BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
PHẠM QUỐC QUYẾT
SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HÓA NÔNG
SẢN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số : 9310102
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS Đỗ Huy Hà
2. TS Đỗ Văn Nhiệm
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tác giả. Các số liệu, kết quả trình bày trong
luận án là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng,
không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN Phạm Quốc Quyết
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt TT Chữ viết đầy đủ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH 1.
Diễn đàn kinh tế thế giới WEF 2.
HHNS 3. Hàng hóa nông sản
ASEAN 4. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
5. FTA Hiệp định thương mại tự do
6. HTX Hợp tác xã
7. KH&CN Khoa học và công nghệ
8. AFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
9. NLCT Năng lực cạnh tranh
10. Ngân hàng thế giới WB
11. Nhà xuất bản Nxb
12. Nông nghiệp và Phát triển nông thôn NN&PTNT
13. SXKD Sản xuất kinh doanh
14. SCT Sức cạnh tranh
15. WTO Tổ chức thương mại thế giới
MỤC LỤC
Trang 5
TRANG BÌA PHỤ LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
11 11 19
1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài có liên quan đến đề tài luận án 1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước có liên quan đến đề tài luận án 1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công
bố và những vấn đề đặt ra luận án cần tập trung giải quyết
26 31
Chương 2. LÝ LUẬN VỀ SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HÓA NÔNG SẢN VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN 2.1. Một số vấn đề chung về hàng hóa nông sản và sức cạnh tranh của
hàng hóa nông sản Việt Nam
31
2.2. Tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh
tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam
42
2.3. Kinh nghiệm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản
53
ở một số quốc gia và bài học rút ra cho Việt Nam Chương 3. THỰC TRẠNG SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HÓA
NÔNG SẢN VIỆT NAM
71 71
3.1. Ưu điểm và hạn chế về sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam 3.2. Nguyên nhân ưu điểm, hạn chế và một số vấn đề đặt ra cần giải quyết nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam thời gian tới
105
Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HÓA NÔNG SẢN VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI
120 120
4.1. Quan điểm về nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam 4.2. Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản
Việt Nam thời gian tới
127 159
161 162 175
KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
4
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH
Tên bảng Trang
TT
01. Bảng 3.1. Chi phí sản xuất lúa ở Việt Nam so với Thái Lan từ 77 năm 2011 - 2019
02. Bảng 3.2. Giá gạo xuất khẩu của các nước xuất khẩu gạo hàng 78 đầu thế giới năm 2011 - 2019
03. Bảng 3.3. So sánh chi phí sản xuất cà phê của Việt Nam với 79 một số nước năm 2019
04. Bảng 3.4. Giá cà phê xuất khẩu của các nước xuất khẩu cà phê 80 hàng đầu thế giới
05. Bảng 3.5. So sánh chi phí sản xuất trung bình một số loại quả 80 của Việt Nam với một số nước năm 2019
06. Bảng 3.6. So sánh chi phí chăn nuôi lợn Việt Nam với một số 82 nước năm 2019
83
07. Bảng 3.7. So sánh giá thịt lợn hơi trung bình các tháng trong năm 2019 các khu vực trong nước của Việt Nam với Trung Quốc 08. Bảng 3.8. So sánh chi phí chăn nuôi gia cầm Việt Nam với một 84 số nước năm 2019
09. Bảng 3.9. Diện tích, năng suất, sản lượng lúa sản xuất và sản 89 lượng gạo xuất khẩu Việt Nam từ năm 2011 - 2019
10. Bảng 3.10. Diện tích, năng suất, sản lượng sản xuất và sản 91 lượng xuất khẩu cà phê Việt Nam năm 2011 - 2019
11. Bảng 3.11. Kim ngạch và thị phần xuất khẩu rau quả Việt Nam 93 2011 - 2019
93
95 12. Bảng 3.12. Sản lượng sản xuất, sản lượng xuất khẩu, nhập khẩu, thị phần thịt lợn hơi xuất khẩu Việt Nam 2011 - 2019 13. Bảng 3.13. Sản lượng sản xuất, sản lượng xuất khẩu, nhập khẩu, thị phần thịt gia cầm xuất khẩu Việt Nam 2011 - 2019
Tên hình
14. Hình 3.1. Cơ cấu chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam so 97 với Thái Lan năm 2019
15. Hình 3.2. Tỷ trọng lao động trong tổng chi phí sản xuất lúa của 100 các nước.
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại hiện nay,
thị trường tiêu thụ hàng hóa đã vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia. Vấn đề
cạnh tranh ở tầm quốc tế của sản phẩm hàng hóa trở thành đề tài nóng bỏng và
cấp thiết đối với mọi quốc gia. Các nước, một mặt kêu gọi tự do hóa mậu dịch,
mặt khác lại có những chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước, làm cho thương
mại quốc tế bị bóp méo, gây ra sự bất đồng trong các cuộc đàm phán. Thực chất
của những chính sách thương mại này đều nhằm mục đích nâng cao SCT của
hàng hóa sản xuất trong nước ở trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Lĩnh
vực được bảo hộ và gây tranh cãi nhiều nhất là lĩnh vực nông nghiệp.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, đa số người dân sống ở nông thôn và làm nghề sản xuất nông nghiệp. Vì vậy nông nghiệp, nông thôn và nông dân nói
chung; sản xuất, xuất khẩu, nâng cao SCT của HHNS nói riêng, luôn là mối quan tâm hàng đầu trong các chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2010 - 2020, Đảng ta xác định: “Phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh
tranh cao, thân thiện với môi trường, mở rộng xuất khẩu” [41, tr.195-196].
Thực tiễn, trải qua hơn 30 năm đổi mới, nền nông nghiệp Việt Nam nói
chung, năng suất, chất lượng và SCT của HHNS nói riêng, đã đạt được những
kết quả quan trọng; từ một nước thiếu lương thực nay đã vươn lên trở thành
một trong các quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới. Nhiều HHNS
đã trở thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, tạo nguồn thu
không nhỏ cho nền kinh tế đất nước, góp phần quan trọng vào thành công của
công cuộc xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của nông dân, phát triển
nông thôn, làm cơ sở ổn định phát triển kinh tế-xã hội đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, SCT của một số mặt
hàng nông sản Việt Nam vẫn còn thấp so với nông sản cùng loại của các nước
trong khu vực và trên thế giới. Điều này được biểu hiện cụ thể: chất lượng tuy
6
đã được cải thiện song vẫn còn ở mức thấp so với các nước có nền nông nghiệp
phát triển, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường; chi phí sản
xuất vẫn ở mức cao so với những lợi thế vốn có của đất nước; giá trị gia tăng thấp;
sản lượng không ổn định; thị trường xuất khẩu chưa đa dạng, thị phần còn nhỏ nhất
là trên thị trường các nước phát triển Mỹ, EU, Nhật Bản; số sản phẩm có thương
hiệu còn ít,.. Những hạn chế trên cũng là nguyên nhân dẫn tới hiện tượng “Mất mùa
được giá, được mùa rớt giá” thường xuyên diễn ra, gây thất thoát, lãng phí cả về vật
chất và tinh thần cho người sản xuất, nhất là bà con nông dân, ảnh hưởng không
nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế đất nước.
Trong thời gian tới, Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, HHNS Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt hơn với HHNS của các nước trên thế giới, kể cả ở thị trường trong nước. Nguy cơ “Thua trên sân nhà” sẽ xảy ra nếu như chúng ta không có các giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao SCT cho HHNS.
Vì vậy, nâng cao SCT của HHNS Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế vừa là tất yếu khách quan, vừa là yêu cầu cấp bách trong quá trình phát triển kinh tế nhanh, bền vững, những năm trước mắt cũng như lâu dài. Việc tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ hơn về lý luận và thực tiễn, đề xuất những quan điểm, giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao SCT của HHNS Việt Nam trong thời gian tới là một vấn đề hết sức cấp thiết.
Xuất phát từ những vấn đề trên, tác giả chọn đề tài “Sức cạnh tranh
của hàng hóa nông sản Việt Nam” làm luận án tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về SCT của HHNS Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất các quan điểm và giải pháp nâng cao SCT của HHNS Việt Nam trong thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án thực hiện một số
nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
7
Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến SCT của HHNS và
tìm ra khoảng trống khoa học mà đề tài luận án cần tập trung nghiên cứu, giải quyết.
Làm rõ cơ sở lý luận về SCT của HHNS Việt Nam, khảo cứu kinh
nghiệm thực tiễn của một số quốc gia về nâng cao SCT của HHNS thời gian
qua, rút ra bài học cho Việt Nam có thể tham khảo.
Phân tích những ưu điểm, hạn chế; chỉ ra nguyên nhân của những ưu
điểm và hạn chế; rút ra những vấn đề đặt ra cần tập trung giải quyết từ thực
trạng SCT của HHNS Việt Nam để làm cơ sở đề ra quan điểm, giải pháp nâng
cao SCT của HHNS Việt Nam trong thời gian tới.
Đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao SCT của hàng hóa nông sản
Việt Nam thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu về SCT của HHNS
với tư cách là cạnh tranh của sản phẩm ở cấp độ quốc gia Việt Nam, trong
mối tương quan so sánh với sản phẩm cùng loại của quốc gia khác dưới góc
độ nghiên cứu của khoa học Kinh tế chính trị. Hàng hóa nông sản mà luận án
nghiên cứu là các sản phẩm của nông nghiệp theo nghĩa hẹp (bao gồm trồng
trọt và chăn nuôi, không nghiên cứu lâm sản và thủy sản). Trong đó đi sâu
nghiên cứu SCT của 5 mặt hàng là gạo, cà phê, rau quả, thịt lợn, thịt và trứng
gia cầm. Đây là 5 sản phẩm trong số 13 sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc
gia theo Thông tư 37/2018 của Bộ NN&PTNT, đại diện cho các mặt hàng đã,
đang và sẽ có lợi thế cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Phạm vi không gian: Luận án nghiên cứu SCT của HHNS Việt Nam trên
thị trường trong nước và thị trường quốc tế (tập trung vào thị trường xuất khẩu
là chủ yếu; đối thủ cạnh tranh là những sản phẩm nông sản cùng loại của các
quốc gia khác đang cạnh tranh với sản phẩm của Việt Nam trên thị trường).
Phạm vi thời gian: Luận án khảo sát từ năm 2011 đến năm 2019.
8
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về phát triển kinh tế hàng hóa, nông nghiệp hàng hóa trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Cơ sở thực tiễn
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở kinh nghiệm về nâng cao SCT của
HHNS ở một số quốc gia; thực trạng SCT của HHNS Việt Nam thông qua các
số liệu, tư liệu đã được công bố của các bộ, ban, ngành, địa phương có liên
quan ở Việt Nam từ năm 2011 đến năm 2019 và kế thừa kết quả nghiên cứu
của một số công trình khoa học liên quan trực tiếp đến luận án.
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên
ngành; trong đó chú trọng phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lôgíc và
lịch sử, phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh và phương pháp chuyên gia.
Phương pháp trừu tượng hóa khoa học: Sử dụng phương pháp này,
luận án không đi sâu vào nghiên cứu hết các nội dung, tiêu chí đánh giá SCT
của tất cả các mặt hàng nông sản mà chỉ tập trung vào 4 tiêu chí là: chất
lượng, giá cả, thương hiệu và thị phần của 5 nhóm mặt hàng chính là: gạo, cà
phê, rau quả, thịt lợn, thịt và trứng gia cầm. Đây là những nội dung, tiêu chí
đánh giá cơ bản về SCT của hàng hóa và những mặt hàng chủ lực đại diện,
mà khi nghiên cứu sẽ phản ánh được tương đối đầy đủ bản chất cốt lõi về SCT
của HHNS Việt Nam theo phạm vi nghiên cứu. Phương pháp này áp dụng ở
chương 2 để phân tích làm rõ quan niệm trung tâm của luận án; xác định các
nhân tố ảnh hưởng đến SCT của HHNS; đồng thời, cũng được sử dụng trong
khảo sát, khái quát hóa những kinh nghiệm về nâng cao SCT của HHNS ở các
quốc gia thành những bài học cho Việt Nam có thể tham khảo.
9
Phương pháp kết hợp logic và lịch sử: Được sử dụng ở chương 2 để
xây dựng khung lý luận; sử dụng ở chương 3 để đánh giá thực trạng SCT của
HHNS Việt Nam; sử dụng trong chương 4 để cụ thể hóa các quan điểm thành
các giải pháp khả thi, phù hợp với thực tiễn SCT của HHNS Việt Nam.
Phương pháp phân tích - tổng hợp: được sử dụng trong chương 1 của luận
án để đánh giá, khái quát hóa các công trình khoa học đã công bố, từ đó rút ra
những vấn đề mà luận án có thể kế thừa, phát triển. Phương pháp này, cũng được
sử dụng trong chương 3 và chương 4, để phân tích thực trạng SCT của HHNS
Việt Nam, rút ra những vấn đề cần tập trung giải quyết, làm rõ nội dung quan
điểm và luận giải các giải pháp nâng cao SCT của HHNS Việt Nam thời gian tới.
Phương pháp thống kê - so sánh: được sử dụng chủ yếu trong chương 3 của
luận án, nhằm phân tích, tổng hợp, xử lý các số liệu, tư liệu đã thu thập, so sánh số
liệu qua từng năm hoặc so với các quốc gia khác để minh chứng, làm rõ những
thành tựu, hạn chế SCT của HHNS Việt Nam từ năm 2011 đến năm 2019.
5. Những đóng góp mới của luận án
Luận án được thực hiện thành công sẽ có những đóng góp mới về khoa
học, như:
Đã đưa ra và làm rõ quan niệm, tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến SCT của HHNS Việt Nam, dưới góc độ tiếp cận của Kinh tế chính trị học Mác - Lênin.
Phân tích, đánh giá thực trạng SCT của HHNS Việt Nam; xác định nguyên nhân và chỉ ra bốn vấn đề bức thiết cần tập trung giải quyết nhằm nâng cao SCT của HHNS Việt Nam trong thời gian tới.
Luận án đã đề xuất được hệ thống gồm năm quan điểm và năm giải
pháp nâng cao SCT của HHNS Việt Nam trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận
Luận án bước đầu góp phần bổ sung làm rõ hơn về lý luận SCT của
HHNS Việt Nam, nâng cao hiệu quả quán triệt, thực thi đường lối, chủ trương
10
của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển sản xuất nông
nghiệp hàng hóa nói chung, nâng cao SCT của HHNS nói riêng.
Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong học tập, giảng dạy và
nghiên cứu khoa học ở một số môn học, khối ngành kinh tế chính trị, kinh tế
nông nghiệp và những môn học khác liên quan. Luận án là những gợi ý khoa
học để các vùng, các địa phương, các nhà quản lý, các chủ thể sản xuất, kinh
doanh HHNS có thể tham khảo.
7. Kết cấu của luận án
Luận án bao gồm: Phần mở đầu, 4 chương (10 tiết), kết luận, danh mục
các công trình của tác giả đã công bố, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
11
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài có liên quan đến đề tài
luận án
1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến cạnh tranh, sức cạnh
tranh của quốc gia, của ngành, của doanh nghiệp và sản phẩm
Michael E. Porter (1980), Competitive Strategy - Techniques for
Analyzing Industries and Competitors (Chiến lược cạnh tranh: Kỹ thuật phân
tích ngành và đối thủ cạnh tranh) [140]. Trong tác phẩm này Michael E.
Porter đã đưa ra những kỹ thuật để phân tích ngành công nghiệp và đối thủ
cạnh tranh, trong đó đặc biệt Porter đã phân tích làm rõ cơ cấu của ngành,
những yếu tố quyết định sức cạnh tranh trong ngành (gồm 5 yếu tố quan trọng
là: Nhà cung cấp, khách hàng, các sản phẩm dịch vụ thay thế, những đối thủ
tiềm năng và cạnh tranh giữa các đối thủ trong ngành), chu kỳ sống của sản
phẩm, khung phân tích và dự báo sự vận động của ngành. Theo Micheal
Porter: Tiêu chí để đánh giá sức cạnh tranh của nền kinh tế là năng suất sản
xuất của quốc gia, đây cũng là yếu tố chủ yếu của sự phát triển bền vững và
cũng là yếu tố căn bản biểu thị mức thu nhập bình quân đầu người của mỗi
nước. Do vậy mỗi chủ thể trong nền kinh tế muốn nâng cao SCT phải không
ngừng nâng cao năng suất sản xuất, bằng cách liên tục cải tiến và đổi mới.
Michael E. Porter (1985), Competitive Advantage: Creating and
Sustaining Superior Performance (Lợi thế cạnh tranh: Tạo lập và duy trì hiệu
suất cao) [141]. Trong tác phẩm này, trên cơ sở quan niệm về chuỗi giá trị,
Porter phân tích quá trình tạo nên giá trị và tạo lập lợi thế cạnh tranh của sản
phẩm từ khi sản xuất đến tay người tiêu dùng. Theo Porter: Chuỗi giá trị là
tổng thể những hoạt động liên quan đến sản xuất, tiêu thụ một sản phẩm hoặc
dịch vụ nào đó; tác giả cho rằng, trong chuỗi giá trị bao gồm có 9 hoạt động
(5 hoạt động cơ bản và 4 hoạt động bổ trợ). Các hoạt động cơ bản bao gồm
một chuỗi những công việc từ cung cấp nguyên vật liệu đầu vào; gia công sản
12
phẩm; phân phối sản phẩm; hoạt động bán hàng và các dịch vụ sau bán hàng.
Những hoạt động cơ bản đó trực tiếp liên quan đến luồng di chuyển của quá
trình tạo ra giá trị sử dụng của sản phẩm và đưa sản phẩm đến với người tiêu
dùng. Các hoạt động bổ trợ bao gồm: Hoạt động quản trị thu mua và kiểm
soát quá trình lưu chuyển vật tư qua chuỗi giá trị; nghiên cứu và phát triển
(R&D); Hoạt động quản trị nguồn nhân lực;… Hoạt động bổ trợ tuy không
trực tiếp liên quan đến việc tạo ra giá trị sử dụng cho sản phẩm, nhưng chúng
lại tham gia vào toàn bộ quá trình tạo ra giá trị của các hoạt động cơ bản và có
chức năng trợ giúp cho các hoạt động cơ bản. Để tạo ra giá trị gia tăng, đồng
thời tạo lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm, đòi hỏi doanh nghiệp cần phải tối ưu
hóa và tạo lợi thế cạnh tranh ở tất cả các hoạt động trong chuỗi giá trị.
Michael E. Porter (1990), The Competitive Advantage of Nations
(Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia) [142]. Trong cuốn sách này Porter
đã đưa ra mô hình kim cương, đề cập đến các yếu tố ảnh hưởng đến SCT
và sự thịnh vượng của một quốc gia như: Điều kiện cầu; sự ngẫu nhiên; vai
trò chính phủ; điều kiện yếu tố sản xuất; các ngành công nghiệp hỗ trợ và
các ngành công nghiệp có liên quan; chiến lược, cấu trúc và cạnh tranh
trong nước của các công ty. Ngoài ra cuốn sách cũng bàn về lợi thế của các
doanh nghiệp, Porter cho rằng một doanh nghiệp có SCT cao thì có thể có
những ưu thế hơn so với các doanh nghiệp cùng ngành khác, như: Thị
phần, quy mô hoạt động, uy tín, hình ảnh doanh nghiệp, chất lượng sản
phẩm, đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng, giá thành sản phẩm, hiệu
quả của mạng lưới bán hàng, đầu tư cho tiếp thị, năng lực nghiên cứu và
phát triển và năng lực quản lý và điều hành.
John H. Dunning (1993), “Internationalizing Porter ’s diamond”
(Quốc tế hóa mô hình kim cương của Porter) [138]. Trong bài báo
Dunning đã mở rộng mô hình kim cương của Porter trong điều kiện toàn
cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới. Tác giả cho rằng mô hình kim cương
đã cũ không còn chính xác cho việc đánh giá SCT của các quốc gia, của
ngành trong bối cảnh trao đổi thương mại, đầu tư và hợp tác quốc tế. Vì
13
vậy Dunning đã đưa thêm nhân tố đầu tư nước ngoài vào mô hình kim
cương của Porter để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến SCT của quốc gia
và của ngành.
Alvin G. Wint (2000), Competitiveness in Small Developing Economies:
Insights from the Caribbean (Năng lực cạnh tranh trong các nền kinh tế đang
phát triển nhỏ: Những hiểu biết từ vùng biển Caribbean) [121]. Trong nghiên
cứu này, tác giả đã chỉ ra: Các nền kinh tế nhỏ và đang phát triển đã ý thức
sâu sắc về những thách thức được tạo ra bởi sự hội nhập ngày càng tăng
của thị trường vốn, lao động, sản phẩm và thông tin. Các nhà hoạch định
chính sách từ các nền kinh tế này, đã tìm kiếm một phản ứng hai chiều để
tham gia vào quá trình hội nhập, đó là: Nỗ lực vận động hành lang ngày
càng tăng cho các nền kinh tế này được điều chỉnh đặc biệt, hoặc công
bằng hơn trong các cuộc đối thoại hội nhập thị trường và cải thiện SCT nền
kinh tế của họ. Tác giả đã đi sâu phân tích những cơ hội và thách thức liên
quan đến SCT ngày càng tăng ở các nền kinh tế nhỏ, đang phát triển dựa
trên nghiên cứu được tiến hành ở vùng biển Caribbean. Thông qua đó tác
giả chỉ ra những hoạt động cần thiết để nâng cao SCT như: Điều chỉnh
chính sách vĩ mô của chính phủ; cải thiện môi trường đầu tư; thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài và duy trì tỷ giá hối đoái ổn định, linh hoạt.
Bạch Thụ Cường (2002), Bàn về cạnh tranh toàn cầu [34]. Đây là công
trình nghiên cứu của Giáo sư Bạch Thụ Cường, Hội trưởng Hội nghiên cứu
các tổ chức Thương mại thế giới, do Nhà xuất bản Khoa học xã hội Trung
Quốc ấn hành năm 2000. Cuốn sách được Nguyễn Trình và Lưu Thị Thìn
dich sang tiếng Việt, được Nhà xuất bản Thông tấn ấn hành năm 2002. Nội
dung cuốn sách được chia làm 4 chương. Chương 1, tác giả đã khái quát một
số vấn đề về cạnh tranh quốc tế trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế. Chương
2, tác giả đã phân tích về sự thay đổi của lý luận cạnh tranh trong điều kiện
toàn cầu hóa kinh tế; trong phần này, tác giả đã hệ thống các lý luận canh
tranh từ lý luận cạnh tranh cổ điển như: (lý luận cạnh tranh của Adam Smith,
John Stuart Mill, Darwin, của C.Mác và mô hình tâm lý), lý luận cạnh tranh
14
hiện đại (Lý luận cạnh tranh trường phái cổ điển- mới, trường phái Áo và của
Michael Porter). Từ hệ thống các lý luận về cạnh tranh, tác giả đã phân tích về
sự thay đổi quan niệm cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế.
Chương 3, tác giả giới thiệu về tiền đề, biện pháp và mục tiêu của chính sách
cạnh tranh, tiếp đó tiến hành phân tích hiệu ứng thực thi chính sách cạnh tranh
và quan hệ giữa chính sách cạnh tranh với các chính sách kinh tế khác.
Chương 4, tác giả tập trung phân tích sự hình thành lý luận cạnh tranh quốc tế
và sự lựa chọn chính sánh cạnh tranh ở Trung Quốc.
Ambastha & Momaya (2004), Competitiveness of firms: review of
theory, frameworks and models (Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
đánh giá lý thuyết, khuôn khổ và mô hình) [122]. Trong nghiên cứu của mình
Ambastha và Momaya đã đưa ra lý thuyết, khung phân tích mô hình để làm rõ
SCT ở cấp độ doanh nghiệp. Theo đó SCT của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng
của các yếu tố đó là: Nguồn lực (tài sản của doanh nghiệp, nguồn nhân lực,
cấu trúc, trình độ công nghệ, văn hóa); quy trình (chiến lược, quy trình quản
lý, quy trình tiếp thị, quy trình công nghệ); hiệu suất (chi phí, thị phần, giá cả
và phát triển sản phẩm mới).
Arnis Sauka (2014), Measuring the Competitiveness of Latvian
Companies (Đo lường tính cạnh tranh của các công ty Latvia) [123]. Ở bài viết
này Sauka đã trình bày kết quả nghiên cứu về SCT của các công ty ở Latvia,
tác giả đã xác định 7 nhân tố ảnh hưởng đến SCT ở cấp doanh nghiệp, bao
gồm: Năng lực tiếp cận các nguồn lực; nguồn lực tài chính; chiến lược kinh
doanh; năng lực làm việc của nhân viên; tác động của môi trường; năng lực
kinh doanh so với đối thủ; sử dụng các mạng lưới thông tin liên lạc.
BRICS (2017), Innovative Competitiveness Report - Research Series on
the Chinese Dream and China’s Development Path (BRICS Báo cáo cạnh
tranh sáng tạo năm - Các nghiên cứu về giấc mơ Trung Quốc và con đường
phát triển của Trung Quốc) [128]. Báo cáo của Khối các nền kinh tế mới nổi
(BRICS) gồm 3 phần: Phần tổng hợp, phần báo cáo của các quốc gia trong
khối và phần chuyên đề. Phần báo cáo tổng hợp đã đưa ra dự đoán 5 năm tới
15
sẽ chứng kiến 5 quốc gia trong khối tiếp tục cải thiện khả năng cạnh tranh
sáng tạo quốc gia. Trung Quốc và Nga duy trì đà tăng trưởng mạnh mẽ, Ấn
Độ tăng trưởng với tốc độ vừa phải, Brazil và Nam Phi dần dần tăng tốc. Khả
năng cạnh tranh sáng tạo quốc gia của năm quốc gia trong khối sẽ giữ cho
tăng trưởng ổn định vào năm 2030. Đồng thời trình bày một phân tích toàn
diện về tình hình hiện tại, những thành tựu của hợp tác về khoa học công nghệ
và đổi mới sáng tạo (STI: science technology and innovation) giữa Trung
Quốc và các nước BRICS khác, đề xuất các lĩnh vực ưu tiên trong hợp tác STI
nhằm cung cấp đầu vào quyết định, có giá trị cho các quốc gia BRICS để thúc
đẩy cải thiện khả năng cạnh tranh quốc gia của họ. Phần Báo cáo của các
quốc gia: tập trung phân tích và đưa ra dự đoán về khả năng cạnh tranh sáng
tạo quốc gia của các nước BRICS dựa trên một cuộc khảo sát về sự phát triển
STI của họ và sự hợp tác STI trong khuôn khổ BRICS. Phần Báo cáo chuyên
đề: tập trung vào bốn lĩnh vực liên quan chặt chẽ đến STI như: kinh tế kỹ
thuật số (bao gồm tài chính, năng lượng và nông nghiệp); phân tích chi tiết về
phát triển STI; tiềm năng của các quốc gia trong khu vực có liên quan và khả
năng cạnh tranh sáng tạo quốc gia của các nước BRICS.
Ngoài các công trình nghiên cứu đã nêu trên, có thể nói hiện nay những
nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn trên thế giới về SCT rất phong phú, như
nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (WB), của Diễn đàn kinh tế thế giới
(WEF), Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)... Các lý thuyết cạnh
tranh hiện đại đều tập trung nghiên cứu về vai trò của cạnh tranh, đề cập và
lượng hóa những tiêu chí đánh giá SCT và những biện pháp nâng cao SCT
cho các chủ thể trên thị trường, trong đó cách tiếp cận của WEF và của M.
Porter về cạnh tranh và SCT được hầu hết các quốc gia và tổ chức quốc tế thừa
nhận. Theo cách tiếp cận của WEF thì SCT quốc gia được hợp bởi nhiều nhân
tố đó là: Thể chế, chính sách kinh tế vĩ mô, cơ sở hạ tầng, năng suất lao động
và quy mô thị trường… Trong đó, SCT của doanh nghiệp nội địa là một chỉ số
quan trọng để đánh giá SCT quốc gia. Vai trò của từng yếu tố phản ánh những
điều kiện thuận lợi, hạn chế cụ thể đến SCT của quốc gia cũng như của doanh
16
nghiệp và được cho điểm tính theo thang điểm thứ tự số lượng các quốc gia
được xem xét trên cơ sở tham khảo ý kiến các tổ chức kinh tế hàng đầu trên thế
giới. Tập hợp các chỉ số trên phản ánh kết quả xếp hạng SCT hàng năm của các
nền kinh tế trên thế giới [45, tr.12-13].
1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến sức cạnh tranh của
ngành nông nghiệp và của hàng hóa nông sản
S. Sachdev (1993), International Competitiveness and Agricultural
Export of India (Khả năng cạnh tranh quốc tế và xuất khẩu nông sản của Ấn
Độ) [149]. Trong bài báo này, tác giả đã phân tích lợi thế so sánh trong hoạt
động xuất khẩu nông sản, Theo S. Sachdev, SCT của các sản phẩm nông
nghiệp chịu tác động của việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Do đó, không
dễ để định lượng SCT sản phẩm nông sản của các quốc gia. S. Sachdev đã đi
sâu phân tích lợi thế so sánh của Ấn Độ về thương mại đối với các sản phẩm
nông nghiệp, chỉ ra các loại sản phẩm nông nghiệp mà Ấn độ tập trung sản
xuất, xuất khẩu sẽ có lợi thế và giá trị.
Paul Piang Siong Teng (2013), Agricultural Biotechnology and
Global Competitiveness (Công nghệ sinh học nông nghiệp và khả năng
cạnh trạnh toàn cầu) [146]. Cuốn sách tập hợp các báo cáo trình bày tại
Hội nghị kinh doanh nông nghiệp và thực phẩm Châu Á 2013 về công nghệ
sinh học nông nghiệp và khả năng cạnh tranh toàn cầu. Các bài viết tập
trung phân tích làm rõ về: Các xu hướng ứng dụng công nghệ sinh học
trong nông nghiệp; thương mại hóa công nghệ sinh học nông nghiệp; quản
lý rủi ro trong nông nghiệp; tính bền vững của sản xuất nông nghiệp; vai
trò của công nghệ sinh học trong việc nâng cao năng suất xanh và khả năng
cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp.
A. Siva Sankar and K. Nirmal Ravi Kumar (2014), Domestic and
Export Competitiveness of Major Agrultural Commodities in Andhra Pradesh
- a Case Study (Khả năng cạnh tranh trong nước và xuất khẩu các mặt hàng
nông sản chính ở Andhra Pradesh - một nghiên cứu điển hình) [125]. Nội
dung bài báo nhấn mạnh: Tự do hóa thương mại thế giới trong nông nghiệp
17
đã mở ra khung cảnh tăng trưởng mới; Ấn Độ thực hiện chế độ kinh tế mới
này từ đầu những năm 90 và đã dẫn đến việc thiết lập lại các mục tiêu trong
phát triển nông nghiệp theo hướng cạnh tranh toàn cầu và định hướng xuất
khẩu. Ấn Độ có lợi thế cạnh tranh đối với một số mặt hàng nông sản xuất
khẩu như thóc, bông, ớt, nghệ và ngô, vì gần như tự cung tự cấp đầu vào, chi
phí nhân công thấp và điều kiện khí hậu nông nghiệp đa dạng. Trong thập kỷ
tới, Ấn Độ có khả năng chứng kiến những thay đổi trong mô hình xuất khẩu
các mặt hàng này do cả những hạn chế trong và ngoài nước. Một trong những
hạn chế bên ngoài quan trọng nhất bao gồm việc trợ giá quá mức của các
nước nhập khẩu làm cho hàng hóa Ấn Độ ít cạnh tranh hơn trên thị trường nội
địa. Bài viết đi sâu phân tích khả năng cạnh tranh cả ở trong nước và xuất
khẩu các mặt hàng nông sản chính của huyện Guntur ở Andhra Pradesh. Để
nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản trong thời gian tới,
Ấn Độ cần có những chính sách khuyến khích hơn nữa các chủ thể sản xuất
nông nghiệp, thiết lập một mục tiêu mới cho “Cách mạng xuất khẩu nông
nghiệp”. Quá trình đó, Ấn Độ vẫn phải phấn đấu nắm giữ một vị trí quan
trọng trên thị trường xuất khẩu đối với những hàng hóa nông sản truyền thống
đồng thời phải nghiên cứu phát triển các khu vực mới và hàng hóa mới mà Ấn
Độ có lợi thế như động vật sống, các sản phẩm động vật, rau, hoa quả, cây
thuốc và nông sản chế biến.
Weiming Yao (2015), Impact of Agricultural Modernization, Economic
Growth and Industrialization on the International Competitiveness of
Agricultural (Tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp tới
tăng trưởng kinh tế và năng lực cạnh tranh quốc tế của các sản phẩm nông
nghiệp) [155]. Trong cuốn sách này, các tác giả đã phân tích thực trạng và tác
động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, tới tăng trưởng kinh tế
và khả năng cạnh tranh quốc tế của các sản phẩm nông nghiệp Trung Quốc và
thế giới từ năm 1986 đến 2011. Trên cơ sở đánh giá thực trạng tác giả đã đề
xuất các giải pháp nhằm khắc phục sự chậm chạp của qúa trình CNH, HĐH
18
nông nghiệp Trung Quốc đó là: nâng cao trình độ KH&CN trong nông nghiệp;
sử dụng các quy tắc của Tổ chức thương mại thế giới để tạo môi trường thuận
lợi cho sự phát triển nông nghiệp và cải thiện khả năng cạnh tranh quốc tế của
các sản phẩm nông nghiệp; phát triển mạnh công nghiệp chế biến…
Roger D. Norton (2017), The Competitiveness of Tropical Agriculture,
A Guide to Competitive Potential with Case Studies (Tính cạnh tranh của
nông nghiệp nhiệt đới, hướng dẫn về tiềm năng cạnh tranh với những nghiên
cứu điển hình) [147]. Cuốn sách đã chỉ ra các tiềm năng về cạnh tranh của
nông nghiệp nhiệt đới. Tác giả nhấn mạnh, xuất khẩu trái cây nhiệt đới, quả,
hạt và các loại cây trồng có giá trị cao khác đang phát triển rất nhanh từ các
nước đang phát triển. Tuy nhiên hoạt động sản xuất, xuất khẩu nông sản ở các
nước đang phát triển thường gặp phải những khó khăn, trở ngại trong chuỗi
giá trị như: vấn đề về bảo đảm an toàn thực phẩm, môi trường, mà đặc biệt là
cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu.
Attila Jambor - Suresh Babu (2018), Competitiveness of Global
Agriculture: Policy Lessons for Food Security (Tính cạnh tranh của nông
nghiệp toàn cầu: Bài học chính sách về an ninh lương thực) [124]. Công trình
nghiên cứu về việc kết hợp an ninh lương thực và cạnh tranh nông nghiệp
trong đối xử với nhau của các quốc gia. Tác giả đã hệ thống các quan niệm về
an ninh lương thực, cạnh tranh nông nghiệp; tiến hành đánh giá về những
thách thức an ninh lương thực toàn cầu và khu vực trong bối cảnh hội nhập,
cạnh tranh nông nghiệp ngày một gay gắt. Tác giả nêu lên các mô hình
thương mại; cạnh tranh nông nghiệp toàn cầu và sử dụng nó làm cơ sở để
phân tích an ninh lương thực toàn cầu. Mặt khác tác giả cũng chỉ ra các quốc
gia, khu vực nên tập trung vào nhóm sản phẩm có sức cạnh tranh cao, đồng
thời nêu lên các bài học về chính sách phát triển nông nghiệp của một số quốc
gia đã thành công, khuyến nghị về giải pháp tăng năng lực cạnh tranh nông
nghiệp quốc gia, khu vực và toàn cầu để đạt được mục tiêu an ninh lương
thực bền vững.
19
1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước có liên quan đến đề tài
luận án
1.2.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến cạnh tranh, sức cạnh
tranh của quốc gia, của ngành, của doanh nghiệp và sản phẩm
Viện Nghiên cứu Khoa học thị trường giá cả (2000), Những giải pháp
nhằm phát huy có hiệu quả lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong tiến trình
hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới [115]. Công trình đã tập trung
phân tích những diễn biến về khả năng cạnh tranh của ngành hàng lúa gạo,
ngành xi măng và mía đường, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy có hiệu quả lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong tiến trình
hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới.
Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước
ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế [21]. Công trình nghiên cứu về
SCT của nền kinh tế Việt Nam, đi sâu phân tích SCT của một số mặt hàng
xuất khẩu chủ yếu trong đó có các sản phẩm nông sản như gạo, cà phê, chè,
thủy sản. Để phân tích SCT của sản phẩm, tác giả đã dựa trên các tiêu chí
chính như: chi phí sản xuất, chất lượng và uy tín sản phẩm, giá xuất khẩu,
thị trường tiêu thụ...
Nguyễn Hữu Thắng (2008), Nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay [91].
Cuốn sách đã hệ thống hóa các kết quả nghiên cứu về vấn đề NLCT của doanh
nghiệp, từ đó đưa ra khung lý thuyết mới, sử dụng phương pháp toán học để
lượng hóa các tiêu chí và yếu tố cấu thành NLCT của doanh nghiệp trong xu
thế hội nhập kinh tế quốc tế; tác giả cuốn sách cũng đã nêu lên các nhân tố tác
động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm các yếu tố bên trong
và các yếu tố bên ngoài; đồng thời nhấn mạnh yêu cầu nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp Việt Nam trước bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Đỗ Huy Hà (2011), Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt
Nam gắn với tăng cường quốc phòng ở nước ta hiện nay [46]. Trong cuốn sách
này, tác giả đã đưa ra các khái niệm về cạnh tranh, sức cạnh tranh và nâng cao
20
sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tác
giả làm rõ mối quan hệ giữa nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt
Nam với tăng cường quốc phòng trong hội nhập kinh tế quốc tế, nêu lên các bài
học quốc tế về vấn đề này. Từ thực trạng nâng cao sức cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam thời gian qua và thực trạng của việc gắn kết, tác động của
hoạt động nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam đối với tăng
cường quốc phòng, tác giả đã đưa ra các quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao
sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế gắn
với tăng cường quốc phòng ở nước ta trong trong thời gian tới.
Vũ Văn Phúc (2012), Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam
sau 5 năm gia nhập WTO [79]. Cuốn sách là tập hợp, tuyển chọn các bài tham
luận của Hội thảo “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam sau 5
năm gia nhập WTO”. Nội dung các bài viết phản ánh thực trạng năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam sau 5 năm gia nhập WTO qua nhiều
cách tiếp cận khác nhau: Theo ngành, theo lĩnh vực, theo loại hình doanh
nghiệp… Thời gian 5 năm gia nhập WTO chưa phải là dài, nhưng cũng đủ để
đánh giá sức mạnh nội lực của các doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh
quốc tế ngày càng gay gắt. Các tác giả cũng đưa ra một số giải pháp, kiến
nghị và bài học kinh nghiệm để giúp doanh nghiệp Việt Nam nâng cao NLCT
một cách lành mạnh và bền vững trong thời gian tới.
Nguyễn Duy Hùng (2016), Nâng cao năng lực cạnh tranh của các
công ty chứng khoán Việt Nam [49]. Trong công trình này tác giả đã xác
định hệ thống gồm 7 yếu tố bên trong, tác động đến NLCT của các công ty
chứng khoán Việt Nam, bao gồm: Tiềm lực tài chính; vốn trí tuệ; trình độ
công nghệ; chất lượng sản phẩm; chất lượng dịch vụ; uy tín và hoạt động
xúc tiến thương mại; thương hiệu; mạng lưới hoạt động. Tác giả đã lượng
hóa được mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố bên trong tới NLCT của các
công ty chứng khoán Việt Nam. Từ đó đưa ra giải pháp tương ứng nhằm
nâng cao NLCT cho các công ty chứng khoán Việt Nam trong bối cảnh tự
do hoá thị trường chứng khoán…
21
Phạm Thị Hồng Yến (2017), Cải thiện môi trường kinh doanh nâng
cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong hội nhập FTA [119]. Nội dung cuốn
sách gồm 3 phần chính. Phần 1, tác giả khái quát một số vấn đề lý luận về:
môi trường kinh doanh, NLCT quốc gia, chỉ số NLCT toàn cầu, môi trường
kinh doanh và NLCT cấp tỉnh, thành phố. Phần 2, tác giả đánh giá thực trạng
môi trương kinh doanh và NLCT của quốc gia Việt Nam, nêu lên một số hạn
chế, bất cập cần tập trung bổ sung, hoàn thiện nhằm cải thiện môi trường kinh
doanh và NLCT quốc gia Việt Nam. Theo tác giả, các hạn chế, bất cập đó
thuộc 4 nhóm yếu tố chính, đó là: thể chế và thực thi thể chế; yếu tố về kinh tế
vĩ mô; về tiếp cận các nguồn lực và thị trường; yếu tố về sự phát triển của
doanh nghiệp. Phần 3, tác giả đưa ra một số định hướng và giải pháp đẩy
mạnh cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao NLCT quốc gia một cách
bền vững trong bối cảnh hội nhập AFTA.
Phạm Thu Hương (2017), Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và
vừa, nghiên cứu trên địa bàn Thành phố Hà Nội [51]. Công trình đã đi sâu phân
tích làm rõ cơ sở lý luận về NLCT của doanh nghiệp nhỏ và vừa, đưa ra khái
niệm, các tiêu chí xác định NLCT và các nhân tố ảnh hưởng đến NLCT của doanh
nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Hà Nội. Bằng phương pháp nghiên cứu
định tính và định lượng tác giả đã nêu lên thực trạng NLCT của các doanh nghiệp
nhỏ và vừa trên địa bàn Thành phố Hà Nội thông qua các tiêu chí như: Năng lực
tài chính, năng lực tổ chức quản lý doanh nghiệp, năng lực tiếp cận và đổi mới
công nghệ, năng lực tạo lập các mối quan hệ, năng lực Marketing, năng lực tổ
chức dịch vụ. Thông qua đánh giá thực trạng, tác giả đã đưa ra một số khuyến
nghị đối với doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước nhằm nâng cao
NLCT của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Nguyễn Thị Đức Loan (2017), Quản trị chi phí chiến lược (SCM), công
cụ nâng cao năng lực cạnh tranh trong các doanh nghiệp Việt Nam [58]. Ở
bài viết này, tác giả nhấn mạnh quản lý chi phí có vai trò đặc biệt hữu ích
trong hoạt động SXKD của doanh nghiệp vì nó cho phép sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực, nhất là nguồn lực về tài chính của doanh nghiệp. Ngoài ra,
22
việc quản lý chi phí tốt, sẽ giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp thiết lập
được mục đích đó là: Giảm thiểu chi phí và tối đa hóa lợi nhuận. Quản lý chi
phí là một hoạt động có chức năng như một chiến lược để cắt giảm tất cả các
chi phí không cần thiết, để đạt được mức lợi nhuận cao hơn trong hoạt động
SXKD của doanh nghiệp. Bài báo cũng đã chỉ ra, làm cách nào để giảm thiểu
việc chi thừa trong hoạt động SXKD. Quản lý chi phí chiến lược tốt sẽ nâng
cao hiệu quả SXKD, cũng như tối đa hóa lợi nhuận và nâng cao vị thế cạnh
tranh trên thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam. Quản lý chi phí có hiệu
quả là giảm việc sử dụng các loại tài nguyên, nguyên liệu đầu vào, giảm chi
phí tài sản cố định và chi phí hành chính (việc lập kế hoạch, kiểm soát chi
tiêu, kiểm soát chi phí, xác định chỉ số lợi nhuận trên từng sản phẩm, nghiên
cứu thị trường…). Tác giả khẳng định quản lý chi phí tốt là điều cần thiết để
cạnh tranh về giá của sản phẩm.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến sức cạnh tranh của
ngành nông nghiệp và của hàng hóa nông sản
Nguyễn Đình Long, Nguyễn Tiến Mạnh (1999), Phát huy lợi thế, nâng
cao khả năng cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam [60]. Trong công
trình này các tác giả đã tập trung phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm và tiêu
chí về lợi thế cạnh tranh đối với hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Tác
giả cho rằng, lợi thế cạnh tranh biểu hiện trên các nội dung: chất lượng sản
phẩm, khối lượng sản phẩm, kiểu dáng, mẫu mã, uy tín của sản phẩm, môi
trường kinh tế vĩ mô và giá thành sản phẩm. Từ đó phân tích lợi thế cạnh
tranh của một số nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam như: Lúa gạo, cà
phê, cao su, chè, điều; đồng thời kiến nghị một số giải pháp nhằm phát huy lợi
thế của nông sản xuất khẩu Việt Nam.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2000), Khả năng cạnh tranh
của ngành nông nghiệp Việt Nam: Một sự phân tích sơ bộ trong bối cảnh hội
nhập ASEAN và AFTA [11]. Công trình đã đề cập đến khả năng cạnh tranh
của một số mặt hàng nông sản Việt Nam như gạo, hạt điều, cà phê, đường,
thịt lợn, thông qua các yếu tố như: Chi phí sản xuất và tiếp thị, năng suất, giá
23
cả, kim ngạch xuất khẩu. Thông qua phân tích thực trạng, công trình đã
khuyến nghị một số giải pháp để cải thiện khả năng cạnh tranh của các sản
phẩm nông sản Việt Nam trên thị trường.
Nguyễn Đình Long (2001), Nghiên cứu những giải pháp chủ yếu nhằm
phát huy lợi thế nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển thị trường xuất
khẩu nông sản trong thời gian tới [59]. Trong công trình nghiên cứu này, tác
giả đã phân tích làm rõ các quan niệm cơ bản về lợi thế so sánh và lợi thế
cạnh tranh. Nêu lên những đặc điểm của các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ
yếu của Việt Nam như: (gạo, cao su, chè, cà phê và điều) từ đó đưa ra 2 nhóm
tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh của các mặt hàng trên đó là: nhóm tiêu
chí về định tính gồm (chất lượng và độ an toàn trong sử dụng, kiểu dáng, mẫu
mã sản phẩm, quy mô khối lượng, độ phù hợp của thị hiếu và tập quán của
người tiêu dùng, giá thành sản phẩm,..); nhóm tiêu chí về định lượng gồm
(mức lợi thế so sánh (RCA), chi phí nguồn lực nội địa (DRC).
Ngô Thị Tuyết Mai (2007), Nâng cao sức cạnh tranh một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế [65]. Công trình đã luận giải sâu sắc cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao sức cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam (Gạo, cà phê, chè, cao su) trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó đưa ra dự báo, định hướng, đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu, nhằm nâng cao sức cạnh tranh của của một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Lê Hữu Thành (2009), Sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu chủ lực Việt Nam trong điều kiện tự do hóa thương mại [90]. Ở công trình này, tác giả đã đi sâu phân tích thực trạng sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam. Để phân tích vấn đề này, tác giả đã dựa trên các tiêu chí như: chất lượng và số lượng sản phẩm; giá trị xuất khẩu; uy tín, thương hiệu của sản phẩm... Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng, tác giả đã đề xuất các giải pháp nhằm năng cao sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện tự do hóa thương mại.
24
Nguyễn Thu Quỳnh (2011), Vận dụng kinh tế tri thức nhằm nâng cao
sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam [85]. Bài báo tập trung phân
tích thực trạng sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu nước ta, qua phân tích
tác giả khẳng định, sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu nước ta vẫn còn
thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế về sản xuất nông nghiệp của
Việt Nam, đồng thời chỉ ra một số nguyên nhân đó là: năng suất sản xuất còn
thấp; mức độ áp dụng các tiêu chuẩn, quy trình như GAP (Quy trình thực
hành nông nghiệp tốt), SPS (Hiệp định về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch
động thực vật của WTO) chưa đáp ứng theo yêu cầu; nông sản xuất khẩu chủ
yếu dưới dạng thô và sơ chế; công nghệ xử lý sau thu hoạch còn hạn chế,
năng lực quản lý sản xuất, chế biến chưa đáp ứng yêu cầu, chưa thiết lập được
một cách vững chắc mối liên kết kinh tế giữa các khâu sản xuất, xuất khẩu,
giữa khâu cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra,..; công tác dự
báo thiếu chính xác; các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản quy mô còn nhỏ;..
Từ những nguyên nhân nêu trên, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm vận
dụng kinh tế tri thức vào sản xuất, chế biến, nâng cao năng suất, chất lượng và
SCT cho nông sản xuất khẩu của Việt Nam.
Trần Hoa Phượng (2013), Lợi thế xuất khẩu nông sản của Việt Nam
sau khi gia nhập WTO [80]. Cuốn sách gồm 3 chương: ở chương 1 tác giả
trình bày các lý luận về lợi thế trong quan hệ thương mại quốc tế, những quy
định của WTO về nông sản xuất khẩu và kinh nghiệm phát huy lợi thế trong
xuất khẩu nông sản sau khi gia nhập WTO của một số nước. Chương 2, tác
giả đã đề cập đến 3 nội dung: Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi thế hàng nông
sản xuất khẩu của Việt Nam (điều kiện tự nhiên, nguồn nhân lực, khoa học và
công nghệ, vốn, cơ chế chính sách); thực trạng phát triển lợi thế của Việt Nam
trong xuất khẩu nông sản sau khi gia nhập WTO (về sản lượng, năng suất, chi
phí sản xuất và giá trị xuất khẩu; thị phần xuất khẩu, thị trường tiêu thụ; chất
lượng nông sản, lợi thế cạnh tranh); đánh giá lợi thế xuất khẩu nông sản của
Việt Nam sau khi gia nhập WTO (những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và
25
thách thức, nguyên nhân). Chương 3, tác giả đưa ra các dự báo về xu hướng
phát triển một số mặt hàng nông sản chủ yếu và quan điểm cơ bản về phát huy
lợi thế trong xuất khẩu nông sản sau khi gia nhập WTO.
Phạm Thành Công (2013), Định hướng phát triển thương hiệu nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam hiện nay [28].
Bài viết phân tích và đánh giá thực trạng về khả năng cạnh tranh và khả năng phát
triển thương hiệu hàng nông sản Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm
2012, nhấn mạnh vai trò của thương hiệu trong vấn đề nâng cao năng lực cạnh
tranh hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam, từ đó đề xuất định hướng nhằm
từng bước phát triển thương hiệu nông sản Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2018), Kinh tế Việt
Nam với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP): Nâng cao năng lực cạnh tranh nhìn từ nông nghiệp [78]. Nội dung
bài viết nhận định: Việt Nam tham gia (CPTPP) là hội nhập với những “gã
khổng lồ” đặt ra đòi hỏi về năng lực cạnh tranh hơn là những lợi thế mà doanh
nghiệp có được. Để các thị trường chấp nhận nông sản Việt Nam, không chỉ
dựa vào tính lạ, mà bài toán đặt ra là cần phải nâng cao chất lượng, giá trị
dinh dưỡng sản phẩm, bao bì sản phẩm… Bài viết đề xuất cần nâng cao sức
cạnh tranh trên cả ba cấp độ: Cấp độ quốc gia, cấp độ doanh nghiệp và cấp
độ sản phẩm. Cùng với đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp
cần nắm chắc thông tin về thị trường như: triển vọng, tính cạnh tranh sản
phẩm, nhãn mác, bao bì, phù hợp với tôn giáo, văn hóa của các nước nhập
khẩu... Mọi thông tin đó cần được các Tuỳ viên Sứ quán hỗ trợ cung cấp cho
doanh nghiệp.
Ngoài ra, có thể nói còn có rất nhiều công trình nghiên cứu khác đã được
công bố, đề cập đến cơ sở lý luận, thực trạng và giải pháp, nhằm nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế, của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, của
ngành nông nghiệp và của hàng hóa nông sản Việt Nam nói riêng; các bài viết
được đăng tải trên nhiều báo và tạp chí khác nhau, nhất là các tạp chí kinh tế.
26
1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã
công bố và những vấn đề đặt ra luận án cần tập trung giải quyết
1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố
Qua tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến SCT của
hàng hóa nông sản, nghiên cứu sinh rút ra một số vấn đề chủ yếu sau:
Một là, về lý luận sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam.
Các công trình đã đề cập đến nhiều khía cạnh như: quan niệm, vai trò của
cạnh tranh, SCT của hàng hóa nói chung, SCT của HHNS nói riêng; quan
niệm, đặc điểm của HHNS; sự cần thiết phải nâng cao SCT của HHNS trong
điều kiện hội nhập; phân tích, làm rõ lý luận về cạnh tranh, SCT và sức cạnh
tranh của HHNS; xây dựng cơ sở lý luận cho nâng cao SCT của HHNS ở một
số quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam. Đây là những tư liệu quan trọng, giúp
cho tác giả luận án hiểu sâu sắc thêm về cạnh tranh, SCT, về hàng hóa nông
sản; gợi mở ra hướng nghiên cứu mới, đồng thời kế thừa, phát triển có chọn lọc
để tác giả hoàn thành công trình luận án của mình.
Hai là, về thực trạng sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản.
Các công trình đã có sự khảo sát, đánh giá khái quát về SCT của HHNS
của một số quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam. Đặc biệt, có một số đề tài,
hội thảo khoa học do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công
thương tổ chức, đã đánh giá những ưu điểm và hạn chế về SCT của HHNS
Việt Nam. Thông qua đó, giúp cho nghiên cứu sinh có thêm tư liệu để phân
tích, đánh giá một cách khách quan và toàn diện về SCT của HHNS Việt
Nam trong thời gian qua, chỉ ra những mâu thẫn từ thực trạng cần giải quyết;
đồng thời làm cơ sở để đề xuất các quan điểm, giải pháp nâng cao SCT của
HHNS Việt Nam trong thời gian tới.
Ba là, về giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam.
Dưới những góc độ tiếp cận khác nhau, các công trình đã đề xuất một số
quan điểm, phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao SCT của các sản
phẩm nông sản Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế
27
quốc tế. Các quan điểm, giải pháp mà các công trình đưa ra đều tập trung
vào khâu đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách của nhà nước; quy hoạch
vùng sản xuất tập trung; nâng cao chất lượng nông sản; xây dựng thương
hiệu; phát triển thị trường,…Tuy nhiên, các quan điểm, giải pháp mà các
công trình đề cập, chưa mang tính đồng bộ, hệ thống và đã lạc hậu so với
sự vận động phát triển của thực tiễn.
Như vậy, qua tổng quan các công trình khoa học đã công bố, cho
thấy: bằng những cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã đề cập đến những
mặt, những khía cạnh khác nhau về cạnh tranh nói chung, cạnh tranh của
ngành nông nghiệp và của HHNS nói riêng. Tuy nhiên, chưa có công trình
nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện, đầy đủ và cập nhật dưới
góc độ khoa học kinh tế chính trị về SCT của hàng hóa nông sản Việt Nam,
đặc biệt là các mặt hàng (Gạo, cà phê, rau quả, thịt lợn, thịt và trứng gia
cầm). Do vậy, đề tài “Sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam”
mà tác giả nghiên cứu là một công trình khoa học độc lập, đảm bảo tính
cấp thiết, có tính thực tiễn cao và không trùng lặp với các công trình khoa
học đã được công bố.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra luận án cần tập trung giải quyết
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án, có
thể thấy: các công trình mặc dù đã đạt được những giá trị khoa học nhất định,
nhưng vẫn còn những khoảng trống về mặt lý luận và thực tiễn, đòi hỏi luận
án phải trả lời những câu hỏi sau:
Một là, dưới góc độ nghiên cứu của khoa học Kinh tế chính trị thì SCT
của HHNS Việt Nam trong điều kiện mới hiện nay được hiểu như thế nào? Để
đánh giá SCT của HHNS Việt Nam cần phải dựa trên những tiêu chí gì? Sức
cạnh tranh của HHNS Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của những nhân tố nào?
Để nâng cao SCT của HHNS trong những năm tới, đáp ứng yêu cầu phát triển
của ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững, Việt Nam cần học tập
những kinh nghiệm gì của các nước trên thế giới?
28
Đây là khung lý luận cơ bản của luận án, có vai trò hết sức quan trọng,
nhằm đảm bảo cho nghiên cứu sinh thực hiện được đúng mục đích, nhiệm vụ
của luận án. Thực hiện vấn đề này, trước hết nghiên cứu sinh cần phải kế thừa
các quan niệm về cạnh tranh, SCT của hàng hóa của một số tác giả, trong các
công trình khoa học đã công bố, để xây dựng quan niệm SCT của HHNS Việt
Nam, dưới góc độ nghiên cứu của khoa học Kinh tế chính trị. Đặc biệt, luận
án cần làm rõ các tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến SCT của
HHNS Việt Nam, để từ đó có căn cứ cụ thể, làm cơ sở lý luận cho việc khảo
sát, đánh giá thực trạng và đề xuất các quan điểm, giải pháp nâng cao SCT
của HHNS Việt Nam trong thời gian tới. Đồng thời luận án tập trung khảo
cứu kinh nghiệm về nâng cao SCT của hàng nông sản ở một số nước trên thế
giới, cụ thể là các nước: Thái Lan, Malaysia, Israel, từ đó rút ra những bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam có thể tham khảo để nâng cao SCT của HHNS
trong thời gian tới.
Hai là, thực trạng SCT của HHNS Việt Nam thời gian qua ra sao? Có
những ưu điểm và hạn chế nào? Nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế đó
là gì? Những vấn đề gì cần tập trung giải quyết trong thời gian tới để Việt
Nam thực hiện tốt việc nâng cao SCT của HHNS?
Với khung lý luận đã được xây dựng, luận án sẽ khảo sát, đánh giá thực
trạng SCT của HHNS Việt Nam từ năm 2011 - 2019. Quá trình đánh giá thực
trạng không chỉ dừng lại ở việc đưa ra những con số thống kê đơn thuần, mà luận
án sẽ đánh giá một cách khách quan, toàn diện trong đó đi sâu vào 5 nhóm mặt
hàng chủ lực là gạo, cà phê, rau quả và thịt lợn, thịt và trứng gia cầm để minh
chứng. Từ đó chỉ rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan của những ưu điểm, hạn
chế; những vướng mắc cần phải tháo gỡ để thúc đẩy phát triển sản xuất nông sản
hàng hóa nói chung, nâng cao năng suất, chất lượng và SCT cho HHNS nói riêng.
Ba là, để nâng cao SCT của HHNS trong thời gian tới, Việt Nam cần
thực hiện những quan điểm, giải pháp nào?
Để nâng cao SCT của HHNS trong thời gian tới, không thể chỉ dựa vào
một vài giải pháp có tính chất riêng lẻ, đơn thuần mà cần phải có hệ thống các
29
giải pháp mang tính đồng bộ và toàn diện. Vì vậy, trên cơ sở phân tích các
hạn chế về SCT của HHNS Việt Nam những năm qua, tác giả luận án đề
xuất hệ thống quan điểm và giải pháp tương đối chặt chẽ và hoàn chỉnh,
nhằm nâng cao SCT của HHNS Việt Nam trong thời gian tới. Trong đó đi
sâu phân tích, làm rõ cơ sở, nội dung, yêu cầu và biện pháp thực hiện của
từng giải pháp, sát với đặc điểm và điều kiện của Việt Nam, nhằm tạo ra sự
đột phá trong phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa nói chung, nâng
cao SCT của HHNS nói riêng. Việc đề xuất, phân tích các quan điểm, giải
pháp luôn dựa trên những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; các nghị quyết, quyết định, quy hoạch,
kế hoạch, đề án của Chính phủ, các bộ, ngành liên quan và cấp ủy, chính
quyền các địa phương, nhất là về cơ cấu lại nền kinh tế nói chung, chương
trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới và đề án tái cơ cấu
ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền
vững nói riêng.
30
Kết luận chương 1
Liên quan đến đề tài luận án, có nhiều công trình nghiên cứu khoa học
đã công bố, bước đầu đã đề cập đến một số nội dung như: cạnh tranh, SCT
của quốc gia, của doanh nghiệp, của sản phẩm và SCT của HHNS xuất khẩu.
Bằng những cách tiếp cận khác nhau, các công trình đã khẳng định vị trí, tầm
quan trọng và tính tất yếu của cạnh tranh nói chung, cạnh tranh ở các cấp độ
nói riêng đối với sự phát triển của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường.
Đồng thời, đã đi sâu phân tích, luận giải và đưa ra các quan niệm về cạnh
tranh, SCT, tiêu chí đánh giá, các nhân tố ảnh hưởng tới SCT ở các cấp độ.
Một số công trình nghiên cứu cũng đã đánh giá thực trạng, đề xuất quan điểm,
phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao SCT cho các chủ thể.
Kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài
luận án đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, giúp cho tác giả nhận thức một
cách đầy đủ, toàn diện, hệ thống về những vấn đề liên quan đến đề tài nghiên
cứu. Kết quả nghiên cứu của các công trình đã cung cấp cho tác giả phương
pháp tiếp cận dưới góc độ khoa học Kinh tế chính trị về lĩnh vực cạnh tranh,
SCT của HHNS, khêu gợi hướng nghiên cứu, xác định rõ những vấn đề đặt ra
cần tiếp tục giải quyết, đồng thời khắc phục được sự trùng lặp với các công
trình khoa học đã công bố. Đây sẽ là cơ sở, tài liệu quý giá để tác giả luận án
kế thừa, tiếp thu những giá trị khoa học, tìm ra hướng đi mới cho mình trong
nghiên cứu đề tài luận án.
Qua tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan, khẳng định: Đề
tài luận án “Sức cạnh tranh của hàng hóa nông sảnViệt Nam” là một công
trình khoa học độc lập, vừa kế thừa biện chứng những kết quả nghiên cứu đã
công bố, vừa có đóng góp mới ở cả phương diện lý luận và thực tiễn.
31
Chương 2
LÝ LUẬN VỀ SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HÓA
NÔNG SẢN VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
2.1. Một số vấn đề chung về hàng hóa nông sản và sức cạnh tranh
của hàng hóa nông sản Việt Nam
2.1.1. Quan niệm, đặc điểm về hàng hóa nông sản Việt Nam 2.1.1.1. Quan niệm về hàng hóa nông sản Việt Nam
Quan niệm về hàng hóa Khi nghiên cứu về hàng hóa C. Mác viết: “Hàng hóa trước hết là một vật
nhờ có những thuộc tính của nó mà thỏa mãn được một loại nhu cầu nào đó của con người” [63, tr.61]. Theo C. Mác, hàng hóa có hai thuộc tính cơ bản đó là
giá trị sử dụng và giá trị; giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu náo đó của con người, giá trị của hàng hóa là lao động xã hội thể
hiện và vật hóa trong hàng hóa. Một sản phẩm muốn trở thành hàng hóa thì nó phải được đưa ra trao đổi, mua bán trên thị trường: “Muốn trở thành hàng hóa
thì sản phẩm phải được chuyển vào tay những người khác, những người dùng nó làm giá trị sử dụng, bằng con đường trao đổi” [63, tr.70]. Tóm lại, luận án
tán thành theo quan niệm Kinh tế học chính trị Mácxit: “Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người thông qua
trao đổi mua - bán trên thị trường” [48, tr. 118]. Quan niệm về hàng hóa nông sản
Nông sản là một trong những hàng hóa thiết yếu, không thể thiếu đối
với sản xuất và tiêu dùng của con người, nhưng để trả lời cho câu hỏi thế nào là HHNS và HHNS bao gồm những mặt hàng nào, cho đến nay vẫn còn có
nhiều quan niệm khác nhau.
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) quan niệm: hàng hóa được chia
thành 2 nhóm chính là nông sản và phi nông sản. Nông sản được xác định trong Hiệp định Nông nghiệp là tất cả các sản phẩm được liệt kê từ chương I
đến chương XXIV (trừ cá và sản phẩm cá) và một số sản phẩm thuộc các chương khác trong hệ thống thuế mã HS (hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa
hàng hóa). Theo đó nông sản bao gồm các loại hàng hóa có nguồn gốc từ hoạt
32
động nông nghiệp bao gồm: (1) Các sản phẩm nông nghiệp cơ bản như lúa
gạo, lúa mỳ, bột mỳ, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, chè, rau quả tươi, động vật sống, sữa… (2) Các sản phẩm phái sinh như bánh mỳ, dầu ăn, bơ, thịt… (3)
Các sản phẩm chế biến từ sản phẩm nông nghiệp như sản phẩm từ sữa, xúc xích, nước ngọt, bánh kẹo, nước hoa quả, rượu, bia, thuốc lá, da động vật
thô,... Các sản phẩm còn lại trong hệ thống thuế mã HS được xem là sản phẩm phi nông nghiệp (Sản phẩm công nghiệp) [71, tr.19].
Tổ chức lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp quốc (FAO) quan niệm:
Hàng nông sản là tập hợp của nhiều nhóm hàng hóa khác nhau bao gồm: (1)
Nhóm hàng gồm các sản phẩm nhiệt đới như chè, cà phê, ca cao, hạt tiêu...;
(2) Nhóm hàng ngũ cốc như lúa gạo, bột mì, sắn, ngô..; (3) Nhóm hàng thịt và
các sản phẩm từ thịt như thịt lợn, thịt bò, thịt gia cầm...; (4) Nhóm hàng dầu
mỡ và các sản phẩm từ dầu được chế biến từ hạt có dầu như lạc, đậu tương,
hướng dương.., và các loại dầu thực vật; (5) Nhóm hàng sữa và các sản phẩm
từ sữa như pho mát, bơ, các sản phẩm chế biến từ sữa,..; (6) Nhóm hàng nông
sản nguyên liệu như cao su thiên nhiên, bông, đay, sợi,..; (7) Nhóm hàng rau
quả bao gồm các loại rau, củ, quả [71, tr.19, 20].
Theo quy định tại Khoản 7 Điều 3, Nghị định về cơ chế, chính sách
khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
thì nông sản được quan niệm: “Nông sản là sản phẩm của các ngành nông
nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, diêm nghiệp” [24, tr.2]. Với quan niệm này thì
nông sản là sản phẩm của nông nghiệp theo nghĩa rộng (nông nghiệp theo
nghĩa rộng bao gồm các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và diêm
nghiệp; nông nghiệp theo nghĩa hẹp bao gồm ngành trồng trọt và chăn nuôi).
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tại Thông tư số
37/2018/TT - BNNPTNT, ngày 25/12/2018, Ban hành danh mục sản phẩm
nông nghiệp chủ lực quốc gia thì sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc gia
bao gồm 13 nhóm sản phẩm: (Gạo, cà phê, cao su, điều, hồ tiêu, chè, rau
quả, sắn và sản phẩm từ sắn, thịt lợn, thịt và trứng gia cầm, cá tra, tôm, gỗ
và sản phẩm từ gỗ) [17].
33
Theo dụng ý của luận án, “Hàng hóa nông sản” mà tác giả nghiên cứu
là những sản phẩm thuộc nhóm hàng nông sản (không nghiên cứu lâm sản và
thủy sản), tức là nghiên cứu sản phẩm của ngành nông nghiệp, không nghiên
cứu sản phẩm của ngành lâm nghiệp ngành thủy sản và diêm nghiệp.
Như vậy, từ các quan niệm nêu trên và dụng ý nghiên cứu của luận án,
tác giả quan niệm: Hàng hóa nông sản là những sản phẩm của ngành nông
nghiệp, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người và được đưa ra trao
đổi, mua bán trên thị trường.
Quan niệm về hàng hóa nông sản Việt Nam
Từ quan niệm về hàng hóa, HHNS đã nêu trên, tác giả quan niệm:
Hàng hóa nông sản Việt Nam là những sản phẩm của ngành nông nghiệp Việt
Nam, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người và được đưa ra trao đổi,
mua bán trên thị trường.
Như vậy, HHNS Việt Nam là khái niệm tương đối rộng và phức tạp, bao
gồm những sản phẩm được thu hoạch trực tiếp (tươi, sống) và những sản phẩm đã
qua chế biến của ngành nông nghiệp (bao gồm trồng trọt và chăn nuôi). Với phạm
vi nghiên cứu của luận án, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu 5 mặt hàng chủ lực
(trong số 13 sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc gia, theo Thông tư 37/2018/TT -
BNNPTNT) là gạo, cà phê, rau quả, thịt lợn, thịt và trứng gia cầm để phân tích,
minh chứng. Đây là những sản phẩm đã, đang và sẽ có lợi thế cạnh tranh so với sản
phẩm cùng loại của các quốc gia khác trên thị trường trong nước và quốc tế.
2.1.1.2. Đặc điểm về hàng hóa nông sản Việt Nam
Hàng hóa nông sản là những sản phẩm thiết yếu với đời sống của con
người. Quá trình sản xuất ra HHNS gắn liền với quá trình sinh trưởng và phát
triển của cây trồng, vật nuôi. Do vậy, HHNS có một số đặc điểm riêng so với
các hàng hóa thông thường khác sau đây:
Một là, hàng hóa nông sản có tính thời vụ và phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên
Do các loại cây trồng, vật nuôi sinh trưởng và phát triển theo quy luật
sinh vật, sinh học nhất định; mặt khác, do sự thay đổi về điều kiện thời tiết khí
34
hậu theo mùa, làm cho mỗi loại cây trồng, vật nuôi có sự thích ứng riêng, tạo
nên những mùa vụ khác nhau trong sản xuất. Theo đó quá trình sản xuất, thu
hoạch và tiêu thụ nông sản cũng mang tính thời vụ, nhất là sản phẩm trồng trọt.
Vào khoảng thời gian chính vụ, HHNS thường dồi dào, phong phú về chủng
loại, chất lượng khá đồng đều và giá thành thấp. Ngược lại, vào thời gian trái vụ
thì nông sản khan hiếm, chất lượng không đồng đều và giá thành thường cao.
Ngoài ra mọi sự thay đổi về điều kiện tự nhiên đều tác động trực tiếp
đến quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng, vật nuôi. Điều kiện tự
nhiên thuận lợi (mưa thuận, gió hòa) thì cây trồng sinh trưởng và phát triển
bình thường, cho sản lượng thu hoạch cao, chất lượng tốt. Ngược lại, nếu điều
kiện tự nhiên không thuận lợi (nắng nóng, giá rét kéo dài, hạn hán hoặc bão
lụt) sẽ làm sụt giảm về năng suất và sản lượng cây trồng.
Hai là, hàng hóa nông sản có tính tươi sống
Nông sản là sản phẩm của quá trình sinh trưởng, phát triển của cây
trồng, vật nuôi vì vậy nó có đặc tính tươi sống, dễ bị hư hỏng, ẩm mốc, biến
chất trước tác động của điều kiện tự nhiên và thời gian. Chính vì vậy việc bảo
quản hàng hóa nông sản sẽ khó khăn, đặc biệt là bảo quản trong thời gian dài.
Ba là, hàng hóa nông sản có tính vùng miền, đa dạng chủng loại
Hàng hóa nông sản được sản xuất ra từ các vùng địa phương khác
nhau, với các đặc điểm về điều kiện tự nhiên, thời tiết, khí hậu, thổ nhưỡng
khác nhau; mỗi vùng, mỗi hộ, mỗi trang trại có phương thức sản xuất khác
nhau, giống cây trồng, vật nuôi khác nhau, đã tạo nên nhiều chủng loại HHNS
khác nhau. Điều này dẫn đến chất lượng của HHNS không có tính đồng đều,
quản lý chất lượng thường gặp nhiều khó khăn.
Bốn là, chất lượng của hàng hóa nông sản ảnh hưởng trực tiếp đến sức
của khỏe người tiêu dùng
Nông sản là loại hàng hóa thiết yếu được con người sử dụng trực tiếp
làm lương thực, thực phẩm và đồ uống. Do vậy chất lượng hàng hóa nông sản
35
luôn là tiêu chí đầu tiên được người tiêu dùng quan tâm khi quyết định lựa
chọn mua hàng. Xã hội càng phát triển, đời sống con người được nâng lên,
kéo theo là yêu cầu ngày càng khắt khe về chất lượng, về vệ sinh an toàn thực
phẩm, kiểm dịch, truy xuất nguồn góc, bảo vệ môi trường...
2.1.2. Quan niệm về sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam
2.1.2.1. Quan niệm về cạnh tranh kinh tế
“Cạnh tranh” là cụm từ được sử dụng từ rất lâu và trở nên phổ biến cho
đến ngày nay, thuật ngữ “cạnh tranh” được sử dụng trong tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự... Cạnh tranh
trong lĩnh vực kinh tế là một trong những quy luật của kinh tế thị trường,
trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế như hiện nay, cạnh tranh bước vào một
thời kỳ mới cả về phương thức, cường độ và nội dung. Chính vì vậy vấn đề
cạnh tranh được nhiều tác giả nghiên cứu, trình bày dưới nhiều góc độ khác
nhau ở những giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế xã hội.
Khi nghiên cứu về cạnh tranh, Adam Smith cho rằng “cạnh tranh là
hành vi luôn tồn tại trong con người, trong xã hội, đặc biệt trong những gì liên
quan đến tư lợi của người ta. Môi trường tự do giúp các cá nhân có quyền cạnh
tranh trong sản xuất và trao đổi hàng hoá, dịch vụ. Hơn nữa, cạnh tranh sẽ đem
đến một nền kinh tế thịnh vượng và có khả năng tự điều chỉnh” [120, tr.1201].
Theo quan niệm này, tự do cạnh tranh sẽ tạo ra sự chèn ép lẫn nhau giữa các
cá nhân, buộc mỗi cá nhân phải nỗ lực cố gắng làm tốt công việc của mình.
Nếu chỉ đưa ra mục đích lớn lao nhưng không có động cơ thúc đẩy thực hiện
thì không thể tạo ra được sự cố gắng nào. Như vậy cạnh tranh có thể khơi dậy
sự nỗ lực của con người, làm tăng của cải của nền kinh tế.
Mặc dù không trình bày thành học thuyết riêng về cạnh tranh, nhưng
trong học thuyết giá trị, giá trị thặng dư và lý luận về tư bản, C. Mác đã đưa ra
những nghiên cứu về cạnh tranh. Theo C. Mác, điều kiện cho sự ra đời và tồn
tại của cạnh tranh là: phân công lao động xã hội và tính chất tư nhân của lao
động sản xuất. C. Mác viết: “sự phân công lao động trong xã hội đặt
những người sản xuất hàng hóa độc lập đối diện với nhau, những người
36
này không thừa nhận một uy lực nào khác ngoài uy lực cạnh tranh, ngoài
sự cưỡng chế mà áp lực của những lợi ích giữa họ với nhau đã gây ra đối
với họ” [63, tr.517]. Theo C.Mác: cạnh tranh là sự ganh đua giữa những
người sản xuất và lưu thông hàng hóa bằng những hình thức và thủ đoạn khác
nhau, nhằm giành giật cho mình những điều kiện sản xuất và kinh doanh có
lợi nhất, động lực của cạnh tranh là lợi nhuận tối đa.
Để phân tích rõ hơn về cạnh tranh, “C. Mác đã phân chia cạnh tranh
thành 2 loại: cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành,
tức là cạnh tranh giữa những hàng hóa cùng loại và cạnh tranh giữa các hàng
hóa khác loại” [48, tr.238]. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa
các các xí nghiệp trong cùng một ngành, sản xuất cùng một loại hàng hóa,
nhằm mục đích giành ưu thế trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu được
lợi nhuận siêu ngạch. Cạnh tranh trong nội bộ ngành được thực hiện thông
qua các biện pháp: cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao chất
lượng hàng hóa, cải tiến mẫu mã… làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa sản
xuất ra thấp hơn giá trị xã hội để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Kết quả của
cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến hình thành giá trị xã hội của hàng
hóa, tức là giá trị thị trường của hàng hóa.
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp tư bản kinh
doanh trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có
lợi hơn. Biện pháp cạnh tranh giữa các ngành là các xí nghiệp tư bản chuyển
dịch dòng vốn đầu tư từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có có tỷ
suất lợi nhuận cao hơn. Kết quả của cạnh tranh giữa các ngành là hình thành
lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả
hàng hóa trên thị trường [64, tr.263-303].
Như vậy cạnh tranh giữa các nhà tư bản diễn ra dưới ba góc độ: cạnh
tranh giá thành thông qua nâng cao năng suất lao động giữa các nhà tư bản,
nhằm thu được giá trị thặng dư siêu ngạch; cạnh tranh chất lượng thông qua
nâng cao giá trị sử dụng hàng hóa; cạnh tranh giữa các ngành thông qua việc
gia tăng tính lưu động của tư bản nhằm chia nhau giá trị thặng dư. Cạnh tranh
37
dưới ba góc độ cơ bản này diễn ra xoay quanh việc quyết định giá trị, thực
hiện giá trị và phân phối giá trị thặng dư.
Theo PGS. TS Đỗ Huy Hà, cạnh tranh kinh tế được định nghĩa: “Là
quan hệ kinh tế, phương thức giải quyết mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa các
chủ thể, bằng mọi biện pháp, thủ đoạn đấu tranh, ganh đua giành lấy những
điều kiện sản xuất, tiêu thụ có lợi nhất nhằm tối đa hoá lợi nhuận cho mỗi chủ
thể trong nền kinh tế thị trường” [46, tr.10].
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, cạnh tranh được định nghĩa là: “Hoạt
động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các
nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, bị chi phối bởi quan hệ cung - cầu
nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ, thị trường có lợi nhất” [113, tr.357].
Theo Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các môn
Khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh thì: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự
đấu tranh về kinh tế giữa các chủ thể tham gia sản xuất - kinh doanh với nhau
nhằm giành những điều kiện thuận lợi trong sản xuất - kinh doanh, tiêu thụ hàng
hóa và dịch vụ để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình” [48, tr.147-147].
Quá trình lãnh đạo đổi mới nền kinh tế, Đảng ta đã có sự thay đổi về tư
duy, quan niệm và cách thức đối xử với cạnh tranh. Trong văn kiện Đại hội
Đảng VIII của Đảng chỉ rõ: “Cơ chế thị trường đòi hỏi phải hình thành một
môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp và văn minh. Cạnh tranh vì lợi
ích phát triển đất nước chứ không phải làm phá sản hàng loạt, lãng phí các
nguồn lực, thôn tính lẫn nhau” [37, tr.32].
Mặc dù ở những góc độ tiếp cận khác nhau có những quan niệm và
cách diễn đạt khác nhau nhưng đều thống nhất coi cạnh tranh kinh tế là hành
vi của các chủ thể trong nền kinh tế hàng hóa. Trên cơ sở kế thừa các quan
niệm, định nghĩa về cạnh tranh, tác giả quan niệm: Cạnh tranh kinh tế là hoạt
động ganh đua giữa các chủ thể kinh tế trên thị trường, bằng các hình thức,
biện pháp khác nhau để giành giật cho mình những điều kiện sản xuất và kinh
doanh có lợi nhất, nhằm tối đa hóa lợi nhuận, bảo đảm sự tồn tại, phát triển
lâu dài cho mỗi chủ thể.
38
Quan niệm này đã chỉ ra nguồn gốc của cạnh tranh kinh tế gắn liền với
sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa mà trực tiếp là sự độc lập về kinh tế
của các chủ thể kinh tế. Bản chất của cạnh tranh là phản ánh mối quan hệ kinh
tế giữa các chủ thể kinh tế cùng hướng tới mục đích là bảo đảm sự tồn tại và
phát triển của mình. Ở các góc độ xem xét khác nhau, cạnh tranh được phân
loại khác nhau: Xét ở góc độ chủ thể cạnh tranh có: cạnh tranh giữa người bán
và người mua với nhau, cạnh tranh giữa những người bán hoặc giữa những
người mua với nhau; căn cứ vào mục tiêu kinh tế có: cạnh tranh giữa các
ngành và cạnh tranh trong nội bộ ngành; ở góc độ là đối tượng cạnh tranh có:
cạnh tranh giành độc quyền, thâu tóm các yếu tố đầu vào, hoặc chi phối thị
trường đầu ra,...; dưới góc độ phương thức hay công cụ cạnh tranh có: cạnh
tranh bằng chất lượng, giá cả, tính độc đáo, sự khác biệt của sản phẩm, dịch
vụ đi kèm, cạnh tranh bằng tốc độ cung cấp sản phẩm ra thị trường và cạnh
tranh bằng cả biện pháp kinh tế, phi kinh tế,…; căn cứ vào cơ cấu thị trường
có: cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo; xét theo tính chất
hành vi có: cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh và xét ở
phạm vi lãnh thổ có cạnh tranh trong nước và cạnh tranh quốc tế.
Vì động lực của cạnh tranh là lợi nhuận, do vậy mặt hàng nào, ngành
nào và trên thị trường nào sản xuất kinh doanh có lợi nhuận cao thì ở đó thu
hút nhiều chủ thể cạnh tranh và tính chất, cường độ cạnh tranh sẽ gay gắt hơn.
Nguồn gốc của cạnh tranh kinh tế vốn là tự phát, vì lợi nhuận nên các chủ thể
sẵn sàng cạnh tranh bằng mọi biện pháp và thủ đoạn. Tuy nhiên trong môi
trường hợp tác và cạnh tranh quốc tế, các chủ thể cạnh tranh phải tuân thủ
theo luật pháp của quốc gia và các công ước quốc tế.
2.1.2.2. Quan niệm về sức cạnh tranh của hàng hóa
Sức cạnh tranh
Cạnh tranh gắn liền với hành vi của các chủ thể SXKD, bao gồm có hành
vi của cá nhân, của doanh nghiệp và của quốc gia. Để giành được lợi thế về phía
mình trong quá trình cạnh tranh với nhau, các chủ thể phải thực hiện tổng hợp
nhiều biện pháp nội lực và ngoại lực nhằm giữ vững và phát triển vị thế của
39
mình trên thị trường. Các biện pháp đó thể hiện một sức mạnh của chủ thể và
được gọi là năng lực cạnh tranh hay là sức cạnh tranh của chủ thể. Theo đó, có
thể quan niệm: sức cạnh tranh là sự thể hiện về thực lực và lợi thế của chủ thể
sản xuất, kinh doanh hàng hóa so với đối thủ cạnh tranh trong việc đảm bảo
thỏa mãn tốt nhất các nhu cầu của khách hàng, nhằm mục đích thu được lợi
nhuận ngày càng cao hơn.
Hiện nay, các nghiên cứu thường đề cập đến ba cấp độ của SCT là:
SCT của quốc gia, SCT của doanh nghiệp và SCT của sản phẩm (hay của
một ngành):
Sức cạnh tranh quốc gia
Theo Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp Mỹ thì: cạnh tranh đối với một
quốc gia là mức độ cạnh tranh trong điều kiện thị trường tự do và công bằng
trên phạm vi toàn thế giới, một quốc gia có thể sản xuất các hàng hóa và dịch
vụ không những đáp ứng được nhu cầu khách hàng trong nước mà còn đáp
ứng nhu cầu của khách hàng trên thị trường thế giới, đồng thời duy trì và mở
rộng được thu nhập thực tế của nhân dân ở quốc gia đó [65, tr.13].
Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF): Sức cạnh tranh quốc gia là khả
năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống,
nghĩa là đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao xác định sự thay đổi tổng sản
phẩm quốc nội trên đầu người theo thời gian [154].
Như vậy, sức cạnh tranh quốc gia có thể hiểu là: việc xây dựng một môi
trường kinh tế chung, đảm bảo phân bố hiệu quả các nguồn lực, đạt và duy trì
mức tăng trưởng cao, bền vững.
Sức cạnh tranh của doanh nghiệp
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD): “sức cạnh tranh
của doanh nghiệp là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng
các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm cho các doanh nghiệp phát triển bền vững
trong điều kiện cạnh tranh quốc tế” [34, tr.132].
Theo tác giả Đỗ Thế Tùng, thì: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là
thế và lực của doanh nghiệp so với các đối thủ trên thị trường trong việc cung
40
cấp các sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu có khả năng thanh toán của khách
hàng, nhờ đó mà chiếm lĩnh được thị phần nhất định và thu được khoản lợi
nhuận tương ứng [93, tr.20].
Từ các quan niệm nêu trên cho thấy: một doanh nghiệp muốn có một vị trí vững chắc và thị trường ngày càng được mở rộng thì cần có một tiềm lực đủ
mạnh để có thể cạnh tranh trên thị trường, đó chính là sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, sức cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu: là tổng hợp năng
lực nắm giữ và nâng cao thị phần của chủ thể trong sản xuất, kinh doanh hàng hoá, là trình độ sản xuất ra sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
Để đánh giá sức cạnh tranh của doanh nghiệp, người ta dựa vào các tiêu chí như: thị phần, doanh thu, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận, thu nhập bình
quân, phương pháp quản lý, bảo vệ môi trường, uy tín của doanh nghiệp đối với xã hội, tài sản của doanh nghiệp nhất là tài sản vô hình, tỷ lệ công nhân
lành nghề, tỷ lệ đội ngũ quản lý giỏi, nghiên cứu và sáng tạo,…
Sức cạnh tranh của sản phẩm (hàng hóa)
Theo C. Mác, hàng hóa có hai thuộc tính cơ bản đó là giá trị sử dụng và
giá trị. Khi xem xét đánh giá về SCT của hàng hóa người ta thường dựa vào hai thuộc tính đó. Một sản phẩm được coi là có SCT khi nó đáp ứng được nhu
cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, bao bì, thương hiệu, tính độc đáo so với sản phẩm cùng loại trên thị trường. Trong
điều kiện hội nhập, tự do hóa thương mại, SCT của hàng hóa có vị trí hết sức quan trọng vì nó đảm bảo cho hàng hóa đó có thể chiến thắng các đối thủ
cạnh tranh ở trên thị trường trong nước và vươn ra chiếm lĩnh thị trường thế giới. Từ những phân tích nêu trên, tác giả quan niệm: Sức cạnh tranh của
hàng hóa là khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, bao bì, thương hiệu, tính độc đáo của hàng hóa đó so
với hàng hóa cùng loại trên thị trường.
Sức cạnh tranh của sản phẩm là khả năng cạnh tranh của những sản
phẩm cùng loại, cạnh tranh trong nội bộ ngành. Các chủ thể sản xuất phải thường xuyên tiến hành các biện pháp cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất
lao động để làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa mà mình làm ra thấp hơn giá
41
trị xã hội của mặt hàng đó trên thị trường để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Kết quả cạnh tranh trong nội bộ ngành là hình thành nên giá trị thị trường của hàng hóa. Nhận định về điều này C. Mác viết: “Một mặt, phải coi giá trị thị
trường là giá trị trung bình của những hàng hóa được sản xuất ra trong một khu vực sản xuất nào đó; mặt khác lại phải coi giá trị thị trường là giá trị cá
biệt của những hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện trung bình của khu vực đó và chiếm một khối lượng lớn trong số những sản phẩm của
khu vực này” [64, tr.271]. Từ đây, ta có thể hiểu, giá trị thị trường của hàng hóa có thể hình thành trong ba điều kiện sản xuất (tốt, trung bình, xấu) khi giá
trị cá biệt của nó chiếm đại đa số hàng hóa được sản xuất ra. Như vậy, SCT của hàng hóa không phụ thuộc vào việc hàng hóa đó được sản xuất ra trong
điều kiện nào mà sẽ phụ thuộc vào giá trị thị trường, hay giá trị cá biệt của hàng hóa chiếm thị phần đa số. Giá cả thị trường là hình thức biểu hiện bằng
tiền của giá trị thị trường và giá cả sản xuất.
Một hàng hóa có SCT hơn hàng hóa cùng loại khi hàng hóa đó có cùng
giá trị sử dụng nhưng giá cả thấp hơn, hoặc có cùng giá cả nhưng có nhiều công
dụng (chất lượng) hơn. Để đánh giá sức cạnh tranh của hàng hóa, có thể dựa trên
các tiêu chí chính như: chất lượng, giá cả, thị phần, thương hiệu,...
2.1.2.3. Quan niệm về sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam
Từ quan niệm về SCT của hàng hóa và quan niệm về hàng hóa nông
sản Việt Nam, tác giả quan niệm: Sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt
Nam là khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính
năng, kiểu dáng, bao bì, thương hiệu, tính độc đáo của những sản phẩm được
tạo ra từ ngành nông nghiệp Việt Nam so với sản phẩm cùng loại của các
nước khác trên thị trường.
Như vậy, từ quan niệm có thể thấy, SCT của HHNS là mức độ hay khả
năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng về: chất lượng; giá cả; mẫu mã, tính
năng hay sự tiện lợi trong sử dụng; chính sách chăm sóc khách hàng đi kèm
và sự thân thiện với môi trường của HHNS.
Chủ thể tạo nên SCT của HHNS Việt Nam là nhà nước, doanh nghiệp,
42
HTX nông nghiệp và hộ nông dân, trong đó chủ thể trực tiếp là các doanh
nghiệp SXKD hàng hóa nông sản. Biện pháp tạo ra sức cạnh tranh là không
ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tăng cường các hoạt động
xúc tiến với thị trường (Maketing). Đối thủ cạnh tranh là các chủ thể nước ngoài,
cung cấp các mặt hàng cùng loại trên thị trường Việt Nam và thế giới. Mục đích
tạo ra và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh là nhằm chiếm lĩnh thị phần, tiêu
thụ được nhiều sản phẩm nông sản, thu về lợi nhuận cao nhất cho các chủ thể.
2.2. Tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh
tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam
2.2.1. Tiêu chí đánh giá sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam
Để đánh giá sức cạnh tranh của HHNS Việt Nam trên thị trường, người
ta căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau dựa trên hai thuộc tính của nó là giá trị
sử dụng và giá trị. Luận án đi sâu phân tích làm rõ 4 tiêu chí cơ bản, đó là:
chất lượng, giá cả, thị phần và thương hiệu.
2.2.1.1. Chất lượng của hàng hóa nông sản
Theo Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế (ISO): chất lượng là khả năng của
tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các
yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan. Chất lượng sản phẩm hàng
hoá là chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh trình độ thoả mãn nhu cầu của người tiêu
dùng. Nó được tạo nên từ nhiều yếu tố trong suốt quá trình SXKD của một sản
phẩm. Các nhân tố tạo nên chất lượng sản phẩm hàng hóa bao gồm: nhóm các
nhân tố bên trong (nguyên vật liệu và hệ thống tổ chức nguyên vật liệu, khả
năng về kỹ thuật công nghệ, lực lượng lao động, trình độ tổ chức quản lý và tổ
chức sản xuất); nhóm các nhân tố bên ngoài (trình độ phát triển của kỹ thuật
công nghệ sản xuất, cung, cầu về sản phẩm và nhu cầu về chất lượng sản phẩm,
cơ chế quản lý, vai trò quản lý kinh tế vĩ mô). Chất lượng được coi là yếu tố
quan trọng hàng đầu thể hiện SCT của sản phẩm. Người tiêu dùng ngày càng
có xu hướng lựa chọn những sản phẩm hàng hoá có chất lượng cao, hơn là
những hàng hoá có giá rẻ trên thị trường. Vì vậy, chất lượng sản phẩm là yếu tố
quan trọng nhất để chiến thắng các đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
43
Hàng hóa nông sản là những sản phẩm được con người sử dụng làm
lương thực, thực phẩm và đồ uống, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, do vậy
bảo đảm chất lượng là vấn đề hết sức quan trọng đối với HHNS. Khi nói đến
chất lượng HHNS là nói đến những thuộc tính hay đặc tính của sản phẩm, đó
là: phẩm cấp, giá trị cảm quan, đặc điểm lý tính và hoá tính tương xứng với
các tiêu chuẩn, quy định của quốc gia và quốc tế. Cụ thể, chất lượng HHNS
Việt Nam được thể hiện trước hết đó là sản phẩm phải đạt được các tiêu chí
trong các bộ tiêu chuẩn chất lượng quốc gia và quốc tế. Chẳng hạn như đối
với mặt hàng gạo trắng, hiện nay áp dụng tiêu chuẩn: TCVN 11888:2017
(tương đương với tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ISO 24333:2009 về ngũ cốc
và sản phẩm từ ngũ cốc), trong bộ tiêu chuẩn này quy định rất cụ thể về phân
hạng, yêu cầu kỹ thuật về cảm quan (màu sắc, mùi vị, côn trùng sống nhìn
thấy bằng mắt thường), mức xay xát, độ ẩm; về hàm lượng các chất dinh
dưỡng, hàm lượng kim loại nặng, hàm lượng độc tố vi nấm...; quy định về bao
bì, nhãn mác, bảo quản vận chuyển... Tương tự đối với các mặt hàng (cà phê,
rau quả, thịt lợn, thịt và trứng gia cầm) đều có các bộ tiêu chuẩn quốc gia
tương đương với tiêu chuẩn chất lượng khu vực và quốc tế. Ngoài ra các sản
phẩm sản xuất theo quy trình, đạt tiêu chuẩn chất lượng sẽ được cấp các
chứng nhận như: chứng nhận tiêu chuẩn về thực hành nông nghiệp tốt Việt
Nam (VietGAP), thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu (GlobalGAP), chứng
nhận an toàn thực phẩm (HACCP), sản phẩm hữu cơ (Organic), các sản phẩm
được bảo hộ nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc… Ngày nay, trên
thị trường các nước phát triển, chất lượng sản phẩm còn gắn với các yếu tố về
bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, thân thiện với môi trường, sử dụng lao
động đúng luật và sự phát triển bền vững.
Chất lượng của một HHNS bao gồm cả những nhân tố bên trong (đặc
tính về lý tính, hóa tính, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, tỷ lệ các loại đạm,
chất dinh dưỡng…), các nhân tố bên ngoài như kích thước, màu sắc, mùi
thơm, sự tiện lợi trong sử dụng, các dịch vụ chăm sóc khách hàng của nhà
44
cung cấp đi kèm… Do vậy, để đánh giá chất lượng sản phẩm nào hơn,
ngoài sự đo lường bằng thí nghiệm thì sự đánh giá của khách hàng về sản
phẩm đó là rõ ràng nhất, người tiêu dùng sẽ “bỏ phiếu” cho sản phẩm nào
chất lượng hơn bằng cách lựa chọn mua sản phẩm đó. Trên thị trường có
nhiều nước cung cấp cùng một loại HHNS và có mức giá tương đương
nhau, hàng hóa của nước nào được người tiêu dùng lựa chọn nhiều hơn, tức
là chiếm thị phần lớn hơn sẽ phản ánh hàng hóa của nước đó có chất lượng
tốt hơn, theo đó SCT sẽ cao hơn.
2.2.1.2. Giá cả hàng hóa nông sản
Giá cả HHNS là biểu hiện bằng tiền của giá trị HHNS, đồng thời biểu
hiện nhiều mối quan hệ khác trong nền kinh tế. Đối với người mua thì giá cả
là số tiền mà họ phải bỏ ra trả cho người bán để nhận được một số lượng
HHNS nhất định. Còn đối với người bán thì giá cả là phần thu nhập hay
doanh thu mà họ nhận được khi tiêu thụ một đơn vị hay số lượng HHNS nhất
định. Để cạnh tranh về giá tức là phải hạ giá bán sản phẩm trong khi vẫn bảo
đảm được chất lượng của sản phẩm và lợi nhuận, buộc người sản xuất phải
tìm cách giảm thiểu chi phí sản xuất như: khai thác triệt để lợi thế so sánh của
vùng, của quốc gia; lai tạo giống, chọn giống cho năng suất cao; áp dụng công
nghệ tiên tiến vào sản xuất; nâng cao trình độ lao động; đầu tư đồng bộ vào
kết cấu hạ tầng sản xuất…
Trong nền kinh tế thị trường, việc xác định giá của HHNS chịu sự tác
động của nhiều nhân tố khác nhau như: chi phí sản xuất, chế biến, bảo quản,
vận chuyển; tình hình cung, cầu của thị trường; mức độ cạnh tranh của đối thủ
trên thị trường; chính sách của nhà nước; quảng cáo, tiếp thị; hình thức thanh
toán… Trên một thị trường có nhiều chủ thể khác nhau cung cấp HHNS,
khách hàng có quyền được lựa chọn cho mình sản phẩm tốt nhất mà mình ưa
thích. Tuy nhiên nếu cùng một loại hàng hóa và đều có các yếu tố chất lượng,
mẫu mã... như nhau thì đa số khách hàng sẽ lựa chọn hàng hóa có giá bán
thấp hơn, theo đó SCT của hàng hóa đó sẽ cao hơn.
Hệ số đo SCT về giá được tính theo công thức:
45
iTiMi fTfMf)w
Ci = EP* (EP*
Trong đó:
I và P*
f : là giá cánh kéo quốc tế của sản phẩm đầu ra i và của đầu
P*
vào trung gian f.
E: là tỷ giá hối đoái thực
T và M: là hệ số bảo hộ danh nghĩa và hệ số chi phí thương mại
[59, tr.11].
Sức cạnh tranh của HHNS khi xuất khẩu được thể hiện ở lợi thế so sánh
theo chỉ số RCA (Revealed Competitive Advantage) do nhà kinh tế học
Balassa đề xuất năm 1965. Chỉ số RCA chỉ ra SCT trong xuất khẩu của một
quốc gia về một sản phẩm trong mối tương quan với mức xuất khẩu về sản
phẩm đó của thế giới. RCA được tính theo công thức:
RCA = Xij : Xi Wj : W
Trong đó:
RCA: là lợi thế so sánh biểu hiện mặt hàng xuất khẩu j của quốc gia i.
Xij: là kim ngạch xuất khẩu sản phẩm j của nước i.
Xi: là tổng kim ngạch xuất khẩu của nước i.
Wj: là kim ngạch xuất khẩu sản phẩm j của thế giới.
W: là tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới.
Nếu:
RCA < 1: sản phẩm không có lợi thế cạnh tranh.
1 < RCA < 2,5: sản phẩm có lợi thế cạnh tranh.
RCA > 2,5: sản phẩm có lợi thế cạnh tranh rất cao.
Khi so sánh hệ số RCA cùng một mặt hàng của hai nước thì mặt hàng
của nước nào có hệ số RCA lớn hơn sẽ có lợi thế xuất khẩu hơn [59, 13].
2.2.1.3. Thị phần hàng hóa nông sản
Thị phần là phần thị trường tiêu thụ sản phẩm mà doanh nghiệp chiếm
lĩnh, thị phần được tính là bằng số lượng sản phẩm bán ra của doanh nghiệp
46
trên tổng sản phẩm tiêu thụ của thị trường hoặc bằng doanh thu bán hàng của
doanh nghiệp trên tổng doanh thu của thị trường về mặt hàng đó. Mỗi HHNS
thường có những khu vực thị trường riêng với số lượng khách hàng nhất định. Khi
HHNS đảm bảo được các yếu tố bên trong như: có chất lượng tốt hơn, giá cả thấp
hơn, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm… và có được những yếu tố bên ngoài
như: cơ hội kinh doanh xuất hiện, công tác xúc tiến bán hàng thuận lợi, sản phẩm
có thương hiệu mạnh, kênh phân phối đa dạng… sẽ làm tăng SCT của sản phẩm
và mở rộng được thị trường, chiếm lĩnh được thị phần từ đối thủ cạnh tranh.
Để duy trì, chiếm lĩnh mở rộng thị trường và gia tăng thị phần HHNS, thì
sự có mặt kịp thời của hàng hóa trên thị trường, đáp ứng được đòi hỏi của khách
hàng là yếu tố quan trọng. Sự có mặt kịp thời của hàng hóa phải thể hiện ở yếu tố
về thời gian và không gian: về thời gian đó là đảm bảo hàng hóa được cung cấp
trên thị trường luôn đi trước một bước so với đối thủ cạnh tranh; về không gian
đó là cần lựa chọn thị trường tiêu thụ, xuất khẩu sản phẩm phù hợp, bao gồm có
lượng khách hàng lớn và có nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng phù hợp với sản phẩm
của mình trên thị trường. Ngoài ra vấn đề nghệ thuật tổ chức mạng lưới, chi
nhánh và sự bày trí các cơ sở buôn bán, giới thiệu sản phẩm, các cửa hàng tiêu
thụ hàng hóa trên thị trường để thu hút được khách hàng với quy mô lớn là nhân
tố quan trọng để nâng cao SCT của HHNS trên thị trường. Thị phần của HHNS
trên thị trường thường được tính theo công thức sau:
MAi x 100% MSAi = MA
Trong đó:
MSAi: là thị phần HHNS A của nước i.
MAi: là số lượng HHNS A của nước i được tiêu thụ trên thị trường.
MA: là tổng số lượng HHNS A được tiêu thụ trên thị trường.
Thị phần là một tiêu chí quan trọng để đánh giá SCT của HHNS, độ lớn
của tiêu chí này phản ánh khả năng chiếm lĩnh thị trường của mặt hàng; thị
phần càng lớn thì SCT của mặt hàng đó càng cao.
47
2.2.1.4. Thương hiệu của hàng hóa nông sản
Thương hiệu là tổng hợp tất cả các yếu tố vật chất, thẩm mỹ, lý tính
và cảm tính của một sản phẩm, bao gồm bản thân sản phẩm, tên gọi, biểu
tượng, hình ảnh và mọi sự thể hiện của sản phẩm đó, dần được tạo dựng qua
thời gian và chiếm lĩnh vị trí rõ ràng trong tâm trí khách hàng [76, tr.18].
Thương hiệu của HHNS chính là tổng hợp các đặc tính của hàng hóa như giá
trị sử dụng, giá trị, mẫu mã và các dịch vụ của sản phẩm. Thương hiệu
không chỉ là dấu hiệu để nhận biết và phân biệt sản phẩm của nhà cung cấp
này với sản phẩm của nhà cung cấp khác mà nó còn là tài sản vô hình rất có
giá trị của nhà cung cấp, là uy tín và thể hiện niềm tin của người tiêu dùng
đối với nhà cung cấp cũng như sản phẩm đó.
Ngày nay, đa số các hàng hóa bán trên thị trường đặc biệt là thị
trường xuất khẩu đều có gắn thương hiệu. Thương hiệu của hàng hóa đã trở
thành tài sản vô hình rất quý giá và là vũ khí quan trọng trong cạnh tranh
của nhà cung cấp. Thương hiệu của một HHNS nào đó càng mạnh, càng
nổi tiếng thì SCT của HHNS đó càng cao và ngược lại. Điều đó có nghĩa là,
nếu một sản phẩm nào đó đã có được thương hiệu đối với người tiêu dùng
thì sản phẩm đó có lợi thế cạnh tranh hơn hẳn so với sản phẩm cùng loại
của các đối thủ cạnh tranh. Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, cạnh
tranh diễn ra ngày càng khốc liệt, muốn đứng vững được trên thị trường
buộc các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, xuất khẩu HHNS phải xây dựng
cho mình một thương hiệu mạnh, một thương hiệu có tên tuổi trong lòng
khách hàng trong nước và quốc tế.
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa
nông sản Việt Nam
Do HHNS có đặc điểm riêng biệt so với các loại hàng hóa thông thường
khác, đặc biệt là tính phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và tính tươi sống. Vì vậy
SCT của HHNS Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau.
Trong luận án này, tác giả tập trung phân tích một số nhân tố khách quan và chủ
quan có ảnh hưởng lớn sau đây:
48
2.2.2.1. Nhóm nhân tố khách quan
Một là, nguồn lực tự nhiên
Vị trí địa lý: Vị trí địa lý của một vùng, một quốc gia phần lớn quy
định về điều kiện đất đai, thời tiết, khí hậu của vùng đó, quốc gia đó. Nếu có
vị trí địa lý thuận lợi như gần đường giao thông, bến cảng, gần khu chế biến,
nơi cung cấp các dịch vụ nông nghiệp… sẽ giảm chi phí trong quá trình sản
xuất, vận chuyển. Đó là cơ sở để giảm giá thành sản phẩm nâng cao SCT
cho hàng hóa nông sản.
Đất đai, thổ nhưỡng: Mỗi loại HHNS có sự thích nghi với một loại thổ
nhưỡng nhất định. Nếu như đất đai màu mỡ, giàu dinh dưỡng và đa dạng sẽ là
môi trường tốt cho cây trồng sinh trưởng phát triển tốt, từ đó cho năng suất cao,
chất lượng tốt, giảm thiểu được các chi phí sản xuất, nâng cao SCT cho HHNS.
Nguồn nước: Nước có vị trí vai trò hết sức quan trọng đối với sự sống
nói chung, và đặc biệt quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp nói riêng. Nếu
nguồn nước tưới dồi dào, đủ tưới quanh năm sẽ tạo điều kiện để thâm canh
gối vụ, cây trồng phát triển thuận lợi, năng suất cao, chất lượng tốt, giảm chi
phí tưới tiêu, giảm giá thành sản phẩm, làm cho SCT của HHNS tăng lên.
Ngược lại, nếu nguồn nước khan hiếm, ô nhiễm, xâm nhập mặn sẽ gây khó
khăn cản trở đến việc tưới tiêu, thâm canh gối vụ, năng suất thấp, chất lượng
kém, làm tăng chi phí và giảm SCT của HHNS. Việt Nam là nước nhiệt đới
gió mùa, hàng năm có lượng mưa lớn, độ ẩm cao, hệ thống các con sông dày
đặc nên rất thuận lợi về nguồn nước. Đây là một trong những lợi thế trong sản
xuất HHNS của Việt Nam. Tuy nhiên, nguồn nước mặt phục vụ sản xuất nông
nghiệp của Việt Nam có tới trên 60% được sản sinh từ bên ngoài lãnh thổ. Vì
vậy, việc bảo vệ nguồn nước, điều tiết nguồn nước phục vụ sản xuất nông
nghiệp rất khó khăn, nhất là hiện nay các nước đã và đang tiếp tục triển khai
xây dựng nhiều hồ thủy điện lớn trên thượng nguồn các con sông nhất là Sông
Mê Kông. Ngoài ra, hiện tượng ô nhiễm, biến đổi khí hậu, nước biển dâng,
xâm nhập mặn… đang là thách thức lớn đối với đời sống con người nói chung
và sản xuất nông nghiệp cũng như SCT của HHNS Việt Nam nói riêng.
49
Thời tiết khí hậu: nếu gặp điều kiện thời tiết khí hậu thuận lợi (tức là
mưa thuận, gió hòa) sẽ là môi trường cho cây trồng, vật nuôi phát triển bình
thường, năng suất thu hoạch tăng, chất lượng sản phẩm tốt, giảm thiểu được
các chi phí chăm bón, thuốc trừ sâu,… giảm giá thành và tăng SCT cho
HHNS. Ngược lại, nếu gặp thời tiết bất lợi (hạn hán, bão lụt, rét đậm rét hại,
biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn…) sẽ làm cho năng suất cây
trồng, vật nuôi giảm, sản lượng và chất lượng HHNS giảm xuống. Thời tiết
bất lợi cũng là điều kiện để các loài côn trùng, sâu bệnh, dịch bệnh phát triển
gây hại cho cây trồng, vật nuôi, buộc chúng ta phải sử dụng các loại thuốc bảo
vệ thực vật, thuốc thú y, sẽ làm tăng chi phí sản xuất, sản lượng và chất lượng
cây trồng, vật nuôi giảm và đặc biệt có thể làm cho dư lượng thuốc bảo vệ
thực vật, dư lượng kháng sinh vượt ngưỡng cho phép, ảnh hưởng không nhỏ
đến SCT của HHNS.
Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại
Hiện nay Việt Nam đã tham gia đàm phán và ký kết 16 Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương, trong đó 13 Hiệp định đã có
hiệu lực, 3 hiệp định đang khởi động đàm phán. Đặc biệt trong năm 2019 và năm 2020 hai hiệp định thương mại tự do lớn có hiệu lực là Hiệp định Đối tác
toàn diện và tiến bộ xuyên Thái bình dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do EU và Việt Nam (EVFTA) [Phụ lục 7]. Việc Việt Nam hội nhập
vào nền kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đã có ảnh hưởng lớn cả về thuận lợi và khó khăn đến SCT của HHNS, cụ thể:
Thuận lợi: tạo cơ hội cho Việt Nam học tập kinh nghiệm, tiếp nhận các nguồn lực đầu tư, trong đó có chuyển giao những thành tựu KH&CN tiên tiến
trên thế giới về sản xuất, chế biến, bảo quản HHNS; được hưởng lợi thuế quan khi các nước thực hiện các cam kết cắt giảm thuế quan trong các hiệp
định thương mại; mở rộng và đa dạng hóa thị trường tiêu thụ; tạo áp lực để các chủ thể SXKD, luôn phải nỗ lực cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất,
nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, giảm giá thành,… để nâng cao SCT cho sản phẩm của mình.
50
Khó khăn: HHNS Việt Nam sẽ bị cạnh tranh gay gắt hơn trên thị
trường trong nước và quốc tế, nhất là đối với các nước có nền nông nghiệp phát triển như Mỹ, EU, Nhật Bản,…; các quốc gia tăng cường các biện pháp
bảo hộ mậu dịch, áp đặt thuế nhập khẩu cao, thiết lập các “hàng rào” về tiêu chuẩn kỹ thuật, về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, về sử dụng lao
động, về bảo vệ môi trường, nguồn gốc xuất xứ…, điều này làm cho thị trường bị bóp méo, SCT của HHNS sản bị giảm sút.
Trước những ảnh hưởng thuận lợi và khó khăn do hội nhập quốc tế
mang lại, đòi hỏi các chủ thể phải nghiên cứu, nắm chắc những quy định
trong các hiệp định thương mại, có các giải pháp phù hợp nhằm phát huy
những mặt thuận lợi, khắc phục mặt khó khăn, để không ngừng nâng cao SCT
cho HHNS Việt Nam.
2.2.2.2. Nhóm nhân tố chủ quan
Một là, cơ chế, chính sách của nhà nước
Trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay, cơ chế,
chính sách của nhà nước về phát triển kinh tế nói chung, phát triển sản xuất
nông nghiệp hàng hóa nói riêng là hết sức quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến
SCT của quốc gia nói chung, của HHNS nói riêng.
Cơ chế, chính sách đúng đắn, phù hợp sẽ tạo điều kiện cho sản xuất và
tiêu thụ hàng hóa nông sản phát triển nhanh; ngược lại, chính sách không phù
hợp sẽ tạo lực cản rất lớn đối với sự phát triển của của sản xuất và tiêu thụ
hàng hóa nông sản. Những cơ chế, chính sách của nhà nước có tác động đến
SCT của HHNS bao gồm: Quy hoạch, kế hoạch; chính sách về đất đai, đầu tư,
tín dụng, thuế; chính sách về khuyến nông, đào tạo nguồn nhân lực, phát triển
khoa học công nghệ,…
Hai là, trình độ khoa học và công nghệ
Việc áp dụng các tiến bộ của KH&CN nhất là những thành tựu của
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (4.0), vào sản xuất, chế biến, bảo quản,
xúc tiến thương mại, là nhân tố quan trọng, quyết định đến năng suất, chất
lượng, hiệu quả và SCT của HHNS, cụ thể:
51
Về ứng dụng khoa học và công nghệ vào lai tạo giống cây trồng, vật
nuôi: giống cây trồng, vật nuôi là nhân tố quyết định trực tiếp và quan trọng
nhất đến năng suất, chất lượng HHNS. Với sự tiến bộ vượt bậc trong khoa
học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học đã lai tạo ra được những loại
giống cây trồng, vật nuôi cho năng suất cao, chất lượng tốt, khả năng chống
chịu sâu bệnh, dịch bệnh và điều kiện khắc nghiệt của thời tiết tốt. Điều này
góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản xuất (chi phí cá
biệt) và nâng cao SCT cho HHNS.
Về công nghệ sản xuất: xu hướng sản xuất nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao đang được thay thế dần sản xuất nông nghiệp truyền thống.
Sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao như: sử dụng hệ thống nhà
lưới, nhà kính, tưới nhỏ giọt, tự động bón phân theo nhu cầu dinh dưỡng của
từng loại cây trồng, tự động điều chỉnh nhiệt độ, ánh sáng,... Ứng dụng công
nghệ cao vào sản xuất sẽ cho năng suất cây trồng cao, chất lượng sản phẩm
tốt, các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm được bảo đảm. Đó là tiêu
chuẩn hàng đầu để người tiêu dùng lựa chọn và theo đó SCT của HHNS
cũng được tăng lên.
Về công nghệ sau thu hoạch: Giai đoạn sau thu hoạch bao gồm: sơ
chế, vận chuyển, bảo quản, chế biến và tiếp thị. Sau thu hoạch, HHNS tiếp tục
các hoạt động sống, dễ bị hư hỏng, ẩm mốc, biến chất trước tác động của điều
kiện tự nhiên và thời gian. Chính vì vậy, công nghệ sau thu hoạch có vị trí,
vai trò hết sức quan trọng, ứng dụng được công nghệ tiên tiến, hiện đại vào
giai đoạn này sẽ nâng cao được chất lượng, giá trị cho HHNS, giảm tổn thất,
chi phí, giảm giá thành, nâng cao SCT cho HHNS.
Hiện nay, công nghiệp chế biến là khu vực tiêu thụ HHNS lớn, đa số
nông sản là nguyên liệu đầu vào cho quá trình chế biến. Trình độ công nghệ
chế biến càng cao, hiện đại, quy mô càng lớn thì khối lượng HHNS qua chế
biến càng nhiều, chất lượng nông sản qua chế biến càng cao, giá trị gia tăng
càng cao, theo đó SCT của HHNS càng cao. Ngoài ra, khoa học, công nghệ
52
và phương tiện bảo quản tốt, đóng gói an toàn sẽ giữ được chất lượng sản
phẩm lâu, góp phần làm tăng SCT của HHNS. Đặc điểm của HHNS là theo
thời vụ, nhưng nhu cầu tiêu thụ quanh năm, do vậy việc đầu tư tốt cho công
nghệ sau thu hoạch sẽ khắc phục được tình trạng “mất mùa được giá, được
mùa rớt giá” của một số HHNS Việt Nam thời gian qua.
Ba là, chất lượng lao động nông nghiệp Chất lượng lao động là nhân tố quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến
năng suất, chất lượng, SCT của HHNS. Khi nghiên cứu về hàng hóa, để
phân tích làm rõ giá trị của hàng hóa, C. Mác đã phân chia lao động thành
lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động
không qua đào tạo mà bất cứ người nào có khả năng lao động bình thường
đều làm được. Còn lao động phức tạp là lao động phải được học tập, đào
tạo chuyên môn ngành nghề. Năng suất của lao động phức tạp bao giờ
cũng là bội số của lao động giản đơn. C. Mác viết: “Lao động phức tạp
chỉ là lao động giản đơn được nâng lên lũy thừa, hay nói cho đúng hơn, là
lao động giản đơn được nhân lên” [63, tr. 75]. Với tư cách là chủ thể sáng
tạo trong lao động sản xuất, lực lượng lao động nông nghiệp không ngừng
tự đổi mới, lựa chọn và kết hợp hiệu quả các nguồn lực để tạo ra sản
phẩm nông sản đáp ứng nhu cầu của chính mình và cho toàn xã hội; do
đó, quy mô, tốc độ tăng trưởng nông nghiệp nói chung, năng suất, chất
lượng, SCT của HHNS nói riêng, chịu ảnh hưởng trực tiếp từ chất lượng
lao động nông nghiệp.
Bốn là, kết cấu hạ tầng cho sản xuất và lưu thông hàng hóa nông sản
Kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và lưu thông HHNS bao gồm: hệ
thống giao thông (giao thông nội đồng trực tiếp phục vụ sản xuất, giao thông
kết nối sản xuất với chế biến và thị trường tiêu thụ); hệ thống thủy lợi (hệ
thống hồ chứa, kênh, mương phục vụ tưới tiêu, vận tải thủy; hệ thống đê điều
chống lũ lụt, xâm nhập mặn); hệ thống điện; kho chứa; bến bãi, cầu cảng,…
Chất lượng, giá cả của HHNS chịu tác động lớn từ kết cấu hạ tầng phục vụ
53
sản xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển. Vì vậy để nâng cao chất lượng, hạ
giá thành, tăng SCT cho HHNS, chúng ta cần phải quan tâm đầu tư phát triển
kết cấu hạ tầng một cách hiện đại và đồng bộ.
2.3. Kinh nghiệm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản ở
một số quốc gia và bài học rút ra cho Việt Nam
2.3.1. Kinh nghiệm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản
ở một số quốc gia
Sản xuất nông nghiệp hàng hóa nói chung, nâng cao SCT của HHNS nói
riêng là xu hướng vận động phát triển tất yếu của ngành nông nghiệp ở các quốc gia trên thế giới. Tùy vào điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, đặc biệt là bước đi, cách
làm cụ thể mà ở mỗi quốc gia có sự thành công khác nhau. Để rút ra bài học cho Việt Nam có thể tham khảo, nhằm nâng cao SCT của HHNS, luận án tập trung
nghiên cứu kinh nghiệm ở một số quốc gia cụ thể sau đây:
2.3.1.1. Kinh nghiệm của Thái Lan
Thái Lan là một đất nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, có tổng diện tích 513.000 km2, lớn thứ 50 thế giới và có dân số khoảng 67 triệu
người, đông thứ 20 trên thế giới. Là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa và diện tích đất canh tác lớn, có nhiều lợi thế trong sản xuất nông nghiệp. Trước
đây Thái Lan là một nước nông nghiệp lạc hậu, nhưng từ đầu thập niên 80 đến nay Thái Lan đã thực hiện chiến lược đẩy mạnh phát triển nông nghiệp
theo hướng sản xuất hàng hóa xuất khẩu bền vững, nhờ đó Thái Lan đã trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu trên thế giới và
là quốc gia thành công trong việc nâng cao SCT của HHNS. Sự thành công đó xuất phát từ một số kinh nghiệm sau:
Một là, thực hiện đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp, chú trọng phát triển các vùng sản xuất chuyên canh quy mô lớn đối với các sản phẩm có lợi
thế ở từng vùng, từng địa phương, phục vụ xuất khẩu
Vào năm 1982, Chính phủ Thái Lan đã đề ra chiến lược phát triển kinh
tế quốc dân lấy hiện đại hóa nông nghiệp, công nghiệp làm mục tiêu. Đồng
thời thực hiện chủ trương đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp, trong đó tập
trung sản xuất các sản phẩm có lợi thế phục vụ cho xuất khẩu, chú trọng sản
54
xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn. Để đa dạng hóa sản phẩm và khai thác
tối đa lợi thế của từng vùng, nâng cao chất lượng và SCT hàng hóa nông sản,
Chính phủ Thái Lan đã đề ra chương trình “Mỗi làng một sản phẩm” nhằm
tạo ra các sản phẩm tiêu biểu, đặc trưng cho từng vùng. Do vậy, tiềm năng
nông nghiệp luôn được Thái Lan khai thác và phát huy triệt để, sản xuất phát
triển nhanh chóng, xuất hiện nhiều mặt hàng có khối lượng lớn, chất lượng
tốt, SCT cao, xuất khẩu đứng hàng đầu thế giới như gạo, sắn, cao su,…
Hai là, ban hành các chính sách về thuế, tín dụng nhằm khuyến khích sản
xuất nông nghiệp, thực hiện trợ giá và bảo hiểm nông nghiệp cho nông dân
Để khuyến khích sản xuất HHNS có sức cạnh trạnh cao, hướng vào
xuất khẩu, Thái Lan đã thực hiện các chính sách như bỏ quy định hạn ngạch,
giảm hoặc miễn thuế xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu chỉ phải nộp thuế
lợi tức nếu có. Thực hiện miễn thuế nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị và
chuyển giao công nghệ tiên tiến từ nước ngoài phục vụ sản xuất nông
nghiệp... Thi hành chính sách về giá theo hướng có lợi cho doanh nghiệp và
người nông dân, với chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất, người nông dân
được tự quyết định lựa chọn mô hình canh tác và tiêu thụ sản phẩm do mình
sản xuất ra. Tùy vào điệu kiện cụ thể của từng vùng mà cơ chế giá có sự biến
đổi một cách linh hoạt, nhưng mục tiêu hướng tới của Chính phủ Thái Lan khi
thi hành chính sách giá là: (1) bảo đảm giá tại nơi sản xuất phải có lợi cho
người sản xuất và người tiêu dùng; (2) bảo đảm sự ổn định về giá nông sản
trên thị trường trong nước, kìm giữ giá trong nước thấp hơn so với giá thị
trường thế giới nhằm khuyến khích xuất khẩu; (3) hạn chế sự ảnh hưởng của
những biến động về giá trên thị trường thế giới tới giá nông sản trên thị
trường nội địa [61, tr.48].
Thái Lan thực hiện Chương trình bảo hiểm nông nghiệp từ rất sớm, bảo
hiểm các sản phẩm nông nghiệp cho tất cả doanh nghiệp và nông dân, tập
trung vào các loại cây trồng có độ rủi ro lớn, để người sản xuất yên tâm.
Chẳng hạn: vào năm 2014, trước tình trạng hạn hán kéo dài, Chính phủ Thái
Lan đã xúc tiến hỗ trợ mua bảo hiểm lúa, trợ giúp doanh nghiệp và người
55
nông dân tới 80% chi phí bảo hiểm. Chi phí bảo hiểm sẽ tùy thuộc vào từng
vùng và độ rủi ro khác nhau, doanh nghiệp và người nông dân ở những vùng
có rủi ro thấp nhất sẽ được chi trả khoảng 124 baht/rai (khoảng 500.000
đồng/ha) trong đó doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phải chi 60 baht/rai (khoảng
240.000 đồng/ha), Chính phủ hỗ trợ thêm 64 baht/rai (tức khoảng 260.000
đồng/ha). Còn ở những vùng có rủi ro cao nhất, sẽ được chi trả 100 baht/rai
(tức khoảng 400.000 đồng/ha) [72].
Ba là, tăng cường đầu tư cho nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa
học, công nghệ vào sản xuất, chế biến, bảo quản sản phẩm
Chính phủ Thái Lan đã đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu khoa học và mua
sắm các loại máy móc trang thiết bị, công nghệ tiên tiến, hiện đại phục vụ sản
xuất HHNS. Từ việc nghiên cứu lai tạo giống, gieo trồng, chăm sóc, cận thu
hoạch, thu hoạch, bảo quản, chế biến và kỹ thuật đóng gói như: công nghệ quét
tạo khí quyển trong bảo quản nông sản, công nghệ phun tạo màng bọc, công
nghệ chiên chân không, công nghệ giảm áp đột ngột trong chế biến nông sản,…
Nhờ ứng dụng các công nghệ hiện đại đó mà nông sản sau thu hoạch
của Thái Lan có thể được bảo quản từ 3 đến 5 tháng với chi phí chỉ bằng một
nửa so với công nghệ cũ, đồng thời vẫn bảo đảm được chất lượng và an toàn
vệ sinh thực phẩm. Tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch hiện nay giảm xuống còn
khoảng 7,5 đến 8% so với 10% vào những năm 1980. Thái Lan đã ban hành
chính sách thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nhất là đầu tư nước
ngoài, do vậy mà các cơ sở chế biến hàng nông sản của Thái Lan thường có
quy mô lớn, máy móc, trang thiết bị, công nghệ hiện đại. Ngoài ra Chính phủ
Thái Lan đã đầu tư thành lập các trung tâm nghiên cứu KH&CN nông nghiệp,
trong đó có Trung tâm Quốc gia về Kỹ thuật Di truyền và Công nghệ sinh học
(BIOTEC), thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ (MOST),…
Thái Lan rất coi trọng việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học và phát
triển công nghệ sinh học như: nghiên cứu lai tạo giống, phát triển vi sinh vật
trong nông nghiệp, kiểm soát sinh học,… Vì vậy đã tạo ra được nhiều loại
giống cây trồng cho năng suất cao, chất lượng tốt và có đặc tính vượt trội so
với các loại giống cũ (chẳng hạn như: Loại giống lúa Khao Dok mali 10,
56
Khao Jao Hawm Suphan và Khao Jao Hawm Klong Luang) vừa cho gạo đặc
sản thơm ngon vừa có khả năng kháng bệnh, chịu mặn và đặc biệt là cho năng
suất cao gấp 1,5 lần so với giống lúa thông thường [6, tr.75].
Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là chất lượng nông dân
Để đáp ứng nhu cầu ứng dụng KH&CN, nhất là công nghệ cao vào sản
xuất nông nghiệp. Thái Lan đã rất coi trọng việc nâng cao trình độ về mọi mặt
cho các doanh nghiệp và người nông dân, đặc biệt là kỹ thuật canh tác và
chuyển giao công nghệ cho lực lượng này. Thực hiện chủ trương đó, ngày
12/3/2008, Bộ Nông nghiệp và HTX cùng với Bộ Giáo dục Thái Lan đã
triển khai thực hiện dự án “Phát triển nông dân mới”. Với mục tiêu trang bị
cho người nông dân cả về lý thuyết và kỹ năng thực tiễn khi họ làm nghề
nông, nắm được các thông tin để phân tích kế hoạch, có thể dự đoán và
quản lý rủi ro, đảm bảo có thu nhập chính từ sản xuất nông nghiệp, từ đó
có thể truyền đạt và dẫn dắt người khác [139]. Thái Lan chủ trương mở các
lớp tập huấn ngắn hạn cho nông dân, trực tiếp tại địa bàn họ sinh sống,
đồng thời có các chính sách để khuyến khích nông dân tham gia các lớp
này. Chẳng hạn vào năm 2015, trước tình trạng hạn hán kéo dài do tác
động của hiện tượng El Nino, đã gây thiệt hại lớn cho kinh tế nông nghiệp,
Chính phủ Thái Lan đã có chủ trương chuyển đổi trồng lúa sang trồng các
loại cây ít nước, chịu hạn. Tiến hành mở lớp tập huấn cho nông dân ở
huyện Sankhaburi, tỉnh Chai Nat (vùng chuyển đổi) và hỗ trợ 200
baht/người/ngày tham gia tập huấn. Mỗi đợt tập huấn là 15 ngày, số người
mỗi đợt dự kiến là 250 người và các đợt kéo dài khoảng 3 tháng. Tuy nhiên
số người đăng ký tham gia đông gấp nhiều lần theo dự kiến [139]. Ngoài
ra, thông qua hệ thống khuyến nông các cấp, Thái Lan đã đẩy mạnh các
hoạt động đào tạo, huấn luyện và thông tin tuyên truyền, tư vấn dịch vụ
miễn phí cho doanh nghiệp và người nông dân.
Năm là, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường,
xây dựng và quảng bá thương hiệu hàng hóa nông sản
Để nâng cao SCT và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu HHNS, ngày
57
01/01/2015 Chính phủ Thái Lan đã ban hành Luật Hỗ trợ đầu tư mới, trong đó
thực hiện miễn thuế 5 năm đầu cho các doanh nghiệp mở rộng xuất khẩu nông
sản [139]. Được sự hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi từ cơ chế, chính sách của
Chính phủ, các doanh nghiệp Thái Lan không ngừng đầu tư, ứng dụng
KH&CN nhất là công nghệ cao vào sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Đã có nhiều sản phẩm nông sản của các doanh nghiệp được cấp chứng nhận an
toàn thực phẩm quốc tế như: Thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu (GlobalGap),
hướng dẫn thực hành sản xuất tốt (GMP), chứng nhận sản phẩm biến đổi gen
an toàn (NON - GMO), chứng nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng và an toàn thực
phẩm bán lẻ quốc tế (BRC, IFS) và tiêu chuẩn chất lượng (ISO),...
Thái Lan rất chú trọng đến xây dựng, đăng ký và quảng bá thương hiệu.
Họ tích cực tham gia các hội chợ, triển lãm được tổ chức trong và ngoài nước để
giới thiệu, quảng bá sản phẩm, đồng thời gặp gỡ đối tác, xây dựng mối quan hệ
kinh doanh và ký kết các hợp đồng xuất khẩu. Ngoài ra Cục Xúc tiến thương
mại Thái Lan thường xuyên cung cấp các dịch vụ về thông tin thị trường, về sản
phẩm, về khách hàng nhập khẩu, theo yêu cầu của các doanh nghiệp; các số liệu
thống kê thương mại được cung cấp trên mạng, xây dựng cổng thông tin nhanh
về xuất khẩu nông sản và lập các trang Web thương mại,… Ngoài ra các doanh
nghiệp Thái Lan cũng rất chú trọng đầu tư áp dụng kỹ thuật đóng gói hiện đại,
mẫu mã, bao bì bắt mắt và phù hợp với nhu cầu của thị trường.
2.3.1.2. Kinh nghiệm của Malaysia
Malaysia là một quốc gia nằm ở khu vực Đông Nam Á, có diện tích đất
liền khoảng 329.847 km2, dân số 28,33 triệu người. Từ khi giành được độc
lập vào năm 1957, Malaysia từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp,
nghèo nàn, lạc hậu nhưng đến nay đã trở thành một trong các nước có nền
kinh tế phát triển mạnh ở khu vực. Ngành nông nghiệp Malaysia đã đạt được
những thành quả quan trọng với nhiều HHNS có SCT cao, được tiêu thụ
mạnh trên thị trường thế giới như: ca cao, dầu cọ, cao su, mía, đường,...[148].
Thành công của Malaysia xuất phát từ một số kinh nghiệm sau:
Một là, nâng cao chất lượng nhân lực nông nghiệp chú trọng người
58
nông dân và phát triển đội ngũ doanh nhân trẻ trong nông nghiệp
Để phát triển nền nông nghiệp theo hướng hiện đại, ứng dụng KH&CN
vào sản xuất, nâng cao chất lượng và SCT cho HHNS, Malaysia đã chủ
trương nâng cao chất lượng nhân lực và phát triển đội ngũ doanh nhân trẻ
trong nông nghiệp. Theo chủ trương đó, Hội đồng đào tạo nông nghiệp quốc
gia Malaysia (NATC) cùng Viện Trồng trọt và hàng hóa (IMPAC) đã hợp tác
với các tổ chức giáo dục, đào tạo và các nhà nghiên cứu cao cấp, tiến hành khảo
sát, đánh giá các kỹ năng hiện tại của nông dân và các hộ sản xuất nhỏ. Từ đó,
bổ sung, hoàn thiện chương trình đào tạo, giúp doanh nghiệp và người nông dân
tiếp cận và ứng dụng các công nghệ tiên tiến, hiện đại vào sản xuất nông nghiệp.
Đồng thời, phối hợp cùng Trung tâm sáng tạo toàn cầu Malaysia (MaGIC), Viện
doanh nhân quốc gia (INSKEN) hỗ trợ và phát triển các doanh nghiệp trẻ trong
nông nghiệp, nhất là doanh nghiệp mới khởi nghiệp. Tính đến cuối năm 2015 đã
có hơn 2000 doanh nghiệp nông nghiệp được đào tạo về kỹ thuật và tài chính, và
đa số nông dân ở các địa phương được tập huấn, giới thiệu những kiến thức cơ
bản về quy trình thực hành nông nghiệp tốt,..[144].
Chính phủ Malaysia chỉ đạo các ngân hàng phát triển nông nghiệp,
nông thôn phối hợp cùng các doanh nghiệp nông nghiệp, các cơ sở đào tạo, có
các chính sách khuyến khích như: cho sinh viên ngành nông nghiệp vay trang
trải chi phí học tập với lãi suất thấp, hoặc vay nợ, sau khi đi làm có thu nhập
mới thanh toán trả nợ; các doanh nghiệp có các chương trình tài trợ học bổng
hoặc tuyển dụng với mức lương hấp dẫn,… nhằm thu hút sinh viên theo học
ngành nông nghiệp. Ngoài ra Chính phủ Malaysia còn thực hiện nhiều
chương trình khác nhằm khuyến khích nhân lực trẻ vào sản xuất, kinh doanh
trong ngành nông nghiệp, chẳng hạn như: “chương trình nông dân trẻ tuổi”
thành lập tháng 9/2013, đến cuối năm 2015 đã thu hút được hơn 3.963 thanh
thiếu niên đăng ký. Đây là những người nông dân tương lai đầy triển vọng với
số lượng không ngừng được gia tăng hàng năm [144].
Hai là, đẩy mạnh cơ giới hóa nông nghiệp, tăng cường nghiên cứu, ứng
dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, chú trọng công nghệ
59
thông tin (ICT)
Để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, giảm sự phụ thuộc vào lao
động thủ công, tăng năng suất và giảm chi phí sản phẩm, Malaysia đã đẩy
mạnh cơ giới hóa nông nghiệp đồng thời tăng cường nghiên cứu, ứng dụng
KH&CN vào sản xuất. Tập trung nghiên cứu phát triển và ứng dụng các
công nghệ chủ yếu như: lai tạo hạt giống tốt, cải tiến sản phẩm xanh, công
nghệ quản lý dịch hại, công nghệ quản lý trang trại, công nghệ canh tác
chính xác, công nghệ sản xuất thức ăn chăn nuôi, công nghệ giám sát và
đặc biệt là công nghệ thông tin di động, phục vụ việc thông báo về nhu
cầu, giá cả thị trường HHNS đồng thời cảnh báo sớm thiên tai, dịch hại và
tư vấn kỹ thuật miến phí cho nông dân... Để thu hút vốn đầu tư và khai
thác tối đa tiềm năng nghiên cứu phát triển các công nghệ (R&D), Chính
phủ Malaysia thực hiện chính sách xã hội hóa KH&CN nhằm khuyến
khích các doanh nghiệp tư nhân, các trường đại học và các viện nghiên
cứu tham gia. Theo đó, năm 2012, tỷ lệ tham gia đóng góp của nhóm này
vào nghiên cứu, phát triển công nghệ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp
tương ứng là 64,45%; 28,67% và 6,88%. Đầu tư của chính phủ Malaysia
cho hoạt động nghiên cứu, phát triển qua các năm có sự gia tăng đáng kể,
chẳng hạn: năm 2012 chiếm tới 1,13% GDP tăng 43% so với năm 2008 là
(0,79%) [143]. Chính phủ Malaysia đã ban hành luật về cấp bằng sáng
chế, chế tạo và quyền sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm công nghệ. Ban
hành và phổ biến quy trình nghiên cứu ứng dụng công nghệ, từ ý tưởng
nghiên cứu đến thương mại hóa, chuyển giao công nghệ cho người sản
xuất; trong đó chỉ định Văn phòng Thương mại Công nghệ (TC) của Bộ
Nông nghiệp Malaysia có trách nhiệm thẩm định, định giá sản phẩm và
cuối cùng là đưa ra thị trường. Quá trình thương mại hóa hoạt động
nghiên cứu và phát triển ở Malaysia qua hàng năm không ngừng được
tăng lên và trung bình hàng năm tạo ra khoảng 341.07 triệu (RM). Đến
tháng 7/2016, đã có hơn 90% công nghệ được thông qua giấy phép và
thương mại hoá [145]. Đồng thời, Chính phủ Malaysia đẩy mạnh đầu tư,
60
củng cố và tăng cường hoạt động của các Trung tâm nghiên cứu, các trạm
chuyển giao công nghệ để hướng dẫn doanh nghiệp và người nông dân ứng
dụng công nghệ vào sản xuất HHNS.
Ba là, ban hành các chính sách hỗ trợ khuyến khích sản xuất, xuất khẩu
hàng hóa nông sản
Để thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh của hàng
hóa nông sản, Chính phủ Malaysia đã có nhiều chính sách khuyến khích và hỗ
trợ các hoạt động xúc tiến xuất khẩu như: hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu
thâm nhập vào các thị trường mới, hỗ trợ xây dựng các nhà kho chứa hàng,
kho bảo quản và cấp tín dụng cho khâu đổi mới công nghệ.v.v. Đối với các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế biến, Chính phủ Malaysia đã áp
dụng những chính sách khuyến khích như: giảm thuế trong 5 năm đầu, kể từ
ngày mới bắt đầu sản xuất đối với các công ty mới thành lập [44, tr.64]. Đối
với các doanh nghiệp xuất khẩu các sản phẩm đã qua chế biến cũng được
hưởng các chính sách khuyến khích như: trợ cấp xuất khẩu, cấp vốn tín dụng
xuất khẩu… Đối với các doanh nghiệp chế biến nông sản, được miễn thuế
nhập khẩu máy móc, trang thiết bị phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến
nông sản xuất khẩu… Nhờ những chính sách hỗ trợ hiệu quả mà đã tạo cho
ngành nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản của Malaysia phát triển
nhanh chóng, SCT hàng hóa nông sản của Malaysia không ngừng được nâng
lên trên thị trường trong nước và quốc tế.
Bốn là, củng cố, nâng cao năng lực hoạt động của hợp tác xã và các
hiệp hội trong chuỗi cung ứng sản phẩm nông nghiệp
Malaysia đẩy mạnh khuyến khích sự tham gia của các HTX, các hiệp
hội nông nghiệp và nông dân tham gia vào các chuỗi cung ứng sản phẩm, để bảo đảm các nhu cầu của hợp đồng, cho phép giá cả ở các trang trại tốt hơn,
chia sẻ lợi nhuận và bảo đảm thu nhập bền vững cho người nông dân. Trong đó chú trọng vào chuỗi cung ứng sản phẩm cao su, ca cao và rau quả. Để chuỗi
cung ứng sản phẩm hoạt động hiệu quả, việc quản lý ở các HTX sẽ do những người được đào tạo, các chuyên gia của các HTX, các tổ chức nông dân thực
61
hiện. Việc mua sắm các loại máy móc, trang thiết bị, công nghệ hiện đại sẽ
được Chính phủ hỗ trợ một phần. Ngoài ra các HTX, các hiệp hội, các doanh nghiệp và người nông dân khi tham gia chuỗi cung ứng còn được Chính phủ hỗ
trợ, tạo điều kiện tham gia vào các sự kiện như: hội chợ, triễn lãm giới thiệu sản phẩm ở trong nước và quốc tế; trợ cấp và cho vay vốn lãi suất ưu đãi đối
với các hoạt động: thử nghiệm, đóng gói, quảng bá sản phẩm HHNS…
2.3.1.3. Kinh nghiệm của Israel
Israel là một quốc gia nằm ở khu vực Trung đông, có diện tích đất liền khoảng 20.770km2, dân số khoảng 8.748.080 người. Là một đất nước mà
phần lớn diện tích đất đai là sa mạc, nguồn nước ở đây rất khan hiếm, chỉ có khoảng 20% diện tích đất đai phù hợp cho sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên
hiện nay Israel lại sở hữu một nền nông nghiệp phát triển hiện đại và được gọi là “kỳ tích nông nghiệp trên thế giới” [88, tr.189]. Sở dĩ ngành nông nghiệp
của Israel đạt được những thành tựu to lớn, các sản phẩm nông sản của họ có chất lượng tốt, SCT cao, xuất phát từ các kinh nghiệm sau:
Một là, đầu tư mạnh cho nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ
nhất là công nghệ cao vào sản xuất hàng hóa nông sản
Do điều kiện tự nhiên không thuận lợi, để phát triển sản xuất nông nghiệp, Israel xác định phải đi lên từ KH&CN. Vì vậy trong các sản phẩm
nông nghiệp của Israel hàm lượng khoa học chiếm tới 95% và chỉ có 5% là lao
động. Chính phủ Israel đã tiến hành thành lập các cơ quan nghiên cứu khoa học nông nghiệp như: Tổ chức Nghiên cứu nông nghiệp quốc gia (ARO), tổ chức
này có tới 6 viện nghiên cứu trực thuộc, chịu trách nhiệm nghiên cứu về các mảng khác nhau. Tổ chức nghiên cứu nông nghiệp quốc gia chịu trách nhiệm
tới 75% các nghiên cứu nông nghiệp của Israel [88, tr. 190].
Song song với hoạt động nghiên cứu, Israel tập trung đầu tư xây dựng,
hoàn thiện kết cấu hạ tầng, kỹ thuật hiện đại phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như: hệ thống nhà kính, nhà lưới, hệ thống điều chỉnh nhiệt độ, độ
ẩm... Đầu tư phát triển mạnh các công nghệ mũi nhọn như: Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ tự động hóa, công nghệ tưới nhỏ giọt,
công nghệ kiểm soát côn trùng, dịch bệnh theo phương pháp sinh học… Các
62
công nghệ này gắn với các khâu trong quy trình sản xuất nông nghiệp khép
kín và dành riêng cho từng loại sản phẩm nông nghiệp nhất định, đồng thời phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất theo các tiêu chuẩn quốc tế.
Ngoài ra Chính phủ Israel cũng rất quan tâm đầu tư nghiên cứu, ứng
dụng KH&CN vào khâu bảo quản sau thu hoạch. Viện Nghiên cứu khoa học
Thực phẩm và sản phẩm sau thu hoạch, thuộc Tổ chức Nghiên cứu nông
nghiệp quốc gia Israel (ARO), đã nghiên cứu thành công và cho ra đời nhiều
công nghệ bảo quản sau thu hoạch giúp cho nông sản bảo quản được lâu dài
mà vẫn bảo đảm tươi ngon và giữ được giá trị dinh dưỡng cao. Ngoài ra, còn
có các công nghệ mới khác như: công nghệ kéo dài tuổi thọ của táo Granny
Smith, công nghệ không sử dụng biến đổi gen (GMO) có thể giúp tăng sản
lượng các loại cây trồng lên tới 50% [74, tr.169,170].
Để thu hút vốn đầu tư cho nghiên cứu và phát triển KH &CN nông
nghiệp (R&D), Chính phủ Israel đã tiến hành thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm
nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp nông nghiệp, các dự án R&D
nông nghiệp có khả thi. Chẳng hạn, năm 2008 số vốn đầu tư mạo hiểm bình
quân đầu người của Israel cao gấp 2,5 lần so với Mỹ, 30 lần so với Châu Âu,
80 lần so với Trung Quốc và 350 lần của Ấn Độ. Ngoài ra Israel còn đẩy
mạnh thực hiện xã hội hóa hoạt động R&D để huy động các nguồn vốn.
Trong 5 năm từ 2008 - 2013, bình quân mỗi năm Israel chi gần 100 triệu USD
cho hoạt động nghiên cứu nông nghiệp, chiếm tới 3% tổng sản lượng nông
nghiệp quốc gia, trong đó chi từ ngân sách nhà nước khoảng hơn 50%, đầu tư
quốc tế 12%, các địa phương 6% và khu vực tư nhân là 25% [88, tr. 275].
Song song với việc đẩy mạnh ứng dụng KH&CN vào sản xuất, Israel chú
trọng nâng cao trình độ và chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp và người
nông dân thông qua việc tuyển chọn một số đại biểu tiêu biểu tham gia các lớp
đào tạo, sau đó từ lực lượng này phổ biến nhân rộng ra các doanh nghiệp và
nông dân. Đồng thời, Chính phủ tiến hành cử các chuyên gia xuống tư vấn,
hướng dẫn, giúp đỡ miễn phí cho doanh nghiệp và người nông dân sử dụng công
nghệ mới và cung cấp các thông tin định hướng cho sản xuất nông nghiệp.
63
Hai là, đẩy mạnh các hình thức liên kết trong chuỗi giá trị hàng hóa nông sản
Để phát triển một nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn,
có SCT cao, Israel đã coi trọng việc liên kết 5 nhà trong sản xuất kinh doanh
đó là: liên kết giữa nhà nước, nhà khoa học, nhà tư vấn, nhà nông và doanh
nghiệp. Trong liên kết này, nhà nước Israel đóng vai trò là chủ thể quan trọng
nhất nhằm hỗ trợ và quản lý toàn bộ các hoạt động trong chuỗi liên kết như:
việc hoạch định chiến lược SXKD; xây dựng kế hoạch phát triển; kiểm tra,
giám sát bảo đảm theo các tiêu chuẩn đối với quá trình sản xuất và chế biến
sản phẩm; nghiên cứu mở rộng thị trường,... Nhà khoa học đảm nhiệm nghiên
cứu lai tạo giống, cho ra các loại giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt,
khả năng chống dịch bệnh cao; nghiên cứu phát minh các công nghệ sản xuất,
chế biến, bảo quản nông sản; nghiên cứu tham mưu cho Chính phủ về chiến
lược, kế hoạch, quy hoạch và nghiên cứu dự báo... Nhà tư vấn đảm nhiệm
chức năng nghiên cứu về thị trường, từ đó tiến hành tư vấn cho các doanh
nghiệp, các công xã hiện đại (Kibbutz), các HTX (Mosha) và người nông dân
nên lựa chọn sản xuất loại nông sản gì, bán ở đâu, bán cho ai… nhằm mục
đích là đạt được lợi nhuận cao nhất. Các doanh nghiệp đảm nhiệm thực
hiện các dự án đầu tư phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như: xây dựng hạ
tầng cho các cơ sở sản xuất, cung cấp giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực
vật, bao tiêu sản phẩm… Nhà nông được tổ chức trong các Mosha, Kibbutz
và hộ sản xuất, là người trực tiếp thực hiện các dự án sản xuất nông nghiệp,
họ thực hành ứng dụng KH&CN vào sản xuất dưới sự tư vấn, hỗ trợ của
các chủ thể trong chuỗi liên kết. Thực hiện liên kết này ở Israel rất chặt chẽ
cả về kinh tế, xã hội và có tính cộng đồng rất cao. Người nông dân, nhà
khoa học, nhà tư vấn và doanh nghiệp không phân biệt, luôn sát cánh bên
nhau trên đồng ruộng. Để tăng cường sự gắn kết các bộ phận này, Chính
phủ Israel đã ban hành nhiều chính sách nhằm khuyến khích, tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho họ [88, tr.288].
Ba là, xây dựng các mô hình kinh tế hợp tác xã kiểu mới, hiện đại
64
Israel rất thành công trong việc xây dựng, phát triển các mô hình sản
xuất theo kiểu HTX. Hai hình thức hợp tác trong sản xuất nông nghiệp tiêu
biểu là Kibbutz và Mosav. Trong đó Kibbutz là một hình thức Công xã
hiện đại kiểu Israel (sinh hoạt, làm việc chung; không tài sản riêng), hình
thức này chiếm khoảng 20% diện tích canh tác của Israel [88, tr.189, 223].
Hiện nay mô hình Kibbutz không chỉ trong nông nghiệp mà còn phát triển
mạnh mẽ sang các lĩnh vực kinh tế khác. Mosav là một dạng HTX phức tạp
của Israel bao gồm một nhóm các trang trại tư nhân. Là loại hình HTX dựa
trên sở hữu tư nhân của các hộ gia đình, họ hợp lại với nhau để cùng sản xuất.
Quá trình sản xuất có thể do từng hộ gia đình, nhưng các yếu tố đầu vào và
tiêu thụ sản phẩm đầu ra đều do Mosav thực hiện, lợi nhuận được chia sẻ theo
thỏa thuận. Ngoài ra Israel còn có các hình thức tổ chức hợp tác khác dựa trên
sở hữu tư nhân như Mosha, Làng Ả rập… Nhờ các hình thức hợp tác này,
Israel đã tạo ra được các khu vực sản xuất nông sản tập trung quy mô lớn.
Quá trình tập huấn, phổ biến các kiến thức về sản xuất nông nghiệp cho nông
dân thuận lợi. Đặc biệt là việc cơ giới hóa, ứng dụng KH&CN hiện đại vào
sản xuất, kiểm soát được chất lượng nông sản... Do vậy HHNS của Israel có
năng suất cao, chất lượng tốt và có SCT cao trên thị trường quốc tế.
Bốn là, đẩy mạnh các hoạt động hướng tới khách hàng
Để hỗ trợ nông dân mở rộng xuất khẩu hàng hóa nông sản ra thị
trường thế giới, Chính phủ Israel đã chủ trương đẩy mạnh các hoạt
động nhằm hướng tới khách hàng như: thông tin quảng cáo, quảng bá
sản phẩm trên các phương tiện truyền thông, báo chí. Thực hiện tiếp thị
trực tiếp sản phẩm sang các thị trường tiềm năng thông qua mạng
Internet. Thông qua ngoại giao để ký kết các đơn hàng... Chẳng hạn
hiện nay có khoảng 60% tổng sản lượng hoa của Israel được bán trực
tiếp từ nông dân cho các nhà đấu giá ở Tây Âu; 20% còn lại được xuất
sang các thị trường truyền thống như Đông Âu và Mỹ, Nhật Bản và một
số nước Châu Á [88, tr. 169,170].
2.3.2. Bài học mà Việt Nam có thể tham khảo để nâng cao sức cạnh
65
tranh của hàng hóa nông sản
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước đã nêu trên, luận án rút
ra một số bài học cho Việt Nam có thể tham khảo về nâng cao SCT của
HHNS như sau:
Một là, thực hiện đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp, chú trọng phát
triển các vùng sản xuất chuyên canh quy mô lớn đối với các sản phẩm có lợi
thế ở từng vùng, từng địa phương, phục vụ xuất khẩu
Đây là bài học có ý nghĩa hết sức quan trọng, là việc làm cần thiết,
đầu tiên khi muốn phát triển sản xuất HHNS có năng suất cao, chất lượng
tốt và SCT cao trên thị trường. Bài học này, một mặt nhằm khai thác hiệu
quả những tiềm năng, lợi thế so sánh của mỗi vùng, của quốc gia như: tài
nguyên thiên nhiên, tài nguyên con người, vốn, khoa học, công nghệ, thị
trường… Kinh nghiệm của Thái Lan, để thực hiện vấn đề này họ đã có
chương trình “Mỗi Làng một sản phẩm” và tập trung phát triển sản phẩm
có lợi thế đó là: Lúa gạo, sắn, ngô và rau quả. Ở Việt Nam chúng ta cũng
đã có chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (viết tắt là OCOP) được khởi
xướng từ tỉnh Quảng Ninh năm 2013 sau đó lan tỏa ra các tỉnh trên cả
nước, bước đầu đã đem lại kết quả quan trọng. Tuy nhiên hiệu quả của
chương trình này chưa được như mong đợi, bởi sự vào cuộc chưa thực sự
quyết liệt của các cơ quan chức năng nhất là ở các địa phương. Chúng ta
vẫn chưa tạo ra được các sản phẩm đặc sản quy mô lớn, có SCT cao và có
thương hiệu trên thị trường thế giới. Để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
chương trình này, ngày 7/5/2018 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số
490/QĐ-TTg về phê duyệt Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” giai đoạn
2018- 2020 [98]. Theo đó, các địa phương cần phải tập trung mọi nguồn
lực để phát triển một sản phẩm có thế mạnh, đặc biệt là trong sản xuất nông
nghiệp, bảo đảm khu vực sản xuất chuyên canh hàng hóa nông sản quy mô
lớn, tạo ra những loại nông sản đặc sản của địa phương, có khối lượng lớn,
chất lượng tốt và SCT cao.
Vận dụng bài học kinh nghiệm này, Việt Nam chúng ta cần chú ý đến
66
các vấn đề sau: Chính phủ và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành địa phương cần
nghiên cứu kỹ đặc điểm, thế mạnh của từng vùng, địa phương mình. Xây
dựng và ban hành chiến lược phát triển các HHNS chủ lực cấp quốc gia, cấp
vùng và địa phương, nhằm khai thác hiệu quả và phát huy tiềm năng, thế
mạnh của quốc gia, từng vùng và từng địa phương. Bổ sung hoàn thiện các
quy hoạch liên quan đến phát triển sản xuất nông nghiệp, bảo đảm đồng bộ,
hình thành các vùng, các khu sản xuất chuyên canh hàng hóa nông sản quy
mô lớn. Chỉ đạo các địa phương tăng cường hợp tác, liên kết trong vùng,
tránh xung đột lợi ích khi quy hoạch vùng. Bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính
sách nhằm tạo môi trường thuận lợi nhất để khuyến khích, thu hút các nhà đầu
tư trong nước, nước ngoài tham gia vào SXKD trong lĩnh vực nông nghiệp,
nhất là sản xuất nông nghiệp hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao. Đẩy mạnh
phát triển các mô hình liên kết trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp theo
chuỗi giá trị hàng hóa nông sản.
Hai là, đẩy mạnh cơ giới hóa nông nghiệp, tăng cường nghiên cứu, ứng
dụng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao vào chuỗi giá trị HHNS
Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước ở trên cho thấy, các nước Thái
Lan, Malaysia, Israel đều chú trọng đến việc cơ giới hóa nông nghiệp và
nghiên cứu, ứng dụng KH&CN, nhất là công nghệ cao vào quá trình SXKD
HHNS. Vận dụng bài học kinh nghiệm từ các nước, đòi hỏi Chính phủ, các
bộ, ngành Trung ương và các địa phương cần phải đặc biệt quan tâm, đầu tư
đẩy nhanh việc cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp; nghiên cứu, phát triển và
ứng dụng KH&CN nhất là công nghệ cao, công nghệ mới vào tất cả các khâu
trong chuỗi giá trị HHNS, bảo đảm phù hợp với điều kiện cụ thể của từng
vùng, từng loại cây trồng, vật nuôi… Đặc biệt trước sự phát triển mạnh mẽ
của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) với sự đột phá của công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ số, trí tuệ nhân tạo. Chúng
ta phải nhanh chóng nắm bắt, đi tắt đón đầu ứng dụng những thành tựu
KH&CN này vào vào đời sống kinh tế - xã hội đất nước nói chung, sản xuất
HHNS nói riêng, tránh việc đi sau, nhập khẩu các công nghệ cũ sẽ khiến cho
67
chúng ta càng tụt hậu thêm. Làm được như vậy, chúng ta mới nâng cao được
trình độ của lực lượng sản xuất nông nghiệp, đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa
ngành nông nghiệp, khai thác có hiệu quả các nguồn lực, nâng cao giá trị gia
tăng của các HHNS, bảo vệ môi trường sinh thái, tạo tiền đề quan trọng đề
phát triển một nền nông nghiệp hiện đại, bền vững, HHNS của chúng ta sẽ
chiến thắng trong cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Ba là, đa dạng hóa các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp, tăng
cường liên kết trong chuỗi giá trị hàng hóa nông sản
Qua nghiên cứu kinh nghiệm các nước cho thấy: Đối với Israel, hiện có
gần 80% khu vực sản xuất nông nghiệp được tổ chức và điều hành bởi các
cộng đồng hợp tác xã Kibbutz và các Moshav, hoạt động theo điều lệ đã được
quy định cụ thể trong Đăng ký Hợp tác Quốc gia. Đối với Malaysia, họ
khuyến khích sự tham gia của các HTX, các hiệp hội nông nghiệp và nông
dân tham gia vào các chuỗi cung ứng sản phẩm, để bảo đảm các nhu cầu của
hợp đồng, cho phép giá cả ở các trang trại tốt hơn, chia sẻ lợi nhuận và bảo
đảm thu nhập bền vững cho người nông dân. Trong đó chú trọng vào chuỗi
cung ứng sản phẩm cao su, ca cao và rau quả.
Ở Việt Nam, bước đầu cũng đã hình thành các HTX sản xuất nông
nghiệp và các hình thức liên kết. Tuy nhiên, qua thực tiễn hoạt động cho thấy,
những liên kết này còn thiếu tính bền vững; nguyên nhân là do chưa giải
quyết thấu đáo lợi ích của các chủ thể tham gia liên kết. Vận dụng kinh
nghiệm từ các nước, có nhiều việc chúng ta cần phải làm, song trước hết Nhà
nước cần phải bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm
quyền lợi và nghĩa vụ cho các chủ thể, tạo mọi điều kiện thuân lợi nhất cho
các chủ thể phát triển sản xuất và tham gia liên kết. Đa dạng hóa các hình
thức sản xuất: kinh tế hộ gia đình, HTX nông nghiệp, kinh tế trang trại, doanh
nghiệp nông nghiệp… Đồng thời khuyến khích các chủ thể đầu tư phát triển
về quy mô, đổi mới phương thức hoạt động và tăng cường các hình thức liên
kết theo chuỗi giá trị. Nhà nước cần khuyến khích, đẩy mạnh đầu tư phát triển
kết cấu hạ tầng nông nghiệp, công nghiệp chế biến nông sản, dịch vụ nông
68
nghiệp… Thực hiện tốt các vấn đề trên chúng ta sẽ phát huy được các nguồn
lực đầu tư cho sản xuất, tăng cường trách nhiệm của các chủ thể trong chuỗi
liên kết… Đây là tiền đề để phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa quy mô
lớn, có năng suất cao, chất lượng tốt và SCT cao trên thị trường.
Bốn là, nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp, nhất là chất lượng
người nông dân
Thực tiễn lao động nông nghiệp ở các quốc gia đã nêu trên chiếm tỷ lệ
tương đối lớn, nhưng quy mô sản xuất còn nhỏ, trình độ còn hạn chế. Cho nên
kinh nghiệm của họ là muốn phát triển một nền nông nghiệp hiện đại, ứng
dụng các thành tựu của KH&CN vào sản xuất, phải coi trọng việc nâng cao
chất lượng lao động nông nghiệp. Coi nông dân không chỉ là lực lượng chủ
yếu trong sản xuất nông nghiệp, mà còn là mục tiêu phát triển một nền nông
nghiệp hiện đại, sản xuất HHNS quy mô lớn, có chất lượng tốt và SCT cao.
Chẳng hạn như: Chính phủ Thái Lan triển khai chương trình “phát triển nông
dân mới”, Malaysia thực hiện “Dự án phát triển nông dân trẻ”… Để nâng cao
trình độ lao động nông nghiệp các quốc gia đã có nhiều chính sách, trước hết
là quan tâm, chăm lo đến việc nâng cao đời sống vật chất, tình thần cho họ,
sau đó là khuyến khích họ tham gia vào các lớp đào tạo, tập huấn phổ biến
kiến thức… Đồng thời, có các đề án xây dựng nội dung, chương trình giáo
dục, đào tạo phù hợp với từng đối tượng. Phát huy vai trò các cơ sở đào tạo,
các trung tâm dạy nghề và khuyến khích các tổ chức trong, ngoài nước tham
gia đầu tư vào quá trình đào tạo, thực hiện đa dạng hóa các hình thức đào tạo
ở các cấp khác nhau...
Việt Nam có số lượng lao động nông nghiệp đông nhưng chất lượng
còn hạn chế, cơ cấu lao động vẫn mất cân đối. Học tập kinh nghiệm của các
nước trên, chúng ta cần tập trung vào những vấn đề cơ bản sau: Tiếp tục quán
triệt và đẩy mạnh thực hiện “Chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia
đến năm 2020”, “Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”
đã được Chính phủ phê duyệt. Triển khai, tổ chức thực hiện có hiệu quả đồng
thời tăng cường công tác kiểm tra, chấn chỉnh, rút kinh nghiệm và điều chỉnh
69
kịp thời. Xây dựng nội dung đào tạo, phát triển trình độ lao động phải toàn
diện nhưng cần tập trung nâng cao trình độ, kỹ năng SXKD trong nền kinh tế
thị trường, nhận thức về trách nhiệm xã hội của lao động...; đào tạo phải gắn
với nhu cầu sử dụng. Đa dạng hóa các hình thức giáo dục, đào tạo, coi trọng
hình thức trực quan như: tập huấn, tham quan các mô hình sản xuất nông
nghiệp tiêu biểu… Ban hành các chính sách nhằm nâng cao năng suất lao
động nông nghiệp và bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần cho người lao
động, nhất là nông dân.
Năm là, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị
trường xuất khẩu hàng hóa nông sản
Đây là kinh nghiệm phổ biến của các quốc gia, trong bối cảnh toàn cầu
hóa và tự do hóa thương mại quốc tế. Ở Thái Lan, Malaysia họ vận dụng hợp
lý hàng rào kỹ thuật, bảo hộ nông sản trong nước, đồng thời tích cực tham gia
vào các vòng đám phán mới của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), các
hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương. Thông qua con đường
ngoại giao, thực hiện các chính sách mềm dẻo, linh hoạt để ký kết các hợp
đồng chính ngạch xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ HHNS. Có các chính
sách hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tích cực tham gia các hoạt
động như hội chợ, triễn lãm, hội thảo… tăng cường các hoạt động quảng cáo,
tiếp thị nhằm quảng bá sản phẩm HHNS…
Học tập kinh nghiệm này, Chính phủ và các vùng địa phương ở Việt
Nam cần bổ sung, điều chỉnh hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm thu
hút các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào SXKD trong lĩnh vực
nông nghiệp, nhất là các doanh nghiệp khởi nghiệp nông nghiệp. Đẩy mạnh
các hoạt động triễn lãm, hội chợ..., các hoạt động xúc tiến thương mại
trong và ngoài nước, hỗ trợ các HTX, doanh nghiệp và người nông dân xây
dựng và quảng bá thương hiệu HHNS. Tăng cường các hoạt động ngoại
giao thương mại ở các cấp, thúc đẩy xuất khẩu HHNS. Thực hiện nghiêm
các các cam kết thương mại nông nghiệp khu vực, liên khu vực và quốc tế
theo quy định và chủ động đối phó với các biến động của thị trường nông
70
sản quốc tế.
71
Kết luận chương 2
Nghiên cứu về SCT của hàng hóa nói chung, HHNS Việt Nam nói
riêng là vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay. Tiếp cận dưới góc độ khoa học
Kinh tế chính trị, SCT của HHNS Việt Nam được hiểu là: khả năng đáp ứng
nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, bao bì,
thương hiệu, tính độc đáo của những sản phẩm được tạo ra từ ngành nông
nghiệp Việt Nam so với sản phẩm cùng loại của các nước khác trên thị trường.
Để đánh giá SCT của HHNS Việt Nam, người ta dựa vào nhiều tiêu chí
khác nhau, luận án đã đi sâu phân tích 4 tiêu chí cơ bản là: Chất lượng; giá cả;
thương hiệu và thị phần của HHNS. Sức cạnh tranh của HHNS Việt Nam chịu
sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau, bao gồm khách quan và chủ quan,
trong đó luận án đã tập trung phân tích 6 nhân tố chính đó là: điều kiện tự
nhiên; hội nhập kinh tế quốc tế; và cơ chế, chính sách của nhà nước; khoa học
và công nghệ; chất lượng lao động nông nghiệp; kết cấu hạ tầng.
Để nâng cao SCT của HHNS, Việt Nam cần tham khảo, vận dụng sáng
tạo các bài học được rút ra từ kinh nghiệm của các nước: Thái Lan, Malaysia,
Israel. Trong đó, chú trọng công tác quy hoạch, xây dựng chiến lược sản
phẩm, ứng dụng KH&CN, tăng cường liên kết trong chuỗi, xúc tiến thương
mại, mở rộng thị trường tiêu thụ...
Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về SCT của HHNS Việt
Nam, kinh nghiệm thực tiễn từ các nước và rút ra bài học cho Việt Nam có thể
tham khảo, là cơ sở để tác giả tiếp tục phân tích thực trạng, đưa ra quan điểm, giải
pháp nhằm nâng cao SCT của HHNS Việt Nam trong thời gian tới. Đó cũng là
nhiệm vụ sẽ được tác giả giải quyết trong chương 3 và chương 4 của luận án.
72
Chương 3
THỰC TRẠNG SỨC CẠNH TRANH
CỦA HÀNG HÓA NÔNG SẢN VIỆT NAM
3.1. Ưu điểm và hạn chế về sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản
Việt Nam
3.1.1. Ưu điểm về sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam 3.1.1.1. Chất lượng hàng hóa nông sản của Việt Nam ngày càng được cải thiện
Chất lượng là nhân tố quan trọng hàng đầu tạo nên SCT của hàng hóa
nông sản. Để đẩy mạnh sản xuất HHNS đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước
và xuất khẩu, cạnh tranh được với HHNS của các nước khác trên thị trường,
trong những năm qua Việt Nam đã có nhiều nỗ lực nhằm nâng cao SCT cho
HHNS, trong đó rất chú trọng đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, kết quả
được thể hiện qua một số nội dung sau:
Một là, tiêu chuẩn chất lượng quốc gia về các mặt hàng nông sản
không ngừng được hoàn thiện và nâng cao tương đương với tiêu chuẩn chất
lượng khu vực và quốc tế
Để không ngừng nâng cao chất lượng các mặt hàng nông sản, đáp ứng
yêu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, Việt Nam đã từng bước nâng cao
các tiêu chí trong bộ Tiêu chuẩn chất lượng quốc gia đối với từng mặt hàng
nông sản. Chẳng hạn đối với gạo trắng: Tiêu chuẩn Quốc gia về yêu cầu kỹ
thuật đối với gạo trắng xuất khẩu hiện nay là TCVN11888: 2017 (thay thế cho
các tiêu chuẩn về yêu cầu kỹ thuật ban hành trước đây như TCVN5644: 2008;
TCVN 5644: 1999; TCVN5644: 1992) do Cục Chế biến và phát triển thị
trường nông sản biên soạn, Bộ NN&PTNT đề nghị, Tổng Cục Tiêu chuẩn Đo
lường chất lượng thẩm định, Bộ Khoa học và Công nghệ công bố, đã ban
hành theo Quyết định số 1914/QĐ-BKHCN ngày 20/7/2017 (tương đương
với tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ISO 24333:2009 về ngũ cốc và sản phẩm từ
ngũ cốc). Theo bộ tiêu chuẩn này thì yêu cầu về cảm quan của gạo trắng Việt
Nam đó là: về màu sắc phải là màu trắng, đặc trưng cho các loại giống; về
mùi vị, phải có mùi đặc trưng cho từng loại giống, không có mùi vị lạ và đặc
biệt là không được có côn trùng sinh sống nhìn thấy bằng mắt thường. Về chỉ
73
tiêu chất lượng của gạo trắng cũng được xác định rất cụ thể đối với từng loại
gạo như gạo hạt ngắn, gạo hạt dài. Trong từng loại có tiêu chí cụ thể như: Tỷ
lệ hạt theo chiều dài, thành phần các hạt, các loại hạt khác (hạt đỏ, hạt sọc đỏ,
hạt xát dối…), tạp chất, thóc lẫn, độ ẩm và mức độ xay xát (xem Phụ lục 7).
Tương tự, đối với mặt hàng cà phê, có bộ tiêu chuẩn quốc gia riêng cho các
loại cà phê như: cà phê bột là TCVN: 2015, cà phê rang TCVN 5250:2015…; mặt
hàng rau quả có TCVN 9990:2013 về rau, quả tươi; mặt hàng thịt gia súc, gia
cầm có: TCVN 7046:2002 về thịt tươi, TCVN 12429:2018 về thịt mát… Tiêu
chuẩn quốc gia về các mặt hàng nông sản qua các năm có bước hoàn thiện, phát
triển; các chỉ số chất lượng như cảm quan, phẩm cấp, đặc điểm lý tính, hóa tính,
dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, các chỉ tiêu về bảo đảm môi trường, trách nhiệm
xã hội… yêu cầu đạt được ngày càng cao, điều đó đã làm cho chất lượng HHNS
Việt Nam ngày càng được nâng lên, góp phần nâng cao SCT cho HHNS trên thị
trường trong nước và xuất khẩu, đáp ứng với quá trình phát triển của đất nước,
và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là, đã nghiên cứu chọn tạo và nhập nội được nhiều loại giống mới
có chất lượng tốt áp dụng vào sản xuất đại trà
Chất lượng HHNS trước hết phụ thuộc vào giống, nhận thức được điều
đó trong thời gian qua Việt Nam đã có nhiều chủ trương, giải pháp; nhiều dự
án, đề án được triển khai thực hiện và đã đạt được những kết quả quan trọng.
Chẳng hạn: Đề án “Phát triển giống cây nông lâm nghiệp, giống vật nuôi và
giống thủy sản đến năm 2020” theo Quyết định số 2194/QĐ-TTg ngày
25/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ. Sau hơn mười năm triển khai thực
hiện, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đã nghiên cứu phát
triển được nhiều loại giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng tốt, năng suất
cao và đã duy trì, lưu giữ, đánh giá được hệ thống nguồn gen cây trồng, vật
nuôi. Đây là nguồn vật liệu vô cùng quan trọng, phục vụ công tác nghiên cứu,
chọn tạo giống trước mắt và lâu dài. Từ năm 2011 đến nay chúng ta đã thu
thập được 12.250 mẫu giống; đánh giá tình trạng hình thái 8.405 mẫu, lưu trữ
10.700 mẫu...; đã công nhận được 685 giống cây trồng, 26 dòng/tổ hợp lai vật
74
nuôi… Một lượng lớn giống gốc, giống siêu nguyên chủng, giống đầu dòng,
giống bố mẹ hạt lai…, cụ thể đối với các mặt hàng như sau:
Đối với cây lúa, chúng ta đã tạo ra các loại giống mới chất lượng tốt
như: giống lúa tẻ thuần DT-21, BM 9603, OM 90-2, OM 90-9, Nàng hương số
2, LC 93-1, M6, OM2514-314, OM2718, giống lúa nếp IRI 352, IR 64, giống
Jasmine 85, đặc biệt là giống lúa ST25 đã đạt giải gạo ngon nhất thế giới.
Đối với giống cà phê, chúng ta đã tạo ra được các loại: cà phê robusta
TR4, TR5, TR6, TR7, TR8, TR9; giống cà phê arabica TN1, TN2; giống cà
phê xanh lùn (Trường Sơn TS5)… [19].
Đối với các loại giống rau, quả:
Đã nghiên cứu ra giống bí xanh Thiên Thanh 5; giống rau cải ngọt
CX1, đậu rau TL1, cà chua lai F1 FM20, GL1-3 và FM29, dưa chuột lai CV5,
GL1-2 và CV11, giống ớt cay lai F1 HB9, HB14 và GL1-1. Các loại giống
cây ăn quả như: Chuối tiêu Hồng; chuối Tây ta; thanh long ruột đỏ, chôm
chôm, vú sữa lai, giống Cam Canh, Bưởi Diễn, Vải U lai, Vải thiều, dứa
Cayen; dứa Queen; xoài ĐL4; ổi ODL1; ổi Đông Dư... [19].
Đối với giống lợn và giống gia cầm:
Đã nghiên cứu, chọn tạo ra được dụng các loại giống lấy thịt và sinh sản cho
năng suất cao, chất lượng tốt như: Lợn nái PIC trung bình cho 11,3 con/lứa, gà Đông
tảo, gà Ri, gà Ta lai, vịt Giời, vịt dòng Super, vịt Biển, ngan dòng R…[19].
Chất lượng giống cây trồng, vật nuôi ngày càng được tăng lên đã giúp
cho năng suất, chất lượng HHNS tăng lên. Hiện nay chất lượng một số mặt
hàng nông sản của Việt Nam trên thị trường trong nước và xuất khẩu đã tăng
lên tiệm cận với chất lượng nông sản của các nước có nền nông nghiệp phát
triển, thậm chí có những mặt hàng cao cấp đã có chất lượng vượt trội hơn như
trường hợp gạo ST25 là một minh chứng.
Ba là, đã đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ vào các khâu
trong chuỗi giá trị hàng hóa nông sản
Chất lượng sản phẩm HHNS được hình thành trong suốt quá trình thực
hiện chuỗi giá trị của nó. Cùng với việc sử dụng các loại giống mới năng suất
75
cao, chất lượng tốt vào sản xuất thì quy trình, công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện
đại sẽ làm gia tăng chất lượng sản phẩm. Không thể có sản phẩm tốt với kiểu
sản xuất thủ công, công nghệ lạc hậu. Chính vì vậy trong những năm qua, với
chủ trương phát triển nền nông nghiệp hàng hóa hiện đại bền vững, hướng tới
xuất khẩu, Việt Nam đã nỗ lực đẩy mạnh ứng dụng KH&CN tiên tiến vào sản
xuất, đồng thời tăng cường các chuỗi liên kết để tạo ra được khối lượng nông
sản lớn, chất lượng tốt, gia tăng hàm lượng KH&CN trong sản phẩm, đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của khách hàng trên thị trường trong nước và quốc tế.
Số lượng máy móc, trang thiết bị sản xuất, chế biến nông sản không ngừng
tăng lên. Chỉ tính riêng các loại máy móc, thiết bị chuyên dụng chủ yếu, năm 2016
đã có hơn 6,3 triệu chiếc, tăng so với năm 2011 là 66,4%. Trong đó máy kéo là
719,3 nghìn chiếc tăng 44,5%; máy gieo sạ 27,7 nghìn, chiếc, tăng 7,8%; máy gặt
đập liên hợp 22,2 nghìn chiếc, tăng 69,2%; máy gặt cầm tay, máy gặt xếp hàng và
máy gặt khác là 171,8 nghìn chiếc, tăng gấp gần 2,8 lần; máy tuốt lúa có động cơ
249,8 nghìn chiếc, tăng 8,1%; lò, máy sấy sản phẩm nông, lâm, thủy sản, 72,3
nghìn chiếc, tăng 22,8%; máy chế biến lương thực 189,5 nghìn chiếc; 2,8 triệu
máy bơm nước, trên 1,5 triệu bình phun thuốc trừ sâu có động cơ [100].
Công nghệ sản xuất sử dụng nhà lưới, nhà kính hay mái lợp bằng màng
polyethylen phát triển mạnh. Đã sử dụng các hình thức tưới tự động, tưới
phun sương, điều chỉnh nhiệt độ, ánh sáng, phân bón hữu cơ, sinh học… vào
sản xuất, đã làm cho năng suất, chất lượng của nông sản được tăng lên. Tính
đến nay cả nước đã có khoảng 4.098,6 ha nhà lưới, nhà kính ở 327 xã trên cả
nước, tập trung chủ yếu ở các địa phương: như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh và Lâm Đồng. Hình thức sản xuất sử dụng nhà lưới, nhà kính chủ yếu là
trồng rau, trồng hoa, trồng cây giống. Trong đó, trồng rau có 2.144,6 ha,
chiếm 52,3% tổng diện tích nhà lưới, nhà kính cả nước; trồng hoa 1.055,4 ha,
chiếm gần 25,5%; trồng cây giống 661,1ha, chiếm 16,1% [100]. Đối với chăn
nuôi, hình thức chăn nuôi công nghiệp công nghệ cao đang có xu hướng phát
triển, điển hình như mô hình của các doanh nghiệp cổ phần: Vinamilk, TH,
DABACO, CP Việt Nam, Bình Hà, Thái Dương… [19].
76
Bốn là, đã đẩy mạnh việc liên kết theo chuỗi giá trị và cam kết sản xuất
theo các tiêu chuẩn
Liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị trong những năm qua đã được hình
thành với nhiều hình thức đa dạng như: liên kết xây dựng cánh đồng mẫu lớn;
ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm trước khi sản xuất; liên kết góp vốn đầu tư sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm của các hộ sản xuất, các trang trại, các doanh
nghiệp HTX... Đến nay cả nước có khoảng 619,3 nghìn hộ tham gia liên kết
sản xuất theo mô hình cánh đồng lớn với diện tích gieo trồng ở các cánh đồng
mẫu lớn được ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm chiếm tỷ lệ 29,2% [100].
Về liên kết giữa các doanh nghiệp, đến nay cả nước có khoảng 781 doanh
nghiệp thực hiện, chiếm 20,3% tổng số doanh nghiệp SXKD nông sản; trong
đó có 257 doanh nghiệp liên kết cung ứng các sản phẩm, dịch vụ đầu vào cho
sản xuất, chiếm 32,9%; 250 doanh nghiệp liên kết tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ
đầu ra, chiếm 32,0%; 186 doanh nghiệp liên kết góp vốn đầu tư sản xuất,
chiếm 23,8%; và 88 doanh nghiệp liên kết theo các hình thức khác. Về thực
hiện liên kết sản xuất giữa các HTX và giữa HTX với các đơn vị khác: có
khoảng 2.469 HTX, chiếm 35,5% tổng số HTX nông nghiệp. Trong đó, có
1.343 HTX liên kết thực hiện cung ứng sản phẩm, dịch vụ đầu vào; 333 HTX
liên kết góp vốn đầu tư vào sản xuất; 528 HTX liên kết tiêu thụ sản phẩm,
dịch vụ đầu ra và 265 HTX liên kết theo các hình thức khác. Về thực hiện liên
kết sản xuất giữa các trang trại: cả nước có khoảng 7.324 trang trại thực hiện,
chiếm 21,9% tổng số trang trại [100]..
Cùng với đẩy mạnh thực hiện trình liên kết trong chuỗi giá trị, các chủ
thể tham gia liên kết, tăng cường thực hiện cam kết sản xuất theo tiêu các tiêu
chuẩn quốc gia và quốc tế, nhằm đề cao trách nhiệm trong sản xuất, nâng cao
chất lượng sản phẩm. Theo đó, tính đến hết năm 2018 đã có 393.000 ha cây
trồng các loại được cấp chứng nhận Thực hành sản xuất nông nghiệp tốt Việt
Nam (VietGAP), trong đó diện tích trồng các loại quả là 22.700 ha, lúa 5.300
ha, cà phê 101 ha, các loại cây khác 5.205 ha [31].
77
Nhờ áp dụng các loại giống mới, chất lượng tốt và ứng dụng KH&CN
vào sản xuất; thực hiện liên kết theo chuỗi giá trị giá trị và nâng cao bộ tiêu
chuẩn chất lượng quốc gia về các sản phẩm nông sản, nên chất lượng hàng
hóa nông sản Việt Nam trong những năm qua không ngừng được tăng lên.
Điều đó được thể hiện số đơn vị và số sản phẩm sản xuất đạt tiêu chuẩn
VietGap, HCCP, Organic và số sản phẩm có thương hiệu, được bảo hộ chỉ
dẫn địa lý, ngày một tăng lên. Nhiều mặt hàng nông sản Việt Nam đã xâm
nhập và ngày càng khẳng định được vị thế của mình ở các thị trường khó
tính như Mỹ, EU, Nhật Bản. Đặc biệt, tại cuộc thi gạo ngon nhất thế giới
(World’s Best Rice), do Hội nghị thương mại gạo thế gới (The Rice Trader)
tổ chức ở Manila, Philippines ngày 12/11/2019, loại gạo đặc sản Sóc Trăng
ST25 của Việt Nam đã vượt qua gạo của các nước Thái Lan, Campuchia để
lần đầu tiên nhận giải thưởng cao nhất của cuộc thi này là giải thưởng gạo
ngon nhất thế giới. Chất lượng sản phẩm tăng lên đã làm cho SCT của
HHNS Việt Nam trong những năm quan cũng tăng lên. Chẳng hạn, đối với
mặt hàng gạo trên thị trường nội địa, cơ bản người dân Việt Nam lựa chọn
dùng gạo Việt Nam, tầng lớp có thu nhập cao trước đây thường lựa chọn gạo
Thái Lan, gạo Nhật Bản nhưng những năm gần đây đã có xu hướng lựa chọn
các dòng gạo cao cấp của Việt Nam như các dòng gạo OM, gạo ST24, ST25.
Trên thị trường các nước Mỹ, EU, Nhật Bản trước đây cơ bản là sử dụng gạo
của Thái Lan, gạo của Việt Nam không có cửa để vào các thị trường này,
nhưng hiện nay gạo của chúng ta đã thâm nhập và ngày càng khẳng định
được chất lượng ở trên các thị trường này. Đặc biệt gần đây Hiệp định
thương mại tự do EU Việt Nam (EVFTA) được ký kết, EU đã cấp hạn ngạch
cho Việt Nam là 80.000 tấn gạo/năm.
3.1.1.2. Chi phí sản xuất và giá một số hàng hóa nông sản của Việt
Nam thấp hơn so với các nước trong khu vực và thế giới
Việt Nam là nước có truyền thống về sản xuất nông nghiệp, với điều
kiện thời tiết, khí hậu và thổ nhưỡng tương đối thuận lợi, nguồn lao động phổ
thông dồi dào. Do vậy chi phí cho các yếu tố đầu vào sản xuất HHNS của
78
Việt Nam được xếp vào loại thấp so với các nước trong khu vực và trên thế
giới. Chi phí đầu vào thấp dẫn tới giá thành sản xuất thấp, đây là lợi thế cạnh
tranh vốn có của HHNS Việt Nam so với các đối thủ trên thị trường. Cụ thể
đối với một số mặt hàng chính như sau:
Đối với mặt hàng gạo
Về chi phí sản xuất: Chi phí sản xuất lúa của Việt Nam hiện nay đang gần
như thấp nhất trong khu vực Đông Nam Á. Đặc biệt là ở đồng bằng Sông cửu Long
vựa lúa của Việt Nam, chi phí sản xuất lúa ở đây xếp vào tốp thấp nhất thế giới. Chi
phí sản xuất lúa ở các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long hiện nay vào khoảng 3.700 -
4.100 đồng/kg, ở các tỉnh Đồng bằng Sông Hồng khoảng 4000 - 4200 đồng/kg,
bình quân chi phí sản xuất lúa ở Việt Nam khoảng từ 170 - 174 USD/tấn, trong khi
đó chi phí sản xuất lúa ở Thái Lan vào khoảng 180 - 182USD/tấn, cao hơn Việt
Nam khoảng từ 4,0 -4,6%. Điều đó cho thấy Việt Nam có lợi thế cạnh tranh hơn so
với Thái Lan trong sản xuất và xuất khẩu gạo (xem Bảng 3.1).
Bảng 3.1: Chi phí sản xuất lúa ở Việt Nam so với Thái Lan từ năm
2011 - 2019
(Đơn vị: USD/tấn)
Năm Việt Nam Thái Lan
2011 2013 2015 2017 2018 2019 123 127 128 150 168 174 126 132 139 154 175 182 So sánh Thái Lan/ Việt Nam (%) 2,44 3,94 8,60 2,67 4,17 4,60
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [47], [132]
Về giá gạo: Giá gạo thế giới thường xuyên biến động, trước năm
2011 giá gạo thế giới có xu hướng tăng mạnh và đạt đỉnh vào năm 2009 khi
đó giá gạo xuất khẩu trung bình thế giới khoảng 640 - 690 USD/tấn, gạo
xuất khẩu của Việt Nam loại 5% tấm là khoảng 600 - 650 USD/tấn. Bắt
đầu từ năm 2010 do các nước xuất khẩu gạo tăng diện tích và sản lượng lúa
đồng thời một số nước nhập khẩu gạo đã tự túc được lương thực dẫn đến
79
sản lượng gạo thế giới tăng cao, kéo theo là sự sụt giảm về giá kéo dài.
Năm 2019 giá gạo xuất khẩu bình quân thế giới giảm xuống còn khoảng
410 - 480 USD/tấn, gạo xuất khẩu của Việt Nam loại 5% tấm giảm xuống
còn khoảng 390 - 460 USD/tấn. Tuy giá gạo thế giới thương xuyên biến
động do ảnh hưởng về điều kiện sản xuất, cung, cầu trên thị trường nhưng
giá gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn luôn thấp hơn giá gạo xuất khẩu của
Thái Lan, Ấn Độ (đối thủ cạnh tranh) trên thị trường, đây là một những lợi
thế cạnh tranh của mặt hàng gạo Việt Nam (xem Bảng 3.2).
Bảng 3.2: Giá gạo xuất khẩu của các nước xuất khẩu gạo hàng đầu
thế giới năm 2011 - 2019
(Đơn vị USD/tấn)
Nước
Chất lượng
Gạo 5% tấm
520 - 570
420 - 490
410 - 460
390 - 460
410 - 475
Thái Lan
Gạo 25% tấm
470 - 500
400 - 470
390 - 440
380 - 440
400 - 450
Gạo 5% tấm
510 - 590
410 - 480
400 - 450
390 - 455
395 - 470
Ấn Độ
Gạo 25% tấm
470 - 490
390 - 410
390 - 440
375 - 435
380 - 385
Gạo 5% tấm
500 - 510
400 - 470
390 - 440
380- 450
390 - 460
Việt Nam
Gạo 25% tấm
460 - 480
380 - 450
385 - 430
370 - 430
375 - 380
2011 2013 2015 2017 2019
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [8], [47], [105], [132]
Đối với mặt hàng cà phê Hiện nay trên thế giới có nhiều loại cà phê khác nhau như: cà phê Arabica, Robusta, Culi, Cherry, Moka, được trồng tại hơn 50 quốc gia trên thế giới. Mỗi loại cà phê thích nghi với điều kiện khí hậu thời tiết và thổ nhưỡng khác nhau, đã tạo ra lợi thế trồng và xuất khẩu các loại cà phê khác nhau cho các quốc gia. Việt Nam có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc trồng loại cà phê Rubusta, hiện nay loại cà phê này chiếm hơn 90%. Do vậy loại cà phê Robusta của Việt Nam đang có lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ trên thị trường.
Về chi phí sản xuất: Chi phí sản xuất cà phê của Việt Nam so với các nước xuất khẩu chính về cà phê cũng tương đối thấp, chẳng hạn như loại cà phê robusta của Việt Nam có chi phí sản xuất bình quân khoảng 900 USD/tấn, trong khi đó chi phí sản xuất cà phê bình quân ở Ấn Độ là khoảng 1.020
80
USD/tấn, còn của Inđônêxia khoảng 1.025 USD/tấn. Tuy nhiên, chi phí sản xuất cà phê của Việt Nam vẫn cao hơn so với Braxin, nước xuất khẩu cà phê hàng đầu trên thế giới hiện nay (xem Bảng 3.3).
Bảng 3.3: So sánh chi phí sản xuất cà phê của Việt Nam với một số
nước năm 2019
Chi phí (USD/tấn) So với Việt Nam (%) Nước
1.025 Inđônêxia 114
1.020 Ấn Độ 113
900 Việt Nam 100
835 Braxin 93
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [19], [106], [152]
Về giá cà phê: Trong những năm qua, giai đoạn từ năm 2011 - 2019, giá cà
phê trên thị trường thế giới không ổn định, thường xuyên dao động và có xu
hướng giảm. Nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này là: Thứ nhất, việc gia
tăng đáng kể về diện tích trồng cà phê của các nước trên thế giới nhất là các nước
xuất khẩu chính, đã kéo theo sản lượng cà phê trên thế giới tăng đột biến, trong
khi đó khối lượng cầu tiêu thụ tăng không đáng kể dẫn đến tình trạng dư thừa, tồn
đọng số lượng lớn cà phê, làm cho giá cà phê sụt giảm. Thứ hai, đó là sự thất bại
của Hiệp hội sản xuất cà phê thế giới (ICO) trong các thỏa thuận quốc tế về kiểm
soát diện tích trồng cà phê, khối lượng dự trữ cà phê và xuất khẩu cà phê. Tuy
nhiên, sau nhiều năm thiệt hại do giá cà phê thế giới xuống quá thấp nên tổ chức
ICO đã thống nhất ban hành các tiêu chuẩn tối thiểu đối với mậu dịch cà phê thế
giới và đã có hiệu quả, thị trường cà phê thế giới dần được kiểm soát, độ biến
động về giá cũng ổn định hơn, đây là một thành công lớn của ICO thời gian gần
đây. Trong những năm gần đây, Việt Nam là nước có khối lượng cà phê xuất khẩu
đứng thứ 2 thế giới (Sau Brazil), cùng với xu hướng chung của thế giới, giá cà phê
xuất khẩu bình quân của Việt Nam năm 2011 là 120.742 USD/nghìn bao, đến
năm 2019 giảm xuấng còn 103.959 USD/nghìn bao. Tuy là giá cà phê xuất khẩu
của Việt Nam giảm theo xu hướng chung của cà phê thế giới nhưng vẫn luôn thấp
81
hơn giá cà phê xuất khẩu của các nước như Brazil, Colombia, Indonesia (Đối thủ
cạnh tranh) trên thị trường. Điều này phản ánh lợi thế cạnh tranh về giá của cà
phê Việt nam so với các đối thủ trên thị trường (xem Bảng 3.4).
Bảng 3.4: Giá cà phê xuất khẩu của các nước xuất khẩu cà phê
hàng đầu thế giới (Đơn vị USD/nghìn bao)
Nước 2011 2013 2015 2017 2018 2019
Bình quân TG 127.011
Brazil Colombia Indonesia Việt Nam 97.231 133.281 123.981 138.396 107.757 134.079 104.120 138.450 129.500 140.230 109.130 97.730 134.745 123.779 137.350 106.245 127.720 95.980 132.430 122.645 136.370 105.180 125.520 91.091 127.500 120.000 135.634 103.959 120.724
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [8], [19], [106], [152]
Đối với mặt hàng rau, quả Về chi phí sản xuất: Cũng như mặt hàng gạo và cà phê, do điều kiện
thời tiết, khí hậu thuận lợi, cùng với lực lượng lao động phổ thông dồi dào
nên chí phí sản xuất rau quả của Việt Nam thấp hơn các nước trong khu vực và thế giới như Indonesia, Malaysia, Philippin, Thái Lan (xem Bảng 3.5)
Bảng 3.5: So sánh chi phí sản xuất trung bình một số loại quả của
Việt Nam với một số nước năm 2019
Đơn vị tính: Chi phí: USD/tấn; So với Việt Nam: %
Dứa Xoài Quả có múi Chuối
Nước
Chi
Chi
Chi
Chi
So với Việt
So với Việt
So với Việt
So với Việt
phí
phí
phí
phí
Nam
Nam
Nam
Nam
Việt Nam 250 100 280 100 265 100 260 100
Indonesia 280 112 300 107 275 103,8 270 103,8
Malaysia 300 120 310 110,7 280 105,7 290 111,5
Philippin 275 110 290 103,5 270 101,9 265 101,9
Thái Lan 290 116 330 117,8 290 109,4 280 107,7
270 Trung Quốc 108 305 109 250 -94 275 106
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [19], [107], [151]
82
Theo số liệu Bảng 3.5, ta thấy chi phí sản xuất một số loại quả của Việt
Nam thấp hơn các nước trong khu vực, chẳng hạn đối với quả dứa, chi phí để
sản xuất ra 1 tấn dứa ở Việt Nam là 250 USD, nhưng ở Indonesia là 280
USD, bằng 112% so với Việt Nam, ở Malaysia là 300 USD, Thái Lan là 290
USD và Philippin là 275 USD. Tương tự đối với quả xoài, các loại quả có múi
và chuối, chi phí sản xuất của Việt Nam luôn thấp hơn từ 1,9 đến 20% so với
các nước trong khu vực. Đây là lợi thế về chi phí, góp phần hạ giá bán sản
phẩm, nâng cao SCT cho mặt hàng rau quả Việt Nam trên thị trường.
Về giá rau quả: Tuy một số loại rau quả của Việt Nam có chi phí sản
xuất thấp hơn một số nước trong khu vực và thế giới, nhưng do công nghệ bảo
quản, chế biến cũng như chi phí chiếu xạ, vận chuyển, phí cầu cảng, sân bay cao
nên giá bán một số loại rau quả Việt Nam khi đến tay người tiêu dùng lại tương
đối cao, nhất là khi xuất khẩu sang các thị trường xa như Mỹ, EU, Nhật Bản.
Chẳng hạn giá bán vải thiều loại 1 tại Lục Ngạn (Bắc Giang) vào chính vụ khoảng
30.000 đến 40.000đ/kg, tại Thanh Hà (Hải Dương) khoảng 40.000 đến
50.000đ/kg, nhưng khi xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, bày bán ở các siêu thị
là khoảng 500.000đ/kg, trong khi đó của Thái Lan khoảng 450.00đ/kg, Trung
Quốc khoảng 380.000đ/kg, Malaysia khoảng 430.000đ/kg [107]. Như vậy, về giá
bán, hàng rau quả Việt có lợi thế cạnh tranh trên thị trường nội địa nhưng kém
cạnh tranh hơn hàng rau quả của các nước Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia trên
thị trường xuất khẩu.
Đối với mặt hàng thịt lợn
Về chi phí sản xuất: Trong những năm qua, ngành chăn nuôi nói chung,
chăn nuôi lợn nước ta nói riêng đã có bước chuyển mạnh mẽ từ số lượng sang
chất lượng, từ nông hộ quy mô nhỏ sang nuôi công nghiệp, quy mô lớn và áp
dụng các tiến bộ kỹ thuật; đã hình thành được các chuỗi liên kết trong sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm. Năm 2011 tổng đàn lợn cả nước là 27,8 triệu con,
đến năm 2018 tổng đàn lợn cả nước có khoảng 28,152 triệu con, sản lượng
thịt xuất chuồng 3.816,4 ngàn tấn. Bước sang năm 2019, do ảnh hưởng của
dịch tả lợn Châu Phi (TLCP) nên tổng đàn giảm xuống còn 24,932 triệu con,
sản lượng thịt xuất chuồng cũng giảm xuống còn 3.289,7 ngàn tấn.
83
Tuy Việt Nam có lợi thế về mặt bằng và lao động nhưng hơn 70% thức
ăn chăn nuôi, thuốc thú y, con giống phải nhập khẩu cùng với quy mô chăn
nuôi còn nhỏ lẻ nên chi phí chăn nuôi cao. Nếu như trước khi DTLCP diễn ra,
chi phí chăn nuôi lợn ở Việt Nam vào khoảng 37.000 đồng/kg lợn hơi thì sau
khi diễn ra DTLCP chi phí tăng lên khoảng 50.000 đồng/kg. So sánh chi phí
chăn nuôi lợn với một số nước trong khu vực (Indonesia, Malaysia, Thái Lan)
chi phí chăn nuôi lợn của Việt Nam cao hơn từ 3,23 đến 19,35%; rẻ hơn
Trung Quốc và Philippin từ 1,4 đến 6% (xem Bảng 3.6.).
Bảng 3.6: So sánh chi phí chăn nuôi lợn Việt Nam với một số nước
năm 2019 (Đơn vị tính: Chi phí: USD/kg lợn hơi; So với Việt Nam: %)
Chi phí So với Việt Nam Nước (USD/kg lợn hơi) (%)
Việt Nam 2,17 100
Indonesia 2,10 96,77
Malaysia 2,00 92,17
Philippin 2,20 101,4
Thái Lan 1,75 80,65
Trung Quốc 2,30 106
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [19], [107], [153]
Như vậy, chưa so sánh với các nước có thế mạnh về sản xuất, xuất
khẩu thịt lợn như Mỹ, EU, Canada, mặt hàng thịt lợn Việt Nam nhìn chung
không có lợi thế cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu. Đối với thị trường
trong nước, chúng ta vẫn đang áp thuế nhập khẩu cao để bảo vệ ngành chăn
nuôi lợn trong nước, nếu như chúng ta không có các giải pháp hạ thấp giá
thành, thì khi đến lộ trình thực hiện các cam kết trong các hiệp định thương
mại tự do nhất là EVFTA, thịt lợn giá rẻ sẽ tràn vào Việt Nam, khi đó mặt
hàng thịt lợn Việt Nam có nguy cơ “thua trên sân nhà” khi cạnh tranh với
mặt hàng thịt lợn của nước ngoài.
Về giá thịt lợn: Do chi phí chăn nuôi cao nên giá bán thịt lợn của Việt
Nam cũng tương đối cao, đặc biệt do ảnh hưởng DTLCP, nguồn cung thịt lợn
84
trong nước thiếu hụt so với nhu cầu tiêu thụ, do vậy giá bán thịt lợn trên thị
trường trong nước thời điểm tháng 12/2019 lên tới 85.000 đồng/kg lợn hơi.
Để ổn định giá thịt lợn trong nước, ngoài các chính sách hỗ trợ tái đàn, Bộ
NN&PTNT kêu gọi các doanh nghiệp chăn nuôi lớn giảm giá lợn hơi xuống
70.000 đồng/kg, Chính phủ Việt Nam thực hiện tăng cường nhập khẩu thịt
lợn từ các nước như Canada, Đức, Ba Lan, Brazil, Hoa Kỳ, Nga, giá thịt lợn
nhập từ các nước này luôn rẻ hơn thịt lợn Việt Nam từ 20 đến 50 nghìn đồng.
Tuy nhiên giá thịt lợn hơi Việt Nam luôn thấp hơn thịt lợn hơi Trung Quốc,
do vậy Trung Quốc là thị trường tiềm năng, Việt Nam có lợi thế cạnh tranh về
giá để tăng cường xuất khẩu thịt lợn sang thị trường này (xem Bảng 3.7)
Bảng 3.7: So sánh giá thịt lợn hơi trung bình các tháng trong năm
2019 các khu vực trong nước của Việt Nam với Trung Quốc
Đơn vị tính: VNĐ/kg thịt hơi
Việt Nam Tháng Trung Quốc Phía Nam Phía Bắc
1 45.200 44.420 46.344
3 43.500 34.273 48.439
5 35.500 28.069 46.882
7 31.800 36.585 59.022
9 41.000 46.057 93.195
11 63.500 66.500 137.238
12 85.000 85.500 130.345
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [19], [107], [153]
Đối với thịt và trứng gia cầm
Về chi phí sản xuất: Trong gần 10 năm qua (2011 - 2019), với sự đổi
mới toàn diện, từ công tác giống, thức ăn, phòng trừ dịch bệnh, chăn nuôi gia
cầm nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng, tổng đàn gia cầm tăng từ
322,6 triệu con năm 2011 lên 481,1 triệu con năm 2019, tăng trưởng bình
quân 5,5%/năm, sản lượng trứng gia cầm năm 2019 đạt khoảng 13,2 tỷ quả
[101]. Chi phí chăn nuôi gia cầm nếu tính bình quân cả nước, thì Việt Nam
85
đang thuộc nhóm trung bình trên thế giới, nhưng nếu tính riêng khu vực chăn
nuôi trang trại công nghiệp thì năng suất và chi phí chăn nuôi của Việt Nam
ngang bằng các nước phát triển trong khu vực (xem Bảng 3.8)
Bảng 3.8: So sánh chi phí chăn nuôi gia cầm Việt Nam với một số
nước năm 2019
Đơn vị tính: Chi phí: USD/kg; So với Việt Nam: %
Chi phí (USD/kg) So với Việt Nam (%) Nước
1,27 Việt Nam 100
0,96 Trung Quốc 75,6
1,06 Hoa kỳ 83,5
1,16 Thái Lan 91,3
1,30 Nga 1,02
1,34 EU 1,06
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [19], [107], [153]
Theo số liệu Bảng 3.8, chi phí chăn nuôi gia cầm ở Việt Nam năm 2019
là 1,27 USD/kg cao hơn Trung Quốc, Hoa Kỳ, Thái Lan lần lượt là 24,4%,
16,5%, và 8,7%, thấp hơn Nga 0,2%, EU 0,6%. Như vậy xét về chi phí sản
xuất, mặt hàng thịt gà Việt Nam kém cạnh tranh hơn so với thịt gà của Trung
Quốc, Hoa Kỳ, Thái Lan và có ưu thế cạnh tranh hơn so với thịt gà các nước
EU, Nga. Từ lợi thế chi phí, cùng với cơ hội các hiệp định CPTPP, EVFTA
có hiệu lực, Việt Nam có thể đẩy mạnh mở rộng thị trường xuất khẩu thịt gà
sang các nước EU, Nga
Về giá thịt và trứng gia cầm
Do chi phí chăn nuôi gia cầm Việt Nam xếp vào loại trung bình trên thế
giới, nên giá bán trên thị trường nội địa cũng ở mức trung bình. Bình quân thịt
gà hơi các loại năm 2019 có giá khoảng 45.000 đến 50.000 đồng/kg, thịt vịt
hơi vào khoảng 30.000 đến 35.000 đồng/kg; trứng gà các loại có giá bình
quân từ 1.300 đến 2000 đồng/quả, trứng vịt từ 1.000 đến 1500 đồng/quả. Hiện
nay, gà nhập khẩu từ các nước Hoa Kỳ, Hà Lan, Ba Lan đang có giá bán thấp
hơn nhiều so với thịt gà Việt Nam, chẳng hạn như đùi gà nhập khẩu giá chỉ
86
khoảng 40.000 đến 60.000 đồng/kg, trong khi đùi gà công nghiệp trong nước
giá khoảng 65.000 đến 80.000 đồng/kg… Như vậy, xét về giá bán, thì thịt và
trứng gia cầm của Việt Nam không có lợi thế cạnh tranh ngay cả trên thị trường
nội địa. Nếu chúng ta không có các giải pháp đồng bộ để nâng cao chất lượng,
giảm giá thành và các biện pháp hạn chế nhập khẩu để bảo vệ sản xuất trong
nước thì ngành chăn nuôi gia cầm của Việt Nam sẽ bị “thua trên sân nhà” trước
thịt giá rẻ đến từ các nước có nền chăn nuôi tiên tiến, nhất là Hoa Kỳ.
3.1.1.3. Thương hiệu và uy tín hàng hóa nông sản Việt Nam đã có sự
cải thiện rõ rệt trên thị trường trong nước và thế giới
Thời gian qua, vấn đề xây dựng và phát triển thương hiệu hàng hóa nông
sản Việt Nam đã được các cơ quan Trung ương, các bộ, ngành, địa phương và
doanh nghiệp quan tâm, tiếp cận và triển khai. Nhiều chương trình, kế hoạch, đề
án, dự án về xây dựng và phát triển thương hiệu hàng Việt Nam nói chung và
hàng nông sản nói riêng đã được thực hiện. Chẳng hạn như: “Chương trình
thương hiệu quốc gia Việt Nam” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết
định số 253/2003/QĐ-TTg ngày 25/11/2003; Chương trình “Mỗi xã một sản
phẩm” (viết tắt là OCOP) được khởi xướng từ tỉnh Quảng Ninh năm 2013 sau
đó lan tỏa ra các tỉnh trên cả nước… Nhờ những nỗ lực trên, tính đến tháng 5
năm 2019, đã có 68 chỉ dẫn địa lý là các sản phẩm nông sản của Việt Nam được
đăng ký bảo hộ; 39 tỉnh, thành phố đã có chỉ dẫn địa lý, trong đó 15 tỉnh, thành
phố có nhiều hơn 2 chỉ dẫn địa lý (xem Phụ lục 10) [32]. Xây dựng chỉ dẫn địa
lý, nhãn hiệu chứng nhận hay nhãn hiệu tập thể đang dần chứng minh vai trò
quan trọng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn, góp phần bảo tồn giá trị văn
hóa truyền thống dân tộc Việt Nam, bảo tồn đa dạng sinh học, góp phần thúc đẩy
sự phát triển hoạt động sản xuất, thương mại, nâng cao giá trị gia tăng và SCT
cho HHNS Việt Nam. Cụ thể đối với một số mặt hàng nông sản chính:
Đối với mặt hàng gạo
Chúng ta đã xây dựng và công bố được logo thương hiệu gạo Việt Nam
vào tháng 12/2018 (xem Phụ lục 8), việc công bố được logo sẽ khẳng định
thương hiệu gạo Việt Nam đối với các nước có thế mạnh về nông nghiệp lúa
87
gạo trong khu vực và thế giới. Thị trường thế giới sẽ phần nào nhận biết được
gạo có xuất xứ từ Việt Nam, từ đó giúp cho việc quảng bá sản phẩm gạo cũng
như giá trị văn hóa con người Việt Nam đến với cộng đồng quốc tế. Thị trường
xuất khẩu gạo của Việt Nam sẽ được mở rộng, SCT của mặt hàng gạo Việt
Nam sẽ được tăng lên, theo đó giá trị xuất khẩu gạo cũng sẽ được tăng lên.
Ngoài ra, nhiều sản phẩm gạo được cấp chứng nhận nhãn hiệu, chỉ dẫn
địa lý được bảo hộ ở Việt Nam và đã được đông đảo người tiêu dùng trong
nước và quốc tế ưa chuộng như: Gạo hữu cơ hoa sữa của Công ty Trách
nhiệm hữu hạn (TNHH) Viễn Phát (Thành phố Hồ Chí Minh), gạo Sohafarm
của Nông trường Sông Hậu, gạo hạt Lộc trời, gạo mầm Vibigaba của Tập
đoàn Lộc trời (Thành phố Hồ Chí Minh), gạo Hoa Lúa của công ty TNHH
thương mại Tân Thành (TP. Cần Thơ), Gạo Minh Tâm (MT rice), Gạo Tiền
Giang Food (Tigifood), Gạo Vina Food 1, Gạo Hữu Cơ Quế Lâm, Gạo
Trường Hương Điện Biên, Gạo Nàng Hương, Gạo Nàng Hoa, Gạo tám
thơm,… Đặc biệt là đặc sản gạo Sóc Trăng, ký hiệu là (ST) đã được tỉnh Sóc
Trăng giao cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại và Dịch vị Thành
Tín (Sóc Trăng), đầu tư, thu mua, xay xát chế biến và tiêu thụ. Các dòng gạo
ST như ST24 đã nổi tiếng mấy năm nay về độ thơm, ngon và gần đây nhất
vào ngày 22/11/2019 tại Hội nghị Thương mại Gạo thế giới lần thứ 11, tổ
chức tại Manila, Philippines, gạo hữu cơ ST25 của Việt Nam đã được trao
giải “Gạo ngon nhất thế giới” sau khi vượt qua các đối thủ là các loại gạo
Thái Lan và Cămpuchia. Sự kiện Gạo ST25 đạt giải Gạo ngon nhất thế giới là
niềm vinh dự, tự hào của ngành lúa gạo Việt Nam, đóng góp to lớn cho việc
xây dựng và quảng bá thương hiệu Gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Đối với mặt hàng cà phê
Cà phê là mặt hàng nông sản truyền thống và có thế mạnh của Việt
Nam, đây là sản phẩm nông sản xuất khẩu chủ lực đứng thứ 2 sau gạo. Tuy
chúng ta chưa xây dựng được thương hiệu quốc gia cho mặt hàng này nhưng
cà phê là mặt hàng nông sản đầu tiên của Việt Nam xây dựng được thương
hiệu mạnh bởi các doanh nghiệp Việt Nam.
88
Nhắc đến cà phê, người Việt Nam nghĩ tới đầu tiên là thương hiệu “Cà
phê Trung Nguyên”, được ông Đặng Lê Nguyên Vũ thành lập vào ngày
16/06/1996 tại Buôn Ma Thuật. Thương hiệu cà phê Trung Nguyên nổi tiếng
không chỉ trong nước mà trên cả khu vực và thế giới. Đây là niềm tự hào không
chỉ với Trung Nguyên mà là cả ngành cà phê nói riêng và người Việt Nam nói
chung. Với thương hiệu Cà phê Trung Nguyên nổi tiếng, đã khẳng định được
vị trí cà phê tinh chế của Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới. Hiện
nay Trung Nguyên đã có một mạng lưới hơn 1000 quán cà phê nhượng quyền
trên cả nước và hơn 10 quán ở các quốc gia trên thế giới như Mĩ, Nhật Bản,
Singapore, Thái Lan, Trung Quốc, Campuchia, Ba Lan… Sản phẩm Cà phê
Trung Nguyên đã có mặt ở hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn cầu, tiêu
biểu như Mỹ, EU, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Asean,… Các sản phẩm nổi
tiếng của Trung Nguyên hiện nay bao gồm: Cà phê Chồn WEASEL cao cấp,
Cà phê Chồn Legend Trung Nguyên, Cà phê Sáng tạo 8 Trung Nguyên, Cà phê
cao cấp Legend Revived, Cà phê Con Sóc, Cà phê G7 hòa tan…[106].
Một thương hiệu nổi tiếng khác đó là Vinacafé Biên Hòa của Công ty
Cổ phần VINACAFÉ BIÊN HÒA (Vinacafé BH). Từ nhiều năm qua, công ty
luôn duy trì chính sách chất lượng là sản xuất cà phê chất lượng cao, thuần
chất và tinh khiết, không pha độn để giới thiệu với người người tiêu dùng
trong nước và thế giới biết đến hương vị thơm ngon đặc biệt của cà phê Việt
Nam. Thực hiện chiến lược này, công ty đã tập trung nghiên cứu và sản xuất
thành công nhiều sản phẩm cà phê chất lượng cao mang thương hiệu
Vinacafé, được người tiêu dùng trong và ngoài nước chấp nhận. Hiện nay
công ty đang sản xuất 4 nhóm sản phẩm chính đó là: cà phê rang xay, cà phê
hòa tan nguyên chất, cà phê hòa tan hỗn hợp, cà phê sữa 3 trong 1... trong đó
sản phẩm cà phê sữa 3 trong 1 được người tiêu dùng ưa chuộng nhất. Công ty
cũng đă nghiên cứu và sản xuất thành công cà phê Sâm 4 trong 1 với chất
lượng hơn hẳn cà phê cùng loại của nước ngoài, được thị trường Hàn Quốc,
Trung Quốc tiêu thụ mạnh. Vinacafé Biên Hòa đã xây dựng hệ thống hàng
chục ngàn đại lý trên toàn quốc và đã trở thành thương hiệu cà phê hòa tan
89
hàng đầu Việt Nam. Sản phẩm của công ty cũng đã được xuất khẩu đến trên
50 quốc gia, tiêu biểu như Mỹ, Nhật Bàn, Trung Quốc, EU, Nga…[106].
Đối với mặt hàng rau quả
Cùng với sự tiến bộ trong khâu quy hoạch sản xuất, quản lý chất lượng,
việc đăng ký chỉ dẫn địa lý, xây dựng thương hiệu cho các loại rau quả Việt Nam
cũng đã được các địa phương, các doanh nghiệp quan tâm. Tính đến tháng 5/2019
đã có 29 sản phẩm nông sản là các loại quả được bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Việt
Nam, tiêu biểu như bưởi (Đoan Hùng), thanh long (Bình Thuận), vải thiều (Thanh
Hà), vải thiều (Lục Ngạn), cam (Vinh), chuối ngự (Đại Hoàng), xoài cát (Hòa
Lộc), nho (Ninh Thuận), dứa (Đồng Giao)… (xem Phụ lục 10). Đặc biệt khi Hiệp
định thương mại tự EVFTA có hiệu lực, đã có 18 loại quả của Việt Nam được bảo
hộ chỉ dẫn địa lý ở Châu Âu, chẳng hạn như: Bưởi Tân Triều, Vải Thanh Hà,
Mãng Cầu bà Đen, Hồng Bảo Lâm, Cam Vinh,… Các loại rau quả của Việt Nam
được bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở trong nước và nước ngoài, một mặt đã nâng cao giá
trị kinh tế, nâng cao SCT cho các mặt hàng đó, một mặt đã góp phần nâng vị thế
và quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến với bạn bè quốc tế.
Đối với mặt hàng thịt lợn, mặt hàng thịt và trứng gia cầm
Đây là 2 mặt hàng được xác định là sản phẩm nông nghiệp chủ lực
quốc gia theo Thông tư 37/2018/TT-BNNPTNT ngày 25/12/2018, nhưng hiện
nay chưa có thương hiệu, hay chỉ dẫn địa lý nào được bảo hộ ở Việt Nam
cũng như ở nước ngoài. Trong nhóm thịt gia súc, gia cầm, mới chỉ có 3 sản
phẩm được bảo hộ chỉ dẫn đại lý ở Việt Nam đó là: Thịt cừu Ninh Thuận,
Thịt dê Ninh Bình và Thịt bò Hà Giang, còn thịt lợn và thịt gia cầm chưa có
sản phẩm nào được bảo hộ chỉ dẫn địa lý (xem Phụ lục 10). Đây là một trong
những hạn chế mà ngành chăn nuôi cần khắc phục, để nâng cao SCT cho mặt
hàng thịt lợn, mặt hàng thịt và trứng gia cầm trong thời gian tới.
3.1.1.4. Thị phần hàng hóa nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới
ngày càng được tăng lên
Cùng với sự phát triển vượt bậc trong quan hệ đối ngoại, bằng việc nỗ
lực chuẩn bị, tiến hành đàm phán, ký kết thành công các hiệp định thương mại
90
tự do song phương, đa phương. Thị trường tiêu thụ hàng hóa của Việt Nam
nói chung, HHNS sản nói riêng cũng không ngừng được mở rộng với thị phần
ngày càng tăng. Đến hết năm 2019 hàng nông, lâm, thủy sản Việt Nam đã
được xuất khẩu ra 190 quốc gia và vùng lãnh thổ với giá trị đạt khoảng 41,3
tỷ USD tăng 3,2% so với năm 2018, trong đó giá trị xuất khẩu các mặt hàng
nông sản chính chiếm khoảng 18,5 tỷ USD. Việt Nam được xếp vào tốp 15
nước xuất khẩu nông, lâm, thủy sản hàng đầu thế giới [102]. Cụ thể đối với
một số mặt hàng nông sản chính như sau:
Đối với mặt hàng gạo
Thị phần trong nước: Theo số liệu Bảng 3.9 ta thấy từ năm 2011 đến
năm 2019 Việt Nam luôn duy trì trên 7,4 triệu ha đất trồng lúa, năng suất từ 55
đến 58 tạ/ha, cho sản lượng từ 40 đến 44 triệu tấn lúa mỗi năm, xuất khẩu gạo
từ 4,6 đến 6,5 triệu tấn/năm. Sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam hàng năm
chỉ chiếm khoảng 10 - 15% sản lượng sản xuất ra, còn 85 - 90% là tiêu thụ
trong nước.
Bảng 3.9: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa sản xuất và sản lượng
gạo xuất khẩu Việt Nam từ năm 2011 - 2019
Diện tích (nghìn ha)
Nội dung 2011 2013 2015 2017 2018 2019
Năng suất (tạ/ha)
7.655,4 7.902,5 7.828,0 7.705,2 7.570,9 7.470,1
Sản lượng (nghìn tấn) 40.005,6 44.039,1 45.091,0 42.738,9 44.046,0 43.448,2
Xuất khẩu (nghìn tấn)
55,4 55,7 57,6 55,5 58,2 58,2
4.670 6.880 8.000 6.582 5.819 6.370
Nguồn: tác giả tổng hợp từ [8], [19], [101]
Như vậy, có thể thấy gạo Việt Nam đang chiếm gần như 100% thị phần
thị trường gạo trong nước. Trên thực tế, gạo các nước như Thái Lan, Nhật
Bản… vẫn có bày bán trên các siêu thị, các chợ ở Việt Nam, tuy nhiên số
lượng không đáng kể và chủ yếu được nhập khẩu qua đường tiểu ngạch,
không có số liệu thống kê.
91
Thị phần xuất khẩu: Trong những năm qua sản lượng gạo xuất khẩu
không ngừng được tăng lên, theo đó thị phần gạo của Việt Nam trên thị
trường thế giới cũng được tăng lên. Năm 2011, thị phần gạo của Việt Nam
chiếm khoảng 18,31% thị phần gạo xuất khẩu của thế giới, đến năm 2019
là 14,55%. Mặc dù nhìn vào bảng số liệu về thị phần (Phụ lục 4), ta thấy thị
phần gạo xuất khẩu của Việt Nam giảm từ 18,31% năm 2011 xuấng còn
14,55% năm 2019, nhưng so với sự tăng lên của nhanh chóng của khối
lượng gạo xuất khẩu toàn cầu từ 25.500 nghìn tấn năm 2011 lên 45.058
nghìn tấn năm 2019 thì thị phần gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn được tăng
lên. So với gạo của các nước là đối thủ cạnh tranh với gạo của Việt Nam như
Thái Lan, Pakistan thì thị phần gạo xuất khẩu của họ đều giảm lần lượt là
11,26% và 1,94%. Riêng Ấn Độ có sự phát triển vượt bậc do sự bùng nổ về
diện tích và sản lượng cũng như khối lượng gạo xuất khẩu của nước này.
Nếu năm 2011 khối lượng gạo xuất khẩu của Ấn Độ là 2.500 nghìn tấn xếp
thứ 5 sau Thái Lan, Việt Nam, Hoa Kỳ và Pakistan, thì đến năm 2015 sản
lượng gạo xuất khẩu của Ấn Độ đã vượt qua Thái Lan và Việt Nam để vươn
lên xếp thứ nhất với 10.310 nghìn tấn, liên tục duy trì vị trí đầu bảng về sản
lượng và thị phần xuất khẩu gạo và đến năm 2019 tăng lên là 12.500 nghìn
tấn (Phụ lục 2).
Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam không ngừng được mở rộng, từ
95 quốc gia và vùng lãnh thổ năm 2011 tăng lên 150 quốc gia và vùng lãnh
thổ năm 2019 và hiện đã có mặt ở tất cả 5 châu lục. Trong đó Châu Á vẫn là
thị trường xuất khẩu gạo chủ yếu của Việt Nam, chiếm tới 61,16% về khối
lượng và 60,10% về giá trị, thứ hai là thị trường Châu Phi chiếm 19,13% về
khối lượng và 19,72% về giá trị, tiếp theo là thị trường Châu Âu, Châu Mỹ,
Châu Đại Dương (xem Phụ lục 4 và Phụ lục 9).
Đối với mặt hàng cà phê
Thị phần trong nước: Việt Nam là một trong những nước sản xuất cà
phê đứng tốp đầu trên thế giới, với diện tích và sản lượng không ngừng tăng
lên, từ khoảng 594,8 nghìn ha năm 2011 lên 683,8 nghìn ha năm 2019, sản
92
lượng tăng từ 1.190,4 nghìn tấn năm 2011 lên 1.678,8 nghìn tấn năm 2019
(xem Bảng 3.10)
Bảng 3.10: Diện tích, năng suất, sản lượng sản xuất và sản lượng
xuất khẩu cà phê Việt Nam năm 2011 - 2019
Diện tích (nghìn ha)
Nội dung 2011 2013 2015 2017 2018 2019
Sản lượng (nghìn tấn) 1.190,4 1.326,6 1.453,0 1.577,2 1.616,3 1.678,8
Xuất khẩu (nghìn tấn)
994
1.100
1.360
1.341
1.466
1.650
Còn lại (nghìn tấn)
196,4
226,6
93
236,2
50,3
28,8
Nhập khẩu (nghìn tấn) 10,78
3,46
38,7
60,0
60,5
42,0
Tiêu thụ trong nước
207,18 230,06
131,7
296,2
110,8
70,8
(nghìn tấn)
594,8 637,0 643,3 664,6 680,7 683,8
Nguồn: tác giả tổng hợp và tính toán từ [8], [19], [101]
Theo số liệu Bảng 3.10, ta thấy Việt Nam sản xuất cà phê chủ yếu phục
vụ xuất khẩu, sản lượng xuất khẩu chiếm trên 90% tổng sản lượng được sản xuất
ra hàng năm, và chủ yếu xuất khẩu thô và sơ chế. Do công nghệ chế biến trong
nước chưa đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước, cho nên mặc dù là nước xuất
khẩu đứng thứ 2 thế giới (sau Brazil) nhưng hàng năm Việt Nam vẫn phải nhập
khẩu cà phê, chủ yếu là cà phê rang xay, cà phê pha sẵn từ các nước BraZil, Mỹ,
Trung Quốc và cà phê nhân từ Indonesia, Lào, Campuchia,… Tuy nhập khẩu
với số lượng rất ít so với xuất khẩu, nhưng với thị trường gần 100 triệu dân, tiềm
năng tiêu thụ là rất lớn. Vì vậy, ngành cà phê Việt Nam cần đẩy mạnh phát triển
khâu chế biến để phuch vụ nhu cầu thị trường trong nước.
Thị phần xuất khẩu: Cà phê là HHNS xuất khẩu chủ lực quan trọng
của Việt Nam, chiếm 3% GDP của cả nước, kim ngạch xuất khẩu năm
2019 đạt gần 3 tỷ USD. Các sản phẩm cà phê của Việt Nam đã xuất khẩu
đến trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm 14,2% thị phần xuất khẩu cà
phê nhân toàn cầu và xếp thứ 2, sau Brazil. Đặc biệt, cà phê rang xay và
hòa tan xuất khẩu đã chiếm tới 9,1% thị phần thế giới và xếp thứ 5 trong
số các nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới (sau Brazil, Indonesia,
93
Malaysia và Ấn Độ) [19]. Số liệu ở Phụ lục 6 cho thấy, từ năm 2011 đến
năm 2019 thị phần cà phê Việt Nam tuy có giai đoạn biến động nhưng nhìn
chung vẫn giữ được ở mức bình quân là 18,45% và có chiều hướng tăng.
Năm 2011 xuất khẩu cà phê chiếm thị phần là 17,1%, năm 2019 tăng lên
18,57%, bình quân mỗi năm tăng 0,96%. Các nước EU là thị trường tiêu thụ
cà phê của Việt Nam nhiều nhất, chiếm 40% trong tổng lượng và 38% về
tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; tiếp theo là Đông Nam Á, chiếm 13%
tổng lượng và tổng kim ngạch… [19].
Đối với mặt hàng rau quả
Từ năm 2011 đến nay diện tích trồng rau, quả Việt Nam liên tục tăng,
tốc độ tăng bình quân khoảng 6%/năm. Đến năm 2019, diện tích rau quả cả
nước đạt hơn 1,8 triệu ha, cho sản lượng gần 10 triệu tấn, trong số này chiếm
đến 90% là tiêu thụ nội địa, chỉ có khoảng 10% phục vụ xuất khẩu (chủ yếu là
thị trường Trung Quốc) [19].
Thị phần trong nước: Các mặt hàng rau củ Việt Nam chiếm trên 90%, thị
phần trong nước, còn khoảng 10% nhập khẩu từ nước ngoài, trong đó nhập khẩu
từ Trung Quốc là chủ yếu (gồm các loại rau: bắp cải, xà lách, khoai tây). Các loại
quả của Việt Nam chiếm trên 80% thị trường tiêu thụ trong nước, khoảng 20% là
nhập khẩu từ nước ngoài, trong đó nhập khẩu từ, Thái Lan, Trung Quốc là chủ
yếu (Thái Lan chiếm trên 10%, Trung Quốc chiếm khoảng 7%,), còn khoảng 3%
là nhập khẩu từ các nước Hoa Kỳ, Pháp, Hàn Quốc, New Zealan, Australia.
Thị phần xuất khẩu, cùng với sự tăng lên về diện tích và sản lượng,
kim ngạch và thị phần xuất khẩu rau quả Việt Nam cũng liên tục được tăng
lên, năm 2011 kim ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam là 0,623 tỷ USD
chiếm 0,97% thị phần xuất khẩu rau quả của thế giới, đến năm 2019 kim
ngạch tăng lên là 3,75 tỷ USD, thị phần 1,0%. Thị trường xuất khẩu rau
quả của Việt Nam cũng từng bước được mở rộng, từ 10 nước năm 2011
tăng lên trên 50 nước năm 2019, trong đó một số thị trường lớn như Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Liên Minh Châu Âu (EU), Thái Lan,
Malaysia (xem Bảng 3.11).
94
Bảng 3.11: Kim ngạch và thị phần xuất khẩu rau quả Việt Nam
2011 - 2019
Đơn vị tính: Kim ngạch: Tỷ USD; Thị phần: %
Nội dung 2011 2013 2015 2017 2018 2019
0,623 1,07 1,84 3,50 3,81 3,75
64 109 186 550 375 374
Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam Tổng kim ngạch xuất khẩu Thế giới Thị phần xuất khẩu rau quả Việt Nam so với thế giới
0,97 0,98 0,99 1,0 1,02 1,0
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [8], [19], [153], [108]
Đối với mặt hàng thịt lợn
Thị phần trong nước: Thị trường Việt Nam với dân số liên tục tăng, từ
88,87 triệu dân năm 2011 tăng lên 96,2 triệu dân năm 2019. Thịt lợn là loại
thực phẩm chính đối với người dân Việt Nam, năm 2019 bình quân mỗi người
dân Việt Nam tiêu thụ khoảng 28,5 kg.
Bảng 3.12: Sản lượng sản xuất, sản lượng xuất khẩu, nhập khẩu,
thị phần thịt lợn hơi xuất khẩu Việt Nam 2011 - 2019
Sản lượng (nghìn tấn)
Nội dung 2011 2013 2015 2017 2018 2019
Xuất khẩu (nghìn tấn)
3.200 3.300 3.480 3.700 3.816,4 3.289,7
Nhập khẩu (nghìn tấn)
8,5 9,7 10,0 10,4 12,6 11,5
Sản lượng xuất khẩu thế
28,97 33,14 37,25 40,872 41,18 67,13
giới (nghìn tấn)
Thị phần xuất khẩu thịt lợn
8.154 8.270 8.350 8.580 9.380 10.300
Việt Nam so với thế giới (%)
0,1 0,12 0,11 0,12 0,13 0,11
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [8], [19], [108], [153]
Theo số liệu Bảng 3.12 ta thấy, lượng thịt lợn nhập khẩu hàng năm
không đáng kể, tuy nhiên không ngừng được tăng lên hàng năm, năm
95
2011 là 28,97 nghìn tấn, đến năm 2019 tăng lên 67,13 nghìn tấn, chiếm
khoảng 2% sản lượng thịt trong nước. Trên thực tế, Việt Nam đang phải
áp dụng các biện pháp thuế quan và phi thuế quan để điều tiết việc xuất
khẩu, nhập khẩu, bảo đảm nhu cầu tiêu thụ cũng như bảo vệ ngành chăn
nuôi trong nước. Hiện nay, tuy thịt lợn nhập khẩu chiếm thị phần rất
nhỏ, nhưng lại có giá rẻ hơn thịt lợn Việt Nam, do vậy ngành chăn nuôi
lợn Việt Nam cần phải có các giải pháp giảm chi phí, hạ giá thành để giữ
vững thị phần trong nước.
Thị phần xuất khẩu: Chăn nuôi lợn Việt Nam chủ yếu phục vụ nhu cầu
tiêu thụ trong nước, sản lượng xuất khẩu không đáng kể, chiếm khoảng 0,35%
so với tổng sản lượng thịt sản xuất ra trong nước và khoảng 0,1% so với
lượng thịt xuất khẩu của thế giới (xem Bảng 3.12). Do công nghệ chế biến,
bảo quản còn hạn chế cùng với chi phí chăn nuôi cao nên xuất khẩu thịt lợn
của Việt Nam chủ yếu là xuất khẩu lợn hơi sang Trung Quốc qua đường tiểu
ngạch. Như vậy, xét về tiêu chí thị phần xuất khẩu, SCT mặt hàng thịt lợn
Việt Nam trên thị trường thế giới còn hạn chế.
Đối với mặt hàng thịt và trứng gia cầm
Thị phần trong nước: Tương tự như mặt hàng thịt lợn, các mặt hàng
chăn nuôi gia cầm của Việt Nam chủ yếu phục vụ tiêu thụ trong nước. Thịt
gia cầm cũng được người dân Việt Nam ưa chuộng và dùng làm thực phẩm
chính sau thịt lợn, bình quân mỗi năm một người dân Việt Nam tiêu thụ
khoảng 12kg. Sản lượng thịt gia cầm nhập khẩu hàng năm không đáng kể,
năm 2011 chiếm khoảng 7,8% so với lượng thịt sản xuất trong nước, đến năm
2019 tăng lên khoảng 13,63%.
Theo số liệu Bảng 3.13 dưới đây, sản lượng thịt gia cầm xuất chuồng
Việt Nam năm 2011 là 708 nghìn tấn, năm 2019 tăng lên 1.100,6 nghìn tấn,
sản lượng nhập khẩu năm 2011 là 55 nghìn tấn, chiếm khoảng 7,8%, năm
2019 tăng lên 150 nghìn tấn, chiếm khoảng 13,63% so với tổng sản lượng thịt
gia cầm sản xuất ra. Tuy lượng thịt gia cầm nhập khẩu không lớn, chiếm thị
phần nhỏ nhưng tốc độ tăng trưởng nhập khẩu tương đối nhanh, từ 55 nghìn
96
tấn năm 2011, tăn lên 150 nghìn tấn năm 2019, bình quân mỗi năm tăng
khoảng 19,2%. Hiện nay, thịt gà nhập khẩu từ Hoa Kỳ, Hà Lan, Ba Lan… với
giá rẻ hơn nhiều so với thịt gà trong nước, nếu ngành chăn nuôi gà Việt Nam
không có các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sẽ dần bị
đánh mất thị phần trong nước.
Bảng 3.13: Sản lượng sản xuất, sản lượng xuất khẩu, nhập khẩu,
thị phần thịt gia cầm xuất khẩu Việt Nam 2011 - 2019
Sản lượng sản xuất (nghìn tấn)
Nội dung 2011 2013 2015 2017 2018 2019
Xuất khẩu (nghìn tấn)
708 746,9 908,1 1.030 1.089,7 1.100,6
Nhập khẩu (nghìn tấn)
5,3 6,2 7,0 9,75 11,3 13,22
Sản lượng xuất khẩu thế giới
55 70 95 110 128 150
(nghìn tấn)
Thị phần xuất khẩu thịt lợn
7.560 8.973 9.200 10.430 11.316 11.530
việt nam so với thế giới (%)
0,07 0,069 0,076 0,093 0,10 0,11
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [8], [19], [108],[153]
Thị phần xuất khẩu: Cũng giống như mặt hàng thịt lợn, ngành chăn nuôi
gia cầm Việt Nam chưa thực sự phát triển, kỹ thuật, công nghệ còn lạc hậu, quy
mô còn nhỏ so với các nước trên thế giới, nhất là các nước có nền nông nghiệp
phát triển như Hoa Kỳ, Hà Lan, Ba Lan. Chăn nuôi gia cầm của Việt Nam chủ
yếu phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước, sản lượng xuất khẩu không đáng kể,
chiếm khoảng 0,75% so với tổng sản lượng thịt sản xuất ra trong nước và
khoảng 0,07 đến 0,1% so với lượng thịt gia cầm xuất khẩu của thế giới (xem
Bảng 3.13). Như vậy, xét về tiêu chí thị phần xuất khẩu, SCT mặt hàng thịt gia
cầm Việt Nam trên thị trường thế giới còn hạn chế.
3.1.2. Hạn chế chủ yếu về sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam
Trong thời gian qua mặc dù SCT của một số hàng hóa nông sản
Việt Nam đã được nâng lên, nhưng nhìn chung vẫn còn ở mức thấp, chưa
đáp ứng được với yêu cầu phát triển trong điều kiện hội nhập và tự do hóa
97
thương mại ngày càng sâu rộng như hiện nay và còn bộc lộ một số điểm
hạn chế sau đây:
3.1.2.1. Chất lượng hàng hóa nông sản của Việt Nam mặc dù đã được
cải thiện, song một số mặt hàng vẫn còn ở mức thấp so với các đối thủ cạnh
tranh và nhu cầu ngày càng cao của thị trường
Thị trường thế giới ngày càng có nhu cầu cao về chất lượng hàng hóa
nông sản theo hướng sản phẩm xanh, sạch, sản phẩm nông nghiệp hữu cơ,
bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Việt Nam là một trong những quốc gia có
sản lượng nông sản xuất khẩu hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu
HHNS Việt Nam còn thấp. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đó,
nhưng điều cốt lõi nhất vẫn là về chất lượng HHNS của chúng ta vẫn còn hạn
chế và thấp hơn so với một số đối thủ cạnh tranh.
Phần lớn các mặt hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu dưới dạng
thô… tỷ lệ sản phẩm nông sản đã qua chế biến xuất khẩu còn thấp, bình quân
chỉ đạt khoảng 20-25%, trong khi đó tỷ lệ này đối với một số nước trong khu
vực là khoảng 40 - 50% [4]. Các lô sản phẩm HHNS xuất khẩu của chúng ta
thường không đồng đều, chưa đa dạng về chủng loại sản phẩm, đặc biệt là khả
năng đổi mới, nâng cấp sản phẩm còn chậm. Mặt khác khi xuất khẩu sản
phẩm thô, giá trị gia tăng thấp nên hiệu quả kinh tế không cao, sản lượng
xuất khẩu lớn nhưng kim ngạch xuất khẩu thấp, điều này ảnh hưởng đến
uy tín, chất lượng và làm giảm SCT của HHNS Việt Nam. Một số mặt
hàng nông sản của ta khi xuất khẩu chưa đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật
và tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, còn lẫn nhiều tạp chất, nấm mốc
hay là còn dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và dư lượng kháng sinh trong
sản phẩm. Chẳng hạn như mặt hàng gạo, hiện nay khoảng trên 85 - 90%
gạo sản xuất ra là tiêu thụ trong nước (khoảng 15 - 20 triệu tấn/năm), chủ
yếu là gạo chất lượng thấp và trung bình do các cơ sở xay xát nhỏ lẻ ở các
địa phương theo kiểu tự cung tự cấp. Lượng gạo xuất khẩu hàng năm
chiếm khoảng 10 - 15% (khoảng 4,6 - 6,5 triệu tấn/năm), trong đó gạo trắng
(IR5040) loại 5% tấm, và 25% tấm là chủ yếu (chiếm 38%), các loại gạo đặc
98
sản và chất lượng cao chiếm tỷ lệ rất hạn chế. Ví dụ như loại gạo đồ chất
lượng cao là 0%, trong khi Thái Lan là 26%, các dòng gạo đặc sản nổi tiếng
như ST21 chỉ chiếm 1%, còn loại gạo ST25 vừa qua được công nhận là gạo
ngon thất thế giới thì chưa có để xuất khẩu (Biểu đồ 3.1). Ngoài ra các lô
hàng gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn lẫn thóc, hạt đỏ, bạc bụng… chưa
kể đến dư lượng thuốc bảo vệ thực vật tồn dư trong sản phẩm và đặc biệt là
đối với các lô hàng lớn không đảm bảo đồng đều về chất lượng.
Hình 3.1: Cơ cấu chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam so với
Thái Lan năm 2019
Nguồn: [105]
Tương tự đối với mặt hàng cà phê: chất lượng cà phê Việt Nam còn
thấp ở chỗ, số lượng hạt cà phê to đường kính trên 18mm còn ít (chỉ chiếm 9 -
12%) sản lượng, màu sắc kém đồng nhất do lẫn các khuyết tật như: hạt lên
men, hạt đen, hạt nâu, trắng và trắng xốp. Chất lượng cà phê nhân, sơ chế
dạng nguyên liệu chưa cao, không đồng đều (ngay trong cùng một lô, đầu vụ
và cuối vụ), không ổn định (thể hiện ở tỷ lệ hạt đen, hạt vỡ, thuỷ phân và tạp
chất còn nhiều). Chỉ có 3-5% số lượng cà phê xuất khấu của Việt Nam thỏa
mãn được các yêu cầu loại một. Trên thị trường, đặc biệt là thị trường các
nước phát triển như Mỹ, EU, Nhật Bản, cà phê nhân loại một thường có giá
cao hơn loại hai khoảng 70-90 USD/tấn và cao hơn loại ba khoảng 100-120
USD/tấn. Điểm yếu lớn nhất về chất lượng, cơ bản vẫn là chúng ta xuất khẩu
99
sản phẩm thô, sản phẩm sơ chế là chủ yếu. Tỷ lệ các sản phẩm đã qua chế
biến sâu, sản phẩm tinh chế là rất thấp. Chẳng hạn như cà phê hòa tan các loại
của Trung Nguyên và Vinacafé chỉ chiếm khoảng 10% trong tổng sản lượng
xuất khẩu, còn lại là xuất khẩu dưới dạng cà phê nhân [19], [106].
Đối với mặt hàng rau quả, chất lượng rau quả Việt Nam vẫn còn nhiều
hạn chế, do các doanh nghiệp sản xuất, chế biến rau quả Việt Nam chủ yếu là
vừa và nhỏ, cùng với sản xuất rải rác ở các hộ nông dân nên việc sản xuất
không theo quy trình diễn ra phổ biến, khó đạt được các tiêu chuẩn như
Global GAP, GMP, Organic... Tình trạng không đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm, lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật và chất kích thích tăng trưởng trên rau,
quả, hàm lượng kim loại nặng, chất lượng bao bì không đảm bảo... đang là
những hạn chế lớn đối với hàng rau quả Việt Nam… [107].
Đối với mặt hàng thịt lợn, chăn nuôi lợn Việt Nam chủ yếu phục vụ
tiêu thụ trong nước, có xuất khẩu lượng ít chủ yếu là lợn hơi qua đường tiểu
ngạch sang Trung Quốc, thịt lợn xẻ qua đường chính ngạch sang Hồng Kong,
Malaysia; thịt lợn đã qua chế biến và thịt động lạnh xuất khẩu còn hạn chế do
chất lượng cũng như chi phí giá thành chưa thể cạnh tranh được với một số
nước như Thái Lan, Mỹ…[108].
Đối với thịt và trứng gia cầm, tương tự như thịt lợn, chăn nuôi gia
cầm ở Việt Nam chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước, có xuất
khẩu một lượng không lớn sang các nước như Hồng Kong, Singapore,
Nhật Bản. Do công nghệ chăn nuôi, chế biến, bảo quản còn lạc hậu cho
nên chất lượng thịt và trứng gia cầm Việt Nam vẫn còn hạn chế, kém cạnh
tranh hơn sản phẩm thịt và trứng gia cầm đến từ các nước có ngành chăn
nuôi tiên tiến như Hoa Kỳ [108]..
Trong báo cáo đề dẫn của Cục Bảo vệ Thực vật, Bộ NN&PTNT, tại hội
thảo "Nâng cao năng lực xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam" do Cục Bảo vệ
Thực vật, Bộ NN&PTNT phối hợp với CropLife Việt Nam tổ chức ngày
2/11/2017 tại tại TP. Hồ Chí Minh cho biết: Tính đến hết tháng 10/2017, Bộ
NN&PTNT đã nhận được 45 thông báo, trong số đó có 35 thông báo liên
100
quan đến việc các nước điều chỉnh nâng cao những tiêu chuẩn chất lượng và
dư lượng thuốc bảo vệ thực vật đối với hàng hóa nông sản. Đặc biệt đối với
Trung Quốc là Thị trường xuất khẩu hàng hóa nông truyền thống và là lớn
nhất của Việt Nam, họ không chỉ nâng cao tiêu chuẩn về chất lượng hàng hóa
nông sản nhập khẩu, mà còn tăng cường quản lí và siết chặt thương mại biên
giới. Năm 2017 Trung Quốc đã tiến hành thanh tra thực tế các doanh nghiệp
xuất khẩu nông sản của Việt Nam, qua thanh tra chúng ta chỉ có 22 doanh
nghiệp đạt tiêu chuẩn theo yêu cầu và được phía Trung Quốc cấp phép xuất khẩu
hàng nông sản vào Trung Quốc, trong khi đó trước khi thanh tra chúng ta đã có
hơn 150 doanh nghiệp được cấp giấy phép xuất khẩu [29]. Tiếp đến tại Diễn đàn
Kinh tế Việt Nam chuyên đề nông nghiệp ngày 5/6/2018 do Ban nghiên cứu và
phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV) phối hợp với Báo Điện tử VnExpress tổ chức
đã cho thấy: trong 9 tháng đầu năm 2016, Việt Nam đã có 542 lô hàng nông,
thủy sản của 110 công ty xuất khẩu, không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng
và vệ sinh an toàn thực phẩm (ATTP) cũng như dư lượng kháng sinh trong sản
phẩm đã bị 38 nước nhập khẩu trả về [4]. Như vậy chất lượng HHNS Việt Nam
tuy đã được nâng lên, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được với quá
trình phát triển hội nhập của đất nước, đây là một trong những nguyên nhân
chính dẫn tới SCT của HHNS Việt Nam trên thị trường chưa cao.
3.1.2.2. Chi phí sản xuất vẫn ở mức cao so với những lợi thế vốn có
Chi phí sản xuất HHNS của Việt Nam tuy thấp hơn các nước trong khu
vực và trên thế giới, nhưng đó là nhờ chủ yếu vào lợi thế sẵn có của đất nước
như: điệu kiện về đất đai tốt, khí hậu thuận lợi, năng suất cây trồng cao và đặc
biệt là nguồn lao động phổ thông dồi dào, giá rẻ. Chẳng hạn đối với mặt hàng
gạo, nhìn vào Biểu đồ 3.2 ta thấy: tỷ trọng lao động trong tổng chi phí sản
xuất lúa của Việt Nam rất cao, chiếm 71% cao gấp 2,3 lần so với Thái Lan;
tương tự đối với một số HHNS của Việt Nam như cà phê, rau quả, thịt lợn,…
Điều này cho thấy chi phí cơ giới hóa, KH&CN trong sản xuất nông sản của
Việt Nam chiếm tỷ lệ thấp, phản ánh trình độ cơ giới hóa và ứng dụng
KH&CN vào sản xuất HHNS của Việt Nam vẫn còn hạn chế.
101
Hình 3.2: Tỷ trọng lao động trong tổng chi phí sản xuất lúa của các nước.
Nguồn: [134]
Chi phí sản xuất nông sản của Việt Nam thấp, phần lớn do chi phí lao
động rẻ cùng với sự ưu đãi của điều kiện tự nhiên. Song hiện nay chi phí cho
cơ giới hóa, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giống, KH&CN cho sản xuất,
chế biến nông sản ở Việt Nam vẫn ở mức cao. Chẳng hạn đối với một số dòng
sản phẩm nông sản cao cấp, các sản phẩm đã qua chế biến sâu có giá thành
sản xuất cao, giá bán cao và chỉ mới phục vụ cho phân khúc thị trường cao
cấp, chưa nhân rộng phổ biến cho đông đảo khách hàng trên thị trường như
gạo đặc sản ST25 giá bán 35.000 - 50.000/kg gấp 3- 4 loại gạo trung bình trên
thị trường [107]. Tương tự, đối với các mặt hàng rau quả, tuy chi phí sản xuất
rau quả tại vườn thấp nhưng chi phí chiếu xạ, đóng gói, vận chuyển rất cao,
nhất là chi phí chiếu xạ. Chi phí cao, làm cho giá bán tăng, làm giảm SCT của
sản phẩm. Đối với các mặt hàng thịt lợn, thịt và trứng gia cầm, do chúng ta
chưa chủ động được nguồn thức ăn, thuốc thú y, cũng như việc chăn nuôi nhỏ
lẻ, công nghệ chăn nuôi, chế biến, bảo quản còn lạc hậu đã làm phát sinh chi
phí, đẩy giá thành lên cao, làm giảm SCT của sản phẩm.
Như vậy nếu chúng ta tận dụng tốt lợi thế về chi phí lao động rẻ, thời
tiết khí hậu thuận lợi đi đôi với việc giảm thiểu các chi phí khác như: chi phí
cho phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, cơ giới
102
hóa sản xuất, chi phí nước tưới, giống, KH&CN, đồng thời giảm tỷ lệ tổn thất
sau thu hoạch thì chi phí, giá thành sản HHNS của Việt Nam sẽ còn thấp hơn
nữa, đặc biệt là đối với các dòng sản phẩm cao cấp. Khi đó chi phí sản xuất
thấp, chất lượng tăng, làm cho SCT tăng, giá trị gia tăng và lợi nhuận cũng
tăng lên... góp phần tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho nông dân, phát triển
ổn định kinh tế - xã hội đất nước.
3.1.2.3. Việc xây dựng thương hiệu và quảng bá hàng hóa nông sản
của Việt Nam trên thị trường vẫn còn hạn chế
Mặc dù là quốc gia xuất khẩu nông sản xếp vào tốp 15 nước xuất khẩu
nông sản hàng đầu thế giới nhưng việc xây dựng và quảng bá thương hiệu cho
các sản phẩm nông sản của Việt Nam vẫn còn rất hạn chế. Theo số liệu thống
kê của Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) năm 2018, trong hơn
90.000 thương hiệu hàng hóa được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam, chỉ có
khoảng 15% là của các doanh nghiệp trong nước. Hơn 80% hàng hóa nông
sản Việt Nam được bán ra thị trường thế giới thông qua các thương hiệu nước
ngoài. Do chưa có thương hiệu nên khi xuất khẩu ra các thị trường lớn, SCT
của nhiều loại nông sản rất kém [31]. Việc xây dựng thương hiệu cho HHNS
phải bắt nguồn từ xây dựng thương hiệu quốc gia. Nhưng cho tới nay, Việt
Nam vẫn chưa xây dựng được các thương hiệu mang tính quốc gia và kể cả
thương hiệu vùng chúng ta cũng chưa xây dựng được. Trên thị trường quốc
tế, chúng ta chưa có một thương hiệu nào nổi tiếng như một số nước khác. Ví
dụ, trên thế giới chỉ cần nói đến Bordeaux (Pháp), cả thế giới nghĩ đến rượu
vang. Hay chỉ cần nói đến pizza, tất cả chúng ta sẽ đều nghĩ đến nước Ý…
Nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam có sản lượng xuất khẩu xếp
vào tốp đầu của thế giới, thế nhưng khi đến tay người tiêu dùng thì đó không
phải là sản phẩm của Việt Nam bởi vì đa số HHNS của chúng ta khi xuất
khẩu đều ở dạng thô, sơ chế, được các công ty nước ngoài nhập về, chế biến,
đóng gói và ghi nhãn mác của họ… Điển hình như mặt hàng cà phê: dù Việt
Nam là quốc gia đứng thứ hai thế giới về sản xuất cà phê, trong đó đứng đầu
thế giới về cà phê robusta, song thực tế, tại thị trường nước ngoài, vẫn chưa
103
có thương hiệu cà phê của Việt Nam theo đúng nghĩa. Lý do là cà phê nước ta
chủ yếu chỉ bán hạt cho các nhà rang xay lớn trên thế giới, sau đó họ chế biến,
đóng hộp với thương hiệu của họ để bán cho người tiêu dùng với giá gấp
nhiều lần giá mua vào. Đây là một điều bất hợp lý nhưng dễ hiểu vì cà phê
Việt Nam chưa có thương hiệu và việc quảng bá, xây dựng thương hiệu cà
phê vẫn còn nhiều hạn chế. Mặt hàng gạo cũng không phải ngoại lệ, xuất
khẩu gạo của Việt Nam liên tục tăng nhanh trong những năm gần đây. Đến
nay, Việt Nam chiếm khoảng 15% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới.
Chẳng hạn đối với mặt hàng gạo: Hiện nay Việt Nam là nước có sản lượng
gạo xuất khẩu lớn thứ 3 thế giới và đã được xuất khẩu ra hơn 150 quốc gia và
vùng lãnh thổ. Thế nhưng các sản phẩm gạo Việt Nam vẫn chưa được phần
lớn người tiêu dùng tại các nước biết đến. Chúng ta cũng chỉ quảng bá được
Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới. Sản lượng xuất khẩu hàng
năm khoảng từ 5-7 triệu tấn, song người Việt Nam ở nước ngoài không biết
tìm đâu để mua đúng gạo của Việt Nam. Bởi thực tế là các doanh nghiệp Việt
Nam chỉ sản xuất gạo theo hợp đồng gia công cho các nhà nhập khẩu hoặc
bán sản phẩm thô, sơ chế làm nguyên liệu trung gian. Sang tay khách hàng,
các nhà nhập khẩu “hô biến” thành sản phẩm gạo mang thương hiệu của họ.
Trong khi đó, Thái Lan nổi tiếng với thương hiệu gạo thơm Hom Mali,
Campuchia dù đi sau nhưng thương hiệu gạo Phka Romdoul của nước này đã
được nhiều nước trên thế giới biết đến. Tương tự đối với mặt hàng rau, quả,
mặt hàng thịt lợn cũng như thịt và trứng gia cầm, đến hết năm 2019 chưa có
sản phẩm nào được bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở nước ngoài, cũng chưa có sản
phẩm nào xây dựng được thương hiệu nổi tiếng…
Không những vậy, việc đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong nước và
nước ngoài cho các sản phẩm nông sản của Việt Nam còn nhiều hạn chế.
Theo thống kê của Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ, tính đến
31/05/2019 cả nước hiện có khoảng hơn 900 sản phẩm gắn với 700 địa danh
khác nhau trên toàn quốc, nhưng mới chỉ đăng ký bảo hộ được 68 chỉ dẫn địa
lý quốc gia và 6 chỉ dẫn địa lý của nước ngoài (xem Phụ lục 10). Điều đó
104
đồng nghĩa với việc, phần lớn HHNS của Việt Nam xuất khẩu không có nhãn
hiệu, thương hiệu hoặc xuất khẩu dưới nhãn hiệu của nước ngoài.
3.1.2.4. Thị phần hàng hóa nông sản của Việt Nam vẫn còn nhỏ, thị
trường xuất khẩu không ổn định, thiếu các bạn hàng lớn, còn phụ thuộc vào
một số nước và vùng lãnh thổ
Thị phần HHNS của Việt Nam tuy từng bước đã được tăng lên nhưng
vẫn còn nhỏ bé so với tiềm năng sản xuất nông sản và quá trình hội nhập của
đất nước. Thị trường tiêu thụ của một số nông sản không ổn định, thiếu các
bạn hàng lớn và còn phải xuất khẩu qua trung gian. Thị phần ở một số thị
trường có nền kinh tế phát triển, sức mua cao như Mỹ, EU, Nhật Bản còn
thấp, tỷ lệ hàng hóa nông sản của ta tiếp cận vào những thị trường này còn ít
do tính cạnh tranh cao, đòi hỏi khắt khe về chất lượng và những biện pháp
bảo hộ nghiêm ngặt của họ.
Chẳng hạn đối với mặt hàng gạo: Thị phần xuất khẩu gạo của Việt
Nam luôn biến động, giai đoạn năm 2011 đến năm 2013 có chuỗi tăng liên tục
từ 19,01% lên 22,96% nhưng sau 2013 lại giảm mạnh, đến năm 2019 chỉ còn
14,10% (xem Phụ lục 4). Tuy thị trường xuất khẩu gạo được mở rộng nhưng
các thị trường xuất khẩu có quy mô lớn và ổn định còn ít, chỉ tập trung vào 8
đến 10 nước ở châu Á như: năm 2019 xuất khẩu gạo sang Philippin chiếm tỷ
trọng 32,51%, Bờ Biển Ngà 27,38%, Malaysia 25,88%, Trung Quốc 22,38%
(xem Phụ lục 5). Xuất khẩu gạo của Việt Nam sang một số thị trường có tốc
độ tăng trưởng rất nhanh như thị trường Philippin từ 873 nghìn tấn năm 2018
lên 2.131,7 nghìn tấn năm 2019, tăng gần 244%; Bờ Biển Ngà từ 229 nghìn
tấn năm 2018 lên 583,8 nghìn tấn năm 2019 tăng 255%. Ngược lại xuất khẩu
sang một số thị truyền thống và có tỷ trọng lớn trước đây lại bị sụt giảm mạnh
như Trung Quốc từ 1.503 nghìn tấn năm 2018 xuống còn 477,1 nghìn tấn năm
2017, giảm 315%; Indonesia từ 1.028 nghìn tấn năm 2018 xuống còn 40,2
nghìn tấn năm 2019. Đối với thị trường Châu Phi, đây là vùng có điều kiện về
thời tiết, khí hậu và thổ nhưỡng không thuận lợi cho việc trồng lúa, dân số
tương đối đông (1,216 tỷ năm 2016), mức sống chưa cao, nhu cầu lớn về gạo
105
phân khúc trung bình, rất phù hợp với điều kiện, tiêu chuẩn gạo xuất khẩu của
Việt Nam. Tuy nhiên xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường này vẫn còn
hạn chế, năm 2019 chỉ chiếm khoảng 19,13%. Còn với thị trường châu Âu và
châu Mỹ, hai thị trường này có nền kinh tế phát triển, xuất khẩu nông sản nói
chung và gạo nói riêng vào thị trường này sẽ được giá cao, ngược lại thị
trường này đòi hỏi chất lượng cao và yêu cầu khắt khe về tiêu chuẩn kỹ thuật,
vì vậy xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường này vẫn còn ít, chỉ chiếm tỷ
trọng khoảng 0,37% ở châu Âu, 0,3% ở châu Mỹ. Hiện nay, gạo chất lượng cao
của Mỹ đang chiếm lĩnh hai thị trường này. Hơn nữa hiện nay gạo của Thái
Lan vẫn là đối thủ cạnh tranh với gạo của Việt Nam về chất lượng, chủng loại,
giá cả… Thị trường gạo của Việt Nam cũng là thị trường gạo của Thái Lan, tuy
nhiên Thái Lan có nhiều bạn hàng truyền thống, nhập khẩu với số lượng lớn.
Hơn thế Gạo của Thái Lan có chất lượng, uy tín và thương hiệu hơn của ta,
được nhiều thị trường ưa chuộng phù hợp với thị trường có sức mua cao như
Mỹ, EU, Nhật Bản… Cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa thiết lập được hệ thống
thị trường và các bạn hàng lớn có tính ổn định. Xuất khẩu “chính ngạch” vào
các thị trường vẫn còn thấp, khoảng 60% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam
phải thông qua thị trường trung gian. Việc xuất khẩu phải thông qua trung gian
môi giới này không những chúng ta phải chịu thêm một khoản kinh phí hoa
hồng lớn mà còn bị động trong chuẩn bị nguồn hàng và bị ép giá,…[105].
Tương tự đối với mặt hàng rau quả: Thị phần rau, quả Việt Nam trên
thị trường nội địa đang chiếm đa số nhưng cũng đang bị đánh mất ngày càng
nhiều bởi hàng rau quả đến từ Thái Lan, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Pháp, Hàn
Quốc, NewZealan và Australia. Còn thị phần xuất khẩu rau quả Việt Nam còn
rất khiêm tốn, chiếm khoảng 1% tổng lượng xất khẩu rau quả của thế giới
(xem Bảng 3.11); thị trường xuất khẩu rau quả của Việt chủ yếu là Trung
Quốc (chiếm gần 70%).
Đối với mặt hàng thịt lợn, thịt và trứng gia cầm, thị phần hai mặt hàng
này trên thị trường nội địa đang chiếm đa số, nhưng cũng đang bị cạnh tranh
bởi thịt giá rẻ đến từ Mỹ và các nước EU. Xuất khẩu đối với hai mặt hàng này
106
còn rất khiêm tốn, thị phần xuất khẩu thịt lợn Việt Nam chỉ chiếm khoảng
0,1% lượng thịt lợn xuất khẩu của thế giới và chủ yếu xuất khẩu lợn hơi sang
Trung Quốc qua đường tiểu ngạch (xem Bảng 3.12); thị phần xuất khẩu thịt
và trứng gia cầm Việt Nam khoảng 0,07 đến 0,1% so với lượng thịt gia cầm
xuất khẩu của thế giới (xem Bảng 3.13).
3.2. Nguyên nhân ưu điểm, hạn chế và một số vấn đề đặt ra cần giải quyết
nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam thời gian tới
3.2.1. Nguyên nhân ưu điểm
3.2.1.1. Nguyên nhân khách quan
Một là, Việt Nam có lợi thế về nguồn lực tự nhiên cho sản xuất hàng hóa nông sản.
Về vị trí địa lý, Việt Nam là nước nằm ở trung tâm Đông Nam Á trong
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Đây là một trong những khu vực có nền
kinh tế đang phát triển năng động, với tốc độ cao, vị thế của khu vực này ngày
càng tăng trên thế giới. Điều đó đã tạo động lực cho quá trình phát triển kinh
tế của Việt Nam nói chung và sản xuất HHNS nói riêng. Mặt khác Việt Nam
nằm trên các tuyến đường giao thông quan trọng cả về hàng hải, hàng không,
từ Đông sang Tây thông qua các vịnh, cảng quan trọng. Các tuyến đường bộ,
đường sông phát triển, đã kết nối ba nước Việt Nam, Lào, Căm pu chia thành
thế chiến lược kinh tế, thuận lợi trong giao thương với khu vực và thế giới. Vị
trí địa lý thuận lợi, là một trong những lợi thế để phát triển một nền kinh tế
năng động, linh hoạt, giảm thiểu được chi phí vận chuyển hàng hóa nói
chung, HHNS nói riêng. Đây là một trong những tiềm năng, lợi thế tạo ra
những điểm mạnh về SCT của HHNS Việt Nam.
Về khí hậu, thời tiết, Việt Nam có giải đất liền hình chữ S, chạy dài trên 15 vĩ độ (từ 23023’ Bắc đến 8027’ Bắc) với khoảng cách kéo dài trên 1.650 km
theo hướng Bắc Nam. Do địa hình kéo dài đã tạo ra sự khác biệt về điều kiện tự
nhiên, khí hậu và được hình thành theo 3 vùng rõ rệt. Miền Bắc khí hậu cận
nhiệt đới ẩm, có mùa đông lạnh; Miền Trung mang khí hậu nhiệt đới gió mùa và
Miền Nam nằm trong vùng nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình tại Việt Nam dao động từ 210C đến 270C, tăng dần từ Bắc vào Nam. Mùa hè, nhiệt độ trung bình trên cả
107
nước khoảng 250C. Mùa đông ở miền Bắc, nhiệt độ xuống thấp nhất có nơi tới 00C vào các tháng 12 - 01. Nền nhiệt độ cùng lượng mưa hàng năm lớn, ánh
sáng dồi dào hình thành điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển sản xuất
HHNS mang bản sắc riêng của các tiểu vùng sinh thái đất thấp, đồi núi, cao
nguyên và ven biển. Từ điều kiện tốt để phát triển sản xuất nông nghiệp sinh
thái đa dạng, Việt Nam có thể trồng được nhiều loại nông sản vào vụ đông phù
hợp với nhu cầu tiêu dùng của nhiều nước ôn đới trong mùa đông băng giá [10].
Về điều kiện đất đai, đất đai là tư liệu sản xuất hết sức quan trọng trong
sản xuất HHNS. Độ màu mỡ, phì nhiêu của đất quyết định đến khả năng thâm
canh tăng năng suất, chất lượng của sản phẩm nông sản. Việt Nam có tổng
diện tích đất tự nhiên khoảng 33,12 triệu ha, trong đó đất sản xuất nông
nghiệp khoảng 11,5 triệu ha (chiếm 34,72% tổng diện tích đất của cả nước)
[25]. Phần lớn đất nông nghiệp Việt Nam có độ phì nhiêu cao, màu mỡ, có
khả năng thâm canh tăng năng suất, chất lượng sản phẩm. Đặc biệt đối với
vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ phần lớn là đất đỏ bazan rất phù hợp cho
việc trồng các loại cây công nghiệp như cao su, cà phê, chè, hạt tiêu, hạt điều.
Ngoài cho năng suất cao, các sản phẩm nông sản ở đây còn có hương vị thơm,
ngon rất đặc trưng cho vùng. Đây là một trong những lợi thế riêng có của Việt
Nam đã góp phần làm tăng SCT cho HHNS trong thời gian qua.
Về độ ẩm, nguồn nước: Việt Nam là một nước nhiệt đới, có độ ẩm tương
đối cao, vào khoảng 80-90%, rất thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của
cây trồng. Nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp ở nước cũng tương đối dồi dào,
ngoài lượng mưa lớn hàng năm trung bình ở hầu hết các vùng đạt từ 1800mm-
200mm/năm, chúng ta có hệ thống các con sông dày đặc, đặc biệt là hai con sông
lớn là Sông Cửu Long và Sông Hồng [25].. Độ ẩm, và nguồn nước có vị trí hết
sức quan trọng cho sản xuất nông nghiệp, Việt Nam có độ ẩm lớn, nguồn nước
tương đối dồi dào là điều kiện thuận lợi và là lợi thế trong sản xuất HHNS.
Hai là, Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ.
Dân số Việt Nam tính đến tháng 4/2019 vào khoảng 96,2 triệu người,
số người trong độ tuổi lao động là 54,4 triệu người, trong đó lực lượng lao
108
động ở nông thôn rất đông đảo, với khoảng 37,3 triệu người, chiếm tới 67,4%
lực lượng lao động của cả nước. Hàng năm có thêm khoảng từ 1 - 1,4 triệu
người bước vào tuổi lao động [3], [101]. Con người Việt Nam có đức tính cần
cù lao động, thông minh, sáng tạo, có khả năng nắm bắt và ứng dụng
KH&CN mới một cách nhanh chóng. Đặc biệt, Việt Nam là nước có truyền
thống sản xuất nông nghiệp, nên người dân Việt Nam có nhiều kinh nghiệm
trong gieo trồng, chăm sóc cây trồng. Một lợi thế nữa là giá công lao động ở
Việt Nam rẻ hơn so với các nước khác trong khu vực và thế giới. Trên thực tế,
một số công việc phổ thông như hái chè, cà phê, thu hoạch lúa,... với giá nhân
công ở Việt Nam vào khoảng 200 -250 nghìn đồng trên ngày công (tương
đương 8,5 - 10,5 USD/ngày công), so với Thái Lan, Malaysia rẻ hơn 2-3 lần
[65]. Đặc thù của ngành sản xuất nông nghiệp là sử dụng nhiều lao động vào
quá trình sản xuất, nên giá lao động thấp góp phần làm giảm chi phí sản xuất,
tăng SCT cho HHNS.
Ba là, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội
thuận lợi cho Việt Nam trong phát triển kinh tế nói chung, nâng cao sức cạnh
tranh cho hàng hóa nông sản nói riêng
Thứ nhất, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu
rộng đã tạo ra sức ép thúc đẩy quá trình cải cách và cơ cấu lại nền kinh tế
Việt Nam hoạt động có hiệu quả hơn. Theo lộ trình thực hiện cam kết của
các Hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương, đòi hỏi Việt
Nam phải thúc đẩy mạnh mẽ cải cách kinh tế trong nước, trước hết là điều
chỉnh các chính sách thương mại theo hướng tự do hóa. Để nâng cao SCT,
đứng vững được trên thị trường trong điều kiện tự do hóa thương mại, buộc
các chủ thể sản xuất, kinh doanh HHNS phải tăng cường đầu tư cả về tài
chính, lao động và công nghệ vào phát triển những mặt hàng có lợi thế
cạnh tranh cao. Theo đó đã đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc lại cơ cấu nền
kinh tế nói chung, sản xuất nông nghiệp nói riêng, cũng như cơ cấu lại lao
động ở khu vực nông thôn theo xu hướng khai thác tối đa tiềm năng, thế
mạnh của nền nông nghiệp Việt Nam.
109
Thứ hai: Tạo cơ hội thuận lợi để Việt Nam mở rộng và đa dạng hóa thị
trường xuất khẩu HHNS. Hội nhập kinh tế quốc tế, mà đặc biệt là tham gia
các hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương là điều kiện thuận
lợi để mở rộng và đa dạng hóa thị trường tiêu thụ hàng hóa của Việt Nam nói
chung, HHNS nói riêng. Ngoài việc trở thành thành viên chính thức của tổ
chức thương mại thế giới (WTO) năm 2007, cho đến nay (tính đến hết tháng
10/2020) Việt Nam đã tham gia có hiệu lực và đang đàm phán 16 hiệp định tự
do thương mại (FTA), trong đó 13 hiệp định đã có hiệu lực, 03 hiệp định đang
đàm phán (xem thêm Phụ lục 11). Chính vì những thành tựu đạt được trong
quá trình chủ động hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế, đã giúp cho quá trình
mở rộng thị trường tiêu thụ HHNS một cách nhanh chóng, đồng thời đa dạng
hóa các loại thị trường, từ đó mở rộng và đa dạng hóa sản xuất sản phẩm nông
sản, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Đến nay HHNS Việt Nam đã có mặt trên
190 quốc gia và vùng lãnh thổ, xâm nhập được vào các thị trường khó tính
như Mỹ, EU, Nhật Bản… đã góp phần năng cao SCT cho HHNS Việt nam
thời gian qua.
Thứ ba, thuận lợi trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, tiếp nhận,
chuyển giao khoa học công nghệ vào sản xuất, kinh doanh HHNS. Vốn,
khoa học - công nghệ là những nguồn lực quan trọng trong sản xuất kinh
doanh đặc biệt đối với lĩnh vực nông nghiệp. Muốn sản xuất hàng hóa quy
mô lớn theo chuỗi giá trị gia tăng để nâng cao năng suất, chất lượng và
SCT sản phẩm đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư lớn, đồng thời phải
phát triển nghiên cứu khoa học nông nghiệp và áp dụng các công nghệ tiên
tiến, hiện đại trên thế giới vào sản xuất, bảo quản, chế biến HHNS… Kết
quả từ việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua đã
huy động được nguồn vốn nước ngoài tương đối lớn để đầu tư, phát triển
sản xuất nông nghiệp. Chẳng hạn, năm 2018 tổng vốn đầu tư cơ bản cho
lĩnh vực nông, lâm, thủy sản khoảng 4.647,4 tỷ đồng trong đó vốn ngoài
nước khoảng 3.284,5 tỷ đồng chiếm 70,67%... [19].
110
3.2.1.2. Nguyên nhân chủ quan
Một là, nhờ sự nỗ lực trong hoàn thiện, đổi mới hệ thống pháp luật, cơ
chế, chính sách của Đảng và nhà nước ta
Việc hoàn thiện, cải cách hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách nói
chung, đối với sản xuất kinh doanh HHNS nói riêng, đã tạo môi trường thuận
lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước, người nông dân yên tâm đầu tư
vào sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Các chính sách như mở
cửa thị trường, quản lý xuất khẩu cũng như những chính sách nhằm mở rộng
quyền kinh doanh cho các doanh nghiệp đã tạo hành lang pháp lý quan trọng
cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh và thương mại HHNS phát triển.
Điển hình như Chỉ thị 100 (năm 1981) về khoán sản phẩm trong nông nghiệp,
đây là bước ngoặt trong sản xuất nông nghiệp Việt Nam, nhất là Lúa, gạo.
Thực hiện chỉ thị này sau 8 năm (năm 1989) đã giúp cho Việt Nam từ một
nước thiếu lương thực đã tự bảo đảm được an ninh lương thực và có những
lô gạo đầu tiên xuất khẩu. Hay là chính sách “khoán 10” (năm 1988) công
nhận hộ gia đình là đơn vị sản xuất tự chủ, đã tạo động lực giải phóng sức
sản xuất, khuyến khích nông dân yên tâm đầu tư vào phát triển sản xuất
nông nghiệp; Luật đất đai năm 1993 (sửa đổi lần gần nhất năm 2013) đã trao
quyền sử dụng đất cho nông dân, cho phép chuyển nhượng, cho thuê, cầm
cố, thế chấp... đã tạo điều kiện tích tụ, tập trung ruộng đất cho các mô hình
sản xuất lớn như cánh đồng mẫu lớn, trang trại, hợp tác xã… Ngoài ra có
hàng loạt chính sách về hỗ trợ, khuyến khích, đầu tư nâng cao chất lượng
trong sản xuất nông nghiệp; chính sách bảo quản, giảm tổn thất sau thu
hoạch; chính sách khuyến khích chế biến nông sản; chính sách tiêu thụ nông
sản; chính sách thị trường và xúc tiến thương mại… Hệ thống luật, cơ chế
chính sách ngày càng được hoàn thiện đổi mới, phù hợp với quá trình phát
triển của đất nước nói chung và phát triển sản xuất nông nghiệp gắn với thị
trường, bảo đảm bền vững. Đây là nguyên nhân cốt lõi làm cho SCT của
HHNS Việt Nam ngày càng nâng lên trên thị trường trong nước cũng như
quốc tế. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính của Việt
111
Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực, giúp cho các doanh nghiệp rút ngắn
được thời gian làm các thủ tục, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh
doanh, qua đó nâng cao SCT cho HHNS trên thị trường.
Hai là, nhờ tăng cường vốn đầu tư cho lĩnh vực sản xuất nông
nghiệpnói chung, hàng hóa nông sản nói riêng.
Để tăng nguồn lực cho đầu tư phát triển sản xuất HHNS, những năm
qua Việt Nam đã tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước và chủ động trong
huy động các nguồn vốn, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Năm 2011
tổng số vốn đầu tư cho lĩnh vực nông, lâm, thủy sản là 5.063,75 tỷ đồng trong
đó vốn trong nước là 1.682 tỷ đồng, vốn ngoài nước là 3.381,75 tỷ đồng. Đến
năm 2019 tổng số vốn đầu tư cho lĩnh vực nông, lâm, thủy sản là 14.606,1 tỷ
đồng (tăng gần 3 lần so với năm 2011), trong đó vốn trong nước là 12.246,1tỷ
đồng, vốn ngoài nước là 2.360 tỷ đồng [19]. Ngoài việc tăng cường đầu tư
cho sản xuất nông nghiệp, thu hút các nguồn vốn đầu tư nhất là vốn FDI, Việt
Nam còn có nhiều chính sách nhằm thu hút, khuyến khích các doanh nghiệp
khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp. Những việc làm trên đã tạo được
nguồn lực to lớn cho sản xuất, chế biến HHNS, là tiền đề để mở rộng quy mô,
cơ giới hóa và áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất, nâng cao
năng suất, chất lượng và SCT cho HHNS.
Ba là, công tác phát triển thị trường của Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng
Sự kiện thành công lớn nhất là Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) tháng 1/2007. Đây là bước phát triển cực kỳ quan
trọng, tạo sức ép và động lực to lớn thúc đẩy các ngành, các doanh nghiệp,
các mặt hàng trong nước phải nâng cao SCT để phù hợp với lộ trình thực hiện
cam kết, nếu như không muốn thất bại trên thị trường. Sau sự kiện này là
hàng loạt các hiệp định thương mại song phương, đa phương được ký kết;
hiện nay Việt Nam đã tham gia đàm phán và ký kết 16 (FTA), trong đó có 13
(FTA) đã có hiệu lực, đặc biệt là gần đây nhất hiệp định thương mại tự doViệt
112
Nam và EU (EVFTA) đã có hiệu lực từ 01/8/2020. Sự thành công này của
Việt Nam đã tạo tiền đề cho việc mở rộng và đa dạng hóa thị trường tiêu thụ
HHNS, góp phần nâng cao SCT cho HHNS Việt Nam.
Bốn là, chất lượng nguồn nhân lực đã được nâng lên
Chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên kéo theo chất lượng quản lý,
điều hành của các cơ quan quản lý Nhà nước từ Trung ương đến địa phương
và chất lượng lao động trong các doanh nghiệp và đặc biệt là trình độ nông
dân đã được cải thiện đáng kể, góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt
động của cả hệ thống trong chuỗi giá trị HHNS. Đất nước phát triển, đời
sống nhân dân được nâng lên, điều kiện sinh hoạt cũng như điều kiện sản
xuất được cải thiện. Việc áp dụng điện khí hóa, cơ khí hóa và đặc biệt là
nghiên cứu khoa học nông nghiệp, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất
nói chung và HHNS nói riêng ngày càng phổ biến. Công cụ lao động quyết
định năng suất lao động, song nhân tố con người mới chính là quyết định
quá trình lao động. Do vậy trình độ nguồn nhân lực được nâng lên có nghĩa
là trình độ sản xuất, quản lý điều hành và trình độ kiểm định chất lượng
cũng được nâng lên. Đây là nguyên nhân căn cốt để cho nông nghiệp Việt
Nam phát triển vượt bậc như ngày hôm nay và cũng chính là nguyên nhân
chính làm tăng hàm lượng tri thức trong sản phẩm nông sản, nâng cao SCT
cho HHNS Việt Nam.
3.2.2. Nguyên nhân hạn chế
3.2.2.1. Nguyên nhân khách quan
Một là, những bất lợi từ điều kiện tự nhiên, thiên tai, dịch bệnh
Bên cạnh những lợi thế mà thiên nhiên ban cho thì Việt Nam là một
trong các nước phải gánh chịu nhiều bất lợi về thiên tai và dịch bệnh, đặc biệt
là ảnh hưởng của biến đổi khí hậu do hiệu ứng nhà kính, làm nước biển dâng,
hạn hán, xâm nhập mặn... Hàng năm Việt Nam phải gánh chịu trung bình từ
5-7 cơn bão, chưa kể đến các hiện tượng thời tiết cực đoan gây giông, lốc, lũ
ống, lũ quét, sạt lở đất. Thời tiết, khí hậu diễn biến ngày càng phức tạp, khó
lường, gia tăng cả về quy mô và cường độ... Khác với sản xuất các loại hàng
113
hóa thông thường, sản xuất HHNS phải gắn với quá trình sinh trưởng và phát
triển của cây trồng, chịu tác động trực tiếp từ điều kiện khí hậu và thời tiết.
Đây là những nguyên nhân dẫn đến rủi ro cao, gây thiệt hại lớn, làm cho các
nhà đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp phải chần chừ, tính toán, ngại đầu tư. Theo
đó là việc thu hút đầu tư gặp khó khăn, các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh
vực nông nghiệp còn ít, quy mô nhỏ... Vấn đề này đã làm cho quá trình cơ giới
hóa và áp dụng khoa học, công nghệ cao vào sản xuất HHNS bị hạn chế. Ngoài
tác động của điều kiện tự nhiên, thì dịch bệnh cũng là nguyên nhân dẫn đến SCT
HHNS bị giảm sút. Nếu như dịch bệnh trên cây trồng là nguyên nhân dẫn đến
năng suất, chất lượng giảm, chi phí giá thành sản phẩm tăng, thì dịch bệnh đối
với con người là nguyên nhân dẫn đến hàng hóa bị tồn đọng, không thực hiện
được giá trị, gây tổn thất lớn. Chẳng hạn hiện nay thế giới đang phải đối mặt với
đại dich Covid -19, để ngăn chặn sự lây lan các nước và địa phương phải thực
hiện đóng cửa biên giới, tạm dừng giao thương… HHNS việt nam không xuất
khẩu được, đặc biệt là các mặt hàng rau quả như dưa hấu, thanh long xuất khẩu
sang Trung Quốc bị dồn ứ ở cửa khẩu Lạng Sơn…, đã gây ra thiệt hại lớn. Do
vậy những bất lợi từ điều kiện tự nhiên, thiên tai, dịch bệnh là một trong các
nguyên nhân dẫn đến giảm SCT của HHNS Việt Nam.
Hai là, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch mới đang là rào cản làm hạn chế
đến sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam
Trong bối cảnh hội nhập và tự do hóa thương mại, mặc dù phần lớn các
quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đều chủ trương tự do hóa thương
mại, nhưng để bảo vệ nền sản xuất trong nước, các nước đã tăng cường các
biện pháp bảo hộ bởi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, trong đó
hàng hóa nông sản là lĩnh vực được bảo hộ rất ngặt nghèo. Trên thế giới
ngày càng có nhiều rào cản thương mại mới và tinh vi hơn như: hạn ngạch,
chống bán phá giá, truy xuất nguồn gốc, tiêu chuẩn xã hội, môi trường và
đặc biệt là an toàn vệ sinh thực phẩm… Mặt khác hiện nay nhiều nước vẫn
tiếp tục duy trì và tăng cường hỗ trợ xuất khẩu HHNS, nhằm ngăn cản hoặc
bóp méo các hoạt động thương mại nông sản quốc tế. Điều này đã gây khó
114
khăn, bất lợi, thiếu công bằng và minh bạch trong cạnh tranh, ảnh hưởng
không nhỏ đến SCT của HHNS Việt Nam.
Ba là, sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam vẫn bị chi phối
không nhỏ bởi yếu tố lịch sử và truyền thống
Việt Nam là quốc gia có truyền thống trồng lúa nước từ lâu đời, quy mô
sản xuất manh mún nhỏ lẻ. Một đất nước có nền sản xuất nông nghiệp ở trình
độ thấp, phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh xâm lược, sản xuất nông nghiệp
bị chi phối lớn bởi tâm lý sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp và đặc biệt là sự duy trì
quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Tư duy truyền thống, kinh
nghiệm vẫn còn tồn tại khá đậm nét trong quá trình sản xuất của người nông
dân... Những vấn đề này đang là một trong những nguyên nhân khách quan
kìm hãm sự phát triển sản xuất nông nghiệp quy mô lớn theo hướng hiện đại,
bền vững và cũng là nguyên nhân dẫn đến sản xuất chưa hướng tới thị trường,
năng suất chất lượng chưa cao, SCT hạn chế.
3.2.2.2. Nguyên nhân chủ quan
Một là, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đối với phát triển sản xuất
nông nghiệp hàng hóa nói chung, nâng cao SCT của HHNS nói riêng còn nhiều
hạn chế, bất cập. Chẳng hạn như: chính sách đất đai tuy đã có nhiều đổi mới,
nhưng vẫn chưa tạo được động lực thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung ruộng
đất, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn (còn quy định về
hạn điền, thủ tục chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp còn nhiều thủ tục,
phức tạp); chính sách tín dụng vẫn còn bất cập, nông dân và doanh nghiệp vẫn
khó tiếp cận nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi...; chính sách khuyến khích
nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ KH&CN trong nông nghiệp
chưa thu hút đông đảo các nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân tham gia…
Hai là, công tác quy hoạch và đầu tư chưa đồng bộ, còn nhiều bất cập
Công tác quy hoạch chưa đồng bộ không tuân theo quy hoạch tổng thể,
nên việc xây dựng các nhà máy chế biến nông sản không gắn với quy hoạch
của Nhà nước về xây dựng vùng sản xuất HHNS tập trung, đã dẫn đến làm
tăng chi phí vận chuyển, chế biến, giá thành cao ảnh hưởng đến SCT của sản
115
phẩm nông sản. Thực tế đã có không ít vùng nguyên liệu như cà phê, do đầu
tư không gắn với quy hoạch và đồng bộ các yếu tố sản xuất (hệ thống điện,
nước tưới tiêu, thu mua, vận chuyển, chế biến, vốn, tín dụng, thị trường tiêu
thụ…), đã làm cho quá trình cơ giới hóa, điện khí hóa cũng như áp dụng công
nghệ cao vào sản xuất gặp khó khăn. Tình trạng nơi có nhiều nguyên liệu thì
ít nhà máy, nơi ít nguyên liệu lại có nhiều nhà máy đã gây ra việc tranh mua,
tranh bán, chế biến không kịp thời, phát sinh chi phí… Ngoài ra cơ sở hạ tầng
một số vùng còn thấp kém đã ảnh hưởng đến khả năng khai thác và phát huy các
lợi thế so sánh của vùng. Chúng ta chưa có vùng sản xuất chuyên canh đủ lớn,
chưa quy hoạch được vùng sản xuất gắn với khu vực thị trường vì vậy khi cần
khối lượng hàng lớn, các doanh nghiệp phải tiến hành thu gom ở các vùng khác
nhau dẫn đến tình trạng trong cùng lô hàng nhưng chất lượng không đồng đều và
còn thấp. Chưa có các vùng chuyên sản xuất các nông sản cho từng khu vực thị
trường riêng biệt… Việc yếu kém trong khâu quản lý quy hoạch ở các vùng, các
địa phương đã dẫn đến tình trạng sản xuất theo phong trào, khi được giá doanh
nghiệp và nông dân ồ ạt mở rộng diện tích, làm phá vỡ quy hoạch, khi rớt giá lại
thi nhau chặt phá chuyển đổi. Việc làm này đã gây tâm lý bất ổn cho doanh
nghiệp và nông dân, lãng phí tiền của, ảnh hưởng đến chất lượng và SCT của
HHNS (hiện tượng này xảy ra phổ biến đối với cà phê, hồ tiêu ở các tỉnh Tây
nguyên mà điển hình là Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum).
Ba là, năng lực nghiên cứu, dự báo còn hạn chế
Công tác nghiên cứu, dự báo, cập nhật những thay đổi về chính sách trên
thị trường quốc tế của các cơ quan quản lý, hoạch định chính sách nhà nước vẫn
còn hạn chế. Khả năng thích ứng với bối cảnh mới của thị trường thế giới trong
điều kiện tự do hóa thương mại còn hạn chế. Các chủ thể sản xuất chưa thực sự
chủ động trong nắm bắt những cơ hội thuận lợi từ các Hiệp định thương mại tự do
mà Việt Nam đã ký kết, nhằm khai thác tối đa tiềm năng xuất khẩu HHNS vào
các thị trường, nhất là các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc…
Do đó đã bỏ lỡ cơ hội hoặc chậm thực hiện, ảnh hưởng đến việc mở rộng và đa
dạng hóa thị trường xuất khẩu HHNS. Hoặc là nghiên cứu chưa kỹ những yêu cầu
116
về tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng của các nước nhập khẩu dẫn đến các lô hàng
của ta không đáp ứng được phải trả lại, làm phát sinh chi phí cũng như ảnh hưởng
đến uy tín và SCT của HHNS Việt Nam.
Bốn là, công nghệ sau thu hoạch và chế biến hàng hóa nông sản còn
chậm phát triển
Công nghệ sau thu hoạch và chế biến hàng hóa nông sản tuy đã có cải
thiện, song vẫn đang ở trong tình trạng chậm phát triển so với các nước
trong khu vực và trên thế giới. Trong những năm gần đây Việt Nam đã tăng
cường đầu tư cho lĩnh vực bảo quản, chế biến và tiêu thụ hàng nông sản
thông qua nhiều chương trình, dự án. Song, sự đầu tư và hỗ trợ đó vẫn còn
quá ít cho một nền nông nghiệp có điểm xuất phát thấp, chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển của sản xuất và thị trường cũng như tiềm năng lợi thế của
Việt Nam. Đầu tư còn dàn trải, rời rạc, thiếu hệ thống và không đồng bộ.
Năm 2019 đầu tư của Nhà nước cho nông, lâm, thủy sản vào khoảng
14.606,1 tỷ đồng chỉ chiếm 4,26% tổng đầu tư từ ngân sách nhà nước (tổng
đầu tư nhà nước năm 2019 là 342,9 nghìn tỷ đồng), trong đó đầu tư cho
nông nông nghiệp khoảng 60 tỷ đồng, chỉ chiếm 0,41% [19], [101]. Trên
thực tế, thời gian qua tuy đã có nhiều doanh nghiệp rất chú trọng đổi mới
công nghệ, song vẫn còn nhiều doanh nghiệp do nguồn vốn còn hạn hẹp nên
vẫn sử dụng công nghệ và thiết bị cũ, lạc hậu, thiếu đồng bộ, dẫn đến HHNS
của ta chất lượng chưa cao, SCT hạn chế.
Năm là, cơ sở hạ tầng còn thiếu đồng bộ, dịch vụ Logistics phát triển chậm,
hệ thống phân phối còn nhiều bất cập
Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, lưu thông và xuất khẩu HHNS của
Việt Nam còn hạn chế như: hệ thống giao thông, chợ đầu mối, kho lưu trữ,
bảo quản, bến bãi…, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển hiện nay của sản
xuất và tiêu thụ HHNS. Mặt khác dịch vụ Logistics HHNS phát triển
chậm đã làm phát sinh chi phí, tốn thời gian, ảnh hưởng lớn đến chất
lượng và SCT của HHNS. Theo báo cáo điều tra của Tổ chức Phát triển
công nghiệp Liên Hiệp Quốc (UNIDO) về các ngành công nghiệp chế biến
117
nông sản của Việt Nam, chi phí cảng, chi phí bốc xếp hàng hóa và các loại chi
phí khác ở cảng Sài Gòn, (cảng xuất khẩu phần lớn gạo của Việt Nam) vào
khoảng 40.000 USD cho tàu có công suất 10.000 tấn, chi phí này gấp đôi ở
Bangkok Thái Lan. Ngoài ra tốc độ bốc dỡ hàng hóa tại cảng Sài Gòn chậm,
khoảng 1000 tấn/ngày trong khi đó ở Bangkok Thái Lan khoảng 6.000
tấn/ngày. Như vậy chỉ tính chi phí phục vụ xuất khẩu gạo (chi phí bến bãi, thủ
tục xuất khẩu còn quá cao, điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến giá bán cuối
cùng tới tay người tiêu dùng, làm giảm SCT của HHNS [65, tr.136,137].
Hệ thống phân phối hàng hóa nông sản tuy đã có nhiều tiến bộ nhưng
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thị trường. Năng lực kinh doanh
và tổ chức điều hành giữa các lực lượng tham gia thị trường chưa chặt chẽ, còn
bộc lộ nhiều yếu kém. Tình trạng lưu thông hàng hóa chồng chéo, tranh mua,
tranh bán vẫn còn xảy ra khá phổ biến, gây thiệt hại không nhỏ đến lợi ích
chung, của người sản xuất và người tiêu dùng. Công tác hướng dẫn, điều hành
trong hoạt động sản xuất kinh doanh, phân phối HHNS chưa chặt chẽ, còn có
quá nhiều doanh nghiệp trên một vùng, một địa phương cùng tham gia sản
xuất, kinh doanh một mặt hàng, dẫn đến tình trạng mạnh ai nấy làm, tranh mua,
tranh bán, cạnh tranh không lành mạnh, đặc biệt là mỗi khi có nhu cầu lô hàng
hóa lớn cho xuất khẩu. Hiện tượng này đã tạo cơ hội cho các nhà nhập khẩu tạo
cớ, ép giá ảnh hưởng đến SCT của HHNS.
3.2.3. Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng cần phải giải quyết để nâng
cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam thời gian tới
Thực trạng SCT của HHNS Việt Nam từ 2011 đến 2019 đang đặt ra
những vấn đề cấp thiết cần tập trung giải quyết đó là:
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của hàng
hóa nông sản với hệ thống cơ chế, chính sách về vấn đề này ở Việt Nam hiện
nay còn nhiều bất cập
Để phát triển sản xuất nông sản hàng hóa, tạo ra những sản phẩm nông
sản có SCT cao, đòi hỏi phải có hệ thống cơ chế, chính sách đồng bộ. Đây
chính là cơ sở pháp lý cho các chủ thể thực hiện phát triển SXKD hàng hóa
118
nông sản. Tuy nhiên, thực trạng phát triển SXKD hàng hóa nông sản của Việt
Nam thời gian qua cho thấy, hệ thống cơ chế chính sách còn chưa đầy đủ, thiếu
đồng bộ. Công tác xây dựng chính sách chưa thực sự bám sát thực tiễn, có nội
dung còn thiếu các căn cứ khoa học, cụ thể, thiếu sự giám sát theo dõi, chưa
đánh giá, dự báo hết được những tác động của chính sách trong tương lai.
Một số chính sách còn mâu thuẫn, chồng chéo với các chính sách khác, khó
đưa vào cuộc sống, nhưng lại chậm được điều chỉnh bổ sung kịp thời… Tổ
chức thực hiện thiếu nhất quán, thiếu nguồn lực, còn nặng về cơ chế “xin -
cho”… Thực trạng trên đã gây khó khăn, cản trở cho việc huy động, sử dụng
các nguồn lực cho phát triển SXKD hàng hóa nông sản. Đây là mâu thuẫn căn
bản, đòi hỏi phải được giải quyết để nâng cao SCT cho HHNS Việt Nam.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa
nông sản với thực trạng sản xuất thiếu chuyên nghiệp, còn manh mún nhỏ lẻ, hệ
thống kết cấu hạ tầng còn nhiều bất cập, dịch vụ logictics chậm phát triển
Một sản phẩm hàng hóa nông sản được coi là có sức cạnh tranh cao trên
thị trường trước hết là phải có số lượng lớn, chất lượng tốt, đồng đều, giá thành
rẻ… Để có được những tiêu chí này, đòi hỏi phải có quy mô đất đai rộng lớn,
thực hành cơ giới hóa và ứng dụng KH&CN, nhất là công nghệ mới, công
nghệ cao vào các khâu sản xuất, thu hoạch, chế biến, bảo quản và tiêu
thụ… Cần có kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại như: điện khí hóa, hệ
thống giao thông, hệ thống thủy lợi, hệ thống xử lý chất thải,.. đặc biệt là
dịch vụ logictics (vận chuyển, kho tàng, bến bãi…). Trong khi đó, thực
trạng sản xuất HHNS của Việt Nam còn lạc hậu, nhỏ lẻ, manh mún, khu
quy hoạch sản xuất tập trung chuyên canh còn ít, thiếu bền vững. Hệ thống
kết cấu hạ tầng hạn chế, thiếu đồng bộ, dịch vụ logictics phát triển chậm…
Vì vậy, để phát triển sản xuất nông sản hàng hóa, nâng cao SCT cho HHNS
đòi hỏi Việt Nam phải bổ sung, hoàn thiện quy hoạch vùng sản xuất hàng
hóa nông sản tập trung, chuyên canh, quy mô lớn; đầu tư phát triển đồng bộ
kết cấu hạ từng, phát triển dịch vụ logictics.. . Đây là mâu thuẫn quan
trọng, cần có giải pháp để khắc phục nhằm nâng cao SCT cho HHNS Việt
Nam trong thời gian tới.
119
Thứ ba, mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản với trình độ nghiên cứu, phát triển và ứng dụng KH&CN nông nghiệp Việt Nam còn hạn chế
Khoa học và công nghệ có vị trí, vai trò hết sức quan trọng, mang tính quyết định đến việc tăng năng suất, chất lượng và SCT của HHNS. Bởi vậy, để phát triển một nền nông nghiệp hiện đại, bền vững, nâng cao SCT của HHNS, đòi hỏi phải đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển và ứng dụng có hiệu quả KH&CN vào SXKD trong nông nghiệp, nhất là các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (4.0), công nghệ mới, công nghệ cao... Trong khi đó, thực trạng của các yếu tố này ở Việt Nam còn nhiều hạn chế và bất cập. Đây là mâu thuẫn mấu chốt, cần phải có giải pháp hữu hiệu để giải quyết, nhằm nâng cao SCT của HHNS Việt Nam trong thời gian tới.
Thứ tư, mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam với quy mô thị trường tiêu thụ nông sản còn nhỏ hẹp, thiếu đa dạng, sản phẩm có thương hiệu còn ít
Thương hiệu là nhân tố quan trọng tạo nên SCT của HHNS, đồng thời nó cũng là một trong các tiêu chí cơ bản để đánh giá SCT của sản phẩm. Trước khi quyết định lựa chọn sản phẩm, vấn đề đầu tiên khách hàng quan tâm đó là thương hiệu sản phẩm. Thực trạng SXKD hàng hóa nông sản Việt Nam thời gian qua cho thấy, việc xây dựng và quảng bá thương hiệu cho các sản phẩm nông sản còn rất hạn chế, số sản phẩm có thương hiệu trên thị trường rất ít, nhất là trên thị trường quốc tế.
Cùng với thương hiệu, công tác xúc tiến thương mại, mở rộng và đa dạng hóa thị trường có vai trò to lớn tạo nên SCT của HHNS. Bởi vì, trên thị trường rộng lớn có nhiều chủ thể cung cấp cùng một loại sản phẩm, nếu chủ thể nào làm tốt công tác xúc tiến thương mại sẽ mở rộng được thị trường, nhanh bán được hàng; hay nói cách khác, khách hàng sẽ lựa chọn sản phẩm của chủ thể đó, như vậy hàng hóa của chủ thể đó đã cạnh tranh thắng lợi với hàng hóa của các chủ thể khác. Tuy nhiên thực trạng HHNS Việt Nam đa số là chưa có thương hiệu; thị trường tiêu thụ còn hạn hẹp, thiếu đa dạng còn phụ thuộc vào một vài thị trường truyền thống.
Đây là mâu thuẫn quan trọng cần phải giải quyết để góp phẩn nâng cao
SCT cho HHNS Việt nam trong thời gian tới.
120
Kết luận chương 3
Sản xuất nông nghiệp nói chung, SCT của HHNS Việt Nam nói riêng
đã đạt được những tiến bộ quan trọng. Chất lượng ngày càng được nâng
lên, giảm thiểu được chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Diện tích canh
tác được mở rộng, sản lượng, kim ngạch, thị phần xuất khẩu hàng năm
được tăng lên, thị trường tiêu thụ được mở rộng, thương hiệu và uy tín từng
bước được khẳng định.
Tuy nhiên SCT của một số HHNS Việt Nam trên thị trường vẫn còn
thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển, hội nhập của đất
nước. Điều này bộc lộ trên một số tiêu chí như: chất lượng một số mặt hàng
tuy được tăng lên song vẫn còn thấp hơn so với chất lượng nông sản của
các nước có nền nông nghiệp phát triển như Mỹ, Thái Lan,…; chi phí sản
xuất vẫn còn cao so với với những tiềm năng lợi thế vốn có của đất nước,
số sản phẩm có thương hiệu còn ít, thị trường xuất khẩu mới chỉ tập trung
vào một số thị trường truyền thống, chưa xâm nhập được nhiều vào các thị
trường “khó tính”; đặc biệt, chưa khai thác tốt tiềm năng thị trường nội địa
với gần 100 triệu dân,.. Các thành tựu và hạn chế này bắt nguồn từ các
nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau, trong đó nguyên nhân chủ
quan vẫn là chủ yếu.
Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân khách quan và chủ quan của
những thành tựu và hạn chế về SCT của HHNS Việt Nam thời gian qua. Tác
giả đã chỉ ra những vấn đề bức thiết nhất thông qua 4 mâu thuẫn được rút ra
từ thực trạng mà Việt Nam cần tập trung giải quyết để nâng cao SCT của
HHNS trong thời gian tới.
Để giải quyết những vấn đề trên, cần có hệ thống các quan điểm và giải
pháp đồng bộ, sát thực, khả thi mà luận án sẽ tập trung giải quyết ở chương 4.
121
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH
CỦA HÀNG HÓA NÔNG SẢN VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI
4.1. Quan điểm về nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản
Việt Nam
4.1.1. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản là yêu cầu,
nhiệm vụ vừa cấp thiết, vừa lâu dài, có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển
của ngành nông nghiệp Việt Nam theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững
Đây là quan điểm trung tâm, mang tính chỉ đạo xuyên suốt và bao trùm
quá trình phát triển ngành nông nghiệp nói chung, nâng cao SCT của HHNS
nói riêng. Nghị quyết Số 26-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã xác định mục
tiêu tổng quát về phát triển nông nghiệp: “Xây dựng nền nông nghiệp phát
triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng
suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an
ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài” [40, tr.2].
Xuất phát điểm của ngành nông nghiệp nước ta ở trình độ thấp, sau hơn
30 năm đổi mới, nền kinh tế đất nước nói chung, ngành nông nghiệp nói riêng
đã có những bước tiến vượt bậc, song vẫn chưa tương xứng với quá trình phát
triển và hội nhập của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa, tự do hóa thương
mại như hiện nay. Trình độ sản xuất nông nghiệp, nhất là sản xuất HHNS vẫn
còn thấp kém hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Với đa số
người dân sống dựa vào sản xuất nông nghiệp là chính, việc sản xuất nông
nghiệp hiện nay không thể là tự cung, tự cấp, tự phục vụ nhu cầu tiêu dùng
của người sản xuất nữa, mà phải là sản xuất nông nghiệp hàng hóa, gắn với
thị trường. Do vậy, nâng cao SCT cho HHNS trên thị trường là động lực
chính để phát huy nội lực, thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp và kinh tế
đất nước. Đây là yêu cầu vừa cấp thiết vừa lâu dài, có ý nghĩa hết sức quan
trọng, đồng thời là một trong các nhiệm vụ chiến lược, góp phần đẩy mạnh
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại đất nước nói chung, nông nghiệp, nông
122
dân, nông thôn nói riêng,... Tạo tiền đề để đến năm 2025 đưa nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có thu nhập trung bình cao
và đến năm 2045 vào dịp tròn 100 năm, ngày thành lập nước, Việt Nam trở
thành nước công nghiệp hiện đại, có thu nhập cao [2, tr.12, 13]. Quán triệt
quan điểm này, các chủ thể cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:
Một là, Chính phủ, các bộ, ngành, chính quyền các địa phương, cần
phải xác định: nâng cao SCT của HHNS Việt Nam là yêu cầu, nhiệm vụ cơ
bản, vừa mang tính cấp bách vừa lâu dài và phải tổ chức thực hiện thường
xuyên liên tục, có bước đi, lộ trình và mục tiêu cụ thể, phù hợp với tình hình
phát triển kinh tế đất nước nói chung, ngành nông nghiệp nói riêng.
Hai là, bám sát định hướng phát triển ngành nông nghiệp hàng hóa hiện
đại, quy mô lớn, hiệu quả và bền vững. Nâng cao SCT của HHNS phải trên
cơ sở phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa có trình độ công nghệ cao, với
quy mô sản xuất lớn, năng suất cao, chất lượng tốt, có giá trị gia tăng cao. Với
trình độ nhân lực cao, tổ chức sản xuất lớn, quản lý chuyên nghiệp, hiện đại.
Ba là, thực hiện liên kết, hợp tác mạnh mẽ theo chuỗi giá trị HHNS
toàn cầu, gắn với thị trường trong nước và quốc tế, phù hợp với điều kiện thực
tiễn của từng vùng, từng địa phương trong nước và yêu cầu phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
4.1.2. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam là
trách nhiệm của các chủ thể; trong đó, doanh nghiệp đóng vai trò quyết
định, Nhà nước tạo môi trường thuận lợi, hộ nông dân là nền tảng, hiệp
hội ngành hàng đóng vai trò hỗ trợ và liên kết các doanh nghiệp hội viên
Đây là quan điểm quan trọng, xác định trách nhiệm của các chủ thể
tham gia vào quá trình nâng cao SCT của HHNS Việt Nam.
Xuất phát từ việc, sản xuất nông nghiệp hàng hóa nói chung, nâng cao
SCT cho HHNS nói riêng đòi hỏi phải có sự kết hợp cao của sức sản xuất xã
hội, phát huy tính tích cực, chủ động, đổi mới sáng tạo của các chủ thể, nhất
là các chủ thể trực tiếp SXKD. Mặt khác, sản xuất nông nghiệp là nền tảng,
có quan hệ đan xen, hỗ trợ lẫn nhau với các ngành khác.
123
Để quán triệt và thực hiện tốt quan điểm này, các chủ thể cần thực hiện một
số yêu cầu cơ bản sau:
Một là, cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, các bộ, ban,
ngành có liên quan, trong đó Bộ NN&PTNT phải là cơ quan chịu trách nhiệm
chính trong việc tham mưu, đề xuất, các cơ chế chính sách để Chính phủ quyết
định. Các doanh nghiệp, HTX nông nghiệp và hộ nông dân là những chủ thể
trực tiếp tham gia SXKD, trong đó hộ nông dân chiếm đa số, làm nền tảng,
doanh nghiệp, HTX nông nghiệp đóng vai trò quyết định đến phát triển sản
xuất nông nghiệp hàng hóa nói chung, nâng cao SCT của HHNS nói riêng.
Hai là, phải tổ chức lại sản xuất, trước hết là các chủ thể tham gia SXKD
HHNS (cơ quan nhà nước mà cụ thể là Bộ NN&PTNT, chính quyền các địa
phương; doanh nghiệp nông nghiệp, HTX nông nghiệp, hộ nông dân và hiệp hội
ngành hàng) cơ cấu lại theo hướng tinh gọn, chất lượng, hiệu quả, gắn với đề cao
trách nhiệm theo vị trí đảm nhiệm. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu phát
triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, hiệu quả, bền vững. Đúng như
tinh thần Đại hội lần thứ XII, Đảng ta đã xác định là “Tổ chức lại sản xuất, tăng
cường liên kết theo chuỗi giá trị. Gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ nông sản
trên cơ sở phát triển các hình thức hợp tác, liên kết đa dạng giữa hộ gia đình với
các tổ chức hợp tác và doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
và bảo đảm hài hoà lợi ích của các chủ thể tham gia” [42, tr.282].
4.1.3. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam
phải trên cơ sở khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của từng vùng, từng
địa phương, từng loại nông sản, phù hợp với quy luật của thị trường và
thông lệ quốc tế
Đây là quan điểm cơ bản, chỉ đạo quá trình lựa chọn quy hoạch các
vùng sản xuất quy mô lớn và đối với từng loại nông sản, phù hợp với lợi thế
của từng vùng, từng địa phương trong nước. Đồng thời phải tuân theo quy
luật của thị trường và thông lệ quốc tế.
Xuất phát từ vị trí địa lý và lãnh thổ đất liền kéo dài, đã tạo cho Việt
Nam có các vùng địa lý, khí hậu và thổ nhưỡng khác biệt. Sản xuất HHNS đòi
124
hỏi phải gắn liền với quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng, vật nuôi;
mỗi loại cây trồng, vật nuôi lại thích nghi với từng điều kiện khí hậu, thời tiết,
thổ nhưỡng khác nhau. Do vậy mỗi vùng, miền, địa phương có những lợi thế
khác nhau về sản xuất các loại nông sản. Chẳng hạn Vùng đồng bằng Sông Cửu
Long và đồng bằng Sông Hồng có lợi thế về sản xuất lúa gạo, trái cây; Vùng Miền
núi phía Bắc và Tây Nguyên có lợi thế về trồng các loại cây cà phê… Để bảo đảm
các điều kiện tốt nhất cho quá trình sản xuất, chế biến HHNS như: điều kiện về
đất đai, thời tiết, khí hậu, nhân lực, kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi…, kết nối
sản xuất với chế biến, thị trường tiêu thụ, xuất khẩu, từ đó tối ưu hóa chi phí đầu
vào cho sản xuất, đồng thời tăng năng suất, chất lượng cho sản phẩm. Tất cả
những vấn đề này sẽ tạo nên lợi thế vượt trội trước đối thủ cạnh tranh, khi đó sẽ
tạo ra sản phẩm có SCT cao trên thị trường. Để quán triệt và thực hiện tốt quan
điểm này, các chủ thể cần phải thực hiện tốt các yêu cầu sau:
Một là, cần phải vận dụng lý thuyết lợi thế so sánh để nghiên cứu, phân
tích và lựa chọn ra những loại nông sản có ưu thế trong sản xuất và xuất khẩu,
phù hợp với điệu kiện của từng vùng sinh thái. Bảo đảm ở các vùng, các địa
phương có ưu thế vượt trội đối với từng loại nông sản. Nếu như được lựa
chọn quy hoạch làm vùng sản xuất chuyên canh một loại nông sản nào đó thì
ở đó phải là có điều kiện về tự nhiên tốt nhất, đặc biệt là có chất đất cho phép
cây trồng phát triển tốt nhất, năng suất cao nhất, chất lượng tốt nhất, hương vị
thơm, ngon và mang đặc trương riêng của vùng; đồng thời chi phí sản xuất,
giá thành ở đó là thấp nhất…, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất.
Hai là, cần khai thác triệt để những tiềm năng, lợi thế để phát triển các
sản phẩm mang tính đặc sản của từng vùng, từng địa phương, đồng thời gắn
với thị trường xuất khẩu. Tăng cường đầu tư cho các vùng sản xuất HHNS tập
trung, chuyên canh quy mô lớn, tạo thành các vùng nguyên liệu đủ lớn, chất
lượng cao, cung cấp cho chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu. Đẩy mạnh việc xây
dựng, hoàn thiện và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, công tác nghiên cứu KH&CN
chế biến, công tác nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại…, để từng
bước nâng cao SCT của hàng hóa nông sản.
125
Ba là, nâng cao SCT cho HHNS phải trên cơ sở tuân theo các quy luật
của thị trường có sự định hướng của nhà nước, bảo đảm cạnh tranh công
bằng, lành mạnh. Đồng thời phải tuân thủ các quy định của Tổ chức thương
mại thế giới (WTO), các hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương
mà Việt Nam đã tham gia ký kết cũng như các quy định của các nước nhập
khẩu nông sản của ta. Cạnh tranh phải trên tất cả các tiêu chí, tránh tập trung
vào một, hai tiêu chí, vì cái lợi trước mắt mà không tính đến lợi ích lâu dài, có
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, làm tổn hại đến đối thủ cạnh tranh.
4.1.4. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam
phải thực hiện một cách toàn diện, đồng bộ, hệ thống, trên cả hai mặt giá
trị sử dụng và giá trị, trong tất cả các khâu của chuỗi giá trị
Đây là quan điểm chỉ đạo quá trình thực hiện các biện pháp nâng cao
SCT của HHNS Việt Nam. Điều này xuất phát từ đặc điểm của quá trình sản
xuất HHNS, đó là đòi hỏi phải trải qua các khâu, các bước và đặc biệt là
phải trải qua một khoảng thời gian tương đối dài. Bởi vì sản xuất nông sản
phải gắn với quá trình sinh trưởng, phát triển của cây trồng, vật nuôi. Để sản
xuất ra một loại nông sản có chất lượng tốt đòi hỏi phải bắt đầu từ khâu chọn
loại giống cây trồng, vật nuôi tốt, làm đất tốt, chăm bón tốt, thu hoạch đúng
dịp, đúng quy trình, chế biến tốt, bảo quản, chế biến tốt... Như vậy, để có sản
phẩm HHNS tốt, SCT cao thì không chỉ cần phải làm tốt một khâu, một mặt
mà cần phải thực hiện tốt ở tất cả các khâu các mặt trong chuỗi giá trị gia
tăng (nghiên cứu và phát triển, trồng trọt, chế biến, phân phối, Marketing).
Nâng cao giá trị sử dụng của HHNS là nâng cao phẩm cấp, chất lượng của
sản phẩm. Trong bối cảnh hội nhập và tự do hóa thương mại như hiện nay,
trên thị trường có rất nhiều HHNS cùng loại, nếu chất lượng HHNS của ta
không được nâng lên thì sẽ thua cuộc trong cạnh tranh. Bên cạnh việc nâng
cao chất lượng chúng ta cần phải đa dạng hóa các giá trị sử dụng HHNS,
đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú của người tiêu dùng, bằng cách
đầu tư vào chế biến sâu các sản phẩm HHNS. Đây là yếu tố quan trọng để
tăng khả năng được lựa chọn của khách hàng, qua đó nâng cao giá trị sử
126
dụng và SCT cho HHNS. Để thực hiện quan điểm này, các chủ thê cần
phải thực hiện các yêu cầu sau:
Một là, chủ thể là Nhà nước cần phải có các cơ chế, chính sách phù hợp
nhằm tiếp tục khuyến khích và tăng cường sự liên kết 4 nhà (Nhà nước, nhà khoa
học, nhà doanh nghiệp và nhà nông) trong SXKD hàng hóa nông sản. Đẩy mạnh
công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và sự cần thiết phải liên
kết trong sản xuất chế biến và tiêu thụ HHNS. Tiếp tục xây dựng và nhân rộng các
mô hình, điển hình tiêu biểu trong liên kết sản xuất HHNS. Các chủ thể tham gia
SXKD hàng hóa nông sản ở các địa phương, các vùng cần phải chủ động, tăng
cường hơn nữa trong liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ HHNS.
Hai là, phải coi trọng đầu tư, đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng dụng
KH&CN vào tất cả các khâu của chuỗi giá trị, ưu tiên khâu nghiên cứu lai tạo
ra các loại giống mới có tính năng, phẩm cấp vượt trội hơn các loại giống cũ,
cho năng suất cao, chất lượng tốt. Chú trọng chuyển dịch sản xuất, xuất khẩu
theo số lượng sang chất lượng; xuất khẩu sản phẩm thô sang xuất khẩu các
sản phẩm chế biến sâu.
Ba là, phải đặt mục tiêu giá trị sử dụng lên trên lợi nhuận, bởi vì sản
xuất ra sản phẩm nông sản là sản xuất ra lương thực, thực phẩm và đồ uống,
phục vụ trực tiếp cho con người, do vậy phải đặt mục tiêu vì sức khỏe và sự
phát triển của con người lên trên lợi nhuận. Tránh tư tưởng vì chạy theo lợi
nhuận và cạnh tranh, không coi trọng chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm
và sức khỏe của người tiêu dùng.
4.1.5. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam
phải bảo đảm tính hiệu quả, bền vững, góp phần tích cực vào phát triển
kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh đất nước
Đây là quan điểm có tính hướng đích của quá trình nâng cao SCT của
HHNS. Mục đích của việc nâng cao SCT của HHNS là chúng ta bán được
nhiều sản phẩm nông sản, thu về khoản lợi nhuận cao, tăng thu nhập, nâng
cao đời sống người lao động nhất là nông dân, xây dựng nông thôn mới, góp
phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Tuy nhiên, việc làm này
127
phải tuân thủ hiến pháp, pháp luật, các quy định, quy ước quốc tế, cạnh tranh
công bằng, lành mạnh và tuân theo quy luật của thị trường. Nâng cao SCT
HHNS phải có tính bền vững, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên sẵn có đồng
thời có phương án bảo đảm sự phục hồi, phát triển, và thay thế, bảo vệ tốt môi
trường sinh thái. Để quán triệt và thực hiện tốt quan điểm này, các chủ thể cần
thực hiện các yêu cầu sau:
Một là, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương cần phải đẩy
mạnh việc tuyên truyền, giáo dục cho các doanh nghiệp, người nông dân, các
chủ thể tham gia SXKD hàng hóa nông sản về vị trí, vai trò và tính tất yếu
phải nâng cao SCT cho HHNS trong điều kiện kinh tế thị trường. Phải thấy rõ
cạnh tranh là quy luật cơ bản của kinh tế thị trường, cạnh tranh là động lực
phát triển của doanh nghiệp, cho mỗi địa phương nói riêng và nền kinh tế đất
nước nói chung. Cạnh tranh là động lực thúc đẩy nâng cao năng suất lao động
xã hội, sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Cạnh tranh mang lại lợi ích thiết thực
cho cuộc sống con người, vì con người được sử dụng hàng hóa tốt hơn, chất
lượng cao hơn, giá rẻ hơn…
Hai là, sản xuất HHNS sản phải trên cơ sở nhu cầu của thị trường,
hướng tới các HHNS có chất lượng tốt, giá trị gia tăng cao phục vụ thiết thực
cho sức khỏe con người. Quá trình nâng cao SCT cho HHNS là quá trình
chuyển đổi từ số lượng sang chất lượng, từ sản xuất và xuất khẩu các HHNS
có giá trị thấp sang sản xuất và xuất khẩu các HHNS có giá trị cao hơn.
Ba là, quá trình nâng cao SCT của HHNS phải dựa trên cơ sở khai thác
có hiệu quả nguồn tài nguyên, đồng thời phải có phương án tái tạo, thay thế
và không được làm tổn hại đến môi trường sinh thái. Sử dụng các loại thuốc
bảo vệ thực vật phải tuân thủ theo quy trình kỹ thuật, liều lượng hợp lý, sử
dụng hiệu quả và tiết kiệm nguồn nước, có phương án bảo vệ nguồn nước.
Mở rộng diện tích trồng cây lâu năm như cà phê, hay làm trang trại chăn nuôi
phải đi đôi với việc bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sinh thái, không vì lợi ích
trước mắt mà mở rộng diện tích, chặt phá rừng bừa bãi, hay chăn nuôi gần
khu dân sinh, không xử lý tốt chất thải chăn nuôi...
128
Bốn là, nâng cao SCT của HHNS cần kết hợp kinh tế với quốc phòng -
an ninh, xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh. Quy hoạch vùng sản
xuất, đặc biệt là các vùng biên, vùng dân tộc thiểu số trên cơ sở phải vừa phát
triển sản xuất vừa làm công tác vận động quần chúng. Trước hết là chủ trương
vận động đồng bào dân tộc thiểu số vào làm công nhân, nhận chăm sóc vườn
cây, mang lại thu nhập, nâng cao đời sống về vật chất, tinh thần cho bà con
đồng bào. Tổ chức các hoạt động giao lưu, kết nghĩa giữa các đội sản xuất với
các buôn làng, thực hiện gắn kết hộ công nhân người Kinh với đồng bào dân
tộc thiểu số, từ đó lồng ghép việc tuyên truyền về đường lối, chủ trương của
đảng, chính sách, pháp luật nhà nước cho bà con; đồng thời vạch rõ âm mưu
của các thế lực thù địch, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của bà con để tuyên truyền,
xuyên tạc, nói xấu Đảng, nói xấu chế độ, lôi kéo, kích động chia rẽ,… Bộ máy
các công ty, các doanh nghiệp trên địa bàn phải tích cực phối hợp, giúp đỡ
cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể địa phương, củng cố hệ thống chính trị ở cơ
sở, góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng đất nước ổn định về chính trị,
phát triển về kinh tế và vững mạnh về quốc phòng - an ninh.
4.2. Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt
Nam thời gian tới
4.2.1. Bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích,
hỗ trợ và tạo môi trường thuận lợi cho các chủ thể trong quá trình nâng
cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản
Đây là giải pháp hết sức quan trọng, mang tầm vĩ mô nhằm tạo lập môi
trường pháp lý thuận lợi, cũng như thu hút, hỗ trợ, khuyến khích các thành
phần kinh tế tham gia đầu tư vào lĩnh vực SXKD hàng hóa nông sản. Trên cơ
sở nghị quyết Đại hội XII của Đảng về phát triển sản xuất nông nông nghiệp,
đó là: đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện
đại, hiệu quả và bền vững, nâng cao SCT sản phẩm nông sản, góp phần tăng
thu nhập, nâng cao đời sống nông dân, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã
hội, ổn định chính trị, phát triển kinh tế đất nước. Để thực hiện giải pháp này,
Chính Phủ, các Bộ, ngành liên quan, Ủy ban nhân dân các địa phương (gọi
chung là nhà nước) cần tập trung đổi mới, hoàn thiện các cơ chế, chính sách sau:
129
4.2.1.1. Cơ chế, chính sách về đất đai
Trên tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 Khóa XI của Đảng
về chính sách, pháp luật đất đai, việc đổi mới và hoàn thiện chính sách về đất
đai phải hướng vào nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho quá trình tích tụ,
tập trung ruộng đất, để hình thành các khu vực sản xuất hàng hóa nông sản
tập trung quy mô lớn. Cụ thể như sau:
Một là, quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp ở các vùng, các địa phương
phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước, đồng thời
phải có các chính sách bảo vệ đất nông nghiệp, nhất là đất trồng lúa. Từng
bước hình thành vùng sản xuất hàng hóa nông sản tập trung, quy mô lớn,
mang tính tổ hợp, khép kín, gắn sản xuất với chế biến, bảo quản nhằm nâng
cao năng suất, chất lượng, giảm thiểu chi phí sản xuất, vận chuyển, chế biến
nâng cao SCT cho sản phẩm nông sản.
Hai là, hoàn thiện cơ chế, chính sách giao đất, cho thuê đất nông
nghiệp theo hướng nới rộng các quy định như: tăng mức hạn điền, mức
chuyển nhượng đất nông nghiệp, tăng thời hạn giao quyền sử dụng đất nhằm
tạo điều kiện tốt nhất cho các tổ chức, cá nhân tập trung ruộng đất, yên tâm
đầu tư vốn, công nghệ vào SXKD bảo đảm ổn định lâu dài.
Ba là, các địa phương cần đẩy nhanh việc cải cách thủ tục hành chính,
đơn giản hóa các thủ tục và rút ngắn thời gian cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho người dân. Ban hành các chính sách khuyến khích, tạo điều kiện
thuận lợi cho người được giao quyền sử dụng đất nông nghiệp được phép
chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn cổ phần bằng đất vào các dự án SXKD
HHNS; đồng thời, bảo vệ quyền lợi lâu dài cho họ, nhất là đối với người nông
dân. Tiến hành thu hồi đất đối với các trường hợp sử dụng đất nông nghiệp sai
mục đích, bỏ hoang, giao lại cho các đơn vị sản SXKD có năng lực khai thác,
sử dụng hiệu quả hơn.
Bốn là, hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm thừa nhận quyền sở
hữu tài sản gắn liền với đất, làm cơ sở cho các chủ thể sử dụng đất thực hiện
việc thế chấp vay vốn đầu tư mở rộng SXKD, qua đó thu hút đầu tư, góp vốn,
130
cổ phần bằng bất động sản… Hoàn thiện chính sách đất đai cần phải có sự
công bằng giữa các chủ thể SXKD như: kinh tế hộ, kinh tế trang trại, HTX
nông nghiệp và doanh nghiệp nông nghiệp, đồng thời phải tính đến hiệu quả
sử dụng đất cả về kinh tế, xã hội và môi trường.
4.2.1.2. Cơ chế chính sách về thuế, tín dụng và đầu tư nông nghiệp
Một là, đối với chính sách thuế: Để hỗ trợ và thúc đẩy đầu phát triển sản
xuất HHNS quy mô lớn, năng suất, chất lượng và SCT cao, cần tiếp tục hoàn
thiện chính sách thuế của Nhà nước theo hướng: tiếp tục miễn, giảm thuế sử
dụng đất nông nghiệp cho các chủ thể; miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp
đối với các doanh nghiệp nông nghiệp, HTX cổ phần SXKD trong lĩnh vực
nông nghiệp; miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp
sản xuất máy móc, trang thiết bị phục vụ sản xuất, chế biến, bảo quản HHNS
và các doanh nghiệp cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp.
Hai là, đối với chính sách tín dụng: Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng
thương mại và các tổ chức tín dụng ở từng vùng, từng địa phương cần quán
triệt và thực hiện tốt các chính sách của nhà nước về ưu tiên tín dụng phát
triển sản xuất nông nghiệp mà cụ thể là các Nghị định, Quyết định của Chính
phủ như: Nghị định số 55/2015/NĐ-CP, ngày 09/06/2015 của Chính phủ về
chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; Quyết định số
1726/QĐ-TTg, ngày 05/09/2016 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề
án nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế và Quyết
định số 813/QĐ-NHNH, ngày 24/4/2017 của Ngân hàng Nhà nước về chương
trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông
nghiệp sạch theo Nghị quyết 30/NQ-CP ngày 07/3/2017 của Chính phủ.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các chủ thể tham gia SXKD hàng hóa
nông sản, tiếp cận vay vốn với chính sách ưu đãi nhất của nhà nước, từ đó có
nguồn lực để đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, ứng dụng công nghệ mới,
công nghệ cao vào sản xuất, chế biến, bảo quản, làm tăng năng suất, chất
lượng và SCT cho HHNS. Trên cơ sở các chính sách của Nhà nước, các địa
phương cũng cần có các cơ chế chính sách riêng nhằm thu hút đầu tư phát
131
triển sản xuất HHNS ở địa phương mình. Đổi mới, hoàn thiện chính sách tín
dụng nông nghiệp, nông thôn nhà nước và các địa phương cần hướng vào hỗ
trợ, khuyến khích đầu tư phát triển các dự án SXKD theo chuỗi giá trị, nhằm
đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa nông nghiệp, giảm thiểu rủi ro và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn vay.
Ba là, đối với chính sách đầu tư nông nghiệp
Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách đầu tư nông nghiệp theo hướng
tăng mức đầu tư toàn xã hội cho phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, tập
trung vào các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao,
nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch. Đầu tư nhà nước cần tập trung vào
phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn bảo đảm vừa phục vụ cho
sản xuất HHNS vừa chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Hỗ trợ trực tiếp
cho các lĩnh vực như: ứng dụng KH&CN, liên kết sản xuất, xúc tiến thương
mại và đào tạo nhân lực,… Quá trình thực thi chính sách đầu tư, để trách các
hành vi tiêu cực, trục lợi chính sách, các địa phương cần tuân thủ nghiêm túc
theo Nghị định số 15/2015/NĐ-CP, ngày 14 tháng 02 năm 2015 của Chính
phủ về đầu tư theo hình thức đối tác công tư, Thông tư số 14/2017/TT-
BNNPTNT, ngày 05/07/2017 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về
Hướng dẫn thực hiện một số nội dung về đầu tư theo hình thức đối tác công tư
trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Trên cơ sở chính sách của nhà nước, các địa phương cần nghiên cứu
ban hành chính sách khuyến khích, thu hút đầu tư vào địa phương mình, nhất
là đầu tư của các doanh nghiệp vào chuỗi giá trị HHNS, gắn với chiến lược
phát triển sản phẩm cấp quốc gia, cấp vùng và địa phương theo đặc điểm, lợi
thế của từng vùng, từng địa phương. Tăng cường quy mô quỹ đầu tư cho phát
triển sản xuất nông nghiệp các cấp, hỗ trợ kịp thời cho các doanh nghiệp nông
nghiệp, HTX nông nghiệp và hộ nông dân, ưu tiên phát triển các dự án liên
kết, hợp tác SXKD. Thực hiện việc kêu gọi đầu tư bằng hình thức đấu thầu
theo cơ chế thị trường một cách minh bạch, khắc phục triệt để cơ chế “xin -
cho” trong quá trình đầu tư. Tăng cường hỗ trợ của Nhà nước cho nông dân,
132
trên cơ sở phù hợp với các cam kết thương mại mà Việt Nam đã ký kết, nhằm
khuyến khích nông dân tăng cường đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, kinh
doanh, tạo ra khối lượng nông sản lớn, có chất lượng tốt, SCT cao, từ đó tăng
thu nhập, cải thiện đời sống và vươn lên làm giàu.
4.2.1.3. Cơ chế, chính sách thương mại và thị trường
Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách thương mại và thị trường nhằm
tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, tận dụng được cơ hội trong các hiệp
định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết, đồng thời khắc phục được
những hạn chế yếu kém, làm phát sinh thủ tục, thời gian, làm tăng chi phí dẫn
tới giảm SCT của HHNS trên thị trường. Biện pháp cụ thể thực hiện đổi mới,
hoàn thiện chính sách này như sau:
Một là, các cấp, các ngành, các địa phương cần quán triệt và cụ thể
hóa chủ trương của Đảng, chính sách ngoại giao của nhà nước và đặc biệt là
các cam kết thương mại quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Triển khai thực
hiện các đề án, quy hoạch phát triển thương mại của từng vùng mà Bộ Công
thương đã triển khai. Các địa phương đổi mới, hoàn thiện và ban hành các
cơ chế, chính sách theo hướng tổ chức lại hệ thống thương mại nông sản
như: hệ thống các chợ nông thôn, chợ đầu mối hàng nông sản; các trung tâm
thương mại, hệ thống siêu thị, chuỗi cửa hàng nông sản trên địa bàn phù hợp
với quy hoạch, nhu cầu tiêu dùng, phong tục tập quán và sức mua thực tiễn
của người dân địa phương. Phát triển các sàn giao dịch thương mại HHNS
hiện đại, ngang tầm với các sàn giao dịch lớn trên thế giới. Thực hiện hình
thức bán đấu giá nông sản tại các vườn, các chợ đầu mối, trung tâm thương
mại ở các địa phương. Khuyến khích các doanh nghiệp, HTX và các hiệp hội
ngành hàng tích cực tham gia vào thị trường giao dịch này, đồng thời tăng
cường các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm thu hút đầu tư và mở rộng
thị trường tiêu thụ nông sản.
Hai là, trên cơ sở cam kết thương mại trong các FTA mà Việt Nam đã
ký kết với các đối tác. Các Bộ, ngành có liên quan tích cực nghiên cứu, tham
mưu đề xuất với Chính phủ, chủ động ban hành các chính sách phòng vệ
133
thương mại chính đáng để bảo hộ sản xuất HHNS trong nước, khuyến khích
xuất khẩu, phù hợp với các quy tắc, thông lệ và cam kết thương mại quốc tế.
Ba là, tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ cho nông dân và cung cấp
các gói tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp thu mua HHNS trong ngắn
hạn, bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế. Hoàn thiện các văn bản pháp lý
và tăng cường công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu, làm hàng giả,
hàng nhái, kém chất lượng, đầu cơ trục lợi bất chính, gây biến động và bóp
méo thị trường, ảnh hưởng đến phát triển SXKD nông nghiệp nói chung,
SCT của HHNS nói riêng.
Bốn là, hỗ trợ, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp nông nghiệp, HTX nông nghiệp, hộ gia đình tham gia các hoạt
động xúc tiến thương mại trong và ngoài nước, nhằm quảng bá, tiếp thị
sản phẩm, tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ. Đẩy mạnh đàm phán với
các đối tác thương mại để họ chấp nhận nhập khẩu HHNS của ta. Đồng
thời, nắm và cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp nông nghiệp, HTX
nông nghiệp và hộ gia đình để họ chủ động có kế hoạch sản xuất, kinh
doanh một cách hiệu quả.
4.2.1.4. Chính sách hỗ trợ về khoa học và công nghệ
Ứng dụng KH&CN vào chuỗi giá trị là khâu đột phá nhằm đẩy nhanh
quá trình cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại, hiệu quả và
bền vững, đồng thời đây cũng là khâu then chốt nhằm tăng năng suất, chất
lượng và SCT cho HHNS. Tuy nhiên KH&CN là lĩnh vực đòi hỏi phải có đầu
tư lớn về nguồn lực, thủ tục pháp lý cũng như quy trình thực hiện phức tạp,
khó khăn, do vậy phải có các chính sách hỗ trợ, khuyến khích thiết thực. Nội
dung biện pháp đổi mới, hoàn thiện chính sách này cần tập trung vào:
Một là, tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước cho hoạt động nghiên
cứu và phát triển KH&CN phục vụ sản xuất HHNS, tập trung vào những
ngành, lĩnh vực mũi nhọn, đòi hỏi cấp bách, tạo đột phá về KH&CN trong sản
xuất nông nghiệp như: nghiên cứu lai tạo giống mới, công nghệ sản xuất, thu
hoạch, chế biến, bảo quản tiên tiến, hiện đại, thân thiện với môi trường.
134
Hai là, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý hoạt động nghiên cứu khoa
học, thực hiện việc đấu thầu, đặt hàng các sản phẩm KH&CN đối với các
tổ chức, các nhà khoa học trong và ngoài nước. Tăng cường thu hút đầu
tư, xây dựng quỹ hoạt động nghiên cứu khoa học để hỗ trợ các nhà khoa
học và người nông dân nghiên cứu, cải tiến, sáng kiến ra các máy móc,
các công cụ lao động tiện lợi phục vụ quá trình sản xuất, chế biến, bảo
quản HHNS; hỗ trợ các phát minh về công nghệ, các dự án khởi nghiệp,
tạo đột phá về KH&CN trong sản xuất, nhằm nâng cao năng suất, chất
lượng và SCT cho HHNS.
Ba là, thực hiện giao quyền tự chủ cho các tổ chức nghiên cứu KH&CN
trong lĩnh vực nông nghiệp mà trước đây do nhà nước quản lý để tăng tính năng
động, sáng tạo cũng như trách nhiệm trong hoạt động của các tổ chức này.
Bốn là, đầu tư thích đáng cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội
ngũ cán bộ nghiên cứu, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho họ nghiên cứu,
chú trọng chính sách về tiền lương, thưởng, chứng nhận các phát minh, sáng chế
khoa học… Tăng cường gắn kết nhà khoa học với các mô hình sản xuất HHNS.
Năm là, tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức, cơ chế, chính sách quản lý
hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, hệ thống thú y, bảo vệ thực
vật, dịch vụ kỹ thuật ở mỗi cấp, nhất là đối với cấp huyện, xã để chuyển giao
KH&CN tiên tiến cho doanh nghiệp, HTX nông nghiệp, hộ nông dân.
4.2.1.5. Chính sách hỗ trợ đào tạo nhân lực, quản trị, cung cấp thông
tin thị trường
Để hỗ trợ các chủ thể SXKD hàng hóa nông sản, nâng cao chất lượng
lao động, trình độ quản trị doanh nghiệp, tối ưu hóa quá trình SXKD, giảm
thiểu thời gian, chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng và SCT cho sản phẩm,
chúng ta cần phải đổi mới, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ đào tạo nhân lực,
quản trị, cung cấp thông tin thị trường. Nội dung biện pháp cụ thể:
Một là, đẩy mạnh việc khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân
tham gia vào các lớp đào tạo, tập huấn, phổ biến nâng cao kiến thức hiểu biết
về pháp luật; quy trình kỹ thuật gieo trồng, chăm bón, thu hoạch, chế biến,
135
bảo quản sản phẩm; kiến thức hoạt động quảng cáo, tiếp thị, tổ chức mạng
lưới tiêu thụ sản phẩm; trình độ sử dụng công nghệ, kinh nghiệm, kỹ năng
quản trị doanh nghiệp... Gắn với thực hiện tốt Đề án đào tạo nghề cho lao
động nông nghiệp, nông thôn đến năm 2020 theo Quyết định số 971/QĐ-
TTg, ngày 01/07/2015 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số 5480/QĐ-
BNN- KTHT, ngày 29/12/2016 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn về Kế hoạch đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn đến
năm 2020. Chú trọng đào tạo, đào tạo lại nâng cao chất lượng nông dân,
cán bộ quản lý và đội ngũ lao động trong các doanh nghiệp nông nghiệp,
HTX nông nghiệp.
Hai là, tăng cường đầu tư, nâng cấp và hiện đại hóa các cơ sở đào tạo
nhân lực nông nghiệp như: Học viện Nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp, Đại
học Nông lâm, các trường trung cấp và trung tâm dạy nghề nông nghiệp quốc
gia và các địa phương, đáp ứng với nhu cầu thực tiễn về trình độ nhân lực
hiện nay. Gắn chặt công tác đào tạo với sử dụng, đào tạo theo hợp đồng, theo
đơn đặt hàng của các đơn vị sử dụng lao động. Khuyến khích các doanh
nghiệp nông nghiệp, HTX nông nghiệp, hộ nông dân tự đào tạo nâng cao trình
độ tay nghề lao động nông nghiệp.
Ba là, tăng cường hỗ trợ, cung cấp thông tin về hoạt động SXKD
HHNS, nhất là những quy định mới trong các hiệp định thương mại tự do
song phương, đa phương; các quy định về yêu cầu kỹ thuật, chất lượng sản
phẩm, thủ tục nhập khẩu của các nước… Tạo lập các kênh, các trang web
chính thống chuyên về cung cấp thông tin một cách tin cậy cho các chủ thể
SXKD hàng hóa nông sản. Đề cao trách nhiệm của tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước các cấp, nhất là Bộ NN&PTNT, Bộ Công thương trong việc tuyên
truyền, phổ biến các thông tin về chính sách, pháp luật… tới các doanh
nghiệp nông nghiệp, HTX nông nghiệp và hộ nông dân. Tăng cường thời
lượng phát sóng trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là các kênh
thông tin chính thống (Đài truyền hình, đài phát thanh...), ưu tiên vào các
khung giờ mà đa số người dân có thể tiếp cận được để cung cấp thông tin, phổ
136
biến quy định pháp luật, tuyên truyền gương người tốt, việc tốt, các cách làm
hay…trong SXKD hàng hóa nông sản.
4.2.1.6. Chính sách bảo hiểm nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp chịu sự tác động trực tiếp của điều kện tự
nhiên, do vậy rủi ro trong đầu tư vào SXKD ngành này là rất lớn. Để khắc
phục những rủi ro do thiên tai, bệnh dịch, biến đổi của thị trường, giá cả,
lạm phát… tạo tâm lý yên tâm cho các chủ thể đầu tư vào SXKD hàng
hóa nông sản, Việt Nam cần phải đổi mới, hoàn thiện chính sách bảo hiểm
nông nghiệp. Việc đổi mới, hoàn thiện chính sách bảo hiểm nông nghiệp
cần tập trung vào:
Một là, cần đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền để các doanh nghiệp
nông nghiệp, HTX nông nghiệp và hộ nông dân nắm được vị trí, vai trò, nghĩa
vụ và quyền lợi được hưởng của người tham gia đối với chính sách bảo hiểm
nông nghiệp. Từ đó khuyến khích, thu hút đông đảo các doanh nghiệp, HTX
nông nghiệp và hộ nông dân tự nguyện tham gia.
Hai là, tăng mức hỗ trợ bảo hiểm từ ngân sách nhà nước cho các chủ thể
tham gia đầu tư vào SXKD trong lĩnh vực nông nghiệp. Thực hiện cải cách thủ
tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục, hồ sơ, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các
chủ thể tham gia. Khi rủi ro xảy ra phải thực hiện bảo hiểm một cách thỏa đáng và
nhanh chóng, tránh tình trạng tham gia đóng phí bảo hiểm thì dễ nhưng khi thanh
toán bảo hiểm thì gây khó khăn phiền hà. Xây dựng, củng cố và nâng cấp các
trung tâm, các cơ sở kiểm định, định giá tài sản, đánh giá thiệt hại để giải quyết
quyền lợi bảo hiểm cho các chủ thể một cách nhanh chóng và chính xác.
Ba là, tăng cường các chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế, hỗ trợ
khuyến khích để thu hút các công ty, các tập đoàn bảo hiểm lớn trong và
ngoài nước tham gia bảo hiểm trong lĩnh vực nông nghiệp. Đa dạng hóa
các hình thức bảo hiểm, có thể thực hiện bảo hiểm trọn gói trong các khâu
của chuỗi giá trị hoặc bảo hiểm trong từng công đoạn của chuỗi giá trị,
từng mặt cụ thể (bảo hiểm thiên tai, dịch bệnh, lạm phát…)
137
4.2.2. Bổ sung, hoàn thiện quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa nông
sản tập trung, chuyên canh quy mô lớn theo lợi thế của từng vùng, từng địa
phương và từng loại nông sản
Đây là giải pháp hết sức quan trọng, mang tính chiến lược, nhằm tạo ra
được những vùng sản xuất nông sản chuyên canh quy mô lớn, thích nghi với
từng loại nông sản, có điều kiện cơ giới hóa và ứng dụng KH&CN, nhất là
công nghệ cao vào sản xuất.
Trong phần phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển sản xuất
nông nghiệp 2016 - 2020 Đảng ta đã xác định: “Phát triển các vùng sản xuất
quy mô lớn với hình thức đa dạng, phù hợp với quy hoạch và điều kiện của
từng vùng, đặc điểm của từng sản phẩm” [42, tr.282]. Dự thảo các văn kiện
trình Đại hội XIII của Đảng, xác định nhiệm vụ chiến lược phát triển nông
nghiệp giai đoạn 2021 - 2030: “Hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập
trung, ổn định. Tổ chức kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, thị
trường, xuất khẩu, chuỗi giá trị toàn cầu” [2, tr.70]. Trên cơ sở chủ trương của
Đảng, công tác quy hoạch cần tập trung vào các giải biện pháp cụ thể sau đây:
4.2.2.1. Tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt Đề án “Phát triển ngành
trồng trọt đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”; Đề án “Tái cơ cấu ngành
chăn nuôi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững” đã
được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt
Quyết định số 824/QĐ-BNN-TT ngày 16/4/2012 về quy hoạch phát
triển ngành trồng trọt đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số
984/QĐ-BNN-CN ngày 09/5/2014 về đề án tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo
hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, đã quy hoạch phát triển ngành trồng trọt và chăn nuôi
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, các vùng sản xuất tập trung đối với
một số HHNS chính như sau:
Đối với quy hoạch khu vực trồng lúa: Duy trì quỹ đất trồng lúa ổn định ở
mức 3,812 triệu ha, tập trung chủ yếu ở các Vùng: Đồng bằng Sông Cửu Long,
Đồng bằng Sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ, trong đó
138
xác định trọng điểm là vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Áp dụng các biện pháp
thâm canh tiên tiến để đạt được sản lượng khoảng 41 - 43 triệu tấn vào năm 2020
và 44 triệu tấn vào năm 2030, bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu [15].
Đối với quy hoạch khu vực trồng cà phê: Để khắc phục việc các hộ
nông dân tự ý mở rộng diện tích trồng cà phê thời gian qua, làm phá vỡ quy
hoạch… Thời gian tới, công tác quy hoạch cần phải giảm diện tích và duy
trì ổn định ở mức 500 nghìn ha, tập trung vào các vùng chính như Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ, Bắc Trung Bộ, trong đó trọng điểm là khu vực Tây
Nguyên. Sản lượng cà phê khoảng 1- 1,2 triệu tấn/năm, xuất khẩu khoảng 1
triệu tấn/năm [15].
Đối với quy hoạch khu vực trồng cây ăn quả: Diện tích bố trí trồng
các loại cây ăn quả năm 2015 là 850 nghìn ha, năm 2020 và những năm
tiếp theo duy trì ổn định khoảng 910 nghìn ha, trong đó bố trí 810 nghìn ha
trồng các cây ăn quả chủ lực như vải, nhãn, chuối, xoài, cam, quýt, dứa.
Quy hoạch các vùng trồng cây ăn quả chủ yếu là Trung du miền núi phía
Bắc; Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long. Tăng cường sản xuất
theo quy trình (VietGAP), nâng cao công suất và hiệu quả của các nhà máy
chế biến…[15].
Đối với quy hoạch khu vực trồng các loại rau, đậu: Duy trì, phát triển
diện tích đất canh tác vào năm 2020 và những năm tiếp theo khoảng 1,2 triệu
ha, sản lượng rau đậu các loại đạt khoảng 20 triệu tấn/năm. Sản xuất rau, đậu
hướng vào nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn thực phẩm, xây dựng các
vùng sản xuất rau tập trung, áp dụng công nghệ cao, sản xuất theo quy trình
thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP), hữu cơ [15].
Đối với chăn nuôi lợn: Thực hiện từng bước giảm đàn lợn ở vùng Đồng
bằng sông Hồng và vùng Đông Nam bộ, đến năm 2020 và những năm tiếp theo,
vùng Đồng bằng sông Hồng ổn định đàn lợn ở mức 15%, vùng Đông Nam bộ
5% tổng đàn lợn cả nước. Tăng đàn lợn ở vùng trung du miền núi phí Bắc lên
30%, Bắc trung bộ 24% và Tây Nguyên 15% tổng đàn lợn cả nước [17].
139
Đối với chăn nuôi gia cầm:
Chăn nuôi gà: Tập trung phát triển vùng chăn nuôi gà ở các vùng Đồng
bằng sông Hồng, Trung du miền núi phía Bắc, Bắc trung bộ, Đồng bằng sông
Cửu Long và vùng Tây Nguyên
Chăn nuôi vịt: Tập trung phát triển vùng chăn nuôi vịt ở các vùng Đồng
bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long ; Trung du miền núi phía Bắc;
Duyên hải miền trung [17].
Để tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện việc rà soát, bổ sung, điều
chỉnh hoàn thiện quy hoạch trong đề án, các cấp Bộ, ngành và các địa phương
cần thực hiện tốt một số biện pháp cụ thể sau:
Một là, tiến hành khảo sát, phân tích, đánh giá tình hình điều kiện thực
tiễn của địa phương, bổ sung hoàn thiện cụ thể hóa quy hoạch. Cần tập trung
vào các yếu tố như sự biến đổi về điều kiện tự nhiên như đất đai, nguồn nước,
và điều kiện kinh tế - xã hội; các nguồn lực hiện có, năng lực sản xuất hiện
tại, tiềm năng phát triển; nhu cầu của thị trường nông sản trong ngắn hạn và
dài hạn... Trên cơ sở đó, tiến hành điều chỉnh, hoàn thiện quy hoạch vùng sản
xuất hàng hóa nông sản gắn với xây dựng chiến lược sản phẩm. Lập bản đồ
quy hoạch cụ thể, chi tiết các vùng sản xuất hàng hóa nông sản phù hợp với
từng địa phương, từng cấp quản lý.
Hai là, chính quyền địa phương các cấp phải xây dựng kế hoạch, tổ
chức tập huấn, bồi dưỡng cho các lực lượng tham gia để nâng cao trình độ,
đồng thời chuẩn bị tốt về cơ sở vật chất cho việc rà soát, bổ sung, hoàn thiện
quy hoạch. Xây dựng các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện một
cách thống nhất từ cấp tỉnh, thành phố đến cấp xã, phường, thôn và các chủ
thể trực tiếp tham gia SXKD hàng hóa nông sản. Sau khi hoàn chỉnh quy
hoạch phải tổ chức tuyên truyền, phổ biến, cung cấp thông tin tới mọi người
dân, để họ có điều kiện được tham gia vào các dự án trong quy hoạch.
Ba là, khuyến khích việc dồn điền đổi thửa, tập trung ruộng đất để
sản xuất hàng hóa nông sản theo các hình thức như: chuyển nhượng, cho
thuê, góp vốn, cổ phần bằng đất, Nhà nước giao đất… Gắn việc tập trung
140
ruộng đất với đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng
chuyên canh các cây trồng có lợi thế, tạo thành vùng nguyên liệu lớn, chất
lượng tốt đồng đều phục vụ cho chế biến và cung cấp cho thị trường, đồng
thời chuyển dịch lao động nông thôn từ lao động hộ gia đình nhỏ lẻ sang
hội viên HTX nông nghiệp, công nhân doanh nghiệp nông nghiệp... Giải
quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với an sinh xã hội trong quá
trình tích tụ, tập trung ruộng đất. Tăng cường đầu tư từ ngân sách địa
phương vào phát triển kết cấu hạ tầng như hệ thống giao thông, thủy lợi,
điện cho khu quy hoạch. Khuyến khích các hộ nông dân tham gia vào HTX
nông nghiệp, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất
hàng hóa nông sản trong khu quy hoạch, liên kết với các HTX nông nghiệp
và hộ nông dân để phát triển các chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng hàng hóa
nông sản ra thị trường.
Bốn là, chính quyền các địa phương mà trực tiếp là cấp xã quản lý quy
hoạch ở phạm vi địa phương mình, do đó phải thường xuyên kiểm tra việc
khai thác, sử dụng tài nguyên, môi trường sinh thái, tránh để nông dân tự phát
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, dẫn đến phá vỡ quy hoạch và xung đột lợi ích
trong quá trình thực hiện.
4.2.2.2. Tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hóa quy mô lớn
Đây là biện pháp quan trọng, nhằm khắc phục tình trạng sản xuất nhỏ
lẻ, manh mún; sản xuất không gắn với thị trường, hiệu quả kinh tế thấp và
thiếu tính bền vững. Thực hiện biện pháp này các Vùng, các địa phương cần
thực hiện tốt các nội dung sau:
Một là, khuyến khích, tạo điều kiện để kinh tế hộ gia đình phát triển
thành đơn vị sản xuất hàng hóa nông sản có quy mô lớn hơn
Kinh tế hộ gia đình hiện nay vẫn đang chiếm tỷ trọng lớn trong sản
xuất nông nghiệp, quy mô, mức độ hoạt động kinh tế của các hộ có sự khác
nhau. Kinh tế hộ rất năng động, có khả năng tự điều chỉnh trong quan hệ sản
xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng, song lại gặp nhiều khó khăn trong tổ
141
chức sản xuất và tiếp cận thị trường. Vì vậy cần phải phát triển kinh tế hộ theo
hướng sản xuất hàng hóa, có sự hỗ trợ của Nhà nước, gắn với chuyển dịch cơ
cấu sản phẩm; phát triển kinh tế hộ thành kinh tế trang trại, kinh tế HTX. Để
thực hiện vấn đề này các vùng, các địa phương cần phải:
Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho kinh tế hộ về sự cần thiết, những
lợi ích khi chuyển đổi, phát triển thành kinh tế trang trại, kinh tế HTX để họ
đổi mới tư duy tự giác chuyển đổi. Đối với các hộ có vốn, kỹ thuật, công
nghệ, khuyến khích và hỗ trợ họ mở rộng SXKD, hình thành các trang trại sản
xuất hàng hóa quy mô lớn, mang lại hiệu quả kinh tế cao, làm cơ sở cho kinh
tế hộ liên kết, hợp tác, hình thành các tổ hợp tác, HTX nông nghiệp.
Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nhận thức, phát triển tư duy kinh tế; trình
độ chuyên môn kỹ thuật, tác phong công nghiệp, ý thức kỷ luật lao động trong
kinh tế hộ. Tổ chức cho các hộ nông dân thăm quan thực tế các mô hình sản
xuất tiêu biểu tại để học tập kinh nghiệm.
Thực hiện hỗ trợ, ưu đãi đối với kinh tế hộ, nhất là về tín dụng, gặp rủi
ro, bảo hiểm nông nghiệp, mua sắm máy móc phục vụ sản xuất, xây dựng kết
cấu hạ tầng; hỗ trợ áp dụng giống mới và ứng dụng KH&CN nhất là công
nghệ cao vào sản xuất, chế biến nông sản; cung cấp thông tin, định hướng thị
trường; hỗ trợ đăng ký chứng nhận, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật…
Hai là, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
hàng hóa nông sản của các doanh nghiệp
Các địa phương cần tiếp tục quán triệt và thực hiện có hiệu quả
Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị (Khóa XI) về
tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của
công ty nông, lâm nghiệp, Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước giai
đoạn 2016 - 2020 mà cụ thể hóa là Nghị quyết 35/NQ - CP ngày
16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm
2020. Đẩy mạnh việc đổi mới, sắp xếp lại các công ty sản xuất, kinh
doanh HHNS trên địa bàn theo hướng hợp tác để mở rộng quy mô, nâng
cao năng lực và hiệu quả hoạt động.
142
Để thu hút được nhiều doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp,
chính quyền địa phương các cấp cần phải đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư; đồng thời phải có các dự án xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa nông sản tập
trung quy mô lớn, liên kết cụm sản xuất với chế biến, bảo quản. Đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính
sách về đất đai, vốn, nhân lực nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nông nghiệp.
Các địa phương cần phải đẩy mạnh việc thực hiện cải cách thủ tục hành
chính, đổi mới phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ theo hướng phục vụ doanh nghiệp, khắc phục dứt điểm tình trạng can thiệp quá sâu vào hoạt động
SXKD, gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp. Tăng cường quản lý đối với các doanh nghiệp, kịp thời phát hiện, xử lý các biểu hiện lợi dụng chính
sách hỗ trợ của nhà nước để trục lợi.
Các doanh nghiệp nông nghiệp cần chủ động xây dựng phương án phát
triển SXKD, tăng cường quan hệ hợp tác, liên kết giữa các chủ thể trong chuỗi cung ứng. Đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng dụng KH&CN vào SXKD,
chủ động đào tạo nâng cao chất lượng nhân lực, tăng cường xúc tiến thương mại mở rộng thị trường tiêu thụ.
4.2.2.3. Đẩy mạnh phát triển các dịch vụ phục vụ sản xuất kinh doanh
hàng hóa nông sản
Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa sẽ thúc đẩy phân
công lao động trong nông nghiệp, nông thôn phát triển; xã hội hóa sản xuất ngày càng cao, dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp phát triển sẽ hỗ trợ đắc
lực cho quá trình sản xuất HHNS, góp phần tăng tính chuyên môn hóa trong sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và SCT cho HHNS. Để tiếp tục thúc
đẩy dịch vụ nông nghiệp phát triển một cách chuyên nghiệp, hiện đại, trong những năm tới, Việt Nam cần tập trung làm tốt một số nội dung sau:
Một là, đẩy mạnh phát triển các dịch vụ tư nhân, như là kinh tế hộ dịch vụ, doanh nghiệp dịch vụ tư nhân ở các vùng, các địa phương. Nâng
cao chất lượng dịch vụ tổng hợp và các dịch vụ chuyên ngành, nhất là dịch vụ logictics, bảo đảm tốt nhu cầu đa dạng của hoạt động SXKD hàng hóa
nông sản như: cung ứng các loại giống cây trồng, các loại máy móc, thiết bị,
143
công cụ sản xuất nông nghiệp, giải pháp, công nghệ sản xuất, điện sản xuất,
nước tưới tiêu, cung cấp phân bón, thuốc trừ sâu, thủy lợi.., các dịch vụ thu gom, vận chuyển, kho tàng, bến cảng.., khuyến khích các Liên minh HTX,
các hiệp hội, ngành hàng ở các địa phương tham gia hoạt động cung cấp vụ cho các hội viên, các trang trại và hộ nông dân trong khu vực.
Thứ hai, tạo điều kiện để phát triển đa dạng các hình thức dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn các vùng, các địa phương như: dịch vụ tổng hợp, dịch vụ
chuyên ngành; dịch vụ thanh toán, dịch vụ ứng trước…, Tập trung phát triển mạnh các dịch vụ như: dịch vụ làm đất, dịch vụ chuyển giao giải pháp, công
nghệ, dịch vụ thu hoạch,… Liên kết chặt chẽ giữa các đơn vị cung cấp dịch vụ và người sản xuất thông qua các hợp đồng kinh tế, nhằm nâng cao chất
lượng cung cấp dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp, góp phần vào nâng cao hiệu quả SXKD, tăng năng suất, chất lượng và SCT của HHNS.
Thứ ba, tăng cường công tác quản lý của các cơ quan nhà nước đối với hoạt động cung ứng dịch vụ nông nghiệp để nâng cao chất lượng dịch vụ,
đồng thời kiểm soát giá cả các sản phẩm dịch vụ nông nghiệp, chống độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh giữa các đơn vị cung cấp dịch vụ với
nhau và giữa những người sử dụng dịch vụ…
4.2.3. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa
học công nghệ, nhất là công nghệ cao vào chuỗi giá trị hàng hoá nông sản
Đây là giải pháp đột phá nhằm hiện đại hóa nền nông nghiệp Việt Nam
nói chung, nâng cao năng suất, chất lượng và SCT của HHNS nói riêng. Bởi vì chất lượng, giá thành là 2 nhân tố quan trọng hàng đầu tạo nên SCT của
hàng hóa nông sản, nó phụ thuộc rất lớn vào công nghệ sản xuất, chế biến mà đặc biệt là công nghệ lai tạo giống.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, đã xác định:
Đẩy nhanh áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại trong
sản xuất, chế biến, bảo quản; ưu tiên ứng dụng công nghệ sinh học để tạo nhiều giống cây trồng, vật nuôi và quy trình sản xuất đạt năng
suất, chất lượng và hiệu quả cao, tăng nhanh giá trị gia tăng trên một đơn vị đất canh tác [41, tr.115].
144
Trên thế giới đã có nhiều nước ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất
nông nghiệp thành công như Thái Lan, Israel… Hiện nay trước những thành
tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (4.0), Việt Nam cần phải học
hỏi kinh nghiệm, của các nước, đẩy nhanh quá trình ứng dụng KH&CN nhất
là công nghệ cao vào sản xuất, nhằm tăng năng suất, chất lượng và SCT cho
HHNS. Thực hiện tốt giải pháp này trên một số biện pháp cụ thể sau:
4.2.3.1. Nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ vào các khâu
trong chuỗi giá trị hàng hóa nông sản
Một là, đối với nghiên cứu lai tạo giống cây trồng, vật nuôi:
Giống là khâu quan trọng đầu tiên, quyết định đến năng suất, chất
lượng HHNS. Do vậy cần phải đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng dụng KH&CN
vào nghiên cứu, lai tạo nhằm tạo ra được các loại giống mới có năng suất cao,
chất lượng tốt, khả năng chống chịu sâu bệnh, dịch bệnh thích nghi với sự
biến đổi khí hậu như hạn hán, xâm nhập mặn...
Để thực hiện tốt vấn để này, Chính phủ, các Bộ, ngành và chính quyền
địa phương các cấp cần phải tăng đầu tư, nâng cao tiềm lực cho các cơ quan
nghiên cứu khoa học nông nghiệp như Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam,
Viện nghiên cứu giống cây trồng, vật nuôi, Viện Nghiên cứu nông nghiệp
công nghệ cao, Viện Nghiên cứu và ứng dụng Nông nghiệp hữu cơ, Viện Môi
trường Nông nghiệp.., các cơ sở nghiên cứu của các trường đại học, cao đẳng
nông, lâm nghiệp của quốc gia và ở từng địa phương. Nghiên cứu, lai tạo,
tuyển chọn, nội nhập những giống cây trồng và vật nuôi mới, có đặc tính vượt
trội hơn hẳn các loại giống cũ, phổ biến áp dụng rộng rãi vào sản xuất, nhằm
không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng và SCT cho HHNS.
Hai là, đối với quá trình trồng trọt, thu hoạch
Tập trung nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các công nghệ thâm canh,
quy trình quản lý cây trồng tổng hợp (ICM); quy trình thực hành sản xuất nông
nghiệp tốt (VietGAP), (Global GAP); nông nghiệp hữu cơ (Organic), công nghệ
sinh học… các công nghệ tự động hóa trong quá trình trồng trọt và thu hoạch.
Đẩy mạnh nghiên cứu chế tạo và ứng dụng các loại vật tư, máy móc, thiết bị
145
phục vụ sản xuất HHNS như: phân bón chuyên dụng, giá thể, chế phẩm sinh
học, chất điều hòa sinh trưởng, khung, nhà lưới, nhà màng, hệ thống tưới, thiết bị
chăm sóc, hệ thống xử lý không khí, độ ẩm và công nghệ sau thu hoạch… để sản
xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm…
Ba là, đối với quá trình bảo quản, chế biến
Đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các công nghệ vào quá
trình bảo quản sản phẩm như: công nghệ chiếu xạ, công nghệ xử lý hơi nước
nóng, sấy lạnh, sấy nhanh, công nghệ tạo màng…; vào quá trình chế biến như:
công nghệ nano, công nghệ sản xuất chế phẩm sinh học và các chất màu, chất
phụ gia thiên nhiên… trong bảo quản và chế biến sản phẩm. Ngoài ra cần tăng
cường đầu tư nghiên cứu, mua sắm các máy móc thiết bị nhằm tăng cường chế
biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm như nước uống trái cây, kẹo cà phê, bánh gạo,
nước trà xanh… như vậy sẽ làm tăng giá trị gia tăng, tăng SCT cho HHNS.
4.2.3.2. Đẩy mạnh hoạt động chuyển giao công nghệ ở các vùng, các
địa phương
Nông dân là người trực tiếp sản xuất ra các sản phẩm nông sản, để cho
nông dân nhanh chóng nắm bắt, làm chủ các công nghệ, vận hành thành thạo
các trang thiết bị hiện đại vào sản xuất thì công tác chuyển giao có vai trò hết
sức quan trọng. Để đẩy mạnh hoạt động chuyển giao, trước hết Chính phủ,
các bộ, ngành, địa phương cần phải kiện toàn lại tổ chức, nâng cao khả năng,
chất lương hoạt động và phát huy tốt vai trò của các đơn vị nghiên cứu khoa
học, các trung tâm khuyến nông từ trung ương đến địa phương. Tổ chức phổ
biến, tập huấn, hướng dẫn cho các doanh nghiệp, HTX và hộ nông dân những
kiến thức cơ bản để ứng dụng KH&CN vào các khâu của quá trình sản xuất.
Tăng cường hợp tác, đặt hàng sản phẩm khoa học nông nghiệp thông qua các
dự án nghiên cứu với các trung tâm, viện nghiên cứu nông nghiệp; tiến hành
chuyển giao và áp dụng các dự án KH&CN vào sản xuất... Nghiên cứu, ban
hành các cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích các nhà khoa học, các tổ
chức nghiên cứu khoa học gắn bó với đời sống thực tiễn sản xuất HHNS của
doanh nghiệp, HTX và hộ nông dân.
146
Hai là, khuyến khích hộ nông dân, HTX nông nghiệp, trang trại và các
doanh nghiệp nông nghiệp mạnh dạn đầu tư, ứng dụng các tiến bộ của
KH&CN nhất là công nghệ cao vào sản xuất, tổ chức quản lý, theo quy trình
hiện đại, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và SCT cho HHNS, mang lại
lợi nhuận cao cho đơn vị. Thúc đẩy phát triển đa dạng các hình thức liên kết
để tăng cường nguồn lực, đầu tư, tiếp nhận các công nghệ mới, công nghệ cao
vào quá trình sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và SCT cho sản phẩm.
Ba là, đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động nghiên cứu và phát triển
(R&D), đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo trong lĩnh vực nông nghiệp
theo Quyết định số 844/QĐ -TTg, ngày 18/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ
về phê duyệt Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia
đến năm 2025. Các vùng, các địa phương cần có chính sách nhằm hỗ trợ,
khuyến khích phát triển các hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo gắn với
phát triển các sản phẩm HHNS có lợi thế của địa phương. Coi doanh nghiệp
là hạt nhân trung tâm của hoạt động đổi mới sáng tạo; đồng thời phải tạo môi
trường thuận lợi nhất, chính sách ưu đãi nhất, thu hút các doanh nghiệp khởi
nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp.
4.2.3.3. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt
động nghiên cứu khoa học và công nghệ nông nghiệp
Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động nghiên cứu khoa học hết
sức quan trọng, quản lý tốt sẽ sẽ giúp cho hoạt động nghiên cứu, chuyển giao
và áp dụng KH&CN vào sản xuất một cách hiệu quả. Để thực hiện nội dung
này, trước hết, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cần đầu tư một cách
thích đáng từ nguồn ngân sách cho hoạt động nghiên cứu KH&CN, hình
thành quỹ đầu tư cho hoạt động (R&D). Thúc đẩy xã hội hóa hoạt động nghiên
cứu KH&CN phục vụ phát triển sản xuất HHNS; khuyến khích các thành phần
kinh tế, các tổ chức nghiên cứu, chuyển giao, tập trung vào nghiên cứu, chọn
tạo ra các loại giống tốt, máy móc, thiết bị nông nghiệp, công nghệ sản xuất,
chế biến, bảo quản hiện đại…, giảm thiểu tối đa việc nhập khẩu từ nước ngoài
nhằm giảm chi phí sản xuất, hạ thấp giá thành, nâng cao SCT cho HHNS.
147
Hai là, đổi mới cơ chế quản lý hoạt động KH&CN, phân cấp cho các địa
phương đầu tư, quản lý, sử dụng, hạch toán kinh tế theo cơ chế thị trường.
Thực hiện cơ chế tự chủ của các tổ chức nghiên cứu KH&CN công lập theo
tinh thần Nghị định 54/2016/NĐ-CP ngày 14/06/2016 của Chính phủ. Hoàn
thiện các cơ chế, chính sách tạo môi trường kinh doanh thông thoáng cho
các nhà khoa học, phát huy tối đa khả năng nghiên cứu và chuyển giao
công nghệ cho người sản xuất. Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan
nhà nước về công tác quản lý chất lượng các dự án, các sản phẩm công
nghệ; công tác thẩm định và giám định công nghệ, tiêu chuẩn đo lường
chất lượng, thông tin KH&CN; quá trình chuyển giao, ứng dụng công nghệ
vào sản xuất... Kiên quyết loại bỏ các dự án có công nghệ lạc hậu gây ô
nhiễm môi trường sinh thái, đồng thời hạn chế các dự án sử dụng nhiều tài
nguyên, tiêu tốn nhiều năng lượng…
4.2.3.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng quá trình đẩy mạnh
ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất, kinh doanh hàng hóa nông sản
Khoa học công nghệ là phương tiện, công cụ quan trọng quyết định đến
năng suất, chất lượng và SCT của HHNS. Tuy nhiên còn phụ thuộc một phần
vào người nghiên cứu chế tạo, phát minh ra nó với tính năng, nguyên lý hoạt
động, giải pháp thông minh và lợi ích sử dụng, đồng thời là vai trò của người
trực tiếp khai thác sử dụng nó trong quá trình sản xuất. Như vậy, con người có
vai trò then chốt trong việc nghiên cứu, ứng dụng KH&CN vào sản xuất.
Theo đó cần phải đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sản
xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, giúp tăng năng suất, chất lượng và
SCT cho sản phẩm. Thực hiện vấn đề này trên các nội dung cụ thể sau:
Một là, Phải coi công tác phát triển nguồn nhân lực là một trong những khâu
then chốt, quyết định đến việc nâng cao SCT của HHNS, bởi vì yếu tố con người có
ảnh hưởng quyết định đến quá trình nghiên cứu, ứng dụng KH&CN vào sản xuất
và là lực lượng trực tiếp tham gia vào các khâu của quá trình sản xuất. Nếu
KH&CN tiên tiến, hiện đại nhưng trình độ khai thác, sử dụng nó vào quá trình sản
xuất hạn chế sẽ dẫn đến không khai thác hết công năng, thậm chí gây hỏng hóc,
148
phát sinh chi phí, và ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Ngoài ra nâng cao SCT
cho HHNS là tổng hợp của nhiều công việc khác nhau mà chỉ con người mới thực
hiện được. Do vậy muốn nâng cao được SCT cho HHNS trên thị trường thì trước
hết phải có các chính sách và giải pháp thích đáng cho phát triển nguồn nhân lực
phục vụ công tác nghiên cứu, phát triển KH&CN nông nghiệp.
Hai là, Nhà nước cần tăng cường các hình thức hỗ trợ đã được Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) cho phép, nhất là hỗ trợ hoạt động nghiên cứu
triển khai để nâng cao SCT của hàng hóa nông sản. Đây cũng là một trong
những chính sách nhằm khuyến khích phát triển sự liên kết của 4 nhà, trong đó
Nhà nước và nhà khoa học đóng vai trò quan trọng trong chuỗi giá trị HHNS.
Ba là, tăng cường hơn nữa về đầu tư, hỗ trợ các vùng, các địa phương
thực hiện các hoạt động đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nâng cao nhận thức,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tri thức khoa học nông nghiệp cho đội ngũ
cán bộ quản lý, kỹ thuật viên và người lao động trong các hiệp hội, ngành
hàng; phát triển dịch vụ tư vấn nông nghiệp, dịch vụ tiếp cận thị trường, dịch
vụ logistic trong SXKD hàng hóa nông sản. Đồng thời phổ biến, bồi dưỡng,
nâng cao nhận thức, trình độ hiểu biết về hội nhập quốc tế, các hiệp định
thương mại tự do (FTA) cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước ở các cấp, cán
bộ qản lý các doanh nghiệp và lực lượng lao động,… Ngoài ra, cần phải
thường xuyên tổ chức các cuộc thi về tay nghề giỏi, thi nâng bậc và tham gia
các cuộc thi quốc tế trong lĩnh vực sản xuất, chế biến hàng hóa nông sản,
nhằm động viên, khích lệ người lao động không ngừng học tập nâng cao trình
độ. Có cơ chế, chính sách thiết thực nhằm thu hút cán bộ, người lao động có
trình độ tay nghề cao tham gia vào lĩnh vực SXKD hàng hóa nông sản.
4.2.4. Tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị và đẩy mạnh phát triển
công nghiệp chế biến hàng hóa nông sản
Đây là giải pháp quan trọng nhằm khắc phục tình trạng sản xuất không
theo quy trình kỹ thuật, năng suất thấp, chất lượng không đồng đều, không đạt
tiêu chuẩn quy định; hiệu quả kinh tế thấp và thiếu tính bền vững.
Trên cơ sở phương hướng, nhiệm vụ mà Đảng ta đã xác định là:
149
Tổ chức lại sản xuất, tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị. Gắn sản
xuất với chế biến, tiêu thụ nông sản trên cơ sở phát triển các hình
thức hợp tác, liên kết đa dạng giữa hộ gia đình với các tổ chức hợp
tác và doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và
bảo đảm hài hoà lợi ích của các chủ thể tham gia [42, tr.282].
Biện pháp để thực hiện giải pháp này là:
4.2.4.1. Tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị hàng hóa nông sản
Để tham gia vào chuỗi giá trị nông sản toàn cầu, nâng cao SCT cho
HHNS chúng ta cần phải tăng cường liên kết giữa 4 nhà, đó là: nhà nước, nhà
nông, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp:
Thứ nhất, đối với Nhà nước: bao gồm các cơ quan Chính phủ, các Bộ,
ngành liên quan, Ủy ban Nhân dân các cấp, trong đó trực tiếp là các địa
phương, đóng vai trò kiến tạo, tổ chức, điều phối và quản lý nhà nước đối với
các chủ thể SXKD. Thông qua việc xây dựng và hoàn thiện quy hoạch, ban
hành các cơ chế chính sách, tham gia đầu tư vào một số khâu như kết cấu hạ
tầng cơ sở, nhằm hỗ trợ các chủ thể trong quá trình hình thành và phát triển
liên kết chuỗi giá trị.
Thứ hai, đối với nhà nông: nông dân là những người trực tiếp lao động,
sản xuất ra hàng hóa nông sản, do vậy cần phải chủ động học hỏi, nghiên cứu
để nâng cao trình độ, thay đổi tư duy SXKD và tác phong sản xuất công
nghiệp. Cần tuân thủ nghiêm túc các quy định trong hợp đồng kinh tế đã ký
kết với các doanh nghiệp trong chuỗi như: tuân thủ quy trình sản xuất đã được
doanh nghiệp, HTX nông nghiệp khuyến cáo. Doanh nghiệp, HTX là người tổ
chức, hướng dẫn nông dân sản xuất, cung cấp các yếu tố đầu vào, bao tiêu các
sản phẩm đầu ra cho các hộ nông dân, do vậy hộ nông dân phải tuân thủ hợp
đồng về quy trình sản xuất bảo đảm chất lượng sản phẩm, cũng như cam kết
bán sản phẩm cho doanh nghiệp theo giá thỏa thuận trong hợp đồng, tránh phá
vỡ liên kết khi có những biến động về giá…, có như vậy mới bảo đảm liên kết
bền chặt, bảo đảm được lợi ích kinh tế cho các chủ thể tham gia chuỗi, góp
phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và SCT cho HHNS.
150
Thứ ba, đối với nhà khoa học: bao gồm các viện, trung tâm nghiên cứu,
cán bộ nghiên cứu khoa học…, đây là người cung cấp các sản phẩm KH&CN
tiến tiến, đồng thời cũng là người hướng dẫn, chuyển giao áp dụng sản phẩm
KH&CN vào sản xuất. Nhà khoa học cần phải bám sát nhu cầu sản xuất, tiến
hành ký kết hợp đồng với doanh nghiệp, HTX, và hộ nông dân trong nghiên
cứu, chuyển giao các sản phẩm KH&CN mới, tiên tiến vào sản xuất. Phải
thường xuyên gắn bó với nông dân trên những thửa ruộng, vườn cây, chuồng
trại của doanh nghiệp và nông dân, để kịp thời hỗ trợ, tư vấn, giúp các chủ thể
thực hiện SXKD theo đúng quy trình, kỹ thuật, góp phần nâng cao năng suất,
chất lượng và SCT cho sản phẩm, mang lại hiệu quả SXKD cho các chủ thể.
Thứ tư, đối với nhà doanh nghiệp: Liên kết trong chuỗi giá trị có vai trò
hết sức quan trọng trong SXKD của doanh nghiệp, đặc biệt là trong đều kiện
toàn cầu hóa. Để làm tốt điều này các doanh nghiệp cần phải chủ động xây
dựng dự án SXKD, tạo dựng mô hình liên kết chuỗi; chủ trì vận động các chủ
thể tham gia liên kết trong chuỗi giá trị, theo các hợp đồng kinh tế. Các doanh
nghiệp cần có chiến lược SXKD dài hạn, luôn lấy chữ tín làm đầu và có cơ
chế chia sẻ lợi ích kinh tế, cơ hội kinh doanh và cả những rủi ro cho các chủ
thể, nhất là đối với hộ nông dân; tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp nông
nghiệp, HTX nông nghiệp với hộ nông dân để bảo đảm nguồn cung ứng
nguyên liệu bền vững. Đẩy mạnh đầu tư, xây dựng các nhà máy chế biến để
thu mua sản phẩm cho các hộ nông dân, HTX nông nghiệp. Chủ động xây
dựng thương hiệu doanh nghiệp, thương hiệu sản phẩm và quảng bá sản phẩm
nông sản của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế.
4.2.4.2. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến nông sản, tăng tỷ lệ
các sản phẩm chế biến sâu và đa dạng hóa sản phẩm
Một trong những nguyên nhân làm giảm SCT của HHNS Việt Nam trên thị trường thời gian qua là: phần lớn các sản phẩm nông sản của Việt
Nam xuất khẩu dưới dạng thô hoặc sơ chế; xuất khẩu thông qua các trung gian, được các công ty nước ngoài mua về chế biến thành các sản phẩm và
dán nhãn mác của họ. Do vậy tăng cường đầu tư, phát triển mạnh công nghiệp
151
chế biến nông sản, để tạo ra những sản phẩm nông sản chế biến sâu, chất
lượng tốt, đồng thời đa dạng hóa sản phẩm là giải pháp quan trọng, nhằm nâng cao giá trị gia tăng và SCT cho HHNS Việt Nam. Thực hiện tốt vấn đề
này thông qua một số biện pháp cụ thể sau:
Một là, các Bộ, ngành liên quan mà chủ trì là Bộ NN&PTNT phối hợp
với các địa phương tiến hành rà soát, đánh giá lại thực trạng (Số lượng, chất lượng, khả năng, thế hệ công nghệ) của các cơ sở, các nhà máy chế biến nông
sản trên cả nước. Xây dựng kế hoạch, xác định mục tiêu, phương hướng, lộ trình và các giải pháp cụ thể để đẩy nhanh phát triển công nghiệp chế biến
nông sản. Tập trung hiện đại hóa, ngang tầm với công nghệ chế biến của các nước tiên tiến trên thế giới. Đồng thời từng bước thanh lọc, loại bỏ các nhà
máy sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ các địa phương, các doanh nghiệp, HTX nông nghiệp, nhập khẩu các nhà máy, dây
chuyền sản xuất chế biến nông sản, kiên quyết từ chối nhập khẩu các trang thiết bị, máy móc, công nghệ cũ, lạc hậu.
Hai là, có cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến nông sản, đầu tư mở rộng các khu vực, các vùng sản xuất chuyên canh
HHNS quy mô lớn, nhằm xây dựng vùng nguyên liệu ổn định cho chế biến. Hỗ trợ các doanh nghiệp, các HTX chế biến nông sản về các điều kiện bảo đảm
như kết cấu hạ tầng, đầu tư đổi mới công nghệ, đào tạo nhân lực, liên kết chuỗi
giá trị, thủ tục cấp các nhãn hiệu, chứng nhận chất lượng, tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ…, nâng cao khả năng và chất lượng chế biến nông sản, nâng
cao SCT sản phẩm và hiệu quả SXKD.
Ba là, củng cố, khôi phục và phát triển các làng nghề sản xuất, chế biến
nông sản truyền thống, đặc biệt là các sản phẩm mang tính chất đặc sản của địa phương; tăng cường đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao trình độ
và bảo đảm chất lượng sản phẩm, vệ sinh môi trường nông thôn, kết hợp với hoạt động du lịch sinh thái nông nghiệp.
Bốn là, quản lý chặt chẽ việc xử lý chất thải, bảo vệ môi trường sinh
thái của các cơ sở chế biến nông sản trên từng khu vực, địa bàn, bảo đảm phát
triển sản xuất, chế biến HHNS một cách bền vững.
152
4.2.5. Đẩy mạnh công tác xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương
mại, phát triển thị trường đầu ra cho hàng hóa nông sản
Đây là giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng, giá trị, uy tín
của HHNS Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế. Mở rộng thị
trường đầu ra cho sản phẩm, nhanh chóng thực hiện giá trị hàng hóa, tạo động
lực mạnh mẽ, thúc đẩy sản xuất nông sản phát triển, từ đó nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả và SCT cho HHNS Việt Nam.
4.2.5.1. Về công tác xây dựng và phát triển thương hiệu
Trong bối cảnh hội nhập và tự do hóa thương mại hiện nay, cạnh tranh
kinh tế không chỉ dừng lại ở những tiêu chí có thể lượng hóa được như: chất
lượng, giá cả mà còn bao gồm cả những giá trị vô hình như: hình ảnh, uy
tín… của sản phẩm. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng sản
lượng hàng hóa nông sản xuất khẩu của Việt Nam, nhất là các mặt hàng chủ
lực như gạo, cà phê… luôn được xếp vào tốp đầu trong số các nước xuất khẩu
nông sản trên thế giới nhưng giá trị xuất khẩu còn thấp, đó là do đa số HHNS
Việt Nam trên thị trường chưa xây dựng được thương hiệu mạnh, người tiêu
dùng trên thế giới chưa biết nhiều đến các sản phẩm nông sản Việt Nam, mặc
dù trên thực tế họ đã và đang sử dụng nó. Vì vậy, xây dựng và phát triển
thương hiệu cho hàng hóa nông sản Việt Nam là giải pháp hết sức cấp bách
hiện nay và trong những năm tới. Biện pháp để thực hiện tốt giải pháp này là:
Một là, đối với Nhà nước:
Nhà nước cần có chính sách nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp tăng cường các nguồn lực đầu tư vào hoạt động xây dựng và
phát triển thương hiệu. Cải cách hành chính, đơn giản hóa các thủ tục pháp lý
về khâu kiểm tra, kiểm định, cấp các chứng nhận bảo hộ nhãn hiệu, chỉ dẫn
địa lý để cho các doanh nghiệp tiếp cận một cách thuận lợi, rút ngắn thời gian,
giảm chi phí, tránh các biểu hiện nhũng nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho doanh
nghiệp và người sản xuất, góp phần nâng cao SCT cho HHNS Việt Nam.
Tăng cường khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đào tạo, tập
huấn, cũng như cung cấp thông tin, tư vấn cho doanh nghiệp về các yêu cầu,
153
quy trình, thủ tục đăng ký nhãn hiệu sản phẩm, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý
và tên gọi xuất xứ hàng hóa nông sản ở trong và ngoài nước.
Ban hành các văn bản pháp lý và tăng cường các hoạt động kiểm tra
nhằm bảo vệ thương hiệu quốc gia, thương hiệu doanh nghiệp, sản phẩm đã
được cấp chứng nhận, ngăn ngừa và xử lý nghiêm các hành vi làm hàng giả,
hàng nhái, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và bí mật thương mại của các đơn
vị, giữ gìn và bảo vệ uy tín cho những thương hiệu đã được người tiêu dùng
ưa chuộng. Đổi mới, hoàn thiện Luật sở hữu trí tuệ phù hợp với thực tiễn
vận động phát triển của đất nước và thế giới, đồng thời tăng cường các hoạt
động tuyên truyền, giáo dục phổ biến pháp luật nói chung, Luật sở hữu trí
tuệ nói riêng, để các chủ thể SXKD nắm, hiểu rõ và thực hiện tốt.
Hai là, đối với các chủ thể trực tiếp sản xuất, kinh doanh HHNS
Cần có chiến lược đồng bộ về sản phẩm, trong đó xác định việc xây dựng
thương hiệu cho sản phẩm là nội dung quan trọng, bắt đầu từ việc bảo đảm chất
lượng sản phẩm (lựa chọn giống cây trồng, vật nuôi, kỹ thuật gieo trồng, chăm
sóc, thu hoạch, bảo quản, chế biến, đóng gói..); khâu đăng ký chất lượng, đăng
ký nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý... Xây dựng chiến lược Marketing tổng thể của
doanh nghiệp trong đó ưu tiên quảng bá hình ảnh doanh nghiệp và sản phẩm.
Thành lập bộ phận chuyên trách về xây dựng thương hiệu, ưu tiên
tuyển chọn, đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho bộ phận này, nhằm
tăng cường nghiên cứu, triển khai các hoạt động xây dựng thương hiệu mang
tính chuyên nghiệp, có chất lượng hiệu quả cao.
Khi đã đăng ký thành công nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm, để
bảo đảm duy trì và phát triển nó một cách lâu dài, bền vững, doanh nghiệp
phải không ngừng củng cố, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm khẳng định
thương hiệu, tạo lập uy tín đối với khách hàng và có những biện pháp bảo vệ
thương hiệu và quyền sở hữu trí tuệ đối với các tài sản cả hữu hình và vô hình
của doanh nghiệp. Bên cạnh đó phải không ngừng nghiên cứu, đổi mới sáng
tạo, để tung ra thị trường các sản phẩm mới có chất lượng tốt hơn, mẫu mã
đẹp hơn, phù hợp với nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
154
4.2.5.2. Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, phát triển thị trường
đầu ra hàng hóa nông sản
Thị trường đầu ra cho HHNS là một mắt xích quan trọng để thực hiện giá trị sản phẩm. Khai thác tốt thị trường nội địa, giữ vững được các thị trường truyền thống, mở rộng và đa dạng hóa được thị trường tiêu thụ ở các nước và vùng lãnh thổ, xâm nhập và khẳng định được ở các thị trường “khó tính” đó là việc làm cần thiết nhằm nâng cao SCT cho HHNS, phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam theo hướng sản xuất hàng hóa hiện đại và bền vững. Để thực hiện tốt giải pháp này, các chủ thể cần phải cần phải:
Một là, tăng cường sự phối hợp giữa Nhà nước và các thành phần tham
gia thị trường hàng hóa nông sản
Để nâng cao sức cạnh tranh của HHNS trước hết cần tăng cường sự
phối, kết hợp giữa các thành phần tham gia thị trường.
Đối với Nhà nước:
Cần phải tiếp tục nghiên cứu, có các định hướng chiến lược sản phẩm
nông sản, tập trung vào các sản phẩm xuất khẩu chủ lực đã và đang có lợi thế.
Tiến hành đánh giá cụ thể và sát thực về năng lực sản xuất, SCT của các mặt
hàng nông sản, đưa ra những dự báo, nhận định khoa học về tốc độ tăng trưởng,
khả năng phát triển của các ngành hàng nông sản hiện nay trên thế giới. Trên cơ
sở đó, xây dựng chiến lược và định hướng phát triển, điều chỉnh cơ cấu sản xuất,
cơ cấu đầu tư các loại HHNS, phù hợp với nhu cầu thực tiễn của thị trường.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa, vận hành theo cơ chế thị trường. Khuyến khích, thu hút các tổ
chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, ưu
tiên đầu tư cho công tác nghiên cứu, sản xuất giống cây trồng, vật nuôi (lai tạo,
chọn lọc, nhập nội), nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và SCT cho HHNS.
Hỗ trợ, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nông
nghiệp, HTX nông nghiệp, hộ nông dân tham gia vào các hoạt động: hội chợ,
triển lãm, lễ hội nông sản, hội thảo... Thông qua các hoạt động đó để giới thiệu,
quảng bá các sản phẩm nông sản, đồng thời tìm kiếm và ký kết các hợp đồng
xuất khẩu với các đối tác. Tổ chức các lớp tập huấn, tuyên truyền phổ biến nâng
155
cao kiến thức, hiểu biết về các thủ tục, các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu
chuẩn chất lượng, an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn môi trường... của các nước
nhập khẩu, qua đó có các giải pháp để vượt qua rào cản thuế quan, phi thuế quan
trên thị trường quốc tế. Đổi mới, hoàn thiện các văn bản pháp luật, tạo hành lang
pháp lý để thu hút đầu tư, phát triển các sàn giao dịch hàng hóa nông sản.
Đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp:
Cần chủ động xây dựng chiến lược SXKD, chiến lược phát triển thị trường
phù hợp với quá trình hội nhập của đất nước. Việc xây dựng chiến lược SXKD phải
trên cơ sở đảm bảo quy trình, tổ chức quản lý và giám sát một cách khoa học nhằm
giảm thiểu chi phí, giá thành, góp phần nâng cao sức cạnh tranh cho HHNS.
Tăng cường đầu tư mua sắm máy móc, trang thiết bị, áp dụng công nghệ
mới, công nghệ cao vào sản xuất và chế biến HHNS, thực hiện các quy trình sản
xuất theo tiêu chuẩn quản lý chất lượng chuyên ngành, quốc gia và quốc tế. Xây
dựng đội ngũ cán bộ quản lý có đủ kiến thức, năng lực kinh doanh, đáp ứng được
với yêu cầu phát triển mới của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Tích cực tổ chức và tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, kịp
thời nắm bắt và xử lý thông tin về tình hình thị trường trong và ngoài nước,
tránh tình trạng loạn thông tin, nắm thông tin sai lệch, thông tin không tin cậy.
Để làm tốt việc nắm và xử lý thông tin, các doanh nghiệp cần phải đẩy mạnh
ứng dụng thương mại điện tử vào trong quá trình kinh doanh, tăng cường các
hoạt động quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm thông tin thị trường, giao
dịch mua bán hàng, ký kết hợp đồng.
Đối với nông dân và trang trại:
Để tập trung được nguồn HHNS phục vụ những giá trị hợp đồng xuất
khẩu lớn, một mặt cần phải đầu tư phát triển quy mô các hộ sản xuất, quy mô các
trang trại theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, mặt khác cần tăng cường liên kết,
cử đại diện thương mại làm đối tác ký kết hợp đồng vối các doanh nghiệp.
Phát triển các hình thức liên kết, hợp đồng lâu dài nhất là giữa nông
dân và doanh nghiệp, nhằm tăng cường trách nhiệm của các bên trong việc
bảo đảm ổn định về cung cấp các yếu tố đầu vào sản xuất, sản xuất theo quy
156
trình kỹ thuật cam kết, bao tiêu sản phẩm đầu ra..., giải quyết tốt quyền và lợi
ích lâu dài cho các bên tham gia.
Đối với các hiệp hội ngành hàng:
Các hiệp hội cần có cơ chế quản lý chuyên nghiệp, thống nhất ban hành
các quy định về tổ chức hoạt động một cách chặt chẽ như: quy định về quyền lợi,
nghĩa vụ của hội viên, tổ chức bộ máy, nguồn tài chính… Phối hợp chặt chẽ với
cơ quan quản lý nhà nước các cấp, thường xuyên nắm bắt thông tin về tình hình
thị trường trong nước, thị trường khu vực và thế giới như: tiềm năng, nhu cầu,
sức mua, giá cả, thị hiếu… để từ đó có kế hoạch SXKD phù hợp, nhất là các
biện pháp tiếp cận thị trường. Tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến thương
mại trong và ngoài nước như: hội nghị khách hàng, hội chợ, hội thảo, triển lãm
quốc tế, thăm dò, khảo sát các thị trường... Thông qua đó nhằm giới thiệu, quảng
bá sản phẩm, tìm đối tác đầu tư cũng như ký kết các hợp đồng xuất khẩu HHNS.
Tăng cường tính liên kết, bảo vệ lẫn nhau, chống các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh như độc quyền, tranh chấp khách hàng, tranh chấp thị trường, bán phá
giá, đầu cơ tích trữ… gây tổn hại đến lợi ích chung. Đồng thời đề cao trách
nhiệm giúp đỡ lẫn nhau về các vấn đề như: vốn, công nghệ, đào tạo nhân lực, kỹ
năng quản lý doanh nghiệp… Tích cực tham gia cùng với các cơ quan Nhà nước
trong việc góp ý, kiến nghị những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn SXKD hàng hóa
nông sản của hiệp hội, nhằm hoàn thiện các chủ trương, chính sách, các văn bản
pháp quy liên quan đến SCT của hàng hóa nông sản.
Hai là, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại hàng hóa nông sản
Hoạt động xúc tiến thương mại có vai trò hết sức quan trọng trong thực
hiện chính sách xuất khẩu của Nhà nước nói chung, xuất khẩu HHNS nói
riêng. Hoạt động xúc tiến thương mại giúp cho các doanh nghiệp, hiệp hội
ngành hàng tiếp cận, nắm bắt được những thông tin cụ thể, cần thiết về thị
trường và khách hàng. Để đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, các chủ
thể cần phải thực hiện tốt các biện pháp sau:
Quan tâm hỗ trợ về kinh phí, các phương tiện kỹ thuật cho các trung tâm
xúc tiến thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức xúc tiến thương
157
mại hoạt động. Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp nông nghiệp, HTX
nông nghiệp, các hiệp hội ngành hàng và hộ nông dân tham gia các hoạt
động như: hội chợ, triển lãm, lễ hội… nhằm giới thiệu, quảng bá sản phẩm
của mình. Các doanh nghiệp SXKD hàng hóa nông sản cần tích cực, chủ
động đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại trong và ngoài nước,
thông qua đó để tìm kiếm đối tác nhập khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ
nông sản. Nâng cao chất lượng và phát huy vai trò trách nhiệm của các
Tham tán thương mại ở các nước, mở các phòng trưng bày, các chuỗi cửa
hàng, các phố, các chợ HHNS Việt Nam ở các nước. Đồng thời thông qua
con đường ngoại giao để ký kết các đơn hàng xuất khẩu nông sản lớn,
chính ngạch với các nước trên thế giới.
Các đơn vị SXKD hàng hóa nông sản cần tích cực, chủ động tham gia mua
bán thông qua các hợp đồng, gắn với các trung tâm đấu giá, các sàn giao dịch, các
chợ đầu mối,... Tham gia sàn giao dịch cả người bán và người mua cùng có lợi,
đối với người bán sẽ biết được các tín hiệu thị trường như: giá cả, chủng loại hàng
hóa, nhu cầu thị trường để từ đó chủ động xây dựng kế hoạch SXKD phù hợp; đối
với người mua sẽ hạn chế được những rủi ro về giá, chất lượng hàng hóa,… Đồng
thời thông qua hoạt động các sàn giao dịch, chất lượng hàng hóa nông sản cũng
được nâng lên, tiệm cận với yêu cầu chất lượng của thị trường quốc tế.
Ba là, khai thác tốt tiềm năng thị trường nội địa
Thị trường trong nước với gần 100 triệu dân có vị trí, vai trò hết sức quan
trọng trong giải quyết khâu đầu ra cho SXKD hàng hóa nông sản. Khai thác tốt
thị trường nội địa sẽ giữ vững sự ổn định đầu ra cho sản xuất đồng thời giảm
thiểu được các chi phí khác như: vận chuyển, thuế quan… Mặt khác thông qua
chính người tiêu dùng Việt Nam để quảng bá sản phẩm nông sản Việt Nam ra
thị trường thế giới thông qua hoạt động du lịch, xuất khẩu lao động, du học và
đồng bào người Việt Nam ở nước ngoài…
Để khai thác tốt tiềm năng thị trường nội địa, Chính phủ, các bộ, ngành
và chính quyền địa phương các cấp, cần đẩy mạnh việc tuyên truyền, vận động,
khuyến khích “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”.
158
Đẩy mạnh chiến dịch tuyên truyền, vận động trên các phương tiện
thông tin đại chúng, nhất là qua các kênh thông tin chính thống (Đài Tiếng
nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, hệ thống các Đài Phát thanh,
Truyền hình địa phương; các báo, tạp chí uy tín…) để khơi dậy tinh thần yêu
nước cho mọi người dân Việt Nam từ việc lựa chọn tiêu dùng HHNS của
Việt Nam. Đồng thời các cơ quan Nhà nước, chính quyền địa phương các
cấp, cán bộ đảng viên phải gương mẫu, đi đầu trong việc lựa chọn tiêu dùng
HHNS Việt Nam như: sử dụng các sản phẩm nông sản Việt Nam trong các
cuộc liên hoan, hội họp, chiêu đãi khách quốc tế và tiêu dùng hàng ngày tại
bếp ăn tập thể của cơ quan, tổ chức, cũng như gia đình cán bộ, đảng viên,
từng bước xóa bỏ tư tưởng sính ngoại đã và đang hiện hữu lâu nay đối với
người dân Việt Nam.
Các doanh nghiệp cần tung ra thị trường nội địa những sản phẩm nông
sản có chất lượng tốt, phục vụ nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng trong nước,
tránh tư tưởng quá coi trọng xuất khẩu, coi nhẹ tiêu thụ trong nước sẽ dẫn tới
đánh mất thị phần trong nước. Tổ chức liên kết với các hãng bán lẻ, hệ thống
siêu thị, đồng thời cần có các chính sách ưu đãi thích đáng để các hãng bán lẻ,
hệ thống siêu thị trong nước gắn bó mặn nồng với các sản phẩm HHNS Việt
Nam, tránh tình trạng chỉ khi khó khăn trong xuất khẩu mới cần sự “giải cứu”
của người tiêu dùng trong nước.
159
Kết luận chương 4
Từ nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản, kinh nghiệm của một số
nước trên thế giới và thực tiễn về SCT của HHNS nước ta thời gian qua.
Chương 4 của luận án đã đưa ra 5 quan điểm cơ bản nhằm nâng cao SCT của
HHNS Việt Nam trong thời gian tới... Đây là những nội dung mang tính định
hướng quan trọng để các chủ thể SXKD hàng hóa nông sản có thể nghiên cứu,
xác định những giải pháp phù hợp cho mình trong điều kiện phát triển mới
của đất nước và thế giới.
Trước yêu cầu cấp thiết về nâng cao SCT của HHNS Việt Nam, cần
phải có hệ thống giải pháp đồng bộ, khoa học, có tính khả thi cao, sát với
điều kiện thực tiễn của đất nước và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Chương
4 của luận án cũng đã mạnh dạn đưa ra hệ thống gồm 5 giải pháp nhằm
nâng cao SCT của HHNS nói chung, một số mặt hàng chủ yếu (gạo, cà phê,
rau quả, thịt lợn, thịt và trứng gia cầm) nói riêng. Đó là các giải pháp về
nâng cao chất lượng HHNS, giảm giá thành; về đổi mới, hoàn thiện cơ chế,
chính sách của Nhà nước; về điều chỉnh quy hoạch tổng thể để phát triển
sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, tập trung, chuyên
canh, quy mô lớn; về xây dựng và phát triển thương hiệu, xúc tiến thương
mại, mở rộng thị trường tiêu thụ… Các giải pháp nêu trên có mối liên hệ chặt
chẽ, tác động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau, nhằm nâng cao SCT của HHNS Việt
Nam trong thời gian tới.
Để thực hiện tốt các nhóm giải pháp này, cần phải có sự phối, kết hợp
chặt chẽ giữa Nhà nước, các Bộ, Ban, Ngành, chính quyền địa phương các
cấp, các Hiệp hội ngành hàng có liên quan, các doanh nghiệp nông nghiệp,
HTX nông nghiệp và hộ nông dân. Đây cũng là trách nhiệm, nhiệm vụ của
Nhà nước, các Bộ, Ban, Ngành, chính quyền địa phương cũng như của từng
đơn vị SXKD hàng hóa nông sản.
160
KẾT LUẬN
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án đã cho
thấy: chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu trực tiếp, chuyên sâu về
SCT của HHNS Việt Nam. Tuy nhiên, những thành tựu khoa học của các
công trình liên quan đến đề tài, có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp tác giả kế
thừa, vận dụng vào quá trình nghiên cứu, hoàn thành đề tài luận án của mình.
Tiếp cận nghiên cứu dưới góc độ khoa học Kinh tế chính trị, làm rõ những
vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất hệ thống quan điểm, giải pháp nâng cao
SCT của HHNS Việt Nam thời gian tới, không có sự trùng lặp với các công
trình đã công bố, đồng thời có ý nghĩa thiết thực đối với phát triển nền nông
nghiệp Việt Nam theo hướng sản xuất hàng hóa, hiện đại, bền vững góp phần
là một trong những trụ cột chính, thúc đẩy phát triển ổn định kinh tế đất nước.
2. Luận án nghiên cứu kinh nghiệm về nâng cao SCT của HHNS ở một
số nước như Thái Lan, Malaysia, Israel. Đây là những quốc gia đã thành công
trong việc chuyển đổi sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa
phục vụ xuất khẩu; sản phẩm nông sản của họ có chất lượng tốt, có thương
hiệu, uy tín và SCT cao trên thị trường thế giới. Từ đó rút ra bài học cho Việt
Nam có thể nghiên cứu, kế thừa và vận dụng sáng tạo vào quá trình tái cơ cấu
nền nông nghiệp nước nhà nói chung, nâng cao SCT cho HHNS nói riêng.
3. Luận án đã vận dụng lý luận hàng hóa của C. Mác về hai thuộc tính
của hàng hóa và các hình thức cạnh tranh trong nền kinh tế hàng hóa; sử
dụng các tiêu chí cơ bản như: tiêu chí về chất lượng; giá cả; thương hiệu; thị
phần để đánh giá SCT của HHNS Việt Nam, đi sâu phân tích 5 mặt hàng chủ
lực (gạo, cà phê, rau quả, thịt lợn, thịt và trứng gia cầm). Qua phân tích, đánh
giá thực trạng, khẳng định rằng: SCT của HHNS nói chung, 5 mặt hàng chủ
lực nói riêng đã được nâng lên một cách rõ rệt trong những năm qua. Tuy
nhiên, SCT của một số HHNS Việt Nam vẫn còn hạn chế, biểu hiện cụ thể là:
chất lượng còn thấp, chi phí giá thành còn cao so với lợi thế vốn có, đa số các
mặt hàng chưa có thương hiệu, thị phần xuất khẩu còn nhỏ, thiếu ổn định...
161
4. Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn SCT của HHNS Viêt Nam,
luận án đã đưa ra hệ thống gồm 5 quan điểm và 5 giải pháp nhằm nâng cao
SCT của HHNS Việt Nam thời gian tới. Để thực hiện thắng lợi hệ thống
quan điểm và giải pháp trong luận án đã nêu, các cấp đảng, chính quyền, cơ
quan chức năng có liên quan, các doanh nghiệp, các nhà khoa học, các chủ
trang trại, hộ nông dân, các hiệp hội ngành hàng cần phải nỗ lực có các
hoạt động phối hợp cụ thể, thiết thực, hiệu quả, đề cao trách nhiệm của
từng chủ thể đối với sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam nói
chung, nâng cao SCT của HHNS nói riêng.
5. Nghiên cứu công trình này, tác giả mong muốn sẽ góp một phần nhỏ
vào quá trình nâng cao SCT của HHNS Việt Nam trong thời gian tới, giúp
cho người nông dân Việt Nam luôn tự tin với kết quả lao động của mình,
tránh được các hiện tượng đã xảy ra trong thực tiễn như “Mất mùa được giá,
được mùa rớt giá” hoặc là cảnh “giải cứu” thanh long, dưa hấu… Hướng tới
xây dựng một nền nông nghiệp Việt Nam hiện đại, bền vững, luôn xứng đáng
là trụ cột cho nền kinh tế đất nước trong quá trình đổi mới, phát triển.
162
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Phạm Quốc Quyết (2016), “Vai trò của nông nghiệp trong bảo đảm hậu cần
tại chỗ cho khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố hiện nay”, Tạp chí
Quản lý nhà nước, số (241), tr. 96-98.
2. Phạm Quốc Quyết (2016), “Nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản Việt
Nam trong hội nhập”, Tạp chí Tài chính, số (627), tr. 87-89
3. Phạm Quốc Quyết (2016), Nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông sản Việt
Nam trong bối cảnh mới của hội nhập, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số
(06), tr. 38-40.
4. Phạm Quốc Quyết (2017), Giải pháp nâng cao hiệu quả cạnh tranh hàng
nông sản của Việt Nam hiện nay, Tạp chí Kinh tế Châu Á- Thái Bình
Dương, số (489), tr. 93-95.
5. Phạm Quốc Quyết (2018), Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu nông sản
Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số (04+05), tr. 98-100.
6. Phạm Quốc Quyết (2018), “Chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao -
nghiên cứu vận dụng tại các tỉnh vùng Tây Nguyên”, Kỷ yếu Hội thảo khoa
học quốc gia “Phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên” lần 2 năm
2018, Nxb Nông nghiệp, tr. 453-460.
7. Phạm Quốc Quyết (2018), “Nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo của doanh
nghiệp Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia “Đổi mới sáng
tạo nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam”, Phân
hiệu Đại học Đà Nẵng tại Kon Tum, Nxb Công Thương, tr. 61- 66.
8. Phạm Quốc Quyết (2019), “Xây dựng thương hiệu “Cứu cánh” cho nômg
sản Việt”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số (5), tr. 43- 45
9. Phạm Quốc Quyết, Đỗ Huy Hà (2021), “Kinh nghiệm của Thái Lan về
nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản và bài học cho Việt Nam”,
Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á, số (1), tr. 56- 61.
163
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt 1. Lê Hữu Ảnh (2017), Nghiên cứu đề xuất chính sách, giải pháp thúc đẩy phát triển các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm trong trồng trọt, lâm nghiệp và thủy sản, Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), Dự thảo các
văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, Hà Nội.
3. Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương (2019), Tổng điều tra dân số và nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019, Tổ chức thực hiện và kết quả sơ bộ, Nxb Thống kê, Hà Nội.
4. Ban nghiên cứu và phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV), Báo Điện tử VnExpress (2018), Diễn đàn Kinh tế Việt Nam chuyên đề nông nghiệp, ngày 5/6/2018 tại Hà Nội.
5. Phạm Thị Thanh Bình (2018), Nghiên cứu so sánh chính sách nông nghiệp ở Trung Quốc, Thái Lan, Israel và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. Bộ Công Thương (2006), Chính sách và giải pháp nâng cao giá trị gia tăng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
7. Bộ Công thương (2019), Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam 2018, Nxb
Công Thương, Hà Nội.
8. Bộ Công thương (2020), Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam 2019, Nxb
Công Thương, Hà Nội.
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Bộ Ngoại giao (2020), “Một số thông tin về địa lý Việt Nam”, Cổng thông
tin điện tử Chính phủ, ngày 21/4/2020.
11. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2000), Khả năng cạnh tranh của ngành nông nghiệp Việt Nam: Một sự phân tích sơ bộ trong bối cảnh hội nhập ASEAN và AFTA, Báo cáo dự án Hợp tác kỹ thuật TCP/VTE/8821, Hà Nội.
164
12. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2002), Sổ tay các cam kết hội
nhập kinh tế quốc tế Ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội.
13. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2005), Khả năng cạnh tranh nông
sản Việt Nam trong hội nhập AFTA, Quỹ nghiên cứu IAE-MISPA.
14. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2006), Thương hiệu và nhãn
hiệu hàng nông sản Việt Nam, tài liệu hội thảo ngày 18/8/2006, Hà Nội.
15. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2012), Quyết định số 824/QĐ -
BNN-TT Về việc phê duyệt đề án phát triển ngành trồng trọt đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội.
16. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2013), Chương trình và kế
hoạch hành động thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo
hướng giá trị gia tăng và phát triển bền vững, ngày 18 tháng 6/2013.
17. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2014), Quyết định số 984/QĐ -
BNN-CN Về việc phê duyệt đề án Tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo
hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, Hà Nội.
18. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2018), Thông tư số 37/2018/TT-
BNNPTNT, ngày 25/12/2018, Ban hành danh mục sản phẩm nông
nghiệp chủ lực quốc gia, Hà Nội.
19. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Trung tâm Thông tin và Thống kê,
Báo cáo kết quả thực hiện sản xuất, kinh doanh ngành nông nghiệp và phát
triển nông thôn (các năm 2011, 2013, 2015, 2017, 2018, 2019), Hà Nội.
20. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2019), Báo cáo Tổng kết Đề án
“Phát triển sản xuất giống cây nông, lâm nghiệp, giống vật nuôi và
giống thủy sản đến năm 2020”, ngày 24/6/2019, Hà Nội.
21. Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Chu Văn Cấp, Nguyễn Đức Hà (2013), “Xuất khẩu hàng hóa Việt Nam
hướng tới sự bền vững”, Tạp chí nghiên cứu thương mại, số (3), tr. 21-24.
165
23. Chu Văn Cấp, Lê Xuân Tạo (2013), “Cánh đồng mẫu lớn” ở Đồng bằng sông Cửu Long - mô hình sản xuất hiệu quả”, Tạp chí Cộng sản, số (79 tháng 7/2013), tr. 15-18.
24. Chính Phủ (2018), Nghị định số 57/2018/NĐ - CP, ngày 17/4/2018 về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, Hà Nội.
25. Công ty Cổ phần chứng khoán Bảo Việt (2015), Ngành cao su tự nhiên, cắt giảm giá thành - bước đi đột phá của doanh nghiệp, Báo cáo khảo sát 2015, Hà Nội.
26. CIEM và UNDP (2004), Chính sách phát triển kinh tế- kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc, Tập I, II và III, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. 27. CIEM (2006), Nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu trên cơ sở cắt
giảm chi phí, Nxb Tài chính, Hà Nội.
28. Phạm Thành Công (2013), “Định hướng phát triển thương hiệu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số (426), tr. 29-35.
29. Cục Bảo vệ Thực vật, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hiệp hội Thương mại quốc tế của các công ty hóa chât (CropLife) (2017), Kỷ yếu hội thảo: Nâng cao năng lực xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam, ngày 2/11/2017 tại TP. Hồ Chí Minh.
30. Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ (2018), Báo cáo thường
niên hoạt động sở hữu trí tuệ 2017, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
31. Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ (2019), Báo cáo thường
niên hoạt động sở hữu trí tuệ 2018, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
32. Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ (2019), Danh sách chỉ
dẫn địa lý được bảo hộ ở Việt Nam, Hà Nội.
33. Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công thương (2019), Giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam năm 2019 tăng 12 tỷ USD và mục tiêu của Chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam giai đoạn 2020 - 2030, Hà Nội.
34. Bạch Thụ Cường (2002), Bàn về cạnh tranh toàn cầu, Nxb Thông tấn, Hà Nội. 35. Tô Xuân Dân (1998), Chính sách kinh tế đối ngoại: Lý thuyết và Kinh
nghiệm quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội.
166
36. Nguyễn Đình Dương (2014), Một số vấn đề về năng lực cạnh tranh của
thành phố Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết số 07/BCT về hội nhập kinh
tế quốc tế, ngày 27/11/2001, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết Số 26-NQ/TW Hội nghị lần
thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khóa X về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn, ngày 05/8/2008, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Đỗ Đức Định (2003), Kinh tế đối ngoại: Xu hướng điều chỉnh chính sách
ở một số nước châu Á trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa, Nxb
Thế giới, Hà Nội.
44. FRANK ELLIS (1995), Chính sách nông nghiệp trong các nước đang
phát triển, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
45. Đỗ Huy Hà (2009), Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế gắn với củng cố quốc phòng ở
nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị, Hà Nội.
46. Đỗ Huy Hà (2011), Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam
gắn với tăng cường quốc phòng ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc
gia - Sự thật, Hà Nội.
47. Hiệp hội Lương thực Việt Nam (Vietfood) (2019), Báo cáo thị trường gạo
2019, Hà Nội.
48. Hội đồng Trung ương Chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn
khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2009), Giáo trình Kinh
tế học chính trị Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
167
49. Nguyễn Duy Hùng (2016), Nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty chứng khoán Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 50. Nguyễn Mạnh Hùng (2013), Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành viễn thông Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 51. Phạm Thu Hương (2017), Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa, nghiên cứu trên địa bàn Thành phố Hà Nội, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường đại học Mỏ - Địa chất, Hà Nội.
52. Hoàng Nguyên Khai (2014), Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương, Luận án Tiến sỹ, Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh.
53. Nguyễn Hữu Khải (2005), Cây chè Việt Nam: Năng lực cạnh tranh xuất
khẩu và phát triển, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
54. Vũ Trọng Lâm (2006), Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 55. V.I. Lênin (1899), “Sự phát triển của Chủ nghĩa tư bản ở Nga”, V.I.Lênin Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.1-768. 56. V.I.Lênin (1917), “Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của Chủ nghĩa tư bản”, V.I.Lê Nin Toàn tập, tập 27, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.383-541.
57. Liên hiệp Các tổ chức Hữu nghị Việt Nam (2018), Việt Nam là nước sản xuất chè lớn thứ 7 và xuất khẩu chè lớn thứ 5 toàn cầu, Báo cáo xuất khẩu chè 2018, Hà Nội.
58. Nguyễn Thị Đức Loan (2017), “Quản trị chi phí chiến lược (SCM), công cụ nâng cao năng lực cạnh tranh trong các doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Kiểm toán, số tháng 6/2017, tr.19-24.
59. Nguyễn Đình Long (2001), Nghiên cứu giải pháp chủ yếu, nhằm phát huy lợi thế nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển thị trường xuất khẩu nông sản trong thời gian tới, Đề tài trọng điểm cấp bộ, Hà Nội.
60. Nguyễn Đình Long, Nguyễn Tiến Mạnh (1999), Phát huy lợi thế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
168
61. Bùi Xuân Lưu (2004), Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Thống Kê, Hà Nội.
62. C.Mác (1859), “Góp phần phê phán Khoa Kinh tế chính trị”, C.Mác và
Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993
63. C.Mác (1867), “Phê phán Khoa Kinh tế Chính trị”, C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2002 64. C.Mác (1894), “Phê phán Khoa Kinh tế Chính trị”, C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 25, Phần 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1994. 65. Ngô Thị Tuyết Mai (2007), Nâng cao sức cạnh tranh một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 66. Ngô Thị Tuyết Mai (2011), Phát triển bền vững hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 67. Nguyễn Tiến Mạnh (2010), “Cà phê Việt Nam và khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số (4/2010), tr.28-32.
68. Hồ Chí Minh (1946), “Thư gửi Điền chủ nông gia Việt Nam”, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.246-247 69. Hồ Chí Minh (1960), “Bài nói chuyện tại Đại hội đại biểu Công đoàn tỉnh Thanh Hóa lần thứ VI”, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.633-637.
70. Hồ Chí Minh (1962), “Bài nói chuyện tại Hội nghị lần thứ VII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (Khóa III), Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.374-377.
71. Ngô Thị Mỹ (2016), Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu một số nông sản của Việt Nam, Luận án tiến sĩ nông nghiệp, Đại học Thái Nguyên.
72. Hà Nam (2017), “Kinh nghiệm phát triển bảo hiểm nông nghiệp ở Thái
Lan”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 20/01/2017.
73. Ngân hàng thế giới (2004), Sổ tay về Phát triển, Thương mại và WTO,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
169
74. Vũ Thanh Nguyên (2017), Xây dựng mô hình phát triển nông nghiệp hiện đại ở tỉnh Hải Dương, Luận án tiến sĩ kinh tế, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương- Bộ Kế hoạch đầu tư, Hà Nội.
75. Hoàng Thị Thanh Nhàn (2003), Điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở Hàn Quốc,
Malaysia và Thái Lan, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. An Thị Thanh Nhàn, Lục Thị Thu Hường (2010), Quản trị xúc tiến thương mại trong xây dựng và phát triển thương hiệu, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
77. Đỗ Văn Nhiệm (2007), Phát triển công nghiệp chế biến nông sản và vai
trò của nó trong bảo đảm hậu cần tại chỗ cho khu vực phòng thủ tỉnh
(thành phố) vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh
tế, Học viện Chính trị, Hà Nội.
78. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2018), “Kinh tế Việt Nam với Hiệp
định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP): Nâng cao
năng lực cạnh tranh nhìn từ nông nghiệp”, Diễn đàn Doanh nghiệp, Hà Nội.
79. Vũ Văn Phúc (2012), Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam
sau 5 năm gia nhập WTO, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
80. Trần Hoa Phượng (2013), Lợi thế xuất khẩu nông sản của Việt Nam sau
khi gia nhập WTO, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. Micheal E. Porter (2008), Lợi thế cạnh tranh quốc gia, Nxb Trẻ, Thành
phố Hồ Chí Minh.
82. Micheal E. Porter (2008), Lợi thế cạnh tranh, Nxb Trẻ, Thành phố
Hồ Chí Minh.
83. Micheal E. Porter (2009), Chiến lược cạnh tranh, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh.
84. Phạm Quốc Quân (2018), Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở vùng Đồng
bằng sông Hồng, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị, Bộ Quốc
phòng, Hà Nội
85. Nguyễn Thu Quỳnh (2011), “Vận dụng kinh tế tri thức nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Thương mại, số (44), tr. 39-43.
170
86. Đặng Kim Sơn (2008), Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 87. Đặng Kim Sơn (2012), Tái cơ cấu nền nông nghiệp Việt Nam theo hướng
giá trị gia tăng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
88. Tạp chí Cộng sản, Tỉnh uỷ Hà Nam (2015), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá - đột phá phát triển nông nghiệp bền vững và xây dựng nông thôn mới, gắn với nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị - từ thực tiễn Hà Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Phủ Lý.
89. Đinh Văn Thành (2006), Các biện pháp phi thuế quan đối với hàng nông
sản trong thương mại quốc tế, Nxb Lao động- Xã hội, Hà Nội.
90. Lê Hữu Thành (2009), Sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu chủ lực Việt Nam trong điều kiện tự do hóa thương mại, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 91. Nguyễn Hữu Thắng (2008), Nâng cao năng lực cạnh tranh của các Doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Trần Thị Thu Thuỷ, Nguyễn Duy Lượng (2010), Những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông, lâm sản ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
93. Đỗ Thế Tùng (2012) “Những yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp”, Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam sau 5 năm gia nhập WTO, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 19-28.
94. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 04 tháng 6 năm 2010 “Phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020”, Hà Nội.
95. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 176/QĐ-TTg, ngày 29 tháng 01 năm 2010 “về việc phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020”, Hà Nội.
96. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 124/QĐ-TTg, ngày 02 tháng 02 năm 2012 “về quy hoạch tổng thể phát triển ngành nông nghiệp cả nước đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030”, Hà Nội.
171
97. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 899/QĐ- TTg, ngày 10 tháng
06 năm 2013 “về phê duyệt đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo
hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”, Hà Nội.
98. Thủ tướng Chính phủ (2018), Quyết định số 490/QĐ-TTg, ngày 7 tháng 5
năm 2018 về phê duyệt Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” giai
đoạn 2018- 2020, Hà Nội.
99. Tổng Công ty Chè Việt Nam (2002), Báo cáo tổng hợp phân tích tình
hình sản xuất kinh doanh chè trên toàn thế giới và viễn cảnh ngành chè
trong những năm tới, Hà Nội.
100. Tổng cục Thống kê (2018), Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông
nghiệp và thủy sản năm 2016, Nxb Thống kê, Hà Nội.
101. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê (các năm 2011, 2013, 2015, 2017,
2018, 2019), Nxb Thống kê, Hà Nội.
102. Tổng Cục Thống kê, Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam (các năm 2011,
2013, 2015, 2017, 2018, 2019), Nxb Thống kê, Hà Nội.
103. Nguyễn Xuân Trình (2006), Tác động của hội nhập Kinh tế quốc tế đến
sản xuất, chế biến và tiêu thụ một số nông sản ở Việt Nam: qua nghiên
cứu chè, cà phê, điều, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
104. Trung Tâm Thông Tin Công nghiệp và Thương Mại - Bộ Công Thương
(VINANET) (2019), Thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt Nam
năm 2019, Hà Nội.
105. Trung tâm Thông tin Phát triển nông nghiệp nông thôn (AGROINFO),
(2019), Báo cáo Thường niên ngành lúa gạo Việt Nam năm 2019 và
triển vọng 2020, Hà Nội.
106. Trung tâm Thông tin Phát triển nông nghiệp nông thôn (AGROINFO),
(2019), Báo cáo Thường niên ngành cà phê Việt Nam năm 2019 và
triển vọng 2020, Hà Nội.
107. Trung tâm Thông tin Phát triển nông nghiệp nông thôn (AGROINFO),
(2019), Báo cáo Thường niên ngành rau quả Việt Nam năm 2019 và
triển vọng 2020, Hà Nội.
172
108. Trung tâm Thông tin Phát triển nông nghiệp nông thôn (AGROINFO),
(2019), Báo cáo Thường niên ngành chăn nuôi Việt Nam năm 2019 và
triển vọng 2020, Hà Nội.
109. Từ điển kinh tế giản yếu Liên Xô, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1979. 110. Từ điển Chính trị vắn tăt, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va- Sự thật, Hà Nội, 1988. 111. Từ điển kinh tế Anh - Pháp, Viện Tài chính ngân hàng, Nxb Giáo dục và
Viện Khoa học ngân hàng, Hà Nội, 1994.
112. Từ điển thuật ngữ kinh tế học, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2001. 113. Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 1995. 114. Từ điển Bách khoa nông nghiệp Việt Nam, Nxb Học viện Nông nghiệp
Việt Nam, Hà Nội, 2011.
115. Viện Nghiên cứu khoa học thị trường giá cả (2000), Những giải pháp nhằm phát huy có hiệu quả lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong tiến trình hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, Hà Nội.
116. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện nghiên cứu Trung Quốc (2008), Vấn đề tam nông ở Trung Quốc, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 117. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (CIEM) và Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) (2003), Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.
118. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (2006), Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến sản xuất, chế biến và tiêu thụ một số nông sản ở Việt Nam : qua nghiên cứu trường hợp chè, cà phê và điều, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 119. Phạm Thị Hồng Yến (2017), Cải thiện môi trường kinh doanh nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong hội nhập FTA, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội
Tiếng Anh 120. Adam Smith (1965), An Inquiry into the Nature and Causes of the
Wealth of Nations, New York: Modern Library.
121. Alvin G. Wint (2000), Competitiveness in Small Developing Economies: Insights from the Caribbean, Puplisher The University of the West Indies Press.
173
122. Ambastha & Momaya (2004), Competitiveness of firms: review of theory, frameworks and models, Singapore Management Review. 123. Arnis Sauka (2014), “Measuring the Competitiveness of Latvian Companies”, Baltic Journal of Economics, Volume 14, issue 1-2, Pages 140-158. 124. Attila Jambor - Suresh Babu (2018), Competitiveness of Global Agriculture: Policy Lessons for Food Security, Publisher: Springer. 125. A. Siva Sankar and K. Nirmal Ravi Kumar (2014), “Domestic and Export Competitiveness of Major Agrultural Commodities in Andhra Pradesh-a Case Study”, International Journal of Advanced Research (IJAR), pp. 2320-5407.
126. Barney (1991), “Firm Resources and Sustained Competitive”, Journal of
Management.
127. Borworn Tanrattanaphong (2015), “Successful Cases of Agricultural Cooperatives Marketing Activities for Improving Marketing Efficiency in Thailand”, Thai Agriculture Journal, Number of months 8/2015, Bangkok. 128. BRICS (2017), Innovative Competitiveness Report - Research Series on the Chinese Dream and China’s Development Path, Publisher Springer.
129. Dictionary of Trade Policy (1997), University of Adelaide, Australia. 130. DuYing (2000), Reform of China's agricultural system
towards accession to the World Trade Organization, ACIAR China Grain Market Policy Project Paper No. 12, Department of Policy and Law, Ministry of Agriculture, China.
131. Fao (2015), World tea production and trade current and future
development, Roma - Ý.
132. Fao (2019), World rice production and trade current and future
development, Roma - Ý.
133. Grant, R. M. (1991), “A resource based theory of competitive advantage, Implications for strategy formulation”, California Management Review, 33(3), pp. 114-35l.
134. International Rice Institute (2016), Cost advantage of rice production in Vietnam, Indonesia, India, Philippines, China and Thailand, Los Banos, Calabarzon, Philippines.
174
135. ISGMARD (2002), Evaluation of potential impacts on Vietnams agriculture during implementating Common effective preferential tariff program (CEPT) under Agreement on Asean Free Trade Area (AFTA). 136. Krugman, P (1994), Competitiveness: A Dangerous Obsession, Foreign
Affairs, March/April.
137. John Stuart Mill (1848), Principles of Political Economy, Publisher John William Parker. The United Kingdom of England and Northern Ireland. 138. John H. Dunning (1993), “Internationalizing Porter’s diamond”,
Management International review, special issue, 33(2), 8-15.
139. Mekdum Winai (2015), “New Farmer Development in Agricultural Land Reform Area in Thailand”, Thai Agriculture Journal, Number of months 6/2015, Bangkok.
140. Michael E. Porter (1980), Competitive Strategy- Techniques for Analyzing Industries and Competitors, New York, The Free Press. 141. Michael E. Porter (1985) Competitive Advantage: Creating and
Sustaining Superior Performance, New York, Free Press.
142. Michael E. Porter (1990), The Competitive Advantage of Nations,
London, New Edition, Macmillan.
143. Mohammad Fauzy Tambi (2016), “Fostering Commercialization of Agricultural Technology in Malaysia” Agriculture magazine Malaysia, Number of months 5/2016, Kuala Lumpur.
144. Mohd Arif bin Adenan, Darshini Subramaniam & Shafril Izham bin Mohd Aminudin (2015), “Policy on Land For Agriculture Projects in Malaysia for the Young Agropreneur through Blue Ocean Strategy”, Agriculture magazine Malaysia, Number of months 8/2015, Kuala Lumpur.
145. Mohd Nur Hafiz Mat Azmin (2016), “Current Achievements and trade in Commercializing Technology”, Malaysia
Challenges magazine, Number of months 8/2015, Kuala Lumpur.
146. Paul Piang Siong Teng (2013), Agricultural Biotechnology and Global Competitiveness, Report of the APO Asian Food and Agribusiness Conference 2013.
175
147. Roger D. Norton (2017), The Competitiveness of Tropical Agriculture, A
Guide to Competitive Potential with Case Studies, Published: Elsevier Inc.
148. Rozhan Abu Dardak (2016), “New Strategies for Greater Growth and
Development of the Agriculture Sector in Malaysia”, Malaysia trade
magazine, Number of months 4/2016, Kuala Lumpur.
149. S. Sachdev (1993), “International Competitiveness and Agricultural
Export of India” Indian Economic Review, Published by: Department
of Economics, Delhi School of Economics, University of Delhi, Vol.
28, No. 2 (July-December 1993), pp. 203-217.
150. USDA, United States Department of Agriculture Foreign Agricultural
Service (2019), Rice: World Markets and Trade, Washington, USA.
151. USDA, United States Department of Agriculture Foreign Agricultural
Service (2019), Vegetables: World Markets and Trade, Washington, USA.
152. USDA, United States Department of Agriculture Foreign Agricultural
Service (2019), Coffee: World Markets and Trade, Washington, USA.
153. USDA, United States Department of Agriculture Foreign Agricultural
Service (2019), Livestock industry: World Markets and Trade,
Washington, USA.
154. WEF (2018), The Global Competitiveness Report 2018
155. Weiming Yao (2015), Impact of Agricultural Modernization, Economic
Growth and Industrialization on the International Competitiveness of
Agricultural, Asian Agricultural Research, USA-China Science and
Culture Media Corporation, vol. 7(03), pages 1-7, March
156. William C. Motes (2010), Modern agriculture and its benefits - trend,
Implications and Outlook, Golobal harvest initiative, Sustainably
meeting the world's growing needs.
157. Zhang Hongzhou (2012), China's Economic Restructuring: Role of
Agriculture, S. Rajaratnam School of International Studies Singapore -
Nanyang Technological University.
176
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Một số văn bản pháp luật tiêu biểu, thể hiện những chủ trương, cơ
chế, chính sách, của Đảng, Nhà nước liên quan đến phát triển nông
nghiệp hàng hoá nói chung, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông
sản Việt Nam nói riêng
TT Số hiệu, tên của các văn bản
Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết Số 26-NQ/TW Hội
1 nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khóa X về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn, ngày 05/8/2008.
Luật số: 27/2004/QH11, ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Quốc hội 2 Nước Cộng hoà xã hội Việt Nam về Cạnh tranh
Quyết định số 176 /QĐ-TTg ngày 29/01/2010 của Thủ tướng Chính
3 phủ, về việc Phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp công nghệ cao
đến năm 2020.
Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội nước
4 Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về miễn, giảm thuế sử dụng
đất nông nghiệp.
Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát
5 triển nông thôn, ngày 13/04/2011, Quy định về tiêu chí và thủ tục
cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại
Quyết định số 20/QĐ-TTg ngày 04/01/2012, của Thủ tướng Chính
6 phủ, về việc phê duyệt Chiến lược quốc gia An toàn thực phẩm giai
đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn 2030
Quyết định số 01/2012/QĐ-TTgngày 09/01/2012 của Thủ tướng
7 Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ áp dụng Quy trình thực hành
sản xuất nông nghiệp tốt trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản
177
TT Số hiệu, tên của các văn bản
Quyết định số: 124/QĐ-TTg, ngày 02 tháng 02 năm 2012 của Thủ
8 tướng Chính phủ, về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển sản
xuất ngành nông nghiệp đến năm 2020 và tầm nhìnđến 2030
Quyết định 824/QĐ-BNN-TT, ngày 16/04/2012 của Bộ NN&PTNT
9 về phê duyệt đề án đề án phát triển ngành trồng trọt đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030
Quyết định 635/QĐ-TTg, ngày 30/05/2012 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt dự án “nâng cao năng suất và chất lượng sản
10 phẩm, hàng hoá của ngành nông nghiệp đến năm 2020” thuộc
chương trình quốc gia “nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm,
hàng hoá của doanh nghiệp việt nam đến năm 2020” Quyết định số 1554/QĐ-TTg ngày 17/10/2012 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt quy hoạch thuỷ lợi vùng Đồng bằng sông
11 Hồng giai đoạn 2012 - 2020, định hướng đến năm 2050, trong điều
kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá XI về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật
về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo 12
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Luật số 23/2012/QH13 ngày 20/11/2012 của Quốc hội nước Cộng
13 hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ban hành Luật Hợp tác xã
Quyết định số: 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính
phủ, về Phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng 14
nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững
Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 của Thủ tướng
15 Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết
sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn
178
TT
16 Số hiệu, tên của các văn bản Quyết định số 68/2013/QĐ-TTG ngày 14/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp
17
18
19
20
21
22
23
Thông tư số 49/2013/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngày 19/11/2013, hướng dẫn tiêu chí xác định vùng sản xuất trồng trọt tập trung đủ điều kiện an toàn thực phẩm Luật số: 45/2013/QH13, ngày 29 tháng 11 năm 2013 của Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội Việt Nam về Luật đất đai. Nghị định số 210/2013/NĐ-CP, ngày 19 tháng 12 năm 2013 của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn Quyết định số 198/QĐ-TTg ngày 25/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Kết luận số 97-KL/TW ngày 9/5/2014 của Bộ Chính trị, khoá XI về một số chủ trương, giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Quyết định 1323/QĐ-BNN-TCCB, ngày 17/6/2014 của Bộ NN&PTNT về phê duyệt đề án nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2014 - 2020 Quyết định 3367/QĐ-BNN- TT, ngày 31/7/2014 của Bộ NN&PTNT, phê duyệt quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa giai đoạn 2014 - 2020.
24
Nghị định số 118/2014/NĐ-CP, ngày 17 tháng 12 năm 2014 của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp
Quyết định số 575/QĐ-TTg ngày 04/05/2015, của Thủ tướng Chính
25 phủ, về việc phê duyệt và Quy hoạch tổng thể khu và vùng nông
nghiệp công nghệ cao đến năm 2020, định hướng đến năm 2030
Nghị định số 55/2015/NĐ-CP, ngày 09 tháng 06 năm 2015 của
26 Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về chính sách
tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn
179
TT Số hiệu, tên của các văn bản
Quyết định số 1684/QĐ - TTg, ngày 30/9/2015 của Thủ tướng
27 Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế
ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2030.
Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19 tháng 11 năm 2015 của
28 Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa
chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020 Nghị quyết số 112/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về tăng cường quản lý đất đai
có nguồn gốc từ nông trường, lâm trường quốc doanh do các công ty 29
nông nghiệp, công ty lâm nghiệp, ban quản lý rừng và các tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân khác sử dụng
Quyết định số 55/2015/QĐ-TTg ngày 25/12/2015 của Thủ tướng
Chính phủ về Quy định tiêu chí, thẩm quyền, trình tự, thủ tục công 30
nhận vùng nông nghiệp công nghệ cao
Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai 31
đoạn 2016 - 2020.
Nghị quyết số 19/2017/NĐ-CP, ngày 06 tháng 02 năm 2017 của
Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về tiếp tục
thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường 32
kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định
hướng đến năm 2020.
Thông tư số 09/2017/TT-BNNPTNT, ngày 17/4/2017 của Bộ
33 NN&PTNT, hướng dẫn phân loại và đánh giá hợp tác xã hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp.
Quyết định số 813/QĐ-NHNN ngày 24/4/2017 của Ngân Hàng Nhà
34 nước Việt Nam về Chương trình cho vay khuyến khích phát triển
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch.
180
TT Số hiệu, tên của các văn bản
Thông tư số 14/2017/TT-BNNPTNT, ngày 05/7/2017 của Bộ
35 NN&PTNT, hướng dẫn thực hiện một số nội dung về đầu tư theo
hình thức đối tác công tư trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Nghị định số 57/2018/NĐ-CP, ngày 17/4/2018 của Chính phủ về cơ
36 chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp,
nông thôn.
Nghị định 58/2018/NĐ-CP ngày 18/4/2018 của Chính phủ về bảo 37 hiểm nông nghiệp.
Quyết định số 490/QĐ-TTg ngày 07/5/2018 của Thủ tướng Chính
38 phủ về phê duyệt Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” giai đoạn
2018 - 2020.
Luật số: 23/2018/QH14, ngày 12 tháng 6 năm 2018 của Quốc hội 39 Nước Cộng hoà xã hội Việt Nam về Luật Cạnh tranh
Nguồn: Tổng hợp từ: thuvienphapluat.vn
181
Phụ lục 2 Sản lượng gạo xuất khẩu
của các nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới (2011 - 2019)
Đơn vị: 1000 tấn
TT Nước 2011 2013 2015 2017 2018 2019
1 Tổng thế giới 24.568 29.970 32.510 39.367 43.820 46.500
2 Ấn Độ 2.500 4.700 6.300 10.310 12.300 12.500
3 Thái Lan 6.700 7.300 7.500 9.800 11.520 10.300
4 Việt Nam 4.670 6.880 7.200 6.700 5.890 6.370
5 Pakistan 2.900 3.200 3.500 3.800 4000 4.250
6 Hoa Kỳ 3.500 2.950 2.623 2.834 3.000 3.200
7 Myanmar 670 687 700 1.200 1.560 2.800
8 Trung Quốc 780 890 950 1.500 1.800 2.500
9 10 11 Campuchia Brazil Uruguay 500 520 760 980 580 860 1.200 600 900 1.000 650 670 1.150 730 750 1.300 850 800
12 Các nước khác 1.068 943 1.037 903 1.120 1.442
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [8], [19], [47], [101], [132]
182
Phụ lục 3 Sản lượng cà phê xuất khẩu
của các nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới (2011 - 2019)
Đơn vị: Nghìn bao (Bao = 60kg)
TT Nước 2011 2013 2015 2017 2018 2019
1 Tổng thế giới 97.400 111.918 147.593 143.371 131.146 136.777
2 Braxin 31.608 33.520 50.825 43.235 30.450 36.820
3 Việt Nam 16.567 18.333 29.333 21.333 23.666 27.500
4 Colombia 13.020 14.920 9.927 13.500 12.725 13.400
5 Indonesia 5.667 8.650 13.048 11.000 8.010 7.845
6 Honduras 4.350 4.400 4.537 5.750 7.225 6.200
7 Ấn Độ 3.500 4.638 5.303 5.833 6.148 5.555
8 Peru 4.965 4.625 4.453 3.200 4.185 4.300
9 Uganda 2.746 3.125 3.914 4.755 4.500 4.000
10 Ethiopia 5.420 5.970 6.233 6.400 3.893 4.000
11 Mexico 3.650 3.987 4.327 3.900 3.220 3.340
12 Các nước khác 4.970 9.750 15.693 24.465 22.890 23.017
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [8], [19], [152]
183
Phụ lục 4 Thị phần gạo xuất khẩu của các nước xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới (2011 - 2019) Đơn vị: %
TT Nước 2011 2013 2015 2017 2018 2019
Ấn Độ 10,18 15,68 19,38 26,19 28,07 26,88 1
Thái Lan 27,26 24,36 23,07 24,89 26,29 22,15 2
Việt Nam 19,01 22,96 22,15 17,02 13,44 14,10 3
Pakistan 11,80 10,68 10,77 9,65 9,13 9,14 4
Hoa Kỳ 14,25 9,84 8,07 7,20 6,85 6,88 5
Myanmar 2,73 2,29 2,15 3,05 3,56 6,02 6
Trung Quốc 3,17 2,97 2,92 3,81 4,11 5,38 7
Campuchia 2,04 3,27 3,69 2,54 2,62 2,80 8
Brazil 2,12 1,94 1,85 1,65 1,67 1,83 9
10 Uruguay 3,09 2,87 2,77 1,79 1,71 1,72
11 Các nước khác 4,35 3,15 3,19 2,29 2,56 3,10
Nguồn: Tác giả tự tính toán dựa theo số liệu Phụ lục 2.
12 Tổng thế giới 100 100 100 100 100 100
184
Phụ lục 5 Mười thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam (2011 -2019)
Đơn vị: 1000 tấn
TT Thị trường 2011 2013 2015 2016 2017 2018 2019
1 Philippin 1.694 1.475,8 1.112 1.141 553 873 2.131,7
2 Bờ biển Ngà 156 324,7 480 256 225 229 583,6
3 Malaysia 4.78 398 765 512 532 604 551,6
4 Trung Quốc - 124,8 2.085 2.107 2.289 1.503 477,1
5 Ga-na 80 155,6 308 359 374 397 427,2
6 Iraq 177 302 - 473 128 280 300,1
7 Hồng Kông - 131,1 214 118,4 59 87 120,8
8 Singapore 88 544,6 269 125 105 86 100,5
9 Indonesia 76 687,2 930 673 17 1.028 40,2
10 Đài Loan 29 354,2 112 34 30 19 25,4
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [8], [19], [102]
185
Phụ lục 6 Thị phần cà phê xuất khẩu của các nước
xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới (2011 - 2019)
Đơn vị: %
TT Nước 2011 2013 2015 2017 2018 2019
1 Braxin 32,45 29,95 34,44 30,16 23,22 26,92
2 Việt Nam 17,01 16,38 19,87 14,88 18,05 18,57
3 Colombia 13,37 13,33 6,73 9,42 9,70 9,80
4 Indonesia 5,82 7,73 8,84 7,67 6,10 5,74
5 Honduras 4,47 3,93 3,07 4,01 5,51 4,54
6 3,59 4,14 3,59 4,07 4,69 4,06 An Độ
7 Peru 4,13 3,02 2,23 3,19 3,14 5,10
8 Uganda 2,79 2,65 3,32 3,43 2,92 2,82
9 Ethiopia 5,33 4,22 4,46 2,97 2,92 5,56
10 Mexico 3,56 2,93 2,72 2,46 2,44 3,75
5,10 11 Các nước khác 8,72 10,63 17,06 17,45 16,83
12 Thế giới 100 100 100 100 100
100 Nguồn: Tác giả tự tính toán dựa vào số liệu Phụ lục 3
186
Phụ lục 7
Mười thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam
từ năm (2011- 2019)
Đơn vị: nghìn bao (1 bao = 60kg)
TT Thị trường 2011 2013 2015 2017 2018 2019
1 Đức 2.267 3.467 3.195 4.341 4.346 4.117
2 Mỹ 1.774 3.393 2.618 3043 3.043 3.299
3 Italia 1.441 1.742 1.760 2.269 2.269 2.379
4 Tây Ban Nha 1.229 1.774 1.960 2.034 2.034 2.199
5 Nhật Bản 987 1.277 1.403 1.752 1.752 1.624
6 Nga 341 588 769 1.505 1.507 1.524
7 Philippines 204 620 528 1.377 1.378 1.331
8 Bỉ 1.474 1.040 1.025 1.251 1.252 1.296
9 374 487 613 1.235 1.235 1.131 Algeria
224 478 850 995 997 772 10 Thái Lan
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [8], [19], [102]
187
Phụ lục 8 Hình ảnh logo thương hiệu gạo Việt Nam
Hình 1: Logo thương hiệu Gạo Việt Nam được công bố tại Festival
Lúa gạo Việt Nam lần thứ 3 ở Long An, ngày 18/12/2018
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
188
Phụ lục 9 Các thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt Nam năm 2019
11 tháng đầu năm 2019 So với cùng kỳ 2018 (%) Thị trường
Trị giá (USD) Lượng Trị giá Lượng (tấn)
Tổng cộng 5.869.409 2.578.269.001 4,12 - 9,02
Philippines 1.971.987 813.335.097 155,43 133,59
Trung Quốc 452.540 225.392.433 -65,36 -66,37
Malaysia 522.036 207.382.273 10,95 -3,09
Iraq 270.100 138.569.249 -9,97 -17,84
Hồng Kông (TQ) 111.721 58.082.516 40,4 28,56
Singapore 90.525 48.023.404 16,81 10,55
U.A.E 44.334 23.255.943 2,34 -2,15
Châu Á Indonesia 37.808 17.042.476 -95,1 -95,3
Saudi Arabia 28.994 15.795.430
Đài Loan (TQ) 23.547 11.008.310 39,4 31,03
Nga 22.980 9.458.699 160,72 136,38
Brunei 7.891 3.284.190 82,75 72,22
Bangladesh 5.187 1.915.462 -74,1 -77,9
* Cộng Bờ Biển Ngà 3.589.650 1.572.510.193 231.452.200 534.997 137,59 78,59
Ghana 408.934 203.279.956 13,65 -1,98
Mozambique 51.550 24.633.139
Senegal 67.915 22.248.953 1.103,95 886,02
Tanzania 19.071 10.619.042 Châu Phi
Algeria 16.243 6.181.945 40,63 18,89
Angola 16.174 6.039.644 266,34 139,81
Nam Phi 8.196 4.023.541 122,72 94,49
* Cộng 1.123.080 508.478.420
189
11 tháng đầu năm 2019 So với cùng kỳ 2018 (%) Thị trường
Trị giá (USD) Lượng Trị giá Lượng (tấn)
Châu Âu
135,61 112,99 54,32 63,5 72,94 106,41 99,14 57,94 164,49 205,73 -77,51 -72,67 -24,01 -15,27 8.456 5.863 2.415 1.629 1.378 1.330 710 21.781 4.452.936 3.058.071 1.219.715 953.691 931.662 629.240 330.221 11.575.536 Ba Lan Hà Lan Ukraine Pháp Bỉ Thổ Nhĩ Kỳ Tây Ban Nha * Cộng
15.814 10.398.137 -11,02 -7,39 Mỹ
1.575 744.546 260,41 120,77 Chile Châu Mỹ
17.389 11.142.683 * Cộng
Australia 16.391 10.276.724 67,72 58,03
Châu Đại Dương
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [104]
Thị trường khác 1.101.118 475.428.128
190
Phụ lục 10
Danh sách chỉ dẫn địa lý các sản phẩm nông sản được bảo hộ
ở Việt Nam, tính đến tháng 5 năm 2019
Sản phẩm
Địa chỉ
T T
Ngày cấp
Chỉ dẫn địa lý
Số Văn bằng
1
00001
Phú Quốc
Nước mắm
2
00002
Mộc Châu Chè Shan tuyết
Thị trấn Dương Đông, huyện Phú Quốc, Kiên Giang Số 19 đường Tô Hiệu, TP. Sơn La, Sơn La
3
00004
Cà phê nhân
TP. Buôn Ma Thuột, Dak Lak
Buôn Ma Thuột
4
00005
Đoan Hùng
Bưởi quả
5
00006
Bình Thuận
Quả thanh long
6
00007
Lạng Sơn
Hoa hồi
7
00009
Thanh Hà Quả vải thiều
8
00010
Phan Thiết
Nước mắm
9
00011
Hải Hậu
Gạo Tám Xoan
10 00012
Vinh
Quả cam
11 00013
Tân Cương
Chè
12 00014
Hồng Dân
Gạo Một Bụi Đỏ
13 00015
Lục Ngạn
Vải Thiều
14 00016
Hòa Lộc
Xoài Cát
15 00017
Đại Hoàng
Chuối Ngự
16 00018
Văn Yên
Quế vỏ
17 00019
Hậu Lộc
Mắm tôm
Phường Gia Cẩm, TP. Việt Trì, Phú Thọ Thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận 438 Bà Triệu, P. Đông Kinh, TP. Lạng Sơn, Lạng Sơn Thị trấn Thanh Hà, tỉnh Hải Dương Số 12 đường Nguyễn Hội, TP. Phan Thiết, Bình Thuận Xóm 14, xã Hải Anh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định 75 Nguyễn Thị Minh Khai, TP. Vinh, tỉnh Nghệ An Lương Ngọc Quyến, TP. Thái Nguyên, Thái Nguyên Phường 1, TX. Bạc Liêu, Bạc Liêu Số 71 Nguyễn Văn Cừ, TP. Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang Số 39 Hùng Vương, phường 7, TP. Mỹ Tho, Tiền Giang Thị trấn Vĩnh Trụ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam Thị trấn Mậu A, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái Thị trấn Hậu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa
01.06. 2001 09.08. 2010 14.10. 2005 08.02. 2006 15.11. 2006 15.02. 2007 25.05. 2007 30.05. 2007 31.05. 2007 31.05. 2007 20.09. 2007 25.06. 2008 25.06. 2008 03.09. 2009 30.09. 2009 07.01. 2010 25.06. 2010
191
Sản phẩm
Địa chỉ
Chỉ dẫn địa lý
T T
Ngày cấp
Số Văn bằng
18 00020
Huế
Nón lá
19 00021
Bắc Kạn
Hồng không hạt
20 00022
Phúc Trạch
Quả bưởi
21 00024
Tiên Lãng
Thuốc lào
22 00025
Bảy Núi
Gạo Nàng Nhen Thơm
23 00026
Hạt dẻ
Trùng Khánh
24 00027
Bà Đen Mãng cầu (Na)
25 00028
Nga Sơn
Cói
26 00029
Trà My
Quế vỏ
27 00030
Ninh Thuận
Nho
28 00031
Tân Triều
Quả bưởi
29 00032
Bảo Lâm
Hồng không hạt
30 00033
Bắc Kạn
Quả quýt
Yên Châu Quả xoài tròn
31 00034
Mèo Vạc
32 00035
Mật ong bạc hà
Bình Minh Bưởi Năm Roi
33 00036
Hạ Long
Chả mực
34 00037
Bạc Liêu
Muối ăn
35 00038
Luận Văn
Quả bưởi
36 00039
19.07. 2010 08.09. 2010 09.11. 2010 19.11. 2010 10.01. 2011 21.03. 2011 10.08. 2011 13.10. 2011 13.10. 2011 07.02 2012 14.11. 2012 14.11. 2012 14.11. 2012 30.11. 2012 01.03. 2013 29.08. 2013 12.12. 2013 12.12. 2013 18.12. 2013
26 Hà Nội, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế Số 3 đường Trường Chinh, thị xã Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn Thị trấn Hương Khê, huyện hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh Khu 2 thị trấn Tiên Lãng, H. Tiên Lãng, Hải Phòng Khóm Sơn Đông, TT. Nhà Bàng, H. Tịnh Biên, An Giang Thị trấn Trùng Khánh, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng Số 211, đường 30/4, Phường 2, TX. Tây Ninh, Tây Ninh Thị trấn Nga Sơn, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa 54 Hùng Vương, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam 34 đường 16/4, TP. Phan Rang, Tháp Chàm, Ninh Thuận Phạm Văn Thuận, P. Thống Nhất, TP. Biên Hòa, Đồng Nai Bà Triệu, P. Đông Kinh, TP. Lạng Sơn, Lạng Sơn Số 3 đường Trường Chinh, TX. Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn Số 19, đường Tô Hiệu, TP. Sơn La, tỉnh Sơn La Phường Nguyễn Trãi, TP. Hà Giang, tỉnh Hà Giang X. Đông Thành, H. Bình Minh, T. Vĩnh Long Số 2 Bến Đoan, P. Hồng Gai, TP. Hạ Long, Quảng Ninh Số 66, đường Lê Văn Duyệt, TP. Bạc Liêu Thị trấn Thọ Xuân, huyện Thọ Xuân, T. Thanh Hóa
192
Sản phẩm
Địa chỉ
T T
Ngày cấp
Chỉ dẫn địa lý
Số Văn bằng
37 00040
Yên Tử
Hoa Mai Vàng
38 00041
Quảng Ninh
Con Ngán
39 00043
Điện Biên
Gạo
40 00044
Vĩnh Kim Vú sữa Lò Rèn
41 00045
Quảng Trị
Tiêu
42 00046
Cao Phong
Cam quả
43 00047
Vân Đồn
Sá sùng
44 00048
Long Khánh
Quả chôm chôm
45 00049
Ngọc Linh
Sâm củ
46 00050
Vĩnh Bảo
Thuốc lào
47 00051
Quế
Thường Xuân
48 00052
Hà Giang
Cam sành
49 00055
Hưng Yên
Nhãn lồng
50 00056
Quản Bạ
Hồng không hạt
51 00057
Xín Mần Gạo tẻ Già Dui
52 00058
Sơn La
Cà phê
53 00059
Ninh Thuận
Thịt cừu
54 00060
Thẩm Dương
Gạo nếp Khẩu Tan Đón
55 00061
Mường Lò
Gạo
56 00062
Bến Tre
Bưởi Da xanh
18.12. 2013 19.03. 2014 25.09. 2014 28.10. 2014 28.10. 2014 05.11. 2014 12.11. 2015 08.06. 2016 16.08. 2016 19.08. 2016 10.10. 2016 10.10. 2016 23.01. 2017 05.07. 2017 28.09. 2017 28.09. 2017 24.10. 2017 08.12. 2017 26.01. 2018 26.01. 2018
Phường Thanh Sơn, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh Phố Hải Lộc, P. Hồng Hải, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh Số 886 đường 7/5, TP. Điện Biên Phủ, Điện Biên Số 39 Hùng Vương, phường 7, TP. Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang Số 204, đường Hùng Vương, TP.Đông Hà, Quảng Trị Số 08 An Dương Vương, TP. Hòa Bình, Hòa Bình Khu 5 thị trấn Cái Rồng, huyện Vân Đồn, Quảng Ninh Phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai Số 68 Lê Hồng Phong, TP. Kon Tum, tỉnh Kon Tum Đường 20/8, thị trấn Vĩnh Bảo, H. Vinh Bảo, TP. Hải Phòng Thị trấn Thường Xuân, H. Thường Xuân, Thanh Hóa Số 196, đường Trần Hưng Đạo, TP. Hà Giang, Hà Giang Đường An Vũ, P. Hiến Nam, TP. Hưng Yên, Hưng Yên Thị trấn Tam Sơn, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang Tổ 3, thị trấn Cốc Pài, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang Số 19, đường Tô Hiệu, TP. Sơn La, tỉnh Sơn La TP. Phan Rang, Tháp Chàm, Ninh Thuận Thị trấn Khánh Yên, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai Tổ 1, P. Tân An, TX. Nghĩa Lộ, Yên Bái Số 280, đường 3/2, phường 3, TP. Bến Tre, tỉnh Bến Tre
193
Sản phẩm
Địa chỉ
Ngày cấp
Chỉ dẫn địa lý
T T
Số Văn bằng
57 00063
Bến Tre
Dừa uống, nước Xiêm Xanh
58 00064
Hạt tiêu đen
Bà Rịa - Vũng Tàu
26.01. 2018 12.02. 2018
Số 280, đường 3/2, phường 3, TP. Bến Tre, tỉnh Bến Tre P. Phước Hiệp, TP. Bà Rịa, Bà Rịa-Vũng Tàu
59 00065
Ô Loan
Sò huyết
12.02. 2018
Số 8 Trần Phú, phường 7, TP. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
60 00066
Bình Phước
Hạt điều
61 00067
Ninh Bình
Thịt dê
62 00068
Cao Bằng
Trúc sào và chiếu trúc sào
63 00069
Hà Giang Chè Shan tuyết
64 00073
Hà Giang
Thịt bò
P. Tân Phú, TX. Đồng Xoài, tỉnh Binh Phước P. Đông Thành, TP. Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình Phường Hợp Giang, TP. Cao Bằng, Tỉnh Cao Bằng Đường Trần Hưng Đạo, TP. Hà Giang, tỉnh Hà Giang 196 Trần Hưng Đạo, phường Nguyễn Trãi, tỉnh Hà Giang
65 00070
Bà Rịa, Vũng Tàu
Nhãn xuồng cơm vàng
66 00071
Bà Rịa- Vũng Tàu Cát Lở Bà Rịa, VũngTàu Mãng cầu ta
67 00072
Hương Sơn Nhung hươu
68 00074
Đồng Giao
Quả dứa
13.3.2 018 04.7. 2018 23.7. 2018 16.8. 2018 12.10. 2018 31.01. 2019 31.01. 2019 28.02. 2019 27.05. 2019
149, đường 27/4, TP. Bà Rịa, T.Bà Rịa, Vũng Tàu Thị trấn Phố Châu, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh Tổ 10, phường Bắc Sơn, thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình
Nguồn: [32]
194
Phụ lục 11
Bảng tổng hợp các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà
Việt Nam tham gia (tính đến tháng 10/2020)
TT Viết tắt Hiện trạng Đối tác Phân loại
I Các FTA đã có hiệu lực
1 ASEAN AFTA
2 ASEAN, Trung Quốc ACFTA
3 ASEAN, Hàn Quốc AKFTA
4 ASEAN, Nhật Bản AJCEF
5 Việt Nam, Nhật Bản VJEPA
6 ASEAN, Ấn Độ AIFTA
7 AANZFTA ASEAN, Úc, New Zealand
8 Việt Nam, Chi Lê VCFTA
9 Việt Nam, Hàn Quốc VKFTA Có hiệu lực từ năm 1993 Có hiệu lực từ năm 2003 Có hiệu lực từ năm 2007 Có hiệu lực từ năm 2008 Có hiệu lực từ năm 2008 Có hiệu lực từ năm 2010 Có hiệu lực từ năm 2010 Có hiệu lực từ năm 2014 Có hiệu lực từ năm 2015 FTA truyền thống FTA truyền thống FTA truyền thống FTA truyền thống FTA truyền thống FTA truyền thống FTA truyền thống FTA thế hệ mới hạn chế FTA thế hệ mới hạn chế
10 Có hiệu lực từ năm 2016 FTA thế hệ mới hạn chế VN- EAEUFTA
Việt Nam, Nga, Belarus, Amenia, kazakhstan, Kỷgyzstan
11 CPTPP Có hiệu lực từ 14/01/2019 FTA thế hệ mới
Việt Nam, Canada, Mexico, Peru, Chi Lê, New Zealand, Úc, Nhật Bản, Singapore, Brunei, Malaysia
12 Việt Nam, EU EVFTA Có hiệu lực từ 1/8/2020 FTA thế hệ mới đầy đủ
195
TT Viết tắt Hiện trạng Đối tác Phân loại
13 AHKFTA ASEAN, Hồng Kông (Trung Quốc) FTA truyền thống
Đã có hiệu lực với 5 nước (Thái Lan, Việt Nam, Singapore, Lào, Myanmar) ngày 11/6/2019 II Các FTA đang đàm phán
1 RCEF FTA thế hệ mới hạn chế Khởi động đàm phán tháng 02/2016
2 Chưa rõ
ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, New Zealand Việt Nam, EFTA (Thụy Sĩ, Na Uy, Iceland) Việt Nam - EFTA FTA
3 Việt Nam, Israel Chưa rõ Vietnam- Israel FTA Khởi động đàm phán tháng 5/2012 Khởi động đàm phán tháng 12/2015
Nguồn: Trung tâm WTO
195
Phụ lục 12
Chỉ tiêu chất lượng của gạo trắng theo TCVN 11888:2017
Thành phần của hạt, % khối lượng
Các loại hạt khác, % khối lượng, không lớn hơn
Tỷ lệ hạt theo chiều dài, % khối lượng
Hạng gạo
Mức xuất
Nhóm gạo
Tấm
Hạt nguyên
Tấm nhỏ
Hạt đỏ
Hạt vàng
Thóc lẫn, số hạt/kg, không lớn hơn
Hạt bạc phấn
Hạt bị hư hỏng
Hạt gạo nếp
Hạt xanh non
Tạp chất, % khối lượng không lớn hơn
Độ ẩm, % khối lượng, không lớn hơn
Hạt rất dài L >7,0 mm
Hạt ngắn L< 6,0 mm
0 0
Hạt sọc đỏ + xát dối 0,25 0,5
Gạo hạt dài
Gạo hạt ngắn
100% loại A ≥ 10 100% loại B ≥ 10 ≥ 5 ≥ 5 - - - - - - - -
5% 10% 15% 20% 25% 5% 10% 15% 20% 25%
≤ 10 ≤ 10 ≤ 15 ≤ 15 < 30 < 50 < 50 < 75 < 70 < 70 < 70 < 70
> 60 ≥ 60 ≥ 60 ≥ 55 ≥ 50 ≥ 45 ≥ 40 ≥ 60 ≥ 55 ≥ 50 ≥ 45 ≥ 40
< 4a < 4,5a ≤ 7b ≤ 12c ≤ 17d ≤ 22e ≤ 27f ≤ 7b ≤ 12c ≤ 17d ≤ 22e ≤ 27f
≤ 0,1 ≤ 0,1 ≤ 0,2 ≤ 0,3 ≤ 0,5 ≤ 0,1 ≤ 0,2 ≤ 0,2 ≤ 0,3 ≤ 0,5 ≤ 0,1 ≤ 0,2
2,0 2,0 5,0 5,0 7,0 2,0 2,0 5,0 5,0 7,0
0,2 0,2 0,5 0,1 1,25 1,25 1,5 0,5 0,1 1,25 1,25 1,5
3,0 5,0 6,0 7,0 7,0 7,0 8,0 6,0 7,0 7,0 7,0 8,0
0,25 0,5 1,0 1,25 1,5 2,0 2,0 1,0 1,25 1,5 2,0 2,0
1,0 1,0 1,5 1,5 2,0 2,0 2,0 1,5 1,5 2,0 2,0 2,0
0 0 0,2 0,2 0,3 0,5 1,0 0,2 0,2 0,3 0,5 1,0
0,05 0,05 0,1 0,2 0,2 0,3 0,5 0,1 0,2 0,2 0,3 0,5
3 4 5 5 7 7 10 5 5 7 7 10
14,0 14,0 14,0 14,0 14,0 14,5 14,5 14,0 14,0 14,0 14,5 14,5
Rất kỹ Rất kỹ Kỹ Kỹ Vừa phải Vừa phải Bình thường Kỹ Kỹ Vừa phải Vừa phải Bình thường
Ghi chú: L là chiều dài trung bình của hạt gạo (a Chiều dài tấm từ 0,5L đến 0,8L; b Chiều dài tấm từ 0,5L đến 0,8L; c Chiều dài tấm từ 0,35L đến 0,7L; d Chiều dài tấm từ 0,35L đến 0,65L; e Chiều dài tấm từ 0,25L đến 0,6L; f Chiều dài tấm từ 0,25L đến 0,5L.
* Nguồn: Cục Chế biến và phát triển thị trường nông sản, Bộ NN&PTNT