước trình bày trước Quốc hội một dự thảo kế hoạch phát triển cho giai đoạn 5 năm đầu tiên (1951 - 1956). Tháng 8: Ấn Độ tổ chức bầu cử Hội đồng lập hiến ở Kashmir. Tháng 9: Để đảm bảo thắng lợi trong cuộc Tổng tuyển cử Quốc hội đầu tiên, những người lãnh đạo Đảng Quốc đại đã bầu J. Nehru làm Chủ tịch của Đảng. Ngày 25/10: Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ở Ấn Độ bắt đầu. Ngày 8/12: Ấn Độ bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1951 - 1956) được trình bày bởi Thủ tướng J. Nehru trước Quốc hội.
Năm 1952
Ngày 24/2: Cuộc Tổng tuyển cử lần thứ nhất ở Ấn Độ kết thúc. Ngày 17/11: Ấn Độ soạn thảo một nghị quyết về vấn đề hồi hương các tù binh trong chiến tranh Triều Tiên, trình lên Đại hội đồng Liên hợp quốc. Ngày 19/12: Bang Andhra được thành lập là một bước tiến trên con đường giải quyết vấn đề dân tộc ở vùng có cư dân Telugu sinh sống. Cuối năm 1952: “Chương trình phát triển cộng đồng” được Chính phủ triển khai nhằm phát triển trong các khu vực nông thôn Ấn Độ.
175
Năm 1953
Tháng 6: Tại Hội nghị toàn quốc của Đảng Quốc đại đã thông qua Nghị quyết về “Cương lĩnh kinh tế - xã hội”, trong đó nhấn mạnh rằng, đà phát triển của đất nước phải nhanh hơn, đặc biệt là cải cách ruộng đất và phát triển công nghiệp. Ngày 20/8: Ấn Độ và Pakistan đã ký kết một thông cáo chung trong đó Ấn Độ đồng ý tổ chức một cuộc trưng cầu ý dân ở Kashmir. Tháng 12: Chính phủ Ấn Độ đã thành lập Ủy ban Cải cách Hành chính Nhà nước (States Reorganisation Commission (SRC)) do thẩm phán Fazal Ali đứng đầu. Cuối năm 1953: Cục Hành chính Biên giới Ấn Độ (IFAS) được thành lập trong Bộ Ngoại giao để quản lý các NEFA.
Năm 1954
Ngày 15/2: Hiến pháp Ấn Độ khẳng định sự gia nhập của Kashmir vào liên bang Ấn Độ. Ngày 22/4: Tại Hạ viện Ấn Độ, Thủ tướng J. Nehru đưa ra lời kêu gọi ngừng bắn, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương. Ngày 26/6: Thủ tướng J. Nehru đã có cuộc gặp với Thủ tướng Chu Ân Lai tại Delhi và ra một thông cáo 3 ngày sau đó đề ra 5 nguyên tắc chỉ đạo quan hệ giữa hai nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau, về sau được gọi là Năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình (Panch Sheel). Ngày 13/10: Ấn Độ và Pháp đã đưa ra một tuyên bố chung về giải pháp để giải quyết các vùng đất thuộc Pháp là Pondicherry, Karikal, Mahe và Yanam trên lãnh thổ Ấn Độ. Cuối năm 1954: Quốc hội Ấn Độ thông qua một Nghị quyết trong việc xây dựng “Mô hình xã hội theo kiểu xã hội chủ nghĩa” như một nguyên tắc hướng dẫn chính sách kinh tế của quốc gia.
Năm 1955
Tháng 1: Đảng Quốc đại đã thông qua Cương lĩnh xây dựng một xã hội kiểu xã hội chủ nghĩa. Ngày 2/2: Ấn Độ và Liên Xô đã ký kết Hiệp định về xây dựng nhà máy thép Bhilai với công suất 1 triệu tấn. Từ ngày 18 đến ngày 24/4: Ấn Độ tham gia Hội nghị các nước Á - Phi tại Bandung, với sự tham gia của 29 quốc gia, trong đó 23 quốc gia châu Á và 6 của châu Phi.
176
Tháng 6: Tổng thống Ấn Độ thành lập một Ủy ban ngôn ngữ chính thức, đứng đầu là luật sư B. G. Kher. Từ ngày 7 đến ngày 23/6: Thủ tướng J. Nehru có chuyến thăm quan trọng tới Liên Xô. Hai bên thống nhất lấy Năm nguyên tắc chung sống hòa bình làm cơ sở phát triển quan hệ hai nước. Ngày 15/8: Nhân kỷ niệm Ngày độc lập của Ấn Độ, khoảng 3.000 người, bao gồm 49 nhà hoạt động bất bạo động và đông đảo nhân dân không vũ trang đã diễu hành vào Goa, kéo lá cờ Ấn Độ lên ở pháo đài Tiracol Fort. Ngày 14/12: Bản báo cáo của Ủy ban Cải cách Hành chính Nhà nước về vấn đề phân chia lãnh thổ hành chính mới được đưa ra thảo luận ở Quốc hội Ấn Độ.
Năm 1956
Ngày 23/5: Thủ tướng J. Nehru có bài phát biểu quan trọng tại Quốc hội về kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1956 - 1960). Ngày 20/8: Đại diện Chính phủ Ấn Độ đưa ra gói giải pháp 6 điểm nhằm giải quyết vấn đề kênh đào Suez trên cơ sở thương lượng hòa bình, không làm tổn hại đến quyền lợi của các bên sử dụng kênh đào Suez và tôn trọng độc lập chủ quyền của Ai Cập. Ngày 31/8: Dự luật dựa trên báo cáo của Ủy ban Cải cách Hành chính Nhà nước được thông qua bởi Quốc hội và tiến hành những sửa đổi cần thiết trong tháng 9 để ghi vào Hiến pháp Ấn Độ. Ngày 1/10: Đạo luật mới liên quan đến phân chia các đơn vị hành chính lãnh thổ của Ấn Độ bắt đầu có hiệu lực. Tháng 10: Hiến pháp bang Kashmir được thông qua, công nhận quyền tự trị hợp pháp của bang này trong Cộng hòa Liên bang Ấn Độ. Ngày 4/11: Ấn Độ bỏ phiếu trắng khi Liên hợp quốc công bố nghị quyết 20 nước do Mỹ đứng đầu lên án Liên Xô can thiệp vào công việc nội bộ của Hungari, yêu cầu rút quân. Tháng 12: Thủ tướng J. Nehru có chuyến thăm Mỹ lần thứ hai. Cuối năm 1956: Ấn Độ và Mỹ ký hiệp định theo đó Mỹ sẽ cung cấp lương thực dài hạn cho Ấn Độ (gọi tắt là P.L 480) trị giá hơn 350 triệu USD.
Năm 1957
Từ ngày 24/2 đến ngày 14/3: Ấn Độ tổ chức Tổng tuyển cử lần thứ hai. Tháng 4: Chính phủ của những người cộng sản được thành lập ở bang Kerala. Tháng 12: Hội nghị đoàn kết nhân dân Á - Phi được tổ chức ở Cairo, Ấn Độ đã cùng với 44 nước quyết định thành lập Tổ chức đoàn kết nhân dân Á - Phi (AAPSO).
177
Năm 1958
Tháng 3: Nghị quyết chính sách về khoa học được Chính phủ thông qua khi bàn về vai trò quan trọng của khoa học công nghệ đối với sự phát triển của kinh tế, xã hội và văn hóa Ấn Độ. Ngày 2/6: Hiệp định liên kết hàng không Ấn Độ - Liên Xô ký kết nhằm thiết lập đường bay trực tiếp Delhi - Amritsar - Tashkent - Moscow và ngược lại. Tháng 11: Hiệp định thương mại 5 năm lần thứ hai (1959 - 1963) được ký kết giữa Ấn Độ và Liên Xô nhằm thúc đẩy nhanh quá trình hợp tác giữa hai nước.
Năm 1959
Ngày 31/7: Tổng thống Ấn Độ R. Prasad dựa vào điều 356 của Hiến pháp Ấn Độ để giải tán Hội nghị lập pháp, giải tán Chính phủ bang Kerala và tuyên bố giao chính quyền ở bang này cho Tổng thống, giao quyền lập pháp của bang cho Nghị viện Ấn Độ. Ngày 25/8: Trung Quốc đem quân lấn sâu sang biên giới phía Đông của Ấn Độ, đẩy nhanh quá trình xung đột biên giới. Ngày 7/11: Trung Quốc mở đường cắt qua lãnh thổ Kashmir thuộc Ấn Độ.
Năm 1960
Tháng 1: Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô K. Vorosilov sang thăm Ấn Độ. Tháng 3: Ủy ban Phát triển đường biên giới (BRDB) được thành lập để phối hợp cùng với nhà nước xây dựng chương trình đường riêng của quân đội trong khu vực biên giới chiến lược.
Năm 1961
Ngày 21/2: Hội đồng Bảo an thông qua một nghị quyết cho phép lực lượng vũ trang Ấn Độ thực hiện sứ mệnh kết thúc cuộc nội chiến tại Congo. Tháng 3: Ấn Độ hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ hai. Ngày 7/9: Thủ tướng Ấn Độ J. Nehru sang thăm Liên Xô. Tháng 9: Ấn Độ tham dự Hội nghị cấp cao các nước không liên kết lần thứ nhất được tổ chức tại Belgrade (Nam Tư). Ngày 18/12: Sau nhiều nỗ lực ngoại giao cũng như hòa giải quốc tế không thành, Chính phủ Ấn Độ buộc phải đưa quân vào giải phóng đối với Goa, Daman và Diu. Tháng 12: Ủy ban toàn quốc của Đảng Quốc đại Ấn Độ ra bản tuyên bố trước bầu cử.
178
Năm 1962
Từ ngày 19 đến ngày 25/2: Cuộc Tổng tuyển cử lần thứ ba diễn ra ở tất cả các bang Ấn Độ. Ngày 4/5: Pakistan và Trung Quốc bất ngờ ra Thông báo Karachi tuyên bố hai nước đã đàm phán và phân định ranh giới chung ở Kashmir. Ngày 16/8: Ấn Độ và Pháp tiến hành trao đổi văn kiện được phê chuẩn. Theo đó, Pháp trao lại đầy đủ chủ quyền cho Ấn Độ trên các vùng đất thuộc Pháp. Ngày 20/10: Trung Quốc đơn phương phát động chiến tranh quy mô lớn trên toàn tuyến biên giới với Ấn Độ. Ngày 21/11: Trung Quốc tuyên bố ngừng bắn và rút quân về đường kiểm soát ngày 7/11. Tháng 11: N. G. Ranga - thủ lĩnh của đảng Swatantra - yêu cầu nghị viện bãi miễn Chính phủ J. Nehru vì “không đảm bảo phòng thủ cần thiết chống lại sự tấn công của quân Trung Quốc ở biên giới”.
Năm 1963
Đầu năm 1963: Để đáp ứng yêu cầu của phong trào đòi quyền tự trị ở bang Assam tại Đông Bắc Ấn Độ, Chính phủ J. Nehru đã thành lập bang mới Nagaland. Ngày 10/5: Quốc hội Ấn Độ đã ban hành Luật Ngôn ngữ chính thức, trong đó tiếp tục cho phép sử dụng tiếng Hindi và tiếng Anh vào các mục đích chính thức, ngay cả sau năm 1965. Ngày 5/10: Quốc hội Ấn Độ thông qua luật sửa đổi Hiến pháp, một lần nữa chính thức xác nhận các vùng lãnh thổ Goa, Daman và Diu được sáp nhập thuộc chủ quyền của Ấn Độ. Tháng 10: Khánh thành đập Bhakra-Nangal, thuộc bang Himachal Pradesh, tây bắc Ấn Độ. Là con đập lớn thứ hai sau đập Indirasagar, với công suất 12.22 tỷ m3.
Năm 1964
Ngày 27/5: J. Nehru - nhà kiến trúc sư của đất nước Ấn Độ qua đời. Tháng 10: diễn ra cuộc gặp gỡ giữa tân Thủ tướng Ấn Độ Shastri và Thủ tướng Pakistan Ayub Khan.
Nguồn: Tác giả luận án tự tổng hợp
179
Phụ lục 9 BẢN ĐỒ ẤN ĐỘ VÀ MỘT SỐ HÌNH ẢNH LIÊN QUAN
Bản đồ Ấn Độ năm 1947
180
Bản đồ Ấn Độ năm 1956
181
Bản đồ Cộng hòa Ấn Độ ngày nay
182
Jawaharlal Nehru (1889 - 1964)
183
Mountbatten (trung tâm tay trên bàn), cùng các phó vương Anh gặp các nhà lãnh đạo của Ấn Độ để đưa ra một kế hoạch phân chia Ấn Độ thành hai quốc gia năm 1947.
Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai thăm Ấn Độ lần đầu tiên (tháng 6/1954)
184
Thủ tướng Chu Ân Lai và J. Nehru tại Bắc Kinh ngày 19/10/1954
Thủ tướng J. Nehru và quân nhân tại Charduar tháng 11/1962
185
Tổng thống John F. Kennedy chào đón Thủ tướng Jawaharlal Nehru ở Washington, tháng 11/1961.
Poster của cuộc bầu cử Quốc hội Ấn Độ trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên 1951 - 1952.
186
Đếm phiếu bầu cho cuộc Tổng tuyển cử thứ hai trong năm 1957
Một cảnh tại một trạm bỏ phiếu ở Bắc Bombay trong cuộc Tổng tuyển cử thứ hai năm 1957
187
Một chiếc xe tải chiến dịch cho thấy một bức chân dung của J. Nehru và cặp con bò đực, biểu tượng cuộc bầu cử của Đảng.
Đập Bhakra-Nangal nằm trong số các dự án phát triển thủy lợi ở Ấn Độ sau độc lập thuộc bang Himachal Pradesh, tây bắc Ấn Độ, xây dựng năm 1948 và hoàn thành 1963.