BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

PHẠM QUỐC QUYẾT

SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HÓA NÔNG

SẢN VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Mã số : 9310102

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS. TS Đỗ Huy Hà

2. TS Đỗ Văn Nhiệm

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu

của riêng tác giả. Các số liệu, kết quả trình bày trong

luận án là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng,

không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN Phạm Quốc Quyết

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt TT Chữ viết đầy đủ

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH 1.

Diễn đàn kinh tế thế giới WEF 2.

HHNS 3. Hàng hóa nông sản

ASEAN 4. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

5. FTA Hiệp định thương mại tự do

6. HTX Hợp tác xã

7. KH&CN Khoa học và công nghệ

8. AFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN

9. NLCT Năng lực cạnh tranh

10. Ngân hàng thế giới WB

11. Nhà xuất bản Nxb

12. Nông nghiệp và Phát triển nông thôn NN&PTNT

13. SXKD Sản xuất kinh doanh

14. SCT Sức cạnh tranh

15. WTO Tổ chức thương mại thế giới

MỤC LỤC

Trang 5

TRANG BÌA PHỤ LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

11 11 19

1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài có liên quan đến đề tài luận án 1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước có liên quan đến đề tài luận án 1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công

bố và những vấn đề đặt ra luận án cần tập trung giải quyết

26 31

Chương 2. LÝ LUẬN VỀ SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HÓA NÔNG SẢN VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN 2.1. Một số vấn đề chung về hàng hóa nông sản và sức cạnh tranh của

hàng hóa nông sản Việt Nam

31

2.2. Tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh

tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam

42

2.3. Kinh nghiệm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản

53

ở một số quốc gia và bài học rút ra cho Việt Nam Chương 3. THỰC TRẠNG SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HÓA

NÔNG SẢN VIỆT NAM

71 71

3.1. Ưu điểm và hạn chế về sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam 3.2. Nguyên nhân ưu điểm, hạn chế và một số vấn đề đặt ra cần giải quyết nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam thời gian tới

105

Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HÓA NÔNG SẢN VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI

120 120

4.1. Quan điểm về nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam 4.2. Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản

Việt Nam thời gian tới

127 159

161 162 175

KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

4

DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH

Tên bảng Trang

TT

01. Bảng 3.1. Chi phí sản xuất lúa ở Việt Nam so với Thái Lan từ 77 năm 2011 - 2019

02. Bảng 3.2. Giá gạo xuất khẩu của các nước xuất khẩu gạo hàng 78 đầu thế giới năm 2011 - 2019

03. Bảng 3.3. So sánh chi phí sản xuất cà phê của Việt Nam với 79 một số nước năm 2019

04. Bảng 3.4. Giá cà phê xuất khẩu của các nước xuất khẩu cà phê 80 hàng đầu thế giới

05. Bảng 3.5. So sánh chi phí sản xuất trung bình một số loại quả 80 của Việt Nam với một số nước năm 2019

06. Bảng 3.6. So sánh chi phí chăn nuôi lợn Việt Nam với một số 82 nước năm 2019

83

07. Bảng 3.7. So sánh giá thịt lợn hơi trung bình các tháng trong năm 2019 các khu vực trong nước của Việt Nam với Trung Quốc 08. Bảng 3.8. So sánh chi phí chăn nuôi gia cầm Việt Nam với một 84 số nước năm 2019

09. Bảng 3.9. Diện tích, năng suất, sản lượng lúa sản xuất và sản 89 lượng gạo xuất khẩu Việt Nam từ năm 2011 - 2019

10. Bảng 3.10. Diện tích, năng suất, sản lượng sản xuất và sản 91 lượng xuất khẩu cà phê Việt Nam năm 2011 - 2019

11. Bảng 3.11. Kim ngạch và thị phần xuất khẩu rau quả Việt Nam 93 2011 - 2019

93

95 12. Bảng 3.12. Sản lượng sản xuất, sản lượng xuất khẩu, nhập khẩu, thị phần thịt lợn hơi xuất khẩu Việt Nam 2011 - 2019 13. Bảng 3.13. Sản lượng sản xuất, sản lượng xuất khẩu, nhập khẩu, thị phần thịt gia cầm xuất khẩu Việt Nam 2011 - 2019

Tên hình

14. Hình 3.1. Cơ cấu chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam so 97 với Thái Lan năm 2019

15. Hình 3.2. Tỷ trọng lao động trong tổng chi phí sản xuất lúa của 100 các nước.

5

MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài luận án

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại hiện nay,

thị trường tiêu thụ hàng hóa đã vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia. Vấn đề

cạnh tranh ở tầm quốc tế của sản phẩm hàng hóa trở thành đề tài nóng bỏng và

cấp thiết đối với mọi quốc gia. Các nước, một mặt kêu gọi tự do hóa mậu dịch,

mặt khác lại có những chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước, làm cho thương

mại quốc tế bị bóp méo, gây ra sự bất đồng trong các cuộc đàm phán. Thực chất

của những chính sách thương mại này đều nhằm mục đích nâng cao SCT của

hàng hóa sản xuất trong nước ở trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Lĩnh

vực được bảo hộ và gây tranh cãi nhiều nhất là lĩnh vực nông nghiệp.

Việt Nam là một nước nông nghiệp, đa số người dân sống ở nông thôn và làm nghề sản xuất nông nghiệp. Vì vậy nông nghiệp, nông thôn và nông dân nói

chung; sản xuất, xuất khẩu, nâng cao SCT của HHNS nói riêng, luôn là mối quan tâm hàng đầu trong các chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Chiến lược phát

triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2010 - 2020, Đảng ta xác định: “Phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh

tranh cao, thân thiện với môi trường, mở rộng xuất khẩu” [41, tr.195-196].

Thực tiễn, trải qua hơn 30 năm đổi mới, nền nông nghiệp Việt Nam nói

chung, năng suất, chất lượng và SCT của HHNS nói riêng, đã đạt được những

kết quả quan trọng; từ một nước thiếu lương thực nay đã vươn lên trở thành

một trong các quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới. Nhiều HHNS

đã trở thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, tạo nguồn thu

không nhỏ cho nền kinh tế đất nước, góp phần quan trọng vào thành công của

công cuộc xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của nông dân, phát triển

nông thôn, làm cơ sở ổn định phát triển kinh tế-xã hội đất nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, SCT của một số mặt

hàng nông sản Việt Nam vẫn còn thấp so với nông sản cùng loại của các nước

trong khu vực và trên thế giới. Điều này được biểu hiện cụ thể: chất lượng tuy

6

đã được cải thiện song vẫn còn ở mức thấp so với các nước có nền nông nghiệp

phát triển, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường; chi phí sản

xuất vẫn ở mức cao so với những lợi thế vốn có của đất nước; giá trị gia tăng thấp;

sản lượng không ổn định; thị trường xuất khẩu chưa đa dạng, thị phần còn nhỏ nhất

là trên thị trường các nước phát triển Mỹ, EU, Nhật Bản; số sản phẩm có thương

hiệu còn ít,.. Những hạn chế trên cũng là nguyên nhân dẫn tới hiện tượng “Mất mùa

được giá, được mùa rớt giá” thường xuyên diễn ra, gây thất thoát, lãng phí cả về vật

chất và tinh thần cho người sản xuất, nhất là bà con nông dân, ảnh hưởng không

nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế đất nước.

Trong thời gian tới, Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, HHNS Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt hơn với HHNS của các nước trên thế giới, kể cả ở thị trường trong nước. Nguy cơ “Thua trên sân nhà” sẽ xảy ra nếu như chúng ta không có các giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao SCT cho HHNS.

Vì vậy, nâng cao SCT của HHNS Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế vừa là tất yếu khách quan, vừa là yêu cầu cấp bách trong quá trình phát triển kinh tế nhanh, bền vững, những năm trước mắt cũng như lâu dài. Việc tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ hơn về lý luận và thực tiễn, đề xuất những quan điểm, giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao SCT của HHNS Việt Nam trong thời gian tới là một vấn đề hết sức cấp thiết.

Xuất phát từ những vấn đề trên, tác giả chọn đề tài “Sức cạnh tranh

của hàng hóa nông sản Việt Nam” làm luận án tiến sĩ.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về SCT của HHNS Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất các quan điểm và giải pháp nâng cao SCT của HHNS Việt Nam trong thời gian tới.

Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án thực hiện một số

nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

7

Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến SCT của HHNS và

tìm ra khoảng trống khoa học mà đề tài luận án cần tập trung nghiên cứu, giải quyết.

Làm rõ cơ sở lý luận về SCT của HHNS Việt Nam, khảo cứu kinh

nghiệm thực tiễn của một số quốc gia về nâng cao SCT của HHNS thời gian

qua, rút ra bài học cho Việt Nam có thể tham khảo.

Phân tích những ưu điểm, hạn chế; chỉ ra nguyên nhân của những ưu

điểm và hạn chế; rút ra những vấn đề đặt ra cần tập trung giải quyết từ thực

trạng SCT của HHNS Việt Nam để làm cơ sở đề ra quan điểm, giải pháp nâng

cao SCT của HHNS Việt Nam trong thời gian tới.

Đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao SCT của hàng hóa nông sản

Việt Nam thời gian tới.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu

Sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam

Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu về SCT của HHNS

với tư cách là cạnh tranh của sản phẩm ở cấp độ quốc gia Việt Nam, trong

mối tương quan so sánh với sản phẩm cùng loại của quốc gia khác dưới góc

độ nghiên cứu của khoa học Kinh tế chính trị. Hàng hóa nông sản mà luận án

nghiên cứu là các sản phẩm của nông nghiệp theo nghĩa hẹp (bao gồm trồng

trọt và chăn nuôi, không nghiên cứu lâm sản và thủy sản). Trong đó đi sâu

nghiên cứu SCT của 5 mặt hàng là gạo, cà phê, rau quả, thịt lợn, thịt và trứng

gia cầm. Đây là 5 sản phẩm trong số 13 sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc

gia theo Thông tư 37/2018 của Bộ NN&PTNT, đại diện cho các mặt hàng đã,

đang và sẽ có lợi thế cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.

Phạm vi không gian: Luận án nghiên cứu SCT của HHNS Việt Nam trên

thị trường trong nước và thị trường quốc tế (tập trung vào thị trường xuất khẩu

là chủ yếu; đối thủ cạnh tranh là những sản phẩm nông sản cùng loại của các

quốc gia khác đang cạnh tranh với sản phẩm của Việt Nam trên thị trường).

Phạm vi thời gian: Luận án khảo sát từ năm 2011 đến năm 2019.

8

4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận

Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác -

Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt

Nam về phát triển kinh tế hàng hóa, nông nghiệp hàng hóa trong nền kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Cơ sở thực tiễn

Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở kinh nghiệm về nâng cao SCT của

HHNS ở một số quốc gia; thực trạng SCT của HHNS Việt Nam thông qua các

số liệu, tư liệu đã được công bố của các bộ, ban, ngành, địa phương có liên

quan ở Việt Nam từ năm 2011 đến năm 2019 và kế thừa kết quả nghiên cứu

của một số công trình khoa học liên quan trực tiếp đến luận án.

Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác -

Lênin, luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên

ngành; trong đó chú trọng phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lôgíc và

lịch sử, phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh và phương pháp chuyên gia.

Phương pháp trừu tượng hóa khoa học: Sử dụng phương pháp này,

luận án không đi sâu vào nghiên cứu hết các nội dung, tiêu chí đánh giá SCT

của tất cả các mặt hàng nông sản mà chỉ tập trung vào 4 tiêu chí là: chất

lượng, giá cả, thương hiệu và thị phần của 5 nhóm mặt hàng chính là: gạo, cà

phê, rau quả, thịt lợn, thịt và trứng gia cầm. Đây là những nội dung, tiêu chí

đánh giá cơ bản về SCT của hàng hóa và những mặt hàng chủ lực đại diện,

mà khi nghiên cứu sẽ phản ánh được tương đối đầy đủ bản chất cốt lõi về SCT

của HHNS Việt Nam theo phạm vi nghiên cứu. Phương pháp này áp dụng ở

chương 2 để phân tích làm rõ quan niệm trung tâm của luận án; xác định các

nhân tố ảnh hưởng đến SCT của HHNS; đồng thời, cũng được sử dụng trong

khảo sát, khái quát hóa những kinh nghiệm về nâng cao SCT của HHNS ở các

quốc gia thành những bài học cho Việt Nam có thể tham khảo.

9

Phương pháp kết hợp logic và lịch sử: Được sử dụng ở chương 2 để

xây dựng khung lý luận; sử dụng ở chương 3 để đánh giá thực trạng SCT của

HHNS Việt Nam; sử dụng trong chương 4 để cụ thể hóa các quan điểm thành

các giải pháp khả thi, phù hợp với thực tiễn SCT của HHNS Việt Nam.

Phương pháp phân tích - tổng hợp: được sử dụng trong chương 1 của luận

án để đánh giá, khái quát hóa các công trình khoa học đã công bố, từ đó rút ra

những vấn đề mà luận án có thể kế thừa, phát triển. Phương pháp này, cũng được

sử dụng trong chương 3 và chương 4, để phân tích thực trạng SCT của HHNS

Việt Nam, rút ra những vấn đề cần tập trung giải quyết, làm rõ nội dung quan

điểm và luận giải các giải pháp nâng cao SCT của HHNS Việt Nam thời gian tới.

Phương pháp thống kê - so sánh: được sử dụng chủ yếu trong chương 3 của

luận án, nhằm phân tích, tổng hợp, xử lý các số liệu, tư liệu đã thu thập, so sánh số

liệu qua từng năm hoặc so với các quốc gia khác để minh chứng, làm rõ những

thành tựu, hạn chế SCT của HHNS Việt Nam từ năm 2011 đến năm 2019.

5. Những đóng góp mới của luận án

Luận án được thực hiện thành công sẽ có những đóng góp mới về khoa

học, như:

Đã đưa ra và làm rõ quan niệm, tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến SCT của HHNS Việt Nam, dưới góc độ tiếp cận của Kinh tế chính trị học Mác - Lênin.

Phân tích, đánh giá thực trạng SCT của HHNS Việt Nam; xác định nguyên nhân và chỉ ra bốn vấn đề bức thiết cần tập trung giải quyết nhằm nâng cao SCT của HHNS Việt Nam trong thời gian tới.

Luận án đã đề xuất được hệ thống gồm năm quan điểm và năm giải

pháp nâng cao SCT của HHNS Việt Nam trong thời gian tới.

6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án

Ý nghĩa lý luận

Luận án bước đầu góp phần bổ sung làm rõ hơn về lý luận SCT của

HHNS Việt Nam, nâng cao hiệu quả quán triệt, thực thi đường lối, chủ trương

10

của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển sản xuất nông

nghiệp hàng hóa nói chung, nâng cao SCT của HHNS nói riêng.

Ý nghĩa thực tiễn

Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong học tập, giảng dạy và

nghiên cứu khoa học ở một số môn học, khối ngành kinh tế chính trị, kinh tế

nông nghiệp và những môn học khác liên quan. Luận án là những gợi ý khoa

học để các vùng, các địa phương, các nhà quản lý, các chủ thể sản xuất, kinh

doanh HHNS có thể tham khảo.

7. Kết cấu của luận án

Luận án bao gồm: Phần mở đầu, 4 chương (10 tiết), kết luận, danh mục

các công trình của tác giả đã công bố, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

11

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài có liên quan đến đề tài

luận án

1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến cạnh tranh, sức cạnh

tranh của quốc gia, của ngành, của doanh nghiệp và sản phẩm

Michael E. Porter (1980), Competitive Strategy - Techniques for

Analyzing Industries and Competitors (Chiến lược cạnh tranh: Kỹ thuật phân

tích ngành và đối thủ cạnh tranh) [140]. Trong tác phẩm này Michael E.

Porter đã đưa ra những kỹ thuật để phân tích ngành công nghiệp và đối thủ

cạnh tranh, trong đó đặc biệt Porter đã phân tích làm rõ cơ cấu của ngành,

những yếu tố quyết định sức cạnh tranh trong ngành (gồm 5 yếu tố quan trọng

là: Nhà cung cấp, khách hàng, các sản phẩm dịch vụ thay thế, những đối thủ

tiềm năng và cạnh tranh giữa các đối thủ trong ngành), chu kỳ sống của sản

phẩm, khung phân tích và dự báo sự vận động của ngành. Theo Micheal

Porter: Tiêu chí để đánh giá sức cạnh tranh của nền kinh tế là năng suất sản

xuất của quốc gia, đây cũng là yếu tố chủ yếu của sự phát triển bền vững và

cũng là yếu tố căn bản biểu thị mức thu nhập bình quân đầu người của mỗi

nước. Do vậy mỗi chủ thể trong nền kinh tế muốn nâng cao SCT phải không

ngừng nâng cao năng suất sản xuất, bằng cách liên tục cải tiến và đổi mới.

Michael E. Porter (1985), Competitive Advantage: Creating and

Sustaining Superior Performance (Lợi thế cạnh tranh: Tạo lập và duy trì hiệu

suất cao) [141]. Trong tác phẩm này, trên cơ sở quan niệm về chuỗi giá trị,

Porter phân tích quá trình tạo nên giá trị và tạo lập lợi thế cạnh tranh của sản

phẩm từ khi sản xuất đến tay người tiêu dùng. Theo Porter: Chuỗi giá trị là

tổng thể những hoạt động liên quan đến sản xuất, tiêu thụ một sản phẩm hoặc

dịch vụ nào đó; tác giả cho rằng, trong chuỗi giá trị bao gồm có 9 hoạt động

(5 hoạt động cơ bản và 4 hoạt động bổ trợ). Các hoạt động cơ bản bao gồm

một chuỗi những công việc từ cung cấp nguyên vật liệu đầu vào; gia công sản

12

phẩm; phân phối sản phẩm; hoạt động bán hàng và các dịch vụ sau bán hàng.

Những hoạt động cơ bản đó trực tiếp liên quan đến luồng di chuyển của quá

trình tạo ra giá trị sử dụng của sản phẩm và đưa sản phẩm đến với người tiêu

dùng. Các hoạt động bổ trợ bao gồm: Hoạt động quản trị thu mua và kiểm

soát quá trình lưu chuyển vật tư qua chuỗi giá trị; nghiên cứu và phát triển

(R&D); Hoạt động quản trị nguồn nhân lực;… Hoạt động bổ trợ tuy không

trực tiếp liên quan đến việc tạo ra giá trị sử dụng cho sản phẩm, nhưng chúng

lại tham gia vào toàn bộ quá trình tạo ra giá trị của các hoạt động cơ bản và có

chức năng trợ giúp cho các hoạt động cơ bản. Để tạo ra giá trị gia tăng, đồng

thời tạo lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm, đòi hỏi doanh nghiệp cần phải tối ưu

hóa và tạo lợi thế cạnh tranh ở tất cả các hoạt động trong chuỗi giá trị.

Michael E. Porter (1990), The Competitive Advantage of Nations

(Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia) [142]. Trong cuốn sách này Porter

đã đưa ra mô hình kim cương, đề cập đến các yếu tố ảnh hưởng đến SCT

và sự thịnh vượng của một quốc gia như: Điều kiện cầu; sự ngẫu nhiên; vai

trò chính phủ; điều kiện yếu tố sản xuất; các ngành công nghiệp hỗ trợ và

các ngành công nghiệp có liên quan; chiến lược, cấu trúc và cạnh tranh

trong nước của các công ty. Ngoài ra cuốn sách cũng bàn về lợi thế của các

doanh nghiệp, Porter cho rằng một doanh nghiệp có SCT cao thì có thể có

những ưu thế hơn so với các doanh nghiệp cùng ngành khác, như: Thị

phần, quy mô hoạt động, uy tín, hình ảnh doanh nghiệp, chất lượng sản

phẩm, đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng, giá thành sản phẩm, hiệu

quả của mạng lưới bán hàng, đầu tư cho tiếp thị, năng lực nghiên cứu và

phát triển và năng lực quản lý và điều hành.

John H. Dunning (1993), “Internationalizing Porter ’s diamond”

(Quốc tế hóa mô hình kim cương của Porter) [138]. Trong bài báo

Dunning đã mở rộng mô hình kim cương của Porter trong điều kiện toàn

cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới. Tác giả cho rằng mô hình kim cương

đã cũ không còn chính xác cho việc đánh giá SCT của các quốc gia, của

ngành trong bối cảnh trao đổi thương mại, đầu tư và hợp tác quốc tế. Vì

13

vậy Dunning đã đưa thêm nhân tố đầu tư nước ngoài vào mô hình kim

cương của Porter để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến SCT của quốc gia

và của ngành.

Alvin G. Wint (2000), Competitiveness in Small Developing Economies:

Insights from the Caribbean (Năng lực cạnh tranh trong các nền kinh tế đang

phát triển nhỏ: Những hiểu biết từ vùng biển Caribbean) [121]. Trong nghiên

cứu này, tác giả đã chỉ ra: Các nền kinh tế nhỏ và đang phát triển đã ý thức

sâu sắc về những thách thức được tạo ra bởi sự hội nhập ngày càng tăng

của thị trường vốn, lao động, sản phẩm và thông tin. Các nhà hoạch định

chính sách từ các nền kinh tế này, đã tìm kiếm một phản ứng hai chiều để

tham gia vào quá trình hội nhập, đó là: Nỗ lực vận động hành lang ngày

càng tăng cho các nền kinh tế này được điều chỉnh đặc biệt, hoặc công

bằng hơn trong các cuộc đối thoại hội nhập thị trường và cải thiện SCT nền

kinh tế của họ. Tác giả đã đi sâu phân tích những cơ hội và thách thức liên

quan đến SCT ngày càng tăng ở các nền kinh tế nhỏ, đang phát triển dựa

trên nghiên cứu được tiến hành ở vùng biển Caribbean. Thông qua đó tác

giả chỉ ra những hoạt động cần thiết để nâng cao SCT như: Điều chỉnh

chính sách vĩ mô của chính phủ; cải thiện môi trường đầu tư; thu hút đầu tư

trực tiếp nước ngoài và duy trì tỷ giá hối đoái ổn định, linh hoạt.

Bạch Thụ Cường (2002), Bàn về cạnh tranh toàn cầu [34]. Đây là công

trình nghiên cứu của Giáo sư Bạch Thụ Cường, Hội trưởng Hội nghiên cứu

các tổ chức Thương mại thế giới, do Nhà xuất bản Khoa học xã hội Trung

Quốc ấn hành năm 2000. Cuốn sách được Nguyễn Trình và Lưu Thị Thìn

dich sang tiếng Việt, được Nhà xuất bản Thông tấn ấn hành năm 2002. Nội

dung cuốn sách được chia làm 4 chương. Chương 1, tác giả đã khái quát một

số vấn đề về cạnh tranh quốc tế trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế. Chương

2, tác giả đã phân tích về sự thay đổi của lý luận cạnh tranh trong điều kiện

toàn cầu hóa kinh tế; trong phần này, tác giả đã hệ thống các lý luận canh

tranh từ lý luận cạnh tranh cổ điển như: (lý luận cạnh tranh của Adam Smith,

John Stuart Mill, Darwin, của C.Mác và mô hình tâm lý), lý luận cạnh tranh

14

hiện đại (Lý luận cạnh tranh trường phái cổ điển- mới, trường phái Áo và của

Michael Porter). Từ hệ thống các lý luận về cạnh tranh, tác giả đã phân tích về

sự thay đổi quan niệm cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế.

Chương 3, tác giả giới thiệu về tiền đề, biện pháp và mục tiêu của chính sách

cạnh tranh, tiếp đó tiến hành phân tích hiệu ứng thực thi chính sách cạnh tranh

và quan hệ giữa chính sách cạnh tranh với các chính sách kinh tế khác.

Chương 4, tác giả tập trung phân tích sự hình thành lý luận cạnh tranh quốc tế

và sự lựa chọn chính sánh cạnh tranh ở Trung Quốc.

Ambastha & Momaya (2004), Competitiveness of firms: review of

theory, frameworks and models (Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:

đánh giá lý thuyết, khuôn khổ và mô hình) [122]. Trong nghiên cứu của mình

Ambastha và Momaya đã đưa ra lý thuyết, khung phân tích mô hình để làm rõ

SCT ở cấp độ doanh nghiệp. Theo đó SCT của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng

của các yếu tố đó là: Nguồn lực (tài sản của doanh nghiệp, nguồn nhân lực,

cấu trúc, trình độ công nghệ, văn hóa); quy trình (chiến lược, quy trình quản

lý, quy trình tiếp thị, quy trình công nghệ); hiệu suất (chi phí, thị phần, giá cả

và phát triển sản phẩm mới).

Arnis Sauka (2014), Measuring the Competitiveness of Latvian

Companies (Đo lường tính cạnh tranh của các công ty Latvia) [123]. Ở bài viết

này Sauka đã trình bày kết quả nghiên cứu về SCT của các công ty ở Latvia,

tác giả đã xác định 7 nhân tố ảnh hưởng đến SCT ở cấp doanh nghiệp, bao

gồm: Năng lực tiếp cận các nguồn lực; nguồn lực tài chính; chiến lược kinh

doanh; năng lực làm việc của nhân viên; tác động của môi trường; năng lực

kinh doanh so với đối thủ; sử dụng các mạng lưới thông tin liên lạc.

BRICS (2017), Innovative Competitiveness Report - Research Series on

the Chinese Dream and China’s Development Path (BRICS Báo cáo cạnh

tranh sáng tạo năm - Các nghiên cứu về giấc mơ Trung Quốc và con đường

phát triển của Trung Quốc) [128]. Báo cáo của Khối các nền kinh tế mới nổi

(BRICS) gồm 3 phần: Phần tổng hợp, phần báo cáo của các quốc gia trong

khối và phần chuyên đề. Phần báo cáo tổng hợp đã đưa ra dự đoán 5 năm tới

15

sẽ chứng kiến 5 quốc gia trong khối tiếp tục cải thiện khả năng cạnh tranh

sáng tạo quốc gia. Trung Quốc và Nga duy trì đà tăng trưởng mạnh mẽ, Ấn

Độ tăng trưởng với tốc độ vừa phải, Brazil và Nam Phi dần dần tăng tốc. Khả

năng cạnh tranh sáng tạo quốc gia của năm quốc gia trong khối sẽ giữ cho

tăng trưởng ổn định vào năm 2030. Đồng thời trình bày một phân tích toàn

diện về tình hình hiện tại, những thành tựu của hợp tác về khoa học công nghệ

và đổi mới sáng tạo (STI: science technology and innovation) giữa Trung

Quốc và các nước BRICS khác, đề xuất các lĩnh vực ưu tiên trong hợp tác STI

nhằm cung cấp đầu vào quyết định, có giá trị cho các quốc gia BRICS để thúc

đẩy cải thiện khả năng cạnh tranh quốc gia của họ. Phần Báo cáo của các

quốc gia: tập trung phân tích và đưa ra dự đoán về khả năng cạnh tranh sáng

tạo quốc gia của các nước BRICS dựa trên một cuộc khảo sát về sự phát triển

STI của họ và sự hợp tác STI trong khuôn khổ BRICS. Phần Báo cáo chuyên

đề: tập trung vào bốn lĩnh vực liên quan chặt chẽ đến STI như: kinh tế kỹ

thuật số (bao gồm tài chính, năng lượng và nông nghiệp); phân tích chi tiết về

phát triển STI; tiềm năng của các quốc gia trong khu vực có liên quan và khả

năng cạnh tranh sáng tạo quốc gia của các nước BRICS.

Ngoài các công trình nghiên cứu đã nêu trên, có thể nói hiện nay những

nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn trên thế giới về SCT rất phong phú, như

nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (WB), của Diễn đàn kinh tế thế giới

(WEF), Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)... Các lý thuyết cạnh

tranh hiện đại đều tập trung nghiên cứu về vai trò của cạnh tranh, đề cập và

lượng hóa những tiêu chí đánh giá SCT và những biện pháp nâng cao SCT

cho các chủ thể trên thị trường, trong đó cách tiếp cận của WEF và của M.

Porter về cạnh tranh và SCT được hầu hết các quốc gia và tổ chức quốc tế thừa

nhận. Theo cách tiếp cận của WEF thì SCT quốc gia được hợp bởi nhiều nhân

tố đó là: Thể chế, chính sách kinh tế vĩ mô, cơ sở hạ tầng, năng suất lao động

và quy mô thị trường… Trong đó, SCT của doanh nghiệp nội địa là một chỉ số

quan trọng để đánh giá SCT quốc gia. Vai trò của từng yếu tố phản ánh những

điều kiện thuận lợi, hạn chế cụ thể đến SCT của quốc gia cũng như của doanh

16

nghiệp và được cho điểm tính theo thang điểm thứ tự số lượng các quốc gia

được xem xét trên cơ sở tham khảo ý kiến các tổ chức kinh tế hàng đầu trên thế

giới. Tập hợp các chỉ số trên phản ánh kết quả xếp hạng SCT hàng năm của các

nền kinh tế trên thế giới [45, tr.12-13].

1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến sức cạnh tranh của

ngành nông nghiệp và của hàng hóa nông sản

S. Sachdev (1993), International Competitiveness and Agricultural

Export of India (Khả năng cạnh tranh quốc tế và xuất khẩu nông sản của Ấn

Độ) [149]. Trong bài báo này, tác giả đã phân tích lợi thế so sánh trong hoạt

động xuất khẩu nông sản, Theo S. Sachdev, SCT của các sản phẩm nông

nghiệp chịu tác động của việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Do đó, không

dễ để định lượng SCT sản phẩm nông sản của các quốc gia. S. Sachdev đã đi

sâu phân tích lợi thế so sánh của Ấn Độ về thương mại đối với các sản phẩm

nông nghiệp, chỉ ra các loại sản phẩm nông nghiệp mà Ấn độ tập trung sản

xuất, xuất khẩu sẽ có lợi thế và giá trị.

Paul Piang Siong Teng (2013), Agricultural Biotechnology and

Global Competitiveness (Công nghệ sinh học nông nghiệp và khả năng

cạnh trạnh toàn cầu) [146]. Cuốn sách tập hợp các báo cáo trình bày tại

Hội nghị kinh doanh nông nghiệp và thực phẩm Châu Á 2013 về công nghệ

sinh học nông nghiệp và khả năng cạnh tranh toàn cầu. Các bài viết tập

trung phân tích làm rõ về: Các xu hướng ứng dụng công nghệ sinh học

trong nông nghiệp; thương mại hóa công nghệ sinh học nông nghiệp; quản

lý rủi ro trong nông nghiệp; tính bền vững của sản xuất nông nghiệp; vai

trò của công nghệ sinh học trong việc nâng cao năng suất xanh và khả năng

cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp.

A. Siva Sankar and K. Nirmal Ravi Kumar (2014), Domestic and

Export Competitiveness of Major Agrultural Commodities in Andhra Pradesh

- a Case Study (Khả năng cạnh tranh trong nước và xuất khẩu các mặt hàng

nông sản chính ở Andhra Pradesh - một nghiên cứu điển hình) [125]. Nội

dung bài báo nhấn mạnh: Tự do hóa thương mại thế giới trong nông nghiệp

17

đã mở ra khung cảnh tăng trưởng mới; Ấn Độ thực hiện chế độ kinh tế mới

này từ đầu những năm 90 và đã dẫn đến việc thiết lập lại các mục tiêu trong

phát triển nông nghiệp theo hướng cạnh tranh toàn cầu và định hướng xuất

khẩu. Ấn Độ có lợi thế cạnh tranh đối với một số mặt hàng nông sản xuất

khẩu như thóc, bông, ớt, nghệ và ngô, vì gần như tự cung tự cấp đầu vào, chi

phí nhân công thấp và điều kiện khí hậu nông nghiệp đa dạng. Trong thập kỷ

tới, Ấn Độ có khả năng chứng kiến những thay đổi trong mô hình xuất khẩu

các mặt hàng này do cả những hạn chế trong và ngoài nước. Một trong những

hạn chế bên ngoài quan trọng nhất bao gồm việc trợ giá quá mức của các

nước nhập khẩu làm cho hàng hóa Ấn Độ ít cạnh tranh hơn trên thị trường nội

địa. Bài viết đi sâu phân tích khả năng cạnh tranh cả ở trong nước và xuất

khẩu các mặt hàng nông sản chính của huyện Guntur ở Andhra Pradesh. Để

nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản trong thời gian tới,

Ấn Độ cần có những chính sách khuyến khích hơn nữa các chủ thể sản xuất

nông nghiệp, thiết lập một mục tiêu mới cho “Cách mạng xuất khẩu nông

nghiệp”. Quá trình đó, Ấn Độ vẫn phải phấn đấu nắm giữ một vị trí quan

trọng trên thị trường xuất khẩu đối với những hàng hóa nông sản truyền thống

đồng thời phải nghiên cứu phát triển các khu vực mới và hàng hóa mới mà Ấn

Độ có lợi thế như động vật sống, các sản phẩm động vật, rau, hoa quả, cây

thuốc và nông sản chế biến.

Weiming Yao (2015), Impact of Agricultural Modernization, Economic

Growth and Industrialization on the International Competitiveness of

Agricultural (Tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp tới

tăng trưởng kinh tế và năng lực cạnh tranh quốc tế của các sản phẩm nông

nghiệp) [155]. Trong cuốn sách này, các tác giả đã phân tích thực trạng và tác

động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, tới tăng trưởng kinh tế

và khả năng cạnh tranh quốc tế của các sản phẩm nông nghiệp Trung Quốc và

thế giới từ năm 1986 đến 2011. Trên cơ sở đánh giá thực trạng tác giả đã đề

xuất các giải pháp nhằm khắc phục sự chậm chạp của qúa trình CNH, HĐH

18

nông nghiệp Trung Quốc đó là: nâng cao trình độ KH&CN trong nông nghiệp;

sử dụng các quy tắc của Tổ chức thương mại thế giới để tạo môi trường thuận

lợi cho sự phát triển nông nghiệp và cải thiện khả năng cạnh tranh quốc tế của

các sản phẩm nông nghiệp; phát triển mạnh công nghiệp chế biến…

Roger D. Norton (2017), The Competitiveness of Tropical Agriculture,

A Guide to Competitive Potential with Case Studies (Tính cạnh tranh của

nông nghiệp nhiệt đới, hướng dẫn về tiềm năng cạnh tranh với những nghiên

cứu điển hình) [147]. Cuốn sách đã chỉ ra các tiềm năng về cạnh tranh của

nông nghiệp nhiệt đới. Tác giả nhấn mạnh, xuất khẩu trái cây nhiệt đới, quả,

hạt và các loại cây trồng có giá trị cao khác đang phát triển rất nhanh từ các

nước đang phát triển. Tuy nhiên hoạt động sản xuất, xuất khẩu nông sản ở các

nước đang phát triển thường gặp phải những khó khăn, trở ngại trong chuỗi

giá trị như: vấn đề về bảo đảm an toàn thực phẩm, môi trường, mà đặc biệt là

cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu.

Attila Jambor - Suresh Babu (2018), Competitiveness of Global

Agriculture: Policy Lessons for Food Security (Tính cạnh tranh của nông

nghiệp toàn cầu: Bài học chính sách về an ninh lương thực) [124]. Công trình

nghiên cứu về việc kết hợp an ninh lương thực và cạnh tranh nông nghiệp

trong đối xử với nhau của các quốc gia. Tác giả đã hệ thống các quan niệm về

an ninh lương thực, cạnh tranh nông nghiệp; tiến hành đánh giá về những

thách thức an ninh lương thực toàn cầu và khu vực trong bối cảnh hội nhập,

cạnh tranh nông nghiệp ngày một gay gắt. Tác giả nêu lên các mô hình

thương mại; cạnh tranh nông nghiệp toàn cầu và sử dụng nó làm cơ sở để

phân tích an ninh lương thực toàn cầu. Mặt khác tác giả cũng chỉ ra các quốc

gia, khu vực nên tập trung vào nhóm sản phẩm có sức cạnh tranh cao, đồng

thời nêu lên các bài học về chính sách phát triển nông nghiệp của một số quốc

gia đã thành công, khuyến nghị về giải pháp tăng năng lực cạnh tranh nông

nghiệp quốc gia, khu vực và toàn cầu để đạt được mục tiêu an ninh lương

thực bền vững.

19

1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước có liên quan đến đề tài

luận án

1.2.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến cạnh tranh, sức cạnh

tranh của quốc gia, của ngành, của doanh nghiệp và sản phẩm

Viện Nghiên cứu Khoa học thị trường giá cả (2000), Những giải pháp

nhằm phát huy có hiệu quả lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong tiến trình

hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới [115]. Công trình đã tập trung

phân tích những diễn biến về khả năng cạnh tranh của ngành hàng lúa gạo,

ngành xi măng và mía đường, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu

nhằm phát huy có hiệu quả lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong tiến trình

hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới.

Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước

ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế [21]. Công trình nghiên cứu về

SCT của nền kinh tế Việt Nam, đi sâu phân tích SCT của một số mặt hàng

xuất khẩu chủ yếu trong đó có các sản phẩm nông sản như gạo, cà phê, chè,

thủy sản. Để phân tích SCT của sản phẩm, tác giả đã dựa trên các tiêu chí

chính như: chi phí sản xuất, chất lượng và uy tín sản phẩm, giá xuất khẩu,

thị trường tiêu thụ...

Nguyễn Hữu Thắng (2008), Nâng cao năng lực cạnh tranh của các

doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay [91].

Cuốn sách đã hệ thống hóa các kết quả nghiên cứu về vấn đề NLCT của doanh

nghiệp, từ đó đưa ra khung lý thuyết mới, sử dụng phương pháp toán học để

lượng hóa các tiêu chí và yếu tố cấu thành NLCT của doanh nghiệp trong xu

thế hội nhập kinh tế quốc tế; tác giả cuốn sách cũng đã nêu lên các nhân tố tác

động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm các yếu tố bên trong

và các yếu tố bên ngoài; đồng thời nhấn mạnh yêu cầu nâng cao năng lực cạnh

tranh của doanh nghiệp Việt Nam trước bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Đỗ Huy Hà (2011), Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt

Nam gắn với tăng cường quốc phòng ở nước ta hiện nay [46]. Trong cuốn sách

này, tác giả đã đưa ra các khái niệm về cạnh tranh, sức cạnh tranh và nâng cao

20

sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tác

giả làm rõ mối quan hệ giữa nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt

Nam với tăng cường quốc phòng trong hội nhập kinh tế quốc tế, nêu lên các bài

học quốc tế về vấn đề này. Từ thực trạng nâng cao sức cạnh tranh của doanh

nghiệp Việt Nam thời gian qua và thực trạng của việc gắn kết, tác động của

hoạt động nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam đối với tăng

cường quốc phòng, tác giả đã đưa ra các quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao

sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế gắn

với tăng cường quốc phòng ở nước ta trong trong thời gian tới.

Vũ Văn Phúc (2012), Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam

sau 5 năm gia nhập WTO [79]. Cuốn sách là tập hợp, tuyển chọn các bài tham

luận của Hội thảo “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam sau 5

năm gia nhập WTO”. Nội dung các bài viết phản ánh thực trạng năng lực

cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam sau 5 năm gia nhập WTO qua nhiều

cách tiếp cận khác nhau: Theo ngành, theo lĩnh vực, theo loại hình doanh

nghiệp… Thời gian 5 năm gia nhập WTO chưa phải là dài, nhưng cũng đủ để

đánh giá sức mạnh nội lực của các doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh

quốc tế ngày càng gay gắt. Các tác giả cũng đưa ra một số giải pháp, kiến

nghị và bài học kinh nghiệm để giúp doanh nghiệp Việt Nam nâng cao NLCT

một cách lành mạnh và bền vững trong thời gian tới.

Nguyễn Duy Hùng (2016), Nâng cao năng lực cạnh tranh của các

công ty chứng khoán Việt Nam [49]. Trong công trình này tác giả đã xác

định hệ thống gồm 7 yếu tố bên trong, tác động đến NLCT của các công ty

chứng khoán Việt Nam, bao gồm: Tiềm lực tài chính; vốn trí tuệ; trình độ

công nghệ; chất lượng sản phẩm; chất lượng dịch vụ; uy tín và hoạt động

xúc tiến thương mại; thương hiệu; mạng lưới hoạt động. Tác giả đã lượng

hóa được mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố bên trong tới NLCT của các

công ty chứng khoán Việt Nam. Từ đó đưa ra giải pháp tương ứng nhằm

nâng cao NLCT cho các công ty chứng khoán Việt Nam trong bối cảnh tự

do hoá thị trường chứng khoán…

21

Phạm Thị Hồng Yến (2017), Cải thiện môi trường kinh doanh nâng

cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong hội nhập FTA [119]. Nội dung cuốn

sách gồm 3 phần chính. Phần 1, tác giả khái quát một số vấn đề lý luận về:

môi trường kinh doanh, NLCT quốc gia, chỉ số NLCT toàn cầu, môi trường

kinh doanh và NLCT cấp tỉnh, thành phố. Phần 2, tác giả đánh giá thực trạng

môi trương kinh doanh và NLCT của quốc gia Việt Nam, nêu lên một số hạn

chế, bất cập cần tập trung bổ sung, hoàn thiện nhằm cải thiện môi trường kinh

doanh và NLCT quốc gia Việt Nam. Theo tác giả, các hạn chế, bất cập đó

thuộc 4 nhóm yếu tố chính, đó là: thể chế và thực thi thể chế; yếu tố về kinh tế

vĩ mô; về tiếp cận các nguồn lực và thị trường; yếu tố về sự phát triển của

doanh nghiệp. Phần 3, tác giả đưa ra một số định hướng và giải pháp đẩy

mạnh cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao NLCT quốc gia một cách

bền vững trong bối cảnh hội nhập AFTA.

Phạm Thu Hương (2017), Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và

vừa, nghiên cứu trên địa bàn Thành phố Hà Nội [51]. Công trình đã đi sâu phân

tích làm rõ cơ sở lý luận về NLCT của doanh nghiệp nhỏ và vừa, đưa ra khái

niệm, các tiêu chí xác định NLCT và các nhân tố ảnh hưởng đến NLCT của doanh

nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Hà Nội. Bằng phương pháp nghiên cứu

định tính và định lượng tác giả đã nêu lên thực trạng NLCT của các doanh nghiệp

nhỏ và vừa trên địa bàn Thành phố Hà Nội thông qua các tiêu chí như: Năng lực

tài chính, năng lực tổ chức quản lý doanh nghiệp, năng lực tiếp cận và đổi mới

công nghệ, năng lực tạo lập các mối quan hệ, năng lực Marketing, năng lực tổ

chức dịch vụ. Thông qua đánh giá thực trạng, tác giả đã đưa ra một số khuyến

nghị đối với doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước nhằm nâng cao

NLCT của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Thành phố Hà Nội.

Nguyễn Thị Đức Loan (2017), Quản trị chi phí chiến lược (SCM), công

cụ nâng cao năng lực cạnh tranh trong các doanh nghiệp Việt Nam [58]. Ở

bài viết này, tác giả nhấn mạnh quản lý chi phí có vai trò đặc biệt hữu ích

trong hoạt động SXKD của doanh nghiệp vì nó cho phép sử dụng có hiệu quả

các nguồn lực, nhất là nguồn lực về tài chính của doanh nghiệp. Ngoài ra,

22

việc quản lý chi phí tốt, sẽ giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp thiết lập

được mục đích đó là: Giảm thiểu chi phí và tối đa hóa lợi nhuận. Quản lý chi

phí là một hoạt động có chức năng như một chiến lược để cắt giảm tất cả các

chi phí không cần thiết, để đạt được mức lợi nhuận cao hơn trong hoạt động

SXKD của doanh nghiệp. Bài báo cũng đã chỉ ra, làm cách nào để giảm thiểu

việc chi thừa trong hoạt động SXKD. Quản lý chi phí chiến lược tốt sẽ nâng

cao hiệu quả SXKD, cũng như tối đa hóa lợi nhuận và nâng cao vị thế cạnh

tranh trên thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam. Quản lý chi phí có hiệu

quả là giảm việc sử dụng các loại tài nguyên, nguyên liệu đầu vào, giảm chi

phí tài sản cố định và chi phí hành chính (việc lập kế hoạch, kiểm soát chi

tiêu, kiểm soát chi phí, xác định chỉ số lợi nhuận trên từng sản phẩm, nghiên

cứu thị trường…). Tác giả khẳng định quản lý chi phí tốt là điều cần thiết để

cạnh tranh về giá của sản phẩm.

1.2.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến sức cạnh tranh của

ngành nông nghiệp và của hàng hóa nông sản

Nguyễn Đình Long, Nguyễn Tiến Mạnh (1999), Phát huy lợi thế, nâng

cao khả năng cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam [60]. Trong công

trình này các tác giả đã tập trung phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm và tiêu

chí về lợi thế cạnh tranh đối với hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Tác

giả cho rằng, lợi thế cạnh tranh biểu hiện trên các nội dung: chất lượng sản

phẩm, khối lượng sản phẩm, kiểu dáng, mẫu mã, uy tín của sản phẩm, môi

trường kinh tế vĩ mô và giá thành sản phẩm. Từ đó phân tích lợi thế cạnh

tranh của một số nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam như: Lúa gạo, cà

phê, cao su, chè, điều; đồng thời kiến nghị một số giải pháp nhằm phát huy lợi

thế của nông sản xuất khẩu Việt Nam.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2000), Khả năng cạnh tranh

của ngành nông nghiệp Việt Nam: Một sự phân tích sơ bộ trong bối cảnh hội

nhập ASEAN và AFTA [11]. Công trình đã đề cập đến khả năng cạnh tranh

của một số mặt hàng nông sản Việt Nam như gạo, hạt điều, cà phê, đường,

thịt lợn, thông qua các yếu tố như: Chi phí sản xuất và tiếp thị, năng suất, giá

23

cả, kim ngạch xuất khẩu. Thông qua phân tích thực trạng, công trình đã

khuyến nghị một số giải pháp để cải thiện khả năng cạnh tranh của các sản

phẩm nông sản Việt Nam trên thị trường.

Nguyễn Đình Long (2001), Nghiên cứu những giải pháp chủ yếu nhằm

phát huy lợi thế nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển thị trường xuất

khẩu nông sản trong thời gian tới [59]. Trong công trình nghiên cứu này, tác

giả đã phân tích làm rõ các quan niệm cơ bản về lợi thế so sánh và lợi thế

cạnh tranh. Nêu lên những đặc điểm của các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ

yếu của Việt Nam như: (gạo, cao su, chè, cà phê và điều) từ đó đưa ra 2 nhóm

tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh của các mặt hàng trên đó là: nhóm tiêu

chí về định tính gồm (chất lượng và độ an toàn trong sử dụng, kiểu dáng, mẫu

mã sản phẩm, quy mô khối lượng, độ phù hợp của thị hiếu và tập quán của

người tiêu dùng, giá thành sản phẩm,..); nhóm tiêu chí về định lượng gồm

(mức lợi thế so sánh (RCA), chi phí nguồn lực nội địa (DRC).

Ngô Thị Tuyết Mai (2007), Nâng cao sức cạnh tranh một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế [65]. Công trình đã luận giải sâu sắc cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao sức cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam (Gạo, cà phê, chè, cao su) trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó đưa ra dự báo, định hướng, đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu, nhằm nâng cao sức cạnh tranh của của một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

Lê Hữu Thành (2009), Sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu chủ lực Việt Nam trong điều kiện tự do hóa thương mại [90]. Ở công trình này, tác giả đã đi sâu phân tích thực trạng sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam. Để phân tích vấn đề này, tác giả đã dựa trên các tiêu chí như: chất lượng và số lượng sản phẩm; giá trị xuất khẩu; uy tín, thương hiệu của sản phẩm... Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng, tác giả đã đề xuất các giải pháp nhằm năng cao sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện tự do hóa thương mại.

24

Nguyễn Thu Quỳnh (2011), Vận dụng kinh tế tri thức nhằm nâng cao

sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam [85]. Bài báo tập trung phân

tích thực trạng sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu nước ta, qua phân tích

tác giả khẳng định, sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu nước ta vẫn còn

thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế về sản xuất nông nghiệp của

Việt Nam, đồng thời chỉ ra một số nguyên nhân đó là: năng suất sản xuất còn

thấp; mức độ áp dụng các tiêu chuẩn, quy trình như GAP (Quy trình thực

hành nông nghiệp tốt), SPS (Hiệp định về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch

động thực vật của WTO) chưa đáp ứng theo yêu cầu; nông sản xuất khẩu chủ

yếu dưới dạng thô và sơ chế; công nghệ xử lý sau thu hoạch còn hạn chế,

năng lực quản lý sản xuất, chế biến chưa đáp ứng yêu cầu, chưa thiết lập được

một cách vững chắc mối liên kết kinh tế giữa các khâu sản xuất, xuất khẩu,

giữa khâu cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra,..; công tác dự

báo thiếu chính xác; các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản quy mô còn nhỏ;..

Từ những nguyên nhân nêu trên, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm vận

dụng kinh tế tri thức vào sản xuất, chế biến, nâng cao năng suất, chất lượng và

SCT cho nông sản xuất khẩu của Việt Nam.

Trần Hoa Phượng (2013), Lợi thế xuất khẩu nông sản của Việt Nam

sau khi gia nhập WTO [80]. Cuốn sách gồm 3 chương: ở chương 1 tác giả

trình bày các lý luận về lợi thế trong quan hệ thương mại quốc tế, những quy

định của WTO về nông sản xuất khẩu và kinh nghiệm phát huy lợi thế trong

xuất khẩu nông sản sau khi gia nhập WTO của một số nước. Chương 2, tác

giả đã đề cập đến 3 nội dung: Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi thế hàng nông

sản xuất khẩu của Việt Nam (điều kiện tự nhiên, nguồn nhân lực, khoa học và

công nghệ, vốn, cơ chế chính sách); thực trạng phát triển lợi thế của Việt Nam

trong xuất khẩu nông sản sau khi gia nhập WTO (về sản lượng, năng suất, chi

phí sản xuất và giá trị xuất khẩu; thị phần xuất khẩu, thị trường tiêu thụ; chất

lượng nông sản, lợi thế cạnh tranh); đánh giá lợi thế xuất khẩu nông sản của

Việt Nam sau khi gia nhập WTO (những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và

25

thách thức, nguyên nhân). Chương 3, tác giả đưa ra các dự báo về xu hướng

phát triển một số mặt hàng nông sản chủ yếu và quan điểm cơ bản về phát huy

lợi thế trong xuất khẩu nông sản sau khi gia nhập WTO.

Phạm Thành Công (2013), Định hướng phát triển thương hiệu nhằm nâng

cao năng lực cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam hiện nay [28].

Bài viết phân tích và đánh giá thực trạng về khả năng cạnh tranh và khả năng phát

triển thương hiệu hàng nông sản Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm

2012, nhấn mạnh vai trò của thương hiệu trong vấn đề nâng cao năng lực cạnh

tranh hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam, từ đó đề xuất định hướng nhằm

từng bước phát triển thương hiệu nông sản Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2018), Kinh tế Việt

Nam với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

(CPTPP): Nâng cao năng lực cạnh tranh nhìn từ nông nghiệp [78]. Nội dung

bài viết nhận định: Việt Nam tham gia (CPTPP) là hội nhập với những “gã

khổng lồ” đặt ra đòi hỏi về năng lực cạnh tranh hơn là những lợi thế mà doanh

nghiệp có được. Để các thị trường chấp nhận nông sản Việt Nam, không chỉ

dựa vào tính lạ, mà bài toán đặt ra là cần phải nâng cao chất lượng, giá trị

dinh dưỡng sản phẩm, bao bì sản phẩm… Bài viết đề xuất cần nâng cao sức

cạnh tranh trên cả ba cấp độ: Cấp độ quốc gia, cấp độ doanh nghiệp và cấp

độ sản phẩm. Cùng với đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp

cần nắm chắc thông tin về thị trường như: triển vọng, tính cạnh tranh sản

phẩm, nhãn mác, bao bì, phù hợp với tôn giáo, văn hóa của các nước nhập

khẩu... Mọi thông tin đó cần được các Tuỳ viên Sứ quán hỗ trợ cung cấp cho

doanh nghiệp.

Ngoài ra, có thể nói còn có rất nhiều công trình nghiên cứu khác đã được

công bố, đề cập đến cơ sở lý luận, thực trạng và giải pháp, nhằm nâng cao sức

cạnh tranh của nền kinh tế, của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, của

ngành nông nghiệp và của hàng hóa nông sản Việt Nam nói riêng; các bài viết

được đăng tải trên nhiều báo và tạp chí khác nhau, nhất là các tạp chí kinh tế.

26

1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã

công bố và những vấn đề đặt ra luận án cần tập trung giải quyết

1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố

Qua tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến SCT của

hàng hóa nông sản, nghiên cứu sinh rút ra một số vấn đề chủ yếu sau:

Một là, về lý luận sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam.

Các công trình đã đề cập đến nhiều khía cạnh như: quan niệm, vai trò của

cạnh tranh, SCT của hàng hóa nói chung, SCT của HHNS nói riêng; quan

niệm, đặc điểm của HHNS; sự cần thiết phải nâng cao SCT của HHNS trong

điều kiện hội nhập; phân tích, làm rõ lý luận về cạnh tranh, SCT và sức cạnh

tranh của HHNS; xây dựng cơ sở lý luận cho nâng cao SCT của HHNS ở một

số quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam. Đây là những tư liệu quan trọng, giúp

cho tác giả luận án hiểu sâu sắc thêm về cạnh tranh, SCT, về hàng hóa nông

sản; gợi mở ra hướng nghiên cứu mới, đồng thời kế thừa, phát triển có chọn lọc

để tác giả hoàn thành công trình luận án của mình.

Hai là, về thực trạng sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản.

Các công trình đã có sự khảo sát, đánh giá khái quát về SCT của HHNS

của một số quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam. Đặc biệt, có một số đề tài,

hội thảo khoa học do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công

thương tổ chức, đã đánh giá những ưu điểm và hạn chế về SCT của HHNS

Việt Nam. Thông qua đó, giúp cho nghiên cứu sinh có thêm tư liệu để phân

tích, đánh giá một cách khách quan và toàn diện về SCT của HHNS Việt

Nam trong thời gian qua, chỉ ra những mâu thẫn từ thực trạng cần giải quyết;

đồng thời làm cơ sở để đề xuất các quan điểm, giải pháp nâng cao SCT của

HHNS Việt Nam trong thời gian tới.

Ba là, về giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam.

Dưới những góc độ tiếp cận khác nhau, các công trình đã đề xuất một số

quan điểm, phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao SCT của các sản

phẩm nông sản Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế

27

quốc tế. Các quan điểm, giải pháp mà các công trình đưa ra đều tập trung

vào khâu đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách của nhà nước; quy hoạch

vùng sản xuất tập trung; nâng cao chất lượng nông sản; xây dựng thương

hiệu; phát triển thị trường,…Tuy nhiên, các quan điểm, giải pháp mà các

công trình đề cập, chưa mang tính đồng bộ, hệ thống và đã lạc hậu so với

sự vận động phát triển của thực tiễn.

Như vậy, qua tổng quan các công trình khoa học đã công bố, cho

thấy: bằng những cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã đề cập đến những

mặt, những khía cạnh khác nhau về cạnh tranh nói chung, cạnh tranh của

ngành nông nghiệp và của HHNS nói riêng. Tuy nhiên, chưa có công trình

nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện, đầy đủ và cập nhật dưới

góc độ khoa học kinh tế chính trị về SCT của hàng hóa nông sản Việt Nam,

đặc biệt là các mặt hàng (Gạo, cà phê, rau quả, thịt lợn, thịt và trứng gia

cầm). Do vậy, đề tài “Sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam”

mà tác giả nghiên cứu là một công trình khoa học độc lập, đảm bảo tính

cấp thiết, có tính thực tiễn cao và không trùng lặp với các công trình khoa

học đã được công bố.

1.3.2. Những vấn đề đặt ra luận án cần tập trung giải quyết

Qua tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án, có

thể thấy: các công trình mặc dù đã đạt được những giá trị khoa học nhất định,

nhưng vẫn còn những khoảng trống về mặt lý luận và thực tiễn, đòi hỏi luận

án phải trả lời những câu hỏi sau:

Một là, dưới góc độ nghiên cứu của khoa học Kinh tế chính trị thì SCT

của HHNS Việt Nam trong điều kiện mới hiện nay được hiểu như thế nào? Để

đánh giá SCT của HHNS Việt Nam cần phải dựa trên những tiêu chí gì? Sức

cạnh tranh của HHNS Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của những nhân tố nào?

Để nâng cao SCT của HHNS trong những năm tới, đáp ứng yêu cầu phát triển

của ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững, Việt Nam cần học tập

những kinh nghiệm gì của các nước trên thế giới?

28

Đây là khung lý luận cơ bản của luận án, có vai trò hết sức quan trọng,

nhằm đảm bảo cho nghiên cứu sinh thực hiện được đúng mục đích, nhiệm vụ

của luận án. Thực hiện vấn đề này, trước hết nghiên cứu sinh cần phải kế thừa

các quan niệm về cạnh tranh, SCT của hàng hóa của một số tác giả, trong các

công trình khoa học đã công bố, để xây dựng quan niệm SCT của HHNS Việt

Nam, dưới góc độ nghiên cứu của khoa học Kinh tế chính trị. Đặc biệt, luận

án cần làm rõ các tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến SCT của

HHNS Việt Nam, để từ đó có căn cứ cụ thể, làm cơ sở lý luận cho việc khảo

sát, đánh giá thực trạng và đề xuất các quan điểm, giải pháp nâng cao SCT

của HHNS Việt Nam trong thời gian tới. Đồng thời luận án tập trung khảo

cứu kinh nghiệm về nâng cao SCT của hàng nông sản ở một số nước trên thế

giới, cụ thể là các nước: Thái Lan, Malaysia, Israel, từ đó rút ra những bài học

kinh nghiệm cho Việt Nam có thể tham khảo để nâng cao SCT của HHNS

trong thời gian tới.

Hai là, thực trạng SCT của HHNS Việt Nam thời gian qua ra sao? Có

những ưu điểm và hạn chế nào? Nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế đó

là gì? Những vấn đề gì cần tập trung giải quyết trong thời gian tới để Việt

Nam thực hiện tốt việc nâng cao SCT của HHNS?

Với khung lý luận đã được xây dựng, luận án sẽ khảo sát, đánh giá thực

trạng SCT của HHNS Việt Nam từ năm 2011 - 2019. Quá trình đánh giá thực

trạng không chỉ dừng lại ở việc đưa ra những con số thống kê đơn thuần, mà luận

án sẽ đánh giá một cách khách quan, toàn diện trong đó đi sâu vào 5 nhóm mặt

hàng chủ lực là gạo, cà phê, rau quả và thịt lợn, thịt và trứng gia cầm để minh

chứng. Từ đó chỉ rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan của những ưu điểm, hạn

chế; những vướng mắc cần phải tháo gỡ để thúc đẩy phát triển sản xuất nông sản

hàng hóa nói chung, nâng cao năng suất, chất lượng và SCT cho HHNS nói riêng.

Ba là, để nâng cao SCT của HHNS trong thời gian tới, Việt Nam cần

thực hiện những quan điểm, giải pháp nào?

Để nâng cao SCT của HHNS trong thời gian tới, không thể chỉ dựa vào

một vài giải pháp có tính chất riêng lẻ, đơn thuần mà cần phải có hệ thống các

29

giải pháp mang tính đồng bộ và toàn diện. Vì vậy, trên cơ sở phân tích các

hạn chế về SCT của HHNS Việt Nam những năm qua, tác giả luận án đề

xuất hệ thống quan điểm và giải pháp tương đối chặt chẽ và hoàn chỉnh,

nhằm nâng cao SCT của HHNS Việt Nam trong thời gian tới. Trong đó đi

sâu phân tích, làm rõ cơ sở, nội dung, yêu cầu và biện pháp thực hiện của

từng giải pháp, sát với đặc điểm và điều kiện của Việt Nam, nhằm tạo ra sự

đột phá trong phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa nói chung, nâng

cao SCT của HHNS nói riêng. Việc đề xuất, phân tích các quan điểm, giải

pháp luôn dựa trên những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước; các nghị quyết, quyết định, quy hoạch,

kế hoạch, đề án của Chính phủ, các bộ, ngành liên quan và cấp ủy, chính

quyền các địa phương, nhất là về cơ cấu lại nền kinh tế nói chung, chương

trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới và đề án tái cơ cấu

ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền

vững nói riêng.

30

Kết luận chương 1

Liên quan đến đề tài luận án, có nhiều công trình nghiên cứu khoa học

đã công bố, bước đầu đã đề cập đến một số nội dung như: cạnh tranh, SCT

của quốc gia, của doanh nghiệp, của sản phẩm và SCT của HHNS xuất khẩu.

Bằng những cách tiếp cận khác nhau, các công trình đã khẳng định vị trí, tầm

quan trọng và tính tất yếu của cạnh tranh nói chung, cạnh tranh ở các cấp độ

nói riêng đối với sự phát triển của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường.

Đồng thời, đã đi sâu phân tích, luận giải và đưa ra các quan niệm về cạnh

tranh, SCT, tiêu chí đánh giá, các nhân tố ảnh hưởng tới SCT ở các cấp độ.

Một số công trình nghiên cứu cũng đã đánh giá thực trạng, đề xuất quan điểm,

phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao SCT cho các chủ thể.

Kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài

luận án đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, giúp cho tác giả nhận thức một

cách đầy đủ, toàn diện, hệ thống về những vấn đề liên quan đến đề tài nghiên

cứu. Kết quả nghiên cứu của các công trình đã cung cấp cho tác giả phương

pháp tiếp cận dưới góc độ khoa học Kinh tế chính trị về lĩnh vực cạnh tranh,

SCT của HHNS, khêu gợi hướng nghiên cứu, xác định rõ những vấn đề đặt ra

cần tiếp tục giải quyết, đồng thời khắc phục được sự trùng lặp với các công

trình khoa học đã công bố. Đây sẽ là cơ sở, tài liệu quý giá để tác giả luận án

kế thừa, tiếp thu những giá trị khoa học, tìm ra hướng đi mới cho mình trong

nghiên cứu đề tài luận án.

Qua tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan, khẳng định: Đề

tài luận án “Sức cạnh tranh của hàng hóa nông sảnViệt Nam” là một công

trình khoa học độc lập, vừa kế thừa biện chứng những kết quả nghiên cứu đã

công bố, vừa có đóng góp mới ở cả phương diện lý luận và thực tiễn.

31

Chương 2

LÝ LUẬN VỀ SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HÓA

NÔNG SẢN VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN

2.1. Một số vấn đề chung về hàng hóa nông sản và sức cạnh tranh

của hàng hóa nông sản Việt Nam

2.1.1. Quan niệm, đặc điểm về hàng hóa nông sản Việt Nam 2.1.1.1. Quan niệm về hàng hóa nông sản Việt Nam

Quan niệm về hàng hóa Khi nghiên cứu về hàng hóa C. Mác viết: “Hàng hóa trước hết là một vật

nhờ có những thuộc tính của nó mà thỏa mãn được một loại nhu cầu nào đó của con người” [63, tr.61]. Theo C. Mác, hàng hóa có hai thuộc tính cơ bản đó là

giá trị sử dụng và giá trị; giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu náo đó của con người, giá trị của hàng hóa là lao động xã hội thể

hiện và vật hóa trong hàng hóa. Một sản phẩm muốn trở thành hàng hóa thì nó phải được đưa ra trao đổi, mua bán trên thị trường: “Muốn trở thành hàng hóa

thì sản phẩm phải được chuyển vào tay những người khác, những người dùng nó làm giá trị sử dụng, bằng con đường trao đổi” [63, tr.70]. Tóm lại, luận án

tán thành theo quan niệm Kinh tế học chính trị Mácxit: “Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người thông qua

trao đổi mua - bán trên thị trường” [48, tr. 118]. Quan niệm về hàng hóa nông sản

Nông sản là một trong những hàng hóa thiết yếu, không thể thiếu đối

với sản xuất và tiêu dùng của con người, nhưng để trả lời cho câu hỏi thế nào là HHNS và HHNS bao gồm những mặt hàng nào, cho đến nay vẫn còn có

nhiều quan niệm khác nhau.

Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) quan niệm: hàng hóa được chia

thành 2 nhóm chính là nông sản và phi nông sản. Nông sản được xác định trong Hiệp định Nông nghiệp là tất cả các sản phẩm được liệt kê từ chương I

đến chương XXIV (trừ cá và sản phẩm cá) và một số sản phẩm thuộc các chương khác trong hệ thống thuế mã HS (hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa

hàng hóa). Theo đó nông sản bao gồm các loại hàng hóa có nguồn gốc từ hoạt

32

động nông nghiệp bao gồm: (1) Các sản phẩm nông nghiệp cơ bản như lúa

gạo, lúa mỳ, bột mỳ, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, chè, rau quả tươi, động vật sống, sữa… (2) Các sản phẩm phái sinh như bánh mỳ, dầu ăn, bơ, thịt… (3)

Các sản phẩm chế biến từ sản phẩm nông nghiệp như sản phẩm từ sữa, xúc xích, nước ngọt, bánh kẹo, nước hoa quả, rượu, bia, thuốc lá, da động vật

thô,... Các sản phẩm còn lại trong hệ thống thuế mã HS được xem là sản phẩm phi nông nghiệp (Sản phẩm công nghiệp) [71, tr.19].

Tổ chức lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp quốc (FAO) quan niệm:

Hàng nông sản là tập hợp của nhiều nhóm hàng hóa khác nhau bao gồm: (1)

Nhóm hàng gồm các sản phẩm nhiệt đới như chè, cà phê, ca cao, hạt tiêu...;

(2) Nhóm hàng ngũ cốc như lúa gạo, bột mì, sắn, ngô..; (3) Nhóm hàng thịt và

các sản phẩm từ thịt như thịt lợn, thịt bò, thịt gia cầm...; (4) Nhóm hàng dầu

mỡ và các sản phẩm từ dầu được chế biến từ hạt có dầu như lạc, đậu tương,

hướng dương.., và các loại dầu thực vật; (5) Nhóm hàng sữa và các sản phẩm

từ sữa như pho mát, bơ, các sản phẩm chế biến từ sữa,..; (6) Nhóm hàng nông

sản nguyên liệu như cao su thiên nhiên, bông, đay, sợi,..; (7) Nhóm hàng rau

quả bao gồm các loại rau, củ, quả [71, tr.19, 20].

Theo quy định tại Khoản 7 Điều 3, Nghị định về cơ chế, chính sách

khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn

thì nông sản được quan niệm: “Nông sản là sản phẩm của các ngành nông

nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, diêm nghiệp” [24, tr.2]. Với quan niệm này thì

nông sản là sản phẩm của nông nghiệp theo nghĩa rộng (nông nghiệp theo

nghĩa rộng bao gồm các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và diêm

nghiệp; nông nghiệp theo nghĩa hẹp bao gồm ngành trồng trọt và chăn nuôi).

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tại Thông tư số

37/2018/TT - BNNPTNT, ngày 25/12/2018, Ban hành danh mục sản phẩm

nông nghiệp chủ lực quốc gia thì sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc gia

bao gồm 13 nhóm sản phẩm: (Gạo, cà phê, cao su, điều, hồ tiêu, chè, rau

quả, sắn và sản phẩm từ sắn, thịt lợn, thịt và trứng gia cầm, cá tra, tôm, gỗ

và sản phẩm từ gỗ) [17].

33

Theo dụng ý của luận án, “Hàng hóa nông sản” mà tác giả nghiên cứu

là những sản phẩm thuộc nhóm hàng nông sản (không nghiên cứu lâm sản và

thủy sản), tức là nghiên cứu sản phẩm của ngành nông nghiệp, không nghiên

cứu sản phẩm của ngành lâm nghiệp ngành thủy sản và diêm nghiệp.

Như vậy, từ các quan niệm nêu trên và dụng ý nghiên cứu của luận án,

tác giả quan niệm: Hàng hóa nông sản là những sản phẩm của ngành nông

nghiệp, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người và được đưa ra trao

đổi, mua bán trên thị trường.

Quan niệm về hàng hóa nông sản Việt Nam

Từ quan niệm về hàng hóa, HHNS đã nêu trên, tác giả quan niệm:

Hàng hóa nông sản Việt Nam là những sản phẩm của ngành nông nghiệp Việt

Nam, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người và được đưa ra trao đổi,

mua bán trên thị trường.

Như vậy, HHNS Việt Nam là khái niệm tương đối rộng và phức tạp, bao

gồm những sản phẩm được thu hoạch trực tiếp (tươi, sống) và những sản phẩm đã

qua chế biến của ngành nông nghiệp (bao gồm trồng trọt và chăn nuôi). Với phạm

vi nghiên cứu của luận án, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu 5 mặt hàng chủ lực

(trong số 13 sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc gia, theo Thông tư 37/2018/TT -

BNNPTNT) là gạo, cà phê, rau quả, thịt lợn, thịt và trứng gia cầm để phân tích,

minh chứng. Đây là những sản phẩm đã, đang và sẽ có lợi thế cạnh tranh so với sản

phẩm cùng loại của các quốc gia khác trên thị trường trong nước và quốc tế.

2.1.1.2. Đặc điểm về hàng hóa nông sản Việt Nam

Hàng hóa nông sản là những sản phẩm thiết yếu với đời sống của con

người. Quá trình sản xuất ra HHNS gắn liền với quá trình sinh trưởng và phát

triển của cây trồng, vật nuôi. Do vậy, HHNS có một số đặc điểm riêng so với

các hàng hóa thông thường khác sau đây:

Một là, hàng hóa nông sản có tính thời vụ và phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên

Do các loại cây trồng, vật nuôi sinh trưởng và phát triển theo quy luật

sinh vật, sinh học nhất định; mặt khác, do sự thay đổi về điều kiện thời tiết khí

34

hậu theo mùa, làm cho mỗi loại cây trồng, vật nuôi có sự thích ứng riêng, tạo

nên những mùa vụ khác nhau trong sản xuất. Theo đó quá trình sản xuất, thu

hoạch và tiêu thụ nông sản cũng mang tính thời vụ, nhất là sản phẩm trồng trọt.

Vào khoảng thời gian chính vụ, HHNS thường dồi dào, phong phú về chủng

loại, chất lượng khá đồng đều và giá thành thấp. Ngược lại, vào thời gian trái vụ

thì nông sản khan hiếm, chất lượng không đồng đều và giá thành thường cao.

Ngoài ra mọi sự thay đổi về điều kiện tự nhiên đều tác động trực tiếp

đến quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng, vật nuôi. Điều kiện tự

nhiên thuận lợi (mưa thuận, gió hòa) thì cây trồng sinh trưởng và phát triển

bình thường, cho sản lượng thu hoạch cao, chất lượng tốt. Ngược lại, nếu điều

kiện tự nhiên không thuận lợi (nắng nóng, giá rét kéo dài, hạn hán hoặc bão

lụt) sẽ làm sụt giảm về năng suất và sản lượng cây trồng.

Hai là, hàng hóa nông sản có tính tươi sống

Nông sản là sản phẩm của quá trình sinh trưởng, phát triển của cây

trồng, vật nuôi vì vậy nó có đặc tính tươi sống, dễ bị hư hỏng, ẩm mốc, biến

chất trước tác động của điều kiện tự nhiên và thời gian. Chính vì vậy việc bảo

quản hàng hóa nông sản sẽ khó khăn, đặc biệt là bảo quản trong thời gian dài.

Ba là, hàng hóa nông sản có tính vùng miền, đa dạng chủng loại

Hàng hóa nông sản được sản xuất ra từ các vùng địa phương khác

nhau, với các đặc điểm về điều kiện tự nhiên, thời tiết, khí hậu, thổ nhưỡng

khác nhau; mỗi vùng, mỗi hộ, mỗi trang trại có phương thức sản xuất khác

nhau, giống cây trồng, vật nuôi khác nhau, đã tạo nên nhiều chủng loại HHNS

khác nhau. Điều này dẫn đến chất lượng của HHNS không có tính đồng đều,

quản lý chất lượng thường gặp nhiều khó khăn.

Bốn là, chất lượng của hàng hóa nông sản ảnh hưởng trực tiếp đến sức

của khỏe người tiêu dùng

Nông sản là loại hàng hóa thiết yếu được con người sử dụng trực tiếp

làm lương thực, thực phẩm và đồ uống. Do vậy chất lượng hàng hóa nông sản

35

luôn là tiêu chí đầu tiên được người tiêu dùng quan tâm khi quyết định lựa

chọn mua hàng. Xã hội càng phát triển, đời sống con người được nâng lên,

kéo theo là yêu cầu ngày càng khắt khe về chất lượng, về vệ sinh an toàn thực

phẩm, kiểm dịch, truy xuất nguồn góc, bảo vệ môi trường...

2.1.2. Quan niệm về sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam

2.1.2.1. Quan niệm về cạnh tranh kinh tế

“Cạnh tranh” là cụm từ được sử dụng từ rất lâu và trở nên phổ biến cho

đến ngày nay, thuật ngữ “cạnh tranh” được sử dụng trong tất cả các lĩnh vực

của đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự... Cạnh tranh

trong lĩnh vực kinh tế là một trong những quy luật của kinh tế thị trường,

trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế như hiện nay, cạnh tranh bước vào một

thời kỳ mới cả về phương thức, cường độ và nội dung. Chính vì vậy vấn đề

cạnh tranh được nhiều tác giả nghiên cứu, trình bày dưới nhiều góc độ khác

nhau ở những giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế xã hội.

Khi nghiên cứu về cạnh tranh, Adam Smith cho rằng “cạnh tranh là

hành vi luôn tồn tại trong con người, trong xã hội, đặc biệt trong những gì liên

quan đến tư lợi của người ta. Môi trường tự do giúp các cá nhân có quyền cạnh

tranh trong sản xuất và trao đổi hàng hoá, dịch vụ. Hơn nữa, cạnh tranh sẽ đem

đến một nền kinh tế thịnh vượng và có khả năng tự điều chỉnh” [120, tr.1201].

Theo quan niệm này, tự do cạnh tranh sẽ tạo ra sự chèn ép lẫn nhau giữa các

cá nhân, buộc mỗi cá nhân phải nỗ lực cố gắng làm tốt công việc của mình.

Nếu chỉ đưa ra mục đích lớn lao nhưng không có động cơ thúc đẩy thực hiện

thì không thể tạo ra được sự cố gắng nào. Như vậy cạnh tranh có thể khơi dậy

sự nỗ lực của con người, làm tăng của cải của nền kinh tế.

Mặc dù không trình bày thành học thuyết riêng về cạnh tranh, nhưng

trong học thuyết giá trị, giá trị thặng dư và lý luận về tư bản, C. Mác đã đưa ra

những nghiên cứu về cạnh tranh. Theo C. Mác, điều kiện cho sự ra đời và tồn

tại của cạnh tranh là: phân công lao động xã hội và tính chất tư nhân của lao

động sản xuất. C. Mác viết: “sự phân công lao động trong xã hội đặt

những người sản xuất hàng hóa độc lập đối diện với nhau, những người

36

này không thừa nhận một uy lực nào khác ngoài uy lực cạnh tranh, ngoài

sự cưỡng chế mà áp lực của những lợi ích giữa họ với nhau đã gây ra đối

với họ” [63, tr.517]. Theo C.Mác: cạnh tranh là sự ganh đua giữa những

người sản xuất và lưu thông hàng hóa bằng những hình thức và thủ đoạn khác

nhau, nhằm giành giật cho mình những điều kiện sản xuất và kinh doanh có

lợi nhất, động lực của cạnh tranh là lợi nhuận tối đa.

Để phân tích rõ hơn về cạnh tranh, “C. Mác đã phân chia cạnh tranh

thành 2 loại: cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành,

tức là cạnh tranh giữa những hàng hóa cùng loại và cạnh tranh giữa các hàng

hóa khác loại” [48, tr.238]. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa

các các xí nghiệp trong cùng một ngành, sản xuất cùng một loại hàng hóa,

nhằm mục đích giành ưu thế trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu được

lợi nhuận siêu ngạch. Cạnh tranh trong nội bộ ngành được thực hiện thông

qua các biện pháp: cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao chất

lượng hàng hóa, cải tiến mẫu mã… làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa sản

xuất ra thấp hơn giá trị xã hội để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Kết quả của

cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến hình thành giá trị xã hội của hàng

hóa, tức là giá trị thị trường của hàng hóa.

Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp tư bản kinh

doanh trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có

lợi hơn. Biện pháp cạnh tranh giữa các ngành là các xí nghiệp tư bản chuyển

dịch dòng vốn đầu tư từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có có tỷ

suất lợi nhuận cao hơn. Kết quả của cạnh tranh giữa các ngành là hình thành

lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả

hàng hóa trên thị trường [64, tr.263-303].

Như vậy cạnh tranh giữa các nhà tư bản diễn ra dưới ba góc độ: cạnh

tranh giá thành thông qua nâng cao năng suất lao động giữa các nhà tư bản,

nhằm thu được giá trị thặng dư siêu ngạch; cạnh tranh chất lượng thông qua

nâng cao giá trị sử dụng hàng hóa; cạnh tranh giữa các ngành thông qua việc

gia tăng tính lưu động của tư bản nhằm chia nhau giá trị thặng dư. Cạnh tranh

37

dưới ba góc độ cơ bản này diễn ra xoay quanh việc quyết định giá trị, thực

hiện giá trị và phân phối giá trị thặng dư.

Theo PGS. TS Đỗ Huy Hà, cạnh tranh kinh tế được định nghĩa: “Là

quan hệ kinh tế, phương thức giải quyết mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa các

chủ thể, bằng mọi biện pháp, thủ đoạn đấu tranh, ganh đua giành lấy những

điều kiện sản xuất, tiêu thụ có lợi nhất nhằm tối đa hoá lợi nhuận cho mỗi chủ

thể trong nền kinh tế thị trường” [46, tr.10].

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, cạnh tranh được định nghĩa là: “Hoạt

động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các

nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, bị chi phối bởi quan hệ cung - cầu

nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ, thị trường có lợi nhất” [113, tr.357].

Theo Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các môn

Khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh thì: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự

đấu tranh về kinh tế giữa các chủ thể tham gia sản xuất - kinh doanh với nhau

nhằm giành những điều kiện thuận lợi trong sản xuất - kinh doanh, tiêu thụ hàng

hóa và dịch vụ để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình” [48, tr.147-147].

Quá trình lãnh đạo đổi mới nền kinh tế, Đảng ta đã có sự thay đổi về tư

duy, quan niệm và cách thức đối xử với cạnh tranh. Trong văn kiện Đại hội

Đảng VIII của Đảng chỉ rõ: “Cơ chế thị trường đòi hỏi phải hình thành một

môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp và văn minh. Cạnh tranh vì lợi

ích phát triển đất nước chứ không phải làm phá sản hàng loạt, lãng phí các

nguồn lực, thôn tính lẫn nhau” [37, tr.32].

Mặc dù ở những góc độ tiếp cận khác nhau có những quan niệm và

cách diễn đạt khác nhau nhưng đều thống nhất coi cạnh tranh kinh tế là hành

vi của các chủ thể trong nền kinh tế hàng hóa. Trên cơ sở kế thừa các quan

niệm, định nghĩa về cạnh tranh, tác giả quan niệm: Cạnh tranh kinh tế là hoạt

động ganh đua giữa các chủ thể kinh tế trên thị trường, bằng các hình thức,

biện pháp khác nhau để giành giật cho mình những điều kiện sản xuất và kinh

doanh có lợi nhất, nhằm tối đa hóa lợi nhuận, bảo đảm sự tồn tại, phát triển

lâu dài cho mỗi chủ thể.

38

Quan niệm này đã chỉ ra nguồn gốc của cạnh tranh kinh tế gắn liền với

sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa mà trực tiếp là sự độc lập về kinh tế

của các chủ thể kinh tế. Bản chất của cạnh tranh là phản ánh mối quan hệ kinh

tế giữa các chủ thể kinh tế cùng hướng tới mục đích là bảo đảm sự tồn tại và

phát triển của mình. Ở các góc độ xem xét khác nhau, cạnh tranh được phân

loại khác nhau: Xét ở góc độ chủ thể cạnh tranh có: cạnh tranh giữa người bán

và người mua với nhau, cạnh tranh giữa những người bán hoặc giữa những

người mua với nhau; căn cứ vào mục tiêu kinh tế có: cạnh tranh giữa các

ngành và cạnh tranh trong nội bộ ngành; ở góc độ là đối tượng cạnh tranh có:

cạnh tranh giành độc quyền, thâu tóm các yếu tố đầu vào, hoặc chi phối thị

trường đầu ra,...; dưới góc độ phương thức hay công cụ cạnh tranh có: cạnh

tranh bằng chất lượng, giá cả, tính độc đáo, sự khác biệt của sản phẩm, dịch

vụ đi kèm, cạnh tranh bằng tốc độ cung cấp sản phẩm ra thị trường và cạnh

tranh bằng cả biện pháp kinh tế, phi kinh tế,…; căn cứ vào cơ cấu thị trường

có: cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo; xét theo tính chất

hành vi có: cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh và xét ở

phạm vi lãnh thổ có cạnh tranh trong nước và cạnh tranh quốc tế.

Vì động lực của cạnh tranh là lợi nhuận, do vậy mặt hàng nào, ngành

nào và trên thị trường nào sản xuất kinh doanh có lợi nhuận cao thì ở đó thu

hút nhiều chủ thể cạnh tranh và tính chất, cường độ cạnh tranh sẽ gay gắt hơn.

Nguồn gốc của cạnh tranh kinh tế vốn là tự phát, vì lợi nhuận nên các chủ thể

sẵn sàng cạnh tranh bằng mọi biện pháp và thủ đoạn. Tuy nhiên trong môi

trường hợp tác và cạnh tranh quốc tế, các chủ thể cạnh tranh phải tuân thủ

theo luật pháp của quốc gia và các công ước quốc tế.

2.1.2.2. Quan niệm về sức cạnh tranh của hàng hóa

Sức cạnh tranh

Cạnh tranh gắn liền với hành vi của các chủ thể SXKD, bao gồm có hành

vi của cá nhân, của doanh nghiệp và của quốc gia. Để giành được lợi thế về phía

mình trong quá trình cạnh tranh với nhau, các chủ thể phải thực hiện tổng hợp

nhiều biện pháp nội lực và ngoại lực nhằm giữ vững và phát triển vị thế của

39

mình trên thị trường. Các biện pháp đó thể hiện một sức mạnh của chủ thể và

được gọi là năng lực cạnh tranh hay là sức cạnh tranh của chủ thể. Theo đó, có

thể quan niệm: sức cạnh tranh là sự thể hiện về thực lực và lợi thế của chủ thể

sản xuất, kinh doanh hàng hóa so với đối thủ cạnh tranh trong việc đảm bảo

thỏa mãn tốt nhất các nhu cầu của khách hàng, nhằm mục đích thu được lợi

nhuận ngày càng cao hơn.

Hiện nay, các nghiên cứu thường đề cập đến ba cấp độ của SCT là:

SCT của quốc gia, SCT của doanh nghiệp và SCT của sản phẩm (hay của

một ngành):

Sức cạnh tranh quốc gia

Theo Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp Mỹ thì: cạnh tranh đối với một

quốc gia là mức độ cạnh tranh trong điều kiện thị trường tự do và công bằng

trên phạm vi toàn thế giới, một quốc gia có thể sản xuất các hàng hóa và dịch

vụ không những đáp ứng được nhu cầu khách hàng trong nước mà còn đáp

ứng nhu cầu của khách hàng trên thị trường thế giới, đồng thời duy trì và mở

rộng được thu nhập thực tế của nhân dân ở quốc gia đó [65, tr.13].

Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF): Sức cạnh tranh quốc gia là khả

năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống,

nghĩa là đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao xác định sự thay đổi tổng sản

phẩm quốc nội trên đầu người theo thời gian [154].

Như vậy, sức cạnh tranh quốc gia có thể hiểu là: việc xây dựng một môi

trường kinh tế chung, đảm bảo phân bố hiệu quả các nguồn lực, đạt và duy trì

mức tăng trưởng cao, bền vững.

Sức cạnh tranh của doanh nghiệp

Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD): “sức cạnh tranh

của doanh nghiệp là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng

các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm cho các doanh nghiệp phát triển bền vững

trong điều kiện cạnh tranh quốc tế” [34, tr.132].

Theo tác giả Đỗ Thế Tùng, thì: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là

thế và lực của doanh nghiệp so với các đối thủ trên thị trường trong việc cung

40

cấp các sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu có khả năng thanh toán của khách

hàng, nhờ đó mà chiếm lĩnh được thị phần nhất định và thu được khoản lợi

nhuận tương ứng [93, tr.20].

Từ các quan niệm nêu trên cho thấy: một doanh nghiệp muốn có một vị trí vững chắc và thị trường ngày càng được mở rộng thì cần có một tiềm lực đủ

mạnh để có thể cạnh tranh trên thị trường, đó chính là sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, sức cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu: là tổng hợp năng

lực nắm giữ và nâng cao thị phần của chủ thể trong sản xuất, kinh doanh hàng hoá, là trình độ sản xuất ra sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của thị trường.

Để đánh giá sức cạnh tranh của doanh nghiệp, người ta dựa vào các tiêu chí như: thị phần, doanh thu, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận, thu nhập bình

quân, phương pháp quản lý, bảo vệ môi trường, uy tín của doanh nghiệp đối với xã hội, tài sản của doanh nghiệp nhất là tài sản vô hình, tỷ lệ công nhân

lành nghề, tỷ lệ đội ngũ quản lý giỏi, nghiên cứu và sáng tạo,…

Sức cạnh tranh của sản phẩm (hàng hóa)

Theo C. Mác, hàng hóa có hai thuộc tính cơ bản đó là giá trị sử dụng và

giá trị. Khi xem xét đánh giá về SCT của hàng hóa người ta thường dựa vào hai thuộc tính đó. Một sản phẩm được coi là có SCT khi nó đáp ứng được nhu

cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, bao bì, thương hiệu, tính độc đáo so với sản phẩm cùng loại trên thị trường. Trong

điều kiện hội nhập, tự do hóa thương mại, SCT của hàng hóa có vị trí hết sức quan trọng vì nó đảm bảo cho hàng hóa đó có thể chiến thắng các đối thủ

cạnh tranh ở trên thị trường trong nước và vươn ra chiếm lĩnh thị trường thế giới. Từ những phân tích nêu trên, tác giả quan niệm: Sức cạnh tranh của

hàng hóa là khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, bao bì, thương hiệu, tính độc đáo của hàng hóa đó so

với hàng hóa cùng loại trên thị trường.

Sức cạnh tranh của sản phẩm là khả năng cạnh tranh của những sản

phẩm cùng loại, cạnh tranh trong nội bộ ngành. Các chủ thể sản xuất phải thường xuyên tiến hành các biện pháp cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất

lao động để làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa mà mình làm ra thấp hơn giá

41

trị xã hội của mặt hàng đó trên thị trường để thu được lợi nhuận siêu ngạch.

Kết quả cạnh tranh trong nội bộ ngành là hình thành nên giá trị thị trường của hàng hóa. Nhận định về điều này C. Mác viết: “Một mặt, phải coi giá trị thị

trường là giá trị trung bình của những hàng hóa được sản xuất ra trong một khu vực sản xuất nào đó; mặt khác lại phải coi giá trị thị trường là giá trị cá

biệt của những hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện trung bình của khu vực đó và chiếm một khối lượng lớn trong số những sản phẩm của

khu vực này” [64, tr.271]. Từ đây, ta có thể hiểu, giá trị thị trường của hàng hóa có thể hình thành trong ba điều kiện sản xuất (tốt, trung bình, xấu) khi giá

trị cá biệt của nó chiếm đại đa số hàng hóa được sản xuất ra. Như vậy, SCT của hàng hóa không phụ thuộc vào việc hàng hóa đó được sản xuất ra trong

điều kiện nào mà sẽ phụ thuộc vào giá trị thị trường, hay giá trị cá biệt của hàng hóa chiếm thị phần đa số. Giá cả thị trường là hình thức biểu hiện bằng

tiền của giá trị thị trường và giá cả sản xuất.

Một hàng hóa có SCT hơn hàng hóa cùng loại khi hàng hóa đó có cùng

giá trị sử dụng nhưng giá cả thấp hơn, hoặc có cùng giá cả nhưng có nhiều công

dụng (chất lượng) hơn. Để đánh giá sức cạnh tranh của hàng hóa, có thể dựa trên

các tiêu chí chính như: chất lượng, giá cả, thị phần, thương hiệu,...

2.1.2.3. Quan niệm về sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam

Từ quan niệm về SCT của hàng hóa và quan niệm về hàng hóa nông

sản Việt Nam, tác giả quan niệm: Sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt

Nam là khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính

năng, kiểu dáng, bao bì, thương hiệu, tính độc đáo của những sản phẩm được

tạo ra từ ngành nông nghiệp Việt Nam so với sản phẩm cùng loại của các

nước khác trên thị trường.

Như vậy, từ quan niệm có thể thấy, SCT của HHNS là mức độ hay khả

năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng về: chất lượng; giá cả; mẫu mã, tính

năng hay sự tiện lợi trong sử dụng; chính sách chăm sóc khách hàng đi kèm

và sự thân thiện với môi trường của HHNS.

Chủ thể tạo nên SCT của HHNS Việt Nam là nhà nước, doanh nghiệp,

42

HTX nông nghiệp và hộ nông dân, trong đó chủ thể trực tiếp là các doanh

nghiệp SXKD hàng hóa nông sản. Biện pháp tạo ra sức cạnh tranh là không

ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tăng cường các hoạt động

xúc tiến với thị trường (Maketing). Đối thủ cạnh tranh là các chủ thể nước ngoài,

cung cấp các mặt hàng cùng loại trên thị trường Việt Nam và thế giới. Mục đích

tạo ra và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh là nhằm chiếm lĩnh thị phần, tiêu

thụ được nhiều sản phẩm nông sản, thu về lợi nhuận cao nhất cho các chủ thể.

2.2. Tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh

tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam

2.2.1. Tiêu chí đánh giá sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam

Để đánh giá sức cạnh tranh của HHNS Việt Nam trên thị trường, người

ta căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau dựa trên hai thuộc tính của nó là giá trị

sử dụng và giá trị. Luận án đi sâu phân tích làm rõ 4 tiêu chí cơ bản, đó là:

chất lượng, giá cả, thị phần và thương hiệu.

2.2.1.1. Chất lượng của hàng hóa nông sản

Theo Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế (ISO): chất lượng là khả năng của

tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các

yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan. Chất lượng sản phẩm hàng

hoá là chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh trình độ thoả mãn nhu cầu của người tiêu

dùng. Nó được tạo nên từ nhiều yếu tố trong suốt quá trình SXKD của một sản

phẩm. Các nhân tố tạo nên chất lượng sản phẩm hàng hóa bao gồm: nhóm các

nhân tố bên trong (nguyên vật liệu và hệ thống tổ chức nguyên vật liệu, khả

năng về kỹ thuật công nghệ, lực lượng lao động, trình độ tổ chức quản lý và tổ

chức sản xuất); nhóm các nhân tố bên ngoài (trình độ phát triển của kỹ thuật

công nghệ sản xuất, cung, cầu về sản phẩm và nhu cầu về chất lượng sản phẩm,

cơ chế quản lý, vai trò quản lý kinh tế vĩ mô). Chất lượng được coi là yếu tố

quan trọng hàng đầu thể hiện SCT của sản phẩm. Người tiêu dùng ngày càng

có xu hướng lựa chọn những sản phẩm hàng hoá có chất lượng cao, hơn là

những hàng hoá có giá rẻ trên thị trường. Vì vậy, chất lượng sản phẩm là yếu tố

quan trọng nhất để chiến thắng các đối thủ cạnh tranh trên thị trường.

43

Hàng hóa nông sản là những sản phẩm được con người sử dụng làm

lương thực, thực phẩm và đồ uống, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, do vậy

bảo đảm chất lượng là vấn đề hết sức quan trọng đối với HHNS. Khi nói đến

chất lượng HHNS là nói đến những thuộc tính hay đặc tính của sản phẩm, đó

là: phẩm cấp, giá trị cảm quan, đặc điểm lý tính và hoá tính tương xứng với

các tiêu chuẩn, quy định của quốc gia và quốc tế. Cụ thể, chất lượng HHNS

Việt Nam được thể hiện trước hết đó là sản phẩm phải đạt được các tiêu chí

trong các bộ tiêu chuẩn chất lượng quốc gia và quốc tế. Chẳng hạn như đối

với mặt hàng gạo trắng, hiện nay áp dụng tiêu chuẩn: TCVN 11888:2017

(tương đương với tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ISO 24333:2009 về ngũ cốc

và sản phẩm từ ngũ cốc), trong bộ tiêu chuẩn này quy định rất cụ thể về phân

hạng, yêu cầu kỹ thuật về cảm quan (màu sắc, mùi vị, côn trùng sống nhìn

thấy bằng mắt thường), mức xay xát, độ ẩm; về hàm lượng các chất dinh

dưỡng, hàm lượng kim loại nặng, hàm lượng độc tố vi nấm...; quy định về bao

bì, nhãn mác, bảo quản vận chuyển... Tương tự đối với các mặt hàng (cà phê,

rau quả, thịt lợn, thịt và trứng gia cầm) đều có các bộ tiêu chuẩn quốc gia

tương đương với tiêu chuẩn chất lượng khu vực và quốc tế. Ngoài ra các sản

phẩm sản xuất theo quy trình, đạt tiêu chuẩn chất lượng sẽ được cấp các

chứng nhận như: chứng nhận tiêu chuẩn về thực hành nông nghiệp tốt Việt

Nam (VietGAP), thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu (GlobalGAP), chứng

nhận an toàn thực phẩm (HACCP), sản phẩm hữu cơ (Organic), các sản phẩm

được bảo hộ nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc… Ngày nay, trên

thị trường các nước phát triển, chất lượng sản phẩm còn gắn với các yếu tố về

bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, thân thiện với môi trường, sử dụng lao

động đúng luật và sự phát triển bền vững.

Chất lượng của một HHNS bao gồm cả những nhân tố bên trong (đặc

tính về lý tính, hóa tính, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, tỷ lệ các loại đạm,

chất dinh dưỡng…), các nhân tố bên ngoài như kích thước, màu sắc, mùi

thơm, sự tiện lợi trong sử dụng, các dịch vụ chăm sóc khách hàng của nhà

44

cung cấp đi kèm… Do vậy, để đánh giá chất lượng sản phẩm nào hơn,

ngoài sự đo lường bằng thí nghiệm thì sự đánh giá của khách hàng về sản

phẩm đó là rõ ràng nhất, người tiêu dùng sẽ “bỏ phiếu” cho sản phẩm nào

chất lượng hơn bằng cách lựa chọn mua sản phẩm đó. Trên thị trường có

nhiều nước cung cấp cùng một loại HHNS và có mức giá tương đương

nhau, hàng hóa của nước nào được người tiêu dùng lựa chọn nhiều hơn, tức

là chiếm thị phần lớn hơn sẽ phản ánh hàng hóa của nước đó có chất lượng

tốt hơn, theo đó SCT sẽ cao hơn.

2.2.1.2. Giá cả hàng hóa nông sản

Giá cả HHNS là biểu hiện bằng tiền của giá trị HHNS, đồng thời biểu

hiện nhiều mối quan hệ khác trong nền kinh tế. Đối với người mua thì giá cả

là số tiền mà họ phải bỏ ra trả cho người bán để nhận được một số lượng

HHNS nhất định. Còn đối với người bán thì giá cả là phần thu nhập hay

doanh thu mà họ nhận được khi tiêu thụ một đơn vị hay số lượng HHNS nhất

định. Để cạnh tranh về giá tức là phải hạ giá bán sản phẩm trong khi vẫn bảo

đảm được chất lượng của sản phẩm và lợi nhuận, buộc người sản xuất phải

tìm cách giảm thiểu chi phí sản xuất như: khai thác triệt để lợi thế so sánh của

vùng, của quốc gia; lai tạo giống, chọn giống cho năng suất cao; áp dụng công

nghệ tiên tiến vào sản xuất; nâng cao trình độ lao động; đầu tư đồng bộ vào

kết cấu hạ tầng sản xuất…

Trong nền kinh tế thị trường, việc xác định giá của HHNS chịu sự tác

động của nhiều nhân tố khác nhau như: chi phí sản xuất, chế biến, bảo quản,

vận chuyển; tình hình cung, cầu của thị trường; mức độ cạnh tranh của đối thủ

trên thị trường; chính sách của nhà nước; quảng cáo, tiếp thị; hình thức thanh

toán… Trên một thị trường có nhiều chủ thể khác nhau cung cấp HHNS,

khách hàng có quyền được lựa chọn cho mình sản phẩm tốt nhất mà mình ưa

thích. Tuy nhiên nếu cùng một loại hàng hóa và đều có các yếu tố chất lượng,

mẫu mã... như nhau thì đa số khách hàng sẽ lựa chọn hàng hóa có giá bán

thấp hơn, theo đó SCT của hàng hóa đó sẽ cao hơn.

Hệ số đo SCT về giá được tính theo công thức:

45

iTiMi fTfMf)w

Ci = EP* (EP*

Trong đó:

I và P*

f : là giá cánh kéo quốc tế của sản phẩm đầu ra i và của đầu

P*

vào trung gian f.

E: là tỷ giá hối đoái thực

T và M: là hệ số bảo hộ danh nghĩa và hệ số chi phí thương mại

[59, tr.11].

Sức cạnh tranh của HHNS khi xuất khẩu được thể hiện ở lợi thế so sánh

theo chỉ số RCA (Revealed Competitive Advantage) do nhà kinh tế học

Balassa đề xuất năm 1965. Chỉ số RCA chỉ ra SCT trong xuất khẩu của một

quốc gia về một sản phẩm trong mối tương quan với mức xuất khẩu về sản

phẩm đó của thế giới. RCA được tính theo công thức:

RCA = Xij : Xi Wj : W

Trong đó:

RCA: là lợi thế so sánh biểu hiện mặt hàng xuất khẩu j của quốc gia i.

Xij: là kim ngạch xuất khẩu sản phẩm j của nước i.

Xi: là tổng kim ngạch xuất khẩu của nước i.

Wj: là kim ngạch xuất khẩu sản phẩm j của thế giới.

W: là tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới.

Nếu:

RCA < 1: sản phẩm không có lợi thế cạnh tranh.

1 < RCA < 2,5: sản phẩm có lợi thế cạnh tranh.

RCA > 2,5: sản phẩm có lợi thế cạnh tranh rất cao.

Khi so sánh hệ số RCA cùng một mặt hàng của hai nước thì mặt hàng

của nước nào có hệ số RCA lớn hơn sẽ có lợi thế xuất khẩu hơn [59, 13].

2.2.1.3. Thị phần hàng hóa nông sản

Thị phần là phần thị trường tiêu thụ sản phẩm mà doanh nghiệp chiếm

lĩnh, thị phần được tính là bằng số lượng sản phẩm bán ra của doanh nghiệp

46

trên tổng sản phẩm tiêu thụ của thị trường hoặc bằng doanh thu bán hàng của

doanh nghiệp trên tổng doanh thu của thị trường về mặt hàng đó. Mỗi HHNS

thường có những khu vực thị trường riêng với số lượng khách hàng nhất định. Khi

HHNS đảm bảo được các yếu tố bên trong như: có chất lượng tốt hơn, giá cả thấp

hơn, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm… và có được những yếu tố bên ngoài

như: cơ hội kinh doanh xuất hiện, công tác xúc tiến bán hàng thuận lợi, sản phẩm

có thương hiệu mạnh, kênh phân phối đa dạng… sẽ làm tăng SCT của sản phẩm

và mở rộng được thị trường, chiếm lĩnh được thị phần từ đối thủ cạnh tranh.

Để duy trì, chiếm lĩnh mở rộng thị trường và gia tăng thị phần HHNS, thì

sự có mặt kịp thời của hàng hóa trên thị trường, đáp ứng được đòi hỏi của khách

hàng là yếu tố quan trọng. Sự có mặt kịp thời của hàng hóa phải thể hiện ở yếu tố

về thời gian và không gian: về thời gian đó là đảm bảo hàng hóa được cung cấp

trên thị trường luôn đi trước một bước so với đối thủ cạnh tranh; về không gian

đó là cần lựa chọn thị trường tiêu thụ, xuất khẩu sản phẩm phù hợp, bao gồm có

lượng khách hàng lớn và có nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng phù hợp với sản phẩm

của mình trên thị trường. Ngoài ra vấn đề nghệ thuật tổ chức mạng lưới, chi

nhánh và sự bày trí các cơ sở buôn bán, giới thiệu sản phẩm, các cửa hàng tiêu

thụ hàng hóa trên thị trường để thu hút được khách hàng với quy mô lớn là nhân

tố quan trọng để nâng cao SCT của HHNS trên thị trường. Thị phần của HHNS

trên thị trường thường được tính theo công thức sau:

MAi x 100% MSAi = MA

Trong đó:

MSAi: là thị phần HHNS A của nước i.

MAi: là số lượng HHNS A của nước i được tiêu thụ trên thị trường.

MA: là tổng số lượng HHNS A được tiêu thụ trên thị trường.

Thị phần là một tiêu chí quan trọng để đánh giá SCT của HHNS, độ lớn

của tiêu chí này phản ánh khả năng chiếm lĩnh thị trường của mặt hàng; thị

phần càng lớn thì SCT của mặt hàng đó càng cao.

47

2.2.1.4. Thương hiệu của hàng hóa nông sản

Thương hiệu là tổng hợp tất cả các yếu tố vật chất, thẩm mỹ, lý tính

và cảm tính của một sản phẩm, bao gồm bản thân sản phẩm, tên gọi, biểu

tượng, hình ảnh và mọi sự thể hiện của sản phẩm đó, dần được tạo dựng qua

thời gian và chiếm lĩnh vị trí rõ ràng trong tâm trí khách hàng [76, tr.18].

Thương hiệu của HHNS chính là tổng hợp các đặc tính của hàng hóa như giá

trị sử dụng, giá trị, mẫu mã và các dịch vụ của sản phẩm. Thương hiệu

không chỉ là dấu hiệu để nhận biết và phân biệt sản phẩm của nhà cung cấp

này với sản phẩm của nhà cung cấp khác mà nó còn là tài sản vô hình rất có

giá trị của nhà cung cấp, là uy tín và thể hiện niềm tin của người tiêu dùng

đối với nhà cung cấp cũng như sản phẩm đó.

Ngày nay, đa số các hàng hóa bán trên thị trường đặc biệt là thị

trường xuất khẩu đều có gắn thương hiệu. Thương hiệu của hàng hóa đã trở

thành tài sản vô hình rất quý giá và là vũ khí quan trọng trong cạnh tranh

của nhà cung cấp. Thương hiệu của một HHNS nào đó càng mạnh, càng

nổi tiếng thì SCT của HHNS đó càng cao và ngược lại. Điều đó có nghĩa là,

nếu một sản phẩm nào đó đã có được thương hiệu đối với người tiêu dùng

thì sản phẩm đó có lợi thế cạnh tranh hơn hẳn so với sản phẩm cùng loại

của các đối thủ cạnh tranh. Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, cạnh

tranh diễn ra ngày càng khốc liệt, muốn đứng vững được trên thị trường

buộc các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, xuất khẩu HHNS phải xây dựng

cho mình một thương hiệu mạnh, một thương hiệu có tên tuổi trong lòng

khách hàng trong nước và quốc tế.

2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa

nông sản Việt Nam

Do HHNS có đặc điểm riêng biệt so với các loại hàng hóa thông thường

khác, đặc biệt là tính phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và tính tươi sống. Vì vậy

SCT của HHNS Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau.

Trong luận án này, tác giả tập trung phân tích một số nhân tố khách quan và chủ

quan có ảnh hưởng lớn sau đây:

48

2.2.2.1. Nhóm nhân tố khách quan

Một là, nguồn lực tự nhiên

Vị trí địa lý: Vị trí địa lý của một vùng, một quốc gia phần lớn quy

định về điều kiện đất đai, thời tiết, khí hậu của vùng đó, quốc gia đó. Nếu có

vị trí địa lý thuận lợi như gần đường giao thông, bến cảng, gần khu chế biến,

nơi cung cấp các dịch vụ nông nghiệp… sẽ giảm chi phí trong quá trình sản

xuất, vận chuyển. Đó là cơ sở để giảm giá thành sản phẩm nâng cao SCT

cho hàng hóa nông sản.

Đất đai, thổ nhưỡng: Mỗi loại HHNS có sự thích nghi với một loại thổ

nhưỡng nhất định. Nếu như đất đai màu mỡ, giàu dinh dưỡng và đa dạng sẽ là

môi trường tốt cho cây trồng sinh trưởng phát triển tốt, từ đó cho năng suất cao,

chất lượng tốt, giảm thiểu được các chi phí sản xuất, nâng cao SCT cho HHNS.

Nguồn nước: Nước có vị trí vai trò hết sức quan trọng đối với sự sống

nói chung, và đặc biệt quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp nói riêng. Nếu

nguồn nước tưới dồi dào, đủ tưới quanh năm sẽ tạo điều kiện để thâm canh

gối vụ, cây trồng phát triển thuận lợi, năng suất cao, chất lượng tốt, giảm chi

phí tưới tiêu, giảm giá thành sản phẩm, làm cho SCT của HHNS tăng lên.

Ngược lại, nếu nguồn nước khan hiếm, ô nhiễm, xâm nhập mặn sẽ gây khó

khăn cản trở đến việc tưới tiêu, thâm canh gối vụ, năng suất thấp, chất lượng

kém, làm tăng chi phí và giảm SCT của HHNS. Việt Nam là nước nhiệt đới

gió mùa, hàng năm có lượng mưa lớn, độ ẩm cao, hệ thống các con sông dày

đặc nên rất thuận lợi về nguồn nước. Đây là một trong những lợi thế trong sản

xuất HHNS của Việt Nam. Tuy nhiên, nguồn nước mặt phục vụ sản xuất nông

nghiệp của Việt Nam có tới trên 60% được sản sinh từ bên ngoài lãnh thổ. Vì

vậy, việc bảo vệ nguồn nước, điều tiết nguồn nước phục vụ sản xuất nông

nghiệp rất khó khăn, nhất là hiện nay các nước đã và đang tiếp tục triển khai

xây dựng nhiều hồ thủy điện lớn trên thượng nguồn các con sông nhất là Sông

Mê Kông. Ngoài ra, hiện tượng ô nhiễm, biến đổi khí hậu, nước biển dâng,

xâm nhập mặn… đang là thách thức lớn đối với đời sống con người nói chung

và sản xuất nông nghiệp cũng như SCT của HHNS Việt Nam nói riêng.

49

Thời tiết khí hậu: nếu gặp điều kiện thời tiết khí hậu thuận lợi (tức là

mưa thuận, gió hòa) sẽ là môi trường cho cây trồng, vật nuôi phát triển bình

thường, năng suất thu hoạch tăng, chất lượng sản phẩm tốt, giảm thiểu được

các chi phí chăm bón, thuốc trừ sâu,… giảm giá thành và tăng SCT cho

HHNS. Ngược lại, nếu gặp thời tiết bất lợi (hạn hán, bão lụt, rét đậm rét hại,

biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn…) sẽ làm cho năng suất cây

trồng, vật nuôi giảm, sản lượng và chất lượng HHNS giảm xuống. Thời tiết

bất lợi cũng là điều kiện để các loài côn trùng, sâu bệnh, dịch bệnh phát triển

gây hại cho cây trồng, vật nuôi, buộc chúng ta phải sử dụng các loại thuốc bảo

vệ thực vật, thuốc thú y, sẽ làm tăng chi phí sản xuất, sản lượng và chất lượng

cây trồng, vật nuôi giảm và đặc biệt có thể làm cho dư lượng thuốc bảo vệ

thực vật, dư lượng kháng sinh vượt ngưỡng cho phép, ảnh hưởng không nhỏ

đến SCT của HHNS.

Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại

Hiện nay Việt Nam đã tham gia đàm phán và ký kết 16 Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương, trong đó 13 Hiệp định đã có

hiệu lực, 3 hiệp định đang khởi động đàm phán. Đặc biệt trong năm 2019 và năm 2020 hai hiệp định thương mại tự do lớn có hiệu lực là Hiệp định Đối tác

toàn diện và tiến bộ xuyên Thái bình dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do EU và Việt Nam (EVFTA) [Phụ lục 7]. Việc Việt Nam hội nhập

vào nền kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đã có ảnh hưởng lớn cả về thuận lợi và khó khăn đến SCT của HHNS, cụ thể:

Thuận lợi: tạo cơ hội cho Việt Nam học tập kinh nghiệm, tiếp nhận các nguồn lực đầu tư, trong đó có chuyển giao những thành tựu KH&CN tiên tiến

trên thế giới về sản xuất, chế biến, bảo quản HHNS; được hưởng lợi thuế quan khi các nước thực hiện các cam kết cắt giảm thuế quan trong các hiệp

định thương mại; mở rộng và đa dạng hóa thị trường tiêu thụ; tạo áp lực để các chủ thể SXKD, luôn phải nỗ lực cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất,

nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, giảm giá thành,… để nâng cao SCT cho sản phẩm của mình.

50

Khó khăn: HHNS Việt Nam sẽ bị cạnh tranh gay gắt hơn trên thị

trường trong nước và quốc tế, nhất là đối với các nước có nền nông nghiệp phát triển như Mỹ, EU, Nhật Bản,…; các quốc gia tăng cường các biện pháp

bảo hộ mậu dịch, áp đặt thuế nhập khẩu cao, thiết lập các “hàng rào” về tiêu chuẩn kỹ thuật, về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, về sử dụng lao

động, về bảo vệ môi trường, nguồn gốc xuất xứ…, điều này làm cho thị trường bị bóp méo, SCT của HHNS sản bị giảm sút.

Trước những ảnh hưởng thuận lợi và khó khăn do hội nhập quốc tế

mang lại, đòi hỏi các chủ thể phải nghiên cứu, nắm chắc những quy định

trong các hiệp định thương mại, có các giải pháp phù hợp nhằm phát huy

những mặt thuận lợi, khắc phục mặt khó khăn, để không ngừng nâng cao SCT

cho HHNS Việt Nam.

2.2.2.2. Nhóm nhân tố chủ quan

Một là, cơ chế, chính sách của nhà nước

Trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay, cơ chế,

chính sách của nhà nước về phát triển kinh tế nói chung, phát triển sản xuất

nông nghiệp hàng hóa nói riêng là hết sức quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến

SCT của quốc gia nói chung, của HHNS nói riêng.

Cơ chế, chính sách đúng đắn, phù hợp sẽ tạo điều kiện cho sản xuất và

tiêu thụ hàng hóa nông sản phát triển nhanh; ngược lại, chính sách không phù

hợp sẽ tạo lực cản rất lớn đối với sự phát triển của của sản xuất và tiêu thụ

hàng hóa nông sản. Những cơ chế, chính sách của nhà nước có tác động đến

SCT của HHNS bao gồm: Quy hoạch, kế hoạch; chính sách về đất đai, đầu tư,

tín dụng, thuế; chính sách về khuyến nông, đào tạo nguồn nhân lực, phát triển

khoa học công nghệ,…

Hai là, trình độ khoa học và công nghệ

Việc áp dụng các tiến bộ của KH&CN nhất là những thành tựu của

cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (4.0), vào sản xuất, chế biến, bảo quản,

xúc tiến thương mại, là nhân tố quan trọng, quyết định đến năng suất, chất

lượng, hiệu quả và SCT của HHNS, cụ thể:

51

Về ứng dụng khoa học và công nghệ vào lai tạo giống cây trồng, vật

nuôi: giống cây trồng, vật nuôi là nhân tố quyết định trực tiếp và quan trọng

nhất đến năng suất, chất lượng HHNS. Với sự tiến bộ vượt bậc trong khoa

học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học đã lai tạo ra được những loại

giống cây trồng, vật nuôi cho năng suất cao, chất lượng tốt, khả năng chống

chịu sâu bệnh, dịch bệnh và điều kiện khắc nghiệt của thời tiết tốt. Điều này

góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản xuất (chi phí cá

biệt) và nâng cao SCT cho HHNS.

Về công nghệ sản xuất: xu hướng sản xuất nông nghiệp ứng dụng

công nghệ cao đang được thay thế dần sản xuất nông nghiệp truyền thống.

Sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao như: sử dụng hệ thống nhà

lưới, nhà kính, tưới nhỏ giọt, tự động bón phân theo nhu cầu dinh dưỡng của

từng loại cây trồng, tự động điều chỉnh nhiệt độ, ánh sáng,... Ứng dụng công

nghệ cao vào sản xuất sẽ cho năng suất cây trồng cao, chất lượng sản phẩm

tốt, các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm được bảo đảm. Đó là tiêu

chuẩn hàng đầu để người tiêu dùng lựa chọn và theo đó SCT của HHNS

cũng được tăng lên.

Về công nghệ sau thu hoạch: Giai đoạn sau thu hoạch bao gồm: sơ

chế, vận chuyển, bảo quản, chế biến và tiếp thị. Sau thu hoạch, HHNS tiếp tục

các hoạt động sống, dễ bị hư hỏng, ẩm mốc, biến chất trước tác động của điều

kiện tự nhiên và thời gian. Chính vì vậy, công nghệ sau thu hoạch có vị trí,

vai trò hết sức quan trọng, ứng dụng được công nghệ tiên tiến, hiện đại vào

giai đoạn này sẽ nâng cao được chất lượng, giá trị cho HHNS, giảm tổn thất,

chi phí, giảm giá thành, nâng cao SCT cho HHNS.

Hiện nay, công nghiệp chế biến là khu vực tiêu thụ HHNS lớn, đa số

nông sản là nguyên liệu đầu vào cho quá trình chế biến. Trình độ công nghệ

chế biến càng cao, hiện đại, quy mô càng lớn thì khối lượng HHNS qua chế

biến càng nhiều, chất lượng nông sản qua chế biến càng cao, giá trị gia tăng

càng cao, theo đó SCT của HHNS càng cao. Ngoài ra, khoa học, công nghệ

52

và phương tiện bảo quản tốt, đóng gói an toàn sẽ giữ được chất lượng sản

phẩm lâu, góp phần làm tăng SCT của HHNS. Đặc điểm của HHNS là theo

thời vụ, nhưng nhu cầu tiêu thụ quanh năm, do vậy việc đầu tư tốt cho công

nghệ sau thu hoạch sẽ khắc phục được tình trạng “mất mùa được giá, được

mùa rớt giá” của một số HHNS Việt Nam thời gian qua.

Ba là, chất lượng lao động nông nghiệp Chất lượng lao động là nhân tố quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến

năng suất, chất lượng, SCT của HHNS. Khi nghiên cứu về hàng hóa, để

phân tích làm rõ giá trị của hàng hóa, C. Mác đã phân chia lao động thành

lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động

không qua đào tạo mà bất cứ người nào có khả năng lao động bình thường

đều làm được. Còn lao động phức tạp là lao động phải được học tập, đào

tạo chuyên môn ngành nghề. Năng suất của lao động phức tạp bao giờ

cũng là bội số của lao động giản đơn. C. Mác viết: “Lao động phức tạp

chỉ là lao động giản đơn được nâng lên lũy thừa, hay nói cho đúng hơn, là

lao động giản đơn được nhân lên” [63, tr. 75]. Với tư cách là chủ thể sáng

tạo trong lao động sản xuất, lực lượng lao động nông nghiệp không ngừng

tự đổi mới, lựa chọn và kết hợp hiệu quả các nguồn lực để tạo ra sản

phẩm nông sản đáp ứng nhu cầu của chính mình và cho toàn xã hội; do

đó, quy mô, tốc độ tăng trưởng nông nghiệp nói chung, năng suất, chất

lượng, SCT của HHNS nói riêng, chịu ảnh hưởng trực tiếp từ chất lượng

lao động nông nghiệp.

Bốn là, kết cấu hạ tầng cho sản xuất và lưu thông hàng hóa nông sản

Kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và lưu thông HHNS bao gồm: hệ

thống giao thông (giao thông nội đồng trực tiếp phục vụ sản xuất, giao thông

kết nối sản xuất với chế biến và thị trường tiêu thụ); hệ thống thủy lợi (hệ

thống hồ chứa, kênh, mương phục vụ tưới tiêu, vận tải thủy; hệ thống đê điều

chống lũ lụt, xâm nhập mặn); hệ thống điện; kho chứa; bến bãi, cầu cảng,…

Chất lượng, giá cả của HHNS chịu tác động lớn từ kết cấu hạ tầng phục vụ

53

sản xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển. Vì vậy để nâng cao chất lượng, hạ

giá thành, tăng SCT cho HHNS, chúng ta cần phải quan tâm đầu tư phát triển

kết cấu hạ tầng một cách hiện đại và đồng bộ.

2.3. Kinh nghiệm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản ở

một số quốc gia và bài học rút ra cho Việt Nam

2.3.1. Kinh nghiệm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản

ở một số quốc gia

Sản xuất nông nghiệp hàng hóa nói chung, nâng cao SCT của HHNS nói

riêng là xu hướng vận động phát triển tất yếu của ngành nông nghiệp ở các quốc gia trên thế giới. Tùy vào điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, đặc biệt là bước đi, cách

làm cụ thể mà ở mỗi quốc gia có sự thành công khác nhau. Để rút ra bài học cho Việt Nam có thể tham khảo, nhằm nâng cao SCT của HHNS, luận án tập trung

nghiên cứu kinh nghiệm ở một số quốc gia cụ thể sau đây:

2.3.1.1. Kinh nghiệm của Thái Lan

Thái Lan là một đất nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, có tổng diện tích 513.000 km2, lớn thứ 50 thế giới và có dân số khoảng 67 triệu

người, đông thứ 20 trên thế giới. Là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa và diện tích đất canh tác lớn, có nhiều lợi thế trong sản xuất nông nghiệp. Trước

đây Thái Lan là một nước nông nghiệp lạc hậu, nhưng từ đầu thập niên 80 đến nay Thái Lan đã thực hiện chiến lược đẩy mạnh phát triển nông nghiệp

theo hướng sản xuất hàng hóa xuất khẩu bền vững, nhờ đó Thái Lan đã trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu trên thế giới và

là quốc gia thành công trong việc nâng cao SCT của HHNS. Sự thành công đó xuất phát từ một số kinh nghiệm sau:

Một là, thực hiện đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp, chú trọng phát triển các vùng sản xuất chuyên canh quy mô lớn đối với các sản phẩm có lợi

thế ở từng vùng, từng địa phương, phục vụ xuất khẩu

Vào năm 1982, Chính phủ Thái Lan đã đề ra chiến lược phát triển kinh

tế quốc dân lấy hiện đại hóa nông nghiệp, công nghiệp làm mục tiêu. Đồng

thời thực hiện chủ trương đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp, trong đó tập

trung sản xuất các sản phẩm có lợi thế phục vụ cho xuất khẩu, chú trọng sản

54

xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn. Để đa dạng hóa sản phẩm và khai thác

tối đa lợi thế của từng vùng, nâng cao chất lượng và SCT hàng hóa nông sản,

Chính phủ Thái Lan đã đề ra chương trình “Mỗi làng một sản phẩm” nhằm

tạo ra các sản phẩm tiêu biểu, đặc trưng cho từng vùng. Do vậy, tiềm năng

nông nghiệp luôn được Thái Lan khai thác và phát huy triệt để, sản xuất phát

triển nhanh chóng, xuất hiện nhiều mặt hàng có khối lượng lớn, chất lượng

tốt, SCT cao, xuất khẩu đứng hàng đầu thế giới như gạo, sắn, cao su,…

Hai là, ban hành các chính sách về thuế, tín dụng nhằm khuyến khích sản

xuất nông nghiệp, thực hiện trợ giá và bảo hiểm nông nghiệp cho nông dân

Để khuyến khích sản xuất HHNS có sức cạnh trạnh cao, hướng vào

xuất khẩu, Thái Lan đã thực hiện các chính sách như bỏ quy định hạn ngạch,

giảm hoặc miễn thuế xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu chỉ phải nộp thuế

lợi tức nếu có. Thực hiện miễn thuế nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị và

chuyển giao công nghệ tiên tiến từ nước ngoài phục vụ sản xuất nông

nghiệp... Thi hành chính sách về giá theo hướng có lợi cho doanh nghiệp và

người nông dân, với chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất, người nông dân

được tự quyết định lựa chọn mô hình canh tác và tiêu thụ sản phẩm do mình

sản xuất ra. Tùy vào điệu kiện cụ thể của từng vùng mà cơ chế giá có sự biến

đổi một cách linh hoạt, nhưng mục tiêu hướng tới của Chính phủ Thái Lan khi

thi hành chính sách giá là: (1) bảo đảm giá tại nơi sản xuất phải có lợi cho

người sản xuất và người tiêu dùng; (2) bảo đảm sự ổn định về giá nông sản

trên thị trường trong nước, kìm giữ giá trong nước thấp hơn so với giá thị

trường thế giới nhằm khuyến khích xuất khẩu; (3) hạn chế sự ảnh hưởng của

những biến động về giá trên thị trường thế giới tới giá nông sản trên thị

trường nội địa [61, tr.48].

Thái Lan thực hiện Chương trình bảo hiểm nông nghiệp từ rất sớm, bảo

hiểm các sản phẩm nông nghiệp cho tất cả doanh nghiệp và nông dân, tập

trung vào các loại cây trồng có độ rủi ro lớn, để người sản xuất yên tâm.

Chẳng hạn: vào năm 2014, trước tình trạng hạn hán kéo dài, Chính phủ Thái

Lan đã xúc tiến hỗ trợ mua bảo hiểm lúa, trợ giúp doanh nghiệp và người

55

nông dân tới 80% chi phí bảo hiểm. Chi phí bảo hiểm sẽ tùy thuộc vào từng

vùng và độ rủi ro khác nhau, doanh nghiệp và người nông dân ở những vùng

có rủi ro thấp nhất sẽ được chi trả khoảng 124 baht/rai (khoảng 500.000

đồng/ha) trong đó doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phải chi 60 baht/rai (khoảng

240.000 đồng/ha), Chính phủ hỗ trợ thêm 64 baht/rai (tức khoảng 260.000

đồng/ha). Còn ở những vùng có rủi ro cao nhất, sẽ được chi trả 100 baht/rai

(tức khoảng 400.000 đồng/ha) [72].

Ba là, tăng cường đầu tư cho nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa

học, công nghệ vào sản xuất, chế biến, bảo quản sản phẩm

Chính phủ Thái Lan đã đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu khoa học và mua

sắm các loại máy móc trang thiết bị, công nghệ tiên tiến, hiện đại phục vụ sản

xuất HHNS. Từ việc nghiên cứu lai tạo giống, gieo trồng, chăm sóc, cận thu

hoạch, thu hoạch, bảo quản, chế biến và kỹ thuật đóng gói như: công nghệ quét

tạo khí quyển trong bảo quản nông sản, công nghệ phun tạo màng bọc, công

nghệ chiên chân không, công nghệ giảm áp đột ngột trong chế biến nông sản,…

Nhờ ứng dụng các công nghệ hiện đại đó mà nông sản sau thu hoạch

của Thái Lan có thể được bảo quản từ 3 đến 5 tháng với chi phí chỉ bằng một

nửa so với công nghệ cũ, đồng thời vẫn bảo đảm được chất lượng và an toàn

vệ sinh thực phẩm. Tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch hiện nay giảm xuống còn

khoảng 7,5 đến 8% so với 10% vào những năm 1980. Thái Lan đã ban hành

chính sách thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nhất là đầu tư nước

ngoài, do vậy mà các cơ sở chế biến hàng nông sản của Thái Lan thường có

quy mô lớn, máy móc, trang thiết bị, công nghệ hiện đại. Ngoài ra Chính phủ

Thái Lan đã đầu tư thành lập các trung tâm nghiên cứu KH&CN nông nghiệp,

trong đó có Trung tâm Quốc gia về Kỹ thuật Di truyền và Công nghệ sinh học

(BIOTEC), thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ (MOST),…

Thái Lan rất coi trọng việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học và phát

triển công nghệ sinh học như: nghiên cứu lai tạo giống, phát triển vi sinh vật

trong nông nghiệp, kiểm soát sinh học,… Vì vậy đã tạo ra được nhiều loại

giống cây trồng cho năng suất cao, chất lượng tốt và có đặc tính vượt trội so

với các loại giống cũ (chẳng hạn như: Loại giống lúa Khao Dok mali 10,

56

Khao Jao Hawm Suphan và Khao Jao Hawm Klong Luang) vừa cho gạo đặc

sản thơm ngon vừa có khả năng kháng bệnh, chịu mặn và đặc biệt là cho năng

suất cao gấp 1,5 lần so với giống lúa thông thường [6, tr.75].

Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là chất lượng nông dân

Để đáp ứng nhu cầu ứng dụng KH&CN, nhất là công nghệ cao vào sản

xuất nông nghiệp. Thái Lan đã rất coi trọng việc nâng cao trình độ về mọi mặt

cho các doanh nghiệp và người nông dân, đặc biệt là kỹ thuật canh tác và

chuyển giao công nghệ cho lực lượng này. Thực hiện chủ trương đó, ngày

12/3/2008, Bộ Nông nghiệp và HTX cùng với Bộ Giáo dục Thái Lan đã

triển khai thực hiện dự án “Phát triển nông dân mới”. Với mục tiêu trang bị

cho người nông dân cả về lý thuyết và kỹ năng thực tiễn khi họ làm nghề

nông, nắm được các thông tin để phân tích kế hoạch, có thể dự đoán và

quản lý rủi ro, đảm bảo có thu nhập chính từ sản xuất nông nghiệp, từ đó

có thể truyền đạt và dẫn dắt người khác [139]. Thái Lan chủ trương mở các

lớp tập huấn ngắn hạn cho nông dân, trực tiếp tại địa bàn họ sinh sống,

đồng thời có các chính sách để khuyến khích nông dân tham gia các lớp

này. Chẳng hạn vào năm 2015, trước tình trạng hạn hán kéo dài do tác

động của hiện tượng El Nino, đã gây thiệt hại lớn cho kinh tế nông nghiệp,

Chính phủ Thái Lan đã có chủ trương chuyển đổi trồng lúa sang trồng các

loại cây ít nước, chịu hạn. Tiến hành mở lớp tập huấn cho nông dân ở

huyện Sankhaburi, tỉnh Chai Nat (vùng chuyển đổi) và hỗ trợ 200

baht/người/ngày tham gia tập huấn. Mỗi đợt tập huấn là 15 ngày, số người

mỗi đợt dự kiến là 250 người và các đợt kéo dài khoảng 3 tháng. Tuy nhiên

số người đăng ký tham gia đông gấp nhiều lần theo dự kiến [139]. Ngoài

ra, thông qua hệ thống khuyến nông các cấp, Thái Lan đã đẩy mạnh các

hoạt động đào tạo, huấn luyện và thông tin tuyên truyền, tư vấn dịch vụ

miễn phí cho doanh nghiệp và người nông dân.

Năm là, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường,

xây dựng và quảng bá thương hiệu hàng hóa nông sản

Để nâng cao SCT và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu HHNS, ngày

57

01/01/2015 Chính phủ Thái Lan đã ban hành Luật Hỗ trợ đầu tư mới, trong đó

thực hiện miễn thuế 5 năm đầu cho các doanh nghiệp mở rộng xuất khẩu nông

sản [139]. Được sự hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi từ cơ chế, chính sách của

Chính phủ, các doanh nghiệp Thái Lan không ngừng đầu tư, ứng dụng

KH&CN nhất là công nghệ cao vào sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm.

Đã có nhiều sản phẩm nông sản của các doanh nghiệp được cấp chứng nhận an

toàn thực phẩm quốc tế như: Thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu (GlobalGap),

hướng dẫn thực hành sản xuất tốt (GMP), chứng nhận sản phẩm biến đổi gen

an toàn (NON - GMO), chứng nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng và an toàn thực

phẩm bán lẻ quốc tế (BRC, IFS) và tiêu chuẩn chất lượng (ISO),...

Thái Lan rất chú trọng đến xây dựng, đăng ký và quảng bá thương hiệu.

Họ tích cực tham gia các hội chợ, triển lãm được tổ chức trong và ngoài nước để

giới thiệu, quảng bá sản phẩm, đồng thời gặp gỡ đối tác, xây dựng mối quan hệ

kinh doanh và ký kết các hợp đồng xuất khẩu. Ngoài ra Cục Xúc tiến thương

mại Thái Lan thường xuyên cung cấp các dịch vụ về thông tin thị trường, về sản

phẩm, về khách hàng nhập khẩu, theo yêu cầu của các doanh nghiệp; các số liệu

thống kê thương mại được cung cấp trên mạng, xây dựng cổng thông tin nhanh

về xuất khẩu nông sản và lập các trang Web thương mại,… Ngoài ra các doanh

nghiệp Thái Lan cũng rất chú trọng đầu tư áp dụng kỹ thuật đóng gói hiện đại,

mẫu mã, bao bì bắt mắt và phù hợp với nhu cầu của thị trường.

2.3.1.2. Kinh nghiệm của Malaysia

Malaysia là một quốc gia nằm ở khu vực Đông Nam Á, có diện tích đất

liền khoảng 329.847 km2, dân số 28,33 triệu người. Từ khi giành được độc

lập vào năm 1957, Malaysia từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp,

nghèo nàn, lạc hậu nhưng đến nay đã trở thành một trong các nước có nền

kinh tế phát triển mạnh ở khu vực. Ngành nông nghiệp Malaysia đã đạt được

những thành quả quan trọng với nhiều HHNS có SCT cao, được tiêu thụ

mạnh trên thị trường thế giới như: ca cao, dầu cọ, cao su, mía, đường,...[148].

Thành công của Malaysia xuất phát từ một số kinh nghiệm sau:

Một là, nâng cao chất lượng nhân lực nông nghiệp chú trọng người

58

nông dân và phát triển đội ngũ doanh nhân trẻ trong nông nghiệp

Để phát triển nền nông nghiệp theo hướng hiện đại, ứng dụng KH&CN

vào sản xuất, nâng cao chất lượng và SCT cho HHNS, Malaysia đã chủ

trương nâng cao chất lượng nhân lực và phát triển đội ngũ doanh nhân trẻ

trong nông nghiệp. Theo chủ trương đó, Hội đồng đào tạo nông nghiệp quốc

gia Malaysia (NATC) cùng Viện Trồng trọt và hàng hóa (IMPAC) đã hợp tác

với các tổ chức giáo dục, đào tạo và các nhà nghiên cứu cao cấp, tiến hành khảo

sát, đánh giá các kỹ năng hiện tại của nông dân và các hộ sản xuất nhỏ. Từ đó,

bổ sung, hoàn thiện chương trình đào tạo, giúp doanh nghiệp và người nông dân

tiếp cận và ứng dụng các công nghệ tiên tiến, hiện đại vào sản xuất nông nghiệp.

Đồng thời, phối hợp cùng Trung tâm sáng tạo toàn cầu Malaysia (MaGIC), Viện

doanh nhân quốc gia (INSKEN) hỗ trợ và phát triển các doanh nghiệp trẻ trong

nông nghiệp, nhất là doanh nghiệp mới khởi nghiệp. Tính đến cuối năm 2015 đã

có hơn 2000 doanh nghiệp nông nghiệp được đào tạo về kỹ thuật và tài chính, và

đa số nông dân ở các địa phương được tập huấn, giới thiệu những kiến thức cơ

bản về quy trình thực hành nông nghiệp tốt,..[144].

Chính phủ Malaysia chỉ đạo các ngân hàng phát triển nông nghiệp,

nông thôn phối hợp cùng các doanh nghiệp nông nghiệp, các cơ sở đào tạo, có

các chính sách khuyến khích như: cho sinh viên ngành nông nghiệp vay trang

trải chi phí học tập với lãi suất thấp, hoặc vay nợ, sau khi đi làm có thu nhập

mới thanh toán trả nợ; các doanh nghiệp có các chương trình tài trợ học bổng

hoặc tuyển dụng với mức lương hấp dẫn,… nhằm thu hút sinh viên theo học

ngành nông nghiệp. Ngoài ra Chính phủ Malaysia còn thực hiện nhiều

chương trình khác nhằm khuyến khích nhân lực trẻ vào sản xuất, kinh doanh

trong ngành nông nghiệp, chẳng hạn như: “chương trình nông dân trẻ tuổi”

thành lập tháng 9/2013, đến cuối năm 2015 đã thu hút được hơn 3.963 thanh

thiếu niên đăng ký. Đây là những người nông dân tương lai đầy triển vọng với

số lượng không ngừng được gia tăng hàng năm [144].

Hai là, đẩy mạnh cơ giới hóa nông nghiệp, tăng cường nghiên cứu, ứng

dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, chú trọng công nghệ

59

thông tin (ICT)

Để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, giảm sự phụ thuộc vào lao

động thủ công, tăng năng suất và giảm chi phí sản phẩm, Malaysia đã đẩy

mạnh cơ giới hóa nông nghiệp đồng thời tăng cường nghiên cứu, ứng dụng

KH&CN vào sản xuất. Tập trung nghiên cứu phát triển và ứng dụng các

công nghệ chủ yếu như: lai tạo hạt giống tốt, cải tiến sản phẩm xanh, công

nghệ quản lý dịch hại, công nghệ quản lý trang trại, công nghệ canh tác

chính xác, công nghệ sản xuất thức ăn chăn nuôi, công nghệ giám sát và

đặc biệt là công nghệ thông tin di động, phục vụ việc thông báo về nhu

cầu, giá cả thị trường HHNS đồng thời cảnh báo sớm thiên tai, dịch hại và

tư vấn kỹ thuật miến phí cho nông dân... Để thu hút vốn đầu tư và khai

thác tối đa tiềm năng nghiên cứu phát triển các công nghệ (R&D), Chính

phủ Malaysia thực hiện chính sách xã hội hóa KH&CN nhằm khuyến

khích các doanh nghiệp tư nhân, các trường đại học và các viện nghiên

cứu tham gia. Theo đó, năm 2012, tỷ lệ tham gia đóng góp của nhóm này

vào nghiên cứu, phát triển công nghệ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp

tương ứng là 64,45%; 28,67% và 6,88%. Đầu tư của chính phủ Malaysia

cho hoạt động nghiên cứu, phát triển qua các năm có sự gia tăng đáng kể,

chẳng hạn: năm 2012 chiếm tới 1,13% GDP tăng 43% so với năm 2008 là

(0,79%) [143]. Chính phủ Malaysia đã ban hành luật về cấp bằng sáng

chế, chế tạo và quyền sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm công nghệ. Ban

hành và phổ biến quy trình nghiên cứu ứng dụng công nghệ, từ ý tưởng

nghiên cứu đến thương mại hóa, chuyển giao công nghệ cho người sản

xuất; trong đó chỉ định Văn phòng Thương mại Công nghệ (TC) của Bộ

Nông nghiệp Malaysia có trách nhiệm thẩm định, định giá sản phẩm và

cuối cùng là đưa ra thị trường. Quá trình thương mại hóa hoạt động

nghiên cứu và phát triển ở Malaysia qua hàng năm không ngừng được

tăng lên và trung bình hàng năm tạo ra khoảng 341.07 triệu (RM). Đến

tháng 7/2016, đã có hơn 90% công nghệ được thông qua giấy phép và

thương mại hoá [145]. Đồng thời, Chính phủ Malaysia đẩy mạnh đầu tư,

60

củng cố và tăng cường hoạt động của các Trung tâm nghiên cứu, các trạm

chuyển giao công nghệ để hướng dẫn doanh nghiệp và người nông dân ứng

dụng công nghệ vào sản xuất HHNS.

Ba là, ban hành các chính sách hỗ trợ khuyến khích sản xuất, xuất khẩu

hàng hóa nông sản

Để thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh của hàng

hóa nông sản, Chính phủ Malaysia đã có nhiều chính sách khuyến khích và hỗ

trợ các hoạt động xúc tiến xuất khẩu như: hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu

thâm nhập vào các thị trường mới, hỗ trợ xây dựng các nhà kho chứa hàng,

kho bảo quản và cấp tín dụng cho khâu đổi mới công nghệ.v.v. Đối với các

doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế biến, Chính phủ Malaysia đã áp

dụng những chính sách khuyến khích như: giảm thuế trong 5 năm đầu, kể từ

ngày mới bắt đầu sản xuất đối với các công ty mới thành lập [44, tr.64]. Đối

với các doanh nghiệp xuất khẩu các sản phẩm đã qua chế biến cũng được

hưởng các chính sách khuyến khích như: trợ cấp xuất khẩu, cấp vốn tín dụng

xuất khẩu… Đối với các doanh nghiệp chế biến nông sản, được miễn thuế

nhập khẩu máy móc, trang thiết bị phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến

nông sản xuất khẩu… Nhờ những chính sách hỗ trợ hiệu quả mà đã tạo cho

ngành nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản của Malaysia phát triển

nhanh chóng, SCT hàng hóa nông sản của Malaysia không ngừng được nâng

lên trên thị trường trong nước và quốc tế.

Bốn là, củng cố, nâng cao năng lực hoạt động của hợp tác xã và các

hiệp hội trong chuỗi cung ứng sản phẩm nông nghiệp

Malaysia đẩy mạnh khuyến khích sự tham gia của các HTX, các hiệp

hội nông nghiệp và nông dân tham gia vào các chuỗi cung ứng sản phẩm, để bảo đảm các nhu cầu của hợp đồng, cho phép giá cả ở các trang trại tốt hơn,

chia sẻ lợi nhuận và bảo đảm thu nhập bền vững cho người nông dân. Trong đó chú trọng vào chuỗi cung ứng sản phẩm cao su, ca cao và rau quả. Để chuỗi

cung ứng sản phẩm hoạt động hiệu quả, việc quản lý ở các HTX sẽ do những người được đào tạo, các chuyên gia của các HTX, các tổ chức nông dân thực

61

hiện. Việc mua sắm các loại máy móc, trang thiết bị, công nghệ hiện đại sẽ

được Chính phủ hỗ trợ một phần. Ngoài ra các HTX, các hiệp hội, các doanh nghiệp và người nông dân khi tham gia chuỗi cung ứng còn được Chính phủ hỗ

trợ, tạo điều kiện tham gia vào các sự kiện như: hội chợ, triễn lãm giới thiệu sản phẩm ở trong nước và quốc tế; trợ cấp và cho vay vốn lãi suất ưu đãi đối

với các hoạt động: thử nghiệm, đóng gói, quảng bá sản phẩm HHNS…

2.3.1.3. Kinh nghiệm của Israel

Israel là một quốc gia nằm ở khu vực Trung đông, có diện tích đất liền khoảng 20.770km2, dân số khoảng 8.748.080 người. Là một đất nước mà

phần lớn diện tích đất đai là sa mạc, nguồn nước ở đây rất khan hiếm, chỉ có khoảng 20% diện tích đất đai phù hợp cho sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên

hiện nay Israel lại sở hữu một nền nông nghiệp phát triển hiện đại và được gọi là “kỳ tích nông nghiệp trên thế giới” [88, tr.189]. Sở dĩ ngành nông nghiệp

của Israel đạt được những thành tựu to lớn, các sản phẩm nông sản của họ có chất lượng tốt, SCT cao, xuất phát từ các kinh nghiệm sau:

Một là, đầu tư mạnh cho nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ

nhất là công nghệ cao vào sản xuất hàng hóa nông sản

Do điều kiện tự nhiên không thuận lợi, để phát triển sản xuất nông nghiệp, Israel xác định phải đi lên từ KH&CN. Vì vậy trong các sản phẩm

nông nghiệp của Israel hàm lượng khoa học chiếm tới 95% và chỉ có 5% là lao

động. Chính phủ Israel đã tiến hành thành lập các cơ quan nghiên cứu khoa học nông nghiệp như: Tổ chức Nghiên cứu nông nghiệp quốc gia (ARO), tổ chức

này có tới 6 viện nghiên cứu trực thuộc, chịu trách nhiệm nghiên cứu về các mảng khác nhau. Tổ chức nghiên cứu nông nghiệp quốc gia chịu trách nhiệm

tới 75% các nghiên cứu nông nghiệp của Israel [88, tr. 190].

Song song với hoạt động nghiên cứu, Israel tập trung đầu tư xây dựng,

hoàn thiện kết cấu hạ tầng, kỹ thuật hiện đại phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như: hệ thống nhà kính, nhà lưới, hệ thống điều chỉnh nhiệt độ, độ

ẩm... Đầu tư phát triển mạnh các công nghệ mũi nhọn như: Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ tự động hóa, công nghệ tưới nhỏ giọt,

công nghệ kiểm soát côn trùng, dịch bệnh theo phương pháp sinh học… Các

62

công nghệ này gắn với các khâu trong quy trình sản xuất nông nghiệp khép

kín và dành riêng cho từng loại sản phẩm nông nghiệp nhất định, đồng thời phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất theo các tiêu chuẩn quốc tế.

Ngoài ra Chính phủ Israel cũng rất quan tâm đầu tư nghiên cứu, ứng

dụng KH&CN vào khâu bảo quản sau thu hoạch. Viện Nghiên cứu khoa học

Thực phẩm và sản phẩm sau thu hoạch, thuộc Tổ chức Nghiên cứu nông

nghiệp quốc gia Israel (ARO), đã nghiên cứu thành công và cho ra đời nhiều

công nghệ bảo quản sau thu hoạch giúp cho nông sản bảo quản được lâu dài

mà vẫn bảo đảm tươi ngon và giữ được giá trị dinh dưỡng cao. Ngoài ra, còn

có các công nghệ mới khác như: công nghệ kéo dài tuổi thọ của táo Granny

Smith, công nghệ không sử dụng biến đổi gen (GMO) có thể giúp tăng sản

lượng các loại cây trồng lên tới 50% [74, tr.169,170].

Để thu hút vốn đầu tư cho nghiên cứu và phát triển KH &CN nông

nghiệp (R&D), Chính phủ Israel đã tiến hành thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm

nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp nông nghiệp, các dự án R&D

nông nghiệp có khả thi. Chẳng hạn, năm 2008 số vốn đầu tư mạo hiểm bình

quân đầu người của Israel cao gấp 2,5 lần so với Mỹ, 30 lần so với Châu Âu,

80 lần so với Trung Quốc và 350 lần của Ấn Độ. Ngoài ra Israel còn đẩy

mạnh thực hiện xã hội hóa hoạt động R&D để huy động các nguồn vốn.

Trong 5 năm từ 2008 - 2013, bình quân mỗi năm Israel chi gần 100 triệu USD

cho hoạt động nghiên cứu nông nghiệp, chiếm tới 3% tổng sản lượng nông

nghiệp quốc gia, trong đó chi từ ngân sách nhà nước khoảng hơn 50%, đầu tư

quốc tế 12%, các địa phương 6% và khu vực tư nhân là 25% [88, tr. 275].

Song song với việc đẩy mạnh ứng dụng KH&CN vào sản xuất, Israel chú

trọng nâng cao trình độ và chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp và người

nông dân thông qua việc tuyển chọn một số đại biểu tiêu biểu tham gia các lớp

đào tạo, sau đó từ lực lượng này phổ biến nhân rộng ra các doanh nghiệp và

nông dân. Đồng thời, Chính phủ tiến hành cử các chuyên gia xuống tư vấn,

hướng dẫn, giúp đỡ miễn phí cho doanh nghiệp và người nông dân sử dụng công

nghệ mới và cung cấp các thông tin định hướng cho sản xuất nông nghiệp.

63

Hai là, đẩy mạnh các hình thức liên kết trong chuỗi giá trị hàng hóa nông sản

Để phát triển một nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn,

có SCT cao, Israel đã coi trọng việc liên kết 5 nhà trong sản xuất kinh doanh

đó là: liên kết giữa nhà nước, nhà khoa học, nhà tư vấn, nhà nông và doanh

nghiệp. Trong liên kết này, nhà nước Israel đóng vai trò là chủ thể quan trọng

nhất nhằm hỗ trợ và quản lý toàn bộ các hoạt động trong chuỗi liên kết như:

việc hoạch định chiến lược SXKD; xây dựng kế hoạch phát triển; kiểm tra,

giám sát bảo đảm theo các tiêu chuẩn đối với quá trình sản xuất và chế biến

sản phẩm; nghiên cứu mở rộng thị trường,... Nhà khoa học đảm nhiệm nghiên

cứu lai tạo giống, cho ra các loại giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt,

khả năng chống dịch bệnh cao; nghiên cứu phát minh các công nghệ sản xuất,

chế biến, bảo quản nông sản; nghiên cứu tham mưu cho Chính phủ về chiến

lược, kế hoạch, quy hoạch và nghiên cứu dự báo... Nhà tư vấn đảm nhiệm

chức năng nghiên cứu về thị trường, từ đó tiến hành tư vấn cho các doanh

nghiệp, các công xã hiện đại (Kibbutz), các HTX (Mosha) và người nông dân

nên lựa chọn sản xuất loại nông sản gì, bán ở đâu, bán cho ai… nhằm mục

đích là đạt được lợi nhuận cao nhất. Các doanh nghiệp đảm nhiệm thực

hiện các dự án đầu tư phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như: xây dựng hạ

tầng cho các cơ sở sản xuất, cung cấp giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực

vật, bao tiêu sản phẩm… Nhà nông được tổ chức trong các Mosha, Kibbutz

và hộ sản xuất, là người trực tiếp thực hiện các dự án sản xuất nông nghiệp,

họ thực hành ứng dụng KH&CN vào sản xuất dưới sự tư vấn, hỗ trợ của

các chủ thể trong chuỗi liên kết. Thực hiện liên kết này ở Israel rất chặt chẽ

cả về kinh tế, xã hội và có tính cộng đồng rất cao. Người nông dân, nhà

khoa học, nhà tư vấn và doanh nghiệp không phân biệt, luôn sát cánh bên

nhau trên đồng ruộng. Để tăng cường sự gắn kết các bộ phận này, Chính

phủ Israel đã ban hành nhiều chính sách nhằm khuyến khích, tạo mọi điều

kiện thuận lợi cho họ [88, tr.288].

Ba là, xây dựng các mô hình kinh tế hợp tác xã kiểu mới, hiện đại

64

Israel rất thành công trong việc xây dựng, phát triển các mô hình sản

xuất theo kiểu HTX. Hai hình thức hợp tác trong sản xuất nông nghiệp tiêu

biểu là Kibbutz và Mosav. Trong đó Kibbutz là một hình thức Công xã

hiện đại kiểu Israel (sinh hoạt, làm việc chung; không tài sản riêng), hình

thức này chiếm khoảng 20% diện tích canh tác của Israel [88, tr.189, 223].

Hiện nay mô hình Kibbutz không chỉ trong nông nghiệp mà còn phát triển

mạnh mẽ sang các lĩnh vực kinh tế khác. Mosav là một dạng HTX phức tạp

của Israel bao gồm một nhóm các trang trại tư nhân. Là loại hình HTX dựa

trên sở hữu tư nhân của các hộ gia đình, họ hợp lại với nhau để cùng sản xuất.

Quá trình sản xuất có thể do từng hộ gia đình, nhưng các yếu tố đầu vào và

tiêu thụ sản phẩm đầu ra đều do Mosav thực hiện, lợi nhuận được chia sẻ theo

thỏa thuận. Ngoài ra Israel còn có các hình thức tổ chức hợp tác khác dựa trên

sở hữu tư nhân như Mosha, Làng Ả rập… Nhờ các hình thức hợp tác này,

Israel đã tạo ra được các khu vực sản xuất nông sản tập trung quy mô lớn.

Quá trình tập huấn, phổ biến các kiến thức về sản xuất nông nghiệp cho nông

dân thuận lợi. Đặc biệt là việc cơ giới hóa, ứng dụng KH&CN hiện đại vào

sản xuất, kiểm soát được chất lượng nông sản... Do vậy HHNS của Israel có

năng suất cao, chất lượng tốt và có SCT cao trên thị trường quốc tế.

Bốn là, đẩy mạnh các hoạt động hướng tới khách hàng

Để hỗ trợ nông dân mở rộng xuất khẩu hàng hóa nông sản ra thị

trường thế giới, Chính phủ Israel đã chủ trương đẩy mạnh các hoạt

động nhằm hướng tới khách hàng như: thông tin quảng cáo, quảng bá

sản phẩm trên các phương tiện truyền thông, báo chí. Thực hiện tiếp thị

trực tiếp sản phẩm sang các thị trường tiềm năng thông qua mạng

Internet. Thông qua ngoại giao để ký kết các đơn hàng... Chẳng hạn

hiện nay có khoảng 60% tổng sản lượng hoa của Israel được bán trực

tiếp từ nông dân cho các nhà đấu giá ở Tây Âu; 20% còn lại được xuất

sang các thị trường truyền thống như Đông Âu và Mỹ, Nhật Bản và một

số nước Châu Á [88, tr. 169,170].

2.3.2. Bài học mà Việt Nam có thể tham khảo để nâng cao sức cạnh

65

tranh của hàng hóa nông sản

Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước đã nêu trên, luận án rút

ra một số bài học cho Việt Nam có thể tham khảo về nâng cao SCT của

HHNS như sau:

Một là, thực hiện đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp, chú trọng phát

triển các vùng sản xuất chuyên canh quy mô lớn đối với các sản phẩm có lợi

thế ở từng vùng, từng địa phương, phục vụ xuất khẩu

Đây là bài học có ý nghĩa hết sức quan trọng, là việc làm cần thiết,

đầu tiên khi muốn phát triển sản xuất HHNS có năng suất cao, chất lượng

tốt và SCT cao trên thị trường. Bài học này, một mặt nhằm khai thác hiệu

quả những tiềm năng, lợi thế so sánh của mỗi vùng, của quốc gia như: tài

nguyên thiên nhiên, tài nguyên con người, vốn, khoa học, công nghệ, thị

trường… Kinh nghiệm của Thái Lan, để thực hiện vấn đề này họ đã có

chương trình “Mỗi Làng một sản phẩm” và tập trung phát triển sản phẩm

có lợi thế đó là: Lúa gạo, sắn, ngô và rau quả. Ở Việt Nam chúng ta cũng

đã có chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (viết tắt là OCOP) được khởi

xướng từ tỉnh Quảng Ninh năm 2013 sau đó lan tỏa ra các tỉnh trên cả

nước, bước đầu đã đem lại kết quả quan trọng. Tuy nhiên hiệu quả của

chương trình này chưa được như mong đợi, bởi sự vào cuộc chưa thực sự

quyết liệt của các cơ quan chức năng nhất là ở các địa phương. Chúng ta

vẫn chưa tạo ra được các sản phẩm đặc sản quy mô lớn, có SCT cao và có

thương hiệu trên thị trường thế giới. Để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện

chương trình này, ngày 7/5/2018 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số

490/QĐ-TTg về phê duyệt Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” giai đoạn

2018- 2020 [98]. Theo đó, các địa phương cần phải tập trung mọi nguồn

lực để phát triển một sản phẩm có thế mạnh, đặc biệt là trong sản xuất nông

nghiệp, bảo đảm khu vực sản xuất chuyên canh hàng hóa nông sản quy mô

lớn, tạo ra những loại nông sản đặc sản của địa phương, có khối lượng lớn,

chất lượng tốt và SCT cao.

Vận dụng bài học kinh nghiệm này, Việt Nam chúng ta cần chú ý đến

66

các vấn đề sau: Chính phủ và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành địa phương cần

nghiên cứu kỹ đặc điểm, thế mạnh của từng vùng, địa phương mình. Xây

dựng và ban hành chiến lược phát triển các HHNS chủ lực cấp quốc gia, cấp

vùng và địa phương, nhằm khai thác hiệu quả và phát huy tiềm năng, thế

mạnh của quốc gia, từng vùng và từng địa phương. Bổ sung hoàn thiện các

quy hoạch liên quan đến phát triển sản xuất nông nghiệp, bảo đảm đồng bộ,

hình thành các vùng, các khu sản xuất chuyên canh hàng hóa nông sản quy

mô lớn. Chỉ đạo các địa phương tăng cường hợp tác, liên kết trong vùng,

tránh xung đột lợi ích khi quy hoạch vùng. Bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính

sách nhằm tạo môi trường thuận lợi nhất để khuyến khích, thu hút các nhà đầu

tư trong nước, nước ngoài tham gia vào SXKD trong lĩnh vực nông nghiệp,

nhất là sản xuất nông nghiệp hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao. Đẩy mạnh

phát triển các mô hình liên kết trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp theo

chuỗi giá trị hàng hóa nông sản.

Hai là, đẩy mạnh cơ giới hóa nông nghiệp, tăng cường nghiên cứu, ứng

dụng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao vào chuỗi giá trị HHNS

Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước ở trên cho thấy, các nước Thái

Lan, Malaysia, Israel đều chú trọng đến việc cơ giới hóa nông nghiệp và

nghiên cứu, ứng dụng KH&CN, nhất là công nghệ cao vào quá trình SXKD

HHNS. Vận dụng bài học kinh nghiệm từ các nước, đòi hỏi Chính phủ, các

bộ, ngành Trung ương và các địa phương cần phải đặc biệt quan tâm, đầu tư

đẩy nhanh việc cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp; nghiên cứu, phát triển và

ứng dụng KH&CN nhất là công nghệ cao, công nghệ mới vào tất cả các khâu

trong chuỗi giá trị HHNS, bảo đảm phù hợp với điều kiện cụ thể của từng

vùng, từng loại cây trồng, vật nuôi… Đặc biệt trước sự phát triển mạnh mẽ

của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) với sự đột phá của công

nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ số, trí tuệ nhân tạo. Chúng

ta phải nhanh chóng nắm bắt, đi tắt đón đầu ứng dụng những thành tựu

KH&CN này vào vào đời sống kinh tế - xã hội đất nước nói chung, sản xuất

HHNS nói riêng, tránh việc đi sau, nhập khẩu các công nghệ cũ sẽ khiến cho

67

chúng ta càng tụt hậu thêm. Làm được như vậy, chúng ta mới nâng cao được

trình độ của lực lượng sản xuất nông nghiệp, đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa

ngành nông nghiệp, khai thác có hiệu quả các nguồn lực, nâng cao giá trị gia

tăng của các HHNS, bảo vệ môi trường sinh thái, tạo tiền đề quan trọng đề

phát triển một nền nông nghiệp hiện đại, bền vững, HHNS của chúng ta sẽ

chiến thắng trong cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.

Ba là, đa dạng hóa các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp, tăng

cường liên kết trong chuỗi giá trị hàng hóa nông sản

Qua nghiên cứu kinh nghiệm các nước cho thấy: Đối với Israel, hiện có

gần 80% khu vực sản xuất nông nghiệp được tổ chức và điều hành bởi các

cộng đồng hợp tác xã Kibbutz và các Moshav, hoạt động theo điều lệ đã được

quy định cụ thể trong Đăng ký Hợp tác Quốc gia. Đối với Malaysia, họ

khuyến khích sự tham gia của các HTX, các hiệp hội nông nghiệp và nông

dân tham gia vào các chuỗi cung ứng sản phẩm, để bảo đảm các nhu cầu của

hợp đồng, cho phép giá cả ở các trang trại tốt hơn, chia sẻ lợi nhuận và bảo

đảm thu nhập bền vững cho người nông dân. Trong đó chú trọng vào chuỗi

cung ứng sản phẩm cao su, ca cao và rau quả.

Ở Việt Nam, bước đầu cũng đã hình thành các HTX sản xuất nông

nghiệp và các hình thức liên kết. Tuy nhiên, qua thực tiễn hoạt động cho thấy,

những liên kết này còn thiếu tính bền vững; nguyên nhân là do chưa giải

quyết thấu đáo lợi ích của các chủ thể tham gia liên kết. Vận dụng kinh

nghiệm từ các nước, có nhiều việc chúng ta cần phải làm, song trước hết Nhà

nước cần phải bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm

quyền lợi và nghĩa vụ cho các chủ thể, tạo mọi điều kiện thuân lợi nhất cho

các chủ thể phát triển sản xuất và tham gia liên kết. Đa dạng hóa các hình

thức sản xuất: kinh tế hộ gia đình, HTX nông nghiệp, kinh tế trang trại, doanh

nghiệp nông nghiệp… Đồng thời khuyến khích các chủ thể đầu tư phát triển

về quy mô, đổi mới phương thức hoạt động và tăng cường các hình thức liên

kết theo chuỗi giá trị. Nhà nước cần khuyến khích, đẩy mạnh đầu tư phát triển

kết cấu hạ tầng nông nghiệp, công nghiệp chế biến nông sản, dịch vụ nông

68

nghiệp… Thực hiện tốt các vấn đề trên chúng ta sẽ phát huy được các nguồn

lực đầu tư cho sản xuất, tăng cường trách nhiệm của các chủ thể trong chuỗi

liên kết… Đây là tiền đề để phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa quy mô

lớn, có năng suất cao, chất lượng tốt và SCT cao trên thị trường.

Bốn là, nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp, nhất là chất lượng

người nông dân

Thực tiễn lao động nông nghiệp ở các quốc gia đã nêu trên chiếm tỷ lệ

tương đối lớn, nhưng quy mô sản xuất còn nhỏ, trình độ còn hạn chế. Cho nên

kinh nghiệm của họ là muốn phát triển một nền nông nghiệp hiện đại, ứng

dụng các thành tựu của KH&CN vào sản xuất, phải coi trọng việc nâng cao

chất lượng lao động nông nghiệp. Coi nông dân không chỉ là lực lượng chủ

yếu trong sản xuất nông nghiệp, mà còn là mục tiêu phát triển một nền nông

nghiệp hiện đại, sản xuất HHNS quy mô lớn, có chất lượng tốt và SCT cao.

Chẳng hạn như: Chính phủ Thái Lan triển khai chương trình “phát triển nông

dân mới”, Malaysia thực hiện “Dự án phát triển nông dân trẻ”… Để nâng cao

trình độ lao động nông nghiệp các quốc gia đã có nhiều chính sách, trước hết

là quan tâm, chăm lo đến việc nâng cao đời sống vật chất, tình thần cho họ,

sau đó là khuyến khích họ tham gia vào các lớp đào tạo, tập huấn phổ biến

kiến thức… Đồng thời, có các đề án xây dựng nội dung, chương trình giáo

dục, đào tạo phù hợp với từng đối tượng. Phát huy vai trò các cơ sở đào tạo,

các trung tâm dạy nghề và khuyến khích các tổ chức trong, ngoài nước tham

gia đầu tư vào quá trình đào tạo, thực hiện đa dạng hóa các hình thức đào tạo

ở các cấp khác nhau...

Việt Nam có số lượng lao động nông nghiệp đông nhưng chất lượng

còn hạn chế, cơ cấu lao động vẫn mất cân đối. Học tập kinh nghiệm của các

nước trên, chúng ta cần tập trung vào những vấn đề cơ bản sau: Tiếp tục quán

triệt và đẩy mạnh thực hiện “Chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia

đến năm 2020”, “Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”

đã được Chính phủ phê duyệt. Triển khai, tổ chức thực hiện có hiệu quả đồng

thời tăng cường công tác kiểm tra, chấn chỉnh, rút kinh nghiệm và điều chỉnh

69

kịp thời. Xây dựng nội dung đào tạo, phát triển trình độ lao động phải toàn

diện nhưng cần tập trung nâng cao trình độ, kỹ năng SXKD trong nền kinh tế

thị trường, nhận thức về trách nhiệm xã hội của lao động...; đào tạo phải gắn

với nhu cầu sử dụng. Đa dạng hóa các hình thức giáo dục, đào tạo, coi trọng

hình thức trực quan như: tập huấn, tham quan các mô hình sản xuất nông

nghiệp tiêu biểu… Ban hành các chính sách nhằm nâng cao năng suất lao

động nông nghiệp và bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần cho người lao

động, nhất là nông dân.

Năm là, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị

trường xuất khẩu hàng hóa nông sản

Đây là kinh nghiệm phổ biến của các quốc gia, trong bối cảnh toàn cầu

hóa và tự do hóa thương mại quốc tế. Ở Thái Lan, Malaysia họ vận dụng hợp

lý hàng rào kỹ thuật, bảo hộ nông sản trong nước, đồng thời tích cực tham gia

vào các vòng đám phán mới của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), các

hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương. Thông qua con đường

ngoại giao, thực hiện các chính sách mềm dẻo, linh hoạt để ký kết các hợp

đồng chính ngạch xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ HHNS. Có các chính

sách hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tích cực tham gia các hoạt

động như hội chợ, triễn lãm, hội thảo… tăng cường các hoạt động quảng cáo,

tiếp thị nhằm quảng bá sản phẩm HHNS…

Học tập kinh nghiệm này, Chính phủ và các vùng địa phương ở Việt

Nam cần bổ sung, điều chỉnh hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm thu

hút các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào SXKD trong lĩnh vực

nông nghiệp, nhất là các doanh nghiệp khởi nghiệp nông nghiệp. Đẩy mạnh

các hoạt động triễn lãm, hội chợ..., các hoạt động xúc tiến thương mại

trong và ngoài nước, hỗ trợ các HTX, doanh nghiệp và người nông dân xây

dựng và quảng bá thương hiệu HHNS. Tăng cường các hoạt động ngoại

giao thương mại ở các cấp, thúc đẩy xuất khẩu HHNS. Thực hiện nghiêm

các các cam kết thương mại nông nghiệp khu vực, liên khu vực và quốc tế

theo quy định và chủ động đối phó với các biến động của thị trường nông

70

sản quốc tế.

71

Kết luận chương 2

Nghiên cứu về SCT của hàng hóa nói chung, HHNS Việt Nam nói

riêng là vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay. Tiếp cận dưới góc độ khoa học

Kinh tế chính trị, SCT của HHNS Việt Nam được hiểu là: khả năng đáp ứng

nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, bao bì,

thương hiệu, tính độc đáo của những sản phẩm được tạo ra từ ngành nông

nghiệp Việt Nam so với sản phẩm cùng loại của các nước khác trên thị trường.

Để đánh giá SCT của HHNS Việt Nam, người ta dựa vào nhiều tiêu chí

khác nhau, luận án đã đi sâu phân tích 4 tiêu chí cơ bản là: Chất lượng; giá cả;

thương hiệu và thị phần của HHNS. Sức cạnh tranh của HHNS Việt Nam chịu

sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau, bao gồm khách quan và chủ quan,

trong đó luận án đã tập trung phân tích 6 nhân tố chính đó là: điều kiện tự

nhiên; hội nhập kinh tế quốc tế; và cơ chế, chính sách của nhà nước; khoa học

và công nghệ; chất lượng lao động nông nghiệp; kết cấu hạ tầng.

Để nâng cao SCT của HHNS, Việt Nam cần tham khảo, vận dụng sáng

tạo các bài học được rút ra từ kinh nghiệm của các nước: Thái Lan, Malaysia,

Israel. Trong đó, chú trọng công tác quy hoạch, xây dựng chiến lược sản

phẩm, ứng dụng KH&CN, tăng cường liên kết trong chuỗi, xúc tiến thương

mại, mở rộng thị trường tiêu thụ...

Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về SCT của HHNS Việt

Nam, kinh nghiệm thực tiễn từ các nước và rút ra bài học cho Việt Nam có thể

tham khảo, là cơ sở để tác giả tiếp tục phân tích thực trạng, đưa ra quan điểm, giải

pháp nhằm nâng cao SCT của HHNS Việt Nam trong thời gian tới. Đó cũng là

nhiệm vụ sẽ được tác giả giải quyết trong chương 3 và chương 4 của luận án.

72

Chương 3

THỰC TRẠNG SỨC CẠNH TRANH

CỦA HÀNG HÓA NÔNG SẢN VIỆT NAM

3.1. Ưu điểm và hạn chế về sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản

Việt Nam

3.1.1. Ưu điểm về sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam 3.1.1.1. Chất lượng hàng hóa nông sản của Việt Nam ngày càng được cải thiện

Chất lượng là nhân tố quan trọng hàng đầu tạo nên SCT của hàng hóa

nông sản. Để đẩy mạnh sản xuất HHNS đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước

và xuất khẩu, cạnh tranh được với HHNS của các nước khác trên thị trường,

trong những năm qua Việt Nam đã có nhiều nỗ lực nhằm nâng cao SCT cho

HHNS, trong đó rất chú trọng đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, kết quả

được thể hiện qua một số nội dung sau:

Một là, tiêu chuẩn chất lượng quốc gia về các mặt hàng nông sản

không ngừng được hoàn thiện và nâng cao tương đương với tiêu chuẩn chất

lượng khu vực và quốc tế

Để không ngừng nâng cao chất lượng các mặt hàng nông sản, đáp ứng

yêu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, Việt Nam đã từng bước nâng cao

các tiêu chí trong bộ Tiêu chuẩn chất lượng quốc gia đối với từng mặt hàng

nông sản. Chẳng hạn đối với gạo trắng: Tiêu chuẩn Quốc gia về yêu cầu kỹ

thuật đối với gạo trắng xuất khẩu hiện nay là TCVN11888: 2017 (thay thế cho

các tiêu chuẩn về yêu cầu kỹ thuật ban hành trước đây như TCVN5644: 2008;

TCVN 5644: 1999; TCVN5644: 1992) do Cục Chế biến và phát triển thị

trường nông sản biên soạn, Bộ NN&PTNT đề nghị, Tổng Cục Tiêu chuẩn Đo

lường chất lượng thẩm định, Bộ Khoa học và Công nghệ công bố, đã ban

hành theo Quyết định số 1914/QĐ-BKHCN ngày 20/7/2017 (tương đương

với tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ISO 24333:2009 về ngũ cốc và sản phẩm từ

ngũ cốc). Theo bộ tiêu chuẩn này thì yêu cầu về cảm quan của gạo trắng Việt

Nam đó là: về màu sắc phải là màu trắng, đặc trưng cho các loại giống; về

mùi vị, phải có mùi đặc trưng cho từng loại giống, không có mùi vị lạ và đặc

biệt là không được có côn trùng sinh sống nhìn thấy bằng mắt thường. Về chỉ

73

tiêu chất lượng của gạo trắng cũng được xác định rất cụ thể đối với từng loại

gạo như gạo hạt ngắn, gạo hạt dài. Trong từng loại có tiêu chí cụ thể như: Tỷ

lệ hạt theo chiều dài, thành phần các hạt, các loại hạt khác (hạt đỏ, hạt sọc đỏ,

hạt xát dối…), tạp chất, thóc lẫn, độ ẩm và mức độ xay xát (xem Phụ lục 7).

Tương tự, đối với mặt hàng cà phê, có bộ tiêu chuẩn quốc gia riêng cho các

loại cà phê như: cà phê bột là TCVN: 2015, cà phê rang TCVN 5250:2015…; mặt

hàng rau quả có TCVN 9990:2013 về rau, quả tươi; mặt hàng thịt gia súc, gia

cầm có: TCVN 7046:2002 về thịt tươi, TCVN 12429:2018 về thịt mát… Tiêu

chuẩn quốc gia về các mặt hàng nông sản qua các năm có bước hoàn thiện, phát

triển; các chỉ số chất lượng như cảm quan, phẩm cấp, đặc điểm lý tính, hóa tính,

dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, các chỉ tiêu về bảo đảm môi trường, trách nhiệm

xã hội… yêu cầu đạt được ngày càng cao, điều đó đã làm cho chất lượng HHNS

Việt Nam ngày càng được nâng lên, góp phần nâng cao SCT cho HHNS trên thị

trường trong nước và xuất khẩu, đáp ứng với quá trình phát triển của đất nước,

và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Hai là, đã nghiên cứu chọn tạo và nhập nội được nhiều loại giống mới

có chất lượng tốt áp dụng vào sản xuất đại trà

Chất lượng HHNS trước hết phụ thuộc vào giống, nhận thức được điều

đó trong thời gian qua Việt Nam đã có nhiều chủ trương, giải pháp; nhiều dự

án, đề án được triển khai thực hiện và đã đạt được những kết quả quan trọng.

Chẳng hạn: Đề án “Phát triển giống cây nông lâm nghiệp, giống vật nuôi và

giống thủy sản đến năm 2020” theo Quyết định số 2194/QĐ-TTg ngày

25/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ. Sau hơn mười năm triển khai thực

hiện, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đã nghiên cứu phát

triển được nhiều loại giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng tốt, năng suất

cao và đã duy trì, lưu giữ, đánh giá được hệ thống nguồn gen cây trồng, vật

nuôi. Đây là nguồn vật liệu vô cùng quan trọng, phục vụ công tác nghiên cứu,

chọn tạo giống trước mắt và lâu dài. Từ năm 2011 đến nay chúng ta đã thu

thập được 12.250 mẫu giống; đánh giá tình trạng hình thái 8.405 mẫu, lưu trữ

10.700 mẫu...; đã công nhận được 685 giống cây trồng, 26 dòng/tổ hợp lai vật

74

nuôi… Một lượng lớn giống gốc, giống siêu nguyên chủng, giống đầu dòng,

giống bố mẹ hạt lai…, cụ thể đối với các mặt hàng như sau:

Đối với cây lúa, chúng ta đã tạo ra các loại giống mới chất lượng tốt

như: giống lúa tẻ thuần DT-21, BM 9603, OM 90-2, OM 90-9, Nàng hương số

2, LC 93-1, M6, OM2514-314, OM2718, giống lúa nếp IRI 352, IR 64, giống

Jasmine 85, đặc biệt là giống lúa ST25 đã đạt giải gạo ngon nhất thế giới.

Đối với giống cà phê, chúng ta đã tạo ra được các loại: cà phê robusta

TR4, TR5, TR6, TR7, TR8, TR9; giống cà phê arabica TN1, TN2; giống cà

phê xanh lùn (Trường Sơn TS5)… [19].

Đối với các loại giống rau, quả:

Đã nghiên cứu ra giống bí xanh Thiên Thanh 5; giống rau cải ngọt

CX1, đậu rau TL1, cà chua lai F1 FM20, GL1-3 và FM29, dưa chuột lai CV5,

GL1-2 và CV11, giống ớt cay lai F1 HB9, HB14 và GL1-1. Các loại giống

cây ăn quả như: Chuối tiêu Hồng; chuối Tây ta; thanh long ruột đỏ, chôm

chôm, vú sữa lai, giống Cam Canh, Bưởi Diễn, Vải U lai, Vải thiều, dứa

Cayen; dứa Queen; xoài ĐL4; ổi ODL1; ổi Đông Dư... [19].

Đối với giống lợn và giống gia cầm:

Đã nghiên cứu, chọn tạo ra được dụng các loại giống lấy thịt và sinh sản cho

năng suất cao, chất lượng tốt như: Lợn nái PIC trung bình cho 11,3 con/lứa, gà Đông

tảo, gà Ri, gà Ta lai, vịt Giời, vịt dòng Super, vịt Biển, ngan dòng R…[19].

Chất lượng giống cây trồng, vật nuôi ngày càng được tăng lên đã giúp

cho năng suất, chất lượng HHNS tăng lên. Hiện nay chất lượng một số mặt

hàng nông sản của Việt Nam trên thị trường trong nước và xuất khẩu đã tăng

lên tiệm cận với chất lượng nông sản của các nước có nền nông nghiệp phát

triển, thậm chí có những mặt hàng cao cấp đã có chất lượng vượt trội hơn như

trường hợp gạo ST25 là một minh chứng.

Ba là, đã đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ vào các khâu

trong chuỗi giá trị hàng hóa nông sản

Chất lượng sản phẩm HHNS được hình thành trong suốt quá trình thực

hiện chuỗi giá trị của nó. Cùng với việc sử dụng các loại giống mới năng suất

75

cao, chất lượng tốt vào sản xuất thì quy trình, công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện

đại sẽ làm gia tăng chất lượng sản phẩm. Không thể có sản phẩm tốt với kiểu

sản xuất thủ công, công nghệ lạc hậu. Chính vì vậy trong những năm qua, với

chủ trương phát triển nền nông nghiệp hàng hóa hiện đại bền vững, hướng tới

xuất khẩu, Việt Nam đã nỗ lực đẩy mạnh ứng dụng KH&CN tiên tiến vào sản

xuất, đồng thời tăng cường các chuỗi liên kết để tạo ra được khối lượng nông

sản lớn, chất lượng tốt, gia tăng hàm lượng KH&CN trong sản phẩm, đáp ứng

nhu cầu ngày càng cao của khách hàng trên thị trường trong nước và quốc tế.

Số lượng máy móc, trang thiết bị sản xuất, chế biến nông sản không ngừng

tăng lên. Chỉ tính riêng các loại máy móc, thiết bị chuyên dụng chủ yếu, năm 2016

đã có hơn 6,3 triệu chiếc, tăng so với năm 2011 là 66,4%. Trong đó máy kéo là

719,3 nghìn chiếc tăng 44,5%; máy gieo sạ 27,7 nghìn, chiếc, tăng 7,8%; máy gặt

đập liên hợp 22,2 nghìn chiếc, tăng 69,2%; máy gặt cầm tay, máy gặt xếp hàng và

máy gặt khác là 171,8 nghìn chiếc, tăng gấp gần 2,8 lần; máy tuốt lúa có động cơ

249,8 nghìn chiếc, tăng 8,1%; lò, máy sấy sản phẩm nông, lâm, thủy sản, 72,3

nghìn chiếc, tăng 22,8%; máy chế biến lương thực 189,5 nghìn chiếc; 2,8 triệu

máy bơm nước, trên 1,5 triệu bình phun thuốc trừ sâu có động cơ [100].

Công nghệ sản xuất sử dụng nhà lưới, nhà kính hay mái lợp bằng màng

polyethylen phát triển mạnh. Đã sử dụng các hình thức tưới tự động, tưới

phun sương, điều chỉnh nhiệt độ, ánh sáng, phân bón hữu cơ, sinh học… vào

sản xuất, đã làm cho năng suất, chất lượng của nông sản được tăng lên. Tính

đến nay cả nước đã có khoảng 4.098,6 ha nhà lưới, nhà kính ở 327 xã trên cả

nước, tập trung chủ yếu ở các địa phương: như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí

Minh và Lâm Đồng. Hình thức sản xuất sử dụng nhà lưới, nhà kính chủ yếu là

trồng rau, trồng hoa, trồng cây giống. Trong đó, trồng rau có 2.144,6 ha,

chiếm 52,3% tổng diện tích nhà lưới, nhà kính cả nước; trồng hoa 1.055,4 ha,

chiếm gần 25,5%; trồng cây giống 661,1ha, chiếm 16,1% [100]. Đối với chăn

nuôi, hình thức chăn nuôi công nghiệp công nghệ cao đang có xu hướng phát

triển, điển hình như mô hình của các doanh nghiệp cổ phần: Vinamilk, TH,

DABACO, CP Việt Nam, Bình Hà, Thái Dương… [19].

76

Bốn là, đã đẩy mạnh việc liên kết theo chuỗi giá trị và cam kết sản xuất

theo các tiêu chuẩn

Liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị trong những năm qua đã được hình

thành với nhiều hình thức đa dạng như: liên kết xây dựng cánh đồng mẫu lớn;

ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm trước khi sản xuất; liên kết góp vốn đầu tư sản

xuất và tiêu thụ sản phẩm của các hộ sản xuất, các trang trại, các doanh

nghiệp HTX... Đến nay cả nước có khoảng 619,3 nghìn hộ tham gia liên kết

sản xuất theo mô hình cánh đồng lớn với diện tích gieo trồng ở các cánh đồng

mẫu lớn được ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm chiếm tỷ lệ 29,2% [100].

Về liên kết giữa các doanh nghiệp, đến nay cả nước có khoảng 781 doanh

nghiệp thực hiện, chiếm 20,3% tổng số doanh nghiệp SXKD nông sản; trong

đó có 257 doanh nghiệp liên kết cung ứng các sản phẩm, dịch vụ đầu vào cho

sản xuất, chiếm 32,9%; 250 doanh nghiệp liên kết tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ

đầu ra, chiếm 32,0%; 186 doanh nghiệp liên kết góp vốn đầu tư sản xuất,

chiếm 23,8%; và 88 doanh nghiệp liên kết theo các hình thức khác. Về thực

hiện liên kết sản xuất giữa các HTX và giữa HTX với các đơn vị khác: có

khoảng 2.469 HTX, chiếm 35,5% tổng số HTX nông nghiệp. Trong đó, có

1.343 HTX liên kết thực hiện cung ứng sản phẩm, dịch vụ đầu vào; 333 HTX

liên kết góp vốn đầu tư vào sản xuất; 528 HTX liên kết tiêu thụ sản phẩm,

dịch vụ đầu ra và 265 HTX liên kết theo các hình thức khác. Về thực hiện liên

kết sản xuất giữa các trang trại: cả nước có khoảng 7.324 trang trại thực hiện,

chiếm 21,9% tổng số trang trại [100]..

Cùng với đẩy mạnh thực hiện trình liên kết trong chuỗi giá trị, các chủ

thể tham gia liên kết, tăng cường thực hiện cam kết sản xuất theo tiêu các tiêu

chuẩn quốc gia và quốc tế, nhằm đề cao trách nhiệm trong sản xuất, nâng cao

chất lượng sản phẩm. Theo đó, tính đến hết năm 2018 đã có 393.000 ha cây

trồng các loại được cấp chứng nhận Thực hành sản xuất nông nghiệp tốt Việt

Nam (VietGAP), trong đó diện tích trồng các loại quả là 22.700 ha, lúa 5.300

ha, cà phê 101 ha, các loại cây khác 5.205 ha [31].

77

Nhờ áp dụng các loại giống mới, chất lượng tốt và ứng dụng KH&CN

vào sản xuất; thực hiện liên kết theo chuỗi giá trị giá trị và nâng cao bộ tiêu

chuẩn chất lượng quốc gia về các sản phẩm nông sản, nên chất lượng hàng

hóa nông sản Việt Nam trong những năm qua không ngừng được tăng lên.

Điều đó được thể hiện số đơn vị và số sản phẩm sản xuất đạt tiêu chuẩn

VietGap, HCCP, Organic và số sản phẩm có thương hiệu, được bảo hộ chỉ

dẫn địa lý, ngày một tăng lên. Nhiều mặt hàng nông sản Việt Nam đã xâm

nhập và ngày càng khẳng định được vị thế của mình ở các thị trường khó

tính như Mỹ, EU, Nhật Bản. Đặc biệt, tại cuộc thi gạo ngon nhất thế giới

(World’s Best Rice), do Hội nghị thương mại gạo thế gới (The Rice Trader)

tổ chức ở Manila, Philippines ngày 12/11/2019, loại gạo đặc sản Sóc Trăng

ST25 của Việt Nam đã vượt qua gạo của các nước Thái Lan, Campuchia để

lần đầu tiên nhận giải thưởng cao nhất của cuộc thi này là giải thưởng gạo

ngon nhất thế giới. Chất lượng sản phẩm tăng lên đã làm cho SCT của

HHNS Việt Nam trong những năm quan cũng tăng lên. Chẳng hạn, đối với

mặt hàng gạo trên thị trường nội địa, cơ bản người dân Việt Nam lựa chọn

dùng gạo Việt Nam, tầng lớp có thu nhập cao trước đây thường lựa chọn gạo

Thái Lan, gạo Nhật Bản nhưng những năm gần đây đã có xu hướng lựa chọn

các dòng gạo cao cấp của Việt Nam như các dòng gạo OM, gạo ST24, ST25.

Trên thị trường các nước Mỹ, EU, Nhật Bản trước đây cơ bản là sử dụng gạo

của Thái Lan, gạo của Việt Nam không có cửa để vào các thị trường này,

nhưng hiện nay gạo của chúng ta đã thâm nhập và ngày càng khẳng định

được chất lượng ở trên các thị trường này. Đặc biệt gần đây Hiệp định

thương mại tự do EU Việt Nam (EVFTA) được ký kết, EU đã cấp hạn ngạch

cho Việt Nam là 80.000 tấn gạo/năm.

3.1.1.2. Chi phí sản xuất và giá một số hàng hóa nông sản của Việt

Nam thấp hơn so với các nước trong khu vực và thế giới

Việt Nam là nước có truyền thống về sản xuất nông nghiệp, với điều

kiện thời tiết, khí hậu và thổ nhưỡng tương đối thuận lợi, nguồn lao động phổ

thông dồi dào. Do vậy chi phí cho các yếu tố đầu vào sản xuất HHNS của

78

Việt Nam được xếp vào loại thấp so với các nước trong khu vực và trên thế

giới. Chi phí đầu vào thấp dẫn tới giá thành sản xuất thấp, đây là lợi thế cạnh

tranh vốn có của HHNS Việt Nam so với các đối thủ trên thị trường. Cụ thể

đối với một số mặt hàng chính như sau:

Đối với mặt hàng gạo

Về chi phí sản xuất: Chi phí sản xuất lúa của Việt Nam hiện nay đang gần

như thấp nhất trong khu vực Đông Nam Á. Đặc biệt là ở đồng bằng Sông cửu Long

vựa lúa của Việt Nam, chi phí sản xuất lúa ở đây xếp vào tốp thấp nhất thế giới. Chi

phí sản xuất lúa ở các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long hiện nay vào khoảng 3.700 -

4.100 đồng/kg, ở các tỉnh Đồng bằng Sông Hồng khoảng 4000 - 4200 đồng/kg,

bình quân chi phí sản xuất lúa ở Việt Nam khoảng từ 170 - 174 USD/tấn, trong khi

đó chi phí sản xuất lúa ở Thái Lan vào khoảng 180 - 182USD/tấn, cao hơn Việt

Nam khoảng từ 4,0 -4,6%. Điều đó cho thấy Việt Nam có lợi thế cạnh tranh hơn so

với Thái Lan trong sản xuất và xuất khẩu gạo (xem Bảng 3.1).

Bảng 3.1: Chi phí sản xuất lúa ở Việt Nam so với Thái Lan từ năm

2011 - 2019

(Đơn vị: USD/tấn)

Năm Việt Nam Thái Lan

2011 2013 2015 2017 2018 2019 123 127 128 150 168 174 126 132 139 154 175 182 So sánh Thái Lan/ Việt Nam (%) 2,44 3,94 8,60 2,67 4,17 4,60

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [47], [132]

Về giá gạo: Giá gạo thế giới thường xuyên biến động, trước năm

2011 giá gạo thế giới có xu hướng tăng mạnh và đạt đỉnh vào năm 2009 khi

đó giá gạo xuất khẩu trung bình thế giới khoảng 640 - 690 USD/tấn, gạo

xuất khẩu của Việt Nam loại 5% tấm là khoảng 600 - 650 USD/tấn. Bắt

đầu từ năm 2010 do các nước xuất khẩu gạo tăng diện tích và sản lượng lúa

đồng thời một số nước nhập khẩu gạo đã tự túc được lương thực dẫn đến

79

sản lượng gạo thế giới tăng cao, kéo theo là sự sụt giảm về giá kéo dài.

Năm 2019 giá gạo xuất khẩu bình quân thế giới giảm xuống còn khoảng

410 - 480 USD/tấn, gạo xuất khẩu của Việt Nam loại 5% tấm giảm xuống

còn khoảng 390 - 460 USD/tấn. Tuy giá gạo thế giới thương xuyên biến

động do ảnh hưởng về điều kiện sản xuất, cung, cầu trên thị trường nhưng

giá gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn luôn thấp hơn giá gạo xuất khẩu của

Thái Lan, Ấn Độ (đối thủ cạnh tranh) trên thị trường, đây là một những lợi

thế cạnh tranh của mặt hàng gạo Việt Nam (xem Bảng 3.2).

Bảng 3.2: Giá gạo xuất khẩu của các nước xuất khẩu gạo hàng đầu

thế giới năm 2011 - 2019

(Đơn vị USD/tấn)

Nước

Chất lượng

Gạo 5% tấm

520 - 570

420 - 490

410 - 460

390 - 460

410 - 475

Thái Lan

Gạo 25% tấm

470 - 500

400 - 470

390 - 440

380 - 440

400 - 450

Gạo 5% tấm

510 - 590

410 - 480

400 - 450

390 - 455

395 - 470

Ấn Độ

Gạo 25% tấm

470 - 490

390 - 410

390 - 440

375 - 435

380 - 385

Gạo 5% tấm

500 - 510

400 - 470

390 - 440

380- 450

390 - 460

Việt Nam

Gạo 25% tấm

460 - 480

380 - 450

385 - 430

370 - 430

375 - 380

2011 2013 2015 2017 2019

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [8], [47], [105], [132]

Đối với mặt hàng cà phê Hiện nay trên thế giới có nhiều loại cà phê khác nhau như: cà phê Arabica, Robusta, Culi, Cherry, Moka, được trồng tại hơn 50 quốc gia trên thế giới. Mỗi loại cà phê thích nghi với điều kiện khí hậu thời tiết và thổ nhưỡng khác nhau, đã tạo ra lợi thế trồng và xuất khẩu các loại cà phê khác nhau cho các quốc gia. Việt Nam có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc trồng loại cà phê Rubusta, hiện nay loại cà phê này chiếm hơn 90%. Do vậy loại cà phê Robusta của Việt Nam đang có lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ trên thị trường.

Về chi phí sản xuất: Chi phí sản xuất cà phê của Việt Nam so với các nước xuất khẩu chính về cà phê cũng tương đối thấp, chẳng hạn như loại cà phê robusta của Việt Nam có chi phí sản xuất bình quân khoảng 900 USD/tấn, trong khi đó chi phí sản xuất cà phê bình quân ở Ấn Độ là khoảng 1.020

80

USD/tấn, còn của Inđônêxia khoảng 1.025 USD/tấn. Tuy nhiên, chi phí sản xuất cà phê của Việt Nam vẫn cao hơn so với Braxin, nước xuất khẩu cà phê hàng đầu trên thế giới hiện nay (xem Bảng 3.3).

Bảng 3.3: So sánh chi phí sản xuất cà phê của Việt Nam với một số

nước năm 2019

Chi phí (USD/tấn) So với Việt Nam (%) Nước

1.025 Inđônêxia 114

1.020 Ấn Độ 113

900 Việt Nam 100

835 Braxin 93

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [19], [106], [152]

Về giá cà phê: Trong những năm qua, giai đoạn từ năm 2011 - 2019, giá cà

phê trên thị trường thế giới không ổn định, thường xuyên dao động và có xu

hướng giảm. Nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này là: Thứ nhất, việc gia

tăng đáng kể về diện tích trồng cà phê của các nước trên thế giới nhất là các nước

xuất khẩu chính, đã kéo theo sản lượng cà phê trên thế giới tăng đột biến, trong

khi đó khối lượng cầu tiêu thụ tăng không đáng kể dẫn đến tình trạng dư thừa, tồn

đọng số lượng lớn cà phê, làm cho giá cà phê sụt giảm. Thứ hai, đó là sự thất bại

của Hiệp hội sản xuất cà phê thế giới (ICO) trong các thỏa thuận quốc tế về kiểm

soát diện tích trồng cà phê, khối lượng dự trữ cà phê và xuất khẩu cà phê. Tuy

nhiên, sau nhiều năm thiệt hại do giá cà phê thế giới xuống quá thấp nên tổ chức

ICO đã thống nhất ban hành các tiêu chuẩn tối thiểu đối với mậu dịch cà phê thế

giới và đã có hiệu quả, thị trường cà phê thế giới dần được kiểm soát, độ biến

động về giá cũng ổn định hơn, đây là một thành công lớn của ICO thời gian gần

đây. Trong những năm gần đây, Việt Nam là nước có khối lượng cà phê xuất khẩu

đứng thứ 2 thế giới (Sau Brazil), cùng với xu hướng chung của thế giới, giá cà phê

xuất khẩu bình quân của Việt Nam năm 2011 là 120.742 USD/nghìn bao, đến

năm 2019 giảm xuấng còn 103.959 USD/nghìn bao. Tuy là giá cà phê xuất khẩu

của Việt Nam giảm theo xu hướng chung của cà phê thế giới nhưng vẫn luôn thấp

81

hơn giá cà phê xuất khẩu của các nước như Brazil, Colombia, Indonesia (Đối thủ

cạnh tranh) trên thị trường. Điều này phản ánh lợi thế cạnh tranh về giá của cà

phê Việt nam so với các đối thủ trên thị trường (xem Bảng 3.4).

Bảng 3.4: Giá cà phê xuất khẩu của các nước xuất khẩu cà phê

hàng đầu thế giới (Đơn vị USD/nghìn bao)

Nước 2011 2013 2015 2017 2018 2019

Bình quân TG 127.011

Brazil Colombia Indonesia Việt Nam 97.231 133.281 123.981 138.396 107.757 134.079 104.120 138.450 129.500 140.230 109.130 97.730 134.745 123.779 137.350 106.245 127.720 95.980 132.430 122.645 136.370 105.180 125.520 91.091 127.500 120.000 135.634 103.959 120.724

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [8], [19], [106], [152]

Đối với mặt hàng rau, quả Về chi phí sản xuất: Cũng như mặt hàng gạo và cà phê, do điều kiện

thời tiết, khí hậu thuận lợi, cùng với lực lượng lao động phổ thông dồi dào

nên chí phí sản xuất rau quả của Việt Nam thấp hơn các nước trong khu vực và thế giới như Indonesia, Malaysia, Philippin, Thái Lan (xem Bảng 3.5)

Bảng 3.5: So sánh chi phí sản xuất trung bình một số loại quả của

Việt Nam với một số nước năm 2019

Đơn vị tính: Chi phí: USD/tấn; So với Việt Nam: %

Dứa Xoài Quả có múi Chuối

Nước

Chi

Chi

Chi

Chi

So với Việt

So với Việt

So với Việt

So với Việt

phí

phí

phí

phí

Nam

Nam

Nam

Nam

Việt Nam 250 100 280 100 265 100 260 100

Indonesia 280 112 300 107 275 103,8 270 103,8

Malaysia 300 120 310 110,7 280 105,7 290 111,5

Philippin 275 110 290 103,5 270 101,9 265 101,9

Thái Lan 290 116 330 117,8 290 109,4 280 107,7

270 Trung Quốc 108 305 109 250 -94 275 106

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [19], [107], [151]

82

Theo số liệu Bảng 3.5, ta thấy chi phí sản xuất một số loại quả của Việt

Nam thấp hơn các nước trong khu vực, chẳng hạn đối với quả dứa, chi phí để

sản xuất ra 1 tấn dứa ở Việt Nam là 250 USD, nhưng ở Indonesia là 280

USD, bằng 112% so với Việt Nam, ở Malaysia là 300 USD, Thái Lan là 290

USD và Philippin là 275 USD. Tương tự đối với quả xoài, các loại quả có múi

và chuối, chi phí sản xuất của Việt Nam luôn thấp hơn từ 1,9 đến 20% so với

các nước trong khu vực. Đây là lợi thế về chi phí, góp phần hạ giá bán sản

phẩm, nâng cao SCT cho mặt hàng rau quả Việt Nam trên thị trường.

Về giá rau quả: Tuy một số loại rau quả của Việt Nam có chi phí sản

xuất thấp hơn một số nước trong khu vực và thế giới, nhưng do công nghệ bảo

quản, chế biến cũng như chi phí chiếu xạ, vận chuyển, phí cầu cảng, sân bay cao

nên giá bán một số loại rau quả Việt Nam khi đến tay người tiêu dùng lại tương

đối cao, nhất là khi xuất khẩu sang các thị trường xa như Mỹ, EU, Nhật Bản.

Chẳng hạn giá bán vải thiều loại 1 tại Lục Ngạn (Bắc Giang) vào chính vụ khoảng

30.000 đến 40.000đ/kg, tại Thanh Hà (Hải Dương) khoảng 40.000 đến

50.000đ/kg, nhưng khi xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, bày bán ở các siêu thị

là khoảng 500.000đ/kg, trong khi đó của Thái Lan khoảng 450.00đ/kg, Trung

Quốc khoảng 380.000đ/kg, Malaysia khoảng 430.000đ/kg [107]. Như vậy, về giá

bán, hàng rau quả Việt có lợi thế cạnh tranh trên thị trường nội địa nhưng kém

cạnh tranh hơn hàng rau quả của các nước Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia trên

thị trường xuất khẩu.

Đối với mặt hàng thịt lợn

Về chi phí sản xuất: Trong những năm qua, ngành chăn nuôi nói chung,

chăn nuôi lợn nước ta nói riêng đã có bước chuyển mạnh mẽ từ số lượng sang

chất lượng, từ nông hộ quy mô nhỏ sang nuôi công nghiệp, quy mô lớn và áp

dụng các tiến bộ kỹ thuật; đã hình thành được các chuỗi liên kết trong sản

xuất và tiêu thụ sản phẩm. Năm 2011 tổng đàn lợn cả nước là 27,8 triệu con,

đến năm 2018 tổng đàn lợn cả nước có khoảng 28,152 triệu con, sản lượng

thịt xuất chuồng 3.816,4 ngàn tấn. Bước sang năm 2019, do ảnh hưởng của

dịch tả lợn Châu Phi (TLCP) nên tổng đàn giảm xuống còn 24,932 triệu con,

sản lượng thịt xuất chuồng cũng giảm xuống còn 3.289,7 ngàn tấn.

83

Tuy Việt Nam có lợi thế về mặt bằng và lao động nhưng hơn 70% thức

ăn chăn nuôi, thuốc thú y, con giống phải nhập khẩu cùng với quy mô chăn

nuôi còn nhỏ lẻ nên chi phí chăn nuôi cao. Nếu như trước khi DTLCP diễn ra,

chi phí chăn nuôi lợn ở Việt Nam vào khoảng 37.000 đồng/kg lợn hơi thì sau

khi diễn ra DTLCP chi phí tăng lên khoảng 50.000 đồng/kg. So sánh chi phí

chăn nuôi lợn với một số nước trong khu vực (Indonesia, Malaysia, Thái Lan)

chi phí chăn nuôi lợn của Việt Nam cao hơn từ 3,23 đến 19,35%; rẻ hơn

Trung Quốc và Philippin từ 1,4 đến 6% (xem Bảng 3.6.).

Bảng 3.6: So sánh chi phí chăn nuôi lợn Việt Nam với một số nước

năm 2019 (Đơn vị tính: Chi phí: USD/kg lợn hơi; So với Việt Nam: %)

Chi phí So với Việt Nam Nước (USD/kg lợn hơi) (%)

Việt Nam 2,17 100

Indonesia 2,10 96,77

Malaysia 2,00 92,17

Philippin 2,20 101,4

Thái Lan 1,75 80,65

Trung Quốc 2,30 106

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [19], [107], [153]

Như vậy, chưa so sánh với các nước có thế mạnh về sản xuất, xuất

khẩu thịt lợn như Mỹ, EU, Canada, mặt hàng thịt lợn Việt Nam nhìn chung

không có lợi thế cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu. Đối với thị trường

trong nước, chúng ta vẫn đang áp thuế nhập khẩu cao để bảo vệ ngành chăn

nuôi lợn trong nước, nếu như chúng ta không có các giải pháp hạ thấp giá

thành, thì khi đến lộ trình thực hiện các cam kết trong các hiệp định thương

mại tự do nhất là EVFTA, thịt lợn giá rẻ sẽ tràn vào Việt Nam, khi đó mặt

hàng thịt lợn Việt Nam có nguy cơ “thua trên sân nhà” khi cạnh tranh với

mặt hàng thịt lợn của nước ngoài.

Về giá thịt lợn: Do chi phí chăn nuôi cao nên giá bán thịt lợn của Việt

Nam cũng tương đối cao, đặc biệt do ảnh hưởng DTLCP, nguồn cung thịt lợn

84

trong nước thiếu hụt so với nhu cầu tiêu thụ, do vậy giá bán thịt lợn trên thị

trường trong nước thời điểm tháng 12/2019 lên tới 85.000 đồng/kg lợn hơi.

Để ổn định giá thịt lợn trong nước, ngoài các chính sách hỗ trợ tái đàn, Bộ

NN&PTNT kêu gọi các doanh nghiệp chăn nuôi lớn giảm giá lợn hơi xuống

70.000 đồng/kg, Chính phủ Việt Nam thực hiện tăng cường nhập khẩu thịt

lợn từ các nước như Canada, Đức, Ba Lan, Brazil, Hoa Kỳ, Nga, giá thịt lợn

nhập từ các nước này luôn rẻ hơn thịt lợn Việt Nam từ 20 đến 50 nghìn đồng.

Tuy nhiên giá thịt lợn hơi Việt Nam luôn thấp hơn thịt lợn hơi Trung Quốc,

do vậy Trung Quốc là thị trường tiềm năng, Việt Nam có lợi thế cạnh tranh về

giá để tăng cường xuất khẩu thịt lợn sang thị trường này (xem Bảng 3.7)

Bảng 3.7: So sánh giá thịt lợn hơi trung bình các tháng trong năm

2019 các khu vực trong nước của Việt Nam với Trung Quốc

Đơn vị tính: VNĐ/kg thịt hơi

Việt Nam Tháng Trung Quốc Phía Nam Phía Bắc

1 45.200 44.420 46.344

3 43.500 34.273 48.439

5 35.500 28.069 46.882

7 31.800 36.585 59.022

9 41.000 46.057 93.195

11 63.500 66.500 137.238

12 85.000 85.500 130.345

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [19], [107], [153]

Đối với thịt và trứng gia cầm

Về chi phí sản xuất: Trong gần 10 năm qua (2011 - 2019), với sự đổi

mới toàn diện, từ công tác giống, thức ăn, phòng trừ dịch bệnh, chăn nuôi gia

cầm nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng, tổng đàn gia cầm tăng từ

322,6 triệu con năm 2011 lên 481,1 triệu con năm 2019, tăng trưởng bình

quân 5,5%/năm, sản lượng trứng gia cầm năm 2019 đạt khoảng 13,2 tỷ quả

[101]. Chi phí chăn nuôi gia cầm nếu tính bình quân cả nước, thì Việt Nam

85

đang thuộc nhóm trung bình trên thế giới, nhưng nếu tính riêng khu vực chăn

nuôi trang trại công nghiệp thì năng suất và chi phí chăn nuôi của Việt Nam

ngang bằng các nước phát triển trong khu vực (xem Bảng 3.8)

Bảng 3.8: So sánh chi phí chăn nuôi gia cầm Việt Nam với một số

nước năm 2019

Đơn vị tính: Chi phí: USD/kg; So với Việt Nam: %

Chi phí (USD/kg) So với Việt Nam (%) Nước

1,27 Việt Nam 100

0,96 Trung Quốc 75,6

1,06 Hoa kỳ 83,5

1,16 Thái Lan 91,3

1,30 Nga 1,02

1,34 EU 1,06

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [19], [107], [153]

Theo số liệu Bảng 3.8, chi phí chăn nuôi gia cầm ở Việt Nam năm 2019

là 1,27 USD/kg cao hơn Trung Quốc, Hoa Kỳ, Thái Lan lần lượt là 24,4%,

16,5%, và 8,7%, thấp hơn Nga 0,2%, EU 0,6%. Như vậy xét về chi phí sản

xuất, mặt hàng thịt gà Việt Nam kém cạnh tranh hơn so với thịt gà của Trung

Quốc, Hoa Kỳ, Thái Lan và có ưu thế cạnh tranh hơn so với thịt gà các nước

EU, Nga. Từ lợi thế chi phí, cùng với cơ hội các hiệp định CPTPP, EVFTA

có hiệu lực, Việt Nam có thể đẩy mạnh mở rộng thị trường xuất khẩu thịt gà

sang các nước EU, Nga

Về giá thịt và trứng gia cầm

Do chi phí chăn nuôi gia cầm Việt Nam xếp vào loại trung bình trên thế

giới, nên giá bán trên thị trường nội địa cũng ở mức trung bình. Bình quân thịt

gà hơi các loại năm 2019 có giá khoảng 45.000 đến 50.000 đồng/kg, thịt vịt

hơi vào khoảng 30.000 đến 35.000 đồng/kg; trứng gà các loại có giá bình

quân từ 1.300 đến 2000 đồng/quả, trứng vịt từ 1.000 đến 1500 đồng/quả. Hiện

nay, gà nhập khẩu từ các nước Hoa Kỳ, Hà Lan, Ba Lan đang có giá bán thấp

hơn nhiều so với thịt gà Việt Nam, chẳng hạn như đùi gà nhập khẩu giá chỉ

86

khoảng 40.000 đến 60.000 đồng/kg, trong khi đùi gà công nghiệp trong nước

giá khoảng 65.000 đến 80.000 đồng/kg… Như vậy, xét về giá bán, thì thịt và

trứng gia cầm của Việt Nam không có lợi thế cạnh tranh ngay cả trên thị trường

nội địa. Nếu chúng ta không có các giải pháp đồng bộ để nâng cao chất lượng,

giảm giá thành và các biện pháp hạn chế nhập khẩu để bảo vệ sản xuất trong

nước thì ngành chăn nuôi gia cầm của Việt Nam sẽ bị “thua trên sân nhà” trước

thịt giá rẻ đến từ các nước có nền chăn nuôi tiên tiến, nhất là Hoa Kỳ.

3.1.1.3. Thương hiệu và uy tín hàng hóa nông sản Việt Nam đã có sự

cải thiện rõ rệt trên thị trường trong nước và thế giới

Thời gian qua, vấn đề xây dựng và phát triển thương hiệu hàng hóa nông

sản Việt Nam đã được các cơ quan Trung ương, các bộ, ngành, địa phương và

doanh nghiệp quan tâm, tiếp cận và triển khai. Nhiều chương trình, kế hoạch, đề

án, dự án về xây dựng và phát triển thương hiệu hàng Việt Nam nói chung và

hàng nông sản nói riêng đã được thực hiện. Chẳng hạn như: “Chương trình

thương hiệu quốc gia Việt Nam” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết

định số 253/2003/QĐ-TTg ngày 25/11/2003; Chương trình “Mỗi xã một sản

phẩm” (viết tắt là OCOP) được khởi xướng từ tỉnh Quảng Ninh năm 2013 sau

đó lan tỏa ra các tỉnh trên cả nước… Nhờ những nỗ lực trên, tính đến tháng 5

năm 2019, đã có 68 chỉ dẫn địa lý là các sản phẩm nông sản của Việt Nam được

đăng ký bảo hộ; 39 tỉnh, thành phố đã có chỉ dẫn địa lý, trong đó 15 tỉnh, thành

phố có nhiều hơn 2 chỉ dẫn địa lý (xem Phụ lục 10) [32]. Xây dựng chỉ dẫn địa

lý, nhãn hiệu chứng nhận hay nhãn hiệu tập thể đang dần chứng minh vai trò

quan trọng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn, góp phần bảo tồn giá trị văn

hóa truyền thống dân tộc Việt Nam, bảo tồn đa dạng sinh học, góp phần thúc đẩy

sự phát triển hoạt động sản xuất, thương mại, nâng cao giá trị gia tăng và SCT

cho HHNS Việt Nam. Cụ thể đối với một số mặt hàng nông sản chính:

Đối với mặt hàng gạo

Chúng ta đã xây dựng và công bố được logo thương hiệu gạo Việt Nam

vào tháng 12/2018 (xem Phụ lục 8), việc công bố được logo sẽ khẳng định

thương hiệu gạo Việt Nam đối với các nước có thế mạnh về nông nghiệp lúa

87

gạo trong khu vực và thế giới. Thị trường thế giới sẽ phần nào nhận biết được

gạo có xuất xứ từ Việt Nam, từ đó giúp cho việc quảng bá sản phẩm gạo cũng

như giá trị văn hóa con người Việt Nam đến với cộng đồng quốc tế. Thị trường

xuất khẩu gạo của Việt Nam sẽ được mở rộng, SCT của mặt hàng gạo Việt

Nam sẽ được tăng lên, theo đó giá trị xuất khẩu gạo cũng sẽ được tăng lên.

Ngoài ra, nhiều sản phẩm gạo được cấp chứng nhận nhãn hiệu, chỉ dẫn

địa lý được bảo hộ ở Việt Nam và đã được đông đảo người tiêu dùng trong

nước và quốc tế ưa chuộng như: Gạo hữu cơ hoa sữa của Công ty Trách

nhiệm hữu hạn (TNHH) Viễn Phát (Thành phố Hồ Chí Minh), gạo Sohafarm

của Nông trường Sông Hậu, gạo hạt Lộc trời, gạo mầm Vibigaba của Tập

đoàn Lộc trời (Thành phố Hồ Chí Minh), gạo Hoa Lúa của công ty TNHH

thương mại Tân Thành (TP. Cần Thơ), Gạo Minh Tâm (MT rice), Gạo Tiền

Giang Food (Tigifood), Gạo Vina Food 1, Gạo Hữu Cơ Quế Lâm, Gạo

Trường Hương Điện Biên, Gạo Nàng Hương, Gạo Nàng Hoa, Gạo tám

thơm,… Đặc biệt là đặc sản gạo Sóc Trăng, ký hiệu là (ST) đã được tỉnh Sóc

Trăng giao cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại và Dịch vị Thành

Tín (Sóc Trăng), đầu tư, thu mua, xay xát chế biến và tiêu thụ. Các dòng gạo

ST như ST24 đã nổi tiếng mấy năm nay về độ thơm, ngon và gần đây nhất

vào ngày 22/11/2019 tại Hội nghị Thương mại Gạo thế giới lần thứ 11, tổ

chức tại Manila, Philippines, gạo hữu cơ ST25 của Việt Nam đã được trao

giải “Gạo ngon nhất thế giới” sau khi vượt qua các đối thủ là các loại gạo

Thái Lan và Cămpuchia. Sự kiện Gạo ST25 đạt giải Gạo ngon nhất thế giới là

niềm vinh dự, tự hào của ngành lúa gạo Việt Nam, đóng góp to lớn cho việc

xây dựng và quảng bá thương hiệu Gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Đối với mặt hàng cà phê

Cà phê là mặt hàng nông sản truyền thống và có thế mạnh của Việt

Nam, đây là sản phẩm nông sản xuất khẩu chủ lực đứng thứ 2 sau gạo. Tuy

chúng ta chưa xây dựng được thương hiệu quốc gia cho mặt hàng này nhưng

cà phê là mặt hàng nông sản đầu tiên của Việt Nam xây dựng được thương

hiệu mạnh bởi các doanh nghiệp Việt Nam.

88

Nhắc đến cà phê, người Việt Nam nghĩ tới đầu tiên là thương hiệu “Cà

phê Trung Nguyên”, được ông Đặng Lê Nguyên Vũ thành lập vào ngày

16/06/1996 tại Buôn Ma Thuật. Thương hiệu cà phê Trung Nguyên nổi tiếng

không chỉ trong nước mà trên cả khu vực và thế giới. Đây là niềm tự hào không

chỉ với Trung Nguyên mà là cả ngành cà phê nói riêng và người Việt Nam nói

chung. Với thương hiệu Cà phê Trung Nguyên nổi tiếng, đã khẳng định được

vị trí cà phê tinh chế của Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới. Hiện

nay Trung Nguyên đã có một mạng lưới hơn 1000 quán cà phê nhượng quyền

trên cả nước và hơn 10 quán ở các quốc gia trên thế giới như Mĩ, Nhật Bản,

Singapore, Thái Lan, Trung Quốc, Campuchia, Ba Lan… Sản phẩm Cà phê

Trung Nguyên đã có mặt ở hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn cầu, tiêu

biểu như Mỹ, EU, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Asean,… Các sản phẩm nổi

tiếng của Trung Nguyên hiện nay bao gồm: Cà phê Chồn WEASEL cao cấp,

Cà phê Chồn Legend Trung Nguyên, Cà phê Sáng tạo 8 Trung Nguyên, Cà phê

cao cấp Legend Revived, Cà phê Con Sóc, Cà phê G7 hòa tan…[106].

Một thương hiệu nổi tiếng khác đó là Vinacafé Biên Hòa của Công ty

Cổ phần VINACAFÉ BIÊN HÒA (Vinacafé BH). Từ nhiều năm qua, công ty

luôn duy trì chính sách chất lượng là sản xuất cà phê chất lượng cao, thuần

chất và tinh khiết, không pha độn để giới thiệu với người người tiêu dùng

trong nước và thế giới biết đến hương vị thơm ngon đặc biệt của cà phê Việt

Nam. Thực hiện chiến lược này, công ty đã tập trung nghiên cứu và sản xuất

thành công nhiều sản phẩm cà phê chất lượng cao mang thương hiệu

Vinacafé, được người tiêu dùng trong và ngoài nước chấp nhận. Hiện nay

công ty đang sản xuất 4 nhóm sản phẩm chính đó là: cà phê rang xay, cà phê

hòa tan nguyên chất, cà phê hòa tan hỗn hợp, cà phê sữa 3 trong 1... trong đó

sản phẩm cà phê sữa 3 trong 1 được người tiêu dùng ưa chuộng nhất. Công ty

cũng đă nghiên cứu và sản xuất thành công cà phê Sâm 4 trong 1 với chất

lượng hơn hẳn cà phê cùng loại của nước ngoài, được thị trường Hàn Quốc,

Trung Quốc tiêu thụ mạnh. Vinacafé Biên Hòa đã xây dựng hệ thống hàng

chục ngàn đại lý trên toàn quốc và đã trở thành thương hiệu cà phê hòa tan

89

hàng đầu Việt Nam. Sản phẩm của công ty cũng đã được xuất khẩu đến trên

50 quốc gia, tiêu biểu như Mỹ, Nhật Bàn, Trung Quốc, EU, Nga…[106].

Đối với mặt hàng rau quả

Cùng với sự tiến bộ trong khâu quy hoạch sản xuất, quản lý chất lượng,

việc đăng ký chỉ dẫn địa lý, xây dựng thương hiệu cho các loại rau quả Việt Nam

cũng đã được các địa phương, các doanh nghiệp quan tâm. Tính đến tháng 5/2019

đã có 29 sản phẩm nông sản là các loại quả được bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Việt

Nam, tiêu biểu như bưởi (Đoan Hùng), thanh long (Bình Thuận), vải thiều (Thanh

Hà), vải thiều (Lục Ngạn), cam (Vinh), chuối ngự (Đại Hoàng), xoài cát (Hòa

Lộc), nho (Ninh Thuận), dứa (Đồng Giao)… (xem Phụ lục 10). Đặc biệt khi Hiệp

định thương mại tự EVFTA có hiệu lực, đã có 18 loại quả của Việt Nam được bảo

hộ chỉ dẫn địa lý ở Châu Âu, chẳng hạn như: Bưởi Tân Triều, Vải Thanh Hà,

Mãng Cầu bà Đen, Hồng Bảo Lâm, Cam Vinh,… Các loại rau quả của Việt Nam

được bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở trong nước và nước ngoài, một mặt đã nâng cao giá

trị kinh tế, nâng cao SCT cho các mặt hàng đó, một mặt đã góp phần nâng vị thế

và quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến với bạn bè quốc tế.

Đối với mặt hàng thịt lợn, mặt hàng thịt và trứng gia cầm

Đây là 2 mặt hàng được xác định là sản phẩm nông nghiệp chủ lực

quốc gia theo Thông tư 37/2018/TT-BNNPTNT ngày 25/12/2018, nhưng hiện

nay chưa có thương hiệu, hay chỉ dẫn địa lý nào được bảo hộ ở Việt Nam

cũng như ở nước ngoài. Trong nhóm thịt gia súc, gia cầm, mới chỉ có 3 sản

phẩm được bảo hộ chỉ dẫn đại lý ở Việt Nam đó là: Thịt cừu Ninh Thuận,

Thịt dê Ninh Bình và Thịt bò Hà Giang, còn thịt lợn và thịt gia cầm chưa có

sản phẩm nào được bảo hộ chỉ dẫn địa lý (xem Phụ lục 10). Đây là một trong

những hạn chế mà ngành chăn nuôi cần khắc phục, để nâng cao SCT cho mặt

hàng thịt lợn, mặt hàng thịt và trứng gia cầm trong thời gian tới.

3.1.1.4. Thị phần hàng hóa nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới

ngày càng được tăng lên

Cùng với sự phát triển vượt bậc trong quan hệ đối ngoại, bằng việc nỗ

lực chuẩn bị, tiến hành đàm phán, ký kết thành công các hiệp định thương mại

90

tự do song phương, đa phương. Thị trường tiêu thụ hàng hóa của Việt Nam

nói chung, HHNS sản nói riêng cũng không ngừng được mở rộng với thị phần

ngày càng tăng. Đến hết năm 2019 hàng nông, lâm, thủy sản Việt Nam đã

được xuất khẩu ra 190 quốc gia và vùng lãnh thổ với giá trị đạt khoảng 41,3

tỷ USD tăng 3,2% so với năm 2018, trong đó giá trị xuất khẩu các mặt hàng

nông sản chính chiếm khoảng 18,5 tỷ USD. Việt Nam được xếp vào tốp 15

nước xuất khẩu nông, lâm, thủy sản hàng đầu thế giới [102]. Cụ thể đối với

một số mặt hàng nông sản chính như sau:

Đối với mặt hàng gạo

Thị phần trong nước: Theo số liệu Bảng 3.9 ta thấy từ năm 2011 đến

năm 2019 Việt Nam luôn duy trì trên 7,4 triệu ha đất trồng lúa, năng suất từ 55

đến 58 tạ/ha, cho sản lượng từ 40 đến 44 triệu tấn lúa mỗi năm, xuất khẩu gạo

từ 4,6 đến 6,5 triệu tấn/năm. Sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam hàng năm

chỉ chiếm khoảng 10 - 15% sản lượng sản xuất ra, còn 85 - 90% là tiêu thụ

trong nước.

Bảng 3.9: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa sản xuất và sản lượng

gạo xuất khẩu Việt Nam từ năm 2011 - 2019

Diện tích (nghìn ha)

Nội dung 2011 2013 2015 2017 2018 2019

Năng suất (tạ/ha)

7.655,4 7.902,5 7.828,0 7.705,2 7.570,9 7.470,1

Sản lượng (nghìn tấn) 40.005,6 44.039,1 45.091,0 42.738,9 44.046,0 43.448,2

Xuất khẩu (nghìn tấn)

55,4 55,7 57,6 55,5 58,2 58,2

4.670 6.880 8.000 6.582 5.819 6.370

Nguồn: tác giả tổng hợp từ [8], [19], [101]

Như vậy, có thể thấy gạo Việt Nam đang chiếm gần như 100% thị phần

thị trường gạo trong nước. Trên thực tế, gạo các nước như Thái Lan, Nhật

Bản… vẫn có bày bán trên các siêu thị, các chợ ở Việt Nam, tuy nhiên số

lượng không đáng kể và chủ yếu được nhập khẩu qua đường tiểu ngạch,

không có số liệu thống kê.

91

Thị phần xuất khẩu: Trong những năm qua sản lượng gạo xuất khẩu

không ngừng được tăng lên, theo đó thị phần gạo của Việt Nam trên thị

trường thế giới cũng được tăng lên. Năm 2011, thị phần gạo của Việt Nam

chiếm khoảng 18,31% thị phần gạo xuất khẩu của thế giới, đến năm 2019

là 14,55%. Mặc dù nhìn vào bảng số liệu về thị phần (Phụ lục 4), ta thấy thị

phần gạo xuất khẩu của Việt Nam giảm từ 18,31% năm 2011 xuấng còn

14,55% năm 2019, nhưng so với sự tăng lên của nhanh chóng của khối

lượng gạo xuất khẩu toàn cầu từ 25.500 nghìn tấn năm 2011 lên 45.058

nghìn tấn năm 2019 thì thị phần gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn được tăng

lên. So với gạo của các nước là đối thủ cạnh tranh với gạo của Việt Nam như

Thái Lan, Pakistan thì thị phần gạo xuất khẩu của họ đều giảm lần lượt là

11,26% và 1,94%. Riêng Ấn Độ có sự phát triển vượt bậc do sự bùng nổ về

diện tích và sản lượng cũng như khối lượng gạo xuất khẩu của nước này.

Nếu năm 2011 khối lượng gạo xuất khẩu của Ấn Độ là 2.500 nghìn tấn xếp

thứ 5 sau Thái Lan, Việt Nam, Hoa Kỳ và Pakistan, thì đến năm 2015 sản

lượng gạo xuất khẩu của Ấn Độ đã vượt qua Thái Lan và Việt Nam để vươn

lên xếp thứ nhất với 10.310 nghìn tấn, liên tục duy trì vị trí đầu bảng về sản

lượng và thị phần xuất khẩu gạo và đến năm 2019 tăng lên là 12.500 nghìn

tấn (Phụ lục 2).

Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam không ngừng được mở rộng, từ

95 quốc gia và vùng lãnh thổ năm 2011 tăng lên 150 quốc gia và vùng lãnh

thổ năm 2019 và hiện đã có mặt ở tất cả 5 châu lục. Trong đó Châu Á vẫn là

thị trường xuất khẩu gạo chủ yếu của Việt Nam, chiếm tới 61,16% về khối

lượng và 60,10% về giá trị, thứ hai là thị trường Châu Phi chiếm 19,13% về

khối lượng và 19,72% về giá trị, tiếp theo là thị trường Châu Âu, Châu Mỹ,

Châu Đại Dương (xem Phụ lục 4 và Phụ lục 9).

Đối với mặt hàng cà phê

Thị phần trong nước: Việt Nam là một trong những nước sản xuất cà

phê đứng tốp đầu trên thế giới, với diện tích và sản lượng không ngừng tăng

lên, từ khoảng 594,8 nghìn ha năm 2011 lên 683,8 nghìn ha năm 2019, sản

92

lượng tăng từ 1.190,4 nghìn tấn năm 2011 lên 1.678,8 nghìn tấn năm 2019

(xem Bảng 3.10)

Bảng 3.10: Diện tích, năng suất, sản lượng sản xuất và sản lượng

xuất khẩu cà phê Việt Nam năm 2011 - 2019

Diện tích (nghìn ha)

Nội dung 2011 2013 2015 2017 2018 2019

Sản lượng (nghìn tấn) 1.190,4 1.326,6 1.453,0 1.577,2 1.616,3 1.678,8

Xuất khẩu (nghìn tấn)

994

1.100

1.360

1.341

1.466

1.650

Còn lại (nghìn tấn)

196,4

226,6

93

236,2

50,3

28,8

Nhập khẩu (nghìn tấn) 10,78

3,46

38,7

60,0

60,5

42,0

Tiêu thụ trong nước

207,18 230,06

131,7

296,2

110,8

70,8

(nghìn tấn)

594,8 637,0 643,3 664,6 680,7 683,8

Nguồn: tác giả tổng hợp và tính toán từ [8], [19], [101]

Theo số liệu Bảng 3.10, ta thấy Việt Nam sản xuất cà phê chủ yếu phục

vụ xuất khẩu, sản lượng xuất khẩu chiếm trên 90% tổng sản lượng được sản xuất

ra hàng năm, và chủ yếu xuất khẩu thô và sơ chế. Do công nghệ chế biến trong

nước chưa đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước, cho nên mặc dù là nước xuất

khẩu đứng thứ 2 thế giới (sau Brazil) nhưng hàng năm Việt Nam vẫn phải nhập

khẩu cà phê, chủ yếu là cà phê rang xay, cà phê pha sẵn từ các nước BraZil, Mỹ,

Trung Quốc và cà phê nhân từ Indonesia, Lào, Campuchia,… Tuy nhập khẩu

với số lượng rất ít so với xuất khẩu, nhưng với thị trường gần 100 triệu dân, tiềm

năng tiêu thụ là rất lớn. Vì vậy, ngành cà phê Việt Nam cần đẩy mạnh phát triển

khâu chế biến để phuch vụ nhu cầu thị trường trong nước.

Thị phần xuất khẩu: Cà phê là HHNS xuất khẩu chủ lực quan trọng

của Việt Nam, chiếm 3% GDP của cả nước, kim ngạch xuất khẩu năm

2019 đạt gần 3 tỷ USD. Các sản phẩm cà phê của Việt Nam đã xuất khẩu

đến trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm 14,2% thị phần xuất khẩu cà

phê nhân toàn cầu và xếp thứ 2, sau Brazil. Đặc biệt, cà phê rang xay và

hòa tan xuất khẩu đã chiếm tới 9,1% thị phần thế giới và xếp thứ 5 trong

số các nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới (sau Brazil, Indonesia,

93

Malaysia và Ấn Độ) [19]. Số liệu ở Phụ lục 6 cho thấy, từ năm 2011 đến

năm 2019 thị phần cà phê Việt Nam tuy có giai đoạn biến động nhưng nhìn

chung vẫn giữ được ở mức bình quân là 18,45% và có chiều hướng tăng.

Năm 2011 xuất khẩu cà phê chiếm thị phần là 17,1%, năm 2019 tăng lên

18,57%, bình quân mỗi năm tăng 0,96%. Các nước EU là thị trường tiêu thụ

cà phê của Việt Nam nhiều nhất, chiếm 40% trong tổng lượng và 38% về

tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; tiếp theo là Đông Nam Á, chiếm 13%

tổng lượng và tổng kim ngạch… [19].

Đối với mặt hàng rau quả

Từ năm 2011 đến nay diện tích trồng rau, quả Việt Nam liên tục tăng,

tốc độ tăng bình quân khoảng 6%/năm. Đến năm 2019, diện tích rau quả cả

nước đạt hơn 1,8 triệu ha, cho sản lượng gần 10 triệu tấn, trong số này chiếm

đến 90% là tiêu thụ nội địa, chỉ có khoảng 10% phục vụ xuất khẩu (chủ yếu là

thị trường Trung Quốc) [19].

Thị phần trong nước: Các mặt hàng rau củ Việt Nam chiếm trên 90%, thị

phần trong nước, còn khoảng 10% nhập khẩu từ nước ngoài, trong đó nhập khẩu

từ Trung Quốc là chủ yếu (gồm các loại rau: bắp cải, xà lách, khoai tây). Các loại

quả của Việt Nam chiếm trên 80% thị trường tiêu thụ trong nước, khoảng 20% là

nhập khẩu từ nước ngoài, trong đó nhập khẩu từ, Thái Lan, Trung Quốc là chủ

yếu (Thái Lan chiếm trên 10%, Trung Quốc chiếm khoảng 7%,), còn khoảng 3%

là nhập khẩu từ các nước Hoa Kỳ, Pháp, Hàn Quốc, New Zealan, Australia.

Thị phần xuất khẩu, cùng với sự tăng lên về diện tích và sản lượng,

kim ngạch và thị phần xuất khẩu rau quả Việt Nam cũng liên tục được tăng

lên, năm 2011 kim ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam là 0,623 tỷ USD

chiếm 0,97% thị phần xuất khẩu rau quả của thế giới, đến năm 2019 kim

ngạch tăng lên là 3,75 tỷ USD, thị phần 1,0%. Thị trường xuất khẩu rau

quả của Việt Nam cũng từng bước được mở rộng, từ 10 nước năm 2011

tăng lên trên 50 nước năm 2019, trong đó một số thị trường lớn như Trung

Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Liên Minh Châu Âu (EU), Thái Lan,

Malaysia (xem Bảng 3.11).

94

Bảng 3.11: Kim ngạch và thị phần xuất khẩu rau quả Việt Nam

2011 - 2019

Đơn vị tính: Kim ngạch: Tỷ USD; Thị phần: %

Nội dung 2011 2013 2015 2017 2018 2019

0,623 1,07 1,84 3,50 3,81 3,75

64 109 186 550 375 374

Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam Tổng kim ngạch xuất khẩu Thế giới Thị phần xuất khẩu rau quả Việt Nam so với thế giới

0,97 0,98 0,99 1,0 1,02 1,0

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [8], [19], [153], [108]

Đối với mặt hàng thịt lợn

Thị phần trong nước: Thị trường Việt Nam với dân số liên tục tăng, từ

88,87 triệu dân năm 2011 tăng lên 96,2 triệu dân năm 2019. Thịt lợn là loại

thực phẩm chính đối với người dân Việt Nam, năm 2019 bình quân mỗi người

dân Việt Nam tiêu thụ khoảng 28,5 kg.

Bảng 3.12: Sản lượng sản xuất, sản lượng xuất khẩu, nhập khẩu,

thị phần thịt lợn hơi xuất khẩu Việt Nam 2011 - 2019

Sản lượng (nghìn tấn)

Nội dung 2011 2013 2015 2017 2018 2019

Xuất khẩu (nghìn tấn)

3.200 3.300 3.480 3.700 3.816,4 3.289,7

Nhập khẩu (nghìn tấn)

8,5 9,7 10,0 10,4 12,6 11,5

Sản lượng xuất khẩu thế

28,97 33,14 37,25 40,872 41,18 67,13

giới (nghìn tấn)

Thị phần xuất khẩu thịt lợn

8.154 8.270 8.350 8.580 9.380 10.300

Việt Nam so với thế giới (%)

0,1 0,12 0,11 0,12 0,13 0,11

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [8], [19], [108], [153]

Theo số liệu Bảng 3.12 ta thấy, lượng thịt lợn nhập khẩu hàng năm

không đáng kể, tuy nhiên không ngừng được tăng lên hàng năm, năm

95

2011 là 28,97 nghìn tấn, đến năm 2019 tăng lên 67,13 nghìn tấn, chiếm

khoảng 2% sản lượng thịt trong nước. Trên thực tế, Việt Nam đang phải

áp dụng các biện pháp thuế quan và phi thuế quan để điều tiết việc xuất

khẩu, nhập khẩu, bảo đảm nhu cầu tiêu thụ cũng như bảo vệ ngành chăn

nuôi trong nước. Hiện nay, tuy thịt lợn nhập khẩu chiếm thị phần rất

nhỏ, nhưng lại có giá rẻ hơn thịt lợn Việt Nam, do vậy ngành chăn nuôi

lợn Việt Nam cần phải có các giải pháp giảm chi phí, hạ giá thành để giữ

vững thị phần trong nước.

Thị phần xuất khẩu: Chăn nuôi lợn Việt Nam chủ yếu phục vụ nhu cầu

tiêu thụ trong nước, sản lượng xuất khẩu không đáng kể, chiếm khoảng 0,35%

so với tổng sản lượng thịt sản xuất ra trong nước và khoảng 0,1% so với

lượng thịt xuất khẩu của thế giới (xem Bảng 3.12). Do công nghệ chế biến,

bảo quản còn hạn chế cùng với chi phí chăn nuôi cao nên xuất khẩu thịt lợn

của Việt Nam chủ yếu là xuất khẩu lợn hơi sang Trung Quốc qua đường tiểu

ngạch. Như vậy, xét về tiêu chí thị phần xuất khẩu, SCT mặt hàng thịt lợn

Việt Nam trên thị trường thế giới còn hạn chế.

Đối với mặt hàng thịt và trứng gia cầm

Thị phần trong nước: Tương tự như mặt hàng thịt lợn, các mặt hàng

chăn nuôi gia cầm của Việt Nam chủ yếu phục vụ tiêu thụ trong nước. Thịt

gia cầm cũng được người dân Việt Nam ưa chuộng và dùng làm thực phẩm

chính sau thịt lợn, bình quân mỗi năm một người dân Việt Nam tiêu thụ

khoảng 12kg. Sản lượng thịt gia cầm nhập khẩu hàng năm không đáng kể,

năm 2011 chiếm khoảng 7,8% so với lượng thịt sản xuất trong nước, đến năm

2019 tăng lên khoảng 13,63%.

Theo số liệu Bảng 3.13 dưới đây, sản lượng thịt gia cầm xuất chuồng

Việt Nam năm 2011 là 708 nghìn tấn, năm 2019 tăng lên 1.100,6 nghìn tấn,

sản lượng nhập khẩu năm 2011 là 55 nghìn tấn, chiếm khoảng 7,8%, năm

2019 tăng lên 150 nghìn tấn, chiếm khoảng 13,63% so với tổng sản lượng thịt

gia cầm sản xuất ra. Tuy lượng thịt gia cầm nhập khẩu không lớn, chiếm thị

phần nhỏ nhưng tốc độ tăng trưởng nhập khẩu tương đối nhanh, từ 55 nghìn

96

tấn năm 2011, tăn lên 150 nghìn tấn năm 2019, bình quân mỗi năm tăng

khoảng 19,2%. Hiện nay, thịt gà nhập khẩu từ Hoa Kỳ, Hà Lan, Ba Lan… với

giá rẻ hơn nhiều so với thịt gà trong nước, nếu ngành chăn nuôi gà Việt Nam

không có các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sẽ dần bị

đánh mất thị phần trong nước.

Bảng 3.13: Sản lượng sản xuất, sản lượng xuất khẩu, nhập khẩu,

thị phần thịt gia cầm xuất khẩu Việt Nam 2011 - 2019

Sản lượng sản xuất (nghìn tấn)

Nội dung 2011 2013 2015 2017 2018 2019

Xuất khẩu (nghìn tấn)

708 746,9 908,1 1.030 1.089,7 1.100,6

Nhập khẩu (nghìn tấn)

5,3 6,2 7,0 9,75 11,3 13,22

Sản lượng xuất khẩu thế giới

55 70 95 110 128 150

(nghìn tấn)

Thị phần xuất khẩu thịt lợn

7.560 8.973 9.200 10.430 11.316 11.530

việt nam so với thế giới (%)

0,07 0,069 0,076 0,093 0,10 0,11

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [8], [19], [108],[153]

Thị phần xuất khẩu: Cũng giống như mặt hàng thịt lợn, ngành chăn nuôi

gia cầm Việt Nam chưa thực sự phát triển, kỹ thuật, công nghệ còn lạc hậu, quy

mô còn nhỏ so với các nước trên thế giới, nhất là các nước có nền nông nghiệp

phát triển như Hoa Kỳ, Hà Lan, Ba Lan. Chăn nuôi gia cầm của Việt Nam chủ

yếu phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước, sản lượng xuất khẩu không đáng kể,

chiếm khoảng 0,75% so với tổng sản lượng thịt sản xuất ra trong nước và

khoảng 0,07 đến 0,1% so với lượng thịt gia cầm xuất khẩu của thế giới (xem

Bảng 3.13). Như vậy, xét về tiêu chí thị phần xuất khẩu, SCT mặt hàng thịt gia

cầm Việt Nam trên thị trường thế giới còn hạn chế.

3.1.2. Hạn chế chủ yếu về sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam

Trong thời gian qua mặc dù SCT của một số hàng hóa nông sản

Việt Nam đã được nâng lên, nhưng nhìn chung vẫn còn ở mức thấp, chưa

đáp ứng được với yêu cầu phát triển trong điều kiện hội nhập và tự do hóa

97

thương mại ngày càng sâu rộng như hiện nay và còn bộc lộ một số điểm

hạn chế sau đây:

3.1.2.1. Chất lượng hàng hóa nông sản của Việt Nam mặc dù đã được

cải thiện, song một số mặt hàng vẫn còn ở mức thấp so với các đối thủ cạnh

tranh và nhu cầu ngày càng cao của thị trường

Thị trường thế giới ngày càng có nhu cầu cao về chất lượng hàng hóa

nông sản theo hướng sản phẩm xanh, sạch, sản phẩm nông nghiệp hữu cơ,

bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Việt Nam là một trong những quốc gia có

sản lượng nông sản xuất khẩu hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu

HHNS Việt Nam còn thấp. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đó,

nhưng điều cốt lõi nhất vẫn là về chất lượng HHNS của chúng ta vẫn còn hạn

chế và thấp hơn so với một số đối thủ cạnh tranh.

Phần lớn các mặt hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu dưới dạng

thô… tỷ lệ sản phẩm nông sản đã qua chế biến xuất khẩu còn thấp, bình quân

chỉ đạt khoảng 20-25%, trong khi đó tỷ lệ này đối với một số nước trong khu

vực là khoảng 40 - 50% [4]. Các lô sản phẩm HHNS xuất khẩu của chúng ta

thường không đồng đều, chưa đa dạng về chủng loại sản phẩm, đặc biệt là khả

năng đổi mới, nâng cấp sản phẩm còn chậm. Mặt khác khi xuất khẩu sản

phẩm thô, giá trị gia tăng thấp nên hiệu quả kinh tế không cao, sản lượng

xuất khẩu lớn nhưng kim ngạch xuất khẩu thấp, điều này ảnh hưởng đến

uy tín, chất lượng và làm giảm SCT của HHNS Việt Nam. Một số mặt

hàng nông sản của ta khi xuất khẩu chưa đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật

và tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, còn lẫn nhiều tạp chất, nấm mốc

hay là còn dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và dư lượng kháng sinh trong

sản phẩm. Chẳng hạn như mặt hàng gạo, hiện nay khoảng trên 85 - 90%

gạo sản xuất ra là tiêu thụ trong nước (khoảng 15 - 20 triệu tấn/năm), chủ

yếu là gạo chất lượng thấp và trung bình do các cơ sở xay xát nhỏ lẻ ở các

địa phương theo kiểu tự cung tự cấp. Lượng gạo xuất khẩu hàng năm

chiếm khoảng 10 - 15% (khoảng 4,6 - 6,5 triệu tấn/năm), trong đó gạo trắng

(IR5040) loại 5% tấm, và 25% tấm là chủ yếu (chiếm 38%), các loại gạo đặc

98

sản và chất lượng cao chiếm tỷ lệ rất hạn chế. Ví dụ như loại gạo đồ chất

lượng cao là 0%, trong khi Thái Lan là 26%, các dòng gạo đặc sản nổi tiếng

như ST21 chỉ chiếm 1%, còn loại gạo ST25 vừa qua được công nhận là gạo

ngon thất thế giới thì chưa có để xuất khẩu (Biểu đồ 3.1). Ngoài ra các lô

hàng gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn lẫn thóc, hạt đỏ, bạc bụng… chưa

kể đến dư lượng thuốc bảo vệ thực vật tồn dư trong sản phẩm và đặc biệt là

đối với các lô hàng lớn không đảm bảo đồng đều về chất lượng.

Hình 3.1: Cơ cấu chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam so với

Thái Lan năm 2019

Nguồn: [105]

Tương tự đối với mặt hàng cà phê: chất lượng cà phê Việt Nam còn

thấp ở chỗ, số lượng hạt cà phê to đường kính trên 18mm còn ít (chỉ chiếm 9 -

12%) sản lượng, màu sắc kém đồng nhất do lẫn các khuyết tật như: hạt lên

men, hạt đen, hạt nâu, trắng và trắng xốp. Chất lượng cà phê nhân, sơ chế

dạng nguyên liệu chưa cao, không đồng đều (ngay trong cùng một lô, đầu vụ

và cuối vụ), không ổn định (thể hiện ở tỷ lệ hạt đen, hạt vỡ, thuỷ phân và tạp

chất còn nhiều). Chỉ có 3-5% số lượng cà phê xuất khấu của Việt Nam thỏa

mãn được các yêu cầu loại một. Trên thị trường, đặc biệt là thị trường các

nước phát triển như Mỹ, EU, Nhật Bản, cà phê nhân loại một thường có giá

cao hơn loại hai khoảng 70-90 USD/tấn và cao hơn loại ba khoảng 100-120

USD/tấn. Điểm yếu lớn nhất về chất lượng, cơ bản vẫn là chúng ta xuất khẩu

99

sản phẩm thô, sản phẩm sơ chế là chủ yếu. Tỷ lệ các sản phẩm đã qua chế

biến sâu, sản phẩm tinh chế là rất thấp. Chẳng hạn như cà phê hòa tan các loại

của Trung Nguyên và Vinacafé chỉ chiếm khoảng 10% trong tổng sản lượng

xuất khẩu, còn lại là xuất khẩu dưới dạng cà phê nhân [19], [106].

Đối với mặt hàng rau quả, chất lượng rau quả Việt Nam vẫn còn nhiều

hạn chế, do các doanh nghiệp sản xuất, chế biến rau quả Việt Nam chủ yếu là

vừa và nhỏ, cùng với sản xuất rải rác ở các hộ nông dân nên việc sản xuất

không theo quy trình diễn ra phổ biến, khó đạt được các tiêu chuẩn như

Global GAP, GMP, Organic... Tình trạng không đảm bảo vệ sinh an toàn thực

phẩm, lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật và chất kích thích tăng trưởng trên rau,

quả, hàm lượng kim loại nặng, chất lượng bao bì không đảm bảo... đang là

những hạn chế lớn đối với hàng rau quả Việt Nam… [107].

Đối với mặt hàng thịt lợn, chăn nuôi lợn Việt Nam chủ yếu phục vụ

tiêu thụ trong nước, có xuất khẩu lượng ít chủ yếu là lợn hơi qua đường tiểu

ngạch sang Trung Quốc, thịt lợn xẻ qua đường chính ngạch sang Hồng Kong,

Malaysia; thịt lợn đã qua chế biến và thịt động lạnh xuất khẩu còn hạn chế do

chất lượng cũng như chi phí giá thành chưa thể cạnh tranh được với một số

nước như Thái Lan, Mỹ…[108].

Đối với thịt và trứng gia cầm, tương tự như thịt lợn, chăn nuôi gia

cầm ở Việt Nam chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước, có xuất

khẩu một lượng không lớn sang các nước như Hồng Kong, Singapore,

Nhật Bản. Do công nghệ chăn nuôi, chế biến, bảo quản còn lạc hậu cho

nên chất lượng thịt và trứng gia cầm Việt Nam vẫn còn hạn chế, kém cạnh

tranh hơn sản phẩm thịt và trứng gia cầm đến từ các nước có ngành chăn

nuôi tiên tiến như Hoa Kỳ [108]..

Trong báo cáo đề dẫn của Cục Bảo vệ Thực vật, Bộ NN&PTNT, tại hội

thảo "Nâng cao năng lực xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam" do Cục Bảo vệ

Thực vật, Bộ NN&PTNT phối hợp với CropLife Việt Nam tổ chức ngày

2/11/2017 tại tại TP. Hồ Chí Minh cho biết: Tính đến hết tháng 10/2017, Bộ

NN&PTNT đã nhận được 45 thông báo, trong số đó có 35 thông báo liên

100

quan đến việc các nước điều chỉnh nâng cao những tiêu chuẩn chất lượng và

dư lượng thuốc bảo vệ thực vật đối với hàng hóa nông sản. Đặc biệt đối với

Trung Quốc là Thị trường xuất khẩu hàng hóa nông truyền thống và là lớn

nhất của Việt Nam, họ không chỉ nâng cao tiêu chuẩn về chất lượng hàng hóa

nông sản nhập khẩu, mà còn tăng cường quản lí và siết chặt thương mại biên

giới. Năm 2017 Trung Quốc đã tiến hành thanh tra thực tế các doanh nghiệp

xuất khẩu nông sản của Việt Nam, qua thanh tra chúng ta chỉ có 22 doanh

nghiệp đạt tiêu chuẩn theo yêu cầu và được phía Trung Quốc cấp phép xuất khẩu

hàng nông sản vào Trung Quốc, trong khi đó trước khi thanh tra chúng ta đã có

hơn 150 doanh nghiệp được cấp giấy phép xuất khẩu [29]. Tiếp đến tại Diễn đàn

Kinh tế Việt Nam chuyên đề nông nghiệp ngày 5/6/2018 do Ban nghiên cứu và

phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV) phối hợp với Báo Điện tử VnExpress tổ chức

đã cho thấy: trong 9 tháng đầu năm 2016, Việt Nam đã có 542 lô hàng nông,

thủy sản của 110 công ty xuất khẩu, không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng

và vệ sinh an toàn thực phẩm (ATTP) cũng như dư lượng kháng sinh trong sản

phẩm đã bị 38 nước nhập khẩu trả về [4]. Như vậy chất lượng HHNS Việt Nam

tuy đã được nâng lên, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được với quá

trình phát triển hội nhập của đất nước, đây là một trong những nguyên nhân

chính dẫn tới SCT của HHNS Việt Nam trên thị trường chưa cao.

3.1.2.2. Chi phí sản xuất vẫn ở mức cao so với những lợi thế vốn có

Chi phí sản xuất HHNS của Việt Nam tuy thấp hơn các nước trong khu

vực và trên thế giới, nhưng đó là nhờ chủ yếu vào lợi thế sẵn có của đất nước

như: điệu kiện về đất đai tốt, khí hậu thuận lợi, năng suất cây trồng cao và đặc

biệt là nguồn lao động phổ thông dồi dào, giá rẻ. Chẳng hạn đối với mặt hàng

gạo, nhìn vào Biểu đồ 3.2 ta thấy: tỷ trọng lao động trong tổng chi phí sản

xuất lúa của Việt Nam rất cao, chiếm 71% cao gấp 2,3 lần so với Thái Lan;

tương tự đối với một số HHNS của Việt Nam như cà phê, rau quả, thịt lợn,…

Điều này cho thấy chi phí cơ giới hóa, KH&CN trong sản xuất nông sản của

Việt Nam chiếm tỷ lệ thấp, phản ánh trình độ cơ giới hóa và ứng dụng

KH&CN vào sản xuất HHNS của Việt Nam vẫn còn hạn chế.

101

Hình 3.2: Tỷ trọng lao động trong tổng chi phí sản xuất lúa của các nước.

Nguồn: [134]

Chi phí sản xuất nông sản của Việt Nam thấp, phần lớn do chi phí lao

động rẻ cùng với sự ưu đãi của điều kiện tự nhiên. Song hiện nay chi phí cho

cơ giới hóa, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giống, KH&CN cho sản xuất,

chế biến nông sản ở Việt Nam vẫn ở mức cao. Chẳng hạn đối với một số dòng

sản phẩm nông sản cao cấp, các sản phẩm đã qua chế biến sâu có giá thành

sản xuất cao, giá bán cao và chỉ mới phục vụ cho phân khúc thị trường cao

cấp, chưa nhân rộng phổ biến cho đông đảo khách hàng trên thị trường như

gạo đặc sản ST25 giá bán 35.000 - 50.000/kg gấp 3- 4 loại gạo trung bình trên

thị trường [107]. Tương tự, đối với các mặt hàng rau quả, tuy chi phí sản xuất

rau quả tại vườn thấp nhưng chi phí chiếu xạ, đóng gói, vận chuyển rất cao,

nhất là chi phí chiếu xạ. Chi phí cao, làm cho giá bán tăng, làm giảm SCT của

sản phẩm. Đối với các mặt hàng thịt lợn, thịt và trứng gia cầm, do chúng ta

chưa chủ động được nguồn thức ăn, thuốc thú y, cũng như việc chăn nuôi nhỏ

lẻ, công nghệ chăn nuôi, chế biến, bảo quản còn lạc hậu đã làm phát sinh chi

phí, đẩy giá thành lên cao, làm giảm SCT của sản phẩm.

Như vậy nếu chúng ta tận dụng tốt lợi thế về chi phí lao động rẻ, thời

tiết khí hậu thuận lợi đi đôi với việc giảm thiểu các chi phí khác như: chi phí

cho phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, cơ giới

102

hóa sản xuất, chi phí nước tưới, giống, KH&CN, đồng thời giảm tỷ lệ tổn thất

sau thu hoạch thì chi phí, giá thành sản HHNS của Việt Nam sẽ còn thấp hơn

nữa, đặc biệt là đối với các dòng sản phẩm cao cấp. Khi đó chi phí sản xuất

thấp, chất lượng tăng, làm cho SCT tăng, giá trị gia tăng và lợi nhuận cũng

tăng lên... góp phần tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho nông dân, phát triển

ổn định kinh tế - xã hội đất nước.

3.1.2.3. Việc xây dựng thương hiệu và quảng bá hàng hóa nông sản

của Việt Nam trên thị trường vẫn còn hạn chế

Mặc dù là quốc gia xuất khẩu nông sản xếp vào tốp 15 nước xuất khẩu

nông sản hàng đầu thế giới nhưng việc xây dựng và quảng bá thương hiệu cho

các sản phẩm nông sản của Việt Nam vẫn còn rất hạn chế. Theo số liệu thống

kê của Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) năm 2018, trong hơn

90.000 thương hiệu hàng hóa được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam, chỉ có

khoảng 15% là của các doanh nghiệp trong nước. Hơn 80% hàng hóa nông

sản Việt Nam được bán ra thị trường thế giới thông qua các thương hiệu nước

ngoài. Do chưa có thương hiệu nên khi xuất khẩu ra các thị trường lớn, SCT

của nhiều loại nông sản rất kém [31]. Việc xây dựng thương hiệu cho HHNS

phải bắt nguồn từ xây dựng thương hiệu quốc gia. Nhưng cho tới nay, Việt

Nam vẫn chưa xây dựng được các thương hiệu mang tính quốc gia và kể cả

thương hiệu vùng chúng ta cũng chưa xây dựng được. Trên thị trường quốc

tế, chúng ta chưa có một thương hiệu nào nổi tiếng như một số nước khác. Ví

dụ, trên thế giới chỉ cần nói đến Bordeaux (Pháp), cả thế giới nghĩ đến rượu

vang. Hay chỉ cần nói đến pizza, tất cả chúng ta sẽ đều nghĩ đến nước Ý…

Nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam có sản lượng xuất khẩu xếp

vào tốp đầu của thế giới, thế nhưng khi đến tay người tiêu dùng thì đó không

phải là sản phẩm của Việt Nam bởi vì đa số HHNS của chúng ta khi xuất

khẩu đều ở dạng thô, sơ chế, được các công ty nước ngoài nhập về, chế biến,

đóng gói và ghi nhãn mác của họ… Điển hình như mặt hàng cà phê: dù Việt

Nam là quốc gia đứng thứ hai thế giới về sản xuất cà phê, trong đó đứng đầu

thế giới về cà phê robusta, song thực tế, tại thị trường nước ngoài, vẫn chưa

103

có thương hiệu cà phê của Việt Nam theo đúng nghĩa. Lý do là cà phê nước ta

chủ yếu chỉ bán hạt cho các nhà rang xay lớn trên thế giới, sau đó họ chế biến,

đóng hộp với thương hiệu của họ để bán cho người tiêu dùng với giá gấp

nhiều lần giá mua vào. Đây là một điều bất hợp lý nhưng dễ hiểu vì cà phê

Việt Nam chưa có thương hiệu và việc quảng bá, xây dựng thương hiệu cà

phê vẫn còn nhiều hạn chế. Mặt hàng gạo cũng không phải ngoại lệ, xuất

khẩu gạo của Việt Nam liên tục tăng nhanh trong những năm gần đây. Đến

nay, Việt Nam chiếm khoảng 15% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới.

Chẳng hạn đối với mặt hàng gạo: Hiện nay Việt Nam là nước có sản lượng

gạo xuất khẩu lớn thứ 3 thế giới và đã được xuất khẩu ra hơn 150 quốc gia và

vùng lãnh thổ. Thế nhưng các sản phẩm gạo Việt Nam vẫn chưa được phần

lớn người tiêu dùng tại các nước biết đến. Chúng ta cũng chỉ quảng bá được

Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới. Sản lượng xuất khẩu hàng

năm khoảng từ 5-7 triệu tấn, song người Việt Nam ở nước ngoài không biết

tìm đâu để mua đúng gạo của Việt Nam. Bởi thực tế là các doanh nghiệp Việt

Nam chỉ sản xuất gạo theo hợp đồng gia công cho các nhà nhập khẩu hoặc

bán sản phẩm thô, sơ chế làm nguyên liệu trung gian. Sang tay khách hàng,

các nhà nhập khẩu “hô biến” thành sản phẩm gạo mang thương hiệu của họ.

Trong khi đó, Thái Lan nổi tiếng với thương hiệu gạo thơm Hom Mali,

Campuchia dù đi sau nhưng thương hiệu gạo Phka Romdoul của nước này đã

được nhiều nước trên thế giới biết đến. Tương tự đối với mặt hàng rau, quả,

mặt hàng thịt lợn cũng như thịt và trứng gia cầm, đến hết năm 2019 chưa có

sản phẩm nào được bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở nước ngoài, cũng chưa có sản

phẩm nào xây dựng được thương hiệu nổi tiếng…

Không những vậy, việc đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong nước và

nước ngoài cho các sản phẩm nông sản của Việt Nam còn nhiều hạn chế.

Theo thống kê của Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ, tính đến

31/05/2019 cả nước hiện có khoảng hơn 900 sản phẩm gắn với 700 địa danh

khác nhau trên toàn quốc, nhưng mới chỉ đăng ký bảo hộ được 68 chỉ dẫn địa

lý quốc gia và 6 chỉ dẫn địa lý của nước ngoài (xem Phụ lục 10). Điều đó

104

đồng nghĩa với việc, phần lớn HHNS của Việt Nam xuất khẩu không có nhãn

hiệu, thương hiệu hoặc xuất khẩu dưới nhãn hiệu của nước ngoài.

3.1.2.4. Thị phần hàng hóa nông sản của Việt Nam vẫn còn nhỏ, thị

trường xuất khẩu không ổn định, thiếu các bạn hàng lớn, còn phụ thuộc vào

một số nước và vùng lãnh thổ

Thị phần HHNS của Việt Nam tuy từng bước đã được tăng lên nhưng

vẫn còn nhỏ bé so với tiềm năng sản xuất nông sản và quá trình hội nhập của

đất nước. Thị trường tiêu thụ của một số nông sản không ổn định, thiếu các

bạn hàng lớn và còn phải xuất khẩu qua trung gian. Thị phần ở một số thị

trường có nền kinh tế phát triển, sức mua cao như Mỹ, EU, Nhật Bản còn

thấp, tỷ lệ hàng hóa nông sản của ta tiếp cận vào những thị trường này còn ít

do tính cạnh tranh cao, đòi hỏi khắt khe về chất lượng và những biện pháp

bảo hộ nghiêm ngặt của họ.

Chẳng hạn đối với mặt hàng gạo: Thị phần xuất khẩu gạo của Việt

Nam luôn biến động, giai đoạn năm 2011 đến năm 2013 có chuỗi tăng liên tục

từ 19,01% lên 22,96% nhưng sau 2013 lại giảm mạnh, đến năm 2019 chỉ còn

14,10% (xem Phụ lục 4). Tuy thị trường xuất khẩu gạo được mở rộng nhưng

các thị trường xuất khẩu có quy mô lớn và ổn định còn ít, chỉ tập trung vào 8

đến 10 nước ở châu Á như: năm 2019 xuất khẩu gạo sang Philippin chiếm tỷ

trọng 32,51%, Bờ Biển Ngà 27,38%, Malaysia 25,88%, Trung Quốc 22,38%

(xem Phụ lục 5). Xuất khẩu gạo của Việt Nam sang một số thị trường có tốc

độ tăng trưởng rất nhanh như thị trường Philippin từ 873 nghìn tấn năm 2018

lên 2.131,7 nghìn tấn năm 2019, tăng gần 244%; Bờ Biển Ngà từ 229 nghìn

tấn năm 2018 lên 583,8 nghìn tấn năm 2019 tăng 255%. Ngược lại xuất khẩu

sang một số thị truyền thống và có tỷ trọng lớn trước đây lại bị sụt giảm mạnh

như Trung Quốc từ 1.503 nghìn tấn năm 2018 xuống còn 477,1 nghìn tấn năm

2017, giảm 315%; Indonesia từ 1.028 nghìn tấn năm 2018 xuống còn 40,2

nghìn tấn năm 2019. Đối với thị trường Châu Phi, đây là vùng có điều kiện về

thời tiết, khí hậu và thổ nhưỡng không thuận lợi cho việc trồng lúa, dân số

tương đối đông (1,216 tỷ năm 2016), mức sống chưa cao, nhu cầu lớn về gạo

105

phân khúc trung bình, rất phù hợp với điều kiện, tiêu chuẩn gạo xuất khẩu của

Việt Nam. Tuy nhiên xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường này vẫn còn

hạn chế, năm 2019 chỉ chiếm khoảng 19,13%. Còn với thị trường châu Âu và

châu Mỹ, hai thị trường này có nền kinh tế phát triển, xuất khẩu nông sản nói

chung và gạo nói riêng vào thị trường này sẽ được giá cao, ngược lại thị

trường này đòi hỏi chất lượng cao và yêu cầu khắt khe về tiêu chuẩn kỹ thuật,

vì vậy xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường này vẫn còn ít, chỉ chiếm tỷ

trọng khoảng 0,37% ở châu Âu, 0,3% ở châu Mỹ. Hiện nay, gạo chất lượng cao

của Mỹ đang chiếm lĩnh hai thị trường này. Hơn nữa hiện nay gạo của Thái

Lan vẫn là đối thủ cạnh tranh với gạo của Việt Nam về chất lượng, chủng loại,

giá cả… Thị trường gạo của Việt Nam cũng là thị trường gạo của Thái Lan, tuy

nhiên Thái Lan có nhiều bạn hàng truyền thống, nhập khẩu với số lượng lớn.

Hơn thế Gạo của Thái Lan có chất lượng, uy tín và thương hiệu hơn của ta,

được nhiều thị trường ưa chuộng phù hợp với thị trường có sức mua cao như

Mỹ, EU, Nhật Bản… Cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa thiết lập được hệ thống

thị trường và các bạn hàng lớn có tính ổn định. Xuất khẩu “chính ngạch” vào

các thị trường vẫn còn thấp, khoảng 60% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam

phải thông qua thị trường trung gian. Việc xuất khẩu phải thông qua trung gian

môi giới này không những chúng ta phải chịu thêm một khoản kinh phí hoa

hồng lớn mà còn bị động trong chuẩn bị nguồn hàng và bị ép giá,…[105].

Tương tự đối với mặt hàng rau quả: Thị phần rau, quả Việt Nam trên

thị trường nội địa đang chiếm đa số nhưng cũng đang bị đánh mất ngày càng

nhiều bởi hàng rau quả đến từ Thái Lan, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Pháp, Hàn

Quốc, NewZealan và Australia. Còn thị phần xuất khẩu rau quả Việt Nam còn

rất khiêm tốn, chiếm khoảng 1% tổng lượng xất khẩu rau quả của thế giới

(xem Bảng 3.11); thị trường xuất khẩu rau quả của Việt chủ yếu là Trung

Quốc (chiếm gần 70%).

Đối với mặt hàng thịt lợn, thịt và trứng gia cầm, thị phần hai mặt hàng

này trên thị trường nội địa đang chiếm đa số, nhưng cũng đang bị cạnh tranh

bởi thịt giá rẻ đến từ Mỹ và các nước EU. Xuất khẩu đối với hai mặt hàng này

106

còn rất khiêm tốn, thị phần xuất khẩu thịt lợn Việt Nam chỉ chiếm khoảng

0,1% lượng thịt lợn xuất khẩu của thế giới và chủ yếu xuất khẩu lợn hơi sang

Trung Quốc qua đường tiểu ngạch (xem Bảng 3.12); thị phần xuất khẩu thịt

và trứng gia cầm Việt Nam khoảng 0,07 đến 0,1% so với lượng thịt gia cầm

xuất khẩu của thế giới (xem Bảng 3.13).

3.2. Nguyên nhân ưu điểm, hạn chế và một số vấn đề đặt ra cần giải quyết

nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam thời gian tới

3.2.1. Nguyên nhân ưu điểm

3.2.1.1. Nguyên nhân khách quan

Một là, Việt Nam có lợi thế về nguồn lực tự nhiên cho sản xuất hàng hóa nông sản.

Về vị trí địa lý, Việt Nam là nước nằm ở trung tâm Đông Nam Á trong

khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Đây là một trong những khu vực có nền

kinh tế đang phát triển năng động, với tốc độ cao, vị thế của khu vực này ngày

càng tăng trên thế giới. Điều đó đã tạo động lực cho quá trình phát triển kinh

tế của Việt Nam nói chung và sản xuất HHNS nói riêng. Mặt khác Việt Nam

nằm trên các tuyến đường giao thông quan trọng cả về hàng hải, hàng không,

từ Đông sang Tây thông qua các vịnh, cảng quan trọng. Các tuyến đường bộ,

đường sông phát triển, đã kết nối ba nước Việt Nam, Lào, Căm pu chia thành

thế chiến lược kinh tế, thuận lợi trong giao thương với khu vực và thế giới. Vị

trí địa lý thuận lợi, là một trong những lợi thế để phát triển một nền kinh tế

năng động, linh hoạt, giảm thiểu được chi phí vận chuyển hàng hóa nói

chung, HHNS nói riêng. Đây là một trong những tiềm năng, lợi thế tạo ra

những điểm mạnh về SCT của HHNS Việt Nam.

Về khí hậu, thời tiết, Việt Nam có giải đất liền hình chữ S, chạy dài trên 15 vĩ độ (từ 23023’ Bắc đến 8027’ Bắc) với khoảng cách kéo dài trên 1.650 km

theo hướng Bắc Nam. Do địa hình kéo dài đã tạo ra sự khác biệt về điều kiện tự

nhiên, khí hậu và được hình thành theo 3 vùng rõ rệt. Miền Bắc khí hậu cận

nhiệt đới ẩm, có mùa đông lạnh; Miền Trung mang khí hậu nhiệt đới gió mùa và

Miền Nam nằm trong vùng nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình tại Việt Nam dao động từ 210C đến 270C, tăng dần từ Bắc vào Nam. Mùa hè, nhiệt độ trung bình trên cả

107

nước khoảng 250C. Mùa đông ở miền Bắc, nhiệt độ xuống thấp nhất có nơi tới 00C vào các tháng 12 - 01. Nền nhiệt độ cùng lượng mưa hàng năm lớn, ánh

sáng dồi dào hình thành điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển sản xuất

HHNS mang bản sắc riêng của các tiểu vùng sinh thái đất thấp, đồi núi, cao

nguyên và ven biển. Từ điều kiện tốt để phát triển sản xuất nông nghiệp sinh

thái đa dạng, Việt Nam có thể trồng được nhiều loại nông sản vào vụ đông phù

hợp với nhu cầu tiêu dùng của nhiều nước ôn đới trong mùa đông băng giá [10].

Về điều kiện đất đai, đất đai là tư liệu sản xuất hết sức quan trọng trong

sản xuất HHNS. Độ màu mỡ, phì nhiêu của đất quyết định đến khả năng thâm

canh tăng năng suất, chất lượng của sản phẩm nông sản. Việt Nam có tổng

diện tích đất tự nhiên khoảng 33,12 triệu ha, trong đó đất sản xuất nông

nghiệp khoảng 11,5 triệu ha (chiếm 34,72% tổng diện tích đất của cả nước)

[25]. Phần lớn đất nông nghiệp Việt Nam có độ phì nhiêu cao, màu mỡ, có

khả năng thâm canh tăng năng suất, chất lượng sản phẩm. Đặc biệt đối với

vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ phần lớn là đất đỏ bazan rất phù hợp cho

việc trồng các loại cây công nghiệp như cao su, cà phê, chè, hạt tiêu, hạt điều.

Ngoài cho năng suất cao, các sản phẩm nông sản ở đây còn có hương vị thơm,

ngon rất đặc trưng cho vùng. Đây là một trong những lợi thế riêng có của Việt

Nam đã góp phần làm tăng SCT cho HHNS trong thời gian qua.

Về độ ẩm, nguồn nước: Việt Nam là một nước nhiệt đới, có độ ẩm tương

đối cao, vào khoảng 80-90%, rất thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của

cây trồng. Nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp ở nước cũng tương đối dồi dào,

ngoài lượng mưa lớn hàng năm trung bình ở hầu hết các vùng đạt từ 1800mm-

200mm/năm, chúng ta có hệ thống các con sông dày đặc, đặc biệt là hai con sông

lớn là Sông Cửu Long và Sông Hồng [25].. Độ ẩm, và nguồn nước có vị trí hết

sức quan trọng cho sản xuất nông nghiệp, Việt Nam có độ ẩm lớn, nguồn nước

tương đối dồi dào là điều kiện thuận lợi và là lợi thế trong sản xuất HHNS.

Hai là, Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ.

Dân số Việt Nam tính đến tháng 4/2019 vào khoảng 96,2 triệu người,

số người trong độ tuổi lao động là 54,4 triệu người, trong đó lực lượng lao

108

động ở nông thôn rất đông đảo, với khoảng 37,3 triệu người, chiếm tới 67,4%

lực lượng lao động của cả nước. Hàng năm có thêm khoảng từ 1 - 1,4 triệu

người bước vào tuổi lao động [3], [101]. Con người Việt Nam có đức tính cần

cù lao động, thông minh, sáng tạo, có khả năng nắm bắt và ứng dụng

KH&CN mới một cách nhanh chóng. Đặc biệt, Việt Nam là nước có truyền

thống sản xuất nông nghiệp, nên người dân Việt Nam có nhiều kinh nghiệm

trong gieo trồng, chăm sóc cây trồng. Một lợi thế nữa là giá công lao động ở

Việt Nam rẻ hơn so với các nước khác trong khu vực và thế giới. Trên thực tế,

một số công việc phổ thông như hái chè, cà phê, thu hoạch lúa,... với giá nhân

công ở Việt Nam vào khoảng 200 -250 nghìn đồng trên ngày công (tương

đương 8,5 - 10,5 USD/ngày công), so với Thái Lan, Malaysia rẻ hơn 2-3 lần

[65]. Đặc thù của ngành sản xuất nông nghiệp là sử dụng nhiều lao động vào

quá trình sản xuất, nên giá lao động thấp góp phần làm giảm chi phí sản xuất,

tăng SCT cho HHNS.

Ba là, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội

thuận lợi cho Việt Nam trong phát triển kinh tế nói chung, nâng cao sức cạnh

tranh cho hàng hóa nông sản nói riêng

Thứ nhất, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu

rộng đã tạo ra sức ép thúc đẩy quá trình cải cách và cơ cấu lại nền kinh tế

Việt Nam hoạt động có hiệu quả hơn. Theo lộ trình thực hiện cam kết của

các Hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương, đòi hỏi Việt

Nam phải thúc đẩy mạnh mẽ cải cách kinh tế trong nước, trước hết là điều

chỉnh các chính sách thương mại theo hướng tự do hóa. Để nâng cao SCT,

đứng vững được trên thị trường trong điều kiện tự do hóa thương mại, buộc

các chủ thể sản xuất, kinh doanh HHNS phải tăng cường đầu tư cả về tài

chính, lao động và công nghệ vào phát triển những mặt hàng có lợi thế

cạnh tranh cao. Theo đó đã đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc lại cơ cấu nền

kinh tế nói chung, sản xuất nông nghiệp nói riêng, cũng như cơ cấu lại lao

động ở khu vực nông thôn theo xu hướng khai thác tối đa tiềm năng, thế

mạnh của nền nông nghiệp Việt Nam.

109

Thứ hai: Tạo cơ hội thuận lợi để Việt Nam mở rộng và đa dạng hóa thị

trường xuất khẩu HHNS. Hội nhập kinh tế quốc tế, mà đặc biệt là tham gia

các hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương là điều kiện thuận

lợi để mở rộng và đa dạng hóa thị trường tiêu thụ hàng hóa của Việt Nam nói

chung, HHNS nói riêng. Ngoài việc trở thành thành viên chính thức của tổ

chức thương mại thế giới (WTO) năm 2007, cho đến nay (tính đến hết tháng

10/2020) Việt Nam đã tham gia có hiệu lực và đang đàm phán 16 hiệp định tự

do thương mại (FTA), trong đó 13 hiệp định đã có hiệu lực, 03 hiệp định đang

đàm phán (xem thêm Phụ lục 11). Chính vì những thành tựu đạt được trong

quá trình chủ động hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế, đã giúp cho quá trình

mở rộng thị trường tiêu thụ HHNS một cách nhanh chóng, đồng thời đa dạng

hóa các loại thị trường, từ đó mở rộng và đa dạng hóa sản xuất sản phẩm nông

sản, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Đến nay HHNS Việt Nam đã có mặt trên

190 quốc gia và vùng lãnh thổ, xâm nhập được vào các thị trường khó tính

như Mỹ, EU, Nhật Bản… đã góp phần năng cao SCT cho HHNS Việt nam

thời gian qua.

Thứ ba, thuận lợi trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, tiếp nhận,

chuyển giao khoa học công nghệ vào sản xuất, kinh doanh HHNS. Vốn,

khoa học - công nghệ là những nguồn lực quan trọng trong sản xuất kinh

doanh đặc biệt đối với lĩnh vực nông nghiệp. Muốn sản xuất hàng hóa quy

mô lớn theo chuỗi giá trị gia tăng để nâng cao năng suất, chất lượng và

SCT sản phẩm đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư lớn, đồng thời phải

phát triển nghiên cứu khoa học nông nghiệp và áp dụng các công nghệ tiên

tiến, hiện đại trên thế giới vào sản xuất, bảo quản, chế biến HHNS… Kết

quả từ việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua đã

huy động được nguồn vốn nước ngoài tương đối lớn để đầu tư, phát triển

sản xuất nông nghiệp. Chẳng hạn, năm 2018 tổng vốn đầu tư cơ bản cho

lĩnh vực nông, lâm, thủy sản khoảng 4.647,4 tỷ đồng trong đó vốn ngoài

nước khoảng 3.284,5 tỷ đồng chiếm 70,67%... [19].

110

3.2.1.2. Nguyên nhân chủ quan

Một là, nhờ sự nỗ lực trong hoàn thiện, đổi mới hệ thống pháp luật, cơ

chế, chính sách của Đảng và nhà nước ta

Việc hoàn thiện, cải cách hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách nói

chung, đối với sản xuất kinh doanh HHNS nói riêng, đã tạo môi trường thuận

lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước, người nông dân yên tâm đầu tư

vào sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Các chính sách như mở

cửa thị trường, quản lý xuất khẩu cũng như những chính sách nhằm mở rộng

quyền kinh doanh cho các doanh nghiệp đã tạo hành lang pháp lý quan trọng

cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh và thương mại HHNS phát triển.

Điển hình như Chỉ thị 100 (năm 1981) về khoán sản phẩm trong nông nghiệp,

đây là bước ngoặt trong sản xuất nông nghiệp Việt Nam, nhất là Lúa, gạo.

Thực hiện chỉ thị này sau 8 năm (năm 1989) đã giúp cho Việt Nam từ một

nước thiếu lương thực đã tự bảo đảm được an ninh lương thực và có những

lô gạo đầu tiên xuất khẩu. Hay là chính sách “khoán 10” (năm 1988) công

nhận hộ gia đình là đơn vị sản xuất tự chủ, đã tạo động lực giải phóng sức

sản xuất, khuyến khích nông dân yên tâm đầu tư vào phát triển sản xuất

nông nghiệp; Luật đất đai năm 1993 (sửa đổi lần gần nhất năm 2013) đã trao

quyền sử dụng đất cho nông dân, cho phép chuyển nhượng, cho thuê, cầm

cố, thế chấp... đã tạo điều kiện tích tụ, tập trung ruộng đất cho các mô hình

sản xuất lớn như cánh đồng mẫu lớn, trang trại, hợp tác xã… Ngoài ra có

hàng loạt chính sách về hỗ trợ, khuyến khích, đầu tư nâng cao chất lượng

trong sản xuất nông nghiệp; chính sách bảo quản, giảm tổn thất sau thu

hoạch; chính sách khuyến khích chế biến nông sản; chính sách tiêu thụ nông

sản; chính sách thị trường và xúc tiến thương mại… Hệ thống luật, cơ chế

chính sách ngày càng được hoàn thiện đổi mới, phù hợp với quá trình phát

triển của đất nước nói chung và phát triển sản xuất nông nghiệp gắn với thị

trường, bảo đảm bền vững. Đây là nguyên nhân cốt lõi làm cho SCT của

HHNS Việt Nam ngày càng nâng lên trên thị trường trong nước cũng như

quốc tế. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính của Việt

111

Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực, giúp cho các doanh nghiệp rút ngắn

được thời gian làm các thủ tục, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh

doanh, qua đó nâng cao SCT cho HHNS trên thị trường.

Hai là, nhờ tăng cường vốn đầu tư cho lĩnh vực sản xuất nông

nghiệpnói chung, hàng hóa nông sản nói riêng.

Để tăng nguồn lực cho đầu tư phát triển sản xuất HHNS, những năm

qua Việt Nam đã tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước và chủ động trong

huy động các nguồn vốn, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Năm 2011

tổng số vốn đầu tư cho lĩnh vực nông, lâm, thủy sản là 5.063,75 tỷ đồng trong

đó vốn trong nước là 1.682 tỷ đồng, vốn ngoài nước là 3.381,75 tỷ đồng. Đến

năm 2019 tổng số vốn đầu tư cho lĩnh vực nông, lâm, thủy sản là 14.606,1 tỷ

đồng (tăng gần 3 lần so với năm 2011), trong đó vốn trong nước là 12.246,1tỷ

đồng, vốn ngoài nước là 2.360 tỷ đồng [19]. Ngoài việc tăng cường đầu tư

cho sản xuất nông nghiệp, thu hút các nguồn vốn đầu tư nhất là vốn FDI, Việt

Nam còn có nhiều chính sách nhằm thu hút, khuyến khích các doanh nghiệp

khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp. Những việc làm trên đã tạo được

nguồn lực to lớn cho sản xuất, chế biến HHNS, là tiền đề để mở rộng quy mô,

cơ giới hóa và áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất, nâng cao

năng suất, chất lượng và SCT cho HHNS.

Ba là, công tác phát triển thị trường của Việt Nam đã đạt được nhiều

thành tựu quan trọng

Sự kiện thành công lớn nhất là Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức

thương mại thế giới (WTO) tháng 1/2007. Đây là bước phát triển cực kỳ quan

trọng, tạo sức ép và động lực to lớn thúc đẩy các ngành, các doanh nghiệp,

các mặt hàng trong nước phải nâng cao SCT để phù hợp với lộ trình thực hiện

cam kết, nếu như không muốn thất bại trên thị trường. Sau sự kiện này là

hàng loạt các hiệp định thương mại song phương, đa phương được ký kết;

hiện nay Việt Nam đã tham gia đàm phán và ký kết 16 (FTA), trong đó có 13

(FTA) đã có hiệu lực, đặc biệt là gần đây nhất hiệp định thương mại tự doViệt

112

Nam và EU (EVFTA) đã có hiệu lực từ 01/8/2020. Sự thành công này của

Việt Nam đã tạo tiền đề cho việc mở rộng và đa dạng hóa thị trường tiêu thụ

HHNS, góp phần nâng cao SCT cho HHNS Việt Nam.

Bốn là, chất lượng nguồn nhân lực đã được nâng lên

Chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên kéo theo chất lượng quản lý,

điều hành của các cơ quan quản lý Nhà nước từ Trung ương đến địa phương

và chất lượng lao động trong các doanh nghiệp và đặc biệt là trình độ nông

dân đã được cải thiện đáng kể, góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt

động của cả hệ thống trong chuỗi giá trị HHNS. Đất nước phát triển, đời

sống nhân dân được nâng lên, điều kiện sinh hoạt cũng như điều kiện sản

xuất được cải thiện. Việc áp dụng điện khí hóa, cơ khí hóa và đặc biệt là

nghiên cứu khoa học nông nghiệp, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất

nói chung và HHNS nói riêng ngày càng phổ biến. Công cụ lao động quyết

định năng suất lao động, song nhân tố con người mới chính là quyết định

quá trình lao động. Do vậy trình độ nguồn nhân lực được nâng lên có nghĩa

là trình độ sản xuất, quản lý điều hành và trình độ kiểm định chất lượng

cũng được nâng lên. Đây là nguyên nhân căn cốt để cho nông nghiệp Việt

Nam phát triển vượt bậc như ngày hôm nay và cũng chính là nguyên nhân

chính làm tăng hàm lượng tri thức trong sản phẩm nông sản, nâng cao SCT

cho HHNS Việt Nam.

3.2.2. Nguyên nhân hạn chế

3.2.2.1. Nguyên nhân khách quan

Một là, những bất lợi từ điều kiện tự nhiên, thiên tai, dịch bệnh

Bên cạnh những lợi thế mà thiên nhiên ban cho thì Việt Nam là một

trong các nước phải gánh chịu nhiều bất lợi về thiên tai và dịch bệnh, đặc biệt

là ảnh hưởng của biến đổi khí hậu do hiệu ứng nhà kính, làm nước biển dâng,

hạn hán, xâm nhập mặn... Hàng năm Việt Nam phải gánh chịu trung bình từ

5-7 cơn bão, chưa kể đến các hiện tượng thời tiết cực đoan gây giông, lốc, lũ

ống, lũ quét, sạt lở đất. Thời tiết, khí hậu diễn biến ngày càng phức tạp, khó

lường, gia tăng cả về quy mô và cường độ... Khác với sản xuất các loại hàng

113

hóa thông thường, sản xuất HHNS phải gắn với quá trình sinh trưởng và phát

triển của cây trồng, chịu tác động trực tiếp từ điều kiện khí hậu và thời tiết.

Đây là những nguyên nhân dẫn đến rủi ro cao, gây thiệt hại lớn, làm cho các

nhà đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp phải chần chừ, tính toán, ngại đầu tư. Theo

đó là việc thu hút đầu tư gặp khó khăn, các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh

vực nông nghiệp còn ít, quy mô nhỏ... Vấn đề này đã làm cho quá trình cơ giới

hóa và áp dụng khoa học, công nghệ cao vào sản xuất HHNS bị hạn chế. Ngoài

tác động của điều kiện tự nhiên, thì dịch bệnh cũng là nguyên nhân dẫn đến SCT

HHNS bị giảm sút. Nếu như dịch bệnh trên cây trồng là nguyên nhân dẫn đến

năng suất, chất lượng giảm, chi phí giá thành sản phẩm tăng, thì dịch bệnh đối

với con người là nguyên nhân dẫn đến hàng hóa bị tồn đọng, không thực hiện

được giá trị, gây tổn thất lớn. Chẳng hạn hiện nay thế giới đang phải đối mặt với

đại dich Covid -19, để ngăn chặn sự lây lan các nước và địa phương phải thực

hiện đóng cửa biên giới, tạm dừng giao thương… HHNS việt nam không xuất

khẩu được, đặc biệt là các mặt hàng rau quả như dưa hấu, thanh long xuất khẩu

sang Trung Quốc bị dồn ứ ở cửa khẩu Lạng Sơn…, đã gây ra thiệt hại lớn. Do

vậy những bất lợi từ điều kiện tự nhiên, thiên tai, dịch bệnh là một trong các

nguyên nhân dẫn đến giảm SCT của HHNS Việt Nam.

Hai là, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch mới đang là rào cản làm hạn chế

đến sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam

Trong bối cảnh hội nhập và tự do hóa thương mại, mặc dù phần lớn các

quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đều chủ trương tự do hóa thương

mại, nhưng để bảo vệ nền sản xuất trong nước, các nước đã tăng cường các

biện pháp bảo hộ bởi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, trong đó

hàng hóa nông sản là lĩnh vực được bảo hộ rất ngặt nghèo. Trên thế giới

ngày càng có nhiều rào cản thương mại mới và tinh vi hơn như: hạn ngạch,

chống bán phá giá, truy xuất nguồn gốc, tiêu chuẩn xã hội, môi trường và

đặc biệt là an toàn vệ sinh thực phẩm… Mặt khác hiện nay nhiều nước vẫn

tiếp tục duy trì và tăng cường hỗ trợ xuất khẩu HHNS, nhằm ngăn cản hoặc

bóp méo các hoạt động thương mại nông sản quốc tế. Điều này đã gây khó

114

khăn, bất lợi, thiếu công bằng và minh bạch trong cạnh tranh, ảnh hưởng

không nhỏ đến SCT của HHNS Việt Nam.

Ba là, sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam vẫn bị chi phối

không nhỏ bởi yếu tố lịch sử và truyền thống

Việt Nam là quốc gia có truyền thống trồng lúa nước từ lâu đời, quy mô

sản xuất manh mún nhỏ lẻ. Một đất nước có nền sản xuất nông nghiệp ở trình

độ thấp, phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh xâm lược, sản xuất nông nghiệp

bị chi phối lớn bởi tâm lý sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp và đặc biệt là sự duy trì

quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Tư duy truyền thống, kinh

nghiệm vẫn còn tồn tại khá đậm nét trong quá trình sản xuất của người nông

dân... Những vấn đề này đang là một trong những nguyên nhân khách quan

kìm hãm sự phát triển sản xuất nông nghiệp quy mô lớn theo hướng hiện đại,

bền vững và cũng là nguyên nhân dẫn đến sản xuất chưa hướng tới thị trường,

năng suất chất lượng chưa cao, SCT hạn chế.

3.2.2.2. Nguyên nhân chủ quan

Một là, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đối với phát triển sản xuất

nông nghiệp hàng hóa nói chung, nâng cao SCT của HHNS nói riêng còn nhiều

hạn chế, bất cập. Chẳng hạn như: chính sách đất đai tuy đã có nhiều đổi mới,

nhưng vẫn chưa tạo được động lực thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung ruộng

đất, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn (còn quy định về

hạn điền, thủ tục chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp còn nhiều thủ tục,

phức tạp); chính sách tín dụng vẫn còn bất cập, nông dân và doanh nghiệp vẫn

khó tiếp cận nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi...; chính sách khuyến khích

nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ KH&CN trong nông nghiệp

chưa thu hút đông đảo các nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân tham gia…

Hai là, công tác quy hoạch và đầu tư chưa đồng bộ, còn nhiều bất cập

Công tác quy hoạch chưa đồng bộ không tuân theo quy hoạch tổng thể,

nên việc xây dựng các nhà máy chế biến nông sản không gắn với quy hoạch

của Nhà nước về xây dựng vùng sản xuất HHNS tập trung, đã dẫn đến làm

tăng chi phí vận chuyển, chế biến, giá thành cao ảnh hưởng đến SCT của sản

115

phẩm nông sản. Thực tế đã có không ít vùng nguyên liệu như cà phê, do đầu

tư không gắn với quy hoạch và đồng bộ các yếu tố sản xuất (hệ thống điện,

nước tưới tiêu, thu mua, vận chuyển, chế biến, vốn, tín dụng, thị trường tiêu

thụ…), đã làm cho quá trình cơ giới hóa, điện khí hóa cũng như áp dụng công

nghệ cao vào sản xuất gặp khó khăn. Tình trạng nơi có nhiều nguyên liệu thì

ít nhà máy, nơi ít nguyên liệu lại có nhiều nhà máy đã gây ra việc tranh mua,

tranh bán, chế biến không kịp thời, phát sinh chi phí… Ngoài ra cơ sở hạ tầng

một số vùng còn thấp kém đã ảnh hưởng đến khả năng khai thác và phát huy các

lợi thế so sánh của vùng. Chúng ta chưa có vùng sản xuất chuyên canh đủ lớn,

chưa quy hoạch được vùng sản xuất gắn với khu vực thị trường vì vậy khi cần

khối lượng hàng lớn, các doanh nghiệp phải tiến hành thu gom ở các vùng khác

nhau dẫn đến tình trạng trong cùng lô hàng nhưng chất lượng không đồng đều và

còn thấp. Chưa có các vùng chuyên sản xuất các nông sản cho từng khu vực thị

trường riêng biệt… Việc yếu kém trong khâu quản lý quy hoạch ở các vùng, các

địa phương đã dẫn đến tình trạng sản xuất theo phong trào, khi được giá doanh

nghiệp và nông dân ồ ạt mở rộng diện tích, làm phá vỡ quy hoạch, khi rớt giá lại

thi nhau chặt phá chuyển đổi. Việc làm này đã gây tâm lý bất ổn cho doanh

nghiệp và nông dân, lãng phí tiền của, ảnh hưởng đến chất lượng và SCT của

HHNS (hiện tượng này xảy ra phổ biến đối với cà phê, hồ tiêu ở các tỉnh Tây

nguyên mà điển hình là Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum).

Ba là, năng lực nghiên cứu, dự báo còn hạn chế

Công tác nghiên cứu, dự báo, cập nhật những thay đổi về chính sách trên

thị trường quốc tế của các cơ quan quản lý, hoạch định chính sách nhà nước vẫn

còn hạn chế. Khả năng thích ứng với bối cảnh mới của thị trường thế giới trong

điều kiện tự do hóa thương mại còn hạn chế. Các chủ thể sản xuất chưa thực sự

chủ động trong nắm bắt những cơ hội thuận lợi từ các Hiệp định thương mại tự do

mà Việt Nam đã ký kết, nhằm khai thác tối đa tiềm năng xuất khẩu HHNS vào

các thị trường, nhất là các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc…

Do đó đã bỏ lỡ cơ hội hoặc chậm thực hiện, ảnh hưởng đến việc mở rộng và đa

dạng hóa thị trường xuất khẩu HHNS. Hoặc là nghiên cứu chưa kỹ những yêu cầu

116

về tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng của các nước nhập khẩu dẫn đến các lô hàng

của ta không đáp ứng được phải trả lại, làm phát sinh chi phí cũng như ảnh hưởng

đến uy tín và SCT của HHNS Việt Nam.

Bốn là, công nghệ sau thu hoạch và chế biến hàng hóa nông sản còn

chậm phát triển

Công nghệ sau thu hoạch và chế biến hàng hóa nông sản tuy đã có cải

thiện, song vẫn đang ở trong tình trạng chậm phát triển so với các nước

trong khu vực và trên thế giới. Trong những năm gần đây Việt Nam đã tăng

cường đầu tư cho lĩnh vực bảo quản, chế biến và tiêu thụ hàng nông sản

thông qua nhiều chương trình, dự án. Song, sự đầu tư và hỗ trợ đó vẫn còn

quá ít cho một nền nông nghiệp có điểm xuất phát thấp, chưa đáp ứng được

yêu cầu phát triển của sản xuất và thị trường cũng như tiềm năng lợi thế của

Việt Nam. Đầu tư còn dàn trải, rời rạc, thiếu hệ thống và không đồng bộ.

Năm 2019 đầu tư của Nhà nước cho nông, lâm, thủy sản vào khoảng

14.606,1 tỷ đồng chỉ chiếm 4,26% tổng đầu tư từ ngân sách nhà nước (tổng

đầu tư nhà nước năm 2019 là 342,9 nghìn tỷ đồng), trong đó đầu tư cho

nông nông nghiệp khoảng 60 tỷ đồng, chỉ chiếm 0,41% [19], [101]. Trên

thực tế, thời gian qua tuy đã có nhiều doanh nghiệp rất chú trọng đổi mới

công nghệ, song vẫn còn nhiều doanh nghiệp do nguồn vốn còn hạn hẹp nên

vẫn sử dụng công nghệ và thiết bị cũ, lạc hậu, thiếu đồng bộ, dẫn đến HHNS

của ta chất lượng chưa cao, SCT hạn chế.

Năm là, cơ sở hạ tầng còn thiếu đồng bộ, dịch vụ Logistics phát triển chậm,

hệ thống phân phối còn nhiều bất cập

Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, lưu thông và xuất khẩu HHNS của

Việt Nam còn hạn chế như: hệ thống giao thông, chợ đầu mối, kho lưu trữ,

bảo quản, bến bãi…, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển hiện nay của sản

xuất và tiêu thụ HHNS. Mặt khác dịch vụ Logistics HHNS phát triển

chậm đã làm phát sinh chi phí, tốn thời gian, ảnh hưởng lớn đến chất

lượng và SCT của HHNS. Theo báo cáo điều tra của Tổ chức Phát triển

công nghiệp Liên Hiệp Quốc (UNIDO) về các ngành công nghiệp chế biến

117

nông sản của Việt Nam, chi phí cảng, chi phí bốc xếp hàng hóa và các loại chi

phí khác ở cảng Sài Gòn, (cảng xuất khẩu phần lớn gạo của Việt Nam) vào

khoảng 40.000 USD cho tàu có công suất 10.000 tấn, chi phí này gấp đôi ở

Bangkok Thái Lan. Ngoài ra tốc độ bốc dỡ hàng hóa tại cảng Sài Gòn chậm,

khoảng 1000 tấn/ngày trong khi đó ở Bangkok Thái Lan khoảng 6.000

tấn/ngày. Như vậy chỉ tính chi phí phục vụ xuất khẩu gạo (chi phí bến bãi, thủ

tục xuất khẩu còn quá cao, điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến giá bán cuối

cùng tới tay người tiêu dùng, làm giảm SCT của HHNS [65, tr.136,137].

Hệ thống phân phối hàng hóa nông sản tuy đã có nhiều tiến bộ nhưng

vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thị trường. Năng lực kinh doanh

và tổ chức điều hành giữa các lực lượng tham gia thị trường chưa chặt chẽ, còn

bộc lộ nhiều yếu kém. Tình trạng lưu thông hàng hóa chồng chéo, tranh mua,

tranh bán vẫn còn xảy ra khá phổ biến, gây thiệt hại không nhỏ đến lợi ích

chung, của người sản xuất và người tiêu dùng. Công tác hướng dẫn, điều hành

trong hoạt động sản xuất kinh doanh, phân phối HHNS chưa chặt chẽ, còn có

quá nhiều doanh nghiệp trên một vùng, một địa phương cùng tham gia sản

xuất, kinh doanh một mặt hàng, dẫn đến tình trạng mạnh ai nấy làm, tranh mua,

tranh bán, cạnh tranh không lành mạnh, đặc biệt là mỗi khi có nhu cầu lô hàng

hóa lớn cho xuất khẩu. Hiện tượng này đã tạo cơ hội cho các nhà nhập khẩu tạo

cớ, ép giá ảnh hưởng đến SCT của HHNS.

3.2.3. Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng cần phải giải quyết để nâng

cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam thời gian tới

Thực trạng SCT của HHNS Việt Nam từ 2011 đến 2019 đang đặt ra

những vấn đề cấp thiết cần tập trung giải quyết đó là:

Thứ nhất, mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của hàng

hóa nông sản với hệ thống cơ chế, chính sách về vấn đề này ở Việt Nam hiện

nay còn nhiều bất cập

Để phát triển sản xuất nông sản hàng hóa, tạo ra những sản phẩm nông

sản có SCT cao, đòi hỏi phải có hệ thống cơ chế, chính sách đồng bộ. Đây

chính là cơ sở pháp lý cho các chủ thể thực hiện phát triển SXKD hàng hóa

118

nông sản. Tuy nhiên, thực trạng phát triển SXKD hàng hóa nông sản của Việt

Nam thời gian qua cho thấy, hệ thống cơ chế chính sách còn chưa đầy đủ, thiếu

đồng bộ. Công tác xây dựng chính sách chưa thực sự bám sát thực tiễn, có nội

dung còn thiếu các căn cứ khoa học, cụ thể, thiếu sự giám sát theo dõi, chưa

đánh giá, dự báo hết được những tác động của chính sách trong tương lai.

Một số chính sách còn mâu thuẫn, chồng chéo với các chính sách khác, khó

đưa vào cuộc sống, nhưng lại chậm được điều chỉnh bổ sung kịp thời… Tổ

chức thực hiện thiếu nhất quán, thiếu nguồn lực, còn nặng về cơ chế “xin -

cho”… Thực trạng trên đã gây khó khăn, cản trở cho việc huy động, sử dụng

các nguồn lực cho phát triển SXKD hàng hóa nông sản. Đây là mâu thuẫn căn

bản, đòi hỏi phải được giải quyết để nâng cao SCT cho HHNS Việt Nam.

Thứ hai, mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa

nông sản với thực trạng sản xuất thiếu chuyên nghiệp, còn manh mún nhỏ lẻ, hệ

thống kết cấu hạ tầng còn nhiều bất cập, dịch vụ logictics chậm phát triển

Một sản phẩm hàng hóa nông sản được coi là có sức cạnh tranh cao trên

thị trường trước hết là phải có số lượng lớn, chất lượng tốt, đồng đều, giá thành

rẻ… Để có được những tiêu chí này, đòi hỏi phải có quy mô đất đai rộng lớn,

thực hành cơ giới hóa và ứng dụng KH&CN, nhất là công nghệ mới, công

nghệ cao vào các khâu sản xuất, thu hoạch, chế biến, bảo quản và tiêu

thụ… Cần có kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại như: điện khí hóa, hệ

thống giao thông, hệ thống thủy lợi, hệ thống xử lý chất thải,.. đặc biệt là

dịch vụ logictics (vận chuyển, kho tàng, bến bãi…). Trong khi đó, thực

trạng sản xuất HHNS của Việt Nam còn lạc hậu, nhỏ lẻ, manh mún, khu

quy hoạch sản xuất tập trung chuyên canh còn ít, thiếu bền vững. Hệ thống

kết cấu hạ tầng hạn chế, thiếu đồng bộ, dịch vụ logictics phát triển chậm…

Vì vậy, để phát triển sản xuất nông sản hàng hóa, nâng cao SCT cho HHNS

đòi hỏi Việt Nam phải bổ sung, hoàn thiện quy hoạch vùng sản xuất hàng

hóa nông sản tập trung, chuyên canh, quy mô lớn; đầu tư phát triển đồng bộ

kết cấu hạ từng, phát triển dịch vụ logictics.. . Đây là mâu thuẫn quan

trọng, cần có giải pháp để khắc phục nhằm nâng cao SCT cho HHNS Việt

Nam trong thời gian tới.

119

Thứ ba, mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản với trình độ nghiên cứu, phát triển và ứng dụng KH&CN nông nghiệp Việt Nam còn hạn chế

Khoa học và công nghệ có vị trí, vai trò hết sức quan trọng, mang tính quyết định đến việc tăng năng suất, chất lượng và SCT của HHNS. Bởi vậy, để phát triển một nền nông nghiệp hiện đại, bền vững, nâng cao SCT của HHNS, đòi hỏi phải đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển và ứng dụng có hiệu quả KH&CN vào SXKD trong nông nghiệp, nhất là các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (4.0), công nghệ mới, công nghệ cao... Trong khi đó, thực trạng của các yếu tố này ở Việt Nam còn nhiều hạn chế và bất cập. Đây là mâu thuẫn mấu chốt, cần phải có giải pháp hữu hiệu để giải quyết, nhằm nâng cao SCT của HHNS Việt Nam trong thời gian tới.

Thứ tư, mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam với quy mô thị trường tiêu thụ nông sản còn nhỏ hẹp, thiếu đa dạng, sản phẩm có thương hiệu còn ít

Thương hiệu là nhân tố quan trọng tạo nên SCT của HHNS, đồng thời nó cũng là một trong các tiêu chí cơ bản để đánh giá SCT của sản phẩm. Trước khi quyết định lựa chọn sản phẩm, vấn đề đầu tiên khách hàng quan tâm đó là thương hiệu sản phẩm. Thực trạng SXKD hàng hóa nông sản Việt Nam thời gian qua cho thấy, việc xây dựng và quảng bá thương hiệu cho các sản phẩm nông sản còn rất hạn chế, số sản phẩm có thương hiệu trên thị trường rất ít, nhất là trên thị trường quốc tế.

Cùng với thương hiệu, công tác xúc tiến thương mại, mở rộng và đa dạng hóa thị trường có vai trò to lớn tạo nên SCT của HHNS. Bởi vì, trên thị trường rộng lớn có nhiều chủ thể cung cấp cùng một loại sản phẩm, nếu chủ thể nào làm tốt công tác xúc tiến thương mại sẽ mở rộng được thị trường, nhanh bán được hàng; hay nói cách khác, khách hàng sẽ lựa chọn sản phẩm của chủ thể đó, như vậy hàng hóa của chủ thể đó đã cạnh tranh thắng lợi với hàng hóa của các chủ thể khác. Tuy nhiên thực trạng HHNS Việt Nam đa số là chưa có thương hiệu; thị trường tiêu thụ còn hạn hẹp, thiếu đa dạng còn phụ thuộc vào một vài thị trường truyền thống.

Đây là mâu thuẫn quan trọng cần phải giải quyết để góp phẩn nâng cao

SCT cho HHNS Việt nam trong thời gian tới.

120

Kết luận chương 3

Sản xuất nông nghiệp nói chung, SCT của HHNS Việt Nam nói riêng

đã đạt được những tiến bộ quan trọng. Chất lượng ngày càng được nâng

lên, giảm thiểu được chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Diện tích canh

tác được mở rộng, sản lượng, kim ngạch, thị phần xuất khẩu hàng năm

được tăng lên, thị trường tiêu thụ được mở rộng, thương hiệu và uy tín từng

bước được khẳng định.

Tuy nhiên SCT của một số HHNS Việt Nam trên thị trường vẫn còn

thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển, hội nhập của đất

nước. Điều này bộc lộ trên một số tiêu chí như: chất lượng một số mặt hàng

tuy được tăng lên song vẫn còn thấp hơn so với chất lượng nông sản của

các nước có nền nông nghiệp phát triển như Mỹ, Thái Lan,…; chi phí sản

xuất vẫn còn cao so với với những tiềm năng lợi thế vốn có của đất nước,

số sản phẩm có thương hiệu còn ít, thị trường xuất khẩu mới chỉ tập trung

vào một số thị trường truyền thống, chưa xâm nhập được nhiều vào các thị

trường “khó tính”; đặc biệt, chưa khai thác tốt tiềm năng thị trường nội địa

với gần 100 triệu dân,.. Các thành tựu và hạn chế này bắt nguồn từ các

nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau, trong đó nguyên nhân chủ

quan vẫn là chủ yếu.

Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân khách quan và chủ quan của

những thành tựu và hạn chế về SCT của HHNS Việt Nam thời gian qua. Tác

giả đã chỉ ra những vấn đề bức thiết nhất thông qua 4 mâu thuẫn được rút ra

từ thực trạng mà Việt Nam cần tập trung giải quyết để nâng cao SCT của

HHNS trong thời gian tới.

Để giải quyết những vấn đề trên, cần có hệ thống các quan điểm và giải

pháp đồng bộ, sát thực, khả thi mà luận án sẽ tập trung giải quyết ở chương 4.

121

Chương 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH

CỦA HÀNG HÓA NÔNG SẢN VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI

4.1. Quan điểm về nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản

Việt Nam

4.1.1. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản là yêu cầu,

nhiệm vụ vừa cấp thiết, vừa lâu dài, có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển

của ngành nông nghiệp Việt Nam theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững

Đây là quan điểm trung tâm, mang tính chỉ đạo xuyên suốt và bao trùm

quá trình phát triển ngành nông nghiệp nói chung, nâng cao SCT của HHNS

nói riêng. Nghị quyết Số 26-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành

Trung ương Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã xác định mục

tiêu tổng quát về phát triển nông nghiệp: “Xây dựng nền nông nghiệp phát

triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng

suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an

ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài” [40, tr.2].

Xuất phát điểm của ngành nông nghiệp nước ta ở trình độ thấp, sau hơn

30 năm đổi mới, nền kinh tế đất nước nói chung, ngành nông nghiệp nói riêng

đã có những bước tiến vượt bậc, song vẫn chưa tương xứng với quá trình phát

triển và hội nhập của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa, tự do hóa thương

mại như hiện nay. Trình độ sản xuất nông nghiệp, nhất là sản xuất HHNS vẫn

còn thấp kém hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Với đa số

người dân sống dựa vào sản xuất nông nghiệp là chính, việc sản xuất nông

nghiệp hiện nay không thể là tự cung, tự cấp, tự phục vụ nhu cầu tiêu dùng

của người sản xuất nữa, mà phải là sản xuất nông nghiệp hàng hóa, gắn với

thị trường. Do vậy, nâng cao SCT cho HHNS trên thị trường là động lực

chính để phát huy nội lực, thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp và kinh tế

đất nước. Đây là yêu cầu vừa cấp thiết vừa lâu dài, có ý nghĩa hết sức quan

trọng, đồng thời là một trong các nhiệm vụ chiến lược, góp phần đẩy mạnh

quá trình công nghiệp hóa, hiện đại đất nước nói chung, nông nghiệp, nông

122

dân, nông thôn nói riêng,... Tạo tiền đề để đến năm 2025 đưa nước ta cơ bản

trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có thu nhập trung bình cao

và đến năm 2045 vào dịp tròn 100 năm, ngày thành lập nước, Việt Nam trở

thành nước công nghiệp hiện đại, có thu nhập cao [2, tr.12, 13]. Quán triệt

quan điểm này, các chủ thể cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:

Một là, Chính phủ, các bộ, ngành, chính quyền các địa phương, cần

phải xác định: nâng cao SCT của HHNS Việt Nam là yêu cầu, nhiệm vụ cơ

bản, vừa mang tính cấp bách vừa lâu dài và phải tổ chức thực hiện thường

xuyên liên tục, có bước đi, lộ trình và mục tiêu cụ thể, phù hợp với tình hình

phát triển kinh tế đất nước nói chung, ngành nông nghiệp nói riêng.

Hai là, bám sát định hướng phát triển ngành nông nghiệp hàng hóa hiện

đại, quy mô lớn, hiệu quả và bền vững. Nâng cao SCT của HHNS phải trên

cơ sở phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa có trình độ công nghệ cao, với

quy mô sản xuất lớn, năng suất cao, chất lượng tốt, có giá trị gia tăng cao. Với

trình độ nhân lực cao, tổ chức sản xuất lớn, quản lý chuyên nghiệp, hiện đại.

Ba là, thực hiện liên kết, hợp tác mạnh mẽ theo chuỗi giá trị HHNS

toàn cầu, gắn với thị trường trong nước và quốc tế, phù hợp với điều kiện thực

tiễn của từng vùng, từng địa phương trong nước và yêu cầu phát triển nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.

4.1.2. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam là

trách nhiệm của các chủ thể; trong đó, doanh nghiệp đóng vai trò quyết

định, Nhà nước tạo môi trường thuận lợi, hộ nông dân là nền tảng, hiệp

hội ngành hàng đóng vai trò hỗ trợ và liên kết các doanh nghiệp hội viên

Đây là quan điểm quan trọng, xác định trách nhiệm của các chủ thể

tham gia vào quá trình nâng cao SCT của HHNS Việt Nam.

Xuất phát từ việc, sản xuất nông nghiệp hàng hóa nói chung, nâng cao

SCT cho HHNS nói riêng đòi hỏi phải có sự kết hợp cao của sức sản xuất xã

hội, phát huy tính tích cực, chủ động, đổi mới sáng tạo của các chủ thể, nhất

là các chủ thể trực tiếp SXKD. Mặt khác, sản xuất nông nghiệp là nền tảng,

có quan hệ đan xen, hỗ trợ lẫn nhau với các ngành khác.

123

Để quán triệt và thực hiện tốt quan điểm này, các chủ thể cần thực hiện một

số yêu cầu cơ bản sau:

Một là, cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, các bộ, ban,

ngành có liên quan, trong đó Bộ NN&PTNT phải là cơ quan chịu trách nhiệm

chính trong việc tham mưu, đề xuất, các cơ chế chính sách để Chính phủ quyết

định. Các doanh nghiệp, HTX nông nghiệp và hộ nông dân là những chủ thể

trực tiếp tham gia SXKD, trong đó hộ nông dân chiếm đa số, làm nền tảng,

doanh nghiệp, HTX nông nghiệp đóng vai trò quyết định đến phát triển sản

xuất nông nghiệp hàng hóa nói chung, nâng cao SCT của HHNS nói riêng.

Hai là, phải tổ chức lại sản xuất, trước hết là các chủ thể tham gia SXKD

HHNS (cơ quan nhà nước mà cụ thể là Bộ NN&PTNT, chính quyền các địa

phương; doanh nghiệp nông nghiệp, HTX nông nghiệp, hộ nông dân và hiệp hội

ngành hàng) cơ cấu lại theo hướng tinh gọn, chất lượng, hiệu quả, gắn với đề cao

trách nhiệm theo vị trí đảm nhiệm. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu phát

triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, hiệu quả, bền vững. Đúng như

tinh thần Đại hội lần thứ XII, Đảng ta đã xác định là “Tổ chức lại sản xuất, tăng

cường liên kết theo chuỗi giá trị. Gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ nông sản

trên cơ sở phát triển các hình thức hợp tác, liên kết đa dạng giữa hộ gia đình với

các tổ chức hợp tác và doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh

và bảo đảm hài hoà lợi ích của các chủ thể tham gia” [42, tr.282].

4.1.3. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam

phải trên cơ sở khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của từng vùng, từng

địa phương, từng loại nông sản, phù hợp với quy luật của thị trường và

thông lệ quốc tế

Đây là quan điểm cơ bản, chỉ đạo quá trình lựa chọn quy hoạch các

vùng sản xuất quy mô lớn và đối với từng loại nông sản, phù hợp với lợi thế

của từng vùng, từng địa phương trong nước. Đồng thời phải tuân theo quy

luật của thị trường và thông lệ quốc tế.

Xuất phát từ vị trí địa lý và lãnh thổ đất liền kéo dài, đã tạo cho Việt

Nam có các vùng địa lý, khí hậu và thổ nhưỡng khác biệt. Sản xuất HHNS đòi

124

hỏi phải gắn liền với quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng, vật nuôi;

mỗi loại cây trồng, vật nuôi lại thích nghi với từng điều kiện khí hậu, thời tiết,

thổ nhưỡng khác nhau. Do vậy mỗi vùng, miền, địa phương có những lợi thế

khác nhau về sản xuất các loại nông sản. Chẳng hạn Vùng đồng bằng Sông Cửu

Long và đồng bằng Sông Hồng có lợi thế về sản xuất lúa gạo, trái cây; Vùng Miền

núi phía Bắc và Tây Nguyên có lợi thế về trồng các loại cây cà phê… Để bảo đảm

các điều kiện tốt nhất cho quá trình sản xuất, chế biến HHNS như: điều kiện về

đất đai, thời tiết, khí hậu, nhân lực, kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi…, kết nối

sản xuất với chế biến, thị trường tiêu thụ, xuất khẩu, từ đó tối ưu hóa chi phí đầu

vào cho sản xuất, đồng thời tăng năng suất, chất lượng cho sản phẩm. Tất cả

những vấn đề này sẽ tạo nên lợi thế vượt trội trước đối thủ cạnh tranh, khi đó sẽ

tạo ra sản phẩm có SCT cao trên thị trường. Để quán triệt và thực hiện tốt quan

điểm này, các chủ thể cần phải thực hiện tốt các yêu cầu sau:

Một là, cần phải vận dụng lý thuyết lợi thế so sánh để nghiên cứu, phân

tích và lựa chọn ra những loại nông sản có ưu thế trong sản xuất và xuất khẩu,

phù hợp với điệu kiện của từng vùng sinh thái. Bảo đảm ở các vùng, các địa

phương có ưu thế vượt trội đối với từng loại nông sản. Nếu như được lựa

chọn quy hoạch làm vùng sản xuất chuyên canh một loại nông sản nào đó thì

ở đó phải là có điều kiện về tự nhiên tốt nhất, đặc biệt là có chất đất cho phép

cây trồng phát triển tốt nhất, năng suất cao nhất, chất lượng tốt nhất, hương vị

thơm, ngon và mang đặc trương riêng của vùng; đồng thời chi phí sản xuất,

giá thành ở đó là thấp nhất…, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất.

Hai là, cần khai thác triệt để những tiềm năng, lợi thế để phát triển các

sản phẩm mang tính đặc sản của từng vùng, từng địa phương, đồng thời gắn

với thị trường xuất khẩu. Tăng cường đầu tư cho các vùng sản xuất HHNS tập

trung, chuyên canh quy mô lớn, tạo thành các vùng nguyên liệu đủ lớn, chất

lượng cao, cung cấp cho chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu. Đẩy mạnh việc xây

dựng, hoàn thiện và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, công tác nghiên cứu KH&CN

chế biến, công tác nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại…, để từng

bước nâng cao SCT của hàng hóa nông sản.

125

Ba là, nâng cao SCT cho HHNS phải trên cơ sở tuân theo các quy luật

của thị trường có sự định hướng của nhà nước, bảo đảm cạnh tranh công

bằng, lành mạnh. Đồng thời phải tuân thủ các quy định của Tổ chức thương

mại thế giới (WTO), các hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương

mà Việt Nam đã tham gia ký kết cũng như các quy định của các nước nhập

khẩu nông sản của ta. Cạnh tranh phải trên tất cả các tiêu chí, tránh tập trung

vào một, hai tiêu chí, vì cái lợi trước mắt mà không tính đến lợi ích lâu dài, có

các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, làm tổn hại đến đối thủ cạnh tranh.

4.1.4. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam

phải thực hiện một cách toàn diện, đồng bộ, hệ thống, trên cả hai mặt giá

trị sử dụng và giá trị, trong tất cả các khâu của chuỗi giá trị

Đây là quan điểm chỉ đạo quá trình thực hiện các biện pháp nâng cao

SCT của HHNS Việt Nam. Điều này xuất phát từ đặc điểm của quá trình sản

xuất HHNS, đó là đòi hỏi phải trải qua các khâu, các bước và đặc biệt là

phải trải qua một khoảng thời gian tương đối dài. Bởi vì sản xuất nông sản

phải gắn với quá trình sinh trưởng, phát triển của cây trồng, vật nuôi. Để sản

xuất ra một loại nông sản có chất lượng tốt đòi hỏi phải bắt đầu từ khâu chọn

loại giống cây trồng, vật nuôi tốt, làm đất tốt, chăm bón tốt, thu hoạch đúng

dịp, đúng quy trình, chế biến tốt, bảo quản, chế biến tốt... Như vậy, để có sản

phẩm HHNS tốt, SCT cao thì không chỉ cần phải làm tốt một khâu, một mặt

mà cần phải thực hiện tốt ở tất cả các khâu các mặt trong chuỗi giá trị gia

tăng (nghiên cứu và phát triển, trồng trọt, chế biến, phân phối, Marketing).

Nâng cao giá trị sử dụng của HHNS là nâng cao phẩm cấp, chất lượng của

sản phẩm. Trong bối cảnh hội nhập và tự do hóa thương mại như hiện nay,

trên thị trường có rất nhiều HHNS cùng loại, nếu chất lượng HHNS của ta

không được nâng lên thì sẽ thua cuộc trong cạnh tranh. Bên cạnh việc nâng

cao chất lượng chúng ta cần phải đa dạng hóa các giá trị sử dụng HHNS,

đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú của người tiêu dùng, bằng cách

đầu tư vào chế biến sâu các sản phẩm HHNS. Đây là yếu tố quan trọng để

tăng khả năng được lựa chọn của khách hàng, qua đó nâng cao giá trị sử

126

dụng và SCT cho HHNS. Để thực hiện quan điểm này, các chủ thê cần

phải thực hiện các yêu cầu sau:

Một là, chủ thể là Nhà nước cần phải có các cơ chế, chính sách phù hợp

nhằm tiếp tục khuyến khích và tăng cường sự liên kết 4 nhà (Nhà nước, nhà khoa

học, nhà doanh nghiệp và nhà nông) trong SXKD hàng hóa nông sản. Đẩy mạnh

công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và sự cần thiết phải liên

kết trong sản xuất chế biến và tiêu thụ HHNS. Tiếp tục xây dựng và nhân rộng các

mô hình, điển hình tiêu biểu trong liên kết sản xuất HHNS. Các chủ thể tham gia

SXKD hàng hóa nông sản ở các địa phương, các vùng cần phải chủ động, tăng

cường hơn nữa trong liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ HHNS.

Hai là, phải coi trọng đầu tư, đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng dụng

KH&CN vào tất cả các khâu của chuỗi giá trị, ưu tiên khâu nghiên cứu lai tạo

ra các loại giống mới có tính năng, phẩm cấp vượt trội hơn các loại giống cũ,

cho năng suất cao, chất lượng tốt. Chú trọng chuyển dịch sản xuất, xuất khẩu

theo số lượng sang chất lượng; xuất khẩu sản phẩm thô sang xuất khẩu các

sản phẩm chế biến sâu.

Ba là, phải đặt mục tiêu giá trị sử dụng lên trên lợi nhuận, bởi vì sản

xuất ra sản phẩm nông sản là sản xuất ra lương thực, thực phẩm và đồ uống,

phục vụ trực tiếp cho con người, do vậy phải đặt mục tiêu vì sức khỏe và sự

phát triển của con người lên trên lợi nhuận. Tránh tư tưởng vì chạy theo lợi

nhuận và cạnh tranh, không coi trọng chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm

và sức khỏe của người tiêu dùng.

4.1.5. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam

phải bảo đảm tính hiệu quả, bền vững, góp phần tích cực vào phát triển

kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh đất nước

Đây là quan điểm có tính hướng đích của quá trình nâng cao SCT của

HHNS. Mục đích của việc nâng cao SCT của HHNS là chúng ta bán được

nhiều sản phẩm nông sản, thu về khoản lợi nhuận cao, tăng thu nhập, nâng

cao đời sống người lao động nhất là nông dân, xây dựng nông thôn mới, góp

phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Tuy nhiên, việc làm này

127

phải tuân thủ hiến pháp, pháp luật, các quy định, quy ước quốc tế, cạnh tranh

công bằng, lành mạnh và tuân theo quy luật của thị trường. Nâng cao SCT

HHNS phải có tính bền vững, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên sẵn có đồng

thời có phương án bảo đảm sự phục hồi, phát triển, và thay thế, bảo vệ tốt môi

trường sinh thái. Để quán triệt và thực hiện tốt quan điểm này, các chủ thể cần

thực hiện các yêu cầu sau:

Một là, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương cần phải đẩy

mạnh việc tuyên truyền, giáo dục cho các doanh nghiệp, người nông dân, các

chủ thể tham gia SXKD hàng hóa nông sản về vị trí, vai trò và tính tất yếu

phải nâng cao SCT cho HHNS trong điều kiện kinh tế thị trường. Phải thấy rõ

cạnh tranh là quy luật cơ bản của kinh tế thị trường, cạnh tranh là động lực

phát triển của doanh nghiệp, cho mỗi địa phương nói riêng và nền kinh tế đất

nước nói chung. Cạnh tranh là động lực thúc đẩy nâng cao năng suất lao động

xã hội, sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Cạnh tranh mang lại lợi ích thiết thực

cho cuộc sống con người, vì con người được sử dụng hàng hóa tốt hơn, chất

lượng cao hơn, giá rẻ hơn…

Hai là, sản xuất HHNS sản phải trên cơ sở nhu cầu của thị trường,

hướng tới các HHNS có chất lượng tốt, giá trị gia tăng cao phục vụ thiết thực

cho sức khỏe con người. Quá trình nâng cao SCT cho HHNS là quá trình

chuyển đổi từ số lượng sang chất lượng, từ sản xuất và xuất khẩu các HHNS

có giá trị thấp sang sản xuất và xuất khẩu các HHNS có giá trị cao hơn.

Ba là, quá trình nâng cao SCT của HHNS phải dựa trên cơ sở khai thác

có hiệu quả nguồn tài nguyên, đồng thời phải có phương án tái tạo, thay thế

và không được làm tổn hại đến môi trường sinh thái. Sử dụng các loại thuốc

bảo vệ thực vật phải tuân thủ theo quy trình kỹ thuật, liều lượng hợp lý, sử

dụng hiệu quả và tiết kiệm nguồn nước, có phương án bảo vệ nguồn nước.

Mở rộng diện tích trồng cây lâu năm như cà phê, hay làm trang trại chăn nuôi

phải đi đôi với việc bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sinh thái, không vì lợi ích

trước mắt mà mở rộng diện tích, chặt phá rừng bừa bãi, hay chăn nuôi gần

khu dân sinh, không xử lý tốt chất thải chăn nuôi...

128

Bốn là, nâng cao SCT của HHNS cần kết hợp kinh tế với quốc phòng -

an ninh, xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh. Quy hoạch vùng sản

xuất, đặc biệt là các vùng biên, vùng dân tộc thiểu số trên cơ sở phải vừa phát

triển sản xuất vừa làm công tác vận động quần chúng. Trước hết là chủ trương

vận động đồng bào dân tộc thiểu số vào làm công nhân, nhận chăm sóc vườn

cây, mang lại thu nhập, nâng cao đời sống về vật chất, tinh thần cho bà con

đồng bào. Tổ chức các hoạt động giao lưu, kết nghĩa giữa các đội sản xuất với

các buôn làng, thực hiện gắn kết hộ công nhân người Kinh với đồng bào dân

tộc thiểu số, từ đó lồng ghép việc tuyên truyền về đường lối, chủ trương của

đảng, chính sách, pháp luật nhà nước cho bà con; đồng thời vạch rõ âm mưu

của các thế lực thù địch, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của bà con để tuyên truyền,

xuyên tạc, nói xấu Đảng, nói xấu chế độ, lôi kéo, kích động chia rẽ,… Bộ máy

các công ty, các doanh nghiệp trên địa bàn phải tích cực phối hợp, giúp đỡ

cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể địa phương, củng cố hệ thống chính trị ở cơ

sở, góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng đất nước ổn định về chính trị,

phát triển về kinh tế và vững mạnh về quốc phòng - an ninh.

4.2. Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt

Nam thời gian tới

4.2.1. Bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích,

hỗ trợ và tạo môi trường thuận lợi cho các chủ thể trong quá trình nâng

cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản

Đây là giải pháp hết sức quan trọng, mang tầm vĩ mô nhằm tạo lập môi

trường pháp lý thuận lợi, cũng như thu hút, hỗ trợ, khuyến khích các thành

phần kinh tế tham gia đầu tư vào lĩnh vực SXKD hàng hóa nông sản. Trên cơ

sở nghị quyết Đại hội XII của Đảng về phát triển sản xuất nông nông nghiệp,

đó là: đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện

đại, hiệu quả và bền vững, nâng cao SCT sản phẩm nông sản, góp phần tăng

thu nhập, nâng cao đời sống nông dân, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã

hội, ổn định chính trị, phát triển kinh tế đất nước. Để thực hiện giải pháp này,

Chính Phủ, các Bộ, ngành liên quan, Ủy ban nhân dân các địa phương (gọi

chung là nhà nước) cần tập trung đổi mới, hoàn thiện các cơ chế, chính sách sau:

129

4.2.1.1. Cơ chế, chính sách về đất đai

Trên tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 Khóa XI của Đảng

về chính sách, pháp luật đất đai, việc đổi mới và hoàn thiện chính sách về đất

đai phải hướng vào nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho quá trình tích tụ,

tập trung ruộng đất, để hình thành các khu vực sản xuất hàng hóa nông sản

tập trung quy mô lớn. Cụ thể như sau:

Một là, quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp ở các vùng, các địa phương

phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước, đồng thời

phải có các chính sách bảo vệ đất nông nghiệp, nhất là đất trồng lúa. Từng

bước hình thành vùng sản xuất hàng hóa nông sản tập trung, quy mô lớn,

mang tính tổ hợp, khép kín, gắn sản xuất với chế biến, bảo quản nhằm nâng

cao năng suất, chất lượng, giảm thiểu chi phí sản xuất, vận chuyển, chế biến

nâng cao SCT cho sản phẩm nông sản.

Hai là, hoàn thiện cơ chế, chính sách giao đất, cho thuê đất nông

nghiệp theo hướng nới rộng các quy định như: tăng mức hạn điền, mức

chuyển nhượng đất nông nghiệp, tăng thời hạn giao quyền sử dụng đất nhằm

tạo điều kiện tốt nhất cho các tổ chức, cá nhân tập trung ruộng đất, yên tâm

đầu tư vốn, công nghệ vào SXKD bảo đảm ổn định lâu dài.

Ba là, các địa phương cần đẩy nhanh việc cải cách thủ tục hành chính,

đơn giản hóa các thủ tục và rút ngắn thời gian cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất cho người dân. Ban hành các chính sách khuyến khích, tạo điều kiện

thuận lợi cho người được giao quyền sử dụng đất nông nghiệp được phép

chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn cổ phần bằng đất vào các dự án SXKD

HHNS; đồng thời, bảo vệ quyền lợi lâu dài cho họ, nhất là đối với người nông

dân. Tiến hành thu hồi đất đối với các trường hợp sử dụng đất nông nghiệp sai

mục đích, bỏ hoang, giao lại cho các đơn vị sản SXKD có năng lực khai thác,

sử dụng hiệu quả hơn.

Bốn là, hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm thừa nhận quyền sở

hữu tài sản gắn liền với đất, làm cơ sở cho các chủ thể sử dụng đất thực hiện

việc thế chấp vay vốn đầu tư mở rộng SXKD, qua đó thu hút đầu tư, góp vốn,

130

cổ phần bằng bất động sản… Hoàn thiện chính sách đất đai cần phải có sự

công bằng giữa các chủ thể SXKD như: kinh tế hộ, kinh tế trang trại, HTX

nông nghiệp và doanh nghiệp nông nghiệp, đồng thời phải tính đến hiệu quả

sử dụng đất cả về kinh tế, xã hội và môi trường.

4.2.1.2. Cơ chế chính sách về thuế, tín dụng và đầu tư nông nghiệp

Một là, đối với chính sách thuế: Để hỗ trợ và thúc đẩy đầu phát triển sản

xuất HHNS quy mô lớn, năng suất, chất lượng và SCT cao, cần tiếp tục hoàn

thiện chính sách thuế của Nhà nước theo hướng: tiếp tục miễn, giảm thuế sử

dụng đất nông nghiệp cho các chủ thể; miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp

đối với các doanh nghiệp nông nghiệp, HTX cổ phần SXKD trong lĩnh vực

nông nghiệp; miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp

sản xuất máy móc, trang thiết bị phục vụ sản xuất, chế biến, bảo quản HHNS

và các doanh nghiệp cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp.

Hai là, đối với chính sách tín dụng: Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng

thương mại và các tổ chức tín dụng ở từng vùng, từng địa phương cần quán

triệt và thực hiện tốt các chính sách của nhà nước về ưu tiên tín dụng phát

triển sản xuất nông nghiệp mà cụ thể là các Nghị định, Quyết định của Chính

phủ như: Nghị định số 55/2015/NĐ-CP, ngày 09/06/2015 của Chính phủ về

chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; Quyết định số

1726/QĐ-TTg, ngày 05/09/2016 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề

án nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế và Quyết

định số 813/QĐ-NHNH, ngày 24/4/2017 của Ngân hàng Nhà nước về chương

trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông

nghiệp sạch theo Nghị quyết 30/NQ-CP ngày 07/3/2017 của Chính phủ.

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các chủ thể tham gia SXKD hàng hóa

nông sản, tiếp cận vay vốn với chính sách ưu đãi nhất của nhà nước, từ đó có

nguồn lực để đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, ứng dụng công nghệ mới,

công nghệ cao vào sản xuất, chế biến, bảo quản, làm tăng năng suất, chất

lượng và SCT cho HHNS. Trên cơ sở các chính sách của Nhà nước, các địa

phương cũng cần có các cơ chế chính sách riêng nhằm thu hút đầu tư phát

131

triển sản xuất HHNS ở địa phương mình. Đổi mới, hoàn thiện chính sách tín

dụng nông nghiệp, nông thôn nhà nước và các địa phương cần hướng vào hỗ

trợ, khuyến khích đầu tư phát triển các dự án SXKD theo chuỗi giá trị, nhằm

đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa nông nghiệp, giảm thiểu rủi ro và nâng cao

hiệu quả sử dụng vốn vay.

Ba là, đối với chính sách đầu tư nông nghiệp

Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách đầu tư nông nghiệp theo hướng

tăng mức đầu tư toàn xã hội cho phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, tập

trung vào các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao,

nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch. Đầu tư nhà nước cần tập trung vào

phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn bảo đảm vừa phục vụ cho

sản xuất HHNS vừa chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Hỗ trợ trực tiếp

cho các lĩnh vực như: ứng dụng KH&CN, liên kết sản xuất, xúc tiến thương

mại và đào tạo nhân lực,… Quá trình thực thi chính sách đầu tư, để trách các

hành vi tiêu cực, trục lợi chính sách, các địa phương cần tuân thủ nghiêm túc

theo Nghị định số 15/2015/NĐ-CP, ngày 14 tháng 02 năm 2015 của Chính

phủ về đầu tư theo hình thức đối tác công tư, Thông tư số 14/2017/TT-

BNNPTNT, ngày 05/07/2017 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về

Hướng dẫn thực hiện một số nội dung về đầu tư theo hình thức đối tác công tư

trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

Trên cơ sở chính sách của nhà nước, các địa phương cần nghiên cứu

ban hành chính sách khuyến khích, thu hút đầu tư vào địa phương mình, nhất

là đầu tư của các doanh nghiệp vào chuỗi giá trị HHNS, gắn với chiến lược

phát triển sản phẩm cấp quốc gia, cấp vùng và địa phương theo đặc điểm, lợi

thế của từng vùng, từng địa phương. Tăng cường quy mô quỹ đầu tư cho phát

triển sản xuất nông nghiệp các cấp, hỗ trợ kịp thời cho các doanh nghiệp nông

nghiệp, HTX nông nghiệp và hộ nông dân, ưu tiên phát triển các dự án liên

kết, hợp tác SXKD. Thực hiện việc kêu gọi đầu tư bằng hình thức đấu thầu

theo cơ chế thị trường một cách minh bạch, khắc phục triệt để cơ chế “xin -

cho” trong quá trình đầu tư. Tăng cường hỗ trợ của Nhà nước cho nông dân,

132

trên cơ sở phù hợp với các cam kết thương mại mà Việt Nam đã ký kết, nhằm

khuyến khích nông dân tăng cường đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, kinh

doanh, tạo ra khối lượng nông sản lớn, có chất lượng tốt, SCT cao, từ đó tăng

thu nhập, cải thiện đời sống và vươn lên làm giàu.

4.2.1.3. Cơ chế, chính sách thương mại và thị trường

Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách thương mại và thị trường nhằm

tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, tận dụng được cơ hội trong các hiệp

định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết, đồng thời khắc phục được

những hạn chế yếu kém, làm phát sinh thủ tục, thời gian, làm tăng chi phí dẫn

tới giảm SCT của HHNS trên thị trường. Biện pháp cụ thể thực hiện đổi mới,

hoàn thiện chính sách này như sau:

Một là, các cấp, các ngành, các địa phương cần quán triệt và cụ thể

hóa chủ trương của Đảng, chính sách ngoại giao của nhà nước và đặc biệt là

các cam kết thương mại quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Triển khai thực

hiện các đề án, quy hoạch phát triển thương mại của từng vùng mà Bộ Công

thương đã triển khai. Các địa phương đổi mới, hoàn thiện và ban hành các

cơ chế, chính sách theo hướng tổ chức lại hệ thống thương mại nông sản

như: hệ thống các chợ nông thôn, chợ đầu mối hàng nông sản; các trung tâm

thương mại, hệ thống siêu thị, chuỗi cửa hàng nông sản trên địa bàn phù hợp

với quy hoạch, nhu cầu tiêu dùng, phong tục tập quán và sức mua thực tiễn

của người dân địa phương. Phát triển các sàn giao dịch thương mại HHNS

hiện đại, ngang tầm với các sàn giao dịch lớn trên thế giới. Thực hiện hình

thức bán đấu giá nông sản tại các vườn, các chợ đầu mối, trung tâm thương

mại ở các địa phương. Khuyến khích các doanh nghiệp, HTX và các hiệp hội

ngành hàng tích cực tham gia vào thị trường giao dịch này, đồng thời tăng

cường các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm thu hút đầu tư và mở rộng

thị trường tiêu thụ nông sản.

Hai là, trên cơ sở cam kết thương mại trong các FTA mà Việt Nam đã

ký kết với các đối tác. Các Bộ, ngành có liên quan tích cực nghiên cứu, tham

mưu đề xuất với Chính phủ, chủ động ban hành các chính sách phòng vệ

133

thương mại chính đáng để bảo hộ sản xuất HHNS trong nước, khuyến khích

xuất khẩu, phù hợp với các quy tắc, thông lệ và cam kết thương mại quốc tế.

Ba là, tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ cho nông dân và cung cấp

các gói tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp thu mua HHNS trong ngắn

hạn, bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế. Hoàn thiện các văn bản pháp lý

và tăng cường công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu, làm hàng giả,

hàng nhái, kém chất lượng, đầu cơ trục lợi bất chính, gây biến động và bóp

méo thị trường, ảnh hưởng đến phát triển SXKD nông nghiệp nói chung,

SCT của HHNS nói riêng.

Bốn là, hỗ trợ, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh

nghiệp nông nghiệp, HTX nông nghiệp, hộ gia đình tham gia các hoạt

động xúc tiến thương mại trong và ngoài nước, nhằm quảng bá, tiếp thị

sản phẩm, tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ. Đẩy mạnh đàm phán với

các đối tác thương mại để họ chấp nhận nhập khẩu HHNS của ta. Đồng

thời, nắm và cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp nông nghiệp, HTX

nông nghiệp và hộ gia đình để họ chủ động có kế hoạch sản xuất, kinh

doanh một cách hiệu quả.

4.2.1.4. Chính sách hỗ trợ về khoa học và công nghệ

Ứng dụng KH&CN vào chuỗi giá trị là khâu đột phá nhằm đẩy nhanh

quá trình cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại, hiệu quả và

bền vững, đồng thời đây cũng là khâu then chốt nhằm tăng năng suất, chất

lượng và SCT cho HHNS. Tuy nhiên KH&CN là lĩnh vực đòi hỏi phải có đầu

tư lớn về nguồn lực, thủ tục pháp lý cũng như quy trình thực hiện phức tạp,

khó khăn, do vậy phải có các chính sách hỗ trợ, khuyến khích thiết thực. Nội

dung biện pháp đổi mới, hoàn thiện chính sách này cần tập trung vào:

Một là, tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước cho hoạt động nghiên

cứu và phát triển KH&CN phục vụ sản xuất HHNS, tập trung vào những

ngành, lĩnh vực mũi nhọn, đòi hỏi cấp bách, tạo đột phá về KH&CN trong sản

xuất nông nghiệp như: nghiên cứu lai tạo giống mới, công nghệ sản xuất, thu

hoạch, chế biến, bảo quản tiên tiến, hiện đại, thân thiện với môi trường.

134

Hai là, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý hoạt động nghiên cứu khoa

học, thực hiện việc đấu thầu, đặt hàng các sản phẩm KH&CN đối với các

tổ chức, các nhà khoa học trong và ngoài nước. Tăng cường thu hút đầu

tư, xây dựng quỹ hoạt động nghiên cứu khoa học để hỗ trợ các nhà khoa

học và người nông dân nghiên cứu, cải tiến, sáng kiến ra các máy móc,

các công cụ lao động tiện lợi phục vụ quá trình sản xuất, chế biến, bảo

quản HHNS; hỗ trợ các phát minh về công nghệ, các dự án khởi nghiệp,

tạo đột phá về KH&CN trong sản xuất, nhằm nâng cao năng suất, chất

lượng và SCT cho HHNS.

Ba là, thực hiện giao quyền tự chủ cho các tổ chức nghiên cứu KH&CN

trong lĩnh vực nông nghiệp mà trước đây do nhà nước quản lý để tăng tính năng

động, sáng tạo cũng như trách nhiệm trong hoạt động của các tổ chức này.

Bốn là, đầu tư thích đáng cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội

ngũ cán bộ nghiên cứu, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho họ nghiên cứu,

chú trọng chính sách về tiền lương, thưởng, chứng nhận các phát minh, sáng chế

khoa học… Tăng cường gắn kết nhà khoa học với các mô hình sản xuất HHNS.

Năm là, tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức, cơ chế, chính sách quản lý

hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, hệ thống thú y, bảo vệ thực

vật, dịch vụ kỹ thuật ở mỗi cấp, nhất là đối với cấp huyện, xã để chuyển giao

KH&CN tiên tiến cho doanh nghiệp, HTX nông nghiệp, hộ nông dân.

4.2.1.5. Chính sách hỗ trợ đào tạo nhân lực, quản trị, cung cấp thông

tin thị trường

Để hỗ trợ các chủ thể SXKD hàng hóa nông sản, nâng cao chất lượng

lao động, trình độ quản trị doanh nghiệp, tối ưu hóa quá trình SXKD, giảm

thiểu thời gian, chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng và SCT cho sản phẩm,

chúng ta cần phải đổi mới, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ đào tạo nhân lực,

quản trị, cung cấp thông tin thị trường. Nội dung biện pháp cụ thể:

Một là, đẩy mạnh việc khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân

tham gia vào các lớp đào tạo, tập huấn, phổ biến nâng cao kiến thức hiểu biết

về pháp luật; quy trình kỹ thuật gieo trồng, chăm bón, thu hoạch, chế biến,

135

bảo quản sản phẩm; kiến thức hoạt động quảng cáo, tiếp thị, tổ chức mạng

lưới tiêu thụ sản phẩm; trình độ sử dụng công nghệ, kinh nghiệm, kỹ năng

quản trị doanh nghiệp... Gắn với thực hiện tốt Đề án đào tạo nghề cho lao

động nông nghiệp, nông thôn đến năm 2020 theo Quyết định số 971/QĐ-

TTg, ngày 01/07/2015 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số 5480/QĐ-

BNN- KTHT, ngày 29/12/2016 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn về Kế hoạch đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn đến

năm 2020. Chú trọng đào tạo, đào tạo lại nâng cao chất lượng nông dân,

cán bộ quản lý và đội ngũ lao động trong các doanh nghiệp nông nghiệp,

HTX nông nghiệp.

Hai là, tăng cường đầu tư, nâng cấp và hiện đại hóa các cơ sở đào tạo

nhân lực nông nghiệp như: Học viện Nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp, Đại

học Nông lâm, các trường trung cấp và trung tâm dạy nghề nông nghiệp quốc

gia và các địa phương, đáp ứng với nhu cầu thực tiễn về trình độ nhân lực

hiện nay. Gắn chặt công tác đào tạo với sử dụng, đào tạo theo hợp đồng, theo

đơn đặt hàng của các đơn vị sử dụng lao động. Khuyến khích các doanh

nghiệp nông nghiệp, HTX nông nghiệp, hộ nông dân tự đào tạo nâng cao trình

độ tay nghề lao động nông nghiệp.

Ba là, tăng cường hỗ trợ, cung cấp thông tin về hoạt động SXKD

HHNS, nhất là những quy định mới trong các hiệp định thương mại tự do

song phương, đa phương; các quy định về yêu cầu kỹ thuật, chất lượng sản

phẩm, thủ tục nhập khẩu của các nước… Tạo lập các kênh, các trang web

chính thống chuyên về cung cấp thông tin một cách tin cậy cho các chủ thể

SXKD hàng hóa nông sản. Đề cao trách nhiệm của tổ chức bộ máy quản lý

nhà nước các cấp, nhất là Bộ NN&PTNT, Bộ Công thương trong việc tuyên

truyền, phổ biến các thông tin về chính sách, pháp luật… tới các doanh

nghiệp nông nghiệp, HTX nông nghiệp và hộ nông dân. Tăng cường thời

lượng phát sóng trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là các kênh

thông tin chính thống (Đài truyền hình, đài phát thanh...), ưu tiên vào các

khung giờ mà đa số người dân có thể tiếp cận được để cung cấp thông tin, phổ

136

biến quy định pháp luật, tuyên truyền gương người tốt, việc tốt, các cách làm

hay…trong SXKD hàng hóa nông sản.

4.2.1.6. Chính sách bảo hiểm nông nghiệp

Sản xuất nông nghiệp chịu sự tác động trực tiếp của điều kện tự

nhiên, do vậy rủi ro trong đầu tư vào SXKD ngành này là rất lớn. Để khắc

phục những rủi ro do thiên tai, bệnh dịch, biến đổi của thị trường, giá cả,

lạm phát… tạo tâm lý yên tâm cho các chủ thể đầu tư vào SXKD hàng

hóa nông sản, Việt Nam cần phải đổi mới, hoàn thiện chính sách bảo hiểm

nông nghiệp. Việc đổi mới, hoàn thiện chính sách bảo hiểm nông nghiệp

cần tập trung vào:

Một là, cần đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền để các doanh nghiệp

nông nghiệp, HTX nông nghiệp và hộ nông dân nắm được vị trí, vai trò, nghĩa

vụ và quyền lợi được hưởng của người tham gia đối với chính sách bảo hiểm

nông nghiệp. Từ đó khuyến khích, thu hút đông đảo các doanh nghiệp, HTX

nông nghiệp và hộ nông dân tự nguyện tham gia.

Hai là, tăng mức hỗ trợ bảo hiểm từ ngân sách nhà nước cho các chủ thể

tham gia đầu tư vào SXKD trong lĩnh vực nông nghiệp. Thực hiện cải cách thủ

tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục, hồ sơ, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các

chủ thể tham gia. Khi rủi ro xảy ra phải thực hiện bảo hiểm một cách thỏa đáng và

nhanh chóng, tránh tình trạng tham gia đóng phí bảo hiểm thì dễ nhưng khi thanh

toán bảo hiểm thì gây khó khăn phiền hà. Xây dựng, củng cố và nâng cấp các

trung tâm, các cơ sở kiểm định, định giá tài sản, đánh giá thiệt hại để giải quyết

quyền lợi bảo hiểm cho các chủ thể một cách nhanh chóng và chính xác.

Ba là, tăng cường các chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế, hỗ trợ

khuyến khích để thu hút các công ty, các tập đoàn bảo hiểm lớn trong và

ngoài nước tham gia bảo hiểm trong lĩnh vực nông nghiệp. Đa dạng hóa

các hình thức bảo hiểm, có thể thực hiện bảo hiểm trọn gói trong các khâu

của chuỗi giá trị hoặc bảo hiểm trong từng công đoạn của chuỗi giá trị,

từng mặt cụ thể (bảo hiểm thiên tai, dịch bệnh, lạm phát…)

137

4.2.2. Bổ sung, hoàn thiện quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa nông

sản tập trung, chuyên canh quy mô lớn theo lợi thế của từng vùng, từng địa

phương và từng loại nông sản

Đây là giải pháp hết sức quan trọng, mang tính chiến lược, nhằm tạo ra

được những vùng sản xuất nông sản chuyên canh quy mô lớn, thích nghi với

từng loại nông sản, có điều kiện cơ giới hóa và ứng dụng KH&CN, nhất là

công nghệ cao vào sản xuất.

Trong phần phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển sản xuất

nông nghiệp 2016 - 2020 Đảng ta đã xác định: “Phát triển các vùng sản xuất

quy mô lớn với hình thức đa dạng, phù hợp với quy hoạch và điều kiện của

từng vùng, đặc điểm của từng sản phẩm” [42, tr.282]. Dự thảo các văn kiện

trình Đại hội XIII của Đảng, xác định nhiệm vụ chiến lược phát triển nông

nghiệp giai đoạn 2021 - 2030: “Hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập

trung, ổn định. Tổ chức kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, thị

trường, xuất khẩu, chuỗi giá trị toàn cầu” [2, tr.70]. Trên cơ sở chủ trương của

Đảng, công tác quy hoạch cần tập trung vào các giải biện pháp cụ thể sau đây:

4.2.2.1. Tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt Đề án “Phát triển ngành

trồng trọt đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”; Đề án “Tái cơ cấu ngành

chăn nuôi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững” đã

được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt

Quyết định số 824/QĐ-BNN-TT ngày 16/4/2012 về quy hoạch phát

triển ngành trồng trọt đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số

984/QĐ-BNN-CN ngày 09/5/2014 về đề án tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo

hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững của Bộ Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn, đã quy hoạch phát triển ngành trồng trọt và chăn nuôi

đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, các vùng sản xuất tập trung đối với

một số HHNS chính như sau:

Đối với quy hoạch khu vực trồng lúa: Duy trì quỹ đất trồng lúa ổn định ở

mức 3,812 triệu ha, tập trung chủ yếu ở các Vùng: Đồng bằng Sông Cửu Long,

Đồng bằng Sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ, trong đó

138

xác định trọng điểm là vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Áp dụng các biện pháp

thâm canh tiên tiến để đạt được sản lượng khoảng 41 - 43 triệu tấn vào năm 2020

và 44 triệu tấn vào năm 2030, bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu [15].

Đối với quy hoạch khu vực trồng cà phê: Để khắc phục việc các hộ

nông dân tự ý mở rộng diện tích trồng cà phê thời gian qua, làm phá vỡ quy

hoạch… Thời gian tới, công tác quy hoạch cần phải giảm diện tích và duy

trì ổn định ở mức 500 nghìn ha, tập trung vào các vùng chính như Tây

Nguyên, Đông Nam Bộ, Bắc Trung Bộ, trong đó trọng điểm là khu vực Tây

Nguyên. Sản lượng cà phê khoảng 1- 1,2 triệu tấn/năm, xuất khẩu khoảng 1

triệu tấn/năm [15].

Đối với quy hoạch khu vực trồng cây ăn quả: Diện tích bố trí trồng

các loại cây ăn quả năm 2015 là 850 nghìn ha, năm 2020 và những năm

tiếp theo duy trì ổn định khoảng 910 nghìn ha, trong đó bố trí 810 nghìn ha

trồng các cây ăn quả chủ lực như vải, nhãn, chuối, xoài, cam, quýt, dứa.

Quy hoạch các vùng trồng cây ăn quả chủ yếu là Trung du miền núi phía

Bắc; Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây

Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long. Tăng cường sản xuất

theo quy trình (VietGAP), nâng cao công suất và hiệu quả của các nhà máy

chế biến…[15].

Đối với quy hoạch khu vực trồng các loại rau, đậu: Duy trì, phát triển

diện tích đất canh tác vào năm 2020 và những năm tiếp theo khoảng 1,2 triệu

ha, sản lượng rau đậu các loại đạt khoảng 20 triệu tấn/năm. Sản xuất rau, đậu

hướng vào nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn thực phẩm, xây dựng các

vùng sản xuất rau tập trung, áp dụng công nghệ cao, sản xuất theo quy trình

thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP), hữu cơ [15].

Đối với chăn nuôi lợn: Thực hiện từng bước giảm đàn lợn ở vùng Đồng

bằng sông Hồng và vùng Đông Nam bộ, đến năm 2020 và những năm tiếp theo,

vùng Đồng bằng sông Hồng ổn định đàn lợn ở mức 15%, vùng Đông Nam bộ

5% tổng đàn lợn cả nước. Tăng đàn lợn ở vùng trung du miền núi phí Bắc lên

30%, Bắc trung bộ 24% và Tây Nguyên 15% tổng đàn lợn cả nước [17].

139

Đối với chăn nuôi gia cầm:

Chăn nuôi gà: Tập trung phát triển vùng chăn nuôi gà ở các vùng Đồng

bằng sông Hồng, Trung du miền núi phía Bắc, Bắc trung bộ, Đồng bằng sông

Cửu Long và vùng Tây Nguyên

Chăn nuôi vịt: Tập trung phát triển vùng chăn nuôi vịt ở các vùng Đồng

bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long ; Trung du miền núi phía Bắc;

Duyên hải miền trung [17].

Để tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện việc rà soát, bổ sung, điều

chỉnh hoàn thiện quy hoạch trong đề án, các cấp Bộ, ngành và các địa phương

cần thực hiện tốt một số biện pháp cụ thể sau:

Một là, tiến hành khảo sát, phân tích, đánh giá tình hình điều kiện thực

tiễn của địa phương, bổ sung hoàn thiện cụ thể hóa quy hoạch. Cần tập trung

vào các yếu tố như sự biến đổi về điều kiện tự nhiên như đất đai, nguồn nước,

và điều kiện kinh tế - xã hội; các nguồn lực hiện có, năng lực sản xuất hiện

tại, tiềm năng phát triển; nhu cầu của thị trường nông sản trong ngắn hạn và

dài hạn... Trên cơ sở đó, tiến hành điều chỉnh, hoàn thiện quy hoạch vùng sản

xuất hàng hóa nông sản gắn với xây dựng chiến lược sản phẩm. Lập bản đồ

quy hoạch cụ thể, chi tiết các vùng sản xuất hàng hóa nông sản phù hợp với

từng địa phương, từng cấp quản lý.

Hai là, chính quyền địa phương các cấp phải xây dựng kế hoạch, tổ

chức tập huấn, bồi dưỡng cho các lực lượng tham gia để nâng cao trình độ,

đồng thời chuẩn bị tốt về cơ sở vật chất cho việc rà soát, bổ sung, hoàn thiện

quy hoạch. Xây dựng các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện một

cách thống nhất từ cấp tỉnh, thành phố đến cấp xã, phường, thôn và các chủ

thể trực tiếp tham gia SXKD hàng hóa nông sản. Sau khi hoàn chỉnh quy

hoạch phải tổ chức tuyên truyền, phổ biến, cung cấp thông tin tới mọi người

dân, để họ có điều kiện được tham gia vào các dự án trong quy hoạch.

Ba là, khuyến khích việc dồn điền đổi thửa, tập trung ruộng đất để

sản xuất hàng hóa nông sản theo các hình thức như: chuyển nhượng, cho

thuê, góp vốn, cổ phần bằng đất, Nhà nước giao đất… Gắn việc tập trung

140

ruộng đất với đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng

chuyên canh các cây trồng có lợi thế, tạo thành vùng nguyên liệu lớn, chất

lượng tốt đồng đều phục vụ cho chế biến và cung cấp cho thị trường, đồng

thời chuyển dịch lao động nông thôn từ lao động hộ gia đình nhỏ lẻ sang

hội viên HTX nông nghiệp, công nhân doanh nghiệp nông nghiệp... Giải

quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với an sinh xã hội trong quá

trình tích tụ, tập trung ruộng đất. Tăng cường đầu tư từ ngân sách địa

phương vào phát triển kết cấu hạ tầng như hệ thống giao thông, thủy lợi,

điện cho khu quy hoạch. Khuyến khích các hộ nông dân tham gia vào HTX

nông nghiệp, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất

hàng hóa nông sản trong khu quy hoạch, liên kết với các HTX nông nghiệp

và hộ nông dân để phát triển các chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng hàng hóa

nông sản ra thị trường.

Bốn là, chính quyền các địa phương mà trực tiếp là cấp xã quản lý quy

hoạch ở phạm vi địa phương mình, do đó phải thường xuyên kiểm tra việc

khai thác, sử dụng tài nguyên, môi trường sinh thái, tránh để nông dân tự phát

chuyển đổi cơ cấu cây trồng, dẫn đến phá vỡ quy hoạch và xung đột lợi ích

trong quá trình thực hiện.

4.2.2.2. Tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng

hóa quy mô lớn

Đây là biện pháp quan trọng, nhằm khắc phục tình trạng sản xuất nhỏ

lẻ, manh mún; sản xuất không gắn với thị trường, hiệu quả kinh tế thấp và

thiếu tính bền vững. Thực hiện biện pháp này các Vùng, các địa phương cần

thực hiện tốt các nội dung sau:

Một là, khuyến khích, tạo điều kiện để kinh tế hộ gia đình phát triển

thành đơn vị sản xuất hàng hóa nông sản có quy mô lớn hơn

Kinh tế hộ gia đình hiện nay vẫn đang chiếm tỷ trọng lớn trong sản

xuất nông nghiệp, quy mô, mức độ hoạt động kinh tế của các hộ có sự khác

nhau. Kinh tế hộ rất năng động, có khả năng tự điều chỉnh trong quan hệ sản

xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng, song lại gặp nhiều khó khăn trong tổ

141

chức sản xuất và tiếp cận thị trường. Vì vậy cần phải phát triển kinh tế hộ theo

hướng sản xuất hàng hóa, có sự hỗ trợ của Nhà nước, gắn với chuyển dịch cơ

cấu sản phẩm; phát triển kinh tế hộ thành kinh tế trang trại, kinh tế HTX. Để

thực hiện vấn đề này các vùng, các địa phương cần phải:

Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho kinh tế hộ về sự cần thiết, những

lợi ích khi chuyển đổi, phát triển thành kinh tế trang trại, kinh tế HTX để họ

đổi mới tư duy tự giác chuyển đổi. Đối với các hộ có vốn, kỹ thuật, công

nghệ, khuyến khích và hỗ trợ họ mở rộng SXKD, hình thành các trang trại sản

xuất hàng hóa quy mô lớn, mang lại hiệu quả kinh tế cao, làm cơ sở cho kinh

tế hộ liên kết, hợp tác, hình thành các tổ hợp tác, HTX nông nghiệp.

Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nhận thức, phát triển tư duy kinh tế; trình

độ chuyên môn kỹ thuật, tác phong công nghiệp, ý thức kỷ luật lao động trong

kinh tế hộ. Tổ chức cho các hộ nông dân thăm quan thực tế các mô hình sản

xuất tiêu biểu tại để học tập kinh nghiệm.

Thực hiện hỗ trợ, ưu đãi đối với kinh tế hộ, nhất là về tín dụng, gặp rủi

ro, bảo hiểm nông nghiệp, mua sắm máy móc phục vụ sản xuất, xây dựng kết

cấu hạ tầng; hỗ trợ áp dụng giống mới và ứng dụng KH&CN nhất là công

nghệ cao vào sản xuất, chế biến nông sản; cung cấp thông tin, định hướng thị

trường; hỗ trợ đăng ký chứng nhận, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật…

Hai là, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh

hàng hóa nông sản của các doanh nghiệp

Các địa phương cần tiếp tục quán triệt và thực hiện có hiệu quả

Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị (Khóa XI) về

tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của

công ty nông, lâm nghiệp, Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước giai

đoạn 2016 - 2020 mà cụ thể hóa là Nghị quyết 35/NQ - CP ngày

16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm

2020. Đẩy mạnh việc đổi mới, sắp xếp lại các công ty sản xuất, kinh

doanh HHNS trên địa bàn theo hướng hợp tác để mở rộng quy mô, nâng

cao năng lực và hiệu quả hoạt động.

142

Để thu hút được nhiều doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp,

chính quyền địa phương các cấp cần phải đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư; đồng thời phải có các dự án xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa nông sản tập

trung quy mô lớn, liên kết cụm sản xuất với chế biến, bảo quản. Đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính

sách về đất đai, vốn, nhân lực nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nông nghiệp.

Các địa phương cần phải đẩy mạnh việc thực hiện cải cách thủ tục hành

chính, đổi mới phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ theo hướng phục vụ doanh nghiệp, khắc phục dứt điểm tình trạng can thiệp quá sâu vào hoạt động

SXKD, gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp. Tăng cường quản lý đối với các doanh nghiệp, kịp thời phát hiện, xử lý các biểu hiện lợi dụng chính

sách hỗ trợ của nhà nước để trục lợi.

Các doanh nghiệp nông nghiệp cần chủ động xây dựng phương án phát

triển SXKD, tăng cường quan hệ hợp tác, liên kết giữa các chủ thể trong chuỗi cung ứng. Đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng dụng KH&CN vào SXKD,

chủ động đào tạo nâng cao chất lượng nhân lực, tăng cường xúc tiến thương mại mở rộng thị trường tiêu thụ.

4.2.2.3. Đẩy mạnh phát triển các dịch vụ phục vụ sản xuất kinh doanh

hàng hóa nông sản

Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa sẽ thúc đẩy phân

công lao động trong nông nghiệp, nông thôn phát triển; xã hội hóa sản xuất ngày càng cao, dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp phát triển sẽ hỗ trợ đắc

lực cho quá trình sản xuất HHNS, góp phần tăng tính chuyên môn hóa trong sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và SCT cho HHNS. Để tiếp tục thúc

đẩy dịch vụ nông nghiệp phát triển một cách chuyên nghiệp, hiện đại, trong những năm tới, Việt Nam cần tập trung làm tốt một số nội dung sau:

Một là, đẩy mạnh phát triển các dịch vụ tư nhân, như là kinh tế hộ dịch vụ, doanh nghiệp dịch vụ tư nhân ở các vùng, các địa phương. Nâng

cao chất lượng dịch vụ tổng hợp và các dịch vụ chuyên ngành, nhất là dịch vụ logictics, bảo đảm tốt nhu cầu đa dạng của hoạt động SXKD hàng hóa

nông sản như: cung ứng các loại giống cây trồng, các loại máy móc, thiết bị,

143

công cụ sản xuất nông nghiệp, giải pháp, công nghệ sản xuất, điện sản xuất,

nước tưới tiêu, cung cấp phân bón, thuốc trừ sâu, thủy lợi.., các dịch vụ thu gom, vận chuyển, kho tàng, bến cảng.., khuyến khích các Liên minh HTX,

các hiệp hội, ngành hàng ở các địa phương tham gia hoạt động cung cấp vụ cho các hội viên, các trang trại và hộ nông dân trong khu vực.

Thứ hai, tạo điều kiện để phát triển đa dạng các hình thức dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn các vùng, các địa phương như: dịch vụ tổng hợp, dịch vụ

chuyên ngành; dịch vụ thanh toán, dịch vụ ứng trước…, Tập trung phát triển mạnh các dịch vụ như: dịch vụ làm đất, dịch vụ chuyển giao giải pháp, công

nghệ, dịch vụ thu hoạch,… Liên kết chặt chẽ giữa các đơn vị cung cấp dịch vụ và người sản xuất thông qua các hợp đồng kinh tế, nhằm nâng cao chất

lượng cung cấp dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp, góp phần vào nâng cao hiệu quả SXKD, tăng năng suất, chất lượng và SCT của HHNS.

Thứ ba, tăng cường công tác quản lý của các cơ quan nhà nước đối với hoạt động cung ứng dịch vụ nông nghiệp để nâng cao chất lượng dịch vụ,

đồng thời kiểm soát giá cả các sản phẩm dịch vụ nông nghiệp, chống độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh giữa các đơn vị cung cấp dịch vụ với

nhau và giữa những người sử dụng dịch vụ…

4.2.3. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa

học công nghệ, nhất là công nghệ cao vào chuỗi giá trị hàng hoá nông sản

Đây là giải pháp đột phá nhằm hiện đại hóa nền nông nghiệp Việt Nam

nói chung, nâng cao năng suất, chất lượng và SCT của HHNS nói riêng. Bởi vì chất lượng, giá thành là 2 nhân tố quan trọng hàng đầu tạo nên SCT của

hàng hóa nông sản, nó phụ thuộc rất lớn vào công nghệ sản xuất, chế biến mà đặc biệt là công nghệ lai tạo giống.

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, đã xác định:

Đẩy nhanh áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại trong

sản xuất, chế biến, bảo quản; ưu tiên ứng dụng công nghệ sinh học để tạo nhiều giống cây trồng, vật nuôi và quy trình sản xuất đạt năng

suất, chất lượng và hiệu quả cao, tăng nhanh giá trị gia tăng trên một đơn vị đất canh tác [41, tr.115].

144

Trên thế giới đã có nhiều nước ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất

nông nghiệp thành công như Thái Lan, Israel… Hiện nay trước những thành

tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (4.0), Việt Nam cần phải học

hỏi kinh nghiệm, của các nước, đẩy nhanh quá trình ứng dụng KH&CN nhất

là công nghệ cao vào sản xuất, nhằm tăng năng suất, chất lượng và SCT cho

HHNS. Thực hiện tốt giải pháp này trên một số biện pháp cụ thể sau:

4.2.3.1. Nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ vào các khâu

trong chuỗi giá trị hàng hóa nông sản

Một là, đối với nghiên cứu lai tạo giống cây trồng, vật nuôi:

Giống là khâu quan trọng đầu tiên, quyết định đến năng suất, chất

lượng HHNS. Do vậy cần phải đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng dụng KH&CN

vào nghiên cứu, lai tạo nhằm tạo ra được các loại giống mới có năng suất cao,

chất lượng tốt, khả năng chống chịu sâu bệnh, dịch bệnh thích nghi với sự

biến đổi khí hậu như hạn hán, xâm nhập mặn...

Để thực hiện tốt vấn để này, Chính phủ, các Bộ, ngành và chính quyền

địa phương các cấp cần phải tăng đầu tư, nâng cao tiềm lực cho các cơ quan

nghiên cứu khoa học nông nghiệp như Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam,

Viện nghiên cứu giống cây trồng, vật nuôi, Viện Nghiên cứu nông nghiệp

công nghệ cao, Viện Nghiên cứu và ứng dụng Nông nghiệp hữu cơ, Viện Môi

trường Nông nghiệp.., các cơ sở nghiên cứu của các trường đại học, cao đẳng

nông, lâm nghiệp của quốc gia và ở từng địa phương. Nghiên cứu, lai tạo,

tuyển chọn, nội nhập những giống cây trồng và vật nuôi mới, có đặc tính vượt

trội hơn hẳn các loại giống cũ, phổ biến áp dụng rộng rãi vào sản xuất, nhằm

không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng và SCT cho HHNS.

Hai là, đối với quá trình trồng trọt, thu hoạch

Tập trung nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các công nghệ thâm canh,

quy trình quản lý cây trồng tổng hợp (ICM); quy trình thực hành sản xuất nông

nghiệp tốt (VietGAP), (Global GAP); nông nghiệp hữu cơ (Organic), công nghệ

sinh học… các công nghệ tự động hóa trong quá trình trồng trọt và thu hoạch.

Đẩy mạnh nghiên cứu chế tạo và ứng dụng các loại vật tư, máy móc, thiết bị

145

phục vụ sản xuất HHNS như: phân bón chuyên dụng, giá thể, chế phẩm sinh

học, chất điều hòa sinh trưởng, khung, nhà lưới, nhà màng, hệ thống tưới, thiết bị

chăm sóc, hệ thống xử lý không khí, độ ẩm và công nghệ sau thu hoạch… để sản

xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm…

Ba là, đối với quá trình bảo quản, chế biến

Đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các công nghệ vào quá

trình bảo quản sản phẩm như: công nghệ chiếu xạ, công nghệ xử lý hơi nước

nóng, sấy lạnh, sấy nhanh, công nghệ tạo màng…; vào quá trình chế biến như:

công nghệ nano, công nghệ sản xuất chế phẩm sinh học và các chất màu, chất

phụ gia thiên nhiên… trong bảo quản và chế biến sản phẩm. Ngoài ra cần tăng

cường đầu tư nghiên cứu, mua sắm các máy móc thiết bị nhằm tăng cường chế

biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm như nước uống trái cây, kẹo cà phê, bánh gạo,

nước trà xanh… như vậy sẽ làm tăng giá trị gia tăng, tăng SCT cho HHNS.

4.2.3.2. Đẩy mạnh hoạt động chuyển giao công nghệ ở các vùng, các

địa phương

Nông dân là người trực tiếp sản xuất ra các sản phẩm nông sản, để cho

nông dân nhanh chóng nắm bắt, làm chủ các công nghệ, vận hành thành thạo

các trang thiết bị hiện đại vào sản xuất thì công tác chuyển giao có vai trò hết

sức quan trọng. Để đẩy mạnh hoạt động chuyển giao, trước hết Chính phủ,

các bộ, ngành, địa phương cần phải kiện toàn lại tổ chức, nâng cao khả năng,

chất lương hoạt động và phát huy tốt vai trò của các đơn vị nghiên cứu khoa

học, các trung tâm khuyến nông từ trung ương đến địa phương. Tổ chức phổ

biến, tập huấn, hướng dẫn cho các doanh nghiệp, HTX và hộ nông dân những

kiến thức cơ bản để ứng dụng KH&CN vào các khâu của quá trình sản xuất.

Tăng cường hợp tác, đặt hàng sản phẩm khoa học nông nghiệp thông qua các

dự án nghiên cứu với các trung tâm, viện nghiên cứu nông nghiệp; tiến hành

chuyển giao và áp dụng các dự án KH&CN vào sản xuất... Nghiên cứu, ban

hành các cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích các nhà khoa học, các tổ

chức nghiên cứu khoa học gắn bó với đời sống thực tiễn sản xuất HHNS của

doanh nghiệp, HTX và hộ nông dân.

146

Hai là, khuyến khích hộ nông dân, HTX nông nghiệp, trang trại và các

doanh nghiệp nông nghiệp mạnh dạn đầu tư, ứng dụng các tiến bộ của

KH&CN nhất là công nghệ cao vào sản xuất, tổ chức quản lý, theo quy trình

hiện đại, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và SCT cho HHNS, mang lại

lợi nhuận cao cho đơn vị. Thúc đẩy phát triển đa dạng các hình thức liên kết

để tăng cường nguồn lực, đầu tư, tiếp nhận các công nghệ mới, công nghệ cao

vào quá trình sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và SCT cho sản phẩm.

Ba là, đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động nghiên cứu và phát triển

(R&D), đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo trong lĩnh vực nông nghiệp

theo Quyết định số 844/QĐ -TTg, ngày 18/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ

về phê duyệt Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia

đến năm 2025. Các vùng, các địa phương cần có chính sách nhằm hỗ trợ,

khuyến khích phát triển các hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo gắn với

phát triển các sản phẩm HHNS có lợi thế của địa phương. Coi doanh nghiệp

là hạt nhân trung tâm của hoạt động đổi mới sáng tạo; đồng thời phải tạo môi

trường thuận lợi nhất, chính sách ưu đãi nhất, thu hút các doanh nghiệp khởi

nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp.

4.2.3.3. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt

động nghiên cứu khoa học và công nghệ nông nghiệp

Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động nghiên cứu khoa học hết

sức quan trọng, quản lý tốt sẽ sẽ giúp cho hoạt động nghiên cứu, chuyển giao

và áp dụng KH&CN vào sản xuất một cách hiệu quả. Để thực hiện nội dung

này, trước hết, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cần đầu tư một cách

thích đáng từ nguồn ngân sách cho hoạt động nghiên cứu KH&CN, hình

thành quỹ đầu tư cho hoạt động (R&D). Thúc đẩy xã hội hóa hoạt động nghiên

cứu KH&CN phục vụ phát triển sản xuất HHNS; khuyến khích các thành phần

kinh tế, các tổ chức nghiên cứu, chuyển giao, tập trung vào nghiên cứu, chọn

tạo ra các loại giống tốt, máy móc, thiết bị nông nghiệp, công nghệ sản xuất,

chế biến, bảo quản hiện đại…, giảm thiểu tối đa việc nhập khẩu từ nước ngoài

nhằm giảm chi phí sản xuất, hạ thấp giá thành, nâng cao SCT cho HHNS.

147

Hai là, đổi mới cơ chế quản lý hoạt động KH&CN, phân cấp cho các địa

phương đầu tư, quản lý, sử dụng, hạch toán kinh tế theo cơ chế thị trường.

Thực hiện cơ chế tự chủ của các tổ chức nghiên cứu KH&CN công lập theo

tinh thần Nghị định 54/2016/NĐ-CP ngày 14/06/2016 của Chính phủ. Hoàn

thiện các cơ chế, chính sách tạo môi trường kinh doanh thông thoáng cho

các nhà khoa học, phát huy tối đa khả năng nghiên cứu và chuyển giao

công nghệ cho người sản xuất. Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan

nhà nước về công tác quản lý chất lượng các dự án, các sản phẩm công

nghệ; công tác thẩm định và giám định công nghệ, tiêu chuẩn đo lường

chất lượng, thông tin KH&CN; quá trình chuyển giao, ứng dụng công nghệ

vào sản xuất... Kiên quyết loại bỏ các dự án có công nghệ lạc hậu gây ô

nhiễm môi trường sinh thái, đồng thời hạn chế các dự án sử dụng nhiều tài

nguyên, tiêu tốn nhiều năng lượng…

4.2.3.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng quá trình đẩy mạnh

ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất, kinh doanh hàng hóa nông sản

Khoa học công nghệ là phương tiện, công cụ quan trọng quyết định đến

năng suất, chất lượng và SCT của HHNS. Tuy nhiên còn phụ thuộc một phần

vào người nghiên cứu chế tạo, phát minh ra nó với tính năng, nguyên lý hoạt

động, giải pháp thông minh và lợi ích sử dụng, đồng thời là vai trò của người

trực tiếp khai thác sử dụng nó trong quá trình sản xuất. Như vậy, con người có

vai trò then chốt trong việc nghiên cứu, ứng dụng KH&CN vào sản xuất.

Theo đó cần phải đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sản

xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, giúp tăng năng suất, chất lượng và

SCT cho sản phẩm. Thực hiện vấn đề này trên các nội dung cụ thể sau:

Một là, Phải coi công tác phát triển nguồn nhân lực là một trong những khâu

then chốt, quyết định đến việc nâng cao SCT của HHNS, bởi vì yếu tố con người có

ảnh hưởng quyết định đến quá trình nghiên cứu, ứng dụng KH&CN vào sản xuất

và là lực lượng trực tiếp tham gia vào các khâu của quá trình sản xuất. Nếu

KH&CN tiên tiến, hiện đại nhưng trình độ khai thác, sử dụng nó vào quá trình sản

xuất hạn chế sẽ dẫn đến không khai thác hết công năng, thậm chí gây hỏng hóc,

148

phát sinh chi phí, và ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Ngoài ra nâng cao SCT

cho HHNS là tổng hợp của nhiều công việc khác nhau mà chỉ con người mới thực

hiện được. Do vậy muốn nâng cao được SCT cho HHNS trên thị trường thì trước

hết phải có các chính sách và giải pháp thích đáng cho phát triển nguồn nhân lực

phục vụ công tác nghiên cứu, phát triển KH&CN nông nghiệp.

Hai là, Nhà nước cần tăng cường các hình thức hỗ trợ đã được Tổ chức

Thương mại thế giới (WTO) cho phép, nhất là hỗ trợ hoạt động nghiên cứu

triển khai để nâng cao SCT của hàng hóa nông sản. Đây cũng là một trong

những chính sách nhằm khuyến khích phát triển sự liên kết của 4 nhà, trong đó

Nhà nước và nhà khoa học đóng vai trò quan trọng trong chuỗi giá trị HHNS.

Ba là, tăng cường hơn nữa về đầu tư, hỗ trợ các vùng, các địa phương

thực hiện các hoạt động đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nâng cao nhận thức,

trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tri thức khoa học nông nghiệp cho đội ngũ

cán bộ quản lý, kỹ thuật viên và người lao động trong các hiệp hội, ngành

hàng; phát triển dịch vụ tư vấn nông nghiệp, dịch vụ tiếp cận thị trường, dịch

vụ logistic trong SXKD hàng hóa nông sản. Đồng thời phổ biến, bồi dưỡng,

nâng cao nhận thức, trình độ hiểu biết về hội nhập quốc tế, các hiệp định

thương mại tự do (FTA) cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước ở các cấp, cán

bộ qản lý các doanh nghiệp và lực lượng lao động,… Ngoài ra, cần phải

thường xuyên tổ chức các cuộc thi về tay nghề giỏi, thi nâng bậc và tham gia

các cuộc thi quốc tế trong lĩnh vực sản xuất, chế biến hàng hóa nông sản,

nhằm động viên, khích lệ người lao động không ngừng học tập nâng cao trình

độ. Có cơ chế, chính sách thiết thực nhằm thu hút cán bộ, người lao động có

trình độ tay nghề cao tham gia vào lĩnh vực SXKD hàng hóa nông sản.

4.2.4. Tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị và đẩy mạnh phát triển

công nghiệp chế biến hàng hóa nông sản

Đây là giải pháp quan trọng nhằm khắc phục tình trạng sản xuất không

theo quy trình kỹ thuật, năng suất thấp, chất lượng không đồng đều, không đạt

tiêu chuẩn quy định; hiệu quả kinh tế thấp và thiếu tính bền vững.

Trên cơ sở phương hướng, nhiệm vụ mà Đảng ta đã xác định là:

149

Tổ chức lại sản xuất, tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị. Gắn sản

xuất với chế biến, tiêu thụ nông sản trên cơ sở phát triển các hình

thức hợp tác, liên kết đa dạng giữa hộ gia đình với các tổ chức hợp

tác và doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và

bảo đảm hài hoà lợi ích của các chủ thể tham gia [42, tr.282].

Biện pháp để thực hiện giải pháp này là:

4.2.4.1. Tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị hàng hóa nông sản

Để tham gia vào chuỗi giá trị nông sản toàn cầu, nâng cao SCT cho

HHNS chúng ta cần phải tăng cường liên kết giữa 4 nhà, đó là: nhà nước, nhà

nông, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp:

Thứ nhất, đối với Nhà nước: bao gồm các cơ quan Chính phủ, các Bộ,

ngành liên quan, Ủy ban Nhân dân các cấp, trong đó trực tiếp là các địa

phương, đóng vai trò kiến tạo, tổ chức, điều phối và quản lý nhà nước đối với

các chủ thể SXKD. Thông qua việc xây dựng và hoàn thiện quy hoạch, ban

hành các cơ chế chính sách, tham gia đầu tư vào một số khâu như kết cấu hạ

tầng cơ sở, nhằm hỗ trợ các chủ thể trong quá trình hình thành và phát triển

liên kết chuỗi giá trị.

Thứ hai, đối với nhà nông: nông dân là những người trực tiếp lao động,

sản xuất ra hàng hóa nông sản, do vậy cần phải chủ động học hỏi, nghiên cứu

để nâng cao trình độ, thay đổi tư duy SXKD và tác phong sản xuất công

nghiệp. Cần tuân thủ nghiêm túc các quy định trong hợp đồng kinh tế đã ký

kết với các doanh nghiệp trong chuỗi như: tuân thủ quy trình sản xuất đã được

doanh nghiệp, HTX nông nghiệp khuyến cáo. Doanh nghiệp, HTX là người tổ

chức, hướng dẫn nông dân sản xuất, cung cấp các yếu tố đầu vào, bao tiêu các

sản phẩm đầu ra cho các hộ nông dân, do vậy hộ nông dân phải tuân thủ hợp

đồng về quy trình sản xuất bảo đảm chất lượng sản phẩm, cũng như cam kết

bán sản phẩm cho doanh nghiệp theo giá thỏa thuận trong hợp đồng, tránh phá

vỡ liên kết khi có những biến động về giá…, có như vậy mới bảo đảm liên kết

bền chặt, bảo đảm được lợi ích kinh tế cho các chủ thể tham gia chuỗi, góp

phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và SCT cho HHNS.

150

Thứ ba, đối với nhà khoa học: bao gồm các viện, trung tâm nghiên cứu,

cán bộ nghiên cứu khoa học…, đây là người cung cấp các sản phẩm KH&CN

tiến tiến, đồng thời cũng là người hướng dẫn, chuyển giao áp dụng sản phẩm

KH&CN vào sản xuất. Nhà khoa học cần phải bám sát nhu cầu sản xuất, tiến

hành ký kết hợp đồng với doanh nghiệp, HTX, và hộ nông dân trong nghiên

cứu, chuyển giao các sản phẩm KH&CN mới, tiên tiến vào sản xuất. Phải

thường xuyên gắn bó với nông dân trên những thửa ruộng, vườn cây, chuồng

trại của doanh nghiệp và nông dân, để kịp thời hỗ trợ, tư vấn, giúp các chủ thể

thực hiện SXKD theo đúng quy trình, kỹ thuật, góp phần nâng cao năng suất,

chất lượng và SCT cho sản phẩm, mang lại hiệu quả SXKD cho các chủ thể.

Thứ tư, đối với nhà doanh nghiệp: Liên kết trong chuỗi giá trị có vai trò

hết sức quan trọng trong SXKD của doanh nghiệp, đặc biệt là trong đều kiện

toàn cầu hóa. Để làm tốt điều này các doanh nghiệp cần phải chủ động xây

dựng dự án SXKD, tạo dựng mô hình liên kết chuỗi; chủ trì vận động các chủ

thể tham gia liên kết trong chuỗi giá trị, theo các hợp đồng kinh tế. Các doanh

nghiệp cần có chiến lược SXKD dài hạn, luôn lấy chữ tín làm đầu và có cơ

chế chia sẻ lợi ích kinh tế, cơ hội kinh doanh và cả những rủi ro cho các chủ

thể, nhất là đối với hộ nông dân; tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp nông

nghiệp, HTX nông nghiệp với hộ nông dân để bảo đảm nguồn cung ứng

nguyên liệu bền vững. Đẩy mạnh đầu tư, xây dựng các nhà máy chế biến để

thu mua sản phẩm cho các hộ nông dân, HTX nông nghiệp. Chủ động xây

dựng thương hiệu doanh nghiệp, thương hiệu sản phẩm và quảng bá sản phẩm

nông sản của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế.

4.2.4.2. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến nông sản, tăng tỷ lệ

các sản phẩm chế biến sâu và đa dạng hóa sản phẩm

Một trong những nguyên nhân làm giảm SCT của HHNS Việt Nam trên thị trường thời gian qua là: phần lớn các sản phẩm nông sản của Việt

Nam xuất khẩu dưới dạng thô hoặc sơ chế; xuất khẩu thông qua các trung gian, được các công ty nước ngoài mua về chế biến thành các sản phẩm và

dán nhãn mác của họ. Do vậy tăng cường đầu tư, phát triển mạnh công nghiệp

151

chế biến nông sản, để tạo ra những sản phẩm nông sản chế biến sâu, chất

lượng tốt, đồng thời đa dạng hóa sản phẩm là giải pháp quan trọng, nhằm nâng cao giá trị gia tăng và SCT cho HHNS Việt Nam. Thực hiện tốt vấn đề

này thông qua một số biện pháp cụ thể sau:

Một là, các Bộ, ngành liên quan mà chủ trì là Bộ NN&PTNT phối hợp

với các địa phương tiến hành rà soát, đánh giá lại thực trạng (Số lượng, chất lượng, khả năng, thế hệ công nghệ) của các cơ sở, các nhà máy chế biến nông

sản trên cả nước. Xây dựng kế hoạch, xác định mục tiêu, phương hướng, lộ trình và các giải pháp cụ thể để đẩy nhanh phát triển công nghiệp chế biến

nông sản. Tập trung hiện đại hóa, ngang tầm với công nghệ chế biến của các nước tiên tiến trên thế giới. Đồng thời từng bước thanh lọc, loại bỏ các nhà

máy sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ các địa phương, các doanh nghiệp, HTX nông nghiệp, nhập khẩu các nhà máy, dây

chuyền sản xuất chế biến nông sản, kiên quyết từ chối nhập khẩu các trang thiết bị, máy móc, công nghệ cũ, lạc hậu.

Hai là, có cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến nông sản, đầu tư mở rộng các khu vực, các vùng sản xuất chuyên canh

HHNS quy mô lớn, nhằm xây dựng vùng nguyên liệu ổn định cho chế biến. Hỗ trợ các doanh nghiệp, các HTX chế biến nông sản về các điều kiện bảo đảm

như kết cấu hạ tầng, đầu tư đổi mới công nghệ, đào tạo nhân lực, liên kết chuỗi

giá trị, thủ tục cấp các nhãn hiệu, chứng nhận chất lượng, tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ…, nâng cao khả năng và chất lượng chế biến nông sản, nâng

cao SCT sản phẩm và hiệu quả SXKD.

Ba là, củng cố, khôi phục và phát triển các làng nghề sản xuất, chế biến

nông sản truyền thống, đặc biệt là các sản phẩm mang tính chất đặc sản của địa phương; tăng cường đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao trình độ

và bảo đảm chất lượng sản phẩm, vệ sinh môi trường nông thôn, kết hợp với hoạt động du lịch sinh thái nông nghiệp.

Bốn là, quản lý chặt chẽ việc xử lý chất thải, bảo vệ môi trường sinh

thái của các cơ sở chế biến nông sản trên từng khu vực, địa bàn, bảo đảm phát

triển sản xuất, chế biến HHNS một cách bền vững.

152

4.2.5. Đẩy mạnh công tác xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương

mại, phát triển thị trường đầu ra cho hàng hóa nông sản

Đây là giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng, giá trị, uy tín

của HHNS Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế. Mở rộng thị

trường đầu ra cho sản phẩm, nhanh chóng thực hiện giá trị hàng hóa, tạo động

lực mạnh mẽ, thúc đẩy sản xuất nông sản phát triển, từ đó nâng cao năng suất,

chất lượng, hiệu quả và SCT cho HHNS Việt Nam.

4.2.5.1. Về công tác xây dựng và phát triển thương hiệu

Trong bối cảnh hội nhập và tự do hóa thương mại hiện nay, cạnh tranh

kinh tế không chỉ dừng lại ở những tiêu chí có thể lượng hóa được như: chất

lượng, giá cả mà còn bao gồm cả những giá trị vô hình như: hình ảnh, uy

tín… của sản phẩm. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng sản

lượng hàng hóa nông sản xuất khẩu của Việt Nam, nhất là các mặt hàng chủ

lực như gạo, cà phê… luôn được xếp vào tốp đầu trong số các nước xuất khẩu

nông sản trên thế giới nhưng giá trị xuất khẩu còn thấp, đó là do đa số HHNS

Việt Nam trên thị trường chưa xây dựng được thương hiệu mạnh, người tiêu

dùng trên thế giới chưa biết nhiều đến các sản phẩm nông sản Việt Nam, mặc

dù trên thực tế họ đã và đang sử dụng nó. Vì vậy, xây dựng và phát triển

thương hiệu cho hàng hóa nông sản Việt Nam là giải pháp hết sức cấp bách

hiện nay và trong những năm tới. Biện pháp để thực hiện tốt giải pháp này là:

Một là, đối với Nhà nước:

Nhà nước cần có chính sách nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện cho các

doanh nghiệp tăng cường các nguồn lực đầu tư vào hoạt động xây dựng và

phát triển thương hiệu. Cải cách hành chính, đơn giản hóa các thủ tục pháp lý

về khâu kiểm tra, kiểm định, cấp các chứng nhận bảo hộ nhãn hiệu, chỉ dẫn

địa lý để cho các doanh nghiệp tiếp cận một cách thuận lợi, rút ngắn thời gian,

giảm chi phí, tránh các biểu hiện nhũng nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho doanh

nghiệp và người sản xuất, góp phần nâng cao SCT cho HHNS Việt Nam.

Tăng cường khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đào tạo, tập

huấn, cũng như cung cấp thông tin, tư vấn cho doanh nghiệp về các yêu cầu,

153

quy trình, thủ tục đăng ký nhãn hiệu sản phẩm, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý

và tên gọi xuất xứ hàng hóa nông sản ở trong và ngoài nước.

Ban hành các văn bản pháp lý và tăng cường các hoạt động kiểm tra

nhằm bảo vệ thương hiệu quốc gia, thương hiệu doanh nghiệp, sản phẩm đã

được cấp chứng nhận, ngăn ngừa và xử lý nghiêm các hành vi làm hàng giả,

hàng nhái, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và bí mật thương mại của các đơn

vị, giữ gìn và bảo vệ uy tín cho những thương hiệu đã được người tiêu dùng

ưa chuộng. Đổi mới, hoàn thiện Luật sở hữu trí tuệ phù hợp với thực tiễn

vận động phát triển của đất nước và thế giới, đồng thời tăng cường các hoạt

động tuyên truyền, giáo dục phổ biến pháp luật nói chung, Luật sở hữu trí

tuệ nói riêng, để các chủ thể SXKD nắm, hiểu rõ và thực hiện tốt.

Hai là, đối với các chủ thể trực tiếp sản xuất, kinh doanh HHNS

Cần có chiến lược đồng bộ về sản phẩm, trong đó xác định việc xây dựng

thương hiệu cho sản phẩm là nội dung quan trọng, bắt đầu từ việc bảo đảm chất

lượng sản phẩm (lựa chọn giống cây trồng, vật nuôi, kỹ thuật gieo trồng, chăm

sóc, thu hoạch, bảo quản, chế biến, đóng gói..); khâu đăng ký chất lượng, đăng

ký nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý... Xây dựng chiến lược Marketing tổng thể của

doanh nghiệp trong đó ưu tiên quảng bá hình ảnh doanh nghiệp và sản phẩm.

Thành lập bộ phận chuyên trách về xây dựng thương hiệu, ưu tiên

tuyển chọn, đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho bộ phận này, nhằm

tăng cường nghiên cứu, triển khai các hoạt động xây dựng thương hiệu mang

tính chuyên nghiệp, có chất lượng hiệu quả cao.

Khi đã đăng ký thành công nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm, để

bảo đảm duy trì và phát triển nó một cách lâu dài, bền vững, doanh nghiệp

phải không ngừng củng cố, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm khẳng định

thương hiệu, tạo lập uy tín đối với khách hàng và có những biện pháp bảo vệ

thương hiệu và quyền sở hữu trí tuệ đối với các tài sản cả hữu hình và vô hình

của doanh nghiệp. Bên cạnh đó phải không ngừng nghiên cứu, đổi mới sáng

tạo, để tung ra thị trường các sản phẩm mới có chất lượng tốt hơn, mẫu mã

đẹp hơn, phù hợp với nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.

154

4.2.5.2. Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, phát triển thị trường

đầu ra hàng hóa nông sản

Thị trường đầu ra cho HHNS là một mắt xích quan trọng để thực hiện giá trị sản phẩm. Khai thác tốt thị trường nội địa, giữ vững được các thị trường truyền thống, mở rộng và đa dạng hóa được thị trường tiêu thụ ở các nước và vùng lãnh thổ, xâm nhập và khẳng định được ở các thị trường “khó tính” đó là việc làm cần thiết nhằm nâng cao SCT cho HHNS, phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam theo hướng sản xuất hàng hóa hiện đại và bền vững. Để thực hiện tốt giải pháp này, các chủ thể cần phải cần phải:

Một là, tăng cường sự phối hợp giữa Nhà nước và các thành phần tham

gia thị trường hàng hóa nông sản

Để nâng cao sức cạnh tranh của HHNS trước hết cần tăng cường sự

phối, kết hợp giữa các thành phần tham gia thị trường.

Đối với Nhà nước:

Cần phải tiếp tục nghiên cứu, có các định hướng chiến lược sản phẩm

nông sản, tập trung vào các sản phẩm xuất khẩu chủ lực đã và đang có lợi thế.

Tiến hành đánh giá cụ thể và sát thực về năng lực sản xuất, SCT của các mặt

hàng nông sản, đưa ra những dự báo, nhận định khoa học về tốc độ tăng trưởng,

khả năng phát triển của các ngành hàng nông sản hiện nay trên thế giới. Trên cơ

sở đó, xây dựng chiến lược và định hướng phát triển, điều chỉnh cơ cấu sản xuất,

cơ cấu đầu tư các loại HHNS, phù hợp với nhu cầu thực tiễn của thị trường.

Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo hướng sản

xuất hàng hóa, vận hành theo cơ chế thị trường. Khuyến khích, thu hút các tổ

chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, ưu

tiên đầu tư cho công tác nghiên cứu, sản xuất giống cây trồng, vật nuôi (lai tạo,

chọn lọc, nhập nội), nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và SCT cho HHNS.

Hỗ trợ, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nông

nghiệp, HTX nông nghiệp, hộ nông dân tham gia vào các hoạt động: hội chợ,

triển lãm, lễ hội nông sản, hội thảo... Thông qua các hoạt động đó để giới thiệu,

quảng bá các sản phẩm nông sản, đồng thời tìm kiếm và ký kết các hợp đồng

xuất khẩu với các đối tác. Tổ chức các lớp tập huấn, tuyên truyền phổ biến nâng

155

cao kiến thức, hiểu biết về các thủ tục, các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu

chuẩn chất lượng, an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn môi trường... của các nước

nhập khẩu, qua đó có các giải pháp để vượt qua rào cản thuế quan, phi thuế quan

trên thị trường quốc tế. Đổi mới, hoàn thiện các văn bản pháp luật, tạo hành lang

pháp lý để thu hút đầu tư, phát triển các sàn giao dịch hàng hóa nông sản.

Đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp:

Cần chủ động xây dựng chiến lược SXKD, chiến lược phát triển thị trường

phù hợp với quá trình hội nhập của đất nước. Việc xây dựng chiến lược SXKD phải

trên cơ sở đảm bảo quy trình, tổ chức quản lý và giám sát một cách khoa học nhằm

giảm thiểu chi phí, giá thành, góp phần nâng cao sức cạnh tranh cho HHNS.

Tăng cường đầu tư mua sắm máy móc, trang thiết bị, áp dụng công nghệ

mới, công nghệ cao vào sản xuất và chế biến HHNS, thực hiện các quy trình sản

xuất theo tiêu chuẩn quản lý chất lượng chuyên ngành, quốc gia và quốc tế. Xây

dựng đội ngũ cán bộ quản lý có đủ kiến thức, năng lực kinh doanh, đáp ứng được

với yêu cầu phát triển mới của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

Tích cực tổ chức và tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, kịp

thời nắm bắt và xử lý thông tin về tình hình thị trường trong và ngoài nước,

tránh tình trạng loạn thông tin, nắm thông tin sai lệch, thông tin không tin cậy.

Để làm tốt việc nắm và xử lý thông tin, các doanh nghiệp cần phải đẩy mạnh

ứng dụng thương mại điện tử vào trong quá trình kinh doanh, tăng cường các

hoạt động quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm thông tin thị trường, giao

dịch mua bán hàng, ký kết hợp đồng.

Đối với nông dân và trang trại:

Để tập trung được nguồn HHNS phục vụ những giá trị hợp đồng xuất

khẩu lớn, một mặt cần phải đầu tư phát triển quy mô các hộ sản xuất, quy mô các

trang trại theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, mặt khác cần tăng cường liên kết,

cử đại diện thương mại làm đối tác ký kết hợp đồng vối các doanh nghiệp.

Phát triển các hình thức liên kết, hợp đồng lâu dài nhất là giữa nông

dân và doanh nghiệp, nhằm tăng cường trách nhiệm của các bên trong việc

bảo đảm ổn định về cung cấp các yếu tố đầu vào sản xuất, sản xuất theo quy

156

trình kỹ thuật cam kết, bao tiêu sản phẩm đầu ra..., giải quyết tốt quyền và lợi

ích lâu dài cho các bên tham gia.

Đối với các hiệp hội ngành hàng:

Các hiệp hội cần có cơ chế quản lý chuyên nghiệp, thống nhất ban hành

các quy định về tổ chức hoạt động một cách chặt chẽ như: quy định về quyền lợi,

nghĩa vụ của hội viên, tổ chức bộ máy, nguồn tài chính… Phối hợp chặt chẽ với

cơ quan quản lý nhà nước các cấp, thường xuyên nắm bắt thông tin về tình hình

thị trường trong nước, thị trường khu vực và thế giới như: tiềm năng, nhu cầu,

sức mua, giá cả, thị hiếu… để từ đó có kế hoạch SXKD phù hợp, nhất là các

biện pháp tiếp cận thị trường. Tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến thương

mại trong và ngoài nước như: hội nghị khách hàng, hội chợ, hội thảo, triển lãm

quốc tế, thăm dò, khảo sát các thị trường... Thông qua đó nhằm giới thiệu, quảng

bá sản phẩm, tìm đối tác đầu tư cũng như ký kết các hợp đồng xuất khẩu HHNS.

Tăng cường tính liên kết, bảo vệ lẫn nhau, chống các hành vi cạnh tranh không

lành mạnh như độc quyền, tranh chấp khách hàng, tranh chấp thị trường, bán phá

giá, đầu cơ tích trữ… gây tổn hại đến lợi ích chung. Đồng thời đề cao trách

nhiệm giúp đỡ lẫn nhau về các vấn đề như: vốn, công nghệ, đào tạo nhân lực, kỹ

năng quản lý doanh nghiệp… Tích cực tham gia cùng với các cơ quan Nhà nước

trong việc góp ý, kiến nghị những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn SXKD hàng hóa

nông sản của hiệp hội, nhằm hoàn thiện các chủ trương, chính sách, các văn bản

pháp quy liên quan đến SCT của hàng hóa nông sản.

Hai là, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại hàng hóa nông sản

Hoạt động xúc tiến thương mại có vai trò hết sức quan trọng trong thực

hiện chính sách xuất khẩu của Nhà nước nói chung, xuất khẩu HHNS nói

riêng. Hoạt động xúc tiến thương mại giúp cho các doanh nghiệp, hiệp hội

ngành hàng tiếp cận, nắm bắt được những thông tin cụ thể, cần thiết về thị

trường và khách hàng. Để đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, các chủ

thể cần phải thực hiện tốt các biện pháp sau:

Quan tâm hỗ trợ về kinh phí, các phương tiện kỹ thuật cho các trung tâm

xúc tiến thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức xúc tiến thương

157

mại hoạt động. Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp nông nghiệp, HTX

nông nghiệp, các hiệp hội ngành hàng và hộ nông dân tham gia các hoạt

động như: hội chợ, triển lãm, lễ hội… nhằm giới thiệu, quảng bá sản phẩm

của mình. Các doanh nghiệp SXKD hàng hóa nông sản cần tích cực, chủ

động đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại trong và ngoài nước,

thông qua đó để tìm kiếm đối tác nhập khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ

nông sản. Nâng cao chất lượng và phát huy vai trò trách nhiệm của các

Tham tán thương mại ở các nước, mở các phòng trưng bày, các chuỗi cửa

hàng, các phố, các chợ HHNS Việt Nam ở các nước. Đồng thời thông qua

con đường ngoại giao để ký kết các đơn hàng xuất khẩu nông sản lớn,

chính ngạch với các nước trên thế giới.

Các đơn vị SXKD hàng hóa nông sản cần tích cực, chủ động tham gia mua

bán thông qua các hợp đồng, gắn với các trung tâm đấu giá, các sàn giao dịch, các

chợ đầu mối,... Tham gia sàn giao dịch cả người bán và người mua cùng có lợi,

đối với người bán sẽ biết được các tín hiệu thị trường như: giá cả, chủng loại hàng

hóa, nhu cầu thị trường để từ đó chủ động xây dựng kế hoạch SXKD phù hợp; đối

với người mua sẽ hạn chế được những rủi ro về giá, chất lượng hàng hóa,… Đồng

thời thông qua hoạt động các sàn giao dịch, chất lượng hàng hóa nông sản cũng

được nâng lên, tiệm cận với yêu cầu chất lượng của thị trường quốc tế.

Ba là, khai thác tốt tiềm năng thị trường nội địa

Thị trường trong nước với gần 100 triệu dân có vị trí, vai trò hết sức quan

trọng trong giải quyết khâu đầu ra cho SXKD hàng hóa nông sản. Khai thác tốt

thị trường nội địa sẽ giữ vững sự ổn định đầu ra cho sản xuất đồng thời giảm

thiểu được các chi phí khác như: vận chuyển, thuế quan… Mặt khác thông qua

chính người tiêu dùng Việt Nam để quảng bá sản phẩm nông sản Việt Nam ra

thị trường thế giới thông qua hoạt động du lịch, xuất khẩu lao động, du học và

đồng bào người Việt Nam ở nước ngoài…

Để khai thác tốt tiềm năng thị trường nội địa, Chính phủ, các bộ, ngành

và chính quyền địa phương các cấp, cần đẩy mạnh việc tuyên truyền, vận động,

khuyến khích “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”.

158

Đẩy mạnh chiến dịch tuyên truyền, vận động trên các phương tiện

thông tin đại chúng, nhất là qua các kênh thông tin chính thống (Đài Tiếng

nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, hệ thống các Đài Phát thanh,

Truyền hình địa phương; các báo, tạp chí uy tín…) để khơi dậy tinh thần yêu

nước cho mọi người dân Việt Nam từ việc lựa chọn tiêu dùng HHNS của

Việt Nam. Đồng thời các cơ quan Nhà nước, chính quyền địa phương các

cấp, cán bộ đảng viên phải gương mẫu, đi đầu trong việc lựa chọn tiêu dùng

HHNS Việt Nam như: sử dụng các sản phẩm nông sản Việt Nam trong các

cuộc liên hoan, hội họp, chiêu đãi khách quốc tế và tiêu dùng hàng ngày tại

bếp ăn tập thể của cơ quan, tổ chức, cũng như gia đình cán bộ, đảng viên,

từng bước xóa bỏ tư tưởng sính ngoại đã và đang hiện hữu lâu nay đối với

người dân Việt Nam.

Các doanh nghiệp cần tung ra thị trường nội địa những sản phẩm nông

sản có chất lượng tốt, phục vụ nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng trong nước,

tránh tư tưởng quá coi trọng xuất khẩu, coi nhẹ tiêu thụ trong nước sẽ dẫn tới

đánh mất thị phần trong nước. Tổ chức liên kết với các hãng bán lẻ, hệ thống

siêu thị, đồng thời cần có các chính sách ưu đãi thích đáng để các hãng bán lẻ,

hệ thống siêu thị trong nước gắn bó mặn nồng với các sản phẩm HHNS Việt

Nam, tránh tình trạng chỉ khi khó khăn trong xuất khẩu mới cần sự “giải cứu”

của người tiêu dùng trong nước.

159

Kết luận chương 4

Từ nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản, kinh nghiệm của một số

nước trên thế giới và thực tiễn về SCT của HHNS nước ta thời gian qua.

Chương 4 của luận án đã đưa ra 5 quan điểm cơ bản nhằm nâng cao SCT của

HHNS Việt Nam trong thời gian tới... Đây là những nội dung mang tính định

hướng quan trọng để các chủ thể SXKD hàng hóa nông sản có thể nghiên cứu,

xác định những giải pháp phù hợp cho mình trong điều kiện phát triển mới

của đất nước và thế giới.

Trước yêu cầu cấp thiết về nâng cao SCT của HHNS Việt Nam, cần

phải có hệ thống giải pháp đồng bộ, khoa học, có tính khả thi cao, sát với

điều kiện thực tiễn của đất nước và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Chương

4 của luận án cũng đã mạnh dạn đưa ra hệ thống gồm 5 giải pháp nhằm

nâng cao SCT của HHNS nói chung, một số mặt hàng chủ yếu (gạo, cà phê,

rau quả, thịt lợn, thịt và trứng gia cầm) nói riêng. Đó là các giải pháp về

nâng cao chất lượng HHNS, giảm giá thành; về đổi mới, hoàn thiện cơ chế,

chính sách của Nhà nước; về điều chỉnh quy hoạch tổng thể để phát triển

sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, tập trung, chuyên

canh, quy mô lớn; về xây dựng và phát triển thương hiệu, xúc tiến thương

mại, mở rộng thị trường tiêu thụ… Các giải pháp nêu trên có mối liên hệ chặt

chẽ, tác động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau, nhằm nâng cao SCT của HHNS Việt

Nam trong thời gian tới.

Để thực hiện tốt các nhóm giải pháp này, cần phải có sự phối, kết hợp

chặt chẽ giữa Nhà nước, các Bộ, Ban, Ngành, chính quyền địa phương các

cấp, các Hiệp hội ngành hàng có liên quan, các doanh nghiệp nông nghiệp,

HTX nông nghiệp và hộ nông dân. Đây cũng là trách nhiệm, nhiệm vụ của

Nhà nước, các Bộ, Ban, Ngành, chính quyền địa phương cũng như của từng

đơn vị SXKD hàng hóa nông sản.

160

KẾT LUẬN

1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án đã cho

thấy: chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu trực tiếp, chuyên sâu về

SCT của HHNS Việt Nam. Tuy nhiên, những thành tựu khoa học của các

công trình liên quan đến đề tài, có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp tác giả kế

thừa, vận dụng vào quá trình nghiên cứu, hoàn thành đề tài luận án của mình.

Tiếp cận nghiên cứu dưới góc độ khoa học Kinh tế chính trị, làm rõ những

vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất hệ thống quan điểm, giải pháp nâng cao

SCT của HHNS Việt Nam thời gian tới, không có sự trùng lặp với các công

trình đã công bố, đồng thời có ý nghĩa thiết thực đối với phát triển nền nông

nghiệp Việt Nam theo hướng sản xuất hàng hóa, hiện đại, bền vững góp phần

là một trong những trụ cột chính, thúc đẩy phát triển ổn định kinh tế đất nước.

2. Luận án nghiên cứu kinh nghiệm về nâng cao SCT của HHNS ở một

số nước như Thái Lan, Malaysia, Israel. Đây là những quốc gia đã thành công

trong việc chuyển đổi sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa

phục vụ xuất khẩu; sản phẩm nông sản của họ có chất lượng tốt, có thương

hiệu, uy tín và SCT cao trên thị trường thế giới. Từ đó rút ra bài học cho Việt

Nam có thể nghiên cứu, kế thừa và vận dụng sáng tạo vào quá trình tái cơ cấu

nền nông nghiệp nước nhà nói chung, nâng cao SCT cho HHNS nói riêng.

3. Luận án đã vận dụng lý luận hàng hóa của C. Mác về hai thuộc tính

của hàng hóa và các hình thức cạnh tranh trong nền kinh tế hàng hóa; sử

dụng các tiêu chí cơ bản như: tiêu chí về chất lượng; giá cả; thương hiệu; thị

phần để đánh giá SCT của HHNS Việt Nam, đi sâu phân tích 5 mặt hàng chủ

lực (gạo, cà phê, rau quả, thịt lợn, thịt và trứng gia cầm). Qua phân tích, đánh

giá thực trạng, khẳng định rằng: SCT của HHNS nói chung, 5 mặt hàng chủ

lực nói riêng đã được nâng lên một cách rõ rệt trong những năm qua. Tuy

nhiên, SCT của một số HHNS Việt Nam vẫn còn hạn chế, biểu hiện cụ thể là:

chất lượng còn thấp, chi phí giá thành còn cao so với lợi thế vốn có, đa số các

mặt hàng chưa có thương hiệu, thị phần xuất khẩu còn nhỏ, thiếu ổn định...

161

4. Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn SCT của HHNS Viêt Nam,

luận án đã đưa ra hệ thống gồm 5 quan điểm và 5 giải pháp nhằm nâng cao

SCT của HHNS Việt Nam thời gian tới. Để thực hiện thắng lợi hệ thống

quan điểm và giải pháp trong luận án đã nêu, các cấp đảng, chính quyền, cơ

quan chức năng có liên quan, các doanh nghiệp, các nhà khoa học, các chủ

trang trại, hộ nông dân, các hiệp hội ngành hàng cần phải nỗ lực có các

hoạt động phối hợp cụ thể, thiết thực, hiệu quả, đề cao trách nhiệm của

từng chủ thể đối với sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam nói

chung, nâng cao SCT của HHNS nói riêng.

5. Nghiên cứu công trình này, tác giả mong muốn sẽ góp một phần nhỏ

vào quá trình nâng cao SCT của HHNS Việt Nam trong thời gian tới, giúp

cho người nông dân Việt Nam luôn tự tin với kết quả lao động của mình,

tránh được các hiện tượng đã xảy ra trong thực tiễn như “Mất mùa được giá,

được mùa rớt giá” hoặc là cảnh “giải cứu” thanh long, dưa hấu… Hướng tới

xây dựng một nền nông nghiệp Việt Nam hiện đại, bền vững, luôn xứng đáng

là trụ cột cho nền kinh tế đất nước trong quá trình đổi mới, phát triển.

162

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Phạm Quốc Quyết (2016), “Vai trò của nông nghiệp trong bảo đảm hậu cần

tại chỗ cho khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố hiện nay”, Tạp chí

Quản lý nhà nước, số (241), tr. 96-98.

2. Phạm Quốc Quyết (2016), “Nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản Việt

Nam trong hội nhập”, Tạp chí Tài chính, số (627), tr. 87-89

3. Phạm Quốc Quyết (2016), Nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông sản Việt

Nam trong bối cảnh mới của hội nhập, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số

(06), tr. 38-40.

4. Phạm Quốc Quyết (2017), Giải pháp nâng cao hiệu quả cạnh tranh hàng

nông sản của Việt Nam hiện nay, Tạp chí Kinh tế Châu Á- Thái Bình

Dương, số (489), tr. 93-95.

5. Phạm Quốc Quyết (2018), Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu nông sản

Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số (04+05), tr. 98-100.

6. Phạm Quốc Quyết (2018), “Chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao -

nghiên cứu vận dụng tại các tỉnh vùng Tây Nguyên”, Kỷ yếu Hội thảo khoa

học quốc gia “Phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên” lần 2 năm

2018, Nxb Nông nghiệp, tr. 453-460.

7. Phạm Quốc Quyết (2018), “Nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo của doanh

nghiệp Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia “Đổi mới sáng

tạo nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam”, Phân

hiệu Đại học Đà Nẵng tại Kon Tum, Nxb Công Thương, tr. 61- 66.

8. Phạm Quốc Quyết (2019), “Xây dựng thương hiệu “Cứu cánh” cho nômg

sản Việt”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số (5), tr. 43- 45

9. Phạm Quốc Quyết, Đỗ Huy Hà (2021), “Kinh nghiệm của Thái Lan về

nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản và bài học cho Việt Nam”,

Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á, số (1), tr. 56- 61.

163

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt 1. Lê Hữu Ảnh (2017), Nghiên cứu đề xuất chính sách, giải pháp thúc đẩy phát triển các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm trong trồng trọt, lâm nghiệp và thủy sản, Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội.

2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), Dự thảo các

văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, Hà Nội.

3. Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương (2019), Tổng điều tra dân số và nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019, Tổ chức thực hiện và kết quả sơ bộ, Nxb Thống kê, Hà Nội.

4. Ban nghiên cứu và phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV), Báo Điện tử VnExpress (2018), Diễn đàn Kinh tế Việt Nam chuyên đề nông nghiệp, ngày 5/6/2018 tại Hà Nội.

5. Phạm Thị Thanh Bình (2018), Nghiên cứu so sánh chính sách nông nghiệp ở Trung Quốc, Thái Lan, Israel và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

6. Bộ Công Thương (2006), Chính sách và giải pháp nâng cao giá trị gia tăng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

7. Bộ Công thương (2019), Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam 2018, Nxb

Công Thương, Hà Nội.

8. Bộ Công thương (2020), Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam 2019, Nxb

Công Thương, Hà Nội.

9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Bộ Ngoại giao (2020), “Một số thông tin về địa lý Việt Nam”, Cổng thông

tin điện tử Chính phủ, ngày 21/4/2020.

11. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2000), Khả năng cạnh tranh của ngành nông nghiệp Việt Nam: Một sự phân tích sơ bộ trong bối cảnh hội nhập ASEAN và AFTA, Báo cáo dự án Hợp tác kỹ thuật TCP/VTE/8821, Hà Nội.

164

12. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2002), Sổ tay các cam kết hội

nhập kinh tế quốc tế Ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội.

13. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2005), Khả năng cạnh tranh nông

sản Việt Nam trong hội nhập AFTA, Quỹ nghiên cứu IAE-MISPA.

14. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2006), Thương hiệu và nhãn

hiệu hàng nông sản Việt Nam, tài liệu hội thảo ngày 18/8/2006, Hà Nội.

15. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2012), Quyết định số 824/QĐ -

BNN-TT Về việc phê duyệt đề án phát triển ngành trồng trọt đến năm

2020, tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội.

16. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2013), Chương trình và kế

hoạch hành động thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo

hướng giá trị gia tăng và phát triển bền vững, ngày 18 tháng 6/2013.

17. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2014), Quyết định số 984/QĐ -

BNN-CN Về việc phê duyệt đề án Tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo

hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, Hà Nội.

18. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2018), Thông tư số 37/2018/TT-

BNNPTNT, ngày 25/12/2018, Ban hành danh mục sản phẩm nông

nghiệp chủ lực quốc gia, Hà Nội.

19. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Trung tâm Thông tin và Thống kê,

Báo cáo kết quả thực hiện sản xuất, kinh doanh ngành nông nghiệp và phát

triển nông thôn (các năm 2011, 2013, 2015, 2017, 2018, 2019), Hà Nội.

20. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2019), Báo cáo Tổng kết Đề án

“Phát triển sản xuất giống cây nông, lâm nghiệp, giống vật nuôi và

giống thủy sản đến năm 2020”, ngày 24/6/2019, Hà Nội.

21. Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta

trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Chu Văn Cấp, Nguyễn Đức Hà (2013), “Xuất khẩu hàng hóa Việt Nam

hướng tới sự bền vững”, Tạp chí nghiên cứu thương mại, số (3), tr. 21-24.

165

23. Chu Văn Cấp, Lê Xuân Tạo (2013), “Cánh đồng mẫu lớn” ở Đồng bằng sông Cửu Long - mô hình sản xuất hiệu quả”, Tạp chí Cộng sản, số (79 tháng 7/2013), tr. 15-18.

24. Chính Phủ (2018), Nghị định số 57/2018/NĐ - CP, ngày 17/4/2018 về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, Hà Nội.

25. Công ty Cổ phần chứng khoán Bảo Việt (2015), Ngành cao su tự nhiên, cắt giảm giá thành - bước đi đột phá của doanh nghiệp, Báo cáo khảo sát 2015, Hà Nội.

26. CIEM và UNDP (2004), Chính sách phát triển kinh tế- kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc, Tập I, II và III, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. 27. CIEM (2006), Nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu trên cơ sở cắt

giảm chi phí, Nxb Tài chính, Hà Nội.

28. Phạm Thành Công (2013), “Định hướng phát triển thương hiệu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số (426), tr. 29-35.

29. Cục Bảo vệ Thực vật, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hiệp hội Thương mại quốc tế của các công ty hóa chât (CropLife) (2017), Kỷ yếu hội thảo: Nâng cao năng lực xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam, ngày 2/11/2017 tại TP. Hồ Chí Minh.

30. Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ (2018), Báo cáo thường

niên hoạt động sở hữu trí tuệ 2017, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

31. Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ (2019), Báo cáo thường

niên hoạt động sở hữu trí tuệ 2018, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

32. Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ (2019), Danh sách chỉ

dẫn địa lý được bảo hộ ở Việt Nam, Hà Nội.

33. Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công thương (2019), Giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam năm 2019 tăng 12 tỷ USD và mục tiêu của Chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam giai đoạn 2020 - 2030, Hà Nội.

34. Bạch Thụ Cường (2002), Bàn về cạnh tranh toàn cầu, Nxb Thông tấn, Hà Nội. 35. Tô Xuân Dân (1998), Chính sách kinh tế đối ngoại: Lý thuyết và Kinh

nghiệm quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội.

166

36. Nguyễn Đình Dương (2014), Một số vấn đề về năng lực cạnh tranh của

thành phố Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết số 07/BCT về hội nhập kinh

tế quốc tế, ngày 27/11/2001, Hà Nội.

39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết Số 26-NQ/TW Hội nghị lần

thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khóa X về nông nghiệp, nông dân,

nông thôn, ngày 05/8/2008, Hà Nội.

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Đỗ Đức Định (2003), Kinh tế đối ngoại: Xu hướng điều chỉnh chính sách

ở một số nước châu Á trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa, Nxb

Thế giới, Hà Nội.

44. FRANK ELLIS (1995), Chính sách nông nghiệp trong các nước đang

phát triển, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

45. Đỗ Huy Hà (2009), Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam

trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế gắn với củng cố quốc phòng ở

nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị, Hà Nội.

46. Đỗ Huy Hà (2011), Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam

gắn với tăng cường quốc phòng ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc

gia - Sự thật, Hà Nội.

47. Hiệp hội Lương thực Việt Nam (Vietfood) (2019), Báo cáo thị trường gạo

2019, Hà Nội.

48. Hội đồng Trung ương Chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn

khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2009), Giáo trình Kinh

tế học chính trị Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

167

49. Nguyễn Duy Hùng (2016), Nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty chứng khoán Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 50. Nguyễn Mạnh Hùng (2013), Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành viễn thông Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 51. Phạm Thu Hương (2017), Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa, nghiên cứu trên địa bàn Thành phố Hà Nội, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường đại học Mỏ - Địa chất, Hà Nội.

52. Hoàng Nguyên Khai (2014), Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương, Luận án Tiến sỹ, Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh.

53. Nguyễn Hữu Khải (2005), Cây chè Việt Nam: Năng lực cạnh tranh xuất

khẩu và phát triển, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

54. Vũ Trọng Lâm (2006), Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 55. V.I. Lênin (1899), “Sự phát triển của Chủ nghĩa tư bản ở Nga”, V.I.Lênin Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.1-768. 56. V.I.Lênin (1917), “Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của Chủ nghĩa tư bản”, V.I.Lê Nin Toàn tập, tập 27, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.383-541.

57. Liên hiệp Các tổ chức Hữu nghị Việt Nam (2018), Việt Nam là nước sản xuất chè lớn thứ 7 và xuất khẩu chè lớn thứ 5 toàn cầu, Báo cáo xuất khẩu chè 2018, Hà Nội.

58. Nguyễn Thị Đức Loan (2017), “Quản trị chi phí chiến lược (SCM), công cụ nâng cao năng lực cạnh tranh trong các doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Kiểm toán, số tháng 6/2017, tr.19-24.

59. Nguyễn Đình Long (2001), Nghiên cứu giải pháp chủ yếu, nhằm phát huy lợi thế nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển thị trường xuất khẩu nông sản trong thời gian tới, Đề tài trọng điểm cấp bộ, Hà Nội.

60. Nguyễn Đình Long, Nguyễn Tiến Mạnh (1999), Phát huy lợi thế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

168

61. Bùi Xuân Lưu (2004), Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Thống Kê, Hà Nội.

62. C.Mác (1859), “Góp phần phê phán Khoa Kinh tế chính trị”, C.Mác và

Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993

63. C.Mác (1867), “Phê phán Khoa Kinh tế Chính trị”, C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2002 64. C.Mác (1894), “Phê phán Khoa Kinh tế Chính trị”, C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 25, Phần 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1994. 65. Ngô Thị Tuyết Mai (2007), Nâng cao sức cạnh tranh một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 66. Ngô Thị Tuyết Mai (2011), Phát triển bền vững hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 67. Nguyễn Tiến Mạnh (2010), “Cà phê Việt Nam và khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số (4/2010), tr.28-32.

68. Hồ Chí Minh (1946), “Thư gửi Điền chủ nông gia Việt Nam”, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.246-247 69. Hồ Chí Minh (1960), “Bài nói chuyện tại Đại hội đại biểu Công đoàn tỉnh Thanh Hóa lần thứ VI”, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.633-637.

70. Hồ Chí Minh (1962), “Bài nói chuyện tại Hội nghị lần thứ VII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (Khóa III), Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.374-377.

71. Ngô Thị Mỹ (2016), Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu một số nông sản của Việt Nam, Luận án tiến sĩ nông nghiệp, Đại học Thái Nguyên.

72. Hà Nam (2017), “Kinh nghiệm phát triển bảo hiểm nông nghiệp ở Thái

Lan”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 20/01/2017.

73. Ngân hàng thế giới (2004), Sổ tay về Phát triển, Thương mại và WTO,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

169

74. Vũ Thanh Nguyên (2017), Xây dựng mô hình phát triển nông nghiệp hiện đại ở tỉnh Hải Dương, Luận án tiến sĩ kinh tế, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương- Bộ Kế hoạch đầu tư, Hà Nội.

75. Hoàng Thị Thanh Nhàn (2003), Điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở Hàn Quốc,

Malaysia và Thái Lan, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

76. An Thị Thanh Nhàn, Lục Thị Thu Hường (2010), Quản trị xúc tiến thương mại trong xây dựng và phát triển thương hiệu, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

77. Đỗ Văn Nhiệm (2007), Phát triển công nghiệp chế biến nông sản và vai

trò của nó trong bảo đảm hậu cần tại chỗ cho khu vực phòng thủ tỉnh

(thành phố) vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh

tế, Học viện Chính trị, Hà Nội.

78. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2018), “Kinh tế Việt Nam với Hiệp

định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP): Nâng cao

năng lực cạnh tranh nhìn từ nông nghiệp”, Diễn đàn Doanh nghiệp, Hà Nội.

79. Vũ Văn Phúc (2012), Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam

sau 5 năm gia nhập WTO, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

80. Trần Hoa Phượng (2013), Lợi thế xuất khẩu nông sản của Việt Nam sau

khi gia nhập WTO, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

81. Micheal E. Porter (2008), Lợi thế cạnh tranh quốc gia, Nxb Trẻ, Thành

phố Hồ Chí Minh.

82. Micheal E. Porter (2008), Lợi thế cạnh tranh, Nxb Trẻ, Thành phố

Hồ Chí Minh.

83. Micheal E. Porter (2009), Chiến lược cạnh tranh, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ

Chí Minh.

84. Phạm Quốc Quân (2018), Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở vùng Đồng

bằng sông Hồng, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị, Bộ Quốc

phòng, Hà Nội

85. Nguyễn Thu Quỳnh (2011), “Vận dụng kinh tế tri thức nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Thương mại, số (44), tr. 39-43.

170

86. Đặng Kim Sơn (2008), Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 87. Đặng Kim Sơn (2012), Tái cơ cấu nền nông nghiệp Việt Nam theo hướng

giá trị gia tăng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

88. Tạp chí Cộng sản, Tỉnh uỷ Hà Nam (2015), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá - đột phá phát triển nông nghiệp bền vững và xây dựng nông thôn mới, gắn với nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị - từ thực tiễn Hà Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Phủ Lý.

89. Đinh Văn Thành (2006), Các biện pháp phi thuế quan đối với hàng nông

sản trong thương mại quốc tế, Nxb Lao động- Xã hội, Hà Nội.

90. Lê Hữu Thành (2009), Sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu chủ lực Việt Nam trong điều kiện tự do hóa thương mại, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 91. Nguyễn Hữu Thắng (2008), Nâng cao năng lực cạnh tranh của các Doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

92. Trần Thị Thu Thuỷ, Nguyễn Duy Lượng (2010), Những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông, lâm sản ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

93. Đỗ Thế Tùng (2012) “Những yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp”, Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam sau 5 năm gia nhập WTO, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 19-28.

94. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 04 tháng 6 năm 2010 “Phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020”, Hà Nội.

95. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 176/QĐ-TTg, ngày 29 tháng 01 năm 2010 “về việc phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020”, Hà Nội.

96. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 124/QĐ-TTg, ngày 02 tháng 02 năm 2012 “về quy hoạch tổng thể phát triển ngành nông nghiệp cả nước đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030”, Hà Nội.

171

97. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 899/QĐ- TTg, ngày 10 tháng

06 năm 2013 “về phê duyệt đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo

hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”, Hà Nội.

98. Thủ tướng Chính phủ (2018), Quyết định số 490/QĐ-TTg, ngày 7 tháng 5

năm 2018 về phê duyệt Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” giai

đoạn 2018- 2020, Hà Nội.

99. Tổng Công ty Chè Việt Nam (2002), Báo cáo tổng hợp phân tích tình

hình sản xuất kinh doanh chè trên toàn thế giới và viễn cảnh ngành chè

trong những năm tới, Hà Nội.

100. Tổng cục Thống kê (2018), Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông

nghiệp và thủy sản năm 2016, Nxb Thống kê, Hà Nội.

101. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê (các năm 2011, 2013, 2015, 2017,

2018, 2019), Nxb Thống kê, Hà Nội.

102. Tổng Cục Thống kê, Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam (các năm 2011,

2013, 2015, 2017, 2018, 2019), Nxb Thống kê, Hà Nội.

103. Nguyễn Xuân Trình (2006), Tác động của hội nhập Kinh tế quốc tế đến

sản xuất, chế biến và tiêu thụ một số nông sản ở Việt Nam: qua nghiên

cứu chè, cà phê, điều, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

104. Trung Tâm Thông Tin Công nghiệp và Thương Mại - Bộ Công Thương

(VINANET) (2019), Thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt Nam

năm 2019, Hà Nội.

105. Trung tâm Thông tin Phát triển nông nghiệp nông thôn (AGROINFO),

(2019), Báo cáo Thường niên ngành lúa gạo Việt Nam năm 2019 và

triển vọng 2020, Hà Nội.

106. Trung tâm Thông tin Phát triển nông nghiệp nông thôn (AGROINFO),

(2019), Báo cáo Thường niên ngành cà phê Việt Nam năm 2019 và

triển vọng 2020, Hà Nội.

107. Trung tâm Thông tin Phát triển nông nghiệp nông thôn (AGROINFO),

(2019), Báo cáo Thường niên ngành rau quả Việt Nam năm 2019 và

triển vọng 2020, Hà Nội.

172

108. Trung tâm Thông tin Phát triển nông nghiệp nông thôn (AGROINFO),

(2019), Báo cáo Thường niên ngành chăn nuôi Việt Nam năm 2019 và

triển vọng 2020, Hà Nội.

109. Từ điển kinh tế giản yếu Liên Xô, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1979. 110. Từ điển Chính trị vắn tăt, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va- Sự thật, Hà Nội, 1988. 111. Từ điển kinh tế Anh - Pháp, Viện Tài chính ngân hàng, Nxb Giáo dục và

Viện Khoa học ngân hàng, Hà Nội, 1994.

112. Từ điển thuật ngữ kinh tế học, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2001. 113. Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 1995. 114. Từ điển Bách khoa nông nghiệp Việt Nam, Nxb Học viện Nông nghiệp

Việt Nam, Hà Nội, 2011.

115. Viện Nghiên cứu khoa học thị trường giá cả (2000), Những giải pháp nhằm phát huy có hiệu quả lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong tiến trình hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, Hà Nội.

116. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện nghiên cứu Trung Quốc (2008), Vấn đề tam nông ở Trung Quốc, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 117. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (CIEM) và Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) (2003), Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.

118. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (2006), Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến sản xuất, chế biến và tiêu thụ một số nông sản ở Việt Nam : qua nghiên cứu trường hợp chè, cà phê và điều, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 119. Phạm Thị Hồng Yến (2017), Cải thiện môi trường kinh doanh nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong hội nhập FTA, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội

Tiếng Anh 120. Adam Smith (1965), An Inquiry into the Nature and Causes of the

Wealth of Nations, New York: Modern Library.

121. Alvin G. Wint (2000), Competitiveness in Small Developing Economies: Insights from the Caribbean, Puplisher The University of the West Indies Press.

173

122. Ambastha & Momaya (2004), Competitiveness of firms: review of theory, frameworks and models, Singapore Management Review. 123. Arnis Sauka (2014), “Measuring the Competitiveness of Latvian Companies”, Baltic Journal of Economics, Volume 14, issue 1-2, Pages 140-158. 124. Attila Jambor - Suresh Babu (2018), Competitiveness of Global Agriculture: Policy Lessons for Food Security, Publisher: Springer. 125. A. Siva Sankar and K. Nirmal Ravi Kumar (2014), “Domestic and Export Competitiveness of Major Agrultural Commodities in Andhra Pradesh-a Case Study”, International Journal of Advanced Research (IJAR), pp. 2320-5407.

126. Barney (1991), “Firm Resources and Sustained Competitive”, Journal of

Management.

127. Borworn Tanrattanaphong (2015), “Successful Cases of Agricultural Cooperatives Marketing Activities for Improving Marketing Efficiency in Thailand”, Thai Agriculture Journal, Number of months 8/2015, Bangkok. 128. BRICS (2017), Innovative Competitiveness Report - Research Series on the Chinese Dream and China’s Development Path, Publisher Springer.

129. Dictionary of Trade Policy (1997), University of Adelaide, Australia. 130. DuYing (2000), Reform of China's agricultural system

towards accession to the World Trade Organization, ACIAR China Grain Market Policy Project Paper No. 12, Department of Policy and Law, Ministry of Agriculture, China.

131. Fao (2015), World tea production and trade current and future

development, Roma - Ý.

132. Fao (2019), World rice production and trade current and future

development, Roma - Ý.

133. Grant, R. M. (1991), “A resource based theory of competitive advantage, Implications for strategy formulation”, California Management Review, 33(3), pp. 114-35l.

134. International Rice Institute (2016), Cost advantage of rice production in Vietnam, Indonesia, India, Philippines, China and Thailand, Los Banos, Calabarzon, Philippines.

174

135. ISGMARD (2002), Evaluation of potential impacts on Vietnams agriculture during implementating Common effective preferential tariff program (CEPT) under Agreement on Asean Free Trade Area (AFTA). 136. Krugman, P (1994), Competitiveness: A Dangerous Obsession, Foreign

Affairs, March/April.

137. John Stuart Mill (1848), Principles of Political Economy, Publisher John William Parker. The United Kingdom of England and Northern Ireland. 138. John H. Dunning (1993), “Internationalizing Porter’s diamond”,

Management International review, special issue, 33(2), 8-15.

139. Mekdum Winai (2015), “New Farmer Development in Agricultural Land Reform Area in Thailand”, Thai Agriculture Journal, Number of months 6/2015, Bangkok.

140. Michael E. Porter (1980), Competitive Strategy- Techniques for Analyzing Industries and Competitors, New York, The Free Press. 141. Michael E. Porter (1985) Competitive Advantage: Creating and

Sustaining Superior Performance, New York, Free Press.

142. Michael E. Porter (1990), The Competitive Advantage of Nations,

London, New Edition, Macmillan.

143. Mohammad Fauzy Tambi (2016), “Fostering Commercialization of Agricultural Technology in Malaysia” Agriculture magazine Malaysia, Number of months 5/2016, Kuala Lumpur.

144. Mohd Arif bin Adenan, Darshini Subramaniam & Shafril Izham bin Mohd Aminudin (2015), “Policy on Land For Agriculture Projects in Malaysia for the Young Agropreneur through Blue Ocean Strategy”, Agriculture magazine Malaysia, Number of months 8/2015, Kuala Lumpur.

145. Mohd Nur Hafiz Mat Azmin (2016), “Current Achievements and trade in Commercializing Technology”, Malaysia

Challenges magazine, Number of months 8/2015, Kuala Lumpur.

146. Paul Piang Siong Teng (2013), Agricultural Biotechnology and Global Competitiveness, Report of the APO Asian Food and Agribusiness Conference 2013.

175

147. Roger D. Norton (2017), The Competitiveness of Tropical Agriculture, A

Guide to Competitive Potential with Case Studies, Published: Elsevier Inc.

148. Rozhan Abu Dardak (2016), “New Strategies for Greater Growth and

Development of the Agriculture Sector in Malaysia”, Malaysia trade

magazine, Number of months 4/2016, Kuala Lumpur.

149. S. Sachdev (1993), “International Competitiveness and Agricultural

Export of India” Indian Economic Review, Published by: Department

of Economics, Delhi School of Economics, University of Delhi, Vol.

28, No. 2 (July-December 1993), pp. 203-217.

150. USDA, United States Department of Agriculture Foreign Agricultural

Service (2019), Rice: World Markets and Trade, Washington, USA.

151. USDA, United States Department of Agriculture Foreign Agricultural

Service (2019), Vegetables: World Markets and Trade, Washington, USA.

152. USDA, United States Department of Agriculture Foreign Agricultural

Service (2019), Coffee: World Markets and Trade, Washington, USA.

153. USDA, United States Department of Agriculture Foreign Agricultural

Service (2019), Livestock industry: World Markets and Trade,

Washington, USA.

154. WEF (2018), The Global Competitiveness Report 2018

155. Weiming Yao (2015), Impact of Agricultural Modernization, Economic

Growth and Industrialization on the International Competitiveness of

Agricultural, Asian Agricultural Research, USA-China Science and

Culture Media Corporation, vol. 7(03), pages 1-7, March

156. William C. Motes (2010), Modern agriculture and its benefits - trend,

Implications and Outlook, Golobal harvest initiative, Sustainably

meeting the world's growing needs.

157. Zhang Hongzhou (2012), China's Economic Restructuring: Role of

Agriculture, S. Rajaratnam School of International Studies Singapore -

Nanyang Technological University.

176

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

Một số văn bản pháp luật tiêu biểu, thể hiện những chủ trương, cơ

chế, chính sách, của Đảng, Nhà nước liên quan đến phát triển nông

nghiệp hàng hoá nói chung, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông

sản Việt Nam nói riêng

TT Số hiệu, tên của các văn bản

Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết Số 26-NQ/TW Hội

1 nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khóa X về nông

nghiệp, nông dân, nông thôn, ngày 05/8/2008.

Luật số: 27/2004/QH11, ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Quốc hội 2 Nước Cộng hoà xã hội Việt Nam về Cạnh tranh

Quyết định số 176 /QĐ-TTg ngày 29/01/2010 của Thủ tướng Chính

3 phủ, về việc Phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp công nghệ cao

đến năm 2020.

Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội nước

4 Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về miễn, giảm thuế sử dụng

đất nông nghiệp.

Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát

5 triển nông thôn, ngày 13/04/2011, Quy định về tiêu chí và thủ tục

cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại

Quyết định số 20/QĐ-TTg ngày 04/01/2012, của Thủ tướng Chính

6 phủ, về việc phê duyệt Chiến lược quốc gia An toàn thực phẩm giai

đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn 2030

Quyết định số 01/2012/QĐ-TTgngày 09/01/2012 của Thủ tướng

7 Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ áp dụng Quy trình thực hành

sản xuất nông nghiệp tốt trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản

177

TT Số hiệu, tên của các văn bản

Quyết định số: 124/QĐ-TTg, ngày 02 tháng 02 năm 2012 của Thủ

8 tướng Chính phủ, về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển sản

xuất ngành nông nghiệp đến năm 2020 và tầm nhìnđến 2030

Quyết định 824/QĐ-BNN-TT, ngày 16/04/2012 của Bộ NN&PTNT

9 về phê duyệt đề án đề án phát triển ngành trồng trọt đến năm 2020,

tầm nhìn đến năm 2030

Quyết định 635/QĐ-TTg, ngày 30/05/2012 của Thủ tướng Chính

phủ về việc phê duyệt dự án “nâng cao năng suất và chất lượng sản

10 phẩm, hàng hoá của ngành nông nghiệp đến năm 2020” thuộc

chương trình quốc gia “nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm,

hàng hoá của doanh nghiệp việt nam đến năm 2020” Quyết định số 1554/QĐ-TTg ngày 17/10/2012 của Thủ tướng Chính

phủ về việc phê duyệt quy hoạch thuỷ lợi vùng Đồng bằng sông

11 Hồng giai đoạn 2012 - 2020, định hướng đến năm 2050, trong điều

kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng.

Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 của Ban Chấp hành

Trung ương Đảng khoá XI về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật

về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo 12

nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công

nghiệp theo hướng hiện đại.

Luật số 23/2012/QH13 ngày 20/11/2012 của Quốc hội nước Cộng

13 hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ban hành Luật Hợp tác xã

Quyết định số: 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính

phủ, về Phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng 14

nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững

Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 của Thủ tướng

15 Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết

sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn

178

TT

16 Số hiệu, tên của các văn bản Quyết định số 68/2013/QĐ-TTG ngày 14/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp

17

18

19

20

21

22

23

Thông tư số 49/2013/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngày 19/11/2013, hướng dẫn tiêu chí xác định vùng sản xuất trồng trọt tập trung đủ điều kiện an toàn thực phẩm Luật số: 45/2013/QH13, ngày 29 tháng 11 năm 2013 của Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội Việt Nam về Luật đất đai. Nghị định số 210/2013/NĐ-CP, ngày 19 tháng 12 năm 2013 của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn Quyết định số 198/QĐ-TTg ngày 25/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Kết luận số 97-KL/TW ngày 9/5/2014 của Bộ Chính trị, khoá XI về một số chủ trương, giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Quyết định 1323/QĐ-BNN-TCCB, ngày 17/6/2014 của Bộ NN&PTNT về phê duyệt đề án nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2014 - 2020 Quyết định 3367/QĐ-BNN- TT, ngày 31/7/2014 của Bộ NN&PTNT, phê duyệt quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa giai đoạn 2014 - 2020.

24

Nghị định số 118/2014/NĐ-CP, ngày 17 tháng 12 năm 2014 của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp

Quyết định số 575/QĐ-TTg ngày 04/05/2015, của Thủ tướng Chính

25 phủ, về việc phê duyệt và Quy hoạch tổng thể khu và vùng nông

nghiệp công nghệ cao đến năm 2020, định hướng đến năm 2030

Nghị định số 55/2015/NĐ-CP, ngày 09 tháng 06 năm 2015 của

26 Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về chính sách

tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn

179

TT Số hiệu, tên của các văn bản

Quyết định số 1684/QĐ - TTg, ngày 30/9/2015 của Thủ tướng

27 Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế

ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2030.

Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19 tháng 11 năm 2015 của

28 Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa

chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020 Nghị quyết số 112/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội nước

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về tăng cường quản lý đất đai

có nguồn gốc từ nông trường, lâm trường quốc doanh do các công ty 29

nông nghiệp, công ty lâm nghiệp, ban quản lý rừng và các tổ chức,

hộ gia đình, cá nhân khác sử dụng

Quyết định số 55/2015/QĐ-TTg ngày 25/12/2015 của Thủ tướng

Chính phủ về Quy định tiêu chí, thẩm quyền, trình tự, thủ tục công 30

nhận vùng nông nghiệp công nghệ cao

Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính

phủ về việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai 31

đoạn 2016 - 2020.

Nghị quyết số 19/2017/NĐ-CP, ngày 06 tháng 02 năm 2017 của

Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về tiếp tục

thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường 32

kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định

hướng đến năm 2020.

Thông tư số 09/2017/TT-BNNPTNT, ngày 17/4/2017 của Bộ

33 NN&PTNT, hướng dẫn phân loại và đánh giá hợp tác xã hoạt động

trong lĩnh vực nông nghiệp.

Quyết định số 813/QĐ-NHNN ngày 24/4/2017 của Ngân Hàng Nhà

34 nước Việt Nam về Chương trình cho vay khuyến khích phát triển

nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch.

180

TT Số hiệu, tên của các văn bản

Thông tư số 14/2017/TT-BNNPTNT, ngày 05/7/2017 của Bộ

35 NN&PTNT, hướng dẫn thực hiện một số nội dung về đầu tư theo

hình thức đối tác công tư trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

Nghị định số 57/2018/NĐ-CP, ngày 17/4/2018 của Chính phủ về cơ

36 chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp,

nông thôn.

Nghị định 58/2018/NĐ-CP ngày 18/4/2018 của Chính phủ về bảo 37 hiểm nông nghiệp.

Quyết định số 490/QĐ-TTg ngày 07/5/2018 của Thủ tướng Chính

38 phủ về phê duyệt Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” giai đoạn

2018 - 2020.

Luật số: 23/2018/QH14, ngày 12 tháng 6 năm 2018 của Quốc hội 39 Nước Cộng hoà xã hội Việt Nam về Luật Cạnh tranh

Nguồn: Tổng hợp từ: thuvienphapluat.vn

181

Phụ lục 2 Sản lượng gạo xuất khẩu

của các nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới (2011 - 2019)

Đơn vị: 1000 tấn

TT Nước 2011 2013 2015 2017 2018 2019

1 Tổng thế giới 24.568 29.970 32.510 39.367 43.820 46.500

2 Ấn Độ 2.500 4.700 6.300 10.310 12.300 12.500

3 Thái Lan 6.700 7.300 7.500 9.800 11.520 10.300

4 Việt Nam 4.670 6.880 7.200 6.700 5.890 6.370

5 Pakistan 2.900 3.200 3.500 3.800 4000 4.250

6 Hoa Kỳ 3.500 2.950 2.623 2.834 3.000 3.200

7 Myanmar 670 687 700 1.200 1.560 2.800

8 Trung Quốc 780 890 950 1.500 1.800 2.500

9 10 11 Campuchia Brazil Uruguay 500 520 760 980 580 860 1.200 600 900 1.000 650 670 1.150 730 750 1.300 850 800

12 Các nước khác 1.068 943 1.037 903 1.120 1.442

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [8], [19], [47], [101], [132]

182

Phụ lục 3 Sản lượng cà phê xuất khẩu

của các nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới (2011 - 2019)

Đơn vị: Nghìn bao (Bao = 60kg)

TT Nước 2011 2013 2015 2017 2018 2019

1 Tổng thế giới 97.400 111.918 147.593 143.371 131.146 136.777

2 Braxin 31.608 33.520 50.825 43.235 30.450 36.820

3 Việt Nam 16.567 18.333 29.333 21.333 23.666 27.500

4 Colombia 13.020 14.920 9.927 13.500 12.725 13.400

5 Indonesia 5.667 8.650 13.048 11.000 8.010 7.845

6 Honduras 4.350 4.400 4.537 5.750 7.225 6.200

7 Ấn Độ 3.500 4.638 5.303 5.833 6.148 5.555

8 Peru 4.965 4.625 4.453 3.200 4.185 4.300

9 Uganda 2.746 3.125 3.914 4.755 4.500 4.000

10 Ethiopia 5.420 5.970 6.233 6.400 3.893 4.000

11 Mexico 3.650 3.987 4.327 3.900 3.220 3.340

12 Các nước khác 4.970 9.750 15.693 24.465 22.890 23.017

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [8], [19], [152]

183

Phụ lục 4 Thị phần gạo xuất khẩu của các nước xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới (2011 - 2019) Đơn vị: %

TT Nước 2011 2013 2015 2017 2018 2019

Ấn Độ 10,18 15,68 19,38 26,19 28,07 26,88 1

Thái Lan 27,26 24,36 23,07 24,89 26,29 22,15 2

Việt Nam 19,01 22,96 22,15 17,02 13,44 14,10 3

Pakistan 11,80 10,68 10,77 9,65 9,13 9,14 4

Hoa Kỳ 14,25 9,84 8,07 7,20 6,85 6,88 5

Myanmar 2,73 2,29 2,15 3,05 3,56 6,02 6

Trung Quốc 3,17 2,97 2,92 3,81 4,11 5,38 7

Campuchia 2,04 3,27 3,69 2,54 2,62 2,80 8

Brazil 2,12 1,94 1,85 1,65 1,67 1,83 9

10 Uruguay 3,09 2,87 2,77 1,79 1,71 1,72

11 Các nước khác 4,35 3,15 3,19 2,29 2,56 3,10

Nguồn: Tác giả tự tính toán dựa theo số liệu Phụ lục 2.

12 Tổng thế giới 100 100 100 100 100 100

184

Phụ lục 5 Mười thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam (2011 -2019)

Đơn vị: 1000 tấn

TT Thị trường 2011 2013 2015 2016 2017 2018 2019

1 Philippin 1.694 1.475,8 1.112 1.141 553 873 2.131,7

2 Bờ biển Ngà 156 324,7 480 256 225 229 583,6

3 Malaysia 4.78 398 765 512 532 604 551,6

4 Trung Quốc - 124,8 2.085 2.107 2.289 1.503 477,1

5 Ga-na 80 155,6 308 359 374 397 427,2

6 Iraq 177 302 - 473 128 280 300,1

7 Hồng Kông - 131,1 214 118,4 59 87 120,8

8 Singapore 88 544,6 269 125 105 86 100,5

9 Indonesia 76 687,2 930 673 17 1.028 40,2

10 Đài Loan 29 354,2 112 34 30 19 25,4

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [8], [19], [102]

185

Phụ lục 6 Thị phần cà phê xuất khẩu của các nước

xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới (2011 - 2019)

Đơn vị: %

TT Nước 2011 2013 2015 2017 2018 2019

1 Braxin 32,45 29,95 34,44 30,16 23,22 26,92

2 Việt Nam 17,01 16,38 19,87 14,88 18,05 18,57

3 Colombia 13,37 13,33 6,73 9,42 9,70 9,80

4 Indonesia 5,82 7,73 8,84 7,67 6,10 5,74

5 Honduras 4,47 3,93 3,07 4,01 5,51 4,54

6 3,59 4,14 3,59 4,07 4,69 4,06 An Độ

7 Peru 4,13 3,02 2,23 3,19 3,14 5,10

8 Uganda 2,79 2,65 3,32 3,43 2,92 2,82

9 Ethiopia 5,33 4,22 4,46 2,97 2,92 5,56

10 Mexico 3,56 2,93 2,72 2,46 2,44 3,75

5,10 11 Các nước khác 8,72 10,63 17,06 17,45 16,83

12 Thế giới 100 100 100 100 100

100 Nguồn: Tác giả tự tính toán dựa vào số liệu Phụ lục 3

186

Phụ lục 7

Mười thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam

từ năm (2011- 2019)

Đơn vị: nghìn bao (1 bao = 60kg)

TT Thị trường 2011 2013 2015 2017 2018 2019

1 Đức 2.267 3.467 3.195 4.341 4.346 4.117

2 Mỹ 1.774 3.393 2.618 3043 3.043 3.299

3 Italia 1.441 1.742 1.760 2.269 2.269 2.379

4 Tây Ban Nha 1.229 1.774 1.960 2.034 2.034 2.199

5 Nhật Bản 987 1.277 1.403 1.752 1.752 1.624

6 Nga 341 588 769 1.505 1.507 1.524

7 Philippines 204 620 528 1.377 1.378 1.331

8 Bỉ 1.474 1.040 1.025 1.251 1.252 1.296

9 374 487 613 1.235 1.235 1.131 Algeria

224 478 850 995 997 772 10 Thái Lan

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [8], [19], [102]

187

Phụ lục 8 Hình ảnh logo thương hiệu gạo Việt Nam

Hình 1: Logo thương hiệu Gạo Việt Nam được công bố tại Festival

Lúa gạo Việt Nam lần thứ 3 ở Long An, ngày 18/12/2018

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

188

Phụ lục 9 Các thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt Nam năm 2019

11 tháng đầu năm 2019 So với cùng kỳ 2018 (%) Thị trường

Trị giá (USD) Lượng Trị giá Lượng (tấn)

Tổng cộng 5.869.409 2.578.269.001 4,12 - 9,02

Philippines 1.971.987 813.335.097 155,43 133,59

Trung Quốc 452.540 225.392.433 -65,36 -66,37

Malaysia 522.036 207.382.273 10,95 -3,09

Iraq 270.100 138.569.249 -9,97 -17,84

Hồng Kông (TQ) 111.721 58.082.516 40,4 28,56

Singapore 90.525 48.023.404 16,81 10,55

U.A.E 44.334 23.255.943 2,34 -2,15

Châu Á Indonesia 37.808 17.042.476 -95,1 -95,3

Saudi Arabia 28.994 15.795.430

Đài Loan (TQ) 23.547 11.008.310 39,4 31,03

Nga 22.980 9.458.699 160,72 136,38

Brunei 7.891 3.284.190 82,75 72,22

Bangladesh 5.187 1.915.462 -74,1 -77,9

* Cộng Bờ Biển Ngà 3.589.650 1.572.510.193 231.452.200 534.997 137,59 78,59

Ghana 408.934 203.279.956 13,65 -1,98

Mozambique 51.550 24.633.139

Senegal 67.915 22.248.953 1.103,95 886,02

Tanzania 19.071 10.619.042 Châu Phi

Algeria 16.243 6.181.945 40,63 18,89

Angola 16.174 6.039.644 266,34 139,81

Nam Phi 8.196 4.023.541 122,72 94,49

* Cộng 1.123.080 508.478.420

189

11 tháng đầu năm 2019 So với cùng kỳ 2018 (%) Thị trường

Trị giá (USD) Lượng Trị giá Lượng (tấn)

Châu Âu

135,61 112,99 54,32 63,5 72,94 106,41 99,14 57,94 164,49 205,73 -77,51 -72,67 -24,01 -15,27 8.456 5.863 2.415 1.629 1.378 1.330 710 21.781 4.452.936 3.058.071 1.219.715 953.691 931.662 629.240 330.221 11.575.536 Ba Lan Hà Lan Ukraine Pháp Bỉ Thổ Nhĩ Kỳ Tây Ban Nha * Cộng

15.814 10.398.137 -11,02 -7,39 Mỹ

1.575 744.546 260,41 120,77 Chile Châu Mỹ

17.389 11.142.683 * Cộng

Australia 16.391 10.276.724 67,72 58,03

Châu Đại Dương

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [104]

Thị trường khác 1.101.118 475.428.128

190

Phụ lục 10

Danh sách chỉ dẫn địa lý các sản phẩm nông sản được bảo hộ

ở Việt Nam, tính đến tháng 5 năm 2019

Sản phẩm

Địa chỉ

T T

Ngày cấp

Chỉ dẫn địa lý

Số Văn bằng

1

00001

Phú Quốc

Nước mắm

2

00002

Mộc Châu Chè Shan tuyết

Thị trấn Dương Đông, huyện Phú Quốc, Kiên Giang Số 19 đường Tô Hiệu, TP. Sơn La, Sơn La

3

00004

Cà phê nhân

TP. Buôn Ma Thuột, Dak Lak

Buôn Ma Thuột

4

00005

Đoan Hùng

Bưởi quả

5

00006

Bình Thuận

Quả thanh long

6

00007

Lạng Sơn

Hoa hồi

7

00009

Thanh Hà Quả vải thiều

8

00010

Phan Thiết

Nước mắm

9

00011

Hải Hậu

Gạo Tám Xoan

10 00012

Vinh

Quả cam

11 00013

Tân Cương

Chè

12 00014

Hồng Dân

Gạo Một Bụi Đỏ

13 00015

Lục Ngạn

Vải Thiều

14 00016

Hòa Lộc

Xoài Cát

15 00017

Đại Hoàng

Chuối Ngự

16 00018

Văn Yên

Quế vỏ

17 00019

Hậu Lộc

Mắm tôm

Phường Gia Cẩm, TP. Việt Trì, Phú Thọ Thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận 438 Bà Triệu, P. Đông Kinh, TP. Lạng Sơn, Lạng Sơn Thị trấn Thanh Hà, tỉnh Hải Dương Số 12 đường Nguyễn Hội, TP. Phan Thiết, Bình Thuận Xóm 14, xã Hải Anh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định 75 Nguyễn Thị Minh Khai, TP. Vinh, tỉnh Nghệ An Lương Ngọc Quyến, TP. Thái Nguyên, Thái Nguyên Phường 1, TX. Bạc Liêu, Bạc Liêu Số 71 Nguyễn Văn Cừ, TP. Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang Số 39 Hùng Vương, phường 7, TP. Mỹ Tho, Tiền Giang Thị trấn Vĩnh Trụ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam Thị trấn Mậu A, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái Thị trấn Hậu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa

01.06. 2001 09.08. 2010 14.10. 2005 08.02. 2006 15.11. 2006 15.02. 2007 25.05. 2007 30.05. 2007 31.05. 2007 31.05. 2007 20.09. 2007 25.06. 2008 25.06. 2008 03.09. 2009 30.09. 2009 07.01. 2010 25.06. 2010

191

Sản phẩm

Địa chỉ

Chỉ dẫn địa lý

T T

Ngày cấp

Số Văn bằng

18 00020

Huế

Nón lá

19 00021

Bắc Kạn

Hồng không hạt

20 00022

Phúc Trạch

Quả bưởi

21 00024

Tiên Lãng

Thuốc lào

22 00025

Bảy Núi

Gạo Nàng Nhen Thơm

23 00026

Hạt dẻ

Trùng Khánh

24 00027

Bà Đen Mãng cầu (Na)

25 00028

Nga Sơn

Cói

26 00029

Trà My

Quế vỏ

27 00030

Ninh Thuận

Nho

28 00031

Tân Triều

Quả bưởi

29 00032

Bảo Lâm

Hồng không hạt

30 00033

Bắc Kạn

Quả quýt

Yên Châu Quả xoài tròn

31 00034

Mèo Vạc

32 00035

Mật ong bạc hà

Bình Minh Bưởi Năm Roi

33 00036

Hạ Long

Chả mực

34 00037

Bạc Liêu

Muối ăn

35 00038

Luận Văn

Quả bưởi

36 00039

19.07. 2010 08.09. 2010 09.11. 2010 19.11. 2010 10.01. 2011 21.03. 2011 10.08. 2011 13.10. 2011 13.10. 2011 07.02 2012 14.11. 2012 14.11. 2012 14.11. 2012 30.11. 2012 01.03. 2013 29.08. 2013 12.12. 2013 12.12. 2013 18.12. 2013

26 Hà Nội, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế Số 3 đường Trường Chinh, thị xã Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn Thị trấn Hương Khê, huyện hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh Khu 2 thị trấn Tiên Lãng, H. Tiên Lãng, Hải Phòng Khóm Sơn Đông, TT. Nhà Bàng, H. Tịnh Biên, An Giang Thị trấn Trùng Khánh, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng Số 211, đường 30/4, Phường 2, TX. Tây Ninh, Tây Ninh Thị trấn Nga Sơn, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa 54 Hùng Vương, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam 34 đường 16/4, TP. Phan Rang, Tháp Chàm, Ninh Thuận Phạm Văn Thuận, P. Thống Nhất, TP. Biên Hòa, Đồng Nai Bà Triệu, P. Đông Kinh, TP. Lạng Sơn, Lạng Sơn Số 3 đường Trường Chinh, TX. Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn Số 19, đường Tô Hiệu, TP. Sơn La, tỉnh Sơn La Phường Nguyễn Trãi, TP. Hà Giang, tỉnh Hà Giang X. Đông Thành, H. Bình Minh, T. Vĩnh Long Số 2 Bến Đoan, P. Hồng Gai, TP. Hạ Long, Quảng Ninh Số 66, đường Lê Văn Duyệt, TP. Bạc Liêu Thị trấn Thọ Xuân, huyện Thọ Xuân, T. Thanh Hóa

192

Sản phẩm

Địa chỉ

T T

Ngày cấp

Chỉ dẫn địa lý

Số Văn bằng

37 00040

Yên Tử

Hoa Mai Vàng

38 00041

Quảng Ninh

Con Ngán

39 00043

Điện Biên

Gạo

40 00044

Vĩnh Kim Vú sữa Lò Rèn

41 00045

Quảng Trị

Tiêu

42 00046

Cao Phong

Cam quả

43 00047

Vân Đồn

Sá sùng

44 00048

Long Khánh

Quả chôm chôm

45 00049

Ngọc Linh

Sâm củ

46 00050

Vĩnh Bảo

Thuốc lào

47 00051

Quế

Thường Xuân

48 00052

Hà Giang

Cam sành

49 00055

Hưng Yên

Nhãn lồng

50 00056

Quản Bạ

Hồng không hạt

51 00057

Xín Mần Gạo tẻ Già Dui

52 00058

Sơn La

Cà phê

53 00059

Ninh Thuận

Thịt cừu

54 00060

Thẩm Dương

Gạo nếp Khẩu Tan Đón

55 00061

Mường Lò

Gạo

56 00062

Bến Tre

Bưởi Da xanh

18.12. 2013 19.03. 2014 25.09. 2014 28.10. 2014 28.10. 2014 05.11. 2014 12.11. 2015 08.06. 2016 16.08. 2016 19.08. 2016 10.10. 2016 10.10. 2016 23.01. 2017 05.07. 2017 28.09. 2017 28.09. 2017 24.10. 2017 08.12. 2017 26.01. 2018 26.01. 2018

Phường Thanh Sơn, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh Phố Hải Lộc, P. Hồng Hải, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh Số 886 đường 7/5, TP. Điện Biên Phủ, Điện Biên Số 39 Hùng Vương, phường 7, TP. Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang Số 204, đường Hùng Vương, TP.Đông Hà, Quảng Trị Số 08 An Dương Vương, TP. Hòa Bình, Hòa Bình Khu 5 thị trấn Cái Rồng, huyện Vân Đồn, Quảng Ninh Phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai Số 68 Lê Hồng Phong, TP. Kon Tum, tỉnh Kon Tum Đường 20/8, thị trấn Vĩnh Bảo, H. Vinh Bảo, TP. Hải Phòng Thị trấn Thường Xuân, H. Thường Xuân, Thanh Hóa Số 196, đường Trần Hưng Đạo, TP. Hà Giang, Hà Giang Đường An Vũ, P. Hiến Nam, TP. Hưng Yên, Hưng Yên Thị trấn Tam Sơn, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang Tổ 3, thị trấn Cốc Pài, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang Số 19, đường Tô Hiệu, TP. Sơn La, tỉnh Sơn La TP. Phan Rang, Tháp Chàm, Ninh Thuận Thị trấn Khánh Yên, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai Tổ 1, P. Tân An, TX. Nghĩa Lộ, Yên Bái Số 280, đường 3/2, phường 3, TP. Bến Tre, tỉnh Bến Tre

193

Sản phẩm

Địa chỉ

Ngày cấp

Chỉ dẫn địa lý

T T

Số Văn bằng

57 00063

Bến Tre

Dừa uống, nước Xiêm Xanh

58 00064

Hạt tiêu đen

Bà Rịa - Vũng Tàu

26.01. 2018 12.02. 2018

Số 280, đường 3/2, phường 3, TP. Bến Tre, tỉnh Bến Tre P. Phước Hiệp, TP. Bà Rịa, Bà Rịa-Vũng Tàu

59 00065

Ô Loan

Sò huyết

12.02. 2018

Số 8 Trần Phú, phường 7, TP. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên

60 00066

Bình Phước

Hạt điều

61 00067

Ninh Bình

Thịt dê

62 00068

Cao Bằng

Trúc sào và chiếu trúc sào

63 00069

Hà Giang Chè Shan tuyết

64 00073

Hà Giang

Thịt bò

P. Tân Phú, TX. Đồng Xoài, tỉnh Binh Phước P. Đông Thành, TP. Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình Phường Hợp Giang, TP. Cao Bằng, Tỉnh Cao Bằng Đường Trần Hưng Đạo, TP. Hà Giang, tỉnh Hà Giang 196 Trần Hưng Đạo, phường Nguyễn Trãi, tỉnh Hà Giang

65 00070

Bà Rịa, Vũng Tàu

Nhãn xuồng cơm vàng

66 00071

Bà Rịa- Vũng Tàu Cát Lở Bà Rịa, VũngTàu Mãng cầu ta

67 00072

Hương Sơn Nhung hươu

68 00074

Đồng Giao

Quả dứa

13.3.2 018 04.7. 2018 23.7. 2018 16.8. 2018 12.10. 2018 31.01. 2019 31.01. 2019 28.02. 2019 27.05. 2019

149, đường 27/4, TP. Bà Rịa, T.Bà Rịa, Vũng Tàu Thị trấn Phố Châu, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh Tổ 10, phường Bắc Sơn, thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình

Nguồn: [32]

194

Phụ lục 11

Bảng tổng hợp các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà

Việt Nam tham gia (tính đến tháng 10/2020)

TT Viết tắt Hiện trạng Đối tác Phân loại

I Các FTA đã có hiệu lực

1 ASEAN AFTA

2 ASEAN, Trung Quốc ACFTA

3 ASEAN, Hàn Quốc AKFTA

4 ASEAN, Nhật Bản AJCEF

5 Việt Nam, Nhật Bản VJEPA

6 ASEAN, Ấn Độ AIFTA

7 AANZFTA ASEAN, Úc, New Zealand

8 Việt Nam, Chi Lê VCFTA

9 Việt Nam, Hàn Quốc VKFTA Có hiệu lực từ năm 1993 Có hiệu lực từ năm 2003 Có hiệu lực từ năm 2007 Có hiệu lực từ năm 2008 Có hiệu lực từ năm 2008 Có hiệu lực từ năm 2010 Có hiệu lực từ năm 2010 Có hiệu lực từ năm 2014 Có hiệu lực từ năm 2015 FTA truyền thống FTA truyền thống FTA truyền thống FTA truyền thống FTA truyền thống FTA truyền thống FTA truyền thống FTA thế hệ mới hạn chế FTA thế hệ mới hạn chế

10 Có hiệu lực từ năm 2016 FTA thế hệ mới hạn chế VN- EAEUFTA

Việt Nam, Nga, Belarus, Amenia, kazakhstan, Kỷgyzstan

11 CPTPP Có hiệu lực từ 14/01/2019 FTA thế hệ mới

Việt Nam, Canada, Mexico, Peru, Chi Lê, New Zealand, Úc, Nhật Bản, Singapore, Brunei, Malaysia

12 Việt Nam, EU EVFTA Có hiệu lực từ 1/8/2020 FTA thế hệ mới đầy đủ

195

TT Viết tắt Hiện trạng Đối tác Phân loại

13 AHKFTA ASEAN, Hồng Kông (Trung Quốc) FTA truyền thống

Đã có hiệu lực với 5 nước (Thái Lan, Việt Nam, Singapore, Lào, Myanmar) ngày 11/6/2019 II Các FTA đang đàm phán

1 RCEF FTA thế hệ mới hạn chế Khởi động đàm phán tháng 02/2016

2 Chưa rõ

ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, New Zealand Việt Nam, EFTA (Thụy Sĩ, Na Uy, Iceland) Việt Nam - EFTA FTA

3 Việt Nam, Israel Chưa rõ Vietnam- Israel FTA Khởi động đàm phán tháng 5/2012 Khởi động đàm phán tháng 12/2015

Nguồn: Trung tâm WTO

195

Phụ lục 12

Chỉ tiêu chất lượng của gạo trắng theo TCVN 11888:2017

Thành phần của hạt, % khối lượng

Các loại hạt khác, % khối lượng, không lớn hơn

Tỷ lệ hạt theo chiều dài, % khối lượng

Hạng gạo

Mức xuất

Nhóm gạo

Tấm

Hạt nguyên

Tấm nhỏ

Hạt đỏ

Hạt vàng

Thóc lẫn, số hạt/kg, không lớn hơn

Hạt bạc phấn

Hạt bị hư hỏng

Hạt gạo nếp

Hạt xanh non

Tạp chất, % khối lượng không lớn hơn

Độ ẩm, % khối lượng, không lớn hơn

Hạt rất dài L >7,0 mm

Hạt ngắn L< 6,0 mm

0 0

Hạt sọc đỏ + xát dối 0,25 0,5

Gạo hạt dài

Gạo hạt ngắn

100% loại A ≥ 10 100% loại B ≥ 10 ≥ 5 ≥ 5 - - - - - - - -

5% 10% 15% 20% 25% 5% 10% 15% 20% 25%

≤ 10 ≤ 10 ≤ 15 ≤ 15 < 30 < 50 < 50 < 75 < 70 < 70 < 70 < 70

> 60 ≥ 60 ≥ 60 ≥ 55 ≥ 50 ≥ 45 ≥ 40 ≥ 60 ≥ 55 ≥ 50 ≥ 45 ≥ 40

< 4a < 4,5a ≤ 7b ≤ 12c ≤ 17d ≤ 22e ≤ 27f ≤ 7b ≤ 12c ≤ 17d ≤ 22e ≤ 27f

≤ 0,1 ≤ 0,1 ≤ 0,2 ≤ 0,3 ≤ 0,5 ≤ 0,1 ≤ 0,2 ≤ 0,2 ≤ 0,3 ≤ 0,5 ≤ 0,1 ≤ 0,2

2,0 2,0 5,0 5,0 7,0 2,0 2,0 5,0 5,0 7,0

0,2 0,2 0,5 0,1 1,25 1,25 1,5 0,5 0,1 1,25 1,25 1,5

3,0 5,0 6,0 7,0 7,0 7,0 8,0 6,0 7,0 7,0 7,0 8,0

0,25 0,5 1,0 1,25 1,5 2,0 2,0 1,0 1,25 1,5 2,0 2,0

1,0 1,0 1,5 1,5 2,0 2,0 2,0 1,5 1,5 2,0 2,0 2,0

0 0 0,2 0,2 0,3 0,5 1,0 0,2 0,2 0,3 0,5 1,0

0,05 0,05 0,1 0,2 0,2 0,3 0,5 0,1 0,2 0,2 0,3 0,5

3 4 5 5 7 7 10 5 5 7 7 10

14,0 14,0 14,0 14,0 14,0 14,5 14,5 14,0 14,0 14,0 14,5 14,5

Rất kỹ Rất kỹ Kỹ Kỹ Vừa phải Vừa phải Bình thường Kỹ Kỹ Vừa phải Vừa phải Bình thường

Ghi chú: L là chiều dài trung bình của hạt gạo (a Chiều dài tấm từ 0,5L đến 0,8L; b Chiều dài tấm từ 0,5L đến 0,8L; c Chiều dài tấm từ 0,35L đến 0,7L; d Chiều dài tấm từ 0,35L đến 0,65L; e Chiều dài tấm từ 0,25L đến 0,6L; f Chiều dài tấm từ 0,25L đến 0,5L.

* Nguồn: Cục Chế biến và phát triển thị trường nông sản, Bộ NN&PTNT